Không Tên Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Các nhân tổ ảnh hưởng đến tín dụng?

Ø  Nhân tố thuộc phía khách hàng:

Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các doanh nghiệp thường có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu muốn mở rộng tín dụng.

Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau tuỳ theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm tới một số vấn đề sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính khả thi của dự án, các biện pháp bảo đảm. Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của các doanh nghiệp quá thấp, thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng.

Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả: Có nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, trong đó có một số nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của doanh nghiệp, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý của doanh nghiệp.

Ø  Nhân tố thuộc phía ngân hàng:

Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM: Do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, không ổn định thì không thể mở rộng cho vay trung và dài hạn được.

Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các dự án: Thông thường, công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ yếu tập trung vào xem xét các mặt: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, khả năng quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiêm. Nếu khách hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do ngân hàng đặt ra thì dự án đầu tư sẽ được tiếp tục xem xét để quyết định có cho vay hay không. Nếu thủ tục cho vay rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với thực tế thì sẽ có rất ít các doanh nghiệp bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các NHTM phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình.

Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân hàng: Công tác giám sát và xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp; tình hình hoạt động thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của doanh nghiệp; những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, qua việc luôn bám sát hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin bổ ích, kịp thời, đưa ra các lời khuyên hoặc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn bằng cách gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, cho vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.

Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết là về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế tín dụng trung và dài hạn thì có nghĩa là quy mô tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Khi đó không thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt ít ra là về mặt quy mô. Ngoài ra, chính sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm một loạt các vấn đề như quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền vay, quy trình quản lý tín dụng, lãi suất...Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ không cao thậm chí rất thấp.

Thông tin tín dụng: Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.

Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật: Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.

Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: nhân sự là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng, trong đó nổi bật lên hai vấn đề : chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng động sáng tạo trong công việc, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao của các cán bộ, trong một chừng mực nào đó có thể giúp ngân hàng bù đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật, nhờ đó mà ngân hàng vẫn có thể tồn tại và phát triển được cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có tiềm lực mạnh hơn về công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật. Bên cạnh chất lượng nhân  sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục tiêu chung là nhu cầu chất lượng tín dụng ngân hàng.

Ø  Nhân tố khách quan:

Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.

Môi trường kinh tế: Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.

Môi trường chính trị, xã hội: Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng.

Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng.

Câu 2: Tình hình tín dụng hiện nay ở VN và giải pháp                                  

Tình hình tín dụng hiện nay ở VN

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn: lượng hàng tồn kho cao, sức cầu của nền kinh tế yếu, lạm phát tiềm ẩn lớn, thị trường bất động sản sụt giảm và ít giao dịch, thị trường chứng khoán trồi sụt bất thường; tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng trưởng chậm, nợ xấu cao. Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn tăng khá, nhưng lợi nhuận tăng chậm, thậm chí một số ngân hàng thua lỗ. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng đang đi dần vào thế ổn định, hiệu quả hoạt động được phản ánh thực chất hơn.

Sau khi tăng trưởng rất mạnh trong giai đoạn 2007-2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng Việt Nam bị giảm mạnh từ năm 2012 đến nay, cụ thể 5 tháng đầu năm 2013 tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 2,98%. Thêm vào đó, hiệu quả tín dụng đối với nền kinh tế suy giảm nghiêm trọng, tỷ lệ nợ xấu rất cao với con số trên 10% trong thời gian vừa qua. Thực trạng tín dụng như vậy dẫn đến những khó khăn của nền kinh tế như: tổng cầu giảm mạnh, siết chặt tài khóa, tiền tệ, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ, tồn kho cao. Đến lượt nó, tình trạng tín dụng như vậy lại làm cho những khó khăn của nền kinh tế càng thêm chồng chất khi mà tăng trưởng GDP năm 2012 chỉ là 5,03% không đạt mục tiêu đề ra.

Tính đến ngày 12/12/2013, tín dụng toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã tăng 8,83% so với cuối năm 2012. Cơ cấu tín dụng được tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là với các lĩnh vực ưu tiên; cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm dần cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Đến cuối tháng 11/2013, tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 17%, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 24,51%, xuất khẩu tăng 3,32%, công nghiệp hỗ trợ tăng 10,84% so với cuối năm 2012; tính đến thời điểm 22/12/2014 tăng 15,99% so với tháng 12/2013 (cùng kỳ năm 2013 tăng 16,13%); tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,62% (cùng kỳ năm 2013 tăng 12,51%); huy động vốn tăng 15,76% (cùng kỳ năm 2013 tăng 17,23%); dự trữ ngoại hối tăng cao; tỷ giá ngoại tệ được kiểm soát trong biên độ đề ra. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.Mặt bằng lãi suất giảm 1,5-2%/năm so với cuối năm 2013, tiếp tục hỗ trợ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối. Trong đó, mặt bằng lãi suất huy động giảm 1,5-2%/năm, lãi suất cho vay giảm khoảng 2%/năm, đưa mặt bằng lãi suất thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các TCTD tích cực điều chỉnh giảm; dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm khoảng 3,9% tổng dư nợ cho vay VND, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013; dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 10,65%, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối năm 2013. Đường cong lãi suất hình thành rõ nét, qua đó tạo điều kiện cho các TCTD huy động được nguồn vốn kỳ hạn dài và ổn định hơn, giảm chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ và giúp cho việc phân bổ vốn hiệu quả trong nền kinh tế.

Năm 2015, lãi suất tiếp tục được kì vọng sẽ giảm xuống. Theo định hướng mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra trong Chỉ thị số 01 hồi cuối tháng 1 vừa qua, lãi suất sẽ được tiếp tục được cắt giảm thêm 1-1,5 điểm phần trăm trong năm nay. Mức giảm này là hoàn toàn phù hợp và khả thi, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước và nhiều chuyên gia kinh tế.

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng

Ø  Tập trung xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính của các NHTM.

Ø  Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vốn vay.

Ø  Đa dạng hóa hoạt động tín dụng:

+       Đa dạng hóa phương thức cho vay: cho vay bằng hình thức chiết khấu thương phiếu, cho vay luân chuyển, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng,...

+       Đa dạng hóa về lĩnh vực cho vay

Ø  Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý:

+       Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống.

+       Mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới, nâng cao hiệu quả sử lý thông tin tín dụng.

Ø  Giải pháp trong tiếp cận thị trường:

+       Hoàn thiện chiến lược thông tin – nghiên cứu, khảo hướng thị trường.

+       Hoàn thiện chiến lược sản phẩm của Ngân hàng và chiến lược tuyên truyền quảng cáo.

+       Hoàn thiện chiến lược phân phối.

+       Hoàn thiện chiến lược hạn chế và phân tán rủi ro trong hoạt động Ngân hàng.

+       Đa dạng hóa các loại sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng.

+       Tiếp cận thị trường đảm bảo tính hệ thống, khoa học và nghệ thuật cao.

+       Đào tạo đội ngũ nhân sự Ngân hàng mau chóng thích ứng với cơ chế thị trường.

Câu 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất? Trang125

Câu 4: Chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước VN trong thời gian qua

Từ cuối năm 2011 đến nay, NHNN đã liên tục giảm LS đến 9 lần cùng với việc kết nối, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đã góp phần đưa tín dụng chảy vào các khu vực kinh tế thực, mang lại những khởi sắc nhất định cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên từ phía doanh nghiệp (người vay vốn) có thể có những ý kiến khác. Nếu anh có 1 đồng vốn tự có, đi vay 1 đồng tức sử dụng đòn cân nợ là 50-50. Với đòn cân nợ này LS vay ngân hàng có thể cao nhưng chắc cũng không có vấn đề gì. Tuy nhiên, nếu chỉ có 1 đồng mà anh đi lại đi vay ngân hàng 2-3 đồng thì bài toán chi phí tài chính lại rất khác. Ở nước ta theo thống kê của Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính cao, bình quân của DNNN là trên 1,8 lần, DN dân doanh là trên 2 lần, thậm chí có DN vay gấp 7 đến 8 lần so với vốn tự có. Vì thế có thể có những ý kiến kêu vay vốn LS còn cao cũng là điều dễ hiểu.

Tính đến cuối tháng 12/2014, tổng phương tiện thanh toán tăng 15,65%. Về huy động vốn tăng 15,15%, trong đó huy động vốn bằng VND tăng 16,31%. Tăng trưởng tín dụng năm 2014 dự kiến đạt chỉ tiêu định hướng 12 - 14% đề ra từ đầu năm; trong đó, đến ngày 19/12, tín dụng tăng 11,8% so với cuối năm 2013. Mặt bằng lãi suất hiện giảm 1,5 - 2%/năm so với cuối năm 2013, tiếp tục hỗ trợ sản xuất - kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối. Mặt bằng lãi suất huy động giảm 1,5 - 2%/năm, lãi suất cho vay giảm khoảng 2%/năm. Theo đó, lãi suất của các khoản vay cũ được các tổ chức tín dụng (TCTD) tích cực điều chỉnh giảm; dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm khoảng 3,9% tổng dư nợ cho vay VND, giảm so với tỷ trọng 6,3%; dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 10,65%, giảm so với tỷ trọng 19,72%.

Năm 2015 vấn đề lãi suất vẫn là vấn đề lớn, việc giảm thêm lãi suất và duy trì ổn định lãi suất như năm 2014 là hết sức khó khăn bởi nền kinh tế đang có dấu hiện phục hồi, khiến áp lực tăng lãi suất là rất lớn. Nhưng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ phối hợp với các bộ, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ phát triển thị trường tài chính, chứng khoán để tăng khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp gắn với kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng.

Câu 5: Tổng quan về hệ thống tài chính? Trang 64

Câu 6: Các vấn đề về hệ thống tài chính ở VN

Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Tuy vậy hệ thống tài chính VN vẫn còn những vấn đề cần khắc phục.

Sự mất cân đối của thị trường vốn với sự chi phối gần như tuyệt đối của khu vực ngân hàng; thị trường chứng khoán vẫn còn non trẻ và đang ở giai đoạn mới nổi, chưa được doanh nghiệp trong nước coi như một nguồn vốn ổn định và hiệu quả; nguyên nhân chủ yếu là các tổ chức tài chính còn chưa đạt đến độ chắc chắn cần thiết, các định chế quản lý tài chính còn chưa sát thực với điều kiện thị trường, chưa tạo được niềm tin cho nhà đầu tư trong và ngoài nước; thị trường đang có sức hút với nhà đầu tư nước ngoài do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ổn định và có sức "đề kháng" tốt đối với ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế thế giới; quá trình tự do hóa tài chính đã diễn ra ở cả hai cấp độ (trong nước và quốc tế), nhưng tiến trình mở cửa thị trường chưa được rõ ràng.

Sự không đồng nhất giữa số liệu báo cáo của các tổ chức khác nhau bắt nguồn từ việc phân loại nợ và trích lập dự phòng còn chưa thỏa đáng, đánh giá tài sản thế chấp không đáng tin cậy, không có cơ chế hiệu quả để buộc các tổ chức phải cập nhật thông tin kịp thời và chất lượng cho Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)...

Mức độ sở hữu chéo cao giữa các ngân hàng với nhau và giữa các ngân hàng và doanh nghiệp cũng là nguyên nhân dẫn đến những bất ổn trong hệ thống. Theo WB, cơ cấu cổ đông phức tạp đã gây những quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và tính minh bạch trong các khoản vay, dẫn đến tình trạng lách các quy định an toàn về giới hạn cấp tín dụng.

Câu 7: Tiến độ tái cấu trúc ngân hàng, khó khăn về cơ chế chính sách ở VN

Tiến độ tái cấu trúc ngân hàng

Hệ thống ngân hàng vẫn được coi là "huyết mạch" của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống trung gian tài chính. Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua đã phát triển rất nhanh, với tổng tài sản gấp hơn 1,5 lần GDP vào cuối năm 2014; tổng tín dụng cho nền kinh tế lên khoảng 100% GDP, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.  Chính sự bùng nổ hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống ngân hàng trong thời gian ngắn đã tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ lớn tác động đến sự an toàn và lành mạnh của cả hệ thống. Đặc biệt, từ năm 2011, hệ thống ngân hàng bắt đầu bộc lộ nhiều dấu hiệu căng thẳng và tích tụ những yếu tố dễ bị tổn thương, nợ xấu có xu hướng tăng mạnh, sau một quá trình tăng mạnh tốc độ mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, cùng với những yếu kém của khu vực doanh nghiệp (DN), khu vực bất động sản và tình trạng suy giảm chung của nền kinh tế. Tất cả những thách thức này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiến hành tái cơ cấu.

Thông qua hoạt động hỗ trợ thanh khoản kịp thời và các giải pháp sáp nhập, mua lại (M&A), nguy cơ khủng hoảng thanh khoản ở một số ngân hàng yếu kém và nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã được đẩy lùi. Ngay từ cuối năm 2011, các ngân hàng yếu kém có nguy cơ khủng hoảng thanh khoản và nguy cơ đổ vỡ đã được NHNN kiểm soát, giám sát chặt chẽ và có giải pháp xử lý thích hợp, thanh khoản của hệ thống dần đi vào ổn định. Việc kịp thời nhận diện và phân loại các ngân hàng để có giải pháp xử lý phù hợp giúp NHNN duy trì ổn định hệ thống ngân hàng, ổn định thị trường tiền tệ. Trong giai đoạn 2012-2013, 8 trong số 9 ngân hàng yếu kém từng bước thực hiện phương án cơ cấu lại theo hướng lành mạnh hóa hoạt động như: tái cơ cấu của Ngân hàng SCB, Đệ Nhất và Đại Tín; sáp nhập NH Tiên Phong Bank - Doji, Habubank - SHB, Pvcombank - Ngân hàng Phương Tây, Navibank... Từ năm 2012 đến hết tháng 8/2014, toàn hệ thống đã xử lý được 214.000 tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm từ 4,08% tổng dư nợ cuối năm 2012 xuống 3,9% vào cuối tháng 9/2014.

Điểm sáng lớn nhất hiện nay trong việc tái cơ cấu hệ thống NH chính là việc thành lập công ty mua bán nợ VAMC và các hành lang pháp lý cho việc xử lý nợ xấu đã ra đời, tạo cơ sở cho việc đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu ở các giai đoạn sau của tái cơ cấu. Tính đến cuối tháng 7/2014, VAMC đã mua được gần 54 ngàn tỷ đồng nợ  xấu.

Trong một hội nghị tổng kết của một ngân hàng lớn tại Hà Nội vào cuối tháng 12-2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình đã nói rõ, kể từ 2015, hệ thống tổ chức tín dụng sẽ bước vào giai đoạn 2 của quá trình sắp xếp và tái cơ cấu, trong đó, nửa đầu năm 2015 được xác định là thời gian cao điểm và tất cả các ngân hàng lớn phải vào cuộc – xem như nhiệm vụ phải làm. Thống đốc khuyến khích các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV hay Vietinbank tham gia sáp nhập với các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn để vừa hỗ trợ, vừa tăng quy mô và "kéo" nhau cùng phát triển.

Có thể nói hoạt động tái cấu trúc NH đang vào giai đoạn nước rút. Các thương vụ sáp nhập diễn ra dồn dập hơn. Có thể kể thương vụ NH TMCP Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) sáp nhập vào NH TMCP Đầu tư và phát triển VN (BIDV); NH TMCP xăng dầu Petrolimex (PGBank) sáp nhập vào NH TMCP Công thương VN; NH TMCP Mê Kông (MDB) sáp nhập vào NH TMCP Hàng hải VN (MaritimeBank)... Trong đó, thương vụ sáp nhập MHB vào BIDV có lộ trình kết thúc sớm, dự kiến ngày 25.5 là hoàn tất. Đối với thương vụ sáp nhập NH TMCP Phương Nam (SouthernBank) vào NH TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) thì đề án sáp nhập vẫn chưa được NHNN thông qua.

Trước đó nữa có thể kể các thương vụ sáp nhập thành công như NH TMCP Sài Gòn (SCB) hiện nay là NH đầu tiên thực hiện sáp nhập của 3 NH (Sài Gòn, Đệ Nhất, Việt Nam Tín nghĩa); NH Phát triển nhà Hà Nội (Habubank) sáp nhập vào NH TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB); Tổng công ty tài chính dầu khí VN sáp nhập NH TMCP Phương Tây thành NH TMCP Đại Chúng VN (Pvcombank); NH TMCP Đại Á và Công ty tài chính SGVF sáp nhập với NH TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank).

Cùng với việc xác định 2015 sẽ là năm then chốt trong tái cơ cấu hệ thống, Ngân hàng Nhà nước khẳng định sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh hoạt động sáp nhập, mua lại các tổ chức tín dụng trên cơ sở tự nguyện và đúng luật. Trong đó, vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước chi phối vốn sẽ rất lớn khi tham gia vào quá trình sáp nhập, hợp nhất và mua lại những đơn vị yếu kém. Theo đó, tất cả những ngân hàng yếu kém, không có triển vọng phục hồi sẽ bị xử lý dứt điểm, kể cả khi phải áp dụng các biện pháp giải thể, phá sản hoặc các biện pháp can thiệp bắt buộc khác

Hạn chế

Năng lực cạnh tranh và quản trị, điều hành của nhiều tổ chức tín dụng chưa cải thiện đáng kể, nhất là áp dụng chuẩn mực và thông lệ quốc tế; một số giải pháp còn mang tính tình thế, đặc biệt là xử lý nợ xấu chậm do vướng mắc cả về thể chế và mô hình. Bên cạnh đó, dù đã xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, song đầu tư chéo trong hệ thống vẫn thiếu minh bạch, vốn điều lệ ở một số ngân hàng cổ phần không phản ánh đúng thực chất, dẫn đến nguy cơ chi phối, thao túng hoạt động ngân hàng.

Thành công lớn nhất của chính sách tiền tệ là giữ được ổn định tương đối hệ thống tiền tệ quốc gia. Nhưng chính ưu điểm đó cũng lại là khuyết điểm vì đã giữ ổn định bằng ý muốn chủ quan mà bỏ qua quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đó là quy luật cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ và chất lượng hàng hóa. Nếu tuân thủ quy luật này thì khi tổ chức tín dụng cho vay và đi vay lại mà không hiệu quả thì họ phải trả giá cho thị trường. Nhưng ở đây chúng ta đã chưa tôn trọng quy luật đó và đã can thiệp để những tổ chức đó không phá sản.  Đó là chỉ định một số ngân hàng lớn có hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt sáp nhập, mua các ngân hàng nhỏ và đang gặp khó khăn. Hai là cho VAMC mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng và cho họ thời hạn 5 năm để xử lý cái nợ xấu đó.

Việt Nam chưa có kinh nghiệm để xử lý ngân hàng bị đóng cửa và cũng chưa lường được phản ứng của người gửi tiền với ngân hàng đó thế nào. Cũng chưa có phân tích nghiên cứu kỹ giữa cái giá phải can thiệp bằng biện pháp hành chính để một số tổ chức tín dụng không sụp đổ với cái giá phải trả khi cho nó sụp đổ. Bởi vậy trước mắt cứ chọn cách xử lý đi theo hướng an toàn và chưa hình dung được đầy đủ các tác động không mong muốn về sau của phương án đang làm.

Các ngân hàng sau hợp nhất, sáp nhập, mặc dù đã có sự tăng lên đáng kể về quy mô vốn và tài sản nhưng các thương vụ sáp nhập, hợp nhất thời gian qua mới chỉ là sự sáp nhập, hợp nhất về mặt cơ học, chứ chưa có sự cải thiện đáng kể về mặt tài chính và quản trị. Trong khi tái cơ cấu chỉ có hiệu quả sau khi việc mua bán, sáp nhập tạo ra một sắc diện mới cho chủ thể cũ. Hiện nay, tái cơ cấu mới chỉ dừng lại ở "bình mới rượu cũ", chưa có sự thay đổi mạnh mẽ cả về chất lẫn lượng, cũng như phương thức hoạt động. Chưa kể, nợ xấu ngày càng khó xác định và đến nay vẫn chưa có biện pháp xử lý cơ bản.

Câu 8: Nguyên nhân lạm phát

- Lạm phát do cầu kéo

·        Nguyên nhân do AD, AE của xã hội tăng lên vượt qua mức cung ứng hàng hóa của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả

·        Chi tiêu chính phủ tăng: AD tăng trực tiếp thông qua các khoản đầu tư thuộc lĩnh vực chính phủ quản lý hoặc có thể gián tiếp thông qua các khoản chi phí phúc lợi xã hội tăng và kết quả là giá cả hàng hóa tăng lên. Khi nhu cầu chính phủ tăng lên dẫn đến vội chi thì việc phát hành tiền và đi vay từ các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt rất dễ gây lạm phát cao và kéo dài

·        Chi tiêu hộ gia đình tăng lên; do thu nhập thực tế tăng lên thúc đẩy AD dịch phải tạo áp lực lên lạm phát

·        Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên: lãi suất đầu tư giảm, điều kiện vay vốn đầu tư dễ dàng hơn

·        Nhu cầu của nước ngoài:các yếu tố như tỷ giá, giá cả hàng hóa nước ngoài so với trong nước và thu nhập bình thị trường nước ngoài

·        Thuế giảm: kích cầu tiêu dùng

·        Cung tiền tăng: lãi suất  thực giảm, kích đầu tư và xuất khẩu ròng, tăng cầu

- Lạm phát do chi phí đẩy: là áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên cầu chi phí sản xuất vượt mức tăng của NSLĐ và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội

·        Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động

·        Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người SX đẩy giá cả hàng hóa tăng cao

·        Do giá nội địa hàng nhập khẩu tăng

·        Tăng thuế và nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước

- Các nguyên nhân khác

·        Tâm lý của người dân: Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó ... Như thế cầu sẽ tăng lên, cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.

·        Thâm hụt ngân sách: Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát .Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát .TUy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn.

Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát.

Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.

·        Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước ,chính sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.

Câu 9: Phân tích những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở VN trong thời gian qua

Nguyên nhân của lạm phát có thể xét theo hai cách.

Cách thứ nhất: Xét theo nguồn gốc gây ra lạm phát:

Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối,sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn đến lạm phát.

Nguyên nhân trực tiếp: Cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết.

Nguyên nhân quan trọng: Là hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của Nhà nước bị xóa mòn, từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hoặc đánh thấp giấy bạc mà nhà nước phát hành.

Cách thứ hai: Nguyên nhân chủ yếu xét theo chủ quan và khách quan:

Nguyên nhân chủ quan: Bắt nguồn từ những chính sách quản lí kinh tế không phù hợp của nhà nước như: Chính sách cơ cấu kinh tế,chính sách lãi suất,chính sách thuế...làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách bị thâm thủng thì nhà nước phải tăng phát hành. Đặt biệt với một số quốc gia trong những điều kiện nhất định, Nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.

Nguyên nhân khách quan: Như thiên tai, động đất, sóng thần là những nguyên nhân bất khả kháng, hoặc nguyên nhân nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ trên thế giới.

 

Câu 10: Giải pháp

Các giải pháp ngắn hạn

-          Vận hành chính sách tiền tệ thắt chặt

+ Tăng lãi suất trên thị trường (lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản)

+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc

+ Bán tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN

+ Kiểm soát dư nợ tín dụng của các ngân hàng

-          Vận hành chính sách tài khóa thắt chặt

+ Tập trung ngân sách vào những chương trình cấp thiết

+ Kiểm soát chi tiêu công, giảm chi phí trong các cơ quan hành chính

+ Tích cực chống tiêu cực và lãng phí

-          Đông kết giá cả: ban hành sắc lệnh không tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu, dịch vụ giao thông...

Các giải pháp dài hạn

-          Hỗ trợ xuất khẩu (tỷ giá, chất lượng sản phẩm, mẫu mã, giá cả, hỗ trợ xúc tiến TM...)

-          Nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước

-          Đảm bảo an ninh lương thực

-          Tăng cường công tác dự báo

-          Phòng trừ thiên tai, dịch bệnh...

Ở Việt nam: Ngoài các giải pháp trên, Nhà nước còn thực hiện các giải pháp căn cứ vào những đặc điểm đặc thù:

-          Tiếp tục cải cách hành chính và sắp xếp lại DNNN, giảm áp lực tăng lương.

-          Chấn chỉnh hoạt động của một số lĩnh vực độc quyền: nhập khẩu sắt thép, xăng dầu...

-          Chống tham nhũng và thực hiện Luật Ngân sách.

-          Hạn chế tín dụng: Theo quy mô doanh nghiệp và hạn mức tín dụng.

-          Tuân thủ các nguyên tắc phát hành, quản lý lưu thông tiền tệ của NHTW và thực hiện quản lý vĩ mô đối với các NHTM.

-          Thực hiện các chương trình điều chỉnh cơ cấu.

Câu 11: Tình hình lạm phát ở VN hiện nay

Từ năm 2004 đến 2011, lạm phát ở nước ta có xu hướng gia tăng, cao điểm đã lên mức 2 con số, do đó, chống lạm phát là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Song, từ năm 2012 đến năm 2013, lạm phát có xu hướng ổn định dưới mức 7%.

Ngay từ đầu năm 2014, Chính phủ đã tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó, kiểm soát lạm phát là một trong những trụ cột quan trọng. Kết quả này lại tiếp tục được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2014, chỉ tăng 1,84% so với tháng 12/2013, chỉ bằng 26,2% chỉ tiêu mức lạm phát của Quốc hội đặt ra (7%) và bằng 37% mức dự kiến lạm phát của Chính phủ (5%).

Nếu xét mức lạm phát bình quân, thì cả năm 2014 so với năm 2013 tăng 4,09%, dù xét theo chỉ tiêu nào, thì kết quả này cũng là điều đáng ghi nhận. Đây là mức lạm phát thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và khá bất ngờ đối với các dự báo của nhiều cơ quan chức năng, các tổ chức và chuyên gia kinh tế. Có thể nhận định rằng, kết quả này là một trong những sự kiện nổi bật nhất, một trong những thành công đuợc ghi nhận của kinh tế Việt Nam trong năm 2014.

Việc điều hành giá năm 2014 đã đạt được "thắng lợi kép" là vừa kiểm soát được giá cả đối với một số mặt hàng và dịch vụ quan trọng, thiết yếu do Nhà nước quản lý được điều chỉnh tăng theo kế hoạch, đúng lộ trình và theo cơ chế giá thị trường. Như vậy, chúng ta đã bước đầu kiểm soát được lạm phát 3 năm liền, không lặp lại vòng luẩn quẩn là 2 năm tăng, một năm giảm như giai đoạn 2007-2011.

Tuy nhiên,quá chú trọng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát, có thể dẫn đến việc tăng trưởng kinh tế dưới tiềm năng, mà hậu quả của nó là trong tương lai có thể gây mất cân đối cung - cầu hàng hóa và tạo ra lạm phát do thiếu cung. Trong bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn, thu ngân sách sẽ khó khăn, Chính phủ sẽ tiếp tục thiếu vốn cho đầu tư, trả nợ thực hiện các nhiệm vụ cải cách phát triển kinh tế - xã hội.

Dự báo của các tổ chức quốc tế và trong nước đều cho rằng, lạm phát của Việt Nam năm 2015 sẽ ở mức thấp, nhưng có thể cao hơn chút đỉnh so với năm 2014. Nguyên nhân là do, giá cả hàng hóa thế giới được dự báo sẽ tiếp tục giảm; tăng trưởng tín dụng dự kiến sẽ tăng (nhờ mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2015 là 6,2% được Quốc hội thông qua); Chỉ số giá hàng phi lương thực, thực phẩm đã có xu hướng giảm tháng thứ 6 liên tiếp; Sự gia tăng của các yếu tố tổng cầu, như: sự phục hồi kinh tế, việc ký kết các hiệp định thương mại tự do, cải thiện môi trường đầu tư, nên đầu tư tư nhân và đầu tư của Chính phủ sẽ gia tăng, tiêu dùng tư nhân được cải thiện do kinh tế phục hồi và tiền lương được cải thiện...

Năm 2015, tác động của yếu tố cầu kéo tác động lên lạm phát không đáng kể (tổng cầu thấp); các yếu tố chi phí đẩy dự kiến cũng không tác động đáng kể lên lạm phát do giá cả hàng hóa thế giới dự báo ổn định trong năm 2015; xuất khẩu tiếp tục tăng, cán cân thanh toán thặng dư, tỷ giá ổn định. Đây là tiền đề quan trọng để tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Câu 12: Chức năng, vai trò của NHTW? Trang 236, 239

Câu 13: Các mô hình của NHTW trên thế giới? VN theo mô hình nào? Ưu điểm và nhược điểm

1.      Trang 233

2.      Mô hình hiện nay của NHTW VN

Ngày 16/6/2010 Luật NHNN VN và Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Theo đó, NHNN VN là cơ quan ngang Bộ của CP, là NHTW của nước CHXHCNVN. NHNN  thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động NH và ngoại hối; thực hiện chức năng NHTW về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho CP. Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-         Thành tựu:

o   Tạo được sự đồng bộ trong mục tiêu phát triển kinh tế.

o   Giúp chính phủ trong việc hoàn thành các mục tiêu

o   Giảm thâm hụt ngân sách

o   Tạo niềm tin vào hệ thống Ngân hàng

-         Hạn chế:

o   Mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ

o   Làm xa rời mục tiêu dài hạn

o   Thẩm quyền của NHNN còn hạn chế, mức độ độc lập thấp.

NHNN VN có vị trí pháp lý độc lập: Điều 1 của Luật NHNN VN khẳng định vị trí pháp lý của NHNN VN là cơ quan của CP (cơ quan ngang bộ) và là NHTW của NN VN. Nhưng thực tiễn đã có thấy, khi NHNN VN là cơ quan của CP thì hoạt động của NHNN VN phụ thuộc rất nhiều vào CP và vị trí pháp lý là NHTW của một quốc gia bị lu mờ do mọi hoạt động đều phải có sự cho phép của CP. Ở đây, NHNNVN chỉ được coi như là cơ quan quản lý hành chính nhà nước, giống như các bộ khác chứ không phải là một thiết chế đặc biệt dự tổ chức, hoạt động  của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống  ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc gia.Trong khi  đó, cần phải khẳng định rằng, một Ngân hàng trung ương hiện đại phải có tính độc lập  về vị trí pháp lý, nhân sự, cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, mục tiêu và về hoạt động  của mình, trong đó sự độc lập về vị trí pháp lý được đặt lên hàng đầu.

NHNN độc lập trong lựa chọn nhân sự, cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành. Điều này có nghĩa Ngân hàng trung ương phải có quyền tự chủ trong việc lựa  chọn bộ máy quản trị, điều hành sao cho hợp lý nhất, nhằm thực hiện hiệu quả các chức  năng, nhiệm vụ theo luật định. Có thể nói, đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, gắn với tính  tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng trung ương. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam   và Dự thảo 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  đều thiết kế việc quản trị theo mô  hình thủ trưởng chế. Nếu quản trị theo mô hình này (Thống đốc toàn quyền và là người  chịu trách nhiệm duy nhất) như hiện nay ở nước ta có thể sẽ gây ra những hậu quả, thiệt  hại nhất định cho nền kinh tế khi hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng khủng hoảng vì  một người không bao giờ có thể hiểu biết được mọi vấn đề

NHNNVN độc lập về mục tiêu hoạt động: mục tiêu của NHTWVN là bảo đảm an toàn  hoạt động của hệ thống NH và ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vì NHTW là NH quản lý hoạt động NH nên mục tiêu bảo đảm an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, những thách thức trên lĩnh vực tài chính  – ngân hàng đang ngày càng trở nên gay gắt, sự tham gia của các định chế tài chính có  vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường tiền tệ làm thay đổi cấu trúc của hệ thống tài  chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, dẫn đến hoạt động ngân hàng trở nên  sôi động hơn nhưng cũng phức tạp hơn, các loại rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ  sẽ tiềm tàng hơn. Vì vậy, mục tiêu có rõ ràng thì Ngân hàng trung ương mới có thể  kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của mình.

Câu 14:Tính độc lập của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ?

Trong quá trình sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng tạo cho NHNN cơ sở pháp lý để đổi mới hoạt động của NHNN, một trong những vấn đề đang được thảo luận, đó là luật pháp phải khẳng định được một vị trí độc lập nhất định của NHNN trong hoạt động cuả mình. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là qui định mức độ độc lập như thế nào cho phù hợp với thể chế kinh tế, chính trị, lịch sử văn hoá của Việt Nam.

Thực tế, NHTW các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, Giám sát các TCTD và Quản trị điều hành nội bộ, tuy nhiên mức độ độc lập là không giống nhau.Độc lập về Điều hành CSTT, theo tổng kết của IMF sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4 mức độ:

(1) Mức độ cao nhất là "Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu": ngân hàng trung ương có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như nó không được thả nổi (Ví dụ như Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ- Fed được lựa chọn mục tiêu hoạt động trong số các mục tiêu có thể xung đột với nhau là tuyển dụng nhân công và ổn định giá cả).

(2) Mức độ độc lập thứ 2 là "Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động": NHTW được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nhưng khác với kiểu Độc lập về mục tiêu, Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động có một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong Luật. Ví dụ, trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của ECB quy định mục tiêu là ổn định giá cả, và ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động.

(3) Mức độ độc lập thấp hơn là "Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều hành": Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn bạc, thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu.

(4) Mức độ độc lập thấp nhất là "Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí không có": Chính phủ sẽ quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như là can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách.

Đối chiếu với các mức độ độc lập nêu trên, thì NHNN Việt Nam hiện nay đang ở mức độ độc lập thấp nhất. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến việc nâng cao năng lực hoạt động cuả NHNN với vai trò là một NHTW trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Với thực tế hiện nay, NHNN là một cơ quan của Chính phủ, Thống đốc NHNN là Thành viên của Chính phủ và chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành hiện nay thì mức độ độc lập trong thực thi CSTT nên ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp hơn cả. Ở mức độ tự chủ này, Ngân hàng Nhà nước có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của NHNN. Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT trong đièu hành là vì, xuất phát từ một thực tế là các thông tin kinh tế có tác động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thu thập được, nói chung là không có sự hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước những thay đổi của thị trường. Điều này càng có sức thuyết phục hơn khi mà các ngân hàng trung ương đang nhanh chóng tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để đạt tới các mục tiêu chính sách tiền tệ của họ. Hình thức tự chủ này cũng đòi hỏi NHNN phải có một sự hiểu biết sâu sắc về sự vận hành của các thị trường tài chính và các công cụ quản lý vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, năng lực phân tích và dự báo.

Ngoài ra, hình thức tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các mục tiêu của chính sách kinh tế tổng thể của một nước trong một giai đoạn nhất định, thường từ 3 tới 5 năm. Đồng thời nâng cao tính trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ những hành động của mình về chính sách tiền tệ trước Quốc hội và Chính phủ, tính công khai minh bạch đầy đủ về hoạt động của NHNN. Nhưng mặt khác nó cũng hạn chế sự can thiệp của các nhà chính trị đến các quyết sách cuả NHNN

Câu 15: Vị trí và vai trò của chính sách tiền tệ

·        Vị trí của chính sách tiền tệ:

Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác: Chính sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại...

Đối với NHTW, việc hoạch đi và thực thi chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

·        Vai trò: Chính sách tiền tệ có một vai trò quan trọng và tương đối độc lập với các chính sách kinh tế khác xuất phát từ 3 điểm mang tính định hướng sau:

-         Thứ nhất: sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư

-         Thứ hai: không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm

-         Thứ ba: không thể có tiết kiệm nếu thiếu sự ổn định giá cả và tiền tệ.

Chính vì vậy, chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tấc động vào nhiều hướng nhằm tạo ra đầu tư, tạo ra tiết kiệm và tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái.

Như vậy chính sách tiền tệ góp phần vào sự thành công hay thất bại của sự phát triển kinh tế. Một chính sách tiền tệ thắt chặc sẽ dẫn đến sự khan hiếm về tiền tệ và đắt đỏ về chi phí. Ngược lại,  một chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm cho tiền tệ gia tăng, kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.

Theo luật NHNN VN: CSTT quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của NN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.

Câu 16: Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ? Trang 246

Câu 17: CSTT của VN giai đoạn hiện nay

Chính sách tiền tệ trong 3 năm qua (2011-2013) được thực hiện trong bối cảnh rất khó khăn. Kinh tế trong và ngoài nước đều không thuận lợi, lạm phát cao, mặt bằng lãi suất vọt lên tới 22-24%/năm; Tiền đồng mất giá, trong khi dự trữ ngoại hối mỏng; hiệu quả đầu tư công thấp; nhập siêu cao; khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng xuống thấp, mức độ rủi ro, khả năng đổ vỡ của một số NHTM khá cao; bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp cũng ảnh hưởng tiêu cực vào kinh tế Việt Nam.

Nhưng sau 3 năm thực thi, chính sách tiền tệ đến nay đã được coi là một điểm sáng trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, đóng góp vai trò trọng yếu vào việc thiết lập sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Hiện tỷ lệ dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng cao nhất từ trước tới nay, tỷ giá ổn định và đồng tiền Việt Nam được đánh giá là một trong những đồng tiền ổn định nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương khi so sánh với đồng USD. Mặt bằng lãi suất cả cho vay lẫn huy động liên tiếp được hạ xuống và hiện đã bằng với mặt bằng lãi suất những năm 2005. Cùng với đó là khả năng thanh toán của các ngân hàng cũng đã được cải thiện. Các thị trường vàng, ngoại tệ cũng đã được cải thiện rõ rệt. Vàng hóa, USD hóa nền kinh tế đã giảm.

·        Năm 2014, định hướng điều  hành chính sách tiền tệ được điều chính nới lỏng hơn so với những năm trước. Hàng loạt thành tựu được ghi nhận trong năm 2014 như: Lạm phát năm 2014 giảm hơn so với năm 2013 và là mức tháp nhất trong hơn 1 thập kỷ; tốc độ tăng giá tiêu dùng đã về ngưỡng 2%; chính sách chống đo la hóa đã có tác động tích cực, cùng với sự can thiệp nhạy bén của NHNN đã giúp ổn định thị trường tiền tệ, giá trị tín phiếu trong năm 2013 phát hành chiếm tỷ trọng cao hơn so với cùng kỳ những năm trước; công cụ lãi suất cũng được NHNN điều hành hiệu quả để điều tiết thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn theo sát diễn biến lạm phát và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, trong năm 2014, NHNN đã phối hợp điều hành, hài hòa lãi suất theo cả hai biện pháp gián tiếp và trực tiếp trên cơ sở thống nhất nguyên tắc đảm bảo lãi suất thực dương và đảm bảo lợi ích của người gửi tiền.

Câu 18: Lý thuyết về ngân sách và nợ công? Trang 261, 278

Câu 19: Tình hình thu chi ngân sách của VN?

Trong giai đoạn 2010-2012 tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) giảm liên tục từ 27,27% xuống còn 22,9% GDP. Điều đáng nói ở đây là hầu như tất cả các khoản thu thành phần đều trong xu thế giảm (trừ dầu thô). Khu vực ngoại gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mặc dù có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua nhưng đóng góp vào ngân sách cũng giảm mạnh. Điều này được giải thích là do kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng chịu thuế giảm.

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng mạnh mẽ thời gian qua chủ yếu do những dự án mới được đưa vào sản xuất như Samsung tăng mạnh. Những dự án này đang được hưởng các ưu đãi lớn từ nghĩa vụ đóng góp NSNN, trong khi các dự án đã hoạt động lâu năm tại Việt Nam dường như cũng bị ảnh hưởng mạnh của đợt suy giảm tăng trưởng này (ví dụ các doanh nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy...) do đó phần đóng góp ngân sách từ các doanh nghiệp này cũng giảm. Cũng cần phải nói thêm rằng hoạt động chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là yếu tố làm cho đóng góp của khối này vào GDP thấp.

Trong bối cảnh kinh tế suy giảm, nhu cầu chi tăng nhưng do nguồn thu giảm mạnh (năm 2012 giảm 4,37 điểm phần trăm so với năm 2010) nên tổng chi cũng giảm. Tuy nhiên, cắt giảm tổng chi là do cắt giảm mạnh chi đầu tư phát triển, trong khi các khoản chi khác như chi thường xuyên lại tiếp tục gia tăng. Điều này dường như mâu thuẫn với lý thuyết kinh tế: khi suy giảm tăng trưởng cần tăng chi đầu tư phát triển để kích thích kinh tế chứ không phải cắt giảm đầu tư. Khoản chi thường xuyên lớn, tăng liên tục đã vô hiệu hóa khả năng sử dụng công cụ tài khóa để kích thích kinh tế trong thời kỳ suy thoái.

Năm 2013, thu cân đối NSNN ước đạt 752.370 tỷ đồng, giảm 63.630 tỷ đồng (tương đương 7,8%) so với dự toán. Sự hụt thu xuất phát từ hụt thu nội địa, thu cân đối từ hoạt động XNK ước đạt 84,6%, thu tiền sử dụng đất (bằng 82% so với năm 2012). Nguyên nhân là do tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân nộp thuế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến số thuế phát sinh phải nộp thấp làm cho số thu nội địa giảm mạnh, dẫn đến việc phải cắt, giảm một số khoản chi và nâng mức bội chi từ 4,8% GDP lên 5,3%GDP. Những mất cân đối như chưa bố trí đủ nguồn trả nợ đến hạn, bù lãi suất cho hai ngân hàng chính sách, nợ Quỹ bảo hiểm xã hội, thu hồi đủ số vốn ứng trước, số nợ Quỹ hoàn thuế của các năm trước sẽ xử lý vào các năm sau để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

Năm 2014. Lường trước những khó khăn kinh tế có thể tác động tới nguồn thu NSNN, nên dự toán tổng thu NSNN năm 2014 đã thấp hơn 4,8% so với con số thực hiện năm 2013, song thực tế số thu NSNN năm 2014 không những vượt 8,1% so với dự toán, mà còn cao hơn tới 24.400 tỷ đồng so với năm trước. Nguyên nhân là do tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra trong khi các khoản thu lớn đều vượt so với dự toán. Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo quản lý chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm; nâng cao hiệu quả; tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính: Ước cả năm 2014, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm soát chi đối với 686,79 nghìn tỷ đồng chi thường xuyên của NSNN, đạt 97,5% dự toán, đã phát hiện khoảng 37 nghìn khoản chi chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định, từ chối chưa thanh toán với số tiền 40 tỷ đồng; đối với chi đầu tư phát triển kế hoạch năm 2014, ước giải ngân qua hệ thống KBNN đạt 282,83 nghìn tỷ đồng, đạt 97,3% kế hoạch; giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt khoảng 88,9% kế hoạch; thông qua kiểm soát, đã từ chối thanh toán 90 tỷ đồng do chủ đầu tư đề nghị thanh toán cao hơn giá trúng thầu hoặc không có trong hợp đồng, dự toán.

Để xử lý những khó khăn trong cân đối ngân sách của một số địa phương do nguyên nhân khách quan (thay đổi chính sách thu thuế GTGT theo Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ; hoạt động sản xuất - kinh doanh suy giảm), đã tăng tiến độ bổ sung cân đối 3.628 tỷ đồng và tạm ứng NSTW 3.880 tỷ đồng cho một số địa phương giảm thu do nguyên nhân khách quan để hỗ trợ xử lý khó khăn trong cân đối ngân sách, đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao.

Câu 20: Thực trạng nợ công VN

"Nợ công của quốc gia bao gồm nợ Chính phủ vay, nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương hiện vẫn trong giới hạn cho phép theo quy định của Chiến lược nợ công quốc gia là không vượt quá 65% GDP.

Trong những năm qua, công tác quản lý nợ công đã có nhiều chuyển biến tích cực, dần tiếp cận gần hơn với thông lệ tốt trên thế giới. Năm 2014, khối lượng vốn vay nợ công cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đạt khá, đã huy động được 627,8 nghìn tỷ đồng, trên 98% vốn vay đã được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng. Vốn vay được sử dụng đúng mục đích, đưa vào các lĩnh vực thực sự cần thiết và được sử dụng một cách tiết kiệm, qua đó góp phần làm cho kinh tế phát triển, tạo ra nguồn lực để trả nợ trong tương lai.

Việc tăng cường huy động vốn vay cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường...., đã tạo ra diện mạo mới cho đất nước, trong đó có một số công trình hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Đặc biệt, Việt Nam đã chủ động xây dựng kế hoạch và bố trí trả nợ đầy đủ, đúng hạn, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2013 là 15,2%; năm 2014 là 13,8% và năm 2015 dự kiến khoảng 16,1% (theo quy định là không quá 25%).

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực, chủ động thực hiện cơ cấu lại nợ công: năm 2014, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính đã chủ động kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu nhằm giảm dần áp lực trả nợ ngắn hạn và giảm dần đảo nợ.

Theo đó, giảm mạnh và tiến tới ngừng phát hành tín phiếu và trái phiếu kỳ hạn ngắn, tập trung chủ yếu vào trái phiếu có kỳ hạn dài từ 5 năm đến 15 năm, bước đầu cơ cấu lại danh mục trái phiếu Chính phủ.

Việc công khai về nợ công đã bước đầu đi vào nề nếp, tạo được kênh thông tin quan trọng phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, nghiên cứu về vấn đề nợ công.

Hiện nay, quy mô nợ công so với GDP đang ở mức cao, gần với ngưỡng được Quốc hội cho phép trong khi nguồn lực của chúng ta còn hạn chế nên vẫn cần thiết phải huy động vốn vay để đầu tư. Điều quan trọng hiện nay là làm sao nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời xây dựng kế hoạch trả nợ đầy đủ, đúng hạn và bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

=> Đánh giá: nợ công ở nước ta tuy rằng vẫn đang ở ngưỡng cho phép nhưng không thực sự an toàn. Cần chú trọng đến việc sử dụng vốn vay một cách hiệu quả và phải tính đến khả năng trả nợ. Cho dù lãi suất thấp, cũng không thể cứ vay một cách "vô tội vạ" rồi đẩy việc trả nợ sang cho thế hệ con cháu.

Hơn nữa, khi một quốc gia có một con số nợ công quá cao, phải đi cầu cứu các tổ chức nước ngoài thì sẽ nền kinh tế sẽ rất dễ bị can thiệp bởi những tổ chức nước ngoài ấy. Chính phủ cần phải tìm cách để cân bằng một cách hợp lý giữa hai mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và xây dựng một nền kinh tế hiệu quả và năng suất cao trong dài hạn, từng bước khôi phục nền kinh tế Việt Nam.

 

Câu 21: Giải pháp cho tình hình nợ công ở VN

Trước những rủi ro tiềm ẩn của nợ công Việt Nam, Chính phủ và các bộ, ban, ngành đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để quản lý nợ công hiệu quả, tránh xảy ra tình trạng khủng hoảng nợ công trong tương lai. Trên quan điểm phân tích thực trạng nợ công và những rủi ro trong sử dụng nợ công và trả nợ công của Việt Nam trong thời gian qua, có thể đưa ra một số kiến nghị chính sách sau đây:

Một là, cần thay đổi cách tính nợ công, trong đó tính cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước được bảo lãnh trong cơ cấu nợ công. Với cách tính mới này, chúng ta mới có thể tính chính xác số nợ công hiện tại là bao nhiêu, có ở ngưỡng rủi ro cao hay không, từ đó mới có thể quản lý hiệu quả nợ công

Hai là, cần thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nợ nước ngoài. Nợ trong nước có thể huy động thông qua các đợt phát hành trái phiếu với lãi suất phù hợp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong người dân. Nếu không thay đổi được cơ cấu nợ công theo hướng tăng cao nợ trong nước, Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài bởi trong thời gian tới những ưu đãi từ nguồn vốn ODA cho Việt Nam sẽ giảm mạnh, buộc Chính phủ tiếp tục phải đi vay nợ tại các ngân hàng thương mại nước ngoài với lãi suất cao và thời gian ngắn hạn hơn rất nhiều. Hơn nữa, việc vay nợ các ngân hàng nước ngoài rất nguy hiểm nếu gặp những biến động bất lợi về tỷ giá.

Ba là, cần thực hiện kỷ luật tài khóa một cách rõ ràng và nghiêm ngặt để tránh tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và luôn ở mức cao, gây ảnh hưởng bất lợi đến nợ công. Kỷ luật tài khóa cần thực thi nhằm giảm thâm hụt ngân sách một cách cứng rắn theo lộ trình rõ ràng, chẳng hạn như thâm hụt ngân sách duy trì ở mức 4% từ nay đến năm 2020, duy trì ở mức 3% kể từ sau năm 2020...

Bốn là, phải có những lĩnh vực ưu tiên rõ ràng trong chi tiêu sử dụng nợ công. Những ưu tiên cần đặt ra là: các cơ sở hạ tầng công ích, các dịch vụ an sinh xã hội, các doanh nghiệp nhà nước không vì mục đích thương mại. Các doanh nghiệp nhà nước vì thế cũng cần phải thu hẹp theo hướng: tiếp tục phát triển các doanh nghiệp nhà nước vì lợi ích công ích và được Chính phủ bảo lãnh, đồng thời bán các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thương mại cho nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước.

Năm là, cẩn trọng hơn đối với quản lý rủi ro nợ công của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ chính phủ và nợ công đều đang tăng lên rất nhanh, mỗi bộ phận nợ này có tính chất và cấu trúc khác nhau, đem lại những rủi ro khác nhau và cần phải có những biện pháp quản lý rủi ro một cách hiệu quả. Để quản lý nợ hiệu quả, cần phải tính cả nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước để tránh tình trạng một hoặc vài doanh nghiệp nhà nước mất khả năng trả nợ sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhà nước khác, gây đổ vỡ hàng loạt hệ thống tài chính - ngân hàng do nợ xấu của các doanh nghiệp, khiến Chính phủ mất khả năng giúp doanh nghiệp trả nợ và dẫn đến tình trạng vỡ nợ như Hy Lạp và một số nước châu Âu đang gặp phải.

Sáu là, cần xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả. Chế độ kiểm toán rất cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao để có thể kiểm soát tốt nợ công của Việt Nam. Hiện tại, chất lượng đội ngũ kiểm toán nhà nước của Việt Nam còn thấp, chưa đủ khả năng để đánh giá, phân tích bản chất của nợ công, phân loại nợ công và đánh giá những tác động có thể xảy ra đối với nợ công. Hơn nữa, việc giám sát chi tiêu của Chính phủ cũng cần phải được thể chế hóa và bắt buộc thi hành để tránh tình trạng chi tiêu không đúng mục đích, chi tiêu vượt quá mức cho phép. Luật Ngân sách Nhà nước cũng cần phải được rà soát lại nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu công. Nếu không có cơ chế quản lý nợ công hiệu quả, chúng ta không thể đánh giá thấu đáo tình hình tăng trưởng kinh tế, lượng dự trữ quốc gia là bao nhiêu, nợ công trong nước hay nợ công nước ngoài đang gặp mối nguy hiểm gì, do vậy nguy cơ vỡ nợ là điều không thể lường trước.

Nhìn chung cho đến nay, quản lý nợ công ở Việt Nam vẫn chưa thực hiện hiệu quả. Vì vậy, việc triển khai kịp thời các chính sách và biện pháp quản lý nợ công là một nhiệm vụ quan trọng đối với Chính phủ và các ngành, các cấp để có thể quản lý nợ công tại Việt Nam một cách an toàn, hiệu quả

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro