dấu chân người lính.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

truyện của tác giả Nguyễn Minh Châu. xin dc dăng tải để mọi người được thưởng thức.

PHẦN MỘT : HÀNH QUÂN



CHƯƠNG 1


Nơi đây khi đang mùa thu hãy còn là một cánh rừng già im lìm như ngủ. Lúc bấy giờ những  người chiến sĩ bộ binh và cả những người chiến sĩ trinh sát dày dạn và ưa hoạt động nhất của cấp trung đoàn hoặc sư đoàn hãy còn ở tuyến hậu phương. Suốt cả một dải rừng núi âm u rậm rạp, thỉnh thoảng mới thấy sáng bừng lên vài bông hoa chuối rừng đỏ nở trên những thân cây gầy khẳng. Tiếp giáp với bìa rừng là bãi lau hoang vu rồi lại một cánh rừng khác, một bãi lau khác ăn thẳng ra con đường số 9 rải sỏi dẫn tới một thị trấn và ngoại vi khu đồn địch. Suốt cả mùa thu, ở đây còn hết sức yên tĩnh. Trên mặt đất khô ráo đang đón đợi mùa mưa ngàn tới, chỉ có bước chân những đàn voi đi thủng thỉnh xéo nát từng bãi tranh, và báo trước cho chiến dịch sắp mở là bước chân không để lại chút dấu tích của những người lính trinh sát Bộ Tư lệnh chiến dịch và bọn thám báo Mỹ giậm đè lên nhau.

Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5 đã từng sống trên mảnh đất này suốt từ trận đánh mở màn chiến dịch. Nhưng anh không khỏi bỡ ngỡ mỗi khi có dịp rời khỏi hầm sở chỉ huy, đi trở lại khu rừng trú quân hồi trung đoàn mới từ giã trạm giao liên cuối cùng tận ngoài bờ sông Xê Pôn. Thế là sau một loạt trận đánh, địch đã dự đoán được đôi chút hướng xuất kích của những đơn vị chiến đấu lớn của chúng ta. Chúng rải thuốc độc hóa học và dùng máy bay B.52 rải bom theo lối "rải thảm". Chỉ có trong vòng nửa tháng, từ khi tiếng súng đầu tiên của ta nổ vào giữa thị trấn, các cánh rừng chung quanh đã quang đi từng vạt, từng vạt cỏ tranh bị thiêu cháy, ở các chân lèn đá và dọc khe suối đã bị phát quang, máy bay trinh sát các loại lượn đi lượn lại thăm dò suốt ngày đêm. Ban đêm tùng chùm pháo sáng liên tiếp treo lơ lửng trong bầu sương thăm thẳm trắng rừng trắng núi. Mặc cho máy bay địch trinh sát và bắn phá, dưới mặt đất bộ đội vẫn chen chân nhau đi đông nghìn nghịt. Họ tranh thủ đi nhanh hơn, nhận mặt nhau, chào hỏi nhau. Con đường cứ hình thành dần những khu vực tọa độ của địch (1). Trên chặng đường đầy cây cối đổ nghiêng, khói bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối, tùng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này đến đơn vị khác, hết binh chủng này đến binh chủng khác. Ban ngày có những khi máy bay trinh sát không làm nhiệm vụ chỉ điểm cho máy bay phóng pháo, với đôi cánh bằng gỗ dán, nó liệng từng vòng tròn rất hẹp trên từng chỏm cây một. Từ bên thành cửa sổ trống hoác như con mắt mù thò ra một chiếc loa phóng thanh và một giọng nói õng ẹo: Các anh bộ đôi Việt Cộng dũng cảm! Đây là tiếng nói của người em gái mến thương của các anh. Các anh hãy suy nghĩ mau mau trở về với người em gái mến thương và Chính phủ quốc gia. Các anh sẽ được trọng dụng và chiều chuộng. Em đang trông thấy các anh...

Dưới từng gốc cây, lính nhà ta vẫn thản nhiên ôm nhau ngủ, thảng hoặc mới có anh chàng đang ngáy như sấm bỗng trở mình, không thèm mở mắt cáu tiết văng tục: "Trông thấy cái... mẹ mày !" Không phải bây giờ mà từ đầu mùa xuân năm ngoái, Khuê đã quá quen thuộc với khung cảnh này. Khuê đã quen với khu rừng suốt ngày đêm dội vang những trận bom hất tung từng đám rễ cây và đất đá, những cuộc chuyển quân trong tầm súng của địch, những con đường tiềm nhập ở vị trí tập kết quân bị địch phát quang. Anh đã quen với những trận bom B.52 như dựng lửa, với khung cảnh bề bộn tạm bợ của chiến rường, với cả mùa mưa dai dẳng xô rừng ngập suối của rùng miền Tây vốn từ bao đời còn âm u và hoang dại. Chính khung cảnh của chiến trường như thế, trước đây vài tháng, khi anh còn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn, anh như đã trông thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được.

Ngày trung đoàn mới xuất quân từ hậu phương, Khuê là một tiểu đội tưởng xuất sắc của đại đội trinh sát. Trên đường giao liên, ở một chặng nào đó, đại đội trinh sát gặp u bộ (2) giữa lòng dốc, đang ngồi nghỉ. Một đám người lố nhố bên rìa cỏ, anh nào anh nấy mặt mũi trắng trẻo, mồ hôi ướt đầm đìa suốt dọc lưng áo thấm sang cả ba lô cóc, túi tài liệu lớn, túi tài liệu bé xếp dọc lối đi. Một anh phụ trách quân lực mặc quần đùi áo lót, khuôn mặt còn trẻ mà đã hói lên tận đỉnh đầu, anh ta ngồi doạng chân trước chiếc ba lô cóc to kềnh càng để quấy sữa bột, chợt trông thấy cái dáng nhỏ bé và nhanh như sóc của Khuê vác súng tiểu liên đi vụt qua liền cất tiếng gọi ầm ĩ cả rừng:
- Khuê ơi , về u bộ đi chứ!
Hai đồng chí cấp dưỡng vây quanh bởi đống nồi niêu xoong chảo cũng góp vào một câu:
- Chúng tớ cũng thổi cơm rồi, vắt cơm có thịt rang hẳn hoi. Chúng tớ phải mang đi theo cho cậu đây này!
- Các cậu vắt thì các cậu cứ việc ăn! Khuê vốn là con người vui vẻ nhưng lúc đó anh lại đã gắt với hai đồng chí cấp dưỡng trung đoàn bộ lành như đất.

Ở bãi khách kề trạm giao liên trung đoàn vừa qua, Khuê đã khoác ba lô tới trung đoàn bộ một lần, sau khi anh nhận được một tờ giấy đánh máy từ quân lực trung đoàn gửi xuống, điều động anh rời đại đội trinh sát về giúp việc cho chính ủy Kinh. Hôm đó, Khuê đến vào sau giờ ăn cơm, bãi khách trung đoàn bộ đóng im lặng như không có một đoàn quân nào đang trú. Những chiếc võng bạt mắc đan nhau từ gốc cây này sang gốc cây khác, trên mỗi đầu võng treo lủng củng nào là xắc cốt, bi đông nước, dao rừng, súng đạn. Loáng thoáng sau hàng cây một vài mái đầu đang cúi xuống hí hoáy viết, và ngoài xa không biết từ một bãi khách nào khác vang tới tiếng dao chặt trên thớt lách cách, tiếng động vang dội vào tận lèn đá. Khuê đi quanh quẩn, anh tới bên một cái võng mắc thõng sát đất và vặn vẹo như một cái vỏ đỗ, bên trong một người nằm đó và vẫn còn thức, cặp mắt đang ngước lên nhìn cái kẽ xanh giữa vòm lá, một vết sẹo dài như một nhát dao chém ngang đuôi lông mày.
- Cậu ơi thủ trưởng Kinh ở đâu nhỉ?
- Mình đây, mình là Kinh đây!
- Báo cáo thủ trưởng...
Chính ủy Kinh cất tập giấy đánh máy dày gần bằng quyển sách vào trong một chiếc túi vải hoa, khoác túi lên vai rồi kéo Khuê đến bên một cái túp sàn ken bằng thân những cây sậy giập vỡ, đó là chiếc lán cỏ tranh duy nhất của cả khu vực bãi khách.
- Ô…ông lên có việc chi mà khoác ba lô nặng đến thế vậy?

Câu nói của Kinh đầy tiếng địa phương, rất nặng. Ông mặc bộ quần áo vải nâu, vóc cao lớn, tóc húi ngắn và đã bạc ít nhiều, con mắt bên trái bị thương hơi trắng đục luôn luôn như có một ánh giễu cợt người đang đứng trước mặt mình. Khuê ngắm ông, chợt nhớ ngày anh mới về đại đội trinh sát, còn đóng quân ở một làng mạn trung du, Khuê dẫn một đàn bò gần chục con của đại đội đi chăn ở mé đồi hoang. Thả cho bò đi ăn rong vừa xong là Khuê gục vào đọc "Ruồi trâu” không còn biết ngẩng đầu lên nữa, cho đến lúc nghe tiếng la khản giọng từ một xóm ở bên kia cánh đồng, anh mới ngừng đọc. Lúc bấy giờ, Khuê mới biết bò của mình đang gặm lúa của dân, từ dưới chân đồi một người nông dân mặc chiếc áo quân phục đã bạc trắng đang lùa bò lên. Khuê vất sách vội vàng chạy đến xin lỗi. Anh tưởng người đó là một người nông dân trong làng nên đề nghị được đền số lúa những con bò đã ăn mất. Người đó cười với anh bằng con mắt chế giễu, và liền bỏ đi sau khi nói: "Lần sau đồng chí nhớ đừng để cho bò gặm lúa của dân, nhớ nhé!". Về sau Khuê mới biết người nông dân đó chính là chính ủy của trung đoàn mình.

Khuê xốc chiếc ba lô và trang bị quân dụng nặng gần bốn chục cân trên lưng. Anh giập gót đứng thẳng rồi móc túi lấy tờ giấy đánh máy "Quyết định thuyên chuyển":
- Báo cáo thủ trưởng, tôi là Khuê ở đại đội trinh sát.
Kinh khoát tay rất rộng vỗ vai Khuê:
- A... ông đặt ba lô xuống, ngồi đây chúng mình nói chuyện. Biết hút thuốc lá không nào?
- Có ạ ! –
 Ông hút thuốc lá, mình hút thuốc lào. Chúng ta nói chuyện làm quen với nhau đi nào, lên đây ở với mình có thắc mắc gì không?
Khuê nhận ngay thấy nếu mình nói thật với con người này cũng chẳng có tội vạ gì cả.
- Báo cáo thủ trưởng...
- Thế nào, có gì cứ nói...
- Tính tôi hay nghịch lắm, sợ nhận công tác phục vụ thủ trưởng không chu đáo.
- Thì tôi cũng nghịch! - Kinh đáp một cách hăng hái.
- Và thưa thủ trưởng, thú thật tôi đi chiến đấu chỉ muốn được ra ngoài chiến hào.
- Thì tôi cũng ra chiến hào!
Tuy đã nổi tiếng là "cây nói" ở đại đội trinh sát, Khuê cũng không còn biết làm thế nào trước cái cách đối đáp của Kinh. Anh đành đứng im lặng.
Lát sau, Kinh nói tiếp với Khuê như nói với một người ngang hàng:
- Nếu ông ở gần, ông sẽ hiểu tôi hơn. Nhưng tôi cũng không nài ép ông.
Chính ủy cho phép Khuê được trở về vừa hành quân vừa suy nghĩ, hẹn sau hai chặng đường giao liên sẽ lên trả lời.
Khuê lại trở về hành quân cùng đại đội trinh sát. Nhưng ngay hai hôm sau, anh đã khoác ba lô tới chính thức nhận nhiệm vụ ở trung đoàn bộ. Trong những ngày trung đoàn sắp bước vào chiến đấu, Khuê không muốn về cơ quan một chút nào nhưng anh biết mình không thể từ chối nhiệm vụ mới. Vì anh biết đó là quyết định của cấp trên.

-------------------------------------------------------
(1) Khu vực toạ độ: Khu vực mà máy bay địch đã tính sẵn trên bản đồ từng quãng thời gian nhất định bay qua ném bom một lần.
(2) Bí danh chỉ trung đoàn bộ.

Đã sang những ngày mưa dầm và rét. Mùa xuân sắp đến. Bầu trời trên các chỏm rừng suốt ngày mù mịt mưa sương. Các con đường mòn chạy xuyên qua Trường Sơn bao giờ cũng lõng bõng một lớp bùn nhão đầy vết giày in chi chít ngang dọc. Các ngả đường ngập những lính, đâu đâu trong rừng cũng sực lên hơi người, đâu đâu cũng gặp những bếp than cháy dở, những cái túp cỏn con kề bên suối bên trong ba hòn đá vực dưới suối lên đã cháy đen thui. Bất cứ một người nào đi trên con đường này cũng phải tự hỏi: Ai là người đầu tiên tới đây dựng lên cái bếp lửa sơ sài bên con đường rừng? Bàn tay người lính nào đã dùng mìn bẫy đã cầm dao phát cây? Và người cán bộ tham mưu nào đã từng mang một chiếc địa bàn và một bản đồ, đứng chon von trên đỉnh núi để ngắm hướng cho việc mở đường? Con đường nào sẽ là con đường thẳng nhất, ít gặp núi cao vực sâu nhất? Con đường giao liên bắt đầu chỉ hẹp như lối đi của người địa phương mở lên rẫy, đầy những mối vỡ tổ hăng mùi nhựa cây và thỉnh thoảng còn thấy in những vết chân hổ giống như những con dấu của rừng hoang, những con hổ đêm đêm vượt qua đường để tìm mồi. Chính ủy Kinh là một trong những người đã từng đặt bàn chân lên con đường này từ những ngày mới khai phá đó. Ngày đó Kinh là một cán bộ tuyên huấn thuộc Tổng cục Chính trị. Ông có nhiệm vụ vào thấu một vùng chiến trường nằm khá sâu để truyền đạt nhiệm vụ và chủ trương vũ trang của Đảng. Ngày đó ở quê, vợ Kinh chưa đẻ đứa con thứ năm và ở đây, lối đi vừa mở chưa có nhiều bàn chân giậm lên để in thành một con đường mòn hẳn hoi như bây giờ. Kinh còn nhớ ngày đó đường rất vắng, thỉnh thoảng mới gặp một đoàn đi. Các con suối còn mọc đầy rêu, chưa có những cái bếp dựng lên rải rác. Và trong các khu rừng, những căn của trạm giao liên cũng chưa thật là chật chội phải chen chúc, nhân viên của trạm chưa phải bận tíu tít lên vì công việc đón tiếp. Ngày đó cũng chưa phát quang mặt đất từng khu vực rộng để thiết lập các bãi khách đủ chỗ cho hàng tiểu đoàn mắc võng.

Đoàn đi của Kinh có chưa đầy một chục người, do Kinh làm tiểu đội trưởng kiêm tổ trưởng Đảng. Lượng, đại đội trưởng đại đội trinh sát của trung đoàn 5 bây giờ cũng có mặt trong số những người cùng đi với Kinh năm đó. Năm đó Lượng mới hăm ba tuổi nhưng vào bộ đội đã lâu. Lượng là một chiến sĩ hết sức tháo vát vì trong cuộc đời Lượng phải lo tự lập thân từ hồi còn nhỏ. Chuyến đi cũng vào một mùa đông. Đêm nào Lượng cũng nhóm lửa cho cả đoàn. Một ngọn lửa cháy sáng, những chiếc võng mắc chung đầu với nhau trên những thân cây xung quanh bếp. Từng người nằm nghiêng trên võng, tay bóp chân để ngày mai đi chặng tiếp, mặt hướng về phía ngọn lửa ở giữa mà nói chuyện hoặc nghe đài. Cứ tầm nửa đêm khi mọi người đều ngủ cả, thỉnh thoảng Lượng lại trở dậy, thò chân vào dép đi lẹp kẹp tới quẳng thêm củi vào cho ngọn lửa luôn luôn cháy sáng để xua hổ. Lượng rất ham được nghe Kinh kể những trận đánh hồi kháng chiến chống Pháp, những cuộc hành quân, những trận Kinh một mình chiến đấu giữa vòng vây giặc. Lượng hiền và ít nói, hơi khó tính, cách sống như một người đã đứng tuổi. Kinh coi Lượng như một đứa con hay em. Ngược lại Lượng rất kính trọng và yêu mến Kinh, mặc dầu cái tính chểnh mảng và hay quên của Kinh dọc đường cũng khiến cho Lượng đôi lúc phải khó chịu.

Đoàn đi gần tới đích vào những ngày mưa dai dẳng đến nỗi ba bốn ngày không sao đặt ba lô xuống chỗ nào mà thổi cơm được. Đến chặng nghỉ, tùng người cứ khoác chiếc ba lô như một cái bướu mọc sau lưng mà nhai gạo rang rồi lại tiếp tục đi. Gạo rang trộn đường đựng trong túi ny lông của từng người cũng sắp cạn, đó là khẩu phần "sẵn sàng chiến đấu” đáng lý không được đụng tới. Nhưng tìm cái gì để ăn thay?
Lượng bàn:
- Anh Kinh ạ, ta sẽ khắc phục để thổi cơm.
Kinh vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt:
- Ông thổi được cơm giữa lúc này thì chả thua gì cái cô nào đó vừa chăn cóc, vừa ăn mía, vừa ngồi trên thuyền thổi cơm thi ngày xưa!
- Được! Tôi sẽ khắc phục thổi cơm. Anh cho anh em tìm chỗ mắc võng ngủ đi, và đồng chí nào vác mấy bao gạo ướt ra đây cho tôi.

Lượng cởi ba lô. Anh rút dao đi men bờ suối, lát sau đã đội về những bó lá và hai ba tấm phên kết bằng lá mây và lá dong rừng. Một cái túp mái uốn cong chỉ cao đến bụng được dựng lên bên bờ suối. Anh nhảy xuống giữa lòng suối khuân ba hòn đá bằng nhau rồi dùng xẻng xén đi một lượt cỏ ướt, lại hớt đi một lớp đất dày bên trên. Đất rừng giữa mùa mưa nhưng trong lòng vẫn khô ráo. Chỉ trong một tiếng đồng hồ sau, một ngọn lửa đã bùng lên bên trong cái túp bằng lá hãy còn xanh biếc, một cuộn khói ấm áp lách qua kẽ lá bay thoát ra ngoài. Lượng đánh đường thoát nước chung quanh cái túp rồi ngẩng lên, cất tiếng gọi vui vẻ:
- Anh Kinh và các anh ơi, nửa tiếng nữa sẽ có cơm nóng nhé, cứ ngủ đi!

Trong những ngày mùa đông, cái khó của tất cả mọi người là làm sao gây cho được ngọn lửa. Rừng mưa ướt đầm đìa hằng tháng trời. Ai đã tùng sống qua một mùa mưa trên Trường Sơn hẳn biết. Lá cây bao giờ cũng cụp xuống và ướt loáng. Thân cây đầy rêu. Đá trơn tuột. Mái lán không bao giờ ngớt cái âm điệu lộp độp của mưa rơi nghe váng óc như có người cầm gậy xăm trên đầu. Ngọn lửa nhen mãi vẫn không bén, chỉ khói mù. Lại chổng mông thổi. Ba hòn đá con con nước đã ngập đến lưng. Ngọn khói lan trên nóc lán rồi bám chặt lấy các vòm cây ướt át, đọng lại ở đó mãi. Tiếng máy bay ỳ ầm. Tiếng ve. Tiếng suối lũ. Con chim gì đó kêu tút tút không hề biết mỏi. Giữa những ngày mưa dầm dề như thế, rừng Trường Sơn ban đêm càng lạnh lẽo. Bao nhiêu người bốn phương quen biết nhau và chưa hề quen biết nhau cùng đến ngồi bên nhau trong bóng tối. Bên ngoài căn nhà trạm giao liên dành cho khách đi đường, tiếng mưa đổ ào ào và tiếng ve mùa đông kêu như có ai đem cạo tinh nứa ở đầu giường. Chiếc đài nói oang oang từ trong lòng một người nào đó tố cáo Mỹ vừa đưa hàng vạn quân vào miền Nam. Những người khách đi đường tìm củi để nhen lửa sưởi với nhau. Nhưng lần mò hì hục hằng tiếng đồng hồ lửa vẫn không cháy. Mọi người đã nản. Thì vào giữa lúc mọi người sắp đi nằm, ngọn lửa nhen từ một bàn tay cần mẫn nào đó cháy lan dần, ban đầu còn le lói, chẳng mấy chốc đã bùng dậy rắc ánh sáng lên khắp gian nhà. Lửa cháy phần phật như một lá cờ vừa mở, bắt hơi nóng lên bằng chừng ấy khuôn mặt và bàn tay. Giữa nhiều bàn tay mở xòe chìa về phía ngọn lửa, bàn tay của người vừa nhen lửa cũng chìa ra lẫn trong những bàn tay người khác. Câu chuyện vui bắt đầu nở. Tiếng cười phá lên. Rồi những người đi đường tới muộn lọc cọc chống gậy đến. Những người đang ngủ choàng thức giấc cũng tung chăn tới ngồi lẫn giữa vòng người chung quanh bếp.

Liên khu X..., sau ngày đoàn Kinh đi công tác tới đó đã nhất loạt trỗi lên một phong trào tự võ trang và đồng khởi hết sức mạnh mẽ. Đế quốc Mỹ và tay sai tưởng có thể dập tắt được ngọn lửa cách mạng nhưng từ trong bóng tối, ngọn lửa đã được Đảng nhen nhóm dậy. Những người đảng viên và những quần chúng của Đảng ở các cơ sở làng xã đã đứng dậy tổ chức cuộc chiến đấu của họ. Từ trong vũng máu, ngọn lửa mở đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được nhen dậy bởi bàn tay những con người bình thường và trung kiên

Chuyến đi công tác, nửa năm sau Kinh mới quay trở ra. Trên chặng đường đi vào và lúc ra về, đoàn vẫn nguyên vẹn. Nhưng đến một chặng cuối cùng bên con đường số 9, lúc đã sắp về đến căn cứ hậu phương thì thình lình địch đổ quân xuống con đường đi. Một buổi sáng, những chiếc trực thăng sơn màu kẽm, bụng phình to như những con cá lóc chửa bay rùng rùng từ phía Đông Nam lên. Một chiếc trực thăng chở một trung đội lính Mỹ, có ba cánh quạt Cánh quạt trực thăng quay tít khiến lá tranh đổ ngả rạp. Lượng nằm ngửa, gió quạt thốc vạt áo trùm kín cả đầu cả mặt. Anh nhổm dậy, gió xô ngã. Lại ngồi dậy. Anh quỳ lom khom để ngó chúng. Bỗng Lượng thấy ngọn lửa chớp nhoàng một cái trước mặt: Bọn chúng bắn dọn bãi rồi!
 
- Anh Kinh ơi, cho tôi bắn trực thăng nhé! - Lượng hét to át cả tiếng hai mươi ly nổ chung quanh.
Kinh phán đoán: Tụi thám báo mặt đất đã phát hiện được đoàn của mình nhưng chúng vẫn còn gờm không dám nổ súng nên phải gọi trực thăng đến chụp bắt.
Kinh không do dự, liền hạ lệnh cho bắn.
- Ngon xơi quá! - Lượng reo lên.
Bọn địch láo nháo xúm quanh một cái thành cửa sổ, đang thả đạn cối xuống. Lượng kề súng vào vai xiết cò lia trọn một băng hạ ngay chiếc trực thăng đầu tiên. Cuộc chiến đã bắt đầu. Bọn chúng có đến một đại đội. Bên ta, chín người của một đoàn đi công tác được chia thành ba tổ chiến đấu.

Kinh hạ lệnh cho đoàn phó nắm hai tổ. Đại bộ phận vừa mở đường rút về phía dãy núi đá cách đấy độ hơn năm trăm thước. Kinh trực tiếp nắm một tổ trong đó có Lượng, ở lại yểm hộ cho anh em rút. Lượng cùng một chiến sĩ và đoàn trưởng Kinh, ba người chiếm một cái gò đất giữa bãi tranh. Những cây mù u mọc chung quanh gò bị đẵn từ khi nào không biết chỉ còn trơ những cái gốc. Lượng cởi chiếc áo bị cháy trải xuống bên một gốc mù u. Anh trịnh trọng bày lên một hàng lựu đạn Mỹ vừa cướp được, lẫn với những quả lựu đạn chuôi dài của ta:
- Anh Kinh ơi, những quả lựu đạn Mỹ này sử dụng thế nào nhỉ?
- Cậu tháo khuy ra nhưng tay cứ phải nắm chặt cái mỏ vịt. Thế, cứ vứt ra tự khắc nó nổ!
- Tiên sư cái thằng Mỹ này, quả lựu đạn giết người của nó cũng "văn minh" và tiện lợi gớm!

Tàn tro trộn lẫn mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, trong hai hố mắt, trên ngực Lượng. Chung quanh cái gò đất, nắng và lửa cháy, cùng với tàn tranh bay đen trời. Xác những tên Mỹ nằm co quắp khắp nơi. Ngay trước mặt Kinh, bên kia gốc cây, ba bốn thằng chết nằm ngửa tênh hênh. Nắng như giội xuống những khuôn mặt chúng. Bấy giờ, cối và đại liên lại nổ ầm ầm vào chân gò. Kinh bế đồng chí chiến sĩ đã bị thương nặng vào giấu sau một bụi cây, mắt vẫn nhìn về phía trước:
- Này Lượng!
- Có tôi.
- Nghe đây. Đợt này nhất định chúng sẽ kéo lên rất đông. Cậu có nghe được tôi nói không? Bây giờ cậu để tất cả lựu đạn lại cho tôi... Anh em đằng sau đã rút xong. Cậu hãy lui ra sau dùng tiểu liên yểm hộ cho tôi, và cõng thương binh về...
Lượng hiểu ý định người chỉ huy.
- Tôi phải là người rút sau cùng - Lượng trả lời kiên quyết - Anh là đoàn trưởng, anh phải rút về trước đi, anh Kinh!

Quân Mỹ tiếp tục xô vào. Ngay hai loạt tiểu liên đầu tiên, hai người đã quật ngã hai tên hăng hái chạy trước. Tất cả chùn lại. Nhưng một quả đạn cối bỗng nổ tung đất đá và tàn tro vọt lên. Kinh bật lên một tiếng chửi, một nửa khuôn mặt Kinh tự nhiên tê dại đi. Lượng bồi thêm một chùm đạn vào đám quân Mỹ đang nằm bẹp sau các xác chết rồi chạy vội về phía Kinh. Anh thấy hố mắt trái của Kinh như tụt sâu xuống. Một dòng máu từ bên trong cái hố mắt rỏ thành giọt lăn qua vành má lấm đầy bụi tro xuống cằm. Khoảng túi áo ngực và cả báng súng Kinh đang cầm tay cũng đọng những vết máu lẫn với tàn tro.
Kinh ngồi bệt giữa đất cho Lượng quấn vòng băng cá nhân trùm kín đầu. Kinh dặn Lượng cách vừa đánh vừa rút. Kinh đã bị choáng nhưng vẫn còn khỏe lắm. Ông cúi xuống xốc đồng chí bị thương lên lưng, bước từng bước chắc chắn và chậm chạp về phía sau, thỉnh thoảng dừng lại kẹp súng vào nách bắn yểm hộ cho Lượng.

Cuộc chiến đấu tiếp theo dưới chân lèn đá, bọn chúng bỏ xác lại từng đống. Năm giờ chiều, quân Mỹ thu dọn chiến rường một cách máy móc và đúng thời giờ như những người thợ làm xong một buổi trong xưởng máy. Ngồi trên vách núi đá, Kinh nhìn ra khoảng gò bãi tranh, con mắt trái đau nhức nhối. Bọn địch bắt đầu kéo xác ra đường cái ngồi hút thuốc lá, ăn kẹo, chờ trực thăng tới đón. Thật tiếc ! Tất cả các khẩu súng của Kinh và của anh em trong đoàn đều hết đạn, lựu đạn cũng hết nhẵn, mỗi người chỉ còn có một con dao găm dùng để phát cây. Chúng vừa rút lui, Kinh liền cho mọi người xuống bãi tranh để tìm Lượng. Tìm khắp nơi không thấy. Cũng không thấy xác. Kinh quyết định cho đoàn ở lại thêm một ngày nữa để tìm, và dò la tin tức thì biết Lượng đã bị địch bắt. Cơ sở trong vùng cho biết quân địch chết và bị thương gần ba chục tên, Lượng bị thương ngất đi, đã bị chúng bắt đem lên trực thăng chở về thị trấn Khe Sanh.

Sau khi đoàn công tác về đến hậu phương một thời gian rất lâu, Kinh vẫn chưa hề báo tin tức gì cho gia đình của Lượng. Nhưng Kinh nghĩ chắc chắn Lượng không còn nữa! Khoảng ba năm sau, Kinh từ trên cơ quan Tổng cục Chính trị về nhận chính ủy trung đoàn 5. Kinh về hôm trước thì sáng hôm sau, Nhẫn, trung đoàn trưởng, đề nghị ông xuống một đại đội để theo dõi tình hình kiểm tra vũ khí, nhân tiện làm quen với anh em cán bộ và chiến sĩ dưới đơn vị. “Có đại đội nào ở gần đây không?" - Kinh hỏi trung đoàn trưởng.
- Có "thằng" trinh sát!

Kinh xuống đại đội trinh sát một cách thực là tình cờ. Ông vừa bước chân vào đến sân thì đã thấy Lượng đang ngồi chồm hỗm trước một đống vũ khí: Súng trường, tiểu liên báng gập, tiểu liên cực nhanh của Mỹ, lựu đạn, thuốc nổ, các thứ được bày biện thứ tự trên những tấm ván nằm. Lượng mặc bộ quân phục còn nguyên nếp hồ. Vẫn cái thân hình cao lớn và chắc nịch, vẫn con mắt có một vệt đỏ bên khóe, vẫn những cử chỉ và tiếng nói cứng cỏi như ngày trước. Lượng cầm cuốn sổ mở ra chỉ bằng nửa bàn tay, đang to tiếng với một người cán bộ đứng bên cạnh: "Đồng chí thử soát lại xem, thế mà cũng gọi là nắm thực lực vũ khí ư?”
"Hắn nom già đi nhiều quá. Như một người ngoài ba mươi", Kinh nhận xét. Phải sau một lát, Kinh mới nhận ra được nhưng vẫn còn nghi hoặc.

- Gì mà gắt om lên vậy hả ông? - Kinh bước tới bên cái bậc thềm lát đá, mỉm cười hỏi.
Lượng ngẩng đầu lên ngắm con người vừa mới đến, nhìn chòng chọc vào con mắt bên trái rồi ném cuốn sổ tay xuống thềm:
- Chao ôi, anh Kinh!
Khi Lượng kẹp đôi cánh tay rắn chắc như chiếc đòn gánh vào sau lưng ông đến đau điếng, Kinh mới thực sự tin rằng Lượng hãy còn sống.
Lượng buông Kinh ra rồi vội vàng lôi ngay vào trong nhà:
- Anh đi đâu mà tìm tới đây được hả?
- Mình mới về làm chính ủy ở đây, mới về chiều hôm qua - Con mắt trái của Kinh hình như có ngấn nước mắt - Kể đi, làm sao cậu lại còn sống được? Hồi ấy chúng mình cứ xắn quần đi tìm xác cậu suốt một ngày ở cái bãi tranh. Sau cùng mình biết cậu bị bắt, và mình đoán không khéo chúng nó đã "làm thịt" cậu rồi!
- Chính tôi cũng nghĩ thế. Nhưng những người như chúng ta dễ gì chúng giết chết được! Chao ôi, quả đất thật là tròn nhỉ? Ai sắp đặt mà khéo thật. Tôi với anh lại về với nhau ở trung đoàn này. Gia đình vợ con anh hồi này thế nào?
Kinh kể vắn tắt những công việc trong gia đình cùng tình hình con cái cho Lượng nghe.

Lượng hỏi thăm:
- Còn thằng đầu lòng của anh, cái thằng hồi đi đường anh hay kể chuyện về nó ấy?
- Nó là thằng Lữ, cái thằng ấy là thứ hai. Tôi đã cho đi bộ đội và gửi nó vào một trung đoàn pháo - Kinh than thở- Vào bộ đội nhưng nó vẫn giữ thói cũ, nó vẫn chọc trời khuấy nước ở bên đó, ông tính có ghê không?
Lượng đứng dậy với tay lên xà nhà lấy khẩu súng bảo Kinh:
- Anh ở nhà đợi tôi một lát. Tôi ra đầm kiếm một con vịt trời. Anh em mình phải ngồi với nhau hết buổi chiều hôm nay, tôi mới kể hết chuyện của tôi cho anh nghe được. Kinh sực nhớ ra:
- Nhưng còn việc kiểm tra vũ khí, các cậu làm đến đâu rồi?
- Anh cứ yên tâm. Thời gian tôi đi với anh, anh hẳn biết tôi giữ khẩu súng như thế nào? Bộ đội ở đây đừng có lơ mơ với tôi về cái khoản đó mà được đâu.

Kinh đi quanh quẩn một vòng chung quanh cái thôn đại đội của Lượng đang đóng quân. Tất cả đều hết sức yên tĩnh trong một buổi sớm mùa hạ. Những tốp máy bay phản lực của địch đi bắn phá hậu phương chưa bay qua vùng trời trong trẻo. Ngoài bãi dâu, một con vịt đủng đỉnh dẫn lũ con vừa mới nở đi kiếm ăn, con nào cũng vàng rộm như những nắm bông nhuộm phẩm. Tiếng mấy cậu anh nuôi kháo chuyện lao xao với những người con gái ngoài bờ giếng. Dọc lối đi lát gạch ngoài cổng làng, người ta đang phơi thóc. Và ngoài xa tít nơi cuối cánh đồng lúa bỗng nổ ran một tiếng súng. Kinh nhìn ra. Chỗ có tiếng súng vừa nổ, một bóng người cởi trần chạy lom khom giữa những vạt cỏ xanh mướt cao lút đầu, khiến Kinh chợt nhớ lúc mình và Lượng luồn qua bãi tranh đang cháy.

Hôm đó chính ủy Kinh ở lại ăn cơm trưa với đại đội trinh sát và nói chuyện suốt cả buổi chiều với Lượng. Nhập nhoạng tối, Kinh mới trở về khu vực đóng quân của trung đoàn bộ. Trong bóng tối, Lượng và Kinh đi dọc con đường gạch, Lượng hỏi dò:
- Rồi chúng ta lại kéo nhau đi làm một trận nữa chứ anh?
Kinh đáp:
- Tất nhiên, chúng mình đâu phải là một trung đoàn pháo cao xạ. Chẳng lẽ nhân dân nuôi nấng những chiến sĩ bộ binh để ngồi ở đây mà ngắm lưỡi lê chơi hay sao?

Các cán bộ tiểu đội trinh sát đặt cho Khuê nhiều biệt hiệu khác nhau, vào từng thời kỳ một: "ớt chỉ thiên", "Cây nói", "Nhà chiến lược"... Không biết ra chiến trường lần này Khuê có "ăn nên làm nổi" không, chứ như cách sống ở hậu phương thì anh tiểu đội trưởng nhỏ nhắn có mái tóc cum cúp, đôi mắt hẹp và đen ấy, đã được mọi người trong đại đội, kể cả cán bộ trên ban Hai (1) xác nhận anh ta vào bộ đội để làm chiến sĩ trinh sát chứ không phải để làm một việc gì khác. Hầu như suốt cả ngày lúc nào Khuê cũng vui vẻ, ăn nói lúc thì như thằng trẻ con, lúc đĩnh đạc như một người đứng tuổi, có lúc hắn ta nhận xét mọi việc như người đã tùng trải hết sự đời. Những chàng tiểu đội trưởng trinh sát đều là những tay cự phách không phải là vừa vậy mà với tuổi mười chín, mặt lại còn non hơn nữa, Khuê được các bạn đồng cấp khen cho là: " Thằng cha Khuê ấy thật tinh đời", "Con mắt ti hý và đen láy của nó chính là mắt chết gái", "Việc này phải có miệng thằng cha Khuê vào mới xong". Vừa mới về đại đội trinh sát chưa bao lâu, vậy mà Khuê đã thông tỏ hết mọi chuyện trong đơn vị như một người đã từng sống hằng năm. Mỗi lần dự cuộc hội ý buổi tối xong Khuê thường ở nán lại trên đại đội bộ chơi, cùng các cậu phụ trách tiểu đội khác hút thuốc, uống nước, cho nhau xem thư, có khi vật nhau, đuổi nhau chạy huỳnh huỵch ngoài sân như một lũ trẻ. Đại đội trưởng Lượng ban đầu thấy Khuê chơi đuổi bắt với hai đứa trẻ nhà mình đóng quân, anh tự phàn nàn: "Cán bộ thế đấy, y như một thằng con nít!". Hôm sau anh ngồi trong nhà nghe Khuê tán chuyện với cô con gái lớn của chủ nhà ở ngoài sân, anh vội giật mình bảo: "Thằng này chẳng trẻ con chút nào đâu!". Đến những ngày đơn vị bắt đầu diễn tập, nhiều buổi Lượng đi theo Khuê, xem cách cậu ta huấn luyện tiểu đội, anh bất giác nghĩ "Thằng này thử cho nó một đại đội, nó nắm quân đánh nhau được!".

Một hôm Lượng hỏi Khuê:
- Cậu đã đánh nhau chưa?
Khuê mới châm một điếu thuốc, chậm rãi và trân trọng mới Lượng cùng hút, phả khói rồi nhìn Lượng qua đôi mắt hẹp:
- Mới sơ sơ...
- Bao giờ?
- Mùa mưa năm ngoái.
- Ở đâu?
- Bên khu Đông đường số 9.
Khuê trả lới nhát gừng vậy mà trong hồ sơ quân nhân của Khuê, Lượng giở ra xem đã thấy có hai tấm huân chương. "Những tay cấp dưới này không thể xem thường được" Lượng nghĩ. Nhận xét của Lượng hoàn toàn được xác nhận là đúng. Hôm đó, Lượng sắp cùng Nhẫn và đoàn cán bộ tham mưu của trung đoàn lên đường để chuẩn bị chiến trường, anh xuống bếp anh nuôi nhờ bác Đảo, tổ trưởng nấu ăn hớt tóc hộ. Bác Đảo quấn chiếc khăn dù quanh khuôn ngực vạm vỡ của đại đội trưởng, cầm chiếc kéo díp tanh tách, mắt lúng liếng, cái cổ ngúc ngoắc.
- Vẽ chuyện - Lượng nhìn bác thợ cắt tóc mặc chiếc bờ lu đầy nhọ nồi đang làm điệu bộ - Tôi đang sốt ruột đây!
- Gì đi nữa thì anh cũng là một người chưa có vợ, tôi phải cắt cho anh cái tóc thật đẹp!
- Chẳng có lẽ kỳ này bác cho tôi đi trưng diện với thám báo Mỹ?
- Cũng phải cho nó biết thêm một điều là bộ đội chúng ta sống rất ung dung, và những người chiến sĩ anh nuôi lão luyện ở phía bên ta chi cần một chiếc kéo cũng có thể tạo được một cái đầu tuyệt mỹ!
- Thôi đi bác Đảo, bác lại đem rế úp lên đầu tôi, tôi biết thừa!
Cắt tóc xong, khi Lượng đã sắp ra về, bác Đảo chợt hỏi:
- Anh đã biết chuyện gì về thằng Khuê chưa?
- Gì vậy?
- Buổi trưa hôm kia nó lên nằm ngủ với tôi. Tôi với "thằng nhóc" nằm chung cánh phản. Tôi thấy nó cứ trằn trọc hết vật mình sang bên này lại vật mình sang bên kia. Tôi chửi ầm lên: "Mày dửng mỡ đến thế kia ư hả thằng nhóc! Có để cho tao chợp mắt một tẹo để chiều còn nấu cơm cho mà ăn không thì bảo?". Nó đứng dậy bỏ đi, tôi đang thò bàn chân xuống giường xỏ dép, chợt nhìn thấy một chiếc phong bì nó đánh rơi lại trên cánh phản, liền rút bức thư ra đọc. Chữ trong thư đúng chữ thằng em trai của nó đang ở nhà. Anh Lượng ạ, nhà nó bị bom chết một đứa em lên năm, bà mẹ bị thương nặng, nhà bay mất không còn một mảnh ván!

Chiều hôm đó, Lượng ra bãi tập.
Từ bên này sườn đồi đã nghe hô xung phong ran ran và ở đâu đó có tiếng reo vui vẻ của những người chiến sĩ đang hun chuột đồng. Tiểu đội của Khuê đang nghỉ. Những người chiến sĩ của Khuê đang ngồi thành vòng tròn giữa một đám ruộng vừa gặt, người nào cũng mang áo lá ngụy trang trông chả khác những khóm cây nho nhỏ mọc lên giữa đám gốc rạ cắt bằng liềm cứ bằng thiến sát mặt đất khô khốc và nứt nẻ. Khói rạ mới thơm phức bay trên cánh đồng tháng mười. Từ xa Lượng đã nghe tiếng nói mạch lạc và bình tĩnh của Khuê. Anh đang cùng tiểu đội rút kinh nghiệm sau một đợt tập.

Lượng gọi Khuê ra ngoài. Hai người đi dọc bờ ruộng có những đám lúa đang gặt dở trông nham nhở. Khuê đang đi chợt Lượng thấy anh cúi khom người xách khẩu tiểu liên lủi vào trong vạt lúa. Khuê nằm sấp xuống và một bàn tay quơ ra. Lập tức một tiếng "chít" rung lên của chú chuột đồng béo núc cổ đã bị kẹp chặt giữa hai ngón tay rất mảnh.
 - Khuê này, mình sắp đi trước đây - Lượng nói.
- Sao anh định cho tôi đi trước với anh kỳ này rồi lại thôi?
- Cậu ở lại đi phép đã! - Lát lâu Lượng mới nói tiếp một cách khó nhọc - Khuê, vừa rồi cậu nhận được thư nhà phải không, nhà cậu có chuyện buồn phải không?
- Sao anh biết?
- Mình nghe bác Đảo nói...
- Chắc hẳn bác Đảo đã xem lá thư của tôi?
Khuê bóp mạnh giữa cái ức trắng muốt của con chuột đồng, và đưa những ngón tay lần bẻ từng chiếc răng bé xíu.
- Cái giống này cắn lúa khiếp lắm đấy! Một đêm, nó kéo cả đàn bâu tới có thể cắn hết một sào lúa, như người ta cắt bằng lưỡi liềm hoặc bằng hái vậy.
- Mình nghe bác Đảo nói thằng Mỹ ném bom trúng nhà cậu, nhà cậu mất một đứa em và bà cụ bị thương nặng, có đúng không?
- Đúng đấy, anh ạ!

Lượng nhìn vào bàn tay Khuê có những vết máu hoen trên các đầu ngón tay:
- Sao cậu không nói chuyện đó cho trên đại đội chúng mình biết?
- Để làm gì? - Khuê hỏi lại, nét mặt thoáng đượm một chút buồn rất khó nhận thấy và tan rất nhanh. Những ngón tay của anh càng xiết chặt lấy khoảng giữa ức của con vật khiến nó gần tắc thở.
Khuê giơ thẳng cánh tay. Lượng tưởng Khuê sắp quật chết con chuột nhưng không ngờ anh đã thả nó ra. Con vật co mình lại, rung rung những sợi râu đỏ rồi quăng mình chạy vụt đi rất êm và biến mất ở một góc ruộng.
Khuê vung tay ném nhũng chiếc răng chuột giữa vạt lúa đang cắt dở trước mặt, hỏi Lượng:
- Anh có gì cần dặn tôi nữa không?
- Không đâu, Khuê ạ.
- Vậy thì tôi lại đàng ấy cho anh em tiếp tục tập đây!

Lượng cũng không hiểu thật là rõ ràng vì cớ gì đêm hôm ấy, sau khi đã chuẩn bị ba lô, bao gạo và vũ khí đầy đủ, chỉ cần nhấc lên vai là có thể đi được, anh đã cầm đèn pin lần xuống ngủ với Khuê. Suốt dọc đường tối mò mò có những bó rạ mới cắt xếp ngổn ngang hai bên, giữa không khí ấm áp ram ráp bụi rơm khô, Lượng đặt từng bước chân trên mặt đường và chiếc đèn pin mỗi lúc lóe lên tia ánh sáng lại giống như một con mắt đang trêu chọc anh. Thường ngày anh em trong đại đội hay trêu Lượng, gán ghép anh với người chị ruột của Khuê. Chính Khuê cũng đã có lần nửa đùa nửa thật nói với Lượng chuyện ấy.
“Tôi coi tướng của anh không phải là người dễ làm quen với bọn con gái đâu”. - Khuê nói với Lượng trong một buổi tối anh cùng các tiểu đội trưởng ngồi chơi ở đại đội bộ. Lượng đang cúi viết, cũng ngẩng lên, miệng cười ngượng nghịu như đứa trẻ: "Đúng vậy, mình khô khan mà lại nhạt nhẽo với phụ nữ thế nào ấy". - "Anh cứ yên chí - Khuê nói tiếp - Tôi sẽ làm mối chị ruột tôi cho anh. Chị tôi ngoan, đứng đắn, về mặt hình thức thì dứt khoát là ăn đứt cô con gái lớn nhà này. Anh mà trông thấy chị tôi thì phải hạ bút phê ngay cho bốn điểm chứ tôi không nói ngoa đâu!". Lúc bấy giờ mọi người ngồi chung quanh đều làm ồn ào, có người phấn chấn lên đã bàn lấn sang tới chuyện làm sao để hai người tìm hiểu và tổ chức lễ cưới ra sao? Chợt khi một anh trong đám cất tiếng hỏi: "Vậy cô chị của cậu Khuê bây giờ ở đâu?" thì mọi người đều cười ồ tỏ vẻ thất vọng nghe Khuê thản nhiên đáp: "Chị tôi làm cấp dưỡng trong tuyến đường Thống Nhất!". Chao ôi; thật là "cá biển chim trời”! Cô Nết, cô chị ruột của Khuê có thể là một cô gái xinh đẹp, lại ngoan ngoãn và đứng đắn, nhưng người ta lại đang công tác ở tít tận "trong đó" thì làm sao mà gặp, mà làm quen với nhau được? Nhưng thế mà ai ngờ tình hình bây giờ lại khác ! Bây giờ Lượng cùng đơn vị sắp phải đi qua con đường mòn dài dằng dặc đó.

Lượng vốn là người đàn ông khô khan và vụng hết sức. Gần ba chục tuổi, Lượng đã tùng xông pha các mặt trận nhưng anh nhớ mình chỉ được cầm tay người con gái nào đó khi hãy còn là đứa trẻ nhỏ chưa hề biết gì. Một lần khác, anh gặp một người con gái Vân Kiều gốc Kinh mà cho đến bây giờ anh hãy còn nhớ. Hồi đó, anh bị địch bắt trong chuyến đi với chính ủy Kinh. Chúng đem nhốt anh trong một xà lim bốn bề bịt kín mít, tối đến mức xòe bàn tay trước mặt cũng không nhìn thấy một cái bóng lờ mờ. Sau đêm anh tìm cách trốn được ra ngoài rừng, buổi sớm hôm đó anh đứng tựa sau một gốc cây nhìn trở lại mới biết cái xà lim đó xây bằng đá như một cái lô cốt nằm ngoài rìa một dãy phố lèo tèo nằm bọc quanh con đường số 9, gọi là thị trấn Hướng Hóa. Một ông già địa phương đã giúp anh vượt ra khỏi nhà giam đưa anh về nhà. Vừa đặt chân lên cái sàn nhà làm bằng cây bương đập giập lâu ngày đã lên bóng, Lượng đã phải hoa mắt trước vẻ đẹp của một người con gái đang ngồi bên cạnh bếp lửa. Người con gái nửa người từ ngực trở lên để trần. Lượng chỉ dám nhìn lấm lét cặp vai tròn và khuôn ngực tạc bằng đá trắng. Khuôn mặt người con gái ở rừng sao mà thanh tú nhường vậy: một bộ tóc đen như mun, dày tõe ra hai bên mép khăn, đôi mắt mỗi lúc ngước lên hay cụp xuống đều phân biệt được lòng đen. Đuôi mắt dài. Môi quả tim hơi dày và đỏ sậm. Và như để hoàn chỉnh cho vẻ đẹp ấy, hàm răng đều đặn và trắng long lanh, cái cổ rất cao hơi to xuôi xuống đôi vai trần. Từ lúc Lượng bước vào cho đến khi bước ra, anh chỉ thấy chị ngồi bên bếp im lặng không nói câu nào. Tuy vậy, Lượng vẫn có cảm tưởng chị đang nói năng, đang đi lại qua hàng mi khẽ động đậy và những cái nhìn, những cái ngước mắt dứt khoát đẹp kỳ lạ. Xiêm! Anh vẫn nhớ người con gái tên là Xiêm. Hình ảnh người đàn bà ngồi bên bếp gặp thoáng qua, đẹp trong sáng như vị nữ thần của núi rừng ấy không hiểu vì sao càng khiến cho Lượng yêu đời và muốn hoạt động. Tất cả những đòn tra tấn do bàn tay man rợ của bao nhiêu tên giặc đều trở thành vô nghĩa. Phải, Lượng chưa từng yêu một người đàn bà nào, cũng như chưa có một người đàn bà nào anh gặp tỏ ra yêu mến và chiều chuộng anh. Tình cảm, cái phần yếu mền trong tâm hồn Lượng từ thuở nào đã bị bọc kín giữa một cái vỏ gai góc cứng rắn: đó là khổ người cao lớn, là dáng đi đứng cứng nhắc, là tiếng nói và cái nhìn đầy nghiêm nghị, và cả sự suy nghĩ của Lượng cho rằng mình đi bắt quen với một người con gái, phải chiều chuộng họ thật là phiền phức và mất thì giờ. Nhưng sao lại thế nhỉ? Lúc Lượng sắp khoác ba lô đi chuẩn bị chiến rường, trong hàng loạt công việc của một người đại đội trưởng, trinh sát sắp bước vào chiến đấu, Lượng vẫn nhớ được trên con đường Trường Sơn mà mình sẽ qua, sẽ có một bếp lửa ở một trại giao liên nào đó mình phải ghé lại. Sẽ có một người con gái chưa hề biết mặt trao cho anh một nắm cơm ủ trong tàu lá chuối rừng đã được hơ mềm, và anh sẽ trao lại một câu khiến người con gái phải nắm lấy tay anh để hỏi vồ vập: “Thằng Khuê hả anh? Tôi là chị ruột nó. Anh là người bạn thân thiết cùng đơn vị với nó đấy ư?"

Lượng đến giữa lúc Khuê vẫn còn thức, đang nằm nói chuyện với một cậu nào đó ở phía trong. Ngôi nhà tiểu đội Khuê ở khá rộng, bốn bề ghép toàn bằng ván. Hai hàng giường bên kia cái bàn thờ đều để trống, trên mỗi đầu giường có những chiếc ba lô và bó chăn màn xếp gọn ghẽ.
- Khuê ơi, tớ xuống ngủ với cậu một tối đây!
Lượng bấm đèn pin soi thấy nấp sau lưng Khuê một đôi mắt lấp lánh, hết sức tinh khôn và ranh mãnh đang nhìn thẳng vào cái luồng ánh sáng từ trên tay anh.
- Tưởng anh tìm ở đâu để ngủ, chứ đi ngủ chung với thằng Khuê thì chán quá!
- Hồi cũng ngủ đây hả?
- Vâng, tôi sang nằm chơi thôi - Hồi toan ngồi dậy xỏ giày ra về nhưng Khuê đã kéo vai cậu chiến sĩ nằm xuống. Hai người nằm xích sát vách gỗ nhường nửa phần chiếu cho Lượng. Nhưng Lượng vẫn đứng, anh xách chiếc đèn trên án thư xuống, miệng hỏi:
- Các cậu có hút thuốc lá không?
Hai người vội vàng nhổm dậy. Khuê nói:
- Anh em tiểu đội tôi đi tập đêm rồi anh Lượng ạ.
- Đêm nay có tập đêm đâu? - Lượng hỏi.
- Nhưng tôi cứ cho tập, anh em người ta đang thích tập đêm. Tôi mệt quá nên phải giao cho cậu tiểu đội phó chỉ huy.
Bên ngoài có tiếng máy bay địch bay vút qua, một loạt bom nổ phía chiếc cầu ngoài đường. Lượng nói với Khuê:
- Mình đã trao đổi trong ban chi huy, sáng mai cậu có thể thu xếp để đi phép trước được.
Hồi gần như reo lên:
- Vậy thì đại đội sáng suốt quá!
Khuê đập tay lên vai Hồi:
- Thằng này ở cùng xã với tôi, kể ra còn có họ hàng nữa - Khuê trao cho Lượng một bức thư để ngỏ đã viết sẵn - Anh đi trước nhớ ghé vào trạm giao liên 34, chị tôi công tác ở đó. Anh nên nhớ trong thư này tôi giới thiệu anh với chị Nết tôi đấy nhé.

Hai con mắt Hồi như hai chiếc đèn pin chiếu thẳng vào Lượng làm cho khuôn mặt Lượng cũng phải đỏ ửng.. Cái thằng chiến sĩ thật láu cá, hắn cười tủm tỉm, đưa cả hai bàn tay nắm lấy cái bàn tay run run của đại đội trưởng đang cầm bức thư mà giật giật: "Chúc thủ trưởng thành công! Chúc thủ trưởng thành công!".

*
*    *


Từ ngày về trung đoàn bộ làm cần vụ cho chính ủy Kinh, Khuê lại được tất cả các mặt quen biết và chưa hề quen trong đơn vị đặt cho cái biệt hiệu mới: Thằng Khuê " chính ủy con" !
Chính ủy Kinh và cần vụ Khuê, cả hai người đang trong thời kỳ tìm hiểu và làm quen với nhau bằng những công việc hằng ngày ở dọc đường.

Những năm dài làm công việc tuyên huấn tạo cho Kinh thói quen nghiên cứu tâm lý và những diễn biến nhiều vẻ của chiến sĩ. Một đồng chí chính ủy có tiếng là đức độ một lần nói với Kinh và các cán bộ dưới: "Chiến sĩ hằng ngày sống bên cạnh người chỉ huy chả khác nào một đứa trẻ sống bên cạnh người lớn, người lớn hay thì đứa trẻ hay, người lớn dở thì đứa trẻ cũng dở". Điều ấy thật là đúng. Chiến sĩ cần vụ của đồng chí đó về sau là một chính trị viên dũng cảm và gương mẫu, giống người chỉ huy cũ từ cách đi đứng, cách điều khiển một buổi họp. Nhưng xét cho cùng, theo Kinh nghĩ, chiến sĩ họ đã biết cầm khẩu súng đánh giặc thì cũng không hoàn toàn chỉ biết bắt chước như một đứa trẻ. Tuổi trẻ, họ có cái nhìn của họ, cách phán xét riêng của họ. Một lần khi còn ở hậu phương, Kinh vô tình nghe lỏm được một câu chuyện của người cần vụ cũ của ông cùng các chiến sĩ thuộc tiểu đội cảnh vệ và liên lạc kháo với nhau về tính cách của từng người trong ban chỉ huy. Ban đầu Kinh hết sức giận, định đem ra phê bình ngay. Nhưng nghe câu chuyện thật là hấp dẫn. Kinh cứ phải nghe mãi. Kinh nhận thấy họ chẳng hề có ý nói xấu ai, và nghe tới đoạn họ bàn luận về mình, Kinh thấy có nhiều chuyện khiến mình phải suy nghĩ. Đêm hôm đó, Kinh gọi cậu cần vụ tới, ông cố lấy giọng thật bình thản hỏi:
- Tối qua các cậu tán chuyện về chúng mình mới khiếp chứ?
Mặt người chiến sĩ liền xám lại. Cậu ta ấp úng:
- Chúng tôi có khuyết điểm... - Vậy thì tôi mời đồng chí tới để sửa chữa khuyết điểm ấy.
- Vâng, tôi xin tự giác nhận kỷ luật.
- Chẳng cần đến kỷ luật trong vấn đề này. Tôi chỉ muốn đồng chí hãy nói lại những điều anh em người ta nhận xét về tôi, nói kỹ hơn, và nói trước mặt tôi.

Từ lần đó Kinh nảy ra cái ao ước được nghe tất cả mọi người trong trung đoàn nói về những ưu điểm và khuyết điểm của ông, được đặt mình dưới con mắt nhận xét của mọi chiến sĩ, được thử thách trước họ. Ông tin nếu được như vậy, ông sẽ trở nên một chính ủy vô cùng sáng suốt và làm việc tốt hơn. Từ hôm đầu mới làm việc với Khuê, Kinh đã hỏi:
- Ông Khuê, ở dưới trinh sát anh em người ta thường nói về tôi ra sao?
- Làm anh lính mà đem chuyện cấp trên ra kháo là chuyện không hay ho gì đâu thủ trưởng ạ.
- Nhưng tôi còn lạ gì chiến sĩ dưới chỗ các ông. Tôi nghe nói cánh trinh sát còn lôi chuyện gì đó của đại đội trưởng ra mà diễn kịch cho nhau xem cơ mà ?
- Lại thuộc về vấn đề khác thủ trưởng ạ, đó là một chuyện vui của ông Lượng. Còn đối với thủ trưởng trên này thì tôi không nghe thấy gì hết cả.
- Như vậy tức là mình chưa có một quan hệ thật chặt chẽ với anh em. Thường thường có sát với nhau thì ưu khuyết điểm mới lộ ra được.
- Tôi chỉ nghe anh em bàn tán vu vơ rằng, chính ủy trung đoàn là một người xuề xòa và "gia đình chủ nghĩa" !
- Ừ, sao nữa?
- Chỉ huy đánh nhau dũng cảm, có thế thôi.
- Còn ông thì tôi nghe khá nhiều - Kinh nói.
- Báo cáo thủ trưởng, người ta nói về tôi như thế nào ạ?
- Chẳng có gì xấu đâu. Người ta bảo ông là người tháo vát tinh tường và quen biết nhiều anh em ở các đơn vị.
- Tôi có quen biết nhiều nhưng tôi vẫn còn non nớt lắm. Tôi đề nghị được thủ trưởng giúp đỡ.
- Tất nhiên. Tôi sẽ coi ông như thằng con trai thứ hai của tôi, nó cũng ở bộ đội, cũng trạc tuổi ông. Nhưng ông thấy tôi có điều gì vừa mắt hoặc chưa vừa mắt, cứ nói thẳng. Tôi không "trù” ai đâu. Tôi trọng dụng ông hoặc tôi gạch tên ông ra khỏi hàng ngũ những người thân của tôi, việc đó tùy ông. Tôi nghe nói ông đã tùng chiến đấu rồi phải không?
- Vâng.
- Trước mặt thằng Mỹ ông có tỏ ra là một chiến sĩ Việt Nam anh hùng không?

 Khuê đỏ mặt, suýt nữa anh bật cười vì chưa quen cách nói năng của chính ủy Kinh mỗi lúc cao hứng. Nét mặt Kinh vẫn nghiêm nghị:
- Ngày nay cả thế giới đang phục dân tộc ta anh hùng, có thể đánh thắng Mỹ, vậy lẽ nào ông và tôi, chúng ta đứng trên con đường này lại tự nhận mình là hai thằng hèn nhát hay sao?
Chính Khuê cũng bị kính thích bới những lới rất thẳng thắn, cũng như cách xưng hô ấy. Khuê đáp:
- Thủ trưởng hãy tin ở tôi.
Kinh tỏ ra hài lòng:
- Vậy tôi coi ông như một người thân của tôi từ giờ phút này.
Khuê tò mò hỏi:
- Thủ trưởng có những ai là người thân?
- Những người mà tôi tin. Khi bước vào giáp mặt với thằng Mỹ, tôi tin sẽ không phải gạch tên một người nào trong số những người thân của tôi. Ông Khuê, ông hiểu chứ?

Rõ ràng cái mà Kinh đã bước đầu chiếm được sự kính  trọng và cảm tình của Khuê, tay tiểu đội trưởng trinh sát đầy nghị lực và sắc sảo này, chưa phải đã là tài năng chỉ huy và lãnh đạo bộ đội, mà đó mới chỉ là tấm lòng chân thành cách mạng và tình yêu thương bộ đội của một người chính ủy. Có một lần khi giao nhiệm vụ cho Khuê, Kinh nói rằng trên đường hành quân, ông phải tập trung thì giờ làm hai việc : Động viên tinh thần bộ đội lúc nào cũng sẵn sàng khí thế đánh giặc, và lo đôi chân, cái bụng cho thật tốt.

Về việc ăn uống của bộ đội trong hành quân, khẩu hiệu của Kinh đề ra tưởng rất dễ thực hiện: Làm sao cho bộ đội được ăn hai bữa cơm nóng và một bữa cơm nguội. Không thể nói hết giá trị một bữa cơm nóng dọn ra khói bốc nghi ngút trước mặt những người lính sau một chặng hành quân mưa dầm ướt át. Niềm phấn khởi của bộ đội là ở đó, sức vóc bộ đội ở đó, bệnh kiết ly và bệnh sốt rét được phòng ngừa cũng ở đó. Nhưng việc nấu ăn có biết bao nhiêu là khó khăn vì bộ đội đi gấp quá! Kinh đã tìm hết cách tổ chức những cán bộ hậu cần và cấp dưỡng ở các tiểu đoàn lại, ông đích thân đi liên hệ với các trạm giao liên. Hôm nào cũng vậy những người lính đến nơi trú quân, vừa kịp đặt ba lô xuống đã thấy chính ủy của mình mặc quần "soóc", gậy đi  đường gác ngang trên đùi, đang cười nói ầm ĩ trong gian nhà của trưởng trạm giao liên. Mọi người rất lấy làm ngạc nhiên, vừa thấy ông đứng với mình ở một quãng nào đó, lại hội ý hội báo với cán bộ, la cà tán chuyện với lính suốt dọc đường lại còn bao nhiêu việc khác vậy mà làm sao ông đã "bay" tới ngồi ở đây được?

Tất cả mọi trưởng trạm mà Kinh gặp đều nhăn nhó:
- Thủ trưởng hiểu cho, đường hồi này đông quá, chúng tôi có mười tay mới hòng xoay xở nổi việc ăn uống cho bộ đội được thật chu đáo.
Kinh cười ha hả:
- Tôi biết nỗi khó khăn của các đồng chí. Nỗi khó khăn ấy mới thật đáng phấn khởi chứ! Tôi chúc con đường của các đồng chí cứ đông nghìn nghịt như một ngày hội. Ba bốn năm trước, tôi đi qua đây còn được ngồi ăn chung mâm cơm với các đồng chí cơ mà. Đồng chí chắc không còn nhớ vì khách khứa bây giờ đông quá phải ra ở bãi, mà mấy cái bãi khách của các đồng chí cũng không đủ đề chứa khách đi đường nữa rồi. Phải không, chúng mình đáng phải mừng rỡ mới đúng chứ?

Những nếp nhăn trên khuôn mặt những người trưởng trạm bớt dần. Ai nấy đều thấy phấn chấn về nhiệm vụ nặng nề và vinh quang của mình. Kinh không biết hút thuốc lá nhưng trong chiếc túi vải hoa bao giờ cũng có một vài bao. Ông liền xé một bao thuốc khoát tay mời mọc mọi người không phân biệt nhân viên trạm hay là ai: "Thuốc lá hậu phương đây, các ông hút đi để ăn mừng con đường của chúng ta nào". Thế rồi trong làn khói thuốc đã làm mờ cả gian phòng, Kinh bắt đầu đem ra kể những mẩu chuyện về tinh thần bộ đội của mình. Ông ngâm những bài thơ tự mình sáng tác ra, ca tụng tinh thần bộ đội và những người chiến sĩ giao liên âm thầm phục vụ bộ đội ở trong rừng sâu. Trong khi đó, ở ngoài sân, anh nuôi trung đoàn 5 gồng gánh kéo nhau tới như đã được ngầm hẹn trước. Sau buổi trò chuyện của Kinh, cả trạm giao liên như bừng tỉnh dậy vào công việc nấu nướng.

Thường thường trong những buổi gặp mặt như vậy, Khuê ngồi bên cạnh Kinh. Anh im lặng để xem xét. Đến một chặng, Khuê nói với Kinh:
- Lần này thủ trưởng để cho tôi nói chuyện với họ.
Kinh cười cười:
- Ừ, được. Tôi thử ngồi nghe ông "thuyết khách" xem ra sao?
Trưởng trạm lần ấy là một người đã đứng tuổi, bị thương, một bên má hóp vào như quả bầu khô, vẻ mặt rất cứng cỏi. Sau vài câu trao đổi, vẫn những khó khăn như các trạm trước. Khuê biết trưởng trạm không phải là người thiếu trách nhiệm nhưng anh cũng nói thẳng thừng:
- Yêu cầu cho bộ đội ăn cơm nóng là yêu cầu do chính bên các đồng chí binh trạm đã đề ra, và chúng tôi chỉ là những người được phổ biến.
- Nhưng chúng tôi đã chất vấn bên tham mưu. Chính cơ quan tham mưu binh trạm cũng không ngờ bộ đội đi dồn dập quá, vượt hết các chặng đã quy định.
- Thế sự khắc phục cao nhất theo yêu cầu của Đảng của đồng chí ở đâu? Bộ Tư lệnh Mặt trận yêu cầu chúng tôi đến mặt trận sớm hơn thì sao? Tôi hỏi như thế. Nay mai ví dụ chúng tôi chỉ có hai người mà gặp địch đông gấp bội thì sao?
- Mặt cậu còn non choẹt mà làm gì cứ như "búa bổ" vậy?
Một bên má bị thương của trạm trưởng chợt rựng lên những chấm đỏ như những hạt máu đang chảy ở phía sau. Anh đã tỏ ra hết sức tức giận nhưng Khuê nào có hề nao núng, cũng không hề bớt găng đi một chút nào.

Khuê đứng dậy:
- Mặt tôi còn non không đáng cho đồng chí nói chuyện ư?
- Cứ ngồi xuống - Trưởng trạm đấu dịu - Hay là các đồng chí có thể cho bộ đội nghỉ tạm ăn cơm nắm, tôi sẽ nấu thức ăn thật nóng.
- Không được, đồng chí ạ. Bộ đội vừa ăn cơm nắm tối hôm qua. Nếu khó khăn, tôi sẽ đưa cấp dưỡng của đơn vị chúng tôi ra bãi khách tự nấu lấy. Đồng chí hãy phát gạo và thực phẩm cho chúng tôi. Nếu bếp bãi khách không đảm bảo để lộ khói lửa thì phần trạm phải chịu trách nhiệm. Tôi nói vậy có được không?
Người trưởng trạm chống hai ngón tay lên má. Anh bỗng đứng dậy:
- Thôi được, tôi sẽ xuống bắc thêm một cái bếp nữa tự tay nấu cơm nóng cho các đồng chí, các đồng chí ra bãi cho bộ đội nghỉ đi.

Hai người bắt tay và cảm ơn đồng chí trưởng trạm. Lúc ra về, Kinh nói với Khuê đang khoác tiểu liên đi một bên:
- Đồng chí trưởng trạm đó chính là một đồng chí tốt, Khuê ạ.
- Tôi cứ trông con mắt tất cả mọi người ở trạm tôi biết. Người nào mắt cũng đỏ khè, khóe mắt đầy dử. Thức đêm nhiều đấy mà. Ông trưởng trạm cũng vậy, giá cho ông ta ngủ, tôi đoán ông ta có thể ngáy ngay giữa lúc nói chuyện được. Họ mệt quá rồi cho nên tôi phải làm găng, thủ trưởng ạ!
Kinh đáp:
- Làm như ông cũng là một cách.
- Cách ấy thủ trưởng thấy sao?
- Ông là một chiến sĩ trẻ tuổi nói chuyện thẳng thắn, tôi biết - Kinh nói nhỏ và chậm rãi - Nhưng chúng mình nên nghĩ rằng các đồng chí giao liên đều là những người chiến sĩ cách mạng, họ cũng vất vả. Chúng ta đi đường cũng cần phải biết luôn luôn động viên các đồng chí đó. Tôi so sánh ví dụ tinh thần của họ như một cái bếp không bao giờ được tắt lửa . Chúng ta, hàng ngàn con người đi qua đây đều ghé vào hơ bàn tay và ăn một bữa cơm nóng. Trong khi ngồi bên bếp, người nào cũng nên đặt vào một thanh củi chứ, phải không?

CHƯƠNG 2


Ngày đó trung đoàn của Kinh sắp đi tới những chặng đường cuối cùng. Dọc con đường giao  liên bấy giờ, khu rừng hai bên có những quãng dòng thác người tự nhiên cứ quẩn lại, phình to ra, đông đúc và ồn ào như dòng nước lũ chảy qua một cái xoáy lớn. Dọc theo dãy lèn đá cao ngất, thỉnh thoảng nổi bật lên một tòa cây xanh um mọc cheo leo giữa đỉnh, dưới chân là khu vực kho B. Tất cả các đơn vị đi đường ngắn và đường dài đang hội quân ở đây. Tất cả đều phải lấy thêm gạo, thức ăn và thuốc men để đi tiếp vào tận các chiến trường! Đông đúc quá? Không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết đây là đường rừng hay quảng trường, là rừng cây hay là rừng người và rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi nóng của hơi thở và mùi mồ hôi người, là tiếng ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao đang san một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần cầm lấy súng. Người ta không thể phân biệt hiện tại hay khung cảnh lịch sử hay là tương lai đang bước ra từ đây trên đôi bàn chân đất của người lính? Không thể nào tả hết những khuôn mặt chiến sĩ, những khuôn mặt chỉ huy, những khuôn mặt của tầng tầng lớp lớp người đang nối tiếp nhau hiện ra từ trên dốc, từ dưới suối, từ khắp các ngõ ngách của rừng. Khuôn mặt nào cũng đẫm mồ hôi và bừng bừng như say. Phần đông là những khuôn mặt còn trẻ măng cả. Nhìn bất cứ người nào cũng có thể đoán được khuôn mặt dòng dõi của bố mẹ, của người em, người anh, người chị ở nhà hoặc cũng ở một nơi nào đó. Tất cả đều đang bước đi. Các cặp mắt tất cả đang nhìn. Trong tất cả mọi người giữa dòng thác hôm nay, ai sẽ trở nên nhà chép sử sách, ai sẽ cầm bút viết văn, sẽ mô tả làm sống trở lại khung cảnh này?

Cả ba tiểu đoàn của trung đoàn 5 đã vượt gần hết khu vực tập trung đông người, chỉ một số đơn vị hậu cần và một tiểu đoàn pháo loại nhẹ vừa đến phối thuộc còn lẽo đẽo ở sau. Kinh đang đi theo tiểu đoàn 1 . Nhưng tiểu đoàn này đi xong thì Kinh đứng lại để chờ tiểu đoàn pháo. Những người lính pháo mang vác, phần lớn là khiêng, cả tiểu đoàn đang cuộn mình leo lên một cái dốc chỉ dài khoảng một nghìn mét nhưng quanh co dốc thẳm. Anh em giao liên đã thấy đấy là cái dốc không phải dễ nên đã đánh thành bậc, ở mỗi bậc đều lát một khúc gỗ tròn để chèn cho đất khỏi lở. Những khúc gỗ được ghim chặt bằng hai thanh gỗ khác cắm sâu xuống. Tuy vậy, vì lâu ngày không biết bao nhiêu bàn chân giẫm lên, các khúc gỗ đã mòn lõm. Trên những thân cây hai bên, một vệt đỏ sậm do lớp vỏ bên ngoài bị tước xơ thành một đường thẳng từ thân cây này sang thân cây khác. Đó là chỗ bàn tay nhiều người đã vịn vào. Những người lính đều mặc quần đùi, mũ tai bèo cuộn gập bên cạp quần. Một anh dáng như học sinh giữ trên vai một đầu đòn khiêng thân pháo nặng gần một tạ, đứng chực sẵn ở chân dốc và đưa mắt ngắm những bàn chân như đang đứng tấn trên các bậc:
- Vợ tớ nó viết thư cho tớ đến là văn chương, em muốn cùng anh đi hết suối sâu và dốc cao...
- Vợ cậu làm gì ở nhà?
- Nó cũng đi làm đường Trường Sơn.
- Trường Sơn ơi, ta lại đến bên người...
- Lên hết cái dốc này rồi tha hồ mà khát nước các thầy ạ.
- Đi ta đi những cánh đại bàng, này, mấy năm vừa rồi tớ biết thế này thì tớ cóc ở nhà, tớ sẽ đi hết các dãy núi Trường Sơn, tớ trồng toàn là khế thôi các cậu ạ. Phen này thì tha hồ mà trèo nhé!
- Tớ thì tớ trồng dâu da hơn.
- Cậu là dân vó bè nước ngọt, cậu biết cây dâu da than nó ra làm sao nào?
- Cây dâu da vỏ đen, có vằn, lá nhỏ tí.
- Đó là cây sung đất.
Tất cả cười ồ.
- Nó ở dưới biển mới lên, mới tập mặc quần để đi bộ đội làm sao nó phân biệt được cây nào ra cây nào ở trên rừng. Cây sung đất là cái cây mọc ở quãng bờ suối chỗ tớ với cậu tắm, hôm nghỉ lại một ngày ở trạm giao liên 13 ấy.
- Đi, các ông tướng!

Những bắp chân bắt đầu săn lại thành múi. Các đường gân căng ra. Những chiếc đòn khiêng có chiếc vót đẽo nhẵn nhụi có chiếc vẫn nguyên cành cây và túm lá tươi phất phơ. Bốn năm bàn chân giậm lên nhau cùng một lúc giữa cái bậc. Những thân người và cánh tay tựa từng thân cây hai bên mà trườn lên. Những chiếc cổ và quai hàm bạnh ra quanh đòn khiêng. Kinh đứng trên đầu dốc nghe được cả tiểu đoàn pháo đang thở. Kinh mặc quần "soóc" dài gần chấm gối để lộ một cái đầu xương bánh chè vẫn còn chắc, bắp thịt dưới bụng chân rất săn, chiếc cổ áo vuông màu vàng của anh đã ướt đẫm mồ hôi. Hai bàn tay ông đặt úp lên nhau, ôm lấy đầu một con sóc gọt bằng gỗ đã nhẵn bóng cắm trên đầu một chiếu cậy song rất dài. Vừa trông thấy những người lính pháo đi đầu nhô lên ở một quãng dốc ngoặt, Kinh liền kẹp chiếc gậy vào nách, đặt hai bàn tay lên miệng:
- K.13, các cậu đi thần tốc địch với quân Nguyễn Huệ rồi đấy ! Anh nuôi K.13 đã lên trước chưa?
- Anh nuôi K.13 còn lẽo đẽo, lững thững ở đây!
- Chính ủy làm thơ đi chính ủy ơi - Mấy chiến sĩ cấp dưỡng tiểu đoàn pháo cao hứng thốt lên.

Một đại đội bộ binh của trung đoàn nào chẳng biết, cũng mang vác kềnh càng, đi rải từng khúc chêm vào giữa đội hình pháo. Những chiến sĩ xa lạ nhác trông thấy Kinh chống gậy đứng trên dốc vội la tướng:
- A, thầy Đường Tăng!
- Chào thầy Đường Tăng sang nước Việt Nam lấy...đầu Mỹ anh em ơi !
- Thầy có chú tiểu đồng kháu ra kháu!
Những khuôn mặt pháo lầm lì. Những khuôn mặt bộ binh nhẹ nhõm. Tiếng bộ binh và tiếng nói của pháo đan nhau:
 - Chào cậu Khuê, cậu ở trung đoàn này ư?
- Tớ có một đứa em gái mắt sắc như dao đang công tác trong khu rừng này, cậu nào bên ấy khao tớ một điếu thuốc lào tớ gả ngay cho bây giờ?
- Chỉ tán phét là giỏi, leo dốc vã mồ hôi dái ra còn tán.
- Mẹ ơi, bao giờ hết giặc con về mẹ vui?
- Cha ôi, nước mình thật lắm tung!
- Ta đi đây lòng ta như  bay ! (1)
- Dốc này tên là dốc gì nhỉ?
- Dốc Bà Định đấy!
- Bà Định ơi, phen này bà cho cánh chúng tôi kiếm ăn ở đâu đây?

Quân cứ nghìn nghịt như thế mà đổ lên. Tiếng máy bay ỳ ầm trên đầu. Tiếng phản lực vừa dứt lại một đôi cánh bằng đi lùng rừng, tiếng kêu rè rè, bay thấp và chậm như sên bò từng nấc trên đá. Con đường đổ sang bên kia dốc lại gặp một cánh quân khác, lính đội toàn mũ sắt, người nào người nấy da đỏ au. Hai cánh quân gặp nhau liền tung mũ và reo hò. Ở một chỗ, hai người đang vặc nhau, anh này bảo anh kia lấn vào hàng của mình, và anh kia cũng vặc lại anh này như thế.
Kinh đưa đầu gậy chỉ về phía trước:
- Ông đã trông thấy cảnh này bao giờ chưa hả ông Khuê?
- Tôi đã trông thấy hồi năm ngoái, nhưng không đông bằng năm nay.
- Tôi cũng chưa hề bao giờ trông thấy, chưa chộ (2), ta đi thôi !

Hai người phải hết sức vất vả mới len lên được. Khuê đi sau, chiếc ba lô của Khuê chốc chốc lại va phải một cái chân súng cối, một ống bộc phá, những bao gạo, những chiếc rá bằng giang rừng đan vội vàng cột sau ba lô. Gặp một đại đội bộ binh mà chỉ có chừng mười người không có đòn gánh trên vai, hầu hết đều khiêng, hoặc gánh. Một đại đội khác đi sau cũng vậy. Những chiếc đòn gánh đủ kiểu, làm bằng gỗ, bằng bương, bằng tre. Lính cũng đủ loại: Có anh cao lớn lộc ngộc, có anh như mới từ luống cày bước lên. Một đoàn quân y giải phẫu do một ông bác sĩ đen thui và cao lớn như ông hộ pháp cầm đầu, ba bốn cô y tá đi sau người nào cũng gánh những chiếc túi thuốc lẵng nhẵng có dấu chữ thập đỏ. Lẻ loi dăm anh lính không biết của đơn vị nào, mỗi người gánh mỗi đầu bốn quả đạn cối 60 ly như những búp hoa chuối, trên thân mỗi quả đạn có hai cái vòng đỏ. Anh chàng đi giữa chừng là chỉ huy, nét mặt tươi tỉnh, hai má rám trứng cá. Anh ta đang đi hễ trông thấy một đơn vị lại ghé tới hỏi:
- Hiền Lương đây phải không các đồng chí?
- Không phải, đây là Sông Trà!
Đến một đoạn khác lại vẫn thế:
- Hiền Lương đây phải không các đồng chí?
- Không phải, đây là Sông Hồng!
Khuê đang đi chợt trông thấy trước mặt cả một mảng lưng áo của chính ủy Kinh như đập vào mắt. Anh vội vàng hỏi:
- Ba lô thủ trưởng đâu?
- Ôi chí nguy rồi! Tôi bỏ quên chiếc ba lô ở trên dốc Bà Định.
- Thủ trưởng cứ lên trước đi !

Khuê đi ngược trở lại. Ở những quãng rừng hai bên đường vừa ban nãy còn bỏ trống, bây giờ đã thấy có nhiều đơn vị đang hạ trại. Tiếng lính gọi nhau í ới, tiếng dao phát cành cây, tiếng đóng cọc chí chát. Một anh nhanh nhẹn trong khi mọi người vẫn còn tíu tít cả chân tay thì anh ta đã buông mình nằm thăng cẳng trong chiếc võng và bất ngờ thét lên một tiếng: "Trường Sơn ơi" làm rung chuyển cả khu rừng. Dăm ba anh chưa kịp sửa soạn chỗ ăn chỗ nằm đã nhảy bổ xuống suối thò lút cánh tay vào các hốc đá moi lên từng vốc cá. Một anh ngồi ngay giữa vệ cỏ hí hoáy ghi chép lên cuốn sổ tay. Một anh khác vác dao vạc ngay một mảng vỏ trên một thân cây rất lớn bên đường, dùng méc-quya vẽ đè lên thớ gỗ trắng vẫn còn chảy nhựa một chiếc mũi tên to sù như đuôi một con dím và ba chữ: "Đoàn Thu Bồn". Đâu đó có tiếng bìm bịp kêu trong khoảng rừng vắng. Một đơn vị khác đang nhổ trại. Anh cán bộ ôm khư khư chiếc đài trước bụng, cầm chiếc gậy chống quay tít mấy vòng như là đang ngứa tay muốn múa gươm, chốc chốc lại giục: "Nhanh lên, nhanh lên, ta kiếm đầu dăm ba thằng Mỹ kẻo hết các cậu ơi!". Những người lính cuốn tăng võng trong tiếng ồn ào. Những chiếc tăng ny lông màu lá mạ rải khắp rừng suối trong phút chốc đã được xếp lại, như một đàn bướm đậu chập chờn rồi kéo nhau bay đi nơi khác. Cả đơn vị đã ra đường tập họp. Khói bếp vẫn còn vươn dài uể oải cuốn theo thân cây và nằm cuộn tròn những vũng mờ xanh dưới tán lá. Mỗi tiểu đội để lại một vệt than tròn dưới gốc cây. Mặt đất lờ mờ, trông bóng lính cứ hư ảo. Khuê đi giữa cánh rừng khói đang tan. Cái dốc mang tên Bà Định do một anh lính vô danh đi qua từ đời thuở nào đặt cho, lúc Khuê quay trở lại chỉ thấy toàn dấu giày và dấu gậy in chi chít trên lớp bùn ở các bậc, con đường đã nhão ra để được lèn chặt hơn; và chắc có lẽ vì vội quá hoặc hăng hái, có nhiều bàn chân đã mở thêm ra nhiều lối đi khác ở hai bên. Những bụi nứa non bị đổ ngã rạp. Những phiến đá bị giẫm lỳ. Một cặp đại bàng đất đôi mắt hiền từ nhưng cái mỏ quắp và dài trông rất hung tợn vươn đôi cánh vỗ ầm ầm rồi ung dung bay đi. Trong khi đó, ở khu rừng dưới chân vọng trở lên một tiếng gọi khẩn khoản và tha thiết: "Sông Hồng gọi Cửu Long, Sông Hồng gọi Cửu Long. Sông Hồng đang chảy. Sông Hồng đang chảy. Cửu Long nghe rõ trả lời!”. Tiếng gọi lắp đi lắp lại một cách kiên nhẫn. Đó là tiếng nói của một trung đoàn đang trên đường tiến quân gửi vào những làn sóng điện vô hình chằng chịt giữa vòm trời.

Trên đỉnh dốc chỗ Kinh và Khuê ban nãy đứng thấy có hai chiến sĩ ngồi nghỉ, cùng với một con chó đang chõ miệng vào một gốc cây sủa tong tóc. Anh chàng thứ nhất cao gầy, đeo chiếc máy vô tuyến điện trên lưng, chiếc cần ăng ten đã gập lại, đang cúi lom khom dang tay níu lấy chiếc dây da buộc cổ chó. Anh chàng nghịch kỳ cục đến thế là cùng! Anh ta đem buộc giữa cổ con chó một miếng riềng. Anh chàng thứ hai đen và lùn ngồi giữa hai chiếc ba lô, tay cầm chiếc gậy đi đường, đang dùng đầu gậy chọc chọc vào một chiếc ba lô nằm bên lề cỏ. Khuê nhận ra chiếc ba lô của chính ủy Kinh. Chiếc ba lô lép kẹp, nằm nhũn ra như một con chồn mực đói, trên mặt lớp vải bạt đầy vệt mồ hôi cáu đen đã thấy có không biết bao nhiêu dấu gậy của những đơn vị qua. Khuê mở ra soát lại. Tất cả đều y nguyên. Trong ba lô chỉ có một bộ quần áo vải, một chiếc áo len xanh và một thanh ma-gi-cô (1) bọc trong tờ giấy bạc.

Câu chuyện giữa ba người lính mới gặp nhau ban đầu còn thật là chểnh mảng. Con chó ngay phút đau tiên đã tỏ ra quá hăng hái, nó thôi không chõ miệng vào gốc cây nữa mà quay ngoắt lại cắm bốn chân xuống vệ cỏ sủa vào mặt Khuê. Khuê buộc ba lô cẩn thận và khoác vào vai, anh ngắm con chó bằng một cái liếc mắt đầy thiện cảm:
- Hai cậu, con "khuyến" này dễ đạt được hơn chục cân hơi là ít?
- Ông bạn “ấm đầu” hay sao vậy? - Anh cao và gầy hỏi Khuê.
- Trông người ta như thế mà cậu lại hỏi một câu thật là… Anh chàng lầm lì ngồi giữa hai chiếc ba lô nói.
- Thế tại sao ông bạn đi hành quân lại bỏ quên cả ba lô?
Khuê đáp:
- Đây là ba lô của đồng chí thủ trưởng của mình.
- Thủ trưởng của ông bạn cũng thật là nghệ sĩ - Anh cao và gầy bình luận - Ông bạn ơi, ông bạn có bật lửa không?

Người chiến sĩ đeo máy vô tuyến điện, cao và gầy như một cây hóp buông con chó ra. Anh lấy thuốc lá mời Khuê hút một cách hào phóng. Khuê bật lửa. Anh ta liền cúi gập lưng châm điếu thuốc ngậm bên miệng. Khuê nhìn qua đôi mắt hẹp và sắc sảo của mình thấy một nửa vầng trán rộng và một cặp mắt đen như chì than đang chớp sau ánh lửa. Trong cái chớp mắt ấy, Khuê đã nhìn thấy trước, mình và con người đang đứng đây cùng nhau châm điếu thuốc rồi nay mai sẽ có lần gặp nhau trong cuộc chiến đấu. Khuê tin vào sự vô cớ như vậy.
- Các cậu "tậu” được con chó ở bản Két phải không? - Khuê hỏi lơ lửng.
Người bạn mới phả khói thuốc, đáp một cách bình tĩnh:
- Phàm con nhà chiến sĩ chúng mình đã bước vào chiến trường thì đồ đạc phải thật gọn nhẹ.
Khuê mỉm cười tinh quái:
- Mình đã đi qua lại cái bản Két bên kia sông nhiều lần. Hôm nào trời nắng hãy đi qua đấy mà xem, các bà cụ già và các em bé trong bản thường lần cầu thang gác đem ra bờ suối phơi từng ôm quần áo bộ đội, cả giày, bít tất và mũ tai bèo nữa. Không biết họ lôi những thứ quân trang ấy từ đâu ra vậy?
- Cái chuyện vặt vãnh! Ông bạn cũng là con người từng trải đấy - Anh chàng cao và gầy liếc Khuê bằng con mắt thán phục - Hay là thế này, ông bạn cùng đi với hai chúng mình đến một chỗ nào sẵn suối và dao thớt, ta ngả nó ra, ba chúng mình đánh chén một trận xong rồi ta cùng nhau chia tay cho vui vẻ.

Con chó vàng đeo củ riềng dưới cổ như một vật trang sức. Nó thôi không sủa và đứng nghe ba người lính nói chuyện với nhau một cách chăm chú và có phần hãnh diện. Anh chàng đen và lùn bước ra khỏi đống ba lô, vẫn bằng dáng lầm lì như đang giận ai. Riêng anh chàng cao và gầy vẫn mời mọc thiết tha:
- Phải đấy, nên nhận lời mời của chúng mình. Cậu nên đi với chúng mình một đoạn đường. Phải thú thật rằng trong cả hai chúng mình không anh nào biết làm miếng thịt chó cho ra thịt chó. Vùng quê mình người ta lại nấu thịt chó với mật kia, y như chè kho, đoảng đến thế!

*
*    *


Giá gặp lúc khác thì Khuê cũng đã “xắn tay áo" lên rồi! Theo Khuê, trong đời một chiến sĩ đã từng xông pha mà chưa tùng bao giờ ngồi với nhau quanh mâm cỗ thịt chó dọn ngay trước bếp lửa bên bờ suối thì cũng coi như một điều thiệt thòi. Nhưng bây giờ Khuê buộc phải từ chối. Anh phải mang ba lô đuổi theo đồng chí chính ủy và bộ đội đơn vị của mình.

Trưa hôm sau, trời hửng một lát. Dọc khe suối và trên các tàu lá chợt bừng lên vài mảng nắng rồi đâu đó lại tắt lịm. Lại một cơn mưa đổ rừng đùng đùng kéo tới. Mặt đất càng nhão nhoét, những bãi cỏ bị xéo nát lẫn với bùn đen như mực tàu, xả mùi tanh thum thủm. Những giọt mồ hôi chảy giàn giụa trên gò má, đọng giữa tóc, loáng ướt trên khắp thân thể đang nóng bỏng gặp hơi nước mát lạnh liền bốc hơi ngùn ngụt. Quần áo tóc tai người nào cũng chua loét. Sau khi đi qua kho B, những cặp vai đều nặng hơn. Khắp trên mặt đường đã thấy nhiều vỏ đồ hộp và trên tay người lính nào cũng có điếu thuốc lá cháy phì phèo. Các dòng suối đều đục ngầu. Tiếng máy bay thỉnh thoảng lại rẹt qua, có khi cứ ầm ầm như có một đoàn tàu hỏa lăn bánh trên chỏm núi đá. Trên đường đi, trung đoàn 5 lại gặp thêm nhiều đơn vị mới. Dòng thác người như một dòng suối thép đang ào ào cuốn tới bên bờ sông Xê Pôn, con sông chung của hai nước Việt - Lào. Cùng chung với nhau một dải núi, một cánh rừng mà bên này bên kia khác nhau rõ rệt. Triền núi bên này vẫn mưa mà bên kia nắng rực rỡ. Lính nhà ta vừa đặt chân tới liền rủ nhau kéo ùa xuống bãi cát. Từ trên hai sườn núi dốc thẳm như hai tầng nhà gác nhìn chõ sang nhau, cảnh sắc nước Lào hiện ra ngay trước tầm mắt những người lính, đẹp như một bức tranh lụa vừa bị giặc Mỹ đem ra đốt cháy nham nhở. Xa xa, những mái nhà ôm vòng lấy khung sàn như một cánh tay tròn mập và mềm mại. Mái nhà Lào, hai bên đốc nhà mái tròn xoe, lợp cỏ tranh dày đến năm mươi phân là ít, cứ vàng rộm trong nắng, những bản nằm rìa bờ sông đều mang dấu tích tàn phá của máy bay Mỹ. Những khung nhà rất lớn nằm trơ trọi những hàng dừa mọc sát mép nước chỉ còn thân cây cháy sém, những vạt nương thuốc phiện bỏ hoang. Giữa khung cảnh đó, xung quanh bản hoa dong riềng vẫn nở đỏ, vẫn trông thấy những cô gái Lào vùng bãi sông đẹp yêu kiều mặc váy xanh màu lá mạ đi vác nước. Và như để khắc họa thêm cho phong cảnh riêng của nước Lào, từng đàn voi nhà bước đủng đỉnh trong đám tàn tranh, những chú voi con hiền lành bước quẩn bên chân các cô gái mang búi tóc óng mượt trên đỉnh đầu.

Bên phía Việt Nam vẫn đổ mưa lác đác. Các đơn vị vừa đi tới đây thì được tin một đoàn văn công phục vụ mặt trận cũng sắp đi tới. Cả cánh rừng náo nức hẳn lên trong một niềm mong đợi. Từ xa, đoàn văn công có chừng khoảng ba chục người đang lễ mễ đi tới. Có hơn một nửa số người là nữ, những người lính trông từ xa đã thấy những tấm lưng ong thon thả, những làn tóc dài hoặc uốn cong, những khuôn mặt trắng phau như bột nặn, những trống phách, đàn nhị và cả nồi niêu xoong chảo lúng củng trên vai.

------------------------------------------------------
(1) Nước mắm cô đặc

Không biết làm thế nào mà hai anh chàng lính thông tin dắt con chó cũng đã nhập được vào đoàn văn công mặt trận. Người lính gầy và cao, cặp mắt đen màu chì than đi sát bên một cô mặc quân phục cổ bẻ. Người con gái có khuôn mặt đẹp hiền hậu, nổi bật trong vẻ đẹp son trẻ là chiếc mũi dọc dừa, một suối tóc dài và nặng, hai ống quần quân phục xoắn tròn để lộ đôi bắp chân thon thon, bùn đã ngập đến phía trên mắt cá.
Người lính mắt đen hỏi cô gái:
- Các đồng chí đi thẳng hay tới bờ sông thì rẽ?
- Chúng tôi đi phục vụ bộ đội đường số 9, có lẽ đến đây thì rẽ.
- Vậy thì chúng ta đi cùng đường rồi. Tôi biết đồng chí từ lâu. Tên đồng chí là Hiền...
- Đồng chí còn biết gì nữa nào? - Cô văn công ngoẹo cổ cười khanh khách, phô hàm răng trắng đều sin sít.
Câu chuyện giữa hai người bị phá vỡ bởi những tràng vỗ tay và tiếng hò la như quát tháo: "Đề nghị các đồng chí biểu diễn đi, đề nghị các đồng chí biểu diễn đi!". Con chó lại được một phen nhảy chồm lên sủa tong tóc. Đoàn văn công dừng lại hội ý trong chốc lát. Cả đoàn lập tức như một bó mũi tên bắn ra bốn phía. Ở phía sát bờ sông, năm sáu cô văn công chạy ùa tới chỗ những người lính tiểu đoàn 1 của Kinh đứng. Những người lính trẻ vốn dát gái trở nên luống cuống lúng túng. Họ liếc mắt cho nhau chưa biết cách xử lý ra sao, nên chào hỏi thân mật hay là cứ đứng ngắm từng cô cho thật kỹ để lát nữa tán mảnh với nhau, đem ra so sánh cô nào đẹp cô nào xấu, cô nào nên gán ghép cho anh nào. Giữa tình huống khó xử đó, thật là bất ngờ và tài tình, như những chiếc mũi tên rực rỡ và êm ái, cả năm sáu cô đã chạy thẳng tới túm chặt lấy bàn tay run bần bật của từng anh chiến sĩ đang đỏ dừ mặt như lên cơn sốt:
- Chào các đồng chí (tiếng cô nào cũng lanh lảnh cao vút như đang nói trên sân khấu), tưởng là ai hóa ra các đồng chí toàn là những người quen cả!
- Vâng, tôi chưa gặp đồng chí bao giờ nhưng chúng ta cùng đi với nhau ra chiến trường như thế này cũng gọi là đã quen thân nhau rồi - Khuê nắm chặt bàn tay một cô, chỉ có anh là còn mồm miệng để đối đáp lại - Tôi trông các đồng chí vất vả quá!
- Các đồng chí còn vất vả gấp nhiều lần anh chị em văn công chúng tôi ấy chứ.
- Chúng tôi là lính chiến đấu đã luyện tập quen, thế này đã mùi mẽ gì!

Bên một gốc cây, chính ủy Kinh vừa điều khiển xong một cuộc họp. Ông đang tiếp khách. Ngồi trước mặt Kinh là một nhà thơ đeo kính trắng vừa mới đến cùng một lúc với đoàn văn công. Nhà thơ ngồi xếp bằng trên tấm vải nhựa, chiếc xà cột đen để bên chân, phong độ tỏ ra một con người thư thái và điềm đạm. Anh ngồi lắng nghe Kinh nói rồi đưa một ngón tay khẽ đẩy chiếc mặt kính cận, một bên mép mở một nụ cười lơ đễnh.
Nhà thơ tuyên bố:
- Tôi sẽ thu xếp một số thời giờ để đi với đồng chí.
Chính ủy Kinh bao giờ cũng vui vẻ một cách ồn ào. Ông nói với nhà thơ nổi tiếng bằng giọng hết sức trân trọng:
- Tôi nhớ lời anh đó anh Thái Văn nhé. Hay là anh cùng đi với trung đoàn tôi ngay từ bây giờ? Anh đi với chúng tôi sẽ có điều kiện làm thơ hơn đi với văn công chứ?
Thái Văn cười tủm tỉm:
- Chưa biết có làm được gì không? Hồi này tôi làm thơ chậm lắm.
- Anh kỹ quá đấy! Những bài thơ của anh bài nào cũng có tác dụng động viên bộ đội. Tôi vẫn nhớ bài thơ của anh làm từ bốn tám kia!
Thái Văn hỏi Kinh:
- Các anh đã bắt liên lạc được với bộ phận chuẩn bị chiến trường chưa?
- Chưa đâu, có lẽ nội đêm nay hoặc đến trạm ngày mai là cùng thôi anh ạ!

Kinh muốn có một chén trà nóng thết nhà thơ nhưng nhìn quanh không thấy Khuê. Ở ngoài kia, trên một cái sườn núi khá bằng phẳng, bộ đội của ta không biết bao nhiêu đơn vị đang hô nhau giãn ra thành một cái vòng tròn hẹp. Cuộc biểu diễn của đoàn văn công trên đường hành quân thật là giản dị. Các diễn viên không hóa trang và các tiết mục không có lời giới thiệu màu mè. Hiền, người nữ diễn viên hát đang chắp hai bàn tay trước hàng khuy áo, vai hơi nghiêng, trong điệu bộ vẫn có cái gì mộc mạc, hai bàn chân còn mang vết bùn trên những chặng đường. Khi tiếng hát của cô vừa cất lên còn ngân dài trong cổ, cả khu rừng đang xôn xao tự nhiên im bặt hẳn. Rồi tiếng hát cứ vút lên như một sợi dây vô hình trong trẻo vướng vít trong lòng từng người lính. Bài hát thứ hai kể chuyện một người chiến sĩ xung kích tung hoành giữa đồn giặc. Đôi mắt người hát sáng quắc, cô bước tới bước lui, câu hát có lúc thành tiếng thét hùng dũng khiến tất cả mọi người ngồi xung quanh đều rạo rực, đều muốn băng mình vào trong lửa đạn. Những anh dút dát e lệ ban nãy bắt đầu len qua mặt mọi người lên ngồi trên phiến đá trên cùng, khẩu súng ôm chặt trong lòng và con mắt không rời người hát. Khi tiếng hát vừa dứt, những cặp mắt người nghe như mờ đi. Những người lính chiến đấu đang bá vai nhau đứng thành hàng chung quanh bắt đầu nhìn anh chị em văn công bằng con mắt thiện cảm và gần gũi hơn trước, mọi người đều chợt nhận ra người con gái nhỏ bé vừa hát cho mình nghe cũng đã từng trải bằng chừng ấy trạm giao liên, bàn chân cũng từng đi qua bằng chừng ấy con suối và cái dốc.

Sau bài hát là một điệu vũ. Người đứng phía sau cứ lấn lên dần. Nhiều đơn vị đi qua dừng lại. Một đơn vị vừa mắc võng tận bãi khách trong rừng sâu cũng kéo nhau ra xem. Khi giới thiệu "tiết mục đặc biệt" nhà thơ Thái Văn ra ngâm một bài thơ ngắn anh mới làm, tiếng vỗ tay cứ ran lên. Ai nấy đều muốn biết mặt mũi nhà thơ như thế nào? Thái Văn ngâm xong vừa bước xuống đang rút mùi soa lau kính, lập tức từ trong đám đông một cậu chiến sĩ nào đó bỗng đứng dậy thét to:
- Nhà thơ của chúng ta đâu?
Hàng chục bàn tay chiến sĩ xúm vào đẩy sau lưng chính ủy Kinh, cùng với một đợt tiếng reo:
- Nhà thơ của chúng ta đây!
Kinh bước ra, dáng đi rất nghiêm trang. Ông cầm ngang chiếc gậy đứng im lặng nhìn mọi người một lát như người lính cầm súng đứng gác. Nét hùng khí phảng phất trên khuôn mặt chính ủy. Tiếng đọc thơ của Kinh bỗng vang lên như một lời hịch:

Lớp lớp quân đi reo bốn phương,
Trường Sơn ca tiếp khúc lên đường.
Ve kêu bên võng ran rừng khách,
Sư đoàn nối sư đoàn vào chiến trường.

Tiếng vỗ tay như sấm nổi lên từ khu vực tiểu đoàn 1 của trung đoàn 5 đang ngồi lan đi khắp cánh rừng biên giới ngổn ngang những người. Kinh cắp gậy quay về chỗ cũ, nét mặt vẫn điềm tĩnh. Ông hỏi một chiến sĩ:
- Thơ mình nghe có được không hả các ông?
- Thơ thủ trưởng hay lắm, thủ trưởng đọc cũng hay!
Từ phía vòng ngoài củng của lớp khán giá bỗng có tiếng bình phẩm chen vào:
- Nhưng mà cổ quá!
Kinh quay ra quắc mắt:
- Ông mô nói thơ mình cổ?
Kinh đã trông thấy một chiến sĩ dáng quen quen đang đứng ngoài đám đông. Đó là một anh chàng có cặp mắt đen, dắt con chó mà Khuê đã gặp. Anh chàng bước lên mấy chục bước tới trước mặt Kinh và bất ngờ thốt lên một tiến kêu lớn:
- Bố!
- Thằng Lữ, mày cũng ở đây à?
Nét mặt chính ủy Kinh hơi ngẩn ra một lát, hình như có một luồng điện rất mạnh chạy từ con mắt còn lành sang con mắt trắng đục ở bên kia. Kinh cố giữ vẻ bình tĩnh trước mắt mọi người. Ông nhìn kỹ đứa con trai xúng xính trong bộ quân phục đang đứng bên cạnh ông, ở đây, tận bên bờ sông Xê Pôn, cái điều giản dị ấy thật là có ý nghĩa sâu xa khiến cho ông hết sức xúc động.
- Trung đoàn pháo của mày cũng đi đường này hả con?- Bấy giờ Kinh mới hỏi.
- Con có nhiệm vụ ở lại sau đi lĩnh máy vô tuyến điện, bây giờ con đang đuổi theo đơn vị đây.
Kinh nắm cánh tay Lữ đi sóng đôi tới chỗ nhà thơ Thái Văn đứng. Lữ đã mất hết vẻ đĩnh đạc thường có, khuôn mặt đỏ gay và thái độ lúng túng hết sức, anh tự cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương vì bố đang nắm lấy bên cánh tay áo của mình. Thái Văn chăm chú quan sát cảnh hai bố con gặp nhau, anh liền nghĩ tới những đoạn sách truyện, những bài thơ và bức tranh đã nói về cái cảnh này.
Kinh chỉ vào con trai, lại nói năng bằng giọng phóng khoáng:
- Thằng con trai thứ hai của tôi đấy anh ạ. Bố con tôi kéo nhau tới đây mà gặp nhau mới thật có ý nghĩa chứ. Thật là đường ra mặt trận! Anh Thái, anh phải viết tặng bố con tôi một bài thơ mới phải - Kinh quay về phía con và nói nhỏ hơn - Chốc nữa anh hãy báo cáo với tôi những công việc anh đã làm từ ngày đi bộ đội . Quyết tâm thư đi chiến rường anh viết ra sao? Hồi này anh còn nghịch ngợm lắm nữa không? Anh phải nên luôn luôn nhớ rằng anh là một người thân của tôi chứ, anh Lữ?

Thật là quá bận rộn, công việc lãnh đạo và chỉ huy một trung đoàn hành quân sắp bước vào địa điểm tập kết quân. Kinh có rất nhiều việc, lại những cuộc gặp gỡ hội ý hội báo, lại những cán bộ chỉ huy đơn vị đảm bảo chiến đấu mới tới phối thuộc với trung đoàn đang cần gặp chính ủy. Kinh hầu như chỉ có thì giờ gặp con được trong chốc lát như tiếp một cán bộ cấp dưới nào đó, hỏi han dăm ba câu rồi Kinh giới thiệu cậu con trai của mình với người cần vụ. Trước mặt Kinh, Lữ và Khuê gặp nhau lần này bằng một cái bắt tay mà chính cả hai người khi buông bàn tay nhau ra đều cảm thấy mình vừa làm một việc rất là phù phiếm. Thông thường những người lính khi gặp nhau ngoài chiến trường dầu sơ hay thân nhau đến đâu cũng chỉ liếc nhìn nhau một cái là đủ, nếu không ôm lấy nhau mà quay tròn như những tay đô vật.

Lữ tỏ ra vui mừng thật sự. Một là, vì anh là một người bao giờ cũng quen đánh giá kẻ khác bằng cảm tính ban đầu, thế là sau lần gặp trước anh đã có cảm tình với Khuê, cảm thấy đó là một người đồng đội tốt và hiểu biết, có thể có những đức tính giống hoặc khác với mình những nhất định có thể nói chuyện bổ ích được. Hai là, nhờ có Khuê mà anh thoát ra khỏi được cái trạng thái khó xử: ông bố mình bao giờ cũng nắm hờ lấy một bên cánh tay áo quân phục của mình và gặp ai cũng giới thiệu với một giọng gần như khoe khoang: "Đây là thằng con trai tôi".

Thật ra Lữ cũng rất vui mừng được gặp bố một cách tình cờ như thế này; nhưng theo quan niệm của anh, làm một anh chiến sĩ mà phải đứng bên cạnh một ông bố giữa ba quân đang nhìn vào thì dầu sao mình cũng không còn đường đường một anh bộ đội như mọi người nữa, và tự nhiên rơi vào tình cảnh của một đứa trẻ.
Ngay phút đầu, Lữ, Khuê và Cận, người chiến sĩ đứng tuổi rất ít nói cùng đi với Lữ, ba người đã dắt con chó ra "xử" tận ngoài bờ sông Xê Pôn. Bằng trí nhớ con nhà quân sự, trong óc Khuê liền bày ra một quãng bờ sông anh đã đi qua có đủ điều kiện thuận lợi để bắc một cái bếp kín đáo mà lại gần nước, Khuê liền đưa hai người đi tắt rừng ra tới quãng đó. Rồi đây cuộc chiến tranh sẽ khám phá ra hết tất cả khả năng của từng người lính. Ngay từ lúc cầm bàn tay Lữ, Khuê đã bắt đầu tìm hiểu cậu con trai đồng chí chính ủy của mình là người thế nào. Khuê tự lấy làm thú vị thấy anh chàng thanh niên cùng tuổi với mình có những điều anh có thể hiểu được và những điều anh chưa thể hiểu ngay được. Suốt quãng thời gian đầu tiên, quan hệ giữa hai người không được tự nhiên lắm. Lữ tự thấy hơi gai gai trước con mắt hẹp lúc nào cũng như đang cười cợt của Khuê. "Cái thằng cha này, Lữ nghĩ, không biết bố mình tìm đâu ra mà nó có cái nhìn như muốn lột người ta ra vậy?".

- Con mắt cậu chẳng nhìn cái gì cả nhưng sao mà khiếp vậy? Cuối cùng Lữ phải thốt lên, và anh cúi xuống tiếp tục châm que diêm đương cháy vào giữa một đám lá khô.
Khuê đáp thành thực:
- Mình cũng đang ngắm đôi mắt của cậu, từ lúc mới gặp cậu trên dốc Bà Định, mình đã chú ý đôi mắt của cậu.
- Cậu đến lạ, cậu chú ý con mắt mình là mắt thằng hèn nhát à?
- Không phải.
- Vậy thì, mình sẽ trở thành một người anh hùng, được không?
- Người ta không tuyên dương cậu là một người anh hùng đâu, mặc dầu cậu không phải là một thằng hèn nhát.
- Vậy thì theo cậu đoán, mình là người thế nào?
- Mình chẳng biết!... Cũng như đối với con gái, những đứa con gái mắt cứ đen láy chẳng có gì đáng chú ý, chỉ nên chú ý những đứa mắt đen màu chì, như than. Mắt cậu cũng như thế. Cậu là người thế nào điều đó tùy cậu hiểu lấy, không ai có thể biết mình rõ bằng con mắt sáng suốt của chính mình.

Ngọn lửa bén sang đám lá khô đang bốc cao giữa hốc đá. Trước lửa, khuôn mặt Lữ thật đẹp. Khuê trông thấy một đường viền sáng bao chung quanh một mái tóc đen nhánh như dầu, mái tóc kẻ một vệt thẳng ngang trước vầng trán phẳng và trắng phau . Những nét trên khuôn mặt Lữ thật khó nắm bắt được, vầng trán có lúc tối sầm rồi lại thanh thản, và dưới vầng trán ấy là một cặp mắt nằm rất xa nhau, đen màu chì với vòm mắt rộng, luôn luôn thay đổi màu sắc đậm nhạt và lúc nào cũng đang nhìn một vật gì đó, hoặc đuổi theo một ý nghĩ gì đó. Lúc bấy giờ cả khuôn mặt Lữ như bị mờ đi. Anh ngồi ngược hướng gió, để cho những cụm khói xám và khét lẹt tha hồ bay tỏa trên khuôn mặt đã đỏ rựng lên vì lửa.
- Sao mà cậu dốt vậy - Khuê - Ngồi xích sang bên kia kẻo khói !
- Cậu không thích khói à? - Lữ cười rất hồn nhiên và hai cánh mũi cứ phập phồng thở hít một cách khoan khoái - Mình ấy à, mình lại rất thích khói, có thể nói mình từng mê nó nữa kia. Hồi còn bé mình ở nhà, mẹ mình cũng thường mắng mình là thằng ngốc. Mình ra bờ tre, hễ nhà ai hun đống rơm, hun chuột đồng, hay là bất cứ người ta đốt cái gì, mình cũng liền sà ngay vào hít lấy hít để cái mùi cay cay nồng nồng của khói. Mình cứ đứng như thế cho đến lúc hai con mắt đỏ lên và nước mắt chảy giàn giụa chung quanh mi, không còn nhìn thấy gì nữa.
Khuê hỏi một cách thích thú:
- Khói có gì đáng mê vậy, cậu điên hả?
- Cậu không để ý rằng khói lửa là một mặt rất quan trọng trong đời sống của xã hội loài người, trong hòa bình hay là trong chiến tranh đều có những đám khói riêng của nó. Cậu tùng đi học, cậu không nhớ có biết bao nhà văn nhà thơ đã phải tả nó, và chúng mình đã phải chong đèn bò ra phản mà học những câu thuộc lòng như "Nửa năm hương lửa đương nồng", hoặc: "Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây" . Đấy, những câu người ta viết hay nhất đều có khói ! Cậu không biết rằng trong nghề làm phim ảnh, người ta cũng phải phân công người chịu trách nhiệm phần khói lửa đó sao?
Khuê:
- Cậu nói viển vông quá nhưng hay đấy. Song mình thì mình rất ghét cái giống khói, khói bếp hay khói gì cũng vậy. Hồi ở nhà, mình trông thấy khói đọng kín từng mảng trên chụp đèn hay trên gác bếp, mình ghét thậm tệ. Mình còn nhớ hồi ở nhà, có một bận mình trốn học và tập trung tất cả lũ trẻ trong xóm lại kéo sang đánh nhau với tụi trẻ con xóm bên. Không ngờ bên ấy chứng nó biết trước nên chia nhau ra phục ngoài bờ tre cả. Chúng nó đã có đứa bươu đầu rách tai mới bắt được mình. Tuy vậy, chúng nó vẫn cứ sung sướng reo to lên: "Bắt được thằng Khuê tổng chỉ huy đây rồi ! " . Chúng nó trói và đem giam mình suốt một buổi sáng trên một cái gác bếp. Bận ấy mình trở về nhà mặt mũi, quần áo bết đầy bồ hóng. Từ đó hễ trông thấy khói là mình ghét.
Lữ cười:
- Nhưng mình tin cậu không ghét cái đám khói chúng mình đang nhóm lên ở đây? Và những bếp lửa trên suốt chặng đường giao liên chúng ta đã đi qua, cậu cũng không ghét chứ? Mình hãy nói với cậu rằng những cái bếp lửa trong rừng này, về sau chúng mình không dễ mà quên được đâu. Vì đó là khói bếp và ngọn lửa của hàng vạn mái nhà đem tới đây. Sau này trong các trung đoàn và sư đoàn của chúng ta đã tùng đặt gót chân qua dây, thế nào cũng có một vài người viết văn hay làm thơ, hay là trở thành nhà viết sử chiến tranh chống Mỹ, làm sao người ta lại không thể không nhắc tới những bếp lửa và đám khói chúng ta đốt lên trong các khu rừng của dãy Trường Sơn hôm nay?
- Đấy - Khuê nói gần như reo lên - Chính là cậu chứ còn ai nữa? Đấy là cái trong con mắt cậu, mà tớ đang tìm để biết. Chính cậu sẽ trở nên nhà văn hay nhà thơ tương lai chứ còn ai nữa?
- Đừng vội nói thế, trước mắt hãy biết tớ và cậu, chúng mình là những thằng chiến sĩ cầm súng đánh giặc đã. Rồi sau chiến dịch này và những chiến dịch tiếp theo nữa, cho đến ngày quét sạch hết bọn Mỹ, chưa biết chắc chắn chúng mình hãy còn sống hay không, nhưng ngay từ bây giờ chúng mình phải có đầy đủ ý thức rằng phải ghi nhận lấy những cái gì đang xảy ra trên mảnh đất ta đang đứng hôm nay. Những điều ghi nhận ấy phải do tự ta tìm lấy. Lớp tuổi chúng mình chưa kịp bước ra khỏi căn phòng quen thuộc của lớp học thì chúng đã đem bom bỏ xuống mái trường, làng xóm và nhà máy mới xây dựng. Sau này mình sẽ kể cho cậu nghe cảm giác lần đầu mình trông thấy những đám khói hình nấm của những trái bom Mỹ thả xuống mặt đất, những đám khói và những ngọn lửa ma quỷ ấy, chúng mình phải ghi nhận lấy thật đầy đủ.

Lữ cúi khom giữa luồng khói, miệng thổi phù phù. Ngọn lửa cháy tỏa ra mùi lá khô và mùi mỡ chó thơm phức. Con chó thui đã vàng hươm, trên mặt da từng mảng dài cháy đen nứt nẻ để lộ thớ mỡ trắng nhẫy. Từ lúc đầu Cận chưa hề tham gia một ý kiến nhỏ vào câu chuyện triết lý rôm rả giữa hai người. Cận nhổm hẳn người lên, cái mông to bành bạnh kê lún trên hai gót chân, bàn tay ôm lấy cái cổ đã cứng đơ của con chó mà rê đều trên ngọn lửa, chốc chốc lại giục Lữ "Quay đi, quay đi không chảy hết mỡ ra bây giờ!".
- Thế mới biết bộ đội mình làm việc gì cũng thạo - Lữ hai tay vẫn nắm hai chân sau của con chó, cũng ngồi nhổm lên và bình phẩm - Mình không ngờ đồng chí Cận làm thịt chó thạo vậy.
- Xì ! Cứ yên chí ! - Cận lại thốt lên một câu cửa miệng rồi cũng không tuyên bố gì thêm hết, anh nheo cặp mắt hiền lành và lừ đừ ngoái nhìn sang bên cạnh, chỗ Khuê đang ngồi trước một chiếc mũ sắt có lót mảnh ny lông xanh ở bên trong. Khuê cầm đôi đũa và chiếc thìa, bằng cử chỉ thận trọng và chính xác của một nhà thí nghiệm khoa học, đang pha chế các thứ nước và gia vị, chuẩn bị đánh tiết canh trong chiếc mũ sắt. Giữa khi ngọn lửa đang cháy bùng to, hai người thấy nét mặt lầm lỳ của Cận chợt sáng lên, anh ta hô to một tiếng "Xong" như một người lính kỹ thuật vừa thao tác xong một động tác quan trọng, rồi xách con chó bằng một tay, loáng một cái đã chạy vụt ra ngoài. Lát sau Cận quay trở về, con vật đã được tắm rửa sạch sẽ. Cận áp môi vào bên cái mép nhọn và cháy đen đang chìa ra cả một hàm răng trắng nhở của con chó thui, hôn đánh chụt một cái thật là âu yếm. Anh sẽ ngả con chó nằm ngửa trên một tấm ny lông dùng khoác mình màu kẽm và nhanh nhẹn cầm lấy con dao, bàn tay không cầm dao vén tay áo lên:
- Đứa nào dập bếp đi một cái, khói quá đi mất!

Vòm hang đầy những khói bay quẩn trên nóc, rồi lại bay vòng trở xuống bên dưới. Các vách cũng ám từng vệt khói đen sì. Trên một vách đá bên ngoài cửa có nhiều nét chữ kỷ niệm viết chồng chéo lên nhau, bên dưới đề ngày tháng và tên họ người viết. Cận xắn hai ống tay áo quá khuỷu để lộ đôi bắp tay ngắn và mập, điếu thuốc sâu kèn giắt bên khóe miệng, đứng doạng chân cầm dao rạch một đường thăng như chì sắc lẹm, đường mỡ trắng hé ra bên ngoài lớp da cháy vàng. Chỉ trong loáng mắt, con chó đã mổ xong. Cận lấy cán dao gạt những bộ phận bên trong sang một bên, đứng dậy quấn một điếu thuốc khác:
- Bây giờ ai ra sông làm lòng?
- Để mình đi cho - Lữ nhanh nhảu nhận ngay.
- Xì , cậu cứ yên chí !... Hốt tất cả vào trong rá cho tớ rồi vứt vào đó một vốc muối.
Khuê bưng chiếc mũ sắt đầy tiết đặt cẩn thận trong góc hang và đậy lên một tàu lá chuối, miệng nói:
- Mình và Lữ đi ra sông, đồng chí Cận cứ ở nhà.

Bên ngoài trời bắt đầu xẩm tối. Khuê và Lữ hai người bước cao chân qua những mỏm đá đầu đen nằm la liệt trồi lên giữa mặt bờ cát. Sương mù giăng khắp rừng. Sương cứ từ từ cùng hoàng hôn xóa các sườn núi, các vạt nương và những mái nhà bên kia sông. Vùng này máy bay địch thường bắn phá nên những người dân Lào làm nghề đánh cá sông đang lợi dụng sương mù để nổi lửa hun thuyền. Ánh lửa hắt xuống mặt nước phẳng lặng một vùng ráng đỏ bị khuấy động bới mái chèo của một chiếc thuyền con vừa quăng lưới lao vút qua, một ông cụ già đứng ở be thuyền nói chuyện với người con gái bằng tiếng Lào địa phương, tiếng hai cha con người đánh cá ở giữa sông vẳng sang chỗ Lữ và Khuê cứ bập bõm...
Lữ hỏi thăm Khuê:
- Ông bố mình hồi này thế nào?
- Mình cũng mới sống gần bố cậu chưa bao lâu. Ông bố cậu là một chính ủy hết sức thương lính.
- Có thấy nhắc đến mình bao giờ không?
- Bố cậu đôi khi nhắc đến cậu...

Trong bóng tối mặt Lữ hơi đỏ và Khuê cũng nhận thấy. Khuê thấy cần phải nói tiếp:
- Những thằng con trai lứa tuổi mình nói chuyện với nhau vẫn dễ dàng hơn nói chuyện với các ông bố. Làm cho những ông bố hiểu được mình là người thế nào cũng không phải là chuyện giản đơn.
- Cậu cũng vậy ư?
- Không, bố mình là một người ốm yếu và quá hiền lành. Theo mình biết thì bố cậu có ý lo lắng cho cậu khá nhiều đấy!
- Mình biết, mình biết - Lữ ngồi trên một hòn đá đầu đen giữa bãi cát và nói một mạch - Cậu nên biết rằng mình không phải là một đứa con trai ngoan ngoãn lắm đâu, cho nên bố mình lo cho mình cũng phải. Cách đây ba năm, mình mới mười sáu, còn cắp sách đi học một cách bình yên vui vẻ thì chính mình là thằng đầu têu rủ rê ba bốn thằng bạn học sinh cấp ba khác cùng nhau trốn nhà bỏ đi. Về sau khi trở thành một người lính chín chắn và đứng tuổi, nghĩ lại thời trẻ không biết mình có ân hận về cái việc đã làm nhiều người phiền lòng ấy không nhưng hiện bây giờ thì mình vẫn cho làm như thế là phải. Khuê ạ, chiến tranh đến với mình thật là đột ngột. Không biết cậu ngày đó thế nào, có thể ngày đó cậu đã ở bộ đội, và cậu nhìn nó bằng con mắt của một người đã cầm súng nên có thể chẳng có gì lạ lùng và đột ngột quá. Còn ở trường học, lũ học sinh chúng mình lại hoàn toàn khác. Trưa hôm đó, tan học buổi sáng, mình không về nhà mà cắp sách ra thẳng một cái lều canh dưa giữa bãi sông nằm. Khi những chiếc máy bay phản lực của Mỹ tới, mình là người trông thấy cuối cùng vì mình đang gục đầu mải miết làm một "lô" những bài toán tập cho buổi học chiều, những bài toán hình học với đủ thứ mặt phẳng và góc rắc rối. Khi nghe tiếng súng và tiếng bom nổ ầm ầm bên kia sông, mình mới chạy ra khỏi lều đứng bên cạnh mọi người. Lần đầu tiên mình trông thấy rõ ràng ánh sáng đi nhanh hơn tiếng động, cái quy luật vật lý mèng của những đứa học sinh lớp dưới. Lần đầu tiên mình trông thấy sau mỗi đợt máy bay lao xuống, một cụm khói lại đùn lên từ dưới chân một cây gạo, cụm khói cứ to phình ra dần, sau đó một lát mới nghe từng loạt tiếng nổ ầm ầm. Cả cây gạo bên kia sông chỉ còn sót lại một vài bông hoa cuối mùa, cũng chưa bao giờ mình trông thấy những bông hoa gạo đỏ gay gắt đến thế, như những giọt máu rỉ ra từ vòm trời. Trời trưa hè hôm đó rất xanh. Những chiếc máy bay gầm rít và liên tiếp bổ nhào xuống rất thấp, nhìn trông cứ như nó sắp rơi đập đầu vào sườn núi để vỡ ra một khối lửa, vậy mà nó lại ngóc đầu bay vọt thằng đứng lên được. Trên bầu trời lúc bấy giờ chỉ trông thấy dày đặc những đám khói hình thù quái dị hoặc chẳng ra hình thù gì hết, cùng những đám tàn tro màu nâu sáng loáng hoặc đen kịt như mây bão. Rồi bọn địch kéo nhau bay trở ra ngoài biển theo đội hình bậc thang, chúng bay rất đĩnh đạc và ngạo nghễ, để lại trước mắt mình những vạch đường đi của chúng, những cái vạch sáng hình sin và hình thẳng song song. Những vạch sáng như những sợi dây thép ấy, về sau mình thấy chăng khắp trên bầu trời, trên mặt sông, trên quần áo và cả trong sách vở của mình nữa. Những ngày hôm sau, chúng mình ôm sách đến lớp nhìn mặt nhau thật khó chịu, có lẽ nào tất cả mọi thằng trong lớp tự nhiên đâm ra làm mặt giận với nhau và giận lây sang cả sách vở? Mình còn nhớ sau đó mình đến trường vào một buổi sáng thứ hai. Buổi sáng đầu tuần lễ nhà trường tập trung tất cả học sinh chào cờ ở sân trường. Hiệu trưởng trường chúng mình đặc biệt là một người đàn bà. Không biết có phải bà ta là đàn bà nên quý và muốn đề cao những đứa con gái hay không thì không biết, suốt bấy nhiêu năm, sáng thứ hai nào bà ta cũng gọi một đứa nữ sinh tới đứng bên chân cây cột cờ để kéo lá cờ lên giữa sân trường. Thế nhưng buổi sáng thứ hai hôm ấy, bà đã phế truất tụi con gái mà gọi một đứa trong đám học trò con trai chúng mình, bà gọi một thằng cao lớn và khỏe mạnh nhất. Cái gì vừa mới xảy đến trong đời bà hiệu trưởng của chúng mình? Chúng mình đứng nghiêm hát Quốc ca trên cái sân trường bằng đất nện có tượng Lý Tự Trọng do tự tay chúng mình dựng và những khóm hoa xấu hổ mọc đầy quanh sân. Hai trăm đứa học trò đứng hồi lâu nhìn lá cờ treo trên đỉnh cột khi bài Quốc ca đã dứt, không một ai muốn cắp sách vào lớp hăng hái như mọi ngày nữa. Đó là buổi chào cờ cuối cùng của mình trên sân trường học. Mình rủ rê được ba thằng bạn thân nhất trong một đêm chống một chiếc đò ra cái bãi nổi giữa sông. Chúng mình kéo nhau lên một cái cồn nổi cao nhất và dưới ánh trăng mờ tỏ, bốn đứa ngồi tụm vào nhau, bắt đầu đem sách vở trong cặp ra châm lửa đốt bằng hết. Không phải là chúng mình không đau lòng khi nhìn đống sách vở của chúng mình đang lần lượt cháy ra tro. Một đứa đã đưa tay áo quệt nước mắt; và khi lửa bén sang cuốn sách quý nhất của nó, nó đã khóc hu lên! Mình cũng là một thằng ngốc không kém. Mình đã lôi ra đốt cùng với sách vở ở trường cả những tập nhật ký trong những năm đi học. Phải từ giã hết, tất cả mọi thứ sách vở và bản thân những thằng học trò như mình cũng cần phải được ném vào lửa. Đấy, thằng thiếu niên mười sáu tuổi của mình đã nghĩ như vậy, không trù trừ và do dự gì hết! Bốn thằng chúng mình ngày đó đều là những tay học trò giỏi nhất lớp 10A, mỗi thằng giỏi một môn. Không phải là khoe khoang với cậu, từ vài năm trước đấy, mình đã tùng làm những bài thơ khiến những cậu học ở lớp trên cũng phải thuộc và chép lại. Tất nhiên là những bài thơ trống rỗng chẳng ra gì đâu! Có lẽ bài thơ mình ưng nhất là bài mình làm sau cái đêm đó, đã đăng ở một tạp chí Văn nghệ "Bốn người học trò ngồi im lặng trước một đống giấy đã đốt". Bài thơ mở đầu như thế. Sáng hôm sau, chúng mình cứ chân đất và sương ướt đẫm vai áo kéo nhau lên tận huyện đội để xin đi bộ đội. Bốn đứa người ta chỉ nhận có một. Mình nằm trong số ba đứa xấu số không được nhập ngũ vì chưa đủ tuổi. Chúng mình buồn rũ xuống. Lúc đó ba đứa đều là những thằng rất hăng, chúng mình liền trở về nhà, lấy một ít đồ đạc, và cả ba đứa trốn nhà ra đi, cũng chưa biết sẽ đi đâu, nhưng cả ba đều tin chắc chiến tranh đã xảy đến, đắt nước đang cần tới mình. Không phải chúng mình tới chỗ nào cũng đều được người ta tiếp nhận và tin cậy cả đâu. Không thể nào kể hết những nỗi gian khổ trong những ngày đầu, cả về thể xác và tinh thần. Và làm sao kể hết tất cả sự ngây thơ của tuổi học trò. Những năm đi học nhà trường đã trao cho chúng mình những niềm tin thật là đẹp nhưng còn "sách vở" và mỏng manh như những cái bong bóng xanh đỏ. Chúng mình đã phải đổi bao nhiêu vất vả để tự tìm lấy một niềm tin bền vững và chắc chắn hơn từ trong cuộc đời. Ba đứa sống bên nhau lăn lóc khắp các tuyến đường, các bến phà, đã từng góp bàn tay làm nhiều con đường, từng đi cứu kho, cứu người, gỡ bom nổ chậm, tùng đi nuôi lợn, mua bò, đi dạy văn hóa. Một đứa chúng mình đã chết trong một trận bom. Mình cũng suýt chết nhiều bận và một lần bị thương trong một chuyến đi cứu kho. Mình đã tùng có tiền để dành mua gửi về cho mẹ mình một cái khăn, đã từng cãi cọ những phen rất gay gắt với cấp trên, với bạn bè. Mình đã viết nhiều bài thơ và nhiều trang nhật ký mới, đã từng yêu phất phơ những đứa bạn gái và đánh bạn với nhiều người, nhiều loại người, cũng có đôi người không ưa mình. Đấy, đấy là bản lý lịch của mình, của cái thằng Lữ trước khi vào bộ đội, cậu thấy mình là người thế nào?

*
*    *


Đêm hôm đó, theo lời mời khẩn khoản của ba anh lính trẻ chính ủy Kinh và nhà thơ Thái Văn cùng xuống dự một "bữa cơm nhạt" với cánh họ, theo như lời của Khuê mới ban chiều.
Hai người xách túi bát đũa rời chỗ trú quân men theo một con đường tắt Khuê mới khám phá xuống bãi đá bờ sông. Dọc đường chính ủy Kinh lo lắng hỏi nhà thơ:
 - Anh có ăn được thịt chó không? Chúng nó "ngả" một con chó nghe nói béo lắm. Nhưng tôi lo anh không biết ăn thịt chó?
- Sao anh lại hỏi vậy? - Thái Văn ngượng ngập hỏi.
- Tôi tưởng các nhà thơ...
Thái Văn tủm tỉm, nói đùa:
- …thì không biết ăn thịt chó!

Hồi ở hậu phương, Thái Văn thỉnh thoảng viết tiểu thuyết nhưng anh làm thơ nhiều hơn. Anh thường làm những bài thơ nói về hành quân. Những bài thơ của anh bài nào cũng vững chãi, mang phong cách độc đáo và đã trở thành lời của nhiều bản nhạc có giá trị, câu thơ hành quân của anh có tiếng trống và tiếng gầm của đại bác. Là một chính trị viên tiểu đoàn từ đầu kháng chiến chống Pháp, Thái Văn năm nay đã ngoài bốn mươi, tóc đã có chen sợi bạc nhưng trông dáng bề ngoài và đôi mắt hãy còn trẻ. Anh có khổ người cao dong dỏng, hơi gầy và nước da màu sốt rét rừng. Thái Văn đã từng sống với bộ đội từ những ngày mới khởi nghĩa tháng Tám và kháng chiến toàn quốc: Những chiến sĩ Giải phóng quân từ trên chiến khu Việt Bắc kéo về Hà Nội, những anh Vệ quốc đoàn đội ca lô lệch biết kéo đàn vi ô lông và sử dụng bom ba càng. Thái Văn đã từng cùng họ cầm súng chiến đấu và lăn lộn gần một trăm ngày đêm giữa liên khu Một Hà Nội, cho đến ngày anh cùng Quyết tử quân rút ra ngoài, để lại một thành phố Thủ đô cháy ngùn ngụt sau lưng. Anh dậm lên bong mình đổ trên bãi cát sông Hồng dưới chân cầu Long Biên mà ra đi. Những bài thơ đầu tiên của anh cũng bắt nguồn từ chặng đường hành quân đầu tiên của những người chiến sĩ Quyết tử liên khu Một. Từ đó đời anh là một cuộc hành quân qua các chiến dịch, các chiến hào, qua các vùng đất nước. Anh đã có mặt trong nhiều cuộc hành quân gian truân hoặc hào hùng nhưng chưa bao giờ hình dung được hết không khí và khung cảnh hiện đang sống. Anh khoác chiếc xắc cốt "thơ" đi dọc bãi cát sông Xê Pôn và ngửa mặt ngắm trời đất Việt - Lào. Trên đầu nhà thơ trữ tình, sông Ngân Hà vẽ hai bờ cát thẳng và trắng xóa, theo dọc hai bên bờ vừa hiện lên rải rác nhiều đốm lửa. Từ bao đời chưa có nhà thơ nào nói tới một đoàn quân Trường chinh đang đốt lửa bên dòng sông Ngân Hà, và trong hằng hà đốm lửa trên trời, đốm lửa nào là đốm lửa của những người đi giải phóng đất nước xứ sở?

Bữa ăn dọn ngay trong hang. Khuê đã kịp thời có sáng kiến làm một cái đèn bằng vỏ hộp cá, anh bỏ vào một miếng mỡ chó, đặt bên trên một đoạn bấc bằng vải màn, thế là đủ. Mọi người đang ăn uống vui vẻ thì một chiến sĩ lạ mặt bước vào hỏi Kinh. Người chiến sĩ vai đeo tiểu liên báng gập, không mang ba lô, chỉ có một chiếc chăn dù và chiếc võng quấn quanh bụng, hai hố mắt trũng sâu rất khó đoán tuổi và mái tóc rợp kín cổ. Kinh nhìn người chiến sĩ trong một thoáng liền đặt đũa xuống hỏi:
- Đồng chí ớ chỗ anh Nhẫn về phải không?
- Vâng.
- Vậy thì ngồi vào đây đã...
- Vâng ạ, báo cáo thủ trưởng tôi đang đói mờ cả mắt. Xin mời tất cả các đồng chí!
Người chiến sĩ lạ mặt cầm đũa rất thực tình chẳng hề khách sáo, sau khi móc túi đưa cho chính ủy Kinh một chiếc phong bì bé bằng nửa bàn tay. Kinh ghé bên ngọn đèn đầy khói đọc lá thư của trung đoàn trưởng:

Kính gửi anh Kinh,
Nhớ anh quá! Trên T. vừa thông báo cho tôi biết U ta đi tốt nhất và sức khỏe bộ đôi giữ được. Riêng phần anh có khỏe không?
Tình hình nhiệm vụ đường 9 đang hết sức khẩn trương và nặng nề, nhất là ở phía Tây. Bộ tư lệnh Mặt trận Khe Sanh và khu Tây đường 9 vừa thành lập đã tách U 6 của T. làm một nhiệm vụ đặc biệt do Mặt trận điều động. Nhiệm vụ của U ta như sau (tất nhiên trên chưa giao nhiệm vụ chính thức nên còn có thể thay đổi): Ta sẽ có một tiểu đoàn cùng U 7 đánh trận mở màn vào thị trấn Chi khu quân sự Hướng Hóa. Nhiệm vụ tiếp theo của ta ở Tà Cơn, cùng một số U khác ở các hướng khác. Tôi đã dặn Đông báo cáo sơ bộ với anh công việc chúng tôi gần một tháng nay quanh Tà Cơn và tình hình địch ở đây. Trên đã quy định khu vực tập kết quân cuối cùng của U ta như sau...
Hẹn ít hôm nữa gặp anh, ta sẽ bàn công việc. Gửi về chỗ anh một ít thuốc lá xì gà của lính Mỹ để anh khao thưởng chiến sĩ trong giai đoạn hành quân thắng lợi rực rỡ.

NHẪN

Kinh mở xắc cốt, giở tấm bản đồ một phần năm mươi nghìn dò các khu vực tập kết quân trên Mặt trận mới quy định cho trung đoàn mình. Chờ cho Đông ăn xong, Kinh dẫn Đông về chỗ trú quân. Kinh triệu tập tham mưu phó và chủ nhiệm chính trị phổ biến sơ qua tình hình chiến trường và chỉ thị những điểm cần thiết cho bộ đội trong chặng đường hành quân vào khu vực tập kết, Kinh hỏi Đông tỉ mỉ những điều ông đang cần biết. Trong óc Kinh liền phác ra một tình thế mới, những khó khăn mới của bộ đội và cách khắc phục để chuẩn bị bước vào nhiệm vụ chiến đấu.

Lữ và Cận ăn xong cũng khoác ba lô và máy móc ra đi đuổi theo đơn vị, theo một con đường riêng nhằm theo hướng trung đoàn pháo binh nặng. Lữ đến chào từ biệt chính ủy Kinh giữa lúc ông đang bận hội ý công việc với các cán bộ cơ quan của trung đoàn. Lữ tiến đến sau lưng Kinh:
- Bố, con đi đây!
Kinh ngẩng đầu quay lại, bàn tay đang cầm chiếc bút chì đó quờ ra sau nắm lấy bàn tay con trai:
- Ừ, nhiệm vụ chuẩn bị chiến dịch đang khẩn trương lắm, con đi đi!
Nhà thơ Thái Văn cũng vừa đến. Nhà thơ chắc có điều gì cảm xúc mãnh liệt, trông khuôn mặt anh trở nên rạng rỡ và cặp kính trắng cứ lấp lánh. Kinh ngạc nhiên nhìn thấy Thái Văn khoác ba lô sẵn sàng trên lưng, cả súng ngắn, bi đông nước và túi tài liệu.
- Anh sắp đi đâu? - Kinh hỏi.
Thái Văn xòe bàn tay:
- Tôi cũng đến từ biệt anh. Tôi đi sang trung đoàn pháo binh Sông Cầu.
Kinh kêu lên:
- Vậy tức là anh bỏ chúng tôi đấy à?... Ừ, cũng được! Vậy thì anh đi theo thằng Lữ nhà tôi. Nó sắp về bên Sông Cầu. Nhưng vào chiến dịch anh có quay lại với chúng tôi chứ?
- Nhất định tôi sẽ quay lại, anh Kinh ạ, tôi sẽ quay trở lại với anh.
Thái Văn xiết bàn tay Kinh rất chặt. Kinh đưa bàn tay vỗ vỗ vào sau lưng nhà thơ một cách âu yếm:
- Anh đi mạnh khỏe và an toàn nhé !

Thái Văn theo hai người lính đi khuất dần. Rừng tối mù mịt. Vừa bước chân ra đi Thái Văn đã tự hỏi: "Tại sao mình lại rời bỏ trung đoàn 5 một cách bất ngờ như vậy, cái gì đã quyến rũ mình?". Trước đấy, anh chẳng hề có ý định đi theo trung đoàn pháo Sông Cầu, vậy mà chi sau vài câu chuyện trao đổi với Lữ, anh đã nảy ra cái ý nghĩ ấy? Không, chính là anh đang đi theo Lữ, người chiến sĩ con trai đồng chí chính ủy có một sức quyến rũ nào đó thật là mãnh liệt, khiến cho Thái Văn chỉ mới nghe cậu ta rủ rê: "Hay là anh đi với chúng tôi", thế là Thái Văn đã nhận lới và khoác ba lô lên lưng.

Rừng tối như bưng lấy mắt, những tán cây dày như mái nhà. Các cán bộ dự hội ý xong đã lục tục trở về chỗ mắc võng. Riêng Kinh vẫn còn ngồi trước tấm bản đồ trải trước mặt, với một ngọn đèn, cặp mắt lim dim như vừa chợp ngủ. Ông hơi ân hận vì chưa có thì giờ nói chuyện với con trai được bao nhiêu thì nó đã ra đi. "Vợ mình biết hai bố con gặp nhau ở đây thì sẽ nghĩ thế nào nhỉ". Ngày ở nhà Kinh thường nghe vợ nói: "Thằng Lữ giống tính bố mày như lột". "Vậy nó giống mình những gì?" ông chỉ cảm thấy một tình thương con đang tràn ngập trong lòng, cùng với nỗi mong mỏi và lo âu vẩn vơ của một người cha suốt cả đời sống biền biệt, mỗi lần gặp con lại thấy nó đã ở một lứa tuổi khác, đang làm những công việc khác.
Gia đình Kinh, một gia đình sống nề nếp hòa thuận trong một ngôi nhà gỗ, bên bờ một con sông rất đẹp của miền Trung, vùng đất hai bên bờ người dân chỉ biết đi cày và đi học. Những người dân thuần phác ở đó thường lấy làm tự hào vì miền quê của họ từ bao đời đã từng sinh ra những nhà văn hào của dân tộc và những người cách mạng nổi tiếng. Ở đó cũng là đất đã trỗi dậy cuộc khởi nghĩa của nông dân để giành độc lập với khát vọng xây dựng một thế giới cộng sản đại đồng không còn người bóc lột người. Từ khi có vợ con, Kinh ít khi ở làng nhưng cái cốt cách riêng của người dân sống và làm ăn dọc theo triền con sông ấy vẫn là cốt cách cán bộ của ông. Hồi trẻ Kinh nổi tiếng là nghịch và bướng. Khi đã có vợ con, Kinh vẫn còn hay nghịch. Năm đó, vào thời kỳ giũa cuộc kháng chiến chống Pháp, Kinh đi công tác và tranh thủ tạt qua nhà. Như thế là đã ròng rã mấy năm nay từ khi vợ sinh đứa con thứ hai, Kinh chưa hề về. Kinh khoác ba lô bước đến bên cái ngõ trống nhà mình, thấy một đứa bé con đang chơi tha thẩn. Nhìn khuôn mặt con trai mà giống mẹ như đúc. Kinh rứt trong ba lô một gói kẹo mè xửng đưa cho nó. Thằng bé ôm gói kẹo trước ngực ngước mắt lên hỏi rất sõi:
 - Chú cho cháu à?
- Ừ, con cầm lấy. Tao là bố mày chứ là ai mà gọi chú?
- Chú chỉ nói trạng!
Kinh vừa bực vừa buồn cười.
- Tao nói thật chứ thèm nói trạng. Con đem kẹo về cho mẹ, bảo mẹ rằng bố đi công tác nhưng bố bận việc không về nhà được, nghe không?
- Ừ, bố đi đi !
Thằng bé ôm khệ nệ gói kẹo chạy vào. Vợ Kinh đang sàng gạo trong bếp. Chị nghe con la tướng lên từ ngoài cửa:
- Mẹ ơi, bố về bố cho kẹo!
- Bố mày đâu rồi?
- Bố bảo bố bận, bố đi rồi!
- Thực không? Lữ, mày gặp bố mày ở đâu?
- Ngoài ngõ !
- Điên rồ, bận đến nỗi gì thì bận chứ về đến ngõ làm sao lại không đạp chân vào nhà được hử?

Chị chỉ kịp vắt chiếc áo cánh qua vai rồi cả con người như đang bốc lửa, chạy một mạch không kịp thở tắt qua cánh bãi trồng dưa ra bờ đê. Con đê trước làng cỏ xanh um từ chân lên vệ đường, có những cây gạo đứng thanh thản. Trên đường đê, Kinh đang khoác ba lô đi một mạch không ngoái cổ lại.
- Anh Kinh!
- Tôi bận lắm, tôi không về được!
- Thì cũng dừng lại một cái đã nào!
Chị vừa xỏ cánh tay áo vừa chạy về phía trước thì Kinh cũng bỏ chạy. Chị bực mình ngồi xuống bên một gốc gạo thì Kinh cũng tìm một gốc gạo để ngồi. Chị ức quá không hiểu ra làm sao. Chị cũng không thèm theo chồng nữa, sau khi đi quanh quẩn một vòng giữa bãi dưa, lúc quay trở về nhà thì đã thấy Kinh ôm con ngồi lù lù giữa giường, đang nhăn răng cười.

Vợ Kinh là một người đàn bà đã có một thời nổi tiếng xinh đẹp và đảm đang nhất trong vùng. Từ ngày lấy vợ, Kinh đã rút ra được một cách cư xử với đàn bà. Kinh nghiệm thấy những người đàn bà như vợ mình, họ sẽ không bao giờ nề quản với chồng một việc gì. Giỗ, tết, cha mẹ già yếu làm nhà, dựng vợ gả chồng cho các em chồng, việc thiết yếu nhất là sinh con và nuôi dạy con, tất thảy mọi việc người đàn ông có thể phó thác phóng xá cho người đàn bà ở nhà mà đi lo việc nước và giặc giã, tha hồ anh đi một hai năm, năm ba năm cũng được, nhưng quan trọng là những lần trở về nhà anh khu xử ra làm sao với vợ. Mỗi người đàn bà giống như một chiếc thuyền đi sóng gió ngoài khơi, lâu lâu lại phải về dựa lưng vào bờ trong chốc lát rồi lại đi chuyến khác. Những vui buồn, những khó khăn đã trải, người vợ chỉ có thể được đền bù bằng cách nói hết với chồng trong mấy ngày gần nhau, và chỉ khi nào người đàn ông biết hỏi han người ta mới nói. Trong muôn vàn lo nghĩ của vợ Kinh, nỗi lo cho con cái vẫn là nhiều nhất. Kinh còn nhớ chuyến ông đi công tác vào chiến rường, khi về nhà thì vợ báo tin thằng Lữ đã trốn nhà bỏ đi đâu không biết. Kinh về nhà thấy vợ chẳng tỏ ra mừng rỡ chút nào cả. Chị khóc ròng và vẫn thấp thỏm lo chồng sẽ trách mình. Chuyến ấy, vợ Kinh yêu cầu Kinh phải đi tìm con cho bằng được. Sau gần mấy tuần lễ lặn lội đường sá, hỏi thăm khắp nơi Kinh mới tìm thấy cậu con trai quý của mình. Nơi đó là một đoạn đường đang làm dở dang tận một miền heo hút sát biên giới, dọc hai bên đường đầy những thanh niên gái trai, cùng với lán trại quang, sọt, cuốc xẻng, cuộc sống vẫn còn tạm bợ lắm. Kinh đến vào giữa lúc Lữ đang cãi nhau với người phụ trách của nó. Kinh nghe tiếng người phụ trách nóng nảy đe đuổi và cúp lương một người nào đó. Và tiếng Lữ nói như thét: "Anh đang giở cái thói cai lục lộ ra. Phải cúp lương và đuổi anh đi mới đúng!". Tất cả mọi người đã đứng về phía Lữ, một cậu thiếu niên mặt còn non choẹt và chân đi đất mặc chiếc áo bông hai cùi tay đã rách xơ - "Mẹ mày bắt tao phải tìm được mày về, để cho mày thế này thế nào cũng sinh hư" - "Con đã gửi thư về cho mẹ (lần đầu tiên Kinh thấy đôi mắt con có một cái nhìn khác thường). Con đã quyết định ở đây. Bố cứ yên tâm là con sẽ không sinh hư đâu”. Kinh ngủ lại với con một đêm trong một cái lán dựng kề ngay bên con đường đang làm nhưng rất xa suối nước. Chính Kinh cũng phải bực mình vì cách tổ chức ăn ở làm việc luộm thuộm, thiếu trách nhiệm. Kinh trao cho Lữ tất cả mọi thứ đồ đạc mình có trong người cả chiếc áo bộ đội mặc ngoài mang từ chiến trường về. Đám thanh niên nam nữ dùng một chiếc chảo rang cà phê và đem pha trong bi đông sắt để thết Kinh. Suốt đêm Kinh nằm nghe nai tác bên ngoài rừng và những tiếng động lịch kịch của những tốp thanh niên đi làm đường trở về, không tài nào chợp mắt được lấy một phút. Gần sáng, Lữ trở dậy bảo với Kinh: "Bố cứ ngủ nhé!". Rồi khoác chiếc áo bông, vác cuốc chim đi ra ngoài. Kinh nhìn theo từ phía sau, chợt nảy ra một câu hỏi: "Nó" đã tuột khỏi bàn tay của mình từ bao giờ vậy? Kinh biết nếu mình có thuyết phục nó thì "nó" cũng không đời nào chịu trở về nhà nữa, cái thằng bướng ấy! Tự nhiên Kinh như nhìn thấy tận mắt cái dòng máu huyết thống của chính mình đang chảy trong cơ thể đứa con trai. Không phải vô cớ mà vợ Kinh thường bảo "nó" giống tính nết của Kinh?

Và bây giờ Kinh lại thấy thương con vô hạn, xen lẫn một niềm tự hào ngấm ngầm, nhưng vẫn không khỏi lo lắng, một nỗi lo mơ hồ và gần như bất lực. Ông xếp mảnh bản đồ bao gồm cả khu vực rộng lớn của chiến trường bỏ vào chiếc túi hoa. Kinh trông thấy trước mặt có một bóng người đi lại. Bóng người đi thấp thoáng khiến Kinh ban đầu cứ tưởng nhầm Lữ đang quay trở về tìm mình.
- Khuê đấy hử? - Kinh lên tiếng.
- Vâng.
- Ông đã chuẩn bị xong chưa. Các anh ấy đâu cả?
Khuê trao cho Kinh chiếc ba lô và chiếc gậy:
- Các anh ấy ra đây cả rồi !

Nghe có tiếng nhiều người nói chuyện lao xao và những đốm thuốc từ phía sau. Năm sáu người cán bộ có chân trong trung đoàn ủy khoác ba lô đến đứng chung quanh Kinh. Hai ngày nữa Kinh sẽ chủ trì cuộc họp Đảng ủy trung đoàn đầu tiên của chiến dịch tại khu vực tập kết. Từ đây vào khu vực tập kết phải theo người dẫn đường vạch lau mà đi không hề có chút đường sá.

Những người lính đang ngủ ở bãi khách cuối cùng của họ. Từ đây tới vừng mặt trận chiếu theo đường chim bay đã gần lắm. Một dây đèn pháo sáng trên bầu trời Khe Sanh đường số 9 cháy lập lòe. Kinh gọi Đông đi dẫn đường. Ông xắn quần quá gối cầm gậy đi len lỏi giữa các hàng võng và dây chằng tăng cứ chằng chịt. Rừng tối mò mò khiến Kinh phải đi thật khéo mới khỏi va phải những chiếc võng. Tiếng ngáy của những người lính đều đặn như mặt đất đang thở - "Ngủ đi, ngủ đi các ông. Nay mai ta sẽ bước vào chiến đấu!" Giữa lúc gần như tất cả trí óc Kinh đã bị hút về phía địch thì thật kỳ lạ, làm sao giữa trái tim của ông lại chợt nảy nở một mối tình yêu thương im lìm và sâu xa của người cha bao trùm lên hết tất cả.

PHẦN HAI : CHIẾN DỊCH BAO VÂY

CHƯƠNG 3


Tất cả mọi người lính đều có những chuyện riêng của mình, giữa khung cảnh mặt trận người ta vẫn sống với nó, có khi âm thầm như những dòng nước chảy dưới cỏ, nhưng có khi thật là mãnh liệt.

Đến sau này Lượng vẫn còn ngượng, một người cứng cỏi như Lượng mà vẫn không khỏi hết sức ngượng mỗi khi anh chợt nhớ tới hôm nào trên chặng đường hành quân qua trạm giao liên 34, anh đã nói với Nhẫn xin phép tạt vào đó giữa những ngày đoàn đang đi với tốc độ hành quân mỗi ngày đêm vượt bạ trạm. Anh nói với Nhẫn mình cần gặp người nhà của một cậu chiến sĩ trong đại đội để đưa một bức thư. Nhẫn nghe anh báo cáo như vậy liền quay cổ tay nhìn vào mặt chiếc đồng hồ dạ quang rất to: "Cậu cần đi bao lâu?". Lượng nói anh chỉ cần một tiếng là đủ. Anh tưởng có đôi mắt hết sức lạnh lẽo và nghiêm khắc của Nhẫn đang nhìn theo mình từ sau lưng với một câu chế giễu: "Tôi đã biết tỏng anh đi đâu rồi!".

Lượng tìm vào một trạm giao liên nằm cách đường trục một cánh bãi toàn là những mạch đá vôi đã rữa, từ đó có thể nghe tiếng nhiều con suối nhỏ chảy tràn ra khắp mặt đất. Vừa đặt chân lên một vỉa đá trắng toát, anh nhìn con đường ướt át và lấy làm ngại ngùng. Anh càng không hiểu sao mình lại trở nên một con người lẩn thẩn từ trước tới giờ không hề làm như thế. Anh đã toan quay trở lại nhưng đôi chân vững chãi lại vẫn bước, nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác giữa dòng nước còn lờ mờ tối. Lúc ấy vào khoảng bốn giờ sáng. Trời bỗng mưa như trút nước xuống. Lượng khoác chúi nòng tiểu liên AK, chiếc báng súng nhô lên sau vai trùm kín trong lần vải nhựa nước mưa nổ lộp bộp. Lượng đứng chôn chân hồi lâu trước một cái khuôn cửa bếp, cánh cửa lợp cỏ may chỉ khép hờ, những giọt nước từ trên mái đổ xuống lạnh buốt rơi bắn tung tóe dưới cổ áo quân phục. Chao ôi, Lượng ngó vào bên trong thấy mới ấm cúng làm sao? Một ngăn bếp có những ống thoát khói làm bằng thân cây hóp chôn ngầm dưới đất dẫn thẳng ra chỗ Lượng đang đứng, khiến cho Lượng cứ nghĩ đến đôi giày vải cao cổ của mình đang bén lửa. Những đống cơm nắm cao lù lù và trắng phau chất đầy trên những cánh phản gỗ cũng đang bốc khói nghi ngút làm mờ các khuôn mặt ngồi chung quanh. Năm sáu cô con gái, có cô to lớn và béo tròn, có cô sốt rét cổ cứ ngẳng ra như cổ cò hương đang ngồi vắt cơm và không ngớt xuýt xoa nhìn hai bàn tay đỏ như vừa bị bỏng. Người ta toàn con gái ngồi riêng với nhau như thế này mà nói chuyện cứ gục vào nhau cười phá lên thì chỉ có chuyện dính líu đến anh con trai, Lượng chưa hề bao giờ được nghe lỏm những mẫu chuyện táo bạo đến trắng trợn nhường ấy anh phát hoảng đã định rút lui nhẹ nhàng thì tự dưng bên trong một người đã đứng dậy bước ra cửa.

- Đồng chí muốn hỏi việc gì? - Người con gái (thoạt nhìn thì có vẻ khá xinh) bèn lên tiếng hỏi, mục đích để cho các chị em bên trong biết có người mà giữ mồm giữ miệng.
- Đồng chí có phải đồng chí Nết không? - Lượng cất tiếng lí nhí và ngắm đôi má đỏ rựng vì lửa, qua những sợi nước mưa óng ánh rỏ xuống từ vành mũ sắt.
- Tên tôi không phải là Nết. Đồng chí cần gặp chị Nết có việc gì vậy?
- Tôi muốn đưa một bức thư của người em ruột cô ấy.
- Đồng chí Nết chuyển sang bên trạm 34B từ lâu rồi. Nghe nói kỳ này trên binh trạm cho chị ấy đi học y tá hay y sĩ gì đó, người ta sắp từ biệt nồi niêu bếp núc để được ra ngoài ấy với các anh rồi! Nhưng mà trạm 34B cũng ở gần đây thôi đồng chí cứ để thư lại đây rồi chúng tôi chuyển sang bên 34B hoặc tới trường y tá có được không?
- "Thôi" - Lượng thốt lên một tiếng cộc lốc rồi xốc súng quay lưng đi. "Ông nào đến thăm con Nết vậy?", "Người ta trông mã thế nào hả mày?", "Sao không giữ anh ta lại khảo xem anh ta là ai mới được chứ?". Những tiếng con gái hăm hở ríu rít đuổi theo Lượng ra sát ngoài bãi đá vôi, như một toán quân đang hè nhau đuổi sát sau lưng.
- Xong việc chưa, Lượng? - Nhẫn đứng giữa đường hỏi, khi trông thấy Lượng quay trở về, trông nét mặt thật là âm thầm và hơi có vẻ ngượng ngập.
- Xong rồi. Ta đi thôi anh!

Lá thư của Khuê vẫn còn nằm cồm cộm trên túi ngực nhưng Lượng đã hoàn toàn quên lãng câu chuyện vừa qua. Đến 34B, đoàn nghỉ lại một đêm nhưng Lượng cũng không nghĩ tới cái việc làm mất thì giờ và có phần nào lẩn thẩn ấy nữa. Anh rời cái trạm khách ấy không hề nấn ná nửa bước với một ý nghĩ dứt khoát: mình là anh bộ đội đang đi ra mặt trận, nay sống mai chết biết thế nào, và Lượng hoàn toàn cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng như con chim vừa được cởi cánh ra khỏi sợi dây trói bằng sợi chỉ ngũ sắc.

*
*    *


Qua 34B năm trạm là kho tiền phương. Đây là thuộc phạm vi chiến trường. Hôm đó đoàn chuẩn bị chiến trường của Lượng đang đi trên một chiếc cầu mây bắc qua cơn suối lũ nước dâng đỏ ngầu. Bên kia suối từ một con đường mòn sâu hun hút vẳng đưa ra tiếng chó sủa và tiếng dao chẻ củi chan chát. Hai bên con đường mòn chạy dọc theo bờ suối lũ, rừng hoa mai đang nở trắng xóa. Bông hoa mai chỉ nhỏ bằng chiếc khuy áo, cánh hoa đã lìa cành trút mình xuống mặt đất như những cánh bướm không một tiếng động.
- Đẹp quá, hoa gì nở trắng rừng trắng suối đi thế này hở các cậu? - Một cậu trong đoàn của Lượng, cao lớn, mặt cứ ngẩn ngơ, đang đi trên chiếc cầu mây lắc lư bỗng kêu lên một tiếng rồi khoác súng đứng tại chỗ.
- Hoa mai đấy, "thằng ngỗng" ạ! Có đi lên không thì bảo?
- Vậy thì tết sắp đến rồi còn gì hở các cậu? - Tết, "đứt đuôi con nòng nọc" đi rồi chứ lỵ!

Những người lính ra đi từ những miền hậu phương mùa xuân chỉ có hoa đào nở trước ngõ, tất cả mọi người đều hết sức bỡ ngỡ ngắm không chán cái màu trắng mộc mạc rừng hoa mùa xuân miền Tây ở chiến trường. Chợt dưới mé suối xuất hiện một đoàn người mang gùi đang lùi lũi bước trên những phiến đá trơn nhẫy, đá lởm chởm kết thành một dãy chắn ngang khúc suối hẹp, ở chỗ đó tiếng nước réo ồ ồ, bọt tung trắng xóa. Lòng những người lính đang vui vẻ chợt se lại. "Đồng bào đấy!", một anh bộ đội nào đó kêu lên. Đoàn người đi dưới suối không đông lắm: Một ông già rách rưới ngậm chiếc tẩu thuốc, gương mặt tạc nhiều nếp dăn tối sầm. Một người đàn bà hai bầu vú thõng xuống và lép kẹp, địu đứa con sau lưng bằng một manh áo quân phục đã bẩn, hai ống tay áo quàng trên chiếc cổ ngẳng ra của người mẹ, một cái đầu xám ngoét sần sùi như củ nâu rúc trong chiếc cổ áo quân phục. Hai cô gái e lệ. Một con chó gầy. Lon ton đằng sau ba bốn em bé, một đứa cởi trần, hai đứa khác cũng mặc những chiếc áo bộ đội có cầu vai. Tiếng ho khúc khắc của đứa trẻ trên lưng người mẹ. Tất cả bằng chừng ấy cặp mắt ngước lên nhìn chòng chọc về phía những người lính.

- Đồng bào đi đâu vậy?- Chính trung đoàn trưởng Nhẫn lên tiếng hỏi trước.
- Chúng tôi đi lĩnh gạo.
- Bản cách đây có xa không?
- Đi mười lăm ngày.
- Bản còn đâu nữa mà hỏi?
Mấy đứa trẻ giơ những bàn tay nhỏ xíu lên vẫy vẫy, con mắt đen ngây thơ nhìn nghé nghiêng. Ông già bỗng rút chiếc tẩu thuốc không cầm tay, ngửng phắt lên, hai con mắt vàng vàng đỏ đỏ long lanh như mắt hổ:
- Bộ đội cụ Hồ này, cả một bản chúng nó giết còn bằng từng này người!
- "Bộ đội về giết hết chúng nó đi! - Người đàn bà địu con kêu như hóa ngộ - Bộ đội về giết hết những thằng Mỹ đóng đồn đi !".

Con đường mòn bên kia suối liền hút lấy các đoàn bộ đội và đồng bào đi qua đây. Mưa rơi xiên chéo, những hạt nước to nổi bong bóng trên mặt suối. Chẳng mấy chốc mây đen đã đùn lên, những cánh hoa mai trắng rợn khảm vào làn hơi nước. Tiếng ve kêu trong rừng hoa nghe như đã gần đứt giọng.
- Đồng bào ta ở vùng du kích nam đường 9 ra phải không? Nhẫn trao cho ông già một dúm thuốc lá, hỏi.
- Phải - ông già cào mười đầu ngón tay sần sùi và cáu đen lên dúm thuốc rồi nhét cả vào cái nõ điếu bằng đất nung, nói tiếng phổ thông bằng một giọng đơn đớt nhưng rất thạo - Chúng tôi cứ hằng tháng đi lấy gạo của bộ đội về ăn, cũng không ai muốn lấy đâu. Năm ngoái, chúng tôi phải ra Bãi Hà tận ngoài miền Bắc lấy gạo về ăn kia. Mùa màng con thú trên trời phá hết sạch rồi!
- Chúng nó thả chất độc hóa học ư cụ?
- Ác lắm! Cái thứ bột trắng của thằng Hoa Kỳ còn ác hơn con thú. Nó ác một cái là chúng nó chờ lúa trên nương sắp đỏ lá rồi mới đem tàu bay đến phá. Con người thì nó giết, cái mầm hạt thóc giống chúng nó cũng muốn giết!
- Đồng bào trong khu du kích có súng không?
- Có, có một ít.
- Không bắn nó à?
- Có chứ. Không bắn nó thì nó đã càn vào giết sạch như năm sáu sáu rồi - ông lão khoát tay chỉ những người đàn bản lầm lỳ đang nối nhau đi bên - Anh bộ đội ạ, du kích cả đấy! Người nào cũng thù thằng Mỹ cả đấy!
Hai cô gái Vân Kiều trong đoàn lúc nào cũng nhìn những người lính bằng cái nhìn lấm lét, cặp mắt nhỏ màu khói, khuôn ngực che kín bởi hai cánh tay rám nâu để trần cứ rét run lên nom rất thương hại.

Trận mưa xoáy tròn trên mái lán dãy nhà kho. Các đoàn người đi từ ngoài con suối vào đều ướt hết. Mấy anh bộ đội xổ áo mưa ny lông che cho các em bé. Bùn sục tới bắp chân khắp nơi xung quanh kho. Dưới chân lèn đá có khói. Một anh bộ đội đang bổ củi chan chát vội vàng đứng bật dậy:
- Vào đây đồng bào vào đây. Cả các đồng chí bộ đội nữa. Trong này có chỗ trú !
Mấy anh bộ đội ôm các em bé trong vạt áo mưa chạy vào. Anh bộ đội kho da vàng bủng quăng con dao chạy vào trong vòm đá, anh ta bưng ra hai tay hai chiếc chậu nhôm quân dụng đựng cơm độn ngô và bí ngô xào mỡ: "Ăn đi các cháu! " Một anh chàng mồm mép và vui tính nhất trong đoàn của Lượng cầm chiếc thìa ấn vào tay một em bé tóc rễ tre chổng ngược tất cả lên như một cái bàn chải: “Đừng việc gì mà "khái" quá cháu ạ! Đây, các chú bộ đội toàn người của các cháu cả. Hồi còn bé, chú có bao giờ thèm đụng một hạt cơm của nhà đâu, chú toàn đi ăn chực. Hàng xóm đều biết tính chú, nhà ai khua đũa bát chú cũng vào!"

Dưới một vòm hang chất đầy những bao bện bằng rơm. Mùi cá khô xông lên tanh nồng mũi, mấy anh trinh sát không biết của đơn vị nào đang ghếch chân đứng phì phèo hút thuốc bàn tán:
- Đứng về mặt hình thức mà xét con gái Vân Kiều nói chung là xấu!
- Đâu chả có người đẹp người xấu.
- Ở đây người ta sống khổ quá, bì đâu được như đồng bào vùng cao ngoài mình.
- Thế mà vẫn có người đẹp không tưởng tượng được.
- Cô áo đen, búi tóc cao đứng kia chứ gì?
- Đâu?
- Cô ta đang đi lấy phiếu xuất kho trước cửa cái nhà hầm kia kìa.
Anh bộ đội kho cầm dao chẻ toác một thanh củi ruột trắng nõn như lụa, tay làm miệng nói:
- Người ta có chồng rồi đấy. Không khéo rồi nay mai các cậu được chạm trán chồng cô ấy chưa biết chừng!
- Lính ngụy à?
- Biệt kích lưu động.
- Hoài của, sao không nán lại mà lấy bộ đội "Việt cộng" chính cống.

Lượng cùng hai chiến sĩ đội mưa tiến đến trước một ngôi nhà cỏn con cuối dãy kho, mái nhà lợp nứa non, một hàng gióng tre theo kiểu gióng chuồng trâu vùng Thượng đánh đai lấy ngôi nhà. Bộ đội bao gạo vắt vai đứng lẫn với nhân dân thành hàng dọc bên những hàng gióng tre nhoáng nước mưa. Đã lâu Lượng lại mới ngửi thấy mùi thuốc lá Vân Kiều nặng đến nỗi ngày xưa chỉ đi qua một người đang hút anh cũng phải phát sặc. Ngay từ lúc Lượng vừa bước xuống cái bậc cửa ghép ván, anh đã bắt gặp một khuôn mặt như đã gặp ở đâu rồi?. "Chào khách, chào khách!". "Con vẹt ở đây chứ ở đâu anh Lượng ơi ! " - Cậu chiến sĩ đứng sau lưng Lượng đưa tay chỉ một con vẹt đang rúc chiếc mỏ đỏ sặc sỡ vào bên cánh nửa vàng nửa xanh, đậu ngay bên chiếc bàn của anh bộ đội mặc áo trấn thủ phụ trách xuất kho, chiếc bàn ngập giấy tờ sổ sách và con vẹt đậu ở đó, ngay từ lúc mới tới Lượng cứ bảo rằng nó đậu ở trên một cành cây nào cao lắm.

Bên trong nhà hầm, bóng tối mờ mờ. Chỉ trông thấy một nửa mái tóc búi cao (búi tóc thật là to) và cái lưng áo đen của người đàn bà, màu áo đen bạc phếch bó sát vào mình. Tiếng anh bộ đội ngồi trước bàn hỏi:
- Sao chị không lấy gạo?
- Anh cứ cho thóc.
- Chị mang thóc sẽ nặng hơn đấy, đường lại xa?
- Được em mang được!
Nửa tiếng sau, đoàn của Lượng đã đóng đầy gạo vào các bao tượng và lĩnh mỗi người năm hộp thịt. Lượng bèn chạy sục đi khắp nơi. Chỗ nào có bà con Vân Kiều trú mưa Lượng đều tìm vào hỏi thăm: "Bản Chây có ai ở đây không?". Lượng nói vui với Nhẫn:
- Vùng Bản Chây phía nam đường 9 tôi có biết một ông già rất tốt. Ngày xưa ông cụ nuôi tôi ở ngoài rừng mãi.
- Cậu đã gặp ông cụ ấy ở đây phải không?
- Không. Con dâu ông ta có đi lĩnh gạo ở đây mà lúc nãy tôi quên mất, nom cứ ngờ ngợ. Cậu bộ đội làm cấp dưỡng vừa nói tên, tôi mới sực nhớ ra.

Đoạn đường từ ngoài suối vào kho không còn là con đường mòn ban nãy nữa: Nước mưa tràn ngập chảy xiết như một dòng suối nhỏ. Trên cao đóa hoa mai chết rũ trên cành khẳng khiu đen màu bồ hóng, đầy những đốt. Những đoàn chiến sĩ từ trong kho kéo ra, ba lô nặng trên lưng, cười nói vui vẻ đi vượt lên từng tốp đồng bào cõng gùi đi nhẩn nha bên đường. Nước đã dâng ngập dãy đá xếp chắn ngang suối Lượng gặp bà con Bản Chây vừa trong kho ra ở chân cầu mây. Anh dừng trước mặt người con gái mặc áo đen dẫn đầu. Từ trung đoàn trưởng Nhẫn đến tất cả những người lính dang đi bên cạnh đều phải ngửng lên nhìn, trầm trồ trước vẻ đẹp khỏe mạnh hết sức rực rỡ của người con gái đang đứng nói chuyện với Lượng. Nhưng sao khuôn mặt loáng ướt nước mưa, với cặp mắt đen hình quả trám có gì thật là buồn thảm? Sợi mây đeo gùi tỳ một vệt trước vầng trán trắng xanh như men sứ, dẻ tóc rối bị nước mưa dính bết sát đường lông mày.
Lượng hỏi:
- Chị có phải con dâu ông cụ Phang không?
- Phải - Chị ngước lên nhìn Lượng, bàn tay vén mấy sợi tóc ướt
- Chị tên là Xiêm có phải không?
- Phải - Xiêm vẫn nhìn Lượng không hề tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào.
- Chị còn nhớ không, ngày xưa tôi có đến nhà cùng ông cụ, hồi tôi bị địch bắt.
- Nhớ chứ, chỉ không nhớ tên anh thôi!

Lượng thấy chị không đẹp như lần trước anh thoạt trông thấy ngồi bên bếp lửa năm nào, nhưng thực hơn. Anh thấy hai bàn tay của chị rất to, có lẽ to và rắn chả kém gì bàn tay của anh.
- Ông cụ còn khỏe không, chị?
- Ông cụ tôi vẫn khỏe, như trước thôi!
Chị nói bằng giọng chậm chạp, như gieo xuống từng tiếng, như một người đang học nói. Lượng được biết cái nhà rất đẹp của ông cụ Phang ngày xưa, địch đã đốt mất rồi! Cả bản Chây bây giờ đã sơ tán tận trên núi đá. Lượng để ý thấy chiếc gùi đan bằng giang đã lên nước đen bóng khoác sau lưng Xiêm đựng đầy thóc, liền hỏi:
- Chị lấy thóc về lại phải mất công giã, sao tiện, cứ lĩnh gạo về mà ăn có hơn không?
- Tôi lấy thóc về để còn tra nương. Chúng nó thả thuốc độc trắng, mùa xuân chẳng còn hạt thóc làm giống nữa đâu!
Lượng vốc một dúm thóc trên lòng bàn tay:
- Thóc này là thóc ruộng, trồng ở đồng bằng, đem tra nương có lên không?
- Được. Hạt thóc nào vùi xuống đất rồi cũng nảy mầm được !
Mãi trước lúc từ biệt Xiêm, Lượng mới hỏi thăm tin tức chồng chị, người con trai của cụ Phang. Nhưng chị không trả lời, cũng không quay đi, cứ nhìn vào mặt Lượng như một người đàn bà câm.

*
*    *


Đoàn chuẩn bị chiến trường đi rất gấp rút. Lượng cũng không có thì giờ nghĩ tới người thiếu phụ Vân Kiều và hoàn cảnh gia đình của cụ Phang, người ân nhân cũ của mình nữa. Lượng cùng trung đoàn trưởng Nhẫn đặt chân tới động Phu Nhôi, một khu rừng nam đường 9 vào cuối tháng mười một âm lịch. Đoàn chia thành hai bộ phận riêng biệt: bộ phận cán bộ do Nhẫn trực tiếp phụ trách bao gồm các tiểu đoàn trưởng, một số cán bộ tham mưu và hậu cần. Bộ phận thứ hai do Lượng nắm, tất cả đều là chiến sĩ trinh sát trong đại đội của Lượng được phái đi trước, gồm mười lăm người chia làm ba toán, mỗi toán đều trang bị điện đài 2 oát có thể liên lạc với nhau trong phạm vi bán kính hoạt động mười hoặc mười lăm cây số, mật mã tín hiệu đều do sư đoàn quy định trước từ hậu phương. Công việc đầu tiên của Lượng là tìm đường lên hướng Bắc và đặt các đài quan sát. Những toán tiềm nhập đều có nhiệm vụ theo các mục tiêu cấp trên giao cho trung đoàn.

Lượng trở lại vùng rừng miền Tây Quảng Trị lần này vào giữa tháng mưa to nhất, không khí bao giờ cũng lạnh xuống đến mười độ. Núi dốc đứng không có chỗ đặt ba lô. Rừng đại ngàn xung quanh Khe Sanh từ lâu hầu như không hề có chút dấu tích một con đường nhỏ, một dấu chân người trước đó đã đặt tới, dường như từ thời khai thiên lập địa ở đây chỉ có một thứ hoạt động duy nhất là lá cây rụng xuống gốc. Sự yên tĩnh thăm thẳm khiến cho Lượng càng phải đề cao cảnh giác. Anh tổ chức khu vực trú quân hết sức bí mật. Mỗi khi phái một toán trinh sát ra ngoài anh đều theo dõi chặt chẽ. Theo những đồng chí quân báo của Bộ Tư lệnh chiến dịch thông báo cho biết, khu vực từ bờ sông Xê Pôn vào tới động Phu Nhôi, động Cô Ác, Cơ Plang, Co Pát đều nằm trong vòng hoạt động của bọn thám báo Mỹ ở Khe Sanh. Về phía bắc đường 9, chúng còn hoạt động ra sát tận bờ nam sông Bến Hải. Thám báo Mỹ thường quấn khăn mặt lên đầu, nom xa như thường dân, hoặc cải trang thành chiến sĩ Giải Phóng, thằng nào cũng đeo khẩu tiểu liên AK. Chúng từ trong các vị trí Khe Sanh được phái ra hoặc máy bay trực thăng từ trên trời thả xuống từng đại đội, chúng chia thành từng toán đi sục sạo rất rộng, liên lạc với nhau bằng máy vô tuyến điện, dăm hôm hoặc một tuần lễ lại quay trở về chỗ tập kết, đã có máy bay trực thăng tới đón. Kỷ luật bí mật của bọn lính này rất nghiêm, chúng lại là những tên đã được huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng sau bước đi của chúng, những người lính trinh sát của ta cũng có thể tìm thấy dấu vết của một đội quân viễn chinh: một mẩu tàn thuốc vương trong gốc cỏ tranh, vài lốt giày cao su để lại lờ mờ trên lớp lá rụng, một cái giấy gói kẹo hoặc một cái hố con con lấp sơ sài đã lâu còn thoảng mùi phân người.

Hàng chục toán thám báo biệt kích thường xuyên hoạt động ráo riết chung quanh các khu rùng già miền Tây Bắc tỉnh Quảng Trị này chả khác nào một hàng phòng tuyến thủy lôi thả ngầm dưới đáy biển. Tất cả đều nhằm bảo vệ cho một chiếc tàu chiến đang neo đậu một chỗ. Hãng USIS của Mỹ đã bình luận: "Tầm quan trọng chiến lược của tiền đồn Khe Sanh được coi như một chiếc mỏ neo phía tây tuyến phòng thủ về hướng Bắc của Mỹ". Chiếc tầu chiến Hoa Kỳ đang thả neo giữa rừng này chở trong lòng nó một lúc sáu ngàn lính thủy đánh bộ mặc áo cổ da và đội mũ có gắn hình mỏ neo bằng bạc. Đó là con số Mỹ đóng ở Khe Sanh trước khi những người lính trinh sát quân Giải Phóng xuất hiện. Có lúc con số ấy đã tăng lên tới bốn vạn rưỡi tên, kể cả Mỹ và ngụy, kể cả những tên làm nhiệm vụ đóng chốt và những tên làm nhiệm vụ ứng cứu từ xa đến gần. Rõ ràng con mắt của Giônxơn - Mắc Namara ở tận bên Mỹ, và con mắt tướng Oétmôlen ngồi ở Sài Gòn luôn luôn chú ý theo dõi chiếc tàu chiến đang thả neo ở đây. Đứng vững cuối tuyến phòng thủ bằng điện tử đường số 9, lính thủy đánh bộ đang làm một nhiệm vụ chiến lược quan trọng được coi như một vấn đề sinh tử của nước Mỹ. Theo chúng phỏng đoán, vùng rừng núi bao la ở đây chả khác nào một cái rây đã để cho các sư đoàn chủ lực miền Bắc lọt vào miền Nam. Và nếu theo quan niệm của những tên cầm đầu nước Mỹ, biên giới Hoa Kỳ bắt đầu từ bờ nam sông Bến Hải thì rõ ràng tập đoàn cứ điểm Khe Sanh đúng là chiếc tàu chiến bọc thép đang giữ nhiệm vụ bảo vệ cho miền biên giới "tổ quốc thiêng liêng của nước Mỹ ở phía bên kia địa cầu(!)

Khe Sanh là một thung lũng ngang dọc mỗi bề khoảng chừng mười cây số. Với tầm quan trọng như thế Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ đã thiết lập một hệ thống phòng ngự vững chắc bao gồm cứ điểm Tà Cơn, chi khu quân sự Hướng Hóa và cứ điểm Làng Vây mới thiết lập trên các điểm cao 656, 658, v.v... Những người lính trinh sát của ta nhìn xuống lòng chảo Khe Sanh thấy ngổn ngang những công sự, trận địa pháo, rađa, xe cơ giới, máy bay và những con thú - người Mỹ đi lại. Xa hơn về phía Bắc, căn cứ Tà Cơn loang lổ đất đỏ chạy dài khoảng hai cây số và rộng một cây số, Tà Cơn san sát lô cốt, đường hào, kho tàng, máy rađa với nhiều hệ thống công trình phòng ngự dày đặc như mạng nhện. Quân chiếm đóng gồm năm tiểu đoàn lính đánh bộ Mỹ, một số đơn vị quân ngụy, cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, công binh, trinh sát, thám báo, ... Giữa căn cứ là đường băng sân bay lát bằng kim loại chạy dài hơn một cây số từ bắc xuống nam. Phía Tây Nam cứ điểm Tà Cơn bề thế khoảng tám cây số là trại lực lượng đặc biệt Làng Vây, như một cái chốt sơn đỏ ngoài cửa ngõ trung tâm phòng ngự, có một nghìn tên đóng giữ. Đông Làng Vây, dọc theo đường 9 là thị trấn Hướng Hóa có ba đại đội ngụy binh do Mỹ chỉ huy. Đó là khu vực hành chính và chỉ huy chi khu quân sự với nóc nhà thờ, nhà mái tôn, những bức tường phố xá, các hàng rào dây thép gai mắc chằng chịt chung quanh khu vực lính chiếm đóng. Tất cả ba cứ điểm nằm trong một hệ thống phòng ngự yểm trợ lẫn nhau hình tam giác, là khu vực rắn nhất của tuyến đường 9 cắt đôi nước Việt Nam và nước Lào. Đó cũng là chiếc tàu chiến chở một canh bạc và một lời thách thức của tướng Oétmôlen.

Vào cuối tháng mười một âm lịch, khi đại bộ phận bộ đội đang trên đường chuyển quân thì chung quanh tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, nhất là ở phía nam, xen giữa các toán thám báo biệt kích của địch đã có nhiều toán trinh sát cùng các đoàn cán bộ nghiên cứu chiến trường của ta len lỏi nắm tình hình địch. Hai bên cũng đã có vài lần đụng nhau hoặc phải chạm súng chung quanh Khe Sanh. Cán bộ và chiến sĩ phía bên ta được lệnh không được để lộ ý đồ mở chiến dịch, đã thủ tiêu mọi dấu vết cuộc sống của mình. Công việc giữ bí mật thật là hết sức gian khổ. Riêng đoàn cán bộ trung đoàn 5, Nhẫn quy định đồ đạc mang theo của tất cả mọi người, từ trung đoàn trưởng đến liên lạc, ngoài vũ khí mỗi người chỉ có một mảnh vải bạt và một cái ruột tượng đựng cơm nắm quấn quanh bụng. Tất cả phải bỏ hết giày dép, qua gai góc và bãi tranh đều phải đi chân đất lồng bít tất. Lúc qua suối không được đạp lên đá. Phân phải chôn rất sâu ăn cơm không được để vãi một hạt. Cấm hút thuốc, cấm nói to, cấm lộ lửa. Ngủ xong phải dẹm cỏ lại như cũ hoặc lăn tròn một vạt giống y hệt dấu voi.

Chỉ có trong vòng không đầy một tháng, gần ba chục người ngồi bên nhau cũng không ngửi thấy mùi mồ hôi xông lên nữa. Da người nào cũng khô và tái mét, nom ai nấy đều gầy rộc đi, những đầu xương nhô ra, những chỗ ngày trước là bắp thịt bây giờ đã rắn teo lại. Gần ba chục người trong đoàn trung đoàn 5 chỉ có một mình Lượng là vẫn còn khỏe như cũ, không hề bị gầy sút đi chút nào. Suốt gần một tháng, các chiến sĩ trinh sát đều phải lắc đầu khâm phục Lượng, người nào cũng thích được đi với anh nhưng người nào cũng phải chuẩn bị tinh thần thực đầy đủ mới có thể theo kịp. Lượng hết sức xông xáo nhưng cũng khôn ngoan rất mực. Anh ăn khỏe, bụi gai xó rừng chỗ nào cũng lăn vào ngủ được. Lượng có thể nhịn ăn một vài ngày, chỉ uống một thứ nước đục ngầu đọng trong các dấu chân voi. Anh luồn giữa bãi dây thép gai và các công sự địch như thằn lằn, con mắt chỉ liếc qua đã xác định được phía trước có địch hay không. Anh phát hiện thám báo bằng cách đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi và mùi thuốc lá của chúng. Ngay sau hai ngày đặt chân tới động Phu Nhôi, Lượng đùm bốn nắm cơm trong một cái bao gạo thắt chặt quanh bụng, trực tiếp đi theo một toán trinh sát của mình lên phía Bắc. Anh đã tìm được đường và đặt xong một cái đài quan sát cơ bản cho trung đoàn.

Mỏm Cô An, điểm cao ghi trong bản đồ bằng ký hiệu 656 ấp đầy mây trắng. Cô An có dáng hiên ngang đường bệ vượt lên trên các mỏm nhấp nhô chung quanh. Đó là nơi bọn thám báo đã qua lại nhiều lần và còn để lại nhiều dấu tích: một cái bếp, vài ba hố cá nhân kiểu phòng ngự, những mẩu ét xăng khô, một tấm ảnh đàn bà khỏa thân bị xé nát... Từ sườn Cô An, chỗ Lượng vừa đặt đài quan sát nhìn xuống Khe Sanh như nhìn xuống lòng bàn tay, có thể trông thấy từng tốp lính Mỹ mặc áo trắng đi lại trên mặt đất trống trải, và có thể quan sát thấy bọn địch đang đào thêm công sự hoặc sửa chữa hàng rào dây thép gai.
Hôm đó, Lượng dẫn trung đoàn trưởng Nhẫn lách qua một bãi gai um tùm để leo lên đài quan sát. Lượng ôm trước ngực chiếc ống nhòm vỏ da hãy còn mới nguyên. Lúc hai người còn đi ở dưới chân mỏm Cô An, Lượng đã quay lại nói đùa với Nhẫn:
- Tôi tìm được cho anh một chỗ đứng xem xiếc thích lắm.
- Xiếc gì vậy?
- Xiếc khỉ.
- Xiếc khỉ đột hử?
- Chốc nữa anh đứng xem bọn khi đột Mỹ làm trò trong ấy, trông vui mắt vô kể.

Nhẫn có vẻ bề ngoài trông thanh lịch như một chàng sinh viên. Tiếng nói chậm rãi và nhỏ nhẹ, anh ít khi cười nhưng nét mặt bao giờ cũng nhẹ nhõm, mỗi lúc có điều không vừa ý hay phải suy nghĩ một điều gì, dấu vết để người ta dễ nhận thấy là thái độ im lặng, nét mặt không hề thay đổi, chỉ có hàng râu xanh lờ mờ trên khuôn mặt xương xương hơi sậm đen lại. Tương phản với vẻ bề ngoài dịu dàng, Nhẫn là một người chỉ huy quân sự nghiêm khắc hơi quá mức. Nhẫn không quen nói đùa đâu! Giá như ở trường hợp khác, một cán bộ tiểu đoàn hoặc một trợ lý tham mưu nào đó thốt lên một câu đùa như Lượng vừa nói ban nãy, không khéo Nhẫn đã nín lặng, hoặc cau mày lại, và có thể anh sẽ thốt lên: "Cậu đã nói tếu rồi đấy!" hoặc: "Không khéo cậu chủ quan đấy!". Nhưng riêng đối với Lượng, Nhẫn bao giờ cũng có cách đối xử đặc biệt. Không những Nhẫn không tỏ thái độ nghiêm khắc mà còn hưởng ứng câu đùa của Lượng. Bởi vì Nhẫn biết tính tình cậu đại đội trưởng trinh sát của mình chẳng mấy khi đùa cợt, và Nhẫn biết rõ khả năng cùng tác phong ủy mị cẩn thận của Lượng.

Nhẫn là một người chỉ huy trung đoàn biết coi trọng công tác tham mưu, ngay trong những ngày huấn luyện bộ đội bao giờ Nhẫn cũng chú ý tìm cho mình những người đại đội trưởng trinh sát và thông tin vừa ý, “những tay có thể giúp việc cho mình trong chiến đấu được" do chính anh tự lựa chọn lấy.
"Hắn lầm lì như một tảng đá, vậy mà thỉnh thoảng cũng biết nói đùa. Cái gì đang làm cho thằng cha Lượng dạo này có vẻ hào hứng vậy?". Nhẫn quay lại định hỏi Lượng một câu gì đó nhưng với bản tính ít nói vốn có, anh lại im lặng.

Hai người đã lên tới nơi, chỗ đó có một cái hầm kín đáo mới đào bên một gốc cây làm chòi quan sát. Một tốp chiến sĩ trinh sát đang ngồi quanh chiếc máy vô tuyến điện, người nào lông mày cũng bạc trắng. Sương rủ lòng thòng dải dưới chân núi. Qua làn sương mù đang tan, con đường số 9 dần dần hiện ra, nằm vắt ngang một dãy đồi không cao lắm. Nhẫn dùng ống nhòm quan sát chung toàn cảnh thung lũng. Anh đã có một ý niệm chung về cách bố trí khá chặt chẽ của địch từ ngoài vào trong. Nhẫn nhận xét thấy địch đang tăng cường bố phòng.

- Đêm nay Nôen phải không? - Nhẫn trao chiếc ống nhòm có tiêu cự rất lớn cho Lượng, hỏi mấy cậu chiến sĩ trinh sát.
- Đêm nay Nôen - Lượng đáp - Anh định thế nào?
- Cậu cho chuẩn bị cơm nắm đi. Mỗi người tám nắm. Bốn rưỡi chiều xuất phát - Nhẫn chỉ thị - Nội đêm nay phải vượt đường sang tới rừng cà phê phía ngoài hàng rào. Cậu bảo nắm cơm cho cả mình.
Lượng hỏi:
- Anh đi một chuyến với chúng tôi có tiện không?
- Sao không tiện?

Mới sáu giờ tối, Nhẫn, Lượng và bốn chiến sĩ trinh sát chia làm hai toán đã tiếp cận tới bên một cái bờ khe dốc đứng, dây leo mọc um tùm. Từ bờ khe vào tới đầu phía đông thị trấn Khe Sanh chỉ ước khoảng bảy tám trăm thước. Nhẫn quan sát địa hình chung quanh bằng mắt thường và tính toán trên thực địa. "Hình cái khe uốn theo hình vai cày. Nếu địch từ bên trong bắn cỡ súng máy từ đại liên trở lên, bộ đội tập kết trong khu rừng lau tiến ra có thể bị lướt sườn Nhất định hỏa lực cầu vồng của địch đã "can" sẵn theo sườn dốc - Nếu cho anh em chạy thật nhanh thì từ bờ khe vào đến đầu thị trấn, một đại đội vận động hết mấy phút?". Lúc Nhẫn nhổm dậy lần từng bước theo sau cái bóng to lớn của Lượng, con mắt anh đủ thu được hết mọi khía cạnh quân sự của địa hình, và trong óc Nhẫn đã chứa thêm nhiều nhận định và câu hỏi khác. Lượng cúi lom khom tiến từng bước, con mắt nhìn dán về phía địch. Hầu như Lượng không có thì giờ nghĩ hay cảm xúc một điều gì khi chợt nhớ lại lần nào anh cũng đã vượt qua cái bờ khe này để tìm cách trốn thoát khỏi thị trấn Khe Sanh. Anh đang tập trung tư tưởng điều khiển cả hai tổ sắp vượt qua thị trấn. "Từ bờ khe muốn qua bên phía bắc đường 9 chỉ có một lối vượt qua khu vực phía đông thị trấn. Ông Nhẫn chọn đêm Nôen hôm nay thật khôn ngoan!". Lượng nheo mắt ngắm chùm ánh điện xanh đỏ hắt ra từ cửa sổ ngôi nhà gác ở cuối phố. Bên trong khung cửa sổ có nhiều bóng người ăn mặc sang trọng. Tiếng kèn hát vẳng ra. Hai toán trinh sát lợi dụng hàng cây bên đường để tiến theo lối sâu đo. Toán đi trước áp dụng kỹ thuật đi đêm vòng qua lọt một cái trạm gác rồi nằm cảnh giới cho Nhẫn vượt qua phía sau lưng hắn. Từ trong bót gác chiếu xuống lòng đường và những vạt cỏ hai bên một thứ ánh sáng xanh lét.

Trong phút chốc những dãy nhà dân trong phố nuốt lấy bóng các trinh sát viên.

12 giờ đêm.
Tiếng chuông nhà thờ Tin lành dưới phố khua gióng giả. Nhẫn và các trinh sát viên tiến sát đến trước một dãy hàng rào bùng nhùng nằm giữa những hàng cây cà phê. Mọi người quan sát thấy phía sau dãy hàng rào rải sơ sài có một đoạn chiến hào mới đào, đất còn mới.
- Chiến hào bỏ không anh Nhẫn ạ! - Lượng bò sát bên Nhẫn thì thào.
- Có lẽ chỗ này là vị trí phục kích ban đêm của chúng nó?
- Tôi cũng đoán vậy, nhưng tôi đã quan sát kỹ thấy hào bỏ trống.
- Cho nên phải sục sạo kỹ - Nhẫn nói khẽ - Chúng nó láu cá có thể bỏ trống công sự mà ra phục bên ngoài chăng?
Lượng cho sục sạo bên ngoài một lần nữa nhưng không có gì. Nhẫn hạ lệnh tiếp tục tiến.
Nửa giờ sau thì đến chân hàng rào Tà Cơn.

Tà Cơn hiện ra trước mặt mọi người như một con thú khổng lồ đang gầm thét: Tiếng nhiều máy phát điện nổ cùng một lúc. Tiếng máy rađa. Tiếng máy bay khởi động trên đường băng. Ánh sáng điện từ dưới mặt đất chiếu hắt lên nền trời tùng cụm một. Đèn điện sáng từng dãy trên sân bay.
Một giọt sương rơi sau gáy Nhẫn lạnh như một mũi kim chính vào da thịt. Nhẫn thấy nhạt miệng và nuốt nước miếng để quên cơn thèm thuốc lá. Trong lòng Nhẫn chợt rung lên một cảm giác sung sướng lẫn lo lắng của một người cầm quân đầy tự tin đang đứng trước trách nhiệm. Trên bầu trời phía Nam một chiếc máy bay cánh quạt bay thấp, từ dưới đôi cánh vuông tối đen lướt đi từ từ chốc chốc lại vãi ra một chùm pháo sáng màu vãi tung tóe như những chùm pháo hoa, anh mỉm cười: "Đêm nay chúng mày ăn tết đây!".

*
*    *


Từ sau đêm tiềm nhập đầy thuận lợi ấy, Nhẫn cùng toán trinh sát của Lượng vẫn bám bên dãy hàng rào. Các chiến sĩ gác mấy cành cây trên một chỏm cây rất cao, từ đó ban ngày Nhẫn dùng ống nhòm quan sát vào trung tâm. Ban đêm anh cùng Lượng chui vào tận trong hàng rào cuối cùng. Sau gần một tháng lặn lội chung quanh Tà Cơn và khắp thung lũng, Nhẫn đã vẽ xong sơ đồ phía nam và vị trí, một phần cơ thể của con vật khổng lồ đã được Nhẫn xem xét và giải phẫu. Trong những ngày làm việc với Nhẫn, Lượng tỏ ra một tay đại đội trưởng trinh sát xông xáo và thính nhạy nhưng đôi lúc chính Lượng cũng phải sốt ruột vì cách làm việc tỷ mỉ, đầy tính toán của trung đoàn trưởng.

Một hôm, sau vài đợt đi trinh sát, Nhẫn tỏ ý muốn gặp nói chuyện với một vài người dân địa phương thông thuộc địa hình vùng chiến trường. Lượng nghe Nhẫn nói vậy liền sực nhớ đến ông cụ Phang, người có công giúp anh thoát khỏi nhà tù thị trấn Khe Sanh ba năm về trước.
Đã lâu Lượng vẫn còn nhớ hình dáng ông già ấy. Ông lão là một người có thân hình cao lớn quá khổ. Ông lão cao lớn sừng sững, đầu, cổ, vai đều lực lưỡng. Chân đi vòng kiềng, hai ngón chân cái tõe giao nhau. Lúc ông cụ khoác chiếc áo dạ, xách khẩu súng kíp đi giữa rừng, cái lưng hơi gù gù, ai cứng bóng vía trông thấy cũng phải sửng sốt. Sau ba năm lần này Lượng lại tìm đến nhà. Anh đến đây sau hơn một tháng kể từ hôm gặp Xiêm ở kho C. Lượng đi qua bản Chây, cái bản cũ anh đã từng tới. Đúng như Xiêm nói, cái bản đẹp đẽ ngày xưa không còn nữa. Lượng đứng trước một cái sàn nhà chỉ còn mấy cây cột rất to đứng trơ trụi, một cái nhà cháy dở đổ giụi xuống đất, những con sóc nâu mõm nhọn hoắt rung rung những sợi râu chạy đi kiếm ăn chung quanh cái khuôn bếp bằng gỗ nằm úp sấp dưới đất. Bây giờ bà con bản Chây đã sơ tán đi nơi khác. Họ lên dựng lán ở tận một mỏm núi đá xa tít, cây cối rậm rạp. Từ mỏm Cô An nơi Lượng đặt đài quan sát trông sang dãy núi ấy chỉ thấy một vệt cây xanh um, suốt ngày mù cứ trắng chẳng bao giờ tan.
Bây giờ cụ Phang cùng con dâu ở trong một túp nhà sàn bằng nứa. Túp nhà hẹp và tối, đứng tựa lắt lẻo vào vách núi đá. Chiếc cầu thang buộc bằng mây sơ sài. Hai hàng cột chống sàn mảnh khảnh, mặt sàn chỉ cao hơn mặt đất nửa tầm người. Tất cả vẻ đơn sơ chứng tỏ ông cụ chủ nhà (một người già quen chăm sóc nhà cửa rất cẩn thận) bây giờ đã chán với cái thú vui chăm sóc nơi ăn chốn ở. Lượng trèo lên những bậc đá, ngước mắt ngắm túp nhà có vẻ xuềnh xoàng và tạm bợ, anh bỗng chạnh thương hại ông cụ. Suốt cả một đời ông già để hết tâm sức và gây dựng cho đứa con trai duy nhất thành người thì thằng con trai đã bỏ đi theo giặc. Vậy ông già còn thiết gì nhà cửa?

Tuy mang nỗi thất vọng đau đớn vì đứa con nhưng hình như tấm lòng của ông lão vẫn nguyên vẹn. Ông lão rất yêu các loài súc vật Cũng hồi xưa ở dưới bản Chây, bây giờ trong túp nhà sơ tán chật hẹp, ông lão vẫn giữ thói quen thích nuôi các loài thú vật trong nhà. Đó là những con vật kỳ lạ: Hai con cu ly lông xám. Một chú chồn bay lông vằn mặt gần giống như mặt mèo, giữa bốn chấn có một vài cái màng da khi xòe ra như đôi cánh khiến con vật có thể bay được. Dưới sàn, một ổ gấu chó bốn con chưa mở mắt tuy mắt còn nhắm tít mà chúng đã tham ăn cả bốn con cứ gục đầu vào một cái máng bương chứa sữa ngựa đặt bên cầu thang, con này nhảy lên lưng con kia và một con hỗn nhất đã nhảy vào nhằm giữa cái máng sữa.

Lượng tới giữa lúc ông cụ Phang đi vắng. Chỉ có một mình Xiêm ngồi bên bếp, đang nhặt những hạt thóc vàng mẩy để riêng trong một cái đấu đan bằng giang. Thấy Lượng bước lên cầu thang, Xiêm nhận ra ngay, trong ánh mắt ngước lên nhìn có cái gì ngơ ngác và hình như thoáng mừng rỡ. Cái bếp lạnh và tối khiến Lượng lúng túng. Chị nhen lửa. So với hôm gặp ở kho C, trông Xiêm trẻ và đẹp hơn, như ba năm trước Lượng đã thấy. Nhưng sao chị đón tiếp Lượng lạnh nhạt vậy, khác với hôm chị gặp anh ở kho C. Chị nhen lửa rồi lại tiếp tục cúi xuống nhặt thóc, dáng lặng lẽ đến kỳ lạ, khuôn mặt đẹp vẫn phảng phất một cái gì bí ẩn của người đàn bà ở rừng.
- Ông cụ đi đâu hả chị Xiêm? - Lượng hỏi phá tan bầu không khí im lặng.
- Bố tôi đi nương, sắp về rồi!
Lượng nói tiếp:
- Chị Xiêm ạ, ban nãy tôi có đi qua bản Chây...
- Nó cháy rồi!
- Cái nhà của ông cụ ngày xưa đẹp thế. Thật tiếc!
- Tôi chẳng tiếc cái nhà đẹp đâu.
- Chị nói sao?
- Nó cháy đi tôi chẳng tiếc đâu...

Tiếng bước chân trên cầu thang nặng nề khiến cả cái sàn nhà thấp phải lay động. Ông cụ đã về. Ngôi nhà sàn quá thấp khiến ông cụ đứng chạm đến mái. Ông lão bước tới nắm lấy cành tay Lượng, cặp mắt già hấp háy nhìn tận mặt Lượng, thái độ mừng rỡ đến luống cuống:
- Hôm trước tôi nghe con Xiêm đi lĩnh gạo về nói chuyện nó gặp anh. Tôi không tin anh lại trở lại vùng này đâu - ông lão cúi xuống túm lấy gáy con gấu con tham ăn và ôm con vật trong cánh tay - Tôi vừa đi tỉa lúa ngoài nương về. Chao ôi, đâu đâu cũng bỏ hết làng bản nương rẫy mà đi hết. Người Vân Kiều cực khổ vì thằng Mỹ quá lắm rồi! Chúng dồn người vào các ấp rồi phát gạo phát súng. Ai không chịu theo nó thì đã chạy tản mát về khắp các ngọn núi, các khe suối. Nhưng rách rưới lắm, đói khát lắm! Người Vân Kiều chỉ còn cái bụng trung thành với Cụ Hồ, không quên đâu, cho nên được trông thấy các anh, ai cũng mừng.
- Nhưng người ta có tò mò bàn tán về công việc của anh em bộ đội không? - Lượng dò hỏi.
- Người ta thấy bộ đội về thì mừng lắm. Biết cả đấy.
- Bà con biết thế nào ạ?
- Người ta bảo nhỏ với nhau bộ đội về đánh cái đồn thằng Mỹ, giải phóng cho nhân dân. Người ta bảo nay mai ai nấy lại trở về bản cũ, nương cũ, lại dựng lại nhà, lại trồng lúa mà ăn. Đấy, anh xem - ông cụ xòe hai bàn tay - Tôi báo bà con, mùa rẫy này hãy chịu khó ăn ngô, ăn củ mài, hãy ra kho bộ đội lĩnh một ít thóc về làm giống, tỉa một ít làm giống. Rồi nay mai làng bản được giải phóng thì bà con đã có hạt giống lúa mà trỉa, nương rẫy không còn bỏ hoang nữa.

Ông cụ ép Lượng uống rượu. Nể lới ông già, anh chỉ nhấm nháp vài giọt, nhắm với những miếng thịt nai sấy đen như thục rồi bắt vào câu chuyện của mình. Khi nghe Lượng ngỏ ý kiến muốn nhờ mình giúp đỡ bộ đội, ông cụ nhìn anh hồi lâu, uống cạn chén rượu rồi hỏi:
- Các anh vẫn còn tin người già này ư?
- Một người như cụ sao chúng tôi không tin?
- Anh có biết tôi là người như thế nào mà các anh dám tin?
- Cụ là người của cách mạng. Tôi không quên ơn...
- Tôi là bố thằng con trai đi theo Mỹ. Anh biết chưa? Anh đã nói cho đồng chí chỉ huy của anh biết chưa?
- Chúng tôi biết thằng Kiếm đã đăng lính Mỹ chứ không phải không biết đâu.
- Vậy các anh không sợ bố nó dẫn các anh đem nộp cho Mỹ ư?

Cuộc nói chuyện giữa Lượng và ông cụ Phang vừa mở đầu đã có vẻ gay go. Ông lão mỉa mai dằn vặt mình bằng những câu hỏi khiến Lượng cũng phải sốt ruột và thấy hết sức vô lý. Sao ông lão bây giờ trở nên lẩn thẩn vậy? Ông lão thích nói vậy hay chính đang nghĩ như vậy? Có cái gì vừa sụp đổ trong tinh thần ông lão già kiên nghị mà Lượng hằng kính trọng và chịu ơn?
Ông cụ Phang lại dốc rượu trong vò ra. Chưa cạn hết chén này đã rót chén khác. Cặp mắt ông lão trở nên dữ dội, đỏ như hai hòn than đang cháy trên khuôn mặt bừng bừng một vẻ phẫn nộ.

Chỉ có Xiêm mới có thể hiểu được cái trạng thái tâm lý của ông già lúc bấy giờ. Trước đây, đã lâu, hồi Xiêm và ông cụ còn ở ngôi nhà to dưới bản Chây, ngày nào Xiêm ra ngoài rừng hái nấm, hái măng bương cũng gặp thoáng bóng ông cụ trên các nẻo Xiêm hay đi qua. Ông cụ đi đâu vậy? Chẳng lẽ ông cụ đi săn con thú nào chăng? Đang phân vân ngạc nhiên trước chuyện đó thì một bận, Xiêm mới chợt vỡ lẽ. Hôm ấy, Xiêm vừa tháo cái gùi khỏi vai, đang định lội xuống suối rửa mặt thì bỗng nghe một tiếng động của bước chân đi rất khẽ sau lưng. Xiêm ngoảnh lại trông thấy thằng Kiếm đứng lù lù giữa một bãi lau bên bờ suối. Phấn lau trắng dính đầy trên khuôn mặt lờ đờ dầy hốc tối. Thằng Kiếm tiến về phía Xiêm, con mắt nghiêng ngó hai bên. Xiêm phát hoảng sắp bỏ chạy thì thằng chồng đã lên tiếng: “Đứng lại! " Xiêm sợ hãi, hai bàn chân cứ luýnh quýnh. Hắn nói gì nhỉ? Xiêm nghe hắn hẹn với Xiêm những câu này: “Tao sẽ đón mày sang Huội San. Hãy thu xếp đi với tao tối nay. Nhưng mà hãy nhớ lấy: Mày báo cho bố biết thì tao sẽ giết mày!" Hắn vội vàng bỏ đi như đang bị bóng ma đuổi. Hắn vừa đi khuất, Xiêm chưa kịp định thần lại để có thể nhớ rành rọt hình ảnh thằng chồng vừa gặp thì đã thấy ông cụ Phang hiện ra sau một đám cây đầy gai góc. Ông già chẳng nói chẳng rằng, khẩu súng săn cầm lăm lăm trong tay, ông già vụt chạy qua đám cây gai trước mặt Xiêm rồi xông thẳng vào giữa các bãi lau cao ngập đầu. Ông cụ tìm thấy dấu giày xéo lên bùn của tên lính ngụy và cứ thế lần theo dấu vết chân đuổi theo mãi. Cuộc săn đuổi giữa hai người thật đáng sợ! Và Xiêm chợt hiểu ra: Lâu nay thằng Kiếm không dám về nhà nhưng nó vẫn thường mò về các lối Xiêm hay đi qua để rình cơ hội gặp chị . Xiêm không biết nhưng ông cụ biết. Ông cụ luôn luôn theo sát thằng con trai.

Đêm hôm ấy Xiêm không dám ngủ trong nhà. Thằng Kiếm trở về tìm không thấy vợ, chỉ thấy bố đang ngủ bên cửa sổ. Hắn đến ngồi hồi lâu bên cạnh. Trời sáng trăng muộn. Hai bố con nhìn nhau. Một người nằm, một người ngồi. Một người thức, một người vờ ngủ. Ông cụ Phang bất ngờ nhổm dậy đưa tay túm lấy cổ nó nhưng thằng Kiếm vùng chạy thoát được, để lại trên tay ông cụ một cải cổ áo lính biệt kích màu rêu đá. Ông cụ Phang nâng khẩu súng trên tay rồi hạ xuống. Người cha quỳ giữa khuôn cửa sổ nhìn theo cái lưng của thằng con trai cứ nhấp nhô ẩn hiện rồi đột ngột dừng lại bên một cây cột chống sàn ngoài sân thượng. Hắn đã tụt xuống đất và chạy thoát. Lần đó, ông cụ không dám nổ súng. Về sau ông cụ nghe tin hắn cùng bọn biệt kích đi dồn dân và phá nhiều bản dọc hai bờ sông Xê Pôn. Bàn tay hắn đã tùng đốt nhà giết người rồi. Tội ác ấy cần phải được xử! Bao nhiêu bận, Xiêm như trông thấy cái ý nghĩ hết sức quyết liệt của người cha hiện giữa những bữa rượu uống một mình, trong hai con mắt đỏ như mắt hổ của ông cụ Phang, Xiêm đã biết tính ông già bố chồng mình: Khi đã quyết định điều gì thì làm thôi!

Bấy giờ Xiêm chỉ mong cho ông cụ đừng nói ra, đừng nói ra cái điều đó! Bới vì Xiêm biết lúc này, trước mặt Lượng, ông cụ có thể nói ra cái ý nghĩ đã tính toán và nung nấu trong lòng bấy lâu, như nói ra một lời nguyền vậy.
Làm sao Lượng có thể biết ông lão đang nghĩ gì về đứa con?
- Sáng ngày mai cụ đi công tác với chúng tôi được chưa? - Lượng hỏi.
- Đi tận đâu?
- Về chỗ đồng chí chỉ huy của chúng tôi ở hiện nay.
- Đi ngay bây giờ cũng được. Nhưng liệu tôi có thể giúp các anh làm được gì?
- Cụ thông thuộc hết vùng này. Chúng tôi đang cần cụ giúp đỡ nhiều lắm - Lượng thấy cần giải thích và động viên cho ông già yên tâm. Anh nói tiếp - Còn thằng Kiếm, cụ không nên quan tâm đến. Nó là lính biệt kích, nếu nó không ở bên Huội San thì ở Làng Vây thôi. Nhất định bọn Mỹ không đưa nó đi đâu xa. Sau này biết đâu chúng tôi sẽ chẳng có dịp gặp nó? Nó có trọng tội nhưng chúng tôi có thể khoan hồng được!
Lượng không ngờ chính câu động viên của anh lại khơi dậy một ngọn lửa đang chờ dịp bùng cháy. Ông lão liền đáp:
- Anh thương hại tôi hả? Tôi không cần đâu! Tôi là người trồng cây, một cái cây bị mối thì phải hạ nó xuống. Tôi không chờ các anh về giải phóng để khoan hồng cho thằng con trai của tôi đâu. Trước sau tôi cũng phải...
- Bố, bố say rồi! - Xiêm ngồi bên bếp lửa, nói sẽ.
- Cả mày nữa. Mày cũng không phải làm con dâu tao nữa. Mày cứ việc đi kiếm chồng khác...

Lượng nói xen vào:
- Cụ nói vậy là sai chính sách Mặt trận rồi. Thằng Kiếm vẫn còn sống...
- Tôi sẽ giết nó! Tôi đã quyết định rồi. Tôi vẫn để dành cho nó một viên đạn trong khẩu súng săn của tôi kia!
- Bố!
Từ bên ngọn lửa đã sắp tàn. Xiêm kêu lên một tiếng đau đớn. Sau đó cả hai cha con đều im lặng. Ông lão ngồi trầm ngâm rất lâu, chẳng nói chẳng rằng, hai con mắt bốc hơi men nhìn như đóng đinh vào cái khoảng ánh sáng nhờ nhờ ngoài khung cửa sổ, từ đó mù trắng bay là là cuộn lên từng đám thốc cả vào nhà.
Trời tối hẳn. ông lão đứng dậy như người vừa chợt tỉnh một cơn mê. Ông lão quẹt lửa châm ngọn đèn dầu trám rồi bảo con dâu bằng giọng khàn khàn, mệt mỏi:
- Mày thu xếp chỗ cho anh bộ đội Lượng đi nghỉ con!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lich