Phần 3
11. Vàng ở các mức cao kỷ lục
MỨC CAO KỶ LỤC TỚI MỨC CAO DANH NGHĨA
Không thể dự đoán được giá vàng đang giao dịch tại thời điểm cuốn sách này được xuất
bản. Quả thực, nếu chắc chắn có thể làm như vậy, tôi sẽ bỏ việc từ nhiều năm trước và rất
vui sướng chứng kiến thế giới xoay vần từ một chiếc ghế thoải mái sang trọng ở một vị trí
tuyệt đẹp. Tuy nhiên, tôi lại phải đang tìm kiếm lý do cơ bản khiến vàng tăng giá từ các mức
thấp trong 19 năm trong năm 1999 tới các mức cao danh nghĩa mọi thời đại trong năm
2008, như thấy trong Hình 11-1.
Đầu năm 2008, giá vàng phá vỡ mức 850 đô-la lần đầu tiên kể từ năm 1980 và sau đó leo
lên mức 1.000 đô-la để đạt mức cao nhất mọi thời đại. Phải thừa nhận đây chỉ là mức giá
cao nhất về mặt danh nghĩa; về mặt thực tế, tôi chứng kiến giá niêm yết ở nơi nào đó đã ở
mức từ 1.960 đô-la đến 2.370 đô-la. Một khoảng cách rộng đáng ngại nhiên cho thấy còn vô
số cách thức khác nhau để chứng minh một "sự thực tài chính", trong trường hợp này thì
tùy thuộc vào phương pháp luận về lạm phát và giảm phát nào được sử dụng, và có thể đưa
ra một vài lý do cơ bản khiến vàng tăng giá.
Năm 1980, vàng tăng tới các mức cao nóng do sự kết hợp của những quan ngại về lạm phát,
giá dầu, và người Nga tiến vào Afghanistan. Bạc được xem là khó kiềm chế hơn, có lúc đạt
tới mức khoảng 49 đô-la/ounce về mặt danh nghĩa, ở mức chưa bao giờ là thách thức
nghiêm trọng từ lúc đó. Trong môi trường quan ngại, hạn chế năng lượng, và không chắc
chắn, vàng là điểm đến tự nhiên của các nhà đầu tư.
Hình 11-1: Giá vàng tính theo Đô-la Mỹ, 1997 - 2008
Nguồn: EcoWin, Barclays Capital
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1990, rõ ràng vàng không còn được coi là một khoản đầu
tư tài chính đối với đa số người dân nữa. Chiến tranh Lạnh kết thúc, giá năng lượng thấp, và
trong một thế giới bị chi phối bởi tin tức về những phát kiến công nghệ, tại sao ai cũng phải
quan tâm đến một cơ hội công nghệ thấp như vậy? Ngoài ra, tất cả các nhà đầu tư dài hạn
(ngân hàng trung ương) đang chối bỏ nó; Australia, Thụy Sĩ, và Anh đã bán hết vàng, hoặc ít
nhất thì cũng tuyên bố ý định như vậy. Thị trường bị chi phối bởi nghiệp vụ phòng ngừa rủi
ro – thúc đẩy bán - của các nhà sản xuất vàng, và cuộc tranh cãi về việc ai nên chịu trách
nhiệm việc chuyển nhượng vàng diễn ra gay gắt giữa những người khai mỏ và các ngân
hàng trung ương.
Vàng bị cho là thứ yếu đến mức dường như chỉ có thể làm được rất ít để cứu vãn nó. Phải
thừa nhận các ngân hàng trung ương châu Âu đã nỗ lực để xóa bỏ điều không chắc chắn
bằng cách xác định thời gian cho hoạt động bán của mình và sau đó, các công ty khai mỏ
tuyên bố ý định không muốn tự bảo hiểm. Tuy nhiên, vào thời gian các máy bay đâm vào
tòa nhà Trung tâm thương mại thế giới ngày 11 tháng 9, vàng vẫn lụi tàn. Có một số quỹ
đầu tư hợp tác mua vàng vào hôm đó song rất ít – dù sao cũng chỉ có một vài người mong
muốn nhiều hơn so với mức độ sợ hãi – và rốt cuộc, vàng không thể giữ được lợi ích củanó.
Trong suốt thời gian tái tranh cử của Tổng thống George W. Bush năm 2004, Al-Qaeda công
bố một cuốn băng kêu gọi tiến hành các cuộc tấn công mới nhằm vào Mỹ. Các nhà bình luận
chính trị bị chia rẽ về phương diện liệu đây có phải là một lợi thế tranh cử cho ông Bush
hay ông John Kerry. Các thị trường tiền tệ tương tự cũng bị chia rẽ theo cách hiểu của
chúng đối với những ai sẽ hưởng lợi. Trong sự hỗn độn đó, đồng đô-la không biến động. Rõ
ràng, vàng tăng giá là vì: sự không ổn định, bầu cử và các cuộc tấn công. Tuy nhiên, việc
thiếu lòng tin vào thị trường thậm chí không thể phản ứng được với mẩu tin quan trọng
như đơn giản đã gắn với số phận của đồng đô-la. Khi không thể phản ứng, vàng không thể
vượt qua được rào cản như vậy.
Nguyên nhân của việc tăng giá gần đây nằm ở chỗ này. Sự suy yếu chắc chắn của đồng tiền
Mỹ đã chứng kiến lợi ích của vàng, ngoài khoản tiền đầu tư lớn nhằm tìm kiếm cơ hội và
hàng hóa mới ngày càng được nhìn nhận như là một lớp tài sản có thể chấp nhận được, một
sự không tin tưởng ngày càng tăng đối với mức độ không thể sai lầm được của các nhà chức
trách phụ trách tiền tệ, và mong muốn đối với các khoản đầu tư rõ ràng và đơn giản để hiểu
hơn là việc phụ thuộc vào một loạt kết quả may mắn hay một bài toán khó hiểu. Quả thực,
những đặc điểm này cộng với việc một số ngân hàng trung ương buộc phải cắt giảm lãi suất
khi phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính tiếp sau một cuộc khủng hoảng trước
đó, thậm chí trong khi phương tiện truyền thông loan tin lạm phát quay lại, đã giúp tạo ra
một cơn bão hoàn hảo cho vàng.
Quả vậy, nếu được hỏi về một danh sách điều kiện mua hàng để đảm bảo một mức phục hồi
giá vàng, những sự kiện gần đây đã ghi dấu ấn rất nhiều với mọi người.
VÀNG: GẦN NHƯ TIỀN
Như tôi đã đề cập ở trước, thông qua việc vàng được chào giá bằng đồng đô-la và về cơ bản
được các cá nhân chỉ định thanh toán không phải bằng đô-la mua, giá sẽ có xu hướng tăng
khi đồng đô-la mất giá. Giả định rằng việc tăng mua sẽ diễn ra trên thị trường, và vì vậy, giá
phải tăng để duy trì cân bằng. Về một ý nghĩa nào đó, đó là sự giải thích "hàng hóa" cho
vàng là một loại tiền tệ; đơn giản cho rằng khi đồng đô-la tăng, vàng, theo khái niệm này,
phải giảm.
Hinh11-2:Giávàng vàEuro/đô-la,tháng1/2000-
5/2008 Nguồn: EcoWin, Barclays Capital
Ít nhất, đó là về lý thuyết. Trong thực tế, lý do cơ bản nói chung là không cần thiết, và nói
đơn giản, nếu đồng đô-la giảm giá, vàng sẽ gần như luôn tăng giá. Một ví dụ minh họa cho
những mối tương quan gần đây được trình bày trong các Hình 11-2 và 11-3. Trong khi mối
tương quan là cực kỳ cao giữa vàng và đồng euro (loại tiền tệ được giám sát chặt chẽ nhất
để đánh giá những biến động về vàng), có thời điểm nó đã lên gần 1.00 (hay hoàn toàn
tương đương). Hình 11-2 cho thấy vàng và tỷ giá hối đoái đồng euro/đô-la bám sát nhau
một cách hợp lý từ năm 2000.
Hình 11-3: Tương quan vàng và Euro/đô-la, tháng 1/2000-5/2008
Nguồn: EcoWin, Barclays Capital
Tuy nhiên, Hình 11-3 thú vị hơn theo nhiều cách. Biểu này cho thấy những biến động của cả
hai gần như là tương quan ở mức độ gần 0,79; đó không phải là một quy mô dịch chuyển
mà đơn giản là khi vàng hay đồng euro tăng, mặt hàng còn lại cũng tăng. Đối với người theo
chủ nghĩa thuần túy, sự so sánh này có thể coi là vô lý, vì cả hai đều được chào giá theo
đồng đô-la. Tuy nhiên, tôi cho rằng nó đơn giản cho thấy công cụ quan trọng chính của vàng
là đô-la, và đó chính là mối quan hệ mà các nhà giao dịch phải dành đa số thời gian của
mình để theo dõi. Khi họ có xu hướng chuyển sang vàng và trao đổi euro sang đôla đang
tăng, vàng có thể sẽ tăng theo một tỷ lệ lớn hơn song cũng có thể là một tỷ lệ nhỏ hơn khi
họ có nhiều hoài nghi.
Hình 11-4: Giá vàng theo đồng euro, 1997-2008
Nguồn: EcoWin, Barclays Capital
Tuy nhiên, không thể nói rằng vàng chỉ theo mỗi đồng đô-la. Quả thực, Hình 11-4 cho thấy
vàng theo khía cạnh đồng euro. Như có thể thấy, kim loại này về thực chất cũng tăng hơn so
với loại tiền tệ trong một vài năm qua. Quả thực, việc tăng lên chứng tỏ vàng tăng giá (cả
theo đồng đô-la và đồng euro) khi nó đơn giản chỉ là sự phản ứng trước việc bán hàng loạt
đồng đô-la. Vì thế, trong khi điều quan trọng là theo dõi hoạt động của vàng theo mối quan
hệ với đồng đô-la, để đánh giá thực tế hơn, cần phải rà soát lại mức tăng kỷ lục của nó đối
với các loại tiền tệ khác (điển hình là đồng euro), sẽ đưa ra được một bức tranh rõ ràng
hơn về hoạt động và tâm lý thị trường của kim loại này.
Đối với những người mới tham gia thị trường vàng không hoạt động theo cách tương tự
như một thị trường hàng hóa tiêu chuẩn hoặc thậm chí giống như bạch kim. Với các kim
loại khác, nó không có gì ngoài một trường hợp cung và cầu. Ví dụ, nếu một lò luyện bạch
kim bị buộc phải đóng cửa do gặp sự cố, giá sẽ tăng. Quả thực, vào đầu năm 2008, những
mối quan ngại đối với nguồn cung ứng điện cho các mỏ bạch kim ở Nam Phi đã khiến cho
kim loại này tăng giá lên hơn 700 đô-la trong chỉ một tháng, tăng khoảng 45%.
Trong khi vàng tăng nhẹ hơn trước thông tin tương tự, vì nó đã bị kiểm soát nhiều. Trước
hết, Nam Phi không phải là nơi cung cấp 80% nguồn vàng của thế giới, nhưng lại là nhà
cung cấp bạch kim cho toàn cầu với một số lượng gần tương tự (dưới hình thức kim loại đã
khai thác). Thậm chí nước này hiện không còn là nhà sản xuất vàng lớn nhất thế giới nữa;
theo GFMS, vinh dự đó thuộc về Trung Quốc. Hai là, trong khi không có các kho trữ bạch
kim lớn, vẫn còn rất nhiều kho để chứa vàng, trong thực tế là các kho dự trữ của các ngân
hàng trung ương hay thậm chí là vàng vụn châu Á, có thể đưa ra thị trường vào những thời
điểm khi vàng tăng giá cao. Vì thế, vàng hiếm khi, nếu có, giao dịch theo các xu hướng cung-
cầu thông thường - nhập khẩu giảm ở nước này hoặc tăng ở nước khác – có thể bằng một
thông báo bổ sung, ít nhất là không trong thời gian rấtdài.
Tuy nhiên, thị trường nhìn vào "bức tranh lớn" về cung và cầu, mức độ tích lũy lớn, hay
thanh lý của các ngân hàng trung ương hoặc các ý định sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi
ro của các công ty khai thác vàng.
Vì thế, thị trường có xu hướng bỏ qua các tít tin cho biết nhu cầu vàng của Ấn Độ đã tăng
cao hoặc xuống thấp mà lại chú ý tới những tin là cơ sở để đưa ra quyết định giao dịch. Đặc
điểm bỏ qua các dòng kim loại thường này khiến cho vàng được đặt sang một bên so với
các mặt hàng khác và trao cho nó một quy chế gần giống như một loại tiền tệ.
Rõ ràng, yếu tố tiền tệ là nhân tố dài hạn quan trọng nhất tác động lên giá vàng. Trong khi
những mối quan ngại về lạm phát hay thay đổi về địa chính trị có thể khiến vàng xuống giá
hoặc lên giá so với nhiều loại tiền tệ, cuối cùng, chính yếu tố tiền tệ khiến các nhà giao dịch
thường thích đem ra tham chiếu thậm chí chỉ thông qua một tuyến thứ cấp, cụ thể là vàng
có thể tạm thời có mối tương quan rất mạnh với dầu mỏ, mà đổi lại, dầu mỏ có mối tương
quan rất lớn với đồng đô-la.
VÀNG: GẦN NHƯ LÀ HÀNG HÓA
Trong vài năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự nổi lên của các mặt hàng như một lớp tài
sản. Ngày càng nhiều ngân hàng trở thành các nhà kiến tạo thị trường trong lĩnh vực này,
hoặc thậm chí chỉ là những giao dịch trắng và có sự tăng nhanh về số lượng các cơ quan
đưa ra các sản phẩm có quan hệ hàng hóa cho cơ sở khách hàng của mình - nếu chúng là
"tiền thực sự" (quỹ lương hưu) hoặc các đầu tư đòn bẩy (các quỹ hợp tác đầu tư và tương
đương).
Trong khi vàng có một số đặc điểm của hàng hóa, nó thường được kết luận như một phần
của lập luận chung về mức độ đa dạng hóa, vốn là trung tâm của lời kêu gọi coi loại hàng
hóa này là một lớp tài sản cụ thể và không có mối tương quan với thu nhập cố định hay vốn
cổ phần nói riêng. Vì thế, trong khi vàng gần như một loại tiền tệ, nó cũng gần như là hàng
hóa. Tuy nhiên, một trong những đặc điểm thường khiến cho hàng hóa đặc biệt hấp dẫn
cho đầu tư dài hạn là chúng về mặt truyền thống là giảm giá, rất khác so với thị trường
contango chiếm ưu thế đối với vàng.
Khoản giảm giá cho phép các trade optic (vòi giao dịch) trở nên hấp dẫn - thuật ngữ sử
dụng để miêu tả một vụ giao dịch bằng mắt thường mà không có khủng hoảng về con số. Ví
dụ, nếu giá vàng giao ngay hôm nay là 975 đô-la và bạn được biết mình có thể mua vàng với
thời hạn giao hàng trong 2 năm với giá là 1.050 đô-la, điều đó nghe ra có sự hấp dẫn như là
có thể mua đồng đô-la trong ba tháng (thời gian giao hàng tiêu chuẩn là 8.500 đô-la, song
bạn chỉ phải trả 7.700 đô-la nếu bạn sẵn sàng chờ 2 năm). Tuy nhiên, cả hai đều là mức giá
thị trường thuận lợi. Bối cảnh này cũng có nghĩa là việc dư thừa các sản phẩm đầu tư được
đưa ra dưới dạng hàng hóa có xu hướng sử dụng hàng hóa giảm giá bất cứ khi nào có thể
mà không sử dụng vàng, cụ thể là nếu triển vọng chung là tăng khi "vòi giao dịch" trở nên
hấp dẫn nhiều hơn.
Tuy nhiên, vàng không bị phớt lờ trong bối cảnh mọi người có tâm lý ưa thích nó và theo
yêu cầu, được đưa vào trong nhiều sản phẩm được cơ cấu. Tình hình này đơn giản sẽ không
tồn tại đối với các kim loại khác như thiếc hoặc chì.
NHẬN THỨC VỀ C\C NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ VÀNG
Nghiên cứu đa dạng hóa và lợi nhuận đã chứng kiến nhiều quỹ hợp tác đầu tư, các quỹ
lương hưu, các ngân hàng tư nhân, các quỹ đầu tư nhà nước, v.v... có liên quan trong các thị
trường hàng hóa. Giả định từ nhiều nhà bình luận cho thấy các ngân hàng trung ương cũng
có liên quan chặt chẽ tới việc săn lùng này và vì thế sẽ trở thành (gần như) hàng hóa mà họ
biết rõ nhất – vàng.
Như đã đề cập trong Chương 4, người ta nhận thức được từ thị trường rằng các ngân hàng
trung ương đang mua vàng. Nếu trên thực tế, họ không mua vàng, họ đang phát triển các
chiến lược. Nếu họ không phát triển các chiến lược, đó sẽ chỉ là vấn đề thời gian cho đến khi
họ làm như vậy. Quả thực, tôi đã được các nhà quản lý cấp bộ về các quỹ hợp tác đầu tư cho
hay họ "biết việc Fed đã yêu cầu Trung Quốc mua vàng". Lý do cơ bản là vào thời điểm đó,
Fed đang cố gắng tăng tỷ lệ lãi suất dài hạn song có thể không làm một cách hiệu quả được
như vậy khi Trung Quốc đang mua số lượng lớn trái phiếu chính phủ của Mỹ; vì thế, người
Trung Quốc được cho là đã bị yêu cầu thay vì mua hối phiếu của Mỹ, họ phải mua vàng. Một
ví dụ khác: khi đọc trên mạng, một nhà phân tích cho rằng một quốc gia sản xuất dầu mỏ
nào đó chắc chắn sẽ mua vàng; tôi cho nó là vô nghĩa song thị trường lại tăng giá. Tại sao tôi
lại có thái độ kiêu căng như vậy? Đơn giản: Ngân hàng trung ương của nước đang bàn đang
bán vàng cho tôi vào thời điểm đó! Tất cả điều đó chứng minh không nhất thiết đó phải là
tài sản hay triển vọng cụ thể nào cho vàng mà chỉ đơn thuần là tâm lý có thể làm tăng giá.
TÂM LÝ
Tất cả thị trường đều bị dẫn dắt bởi tâm lý, ít nhất là một phần. Bất kỳ ai từng đầu tư hoặc
giao dịch sẽ nhớ những thời điểm khi mọi thông tin xấu đều bị cố ý phớt lờ và những thông
tin tốt đều được nắm bắt như thể nó được khắc vào đá vậy, cho tới khi điều này bị quay
ngoắt 180∘.
Vàng phản ứng chính xác theo cách này; cuối những năm 1990, gần như không thể tìm
được một ai tích cực nói về vàng, đến năm 2007, chính những người dự báo về tình hình
ảm đạm lại trở thành những người cung ngắn hạn. Loại hoạt động giao dịch này đôi khi dẫn
tới việc vàng được miêu tả là một thị trường hậu hợp lý hóa. Mọi người mua vàng vì họ
muốn - họ thực sự không chắc chắn về lý do hoặc ít nhất không thể chỉ ra một sự kiện thôi
thúc họ mua vàng. Thay vào đó, trước hết là họ mua và rồi sau đó mới quan tâm đến lý do
cơ bản.
Tôi nhớ cuộc nói chuyện với đại diện của một ngân hàng trung ương về lý do tại sao vàng
đang tăng giá. Ông ta tự tin nói với tôi rằng một ngân hàng khác đã thông báo cho ông ta về
việc đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc sẽ được nâng giá vào cuối tuần, và vì vậy, người dân
địa phương đang mua vàng để đề phòng việc này. Một khi tin đồn này tác động tới các thị
trường quốc tế, các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng bị lôi vào cuộc.
Liệu tình trạng này có đáng tin cậy không? Nhìn lướt qua, câu trả lời có lẽ là "có". Tuy nhiên,
khi phân tích nhanh, bạn thấy rằng câu trả lời trên thực tế là "không". Thực ra, tôi đã chỉ ra
rằng điều đó chính xác là sai khi nhìn nhận như vậy. Nếu người Trung Quốc tin rằng đồng
tiền của họ đang được nâng giá, có nghĩa là sẽ có ít đồng Nhân dân tệ được bỏ ra để đổi
sang đồng đô-la. Vì thế, giá của bất kỳ tài sản nào do đồng đô-la chi phối, như vàng, trên
thực tế sẽ giảm về mặt giá trị đồng tiền địa phương.
Tuy nhiên, điều thực sự đúng là tâm lý thị trường tích cực, mọi người muốn mua và họ cần
thông tin để hợp lý hóa quyết định của mình. Thông tin này dường như đúng đắn và vì thế
khiến cho thị trường có cảm giác hài lòng với quyết định của mình. Như mọi người đều biết,
đồng Nhân dân tệ đã không tăng giá vào cuối tuần. Mặc dù đây là câu chuyện có thật, nó
cũng chỉ là một ví dụ đặc biệt. Tuy nhiên, khái niệm về tâm lý là một động lực định hướng là
rất quan trọng.
NHU CẦU TỰ NHIÊN VÀ NHU CẦU ĐẦU TƯ
Trong khi các dòng tít về cung và cầu, đặc biệt là khi liên quan tới nhập khẩu vàng hoặc con
số tiêu dùng, nói chung không tác động đến giá vàng, nhu cầu tự nhiên là nền tảng của thị
trường vàng trong nhiều thế kỷ.
Vàng có thể xuất hiện là đồ trang sức hơn là khoản đầu tư vào con số thống kê – đơn giản là
vì các cơ cấu thuế khác nhau có thể tạo sự nhạy cảm hơn với việc bán vàng như một đồ
trang sức hơn là theo miếng - về mặt lịch sử, đây là nơi đến cuối cùng của phần lớn số vàng.
Theo con số của GFMS đưa ra, lượng tiêu thụ trang sức trên thế giới là 2.401 tấn trong năm
2007 – tăng so với mức 2.284 tấn trong năm 2006 song vẫn còn thấp hơn đáng kể so với
mức kỷ lục 3.204 tấn năm 2000. Dễ dàng nhận thấy sự thay đổi này trong khoản đầu tư có
thể nhận biết, mà GFMS chứng kiến là 654 tấn trong năm 2007, tăng so với mức 165 tấn
năm 2000.
Tuy nhiên, với các giá vàng ở mức cao kỷ lục, các bản tin mạng tràn ngập tít tin như hãng
Reuters: "Nhu cầu vàng của Ấn Độ giảm khi giá vẫn đứng nguyên" hoặc "Nhu cầu vàng
trang sức quý I ở Italia giảm 30%", hoặc "Nhu cầu vàng trang sức của Thổ Nhĩ Kỳ chứng
kiến mức giảm 20%".
Thông qua tâm lý trên thị trường, các nhà giao dịch dễ dàng bỏ qua những tin tức này - một
trường hợp điển hình của việc phớt lờ những tin xấu. Tuy nhiên, nói chung là họ có thể thấy
thoải mái từ dòng vào của vàng đổ vào các ETF.
Trong khi các nhà phân tích có thể cố gắng theo dõi một số lượng lớn các quỹ vàng này trên
thế giới, các nhà giao dịch thực sự lại quan tâm về quỹ SPDR Gold Shares (trước đây gọi là
streetTRACKS), trừ phi một ai đó thúc đẩy họ chỉ ra một biến động lớn ở Johannesburg hay
bất kỳ nơi nào khác. Thậm chí sau đó, vì các thông tin chỉ lộ ra sau khi các thị trường đóng
cửa, nhiều người xem là một dấu hiệu của tâm lý nhà đầu tư.
Tuy nhiên, điều quan trọng lại nằm ở việc giải thích tiêu thụ vật chất. Các thị trường truyền
thống có thể trải qua môi trường giá cao - quả thực thậm chí chứng kiến việc bán vàng vụn
hơn là chỉ từ chối mua – song chừng nào việc sụt giảm trong thị trường này được bù đắp
bởi sự quan tâm tới các ETF, vàng có thể bị đẩy tới các mức giá cao mới, thậm chí không
cần có sự giúp đỡ của một trong những chỗ dựa truyền thống của vàng. Nói cách khác, nhu
cầu đầu tư thay thế cho nhu cầu tự nhiên.
NHỮNG CÔNG TY KHAI THÁC
Các nhà sản xuất vàng rõ ràng là những người bán vàng. Chỉ có điều họ đã thay đổi phương
pháp luận của mình mà thôi. Trước đây, các bàn giao dịch hàng hóa của các ngân hàng chủ
yếu được xây dựng để phục vụ các nhu cầu của lĩnh vực này, mà trong nhiều trường hợp,
lại liên quan tới sản lượng bán từ những năm sau đó.
Những yêu cầu từ các cổ đông của các công ty khai mỏ hầu như chấm dứt hoàn toàn điều
này. Đổi lại, việc này đã cải thiện được tâm lý, vốn ngăn cản nhu cầu bán giao sau ở một
mức độ lớn hơn. Quả thực, có thể ngành kinh doanh chính mà các ngân hàng đang cạnh
tranh với nhau là sự hỗ trợ cho các nhà sản xuất, hoặc cung cấp cho họ các cơ cấu thông
minh để tạo điều kiện cho các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro hiện thời. Động thái này đã
được tuyên bố để các công ty, là một thành tố quan trọng của nguồn cung toàn cầu, trở
thành một yếu tố quan trọng của nguồn cung trong chốc lát. Với hầu hết các sổ sách nghiệp
vụ phòng ngừa rủi ro giờ đây đã được gỡ bỏ, phần lớn công việc của họ lúc này liên quan tới
việc bán sản lượng hàng năm, thường chỉ dựa trên cơ sở giao ngay và cơ bản nhất là dựa
trên cơ sở hàng ngày.
THỰC TẾ CỦA C\C NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ VÀNG
Tôi đã đề cập đến các ngân hàng trung ương trong mục về vàng gần như hàng hóa, cụ thể là
về vai trò của chúng là người mua tiềm năng. Song có lẽ, việc chúng được nhìn nhận là
người mua thì gần với sự thực hơn.
Hồ sơ của các ngân hàng trung ương trên thị trường vàng đã áp đảo hồ sơ của bên bán.
Trong khi bên mua là Trung Quốc (mặc dù chưa rõ là từ khi nào), Áchentina, Ba Lan, và một
vài quan tâm ngoại vi ở một số nước nhất định, nơi có ngành công nghiệp khai mỏ trong
nước (như Philippin), danh sách của bên bán vẫn dài hơn. Anh, Australia, Thụy Sĩ, Pháp,
Bỉ,
Áo, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất, Thụy Điển, Canada, và Bồ Đào Nha đều là bên
bán vàng. Và đây không phải là một danh sách toàn diện.
Phải thừa nhận đây là danh sách các cơ quan gần như ở Trung Âu, song họ cũng là những
nước có dự trữ vàng lớn nhất và tỷ lệ vàng lớn nhất trong quỹ dự trữ của mình. Trong
những năm 1990, các ngân hàng trung ương đều được nhìn nhận là bên bán, cụ thể là sau
Australia, Thụy Sĩ và Anh đều tuyên bố kế hoạch bán vàng. Tuy nhiên, thỏa thuận về vàng
của ngân hàng trung ương châu Âu đã xóa đi được sự không chắc chắn này và thành công
đến nỗi hoạt động này không còn được xem là mối đe dọa nữa. Thực vậy, thị trường nhìn
nhận việc bán 500 tấn một năm (theo năm hạn ngạch thực tế) nhằm kiểm soát giá vàng và
nó quan tâm nhiều hơn nếu có những thâm hụt đối với con số này, cụ thể là nếu con số đó
không đạt được, đó được xem là tín hiệu tăng giá.
Nhân tố khác được các ngân hàng trung ương tác động lên giá vàng là thông qua chính sách
lãi suất.
LẠM PHÁT
Nói chung, các môi trường lãi suất thấp là tích cực đối với vàng, và quả thực là đối với
hầu hết các khoản đầu tư. Lôgic thì đơn giản. Nếu có tỷ lệ lãi suất 10% và vàng được giao
dịch ở mức 1.000 đô-la, vàng cần phải tăng lên mức đảm bảo 100 đô-la trong thời gian 1
năm để có lợi như một phương án loại bỏ rủi ro – như gửi tiền vào tiết kiệm hay vào trái
phiếu (T- bill), v.v... Rõ ràng, không thị trường tự do nào có thể đưa ra một khoản lãi
đảm bảo và vì vậy, cần phải trả trước để tạo ra một dịch chuyển lớn hơn. Như vậy, nếu
lãi suất chỉ đơn thuần là 1%, khoản đầu tư đó trở nên hấp dẫn hơn và đặc biệt nếu các
mức lãi suất thực tế làâm.
Tuy nhiên, với sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu và có cả lạm phát, các ngân hàng trung ương
rõ ràng đang làm một công việc tuyệt vời. Lạm phát không bị nhìn nhận là mối đe dọa vì các
nhà chức trách phụ trách tiền tệ có thể đơn giản tăng lãi suất để kiểm soát vấn đề này và
đảm bảo rằng có ít sự gián đoạn đối với sự an lạc kinh tế. Đây là chính là điểm mà bức
tranh
đi trệch đột ngột khỏi mức cao danh nghĩa trước đó của vàng nếu lạm phát không kiềm chế
được.
Đó là cho tới tháng 8/2007, thời điểm mà ở đó "khủng hoảng tín dụng" và "khủng hoảng
cho vay thế chấp" bước vào kho từ vựng hàng ngày. Trong khi Mervyn King, thống đốc
Ngân hàng Anh, ban đầu nói về "rủi ro tinh thần" khi giải cứu các cơ quan mà chính sách
của những cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước những khó khăn mà chính họ giờ đây
gặp phải, vẫn còn có chút chần chừ, với việc "máy bay trực thăng của Ben Bernanke" trở
thành một hình ảnh thường thấy - những bức tranh hoạt hình về vị Chủ tịch Cục dự trữ liên
bang đang thả những đống tiền mặt lớn cho người dân đang vui mừng đón nhận.
Sự trệch hướng này cũng là kết quả của những nhiệm vụ khác nhau ở các nước. Một số
ngân hàng trung ương được coi là gắn liền với tình trạng khỏe mạnh của nền kinh tế, trong
khi đối với một số khác, nhiệm vụ của họ đơn giản là giữ cho mức lạm phát nằm trong tầm
kiểm soát. Đối với nhóm đầu, tình hình dường như rất rõ ràng, đó là sự điều hòa giữa sự
suy thoái và lạm phát. Chính sách là giảm nhanh tỷ lệ lãi suất để ngăn ngừa sự sụp đổ của
thị trường nhà ở và cố gắng ngăn ngừa các tác động dây chuyền, những điều này được xem
là đang phá hủy quốc gia họ còn hơn lạm phát. Các nước trong nhóm sau bị hạn chế hơn
nhiều, và thay vào đó, các chính phủ lại xem xét các chính sách để giữ cho nền kinh tế
không bị mất ổn định.
Dù là bất kỳ lý do nào, đối với nhiều người, các nhà chức trách phụ trách tiền tệ dường như
không còn giữ vị trí tuyệt đối. Quả thực, họ bị rơi vào các hoàn cảnh mà có ít hoặc không
kiểm soát được như chúng ta.
Kết quả của biến động này đã tăng lên gấp đôi. Đầu tiên, lạm phát trở thành mối quan ngại
thực sự ở nhiều nền kinh tế lớn phương Tây, và cũng là mối quan ngại ở cả Mỹ trong nhiều
năm. Hai là, có rất ít sự tin tưởng vào hệ thống này và khả năng của các nhà chức trách
trong việc kiểm soát được các sự kiện.
Môi trường này dẫn tới phần còn lại của những lý do làm tăng giá vàng.
TIN TƯỞNG TÔI – TÔI LÀ CHỦ NGÂN HÀNG!
Ở Ấn Độ, gần hai phần ba số vàng là do khu vực nông thôn mua chứ không phải là khu vực
đô thị. Kết luận này cho thấy do giới tài phiệt của nước này không thể sống ở làng và vì vậy,
vàng được mua làm của để dành, cụ thể là vì cộng đồng không chắc chắn về mức độ an ninh
khi để tiền ở ngân hàng hoặc do thiếu học vấn hoặc, hay một số cơ quan quả thực đã đánh
mất khoản tiền gửi tiết kiệm của họ hay được xem là không đáng tin.
Với các trung tâm tài chính lớn, dường như được hỗ trợ bởi quy định quản lý mạnh và các
cơ sở được vận hành tốt, sự quyến rũ của vàng ở các nước phát triển có thể được nhìn nhận
là đã bị giảm bớt đáng kể. Tuy nhiên, một loạt tin tức gần đây trên báo chí liên quan tới các
khoản cắt giảm khổng lồ mà một số lượng lớn ngân hàng phải làm, và gần như đột ngột bán
cho JP MorganChase của Bear Stearns, lôi một số ra khỏi tính tự mãn của họ: mặc dù, đối
với nhiều người, đây là tín hiệu mà các nhà chức trách quyết muốn đảm bảo sự ổn định của
hệ thống tài chính và để bảo vệ hệ thống này trong một thời gian dài.
Dù là lý do gì, rõ ràng, lòng tin vào hệ thống tài chính toàn cầu đã bị hủy hoại. Không chỉ đối
với người dân mà còn trong chính ngành này; khủng hoảng tín dụng đã trở nên tồi tệ hơn
do các ngân hàng không sẵn sàng cho vay nữa vì đơn giản, họ không còn tin vào tình trạng
tài chính của người vay. Vì thế, khi đã nghi ngờ, bạn nên giữ tiền trong tay.
Khía cạnh khác về vàng thật đơn giản. Trong một hoàn cảnh khi các ngân hàng bị cáo buộc
"đang viện vào chuyện hoang đường" hơn là "theo thị trường", một khoản đầu tư mà giá trị
của nó có thể kiểm tra được dễ dàng (và có thể bán được) là thích hợp. Quả vậy, một số
động cơ thúc đẩy ban đầu đằng sau các khoản đầu tư vào hàng hóa là tính đơn giản của câu
chuyện, ngừng nguồn cung và cầu lại tăng lên từ Trung Quốc hay những thứ khác. Và đó là
câu chuyện có thể hiểu dễ dàng mà không cần phải có số giả định thất thường. Vàng rõ ràng
hưởng lợi từ mong muốn đơn giản này trong những ngày đầu tăng giá, và xu hướng này
được thúc đẩy một khi quy mô vấn đề trong các hệ thống tài chính trở nên rõ ràng. Hoặc có
lẽ một miêu tả đúng hơn có thể là vì nhiều bài bình luận trên báo chí đã kêu gọi cần có sự rõ
ràng hơn, nên không chắc chắn ở nơi nào đó có đã chứng kiến vàng phá vỡ mức giá 1.000
đô-la.
Trong hoàn cảnh như vậy, nên có một khoản đầu tư mà không thuộc về trách nhiệm của bất
cứ ai. Nói cách khác, đây là biến đổi môi trường nhằm làm tăng sự quan tâm đến vàng.
KẾT LUẬN
Vì thế, đó không phải là một đặc điểm khiến vàng tăng lên các mức cao mọi thời đại. Thay
vào đó, đó là một số vấn đề đến cùng nhau khiến cho thị trường tăng giá cao hơn. Trong khi
tầm quan trọng của những yếu tố này sẽ thay đổi, có ít nghi ngờ rằng môi trường kinh tế và
đầu tư hiện này đã nhen nhóm lại sự quan tâm đối với vàng vì nhiều lýdo.
12. Tiếp cận vàng
Hy vọng, bạn giờ đây đã được trang bị đủ thông tin để thử và hiểu điều gì đang diễn ra trên
thị trường vàng; liệu các nhà kinh doanh có mù quáng chạy theo sự may rủi của đồng đô-la
hay có lẽ vàng đang diễn biến mà không liên quan gì tới các thị trường khác (kim loại này
hoạt động như thế nào đối với đồng euro). Liệu loại hàng hóa này có phục hồi? Liệu vàng
đang hoạt động như một hàng hóa đa dạng hóa đầu tư? Điều gì đang diễn ra trong nền kinh
tế toàn cầu? Liệu có bất kỳ tuyên bố nào gần đây từ các ngân hàng trung ương hay các quỹ
đầu tư nhà nước không?
Tuy nhiên, nhân tố quan trọng nhất sẽ là tâm lý. Liệu thị trường có thể phớt lờ những thông
tin xấu không? Rõ ràng, làm công tác chuẩn bị khi đặt ra những câu hỏi như vậy sẽ luôn
quan trọng và thậm chí trở nên quan trọng hơn nếu trong bối cảnh là một vụ giao dịch dài
hạn rõ ràng hơn là việc sử dụng vàng như mặt hàng đa dạng hóa danh mục đầu tư. Trong
trường hợp sau, giả định chung là chỉ về bất kỳ thời gian nào hợplý.
Trước khi xem qua các phương án lựa chọn, phải thừa nhận rằng tôi không phải là cố vấn
về tài chính. Tôi giao dịch với các cơ quan tài chính lớn vận hành các hệ thống đánh giá rủi
ro phức hợp và được yêu cầu phải tiến hành tất cả công tác kiểm tra trước khi tôi thậm chí
được phép nói chuyện với họ. Lý do cơ bản đối với bất kỳ vụ giao dịch nào có thể hoàn toàn
khác đối với các công ty nhỏ và các cá thể, nơi động cơ thúc đẩy, và mạo hiểm rủi ro có thể
dựa trên các tiêu chí hoàn toàn khác nhau; trong trường hợp đó, rõ ràng là có lý khi tham
vấn một cố vấn tài chính, người biết rõ các nhu cầu liên quan và những rủi ro tiềm ẩn trước
khi tham gia vào những vụ giao dịch kiểu như vậy.
VỐN CỔ PHẦN
Nếu bị thuyết phục rằng đúng là phải có một vị trí đối với vàng, bạn nên làm gì? Thông qua
vàng vật chất, các ETF giao sau, hay các cổ phần của công ty khai mỏ? Về mặt cá nhân, tôi
không biết gì về vốn cổ phần, vì thế, tôi sẽ không muốn giải thích. Tuy nhiên, nếu bạn mua
một cổ phần của một công ty thăm dò nhỏ tìm được một số vỉa lớn chưa khai thác, dường
như bạn có thể kiếm được nhiều tiền hơn so với mức bạn đơn giản mong muốn về vàng.
Vấn đề là đang phải tìm kiếm được cổ phần thần kỳ này. Bạn có thể mong muốn thông qua
một trong những công ty khai mỏ lớn như một sự ủy nhiệm gần gũi hơn với giá vàng; song
điều gì sẽ khiến cho công ty này hoạt động hiệu quả và điều gì xảy ra nếu giá vàng phục hồi
vì công ty khai mỏ này đã phải đóng cửa một mỏ do những quan ngại về an toàn? Có khả
năng bạn đã ở vị trí thuận lợi – vàng phục hồi; song sẽ là bất lợi khi cổ phiếu của bạn mất
giá. Tất cả điều này dường như hơi phức tạp đối với tôi trừ phi bạn biết lĩnh vực này cực
tốt.
VÀNG VẬT CHẤT
Luôn có con đường trực tiếp. Nếu bạn mong muốn vàng tăng giá, điều gì có thể mang tính
thực tiễn hơn là thực sự sở hữu một cục vàng? Nếu nền kinh tế toàn cầu bắt đầu suy giảm,
bạn phải có sự đảm bảo tối thượng, một khoản đầu tư bên ngoài thế giới tài chính thông
thường, khi bạn muốn giữ an toàn khoản đầu tư của mình ở đâu đó. Nếu có một két an toàn
tại Northern Rock (tổ chức tiết kiệm của Anh đã hoạt động trong lĩnh vực này suốt năm
2007), bạn chắc hẳn đang phải xếp hàng ở bên ngoài cùng với những người cực kỳ mong
muốn đảm bảo rằng "tiền" của bạn đang an toàn. Dĩ nhiên, bạn có thể mở tài khoản tại một
cơ sở "quá lớn để thất bại" (nếu được như vậy), song ở chừng mực nào đó, nó nằm ngoài lý
do cơ bản làm phát sinh quyết định mua và cụ thể là quyết định mua vàng vật chất. Thay
vào đó, liệu bạn có quyết định giữ nó ở nhà? Liệu bạn có mua két để giữ nó? Còn về vấn đề
an ninh? Điều gì xảy ra nếu bạn bị cướp?
Những câu hỏi này thậm chí không xét tới những quan ngại như chế độ thuế nơi bạn sống.
Liệu có phải trả thuế hàng hóa và dịch vụ không? Liệu có thể lấy lại nếu bạn bán nó đi? Có lẽ
điều quan trọng hơn là điều gì làm giá tăng? Nhà bán lẻ sẽ tính phí cho bạn bao nhiêu theo
giá thị trường London? Rõ ràng, bạn sẽ không phải tới cửa hàng Tiffany để mua một dây
chuyền 5 ounce vàng, song phần tiền lãi mà bạn đang muốn đầu tư là gì và liệu bạn có khấm
khá hơn khi mua đồng xu hình gỗ thích Canada, quặng vàng Australia, gấu trúc Trung Quốc,
dàn nhạc giao hưởng Áo, hoặc bất kỳ đồng xu vàng nào khác đang tồn tại? Liệu có thể
xem
đồng xu vàng có giá trị về mặt tiền tệ không? Có lẽ không, nếu bạn muốn tiếp cận giá vàng
hơn là đưa ra những sự khác biệt bổ sung như nguồn gốc lai lịch, bối cảnh, v.v...
Hoặc mua một vài thanh vàng nhỏ có là một ý tưởng tốt không? Cần lưu ý rằng theo một
nguyên tắc chung, thanh vàng hay đồng xu vàng càng nhỏ, tiền trả thêm mà bạn phải thanh
toán càng lớn.
CÁC HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI
Nếu bạn không lo lắng hệ thống tài chính thế giới đang có khả năng phải đối mặt với nguy
cơ suy thoái, tốt hơn là bạn có thể tiếp cận với vàng thông qua các hợp đồng tương lai, vàng
không chỉ định, hoặc các ETF, tùy thuộc vào quy mô đầu tư, bạn có thể thu lợi qua giao dịch
trên các thị trường tương lai. Nhưng nếu không, nhiều khả năng nhất là bằng đồng tiền của
mình, phần lớn mọi người có thể sẽ hướng sang thị trường Mỹ và cụ thể là hệ thống giao
dịch điện tử CME Globex®. Những nơi này cho phép tiến hành giao dịch nhanh chóng trong
và ngoài các vị trí ẩn danh, song chúng có thể là một vấn đề đối với các nhà đầu tư hoặc
kinh doanh lớn hơn vì tính thanh khoản thường tốt hơn trên các thị trường OTC so với các
thị trường tương lai.
Tuy nhiên, nếu ngoài việc kinh doanh vàng, động lực thúc đẩy cho việc giữ vàng dài hạn, và
có thể là một phương án đa dạng hóa đầu tư, các hợp đồng tương lai là một cách phức tạp
hơn để diễn tả quan điểm này. Tháng hợp đồng nào bạn mong muốn? Mỗi khoảng thời gian
theo tháng khi đến hạn, tình trạng cần phải trải qua cho thời gian hoạt động kế tiếp và
v.v...
- không tai hại song vẫn có đôi chút bất
lợi. VÀNG KHÔNG ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH
Khi có một tài khoản không chỉ định ở ngân hàng, đây là cách đơn giản để giao dịch vàng;
thực tế, nó rất giống với bất kỳ tài khoản nào khác mà bạn có thể có. Các sao kê sẽ cho thấy
khoản quyết toán cụ thể của bạn; một cuộc gọi điện đến cơ quan này sẽ cho phép bạn bổ
sung hoặc rút bớt tài khoản - tất cả đều rất rõ ràng. Tuy nhiên, vấn đề là các chỗ giao dịch
thông thường được thiết lập để giao dịch với các cơ sở lớn như các ngân hàng khác, các quỹ
đầu tư hợp tác, các quỹ đầu tư nhà nước, các ngân hàng trung ương, các quỹ lương hưu,
và đại loại như vậy. Họ còn có xu hướng áp đặt các quy tắc liên quan tới quy mô giao
dịch tối thiểu, có lẽ là 1.000 ounce vàng và 50.000 ounce bạc. Họ cũng có thể không có
thời gian để thảo luận về những biến động bất thường của thị trường thịnh hành này,
trừ phi bạn là khách hàng giao dịch với khối lượng rất lớn. Quả thực, trong nhiều quyết
định theo luật, những nhân viên tại phòng giao dịch bị cấm nói chuyện riêng với các cá
nhân và có thể chỉ nói chuyện với các chuyên gia thị trường khác; quy tắc này sẽ đảm
bảo rằng công chúng được những người cóhiểubiết rõ vềnhững rủi rocủahọphục vụ.
Quả vậy, một cuộc nói chuyện mà tôi đã có với một quỹ đầu tư hợp tác, theo cách ngắn nhất,
có thể đơn giản như sau:
Quỹ đầu tư hợp tác: Vàng
20k Ngân hàng: 20-70
Quỹ đầu tư hợp tác: Mức
70. Ngân hàng: Thực hiện
Toàn bộ quy trình trên kéo dài chỉ hơn 15 giây.
Đoạn hội thoại này được hiểu như sau:
Quỹ đầu tư hợp tác: Làm ơn cho 20.000 ounce vàng
Ngân hàng: Tôi sẽ mua ở giá 975,2 đô-la và bán ở giá 975,7 đô-la
Quỹ đầu tư hợp tác: Tôi mua 20.000 ounce
Ngân hàng: Đồng ý, chúng tôi sẽ bán cho quý vị 20.000 ounce vàng ở mức giá 975,7 đô-la.
Vì thế cuối cùng, rất có thể cá nhân riêng lẻ đó sẽ kết thúc giao dịch thông qua ngân hàng
riêng hay chi nhánh ngân hàng địa phương của mình, và thậm chí, việc kinh doanh này có
thể không đáp ứng được những yêu cầu về số lượng tối thiểu.
Thực ra, việc giao dịch trực tiếp với các ngân hàng vàng là một giải pháp chỉ để ngỏ cho các
cơ quan hay các nhà đầu tư chuyên nghiệp lớn.
CÁC ETF
Cũng có trường hợp đối với các ETF, về cơ bản chỉ là các cổ phần. Nếu một nhà đầu tư tìm
kiếm mua vàng để đa dạng hóa danh mục đầu tư, rõ ràng có một danh mục đầu tư cần được
đa dạng hóa. Hiển nhiên, có thể chấp nhận một số vốn cổ phần, và vì vậy, cá nhân đó có thể
đã có mối quan hệ với một nhà môi giới chứng khoán hay một ai đó ở vị trí tương tự. Trong
trường hợp này, ETF có thể đơn giản được bổ sung qua con đường này. Vì ETF thực sự chỉ
là một phần mười của một ounce vàng, nó có thể phục vụ cho các vụ mua sắm nhỏ, và dễ
dàng giao dịch mà không có e ngại gì về an ninh, thuế hàng hóa và dịch vụ, v.v... Ngoài ra, vì
cũng tương đối dễ dàng cho các nhà giao dịch chứng khoán giữa thị trường London và ETF,
có thể luôn theo dõi giá vàng một cách chặt chẽ. Vì vậy, dường như các vấn đề thực sự duy
nhất đối với nhà đầu tư này là các mức phí phải trả và liệu công ty ủng hộ cơ chế này có
đáng tin cậy hay không.
Một khái niệm lãng mạn về ETF là mỗi nhà đầu tư sở hữu một tỷ lệ thanh vàng cụ thể một
cách trực tiếp. Vì thế, về lý thuyết, có thể bạn phải cần đến nơi giữ vàng và yêu cầu được
xem thanh vàng đó. Thực tế, họ dĩ nhiên sẽ không bao giờ cho phép bạn được toại nguyện
vì các ngân hàng nói chung không thích công chúng biết nơi họ cất giữ vàng, chứ đừng nói
đến việc đưa chúng ra công khai; mặc dù Ngân hàng dự trữ liên bang New York là một
ngoại lệ đáng trân trọng khi thực sự cho phép khách thăm quan kho cất giữ vàng của mình;
để biết thêm chi tiết, xin xem trang web của ngân hàng này(www.newyorkfed.org).
Dù thế nào đi nữa, vấn đề thực sự là hậu cần; bạn có thể muốn bán một phần thanh vàng
của mình song còn những người khác sở hữu phần còn lại của thanh vàng đó thì sao? Vì
thế,
thay vì tự sở hữu vàng, bạn lại sở hữu cổ phần trong một quỹ tín thác mà tài sản duy nhất
của nó là vàng. Đây không phải là điều tương tự cho nhiều người song các ETF là một thành
công ngoài sức tưởng tượng và tạo ra một lớp các nhà đầu tư mới.
CÁC TRÁI PHIẾU ĐƯỢC CƠ CẤU
Đối với các nhà đầu tư muốn có một loại sản phẩm khác song vẫn muốn tiếp cận giá vàng,
có nhiều trái phiếu được cơ cấu để họ đầu tư. Hai ý tưởng sau là của Barclays Capital
Commodity Investor Solutions, cũng như bất kỳ điều gì chỉ để đưa ra một ý tưởng về các
loại hình giao dịch mà các nhà đầu tư đã và đang tìm kiếm. Rõ ràng, với tất cả việc định giá
trong cuốn sách này, các mức này mang tính biểu thị và thuần túy là để chứng minh; cả hai
ví dụ này đều không giúp nhà đầu tư thực sự sở hữu vàng song đổi lại, nhà đầu tư được tiếp
cận một cơ cấu mà ở đó lợi nhuận lại dựa trên hoạt động củavàng.
Cả hai loại hình trái phiếu được cơ cấu này là nguồn vốn được đảm bảo, vì thế trong trường
hợp không có sự thay đổi giảm quy mô, nếu giá vàng thấp hơn, sẽ không có sự tham gia đầy
đủ thông thường khi tăng quy mô. Tuy nhiên, vì cơ cấu thứ hai có mức mua ngay thả nổi, có
thể có lợi nhuận thậm chí cả khi vàng ở cùng mức giá, hoặc thậm chí vàng có giá thấp hơn,
vào thời gian cuối của hai năm kể từ khi nó bắt đầu.
Cơ cấu đầu tiên là một trái phiếu 2 năm với mức tham gia 28% khi giá vàng phục hồi. Nếu
đến hạn, vàng tăng 40%, khách hàng nhận 40% x 28% hay 11,5%. Nếu vàng giảm giá khi
đến hạn, không phải trả tiền và vốn cũng không mất. Rõ ràng, đơn giản là hiểu và xem việc
cân bằng giữa không lỗ nếu vàng xuống giá và việc tham gia hạn chế khi vàng phụchồi.
Hai là, cơ cấu hơi khó hiểu nằm dưới cái tên là trái phiếu mang tên vây cá mập thả nổi. Gọi
là vây cá mập là vì quyền chọn mua có thể quyết định nhanh nếu vàng từng tăng lên 45% so
với giá ban đầu (quan sát liên tục). Nói cách khác, lợi nhuận có thể tăng thẳng đứng song sẽ
giảm mạnh nếu giá vàng tăng 45% so với giá khởi điểm, vì lợi nhuận cuối cùng sẽ là không
mặc dù số vốn ban đầu sẽ vẫn được đảm bảo.
Như đã đề cập ở trên, việc mua là mua thả nổi được xác định khi thấy giá ở mức thấp nhất
trong thời kỳ 2 năm của trái phiếu theo một kế hoạch giá điểm cụ thể. Ví dụ, nếu vàng từng
giao dịch ở mức dưới 900 đô-la, nó sẽ là 900 đô-la; và nếu nó từng giao dịch ở mức dưới
850 đô-la, giá điểm là 850 đô-la; nếu từng giao dịch ở mức dưới 800 đô-la, giá điểm là 800
đô-la, v.v...
Nếu khi đến hạn, vàng tăng 40% so với giá điểm ấn định, nhà đầu tư nhận được khoản lãi
suất bằng 40% (so với 11,5% trái phiếu khống tiêu chuẩn ở trên). Thậm chí nếu vàng giảm
trong thời gian này, vẫn có thể kiếm tiền nếu giá điểm thấp hơn.
Ví dụ: Vào ngày giao dịch, vàng ở mức 935 đô-la/ouce. Tại một số thời điểm trong suốt 2
năm này, nó giảm xuống dưới 800 đô-la (và mua giá điểm thả nổi được ấn định ở đó). Khi
đến hạn, vàng được giao dịch ở mức 900 đô-la. Nhà đầu tư sẽ kiếm được ((900/800)-1)% =
12,5%. Theo trái phiếu khống tiêu chuẩn, lợi nhuận sẽ là không.
Tuy nhiên, nếu vàng phục hồi và được giao dịch, trong suốt thời gian 2 năm của cơ cấu này,
trên mức 1.350 đô-la (trong ví dụ này), nhà đầu tư đơn giản sẽ nhận lại khoản vốn ban đầu
khi đến hạn.
KẾT LUẬN
Môi trường cho vàng đã thay đổi nhiều trong vài năm qua. Lạm phát quay lại như một mối
đe dọa tiềm tàng, việc giảm lòng tin vào hệ thống tài chính khi cả ngân hàng và các nhà
chức trách phụ trách tiền tệ cho thấy chính bản thân họ đang phải vật lộn để kiểm soát
những sự kiện này, đồng đô-la yếu, và sự nổi lên của vàng và hàng hóa như một lớp tài sản
được quan tâm đều đã làm tăng tâm lý tích cực xung quanh vàng.
Nếu nhà đầu tư (và các cố vấn của nhà đầu tư) quyết định vàng thích hợp với danh mục đầu
tư của họ, có nhiều cách để tận dụng điều này. Quá trình hành động sẽ tùy thuộc vào mức
độ và hoàn cảnh rủi ro song khoản đầu tư có thể qua vàng vật chất, một số dạng trái phiếu
được đảm bảo bằng vàng, hoặc đơn giản, và có lẽ là thích hợp nhất theo quan điểm của tôi,
là qua ETF.
Tuy nhiên, dù bất kỳ con đường cuối cùng nào. dường như không thể là vàng sẽ từ bỏ cơ hội
lần nữa là một nhân tố quan trọng trong các thị trường tài chính toàn cầu.
PHỤ LỤC I: "Các quy tắc" giao dịch vàng
Rõ ràng, những quy tắc này không gì ngoài ý kiến cá nhân và chỉ là một danh mục kiểm tra
ngắn nên nhớ.
1. Động cơ của bạn là gì – đa dạng hóa đầu tư hay tăng giá?
2. Khung thời gian mà bạn đang xem xét giữ vàng là gì?
3. Quan điểm của bạn về đồng đô-la?
4. Cách vàng hoạt động với đồng euro?
5. Bức tranh địa chính trị là gì?
6. Tâm lý thị trường là gì?
7. Vàng được quan tâm như thế nào?
8. Liệu các ngân hàng trung ương hay các quỹ đầu tư nhà nước đã tuyên bố kế hoạch chưa?
9. Xem xét các bảng biểu.
10. Không bao giờ tin vào bạc.
Bạc giao dịch rất khác với vàng và nói chung là bất ổn định hơn. Thậm chí chính bạc còn có
ít nguyên tắc cơ bản hơn so với vàng, khoảng 70% sản lượng của nó là một sản phẩm phụ
của việc khai thác các kim loại khác. Bạc cũng có xu hướng hấp dẫn đồng tiền đầu cơ cao do
nhiều người muốn tham gia vào thị trường kim loại quý nhưng coi vàng là thứ quá đắt.
Tuy nhiên, tỷ lệ giao dịch vàng/bạc là một thông lệ rất phổ biến. Nhìn chung, bạc sẽ biến
động kịch tính hơn vàng; vì thế, có thể mua bạc và bán vàng (trong một môi trường tăng giá
đối với vàng), cụ thể là bán tỷ lệ này, và làm ngược lại nếu vàng được xem là đang ở thị
trường xuống giá. Tuy nhiên, phần nhiều tính hiệu quả của giao dịch này sẽ tùy thuộc vào
mức độ giá cả liên quan tại lúc khởi đầu.
PHỤ LỤC II: Các FAQ
1. Vàng đã từng được khai thác với khối lượng bao nhiêu?
Tính đến cuối năm 2007, tổng lượng vàng đã khai thác đạt 161.000 tấn. (Dữ liệu từ GFMS:
Khảo sát vàng năm 2008).
2. Nước nào sản xuất vàng nhiều nhất?
Năm 2007, đó là Trung Quốc với 280,5 tấn, tiếp sau là Nam Phi ở mức 269,9, và Australia
đạt 246,3 tấn. Mỹ đứng thứ tư, ở mức 239,5 tấn. (Dữ liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm
2008).
3. Công ty khai thác vàng lớn nhất thế giới là công ty nào?
Barrick Gold, sản xuất 250,7 tấn năm 2007.
4. Bao nhiêu vàng được khai thác mỗi năm?
2.476 tấn vàng được khai thác trên toàn cầu vào năm 2007, trái lại năm 2000, con số này là
2.618. (Dữ liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
5. Chi phí sản xuất vàng như thế nào?
Tổng chi phí sản xuất tăng 25% năm 2007, lên mức 496 đô-la, với chi phí tiền mặt là 395
đô-la/ounce. (Dữ liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
6. Mỏ vàng nào sâu nhất thế giới?
Mỏ Gold Fields Driefontein ở độ sâu 4.121 mét (hơn hai dặm rưỡi). (Dữ liệu từ Virtual
Metals Group).
7. Mỏ có sản lượng nhiều nhất thế giới là mỏ nào?
Đó là mỏ Newmont's Nevada, sản xuất được 72,81 tấn vàng năm 2007. Sản lượng này giảm
so với mức của năm 2006 khi mỏ sản xuất được gần 79 tấn, song năm 2006, đó là
Yanacocha ở Pêru (cũng do Newmont vận hành) chiếm ngôi vị quán quân với 81,247 tấn.
(Dữ liệu từ Virtual Metals Group).
8. Nước nào tiêu thụ vàng nhiều nhất?
Ấn Độ tiêu thụ 555,1 tấn trang sức vàng năm 2007, Trung Quốc đứng thứ hai với 302,2 tấn.
(Dữ liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
9. Vàng được sử dụng nhiều nhất cho mục đích gì?
Làm đồ trang sức – năm 2007, 2.401 tấn, giảm so với mức 3.204 tấn trong năm 2000. (Dữ
liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
10. "Đầu tư có thể nhận biết" đối với vàng như thế nào?
Năm 2007, khoản đầu tư này đạt 654 tấn, tăng so với mức 165 tấn trong năm 2000. (Dữ
liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
11. Cân bằng cung/cầu là gì?
Năm 2007, con số này đạt 3.912 tấn, giảm so với mức 4.017 tấn trong năm 2000. Nguồn
cung, ngoài nguồn cung của mỏ, là từ lĩnh vực kinh doanh của khu vực chính thức (481 tấn)
và vàng vụn (956 tấn). (Dữ liệu từ GFMS: Khảo sát vàng năm 2008).
12. Các ngân hàng trung ương nắm giữ bao nhiêu vàng?
Khoảng 29.700 tấn hoặc tương đương. Khó có thể có con số chính xác vì người ta tuyên bố
rằng có cả những thông tin nói giảm và nói quá trong số liệu thống kê của IMF. Ngoài ra, các
mức cân bằng sẽ thay đổi khi các ngân hàng trung ương mua và bán vàng.
13. Nước nào giữ vàng nhiều nhất?
Mỹ có quỹ dự trữ vàng lớn nhất thế giới, giữ 8.133,5 tấn. Ở mức giá 970 đô-la, con số này sẽ
tương đương với hơn 252 tỷ đô-la. Tuy nhiên, nếu Mỹ quyết định họ sẽ bán vàng, giá sẽ
giảm đáng kể - rất nhanh!
14. Các ngân hàng trung ương giữ vàng ở nơi nào?
Đa số các ngân hàng trung ương giữ vàng ở dạng chỉ định. Một số có thể được giữ trong
chính các kho của các ngân hàng này, một số có thể được giữ trong Ngân hàng dự trữ liên
bang ở New York. Tuy nhiên, bất cứ ngân hàng trung ương nào muốn giao dịch vàng của
mình đều phải giữ vàng ở Ngân hàng Anh (nếu ở dạng được chỉ định), do các kho chứa của
Ngân hàng Anh nằm ở London và kim loại được giữ ở đó có thể dễ dàng được chuyển đến
và ra khỏi hệ thống giao hoán.
Trong một số giao dịch nhất định, một ngân hàng trung ương có thể cho vay vàng qua Ngân
hàng dự trữ liên bang ở New York và nhận nó trở lại ở Ngân hàng Anh ở London. Hoặc đơn
giản là bán trên thị trường New York; để ngân hàng vàng này đưa ra những sắp xếp về vận
chuyển.
15. WGC là gì?
"Được thành lập năm 1987, Hội đồng vàng thế giới (WGC) là một tổ chức được các công ty
khai thác vàng hàng đầu thế giới hình thành và cấp vốn với mục đích thúc đẩy và tối đa hóa
nhu cầu cũng như việc nắm giữ vàng của người tiêu dùng, nhà đầu tư, ngành công nghiệp
và lĩnh vực chính thức.
Cũng như việc thực hiện các sáng kiến tiếp thị để thúc đẩy cầu, Hội đồng vàng thế giới cũng
là công cụ trong việc hạ thấp những rào cản quản lý để hướng tới việc sở hữu các sản phẩm
vàng một cách rộng rãi, giúp phát triển các hệ thống phân phối, và thúc đẩy vai trò của vàng
như một tài sản dự trữ trong lĩnh vực chính thức". Trang web của hội đồng này là
www.gold.org.
16. GFMS là gì?
Theo trang web của GFMS, "GFMS là cơ quan tư vấn kim loại quý hàng đầu thế giới, chuyên
về nghiên cứu các thị trường vàng, bạc, bạch kim và palađi toàn cầu. GFMS có trụ sở ở
London, Vương quốc Anh song cũng có đại diện ở Australia, Ấn Độ, Trung Quốc, Đức, Pháp,
Tây Ban Nha và Nga, cũng như có một loạt địa chỉ liên lạc và chi nhánh trên toàn thế giới.
Nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 15 nhà phân tích chuyên trách là những nhà kinh tế và
địa chất đủ năng lực và kinh nghiệm; trong khi hai tư vấn đưa ra cái nhìn sâu hơn về các thị
trường khu vực quan trọng". Trang web của họ là www.gfms.co.uk.
17. Virtual Metals là gì?
"Được thành lập năm 1997 và mở rộng năm 2001, VM Group là công ty tư vấn nghiên cứu
hàng hóa độc lập, từ kim loại quý và kim loại thông thường, đến năng lượng và hàng nông
sản. VMG chuyên về phân tích kinh tế vĩ mô đối với những hàng hóa này, cả những quy tắc
cơ bản, thông qua việc tạo ra các bối cảnh cung và cầu, sự hiểu biết sâu về các thị trường
đầu tư và phái sinh liên quan. Sử dụng phân tích này, chúng tôi cung cấp cho khách hàng
của mình những dự báo giá, các những dự đoán liên quan đến cung/cầu tương lai, và
những khuyến nghị mang tính chiến lược.
Thông qua sự cộng tác của VMG với Fortis Bank, công ty đưa ra một loạt đầy đủ các ấn
phẩm độc lập và toàn diện về các thị trường hàng hóa sẵn có trên cơ sở bổ sung". Để biết
thêm thông tin, xin liên lạc với địa chỉ[email protected].
18. LBMA là gì?
"LBMA là hiệp hội kinh doanh hoạt động như nhà điều phối các hoạt động được thực hiện
đại diện cho các thành viên của hiệp hội và những người tham gia khác trên thị trường
vàng London. Nó hoạt động như điểm liên lạc cơ sở giữa thị trường và các nhà điều tiết.
Thông qua nhân viên và các ủy ban của mình, hiệp hội này làm việc để đảm bảo rằng
London tiếp tục đáp ứng các nhu cầu đang tăng của thị trường vàng toàn cầu". Trang web
của LBMA là www.lbma.org.uk.
19. Vàng có lãi suất không?
Trái ngược với kỳ vọng của nhiều người, vàng có lãi suất. Tuy nhiên, không có thẩm quyền
trung ương nào xem xét ấn định các mức lãi suất, thay vào đó, đây đơn giản là vấn đề cung
và cầu. Về mặt truyền thống, đa số nguồn cung là từ các ngân hàng trung ương và nguồn
cầu là từ các công ty khai thác vàng muốn đảm bảo nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của mình.
Nếu thiếu vắng gần như hoàn toàn nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, lãi suất vàng giảm và lợi
nhuận thu được từ kim loại này rất ít; chỉ khoảng 10 điểm cơ bản (0,10 %) trong một tháng
và chỉ 60 điểm cơ bản (0,6 %) trong 10 năm trên cơ sở nửa năm mộtlần.
20. GOFO là gì?
GOFO là cách viết của từ GOld FOrward và là trang Reuters công bố tỷ lệ lãi suất cho vay
vàng, trên cơ sở hoán đổi, hàng ngày.
21. Giá vàng trên tờ báo này có nghĩa là gì?
Rõ ràng, nó sẽ khác theo từng nước nhưng nếu nó bằng đồng đô-la, và không có hiển thị
tháng kế tiếp với nó, có thể đó là giá giao ngay của một ounce tơrôi vàng không chỉ định
trên thị trường London.
22. Liệu có giá chuẩn cho vàng không?
Việc định giá vàng trên thị trường London được mọi người chấp nhận là giá tiêu chuẩn.
Điều này xảy ra hai lần mỗi ngày vào lúc 10 giờ 30 phút và 15 giờ giờ London. Thỉnh
thoảng, có một cuộc tranh cãi về việc liệu một trong hai lần định giá này có mang tính đại
diện hơn lần còn lại hay không. Theo ý của tôi, mỗi lần định giá đều có giá trị như nhau,
mặc dù đôi khi có người lập luận rằng việc định giá buổi chiều có tầm quan trọng hơn vì nó
xảy ra khi cả thị trường London và New York đều mở cửa giao dịch.
23. Khái niệm thị trường London ?
Vàng thanh toán qua các tài khoản ở London theo cùng cách mà đồng đô-la hoạt động ở
New York hoặc đồng yên Nhật Bản ở Tokyo. Như vàng trên thị trường London, và đồng
đô-
la trên thị trường New York và đồng yên trên thị trường Tokyo mặc dù thuật ngữ này
không được sử dụng trong những thị trường này.
24. Loco swap là gì?
Loco swap là một thỏa thuận trao đổi số lượng vàng tương đồng ở hai địa điểm riêng biệt.
Một địa điểm sẽ gần như luôn là London song địa điểm còn lại có thể là những địa điểm như
Zurich, Germiston (tại Rand Refinery ngay ngoài Johannesburg, Nam Phi), Cục dự trữ liên
bang ở New York, v.v...
Giao dịch này được ghi là khoản mua vàng tại một địa điểm và bán một lượng tương đương
tại địa điểm khác. Chênh lệch giá sẽ là sự phản ánh cầu đối với vàng tại mỗi địa điểm song
theo cách đơn giản nhất, có thể không gì khác ngoài chi phí vận chuyển loại kim loại này tới
London, cộng với chi phí tinh luyện nếu cần.
25. Ounce tơrôi là gì?
Ounce tơrôi là đơn vị đo lường tiêu chuẩn cho vàng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta
sử dụng các ounce đo lường thông thường, vốn nhỏ hơn ounce tơrôi, hoặc ounce tơrôi là
thuật ngữ đúng nhưng gần như chưa bao giờ được sử dụng. Thuật ngữ tơrôi được cho là
bắt nguồn từ một hội chợ vàng thời trung cổ được tổ chức tại thị trấn Troies của Pháp. Một
ounce tơrôi bằng 1,09714 ounce tiêu chuẩn.
26. Một thanh theo tiêu chuẩn London Good Delivery là gì?
Hiệp hội Thị trường Vàng London xác định khái niệm này: "Quyết toán vật chất của một
giao dịch vàng trên thị trường London là một thanh vàng tuân theo các thông số kỹ thuật
sau:
• Trọng lượng: Hàm lượng vàng tối thiểu: 350 ounce tơrôi nguyên chất (xấp xỉ 10,9 kg)
• Hàm lượng vàng tối đa: 430 ounce tơrôi nguyên chất (xấp xỉ 13,4 kg).
• Trọng lượng tổng của một thanh sẽ được tính theo ounce tơrôi, nhân với 0,025, làm tròn
xuống mức gần nhất 0,025 của một ounce tơrôi.
• Kích cỡ: Kích cỡ khuyến nghị cho một thanh vàng theo tiêu chuẩn Good Delivery xấp xỉ
như sau:
Độ dài (phần trên): 250 mm +/- 40
mm Vát: 7%-15%
Độ rộng (phần trên): 70 mm +/- 15
mm Vát: 15-30%
Chiều cao: 35 mm +/- 10 mm
Độ vát theo độ dốc của cạnh bên và các phần cuối của thanh được tính bằng cách trừ đi kích
cỡ của rìa cuối của thanh từ kích cỡ của rìa trên cùng của thanh và chia cho kết quả của
kích cỡ rìa ở trên nhân với một trăm để có độ vát %.
• Tuổi vàng: Tuổi tối thiểu của vàng có thể chấp nhận được là 995,0 phần trên nghìn vàng
nguyên chất. Ngoài ra, mỗi thanh phải có một số sêri, tem của nhà tinh luyện, năm sản xuất,
tuổi vàng tới bốn con số quan trọng.
27. Contango là gì?
Thị trường vàng gần như luôn "ở tình trạng contango". Điều này có nghĩa là giá giao sau –
giá giao vàng ngoài hai ngày kinh doanh – cao hơn giá giao ngay. Khoảng cách này là để tính
cho những chênh lệch đáng kể trong lãi suất vàng và đồng đô-la khi lãi suất đồng đô-la bình
thường cao hơn lãi suất vàng.
28. Chênh lệch giá xuống là gì?
Đối với hàng hóa truyền thống hơn, chúng nói chung có xu hướng ở trạng thái chênh lệch
giá xuống - đảo ngược chính xác của tình trạng contango - để phản ánh mức độ khan hiếm
tương đối của chúng và nhu cầu của các công ty sử dụng chúng trong sản xuất, v.v... Vì thế
giá "xuống hơn đường giá", có nghĩa là giao hàng vào ngày sau đó, thấp hơn so với giao
ngay.
29. Các trung tâm giao dịch chính cho vàng ở đâu?
Đối với châu \, đó là Sydney, Singapore, Hồng Kông và Tokyo. Đối với châu Âu, đó là
London và Zurich. Đối với người Mỹ, đó là New York.
30. Có bao nhiêu nhà làm giá trên thị trường vàng?
Tùy thuộc vào việc bạn là ai và bạn làm gì. Tuy nhiên, trong mỗi trung tâm giao dịch, có
không nhiều hơn 11 nhà làm giá liên ngân hàng, các cơ sở phải đưa ra các giá hai chiều cho
nhau. Song sẽ vẫn có những cơ sở khác tạo lập thị trường cho khách hàng của mình.
31. Nhóm nào có ảnh hưởng nhiều nhất trên thị trường vàng?
Rõ ràng, đó từng là các công ty khai thác vàng thông qua các chương trình nghiệp vụ phòng
ngừa rủi ro, và khi họ nới lỏng sổ sách nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của mình. Tuy nhiên, có
thể bây giờ lại là các quỹ đầu tư hợp tác, cả khi vàng là một phiên bản "carry trade - thuật
ngữ chỉ lợi nhuận thu được từ chênh lệch lãi suất, cụ thể là việc vay hay mua các công cụ tài
chính với lãi suất thấp, sau đó dùng nó để mua các công cụ tài chính có lãi suất cao hơn" và
gần đây nữa là khi vàng là công cụ được ưa thích để bày tỏ một quan điểm kinh tế. Các ngân
hàng trung ương rõ ràng cũng quan trọng khi tuyên bố một việc mua hoặc bán, song nói
chung tầm ảnh hưởng của chúng không tác động đến thị trường vàng hàng ngày. Quả thực,
tất cả các ngân hàng trung ương tôi đã từng nói chuyện về vàng (có lẽ là khoảng 60 hay đại
loại như vậy) đều không muốn tác động đến thị trường này bằng bất kỳ cách nào.
32. Vàng được chỉ định và không được chỉ định là gì?
Nếu giữ vàng được chỉ định trong tài khoản, bạn biết chính xác các thanh vàng bạn sở hữu.
Quả thực, sao kê của bạn sẽ liệt kê mỗi thanh, trọng lượng tổng của nó, tuổi (độ nguyên
chất), và trọng lượng tịnh. Nếu bạn có một tài khoản không được chỉ định, đơn giản, nó sẽ
chỉ liệt kê số lượng vàng bạn sở hữu.
Phép so sánh ưa thích của tôi là sự chênh lệch giữa việc có một hộp gửi đồ an toàn và một
tài khoản kiểm tra. Tương tự, đa số chúng ta kiểm tra tài khoản của mình hơn là kiểm tra
các hộp gửi an toàn, và điều tương tự cũng đúng với những người tham gia thị trường vàng;
vàng không được chỉ định là dạng thức sở hữu điển hình.
33. Liệu thị trường vàng có bị điều tiết không?
Điều này sẽ khác theo quyền thực thi pháp lý song như là một hướng dẫn chung giao dịch
trên thị trường trao đổi hoặc bởi dạng thức phái sinh khác có thể tuân theo sự điều tiết ở
một nước cụ thể. Ví dụ, ở Vương quốc Anh, đó là Cơ quan Dịch vụ Tài chính phụ trách các
hoạt động được điều tiết. Ở Mỹ, New York Mercantile Exchange được điều tiết bởi
Commodity Futures Trading Commission (CFTC) và các chứng khoán nợ được giao dịch
trên các sở như là Sở Giao dịch chứng khoán Mỹ (NYSE), được Ủy ban Chứng khoán và Sàn
giao dịch Mỹ (SEC) quản lý.
34. EcbGA là gì?
Đó là từ viết tắt của Thỏa thuận Vàng ngân hàng trung ương châu Âu. Việc viết lẫn cả chữ
viết hoa lẫn viết thường này là nhằm thể hiện rằng một thỏa thuận của các ngân hàng trung
ương châu Âu hơn là Ngân hàng Trung ương châu Âu (cơ sở có trụ ở Frankfurt này là ngân
hàng trung ương chính cho các nước có chung đồng euro và có trách nhiệm ấn định lãi suất
trong số các điều khác). Thỏa thuận ban đầu được ký ngày 26/9/1999 và kéo dài trong 5
năm mà ở đó 15 bên tham gia ký kết tự hạn chế bán 2.000 tấn vàng và không nhiều hơn
400 tấn trong bất kỳ năm hạn ngạch nào (bắt đầu vào ngày 27/9 và tiếp tục tới ngày 26/9
năm sau). Thỏa thuận tiếp theo, cũng trong 5 năm, tăng lên 2.500 tấn và không nhiều hơn
500 tấn trong bất kỳ năm hạn ngạch nào.
35. Liệu có âm mưu thao túng giá vàng không?
Tôi làm việc cho bốn ngân hàng – Credit Suisse, Chase Manhattan, Deutsche Bank, và
Barclays Bank – đây là một vài "ngân hàng vàng" quan trọng nhất thế giới, và tất cả đều là
những nhà làm giá khi tôi làm việc cho họ. Trong 25 năm làm việc, tôi chưa từng chứng
kiến bất kỳ âm mưu nào, và quả thực thái độ áp đảo của các ngân hàng trung ương là giữ
vai trò thấp trong thị trường này. Tôi chưa từng gặp bất kỳ ai làm việc trong bộ phận kim
loại quý của một ngân hàng lớn tin vào những thuyết âm mưu như vậy.
36. GATA là gì?
GATA lưu ý rằng "Ủy ban Hành động chống thao túng giá vàng được thành lập vào tháng
1/1999 để đề xuất và thực hiện vấn đề pháp lý chống lại sự cấu kết trái phép để kiểm soát
giá và cung ứng vàng cũng như các chứng khoán tài chính liên quan". Trang web của ủy ban
này là www.gata.org.
37. Không Vàng Bẩn là gì?
Không Vàng Bẩn tự miêu tả mình là không tìm cách tẩy chay vàng hoặc kim loại song lại nỗ
lực "thúc đẩy tập quán khai thác có trách nhiệm và loại bỏ những tập quán vô trách
nhiệm... Vì vậy, hơn 30 nhà bán trang sức lớn đã tán thành các tiêu chí của chiến dịch
Không Vàng Bẩn để việc khai thác vàng có trách nhiệm hơn – cũng còn được biết là "Các
quy tắc vàng". Những nhà bán lẻ này, trong đó có những công ty lớn như Signet ở Vương
quốc Anh, Tiffancy & Co, và Wal-Mart ở Mỹ, và Cartier/Richemont ở châu Âu, cũng cam kết
tìm nguồn vàng và kim loại quý từ các hoạt động đáp ứng được các tiêu chí về xã hội và môi
trường. Năm 2006, một sáng kiến đa cổ đông (trng đó có các tổ chức phi chính phủ (NGO)
như Earthworks và Oxfam America, các nhà bán lẻ trang sức, các công ty khai mỏ, tổ chức
công đoàn, và các công đồng bị ngành khai mỏ tác động) gọi là IRMA được ra đời với mục
tiêu là phát triển một hệ thống xác minh độc lập việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường
và xã hội đối với hoạt động khai mỏ. Không Vàng Bẩn cũng giúp khuyến khích sự phát triển
của CRJP, Hội đồng tập quán trang sức có trách nhiệm (một hiệp hội gồm các công ty khai
mỏ và
trang sức thúc đẩy trách nhiệm lớn hơn của công ty trong số các thành viên của mình)". Để
biết thêm thông tin chi tiết, xin truy cập website:
http://www.nodirtyfold.org/supporting_retailers.cfm, hoặc địa
chỉ
http://www.responsiblemining.net/, vàhttp://www.responsiblejewellery.com/.
38. ARM là gì?
ARM tự gọi mình là "một sáng kiến độc lập, nỗ lực quy mô toàn cầu và mang tính tiên
phong, được lập ra như một tổ chức quốc tế và đa thể chế để mang lại lòng tin, tính minh
bạch và tính pháp lý để phát triển khung khai mỏ quy mô nhỏ và thủ công có tính trách
nhiệm". Nó hướng tới khách hàng nhiều hơn để thay đổi thói quen của họ qua giáo dục
"khách hàng về quyền năng của họ sẽ cải thiện trực tiếp chất lượng cuộc sống của các công
nhân mỏ bằng cách mua trang sức và khoáng sản giao dịch minh bạch". Trang web của
ARM là www.communitymining.org.
PHỤ LỤC III: Bảng chú giải thuật ngữ
(Bảng chú giải thuật ngữ này được cung cấp theo Hiệp hội thị trường vàng London và Thị
trường Bạch kim và Palađi London).
Bạc: Tên Latinh là Argentum. Ký hiệu hóa học là Ag, trọng lượng riêng là 10,49 và điểm tan
chảy là 9600C.
Bạch kim: Ký hiệu hóa học Pt. Trọng lượng riêng là 21,45 và điểm tan chảy là 1.7730C.
Ban chuẩn mực kế toán tài chính (FASB): Tổ chức thuộc khu vực tư nhân chịu trách nhiệm
thiết lập các tiêu chuẩn kế toán và báo cáo tài chính ở Mỹ.
Bán quá mức: Một thị trường sụt giảm quá sâu và quá nhanh do sức ép bán nhiều và dự
kiến sẽ quay trở lại một mức cao hơn, trung lập hơn.
Bản vị vàng: Một hệ thống tiền tệ với giá vàng được cố định, và với đồng xu vàng hoặc hình
thành sự lưu thông của tiền tệ trong một quốc gia hoặc các tờ giấy bạc đại diện và có thể
bồi hoàn bằng vàng.
Bảo hiểm delta: Một chiến lược được các nhà chuyển nhượng quyền chọn thực hiện để
tránh rủi ro. Phương pháp tính bảo hiểm delta có xét đến những thay đổi về giá giao ngay,
thời gian hết hạn, và sự chênh lệch giữa giá điểm và giá giao ngay.
Bảo hiểm giao sau: Sự chênh lệch giữa các mức giá chào giao ngay và giao sau sẽ được xác
định bằng tiền và lãi suất của kim loại quý cùng các mức phí lưu kho.
Bát quốc kim khố: Quỹ vàng chung này là liên minh giữa các ngân hàng trung ương của
Anh, Bỉ, Pháp, Italia, Hà Lan, Thụy Sĩ, Mỹ và Tây Đức từ năm 1961 đến năm 1968 nhằm cố
gắng duy trì giá vàng ở mức 35 đô-la/ounce tơrôi.
Bear Call Spread: Việc mua và kinh doanh các quyền chọn mua ở các mức giá thực hiện
khác nhau song lại có cùng ngày hết hạn. Các quyền chọn mua (dài) đã mua có giá thực hiện
cao hơn so với quyền bán bằng văn bản (ngắn). Nhà đầu tư kỳ vọng mức giá giảm của tài
sản đang xem xét.
Bear Put Spread: Việc mua và bán các quyền chọn bán tại các mức giá thực hiện khác nhau
song có cùng ngày hết hạn. Các quyền chọn bán được mua có mức giá thực hiện cao hơn so
với giá đã viết trong quyền chọn bán. Nhà đầu tư kỳ vọng mức giảm về giá của tài sản đang
xem xét.
Biến động: Ám chỉ đến các quyền chọn. Tỷ lệ thay đổi về giá của tài sản ưu tiên. (Xin xem
Biến động ngụ ý và Biến động lịch sử).
Biến động lịch sử: Chính xác bắt nguồn từ những biến động về giá của tài sản ưu tiên trong
một thời gian cụ thể trước đó.
Biểu đầu và vai: Một mô hình ba đỉnh đại diện cho phần đầu và vai của một người, được sử
dụng để lập biểu các xu hướng giá hàng hóa và chứng khoán. Mô hình này cho thấy sự đảo
ngược của một xu hướng. Khi giá giảm xuống phía vai phải, đầu và phần đỉnh vai được
thành lập, có nghĩa là giá sẽ còn giảm. Mô hình đầu và vai đảo ngược có hình dạng đầu ở
cuối biểu và điều đó có nghĩa là giá sẽ còn tăng.
Biểu đồ dạng thanh: Một loại biểu đồ thường được sử dụng trong phân tích kỹ thuật cho
thấy các mức giá cao, thấp và giá lúc đóng cửa.
Bình giá vàng: Số lượng vàng cố định theo quy định của luật pháp mà ở đó một đơn vị tiền
tệ được ổn định.
Bình quân dịch chuyển có trọng lượng: Được sử dụng trong phân tích kỹ thuật, một bình
quân dịch chuyển có trọng lượng đưa ra một đánh giá lớn hơn cho dữ liệu giá hiện thời
hơn, ở chiều ngược lại, bình quân dịch chuyển đơn giản đưa ra đánh giá tương đương đối
với tất cả mức giá. (Xin xem Bình quân dịchchuyển).
Bình quân dịch chuyển: Trong phân tích kỹ thuật, đây là đường xu hướng quan trọng có
đứt đoạn trên một biểu đồ dạng thanh, phản ánh sự tiến triển của các giá trong một khoảng
thời gian nhất định. (Xin xem thêm Bình quân dịch chuyển có đánh giá).
BIS: Ngân hàng quyết toán quốc tế. Đặt trụ sở tại Basel, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1930
và giờ hoạt động như một ngân hàng trung ương phi chính trị cho các ngân hàng trung
ương. Trang web là www.bis.org.
Bộ phân tích: Một bộ kiểm tra kim loại quý.
Brazilian Mercantile and Futures Exchange (BM&F): BM&F được thành lập tháng 7/1985.
Xem: www.bmf.com.br.
Bull Call Spread: Việc mua bán các quyền chọn mua tại các mức giá thực hiện khác nhau
song có cùng ngày hết hạn. Các quyền chọn mua đã mua (hoặc lâu dài) có mức giá thấp hơn
các quyền chọn mua đã viết (ngắn). Nhà đầu tư kỳ vọng sự tăng giá của tài sản được bàn.
Bull Put Spread: Việc mua bán các quyền chọn bán ở các mức giá thực hiện khác nhau song
có cùng ngày hết hạn. Các quyền chọn bán đã mua có mức giá thực hiện thấp hơn các quyền
chọn bán đã viết. Nhà đầu tư kỳ vọng giá của tài sản đang bàn sẽ tăng.
Buôn bán chứng khoán: Mua và bán đồng thời một tài sản ở các thị trường khác nhau nhằm
vốn hóa những chênh lệch về giá giữa những thị trường này.
Các danh sách LPPM Good Delivery: Các danh sách của các nhà tinh luyện bạch kim và
palađi được chấp nhận với các tấm và thỏi bạch kim và palađi đáp ứng tiêu chuẩn yêu cầu
(về tuổi, trọng lượng, dấu hiệu và hình dáng) của Thị trường bạch kim và palađi London.
Các đảo: Trong phân tích kỹ thuật, một phần đầu của đảo được hình thành khi một thị
trường có khoảng trống lúc đầu tăng và sau đó giảm trong một khuynh hướng đi lên tạo ra
một phiên giao dịch tách biệt. Phần cuối của đảo được tìm thấy ở phần cuối của khuynh
hướng đi xuống. Các đảo được xem là một mô hình đảo ngược.
Các đồng xu bằng vàng và kim loại quý: Các đồng xu bằng kim loại quý đương thời được
đúc với số lượng không hạn chế phục vụ mục đích đầu tư.
Các flat rate forward: Các hợp đồng giao sau đưa ra một contango liên tục trong suốt thời
gian hợp đồng.
Các hạt: Vàng thỏi, trong đó có nhiều hợp kim được bán ở dạng hạt, thường được gọi là
gren.
Các kế hoạch tích lũy vàng (GAP): Các tài khoản đầu tư vàng theo đó nhà đầu tư đồng ý đầu
tư một khoản tiền nhất định vào vàng mỗi tháng. Vàng được tích lũy trong tài khoản sau đó
có thể được bán lại hoặc rút ra với tư cách là kim loại vật chất ở nhiều dạng, trong đó có
dạng thanh, xu hoặc trang sức.
Các khái niệm vàng ISDA: Một phụ lục cho Thỏa thuận tổng thể ISDA được ISDA và LBMA
phát triển năm 1997 để đề cập đến các thuật ngữ về vàng. Các khái niệm hàng hóa ISDA
2005 kết hợp các khái niệm vàng ISDA năm 1997 với một số bản sửa đổi.
Các khoáng sản màu vàng: Các pirit sắt sulphua, có hình dạng giống như vàng và có thể
đánh lừa được những người tìm kiếm vàng không chuyên.
Các kim loại quý: Các kim loại có giá trị lớn là vàng, bạc, bạch kim, palađi, và các kim loại
nhóm bạch kim.
Các quyền chọn điểm bình quân: Các quyền chọn kiểu châu \ nơi phần quyết toán cuối
cùng tùy thuộc vào giá điểm bình quân hơn là giá tài sản bình quân đang bàn.
Các quyền chọn giao dịch qua sở: Các quyền chọn về hợp đồng tương lai do một sở giao
dịch hợp đồng tương lai được công nhận như NYMEX đưa ra.
Các quyền chọn ngoài: Thuật ngữ chung chỉ các chiến lược quyền chọn tinh vi hơn có đặc
điểm hơn và trên các hợp đồng quyền chọn cơ bản.
Các SRO: Các tổ chức tự điều tiết được thành lập theo Đạo luật dịch vụ tài chính năm 1986
để thực hiện việc quản lý phần lớn các cơ quan liên quan tới các hoạt động đầu tư ở Vương
quốc Anh. Theo FSMA, vai trò mà các SRO nắm giữ được FSA thực hiện năm 2001.
Các tài khoản được chỉ định: Những tài khoản này được mở khi khách hàng yêu cầu cách ly
kim loại về mặt vật lý và cần có danh sách chi tiết về trọng lượng và phân tích.
Các thanh/tấm/thỏi tiêu chuẩn: Ám chỉ đến bất kỳ điều sau
1. Thanh vàng nặng xấp xỉ 400 ounce hoặc 12,5 kg và có tuổi tối thiểu là 995 phần trên
1.000 vàng nguyên chất.
2. Thanh bạc nặng xấp xỉ 1.000 ounce với tuổi tối thiểu là 999.
3. Tấm hoặc thỏi bạch kim hoặc palađi từ 1 đến 6 kg với tuổi tối thiểu là999,5.
Cap: Một hợp đồng quyền chọn theo đó bên bán đồng ý trả cho bên mua, để đổi lấy lợi
nhuận, sự chênh lệch giữa tỷ lệ tham chiếu và một giá điểm đã thống nhất khi mức tham
chiếu vượt mức giá điểm vào hoặc trước một ngày cụ thể.
Cara: Phát sinh từ từ "carob" ở nhiều ngôn ngữ, nó ban đầu giống như nói về trọng lượng
của hạt cây carob. Nó có hai nghĩa trong ngôn ngữ hiện đại:
1. Phương pháp đo trọng lượng của các loại đá quý: một cara = 0,2053 gram;
2. Phương pháp đo tỷ lệ vàng trong hợp kim vàng, dựa trên cơ sở 24 cara là vàng nguyên
chất, thường được diễn tả là K hoặc k, cụ thể là 18 k là75%.
CFTC: Ủy ban giao dịch hợp đồng hàng hóa tương lai. Cơ quan quản lý của Chính phủ Mỹ
cho tất cả các thị trường tương lai của Mỹ. Trang web làwww.cftc.gov.
Chào giá: Mức giá mà ở đó nhà giao dịch sẵn sàng bán.
Chênh lệch giá xuống: Một bối cảnh thị trường mà giá giao hàng tương lai thấp hơn giá giao
ngay, do sự khan hiếm nguồn cung hay nguồn cung bị siết chặt gây ra.
Chervonetz: Một đồng xu vàng của Nga, tuổi vàng là 900, với hàm lượng vàng nguyên chất
là 0,2489 ounce tơrôi và mệnh giá là 10 rúp, được phát hành trong những năm 1970.
Chi phí nắm giữ: Chi phí nắm giữ một loại hàng hóa vật chất trong một giai đoạn. Các yếu tố
chính là chi phí cấp vốn, lưu kho và bảo hiểm.
Chỉ số RSI (Chỉ số sức mạnh liên quan): Do J. Welles Wilder phát triển, RSI so sánh tầm
quan trọng của hiệu suất của công cụ đối với những thua lỗ trong khoảng thời gian ấn định
(thường là 14 ngày). Đây là một công cụ báo hiệu sớm và cung cấp thông tin như tình trạng
mua quá mức hoặc bán quá mức và độ chênh lệch giữa giá và bộ hiển thị.
Chiến lược tản khai kiểu bướm: Việc mua đồng thời một hợp đồng siết giá ngoài giá thua lỗ
và bán hợp đồng chứng khoán đúng giá thị trường. Người mua hưởng lợi nếu tài sản đang
bàn vẫn ổn định và bị hạn chế rủi ro trong trường hợp có biến động lớn theo bất kỳ hướng
nào.
Chứng quyền vàng:
1. Một chứng quyền trao cho người mua quyền mua vàng ở một mức giá cụ thể vào một
ngày giá trị cụ thể để người mua trả một mức phí bảo hiểm. Trong khi tương tự về cấu trúc
đối với các quyền chọn, các chứng quyền được đảm bảo hóa bằng các công cụ.
2. Một giấy chứng nhận thường được các sở phát hành cho biết sự sở hữu kim loại vậtchất.
Chuyển giao hợp thức: Thông số kỹ thuật mà một thanh vàng hoặc bạc, hay thỏi hoặc tấm
bạch kim hoặc palađi phải đáp ứng nhằm có thể được chấp nhận chuyển giao trên một thị
trường đầu cuối cụ thể hoặc giao dịch hợp đồng tương lai.
CIF: Chi phí, bảo hiểm và cước phí. Một giá CIF bao gồm chi phí của vật liệu cùng với chi phí
vận chuyển và bảo hiểm tới một điểm cụ thể cuối cùng.
Cơ chế EFP: Viết tắt của Exchange for Physical. Sự trao đổi thực tế giữa một hợp đồng OTC
và một hợp đồng tương lai thực hiện giữa các bên.
Cờ: Trong phân tích kỹ thuật, một trong những mô hình biểu đồ cơ bản. Trong thị trường
vàng giá lên, một lá cờ xuất hiện khi giá củng cố trong một khoảng thời gian rồi sau đó tiếp
tục tăng. Trong thị trường giá xuống, quy trình này ngược lại, cụ thể là giá giảm sau một
thời gian củng cố.
Collar: Một hợp đồng cung ứng giữa bên mua và bên bán hàng hóa, theo đó bên mua được
đảm bảo rằng họ sẽ không phải trả nhiều hơn mức giá tối đa một khoảng nào đó, và bên
bán được đảm bảo sẽ nhận được mức giá tối thiểu ở một khoảng nào đó.
COMEX: Sàn giao dịch kim loại ở New York, một bộ phận của NYMEX.
Con dấu: Dấu hiệu phân tích có nguồn gốc từ Trung Quốc. Thuật ngữ này nay được áp dụng
rộng rãi để nhận diện nhà sản xuất đối với các thanh vàng.
Contango: Tình hình thị trường mà ở đó giá giao sau lớn hơn giá giao ngay.
Cột giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai, số liệu thống kê hàng ngày cho thấy số các
hợp đồng ngỏ, cụ thể là những hợp đồng chưa được hoàn thành hoặc bị đóng lại.
Đãi mẫu vàng: Phương pháp cổ điển và đơn giản để khai thác vàng bồi tích.
Dạng lá: Một thanh vàng mỏng, nhỏ thường thấy ở Trung Đông, Đông Nam \, và Nhật Bản.
Dạng thỏi: Từ chung cho vàng và bạc ở dạng thanh hoặc thỏi đúc. Ban đầu nó có nghĩa là
"đúc" hoặc "điểm nấu chảy", xuất phát từ một từ tiếng Pháp cổ là bouillon, có nghĩa là sôi.
Danh sách LBMA Good Delivery: Danh sách các nhà tinh luyện vàng và bạc được chấp
nhận khi những thanh vàng và bạc của họ đáp ứng tiêu chuẩn yêu cầu (tuổi vàng, trọng
lượng, dấuhiệu vàhình dạng) củaHộikinhdoanhkimloạiđáquýLondon.
Đảo chiều quan trọng: Trong phân tích kỹ thuật, một sự thay đổi quan trọng về hướng giá,
cho thấy sự chấm dứt hoặc đối với thị trường giá lên hoặc thị trường giá xuống.
Đặt giá: Giá mà nhà giao dịch hoặc bên bán đặt cho một mặt hàng.
Đặt lệnh theo ngày: Một lệnh mua hoặc bán tại một mức giá cụ thể, chỉ có giá trị trong một
ngày giao dịch.
Đầu cơ giá lên: Người kỳ vọng giá sẽ tăng.
Đầu cơ giá xuống: Người tham gia kỳ vọng giá giảm.
Dấu hiệu phân tích: Tem của bên phân tích về thanh hoặc miếng kim loại quý đảm bảo
được tuổi của nó.
Dấu xác nhận tiêu chuẩn: Một dấu hiệu hoặc số dấu hiệu đối với vàng, bạc hoặc bạch kim
trang sức và các sản phẩm được chế tạo khác để xác nhận rằng chất lượng là đúng tuổi đã
ghi đối với mặt hàng này. Xin xem trang web www.thegoldsmiths.co.uk.
Đáy kép/Đỉnh kép: Trong phân tích tài chính, đáy kép xuất hiện khi giá giảm xuống cùng
mức hai lần và không thủng nữa. Điều này là tín hiệu hỗ trợ tốt. Đỉnh kép thì ngược lại, cụ
thể là khi giá tăng lên cùng mức hai lần và không tăng trần thêm nữa, và vì vậy tạo ra một
mức kháng cự tốt.
Điểm tan chảy: Quy trình làm tan chảy quặng hoặc cô đặc để tách hàm lượng kim loại khỏi
tạp chất.
Định giá bạc: Tổ chức mỗi ngày giao dịch vào lúc 24 giờ ở thành phố London.
Định giá palađi: Tổ chức hai lần mỗi ngày làm việc vào lúc 9 giờ 45 phút và 14 giờ ở thành
phố London.
Định giá vàng: Được tổ chức hai lần mỗi ngày làm việc vào lúc 10 giờ 30 phút và 15 giờ tại
thành phố London.
Độ biến động tiềm ẩn: Biến động được tính toán bằng cách xác định sự thay đổi về công
thức giá quyền chọn Black-Shcoles từ các giá quyền chọn thị trường. Yếu tố của công thức
này xác định mức độ cung và cầu đối với các quyền chọn.
Độ lệch chuẩn: Phương pháp thống kê về cấp độ mà ở đó một giá trị riêng rẽ trong sự phân
bổ khả năng có xu thế khác nhau so với ý nghĩa của phân phối. Cho thấy khả năng sự thay
đổi hoặc giá giảm trong một trường hoặc dải nhất định nào đó quanh phương pháp này.
Đồng 10 đô-la vàng: Là đồng xu vàng của Mỹ có tính pháp lý sớm nhất được đúc năm 1795.
Đồng xu này có tuổi là 900.
Đồng 20 đô-la: Đồng xu vàng có mệnh giá 20 đô-la được phát hành như một yêu cầu pháp
lý ở Mỹ trong thời gian từ năm 1850 đến năm 1932. Đây là đồng xu vàng tuổi 900 có hàm
lượng vàng nguyên chất là 0,9675 ounce tơrôi.
Đồng nốp (noble): Đồng xu bạch kim của Đảo Man có tuổi 999,5.
Đồng sovereign: Đồng xu vàng của Anh có mệnh giá một bảng sterling, có tuổi là 916,6 và
hàm lượng vàng nguyên chất là 0,2354 ounce tơrôi.
Đồng xu gấu trúc: Đồng xu vàng của Trung Quốc có chất lượng 999,9 được sản xuất lần đầu
tiên năm 1982.
Doré (mạ vàng): Một hợp kim vàng chưa tinh chế có số lượng bạc và các kim loại thường
nhỏ hơn, được sản xuất tại mỏ trước khi chuyển sang tinh chế theo tiêu chuẩn London
Good Delivery.
Đúng giá: Là nói đến giá thực hiện quyền chọn ngang bằng với giá thị trường hiện thời của
tài sản đang xem xét.
Đường cong lợi suất: Mối quan hệ giữa lợi nhuận lãi suất và kỳ hạn. Đường cong lợi suất
thường có độ dốc tích cực (cụ thể là lên) do lợi nhuận đối với các lãi suất dài hạn thường
hơn mức lợi nhuận ngắn hạn. Một nhà đầu tư kỳ vọng lãi suất cao hơn từ việc nắm giữ một
tài sản trong một thời gian dài hơn, vì thế lãi suất thường tăng với độ dài đến hạn.
Đường MACD (chỉ số thúc đẩy hội tụ/phân kỳ dịch chuyển): Thường là sự chênh lệch giữa
các bình quân dịch chuyển theo số mũ của 26 ngày và 12 ngày mặc dù những tham số này
có thể được thay đổi. Một đường MACD tích cực cho biết mức trung bình 12 ngày ở trên
mức trung bình 26 ngày và làm nổi bật một giai đoạn và/hoặc xu hướng tích cực. Ngược lại
thì đúng với phần giải thích tiêu cực và xu hướng giảm.
FAS 133: Xin xem Financial Accounting Standards Board Statement 133.
FCM: Viết tắt của Futures Commission Merchant. Thuật ngữ pháp lý cho nhà môi giới hàng
hóa của Mỹ xử lý việc kinh doanh trao đổi hợp đồng tương lai.
FOB: Giao hàng lên tàu. Một giá FOB thường bao gồm chi phí vận chuyển, bảo hiểm và bốc
dỡ lên tàu tại cảng đi.
FSA: Cơ quan dịch vụ tài chính Anh. Một tổ chức quản lý dịch vụ tài chính đơn ở Vương
quốc Anh. Trang web làwww.fsa.gov.uk.
FSMA: Đạo luật Thị trường và Dịch vụ Tài chính 2000 là đạo luật thiết lập Cơ quan dịch vụ
tài chính và xác định quyền năng của nó. Có hiệu lực vào cuối năm 2001.
Giá điểm: Trong các quyền chọn, giá xác định trước mà ở đó có thể thực hiện một quyền
chọn.
Giá quyết toán: Trong các thị trường hợp đồng tương lai, giá được một ủy ban hối đoái ấn
định vào cuối mỗi ngày giao dịch và được phòng giao hoán sử dụng để bán các vị trí ngỏ và
đánh giá các gọi vốn biên.
Giá trị thời gian: Ám chỉ đến các quyền chọn. Sự chênh lệch giữa giá thị trường của quyền
chọn và giá trị thực sự của nó.
Giá trị thực chất: Ám chỉ đến các quyền chọn. Sự chênh lệch giữa giá giao ngay hiện tại và
giá điểm (hoặc thực hiện) quyền chọn, cụ thể là nhân tố trong giá.
Giao dịch giao sau: Mua hoặc bán để giao sau và thanh toán vào một ngày đã thống nhất
trong tương lai.
Giao dịch quyền chọn bán có xu hướng xuống giá: Một vị thế quyền chọn bao gồm việc mua
một quyền chọn bán tại một mức và bán quyền chọn bán tại một mức thấp hơn. Khoản lợi
nhuận thu được từ việc bán một quyền chọn làm giảm chi phí của việc mua quyền khác,
song việc tham gia này bị giới hạn nếu tài sản ưu tiên giảm giá.
GOFO: Tỷ giá chào kỳ hạn của vàng. Vàng tương đương với LIBOR. Các tỷ giá mà ở đó các
nhà giao dịch sẽ cho vay vàng hoán đổi với đồng đô-la.
GOFRA: Thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn vàng. Một công cụ "ngoài bảng cân đối tài sản" được sử
dụng để giảm thiểu rủi ro lãi suất vàng kỳ hạn. Nó đảm bảo tính hiệu quả hỗn hợp của
những biến động về lãi suất của đồng đô-la và vàng khi thanh toán bằng đô-la.
Gọi vốn biên: Yêu cầu có quỹ bổ sung bù đắp cho những thua lỗ của hợp đồng giao sau hoặc
tương lai nếu giá bất lợi cho khách hàng. Cũng xem Tiền ký quỹ biến động giá cả.
Gren: Một trong những đơn vị trọng lượng sớm nhất đối với vàng, một gren tương đương
với một gren lúa mì được lấy từ giữa thân:
1 gren = 0,0648 gram hoặc 0,002083 ounce tơrôi; 15,43 gren = 1 gram; 480,6 gren = 1
ounce tơrôi; 24 gren = một penni. (Xin xem thêm Hạt).
Guinea: Đồng xu vàng của Anh có giá trị danh nghĩa là một bảng được phát hành lần đầu
năm 1663 và được đặt tên sau vàng từ Guinea ở Tây Phi. Nó được định giá lại không chính
thức ở mức 21 shilling tại Great Recoinage năm 1696, một giá trị được xác nhận năm 1717.
Nó có tuổi là 916,6 và hàm lượng vàng nguyên chất xấp xỉ một phần tư ounce tơrôi.
Hàng hóa ký gửi: Đây là các thanh vàng hoặc bạc được một tổ chức đặt với một khách hàng
nhằm đảm bảo việc thanh toán ở mức giá thịnh hành khi kim loại này được lấy ra khỏi kho.
Hàng hóa phái sinh: Một công cụ tài chính được bắt nguồn từ hàng hóa thị trường tiền mặt,
hợp đồng tương lai, hoặc công cụ tài chính khác. Các hàng hóa phái sinh có thể được giao
dịch trên các thị trường hối đoái có điều tiết hoặc ngoài sàn. Ví dụ, các hợp đồng tương lai
của kim loại là phái sinh của hàng hóa vật chất; quyền chọn hợp đồng tương lai là phái sinh
của các hợp đồng tương lai.
Hệ số Beta: Hệ số beta của một tỷ lệ hoặc mức giá là mức độ mà ở đó tỷ lệ hoặc mức giá đó
theo những diễn biến trong toàn bộ thị trường. Nếu hệ số beta lớn hơn một, nó dễ biến
động hơn thị trường; nếu hệ số beta thấp hơn một, nó ít biến động hơn.
Hệ số delta: Tham số rủi ro quyền chọn đánh giá mức độ nhạy cảm của giá quyền chọn đối
với những thay đổi về giá của công cụ đang bàn.
Hệ số gamma: Mức độ nhạy cảm của hệ số delta của quyền chọn đối với những biến động
về giá của tài sản ưu tiên.
Hộ giá công khai: Một loại giao dịch được tiến hành trên một giao dịch hợp đồng tương lai
theo một vòng hoặc một hạt nơi các nhà giao dịch giáp mặt nhau, nêu giá, hợp đồng, tháng,
và số lượng hợp đồng.
Hỗ trợ: Trong phân tích kỹ thuật, mức giá mà ở đó những người mua mới được kỳ vọng sẽ
xuất hiện.
Hóa đơn xuất kho: Một hóa đơn xuất kho được phát hành khi việc chuyển giao được thực
hiện trên một sở giao dịch hợp đồng tương lai. Nó nêu cụ thể khối lượng và tuổi của loại
kim loại quý lưu giữ.
Hoán đổi: được dùng trong các trường hợp sau:
1. Mua và bán đồng thời một hàng hóa giao ngay đối với giao sau.
2. Sự trao đổi giữa các địa điểm khác nhau.
3. Sự hoán đổi hoặc trao đổi kích cỡ chất lượng thanh vàng hoặc tấm hoặc thổi bạch kim
và/hoặc palađi khác nhau.
4. Một thỏa thuận theo đó giá thả nổi được trao đổi lấy giá cố định trong một thời gian cụ
thể.
Hội sở Vàng và Bạc Trung Quốc: Thị trường của Hồng Kông lần đầu được khai trương năm
1910 và đổi thành Hội sở Vàng và Bạc Trung Quốc năm 1918. Trang web là
www.cgse.com.hk.
Hợp đồng chứng khoán hai chiều: Trong các quyền chọn, một chiến lược bao gồm việc mua
hoặc bán quyền chọn bán và mua, mỗi quyền có cùng ngày hết hạn song có các mức giá
điểm khác nhau.
Hợp đồng lai giao sau: Hợp đồng lai giao sau đưa ra các mức lãi suất thả nổi và không có
bàn giao cố định. Nó linh hoạt hơn đối với các hợp đồng giao ngay hoặc giao sau thông
thường.
Hợp đồng tương lai: Một thỏa thuận được đưa ra dựa trên sự trao đổi có tổ chức để mua
hoặc bán một hàng hóa cụ thể hay một công cụ tài chính vào một ngày ấn định trong tương
lai với mức giá ấn định. Thực tế, phần lớn tình trạng hợp đồng tương lai là "cân bằng" trước
khi đến hạn giao hàng, nếu nó xảy ra, theo dạng hóa đơn xuất kho.
Hợp kim: Hỗn hợp gồm hai nguyên tố hóa học trở lên, trong đó có ít nhất một kim loại.
Trong trường hợp là vàng, nó trộn lẫn với kim loại cơ bản để hạ thấp độ nguyên chất, tác
động đến màu sắc hoặc làm tăng độ bền.
IBMA: Thỏa thuận làm chủ vàng quốc tế, do LBMA đưa ra năm
1994. IFEMA: Thỏa thuận làm chủ ngoại hối quốc tế.
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế được thành lập tại Hội nghị Bretton Woods năm 1944 để thúc đẩy
sự hợp tác và ổn định tiền tệ quốc tế. Quỹ này khai trương ở Wasington, D.C năm 1947.
Trang web là www.imf.org.
IMRO: Tổ chức điều tiết quản lý đầu tư (một SRO), được thay thế bởi Cơ quan dịch vụ tài
chính năm 2001.
Iriđi :Ký hiệu hóa học là Ir. Trọng lượng riêng là 22,5 và điểm tan chảy là 1.5390C.
ISDA: Hiệp hội hoán đổi và phái sinh quốc tế. Trang web là www.isda.org.
Kam: Từ tiếng Trung chỉ vàng.
Khoản cho vay bằng vàng: Cung cấp tài chính bằng vàng cho một dự án hoặc ngành nghề
liên quan tới vàng, điển hình là trong tài chính khai mỏ hoặc kiểm kê trang sức đưa ra sự
kết hợp của việc cấp vốn ít nói chung với nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro kèmtheo.
Khoảng trống đột phá/đứt đoạn: Trong phân tích kỹ thuật, điều này xuất hiện khi giá phá
vỡ phạm vi giao dịch của chúng, tạo ra khoảng trống trong biểu đồ. Nó liên quan tới việc
tăng lên về khối lượng và được coi là tín hiệu có xu hướng mạnh.
Khối lượng: Trong các sở giao dịch hợp đồng tương lai, số lượng hợp đồng được giao dịch
trong một phiên.
Kim loại nhóm bạch kim: Bạch kim, palađi, iriđi, osimi, rođi, và ruteni.
Knock-In: Trong các quyền chọn, một quyền chọn lai mà ở đó quyền chọn có giá trị chỉ khi
đạt tới một mức giá xác định trước (thường khác với giá điểm) trong thời gian của quyền
chọn.
Knock-out: Một quyền chọn lai tự động hết hạn hoặc "bị hất ra" nếu giá của tài sản ưu tiên
đạt tới một mức đã xác định trước (thường khác với giá điểm) trong thời gian quyền chọn.
Koala: Đồng xu bạch kim Australia có tuổi là 999,5.
Krugerrand: Đồng xu vàng Nam Phi được phát hành lần đầu tiên năm 1967 có tuổi là
916,6. Lá cây thích: Đồng xu vàng Canađa có tuổi là 999,9 hoặc đồng xu bạch kim tuổi
999,5.
Lãi suất: Khoản gửi tiết kiệm, hoặc ký quỹ, được yêu cầu như khoản đảm bảo đối với các vị
trí mở trên các thị trường tương lai, giao sau hoặc quyền chọn. Cũng còn được gọi là "Ký
quỹ đầu tiên" hoặc "Ký quỹ ban đầu".
Lấy bình quân: Một phương pháp nhờ đó tạo ra sự suôn sẻ của những dao động về biến
động giá có thể đạt được bằng cách đồng ý bán hoặc mua tổng lượng kim loại quý cụ thể
trên cơ sở các mức giá bình quân trong khoảng thời gian đã thống nhất.
LBMA: Hội kinh doanh kim loại đá quý London được sáp nhập ngày 14/12/1987 để đại
diện cho quyền lợi của những người tham gia thị trường vàng bán sỉ và khuyến khích sự
phát triển của thị trường London. Địa chỉ trang web làwww.lbma.org.uk.
Lệnh giới hạn: Một lệnh có những giới hạn kèm theo. Khách hàng nêu cụ thể một giá và
lệnh đó có thể chỉ được thực hiện nếu thị trường dịch chuyển tới hoặc tốt hơn mức giá đó.
Lệnh thị trường: Một lệnh giao cho nhà giao dịch thực hiện ngay lập tức, để mua hoặc bán
tại mức giá thịnh hành tốt nhất. Còn được biết là "Tốt nhất" hoặc "theo giá thị trường".
Loco: Địa điểm - vị trí – mà ở đó một hàng hóa, cụ thể là vàng trên thị trường London, được
lưu giữ về mặt vật chất.
Lớp vàng mạ: Quy trình mà ở đó một lớp hợp kim vàng cara được kết dính về mặt kỹ thuật
với kim loại khác.
LOT: Từ thường được sử dụng để chỉ một hợp đồng tương lai tiêu chuẩn.
LPPM: Là từ viết tắt của London Platinum and Palladium Market được thành lập theo Văn
bản thành lập năm 1987 và đại diện cho quyền lợi của những người tham gia vào các thị
trường bán sỉ bạch kim và palađi, khuyến khích sự phát triển của các thị trường London và
Zurich. Địa chỉ trang web là www.lppm.co.uk.
Lượng: Đơn vị trọng lượng truyền thống của Trung Quốc đối với vàng: 1 lượng = 1,20337
ounce tơrôi = 37,4290 gram. Tuổi danh nghĩa của một lượng vàng Hồng Kông là 990 song ở
Đài Loan, các thanh vàng 5 và 10 lượng có thể có tuổi là 999,9.
Lý thuyết Dow: Do Charles Dow phát triển và ám chỉ đến sáu nguyên lý của Lý thuyết Dow,
nó xử lý tâm lý thị trường, hành động giá, và đánh dấu các cơ sở của phân tích kỹ thuật. Sáu
nguyên lý này là:
1. Số bình quân làm giảm mọi thứ;
2. Có ba xu hướng;
3. Các xu hướng chính có ba giai đoạn;
4. Số bình quân phải xác nhận lẫn nhau;
5. Khối lượng phải xác nhận xu hướng này;
6. Một xu hướng được giả định là có hiệu lực cho tới khi nó đưa ra những tín hiệu cuối cùng
mà nó đã đảongược.
MCX: Sở giao dịch đa hàng hóa của Ấn Độ. Trụ sở đặt tại Mumbai, MCX là thị trường giao
dịch đa hàng hóa tương lai cổ phần hóa. Sở này bắt đầu hoạt động vào tháng 11/2003.
Trang web là www.mcxindia.com.
Mô hình Black-Scholes: Một mô hình định giá quyền chọn ban đầu do Fischer Black và
Myron Scholes đưa ra năm 1973 cho những quyền chọn chứng khoán và sau đó được Black
cải tiến năm 1976 cho các quyền chọn đối với hợp đồng tương lai.
Mua hàng hai: Việc mua các quyền chọn mua và bán với cùng mức giá thực hiện và ngày hết
hạn. Nhà đầu tư kỳ vọng một sự tăng giá đáng kể khi biến động; hướng giá không quá quan
trọng.
Mua vượt mức: Một thị trường mà ở đó giá, theo sức ép mua vượt mức, đã tăng quá cao và
quá nhanh mà không có sự hỗ trợ cơ bản xác thực để duy trì mức mới này.
Mức sàn: Một hợp đồng cung ứng giữa bên mua và bên bán về một loại hàng hóa, theo đó
bên bán được đảm bảo rằng anh ta sẽ nhận được ít nhất một khoảng giá tối thiểu. Loại hợp
đồng này tương tự như quyền chọn bán, trao cho bên nắm giữ quyền bán tài sản ưu tiên
theo một mức giá xác định trước.
Mười vạn (hoặc lac): Thuật ngữ chỉ 100.000 của Ấn Độ. Thường được sử dụng để miêu tả
các lệnh mua vàng hoặc bạc.
Napoleon: Đồng xu vàng của Pháp có mệnh giá 20 franc, in hình chân dung Napoleon I hoặc
Napoleon III. Nó có tuổi 900 và hàm lượng vàng nguyên chất là 0,1867 ounce tơrôi.
NCDEX: Là từ viết tắt của National Commodity and Derivatives Exchange (Sở Hàng hóa và
công cụ phái sinh quốc gia). Một sở giao dịch đa hàng hóa trực tuyến đặt ở Mumbai, bắt đầu
hoạt động vào tháng 12/2003. Trang web là www.ncdex.com.
Ngăn chặn tổn thất: Một lệnh được đặt hàng để thanh khoản một vị trí ngỏ khi giá đạt một
mức cụ thể để cắt lỗ. Những lệnh này chỉ được xử lý trên cơ sở "nỗ lực tốt nhất", khi không
có gì đảm bảo rằng một lệnh có thể được thực hiện tại giá cụ thể đó nếu thị trường vẫn còn
biến động cao và giá vẫn tăng nhanh, hoặc "có khoảng trống", đến nỗi lệnh đó không thể
thực hiện được tại mức giá yêu cầu.
Ngân hàng Anh: Được thành lập năm 1694, "The Old Lady of Threadneedle Street" này là
điểm trung tâm của giao dịch vàng và bạc ở London trong hơn ba thế kỷ. Đây là một trong
những ngân hàng trung ương hoạt động tích cực nhất trên thị trường vàng và là nơi
trữ
vàng của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới. Website của ngân hàng này là
www.bankofengland.co.uk.
Ngày giá trị: Ngày đã nhất trí giữa các bên để quyết toán một giao dịch.
Ngày giao: Ngày cụ thể mà kim loại quý phải được bàn giao để hoàn thành hợp đồng.
Ngày hết hạn: Ngày cuối cùng mà ở đó một quyền chọn có thể được thực hiện.
Ngày quyết toán: Ngày mà ở đó một hợp đồng phải thanh toán đầy đủ và chuyển giao.
Thông lệ chung trên các thị trường kim loại quý quốc tế đối với việc quyết toán là thực hiện
hai ngày giao dịch sau ngày giao dịch, cụ thể là giao ngay.
Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro: Một giao dịch được thực hiện nhằm bù đắp cho tác động của
những biến động giá đảo ngược của một tài sản.
Ngoài giá thua lỗ: Ám chỉ đến các quyền chọn chỉ có giá trị về mặt thời gian (cụ thể là không
có giá trị thực chất); ví dụ là các quyền chọn mua nếu giá điểm lớn hơn giá của tài sản ưu
tiên hoặc là quyền chọn bán nếu giá điểm thấp hơn giá ưu tiên.
Người bán: Trong các quyền chọn, là bên bán hoặc tặng quyền chọn đó.
Người buôn bán sỉ: Mua (hoặc bán) một tài sản giao ngay đang bàn và bán đồng thời (hoặc
mua) một hợp đồng tương lai hoặc giao sau.
Người môi giới: Một bên trung gian giữa các nhà giao dịch về các thỏa thuận hàng hóa tự
nhiên, hợp đồng tương lai và giao dịch không qua sàn. Người môi giới nhận một khoản hoa
hồng cố định được xác định trước giữa người môi giới và khách hàng của mình.
Nhà phân tích đồ thị: Một nhà phân tích dự báo các xu hướng giá tương lai bằng việc diễn
giải kỹ thuật các mô hình đồ thị dựa trên mức giá lịch sử.
Nhóm CME: Nhóm CME được thành lập theo vụ sáp nhập năm 2007 của Sàn giao dịch
chứng khoán thương mại Chicago (CME) và Ủy ban mậu dịch Chicago (CBOT). Xem:
www.cmegroup.com.
NYMEX: Một sở giao dich hợp đồng tương lai của Mỹ bao gồm hai bộ phận là NYMEX (New
York Mercantile Exchange - Sở giao dịch hàng hóa New York) và COMEX (Commodities
Exchange - Sở giao dịch hàng hóa). Trang web là www.nymex.com.
Ở vị thế dài :Một vị trí dài có nghĩa là việc mua và nắm giữ một tài sản.
Osimi: Ký hiệu hóa học Os. Trọng lượng riêng là 22,50 và điểm tan chảy là 2.7000C.
OTC: Giao dịch trực tiếp. Các giao dịch được chào và thực hiện giữa các bên trên cơ sở trực
tiếp, phản đối việc giao dịch qua môi giới trên sàn.
Ounce tơrôi: Đơn vị trọng lượng truyền thống được sử dụng cho các kim loại quý, được gắn
với trọng lượng được sử dụng ở Troyes, Pháp trong thời trung cổ: một ounce tơrôi tương
đương với 1,0971428 đơn vị đo ounce.
Palađi: Một nguyên tố kim loại, ký hiệu hóa học là Pd. Trọng lượng riêng là 12,00, và điểm
tan chảy là 1.5550C.
Penni: Ban đầu là trọng lượng của một đồng penni bạc ở Anh thời Trung cổ, vẫn được sử
dụng rộng rãi ở Bắc Mỹ như một đơn vị trọng lượng trong giao dịch trang sức: 20 penni = 1
ounce tơrôi.
Phân tích bằng lửa: Một phương pháp xác định hàm lượng kim loại (thường thấy nhất là
vàng) trong một hợp kim liên quan tới việc loại bỏ các kim loại khác trên thực tế là sự kết
hợp giữ tôi bằng lửa (để loại bỏ các kim loại thường) và tôi bằng hóa chất (để loại bỏ bạc)
và xác định hàm lượng vàng bằng cách so sánh trọng lượng ban đầu và cuối cùng của mẫu
đó. Phân tích bằng lửa có thể xác định hàm lượng vàng của các hợp kim theo loại Good
Delivery đến một mức chính xác hơn 1/10.000. Phân tích bằng lửa cũng còn được biết đến
là phân tích cupen hoặc phân tích trọng trường.
Phân tích cơ bản: Nghiên cứu các nhân tố ưu tiên cơ bản sẽ tác động đến cung và cầu của
một hàng hóa được giao dịch.
Phân tích kỹ thuật: Nghiên cứu các mức giá lịch sử, kiểm tra các mô hình thay đổi giá, tỷ lệ
thay đổi, và những thay đổi về khối lượng giao dịch và lãi suất mở để dự báo hành vi giá
tương lai. Phân tích kỹ thuật thường được thực hiện ở dạng biểu đồ hoặc đồ thị.
Phân tích: Xác định hàm lượng kim loại quý của một hợp kim, hoặc sử dụng phương pháp
trực tiếp (nếu hàm lượng kim loại quý thực tế được đánh giá) hoặc bằng biện pháp công cụ
gián tiếp (thường là dựa trên phân tích quang phổ) mà ở đó các mức độ tạp chất được đo
lường và hàm lượng kim loại quý được tính toán theo sự chênh lệch. Đối với vàng, phương
pháp trực tiếp chủ yếu là dùng lửa, còn được biết đến là phương pháp tách bằng cupen
hoặc phân tích trọng lượng.
Phân ước: Một mẫu đại diện nhỏ được lấy từ một thanh kim loại quý để phân tích nhằm xác
định hàm lượng kim loại quý nguyên chất của nó.
Philharmonker: Đồng xu vàng của Australia có tuổi là 999,9, được phát hành lần đầu tiên
năm 1989.
Phôi tiền: Một miếng kim loại có các rìa khía răng cưa được dùng để làm tiền xu.
PIA: Viết tắt của Personal Investment Authority (Cơ quan đầu tư cá nhân), cơ quan này tiếp
quản từ LAUTRO và FIMBRA năm 1994 như một SRO cho hầu hết các công ty thực hiện
kinh doanh đầu tư với nhà đầu tư tư nhân. Nó được thay thế bằng FSA năm 2001 khi FSMA
có hiệu lực.
Quặng: Ban đầu bắt nguồn từ tiếng Anh cổ chỉ loại kim loại thô hoặc chưa được khai thác.
Nó ám chỉ đến bất kỳ khoản gửi khoáng sản quý có giá trị kinh tế nào hoặc các kim loại
khác.
Quyền chọn bán: Một hợp đồng trao cho người mua quyền, song không phải là trách nhiệm,
bán một lượng cụ thể của tài sản tại một mức giá xác định trước vào hoặc trước một ngày
cụ thể.
Quyền chọn bán: Một quyền chọn cho người mua quyền, song không phải là trách nhiệm,
mua một tài sản theo mức giá xác định trước hoặc theo một ngày đã ấn định.
Quyền chọn chi phí bằng không: Một chiến lược quyền chọn mà ở đó một quyền chọn được
mua bằng cách đồng thời bán quyền chọn khác có giá trị tương đương. (Xin xem Tối
thiểu/tối đa).
Quyền chọn có đảm bảo: Một quyền chọn mua có đảm bảo là quyền chọn mà người sở hữu
tài sản đang bàn có viết quyền chọn đó. Một quyền chọn bán có đảm bảo là quyền chọn mà
ở đó người bán quyền chọn viết trong khi đang giữ tiền mặt.
Quyền chọn đặt rào: Các quyền chọn ngoài hoặc đến với cuộc sống (được ấn định) hoặc bị
hủy bỏ theo các điều kiện được ghi trong hợp đồng quyền chọn. Các điều kiện thường được
xác định theo một mức giá (giá đặt rào, hủy bỏ hoặc ấn định) có thể đạt được vào bất kỳ
thời điểm nào trong thời hạn của quyền chọn đó. Có bốn loại quyền chọn đặt rào chính là:
lên và ra, lên và vào, xuống và ra, xuống và vào. Việc hủy bỏ hay thực hiện những đặc điểm
của quyền chọn này có nghĩa là chúng thường rẻ hơn so với quyền chọn thông thường,
khiến cho chúng trở nên hấp dẫn với những người mua đang tìm cách tránh phí bảo hiểm
cao.
Quyền chọn khống: Việc bán một quyền của một bên, người không nắm giữ tài sản ưu tiên.
Xem Quyền chọn có đảm bảo.
Quyền chọn kiểu Bermuda: Các quyền chọn ngoài kết hợp các đặc điểm nhất định của các
quyền chọn kiểu Mỹ và châu Âu. Chúng có thể được thực hiện vào các ngày xác định trước
trong thời gian của quyền chọn hoặc vào ngày hết hạn. (Xin xem Quyền chọn kiểu Mỹ và
Quyền chọn kiểu châu Âu).
Quyền chọn kiểu châu Á: Một quyền chọn, nếu hết hạn theo đúng giá thực chất của nó, tự
động được xử lý dựa trên sự chênh lệch giữa giá thực hiện và giá bình quân của tài sản cơ
sở trong một thời gian nhất định trước khi hếthạn.
Quyền chọn kiểu châu Âu: Một quyền chọn có thể chỉ được thực hiện vào ngày hết hạn.
Quyền chọn kiểu Mỹ: Một quyền chọn, có thể được thực hiện vào bất kỳ giai đoạn nào trong
thời hạn của nó, tại hoặc trước ngày hết hạn.
Quyền chọn lookback: Một quyền chọn phụ thuộc vào lịch sử nếu việc thanh toán đến hạn
dựa vào không chỉ việc liệu quyền chọn đó là trong giá khi đến hạn hay không mà còn dựa
vào mức giá tối đa hoặc tối thiểu mà tài sản ưu tiên đạt được trong suốt ít nhất một số thời
điểm trong thời hạn của quyền chọn.
Quyền chọn: Một quyền chọn là quyền song không phải là trách nhiệm mua và bán một
lượng định trước của tài sản ưu tiên tại mức giá đã xác định trước đến hoặc vào ngày xác
định.
Quyền chọn OTC: Các quyền chọn giao dịch trực tiếp không được giao dịch trên các sàn
giao dịch hợp đồng tương lai được thừa nhận mà là giữa các tổ chức hoạt động là chính
hoặc giữa một ngân hàng và khách hàng của mình.
Quyền chọn thường: Một giao dịch tiêu chuẩn không được điều chỉnh theo nhu cầu của bên
nào. Một quyền chọn bình thường tự nhiên thanh toán cho sự chênh lệch giữa giá điểm của
quyền chọn và giá giao ngay của tài sản ưu tiên tại thời điểm thực hiện.
Quyền chọn tổng hợp: Đây là những quyền chọn trong những quyền chọn. Tài sản được
bàn là quyền chọn hơn là hàng hóa hay sự đảm bảo hữu hình.
Quyền ưu tiên: Sự thay đổi mà một hợp đồng tương lai, quyền chọn hoặc phái sinh khác
dựa vào đó.
Quyết toán ngay: Giao kim loại và thanh toán tiền, thực hiện hai ngày giao dịch sau ngày
giao dịch.
Rho: Một phương pháp đo độ nhạy cảm của quyền chọn đối với sự thay đổi về lãi suất; điều
này sẽ tác động đến cả giá tương lai của quyền chọn và giá trị thời gian bảo hiểm. Tác động
của nó làm tăng thời gian đến hạn của quyền chọn.
Rođi: Ký hiệu hóa học Rh. Trọng lượng riêng là 12,44 và điểm tan chảy là 1.9660C.
Rủi ro: Việc tiếp cận với những diễn biến thị trường đảo lộn, rủi ro hoặc khả năng mất tiền.
Rủi ro quyết toán: Rủi ro nảy sinh khi các khoản thanh toán không giao dịch được đồng
thời, nói chung là phát sinh do những chênh lệch về thời gian. Một bên tham gia giao dịch
phải thực hiện thanh toán hoặc chuyển giao ở một múi thời gian sớm hơn mà không có sự
xác nhận bằng hóa đơn về tài sản giao dịch ở một múi thời gian muộn hơn.
Ruteni: Ký hiệu hóa học Ru. Trọng lượng riêng là 12,20 và điểm tan chảy là 2.5000C.
Sang tay: Mua và bán đồng thời một tài sản cho các ngày đến hạn khác nhau.
SFA: Là từ viết tắt của Securities and Futures Authority (Cơ quan chứng khoán và hợp đồng
tương lai - một SRO) chịu trách nhiệm quản lý kinh doanh đầu tư ở Vương quốc Anh. Nó
được thay thế bằng FSA năm 2001 khi FSMA có hiệu lực.
Short Straddle: Việc bán quyền chọn mua và bán với cùng mức giá thực hiện và ngày hết
hạn. Nhà đầu tư có quan điểm trung lập về tài sản ưu tiên và kỳ vọng dao động giá có giới
hạn.
Souk: Tên địa phương nói về chợ được sử dụng trong thế giới Arập.
Số Fibonacci: Chuỗi Fibonnacci được tính toán bằng cách thêm bất kỳ số nào trong loạt số
trước đó: (1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89....). Tỷ lệ bất kỳ số nào trong chuỗi số kế tiếp là
0,618 và hai vị trí số cách đó là 0,382. Điểm giữa giữa 0,382 và 0,168 là 0,50. Những tỷ lệ
này (thường được thể hiện ở dạng %) được biết tới là các tỷ lệ Fibonacci và được sử dụng
trong phân tích kỹ thuật để tính toán các mức nghỉ trong thời gian điều chỉnh. Nghịch đảo
0,618 được sử dụng để tính toán những dự đoán (sóng Elliott). Các tỷ lệ Fibonacci là một
phần không thể tách rời của Thuyết sóng Elliot.
Sở chứng khoán Australia (ASX): ASX được thành lập năm 2006 sau khi sáp nhập Thị
trường trao đổi hợp đồng tương lai và Sở chứng khoán Australia. Trang web:
www.asx.com.au
Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SGX): Sở giao dịch chứng khoán Singapore được khai
trương ngày 1/12/1999, sau khi sáp nhập Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SES) và Sở
giao dịch tiền tệ quốc tế Singapore (SIMEX). Xem: www.sgx.com.
Sở giao dịch hàng hóa Tokyo: TOCOM được thành lập ngày 1/11/1984, là sự sáp nhập giữa
Sở giao dịch hàng may mặc Tokyo, Sở giao dịch cao su Tokyo, và Sở giao dịch vàng Tokyo.
Trang web là www.tocom.or.jp.
Sở giao dịch hàng hóa và vàng Dubai (DGCX): DGCX đã tiến hành giao dịch năm 2005. Xem:
www.dgcx.ae.
Sở giao dịch hợp đồng tương lai Jakarta (Pt. Bursa Berjangka Jakarta): JFX được thành lập
tháng 8/1999. Trang web là www.bbj-jfx.com.
Sở giao dịch hợp đồng tương lai Thượng Hải: Sở giao dịch hợp đồng tương lai Thượng Hải
được thành lập tháng 12/1999. Trang web là www.shfe.com.
Sở giao dịch vàng Istanbul: Sở giao dịch vàng Ixtanbun được thành lập vào năm 1995. Đại
chỉ trang web là www.iab.gov.tr.
Sở giao dịch vàng Thượng Hải :Sở giao dịch vàng Thượng Hải được thành lập năm 2002.
Trang web là www.sge.sh.
Sự bán khống: Một tình trạng bán khống là bán tài sản mình chưa sở hữu.
Sự chuyển nhượng: Việc chuyển nhượng thực tế quyền sở hữu kim loại quý. Nó có thể
không liên quan tới biến động vật chất của kim loại và thường được tiến hành theo một sự
chuyển nhượng bằng chứng từ đơn giản trong hệ thống thanh toán thông suốt.
Sự đặt giá: Giá mà ở đó người giao dịch sẵn sàng mua.
Sự tách hạt: Quy trình mà ở đó bạc được tách khỏi vàng bằng cách hòa tan bằng axit nitric,
thường ám chỉ như một phần của axit nitric .
Sức cản: Trong phân tích kỹ thuật, là mức giá mà ở đó việc bán dự kiến xuất
hiện. Tác dụng đòn bẩy: Xin xem Gearing
Tác dụng đòn bẩy: Có tiềm năng làm tăng lợi nhuận hoặc thua lỗ khi nắm các tỷ lệ lớn từ
một chi tiêu đầu tư nhỏ ban đầu. Ngoài ra, còn có tên gọi làLeverage.
Tài khoản không được chỉ định: Một tài khoản mà các thanh cụ thể không bị gạt sang một
bên và khách hàng có quyền chung đối với kim loại đó. Đây là phương pháp thuận tiện
nhất, rẻ nhất và thường được sử dụng nhất về kim loại nắm giữ. Người nắm giữ là chủ nợ
không có đảm bảo.
Tản khai theo thời biểu: Việc mua và bán đồng thời (hoặc ngược lại) một quyền chọn giá
điểm giống nhau cho nhiều tháng khác nhau.
Thanh kilo: Một thanh vàng nhỏ phổ biến. Một thanh một kilô tuổi 995 = 31,990 ounce
tơrôi, và một thanh nặng một kilô tuổi 999,9 = 32,148 ounce tơrôi.
Thanh toán trì hoãn: Một thỏa thuận mà theo đó việc thoanh toán của cả hai về một giao
dịch vàng, kim loại và tiền, bị trì hoãn tính theongày.
Theta: Trong các quyền chọn, tỷ lệ thay đổi về giá trị của quyền chọn liên quan tới thời gian
với tất cả đều giống nhau.
Thị trường chứng khoán Buđapét: Thị trường chứng khoán Buđapét có nguồn gốc từ Thị
trường chứng khoán Hunggari, được thành lập năm 1864. Sau Chiến tranh thế giới thứ II,
thị trường này bị chính phủ giải tán và thành lập lại vào ngày 21/6/1990. Giao dịch hàng
hóa được bắt đầu vào ngày 2/11/2005. Trang web làwww.bse.hu.
Thị trường giá lên: Một thị trường mà ở đó có xu hướng giá sẽ tăng.
Thị trường giá xuống: Một thị trường mà ở đó xu hướng đối với giá sẽ giảm.
Thị trường tới thị trường: Đánh giá lại tình trạng tại các mức giá thị trường hiện thời.
Thỏa thuận tổng thể ISDA: Thỏa thuận tổng thể phái sinh mua bán trực tiếp của Hiệp hội
hoán đổi và phái sinh quốc tế (ISDA) được hiệp hội có trụ sở ở New York này soạn thảo
năm 1987, sửa đổi năm 1992 và tiếp tục sửa đổi năm 2002.
Thúc đẩy cung: Kim loại quý được bán ra thị trường trước khi nó được sản xuất – nói
chung được tạo bởi nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của nhà sản xuất hoặc các giao dịch tài
chính.
Thực hiện: Việc thực hiện của một người nắm quyền chọn mua hoặc bán một tài sản tại
mức giá điểm đã nhấttrí.
Thuyết đồ thị hình nến Nhật Bản: Các nguyên tắc được Munehisa Homma - một người môi
giới giá - phát triển ở Nhật Bản trong suốt thế kỷ XVII. Tương tự như đồ thị dạng thanh, đồ
thị hình nến sử dụng các mức giá phiên mở cửa, cao, thấp và phiên đóng cửa; tuy nhiên,
trong đồ thị hình nến, phần thân được xây dựng giữa các mức giá phiên mở cửa và đóng
cửa. Các thân nến được thể hiện ở nhiều màu sắc khác nhau để làm nổi bật hướng của
phiên giao dịch, thường là thân màu trắng cho một ngày tăng (giá mở cửa cao hơn giá đóng
cửa hôm trước) và thân đen cho phiên giảm (giá đóng cửa cao hơn giá mở cửa cùng
ngày). Được xem là các tín hiệu ngắn hạn tốt.
Thuyết sóng Elliott: Do R. N. Elliott phát triển, cách tiếp cận này định nghĩa các thị trường
chuyển động theo một số con sóng xác định trước. Các thị trường chuyển động theo một
chuỗi năm con sóng theo hướng xu hướng ưu tiên. Các ETC giao dịch trên các thị trường
chứng khoán và có nhiều nhà làm giá. Các ETC hoặc được hàng hóa vật chất, nếu có thể, hỗ
trợ (như vàng, bạc, bạch kim, palađi) hoặc được định giá theo các thị trường hợp đồng hàng
hóa tương lai, theo đó mang lại cho các nhà đầu tư bán lẻ và cổ phần theo thể chế cơ hội
tiếp cận với các hàng hóa chính thông qua các tài khoản tiền vốn hiệnthời.
Tiền ký quỹ biến động giá cả: Biên bổ sung, hoặc khoản thanh toán phụ thêm của một nhà
đầu tư, kết quả từ sự dịch chuyển đảo ngược của giá của tài sản ưu tiên trong hợp đồng
giao sau, tương lai hoặc quyền chọn.
Tiền tệ học: Lĩnh vực chuyên môn của ngành tiền xu phục vụ công tác nghiên cứu và sưu
tầm các đồng xu hiếm và các phương tiện trao đổi khác, đặc biệt là những vật thu hút sự
quan tâm về khảo cổ và lịch sử.
Tiền xu vàng của Anh: Tiền xu bằng vàng của Anh lần đầu được phát hành năm 1987 với
tuổi vàng là 916,6.
Tín hiệu bán: Trong phân tích kỹ thuật, một mô hình biểu đồ cho biết một hướng giảm đảo
ngược quan trong của giá.
Tín hiệu mua: Trong phân tích kỹ thuật, mô hình bảng biểu cho thấy một sự đảo chiều theo
hướng đi lên về giá và đã đến lúc mua.
Tinh luyện: Việc phân tách và tinh luyện kim loại quý khỏi kim loại khác.
Tính thanh khoản: Khả năng giao dịch trên thị trường của một tài sản. Một thị trường có
tính thanh khoản cao có một số lượng lớn người mua và bán, hoặc người cho vay, tạo điều
kiện dễ dàng tham gia và rút ra.
Tình trạng ngẫu nhiên: Do George Lane phát triển, công cụ cảnh báo sớm này cho thấy vị trí
của phiên đóng cửa hiện thời có liên quan tới phạm vi cao/thấp trong một giai đoạn cụ thể.
Các mức đóng cửa gần đến đỉnh của phạm vi này cho thấy sức ép mua, trong khi các mức
đóng gần đến đáy của phạm vi này cho thấy sức ép bán.
Tối thiểu/Tối đa: Một chiến lược nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro dạng collar chi phí bằng
không theo đó một khách hàng bán một quyền chọn để đổi lấy quyền chọn khác. Trong các
thị trường vàng, về cơ bản được các nhà sản xuất, những người tặng quyền chọn mua để
đổi lấy các quyền chọn bán, sử dụng; trong trường hợp này, cơ cấu đó đảm bảo rằng khách
hàng sẽ nhận được một giá tối thiểu xác định trước để bù đắp cho khả năng mất mát cơ hội
nếu giá thực tế đến hạn ở trên mức tối đa, như giá điểm quyền chọn mua được cấp xác
định.
Tola: Đơn vị trọng lượng truyền thống của Ấn Độ đối với vàng: 1 tola = 0,375 ounce tơrôi =
11,6638 gram. Thanh có kích cỡ phổ biến nhất là 10 tola = 3,75 ounce tơrôi. Các thanh có
trọng lượng này đều có hàm lượng vàng nguyên chất 999,9.
Tom/Next: Ám chỉ tới giai đoạn thời gian thực hiện một ngày giao dịch sau đó kể từ ngày
hiện tại và chấm dứt một ngày giao dịch sau đó (thương là giao ngay). Trong thị trường kim
loại quý, ám chỉ tới tỷ lệ hoán đổi kim loại vay hoặc cho vay đối với đồng đô-la trong giai
đoạn thời gian này, thường được sử dụng để quản lý các luồng thanh khoản ngắn hạn.
Trong giá: Ám chỉ đến các quyền chọn có giá trị thực chất. Ví dụ, các quyền chọn mua nếu
giá điểm thấp hơn giá tài sản ưu tiên hoặc quyền chọn bán nếu giá điểm lớn hơn giá tài sản
ưu tiên.
Trọng lượng chính xác: Trọng lượng vàng có trong một thanh, đồng xu, hoặc thỏi được xác
định bằng cách nhân trọng lượng tổng với tuổi vàng.
Tuổi vàng: Tỷ lệ kim loại quý trong hợp kim được diễn tả theo tỷ lệ 1.000.
Tuyên bố của Ban chuẩn mực kế toán tài chính 133 (FAS 133): FAS 133 giúp các công ty Mỹ
đặt tất cả các công cụ phái sinh tài chính không được sử dụng để đảm bảo tiếp cận về cân
bằng thanh toán tại giá trị thị trường. Các công ty vì thế tiết lộ các mức lợi nhuận chưa
được thực hiện và những thua lỗ phái sinh, ngoài việc tính toán chúng ở ngay lúc đến hạn.
Tỷ lệ vàng/bạc: Số lượng ounce bạc có thể được mua bằng một ounce vàng.
Vạn lý trường thành: Rào cản đối với luồng thông tin giữa hai bộ phận khác nhau thuộc
ngành kinh doanh của công ty.
Văn phòng phân tích: Một tổ chức chính thức hoặc theo luật định kiểm soát việc kiểm tra
kim loại quý trong một nước.
Vàng FRA: Thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn cho thuê vàng. Tương tự như GOFRA song bị hạn chế
chỉ đối với các lãi suất vàng có đảm bảo với việc thanh toán bằng vàng. Một sản phẩm đặt
rào quen thuộc với những ai có yêu cầu vay hoặc gửi vàng. Goldfras nói chung được giải
quyết theo tiêu chuẩn của LIBOR USD trừ đi giá trị trung bình GOFO vào ngày quan sát.
Vàng giấy: Một thuật ngữ sử dụng để miêu tả các hợp đồng vàng như các thỏa thuận và các
hợp đồng tương lai trên thị trường London không nhất thiết liên quan đến việc chuyển giao
vàng vật chất.
Vàng quặng: Thuật ngữ rộng chỉ vàng được gửi tới nhà tinh luyện hoặc nhà xử lý để tái xử
lý .
Vàng: Tên Latinh là Aurum. Ký hiệu hóa học là Au. Trọng lượng riêng là 19,32 và điểm tan
chảy là 1.0630C.
Vàng trắng: Một hợp kim vàng có chứa chất làm trắng như bạc, palađi, hoặc niken cũng như
các kim loại thường khác, thường được sử dụng như một khung dát cho trang sức kim
cương.
Vàng xu: Một hợp kim vàng, thường có hàm lượng nguyên chất tối thiểu là 900, được chuẩn
bị để sản xuất tiền xu, thường có lẫn bạc hoặc đồng, để làm tăng độ bền.
Vega: Một phương pháp đánh giá quyền chọn sẽ thay đổi là bao nhiêu khi có biến động do
dao động của tài sản ưu tiên.
Vị thế ngỏ: Một vị thế thị trường vẫn chưa được đóng lại.
Vreneli: Đồng xu vàng Thụy Sĩ có mệnh giá 20 franc được phát hành trong giai đoạn từ năm
1897 tới 1935. Nó có tuổi là 900 và hàm lượng vàng nguyên chất là 0,1867 ounce tơrôi.
Xác định giá bạch kim: Tổ chức hai lần một ngày làm việc vào lúc 9 giờ 45 phút và 14 giờ tại
thành phố London.
Xu hướng/đường xu hướng: Trong phân tích kỹ thuật, xu hướng được xác định là một dịch
chuyển có hướng trong một khoảng thời gian. Có ba dạng: lên, xuống và hai bên. Đường xu
hướng là một đường thẳng kết nối hai hay nhiều điểm giá, kéo dài tới tận tương lai để hoạt
động như một sự hỗ trợ hoặc cản trở. Các đường xu hướng có tầm quan trọng khi chúng
xác định và xác nhận các xu hướng. (Xin xem Hỗ trợ và Sức cản).
PHỤ LỤC IV: Các đặc tính của vàng
Theo Hội đồng vàng thế giới
(www.gold.org)
Vàng (ký hiệu là Au) có số nguyên tử là 79, cụ thể là mỗi nguyên tử vàng có 79 proton trong
hạt nhân của nó. Nguyên tử khối của nguyên tử vàng là 196,967 và phóng xạ nguyên tử của
vàng là 0,1442 nanomét. Thật thú vị, điều này nhỏ hơn so với lý thuyết dự đoán.
Sự sắp xếp của các electron quanh hạt nhân của vàng có liên quan tới màu vàng đặc thù của
vàng. Màu của kim loại dựa trên sự dịch chuyển của các electron giữa các dải năng lượng.
Các điều kiện để hấp thụ sâu ánh sáng tại các bước sóng dài cần thiết để tạo ra màu vàng
điển hình được hoàn thành bằng một chuyển dịch từ dải sóng d tới các vụ trí chưa bị xâm
chiếm trong vùng dẫn. Màu sắc ấm áp hấp dẫn của vàng dẫn tới việc nó được sử dụng rộng
rãi trong trang trí.
Trong khi số proton trong một hạt nhân vàng được cố định ở mức 79, số neutron có thể
khác nhau từ một nguyên tử này tới một nguyên tử khác đưa ra một số lượng chất đồng vị
của vàng. Tuy nhiên, chỉ có một chất đồng vị không phóng xạ ổn định đối với tất cả vàng tìm
thấy tự nhiên.
Hình IV-1: Cấu tạo kết tinh của vàng kim loại
Cấu tạo kết tinh đối với vàng kim loại là hình lập phương diện tâm (FCC). Xin xem Hình IV-
1.
Cấu tạo kết tinh này góp phần tạo ra tính dẻo cao cho vàng vì các mạng FCC đặc biệt ổn
định để cho phép xảy ra các dịch chuyển trong mạng này. Những dịch chuyển là quan trọng
để đạt được tính dẻo cao.
Tỷ trọng của vàng (19,3 gram/cm3) tùy thuộc vào cả nguyên tử khối và cấu tạo kết tinh của
nó. Điều này khiến cho vàng nặng hơn so với một số nguyên vật liệu thông thường khác. Ví
dụ, nhôm có tỷ trọng là 2,7 gram/cm3, và thậm chí tỷ trọng của sắt chỉ là 7,87g/cm3.
Điểm tan chảy của vàng nguyên chất là 1.0640C, mặc dù khi kết hợp với các nguyên tố khác
như bạc hoặc đồng, hợp kim vàng sẽ tan chảy theo một phạm vi nhiệt độ khác. Điểm sôi của
vàng, khi vàng chuyển từ dạng lỏng sang dạng khí, là 2.8600C.
Tính năng dẫn nhiệt, dẫn điện hiệu quả của vàng cũng chỉ giống như bạc và đồng song
không giống như những kim loại này, vàng không bị xỉn, khiến cho nó không thể thiếu được
trong điện tử.
Điện trở riêng của vàng là 0,022 micro-ohm/m tại nhiệt độ 200C. Độ dẫn nhiệt là 310
watt/m/kelvin ở cùng nhiệt độ. Khả năng chống ăn mòn của vàng có lẽ là một trong những
đặc tích hữu dụng nhất. Các điện thế là phương pháp hữu ích thể hiện cho xu hướng của
kim loại trước sự ăn mòn. Các điện thế được đo theo hyđrô, và một chuỗi điện hóa có thể
được chuẩn bị cho các kim loại được thể hiện trong Bảng IV-1. Không có gì ngạc nhiên, vàng
là phần đầu của chuỗi này cho thấy khả năng chống ăn mòn cao của nó. Trên thực tế, nó chị
bị ăn mòn bởi hỗn hợp axit nitric và hydrochloric (nước cường). Trong sử dụng hàng ngày,
vàng không bị xỉn.
Bảng IV-1: Các điện thế cho nhiều kim loại
Vàng kim loại cực kỳ dễ dát mỏng (tới mức mà ở đó một vật liệu có thể bị biến dạng do sức
ép trước khi hỏng). Trong tình trạng nung nóng, nó có thể được dát tới mức trong đục dày
0,000013 cm. Một ounce vàng có thể được dát thành miếng phủ được 9 mét vuông và có độ
dày 0,000018 cm.
Vàng cũng dẻo (cấp độ kéo dài thực hiện trước khi vật liệu bị đứt gẫy do căng) và một
ounce có thể được kéo thành một dây vàng mỏng (đường kính 5 micron) dài tới 80 km (50
dặm) để tạo ra những tiếp xúc điện và dây cuộn.
Môđun của Young về tính co dãn của một kim loại liên quan tới mức độ cứng hoặc tính chất
cứng và được xác định là tỷ lệ giữa sức căng được áp dụng và sức căng đàn hồi mà nó tạo
ra. Vàng có một môdun Young là 79 giga pascal, rất giống với bạc, song thấp hơn nhiều so
với sắt hoặc thép.
Độ cứng được xác định là khả năng của kim loại kháng lại sự mài mòn bề mặt. Độ cứng
tương ứng của các kim loại về mặt lịch sử được đánh giá bằng cách sử dụng một danh
sách các vật liệu được sắp xếp theo trình tự để bất kỳ kim loại nào trong danh sách này sẽ
loại bỏ bất kỳ vật liệu nào dưới nó. Vì thế, kim cương, chất cứng nhất được biết, dẫn đầu
danh sách với chỉ số độ cứng là 10 trong đá tancơ ở cuối với chỉ số độ cứng là 10. Trong
bậc thang này, vàng có giá trị là 2,5 tới 3, cụ thể là đó là kim loại mềm. Đối với các biện
pháp đo lường chính xác hơn, phép đo lường độ cứng Vickers (Hv) được sử dụng và
vàng có giá trị xấp xỉ 25Hvtrongđiềukiệnnungnóng.
Vàng chứng minh độ tương thích sinh học tuyệt vời trong cơ thể con người (lý do chính
khiến nó được dùng trong nha khoa), và kết quả là, có một số ứng dụng trực tiếp của vàng
làm vật liệu dùng trong y học. Vàng cũng sở hữu mức độ kháng khuẩn cao và vì thế, nó là
vật liệu được lựa chọn để thực hiện cấy ghép ít bị rủi ro viêm nhiễm như phần cấy ghép ở
tai trong.
Vàng tạo ra một số hợp chất thú vị dựa trên tình trạng ôxi hóa tương đồng +1 và +3. Các
hóa chất có gốc vàng bao gồm halide, xyanua, và sulfide.
Các đặc tính cơ bản của vàng được liệt kê trong bảng IV-2 trong trang kế
tiếp. Bảng IV-2: Các đặc tính của vàng
PHỤ LỤC V: Các trọng lượng thanh và hàm
lượng vàng nguyên chất đã thống nhất
Từ vựng
A
Ấn: Signet
Ấn định giá bạc: Silver fixing
Ấn định giá bạch kim: Platinum fixing
Ấn định giá palađi: Palladium fixing
Ấn định giá vàng London: London gold fixing
Ấn định giá vàng: Gold fixing
B
Bạc: Silver
Bạch kim: Platinum
Bản chất: nature of
Bàn giao hàng hóa: Good delivery
Bán quá mức: Oversold
Bản vị vàng: Gold standard
Bảng thanh: bar table
Bảo chứng, vàng: Warrants, gold
Bay hơi: Volatility
Bên cho vay vàng: lenders of gold
Bên khai thác hàng đầu (Xin xem khai thác vàng): leading extractors
Biểu đồ dạng thanh: Bar charts
Bình giá vàng: Gold parity
C
Các đỉnh: Caps
Các khoản vay bằng vàng: Gold loans
Các mô hình định giá quyền chọn: Option pricing models
Các mức chào giá: offers
Các nhà làm giá: market makers
Các nhà tinh luyện: Refiners
Các quỹ đầu tư nhà nước: Sovereigns
Các quỹ hợp tác đầu tư: Hedge funds
Các quy tắc giao dịch: rules for trading
Các quy ước thị trường: market conventions
Các quyền chọn có phòng ngừa: covered options
Các quyền chọn đặt rào: barrier options
Các quyền chọn kiểu Bermuda: Bermuda-style options
Các quyền chọn kiểu châu Á: Asian-style options
Các quyền chọn kiểu châu Âu: European-style options
Các quyền chọn kiểu Mỹ: American-style options
Các quyền chọn mua: call options
Các quyền chọn OTC (giao dịch thị trường chưa niêm yết): OTC options (over the counter
options)
Các quyền chọn trao đổi thị trường: exchange traded options
Các tài khoản vàng không được chỉ định: Unallocated gold accounts
Các thanh theo tiêu chuẩn London Good Delivery: London Good Delivery bars
Các tổ chức tự quản lý: Self Regulatory Organizations (SRO)
Các trọng lượng thanh và hàm lượng vàng nguyên chất thỏa thuận: bar weights and agreed
fine gold content
Các trung tâm giao dịch chính: major trading
centers Các vấn đề môi trường: environmental issue
Các vị trí mở: Open
positions Cara: Carats
Carbon dioxide trong khai thác vàng: Carbon dioxide, in gold
mining Cắt giảm: Chop
Cân bằng cung/cầu: Supply/demand
balance Chất thải nặng: Overburden
Chi phí sản xuất trong: production costs in
Chi phí, bảo hiểm và cước phí: CIF (cost, insurance, and freight)
Chỉ số RSI: Relative Strength Index (RSI)
Chiến binh chống lạm phát: inflation fighter
Chiến lược bullet call spreads trong thị trường quyền chọn: Bullet call
spreads Chiến lược hợp đồng chứng khoán 1 chiều: Strangles
Chiến lược hợp đồng chứng khoán 2 chiều: Straddles
Chiến lược kinh doanh chênh lệch tỷ giá tiền trong carry trade: Cost of
carry Chiến lược short straddle: short straddles
Chiến lược tản khai: Spreads
Chiến lược tản khai kiểu bướm: Butterfly
spreads Chiến lược tản khai thời biểu: Calendar
spreads
Chiến thuật bear call spreads là chiến thuật về quyền chọn mua trong thị trường giá xuống:
Bear call spreads
Chiến thuật bear put spreads là chiến thuật về quyền chọn bán trong thị trường giá xuống:
Bear put spreads
Chiến thuật bull call spreads là chiến thuật về quyền chọn bán trong thị trường giá lên: Bull
call spreads
Chiến thuật bull put spreads là chiến thuật về quyền chọn mua trong thị trường giá lên: Bull
put spreads
Chiến thuật put spread: Put spreads
Chiến thuật trên thị trường ngoại hối: Carry
trades Chủ nghĩa khủng bố: Terrorism
Chứng quyền vàng: Gold warrants
Công nghệ đãi giai tầng: Heap leaching
Công nhân khai mỏ và: miners and
Công ty AngloGold Ashanti: AngloGold Ashanti
Công ty Blanchard and Company: Blanchard and Company Inc.
Công ty khai mỏ Driefontie (Nam Phi): Driefontein Mine
Cổ phiếu ký gửi: Consignment stocks
Cổ phiếu thường: equities
Cổ phiếu vàng SPDR: SPDR Gold Shares
Cổ phiếu vàng TRACK: TRACK Gold Shares
Cơ bản: Principal
Cơ quan chứng khoán và hợp đồng tương lai (SFA): Securities and Futures Authority (SFA)
Cơ quan dịch vụ tài chính : Financial Services Authority (FSA)
Cờ: Flags
D
Dạng tấm: Wafer
Dấu chuẩn: benchmark
Dấu hiệu phân tích: Assay marks
Doanh thu: turnover
Dưới lòng đất:
underground Đa dạng hóa:
Diversification Đãi mẫu:
Panning
Đạo luật Thị trường và các dịch vụ tài chính 2000: Financial Services and Markets Act of
2000 (FSMA)
Đáy kép/đỉnh kép: Double bottom/double top
Đấu giá mở: Open outcry
Điểm phá vỡ/khoảng trống xác định chiều hướng thị trường: Breakout/breakaway
Độ nguyên chất: purity in
Đồ trang sức: jewelry
Đồng 20 đô-la vàng: Double eagle
Đồng đô-la Mỹ với vàng: US dollar, gold versus
Đồng euro: Euro
Đồng xu: coins
Đồng xu gấu trúc: Panda
Đồng xu philharmonkier: Philharmoniker
Đồng xu vàng: Coin gold
Đơn vị đo vàng: Doré
Đúng giá: At the money
Đường cong lãi suất: Yield curve
G
Gamma: Gamma
Gần như hàng hóa: as quasi commodity
Gần như tiền tệ: as quasi currency
Giá chào bán: Ask
Giá đặt: Bids
Giá ngoài thua lỗ: Out of the money
Giá quyết toán: Settlement price
Giá thỏa thuận trước (giá điểm): Strike price
Giá trị thời gian: Time value
Giá vàng: Gold prices
Giao dịch giao ngay: spot transactions
Giao dịch giao sau: forward transactions
Giao dịch hàng hóa: Commodity Exchange (COMEX)
Giao dịch lãi suất vàng: gold interest rate trading
Giao dịch ngoài thị trường: Off market transactions
Giao dịch thị trường chưa niêm yết: OTC (over the counter)
Giao dịch thị trường quyền chọn vàng: gold option market trading
Giao dịch trực tuyến: Online exchanges
Giao dịch vàng giao ngay: spot gold
trading Giao hàng: Delivery
H
Hạt: Grains
Hạt nhỏ: Granules
Hấp thụ, không hấp thụ và phục hồi (ADR): Adsorption, desorption and
recovery Hệ số Beta: Beta
Hệ số delta: Delta
Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ: US Federal Reserve System
Hiệp hội khai mỏ có trách nhiệm: ARM (Association for Responsible
Mining) Hiệu ứng Ratchet: Ratchet effect
Hóa đơn xuất kho: Warehouse
receipt Hoán đổi: Swaps
Hoạt đồng gần giống như các công ty môi giới chứng khoán: FCM (futures commission
merchant)
Hoạt động giao hoán: Clearing
operations Hỗ trợ: Support
Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Tài chính: Financial Accounting Standards Board (FASB)
Hội đồng Trang sức có trách nhiệm: Council for Responsible Jewellery Practices (CRJP)
Hội đồng vàng thế giới: World Gold Council (WGC)
Hội sở giao dịch vàng và bạc Trung Quốc (Hồng Kông): Chinese Gold and Silver Exchange
Society (Hong Kong)
Hợp đồng kỳ hạn có thể thực hiện trước khi nó đến hạn: Spot deferred
Hợp đồng tương lai: Futures contracts
Hợp kim: Alloys
K
Kế hoạch tích trữ vàng: Gold accumulation plans (GAP)
Khác biệt văn hóa trong sử dụng vàng: Cultural differences in use of gold
Khai thác hầm lò: Underground mining
Khai thác lộ thiên: Open pit mining
Khai thác quy mô nhỏ: Small-scale mining
Khai thác vàng: Gold mining
Khoản bù đắp ký quỹ: Variation margin
Khối lượng: Volume
Khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn: Subprime mortage crisis
Khủng hoảng tín dụng: Credit crunch
Kích cỡ thanh: size of bars
Kim loại nhóm bạch kim: Platinum group metals (PMG)
Kim loại quý: Precious metals
Ký quỹ môi trường: Environmental
bonds Kỳ phiếu cơ cấu: Structured note
L
Lãi suất hoàn trả: Bullet rate of interest
Lãi suất mở: Open interest
Lãi suất trả một lần: bullet rate of
interest Lãi suất vàng: Gold interest rates
Lạm phát: inflation
Lệnh bán tự động (cho phép tự động bán khi giá cổ phiếu của nhà đầu tư đang nắm giữ rớt
xuống một mức giá nhất định): Stop loss
Lệnh đặt theo ngày: Day
orders Lượng: Tael
Lưu trữ có giá trị: Store of value
Lưu vực Witwatersrand (Nam Phi): Witwatersrand Basin
Lý thuyết backwardation: Backwardation
M
Mỏ Cripple Creek và Victor (Mỹ): Cripple Creek and Victor mine
Mỏ Driefontein: Driefontein Mine
Mỏ Kloof: Kloof Mine
Mỏ Nevada (bang Nevada): Nevada Mine (Nevada)
Mỏ Tau Tona (Nam Phi): Tau Tona Mine (South Africa)
Mỏ Yanacocha (Peru): Yanacocha Mine (Peru)
Mô hình bán sỉ cash and carry: Cash and carry
Mô hình Black-Scholes: Black-Scholes model
Mô hình đầu và vai: Head and shoulders
Môi trường: environmental
Mua quá mức: Overbought
Mức độ động đất, trong khai mỏ dưới lòng đất: Seismicity, in underground mining
Mức kháng cự: Resistance
Mức trung bình: Averaging
N
Nền đất: Earthworks
Nền giao dịch điện tử: electronic trading platform
Ngày giá trị: Value date
Ngày giao hàng: Delivery date
Ngày hết hạn: Expiry date
Ngày quyết toán: Settlement date
Ngân hàng Anh: Bank of England
Ngân hàng Barclays FLO: Barclays Bank FLC
Ngân hàng Deutsche Bank AG: Deutsche Bank AG
Ngân hàng dự trữ liên bang New York: Federal Reserve Bank of New York
Ngân hàng hoàng gia Canada: Royal Bank of Canada Limited
Ngân hàng Nova Scotia-ScotiaMocatta: Bank of Nova Scotia-ScotiaMocatta
Ngân hàng thanh toán quốc tế: Bank for International Settlements (BIS)
Ngân hàng trung ương châu Âu: European Central Bank
Ngân hàng trung ương: Central banks
Ngân hàng vàng: Bullion banks
Nghiệp vụ ácbít: Arbitrage
Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro delta: Delta hedging
Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, có xác định: hedge,
defined Người bán vàng : sellers of gold
Người cho vay vàng: lenders of gold
Người đầu cơ giá lên: Bull(s)
Người đầu cơ giá xuống: Bear(s)
Người mua vàng : buyer of gold
Người nắm giữ vàng : holders of gold
Người phân tích: Assayer
Người vay vàng: borrowers of gold
Nguồn tài nguyên : resources
Nhà sản xuất lớn nhất: largest producers
Nhiệt độ hầm lò: Temperature in underground mining
Nhu cầu về vàng : demand for gold
Những người môi giới: Brokers
Những nước nghèo nợ nần chồng chất (HIPC): Heavily Indebted Poor Countries (HIPC)
O
Osimi: Osmium
Ounce hệ avoirdupois: Avoirdupois ounce
Ounce hệ tơrôi: Troy ounces
P
Palađi: Palladium
Penni: Pennyweight
Phái sinh: Derivatives
Phân kim bằng lửa: Fire assay
Phân tích cơ bản: Fundamental analysis
Phân tích: Assay
Phân tích kỹ thuật: Technical analysis
Phí giao sau: Forward premium
Phòng phân tích: Assay office
Q
Quặng: Ore
Quy mô nhỏ: small-scale
Quy trình : process
Quỹ đầu tư nhà nước: Sovereign wealth funds (SWF)
Quỹ STREET track: STREET tracks
Quỹ Tiền tệ quốc tế : International Monetary Fund (IFM)
Quỹ tiền tệ thực tế: Real money funds
Quỹ trao đổi thị trường ETF: exchange-traded funds
Quỹ vàng chung: Gold pools
Quyền chọn bán: Put/Call options
Quyền chọn chi phí bằng không: Zero-cost option
Quyền chọn đặt rào: Barrier options
Quyền chọn giá thỏa thuận trung bình: Average strike option
Quyền chọn khống: naked options
Quyền chọn kiểu Bermuda (Xin xem Quyền chọn và các thị trường quyền chọn: Bermuda-
style options
Quyền chọn kiểu châu Á (Xin xem Quyền chọn và thị trường quyền chọn):Asian-style option
Quyền chọn kiểu châu Âu (xin xem Quyền chọn và thị trường quyền chọn): European-style
options
Quyền chọn kiểu Mỹ (Xin xem Quyền chọn và thị trường quyền chọn): American-style
options
Quyền chọn lookback: lookback options
Quyền chọn mà người bán giữ cổ phiếu: Covered options
Quyền chọn mua: call options
Quyền chọn ngoại lai: Exotic options
Quyền chọn tổng hợp: Compound
options
Quyền chọn và thị trường quyền chọn: Options and options
market Quyền chọn vanilla: Vanilla option
Quyết toán ngay: Spot
settlement R
Rho:
Rhodium Rủi
ro: Risk
Rủi ro quyết toán: Settlement
risk S
Sản lượng vàng: Gold Fields
Sản xuất vàng: Gold
production
Số Fibonacci: Fibonacci numbers
Sở giao dịch Budapest: Budapest Stock Exchange
Sở giao dịch Chicago: Chicago Mercantile Exchange (CME)
Sở giao dịch hàng hóa và vàng Dubai: Dubai Gold and Commodities Exchange (Dubai)
Sở giao dịch hợp đồng tương lai Thượng Hải (Trung Quốc): Shanghai Futures Exchange
(China)
Sở giao dịch hợp đồng tương lai và thương mại Brasil: Brazilian Mercantile and Futures
Exchange
Sở giao dịch New York (Mỹ): New York Mercantile Exchange (United States)
Sở giao dịch vàng thỏi: Gold Bullion Securities
Sở giao dịch vàng Thượng Hải: Shanghai Gold Exchange
Sở giao dịch vàng: Gold exchanges
Sự lấy mẫu quặng: Quartation
Sự tan chảy: Smelting
T
Tác dụng đòn bẩy: Gearing
Tài khoản vàng được chỉ định: Allocated gold accounts
Tài sản có thể cầm tay: portable wealth
Tấn khối: Tonnes
Tập đoàn Bear Stearns Forex: Bear Stearns Forex Inc.
Tập quán làm việc: Working practices
Thị trường bán sỉ: Wholesale market
Thị trường chứng khoán Australia: Australian Securities Exchange (ASX)
Thị trường contango: contango market in
Thị trường đầu cơ giá lên: Bull markets
Thị trường đầu cơ giá xuống: Bear
markets
Thị trường đấu giá mở: open outcry market
Thị trường quyền chọn vàng: gold option market
Thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn cho thuê vàng: GOLDFRA (gold lease forward rate agreement)
Thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn của vàng: GOFRA (gold forward rate agreement)
Thỏa thuận vàng ngân hàng trung ương châu Âu: EcbGA (European central bank Gold
Agreement)
Thỏa thuận Washington về vàng: WAG (Washington Agreement on
Gold) Thông số hợp đồng: contract specifications
Thúc đẩy bán/cung: Accelerated selling
Thuyết âm mưu: Conspiracy theories
Thuyết Dow: Dow Theory
Thuyết sóng Elliot: Elliot Wave theory
Tín hiệu bán: Sell signals
Tín hiệu mua: Buy signals
Tính thanh khoản: liquidity
Tính toán: calculating
Tola: Tola
Trả bằng vàng so với đồng đô-la Mỹ: paying in gold versus U.S dollars
Trọng lượng vàng: Fine weight
Trữ lượng: Deposits
Trữ lượng trong khai thác dưới lòng đất: Reserves, in underground mining
Tuổi vàng: Fineness
Tỷ giá chào kỳ hạn của vàng: GOFO (gold forward offered rate)
Tỷ lệ vàng/bạc: Gold/silver ratio
U
Uỷ ban giao dịch chứng khoán (SEC): Securities and Exchange Commission (SEC)
Ủy ban giao dịch hợp đồng hàng hóa tương lai: CFTC (Commodity Futures Trading
Commission)
Ủy ban hành động chống độc quyền vàng: Gold Anti-trust action committee (GATA)
Ước số: Aliquot
V
Vàng: Gold
Vàng cán: Rolled gold
Vàng có nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro: Hedging gold
Vàng đầu tư với: investment gold versus
Vàng được phân bổ: allocated gold
Vàng giấy: Paper gold
Vàng không được chỉ định: unallocated gold
Vàng là tài sản chiến lược: Gold as Strategic Asset (Michaud et al.)
Vàng là vật lưu trữ có giá trị: Gold as a Store ò Value (Harmston)
Vàng theo nghiệp vụ short-selling (bán theo giá tương lai giảm): Short-selling gold
Vàng thỏi: Bullion
Vàng trắng: White gold
Vàng trên thị trường London: loco London gold
Vàng trong carbon: Gold in carbon
Vàng và các đồng xu kim loại quý: Bullion and precious metal
coins Vàng vật chất: Physcial gold
Vàng vụn: Scrap gold
Vát: Undercut
Vật ngang giá trên thị trường London: loco London equivalent
X
Xu hướng/đường xu hướng: Trend/trend line
Xyanua: Cyanide
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro