Partie 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 10: MỘT NGÀY VẤT VẢ

Đêm qua khá là yên bình. Chẳng có động tĩnh gì lạ cả. Vả lại cũng chẳng gom thêm được chút manh mối nào. Tên hung thủ ra tay quá lộ liễu nhưng cũng quá sạch sẽ, đến mức chẳng có gì còn sót lại để tôi có thể theo đó và tóm cổ hắn. Hiện tại thì tôi chẳng biết nên làm gì hơn là mong rằng sẽ hé thêm một chút bức màn bí mật vào cái đêm ả điếm Mary Ann Nichols bị giết.

Một chai rượu rum vào đêm hôm qua khiến tôi vẫn còn chóng mặt và đau đầu. Ừ thì chẳng có say mấy, vẫn tỉnh táo như thường nhưng tại sao lại chóng mặt và đau đầu thế nhỉ? Tôi nghĩ có lẽ chỉ là do tôi mệt mỏi vì thiếu ngủ mà thôi, chứ chẳng ai rỗi hơi mà đầu độc tôi đâu.

Mệt thì mệt nhưng công việc vẫn là trên hết. Sáng hôm sau buổi gác đêm, thì bốn chàng ngự lâm và "phu nhân Tréville", tính cả hai bóng hồng kia cũng đi ngủ bù cả, trừ tôi ra. Tôi phải đến "giải quyết" ông thợ quét ống khói say bí tỉ suốt ngày kia và đám tình báo tí hon gốc Pháp đó.

- Paulie này, ông ta đâu? Cái lão suốt đêm hết ngày say sưa nồng nặc mùi rượu làm thuê nhà cậu ấy?

- À, hôm nay không may, tớ xin lỗi. Ông ta xin nghỉ vài tuần.

- Tại sao, tại sao hả? Tại sao lại đúng hôm nay cơ chứ? Ta lại chẳng biết khi nào hắn ta ra tay nữa, lại càng chẳng biết hắn chỉ giết một người, hay lấy việc giết người làm thú vui hoặc để trả thù đời nữa! Ghét thật!

Khi hay tin một đầu mối khá quan trọng, một nhân chứng đáng giá vuột mất khỏi tay, tôi trở nên cáu gắt. Mấy đêm trắng mắt mà chỉ thu về bấy nhiêu thôi sao? Chỉ là khoảnh khắc mười hai giờ rưỡi đêm khi nạn nhân rời khỏi quán rượu và lúc hai giờ rưỡi sáng khắc cuối cùng nạn nhân được thấy còn sống tại góc đường Osborn ( phố Buck's Row ) và sau đó vào bốn giờ kém hai mươi phút sáng thì được phát hiện đã chết? Từ lúc mười hai giờ rưỡi lúc nạn nhân rời quán rượu trong tình trạng say khướt đến hai giờ rưỡi sáng cô ta đã làm gì, đi đâu? Và bí ẩn là, khoảng từ hai giờ rưỡi về sau thì cô ta đã bị giết rồi hay còn sống và sau đó mới bị sát hại trong khoảng từ đấy đến ba giờ rưỡi? Tôi không hề biết gì hết, và cũng chẳng tìm thêm được gì!

- Hắn...?

- Tên hung thủ, tên đồ tể điên loạn nào đó đang đùa tôi với con dao mổ lợn của hắn đấy. Hắn nấp trong bóng tối, nghĩ rằng có thể đùa chơi với con cáo bông xù này bằng một trò chơi nho nhỏ là "giấu manh mối đi". Hắn nghĩ hắn đang đùa với ai? Hắn nghĩ hắn đùa với ai chứ!

- Thôi, thôi. Bớt giận đi mà, Sherly, tớ đem đến một thứ cậu rất thích đây này.

Janet vừa đến, và có vài đứa bé rụt rè theo sau.

- Buổi sáng tốt lành, thưa Mademoiselle.

Giọng nói này nghe quen quá... Hình như là của thằng nhỏ...

- Chúng cháu chúc một buổi sáng tốt lành, thưa Mlle Taylor, Mlle Serlbrint và...

Ba bốn giọng bé gái cất lên. Chẳng lẽ...

- "Thứ tớ thích" đấy, cậu tuyệt lắm Jenny! Đội tình báo phố Southwark, không còn thứ nào đáng giá hơn!

Janet mỉm cười hãnh diện như thể tự tưởng thưởng vì mình vừa làm một điều tốt đẹp.

- Xem bác sĩ Jekyll và ông Hyde hài lòng với món quà của cậu kìa Jenny. - Paula đùa. - Chỉ vừa một khắc trước cậu ấy đang là Hyde bỗng biến thành Jekyll ngay.

"Đội tình báo phố Southwark" - như cái thứ mà tôi gọi, chúng có năm đứa. Năm đứa bé, bốn gái một trai, lãnh đạo bởi cậu anh cả vốn là "kẻ gián điệp bé nhỏ luôn quanh quẩn bên các cảnh sát Scotland Yard để moi tin".

- Rémy, Éleonore, Isabelle, Madeleine, Stéphanie, có đủ! - Cậu anh cả "điểm danh quân ngũ" trước lúc "xuất quân".

Mấy cô em gái đứng theo hàng ngang thứ tự phải sang trái từ bé út đến chị hai. Chúng đều có "đồng phục" là chiếc váy lanh màu chàm bám đầy tro và chiếc tạp-dề trắng xỉn màu thành xám.

- Chúng chẳng vừa đâu, tớ phải dỗ chúng bằng kẹo đường và bánh pudding Yorkshire đấy, nhất là con bé út. - Janet cười. - Con bé ấy khôn đáo để!

- Thôi nào Jenny, chúng có bao giờ thấy các thứ ấy đâu, con nít mà, mặc kệ đi.

- Này Paulie...

Thằng anh thế nào thì con bé em thế ấy, đúng quá đi. Thằng anh vừa hôm trước cuỗm mất của tôi một shilling ba penny cho một cái tin vớ vẩn, nay con bé em nó lại "lợi dụng" Janet để có bánh pudding Yorkshire - thứ mà cả nó và các chị chưa bao giờ được thấy. Nếu tôi không kéo chúng đi ngay, có lẽ chúng sẽ "tiến công" vào cái tủ bánh ngọt của Paula mất.

- Này đại tá, lính tình báo của ngài chưa đi sao?

Tôi nói thì trông thằng bé như là thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm "chỉ huy", nó gọi các em gái lại, đếm xem đủ bốn đứa rồi.

- Thưa tư lệnh, quân số đã đủ, Mademoiselle muốn chúng cháu làm gì?

Rémy đứng trước mặt tôi, nghiêm chỉnh như một sĩ quan đứng trước vị tổng tư lệnh để nhận lệnh chỉ huy một trận đánh lớn vậy.

- Isabelle và Madeleine, các cháu sẽ đánh điện đến Scotland Yard, cho bà thanh tra chuyên án Claramenthe Lestrade, rằng: "Mordaunt vẫn chưa được tìm thấy - nghi vấn quan trọng - đêm nay dừng việc đi câu - cứ nằm nhà mà chờ động tĩnh - đã cắt cử vệ binh".

Hai đứa ngoan ngoãn "vâng lệnh chỉ huy" và đi ngay dù chúng chẳng biết bức điện đó có ý nghĩa gì ( nhưng bà thanh tra thì có ). Và tiếp theo...

- Éleonore, cháu sẽ cùng anh Rémy đến phố Buck's Row, góc đường Osborn và Whitechapel... Rémy, cháu biết rõ hiện trường vụ đó nhất, vậy tính từ chỗ phát hiện thi thể, bán kính tầm 50 feet, cháu và Éleonore sẽ quan sát và mang về tất cả những thứ cháu cho là khả nghi... từ trong các con ngõ, chân tường, mặt đường lát đá,...

- "Thứ khả nghi" là thế nào ạ?

- Nói theo nghiệp vụ, thì nó có thể là vệt máu dính đâu đó, con dao ( có thể cho là hung khí ), mẩu vải,... thậm chí cả cái lông vũ cũng có thể là manh mối. Hiểu rồi chứ?

Hai đứa trẻ gật đầu.

- Vậy thì... thi hành lệnh mau!

Chúng chạy đi.

- Ô này Sherly, tớ nghĩ cậu còn quên gì đó...

Còn con bé út, Stéphanie, đương nhiên tôi còn việc cho nó chứ. Nó mới bốn tuổi, đi làm tình báo e không hay, vì nó có thể vô tình phá hỏng manh mối. Đâu phải đứa bé bốn tuổi nào cũng có thể như tôi được, tôi thì từ nhỏ đã "không bình thường" rồi.

- Paulie, cậu có quen ai đó ở Scotland Yard không?

- Có.

- Ai nào?

- Thanh tra Emmett Scarletberry.

Scarletberry là một điều tra viên chuyên về các vụ trộm cắp, giao con bé "tình báo" cho ông ta được không chứ? Để tôi nhớ xem... À, còn một người có thể đáng tin, dù ông ấy không thuộc phòng chuyên án nhưng cũng là sếp điều tra viên án mạng vào loại kinh nghiệm hàng bậc nhất của Scotland Yard. Tôi sẽ giao con bé "tình báo" cho ông ta, và ông ta sẽ biết phải làm gì.

- Phiền cậu Paulie, đưa con bé đến cho thanh tra Graham Crakers, kèm theo lời nhắn "của thanh tra Clara Lestrade" rằng: "Tôi biết ông cũng tham gia điều tra, vậy nếu ông tìm được thứ hay ho gì mà chuyên án chúng tôi chưa thấy, thì hãy đánh tin cho chúng tôi, đưa cho con bé vừa đến. Biết ông đi điều tra cùng chuyên án, tôi mừng lắm, hãy hợp tác nhiều hơn nhé!".

Tôi viết lời nhắn "của thanh tra Clara Lestrade" ra một mẩu giấy rồi đưa cho Stéphanie.

- Chỉ cần cậu đưa nó đến Scotland Yard, bảo nó tìm "ông Graham Crakers" và đưa mẩu tin là xong. Việc các cậu đến đó là hết, những thứ còn lại tớ và phòng chuyên án sẽ giải quyết.

Paula gật đầu và đưa con bé đi. Tôi tạm biệt Janet rồi bắt chuyến xe ngựa ( ồ không, không phải là xe đi nhờ ) đến góc đường Osborn, nơi có hai lính tình báo đang "làm nhiệm vụ". Nhóm tình báo này mới là nhóm cần được giúp nhất, vì trước đây Rémy chỉ là "gián điệp", nay bảo chúng gom manh mối thì có lẽ chúng không biết phải gom thứ gì. Nhưng tôi thì biết rõ.

Éleonore đang xem xét chung quanh cái góc đường đó, ý tôi là... hiện trường ấy, và tôi chẳng biết con bé đang tìm cái gì. Còn "đại tá Rémy" á, đang lang thang ở đâu đó quanh đây "trong bán kính tầm 50 feet", như tôi đoán. Chắc tôi phải dạy chúng một chút về "chuyên môn" mới được.

- Éleonore, khéo cháu làm hỏng hết.

- Hỏng gì cơ ạ?

- Manh mối chứ gì. Không cẩn thận khéo cháu làm hỏng luôn cả hiện trường cho xem.

- Cháu đâu biết phải tìm cái gì, nên...

- Thôi bỏ đi, cái ta cần là Rémy. Anh cháu đâu?

- Đằng kia.

Con bé chỉ tay vào một con ngõ nhỏ phía bên trái, cách đó không xa.

- Éleonore, Éleonore, xem anh tìm được gì này!

Rémy chạy ra từ con ngõ, vẻ mặt hớn hở như vừa bắt được mỏ vàng. Trên tay nó là một thứ gì đó, trông như mảnh vải. Không, trông thì không phải vải. Nó vung vẩy cái thứ đó, vừa gọi cô em.

- Ô, Mademoiselle xem cháu tìm được gì này!

Rémy đưa tôi cái vật nó vừa tìm được làm nó thích thú. Là một miếng da thuộc to chừng nửa lòng bàn tay tôi, phía góc có dính máu đã khô. Thứ này mở hé thêm một chút bức màn bí ẩn đồng thời cũng mang đến thêm nhiều nghi vấn. Miếng da này nằm không xa hiện trường, tức nó thuộc về người nào đó khác nạn nhân, khả năng cao là hung thủ. Tôi cần phải xem xét nó nhiều hơn trước khi có thể nói được điều gì.

- Cháu... là một thiên tài, Rémy! Cháu tìm được nó ở đâu thế?

Tôi cảm thấy phấn khởi, thằng bé vừa tìm được một thứ phải nói là cực quý giá đấy!

- Trong con ngõ kia có một cái vòi nước, dưới sàn nước có thứ nước trông lạ lắm...

- Nó lạ thế nào?

- Nó trông đen đen, dính nhớp, lại có mùi tanh tanh...

Tôi cố thử đoán cái thứ chất lỏng quái dị đó là gì.

- Cháu tìm được cái này ở cạnh sàn nước, nó bị mắc vào một cây đinh...

- Đưa ta đến đó xem.

Thằng bé chạy đi vào con ngõ mà nó vừa mới chạy ra. Éleonore chạy theo anh nó. Tôi cũng đi.

Đúng là trong con ngõ có một cái sàn nước với cái vòi rỉ sét. Có lẽ đây là nơi những người vô gia cư trú chân, lấy nước, hoặc nhà của bọn trẻ bụi đời... Dưới sàn nước có một thứ chất lỏng kỳ dị như Rémy mô tả: nó đen đen, dính nhớp, lại tanh tanh. Thoạt đầu tôi cũng nghĩ nó là bùn nhưng sau đó tôi lại thấy khác. Nó không phải bùn. Không, nó là bùn, nhưng bị trộn lẫn với thứ chất lỏng nào đó mới dính nhớp và tanh như vậy. Thứ chất lỏng kỳ dị hoà lẫn trong bùn đặc quánh và tanh tưởi như thể có một không hai ở London này.

- Rémy, lấy cho ta thứ gì đó trong túi của cháu. Đồng xu chẳng hạn, hoặc cây bút chì...

Không cần tôi phải đợi lâu, nó đưa liền cho tôi đồng sáu xu. Mặc kệ, thế cũng tốt rồi. Tôi tháo găng tay, quét lấy ít bùn dưới chân và xem xét.

- Bùn không quánh đặc thế này. Chúng dính nhớp và quánh lại như thể... máu đông.

Đột nhiên trong đầu tôi hiện lên một cảnh tượng: tên sát nhân sau khi giết ả điếm Mary Ann Nichols đã lẩn vào con ngõ này, rửa sạch máu trên con dao hung khí. Nhưng tại sao lại có mẩu da thuộc dính máu khô mắc vào cây đinh trên tường ở cạnh sàn nước? Một thứ nào đó bằng da thuộc mà hắn đã dùng để ngăn máu bắn vào quần áo chăng? Tôi chợt nhớ đến cảnh hiện trường và thi thể nạn nhân mấy ngày trước. Hôm đó tôi đã đặt ra ba giả thiết cho vụ án, trong số đó có "một tên nào đó vì điên loạn mà giết người" và "một tên đồ tể thọc tiết một con lợn giữa phố". Khi đó tôi nghi ngờ cái thứ nhất và phân vân cái thứ ba, nhưng giờ đây tôi chĩa mũi nhọn điều tra vào cái thứ ba. Nếu là một tên điên, hắn ta sẽ không thể nào có ý thức đến mức dùng một cái tạp-dề da để ngăn máu bắn vào người. Ở đây một miếng da thuộc nghi từ cái tạp-dề đã bị mắc vào một cây đinh ở góc tường, nếu là một tên chuyên nghiệp thì không thể nào sơ suất như vậy. Tuy nhiên, nếu như thế thì... hắn là một tên điên, hay một tên đồ tể chuyên nghiệp? Tuy vẫn còn khá hoài nghi nhưng giả thiết thứ ba được tôi quan tâm hơn cả.

- Đưa ta cái kẹp tóc nào, Éleonore. Rồi ta đền cho cháu cái khác.

Tôi lau sạch đồng sáu xu rồi trả lại Rémy, và dùng cái kẹp tóc của Éleonore, tôi quết lấy ít thứ bùn máu quánh đặc đó. Như thường lệ, tôi sẽ đưa thứ này cho Harriette làm mẫu, làm một manh mối, hoặc là chứng cứ đắt giá trường hợp lại có thêm vụ giết người nữa hay chúng tôi bắt được tên sát nhân.

- Éleonore, cháu đến trạm điện tín gần biệt thự nhà Taylor nhất tìm các em, còn đại tá Rémy theo ta đến Scotland Yard.

Con bé gật đầu "vâng", và cũng vậy, ngay lập tức mệnh lệnh được thi hành.

Bên này là phía Đông, và Scotland Yard lại nằm ở phía Tây. Tôi cần băng qua một cây cầu "nào đó" bắc qua sông Thames, một trong số những cây cầu nối bờ Đông và bờ Tây. Nhưng trước tiên thì...

- Rémy này, cháu thích đi bộ hơn hay là đi xe ngựa?

- Ô, cháu chưa bao giờ đi xe ngựa!

- Vậy đi bộ vậy.

- Ô kia, vậy tại sao Mademoiselle hỏi cháu?

- Cái vấn đề quan trọng nhất là ta hết xu lẻ rồi. Lần sau nhé!

Trông thằng bé ủ rũ ra mặt kìa. Thôi được, lần sau tôi sẽ cho nó đi vậy. Chuyện đi xe ngựa với anh em chúng nó là thứ gì đó xa xỉ lắm, còn với tôi thì từ bé nó đã quá đỗi bình thường...

Tôi cầm cái kẹp tóc của Éleonore và mẫu bùn, đi bộ cùng với Rémy đến Scotland Yard. Quả thật công việc của một đứa bé giao điện tín thật không hề dễ dàng, nhất là khi nó phải chạy lòng vòng khắp London.

- Hôm nay cháu không đi làm, cháu đi với ta phải không?

- Không ạ, hôm nay và cả ngày mai cháu không có việc.

- Tại sao?

- Dạo này có thêm nhiều đứa xin vào làm giao điện, nên ông chủ giảm bớt việc lại cho những đứa lớn như chúng cháu, chỉ có làm năm ngày một tuần thôi.

- Tiền thế nào?

- Vẫn như cũ, ba shilling một tuần ạ ( bọn mới vào thì hai shilling ). Cộng thêm tiền công quét ống khói của bố, tiền công mẹ làm vú em cho một nhà giàu bên phía Tây, cả thảy là hai bảng sáu shilling một tuần...

Tôi nói chuyện phiếm với Rémy trong lúc đi từ East End đến Scotland Yard. Nó kể về công việc của mình hằng ngày trong lúc tôi lắng nghe.

- Vì cháu năm nay mười hai, sắp mười ba, lại làm được khá lâu cho nên mỗi tháng ông chủ lại thưởng thêm vài xu lẻ, chừng năm sáu xu ( bảo là cho chúng cháu ăn kẹo )...

Rémy nói rằng nó năm nay mười hai, sắp mười ba, tức nó trạc tuổi tôi tầm mười tám năm về trước. Năm đó tôi cũng mười ba, nhưng tôi bấy giờ và nó thật khác nhau. Thời niên thiếu của tôi tuy không "bình thường" như các bé gái khác, ít ra, tôi còn có một cuộc sống mà có muốn chê cũng không được. Điều này là chẳng thể nào so sánh được, bởi vì tôi và thằng bé ở hai tầng lớp chênh nhau quá xa. Tôi sinh ra đã quý tộc, nhưng Rémy và các em gái của nó lại thân con nhà tầng lớp hạ lưu...

Chuyện phiếm mà tôi có cũng nhiều lắm, tất cả chỉ để dành... độc thoại. Vớ vẩn thật! Nay có người chịu nghe cũng tốt.

Chúng tôi đi ngang qua một cây cầu bắc ngang sông Thames, đi thêm một lúc thì đến phố Southwark.

- Ô kìa, Alberto!

Rémy cất giọng gọi thằng bé ở phía xa, trông chừng bảy tám tuổi, mặc chiếc sơ mi cũ đã ngả màu, đeo túi da đựng đầy những bức điện cần phải đi giao gấp. Thằng bé quay lại nhìn với ánh mắt đầy vẻ bối rối.

- Ô này Alberto, sao thế hả?

- Em còn phải đi, không giao hết đống điện tín này thì sẽ không có hai shilling tiền thưởng hôm nay!

- Đưa một nửa đây, tao giao cho!

- Thật á?

Thằng bé, nó nhìn Rémy với vẻ ngờ vực.

- Không có đùa đâu, đưa một nửa đây, và tao chỉ cần chia đồng sáu xu thôi, còn lại mày cứ giữ lấy!

Tôi mỉm cười. Rémy trông thế mà tốt gớm!

- Tuyệt vời lắm, đại tá à. Ta chưa bao giờ thấy cháu anh hùng đến vậy. Cháu rất giống một người ta từng biết...

"Một người tôi từng biết"... Đúng vậy, anh ta, "ngài Hồng y Giáo chủ của Quảng trường Trafalgar", nói thật là tôi nhớ cái "giáo hội" đó lắm. Tuy là ăn trộm móc túi để mưu sinh nhưng xét cho cùng dù tay có bẩn thì tâm hồn vẫn phải sạch trong, và tôi phục điều đó ở "giáo hội Trafalgar", phục hơn cả là "ngài Hồng y" của cái "giáo hội" đó.

- Cám ơn anh nhiều, Remi.

- Có gì đâu, cứ đi và giao nửa số đó, thế là mày có hai shilling mà chỉ phải làm nửa việc, còn tao chỉ cần đồng sáu xu là đủ rồi.

Rémy, rất giống "ngài Hồng y" Thomas của Quảng trường Trafalgar năm xưa tôi từng biết, và cũng có thể ví thằng bé như một "Robin Hood của London" vậy.

- Alberto này.

Đứa bé nhìn tôi.

- Cháu nhìn trong mớ điện đó có bức nào cần gửi đến phố Baker không?

Nó lục lọi trong túi. Rémy cũng vậy. Chừng một phút sau chúng nó bốc ra một xấp điện, đều gửi đến phố Baker.

- Xem nào... Bà Magdalena Gertrude nhà số 12, ông Joseph Herseit nhà số 27, ông Simon Roland nhà số 32; ông bà Terry Winifred của tiệm bánh đầu phố, điện báo giao hàng;...

Tôi lần giở từng bức điện rồi dừng lại ở một bức nằm gần cuối xấp.

- Bà Sherline Holmes nhà số 75, đây mới là thứ ta cần.

Đúng như tôi đoán, từ "phu nhân de Tréville", bởi vì trong bức điện nói với ngôn ngữ "không giống ai" chỉ có mình tôi, Clara ( "phu nhân" ) và bốn chàng ngự lâm kia hiểu, lấy từ tác phẩm kinh điển của Alexandre Dumas cha. Rằng nó như thế này:

"Gửi hoàng hậu Anne - Tạm thời đừng quan tâm tới Mordaunt - Đã có liên minh từ thanh tra Graham Crakers - Đã cho tuần tra bao vây Thánh đường Trắng - Cứ yên tâm mà nghỉ, kẻo ốm mất thì khổ"

Đúng là... chuyên án Scotland Yard. Chúng tôi gọi nhau bằng mật danh "phong cách Alexandre Dumas cha", rằng: tôi là "hoàng hậu Anne d'Autriche"; Clara là "phu nhân de Tréville"; "bốn chàng ngự lâm" cho Johnny, Jack, Thorton, Henry theo như thứ tự d'Artagnan-Athos-Porthos-Aramis... Chúng tôi điều tra vụ này, tất nhiên là theo lệnh Nữ hoàng, và trong bí mật. Dù sao cũng không nên làm nó rùm beng lên, tuy nhiên cánh báo chí lại không thích yên lặng cho lắm...

- Alberto, cháu thường được nhận bao nhiêu cho một bức điện?

- Cũng như các anh, hai xu một bức ạ.

- Ta trả cháu đồng sáu xu cho cái này, nhưng bù lại cháu hãy làm cho ta một việc: chạy ngay đến phố Marylebone hỏi cô Vivian LeClair, rằng bảo với cô ấy, "hoàng hậu Anne" đang chờ ở Scotland Yard.

Thằng bé có tên Alberto nhận số tiền gấp ba lần cho một bức điện tín, và như điều kiện, nó chạy ngay đến Marylebone, chắc chắn để hỏi "nàng Juliet của Johnny". Vivian cùng Harriette là người tôi cần ở Scotland Yard ngay lúc này. Harriette, khỏi cần phải lo, lúc nào cũng ở Sở, nhưng Vivian thì khác.

- Mademoiselle thật hào phóng với những bức điện nhỉ. Chúng cháu đáng ra chỉ được nhận hai xu penny mỗi bức, nhưng Mademoiselle lại trả gấp ba lần!

- Mới sáu xu thì nhằm nhò gì với cháu chứ hả? Bức điện ta nhận từ Scotland Yard mấy hôm trước từ tay cháu đáng giá cả một chiếc đồng hồ vàng.

- Nhờ nó mà nhà cháu có tận hai bữa tối ngon, Éleonore có váy mới, Isabelle có tạp-dề mới, Madeleine có giày mới, Stéphanie lần đầu tiên có búp bê, cháu thì có mũ mới.

- Nói rằng khi ta trạc cháu ngày trước, cũng mười ba, ta chẳng bao giờ phải lo với những thứ đó. Chẳng lo về áo váy lẫn mũ giày, bởi vì đằng nào thì cái gì cũng có.

Rémy nói như ao ước, thèm thuồng được như vậy.

- Giá mà anh em chúng cháu được thế.

- Thực tế đi, ta sinh ra quý tộc, điều đó hiển nhiên sẽ phải có mà.

Lại thêm một cây cầu nữa. Đi giữa cầu nhìn xuống sông Thames, tôi có nhớ vụ án năm xưa, vụ thứ hai trong bảy vụ án thời tôi còn thiếu niên. Tôi vẫn nhớ người phụ nữ chết đuối đó, "nàng tiên cá sông Thames". Một người phụ nữ tuổi còn khá trẻ, gương mặt trông đẹp hệt con gái Nga dù đã trắng bệch, mất hết sự sống. Trong trí tôi tưởng tượng ra một nàng tiên cá đẹp như các nữ thần nymph trong thần thoại, đột nhiên bị mắc vào lưới và chết. Rõ ràng là tôi khi ấy với tôi bây giờ thì chẳng thể nào so sánh được, mười tám năm qua rồi.

Độ năm mười phút tiếp, chúng tôi đến Scotland Yard. Ba đứa bé gái đang đứng chờ chúng tôi. Là ba đứa em của Rémy đây mà, chúng ở đây chờ anh chúng đó sao?

- Sao các cháu vẫn chưa về nhà?

Éleonore đáp:

- Chúng cháu chờ Sophie và anh Rémy về cùng.

- Về với mẹ đi, anh và Sophie về sau. - Rémy bảo em nó.

- Nhưng mà... Maddie đói. Mẹ đi làm rồi...

Có lẽ chúng còn lâu mới chịu đi. Thôi được, tôi có cách rồi.

- Rémy còn nhiều việc phải làm. Các cháu đi về Southwark trước đi.

- Nhưng mà cháu đói lắm, Mademoiselle à. Bố mẹ đi cả rồi, chẳng có ai ở nhà hết.

Con bé làm nũng với tôi, có thể nói là vậy. Nhưng tôi có cách cho chúng phải về nhà rồi, cách cũ luôn hiệu quả... tuy rằng có tốn kém chút đỉnh.

- Thôi cứ thế này, Éleonore, cháu cầm ít xu này đi tìm gì đó cho Madeleine; rồi chốc nữa ta sẽ đưa tất cả đi ăn nhé?

Đương nhiên chúng đồng ý. Bọn trẻ khu ổ chuột thì làm gì biết đến các bữa ăn đúng giờ, chúng chỉ đi xin ăn... hoặc khi kiếm được ít tiền đủ cho thứ gì lót dạ. Đấy là lý do chúng rất biết lợi dụng Janet cho một bữa bánh ngọt mà cả đời chúng cũng chẳng thể có được. Có vẻ như đấy là lần đầu chúng biết đến bánh pudding Yorkshire và kẹo đường, bởi những thứ ấy quá đỗi xa xỉ với những đứa trẻ tầng lớp như thế.

Éleonore dắt các em đi ngay, không chậm trễ. Tôi thì bảo Rémy theo mình vào trong Sở. Tôi cần phải gặp thanh tra Clara, nhất là pháp y Harriette; tôi cần phải biết nhiều hơn về thứ bùn máu quánh đặc và mảnh da thuộc tôi tìm được ở trong con ngõ gần hiện trường góc phố Osborn.

- Hoàng hậu Anne, thấy lệnh bà đây đến tức là đã phát hiện được gì rồi đúng chứ?

Thanh tra Claramenthe vẫn ngồi trên bàn của mình, như thường lệ, với chiếc váy satin màu lá bạc hà và cặp kính cận quen thuộc.

- Đoán hay lắm phu nhân de Tréville à. Có một số thứ rất là hay ho...

- Thằng bé kia là ai thế hả? - Clara chỉ vào Rémy, đang đứng sau tôi.

- Người hầu mới, tuy bé con nhưng có ích lắm đấy!

Hình như Clara có hứng thú với Rémy, bà thanh tra đứng lên và đến gần nó. Rémy hình như e sợ gì đó, nó nép vào sau váy tôi.

- Đi ra nào Rémy, cháu cứ như con gái...!

Clara cười và kéo thằng bé ra.

- Có gì phải sợ đâu mà,... Cháu là cậu bé giao điện tín, cháu tên gì nào?

Nó trả lời, vẫn còn khá dè dặt:

- Rémy ạ... Rémy Bouchardier...

Clara cầm tay nó kéo ra khỏi váy tôi rồi dẫn nó đến cái ghế bành.

- Cháu ngồi yên đấy, để ta giải quyết một số việc.

Clara rõ là có hứng thú với thằng bé rồi. Còn Harriette và Vivian nữa, có lẽ cũng thích nó cho xem.

- Sao rồi, thưa Hoàng hậu, có gì mới mẻ?

- Trước hết, gọi giúp thanh tra Crakers, mang theo con bé bốn tuổi đang ở cùng ông ta; thứ hai, Vivian sẽ tới trong vòng vài phút nữa; thứ ba, Milady đáng lẽ phải ở đây từ mười lăm phút trước. Sau đó thì hẵng giải quyết "thứ mới mẻ".

- Thứ nhất là Milady, cô ta đang ngủ bù ngoài hành lang; thứ hai là các chàng ngự lâm đã kéo nhau đi làm vài ấm cà phê đặc ( cốt là cho tỉnh ngủ ); thứ ba, thanh tra Crakers ở trên tầng và ta chả biết có con bé nào cả.

Tôi ra ngoài hành lang, đúng là "Milady ( mật danh của Harriette ) đang ngủ bù" thật, trên cái đi văng. Có lẽ do rượu, hoặc là... Nói chung thì thôi mặc kệ đi, dù là cái gì đi nữa thì cũng chẳng có ích mấy!

- Này, này! Công chúa ngủ trong rừng ạ, có việc cần phải làm đấy!

Tôi thử lay gọi nhưng có vẻ như... không có kết quả cho lắm.

- Thôi mà... năm phút nữa thôi...!

- Có dậy hay không, cô là pháp y chuyên án chứ không phải con nít nhé!

- ... Năm phút thôi mà...!

Phòng chuyên án thường xuyên khá rỗi việc, tuy nhiên khi có việc rồi thì... Cũng chẳng trách được, bởi vì thú thật bây giờ đây tôi đang rất mệt, nhưng vẫn phải cố. Tôi không biết tên sát nhân có ra tay nữa không, và vào lúc nào, cho nên tất cả các dây thần kinh lẫn tế bào não phải luôn trong trạng thái sẵn sàng cao độ. Trời ơi, tôi thật sự rất mệt, nhưng cứ nhủ chỉ cần gắng một chút nữa thôi.

- Clara này, có rượu không?

- Còn cognac và brandy bạc hà.

- Cho một cốc brandy.

- Làm trò gì đấy?

- Một trò cũ để bắt Harriette phải dậy thôi mà.

Đúng, trò cũ luôn hiệu quả, tôi thường nói vậy. Rượu brandy là một trong những mánh rất đáng để dùng, tuy nhiên là không thường xuyên áp dụng mà thôi.

Tôi mà không bắt cô ta dậy được, thì tôi không phải là Sherline!

- Lạy Chúa tôi, cái mùi gì đấy?

Harriette bật dậy khỏi cái đi văng và nhìn quanh ngạc nhiên, hỏi.

- Rượu brandy bạc hà. - Tôi đáp.

- Trời ạ, Vixey, đến giờ cái mùi rượu vẫn còn làm tôi buồn nôn đấy! Đau đầu chết được!

Đột nhiên Clara thò đầu ra ngoài hành lang gọi chúng tôi.

- Vixey à, Vivian tới này!

Ở cuối hành lang là "nàng Juliet" của Johnny Dawson, trong chiếc váy màu hoa viola dịu dàng. Trông cô nàng cũng mệt mỏi, có lẽ cũng tại vì rượu rum.

- Ô hay, sao mọi người lại ra ngoài hành lang hết thế này?

- Nói chuyện phiếm thôi mà. - Clara trả lời.

- Lấy giúp tôi một ly limonade được không? - Harriette hỏi. - Chóng mặt chết đi được!

- Limonade ở trên bàn của tôi. - Clara chỉ vào phòng.

Chốc sau Vivian trở ra với bốn ly nước chanh limonade, kèm theo bốn viên đường.

- Cám ơn, cái này giúp tôi đỡ đau đầu vì cái thứ rượu rum kia đấy. - Harriette cầm lấy ly nước chanh và uống cạn.

- Tôi cũng thế. - Vivian nói.

- Tôi cứ tự hỏi rằng tại sao chỉ có mỗi Vixey là không bị gì cả trong khi chúng ta đều say?

- Chớ quên tôi sinh ra ở đất nước rượu vang, Harriette ạ.

Sau khi bốn ly limonade đã cạn, thì công việc mới được bắt đầu.

- Khi nãy cô nói gì ấy nhỉ Vixey?

- Tôi cần phân tích cái thứ này... - Tôi đưa ra cái kẹp tóc với mẫu bùn và mảnh da thuộc.

- Địa điểm của mẫu vật?

- Góc phố Osborn và Whitechapel, ở gần hiện trường.

- Trạng thái ban đầu của mẫu?

- Đặc quánh, có mùi tanh và màu như rỉ đồng đỏ. Mảnh da thuộc không có gì lạ.

Harriette gật đầu.

- Vào phòng thí nghiệm thôi chứ?

- Sao không hả?

- Cái này không phải kẹp tóc của tên sát nhân đó chứ?

- Cô đùa tôi đó hả?

Harriette xem xét mẫu bùn trên cái kẹp tóc, còn tôi xử lý mảnh da thuộc.

- Không có phản ứng, chẳng có gì cả, không thể dùng guaiacol!

- Cũng không dùng được sodium hydroxide hoặc sodium hypochloride, nó sẽ làm hỏng mẫu.

- Ta cần cái gì đó có thể cho ta biết rõ hơn nếu mẫu thực có máu chứng tỏ là tên sát nhân đã giết nạn nhân ở đây hoặc rửa sạch chứng cứ; tôi tìm được thứ bùn đó ở trong con ngõ gần hiện trường, gần một cái vòi nước.

- Có nghi vấn, nhưng chưa rõ ràng. Tôi nghĩ nên tạm thời gác lại, chờ động tĩnh từ Whitechapel xem.

- Tôi cũng nghĩ vậy, Harriette à.

Thế là chúng tôi lưu mẫu, tạm thời ngồi yên chờ động thái của tên sát nhân nếu hắn xuất hiện và chuẩn bị ra tay. Tôi về nhà, và thử suy nghĩ có cách nào để chứng minh mẫu bùn tôi tìm được có chứa máu, và nếu trên mảnh da thuộc có máu. Nhưng mà, bế tắc vẫn hoàn bế tắc, chẳng có cách nào cả!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro