Chương 3, 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN HAI : CHIẾN DỊCH BAO VÂY

CHƯƠNG 3

Tất cả mọi người lính đều có những chuyện riêng của mình, giữa khung cảnh mặt trận người ta vẫn sống với nó, có khi âm thầm như những dòng nước chảy dưới cỏ, nhưng có khi thật là mãnh liệt.

Đến sau này Lượng vẫn còn ngượng, một người cứng cỏi như Lượng mà vẫn không khỏi hết sức ngượng mỗi khi anh chợt nhớ tới hôm nào trên chặng đường hành quân qua trạm giao liên 34, anh đã nói với Nhẫn xin phép tạt vào đó giữa những ngày đoàn đang đi với tốc độ hành quân mỗi ngày đêm vượt bạ trạm. Anh nói với Nhẫn mình cần gặp người nhà của một cậu chiến sĩ trong đại đội để đưa một bức thư. Nhẫn nghe anh báo cáo như vậy liền quay cổ tay nhìn vào mặt chiếc đồng hồ dạ quang rất to: "Cậu cần đi bao lâu?". Lượng nói anh chỉ cần một tiếng là đủ. Anh tưởng có đôi mắt hết sức lạnh lẽo và nghiêm khắc của Nhẫn đang nhìn theo mình từ sau lưng với một câu chế giễu: "Tôi đã biết tỏng anh đi đâu rồi!".

Lượng tìm vào một trạm giao liên nằm cách đường trục một cánh bãi toàn là những mạch đá vôi đã rữa, từ đó có thể nghe tiếng nhiều con suối nhỏ chảy tràn ra khắp mặt đất. Vừa đặt chân lên một vỉa đá trắng toát, anh nhìn con đường ướt át và lấy làm ngại ngùng. Anh càng không hiểu sao mình lại trở nên một con người lẩn thẩn từ trước tới giờ không hề làm như thế. Anh đã toan quay trở lại nhưng đôi chân vững chãi lại vẫn bước, nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác giữa dòng nước còn lờ mờ tối. Lúc ấy vào khoảng bốn giờ sáng. Trời bỗng mưa như trút nước xuống. Lượng khoác chúi nòng tiểu liên AK, chiếc báng súng nhô lên sau vai trùm kín trong lần vải nhựa nước mưa nổ lộp bộp. Lượng đứng chôn chân hồi lâu trước một cái khuôn cửa bếp, cánh cửa lợp cỏ may chỉ khép hờ, những giọt nước từ trên mái đổ xuống lạnh buốt rơi bắn tung tóe dưới cổ áo quân phục. Chao ôi, Lượng ngó vào bên trong thấy mới ấm cúng làm sao? Một ngăn bếp có những ống thoát khói làm bằng thân cây hóp chôn ngầm dưới đất dẫn thẳng ra chỗ Lượng đang đứng, khiến cho Lượng cứ nghĩ đến đôi giày vải cao cổ của mình đang bén lửa. Những đống cơm nắm cao lù lù và trắng phau chất đầy trên những cánh phản gỗ cũng đang bốc khói nghi ngút làm mờ các khuôn mặt ngồi chung quanh. Năm sáu cô con gái, có cô to lớn và béo tròn, có cô sốt rét cổ cứ ngẳng ra như cổ cò hương đang ngồi vắt cơm và không ngớt xuýt xoa nhìn hai bàn tay đỏ như vừa bị bỏng. Người ta toàn con gái ngồi riêng với nhau như thế này mà nói chuyện cứ gục vào nhau cười phá lên thì chỉ có chuyện dính líu đến anh con trai, Lượng chưa hề bao giờ được nghe lỏm những mẫu chuyện táo bạo đến trắng trợn nhường ấy anh phát hoảng đã định rút lui nhẹ nhàng thì tự dưng bên trong một người đã đứng dậy bước ra cửa.

- Đồng chí muốn hỏi việc gì? - Người con gái (thoạt nhìn thì có vẻ khá xinh) bèn lên tiếng hỏi, mục đích để cho các chị em bên trong biết có người mà giữ mồm giữ miệng. 

- Đồng chí có phải đồng chí Nết không? - Lượng cất tiếng lí nhí và ngắm đôi má đỏ rựng vì lửa, qua những sợi nước mưa óng ánh rỏ xuống từ vành mũ sắt. 

- Tên tôi không phải là Nết. Đồng chí cần gặp chị Nết có việc gì vậy? 

- Tôi muốn đưa một bức thư của người em ruột cô ấy. 

- Đồng chí Nết chuyển sang bên trạm 34B từ lâu rồi. Nghe nói kỳ này trên binh trạm cho chị ấy đi học y tá hay y sĩ gì đó, người ta sắp từ biệt nồi niêu bếp núc để được ra ngoài ấy với các anh rồi! Nhưng mà trạm 34B cũng ở gần đây thôi đồng chí cứ để thư lại đây rồi chúng tôi chuyển sang bên 34B hoặc tới trường y tá có được không?

- "Thôi" - Lượng thốt lên một tiếng cộc lốc rồi xốc súng quay lưng đi. "Ông nào đến thăm con Nết vậy?", "Người ta trông mã thế nào hả mày?", "Sao không giữ anh ta lại khảo xem anh ta là ai mới được chứ?". Những tiếng con gái hăm hở ríu rít đuổi theo Lượng ra sát ngoài bãi đá vôi, như một toán quân đang hè nhau đuổi sát sau lưng. 

- Xong việc chưa, Lượng? - Nhẫn đứng giữa đường hỏi, khi trông thấy Lượng quay trở về, trông nét mặt thật là âm thầm và hơi có vẻ ngượng ngập. 

- Xong rồi. Ta đi thôi anh! 

Lá thư của Khuê vẫn còn nằm cồm cộm trên túi ngực nhưng Lượng đã hoàn toàn quên lãng câu chuyện vừa qua. Đến 34B, đoàn nghỉ lại một đêm nhưng Lượng cũng không nghĩ tới cái việc làm mất thì giờ và có phần nào lẩn thẩn ấy nữa. Anh rời cái trạm khách ấy không hề nấn ná nửa bước với một ý nghĩ dứt khoát: mình là anh bộ đội đang đi ra mặt trận, nay sống mai chết biết thế nào, và Lượng hoàn toàn cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng như con chim vừa được cởi cánh ra khỏi sợi dây trói bằng sợi chỉ ngũ sắc. 

*

*    *

Qua 34B năm trạm là kho tiền phương. Đây là thuộc phạm vi chiến trường. Hôm đó đoàn chuẩn bị chiến trường của Lượng đang đi trên một chiếc cầu mây bắc qua cơn suối lũ nước dâng đỏ ngầu. Bên kia suối từ một con đường mòn sâu hun hút vẳng đưa ra tiếng chó sủa và tiếng dao chẻ củi chan chát. Hai bên con đường mòn chạy dọc theo bờ suối lũ, rừng hoa mai đang nở trắng xóa. Bông hoa mai chỉ nhỏ bằng chiếc khuy áo, cánh hoa đã lìa cành trút mình xuống mặt đất như những cánh bướm không một tiếng động. 

- Đẹp quá, hoa gì nở trắng rừng trắng suối đi thế này hở các cậu? - Một cậu trong đoàn của Lượng, cao lớn, mặt cứ ngẩn ngơ, đang đi trên chiếc cầu mây lắc lư bỗng kêu lên một tiếng rồi khoác súng đứng tại chỗ. 

- Hoa mai đấy, "thằng ngỗng" ạ! Có đi lên không thì bảo? 

- Vậy thì tết sắp đến rồi còn gì hở các cậu? - Tết, "đứt đuôi con nòng nọc" đi rồi chứ lỵ! 

Những người lính ra đi từ những miền hậu phương mùa xuân chỉ có hoa đào nở trước ngõ, tất cả mọi người đều hết sức bỡ ngỡ ngắm không chán cái màu trắng mộc mạc rừng hoa mùa xuân miền Tây ở chiến trường. Chợt dưới mé suối xuất hiện một đoàn người mang gùi đang lùi lũi bước trên những phiến đá trơn nhẫy, đá lởm chởm kết thành một dãy chắn ngang khúc suối hẹp, ở chỗ đó tiếng nước réo ồ ồ, bọt tung trắng xóa. Lòng những người lính đang vui vẻ chợt se lại. "Đồng bào đấy!", một anh bộ đội nào đó kêu lên. Đoàn người đi dưới suối không đông lắm: Một ông già rách rưới ngậm chiếc tẩu thuốc, gương mặt tạc nhiều nếp dăn tối sầm. Một người đàn bà hai bầu vú thõng xuống và lép kẹp, địu đứa con sau lưng bằng một manh áo quân phục đã bẩn, hai ống tay áo quàng trên chiếc cổ ngẳng ra của người mẹ, một cái đầu xám ngoét sần sùi như củ nâu rúc trong chiếc cổ áo quân phục. Hai cô gái e lệ. Một con chó gầy. Lon ton đằng sau ba bốn em bé, một đứa cởi trần, hai đứa khác cũng mặc những chiếc áo bộ đội có cầu vai. Tiếng ho khúc khắc của đứa trẻ trên lưng người mẹ. Tất cả bằng chừng ấy cặp mắt ngước lên nhìn chòng chọc về phía những người lính.

- Đồng bào đi đâu vậy?- Chính trung đoàn trưởng Nhẫn lên tiếng hỏi trước. 

- Chúng tôi đi lĩnh gạo. 

- Bản cách đây có xa không? 

- Đi mười lăm ngày. 

- Bản còn đâu nữa mà hỏi? 

Mấy đứa trẻ giơ những bàn tay nhỏ xíu lên vẫy vẫy, con mắt đen ngây thơ nhìn nghé nghiêng. Ông già bỗng rút chiếc tẩu thuốc không cầm tay, ngửng phắt lên, hai con mắt vàng vàng đỏ đỏ long lanh như mắt hổ: 

- Bộ đội cụ Hồ này, cả một bản chúng nó giết còn bằng từng này người! 

- "Bộ đội về giết hết chúng nó đi! - Người đàn bà địu con kêu như hóa ngộ - Bộ đội về giết hết những thằng Mỹ đóng đồn đi !". 

Con đường mòn bên kia suối liền hút lấy các đoàn bộ đội và đồng bào đi qua đây. Mưa rơi xiên chéo, những hạt nước to nổi bong bóng trên mặt suối. Chẳng mấy chốc mây đen đã đùn lên, những cánh hoa mai trắng rợn khảm vào làn hơi nước. Tiếng ve kêu trong rừng hoa nghe như đã gần đứt giọng. 

- Đồng bào ta ở vùng du kích nam đường 9 ra phải không? Nhẫn trao cho ông già một dúm thuốc lá, hỏi.

- Phải - ông già cào mười đầu ngón tay sần sùi và cáu đen lên dúm thuốc rồi nhét cả vào cái nõ điếu bằng đất nung, nói tiếng phổ thông bằng một giọng đơn đớt nhưng rất thạo - Chúng tôi cứ hằng tháng đi lấy gạo của bộ đội về ăn, cũng không ai muốn lấy đâu. Năm ngoái, chúng tôi phải ra Bãi Hà tận ngoài miền Bắc lấy gạo về ăn kia. Mùa màng con 

thú

 trên trời phá hết sạch rồi! 

- Chúng nó thả chất độc hóa học ư cụ? 

- Ác lắm! Cái thứ 

bột trắng

 của thằng Hoa Kỳ còn ác hơn con thú. Nó ác một cái là chúng nó chờ lúa trên nương sắp đỏ lá rồi mới đem tàu bay đến phá. Con người thì nó giết, cái mầm hạt thóc giống chúng nó cũng muốn giết! 

- Đồng bào trong khu du kích có súng không? 

- Có, có một ít. 

- Không bắn nó à? 

- Có chứ. Không bắn nó thì nó đã càn vào giết sạch như năm sáu sáu rồi - ông lão khoát tay chỉ những người đàn bản lầm lỳ đang nối nhau đi bên - Anh bộ đội ạ, du kích cả đấy! Người nào cũng thù thằng Mỹ cả đấy! 

Hai cô gái Vân Kiều trong đoàn lúc nào cũng nhìn những người lính bằng cái nhìn lấm lét, cặp mắt nhỏ màu khói, khuôn ngực che kín bởi hai cánh tay rám nâu để trần cứ rét run lên nom rất thương hại.

Trận mưa xoáy tròn trên mái lán dãy nhà kho. Các đoàn người đi từ ngoài con suối vào đều ướt hết. Mấy anh bộ đội xổ áo mưa ny lông che cho các em bé. Bùn sục tới bắp chân khắp nơi xung quanh kho. Dưới chân lèn đá có khói. Một anh bộ đội đang bổ củi chan chát vội vàng đứng bật dậy: 

- Vào đây đồng bào vào đây. Cả các đồng chí bộ đội nữa. Trong này có chỗ trú ! 

Mấy anh bộ đội ôm các em bé trong vạt áo mưa chạy vào. Anh bộ đội kho da vàng bủng quăng con dao chạy vào trong vòm đá, anh ta bưng ra hai tay hai chiếc chậu nhôm quân dụng đựng cơm độn ngô và bí ngô xào mỡ: "Ăn đi các cháu! " Một anh chàng mồm mép và vui tính nhất trong đoàn của Lượng cầm chiếc thìa ấn vào tay một em bé tóc rễ tre chổng ngược tất cả lên như một cái bàn chải: “Đừng việc gì mà "khái" quá cháu ạ! Đây, các chú bộ đội toàn người của các cháu cả. Hồi còn bé, chú có bao giờ thèm đụng một hạt cơm của nhà đâu, chú toàn đi ăn chực. Hàng xóm đều biết tính chú, nhà ai khua đũa bát chú cũng vào!" 

Dưới một vòm hang chất đầy những bao bện bằng rơm. Mùi cá khô xông lên tanh nồng mũi, mấy anh trinh sát không biết của đơn vị nào đang ghếch chân đứng phì phèo hút thuốc bàn tán: 

- Đứng về mặt hình thức mà xét con gái Vân Kiều nói chung là xấu! 

- Đâu chả có người đẹp người xấu.

- Ở đây người ta sống khổ quá, bì đâu được như đồng bào vùng cao ngoài mình. 

- Thế mà vẫn có người đẹp không tưởng tượng được. 

- Cô áo đen, búi tóc cao đứng kia chứ gì? 

- Đâu? 

- Cô ta đang đi lấy phiếu xuất kho trước cửa cái nhà hầm kia kìa. 

Anh bộ đội kho cầm dao chẻ toác một thanh củi ruột trắng nõn như lụa, tay làm miệng nói: 

- Người ta có chồng rồi đấy. Không khéo rồi nay mai các cậu được chạm trán chồng cô ấy chưa biết chừng! 

- Lính ngụy à? 

- Biệt kích lưu động. 

- Hoài của, sao không nán lại mà lấy bộ đội "Việt cộng" chính cống.

Lượng cùng hai chiến sĩ đội mưa tiến đến trước một ngôi nhà cỏn con cuối dãy kho, mái nhà lợp nứa non, một hàng gióng tre theo kiểu gióng chuồng trâu vùng Thượng đánh đai lấy ngôi nhà. Bộ đội bao gạo vắt vai đứng lẫn với nhân dân thành hàng dọc bên những hàng gióng tre nhoáng nước mưa. Đã lâu Lượng lại mới ngửi thấy mùi thuốc lá Vân Kiều nặng đến nỗi ngày xưa chỉ đi qua một người đang hút anh cũng phải phát sặc. Ngay từ lúc Lượng vừa bước xuống cái bậc cửa ghép ván, anh đã bắt gặp một khuôn mặt như đã gặp ở đâu rồi?. "Chào khách, chào khách!". "Con vẹt ở đây chứ ở đâu anh Lượng ơi ! " - Cậu chiến sĩ đứng sau lưng Lượng đưa tay chỉ một con vẹt đang rúc chiếc mỏ đỏ sặc sỡ vào bên cánh nửa vàng nửa xanh, đậu ngay bên chiếc bàn của anh bộ đội mặc áo trấn thủ phụ trách xuất kho, chiếc bàn ngập giấy tờ sổ sách và con vẹt đậu ở đó, ngay từ lúc mới tới Lượng cứ bảo rằng nó đậu ở trên một cành cây nào cao lắm.

Bên trong nhà hầm, bóng tối mờ mờ. Chỉ trông thấy một nửa mái tóc búi cao (búi tóc thật là to) và cái lưng áo đen của người đàn bà, màu áo đen bạc phếch bó sát vào mình. Tiếng anh bộ đội ngồi trước bàn hỏi: 

- Sao chị không lấy gạo? 

- Anh cứ cho thóc. 

- Chị mang thóc sẽ nặng hơn đấy, đường lại xa? 

- Được em mang được! 

Nửa tiếng sau, đoàn của Lượng đã đóng đầy gạo vào các bao tượng và lĩnh mỗi người năm hộp thịt. Lượng bèn chạy sục đi khắp nơi. Chỗ nào có bà con Vân Kiều trú mưa Lượng đều tìm vào hỏi thăm: "Bản Chây có ai ở đây không?". Lượng nói vui với Nhẫn:

- Vùng Bản Chây phía nam đường 9 tôi có biết một ông già rất tốt. Ngày xưa ông cụ nuôi tôi ở ngoài rừng mãi. 

- Cậu đã gặp ông cụ ấy ở đây phải không? 

- Không. Con dâu ông ta có đi lĩnh gạo ở đây mà lúc nãy tôi quên mất, nom cứ ngờ ngợ. Cậu bộ đội làm cấp dưỡng vừa nói tên, tôi mới sực nhớ ra. 

Đoạn đường từ ngoài suối vào kho không còn là con đường mòn ban nãy nữa: Nước mưa tràn ngập chảy xiết như một dòng suối nhỏ. Trên cao đóa hoa mai chết rũ trên cành khẳng khiu đen màu bồ hóng, đầy những đốt. Những đoàn chiến sĩ từ trong kho kéo ra, ba lô nặng trên lưng, cười nói vui vẻ đi vượt lên từng tốp đồng bào cõng gùi đi nhẩn nha bên đường. Nước đã dâng ngập dãy đá xếp chắn ngang suối Lượng gặp bà con Bản Chây vừa trong kho ra ở chân cầu mây. Anh dừng trước mặt người con gái mặc áo đen dẫn đầu. Từ trung đoàn trưởng Nhẫn đến tất cả những người lính dang đi bên cạnh đều phải ngửng lên nhìn, trầm trồ trước vẻ đẹp khỏe mạnh hết sức rực rỡ của người con gái đang đứng nói chuyện với Lượng. Nhưng sao khuôn mặt loáng ướt nước mưa, với cặp mắt đen hình quả trám có gì thật là buồn thảm? Sợi mây đeo gùi tỳ một vệt trước vầng trán trắng xanh như men sứ, dẻ tóc rối bị nước mưa dính bết sát đường lông mày.

Lượng hỏi: 

- Chị có phải con dâu ông cụ Phang không? 

- Phải - Chị ngước lên nhìn Lượng, bàn tay vén mấy sợi tóc ướt 

- Chị tên là Xiêm có phải không? 

- Phải - Xiêm vẫn nhìn Lượng không hề tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào. 

- Chị còn nhớ không, ngày xưa tôi có đến nhà cùng ông cụ, hồi tôi bị địch bắt. 

- Nhớ chứ, chỉ không nhớ tên anh thôi! 

Lượng thấy chị không đẹp như lần trước anh thoạt trông thấy ngồi bên bếp lửa năm nào, nhưng thực hơn. Anh thấy hai bàn tay của chị rất to, có lẽ to và rắn chả kém gì bàn tay của anh. 

- Ông cụ còn khỏe không, chị? 

- Ông cụ tôi vẫn khỏe, như trước thôi! 

Chị nói bằng giọng chậm chạp, như gieo xuống từng tiếng, như một người đang học nói. Lượng được biết cái nhà rất đẹp của ông cụ Phang ngày xưa, địch đã đốt mất rồi! Cả bản Chây bây giờ đã sơ tán tận trên núi đá. Lượng để ý thấy chiếc gùi đan bằng giang đã lên nước đen bóng khoác sau lưng Xiêm đựng đầy thóc, liền hỏi:

- Chị lấy thóc về lại phải mất công giã, sao tiện, cứ lĩnh gạo về mà ăn có hơn không? 

- Tôi lấy thóc về để còn tra nương. Chúng nó thả thuốc độc trắng, mùa xuân chẳng còn hạt thóc làm giống nữa đâu! 

Lượng vốc một dúm thóc trên lòng bàn tay: 

- Thóc này là thóc ruộng, trồng ở đồng bằng, đem tra nương có lên không? 

- Được. Hạt thóc nào vùi xuống đất rồi cũng nảy mầm được ! 

Mãi trước lúc từ biệt Xiêm, Lượng mới hỏi thăm tin tức chồng chị, người con trai của cụ Phang. Nhưng chị không trả lời, cũng không quay đi, cứ nhìn vào mặt Lượng như một người đàn bà câm. 

*

*    *

Đoàn chuẩn bị chiến trường đi rất gấp rút. Lượng cũng không có thì giờ nghĩ tới người thiếu phụ Vân Kiều và hoàn cảnh gia đình của cụ Phang, người ân nhân cũ của mình nữa. Lượng cùng trung đoàn trưởng Nhẫn đặt chân tới động Phu Nhôi, một khu rừng nam đường 9 vào cuối tháng mười một âm lịch. Đoàn chia thành hai bộ phận riêng biệt: bộ phận cán bộ do Nhẫn trực tiếp phụ trách bao gồm các tiểu đoàn trưởng, một số cán bộ tham mưu và hậu cần. Bộ phận thứ hai do Lượng nắm, tất cả đều là chiến sĩ trinh sát trong đại đội của Lượng được phái đi trước, gồm mười lăm người chia làm ba toán, mỗi toán đều trang bị điện đài 2 oát có thể liên lạc với nhau trong phạm vi bán kính hoạt động mười hoặc mười lăm cây số, mật mã tín hiệu đều do sư đoàn quy định trước từ hậu phương. Công việc đầu tiên của Lượng là tìm đường lên hướng Bắc và đặt các đài quan sát. Những toán tiềm nhập đều có nhiệm vụ theo các mục tiêu cấp trên giao cho trung đoàn.

Lượng trở lại vùng rừng miền Tây Quảng Trị lần này vào giữa tháng mưa to nhất, không khí bao giờ cũng lạnh xuống đến mười độ. Núi dốc đứng không có chỗ đặt ba lô. Rừng đại ngàn xung quanh Khe Sanh từ lâu hầu như không hề có chút dấu tích một con đường nhỏ, một dấu chân người trước đó đã đặt tới, dường như từ thời khai thiên lập địa ở đây chỉ có một thứ hoạt động duy nhất là lá cây rụng xuống gốc. Sự yên tĩnh thăm thẳm khiến cho Lượng càng phải đề cao cảnh giác. Anh tổ chức khu vực trú quân hết sức bí mật. Mỗi khi phái một toán trinh sát ra ngoài anh đều theo dõi chặt chẽ. Theo những đồng chí quân báo của Bộ Tư lệnh chiến dịch thông báo cho biết, khu vực từ bờ sông Xê Pôn vào tới động Phu Nhôi, động Cô Ác, Cơ Plang, Co Pát đều nằm trong vòng hoạt động của bọn thám báo Mỹ ở Khe Sanh. Về phía bắc đường 9, chúng còn hoạt động ra sát tận bờ nam sông Bến Hải. Thám báo Mỹ thường quấn khăn mặt lên đầu, nom xa như thường dân, hoặc cải trang thành chiến sĩ Giải Phóng, thằng nào cũng đeo khẩu tiểu liên AK. Chúng từ trong các vị trí Khe Sanh được phái ra hoặc máy bay trực thăng từ trên trời thả xuống từng đại đội, chúng chia thành từng toán đi sục sạo rất rộng, liên lạc với nhau bằng máy vô tuyến điện, dăm hôm hoặc một tuần lễ lại quay trở về chỗ tập kết, đã có máy bay trực thăng tới đón. Kỷ luật bí mật của bọn lính này rất nghiêm, chúng lại là những tên đã được huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng sau bước đi của chúng, những người lính trinh sát của ta cũng có thể tìm thấy dấu vết của một đội quân viễn chinh: một mẩu tàn thuốc vương trong gốc cỏ tranh, vài lốt giày cao su để lại lờ mờ trên lớp lá rụng, một cái giấy gói kẹo hoặc một cái hố con con lấp sơ sài đã lâu còn thoảng mùi phân người.

Hàng chục toán thám báo biệt kích thường xuyên hoạt động ráo riết chung quanh các khu rùng già miền Tây Bắc tỉnh Quảng Trị này chả khác nào một hàng phòng tuyến thủy lôi thả ngầm dưới đáy biển. Tất cả đều nhằm bảo vệ cho một chiếc tàu chiến đang neo đậu một chỗ. Hãng USIS của Mỹ đã bình luận: "Tầm quan trọng chiến lược của tiền đồn Khe Sanh được coi như một chiếc mỏ neo phía tây tuyến phòng thủ về hướng Bắc của Mỹ". Chiếc tầu chiến Hoa Kỳ đang thả neo giữa rừng này chở trong lòng nó một lúc sáu ngàn lính thủy đánh bộ mặc áo cổ da và đội mũ có gắn hình mỏ neo bằng bạc. Đó là con số Mỹ đóng ở Khe Sanh trước khi những người lính trinh sát quân Giải Phóng xuất hiện. Có lúc con số ấy đã tăng lên tới bốn vạn rưỡi tên, kể cả Mỹ và ngụy, kể cả những tên làm nhiệm vụ đóng chốt và những tên làm nhiệm vụ ứng cứu từ xa đến gần. Rõ ràng con mắt của Giônxơn - Mắc Namara ở tận bên Mỹ, và con mắt tướng Oétmôlen ngồi ở Sài Gòn luôn luôn chú ý theo dõi chiếc tàu chiến đang thả neo ở đây. Đứng vững cuối tuyến phòng thủ bằng điện tử đường số 9, lính thủy đánh bộ đang làm một nhiệm vụ chiến lược quan trọng được coi như một vấn đề sinh tử của nước Mỹ. Theo chúng phỏng đoán, vùng rừng núi bao la ở đây chả khác nào một cái rây đã để cho các sư đoàn chủ lực miền Bắc lọt vào miền Nam. Và nếu theo quan niệm của những tên cầm đầu nước Mỹ, biên giới Hoa Kỳ bắt đầu từ bờ nam sông Bến Hải thì rõ ràng tập đoàn cứ điểm Khe Sanh đúng là chiếc tàu chiến bọc thép đang giữ nhiệm vụ bảo vệ cho miền biên giới "tổ quốc thiêng liêng của nước Mỹ ở phía bên kia địa cầu(!)

Khe Sanh là một thung lũng ngang dọc mỗi bề khoảng chừng mười cây số. Với tầm quan trọng như thế Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ đã thiết lập một hệ thống phòng ngự vững chắc bao gồm cứ điểm Tà Cơn, chi khu quân sự Hướng Hóa và cứ điểm Làng Vây mới thiết lập trên các điểm cao 656, 658, v.v... Những người lính trinh sát của ta nhìn xuống lòng chảo Khe Sanh thấy ngổn ngang những công sự, trận địa pháo, rađa, xe cơ giới, máy bay và những con thú - người Mỹ đi lại. Xa hơn về phía Bắc, căn cứ Tà Cơn loang lổ đất đỏ chạy dài khoảng hai cây số và rộng một cây số, Tà Cơn san sát lô cốt, đường hào, kho tàng, máy rađa với nhiều hệ thống công trình phòng ngự dày đặc như mạng nhện. Quân chiếm đóng gồm năm tiểu đoàn lính đánh bộ Mỹ, một số đơn vị quân ngụy, cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, công binh, trinh sát, thám báo, ... Giữa căn cứ là đường băng sân bay lát bằng kim loại chạy dài hơn một cây số từ bắc xuống nam. Phía Tây Nam cứ điểm Tà Cơn bề thế khoảng tám cây số là trại lực lượng đặc biệt Làng Vây, như một cái chốt sơn đỏ ngoài cửa ngõ trung tâm phòng ngự, có một nghìn tên đóng giữ. Đông Làng Vây, dọc theo đường 9 là thị trấn Hướng Hóa có ba đại đội ngụy binh do Mỹ chỉ huy. Đó là khu vực hành chính và chỉ huy chi khu quân sự với nóc nhà thờ, nhà mái tôn, những bức tường phố xá, các hàng rào dây thép gai mắc chằng chịt chung quanh khu vực lính chiếm đóng. Tất cả ba cứ điểm nằm trong một hệ thống phòng ngự yểm trợ lẫn nhau hình tam giác, là khu vực rắn nhất của tuyến đường 9 cắt đôi nước Việt Nam và nước Lào. Đó cũng là chiếc tàu chiến chở một canh bạc và một lời thách thức của tướng Oétmôlen.

Vào cuối tháng mười một âm lịch, khi đại bộ phận bộ đội đang trên đường chuyển quân thì chung quanh tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, nhất là ở phía nam, xen giữa các toán thám báo biệt kích của địch đã có nhiều toán trinh sát cùng các đoàn cán bộ nghiên cứu chiến trường của ta len lỏi nắm tình hình địch. Hai bên cũng đã có vài lần đụng nhau hoặc phải chạm súng chung quanh Khe Sanh. Cán bộ và chiến sĩ phía bên ta được lệnh không được để lộ ý đồ mở chiến dịch, đã thủ tiêu mọi dấu vết cuộc sống của mình. Công việc giữ bí mật thật là hết sức gian khổ. Riêng đoàn cán bộ trung đoàn 5, Nhẫn quy định đồ đạc mang theo của tất cả mọi người, từ trung đoàn trưởng đến liên lạc, ngoài vũ khí mỗi người chỉ có một mảnh vải bạt và một cái ruột tượng đựng cơm nắm quấn quanh bụng. Tất cả phải bỏ hết giày dép, qua gai góc và bãi tranh đều phải đi chân đất lồng bít tất. Lúc qua suối không được đạp lên đá. Phân phải chôn rất sâu ăn cơm không được để vãi một hạt. Cấm hút thuốc, cấm nói to, cấm lộ lửa. Ngủ xong phải dẹm cỏ lại như cũ hoặc lăn tròn một vạt giống y hệt dấu voi.

Chỉ có trong vòng không đầy một tháng, gần ba chục người ngồi bên nhau cũng không ngửi thấy mùi mồ hôi xông lên nữa. Da người nào cũng khô và tái mét, nom ai nấy đều gầy rộc đi, những đầu xương nhô ra, những chỗ ngày trước là bắp thịt bây giờ đã rắn teo lại. Gần ba chục người trong đoàn trung đoàn 5 chỉ có một mình Lượng là vẫn còn khỏe như cũ, không hề bị gầy sút đi chút nào. Suốt gần một tháng, các chiến sĩ trinh sát đều phải lắc đầu khâm phục Lượng, người nào cũng thích được đi với anh nhưng người nào cũng phải chuẩn bị tinh thần thực đầy đủ mới có thể theo kịp. Lượng hết sức xông xáo nhưng cũng khôn ngoan rất mực. Anh ăn khỏe, bụi gai xó rừng chỗ nào cũng lăn vào ngủ được. Lượng có thể nhịn ăn một vài ngày, chỉ uống một thứ nước đục ngầu đọng trong các dấu chân voi. Anh luồn giữa bãi dây thép gai và các công sự địch như thằn lằn, con mắt chỉ liếc qua đã xác định được phía trước có địch hay không. Anh phát hiện thám báo bằng cách đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi và mùi thuốc lá của chúng. Ngay sau hai ngày đặt chân tới động Phu Nhôi, Lượng đùm bốn nắm cơm trong một cái bao gạo thắt chặt quanh bụng, trực tiếp đi theo một toán trinh sát của mình lên phía Bắc. Anh đã tìm được đường và đặt xong một cái đài quan sát cơ bản cho trung đoàn.

Mỏm Cô An, điểm cao ghi trong bản đồ bằng ký hiệu 656 ấp đầy mây trắng. Cô An có dáng hiên ngang đường bệ vượt lên trên các mỏm nhấp nhô chung quanh. Đó là nơi bọn thám báo đã qua lại nhiều lần và còn để lại nhiều dấu tích: một cái bếp, vài ba hố cá nhân kiểu phòng ngự, những mẩu ét xăng khô, một tấm ảnh đàn bà khỏa thân bị xé nát... Từ sườn Cô An, chỗ Lượng vừa đặt đài quan sát nhìn xuống Khe Sanh như nhìn xuống lòng bàn tay, có thể trông thấy từng tốp lính Mỹ mặc áo trắng đi lại trên mặt đất trống trải, và có thể quan sát thấy bọn địch đang đào thêm công sự hoặc sửa chữa hàng rào dây thép gai. 

Hôm đó, Lượng dẫn trung đoàn trưởng Nhẫn lách qua một bãi gai um tùm để leo lên đài quan sát. Lượng ôm trước ngực chiếc ống nhòm vỏ da hãy còn mới nguyên. Lúc hai người còn đi ở dưới chân mỏm Cô An, Lượng đã quay lại nói đùa với Nhẫn:

- Tôi tìm được cho anh một chỗ đứng xem xiếc thích lắm. 

- Xiếc gì vậy? 

- Xiếc khỉ. 

- Xiếc khỉ đột hử? 

- Chốc nữa anh đứng xem bọn khi đột Mỹ làm trò trong ấy, trông vui mắt vô kể. 

Nhẫn có vẻ bề ngoài trông thanh lịch như một chàng sinh viên. Tiếng nói chậm rãi và nhỏ nhẹ, anh ít khi cười nhưng nét mặt bao giờ cũng nhẹ nhõm, mỗi lúc có điều không vừa ý hay phải suy nghĩ một điều gì, dấu vết để người ta dễ nhận thấy là thái độ im lặng, nét mặt không hề thay đổi, chỉ có hàng râu xanh lờ mờ trên khuôn mặt xương xương hơi sậm đen lại. Tương phản với vẻ bề ngoài dịu dàng, Nhẫn là một người chỉ huy quân sự nghiêm khắc hơi quá mức. Nhẫn không quen nói đùa đâu! Giá như ở trường hợp khác, một cán bộ tiểu đoàn hoặc một trợ lý tham mưu nào đó thốt lên một câu đùa như Lượng vừa nói ban nãy, không khéo Nhẫn đã nín lặng, hoặc cau mày lại, và có thể anh sẽ thốt lên: "Cậu đã nói tếu rồi đấy!" hoặc: "Không khéo cậu chủ quan đấy!". Nhưng riêng đối với Lượng, Nhẫn bao giờ cũng có cách đối xử đặc biệt. Không những Nhẫn không tỏ thái độ nghiêm khắc mà còn hưởng ứng câu đùa của Lượng. Bởi vì Nhẫn biết tính tình cậu đại đội trưởng trinh sát của mình chẳng mấy khi đùa cợt, và Nhẫn biết rõ khả năng cùng tác phong ủy mị cẩn thận của Lượng.

Nhẫn là một người chỉ huy trung đoàn biết coi trọng công tác tham mưu, ngay trong những ngày huấn luyện bộ đội bao giờ Nhẫn cũng chú ý tìm cho mình những người đại đội trưởng trinh sát và thông tin vừa ý, “những tay có thể giúp việc cho mình trong chiến đấu được" do chính anh tự lựa chọn lấy. 

"Hắn lầm lì như một tảng đá, vậy mà thỉnh thoảng cũng biết nói đùa. Cái gì đang làm cho thằng cha Lượng dạo này có vẻ hào hứng vậy?". Nhẫn quay lại định hỏi Lượng một câu gì đó nhưng với bản tính ít nói vốn có, anh lại im lặng. 

Hai người đã lên tới nơi, chỗ đó có một cái hầm kín đáo mới đào bên một gốc cây làm chòi quan sát. Một tốp chiến sĩ trinh sát đang ngồi quanh chiếc máy vô tuyến điện, người nào lông mày cũng bạc trắng. Sương rủ lòng thòng dải dưới chân núi. Qua làn sương mù đang tan, con đường số 9 dần dần hiện ra, nằm vắt ngang một dãy đồi không cao lắm. Nhẫn dùng ống nhòm quan sát chung toàn cảnh thung lũng. Anh đã có một ý niệm chung về cách bố trí khá chặt chẽ của địch từ ngoài vào trong. Nhẫn nhận xét thấy địch đang tăng cường bố phòng.

- Đêm nay Nôen phải không? - Nhẫn trao chiếc ống nhòm có tiêu cự rất lớn cho Lượng, hỏi mấy cậu chiến sĩ trinh sát. 

- Đêm nay Nôen - Lượng đáp - Anh định thế nào? 

- Cậu cho chuẩn bị cơm nắm đi. Mỗi người tám nắm. Bốn rưỡi chiều xuất phát - Nhẫn chỉ thị - Nội đêm nay phải vượt đường sang tới rừng cà phê phía ngoài hàng rào. Cậu bảo nắm cơm cho cả mình. 

Lượng hỏi: 

- Anh đi một chuyến với chúng tôi có tiện không? 

- Sao không tiện?

Mới sáu giờ tối, Nhẫn, Lượng và bốn chiến sĩ trinh sát chia làm hai toán đã tiếp cận tới bên một cái bờ khe dốc đứng, dây leo mọc um tùm. Từ bờ khe vào tới đầu phía đông thị trấn Khe Sanh chỉ ước khoảng bảy tám trăm thước. Nhẫn quan sát địa hình chung quanh bằng mắt thường và tính toán trên thực địa. "Hình cái khe uốn theo hình vai cày. Nếu địch từ bên trong bắn cỡ súng máy từ đại liên trở lên, bộ đội tập kết trong khu rừng lau tiến ra có thể bị lướt sườn Nhất định hỏa lực cầu vồng của địch đã "can" sẵn theo sườn dốc - Nếu cho anh em chạy thật nhanh thì từ bờ khe vào đến đầu thị trấn, một đại đội vận động hết mấy phút?". Lúc Nhẫn nhổm dậy lần từng bước theo sau cái bóng to lớn của Lượng, con mắt anh đủ thu được hết mọi khía cạnh quân sự của địa hình, và trong óc Nhẫn đã chứa thêm nhiều nhận định và câu hỏi khác. Lượng cúi lom khom tiến từng bước, con mắt nhìn dán về phía địch. Hầu như Lượng không có thì giờ nghĩ hay cảm xúc một điều gì khi chợt nhớ lại lần nào anh cũng đã vượt qua cái bờ khe này để tìm cách trốn thoát khỏi thị trấn Khe Sanh. Anh đang tập trung tư tưởng điều khiển cả hai tổ sắp vượt qua thị trấn. "Từ bờ khe muốn qua bên phía bắc đường 9 chỉ có một lối vượt qua khu vực phía đông thị trấn. Ông Nhẫn chọn đêm Nôen hôm nay thật khôn ngoan!". Lượng nheo mắt ngắm chùm ánh điện xanh đỏ hắt ra từ cửa sổ ngôi nhà gác ở cuối phố. Bên trong khung cửa sổ có nhiều bóng người ăn mặc sang trọng. Tiếng kèn hát vẳng ra. Hai toán trinh sát lợi dụng hàng cây bên đường để tiến theo lối sâu đo. Toán đi trước áp dụng kỹ thuật đi đêm vòng qua lọt một cái trạm gác rồi nằm cảnh giới cho Nhẫn vượt qua phía sau lưng hắn. Từ trong bót gác chiếu xuống lòng đường và những vạt cỏ hai bên một thứ ánh sáng xanh lét.

Trong phút chốc những dãy nhà dân trong phố nuốt lấy bóng các trinh sát viên.

12 giờ đêm. 

Tiếng chuông nhà thờ Tin lành dưới phố khua gióng giả. Nhẫn và các trinh sát viên tiến sát đến trước một dãy hàng rào bùng nhùng nằm giữa những hàng cây cà phê. Mọi người quan sát thấy phía sau dãy hàng rào rải sơ sài có một đoạn chiến hào mới đào, đất còn mới. 

- Chiến hào bỏ không anh Nhẫn ạ! - Lượng bò sát bên Nhẫn thì thào. 

- Có lẽ chỗ này là vị trí phục kích ban đêm của chúng nó? 

- Tôi cũng đoán vậy, nhưng tôi đã quan sát kỹ thấy hào bỏ trống. 

- Cho nên phải sục sạo kỹ - Nhẫn nói khẽ - Chúng nó láu cá có thể bỏ trống công sự mà ra phục bên ngoài chăng? 

Lượng cho sục sạo bên ngoài một lần nữa nhưng không có gì. Nhẫn hạ lệnh tiếp tục tiến. 

Nửa giờ sau thì đến chân hàng rào Tà Cơn. 

Tà Cơn hiện ra trước mặt mọi người như một con thú khổng lồ đang gầm thét: Tiếng nhiều máy phát điện nổ cùng một lúc. Tiếng máy rađa. Tiếng máy bay khởi động trên đường băng. Ánh sáng điện từ dưới mặt đất chiếu hắt lên nền trời tùng cụm một. Đèn điện sáng từng dãy trên sân bay.

Một giọt sương rơi sau gáy Nhẫn lạnh như một mũi kim chính vào da thịt. Nhẫn thấy nhạt miệng và nuốt nước miếng để quên cơn thèm thuốc lá. Trong lòng Nhẫn chợt rung lên một cảm giác sung sướng lẫn lo lắng của một người cầm quân đầy tự tin đang đứng trước trách nhiệm. Trên bầu trời phía Nam một chiếc máy bay cánh quạt bay thấp, từ dưới đôi cánh vuông tối đen lướt đi từ từ chốc chốc lại vãi ra một chùm pháo sáng màu vãi tung tóe như những chùm pháo hoa, anh mỉm cười: "Đêm nay chúng mày ăn tết đây!". 

*

*    *

Từ sau đêm tiềm nhập đầy thuận lợi ấy, Nhẫn cùng toán trinh sát của Lượng vẫn bám bên dãy hàng rào. Các chiến sĩ gác mấy cành cây trên một chỏm cây rất cao, từ đó ban ngày Nhẫn dùng ống nhòm quan sát vào trung tâm. Ban đêm anh cùng Lượng chui vào tận trong hàng rào cuối cùng. Sau gần một tháng lặn lội chung quanh Tà Cơn và khắp thung lũng, Nhẫn đã vẽ xong sơ đồ phía nam và vị trí, một phần cơ thể của con vật khổng lồ đã được Nhẫn xem xét và giải phẫu. Trong những ngày làm việc với Nhẫn, Lượng tỏ ra một tay đại đội trưởng trinh sát xông xáo và thính nhạy nhưng đôi lúc chính Lượng cũng phải sốt ruột vì cách làm việc tỷ mỉ, đầy tính toán của trung đoàn trưởng. 

Một hôm, sau vài đợt đi trinh sát, Nhẫn tỏ ý muốn gặp nói chuyện với một vài người dân địa phương thông thuộc địa hình vùng chiến trường. Lượng nghe Nhẫn nói vậy liền sực nhớ đến ông cụ Phang, người có công giúp anh thoát khỏi nhà tù thị trấn Khe Sanh ba năm về trước.

Đã lâu Lượng vẫn còn nhớ hình dáng ông già ấy. Ông lão là một người có thân hình cao lớn quá khổ. Ông lão cao lớn sừng sững, đầu, cổ, vai đều lực lưỡng. Chân đi vòng kiềng, hai ngón chân cái tõe giao nhau. Lúc ông cụ khoác chiếc áo dạ, xách khẩu súng kíp đi giữa rừng, cái lưng hơi gù gù, ai cứng bóng vía trông thấy cũng phải sửng sốt. Sau ba năm lần này Lượng lại tìm đến nhà. Anh đến đây sau hơn một tháng kể từ hôm gặp Xiêm ở kho C. Lượng đi qua bản Chây, cái bản cũ anh đã từng tới. Đúng như Xiêm nói, cái bản đẹp đẽ ngày xưa không còn nữa. Lượng đứng trước một cái sàn nhà chỉ còn mấy cây cột rất to đứng trơ trụi, một cái nhà cháy dở đổ giụi xuống đất, những con sóc nâu mõm nhọn hoắt rung rung những sợi râu chạy đi kiếm ăn chung quanh cái khuôn bếp bằng gỗ nằm úp sấp dưới đất. Bây giờ bà con bản Chây đã sơ tán đi nơi khác. Họ lên dựng lán ở tận một mỏm núi đá xa tít, cây cối rậm rạp. Từ mỏm Cô An nơi Lượng đặt đài quan sát trông sang dãy núi ấy chỉ thấy một vệt cây xanh um, suốt ngày mù cứ trắng chẳng bao giờ tan.

Bây giờ cụ Phang cùng con dâu ở trong một túp nhà sàn bằng nứa. Túp nhà hẹp và tối, đứng tựa lắt lẻo vào vách núi đá. Chiếc cầu thang buộc bằng mây sơ sài. Hai hàng cột chống sàn mảnh khảnh, mặt sàn chỉ cao hơn mặt đất nửa tầm người. Tất cả vẻ đơn sơ chứng tỏ ông cụ chủ nhà (một người già quen chăm sóc nhà cửa rất cẩn thận) bây giờ đã chán với cái thú vui chăm sóc nơi ăn chốn ở. Lượng trèo lên những bậc đá, ngước mắt ngắm túp nhà có vẻ xuềnh xoàng và tạm bợ, anh bỗng chạnh thương hại ông cụ. Suốt cả một đời ông già để hết tâm sức và gây dựng cho đứa con trai duy nhất thành người thì thằng con trai đã bỏ đi theo giặc. Vậy ông già còn thiết gì nhà cửa? 

Tuy mang nỗi thất vọng đau đớn vì đứa con nhưng hình như tấm lòng của ông lão vẫn nguyên vẹn. Ông lão rất yêu các loài súc vật Cũng hồi xưa ở dưới bản Chây, bây giờ trong túp nhà sơ tán chật hẹp, ông lão vẫn giữ thói quen thích nuôi các loài thú vật trong nhà. Đó là những con vật kỳ lạ: Hai con cu ly lông xám. Một chú chồn bay lông vằn mặt gần giống như mặt mèo, giữa bốn chấn có một vài cái màng da khi xòe ra như đôi cánh khiến con vật có thể bay được. Dưới sàn, một ổ gấu chó bốn con chưa mở mắt tuy mắt còn nhắm tít mà chúng đã tham ăn cả bốn con cứ gục đầu vào một cái máng bương chứa sữa ngựa đặt bên cầu thang, con này nhảy lên lưng con kia và một con hỗn nhất đã nhảy vào nhằm giữa cái máng sữa.

Lượng tới giữa lúc ông cụ Phang đi vắng. Chỉ có một mình Xiêm ngồi bên bếp, đang nhặt những hạt thóc vàng mẩy để riêng trong một cái đấu đan bằng giang. Thấy Lượng bước lên cầu thang, Xiêm nhận ra ngay, trong ánh mắt ngước lên nhìn có cái gì ngơ ngác và hình như thoáng mừng rỡ. Cái bếp lạnh và tối khiến Lượng lúng túng. Chị nhen lửa. So với hôm gặp ở kho C, trông Xiêm trẻ và đẹp hơn, như ba năm trước Lượng đã thấy. Nhưng sao chị đón tiếp Lượng lạnh nhạt vậy, khác với hôm chị gặp anh ở kho C. Chị nhen lửa rồi lại tiếp tục cúi xuống nhặt thóc, dáng lặng lẽ đến kỳ lạ, khuôn mặt đẹp vẫn phảng phất một cái gì bí ẩn của người đàn bà ở rừng. 

- Ông cụ đi đâu hả chị Xiêm? - Lượng hỏi phá tan bầu không khí im lặng. 

- Bố tôi đi nương, sắp về rồi! 

Lượng nói tiếp: 

- Chị Xiêm ạ, ban nãy tôi có đi qua bản Chây... 

- Nó cháy rồi! 

- Cái nhà của ông cụ ngày xưa đẹp thế. Thật tiếc! 

- Tôi chẳng tiếc cái nhà đẹp đâu. 

- Chị nói sao? 

- Nó cháy đi tôi chẳng tiếc đâu...

Tiếng bước chân trên cầu thang nặng nề khiến cả cái sàn nhà thấp phải lay động. Ông cụ đã về. Ngôi nhà sàn quá thấp khiến ông cụ đứng chạm đến mái. Ông lão bước tới nắm lấy cành tay Lượng, cặp mắt già hấp háy nhìn tận mặt Lượng, thái độ mừng rỡ đến luống cuống: 

- Hôm trước tôi nghe con Xiêm đi lĩnh gạo về nói chuyện nó gặp anh. Tôi không tin anh lại trở lại vùng này đâu - ông lão cúi xuống túm lấy gáy con gấu con tham ăn và ôm con vật trong cánh tay - Tôi vừa đi tỉa lúa ngoài nương về. Chao ôi, đâu đâu cũng bỏ hết làng bản nương rẫy mà đi hết. Người Vân Kiều cực khổ vì thằng Mỹ quá lắm rồi! Chúng dồn người vào các ấp rồi phát gạo phát súng. Ai không chịu theo nó thì đã chạy tản mát về khắp các ngọn núi, các khe suối. Nhưng rách rưới lắm, đói khát lắm! Người Vân Kiều chỉ còn cái bụng trung thành với Cụ Hồ, không quên đâu, cho nên được trông thấy các anh, ai cũng mừng. 

- Nhưng người ta có tò mò bàn tán về công việc của anh em bộ đội không? - Lượng dò hỏi. 

- Người ta thấy bộ đội về thì mừng lắm. Biết cả đấy. 

- Bà con biết thế nào ạ?

- Người ta bảo nhỏ với nhau bộ đội về đánh cái đồn thằng Mỹ, giải phóng cho nhân dân. Người ta bảo nay mai ai nấy lại trở về bản cũ, nương cũ, lại dựng lại nhà, lại trồng lúa mà ăn. Đấy, anh xem - ông cụ xòe hai bàn tay - Tôi báo bà con, mùa rẫy này hãy chịu khó ăn ngô, ăn củ mài, hãy ra kho bộ đội lĩnh một ít thóc về làm giống, tỉa một ít làm giống. Rồi nay mai làng bản được giải phóng thì bà con đã có hạt giống lúa mà trỉa, nương rẫy không còn bỏ hoang nữa. 

Ông cụ ép Lượng uống rượu. Nể lới ông già, anh chỉ nhấm nháp vài giọt, nhắm với những miếng thịt nai sấy đen như thục rồi bắt vào câu chuyện của mình. Khi nghe Lượng ngỏ ý kiến muốn nhờ mình giúp đỡ bộ đội, ông cụ nhìn anh hồi lâu, uống cạn chén rượu rồi hỏi: 

- Các anh vẫn còn tin người già này ư? 

- Một người như cụ sao chúng tôi không tin? 

- Anh có biết tôi là người như thế nào mà các anh dám tin? 

- Cụ là người của cách mạng. Tôi không quên ơn... 

- Tôi là bố thằng con trai đi theo Mỹ. Anh biết chưa? Anh đã nói cho đồng chí chỉ huy của anh biết chưa? 

- Chúng tôi biết thằng Kiếm đã đăng lính Mỹ chứ không phải không biết đâu. 

- Vậy các anh không sợ bố nó dẫn các anh đem nộp cho Mỹ ư?

Cuộc nói chuyện giữa Lượng và ông cụ Phang vừa mở đầu đã có vẻ gay go. Ông lão mỉa mai dằn vặt mình bằng những câu hỏi khiến Lượng cũng phải sốt ruột và thấy hết sức vô lý. Sao ông lão bây giờ trở nên lẩn thẩn vậy? Ông lão thích nói vậy hay chính đang nghĩ như vậy? Có cái gì vừa sụp đổ trong tinh thần ông lão già kiên nghị mà Lượng hằng kính trọng và chịu ơn? 

Ông cụ Phang lại dốc rượu trong vò ra. Chưa cạn hết chén này đã rót chén khác. Cặp mắt ông lão trở nên dữ dội, đỏ như hai hòn than đang cháy trên khuôn mặt bừng bừng một vẻ phẫn nộ.

Chỉ có Xiêm mới có thể hiểu được cái trạng thái tâm lý của ông già lúc bấy giờ. Trước đây, đã lâu, hồi Xiêm và ông cụ còn ở ngôi nhà to dưới bản Chây, ngày nào Xiêm ra ngoài rừng hái nấm, hái măng bương cũng gặp thoáng bóng ông cụ trên các nẻo Xiêm hay đi qua. Ông cụ đi đâu vậy? Chẳng lẽ ông cụ đi săn con thú nào chăng? Đang phân vân ngạc nhiên trước chuyện đó thì một bận, Xiêm mới chợt vỡ lẽ. Hôm ấy, Xiêm vừa tháo cái gùi khỏi vai, đang định lội xuống suối rửa mặt thì bỗng nghe một tiếng động của bước chân đi rất khẽ sau lưng. Xiêm ngoảnh lại trông thấy thằng Kiếm đứng lù lù giữa một bãi lau bên bờ suối. Phấn lau trắng dính đầy trên khuôn mặt lờ đờ dầy hốc tối. Thằng Kiếm tiến về phía Xiêm, con mắt nghiêng ngó hai bên. Xiêm phát hoảng sắp bỏ chạy thì thằng chồng đã lên tiếng: “Đứng lại! " Xiêm sợ hãi, hai bàn chân cứ luýnh quýnh. Hắn nói gì nhỉ? Xiêm nghe hắn hẹn với Xiêm những câu này: “Tao sẽ đón mày sang Huội San. Hãy thu xếp đi với tao tối nay. Nhưng mà hãy nhớ lấy: Mày báo cho bố biết thì tao sẽ giết mày!" Hắn vội vàng bỏ đi như đang bị bóng ma đuổi. Hắn vừa đi khuất, Xiêm chưa kịp định thần lại để có thể nhớ rành rọt hình ảnh thằng chồng vừa gặp thì đã thấy ông cụ Phang hiện ra sau một đám cây đầy gai góc. Ông già chẳng nói chẳng rằng, khẩu súng săn cầm lăm lăm trong tay, ông già vụt chạy qua đám cây gai trước mặt Xiêm rồi xông thẳng vào giữa các bãi lau cao ngập đầu. Ông cụ tìm thấy dấu giày xéo lên bùn của tên lính ngụy và cứ thế lần theo dấu vết chân đuổi theo mãi. Cuộc săn đuổi giữa hai người thật đáng sợ! Và Xiêm chợt hiểu ra: Lâu nay thằng Kiếm không dám về nhà nhưng nó vẫn thường mò về các lối Xiêm hay đi qua để rình cơ hội gặp chị . Xiêm không biết nhưng ông cụ biết. Ông cụ luôn luôn theo sát thằng con trai.

Đêm hôm ấy Xiêm không dám ngủ trong nhà. Thằng Kiếm trở về tìm không thấy vợ, chỉ thấy bố đang ngủ bên cửa sổ. Hắn đến ngồi hồi lâu bên cạnh. Trời sáng trăng muộn. Hai bố con nhìn nhau. Một người nằm, một người ngồi. Một người thức, một người vờ ngủ. Ông cụ Phang bất ngờ nhổm dậy đưa tay túm lấy cổ nó nhưng thằng Kiếm vùng chạy thoát được, để lại trên tay ông cụ một cải cổ áo lính biệt kích màu rêu đá. Ông cụ Phang nâng khẩu súng trên tay rồi hạ xuống. Người cha quỳ giữa khuôn cửa sổ nhìn theo cái lưng của thằng con trai cứ nhấp nhô ẩn hiện rồi đột ngột dừng lại bên một cây cột chống sàn ngoài sân thượng. Hắn đã tụt xuống đất và chạy thoát. Lần đó, ông cụ không dám nổ súng. Về sau ông cụ nghe tin hắn cùng bọn biệt kích đi dồn dân và phá nhiều bản dọc hai bờ sông Xê Pôn. Bàn tay hắn đã tùng đốt nhà giết người rồi. Tội ác ấy cần phải được xử! Bao nhiêu bận, Xiêm như trông thấy cái ý nghĩ hết sức quyết liệt của người cha hiện giữa những bữa rượu uống một mình, trong hai con mắt đỏ như mắt hổ của ông cụ Phang, Xiêm đã biết tính ông già bố chồng mình: Khi đã quyết định điều gì thì làm thôi!

Bấy giờ Xiêm chỉ mong cho ông cụ đừng nói ra, đừng nói ra cái điều đó! Bới vì Xiêm biết lúc này, trước mặt Lượng, ông cụ có thể nói ra cái ý nghĩ đã tính toán và nung nấu trong lòng bấy lâu, như nói ra một lời nguyền vậy. 

Làm sao Lượng có thể biết ông lão đang nghĩ gì về đứa con? 

- Sáng ngày mai cụ đi công tác với chúng tôi được chưa? - Lượng hỏi. 

- Đi tận đâu? 

- Về chỗ đồng chí chỉ huy của chúng tôi ở hiện nay. 

- Đi ngay bây giờ cũng được. Nhưng liệu tôi có thể giúp các anh làm được gì? 

- Cụ thông thuộc hết vùng này. Chúng tôi đang cần cụ giúp đỡ nhiều lắm - Lượng thấy cần giải thích và động viên cho ông già yên tâm. Anh nói tiếp - Còn thằng Kiếm, cụ không nên quan tâm đến. Nó là lính biệt kích, nếu nó không ở bên Huội San thì ở Làng Vây thôi. Nhất định bọn Mỹ không đưa nó đi đâu xa. Sau này biết đâu chúng tôi sẽ chẳng có dịp gặp nó? Nó có trọng tội nhưng chúng tôi có thể khoan hồng được! 

Lượng không ngờ chính câu động viên của anh lại khơi dậy một ngọn lửa đang chờ dịp bùng cháy. Ông lão liền đáp:

- Anh thương hại tôi hả? Tôi không cần đâu! Tôi là người trồng cây, một cái cây bị mối thì phải hạ nó xuống. Tôi không chờ các anh về giải phóng để khoan hồng cho thằng con trai của tôi đâu. Trước sau tôi cũng phải... 

- Bố, bố say rồi! - Xiêm ngồi bên bếp lửa, nói sẽ. 

- Cả mày nữa. Mày cũng không phải làm con dâu tao nữa. Mày cứ việc đi kiếm chồng khác... 

Lượng nói xen vào: 

- Cụ nói vậy là sai chính sách Mặt trận rồi. Thằng Kiếm vẫn còn sống... 

- Tôi sẽ giết nó! Tôi đã quyết định rồi. Tôi vẫn để dành cho nó một viên đạn trong khẩu súng săn của tôi kia! 

- Bố! 

Từ bên ngọn lửa đã sắp tàn. Xiêm kêu lên một tiếng đau đớn. Sau đó cả hai cha con đều im lặng. Ông lão ngồi trầm ngâm rất lâu, chẳng nói chẳng rằng, hai con mắt bốc hơi men nhìn như đóng đinh vào cái khoảng ánh sáng nhờ nhờ ngoài khung cửa sổ, từ đó mù trắng bay là là cuộn lên từng đám thốc cả vào nhà. 

Trời tối hẳn. ông lão đứng dậy như người vừa chợt tỉnh một cơn mê. Ông lão quẹt lửa châm ngọn đèn dầu trám rồi bảo con dâu bằng giọng khàn khàn, mệt mỏi: 

- Mày thu xếp chỗ cho anh bộ đội Lượng đi nghỉ con!

CHƯƠNG 4

Ngày hai mươi tháng chạp, Lượng cùng bộ phận tiềm nhập vị trí bên Tà Cơn, phía bắc đường 9 trở về đài quan sát cơ bản thì gặp chính ủy Kinh cùng trung đoàn trưởng Nhẫn đi quan sát địa hình. Đại bộ phận trung đoàn đang hành quân vào các khu vực tập kết. 

- Chào ông! - Kinh vừa trông thấy cái bóng cao lớn và cứng nhắc của Lượng tách ra từ một vạt cỏ tranh cháy sém liền lên tiếng mừng rỡ hỏi ngay. Kinh cầm chiếc gậy có đầu con sóc chỉ một ngọn núi đá trước mặt: 

- Có phải hồi đó chúng mình đụng nhau với chúng nó ở kia phải không? 

- Xa hơn nữa anh ạ - Lượng nói. 

- Vậy dãy núi đá ngày xưa đâu? 

- Nó nằm bên hướng Đông Bắc, xa lắm, nhưng hôm nào trời quang đứng đây cũng trông rõ. 

Kinh ngắm Lượng qua đôi mắt "độc nhỡn": 

- Nom ông còn vững chãi hơn cả, sốt rét nó chưa quật cho à? 

- Làm gì tôi được anh?

Nhẫn đứng bên, hai con mắt trũng sâu, nhìn đăm đăm về phía trước: 

- Ta lên đài quan sát đi anh Kinh! 

Nửa giờ sau ba người đã có mặt trên mỏm Cô An. Nhẫn và Lượng hướng dẫn Kinh leo lên đài quan sát đặt trên một cành cây dẻ rất cao và kín đáo. Ba người đứng trên một cái mặt sàn bắc giữa chạc ba cây dẻ. Nhẫn đứng bên đồng chí tiểu đội trưởng phụ trách đài quan sát, đưa bàn tay xoay xoay chiếc núm điều chỉnh ống nhòm, con mắt trái nheo lại, đoạn đưa ống nhòm cho Kinh. 

- Anh có trông rõ không? - Nhẫn hỏi. 

- Rất rõ - Kinh nói đùa - Lần này tôi không phải nheo mắt cũng trông thấy chúng nó. Cả những thằng Mỹ bên trong Tà Cơn kia, tôi cũng trông thấy chúng nó rất rõ! 

Sau mặt kính phóng đại, lần đầu tiên Kinh trông thấy cái xóm Tà Cơn được ghi trên bản đồ bằng một cái chấm màu xanh mạ non bây giờ đã đổi khác hẳn, chẳng còn dấu tích một cái bản đồng bào Vân Kiều mà một lần Kinh có dịp đi qua. Mặt đất đã bị xới lộn lên. Giữa một vùng đất đồi đỏ cái tập đoàn cứ điểm Tà Cơn hiện ra trước mắt Kinh như một thành phố công nghiệp đang xây dựng dở dang, con đường băng sân bay và chiếc cột đo gió khảm vào sắc núi Động Tri xanh một cách hung dữ. Một đám mây đen bò trên đỉnh núi 475, chân mây rách xơ đâm tua tủa xuống dãy nhà mái tôn nằm ngoài rìa một ấp chiến lược. Nền trời Tà Cơn âu sầu, vẩn đầy những đám mây đen đen trắng trắng nom rất bẩn.

Đường 9 nối liền với trung tâm Tà Cơn bằng một con đường đá lởm chởm. Dọc theo con đường đá, một chiếc C.130 lượn rất thấp, tiếng kêu rèn rẹt. Chiếc máy bay tiếp tục chao lượn từ vị trí Làng Vây sang thị trấn Khe Sanh rồi lượn nhiều vòng ở đầu phía tây con đường từ sông Xê Pôn về đến Huội San, trên bầu trời của nước Lào. Kinh chỉ đứng một lát, đã thấy chiếc C.130 bay vòng trở lại, lượn nhiều vòng rất hẹp trên một quả đồi thấp và phẳng nằm dưới chân dãy núi 475. Từ đài quan sát nhìn về phía bắc, quả đồi mà chiếc C.130 đang rà lượn giống như lưng một con rùa đang ngủ. 

- Quả đồi này tên là gì vậy? - Kinh hỏi và phỏng đoán tính chất quân sự đặc biệt quan trọng của quả đồi trước mặt. 

- Trên bản đồ không thấy ghi điểm cao này - Người tiểu đội trưởng phụ trách đài báo cáo - Anh em chúng tôi mới tạm đặt là 

Đồi không tên

.

Gần trưa trời có vẻ quang hơn. Những đám mây mù kết tụ lại rồi như đang trôi đi. Một vài đám khói từ mặt đất bay vật vờ. Phía bắc thỉnh thoảng có tiếng nổ, không phải tiếng sấm hay tiếng bom, cũng không phải tiếng đại bác. Một đàn cò từ trong rừng cà phê sát đường 9 bay vụt lên, những cánh cò trắng đến lóa mắt kết thành một dải chênh chếch vươn mãi về phía nóc ngôi nhà thờ Tin lành nằm giữa thị trấn. Khung cảnh cái tập đoàn cứ điểm lớn thật là yên tĩnh, như không hề có gì xảy ra chung quanh, tưởng như hàng đời nay khung cảnh này vốn dĩ đã như thế. Sự yên tĩnh trước mắt đang gây một ấn tượng mãnh liệt trong tâm hồn chính ủy Kinh. Lúc này chính ông đang lắng nghe nó, những âm thanh phía sau vẻ yên tĩnh đó, không phải chỉ bằng đôi tai mà bằng tất cả những kỷ niệm của các thời kỳ "động" nhất và "tĩnh" nhất trong suốt cuộc đời của mình. Kinh là một người tính nết hay chểnh mảng nhưng lại có một trí nhớ rất kỳ lạ; Những đồng chí mà ông mới quen biết sơ hoặc cùng với ông chỉ tham dự một trận chiến đấu, hàng chục năm sau ông vẫn còn nhớ, không sót một người nào, cả người đã mất và những người còn sống. Ông có thể nhớ kỹ hình dáng một cái lô cốt, một dãy hàng rào của một cái vị trí đã bị san bằng từ đầu kháng chiến chống Pháp. Ông nhớ ngày tháng và giờ nổ súng từng trận đánh, hôm đó trời quang hay mù, mù như thế nào? Chính lúc này, đứng bên Nhẫn và Lượng trước cái vẻ bề ngoài hết sức yên tĩnh của tập đoàn cứ điểm Khe Sanh có gần một vạn quân Mỹ và ngụy chiếm giữ. Kinh chợt nhớ như in trong óc cái mùi nhàn nhạt của sương mù miền Tây Bắc, và tiếng vồ nện đất của những người lính đóng cối xay cứ chan chát, chan chát, khua động cả khu rừng. Ngày đó chiến trường Điện Biên Phủ cũng mang một vẻ yên tĩnh như thế này. Ngày 10 tháng chạp năm 1953 , trung đoàn Kinh tiến quân vào phía bắc Điện Biên Phủ. Sau cuộc hội ý trung đoàn ủy cấp tốc bên đường hành quân, trung đoàn liền bỏ đường 41 để rẽ ngang, băng mình xuyên sâu vào giữa những cánh rừng rậm rạp và hoang vu phía tây. Cả trung đoàn chỉ có một đồng chí cán bộ địa phương người Thái dẫn đường. Nhưng chỉ đi được một chặng, đồng chí cán bộ địa phương cũng không còn biết lối mà đi nữa. Đó là những ngày trước khi mở chiến dịch, hằng mấy tháng trước, quân ta được lệnh đóng cái chốt ngã ba Păm Lót cấp tốc ngăn không cho địch ở Điện Biên Phủ tháo chạy sang Lào. Bộ đội sống và chiến đấu giữa rừng sâu, lại chỉ được tiếp tế toàn thóc, cả trung đoàn phải tìm cách đóng cối xay thóc lấy mà ăn. Tiểu đoàn do Kinh làm chính trị viên phải thí nghiệm trầy trật mãi mới đóng được những cái cối xay. Khi chiếc cối xay đầu tiên thành công thì người lính thợ đóng cối đầu tiên cũng thành nghề. Kinh đã có mặt trong suốt chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Khi chiến dịch kết thúc, tiểu đoàn của Kinh được chọn vào tiếp quản chiến trường. Buổi chiều hôm đó, Kinh cùng cậu liên lạc đứng trên một mỏm của dãy đồi C phía tây, ngọn đồi đỏ quạch như máu và trước đó bọn địch đã đặt cho một cái tên hình như tên một vị nữ thần rất đẹp. Đến hôm nay Kinh còn nhớ cậu chiến sĩ liên lạc tiểu đoàn đứng bên ông trên dãy đồi C khi chiến dịch Điện Biên Phủ vừa kết thúc. Cậu ta khoác chiếc áo "Rey" sĩ quan ngụy và đưa tay chỉ xuống dưới thung lũng, miệng thốt lên: "Mới đó sao lại yên lặng đến thế này ư hả anh Kinh?" Vẻ yên tĩnh dưới thung lũng Khe Sanh lúc này sao mà giống Điện Biên Phủ lúc đó vậy? Vẻ yên lặng sau một cơn bão và khi cơn bão sắp chuyển đến cũng giống nhau như thế này ư? Và người chiến sĩ liên lạc của Kinh, anh thợ đóng cối giỏi nhất tiểu đoàn ngày đó bây giờ đang ở đâu? Và những người lính đông đúc mặc áo trấn thủ dài tay cùng Kinh hành quân lên Tây Bắc vào mùa đông năm đó, tất cả bây giờ đang cầm súng chiến đấu ở đâu? Kinh tự kiểm điểm thấy những ngày yên tĩnh nhất trong đời mình cũng chỉ đề chuẩn bị bước vào một giai đoạn đầy biến động khác, một cuộc chiến đấu khác. Cuộc đời nhân dân chung quanh ông cũng vậy, hơn hai chục năm qua, cuộc kháng chiến anh hùng và đầy vinh quang của toàn thể dân tộc như một thỏi đá nam châm đã hút lấy tất cả mọi người, mọi gia đình.

Bất giác Kinh nhớ lại những trận đánh đã qua và hình dung ra trước mắt cái trận đánh sắp tới . "Không biết lúc này vợ mình ở nhà đang làm gì?". Trước khi lên đường đi chiến dịch lần này Kinh không kịp về nhà. Tuy vậy Kinh cũng có thể hình dung khuôn mặt trầm tĩnh của vợ khi đưa tiễn thằng con trai, thằng Lữ, cũng như ngày xưa vợ ông đã tùng tiễn đưa ông. Thế là lần này không chỉ riêng có ông mà cả con trai ông cũng có mặt ở đây!

- Đúng là chúng nó đang ráo riết tăng cường công sự, anh Nhẫn ạ! - Kinh nói khi đứng theo dõi chiếc C.130 đang lượn trên bầu trời, và những tên lính Mỹ mặc áo trắng trong đồn Tà Cơn đang tíu tít chạy ra khiêng những cuộn dây thép gai từ chiếc C.130 vừa thả xuống. 

Nhẫn hỏi Kinh: 

- Anh có trông thấy những cái vòng tròn xam xám đang quay ở trên không không? 

- Máy rađa? 

- Đĩa rađa! Ngày xưa anh có tham dự "Điện Biên" thì phải? 

- Ở "Điện Biên" ngày xưa thằng Tây không có nhiều máy móc như "thằng này" đâu! 

Suốt một cuộc đời, Kinh đã từng đứng trước không biết bao nhiêu những cái vị trí chiếm đóng của giặc. Và hôm nay ông đang đứng ở đây. Ông và vợ con ông đã đi suốt cuộc đời để ngày hôm nay tới đứng ở đây: Một nửa đất nước đã giành lại được từ trong tay kẻ thù đang xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, và phía trước mặt lại là một "cái vị trí" khác, một khu vực tập đoàn cứ điểm nhung nhúc quân Mỹ đang cần phải thanh toán, đang cần phải nhổ đi! 

*

*    *

Nhẫn chỉ cho Kinh quan sát từng mục tiêu từ ngoại vi vào trung tâm, rồi giới thiệu tình hình chung cách bố phòng của địch. Trong khi hai người chỉ huy đang bận làm việc thì Lượng đã tranh thủ dẫn Khuê tới một căn hầm mái bằng của anh em điện đài dưới chân chòi quan sát. 

Khuê bước vào, phải một lát mới làm quen với bóng tối trong hầm, anh chào mấy anh em chiến sĩ thông tin đang ngồi làm việc trong góc rồi bất giác kêu lên với Lượng: 

- Thế là tôi không được ở dưới đại đội với anh nữa. Ngày xuất phát hành quân, tôi vẫn còn ở dưới đại đội nhưng được một thời gian sau thì có lệnh của trung đoàn... 

- Mình biết rồi... mình biết rồi... ! - Lượng đáp bình thản. 

Một ý nghĩ chợt lóe lên từ trong bộ óc đầy phán đoán thông minh của Khuê: 

- Hay là chính anh... đã gợi ý trước với thủ trưởng Kinh lấy tôi về trung đoàn?

- Ai lại thế? Mình với anh Kinh quả thật có quen biết nhau từ lâu. Nhưng anh ấy lấy một người như cậu mình tiếc đứt ruột đi ấy chứ. Việc này mình nghe trưởng ban quân lực nói từ lâu rồi. Nhưng thôi, cậu lên ở với thủ trưởng Kinh cũng tốt. Cậu nên biết điều này: ông ta đánh nhau xông xáo quá đấy, nhiều trường hợp không cần thiết cũng cứ lao lên. Thật ra những ngày sắp tới, mình cũng thấy cần có một tay nhanh nhẹn và có kinh nghiệm theo anh ấy trong các trận chiến đấu - Lượng đến bên máy, báo cáo một vài tin địch về sư đoàn rồi lại tiếp tục hỏi chuyện Khuê - Cậu về nhà thế nào, có kịp sửa sang nhà cửa được tí chút nào không? 

Khuê trả lới uể oải: 

- Nhà thì có sửa được, một quả bom rơi ngay bên chái. Tôi về thì bà con đã thu nhặt gọn đâu vào đấy. 

- Mẹ cậu đã lành chưa? 

- Mẹ tôi chết rồi! 

- Sao? 

- Bởi vì vết thương bom bi phạm vào ruột nhiều chỗ quá bị giắt lỗ chỗ không gắp ra được. 

Hồi lâu Lượng lại mới hỏi tiếp: 

- Người chị của cậu đã biết tin này chưa?

- Tôi cũng đoán dạo hành quân anh không kịp gặp chị tôi. Hôm tôi đi qua trạm 34, tôi đã gửi cho chị ấy một cái thư, nhờ mấy cô cấp dưỡng của trạm là bạn cũ của chị ấy chuyển hộ đến lớp học y tá. Tôi đã viết cho chị ấy biết tất cả tin tức, ở nhà mẹ và thằng em bị bom, đã mất! 

- Giá cậu đừng viết những chuyện ấy thì có lẽ hơn... 

- Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng tôi lại nghĩ chị ấy còn trẻ dại gì nữa. Trước sau rồi cũng phải báo cho chị ấy biết tin nhà chứ. Tôi tin chị tôi sẽ khóc hết nước mắt cho mà xem nhưng còn việc học thì nhất quyết chị ấy không chịu để ảnh hưởng đâu . Tính chị ấy thế ! 

Sau chuyến Khuê đi phép về thăm nhà do Lượng trực tiếp giải quyết, đây là lần thứ hai Khuê phải nhắc lại cái tin đau lòng của anh. Lần thứ nhất, Khuê nói với chính ủy Kinh vào một buổi tối hai người nằm nói chuyện gia đình với nhau. Đối với tất cả mọi anh em khác, kể cả các đồng chí trong tiểu đội và tổ trưởng anh nuôi Đảo là người Khuê thường coi như rất thân thiết, Khuê cũng không kể một lời nào về những điều trong gia đình mà anh đã phải chứng kiến. Hôm đó Khuê về tới nhà thì mọi việc xem như đã xong xuôi cả: Một cái hố bom nằm đó thay vào cái nền nhà cũ. Hai nấm mồ nằm kề nhau ngoài cánh đồng. Ông bố Khuê vẫn ốm yếu, các đầu khớp xương đều sưng tấy lên, suốt ngày bó gối ngồi giữa ba đứa con nhỏ còn lại. Trong năm ngày ở nhà, Khuê không bao giờ để bàn tay rỗi. Anh dựng lại một túp nhà ba gian bằng những thứ rơm rạ và vật liệu bà con đội đến cho. Ngày thứ năm, anh đắp lại mộ mẹ và em, rồi cùng anh chị em dân quân xã lau chùi và lắp xong ba khẩu 12 ly 7 mới đưa từ trên huyện về. Buổi tối, Khuê khoác ba lô và đặt bàn tay lên đầu ba đứa em. Các cán bộ trong xóm, các mẹ và anh chị em thanh niên đến tiễn và động viên anh. Anh đi vòng quanh cái hố bom sâu hoắm như cái phễu trước ngõ. Anh lên đường tàu thì trông thấy một bóng người đàn ông đứng im phăng phắc, đang đợi anh giữa cánh đồng chiêm lộng gió. Đó là bố anh. "Con đi, nhớ trả thù cho mẹ và em con - ông bố nói lí nhí, ngừng lại để thở rồi lại mới nói thêm - Bố ở nhà có bà con xung quanh giúp đỡ cũng đủ sức làm nuôi các em. Con cứ yên tâm mà đi!" Kể từ ngày Khuê lớn lên, đây là lần đầu tiên bố anh nói với anh một câu có tính chất lời một người cha dặn dò khuyên bảo con. Thật tội nghiệp, người bố ốm yếu xưa nay dựa vào sức vợ, sống bên vợ như một cái bóng mờ nhạt, nói cũng không nói to, cử động cũng không dám cử động mạnh. Lòng dạ cứng rắn và lạnh lùng đến như Khuê mà lúc đó anh cũng phải mủi lòng. Lúc đó những tiếng động ban đêm của máy bay Mỹ chưa thấy có, những cơn gió trên cánh đồng trống trải lồng lộng thổi qua con đường tàu đang rung lên vì một chuyến tàu hàng chạy trong bóng tối, hình chiếc đầu máy đồ sộ phun khói in bật trên nền trời. Vạt áo nâu của bố gió đánh phần phật, chiếc sáp thuốc lào và chiếc bật lửa trong túi kêu lách cách. Khuê chỉ kịp chào bố, đưa ngang cánh tay áo quân phục gạt một giọt nước mắt hiếm hoi đặc quánh như chất dầu rồi quay lưng đi ngay một cách vội vàng. Bây giờ Khuê đang nhớ lại và ngẫm nghĩ về cái phút anh từ biệt bố để lên đường đi chiến đấu, giữa cái đêm ấy.

- Có phải cậu là lính cũ của "công trường 5" phải không? - Lượng chợt hỏi như muốn lái Khuê sang một câu chuyện khác - Ở đây thỉnh thoảng mình có gặp một vài toán trinh sát của bên "công trường 5". 

- Không biết bên dưới vùng phía nam còn những đơn vị nào nữa? - Khuê hỏi. 

- Dưới ấy thì đông lắm. Chỉ riêng vùng Tây Nam, mình đã gặp ba bốn đơn vị bộ binh, còn cánh pháo binh và các đơn vị đảm bảo chỉ nghe ký hiệu đã không tài nào nhớ hết. 

- Bao giờ chiến dịch bắt đầu? 

- Mình cũng không được biết, đó là việc của trên. Nhưng mình dự đoán cũng không thể sớm được. Trước mắt, các đơn vị đang chuẩn bị gạo, đạn, cũng còn phải mất một thời gian nữa. 

Ngày hôm sau Khuê theo chính ủy Kinh trở về sở chỉ huy trung đoàn. 

Các đại đội thuộc trung đoàn 5 đã vào khu vực tập kết đầy đủ. Bộ đội liền bắt tay vào công việc vận tải. Tất cả cán bộ và nhân viên cơ quan trung đoàn bộ đều được huy động vào chiến dịch vận tải "lót ổ" cùng các đơn vị chiến đấu. Hầu như phần lớn các khuôn mặt mà chúng ta gặp trên đường giao liên chỉ vài hôm sau lại trông thấy xuất hiện đi lại từng tốp, từng tốp như con thoi dọc các lối mòn. Lần này những người lính ai nấy đều chỉ bận quần đùi áo lót, chiếc ba lô cóc khoác nhũng nhẵng một bên vai. Những vệt mòn mới được mở từ hôm trung đoàn tiến quân vào các khu rừng hoang vắng như những khu rừng nguyên thủy chẳng mấy chốc đã biến thành đường sá cả. Trên các con đường mới mở do bàn chân lính giẫm cháy cỏ, hai bên còn đầy những cành gai và lá tranh tua tủa đâm cả vào mặt và cổ, từng đoàn chiến sĩ của các sư đoàn và trung đoàn sắp tham chiến ngày nào cũng giáp mặt nhau, kẻ đi người về. Tất cả đang tập trung làm nhiệm vụ vận tái chuẩn bị chiến dịch. Kho tàng đều đặt tận ngoài vùng sông Xê Pôn, lại phải trở lại con đường đã đi qua: Người đi ra chiếc ba lô lép kẹp, mồ hôi lưng ráo hoảnh. Người đi vào mỗi người ít nhất cũng ba chục cân trên lưng. Từng đoàn chiến sĩ trẻ măng mỗi lần gặp nhau đều phải né nghiêng người và ba lô để thu hẹp mục tiêu lại, nhưng vốn là những con người vui vẻ nên mồm mép vẫn chẳng hề bớt đi chút nào.

- Chào các ông bạn thân mến - Một cậu của một đơn vị nào đó trông thấy những người lính trung đoàn 5 người nào cũng ngậm điếu thuốc lá bên mép liền chào hỏi niềm nở - Bên ấy "chất khói" vẫn còn rôm rả quá nhỉ, ở hậu phương mới vào hẳn? 

- Ôi dào - Một cậu thuộc trung đoàn bộ đi sau Khuê liền tặc lưỡi - cũng còn tàm tạm có mà dùng mấy hôm nữa. Toàn là quân mới vào cả đây. Bên ấy đi đâu mà khoác ba lô không cả một lượt như đi dạo mát vậy? 

- Cũng như các anh bên ấy thôi mà, đi vác gạo vác đạn về "lót ổ” chứ còn đi đâu nữa. Bên ấy còn nhiều "chất khói" ủng hộ bên cánh nghèo kiết này ít hơi nào! 

Một anh cất tiếng nghêu ngao một câu hát vui của các chiến sĩ vận tải đang được phổ biến rộng rãi:

Thương anh vận tải lưng còng, 

Nằm giường thì chật nằm nong thì vừa! 

Một anh hay sốt ruột luôn mồm kêu than: 

- Vào chiến trường chưa trông thấy mặt thằng Mỹ vuông hay méo đây! 

- Rồi sẽ được thấy cả! 

- Đơn vị nào đấy, đứng tránh sang một bên cho cánh lính mũ sắt "xuất kích" nào! 

Khuê cõng trên lưng hơn bốn chục cân vừa gạo vừa đạn súng trường (một ba lô cóc và hai hòm gỗ), cúi đầu đi lùi lũi rất nhanh, cái dáng bé nhỏ len qua mặt các hàng người và hàng hóa, vũ khí chất rải rác bên đường. Trước mặt, nghe tiếng lính chào kháo cũng có thể đoán biết trong khu vực có hai đơn vị đang thay thế chỗ ở cho nhau. Đơn vị này vừa nhổ trại. Đơn vị kia không biết tù đâu mà tới. Cả hai đơn vị đều có dăm bảy con lợn mang theo. Những con lợn nằm ngứa phơi bụng trắng hếu bên lối đi, mõm và bốn chân trói chặt, lưng buộc nẹp gỗ. Tiếng bầy lợn kêu eng éc thảm thiết. Một đồng chí anh nuôi cõng một con lợn trên lưng, mông con lợn to như một cái bàn đế 81 . Con vật tuột dây trói vùng vẫy nhảy xổ xuống đường. Hai chân sau bị trói chặt mà nó vẫn có thể nhảy chồm chồm như một con hổ dữ, một hàng ba lô và quang sọt, cùng một bao bì đựng ca la thầu (1) để bên đường bị nó húc đổ tung tóe. Một băng đạn súng máy vướng vào cái dây trói hai chân sau bị con lợn lôi tuồn tuột đi, những viên đạn mới vàng chóe chạy lướt trên mặt một đám bùn do nhiều bàn chân tha từ dưới suối lên. Lính nhà ta được một phen cười vỡ bụng khi con lợn chạy đến bên bờ suối giữa những tiếng kêu la: "Bắt lấy nó hộ chúng tôi các đồng chí" thì chạm phải một đại đội của sư đoàn 5, anh nào anh nấy vẫn còn cởi truồng, mỗi người đội trên đầu một chiếc ba lô nặng đến rụt cả cổ, một tay giữ ba lô, một tay ôm lấy khoảng dưới bụng. Con lợn suýt nữa húc cái mõm trắng nhởn những răng là răng đang thở hồng hộc vào một cậu từ dưới suối lên, đang ngơ ngác chưa hiểu đầu đuôi mô tê gì cả, Khuê lên bờ vừa đặt ba lô và mặc quần áo xong chợt nghe có tiếng gọi giật giọng: "Khuê, thằng Khuê đấy phải không?". Bên một dọc bờ suối một người có lẽ đã có tuổi đứng quay mặt vào bụi, đang lập cập đứng trên một chân, một mảng mông thâm tím và hõm sâu chìa ra ngoài, chiếc quần ướt nhiều chỗ mới kịp xỏ được một ống. Người vừa gọi Khuê xỏ nốt ống quần bên kia rồi quay mặt ra ngoài vừa cười vừa nói:

- Khuê, bao nhiêu lâu lại mới trông thấy mặt cậu. Đợi tớ một chút, tớ ra ngay đây thôi mà! 

Lát sau, hai người đã ngồi trên hai chiếc ba lô cùng nhau nói chuyện vui vẻ. Khuê mừng đến đỏ cả mặt. Người kia, cán bộ của sư đoàn 5, là chính trị viên tiểu đoàn cũ của Khuê một người đã trạc ngoài bốn mươi, da dày vỏ quýt, mũi to, tóc tai chẳng còn mấy sợi nhưng bộ râu cứng và lởm chởm, trông qua cũng biết là một con người đã dày dạn. Có vẻ ngày xưa người cán bộ này và Khuê đã từng quen biết nhau kỹ càng lắm. Ngay khi vừa ngồi xuống, người cán bộ đã trao cho Khuê một bao ny lông đựng một thứ thuốc lá đen thái vụn và hỏi: 

- Cậu bây giờ ở đơn vị nào? 

- Tôi chuyển sang ở "công trường 4" rồi anh ạ (2). - Khuê đón túi thuốc, ngắm những sợi râu cứng như dây thép mọc khắp nửa phần dưới khuôn mặt vuông vức của người chính trị viên tiểu đoàn cũ của mình - Anh già đi nhiều, chưa đánh đấm mà râu đã mọc nhiều thế này ư?

- Mình ở bộ phận chuẩn bị chiến trường, nằm ở đây một tháng rưỡi rồi. Chà, cậu còn lạ gì nữa. Tớ cứ thức trắng một tối thì râu mọc không phải ngụy trang nữa - Người cán bộ lại tiếp tục câu chuyện cũ - Tháng tư năm ngoái chính mình ký giấy sinh hoạt Đảng gửi đến đội điều trị Quân y cho cậu, cả giấy chứng nhận thưởng huân chương sau trận tập kích đồi 31 . Mấy cậu thương binh trong trận đó được cáng đi đội điều trị 3 đều lần lượt trở về đơn vị hết. Chỉ riêng mình cậu không thấy trở về chúng mình cứ mong mãi . Hiện giờ danh sách của cậu ở tiểu đoàn cũ vẫn còn giữ lại, liệt vào quân số đi nằm Quân y chưa về. 

Khuê trình bày:

- Chuyến ấy vết thương của tôi cứ tấy đi tấy lại phải mổ hai ba lượt. Được phép ra viện thì đơn vị đã trở vào chiến trường. Trên khu bộ đang cần một số đi áp tải tù binh về hậu phương. Thế là được điều đi. Xong hai tháng tôi xin ra chiến đấu thì quân lực khu bộ trả lời hiện đang cần tiểu đội trưởng đã tham gia chiến đấu huấn luyện tân binh cho "công rường 4". Thế là tôi lại tạm được điều đi "nông trường 5" thuộc "công rường 4", trước thì tạm thời, về sau thành biên chế chính thức. 

- Bây giờ cậu làm gì bên ấy? 

- Trước tôi ở đại đội trinh sát. Bây giờ làm cần vụ cho thủ trưởng. 

Khi hai người sắp chia tay, người chính trị viên cũ hỏi Khuê:

- Cậu muốn trở về bên này với chúng mình không? 

- Tôi vẫn nhớ anh em bên ấy nhưng tôi ở bên này cũng đã quen - Khuê đáp - Tùy trên thôi, ở đâu cũng được anh ạ. Các anh định xin tôi trở về ư? 

- Vậy thì chúng mình sẽ xin cậu trở về với chúng mình. "Bên ta" sư đoàn đang chủ trương thu thập các cán bộ cũ đã từng chiến đấu có thành tích để xây dựng truyền thống cho các đơn vị. Hẳn cậu chưa biết tin sư đoàn "bên ta" đã quyết định đề bạt cậu lên chức trung đội trưởng từ sau chiến dịch năm ngoái. Và ban cán bộ đã sắp xếp cậu làm trung đội trưởng ở đại đội cũ chứ không đi đâu cả. 

Cuộc gặp gỡ bất ngờ trước ngày mở đầu chiến dịch và câu chuyện vừa trao đổi đã gây cho Khuê đôi chút suy nghĩ. Không phải hoàn toàn Khuê không có đôi chút so sánh giữa công việc hiện tại anh đang làm và địa vị một cán bộ trung đội. Nhưng cái điều chủ yếu đang chi phối anh, sau cuộc gặp gỡ với đồng chí chính trị viên cũ, là những ý nghĩ đầy phấn khởi lẫn tự hào, về một giai đoạn trong đời làm chiến sĩ của mình. Khuê đang sống lại không khí những ngày gần kết thúc chiến dịch năm ngoái: Tiểu đội anh lần đó được lệnh lên tiếp ứng cho một trung đội bạn bị vây trên mỏm đồi 31 . Anh phụ trách tiểu đội dẫn anh em tám người mỗi người chỉ mặc độc một chiếc quần đùi trắng. Bốn bề cát trắng xóa, bom và pháo hạm của chúng bắn không lúc nào dứt y như giã cát nhào thành thủy tinh vậy. Khuê mở mắt trừng trừng bốn chung quanh chỉ thấy một bức tường trăng trắng của những hạt cát trong chớp lửa đang di động. Anh cứ ôm súng nhằm thẳng hướng tiếng súng trường và tiếng súng máy lao tới, dẫn cả tiểu đội xung phong thành hàng ngang đâm thẳng vào giữa đội hình đang còn lộn xộn của một toán quân Mỹ vừa từ trên trực thăng đổ xuống. Cái thằng Mỹ đầu tiên Khuê gặp, bị một nhát lê anh đâm xuyên qua hông, có lẽ phải cao hơn Khuê nửa mét là ít. Đến khi chết hắn vẫn giữ nguyên tư thế như lúc đầu tiên hắn thoạt trông thấy anh: Hai con mắt xám trợn ngược trên cặp lông mày bạc như lông mày một người mắc bệnh hủi, cái mồm méo xệch đi nom rất khủng khiếp. Đó là một trận đánh sảng khoái nhất hoàn toàn chỉ có lính Mỹ, những tên lính Mỹ lấc cấc, những tên lính Mỹ ngờ nghệch, những tên lính Mỹ hung hãn, bằng nhiều tính cách bộc lộ trong một giây thảng thốt của thần kinh kẻ vừa đặt chân xuống đất, những tên lính Mỹ vẫn còn cầm súng ngã xuống nằm giúi giụi, xác thằng này đè lên xác thằng khác. Và cái trận đánh Mỹ hoàn toàn bằng bạch binh đó chỉ kết thúc sau có năm phút, từ lúc Khuê dẫn tiểu đội lao sập xuống đầu chúng như một cái lưỡi tầm sét. 

Chiều hôm đó, Khuê đánh bạn với một cậu chiến sĩ bên tiểu đoàn 1. Anh chiến sĩ cùng trung đoàn này nguyên trước đây là lính đại đội vận tải trực thuộc trung đoàn bộ. Cứ nhìn cách anh ta cõng hàng cũng thấy, cái lưng bao giờ cũng cúi xuống vừa mức độ, hai cánh tay bắt chéo khoanh trước ngực, bước chân ngắn và đều dặn, đầu để trần, những món tóc xõa xuống trán gió đánh lất phất không thấy dính một hạt mồ hôi nào. Anh ta thò tay trong túi quần lấy trao cho Khuê một cái gói con con. 

- Gì vậy? 

- Muối rang đấy. Thỉnh thoảng cậu ăn một hạt cho đỡ khát nước. 

- Ăn muối đỡ khát nước ư? 

- Chứ sao, lâu lâu hãy nhấm nháp một hạt. Cậu hãy cầm lấy mà dùng, xem ra vẫn còn phải làm cái công việc thồ hàng này lâu lâu nữa đấy! Lính vận tải đã có kinh nghiệm: Đi hàng mà cứ tu từng bi đông nước là không ăn thua gì đâu, chỉ tổ chóng đổ mồ hôi, mà đổ mồ hôi nhiều là mệt, đi một đoạn đã muốn ngồi bệt xuống cỏ rồi - Người bạn thổ lộ - Mình ức thật, cứ tưởng xin về đơn vị chiến đấu sẽ được cầm súng đánh nhau ngay, mình cứ nắm chắc hành quân vào tới nơi là cắm lưỡi lê vào súng, chà!

Suốt dọc đường người bạn kể cho Khuê nghe nhiều chuyện bên vận tải: Tâm lý các chiến sĩ vận tải nếu không xác định lập trường phục vụ đúng đắn thì khó lòng có thể yên tâm công tác được. Các chiến sĩ đi thồ hàng khó khăn nặng nhọc bao nhiêu cũng chịu được, nhưng không mấy người có thể yên tâm làm cái việc hàng ngày lên trận địa đi thu nhặt các đồng chí của mình bị thương, bị hi sinh...

- Trước khi hành quân cậu có về phép không? - Anh ta hỏi Khuê. 

- Có. 

- Vùng cậu chúng nó bắn phá có dữ không? 

- Dữ. 

- Nhà cậu có "bị"gì không? 

- …Không. 

- Gia đình mình cũng không có ai việc gì. Nhưng làng mình thằng Mỹ đã ném bom hai ba bận, có nhà mất ba bốn người. Ngay hôm mình về, chúng nó rải bom bi vào một lớp học của trẻ con ở làng bên cạnh làng mình. Tận mắt mình lần đầu trông thấy những đứa trẻ chết. Trẻ con chết bom bao giờ mắt chúng nó cũng mở. Chà, cái thằng Mỹ, giá được giết hết chúng nó đi cũng chưa bắt chúng nó đền hết tội ác này đâu.

Đến khu rừng lim gần A Giơi, hai người nhập vào một đoàn khá đông và góp gạo thổi cơm ăn chung. Mọi người hỏi thăm nhau mới biết đều là lính trung đoàn 5, ai nấy vui vẻ nhận nhau: "Đều là lính ông Kinh cả đấy! " Mọi người nói chuyện vui vẻ ầm ĩ. Câu chuyện xoay quanh nhận định những đặc điểm của lính Mỹ. Một cậu ngồi bên cạnh hỏi Khuê: 

- Cậu đã chạm trán thằng Mỹ lần nào thật "giáp lá cà” chưa? 

- Rồi. 

Khuê tham gia câu chuyện nhưng hình như đầu óc anh đang để tận nơi khác. Có đôi mắt trẻ con cứ nhìn đau đáu vào anh. Đôi lòng đen như hai hạt nhãn cứ gắn vào đôi mắt anh. Đó là đôi mắt to, sáng, hết sức ngây thơ của đứa em trai vừa chết bom ở nhà. "Trẻ con chết bom bao giờ mắt cũng mở". Hình như tất cả những cặp mắt ngây thơ của những đứa trẻ đều đang hướng về anh, và chúng đang hỏi anh sẽ làm gì? Cặp mắt từng chiến sĩ ngồi vây chung quanh cũng đang hướng về anh. Anh đang kể cho họ nghe trận đánh “giáp lá cà” bằng bạch binh năm ngoái, trận đánh quân Mỹ trên đồi 31 . 

- Chao ôi ! - Cậu chiến sĩ vận tải nhìn Khuê hết sức thán phục - Lần đó cậu giết được tất cả mấy thằng?

- Không nhớ hết, nhưng cũng không nhiều đâu. Lần đó mình chỉ đạt dũng sĩ diệt Mỹ cấp hai. Mình chỉ nhớ cái thằng cuối cùng, mình bắt nó làm tù binh, mặt nó còn non choẹt, đầu húi trọc, cẳng tay cẳng chân dài như vượn, khi bị bắt nước mắt nước mũi của nó chảy ròng ròng! Có lẽ nó đã khóc rống lên nhưng mình chẳng nghe thấy gì cả, mình chỉ thấy hai con mắt ướt đang nhìn mình, đúng là mắt con chó lúc người ta sắp đem buộc lên cái thang gỗ để cắt tiết. Tự nhiên mình thấy không nỡ giết, mình ra hiệu nó tháo giày treo lên cổ nhưng nó chưa kịp tháo ra thì mình đã khoát tay bảo anh em dẫn đi. Thằng Mỹ cứ một mực quỳ sụp xuống mười ngón tay trắng nhợt cào lên những vết máu của những thằng chết dính trên đầu gối mình. Mình cùng anh em leo lên đồi 31 , chỗ trận địa phòng ngự của trung đội bạn, vừa lên tới nơi thì chút lòng thương hại cuối cùng của mình đối với thằng lính Mỹ không còn nữa, mà chỉ còn có lòng căm thù: tất cả anh em thương binh của ta đều bị giết hết, bằng những nhát dao đi rừng đâm xuyên từ phía dưới ức lên đỉnh đầu! 

- Mẹ nó, những bận đi lấy thương binh mình cũng đã trông thấy cảnh như thế, nhiều bận! - Anh chiến sĩ vận tải kêu lên bằng giọng phẫn nộ - Bọn lính Mỹ và lính Pắcchunghy có lối giết thương binh như thế đấy? Mình đã trông thấy tận mắt nhiều anh em mình bị nó "làm" như thế. Cả với tử sĩ chúng cũng làm lối dã man như thế! 

- Lúc bấy giờ các cậu xử trí với thằng lính Mỹ còn sống như thế nào? - Một cậu đang bưng bát cơm hỏi Khuê, một tay cầm tàu lá chuối cẩn thận che trên bát cơm vì lúc đó một cơn mưa vừa trút xuống.

- Chúng mình chẳng phải làm thế nào cả - Khuê nói - Bởi vì ngay lúc đó, hai chiếc "ép" đã tới trút bom cháy xuống giữa sườn đồi 31 , chúng nó hủy hết xác chết bọn lính của chúng, và thằng Mỹ bị mình bắt cũng chung một số phận ấy. Cái thằng Mỹ bao giờ cũng "giải quyết chiến trường" một cách giản đơn và chóng vánh như thế. Chính mình cũng bị thương lây với cái thằng Mỹ bị bắt. 

- Lần đó cậu tìm đường bò về được hay phải có anh em vận tải lên cáng về? 

- Mình bò về được. Mà lạ thật, lúc bị thương người mình cứ y như không phải là của mình nữa. Tất nhiên là mình cõng được cái thân mình cũng đã thấy nặng gấp hàng chục lần cõng cái ba lô này - Khuê vừa nói vừa ngồi xuống luồn hai chiếc quai ba lô vào vai - Đi đi thôi các cậu, chúng mình bám lấy nhau vừa đi vừa nói chuyện cho vui. Chúng mình toàn là cánh "nông trường 5" cả có phải không?

Mọi người lại tiếp tục đi. Anh chiến sĩ vận tải thành khẩn mang giúp Khuê một hòm đạn và một cái hộp sắt đựng nụ xòe bộc phá. Không khí thoảng mùi nấm hương sau cơn mưa và mùi gỗ mục từ lâu đời. Một con chim cất tiếng kêu như tiếng lợn. Một con suối ở gần chảy ầm ầm. Mọi người khoác những chiếc ba lô nặng chất đầy hàng từ trong khóm rừng le chui ra, đang sửa soạn leo dốc. Trên cao, ào ào nhiều tốp máy bay lao vút qua đầu. Ở một lối đi bên phải có một người vạch cây tìm sang hỏi thăm: 

- Các đồng chí có phải "nông trường 13" đó không?

- Thuộc "công trường"nào? 

- "Nông trường 13" là "nông trường 13?" 

- Thế thì không phải ! Sao đồng chí lại gắt với chúng tôi? 

Một lát sau, Khuê và đoàn chiến sĩ “nông trường 5" chưa leo lên khỏi chân dốc đã lại thấy một cán bộ khác, bên hông đeo súng ngắn, một chùm lựu đạn cán dài khua lách cách giắt quanh dây lưng to. Anh cán bộ này lại hỏi: 

- Các đồng chí có phải thuộc "nông trường 5" không? 

- "Nông rường 5" đây. Có việc gì đấy hả đồng chí? - Khuê nhận ra đồng chí cán bộ đang hỏi là trợ lý tham mưu của trung đoàn mình (đồng chí này vừa mới trên sư đoàn về, Khuê chưa biết tên). 

Đồng chí trợ lý tham mưu giục hối hả: 

- Các đồng chí về đơn vị ngay! 

- Có việc gì mà gấp vậy? - Nhiều người hỏi cùng một lúc. 

- Lệnh xuất kích ngay đêm nay! Các đồng chí chạy quàng lên cái, ở nhà đã ngồi vào sa bàn rồi!

Mọi người vừa mừng vừa ngơ ngác: Vừa mới hôm kia trên đả thông phải chuẩn bị tinh thần đi vận tải "lót ổ" trong một tháng kia mà! 

Khuê vỗ vai anh chàng lính vận tải đang sốt ruột đi chiến đấu: 

- Thôi thế là hết thắc mắc nhé! 

Anh ta bất ngờ ôm lấy Khuê: 

- Được đi đánh rồi! Chúng mình vắt chân lên cổ mà chạy về cho kịp xuất kích, đi nào anh em ơi ! 

Mọi người đều reo lên! Người cán bộ tham mưu đi truyền tin đã quay lưng đi tìm những đoàn bộ đội khác đang cõng hàng đi rải rác phía sau. 

Khuê tìm thấy chính ủy Kinh trên dọc đường hành quân xuất kích của bộ đội, trên một đoạn công binh sư đoàn và công binh Mặt trận mở từ tuần lễ trước. Những con đường xuất kích làm sẵn tua tủa như chân nhện, từ khu rùng bộ đội tập kết xuống sát thị trấn Khe Sanh ngoài đường 9, càng ra sát đường càng nhỏ và mảnh dần rồi mất hút trong cỏ tranh. Đã mấy ngày địch thả bom B.52 liên tục. Cây cối đổ ngả xuống lấp kín các mặt suối, những cây còn đứng đều tước xơ. Mùi thuốc bom lẫn trong bùn xông lên mùi hăng hắc thum thủm. Có lẽ có con chồn hương nào chết quanh đây. Không khí thoảng mùi thuốc bom có mùi xạ. Khoảng ba giờ chiều, trời sáng và âm u. Máy bay thỉnh thoảng lao rẹt qua. Hai thằng OV.10A đảo tít mấy vòng rồi biến đi. Lại hai "thằng" khác đến. Trên bầu trời âm u không lúc nào vắng tiếng máy bay trinh sát. 

Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 5 đang xuất kích.

Bên đường, chốc chốc lại có một vài người mồm miệng thở dốc như kéo bễ, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chạy tới vứt cái ba lô to và nặng xuống bên đường, lập tức đã có một cán bộ quân nhu trung đoàn đứng đợi sẵn trao tận tay một khẩu súng, một cái bao đồ và một gói cơm nắm. Trong hàng quân lại được bổ sung thêm những tay súng. Cán bộ và tổ trưởng ba người liền đi sát bên cạnh tranh thủ phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch chiến đấu. Bộ đội hành quân theo đội hình đột phá: Phân đội bộc phá đi trên đầu, mỗi người mang một ống bộc phá. Những phân đội đột kích và dự bị lần lượt hành quân phía sau. Trang bị bộ đội thật gọn nhẹ. Mỗi người chỉ mang súng và một cơ số đạn, dây lưng to thắt rất chặt. Phần lớn chiến sĩ vừa "đi hàng" về. Nét mặt người nào cũng nghiêm trang, chuyện trò ít đi, những cặp mắt nhìn đăm đăm, ai nấy đang nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới.

Tuy đã già và quá quen thuộc với những cuộc hành quân xuất kích nhưng lần này Kinh cũng không khỏi hồi hộp. Cho đến bây giờ nỗi lo của Kinh khi mới bắt đầu nhận lệnh gần như đã được giải quyết: Thế là tiểu đoàn 1 đã thu quân gần đủ. Bởi vì lệnh Mặt trận giao cho đơn vị phải nổ súng rất cấp bách (lý do cấp trung đoàn cũng chưa được biết), Nhẫn đang ở hướng Tà Cơn chưa về kịp, Kinh phải xuống trực tiếp nắm tiểu đoàn 1 là đơn vị duy nhất tham chiến. Trong cuộc hội ý thường vụ Đảng ủy, Kinh chỉ đề ra một yêu cầu trước mắt làm sao tập hợp được bộ đội. Chỉ trong nửa ngày, Kinh đã cùng với Xướng, tiều đoàn trưởng tiểu đoàn 1 lãnh đạo bộ đội hoàn thành mọi việc chuẩn bị. Tất cả khối công việc ấy, đáng lý một trận đánh "điểm" trong hoàn cảnh bình thường phải làm mất vài ngày.

Bây giờ thì cả khối lượng công việc bề bộn coi như đã gần xong. Bộ đội vừa hành quân vừa tiếp tục hoàn thành chuẩn bị, cán bộ tiếp tục kiểm tra. Tinh thần các chiến sĩ rất náo nức. Kinh đang đi giữa những người chiến sĩ của mình như đi giữa một khối thuốc nổ. ông nhìn thấy rõ trên khuôn mặt từng người, tất cả ý chí giết giặc thể hiện trong mưa nắng và gian khổ trên các chặng đường hành quân dọc Trường Sơn đang được cô đúc lại. Lúc này, chính ủy Kinh tự cảm thầy con người mình đang bị chi phối bới hai luồng tư tưởng. Một bên là lính cách hồ hởi vốn sẵn có khiến ông "cảm tác" như một nhà thơ ra trận, một bên là những suy tính đầy trách nhiệm của một bí thư Đảng ủy, làm sao cho đơn vị mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đáng thắng giòn giã trận đầu! 

Kinh đứng bên đường, vừa thoáng trông thấy Khuê khoác ba lô chạy tới liền hỏi ngay: 

- Có nụ xòe không? 

- Có. Nhưng chỉ có một hộp thôi thủ trưởng ạ! 

- Thế là tạm đủ rồi! - Kinh mừng rỡ thét gọi đồng chí tiểu đoàn trưởng - Xướng, có nụ xòe mới về đấy!

Các tiểu đoàn trưởng bộc phá hấp tấp chạy tới. Những chiếc nụ xòe hình tròn xinh xắn như những chiếc con quay đẽo bằng gỗ đã được phân phát, đem gắn vào đầu các ống và gói bộc phá đã lắp kín sẵn. Khuê cùng chính ủy Kinh đi vượt lên đầu đội hình hành quân. Trước mặt hai người là Xướng, tiểu đoàn trưởng. 

- Có thể đi nhanh hơn được không - Kinh góp ý kiến với Xướng - Đây là trọng điểm suối cạn, nên cho bộ đội vượt nhanh qua đoạn này! 

- Vâng - Xướng trả lời nhanh và dứt khoát - Tôi đã hạ lệnh cho bộ phận bộc phá vượt qua khu vực này thật nhanh!

Bộ đội phía sau bắt đầu phải chạy gằn từng quãng để bám sát bộ đội đi đầu hàng tăng tốc độ. Một tổ ba người trong đó có một anh chàng mắt xếch vác khẩu súng trung liên vừa chạy vừa ôn nhiệm vụ chiến đấu. Tổ trưởng chạy sau hai tổ viên nêu câu hỏi; "Nhiệm vụ đại đội ta thế nào?" "Báo cáo tổ trưởng - Anh chàng mắt xếch đặt ngang khẩu trung liên trên cánh tay, ngón tay lần kéo căng sợi dây da đeo súng mới phát còn mới toanh, hai con mắt đảo nhìn anh tổ trưởng chạy bành bạch phía sau một cách vui nhộn - Nhiệm vụ đại đội 6 của ta phải làm sao "xơi tái một con dê"(ý nói diệt một tiểu đoàn)! - “Đừng có tếu, chính ủy trung đoàn đi phía sau kia kìa!" - "Tôi không dám tếu, nhiệm vụ đại đội ta phụ trách hướng phải, phạm vi đột phá mở thẳng giữa trại lính ngụy" - "Thế nhiệm vụ trung đội ta?" – “Trung đội ta tiến dọc theo đường cái…” - "Các cậu ơi, ban đêm làm sao xác định được đâu là trại lính ngụy?" - "Nghe phổ biến thế thì trong thị trấn Khe Sanh chỉ có toàn là nguy" - "Biết làm thế nào, trong quyết tâm tự tớ đề ra đêm nay phải đạt dũng sĩ diệt Mỹ!" 

Kinh đi bên một cậu tiểu đội trưởng rất trẻ, nghe cách nói năng cũng biết cậu này rất hăng hái và xốc nổi.

- Đồng chí đã đánh nhiều chưa? 

- Chưa nhiều đâu thủ trưởng ạ! Sao cấp trên chưa giao cho trung đoàn ta nhiệm vụ chủ yếu mà chỉ ... phối thuộc? 

- Phối thuộc mà không phải nhiệm vụ nặng nề hay sao, ông? 

- Vẫn biết thế, đồng chí chính ủy ạ, nhưng... 

- Đồng chí có thể nắm chặt tiểu đội khi vào tung thâm không? - Kinh đang nói chuyện với cậu tiểu đội trưởng trẻ tuổi của đại đội 6, chợt ông ngừng lại nghe ngóng. Chỉ trong một giây tất cả các dây thần kinh trong cơ thể Kinh liền căng lên như những sợi dây đàn. Giữa những tiếng nói chuyện, tiếng gót giày trên đường, tiếng báng súng và lựu đạn va nhau, tiếng lựu đạn khua lách cách vào lưỡi lê, Kinh chợt nhận ra có tiếng réo của những trái bom đang xé không khí trên khoảng trời xám mù mịt... 

- Tất cả nằm xuống! - Trên đầu hàng quân tiểu đoàn trưởng Xướng đã hạ lệnh. 

- Tất cả bình tĩnh, các đồng chí nằm xuống tại chỗ!- Kinh nhắc lại mệnh lệnh của Xướng. Khuê cũng nhắc lại mệnh lệnh của chính ủy: 

- Tất cả nằm xuống tránh B.52! 

Một dây tiếng nổ ầm ầm dậy đất!

Sau một loạt bom thứ nhất, khúc đường vốn đã ngổn ngang trên đó đại đội 6 đang xuất kích đã chìm ngập trong khói đen và lửa đỏ quyện lấy nhau, màu khói đặc sệt như hắc ín. Ngay giữa khi tiếng bom còn nổ vang rền như những vòng xoáy trong không khí, Khuê đã nhổm dậy. Một bàn chân rất to đi dép cao su đạp lên khuỷu đầu gối Khuê. Qua vùng khói sặc sụa đến nghẹt thở, Khuê mừng rỡ trông thấy Kinh không hề bị xây xát, đã đứng dậy từ lúc nào. Kinh nhổ một bãi nước bọt đặc sánh lẫn cả đất cát: 

- Khuê, ông đi theo mình! 

Con mắt bị thương nhìn Khuê, một thoáng, cái đồng tử vàng bắt ánh lửa sáng như ánh thép hiện nổi bật trên khuôn mặt chính ủy. Kinh đã nhìn thấy trước mắt việc lãnh đạo bộ đội đang đứng trước một tình thế khó khăn: Sự thắng bại của trận đánh đêm nay đang được quyết định tại đây, sẽ được quyết định ngay trong lúc này và chính ông là người phải quyết định. 

Hai người chạy vài bước, nhảy qua một đám lửa cháy lem lém trên một cái thân cây đổ thì trông thấy Xướng xuất hiện giữa bức tường khói. 

- Báo cáo anh Kinh - Xướng nói như đang ra lệnh - Anh ra khỏi khu vực này ngay. Chỉ ít phút nữa chúng nó lại đánh tiếp. 

Kinh túm lấy áo tiểu đoàn trưởng, sợ Xướng bị điếc nên Kinh phải thét vào tai:

- Anh nắm lấy bộ đội tiếp tục hành quân ngay! - Kinh chỉ định từng người sẽ ở lại với mình trong khu vực địch đang oanh tạc nhưng Xướng không đồng ý để cho Kinh ở lại: 

- Tôi đề nghị, anh là chính ủy trung đoàn... 

Kinh: 

- Thôi đi, anh hãy đi mà lo chỉ huy bộ đội tiếp tục xuất kích. Quàng lên, hãy giữ vững tinh thần bộ đội. Tôi đang ra lệnh cho đồng chí đấy! 

Kinh trở nên hoạt bát chưa từng thấy. Chính trị viên phó tiểu đoàn và bộ phận cấp cứu vừa tới, Kinh liền phổ biến kế hoạch tránh oanh tạc trong khi cấp cứu và lấy thương binh. 

Sau loạt bom thứ nhất, địch lại tiếp tục đánh vào khu vực đại đội 6 vừa đi qua. Kinh và Khuê ở lại sau. Hai người đều nằm trong vùng bom. Đại đội 6 có năm đồng chí hi sinh và gần một chục đồng chí bị thương trong loạt bom đầu tiên. Kinh xắn quần sục vào tùng hốc đá cõng các đồng chí chiến sĩ bị thương đến chỗ cấp cứu. 

Một tiếng sau thì việc giải quyết hậu quả đã xong. 

Các chiến sĩ bị thương sau khi được băng bó đều xung phong cầm súng tiếp tục hành quân chiến đấu. 

Hoàng hôn rủ xuống làm nổi bật những đốm lửa cháy trên các thân cây lim.

Máy bay trinh sát bay lượn trên bầu trời. Đại đội 6 đang tập họp. Bộ đội xếp thành hai hàng ngang đứng chênh chếch theo một cái sườn dốc. Kinh bước ra đứng trước hàng quân. Bộ quân phục của Kinh đã bị hơi bom xé rách từng mảng. Trong bóng tối, khuôn mặt Kinh già đi. Tiếng nói của ông cũng rè đi. Nhưng chỉ lát sau đã nghe tiếng ông nói oang oang át cả tiếng máy bay trinh sát và tiếng rít từng bầy phản lực thỉnh thoảng rẹt qua đầu. 

- Kẻ địch không thể ngăn được chúng ta - Kinh ban đầu nói dằn từng tiếng một - thời gian bây giờ hiếm lắm. Tôi chỉ nhắc lại một điều: Đây là trận đánh đầu tiên của trung đoàn ta. Đảng ủy trung đoàn giao cho tiểu đoàn 1 nhiệm vụ này là Đảng ủy tin ở các đồng chí. Lúc này cả trung đoàn đang nhìn vào các đồng chí! Thương vong, khó khăn đến mấy các đồng chí vẫn phải tiến lên để tấn công địch, vẫn phải chiến thắng địch! Quân đội cách mạng là như thế này đây các đồng chí ạ! 

Kinh muốn ôm lấy từng người chiến sĩ của mình: Trong hàng ngũ bộ đội của ông bây giờ có nhiều mái đầu quấn băng trắng, những cánh tay, những mảng lưng và những khuôn ngực để trần, những vòng băng cá nhân quấn quanh người đã thấm ướt máu. Kinh đưa mắt nhìn suốt hàng quân của mình rồi lát sau mới nói tiếp: 

- Chúng ta tiếp tục xuất kích! Những đồng chí vừa hy sinh đang đòi chúng ta trả thù! Những đồng chí chúng ta vừa hy sinh không cho phép chúng ta mất tinh thần và buồn bã. Tôi đề nghị với các đồng chí: chúng ta hãy giơ cao súng và cười lên rồi xuất phát! Chúng ta hãy cười vào mặt chúng nó!

Tiếng cười liền vang lên trong hàng quân, biểu lộ sự bình tĩnh và quyết tâm. 

- Thề chiến đấu trả thù cho các đồng chí hi sinh! 

- Xin thề! 

- Xin thề! 

Từng loạt tiếng hô nổ ra như những loạt súng. Những cánh tay quấn băng nâng những khẩu súng trường và tiểu liên, những khẩu súng máy lên quá đầu: 

- Tiêu diệt hết bọn Mỹ dã man ăn cướp! 

Tiếng thét diệt địch vang giữa những dịp cười. Tiếng thét phát ra từ những trái tim đang bốc lửa. Tiếng thét đông đặc, phẫn nộ, rùng rùng khép kín như một hàng ngũ xiết chặt. 

Đại đội 6 tiếp tục hành quân cấp tốc để đuổi kịp đội hình tiểu đoàn. Hướng thị trấn Khe Sanh, trời đầy mây và chưa bao giờ im lặng đến như thế. Không khí oi bức như sắp vỡ ra. Ánh đầu ruồi trên các nòng súng nhấp nhô, chiếm một khoảng lớn trên nền trời. Trong hàng quân đang chuyển đi hùng dũng, Khuê lại bắt gặp anh chàng tiểu đội trưởng trẻ tuổi nhất đại đội 6, khuôn mặt cậu chiến sĩ bừng bừng như say, đầu quấn một cuộn băng trắng khiến chiếc mũ vải nằm nhô cao trông lạ hẳn đi. Đồng chí chiến sĩ mắt xếch vác trung liên cũng đang đi vừa đi vừa tiếp tục rút ngắn đoạn dây da đeo súng treo trước cổ, mũ mãng đã bay đâu mất, mái tóc hình lưỡi bò xõa sát đôi mắt mở trừng trừng càng xếch ngược nom rất dữ dội.

- “Chào đồng chí !” 

Khuê nghe tiếng chào, nhìn một lát rồi mới nhận ra anh chiến sĩ vận tải mới bổ sung sang bộ binh vừa đi cõng hàng với mình buổi sớm. Anh ta cười cười, cánh tay giơ khẩu súng trường đã giương lê lên như muốn nói với Khuê một điều gì đó, ánh đầu mũi lê trắng lấp loáng. 

- Không xây xát gì chứ? - Khuê hỏi cậu chiến sĩ vận tải. 

- Không việc gì cả! - Anh chàng trả lời - Tối nay chỉ cần tôi nhảy được vào đồn thôi! 

- Chỉ nói phét! - Không biết một tay nào đó đã đùa được rồi. 

Kinh đứng sang bên đường. Chưa bao giờ Kinh thấy đội hình một đại đội xuất kích đi chiến đấu lại dài và đông đúc như thế. Cũng chưa lần nào đứng trước hàng quân trước giờ nổ súng, Kinh lại thấy vững tâm như lần này. Trước mặt ông, thực sự là một khối thuốc nổ. Năng khiếu dự đoán vốn linh cảm của Kinh đã nhìn thấy trước chiều hướng tư tưởng bộ đội như một đám mây tích điện sắp nổ ra thành sấm sét trên đầu kẻ thù.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro