đây mùa thu tới xuân diệu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chuyên đề: "Đây mùa thu tới" ( Xuân Diệu)

Thứ Năm, 07/04/2011, 04:35 CH | Lượt xem: 9034

Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu / Bình giảng khổ thơ đầu trong bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu / Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu.

Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu

Bài làm

Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trao Thơ mới.

Hai tập Thơ Thơ Gửi hương cho gió đã tạo nên tên tuổi lừng lẫy của Xuân Diệu một thời. Xuân Diệu là nhà thơ của tuổi trẻ, tình yêu và của cái mới. Xuân Diệu đã đem lại những suy nghĩ và cảm xúc mới lạ đối với lớp thanh niên đương thời. Ông cũng đem lại những tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ mới về đề tài thiên nhiên. Xuân Diệu có nhiều bài thơ hay viết về mùa xuân, mùa thu. Đây mua thu tới của Xuân Diệu cùng với Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Thu của Chế Lan Viên là những bài thơ vào loại hay nhất của phong trào Thơ mới.

Miêu tả mùa thu là một vấn đề khó vì cổ kim đã có nhiều thơ hay về thu.

Thơ ca phương Đông có truyền thống miêu tả về mùa thu. Thơ ca phương Tây với Huy-gô, Bô-đơ-le cũng có nhiều sáng tác hay về mùa thu. Xuân Diệu cũng chịu nhiều ảnh hưởng thơ viết về mùa thu trong thơ Đường, thơ Tống. Mở đầu bai thơ, tác giả miêu tả hình ảnh của một rặng liễu buồn như đứng chịu tang. Cây liễu cũng có thể buồn nhưng đây chủ yếu là nỗi buồn của tâm trạng tác giả không tìm được lối thoát. Thực ra thơ đã nói nhiều đến hình ảnh đẹp của liễu, dáng liễu, mành liễu, lá liễu.

Như câu thơ của Thế Lữ:

"Gió đào mơn trớn liễu buông tơ"

Hay như câu thơ của Tế Hanh:

"Chắc gì mắt em như lá liễu

Để cắt lòng anh một nét dao"

Xuân Diệu cũng viết nhiều câu thơ đẹp về liễu:

"Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều"

"Lá liễu dài như một nét mi"

Những câu thơ đầu của Đây mùa thu tới gợi lên một tâm trạng buồn đến tang tóc ủ dột. Từ ý tưởng đến âm thanh, nhạc điệu đều rất buồn. Nỗi buồn là do cảnh sắc mùa thu hoà hợp với tâm trạng buồn của tác giả. "Xuân, người ta vì ấm mà cần tình. Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà cũng cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau và lòng tôi nghe tất cả du dương của thứ vô tuyến điện ấy". (Xuân Diệu)

Tâm trạng buồn của Xuân Diệu là một nỗi buồn thế hệ, không tìm được lối ra trong cuộc đời cũ, tác giả tìm đến những hình ảnh thiên nhiên có tính tương đồng để biểu hiện xúc cảm. Các cụm từ "đìu hiu", "tóc buồn buông xuống", "lệ ngàn hàng" gợi lên sự hắt hiu, lặng lẽ, gợi cảm giác về sự trôi chảy của tâm trạng buồn mà không có gì ngăn lại được. Hoàng Trung Thông cũng có nhận xét: "Những chữ đìu hiu, chịu tang, tóc buồn, lệ ngàn hàng, run rẩy, khô gầy, mỏng manh, rét mướt, vắng người, u uất, hận chia li, tất cả gợi lên xa xăm và thương nhớ". Trong cuộc đời cũ, có rất nhiều lí do để buồn, kể cả đứng trước cái đẹp, cái đẹp làm cho con người dễ khát khao nhưng không dễ với tới được và thường rơi vào trạng thái cô đơn, buồn tủi. Mùa thu có nhiều vẻ đẹp, màu sắc khác nhau và Xuân Diệu đã mở rộng sự tiếp nhận, cảm xúc xúc động của mình trước vẻ đẹp, màu sắc của mùa thu:

"Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng".

Bức tranh về mùa thu luôn thay đổi màu sắc. Một tiếng kêu thầm như reo vui khi cảm nhận mùa thu đang đến. Câu thơ có hai tiết tấu "mùa thu tới" trùng điệp và gây ấn tượng mạnh. Tác giả miêu tả bộ áo mới của mùa thu mang lại cho cỏ cây, tấm áo màu vàng mơ choàng lên cảnh vật. Trong thơ ca cổ hình ảnh của chiếc lá vàng đã đến trong thơ Nguyễn Khuyến:

"Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo"

Và "bóng vàng" trong thơ Nguyễn Du:

"Long lanh đáy nước in trời,

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"

Và gió vàng trong thơ Nguyễn Gia Thiều:

Trải vách quế gió vàng hiu hắt.

Nhưng "gió vàng" đây là "kim phong", tức gió mùa thu.

Trong thơ hiện đại sắc vàng của mùa thu cũng được quan tâm miêu tả. Lưu Trọng Lư với hình ảnh con nai chiếc lá vàng khô:

"Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô".

Bích Khê với màu vàng chan chứa sắc thu:

"Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông".

Khổ thơ đã thể hiện được chủ đề của bài thơ. Riêng về phía nhà thơ, tuy ở trong tâm trạng buồn nhưng vẫn thiết tha yêu cuộc sống.

Đẹp buồn và tĩnh lặng thường là những chuẩn mực quen thuộc của thơ ca lãng mạn. Khổ thơ đầu đã thể hiện khá đầy đủ đặc trưng đó.

Xuân Diệu nói lên những đổi thay của mùa thu trong cảnh vật thiên nhiên:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành".

Nhà thơ Thế Lữ chữa hộ lời thành thơ: "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành" và in trên báo, Xuân Diệu lại lấy lại câu thơ của mình vì ông miêu tả một mùa thu đang tới.

Câu thơ "Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" nói lên sự lấn dần của màu vàng, màu đỏ với màu xanh của cây cỏ. Có ý cho rằng đây là "màu đỏ rũa màu xanh". Xuân Diệu không tán thành ý trên mà xem "rũa" là lấn dần, ăn mòn dần. Xuân Diệu vận dụng cảm giác quan sát rất tinh tế những đổi thay của cảnh vật. Mùa thu đến, những con gió lạnh đầu mùa làm cho cỏ cây run rẩy: "Những luồng run rầy rung rinh lá". Cách sử dụng những điệp từ và láy âm góp phần tạo hiệu quả cho câu thơ với người đọc. Trong thơ ca cổ cũng đã có những câu thơ có nghệ thuật láy ý, láy âm tuyệt vời như "Dưới trăng quyên đã gọi hè - Đầu đường lửa lựu lập loè đơm bông" (Truyện Kiều - Nguyễn Du) hoặc "Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt - Làn ao lóng lánh bóng trăng loe" (Thu ẩm  - Nguyễn Khuyến). Theo Xuân Diệu, điều quan trọng không chỉ là sự láy âm mà còn ở cái luồng cảm xúc mới của thi nhân, luồng cảm xúc có tính chất hiện đại của những nhà thơ trong một thời kì mới khác với các nhà thơ cổ điển. Câu thơ cuối được miêu tả như những nét phác hoạ trong bức tranh thuỷ mặc của Trung Quốc.

"Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"

Tác giả mở rộng tầm quan sát đến những cảnh vật ở nơi xa: ngọn núi, vầng trăng, dòng sông, con đò:

"Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ".

Vầng trăng thu có một vẻ đẹp riêng, có khi trong vắt, có khi mờ ảo trong sương khói. Xuâu Diệu đặc biệt nhấn mạnh đến chữ "tự", "tự ngẩn ngơ" chứ không phải bị ngẩn ngơ. "Tự ngẩn ngơ" là trạng thái ngẩn ngơ từ bên trong, nhà thơ đã nhập vào đối tượng miêu tả khác với lói miêu tả khách quan từ bên ngoài trong thơ xưa. Rồi hình ảnh của núi non cũng nhạt nhoà dần trong sương:

"Non xa khởi sự nhạt sương mờ".

Hai chữ "khởi sự" là nói lên sự bắt đầu và theo Xuân Diệu thì từ ngữ hơi cứng nhưng cũng hòa hợp được với câu thơ. Hai câu thơ được xem là hay nhất trong Đây mùa thu tới miêu tả không khí thu, cái lạnh của mùa thu đã làm cho sinh hoạt của làng quê, của bến sông không còn tấp nập như ngày hè:

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò".

Câu thơ giản dị, tự nhiên nhưng cách miêu tả rất nghệ thuật. Chưa hẳn vào mùa đông mà ở đây thỉnh thoảng những con gió mang theo cái rét trở về như luồn đi trong không gian... Chữ "luồn" cũng có một khả năng diễn tả đặc biệt. Huy Cận xem hai câu thơ này là hay nhất trong toàn bài. Xuân Diệu đã miêu tả được không gian rộng lớn của mùa thu với cách cảm nhận chân thực giản dị.

Sau những ngày hè nóng nực, không khí của những ngày thu se lạnh dễ làm cho con người đi dần về phía nội tâm với nhiều xao xuyến, xúc động và nghĩ về sự đoàn tụ của gia đình và hiểu thêm về những cảnh ngộ chia li xa cách. Cảnh vật mùa thu cũng mang nhiều hình ảnh của sự chia li xa cách, những cánh chim bay về những vùng quê ấm áp:

"Mây vẩn từng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia li

ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì".

Khổ thơ kết gợi nhiều về tâm trạng. Xuân Diệu miêu tả tâm trạng buồn một cách tĩnh lặng cho hòa hợp với cảnh thu. Hình ảnh thiếu nữ "tựa cửa nhìn xa" như đang mong đợi, mơ ước một điều gì còn chưa đến. Câu thơ khép lại bằng những hình ảnh đẹp của con người với chiều sâu của nội tâm. "Hai câu cuối cùng nói lên nỗi buồn, một sự ngơ ngác mà tạo ra được một hình ảnh đẹp" (Hoàng Trung Thông).

Đây mùa thu tới là một bài thơ có giá trị, tác giả đã miêu tả được những nét tiêu biểu và gợi cảm nhất của cảnh vật mùa thu với cách cảm nhận có tính chất hiện đại. Mặc dù có những hình ảnh hoa tàn, lá rụng nhưng người đọc vẫn thấy một mùa thu đẹp có sức sống ở bên trong. Về phía tác giả, tuy mang một tâm trạng buồn nhưng vẫn bộc lộ kín đáo lòng yêu đời tha thiết, đúng như nhận xét của Hoài Thanh: "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chỗ nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn đều nồng nàn tha thiết".

GS. Hà Minh Đức

Bình giảng khổ thơ đầu trong bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng,

Đây mùa thu tới, mùa thu tới,

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Bài làm

Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của phong trào "Thơ mới" (1932 - 1945). Thơ Xuân Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống, yêu người và khát khao hạnh phúc. Ông là một hồn thơ nhạy cảm với đời, với thiên nhiên. Đoạn thơ bình giảng ở đây trích trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.

Bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu. Đoạn thơ đầu rất tiêu biểu, in đậm nét thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu.

Hai câu thơ mở đầu tả cảnh buồn. Xuân Diệu đem đến cho đời, cho thơ ca một hình ảnh thu mới lạ, đặc sắc: một rặng liễu thu buồn. Những chữ đìu hiu, chịu tang, tóc buồn, lệ ngàn hàng... thật tinh tế, gợi hình, gợi tình. Cái buồn ở lòng người thấm vào cảnh vật.

Tác giả vận dụng thành công biện pháp láy âm (liễu - đìu - hiu - chịu, tang - ngàn hàng, buồn - buông - xuống) tạo được nhạc điệu buồn với hình ảnh thơ, khiến cho nỗi buồn càng thêm lan tỏa, lắng sâu.

Không còn là rặng liễu thiên nhiên (liễu chỉ hơi thướt tha buồn) mà ở đây là rặng liễu - tâm hồn của thi sĩ. Rặng liễu thu buồn của Xuân Diệu đã lên đến mức tê tái thê lương (giống như những người con gái đang đứng chịu tang), đã vỡ ra thành tiếng khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt nước mắt. Hẳn là nỗi buồn trong lòng thi nhân phải tê tái lắm thì hình ảnh thơ mới buồn đến vậy.

Hai câu thơ tiếp theo như tiếng reo khi mùa thu đột ngột hiện ra trong màu "áo mơ phai dệt lá vàng". Một niềm vui chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc sống.

Câu thơ thứ tư mô tả không gian mùa thu. Cái không gian nghệ thuật ấy như chiếc áo màu "mơ phai" khoác cho mùa thu, tạo cho mùa thu một dáng vẻ tươi sáng, thanh nhẹ. Nhờ vậy đoạn thơ có giảm bớt không khí hiu hắt bi thương.

Màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Nhưng trong câu thơ này, nó là màu "vàng mơ" khiến cho sắc thu trở nên tươi tắn, dịu nhẹ. Đó chính là cái nét thu điển hình của quê hương đất nước. Nhà thơ lãng mạn mới nhất ấy quả là nắm bắt được cái nét thu tiêu biểu này của mùa thu Việt Nam.

Chỉ bốn câu thơ mà đã làm sống dậy cả một cảnh thu đất nước, một sắc thu Việt Nam với những vẻ đẹp vừa thân quen vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm và tinh tế. Nhưng xuyên suốt là một nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật. Đó là nỗi buồn của thời đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái "tôi" bé nhỏ của các nhà thơ lãng mạn đang bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên một nét thu riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn bấy giờ.

Nguyễn Bích Thuận                              

Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu.

Bài làm 

Xuân Diệu làm thơ rất sớm và thơ ông đã gây nên một tiếng vang lớn trong phong trào Thơ mới. Sau khi tập  Thơ Thơ ra đời vào năm 1938 (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội) thì vị trí hàng đầu của Xuân Diệu trong làng thơ bấy giờ mặc nhiên được công nhận. Hoài Thanh nhận xét: "Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh vi cố hữu của nòi giống... thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời... Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết... Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi... Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới..." (Thi nhân Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học, tái bản năm 1988).

Thơ thơ là tập thơ đầu tiên và cũng là tập thơ tiêu biểu hay vào bậc nhất của Xuân Diệu. Bài thơ Đây mùa thu tới trích trong đó.

Mùa thu xưa nay đã làm xao động biết bao trái tim và đã hiện thành vô vàn lời thơ trong văn chương nhân loại. Những người yêu văn chương không thể không biết Thu hứng, Đăng cao của Đỗ Phủ, Thu Tầm Dương của Bạch Cư Dị, Bài ca mùa thu  của Véc-len, Thu của Bô-đơ-le, và gần hơn là thu trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Huy Cận... Đủ tình đủ điệu. Có điều thu trời đất thì vậy nhưng lòng người thì ai dễ giống ai và ai nói giùm cho ai được!

Xuân Diệu có cách rung động, cách diễn đạt không giống người xưa. Trong Thơ thơ, có mấy bài nói về mùa thu: ý thu, Thơ duyên...Đây mùa thu tới. Tuy có nét chung nhưng mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng.

ở bài Đây mùa thu tới, sau khi miêu tả những cảm nhận của mình trước cảnh thu từ gần đến xa, từ hiện đến ẩn, tác giả đi vào tâm tư con người, từ con người ngoại giới đến con người bên trong. Tất cả đều nhằm biểu hiện nỗi buồn vừa man mác vừa thấm sâu, vừa mênh mông vừa tinh tế; trong cái thế chung của sự sống bên ngoài như nhạt phai, mất mát dần nhưng bên trong lại như chứa chất một sự vươn tới, một ước mong mơ hồ mà tha thiết.

Đã tạo thành sáo ngữ những lá vàng, hoa rụng, nhánh  khô gầy khi các nhà thơ động đến mùa thu xưa nay. Xuân Diệu cũng lặp lại, không có gì mới mẻ. Mói chăng là ở cách diễn đạt và cách diễn đạt này lại do cách cảm nhận không giống ai của tác giả.

Rặng liễu đứng chịu tang, tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng là mới; mùa thu tới với áo mơ phai dệt lá vàng cũng mới. Ngày xưa báo thu tới là lá ngô rụng vàng một chiếc: Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng tri thu (Ngô đồng rụng một lá, thiên hạ biết thu sang). Xuân Diệu không trở lại với hình ảnh đã thành công thức ấy. Nhà thơ cũng không báo thu sang mà cứ mở ra bằng cảnh buồn nơi rặng liễu và sau đó như sực tỉnh nhận ra: mùa thu đã tới đây  và lặp lại mùa thu tới như một sự bất ngờ mà quan trọng cần báo cho mọi người hay. Mùa thu đến như một con người khoác áo kết bằng lá vàng nhưng nhuốm màu mơ phai nhạt. Mùa thu ấy đã thành con người và tất cả những gì của mùa thu đều sống kiếp người - thu. Liễu buồn đã đành, hoa cũng rụng cành, sắc đỏ càu nhàu với màu xanh, gió cũng run rẩynhánh khô gầy trơ xương mỏng manh. Phong cách học bảo đó là nhân hóa. Không đơn giản như vậy. Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu có "cuộc sống" như con người, như lòng người. Lòng thu, hồn thu cũng như chứa chất nỗi niềm gì bên trong mà biểu hiện ra bên ngoài thì toàn là tang, lệ, phai, vàng, úa, đỏ, rụng, rung, khô gầy, mỏng manh... Con người - thu ấy có chỗ nào trùng hợp với con người, tác giả không? Lòng tác giả và lòng thu có chỗ nào gần gũi không? Chưa đi ngay vào vấn đề này. Chỉ biết dùng cách nói như vậy về thu là kiểu riêng của nhà thơ, rất mới.

Sâu xa hơn và tinh vi hơn nhiều là sức cảm nhận của trái tim và trí tuệ nhà thơ. Đó là ở câu: Những luồng run rẩy rung rinh lá. Hoài Thanh nhận xét: "Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam chỉ Xuân Diệu mới để ý đến: Những luồng run rẩy rung rinh lá"...". Chúng ta có thể nhớ tới chiếc lá rơi (Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo) của Nguyễn Khuyến, hoặc chiếc lá rơiTiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng của Trần Đăng Khoa. Các câu thơ ấy đều tả lá chứ không tả gió, nhưng ai không thấy gió trong đó đều rất nhẹ. Đây không có gió hiện ra, chỉ có luồng run rẩy làm rung rinh lá. Lặp bốn phụ âm R là một phụ âm rung mà nghe chẳng thấy dao động mạnh mẽ gì cả, trái lại chỉ rất khẽ, khẽ rung rinhrun rẩy cũng khẽ, cái rùng mình nhè nhẹ của gió se sẽ chuyển qua lá và lá rung rinh - ai biết lá rung rinh vì gió hay vì lạnh? Mà cái luồng run rẩy kia cũng do đâu? Gió hay lạnh? Có lẽ do cảm quan nhà thơ chỉ thấy run rẩyrung rinh chứ không phân biệt đó là luồng gió hay luồng lạnh, bởi cả hai đều là của mùa thu. Nhưng sự ngập ngừng mơ hồ chút ít như thế đúng là chỉ hiện ra với độ tinh vi của cảm quan thơ nhanh nhạy nhất của tác giả.

Độ tinh vi ấy là một bằng chứng: lòng tác giả đã thấm sâu vào lòng thu, sự thâm nhập không dừng ở bên ngoài mà đã đi xuyên vào bên trong. Đi vào nhưng thực là để đi ra, nói ra được điều kín sâu nhất của lòng mình. Cảnh thu đó là hồn thu, hồn thu đó là hồn nhà thơ. Chưa rõ vì lẽ gì nhưng vấn đủ buồn, khóc, úa, rụng, run rẩy, khô gầy... Rất đau thương.

Từ liễu buồn, lá vàng, hoa rụng, sắc đỏ, lá xanh, nhánh khô gầy đã chuyển sang nàng trăng ngẩn ngơ, non xa nhạt sương mờ, bến đò vắng người sang, tầng không mây vẩn, chim chóc bay đi, khí trời u uất thiếu nữ tựa cửa không rõ nghĩ gợi gì...

Cái cao đã thay vào cái thấp (trăng thay vườn), cái xa đổi cho cái gần (non xa đổi cho hoa vườn), cái hẹp cái nhỏ chuyển sang cái rộng lớn (rặng liễu, tóc buồn, đôi nhánh khô gầy, rung rinh lá chuyển sang non xa, sương mờ, từng không), Cái cụ thể nhòa thành cái mơ hồ, cái xác định tan trong cái vô định (chịu tang, buông lệ, rụng cành, sắc đỏ, màu xanh, run rẩy, rung rinh, khô gầy, mỏng manh là cụ thể, cố định, xác thực; còn ngẩn ngơ, nhạt sương mờ, luồn trong gió, chuyến đò vắng người sang, chim bay đi, hận chia li, buồn không nói, nghĩ ngợi gì đều là mơ hồ, vô định, không bến bờ, phương hướng). Trên kia đang là cảnh vật trong không gian, đây đã thêm thời gian: thỉnh thoảng, khởi sự, đã nghe, đã vắng... mà thời gian cũng mơ hồ, dù có bắt đầu (khởi sự), có đã qua (đã nghe, đã vắng), và lặp đi lặp lại (thỉnh thoảng).

Bao nhiêu sự biến chuyển ấy đưa tới hiệu lực gì? Gần hoá xa, thấp thành cao, hẹp trở nên rộng, nhỏ biến ra to, mơ hồ, vô định thay cho cụ thể, xác định... không gian đã nới rộng ra đến không còn biết đâu là biên giới, thời gian có thuỷ mà chẳng có chung. Tất cả đều là từ bên ngoài đi vào bên trong, không gian, thời gian đều là tâm trạng của cảnh vật và tâm trạng người làm thơ, trên cái thế chung là nhạt dần, phai đi, mơ hồ đi, nghiêng đổ, mất mát một cái gì mà chính mình không biết.

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Ngẩn ngơ như vừa mất một cái gì, mong một cái gì mà không tới, lơ lơ, lửng lửng, chưa thật buồn mà không còn vui. Lại là tự ngẩn ngơ. Vậy không có nguyên nhân bên ngoài mà cơ sự là bên trong, tự mình làm cho mình ngẩn ngơ. Đó là "tâm trạng" nàng trăng. Còn đây là của núi: Non xa khởi sự nhạt sương mờ. Núi cũng chẳng còn xanh biếc bình thường. Núi đã nhạt phai trong sương mờ, trở thành lạnh lẽo bên ngoài, còn bên trong ai biêt tình núi ra sao? Mà đây mới là khởi sự, mới bắt đầu, còn kéo dài bao lâu, kéo dài tới đâu, ai hay được?  Non xa đã trở nên một khối bí mật không sao hiểu nổi. Còn gió? Còn chuyến đò? Thì đây: Đã nghe rét mướt luồn trong gió - Đã vắng người sang những chuyến đò. Lạnh rồi. Những luồng run rẩy trên kia đã hiện ra là gió rồi. Và gió lạnh. Trăng ngẩn ngơ chưa phải là lạnh. Non nhạt sương mờ cũng chưa hẳn lạnh. Bây giờ là cả bầu thu quét trong gió, mênh mông và luồn vào, len vào, âm thầm, lặng lẽ cái lạnh của dất trời, không để ai biết ai hay, trừ nhà thơ biết lắng nghe và đã nghe được, bắt được cái hồn ấy của gió, cái tâm trạng của gió. Chính cái bầu trời mênh mông gió lạnh ấy đã khiến cho con đò thưa chuyến và người sang đò cũng ngại ngần mà vắng sang. Tâm trạng sâu kín của gió đã chuyển sang tâm trạng của con đò: gió thì lạnh, đò thì vắng khách sang sông.

Đất trời thu đã đầy những ngẩn ngơ, bí mật, những lạnh luồn sâu, những vắng bóng người, như vậy thì làm gì chim chóc chẳng bay đi khí trời  không u uất  những mối hận chia li? Ai chia li? Liễu chịu tang ai? Lệ rời tóc và tóc buông lệ. Hoa chia tay với cành, màu xanh chia tay với lá, xương xóc  đã thay thịt da. Trăng sáng trăng xa đã đi biệt. Non biếc cũng phai nhạt rồi. Gió đã trở lạnh. Người đông đã bỏ bến đò. Chim đi. Mà tất cả, nào ai biết vì lẽ gì, chỉ thấy u và uất. Đến con người. Sang đò là con người ngoài đời, đang đi, đang hoạt động. Còn thiếu nữ tựa cửa buồn không nói thì mới là con người suy tư, con người tâm trạng.

Thế là cả không gian và thời gian đều ăm ắp tâm trạng. Tâm trạng là một gam cảm giác và xúc cảm đi từ ngẩn ngơ đến chia li. Nhưng chẳng rõ nguyên nhân do đâu? Dường như chỉ tại mùa thu. Thu ngoại giới và thu trong lòng. Vậy ý tứ mà nhà thơ đặt vào hình ảnh: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói ở cuối bài thơ, cuối chuỗi tâm trạng này là gì? Nếu đúng đây là mùa thu Huế thì phải chăng vì màu mắt của người con gái Huế cũng đầy thu trong đó? Dù sao tả mùa thu mà không có bóng dáng con người thì sao đủ? Phải có con người và hơn nữa, tâm trạng con người. Mà cảm thương với thu thì gì bằng lòng thiếu nữ! Quả nhiên nhà thơ tính toán không lầm. Không những một cô mà nhiều cô đều cùng một điệu. Thì ra bao nỗi niềm thu ở liễu, hoa, cảnh, trăng, non, tầng không, khí trời, đò, chim... đều dồn lại hiện ra đủ hết ở các cô: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói - Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì? Tới đây mới thấy tất cả hồn thu đã đi vào hồn người. Thiếu nữ buồn nhưng không nói, chỉ tự cửa nhìn xa, còn nghĩ ngợi gì chẳng ai hay biết. Cái im lặng thật kì diệu. Ngôn ngữ nghệ thuật có cái lại. Cần nói nhiều nhất, có khi đủ nhất, thấm nhất, người ta lại nhờ cái lặng câm. Cái im lặng của các cô lại nói năng nhiều biết bao! Tự cửa là để nhìn ra mà cũng để đón vào. Nhìn ra và đón vào thì biết bao cảnh vật trước mắt, cái gần cái xa, cái thấp cái cao, cái rộng cái hẹp, cái cụ thể cái mơ hồ, cái xác định cái vô định, cái bên trong cái bên ngoài, cái ngoại giới cái tâm tư... Tất cả đều úa phai, rơi rụng, khô gầy, ngẩn ngơ, nhạt mờ,lạnh vắng, chia li, mà chẳng biết duyên do gì, hầu như một thứ định mệnh. Nhận hết thảy vào lòng, các cô chỉ có buồn, chứ chẳng nói gì. Nói làm sao được? Bởi các cô tự dưng cũng thấy mình không khác gì trời đất, cũng chỉ thấy buồn mà nào có hiểu từ đâu!

Đó, cảnh thu và tình thu là như thế.

Thực ra, chìm sâu trong tâm trạng nhà thơ là một nỗi buồn mà biểu hiện là những ngẩn ngơ, những chia li, những úa tàn, rụng rơi, mất mát như trên đã phân tích. Nó là một tâm trạng hiện thực, nó có mặt và thấm sâu vào trong xương tuỷ. Cả thế hệ có chút học vấn, nhất là những ai mon men đến với văn chương, đều thấy nó ngự trong tâm hồn mình không biết tự bao giờ mà mình không hiểu nó từ đâu tới. Hoặc giả như người xưa đã nói: nó là mối sầu vạn cổ lâu bền như loài người, và hễ tài hoa bao nhiêu thì càng bị nó bám chặt bấy nhiêu.

Căn nguyên của mối sầu vạn cổ ấy chắc không ngoài niềm thương đối với bao bất hạnh trong xã hội bóc lột. Kẻ có tâm huyết không ai dửng dưng nên sinh ra sầu. Đối với thế hệ Xuân Diệu, trên mối sầu ấy còn chồng lên một nỗi buồn khác mà những kẻ không gặp được Cách mạng đều không nhận thức ra, đó là nỗi buồn mất nước lẩn vào trong xương thịt mà mình không hay, không biết; chỉ thấy nó hiện lên trong tâm hồn mình và thấm vào cảnh vật thiên nhiên một cách bất ngờ khiến mình tưởng đó là nỗi buồn tự thân của thiên nhiên. Các cô thiếu nữ trong bài thơ chỉ buồn và ôm ấp mối buồn mà không nói ra được, và dù có nghĩ suy đi nữa cũng chưa dễ đã tìm ra nguyên nhân rất sâu của nó.

Bài thơ trên đây đâu chỉ thuần tuý tả cảnh. Nó mang tâm trạng tác giả nhưng tâm trạng ấy tiềm ẩn, bàng bạc ở bên trong... ở một tầng tâm tư sâu kín hơn và mầu nhiệm hơn, cái tâm trạng đau buồn ấy có gốc rễ từ lòng yêu nước, từ thái độ bất mãn với xã hội trước mắt, từ một mong ước tốt đẹp về cuộc đời, nhưng cuộc đời đang bị thực dân phong kiến bao vây, vùi dập không thương tiếc.

đây mùa thu tới 2

BÌNH GIẢNG BÀI THƠ "ĐÂY MÙA THU TỚI" CỦA XUÂN DIỆU

BÌNH GIẢNG BÀI THƠ ĐÂY MÙA THU TỚI - ĐÂY MÙA THU TỚI

Đề bài: Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu

Bài làm

Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932-1945). Thơ Xuân Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống, yêu người và khát khao hạnh phúc. Ông là một hồn thơ nhạy cảm với đời, với thiên nhiên. Bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu chính là vẻ đẹp độc đáo của một điệu hồn thơ mới.

Ở những dòng đầu, Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cỏ cây đến lòng người. Trong con mắt của thi nhân, có vẻ như mùa thu vừa mới đến đã mang vẻ tang thương:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.

Không phải đến Xuân Diệu, liễu mới xuất hiện trong thơ, liễu đã có nhiều trong thơ của ta, cũng như của Tàu. Nhưng thơ xưa liễu chỉ là liễu, còn đến Xuân Diệu liễu không chỉ là liễu mà còn là người. Tơ liễu buông rủ khiến cho nhà thơ ngỡ như đó là mái tóc dài buông xoã của người thiếu nữ cùng những dòng lệ nối nhau tuôn rơi. Đìu hiu là một không gian vắng vẻ, buồn. Rặng liễu như là chịu tang vậy, nhưng chiu tang ai? Chịu tang việc gì? Phải chẳng mùa thu đang tới lấn lướt đi cái rực rỡ chói chang của mùa hè. Chịu tang mùa hè đã mất?

Buồn đấy, nhưng tha thướt, yêu kiều, buồn mà vẫn đẹp. Xuân Diệu đã khéo léo sử dụng thủ pháp láy vần, láy phụ âm, phối vần trong từng câu thơ và giữa các câu thơ: đìu hiu - chịu, tang – ngàn – hàng, buồn – buông - xuống… tạo nên một âm điệu phù hợp với tâm trạng, với nỗi buồn mà thân liễu mảnh mai mang trong mình.

Trước Đây mùa thu tới đã có nhiều lần các thi nhân đưa mùa thu vào thơ ca, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, xa hơn nữa là trong thơ Đỗ Phủ… song với Xuân Diệu mùa thu mang một nét riêng khác hẳn cả với thu trong thơ Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu nhấn mạnh một thông báo về mùa thu bằng tiếng reo vui:

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Xuân Diệu rất ám ảnh với bước đi của thời gian, nhà thơ ngỡ ngàng khi hè qua thu tới, thu tới rồi thu sẽ đi, buồn chứ sao. Màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Thu đến lá vàng rụng xuống tạo nên khung cảnh tiêu điều, vắng vẻ. Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu đã viết rất hay:

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp lên lá vàng khô.

Nhưng màu mơ phai thì là một sáng tạo của thi nhân. Nhà thơ Xuân Diệu đã cảm nhận thật tinh tế về sắc áo ấy. Mơ phai là cái khoảnh khắc chuyển giao giữa hè và thu. Nắng đã phai bớt, nhạt bớt nhưng trời chưa lạnh. Bao lá vàng rơi dệt nên bức tranh mà thu, mùa thu đến báo hiệu sự chia li, rời bỏ, cô đơn.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ có lẽ cũng là một linh hông cô đơn cho nên đặc biệt nhạy cảm với những dấu hiệu của sự rời bỏ, li tán:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rủa màu canh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Một bức tranh thu héo úa, tàn phai là có sức quyến rũ lạ kì.

Hơn một là bao nhiêu? Như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã biết Xuân Diệu quá Tây, Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng của Pháp. Hơn một chỉ là cách nói tượng trưng mà thôi.

Mùa thu đến làm cho hoa rụng cành, sắc đỏ ngự trị, cây gầy guộc, mỏng manh… cảm giác buồn hiu hắt. Buồn phụ âm r như gợi tả sự sống mong manh, yếu ớt của những chiếc lá sắp rụng, sắp tàn, không cưỡng lại được: run rẩy, rung rinh.

Sắc đỏ rủa mùa xanh là sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng thể hiện cái tôi Xuân Diệu.

Quả thật, như Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã có câu rất hay: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.

Đã nghe rét mướt luồn trong gió.

Một sự chuyển đối giữa xúc giác với thính giác.

Đối với Xuân Diệu dường như thời gian đang tàn phá cướp đoạt sự sống. Ông như quyết đấu với thời gian, với sự tàn phai, với cái chết. Chính vì vậy, ông đã có nhiều cống hiến lớn lao cho thi ca và cho cuộc đời. Mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu - thiếu nữ, để khi khép lại cũng vẫn là hình ảnh của thiếu nữ, Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Tất cả tạo nên một sự hô ứng đặc sắc: hồn thu của thiên nhiên, đất trời đã đi vào hồn người.

Nỗi cô đơn quạnh vắng của lòng người trước ngoại cảnh trải dài trong một bức tranh thiên nhiên buồn mà nên thơ nên họa. Với cảm thức mạnh mẽ về thời gian, thi nhân bộc lộ niềm tiếc nuối, lòng yêu mến, gắn bó với sự sống một trái tim luôn khao khát giao cảm với đời.

Xuân Diệu đã góp vào hồn thu muôn thuở cái tôi cá nhân tài hoa và đa tình của mình. Cảnh thu đẹp, có sức gợi là lại man mác buồn, cái buồn li tán, chia lìa. Đó cũng chỉ bởi một nỗi: lòng thi nhân buồn. Cái buồn chung của Thơ mới, của thời đại, của lòng người. Có thể nói với Đây mùa thu tới nhà thơ Xuân Diệu đã tạo nên một điệu hồn Thơ mới đặc sắc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro