dau tranh danh chinh quyen 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tại sao trong giai đoạn 1939-1945 Đảng ta lại thực hiện điều chỉnh chiến lược Cách mạng. Nội dung của sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đó. Anh (chị) cho biết vấn đề dân tộc đã được giải quyết như thế nào trong thời kỳ này ?Đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đường lối đó kết tinh trí tuệ của Trung ương Đảng đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh nhằm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trong thời kỳ 1939-1945, có 6 nghị quyết quan trọng của Đảng có vai trò quyết định trực tiếp tới thắng lợi. Mỗi nghị quyết được xây dựng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có vị trí, vai trò nhất định, đảm bảo tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và thể hiện tập trung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nghị quyết Trung ương 6 của Đảng ngày 6,7,8.11.1939 được thông qua tại Hội nghị Trung ương do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ và các đồng chí Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn chủ trì, tại Bà Điểm (Gia Định cũ). Nghị quyết nhận định về chiến tranh thế giới thứ hai và dự báo cách mạng Trung Quốc sẽ thắng “chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”. Nghị quyết chỉ r” việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương để chống chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến. Tập trung vào nhiệm vụ lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai phản bội quyền lợi dân tộcẶ Đảng đánh giá khá toàn diện, sâu sắc về vị trí vấn đề dân tộc, thái độ các giai cấp đối với vấn đề dân tộc, kết hợp phong trào giải phóng dân tộc Đông Dương. Chính sách của Đảng cộng sản Đông Dương “không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”.

Nghị quyết Trung ương 6 trình bày khá phong phú, toàn diện, những vấn đề lý luận cách mạng cụ thể, dễ thực hiện. Nội dung nghị quyết đánh đấu sự chuyển hướng bước đầu nhưng dứt khoát về chỉ đạo chiến lược cách mạng trong thời kỳ trực tiếp chuẩn bị đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hội nghị Trung ương 7 ngày 6, 7, 8, 9.11.1940 tại Đình Bảng (Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ chủ trì nhận định tình hình thế giới và Đông Dương, chỉ r” kẻ thù lúc này là phát xít Nhật - Pháp và tay sai phản động. “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương v” trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Nghị quyết chỉ r” việc tập trung xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế và đặt hẳn vấn đề mở rộng các đội tự vệ, “trực tiếp v” trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mệnh quân, trực tiếp tham gia điều khiển bạo động”. Các cuộc khởi nghĩa Bắc sơn (9.1940), Nam kỳ (11.1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1.1941) đã bùng nổ, báo hiệu đấu tranh vũ trang giải phóng của các dân tộc Đông Dương đã bắt đầu

Tháng 2.1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước. Tháng 5.1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng). Sau khi phân tích r” tình hình thế giới và chính sách của Pháp, Nhật, tình hình cách mạng Đông Dương, Nghị quyết chỉ r” “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Nghị quyết quyết định thành lập Việt Minh, bao gồm tất cả các tổ chức quần chúng cứu quốc. Văn kiện đó đã chỉ r” các điều kiện và xúc tiến các công việc lớn chuẩn bị lực lượng toàn quốc cho v” trang khởi nghĩa như xây dựng khu căn cứ du kích, tập trung sự lãnh đạo của Đảng với các tổ chức vũ trang, sẵn sàng khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa. Nghị quyết chỉ r” các nội dung về Đảng lãnh đạo Mặt trận Việt Minh.

Nghị quyết Trung ương 8 đã phát triển khá hoàn chỉnh và sâu sắc vấn đề chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc. Nó có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945.

Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng họp tại V”ng La (Hà Nội ) tháng 2.1943 chỉ r” sau 6.1941, tính chất chiến tranh thế giới thay đổi, chiến tranh sẽ phức tạp, quyết liệt, tàn phá dữ dội; Liên Xô cùng phe dân chủ sẽ thắng; Pháp - Nhật sẽ xung đột, phong trào cách mạng sẽ lớn mạnh “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao”. Nghị quyết chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp, đặc biệt chủ trương đặt mình vào tình thế khẩn cấp, gấp chuẩn bị khởi nghĩa, tích cực tuyên tuyền, tổ chức tranh đấu, vận động các giới công vận, nông vận, thanh vận, binh vận, phụ vận, vận động phú hào, dân tộc thiểu số, chuẩn bị kế hoạch toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới. “Quân Anh - Mỹ - Trung Quốc sẽ vào Đông Dương diệt Nhật. Khi ấy ta phải lợi đúng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao thiệp với Anh - Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân dân Đông Dương và rút ra kh”i Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát xít Nhật- Pháp “.

Nghị quyết này là bước phát triển mới và thể hiện sự nhạy bén chính trị, tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời trong bối cảnh Nhật đảo chính Pháp 9.3.1945. Chỉ thị của Trung ương đã nhận xét tình hình, chỉ r” nguyên nhân, tính chất và mục đích cuộc đảo chính Nhật - Pháp. Các cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Thời cơ tiền khởi nghĩa đã đến. Kẻ thù trước mắt, duy nhất là phát xít Nhật. Nhiệm vụ của Đảng là phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đảng thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; mạnh dạn xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói”; phương pháp đấu tranh là chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích. Trung ương dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, đã bám chắc, tiến sâu vào đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng Minh, để phía sau sơ hở. Trung ương còn cảnh báo tinh thần chủ động, phải dựa vào sức mình là chính, không được ỷ lại để nếu quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi. Cần tổ chức Uỷ ban quân sự cách mạng, tổ chức huấn luyện theo Chương trình Việt Minh và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng Minh.

Bản Chỉ thị ngày 12.3.1945 thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, chỉ đạo rất kịp thời của Thường vụ Trung ương Đảng, khích lệ cao độ tinh thần vận dụng sáng tạo của các cấp uỷ Đảng và cán bộ, đảng viên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 14,15.8.1945 ra đời trong bối cảnh tình thế cách mạng đã xuất hiện trực tiếp trên đất nước ta... Nghị quyết chỉ r” tình hình thế giới và Đông Dương và nêu ra các chủ trương lớn chỉ đạo khởi nghĩa giành độc lập như thành lập Uỷ ban hành chính nơi ta làm chủ; tránh xung đột, giao thiệp thân thiện với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước taẶ Đảng chủ trương tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc; lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng để tránh đối phó nhiều kẻ thù một lúc; nêu các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, đặt Quốc ca và định Quốc kỳ, quyết định nhiều nhiệm vụ tác chiến quân sự quan trọngẶ

Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị, tầm nhìn chiến lược và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trước giờ phút quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Nghị quyết này của Đảng, sau đó là Đại hội quốc dân Tân Trào (16.8) đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Hơn 60 năm đã trôi qua, kể từ khi các Nghị quyết trên của Đảng ra đời chúng ta có nhiều suy nghĩ về phương pháp xây dựng nghị quyết Đảng. Đó là các nghị quyết được xây dựng rất công phu, đúng đắn và sáng tạo. Nội dung rất phong phú. Các nghị quyết đều phân tích kỹ hoàn cảnh lịch sử trong nước, quốc tế, tương quan lực lượng cách mạng, tác động của tình hình đó và dự báo sự phát triển của phong trào cách mạng. Quan điểm và thái độ của Đảng ta trong đánh giá tình hình là thẳng thắn, đúng sự thật. Nêu ra những chủ trương, chính sách lớn, khẩu hiệu, phương pháp và hình thức tiến hành cách mạng. Quan điểm của Đảng là gắn bó cách mạng Việt Nam, Lào và Cămpuchia, nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Đảng ta đều chú trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng và củng cố các mặt trận dân tộc thống nhất. Trong bối cảnh phải tổ chức đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa giành chính quyền, nghị quyết của Đảng rất chú trọng tới đường lối và nghệ thuật quân sự, dự báo thời cơ và tình thế cách mạng để bám sát và chuẩn bị kỹ khi thời cơ đếnẶ Các nghị quyết Đảng đã phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, kịp thời phát hiện những vấn đề mới và uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện.

Hiện nay toàn Đảng đang tiến hành Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại hội X của Đảng. Việc tập trung trí tuệ tập thể các cấp uỷ Đảng, tất cả đảng viên, các nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân trong nước, ngoài nước đang nghiên cứu, góp ý kiến vào các dự thảo các văn kiện của Đảng bộ các cấp để trình ra Đại hội, xây dựng thành các nghị quyết mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tinh thần của các nghị quyết đúng đắn, sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 giúp chúng ta có tinh thần trách nhiệm hơn trong việc xây dựng nghị quyết, hình thành đường lối cách mạng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướ

.Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945

1. Sự chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương:

- Tháng 11 - 1939, hội nghị trung ương 6 họp tại Gia Định do Nguyễn Văn Cừ chủ trì.

- Nội dung:

+ Mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho Đông Dương và Việt Nam hoàn toàn độc lập.

+ Tạm gác khẩu hiệu Cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu Tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống địa tô cao và cho vay nặng lãi. Khẩu hiệu Thành lập chính quyền Xô viết công - nông - binh được đổi thành Thành lập chính phủ cộng hòa dân chủ Đông Dương.

+ Phương pháp đấu tranh: từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền đế quốc tay sai. Chuyển từ đấu tranh công khai, hợp pháp sáng đấu tranh bí mật, bất hợp pháp.

+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay Mặt trận dân chủ Đông Dương bao gồm các tầng lớp, giai cấp,... gặp nhau ở lòng yêu nước và chống đế quốc.

- Ý nghĩa: đánh dấu sự mở đầu cho việc thay đổi chủ trương đấu tranh cách mạng của Đảng.

2. Công cuộc chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền:

- Xây dựng lực lượng chính trị:

+ Lấy Cao Bằng, nơi thí điểm xây dựng các hội cứu quốc. Năm 1942, 9 châu ở Cao Bằng đều có hội cứu quốc trong đó 3 châu là hoàn toàn. Ủy ban Việt minh Cao Bằng và Ủy ban Việt minh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.

+ Ở các thành phố, thị xã, hội phản đế được thành lập ( 11 - 1939 đến 5 - 1941 ) chuyển thành hội cứu quốc.

+ Đảng tập hợp các lực lượng học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản dân tộc,... vào Mặt trận cứu nước. Năm 1943, đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam và vận động thành lập Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 6 - 1944, Đảng dân chủ Việt Nam tham gia Việt minh.

+ Vận động binh lính ngoại Kiều chống phát xít. Báo chí của Đảng và Mặt trận Việt minh được phát hành: Giải phóng, Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập,... nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh chống thủ đoạn chính trị, văn hóa của địch.

- Xây dựng lực lượng vũ trang:

+ Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, lực lượng vũ trang chuyển thành các đội du kích hoạt động ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Ngày 1 - 5 - 1941, trung đội cứu quốc quân 1 ra đời, thực hiện chiến tranh du kích trong 8 tháng ( từ 7 - 1941 đến 2 - 1942 ). Ngày 15 - 9 - 1941, trung đội cứu quốc quân 2 thành lập.

+ Cuối 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định xây dựng các đội tự về vũ trang, tổ chức các lớp huấn luyện về quân sự, chính trị.

- Xây dựng căn cứ địa cách mạng:

+ Bắc Sơn, Võ Nhai và Cao Bằng được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng, hàng ngày diễn ra các hoạt động sản xuất và chiến đấu của các đội cứu quốc và lực lượng vũ trang.

+ Ngày 28 - 2 - 1943, hội nghị trung ương Đảng họp tại Võng La ( Đông Anh ) đã vạch ra kế hoạch cụ thể, chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang.

- Sau hội nghị:

+ Ở thành phố, thị xã: các đoàn thể Việt Minh, hội cứu quốc được xây dựng và củng cố ở các trường học.

+ Ở miền Trung: tổ chức Việt Minh phat triển mạnh trong công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị.

+ Ở miền Nam: tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Tây Ninh.

+ Ở Bắc Sơn, Vũ Nhai: cứu quốc quân hoạt động mạnh nhằm tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị và mở rộng căn cứ.

+ Tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn: năm 1943, lập ra 19 ban xung phong Nam tiến.

+ Ngày 7 - 5 - 1944, Việt Minh ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa, sắm vũ khí, đuổi thù chung.

+ Tháng 10 - 1944, trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh đã chuyển khởi nghĩa Bắc Sơn - Võ Nhai thành chiến tranh du kích và trì hoãn kháng chiến Cao - Bắc - Lạng.

+ Ngày 22 - 2 - 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Ngày 24 và 25 - 12, ta chiến thắng lẫy lừng ở Phay Khắt, Nà Ngần.

II. Cách mạng tháng Tám 1945 - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập

1. Khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận trong Cao trào kháng Nhật cứu nước:

a. Thời cơ trong cách mạng tháng Tám:

- Điều kiện khách quan vô cùng thuận lợi:

+ Liên Xô và Đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho các dân tộc đứng lên giải phóng.

+ Quân Nhật ở Đông Dương và bọn tay sai thân Nhật hoang mang rệu rã đến cực điểm. Kẻ thù của cách mạng nước ta suy yếu đến cực độ.

- Điều kiện chủ quan cho cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi rất đầy đủ:

+ Đảng cộng sản Đông Dương đã có quá trình chuẩn bị chu đáo cho thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám trong suốt 15 năm với ba cao trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945. Trong cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ và chu đáo về mặt đường lối, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu taaph hợp được cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

+ Khi phát xít Nhật đầu hàng không điều kiện quân Đồng Minh, Đảng ta kịp thời chớp thời cơ, chuẩn bị chu đáo hơn nữa và dũng cảm phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ 13 đến 15 - 8 - 1945 đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa và Đại hội quốc dân Tân Trào ngày 16 và 17 - 8 - 1945 hưởng ứng mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, chuẩn bị những công việc cuối cùng cho Tổng khởi nghĩa.

b. Chủ trương của Đảng:

- Ngày 12 - 3 - 1945, ban thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật - Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị đã nêu rõ là điều kiện khởi nghĩa vũ trang đã chín muồi, phát xít Nhật là kẻ thù chính và cụ thể của cách mạng Đông Dương, thay khẩu hiệu Đánh đổ Nhật, Pháp bằng Đánh đuổi phát xít Nhật.

- Đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, biểu tình, thị uy, vũ trang du kích chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa.

- Phát động phong trào chống Nhật cứu nước, làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa.

Ý nghĩa: thể hiện sự sáng suốt, kịp thời của Đảng là kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

c. Khởi nghĩa từng phần:

- Ở khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng:

Đội Việt Nam tuyên truyền cứu quân và lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, huyện, thành lập chính quyền, các hội cứu quốc được củng cố và phát triển.

- Ở Bắc Kì:

Diễn ra phong trào phá kho thóc Nhật, giải quyết nạn đói ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Quảng Yên,...

- Ở Quảng Ngãi:

Tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ.

- Ở nhà tù đế quốc:

Hỏa Lò ( Hà Nội ), Nghĩa Lộ, Sơn La,... tù chính trị nổi dậy đấu tranh, đòi tự do, phá nhà lao. Đây là nguồn cán bộ bổ sung rất lớn cho cách mạng.

- Hội nghị quân sự Bắc Kì ( họp từ 15 đến 20 - 4 -1945 ):

Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cấp tốc cho cán bộ quân sự và chính trị, phát triển du kích, xây dựng căn cứ địa phá Nhật. Ủy ban quân sự Bắc Kì được thành lập.

- Sau hội nghị:

+ Ngày 16 - 4 - 1945, Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng trung ương và các cấp.

+ Ngày 15 - 5 - 1945, đội Việt Nam tuyên truyền phối hợp với cứu quân thành Việt Nam giải phóng quân và có bảy chiến khu trung ương ra đời.

+ Tháng 5 - 1945, Hồ Chí Minh chuyển từ Pắc Pó ( Cao Bằng ) về Tân Trào ( Tuyên Quang ), lấy đây là trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.

+ Tháng 6 - 1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập.

Công việc chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám vẫn đang diễn ra và cả dân tộc ở trong tư thế chờ thời cơ để giành chính quyền.

2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền trong cả nước:

- Ngay từ những ngày đầu tháng 8 - 1945, một không khí gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa đã sục sôi trong cả nước. Khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, đồng thời thực hiện quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào thì cuộc khởi nghĩ vũ trang của quần chúng đã chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang tổng khởi nghĩa.

- Chiều 16 - 8 - 1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đội quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào về thị xã Thái Nguyên bao vậy và tiến công quân Nhật ở thị xã, mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

- Ngày 18 - 8 - 1945, bốn tỉnh giành chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam.

- Sáng 19 - 8 - 1945, cả thủ đô Hà Nội tràn ngập khí thế cách mạng. Đồng bào kéo tới quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, chia ra nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát, các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế quần chúng khởi nghĩa, hơn 1 vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chống lại. Ngày 19 - 8 - 1945, cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn ở Thủ đô Hà Nội. Sự kiện này có tác dụng cổ vũ to lớn đối với phong trào của cả nước.

- Ngày 23 - 8 - 1945, Huế - thành lũy hàng trăm năm của phong kiến triều Nguyễn và thủ phủ chính quyền bù nhìn trung ương cũng lọt vào tay nhân dân cách mạng.

- Ngày 25 - 8 - 1945, Sài Gòn - thành lũy cuối cùng của chế độ thực dân sụp đổ. Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác dụng vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước.

- Ngày 28 - 8 - 1945, hai tỉnh cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng giành chính quyền. Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày ( 14 - 8 đến 28 - 8 ), cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, chính quyền cả nước thực sự thuộc về tay nhân dân ta.

- Ngày 30 - 8 - 1945, Bảo Đại - ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm ở nước ta.

- Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời.

3. Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử của Cách mạng tháng Tám 1945:

* Ý nghĩa:

- Đây là một chiến thắng lớn của ta, nó đã phá tan xiếng xích nô lệ của Nhật - Pháp và lật nhào ngai vàng phong kiến. Nước ta trở thành một nước độc lập, nhân dân ta từ nô lệ lên địa vị làm chủ nước nhà.

- Đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc; kỉ nguyên nhân dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước.

- Góp phần vào chiến thắng phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của đế quốc và góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng như hai nước Lào và Campuchia.

* Nguyên nhân thắng lợi:

- Nguyên nhân khách quan:

Chiến thắng của Đồng minh trong cuộc chiến chống bọn phát xít, đặc biệt là chiến thắng phát xít Đức và bọn quân phiệt Nhật Bản của Hồng quân Liên Xô đã cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nên khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phát động là nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà.

+ Cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã có những chiến lược, chủ trương và sách lược đúng đắn dựa trên lí luận Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam.

+ Để giành thắng lợi, Đảng ta đã chuẩn bị trong suốt 15 năm và đã rút được nhiều kinh nghiệm.

+ Toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi sinh, gian khổ quyết tâm giành độc lập, tự do. Các cấp lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

* Bài học kinh nghiệm:

- Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam một cách phù hợp, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Đảng đã tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng nên đã tạo nên sức mạnh toàn dân và phân hóa, cô lập kẻ thù rồi tiến tới đánh bại chúng.

- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiến tới tổng khởi nghĩa.

- Đảng luôn kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh về tổ chức, tư tưởng và chính trị, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo phong trào cách mạng thành công.

(Sưu tầm)

__________________

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#1212123