ddslt210-240

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  Dương Công Khanh, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Vương Huyền Nộ trợn mắt há hốc miệng ra nhìn kho lương giờ đã cháy thành than, không biết nói gì. Trên mặt đất xếp mười mấy cỗ thi thể của binh lính canh kho và lũ chó canh, tất cả đều đã bị ngọn lửa làm cho đen kịt, khó mà nhận diện. 

Đây chỉ là một trong mười sáu kho lương trong thành, nhưng lượng lương thảo cất giữ lại bằng cả mười lăm kho lương khác cộng lại. Lửa bắt cực nhanh, cùng lúc có mười mấy nơi bốc cháy, nếu không phải có tường cao vây kín phân cách kho lương với khu dân cư xung quanh, thời tiết lại đang ẩm ướt thì hậu quả đã không chỉ có vậy. 

Viên thiên tướng phụ trách phòng thủ kho lương quỳ trên mặt đất, mặt cắt không còn giọt máu, thần thái tội nghiệp vô cùng. 

Dương Công Khanh tức giận quát: “Không thể như vậy được, ta đã phái thêm người phòng vệ, vậy tại sao ngay cả cái bóng của địch nhân cũng không thấy đâu là thế nào? Sao lại để cháy thành than cả như vậy, ít nhất cũng phải kịp thời dập lửa chứ?”. 

Viên thiên tướng kia run giọng đáp: “Giếng nước cứu hoả đã bị người dùng cát và đá lấp kín rồi”. 

Dương Công Khanh ngây người: “Làm sao gian tế chuyển cát đá đến đây được?”. 

Khấu Trọng khẳng định: “Chỉ cần phái ngưòi kiểm tra kỹ càng, nhất định có thể phát hiện ra địa đạo hay thứ gì đó tương tự. Chuyện này chắc là gian kế địch nhân đã chuẩn bị từ trước, tốt nhất là phái người đi kiểm tra tất cả các kho lương trong thành nữa”. 

Lập tức có người lĩnh mệnh chạy đi. 

Vương Huyền Nộ kéo ba người sang một bên, thấp giọng nói: “Chuyện này đúng là trong sai có lầm, ta vừa mới vận chuyển lương thảo thật ra quân doanh ngoài thành, lương thảo ở đây đều là giả cả. Vì mọi việc đều do thân binh của ta phụ trách vận chuyển, nên những người khác đều không ai biết số mới chuyển đến là hàng giả”. 

Khấu Trọng cả mừng: “Nhị công tử làm việc quả thật vô cùng cẩn mật, năm mươi cỗ xe lừa sáng nay có phải vận chuyển lương thảo thật hay không?”. 

Vương Huyền Nộ vui vẻ gật đầu: “Đúng là lương thảo thật, lần này phải làm sao?”. 

Dương Công Khanh phấn chấn tinh thần: “Cái này gọi là hoạ trung đắc phúc, hay là trời giúp chúng ta cũng được. Hiện giờ quan trọng nhất là phải dốc sức điều tra gian tế, phàm là ngoại nhân không có hộ tịch đều phải bắt lại thẩm vấn, đồng thời trọng thưởng cho những người phát hiện ra kẻ khả nghi. Mặt khác phải tăng cường phòng vệ ở các kho lương khác, tìm cách xây dựng kho lương bí mật để tích trữ lương thảo”. 

Vương  Huyền Nộ thấy mình vô y lập đại công, chắc sẽ được phụ thân tán thưởng, hân hoan đi ra ngoài. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Xem ra chúng ta cũng nên về soái phủ uống rượu mừng để đón tiếp đại quân của Lý Mật đến rồi!”. 

o0o 

Trời còn chưa sáng, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã bị người đánh thức, khi đến đại sảnh của soái phủ thì thấy Dương Công Khanh, Vương Huyền Nộ cũng đang ngáp ngắn ngáp dài, Linh Lung Kiều thì đang ngồi bên cạnh Dương Công Khanh, vừa nói vừa chỉ lên tấm địa đồ trải trên bàn. 

Dương Công Khanh ngẩng đầu lên nhìn hai gã đi vào đại sảnh, cười ha hả nơi: “Quân Ngoã Cương đến rồi!”. 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cả mừng, vội bước đến gần ba người. 

Linh Lung Kiều hưng phấn nói: “Ta đã liên lạc với tai mắt ở khắp nơi, đồng thời cũng tận mắt trông thấy quân tiên phong của Lý Mật đang thẳng tiến đến đây, nếu không có gì cản trở, ngày mai chúng ta có thể thấy kỳhiệu của quân Ngoã Cương ở bên ngoài thành rồi. Ngoài ra, ta còn phái thêm hơn mười hảo thủ khinh công giỏi nhất, ngày đêm giám thị động tĩnh quân địch, tin tức sẽ dùng phi cáp truyền về”. 

Khấu Trọng hỏi: “Là cánh quân nào đang địch động? Nhân số bao nhiêu người?”. 

Linh Lung Kiều nói: “Là ba đạo tân binh bên ngoài thành do Đơn Hùng Tín, Trần Chí Lược, Phàn Văn Siêu suất lãnh, quân chủ lực vẫn án binh bất động trong Kim Dung thành”. 

Dương Công Khanh lo lắng: “Lý Mật lại muốn dùng kế trá nguỵ gì đây?”. 

Từ Tử Lăng cũng băn khoăn hỏi: “Kiều cô nương có tiềm nhập vào thành thăm dò không?”. 

Linh Lung Kiều kiêu ngạo đáp: “Không có thành trì nào có thể làm khó dễ được Linh Lung Kiều này, có điều ta sợ đả thảo kinh xà, nên chỉ quan sát từ xa mà thôi. Tình hình trong thành vẫn rất yên bình, rõ ràng là Lý Mật cho rằng mình đã chắc thắng mười mươi, nên mới tự tin như vậy”. 

Vương Huyền Nộ hỏi: “Số tân binh đó có phải thật sự kém cỏi như lời Tuyên Vĩnh đã nói không?”. 

Linh Lung Kiều nói: “Quân tiên phong do Đơn Hùng Tín chỉ huy nhân số ước chừng khoảng ba nghìn, xuất phát lúc hoàng hôn. Do bị cây rừng che mất thị tuyến, nên ta chỉ dựa vào bụi đất bốc lên mà đoán được số quân, biết được toàn bộ đều là bộ binh, đội ngũ không nghiêm, nên có thể khẳng định đây không phải là đạo quân chính quy đã được huấn luyện đầy đủ”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Kiều tiểu thư chỉ dựa vào bụi đất bốc lên mà đã nhìn ra nhiều thứ như vậy sao?Quả đúng là cao thủ trong việc quan sát và dò la quân tình của địch!”. 

Linh Lung Kiều được Khấu Trọng tán thưởng, vui vẻ lườm gã một cái rồi nói: “Ngươi muốn học thì ta sẽ dạy. Bụi đất bốc cao, chính là kỵ binh. Còn bộ binh thì bụi đất thấp mà cuộn lên liên tục. Đám tân binh của Đơn Hùng Tín làm bụi đất cuộn lên tán loạn không đều, nhất định là vì chưa huấn luyện đủ mà đội hình không nghiêm chỉnh. Nếu là quân tinh nhuệ, bụi đất sẽ bốc lên từng đợt một, thanh mà không loạn, quân dừng thì bụi đất cũng không bốc lên nữa”. 

Khấu Trọng và Từ Tử lăng nghe mà chỉ biết gật đầu thán phục, giờ mới biết dò la tình hình địch nhân cũng là một thứ học vấn. 

Lúc này có thân binh đến báo đã nhận được tin tức từ tiền tuyến truyền về. 

Dương Công Khanh mở thư ra xem lướt một lượt rồi đưa cho Linh Lung Kiều: “Quân đội đóng ngoài thành của Lý Mật đã lần lượt chia làm hai đường tiến về Yển Sư, nhưng chủ lực trong thành thì vẫn không thấy động tĩnh gì, xem ra hắn định dụ cho bọn ta xuất kích đây. Nếu lương thực của chúng ta thật sự bị đốt hết lương thảo, vậy thì cũng chỉ có con đường  quyết chiến trước khi lương thực cạn kiệt mà thôi”. 

Vương Huyền Nộ gật đầu nói: “Khi ấy hắn có thể dùng chủ lực đột kích, giết cho chúng ta trở tay không kịp”. 

Dương Công Khanh thấy Khấu Trọng và Từ Tử Lăng vẫn chau mày như đang suy nghĩ gì đó, thì ngạc nhiên hỏi: “Lý Mật đã trúng kế, tại sao hai người vẫn còn lo lắng như vậy?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Ta luôn cảm thấy có điều gì đó rất không thoả đáng ở đây. Lý Mật đã có một tên gian tế cao cấp như Khả Phong, làm gì mà không biết cao thủ do thám như Kiều cô nương đang ngày đêm giám sát tình hình hành quân của hắn chứ?Nếu đã như vậy, hắn còn dùng kế này làm gì?”. 

Khấu Trọng cũng gật đầu đồng tình, rồi hỏi: “Kiều tiểu thư có thấy các khu có quân lính đóng trong thành được canh phòng nghiêm mật một cách bất bình thường hay không?”. 

Linh Lung Kiều khẽ giật mình, lộ ra thần sắc suy tư, gật đầu nói: “Đúng là như vậy, những kẻ đi tuần đều không phải binh lính tầm thường, mà là cao thủ dưới trướng của Lý Mật, thế nên ta mới đứng ở xa quan sát mà không đến tận nơi”. 

“Bốp!”. 

Khấu Trọng vỗ mạnh một chưởng lên  bàn, thở dài than: “Lý Mật! Ngươi thật gian xảo! Nếu ta đoán không lầm, nhất định hắn đã lợi dụng địa đạo để đưa quân chủ lực ra ngoài thành đóng ở một doanh trại bí mật nào đó. Khi bọn ta tưởng rằng quân chủ lực vẫn chưa rời thành, vọng động tấn công đám tân binh của Đơn Hùng Tín, hắn sẽ diễn lại kế năm xưa đã đánh bại Trương Tu Đà, trá bại dụ quân ta rời xa Yển Sư, rồi dùng phục binh đánh úp, lúc ấy toàn quân không tan nát mới là lạ đó”. 

Dương Công Khanh biến sắc: “Vậy không phải chúng ta đã mất tiên cơ rồi sao?”. 

Khấu Trọng nói: “Điều này thì chưa chắc, việc bốn vạn người bí mật xuất thành, chỉ có thể làm được trong đêm tối, hơn nữa không thể một hai đêm mà làm xong được. Chỉ cần xem đạo quân của Đơn Hùng Tín lúc nào tới đây, thì biết bọn chúng cần bao nhiêu thời gian để chuyển quân, bởi vì đám tân binh đó thế nào cũng phải đợi quân chủ lực chuẩn bị thoả đáng, mới dám đến trước thành chúng ta mà khiêu chiến”. 

Vương Huyền Nộ lo âu: “Nếu bọn ta không biết quân chủ lực của Lý Mật đã đi đâu, vậy thì chỉ còn cách cố thủ trong thành, đại kế đã định không còn dùng được nữa rồi”. 

Khấu Trọng còn chưa kịp đáp lời tì đã có thủ hạ đến báo rằng Tuyên Vĩnh cầu kiến. 

Tuyên Vĩnh chào hỏi qua loa bọn Dương Công Khanh rồi nghiêm mặt nói: “Lý Mật quả không hổ là danh tướng đương đại, không ngờ có thể dự đoán trước tình thế, đào sẵn ba đường địa đạo ra ngoài thành, chuyển quân chủi lực đến Bắc Mang Sơn, nếu không phải tiểu đệ đây hoài nghi từ trước thì cũng khó mà nhìn thấu được thủ đoạn của hắn”. 

Dương Công Khanh khẩn trương hỏi: “Có biết hắn trú quân ở đâu không?”. 

Tuyên Vĩnh chán nản nói: “Trầm Lạc Nhạn dùng quái điểu của ả bay trên trời giám thị nên tại hạ không dám vọng động, thêm vào đó, các chỗ hiểm yếu trên Bắc Mang Sơn đều có đặt trạm canh, muốn vào cũng vô cùng khó khăn. Theo dự đoán, với tốc độ hiện nay thì sớm nhất cũng phải thêm một đêm nữa Lý Mật mới chuyển hết toàn bộ quân chủ lực đến Bắc Mang Sơn được”. 

Chúng nhân châu đầu vào tấm địa đồ chiến lược trên bàn, chỉ thấy Mang Sơn nằm ở phía trên bên trái của Kim Dung thành, kéo thẳng đến Đông Bắc Yển Sư, dài hơn trăm dặm. Nếu không thể nắm được hành tung của bốn vạn người này, sau khi khai chiến chúng có thể trở thành đạo kỳ binh xuất ở phía Bắc, có thể bất thần xuất hiện bất cứ lúc nào, khi ấy thì hậu quả khó mà lường trước được. 

Tuyên Vĩnh nói: “Hiện giờ người của chúng tôi đều không dám khinh cử vọng động, hơn nữa đối phương cao thủ như mây, chỉ cần lộ ra hình tích, muốn đào tẩu e rằng còn khó hơn lên trời nữa”. 

Khấu Trọng chặt tay xuống, gằn giọng nói: “Chuyện này cứ để ta lo, ta có thể vào Mang Sơn từ phía bên kia, không cần vòng đường núi, chỉ cần bọn chúng đốt lửa nấu cơm, hoắc chặt cây mở đường, là sẽ để lộ dấu vết ngay”. 

Từ Tử Lăng nói: “Chúng ta phải suy tính thật kỹ trước đã, lần này Lý Mật bí mật hành quân, chắc chắn đã tính toán chu đáo, không dễ để chúng ta phát hiện như vậy đâu”. 

Dương Công Khanh gật đầu đồng ý: “Địa đạo có thể dự kiến đào trước, những thứ khác tất nhiên cũng có thể an bài ổn thoả từ lâu, Mang Sơn rộng đến mấy trăm dặm, muốn tìm một đạo quân cố ý ẩn giấu hành tung đâu có dễ như chúng ta nói ở đây.[font=.vntime] Đại chiến đã gần kề trước mắt, chi bằng chúng ta quyết định xem nên xuất thành ứng chiến hay tử thủ trước đã?”. 

Khấu Trọng quả quyết lắc đầu: “Chún ta vẫn theo kế cũ mà hành sự, trừ phi không tìm được chủ lực của Lý Mật thì mới đổi sang có thủ trong thành. Ít nhất chúng ta cũng còn một ngày một đêm để tận lực”. 

Dương Công Khanh im lặng hồi lâu rồi quay sang hỏi Tuyên Vĩnh: “Tình hình bên phía quân Ngoã Cương thế nào?”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Ở lại giữ Kim Dung thành là quân của Vương Bá Đương, một đại tướng khác của Lý Mật là Bình Nguyên Chân trấn thủ Lạc Khẩu, binh lực cả hai thành đều dưới vạn người. Đại tướng thống lĩnh tân binh đến tấn công Yển Sư là Đơn Hùng Tín, người này vì tranh giành một kỳ nữ nên có hiềm khích rất sâu với Vương Bá Đương, nhưng cũng là một tướng tài”. 

Khấu Trọng nói: “Bình Nguyên Chân thì sao?”. 

Tuyên Vĩnh tỏ vẻ coi thường: “Kẻ này binh pháp cũng không tồi, rất giỏi thủ thành, nhưng quá thiếu đảm sắc nên không thể là nhân tuyển để dẫn binh xung phong nơi trận tiền”. Kế đó lại hừ lạnh nói: “Đơn Hùng Tín, Bình Nguyên Chân đều là cựu tướng của quân Ngoã Cương, trước nay đều không hoà mục với những kẻ mới đến được Lý Mật sủng tín như Bùi Cơ Nhân, Từ Thế Tích, Trầm Lạc Nhạn, Vương Bá Đương lắm, bởi thế chỉ cần đột phá quân của Lý Mật, đảm bảo quân Ngoã Cương sẽ chia năm sẻ bảy, mỗi người tự lo cho mình. Vấn đề làm sao mới đại phá được kỳ binh của Lý Mật ẩn nấp trong Bắc Mang Sơn rộng lớn dó bây giờ?”. 

Dương Công Khanh thở dài: “Vậy thì đành phải ngồi đây đợi tin tức tốt lành thôi”. 

o0o 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Linh Lung Kiều, Tuyên Vĩnh đứng trên một đỉnh núi trong dãy Bắc Mang Sơn, dõi mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy núi non trùng điệp  kéo dài xa tít tắp, cảnh sắc biến ảo vô định, cực kỳ u tĩnh. 

Trong thâm cốc phía xa xa, cây cối càng rậm rạp, mọc đầy trên dốc núi. Những chỗ hiểm yếu, tùng, bách, du tươi tốt cắm rễ trên vách đá dựng ngược. 

Bắc Mang Sơn đúng là sơn phong thuỷ tú, chẳng trách mà Lão Quân Quan lại chọn nơi đây làm căn cứ địa, nhưng nếu như muốn tìm một đạo quân bốn vạn người giữa một dãy núi bao la thế này, quả thật đúng như Dương Công Khanh đã nói, chỉ có thể dựa vào vận khí. 

Khấu Trọng hỏi: “Lão Quân Quan ở hướng nào?”. 

Linh Lung Kiều chỉ về phía Kim Dung thành: “Chính là ở Đông Bắc Kim Dung thành, cách Yển Sư chừng nửa ngày đi ngựa, nhưng đương nhiên là không tính đoạn đường núi”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Bất luận thế nào, để kịp phối hợp với đạo quân của Đơn Hùng Tín, Lý Mật phải trọn một nơi nào đó không cách Yển Sư quá xa mà mai phục. Bốn vạn người cũng không phải là ít, chỉ cần tìm kiếm khu vực phía Mang Sơn phía Bắc Yển Sư thành, chắc chắn sẽ có dấu vết. Thời gian không nhiều, phải nhân lúc còn sương mù che chắn, chúng ta đi thôi!”. 

o0o 

Mưa càng lúc càng dày, đi giữa chốn thâm sơn cùng cốc này, dường như đi vào một thế giới hoàn toàn khác, muốn phân biệt đường đi đã không phải chuyện dễ, nói gì đến chuyện tìm kiếm tung tích địch nhân chứ. Trong tình trạng như vậy, ngay cả Linh Lung Kiều cũng không thể thi triển bản lĩnh. 

Trời tối, công việc tìm kiếm càng khó khăn hơn. 

Tuyên Vĩnh đề nghị: “Chi bằng chúng ta đi gặp đại tiểu thư trước, nhân thủ nhiều hơn, cơ hội thành công cũng sẽ lớn hơn”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Nếu để địch nhân phát hiện chúng ta, kế dùng kỳ binh khắc chế kỳ binh sẽ tan thành bọt nước”. 

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Chi bằng chúng ta đến Lão Quân Quan thử vận khí. Để nhanh chóng hành quân trong núi, Lý Mật chắc phải vận chuyển chiến mã lương thảo đến  một nơi nào đó trong núi để chờ sẵn. Nếu vậy thì không còn nơi nào phù hợp hơn Lão Quân Quan nữa, yêu đạo ở đó có cấu kết với Lý Mật mà”. 

Khấu Trọng chau mày: “Suy luận của ngươi cũng rất hợp tình hợp lý, nhưng Lão Quân Quan ở tít trên Thuý Vân Phong, lên xuống thật không tiện lợi lắm đâu!”. 

Tuyên Vĩnh giật mình thốt: “Khấu gia không biết rồi, bên dưới Thuý Vân Phong có Thuý Vân Cốc, trong cốc hơn mười toà tịnh xá cho các thiện nam tín nữ đến tham bái tạm thời nghỉ ngơi, còn có cây rừng che kín, nếu lập quân doanh ở đó, đích thực là vô cùng bí mật”. 

Khấu Trọng vừa kinh ngạc vừa mừng rõ hỏi: “Từ Thuý Vân Cốc đến Yển Sư mất bao nhiêu thời gian?”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Chỗ đó không có sơn đạo, ít nhất phải mất hơn một canh giờ mới ra khỏi núi được. Kế đó mấy chục dặm đều là bình nguyên bằng phẳng, nếu toàn là kỵ binh, khoái mã tốc hành thì không cần hai canh giờ là đến nơi”. 

Khấu Trọng vỗ tay reo lên: “Lần này được cứu rồi, Lý Mật và Trầm Lạc Nhạn à!Những gì mà các ngươi nợ ta, lần này tính hết một lượt đi!” 

o0o 

Lão Quân Quan toạ lạc trên đỉnh Thuý Vân Phong sừng sững, cây cối rậm rạp, xung quanh là núi cao, một bên là vực sâu, có thể nhìn thấy khe núi dốc sâu hơn trăm trượng từ trên đỉnh núi. Nếu lên đến đỉnh, có thể nhìn thấy Hoàng Hà ở phía Bắc, Lạc Thuỷ ở phía Nam. Dưới làn sương mù mờ ảo, Lão Quân Quan càng giống như một thần tiên động phủ cao vời trên thượng giới, ai có thể ngờ được người trụ trì ở đó lại là một nhân vật tuyệt đỉnh trong tà phái đâu chứ. 

Thuý Vân Cốc nằm bên dưới Thuý Vân Phong, địa thế rộng rãi bằng phẳng, hơn mười toà tịnh xá tường đỏ ngói đen dựng bên bìa rừng phía Bắc sơn cốc, tiểu lộ giao nhau, dã hoa um tùm, khung cảnh như thơ như họa, đích thực là một đào nguyên thắng địa nơi trần thế, khiến người ta càng khó có thể tưởng tượng đến yêu đạo và những binh sĩ đang cầm sẵn đao thương, đợi chờ ác chiến. 

Cốc khẩu phía Nam có một rừng tùng lớn, trong thời tiết này, từ trên cao nhìn xuống, cho dù có quân doanh bên dưới cũng khó mà phát hiện ra được. Nối liền với cốc khẩu là con đường dẫn xuống núi, đi xuyên qua hiệp cốc, ngoằn ngòeo khúc khuỷu, có điều do thế núi ngăn cản nên không thể nhìn thấy vùng đất bằng phẳng phía Nam. 

Lòng tin của Khấu Trọng bắt đầu dao động: “Nếu đúng là đại quân của Lý Mật ẩn mình trong cốc, tại sao không nghe thấy tiếng ngựa hí gì hết vậy?”. 

Lúc này Linh Lung Kiều mừng rỡ chạy lại, hưng phấn nói: “Quả như chúng ta dự đoán, trong rừng có rất nhiều doanh trại của quân Ngoã Cương, nhưng không thấy chiến mã gì hết, xem ra đã giấu ở một nơi khác rồi”. 

Chúng nhân đều cả mừng. 

Khấu Trọng nói: “Ta và Tiểu Lăng ở lại đây tiếp tục giám thị, các ngươi chia nhau về báo cho đại tiểu thư và đại tướng quân, tất cả đều y kế hành sự”. 

Sau đó lại thương lượng thêm một lúc, nói rõ phương thức liên lạc và hội hợp, Tuyên Vĩnh và Linh Lung Kiều mới hân hoan bỏ đi. 

Quá buổi hoàng hôn, mưa tạnh trời sáng, tình hình trong sơn cốc trở nên rõ ràng hơn, từ chỗ bọn gã nhìn xuống, có thể thấy quân doanh ẩn hiện trong rừng, thi thoảng còn nhìn thấy quân sĩ đi lại giữa các tán cây nữa. 

Khấu Trọng nằm phục trong bụi cỏ, ngưng thần quan sát, hồi lâu sau mới nói: “Tiểu Lăng! Ta cứ cảm thấy có gì đó không ổn lắm!”. 

Từ Tử Lăng nằm bên cạnh gật đầu: “Có phải vì không thấy Trầm Lạc Nhạn và con súc sinh kia không? Hay là vì trong doanh trại không có con ngựa nào?”. 

Khấu Trọng không đáp mà hỏi ngược lại: “Chúng ta bị Trầm Lạc Nhạn hại không biết bao nhiêu lần, mà lần nào cũng trúng phải gian kế của ả, với sự thông minh của bọn ta mà vẫn bất lực như vậy, ngươi nói xem ả ta lợi hại ở chỗ nào?” 

Từ Tử Lăng tịnh tâm nghĩ lại, đồng ý nói: “Ngươi không hề khoa trương, nếu luận âm mưu thủ đoạn, cười nói dùng kế, chúng ta hình như luôn kém Trầm Lạc Nhạn một bậc, từ khi Trác Nhượng bị giết đến lúc Vương Thế Sung bị hành thích, không có lần nào là chúng ta thắng được ả cả”. 

Khấu Trọng nhăn mặt nói: “Còn nhớ lần đầu chúng ta gặp ả đã định ra hẹn ước bắt sống ba lần không? Ả đã bố trí cạm bẫy của Dã Tẩu Mạc Thành, để cho bọn ta tự động ngồi lên thuyền giặc, rồi lại cố ý làm lật thuyền trong đám loạn thạch, lợi dụng lòng tốt của bọn ta mà chế phục. Mỗi một chiêu đều tỏ rõ ả rất giỏi phóng đoán tâm lý đối phương. Nếu đã là vậy, thế nào ả cũng đoán được bọn ta sẽ đến Lão Quân Quan dò la đúng không? Vậy ả đâu ngu gì mà đem đại quân ẩn giấu ở chỗ này chứ?”. 

Từ Tử Lăng bò lên, cúi xuống quan sát, giật mình nói: “Ngươi nói đúng lắm, quân doanh bên dưới nhất định là kế trung chi kế của Trầm Lạc Nhạn, mười doanh thì chắc có chín là không có ai, chỉ cần mấy nghìn tên làm trá binh, là có thể khiến chúng ta hiểu lầm đây là kỳ binh của Lý Mật rồi. Còn kỳ binh chân chính thì đã ở chỗ khác. Lần này hỏng bét rồi, sau khi trời tối bọn ta làm sao tìm kiếm đây?”. 

Khấu Trọng nói: “Chúng ta đành tận lực mà làm thôi. Phục binh chân chính chắc cũng không ở quá xa Yển Sư đâu, vì vậy cứ thử tìm những nơi có hoàn cảnh tương tự như vậy ở vùng phụ cận xem. Nào! Thử xuống dưới kiểm tra cho kỹ, sau khi khẳng định không nghi oan cho Trầm bà nương, chúng ta mới quyết định xem bước sau sẽ thế nào”. 

Hai gã chán nản ngồi phịch xuống đất. 

Trên trời mây mù che mờ ánh trăng, xa xa ẩn hiện thấy ánh sáng thấp thoáng, chỗ đó chính là Yển Sư thành ở phía Bắc sông Lạc Thủy. Hơn hai canh giờ mò mẫm tìm kiếm trong núi từ Kim Dung thành kiếm đến tận đây, vậy mà vẫn không có chút dấu tích, làm hai gã gân cốt rã rời, chân nguyên hao tổn. 

Khấu Trọng tức giận chửi đổng: “Tất cả đều do trận mưa đó hại chúng ta, chẳng những xóa đi hết dấu vết trên mặt đất, cả mùi cũng không còn gì nữa”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Chỉ là một trận mưa bụi, thế nào cũng phải có dấu vết lưu lại”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Đương nhiên là có dấu vết, nhưng chỉ là dẫn đến Lão Quân Quan mà thôi. Hà!”. 

Từ Tử Lăng nói: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Không phải Tuyên Vĩnh đã nói quân chủ lực của Lý Mật ít nhất cũng phải cần thêm một đêm nữa mới chuyển hết đến Bắc Mang Sơn hay sao? Vậy tại sao vừa rồi ở Kim Dung thành lại không có chút động tĩnh?”. 

Hai gã cùng lúc giật mình, hiểu ra sự việc. 

Khấu Trọng thở dài: “Giỏi cho Trầm bà nương! Quả nhiên lợi hại, đây nhất định là kế dụ long hoán phụng, đổi tân binh thành tinh binh, bốn vạn tinh binh kia nhất địnhđã mượn sự yểm hộ của tân binh, tiềm phục ở một nơi nào đó để chờ thời cơ đến là xuất hiện đột kích, kế này thực lợi hại, suýt chút nữa là chúng ta mắc lừa ả rồi”. 

Từ Tử Lăng khổ não nói: “Hiện giờ chỉ còn gần hai canh giờ nữa là trời sáng, chúng ta biết đi đâu tìm phục binh đây?”. 

Khấu Trọng nói: “Tinh binh của Lý Mật đã rời Kim Dung thành từ hôm kia, ngày nghỉ đêm đi, nói không chừng hiện giờ vẫn còn đang hành quân. Cả một đạo quân bốn vạn kỵ binh, nếu muốn tránh tai mắt người khác, chỉ có cách đi vào trong Mang Sơn mà thôi, nhưng dù phải đi đường vòng như thế, bọn chúng cũng đến được nơi cần đến hoặc sắp đến nơi rồi. Chúng ta phải nhanh lên!”. 

Từ Tử Lăng chợt lên tiếng ngăn gã lại: “Đừng nóng vội, lần này nếu chúng ta lại đoán sai nữa, thì sẽ mất đi cơ hội ngàn năm có một để đại phá Lý Mật đó. Dựa theo tình thế hiện nay, bất luận là tân binh của Đơn Hùng Tín hay kỵ binh của Lý Mật, đều chỉ có thể áp dụng một chiến lược duy nhất, đó là dàn quân bố trận dựa lưng vào Bắc Mang Sơn, như vậy có thể tránh được mối lo phía sau. Vì thế bọn ta có thể giả định Đơn Hùng Tín sẽ đặt quân doanh ở phía Bắc Yển Sư, dựa vào Mang Sơn để dụ quân trong thành xuất chiến, còn Lý Mật sẽ giấu chủ lực ở một rặng núi nào gần đó, để tiện cho khinh kỵ xuất kích. Nếu đúng là như vậy, chỗ Lý Mật giấu quân, chắc không xa đây lắm đâu”. 

Khấu Trọng áp tai xuống đất, hồi lâu sau mới ngồi dậy cười khổ nói: “Trầm bà nương nhất định đã phân phó thủ hạ dùng bao bố bọc kín vó ngựa, tiểu đệ đây chẳng nghe thấy gì cả”. 

Từ Tử Lăng bật dậy nói: “Vậy thì dùng chân mà đi, dùng mắt mà nhìn!”. 

  

oOo 

  

Hai gã nấp vào bụi cỏ rậm rạp, con quái điểu của Trầm Lạc Nhạn lượn tròn trên đầu hai vòng rồi bay đi mất. 

Hai gã xuyên qua đám cây bụi, nhìn xuống khu rừng bên dưới dốc núi, chỉ thấy doanh trại kề nhau san sát, có hàng có lối, lại chỉ cách thảo nguyên bên ngoài Yển Sư thành có một quả núi nhỏ, nếu kỵ binh vượt qua núi, chỉ cần một canh giờ là có thể đến sát chân thành Yển Sư rồi, quả là vô cùng tiện lợi, nhưng cũng bí mật phi thường. 

Nơi này cách Thúy Vân Cốc năm chục dặm đường, nằm ở phía Đông Bắc Yển Sư, bên ngoài có thảo nguyên và rừng thưa. Giả như Đơn Hùng Tín đóng quân ở phía chính Bắc Yển Sư, dựa lưng vào Mang Sơn, địa điểm này vừa hay tạo thành thế ỷ dốc, rất đúng với yếu chỉ trong binh pháp. 

Khấu Trọng ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Bây giờ chúng ta chia nhau hành động, ngươi lập tức trở về Yển Sư, bảo Dương Công Khanh bất luận thế nào cũng phải nhanh chóng xuất binh, nhân lúc trận cước Lý Mật còn chưa ổn định, người mệt ngựa mỏi mà tấn công mãnh liệt. Còn ta sẽ đi kềm Trác Kiều, khi Lý Mật bị bức đến tay hoảng chân loạn ra ứng chiến, chúng ta sẽ luồn ra phía sau phóng hỏa đốt trại, khiến bọn chúng trước sau đều thọ địch, rồi bắt cóc Trầm bà nương về làm vợ ngươi một đêm trả nợ cũ thù mới! Hà hà…”. 

Từ Tử Lăng bực mình nói: “Nhớ kỹ tín hiệu khói đấy, tuyệt đối không được làm lỡ việc quân, càng không được để con quái điểu của Trầm Lạc Nhạn phát hiện. Kìa, lại đến đó!”. 

Quái điểu đã vòng ngược trở lại, lần này thì bay thẳng đến chỗ bọn gã ẩn thân, dường như đã phát hiện gì đó. 

Từ Tử Lăng vận tụ công lực, tập trung tinh thần chờ đợi. 

Không ngờ quái điểu chỉ đảo một vòng, rồi lao vút lên cao, kêu một tiếng sau đó bay đi. 

Khấu Trọng nói: “May mà con súc sinh tạp mao này không biết nói tiếng người, không thì hỏng bét rồi. Còn không mau chạy!”. 

  

oOo 

  

“Bình!”. 

Dương Công Khanh vỗ mạnh lên bàn, đứng phắt dậy, cười lớn: “Lý Mật quả là đại tông sư trong việc dùng kỳ binh đột kích, có điều lần này hắn đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma. Dùng kỳ binh gặp phải đại họa, ta phải khiến hắn đến được mà đi không xong!”.

Chúng tướng liền ào ào đứng dậy, thần tình phấn chấn, sĩ khí cao vời. 

Vương Huyền Nộ, càng hưng phấn hơn, hai mắt sáng ngời, gương mặt tuấn tú rạng rỡ như phát quang. 

Từ Tử Lăng tuy đạm bạc vô vi, song cũng bị không khí trong quân doanh ảnh hưởng, cảm thấy máu nong chạy rần rần trong cơ thể. Nghĩ đến Lý Mật âm hiểm tàn nhẫn giết người như ngóe, lại nghĩ đến những tỳ bộc và trẻ nhỏ vô tội trong Trác phủ, Nhậm Ân và các huynh đệ Thanh Xà Bang, gã chị hận không thể lập tức cắt cái đầu của hắn xuống để bái tế linh hồn họ chốn cửu tuyền. 

Dương Công Khanh phấn chấn nói: “Toàn quân đã sẵn sàng!”. Kế đó cao giọng nói với hơn hai mươi tướng lĩnh đứng hai bên: “Chúng ta xuất thành từ của Đông, dọc theo Lạc Hà, sau khi vượt qua rừng, sẽ chuyển hướng Bắc, thẳng tiến đến nơi kỳ binh của Lý Mật mai phục. 

Các tướng liền dạ ran, lĩnh mệnh đi trước. 

Dương Công Khanh quay sang nói với Từ Tử Lăng: “Ta biết Từ huynh đệ xưa nay không thích cầm đao cầm thương, có điều chiến trường không phải giang hồ, ta có lợi khí dù sao cũng tiện hơn một chút, không biết Từ huynh đệ dùng thứ binh khí gì vậy?’. 

Từ Tử Lăng nhún vai: “Vậy phiền tướng quân lấy cho tại hạ một cây trường thương cũng được!”. 

  

oOo 

  

Ba người Khấu Trọng, Trác Kiều, Đồ Thúc Phương phục sau một tảng đá lớn, quan sát động tĩnh trong quân doanh của Lý Mật qua những tán cây. 

Trong bóng tối mờ mờ làm người ta cảm thấy mệt mỏi và lười nhác của buổi trước bình minh, Khấu Trọng vẫn cảm thấy lửa cừu hận đang rực cháy trong ánh mắt Trác Kiều, thầm hạ quyết định lát nữa khi tập kích doanh trại, phải không được rời khỏi nàng ta nửa bước, bằng không nếu để ả đại tiểu thư tính tình nóng nảy, mặt mũi xấu xí này có gì bất trắc, gã không biết phải ăn nói thế nào với Tố Tố nữa. 

Thanh âm của Trác Kiều rít qua những kẽ răng: “Lý Mật ngươi cuối cùng cũng có ngày hôm nay, sắp đặt doanh trại cần nhất là có thể tự cố thủ, hiện giờ quân danh đặt trong rừng, bên dưới dốc núi, không có địa thế hiểm yếu, bất luận là đột kích hay đốt trại, đều có thể khiến ngươi chạy dài!”. 

Khấu Trọng chợt có một cảm giác rất kỳ dị. 

Sau thảm kịch nhà tan cửa nát, tuy rằng tính tình của Trác Kiều không thay đổi, nhưng kiến thức và thái độ nhìn sự việc đã có những khác biệt, không còn là ả thiên kim tiểu thư được nuông chiều khi xưa nữa. 

Đồ Thúc Phương nói: “Lý Mật không hề sai lầm, bởi vì mục đích của lần này là dùng kỳ binh khắc địch, dựa lưng vào núi non hiểm trở, tiến về bình địa, nên hắn phải chọn nơi vừa dễ phòng thủ vừa dễ tấn công, giả như quân Yển Sư có đến, thì có thể bố trận trên dốc núi đánh thẳng xuống, chiếm được địa lợi. Chỉ là hắn không tính đến đội quân tập kích từ phía sau như bọn ta đây mà thôi”. 

Tuyên Vĩnh lúc này đã đi trinh sát trở về, lên tiếng báo cáo: “Địch nhân vừa ăn lương khô, người ngựa đều tranh thủ nghỉ ngơi, cả binh sĩ canh phòng cũng đều gật gù lơ mơ, muốn đốt trại thì đây là thời khắc tốt nhất. Đến trời sáng, binh sĩ sẽ đào hào bố phòng bốn phía, muốn hành sự e rằng khó hơn gấp bội”. 

Trác Kiều sốt ruột nói: “Tiểu Trọng ngươi làm trò gì vậy, sao đến giờ vẫn chưa thấy kỵ binh của Yển Sư?”. 

Khấu Trọng cười xòa: “Yên tâm đi! Tiểu Lăng làm việc mà tiểu thư không yên tâm sao?”. 

Đúng lúc này, trên trời vang lên tiếng chim đập cánh rối rít. 

Con quái điểu thông linh của Trầm Lạc Nhạn từ phía Nam bay tới đảo lộn mấy vòng trên quân doanh, dáng vẻ như rất khẩn cấp, toàn trại bắt đầu rối loạn. 

Khấu Trọng thở phào: “Đến rồi! Chuẩn bị xuất kích!”. 

  

oOo 

  

Khi hai vạn kỵ binh tinh nhuệ của Yển Sư ào ạt xuất thành, dọc theo bờ Lạc Thủy đi về phía Đông ba dặm, rồi chuyển hướng Bắc tiến thẳng đến trại quân chủ lực của Lý Mật, thì đạo tân binh của Đơn Hùng Tín mới bắt đầu dựng trại ở Mang Sơn, bận rộn không kịp ngưng tay. 

Thắng và bại, đúng là chỉ cách nhau một bước. 

Nếu để Lý Mật có thêm một ngày thời gian, binh tướng nghỉ ngơi đầy đủ, trận cước ổn định, cục diện nhất định sẽ hoàn toàn khác. 

Quân Yển Sư của Dương Công Khanh chia làm ba đường, do Vương Huyền Nộ và một tướng lĩnh khác suất lãnh một đội năm nghìn người làm tiên phong, từ hai bên phía tả hữu tấn công vào trận địch, còn Dương Công Khanh, Từ Tử Lăng và Linh Lung Kiều thì chia trung quân làm tiền, trung, hậu, chính diện xông thẳng đến nơi Lý Mật giấu quân. 

Ánh bình minh vừa hé rạng, lũ chim kinh hãi bay lên. 

Sương mù vẫn còn dày đặc, trời đất mù mịt. 

Hai đạo quân tiên phong đến nơi trước, bên ngoài khu rừng là một thảo nguyên dài hai dặm, rộng tới mười dặm hơn. 

Vương Huyền Nộ y kế thi hành, ẩn phục chờ trung quân đến nơi. 

Kỳ hiệu và kỵ đội của địch nhân tạp loạn ẩn hiện phía xa xa, rõ ràng là bị bất ngời nên tay hoảng chân loạn, nhất thời chưa biết ứng phó thế nào. 

Trung quân lúc này đã đến nơi, chia thành ba tổ, xếp hàng trên bình nguyên, đội hình chỉnh thế nghiêm mặt, tựa như một vật thể sống vậy. Khi thấy đối phương hoảng loạn bố trận, ai nấy đều chiến ý dâng trào, chân dợm bước như muốn xông lên. 

Khi tiễn thủ và thuẫn bài thủ của quân Ngõa Cương còn chưa bố trận xong thì Dương Công Khanh đã tới, thấy vậy liền cười dài nói: “Phản tặc Ngõa Cương, lần này Dương mỗ mà không cho các ngươi bại không dư địa thì về sau cái tên Dương Công Khanh này sẽ viết ngược lại”. 

Từ Tử Lăng cũng gật đầu tán thưởng. 

Tinh thần quân Yển Sư đã lên cao ngất trời nếu còn dây dưa thêm nữa, sẽ chỉ làm sĩ khí tiêu tan mà thôi, vì vậy cần phải nhân lúc đối phương còn chưa kịp bày binh bố trận, xua quân tấn công thật mạnh, đây chính là chỉ yếu của binh pháp. 

Vạn quân cùng lên, tiếng hò hét rung động cả một góc trời, ba tổ mỗi tổ hai ngàn quân ào ạt xông lên một cách có tổ chức. 

Những kỵ sĩ đi hàng đầu đều một tay cầm thuẫn, một tay xách trường thương để ngăn đỡ cung tên của quân địch, những người phía sau thì giương cung đáp tiễn, chuẩn bị rải mưa tên xuống đầu địch nhân, yểm hộ những người phía trước xông phá trận địch. 

Dương Công Khanh, Từ Tử Lăng và bống ngàn quân theo sát phía sau, từ từ tiến đến, tiếp viện cho kỵ binh tinh nhuệ phía trước. Mười sáu chiếc trống lớn ầm ầm như trời rung đất chuyển, càng tăng thêm uy thế của quân Vương Thế Sung. 

Từ Tử Lăng thầm lưu ý thấy Dương Công Khanh không ngừng phát ra mệnh lệnh, còn tên thân binh cầm cờ bên cạnh y thì không ngừng phất ra những kỳ hiệu khác nhau, hai đội kỵ binh bên cánh cũng dùng kỳ hiệu tương ứng, giờ mới biết chiến trường biến hóa khôn cùng, không phải đơn giản như nói tả là tả, nói hữu là hữ, trống đánh thì lên, chiên kêu thì rút. 

Phía trước tiếng hò hét rầm trời, tên bắn như mưa, trận quyết chiến mong chờ từ lâu cuối cùng cũng đã diễn ra. 

Hàng vạn con ngựa của cả hai bên cùng lúc hí vang, hai cánh quân đã phục sẵn ở hai bên ào ào xông vào trận địch từ hai phía Đông, Tây. Đại chiến đã diễn ra một cách toàn diện. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng, Trác Kiều, Tuyên Vĩnh, Đồ Thúc Phương và hơn hai trăm thuộc hạ trung thành với đại long đầu Trác Nhượng thúc ngựa phi trong khu rừng phía sau doanh trại của quân Ngõa Cương, nín thở nhìn địch nhân hoảng loạn, luống cuộng lên ngựa hoặc tán loạn chạy lên dốc núi, người kêu ngựa hý, loạn như ngày tận thế sắp giáng lâm vậy. 

Chúng nhân một tay cầm cung, một tay cầm tên tẩm dầu, đợi chờ thời cơ để ra tay tập kích. 

Tuyên Vĩnh thấp giọng nói: “Hơn ba mươi doanh trại bên bờ suối bên này đều là lương thảo, chúng ta đốt trước rồi mới thu thập bọn chúng sau”. 

Trác Kiều trầm giọng: “Lý Mật là của ta, ta phải đích thân cắt cái đầu chó của hắn xuống”. 

Khâu Trọng thầm than đáng tiếc, nếu như Vương Bá Đương cũng tùy hành, cái đầu của y sẽ là của gã. Nếu không phải vì Vương Bá Đương, Tố Tố rất có khả năng sẽ không tùy tiện gả cho tên Hương Ngọc Sơn đáng chết đó. 

Lúc này bên kia đã vang lên tiếng hò hét, tiếng binh khí chạm nhau rầm trời, Trác Kiều huy động cây đại quan đao rất hợp với dáng người của nàng ta, gầm lên phát lệnh: “Các huynh đệ, thời khắc báo cừu cho đại long đầu đến rồi!”. 

Lời vừa dứt đã thúc ngựa lao lên phía trước. 

Hơn hai trăm người còn lại cùng lúc hét vang, đốt hỏa tiễn rồi buông cung. 

Hơn hai trăm mũi hảo tiễn vẽ nên một đường cong tuyệt đẹp trên không trung, vượt qua khoảng không hơn mười trượng, rải xuống các doanh trại của quân Ngõa Cương. 

Các doanh trại lần lượt bốc lửa, những mũi tên bắn trật cũng rơi vào các bụi cỏ xung quanh, làm thế lửa càng thêm hung dữ. 

Thứ dầu lửa này cháy rất mạnh, càng gặp ướt thì càng dữ dội, không hề bị ảnh hưởng của thời tiết mùa xuân. 

Đến lúc bọn Trác Kiều xông vào doanh trại địch thì đã có ba bốn đợt hỏa tiễn được bắn ra, quá nửa số quân doanh đã bị bắt lửa, khói bay mù mịt khắp trời. 

Địch nhân đâu ngờ lại có kỳ binh đột kích từ phía sau, thêm vào bọn Trác Kiều và Khấu Trọng phối hợp với đại quân của Dương Công Khanh hết sức nhịp nhàng, nên trong lúc hoảng loạn, đám quân sĩ lưu lại giữ trại căn bản không nhận ra đối phương chỉ có hơn hai trăm người, toàn quân rối loạn như tổ kiếm vỡ. 

Đại quan đao của Trác Kiều gặp binh giết binh, gặp tướng chém tướng, lại có Khấu Trọng, Tuyên Vĩnh, Đồ Thúc Phương hộ vệ ba mặt, càng như hổ thêm cánh, thế như chẻ tre xông thẳng vào trại địch, đánh cho đám quân Ngõa Cương chạy như bầy chuột nhắt. Đám thủ hạ còn lại của Trác Nhượng cũng nhân lúc quân địch chạy tứ tán mà tản ra sát nhân phóng hỏa, biến chiến trường thành một đồ trường lớn, tình thế hỗn loạn đến cực điểm. 

Tỉnh Trung Nguyệt trong tay Khấu Trọng lại càng uy dũng, mỗi một đao xuất ra, chưa cần đến nơi, đao khí đã làm địch nhân ngã nhào xuống đất. Cây Điểu Trác Kích của Tuyên Vĩnh cũng phát huy tác dụng, tung hoành giữa sa trường như chốn không người, đánh cho quân địch người ngựa ngã nhào, bỏ chạy láo nháo. 

Chỉ trong nháy mắt, đội quân tràn đầy cừu hận này đã công vào giữa đại trại của quân Ngõa Cương, chỉ còn hơn nghìn bước nữa là xuyên qua trại địch, lên đến dốc núi. 

Đại cục đã định, vấn đề còn lại chỉ là có giết được Lý Mật, kẻ xưa nay vẫn bất bại trên sa trường hay không mà thôi. 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

Dịch giả: Ngọc Diện Hồ

Hồi 212

Bại như núi đổ

Sĩ khí ngất trời, lại thêm quân địch còn chưa ổn định thế trận, trung quân chia làm ba đội, mỗi đội hai ngàn người làm tiên phong, giống như ba con rắn lớn, nhanh như thiểm điện, mạnh mẽ như cuồng phong xông thẳng lên núi, phá vỡ trận địch, 

Lúc này Lý Mật và chúng tướng đã lên đến đỉnh dốc, soái kỳ còn chưa được dựng lên đã phải chỉ huy thủ hạ xông xuống ngăn cản, hi vọng có thể đẩy lui đợt công kích đầu tiên, sau đó chấn chỉnh đội ngũ, dựa vào ưu thế về binh lực để ứng chiến. 

Trên không tên bắn qua bắn lại không ngớt, kỵ binh hai bên lao vào đánh giáp lá cà trên đoạn dốc núi dài cả mấy dặm, nhất thời thiên hôn địa ám, nhật nguyệt vô quang. 

Bốn ngàn kỵ binh tinh nhuệ do Dương Công Khanh dẫn đầu vẫn từ từ tiến lên. 

Từ Tử Lăng đi bên cạnh y mới lần đầu chính thúc tham dự huyết chiến của hai quân trên sa trường, hơn nữa thắng bại lại chỉ quyết định bằng kỵ binh, nên cũng không khỏi bị không khí thảm liệt trên chiến trường làm ảnh hưởng, cảm nhận một cách sâu sắc một đạo lý, trước thiên quân vạn mã, bất luận là thân thủ cao minh tới đâu, cũng chỉ có thể dựa vào sức mạnh hợp tác của số đông mà thôi. 

Song mục Dương Công Khanh sáng rực lên, chằm chằm nhìn vào Lý Mật đứng bên dưới lá soái kỳ bay phần phật trên cao, nói với Từ Tử Lăng: “Kỵ binh còn được gọi là ly hợp chi binh, bởi có thể ly cũng có thể hợp, tản nhanh tụ nhanh, trăm dặm, ngàn dặm cũng có thể đến trước một bước, vì vậy kỵ binh được coi là quyết thắt chi binh. Lần này nếu không phải chúng toàn bộ đều dựa vào kỵ binh tinh nhuệ, tên tiểu tử Lý Mật cũng đâu đến nỗi thảm hại nhường này”. 

Từ Tử Lăng thấy kỵ binh của Lý Mật tuy không ngừng ngã xuống, nhưng do không ngừng có người mới bổ sung, nên cũng đã dần dần đẩy ép quân mình về thế thủ, hình thành cục thế giằng co hỗn chiến, đang lo lắng thì hai cánh quân mới đã từ hai bên lao tới, phá nát trận thế, làm quân địch rối loạn toàn quân. 

Lúc này tâm tình gã đã trở lại như trước, bình tĩnh như băng, 

Chỉ thấy mỹ nữ xinh đẹp như hoa Trầm Lạc Nhạn đứng bên cạnh Lý Mật, đang trừng mắt lên nhìn mình. 

Đúng vào lúc này, quân doanh phía sau Lý Mật có khói đen bốc lên, tiếng chém giết vang trời. 

Dương Công Khanh cười lớn: “Lý Mật trúng kế rồi! Ai có thể cắt đầu hắn xuống sẽ trọng thưởng hoàng kim trăm lạng!”. 

Mấy câu này được y vận khí đẩy ra, thanh âm vang động khắp chiến trường rộng lớn. 

Trống trận ầm vang, đội kỵ binh tinh nhuệ nhất của Dương Công Khanh cuối cùng cũng gia nhập chiến trường, mở ra cục diện quyết chiến. Từ Tử Lăng nghĩ đến huyết cừu ở phủ đại long đầu và Nhậm Ân, liền thúc ngựa xông lên. 

Quân Ngõa Cương đã đi đường cả đêm, giờ đang hết sức mệt mỏi, lại thấy quân doanh phía sau bốc cháy rực trời, nên càng vô tâm luyến chiến, bỏ chạy tứ tán, không còn cản trở được kỵ binh tinh nhuệ càng đánh càng dũng mãnh của Dương Công Khanh. 

Lý Mật và thân binh của y cuối cùng cũng đã động thân, lao về phía trung quân của Dương Công Khanh, hi vọng có thể cứu vãn được tình thế, chỉ đáng tiếc là từ vạn cổ đến nay chưa từng có một nơi nào lãnh khốc và hiện thực hơn chiến trường, bại cục đã thành, cho dù Tôn Vũ phục sinh, Khổng Minh tái thế cũng không thể vãn hồi. 

Từ Tử Lăng dẫn một đội binh mã năm trăm người, xông đến phía Lý Mật, thế như chẻ tre. 

Mỗi thương đâm hay quét ra, Loa Hoàn Kình đều bạo phát như hồng thủy, đánh bay địch nhân xuống ngựa, không kẻ nào là thoát được, đặc biệtlà gã chỉ cần đối phó với địch nhân ở phía trước, nên càng có thể phát huy đặc tính đánh xa của trường thương đến mức tận thiện tận mỹ. 

Trong giờ khắc gặp nhau bằng đao kiếm này, không phải ngươi chết thì là ta chết, nhân từ căn bản không có chỗ dung thân. 

“Đang!”. 

Một cây trường kiếm đột ngột xuất hiện như từ trên trời rơi xuống, ngăn cản một thương tất sát của Từ Tử Lăng. 

Gã định thần nhìn lại, mới biết người sử kiếm này chính là kẻ tề danh Ngõa Cương Song Hổ với Vương Bá Đương, Bùi Cơ Nhân. 

Phía trước toàn là quân Ngõa Cương, áp lực lập tức tăng lên mấy lần, các binh sĩ hai bên tả hữu lần lượt ngã xuống, những chỗ trống lập tức được người khác bổ khuyết vào. 

Từ Tử Lăng hú dài một tiếng, máu huyết sôi lên sùng sục, trường thương múa lên trăm ngàn bóng ảnh, kình khí ù ù như cuồng phong bạo lãng công về phía Bùi Cơ Nhân. 

  

oOo 

  

Bọn Khấu Trọng dưới sự dẫn đầu của Trác Kiều, hơn hai trắm người quy tụ lại, giống như một thanh đao sắc bén đâm thẳng vào hậu quân của địch nhân. 

Lúc này phía sau lửa cháy mỗi lúc một mạnh, khói bay mù mịt, không còn đường lui, hơn nữa lại có gió sớm thổi đến làm khói cuộn lên, làm ai nấy đều muốn rời khỏi đây càng xa càng tốt, khi bọn họ cật lực tấn công lên dốc, quân địch không nhận rõ thực hư thế nào, nên đều sợ hãi tản ra hai bên, uy thế càng tăng thêm gấp bội. 

Hai người đồng tâm thì có thể đoạn thiết phân kim. 

Hai trăm người này đều là thân binh của Trác Nhượng đã đi theo y từ lúc quan Ngõa Cương mới quật khởi, đợi chờ cơ hội báo thù này đến nỗi cổ cũng dài cả ra rồi, lại biết rõ nếu không thể hội hợp với quân của Dương Công Khanh ở phía trước, chỉ còn một con đường chết, nên chúng nhân đều ra sức liều mạng. 

Một bên quân binh mệt mỏi, lại đang lúc tâm hoảng ý loạn, một bên là đội quân phục cừu mang chí quyết tử, khác biệt thế nào thật không cần phải tính toán nữa. 

Quân Ngõa Cương đã rơi vào trong khủng khoảng cực độ, không thể tổ chức những đợt phản công có hiệu quả nữa. 

Bọn Khấu Trọng đánh tan một đám kỵ binh do Lý Mật phái ra để cản bước, cuối cùng cũng xông lên đỉnh núi. 

Chỉ thấy quân địch đang chạy tản ra bốn phía, còn các chiến sĩ quân Yển Sư thì đang từ từ tiến lên từ giữa và hai bên, một số kỵ binh đã đột phát phòng tuyến quân địch đang tung hoành tả xung hữu đột giữa đám quân hoảng loạn, sát địch như chém chuối. 

Trên dốc tử thi vô số, không khí tàn khốc của chiến tranh bao trùm khắp nơi, máu tươi nhuổm đỏ cả những vạt cỏ canh mơn mởn, cảnh tượng làm người ta nhìn mà phải kinh hồn bạt vía. 

Trác Kiều vừa liếc thấy soái kỳ của Lý Mật, liền gầm lên: “Nữ nhi của Trác Nhượng hôm nay đến lấy mạng ngươi đây!”. 

Lời còn chưa dứt đã thúc ngựa lao tới chỗ đám thân binh của Lý Mật. 

Trên đầu bọn họ đều chít khăn đỏ để dễ nhận biết. 

Quân mình nhìn thấy, tự nhiên sẽ lập tức nhường đường, còn đám tinh binh được tuyển lựa đặc biệt của Lý Mật, thì lại có quá nửa là cựu bộ của Trác Nhượng khi xưa, hầu hết đều nhận ra đại tiểu thư Trác Kiều, trong lòng cũng cảm thấy e ngại, không dám ngăn cản, thêm vài thế bại đã than, thấy nàng ta dẫn tử sĩ giết tới nơi, nên người người đều tâm kinh đảm khiếp, tán loạn đào vong. 

Một chút đấu chí cuối cùng của quan Ngõa Cương cũng hoàn toàn sụp đổ. 

Khí chúng nhân đánh lên đến phía sau đội thân binh của Lý Mật, thì có hơn trăm người từ trên đỉnh dốc tràn xuống, dẫn đầu là Từ Thế Tích và huynh đệ Trường Bạch Song Hung, Phù Chân, Phù Ngạn. Họ Từ tay cầm trường kích, còn hai huynh đệ họ Phù thì vẫn dùng lưỡi búa và câu kiếm, cả ba đều máu nhuộm chiến bào, thần tình mệt mỏi nhưng vẫn còn hung hằng. 

Khấu Trọng cười lên vang dội, nhún người bay lên khỏi mỉnh ngựa, lăng không bổ tới chỗ ba người, miệng hô vang: “Khấu Trọng đến đây!”. 

Hai chữ Khấu Trọng giờ đây khắp thiên hạ không ai là không biết, trong đám thân binh của Lý Mật lập tức có kẻ nghe tiếng mà sợ hãi, rời khỏi đội ngũ, cuống cuồng bỏ cahỵ. 

“Đang! Đang! Đang!”. 

Khấu Trọng không ngừng lao xúong, bật lên rồi lại bổ người xuống, Tỉnh Trung Nguyệt trong tay liên tiếp chém xuống, cản bước ba người lại, 

Đám người Trác Kiều tràn lên, lập tức phá nát đội ngũ của đám binh lính đánh thốc trở lại này. 

Phù Chân, Phù Ngạn hồn phi phách tán, không sử ra được một nửa công lực lúc bình thường, là hai kẻ chạy trốn đầu tiên. 

Từ Thế Tích còn lại một thân một mình, khó thể chống đỡ, đành tung người xuống ngựa, né tránh một chiêu đoạt mạng của Khấu Trọng. 

Trác Kiều huy vũ đại quan đao, đâm thẳng vào ngực y. 

Nhưng Từ Thế Tích cũng không phải tầm thường, trong tình thế gấp gáp đã vứt bỏ trường kích, rút bội kiếm bên hông, đỡ lấy cây đại quan đao của nàng ta. 

“Đang!”. 

Từ Thế Tích cả người lẫn kiếm đều bị gạt văng xuống dưới, những vẫn giữ được tính mạng. 

Mấy năm nay, Trác Kiều ngày đêm khổ luyện chính là vì giờ khắc này, nên đâu còn để ý tới những kẻ khác, chỉ gầm lên một tiếng, lao về phía Lý Mật. 

Khi Tuyên Vĩnh, Đồ Thúc Phương và đám thủ hạ hoảng hốt đuỗi theo nàng, thì Khấu Trọng đã điểm chân lên lưng con ngựa của Từ Thế Tích bỏ lại, lộn nhào một vòng trên không, bổ tới chỗ Từ Tử Lăng đang giao chiến với đám Lý Mật, Bùi Cơ Nhân, Trầm Lạc Nhạn và Tổ Quân Ngạn, tựa như thiên thần giáng thế. 

Nếu phải lúc bình thường, lăng không nhảy tới để thân hình hoàn toàn lộ ra trước đao thương và phi tiễn của địch nhân như vậy thật chẳng khác gì tự sát là mấy, có điều lúc này địch nhân đều hoảng loạn cùng cực, chạy trốn còn chẳng kịp, nên cũng không ai tấn công gã cả. 

Từ Tử Lăng sau khi đả thương Bùi Cơ nhân, cuối cùng cũng chính diện giao phong với Lý Mật. 

Sau bận ở hoang thôn, Từ Tử Lăng chưa lần nào đối mặt với vị bá chủ danh chấn thiên hạ này cả. 

Lý Mật thân hình khôi ngô kỳ vĩ, tóc dài xõa ngang đôi vai rông, khôi giáp sáng ngời, trường mâu múa lên vù vù, kình khí bức nhân, hai mắt lấp lánh hàn quanh như điện, quả là có khí khái của một bậc kiêu hùng. 

Có điều trên người y đã đầy những vết thương, liên tiếp đánh ra mười mấy mâu đều bị Từ Tử Lăng cản lại, chiến cuộc giằng dai không thể dứt ra nổi. 

Mỗi lần đỡ cây trường mâu của Lý Mật, Từ Tử Lăng đều cảm thấy như bị một tảng đá nặng ngàn cân đập trúng, nội phủ chấn động, huyết khí nhộn nhạo. 

Cũng may là chân khí có từ Trường Sinh Quyết và Hòa Thị Bích của gã hoàn toàn khác biệt với những loại chân khí thông thường, không những hóa giải kình khí của đối phương trong nháy mắt, mà còn liên tục sinh ra lực mới, thương sau mạnh hơn thương trước. 

Có điều rõ ràng là thuật kỵ mã của gã không bằng đối phương, thế nên chỉ biết thủ mà không công, vất vả cầm chân Lý Mật. 

Khấu Trọng lăng không bổ tới, lập tức xoay chuyển toàn bộ cục diện. 

Lý Mật lúc này tuy chỉ còn lại hơn hai ngàn thân binh, nhưng quân lực thủy chung vẫn gấp đôi đối phương, lại chiếm được địa lợi, nếu không có kỳ binh của Khấu Trọng đột kích phía sau thì vẫn còn cố thủ được thêm một khoảng thời gian nữa, rồi vừa đánh vừa lui, chứ không đến nỗi nhếch nhác bỏ chạy, quân không ra quân như lúc này. 

Nhưng quân của Dương Công Khanh thủy chung vẫn không thể nhân lúc quan Ngõa Cương suy yếu nhất này mà tập trung tiêu diệt toàn bộ, mà chỉ có thể tận chiếm thượng phong, đuổi theo quân địch đào tẩu khắp bốn phía làm chiến trường ngày càng mở rộng đến tận thảo nguyên bên dưới. 

Lúc này còn không đi, thì đợi đến lúc nào? 

Lý Mật thầm thở dài. 

Nếu đây không phải chiến trường nơi hai quân giao chiến, mà là cuộc đấu giữa người trong giang hồ với nhau, cho dù Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có liên thủ với nhau, y vẫn có thể giở hết bản lĩnh quyết chiến, cơ hội chiến thắng là rất lớn. 

Nhưng trong tình thế hiện tại, y đã trở thành mục tiêu của bao người, hàng trăm, hàng ngàn địch nhân không ngừng công kích từng đơt, từng đợt như sóng biển xô bờ. Bất cứ lúc nào y cũng phải đối phó với rất nhiều thứ vũ khí, chẳng những không thể sử ra kỳ chiêu ảo thức, mà nhiều khi còn phải lựa chọn xem nên trúng đao hay trúng thương, để tránh khỏi những đòn chí mạng. 

Tự nhiên y càng không dám toàn lực xuất thủ, tránh để chân nguyên tổn hao quá nhiều. 

Những chiêu thức y dùng toàn bộ đều hết sức đơn giản và hiệu quả, thủ pháp dụ địch xưa nay vẫn quen sử dụng, hoàn toàn không có tác dụng. Y hiểu rõ nếu để Khấu Trọng đến nơi, lại bị cao thủ như Từ Tử Lăng cầm chân, kết cục chỉ có một con đường duy nhất, đường xuống hoàng tuyền. 

Lý Mật đang định ra lệnh triệt thoái thì Trầm Lạc Nhạn đã phóng ngựa vào giữay và Từ Tử Lăng, miệng hô vang: “Mật công mau chạy!”. 

Lý Mật biết đây là cơ hội duy nhất để đào tẩu, bèn vận công gầm lên một câu mà từ khi xuất đạo tranh thiên hạ đến nay y chưa từng phải nói ra lần nào: “Tất cả mau chạy!”. 

Lời còn chưa dứt, người đã rời yên ngựa bay lên, trường mâu trong tay phóng về phía Khấu Trọng. 

“Đang!”. 

Hai người cùng lúc bật ra. 

“Vù!”. 

Đại quan đao của Trác Kiều rời tay bắn vút ra, vượt qua khoảng không ba trượng, nhằm thẳng vào Lý Mật. 

Bọn Bùi Cơ Nhân kêu lên kinh hãi: “Mật công cẩn thận!”. 

“Cheng!”. 

Lý Mật giật trường mâu về quét trúng đại quan đao, mượn lực phóng lên, tung người đá bay một thuộc hạ của của Trác Kiều khỏi yên ngựa, rồi phóng vút về phía Đông. 

Từ Tử Lăng lúc này đã liên tiếp đỡ lấy hơn mười kiếm của Trầm Lạc Nhạn, song vẫn không hề phản công lấy nửa thương, chỉ cười khổ nói: “Mỹ nhân quân sư, mời!”. 

Trầm Lạc Nhạc nhiệt lệ trào dâng, vừa khóc vừa nói: “Từ Tử Lăng ngươi giỏi lắm!”. 

Dứt lời liền thúc ngựa đuổi theo đám bại binh của Lý Mật. 

Trác Kiều gầm lên điên cuồng, dẫn thủ hạ đuổi sát theo sau. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng hiểu rõ đạo lý giặc cùng chớ đuổi, sợ nàng ta có gì sơ thất thì khó ăn khó nói với Tố Tố, nên cũng đành thúc ngựa chạy theo. 

Tiếng tù và triệt thoái vang lên, chỉ thị phương hướng cho quân Lý Mật rút lui. 

Trận hỗn chiến biến thành một cuộc truy đuổi, truy sát được hơn mười dặm, thì Dương Công Khanh vì e sợ đạo binh của Đơn Hùng Tín bất ngờ đột kích, nên đành đánh chiêng thu quân. 

Từ khi Vương Thế Sung khai chiến với quân Ngõa Cương đến giờ, đây là trận đại thắng đầu tiên. 

Trận này Lý Mật đại bại chạy về Lạc Khẩu, bốn vạn kỵ binh tinh nhuệ giờ chỉ còn lại hơn vạn, thương vong vô cùng nặng nề. 

Bên phía quân Yển Sư chỉ tổn thất có hơn hai ngàn quân, có thể coi là thắng hết sức nhẹ nhàng. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng cởi trần trùng trục ngồi trên một tảng đá lớn ven sông, để đại phu băng bó các vết thương trên cánh tay, hông và ngực. 

Dương Công Khanh đã dẫn đại quân trở về Yển Sư để phòng ngừa Đơn Hùng Tín nhân lúc Yển Sư phòng thủ yến kém mà công đoạt thành trì, chỉ để lại hơn nghìn binh sĩ, đề phòng Lý Mật quay đầu tập kích hoặc hội sư với Đơn Hùng Tín, chấn chỉnh lại đội ngũ, tiếp tục tấn công. 

Từ Tử Lăng đã băng bó xong từ lâu, thương thế của gã nhẹ hơn Khấu Trọng khá nhiều, tất cả vì ngay từ đầu đã chiếm hết ưu thế, không giống như Khấu Trọng phải dùng binh lực nhỏ bé để xông phá trại địch. 

Mặt trời đã ngả về tây, các binh sĩ đều tản ra mấy qủa đồi xung quanh đó bố trận canh phòng và nghỉ ngơi, dõi mắt nhìn khoảng không bao la phía hạ du. 

Bốn chiếc chiến thuyền đỗ trên bờ, chở đến cho họ quân lương, thuốc men và các nhân công để thu dọn tàn cục. 

Thi thể các binh sĩ tử thương đều được đưa về Yển Sư an táng, còn xác quân địch cũng phải đào lỗ chôn xuống để đề phòng ôn dịch xảy ra. 

Bọn Trác Kiều, Tuyên Vĩnh đã đi xung quanh tìm kiếm tung tích địch nhân, đến giờ vẫn chưa quay lại. 

Khấu Trọng gượng cười nói với Từ Tử Lăng: “Trên chiến trường, bất kể ngươi võ công cái thế ra sao, vẫn không thể không thọ thương được. Vấn đề là làm sao tránh được những đòn chí mạng thôi. Bây giờ ta cảm thấy toàn thân đau nhức, gân cốt rã rời, cho dù ác chiến với Chúc Ngọc Nghiên cũng không mệt như vậy đâu!”. 

Từ Tử Lăng liếc nhìn bốn binh sĩ đang gắng sức đẩy một chiếc xe chở đầy thi thể đi về phía chiến thuyền, nhất thời không nói nên lời. 

Lúc này Linh Lung Kiều đã đi trinh sát tình hình quân Lý Mật trở về, theo sau là hơn mười tay khoái mã. Vừa đến nơi nàng đã tung mình bay xuống ngựa, chạy đến chỗ hai gã, vui vẻ nói: “Lần này Lý Mật đúng là bại một cách thảm thương, dọc đường không ngừng có người không chi trì nỗi mà rơi xuống ngựa, cả soái kỳ cũng vứt luôn. Sợ rằng lúc hắn khởi binh có nằm mơ cũng không ngờ sẽ có ngày hôm nay đâu!”. 

Khấu Trọng đảo mắt một vòng trên cơ thể hấp dẫn của Linh Lung Kiều, mỉm cười nói: “Chỉ có người đứng từ xa quan sát toàn cục như Kiều Kiều đây mới có thể không tổn thương chút nào thôi, hà…”. 

Linh Lung Kiều đỏ mặt nói: “Nếu ngươii còn châm chọc ra không ra sức trên chiến trường nữa thì ta không ta cho đâu. Nể ngươi lần này gọi ta là Kiều Kiều rất dễ nghe, lại thêm đang bị thương đến nỗi mặt xanh môi trắng, ta tạm tha cho một lần đó”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Chỉ là ta thấy ngọc thể của Kiều Kiều không bị tổn thương nên cảm thấy vui mừng thôi mà! Có phải Lý Mật đã cút về Lạc Khẩu rồi không? Lão tiểu tử này chạy cũng nhanh quá đấy chứ!”. 

Lúc này Trác Kiều cũng đã quay lại, hưng phấn nhảy xuống ngựa, nói: “Chúng ta lập tức tấn công Lạc Khẩu!”. 

Tuyên Vĩnh và Đồ Thúc Phương nghe vậy thì đều chau mày, đưa mắt nhìn Khấu Trọng ra hiệu, tỏ ý muốn gã ngăn cản nàng lại. 

Chẳng ngờ Khấu Trọng lại nói: “Quả là anh hùng sơ kiến lược đồng, giờ chúng ta sẽ ngồi thuyền về Yển Sư, thương lượng đại kế tấn công Lạc Khẩu với Dương đại tướng quân!”. 

Chúng nhân đều lấy làm ngạc nhiên. 

Nên biết rằng Đơn Hùng Tín vẫn còn sáu vạn quân đang đóng ở phía Bắc Yển Sư, bất luận đám tân binh này kém cỏi thế nào, giờ này mạo hiểm tấn công Lạc Khẩu cũng là một hành động vô cùng ngu ngốc. 

Có điều lúc này không ai là không khâm phục kỳ mưu diệu kế của Khấu Trọng, biết nếu không phải gã đã có tính toán, sẽ quyết chẳng nói ra những lời này, nên cũng chỉ ngạc nhiên chứ không lên tiếng phản đối. Khấu Trọng cầm Tỉnh Trung Nguyệt lên, chỉ về phía Lạc Khẩu, chậm rãi nói tiếp: “Lý Mật quyết chẳng cam tâm chạy về Lạc Khẩu như vậy đâu, hắn nhất định sẽ hội hợp với Đơn Hùng Tín ở Mang Sơn, hòng chuyển bại thành thắng. Vì vậy chỉ cần bọn ta có thể ngăn cản bọn chúng hội sư, lại khiến cho Đơn Hùng Tín không dám vọng động, vậy thì Bính Nguyên Chân trấn thủ ở Lạc Khẩu chỉ còn nước đầu hàng. Vương Bá Đương lại càng vô lực giữ được Kim Dung, thừa thắng truy kích chính là cách tốt nhất để thắng lợi càng lớn hơn, không biết đại tiểu thư có nghĩ vậy không?”. 

Lần đầu tiên Trác Kiều thật sự cảm thấy lời của Khấu Trọng nghe lọt lỗ tai, hân hoan nói: “Tiểu Trọng ngươi thật đúng là tướng tài hiếm có trong thiên hạ, năm xưa nếu cha gặp được ngươi chứ không phải tên gian tặc Lý Mật, thì thiên hạ đã là của quân Ngõa Cương chúng ta rồi!”. 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

Dịch giả: Ngọc Diện Hồ

Hồi 214

Sẵn sàng đại chiến

  Khấu Trọng mỉm cười: “Ngồi xuống được không?”. 

Đôi má phấn của Sở Sở lập tức đỏ ửng lên, lắc đầu nói: “vậy không đúng với quy củ”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Quy củ gì chứ?”. 

Sở Sở cắn môi khẽ nói: “Là sự phân biệt giữa chủ nhân và nô tỳ”.

Khấu Trọng không hiểu hỏi: “Chúng ta chỉ là bằng hữu, năm xưa cùng chơi ném tuyết mà quen biết nhau. Đã bao giờ là chủ nhân với nô tỳ đâu?”. 

Sở Sở nở một nụ cười ngọt ngào, cơ hồ như nhớ lại tình cảnh vui vẻ khi chơi tuyết cầu thuở trước, hân hoan nói: “Làm sao giống nhau được chứ? Ngài và Từ gia là nghĩa đệ của Tố tỷ, nhưng hiện giò hai người đều có thân phận địa vị cao vời, cả tiểu thư cũng phải tôn kính. Người ta tự nhiên phải giữ lễ chứ”. 

Khấu Trọng thấy nàng vẫn giữ được vẻ khả ái làm gã động lòng năm xưa, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác không thể hình dung. Gã vốn định nói cho Sở Sở biết mình vẫn còn đeo sợi dây mà nàng tặng năm xưa, nhưng một ý nghĩ khác đã làm ý niệm này biến mất, cuối cùng chỉ thở dài một hơi: “Lễ số cái con khỉ mốc, Khấu Trọng ta vẫn chỉ là tên tiểu tử năm xưa chơi ném tuyết mà thôi!”. 

Nếu có thể bắt đầu lại từ thời điểm đó, Tố Tố chắc đã không gả cho Hương Ngọc Sơn. 

Sở Sở thấp giọng nói: “Nếu Khấu gia không có gì dặn dò thì Sở Sở phải trở về hầu hạ tiểu thư rồi”. 

Khấu Trọng cố áp chết nỗi xúc động muốn ôm chặt nàng vào lòng, miễn cưỡng để Sở Sở rời khỏi tiểu đình. 

  

oOo 

  

Quá buổi hoàng hôn, Trương Trấn Châu dẫn theo năm ngàn kỵ binh, tiến quân về Kim Dung thành. Dương Công Khanh, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng dẫn theo hai mươi khinh kỵ tống hành, đến khi khẳng định đạo tân binh của Đơn Hùng Tín không có dị động gì, mới quay lại Yển Sư. 

Lúc này Linh Lung Kiều đi dò là tình hình quân địch cũng trở về. 

Chúng nhân ngồi trong đại sảnh đường của soái phủ để nghe nàng báo cáo tình hình, Trác Kiều, Đồ Thúc Phương và Tuyên Vĩnh đều tham dự, Vương Huyền Nộ thì đã đi doanh trại bên bờ Nam Lạc Hà, để tăng cường phòng ngự. 

Linh Lung Kiều nói: “Đúng như Khấu quân sư đã đoán định, Lý Mật dẫn theo đám bại binh chạy về Lạc Khẩu, lập tức chỉnh đốn quân sĩ, chỉ lưu lại một đêm, sau đó lại dẫn theo bảy ngàn kỵ binh, rời thành về phía Tây, cơ hồ như muốn hội hợp với đại quân của Đơn Hùng Tín vậy”. 

Song mục Trác Kiều như tóe lửa, cười lạnh nói: “Lần này ta cho hắn có mạng đến mà không có mạng về”. 

Đồ Thúc Phương trầm giọng: “Con người Lý Mật cao ngạo tự phụ, chỉ có thể thắng mà không thể thua, hiện giờ sĩ khí đã giảm sút đến cực hạn mà còn dẫn binh phản công, chỉ sợ là tự chuộc lấy diệt vong mà thôi”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Tuy hắn không thể thua, nôn nóng vãn hồi cục diện, nhưng tuyệt đối không thể ngu tới mức đi hội hợp với đám tân binh sắp hết lương thảo của Đơn Hùng Tín, chuyện này không thể coi thường được, bằng không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm rất lớn đó”. 

Dương Công Khanh gật đầu: “hắn muốn dụ chúng ta tấn công Lạc Khẩu”. 

Trác Kiều cũng không hiểu hỏi: “Lạc Khẩu căn bản không thể giữ được, nếu chúng ta tấn công, Bính Nguyên Chân lập tức sẽ đầu hàng hoặc bỏ thành trốn chạy, Lý Mật tại sao lại đi nước cờ này?”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Lý Mật tự nhiên sẽ không đem dâng Lạc Khẩu cho người khác như vậy, theo tôi phỏng đoán thì hắn hi vọng chúng ta sẽ hiểu lầm hắn muốn hội quân với Đơn Hùng Tín mà thừa cơ tấn công Lạc Khẩu để chặn đường rút về phía Đông của hắn. Chờ khi chúng ta vận chuyển các đồ quân dụng nặng nề qua sông, hắn sẽ dùng khinh kỵ tấn công thật mãnh liệt, đồng thời Đơn Hùng Tín cũng toàn lực công thành, kế này thật vô cùng hiểm độc, có điều vẫn nằm trong tính toán của Khấu quân sư”. 

Khấu Trọng thở hắt ra một hơi: “Vết thương chí mạng của Lý Mật, chính là đã hiểu làm chúng ta đang thiếu lương, thế nên không thể không gấp rút đánh Lạc Khẩu để bổ sung lương thảo, nên mới dùng kế dụ địch này”. 

Lạc Khẩu là một trong năm kho lương lớn của triều nước, tổng cộng có hai ngàn hầm lớn, mỗi hầm có tám ngàn thạch. Lý Mật tuy có mở kho cứu tế dân nghèo, nhưng mấy năm nay vẫn không ngừng vận chuyển lương thực về đây để cung ứng cho nhu cầu của quân Ngõa Cương. 

Trác Kiều nói: “Vậy chúng ta cứ giả bộ vượt sông, dụ bọn chúng tấn công là được rồi”. 

Khấu Trọng nói: “Hiện giờ là hắn gấp chứ chúng ta không gấp, đợi Trương đại tướng quân công hạ Kim Dung trước để chúng ta có ưu thế khuất phục Đơn Hùng Tín đã, rồi mới tập trung toàn lực đối phó Lý Mật được”. 

Kế đó lại hỏi Linh Lung Kiều tình hình binh doanh trên Mang Sơn. 

Linh Lung Kiều đáp: “Số quân đó toàn là tàn binh già yếu sáng sớm nay bắt đầu rút về phía Bắc, có vẻ như là muốn vượt sông đến Hà Dương”. Tới đây, nàng ngưng lại một chút rồi nói tiếp: “Tân binh củ Đơn Hùng Tín quân tâm bất ổn, không ngừng có đào binh, vì vậy nhân số tuy nhiều, nhưng không hề có năng lực tác chiến”. 

Khấu Trọng động dung: “Có phải có rất nhiều người bỏ trốn không?”. 

Linh Lung Kiều nói: “Số đào binh này đều trèo qua hàng rào gỗ để bỏ trốn, các lầu canh bên ngoài quân doanh thì mười cái đã có tới tám là không người giám thị, nhưng do trời tối, nên rất khó đoán định được là bao nhiêu người. Ta từng bắt mấy tên đào binh thẩm vấn, tên nào cũng nói trong doanh trại bây giờ tin đồn lan khắp nơi, có kẻ còn nói Lý Mật đã bị chúng ta giết rồi. Vì vậy người người đều vô tâm luyến chiến, Đơn Hùng Tín cũng đã ngừng việc chế tạo các thiết bị công thành, xem chừng như muốn rút quân vậy”. 

“Bình!”. 

Dương Công Khanh vỗ mạnh xuống bàn, tinh thần phấn chấn nói: “Sai lầm lớn nhất trong đời Lý Mật chính là đã dùng đám quân ô hợp đó đến đánh chúng ta”. 

Linh Lung Kiều nói: “Quân của Đơn Hùng Tín hầu như toàn là bộ binh, chiến mã chỉ có không đầy năm trăm con. Hiện giờ bọn chúng đã bắt đầu phải hạn chế quân lương rồi, mỗi ngày chỉ bằng nửa phân lượng thông thường, e là không cầm cự nổi lâu nữa đâu”. 

Khấu Trọng liếc nhìn Từ Tử Lăng từ nãy vẫn im lặng, vui vẻ gật đầu: “Vậy thì tốt rồi, Chúng ta căn bản không cần đợi Kim Dung thành thất thủ đã có thể vượt sông thi kế dụ địch rồi. Ta đảm bảo Đơn Hùng Tín sẽ mặc kệ mệnh lệnh tấn công của Lý Mật, ôm quân tự nhủ để đợi lúc chúng ta tấn công Lạc Khẩu, khi đó thì y sẽ có thể trả giá với chúng ta, nói điều kiện đầu hàng”. 

Chúng nhân đều gật đầu đồng ý. 

Nếu đổi lại là Trầm Lạc Nhạn hay Từ Thế Tích, tình thế tự nhiên sẽ hoàn toàn khác biệt. 

Vì Đơn Hùng Tín xưa nay vẫn bất mãn với các thủ hạ đại tướng trong Bồ Sơn Công Doanh của Lý Mật, đồng thời họ Lý lại chỉ giao cho y một đám tân binh ô hợp chưa từng đánh trận, làm sao y chịu mạo hiểm bán mạng cho y chứ. 

Dương Công Khanh gật đầu nói tiếp: “Ngày mai chúng ta sẽ giả vờ vượt sông, đồng thời sắp đặt hai đạo phục binh, một đạo giám thị động tĩnh của Đơn Hùng Tín, một đạo phụ trách đối phó Lý Mật, trận này nếu hắn còn bại nữa vậy thì sau này không phải lo lắng hắn tranh đoạt thiên hạ với ai nữa””. 

  

oOo 

  

“Cạch! Cạch! Cạch!”. 

Từ Tử Lăng đã sớm nhận ra tiếng bước chân của Khấu Trọng, cất tiếng nói: “vào đi! Tại sao tự dưng ngươi lại biết quy củ mà gõ cửa vậy”. 

Khấu Trọng đẩy cửa bước vào, cười khổ nói: “Mười lần thì ít nhất cũng có năm lần ta gõ cửa mà, hình như tối nay Lăng thiếu gia hơi nóng tính thì phải!”. 

Từ Tử Lăng đợi gã ngồi xuống ghế rồi nói: “Gặp đại tiểu thư, ta lại nhớ đến Tố tỷ, ngươi bảo tâm tình làm sao vui được”. 

Khấu Trọng nói: “Chuyện của Tố tỷ có lo lắng cũng không tác dụng gì, chúng ta lại càng không được khinh cử vọng động, bằng không sẽ rơi vào bẫy của Tiêu lão tặc và Hương tiểu tặc đó”. 

Kế đó gã lại kể chuyện Vương Thế Sung chuẩn bị đại phong thân tộc, làm cho Trương Trấn Châu và Dương Công Khanh bất mãn ra cho Từ Tử Lăng nghe. 

Từ Tử Lăng cảm thấy chán ghét, liền nói sang chuyện khác: “Nếu ngày mai Lý Mật không trúng kế, hoặc chúng ta để hắn chạy thoát thì có phải ta với ngươi vẫn cứ dằng dai ở lại đây, phí công đánh dẹp thiên hạ cho hạng người vô dụng như Vương Thế Sung hay sao?”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Vấn đề không phải ở chỗ chúng ta, mà là đại tiểu thư lão nhân gia kia kìa”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Chỉ cần chúng ta nói với đại tiểu thư, chúng ta phải đi đón Tố tỷ, chắc nàng ta sẽ chấp nhận thôi”. 

Khấu Trọng phấn chấn tinh thần: “Đây cũng là một cách, nếu Lý Mật chạy về Hổ Lao hoặc Huỳnh Dương, vậy thì không phải mười ngày nửa tháng mà giết được hắn. Nói thực lòng, ta rất lo lắng lão gia và Trầm Pháp Hưng sẽ công hạ được Giang Đô, lúc ấy thì Phi Mã Mục Trường sẽ nguy hiểm lắm. Bọn họ làm sao ứng phó được tên sát nhân cuồng ma Chu Xán kia chứ, lại còn phải ứng phó cả lão gia và Tiêu Tiễn nữa”. 

Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý: “Sau khi biết được sự lợi hại của kỵ bịnh, ta mới hiểu tại sao bao nhiêu người đều thèm muốn Phi Mã Mục Trường như vậy, chỉ có chiến mã được phối giống ưu việt của họ mới ứng phó được Hắc Giáp Phiêu Kỵ của Thiên Sách Phủ. Vì vậy, nếu ta là lão gia, cũng phải coi việc lấy Phi Mã Mục Trường là nhiệm vụ hàng đầu”. 

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Hiếm khi thấy Lăng thiếu gia và tiểu đệ có cùng một ý kiến, chuyện của Tố tỷ tuy gấp, nhưng không gấp bằng chuyện Phi Mã Mục Trường. Bất kể ngày mai có giết được Lý Mật hay không, chúng ta cũng phải lập tức trở về Lạc Dương, sau khi gặp Bốc Thiên Chí rồi, thì ta với ngươi có thể dùng Hư Hành Chi rời khỏi đây, những chuyện khác cứ để Vương Thế Sung đau đầu là được rồi”. Kế đó gã lại thở dài nói: “Đến giờ ta mới hiểu tại sao rõ ràng Lưu đại ca yêu thương Tố tỷ, nhưng lại không dám biểu lộ tình ý”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Ngươi hiểu gì?”. 

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Lưu đại ca thật lòng yêu thương Tố tỷ”. 

Từ Tử Lăng vẫn không hiểu: “Thật ra ngươi muốn nói gì vậy?” 

Khấu Trọng cười khổ: “Chúng ta cuối cùng cũng đã trải qua sự hung hiểm trên sa trường, hạng cao thủ như Lý Mật, khi rơi vào thế không thuận, cũng rất dễ phải nuốt hận nơi sa trường. Vì thế mỗi lần lên chiến trường, mạng nhỏ này là do lão thiên gia quyết định, chứ không phải do mình. Sống một cuộc sống biết sớm mà không biết tối như vậy, làm sao Lưu đại cả dám làm khổ trái tim yếu nhược của nữ tử mà mình thật lòng yêu thương chứ?”. 

Từ Tử Lăng im lặng hồi lâu, rồi mới từ từ nói: “Tại sao đột nhiên ngươi lại có ý nghĩ này?”. 

Khấu Trọng chán nản nói: “Năm xưa ở phủ đại long đầu, ta chẳng cần nghĩ ngợi gì đã ôm Sở Sở vào lòng thân thiết, nhưng hôm nay rõ ràng là biết nàng rất muốn, ta lại không dám đụng đến một ngón tay, trong lòng nào thể vô cảm được”. 

Từ Tử Lăng định nói mấy câu an ủi gã, nhưng lại không biết phải nói gì. 

  

oOo 

  

Sáng sớm hôm sau, cửa thành vừa mở, từng đoàn xe lừa chở đồ quân như lũ lượt đi về phía phù kiều, chuẩn bị qua sông. 

Lúc này một đội năm ngàn kỵ binh tinh nhuệ do Khấu Trong và Dương Công Khanh dẫn đầu đã mai phục trong khu rừng ở phía Bắc phù kiều, tất cả các cao điểm xunh quanh đều có lầu canh giám thị động tĩnh gần xa. 

Tin tức không ngừng được đưa về. 

Trác Kiều hôm nay bình tĩnh một cách lạ thường, khiến người ta càng cảm nhận được quyết tâm giết chét Lý Mật của nàng. 

Từ Tử Lăng giả làm hộ vệ bên cạnh nàng, đề phòng khi có chuyện, nàng sẽ bất chấp tất cả, để cho địch nhân lợi dụng sơ hở. 

Đội xe lừa chở các đồ quân như do Vương Huyền Nộ suất lãnh bắt đầu qua sông. 

Lúc này có tin truyền về, Vương Bá Đương ở Kim Dung thành đã nghe được phong thanh, rút về Hà Dương, dân trong thành đã mở cửa nghênh tiếp đại quân của Trương Trấn Châu vào thành. 

Không tốn một binh một tốt, Kim Dung thành đã lọt vào tay họ Trương. 

Còn Đơn Hùng Tín thì đúng như Khấu Trọng đã dự liệu, vẫn án binh bất động. 

Linh Lung Kiều phóng ngựa chạy tới, báo cáo: “Kỵ binh của Lý Mật đã toàn lực lao đến, rõ ràng là đã biết chuyện chúng ta vượt sông rồi”. 

Dương Công Khanh cả mừng, vội dặn dò chúng tướng, chuẩn bị tác chiến. 

Khấu Trọng không nhịn được tán thường: “Nếu không phải có Kiều tiểu thư tinh thông thuật thăm dò tình hình quân địch, tin tức chuẩn xác, chúng ta chỉ có thể làm nhiều công nhỏ chứ đâu thể liệu địch như thần giống bây giờ”. 

Linh Lung Kiều nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở: “Ngươi thật biết lấy lòng người khác!”. 

Khấu Trọng khiêm tốn hỏi tiếp: “Trinh sát địch nhân có phải cũng có yếu quyết gì không?”. 

Linh Lung Kiều đáp: “Một trong những yếu quyết của việc dụng binh là phải trinh sát địch tình. Nếu không biết địch, cũng không khác với bịt mắt giao thủ với người, không bại mới là lạ. Vì vậy ba quân chưa động, kỵ mã trinh thám đã phải đi trước rồi. Phàm là kẻ cầm quân, đều phải có một số hảo thủ giỏi việc trinh sát địch tình, vậy mới đạt được mục đích”. 

Khấu Trọng nghĩ về tương lai sẽ phải tranh thiên hạ với Lý Thế Dân, lại thêm lúc này đang nhàn rỗi, nói mấy câu lấy lòng vị mỹ nữ Quy Từ này cũng hơn là chẳng có việc gì làm, bèn hỏi tiếp: “Làm sao mới có thể bồi dưỡng được những hảo thủ này?”. 

Linh Lung Kiều đáp: “Đầu tiên phải lựa người, cần chọn những người cơ trí và có khinh công cao, kế đó là phải thông thuộc địa lý và phương ngôn của các vùng, gỏi ẩn nấp và thăm dò tin tức, tốt nhất là biết thuật dị dung cải trang, vậy thì không đâu là không đến được. nếu như có thể dùng kim ngân tài bảo mua chuộc nhân sĩ địa phương hoặc quân địch thì càng vạn vô nhất thất”. 

Khấu Trọng thở dài: “Thì ra là phức tạp như vậy”. 

Linh Lung Kiều thấp giọng hỏi: “Tại sao ngươi lại có vẻ rất hứng thú với những câu chuyện nhỏ nhặt trong quân đội như vậy?”. 

Khấu Trọng không đáp mà hỏi ngược lại: “Ta có thể hỏi thêm một vấn đề không nên hỏi nữa không?”. 

Linh Lung Kiều chăm chú nhìn gã hồi lâu, gật đầu rồi nói: “Hỏi đi!”. 

Khấu Trọng ghé sát lại gần nàng: “Kiều tiểu thư và Vương công rốt cuộc có quan hệ gì, tại sao lại vượt ngàn dặm xa xôi từ Quy Từ đến đây giúp ông ấy đánh dẹp thiên hạ vậ?”. 

Linh Lung Kiều cúi đầu hỏi: “Sao ngươi lại hỏi vấn đề này?”. 

Khấu Trọng giả vờ như không hề có chuyện gì: “Chỉ là hiếu kỳ mà thôi”. 

Linh Lung Kiều lắc đầu: “Nếu chỉ là tùy tiện hỏi chơi, ta sẽ không trả lời ngươi câu hỏi này”. 

Khấu Trong ngạc nhiên: “Đây cũng là một bí mật sao?”. 

Linh Lung Kiều còn chưa kịp đáp lời thì Khấu Trọng đã đột nhiên ngẩng đầu lên, thất thanh kêu: “Lần này thì hỏng rồi!”. 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

Dịch giả: Ngọc Diện Hồ

Hồi 215

Nhẫn nhịn trả giá

       Chúng nhân nghe Khấu Trọng kêu lên kinh hãi, liền quay cả sang nhìn, rồi cũng ngẩng đầu lên nhìn theo ánh mắt của gã. 

Chỉ thấy con linh điểu của Trầm Lạc Nhạn không ngừng lượn tròn trên cao, bay theo những đường hết sức quái dị. 

Dương Công Khanh, Linh Lung Kiều, Từ Tử Lăng, Trác Kiều đều biến sắc, biết rằng con quái điểu này đang mượn đường bay để thông tri cho chủ nhân biết trong rừng có phục binh mai phục. 

Để tránh tai mắt thám tử của quân địch, bọn Khấu Trọng đã phải tốn rất nhiều công sức mới bố trí được đạo quân này mai phục trong rừng. 

Đầu tiên là phải dùng một đạo quân khác dẫn sự chú ý của địch nhân, ra vẻ muốn ngăn ngừa quân của Đơn Hùng Tín bất ngờ đột kích thi các xe quân nhu nặng nề vượt sông. Đồng thời đặt các trạm canh ở chỗ cao, nhân lúc trời tối cho kỵ binh dắt ngựa đi xuyên rừng đến địa điểm mai phục, chân ngựa đều phải dùng vải bố bọc kín để tránh phát ra tiếng động. 

Thế nhưng tính trước tính sau, không ngờ lại bỏ sót mất con quái điểu thông linh này của Trầm Lạc Nhạn. 

“Oác! Oác! Oac!”. 

Quái điểu bay về phía Đông Bắc, chính là hướng mà kỵ binh Lý Mật đang tiến tới, lúc này đã ẩn ước nghe tiếng ngựa hý, tiếng vó ngựa nện xuống đường. 

Dương Công Khanh hét lớn: “Tả hữu đi trước!”. 

Tù và vang lên. 

Ba ngàn quân tiên phong phóng ra khỏi rừng theo hai hướng tả, hữu, vòng thành một vòng cung, đánh thốc vào bên hông quân địch. Sau đó trung quân cũng ồ ạt tiếng lên, đội hình chỉnh tề dàn trải trên bình nguyên, thẳng tiến về phía khu rằng thưa nơi địch nhân đang hành quân. Roi ngựa vung lên hoa cả mắt, chiến mã hý vang trời, đại chiến lại chuẩn bị khai diễn. 

Từng đợt từng đợt kỵ binh trào lên thảo nguyên như từng đợt sóng xô bờ, những bộ khôi giáp sáng ngời lên trong ánh ban mai. 

Đất bằng như lùi lại phía sau, 

Chỉ trong nháy mắt, tám ngàn kỵ binh đã tiến vào khu rừng thưa, lao về phía địch nhân với tốc độ không hề giảm sút. 

Do địch nhân chỉ có khoảng tám ngàn, vì vậy bọn Khấu Trọng hoàn toàn không hề cố kỵ điều gì, dựa vào ưu thế về binh lực, nhanh chóng áp sát đối thủ. 

Hi vọng duy nhất bây giờ chính là đánh nhanh thắng nhanh, tốt nhất là địch nhânn chưa kịp triệt thoái hay chỉnh đốn đội ngũ, đã để bọn họ đuổi kịp, đánh cho Lý Mật một trận tơi bời hoa lá. 

Khấu Trọng, Linh Lung Kiều, Trác Kiều, Từ Tử Lăng phóng lên một ngọn đồi cao, chỉ thấy bên ngoài khu rừng bụi cuộn lên thành từng đám, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng tiếng mỗi lúc một xa dần.

Trác Kiều hét lớn: “Đuổi theo!”. 

Khấu Trọng lên tiến ngăn lại: “Không được!”. 

Trác Kiều tức giận quát: “Tại sao không đuổi, Lý Mật đang chạy đó!”. 

Dương Công Khanh lúc này đã đến bên cạnh chúng nhân. 

Khấu Trọng hỏi Linh Lung Kiều: “Bụi cuốn lên thế kia là đều đặn hay là tán loạn vậy?”. 

Linh Lung Kiều ghìm cương con chiến mã đang thở phì phò, rồi nói: “Đội hình của quân Ngõa Cương vẫn rất chỉnh tề, tản nhưng không loạn”. 

Khấu Trọng gật đầu nói: “Đúng như ta dự đoán, Trầm Lạc Nhạc sớm đã đoán được có phục binh, thế nên mới dùng quái điểu dụ chúng ta đuổi theo. Ta dám khẳng định trong rừng nhất định còn phục binh, khi chúng ta đạp chân vào cạm bẫy, Lý Mật sẽ lập tức quay đầu phản kích”. 

Dương Công Khanh hét: “Rất có lý!”. 

Nói đoạn lập tức sai người dùng tù và ra lên ngừng tiến công, chỉ thị hai đội tiên phong tả hữu ngưng lại. Trác Kiều dù sao cũng là hậu nhân nhà tướng, mau chóng hiểu ra, nhưng tình cảm vẫn bị xao động, trong mắt rực lửa căm hờn. 

Từ Tử Lăng lưu ý Khấu Trọng, thấy sắc mặt gã vẫn bình tĩnh như thường, song mục sáng rực thần quang, lạnh lùng và đầy trí tuệ. 

Đây là lần đầu tiên gã thấy Khấu Trọng có thần sắc này, trong lòng không khỏi rúng động, nhớ lại những lời gã huynh đệ này đã nói khi đối mặt với thiên binh vạn mã của Đỗ Phục Uy ở Cảnh Lăng. Đó chính là coi thường sinh tử, coi chiến trường như một bàn cờ lớn, cả quân ta lẫn quân địch đều là những quân cờ trên bàn cờ lớn đó. Trải qua trận chiến ấy, Khấu Trọng từ một tên tiểu tử không biết gì về chiến sự, đã trở thành một vị thống soái mưu lược xuất chúng, liệu địch như thần. 

Dương Công Khanh khiêm tốn thỉnh giáo gã: “Hiện giờ chúng ta nên xử trí thế nào?”. 

Khấu Trọng quyết đoán nói: “Chúng ta chỉ cần để lại mấy ngàn người ở đây bố phòng, khiến cho Lý Mật tiến thoái lưỡng nan, còn đội xe chở quân nhu vẫn tiếp tục vượt sông, đồng thời chia ra một phần quân lực tiến về Lạc Khẩu, đánh cho chúng trở tay không kịp”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Nếu như Lý Mật trở về Lạc Khẩu, có phải chúng ta vẫn công hay không?”. 

Khấu Trọng đáp: “Lý Mật sẽ không cam tâm rút lui đâu, hắn ta vẫn còn một hi vọng nữa, đó là Đơn Hùng Tín. Khi Đơn Hùng Tín thừa lúc chúng ta tiến quân Lạc Khẩu mà triệt thoái, thì hắn mới hối hận mà không làm gì được, chỉ còn một con đường duy nhất là đào tẩu về Hổ Lao mà thôi”. 

Ở phía xa xa, bụi cát thôi không cuốn lên, rõ ràng quân Lý Mật biết rõ gian kế bại lộ, nên đã dừng lại. Hành động này càng làm tăng theo sức thuyết phục và uy tín của lời nói của Khấu Trọng. 

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Tác dụng của kỵ binh chính là đến Lạc Khẩu trước một bước, ngăn ngừa Lý Mật vượt sông về thành, vậy thì Bính Nguyên Chân chỉ có hai con đường để lựa chọn, một là đầu hàng, một là bỏ thành đào tẩu”. 

Dương Công Khanh cười dài nói: “Tốt lắm, cứ quyết định như vậy đi!”. 

  

oOo 

  

Bảy ngày sau đó, đã quyết định vận mệnh của nhất đại kiêu hùng Lý Mật. 

Đại tướng trấn thủ Lạc Khẩu là Bính Nguyên Chân đã đầu hàng Dương Công Khanh. Một đại tướng khác của Lý Mật là Đơn Hùng Tín thì ôm binh tự thủ, cuối cùng bị Đồ Thúc Phương thuyết phục quy hàng. Lý Mật biết đại thế đã mất, đành dẫn tàn quân chạy về Hổ Lao, còn Vương Bá Đương thì thủ ở Hà Dương. 

Khấu Trọng, Dương Công Khanh thì tiếp tục chỉnh đốn quân mã, chuẩn bị thừa thắng truy kích, đoạt lấy Hổ Lao Quan. Chẳng ngờ Lý Mật nghe phong thanh đã đào tẩu trước, chạy về Hà Dương hội quân với Vương Bá Đương. Y vốn định lấy Hoàng Hà làm bình phong, dựa vào Thánh Hành Sơn ở phía Bắc, phía Đông liên kết với Lê Dương, ý đồ vãn hồi lại bại cục. 

Chỉ là sau khi đại bại, quân tâm đã rã rời, tan tác. 

Thêm nữa kể từ sau cái chết của Trác Nhượng, trong quân Ngõa Cương đã có mầm mống của sự chia rẽ, các cựu tướng đều lần lượt cự mệnh, khiến cho Lý Mật có lực mà không thể thi triển, có tài mà không có đất dụng võ. 

Còn quân của Vương Thế Sung thì vì vừa chiếm được nhiều thành trì và một vùng đất rộng lớn, nên cũng cần nghỉ ngơi để chỉnh đốn, nhất thời cũng khó thể vượt sông tiến đánh Hà Dương, ngoài ra còn phải giữ lực khí để bình định khu vực Hà Nam, cục thế tạm thời trở thành hai quân đối đầu cách một con sông. 

Đêm nay, trong một gian khách sảnh ở hậu viện của Hổ Lao Hành Phủ, Đồ Thúc Phương dẫn Trác Kiềi đến gặp Khấu Trọng và Từ Tử Lăng. “Ta đã kể với đại tiểu thư chuyện của Tố Tố và tình hình phương Nam hiện nay, vì ta thấy dù sao nói thẳng ra cũng tốt hơn”. 

Trác Kiều trợn mắt lên nhìn hai gã nói: “Chuyện quan trọng như vậy mà hai ngươi cũng dám giấu ta, có tin ta giết hai ngươi cùng một lượt với tên tiểu tử xấu xa Hương Ngọc Sơn kia không?”. 

Hai gã chỉ cúi đầu im lặng, không dám phản biện tiếng nào. 

Trác Kiều lại nói: “Ta đâu phải là người không biết nói lý lẽ, lần này Lý Mật đã nếm mùi đau khổ, vĩnh viễn cũng không còn hi vọng trở mình, tuy chưa thể đích thân giết chết tên gian tặc đó, song cũng coi như là thay cha báo phục được phần nào. Ta không muốn tiếp tục xuất lực cho loại người như Vương Thế Sung nữa, các ngươi có dự định gì không?”. 

Khấu Trọng nói: “Chúng tôi muốn trở lại Lạc Dương trước, sau đó lập tức Nam hạ, trợ giúp Phi Mã Mục Trường chuyển nguy thành an, rồi tìm cách đón mẫu tử Tố tỷ về hội hợp với đại tiểu thư”. 

Trác Kiều kiên quyết nói: “Ta đi cùng với các người”. 

Khấu Trọng cả kinh, vội vàng xua tay nói: “Tiểu thư ngàn vạn lần không nên đi”. 

Trác Kiều tức giận trừng mắt lên: “Tại sao?”. 

Đồ Thúc Phương thấy tình thế bất diệu, vội vàng trượng nghĩa ra tay giải vây: “Ý của Tiểu Trọng là hi vọng tiểu thư có thể ở lại phương Bắc, giúp hắn liên kết các nhân tài hữu dụng trong quân Ngõa Cương, để sau này cùng hắn sáng lập đại nghiệp”. 

Từ Tử Lăng cũng nói: “Tiểu thư ở lại phương Bắc, giám sát Lý Mật, tiện thể chờ cơ hội lấy mạng chó của hắn”. 

Câu nói này lập tức thuyết phục được Trác Kiều. 

Nàng trầm ngâm giây lát rồi trầm giọng nói: “Được rồi! Ta sẽ lưu lại phương Bắc, có điều ta không muốn hợp tác với hạng người như Vương Thế Sung nữa,  các ngươi định bao giờ thì rời khỏi đây?”. 

Khấu Trọng nói: “Sự việc không thể chậm trễ, sáng sớm mai chúng ta sẽ cùng đi khỏi đây”. 

Sau khi Khấu Trọng nói ra ý muốn trở về Lạc Dương với Dương Công Khanh, chưa kịp giải thích nguyên nhân thì y đã trầm giọng hỏi: “Khấu tiểu huynh muốn kết thúc ở đây đúng không?”. 

Khấu Trọng ngần ngừ nói: “Đại tướng quân thật tinh minh”. 

Dương Công Khanh đặt tay lên vai Khấu Trọng, song mục sáng rực tinh quang: “Khấu tiểu huynh là nhân tài làm thống soái mà Dương mỗ đây bình sinh mới gặp lần đầu, sau này có thêm kinh nghiệm, đảm bảo có thể tung hoành thiên hạ không có đối thủ, không biết trong lòng ngươi đã có kế hoạch gì chưa?”. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Tạm thời thì có thể có kế hoạch gì chứ? Chỉ là cảm thấy Vương công không phải là người có thể cùng cộng sự, nên nhân lúc thành công mà rút lui trước, sau này mọi người vẫn còn chút giao tình”. 

Dương Công Khanh thở dài: “Ta hiểu cảm giác của ngươi, luận công ban thưởng, làm sao lại không có phần của ngươi cho được? Sáng mai ta sẽ phái chiến thuyền đưa các ngươi về Lạc Dương, lý do là để ngươi đích thân hồi báo quân tình với đại nhân đồng thời thỉnh thị ý kiến xem có nên lập tức vượt sông tấn công Hà Dương hay không. Nhưng nếu ngươi đã có ý ra đi, thì Lạc Dương không phải là nơi có thể ở lại lâu, ngươi có hiểu ý ta không?”. 

Khấu Trọng cảm động nói: “Ta sẽ không bao giờ quên những thời khắc được cùng đại tướng quân kề vai tác chiến”. 

Dương Công Khanh buông tay khỏi vai gã, cười lớn nói: “Hay lắm! Hi vọng chúng ta có cơ hội cùng nhau kề vai sát cánh, giết địch trên sa trường lần nữa!”. 

  

oOo 

  

Khấu  Trọng trở về hậu viện, thì chợt nghe có người nấp sau chiếc cột gọi: “Khấu gia!”. 

Gã quay lại nhìn thử, thì ra là nàng tiểu tỳ xinh đẹp của Trác Kiều, Sở Sở. 

Mỹ nhân này níu lấy chéo áo gã, kéo ra khu rừng trúc trong vườn, cúi đầu buồn bã nói: “Nghe tiểu thư nói sáng mai phải chia tay với Khấu gia và Từ gia rồi, có phải vậy không?”. 

Khấu Trọng cảm thấy tim mình như thắt lại, không kềm chế được lòng mình, đưa tay vuốt nhẹ lên gò má phấn của nàng, dịu dàng nói: “Sau khi giải quyết xong chuyện ở phương Nam, ta nhất định sẽ quay lại tìm mọi người, lúc ấy Sở Sở còn gặp được Tố tỷ và hài tử mập mạp đáng yêu của tỷ ấy nữa đó”. 

Sở Sở mừng rỡ reo lên: “Vậy thì thật hay quá!”. Nhưng rồi lại lập tức buồn bã nói: “Nhưng tỳ tử lại không được gặp Khấu gai trong một thời gian dài”. 

Khấu Trọng thở dài, lấy ra chiếc vòng mà năm xưa nàng tặng cho gã, mỉm cười nói: “Nhìn đây! Không phải lúc nào nàng cũng ở bên ta hay sao?”. 

Sở Sở khẽ run lên, hai mắt lộ rõ vẻ kinh ngạc và vui mừng, kế đó thì bổ nhào vào lòng gã, ôm gã thật chặt, nước mắt trào ra trên gương mặt xinh đẹp. 

Khấu Trong đỡ lấy thân thể mềm oặt của Sở Sở, hít mùi hương vừa lạ lùng mà vừa thân quên tỏa ra trên người nàng, nhớ lại cảnh tượng kinh hoàng năm xưa ở Trác phủ, hai tay bất giác ôm chặt lấy tấm lưng thon thả, miệng dịu dàng an ủi: “Đừng khóc, chỉ cần chúng ta có thể sống sót trong thời loạn thế này, thế nào cũng có một ngày được hạnh phúc ở cùng nhau, mãi mãi không phải chia lìa”. 

Trong giờ khắc này, bất luận là Tống Ngọc Trí hay Lý Tú Ninh, đều trở nên mơ hồ và xa xăm với gã. 

Sở sở cựa mình rời khỏi vòng tay ấm ấp của Khấu Trọng, lúng túng nói: “Sở Sở thất lễ rồi!”. 

Khấu Trọng không kềm được ôm nàng vào lòng một lần nữa, cảm nhận tình cảm dạt dào của nàng dành cho mình: “Nhớ kỹ! Khấu Trọng ta chưa bao giờ nghĩ nàng là hạ nhân, trước đây cũng vậy, sau này cũng vậy”. 

Toàn thân Sở Sở run lên, cảm động nói: “Khấu gia hãy bảo trọng”. 

Nói xong liền gạt lệ chạy đi. 

Khấu Trọng lại thở dài. 

Vì sự nghiệp, gã có phải hi sinh nhiều thứ như vậy không? 

Nếu gã chỉ là một tên tiểu tử không có đại chí, lúc này chắc đã cùng nàng thệ hải minh sơn, cùng nhau so cánh uyên ương rồi. Thế nhưng gã đang ở tình thế không thể tự rút ra được nữa rồi, người của Song Long Bang đang ở Quan Trung đợi chờ gã đến để tìm kiếm Dương Công Bảo Khố. 

Phi Mã Mục Trường đang rơi vào hiểm cảnh. 

Mẫu tử Tố Tố vẫn còn ở trong tay gian tặc. 

Còn gã và Từ Tử Lăng thì cừu nhân khắp thiên hạ, mỗi bước đi đều hung hiểm vạn phần. 

Đây chính là cái giá mà gã phải trả. 

  

oOo 

  

Chiến thuyền ngược dòng về phía Tây. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng sánh vai đứng trên đầu thuyền, nghênh đón cơn gió sông mát lạnh và vận mệnh không thể đoán trước. 

Khấu Trọng nói: “Chỉ cần tìm được Hư Hành Chi, chúng ta sẽ lập tức rời khỏi Lạc Dương, cho dù là trở mặt với Vương Thế Sung, ta cũng phải đi”. 

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Vương Thế Sung tuyệt đối không dám công nhiên làm gì chúng ta đâu, bằng không y làm sao phục chúng. Huống hồ Lý Mật vẫn còn chưa chết, y không ngu đến nỗi tự làm dao động quân tâm đâu”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Nói có lý, ta cũng nghĩ vậy đó”. 

Từ Tử Lăng trầm mặc không nói gì, 

Khấu Trọng thở dài: “Ta cảm thấy giống như nằm mơ vậy, đến giờ vẫn không tin rằng Lý Mật danh chấn thiên hạ đã bị chúng ta đánh bại”. 

Từ Tử Lăng thở dài nói: “Sẽ có một ngày ngươi phát giác đời người chỉ là một giấc mộng, hoàng đế bá nghiệp, tất cả chẳng có gì là chân thực cả”. Nói tới đây, bất giác gã lại nghĩ đến thiếu nữ thanh nhã như tiên tử giáng phàm Sư Phi Huyên. 

Khấu Trọng thì lại nhớ đến Sở Sở lúc nàng gục mặt vào lòng mình mà khóc nức nở. 

Một trận gió thổi đến làm y phục hai gã bay phần phật, Đông Đô Lạc Dương đang ở trước mắt, khí thế vẫn như xưa. 

Toà thành vĩ đại này, có phải sẽ có một ngày thất thủ không? 

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

Dịch giả: Ngọc Diện Hồ

Hồi 216

Rơi vào hiểm cảnh

Mặt trời ngả dần về Tây. 

Chiến thuyền tiến vào Lạc Dương, đi dọc Lạc Thủy về phía Hoàng Thành. 

Trên tường thành và các lầu canh dọc bờ sông, kỳ hiệu tung bay phấp phới, cảnh tượng như chờ đón đoàn quân khải hoàn trở về sau trận chiến vang dội, 

Trên sông, thuyền bè vẫn tấp nập đến đến đi đi, trên bờ người xe chen chúc, phồn hoa thịnh vượng, khi thấy chiến thuyền vào thành, người ở hai bên đường không ai là không chen chúc ra sát bờ sông vậy tay hoan hô, không khí nóng dần lên. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chẳng hề bị ảnh hưởng của bầu không khí náo nhiệt và phấn khích này, gã họ Khấu ngẩng đầu lên nhìn tiêu ký trên lá cờ, giật mình thốt: “Dương Động cuối cùng đã bị bức thoái vị rồi”. 

Đây tuy là một chuyện tất nhiên phải xảy ra, song vẫn hơi quá sớm so với dự liệu của hai gã, có thể thấy Vương Thế Sung đã nôn nóng xưng đế lắm rồi, từ nay Trung Nguyên lại có thêm một vị hoàng đế tự xưng. 

Từ Từ Lăng trầm giọng: “Ta không muốn gặp Vương Thế Sung”. 

Khấu Trọng gật đầu đồng ý: “gặp y cũng chẳng có ý nghĩa gì, thử tìm xem có thể gặp Bốc Thiên Chí không, ta và Hư Hành Chi sẽ đến tìm ngươi hội hợp, rồi nhân đêm tối mà rời thành. Hà! Ta chợt có cảm giác bất thường, nếu ta gặp phải điều gì bất trắc, ngươi hãy giết Vương Thế Sung báo cừu cho ta nhé!”. 

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Âu Dương Hi Di lẽ nào lại để Vương Thế Sung giết ngươi? Với địa vị trên giang hồ của lão, Vương Thế Sung thế nào cũng vẫn phải nể mặt hai ba phần. Trừ phi có những cao thủ như lão và Trần Trường Lâm tương trợ, bằng không Vương Thế Sung cũng khó mà giữ ngươi lại được. Chỉ cần ngươi tùy cơ ứng biến, có lẽ không có vấn đề gì đâu”. 

Nói thì nói vậy, nhưng hai gã vẫn bàn luận đủ mọi cách ứng biến với Vương Thế Sung, sau đó Từ Tử Lăng mới tung mình bay vào lùm cây ven sông, trong nháy mắt đã biến mất vô tung vô ảnh. 

  

oOo 

  

Chiến thuyền đậu ở bến cảng bên ngoài Hoàng Thành. 

Vương Huyền Ứng, Lang Phụng và Tống Mông Thu dẫn theo các tướng lĩnh và quân sĩ ra nghênh đón, rồi cùng Khấu Trọng đi vào thành môn. Khấu Trọng thúc ngựa đi chầm chậm, thuận miệng hỏi thăm tình hình của Vương Thế Sung. 

Vương Huyền Ứng thở dài: “Một quyền của Lý Mật đích thực không phải tầm thường, đến giờ cha vẫn chưa thể ra khỏi giường được, có điều tinh thần đã tốt hơn rất nhiều rồi, người đã chờ gặp Khấu quân sư cả ngày nay rồi đó”. 

Thái độ khách khí và cung kính một cách bất ngờ của Vương Huyền Ứng làm Khấu Trọng cảm thấy tóc gáy dựng ngược lên, gai ốc nổi khắp mình, trong lòng thầm sợ hãi, theo lý thì nếu Vương Thế Sung vẫn còn nằm liệt giường không dậy nổi, thì tuyệt đối không gấp gáp xưng đế đến vậy. Nhưng tại sao Vương Huyền Ứng phải nói dối? Khấu Trọng len lén lau mồ hôi, rồi lại hỏi tiếp: “Di lão vào Trường Lâm huynh có khỏe không?”. 

Tống Mông Thu đi bên cạnh cười giả dối nói: “Bọn họ đang ở bên cạnh thánh thượng, đợi chờ đại giá của Khấu quân sư”. 

Khấu Trọng nghe mà lòng như trầm xuống, Âu Dương Hi Di xưa nay luôn rất có cảm tình với gã và Từ Tử Lăng, hay tin bọn gã trở về, thế nào cũng phải tranh đi đón tiếp mới hợp với lẽ thường. Hiện giờ không giống như trước đây nữa, tất cả Đông Đô đều đã nằm trong sự khống chế của Vương Thế Sung, Âu Dương Di Hi cũng không vần một ngày mười hai canh giờ ở bên cạnh y hộ vệ làm gì, ngoài ra, ít nhất Hư Hành Chi cũng phải ra nghênh đón gã mới đúng. 

Đột nhiên, gã có cảm giác mình đang bước chân vào miệng hộ. 

  

oOo 

  

Từ Tử Lăng đến nơi trú chân của Bốc Thiên Chí ở Lạc Dương, phát giác chỉ còn một căn nhà trống, bên trong đồ vật ngổn ngan, rõ ràng là người đã bỏ đi một cách vô cùng vội vã. 

Kỳ quái nhất là không hề thấy bất kỳ tiêy ký hay ám ký nào lưu lại như ước hẹn của gã và Khấu Trọng với họ Bốc, đây là chuyện hết sức bất bình thường. 

Gã mệt mỏi ngồi xuống một góc nhà, thầm nhỉ nếu sự mất tích này là của Bốc Thiên Chí có liên quan đến Vương Thế Sung, vậy thì Khấu Trọng sẽ gặp phải nguy hiểm rồi. Có điều gã vẫn không quá lo lắng, bở Vương Thế Sung muốn gia hại Khấu Trọng cũng không phải chuyện dễ. 

Từ Tử Lăng đang trầm ngâm suy tư thì chợt nghe tiếng bước chân. Với sự bình tĩnh quyết đoán xưa nay của Từ Tử Lăng, vậy mà cũng không khỏi biến sắc, bởi vì dựa vào tiếng bước chân, gã đã nhận ra người đến là ai. 

Cùng lúc cũng biết được Khấu Trọng đã rơi vào nguy hiểm tột cùng. 

  

oOo 

  

Vương Thế Sung hiện giờ sợ hãi nhất rốt cuộc là ai? Trước đây đương nhiên kẻ này là Lý Mật. Nhưng sau khi Lý Mật đại bại, tình thế đã thay đổi. Ở vùng lưu vực Hoàng Hà, đã ngấm ngầm hình thành thế chân vạc, Đường có Quan Tây, Trịnh được Hà Nam, Hạ lấy Bắc Hà. 

Thế nhưng đối với Trịnh Đế Vương Thế Sung này mà nói, tranh bá thiên hạ vẫn còn là chuyện rất xa vời, việc đầu tiên mà y cần làm trước mắt, chính là phải ổn định nội bộ, củng cố thành quả của trận đại thắng Lý Mật vừa rồi. 

Nếu như Vương Thế Sung có thể đích thân chỉ huy trận đại chiến với Lý Mật ở Mang Sơn, vậy thì sự vinh hiển và uy vọng của chiến thắng đó sẽ quy hết về y, làm cho y không cần cố kỵ người nào nữa. 

Nhưng sự thực không phải vậy. 

Hiện giờ Khấu Trọng đã vô ý xây dựng được một uy vọng cao vời trong tập đoàn quân sự của Vương Thế Sung, lại phát triển được quan hệ mật thiết với các đại tướng thủ hạ của y, gã không làm Vương Thế Sung nghi kỹ mới là lạ. 

Chỉ xem chuyện Vương Thế Sung đại phong thân tộc đã biết y là kẻ tự tư hẹp hòi, lại có cả tấm gương Trác Nhượng vẫn còn rành rành trước mắt, y làm sao có thể để Khấu Trọng trở thành một Lý Mật thứ hai? 

Thêm vào quan hệ của Khấu Trọng và Trác Kiều, ai cũng đoán được gã có thể dễ dàng thu phục hàng binh bại tướng của họ Lý về với mình, vậy không phải Vương Thế Sung đã nuôi hổ trong nhà rồi. 

Những ý nghĩ này không ngừng hiện lên trong đầu Khấu Trọng, càng nghĩ gã lại càng kinh hãi. 

Nhân mã đã vào trong Hoàng Thành, tiến về phía thượng thư phủ. 

Tại sao không đến thẳng Hoàng Cung, cho dù Vương Thế Sung không thể rời khỏi giường, theo lý vẫn có thể để kẻ dưới kiệu vào cung, cớ gì lại vẫn ở trong thượng thư phủ. 

Thanh âm của Vương Huyền Ứng vang lên bên tai gã: “Tử Lăng huynh sao không cùng quân sư đến tham kiến phụ hoàng?”. 

Khấu Trọng mãi lo nghĩ chuyện khác, nên chỉ đáp qua loa: “Hắn gống như một đóa phù vân trên trời vậy, không có hứng thú để ý đến những chuyện trần thế này, ta cũng không quản nổi! Hà…!”. 

Tiếng thở dài cuối cùng, là gã cảm thán cho tình cảnh hiện tại của mình mà phát ra. Trong tình hình hung hiểm tột bực thế này, gã làm sao mới liên lạc được với Hư Hành Chi? Thượng thư phủ đã hiện ra trước mắt, cánh cổng lớn sáng rực đèn hoa như một cái miệng khổng lồ của con ác thú đang mở lớn ra, chờ đợi món mỹ thực như gã tự chui đầu vào trong. Có thể khẳng định rằng nếu như bước qua cánh cửa đó, Khấu Trọng gã sẽ vĩnh viễn không thể dựa vào sức của bản thân mà bước ra lần nữa. 

Khấu Trong ghìm cương dừng lại, nhảy xuống ngựa đầu tiên. 

Vô số ý nghĩ hiện lên trong đầu gã, kết luận cuối cùng vẫn là tam thập lục kế, tẩu vi thương sách. 

Hiện giờ gã và Tử Tử Lăng đã trở thành cao thủ được thiên hạ công nhận, Vương Thế Sung nếu muốn lấy cái mạng nhỏ của bất cứ ai trong hai gã, ngoại trừ chuẩn bị thực lực đầy đủ ra, vẫn còn phải có hình thế và bốc cực nhất định, thì mới có cơ hội thành công được, mà đại sảnh đường của Thượng thư phủ có thể coi là một địa điểm hết sức thuận lợi. 

Vương Huyền Ứng nhảy xuống ngựa, bước lại cạnh gã, vui vẻ nói: “Khấu quân sư, mời!”. 

Khấu Trọng hít sâu một hơi, cuối cùng cũng đưa ra một quyết định mang tính quyết định cho cuộc đời mình. 

  

oOo 

  

Sau khi phá tường nhảy ra, Từ Tử Lăng còn chưa có cơ hội bật dậy thì chân tả đã cảm thấy bị siết chặt, ngọn trường tiên mang tên Quy tàng của Uất Trì Kính Đức đã lướt trên mặt đất như một con ác xà quấn chặt lấy gót chân gã. 

Những lỗ tròn trên thân tiên hút chặt vào da thịt Từ Tử Lăng. 

Nếu Từ Tử Lăng chưa từng thấy Uất Trì Kính Đức giao thủ với Vương Bạc, lúc này có lẽ gã đã dùng thiên phương bách kế để giằng chân ra khỏi ngọn tiên vướng víu nơi gót chân. Song qua trận ác chiến với Vương Bạc, gã đã nhận ra sự lợi hại của tiên pháp thiên biến vạn hóa của cao thủ Thiên Sách Phủ này, trong lòng hiểu rõ nếy muốn tỷ đấu biến hóa với đối phương, chân tả của gã đừng hòng giữ được hoàn chỉnh. 

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng, chân tả để nguyên vậy dẫm mạnh xuống đất, cả người đang nằm dưới đất bật thẳng dậy như một cây thiết bảng. 

“Păng!”. 

Quy Tàng tiên bị kéo cho thẳng băng, Từ Tử Lăng đứng yên bất động, một đầu ngọn trường tiên bị gã dẫm chân lên, đầu kia nằm trong tay Uất Trì Kính Đức đang đứng cách đó ba trượng. Người này tay nắm chặt chuôi tiên, trầm eo tọa mã, dáng vẻ uy mãnh phi thường, có điều trong lòng lại thầm kinh hãi, vừa rồi y liên tiếp thi triển thủ pháp tinh diệu, đầu tiên là định kéo lê Từ Tử Lăng trên mặt đất, sau đó lợi dụng lực hút của những lỗ tròn trên thân tiên để làm gãy xương mắt cá của đối thủ. Chẳng ngời lại bị Từ Tử Lăng khéo léo vận dụng nội kình, giự chặt lấy thân thiên, rồi dùng gót chân giữ chặt không cho y thu về. Kỳ chiêu như vậy, đích thực hoàn toàn không nằm trong sở liệu của Uất Trì Kính Đức. 

Tiếng gió nổi lên khắp bốn phía. 

Năm bóng nhân ảnh lần lượt xuất hiện trên nóc nhà và đầu tường, vây Từ Tử Lăng vào giữa. 

Bàng Ngọc tay cầm một cây kiếm dài bốn thước đứng trên đầu tường, y phục tung bay trong gió đêm, thập phần tiêu sái, nhưng nhãn thần lại sắc bén như chim ưng rình mồi, từ cao nhìn chăm chăm xuống Từ Tử Lăng đang ung dung đứng giữa vòng vây. 

  

Trưởng Tôn Vô Kỵ vận nho phục màu xanh, hai tay chắp sau lưng đứng đối diện với Uất Trì Kính Đức, bên hông dắt một cây ngọc tiêu, dáng điệu xuất trần thoát tục, tuyệt chẳng có vẻ gì là muốn bạt kiếm dương cung, mà tự nhiên cởi mở như là đến hội hợp với văn hữu vậy. 

Thế nhưng Từ Tử Lăng tuyệt đối chẳng dám coi thường người này, chỉ nhìn khí độ thâm sâu như biển, trầm ổn như núi của y, gã đã biết võ công của người này quyết chẳng thể dưới Uất Trì Kính Đức. 

Ba người khác lần lượt là La Sĩ Tín tay nắm đơn đao, Sử Vạn Bảo cầm trường mâu và Lưu Đức Uy song thủ giữ trưởng côn, đứng tản ra bốn phía, khóa chặt đường lui của Từ Tử Lăng. 

Từ Tử Lăng ngưng mục nhìn lỗ hổng trên tường do mình làm vỡ và những miếng gỗ vụn trên mặt đất, trầm giọng hỏi: “Dám hỏi Thế Dân huynh, ngoại trừ Dương Hư Ngạn ra, còn ai trợ giúp Vương Thế Sung đối phó Khấu Trọng nữa?”. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng vận nội kình, trầm giọng nói: “Nếu Vương công còn niệm chút tình xưa, xin hãy ra đây nói chuyện!”. 

Vương Huyền Ứng, Lang Phụng, Tống Mông Thu và đám thân binh đứng cạnh đều lộ vẻ ngạc nhiên, kế đó có đến quá nửa đặt tay lên binh khí, khẽ rút ra đôi chút, tức giận trừng mắt lên nhìn gã. 

Thanh âm truyền đi khá xa, hỏi vọng khắp Hoàng Thành. 

Không một thanh âm nào vang lên đáp lại. 

Tống Mông Thu hừ nhẹ một tiếng, nháy mắt ra hiệu cho những người khác chớ vội vọng động, rồi nói với Khấu Trọng: “Khấu quân sư hiểu lầm rồi! Thánh thượng vẫn nằm trên long sàn dưỡng thương, hà…”. 

Khấu Trọng mỉm cười ngắt lời: “Tống tướng quân không phải nói Di lão và Trường Lâm huynh cũng ở trong phủ hay sao? Tại sao bọn họ không lên tiếng vậy?”. 

Tống Mông Thu lập tức cứng họng không nói được gì. 

Khấu Trọng được thế liền thừa thắng xông lên, cười dài nói: “Cổ nhân có dạy, chim hết thì cất cung, thỏ hết thì chó cũng vào nồi! Hừ!”. 

“Cheng! Cheng!”. 

Bọn Vương Huyền Ứng không đợi gã nói dứt lời, đã lộ ngay ra đuôi hồ ly, lần lượt rút binh khí. 

Khấu Trọng lại cười thêm một tràng nữa, nhún chân nhảy lên cao. Tống Mông Thu, Lang Phụng và Vương Huyền Ứng cũng lập tức tung mình lên đuổi theo. 

Vô số tiễn thủ xuất hiện trên nóc các nhà cửa quanh đó, nhất thời sát khi bốc cao ngút trời, tiếng hò hét vang động cả một góc Hoàng Thành. 

Chẳng ngờ Khấu Trọng nhảy lên chưa được hai trượng thì đã lăng không hoán khí, đổi hướng lao về phía thạch cấp của Thượng thư phủ. 

Chiêu này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của chúng nhân, còn bọn Vương Huyền Ứng, Lang Phụng thì ko ai có bản lĩnh lăng không hoán khí như Khấu Trọng, nên đều vượt qua đầu gã, nhảy lên cao quá hai trượng, ngược lại làm cho mấy trăm tiễn thủ đứng trên mái nhà ném chuột sợ vỡ đồ, không dám phóng tiễn. 

Khấu Trọng chưa chạm chân xuống đất, Tỉnh Trung Nguyệt đã rời bao. 

Hơn mười tên thân binh của Vương Thế Sung ồ ạt lao đến như lang hư hổ, một trận hỗn chiến sắp sửa hình thành. 

Khấu Trọng biết rõ nếu để đám thân binh này cầm chân thêm một lúc, tất sẽ rơi vào trùng vây, khi ấy thì dù là Ninh Đạo Kỳ cũng khó mà thoát khỏi vận mệnh phải tử chiến. Nghĩ đoạn liền gầm lên, người đao hợp nhất, lao thẳng vào trận địch. 

Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành một quầng hàn quang hộ thể, hai tên thân binh đầu tiên lập tức bị đánh cho ngã nhào. 

“Đang!”. 

Một kẻ khác cả người lẫn kiếm bị gã hất văng ra phía sau, liên tiếp đụng phải hai người khác, cùng lăm xuống bên dưới thạch cấp. 

Lúc này bên dưới thạch cấp đã ầm vang tiếng hò hét, đao quang kiếm ảnh rợp trời, địch nhân tràn lên như sóng thủy triều, nhất thời cũng không rõ là có bao nhiêu người nữa. 

Khấu Trọng không dám nhảy lên, bất ngờ dịch người sang ngang, tránh khỏi hơn mười tên địch đang bổ nhào tới, phóng về phía cửa gần Thượng thư phủ nhất là Tuyên Nhân Môn ở phía Đông, sát cơ dâng đầy trong lồng ngực. 

Địch nhân lập tức tràn ra cản bước. 

Khấu Trọng biết rõ ở Tuyên Nhân Môn ắt hẳn có cao thủ chờ sẵn, nên chỉ giả bộ chạy về phía đó để dụ địch. Sự thực thì nếu đóng tất cả thành môn của Hoàng Thành và Hoàng Cung lại, rồi bố trí tiễn thủ đứng trên các tường thành cao đến mấy trượng thì nơi này lập tức sẽ biến thành tuyệt địa, cả loài cầm điểu cũng khó mà bay lọt. 

Cũng may là trong thành đình đài lầu các san sát, bốn phía xung quanh các lầu cao đều có tường bao kín, nhưng trên tường đều có cửa ra vào, giữa các đình đài, lầu các đều có đường nối liền với nhau, tựa hồ như một mê cung lớn vậy. 

Vương Thế Sung là một kẻ ưa sĩ diện, tuyệt đối không muốn để chuyện xấu xa của mình truyền ra ngoài, vì vậy mới muốn dụ gã vào Thượng thư phủ rồi mới ra tay sát hại, tránh để máu của gã dây trong hoàng thành. 

Khấu Trọng đoán định chỉ cần gã có thể thoát khỏi phạm vi của Thượng thư phủ, lực lượng truy sát gã của Vương Thế Sung sẽ giảm bớt một phần đáng kể, hi vọng đào thoát của gã cũng lớn hơn rất nhiều. 

Khấu Trọng lại đổi hướng lần nữa, vòng ra phía sau Thượng thư phủ, lao về phía Thái Bộc Tự và Tướng tác Giám, sau khi vượt qua hai tòa kiến trúc hùng vĩ này, chính là Đại Lý Tự, Tông Chính Tự, Đô Thủy Giám và Vệ Úy Tự, kế đó là Hàm Gia Môn và lối ra phía sau Thượng thư phủ, tràn về phía gã. 

Trên tường bóng người thấp thoáng, tất cả đều là địch nhân. 

Vượt qua tường đào thoát, đây căn bản là một chuyện không thể thực hiện. Nếu như không có địch nhân đứng trên ngăn cản, với bản lĩnh lăng không hoán khí của gã, họa may có thể miễn cưỡng làm được, song dưới đao thương kiếm kích vô tình của địch nhân, nhảy lên thật chẳng khác gì tự sát là mấy. 

Giờ gã chỉ có thể rời thành qua năm cửa lớn. 

Đầu tiên là Tuyên Nhân Môn và Đông Thái Dương Môn, nằm ở hai đầu con đường lớn phía trước Thượng thư phủ. 

Tuyên Nhân Môn là đường ra khỏi Hoàng Thành ở phía Đông, vừa rồi gã đã thử đi con đường này, có thể không nhắc đến. Đông Thái Dương Môn là đường vào nội cung. 

Thừa Phúc Môn là lối ra khỏi Hoàng Thành từ phía Nam, nhưng trừ phi gã chịu quay đầu lại lao vào vòng vây của chủ lực quân địch, bằng không thì cũng không cần tốn công nghĩ thêm làm gì. 

Chỉ còn lại duy nhất Hàm Gia Môn và Đức Du Môn ở phía trước.

Giữ hai cửa này có một kho Hàm Gia, chuyên để trữ lương thảo. Trước đây Khấu Trọng đã từng tham gia tấn công Hoàng thành, thế nên đối với địa thế nơi đây nắm rõ như lòng bàn tay, chỉ là lúc ấy gã cũng không ngờ hiểu biết này về sau lại dùng đến để đào tẩu khỏi bàn tay của chính những người đã cùng mình kề vai sát cánh khi trước. 

Đao quang lóe lên, hai thanh đao từ hai phía tả hữu chém xả xuống, kình phong rít lên, rõ ràng đối phương là cao thủ trong đám cận vệ của Vương Thế Sung. 

Khấu Trọng vừa nhìn đao thế, đã đoán định ngay, nếu mình cứ tiếp tục xông bừa, nhất định sẽ để địch nhân kịp đuổi tới, vây gã vào giữa. 

Ưu thế lớn nhất mà gã vẫn giữ được từ đầu tới giờ, chính là không để địch nhân có cơ hội giữ chân mình lại, mà là dẫn địch nhân chạy một vòng lớn, lợi dụng địa thế phức tạp của Hoàng Thành chạy Đông chạy Tây, khiến cho bọn chúng càng lúc càng loạn. 

Một khi để mất ưu thế này, ngày này năm sau sẽ là giỗ đầu của gã.

Tỉnh Trung Nguyệt lần lượt chém ra hai bên, đồng thời gã cũng bật người ra phía sau, 

Hai tiếng kêu thảm thiết vang lên, mang theo Loa Hoàn Kình lăn tròn như bánh xe, miệng mồm không ngừng thổ huyết, những kẻ phía sau không kịp tránh né bị bọn họ đụng trúng, cũng hự lên một tiếng rồi ngã nhào, không khác gì là bị Loa Hoàn Kình của gã trực tiếp đánh trúng. Hơn mười tên địch hung hăng chặn đường, lập tức tan rã, quân không thành quân. 

Khấu Trọng cũng cảm thấy mình bắt đầu thoát lực. Hai đao vừa rồi tuy gã đã dồn Loa Hoàn Kình vào nội thể đối phương một cách hết sức xảo diệu, song cũng làm gã tổn hao không ít nguyên khí, thế nên không thể thừa thắng truy kích, xông phá địch trận, chạy về Hàm Gia Môn ở phía trước. 

Có điều Khấu Trọng đã vô cùng vừa ý rồi. 

Bất ngờ gã lại dịch người sang ngang bảy trượng, né tránh hơn trăm tên địch nhân từ phía Thượng thư phủ ào ào tràn ra. 

Gã quyết định không chạy về phía trước nữa. 

Bởi vì muốn đến Hàm Gia Môn, gã còn phải vượt qua sáu tòa kiến trúc Thái Bộc Tự, Tương Tác Giám, Đại Lý Tự, Tông Chính Tự, Đô Thủy Giám và Vệ Úy Tự. 

Vương Thế Sung đã dày công bố trí mật mưu để giết gã, đương nhiên phải sắp đặt phục binh ở đó, đợi gã tự lao đầu vào lưới. 

Sinh lộ duy nhất của gã chính là chạy vào Hoàng Cung, khi đó gã có thể lợi dụng địa thế phức tạp ở đó, tạo ra cơ hội đào tẩu. 

Khấu trọng hú dài một tiếng, tung mình bay chếch lên, nhảy lên bức tường phân cách giữa Hoàng Thành và Hòang Cung. 

Tên bắn như mưa. 

Khấu Trọng chuyển hoán chân khí, đổi từ nhảy lên thành nhảy xuống, mấy chục mũi tên bắn sượt qua đầu, còn gã thì hạ thân xuống chân tường, rồi áp sát tường lao về phía Thượng thư phủ. 

Địch nhân lại cuồn cuộn lao tới như một tấm vải lớn, trùm lên đầu gã. 

Dưới ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc sáng rực trên trường thành và bốn phía Thượng thư phủ, đao thương kiếm kích và khôi giáp phản chiếu ánh lửa sáng ngời, Hoàng Thành đột nhiên trở thành địa ngục của huyết chiến. 

Khấu Trọng không ngừng tăng tốc, áp sát tường chạy về phía Đông Thái Dương Môn. 

Mặc kệ phải giết bao nhiêu người, gã cũng phải chạy được đến Đông Thái Dương Môn, lúc này cho dù là Ninh Đạo Kỳ đích thân đến đây, cũng không cản nổi gã. 

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 217

Tắm Máu Đô Thành

Lý Thế Dân chắp tay sau lưng bước ra từ lỗ hổng, mỉm cười nói: “Chỉ cần Tử Lăng huynh chịu lưu lại đây một canh giờ, Lý Thế Dân đảm bảo sẽ để huynh an nhiên rời khỏi đây mà không gây khó dễ điều gì”. 

Từ Tử Lăng nhìn sang phía Uất Trí Kính Đức vẫn đang không ngừng vận lực rút ngọn tiên về, thản nhiên nói: “Thế Dân huynh không cần gạt ta, nếu không phải huynh đã đáp ứng với Vương Thế Sung thu thập tiểu đệ, con cáo già đó làm sao dám mạo hiểm đối phó Khấu Trọng, lẽ nào hắn không sợ sau này ngủ không yên giấc hay sao?” 

Bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ không người nào là không lộ vẻ ngạc nhiên, cảm thấy bản thân cần phải đánh giá lại về tài trí của Từ Tử Lăng. Phán đoán này của Từ Tử Lăng đã tỏ rõ trải nghiệm và nhận thức sâu sắc của gã với nhân sinh. 

Hiện nay thiên hạ có ai không biết Khấu Trọng và Từ Tử Lăng là sinh tử chi giao, nếu giết chết một trong hai gã mà không bị kẻ còn lại báo thù mới là sự lạ. Lưu lại hạng địch nhân đáng sợ như hai gã, bất cứ kẻ nào cũng đừng hòng mong được yên giấc. 

Riêng Uất Trí Kính Đức còn có thêm một cảm giác khác. 

Từ Tử Lăng chỉ liếc nhìn y một cái, ánh mắt sáng rực như điện quang, cơ hồ như đã nhìn thấu hết từ bên trong đến bên ngoài của y, bao nhiêu hư thực đều nắm rõ trong lòng bàn tay, khiến cho y cảm thấy khó chịu đến độ chỉ muốn thổ huyết, thủ kình cũng giảm bớt đi ba phần. 

Lý Thế Dân cười khổ: “Tử Lăng huynh thật quá hiểu Vương Thế Sung rồi, có điều Lý Thế Dân này cũng có phương pháp xử sự của riêng mình, không để bất kỳ người nào chi phối thao túng”. 

Từ Tử Lăng ung dung cười nói: “Nếu Thế Dân huynh không chịu trả lời câu hỏi vừa rồi, tiểu đệ đành phải liều mạng đột phá vòng vây thôi vậy”. 

Song mục Lý Thế Dân thoáng hiện thần sắc thương cảm, lắc đầu nói: “Ngoại trừ Hư Ngạn huynh ra, còn có nhị thúc của tiểu đệ nữa, Tử Lăng huynh chắc cũng biết Khấu Trọng không có cơ hội  đào sinh, chi bằng hãy thúc thủ, Thế Dân sẽ sắp xếp giao lại di thể của Khấu huynh cho huynh an táng” 

Nhị thúc của Lý Thế Dân chính là cao thủ xuất thân bạt tụy của Lý phiệt, Lý Thần Thông. 

Từ Tử Lăng ngửa đầu lên trời, chăm chú ngắm vầng bán nguyệt treo lơ lửng nơi xa xa, ngữ khí bình tĩnh đến độ giống như chẳng hề có chút cảm tình nào của nhân thế: “Ta sắp động thủ đây!” 

Đôi mắt hổ của Lý Thế Dân nhiệt lệ, quay người định bước đi, miệng buồn bã nói: “Tử Lăng huynh, đắc tội!” 

Câu nói này cũng chính là mệnh lệnh xử tử Từ Tử Lăng, lập tức đốt bừng lên ngọn lửa của trận ác chiến đã âm ỷ từ lâu. 

oOo 

Khấu Trọng chạy như cuồng phong sát bờ tường, vừa tránh được sự tấn công từ bên phải, lại khiến các tiễn thủ bên trên không thể ngắm chuẩn, điều làm địch nhân đau đầu nhất là thân pháp kỳ diệu của gã, mỗi lần gặp phải cường địch đều lướt  lên tường như du long bỡn thủy, tránh nặng tìm nhẹ, khi địch nhân yếu thế thì gã liền toàn lực thi triển sát chiêu bởi bảo đao Tỉnh Trung Nguyệt rồi, cố nhiên là Khấu Trọng cũng bị thương không ít, nhưng đều không đáng ngại. Tình cảnh càng lúc càng kịch liệt và hỗn loạn. 

Vừa đánh bay hai tên địch nhân cản đường, từ mé phía sau chợt có kình phong thốc tới, Khấu Trọng không kịp quay lại, dẫm mạnh chân trái xuống làm trụ, thân hình cao lớn xoay tròn một vòng, Tỉnh Trung Nguyệt chém xả ra như lưỡi tầm sét của Thiên Lôi, gạt bay cây trường mâu của kẻ đánh lén. 

Vừa nhìn mặt đối phương, Khấu Trọng đã nhận ra y là một viên thiên tướng chỉ huy cận vệ của Vương Thế Sung, trước đây đã có mấy lần nói chuyện và kề vai tác chiến với gã. Lúc này, đối phương nở một nụ cười ngượng ngập, thu mâu thoái bộ, Khấu Trọng vốn định phát đao truy kích, bất giác cũng khựng người lại, trong lòng bồi hồi cảm xúc. Có điều quân địch không cho gã nhàn rỗi, lại có thêm ba cây trường thương khác đâm tới. 

Chỉ thấy gã nhún mình lao vút lên không. 

Đông Thái Dương Môn chỉ còn cách đó chưa đầy mười trượng, nhưng khắp nơi đều là địch nhân, kẻ nào cũng dùng những vũ khí tiện tấn công xa như mâu, thương, kích, gã muốn áp sát tấn công thật không phải chuyện dễ. 

Bên  trái lại có thêm một nhóm khoảng hơn trăm người đang xông lên ào ạt, tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm kiếm, đội hình chỉnh tề, nếu để đám quân binh này chặn lại, Khấu Trọng gã sẽ phải bỏ mạng tại nơi đây là cái chắc. 

Khấu Trọng thầm kinh hãi. 

Địch nhân rõ ràng đã khôi phục lại sau trận hỗn loạn, bắt đầu tổ chức công thế một cách hiệu quả, hơn nữa còn đã nhìn thấu ý đồ muốn xông qua Đông Thái Dương Môn của gã, thế nên mới tập trung chủ lực tại đây, cho gã mọc cánh cũng khó thoát. 

Bốn cây trường mâu đâm về phía gã như bốn ánh sao băng. 

Chân phải Khấu Trọng đạp mạnh vào tường, thay đổi phương hướng, lao thẳng vào giữa đám địch nhân, người đao hợp lại làm một, đi đến đâu là bóng người đổ rạp tới đó, xông phá khỏi trùng vây. 

Chiêu này của gã hoàn toàn nằm ngoài sở liệu của địch nhân, nhưng do khắp nơi đều là quân địch, nên gã chỉ có thể xông từ một trùng vây này ra một trùng vây khác, có điều cũng có thể rút ngắn được khoảng cách đến Đông Thái Dương Môn còn chừng sáu trượng. 

Một bóng người tay trái cầm thuẫn hộ thân, tay phải cầm kiếm chém bổ xuống, kình phong sượt qua mặt Khấu Trọng. 

Gã lách mình né tránh rồi cười lên ha hả: “Tống tướng quân, ngài khỏe chứ?”. 

Đối phương là Tống Mông Thu. 

Địch nhân ở bốn phía phối hợp với thế công của họ Tống, lại trào lên vây lấy Khấu Trọng. 

Tống Mông Thu gầm lên: “Nếu lập tức buông đao chịu chết, ta bảo đảm có thể giữ cho thi thể Khấu huynh được toàn vẹn” 

Khấu Trọng cười lạnh: “Tống tướng quân chiếu cố đến tiểu đệ vậy sao?” 

“Đang!” 

Khấu Trọng nhanh nhẹn lắc mình, tránh khỏi kiếm thế của đối phương, đầu vai đụng mạnh vào lồng ngực, một tên địch đứng bên trái, làm xương cốt hắn vỡ vụn, thổ huyết ngã nhào, cùng lúc ấy, Tỉnh Trung Nguyệt cũng vung lên chém thẳng vào chiếc thuẫn bài rèn bằng thép tinh luyện của Tống Mông Thu, phát ra một tiếng kêu lớn chấn động toàn trường. 

Một mũi mâu đâu tới bả vai, nhưng Khấu Trọng chỉ khẽ lắc nhẹ, đã làm nó trượt đi, chỉ lưu lại một vệt máu nhỏ. 

Tống Mông Thu thì nếm đủ khổ đau. 

Một đao vừa rồi của Khấu Trọng thực sự đã toàn lực thi triển, lại ngầm vận ám kình, kình đao hung mãnh chẳng khác gì thiên lôi giáng búa, với công lực của Tống Mông Thu mà cũng bị đao thế đẩy bật ra xa hơn trượng, đụng phải những kẻ phía sau ngã nhào, giống như là cố ý mở đường cho Khấu Trọng vậy. 

Cánh tay và nửa người bên trái của Tống Mông Thu tê rần rần, chưa kịp thôi động huyết khí về chỗ đó thì Khấu Trọng đã theo sát như bóng với hình, Tỉnh Trung Nguyệt cuồn cuộn bổ tới như cơn sóng thần. 

Tống Mông Thu kinh hãi kêu lên một tiếng, đao này của Khấu Trọng sử ra thật xảo diệu phi thường, buộc y chỉ có một sự chọn lựa duy nhất là vung kiếm lên ngạnh tiếp. 

Loa Hoàn Kình ồ ạt truyền qua thân kiếm, Tống Mông Thu hự lên một tiếng đau đớn, lảo đảo lùi về phía Đông Thái Dương Môn như một con rối do Khấu Trọng điều khiển, lại thay gã mở ra một con đường giữa trùng trùng vây khốn. 

Hơn trăm quân binh tay kiếm tay thuẫn bài phía sau cật lực đuổi tới, song thủy chung vẫn chậm mất mấy bước. 

Bốn năm cây trường mâu từ hai phía tả hữu của Tống Mông Thu đâm ra, hi vọng ngăn cản Khấu Trọng tiếp tục lấy họ Tống làm mục tiêu để phát động thế công. 

Khấu Trọng biết đây là giờ phút sinh tử quan đầu, chỉ cần đẩy lui được Tống Mông Thu thêm mười bước nữa, là gã có thể xông vào môn đạo sâu tám trượng phía trước. 

Gã ngửa mặt hú lên một tiếng như long ngâm, vân hết chân khí còn lại chu chuyển khắp tứ chi bách tiết, rồi dồn lên thân đao, Tỉnh Trung Nguyệt lập tức ánh lên sát khí lạnh tựa băng hàn, những kẻ chặn đường liền cảm thấy đao khí thốc vào mặt, toàn thân như rơi xuống hố băng, hô hấp cũng trở nên khó khăn. 

Đao phong rít lên trong không khí nghe chói tai. 

Tống Mông Thu nhân cơ hội này, dịch người tránh sang một bên. 

Sau mấy tiếng hự hự thảm thiết, mấy tên cầm mâu cản đường đều mâu gẫy người ngã, máu chảy đầu rơi, không tên nào là thoát khỏi số mạng thảm thương. 

Khấu Trọng cũng vì chân nguyên hao tổn quá nhiều, nên không thể tiếp tục truy kích Tống Mông Thu, đành lộn nhào một vòng trên không, tránh khỏi mười mấy thứ binh khí từ bốn phương tám hướng đâm tới, lao bổ về phía Đông Thái Dương Môn, hơn mười vết thương trên khắp mình mẩy không ngừng rỉ máu, dáng vẻ đáng sợ vô cùng. 

oOo 

Từ Tử Lăng tạm thời gác an nguy của Khấu Trọng và sinh tử của bản thân ra phía sau, linh đài sáng trong không chút tạp niệm. Gã đã nắm rõ lộ tuyến, góc độ và thời gian tấn công trước sau của đối phương. 

Sáu cao thủ thuộc hàng thượng tướng của Thiên Sách Phủ này quả là không hổ là những lão giang hồ kinh nghiệm thực chiến phong phú, khi bất động đã có thể khóa chặt đường lui của gã, lúc động thì càng phối hợp chặt chẽ như áo trời không khe hở, lợi hại nhất chính là đao của La Sĩ Tín, trường mâu của Sử Vạn Bảo và cây côn của Lưu Đức Uy lần lượt công tới từ ba hướng khác nhau, về mặt thời gian sai biệt không đến một tích tắc, cho dù gã có thể xuất song thủ, cũng chỉ có thể cản đỡ hai trong ba thứ binh khí ấy mà thôi. 

Thêm nữa chân trái của Từ Tử Lăng đang bị trường tiên của Uất Trí Kính Đức quấn chặt, khiến phạm vi di động né tránh của gã bị giảm đi rất nhiều. 

Càng chết người hơn là cây ngọc tiêu của Trưởng Tôn Vô Kỵ lại chậm hơn ba người kia một nhịp, khiến gã biết rằng cho dù mình có thể chống đỡ được đợt công kích đầu tiên của ba người La, Sử, Lưu thì vẫn còn phải ứng phó với một kích toàn lực của họ Trưởng Tôn. 

Bàng Ngọc cầm kiếm đứng cách gã chừng hai trượng cũng là một uy hiếp rất lớn, y buộc gã phải lưu lại một phần dư lực để đề phòng một đòn tập kích bất ngờ. 

Bất cứ người nào trong sáu cao thủ này cũng đều có khả năng đơn đả độc đấu với gã, khi hợp lại thì uy lực lại càng tăng lên gấp bội, chỉ sợ chưa đầy một chiêu đã làm gã bị  thương, mà thậm chí còn không để cho gã cơ hội hoàn kích. 

Làm thế nào mới có thể tìm ra sơ hở của trận thế liên thủ này, đâu mới là “số một huyền ảo” của nó? Thế công này, thực sự không dễ gì phá giải, tình thế của Từ Tử Lăng đã nguy cấp đến cực điểm. 

Bất ngờ gã gầm lên một tiếng, dồn toàn bộ công lực xuống gót chân trái, thông qua thân tiến đẩy về phía Uất Trí Kính Đức. 

Uất Trí Kính Đức chỉ còn thấy một luồng kình lực xoáy tròn kỳ dị xông thẳng vào tay mình, vội vàng kinh hãi vận toàn lực kháng cự, chẳng ngờ Loa Hoàn Kình của đối phương bất ngờ đảo ngược chiều xoay theo hướng ngược lại, từ đẩy tới biến thành hút về. 

Uất Trí Kính Đức cũng không phải tầm thường, lập tức vận công trụ vững, kéo mạnh Quy Tăng Tiên. 

Lúc này đao của La Sĩ Tín, mâu của Sử Vạn Bảo, côn của Lưu Đức Uy cùng lúc công tới. 

Từ Tử Lăng cười lên ha hả, toàn thân lướt đi như một sợi bông bị cuồng phong cuốn đi với một tốc độ kinh hoàng mà mắt thường khó mà nhìn rõ, thoát khỏi sự vây công của địch nhân, lao thẳng về phía Uất Trí Kính Đức, lực kéo giật về của họ Uất Trì ngược lại còn giúp gã gia tăng tốc độ, chỉ có cây trường mâu của Sử Vạn Bảo là vạch được một đường máu nhỏ trên vai tả gã mà thôi. 

Uất Trí Kính Đức khẽ lỏng tay, bị công lực của bản thân mình thúc ngược lại thật sự vô cùng khó chịu, với công lực thâm hậu của y mà cũng suýt chút nữa là thổ huyết, loạng choạng lùi về sau mấy bước, xém chút là ngã ngồi xuống đất. 

Bàng Ngọc và Trưởng Tôn Vô Kỵ đứng ngoài nhìn rõ được mọi động tác của Từ Tử Lăng, trong lòng lấy làm kinh hãi. 

Nên biết rằng nếu Từ Tử Lăng muốn làm được chuyện tưởng chừng như không thể này, ắt phải hoán chuyển chân khí trong nội thể nhiều lần liên tiêp trong nháy mắt, chuyện này đối với bọn y thật khó mà tưởng tượng nổi. 

Sáu cao thủ này đến giờ mới thấm thía sự lợi hại của Trường Sinh Quyết. 

Bàng Ngọc và Trưởng Tôn Vô Kỵ hét lớn, kiếm tiêu cùng lúc xuất thủ. 

Một chuyện kinh hãi hơn đã xảy ra. 

oOo 

“Keng!” 

Khấu Trọng vung đao đỡ lấy một cây trường kích đâm tới, mượn lực nhảy lên cao, lao vút lên lầu gác phía trên Đông Thái Dương Môn. 

Địch nhân không ngờ gã bỏ dễ chọn khó, nên đều có cảm giác trở tay không kịp. 

Mười cây trường thương dài hơn ba trượng chuyên dùng để chống lại địch nhân công thành đồng loạt khua về phía Khấu Trọng. 

Khấu Trọng tâm định như sơn, lực đạo nhảy lên cao vừa rồi có quá nửa là mượn sức địch nhân nên bản thân gã vẫn còn giữ lại dư lực, nên liền cấp tốc chuyển hoán chân khí, tái sinh lực đạo, lộn một vòng trên không né tránh trường thương, vượt qua trường thành tới hai trượng, rồi lao chếch xuống. 

Từ góc độ này nhìn về phía Tây Bắc, có thể thấy được tường thành của Hoàng Cung nội thành và ba cửa Vĩnh Thái, Thái Hòa, Hưng Giáo ở góc Đông Nam nội cung. 

Quả nhiên không nằm ngoài sở liệu của gã, ba cửa này đều không có đông địch lắm, vì vậy chỉ cần gia tăng tốc lực, là gã có thể chạy vào nội cung trước khi địch nhân kịp chặn lại, rồi sau đó sẽ nghĩ cách đào tẩu sau. 

Trên thành quân địch rối loạn như bầy ong vỡ tổ. 

Khấu Trọng ôm bảo đao xông thẳng vào giữa trận địch, miệng hét lớn: “Kẻ nào cản ta phải chết!”. 

Tỉnh Trung Nguyệt tạo thành một vùng đao quang rộng từ trên áp xuống, phạm vi che phủ và kình đạo đều quả thật chưa từng thấy xưa nay, có thể nói đây là lần xuất thủ lợi hại nhất kể từ khi Khấu Trọng xuất đạo tới giờ. 

Quyết chí liều mạng, gã đã phát huy công lực của mình lên đến mức cực hạn. 

Trong lúc địch nhân còn nhốn nháo thì gã đã đặt chân lên tường thành. 

Lúc này gã chỉ còn cách đầu tường phía Tây chỉ chừng hai trượng hơn, thành công đã ở trước mắt, đấu chí dâng cao ngùn ngụt, nhưng Khấu Trọng vẫn không dám lơ là, thừa lúc địch nhân còn chưa ổn định, Khấu Trọng lại vung lên, đao kình cuồn cuộn như cuồng phong bạo vũ, chém giết tơi bời, máu tươi bắn lên tung tóe, lại có thêm mấy tên nữa trúng đao vào ngực, ngã bổ xuống đất. 

Khấu Trọng đạp chân lên thi thể địch nhân, thân pháp linh hoạt như cá trong nước, mỗi đao chém ra là lại có người ngã xuống, kẻ nào trúng đao cũng khí tuyệt thân vong, chỉ có người chết, tuyệt không có lấy một tên địch nào bị thương. 

Nội khí không ngừng lưu chuyển, lực cũ vừa tiêu, lực mới đã tái sinh. 

Địch nhân thấy gã uy mãnh như thiên binh thần tướng, trong lòng ai cũng kinh tâm đảm khiếp, lần lượt lùi lại phía sau. 

Trên mình Khấu Trọng cũng đã có thêm mấy vết thương, có điều lúc này sát tính ẩn sâu trong lòng gã đã nổi lên, bảo đao Tỉnh Trung Nguyệt phát quang rực rỡ, khí thế cao vời. 

Đột nhiên không gian phía trước như rộng mở, không một bóng người, thì ra gã đã chạy đến sát thành lâu. 

Khấu Trọng quay người lại, Tỉnh Trung Nguyệt huơ một vòng lớn, bảy tám cây trường thương đâm với phía sau lập tức gãy đoạn. 

Địch nhân kinh hãi nhảy lui lại. 

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Lão tử đi đây!” 

Lời chưa dứt người đã nhảy lên cao. 

Đúng vào lúc ấy, hai đạo kình khí sắc bén hung mãnh dị thường từ bên dưới phóng lên. 

Khấu Trọng thầm kinh hãi, biết cuối cùng đã gặp phải cao thủ có thể dồn gã vào tử địa, hơn nữa lại còn là cùng một lúc hai người. 

Tiếng rít gió lại vang lên phía sau, sáu bảy cây mâu từ trên tường thành lao vút về phía gã như những mũi tên khổng lồ. 

oOo 

Quy Tăng Tiên lại thẳng băng lần nữa. 

Một lực kéo cực kỳ hùng hậu làm Uất Trí Kính Đức dù đã vận lực trụ vững thân mình vẫn phải lao về phía trước hai bước rồi mới giữ ổn được cước bộ. 

Kiếm của Bàng Ngọc, tiêu của Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng lúc đánh vào khoảng không. 

Đáng lẽ đây là chuyện không thể xảy ra được. 

Từ Tử Lăng rõ ràng là đang lao về phía Uất Trí Kính Đức như muốn toàn lực tấn công, chẳng ngờ khi còn cách đối thủ chừng nửa trượng thì đột nhiên gã khựng người lại, kế đó chuyển hướng thoái hậu, kéo thẳng trường tiên ra. Việc hoán chuyển chân khí với tốc độ cực nhanh như vậy có thể làm kỳ kinh bát mạch của bất cứ cao thủ nào cũng phải rối loạn, dấn đến tẩu hỏa nhập ma, nhưng Từ Tử Lăng thì lại làm được một cách hết sức dễ dàng, cơ hồ như một chuyện hết sức nhỏ nhặt vậy. 

Gã dùng gót chân di di ngọn Quy Tăng Tiên dưới chân, miệng cười lớn: “Cao thủ trong Thiên Sách Phủ quả là bất phàm, Từ Tử Lăng này được lĩnh giáo rồi”. Lời còn chưa dứt thì đã lăng không lao vút lên, vượt qua tường, biến mất trong màn đêm thăm thẳm. 

Chúng nhân đều đứng ngây người ra tại chỗ, ngơ ngác nhìn nhau. 

Không ai có thể đoán ra được Từ Tử Lăng lại dựa vào một ngọn trường tiên vốn tưởng chừng như có thể khiến gã rơi vào thế hạ phong tuyệt đối để thoát thân một cách xảo diệu nhường này. 

Tuy tất cả bọn họ đều đánh giá Từ Tử Lăng rất cao, nhưng đến khi giao thủ chân chính, thì mới thật sự nhận ra sự lợi hại của gã còn nằm ngoài sự tưởng tượng của họ rất nhiều.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 218

Tiếp Thu Chiến Quả

Khấu Trọng chỉ liếc nhìn một cái đã lập tức khẳng định mình khó có thể dùng lực đấu với hai tên địch mới xuất hiện này. Hai kẻ này đều mặc võ phục của thân binh, song trên đầu đều đội mũ sắt che kín nửa mặt, rõ ràng là không muốn để người khác nhận ra Lư Sơn chân diện mục của mình. 

Trường kiếm trong tay người bên tả hoa lên, hóa thành muôn ngàn điểm tinh quang rực rỡ, phản chiếu ánh sáng của hàng trăm ngọn đuốc xung quanh khiến người ta khó mà nhìn rõ thân hình y. Nhưng Khấu Trọng thì có thể khẳng định chắc chắn kẻ này chính là người đã từng giao thủ với gã Ảnh Tử Thích Khách Dương Hư Ngạn. 

Người này là kỳ tài dụng kiếm, hỏa hầu đã đạt tới cấp độ của đại tôn sư kiếm đạo, hơn nữa kiếm pháp lại đi theo một đường riêng biệt, khác hẳn với những kiếm phái thông thường trên giang hồ. Chỉ cần một mình y, Khấu Trọng đã cảm thấy không dám chắc phần thắng rồi. 

Người còn lại tay cầm một thứ binh khí kỳ hình quái trạng, giống qua mà không phải qua, giống kích mà không phải kích, cơ hồ như một thứ vũ khí lai tạp giữa hai loại này vậy. Thoạt nhìn công thế bá đạo của y, Khấu Trọng cũng dám chắc kẻ này võ công tuyệt đối không dưới Dương Hư Ngạn. 

Gã đang thầm kêu khổ thì bảy cây thương mà quân sĩ đứng trên đầu tường ném ra đã bay tới sau lưng. 

Chỉ nghe Khấu Trọng cười lớn nói: “Hư Ngạn huynh vẫn khỏe chứ?” 

Cùng lúc đó, thân hình gã lắc lư mấy cái trên không, năm cây thương sượt qua hai bên và trên đầu, hai cây còn lại bị gã kẹp nách, rồi mượn lực đó hãm bớt đà rơi, tiếp tục bắn người lên cao, phóng thẳng về phía Vĩnh Thái Môn. 

Với khả năng của Dương Hư Ngạn và Lý Thần Thông, cũng đành không kịp biến chiêu , đánh vào khoảng không Khấu Trọng vừa bỏ lại. 

Cao thủ tương tranh, chỉ sai biệt một chút cũng đủ định sinh tử thành bại, đến khi hai người bọn họ vận khí hạ thân xuống mặt đất thì Khấu Trọng đã biến mất bên trong Hoàng Cung từ khi nào. 

Nhất thời, tất cả truy binh đều tràn cả vào Vĩnh Thái Môn, tình thế hỗn loạn cực kỳ, khiến cho hai người hành động bất tiện, làm lỡ mất thời cơ ngàn năm có một để hạ sát Khấu Trọng. 

oOo 

Từ Tử Lăng thay một bộ y phục khác, rồi mua một thanh cương đao, đeo mặt nạ lên, đóng giả làm cao thủ tiền bối của hắc đạo Bá Đao Nhạc Sơn mà Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như đã nhận làm hôm trước, nghênh nghênh ngang ngang đi trên phố lớn, rồi rẽ vào một tửu quán đã hẹn trước, ngồi đợi Khấu Trọng. 

Gã có lòng tin Khấu Trọng nhất định có thể giữa được mạng đào thoát khỏi tay Vương Thế Sung, đến đây hội hợp với gã. 

Còn nếu Khấu Trọng đã chết, gã sẽ bất chấp thủ đoạn để hành thích Vương Thế Sung và Lý Thế Dân để báo cừu cho huynh đệ, sau đó nam hạ đón mẫu tử Tố Tố về giao phó cho Trác Kiều chăm sóc, rồi một mình gã sẽ đi tìm Vũ Văn Hóa Cập tính nợ cũ. 

Đã muốn tranh thiên hạ, không phải ta giết ngươi, thì là ngươi giết ta, không ai có gì để oán trách ai cả. 

Bất chợt Từ Tử Lăng có cảm giác lòng mình trở nên khoáng đạt, bao nhiêu tâm sự, sầu não đều biến mất khỏi cõi lòng. 

Sống cũng vậy mà chết cũng vậy, chẳng có gì đáng để lo lắng cả. 

Chuyện phải xảy ra thì rốt cục cũng đã xảy ra rồi. 

Lúc này có hai nhân vật giang hồ bước vào tửu điếm, nhìn thấy Từ Tử Lăng đang ngồi một mình trong góc, đầu tiên ngạc nhiên, kế đó là sắc mặt đại biến, vội vàng quay người đi ra. 

Từ Tử Lăng liếc thấy, trong lòng lấy làm nghi hoặc khó hiểu. 

Nên biết rằng Nhạc Sơn mấy chục năm nay chưa từng đặt chân ra giang hồ, trừ phi là gặp phải cao thủ đồng bối năm xưa, bằng không thì theo lý phải không có người nào nhận ra mới đúng, tại sao hai hán tử này niên kỷ ước chừng chỉ chưa đầy tam thập, vừa nhìn đã nhận ra “y” vậy? Gã thử nghĩ kỹ thêm một lúc, lập tức hiểu ra. 

Tin tức Nhạc Sơn đến Lạc Dương có thể đã truyền ra từ miệng Trịnh Thạch Như, hoặc giả là y đã nói chuyện này với một bang hội hoặc nhân sĩ có thế lực nào đó ở đây, kẻ này mới truyền lệnh cho thủ hạ lưu ý một nhân vật có ngoại hình giống như gã lúc này, thế nên chuyện vừa rồi mới xảy ra. 

Hiện giờ cả Vương Thế Sung lẫn Lý Thế Dân đều đã trở thành tử địch của gã, những kẻ khác gã đâu cần để ý làm gì. 

Gã chỉ muốn uống rượu. 

Nếu Khấu Trọng thật sự bị hại, gã sẽ bị đả kích thế nào? 

Người chết sẽ giống như khói tan mây tán, biến mất không tăm tích hay là lại đầu thai làm người? 

Tiếng bước chân quen thuộc của Khấu Trọng vang lên bên tai gã. 

Từ Tử Lăng ngẩng đầu lên nhìn, thấy trước mắt xuất hiện một tên cấm vệ quân mặc thường phục đang đi tới. 

Khấu Trọng loạng choạng ngồi xuống bên cạnh gã, chiếc mặt nạ làm Từ Tử Lăng không nhìn rõ được sắc mặt của huynh đệ mình, nhưng gã đương nhiên có thể khẳng định Khấu Trọng đã bị thương rất nặng. 

Sau khi uống một hớp rượu, Khấu Trọng gằn giọng nói: “Lão hồ ly trời đánh Vương Thế Sung, không ngờ hắn dám liên thủ với Lý tiểu tử đối phó ta, suýt chút nữa thì cái mạng này bị hắn lấy rồi. May mà ta còn có tuyệt chiêu thay hình đổi dạng này, bằng không sau này ngươi không gặp được ta nữa đâu, à... trừ phi là ngươi chịu xuống dưới đó kiếm thì mày ra...”. Vừa nói gã vừa cười hì hì chỉ tay xuống đất. 

Từ Tử Lăng đưa tay xuống gầm bàn, nắm lấy tay gã, chân khí cuồn cuộn truyền qua, thản nhiên nói: “Vừa rồi có người nhận nhầm ta là Bá Đao Nhạc Sơn, vì thế nơi này không tiện ở lâu, còn phải tìm cách bỏ lại tất cả những kẻ muốn theo dấu chúng ta nữa” 

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Nhạc Sơn?” 

Từ Tử Lăng nhún vai: “Có gì ly kỳ đâu chứ?”. Kế đó gã lại chau mày nói: “Thương thế của ngươi rất nặng, phải mất một đêm họa may mới lành được, đấy là chỉ nói nội thương thôi, ngoại thương sợ phải tốn đến hai ba ngày đó” 

Khấu Trọng đắc ý dương dương nói: “Ta thoát thân được, toàn bộ đều nhờ tên tiểu tử Dương Hư Ngạn ấy muốn lợi dụng lúc ta kiệt lực để chiếm tiện nghi, thêm nữa là do ta thông minh tuyệt đỉnh, dẫn đám cận vệ của Vương Thế Sung chạy vòng vòng từ Hoàng Thành vào Hoàng Cung, chạy qua chạy lại đến mấy dặm đường. Đáng cười nhất là khi ta chạy vào hậu cung, hét lớn Vương Thế Sung đã giết Dương Động, làm cho cả Hoàng Cung loạn như kiến vỡ tổ, nhân lúc hỗn loạn, ta liền thừa cơ đổi y phục với một vị cấm vệ quân hảo tâm, rồi trốn ra đây. Hà! Ai da!”. 

Từ Tử Lăng làu bàu: “Ngươi đừng vui mừng quá sớm như vậy, Hư tiên sinh đâu?” 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Chúng ta đi! Có thù không báo phi quân tử! Sơn nhân ắt có diệu kế!”. 

oOo 

Đêm nay Lạc Dương yên tĩnh một cách lạ thường. 

Vương Thế Sung không hề phái người tìm kiếm bọn gã, bởi ai ai cũng biết làm vậy sẽ không đem lại kết quả gì. 

Hai gã ẩn thân trên lầu chuông có thể quan sát được toàn cảnh Thiên Tân Kiều, Từ Tử Lăng vừa trợ giúp Khấu Trọng hành khí liệu thương, vừa kể cho gã nghe quá trình thoát thân khỏi trùng vây mà Lý Thế Dân bày bố. 

Khấu Trọng thở phào một hơi nói: “Lý tiểu tử này thật gian hoạt. Mà cũng thật kỳ quái, Lý tiểu tử không để Lý Tịnh xuất thủ cũng hợp tình hợp lý, nhưng tại sao cả Hồng Phất Nữ cũng không phái ra nhỉ?” 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Ngươi hãy tập trung liệu thương đi! Bây giờ phải làm sao mới cứu được Hư Hành Chi? Khổ nhất là chúng ta căn bản không biết là y còn sống hay đã chết, tình hình hiện nay thế nào? Hà... giờ ta chỉ muốn lập tức rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt!” 

Khấu Trọng nhắm nghiền hai mắt, im lặng nhận lấy đạo chân khí Từ Tử Lăng truyền qua, hồi lâu sau mới từ từ mở mắt ra nói: “Vương Thế Sung cần nhất chính là một mưu thần  kiệt xuất như tiểu đệ đây, mà Hư Hành Chi lại là nhân tuyển tốt nhất cho vị trí đó. Võ công của y tuy không ra gì, song tài trí thì tuyệt đối không ở dưới bọn ta đâu, thế nào y cũng có cách làm Vương Thế Sung tin rằng mình hoàn toàn không có quan hệ mật thiết gì với ta và ngươi, mà sự thực thì cũng đâu có gì đâu, vì vậy có lẽ là tạm thời y vẫn an toàn”. Kế đó gã lại thở dài nói: “Nếu địch nhân của ta chỉ có mình Vương Thế Sung, thì cũng không cần phải lo lắng như vậy làm gì, nhưng có Lý tiểu tử tham dự vào chuyện này thì lại là một chuyện hoàn toàn khác” 

Từ Tử Lăng chau mày: “Không phải vừa nãy ngươi nói có diệu kế gì sao?” 

Khấu Trọng gật đầu: “Ngày mai ta sẽ đi kiếm thử xem Hư Hành Chi có để lại tin tức hay dấu vết gì không, rồi liên lạc với người của Tống Kim Cương lưu lại Lạc Dương, làm rõ tình hình lúc này trước rồi tính sau. Hà... đột nhiên nghĩ lại trước đây tiền hô hậu ủng mà bây giờ thì xung quanh chẳng còn một ai, cảm giác này thật làm người ta phải khó chịu” 

Từ Tử Lăng cũng động tâm, thầm nhủ mình cũng có thể đi kiếm nữ tử xinh đẹp Đồng Đồng mà Lưu Hắc Thất lưu lại Lạc Dương để thăm dò tin tức. 

Khấu Trọng nhăn trán suy nghĩ: “Hiện giờ tình thế khẩn cấp vô cùng, tại sao Lý tiểu tử vẫn còn lưu lại Đông Đô này làm gì? Bên trong nhất định có lý do khác mà chúng ta chưa đoán ra được” 

Từ Tử Lăng thấp giọng nói: “Ngươi tập trung tinh thần dưỡng thương đi. Những chuyện khác đợi trời sáng rồi bàn tiếp!”. 

oOo 

Sáng ngày hôm sau, hai gã liền chia tay nhau ra hành sự. 

Tất cả mọi thứ ở Lạc Dương vẫn như trước, chỉ là hưng vượng hơn mà thôi. 

Từ Tử Lăng đeo chiếc mặt nạ mới, đóng giả làm một thư sinh nghèo, ung dung đi trên phố, tìm đến chỗ Đồng Đồng. 

Khi đến trước cửa căn tiệm lần trước, gã mới khôi phục  bản lai diện mục, chậm rãi bước vào, giây lát sau gã đã hội kiến với Đồng Đồng trong căn phòng nhỏ ở hậu viện. Lúc này nàng đang thu dọn hành trang, rõ ràng là chuẩn bị rời khỏi Lạc Dương. 

Đồng Đồng thấy Từ Tử Lăng đến thì mừng rỡ reo lên: “Người ta còn đang lo lắng cho hai vị đại gia đây này, giờ thấy Từ gia vẫn khỏe mạnh an toàn thì yên tâm rồi, khi trở về Đồng Đồng này cũng dễ ăn nói với Lưu gia” 

Từ Tử Lăng ngồi xuống rồi hỏi: “Đồng Đồng cô nương định rời khỏi đây à?”. 

Đồng Đồng gật đầu: “Hiện giờ tình thế rất gấp, Hạ Vương đã định ra đại kế tấn công Từ Viên Lãng, tiếp theo sẽ đến lượt Vũ Văn Hóa Cập, bằng không nếu để đến lúc Lý phiệt xuất quan thì có hối hận cũng đã quá muộn”. 

Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý. 

Binh gia tranh thắng, tiên cơ là vô cùng quan trọng. 

Tam đại thế lực lớn ở Trung Nguyên, ai cũng có chỗ khó và những vấn đề cần giải quyết ngay của riêng mình. 

Lý Uyên phải lo lắng đến phụ tử Tiết Cử ở phía sau và Lưu Vũ Châu lúc nào cũng hau háu rình mò, đợi chờ cơ hội phát động một đòn tất sát, dồn Lý phiệt vào cảnh vĩnh bất phục sinh. 

Vương Thế Sung thì phải tăng cường chiến quả, thu phục bại quân và lãnh thổ của Lý Mật, đồng thời đuổi tận giết tuyệt, không để Lý Mật sống sót làm mầm họa về sau. 

Vì vậy Đậu Kiến Đức phải nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, tiễu trừ tất cả những địch nhân cản bước trên con đường Nam hạ của y, Từ Viên Lãng là kẻ đầu tiên, tiếp đó chính là đại cừu nhân Vũ Văn Hóa Cập của gã. 

Nhất thời, Vương Thế Sung trở thành trung tâm của cuộc chiến tranh giành thiên hạ ở Trung Nguyên này, kẻ nào đoạt được Lạc Dương, kẻ ấy sẽ có thể khống chế giao thông đường sông ở phương Bắc, lúc ấy thuận dòng Nam hạ, còn ai cản bước được nữa đây? 

Thần sắc Đồng Đồng trở nên ngưng trọng: “Theo tin tức bí mật mà Đồng Đồng nhận được, ba ngày trước thủ hạ đắc lực của Lý Thế Dân là phu phụ Lý Tịnh đã khởi hành đi Hà Dương, xem ra cũng chẳng có chuyện tốt gì đâu” 

Từ Tử Lăng giật mình, biến sắc thốt lên: “Lý Thế Dân muốn thu phục Lý Mật, nên cử Lý Tịnh đi chiêu hàng” 

Đồng Đồng cau mày hỏi: “Lẽ nào Lý Mật là hạng người cam chịu làm hạ nhân cho kẻ khác?” 

Từ Tử Lăng nhớ lại lời bình Khấu Trọng dành cho Lý Thế Dân, trầm giọng đáp: “Không nhịn chuyện nhỏ, ắt sẽ làm hỏng chuyện lớn. Hiện giờ thiên hạ bao la, song Lý Mật lại không một chốn dung thân, không có một con đường tiếp tục bước đi, nếu Lý Thế Dân cho hắn một chốn nương thân để tránh cho qua trận cuồng phong bạo vũ này, tự nhiên sẽ hơn là kết cục bại không còn chút dư địa”. 

Đồng Đồng vẫn không hiểu, bèn hỏi tiếp: “Nếu Lý Thế Dân là người trí dũng song toàn như người ta vẫn đồn đại thì phải biết rằng thu nạp Lý Mật là một hành động dưỡng hổ vi họa chứ?” 

Từ Tử Lăng gật đầu: “Lời của cô nương không phải là không có đạo lý, nhưng thử nghĩ sâu hơn một chút xem. Thủ đoạn này của Lý Thế Dân chủ yếu là làm cho người khác xem mà thôi, y muốn tỏ rõ cho thiên hạ thấy rằng dù là kiêu hùng bá chủ một phương như Lý Mật y cũng có thể mở rộng vòng tay thu nạp. Như vậy có thể khiến y bớt được rất nhiều trận đánh không cần thiết đó” 

Đồng Đồng khẽ giật mình, đôi mắt đẹp lộ rõ thần sắc ngưỡng mộ, thấp giọng nói: “Đồng Đồng phục rồi! Từ gia quả thật rất hiểu Lý Thế Dân, giống như là nhìn thấu hết mọi tâm địa của y vậy. Sự thực chắc chắn là như Từ gia đã nói, mà đây cũng là cách giải thích duy nhất hợp tình hợp lý.” 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Lý Thế Dân có thể là người giỏi dùng thủ đoạn nhất trong thiên hạ hiện nay, có thể làm được những chuyện người khác không thể, nghĩ đến những chuyện người khác có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra được, hiện giờ ta cũng rất lo cho Khấu Trọng! Vất vả lắm mới đánh bại được Lý Mật, lại bị Lý tiểu tử đó hớt mất chiến quả mà không thèm cảm ơn lấy một tiếng”. 

Đồng Đồng nói: “Hiện giờ tin đồn rất nhiều, Vương Thế Sung sau khi ổn định vị trí, đã bắt đầu ép các lộ nhân mã khác phải rời khỏi Đông Đô, đây cũng là một nguyên nhân khiến Đồng Đồng phải đi”

Từ Tử Lăng hỏi: “Phục Khiên, Đột Lợi và Vương Bạc có phải vẫn ở Lạc Dương không?” 

Đồng Đồng đáp: “Tình hình Phục Khiên thì Đồng Đồng không được rõ, nhưng Đột Lợi và Vương Bạc đã lần lượt rời thành, trước mắt hành tung vẫn còn chưa rõ. Ôi! Trận chiến Mang Sơn đã làm cả cuc thế hoàn toàn đổi thay. Hiện giờ không ai biết được tiếp sau đây sẽ là biến họa gì. Chỉ có một chuyện là có thể khẳng định chắc chắn, đó là danh vọng của Khấu gia và Từ gia trên giang hồ đã tăng thêm mấy lần, khắp thiên hạ này e rằng  không ai còn dám coi thường hai vị nữa đâu” 

Từ Tử Lăng cũng chẳng quan tâm đến chuyện này lắm, nên lại hỏi tiếp: “Có tin tức gì của Hoàng Công Thác hay Âm Quý Phái không?” 

Đồng Đồng nói: “Nghe nói Hoàng Công Thác đã trở về Nam, còn Âm Quý Phái thì xưa nay hành tung luôn rất bí mật, không ai biết bọn họ đang làm trò gì nữa” 

Từ Tử Lăng cảm thấy lấy làm lạ, với tác phong lấy oán báo đức, có thù ắt báo của Âm Quý Phái xưa nay, làm sao lại chịu bỏ qua cho bọn gã như vậy chứ? 

Có điều rõ ràng là Đồng Đồng cũng chỉ biết tới đây, nên gã cũng không gặng hỏi thêm nữa, mà đứng dậy cáo từ. Mỹ nử khả ái này tỏ vẻ lưu luyến, đưa gã ra tận cửa rồi thấp giọng nói: “Từ gia phải cẩn thận, hiện giờ cái đầu trên cổ hai vị rất đáng giá đó” 

oOo 

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng tương hội trong một quán mỳ. Khấu Trọng giận dữ nói: “Tình thế không được tốt lắm, Hư Hành Chi không hề lưu lại bất kỳ ám kỳ nào, theo ta thấy thì Vương Thế Sung đã đoán ra quan hệ của y với chúng ta, thế nên đã bắt giam lại, để chúng ta đến cứu rồi tự sa vào bẫy” 

Gã ngưng lại một chút rồi thấp giọng nói tiếp: “Đi cứu người chỉ là hạ hạ sách, chỉ cần chúng ta bắt được một con tin quan trọng như Vương Huyền Ứng là không sợ Vương Thế Sung không trao đổi với chúng ta rồi”. Từ Tử Lăng cười khổ: “Chỉ sợ ngươi phải đến Hoàng Thành hay Hoàng Cung mới tìm được Vương Huyền Ứng, vậy thì chi bằng hạ thủ luôn Vương Thế Sung cho xong” 

Khấu Trọng cười cười nói: “Ta chỉ nói tỷ dụ thôi mà, thực ra trong lòng ta đã có nhân tuyển từ lâu, bắt được người này, không sợ Vương Thế Sung không khuất phục” 

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Đổng Thục Ni?” 

Khấu Trọng hưng phấn nói: “Chính là nữ nhân này, cùng lúc có thể hại luôn cả Dương Hư Ngạn với Lý tiểu tử một thể. Ngươi đoán xem Lý tiểu tử có tha cho Dương Hư Ngạn khi biết y và nữ nhân này có tư thông với nhau không?” 

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Chúng ta làm sao hạ thủ đây? Chẳng lẽ cứ quanh quẩn bên ngoài Hoàng Thành mà đợi? Với lại chúng ta có biết ả ta đi ra từ thành môn nào đâu? Lại càng không thể biết là ả ngồi trong cỗ xe nào nữa?” 

Khấu Trọng đảo mắt một vòng quan sát mấy bàn thực khách trong quán, rồi mới nhổm người lên ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng nói khẽ: “Trên danh nghĩa Đổng Thục Ni đã là phi tử của Lý Uyên, nên theo lý thì ả tự nhiên không thể đặt chân nửa bước ra khỏi khuê phòng, lại càng không thể gặp bất cứ nam nhân nào. Cũng may là ta và ngươi đều biết rõ ả là hạng người gì, ả không lén đi gặp Dương Hư Ngạn mới là chuyện lạ đó” 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi nói đơn giản như là ăn bát mì hay nuốt cái bánh bao vậy, huống hồ hiện giờ ngươi vẫn chưa lành hẳn, ở Vinh phủ ngoại trừ Dương Hư Ngạn ra còn chưa biết có nhân vật cao thủ nào nữa không. Chúng ta mù mờ xông vào đó tìm người, không làm loạn lên mới lạ thì đúng hơn” 

Khấu Trọng nói: “Không vào hang hổ làm sao bắt được hổ con. Chỉ cần cứu được Hư Hành Chi, người của Tống Kim Cương sẽ giúp chúng ta đến Giang Đô, thời gian rất gấp, đêm nay chúng ta phải hành động ngay” 

Kế đó lại tiếp lời: “Ngươi biết là ai muốn tìm Nhạc Sơn chưa?” 

Từ Tử Lăng nổi dạ hiếu kỳ, hỏi: “Là ai?” 

Từ Tử Lăng giả bộ thần bí: “Ngươi không thể nào đoán ra được đâu, là Thượng Tú Phương đấy” 

Từ Tử Lăng thất thanh thốt: “Cái gì? Nàng ta vẫn ở lại Lạc Dương sao?” 

Khấu Trọng nói: “Hiểu lầm này lớn quá rồi! Người giả làm Nhạc Sơn chẳng những làm nàng lưu lại đây đến tận bây giờ, mà còn khiến nàng bỏ ra mười lạng hoàng kim để trọng thưởng cho bất kỳ người nào có tin tức về hành tung của thứ hàng giả như ngươi đó. Ta thật muốn tìm nàng hỏi thử xem, tại sao lại muốn gặp Nhạc Sơn gấp như vậy chứ?” 

Từ Tử Lăng mỉm cười hỏi: “Không phải ngươi nói nàng rất có hảo cảm với ngươi sao? Còn hẹn ngươi gặp riêng nữa cơ mà?” 

Khấu Trọng cười khổ: “Lúc này khác, lúc xưa khác. Nghe nói bây giờ Lý tiểu tử đêm nào cũng đến Mạn Thanh Viện nghe nàng đánh đàn ca hát đó. Ngươi nói thử xem vậy thì đâu đến lượt ta nữa chứ?” 

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Lý Thế Dân tuyệt đối không phải hạng người trầm mê trong tửu sắc. Làm vậy chỉ là để tỏ lòng ngưỡng mộ hoặc che tai mắt bọn Vương Thế Sung mà thôi. Sự thực thì hắn đang bí mật chiêu hàng Lý Mật, nếu như thành công, thì thật chẳng khác gì không tốn một binh một tốt mà đã đại thắng một trận oanh oanh liệt liệt” 

Khấu Trọng biến sắc nói: “Tin tức này từ đâu mà có?” 

Từ Tử Lăng bèn kể lại cuộc gặp với Đồng Đồng, Khấu Trọng nghe xong liền vỗ bàn tán thưởng: “Hảo tiểu tử, quả nhiên không hổ là huynh đệ tốt của ta! Có điều ta không tin hắn thành công đâu! À... cũng không thể nói một cách quá chắc chắn như thế được...” 

Từ Tử Lăng thấy mọi người đều liếc nhìn hai gã, liền nhắc nhở: “Ngươi tự kiềm chế một chút được không?” 

Khấu Trọng giờ mới chịu cúi đầu ăn mỳ, miệng vẫn lẩm bẩm: “Hiện giờ ta lo lắng nhất chính là Loan Loan yêu nữ, đột nhiên ả biến mất như bọt nước, không để lại dấu vết gì, khiến người ta không thể đề phòng. Hừ, cho dù có cứu được Hư Hành Chi, con đường đi Giang Đô này cũng không dễ dàng gì đâu. Đừng quên Âm Quý Phái xưa nay vẫn hợp tác chặt chẽ với lão gia, đây mới chính là mũi ám tiễn có thể đâm vào lưng chúng ta bất cứ lúc nào đó” 

Từ Tử Lăng thở dài: “Bây giờ cũng chỉ có thể đi bước nào hay bước đó thôi, ngươi còn cách nào khác nữa sao?” 

Khấu Trọng im lặng ăn hết bát mỳ, sau đó mới lắc đầu nói: “Chúng ta phải từ thế bị động chuyển thành chủ động, đặt mình vào chỗ chết để tìm đường sống thì mới giáo huấn cho tên Lý tiểu tử và lão hồ ly vong ân phụ nghiax Vương Thế Sung kia một trận được. Bắt cóc Đổng Thục Ni chỉ là bước đầu tiên, còn bước thứ hai... ngươi nghĩ ra được gì chưa?” 

Từ Tử Lăng bực mình nói: “Ngươi đúng là kẻ trời sinh đã thích đấu đá rồi, bây giờ ngươi dựa vào cái gì để đấu với Lý tiểu tử? Cho dù đơn đả độc đấu, chắc gì chúng ta đã thắng nổi y?” 

Khấu Trọng cười hì hì: “Chúng ta đấu trí chứ đâu có đấu lực, chi bằng ngươi giả làm Nhạc Sơn đi gặp Thượng Tú Phương, xem có chiếm được tiện nghi gì không?” 

Từ Tử Lăng động tâm nói: “Hiện giờ trong tay ta không binh không tướng, ngươi bảo ta dò la cách nào đây?”. Kế đó lại giật mình nói: “Sao không thử con thuyền của Bạch Thanh Nhi? Ngươi cứ lộ chút bản lãnh rồi phủi đít bỏ đi, ta ở bên cạnh giúp thêm một phần. Dù sao thì từ giờ đến tối cũng còn hơn nửa ngày, tìm thứ gì đó chơi cũng tốt hơn là ngồi không”. 

Từ Tử Lăng do dự nói: “Nếu gặp phải Chúc Ngọc Nghiên, thì không phải phiền phức lắm sao? Biết đâu mụ ta lại là hảo bằng hữu trước kia của Nhạc Sơn?” 

Khấu Trọng nói: “Sớm muộn gì chúng ta cũng phải đối mặt với Chúc Ngọc Nghiên thôi, sợ gì chứ? Huống hồ cơ hội gặp phải mụ cơ hồ hầu như không có. Ngươi cứ thử làm đi, đây có lẽ là phương pháp duy nhất để thăm dò tình hình của Âm Quý Phái đó” 

Từ Tử Lăng trầm tư giây lát rồi gật đầu: “Được rồi! Cứ làm theo lời ngươi, thử vận khí một phen xem sao!”

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 219

Ân oán tình cừu

    Từ Tử Lăng cố ý đội một chiếc mũ rộng vành che kính mặt, buông tấm vải mỏng che nắng xuống, chỉ để lộ phần dưới cằm, cả người toát ra một thứ khí chất ngụy dị không thể gọi tên, hiên ngang đi về phía con thuyền của Bạch Thanh Nhi ở bến đò. 

Trên bến người qua kẻ lại không ngừng, hàng lên xuống thuyền như nước chảy, dưới sông thuyền bè chạy như mắc cửi. 

Từ Tử Lăng đang suy nghĩ chưa biết nên bắt đầu từ đâu thì chợt thật có mấy nam nhân bước xuống từ con thuyền của Bạch Thanh Nhi. Gã định thần nhìn kỹ, trong lòng thầm mừng rỡ, thì ra một trong bốn người này chính là Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thanh Như, trong ba người còn lại còn có hai người quen cũ, một là Kim Ngân Thương Lăng Phong, một là Bàn Sát Kim Ba, cả ba kẻ này đều có thể xếp vào hàng ngũ địch nhân của gã. Người cuối cùng là một gã công tử khoảng hai bốn, hai lăm, trong cũng khá quen mặt, cơ hồ như là đã gặp qua trong thọ yến của Vinh Phụng Tường rồi vậy. 

Từ Tử Lăng đặt tay lên chuôi đao, rảo bước đi lên trước, chặn ngay trước mặt bốn người. 

Bốn ánh mắt sắc bén lập tức ngưng lại trên người gã, đồng thời cả bốn người cũng dừng lại đứng cách gã chừng hai trượng. 

Từ Tử Lăng tay đặt trên chuôi dao, khoa chân bước tới. 

Bọn Trịnh Thạch Như lập tức bị khí thế của gã làm cho khiếp hãi, lần lượt tản sang hai bên, đồng thời rút binh khí ra. 

Lăng Phong vẫn dùng hai cây đoản thương kim ngân, binh khí của Kim Ba là một cây côn sắt dài, còn thanh niên công tử và Trịnh Thạch Như đều sử kiếm. 

Những người gần đó thấy có người bạt đao bạt kiếm, liền vội vạng bỏ chạy tứ tán. 

Từ Tử Lăng gằn giọng quát: “Trịnh Thạch Như ngươi cút ra đây chịu chết, những kẻ khác không liên qua xéo ra chỗ khác, bằng không thì đừng trách lão phu đao hạ vô tình”. 

Sự thực thì đến lúc nảy, gã vẫn không biết tìm Trịnh Thạch Như gây phiền phức như vậy có tác dụng gì, nhưng đây có thể nói là cách duy nhất trong lúc không có cách, bởi vì Trịnh Thạch Như và Bạch Thanh Nhi đã trở thành đầu mối duy nhất của bọn gã trong việc tìm kiếm tung tích Âm Quý Phái. Nếu như Trịnh Thạch Như phụng mệnh của Âm Quý Phái đến dụ hoặc gã, vậy thì gã sẽ có cơ hội để thông qua y mà dò la tin tức. 

Trịnh Thạch Như lập tức nhận ra giọng nói khan khan của gã, vội vàng nói: “Có gì xin hãy từ từ nói, không biết vãn bối đã làm gì để đắc tội với Nhạc tiền bối vậy?”. 

Ba người bọn Lăng Phong nghe thấy y gọi Từ Tử Lăng là “Nhạc tiền bối” sắc mặt đều biến đổi, rõ ràng là đã biết nội tình. 

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng: “Có gì để nói nữa, nếu không phải ngươi tiết lộ hành tung của lão phu, thì có kẻ nào biết được lão phu đến đây? Chỉ tính một tội này, tội chết của ngươi đã không thể tha rồi”. 

Trịnh Thạch Như hiển nhiên là rất úy kỵ Bá Đao Nhạc Sơn, cố nhịn cơn tức giận trong lòng, ấp úng nói: “Xin tiền bối hãy bình tâm tĩnh khí, nghe vãn bối nói một lời, chuyện này thực sự có ẩn tình… chi bằng chúng ta tìm một nơi nào đó ngồi xuống nói chuyện có được không?”. 

Từ Tử Lăng cười lạnh nói: “Lão tử không nhàn rỗi như vậy, giết một người thì có gì đâu mà phải nói nhiều, xem đao!”. 

Không lộ chút chân công phu, làm sao có thể chứng tỏ thân phận của gã được. 

Từ Tử Lăng khẽ lắc người, thân hình lướt lên phía trước như hành vân lưu thủy, đao thế như núi đổ, cuốn cả bốn người vào trong màn đao ảnh trùng trùng. 

Trong các loại binh khí, vì đã từng luyện tập Huyết Chiến Thập Thức của Lý Tịnh nên Từ Tử Lăng quen dùng đao nhất, thêm vào mấy năm lưu lãng giang hồ, kến văn được mở rộng không ít, thế nên đao pháp mà lúc này gã thi triển vừa hiểm ác lại vừa tràn đầy sát khí, đích thực là có khí thể của một bậc Bá Đao. 

Một bên đã chuẩn bị sẵn sàng, một bên thì thì tâm thần chưa định, động tác của Từ Tử Lăng lại liền mạch như nước, nhanh như thiểm điện, đao phong lăng lệ vô cùng, khiến bọn Trịnh Thạch Như, Lăng Phong và Kim Ba đều cảm thấy khó thể ngạnh tiếp, vội dạt ra bên ngoài, hòng mở rộng chiến tuyến. 

Chỉ có tên công tử trẻ tuổi kia là nghé con không sợ hổ, hoặc giả là không rõ nội tình, vẫn vung kiếm lên đương cự. 

“Đang!”. 

Tên công tử cả người lẫn kiếm bị Từ Tử Lăng hất văng ra xa, suýt chút nữa là lộn nhào xuống đất. 

Trịnh Thạch Như kinh hãi, vội lao tới vận kiếm phản kích, Lăng Phong và Kim Ba cũng từ hai bên phóng tới trợ công, hòng ngăn cản gã tiếp tục thi triển sát thủ. Kiếm chiêu họ Trịnh hung mãnh phi thường, vừa nhanh vừa hiểm, so với hai người Lăng, Kim hiển nhiên cao hơn mấy bậc, hơn nữa chiêu này chiêu nấy đều như muốn toàn lực liều mạng vậy, tiếng kim thiết chạm nhau chói tay vang lên liên miên bất tuyệt. 

Từ Tử Lăng cũng không khỏi thầm tán thưởng, nhãn lực của tên Hà Nam Cuồng Sĩ này cũng thuộc hạng cao minh, biết rõ nếu để gã toàn lực thi triển, ắt sẽ khó tránh khỏi cái chết, thế nên mới liều mạng tiếp chiêu, hòng để Lăng, Kim hai người phản kích. Đây đúng là một chiến lược vô cùng chính xác. 

Từ Tử Lăng cười dài một tràng, trường đao thuận tay phản kích, liên miên không ngớt, trong thế đao cương mãnh lại ẩn chứa những biến hóa huyền ảo vi diệu, dồn ba người vào trong màn đao quang mù mịt. 

Không lộ chút thực lực, làm sao đối phương trọng thị gã được. 

Trên thuyền chợt vang lên một giọng oanh vàng: “Nhạc lão tiền bối có thể nể mặt thiếp mà tạm thời đình thủ không?”. 

Từ Tử Lăng bất ngờ liên tiếp xuất kỳ chiêu, bức ba người thoái lui mấy bước dài, rồi mới dừng tay cho đao vào vỏ, tự nhiên hình thành nên một phong phạm của bậc cao thủ nhất thế, vững như Thái Sơn, sâu như Đông Hải, hoàn toàn không phải là giả bộ. 

Ngẩng đầu nhìn lên, gã thấy Bạch Thanh Nhi đứng ở đầu thuyền, hai bên tả hữu là Ác Tăng Pháp Nhạn và Diễm Ni Thường Chân đã lâu không thấy xuất hiện, thần thái hai người nàu cung kính một cách lạ thường, chỉ riêng điểm này cũng đã biết uy danh của Bá Đao Nhạc Sơn lớn thế nào rồi. 

Từ Tử Lăng đột nhiên nhún mình lao vút qua đầu ba người, hạ thân xuống sàn thuyền. 

Bạch Thanh Nhi thần thái vẫn bình tĩnh, nhưng Ác Tăng và Diễm Ni thì đều lộ vẻ khẩn trương. 

Từ Tử Lăng liếc nhìn Bạch Thanh Nhi một cái rồi hờ hững nói: “Nếu pháp nhãn của lão phu không nhầm, tiểu nữ tử ngươi là môn hạ của cố nhân năm xưa, hôm trước ở trên phố, vừa nhìn là lão phu nhận ra ngay thân phận của ngươi”. 

Mấy câu này vừa hợp với thân phận lão tiền bối của gã, mà lại giải thích hợp lý tại sao hôm đó gã lại đi theo nàng và Trịnh Thục Minh. 

Trịnh Thạch Như lúc này cũng đã bước lên thuyền, thấp giọng nói; “Chúng tiểu bối đương nhiên không dám giấu giếm Nhạc lão. Nhạc lão đã biết nguyên ủy, chắc hẳn cũng hiểu nơi này người đông phức tạp, chi bằng mời lão tiền bối di giá vào trong khoang thuyền được chăng?”. 

Từ Tử Lăng ngoảnh mặt lại, thấy Kim Ba, Lăng Phong đang đỡ tên công tử kia rời khỏi, lập tức hiểu ra hai kẻ này đều là người của Âm Quý Phái. Như vậy thì nếu Tiền Độc Quan không phải đệ tử Âm Quý Phái, chắc chắn cũng có quan hệ rất mật thiết với tà phái này. 

Thân phận “Nhạc Sơn” này thật hữu dụng, không ngờ đã giúp gã dễ dàng có được rất nhiềi tin tức quý giá. 

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng, rồi nhấc chân bước vào trong khoang. 

Trịnh Thạch Như vội vàng đi trước dẫn đường. 

Còn chưa bước qua bậu cửa, Từ Tử Lăng đã đột ngột dừng bước, không những trong lòng thầm gọi mẹ gọi cha, mà còn toàn thân toát mồ hôi lạnh, xém chút là quay đầu bỏ chạy. 

Chỉ thấy Chúc Ngọc Nghiên mặt che một lớp sa mỏng đang ngồi trên chiếc thái sư ỷ kê sát tường, thái độ an nhiên tự tại. 

Bất luận là tính toán thế nào, gã cũng không tính ra được mình sẽ gặp phải Âm Hậu Chúc Ngọc Nghiên ở đây, lần này đúng là tự dâng dê béo vào miệng hổ rồi. 

  

oOo 

  

  

Khấu Trọng giả làm trạo phu, lẩn trong đám người xem nhiệt náo, quan sát màn kịch vừa rồi. 

Trong chốc lát bến cảng đã khôi phục lại vẻ ban đầu, giống như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy. 

Khấu Trọng đương nhiên không cần lo lắng cho Từ Tử Lăng, bởi vì cho dù có Chúc Ngọc Nghiên tọa trấn trên thuyền, gã vẫn còn bản lĩnh độn thủy, đây cũng là phương pháp ứng biến với tình hình khẩn cấp mà hai gã đã bàn bạc từ trước. 

Lúc này có một người bán hàng rong mang trà nước ra bày bán ở bến cảng, Khấu Trọng đang định giúp để không làm người khác chú ý đến mình thì chợt thấy một cỗ xe ngựa chạy qua, ngồi ở chỗ đánh xe là hai đại hán thể hình cao lớn, không giống như xa phu bình thường. 

Sau khi xe ngựa dừng lại, một hán tử trẻ tuổi đẩy cửa bước xuống.

Khấu Trọng lập tức phấn chấn tin thần, hán tử này chính là một trong các cao thủ trong Thiên Sách Phủ của Lý Thế Dân, Bàng Ngọc. 

Kế đó ba người mở thùng xe, bê ra một chiếc rương có chọc lỗ nhỏ, khên lên một con thuyền đã đậu sẵn từ trước. 

Cảnh đưa hàng xuống thuyền này vốn là hết sức bình thường, nên cũng không làm ai chú ý. 

Khấu Trọng trầm ngâm giây lát, cuối cùng không thể thắng nổi lòng hiếu kỳ, quyết định dù thế nào cũng phải xem cho rõ. 

  

oOo 

  

Từ Tử Lăng sải bước vào trong, thuận tay bỏ chiếc mũ trên đầu xuống, cố ý làm ra vẻ quái dị cười dài nói: “Ngọc Nghiên vẫn khỏe chứ?”. 

Gã đã tính toán đủ đường, quyết ý tự bộc lộ thân phận, rồi đột vây đào tẩu. 

Mặt nạ của Lỗ Diệu Tử chỉ có thể lừa gạt được những người không biết mặt Nhạc Sơn, còn đại tông sư võ học như Chúc Ngọc Nghiên, chỉ cần liếc nhìn một cái, là sẽ mãi mãi không quên, huống hồ rất có thể y thị và Nhạc Sơn còn là người quen cũ. 

Nguyên nhân gã bước vào phòng, là vì để tiện nhảy xuống sông đào tẩu, vì hành lang phía sau đã bị Bạch Thanh Nhi, Thường Chân, Pháp Nạng chặn mất rồi. 

Lúc cần thiết gã sẽ tập kích Trịnh Thanh Như, lấy y làm mộc che thân. 

Chỉ cần có thể cản trở được Chúc Ngọc Nghiên một sát na, là gã đã có cơ hội phá cửa sổ nhảy xuống sông đào thoát rồi. 

Chúc Ngọc Nghiên vẫn bình tĩnh như nước trong đáy giếng, lạnh lùng nhìn gã qua làn sa mỏng. 

Tuy gã không nhìn thấy mắt y thị, song vẫn có thể trực tiếp cảm nhận được nhãn thần của đối phương đang soi mói mình. 

Từ Tử Lăng đặt tay lên chuôi dao, hàn khí lập tức lan tỏa khắp phòng, sát khí hừng hực. 

Chúc Ngọc Nghiên không biết định làm gì, mà không lập tức vạch trần thân phận hàng giả như gã, còn bất ngờ u uất thở dài, chậm rãi nói: “Những người khác ra ngoài hết cho ta”. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ lẽ nào đối phương muốn đích thân thu thập mình. 

Gã đang do dự có nên lập tức phát động hay không, thì lại cảm thấy Chúc Ngọc Nghiên dường như không hề có ý đồ động thủ, đang không biết phải làm sao thì bọn Trịnh Thạch Như đã ra hết cả bên ngoài, còn đóng cửa lại. 

Chúc Ngọc Nghiên chậm rãi đứng dậy, thần thái u mỹ tuyệt trần. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ: “Đến rồi!”, vận công toàn thân giới bị. 

Chúc Ngọc Nghiên lắc đầu: “Cuối cùng ngươi đã luyện thành Hóan Nhật Đại Pháp, chẳng trách mà chẳng những dám trùng nhập giang hồ mà còn có gan đến khiêu chiến Chúc Ngọc Nghiên ta nữa. Bốn mươi năm rồi, vẫn không thể làm tiêu đi hận ý của ngươi với ta hay sao?”. 

Từ Tử Lăng giật mình chấn động. 

“Mẹ ơi, lẽ nào y thị không biết mình là hàng giả?” 

Trong nháy mắt mà có muôn ngàn ý nghĩ xẹt qua đầu gã. 

Cách giải thích duy nhất là tấm mặt nạ này được làm giống hệt như Nhạc Sơn, mà thể hình của gã thì cũng tương tự họ Nhạc. 

Đương nhiên là khí chất, thanh âm và phong độ của gã cũng có những điểm khác với Nhạc Sơn, nhưng do Chúc Ngọc Nghiên sớm đã có định kiến, cho rằng Nhạc Sơn đã ẩn cứ mấy chục năm, luyện thành thứ công phu gì mà mới nghe đã biết có thể thoát thai hoán cốt “Hoán Nhật Đại Pháp”, nên mới cho rằng gã vì luyện thành môn võ công này nên mới tới. 

Có điều là chỉ cần nói thêm hai ba câu nữa, bảo đảm Chúc Ngọc Nghiên có thể nhận ra sơ hở. 

Nhưng gã lại không thể không lên tiếng. Năm xưa gã và Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn ba người cùng liên thủ đối phó Chúc Ngọc Nghiên mà vẫn thua liểng xiểng, may mà giữ được mạng. Công lực của bản thân gã tuy đã tinh tiến rất nhiều, song so với Chúc Ngọc Nghiên vẫn còn một khoảng cách rất xa, nếu có thể không động thủ mà vẫn qua mặt được y thị, tự nhiên vẫn là lý tưởng nhất.

Từ Tử Lăng chỉ im lặng giây lát, rồi lại hừ lạnh một tiếng, bước lên phía trước, đi thẳng đến cửa sổ phía bên phải Chúc Ngọc Nghiên, khàn khàn giọng nói: “Ngươi vẫn không quên được y, bốn mươi năm rồi, ngươi vẫn không quên được y”. 

Chúc Ngọc Nghiên không biết có phải thật sự bị gã nói trúng tâm sự hay không, mà không lên tiếng đáp lời. 

Bên trong ba câu này của Từ Tử Lăng, kỳ thực bao hàm rất nhiều trí tuệ. 

Đối với ân oán tình cừu của đời trước, những gì gã biết được chỉ thông qua mấy lời kể ngắt quãng của Lỗ Diệu Tử. 

Theo như Lỗ Diệu Tử nói, bởi vì luyến ái Chúc Ngọc Nghiên mà suýt nữa lão mất mạng, may mà lão lợi dụng mặt nạ để thoát thân. 

Tấm mặt nạ này, rất có thể là tấm mặt nạ đã biến lão thành Bá Đao Nhạc Sơn. 

Có hai lý do để gã có cách nghĩ này. 

Đầu tiên, chính là thể hình của Lỗ Diệu Tử cũng cao lớn hiên ngang như Từ Tử Lăng, đương nhiên cũng rất giống với Nhạc Sơn, bằng không thì hiện giờ gã cũng không qua mặt được Chúc Ngọc Nghiên. 

Kế đó là với nhãn lực của Chúc Ngọc Nghiên, cho dù là Lỗ Diệu Tử đeo mặt nạ này lên, Chúc Ngọc Nghiên cũng có thể thông qua động tác và khí độ mà nhìn thấu. Trong tình hình này, chỉ có cố giả làm một kẻ khác hẳn với người mà y thị đã quen biết khi xưa, để làm y thị không cảm thấy sơ hở, như vậy mới có hy vọng che giấu được. 

Từ đây suy ra, Nhạc Sơn, Lỗ Diệu Tử và Chúc Ngọc Nghiên trước đây đã từng có một mối quan hệ rất vi diệu. 

Mấy câu này của Từ Tử Lăng kỳ thực thì rất hàm hồ, có thể giải thích theo nhiều hướng khác nhau, tóm lại thì thể nào giữ người với người chẳng có ân oán tình cừu, nói vậy dù có sai cũng không đến nỗi quá đà. 

Lúc nãy tuy gã lúc nào cũng có thể nhảy qua cửa sổ xuống sông đào tẩu, nhưng lại cảm thấy không nỡ bỏ đi như vậy. 

Không gia trong phòng trở nên trầm mặc, chỉ còn nghe tiếng hò hét của các trạo phu chuyển hàng từ dưới bến lên thuyền ở xa xa truyền lại, và tiếng nước ì oạp vỗ mạn thuyền. 

Ngữ khí của Chúc Ngọc Nghiên trở nên lạnh lùng: “Ngươi xem!”.

Từ Tử Lăng quay người lại. 

Chúc Ngọc Nghiên nhấc tay gạt tấm mạng che mặt sang hai bên, để lộ ra dung nhan xưa nay vốn che giấu của mình. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng quan sát hồi lâu mà vẫn không tìm ra được phương pháp gì để lên thuyền địch, không những vì đối phương liên tục tuần tra trên sàn thuyền, mà còn vì trên bến lúc nào cũng có người của địch nhân phái đi giám thị bất cứ kẻ nào khả nghi có ý đồ tiếp cận con thuyền đó. Giữa thanh thiên bạch nhật thế này, cho dù khinh công có cao hơn nữa cũng không thể thi triển được. 

Lý tiểu tử có thuyền ở đây vốn là chuyện hợp tình hợp lý, nhưng chiếc rương kia lại rất có vấn đề. Nếu gã đoán không lầm, bên trong rương nhất định là một người, nếu không thì đâu cần phải đục lỗ thông khí làm gì. 

Người đó là ai? Khấu Trọng trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, sải bước đi thẳng về phía thuyền địch. 

  

oOo 

  

  

Từ Tử Lăng vừa nhìn, đã ngớ người ra. 

Tuế nguyệt dường như không hề lưu lại bất cứ dấu vết gì trên gương mặt của Chúc Ngọc Nghiên, nhìn ngang nhìn dọc cũng đều chỉ lớn hơn Loan Loan vài tuổi mà thôi. 

Đằng sau lớp sa mỏng phất phơ, gã chỉ có thể nhìn thấy dung nhan của y thị một cách mơ hồ, nhưng chỉ riêng phần lộ ra, đã đủ làm người ta ý loạn tình mê rồi. 

Đôi mắt sâu đen lay láy, hai hàng lông mày thanh tú cực kỳ quyến rũ, có thể khiến bất cứ nam nhân nào cũng phải điên đảo thần hồn. Đôi mắt ấy phối hợp với làn da trắng như bạch ngọc, lại càng thêm nổi bật, làm ai cũng phải có một cảm giác khó mà tự kềm chế nổi. 

Luận nhan sắc, Chúc Ngọc Nghiên tuyệt đối không hề dưới tuyệt thế mỹ nữ Loan Loan, hơn nữa tướng mạo hai người này lại có mấy phần giống nhau, làm cho Từ Tử Lăng liên tưởng đến quan hệ mẫu nữ. 

Về khí chất thì người đàn bà này lại càng thanh tú tuyệt luân, khiến cho người ta nằm mơ cũng không thể liên tưởng đến tà phái đệ nhất trong Ma giáo. 

Nhất thời, Từ Tử Lăng cũng bị ngạc nhiên đến độ đầu óc trống rỗng, không thể suy nghĩ được gì. 

Quả thật hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tưởng của gã. 

Tấm sa lại được buông xuống. 

Chúc Ngọc Nghiên chậm rãi nói: “Nếu trong lòng Ngọc Nghiên còn bất cứ nam nhân nào, làm sao luyện được thành Thiên Ma Đại Pháp chứ, những chuyện ái tình dục vọng làm thế nhân điên đảo mê loạn ấy chỉ là chướng ngại trên đường mà thôi. Nếu Tiểu Sơn vẫn chưa nhìn thấu được điểm này, vậy thì đừng hòng rửa nỗi nhục một đao với Tống Khuyết làm gì”. 

Từ Tử Lăng nghe mà cảm thấy lạnh cả người. 

Ngữ khí của y thị tuy hết sức bình đạm, nhưng lại cũng rất thành khẩn, tỏ rõ rằng y thị hoàn toàn không nghi ngờ gì Tử Tử Lăng, đồng thời cũng mang lại cho gã một cảm giác lãnh khốc vô tình hết sức tự nhiên. 

Nên biết rằng phàm là người thì đều có thất tình lục dục, cho dù là ác đồ cùng hung cực ác, trong lòng cũng có tình yêu, thế nhưng Chúc Ngọc Nghiên lại hoàn toàn không có vấn đề về phương diện này, đối với y thị mà nói căn bản không có sự phân biệt thiên hay ác, tốt hay xấu, thế nên không hề có bất cứ chướng ngại tâm lý nào, làm chuyện gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích, bất chấp thủ đoạn. 

Từ Tử Lăng sợ y thị nhìn ra sơ hở, liền cố ý quay người nhìn ra ngoài, trầm giọng nói: “Lão bằng hữu của ta gần đây thế nào?”. 

Chúc Ngọc Nghiên ngồi xuống, dịu dàng nói: “Ngươi vẫn ghen tỵ với y sao?”. 

Từ Tử Lăng lập tức cảm thấy tóc gáy dựng ngược cả lên, giờ mới biết quan hệ của Chúc Ngọc Nghiên và Tống Khuyết cũng không hề đơn giản. 

Chúc Ngọc Nghiên lại nói: “Năm xưa nếu không phải ngươi có lòng ghen tuông, làm sao đến nỗi sơ hở để y lợi dụng, đao gãy người bại chạy về Mạc Bắc, anh danh một đời tất cả đều trôi theo dòng nước”. 

Từ Tử Lăng bình tĩnh nói: “Ngọc Nghiên rất hiỏi thuật đoán tâm ý người khác, lẽ nào không cảm nhận được ta đã có biến hóa rất lớn hay sao mà vẫn nói ra những lời chọc tức người khác như vậy?”. 

Sự thực thì gã cũng không biết nên nói gì nên đành quyết định liều mạng một phen, thử thăm dò thái độ của Chúc Ngọc Nghiên với Nhạc Sơn thế nào. 

Chúc Ngọc Nghiên u uẩn nói: “Ngươi thay đổi rất nhiều, giống như là một người khác vậy. Có phải môt đao năm xưa của Tống Khuyết đã đả thương khí môn của người hay không, mà cả thanh âm cũng trở nên khàn khàn khó nghe như vậy?”. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ ngươi cứ nghĩ như vậy là tốt nhất, rồi lạnh lùng nói: “Giữa chúng ta cũng chẳng còn gì để nói nữa, ta đi đây!”. 

Gã đang định phóng qua cửa sổ bỏ đi, thì chợt nghe Chúc Ngọc Nghiên nhẹ giọng nói: “Ngươi không muốn gặp nữ nhi của mình sao?”. 

Từ Tử Lăng thất thanh kêu lên: “Cái gì?”. 

Sự chấn động của gã là phát từ chân tâm, tất cả đều vì tưởng rằng đã lộ ra sơ hở. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng bước đến chỗ tấm ván để lên thuyền thì có hai hán tử hiện thân quát hỏi: “Bằng hữu là ai?”. 

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Kêu Bàng Ngọc ra đây gặp ta”. 

Hai người kia thoáng biến sắc, biết rõ gã đến đây để gậy chuyện. 

Khấu Trọng đề khí khinh thân, tung người nhảy lên sàn thuyền, miệng hét lớn: “Bàng Ngọc đâu rồi?”. 

Trong lòng thầm nhủ mãnh tướng trong Thiên Sách Phủ của Lý tiểu tử nhiều như mây, giết một người là giảm bớt một phần thực lực của y, thế nào cũng rất có lợị. 

Từ trong khoang thuyền xông ra hơn chục địch nhân, đứng thành một vòng vây hình bán nguyệt, sau đó Bàng Ngọc mới ung dung bước ra, đứng trước mặt gã, kiêu ngạo nói: “Nếu đã dám đến đây chỉ danh gây chuyện, chắc bằng hữu cũng chẳng phải hạng vô danh tiểu tốt, mau báo danh lên đi!”. 

Khấu Trọng vận công cải biến giọng nói, cười hì hì nói: “Bàng huynh đoán sai rồi, tiểu đệ đây chính là hạng vô danh tiểu tốt đấy! Xem đao!”. 

Tỉnh Trung Nguyệt rời vỏ biến thành một luồng sáng vàng rực rỡ, chém xả xuống mặt Bàng Ngọc như ánh chớp giật ngang trời, kình khí ào ào như thác đổ. 

Bàng Ngọc không ngờ kẻ này nói đánh là đánh, vội vàng bạt kiếm lên đón đỡ. 

“Đang!”. 

Hoa lửa bắn tung tóe, Bàng Ngọc chỉ cảm thấy đao này chẳng những nặng như Thái Sơn, lại còn ẩn hàm quái kình hút chặt lấy kiếm của y. Trong lòng đang còn kinh hãi, thì Khấu Trọng đã lộn qua đầu y, lướt vào trong cửa khoang thuyền.

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 220

Sự việc bất ngờ

Chúc Ngọc Nghiên nói với một giọng bình tĩnh tới độ làm người ta phải lạnh cả người: “Luận tài trí kiến thức, ngươi không bằng Lỗ Diệu Tử, nói khí phách tâm địa, ngươi càng không thể so sánh với Tống Khuyết, nhưng tại sao ta lại chịu nuôi dưỡng cho ngươi một nữ nhi chứ?”. 

Kế đó y thị lại thở dài: “Có điều những chuyện này bây giờ nhắc lại cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa, Ngọc Nghiên vốn định không để ngươi sống rời khỏi thuyền này, nhưng niệm tình ngươi cho dù đã luyện thành Hoán Nhật Đại Pháp vẫn không thoát khỏi kết cục chết dưới đao của Tống Khuyết, nên đành để ngươi đi hoàn thành tâm nguyện vậy”. 

Từ Tử Lăng chưa từng gặp phải một nữ nhân nào đáng sợ như vậy, cơ hồ như tình thâm tựa hải, thực chất lại lãnh khốc vô tình, ngay cả phụ thân của nhi nữ mình cũng không chịu bỏ qua, trong lòng không khỏi tức giận thay cho Nhạc Sơn, lạnh lùng nói: “Nếu hôm nay không giết ta, sau này thế nào cũng có một ngày ngươi phải hối hận”. 

Nói xong hai câu thực lòng đó, gã liền tung mình phóng ra ngoài, hạ thân xuống bến tàu. 

  

oOo 

  

Khấu Trọng quật ngược lại một đao, làm một đại hán truy theo phía sau ngã nhào, người bay lên rơi bịch xuống đất, cùng lúc ấy chân phải gã cũng tung ra đạp tung cánh cụa gỗ, lao vào tìm chiếc rương lớn kia. 

Bảy, tám đại hán từ trong hành lang tay cầm dao, cầm búa hung hãn xông tới, lập tức khiến Khấu Trọng rơi vào cảnh lưỡng đầu thọ địch. 

Bàng Ngọc tức giận gầm vang, xông đến sau lưng gã, kiếm đâm tới như tia chớp, 

Kiếm phong rít lên nghe rợn cả người, rõ ràng là y đã động đến chân nộ. 

Khấu Trọng biết kẻ này lợi hại, vội lướt người ra xa hơn trượng, thân hình liên tiếp lắc mấy cái, không những tránh được một đợt công kích khác của đám địch nhân đang tràn tới, mà còn đá bay một tên về phía Bàng Ngọc, còn gã thì đã lao thẳng vào giữa trận thế của địch nhân. 

Mấy tiếng kêu thảm liên tiếp vang lên, Khấu Trong thi triển thủ pháp nặng, cố ý va chạm với vũ khí của địch nhân, bên trong lại ngầm vận Loa Hoàn Kình, làm hổ khẩu bọn chúng đều rách tét, binh khí rơi xuống đất. 

“Bình! Bình!”. 

Hai cánh cửa khác bị đạp bật tung. 

Trong hành lang loạn như ong vỡ tổ. Bàng Ngọc thủy chung vẫn chậm một bước mới bắt kịp gã. 

“Ầm!”. 

Khấu Trong chém mạnh làm tấm vách bên phải vỡ tung, nhảy vào một gian phòng. 

Bàng Ngọc gầm lên: “Hảo đao pháp!”. 

Đoạn cũng phá cửa lao vào, huy kiếm tấn công Khấu Trọng. 

Những người khác đều dừng lại hò hét trợ uy. 

Khấu Trọng căn bản là cố ý dụ gã tiến vào, để toàn lực hạ sát, lúc này sát cơ của gã đã bốc cao ngùn ngụt, nhưng đầu óc đã chìm vào cảnh giới tỉnh trung chi nguyệt, tuyệt đối không hề có ý khinh địch chủ quan, mà thực sự thì Bàng Ngọc cũng là cao thủ nhất đẳng trong hàng hậu bối mới quật khởi gần đây, chẳng phải là hạng dễ dàng đụng đến. 

Lúc này chỉ nghe gã hừ lạnh một tiếng, bất chấp một kiếm chém ngang cổ Bàng Ngọc, tung người lướt sang phải, biến thành thế mặt đối mặt với họ Bàng, sau đó lao thẳng về phía trước như một mũi tên, bảo đao trong tay cùng lúc chém bổ tới, lưỡi đao nhằm đúng vào đầu đối phương, thế nhanh như chớp giật ngang trời, kình đạo hùng hậu như núi đổ. 

Bàng Ngọc thân kinh bách chiến, nhưng cũng chưa từng gặp phải đối thủ nào vừa ngoan cường liều mạng vừa lợi hại như vậy. 

Hạng người dũng mãnh như Khấu Trọng đại khái cũng không ít, nhưng lại không có mấy người có đảm lượng coi cái chết như không, dám lấy công đối công, bức đối thủ phải so đảm lượng và tốc độ giống như gã, mà dù là kẻ có đủ đảm lượng và sự dũng mãnh, nhưng e rằng vẫn hiếm sức phán đoán cao minh, nhãn quang và bản lĩnh như của Khấu Trọng. 

Trong sát na ngắn ngủi ấy, Bàng Ngọc đã đưa ra một quyết định liên quan đến sinh tử tồn vong của mình, rốt cuộc là nên giữ kiếm thế bất biến tiếp tục chém tới xem kẻ nào chết trước, hay là hồi kiếm để đỡ lấy thế công lăng lệ của đối phương. 

“Đang!”. 

Bàng Ngọc cuối cùng cũng quyết định hồi kiếm phòng thủ. 

Một kẻ chuẩn bị từ trước, một người bị ép phải biến chiêu, hơn kém thế nào ai cũng có thể tính toán ra được. 

Bàng Ngọc hự lên một tiếng, cả người lẫn kiếm bị đao thế mãnh liệt của Khấu Trọng đẩy bật ngược về sau, va mạnh vào vách tường, lao sang phòng bên cạnh. 

Khấu Trọng lại thầm kêu hỏng bét, Bàng Ngọc nhiều nhất cũng chỉ bị gã bức lui một hai bước thôi mới đúng, bây giờ rõ ràng y cố làm vậy để có thể tạm hoãn lại thế công của gã, ý đồ ổn định trận cước, làm cho gã mất đi một cơ hội ngàn năm có một để giết chết địch thủ. 

Năm sáu tên đại hán lại tràn vào phòng. 

Khấu Trọng thầm than đáng tiếc, tung người đụng vỡ bức vách phía sau, nhảy sang một gian phòng khác. 

Chiếc rương lớn kia không ngời lại đặt ngay dưới đất. 

Khấu Trọng vận công vào chân, tung mạnh một cước làm chiếc rương vỡ nát ra từng mảnh, để lộ ra người ở bên trong. 

  

oOo 

Từ Tử Lăng đi xuống bến tàu, đảo mắt một vòng, tất cả vẫn như cũ, duy chỉ không thấy Khấu Trọng đâu. 

Lúc này gã chỉ muốn mau mau tìm được Khấu Trọng, rồi cùng gã huynh đệ này đi càng xa càng tốt, càng tránh xa được Chúc Ngọc Nghiên bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Gã cứ thả bước đi mà không hề suy nghĩ, tự nhiên đi ra khỏi khu bến tàu, trong đầu không ngừng thấp thoáng dung nhan phong tình vạn trượng của Chúc Ngọc Nghiên, thầm nhủ chẳng trách mà Lỗ Diệu Tử si mê người đàn bà này gần hết cuộc đời, đến lúc gần chết mới được giải thoát khỏi mị lực của y thị, nhận ra được ao mới là nữ tử đáng để ông ta dốc lòng thương yêu. 

Đột nhiên phía sau có tiếng vó ngựa dồn dập, hơn mười kỵ mã đang từ phía sau đuổi tới. 

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng, tung mình như một con quái điểu khổng lồ bay lên một nóc nhà dân bên phía trái, rồi nhanh nhẹn biến mất 

  

oOo 

  

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Phó bang chủ?”. 

Người bị nhốt trong rương, chẳng ngờ lại chính là lão bằng hữu Bốc Thiên Chí của hai gã, lúc này song mục y nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt, rõ ràng là đã bị người ta phong bế huyệt đạo. 

Gã vội vàng vận lực vung đao, đánh cho mấy tên địch xông lại gần gã lộn nhào, lộn xộn thành một đám, cùng lúc dùng chân hất Bốc Thiên Chí lên, kẹp dưới nách, rồi bật người lao vút lên cao, phá vỡ trần phòng, nhảy lên trên vọng đài bên trên. 

Khấu Trọng cứu người khẩn cấp, nên bỏ qua ý định giết chết Bàng Ngọc, nhanh chóng rời khỏi thuyền địch. Lúc này các vết thương cũ trên người gã đã lại vỡ ra, thực không thể kéo dài trận chiến thêm nữa. 

  

oOo 

  

Quá buổi hoàng hôn, Từ Tử Lăng từ Bá Đao Nhạc Sơn biến thành đại hiệp mặt sẹo, ngồi trong một tửu điếm trên phố đối diện với trang viện của Vinh Phụng Tường, gọi mấy món rượu thịt, vừa nhâm nhi vừa đợi Khấu Trọng. 

Gã và Khấu Trọng đã mất liên lạc hơn ba canh giờ, cuối cùng đành phải đến đây ngồi đợi. 

Mộ cỗ xe ngựa chạy vào Vinh phủ, trước sau đều có hơn mười võ sĩ mặc thường phục bảo vệ. 

Do trước đây từng tham gia kế hoạch dụ địch của Khấu Trong nên đối với việc đánh xe và bảo vệ xe ngựa của Vương Thế Sung, Từ Tử Lăng có tìm hiểu rất kỹ, chỉ vừa liếc nhìn đã biết ngay những võ sĩ này đều là cao thủ trong đám thân binh của họ Vương cải trang, người trong xe ngựa kia rất có khả năng là mục tiêu mà gã và Khấu Trọng muốn bắt cóc để trao đổi Hư Hành Chi – Đổng Thục Ni. 

Đến lúc này thì gã vẫn chưa thể làm rõ Vinh Phụng Tường thực ra là người của phe nào, lập trường của y ra sao? Quan hệ của họ Vinh này với Dương Hư Ngạn thế nào? Càng nghĩ gã lại càng cảm thấy mơ mơ hồ hồ. 

Vinh phủ đột nhiên mở rộng cửa, hơn mười kỵ sĩ từ trong phóng ra, chạy vào phố lớn rồi thúc ngựa tiến về phía Nam, xem ra đều là người của Lạc Dương Bang. 

Lúc này Khấu Trọng cũng đến, ngồi xuống bên cạnh gã, tiện tay cầm luôn chén rượu mà gã chưa đụng đến trên bàn dốc thẳng vào miệng, le le lưỡi nói: “Cũng không tồi lắm! hà hà! Tìm được ngươi thật là tốt quá!”. 

Từ Tử Lăng nhìn gã huynh đệ và một bát lớn cả cơm lẫn thức ăn rồi nói: “Ngươi cút đi tận đâu vậy?”. 

Khấu Trọng nhai nhồm nhòam, rồi nói như chưa từng có chuyện gì xảy ra: Ta vừa tiễn Bốc Thiên Chí đi, tự nhiên phải đến chậm một chút rồi”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Bốc Thiên Chí?”. 

Khấu Trọng đắc ý kể lại chuyện vừa xảy ra trên thuyền của Lý Thế Dân, rồi nói: “Chuyện này tương đối kỳ quái, Vân Ngọc Chân và những người khác vừa đi xong thì người của Lý tiểu tử đã đến bắt y, lại không giết y nữa, có vẻ như muốn đưa y đến một nơi nào đó vậy, bên trong nhất định có âm mưu ngụy kế gì đây”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Có lẽ nào là bà nương Vân Ngọc Chân đó biết quan hệ của chúng ta với Bốc Thiên Chí, nên đã thi triển kế nhất tiễn xạ song điêu, không những thu nhập được thủ hạ bất mãn với mình, còn bán đứng luôn bọn ta, hy vọng Lý tiểu tử có thể giúp ả trừ diệt luôn hai chúng ta?”. 

Khấu Trọng gằn giọng nói: “Bà nương này cũng ác độc lắm! Chỉ là chuyện của Tố tủ ta đã không thể tha cho ả rồi. Phía ngươi thế nào, có kết quả gì không?”. 

Sau khi nghe Từ Tử Lăng thuật lại mọi chuyện, Khấu Trọng chỉ biết trợn mắt ngạc nhiên, gãi gãi đầu nói: “Có chuyện này sao? Theo lý thì ngươi làm sao mà qua mặt được y thị chứ?”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Bất luận Chúc Ngọc Nghiên lợi hại thế nào, thì y thị vẫn chỉ là một phụ nhân. Thử hỏi y thị làm sao mà biết được Lỗ Diệu Tử đã làm ra một chiếc mặt nạ giống hệt như Nhạc Sơn? Huống hồ y thị lại còn cho rằng Nhạc Sơn đã luyện thành thứ Hoán Nhật Đại Pháp gì gì đó nữa”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Ngươi phải giữ gìn thân phận này cho tốt đấy, nếu có thể qua mặt được người từng quan hệ thể xác với ngươi là Chúc Ngọc Nghiên, thì có nghĩa là cũng có thể qua mặt được tất cả mọi người khác, có khi còn bắt được ả yêu nữ Loan Loan gọi mấy tiếng cha nữa đó!”. 

Từ Tử Lăng vừa cười vừa mắng: “Có gọi cha ngươi ấy! Có ngươi mới quan hệ thể xác với Chúc yêu phụ! Hà! Ta đã chán ghét Lạc Dương lắm rồi. Vừa nãy hình như Đổng đại tiểu thư đã ngồi xe ngựa vào Vinh phủ, chúng ta có nên vào phủ bắt người, hay là đợi ở đây chờ cơ hội khi ả trở về cung?”. 

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Chuyện không thể chậm trễ, đương nhiên là phải vào trong đó một chuyến, chẳng may tiểu dâm phụ đó ở lại một đêm, thì chúng ta cũng không cần ngủ à? Tốt nhất là thuận tay giết luôn tên tiểu tử Dương Hư Ngạn ấy, về sau có thể bớt được rất nhiều điều phiền phức”. 

Từ Tử Lăng đứng dậy nói: “Vậy thì cứ đại triển thân thủ, làm loạn bà nói Vinh phủ lên đi!”. 

  

oOo 

  

Hai gã mượn bóng đêm yểm trợ, nhảy qua tường, chưa kịp nhìn rõ gì thì đã nghe tiếng động lạ, giống như là tiếng chó đang chạy tới, cả hai vội vàng vận công đóng mọi lỗ chân lông trên người, không để hơi thở lọt ra ngoài, cùng lúc tung người nhảy lên, hạ thân xuống một nóc nhà gần đó nhất. 

Quả nhiên có hai con ác khuyển khổng lồ phóng tới, tuy không phát hiện gì, nhưng chúng vẫn hít hít ngửi ngửi một lúc lâu rồi mới bỏ đi. 

Bọn gã đảo mắt một vòng, chỉ thấy bên trong tường có hơn trăm gian phòng lớn nhỏ, hành lang nối tiếp hành lang, ngoại trừ ba gian đại sảnh đường sừng sững ngoài tiền viện ra, những nơi khác đều giống như một mê cung lớn, khiến người ta phải mắt hoa đầu váng, có cảm giác không biết nên bắt đầu từ đâu nữa. 

Khấu Trọng nhíu mày: “Làm sao tìm bây giờ?”. 

Từ Tử Lăng đáp: “Chỉ cần tìm được khuê phòng của Vinh Giảo Giảo là có thể tìm được tiểu dâm nữ của chúng ta, ngươi vẫn còn nhớ chân truyền của Trần lão mưu mà, đúng không?”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Ở đây ít nhất cũng có đến mấy trăm gian nhà, trong viện lại có viện khác, những thứ đơn giản Trần lão mưu đã dạy hoàn toàn không có tác dụng”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Kỳ thực Vinh phủ tuy đất rộng nhà nhiều, nhưng cũng không khó phân biệt chủ thứ, chỉ la thiếu một đường trục rõ ràng, nên ngưới mới cảm thấy rối rắm hoa mắt đó thôi”. 

Khấu Trọng gật đầu nói: “Nghe ngươi nói vậy, ta mới nhận ra, có thể do bọn ta bị ánh đèn và cây cối làm loạn mắt, nên mới cảm thấy chỗ nào cũng như chỗ nào. Theo ngươi thì Vinh giảo giảo sẽ ở đâu nhỉ?”. 

Lúc này vầng minh nguyện đã vén mây để lộ tiên tư, rải xuống đình đà lầu các của Vinh phủ làn ánh sáng dịu nhẹ, làm cho nơi này có một vẻ đẹp yên bình đến mức dị thường. 

Từ Tử Lăng dịch người ra gần mái hiên, thấp giọng nói: “Đây là bố cũc theo phương vị tiên thiên bát quái, vì vậy chỉ cần nắm được phương hướng chính xác thì đại khái có thể xác định được vị trí khuê phòng của Vinh Giảo Giảo ở đâu rồi”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Ngươi học thứ đó ở đâu vậy, làm sao biết được đây là tiên thiên bát quái mà không phải hậu thiên bát quái chứ?”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Cái này gọi là cần cù có công đó mà! Nếu ta lười nhác như ngươi, đêm nay đã không thể ôm mỹ nhân mang về rồi. Nói cho ta biết hướng của trạch viện này thế nào?”. 

Khấu Trọng nói: “Chắc là tọa Nam triều Bác đúng không?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Lỗ Diệu tử có viết, phàm là tiên thiên bát quái, tọa Bắc triều Nam khai tốn vị Đông Nam môn, tọa Nam triều Bắc khai càn vị Tây Bắc môn. Hiện giờ cửa lớn ở càn vị, vì thế có thể khẳng định Vinh phủ xây dựng theo tiên thiên bát quái. Bây giờ đang thịnh hành Tam Bích Vận, dù là địa lý sư kém cỏi nhất cũng biết được chủ trạch phải ở hướng chính Đông đó!”. 

Khấu Trọng cười hì hì nói: “Từ lão phu quả nhiên có chút bản lĩnh, còn không mau dẫn đường đi!”. 

  

oOo 

  

Hai gã nhảy qua nóc nhà, xuyên qua hành lang, vườn hoa, tiến về khu vực xác định như đi giữa chốn không người. 

Cả hai đã vận công làm các giác quan phát huy sự linh mẫn tối đa, trong khuôn viên mười trượng thì cả tiếng bước chân của loài trùng kiến cũng không giấu nổi tai mắt của hai gã. 

Vì vậy mỗi động tác của hai gã, nhảy lên hay nhảy xuống, lách tả hay né hữu đều có thể vừa hay tránh né người trong Vinh phủ, có lúc chỉ sai một bước là bị người phát hiệnnngat, nhưng cũng chỉ một bước đó mà hai gã không hề lộ một chút dấu vết, tất cả trạm canh ngầm, hay lầu gác gì đều không hề cản trở bước tiến. 

Chỉ trong giây lát hai gã đã đến được ngôi viện mục tiêu, nhảy qua tường vào bên trong, vừa thoạt nhìn đã biết mình tìm đúng chỗ. 

So với các nơi khác, nơi này bất luận là nền móng, bày trí, lan can, ô cửa, tường, viên lân, giả sơn, suối nước đều cầu kì hơn nơi khác gấp bội. 

Toàn viện do năm tòa kiến trúc tổ thành, lấy cửa, hành lang dài, hành lang gấp khúc và đình viện làm nơi chuyển hoán quá độ, xây dựng một quần thể kiến trúc liên hệ chặt chẽ với nhau, các loại kiến trúc như sảnh, đường, phòng, trai, quái, lầu, đài, hiên, các, đình được biến hóa khôn cùng, muôn hình vạn trạng, nhưng vẫn hợp lại thành một chỉnh thể thống nhất. 

Khấu Trọng chỉ tay vào một căn lầu ở giữa, quy mô đặc biệt lớn hơn những căn khác nói: “Hình như ta nghe thấy Vinh Phụng Tường đang nói chuyện trong đó”. 

Từ Tử Lăng vận công vào song nhĩ, quả nhiên nghe thấy có tiếng người ẩn ước truyền lại, liền bật cười mắng: “Tai của ngươi thính hơn ta, còn nghe được ra là giọng của ai nữa, vậy y đang nói cái gì vậy?”. 

Khấu Trọng không biết vì sao mà đặc biệt vui vẻ, vỗ vỗ vai gã nói: “Tiểu tử theo sư phó đi!”. 

Hai gã đề cao cảnh giác, cẩn thận dịch chuyển đến gần gian lầu kia. 

Đến gần hơn hai gã mới để ý xung quanh bốn phía đều là khoảng trống, đèn đuốc sáng rực như ban ngày, bất cứ người nào muốn vào được trong nội đường, đều phải lộ rõ hình tích, cách kiến trúc này rất giống với thiết kế của tòa đồng điện ở Tịnh Niệm Thiền Viện. 

Hai gã phục người trong bãi cỏ rậm, đợi một đám tỳ bộc đi qua, Khấu Trọng mới ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Vinh Phụng Tường nhất định là thường dùng chỗ này để gặp gỡ bí mật, bằng không sao lại thiết kết như vậy, nói không chừng Đổng Thục Ni đang ở bên trong đó đó, ta vừa nghe thanh âm của nữ nhân mà”. 

Tử Tử Lăng quan sát tình hình rồi nói: “Tòa kiến trúc này cao một cách bất thường, theo ta thấy trên đỉnh nhất định còn một tầng nữa, chuyên dùng để giám thị bốn phía, mà lại không sợ người ngoài nhìn thấy”. 

Khấu Trọng khẳng định nói: “Theo lý là phải vậy, bây giờ phải làm gì đây?”. 

Tử Tử Lăng chỉ tay sang một tòa lầu hai tầng bên trái nói: “Tiểu lâu kia chỉ thấp hơn nội đường chừng nửa trượng, giả như chúng ta có thể từ đó nhảy lên mười lăm trượng, rồi vược qua khoảng cách ba mươi trượng, là có thể tránh được tai mắt của những kẻ giám thị phía trên, cho dù bọn chúng nghe được tiếng gió thì cũng tưởng rằng có con chim lớn nào bay qua thôi. Thế nào, ngươi muốn thử không?”. 

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Ngươi không đùa đấy chứ! Dù là ở dưới đất nhảy lên, nhiều lắm ta cũng chỉ nhảy được mười trượng thôi, thêm nửa thước cũng không xong”. 

Từ Tử Lăng nói: “Một người thì không được, nhưng hai người hợp lực thì chắc được đó”. 

Khấu Trọng không hiểu nói: “Cho dù là chúng ta nắm tay nhau, ở trên không cùng phát lực ném nhau lên, nhiều lắm cũng được thêm vài trượng nữa là cùng. Có phải ngươi hơi đề cao mình quá không?”. 

Tử Tử Lăng mỉm cười: “Thế mới nói người ta cần nhất là động não. Ngươi còn nhớ tình cảnh lúc Độc Cô Phong dùng thiết bạt tập kích Vương Thế Sung, lão già không chết Hoảng Công Thác đã đứng trên thiết bạt như đằng vân giá vũ phóng đến không? Ném nhau chỉ là phương pháp nguyên thủy thôi, con người ta phải biết cải tiến mới mẻ hơn chứ, người là thứ sinh vật biết dùng công cụ mà”. 

Khấu Trọng gãi đầu: “Công cụ ở đâu hả Từ gia?”. 

Tử Tử Lăng đưa tay rút Tỉnh Trung Nguyệt của gã ra, trầm giọng nói: “Đi theo ta, Ăn cơm hay ăn cháo đều phải xem lần này có thành công hay không đây!”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 221

Trao đổi con tin

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng phục người trên mái nhà, nghiêng tai áp tai lắng nghe khẳng định bên dưới không có người rồi mới bò ra sát mái hiên, nhìn sang phía tòa lầu cao cách đó hơn ba mươi trượng, ở giữa chỉ cách một hồ nước, dòng suối nhỏ và mấy cây cầu con, còn đâu đều là nền sân lát đá xanh. 

Trên dải hành lang xung quanh nội đường cứ cách mười bước lại treo một ngọn bát giác cung đăng, ánh sáng rực rỡ làm người ta có cảm giác như bức tường bên ngoài là trong suốt vậy, khổ nhất là bốn góc bên ngoài mỗi góc lại có một tòa đăng lầu, cùng với ánh sáng từ trong hắt ra, làm cho quang cảnh rõ như ban ngày. 

Khấu Trọng tính toán một hồi rồi nói: “Ít nhất cũng phải nhảy lên cao mười lăm trượng thì bóng của chúng ta mới không bị ánh đèn hắt lên tường, ngươi có chắc được không đấy?”. 

Từ Tử Lăng chưa kịp trả lời gã thì đã nghe tiếng bước chân người vang lên. 

Hai gã vội vàng thụp người xuống, nhìn về phía vừa phát ra tiếng động. 

Chỉ thấy một đám người đang đi dọc theo hành lang tiến về phía nội đường, dẫn đầu không ngờ chính là Vinh Phụng Tường và Lang Phụng, những người còn lại đều là các nhân vật có máu mặt mà hai gã đã từng gặp trong thọ yến hôm trước. 

Hai gã lấy làm thất vọng, thầm nhũ chẳng ngờ kẻ ngồi xe ngựa đến đây lại là Lang Phụng, tuy nói rằng bình thường y chỉ hay cưỡi ngựa, nhưng nếu để tránh tai mắt kẻ khác, ngồi xe tới đây cũng là hợp tình hợp lý. Hai gã chỉ biết mở to mắt ra nhìn đám người này nối đuôi nhau đi vào nội đường, trong lòng lấy làm chán nản. 

Khấu Trọng cười khổ nói: “Làm sao bây giờ? Bắt Lang Phụng e rằng cũng chẳng có tác dụng gì đâu, con người Vương Thế Sung thế nào ta hiểu rõ nhất mà”. 

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Có muốn nghe thử xem bọn chúng nói gì không?”. 

Khấu Trọng thở dài: “Có gì mà nghe chứ? Chắc cũng chỉ là chuyện quan thương cấu kết chia nhau lợi nhuận, người chịu khổ chỉ có bình dân bá thánh mà thôi. Hà…!”. 

Tiếng nói cười từ phía sau bay đến. 

Hai gã quay đầu lại nhìn, thấy một nhóm người khác đang đi dọc theo con đường đá vụn xuyên qua các đình viện lầu các đến căn lầu mà hai gã đang ẩn thân trên nóc, đằng trước có bốn võ sĩ cần đèn đi mở đường. 

Người bắt mắt nhất đương nhiên chính là Vinh Giảo Giảo rực rỡ tựa một đóa hoa mới chớm nở, nhưng kẻ thu hút hết cả sự chú ý của hai gã, đồng thời làm cả hai mừng vui ra mặt lại là người đi bên cạnh nàng ta, Vương Huyền Ứng, 

Có kẻ này thì còn hơn Đổng Thục Ni gấp bội. 

Mấy võ sĩ đi theo xe ngựa lúc nãy đi chậm lại phía sau một chút, thần thái người nào cũng nhàn nhã như không, rõ ràng là không kẻ nào ngờ được rằng có địch nhân đang phục sẵn trong Vinh phủ chờ đợi mình đến. 

Hai gã đưa mắt nhìn nhau, không cần nói tiếng nào cũng hiểu rõ ý đồ của đối phương, cùng tháo mặt nạ xuống, để lộ bản lai diện mục. 

Vật săn không ngừng đến gần. 

Chỉ nghe Vương Huyền Ứng nói: “Thuộc hạ của Lý Mật hiện giờ đã lần lượt quy phục phụ hoàng, khiến thế lực của hắn càng lúc càng suy kiệt, chỉ cần chúng ta công hạ Hà Dương, thì cả nơi đào tẩu hắn cũng chẳng còn nữa rồi… ha ha!”. 

Hai gã ngấm ngầm vận công, đợi chờ cơ hội phát động. 

Vương Thế Sung đã dùng đám võ sĩ này để bảo vệ cho nhi tử bảo bối của mình, nói thế nào cũng phải có chỗ hơn người, một kích không thành, hai gã sẽ gặp phải không ít phiền phức. 

Khấu Trọng đưa tay làm hiệu, tỏ ý để gã ra tay bắt Vương Huyền Ứng, còn Từ Tử Lăng đối phó những kẻ khác. 

Bên dưới Vinh Giảo Giảo cũng thỏ thẻ cất giọng oanh vàng: “Lần này các vị đại thắng Lý Mật, phá sập thần thoại bách chiến bách thắng của hắn, oai danh đã chấn động khắp thiên hạ. Giảo Giảo thật vô cùng khâm phục và vui mừng!”. 

Vương Huyền Ứng đắc ý dương dương cười ha hả: “Đây toàn nhờ vào kết trá thương dụ địch và sách lược hợp lý của phụ hoàng”. 

Khấu Trọng nghe mà cảm thấy tức giận tràn hông, lúc này Vương Huyền Ứng đã chỉ còn cách tòa lầu bốn trượng, đây chính là vị trí thích hợp nhất cho hai gã đột kích, song chưởng liền ấn xuống mái ngói, cả người trượt xuống khỏi mái nhà hình chữ nhân, lao về phía Vương Huyền Ứng như một mũi tên, đồng thời gã còn vận công không cho y phục phất động, giống như một con ác ngư nơi biển sâu bổ về phía con mồi một cách vô thanh vô thức vậy. 

Cùng lúc đó Từ Tử Lăng cũng phát động, tung người bay lên, lộn ba vòng trên không theo sát phía sau Khấu Trọng, phóng về phía mấy tên võ sĩ hộ vệ. 

Lúc Khấu Trọng lao đến cách Vương Huyền Ứng chừng hai trượng, người đầu tiên phát hiện không phải là bất cứ tên cao thủ hộ giá nào, mà lại là mỹ nữ Vinh Giảo Giảo đi bên cạnh y. 

Nàng ngửa mặt lên nhìn Khấu Trọng, đôi mắt đẹp sáng rực lên những tia dị quang lấp lánh, cùng lúc đó trường kiếm trong tay múa lên một màn kiếm ảnh, nghênh tiếp lấy Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng, phản ứng cực nhanh, kiếm chiêu cực độc, với khả năng của Khấu Trọng mà cũng bị nàng ta làm cho luống cuống, khiến cho đại kế của gã chút nữa thì loạn. 

Đám cao thủ cận vệ của Vương Huyền Ứng lúc này mới phát giác ra có thích khách đột kích từ phía trên, hơn nữa lại là hai cao thủ trẻ tuổi uy danh vang dội võ lâm, ai nấy đều kinh hãi rút binh khí, đồng thời hò hét vang dội, gọi thêm cao thủ trong Vinh phủ ra tiếp viện. 

Khấu Trọng đối diện với kiếm ảnh mù mịt của Vinh Giảo Giảo, tức giận thiếu điều thất khiếu xịt khói. 

Nên biết rằng cơ hội sinh cầm Vương Huyền Ứng chỉ có một sát na ngắn ngủi, chỉ cần để Vinh Giảo Giảo cản gã lại một nhịp, thậm chí là chỉ một cái nháy mắt, toàn bộ tình thế sẽ lập tức đảo ngược, bọn gã từ kẻ đi săn biến thành vật săn, nói không chừng còn phải nuốt hận ở chốn này chứ chẳng chơi. 

Đừng nói hạng cao thủ như Dương Hư Ngạn, chỉ cần Vinh Phụng Tường và Lang Phụng trong nội đường ra đây, bọn gã đã khó mà đào thoát rồi. 

Nhưng kiếm chiêu của Vinh Giảo Giảo về thời gian và góc độ đều chính xác đến kinh người, khiến gã vô phương biến chiêu, mà chỉ có một đường duy nhất là ngạnh tiếp, đây là sự thực không thể thay đổi được nữa. 

Vương Huyền Ứng đã tung người sang bên né tránh, đám cận vệ cao thủ lập tức chạy về phía y định tạo thành vòng vây bảo vệ, nhất thời đao quang kiếm ảnh mù mịt, tiếng hò hét đinh tai nhức óc. 

Mắt thấy đại kế sụp đổ tới nơi, Từ Tử Lăng bất ngờ từ phía sau lao lên, vượt qua Khấu Trọng, song chưởng đánh xuống, công thẳng vào lưỡi kiếm của Vinh Giảo Giảo. 

Lúc gã lướt qua người Khấu Trọng, đã đưa tay đẩy nhẹ một cái. 

Khấu Trọng đã sử hết biến hóa của đao chiêu, lúc này được Từ Tử Lăng đẩy một cái, liền lộn nhào một vòng trên không, Tỉnh Trung Nguyệt chém bổ xuống đầu Vương Huyền Ứng đang muốn chạy trốn. 

Loa Hoàn Kình từ thân đao tỏa ra, bao trùm lấy Vương Huyền Ứng vào giữa, bức y phải dừng lại huykiếm đón đỡ. 

“Á!”. 

Vinh Giảo Giảo kêu lên một tiếng thảng thốt, bị Từ Tử Lăng liên tiếp vỗ hai chưởng lên thân kiếm, Loa Hoàn Kình cuồng mãnh đổ vào nội thể, trước là xoáy về bên trái, sau đó lại đảo chiều xoáy về bên phải, làm kinh mạch nàng suýt chút nữa là rối loạn, vội vàng kinh hãi lướt người ra xa, chịu để mất cơ hội tiếp viên cho Vương Huyền Ứng. 

Từ Tử Lăng cũng thầm kinh ngạc. 

Bất kỳ người nào gặp phải kình khí cổ quái chưa từng xuất hiện bao giờ này của gã cũng phải nếm chút thiệt thòi. Huống hồ gã đã lợi dụng hai chưởng đánh liên tiếp để đảo lộn chân khí một cách xảo diệu, hòng làm binh khí nàng tuột khỏi tay, chẳng ngờ Vinh Giảo Giảo không những vẫn còn nắm chắc trường kiếm, mà còn mượn lực tránh ra xa, từ điểm này có thể thấy được võ công nàng cao minh tới mức nào rồi. Nhi nữ như thế ắt hẳn phụ thân cũng không phải hạng thường, theo lý này mà luận thì Vinh Phụng Tường tuyệt đối không hề đơn giản. 

“Cạch!”. 

Vương Huyền Ứng toàn lực chém mạnh vào Tỉnh Trung Nguyệt, nhưng lại chẳng hề cí tiếng kim thiết va chạm, ngược lại chỉ như chém trúng một cọng cỏ, hoàn toàn không có kháng lực. Y lập tức hồn phi phách tán, một đao này của Khấu Trọng nhìn ngang nhìn dọc cũng đều thấy kình đạo mãnh liệt như di sơn đảo hải, chẳng ngờ chỉ là hư chiêu, đao thế thì hung mãnh, chứ thực ra chẳng hề có chút lực đạo nào cả. Cảm giác dùng sai lực đạo ấy thật hết sức khó chịu, như là khi dùng một cây côn đập vào sợi lông bay lơ lửng vậy. 

Vương Huyền Ứng hự lên một tiếng, miễn cưỡng vận khí thu kiếm, suýt chút nữa thì thổ huyết. 

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Huyền Ứng huynh trúng kế rồi!”. 

Tỉnh Trung Nguệt lập tức từ vô kình biến thành hữu kình, chém mạnh thân kiếm đang thu về của họ Vương. 

Chỉ nghe “Bình!” một tiếng, Vương Huyền Ứng thổ ra một búng máu tươi, trường kiếm thoát thủ bay xa, lảo đảo ngồi bệt xuống đất. 

Khấu Trọng nhảy tới ấn tay lên thiên linh cái của y, miệng quát lớn: “Tất cả cút xéo ra cho lão tử!”. 

Đám thân vệ lập tức dừng bước. 

Từ Tử Lăng an nhiên hạ thân xuống bên cạnh gã. 

Khấu Trọng nghe tiếng y phục phất gió từ phía nội đường, biết bọn Vinh Phụng Tường đang tới đây, vội vàng kẹp Vương Huyền Ứng đã bị phong tỏa huyệt đạo vào nách, cùng Từ Tử Lăng nhún mình phóng vút đi, đồng thời nói với lại: “Canh ba đêm nay bảo Vương Thế Sung mang Hư Hành Chi đến Thiên Tân Kiều đổi người! Kẻ nào dám đuổi theo ta sẽ giết nhi tử bảo bối của hắn! Ha ha…”. 

Trong tiếng cười ha hả, hai cái bóng của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng khuất dần vào màn đêm thăm thẳm. 

  

oOo 

  

 Trên lầu chuông. 

Khấu Trọng vỗ nhẹ giải huyệt đạo cho Vương Huyền Ứng, cười cười nói: “Huyền Ứng công tử khỏe chứ?”. 

Vương Huyền Ứng mất một lúc lâu mới định thần lại được, gằn giọng nói: “Các ngươi muốn gì?”. 

Khấu Trọng cười nhạt: “Nếu công tử không muốn nếm mùi khổ ải thì tốt nhất nên trả lời mấy câu hỏi của bọn ta. À, ta nhắc trước, con người ta đây rất là đa nghi, nếu ta thấy nói năng ấp úng, thì sẽ coi như là ngươi đang hồ ngôn loạn ngữ, mỗi lần như vậy sẽ cắt đi một ngón tay, mười lần thì công tử nhà ngươi sau này chỉ còn có thể dùng ngón chân mà sờ mó nữ nhân được thôi! Còn nếu hai mươi lần, hì hì… vậy thì cả ngón chân cũng chẳng còn đâu”. 

Vương Huyền Ứng biến sắc nói: “Ngươi dám làm vậy, cha ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua cho hai ngươi đâu!”. 

Thứ lời thừa thãi trong mềm ngoài cứng này đã thể hiện tính cách hèn nhát của y, lúc này ngay cả Từ Tử Lăng đang ngồi tĩnh tọa sát tường cũng lộ ra thần sắc khinh bỉ, thầm nhủ không ngờ Vương Thế Sung lại sinh ra tên khuyển tử như vậy. 

Khấu Trọng làm bộ ngạc nhiên: “Cha ngươi giỏi vậy sao? Nếu ta sợ lão, thì tên tiểu tử nhà ngươi đã không cần phải ngồi đây đợi lão tử phát lạc rồi. Không nói nhiều nữa, nhớ là ta hỏi thì phải trả lời, chậm một chút nào là ngươi hối hận cả đời. Ngươi đã bao giờ nghe ai bảo ta nói mà không giữ lời như lão gia nhà ngươi chưa?”. 

Vương Huyền Ứng làm bộ cương quyết nói: “Ngươi có giỏi thì giết ta đi!”. 

Khấu Trọng liền lấy cây trủy thủ dắt dưới chân, huơ huơ trên đầu y, cười hì hì dọa dẫm: “Ngươi có thể nói lại lần nữa không?”. 

Vương Huyền Ứng khẽ run lên, cuối cùng cũng đầu hàng, ủ rũ nói: “Ngươi hỏi đi”. 

Từ Tử Lăng không muốn nhìn thêm nữa, chán nản đứng dậy đi ra ngoài. 

Trên trời trănng sao lấp lánh, gió đêm thổi tới mát rượi. 

Lạc Dương bình yên một cách lạ thường, hầu hết mọi người đều đã an giấc, chỉ còn lại mấy ánh đèn thưa thớt. 

Hồi lâu sau Khấu Trọng mới đến bên cạnh gã, ngồi dựa lưng vào tường, hừ nhẹ mộ tiếng rồi nói: “Phụ tử nhà hắn đều chẳng ra thứ gì hết, chỉ có Vương Huyền Nộ là còn giống người”. 

Từ Tử Lăng nói: “Có hỏi được tình hình Hư tiên sinh không?”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Đúng là bị lão gia hắn nhốt lại, Lý tiểu tử đoán được lần này bọn ta trở về Lạc Dương là vì Hư Hành Chi, từ đó nhận ra tầm quan trọng của y với ta. Hư Hành Chi đã sai ở chỗ biểu hiện quá xuất sắc, còn chúng ta thì sai ở chỗ đã không đoán được Vương Thế Sung lại động thủ nhanh như vậy. 

Từ Tử Lăng nói: “Còn hỏi được gì nữa không?”. 

Khấu Trọng nói: “Di lão đã trở về phương Nam, còn Trần Trường Lâm thì bị điều đến Kim Dung thành. Con bà nó, ta thật muốn cho tên tiểu tử đó một đao quá!”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Đợi lạt nữa để ta đi thương thảo điều kiện, bọn chúng có giở trò hoa dạng gì cũng không sợ”. 

Khấu Trọng biết gã e mình nôn nóng báo thù, bèn cười cười nói: “Vậy làm sao được, nếu Lý tiểu tử và Vương Thế Sung bắt ngươi ra bức ta đổi người, thì không phải là ta sẽ ngoan ngoãn chịu trói sao. Chỉ cần có tên tiểu tử Vương Huyền Ứng này trong tay thì không sợ không khuất phục được Vương Thế Sung, chúng ta cùng đi một lượt đi! Ta rất muốn xem vẻ mặt lão hồ ly ấy lúc này thế nào”. 

Từ Tử Lăng đành gật đầu đồng ý. 

  

oOo 

  

Hai gã ngồi trên con thuyền nhỏ mới trộm được, áp giải Vương Huyền Ứng tiến về phía Thiên Tân Kiều. 

Vương Huyền Ứng bị điểm huyệt nằm dưới đáy thuyền, hoàn toàn mất đi tri giác. 

Từ Tử Lăng ngồi ở đuôi thuyền, một tay khua mái chèo, nước sông nhẹ nhàng vỗ vào mạn thuyền phát ra những tiếng kêu ì oạp. 

Hai bên bờ tối om như mực, những con thuyền nhỏ bình thường đỗ đầy chật cả bờ đê giờ không thấy một bóng, trên cầu đèn đuốc sáng rực như ban ngày, bóng người lố nhố. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Được thế thì thừa thắng xông lên, chúng ta phải chiếm hết tiện nghi mới được! Hà! Cuối cùng bọn ta vẫn không quen làm đạo tặc lắm, bắt cóc người mà quên mất không đòi tiền chuộc, bằng không có thể thừa cơ gõ cho Vương Thế Sung một khoản lớn, để hắn đau lại càng thêm đau. Có điều bây giờ mới nói ra, hình như hơi mất phong độ một chút… thôi đành vậy”. 

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Ngươi đúng là rỗi việc, chúng ta có thể đưa Hư tiên sinh an toàn rời khỏi nơi này đã phải tạ thiên tạ địa mấy lần rồi đó!”. 

Khấu Trọng dõi mắt nhìn về phía Thiên Tân Kiều đằng trước, hờ hững nói: “Vừa rồi ta lúc thẩm vấn tên tiểu tử này, hắn nói một câu thì tròng mắt đảo đến hai ba lượt, ngươi nói xem có phải rất không thỏa đáng không? Nhưng ta lại không thể tìm ra sơ hở gì, mà muốn ta thi triển độc thủ bức cung thì tiểu đệ đây lại không làm được”. 

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Mặc kệ là thật hay giả, cứ một người đổi một người, nếu có gì không ổn thì cho hắn một đao rồi đào tẩu, bị thất tán thì sẽ đến nơi định sẵn hội họp. Nhưng đến nơi nào mới được nhỉ??”. 

Khấu Trọng đề nghị: “Nếu ở trong thành thì ở hồ cá trong Thính Lưu Các, còn ở ngoài thành thì trên ngọn đồi mà Hòa Thị Bích bị vỡ! Cứ quyết định vậy đi!”. 

Hai gã không nói gì thêm nữa, im lặng ngầm vận tụ chân lực. Con thuyền nhỏ lao vút đi về phía Thiên Tân Kiều như một mũi tên.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 222

Giao Dịch Không Thành

Con thuyền nhỏ đi qua gầm cầu, khi đến phía bên kia mới từ từ dừng  lại. 

Khấu Trọng nhổm người đứng dậy, quát vang: “Vương Thế Sung ở  đâu?”. 

Vương Thế Sung vận thường phục hiện thân trên cầu, bên cạnh còn có Vinh  Phụng Tường, Lang Phụng, Tống Mông Thu và sáu bảy tên cao thủ cấm vệ mà  bọn gã đều biết mặt, nhưng không thấy người của phía Lý Thế Dân lộ diện. 

Khấu Trọng cười cười khom mình thi lễ nói: “Vương công cuối cùng cũng có  thể dùng đôi chân chó của mình để đi lại rồi, thật là đáng mừng, đáng mừng!”. 

Vương Thế Sung không hề động dung, trầm giọng nói: “Khấu Trọng ngươi  cũng không phải ngày đầu tiên hành tẩu giang hồ, chắc cũng biết rõ đạo lý lời  thừa không nên nói nhiều. Người đã ở đây, ngươi muốn trao đổi thế nào?”. 

Khấu Trọng cười cười đáp: “Nói hay lắm! Vương công đã là người hiểu  chuyện thì tự nhiên cũng phải nghĩ ra cách lưỡng toàn kỳ mỹ, vừa bảo đảm được  chúng ta có thể an toàn rời khỏi đây, lại vừa trao đổi con tin, sao không nói ra để  mọi người cùng nhau nghiên cứu thương lượng xem có thể thực hiện được  không?”. 

Vương Thế Sung nói: “Chuyện này không phải quá đơn giản sao? Chúng ta  trao đổi con tin trên cầu, ta đảm bảo để các ngươi rời khỏi thành, tuyệt đối không  ngăn cản. Vinh công có thể làm chứng”. 

Khấu Trọng nheo mắt nhìn Ving Phụng Tường đang đứng trên cầu ngó  xuống, lắc đầu cười cười nói: “Vương công đang nói đùa đấy à? Lời hứa của ngươi  chẳng đáng một đồng trinh, Vinh lão bản làm sao bảo đảm được?”. 

Vinh Phụng Tường trầm giọng nói: “Vậy thì đừng phí lời nữa, mau nói ra  cách thức trao đổi đi”. 

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Cách này đơn giản vô cùng, các ngươi giao  người cho chúng ta, đợi ta kiểm tra thân phận của y, sau đó mở cửa sông để  chúng ta rời thành, sau khi ra khỏi thành chúng ta sẽ thả người”. 

Vương Thế Sung tức giận quát: “Các ngươi tính toán cũng kỹ lắm, có điều  chuyện này tuyệt đối không thể, bởi vì ai có thể đảm bảo sau khi rời thành các ngươi sẽ giữ lời chứ?”. 

Khấu Trọng chậm rãi nói: “Khấu Trọng ta đã bao giờ hữu ngôn vô tín giống  lão già ngươi chưa? Hơn nữa chuyện này không đến lượt ngươi lựa chọn, chỉ cần  ngươi lắc đầu thêm cái nữa, ta sẽ giết chết nhi tử bảo bối này của ngươi, rồi mới  tính xem cần phải giết bao nhiêu người để thoát thân, dù sao cũng tốt hơn là đợi  ngươi cứu lại được nhi tử rồi sai thủ hạ đối phó bọn ta”. 

Vinh Phụng Tường xen miệng vào nói: “Khấu huynh đệ có thể nghe lão phu  nói một lời hay không, vấn đề bây giờ tất cả đều vì địa điểm trao đổi người ở trong  thành, nếu như đổi lại là ngoài thành, vậy thì Khấu huynh đệ không cần lo lắng  nữa rồi”. 

Khấu Trọng liếc mắt trao đổi ý kiến với Từ Tử Lăng rồi lắc đầu nói: “Vinh lão  bản hình như không biết trên đời này có chuyện gọi là truy sát và chặn đường tập  kích thì phải. Nếu đổi người như vậy, không phải hành tung của bọn ta đều nằm  hết trong tính toán của các ngươi hay sao, đến lúc đó mới hối hận thì không phải  đã hơi muộn rồi hay sao? Không cần nhiều lời, muốn đổi người thì cứ y theo  phương pháp của bản nhân, nhất ngôn vi định”. 

Song mục Vinh Phụng Tường thấp thoáng ẩn hiện sát cơ, đưa tay kéo  Vương Thế Sung lại nơi mà ánh mắt của Khấu Trọng nhìn không tới để thương  nghị. 

Khấu Trọng dịch người lại sát cạnh Từ Tử Lăng, thấp giọng hỏi: “Dưới nước  có động tĩnh gì không?”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Không! Có điều ta cứ cảm thấy có gì đó không ổn lắm,  nhưng lại không biết vấn đề ở chỗ nào”. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Có phải vì không thấy Lý tiểu tử và người của hắn  không?”. 

Từ Tử Lăng gật đầu: “Đây có lẽ là một nguyên nhân, còn chủ yếu là nếu  như Vương Thế Sung thành tâm muốn đổi người, vậy thì hắn không nên để Vinh  Phụng Tường tham gia vào mới đúng”. 

Khấu Trọng giật mình: “Có lý!”. 

Lúc này Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường lại xuất hiện trên thành cầu. 

Khấu Trọng cười lạnh, gằn giọng nói: “Lão tử không đợi được nữa rồi!”. 

Vương Thế Sung bình tĩnh nói: “Chúng ta tạm thời tin ngươi một lần, nhưng  ngươi phải phát thệ trước mặt tất cả mọi người ở đây, đảm bảo thực hiện lời hứa. 

Nếu không đáp ứng, Vương Thế Sung này đành phải dốc toàn lực báo cừu cho  nhi tử, Hư Hành Chi cũng sẽ phải chịu hết mọi nhục hình, muốn sống không được  mà muốn chết cũng chẳng xong. Các ngươi cũng sẽ phải cầu xin trời đất đừng để  lọt vào tay Vương mỗ”. 

Khấu Trọng tỏ vẻ khinh thường nói: “Vương Thế Sung ngươi có bao nhiêu  phân lượng và Khấu Trọng ta phải sợ chứ, hãy mang Hư Hành Chi ra đây cho ta  gặp rồi mới nói tiếp!”. 

Vương Thế Sung quát lớn: “Mang người ra!”. 

Từ Tử Lăng nghiêng đầu nhìn qua, thấy nửa thân trên của Hư Hành Chi hiện  ra sát lan can cầu, đầu tóc rối bù, trên mặt còn đầy máu me, toàn thân bị dây  thừng trói chặt, hai mắt nhắm nghiền, dường như đã hôn mê bất tỉnh, dưới ánh  sáng bập bùng của những ngọn đuốc, cũng chỉ có thể lờ mờ nhận ra những nét  quen thuộc trên gương mặt y. 

Khấu Trọng hoài nghi nói: “Cứu y tỉnh dậy trước đã”. 

Vương Thế Sung hừ lạnh quát: “Giao người cho ngươi, sau khi kiểm tra rõ thì  nói tiếp! Ném hắn xuống!”. 

Hai võ sĩ liền nhấc Hư Hành Chi lên, ném về phía con thuyền nhỏ của hai gã. 

Hư Hành Chi bị trói chặt, lộn nhào mấy vòng trên không trung rồi rơi xuống,  nhìn thế rơi, ít nhất cũng còn phải nửa trượng nữa mới đến thuyền được. 

Từ Tử Lăng liền vung mái chèo lên đỡ lấy. 

Khấu Trọng thì toàn thần quan sát tình thế xung quang. 

“Bịch!”. 

Hư Hành Chi bắn người lên cao, sau đó rơi trúng vào trong thuyền. 

Đúng vào lúc này. 

Dị biến đột nhiên phát sinh. 

Dây trói trên mình “Hư Hành Chi” bất ngờ đứt tung, hai tay vung lên, phát ra  những đạo chỉ phong lăng lệ, tấn công hai gã. 

Cùng lúc đó con thuyền nhỏ rung lên, hóa thành nhiều mảnh nhỏ. 

Hai gã sớm đã phòng bị từ trước, nhưng vẫn không thể ngờ địch nhân lại  dùng chiêu này để xoay chuyển tình thế. 

Trong nháy mắt, hai gã không còn nơi đặt chân, cả người chìm dần xuống  nước. 

Từ hai bên bờ có hơn mười mũi tên xé gió phóng tới, cùng lúc ấy, vô số địch  nhân ở trên cầu nhảy xuống. 

Hai gã lắc mình né tránh chỉ phong và cung tên của đối phương, nhưng  trong đầu đều hiểu rõ cách duy nhất để phản bại thành thắng, xoay chuyển tình  thế một lần nữa chính là khống chế được Vương Huyền Ứng. 

Cả hai nhanh trong vận công trầm mình xuống nhanh hơn, mồ hôi lạnh lập  tức toát ra. 

Chỉ thấy Vương Huyền Ứng không biết bị vật gì quấn vào người, từ từ trôi ra  xa. Lúc nghĩ bọn gã đến ngọn Quy Tàng Tiên của Uất Trì Kính Đức, thì tất cả đều  đã quá muộn. 

Cả hai gã đau đớn đến nỗi chỉ muốn khóc to một trận để tiết ra nỗi oán hận  tự trách mình tích tụ trong lòng. Có điều lúc này không phải là lúc để hai gã nghĩ  ngợi nhiều, ở hai bên cùng lúc xuất hiện vô số địch nhân cầm loan đao bổ tới vây  lấy hai gã vào giữa. 

Trong nước mà muốn tránh né loại vũ khí được chế tạo đặc biệt để chịu lực  cản thấp nhất này, hầu như là chuyện vọng tưởng. 

Hai bên bờ đèn đuốc sáng rực, chiếu rọi xuống lòng sông. 

Hai gã trầm mình xuống chỗ tối nhất của đáy sông, chỉ cần để địch nhân  thấy được tung tích của mình thì hai gã đừng hòng còn mạng rời khỏi nơi này,  cảm giác bất lực và uất ức cùng lúc đan xen, giống như một tảng đá đè nặng lên  ngực hai gã. 

Nếu không phải chọn Lạc Thủy làm nơi giao dịch, chỉ sợ bọn gã mọc cánh  cũng khó thoát. 

Từ Tử Lăng trầm xuống đáy sông, chạm phải lớp cát mềm bên dưới, tâm  niệm chuyển động, liền lập tức vận Loa Hoàn Kình liên tiếp quật ra bốn phía làm  bùn đất cuộn lên, chỉ trong nháy mắt lòng sông đã đục ngầu. 

Khấu Trọng thầm khen kế hay, cũng học theo Từ Tử Lăng, cùng lúc trầm  mình xuống sát đáy sông, nhanh chóng rời khỏi hiện trường. 

Hai gã bò lên bờ từ một chân cầu bắc qua Y Thủy ở thành Nam, chỉ biết  nhìn nhau cười khổ. 

Khấu Trọng thở dài: “Địch nhân thật giảo hoạt, tên giả Hư Hành Chi đó làm  cho bản thân giống một kẻ vừa chui ra từ chuồng heo, đầu tóc rối bù, lại còn  dùng dây thừng lớn trói chặt, làm chúng ta không thể nhận ra, bằng không đã không bị tên địch ở dưới nước thừa cơ lợi dụng rồi”. 

Từ Tử Lăng dựa lưng vào trụ cầu, trầm giọng nói: “Kẻ đóng giả Hư Hành Chi  mười phần chắc chín là Trưởng Tôn Vô Kỵ, vừa mới động thủ thì ta đã nhận ra  thân pháp và thể hình của y”. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Theo ta thấy thì một là Hư Hành Chi đã bị chúng  hại rồi, hai là y biết trước sự tình nên đã trốn đi từ trước, bằng không thì Vương  Thế Sung sẽ không để nhi tử của mình mạo hiểm như vậy đâu. Bởi vì kế này  không phải là hoàn toàn không sơ hở, lúc ấy chỉ cần ta đủ độc tâm, lại chịu thọ  chút nội thương thì vẫn đủ thời gian lấy mạng nhỏ của tên tiểu tử Vương Huyền  Ứng”. 

Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý nói: “Ta cũng nghĩ vậy, sau khi trời sáng, chúng  ta có nên tính cách rời thành không?”. 

Khấu Trọng nghiến răng kèn kẹt nói: “Cục tức này ngươi bảo ta làm sao  nuốt trôi được. Có điều địch đông ta ít, cứ liều mạng chỉ tự chuốc nhục mà thôi.  Ngươi có chủ ý gì hay không?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Quân tử báo cừu mười năm chưa muộn, dù thế nào bọn ta  cũng phải tạm thời cố nhẫn nhịn. Đừng quên Chúc Ngọc Nghiên vẫn còn rình mò  ở bên đấy, mụ ta thì đáng sợ hơn Vương Thế Sung và Lý Thế Dân nhiều”. 

Khấu Trọng chán nản nói: “Lẽ nào cứ để qua chuyện như vậy?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Chỉ cần chúng ta còn sống một ngày, Vương Thế Sung sẽ  không thể yên giấc. Đợi làm rõ chuyện của Hư Hành Chi rồi hãy tính sau”. 

Khấu Trọng bóp trán suy nghĩ: “Nếu Hư Hành Chi đã bỏ trốn, theo lý thì phải  đến tìm chúng ta, hay là thử về Yển Sư xem sao?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Không phải ngươi đã liên lạc người của Tống Kim Cương,  bảo bọn họ sắp xếp cho chúng ta đi Giang Đô à?”. 

Khấu Trọng nói: “Bây giờ ngoài ngươi ra ta không dám tin bất cứ kẻ nào  khác nữa. Làm sao chắc chắn đấy không phải là một cạm bẫy khác? Bây giờ  chúng ta phải thay đổi kế hoạch, tự mình đến Giang Đô tìm Lý Tử Thông, tới lúc  ấy sẽ tùy cơ ứng biến, đến đâu thì đến”. 

Từ Tử Lăng dài người đứng dậy nói: “Nhân lúc trời còn chưa sáng tốt nhất  chúng ta nên đi kiếm hai bộ y phục mới, để đến lúc đào tẩu cũng oai phong hơn  một chút”. 

Khấu Trọng cười hì hì nói: “Để tiểu đệ dẫn đường cho! Ta và lão bản của tiệm tơ lụa lớn nhất Lạc Dương là lão bằng hữu mà!”. 

Mây mù mờ mịt, mưa lớn có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. 

Từ Tử Lăng ngồi ăn bánh bao ở một tiệm nhỏ ven đường, trong lòng thầm  nhớ đến Trinh tẩu, xung quanh người qua kẻ lại huyên náo ầm ĩ, nhưng gã lại có  cảm giác như mình đang cô độc ở giữa một thế giới hoàn toàn xa lạ. 

Cuộc đời không ngừng biến hóa, ai cũng không thể nào không chế được. 

Mấy ngày trước hai gã còn là khách khanh trợ giúp cho Vương Thế Sung  đánh Lý Mật, hiện giờ đã trở mặt thành thù nhân. 

Lý Thế Dân vốn có thể trở thành hảo bằng hữu với hai gã, trước mắt lại biến  thành đại địch thủy hỏa bất tương dung. 

Lúc này Khấu Trọng bước đến, cười cười nói: “Ba Diện huynh vẫn khoẻ chứ,  màn thầu ở chỗ này so với Dương Châu thế nào?”. 

Từ Tử Lăng nhét nốt chiếc bánh bao nhân thịt vào miệng, thở dài nói: “Bánh  bao lúc không có tiền mua là bánh bao ngon nhất. Có tìm thấy người của Tống  Kim Cương không?”. 

Khấu Trọng cũng cầm một chiếc bánh bao lên ăn nhồm nhoàm, hàm hồ  đáp: “Kế hoạch thay đổi đôi chút, ta đã thuyết phục người của Tống Kim Cương  cho chúng ta mượn một chiếc thuyền hàng nhỏ, giấy thông hành các thứ đều đầy  đủ, ngoài ra còn có bốn thuyền phu, ngồi thuyền dù sao cũng hơn đi bằng chân  đúng không?”. 

Từ Tử Lăng nhún vai nói: “Ngươi thích thế nào thì cứ làm thế ấy đi”. 

Khấu Trọng làm bộ nghiêm chỉnh nói: “Ngươi nói thật không đấy”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Ngươi lại có chủ ý quỷ quái gì vậy?”. 

Khấu Trọng đưa tay vỗ vai gã nói: “Sáng sớm mai chúng ta mới đi”. 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi vẫn không chịu buông chuyện này ra hả”. 

Khấu Trọng ra vẻ nghiêm trọng nói: “Lần này thật sự không phải ta sính  cường hiếu thắng mà là sự tình có bước phát triển mới”. 

Từ Tử Lăng hoài nghi hỏi: “Cái gì mà bước phát triển mới chứ?”.

Khấu Trọng nói: “Vừa rồi ta đi dọc bờ sông tới đây, thấy một chiến thuyền đi  vào Hoàng Thành, ta dám khẳng định là từ Yển Sư trở về, bởi vì lúc chúng ta ngồi  thuyền về đây, nó vẫn còn đậu ở bến tàu bên ngoài thành Yển Sư”. 

Từ Tử Lăng nói: “Đây không phải là chuyện rất bình thường sao?”. 

Khấu Trọng đắc ý nói: “Nhưng con thuyền này lại rất không bình thường,  chẳng những trên thuyền giới bị thâm nghiêm, mà trước sau còn có hơn mười  khoái thuyền hộ vệ, trên bờ cũng có kỵ binh áp trận, ngươi nói xem tại sao phải  bày vẽ như vậy chứ? Đương nhiên là vì sợ có người cướp thuyền, hơn nữa người  bọn chúng sợ chính là hai vị hảo hán Dương Châu Song Long chúng ta đây này”. 

Từ Tử Lăng giật mình: “Hư Hành Chi quả nhiên là đã trốn đến Yển Sư kiếm  chúng ta, hiện giờ lại bị bọn chúng bắt lại rồi”. 

Khấu Trọng quả quyết nói: “Mặc kệ trong Hoành Cung có thiên binh vạn mã,  đêm nay chúng ta nhất định phải vào đó cứu người”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Không cần đợi lâu vậy! Bây giờ chúng ta lập tức  vào cung cứu người. Không phải ngươi từng nói trong cung vẫn còn rất nhiều  người cũ của Dương Động hay sao? Chỉ cần có thể lẻn vào nội cung, chúng ta có  thể tùy cơ hành sự tìm cách cứu người ra ngoài”. 

Khấu Trọng gãi đầu nói: “Ban ngày ban mặt, hai gã đại hán phi thiềm tẩu  bích dường như hơi chướng mắt thì phải? Từ thành môn đi vào thì lại sợ người ta  không hoanh nghênh”. 

Từ Tử Lăng ngẩng đầu nhìn sắc trời nói: “Lần này đúng là mưu sự tại nhân,  thành sự tại thiên. Chỉ cần có mưa lớn, chúng ta sẽ có cơ hội nhập cung cứu  người, nhưng phải chuẩn bị công cụ trước đã, sau đó mới xem lão thiên có chịu  giúp chúng ta hay không”. 

Hai gã nấp dưới một cây cầu nhỏ ở thành Bắc, dõi mắt nhìn về bức tường  phía Đông của Hoàng Thành. 

Trên trời mây đen mỗi lúc một nhiều, tuy mang đến hi vọng cho bọn gã,  nhưng mưa thủy chung vẫn không chịu đổ xuống. 

Lúc này chỉ còn nửa canh giờ nữa là đến chính ngọ. 

Từ Tử Lăng nhăn trán suy nghĩ rồi nói: “Trong Thủy Đạo thiên, Lỗ Diệu Tử  có viết phàm là các kiến trúc hùng vĩ như Hoàng Cung, bên dưới đều có một hệ  thống thủy đạo lớn, vừa để thải nước bẩn ra ngoài, đồng thời cũng dùng để tưới  tiêu cho các viên lâm, đình viện, nếu ta đoán không sai thì con kênh này thông  với thủy đạo bên dưới Hoàng Cung đó”. 

Khấu Trọng chau mày ngửa mặt lên nhìn sắc trời, gật đầu nói: “Lỗ Diệu Tử  nói thì không thể sai được, có điều chúng ta nghĩ ra thì người khác cũng nghĩ ra  được. Lần đó khi ta cùng bọn Dương Công Khanh nghiên cứu cách tấn công  Hoàng Cung, Dương Công Khanh từng chỉ rõ tất cả các cửa cống ngầm đều có nhiều tầng song sắt, ngoại trừ biến thành con cá nhỏ ra, đừng hòng mà vượt qua  được. Hà! Nếu lão thiên gia mà mưa cho một trận thật lớn thì tốt quá!”. 

Đột nhiên có tiếng vó ngựa nện xuống mặt đường, hơn ngàn kỵ sĩ từ xa  phóng tới rầm rập rầm rập như sấm. 

Khấu Trọng thò đầu ra nhìn, rồi rụt lại thấp giọng nói: “Là cấm vệ quân đi  tuần, có muốn mượn tạm hai bộ quân phục không?”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Làm vậy chỉ đả thảo kinh xà thôi, nếu mặc quân  phục là có thể vào cung được thì người ta đã ra vào cung như đi chợ rồi”. 

Khấu Trọng chán nản chẳng buồn nói gì thêm. 

Tiếng vó ngựa ầm ầm một lúc trên cầu rồi đột nhiên dừng lại. 

Hai gã giật mình, tóc ngáy dựng ngược, thầm nhủ lẽ nào đã bị phát hiện rồi. 

Một tên cấm vệ quân ở bên trên thở dài than: “Hôm nay thật đen đủi, lại bị  phái ra ngoài này đi tuần, nếu có thể ở lại trong cung có phải tốt không”. 

Một tên khác cười cười nói: “Ngươi là thứ gì chứ, ở lại trong cung thì sao, lẽ  nào ngươi đủ tư cách nghe Thượng Tú Phương diễn xướng à?”. 

Những người khác đều cười ha hả chế giễu kẻ vừa lên tiếng lúc nãy. 

Tiếng vó ngựa lại sầm sập vang lên, từ từ xa dần. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ngạc nhiên nhìn nhau, hai đôi mắt hổ cùng lúc  sáng bừng lên. 

Khấu Trọng đứng vụt dậy nói: “Theo lệ thì Thượng Tú Phương phải qua trưa  mới đến, ta đã nói phải mượn hai bộ quân phục mà lại!”. 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 223

Quá Hải Thần Tiên

Sau khi đổi y phục cấm vệ quân, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng thúc ngựa  đến cổng lớn của Mạn Thanh Viện, hét lớn: “Xa giá của Tú Phương tiểu  thư đã khởi hành chưa?”. 

Mấy tên đại hán gác cửa vội vàng: “Hai vị quan gia, Tú Phương tiểu thư  vẫn đang chải đầu rửa mặt, có điều xe ngựa đã chuẩn bị xong rồi, bất cứ lúc nào  cũng có thể đi được”. 

Khấu Trọng ra vẻ quan cách nói: “Dẫn đường cho ta!”. 

Kế đó hai gã nhảy xuống ngựa, đi theo kẻ đó vào nội viện, Khấu Trọng vừa  đi vừa dò hỏi, chẳng mấy chốc đã làm rõ tình hình Thượng Tú Phương bình  thường đến dự tiệc thế nào, trong đầu lập tức định ra một kế hoạch tỉ mỉ. 

Trời vẫn đầy mây mà không mưa, khiến cho tâm trạng của người ta dường  như cũng trầm xuống, cây cỏ hoa lá trong vườn cơ hồ cũng mất đi màu sắc xanh  tươi. 

Khi đến tiểu viện của Thượng Tú Phương cư trú, hơn mười tùy tùng của  nàng ta đang lau chùi xe ngựa, chuẩn bị xuất phát. 

Khấu Trọng đuổi tên dẫn đường ra ngoài, lôi người đứng đầu đám tùy tùng  của Thượng Tú Phương là Bạch Thanh sang một bên nói: “Huyền Ứng thái tử đặc  biệt phái chúng ta đến đây bảo vệ cho Tú Phương tiểu thư, Bạch huynh cũng biết  gần đây Đông Đô xảy ra rất nhiều sự cố mà!”. 

Bạch Thanh đưa mắt nhìn hai người một lượt rồi nói: “Hai vị quan gia đây rất  lạ mặt!”. 

Khấu Trọng cố làm ra vẻ thần bí hạ thấp giọng nói: “Thời gian gầy đây  chúng ta theo Huyền Nộ công tử đến Yển Sư hành sự, vì thế rất ít gặp người khác.  Có điều hôm Tú Phương tiểu thư đến thượng thư phủ, không phải chúng ta đã  gặp nhau rồi sao. Chỉ là hôm ấy ta phải canh gác trong phủ, không có dịp chào  hỏi đó thôi. Vừa mới đến Tú Phương tiểu thư đã hát một khúc gì mà thiếu niên  công tử phụ tư tư... hà... ta chỉ nhớ mỗi câu đó thôi, kỳ dư quên sạch cả rồi”. 

Những điều gã nói nửa thật nửa giả, Bạch Thanh đương nhiên là cũng  không nghi ngờ gì nữa, nhưng vẫn chau mày nói: “Tại hạ cũng nghe nói Đông Đô  gần đây không được yên ổn lắm, Huyền Ứng thái tử quả là người hữu tâm. Có điều tiểu thư xưa nay không thích khoa trương, hai vị quân gia đi bên cạnh thế này,  chỉ sợ làm người không vui”. 

Từ Tử Lăng ở bên chỉ cười thầm trong bụng, tự nhủ một đoàn tiền hô hậu  ủng thế này vẫn còn không gọi là khoa trương sao? Nhưng cũng biết đây chỉ là lời  chối từ khéo của Bạch Thanh. Có lẽ là do Thượng Tú Phương này muốn cho  người ta một ấn tượng bình dân một chút, không muốn công nhiên quan hệ với  quan gia. 

Khấu Trọng được Bạch Thanh nói trúng tâm sự, liền vỗ nhẹ vào vai y nói:  “Chuyện này không khó, đợi lát nữa chúng ta cởi bỏ quân phục, đi theo sau xe  ngựa của các vị là được rồi”. 

Bạch Thanh còn nói gì được nữa, chỉ đành gật đầu đáp ứng. 

Lúc này Thượng Tú Phương trang điểm rực rỡ cùng hai tỳ nữ xinh đẹp bước  ra. Khấu Trọng vội biết điều nép sang một bên, trầm giọng nói: “Bây giờ chỉ cần  qua được cửa Hoàng Thành là chúng ta trở thành thần tiên quá hải rồi!”. 

o0o 

Đoàn xe của Thượng Tú Phương rời khỏi Mạn Thanh Viện, đi về phía Hoàng  Thành. Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đi ở sau cùng, nhìn trước ngó sau, làm ra vẻ  cảnh giác. 

Mọi người đều không ngừng ngẩng đầu quan sát sắc trời, sợ mưa lớn sẽ đổ  xuống như trút bất cứ lúc nào, nên cố gắng đánh xe đi nhanh hơn. Đi được một  lúc thì phía sau vang lên tiếng vó ngựa dồn dập. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cảnh giác nhìn lại, lập tức thầm than xui xẻo, thì  ra người phóng ngựa đuổi tới chính là Lý Thế Dân, Bàng Ngọc, Trưởng Tôn Vô Kỵ  và Uất Trì Kính Đức. 

Lúc này chuyện duy nhất bọn gã có thể làm được, chính là cầu khẩn ông  trời, hy vọng Lý Thế Dân không biết mặt hết tất cả người hầu tùy bộc của Thượng  Tú Phương, bằng không hai gã sẽ lập tức bại lộ thân phận. 

Bọn Lý Thế Dân tuyệt đối không dễ bị gạt giống như Bạch Thanh. 

Hai gã vội vàng tản ra, vận công thu liễm tinh khí, khom người xuống, tránh  để bọn Lý Thế Dân cảnh giác, thầm cảm thấy may mắn vì đang cưỡi ngựa, bởi  nếu đang đi bình thường, chỉ cần hai gã thẳng người lên là đã khiến địch nhân  chú ý đến rồi. 

Lý Thế Dân dẫn đầu vượt qua hai gã, cơ hồ như đang tập trung tinh thần vào chuyện gì đó rất khẩn cấp, chẳng buồn liếc nhìn lấy một cái. Bọn Bạch  Thanh lần lượt hành lễ, Lý Thế Dân cũng chỉ gật đầu một cái coi như đáp trả. Bọn  Bàng Ngọc theo sát phía sau Lý Thế Dân, cũng chẳng chú ý đến bọn gã. 

Lý Thế Dân cho ngựa chạy song song với xe ngựa của Thượng Tú Phương,  nói: “Tú Phương tiểu thư! Thế Dân đến muộn rồi!”. 

Hai gã đều có cảm giác hú vía, thì ra Lý Thế Dân đã hẹn Thượng Tú  Phương cùng nhập cung. 

Thượng Tú Phương ngồi trong xe lên tiếng đáp lễ rồi ngạc nhiên nói: “Tần  Vương xưa nay luôn đúng giờ, tại sao hôm nay lại trễ hẹn vậy. Tú Phương không  hề có ý trách móc gì, chỉ là hơi cảm thấy hiếu kỳ mà thôi”. 

Lý Thế Dân ngẩng mặt nhìn sắc trời u ám, trầm mặc một lúc lâu rồi mới thở  dài nói: “Tú Phương tiểu thư còn nhớ Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không?”. 

Hai gã đi phía sau đang dỏng tai lên lắng nghe, thấy Lý Thế Dân nhắc tên  mình với Thượng Tú Phương thì đều cảm thấy hứng thú, một mặt ngạc nhiên  không hiểu Lý Thế Dân đến trễ thì có liên quan gì đến mình, mặt khác cũng rất  muốn nghe vị mỹ nữ tài sắc song toàn này trả lời thế nào. 

Thượng Tú Phương đột nhiên trầm ngâm không nói, hồi lâu sau mới khẽ cất  tiếng thở dài: “Khấu Trọng thì Tú Phương đã từng hai lần cùng dự tiệc, ấn tượng  rất sâu sắc, lúc nào cũng cảm thấy khí chất của y có điểm khác người. Còn về Từ  Tử Lăng, thì chỉ liếc thấy một lần ở Thính Lưu Các, vẫn chưa có cơ hội quen biết.  Lẽ nào Tần Vương đến muộn là vì hai người đó?”. 

Thanh âm của nàng uyển dễ nghe hết sức, hấp dẫn nhất là trong ngữ điệu  có một chút gì đó gợi mở như đã nhìn thấu nhân tình thế thái vậy. Lúc này chỉ  nghe tiếng mà không thấy người, cảm giác đó lại càng thêm mãnh liệt hơn.  Những ngừng ngắt và tiết tấu trong lúc nàng nói chuyện, cũng làm người ta liên  tưởng tới tiếng ca thương cảm của nàng, trong u uất tịch mịch lại ẩn chứa một  niềm hy vọng chờ đợi với sự vật, tạo thành một âm vận hết sức đặc biệt. 

Lý Thế Dân cười khổ nói: “Tú Phương tiểu thư chắc biết Thế Dân và hai  người đó vốn là hảo hữu, nhưng bây giờ đã thành cừu nhân sinh tử chứ?”. 

Thượng Tú Phương “a” lên một tiếng kinh ngạc, một lúc lâu sau mới thấp  giọng nói: “Mấy ngày hôm nay, có phải vì chuyện này mà Tần Vương bận rộn đến  quên hết mọi chuyện không?”. 

Lý Thế Dân không trả lời câu hỏi của nàng, mà lảng tránh sang chuyện  khác: “Ta vừa phải đi một chuyến vì hai người đó, nhưng thì ra chỉ là hiểu lầm”. 

Thượng Tú Phương ngạc nhiên: “Không phải Khấu Trọng ra sức cho Vương  công sao?”. 

Lý Thế Dân thở dài: “Đó là chuyện trước đây rồi. Tú Phương tiểu thư đừng  để những chuyện thế gian ngươi lừa ta gạt đó làm bẩn đôi tai”. 

Thượng Tú Phương hình như đang thăm dò Lý Thế Dân: “Hai người đó tuy  võ công cao cường, anh hùng can đảm, nhưng nếu muốn đối đầu với Tần vương,  có phải là hơi không biết lượng sức quá chăng? 

Trong tiếng lọc cọc của vó ngựa chậm rãi nện xuống mặt đường, xe ngựa rẽ  vào con đường lớn dọc theo Lạc Thủy, dẫn thẳng tới cửa cung. 

Trên không thuyền đi tấp nập, trên bờ người xe như nước, Lạc Dương vẫn  phồn thịnh như thuở trước. 

Chúng nhân đều bị thanh âm tuyệt diệu của nàng làm quên cả bầu trời  đang tối sầm lại. 

Lý Thế Dân hít vào một hơi thanh khí rồi thở dài than: “Hai người này không  thể dùng bốn chữ ‘võ công cao cường’ mà hình dung hết được. Bọn họ có thể là  tuyệt đại cao thủ có thiên bẩm nhất trong lịch sử võ lâm. Hiếm có hơn là cả hai  đều trí dũng song toàn, vì thế cho đến tận ngày hôm nay, vẫn chưa có ai làm  được gì bọn họ. Ngay cả Lý Mật hùng mạnh như thế mà cuối cùng cũng phải nuốt  hận bởi tay họ, từ đây có thể thấy hai người này lợi hại thế nào”. 

Ngữ khí của Lý Thế Dân mang theo một chút gì đó bất lực và thương cảm,  khiến người ta cảm nhận được y thực sự rất coi trọng hai kẻ kình địch này. Từ đây  cũng có thể thấy được khí phách và lòng dạ rộng mở của y, cho dù là sinh tử đối  đầu, y cũng tuyệt đối không hạ thấp đối phương trước mặt người khác. 

Trong lòng Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều dâng lên những cảm giác dị  thường, không ngờ Lý Thế Dân lại coi trọng mình đến thế, chẳng trách mà y lại  bất chấp thủ đoạn liên thủ hợp tác với Vương Thế Sung để tiêu diệt hai gã. 

Thượng Tú Phương thấp giọng nói: “Có phải bọn họ vẫn còn ở lại Đông Đô  không?”. 

Lý Thế Dân nói: “Chuyện này thì rất khó nói, khi hai kẻ này ở trong bóng tối  tính mưu định kế, không người nào có thể đề phòng và suy đoán được họ sẽ làm  gì”. 

Lúc này xe ngựa đã đến Thừa Phúc Môn, đám cấm vệ quân đều thẳng  người thi lễ, để cả đoàn người đi thẳng vào bên trong. 

Cuối cùng thì Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cũng có thể thở phào nhẹ nhõm. 

Lý Thế Dân và Thượng Tú Phương cũng ngừng nói chuyện, đi qua Thái  Thường Tự và Tư Y Tự, rẽ trái ở trước Thượng Thư Phủ, đi vào Đông Thái Dương  Môn, dọc theo con đường lớn qua Tắc Thiên Môn, tiến thẳng vào Cung Thành  hùng vĩ. 

Trong cung các điện các cung nối liền liên tiếp, đình đài lầu cách san sát  như nấm, mỗi điện đều có tường bao vây quanh và có những con đường nhỏ nối  liền với nhau. 

Đây mới là lần đầu tiên Từ Tử Lăng đặt chân vào nội cung, còn Khấu Trọng  thì đã từng chạy vào đây một lần, có điều lúc ấy chỉ lo chạy trốn, lấy đâu ra nhàn  tình ngắm nhìn phong cảnh, thế nên cả hai gã đều có cảm giác như được đại khai  nhãn giới vậy. 

Chỉ nhìn Tắc Thiên môn là đã biết Tùy Dạng Đế đã phải bỏ ra bao nhiêu  nhân lực vật lực vào việc xây thành này. 

Tắc Thiên Môn có hai môn khuyết tả hữu, cao tới mười hai trượng, bên trên  có lầu nhô ra, mái lầu vểnh lên, làm tăng thêm vẻ hùng vĩ nguy nga cho tòa kiến  trúc chính ở phía trong. 

Sau khi qua cửa, ở chính giữa là tam môn lưỡng điện, môn là Vĩnh Thái Môn,  Càn Dương Môn và Đại Nghiệp Môn, điện là Càn Dương và Đại Nghiệp. 

Càn Dương Điện là chính điện trong cung, là nơi cử hành đại điển và tiếp  kiến sứ tiết ngoại quốc. 

Bên trên Càn Dương môn có lầu cao, nối liền với tường cao bao bọc không  gian rộng lớn bên ngoài đại điện. Lúc này đã có mấy đội xa mã dừng lại bên  ngoài cửa điện, thoạt nhìn đã đoán được ngay bên trong đang cử hành thịnh hội. 

Càn Dương Điện quả không hổ là chính điện trong cung, riêng bậc thềm đã  cao tới hơn trượng, từ mặt đất lên đến đỉnh cũng phải cao tới hai mươi trượng, bốn  phía đều có cấm vệ quân canh giữ, giới bị thâm nghiêm. Hai bên điện đình đều có  giếng lớn để cung cấp nước cho Hoàng Cung. Phía Đông Nam, chính Nam cũng  có hai tòa lầu, một treo chuông, một treo trống, bên dưới có đồng hồ cát, mỗi khi  đến giờ thì đều đánh lên một tiếng chuông, một tiếng trống. 

Khấu Trọng đi song song với Từ Tử Lăng theo sau đoàn người của Thượng  Tú Phương. Bọn gã không cần lo lắng phía Lý Thế Dân, mà chỉ lo Bạch Thanh.  Hiện giờ Lý Thế Dân đã cho rằng hai gã là tùy tùng của Thượng Tú Phương, còn  Bạch Thanh lại nghĩ bọn gã là người của Vương Thế Sung. Vì vậy chỉ cần đám cấm vệ quân này lộ thái độ không coi hai gã là người nhà, Bạch Thanh lập tức sẽ  biết ngay hai gã là hàng giả. 

Kết quả này cơ hồ như không thể tránh khỏi. 

Giả như không có Lý Thế Dân đồng hành, bọn gã họa may vẫn còn có thể  xuất thủ khống chế họ Bạch, nhưng giờ thì đương nhiên là không thể làm vậy. Hai  gã đang đau đầu chưa biết phải làm sao thì xe ngựa đã từ từ dừng lại. 

Lúc Tống Môn Thu từ bên trong bước ra nghênh tiếp, Lý Thế Dân đã nhảy  xuống ngựa, đích thân giúp Thượng Tú Phương mở cửa xe. 

Bốn phía đều là cấm vệ quân, muốn đào tẩu cũng không thể đào tẩu được.  Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng đành quyết định liều  nhảy xuống ngựa. Có hai tên cấm vệ bước tới giúp bọn gã dắt ngựa. 

“Ầm!”. 

Một tiếng sấm nổ giữa trời, làm chấn động cả hoàng cung. Cuồng phong nổi  lên, thổi cho y phục ai nấy đều bay lên phần phật, lũ ngựa hí lên, nhảy chồm  chồm. Kế đó, từng hạt mưa to như hạt đậu bắt đầu rơi xuống. 

Tống Mông Thu sớm đã có chuẩn bị, vội mở chiếc ô mang theo bên mình ra  che cho mỹ nhân tuyệt sắc đang tha thướt xuống xe. Những người khác đành phải  làm gà nhúng nước một phen. 

Địa ám thiên hôn. 

Thượng Tú Phương và Lý Thế Dân vội vã bước lên đại điện, mưa càng lúc  càng lớn, nước trút ào ào. 

Kẻ vui mừng nhất đương nhiên là Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, bọn gã thừa  lúc chúng nhân đang vội vã tránh mưa, triển khai thân pháp lướt đến lầu chuông  ở phía Đông Nam mà không ai hay biết. 

o0o 

Hai gã nhìn mái điện điển nhã cổ kính của Càn Dương Điện, bất giác sinh ra  cảm giác lịch sử trùng diễn, thậm chí còn có chút hơi mất bình tĩnh. 

Mái điện cách lầu chuông nơi bọn gã ẩn thân khoảng ba mươi trượng, rất  giống với tình cảnh đêm trước ở Vinh phủ, mà trận mưa lớn ầm ầm cũng đã làm  sắc trời giữa ban ngày biến thành đêm đen. 

Xung quanh đại điện đều là cấm vệ quân, còn phương pháp vào bên trong  duy nhất của hai gã là từ trên mà xuống, thông qua lỗ thông hơi hoặc cửa sổ trổ gần mái mà đột kích mục tiêu bên trong.

Khấu Trọng hít sâu vào một hơi nói: “Không phải ngươi có cách vượt qua  khoảng cách này hay sao? Ở đây có thể giở lại chiêu cũ được không?”. 

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Đương nhiên là được. Hiện giờ lại càng dễ hơn, bởi  vì chúng ta còn có thêm sợi dây dài dùng để vượt tường thành nữa! Đi nào!”. 

Khấu Trọng cởi chiếc túi trên lưng, đưa sợi dây dài mười trượng cho Từ Tử  Lăng nói: “Lần này nhờ cả vào ngươi đấy!”. 

Từ Tử Lăng tự tin thành thục buộc chặt hai đầu dây thừng vào eo hông mình  và Khấu Trọng, rồi nói: “Nếu cách này mà không đến được mái Càn Dương Điện  thì dùng để thoát thân cũng tiện lắm”.

Nói đoạn thuận tay rút Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng ra. 

Khấu Trọng kháng nghị: “Ít nhất ngươi cũng nên cho ta biết phải phối hợp  thế nào chứ?”. 

Từ Tử Lăng đáp: “Đơn giản lắm, ta ném ngươi lên không, ngươi vận khí lướt  đi, sau đó tiểu đệ sẽ ném Tỉnh Trung Nguyệt ra, ngươi học theo Hoảng Công  Thác mượn lực phi bạt, đạp lên đao mà đến nơi, nhớ là phải vận công hút chặt  đao vào lòng bàn chân, nếu để đao rơi xuống thì hỏng bét cả mọi chuyện đấy”. 

Song mục Khấu Trọng lập tức sáng bừng lên: “Chỉ có ngươi mới nghĩ ra  cách này thôi!”. 

Từ Tử Lăng thấp giọng quát: “Lên nào!”. 

Khấu Trọng nhảy rời khỏi lầu chuông, Từ Tử Lăng từ từ đẩy song chưởng ra,  vận lực đẩy vào gót chân Khấu Trọng, lập tức đưa gã huynh đệ của mình lên cao  thêm mười trượng”. 

Nếu là lúc bình thường, một người bay giữa không trung không bị người ta  phát hiện mới là lạ, nhưng giữa trời mưa gió bão bùng thế này, cho dù có ai  ngẩng mặt nhìn lên, chỉ e cũng khó mà nhìn thấy hai gã. 

Một tia chớp loé lên, rạch nát bầu trời phía trên Khấu Trọng. 

Lúc này đà lao của gã đã tận, liền lộn nhào một vòng, lướt xuống mái điện. 

Từ Tử Lăng cũng từ dưới nhảy lên, theo sau Khấu Trọng. 

Trong tiếng tiếng mưa ầm ầm, Khấu Trọng vượt qua khoảng không hơn  mười trượng, nhưng vẫn còn cách mái điện những hơn mười lăm trượng nữa, đúng  lúc này Từ Tử Lăng vận công ném Tỉnh Trung Nguyệt ra, vừa hay vào đúng dưới  chân gã. 

Khấu Trọng đặt chân lên, mượn lực lao vút đi. 

“Kịch!”. 

Sợi dây thừng buộc hai gã kéo căng ra. 

Khi Khấu Trọng và Tỉnh Trung Nguyệt chạm đến mái điện thì Từ Tử Lăng  cũng mượn lực kéo của sợi dây đảo lộn trên không một vòng, rồi hạ thân xuống  bên cạnh gã. 

Thời gian hành động đã đến. 

Hai gã móc chân vào mái điện, thò đầu xuống quan sát. 

Thông qua ô cửa thông khí, hai gã nhìn thấy trong điện đèn đuốc sáng rực,  bên dưới có hơn mười bàn tiệc, bày thành hai hàng, hướng về phía chủ vị. 

Tiếng nhạc và tiếng cười đùa cùng tiếng mưa đập vào mái ngói phảng phất  như dị âm từ một thế giới khác. 

Khấu Trọng ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Lý tiểu tử công nhiên  tham dự thịnh hội của Vương Thế Sung trong cung điện thế này có phải là đã  gián tiếp thừa nhận đế vị của Vương Thế Sung rồi không?”. 

Từ Tử Lăng cẩn thận quát sát tình thế, thấy ngồi bên trái Vương Thế Sung  là Vương Huyền Ứng, kế đó là Lang Phụng, Tống Mông Thu, Vinh Phụng Tường,  bên trái là Thượng Tú Phương, sau đó là Lý Thế Dân, còn lại đều là nhân vật có  danh tiếng ở Lạc Dương này. 

Chỉ nghe gã làu bàu nói: “Giờ này này ngươi vẫn còn thời gian nghĩ chuyện  đó à, Lý tiểu tử chịu tham gia bữa tiệc này, đương nhiên là phải có lý do của hắn”. 

Lúc gã nói chuyện, nước mưa từ trên mái chảy vào mặt hắn, khiến gã có  cảm giác thống khoái phi thường. 

Cả trời đất đều bị tiếng sấm sét và tiếng mưa bao trùm, so với không khí ấm  áp bên trong điện, không gian bên ngoài lại càng tăng thêm vẻ cuồng bạo và  băng lạnh vô tình. Nước mưa từ mái ngói giống như một tấm màn nước chảy  xuống bậc thềm bên ngoài đại điện. 

Đám cấm vệ quân đều nép mình vào sát tường, cơ hồ như cả hoàng cung  chỉ còn lại mình hai gã là đang để mặc cho cuồng phong bạo vũ vùi dập. 

Mỗi sợi tóc đều sũng nước. 

Thanh âm đáng ghét của Vương Thế Sung ẩn ước truyền lại: “Tú Phương  hôm nay sẽ ngồi thuyền rời Lạc Dương, chúng tay hãy cùng kính nàng một chung,  chúc tiểu thư thuận buồm xuôi gió!”. 

Hai gã giờ mới hiểu ra tại sao yến hội lại tổ chức vào giữa trưa, mà cả Lý  Thế Dân cũng chịu đến phó yến. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Ta giả bộ hành thích Vương Thế Sung, còn  ngươi phụ trách bắt sống tiểu Huyền Ứng, thế nào?”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Vương Thế Sung để ta phụ trách, ngươi đối phó Lý  Thế Dân để kềm chế ba người bọn Uất Trì Kính Đức”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Vậy ai bắt người?”. 

Từ Tử Lăng cởi bỏ mặt nạ ra nói: “Đương nhiên là tiểu đệ, Vương Huyền  Ứng thấy lão gia của hắn bị hành thích, tất sẽ xông lên hộ giá, lúc ấy chính là lúc  hắn lọt vào tay chúng ta”. 

Khấu Trọng cũng cởi bỏ mặt nạ nói: “Ngươi phải cẩn thận Vinh Phụng  Tường đấy, chỉ cần hắn lợi hại hơn Vinh Giảo Giảo một chút, thì cũng đủ khiến  chúng ta đau đầu rồi! Hắc! Ngươi thử nói xem ta có lỡ tay giết chết Lý tiểu tử  không nhỉ?”. 

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Mục tiêu của chúng ta là cứu Hư Hành Chi, nếu  ngươi tham công cầu thắng, ngược lại để địch nhân bắt mất thì chúng ta sẽ thua  hết cả bàn đấy. Lúc đó thì người phải đổi là tên ngốc nhà ngươi chứ không phải  Hư Hành Chi đâu”. 

Khấu Trọng cười khổ nói: “Trước mặt ngươi, tại sao ta cứ giống như tên ngốc  vậy nhỉ?”. 

Từ Tử Lăng không chuyện phiếm thêm với gã nữa, mà hỏi: “Lúc nào động  thủ?”. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Ngươi nói thử xem?”. 

Từ Tử Lăng vuốt nước mưa trên mặt, nở một nụ cười rực rỡ như ánh mặt trời,  nhẹ hàng nói: “Đương nhiên là lúc địch nhân không cảnh giác nhất rồi! Nói đi, nên  động thủ vào lúc nào đây?”. 

Khấu Trọng cũng cười lại nói: “Cái này gọi là anh hùng sở kiến lược đồng.  Đúng lúc Thượng Tú Phương đại gia khai kim khẩu, chúng ta sẽ xuất thủ hành  động”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 224

Lại Bắt Huyền Ứng

 

“Bình đài thích lý đới sùng đường, 

xuy kim đoạn ngọc đãi minh chung,  

tiểu đường khởi trướng tam thiên hộ, 

đại đạo thanh lâu thập nhị  trùng...”. 

Không biết có phải đột nhiên bị khơi gợi lại tâm sự, hoặc do cảm  xúc biệt ly, hoặc do thấy ngoài trời mưa gió sấm chớp mà tức cảnh sinh tình, mỗi  âm mỗi chữ rõ ràng là từ đôi môi thơm của nàng phát ra, nhưng tất cả người có  mặt tại trường, bao gồm cả Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đang dầm mưa bên ngoài,  đều có cảm giác kỳ dị như tiếng ca cất lên từ nơi sâu thẳm nhất trong lòng mình. 

Tuy nàng còn đang đứng giữa đại điện ca vũ hiến nghệ, song những người  có mặt tại đâu đều cảm thấy như nàng đã chuẩn bị hành trang, đứng ở bến đò  chờ đợi, sẵn sàng bước lên con thuyền lớn để rời khỏi Lạc Dương bất cứ lúc nào  vậy. 

Tiếng ca của Thượng Tú Phương uyển chuyển trầm bổng giữa tiếng mưa gió,  quyến rũ mê người, nhưng làm người ta cảm động nhất là cảm giác phong sương  và tình cảm hụt hẫng bi thương được thẻ hiện một cách hết sức tự do thoải mái  qua giọng ca điêu luyện cực độ của nàng. Bất luận là âm vận biểu tình, hay kỹ  thuật xướng âm đều đã đạt tới cảnh giới đăng phong tạo cực, so với bất cứ lần  biểu diễn nào cũng đều hay hơn rất nhiều. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nhất thời cũng bị tiếng hát làm ngây ra, để lỡ cả  cơ hội xuất thủ. Tiếng vỗ tay như sấm vang lên làm hai gã bừng tỉnh trở lại hiện  thực, cùng lúc lập tức xuất kích. 

“Bình! Bình!”. 

Chúng nhân trong điện vẫn còn đang như say như mê trong dư âm tiếng ca  của Thượng Tú Phương, mái ngói đã vỡ tung, hai dòng nước mưa theo đó ào ào  tràn xuống, tựa hồ như mưa gió bên ngoài đã dịch chuyển cả vào trong đây vậy.  Cùng lúc đó, bên ngoài vang lên tiếng sấm nổ ì ùng, hồi âm vang vang càng làm  mọi người có cảm giác như treo mình nơi vách đá, hồn phi phách tán. 

Chúng nhân còn đang kinh hãi thì hai bón nhân ảnh đã chia nhau bổ tới  Vương Thế Sung và Lý Thế Dân. Kình khí lạnh thấu xương, tiếng chưởng phong  rít gió phát nát bầu không khí bi thương lưu luyến mà Thượng Tú Phương đã tạo  ra trước đó. 

Lúc này Thượng Tú Phương vẫn đứng ở giữa điện, chưa quay về chổ ngồi,  liếc nhìn thấy thích khách từ trên phóng tới, sợ hãi đến đứng ngây người ra tại chỗ,  đưa tay ôm ngực, gương mặt tuy tái mét nhưng vẫn yêu kiều diễm lệ phi thường. 

Người đầu tiên bị tấn công là Lý Thế Dân. 

Khấu Trọng phá ngói nhảy vào, lập tức lộn nhào một phòng, đầu chúc  xuống đất, Tỉnh Trung Nguyệt sáng rực lên những tia vàng chói mắt, tựa hồ như  một cơn ác mộng kinh hoàng nhất bổ chụp xuống đầu Lý Thế Dân. 

Bởi sự tình quá bất ngờ, thêm vào tốc độ của Khấu Trọng lại nhanh tựa sao  băng, bọn Bàng Ngọc, Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức ngồi sau Lý Thế  Dân nửa trượng có muốn cứu viện cũng đã chậm mất một bước. Người phản ứng  nhanh nhất là Lý Thế Dân. Y không kịp bạt kiếm đỡ đao hay né tránh, đành vận  công vào song thủ, hất chiếc bàn gỗ đỏ trước mặt lên quá đầu, đón lấy một đao  kinh thiên động địa của Khấu Trọng. Ly rượu, bát đũa trên bàn toàn bộ đều rơi cả  xuống đất. 

“Rầm!”. 

Chiếc bàn gỗ đỏ vỡ tan tành. 

Lý Thế Dân nhân lúc này, lăn về phía sau. 

Khấu Trọng lộn nhào một vòng, Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành trăm ngàn  đạo hàn quang, cuồn cuộn chụp về phía Lý Thế Dân như hình với bóng, hạ thủ  quyết không lưu tình. 

Lúc này Từ Tử Lăng đã vượt qua khoảng cách hơn ba trượng, giống như phi  ưng tróc thố bổ nhào xuống trước mặt Vương Thế Sung, song quyền cùng lúc  đánh ra. Đám cấm vệ quân ở hai bên tả hữu tuy đã động thân bổ tới, song đều  không kịp ngăn cản. 

Tân khách trong điện đa phần đều không biết võ công, hoặc giả võ công  tầm thường, nên cũng chỉ biết trợn mắt há miệng ra nhìn, tay chân luống cuống. 

Lang Phụng, Tống Mông Thu, Vương Huyền Ứng lần lượt tung người phóng  tới, nhưng cũng là nước xa không cứu được lửa gần. Động tác nhanh nhất là  người ngồi cạnh Vương Huyền Ứng, Vinh Phụng Tường, chỉ thấy tả thủ y ấn lên  mặt bàn, cả người tà tà bay lên như một đám mây, vượt qua khoảng cách hơn  trượng, song chưởng liên hoàn kích ra đánh vào bên hông Từ Tử Lăng, lộ ra bản  lĩnh võ công tuyệt thế của mình. 

Vương Thế Sung cũng là cao thủ nhất đẳng, sau cơn kinh hãi, cũng lập tức  nhận ra đây là giờ phút sinh tử, vội vàng đề khí thu tâm nhiếp thần, song chưởng đẩy ra phía trước, ngạnh tiếp một quyền bá đạo như di sơn đảo hải của Từ Tử  Lăng. 

“Rầm!”. 

Vương Thế Sung thương cũ chưa lành, nay lại thêm thương mới, tuy miễn  cưỡng đỡ được một quyền khai sơn phá thạch của Từ Tử Lăng, song cổ họng đã  không còn nghe theo sự khống chế của bản thân nữa, thổ ra một búng máu. 

Từ Tử Lăng cũng bị chân lực hùng hậu của đối phương làm cho khựng người  lại, đúng lúc này chưởng lực bài sơn đảo hải của Vinh Phụng Tường cũng đã ép  tới sát người gã. 

Trong một sát na ngắn ngủi, gã phán đoán ra thực lực của Vinh Phụng  Tường cao hơn nhiều so với những gì mình dự đoán, khí thế và tốc độ đều chuẩn  xác một cách phi thường, đã đạt đến cảnh giới của một đại tôn sư. Từ Tử Lăng hừ  lạnh một tiếng, nhân đà lao bổ thẳng xuống đất, không những tránh khỏi phách  không chưởng của Vinh Phụng Tường, mà trước khi chạm đất, đã bất ngờ chuyển  hướng, bắn thẳng về phía Vương Huyền Ứng như một mũi tên, tốc độ biến chiêu  nhanh tới độ khiến người ta phải kinh hồn bạt vía. 

“Đinh!”. 

Trong một tình trạng gần như không thể, Lý Thế Dân bất ngờ dừng lăn lại,  còn bật người lên, bạt kiếm đón đỡ lấy Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng. 

Loa Hoàn Kình được Khấu Trọng tích tụ từ trước đổ dồn vào kinh mạch Lý  Thế Dân như trường giang đại hải, khiến y như chạm phải điện, loạng choạng  thoái lui vào giữa ba người bọn Bàng Ngọc, tuy có thất thế song vẫn giữ được tính  mạng. 

Khấu Trọng hạ thân xuống đất, Tỉnh Trung Nguyệt liên tiếp chém ra, mang  theo kình khí mạnh mẽ, ép cho bọn Bàng Ngọc không kịp trở tay, rồi bất ngờ lướt  ngược về phía sau, hi vọng có thể hội hợp được với Từ Tử Lăng. 

Từ Tử Lăng lúc này đã lao đến trước mặt Vương Huyền Ứng. 

Vinh Phụng Tường đang theo sát phía sau gã là kẻ có ảnh hưởng lớn nhất  đến thành bại của kế hoạch lần này. Từ thân thủ của Vinh Giảo Giảo, gã và Khấu  Trọng đã đánh giá kẻ này rất cao, nhưng vẫn không ngờ y lại đáng sợ tới nhường  này. Nếu ngay một chiêu đầu tiên này, gã không kịp khống chế được Vương  Huyền Ứng, vậy thì sẽ không còn cơ hội nào khác nữa. Còn Vương Huyền Ứng,  dù y có kém cỏi thế nào, cũng tuyệt đối không đến nỗi tồi tệ như vậy. 

Nhân cấp trí sinh, song mục Từ Tử Lăng thần quang sáng rực, nhìn thẳng vào mắt Vương Huyền Ứng lúc này đang bạt kiếm công tới, kẻ này bị khí thế của  gã làm cho sợ hãi, thêm nữa là y đã từng là bại tướng dưới tay gã và Khấu Trọng,  nên lập tức đổi tiến thành thoái, hi vọng những kẻ khác có thể kịp thời tiếp viện. 

Vinh Phụng Tường đang thầm kêu không hay, thì Từ Tử Lăng đã tăng tốc  phóng lên, song thủ múa lên muôn ngàn bóng chưởng mù mịt, liên tiếp vỗ vào  thân kiếm của Vương Huyền Ứng. 

Vương Huyền Ứng không ngửng lảo đảo, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy,  sau đó vấp chân vào mấy chiếc ghế phía sau, rồi lại bị từng đượt chưởng kình của  Từ Tử Lăng liên tiếp vỗ tới, không kịp trụ vững thân mình, trường kiếm thoát thủ  bay đi, cả người cũng ngã nhào, làm chén bát trên bàn đổ vỡ loảng xoảng. 

Hơn mười tên cấm vệ quân từ hai bên tả hữu bổ tới, nhưng đã không kịp cứu  lấy thiếu chủ của bọn chúng. 

“Rầm!”. 

Từ Tử Lăng phản thủ hất ngược lại, ngạnh tiếp một kích của Vinh Phụng  Tường, cùng lúc mượn lực lướt về phía trước, rồi phóng vụt lên cao, thuận tay  nhấc Vương Huyền Ứng đã bị phong bế huyệt đạo như nhấc một con gà con. 

Vinh Phụng Tường hú lên một tiếng sắc lạnh, quay đầu đón lấy Khấu Trọng. 

Lúc này gã họ Khấu vừa lướt tới bên cạnh Thượng Tú Phương vẫn còn đứng  ngây ra giữa đại điện, không ngờ còn thuận tay vuốt lên gò má phấn của nàng  một cái rồi ghé miệng vào vành tai nhỏ thì thầm: “Tiếng ca của tiểu thư thật mê  hồn!”. 

Cùng lúc đó, Tỉnh Trung Nguyệt cũng sáng rực ánh vàng, bổ thẳng vào  Vinh Phụng Tường. 

“Bình!”. 

Hai người lướt qua nhau, Khấu Trọng đang thầm khen đối phương lợi hại thì  Từ Tử Lăng đã nhấc Vương Huyền Ứng tránh vào một góc, miệng quát lớn: “Tất  cả dừng tay cho ta!”. 

Tất cả người trong đại điện lập tức khựng lại, còn Khấu Trọng thì ung dung  hạ thân xuống cạnh gã huynh đệ sinh tử, Tỉnh Trung Nguyệt gác lên cổ Vương  Huyền Ứng, cười lên ha hả: “Thế Sung tiểu tử, Thế Dân tiểu tử, lần này thua đã  phục chưa?”. 

Vương Thế Sung lúc này đang đứng giữa vòng vây trùng trùng của đám  cấm vệ quân, gương mặt già nua trở nên khó coi hết sức, nhất thời tức giận đến độ không nói được ra tiếng. Hiện giờ vẫn không ai biết hai gã làm cách nào lọt  được vào hoàng cung mà thần bất tri, quỷ bất giác. 

“Ầm ầm!”. 

Sấm nổ vang trời, cơ hồ như muốn nhắc nhở chúng nhân thế giới bên ngoài  vẫn đang chìm trong mưa gió. 

Lý Thế Dân bước lên một bước, chắp tay sau lưng, mỉm cười nói: “Thủ đoạn  quỷ thần mạt trắc của Trọng huynh và Tử Lăng huynh thật khiến người ta không  thể không phục”. Kế đó lại trìu mến nhìn sang Thượng Tú Phương, dịu dàng nói:  “Thượng tiểu thư đã bị kinh hãi rồi, xin hãy về chỗ nghỉ ngơi”. 

Thượng Tú Phương dường như không nghe thấy y nói gì, vẫn đứng ngây ra  giữa đại điện, mắt hạnh mở lớn nhìn chằm chằm vào Khấu Trọng và Từ Tử Lăng,  hồi lâu sau mới quay lại đứng bên cạnh Lý Thế Dân. 

Vinh Phụng Tường cơ hồ như đã nổi cơn thịnh nộ, song mục ẩn hiện sát cơ,  hừ nhẹ một tiếng hỏi: “Các ngươi vào đây bằng cách nào?”. 

Những người khác đều nép mình im lặng, mà cũng không đến lượt bọn họ  được lên tiếng ở đây. 

Khấu Trọng tỏ vẻ ngạc nhiên: “Vẫn còn hỏi được những câu thừa thãi như  vậy cơ à?”. Kế đó gã quay sang nói với Vương Thế Sung: “Không cần ta nói chắc  thánh thượng nhà ngươi cũng biết nên làm gì rồi chứ? Tiểu đệ xưa nay đều không  có tính nhẫn nại đâu”. 

Vương Thế Sung tức giật đến suýt nữa thì thổ huyết, gằn giọng quát: “Mang  Hư Hành Chi ra đây!”. 

Cấm vệ quân lập tức tuân mệnh chạy đi. 

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Mau tìm cho tiểu đệ một chiếc khoái thuyền cho  ra vẻ một chút, sau khi thuyền đến Yển Sư sẽ thả người, những điều kiện khác  đều không chấp nhận”. 

Vương Thế Sung còn có thể nói gì nữa chứ? 

o0o 

Thuyền buồm xuôi dòng rời khỏi Đông Đô, tiến về Yển Sư. 

Hoàng hôn sau cơn mưa, đẹp một cách mê hồn. 

Vương Huyền Ứng bị phong tỏa huyệt đạo, nằm hôn mê bất tỉnh trong  thuyền. 

Ba người bọn Khấu Trọng say sưa nói chuyện chia sẻ niềm vui trùng phùng  sau một trận đại kiếp. 

Hư Hành Chi nói: “Khi tại hạ thấy Vương Thế Sung đại phong thân tộc và bộ  hạ, nhưng lại bỏ sót mất Khấu gia, liền biết ngay lão hồ ly này sẽ thi triển độc thủ  với hai vị, nên đã nhân lúc đến Kim Dung công cán, thừa cơ chạy tới Yển Sư tìm  hai vị, chằng ngờ lại rơi vào tay bọn chúng”. 

Từ Tử Lăng đang điều khiển bánh lái, nghe y nói vậy liền quay lại hỏi: “Theo  ta thấy thì Vương Thế Sung vẫn muốn trọng dụng Hư tiên sinh, bằng không thì với  tính cách sài lang của hắn, phải sai người đem tiên sinh ra xử quyết tại chỗ rồi  mới đúng”. 

Khấu Trọng hừ nhẹ một tiếng, gằn giọng nói: “Vậy thì tên thái tử bảo bối của  hắn cũng không cần sống nữa rồi!”. 

Hư Hành Chi nhìn về phía sau, thấy một chiếc chiến thuyền đang theo sát,  thở dài một tiếng rồi nói: “Hạng người khắc bạc vô tình ấy, Hư mỗ dù có chết  cũng không chịu vì hắn ra sức. Còn anh hùng hào kiệt nghĩa bạc vân thiên, vì  người khác mà bất chấp an nguy bản thân như Khấu gia và Từ gia đây, dù là phải  dâng lên tính mạng, Hư Hành Chi này cũng cam tâm tình nguyện”. 

Khấu Trọng le lưỡi nói: “Lần này kỳ thực vô cùng nguy hiểm, võ công của  Vinh Phụng Tường chẳng những cao cường hơn chúng ta liệu định, mà còn có vẻ  rất ngụy dị tà đạo, không giống như là võ học chính tông, suýt chút nữa thì hắn  làm đại kế của bọn ta rối tung lên rồi”. 

Từ Tử Lăng cũng ngạc nhiên thốt: “Ta còn tưởng mình nhầm lẫn nữa, không  ngờ ngươi cũng cảm thấy vậy. Nhìn bề ngoài thì thủ pháp của hắn rất đường  đường chính chính, song bên trong lại ngầm ẩn chứa rất nhiều chiêu số ngụy dị tà  môn, hơn nữa còn giữ lại đôi phần, cơ hồ như muốn giấu diếm vậy. Bên trong  nhất định là còn có bí mật gì khác”. 

Khấu Trọng nhăn trán suy tư, một lúc lâu sau mới lên tiếng: “Lúc ta động  thủ với Vinh Phụng Tường, tuy chỉ lướt qua mặt nhau có một lần, nhưng lại có  cảm giác như đã gặp ánh mắt đó của hắn ở đâu rồi vậy. Chuyện này thật kỳ quái,  tại sao trước đây chúng ta gặp hắn lại không có cảm giác này nhỉ?”. 

Hư Hành Chi nói: “Có lẽ là vì bình thường lúc nào hắn cũng cố ý thu nhiếp  nhãn thần, khi động thủ do phải vận chân khí nên mới để lộ ra. Từ đây suy ra, có  thể nhận định trước đây Khấu gia đã từng gặp Vinh Phụng Tường rồi, chỉ có điều  là không phải là gương mặt hiện tại của hắn mà thôi”. 

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Lời của Hư tiên sinh rất có lý, con người Vinh  Phụng Tường này căn bản không có lập trường, cơ hồ như là thuế lực bên nào  lớn thì sẽ lập tức dựa vào bên ấy, tâm địa rất khó lường”. 

Khấu Trọng vò đầu suy nghĩ, nhăn mặt khổ sở nói: “Nếu là vậy, thì không  khó đoán được thân phận thực sự của Vinh Phụng Tường, có kẻ nào mà võ công  gần ngang bằng với Chúc Ngọc Nghiên mà ta đã từng gặp qua nhỉ? À... “. 

Khấu Trọng à lên một tiếng, nhìn sang phía Từ Tử Lăng. 

Từ Tử Lăng hoang mang hỏi: “Là ai?”. 

Khấu Trọng hít sâu một hơi, rồi chậm rãi nói: “Mẹ ơi! Ta nhớ ra rồi! Nhất  định là Bích Trần yêu đạo, thật là lợi hại!”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên thốt: “Làm sao lại là hắn được? Có điều cũng có lý  đấy, lần này thì Vương Thế Sung gặp nạn rồi”. 

Khấu Trọng cười khổ nói: “Hay lắm! Xem ra thì Vinh Giảo Giảo có khi cũng  chẳng phải nữ nhi của hắn, mà xuất thân của tên Dương Hư Ngạn kia lại càng  khả nghi, thậm chí là cả tiểu dâm nữ Đổng Thục Ni của chúng ta cũng không đơn  giản đâu. Lý tiểu tử có khi đã trúng kế rồi mà cũng chẳng hề hay biết cũng nên”. 

Hư Hành Chi không hiểu hỏi: “Bích Trần là ai?”. 

Khấu Trọng giải thích cho y rồi nói: “Âm Qúy Phái muốn tranh thiên hạ, cái  phái khỉ khô gì của Bích Trần yêu đạo cũng muốn nước đục thả câu, thủ đoạn tuy  khác nhau, nhưng mục đích thì là một, nếu nếu Bích Trần mà biết được vừa mới  động thủ đã để chúng ta nhìn thấy sơ hở, thì nhất định sẽ vô cùng hối hận đó”. 

Hư Hành Chi dõi mắt nhìn vầng trăng sáng mới ló ra khỏi rặng núi phía xa  xa, chậm rãi nói: “Sau khi đến Yển Sư, tại hạ sẽ lập tức lên bờ đến Phi Mã Mục  Trường, hai vị đại gia phải hết sức cẩn thận, Lý Tử Thông cũng không phải hạng  kém cỏi đâu, thủ hạ của y là Bạch Tín, Tần Văn Siêu và Tả Hiếu Hữu đều là  mãnh tướng nổi tiếng, tuyệt đối không thể xem thường”. 

Hai gã nghĩ đến nhiệm vụ cơ hồ như không thể hoàn thành trước mắt, chỉ  biết nhìn nhau nở một nụ cười mệt mỏi. 

Hư Hành Chi trầm ngâm nói tiếp: “Đỗ Phục Uy và Trầm Pháp Hưng chỉ liên  kết với nhau vì lợi ích, bên trong nhất định là mâu thuẫn trùng trùng, nếu hai vị có  thể khéo léo lợi dụng điểm này, biết đâu không cần tốn binh tốn tốt vẫn phá được  liên quân của hai kẻ này cũng không chừng”. 

Khấu Trọng phấn chấn tinh thần nói: “Đề nghị của tiên sinh rất chí lý, ta nhất định sẽ nhớ kỹ, đến lúc đó sẽ tùy cơ ứng biến vậy. 

Thuyền buồm rẽ qua một khúc ngoặt, rồi đi vào đoạn sông rộng, phóng đi  với tốc độ cao nhất. Khi còn cách Yển Sư chừng mười dặm, Từ Tử Lăng mới cho  thuyền từ từ cập bờ. Do người ít thuyền nhẹ, nên chiếc chiến thuyền nặng nề từ  Đông Đô bám theo đã bị bỏ tí lại phía sau. 

Trên bờ vang lên tiếng vó ngựa dồn dập, lão bằng hữu Dương Công Khanh  của hai gã dẫn theo hơn mười kỵ binh phóng gới, sau đó tung mình nhảy lên  thuyền. 

Khấu Trọng cười một tràng dài: “Dương đại tướng quân của nhiên có đảm  thức, dám một mình lên thuyền nhận người”. 

Dương Công Khanh đi đến trước mặt Khấu Trọng, liếc nhìn Vương Huyền  Ứng vẫn còn đang hôn mê bất tỉnh một cái rồi quay sang gật đầu chào hỏi với Từ  Tử Lăng và Hư Hành Chi, sau đó mới thở dài nói: “Chuyện này là do thượng thư  đại nhân tự chuốc lấy, Dương Công Khanh mỗ chẳng có gì để nói cả”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Tiện đây ta cũng nói cho đại tướng quân biết hai  chuyện, nếu ngài thích thì cứ báo cho Thế Sung tiểu tử cũng được”. 

Dương Công Khanh ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy?”. 

Khấu Trọng liền kể cho y biết ý đồ chiêu hàng Lý Mật của Lý Thế Dân và  chuyện Vinh Phụng Tường có thể là Bích Trần yêu đạo, sau đó cười cười nói:  “Không hại cho bọn chúng đề phòng lẫn nhau, không có được một ngày yên ổn,  Khấu Trọng ta làm sao nuốt trôi cục tức này chứ”. 

Dương Công Khanh biến sắc nói: “Hai chuyện này đều không phải chuyện  nhỏ, ta phải lập tức phi cáp truyền thư, báo cáo cho Thế Sung huynh hay biết mới  được”. 

Chỉ nghe Dương Công Khanh trực tiếp gọi tên Vương Thế Sung ra như vậy,  là biết y đã bất mãn với họ Vương thế nào rồi. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Đại tướng quân cứ mang người về đi. Có điều  nên nhớ kỹ Vương Thế Sung đã đối đãi với ta thế nào, sau này hắn cũng có thể  dùng cách đó để đối phó với đại tướng quân cũng không chừng. Nên phải hết sức  cẩn thận, hầu hạ lại chủ nhân lang sói dó không thể có kết quả tốt gì đâu”. 

Dương Công Khanh cười khổ: “Ta biết rồi! Ba vị hãy bảo trọng!”. 

Nói đoạn liền bước đến nhấc Vương Huyền Ứng lên, quay người đi xuống  thuyền.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 225

Bám Mãi Không Rời

Sau khi tiễn Hư Hành Chi lên bờ, hai gã lại tiếp tục hành trình của mình. 

Tới khi thuyền buồm chuyển hướng đi ra Hoàng Hà, bọn gã mới thở  phào nhẹ nhõm, trên sông rộng thế này, có muốn đào tẩu hay ẩn náu gì  cũng dễ hơn rất nhiều. 

Khấu Trọng thở dài nói: “Lúc chúng ta từ phương Nam xuất phát, giống như  cả thiên hạ đều nằm dưới chân mình vậy, ngờ đâu trắc trở trùng trùng, ba người  bọn Chí Hạ thì chết thảm trong tay Âm Qúy Phái, Ngọc Thành thì không biết ở  đâu, còn ta với ngươi thì bị tình thế bức bách phải trở lại phương Nam, không thể  đi Quan Trung tìm kho báu, càng nghĩ lại càng thấy buồn chán quá”. 

Từ Tử Lăng nói: “Món nợ của ba người bọn Chí Hạ chúng ta nhất định phải  báo, đại trượng phu ân oán phân minh, đám người Âm Qúy Phái đó thủ đoạn  hung tàn độc địa, thế nào cũng có ngày chúng ta nhổ cỏ tận gốc, khiến bọn  chúng vĩnh viễn không thể làm hại người khác được nữa”. 

Song mục Khấu Trọng sáng rực sát cơ, gật đầu nói: “Ngoại trừ Vũ Văn Hóa  Cập, cừu gia lớn nhất của chúng ta bây giờ là Âm Qúy Phái, nợ máu phải trả  bằng máu, huống hồ cho dù hai chúng ta có chịu nhẫn nhịn nuốt mối hận này,  Loan Loan yêu nữ và Chúc yêu phụ cũng tuyệt đối không buông tha chúng ta  đâu”. 

Từ Tử Lăng nói: “Đây cũng là nguyên nhân ta chịu cùng ngươi đi Giang Đô,  bằng không thì đã lập tức trở về Ba Lăng đón mẫu tử Tố tỷ rồi. Đến giờ ta vẫn  không hiểu tại sao lão gia lại hợp tác với Âm Qúy Phái để tranh giành thiên hạ,  làm vậy khác gì bảo hổ lột da đâu chứ? Bên trong nhất định còn nguyên nhân gì  đó mà ta với ngươi chưa biết được”. 

Khấu Trọng nói: “Lo lắng nhiều vậy làm gì chứ! Sáng mai chúng ta sẽ  chuyển hướng vào kênh Thông Tế, sau đó sẽ kiêm trình ngày đêm đến Giang Đô.  Có điều phải bổ sung thêm lương thực nước uống trước đã, bởi vì ít nhất cũng  phải ba ngày ba đêm chúng ta mới đến nơi được”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Ta cứ có một dự cảm bất tường, chuyến đi này  chắc sẽ không thuận lợi như ngươi nghĩ đâu”. 

Khấu Trọng vỗ vỗ lên Tỉnh Trung Nguyệt phía sau lưng: “Chúng ta có ngày nào là bình an vô sự chưa? Kẻ nào không sợ chết thì cứ việc đến đây, lão tử chấp  hết! À... việc học thì không bao giờ đủ, ta cũng phải lấy bảo thư của Lỗ đại gia ra  khổ công nghiên cứu đây”. 

Từ Tử Lăng kéo gã lại nói: “Xin lỗi, người khổ công học tập là tiểu đệ, đến  lượt Khấu đại ca ngươi đi lái thuyền rồi”. 

o0o 

Lâu lắm rồi hai gã mới có một đêm bình an vô sự. 

Giờ ngọ ngày hôm sau, thuyền đến Lương Đô, một thành lớn ở phía Tây  Bành Thành bên cạnh kênh Thông Tế. Hai gã còn chưa quyết định được xem ai ở  lại coi thuyền, ai đi mua lương thực thì các nhân vật hắc đạo ở địa phương đã đại  giá quang lâm. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều xuất thân nơi đầu đường xó chợ, nên cũng  muốn dàn xếp nhẹ nhàng, quyết định đưa tiền mãi lộ theo đúng quy củ giang hồ  để tránh chuyện rắc rối. Khấu Trọng cởi bỏ Tỉnh Trung Nguyệt, lên bến giao thiệp  với đám người mới đến. 

Tên tiểu đầu mục dẫn đầu cũng là lão giang hồ, thấy thể hình Khấu Trọng  uy vũ như thiên thần, thái độ lại rất trầm tĩnh nhàn nhã, vội ôm quyền thi lễ: “Tiểu  đệ Trần Gia Phong, Trí Đường hương chủ của Bành Lương Hội, xin hỏi vị hảo hán  này cao danh qúy tính, đến từ nơi nào?”. 

Khấu Trọng lập tức nhớ ra Bành Lương Hội có một vị tam đương gia là Diễm  Nương Tử Nhậm Mi Mi, giờ mới nhớ vùng này nằm trong phạm vi thế lực của  Bành Lương Hội, có điều là gã đương nhiên không muốn để Nhậm Mi Mi biết  được hành tung của mình, nên vội đáp lại: “Tiểu đệ Phó Nhân, vừa mới làm ăn  buôn bán ở Đông Đô, hiện giờ đang trở về Giang Đô. Hà! Thuyền vào bến nào  đương nhiên là phải tuân theo quy củ của bến đó, tiểu đệ cần giao nộp bao nhiêu  ngân lượng cho qúy hội, xin Trần hương chủ chỉ giáo”. 

Trần Gia Phong thấy gã khiêm cung như vậy, lập tức tỏ vẻ ngạo mạn, mỉm  cười nói: “Thấy thần thái Phó huynh như vậy, nhất định không phải hạng tầm  thường, trên thuyền chắc hẳn cũng là hàng hóa thượng đẳng, chỉ có điều là hình  như Phó huynh chỉ có một người giúp việc trên thuyền thì phải?”. 

Khấu Trọng tự nhiên hiểu rõ y muốn gì. 

Các nhân vật hắc đạo khi gặp người lạ đều lấy bốn chữ “tiên lễ hậu binh”  làm khuôn vàng thước ngọc, nói một cách đơn giản chính là phải hiểu rõ thực lực  đối phương, sau đó mới quyết định hạ thủ thế nào để đạt được lợi ích lớn nhất.  Nếu gã không lộ chút thủ đoạn, đối phương sẽ được đằng chân, lấn đằng đầu,  thậm chí là cả con thuyền cũng chiếm đoạt luôn mất. 

Theo sau Trần Gia Phong cón có bảy, tám đại hán mặc võ phục, chỉ nhìn  thần thái hung hăng đã biết là đám lưu manh ác bá hoành hành ngang ngược rồi. 

Khấu Trọng gãi đầu nói: “Trần huynh nói đúng lắm, tiểu đệ dám một mình  cùng một vị huynh đệ chở hàng đến phương Nam, đương nhiên là cũng có chút  bản lĩnh nho nhỏ. Có điều nghĩ đến mọi người đều là đồng đạo giang hồ, thêm  nữa tiểu đệ lại rất tôn kính Qủy Trảo lão nhân gia, đồng thời cũng có chút giao  tình với Tam đương gia Diễm Nương Tử Nhậm Mi Mi nên mới y theo quy củ mà  làm, Trần huynh chắc cũng hiểu ý tiểu đệ chứ?”. 

Trần Gia Phong ngạc nhiên hỏi: “Không biết Phó huynh là bằng hữu phương  nào?”. 

Khấu Trọng lắc đầu lấy ra một đĩnh vàng, nhét vào tay y nói: “Chân nhân  bất lộ tướng, lộ tướng phi chân nhân, Trần huynh nể tình thì xin đừng tra xét làm  gì, cứ coi như chưa từng gặp mặt tiểu đệ là được”. 

Nói rồi không để ý đến y nữa, quay người bước trở lại thuyền. 

Từ Tử Lăng đang một mình kéo buồm, Khấu Trọng thấy vậy liền lại giúp  một tay, vừa làm vừa nói: “Xem ra Bành Lương Hội đã khống chế thủy đạo vùng  này, không biết bọn họ hiện giờ đi theo phe nào nhỉ?”. 

Từ Tử Lăng ồ lên một tiếng nói: “Thì ra là thủ hạ của Nhậm Mi Mi, còn về  chuyện họ theo ai, ta nghĩ nếu không phải Từ Viên Lãng thì cũng là Lý Tử Thông  thôi. Hắc! Chắc không không phải là Vũ Văn Hóa Cập đâu nhỉ?”. 

Sau khi đã chỉnh lại cánh buồm, Khấu Trọng nói: “Ta phụ trách vào thành  mua đồ, ngươi ở đây trông thuyền, đừng để người ta cướp mất đấy nhé”. 

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Nếu Chúc Ngọc Nghiên hay Loan Loan đến đây  thì ngươi đừng trách ta đấy”. 

Khấu Trọng cười lớn bỏ đi. 

Từ Tử Lăng nhàn rỗi vô sự, bèn ra mạn thuyền ngắm cảnh. 

Thủy đạo Kênh Thông Tế thưa thớt lạ thường, đặc biệt là đoạn đi về phía  Giang Đô, chỉ có lưa thưa vài con thuyền đánh cá lai vãng, không biết có phải do ảnh hưởng của chiến tranh mà các thuyền hàng đều không dám đến đó hay  không. 

Bến thuyền chỉ cách cửa thành khoảng chừng ngàn bước chân, có khoảng  ba bốn chục con thuyền lớn nhỏ đang neo đậu, so với bất cứ một bến sông bến  đò nào ở Đông Đô, cũng chỉ như trẻ con so với người lớn. 

Trên con đường dẫn tới thành môn có mấy tửu điếm nhỏ, nhưng chỉ có một  vài quán là có khách ra vào, cảnh tượng gây cho người ta một cảm giác quạnh  quẽ và buồn tẻ. 

Trần Gia Phong và đám thuộc hạ không biết đã đi đâu, theo lý thì nếu bọn y  không nắm rõ được thực lực của hai gã, sẽ tuyệt đối không khinh cử vọng động  mà động thủ. 

Đúng lúc này, gã chợt cảm thấy có gì đó bất ổn, liền quay người lại, vừa hay  nhìn thấy bóng lưng của một mỹ nhân đẹp tột cùng biến mất sau cánh cửa  khoang thuyền. 

Với công phu trấn định của Từ Tử Lăng, cũng phải toát mồ hôi lạnh. 

o0o 

Khấu Trọng đi qua cổng thành, trong đầu băn khoăn tự hỏi không biết thành  này nằm trong sự khống chế của thế lực nào. 

Nếu là các thành trì khác, trừ phi đang trong lúc khẩn yếu như có địch nhân  tấn không, còn không thì đều mở cửa cho thương khách ra vào, vừa có thể thu  được một lượng thuế không nhỏ, lại vừa bảo đảm được giao dịch với bên ngoài. 

Nhưng trọng trấn bên bờ kênh Thông Tế này không ngờ lại hoàn toàn  không hề có bố trí phòng vệ, chẳng những không thấy kỳ hiệu của bất cứ thế lực  nào, mà cả vệ binh canh cửa thành cũng chẳng thấy ma nào. Trong thời đại chiến  hỏa liên miên thế này, có thể nói đây là một trường hợp vô cùng hiếm gặp. 

Khấu Trọng hoang mang vào thành. 

Đường xá trong thành đều lấy hai con phố lớn giao nhau thành hình chữ  thập nối đến bốn cổng thành làm trung tâm, ngõ lớn ngõ nhỏ giao nhau như lưới.  Nhà cửa trong thành chủ yếu đều làm bằng gạch hay gỗ, mộc mạc nhưng chỉnh  tề, là một nơi cư trú lý tưởng, chỉ là lúc này mười nhà thì có chín nhà không người ở, đại đa số các cửa tiệm đều đã đóng cửa, cơ hồ như đại họa sắp đến vậy, thậm  chí còn có một số cửa tiệm có dấu hiệu như từng bị cướp bóc nữa. 

Trên đường chỉ có một hai bóng người lẻ loi, người nào cũng đều vội vội  vàng vàng, cả tòa thành rộng lớn tĩnh lặng như một ngôi thành đã chết. 

Tiếng bước chân vang lên sau lưng gã. 

Khấu Trọng dừng bước, đứng ngay giữa đường. 

Trần Gia Phong đến bên cạnh gã, thở dài nói: “Chiến tranh thật hại người  không ít, cả một thành trì phồn hoa đô hội, vậy mà chỉ trong nháy mắt đã biến ra  thế này”. 

Khấu Trọng cũng có cùng một cảm nhận như y, gật đầu hỏi: “Rốt cuộc đã  có chuyện gì xảy ra vậy?”. 

Trần Gia Phong trầm giọng nói: “Chuyện này một lời e là không thể nói hết  được. Nếu Phó huynh đến sớm vài ngày, tất sẽ nhìn thấy những người ở đây tìm  trăm phương ngàn kế chen chúc nhau bỏ đi, làm đường xá tắc nghẽn, tiếng khóc  la vang trời... chao ôi... tình cảnh lúc ấy thật đáng sợ vô cùng”. 

Khấu Trọng nghi hoặc hỏi: “Thành này vốn do thế lực phương nào quản trị,  với lại ai muốn đến công thành vậy?”. 

Trần Gia Phong đáp: “Thành này đã đổi chủ mấy lần rồi, cuối cùng thì rơi  vào tay Từ Viên Lãng. Đáng tiếc là chuyện tốt không được lâu, gần đây vì Đậu  Kiến Đức đem quân vượt sông, tấn công căn cứ địa của Từ Viên Lãng ở Nhâm  Thành, nên y phải điều quân ở Lương Đô đến cứu viện, làm cho phòng thủ ở đây  trở nên yếu đi rất nhiều, cuối cùng ngay cả mấy trăm quân binh thủ thành cũng  bỏ đi mất tiêu, khiến cho nơi này trở thành một tòa thành không có ai cai quản  nữa”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Đậu Kiến Đức đáng sợ vậy sao?”. 

Trần Gia Phong lắc đầu: “Đậu Kiến Đức đương nhiên không đáng sợ, luận  thanh danh, y còn tốt hơn Từ Viên Lãng rất nhiều, nhưng đám tàn binh chó chết  của Vũ Văn Hóa Cập thì còn đáng sợ hơn sai qủy câu hồn của Diêm Vương dưới  âm tào địa phủ gấp trăm lần”. 

Song mục Khấu Trọng lập tức sáng rực lên. 

Trần Gia Phong lại nói tiếp: “Lần đó khi Vũ Văn Hóa Cập dẫn binh từ Giang  Đô tiến lên phía Bắc, đi đến đâu là cướp bóc đến đó, tàn hại bách tính, gian dâm  phụ nữ, thế nên khi phong thanh truyền tới, người người đều tranh nhau chạy tới các vùng phụ cận để lánh nạn. Ôi! Giờ đây muốn tìm một nơi yên lành cũng  không dễ dàng gì, nơi nào cũng đánh trận với đánh trận”. 

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Vũ Văn Hóa Cập có đích thân đến không?”. 

Trần Gia Phong lắc đầu nói: “Chuyện này thì không ai biết được, chúng ta  chỉ biết làm hòa thượng một ngày thì tụng kinh một ngày thôi, thấy tình thế không  lợi thì lập tức chạy trốn cho mau, nếu Phó huynh không ngại, chẳng hay có thể  trượng nghĩa đưa bọn ta một đoạn đến Giang Đô không?”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Trần huynh đến Giang Đô không phải dễ dàng  lắm sao?”. 

Trần Gia Phong ngớ người ra nhìn gã một lúc, sắc mặt trầm xuống nói: “Thì  ra huynh căn bản không quen thuộc tình hình ở Giang Đô, cũng không biết Lý Tử  Thông đã phong tỏa kênh Thông Tế, trừ phi là những con thuyền có quan hệ với  bọn chúng, còn không thì đừng hòng đến được Giang Đô, nếu không phải vậy  bọn ta cũng đâu cần nhờ đến huynh như vậy chứ”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Ta đích thực không rõ tình hình Giang Đô lắm, tất  cả đều vì đã lâu ngày không trở lại đó, nhưng quan hệ với Lý Tử Thông thì không  phải là không có, Trần huynh cứ yên tâm”. 

Trần Gia Phong bán tín bán nghi hỏi: “Phó huynh và Lý Tử Thông có quan  hệ gì?”. 

Khấu Trọng không đáp mà hỏi ngược lại: “Bành Lương Hội cũng được liệt  danh vào thập bang bát hội, chắc cũng không phải ngọn đèn hết dầu, tại sao  không thừa cơ chiếm lấy Lương Đô, lại trân mình cho người khác đánh mà không  hoàn thủ như vậy?”. 

Trần Gia Phong thở dài: “Nếu không phải thấy Phó huynh là hạng phi phàm,  tiểu đệ cũng không nói nhiều như vậy. Giờ đây đã không còn giống như lúc trước  nữa, năm đó hôn quân bị giết, Nhiếp bang chủ thống lĩnh huynh đệ, một trận đã  lấy được Bành Thành và Lương Đô cùng hơn bốn mươi hương trấn phụ cận, vốn  đã tưởng rằng có thể xưng bá một phương, làm nên nghiệp lớn. Chẳng ngờ trước  sau liên tiếp bại trong tay Vũ Văn Hóa Cập và Từ Viên Lãng, gần đây Bành  Thành còn bị Man tặc công hãm, thế nên Bành Lương Hội lúc này có thể nói là  chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa mà thôi, cả hội chủ sinh tử thế nào, hiện đang ở  đâu cũng không người nào biết được”. 

Khấu Trọng ngây người: “Man tặc gì chứ?”. 

o0o 

Từ Tử Lăng lướt tới cửa khoang thuyền, đứng giữa bốn cánh cửa nhỏ bên  trong, hít sâu vào một hơi, rồi đẩy cánh cửa bên trái sát với cửa khoang thuyền. 

Dưới ánh sáng lọt vào, một mỹ nữ đẹp tựa thiên tiên, đẹp tới độ khiến người  ta không thể thở được, đang ngồi an nhiên trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, cúi đầu  chăm chú nhìn đôi chân trần trắng muốt không hề dính chút bụi trần của mình,  thần thái cơ hồ như rất lạ lẫm, nhưng lại cũng có gì đó giống như vẻ ung dung tà  dị xưa nay của nàng. 

Nàng không lập tức nhìn về phía Từ Tử Lăng, mà chỉ nói: “Ta và các ngươi  thế nào cũng phải giải quyết một lần cho triệt để, đúng không?”. 

Ngữ điệu của nàng không những ôn hòa giống như lời rủ rỉ thì thầm bên gối  tình lang, mà còn chậm rãi tới độ từng chữ một từng chữ một vang lên nhè nhẹ  giữa không gian, khiến người ta có một cảm giác vô cùng an lành. 

Từ Tử Lăng ung dung dựa lưng vào khung cửa, lạnh lùng nói: “Động thủ thì  động thủ đi! Nói nhiều vậy làm gì?”. 

Loan Loan cuối cùng cũng ngẩng đầu lên nhìn gã, mái tóc mây đen huyền  bóng mượt dài đến tận lưng, gương mặt như ngọc, làn lông mày phỉ thúy, đôi mắt  đẹp long lanh như nước, dù Từ Tử Lăng xưa nay vốn coi nhẹ nữ sắc, cũng không  thể không thừa nhận nàng vô cùng quyến rũ. 

Chỉ nghe môi anh đào của nàng khẽ thở hắt ra một tiếng: “Tại sao ngươi  không hỏi Loan Loan, làm sao có thể đuổi kịp các ngươi ở đây chứ?”. 

Từ Tử Lăng nhún vai: “Có gì ly kỳ đâu? Bích Trần không làm gì được bọn ta,  nên đành để các ngươi động thủ thôi, đúng không?”.

Loan Loan ngây người: “Chúng ta vẫn đánh giá thấp hai người, may mà sau  này sẽ không phạm phải sai lầm này nữa”. 

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Ngươi mà còn lắm lời nữa là ta đi tìm Khấu  Trọng đấy”. 

Loan Loan nhíu mày không vui nói: “Đừng giục người ta nữa mà, ta đang nỗ  lực tìm cho mình một lý do để giết ngươi đây”. 

Từ Tử Lăng phì cười nói: “Cần gì phải phiền phức như vậy, ta đang chán  sống rồi đây. Với lại cũng muốn xem ngươi thật sự có thủ đoạn như vậy không,  giỏi thì cứ ra tay đi!”. 

Sắc mặt gã đột nhiên thay đổi, phá vỡ nóc thuyền, nhảy lên cao. 

Sợi thừng buộc thuyền đã đứt, con thuyền dịch dần khỏi bờ, trôi theo dòng nước. 

Thiên Ma Kình của Loan Loan không ngờ đã phát ra từ dưới chân.

o0o 

Trần Gia Phong phẫn nộ nói: “Man tử chính là đám người Khiết Đan khốn  kiếp, bọn chúng thừa cơ Trung Nguyên chiến loạn, cấu kết với đám bại loại người  Hán, tổ thành Đông Hải Minh, chuyên cướp bóc những thành trấn ven biển, sau  khi đoạt được tài bảo mỹ nữ thì chuyển hết về Bình Lư”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Người Khiết Đan lợi hại thế nào? Bình Lư ở  đâu?”. 

Trần Gia Phong nói: “Kỹ thuật xạ kỵ của chúng cao minh phi thường, minh  chủ của Đông Hải Minh hiện giờ là Quật Ca, chính là trưởng tử của tộc trưởng  Khiết Đan, thiện sử song phủ, võ nghệ cao cường. Nhị đương gia của chúng ta  cũng tang mạng trong tay hắn, còn Bình Lư ở đâu thì ta cũng không biết, nghe nói  là ở gần Cao Lệ, đó là địa phận của người Khiết Đan”. Kế đó lại thở dài nói:  “Nhân số bọn chúng không nhiều, nhưng đến đi như gió, trong chớp mắt đã chạy  ra ngoài biển, nên đến giờ vẫn không ai làm gì được bọn chúng cả”. 

Tiếng bước chân chợt vang lên. 

Hai người cùng quay ra nhìn về phía có tiếng động, chỉ thấy một thủ hạ của  Trần Gia Phong chạy tới thở hổn hển: “Không xong rồi! Có người cướp thuyền!”. 

o0o 

Từ Tử Lăng biết rõ nếu không đào tẩu sớm một bước, để Loan Loan bám  lấy, nhất định sẽ rơi vào cục diện quyết chiến sinh tử mà gã không hề muốn. 

Nếu gã đoán không lầm, Âm Qúy Phái giờ đã thấy thấy bọn gã không còn  giá trị lợi dụng, lại sợ bọn gã trở về phương Nam phá hoại hảo sự của Đỗ Phục  Uy, nên đã quyết tâm trừ diệt bọn gã bằng được. Có điều giết bọn gã bây giờ đã  không còn dễ dàng như trước nữa, đặc biệt là khi hai gã liên thủ với nhau, có thể  phát huy được uy lực mạnh hơn gấp bội phần, thế nên Loan Loan theo đến tận đây, đợi cơ hội hai gã tách ra, mới xuất thủ đối phó Từ Tử Lăng. 

Biên Bất Phụ đã lâu không thấy mặt cũng từ phía cửa khoang thuyền tà tà  phóng lên, bổ về phía gã, rõ ràng là đã đoán lầm phương hướng phóng ra của Từ  Tử Lăng, không ngờ gã không chạy ra cửa mà lại phá vỡ nóc lầu nhảy lên, lần  này thật vô cùng kinh hiểm, cũng bằng như nhặt lại cái mạng nhỏ của mình từ  trong tay Diêm Hoàng về vậy. Bằng không nếu để Biên Bất Phụ và Loan Loan  cùng liên thủ hợp kích trong hành lang hẹp, chỉ e có Từ Tử Lăng khó mà toàn  mạng. 

Đúng lúc Thiên Ma Kình của Loan Loan bức tới sát cơ thể, Từ Tử Lăng hít  mạnh một hơi chân khí, lực mới tái sinh, lộn nhào một vòng trên không trung, lướt  lên đỉnh cột buồm, cười ha hả nói: “Thất lễ!”. 

Loan Loan đổi hướng đuổi theo thì Từ Tử Lăng đã tung mình nhảy lên như  một con chim khổng lồ, bay qua khoảng cách gần mười trượng, an nhiên hạ  xuống bến thuyền. 

Loan Loan chân khí đã tận, chỉ đành hạ thân xuống đỉnh cột, gương mặt  xinh đẹp tái mét lại vì tức giận. 

Khấu Trọng lúc này đã từ thành môn phóng vụt tới như một ngôi sao băng,  miệng hét lớn: “Loan Loan yêu nữ có gan thì lên đây đại chiến ba trăm hiệp với  Khấu Trọng, xem ta có bổ ngươi ra làm bốn mảnh không?”. 

Thuyền buồm trôi thẳng theo dòng nước. 

Biên Bất Phụ cười lạnh: “Để hai tên tiểu tử ngươi sống thêm mấy ngày nữa  vậy!”. 

Loan Loan cũng quay lại nhìn hai gã nở một nụ cười ngọt ngào. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chỉ biết chán nản nhìn theo rồi ngồi xuống bên  bờ. 

Khấu Trọng cười khổ: “Không ngờ vừa nói đã trúng ngay. Con thuyền bảo  bối quả nhiên đã bị cướp đi mất rồi, có điều ta cũng không có tư cách gì trách  ngươi được, bởi vì ta cũng chẳng kiếm được chút lương thảo nào cả”. 

Lúc này Trần Gia Phong và một đám đại hán mới chạy tới, người người ngơ  ngác nhìn nhau. 

Khấu Trọng bực bội nhìn đám người này một cái, đoạn nói: “Thuyền cũng  mất rồi! Các người đành tự tìm cách đi Giang Đô vậy!”. 

Trần Gia Phong lúng túng nói: “Chúng tiểu nhân thật là có mắt không thấy Thái Sơn, không biết hai vị đây chính là Khấu gia và Từ gia danh chấn thiên hạ”. 

Từ Tử Lăng thở dài: “Cái gì mà danh chấn thiên hạ chứ? Cả thuyền cũng  mất rồi kìa!”. 

Trần Gia Phong thấp giọng hỏi: “Hai người kia có phải là yêu nhân và yêu  nữ của Âm Qúy Phái?”. 

Khấu Trọng gật đầu hai cái coi như đáp lời. 

Trần Gia Phong lộ vẻ khâm phục sát đất nói: “Thiên hạ này sợ rằng chỉ có  hai vị đại gia đây là không sợ bọn họ mà thôi”. 

Từ Tử Lăng bật cười nói: “Nịnh bợ cũng phải có mức độ mới được, ít nhất thì  cũng có người của Từ Hàng Tịnh Trai không sợ Âm Qúy Phái, chứ không phải có  mình bọn ta”. 

Một đại hán đứng sau lưng Trần Gia Phong giơ ngón tay cái lên nói: “Từ gia  mới là anh hùng thật sự, không hề tự cao tự đại”. 

Khấu Trọng nói: “Các người có nói gì cũng chẳng chữa được cho cái bụng  rỗng của chúng ta, có cách gì kiếm một bữa rượu thịt không, ăn xong rồi thì chúng  ta ai đi đường nấy”. 

Trần Gia Phong mừng rỡ nói: “Chuyện này thì dễ như trở bàn tay, hai vị đại  gia, mời!”. 

Hai gã cũng chẳng khách khí, đi theo bọn họ trở vào trong thành.

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 226

Hào Tình Cái Thế

Trần Gia Phong sai người bóc tấm ván gỗ gắn liền hai cánh cửa của tửu  điếm ra, khom người nói: “Khấu gia, Từ gia, xin cứ tùy tiện chọn lấy một  chiếc bàn, chúng tiểu nhân sẽ lập tức nổi lửa nấu mấy món ngon hầu  hai vị, mỹ tửu đã có người đi lo liệu, lập tức sẽ được mang đến”. Hai gã  lấy làm hứng thú, liền bước đến ngồi xuống một chiếc bàn tròn lớn đặt  giữa phòng. Vì điếm chủ cũng mới bỏ đi không được mấy ngày, nên bàn ghế vẫn  chưa bám bụi bặm. 

Khấu Trọng nhìn con phố quạnh hiu dưới ánh tà dương qua cánh cửa mở  rộng, lắc đầu thở dài: “Cả một thành thị hưng vượng vốn có thể là nơi an cư lạc  nghiệp, giờ đây lại sắp gặp phải kiếp nạn, thật là đáng tiếc quá!”. 

Từ Tử Lăng vẫn chưa rõ chuyện gì, liền cất tiếng hỏi: “Kiếp nạn gì vậy?”. 

Một đại hán của Bành Lương Hội hưng phấn xách một vò rượu bước vào tửu  điếm, sau đó lại chạy đi tìm bát tìm chén cho hai gã, bận bịu cuống quýt chân tay. 

Khấu Trọng chăm chú nhìn dòng rượu chảy vào chén, chậm rãi nói: “Nghe  nói Vũ Văn Hóa Cốt sắp tới đây!”. 

Từ Tử Lăng giật mình thốt lên: “Cái gì?”. 

Khấu Trọng vội nói: “Ta nói hơi khoa trương một chút, phải nói là người của  Vũ Văn Hóa Cốt có thể sẽ tới mới đúng, chỉ là không biết Vũ Văn Hóa Cốt có  chịu dễ dàng tìm đến chúng ta chịu chết hay không mà thôi”. 

Đám người bọn Trần Gia Phong đang thắp đèn cho bọn gã, nghe Khấu  Trọng nói vậy thì ngưỡng mộ nói: “Khấu gia, Từ gia thật tài giỏi, căn bản không  coi Vũ Văn Hóa... Vũ Văn Hóa Cập vào đâu”. 

Khấu Trọng cười cười rồi gằn giọng quát: “Ai cho các ngươi nghe lén chúng  ta nói chuyện, mau cút ra xa một chút”. 

Đám người của Bành Lương Hội không ngờ lại hân hoan nghe gã mắng,  cung kính nói: “Tiểu nhân lập tức cút ngay!” Nói rồi vui vẻ đi thẳng, cơ hồ như  được Khấu Trọng mắng một câu là vô cùng vinh hạnh vậy. 

Song mục Từ Tử Lăng sáng rực lên, sát khí làm mờ cả gương mặt anh tuấn,  trầm giọng nói: “Chỉ cần có một phần cơ hội, chúng ta cũng phải nhẫn nại, đợi  hắn đến”. 

Khấu Trọng cười lớn nâng chén lên nói: “Chén này uống vì vong linh của mẹ  trên thượng giới!”. 

“Đinh!”. 

Hai chiếc chén khẽ chạm nhau, rồi cùng lúc cạn sạch. 

Khấu Trọng phì cười nói: “Hình như chúng ta chẳng hề để ý xem Loan Loan  yêu nữ có quay lại hay không thì phải?”. 

Từ Tử Lăng thoải mái dựa lưng vào thành ghế, thở dài một hơi, rồi chậm rãi  nói: “Hiện giờ rõ ràng là chỉ có hai người Loan Loan yêu nữ và Biên Bất Phụ,  chúng ta sợ cái gì chứ? Hừ, ta đã chán cảnh chạy đông chạy tây thế này lắm rồi,  có gan thì cứ đến đây đi, ta bồi tiếp hết!”. 

“Bốp!”. 

Khấu Trọng vỗ tay nói: “Hay lắm!”. 

Hai gã ngửi được mùi thức ăn thơm phức bay ra từ trong bếp, nhìn ra con  phố lớn dưới ánh hoàng hôn bên ngoài, đều có cảm giác lười nhác, không muốn  động đậy dù chỉ một đầu ngón tay. 

Tất cả những chuyện đã xảy ra, dường như đều không hề liên quan đến  khoảnh khắc này, giống như chưa từng xảy ra bao giờ vậy. 

Khấu Trọng tháo Tỉnh Trung Nguyệt xuống, đặt trên bàn, sau đó vươn mình  một cái, gác luôn cả chân lên, thở ra nhẹ nhõm nói: “Lăng thiếu gia! Ngươi có  cảm giác như cả tòa thành này thuộc về mình không?”. 

Chợt có tiếng vó ngựa vang lên ở phía thành môn, một lúc lâu sau mới dừng  lại. Hai gã nghe thấy nhưng cũng không có phản ứng gì.

Từ Tử Lăng trầm ngâm như đang suy nghĩ điều gì: “Dường như ngươi đã  quên Tống Ngọc Trí, có phải không?”. 

Khấu Trọng ngây người ra giây lát rồi gật đầu đáp: “Phải! Từ lâu ta đã  không còn nghĩ đến nàng ta nữa, ngoại trừ ngươi ra, kỳ vọng và yêu cầu của ta  với bất cứ người nào khác càng lúc càng ít hơn. Tống Ngọc Trí là thục nữ chân  chính, là khuê tú được nuôi dạy trong cao môn đại phiệt, nhưng nàng và chúng ta  có một sự khác biệt căn bản, đó chính là nàng là người ủng hộ giữ quy tắc của trò  chơi, còn Khấu Trọng ta chỉ là một kẻ phá hoại đi ngược lại những thứ đó. Chỉ  riêng sự khác biệt này, chúng ta đã chắc chắn không thể ở bên nhau được rồi.  Ngươi thử nói xem, trong những chuyện ta đã làm, có chuyện nào là hợp nhãn  nàng chưa?”. 

Từ Tử Lăng im lặng một lát rồi mới chậm rãi nói: “Nhưng ngươi đã từng nghĩ  qua đó chính là điểm hấp dẫn nàng của ngươi chưa?”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Đối với nàng mà nói, đó là một sự phóng túng và sa  đọa mà nàng căm ghét, vì vậy nên nàng mới đau khổ, còn ta thì cảm thấy mệt  mỏi vô cùng. Ta và ngươi đều là người không hiểu lễ pháp quy củ, nói lời thô lỗ  thì nhơn nhơn tự đắc, còn nàng là một loại người khác, vì vậy đến cuối cùng thì  chúng ta cũng phải kết thúc, lý do mà nàng nói đó chỉ là cái cớ mà thôi”.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Tuy ta cảm thấy tình hình thực tế vị tất đã như  lời ngươi nói, nhưng sự phân tích này của ngươi về nàng quả thật rất sâu sắc.  Không ngờ ngươi lại có cách nghĩ như vậy”. 

Khấu Trọng thở dài nói: “Ta đã chọn cho mình một con đường dài thăm  thẳm và không thể quay đầu, tất cả những chuyện khác đều phải vứt bỏ lại phía  sau thôi. Nhiều lúc ta thật sự thấy ngưỡng mộ Hầu Hi Bạch tiểu tử, thích thì cùng  mỹ nhân vui vầy thoáng chốc, nhàn rỗi thì vẽ bà nó mấy cái lên quạt, làm một  hiệp khách cô độc ngạo đời, lãng du giang hồ, đứng ngoài phân tranh thị phi...  hà!”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Có gì đáng cười chứ?”. 

Khấu Trọng vỗ nhẹ lên trán: “Ta chỉ thấy tiếc thay cho hắn thôi, nếu không  có Lăng thiếu gia ngươi xuất hiện, biết đâu hắn đã lọt vào mắt xanh của Sư Phi  Huyên rồi cũng không chừng”. 

Lúc này Trần Gia Phong thần sắc ngưng trọng chạy đến trước mặt hai gã  nói: “Vừa nhận được hồi báo, có một đội chừng năm tới sáu trăm kỵ sĩ đang  phóng tới từ hướng Bành Thành, ước chừng hai canh giờ nữa sẽ đến đây”. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nhìn nhau thất vọng, đám người này đương  nhiên không thể là người của Vũ Văn Hóa Cập. 

Trần Gia Phong nói tiếp: “Bọn này nhất định là Khiết Đan man tử của Đông  Hải Minh, Bành Lương Hội có huyết hải thâm cừu với bọn chúng, nếu hai vị đại  gia đồng ý xuất đầu lộ diện, tất cả bọn tiểu nhân sẽ nguyện dốc hết sức khuyển  mã đi theo”. 

Khấu Trọng không hiểu hỏi: “Chẳng phải các người định bỏ chạy sao? Tại  sao đột nhiên lại hung hăng thế?”. 

Trần Gia Phong ngồi xuống: “Thực lòng mà nói, bọn tiểu nhân ai mà chẳng  hận không thể ăn thịt, uống máu bọn man tử đó, nhưng cũng tự biết mình có bao  nhiêu phân lượng, nhưng nếu được hai vị đại gia tương trợ thì lại là một chuyện hoàn toàn khác. Quật Ca có thể lợi hại bằng Lý Mật không chứ?”. 

Khấu Trọng rót cho y một chén rượu rồi mỉm cười nói: “Đừng nên kỳ vọng  quá nhiều ở chúng ta như thế, xung phong hãm trận trên chiến trường và quyết  chiến trên giang hồ hoàn toàn khác biệt, đối phó với năm, sáu trăm người như vậy,  cho dù là Ninh Đạo Kỳ cũng chẳng giết được bao nhiêu đâu”. 

Từ Tử Lăng đợi y dốc chén uống cạn, mới trầm giọng hỏi: “Các người có  bao nhiêu nhân thủ?”. 

Trần Gia Phong đưa tay lên quệt rượu vương ra ở mép rồi đáp: “Chỉ có năm  mươi ba người. Bọn tiểu nhân đã thương lượng kỹ, chỉ cần hai vị đại gia chịu gật  đầu, cho dù chết chúng tôi cũng phải đánh một trận với bọn Khiết Đan đó”. 

Khấu Trọng nói: “Trong thành lúc này còn bao nhiêu người nữa?”. 

Trần Gia Phong đáp: “Ai có thể chạy đều đã chạy cả rồi, còn lại đều là  người già hoặc những người nghĩ mình sẽ may mắn thoát được, sợ rằng cũng phải  có vài trăm người!”. 

Khấu Trọng quay sang hỏi Từ Tử Lăng: “Ngươi thấy sao?”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm giây lát trong sự chờ đợi của Trần Gia Phong, rồi  mỉm cười nói: “Chúng ta không phải là không có cơ hội chiến thắng, nhưng chỉ có  thể dùng trí, chứ nếu liều mạng đối chọi thì bại là điều chắc chắn”. 

Khấu Trọng cười lên một tràng dài: “Được lắm! Vậy bọn ta giết cho lũ man  tử Khiết Đan một trận tơi bời, để cho tên Quật Ca đó biết Trung Nguyên không  phải không có anh hùng hào kiệt có thể chế phục hắn!”. Kế đó gã vỗ mạnh  xuống bàn một chưởng, rồi quát lớn: “Bây giờ mặc kệ tất cả đã, bữa cơm này  chung ta ra đường ăn, cơm no rượu say xong, Quật Ca đến cũng là vừa!”. 

Thành môn mở rộng, cầu treo cũng được hạ xuống. 

Từ cổng thành trở đi, hai bên đường cứ cách mười bước lại có một cây đuốc  lớn, giống như một con hỏa long đang vươn mình ra vậy, kéo dài thẳng đến một  đài lớn hình tròn ở giữa phố. 

Trên đài bày đủ thức rượu thịt, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đang ngồi hướng  mặt về phía thành môn, ăn uống cười đùa vui vẻ. 

Ngoại trừ hai gã ra, trong thành không thấy một bong người, từ thành môn  đến chỗ hai gã ngồi tuy được ánh đuốc chiếu sáng như ban ngày, nhưng những  nơi khác lại tối đen như mực, hình thành nên một sự đối lập vô cùng kỳ dị. 

Khấu Trọng nhấp môi uống một ngụm rượu rồi cười khổ nói: “Đều là ngươi không tốt, vô duyên vô cớ lại nhắc đến Tống Ngọc Trí, gợi lại chuyện thương tâm  của ta”. 

Từ Tử Lăng áy náy nói: “Vậy thì cho ta xin lỗi, bây giờ ngươi đang nghĩ gì  vậy?”. 

Khấu Trọng đưa tay đặt lên vai gã, nói: “Cả đời này chỉ có hai huynh đệ,  ngươi cần gì xin lỗi chứ. Vừa rồi ta chợt nghĩ dù là ta có thệ hải minh sơn với Tống  gia tam tiểu thư, nàng vẫn không thể nào có được hạnh phúc. Bởi vì chiến loạn  vẫn còn chưa kết thúc, mỗi ngày ta đều phải tranh đấu sinh tử với những kẻ khác,  trên vai mang một gánh nặng mà chính bản thân ta cũng không biết nó nặng bao  nhiêu. Nghĩ đến đây, ta mới thấy Ngọc Trí rời xa ta ngược lại cũng là một chuyện  tốt”. 

Từ Tử Lăng động dung nói: “Đến lúc này thì ta mới thật sự tin ngươi đã động  chân tình với Tống Ngọc Trí, bởi vì đây là lần đầu tiên ngươi nghĩ thay cho nàng,  chứ không phải xuất phát từ lợi ích của bản thân”. 

Khấu Trọng lườm gã một cái rồi mới buông tay, lầm lũi nâng chén lên dốc  ngược vào miệng, sau đó há miệng le lưỡi, sặc lên sặc xuống một hồi. Một lúc lâu  sau mới nghe gã thở dài nói: “Nếu ta không nghĩ cho nàng, làm sao ta lại chịu  buông tay chứ, huống hồ ta biết rất rõ, hàng rào ngăn cách mà nàng dựng lên với  ta cũng yếu ớt như là Lương Đô thành lúc này vậy”. 

Từ Tử Lăng cảm khái nói: “Xuất thân của chúng ta và những nữ tử quyền  quý trong cao môn đại phiệt như Tống Ngọc Trí quá khác nhau. Nếu cứ miễn  cưỡng sống chung, tất sẽ có rất nhiều vấn đề xuất hiện”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Có phải ngươi lại nghĩ đến Sư Phi Huyên không?  Cuộc sống của người tu đạo xuất gia như nàng ta, đối với ta mà nói giống như  một thế giới nặng nề và hão huyền không hề chân thực vậy, gông xích trùng  trùng, không có tự do, vứt bỏ mọi sự vật đẹp đẽ trên thế gian này mà chẳng có lý  do nào hết, đúng là ngu ngốc!”. 

Từ Tử Lăng phì cười nói: “Đàm thiền luận đạo với tục nhân như ngươi đúng  là đàn gẩy tai trâu, nói chuyện với kẻ điếc, bàn về màu sắc với kẻ mù”. 

Khấu Trọng cười ha hả: “Vì vậy nên Sư Phi Huyên mới không thuận mắt với  tiểu đệ, còn đối với Lăng thiếu gia nhà ngươi thì lại rất ưu ái, bởi vì ngươi và nàng  ta là cùng một loại người mà lại! Hà hà! Mời Lăng đại sư dùng cơm chay! Ha ha...”. 

Vừa nói gã vừa gắp một gắp rau lớn vào bát Từ Tử Lăng. 

Từ Tử Lăng bật cười nói: “Ngươi có dụng tâm gì mà cứ gán ghép ta với Sư Phi Huyên vậy?”. 

Một trận gió từ thành môn thổi tới, làm ánh lửa của hơn trăm cây đuốc bập  bùng bập bùng, lúc sáng lúc tắt, cơ hồ như đang nhắc nhở bọn gã rằng mã tặc  Khiết Đan có thể đến đây bất cứ lúc nào. 

Từ Tử Lăng liền thừa cơ lảng sang chuyện khác: “Chút nữa thì quên mất  không hỏi ngươi, võ công của Lý tiểu tử thế nào?”. 

Khấu Trọng nói: “Trong tình tình bất ngờ như vậy mà vẫn không thể đả  thương được hắn, vậy là đã biết hắn thế nào rồi”. Gã trầm tư giây lát rồi lại nói  tiếp: “Có phải bây giờ chúng ta đang làm một chuyện rất ngu ngốc hay không?  Không biết thực lực của người Khiết Đan thế nào, nhưng Bành Lương Hội đã bị  bọn chúng hủy diệt rồi đấy”. 

Từ Tử Lăng quyết đoán nói: “Người nào chẳng có lúc làm chuyện ngu xuẩn,  chỉ cần nghĩ là rất nhiều chuyện lúc ngươi làm thì nghĩ đó là một hành vi rất thông  minh, nhưng về sau mới phát hiện ra đó là một chuyện cực kỳ ngu xuẩn, thì trong  lòng sẽ thấy thoải mái hơn rất nhiều đó”. 

Khấu Trọng phá lên cười khanh khách, nâng chén nói: “Hay lắm! Để tiểu đệ  kính Lăng thiếu gia một chén!”. 

Từ Tử Lăng vừa nhấc chén lên, thì chợt như cảm giác được điều gì đó, liền  cùng Khấu Trọng nhìn ra phía thành môn, lập tức thầm kêu hỏng bét. 

Mỹ nữ đẹp tựa thiên tiên mà lòng dạ không thua gì xà hiết Loan Loan đang  lướt qua thành môn mở rộng, tiến về phía hai gã, chân không chạm đất. 

Trận chiến này tri kỷ mà không tri bỉ, vốn đã khó đoán thắng phụ ra sao rồi. 

Loan Loan vẫn bạch y chân trần, khoé miệng nở một nụ cười mê đắm lòng  người, ngồi xuống trước mặt hai gã, tư thái hết sức u nhã yêu kiều. 

Bốn con mắt của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không hẹn mà cùng lúc sáng  rực lên, sát cơ lan tỏa khắp không gian. Nếu có thể dùng thủ đoạn sét đánh  không kịp che tai, đánh cho yêu nữ Âm Qúy Phái trước mắt này trọng thương  hoặc chết, vậy thì lý tưởng vô cùng. 

Đây có thể nói là một ý niệm chưa từng hiện ra trong đầu hai gã lần nào. 

Trước đây tuy là miệng nói cứng, nhưng hai gã đều biết rõ mình căn bản  không đủ năng lực thu thập Loan Loan. Nhưng hiện giờ võ công của hai gã đã  tiến bộ từng ngày, nếu có thể liên thủ hợp kích, mà Loan Loan lại không chạy trốn,  e rằng ngay cả Loan Loan cũng không thể phủ định có khả năng này. 

Loan Loan cất giọng nói quyến rũ thấp trầm mà mềm mại như bông của  mình nói: “Quân tử đông khẩu không động thủ, nếu hai người không chịu làm  quân tử, vậy thì những kẻ đầu tiên gặp tai ương chính là đám huynh đệ Bành  Lương Hội mà các người vừa mới kết giao đó”. 

Hai gã ngạc nhiên nhìn nhau. 

Chỉ một câu nói đơn giản, Loan Loan đã tỏ rõ nàng nắm được toàn bộ cục  thế, bao gồm cả nhược điểm trí mạng của hai gã. 

Bọn gã trượng nghĩa xuất thủ giúp bọn Trần Gia Phong, hoàn toàn không  phải là vì báo cứu tuyết hận cho một bang phái, mà vì ba nguyên nhân. Chủ yếu  nhất là vì bọn gã không hi vọng một tòa cổ thành mỹ lệ thế này bị hủy diệt trong  tay mã tặc, kế đó là vì sự phẫn nộ trước hành vi xâm nhập cướp bóc của ngoại  tộc, còn nguyên nhân cuối cùng, là hi vọng có thể ôm cây ngồi đợi con thỏ Vũ  Văn Hóa Cập đến chịu chết. Thích sát Vũ Văn Hóa Cập ở đây, tự nhiên là dễ hơn  hành sự ở nơi của hắn rất nhiều. 

Nhưng Loan Loan đến phá đám thế này, khiến bọn gã làm sao có thể phân  tâm ứng phó địch nhân cho được? 

Khấu Trọng vội vàng cười hì hì nói: “Loan Loan đại tiểu thư bớt giận! Hà!  Uống chén rượu trước rồi nói chuyện nhé, có đói bụng không, ở đây chỉ có cơm  rau nhưng không có độc đâu!”. 

Loan Loan nhoẻn miệng cười nhìn Khấu Trọng ân cần rót rượu cho mình, dịu  dàng nói: “Vậy mới ngoan chứ! Cho dù là địch nhân thì cũng có lúc ngồi xuống  uống rượu tâm sự được mà!”. 

Từ khi chính thức trở mặt động thủ đến nay, Từ Tử Lăng chưa từng thử tịnh  tâm nhìn kỹ yêu nữ ma giáo này ở khoảng cách thân cận và trong một không khí  hòa bình thế này, nhưng bất luận là tìm kiếm thế nào, gã cũng không thể tìm ra  được một chút tà dị trong khí chất của nàng, nhưng những thủ đoạn hung tàn lãnh  khốc của Loan Loan thì cứ không ngừng trùng hiện trước mắt gã. 

Tuyệt thế dung nhan của nàng không hề thua kém Sư Phi Huyên là mấy,  phân biệt chỉ là một người khiến cho gã liên tưởng đến tiên sơn u cốc, còn một  người làm gã nghĩ đến hoang mạc bao la. 

Loan Loan không cầm chén lên, mà nhìn qua phía Từ Tử Lăng, môi anh đào  khẽ mấp máy: “Tử Lăng có thể tạm thời dẹp bỏ thù cũ, cùng nhau thương lượng  được không?”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Ngươi thừa lúc người khác gặp nguy đến đây thủ lợi, còn nói muốn thương lượng gì nữa?”. 

Loan Loan châm biếm: “Bây giờ ai chẳng thừa lúc người khác gặp nguy? Ai  chẳng muốn thừa lúc người khác gặp nguy thủ lợi? Tử Lăng không phải là mới đặt  chân ra giang hồ lần đầu, tại sao vẫn còn nói ra những câu như vậy được nhỉ?”. 

Khấu Trọng biết tích cách của Từ Tử Lăng, sợ gã và Loan Loan sinh chuyện,  liền vội vàng xen miệng vào: “Có gì thì từ từ nói! Hắc! Từ trước tới nay ta luôn có  một thắc mắc, bây giờ Loan đại tiểu thư đã nói rõ là muốn tâm sự, vậy có thể  thỉnh giáo được không?”. 

Loan Loan biết rõ gã muốn lảng sang chuyện khác, nhưng vẫn vui vẻ đáp:  “Nửa canh giờ nữa mã tặc của Quật Ca sẽ đến cửa thành, nếu Khấu huynh  không cảm thấy lãng phí thời gian, Loan Loan tự nhiên sẽ hỏi gì đáp nấy”. 

Khấu Trọng cười cười: “Chỉ là một vấn đề rất đơn giản thôi, tại sao Âm Qúy  Phái lại tham gia vào cuộc tranh giành thiên hạ này vậy?”. 

Loan Loan nhún vai: “Ai mà chẳng muốn chủ tể thiên hạ? Câu hỏi này  không phải hơi thừa hay sao?”. 

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Đối với Lý Mật, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức,  Lý Thế Dân mà nói, đây đích thực là một câu hỏi hết sức ngu xuẩn. Bởi vì đối với  bọn họ nhân sinh bá nghiệp không ngoài chuyện kiến triều lập đại, hoàn thành  hồng đố bá nghiệp thiên thu bách thế, nhưng lệnh sư Chúc Ngọc Nghiên và Loan  Loan tiểu thư đây thì đâu phải vậy, mục đích chân chính của hai người, chắc  không phải quyền lực hay tài phú của nhân gian này đâu”. 

Loan Loan nhoẻn miệng cười đáp: “Thật không ngờ ngươi lại hiểu chúng ta  như vậy, có lẽ là vậy đấy! Ai làm chủ thiên hạ thì cuộc chiến của chúng ta với Từ  Hàng Tịnh Trai vẫn cứ kéo dài tiếp diễn, cũng chính vì nguyên nhân này mà ta  mới chịu ngồi đây bình tâm tịnh khí nói chuyện với hai người, bằng không nếu  toàn bộ Âm Qúy Phái dốc toàn lực đối phó các ngươi, các ngươi nghĩ rằng mình  sẽ cầm cự được bao lâu chứ?”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Không cần dọa khiếp người ta như vậy! Không phải  trước đây các ngươi đã toàn lực đối phó bọn ta rồi hay sao? Chỉ là không thành  công mà thôi”. 

Loan Loan nhăn mặt như thương tiếc cho một kẻ ngu ngốc vô tri, thở dài nói:  “Lúc ở Đông Đô, đúng ta chúng ta có ý giết ngươi, nói một cách chính xác hơn là  giết một trong hai ngươi, nhưng lại ném chuột sợ vỡ đồ, cả sư phụ cũng vì đủ thứ  cố kỵ mà không dám tùy tiện động thủ, nguyên nhân bên trong thế nào các ngươi hãy tự đi mà nghĩ!”. Nàng ngưng lại giây lát rồi lại u uất nói tiếp: “Nguyên nhân  chúng ta muốn đối phó các ngươi, ngoại trừ Dương Công Bảo Khố ra, còn vì sợ  các ngươi đứng về phía Từ Hàng Tịnh Trai nữa, bây giờ mối lo ấy tự nhiên là thừa  thãi rồi”. 

Từ Tử Lăng hừ lạnh nói: “Phí lời! Sáng nay không phải ngươi muốn giết ta  sao?”. 

Loan Loan gật đầu khẳng định: “Đích thực là ta có ý trừ ngươi đi, nhưng  không phải vì nguyên nhân mà ngươi nghĩ, Tử Lăng có muốn nghe không?”. 

Khấu Trọng sợ hai người lại cãi nhau làm hư chuyện lớn, liền đáp thay:  “Đương nhiên là rất muốn nghe rồi”. 

Từ Tử Lăng đành im lặng ngậm miệng không nói gì. 

Thần sắc Loan Loan ôn hoà, cảm tình dạt dào như sóng xô bờ liên miên bất  tuyệt, chậm rãi nói: “Đầu tiên là vì Tử Lăng đã xây dựng được một mối quan hệ  rất vi diệu với Sư Phi Huyên, đối với chúng ta mà nói, đây là đại kỵ, kế đó là Loan  Loan rất sợ sẽ không thể tự kềm chế được mà xiêu lòng vì huynh”. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc thất thanh thốt lên: “Cái gì?”. 

Loan Loan liếc nhìn gương mặt anh tuấn đang đỏ ửng lên vì xấu hổ và lúng  túng của Từ Tử Lăng, bật cười khúc khích nói: “Lời ta đã tận, tin hay không tin thì  tùy”. 

Tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. 

Quật Ca cuối cùng đã tới. 

Nhưng Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không còn tự tin và chắc chắn như trước  nữa. 

Nụ cười của Loan Loan càng tươi tắn và ngọt ngào hơn.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 227

Huyết Chiến Thành Quan

Loan Loan vẫn giữ vẻ lạnh lùng trấn định của mình, ngọc dung không hề  vì tiếng vó ngựa dồn dập mà thay đổi, giọng nói đều đều cất lên: “Chỉ  cần các ngươi hứa để chúng ta lấy trước một món đồ trong Dương Công  Bảo Khố, chúng ta có thể tạm thời nghị hoà, đình chỉ can qua”. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, rồi chau mày nói: “Rốt  cuộc là thứ gì mà quan trọng đến vậy, có thể nói rõ ra, chúng ta sẽ cùng thương  lượng”. 

Loan Loan nhún vai, nheo mắt nhìn Khấu Trọng nói: “Có thể là một cái hộp,  cũng có thể là một cái rương nhỏ, nhưng tuyệt đối không liên quan đến tài bảo  binh khí, còn về bên trong là thứ gì, thì thứ cho nô gia không thể nói được, mà các  ngươi có biết cũng chẳng ích gì”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Đừng dùng thứ ánh mắt đó nhìn tiểu đệ được không?  Nếu làm tiểu đệ hiểu lầm thì không hay lắm đâu, xưa nay ta cũng là kẻ hay tự tác  đa tình mà”. 

Tiếng vó ngựa dồn dập bên ngoài thành môn, một động một tĩnh, càng làm  không khí trước cơn giông tố thêm trầm trọng. 

Khấu Trọng nhìn Từ Tử Lăng nói: “Giao dịch này đối với chúng ta hình như  không hại gì lắm, cho dù thâm cừu đại hận, cũng có thể đợi sau khi Dương Công  Bảo Khố lên rồi mới tính toán tiếp”.

Dưới bàn thầm đá nhẹ vào chân Từ Tử Lăng một cái. 

Từ Tử Lăng tự nhiên hiểu ý gã. 

Cứ mỗi một ngày bọn gã lại có thêm một phần chắc chắn có thể đối phó  được với Âm Qúy Phái, nhưng nếu giờ thương lượng không xong, dẫn đến trở mặt  động thủ, thì chỉ có thể chuốc lấy kết cục bại thảm hại mà thôi. 

Thở dài một tiếng, Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Ngươi thích thế nào thì làm  thế ấy đi”. 

Khấu Trọng cười ha hả: “Nhất ngôn vi định, nhưng nếu các ngươi nuốt lời  vọng động can qua thì chuyện này coi như xóa bỏ”. 

Tiếng vó ngựa dồn dập đạp lên cầu treo bắc qua hào sâu bảo vệ thành vang lên như sấm, mấy chục kỵ sĩ phóng qua thành môn, tất cả đều chậm rãi tiến  bước, thần thái vô cùng cẩn thận. 

Loan Loan giống như hoàn toàn không biết mã tặc Khiết Đan đang vào  thành, đưa bàn tay nhỏ nhắn lên, cong ngón tay út lại nói: “Vậy chúng ta móc tay  làm chứng, kẻ nào phải lại lời hứa sẽ chết không toàn thây”. 

Khấu Trọng nghển đầu lên, cẩn thận nhìn ngón tay trắng như ngọc của  nàng, nghi hoặc nói: “Không phải lại có âm mưu ngụy kế gì đấy chứ?”. 

Địch nhân vào thành chỉ có gần trăm người, đám người đầu tiên nhanh  chóng tản ra hai bên hè phố, nghi hoặc nhìn ba người đang ngồi cười cười nói nói  trên bàn tiệc giữa phố, rõ ràng nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra trong  thành lại có cảnh tượng như vậy. 

Loan Loan khẽ mắng: “Không có gan gì hết! Uổng công ta tưởng ngươi là  nam nhi đại trượng phu có thể khiến người ta phải xiêu lòng”. 

Khấu Trọng cười hì hì đưa ngón tay lên ngoắc tay với nàng. 

Tiếng vó ngựa rầm rập lại truyền tới, hơn mười kỵ sĩ phóng qua cổng thành  như những mũi tên, đến khi cách ba người chừng gần mười trượng thì mới kềm  cương dừng lại, xếp thành hàng ngang hình chữ nhất. Chiến mã hí vang, mười  mấy ánh mắt hung hăng đều tập trung cả lên ba người, khong người nào là không  lộ ra thần sắc kinh nghi bất định. 

Ngón tay của Loan Loan và Khấu Trọng ngoắc lại với nhau, kéo đi kéo lại ba  lượt, rồi nàng cất giọng nói mê hồn của mình lên, cười khúc khích: “Khấu lang à!  Chàng đừng phản bội lời hứa đấy nhé! Nếu không nô gia quyết không bỏ qua cho  chàng đâu!”. 

Người ngoài không biết nội tình, nghe thấy nàng nói vậy, ắt hẳn sẽ nghĩ  rằng bọn họ đang thệ hải minh sơn, lập ra tình ước đời này, kiếp này không thay  lòng đổi dạ. 

Dẫn đầu đám mã tặc là một đạ hán râu xồm hung mãnh, lưng đeo song phủ,  khoác áo choàng da thú, khí thế bức nhân. Bên trái y có một lão giả người Hán,  niên kỷ ước chừng khoảng ngũ tuần, mặt mũi lạnh lùng, song mục lấp lánh như  điện, vừa nhìn đã biết ngay là nội gia cao thủ. Những người khác đều là tráng hán  người Khiết Đan, mặt mũi hung ác, thân hình cao lớn, cánh tay để trần đều đeo  vòng sắt bảo vệ cổ tay hoặc cánh tay, càng tăng thêm phần uy mãnh. 

Khấu Trọng rút ngón tay út lại, song mục sáng rực lên, ánh mắt dừng lại  trên gương mặt đại hán Khiết Đan lưng đeo song phủ, đoạn quát lớn: “Tiểu tử kia có phải Quật Ca đến từ Khiết Đan?”. 

Tiếng “Leng keng...” vang lên liên tiếp, ngoại trừ lão giả người Hán và Quật  Ca ra, hơn trăm tên mã tặc đều lần lượt rút ra đủ thứ binh khí khác nhau, tỏ ý  muốn động thủ. 

Lão giả ghé miệng sát tai Quật Ca thì thầm mấy câu, Quật Ca liền đưa tay  ra hiệu cho thủ hạ không được vọng động, hơn trăm tên khấu tặc liền lập tức trầm  tĩnh lại, sau đó y mới quát lên: “Đã biết ta là Quật Ca, vậy mà còn dám ngồi đó  chàng chàng thiếp thiếp, phong hoa tuyết nguyệt, có phải các ngươi chán sống  rồi không?”. 

Hán ngữ của y vừa khô cứng gượng gạo, lại thích cắn chữ nhai chữ, khiến  người ta nghe mà cảm thấy buồn cười. 

Khấu Trọng thoải mái dựa lưng vào thành ghế, liếc mắt nhìn y nói: “Lão  huynh này nói hay lắm, chúng ta đã biết ngươi là thần thánh phương nào, mà vẫn  dám ngồi đây uống rượu cười đùa để cung hầu đại giá, tự nhiên không phải vì  chán sống rồi!”. 

Loan Loan thấy gã vừa nói vừa nhướng mày nheo mắt, thì bật cười khúc  khích, uyển chuyển đứng dậy, kế đó quay người lại, đối mặt với đám tặc khấu  đang bị ngây người bởi tuyệt thế tư dung của nàng, cười cười nói: “Ta chỉ là khách  qua đường, các người đánh sống đánh chết thế nào cũng chẳng liên quan gì đến  ta hết, nô gia phải đi đây”. 

Khấu Trọng biết nàng sắp sát nhân đến nơi, trong lòng cũng không biết là  nên cao hứng hay bất mãn. 

Quật Ca giật mình hỏi: “Không biết mỹ nhân muốn đi đâu?”. 

Y nhất thời bị nhan sắc thiên kiều bá mỵ của Loan Loan chấn nhiếp, không  ngờ lại nói ra một câu nho nhã lịch sự, hoàn toàn không hợp với tác phong xưa  nay. 

Loan Loan dịch người ra phía sau Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, làm hai gã  phải nơm nớp đề phòng, rồi mới thu lại nụ cười, trở về vẻ băng lạnh trước kia, ánh  mắt xạ thẳng vào lão giả người Hán, dịu dàng nói: “Vị tiền bối này chắc là Lang  Vương Mễ Phóng năm xưa hoành hành khắp một dải Đông Bắc? Gần nay tiền bối  tuyệt tích giang hồ, không ngờ là đã đầu nhập nương nhờ người Khiết Đan”. 

Mễ Phóng biến sắc nói: “Ngươi là đệ tử phái nào, làm sao biết được lai lịch  của Mễ mỗ?”. 

Khấu Trọng cười dài: “Mễ lão nhi hãy ngồi cho vững, sư tôn của vị đại tiểu thư này chính là... hắc... à! Xin lỗi!”. 

Loan Loan thu hồi Thiên Ma Kình công về phía gã, mỉm cười nói: “Vậy mới là  trẻ ngoan chứ!”. 

Bọn Quật Ca ngơ ngác nhìn nhau, nghĩ đến vỡ cái đầu cũng không hiểu  quan hệ của ba người này là thế nào. 

Từ Tử Lăng có vẻ hơi bực mình nói: “Không phải tiểu thư muốn đi sao?”. 

Loan Loan bất ngờ dịch ra phía trước, như muốn xuyên qua giữa Quật Ca và  Mễ Phóng, đi thẳng ra thành môn. 

Khấu Trọng gọi theo: “Tiện tay đóng hộ cổng thành luôn nhé!”. 

Quật Ca cười lên ha hả: “Mỹ nhân muốn đi sao? Không dễ vậy đâu!”. 

Mễ Phóng lộ ra thần sắc ngưng trọng, song mục nhìn chằm chằm vào đôi  chân trần của Loan Loan không chớp. 

Kỵ sĩ hai bên tả hữu lập tức phóng ra, đan chéo nhau khép chặt lại. Đám  người Khiết Đan này đều lớn lên trên lưng ngựa, kỵ thuật tinh thâm, bắt người trên  lưng ngựa, chính là trò chơi mà họ rành nhất. 

Chỉ có Khấu Trọng và Từ Tử Lăng biết rõ thủ đoạn của Loan Loan thế nào,  nên đều có cảm giác bất nhẫn, không nỡ nhìn tiếp. Bọn gã đương nhiên là không  cản trở nàng ra tay, bởi đám mã tặc này tên nào tên nấy đều tàn ác hung hãn,  bớt được tên nào là hay tên đó. Mấy tên mã tặc càng lúc càng tiến gần Loan  Loan hơn, đám tặc khấu bên ngoài đều hò hét gia tăng thanh thế cho đồng bọn,  ầm vang cả con phố dài. Ngoài thành môn lại có thêm hơn mười kỵ sĩ vì hiếu kỳ  mà vào thành xem náo nhiệt. 

Đột nhiên hai kỵ sĩ gần Loan Loan nhất cùng lúc thúc ngựa phóng vút lên,  chiến mã lập tức chồm lên, hai chân trước khua loạn, về phía Loan Loan. Hai tên  khác cũng gia tốc phóng tới, kỵ thuật và sự phối hợp đều đã đạt tới một trình độ  rất cao. 

Loan Loan cơ hồ như hoàn toàn không có sức lực phản kháng, để hai tên  mã tặc kẹp vào giữa. 

Khi chân trước của hai con ngựa vừa chồm lên khi nãy chạm đất, thì chợt  nghe tiếng ngựa hí người kêu thảm thiết, hai con kiện mã kẹp lấy Loan Loan đều  đổ vật xuống, hai đại hán dũng mãnh người Khiết Đan trên ngựa cũng hoàn toàn  không hề phản kháng gì, toàn thân mềm nhũn, ngã huỵch xuống theo ngựa. 

Với nhãn lực của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng mà cũng không nhìn rõ Loan Loan đã dùng thủ đoạn gì. 

“Bịch!”. 

Hai con ngựa cùng lúc chạm đất, bụi cát bay lên, kế đó là nằm bất động,  táng mạng đương trường. 

Loan Loan không tốn chút lực gì nhẹ nhàng nhấc hai người lên, tiện tay ném  thẳng vào đầu ngựa của hai kỵ sĩ vừa chồm lên. 

Đám mã tặc không ai là không trợn mắt há miệng, đang không biết nên làm  sao thì hai tên kỵ sĩ trên ngựa đã như chạm phải điện, thất khiếu chảy máu, rơi  xuống khỏi lưng ngựa, còn hai con ngựa thì dường như không hề bị thương tích gì  vậy. Hai người bị Loan Loan ném ra cũng rơi huỵch xuống đất, mắt miệng mũi tai  đều rỉ máu. 

Công phu bá đạo như vậy, ngay cả Quật Ca và Mễ Phóng cũng phải biến  sắc. 

Quật Ca là người đầu tiên định thần lại được, tức giận gầm vang: “Giết bọn  chúng!”. 

Toàn bộ đám mã tặc lập tức thúc ngựa lao lên. 

Loan Loan nheo mắt nhìn hai gã cười cười nói: “Gặp lại ở Quan Trung!”. 

Hai dải lụa trắng từ ống tay áo nàng phóng vút ra như hồ điệp xuyên hoa,  đám người cản lại đều ngã nhào, đội hình nghiêm chỉnh của bọn mã tặc lập tức  loạn như kiến vỡ tổ, không có một ai làm chậm được bước chân Loan Loan lại. 

Khấu Trọng nhìn nàng mở ra một con đường máu đến tận thành môn, kinh  hãi nói: “Làm sao ả biết Dương Công Bảo Khố ở Quan Trung?”. 

Từ Tử Lăng vỗ song chưởng vào cạnh bàn, cả mặt bàn lập tức theo đó rời  khỏi bốn chân, xoáy tròn bay về phía mười tên kỵ sĩ đang thúc ngựa lao tới, rồi hét  lên: “Ta đâu phải con sâu trong bụng ả, làm sao mà biết được chứ”. 

Mặt bàn xoáy càng lúc càng nhanh, rượu thịt bên trên không ngờ đều dính  chặt vào mặt bàn, không hề rơi xuống. 

Đúng vào sát na mặt bàn bay đi, Khấu Trọng đã thuận tay cầm lên một bình  rượu, lúc này gã đang vừa cho nút bình vào miệng nhai rôm rốp, vừa nói: “Thời  khắc chúng ta đòi nợ máu cho đồng bào đến rồi!”. 

Hai tiếng kêu thảm vang lên, mặt bàn đã đụng trúng hai tên mã tặc đầu tiên,  chiến mã kêu lên kinh khiếp, chạy ngang chạy dọc, cục diện đã loạn lại càng  thêm loạn. 

“Vù!”. 

Khấu Trọng nhổ nắp bình rượu trong miệng ra, kích trúng mặt một tên mã  tặc đang xông tới, tên này lập tức ngã bổ ngửa, một chân ngoắc lên làm một tên  khác cũng ngã nhào theo. 

Gã vẫn ngồi oai vệ trên ghế, tả thủ nghiêng bình rượu lên uống, hữu thủ rút  Tỉnh Trung Nguyệt ra, tùy tiện huơ ra một cái. 

“Đang!”. 

Một tên ác hán Khiết Đan cầm trường mâu đâm tới bị gã hất cả người lẫn  thương đều bay xuống đất, đầu vỡ máu chảy, không bò dậy được, còn con ngựa  không người cưỡi thì chạy thẳng vào góc tối phía sau. 

“Bùng!”. 

Hai tên mã tặc vừa lao lên đã trúng phải phách không chưởng của Từ Tử  Lăng thổ huyết rơi xuống ngựa, một trong hai con ngựa vẫn phóng thẳng về phía  gã, bị gã dùng xảo kình đẩy lệch đầu ngựa, làm chuyển hướng lao về phía hai tên  mã tặc khác. 

Khấu Trọng cười lớn: “Thống khoái, thật là thống khoái!”. 

Đại chiến đã khai diễn một cách toàn diện. 

Lúc này Loan Loan đã ra đến thành môn, dẫn dụ chủ lực của địch nhân đi  theo. 

Khấu Trọng hú dài một tiếng. 

Bọn Trần Gia Phong phục kích trên tường thành, thông qua các lỗ đã khoét  sẵn, dùng cung tên từ trên cao rải xuống như mưa, đồng thời ném pháo xuống,  tiếng nổ đì đùng làm chiến mã đã loạn càng thêm loạn. Trong tình cảnh như vậy,  bọn địch nào phân biệt được chỉ có hơn năm chục người đang tác quái, còn tưởng  rằng đã trúng phải mai phục, quân tâm dao động, lòng tin bắt đầu lung lay.

Khấu Trọng khom người bổ tới, tả thủ sử ra Đoạn Mạch thủ pháp do Đồ  Thúc Phương truyền dạy năm xưa, chộp lấy một cây trường thương đâm tới, vận  công đẩy ra một đạo Loa Hoàn Kình làm địch nhân bay xuống ngựa, hữu thủ vung  đao lên, nhảy vào giữa đám tặc khấu, sau đó thì nghe gió nhận tiếng, lắc người  lao lên phía trước, tránh được một mũi tên từ phía sau bắn tới, tất cả các động tác  đều liền lạc như lưu thủy hành vân, đến nỗi cả bản thân gã cũng cảm thấy lấy  làm vừa ý. 

Gã giờ đã không còn là tên tiểu tử mới đặt chân ra chiến trường lần đầu tiên nữa, mà đã là một chiến tướng dạn dày kinh nghiệm, hiểu rõ trong quần chiến kỵ  nhất là hư chiêu hoa mỹ, cần nhất là phải nhanh nhẹn chuẩn xác, nhất kích tất  sát, có vậy mới giữ được tính mạng. 

Kình phong từ hai bên tả hữu cùng lúc tràn tới, Khấu Trọng nhận ra là song  phủ của Quật Ca, liền cười lên ha hả: “Mỹ nhân của Ca lão huynh bỏ đi rồi à?  Cóc ghẻ cũng đòi ăn thịt thiên nga. Câu này hơi thâm ảo, nhưng chắc ngươi cũng  hiểu được chứ? Có cần ta nói đơn giản một chút không?”. 

Miệng thì nói liên thuyên, nhưng tay gã thì vẫn không dừng lại, bảo đao đưa  lên nghênh tiếp lấy song phủ của đối phương. Tiếng kim thiết chạm nhau vang  lên không ngớt, mỗi đao đều toàn lực bổ ra, khiến Quật Ca cảm thấy uyển mạch  tê rần, sợ hãi thúc ngựa chạy ra xa. 

“Bình!”. 

Khấu Trọng tung chân phải lên, đá vào chân ngựa của một tên địch khấu  khác, kình lực cuồng mãnh làm kẻ đó bị chấn động bay lên cao, gã lại bồi thêm  một quyền cách không, làm kẻ bất hạnh kia như bị sét đánh, máu tươi bắn tung  tóe giữa không trung, rồi rơi ra xa hơn trượng. 

Uy thế kinh hồn lập tức làm mấy tên khác sợ hãi tản ra xa. 

Từ Tử Lăng cũng đại triển thần uy, chưởng phong quyền kình phối hợp với  thủ pháp huyền ảo vô song, coi đao thương kiếm kích của địch nhân như không,  thấy thương phá thương, gặp đao phá đao, kẻ nào cản trở đều bị đánh cho tan tác. 

Hơn trăm địch nhân trong thành bị hai gã kềm chế, nên bọn Trần Gia Phong  lại có thể làm theo kế hoạch, cắt đôi đám địch nhân ở cầu treo ra làm hai, khiến  bọn mã tặc ở ngoài thành không thể vào tiếp viện, còn bọn ở trong muốn chạy thì  phải mạo hiểm xông qua làn tên từ trên cao rải xuống. 

Lang Vương Mễ Phóng dùng một cây lang nha bổng, đây cũng là lý do vì  sao y có ngoại hiệu đó. Y là người đầu tiên phát giác ra cưỡi ngựa ngược lại còn  hạn chế tính linh hoạt của mình, nên liền tung mình bay lên phía trên Từ Tử Lăng,  lang nha bổng bổ xuống như sấm sét. 

Từ Tử Lăng điểm ra một chỉ, Loa Hoàn Kình lập tức ào ạt đổ ra như sóng  biển xô bờ. Chỉ thấy Mễ Phương hự lên một tiếng, bị chấn động bay ngược trở lên  cao tới năm trượng. 

Từ Tử Lăng hét lớn: “Trọng thiếu gia! Lão già này cho ngươi đó!”. 

Khấu Trọng “ha” lên một tiếng lĩnh mệnh, vung đao bức lui năm tên mã tặc  đang vây công mình, Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành một đạo ánh sáng vàng rực, lao vút về phía Mễ Phóng. 

Lúc này trên đoạn phố dài mấy chục bước từ thành môn đến chỗ hai gã bị  vây công đã có bảy tám mươi thi thể nằm la liệt, trong đó ít nhất phải tới một nửa  là do đôi tay mềm mại của Loan Loan gây ra, còn lại thì hoặc do trúng tiễn hoặc  do Khấu Trọng và Từ Tử Lăng hạ sát, tình thế khốc liệt phi thường. 

Dưới ánh đuốc bập bùn, con phố dài cơ hồ như đã biến thành địa ngục a tỳ. 

Quật Ca thấy tình hình bất diệu, vội kêu lớn: “Mễ công cẩn thận!”, đang định  lăng không cản Khấu Trọng lại thì Từ Tử Lăng đã phóng tới, vung quyền tấn công. 

Quật Ca tâm thần đại loạn, lần đầu tiên cảm thấy trận này mình đã đại bại,  đại bại một cách hết sức hồ đồ.

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 228

Nhiệm Vụ Nặng Nề

“Choang!”. 

Tiếng vang chấn động cả toàn trường. 

Khấu Trọng người đao hợp nhất lướt qua Mễ Phóng đang cố sức tự  bảo vệ mình trên không trung, chỉ thấy Lang Vương rơi xuống bên  đường như một cánh diều đứt dây. 

“Bình!”

Người y đã phá vỡ tấm bảng gỗ phong chặt hai cánh cửa của một gian tiệm,  rơi vào bên trong, hai chân thò qua lỗ vắt vẻo bên ngoài, khiến người ta có cảm  giác y đã hồn du địa phủ. 

“Ầm!”. 

Quật Ca tuy đã kịp thời gác chéo song phủ đỡ lấy một quyền toàn lực của  Từ Tử Lăng, song cũng bị kình lực chấn bay khỏi lưng ngựa. 

Từ Tử Lăng lộn nhào qua ngựa, quặt ngược tay về sau đoạt lấy một cây  trường thương đâm tới lưng, hóa thành muôn ngàn bóng thương dày dặc, công về  phía Quật Ca vừa bị bắn lên không. 

Mồ hôi túa ra ướt đẫm lưng Quật Ca, chỉ thấy y vội vàng lăn người xuống đất. 

Khấu Trọng nhân tuy thế nhất kích tất sát khi nãy, nhảy lên lưng một con  ngựa, thúc cương tả xung hữu đột, gặp người là chém, trong thành lúc chỉ còn lại  chừng bảy mươi tên tặc khấu, nhuệ khí đã hoàn toàn mất hết, tên nào tên nấy  đều bất chấp tất cả tranh nhau chạy ra phía thành môn. 

Bọn Trần Gia Phong sĩ khí bốc cao ngùn ngụt, một trận mưa tên nữa lại rải  xuống đầu địch nhân. Quật Ca biết đại thế đã mất, liền nhảy lên sau lưng một tên  thủ hạ, trà trộn vào giữa đám tặc khấu hỗn loạn, chạy về phía cổng thành. 

Trận chiến đánh đuổi và tiêu diệt hơn hai trăm tên mã tặc Khiết Đan này, đã  làm Khấu Trọng và Từ Tử Lăng uy danh bốn phương, kinh động cả thiên hạ. 

Sáng ngày hôm sau, bọn Trần Gia Phong càng thêm cung kính với hai gã,  thị hầu thực vô cùng chu đáo. 

Hai gã đang ngồi trong quán hôm qua ăn sáng thì Trần Gia Phong chạy tới,  cúi đầu cung kính nói: “Thuộc hạ đã phát tán nhân thủ đi khắp nơi hiệu triệu huynh đệ trong hội về đây quy tập”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Bọn họ đâu phải thuộc hạ của ta, quay lại đây làm  gì?”. 

Trần Gia Phong cười xòa nói: “Chúng tiểu nhân đã thương lượng rất kỹ rồi!  Sau này quyết định đi theo hai vị đại gia đánh thiên hạ. Còn về việc hiệu triệu các  huynh đệ khác, thì là để đối phó với Vũ Văn Hóa Cập, hắn ta không dễ đối phó  như đám mã tặc đêm qua đâu”. 

Khấu Trọng dở khóc dở cười nói: “Bất luận là gọi đến bao nhiêu nhân thủ,  chúng ta cũng chỉ có một kết cục đại bại mà thôi. Chuyện này không cần nhắc  đến nữa, đối phó Vũ Văn Hóa Cập chỉ là chuyện của huynh đệ chúng ta mà thôi,  không liên quan đến kẻ khác. Nếu muốn đáp tạ bọn ta, thì các người hãy tập  trung chú ý đến động tĩnh phía Vũ Văn Hóa Cập, có tin tức gì thì lập tức báo về  đây là được”. 

Trần Phong đành thất vọng đi ra. 

Khấu Trọng thở dài than: “Có phải chúng ta thật sự phải đợi ở đây không?  Tình thế Giang Đô chắc hẳn là vô cùng khẩn cấp, nếu không phải vậy, Lý Tử  Thông đâu có lý do gì mà không đến thu thập một thành lớn có vị trí chiến lược  như Lương Đô này”. 

Đột nhiên gã thấy Từ Tử Lăng ngây người nhìn ra bên ngoài, liền vội vàng  nhìn theo, chỉ thấy mấy cỗ xe lừa đang chở một đoàn nam nữ lão ấu đi qua trên  phố. 

Khấu Trọng tóc gáy dựng ngược hết cả lên, ngửa mặt kêu trời: “Mẹ của con  ơi! Bọn họ còn quay lại làm gì nữa?”. 

o0o 

Hoàng hôn ngày hôm sau. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đứng trên thành môn, ngây người ra nhìn đoàn  xe ngựa dài vào thành, đưa những người dân của Lương Đô lũ lượt trở về nơi cư  trú. 

Trên bến, cũng có hơn trăm con thuyền neo đậu. 

Chỉ trong hai ngày ngắn ngủi, tòa thành tưởng chừng như đã chết hầu như đã hoàn toàn khôi phục sinh cơ. 

Huynh đệ bọn Trần Gia Phong cũng từ hơn năm mươi người tăng lên tới  năm trăm người, tự động tự giác duy trì trật tự an ninh trong thành. 

Từ Tử Lăng cau mày hỏi: “Thành thủ đại nhân, bây giờ phải làm sao?”. 

Khấu Trọng thở dài: “Ngươi hỏi ta, ta biết hỏi ai hả?”. 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Không phải ngươi muốn tranh bá thiên hạ sao? Cứ  coi như là một lần luyện tập đi”. 

Khấu Trọng buồn bực nói; “Trận chiến Cảnh Lăng ngày đó đến giờ ta vẫn  còn chưa hết sợ, lúc ấy ít nhất ta vẫn còn có một đội ngũ quân binh thủ thành  được huấn luyện tử tế, còn giờ chỉ có một đám ô hợp của Bành Lương Hội, giết  đám mã tặc thì còn may ra, chứ thủ thành hả? Thật chẳng khác gì bảo bọn họ tự  đâm đầu vào tường thành tự tử là mấy đâu”. 

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Vậy thì thử xem ngươi luyện quân thế nào! Hai  ngày nay chẳng phải ngươi rất chăm chỉ đọc binh thư của Lỗ tiên sinh để lại hay  sao? Đến lúc lấy ra để thực hành rồi đó”. 

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Ngươi không đùa ta đấy chứ?”. 

Từ Tử Lăng chỉ tay vào mấy đứa trẻ ngồi trên một cỗ xe lừa nói: “Ngươi nhìn  gương mặt của mấy đứa trẻ kia đi! Tuy rất mệt mỏi vì ngồi thuyền ngồi xe cả  quãng đường dài, nhưng nét mặt vẫn tràn đầy hi vọng và mong chờ. Có ai muốn  rời khỏi tòa thành quen thuộc và ngôi nhà mình cư trú đã lâu chứ? Chỉ cần có một  chút hi vọng, là bọn họ liền lập tức quay về, còn chúng ta thì đã vô tình mà mang  đến niềm hi vọng này cho họ, ngươi nỡ nhẫn tâm bức bọn họ phải ra đi lần nữa  à?”. 

Khấu Trọng kinh hãi nói: “Đây chỉ là hiểu lầm mà thôi, không biết là tên điên  nào đã đem tin tức loan truyền khắp nơi, làm cho bọn họ đều trở về hết thế này”. 

Từ Tử Lăng đưa tay đặt nhẹ lên vai Khấu Trọng: “Là cái gì cũng không quan  trọng, cả Lý Mật mà cũng bại dưới tay ngươi, Vũ Văn Hóa Cập là cái gì chứ, dù  sao thì ngươi cũng đã lập chí thống nhất thiên hạ, vậy thì hãy bắt đầu từ Lương  Đô đi”. 

Khấu Trọng khổ sở nhăn mặt nói: “Lương Đô chỉ là một tòa cô thành, thiếu  lương thảo, lại thiếu cả nước, cái gì cũng không có, thủ thành được nửa ngày đã  khó lắm rồi, cách hay nhất vẫn là ai lo thân nấy, đào tẩu trước thì hơn”. 

Từ Tử Lăng thở dài: “Đừng có thổi phồng lên như thế, ngươi như vậy là lâm trận rút lui đó, chẳng lẽ ngươi quên mất vẫn còn Bành Thành à? Có người của  Bành Lương Hội trợ giúp, ngươi muốn quản trị hai toàn thành này đâu khó khăn gì  chứ? Còn Vũ Văn Hóa Cốt thì liệu điều động được bao nhiêu binh mã đến đây  tấn công bọn ta nào? Phấn chấn lên đi! Ngươi và ta đã trở thành hi vọng duy nhất  của Lương Đô này rồi, Dương Châu Song Long làm sao dễ dàng để Vũ Văn Hóa  Cốt tới đây làm loạn được?”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Hình như người muốn tranh thiên hạ là ngươi chứ  không phải ta nữa rồi! Hắc! Đành theo ngươi làm anh hùng một chuyến vậy! Hi  vọng là không phải tuẫn tiết theo thành!”. 

o0o 

Vó ngựa dồn dập gõ xuống cầu treo vừa hạ xuống, phát ra những âm thanh  rầm rập như sấm động. Hơn mười kỵ sĩ do Khấu Trọng dẫn đầu, phóng qua cổng  thành, để lại một dải bụi đất dài bên ngoài vẫn chưa lắng xuống. 

Từ Tử Lăng đón Khấu Trọng ở cửa thành, rồi cùng gã đi về tổng quản phủ ở  trung tâm của tòa thành cổ này. 

Khấu Trọng thần sắc nghiêm trọng nói: “Vũ Văn Hóa Cốt đúng là sẽ đích  thân dẫn quân tới đây, theo tin tức nhận được, hắn đã biết chúng ta đang ở đây,  thậm chí còn ba hoa với thủ hạ là sẽ bắt ta với ngươi ngũ mã phân thây để tế cờ  nữa”. 

Song mục Từ Tử Lăng sáng rực lên hai ngọn lửa cừu hận, cười khẩy nói:  “Hắn có bao nhiêu binh mã?”. 

Khấu Trọng hờ hững đáp: “Có lẽ khoảng từ một vạn năm ngàn đến hai vạn,  do Vũ Văn Trí Cập và Vũ Văn Vô Địch làm phó tướng, nếu thuật nhìn bụi đất bay  lên để đoán định tình hình quân địch mà Linh Lung Kiều dạy ta không sai, thì chỉ  có năm ngàn thân binh cả Vũ Văn Hóa Cốt là tinh binh được huấn luyện đầy đủ,  còn lại đều là tân binh mới được chiêu mộ chưa lâu”. Kế đó lại thấp giọng hỏi:  “Hai ngày nay có gì đặc biệt không?”. 

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Có một vị lão bằng hữu đang đợi ngươi trong phủ  tổng quản, để người đó nói sẽ rõ ràng hơn một chút”. 

o0o 

Khi Khấu Trọng bước vào sảnh đường lớn của phủ tổng quản, tam đương  gia của Bành Lương Hội, Diễm Nương Tử Nhậm Mi Mi liền cười cười bước tới  nghênh đón, phong thái vẫn y như ngày trước. 

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Tam đương gia tới thì tốt quá! Chỗ này có thể  giao cho cô nương rồi!”. 

Nhậm Mi Mi lườm gã một cái rồi nói: “Làm gì có chuyện tiện nghi như vậy  chứ, nếu không có hai người ở đây chủ trì đại cục, bản cô nương làm gì có hứng  thú đến đây chứ?”. 

Trần Gia Phong ở bên cười theo nói: “Mọi người ngồi xuống từ từ nói! Ngồi  xuống từ từ nói”. 

Sau khi đã yên vị, Từ Tử Lăng mới nói: “Sáng sớm nay tam đương gia mới  tới đây, còn mang theo mấy trăm huynh đệ, khiến quân lực của bọn ta đã tăng  lên ba ngàn người”. 

Nhậm Mi Mi lắc đầu nói: “Xin đừng kêu ta là tam đương gia nữa, Bành  Lương Hội đã tan rã rồi, bây giờ tất cả đều phải dựa vào hai người thôi”. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ngạc nhiên nhìn nhau, rồi lên tiếng hỏi: “Nhiếp  tiên sinh của quý hội đâu rồi?”. 

Nhậm Mi Mi chán nản nói: “Trận chiến Lương Đô, đại đương gia đã bị Vũ  Văn Hóa Cập đả thương, chưa kịp khang phục thì lại phải quyết chiến với Quật Ca,  thương cũ thương mới cùng lúc phát tác, nên mười ngày trước đã qua đời, bởi vậy  ta mới nói Bành Lương Hội đã tan rã rồi”. 

Khấu Trọng nói: “Còn có tam đương gia mà”. 

Nhậm Mi Mi cười khổ: “Hai người cũng biết ta được bao nhiêu cân lượng rồi  đó, hiện giờ huynh đệ trong hội đều mong có thể mượn sức hai người báo cừu tiết  hận cho các huynh đệ đã chết. Khắp thiên hạ giờ đây có ai mà không biết đại  danh của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chứ?”. 

Khấu Trọng lại hỏi: “Tình hình Bành Thành thế nào?”. 

Nhậm Mi Mi đáp: “Bành Thành đã bị đám mã tặc Khiết Đan làm cho thành  tan nhà nát, muốn khôi phục lại nguyên khí ít nhất cũng phải tốn mấy năm công  phu”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt lên: “Thật là hỏng bét! Ta còn định diễn lại màn  Lý Mật đại phá Vũ Văn Hóa Cốt, chia quân lực phân bố đều ở hai thành, khiến  Vũ Văn Hóa Cốt tấn công thành nào, thành kia cũng có thể tập kích sau lưng hắn, nhưng giờ đây Bành Thành đã biến thành phá thành, kế này đương nhiên cũng  không thể thực hiện được nữa rồi”. 

Nhậm Mi Mi nói: “Không phải Khấu gia đã có chiến tích huy hoàng là tử thủ  Cảnh Lăng trong mười ngày hay sao? Hiện giờ Lương Đô tuy binh lực yếu ớt,  nhưng sĩ khí dâng cao ngất trời, chúng nhân đồng lòng nhất trí, hơn nữa quân lực  của Vũ Văn Hóa Cập đâu thể bì với Đỗ Phục Uy khi đó, sĩ khí lại sa sút, chúng ta  đâu phải là không có cơ hội chiến thắng?”. 

Khấu Trọng lắc đầu nói: “Lúc người của Từ Viên Lãng triệt thoái đã mang  theo tất cả lương thảo còn lại trong kho, nếu bị đoạn tuyệt cung ứng, lương thảo  của chúng ta chỉ đủ dùng trong ba ngày thôi”. 

Nhậm Mi Mi nói: “Vấn đề này thì không đáng ngại, Bành Lương Hội có tích  trữ một lượng lương thảo khá lớn ở mấy thôn trấn giữa Lương Đô và Bành Thành,  chỉ cần vận chuyển về đây, ít nhất cũng cầm cự được hơn một tháng”. 

Hai gã cùng lúc phấn chấn tinh thần. 

Trần Gia Phong chen miệng vào nói: “Thứ tội thuộc hạ lắm lời, địa hình đồi  núi ở vùng phụ cận này, không ai hiểu rõ hơn người của Bành Lương Hội, chúng  ta có thể chọn lấy những nơi hiểm yếu, để phục kích địch nhân, chỉ cần đốt được  lương thảo của Vũ Văn Hóa Cập, là phần thắng của chúng ta sẽ tăng lên đáng kể  đó”. 

Khấu Trọng nói: “Vũ Văn Hóa Cốt chinh chiến đã lâu, lại tinh thông binh  pháp, tất sẽ không dễ gì để chúng ta đốt mất lương thảo đâu, nhất định phải nghĩ  cách khác mới được”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Có thể chúng ta vẫn còn cứu tinh”. 

Ba người còn lại đều ngạc nhiên nhìn về phía gã. 

Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Vũ Văn Hóa Cốt muốn đoạt lấy Lương Đô như  vậy, tự nhiên là biết Đậu Kiến Đức không dễ đụng tới, nên mới thừa cơ lúc Đậu  Kiến Đức và Từ Viên Lãng giao chiến, đoạt lấy Lương Đô, sau đó thuận theo kênh  Thông Tế tấn công Giang Đô, vì thế mà kẻ quan tâm tình hình Lương Đô nhất, có  lẽ là Lý Tử Thông, chỉ cần chúng ta ngoắc ngoắc tay, đảm bảm hắn sẽ điều bớt  nhân thủ tới đây trợ chiến”. 

Khấu Trọng vỗ bàn khen tuyệt: “Đúng là diệu kế, Lý Tử Thông tuyệt đối  không sợ chúng ta, Lương Đô ở trong tay bọn ta, đối với hắn chỉ lợi mà không hại.  Bây giờ phải gấp rút hành động, một mặt gia tăng phòng thủ, vận chuyển lương  thảo và luyện binh, mặt khác thì phải lập tức phái người đi Giang Đô thuyết phục Lý Tử Thông xuất binh, ai đi thì được đây nhỉ?”. 

Nhậm Mi Mi nói: “Cả hai người đều không thể rời khỏi Lương Đô, Bành  Lương Hội xưa nay lại có giao tình khá tốt với Lý Tử Thông, vậy để nô gia đi làm  thuyết khách cho!”. 

Khấu Trọng vỗ mạnh lên vai Từ Tử Lăng nói: “Cũng may là đầu óc ngươi  linh mẫn, con bà nó... chúng ta và Vũ Văn Hóa Cập cũng đến lúc phải kết thúc  rồi, lần này phải cho hắn có đến mà không có về mới được!”. 

Từ Tử Lăng song mục thoáng hiện lên sát cơ nồng nặc xưa nay chưa từng  có, khóe miệng nở một nụ cười lạnh tựa băng sương. 

Đã đến lúc nợ máu trả bằng máu.

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 229

Chiến Tất Công Thành

Cư dân Lương Đô bất luận nam nữ lão thiếu đều được động viên, tất cả  cùng cố gắng để bảo vệ nhà cửa của chính mình. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng hiện nay đều là nhân vật anh hùng danh  mãn thiên hạ, chẳng những chiến tích lẫy lừng, xưa nay vô địch, hơn  nữa bọn gã lại là những kẻ xuất thân bần hàn nơi đầu đường xó chợ nên hình  tượng so với những cựu thần cao môn đại phiệt của cựu triều hay những bá chủ  kiêu hùng trong hắc đạo thì càng thu hút được nhân tâm hơn, thế nên các nhân  vật võ lâm ở vùng phụ cận, những tráng đinh có chí khí ở các thôn làng xung  quanh cũng lần lượt đến gia nhập. 

Vô ý trồng liễu, liễu đơm xanh, lần đầu tiên công khai tụ nghĩa trên con  đường tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, đã phát sinh một cách đột nhiên như  vậy. 

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Từ Tử Lăng cũng không trực tiếp nhúng tay  vào đại nghiệp tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, nhưng lần này vì thương xót  chư dân trong thành, đồng thời cũng vì mối thù với Vũ Văn Hóa Cập, nên gã mới  đành phải mua dây buộc mình, nhận trách nhiệm huấn luyện quân binh, tổ chức  đội ngũ. 

Khấu Trọng thì vừa dựa vào thiên thư do Lỗ Diệu Tử truyền cho, vừa mô  phỏng kết cấu hành chính vốn có của Lương Đô, tận hết khả năng vận dụng  những tài nguyên có hạn một cách tốt nhất. 

Đại quân của Vũ Văn Hóa Cập ước chừng hai vạn, nhưng lại hành động  chậm chạp, dọc đường lại không ngừng cướp bóc lương thảo, cưỡng bức tráng  đinh nhập ngũ, giống như bầy châu chấu đi tới đâu là tàn hại tới đó, làm cho dân  chúng ở xung quanh đều chạy cả về Lương Đô lánh nạn, khiến gánh nặng trên  vai Khấu Trọng đã nặng lại càng thêm nặng. 

Ngày hôm nay, hai gã khó khăn lắm mới tìm được thời gian cùng ngồi trong  một gian phòng của tửu quán Phúc Sinh giữa phố Nam Bác nối liền hai cửa thành  Nam, Bắc, thương nghị chuyện phòng thủ Lương Đô. 

Những khách nhân trong quán đã quen với chuyện này, vì hai gã bình dị dễ  gần, không thích ở trong phủ tổng quản, mà chỉ ưa đến những chỗ bình dân cùng  uống rượu bát lớn, ăn miếng lớn, lúc nói chuyện cũng thường hay chửi vài câu thô lỗ. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Hiện giờ mười bốn thành trấn, hai trăm mấy  thông làng phụ cận Lương Đô, đều đã dốc hết khả năng tương trợ chúng ta, thế  nên lương thảo được nhiều hơn dự tính một ít, tạm thời có thể bớt lo được một  chút”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Trước đây Lương Đô lấy lương thực ở đâu?”. 

Khấu Trọng đáp: “Chính là từ những thôn trấn này, chỉ hận một điều là bọn  cẩu tặc Khiết Đan đó đi khắp nơi giết người phóng hoả, làm đồng ruộng tiêu điều,  chưa thể cung ứng đầy đủ như trước. Muốn mua lương thực hả? Thượng du thì  Vương Thế Sung đại chiến Lý Mật, hạ du thì lão gia và Trầm Pháp Hưng đánh Lý  Tử Thông, giao thông đường thủy đã đoạn tuyệt hết cả rồi. Hà! Lăng thiếu gia của  ta ơi, thật không ngờ ngươi cũng có ngày hôm nay, phải lo củi lo gạo cho cả mười  vạn người một lúc! Trước đây ngươi khuyên ta không nên đi tranh thiên hạ với  người ta, quả đúng là sáng suốt, sáng suốt mà!”. 

Từ Tử Lăng cả cười cũng không cười nổi, lại hỏi tiếp: “Hiện giờ lương thực  của chúng ta đủ cho bao nhiêu ngày?”. 

Khấu Trọng nói: “Theo tên tiểu tử Trần Gia Phong kia tính toán thì nếu tên  tặc chủng Vũ Văn Hóa Cốt giữ nguyên tốc độ tiến quân như thế này, ba ngày sau  sẽ đến vây thành, đoạn tuyệt mọi giao thông thủy lục, 

Dù là bọn ta có tiết kiệm hết mức, cũng chỉ chống đỡ được mười ngày. 

Từ Tử Lăng biến sắc nói: “Vậy chẳng phải hỏng bét sao, Vũ Văn Hóa Cốt là  loại sài lang hổ báo, tât sẽ thừa cơ cướp bóc khắp nơi, nên chuyện lương thực có  lẽ hắn không phải lo lắng, còn chúng ta thì lại bị khốn trong toàn cô thành này  chờ chết đói”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Hiện giờ coi như chúng ta có khoảng mấy ngàn người,  nhưng có thể phái xuất ra quần nhau với quân địch chỉ sợ không quá hai mươi  người, có thể tự lo binh khí quân trang cũng chỉ có gần ngàn người, chiến mã thì  thiếu đến mức đáng thương, tính cả ngựa già gầy yếu cũng chỉ được gần trăm con.  Người ta nói binh quý hồ tinh bất quý hồ đa, nhưng có thể gọi là tinh binh ở đây, e  là chỉ có hai tên ngốc là ta với ngươi mà thôi. Lần này không phải là hỏng bét, mà  là cực kỳ hỏng bét mới đúng”. 

Từ Tử Lăng quả quyết nói: “Thủ thành chỉ có con đường chết, chi bằng  chúng ta liều bà nó một phen, phục kích Vũ Văn Hóa Cốt trên đường, như vậy  còn hơn là ngồi đây đợi chết”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Vũ Văn Hóa Cốt hành quân chậm như vậy, lại không  đi đường thủy cho nhanh mà đi đường bộ, chính là để đề phòng chúng ta phục  kích giữa đường, thế nên kế này vạn lần không thể được. Ngươi nói xem, mấy  ngàn người xuất động như vậy, có thể thoát khỏi tai mắt của thám tử của Vũ Văn  phiệt hay không? Hiện giờ chỉ có thể chờ xem Lý Tử Thông phản ứng thế nào  thôi”. 

Lúc này một đầu lĩnh thân binh của Khấu Trọng tên Vinh Thăng chạy tới  báo cáo: “Có một người tự xưng Tuyên Vĩnh muốn gặp hai vị đại gia”. 

Hai gã cả mừng, vội vàng bảo Vinh Thắng mời Tuyên Vĩnh vào. Chỉ lát sau  Tuyên Vĩnh người đầy bụi bặm đã bước vào, ba người gặp nhau, tự nhiên là vui  mừng khôn tả. 

Khấu Trọng nói: “Tuyên huynh đến thật đúng lúc”. 

Tuyên Vĩnh cũng hân hoan nói; “Việc các vị dùng một tòa thành không và  mấy tên nạn binh đánh bại mã tặc Khiết Đan đã truyền khắp cả phương Bắc này  rồi”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Mới chưa đầy bảy, tám ngày mà, tin tức truyền đi  nhanh vậy sao?”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Phàm là chuyện xảy ra ở phụ cận Nam Bắc thủy đạo đều  được truyền đi rất nhanh, do giao thông đường thủy rất thuận tiện. Khi tại hạ biết  được tin tức Vũ Văn Hóa Cập phát binh tấn công Lương Đô, thì liền đoán ngay ra  chuyện không hay, nên đã lập tức kiêm trình tới đây”. 

Khấu Trọng đột nhiên đứng vụt người dậy, ôm quyền nói với các thực khách  trong tửu điếm: “Các vị hương thân huynh đệ, tiểu đệ có chuyện cần phải thương  lượng, các vị đại ca đại thúc có thể ăn nhanh rồi rời khỏi đây không?”. 

Chúng nhân nghe gã nói vậy, không ai là không cam tâm tình nguyện, vui  vẻ rời khỏi tửu điếm. 

Khi Khấu Trọng ngồi xuống, trong điếm chỉ còn lại mình ba người, cả chủ  quán và mấy tên tiểu nhị giúp việc cũng lánh cả xuống bếp. 

Từ Tử Lăng nói: “Tuyên huynh có biết tình hình chúng ta hiện nay thế nào  không?”. 

Tuyên Vĩnh chậm rãi đáp: “Một là thiếu lương, hai là không có binh mã, ba là  cô lập không có ngoại viện, tại hạ nói có sai không?”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Nhìn bộ dạng của huynh như đến để giải quyết ba vấn đề khó này cho chúng ta vậy, đừng có gạt ta đấy nhé”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Lương thực thì nơi đâu cũng thiếu, nên không ai có cách cả.  Có điều ba vấn đề khó này, tất cả đều do một mình Vũ Văn Hóa Cập cả, bởi vậy  chỉ cần đuổi hắn đi, tất cả vấn đề sẽ có thể giải quyết dễ dàng”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Lời này của Tuyên tổng quản rất có kiến giải,  khiến ta lập tức cảm thấy quy về một mối, tất cả chỉ còn lại một vấn đề Vũ Văn  Hóa Cốt thôi”. 

Tuyên Vĩnh ngạc nhiên: “Cái gì mà Tuyên tổng quản?”. 

Từ Tử Lăng ngồi bên cũng phải phì cười. 

Khấu Trọng nói: “Đương nhiên là đại tổng quản của Lương Đô và Bành  Thành rồi, cho dù giết được Vũ Văn Hóa Cốt, đống bừa bộn này cũng cần một  nhân vật thiên tài và đầy kinh nghiệm trong việc thủ thành và thống lĩnh ba quân  như Tuyên đại tổng quản đây quản trị. Nhân lúc này Lý Tử Thông vô lực tiến lên  phía Bắc, Lâm Sĩ Hồng, Lý Mật tự lo cho mình còn không xong, ta nhờ huynh xây  dựng đây thành một kiên thành không thể phá vỡ, cắt đoạn con đường Nam hạ  Bắc tiến. Hà hà... đây đúng là trời đã giúp ta rồi!”. 

Tuyên Vĩnh ngây người ra giây lát rồi nói: “Chuyện này phải thỉnh thị ý kiến  của tiểu thư mới được”. 

Khấu Trọng vỗ ngực nói: “Về phía đại tiểu thư để ta ứng phó, tại sao nàng ta  không đến vậy?”. 

Tuyên Vĩnh đáp: “Đồ đại thúc và tại hạ đã hiệu triệu được một số binh tướng  Ngõa Cương, nhân số ước chừng hai ngàn người, nhưng đang thiếu nơi đóng  quân. Tiểu thư nghe tin hai vị đã lấy được Lương Đô, nên lập tức ra lệnh cho tại  hạ đến đây đầu nhập, hiện ngờ tất cả đang tạm thời hạ trại ở trong khu rừng rậm  cách Lương Đô ba mươi dặm về hướng Bắc”. 

Khấu Trọng cả mừng: “Lần này được cứu rồi!”. 

o0o 

Đại quân của Vũ Văn Hóa Cập càng lúc càng đến gần, Khấu Trọng và Từ  Tử Lăng cũng càng lúc càng bận rộn với công việc chuẩn bị thủ thành. 

Sáng sớm hôm nay, hai gã cùng thúc ngựa xuất thành, kiểm tra các công sự phòng ngự xây dựng bên ngoài thành, rồi lên một đỉnh đồi có thể nhìn khắp bình  nguyên phía Bắc. 

Kênh Thông Tế cuồn cuộn chảy bên trái hai gã, nhưng không thấy một  bóng thuyền bè. 

Khấu Trọng nói như ngâm nga: “Chiến tất công thành, vì thành không chỉ là  yếu điểm chiến lực có quan hệ tới toàn cục, còn có tác dụng khống chế giao  thông và kinh tế của cả một vùng rộng lớn, là điểm mấu chốt và mệnh căn của  toàn bộ chiến cục, thực là... hắc hắc... đợi chút đã”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nhìn qua, chỉ thấy Khấu Trọng dùng thủ pháp nhanh  như điện móc quyển binh thư của Lỗ Diệu Tử để trong ngực ra, lật lật mấy trang  rồi mới tiếp tục nói: “Hắc! Thành trì là nơi binh gia tranh giành, tỷ như thành trì có  tính chiến lược lớn như là Lương Đô này vậy, ai nắm được trong tay thì sẽ khống  chế được kênh Thông Tế. Hà hà! Ta nói vậy có hơi ra vẻ một chút không?”. 

Từ Tử Lăng bật cười: “Ngươi không cần thuyết phục ta, ta cũng sẽ tận tâm  tận lực quyết đánh với Vũ Văn Hóa Cập đến cùng”. 

Khấu Trọng làm bộ nghiêm chỉnh nói: “Ta chỉ muốn mượn ngươi để luyện  tập thôi, muốn thuyết phục người khác thì phải bổ sung chất lượng cho bản thân  đã. Khi xem chương “Chiến Tất Công Thành” trong binh thư của Lỗ Diệu Tử để lại,  không hiểu vì sao mà ta lại nghĩ đến một tòa thành khác, đó có thể là một điểm  quan trọng trên con đường tranh bá đồ vương của ta. Ngươi thử đoán xem thành  trì mà ta nghĩ đến là thành trì nào vậy?”. 

Từ Tử Lăng ngước nhìn vầng thái dương mới ló dạng đằng Đông, cất giọng  đều đều hỏi: “Có phải Tương Dương không?”. 

Khấu Trọng giật mình thốt: “Làm sao mà ngươi đoán ra được thế?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Có gì khó đâu chứ, muốn tiến quân vào Lạc Dương hay  Quan Trung, phía Đông có Giang Đô, Lương Đô, phía Tây có Cảnh Lăng, Tương  Dương. Trong hai thành lớn ở phía Tây, Tương Dương có ý nghĩa chiến lược hơn,  bằng không Lý Mật cũng đâu cần đích thân đi tìm Tiền Độc Quan cho vất vả”.

Khấu Trọng gật đầu: “Nói hay lắm, ở sách “Địa Thế” của Lỗ Diệu Tử có một  chương chuyên luận về những nơi binh gia trong thiên hạ phải tranh giành, Tương  Dương cũng có tên trên kim bảng”. 

Từ Tử Lăng hỏi: “Lỗ tiên sinh nói thế nào?”. 

Khấu Trọng đọc liền một mạch như đếm đồ gia bảo trong nhà: “Tương  Dương phía Tây tiếp giáp Ba Thục, phía Nam khống chế Tương Sở, phía Bắc nối liền Hà Lạc, vì thế mỗi khi có chiến sự, đều khói lửa liên miên. Thời Tam Quốc,  Nguỵ, Thục, Ngô đều muốn giành lấy thành này, Quan Vũ cũng chết ở nơi đây.  Về sau, Tây Tấn phạt Ngô, Đông Tấn Bắc phạt, đều lấy Tương Dương làm cơ địa.  Vì vậy kết luận của Lỗ tiên sinh là lục triều có thể giữ được Giang Tả, tất cả đều  nhờ có cường binh trấn ở giữa Hoài Nam và Kinh Dương”. 

Từ Tử Lăng không khỏi nhớ đến câu tán thưởng của Chúc Ngọc Nghiên  dành cho Lỗ Diệu Tử. Luận điểm của lão đối với thành Tương Dương, quả thật vô  cùng đặc sắc và có kiến giải. 

Tương Dương tuy không phải là thành lớn như Lạc Dương, nhưng vì nó nằm  ở trung du Hán Thủy, là chỗ xung yếu của giao thông bốn tỉnh Ngạc, Dự, Xuyên,  Thiểm. Nếu muốn từ Trung Nguyên Nam hạ, hoặc từ Quan Trung tiến vào đồng  bằng Giang Hán, đều không thể không lấy Tương Dương trước. 

Khấu Trọng chí tại Tương Dương, thực ra là ngầm có ý sau này sẽ quyết  chiến với Lý Thế Dân. Dù là Lý Thế Dân có công hạ được Lạc Dương, vẫn còn  phải thông qua cửa ải Tương Dương này mới xong. 

Bất luận là Tương Dương hay Lương Đô, đều không phải trung tâm kinh tế  chính trị, nhưng về chiến lược thì lại có ảnh hưởng tới thành bại của toàn cục. 

Từ Tử Lăng nói: “Muốn lấy Tương Dương, trước tiên phải lấy Cảnh Lăng đã,  đó không phải chuyện dễ đâu”. 

Khấu Trọng vui vẻ nói: “Điểm hấp dẫn nhất của trò chơi tranh bá này chính  là cực kỳ khó khăn mà”. 

Từ Tử Lăng tỏ vẻ không vui nói: “Lẽ nào ngươi coi chuyện công hạ thành trì  tàn khốc đó là một trò chơi sao?”. 

Khấu Trọng cười khổ: “Đừng trở mặt nói nghiêm trọng như vậy được không?  Coi như ta cầu xin ngươi đi! Đối với ta mà nói, sinh mệnh cũng chỉ là một trò chơi  mà thôi. Trách nhiệm của ta chính là phải tìm cách làm cho trò chơi này càng có ý  nghĩa và hứng thú. Đây đơn thuần chỉ là cách nhìn từ một góc độ siêu nhiên mà  thôi, cũng giống như Sư Phi Huyên cho rằng tất của mọi thứ của nhân gian đều là  hư ảo và không có ý nghĩa vĩnh hằng gì hết vậy”. 

Gã ngưng lại một chút rồi lại hưng phấn nói tiếp: “Lăng thiếu gia ngươi thử  nghĩ mà xem, ở trên vùng đất Trung Nguyên rộng lớn này của chúng ta, có vô số  thành thị lớn nhỏ khác nhau, do vị trí địa lý khác nhau mà có tính quan trọng và ý  nghĩa khác nhau, thật không khác gì một bàn cờ cả, còn người và quân đội chính  là những quân cờ. Như vậy, chiến tranh chẳng phải là một trò chơi còn gì? Tất cả các trận chiến, đều lấy phá thành và thủ thành để làm trung tâm cả, vậy không  giống như đang chơi cờ hay sao?”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm một lúc rồi gật đầu: “Nhận định của ngươi đối với  việc tranh thiên hạ đã sâu sắc hơn trước đây rất nhiều”. 

Khấu Trọng quay đầu lại nhìn về phía Lương Đô, thở dài một tiếng nói: “Ta  đã mất đi Cảnh Lăng, giờ không thể mất thêm Lương Đô nữa! Nếu như lương thảo  chúng ta đầy đủ, thì sẽ có thể cố thủ trong thành, giữ chân địch nhân bên ngoài  đến khi lương thảo cạn kiệt, mới nhất cử tiêu diệt bằng sạch. Nhưng hiện giờ  đương nhiên là không thể dùng sách lược này, thế nên chỉ có thể dùng kế, lợi  dụng nhược điểm không dám kéo dài trận chiến của Vũ Văn Hóa Cốt để đánh bại  hắn”. 

Từ Tử Lăng khẽ lắc đầu: “Đến giờ thì ai ai cũng đã biết Lương Đô đang thiếu  thốn lương thực, Vũ Văn Hóa Cốt cố ý hành quân thật chậm, chính là muốn dồn  dân ở các thôn trấn xung quanh về cả Lương Đô, khiến lương thực của chúng ta  đã thiếu nay lại càng thiếu hơn. Nhiều thì không nói, nhưng nhẫn nại tám ngày,  mười ngày thì chắc hắn sẽ làm được”. 

Khấu Trọng vỗ đùi reo lên: “Ngươi nói đúng lắm! Vì vậy kế đầu tiên phải lừa  gạt, không chỉ lừa Vũ Văn Hóa Cốt, mà còn phải lừa cả quân dân toàn thành nữa”. 

Từ Tử Lăng động dung nói: “Đằng nào cũng đã lừa bịp rồi, chi bằng nói luôn  là Lý Tử Thông chẳng những chịu cho mượn lương, còn đồng ý cho mượn quân  nữa. Trong mười ngày quân tiếp viện và lương thảo sẽ đến Lương Đô, chỉ cần tin  tức này lọt vào tai Vũ Văn Hóa Cốt, đảm bảo hắn sẽ lập tức hành quân, đồng thời  nông nóng công thành, đó chính là cơ hội cho chúng ta lợi dụng”. 

Khấu Trọng kẹp chân vào hông ngựa, ngoảnh đầu lại nói: “Chúng ta lập tức  phái người đi chặn đường Nhậm Mi Mi đang ở phía Bắc trở về. Tin tức này nên để  nàng ta truyền đi là tốt nhất”. 

o0o 

Hoàng hôn ngày hôm ấy, Nhậm Mi Mi ngồi thuyền trở về Lương Đô, trên  thuyền còn có hơn mười xe lương thảo, nói là đợt lương thực đầu tiên mượn được  sau khi kết liên minh với Lý Tử Thông.

Trên đường về phủ tổng quản, một xe còn “vô tình” bị đổ, làm gạo mì bên trong đổ cả ra đường. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đích thân ra cửa thành nghênh tiếp, hộ tống hai  bên tả hữu đưa vị “công thần” vào thành. Trong thành người dân đứng chật cả hai  bên đường để hoan hô, thậm chí còn có người còn thắp nhang khấn bái, hô vang  vạn tuế. 

Sau khi vào đến phủ tổng quản, gương mặt tươi cười như hoa của Nhậm Mi  Mi lập tức trở nên lạnh lùng như gỗâ đá, nghiến răng kèn kẹt nói: “Tên cẩu tạp  chủng Lý Tử Thông này đáng bị Đỗ Phục Uy tiêu diệt lắm, chẳng những không  chịu giúp đỡ chúng ta, lại còn ném đá xuống giếng, cắt đoạn đường thủy xuống  hạ du, lại còn nói những lời bỉ ổi không thể nào chịu được, thật là tức chết đi thôi!”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Nhậm đại tỷ cần gì phải tính toán với hạng tiểu  nhân ấy chứ, đợi chúng ta thu thập tên tặc nhân Vũ Văn Hóa Cập rồi, rồi xử trí  hắn cũng không muộn”. Nói đoạn gã quay sang bảo Từ Tử Lăng: “Màn kịch vừa  rồi đủ chân thực chưa?”. 

Từ Tử Lăng hài lòng nói: “Nếu không phải ta đã biết nội tình, nhất định cũng  sẽ bị gạt đó”. 

Ba người vào đại sảnh đường ngồi xuống. 

Nhậm Mi Mi vẫn còn chưa hết tức giận, lớn tiếng mắng: “Tên cẩu tạp chủng  đó không những kiêu ngạo tự đại, bắt ta chờ không ba ngày, cuối cùng chỉ phái  một tên thái giám ra bảo với ta là hắn không rảnh, muốn gặp thì phải đợi thêm  mười ngày nữa. Thử hỏi vậy có tức không?”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không phải vừa rồi Nhậm đại tỷ có kể hắn ăn  nói rất khó nghe hay sao? Không gặp được hắn, đại tỷ làm sao nghe được hắn  nói gì chứ?”. 

Nhậm Mi Mi trợn tròn mắt lên nói: “Tuy ta không gặp hắn, nhưng tên thái  giám kia chuyển lời thay, nói nếu ta chịu bồi tiếp hắn, thì năm ngày sau có thể  triệu ta vào cung hầu hạ”. 

Song mục Khấu Trọng thoáng hiện sát cơ, thần tình lại trầm tĩnh một cách  bất ngờ, chỉ gật đầu chậm rãi nói: “Lý Tử Thông cố ý làm nhục chúng ta. Được  lắm! Hắn đã muốn ném đá xuống giếng, vậy thì đừng trách ta lạt thủ vô tình”. 

Từ Tử Lăng im lặng không nói gì. 

Kế đó Nhậm Mi Mi lại đem tình thế Giang Đô thuật lại tận tường cho hai gã  nghe, sau đó nói: “Giờ Đỗ Phục Uy đang đóng quân ở phía Đông Đơn Dương,  cách Giang Đô chỉ hai mươi dặm, cùng hô ứng với đại quân đóng ở phía Bắc Tỳ Lăng của Trầm Luân, nhi tử của Trầm Pháp Hưng, trước sau đã ba lần tấn công  Giang Đô, song phương đều có tử thương, nhưng Lý Tử Thông đã rơi vào thế hạ  phong rõ rệt. Tỳ Lăng vốn là của Lý Tử Thông, tháng trước mới bị Trầm Luân  công hãm, làm Lý Tử Thông mất hết những quận huyện phía Nam Giang Đô”. 

Khấu Trọng hỏi: “Vậy trong tay Lý Tử Thông còn gì mà dám coi thường  chúng ta như vậy?”. 

Nhậm Mi Mi đáp: “Không ngoài hơn mười thành quận ở phía Bắc Giang Đô,  trong đó Đông Hải Quận ở ven biển Đông Bắc và Chung Li Quận ở Hoài Thủy là  quan trọng nhất. Đông Hải Quận là quê nhà đồng thời cũng là căn cứ địa phòng  thủ của tên cẩu tạp trủng, Chung Li Quận là đầu mối giao thông quan trọng nối  liền đường giao thông vào lục địa của hắn. Bất cứ nơi nào trong hai nơi này mà bị  công hãm, đều sẽ giáng một đòn trí mạng vào y”. 

Khấu Trọng cười lên ha hả nói: “Ta còn tưởng rằng hắn đao thương bất nhập,  không có sơ hở và nhược điểm gì chứ? Thì ra là vậy, để sau chuyện này chúng ta  sẽ tìm hắn tính sổ. Lần này vất vả cho Nhậm đại tỷ rồi! Mời vào nội đường nghỉ  ngơi cho lại sức”. 

Sau khi Nhậm Mi Mi đi, Khấu Trọng mới chau mày nói: “Ngươi có thấy  chuyện này kỳ quái không? Ta còn tưởng rằng do quan hệ với Tống Kim Cương,  chúng ta lại giúp hắn kềm chế Vũ Văn Hóa Cập, tên tiểu tử tử Lý Tử Thông đó  phải cảm kích đến rơi lệ mới đúng, không ngờ y lại đối đãi với sứ tiết của chúng ta  bất nhã như vậy”. 

Từ Tử Lăng nói: “Với hắn thì có chuyện gì lợi hơn là chúng ta với Vũ Văn  Hóa Cốt đánh nhau đến lưỡng bại câu thương đâu? Lúc ấy hắn chỉ cần phái ra  vài ngàn binh tướng là coi như đã nắm được Lương Đô trong tay rồi”. 

Khấu Trọng trầm tư suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói: “Theo ta thì sự tình  không đơn giản như vậy đâu, hiện giờ chuyện hắn lo nhất vẫn là làm sao giải  quyết được vấn đề Giang Đô bị vây hãm, vì vậy bất cứ hành động nào cũng phải  đạt đến mục đích quân sự trước. Thử nghĩ mà xem, giả như Vũ Văn Hóa Cốt đoạt  được Lương Đô, đối với hắn có lợi gì chứ?”. 

Từ Tử Lăng động dung kêu lên: “Ta hiểu rồi, hắn muốn dồn quân đội đóng ở  mấy thành trì phía Bắc Giang Đô để ứng phó với liên quân của lão gia và Trầm  Pháp Hưng, còn Vũ Văn Hóa Cốt thì vì bị Đậu Kiến Đức uy hiếp, căn bản không  có khả năng mở rộng xâm lược. Lúc ấy chỉ cần hắn đẩy lui được lão gia và Trầm  Luân thì có thể đi đường sông lên phía Bắc, đoạt lại Lương Đô trong tay Vũ Văn  Hóa Cốt”. 

Khấu Trọng nở ra một nụ cười nói: “Nhất định là như vậy, vì thế hắn mới  muốn chúng ta lưỡng bại câu thương, càng thương càng tốt! Cái này có phải  người nghèo chí không nghèo không? Hay phải gọi là chết đến nơi rồi mà vẫn  còn tham hả?”. 

Từ Tử Lăng cười cười: “Không phải ngươi cũng vậy sao?”. 

Khấu Trọng đứng phắt dậy, hiên ngang nói: “Ta làm sao giống hắn chứ?  Thắng lợi đã nằm trong tay ta rồi. Chuyện cần làm bây giờ là mài Tỉnh Trung  Nguyệt cho sắc để chặt cái đầu chó của Vũ Văn Hóa Cốt xuống, đem đến trước  mộ phần của mẹ. Bao nhiêu năm nay, không phải chúng ta chỉ đợi có ngày này  thôi sao?”.

  Cỡ chữ 16  Cỡ chữ 18  Cỡ chữ 20  Cỡ chữ 22  Cỡ chữ 24 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 230

Đàm Tiếu Dụng Binh

Quả nhiên không ngoài sở liệu của hai gã, sau khi tin tức kết minh với  Lý Tử Thông truyền ra ngoài, hai vạn đại quân của Vũ Văn Hóa Cập  lập tức tăng tốc độ hành quân, nhắm thẳng thành môn phía Bắc của  Lương Đô tiến tới. Hai ngày sau, quân tiên phong đã chỉ còn cách  thành năm dặm, đào hào đắp lũy lập trại, xây dựng trận địa tiền tiêu. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ẩn mình trên ngọn cây sam cao ba trượng mọc  trên đỉnh một ngọn đồi phía xa xa, quan sát tình hình quân địch, không bỏ sót một  chi tiết nhỏ nào. 

Khấu Trọng nói: “Dừng thì lập doanh, đi thì lập trận. Doanh trại này vừa có  nguồn nước, lại có thể cố thủ, tấn công và phòng thủ đều rất tiện lơi, có thể thấy  đối thủ lần này của chúng ta, tức là đám tướng lĩnh lớn nhỏ dưới trướng Vũ Văn  Hóa Cập đó, đều là những chiến tướng dạn dày kinh nghiệm, tuyệt đối không thể  xem thường được”. 

Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý, nhìn bề ngoài Khấu Trọng có vẻ là kẻ thô lỗ sơ  tâm, dễ đắc ý quên hết mọi sự, song sự thực thì lại hết sức bình tĩnh, thâm trầm  cẩn thận, không bao giờ chủ quan khinh địch. 

Đặt doanh trại đầu tiên là phải xem địa thế. Hiện giờ địch nhân đã lập trại  trên dốc cao, lại gần rừng cây rậm, phòng thủ vô cùng cẩn mật, rõ ràng không  phải hạng ô hợp, Khấu Trọng không dám khinh thị, đây chính là một điều kiện cơ  bản cần phải có của một bậc thống soái.

Kế đó gã lại thuận miệng hỏi tiếp: “Trong bí kíp của Lỗ tiên sinh có chỉ thị gì  về chuyện này không?”. 

Khấu Trọng đáp: “Lập trại chi yếu, trước tiên phải đặt trại để người và súc  vật nghỉ ngơi, cẩn thận đào hào đắp luỹ, nghiêm thủ cửa trại, chăm sóc quân binh  bị bệnh, kiểm tra vũ khí, chuẩn bị đài lửa cảnh báo, đặt hiệu lệnh ban đêm, sắp  đặt đèn đuốc, phòng mưa gió, xây dựng ám doanh, ngăn ngừa kẻ đến xâm  phạm... đã đủ chưa hả?”. 

Từ Tử Lăng nghe gã đọc ra một loạt những điều cần chú ý khi lập doanh trại,  liền ngạc nhiên thốt: “Ngươi học thuộc cả cuốn binh thư đó đấy hả?”. 

Khấu Trọng đắc ý nói: “Cái này gọi là cần cù có công hay là bổ sung trước khi lâm trận cũng được, tùy ngươi thôi. Nhưng mà ngươi có cảm thấy doanh trại  này đặt hơi xa không, nếu kéo các công cụ công thành đến sát tường thành, e  rằng chưa đến nơi thì lừa ngựa đã mệt chết rồi, thật không thực tế chút nào”. 

Từ Tử Lăng vừa cẩn thận quan sát vừa cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi  bắt đầu có chút đạo hành rồi đó! Vũ Văn phiệt nhiều đời làm tướng, đặt doanh  trại thế này ắt hẳn có đạo lý của bọn chúng. Có lẽ là để làm nơi trữ lương và  chăm sóc thương bệnh binh chăng? Ngoài ra còn có thể làm hậu phương chi viện  cho doanh trại tác chiến nơi tiền tuyến nữa”. 

Khấu Trọng vui vẻ nói: “Quả là anh hùng sở kiến lược đồng. Nơi này có thể  nói là căn bản của đại quân Vũ Văn Hóa Cập trong lần Nam chinh này, nhưng vì  đặt ở tận xa, nên sau khi vây thành chắc chắn chúng sẽ không ngờ bọn ta dám  xuất thành tập kích, vì vậy mà phòng thủ tất nhiên sẽ lỏng lẻo. Chỉ cần chúng ta  phối hợp thật tốt với kỳ binh của Tuyên Vĩnh, đánh cho bọn chúng trở tay không  kịp, thắng lợi ít nhất đã có nửa phần nắm chắc trong tay rồi. Hà hà! Trận này xem  ra cũng không khó lắm đâu!”. 

Từ Tử Lăng vận công vào song mục, cẩn thận quan sát tình hình trại địch  thêm lần nữa rồi trầm giọng nói: “Ngươi nghĩ quá dễ dàng rồi, doanh trại này dựa  vào núi, bên ngoài có hào bên trong có lũy, chỉ cần bố trí thêm một số hố chông  và bẫy, đắp đất lập rào, rồi cho người dùng cung nỏ canh phòng ngày đêm, cảnh  giới bốn phía, lại đặt các chòi canh kín, lại còn cả đám cao thủ dưới trướng Vũ  Văn Hóa Cốt nữa, ngươi nói đột kích là đột kích được ngay sao?”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Hình như ngươi quên mất Lỗ Diệu Tử lão nhân  gia của chúng ta lợi hại nhất không phải là binh pháp mà là các công cụ tinh xảo.  Trong binh thư, lão đã liệt ra hơn mười phương pháp phá trại khác nhau, nói công  trại cũng như công thành. Công thành phải dùng thang mây, lôi mộc, xe ngăn tên.  Công trại cũng phải dùng xe, chỉ cần có thể phá được một hai lỗ hổng, binh lực  của địch nhân lại không quá mạnh, thì phá trại thực dễ như trở bàn tay vậy”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Xe ở đâu ra?”. 

Khấu Trọng đáp: “Cải trang rồi vận chuyển đến, chuyện này sẽ do Tuyên  Vĩnh phụ trách. Tiểu đệ giờ đã được chân truyền của Lỗ Diệu Tử, ít nhất cũng  bằng một nửa Tôn Vũ phục sinh. Vũ Văn Hóa Cốt tự dẫn xác tới đây, ta không  thuận tay dắt dê, trộm lương trộm ngựa làm hắn tức ói máu thì làm sao xứng với  linh hồn mẹ trên trời được? Yên tâm đi! Ta hiểu hiếu tâm của ngươi mà!”. 

Từ Tử Lăng nghe gã nói mà cũng phải bật cười, đồng thời cũng thầm lo lắng  thay cho những kẻ đối địch với gã. 

Bản thân Khấu Trọng vốn đã là một kỳ tài quân sự, đã biểu lộ tài năng trong  nhiều trận đại chiến, hiện giờ cả những công cụ chiến tranh mà Lỗ Diệu Tử dựa  vào các loại địa thế, hình thế khác nhau thiết kế ra gã cũng thuộc lòng như cháo,  nếu để gã luyện được một đạo quân tinh nhuệ, thiên hạ này liệu còn ai có thể đối  kháng được? E rằng ngay cả Lý Thế Dân cũng phải nếm mùi thất bại trước gã  mất thôi. Hiện giờ Khấu Trọng chỉ thiếu có một đạo quân tinh nhuệ dũng mãnh và  Dương Công Bảo Khố. 

Chỉ nghe gã nói tiếp: “Có điều việc cần nhất bây giờ không phải là công trại,  mà là trộm tên. Ngươi cũng biết số tên trong thành của chúng ta không đủ bắn  trong nửa canh giờ mà. Lúc ấy chỉ dùng dầu nóng, nước sôi và đá thì không giữ  được bao lâu đâu”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Trộm tên thế nào được?”. 

Khấu Trọng cười hì hì: “Không phải trộm, mà là mượn. Ta chỉ diễn lại kế  mượn tên năm xưa của Khổng Minh tiên sinh thôi, chúng ta tặng bọn chúng tên  giả, bọn chúng trả ta tên thật, như vậy không phải quá hời sao?”. 

Kế đó gã lại chỉ tay vào dòng kênh Thông Tế chảy qua bên dưới: “Thám tử  hồi báo, đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cốt đêm nay sẽ tới đây, ta đã sai  người ngầm đặt hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy người giả ở bờ đối diện, khi  đại quân của hắn đến, sẽ thả cho thuyền trôi theo dòng nước, một người điều  khiển, hai người bắn tên trúc, ngoài ra còn phái thêm binh mã giả vờ tiến công,  Vũ Văn Hóa Cốt trong lúc tâm hoảng ý loạn, chỉ đành tặng tên cho chúng ta sử  dụng thôi, coi như là món điểm tâm trước bữa ăn đi”. 

Từ Tử Lăng thở dài: “Giờ thì cả ta cũng tin ngươi sẽ thắng trận này rồi!”. 

o0o 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng sánh vai ngồi trên lưng ngựa trên một ngọn  đồi nhỏ, dõi mắt nhìn những điểm sáng đang di động trong thảo nguyên sát cạnh  kênh Thông Tế. 

Khấu Trọng cười khì khì nói: “Ta nói không sai mà, để giảm bớt khả năng bị  đột kích, Vũ Văn Hóa Cốt sẽ hành quân sát bờ sông, hắn đâu ngờ lại lại trúng ý  của ta chứ”. 

Từ Tử Lăng ngước mắt nhìn bầu trời đêm tối om không trăng sao: “Kế giả liên minh, giả lương thực của ngươi rõ ràng đã có hiệu quả, nếu không Vũ Văn  Hóa Cốt làm sao nôn nóng đến độ hành quân cả trong đêm để chúng ta có cơ hội  lợi dụng thế này”. 

Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Đến lúc rồi”. 

Nói dứt lời liền vẫy tay một cái, hỏa pháo bắn vọt lên trời, nổ ra một đoá hoa  lớn, đốt sáng cả tầng mây u ám. 

Bên phía Lương Đô vang lên tiếng hò hét ầm trời, ánh đuốc sáng rực lao về  phía quân địch, nhìn bề ngoài thì khí thế hung hăng, kỳ thực chỉ là những dân binh  không có giáp trụ hay cung tên, hai tay cầm hai ngọn đuốc hư trương diễn trò mà  thôi. Thoạt nhìn thì giống như có gần vạn người từ vùng núi phụ cận phía Bắc  Lương Đô đang ồ ạt triển khai tấn công vậy. 

Từ phía sau Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có gần hai trăm kỵ sĩ phóng ra, toàn  bộ đều là những võ sĩ có kỵ thuật và võ công cao nhất trong Bành Lương Hội,  dùng hết chiến mã trong thành Lương Đô để tổ chức thành đội kỵ binh duy nhất. 

Phía cuối đoàn quân địch đã bắt đầu hỗn loạn, nhưng ở đầu và giữa vẫn  nghiêm chỉnh lề lối. 

Khấu Trọng cười cười nói với Từ Tử Lăng: “Chiêu này ngay cả Linh Lung  Kiều cũng chưa dạy đâu, cái này gọi là nhìn lửa đoán quân tình, có thể thấy năm  ngàn quân này là có cả tân binh lẫn cựu binh, tốt xấu lẫn lộn, đám ở cuối có lẽ là  tân binh mới chiêu nạp, chúng ta cứ đột kích ở đây, đảm bảo có thể chiếm được  tiện nghi”. 

Con hỏa long được tạo bằng ánh đuốc sau khi tản ra liền dừng lại, rõ ràng là  địch nhân đang chuẩn bị bố trận nghênh chiến. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thúc ngựa phóng lên, dẫn theo hai trăm ba mươi  bảy kỵ binh phóng theo lộ tuyến đã định, xuyên rừng vòng ra phía sau địch nhân. 

“Bùng!”. 

Một đoá hoa lửa nữa nổ ra trên bầu trời đêm. 

Tiếng hò hét lại vang lên bên bờ kênh, hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy  người rơm được thả trôi theo dòng nước, mấy trăm mũi tên trúc rạch nát bầu trời  rồi rải xuống đầu địch nhân đang bố trận bên bờ sông. 

Những chiến sĩ thật trên thuyền đều nấp sau những tấm ván dày, để mặc  những người rơm mặc y phục hứng lấy làn mưa tên của quân địch. Những bụi cây  ven bờ sông bắt đầu bốc lửa, địch nhân tưởng rằng trước sau đều có địch, lập tức rối loạn đội hình, đặc biệt là phía hậu quân. 

Khấu Trọng vung tay hạ lệnh, hữu thủ cầm thuẫn bài, thúc ngựa toàn lực  xông vào hậu quân của địch nhân. 

Hai gã chuyển sang dùng trường qua để tận dụng hết ưu thế của mã chiến,  lao qua khu rừng trước mặt, tấn công trận địch. 

Dọc bờ sông phừng phừng lửa cháy, thuyền nhẹ đi tới đâu, lửa cháy phừng  phừng tới đó, thanh thế kinh người. 

Hai cây trường qua của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng như song long xuất hải,  đâm ngang chém dọc, tới đâu là địch nhân ngã nhào tới đó. 

Đội quân này của Vũ Văn Hóa Cập toàn bộ đều là bộ binh, phụ trách vận  chuyển quân nhu lương thảo, từ sớm đã bị đạo quân hư trương thanh thế kia làm  cho kinh hãi, lúc này lại thấy kỵ binh của Khấu Trọng xông tới, khí thế như núi đổ,  đồng thời cũng đoán ra hai kẻ dẫn đầu chính là Khấu Trọng và Từ Tử Lăng danh  chấn thiên hạ, nhất thời đều hồn phi phách tán, không ngờ được đối phương chỉ  có hơn hai trăm người, không chiến mà bại, bỏ chạy tứ tán. 

Chúng nhân cả mừng, dưới sự chỉ thị của Khấu Trọng đánh đuổi quân địch,  châm lửa đốt xe lương. 

Tiếng vó ngựa vang lên sầm sập, mấy trăm kỵ binh của quân địch dọc theo  bờ sông phóng tới. 

Khấu Trọng liếc qua, thấy kẻ dẫn đầu chính là lão bằng hữu Vũ Văn Vô  Địch, bèn cười ha hả nói: “Vô Địch huynh vẫn khoẻ chứ!”. 

Kế đó liền ra lệnh cho thủ hạ, mau chóng quay về Lương Đô. 

Trận chiến này chẳng những đã mượn được mấy vạn mũi tên của Vũ Văn  quân, mà còn đốt được rất nhiều công cụ công thành và lương thảo của chúng,  quan trọng nhất là đã làm sĩ khí của quân dân trong thành dâng cao ngút trời,  tăng thêm lòng tin của họ với hai gã, còn tổn thất của phía mình thì cơ hồ như  không có. 

Cả hai gã đều không ngờ lại có được chiến quả huy hoàng đến vậy, khi vào  thành, Nhậm Mi Mi dẫn quân dân đứng hai bên đường hoan hô vang dội cả một  góc thành, thề cùng hai gã đồng sinh cộng tử. 

Đối với hành động cướp bóc sát nhân của Vũ Văn quân ngày đó, ai mà  không nghiến răng kèn kẹt vì thống hận. 

o0o 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đứng trên tường thành phía Bắc, dõi mắt quan  sát doanh trại của quân Vũ Văn mới dựng nên. 

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Ít nhất phải hai ngày nữa Vũ Văn Hóa Cốt mới  hoàn thành việc đào hào đắp luỹ. Hai ngày này, chúng ta có thể làm được rất  nhiều chuyện”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Đầu tiên là phải cướp lương, đêm qua chúng ta đã  đốt mất một lượng lớn lương thảo của đạo quân tiên phong của Vũ Văn Vô Địch.  Nhất định hắn phải bổ sung lương thảo từ hậu doanh, đó chính là thời cơ tốt nhất  cho chúng ta dùng khinh kỵ cướp lương đó”. Kế đó gã lại thở dài: “Nếu có một đội  hắc giáp tinh kỵ như Lý tiểu tử thì thật là lý tưởng”. 

Từ Tử Lăng chợt động tâm nói: “Ngươi còn nhớ những kỵ binh của triều Tùy  mà chúng ta đã nhìn thấy khi ở Dương Châu không? Trang bị nặng nề đến mức  cả ngựa cũng có vẻ đao thương bất nhập, thần khí uy võ phi thường, tại sao lại bị  nghĩa quân không có khôi giáp, vũ khí thiếu thốn đánh cho tơi bời hoa lá, mới  nghe phong thanh đã kinh hồn bạt vía bỏ chạy vậy?”. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Có lẽ là vì mất đi lòng dân, nên sĩ khí giảm sút”. 

Từ Tử Lăng nói: “Đây đương nhiên là nguyên nhân chủ yếu, nhưng cũng có  thể nhận ra rằng nhân mã mặc giáo trụ nặng nề đã không còn hợp thời nữa. Giả  như ngươi có một đạo quân như vậy, làm sao có thể kịp thời đi cướp lương ngay  sau khi nhận được tin báo chứ? Hiện giờ chủ yếu là dùng bộ binh triển khai trận  thế trên những vùng rộng lớn, chỉ có khinh kỵ đột kích mới phối hợp được mà thôi.  Chiến thuật này vô cùng linh hoạt, Lý tiểu tử chính là đã phát huy phương thứ tác  chiến này tới mức cao nhất đó”. 

Khấu Trọng nói: “Không biết có phải do tính cách hay không, mà ta chỉ thích  phương thức tác chiến dùng khinh kỵ làm chủ quân, bởi vì kỵ binh bất cứ lúc nào  cũng có thể trở thành bộ binh, còn bộ binh thì không thể trở thành kỵ binh được,  về mặt linh hoạt đã hơn một bậc rồi”. 

Từ Tử Lăng cười cười: “Ngươi còn chưa quên dư vị của trận chiến ở Yển Sư  phải không? Có điều lời này cũng không phải là không có lý đâu”. 

Khấu Trọng vươn vai lười nhác nói: “Ngươi đoán xem sau khi thu thập Vũ  Văn Hóa Cốt, ta sẽ làm gì?”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu tỏ ý không biết. 

Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực lên đầy vẻ tự tin và hi vọng: “Ta sẽ tìm  cách chiêu mộ công tượng, ngày đêm không ngừng làm ra những công cụ công thành mà Lỗ Diệu Tử đã thiết kế, rồi tiến công đoạt lại Cảnh Lăng, lúc đó thì  muốn lấy Tương Dương cũng dễ như trở bàn tay”. 

Từ Tử Lăng còn chưa kịp phản ứng thì Nhậm Mi Mi đã dẫn theo một hán tử  gầy gò, mặt mũi phong trần, tuổi tác ước chừng ngoài ba mươi tuổi đến trước mặt  hai gã: “Đây là Nhân Đường hương chủ Lạc Kỳ Phi, ngoại hiệu Quỷ Ảnh Tử, y  luôn theo dõi đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cập, dọc đường quan sát thực hư  của địch nhân, thế nên bây giờ mới tới đây”. 

Hai gã nhìn qua, thấy người này tướng mạo bình thường, chỉ giống như một  hán tử nông thôn, nhưng tay chân đặc biệt dài, hai mắt sáng rực hữu thần, rõ  ràng là đầu tóc và thân thủ đều vô cùng mẫn tiệp. 

Khấu Trọng hỏi: “Quân chủ lực của chúng đã đến rồi à?”. 

Lạc Kỳ Phi thẳng người hành lễ rồi mới nói: “Chắc sẽ đến vào lúc hoàng  hôn, toàn quân tổng cộng một vạn ba ngàn người, do Vũ Văn Hóa Cập và Vũ  Văn Trí Cập dẫn đầu, chia làm bốn cánh quân, trung, tả, hữu, hậu. Trong đó ba  ngàn người là cung thủ, kỵ binh có một ngàn, còn đâu đều là bộ binh”. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc động dung, không phải vì thực lực lớn  mạnh của quân Vũ Văn, mà là vì sự tự tin của người này khi nói chuyện và mức  độ tỉ mỉ rõ ràng của tin tức. 

Lạc Kỳ Phi lại nói tiếp: “Vũ Văn quân rõ ràng đã tổn thất cực kỳ nặng nề  sau trận chiến với Lý Mật, từ việc kỵ binh của chúng dùng trường cung chứ không  phải giác cung là có thể nhận ra điểm này”. 

Hai gã hoang mang nhìn nhau. 

Nhậm Mi Mi liền lên tiếng giải thích: “Kỳ Phi trước đây từng là tướng quân  của cựu triều, chuyên phụ trách trang bị trong quân đội, vì vậy rất hiểu biết về  mặt này”. 

Lạc Kỳ Phi cũng gật đầu nói tiếp: “Trường cung là để cho bộ binh dùng, đa  phần đều làm bằng gỗ dâu. Kỵ binh thường dùng cung phức hợp làm bằng gân  và sừng, hình thể nhỏ hơn trường trung, rất tiện sử dụng trên lưng ngựa. Kỵ binh  của quân Vũ Văn phải dùng trường cung, chắc là vì thiếu giác cung nên bất tắc dĩ  mới phải dùng tạm để thay thế”. 

Khấu Trọng tán thưởng: “Thám tử có kiến thức như Lạc huynh đây, có lẽ  thiên hạ này cũng chẳng có mấy người”. 

Nhậm Mi Mi cười cười nói: “Kỳ Phi không chỉ có khinh công cao cường, còn  tinh thông cả thuật dị dung cải trang, làm thám tử đương nhiên phải xuất sắc hơn người khác rồi”. 

Lạc Kỳ Phi nói: “Hai vị đại gia xin đừng gọi tiểu nhân là Lạc huynh nữa, cứ  gọi Kỳ Phi là được rồi, sau này Kỳ Phi sẽ bất kể sinh tử, ra sức vì hai vị đại gia.  Hai vị có gì phân phó, chỉ cần nói một câu là đủ rồi”. 

Từ Tử Lăng hỏi: “Vậy theo ý Kỳ Phi huynh, thực lực chân chính của quân Vũ  Văn ra sao?”.

Lạc Kỳ Phi đáp: “Ngoại trừ trung quân ra, toàn bộ đều là tân binh chưa được  huấn luyện. Nếu tiểu nhân đoán không lầm, sáng sớm ngày mai bọn chúng sẽ  bắt đầu công thành”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Gấp vậy sao?”. 

Lạc Kỳ Phi đáp: “Bởi vì từ tối hôm trước, mỗi lần dừng lại hạ trại nghỉ ngơi là  chúng đều luân phiên tu sửa các công cụ công thành, nếu không phải muốn lập  tức tấn công, sao Vũ Văn Hóa Cập lại không để binh sĩ nghỉ ngơi, đợi đến khi tới  gần chân thành mới động thủ cũng đâu có muộn?”. 

Nhậm Mi Mi liền hỏi: “Các công cụ của chúng có đầy đủ không?”. 

Lạc Kỳ Phi gật đầu: “Có thể coi là đầy đủ, hai mươi chiếc thang mây, trăm  cỗ xe ném đá, xe bắn nỏ vài chục, xe ngăn tên cũng có hơn bảy mươi chiếc, thừa  đủ để công thành”. 

Khấu Trọng gằn giọng nói: “Nếu Vũ Văn Hóa Cốt công thành trước lúc bình  minh, vậy thì đêm nay Vũ Văn Vô Địch sẽ giả bộ tấn công, để làm dao động lòng  quân chúng ta, đồng thời cũng khiến quân ta mệt mỏi nữa, hừ!”. 

Từ Tử Lăng nói: “Có thể nói rõ thêm về trang bị công thành của bọn chúng  không?”. 

Lạc Kỳ Phi đọc liền một mạch như tụng kinh: “Xe thang mây là thang dài hai  thân đặt trên xe sáu bánh, hai đầu thang có ròng rọc, có thể đưa địch nhân lên  trên quá tường thành. Xe ném đá là một cỗ máy bắn đá lớn đặt trên bốn bánh xe,  dùng đòn bẩy để hất tung tảng đá lớn lên cao, phá hủy tường thành. Xe bắn nỏ  thì dùng xe tời kéo một cây nỏ lớn, liền một lúc bắn ra tám mũi Thiết Vũ Tiễn, xạ  trình có thể đạt tới ngàn bộ, lợi hại phi thường. Xe chắn tên là xe bón bánh, bên  trên có một lớp da trâu dầy, binh sĩ nấp ở phía sau, đẩy xe tiến dần lên, có thể  che chắn được tên và đá từ trên thành ném xuống, nên có thể giúp quân địch tiến  sát chân thành. Ngoài ra còn có sào xa là một đài cao đặt trên tám bánh xe, địch  nhân ở trên đó bắn tên vào được bên trong thành”. 

Hai mắt Khấu Trọng sáng lên nói: “Chúng ta có thể đổ dầu hỏa xuống rồi cho một mồi lửa, thiêu bà nó cái gì mà da trâu da bò, xe bắn nỏ, thang mây đó  một lượt không?”. 

Lạc Kỳ Phi lắc đầu: “Hai ngày nay Vũ Văn Hóa Cập đã sai người dùng thuốc  chống lửa đặc biệt quét lên tất cả các vũ khí công thành, loại thuốc này nếu gặp  nắng hoặc mưa sẽ giảm bớt công hiệu, vì vậy địch nhân phải tận dụng khoảng  thời gian mới sơn thuốc để công thành, thế nên tiểu nhân mới đoán được bọn  chúng sẽ tấn công ngay sau khi tới nơi”. 

Hai gã giờ mới hiểu ra. 

Nhưng cũng lập tức cảm thấy đau đầu, vũ khí công thành của địch nhân lợi  hại như vậy, mà công cụ thủ thành của bọn gã thì quá thiếu thốn, đúng là khác  nhau một trời một vực. 

Dẫn binh xuất thành liều mạng, cũng chẳng khác gì tự đâm đầu vào chỗ  chết. 

Đúng vào lúc này, trên đỉnh núi phía xa xa, ánh sáng chợt loé lên ba lượt. 

Khấu Trọng biết đó là thám tử dùng gương phản chiếu ánh mặt trời báo tin,  liền tạm thời dẹp phiền não qua một bên, cười lên ha hả nói: “Kỳ Phi vất vả nhiều  rồi! Nhậm tiểu thư hãy dẫn huynh ấy đi nghỉ ngơi, sau khi bọn ta cướp được lương  thảo, sẽ tiếp tục đàm luận với hai người”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 231

Trò Chơi Chiến Tranh

Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng dẫn theo hai trăm khinh kỵ đi ra từ cửa  Đông thành, đảo một vòng lớn, vừa tiến vào một khu rừng nằm phía  Đông trại tiền tiêu của địch nhân thì Từ Tử Lăng đột nhiên dừng lại. 

Khấu Trọng ngạc nhiên kìm cương ngựa lại, vẫy tay ra hiệu cho chúng  nhân dừng lại theo, rồi hỏi: “Chuyện gì vậy?”. 

Từ Tử Lăng thần sắc nghiêm trọng nói: “Ta cảm thấy rất không thỏa đáng,  từ khi chuyển hướng tiến vào bình nguyên phía Đông Bắc thành, ta đã có cảm  giác bị người khác giám thị, chỉ sợ chúng ta đã trúng phải gian kế của địch nhân,  lần vận lương này thực chất chỉ là một cạm bẫy cũng không chừng”. 

Hai gã thúc ngựa ra ngoài bìa rừng, ngấm ngầm quan sát. 

Dưới ánh mặt trời rực rỡ, bên ngoài là một thảo nguyên dài, phía trái có một  ngọn núi nhô lên, bên phải thì dốc núi kéo dài liên tiếp, chừng nửa dặm phía trước  là một khu rừng thưa, phía sau khu rừng này có lẽ là lộ tuyến mà đoàn vận  chuyển lương thực của địch nhân phải đi qua. Bọn gã sớm đã bố trí thám tử ở hậu  quân của địch nhân, chỉ cần xe lương rời trại, khinh kỵ sẽ lập tức chặn đường tập  kích, cướp lấy lương thảo. 

Khấu Trọng nói: “Cảm giác của ngươi lần nào cũng đúng cả. Chúng ta có  nên lập tức lui quân không?”. 

Từ Tử Lăng ung dung cười cười: “Nếu ngươi mà là Vũ Văn Vô Địch, ngươi sẽ  sắp đặt cạm bẫy thế nào?”. 

Khấu Trọng lấy roi ngựa chỉ về khu rừng thưa phía trước: “Đương nhiên là bố  trí dây thừng cản bước ngựa hay thứ gì đó tương tự như vậy trong rừng, nhưng trừ  phi lão ca của hắn là thần tiên sống, bằng không làm sao biết chúng ta sẽ chặt  đường cướp lương ở đó?”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Ngươi nói hay lắm, Vũ Văn Vô Địch có thể là một  viên mãnh tướng, nhưng tuyệt đối không phải là kẻ giỏi dùng âm mưu thủ đoạn.  Cạm bẫy này có lẽ là do mưu thần thủ hạ của hắn hiến kế. Theo ta đoán, chắc  hắn sẽ mai phục cung tiễn thủ ở chỗ cao, kỵ binh thì ẩn nấp trong rừng. Chi bằng  chúng ta dụ rắn rời hang, mục tiêu đổi thành lấy cái đầu chó của Vũ Văn Vô Địch,  ngươi thấy thế nào?”. 

Khấu Trọng hưng phấn gật đầu: “Chặt cái đầu chó của hắn xuống rồi treo  bên ngoài thành, như vậy sẽ không sợ Vũ Văn Hóa Cốt không lập tức công thành  nữa”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Hình như ngươi rất mong Vũ Văn Hóa Cập sẽ lập  tức công thành trong đêm nay thì phải, rốt cuộc là có quỷ kế gì vậy?”. 

Khấu Trọng cười lớn: “Sơn nhân tự có diệu kế, đêm nay ngươi sẽ hiểu. Hà  hà... trò chơi này càng lúc càng hứng thú rồi”. 

o0o 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng dẫn thủ hạ thúc ngựa phóng vào thảo nguyên,  khoái mã gia tăng tốc lực, nhằm khu rừng thưa ở giữa hai rặng đồi thẳng tiến.  Thoạt nhìn, không ai biết rằng bọn gã vẫn còn để lại hai mươi người trong rừng để  sắp đặt cạm bẫy. Khi đến giữa thảo nguyên, Khấu Trọng liền giơ tay ra hiệu dừng  lại, chúng nhân liền lập tức ghì cương, đứng sững lại. 

Khấu Trọng giả bộ hét lớn ra lệnh: “Ta đi trước dò đường, khi nào có hiệu  lệnh thì mới được tiến lên”. 

Từ Tử Lăng nói: “Ta đi với ngươi!”. 

Hai gã vung roi, tiếp tục phóng lên phía trước, trong nháy mắt đã đến sát  khu rừng thưa trước mặt, đột nhiên Khấu Trọng hét lớn: “Có mai phục!”. 

Lời còn chưa dứt, phía trước đã có người quát: “Phóng tiễn!”. 

Khi trận mưa tên từ hai bên tả hữu rải xuống, thì bọn gã đã quay ngựa chạy  ngược lại. Do hai gã có chuẩn bị từ trước, còn địch nhân thì bất ngờ phát xạ, nên  các mũi tên đều bắn vào khoảng không, chẳng có lấy một mũi trúng đích. Đúng  lúc hai gã chạy về đường cũ, trong rừng liền ồ ạt lao ra mấy trăm kỵ binh, dẫn  đầu chính là lão bằng hữu Vũ Văn Vô Địch. 

Đám thủ hạ của Khấu Trọng giả bộ tay chân luống cuống như một đám  quân ô hợp, trận thế rối loạn, không ngừng chạy ngang chạy dọc, nhưng cuối  cùng toàn bộ cũng đều chạy cả về phía khu rừng nơi đã đặt cạm bẫy. 

Vũ Văn Vô Địch thấy vậy thì càng nôn nóng đuổi theo, tiếng vó ngựa của  năm trăm kỵ binh rầm rập chấn động cả thảo nguyên. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trước sau phóng vào trong rừng, tung mình bay lên nấp trên những tán cây rậm rạp. 

Chỉ chưa đầy mười cái nháy mắt, kỵ binh của Vũ Văn Vô Địch đã lao vào  rừng như một cơn lốc, lướt qua phía dưới hai gã. 

Kế đó là tiếng chiến mã hí lên thảm thiết, địch nhân không phải đạp trúng  hầm chông thì là vấp phải dây chăng ngang đường, hoặc bị tên nỏ bắn trúng, lần  này thì tới lượt bọn Vũ Văn Vô Địch rối loạn như bầy kiến vỡ tổ, bỏ chạy tứ tán. 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng từ trên cao nhảy xuống như thiên binh thần tướng,  thấy địch nhân là liền xuống tay hạ sát, tuyệt đối chẳng lưu tình. 

Thủ hạ của hai gã cũng từ bốn phía xông tới, địch nhân lúc đầu khí thế hung  hăng, lập tức tan vỡ toàn quân, tuy nhân số đông hơn, nhưng toàn bộ đều mất hết  đấu chí, chỉ biết bỏ chạy thục mạng. 

Vũ Văn Vô Địch biết chuyện chẳng lành, vội ra lệnh triệt thoái, dẫn mười tên  cận vệ mở đường thoát khỏi khu rừng chết chóc. Đúng lúc này, phía trước đột  nhiên thấy ngựa đổ người ngã, nhưng y cũng ứng biến khá nhanh, lập tức bỏ  ngựa nhảy lên cây, đang định chuyển sang một ngọn cây khác thì Khấu Trọng đã  hiện thân trên chạc ba của cây đó, hoành đao mỉm cười: “Bên ngoài thành Ngõa  Cương, Vũ Văn huynh đã đánh chết ái mã của chúng ta, cảnh tượng đau lòng đó,  giống như vừa mới xảy ra hôm qua vậy, bây giờ dã đến lúc phải kết liễu chuyện  này rồi”. 

Gương mặt như được đúc từ đồng của Vũ Văn Vô Địch lộ ra thần sắc hung  hãn điên cuồng, bướu thịt trên trán rung rung, cười khẩy nói: “Ta bất quá chỉ giết  chết hai con súc sinh, chứ có giết mẹ các ngươi đâu! Không quên được là do các  ngươi ngu xuẩn, còn trách được ai nữa!”. 

Song mục Khấu Trọng ẩn hiện sát cơ, nhớ đến hai con ngựa ngoan ngoãn  mà gã và Từ Tử Lăng lần đầu tiên dùng vàng thật bạc thật mua về, lại nhớ đến  Phó Quân Sước, gằn giọng quát: “Được lắm! Ta vốn chỉ muốn bắt sống ngươi để  đổi chút đồ, giờ thì quyết định không lưu tình nữa, giữ cái đầu thối của ngươi cho  cẩn thận đó”. 

Vũ Văn Vô Địch gầm lên một tiếng, trường mâu trong tay hóa ra vô số bóng  ảnh, phóng vút qua khoảng cách giữa hai thân cây, điên cuồng tấn công Khấu  Trọng. Chỉ cần Khấu Trọng né tránh, y sẽ có cơ hội đào thoát khỏi khu rừng này,  hội hợp với bộ binh tới tiếp viện. 

Khấu Trọng đứng lạnh lùng như một bức tượng đá nhìn thân hình to lớn của  Vũ Văn Vô Địch lao tới, ngấm ngầm vận tụ công lực. 

Cả trời đất đột nhiên như thay đổi, độ linh mẫn của các cảm quan của Khấu  Trọng tăng lên mấy lần, không những có thể tính toán và nắm được mỗi một động  tác nhỏ nhất của Vũ Văn Vô Địch, còn thấy được Từ Tử Lăng bên dưới đang đại  triển thần uy, chặn lại những tên địch đang muốn đào thoát ra bên ngoài rừng, để  đoạt lấy những con chiến mã quý giá. 

Ánh mắt hai người chạm nhau. 

Trong sát na ấy, gã đã nhìn thấy nỗi sợ trong thâm tâm Vũ Văn Vô Địch. 

Đối phương đã bị sự trấn định đến lãnh khốc của gã làm cho sợ hãi. 

“Vù!”. 

Tỉnh Trung Nguyệt vạch ra một đường thần kỳ giữa không trung, xuyên qua  làn mâu ảnh trùng trùng điệp điệp của Vũ Văn Vô Địch. 

Thật khó có thể dùng ngôn ngữ để hình dung sự kinh hãi trong lòng Vũ Văn  Hóa Cập lúc này. 

Vì y đã từng giao thủ với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, nên tuy rằng có nghe  võ công hai gã không ngừng tinh tiến, nhưng trong lòng cũng không tin tưởng lắm,  mà chỉ cho rằng là thiên hạ thổi phồng lên mà thôi. Nhưng đến khi cho dù y biến  chiêu thế nào, cũng vẫn bị một đao tưởng chừng hết sức đơn giản của Khấu  Trọng phá giải toàn bộ hư chiêu, mới biết thực lực chân chính của gã thế nào. 

Y là người thân chinh bách chiến, nghĩ công lực hỏa hầu của Khấu Trọng  không bằng mình, nên liền vận công dồn Băng Huyền Kình gia truyền vào đầu  mũi mâu, hy vọng có thể mượn lực tung người ra xa, không cầu tấn công, chỉ  mong có thể tránh được một đao của đối phương. 

Chẳng ngờ đao chém vào đầu mũi mâu, nhưng lồng ngực của y như bị trúng  một chùy vạn cân, Băng Huyền Kình đột nhiên tan biến như làn khói, còn Loa  Hoàn Kình hung mãnh đáng sợ của địch nhân thì ào ạt chảy vào tâm mạch như  nước lũ cuộn dâng. 

“A!”. 

Trường mâu của Vũ Văn Vô Địch rời tay, rơi xuống dưới gốc cây.

Khấu Trọng cũng bị lực phản chấn của y làm cho lắc lư một hồi, thổ ra một  búng máu. Gã không buồn để ý, cho đao vào vỏ, tay kia đưa lên quệt vết máu  trên miệng, cao giọng quát: “Đắc thủ rồi! Chúng ta đi!”. 

o0o 

Khấu Trọng dõi mắt nhìn những ánh đuốc không ngừng di động như những  con đom đóm trên bình nguyên bên ngoài thành, thở hắt ra một hơi nói: “Thống  khoái! Thật thống khoái! Ta chưa từng nghĩ rằng chém ra một đao lại thống khoái  như vậy! Thắng phụ chỉ quyết định trong nháy mắt, không hề có chút gì may mắn!  Ha ha... ta đã báo thù cho Tiểu Khôi và Tiểu Bạch rồi!”. 

Dưới ánh sao nhấp nháy, thành Lương Đô tối đen, không một ánh đèn ánh  lửa, quân dân trong các chòi canh trên tường thành lặng lẽ chờ đợi quân địch tấn  công trong bóng tối mờ mờ. 

Tiếng kẻng báo canh một đã vang lên. 

Xe chặn tên của địch nhân được đẩy đến cách chân thành chừng trăm bộ,  rồi dừng lại để chấn chỉnh trận thế. 

Trống trận đã vang lên không ngừng từ lúc hoàng hôn. 

Từ Tử Lăng nói: “Không phải ngươi nói muốn lấy thủ cấp Vũ Văn Vô Địch  treo lên thị chúng sao? Tại sao cuối cùng cả thi thể hắn cũng bỏ lại không màng  vậy?”. 

Khấu Trọng trầm giọng: “Ta chỉ nói vậy thôi mà”. 

Lúc này Trần Gia Phong chạy đến bên cạnh hai gã báo cáo: “Tiểu nhân đã  y theo lời dặn của Khấu gia, xếp cây khô cỏ khô bên dưới thành. Hắc! Kế này của  Khấu gia thật tinh diệu tuyệt luân, lợi hại nhất chính là liệu địch như thần, đoán  được đối phương sẽ công thành ngay trong đêm”. 

Khấu Trọng nói: “Để thắng trận rồi hãy nói! Hãy bảo tất cả mọi người ở  nguyên vị trí, chờ lệnh của ta mới được phát động”. 

Trần Gia Phong lập tức lĩnh mệnh quay người chạy đi. 

Khấu Trọng cười hắc hắc nói: “Hôm nay chúng ta đã cướp được gần hai  trăm chiến mã của đối phương, làm cho kế đánh trại của ta càng thêm nắm chắc  phần thắng. Vũ Văn Hóa Cốt ơi là Vũ Văn Hóa Cốt, e rằng ngươi có nằm mộng  cũng không ngờ mình sẽ phải nuốt hận ở Lương Đô này phải không?”. 

Trống trận dồn dập. 

Địch nhân hò hét vang trời, gần trăm cỗ xe bắn đá ùn ùn tràn lên, kế đó là  xe chặn tên và xe nỏ. Tiếng bánh xe, tiếng gào hét vang động cả một góc trời,  thanh thế làm người ta phải kinh hồn bạt vía. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chẳng buồn để ý, chỉ bình tĩnh chăm chú quan  sát quân tiên phong của đối phương đang dần tiến sát chân thành. 

Bộ binh cầm thuẫn bài chia làm ba tổ, mỗi tổ ngàn người, phía sau có hai cỗ  xe thang mây theo sát. 

Kỵ binh của Vũ Văn Hóa Cập bày trận ở phía xa hơn, chuẩn bị sẵn sàng chi  viện cho quân công thành. 

Những tảng đá lớn và hỏa tiễn bay về phía tường thành như châu chấu, ánh  lửa sáng rực cả bầu trời đêm. 

Quân dân thủ thành đều nấp kín trong những chỗ trú ẩn kín đáo. 

Tiếng nổ ầm vang, vài tảng đá rơi trúng tường thành, cát bụi tung bay mù  mịt, cảnh tượng thật kinh tâm động phách. 

Khấu Trọng hét lớn: “Ném củi xuống!”. 

Toàn thể quân dân trên tường thành cùng hò hét vang trời, hơn năm ngàn  người, ngoại trừ gần nghìn người được trang bị cung tên ra, những người khác đều  gấp rút ném những bó củi lớn xuống bên dưới, ngoài ra cũng có một số phụ trách  ném đá, ném gỗ nữa.

Những bó củi lớn không ngừng tích dồn lại trên khoảng trống gần tường  thành, trong bóng đêm, địch nhân hoàn toàn không rõ đó là chuyện gì, còn tưởng  rằng trong thành thiếu tên, thiếu đá, nên phải dùng củi khô để bổ sung cho đủ số. 

Khấu Trọng khẽ kêu một tiếng: “Thật hiểm quá!”. Nếu không có kế này của  Khấu Trọng, so sánh thực lực hai bên, chỉ e là muốn giữ thành qua khỏi đêm nay  cũng khó khăn vô cùng. 

Địch nhân cuối cùng cũng đã đến được dưới chân thành, từng chiếc từng  chiếc thang mây được vắt lên tường thành cao ngất. 

Khấu Trọng thấy tình hình khẩn bách, liền hô vang: “Phóng hoả!”. 

Giờ đây củi không được ném xuống nữa, mà thay vào đó là những quả hỏa  cầu khổng lồ. 

Khi cuộc chiến khốc liệt nơi tường thành bắt đầu khai diễn, thì những bó củi  và cỏ khô chất bên dưới cũng được hỏa cầu dẫn phát, lần lượt bốc cháy, lửa  nhanh chóng lan khắp bình nguyên. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng tung hoành trên tường thành, đao thương tới đâu  là địch nhân máu chảy đầu rơi tới đó. 

Quân dân thủ thành trông thấy chủ soái quên mình giết địch, lại thấy bên  dưới lửa cháy phừng phừng làm thành một biển lửa nhấn chìm toàn bộ xe bắn đá,  xe bắn nỏ của đối phương, lại càng vạn người đồng lòng, dũng cảm đánh đuổi cường địch. 

Vũ Văn Hóa Cập nhận thấy tình hình không ổn, liền vội vàng cho thổi tù và  thu quân, nhưng cũng đã quá muộn. 

Cả bình nguyên rộng dưới chân thành đã thành một biển lửa khổng lồ, địch  nhân bị thiêu đốt kêu la thảm thiết vang trời, trở thành những bó đuốc sống lăn  lộn dưới đất. 

Trong nháy mắt, trên tường thành đã không còn một bóng địch nhân. Những tên may mắn không bị lửa thiêu cháy, đều đã bỏ chạy tán loạn. 

Khấu Trọng nhảy xuống đứng bên Nhậm Mi Mi nói: “Nơi này giao cho Nhậm  tiểu thư”. 

Nhậm Mi Mi ngạc nhiên thốt: “Hai người định đi đâu nữa?”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, cô nương đã hiểu  chưa?”. 

o0o 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng dẫn theo bốn trăm kỵ binh, hội sư với hơn ngàn kỵ  sĩ của Tuyên Vĩnh trên một ngọn đồi ở phía Đông Bắc chiến trường, ai nấy đều  chiến ý bốc cao, tinh thần phấn chấn. 

Tuyên Vĩnh khâm phục nói: “Tại hạ và các huynh đệ ở bên quan sát Khấu  gia và Từ gia dùng diệu kế thiêu hủy quân tiên phong và các công cụ phá thành  của Vũ Văn phiệt, giết cho bọn chúng phải vứt cả khôi giáp mà bỏ chạy, không ai  là không tâm phục khẩu phục, suýt chút nữa là không thể đè nèn được tâm trạng  kích động mà thúc ngựa phóng ra xông vào trận địch”. 

Khấu Trọng không ngờ lại khiêm nhượng nói: “Chỉ là một trận thắng nhỏ mà  thôi! Nhưng dù sao cũng đã đập tan được nhuệ khí của địch nhân, có điều nếu  ngày mai bọn chúng quay lại, tất sẽ vô cùng cẩn thận, không nóng nảy nôn nóng  như đêm nay nữa, lúc ấy thì chúng ta càng khó khăn hơn nhiều”. 

Từ Tử Lăng tiếp lời: “Cho dù có thể giữ được thành thì thương vong cũng rất  trầm trọng, vì vậy chúng ta phải nhân thế đêm nay, đánh bại địch nhân, lấy cái  đầu chó của Vũ Văn Hóa Cốt xuống”. 

Tuyên Vĩnh cũng là mãnh tướng trí dũng song toàn, hơn nữa lại hành sự quyết đoán, gan to hơn trời, nhưng khi nghe gã nói vậy cũng ngây người ra một  lúc, rồi mới ngạc nhiên nói: “Tại hạ còn tưởng rằng lần này chỉ là tập kích trận địa  phía sau của đối phương, chỉ cầu làm nhiễu loạn quân tâm của địch thôi chứ?”. 

Chợt có một kỵ mã từ xa phóng tới, Lạc Kỳ Phi lao vút lên đỉnh đồi, đứng  trước mặt ba người báo cáo: “Quả đúng như Khấu gia đã liệu trước Vũ Văn quân  sau khi đại bại đã bố trận trùng trùng bên ngoài doanh trại vì sợ chúng ta thừa  thắng tấn công phá trại”.

Khấu Trọng cười lớn: “Người hiểu ta chính là Vũ Văn Hóa Cốt... hà hà... hắn  đã biết được chúng ta là quân thiếu lương thảo”. 

Tuyên Vĩnh chau mày: “Nếu đã là vậy, chúng ta làm sao tấn công được?”. 

Khấu Trọng vỗ ngực nói tự tin: “Không phải có một chiêu gọi là vây Nguỵ  cứu Triệu hay sao? Chúng ta chia làm hai đường, do Tuyên huynh phụ trách tấn  công hậu doanh, thiêu đốt doanh trại, quan trọng nhất là phải làm cho thanh thế  lớn một chút. Hậu doanh là mệnh căn của Vũ Văn Hóa Cốt, hắn không thể không  cứu được. Khi hắn dẫn viện quân tới, thì ta sẽ phục kích giữa đường, đảm bảo có  thể giết cho hắn một trận máu chảy thành sông, lạc hoa lưu thủy”. 

Tuyên Vĩnh thở dài thán phục, không còn dị nghị điều gì nữa. 

Nên biết rằng chỗ lợi hại nhất của Khấu Trọng, chính là có đạo kỳ binh của  Tuyên Vĩnh mà Vũ Văn Hóa Cập hoàn toàn không hay biết. Vì vậy khi thấy hậu  doanh bị tấn công, dù thế nào y cũng quyết không để cho Khấu Trọng cướp được  lương thảo, hơn nữa y vừa mới bại trận, lại biết Khấu Trọng binh lực mỏng yếu,  không đáng lo ngại, tất sẽ mang quân tới cứu, hòng chuyển bại thành thắng, vậy  thì đã tự bước chân vào thòng lọng do Khấu Trọng chăng sẵn. 

Khấu Trọng nói: “Thành công hay thất bại, đều phải dựa vào trận chiến này  đó!”. 

Dứt lời, liền chia nhau dẫn quân phóng đi.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 232

Kỳ Binh Chế Thắng

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng với bốn trăm kỵ binh mai phục một khu rừng  gần trại địch, đợi địch nhân tự chui đầu vào lưới. Theo tính toán của hai  gã, viện binh của địch nhân toàn bộ đều là kỵ binh, mà quân lực cũng  chỉ có khoảng hơn ngàn người, theo lý thì không khó ứng phó. 

Trên những chỗ cao xung quanh đó đều có chòi canh bí mật, chỉ cần quân  chủ lực của Vũ Văn Hóa Cập ở ngoài ba dặm có bất kỳ dị động nào, bọn gã đều  có thể nắm rõ như lòng bàn tay. 

Bất ngờ hậu trại của địch nhân ở cách đó chừng một dặm vang lên tiếng hò  hét vang trời, lửa cháy phừng phừng, khói đen bốc lên mù mịt, tiếng vó ngựa gấp  gáp không ngừng. 

Khấu Trọng nói: “Tốt nhất là Vũ Văn Hóa Cốt tưởng rằng chúng ta đã dốc  hết binh lực, một mặt phái khoái kỵ đến tiếp viện, một mặt khác phát động thủ hạ  công thành lần thứ hai, vậy thì thật là lý tưởng”. 

“Rầm!”. 

Phía hậu doanh vang lên tiếng vật cứng đụng nhau ầm ầm, xem ra chiến  thuật đâm xe của Tuyên Vĩnh đã đạt được hiệu quả mong muốn. 

Lúc này Lạc Kỳ Phi đã lướt tới như bay, mừng rỡ báo cáo: “Hai vị đại gia lần  này lại liệu địch như thần, Vũ Văn Hóa Cập đã dốc hết kỵ binh đến tiếp viện, sẽ  lập tức tới đây”. 

“Bùng! Bùng! Bùng!”. 

Cùng lúc đó, tiếng trống trận công thành của địch nhân vang lên. 

Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Vũ Văn Hóa Cập cũng định dùng chiêu vây Nguỵ  cứu Triệu, nếu chúng ta nhanh tay một chút, nói không chừng có thể tiền hậu hợp  kích trước khi hắn công thành đấy”. 

Lời còn chưa dứt, tiếng vó ngựa dồn dập đã vang lên. 

Kỵ binh của địch nhân đã xuất hiện trên bình nguyên bên ngoài khu rừng,  tạo thành một con rồng dài, thẳng tiến về phía hậu doanh của địch nhân. 

Khấu Trọng đợi cho tiền quân của địch nhân chạy qua một ngọn đồi, toàn  quân nằm trong phạm vi tấn công, mới hét lên một tiếng, dẫn quân ồ ạt tấn công. 

Chúng nhân sớm đã dương cung đáp tiễn, khi người ngựa địch nhân đi vào  xạ trình, mưa tên lập tức rải xuống, địch nhân lần lượt trúng tên ngã nhào. Trận  thế của quân địch lập tức đại loạn, bị cắt đoạn làm hai đoạn, không thể tiếp cứu  cho nhau. 

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng dẫn lãnh thủ hạ, chia thành hai đạo tấn công  tiền quân và hậu quân của địch nhân, kẻ nào cản bước đều bị đánh cho tan tác  ngã nhào. 

Một bên là quân mới vừa đại bại, lại đang trong tình trạng mệt mỏi, một bên  vừa liên tiếp đại thắng, sĩ khí cao vời, tướng sĩ quên mình chiến đấu, so sánh thực  lực thế nào, thiết tưởng không cần phải nói cũng biết, cơ hồ như vừa mới tiếp xúc,  quân Vũ Văn đã lập tức bỏ chạy tứ tán, không dám ứng chiến. 

Sau một trận truy đuổi, một phần địch nhân chạy ngược về phía trận địa của  Vũ Văn Hóa Cập, còn một số khác thì rơi vào trùng trùng vây khốn của Khấu  Trọng và Tuyên Vĩnh, đang dựa vào địa thế hiểm yếu để ngoan cường chống cự,  những quân sĩ bao vây bên ngoài giơ cao đuốc, chiếu sáng rực cả chiến trường. 

Trong đêm tối, Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng sáng rực ánh vàng, thấy  người là chém, dưới tay chưa có kẻ nào qua được một hiệp. 

“Đang!”. 

Tỉnh Trung Nguyệt bị chặn lại. 

Hai người vừa nhìn mặt nhau, Khấu Trọng đã cười lớn: “Thì ra là Thành Đô  huynh, tại sao lại xảo hợp như vậy nhỉ?”. 

Trong lúc hai người còn đang trợn mắt lên nhìn nhau, hơn mười thủ hạ còn  lại của Vũ Văn Thành Đô đã bị đánh cho tan tác, rơi cả xuống ngựa, chỉ còn lại  mình y. Vũ Văn Thành Đô một mình một ngựa đứng giữa vòng vây, sắc mặt lúc  đỏ lúc trắng, trong mắt lộ ra vẻ sợ hãi. 

Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực tinh quang, cười lạnh nói: “Khi ngươi  dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán Thôi Đông, có nghĩ đến ngày hôm nay hay không?”. 

Dứt lời, gã đột nhiên nhảy khỏi mình ngựa, bay lên phía trên Vũ Văn Thành  Đô Tỉnh Trung Nguyệt bổ xuống như cuồng phong bạo vũ, thế công liên tiếp như  sóng biển xô bờ. 

Vũ Văn Thành Đô vội vàng vận lực đưa kiếm lên cả lại, nhưng bị đao pháp  cuồng mãnh ẩn hàm cả niềm phẫn hận của Khấu Trọng đánh cho thất điên bát  đảo, mồ hôi đổ ra như tắm, ướt đẫm cả sau lưng. 

Người ở bốn phía vây lại càng lúc càng nhiều, thấy Khấu Trọng thần dũng  như thiên tướng, đều cao giọng reo hò cổ vũ cho gã. 

Tiếng hò hét trấn động cả bầu trời đầy sao. 

“Đang!”. 

Khi tiếng ong ong vẫn còn vương vẩn bên tai, Khấu Trọng đã cho đao vào  vỏ, rồi dùng một động tác hết sức đẹp mắt lộn ngược trở về lưng ngựa, cho đến  tận lúc này, chân gã vẫn chưa hề chạm đất.

Gương mặt Vũ Văn Thành Đô lộ ra vẻ kinh dị như không dám tin vào sự tình  trước mắt, kế đó trường kiếm của y rơi xuống, mi tâm xuất hiện một vệt máu dài. 

“Bịch!”. 

Cả người họ Vũ Văn đã ngã khỏi lưng ngựa, làm bụi đất bắn lên. 

Chúng nhân giơ cao binh khí reo mừng, tiếng hò hét vang vang như sấm  động. 

Khấu Trọng liến nhìn về phía Từ Tử Lăng, thấy đôi mắt gã ánh lên cái nhìn  đầy tình cảm, rõ ràng là việc Khấu Trọng giết Vũ Văn Thành Đô, báo thù cho  Thôi Đông đã khơi gợi lại không ít chuyện cũ trong lòng gã. 

Năm xưa khi Vũ Văn Thành Đô cướp cuốn sổ bí mật trên Đông Minh Hiệu,  liệu Từ Tử Lăng và Khấu Trọng có ngờ sau này sẽ có một ngày có thể giết chết y  trên chiến trường như hôm nay? 

Tuyên Vĩnh chạy tới nói: “Trại địch đã bị công phá, lương thảo toàn bộ lọt  vào tay chúng ta, bước tiếp theo có phải là tiến thẳng đến đại bản doanh của  chúng không?”. 

Khấu Trọng mừng rỡ lắc đầu: “Tình thế đã thay đổi, hiện giờ là địch nhân  phải lo lắng lương thảo chứ không phải chúng ta, huống hồ kỵ binh của chúng đã  bị chúng ta đánh cho tan tác tả tơi, chúng ta cứ từ từ, để cho chúng nếm lại quả  đắng lần trước khi bị Lý Mật đánh bại!”. 

Chúng nhân hò reo vang dội, rồi kéo về thành. 

o0o 

“Địch nhân triệt thoái rồi! Lui binh rồi!”. 

Tiếng hoan hô của quân dân thủ thành Lương Đô vang đến tận trời xanh. 

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng và Tuyên Vĩnh chạy lên tường thành, nhìn về phía  địch trận, chỉ thấy doanh trại vẫn còn nhưng địch nhân đã dịch đến gần kênh Thông Tế, dùng dây thừng nối mấy chục chiếc bè gỗ lại với nhau thành một cầu  nổi đơn giản, mau chóng chạy sang bên kia, hơn vạn người đã có quá nửa sang  được bên bờ kia. 

Chuyện này đích thực nằm ngoài sở liệu của tất cả mọi người, nhưng lại hết  sức đương nhiên. 

Liên tiếp ba ngày bị đả kích, khiến Vũ Văn Hóa Cập tổn hại vô cùng nặng  nề, không những mất đi hai mãnh tướng đồng thời cũng là huynh đệ Vũ Văn Vô  Địch và Vũ Văn Thành Đô, gần nửa số vũ khí công thành cũng đã bị thiêu hủy,  phần lớn kỵ binh bị tiêu diệt, hao binh tổn tướng hơn bảy ngàn người, thêm vào  lương thảo đã bị đoạt mất, nếu còn tiếp tục dằng dai, thật chẳng khác gì tự sát là  mấy. 

Khấu Trọng đã đoán được Vũ Văn Hóa Cập sẽ lui binh, còn định ra cả kế  hoạch dùng khoái kỵ truy kích, chỉ là gã không ngờ đối phương lại chạy ngay  trong đêm, hơn nữa còn qua bên bờ kia, dùng dòng kênh Thông Tế làm bình  phong che chở. 

Khấu Trọng đang cúi đầu tư lự thì Từ Tử Lăng bước tới nắm chặt vai gã, tuy  hơi chán nản nhưng lại rất kiên quyết: “Chúng ta không thể vì tư cừu của mình mà  khiến toàn bộ người trong thành này phải mạo hiểm, mối thù của mẹ cũng không  thể gấp trong ngày một ngày hai. Ngươi cứ yên tâm, thế nào rồi cũng có ngày Vũ  Văn Hóa Cốt nợ máu phải trả bằng máu”. 

Khấu Trọng giống như quả bóng da bị xì hơi, gượng gạo cười, rồi buồn bực  gật đầu. 

Địch nhân thoái lui nhưng không hỗn loạn, lại có kênh Thông Tế che chắn,  quân lực vẫn hơn bên mình đến mấy lần, nếu mạo hiểm truy kích, cho dù là có  thể giành được thắng lợi cuối cùng, cũng phải trả ra một cái giá rất đắt. 

Coi như Vũ Văn Hóa Cập vẫn chưa đến số vậy! 

o0o 

Quá buổi hoàng hôn, trời đổ mưa phùng, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trốn  trong một tửu điếm uống rượu buồn, mọi công chuyện đều giao cả cho Tuyên  Vĩnh và Nhậm Mi Mi lo liệu. 

Xét về tranh thiên hạ, có thể đại nghiệp của Khấu Trọng đã bắt đầu rực rỡ,  nhưng lúc nào mới giết được Vũ Văn Hóa Cập báo thù cho mẹ, thì vẫn còn rất xa  vời. 

Mắt thấy thành công đã ở trong tầm với, đại cừu sắp báo, đột nhiên phát  hiện mình chỉ toi công, đây là chuyện khiến người ta buồn rầu chán nản nhất. 

Đối ẩm được hai tuần rượu, Khấu Trọng nheo mắt nhìn Từ Tử Lăng nói:  “Xưa nay ngươi đều không thích uống rượu cơ mà, tại sao sau khi đến Lạc Dương,  lần nào ta mời rượu cũng đều không cự tuyệt cả vậy?”. 

Từ Tử Lăng ngẩn người, nghĩ đến tâm trạng tồi tệ khi trùng phùng với Lý  Mật ở Lạc Dương, cười khổ nói: “Rượu có một điều tốt là làm cho người ta quên đi  hiện thực lãnh khốc vô tình, chìm trong mộng cảnh, chỉ đáng tiếc bất luận là ta  uống bao nhiêu rượu, cũng không thể quên được chuyện bất hạnh của Tố tỷ. Vừa  rồi ta mới hỏi thăm Nhậm đại tỷ về tình hình của Hương Ngọc Sơn, đáp án của  nàng chắc không cần nhắc đến nữa”. 

Khấu Trọng cầm bình rượu lên, lầm bầm uống một lúc mười mấy ngụm, làm  rượu chảy hết cả ra khoé miệng, sau đó thở hổn hển nói: “Ta quyết định bỏ hết  mọi chuyện sang một bên, lập tức trở về Ba Lăng cứu Tố tỷ, kẻ nào cản ta, ta  chém!”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Đây chỉ là hạ hạ chi sách, không phải ngươi vẫn nói  thượng binh dùng mưu hay sao? Thượng thượng chi sách, phải là để một mình ta  đi cứu Tố tỷ, còn ngươi phải giả bộ hợp tác với Tiêu Tiễn, buộc hắn không dám  không lễ số chu đáo với ta, khiến cho hắn tưởng rằng gian kế của mình đã sắp  thành công”. 

Một trận gió mang theo những hạt mưa nhỏ li ti bay vào quán rượu, làm đèn  lửa lay động bập bùng như muốn tắt, cả tửu điếm với mười mấy chiếc bàn trống  lúc sáng lúc tối, càng tăng thêm cảm giác lạnh lẽo thê lương. 

Trên phố tràn đầy những người dân đang hân hoan hát hò để ăn mừng  thắng lợi, so với quán rượu vắng lạnh mà hai gã đang ngồi, cơ hồ như là hai thế  giới hoàn toàn khác nhau. 

Khấu Trọng ngẩn ra giây lát, rồi lẩm bẩm nói một mình: “Bây giờ ta phải làm  sao?”. 

Từ Tử Lăng thấy gã nhìn chằm chằm vào cảnh tượng nhiệt náo bên ngoài,  nhưng hai mắt thì đờ đờ đẫn đẫn, bèn nghiêng người ra phía trước trầm giọng nói:  “Việc đầu tiên ngươi cần làm bây giờ chính là luận công ban thưởng, an định lòng  dân, lòng quân, đồng thời nhân lúc Lý Tử Thông, Từ Viên Lãng không có thời  gian để ý đến ngươi, Vũ Văn Hóa Cốt lại thảm bại chạy về phía Bắc, xác lập một  căn cơ tốt. Còn về việc làm sao giải nguy cho Phi Mã Mục Trường, Khấu soái  chắc không cần tiểu đệ phải bảo ngươi đúng không?”. 

Khấu Trọng giật mình, song mục khôi phục lại thần quang, đưa tay bóp chặt  lấy bàn tay Từ Tử Lăng, trầm giọng nói: “Ngươi nhất định phải dẫn mẫu tử Tố tỷ  về Phi Mã Mục Trường cho ta, chúng ta đã mất mẹ, không thể mất Tố tỷ được  nữa”. 

Từ Tử Lăng gật đầu khẳng định: “Ta nhất định không phụ lòng ngươi”. 

Khấu Trọng nói: “Lúc nào thì ngươi đi?”. 

Từ Tử Lăng đáp: “Uống hết chén này thì lập tức khởi trình”. 

Khấu Trọng buông tay, dựa lưng vào ghế, ánh mắt lộ ra tình cảm sâu sắc,  hồi lâu sau mới gật đầu nói: “Nếu Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn dám làm hại  ngươi và Tố tỷ, ta sẽ san bằng cái gì mà Đại Lương Đế Quốc của hắn thành bình  địa, gà chó không tha, nếu sai lời thề, trời đất sẽ khiến Khấu Trọng này không thể  siêu sinh, trầm luân vào súc sinh đạo”. 

Từ Tử Lăng cười thản nhiên: “Yên tâm đi! Từ Tử Lăng này không phải tên  tiểu tử ngu ngơ ngày trước nữa, muốn giết ta cũng không phải chuyện dễ dàng  đâu!”. 

Khấu Trọng nhìn ra ngoài cửa, trầm ngâm nói: “Ta vẫn hơi lo lắng về Loan  Loan yêu nữ, sự thực thì đến giờ ta vẫn không hiểu tại sao ả lại chịu bãi chiến với  chúng ta, lẽ nào thứ đồ trong Dương Công Bảo Khố đó, đối với nàng ta thật sự rất  quan trọng hay sao?”. 

Từ Tử Lăng nói: “Ta cũng đã nghĩ đến vấn đề này, theo ta đoán thì chuyển  biến này của bọn chúng là vì ngươi đã đại bại một kẻ xưa nay bách chiến bất bại  như Lý Mật, khiến bọn chúng nhận định rằng ngươi là người duy nhất xứng làm  đối thủ của Lý Thế Dân, mà Lý Thế Dân thì lại là chân mệnh thiên tử được Sư Phi  Huyên chọn ra để phò trợ, vì thế Loan Loan yêu nữ mới chuyển qua ủng hộ  ngươi”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Ủng hộ ta? Nếu là như vậy, tại sao Loan Loan yêu  nữ lại liên thủ với Biên Bất Phụ để đối phó ngươi vậy?”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Chính vì ả muốn đối phó ta chứ không phải ngươi  nên ta mới có suy đoán này. Thử nghĩ xem, nếu ả có thể bắt sống ta, không phải  là đã chiếm hết thượng phong, không sợ ngươi không đám ứng yêu cầu và điều  kiện của mình hay sao? Đêm đó tuy là ả thừa lúc chúng ta gặp nguy, nhưng điều  kiện đưa ra thì lại tuyệt đối có thể chấp nhận được, thậm chí còn giúp chúng ta  một tay, giết cho bọn mã tặc của Quật Ca tâm kinh đảm khiếp nữa. Vì vậy chuyện  này có thể tóm lược lại trong một câu, đó chính là Âm Qúy Phái đã nhìn trúng ngươi rồi đó”. 

Khấu Trọng hừ lạnh nói: “Đó chỉ là bọn chúng ngu xuẩn mà thôi, sớm muộn  gì cũng có một ngày ta phải khiến bọn chúng phái diệt nhân vong”. Ngưng lại một  chút rồi gã lại thở dài: “Bất luận là người nào làm chuyện gì đi chăng nữa cũng  đều có mục tiêu hoặc lý tưởng rõ ràng. Cho dù là bình dân bách tính cũng theo  đuổi một cuộc sống cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp, hoặc giả theo đuổi tài phú  quyền lực, thậm chí thành đế thành vương, dựng lên sự nghiệp muôn đời bất hủ.  Thế nhưng ta không thể nào hiểu nổi Loan Loan yêu nữ đó theo đuổi cái gì? Ả ta  giống như là sợ thiên hạ không loạn, nên cứ không ngừng xáo trộn, không ngừng  hô mưa gọi gió vậy”. 

Từ Tử Lăng nói: “Có câu một núi không thể có hai hổ, Từ Hàng Tịnh Trai và  Âm Qúy Phái tranh đấu đã diễn ra cả ngàn năm, hiện giờ vì xuất hiện Chúc Ngọc  Nghiên và Loan Loan nên Âm Qúy Phái mới được trung hưng, đồng thời cũng đã  đến lúc hai môn phái này phải phân thắng phụ. Cuộc chiến tranh đoạt bảo tọa  của hoàng đế, kỳ thực chỉ là một trong những cuộc chiến đó mà thôi! Điều này thì  chúng ta có thể cảm nhận được, bởi vì ta với ngươi cũng đã bị cuốn vào vòng  xoáy đó!”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không ngờ ngươi nhìn sự việc thấu triệt như  vậy!”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Cái này gọi là người ngoài cuộc thì sáng”. 

Khấu Trọng gãi gãi đầu: “Nếu ngươi là người ngoài cuộc thì ai mới là người  trong cuộc đây?”. 

Từ Tử Lăng cười cười: “Trong chuyện của Tố tỷ, mối thù của Vũ Văn Hóa  Cập, thì ta là người trong cuộc, tất cả những chuyện khác, ta đều chỉ là kẻ bàng  quan thôi, Trọng thiếu gia ngươi hiểu không?”. 

Nói dứt lời liền chống tay xuống bàn đứng dậy. 

Khấu Trọng cười ha hả, cầm chén rượu lên nói: “Chúc Lăng thiếu gia thượng  lộ bình an, mã đáo thành công!”. 

Từ Tử Lăng cũng vui vẻ nâng chén, chạm ly với gã kêu “đinh” một tiếng, rồi  ngửa cổ uống cạn, sau đó quay người đi ra ngoài. 

Khấu Trọng nhìn gã khuất dần trong đoàn người bất chấp mưa gió bên  ngoài, rồi mới dốc cả chén rượu nóng vào miệng. 

o0o 

Bên trong Tây sảnh của phủ tổng quản Lương Đô ở trung tâm thành, Khấu  Trọng và các tướng lĩnh trọng yếu đang tiến hành hội nghị quan trọng lần đầu tiên. 

Những người tham dự bao gồm Tuyên Vĩnh, Nhậm Mi Mi, Lạc Kỳ Phi, Trần  Gia Phong, Tạ Giác và hai cựu tướng của quân Ngõa Cương đi theo Tuyên Vĩnh  là Cao Tự Minh và Chiêm Công Hiển, hai người này đều có biểu hiện rất xuất sắc  trên chiến trường, nên khi luận công ban thưởng đã được đề bạt lên làm tả hữu  tiên phong tướng cho tổng quản Lương Đô Tuyên Vĩnh. 

Đầu tiên Khấu Trọng uyển chuyển từ chối đề nghị gã xưng vương mà nhiều  ngày nay mọi người đã không ngừng đưa ra: “Chúng ta có thể xây dựng Lương Đô  thành căn cứ địa, hoàn toàn đều nhờ cơ duyên xảo hợp, vì thế, chúng ta sinh tồn  trong khe hở giữa các thế lực lớn, không nghiêng theo bất cứ phe nào, vì vậy  càng không gây chú ý thì càng lý tưởng. Xưng vương xưng bá... chuyện này trước  mắt thực sự chỉ có hại chứ không có lợi”. 

Nhậm Mi Mi nghiêm mặt nói: “Nhưng bất luận là chúng ta ẩn giấu thế nào  thì trong tình thế hiện nay Lương Đô thủy chung vẫn là yếu hầu khống chế cả  kênh Thông Tế, kẻ nào muốn tranh đoạt thiên hạ đều quyết không bỏ qua nơi  này. Chi bằng hành động dứt khoát, công khai xưng bá, dựa vào uy vọng của  Khấu gia, tự nhiên sẽ có hào kiệt khắp nơi đều xin gia nhập, làm thanh thế của  chúng ta ngày càng lớn mạnh”. 

Khấu Trọng mỉm cười khoan thai nói: “Lời Nhậm đại tỷ vừa nói đương nhiên  rất có lý, có điều phải đợi sau khi thế lực của chúng ta mở rộng thêm một bước  nữa mới có thể thực hiện được. Bây giờ việc cần làm nhất chính là phải nhân lúc  Từ Viên Lãng, Vũ Văn Hóa Cập và Đậu Kiến Đức bị vướng chân ở phương Bắc,  Vương Thế Sung bận tiếp quản địa bàn của Lý Mật, lợi dụng tên Lý Tử Thông lo  cho mình còn không xong kia để củng cố và mở rộng lãnh thổ của chúng ta”. 

Trần Gia Phong hưng phấn nói: “Chúng ta sẽ chọn tòa thành nào của Lý Tử  Thông để khai đao đây?”. 

Khấu Trọng thấy Tuyên Vĩnh từ đầu vẫn mỉm cười không nói gì, liền hỏi:  “Tuyên tổng quản có đề nghị gì không?”. 

Tuyên Vĩnh ung dung đáp: “Thủ thành thì dễ, công thành thì khó, nếu không  phải Lý Tử Thông đã rút hết quân đội về Giang Đô, với thực lực hiện giờ của  chúng ta, muốn công thành phá luỹ căn bản chỉ là si tâm vọng tưởng, nhưng hiện  giờ thì có mấy phần hy vọng thành công rồi”. 

Kế đó y mở bản đồ ra đặt lên trên bàn, tiếp tục nói: “Trước mắt có ba  chuyện quan trọng cần phải tiến hành cùng một lúc. Đầu tiên là củng cố thành trì, xây dựng căn cơ. Kế đó là phải trùng kiến Bành Thành, lấy Lương Đô và Bành  Thành làm trung tâm, thu nạp mười thành trấn và mấy trăm thôn làng trong vòng  trăm dặm. Cuối cùng mới là chọn một trong hai toà thành lớn Đông Hải, Chung Ly  làm mục tiêu dụng quân, xác lập sách lược tấn công”. 

Lạc Kỳ Phi nói: “Đông Hải và Chung Ly đều là thành lớn có tính chiến lược  rất cao. Đông Hải có thể khiến chúng ta khai thông được con đường ra biển lớn,  đồng thời có thể giao dịch với các thành thị ven bờ. Chung Ly thì dựa vào sông  Hoài, là bàn đạp quan trọng để tiến về phía Tây Nam, tầm quan trọng cũng  không thua kém gì Đông Hải. Nhưng xét tình hình hiện nay, chúng ta nên lấy  Đông Hải trước, như vậy sẽ đả kích Lý Tử Thông lớn hơn rất nhiều”. 

Ngưng lại một chút rồi y lại nói: “Nhưng tôi vẫn ủng hộ đề nghị Khấu gia  xưng vương của Nhậm đại tỷ, có câu danh bất chính thì ngôn bất thuận. Hơn mười  tòa thành trì ở vùng phụ cận đa phần đều do các thế lực địa phương nắm giữ, bọn  họ không chịu đầu nhập về dưới trướng Lý Tử Thông hay Từ Viên Lãng, vì đều  cho rằng bọn chúng là hạng không thể thành đại khí. Nhưng với uy vọng của  Khấu gia, chỉ cần vung tay lên hô một tiếng, đảm bảo tất cả sẽ cùng đứng lên đi  theo ngài. Mong Khấu gia thử suy nghĩ lại về đề nghị này”. 

Cao Tự Minh và Chiêm Công Hiển đều tán đồng phụ hoạ, đồng thời còn lấy  chuyện Trác Nhượng năm xưa tụ nghĩa ở Ngoã Cương ra làm tỷ dụ để nói rõ tầm  quan trọng của việc xưng vương. 

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Ta có một phương pháp điều hòa cả hai, chi  bằng không xưng vương, mà xưng soái, như vậy vừa có danh phận, lại cho người  khác một ấn tượng mới mẻ trong thời đại người người đều xưng vương xưng đế  này, lại không đến nỗi khiến các phương thế lực đều chĩa mũi dùi về phía chúng  ta, khi hành sự cũng linh hoạt hơn nhiều”. 

Chúng nhân đều gật đầu khen hay. 

Tạ Giác đề nhị: “Chi bằng gọi là Long Đầu Đại Soái đi, cái tên này nghe rất  uy phong đó”. 

Khấu Trọng phì cười: “Cái tên này quá bá đạo mới đúng, nghe lại giống như  là thủ lĩnh tặc phỉ vậy, hay là gọi bằng Thiếu Soái đi! Các người sẽ là Thiếu Soái  quân, như vậy sẽ có cảm giác dễ gần và thân thiết hơn!”. 

Chúng nhân thấy gã thuận miệng nói ra một cái tên thích đáng như vậy thì  biết gã sớm đã có định kiến từ lâu, nên đều gật đầu khen hay. 

Khấu Trọng lại nói: “Ba việc cần làm gấp mà Tuyên tổng quản vừa đề nghị đều rất có kiến giải. Việc củng cố thành trì, Nhậm đại tỷ hãy phụ trách đi! Ở một  dải Bành Lương này, có ai mà không biết nhị đương gia xinh đẹp của Bành Lương  Hội chứ?”. 

Chúng nhân đều cười ồ lên, Nhậm Mi Mi đỏ mặt lườm gã một cái nói: “Đã  vang danh thiên hạ rồi mà vẫn còn bẻm mép như vậy!”

Khấu Trọng cười cười đáp: “Loại người như ta vĩnh viễn cũng không bao giờ  thay đổi, quyền lực danh vị bất quá cũng chỉ là hoa trong kính trăng dưới nước,  phù vân thoáng qua. Trong cuộc chiến tranh giành thiên hạ này, điều ta quan tâm  nhất chỉ là bách tính bình dân có thể an hưởng những ngày tháng thái bình an lạc,  ngoài ra ta cũng hưởng thụ cả quá trình đấu tranh gian khổ ấy nữa, nếu không cứ  ngây ngây dại dại sống đến trọn đời thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?”. 

Mọi người nghe gã nói vậy thì đều thầm kính phục. 

Khấu Trọng quay sang nói với Trần Gia Phong: “Trách nhiệm xây dựng lại  Bành Thành, để Trần Gia Phong làm chính, Tạ Giác làm phó, có chuyện gì sẽ do  Nhậm đại tỷ của chúng ta phụ trách điều phối nhân lực vật lực trợ giúp”. 

Tạ Giác nói: “Chuyện này thì nhị đương gia đúng là nhân tuyển thích hợp  nhất rồi, trước đây người chính là tư khố của Bành Lương Hội đó”. 

Nhậm Mi Mi nhíu mày nói: “Sau này đừng gọi ta là nhị đương gia nữa, sau  này cũng không còn Bành Lương Hội mà chỉ có Thiếu Soái Quân thôi!”. 

Khấu Trọng lại nói: “Trong hai quận Đông Hải, Chung Ly thì chúng ta sẽ lấy  Đông Hải trước. Tuyên Vĩnh làm chủ soái, Lạc Kỳ Phi làm phó, Cao Tự Minh và  Chiêm Công Hiển phụ trách chiêu binh luyện quân, chế tạo các vũ khí công  thành theo đồ hình ta đã giao, trong ba tháng phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ.  Tuyên Vĩnh sẽ làm tổng chỉ huy tất cả mọi chuyện ở đây”. 

Tuyên Vĩnh ngạc nhiên ngẩn người: “Vậy còn Thiếu Soái?”. 

Khấu Trọng thản nhiên đáp: “Ta phải đến Phi Mã Mục Trường mượn người  mượn ngựa, xây dựng một đội kỵ binh thiên hạ vô địch, khi ta trở về, cũng chính là  lúc chúng ta khởi binh tấn công Đông Hải”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 233

Khác Biệt Thân Sơ

Từ Tử Lăng rời Lương Đô ngay trong đêm đó, ngồi thuyền nhẹ một mình  dọc theo kênh Thông Tế đi xuống phía Nam, sau khi tới nơi giao nhau  giữa kênh Thông Tế và sông Hoài, từ đây đi tiếp xuống phía Nam chỉ  cần nửa ngày là có thể đến được Giang Đô, nếu chuyển hướng Tây, vào  sông Hoài thì chỉ cần mấy canh giờ là tới Chung Ly, giao thông vốn rất thuận tiện,  chỉ đáng tiếc là lúc này Lý Tử Thông đã cho chiến thuyền chặn ngang hai bờ,  không cho bất cứ thuyền bè nào đi qua. 

Từ Tử Lăng không muốn sinh thêm lắm chuyện, nên đã bỏ thuyền lên bờ  tiến về phía Tây, triển khai cước pháp lao đi như bay, qua Chung Ly nhưng không  vào, chuyển hướng xuống phía Nam, chỉ cần đến được Trường Giang, gã lại có  thể ngồi thuyền lên phía Tây, tiết kiệm được khá nhiều thời gian và sức lực. 

Dọc đường gã khát thì uống nước suối, đói thì hái dã quả trong rừng lót dạ,  lúc nghỉ ngơi thì lấy kinh thư của Lỗ Diệu Tử tặng cho ra nghiên cứu, chẳng những  không cảm thấy cô đơn tịch mịch, mà còn có cảm giác tự do tự tại, thoải mái nhẹ  nhõm, quên hết mọi ưu phiền. 

Hiện giờ gã quyết tâm cứu mẫu tử Tố Tố, tự nhiên cảm thấy tâm sự được  giải trừ, không đi vào ngõ cụt đó nữa. 

Trên đường thi thoảng gã lại gặp những thôn làng hoang phế, cảnh tượng bi  thương thảm hại làm lòng gã như thắt lại, quyết định nhằm hướng hoang sơn dã  lãnh không người để đi. Với khinh công của gã, dù tuyệt cốc hiểm trở cũng không  khác gì so với đất bằng. 

Lúc này là giữa mùa hè, hoa tươi nở rộ khắp nơi, ánh mặt trời rực rỡ chói  chang. Thêm vào đó vùng Hà Nam này khí hậu lại ôn hoà, lượng mưa dồi dào,  nhiều loại cây khác nhau tạo thành những khu rừng rậm rạp, đồng cỏ rộng mênh  mông che phủ sườn đồi, dốc núi, mai hoa lộc, kim ty hầu, các loại chim rừng sinh  sôi nảy nở đông đúc, khắp nơi tràn đầy sức sống mãnh liệt của tự nhiên, khiến gã  hầu như quên hẳn những thê phong bạo vũ của bên ngoài. 

Trưa ngày hôm đó, gã vượt một ngọn núi cao, đến bình nguyên phì nhiêu  màu mỡ bên bờ Bắc Trường Giang, tâm tình đặc biệt thoải mái, bèn trèo lên một  ngọn đồi nhỏ, dõi mắt nhìn khắp bốn phương tám hướng. 

Ở phía Nam cách chỗ gã đang đứng không xa lắm có một ngọn kỳ sơn, màu đá đỏ như chu sa, hình dáng kỳ lạ, nhưng thập phần u tĩnh, ở lưng chừng núi thấp  thoáng một tòa tự miếu. 

Từ Tử Lăng đột nhiên nổi hứng, thầm nhủ dù sao cũng thuận đường, bèn  chuyển hướng đi về phía đó. Chẳng mấy chốc gã đã đi đến chân núi, một dòng  sông nhỏ uốn khúc chảy qua, không ngờ còn có cả cầu nhỏ bắc qua sông, nối  liền với con đường nhỏ dẫn lên núi. 

Từ Tử Lăng nổi dạ hiếu kỳ, không ngờ ở một nơi không thấy bóng người này,  lại có thắng cảnh như vậy. Nhưng nghĩ lại cho kỹ, người ta đã đến đây xây quan,  tự nhiên là vì muốn lánh đời ẩn thế, gã đăng sơn du lãm thế này, nói không chừng  lại làm phiền đến sự thanh tu của chủ nhân nơi đây, đang định bỏ ý định đổi  đường đi tiếp thì chợt nghe tiếng tiêu cất lên. 

Từ Tử Lăng nghe tiếng tiêu, gương mặt anh tuấn thoáng lộ vẻ kinh ngạc. 

o0o 

Khấu Trọng và Tuyên Vĩnh ở trong thư phòng phủ tổng quản, nghiên cứu  hơn mười tấm địa đồ của cả một dải phụ cận Lương Đô. 

Tuyên Vĩnh nói: “Với thực lực hiện nay của chúng ta, trực tiếp tấn công  Đông Hải sẽ chỉ có kết cục thảm bại mà thôi. Nhưng nếu biết vận dụng tình thế  có lợi trước mắt, nói không chừng không tốn một binh một tốt, cũng có thể lấy  được Đông Hải về tay. Thiếu Soái không cần phải tốn công bôn ba đường dài đến  tận Phi Mã Mục Trường xin viện binh”. 

Khấu Trọng hứng thú nói: “Mau nói thử xem!”. 

Tuyên Vĩnh chỉ vào một cái hồ lớn ở phía Đông Bành Thành nằm giữa Lữ  Lương Sơn và Dịch Sơn nói: “Hồ này gọi là Lạc Mã Hồ, là nơi tập trung giao thông  đường sông, chẳng những ngư sản phong phú, mà bên hồ còn có ruộng tốt vạn  mẫu, có thể nói là mệnh mạch của các hương huyện xung quanh. Chỉ cần công  chiếm Hạ Phi, là có thể khống chế được nơi này, lúc ấy không cần Thiếu Soái  phải lên tiếng, tất cả các thành các quận ở xung quanh cũng sẽ ngoan ngoãn quy  thuận”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Có chuyện dễ dàng vậy sao? Hạ Phi hiện nay  đang do ai khống chế vậy?”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Hạ Phi hiện nay đang ở trong tay một đám cường đồ gọi là  Lạc Mã Bang, bang chủ tên là Đô Nhậm, thủ hạ khoảng ba ngàn người, những  người đi đánh cá ở Lạc Mã hồ đều phải giao nộp tiền thuế cho hắn, thậm chí cả  khách thuyền đi ngang qua cũng phải nộp tiền mãi lộ, thỉnh thoảng bọn chúng  còn đi khắp nơi cướp bóc, từ lâu đã làm cho thiên oán nhân nộ. Nếu như chúng ta  có thể thay thế Lạc Mã Bang, thực thi nhân chính, với uy vọng hiện nay của Thiếu  Soái, tự nhiên sẽ thu phục được nhân tâm. Đến lúc ấy sẽ thừa thắng lấy luôn bốn  quận Hoài Nhân, Lang Nha, Lan Lăng, Lương Thành ở phía Tây Bắc và Mục  Dương, Liên Thủy, Hoài Dương ở phía Tây Nam, thêm vào Hạ Phi nữa là có thể  hoàn toàn cắt đoạn giao thông thủy lục đến đó, lúc ấy không phải Đông Hải đã  trở thành món đồ trong túi chúng ta hay sao?”. 

Khấu Trọng động dung: “Tiểu Vĩnh đúng là kiến giải hơn người, kế này  chẳng những tuyệt diệu vô cùng, mà còn nằm trong tầm với của chúng ta, đối với  việc trùng kiến Bành Thành cũng có rất nhiều trợ giúp”. 

Tuyên Vĩnh thấy kế sách được chủ soái tiếp nhận, tinh thần phấn chấn nói:  “Nếu vậy để thuộc hạ lập tức phái Lạc Kỳ Phi đến Hạ Phi thăm dò tình hình của  Đô Nhậm, rồi sẽ bàn cách làm sao mới trừ diệt được kẻ này!”. 

Sau khi Tuyên Vĩnh đi ra, Khấu Trọng đang định lấy bí lục của Lỗ Diệu Tử ra  nghiên cứu thì vệ binh chạy vào báo cáo có Quế Tích Lương và Hạnh Dung ở  Dương Châu đến cầu kiến. 

Khấu Trọng cả mừng, vội vàng chạy ra nghênh tiếp. 

o0o 

Tiếng tiêu như hòa vào với tiếng gió, tiếng lá lay động của đại tự nhiên, lúc  trầm lúc bổng, giữa âm với âm tiếp nối không tỳ vết, tuy không có những biến hóa  mãnh liệt hay cao trào bất ngờ, nhưng lại có một thứ gì đó triền miên cuốn chặt  không dời, đến chết cũng không buông. 

Từ Tử Lăng không khỏi dừng bước lắng nghe, tiếng tiêu thanh thoát như rủ rỉ  kể cho gã nghe câu chuyện về một không gian mỹ lệ nào đó ở nơi tận cùng của  tâm linh, vô bi vô hỉ, nhưng lại làm người nghe phải xúc động. Tình cảm của người  thổi tiêu cơ hồ như mây quấn đỉnh núi, khi ẩn khi hiện, khó nắm bắt và ước đoán  như một làn sương mờ ảo. Những âm thanh tuyệt diệu mềm mại và trong suốt, giống như một người trong cuộc dùng ánh mắt lãnh mạc vô tình của người bàng  quan nhìn số mệnh trôi đi, khiến người ta có cảm giác rằng sinh mạng nặng nề  cũng có thể dùng một thái độ lãnh đạm để giải thích và diễn dịch. 

Tiếng tiêu đột nhiên ngưng lại. 

Từ Tử Lăng tựa như một người không muốn tỉnh dậy khỏi giấc mộng đẹp,  quyết định lên núi xem thử. Gã biết người thổi tiêu này là thần thánh phương nào.  Chỉ có nàng mới có thể tấu ra được tiếng tiêu thanh lệ tuyệt trần, không mang  chút tục ý này. 

o0o 

Khấu Trọng dẫn hai người bạn đã từng cùng gã lăn lộn nơi đầu đường từ  thuở hàn vi ở Dương Châu, Quế Tích Lương và Hạnh Dung vào thư trai. 

Sau một hồi ôn lại chuyện cũ, Quế Tích Lương hân hoan cười cười nói: “Gặp  được tên tiểu tử ngươi thật tốt, vừa nghe được tin ngươi đánh bại Vũ Văn Hóa Cập,  ta lập tức kiêm trình ngày đêm tới đây, chỉ sợ ngươi lại chạy đi chỗ khác mất rồi”. 

Hạnh Dung tỏ vẻ ngưỡng mộ: “Hiện giờ không có mấy người được như ngươi  với Tiểu Lăng đâu! Hà! Nếu đến sớm hai ngày thì có thể gặp được Tiểu Lăng rồi”. 

Khấu Trọng đợi bọn Quế Tích Lương dùng xong trà, rồi cười hì hì nói: “Tin  tức của hai vị đại ca thật linh thông, tiểu đệ chỉ đá đít Vũ Văn Hóa Cốt có mấy cái  mà cũng không giấu được hai người, lần này đến đây có gì chiếu cố tiểu đệ đây?”. 

Quế Tích Lương ngây người ra nhìn gã hồi lâu, sau đó thở dài nói: “Người ta  nói phát tài thì lập phẩm, nhưng tên tiểu tử nhà ngươi giờ đã danh mãn thiên hạ,  vậy mà phần vô lại trong người vẫn hệt như xưa, không hề thay đổi chút nào”. 

Khấu Trọng ôm bụng cười nói: “Bản tính tốt đẹp như vậy có thể nói đổi là  đổi được sao? Cũng giống như tên mất dạy nhà ngươi vậy, lên làm hương chủ thì  đi khắp nơi xưng đại ca, có khác gì ngày xưa thích xuất đầu lộ diện, thích oai  phong đâu? Ta với ngươi chỉ khác nhau ở chỗ, của ngươi là thói xấu thâm căn cố  đế mà thôi”. 

Quế Tích Lương không chống đỡ nổi mồm mép gã, đành bực mình nói: “Mọi  người đều là huynh đệ, ngươi không buông tha ta được sao?”. 

Hạnh Dung cười bò nghiêng bò ngửa, vui vẻ nói: “Cũng không biết bao lâu rồi mới được cười thống khoái như vậy rồi!”. 

Khấu Trọng cầm chén trà lên: “Nào! Để tiểu đệ kính hai vị đại ca một  chung!”. 

Đợi cho dứt cơn cười, Quế Tích Lương mới nghiêm mặt nói: “Lần này chúng  ta tới đây, thực ra là có chuyện vô cùng quan trọng muốn thương lượng với ngươi”. 

Khấu Trọng cười cười: “Với thân phận địa vị của ngươi hiện nay, tất nhiên sẽ  không vì chuyện nhỏ bằng con gà con vịt mà đến đây tìm ta rồi”. 

Quế Tích Lương vờ tức giận nói: “Ngươi còn trêu đùa ta nữa, thì bất kể ngươi  lợi hại thế nào, ta cũng sẽ đánh ngươi một trận đấy”.

Khấu Trọng cũng ra vẻ đầu hàng nói: “Quế đại ca bớt giận, không biết hai vị  có gì phân phó cho tiểu đệ đây?”. 

Hạnh Dung lên tiếng: “Từ khi bị ngươi và Tiểu Lăng đánh cho Tinh, Vũ, Lộ  tam đường lạc hoa lưu thủy, Thiệu quân sư đã lãnh đạo chúng ta chỉnh đốn bang  hội, do quan hệ của ngươi và Tống gia, nên Lương ca đã được đề bạt lên làm Lộ  Trúc Đường đường chủ. Hắc! Tiểu đệ cũng được làm một chức phó đường chủ  nho nhỏ!”. 

Khấu Trọng thở dài: “Ta còn biết Tích Lương đã được Thiệu đại tiểu thư  đồng ý gả cho nữa cơ! Hà, tên tiểu tử này thật diễm phúc!”. 

Quế Tích Lương đỏ mặt nói: “Lại trêu ta nữa hả?”. 

Hạnh Dung sợ hai người kéo dài mãi không thôi, vội vàng xen miệng vào nói:  “Với sự ủng hộ của Tống gia, mấy năm nay chúng ta đã có rất nhiều phát triển,  xây dựng lại địa bàn mới ở Giang Đô, nếu không cũng không thể biết được tin  ngươi và Tiểu Lăng đánh bại Lý Mật và Vũ Văn Hóa Cập nhanh như vậy được,  các huynh đệ trong bang đều vô cùng vinh hạnh vì hai người đó!”. 

Khấu Trọng cười cười: “Đừng có tâng bốc quá đáng thế, ít nhất là cũng có  tên tiểu tử Mạch Vân Phi kia không vinh hạnh vì chúng ta mà, đúng không?”. 

Ngày ấy ở Giang Âm, Mạch Vân Phi không biết có phải vì coi Quế Tích  Lương là tình địch hay không, mà đã rất không khách khí với Khấu Trọng và Từ  Tử Lăng, kết quả là đã bị hai gã cho nếm chút thiệt thòi, mất hết mặt mũi. 

Quế Tích Lương hừ lạnh nói: “Tên tiểu tử ấy thì nói làm gì! Có Thiệu quân sư  làm chủ, đâu đến lượt hắn lên tiếng chứ!”. 

Nghe y nói vậy, Khấu Trọng biết ngay Quế Tích Lương và Mạch Vân Phi  vẫn là thủy hỏa bất tương dung. 

Hạnh Dung cười cười nói: “Thiệu quân sư sai chúng ta đến mời ngươi về làm  bang chủ đó!”. 

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Cái gì?”. 

o0o 

Từ Tử Lăng chắp tay sau lưng, triển khai cước pháp chạy trên con đường  dẫn lên núi, không đầy nửa khắc thì đã đến được lưng chừng, dưới bóng những  cây tùng cổ thụ là một tòa Bát Giác Tiểu Đình, bên sát vách núi là một dòng suối  nhỏ, nước chảy tí tách, bên kia là bờ vực, từ đây có thể ngắm được cảnh đẹp biến  ảo vô thường của buổi tà dương. 

Khi Từ Tử Lăng dừng bước ngắm cảnh, dưới chân núi chợt vang lên tiếng hú  sắc lạnh, kế đó là một tiếng khác trả lời, so với tiếng hú đầu tiên thì gần gã hơn  nhiều. Trực giác làm gã cảm thấy cả hai tiếng hú này đều tràn đầy sát ý, trong  lòng cảm thấy lấy làm khó chịu. 

Từ Tử Lăng thoáng động tâm, tung mình nhảy lên, nấp vào một tán cây rập  rạp gần đó, nằm yên bất động. 

o0o 

Quế Tích Lương hưng phấn nói: “Sau khi ngươi và Tiểu Lăng giết chết Nhậm  Thiếu Danh, danh vọng củaTrúc Hoa Bang chúng ta cũng được nâng lên rất  nhiều, chẳng những không ngừng có người mới đến nhập bang, mà các bang hội  nhỏ ở địa phương cũng chủ động đến xin đầu nhập chúng ta. Nói ra có lẽ ngươi  cũng không tin, hiện giờ khắp dải Trường Giang này, không ai là không nể mặt  chúng ta vài phần, cả Lý Tử Thông cũng đang lôi kéo chúng ta đó”. 

Khấu Trọng ngây người: “Lý Tử Thông?”. 

Hạnh Dung nói: “Thiệu quân sư và Lý Tử Thông rất có giao tình, có điều  việc chúng ta mời ngươi về làm bang chủ hoàn toàn không liên quan đến y, mà là  do các huynh đệ trong bang nhất trí quyết định”. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Từ từ đã”. 

Hai người bọn Quế Tích Lương ngạc nhiên đồng thanh hỏi: “Có chuyện gì  vậy?”. 

Khấu Trọng song mục sáng rực lên, đảo một vòng trên mặt hai người cho  đến lúc cả hai cảm thấy rởn cả gai ốc, gã mới thu liễm nhãn quang, mỉm cười  trầm giọng nói: “Các ngươi rốt cuộc tin ta hay tin Thiệu Lệnh Châu?”. 

Quế Tích Lương làm ra vẻ khó xử nói: “Chuyện này...”. 

Hạnh Dung quyết đoán nói: “Đương nhiên là tin Khấu Trọng ngươi, từ nhỏ ta  đã biết ngươi và Tiểu Lăng đều rất có nghĩa khí”. 

Ánh mắt Khấu Trọng dừng lại trên mặt Quế Tích Lương, chậm rãi nói:  “Ngươi ở đây nói gì đều không sợ tiết lộ ra ngoài nửa câu, còn sợ cái bà gì nữa?”. 

Quế Tích Lương đành nói: “Ông ấy đối với ta có ân đề bạt, lại đồng ý gả nữ  nhi cho ta... à...! Đương nhiên là tin ngươi hơn một chút rồi!”. 

Khấu Trọng đắc ý dương dương nói: “Coi như hai tên tiểu tử ngươi hiểu được  khác biệt thân sơ. Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu một trò chơi hỏi đáp thú vị  được rồi, ta hỏi các ngươi đáp, nếu có chỗ nào giấu diếm, người bị hại cuối cùng  sẽ là các ngươi chứ không phải ai khác đâu”. 

Hai người giật mình đánh thót, trong lòng bán tín bán nghi, nhưng cũng chỉ  đành ngồi yên đợi gã đặt câu hỏi. 

o0o 

Tiếng y phục phất gió truyền lại trên con đường nhỏ lên núi, người kia đã  vào trong tiểu đình, hô hấp vẫn nhỏ nhẹ, hơi thở kéo dài, có thể thấy đây là một  cao thủ kiêm tu nội ngoại thuộc hạng nhất lưu trên giang hồ. 

Ở vùng hoang sơn dã lãnh này gặp một cao thủ như vậy, bất cứ người nào  cũng sẽ cảm thấy kỳ lạ, nhưng Từ Tử Lăng sớm bị người thổi tiêu làm cho kinh  ngạc, có thêm nhân vật nào xuất hiện nữa cũng khó mà làm cho gã động dung  được, hơn nữa còn hiểu được người thổi tiêu đang cố ý dùng tiếng tiêu để thị ý,  nói cho người kia biết nàng đang đợi ở đó cung hầu đại giá của y quang lâm. 

Thân pháp của người trong đình tuy nhanh nhẹn tuyệt luân, nhưng vẫn  không qua được ánh mắt sắc bén của gã. Đó là một đại hán kình trang bó sát  người, lưng cắm đại thiết giản, mũi khoằm mắt sâu, có vẻ gì đó rất tà ác, vừa nhìn  đã biết không phải nhân vật tốt lành gì, cổ quái nhất là trên đầu y đội một chiếc  thông thiên quan có chuỗi ngọc mà chỉ có hoàng đế mới sử dụng. 

Trong lúc gã đang quan sát người kia thì lại có thêm một bóng người cực nhanh nữa phóng tới, trong nháy mắt đã đến bên ngoài đình, hừ lạnh một tiếng  nói: “Đinh Cửu Trùng ngươi cuối cùng cũng chịu rời khỏi cái động chó của ngươi  rồi sao? Hi vọng ngoài ba mươi sáu chiêu giản pháp ra thì ngươi còn chiêu khác  mới hơn, bằng không tiểu đệ đưa ngươi xuống cửu trùng địa ngục thì hối hận  không kịp đó!”. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ thì ra hai kẻ này là tử địch đối đầu, thế nên vừa mới  thấy mặt đã kiếm bạt cung giương, cơ hồ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng động  thủ đánh nhau vậy. 

Đinh Cửu Trùng ở trong đình cười khùng khục, chậm rãi ung dung đáp: “Đã  hai mươi năm không gặp Chu Lão Thán huynh, không ngờ tính tình vẫn nóng nảy  như vậy, chẳng trách mà Xích Thủ Diệm của huynh thủy chung vẫn không đạt  đến cảnh giới đăng phong tạo cực, nghe nói nữ nhi của tặc nhân đó đã được mẫu  thân nó chân truyền, chỉ hi vọng rằng huynh không phải nuốt hận trong Tề Vân  Quan thôi!”. 

Tướng mạo bên ngoài của Chu Lão Thán này so với Đinh Cửu Trùng còn  xấu xí hơn gấp bội, mặt như cái chậu, cằm vênh lên như lưỡi cày, hai gò má nhô  lên rõ cao, đôi mắt thì sáng rực như hai đốm lửa ma, thân hình lùn mập, hai tay thì  to như cành cây, tuy mặc tăng bào nhưng hoàn toàn không thấy chút khí độ của  người tu hành, mà chỉ giống một ma vương giết người như ngóe. Trên đầu y còn  treo một chuỗi hạt châu đỏ như máu, càng khiến người ta cảm thấy không giống  loại gì. 

Qua câu chuyện hai người này nói với nhau, có thể thấy cả hai đều tràn đầy  địch ý với Thạch Thanh Tuyền. 

Đột nhiên Chu Lão Thán thổ khí dương thanh, phát ra tiếng như ếch kêu,  chân trái bước lên phía trước, tay phải thò ra từ ống tay áo thùng tình. 

Một chuyện đáng sợ liền xảy ra. 

Bàn tay vốn đã thô ráp của y bất ngờ to lên quá nửa, đồng thời đỏ rực lên,  cách không đẩy vào trong đình một chưởng. Không khí xung quanh cơ hồ như bị  bàn tay to lớn đỏ rực như máu của y hút chặt, biến thành những đợt sóng tanh hôi,  cuồn cuộn đổ ập vào trong đình như bài sơn đảo hải. 

Từ Tử Lăng vốn đã đánh giá hai người này rất cao, nhưng vẫn không ngờ  Xích Thủ Diệm của y lại tà môn bá đạo như vậy, trong lòng không khỏi lo lắng  thay cho Thạch Thanh Tuyền, thầm nhủ dù thế nào cũng không thể tọa thị bàng  quan để yên chuyện này được. 

“Bùng!”. 

Đinh Cửu Trùng trong đình khẽ hự nhẹ một tiếng, còn Chu Lão Thán thì chỉ  hơi lắc lư đôi chút, rõ ràng là so về chưởng lực, Đinh Cửu Trùng đã kém hơi đôi  chút. 

Chu Lão Thán thu hồi xích thủ, cười lên ha hả: “Đáng cười, đáng cười thật!  Đường đường là cốc chủ Đế Vương Cốc Đinh Cửu Trùng Đinh đại đế mà lại thảm  hại đến vậy, cả một chưởng nhẹ nhàng của ta cũng không tiếp nổi, suýt chút nữa  thì cả trứng cũng phọt ra rồi! Đáng cười! Đáng cười thật!”. 

Kình phong nổi lên. 

Từ Tử Lăng chỉ thấy nhân ảnh chuyển động, người trong đình lao vút ra như  một ánh sao băng, cự thiết giản nhằm thẳng đầu Chu Lão Thán bổ xuống, thoạt  nhìn thì chỉ là một chiêu công hết sức đơn giản, nhưng Từ Tử Lăng thì hoàn toàn  không nghĩ vậy. Một chiêu này của họ Đinh chẳng những thủ pháp tinh diệu, hơn  nữa còn biến hóa đa đoan. Thân giản to lớn không ngừng run lên bần bật, kình  lực và tốc độ gia tăng đến mức khủng khiếp, có thể thấy giải pháp của người này  đã đạt tới mức xuất thần nhập hoá. 

“Bình!”. 

Kình khí chạm nhau, cây cỏ xung quanh bốn phía lập tức ngã rạp, hoa cỏ  bay tứ tán. 

Chu Lão Thán còn đang loạng choạng chưa trụ ổn thì Đinh Cửu Trùng đã  trở vào trong đình, cười gằn nói: “Chiêu thứ ba bảy của Ngũ Đế Giản, Tương  Vương Hữu Mộng này có thú vị không?”. 

Chu Lão Thán đến giờ mới ổn định được thân hình, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng,  cũng không biết là vì y vận công hay là vì xấu hổ mà thế nữa. 

Từ Tử Lăng lại thầm kinh hãi. 

Một trong hai người này đi bất cứ đâu trên giang hồ cũng có thể làm được  nhất phương bá chủ, hiện giờ ở đây lại xuất hiện những hai người, làm sao bảo  người ta không kinh dị cho được? 

Với thân thủ hiện tại của gã, muốn ứng phó bất kỳ người nào cũng phải tốn  rất nhiều sức lực, đối phó với cả hai cùng lúc thì càng không cần phải nói. 

Chu Lão Thán còn chưa kịp lên tiếng phản bác thì đã nghe một tiếng cười  thánh thót của nữ tử vang lên trên sơn đạo: “Đại đế ca ca, Lão Thán tiểu đệ của  ta, hai mươi năm rồi mà hai người vẫn vừa gặp nhau đã cắn nhau như chó với mèo thế kia, không sợ Kim Hoàn Chân ta nhéo tai hay sao?”. 

Từ Tử Lăng suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng! Những ma đầu đã thoái  ẩn hai mươi năm từng tên từng tên một kéo tới nơi này, chỉ sợ tất cả đều vì mối  oán cũ thù xưa với mẫu thân Bích Tú Tâm của Thạch Thanh Tuyền, làm sao nàng  ứng phó nổi? Còn gã, liệu gã có bản lĩnh giúp nàng vượt qua kiếp nạn này hay  không?. 

Cũng may là gã xưa nay suy nghĩ thoải mái, không hề lấy đó làm phiền não,  lại càng không tính toán thành bại được mất, chỉ thầm hạ quyết tâm, nhất định  phải giúp giai nhân chưa từng gặp mặt này một phần sức lực. 

Chợt thấy nhân ảnh thoáng hiện, một mỹ nữ diễm lệ mặc áo hoa xuất hiện  bên cạnh Chu Lão Thán, còn giả bộ ngả người vào y nữa. 

Chu Lão Thán vội nhảy ra xa hai trượng như tránh độc xà, ra đến giữa con  đường nhỏ mới dừng lại, kinh hãi nói: “Ngươi muốn tìm người thân mật thì cứ tìm  Đinh đại đế ấy!”. 

Đinh Cửu Trùng cười khan nói: “Lão Thán huynh thật tốt, nhưng ta thấy  huynh thì vẫn tốt hơn đó!”. 

Từ Tử Lăng nghe hai người nói chuyện mà cảm thấy hồ đồ, không hiểu tại  sao Chu Lão Thán và Đinh Cửu Trùng lại biến thành lão bằng hữu thân thân thiết  thiết, không còn nửa phần hỏa khí nào nữa. 

Kim Hoàn Chân vận cung trang hoa phục, niên kỷ thoạt nhìn như chỉ mới hai  mươi, nhưng nhìn kỹ mới biết tuế nguyệt không buông tha ai, giữa mi tâm y thị đã  ẩn hiện những nếp nhăn mờ mờ. Nhưng với hai hàng lông mày mềm mại như núi  xa, đôi mắt huyền ảo như hồ nước mù thu, có thể nói nữ nhân này cũng là một  giai nhân tuyệt thế, chỉ có điều ngọc diện lại trắng bệch không chút huyết sắc,  trông giống như một u linh mới từ địa phủ âm gian trốn lên dương thế vậy. 

Chỉ thấy y thị dẫm chân tức giận nói: “Các người đúng là chẳng ra gì, Mị  Nương Tử Kim Hoàn Chân này là thứ cho các ngươi đẩy qua đẩy lại đấy hả? Rồi  thế nào cũng có một ngày ta bắt các ngươi phải quỳ xuống liếm gót chân lo lão  nương cho xem!”. 

Một tràng cười dài vang động cả trời xanh vang lên, một thanh âm vốn thô  hào hung dữ lại cố làm ra vẻ điềm đạm chậm rãi nói: “Bọn chúng không cần nàng,  thì để Đảo Hành Nghịch Thế Long Ô Quyển này thu nhận cho! Ha ha...”. 

Từ Tử Lăng cuối cùng cũng biến sắc.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 234

Chiêu Binh Mãi Mã

Khấu Trọng trầm ngâm hỏi trong sự chờ đợi hoang mang của Hạnh  Dung và Quế Tích Lương: “Tích Lương, ngươi và nữ nhi của Thiệu  Lệnh Châu đã chính thức bái đường thành thân chưa?”.

Quế Tích Lương có chút ngượng ngùng ấp úng đáp: “Chỉ là định  trước hôn sự! Hà... ngươi không nên đa tâm, Thiệu quân sư nói đợi ta luyện thành  Thái Hư Kình do ông ấy truyền thụ thì mới có thể thành thân với Lan Phương tiểu  thư được, bởi loại nội gia công phu này kỵ nhất là nữ sắc, đây là hảo ý của Thiệu  quân sư mà”. 

Khấu Trọng liếc mắt nhìn y, nhìn đến lúc y cảm thấy mất tự nhiên mới bật  cười nói: “Ngươi cứ giống như kẻ mới ra giang hồ ngày đầu tiên vậy, bị người ta  coi như tên ngốc mà còn cho rằng mình đang chiếm tiện nghi nữa. Ngươi thử  dùng cái đầu của mình để mà nghĩ thử coi, nếu y đã có ý đem nhi nữ bảo bối ra  gả cho ngươi, vậy tại sao còn truyền cho ngươi cái thứ Thái Hư Kình không thể  động phòng đó chứ?”. 

Quế Tích Lương vừa xấu hổ vừa tức giận nói: “Không được nói bậy! Nếu  không chúng ta không còn là huynh đệ nữa!”. 

Hạnh Dung cũng bạt đao tương trợ lên tiếng nói giúp y: “Thiệu quân sư đối  với Tích Lương đúng là tốt không thể nào tốt hơn được nữa. Nếu luận tư cách, vai  vế, tuy nói Lương ca là đệ tử của tiền bang chủ, nhưng ít nhất cũng phải xếp hàng  dài cả con phố mới đến lượt y làm Lộ Trúc Đường đường chủ được”. 

Quế Tích Lương lại gằn giọng nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi chỉ thích lấy dạ  tiểu nhân đo lòng quân tử, nếu Thiệu quân sư là hạng người tiểu nhân bỉ ổi đó, thì  đã không để trống ngôi vị bang chủ để đợi người hiền tài, mà tự mình ngồi lên đó  rồi, có đúng không?”. 

Khấu Trọng cười khổ nói: “Nếu ta ngây thơ như hai người các ngươi thì đã bị  mấy lão hồ ly Lý Mật, Vương Thế Sung ăn tươi nuốt sống từ lâu lắm rồi, làm gì  còn ngồi đây nói chuyện với các ngươi nữa. Nói cho ta biết, Thiệu Lệnh Châu có  biết ta từng phái người đến Giang Đô cầu viện binh không?”. 

Hai người bọn Quế Tích Lương ngạc nhiên nhìn nhau, rồi lên tiếng đáp: “Có  lẽ là không biết, nếu biết thì ông ấy nhất định đã nói cho ta rồi”. 

Khấu Trọng cười nhạt: “Ngươi dù sao cũng chỉ là nữ tế tương lai của y mà  thôi. Nếu ngươi mà gặp chuyện gì bất trắc, hôn ước tự nhiên sẽ tự động hủy bỏ.  Hừ! Nếu ta đoán không sai, Lộ Trúc Đường nhất định là phân đường có thực lực  yếu nhất. Còn tên tiểu tử Mạch Vân Phi nhất định là đường chủ của một trong hai  đường còn lại. Lòng dạ quân tử của Thiệu Lệnh Châu này có điểm rất đặc biệt,  chính là thích dùng người của mình”. 

Hai người á khẩu vô ngôn, không biết đáp lại thế nào, hiển nhiên là Khấu  Trọng đã đoán đúng. 

Hồi lâu sau, Hạnh Dung mới chán nản nói: “Mạch Vân Phi là đường chủ  Tinh Trúc Đường”. 

Khấu Trọng tỏ vẻ khinh thường: “Sở trường duy nhất của tên tiểu tử đó chỉ  có cuồng vọng tự đại mà thôi! Các ngươi thử nghĩ xem, nếu Mạch Vân Phi không  biết đây chỉ là kế quyền nghi nhất thời, làm sao hắn chịu buông xuôi như thế chứ?  Còn Thiệu Lan Phương xưa nay luôn rất tốt với hắn, làm sao đột nhiên lại cam  nguyện gả cho ngươi vậy? Nữ nhân thích đẹp, Lương ca nhà ngươi tuy có thể coi  là không đến nỗi nào, nhưng so ra thì không phải Mạch Vân Phi vẫn anh tuấn hơn  ngươi sao?”. 

Hạnh Dung không thể không gật đầu đồng ý: “Lời của Tiểu Trọng nói không  phải là không có lý! Sự thực thì lúc đó ta cũng cảm thấy sự tình đến quá bất ngờ,  nhưng thấy Lương ca mừng rỡ quá nên mới không dám nói ra”. 

Sắc mặt Quế Tích Lương lúc đỏ, lúc trắng, lắc đầu nguầy nguậy nói: “Không  phải như vậy, Thiệu Lệnh Châu tại sao phải hại ta? Cho dù không gả Lan Phương  tiểu thư cho ta, ta cũng đâu làm được gì bất lợi cho y chứ?”. 

Khấu Trọng đưa tay vỗ nhẹ lên vai y rồi nói: “Đại trượng phu sợ gì không có  được người nâng khăn sửa túi chứ! Không phải hắn muốn lung lạc ngươi, mà là  muốn lung lạc Tống phiệt, hơn nữa đấy đã là chịu lùi để tiến rồi đó. Bởi vì lúc đầu  ta muốn Tống phiệt đưa ngươi lên làm bang chủ cơ. Thiệu Lệnh Châu trước là sợ  Thiên Đao Tống Khuyết, sau là sợ tiểu đệ, nên không dám vọng động. Có điều  hiện giờ hắn đã có hòn núi Lý Tử Thông để dựa vào, cục diện đương nhiên là sẽ  đổi khác”. Ngưng lại giây lát rồi gã nói tiếp: “Thử nghĩ xem, tại sao hắn phải  chuyển tổng đà về Dương Châu chứ? Chính vì hắn và Lý Tử Thông cấu kết với  nhau, sai các ngươi đến mời ta về Dương Châu chịu chết. Cả đời liệu có nổi mấy  huynh đệ chứ? Các ngươi không tin thì tiểu đệ đây cũng chẳng có cách nào cả”. 

Quế Tích Lương ngẩn người ra hồi lâu, ủ rũ giống như con gà chọi vừa bị  đánh bại, buồn bã nói: “Lòng ta bây giờ rất loạn!”. 

Hạnh Dung nói: “Càng nghĩ ta lại càng thấy lời của Tiểu Trọng có lý, thử  nghĩ xem, tại sao Thiệu Lan Phương không theo cha nàng ta đến Dương Châu,  mà lại muốn ở lại Giang Âm?”. 

Khấu Trọng xen miêng vào nói: “Chắc là chẳng thèm nói gì với ngươi chứ  gì!”. 

Quế Tích Lương tức giận quát: “Câm miệng!”. 

Khấu Trọng thoáng ngẩn người, rồi đột nhiên ôm bụng cười ngất: “Hảo tiểu  tử, cuối cùng ngươi cũng nghĩ thông rồi!”. 

Quế Tích Lương cười khổ: “Tên tiểu tử nhà ngươi thật tàn nhẫn, phá nát cả  giấc mộng đẹp của ta! Hừ, hiện giờ phải làm sao mới tốt đây?”. 

Khấu Trọng hỏi Hạnh Dung: “Phong Trúc Đường đường chủ là Thẩm Bắc  Xương, vậy Vũ Trúc Đường do ai làm đương gia vậy?”. 

Hạnh Dung đáp: “Đương nhiên là do phó đường chủ Lạc Phụng của Phong  Trúc Đường đảm nhiệm, trong bang không ai có tư cách hơn y cả”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Hai người này đều là lão bằng hữu của ta, Thiệu Lệnh  Châu có tìm cớ gì đó điều bọn họ đi nơi khác để thuận tiện đối phó ta không?”. 

Quế Tích Lương và Hạnh Dung chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau, một lúc lâu sau  họ Quế mới thở dài nói: “Lần này thì phục ngươi thật rồi, hai người đó hiện giờ  đều không có ở Dương Châu! Con bà nó! Thiệu Lệnh Châu không ngờ dám hại ta,  thù này hận này, ta quyết sẽ đòi lại cho bằng được!”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Muốn báo cừu tuyết hận hả! Tưởng gì chứ  chuyện này thì dễ, chỉ cần nhẫn nại một chút là được”. 

Kế đó song mục gã sáng rực lên, trầm giọng nói: “Ta có thể khiến Lý Mật  vĩnh viễn không thể trở mình, tự nhiên cũng sẽ có cách đưa ngươi lên làm bang  chủ, làm cho Thiệu lão đầu đó phải trố mắt ra mà nhìn!”. 

o0o 

Từ Tử Lăng kinh ngạc là có lý do. 

Nên biết rằng người đang toàn lực phóng đi, chân khí trong cơ thể cũng vận  hành với vận tốc cực nhanh, nếu lớn tiếng nói chuyện, tự nhiên sẽ nói vừa cao  vừa nhanh, trong ngoài như một. 

Người đạt đến cảnh giới của nhất lưu cao thủ đều có thể giữ được thanh  điệu bình hoà, còn tốc độ bôn hành và tốc độ lên tiếng hoàn toàn tương phản như người mới đến, chẳng những vừa chậm vừa trầm, lại cố ra vẻ thủ thỉ tâm tình, tỏ  rõ rằng y có thể nghịch phản quy luật của tự nhiên, đạt đến trình độ có thể hoàn  toàn khống chế khí kình và tốc độ phát âm. 

Có thể khẳng định là võ công của người tên Đảo Hành Nghịch Thí Vu Ô  Quyển này đã đạt tới cảnh giới đại tôn sư rồi. 

Từ Tử Lăng ở trên cây nhìn qua kẽ lá quan sát tình hình bên dưới, có điều từ  góc độ này, gã chỉ có thể nhìn thấy một mình Mị Nương Tử Kim Hoàn Chân đứng  bên bờ vực. Khi thanh âm của Vu Ô Quyển truyền tới, gương mặt xinh đẹp của y  thị cũng thoáng biến sắc, sau đó mới nhẻo miệng cười gượng gạo, có thể thấy  rằng thị cũng đang kinh hãi giống như Từ Tử Lăng vậy. 

Đột nhiên, một đạo nhân ảnh mang theo tiếng y phục lướt gió lăng lệ hiện  thân trên cao năm trượng, rồi đột nhiên rơi thẳng xuống, hạ thân bên cạnh Kim  Hoàn Chân, hoàn toàn vô thanh vô tức, cơ hồ như thân thể y còn nhẹ hơn cả một  sợi lông hồng. 

Từ Tử Lăng vội bế khí, nằm yên bất động, vận công đóng chặt các lỗ chân  lông lại. Chỉ cần không cẩn thận một chút, sẽ lập tức làm cho người này cảnh  giác. 

Đảo Hành Nghịch Thí Vu Ô Quyển mặt như chuột vàng, mặt choắt mũi nhọn,  trông như khúc gỗ, cuối mày và thái dương đầy những nếp nhăn nheo, thân hình  đặc biệt cao, so với Kim Hoàn Chân đứng bên cạnh thì cao hơn cả cái đầu. Mũi y  còn cao, còn khoằm hơn cả Đinh Cửu Trùng, gò má cao hơn dày hơn Chu Lão  Thán, bên dưới lông mày vừa rậm vừa đen là một đôi mắt hoàn toàn không hợp  với gương mặt thê lương khổ não của y. Đôi mắt ấy vừa sáng vừa trong như đôi  mắt tiểu hài tử, có điều tận nơi sâu thẳm của đôi mắt ấy, ẩn ẩn hiện hiện một vẻ  lãnh khốc vô tình và tàn nhẫn mà không hài tử nào có được, khiến người ta cảm  thấy không lạnh mà run. Y mặc một bộ thanh bào rộng thùng thình, trên lưng cắm  một độc cước đồng nhân lấp lánh ánh vàng, ít nhấn cũng phải nặng tới mấy trăm  cân, nhưng nhìn dáng vẻ ung dung của y thì cơ hồ như không vậy. 

Kim Hoàn Chân vội giới bị lùi lại mấy bước. 

Vu Ô Quyển chắp tay sau lưng, đảo mắt một vòng, rồi ngửa mặt cười lên  một tràng dài như cú kêu đêm, rồi nheo nheo mắt nói với giọng rít rít chỉ mình y có:  “Hai mươi năm rồi! Tứ đại ma môn Độc Hành Phái, Bá Vương Cốc, Xích Thủ Giáo,  Mị Hoặc Tông hiếm có dịp tụ tập lại một nơi thế này, những lời thừa thãi nên nói ít  một chút. Người là của ta, còn Tà Đế Xá Lợi các ngươi cứ tùy tiện tranh giành, Vu  mỗ không liên quan”. 

Thanh âm lạnh lùng của Đinh Cửu Trùng cất lên trong đình: “Ngươi tính toán  cũng kỹ lắm, lấy người đi hưởng dụng trước, rồi đợi cho chúng ta đánh nhau đến  lưỡng bại câu thương, rồi mới xuất hiện chiếm tiện nghi. Trên đời này làm gì có  chuyện gì dễ dàng vậy chứ?”. 

Song mục Vu Ô Quyển lấp lánh những tia dị quang hung tàn, cười khùng  khục nói: “Giấc mộng Tà Đế của Đinh Cửu Trùng ngươi xem ra vẫn còn chưa tỉnh,  xem ra Vu mỗ phải đích thân giúp ngươi tỉnh dậy mới được!”. 

Chu Lão Thán vừa rồi đã giao thủ với Đinh Cửu Trùng cũng chen vào một  câu: “Vu Ô Quyển ngươi sai rồi! Đinh đại đế không những không phải chưa tỉnh  đế mộng, ngược lại còn rất tỉnh táo nữa, bằng không làm sao nhìn ra được tâm địa  bất trắc của ngươi chứ, Chân muội tử thấy ta nói đúng không?”. 

Kim Hoàn Chân cười cười nói: “Chu tiểu đệ đã nói thì tỷ tỷ đương nhiên phải  đồng ý rồi”. 

Đột nhiên, ba người này lại đoạt kết nhất trí để đối kháng lại với tên đại ma  đầu mạnh nhất Vu Ô Quyển. 

Vu Ô Quyển hờ hững như không có chuyện gì, nhạt nhẽo nói: “Nếu ba vị đã  nghĩ như vậy, Vu mỗ cũng không tiện miễn cưỡng, miễn cưỡng cũng không có kết  quả gì tốt. Vậy thì chúng ta chia đều xá lợi, còn người thì để ta hưởng dụng trước,  sau đó các người muốn làm gì thì làm, bản nhân tuyệt đối không hỏi tới”. 

Kim Hoàn Chân bật cười khúc khích, lườm y một cái rồi nói: “Vu đại ca học  kiểu tính toán con buôn ấy từ lúc nào vậy, người để huynh làm nhục rồi thì chúng  ta còn làm gì được nữa chứ?” 

Vu Ô Quyển ngửa mặt cười dài nói: “Tả không được, hữu cũng không xong,  ba người các ngươi hai mươi năm nay lẽ nào không có chút tiến bộ nào sao? Lẽ  nào các ngươi không hiểu được đạo lý kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu? Có phải muốn ta  đại khai sát giới mới chịu nghe lời không?”. 

Đinh Cửu Trùng cười khì khì: “Tiểu đệ, muội tử, Vu đại ca muốn đại khai sát  giới kìa, các người tính sao?”. 

Chu Lão Thán dịch người đến bên cạnh Kim Hoàn Chân, vòng tay qua ôm  lấy bờ eo thon nhỏ của thị, còn khẽ hôn lên đôi má phấn một cái, rồi mới cười  cười nói: “Muội muội quyết thế nào, ca ca tự nhiên sẽ cùng tiến cùng thoái với  muội, chúng ta là đồng mệnh uyên ương mà!”. 

Kim Hoàn Chân cười rũ rượi nói: “Đương nhiên là cùng Chu tiểu đệ đồng  sinh... nhưng không cộng tử rồi!”. 

Khi thị nói đến “không cộng tử”, ngữ điệu đột nhiên chuyển gấp, rồi bất ngờ  thúc mạnh một cùi trỏ vào be sườn Chu Lão Thán. 

Chu Lão Thán thét lên một tiếng thảm thiết, cả người bay lên cao, rơi bịch  xuống bãi cỏ. 

Từ Tử Lăng nấp trên cây không ngờ lại có biến hóa này, nhất thời ngây  người ra. 

Cùng lúc đó, có tiếng kình phong vang lên vù vù, Đinh Cửu Trùng từ trong  đình lao vọt ra, còn Vu Ô Quyển cũng đề khí đuổi theo sát phía sau, hai bóng  nhân ảnh nhanh chóng biến mất trong khu rừng rậm gần đó. 

Kim Hoàn Chân chậm rãi bước đến cúi người xuống sát bên cạnh Chu Lão  Thán nói: “Chu tiểu đệ ngươi đúng là chẳng có chút tiến bộ nào cả, hai mươi năm  rồi mà vẫn không hiểu cái đạo lý đơn giản thân phu không bằng gian phu. Niệm  tình phu thê khi trước, lão nương tặng thêm ngươi một cước vậy!”. 

“Bình!”. 

Chu Lão Thán lăn tròn trên đất, đến khi chạm phải gốc cây Từ Tử Lăng  đang ẩn thân mới dừng lại. 

Kim Hoàn Chân chẳng buồn nhìn y lấy một cái, quay đầu đi thẳng lên núi. 

Từ Tử Lăng nhìn cảnh tượng bên dưới mà cảm thấy lạnh toát người, đây mới  là lần đầu tiên gã gặp những kẻ hung tàn giảo quyệt vô tình vô nghĩa thế này. 

Gã đang do dự không biết có nên lập tức đuổi theo Kim Hoàn Chân hay  không, thì đột nhiên phát hiện có dị biến. 

Chu Lão Thán trúng phải ám toán của Kim Hoàn Chân, lại bị bồi thêm một  cước, đáng lẽ phải nằm thoi thóp chờ chết không ngờ lại bật dậy như không có  chuyện gì xảy ra, chỉ nghe y cười lên khùng khục nói: “Chỉ có ngươi mới không  tiến bộ thôi, lần này còn không trúng kế của ta sao?”. 

Dứt lời liền cười lên một tràng, tung mình phóng đi. 

Từ Tử Lăng kinh dị tới đột cứng đờ người, hồi lâu sau mới hít sâu một hơi,  đeo tấm mặt nạ Nhạc Sơn lên, nhảy xuống đuổi theo phía Đinh Cửu Trùng và Vu  Ô Quyển vừa phóng đi. 

o0o 

Khấu Trọng gặp ba người Tuyên Vĩnh, Nhậm Mi Mi và Trần Gia Phong trong  thư trai của phủ tổng quản, chậm rãi nói: “Khởi đầu tốt đẹp là yếu tốt quan trọng của thành công trong tương lai. Vì vậy chúng ta tuyệt đối không thể bất cẩn lơ là,  mỗi lần có chính quyền mới trỗi dậy, đều phải có hiện tượng đáng mừng để báo  trước. Đây giống như là một hạt giống nảy mầm rồi khai hoa kết quả vậy. “. 

Ba người đều không hiểu gã đang nói gì, chỉ biết cúi đầu cung kính lắng  nghe. 

Khấu Trọng lộ ra vẻ trầm tư suy nghĩ. 

Ba người còn tưởng rằng gã đang sắp xếp lại những lời cần nói, kỳ thực là  gã đang do dự xem có nên lấy cuốn mật thư của Lỗ Diệu Tử ra đọc cả chương  “Chính trị hưng suy được thất” cho mấy người bọn Tuyên Vĩnh nghe hay không. 

Cuối cùng thì gã cũng quyết định không lộ ra bí mật của mình, khẽ đằng  hắng một tiếng rồi dựa vào ký ức, thêm vào khả năng thông biến linh hoạt của  mình, hùng hồn nói: “Nhưng khi tinh thần chống đỡ phía sau chính quyền mới này  suy thoái, sẽ xuất hiện tình trạng hủ bại suy đồi, vì vậy chúng ta cần phải thường  xuyên phản tỉnh, luôn chú ý không để mình bị quyền lực làm hủ bại, tỷ dụ như là  lạm dụng người thân, bài xích dị loại, không chịu tiếp nhận những ý kiến phản đối.  Hà!”. 

Ba người không ngờ Khấu Trọng lại nói ra đạo lý như vậy, lấy làm ngạc  nhiên. 

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Ta thuận miệng nói xa chủ đề quá rồi, sự thực thì  cũng chỉ muốn các vị làm được câu “quý tinh bất quý đa” mà thôi, không những  kết cấu chính quyền cần đơn giản, mà cả binh lực cũng phải quý tinh bất quý đa.  Nếu làm được điểm này, thì sẽ có một khởi đầu tốt đẹp, cũng là tinh thần hưng  khởi của Thiếu Soái Quân chúng ta”. 

Tuyên Vĩnh đỏ mặt nói: “May mà Thiếu Soái nói rõ ràng, bằng không thuộc  hạ còn tưởng Thiếu Soái muốn trống rong cờ mở, chiêu tập được bao nhiêu thì  chiêu tập bấy nhiêu nữa!”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Việc cần nhất bây giờ của chúng ta, là phải thúc đẩy  sản xuất, nếu người người đều đi đánh trận thì ai làm ruộng, ai chăn nuôi? Còn  vấn đề lương hưởng của chúng ta cũng đang thiếu thốn rất nghiêm trọng. Nhân  dân không cần biết ngươi là ai, chỉ cần ngươi có thể bảo đảm cho họ an cư lạc  nghiệp, cơm no áo ấm, là họ sẽ cam tâm bán mạng cho ngươi, những thứ khác  đều chỉ là thừa thãi cả”. 

Nhậm Mi Mi động dung: “Không ngờ Thiếu Soái lại có tầm nhìn xa rộng đến  vậy, chúng tôi nhất định sẽ y theo ý chỉ của Thiếu Soái để hành sự”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Những đạo lý này của ta, ai đọc qua sử sách đều  hiểu được cả, nhưng muốn làm được tuyệt đối không dễ, hơn nữa còn rất dễ bị  tình hình khách quan làm ảnh hưởng. Vì vậy chúng ta phải định ra sách lược và  phương hướng đúng đắn, đầu tiên là phải giải quyết vấn đề củng cố căn cơ,  chuyện này sẽ do Tuyên tổng quản nói kỹ hơn”. 

Tuyên Vĩnh liền nói sách lược lấy Hạ Phi và Lạc Mã Hồ trước, sau đó dùng  các thành thị bao bây Đông Hải Quận mà y và Khấu Trọng đã định từ trước nói ra  cho Nhậm Mi Mi và Trần Gia Phong nghe. 

Cả hai nghe xong đều phấn chấn tinh thần, khí thế hừng hực. 

Khấu Trọng nói: “Đối với việc tổ chức quân đội, các vị đều là người hiểu biết,  nhưng đối với việc sắp xếp chính quyền, không biết trong lòng ba vị đã có nhân  tuyển lý tưởng nào chưa?”. 

Ba người đưa mắt nhìn nhau, đều không biết ai có thể đảm đương trọng  nhiệm này. 

Khấu Trọng đợi cả ba không lên tiếng mới tự tin vỗ ngực nói: “Đây là một  nhiệm vụ vô cùng phức tạp và quan trọng, chỉ cần sơ xuất một chút, sẽ phạm  phải sai lầm lớn, ảnh hưởng cực kỳ nguy hại, cũng may là trong lòng ta đã có  nhân tuyển từ trước. Người này tên gọi Hư Hành Chi, hiện giờ y đang ở Phi Mã  Mục Trường, ta đã phái người đi gọi y về đây. Chỉ cần có y chủ trì đại cục, chúng  ta có thể không cần lo lắng về mặt này nữa!”. 

Ba người bọn Tuyên Vĩnh thấy chuyện gì gã cũng nắm chắc như vậy, lòng  tin đều tăng lên gấp bội. 

Khấu Trọng nói: “Vấn đề thứ hai, chính là làm sao để thúc đẩy kinh tế và  mậu dịch phát triển, dù sau này chúng ta có lấy được trọng trấn quan trọng để  buôn bán với hải ngoại như là Đông Hải, thì cũng vẫn cần một thuyền đội có kinh  nghiệp phong phú trên biển thuộc về riêng chúng ta, mới có thể phát huy được  toàn bộ tác dụng của Đông Hải Quận”. 

Ba người tròn mắt lên nhìn nhau, đương nhiên là không biết làm sao để có  một thuyền đội như thế. 

Trần Gia Phong đề nghị: “Chỉ cần chúng ta giảm thuế đường sông, biết đâu  có thể khích lệ thêm nhiều thuyền buôn đến địa bàn chúng ta buôn bán”. 

Khấu Trọng giơ ngón tay cái lên tán thưởng: “Đây đúng là một đề nghị rất  hay, nhân lúc chúng ta còn binh cô tướng quản, khoản chi cho quân đội không  nhiều, chúng ta cần phải giảm thuế qua đường, đồng thời còn phải xóa bỏ một số loại thuế vụn vặt đối với người dân nữa. Bành Lương Hội nhiều năm nay chắc  cũng kiếm được không ít, cứ lấy ra chống đỡ đại cục là được rồi!”. 

Nhậm Mi Mi thoáng đỏ mặt, lườm gã một cái nói: “Chuyện này không cần  Thiếu Soái nhắc nhở chúng tôi cũng biết phải làm thế nào rồi. Có điều xây dựng  lại Bành Thành cần một khoản kinh phí không nhỏ, nếu giảm thuế chỉ e chưa đầy  nửa năm thì số tiền tài mà chúng ta tích trữ sẽ tiêu hết sạch sẽ đó”. 

Khấu Trọng cười cười nói: “Chuyện này cứ để ta lo, chỉ cần đào được Dương  Công Bảo Khố, tất cả mọi khó khăn sẽ được giải quyết. Còn về thuyền đội, trong  lòng ta cũng đã có kế hoạch chu toàn, lát nữa sẽ nói cho các người biết”. 

Kế đó gã quay sang nói với Tuyên Vĩnh: “Tiểu Vĩnh hãy tìm cách giúp ta đưa  một bức thư cho một thủ hạ tên là Trần Trường Lâm của Vương Thế Sung. Nếu  người này có thể giúp ta coi sóc Đông Hải Quận, nhất định có thể biến nơi này  thành một trọng trấn giao thương với hải ngoại hưng vượng nhất toàn quốc, lợi ích  của chúng ta sẽ không thể tính toán được. Nếu giao thương của Giang Đô với hải  ngoại mà bị gián đoạn thì Lý Tử Thông đã tiêu đời từ lâu rồi”. 

Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Tại hạ cũng từng nghe nói về người này, chỉ không  biết là thì ra y là đại hành gia trong nghề buôn bán trên biển”. 

Khấu Trọng nói: “Tổ tiên của y nhiều đời đã làm nghề buôn bán trên biển,  còn rất giỏi đóng thuyền. Nhân tài như vậy, hiện nay kiếm được nửa người còn  khó nữa là. Vì vậy chuyện này vô cùng quan trọng, cần phải làm ngay. Ta đoán  giờ này có lẽ y đã trở về Lạc Dương, dò la hành tung của y chắc không phải là  chuyện khó với đại tiểu thư”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Chuyện này cứ để tại hạ lo”. 

Khấu Trọng lại hỏi chuyện liên quan đến đám mã tặc Quật Ca. 

Nhậm Mi Mi liền đáp: “Bọn chúng chạy thẳng ra biển lớn, dọc đường không  ngừng giết người phóng hỏa, đến giờ chắc đã ra đến biển rồi”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Quân tình đệ nhất, có Lạc Kỳ Phi chủ trì chuyện này,  ta rất yên tâm”. 

Trần Gia Phong vỗ ngực nói: “Ở một dải Bành Lương này, không ai nhanh  nhạy tin tức bằng Bành Lương Hội, dù là gió thổi lá động, cũng không thể qua  mắt được người của chúng ta”. 

Khấu Trọng vươn vai lười nhác nói: “Vậy chúng ta cứ đợi tin tức của Lạc Kỳ  Phi. Khởi đầu tốt đẹp của chúng ta coi như bắt đầu từ việc giết chết tên tiểu tử Đô  Nhậm của Lạc Mã Bang đi!”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 235

Người Gian Ta Trá

Từ Tử Lăng giả dạng làm Nhạc Sơn, chắp tay sau lưng, nghênh ngang đi  trên con đường dẫn lên núi. 

Con đường hẹp bỗng nhiên mở rộng, dưới ánh chiều tà, một dòng suối  quanh co lượn vòng giữa rừng cây rậm rạp, đẹp nhất là ba cây cầu gỗ  vừa nhỏ nhắn lại tạo hình khác nhau bắc ngang dòng suối giữa rừng, điểm xuyến  cho nhau, hình thành một không gian hình tam giác do ba cây cầu hợp thành, vây  lấy con đường nhỏ duy nhất xuyên qua rừng đến ngôi tự miếu trên núi. 

Từ Tử Lăng hiện giờ ít nhất cũng có thể coi là một nửa chuyên gia kiến trúc,  trong lòng thầm tán thưởng, biết nơi đây ắt hẳn phải do cao thủ trong nghề thiết  kế nên. 

Gã sớm đã quên hết những nguy hiểm trùng trùng trước mắt, mang theo  tâm trạng thoải mái của người đi lang thang ngắm cảnh, chậm rãi thả bộ bước lên  cây cầu nhỏ tiến vào bên trong. 

Sơn lộ đột nhiên rẽ ngoặt, phía trước bất ngờ xuất hiện một căn tiểu đình  xây ngay bên bờ vực, đối diện là không gian rộng rãi tưởng chừng như vô tận và  cảnh tượng hùng vĩ khi mặt trời xuống núi, khiến cho cõi lòng của con người cơ hồ  như được mở rộng đến bao la, cùng tồn tại song song với vũ trụ mà không hề  mâu thuẫn. 

Thay đổi quá bất ngờ, khiến Từ Tử Lăng cũng phải ngây người, đứng yên  lặng trong đình hồi lâu mới ổn định được tâm tình, tiếp tục lên núi. 

Sơn lộ càng lúc càng dẫn sâu vào trong núi, xuyên qua một trảng rừng lớn,  sau đó là một cầu thang đá hơn trăm bậc, dẫn thẳng đến cổng ngôi miếu. 

Tòa cổ miếu vô danh này, được xây trên triền dốc, dựa lưng vào núi, thạch  cấp hầu như đã bị hủy hoại, cỏ dại mọc đầy, rõ ràng là đã bị bỏ hoang về một  thời gian dài, không khí u ám tĩnh lặng của buổi chạng vạng tối dường như có  thêm mấy phần âm u lạnh lẽo. 

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi chân khí, nhấc chân bước lên thạch cấp. 

Sự xuất hiện của bốn kẻ hung nhân tà môn này, khiến gã cảm nhận được  một cách sâu sắc hàm ý của câu nói nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu tiên,  đồng thời cũng cho gã một cảm giác hoàn toàn mới mẻ. 

Sau này nếu có thể được chu du thiên hạ, mở rộng kiến thức, gặp được các  kỳ nhân dị sẽ chắc hẳn sẽ có rất nhiều chuyện mới lạ và hứng thú, khiến cho  cuộc sống của gã càng thêm đa dạng. 

Nếu không phải gã cố tình chọn nơi hoang vu hẻo lánh để đi, lần này cũng  không gặp phải kỳ ngộ đầy kích thích như thế này. 

Gã không lo lắng lắm cho Thạch Thanh Tuyền, bởi nàng đã dám dùng tiếng  tiêu dẫn dụ bốn tên hung nhân này tới, tự nhiên cũng phải có vài phần chắc chắn  có thể đối phó với chúng, bằng không chỉ cần lọt vào tay bất cứ tên nào, nàng  cũng chỉ có một kết cục sống không bằng chết mà thôi. 

Thạch cấp dưới chân đã đến bậc cuối cùng, bên trong ngôi miếu trước mặt  Từ Tử Lăng là một màn tối đen, bên trong thoang thoảng một mùi ẩm mốc của  nơi đã bỏ hoang lâu ngày. 

Từ Tử Lăng không chút do dự, bước qua bậc cửa, đi thẳng vào trong. 

Ánh đèn bất ngờ vụt sáng. 

Từ Tử Lăng định thần nhìn lại, chỉ thấy một nữ tử tóc xõa ngang hông, đang  đứng quay lưng lại với gã, đốt ngọn đèn dầu đặt trên bàn thờ bồ tát lên. 

Tượng phật đã bị hủy hoại khá nhiều, bụi đóng thành từng lớp dày, mạng  nhện chăng khắp nơi, không khí tiêu điều thê lương và u ám. 

Từ Tử Lăng đảo mắt một vòng, đang ngạc nhiên không hiểu bọn Vu Ô  Quyển đã đi đâu thì giọng nói ngọt ngào thanh thót của Thạch Thanh Tuyền đã  vang lên bên tai: “Dám hỏi tiền bối là cao nhân phương nào?”. 

Từ Tử Lăng thấy nàng vẫn quay tấm lưng ngọc về phía mình, liền cười nhạt  đáp lại: “Cô nương quay người lại không phải là sẽ biết lão phu là ai hay sao?”. 

Thạch Thanh Tuyền dịu dàng nói: “Võ công của tiền bối tuy cao minh,  nhưng không phải là người mà tiểu nữ đang đợi. Nếu chỉ là khách ngẫu nhiên qua  đường, nghe tiếng tiêu mà tìm tới đây, vậy thì vãn bối xin có lời khuyên, mong tiền  bối lập tức rời khỏi đây, bằng không người cũng sẽ bị cuốn vào vòng ân oán  giang hồ chẳng hề có ý nghĩa này đó”. 

Từ Tử Lăng cười gằn: “Ta xưa nay không tin tà, muốn đứng bên xem thử. Cô  nương không cần để ý tới lão phu làm gì”. 

Nói đoạn liền bước tới một góc cạnh cửa, dựa lưng ngồi xuống. 

Thạch Thanh Tuyền vẫn quay lưng ra cửa, dõi mắt chăm chăm nhìn ngọn  lửa đang nhảy múa, nửa phần thân trên như hòa vào trong ánh lửa, làm cho mái tóc mềm mại như mây và đôi bờ vai xinh đẹp của nàng thêm nổi bật.

Chỉ riêng bóng lưng xinh đẹp ấy, đã khiến người ta cảm thấy nàng thần bí  cao thâm, đẹp một cách xuất trần thoát tục. 

Nàng thủy chung vẫn không quay người lại, tiếng thở nhẹ nhàng như tơ,  dường như đã không còn hứng thú để ý đến Từ Tử Lăng nữa. 

Vầng tịch dương cuối cùng đã tắt hẳn trên thảo nguyên đằng xa, ngọn đèn  trên phật đài trở thành điểm sáng duy nhất trong bóng đêm, khiến cho Thạch  Thanh Tuyền càng trở nên cao ngạo siêu nhiên, không thể ước đoán. 

Tiếng ve kêu, tiếng côn trùng ri ri tràn ngập khắp không gian, vừa thực tế lại  vừa hư ảo, trong sự hỗn loạn lại ẩn hàm một tiết tấu gì đó mà không thể dùng  ngôn ngữ để miêu tả, khiến cho đêm đen trong hoang miếu tĩnh lặng trở nên tràn  đầy sinh cơ. 

Chợt có tiếng động lạ vang lên bên ngoài. 

Thoạt nghe thì như tiếng hài nhi khóc dầm khóc dề, kế đó lại biến thành  tiếng nữ tử thảm thiết kêu la. Với tu dưỡng của Từ Tử Lăng, lại biết rõ là có người  đang ngưng thần tác quái, vậy mà cũng phải thầm kinh hãi, tóc gáy dựng ngược  cả lên, không khỏi nhớ đến tà công dùng ma âm để mê hoặc địch nhân của Chúc  Ngọc Nghiên. 

Thạch Thanh Tuyền thì dường như không hề nghe thấy dị âm, vẫn giữ tư  thái bình tĩnh thanh tao như vậy. 

Từ Tử Lăng vốn không hiểu tại sao mình không nhìn rõ dung nhan của nàng,  vậy mà vẫn cảm nhận được tâm trạng tình cảm của một cách hết sức rõ ràng,  sau khi suy nghĩ và phản tỉnh, cuối cùng gã cũng ngộ ra rằng thì ra mình đã từ  những động tĩnh hết sức vi diệu của bờ lưng thanh mảnh của Thạch Thanh Tuyền,  mà hiểu được nội tâm của nàng, bao gồm cả những phản ứng của huyết mạch và  cơ thịt bên dưới lớp y phục mà người thường không thể nào cảm nhận được. 

Đối với khả năng này của mình, Từ Tử Lăng cũng phải lấy làm kinh ngạc.  Đây đích thực là một sự tiến bộ kinh hồn mà nằm mộng gã cũng không thể ngờ  được. 

Ma âm bên ngoài đột nhiên biến hóa, từ thoắt tiến thoắt hậu, phiêu hốt vô  định, trở thành tập trung trên khoảng rộng bên ngoài ngôi miếu hoang, hơn nữa  càng lúc càng khó nghe, như tiếng quỷ khốc thần hiệu, nếu người nào có định lực  kém, không bị kinh sợ đến run lên cầm cập mới là chuyện lạ. Đó là cảm giác  giống như đột nhiên rơi xuống Tu La địa phủ, ngàn vạn oan hồn tử quỷ đang kêu gào đòi mạng, mị ảnh trùng trùng, sát khí bao trùm cả không gian tăm tối. 

“Tử Lăng”

Một tiếng thét lanh lảnh vang lên trong tai Từ Tử Lăng. 

Từ Tử Lăng giật mình kinh hãi, thầm nhủ đây không phải là tiếng gọi của Tố  Tố hay sao? Trong lòng cả kinh, biết suýt nữa đã bị ma âm xâm nhập tâm thần,  vội vàng bài trừ tạp niệm, thủ tâm như nhất. 

Thạch Thanh Tuyền khẽ thở dài u uất, không biết từ lúc nào đã lấy ra một  ống trúc tiêu, đưa lên miệng, nhưng không thổi ra bất cứ thanh âm nào. 

Từ Tử Lăng đang cảm thấy kỳ quặc thì chợt nghe một thanh âm thanh mảnh  dường như đang chầm chậm vang lên bên ngoài xa, sau đó giữ nguyên khoảng  cách xa vời không thể tiếp xúc đó, mang đầy sinh cơ và sức sống, bất luận là ma  âm kia có biến hóa đáng sợ thế nào, chói tai ác liệt thế nào, có thể nhấn chìm bất  cứ người nào trong những cơn sóng kinh người, nhưng tiếng tiêu mà Thạch Thanh  Tuyền tấu lên, lại giống như một con thuyền nhỏ vĩnh viễn không thể chìm, có lúc  tuy bị những cơn sóng cuồn cuộn làm cho lao đao lảo đảo, nhưng cuối cùng vẫn  có thể an nhiên tự tại tiếp tục lướt đi.

Trong lòng Từ Tử Lăng cũng dậy lên muôn ngàn cơn sóng, vì lần đầu tiên  gã được tận mắt chứng kiến tuyệt kỹ siêu phàm dùng âm phá âm, những điều  được lợi quả thực không thể nói hết. 

Cuối cùng gã đã nắm được một khả năng có thể đối kháng lại với ma âm  của Chúc Ngọc Nghiên. 

Điều này đối với trận chiến với Âm Qúy Phái của gã với Khấu Trọng, có tính  quyết định rất lớn. 

Thêm một lần nữa, gã lại hoàn toàn chìm vào tiếng tiêu mê hồn của Thạch  Thanh Tuyền. 

Từ trong âm vận của nàng, gã cảm nhận được Thạch Thanh Tuyền là một  thục nữ chân chính, âm vận tuy có vẻ bình phàm vô dị, song lại mê đắm lòng  người, dịu dàng ve vuốt, xoa dịu nỗi đau khổ trong sâu thẳm nơi nội tâm của mỗi  một người, không hề bị giới hạn bởi thời gian, không gian và tình cảm. 

Mỗi một tiếng nhạc, đều như ẩn chứa một sức mạnh kỳ dị làm người ta phải  chìm đắm vào đó, không thể kháng nghịch, càng không thể đứng ngoài bàng  quan. 

Từ Tử Lăng hoàn toàn chìm đắm vào tiếng tiêu, đến nỗi quên hẳn tiết tấu, chương cú mà âm vận tổ thành, mà chỉ chú ý đến những chấn động mà trúc quản  phát ra. 

Đây là một cảm giác kỳ dị mà xưa nay gã chưa từng có. 

Tiếng tiêu càng lúc càng linh động, càng gấp gáp, phảng phất như muốn  một mạch dẫn người ta chạy một vạn tám ngàn dặm vậy, âm sắc huyền ảo thiên  biến, đan xen chằng chịt, âm vận càng không ngừng mở rộng, tràn đầy một sức  cảm hóa kỳ lạ. 

Tiếng quỷ ma gào thét không ngừng sút giảm, nhỏ dần nhỏ dần rồi tiêu biến  trong không gian vô tận, cuối cùng chỉ còn lại tiếng tiêu ôn nhu êm ái tràn ngập  khắp đất trời. 

Tiếng tiêu đột nhiên ngưng lại. 

Thạch Thanh Tuyền nhạt giọng nói: “Qúy khách đã tới nơi, sao không vào  miếu tương kiến, nữ nhi của Thạch Chi Hiên và Bích Tú Tâm là Thạch Thanh  Tuyền ở đây cung hầu pháp giá của bốn vị quang lâm!”. 

Tiếng gió nổi lên. 

Ngọn đèn trên bàn đột nhiên tắt phụt. 

Kế đó là một tiếng hú sắc lạnh và tiếng kình phong chạm nhau vang lên liên  tiếp như sấm nổ giữa trời. 

Sau đó tất cả âm thanh đều đột nhiên biết mất, cũng bất ngờ như lúc nó  xuất hiện vậy. 

Ánh đèn lại sáng lên. 

Thạch Thanh Tuyền vẫn quay mặt vào tượng phật, ánh mắt dừng lại trên  điểm sáng duy nhất trong đại điện, ánh sáng mông lung huyền ảo như hòa nhập  với thân thể nàng, tạo thành một chỉnh thể không thể tách rời. 

Bên cạnh cửa là Mị Nương Tử Kim Hoàn Chân, lúc này đầu tóc y thị đã rũ  rượi, sắc mặt trắng bệch, rõ ràng là vừa rồi khi giao thủ đã chịu thiệt thòi không  nhỏ. 

Thạch Thanh Tuyền dịu dàng nói: “Vừa rồi Kim tông chủ bị tiếng tiêu đả  thương mà vẫn sính cường xuất thủ, quả thực là đã hơi không tự lượng sức rồi đó!  Đi đi! Giờ vẫn chưa muộn đâu!”. 

Kim Hoàn Chân kinh hãi liếc nhìn Từ Tử Lăng đang ngồi trong góc, cao  giọng hỏi: “Y là ai?”. 

Thạch Thanh Tuyền điềm đạm đáp: “Ta làm sao biết được?”. 

Vu Ô Quyển cất giọng nói the thé khiến người ta nghe rồi là khó chịu, cả đời  cũng không tài nào quên nổi của tên y, chậm rãi nói với từ bên ngoài vào: “Ta  còn tưởng a đầu ngươi đã được hết chân truyền của Bích Tố Tâm, hơn nữa lại  thông minh tuyệt đỉnh, thì ra chỉ là một con nha đầu ngu xuẩn, không biết trên đời  này còn có đạo lý nhất tướng công thành vạn cốt khô, dâm phụ này chẳng qua  chỉ là kẻ được phái ra để thăm dò thực lực của ngươi mà thôi, hiện giờ ngươi có  bao nhiêu phân lượng, ta đây đều đã nắm rõ hết cả rồi”. 

Từ Tử Lăng nghe mà trợn mắt ngây người, không phải là gã kỳ quái vì thiên  hạ còn có loại người bạc bẽo giống như Vu Ô Quyển, mà là không hiểu tại sao  Kim Hoàn Chân bị người ta làm nhục như vậy, mà vẫn cam tâm tình nguyện. 

Một kẻ muốn đánh, một kẻ muốn ăn đòn. 

Thạch Thanh Tuyền vẫn thần định khí nhàn, ung dung nói: “Thật không ngờ  Đảo Hành Nghịch Thiên Vu Ô Quyển hai mươi năm trước được liệt danh vào Tà  Môn Thập Bát Đại Cao Thủ lại là kẻ nhát gan và thiển cận đến thế, chỉ được cái  mồm mép là nhanh, vậy mà không dám đăng đường nhập thất, có phải ngươi e  sợ vị tiền bối ngẫu nhiên qua đường này hay không?”. 

Từ Tử Lăng càng lúc càng cảm thấy mơ hồ, không hiểu là Thạch Thanh  Tuyền muốn mình thoát khỏi chuyện này hay cố ý kéo mình vào vòng xoáy phân  tranh nữa. 

Kim Hoàn Chân phát ra một tràng cười khúc khích như chuông bạc chạm  nhau: “Vu lão đại, yên tâm đi! Vị lão tiền bối này tuyệt đối không phải Thiên Đao  Tống Khuyết, có điều ngươi đừng hòng muốn ta xuất thủ thăm dò nữa nhé!”. 

Thanh âm của Vu Ô Quyển đột nhiên vang lên trên mái nhà: “Tại sao ngươi  không chịu?”. 

Kim Hoàn Chân nhún vai: “Lão nương sợ mà! Nếu hai kẻ ấy hợp công một  mình lão nương, ngươi lại thấy chết không cứu, lúc ấy không phải tự ta tìm vào  chỗ chết hay sao. Lão nương đâu có ngu mà làm chuyện đó vì ngươi chứ?”. 

Từ Tử Lăng lúc này mới biết có cả Thiên Đao Tống Khuyết can dự vào  chuyện này, chẳng trách một kẻ có ma công lợi hại như Vu Ô Quyển cũng phải  sợ đầu sợ đuôi như thế. 

“Ầm ầm!”. 

Mái ngói hiện ra một lỗ thủng lớn, gạch, gỗ rơi xuống rào rào, Vu Ô Quyển  cũng từ trên trời nhảy xuống, hạ thân xuống giữa Kim Hoàn Chân và Thạch  Thanh Tuyền, đôi mắt ưng sáng rực lên nhìn chằm chằm vào Từ Tử Lăng đầy vẻ thù địch. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ đã đến lúc rồi, đúng vào sát na mà hai chân đối  phương chạm đất, gã liền đứng phắt dậy, cũng nhìn thẳng vào ánh mắt của Vu Ô  Quyển, không hề khoan nhượng, đồng thời cất giọng khàn khàn nói: “Vu tiểu quỷ  ngươi cuối cùng cũng chịu hiện thân rồi đấy hả?”. 

Vu Ô Quyển hiển nhiên không biết Nhạc Sơn là ai, chăm chú nhìn gã hồi  lâu, cuối cùng liền chau mày nói: “Lão đầu tử nhà ngươi khẩu khí cũng lớn thật,  có giỏi thì báo danh ra đây, để ta xem ngươi có tư cách gọi ta là tiểu quỷ hay  không?”. 

Từ Tử Lăng lấy làm dở khóc dở cười, loại tông sư một phái giống như Vu Ô  Quyển này quả thật là thế gian hiếm gặp, nhưng đồng thời gã cũng có thể nhận  ra tính cách vô sỉ bỉ ổi của y. Nếu để y biết được thực lực của đối phương không  bằng mình, thủ đoạn ỷ thế hiếp người cũng sẽ tàn nhẫn lang độc tới độ không  tiền tuyệt hậu chứ chẳng nghi. 

Đến đây, trong lòng gã chợt nghĩ đến một vấn đề hoàn toàn không liên quan  đến chuyện trước mắt. 

Đó chính là ai mới là nữ nhi của Chúc Ngọc Nghiên và Nhạc Sơn. 

Bốn mươi năm trước, Nhạc Sơn vì bị Tống Khuyết đánh bại, thanh danh tiêu  tán nên đã tuyệt tích giang hồ, thế nên hạng hậu bối như Vu Ô Quyển mới không  nhận ra y là ai. 

Mà nếu như Chúc Ngọc Nghiên thật sự hoài thai nữ nhi của Nhạc Sơn, vậy  đó phải là chuyện xảy ra vào bốn mươi năm về trước, vậy thì Loan Loan không  thể là nữ nhi của hai người này được, bởi vì niên kỷ của nàng tuyệt đối không phù  hợp điều kiện đó. 

Hai người bọn họ trông giống nhau có lẽ là vì cùng tu luyện Thiên Ma Đại  Pháp, thế nên khí chất tương tự như nhau, khiến gã sinh ra ảo giác. 

Bằng trực giác của mình, gã đoán định Loan Loan chỉ tầm hai mươi tuổi. 

Vậy ai mới là nữ nhi của hai người Chúc, Nhạc? 

Gã vừa nghĩ, vừa thuận miệng đáp: “Lúc lão phu thành danh, ngươi vẫn còn  là tiểu tử miệng còn hôi sữa, biết làm sao được! Bớt nói lời thừa đi, hôm nay lão  phu rất thèm ăn, để giết ngươi lấy thịt nướng tạm vậy! Xuất thủ đi!”. 

Vu Ô Quyển có lẽ cả đời sống từng ấy năm cũng không hề nghĩ rằng lại có  kẻ dám nói những lời như vậy với mình, nhất thời ngạc nhiên tròn mắt lên nhìn đối phương. Đương nhiên, nếu không phải y nhãn lực cao minh, nhận ra được lòng tin  to lớn và khí thế cao thâm mạt trắc của Từ Tử Lăng, khiến cho y không dám khinh  cử vọng động thì đã sớm thi triển sát thủ, tiễn đối phương về âm tào địa phủ từ  lâu rồi. 

Chợt một tiếng cười the the vang lên bên ngoài cửa: “Đáng cười! Thật đáng  cười! Chi bằng Vu lão nhi ngươi đổi tên thành Kinh Cung Chi Điểu đi còn hơn.  Hình như túi mật nhỏ bé của ngươi đã bị Tống Khuyết dọa cho vỡ rồi hay sao, mà  bây giờ trở nên mặt dầy đến mức này, bị người ta mắng chửi dọa giết mà vẫn rút  đầu rút cổ như loài rùa đen thối tha vậy?”. 

Người vừa lên tiếng châm chọc chính là Đinh Cửu Trùng. 

Kim Hoàn Chân thoáng biến sắc nói: “Vu lão đại hôm nay bị sao vậy, chỉ  một tên Đinh đại đế nhỏ bé mà cũng không thu thập được hay sao?”. 

Từ Tử Lăng không đợi Vu Ô Quyển có phản ứng đã cười gằn nói: “Tiểu  muội ngươi không phải cũng chẳng có tiến bộ à?”. Kế đó liền cao giọng quát:  “Chu Lão Thán! Ngươi cút ra đây cho lão phu, để tiểu muội tử của ngươi nhìn cho  rõ!”. 

Kim Hoàn Chân khẽ run lên, đưa mắt hoang mang nhìn sang phía Vu Ô  Quyển, càng lúc càng cảm thấy Từ Tử Lăng thần bí khó lường. 

“Ồ! Lão đầu này rốt cuộc là thần thánh phương nào? Đến giờ thì cả Chu Lão  Thán ta cũng rất muốn biết lão là ai đó?”. 

Thanh âm từ xa lại gần, chỉ thấy Chu Lão Thán chắp tay sau lưng, ung dung  sảo bước tiến vào trong đại điện của ngôi miếu hoang, đến bên cạnh Kim Hoàn  Chân, đưa tay ôm lấy bờ eo thon thả mà chẳng hề úy kị, dường như chẳng hề coi  Vu Ô Quyển vào đâu vậy. Chẳng những thế, y còn ngước mắt lên nhìn qua lỗ  hổng trên mái nhà, khoan thai nói: “Nhìn kìa! Bầu trời đêm nay cũng đẹp như hai  mươi năm về trước vậy!”. 

Kim Hoàn Chân ngả cả vào lòng họ Chu, ỏn à ỏn ẻn nói: “Đẹp hơn đêm  hôm đó nhiều chứ”. 

Lần này thì đến lượt Từ Tử Lăng như rơi vào làn sương mù mịt, không hiểu  đầu đuôi thế nào. 

Vu Ô Quyển chợt ôm bụng cười ngất ngư: “Hảo dâm phụ! Không ngờ các  ngươi cấu kết với nhau gạt ta! Lợi hại thật! Khâm phục! Khâm phục!”. 

Từ Tử Lăng lập tức hiểu ra, chẳng trách Kim Hoàn Chân không giết được  Chu Lão Thán, thì ra tất cả đều là một màn kịch mà y thị và họ Chu diễn cho Vu Ô Quyển và Đinh Cửu Trùng xem, mục đích chính là hi vọng họ Vu và họ Ô lưỡng  bại câu thương. Những kẻ này vừa hung tàn lại vừa gian xảo, quả thật người  thường không thể nào mà tưởng tượng ra nổi. 

Thạch Thanh Tuyền vẫn quay lưng lại với chúng nhân, không hề có động  tĩnh, cơ hồ như những chuyện vừa xảy ra, chẳng có chút liên quan gì đến nàng  vậy. 

Đinh Cửu Trùng đầu đội mão ngọc xuất hiện ngay trước cửa lớn, mặt trơ như  đá nhìn chằm chằm vào Từ Tử Lăng như ác thú nhìn kẻ thù không đợi trời chung,  cất giọng lạnh lùng đến độ làm người ta phải rởn gai gốc: “Ngoại địch đang ở  trước mắt, chúng ta có nên giải quyết địch nhân trước rồi mới tính toán đến ân  oán trong nhà hay không?”. 

“Chậm đã!”. 

Một câu nói của Thạch Thanh Tuyền lập tức làm toàn bộ những người có  mặt trong miếu dồn sự chú ý qua phía nàng. 

Mỹ nhân thần bí này cuối cùng cũng chầm chậm quay người, đối mặt với  chúng nhân.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 236

Biệt Hữu Động Thiên

“Cách! Cách! Cách!”. 

Khấu Trọng gấp cuốn mật thư về bày bố cơ quan của Lỗ Diệu Tử lại  cho vào trong người rồi lên tiếng: “Nhậm đại tỷ, mời vào!”. 

“Két két!”. Cửa thư trai mở ra. Nhậm Mi Mi uyển chuyển bước vào, nở nụ cười tươi  như hoa, đi tới ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh gã, thân mật hỏi: “Thiếu soái làm  sao biết được là người ta tới?”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Chỉ cần ta nghe tiếng bước chân của mọi người một  lần thì sẽ không bao giờ quên”. 

Nhậm Mi Mi ngạc nhiên: “Lẽ nào tiếng bước chân của ta không hề thay đổi  sao? Tỷ như lúc người ta mới đến, đã cố gắng bước đi thật nhẹ, vốn định làm cho  thiếu soái giật mình một phen mà!”.

Khấu Trọng gật đầu: “Tiếng bước chân ngoại trừ nhanh chậm nặng nhẹ ra,  còn có thể tùy tâm biến hoá, nhưng bất luận là thay đổi thế nào, cũng giữ lại một  số âm điệu bất biến, giống như tư thế đi trên đường của mỗi một người đều khác  nhau vậy, chỉ là hiếm có người lưu ý đến những chuyện nhỏ nhặt này mà thôi! Vì  vậy khi ta và Tiểu Lăng dịch dung biến thành người khác, còn phải thay đổi cả tư  thế nằm ngồi đi đứng để tránh lộ thân phận, nói ra thì dễ, nhưng muốn làm được  thì rất vất vả đấy!”. 

Nhậm Mi Mi lộ vẻ ngưỡng mộ, hưng phấn hỏi tiếp: “Ai da! Ai mà ngờ được  bên trong lại có nhiều đạo lý đến thế, thiếu soái đã học được những điều này ở  đâu vậy?”. 

Khấu Trọng chỉ tay vào ngực nói: “Đây là do tên tiểu tử này tự nghĩ ra, cái  này gọi là tay làm hàm nhai, sống bằng sức mình đấy”. 

Nhậm Mi Mi lườm gã một cái rồi nói: “Năm xưa khi gặp gỡ lần đầu ở đổ  trường, hai người chỉ là hai tên tiểu tử miệng còn hôi sữa, chân tay run rẩy, chẳng  ngờ chỉ mấy năm sau đã lắc mình biến thành nhân vật có thể hô phong hoán vũ  trong thiên hạ, tỷ tỷ đây cũng trở thành tiểu tốt dưới trướng của ngươi rồi còn gì.  Hồi đó, có nằm mơ ta cũng không tưởng tượng được có chuyện này xảy ra đâu”. 

Khấu Trọng thuận miệng hỏi: “Ba Lăng Bang vẫn còn thế lực ở vùng này  chứ?”. 

Nhậm Mi Mi nói: “Hầu như đã bị Từ Viên Lãng dẹp cả rồi, song vẫn còn ba,  bốn kỹ viện vẫn hoạt động, chỉ cần thiếu soái nói một câu, tỷ tỷ sẽ lập tức nhổ cỏ  cả rễ”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Hiện giờ chưa phải lúc! Hì hì! Nhậm đại tỷ đến tìm tiểu  đệ có chuyện gì đặc biệt không? 

Diễm phụ xinh đẹp tựa đóa hoa đã nở rộ này liếc gã một cái đầy phong tình,  ỏn ẻn nói: “Nhất định phải có chuyện mới đến tìm được hay sao?”. 

Khấu Trọng cười ha hả, đưa tay vuốt vuốt gò má mềm mại của Nhậm Mi Mi:  “Ta còn tưởng rằng trải qua mấy cơn biến loạn, Nhậm đại tỷ đã thu tâm dưỡng  tính rồi chứ thì ra là vẫn phong lưu như trước”. 

Nhậm Mi Mi làm vẻ giận dỗi nói: “Người ta thích ngươi mà! Hơn nữa thiếu  soái ngươi đang tuổi tráng niên, tất nhiên cũng phải cần nữ nhân hầu hạ bên gối,  chi bằng để tỷ tỷ đây dốc lòng phụng bồi, đảm bảo sẽ mãn lòng toại ý”. 

Khấu Trọng đưa tay ra sau gáy, đỡ Nhậm Mi Mi lên hôn nhẹ vào má, rồi  mỉm cười: “Ta cũng biết đại tỷ sẽ khiến ta vô cùng mãn ý, nhưng ta cũng rất sợ sẽ  vì quá mãn ý mà sinh ra mê đắm, quên mất chuyện chính. Bởi võ công ta luyện là  Trường Sinh Quyết của đạo gia, không thể buông thả dục vọng quá đà được, lúc  này mới chỉ là giai đoạn bắt đầu của bá nghiệp, nên càng cần phải khắc chế bản  thân hơn”. 

Nhậm Mi Mi vẫn nũng nịu nói: “Người ta chỉ bồi tiếp một đêm thôi, chắc  không vấn đề gì đâu mà”. 

Khấu Trọng không phải là không háo sắc, lại càng không phải là không  động tâm với Nhậm Mi Mi, nhưng vì đã có kinh nghiệm đau thương với Vân Ngọc  Chân và Đổng Thục Ni, nên lòng tin của gã với những nữ nhân phóng đãng hầu  như đã mất hết, thậm chí còn sinh lòng cảnh giác và e sợ, không muốn vì nhục  dục mà đắm chìm trong hoan lạc nam nữ mà quên đi lý tưởng của mình, nên nghe  vậy liền ghé miệng sát tai Nhậm Mi Mi thì thầm: “Đại tỷ đánh giá mị lực của mình  thấp quá đó, chỉ cần một đêm, tự nhiên sẽ có đêm thứ hai và đêm thứ ba, chi  bằng để ta thơm đôi môi ngọt ngào của tỷ một lát là được rồi!”. 

Nhậm Mi Mi vùng vằng nói: “Muốn làm người ta chết vì ham muốn hả? Có  điều dù bị ngươi cự tuyệt, trong lòng người ta vẫn rất vui mừng. Đại đương gia  trước đây chính vì quá chìm đắm trong nữ sắc mà công lực suy giảm, bằng không  đâu đến nỗi bị nội thương đến chết. Vì vậy tuy có chút hận ngươi, nhưng người ta  cũng rất khâm phục ngươi. Cảm giác này thật là mâu thuẫn quá đi!”. 

Khấu Trọng hôn nhẹ lên má Nhậm Mi Mi: “Đừng hận ta, giữ tình tỷ đệ thân  thiết thế này sẽ bền lâu hơn khoái lạc nhục thể của quan hệ nam nữ gấp trăm  lần”. 

Nhậm Mi Mi cũng hôn lại gã một cái, nhu thuận gật đầu nói: “Hiện giờ tỷ tỷ  mới biết được người làm chuyện lớn là phải thế nào. Chẳng trách mà ngươi có thể  tiến nhanh đến vậy! Được rồi! Người ta không làm phiền ngươi nữa!”. 

Khấu Trọng đưa ra đến cửa thì Nhậm Mi Mi lại nhào vào lòng gã, nũng nịu  nói: “Hầu hạ qua đêm đâu nhất thiết là phải giao hoan mới được, ôm người ta ngủ  cũng rất thoải mái mà!”. 

Khấu Trọng phì cười nói: “Ôm một đống lửa hừng hực thì sao mà ngủ được  chứ? Quên mất không nói cho đại tỷ biết, lúc ta ngủ chính là lúc ta luyện công  đó!”. 

Nhậm Mi Mi hậm hực cắn vào vai gã một cái, làm gã kêu đau oai oái rồi mới  bật cười bỏ đi. 

Khấu Trọng đóng cửa lại, thở phào nhẹ nhõm, sau khi tự tìm ra mấy lý do  thuyết phục bản thân, định lấy sách ra đọc tiếp thì tiếng bước chân lại vang lên.  Là tiếng bước chân của Nhậm Mi Mi, ngàn vạn lần cũng không thể sai được,  nhưng trong lòng Khấu Trọng lại dâng lên một cảm giác hết sức không thỏa đáng.  Bởi vì tiếng bước chân này và tiếng bước chân vừa nãy hoàn toàn không có gì  phân biệt. Đó là chuyện tuyệt đối không thể xảy ra. 

Một Nhậm Mi Mi muốn được gã ôm ấp và một Nhậm Mi Mi vừa bị gã cự  tuyệt, hai tâm trạng khác nhau một trời một vực, làm sao bước chân có thể khinh  khoái như nhau được? 

“Cách! Cách! Cách!”. 

Khấu Trọng cầm lấy Tỉnh Trung Nguyệt gác trên ghế, điềm đạm nói: “Vào  đi!”. 

o0o 

Thạch Thanh Tuyền cuối cùng cũng quay người lại, đối mặt với chúng nhân. 

Tất cả những người có mặt tại trường, bao gồm cả Từ Tử Lăng, sau khi nhìn  thấy lư sơn chân diện mạo của nàng thì đều không khỏi thầm cảm thấy đáng tiếc. 

Một gương mặt hoàn mỹ lại bị chiếc mũi cao xấu xí vô tình phá hoại, khiến  cho người nào nhìn thấy đều cảm thấy bất nhẫn và thất vọng! Nếu có thể cắt đi  chiếc mũi xấu xí kia, thì bất kỳ bộ phận nào của nàng cũng có thể sánh với những  mỹ nữ tuyệt sắc như Sư Phi Huyên hay Loan Loan, đặc biệt là đôi mắt đen láy mà  sáng như bảo ngọc của nàng càng có phong thái thần bí tựa vũ trụ vĩnh hằng,  khiến người ta phải điên hồn đảo phách. Nhưng tất cả đều đã bị chiếc mũi đáng  ghét kia phá hoại, chẳng trách mà nàng không muốn chính diện đối mặt với người. 

Ánh mắt sắc bén của cả bốn người Vu Ô Quyển, Đinh Cửu Trùng, Chu Lão  Thán, Kim Hoàn Chân sau khi liếc nhìn nàng một cái, liền dịch dần từ gương mặt  Thạch Thanh Tuyền xuống quả thủy tinh cầu trên đôi tay nhỏ nhắn mềm mại của  nàng. 

Bốn người cùng lúc giật mình chấn động. 

Kế đó Vu Ô Quyển, Đinh Cửu Trùng, Chu Lão Thán, Kim Hoàn Chân cùng  lúc dấn lên, định bổ về phía Thạch Thanh Tuyền. Chỉ thấy nàng đưa tay lên vung  nhẹ một cái, quả cầu nhỏ lấp lánh sắc vàng liền rời khỏi tay nàng bắn đi, xuyên  qua lỗ hồng trên mái ngói. 

Bốn người cùng lúc tung mình nhảy lên, phá vỡ mái ngói mục nát của ngôi  miếu hoang, tiếng chưởng kình quyền phong chạm nhau vang lên liên miên bất  tuyệt. 

Thạch Thanh Tuyền vẫy vẫy tay với Từ Tử Lăng, sau đó mỉm cười. Rồi nàng  vòng ra sau phật khán. 

Từ Tử Lăng lấy làm ngạc nhiên trước thái độ hữu hảo của Thạch Thanh  Tuyền, nhưng lúc này cũng không còn thời gian để suy nghĩ quá nhiều, liền vội  vàng theo sát sau lưng nàng. 

Thạch Thanh Tuyền đẩy nhẹ vào tấm vách phía sau phật khán, làm lộ ra  một hàng thạch cấp dẫn xuống dưới, trên tay giờ đã có thêm một ngọn phong  đăng sáng bập bùng. Chỉ thấy nàng quay sang nói với Từ Tử Lăng: “Đi theo  Thanh Tuyền! Nhưng mỗi bước đều phải đặt chân đúng lên dấu chân của Thanh  Tuyền, nếu không sẽ gặp họa sát thân đó!”. 

o0o 

Cửa thư trai bật mở. 

Muôn ngàn điểm sáng cùng với những đạo chân khí mãnh liệt khiến người  ta nghẹt thở tràn vào như một cơn bạo phong, cuồn cuộn cuốn về phía Khấu  Trọng đang ngồi vững như bàn thạch trên ghế. 

Nếu đổi lại là bất cứ người nào khác, đối diện với thế công đáng sợ kinh  thiên động địa, quỷ khốc thần sầu này, tất sẽ tìm trăm phương ngàn kế để tránh  né, sau đó mới tìm cách ổn định trận cước, rồi lật lại cục thế. 

Nhưng không biết rất rõ làm như vậy sẽ chỉ có một con đường chết. 

Bởi vì đây không phải là lần đầu tiên gã giao thủ với thích khách, nên gã  hiểu được rằng chỉ cần để mất tiên cơ, để kiếm thế đối phương tận tình phát huy,  bản thân gã đừng hòng mong còn cơ hội phản kích. 

“Cheng!”. 

Tỉnh Trung Nguyệt rời bao, đao tay tả, bao trong tay hữu. 

Cùng lúc đó, gã cũng dồn chân khí lên mí mắt để triệt tiêu áp lực, những  điểm sáng mờ mờ ảo ảo lập tức biến mất không còn tăm tích. 

Dương Hư Ngạn vận một bộ dạ hành y đen tuyền, đầu trùm khăn đen xuất  hiện trước mắt Khấu Trọng, trường kiếm trong tay biến thành một đạo tinh mang  sáng chói, vượt qua khoảng cách hơn trượng từ cửa đến chỗ gã ngồi theo một  đường cong kỳ dị, tốc độ nhanh đến mức mắt thường không thể nhìn rõ. 

Khấu Trọng mới lần đầu tiên gặp phải thứ kiếm pháp lăng lệ hung hiểm  nhường này, nhưng vẫn đại mã kim đao ngồi vững trên ghế, vỏ bao trong tay hữu  hất mạnh lên đón lấy lưỡi kiếm của địch nhân. 

“Đinh!”. 

Tựa như hai đạo liệt hỏa đâm sầm vào nhau. 

Dương Hư Ngạn như chạm phải điện, trường kiếm hóa ra bảy tám đạo kiếm  ảnh, tựa hồ như có thể tấn công vào bất cứ chỗ yếu hại nào trên người Khấu  Trọng. 

“Rắc rắc!”. 

Chiếc hồng mộc kỷ kiên cố gãy ra thành từng mảnh nhỏ. 

Khấu Trọng cười lớn, cố nhịn cơn tê rần ở cánh tay, thu vỏ đao về, hai chân  chạm đất lập tức thẳng người dậy, trầm eo xuống, Tỉnh Trung Nguyệt hoành  ngang quét mạnh một đường về phía đối thủ.  “Đang!”. 

Bảy tám đạo kiếm ảnh của Dương Hư Ngạn lại biến thành cây trường kiếm  bốn thước, ngạnh tiếp một kích với Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng. 

Rõ ràng là công lực Khấu Trọng hơi yếu hơn một chút, phải lùi về sau nửa  bước. 

Dương Hư Ngạn không nói một lời, được thế không tha, triển khai kiếm pháp,  hóa xảo thành vụng, tiếp tục chém ra một kiếm theo sát Khấu Trọng như hình với  bóng. 

Khấu Trọng cảm thấy một chiêu xem ra có vẻ bình thường vô dị này của đối  phương chẳng những khí thế hung hãn vô song, mà còn mang theo một hấp lực  cực lớn, biết rõ đối phương muốn mình phải ngạnh tiếp, nhưng không thể né tránh,  đành phải vung đao lên đỡ lấy. 

“Keng! Keng!”

Đao kiếm liên tiếp chạm nhau năm lượt. 

Dương Hư Ngạn hự nhẹ một tiếng, lướt về phía sau. 

Khấu Trọng cười ha hả nói: “Tiểu tử biết lợi hại chưa?”. 

Thì ra chiêu này của gã bao hàm thủ pháp cực kỳ huyền ảo và sự vận dụng  chân khí một cách hết sức xảo diệu, biến hóa bất định, liên tiếp năm lần đánh bật  trường kiếm của Dương Hư Ngạn, khiến chiêu số của y sử quá đà, không thể tiếp  tục, nên đành phải lui lại. 

Tỉnh Trung Nguyệt phát ra ánh sáng chói loà, cuồn cuộn bổ về phía Dương  Hư Ngạn như nộ hải ba đào. 

Tiếng đao kiếm chạm nhau đã làm kinh động những người ở xung quanh,  bốn phía đều có tiếng bước chân gấp gáp chạy tới. 

Dương Hư Ngạn lướt ra ngoài như một tia chớp, hừ lạnh nói với vào: “Hôm  nay coi như ngươi gặp may!”. 

Khấu Trọng đuổi ra đến ngoài thì y đã nhún người lao vút lên, nhảy lên nóc  nhà đối diện với thư trai rồi biến mất vào màn đêm thăm thẳm. 

Khấu Trọng ngây người nhìn theo, sau đó “oẹ” một tiếng, phun ra một ngụm  máu tươi, lắc đầu cười khổ tự lẩm bẩm nói: “Hảo tiểu tử! Suýt chút nữa là ngươi  thành công rồi!”. 

o0o 

Thạch Thanh Tuyền nhấc ngọn phong đăng, tựa như một tinh linh tràn đầy  lực sống trong địa đạo tối om, nhanh nhẹn đi phía trước, rẽ trái ngoặt phải, không  ngừng đi xuống phía dưới. 

Hơn trăm bậc thang đã hết. 

Thạch Thanh Tuyền dừng lại trước một cửa động hình tròn do con người tạo  nên, giơ cao ngọn phong đăng lên chiếu sáng xung quanh rồi nói với Từ Tử Lăng:  “Hoan ngênh đến với Phục Ma Động”. 

Từ Tử Lăng nhìn vào động khẩu, dưới ánh đèn, gã nhận ra hai bên cửa  động có khắc chữ, bên trái khắc: “Linh tú tự thiên thành”, bên phải khắc: “Thần  công khai động phủ”, trong lòng không khỏi lấy làm ngạc nhiên thốt lên: “Đây là  chuyện gì vậy?”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười nói: “Ta vốn định dựa vào sức một mình để  thu thập bốn tên hung tà này, nhưng hiện giờ có huynh trợ giúp, tự nhiên phần  thắng càng nắm chắc hơn. Huynh rốt cuộc là Khấu Trọng hay Từ Tử Lăng vậy?”. 

Từ Tử Lăng thất thanh nói: “Hả?”. 

Thạch Thanh Tuyền nhún vai: “Nếu không dựa vào tấm mặt nạ Nhạc Sơn  mà huynh đeo đoán được huynh là ai, ta sao chịu dẫn huynh đến tận đây chứ?”. 

Từ Tử Lăng nghĩ mãi mà vẫn không hiểu, bèn hỏi: “Cho dù cô nương nhận  ra đây là mặt nạ giả của Nhạc Sơn, nhưng làm sao đoán được ta là Từ Tử Lăng?”. 

Thạch Thanh Tuyền thản nhiên nói: “Đạo lý rất đơn giản, bởi vì ta nhận  được mật hàm của Lỗ tiên sinh trước khi ông khứ thế, biết được quan hệ của hai  người và Lỗ tiên sinh. Hơn nữa ta đã tận mắt nhìn thấy Nhạc Sơn tạ thế, vì vậy  tuyệt đối không thể nhận lầm huynh là Nhạc Sơn được, thế nên càng có thể  khẳng định nếu huynh không phải họ Từ thì cũng họ Khấu”. 

Từ Tử Lăng đưa tay cởi bỏ mặt nạ, cho vào trong bọc rồi cười khổ: “Thì ra  cảm giác bị người ta vạch trần thân phận lại lúng túng ngượng ngập thế này”. 

Thạch Thanh Tuyền chăm chú nhìn gã hồi lâu rồi gật đầu nói: “Hiện giờ thì  ta hoàn toàn yên tâm rồi”. 

Từ Tử Lăng càng lúc càng cảm thấy nàng cao thâm khó dò, ngạc nhiên nói:  “Cô nương chưa bao giờ gặp ta, tại sao chỉ vừa nhìn đã có thể hoàn toàn yên tâm  được? Rất có thể ta không phải Từ Tử Lăng mà?”. 

Thạch Thanh Tuyền nghiêng tai lắng nghe động tĩnh phía bên trên, rồi tùy  tiện đáp: “Ta biết thuật xem tướng người, vì vậy biết huynh không phải là hạng gian ác, như vậy là có thể yên tâm rồi. Cho dù huynh không phải Từ Tử Lăng,  cũng tuyệt đối không phải người xấu”. 

Chợt nghe thanh âm chát chúa khiến người ta ghê người của Vu Ô Quyển  vang lên bên trên: “Thạch tiểu thư, cô nãi nãi, tiểu tặc nhân nếu ngươi không cút  ra đây bắt ta phải xuống đó kiếm ngươi thì đừng trách lão phu khiến ngươi cầu  sinh không được cầu tử không xong đấy nhé!”. 

Chu Lão Thán gầm lên tiếp lời: “Tiểu tặc nhân dám lấy xá lợi giả ra lừa  chúng ta, xá lợi thật đang ở đâu?”. 

Tiếng động vang vang trong địa đạo, thanh thế thật kinh người. 

Thạch Thanh Tuyền dịu dàng đáp lại: “Tà Đế Xá Lợi thật sự đương nhiên là  ở chỗ ta, có bản lĩnh thì xuống mà lấy! Ta phải đi đây!”. 

Nói đoạn liền đưa tay ra hiệu cho Từ Tử Lăng, tiến vào không gian thần bí  trong Phục Ma Động. 

o0o 

Chúng nhân lần lượt chạy tới bên cạnh Khấu Trọng đang tĩnh tọa điều tức. 

Nhậm Mi Mi thấy gã không sao mới thở phào nhẹ nhõm hỏi: “Kẻ vừa đến là  ai?”. 

Khấu Trọng trầm mặc hồi lâu, liên tục hít vào ba hơi thật sâu mới hờ hững  đáp: “Là tiểu tử Dương Hư Ngạn”. 

Ai nấy đều cả kinh thất sắc. 

Tuyên Vĩnh dẫn người đi khắp nơi truy bắt mà không có kết quả tất tả chạy  tới, sau khi biết được thân phận của thích khách, liền trầm ngâm: “Chúng ta phải  tăng cường phòng vệ phủ tổng quản mới được”. 

Khấu Trọng lắc đầu: “Phương thức hành thích của người này xưa nay biến  ảo khôn lường, hơn nữa có thể ra tay ở bất cứ nơi nào, không cần vì một người  mà lãng phí tinh thần nhân lực như thế”. 

Trần Gia Phong lo lắng nói: “Vậy phải làm sao mới được?”. 

Khấu Trọng mỉm cười: “Ta không sợ hắn, chỉ là sợ sau khi hắn tìm hiểu rõ  về chúng ta rồi sẽ chuyển mục tiêu ám sát sang mọi người để đả kích sĩ khí, lòng tin và tiêu hao thực lực của chúng ta”. 

Tuyên Vĩnh nói: “Chuyện này thật vô cùng nan giải, phương pháp duy nhất  chỉ có tìm cách tìm ra hắn rồi trừ đi, hoặc giả ít nhất cũng phải đuổi hắn rời khỏi  Lương Đô, bằng không mọi người sẽ khó mà ngủ ngon được”. 

Khấu Trọng gật đầu: “Tuy đây không phải là chuyện dễ, nhưng cũng không  phải là không có cách. Thân hình của hắn tương đối đặc biệt, rất dễ nhận ra, vì  vậy chỉ cần thông báo cho quân dân toàn thành, lưu ý một nhân vật như vậy thì  hắn sẽ không thể tàng thân được nữa”. 

Nhậm Mi Mi nói: “Có khi hắn vẫn ở lại trong phủ tổng quản để đợi cơ hội  cũng không chừng”. 

Khấu Trọng nghe vậy liền gật đầu nói: “Chúng ta tốn chút công phu tìm  kiếm khắp phủ tổng quản trước vậy, sau khi khẳng định hắn không ở đây rồi sẽ  đặt thêm các chòi canh bí mật, đặt ra phương thức cảnh báo hiệu quả, ít nhất  cũng có thể khiến địch nhân không thể ra vào như chốn không người”. 

Tuyên Vĩnh thấp giọng nói: “Nếu hắn thực sự vẫn còn trong phủ, chúng ta...”. 

Khấu Trọng động tâm, ngắt lời y nói: “Nếu là như vậy thì đến lượt ta hành  thích hắn rồi...! Hà!”. 

Chúng nhân đều lấy làm ngạc nhiên. 

o0o 

Dưới ánh đèn, Từ Tử Lăng nhận ra mình đang ở một nơi giống như một tổ  ong khổng lồ, phía trước tổng cộng có bảy động khẩu, các động nối liền với nhau,  kéo dài xuống bên dưới, ly kỳ khúc triết, trong động có động, động lớn bao động  nhỏ tựa hồ như một mê cung khổng lồ. 

Từ Tử Lăng theo Thạch Thanh Tuyền đi vào một động huyệt rộng chừng  một trượng, đang định lên tiếng thì Thạch Thanh Tuyền đã ghé miệng sát tai gã  thì thầm: “Đừng nói lớn quá, bên dưới có hàng trăm hàng ngàn con dơi, làm bọn  chúng kinh động thì cảnh tượng sẽ đáng sợ lắm đấy”. 

Từ Tử Lăng nghe mà tóc gáy dựng ngược lên, thầm nhủ nếu đã biết vậy thì  còn xuống đây làm gì. 

Thạch Thanh Tuyền lúc này gần như đã ép sát thân hình mềm mại của mình vào lòng Từ Tử Lăng, cơ hồ như nhìn thấu được tâm sự của gã: “Huynh có  biết tại sao những hang động chúng ta vừa đi qua không có dơi không?”. 

Từ Tử Lăng hoang mang lắc đầu, trong mũi sực nức mùi u hương thoang  thoảng tỏa ra từ mái tóc nàng. 

Thạch Thanh Tuyền thì thào bên tai gã: “Bởi vì có một loại quái thạch, là  khắc tinh của dơi, vì vậy bọn chúng đều không dám tới đó”. 

Cỗ động khẩu vang lên tiếng động lạ, rõ ràng là bọn Vu Ô Quyển đang tìm  xuống động, có điều tốc độ rất chậm, hiển nhiên là đối phương vô cùng cẩn thận. 

Thạch Thanh Tuyền đột nhiên quay người lại, ôm lấy cổ gã. 

Từ Tử Lăng giật mình đánh thót, thầm nhủ đây đâu phải là lúc để làm  chuyện này. 

Thân thể của Thạch Thanh Tuyền vẫn cách gã chừng một thốn, vừa vuốt  nhẹ hữu thủ lên tóc gã, vừa thấp giọng nói: “Ta đang bôi bột phần nghiền từ thứ  quái thạch đó lên đầu huynh, lũ dơi sẽ không dám lại gần huynh trong phạm vi ba  thước, lúc động thủ sẽ rất có lợi”. 

Từ Tử Lăng bắt đầu hiểu ra, đồng thời cũng cảm thấy ngại cùng vì đã hiểu  lầm nàng. 

Thạch Thanh Tuyền lại nói tiếp: “Chúng ta phải dẫn dụ bọn chúng vào động  huyệt có nhiều dơi nhất, lúc ấy chính là lúc bọn chúng phải đền tội. Huynh phụ  trách động thủ, ta phụ trách dùng tiếng tiêu điều khiển lũ dơi, đã hiểu chưa?”. 

Từ Tử Lăng bình tĩnh nói: “Tất cả nghe theo sự phân phó của cô nương”. 

Thạch Thanh Tuyền nói: “Ta phải thổi tắt đèn trước đã”. 

Lời còn chưa dứt, ngọn đèn đã tắt phụt. 

Từ Tử Lăng đầu tiên cảm thấy mắt mình tối sầm lại, kế đó bên dưới không  ngờ lại sáng dần lên, hơn nữa còn có rất nhiều màu sắc khách nhau, lấy màu  trắng làm chủ, ngoài ra còn có vàng nhạt, nâu nhạt, hoàng thổ, xanh phỉ thuý,  màu sắc tuy mờ nhạt nhưng khi gã vận công tụ vào song mục, nhìn rõ sự vật thì  liền lập tức yên tâm. 

Thạch Thanh Tuyền đi trước dẫn đường, những chỗ đi qua quả nhiên có lũ  dơi kinh động đập cánh bay toán loạn, nhưng không có con nào dám bay lại gần  hai người. 

Động huyệt càng lúc càng sâu, thạch nhũ, măng đá, thạch trụ, thạch hoa,  có một số mọc trên đỉnh động, có một số mọc dưới chân hoặc nhô ra trên vách, biến hóa đa đoan, muôn hình vạn trạng. 

Từ Tử Lăng như bước vào thiên cung trong thế giới thần thoại huyền ảo ly kỳ,  hoa lệ vô song. 

Tuyệt diệu nhất là trong động hoàn toàn không cảm thấy oi bức, chắc hẳn là  có đường thông ra bên ngoài. 

Tiếng quát của Vu Ô Quyển lại vang lên bên ngoài, Thạch Thanh Tuyền cơ  hồ như không nghe thấy gì, tiếp tục tiến vào trong. Bởi vì có tiếng đập cánh của lũ  dơi dẫn lối, nên hai người không lo địch nhân không thể tìm tới. 

Hai người khom người tiến vào một động khẩu nhỏ, trước mắt đột nhiên hiện  ra một không gian rộng lớn như tòa miếu đường bên trên, bên trên đen kịt một  màu, cẩn thận nhìn lại mới biết đó là trăm vạn con dơi đang treo ngược đầu, Từ  Tử Lăng nhìn mà cảm thấy ghê cả người. 

Trong động này cái gì cũng lớn hơn các động huyệt khác, thạch trụ, măng  đá, màn đá tạo thành những hình dáng vô cùng đặc biệt.

Bốn phía là những cây leo dày đặc, hoa mọc chi chít thành từng đám hoặc  những bông đơn lẻ, bám chặt vào vách đá, tựa như vải gấm thêu hoa, màu sắc  rực rỡ lạ thường. 

Thạch Thanh Tuyền thấp giọng nói với Từ Tử Lăng: “Huynh hãy tự kiếm lấy  vị trí phục kích, bốn kẻ này đều là những kẻ gian ác có chết cũng không đền hết  tội, giết bớt một tên thì thế gian sẽ an bình thêm một chút, hạ thủ tuyệt đối không  thể lưu tình. Nếu huynh không may chiến tử, ta sẽ phát động cơ quan, bít tất cả lối  ra ở đây để đồng quy ư tận với bọn chúng, báo cừu cho huynh. Nên nhớ, ta sẽ  tạo ra cơ hội tập kích bọn chúng cho huynh”. 

Từ Tử Lăng thầm kinh hãi, nhìn sang phía nàng. 

Đôi mắt Thạch Thanh Tuyền chớp chớp, xạ ra những tia sáng thần thánh  khiến người ta phải kính phục. 

Đột nhiên, Từ Tử Lăng hoàn toàn quên đi chiếc mũi xấu xí của nàng, thấp  giọng nói: “Cô nương đẹp lắm, tại hạ nhất định sẽ không phụ sự uỷ thác của  nàng”. 

Thạch Thanh Tuyền thoáng ngạc nhiên vì hai câu nói hoàn toàn không liên  quan gì tới nhau của Từ Tử Lăng, ngẩn người nhìn gã hồi lâu, rồi mới quay người  đến nấp trong một động khẩu khác. 

Từ Tử Lăng cũng không có thời gian suy nghĩ về hàm ý phong phú trong ánh mắt của nàng, thu nhiếp tâm thần, nấp vào sau một thạch trụ lớn. 

Tiếng đập cánh của lũ dơi càng lúc càng lớn, rõ ràng là địch nhân đang tiến  lại gần. 

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi, chân khí chuyển vận khắp toàn thân, đợi chờ  thời cơ tốt nhất để xuất kích.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 237

Cùng Hung Cực Ác

Khấu Trọng mặc bộ dạ hành y, ẩn thân trên một ngọn cây cổ thụ, chăm  chú quan sát mọi động tĩnh trong phủ tổng quản. Từ góc độ này, chỉ  cần có người chạy ra từ trong nội phủ, nhất định sẽ không thoát khỏi  ánh mắt sắc bén của gã. Cây cối trong phủ đều thấp hơn cây cổ thụ mà gã đang  ẩn nấp nên hoàn toàn không làm thị tuyến của gã bị trở ngại. 

Hành động tìm kiếm hừng hực khí thế, ánh đuốc rợp trời chiếu sáng cả phủ  tổng quản như ban ngày. Sau đó tất cả lại trở nên vắng lặng, rõ ràng là đã uổng  một phen lao sư động chúng. 

Khấu Trọng lấy làm thất vọng. 

Gã có lòng tin rằng Dương Hư Ngạn vẫn còn lưu lại trong phủ vì đoán rằng  Dương Hư Ngạn chắc đã biết gã bị nội thương, nhưng đối phương chắc sẽ không  ngờ được gã lại phục nguyên nhanh như vậy, thế nên theo lý thì y sẽ cho rằng  mình không nên bỏ lỡ thời cơ này mà lưu lại hành thích gã lần thứ hai. 

Một nguyên nhân khác nữa là: sau hai lần giao thủ, chắc Dương Hư Ngạn  cũng hiểu được rằng sau một thời gian ngắn, công lực của gã đã lại tiến bộ hơn  rất nhiều, cho dù y dùng binh khí sở trường cũng khó mà dễ dàng đắc thủ. Bởi  vậy, bất kỳ ai cũng phải nhân lúc gã chưa tiến bộ tới độ không thể thu phục, tiêu  diệt gã càng sớm càng tốt. Càng hiếm có hơn là vì bảo vệ những người khác,  Khấu Trọng không thể không ngoan ngoãn lưu lại trong phủ.

Thế nhưng không ngờ gã đã tính toán sai. 

Ánh đuốc, ánh đèn trong phủ tổng quản từ từ tắt dần, không gian lại trở nên  yên ắng. 

Khấu Trọng thầm thở dài, đang định nhảy xuống thì chợt nghe phía sau có  tiếng gió nổi lên. Gã vội vàng quay người lại, thì thấy một đạo hắc ảnh đao từ một  nóc nhà gần đó đang lao vút về phía cây đại thụ mà gã ẩn nấp như một ánh sao  băng. 

o0o 

Tiếng bước chân rõ ràng, tiếng dơi đập cánh, những thanh âm khác nhau  đập vào vách động làm vang lên những hồi âm khác nhau, khiến cả bầu không  khí như ngưng kết lại. 

Từ Tử Lăng không khỏi cảm thấy kỳ quái vì tiếng bước chân cơ hồ như có  vẻ nặng nề, sau đó lập tức hiểu ra lúc bốn kẻ này tranh đoạt Tà Đế Xá Lợi giả, đã  ác đấu rất kịch liệt, làm cho cả bốn đều thọ thương. Nghĩ tới đây, trong lòng gã  bất giác dâng lên một cảm giác khâm phục, Thạch Thanh Tuyền quả là một nữ tử  trí dũng song toàn, định ra kế sách rồi mới hành động, đầu tiên dùng xá lợi giả  làm tiêu hao thực lực của bốn người bọn Vu Ô Quyển, sau đó dẫn dụ bọn chúng  tới đây để hạ sát thủ, cùng lắm cũng có thể đồng quy ư tận với bọn chúng. 

Chỉ không biết là cơ quan trong động này có phải do Lỗ Diệu Tử thiết kế hay  không? 

Tiếng gió nổi lên, bốn người bọn Vu Ô Quyển hiện thân trong phủ, cách Từ  Tử Lăng chỉ có hai trượng, ai nấy đều lộ ra vẻ hồ nghi, rõ ràng đã biết đây không  phải là nơi đất lành gì. Từ Tử Lăng thấy bọn chùng bước vào vội vàng đeo lại tấm  mặt nạ của Nhạc Sơn. 

Đinh Cửu Trùng hạ thấp giọng nói: “Ta có cảm giác rất bất tường, chi bằng  cứ lùi ra ngoài trước rồi mới nghĩ cách sau”. 

Vu Ô Quyển đang ngưng thần lắng nghe, thấy vậy bèn cười lạnh nói: “Đừng  diễn kịch nữa, ngươi bất quá chỉ muốn lừa ta ra khỏi đây, sau đó lại bí mật trở lại  bắt người chứ gì! Hừ!”. 

Đinh Cửu Trùng tức giận đến nỗi không nói được tiếng nào. 

Kim Hoàn Chân nói: “Tên tiểu tặc nhân đó nhất định đang nấp ở gần đây,  chúng ta hãy chia nhau ra lục soát”. 

Vu Ô Quyển gằn giọng nói: “Đừng hòng ta tin dâm phụ nhà ngươi, ngươi đắc  thủ rồi liệu có lưu lại đợi chúng ta không?”. 

Chu Lão Thán tức giận: “Tin cũng được không tin cũng được, động huyệt  quỷ quái này nguy cơ bốn bề, nếu chúng ta không đồng tâm hiệp lực, có khi chết  rục xương rồi mà cũng không biết là chuyện gì. Thử nhìn lũ dơi quỷ này mà xem,  người ta thường nói bọn chúng ngày ngủ đêm đi kiếm ăn, bây giờ đang là ban  đêm, tại sao vẫn lưu lại đây làm gì? Chỉ nội điểm này thôi đã biết nơi này hết sức  tà môn rồi”. 

Đinh Cửu Trùng nói: “Cũng may là có bọn chúng làm loạn lên, bằng không  có khi tiểu tặc nhân từ một lối ra khoác thoát đi rồi mà chúng ta cũng không hay biết cũng không chừng”. 

Lời còn chưa dứt, từ trong động huyệt lúc nãy Thạch Thanh Tuyền chui vào  chợt truyền ra tiếng rơi đập cánh hỗn loạn. 

Cả bốn người bọn Vu U Quyển cùng lúc phát động, lao thẳng về phía huyệt  động. Đám dơi trên nóc động có quá nửa bị kinh hãi bay tán loạn, đảo tròn trên  đầu bốn người, nhưng kỳ lạ là không có con nào đâm vào con nào, trong ánh  sáng mờ mờ của động phủ, tạo thành một kỳ quan đáng sợ, khiến người ta phải  dựng tóc gáy. 

Từ Tử Lăng lách người ra như điện, lợi dụng tiếng dơi đập cánh yểm hộ, lẻn  tới sau lưng kẻ đi cuối cùng là Đinh Cửu Trùng, đẩy ra một chưởng. Gã đi đến  đâu quả nhiên đám dơi đang bay tán loạn đều tránh dạt ra xa. Gã chỉ vận kình  vào chưởng mà chưa vội phát, đến khi hữu chưởng chỉ còn cách bối tâm của đối  phương chừng ba thốn, mới bất ngờ thổ kình. 

“Bình!”. 

Nhìn bề ngoài thì một chưởng này của gã đã trúng đích, cho dù Đinh Cửu  Trùng có là Ngọc Hoàng Đại Đế cũng phải ô hô ai tai mà thôi. 

Nhưng Từ Tử Lăng biết rõ sự thật hoàn toàn không phải như vậy. 

Khi hữu chưởng của gã còn cách hậu tâm đối phương chừng một thốn, y đã  có phản ứng, khẽ nghiêng người về bên tả, tránh yếu huyệt nơi hậu tâm, chỉ để  Từ Tử Lăng kích trúng bả vai bên hữu. 

Với công lực hiện giờ của Từ Tử Lăng, đối phương lại từng bị thương từ trước,  nói thế nào cũng có thể khiến bả vai của địch nhân vỡ xương nát cốt, chẳng ngờ  khi bàn tay gã chạm vào y phục họ Đinh, cả bả vai y liền hõm vào trước ngực một  cách khó tin, cùng lúc sinh ra một lực đẩy kỳ lạ, hóa giải đi quá nửa chưởng kình  của gã. 

Kế đó Đinh Cửu Trùng hự lên một tiếng, loạn choạng bổ người về phía trước,  nhưng cùng lúc đó y đã kịp tung chân đá ngược về một cước vào hạ âm của Từ  Tử Lăng. Chiêu thức lăng lệ khinh khoái hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của Từ Tử  Lăng. 

Bọn Vu Ô Quyển, Kim Hoàn Chân quay đầu lại nhìn, thấy hai người đang  quần nhau. Kim Hoàn Chân bật cười khanh khách nói: “Người này giao cho Đinh  đại đế ứng phó được rồi!”. 

Ba người cứ thế quay người đi tiếp, thậm chí cả hứng thú quan chiến cũng  chẳng có. 

“Bình!”. 

Từ Tử Lăng lau mồ hôi, khụy gối xuống đỡ lấy một cước đá ngược về phía  sau của Đinh Cửu Trùng. 

Lũ dơi ào ào như lũ rừng lao đến tấn công tên tà nhân bị bỏ rơi này. 

Đến tận lúc này, gã mới hiểu tại sao Thạch Thanh Tuyền lại có ý đồng quy  ư tận với kẻ địch, bởi vì bốn tên tà nhân này quả thực quá lợi hại. Bản thân gã dù  ở trong điều kiện thuận lợi thế này, muốn giết chết Đinh Cửu Trùng cũng là một  chuyện vô cùng khó khăn. 

“A!”. 

Đinh Cửu Trùng bổ về phía trước như ác cẩu tranh phân, miệng oẹ ra một  búng máu. 

Từ Tử Lăng biết công phu quyền cước Đinh Cửu Trùng kém xa giản pháp  xuất thần nhập hóa của y, lẽ nào lại để cho đối phương có cơ hội rút binh khí, liên  tiếp áp sát, nhân lúc y còn đang mất thăng bằng, hóa chưởng thành đao, trảm  vào yếu huyệt hậu chẩm của địch nhân. 

Đinh Cửu Trùng lăn tròn trên mặt đất, đang định bạt giản ra phản kích, thì  chưởng đao của Từ Tử Lăng đã chém tới trước mặt. Tên tà nhân này liền ré lên  một tiếng quái dị, sắc mặt hiện ra sắc đỏ tươi như máu, kế đó há miệng phun ra  một huyết trụ, bắn thẳng vào ngực Từ Tử Lăng, phát sau mà lại đến trước. 

Tà công đáng sợ thế này, đây mời là lần đầu tiên Từ Tử Lăng gặp phải. 

Nếu Từ Tử Lăng không thể tốc chiến tốc thắng, thì sẽ không thể phối hợp  với Thạch Thanh Tuyền ứng phó hai tên hung nhân còn lại và kẻ công lực cao  nhất là Vu Ô Quyển, hơn nữa nếu gã né tránh, để đối phương có cơ hội rút binh  khí, muốn thu thập y sẽ cực kỳ hao phí công sức, nên đành quyết tâm mạo hiểm  một phen.

Lúc này gã vẫn nghiêng người về phía trước, nhưng bất ngờ nghiêng người  sang bên phải, dùng mũi chân giữ toàn bộ trọng lượng cơ thể, vẫn duy trì tư thế  lao lên phía trước, khi huyết tiễn lướt qua ngực gã, liền lập tức ấn mạnh tay xuống  đất bật người trở lại từ thế cũ, chiêu thức hoàn toàn không thay đổi, chỉ là người  hơi dao động một chút mà thôi. 

Tiếng chít chít vang lên không ngớt, mấy chục con dơi bị huyết tiễn xạ trúng,  xương cánh vỡ nát, rơi bịch xuống đất. 

Đinh Cửu Trùng đâu ngờ địch nhân lại có quái chiêu kinh người đến thế, không những có thể sinh kình lực dưới gót chân, nghiêng người tránh khỏi tuyệt  chiêu tất sát của mình, mà thế công vẫn giữ nguyên không đổi, thế nên cho dù có  trăm ngàn thứ tà công mật kỹ cũng không kịp thi triển ứng phó. 

“Bình bình!”. 

Đao chưởng của Từ Tử Lăng chém mạnh vào trán Đinh Cửu Trùng như một  lưỡi tầm sét. 

Hậu Chẩm của Đinh Cửu Trùng đập mạnh xuống nền đá, lập tức táng mạng,  vương miệng đội trên đầu cũng bắn ra, văng sang một bên. 

Sinh tử đúng là chỉ cách nhau trong gang tấc. 

o0o 

Dù dạ hành khách đầu đội khăn đen trùm kít mặt, nhưng dù y có hóa ra tro,  Khấu Trọng cũng chỉ cần liếc mắt là nhận ra ngay đó là Ảnh Tử Thích Khách  Dương Hư Ngạn mà người người nghe danh đều phải biến sắc. 

Khấu Trọng lúc này cũng không còn thời gian để nghĩ xem mình có phải  người đầu tiên hành thích Dương Hư Ngạn hay không nữa, vội vàng thu liễm tất  cả những dấu hiệu có thể khiến đối phương cảnh giác, tạm ngừng hô hấp bằng  mũi, phong bế lỗ chân lông, chỉ he hé mắt ra nhìn xuyên qua tán lá, thầm tính  toán điểm đặt chân của đối phương. 

Thân cây này cao tới mười bảy, mười tám trượng, bất luận là khinh công  Dương Hư Ngạn cao minh tới đâu, từ nóc nhà cao hai trượng nhảy lên, lại phải  vượt qua khoảng không hơn bốn trượng, theo lý chắc phải đặt chân lên một cành  nào đó chìa ra ở giữa thân cây, sau đó mới chuyền cành nhảy lên ngọn, từ đây  quan sát tình hình trong phủ. 

Trong nháy mắt, trong đầu gã hiện ra vô số phương pháp đột kích đối  phương, cuối cùng vẫn quyết định lấy tĩnh chế động, đợi đối phương nhảy lên tới  nơi thì mới toàn lực xuất thủ, khiến y trở tay không kịp. 

Đột nhiên có tiếng động lạ vang lên, tả thủ Dương Hư Ngạn phóng ra một  mũi dùi nhọn, bắn về phía chân gã như một ánh chớp. Khấu Trọng đang cả kinh  thất sắc thì mũi dùi đã xuyên vào chỗ thân cây dưới chân gã chừng năm thước,  làm sợi dây nối ở đuôi mũi dùi chỉ nhỏ như sợi tơ bị kéo thẳng băng. 

Dương Hư Ngạn thay đổi phương hướng, lao về phía chân gã. 

Khấu Trọng không cần nghĩ ngợi, vận công vào Tỉnh Trung Nguyệt, chém  thẳng vào chỗ đuôi của mũi dùi. 

“Đinh!”. 

Dương Hư Ngạn như chạm phải điện, cả người bị Loa Hoàn Kình của Khấu  Trọng truyền qua sợi dây chấn động làm cho nôn ra một búng máu tươi, bắn ra  phía ngoài. 

Sợi dây đứt đoạn thành nhiều mảnh. 

Khấu Trọng thấy tập kích thành công, nào chịu bỏ qua cơ hội ngàn năm có  một, vội vàng đề tụ chân khí, tung người lao xuống, lăng không truy sát Dương Hư  Ngạn đang lảo đảo giữa không trung. 

Dương Hư Ngạn quả không hổ là cao thủ thành danh trong thiên hạ, khi rơi  xuống cách mặt đường tối đen chừng hai trượng thì đã kịp thời lấy lại thăng bằng,  vận khí gia tăng tốc độ trầm xuống, tránh khỏi một đao tất sát của Khấu Trọng  trong gang tấc.

“Bình! Bình!”. 

Hai người lần lượt hạ thân xuống con phố dài không một bóng người bên  cạnh phủ tổng quản, đao kiếm chạm nhau liên tiếp. 

Dương Hư Ngạn đưa ống tay áo lên lau vết máu trên khoé miệng, song mục  lộ lấp lánh hung quang, gằn giọng nói: “Chiêu này của Khấu huynh quả là cao  minh, không ngờ có thể khiến Dương mỗ lần đầu tiên thọ thương trong khi hành  thích, đáng để tự hào lắm đó!”. 

Khấu Trọng cười hì hì: “Dương huynh mới là bất phàm, đỡ được một kích  toàn lực của tiểu đệ mà vẫn đứng vững như Thái Sơn, không chút sơ hở, có điều  nếu không kịp thời tìm chỗ nào không ai tìm thấy để vận công liệu thương, công  lực ắt sẽ tiêu giảm đáng kể, lần sau làm thích khách sẽ không linh nữa đâu!”. 

Dương Hư Ngạn bật cười nói: “Đa tạ Khấu huynh đã quan hoài, có điều tiểu  đệ gặp Khấu huynh một thân một mình thế này, làm sao có thể bỏ qua cơ hội  ngàn năm một thuở được chứ, đành phải liều mạng bồi tiếp quân tử vậy! Xem  kiếm!”. 

Lời vừa dứt thì y đã tiến lên ba bộ, kiếm khí ồ ạt bức tới như sóng thủy triều. 

Khấu Trọng đâu ngờ y đã thọ trọng thương mà vẫn dũng mãnh nhường này,  không ngờ còn muốn tiên phát chế nhân, nhưng cũng không khỏi thầm thán phục, biết đối thủ đáng sợ này của mình đang hi vọng trước khi thương thế phát tác,  giành lấy chủ động, nếu có thể tốc chiến tốc quyết là lý tưởng nhất, bằng không  thì lúc cần thiết muốn đào tẩu cũng dễ hơn rất nhiều. 

Khấu Trọng nhướng mày, tay nắm chắc Tỉnh Trung Nguyệt, mắt hổ mở lớn  nhìn chằm chằm vào đối thủ, cười gằn nói: “Nếu Dương huynh chiêu này thất bại,  ngày này năm sau sẽ là giỗ đầu của huynh đó!”. 

Dương Hư Ngạn bình thản đáp: “Khấu huynh đánh giá bản thân mình quá  cao đấy!”. 

Lời vừa dứt, liền hừ lên một tiếng, xuất kiếm đâm tới. 

“Đang!”. 

Khấu Trọng vận đao đỡ lấy kiếm thế, bật cười trêu trọc: “Thì ra thương thế  của Dương huynh còn nghiêm trọng hơn ta tưởng nữa, cả Ảnh Tử Kiếm Pháp  thành danh cũng không sử ra nổi nữa hay sao?”. 

Dương Hư Ngạn vừa vận kình hóa giải từng đợt từng đợt Loa Hoàn Kình từ  thân đao truyền qua, mỉm cười đáp: “Không phải là Ảnh Tử Kiếm Pháp, mà là Ảo  Ảnh Kiếm Pháp, hãy xem đây!”.

Dứt lời liền hoành kiếm hất đao ra, đẩy Khấu Trọng lui về sau ba bước, sau  đó kiếm thế mở rộng, biến thành muôn ngàn đạo kiếm ảnh rợp trời, kình khí cuồn  cuộn, thanh thế bá đạo tựa thiểm điện kinh lôi, dồn về phía Khấu Trọng như một  trận cuồng phong hung hãn. 

Vừa mới bị y vận kình chấn lui, Khấu Trọng đã biết chuyện không hay, người  này căn cơ thâm hậu, công lực thực đã đạt tới mực không thể liệu định, không  ngờ còn có thể áp chế nội thương, vận đủ mười thành công lực triển khai thế  công hung mãnh nhường này, bản thân gã nếu không cẩn thận, có khi lật thuyền  trong mương rạch, phải trả giá bằng cả tính mạng cũng không chừng. 

Khấu Trọng trong lúc vô kế khả thi, đành phải dựa vào bản lĩnh chân chính  để giữ tính mạng, lao thẳng vào luồng kiếm quang mờ mịt cả đối phương, lấy  công đối công, thi triển các chiêu số lấy mạng đổi mạng, ý đồ làm thương thế của  Dương Hư Ngạn phát tác, sau đó nhất cử sát địch, hoặc cùng lắm cũng có thể  cầm chân địch nhân, không cho y đào tẩu. 

Nhất thời sát khí dày đặc khắp không gian, hai người bị đao quang kiếm ảnh  che khuất, chiêu nào chiêu nấy đều hung hiểm vạn phần, chỉ hơi sơ sót là lập tức  có kẻ phải nuốt hận đương trường. 

Tiếng kình khí, đao kiếm chạm nhau vang lên liên miên bất tuyệt, chấn động cả góc phố. 

Mỗi lần đao kiếm chạm nhau, hoa lửa lại bắn tung tóe, mỗi chiêu mỗi thức  đều tuyệt không dung tình, lấy nhanh đánh nhanh, không hề có chút tiểu xảo. 

Có tiếng y phục phất gió phần phật từ phía tổng quản phủ truyền lại, chứng  tỏ người bên phía Khấu Trọng đã nghe tiếng chạy tới. Những nhà xung quanh  cũng không ngừng vang lên tiếng cửa sổ bật mở, chắc hẳn là tiếng hai người ác  đấu đã làm cả khu dân cư phải bừng tỉnh khỏi giấc ngủ say nồng. 

“Đang!”. 

Tình thế đột nhiên thay đổi. 

Khấu Trọng giở hết công lực toàn thân cũng không tránh nổi một chiêu này  của Dương Hư Ngạn, bị y bức lui ra xa năm bước. 

Trong lòng đang thầm kêu khổ thì Dương Hư Ngạn đã lướt ra phía sau, cười  dài nói: “Ân tứ Khấu huynh ban cho ngày hôm nay, sau này tiểu đệ nhất định sẽ  hồi báo”. 

Khấu Trọng nhìn theo, biết rõ là không thể đuổi kịp, bèn cho đao vào vỏ nói  với theo: “Nhờ Dương huynh nói giúp với Tiểu Ni Ni, bảo nàng rằng cả đời này  Khấu Trọng cũng sẽ không quên nàng đâu!”. 

Dương Hư Ngạn bất ngờ thổ ra một búng máu, rồi mới lách người chạy vào  trong một ngõ tối. 

Lúc này bọn Tuyên Vĩnh mới lần lượt chạy tới. 

Khấu Trọng đưa tay ngăn lại, rồi bình thản nói: “Ít nhất trong mấy tháng tới  chúng ta cũng không cần lo lắng gì về tên tiểu tử này nữa”. 

o0o 

Tiếng tiêu đột nhiên nổi lên, sắc nhọn đến chói tai, vừa mới bắt đầu âm sắc  đã cực cao, nhưng vẫn còn tiếp tục lên cao cao mãi, tiếng vang đập đi đập lại  khắp các động lớn động nhỏ. 

Muôn ngàn con dơi bị tiếng tiêu ảnh hưởng, tụ lại một chỗ, tiếng đập cánh  ầm ầm như cuồng phong, thoạt nhìn trông như một trận đại hồng thủy phun ra từ  một địa huyệt nào đó, thanh thế kinh người, bất cứ ai nhìn thấy cũng phải kinh  hồn bạt vía. 

Từ Tử Lăng sớm đã biết trước Thạch Thanh Tuyền sẽ dùng tiêu âm điều  khiển bầy dơi, nhưng cũng không ngờ lại đáng sợ đến vậy, chỉ thấy động huyệt  toàn là hắc ảnh, đang lao về phía mình, gã vội vàng lùi lại, nấp vào một bên cửa  động. 

Thò đầu vào nhìn, gã thấy ba người bọn Vu Ô Quyển đang chạy thục mạng  ra ngoài, điên cuồng vung chưởng đánh vào những con dơi đang không ngừng bổ  tới cắn xé. Ba tên tà nhân này công lực vô cùng thâm hậu, đã có một số lượng  lớn dơi bị trúng chưởng rơi xuống, mặt đất đen xì đầy xác dơi, mà bọn chúng cũng  chỉ có thể hộ vệ được những bộ phận dễ tổn thương như tai mắt mũi miệng, còn  những con khác bổ vào cắt xé thân mình thì đều vận công truyền qua y phục làm  cho chấn động mà chết. 

Thế nhưng lũ dơi nhiều đến cơ hồ như vô cùng vô tận, bất luận bọn chúng  có giết chết bao nhiêu, đàn dơi vẫn không ngừng bổ về phía chúng cắn xé, giống  như một đám mây đen trùm kín lên đầu chúng vậy, làm cho cả ba tên hung nhân  không thể không cắm đầu bỏ chạy như lũ chuột nhắt. 

Từ Tử Lăng mới lần đầu tiên trông thấy dơi tấn công người, hơn nữa lại hung  hãn đến vậy, tới giờ mới hiểu được diệu dụng của thứ bột phấn mà Thạch Thanh  Tuyền đã thoa lên tóc gã. 

Trong truyền thuyết dân gian có nói loài dơi ngày ngủ đến đêm mới ra ngoài  hút máu tươi làm vật thực, nhưng đối tượng chỉ là động vật hoặc gia cầm, chứ  chưa từng nghe ai nói dơi tấn công người cả. Có thể do dơi ở đây là một loại đặc  biệt, hoặc giả chính tiếng tiêu của Thạch Thanh Tuyền đã làm chúng mất đi bản  tính. 

Toàn bộ số dơi trong hang động đã được huy động, đổ dồn tới động huyệt  mà ba tên hung nhân chạy vào, những con chưa kịp bay vào thì cùng với những  con còn lại từ các động huyệt khác bay tới tụ thành một đại quân, cuồng phi loạn  vũ khắp nơi trong động, tiếng đập cánh, tiếng kêu chí chí nghe đinh tai nhức óc.  Nhưng lạ một điều là chu vi ba thước xung thanh Từ Tử Lăng thì không thấy một  bóng dơi nào cả. 

Nhưng bất luận là bay lượn thế nào, dơi nhiều bao nhiêu, vẫn không có hai  con dơi nào đâm phải nhau, mà mỗi khi bay lại gần nhau chúng đều lượn đi theo  một đường hình cung đẹp mắt, làm Từ Tử Lăng nhìn mà tấm tắc khen tuyệt, đồng  thời cũng ghi nhớ vào trong lòng. 

Kình khí cuồn cuộn đẩy ra, một số lớn dơi bị đánh tan xương nát thịt hất  ngược ra ngoài huyệt động. 

Từ Tử Lăng thoáng động tâm, vội lướt người nấp vào chỗ đường ra lúc đầu,  đợi bầy dơi làm tiêu hao thêm một phần nguyên khí của kẻ địch. 

Những tiếng kêu quái dị liên tiếp vang lên, cuối cùng thì Vu Ô Quyển cũng  mở được một con đường máu, xông ra ngoài huyệt động. 

Cả trăm ngàn con dơi đang vần vũ bên ngoài liền ồ ạt bổ tới như bầy ong  mật nhìn thấy hoa thơm, cả người Vu Ô Quyển như bị cuốn vào một trận gió lốc  hình thành bởi lũ dơi, muốn dịch chuyển nửa bước cũng khó hơn lên trời. 

“A...!”. 

Vu Ô Quyển cũng không hổ danh là cao thủ tuyệt đỉnh, được liệt danh vào  Tà Đạo Bát Đại Cao Thủ, kình khí tán phát từ khắp châu thân, trong chu vi mấy  thước xung quanh lão, không một con dơi nào là thoát chết, lả tả rơi xuống như  mưa. 

Chu Lão Thán và Kim Hoàn Chân lúc này cũng đã xông ra được khỏi động  khẩu, hai tay họ Chu đã lớn lên gần gấp đôi, còn Kim Hoàn Chân thì đầu tóc tán  loạn, trông giống như một mụ điên nơi đầu đường xó chợ, dáng vẻ thảm hại vô  cùng. 

Tiếng tiêu vẫn vang lên và ngày càng cao vút, càng lúc càng gấp gáp, cho  dù trong huyệt động đầy tiếng đập cánh ầm ầm của lũ dơi cùng tiếng chưởng kình  ầm ầm, tiếng tiêu vẫn không hề bị át đi nửa phần. 

“Á!”. 

Kim Hoàn Chân kêu lên một tiếng thảm thiết như xé ruột xé gan, có điều  không phải vì bị lũ dơi cắn xé mà do bị Vu Ô Quyển đá cho một cước vào ngay  bụng dưới, cả người liền bay ngược ra sau, máu tươi phun ra như suối. 

Không biết có phải vì mùi máu tanh kích thích hay không, mà một số lớn  trong bầy dơi đã bỏ qua hai người bọn Vu Ô Quyển và Chu Lão Thán, nhào về  phía Kim Hoàn Chân. 

Từ Tử Lăng không ngờ trong tình huống hung hiểm thế này mà Vu Ô Quyển  vẫn còn ra tay hạ sát thủ với đồng bọn, tuy gã chẳng hề có chút hảo cảm gì với  Kim Hoàn Chân, song cũng không khỏi cảm thấy thầm tiếc thay cho thị. 

Chu Lão Thán rống lên một tiếng, rồi lách mình bỏ chạy. 

Vu Ô Quyển cười lên ha hả: “Thiên hạ không có chỗ nào làm nơi táng thân  tốt hơn huyệt động này, để ta cho các ngươi làm một đôi đồng mệnh uyên ương  vậy!”. 

Nói đoạn, môt tay vung lên xua đuổi lũ dơi, một tay đẩy ra một chiêu phách  không chưởng, kình phong xé gió lao vút vào sau lưng Chu Lão Thán, thủ đoạn  lang độc quả thật khiến người ta phải trợn mắt le lưỡi vì kinh ngạc. 

Chu Lão Thán không tránh cũng không né, chỉ khom người lại hứng lấy một  chưởng của y, đồng thời mượn lực gia tăng tốc độ, vượt qua khoảng cách ba  trượng, lao tới ôm chạt Kim Hoàn Chân dưới đất vào lòng, cùng lúc đẩy chân khí  ra, đám dơi bị chấn động liền lập tức bay tản ra xa. 

Vu Ô Quyển đang định phóng tới hạ độc thủ kết liễu cả hai thì Chu Lão  Thán đã hét lớn một tiếng, ôm Kim Hoàn Chân chạy bừa vào một động huyệt gần  đó, kéo một số dơi lớn. 

Những con khác lại xoay tròn tấn công Vu Ô Quyển. 

Tên tà nhân cùng hung cực ác này lộ ra vẻ tiếc rẻ, tung mình phóng về phía  Từ Tử Lăng, có vẻ như muốn chạy lên mặt đất. 

Từ Tử Lăng nào chịu bỏ qua cơ hội này, liền lập tức đánh ra một chưởng. 

Vu Ô Quyển cười lên ha hả: “Ta sớm đã liệu trước rồi!”. 

Độc cước đồng nhân phía sau lưng đã cầm trong tay, bổ về phía Từ Tử Lăng  một chiêu hung mãnh như khai sơn phá thạch. 

“Bình!”. 

Từ Tử Lăng bị lực phản chấn của y làm cho khí huyết nhộn nhạo, lảo đảo lùi  về sau mấy bước, còn đối phương cũng bị một kích toàn lực của gã đẩy bật về  phía sau, rơi trở lại vào vòng vây của lũ dơi. 

Từ Tử Lăng chính diện giao phong với y một chiêu, trong lòng thầm kinh hãi,  thầm nhủ nếu không phải do đối phương đã hao tổn chân nguyên, lại còn bị nội  thương, thì gã đã vị tất đã cản đối phương lại được. 

Lúc này Vu Ô Quyển đang vung độc cước đồng nhân nặng hơn trăm cân  trong tay lên đánh loạt xạ, độc cước đồng nhân quét tới đâu, lũ dơi liền tan xương  nát thịt rơi xuống đến đấy, trên nền đất xác dơi chất mỗi lúc một dày hơn, tình  cảnh vô cùng đáng sợ. 

Trong động vốn đã u ám, toàn bộ đều dựa vào ánh sáng phát ra từ những  thạch nhũ chiếu sáng, giờ đây đám dơi lại bay loạn xạ làm thị tuyến của y, giúp  cho Từ Tử Lăng một phần đáng kể. 

Từ Tử Lăng lách người nhảy sang một vị trí khác, điểm ra một chỉ, chỉ phong  xuyên qua tấm màn dơi dày đặc, bắn vào yếu huyệt bối tâm của Vu Ô Quyển. 

Toàn thân Vu Ô Quyển giật bắn lên, phun ra một búng máu lớn, đồng thời  gầm lên một tiếng kinh thiên động địa, sau đó cũng học theo Chu Lão Thán lao  bừa vào một động huyệt gần đó. 

Từ Tử Lăng lúc này cũng đã kiệt lực, một chưởng một chỉ vừa rồi đã làm gã  tiêu hao phần lớn chân nguyên vậy mà vẫn không đánh ngã được tên hung nhân  này, từ đây có thể thấy được công lực của y thâm hậu nhường nào. 

Tiếng tiêu đột nhiên ngưng lại. 

Thạch Thanh Tuyền từ trong một động huyệt phóng ra, sắc mặt trắng bệch  như vừa hao tổn rất nhiều chân nguyên, nhưng màu sắc của chiếc mũi xấu xí vẫn  giữ y nguyên, không hề đổi sắc như những bộ phận khác trên mặt. 

“Chúng ta đi!”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Gian nhân còn chưa đền tội, cứ như vậy bỏ qua  cho chúng ư?”. 

Thạch Thanh Tuyền khàn giọng đáp: “Ta phải phong bế động huyệt, huynh  có muốn lưu lại không?”. 

Từ Tử Lăng giật mình kinh hãi, vội vàng theo sát sau lưng nàng ra khỏi động  huyệt.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 238

Tà Đế Âm Hậu

Từ Tử Lăng theo sát phía sau Thạch Thanh Tuyền, trong lòng đầy những  nghi hoặc. Lúc đầu rõ ràng là nàng đã nói sau khi phong bế lối ra sẽ cùng  đồng quy ư tận với đám ma đầu, như vậy đương nhiên là cơ quan điều  khiển phải đặt bên trong động, một khi khởi động, chính bản thân người phát  động cũng không kịp chạy ra, thế nên mới dẫn đến hậu quả phải cùng chết với  địch nhân. Nhưng nghe khẩu khí vừa nãy của Thạch Thanh Tuyền, thì dường như  cơ quan điều khiển lại đặt bên ngoài, muốn phong bế động khẩu cũng dễ như ra  ngoài tiện tay đóng cửa vậy, trước sau mâu thuẫn. 

Thạch Thanh Tuyền lúc này đã chạy vào cửa hang động lớn không có dơi  lúc đầu tiên, đột nhiên quay ngoắt người lại, đưa mắt ra hiệu cho gã. 

Từ Tử Lăng cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, vừa thấy vậy đã lập tức  hiểu ra đây chỉ là kế dụ địch của nàng. 

Trong lòng gã không khỏi thầm khâm phục nữ tử thanh lệ đứng trước mắt  mình lúc này, chỉ một câu nói hết sức đơn giản, đã đủ đễ dẫn dụ địch nhân muốn  chạy từ những lối thoát khác nhau trở lại. Có điều kế này có thành công được hay  không vẫn còn là một ẩn số, bởi vì trong tiếng ồn ào hỗn loạn do bầy dơi gây ra,  tai mắt bọn Vu Ô Quyển dù có linh mẫn hơn người đi chăng nữa cũng chưa chắc  đã nghe được hai người đối thoại. Ý nghĩ này vừa lướt qua đầu gã thì phía sau đã  nghe tiếng y phục phất gió phần phật. 

Từ Tử Lăng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, quay người đánh ra một quyền  khai sơn phá thạch. 

“Phù!”. 

Khi gã cảm thấy có điều không ổn, cũng là lúc gã nhận ra mình chỉ đánh  trúng ngoại bào của Vu Ô Quyển. 

Ánh vàng loé lên, Vu Ô Quyển hiện thân bên trái gã, độc cước đồng nhân  quét tới như một cơn lốc, thế công bá đạo, uy mãnh tuyệt luân. 

Từ Tử Lăng xuất chiêu quá đà, chỉ có thể dịch người sang một bên né tránh,  trong lòng thầm kêu không hay.  “Đinh!”. 

Thạch Thanh Tuyền lướt nhẹ tới như một cơn gió, trúc tiêu liên tục điểm ra, thủ pháp tinh diệu huyền ảo phi thường, nhưng cũng chỉ mong cản được y trong  giây lát để Từ Tử Lăng có cơ hội phản kích. 

Vu Ô Quyển hiểu rõ đây là thời khắc quyết định sinh tử của y, liền giở ra  bản lĩnh cuối cùng, độc cước đồng nhân thoát thủ bay thẳng về phía Thạch Thanh  Tuyền, còn người thì thừa cơ phóng vút ra ngoài động. 

Khi Thạch Thanh Tuyền tránh khỏi đồng nhân, thì Từ Tử Lăng đã nhảy bổ  tới sau lưng họ Vu, cách không đẩy ra một chưởng. 

Vu Ô Quyển bỗng nhiên gia tăng cước lực, chẳng thèm nhìn lại đã lật tay  đẩy ngược lại một chưởng, nghênh tiếp với Loa Hoàn Kình nóng rực như lửa hỏa  diệm sơn của Từ Tử Lăng. 

“A!”. 

Vu Ô Quyển phun ra một búng máu tươi, thương thế lại nặng thêm một phần,  nhưng cũng đã biến mất trên thạch cấp. 

“Rầm!”. 

Độc cước đồng nhân lúc này mới lao sầm vào vách đá, làm những bông hoa  đá hình dáng kỳ lạ vỡ vụn thành bụi phấn bay lả tả. Qua đây có thể thấy tốc độ  giao thủ của Từ Tử Lăng và Vu Ô Quyển nhanh tới nhường nào. 

o0o 

Khấu Trọng vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, chưa xuống giường thì đã nhớ tới  Từ Tử Lăng. Những ngày không có tên tiểu tử này thật không quen chút nào, gã  không biết tìm đâu một người để nói vài câu bậy bạ hoặc thổ lộ dốc bầu tâm sự,  trút bỏ những phiền não trong lòng. 

“Rốt cuộc hắn đang làm gì? Có phải đang kiêm trình ngày đêm không nghỉ  hay không?”. 

“Ta có nên vì tranh bá thiên hạ mà để Từ Tử Lăng rời khỏi mình, đi đến vực  ngoại tìm kiếm phương thức sống mà hắn yêu thích hay không?”. 

Bất luận là hoàng đế hay tể tướng, anh hùng hay hào kiệt, sinh mạng cũng  chỉ rất ngắn ngủi, rất phù du. Giống như mấy năm vừa qua vậy, mấy năm thời  gian trôi qua nhanh như một giấc mộng vậy. Đời người chỉ là kinh nghiệm và hậu  quả sản sinh ra sau vô số chọn lựa của chính bản thân người đó. Chỉ hận một điều là gã và huynh đệ tốt nhất của mình lại chọn lựa những con đường khác  nhau, khiến cho hai gã cuối cùng cũng phải có một ngày phải phân ly. 

Tiếng gõ cửa vang lên. 

Khấu Trọng thầm thở dài một tiếng, bật người xuống giường. 

Thanh âm của Tuyên Vĩnh cất lên bên ngoài: “Thiếu Soái, Kỳ Phi trở về rồi,  có chuyện gấp muốn bẩm báo!”. 

Khấu Trọng lập tức dẹp hết những suy nghĩ vẩn vơ lúc nãy sang một bên,  vội vội vàng vàng cất tiếng gọi: “Mau vào đây!”. 

o0o 

Mặt trời ló dạng sau ngọn núi nhỏ nơi chân trời phía Đông. 

Từ Tử Lăng rời tay khỏi tấm lưng ngọc ngà của Thạch Thanh Tuyền, chậm  rãi đứng dậy, bước ra khỏi khu rừng rậm nơi hai người đang ẩn thân, đến bên bờ  một dòng suối nhỏ. 

Nước suối trong mát lạ thường. Từ Tử Lăng soi bóng xuống nước mới phát  hiện mình vẫn còn đang đeo tấm mặt nạ của Nhạc Sơn, liền tháo xuống cất vào  bọc, quỳ xuống sát dòng suối, vốc nước uống liền mấy ngụm, thuận tay rửa sạch  bụi bặm trên mặt mũi, cảm giác mát lạnh thống khoái đó, cơ hồ như đã rửa sạch  cả những mệt mỏi do trận kịch chiến đêm trước gây ra. 

Lúc này gã mới có cơ hội thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã nơi  đây. 

Khu rừng nhỏ này nằm giữa hai đồi nhỏ, toàn kỳ sơn bên trong có động dơi  nằm ở đầu kia của bình nguyên phía Đông, bị mây mù che phủ, lưng chừng núi có  một dải mây bay lững lờ tựa như một mỹ nữ đang lấy tay che mặt. Trên hai quả  đối hai bên khu rừng, hoa quả mọc xum xuê, Từ Tử Lăng đang suy nghĩ xem nên  hái vài quả lót dạ trước hay là đợi Thạch Thanh Tuyền tỉnh dậy mới động thủ thì  dưới nước chợt hiện ra thêm một bóng người nữa. 

Từ Tử Lăng nhìn bóng phản chiếu dưới mặt nước mỉm cười nói: “Thạch tiểu  thư có thể phục nguyên nhanh như vậy, thật khiến người ta khó mà tin được”. 

Thạch Thanh Tuyền đến bên cạnh gã, chậm rãi cởi bỏ đôi hài nhỏ nhắn, để  lộ ra đôi chân trắng như ngọc, tự nhiên thoải mái đung đưa trong làn nước mát lạnh, trúc tiêu đặt trên bãi cỏ gần đó. Chỉ thấy nàng chăm chú nhìn xuống nước,  nhẹ giọng hỏi: “Đêm qua tại sao huynh nói ta đẹp? Ta như thế này cũng gọi là  đẹp ư?”. 

Từ Tử Lăng cũng học theo nàng cúi đầu nhìn bóng phản chiếu của mình  dưới nước, nhún vai thoải mái đáp: “Xưa nay ta không hề nghĩ đến vấn đề thế nào  là đẹp, thế nào là không đẹp cả. Chỉ là lúc ấy chợt thấy trên gương mặt tiểu thư  hiện ra một vầng hào quang thần thánh, đẹp tới độ không một bút mực nào tả xiết  nên mới nhất thời cảm thán mà buột miệng thốt ra những lời mạo phạm đó, mong  Thạch tiểu thư chớ trách!”. 

Thạch Thanh Tuyền trầm mặc giây lát rồi nhẹ nhàng hỏi tiếp: “Vậy bây giờ  ta có còn đẹp như lúc đó nữa không?”. 

Từ Tử Lăng gật đầu: “Càng nhìn càng thấy đẹp. Đây là những lời thật lòng  của tại hạ, tuyệt đối không phải cố ý lấy lòng cô nương”. 

Thạch Thanh Tuyền khẽ mắng: “Đừng có nói bậy. Huynh đã nhìn thấu chiếc  mũi này của ta là đồ giả đúng không?”. 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Đó là chuyện sau này, tiểu thư xin chớ đa tâm. Tại hạ  đối với tiểu thư hoàn toàn không hề có ý gì khác đâu”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười: “Ta vốn định cho huynh xem gương mặt thật  của mình, nhưng huynh đã nói thế thì thôi vậy!”. 

Từ Tử Lăng lại cười khổ, không nói gì thêm. 

Chẳng ngờ Thạch Thanh Tuyền lại không chịu buông tha cho gã, quay đầu  lại nhìn thẳng vào mặt gã mà hỏi: “Tại sao huynh lại cười ám muội như vậy?”. 

Từ Tử Lăng thản nhiên đáp: “Bởi vì tại hạ vừa để lỡ một cơ hội được nhìn  thấy tuyệt thế giai nhân trong thiên hạ. Tiểu thư đã khiến Từ Tử Lăng này dâng  lên một cảm giác hiếu kỳ rất mạnh mẽ, không cần nói đâu xa, chỉ riêng tiếng tiêu  thiên hạ vô song của tiểu thư đã đủ để tiểu đệ đây suốt đời không quên, cảm  thấy kiếp này sống đã không uổng phí rồi”. 

Thạch Thanh Tuyền vui vẻ nói: “Bản lĩnh dỗ ngọt nữ nhi giỏi nhất của huynh  chính là có thể khiến người ta tuyệt đối không hoài nghi sự chân thành của huynh.  Kỳ quái hơn nữa là đêm qua huynh gặp bao nhiêu quái sự như vậy, sao lại không  mở miệng hỏi Thanh Tuyền lấy nửa câu? Ôi! Rốt cuộc huynh là người thế nào  đây?”. 

Từ Tử Lăng lại cười khổ nói: “Không phải là ta không muốn biết, chỉ là dáng  vẻ như muốn cự tuyệt người từ ngoài ngàn dặm của tiểu thư khiến ta rất ái ngại, nên thà rằng giữ cho mình chút tự tôn, coi như không nghe không thấy mà thôi!  Hà! Có phải ta rất đáng cười hay không?”. 

Thạch Thanh Tuyền ngạc nhiên bật cười, ánh mắt quay sang nhìn bóng hình  của mình dưới nước: “Đây đúng là thượng sách để đối phó Thanh Tuyền, làm cho  người ta trúng kế mà quay sang hỏi ngược lại huynh, thật đáng ghét!”. 

Từ Tử Lăng vươn mình lười nhác, ngả luôn người ra phía sau, nhìn mây trắng  trôi lững lờ trên bầu trời trong xanh, thản nhiên nói: “Chiếc mũi giả của tiểu thư,  mê cung và phá miếu tất cả đều là diệu kế của Lỗ tiên sinh phải không?”. 

Thạch Thanh Tuyền hứng thú liếc nhìn gã một cái rồi nói: “Toàn bộ đều  đoán đúng cả, nếu không phải có mê cung động dơi ấy, ta và huynh chỉ sợ đã  không thể ngồi đây đàm thiên thuyết địa thế này rồi. Bốn kẻ này đều là đệ tử đích  truyền của Tà Đế, nếu không phải chúng bị lời thề kềm chế, hai mươi năm nay  không dám ra ngoài gây chuyện, thì thế gian này không biết đã có bao nhiêu  người bị chúng hại chết rồi”. 

Nghĩ đến sự tàn nhẫn lang độc của bốn người bọn Vu Ô Quyển, Từ Tử Lăng  chợt cảm thấy không lạnh mà run, đến giờ vẫn còn chưa hết kinh hãi. 

“Tà Đế là thứ gì?”. 

Thái độ của Thạch Thanh Tuyền với gã đã cải thiện đáng kể, chỉ thấy nàng  bật cười khúc khích nói: “Tà Đế không phải là thứ gì, mà là một nhân vật siêu  quần bạt tụy trong tà phái, mấy chục năm trước cùng xưng danh với Âm Hậu  Chúc Ngọc Nghiên, uy danh trên giang hồ tuyệt đối không thua kém Tán Nhân  Ninh Đạo Kỳ, chỉ là phân biệt chính tà mà thôi”. 

Từ Tử Lăng ngồi bật dậy ngạc nhiên nói: “Sao tại hạ chưa từng nghe ai nhắc  đến người này nhỉ?”. 

o0o 

Lạc Kỳ Phi ngồi xuống rồi cung kính nói: “Chúng ta vừa mới nhận được tin  tức báo về, Đô Nhậm của Lạc Mã Bang và Quật Ca đã kết thành liên minh,  chuẩn bị phản kích chúng ta!”. 

Tuyên Vĩnh chau mày nói: “Chuyện này hết sức nan giải, nếu chính diện  giao phong, chỉ sợ chúng ta vẫn chưa phải là địch thủ của chúng”. 

Lạc Kỳ Phi lại nói tiếp: “Tại hạ đã phái người tiềm nhập Hạ Phi, ngầm giám  thị động tĩnh của Lạc Mã Bang”. 

Khấu Trọng trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Theo hai người thì bọn chúng có  ngu ngốc tới độ đem quân tấn công Lương Đô không?”. 

Lạc Kỳ Phi lắc đầu: “Đô Nhậm không phải kẻ ngốc, cả Vũ Văn Hóa Cập  cũng bị Thiếu soái đánh cho thảm bại phải cúp đầu bỏ chạy, y làm sao lại khinh  cử vọng động được chứ? Lần này y chịu kết minh với Quật Ca, có lẽ đa phần  cũng vì muốn tự bảo vệ mà thôi”. 

Khấu Trọng thở dài nói: “Vậy thì phiền phức rồi! Hừ! Đám mã tặc Khiết Đan  đó không phải là người người đều căm ghét hay sao, tự nhiên sao lại có người  chịu kết minh với chúng nhỉ?”. 

Lạc Kỳ Phi đáp: “Trong Lạc Mã Bang cũng có rất nhiều người phản đối việc  này, chỉ là Đô Nhậm nhất ý cô hành, những người khác không ai làm gì được mà  thôi”. 

Hai mắt Khấu Trọng liền lập tức sáng rực lên, cười ha hả nói: “Vậy thì được  cứu rồi, để tiểu đệ làm Dương Hư Ngạn một lần vậy!”. 

o0o 

Thạch Thanh Tuyền chậm rãi nói: “Ngoại trừ các nhân vật trong tà phái,  những người biết đến Tà Đế quả thật vô cùng ít, những người từng gặp Tà Đế lại  càng hiếm hơn. Đạo lý cũng rất đơn giản, bởi vì ba mươi năm trước y đã thoái ẩn  để tu luyện thứ võ công bí mật nhất, nguy hiểm nhất đồng thời cũng không ai dám  luyện của Ma Môn, từ đó không còn bước ra khỏi cửa miếu nửa bước. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Chính là tòa phá miếu đêm hôm qua?”. 

Thạch Thanh Tuyền gật đầu: “Đó là do một tay Lỗ đại sư kiến tạo nên, bên  trong ẩn tàng rất nhiều huyền cơ bí ảo, động dơi chỉ là một trong số đó mà thôi”. 

Từ Tử Lăng càng nghe càng cảm thấy hồ đồ, lẩm bẩm nói một mình: “Đây  là chuyện gì vậy?”. 

Thạch Thanh Tuyền dịu dàng nói: “Nếu không phải vì quan hệ của huynh  với Lỗ đại sư thì Thanh Tuyền cũng tuyệt đối không lộ chuyện này ra với huynh.  Lỗ đại sư rất coi trọng hai người, còn cho rằng thiên hạ sau này sẽ là thiên hạ của hai người. Hiện giờ quỷ thần xui khiến cho huynh bị cuốn vào chuyện này, Thanh  Tuyền đương nhiên phải nói thẳng với huynh, nếu có thể đem gánh nặng đang đè  khiến người ta không thể thở được này chuyển qua vai huynh là tốt nhất”. 

Từ Tử Lăng lại cười khổ lần nữa: “Thật là một chủ ý tốt!”. 

Thạch Thanh Tuyền bật cười vui vẻ nói: “Chẳng trách mà trong thư Lỗ đại  sư có nói hai người không giống như những kẻ bề ngoài tỏ ra chính khí lẫm liệt, ra  vẻ coi việc cứu vớt thiên hạ thương sinh là trách nhiệm của mình, lúc ấy ta còn  chưa hiểu lắm, bây giờ thì đã rõ rồi”. 

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Ta và Khấu Trọng chỉ là hai tên tiểu lưu manh  gặp may mắn mà thôi. Lúc đầu đại chí chỉ là làm sao được nổi trội hơn người, làm  được một chức quan nhỏ, nhân lúc loạn thế mà kiếm chút công danh phú quý.  Sau này luyện thành Trường Sinh Quyết, tư tưởng mới bắt đầu thay đổi, tuy có lúc  cũng nói là hành hiệp trượng nghĩa, nhưng thực tế vẫn chỉ là nghĩ cho mình nhiều  hơn. Thạch tiểu thư xin đừng hiểu lầm chúng ta là anh hùng hảo hán gì”. 

Thạch Thanh Tuyền chăm chú nhìn y nói: “Nếu đã là vậy, tại sao đêm qua  huynh lại bất chấp an nguy của bản thân mà giúp đỡ ta? Người ta và huynh  không thân không thích, càng không có mỹ sắc cho huynh thèm muốn, lúc đó  chắc huynh cũng chưa nhìn ra cái mũi này là mũi giả đúng không?”. 

Từ Tử Lăng lưỡng lự nói: “Ta cũng chưa nghĩ qua là vì nguyên nhân nào mà  mình lại làm vậy? Chỉ là nhìn thấy bốn tên yêu nhân đó không thuận mắt thôi, đây  không phải vẫn là vì bản thân mình hay sao?”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười: “Nếu như công bằng quyết đấu, huynh có có  mấy phần chắc chắn có thể thu thập được Vu Ô Quyển?”. 

Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Một phần cũng không có. Rất có khả năng là  sẽ thảm bại trong tay hắn nữa. Người này quả thực quá lợi hại!”. 

Thạch Thanh Tuyền nói: “Biết rõ là bại mười mươi mà huynh vẫn mạo hiểm  để mình bị cuốn vào chuyện này, đây gọi là vì bản thân mình hay sao? Trừ phi là  huynh quyết tâm cầu tử!”. 

Từ Tử Lăng á khẩu vô ngôn, không biết nói gì. 

Thạch Thanh Tuyền lại dịu dàng nói: “Đừng tránh né nữa! Gánh nặng này  huynh phải gánh là chắc rồi!”. 

Từ Tử Lăng thở dài: “Xin tiểu thư chỉ thị!”. 

Thạch Thanh Tuyền trầm mặc giây lát rồi nói: “Chuyện này chẳng những huyền ảo dị thường, hơn nữa còn quan hệ đến ân oán tình cừu phức tạp của mấy  đời, hiện giờ Thanh Tuyền chỉ có thể nói sơ qua cho huynh nghe, tình tiết cụ thể  bên trong khi nào có cơ hội sẽ nói kỹ với huynh sau”. 

Từ Tử Lăng đang nóng lòng đi Ba Lăng, nên liền gật đầu đáp ứng.

Thạch Thanh Tuyền nhấc bàn chân nhỏ của mình lên khỏi mặt nước, xoay  người lại, ngồi bó gối đối diện với gã, tư thế rất thoải mái tự nhiên, đôi mắt đẹp  mở lớn nhìn gã nói: “Thứ khiến Tà Đế phải thoái ẩn quy điền để tu luyện là mật  pháp tối cao của Ma Môn, gọi là Đạo Tâm Trủng Ma đại pháp, tình hình chân thực  thế nào không ai biết được, chỉ biết rằng từ ngàn năm nay Ma Môn tuy nhân tài  đời nào cũng có, nhưng thủy chung vẫn chưa có ai luyện thành, những người mạo  hiểm luyện công cuối cùng chỉ có một kết cục thảm thương, do bị ma hỏa thiêu  thân”. 

Từ Tử Lăng kinh hãi nói: “Không ngờ lại có thứ ma công đáng sợ như vậy?  Rốt cuộc là ai đã nghĩ ra nó? Nếu cả người sáng tạo ra thứ võ công này cũng  không luyện thành, mà những người khác vẫn còn đâm đầu vào luyện, vậy không  phải là chuyện đáng buồn cười lắm hay sao?”. 

Thạch Thanh Tuyền chau mày: “Thứ ma công này cũng có điểm tương đồng  với Trường Sinh Quyết mà huynh luyện, không ai biết được nó bắt đầu từ đâu, thế  nhưng hai người vẫn tu luyện thành công, đây có gì đáng cười đâu chứ?”. 

Gương mặt tuấn tú của Từ Tử Lăng thoáng ửng hồng: “Đúng là không có gì  đáng buồn cười, có điều ta đã quen nói như vậy với Khấu Trọng rồi, mong tiểu thư  lượng thứ”. 

Thạch Thanh Tuyền nheo nheo mắt, nhẹ nhàng nói tiếp: “Vậy là Thanh  Tuyền quá nghiêm túc rồi! Trở về chuyện chính, Tà Đế trước khi quy ẩn có bốn  đệ tử, chính là Vu Ô Quyển, Đinh Cửu Trùng, Chu Lão Thán và Kim Hoàn Chân”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Thật khiến người ta không thể tưởng tượng được,  đã là đồng môn, tại sao chúng lại thủy hỏa bất tương dung, có cơ hội là lập tức  tàn hại lẫn nhau như thế?”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười nói: “Chủ yếu là do hai nguyên nhân. Nhưng  vật gây nên tranh chấp này là một quả cầu thủy tinh màu vàng, gọi là Tà Đế Xá  Lợi. Ôi! Chuyện này nói ra thì dài lắm!”. 

Từ Tử Lăng hiếu kỳ hỏi: “Thứ này có phải vẫn còn trong tay tiểu thư không?”. 

Thạch Thanh Tuyền lắc đầu: “Thanh Tuyền chưa từng nhìn thấy vật đó bao  giờ?”. 

Từ Tử Lăng thất thanh kêu lên: “Hả?”. 

Thạch Thanh Tuyền chậm rãi nói tiếp: “Từ sau khi Tà Đế Xá Lợi lọt vào tay  Lỗ đại sư thì không ai nhìn thấy nữa. Cũng chính vì thứ này mà quan hệ của lão  nhân gia người với Âm Hậu Chúc Ngọc Nghiên tan vỡ, phải lánh đến Phi Mã Mục  Trường ẩn cư”. 

Từ Tử Lăng trầm ngâm nói: “Khi tại hạ ở Phi Mã Mục Trường không hề thấy  vật nào giống như vậy ở chỗ Lỗ tiên sinh, chỉ sợ đã được bồi táng với người rồi!”. 

Thạch Thanh Tuyền lắc đầu: “Tà Đế Xá Lợi không ở bên mình lão nhân gia,  còn về việc nó được giấu ở đâu thì sợ rằng chỉ có trời mới biết được. Nào! Để  Thanh Tuyền dẫn huynh đến một nơi, rất gần đây thôi!”. 

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 239

Mỹ Nhân Đồng Hành

Thạch Thanh Tuyền đẩy cánh cửa gỗ của thạch ốc ra, nghiêng đầu mỉm  cười nói: “Từ huynh, mời vào!”. 

Từ Tử Lăng chần chừ giây lát rồi mới bước qua bậc cửa, đi vào bên trong.  Trong nhà dùng một tấm mành trúc chia làm hai gian. Căn nhà tuy nhỏ nhưng  cũng có đủ các thứ gia cụ tạp vật mà một gia đình cần có trong cuộc sống hàng  ngày. Nhà cửa sạch sẽ tinh khiết, đẹp một cách tĩnh mịch. 

Thạch Thanh Tuyền chậm rãi nói: “Đây chính là chỗ ở chật chội của Thanh  Tuyền”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Không phải Thạch tiểu thư ẩn cư ở Ba Thục sao?”. 

Thạch Thanh Tuyền mời gã ngồi xuống một chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, còn  mình thì vén mành trúc đi vào bên trong: “Gian tiểu ốc này không phải Thanh  Tuyền dựng nên, người xây dựng nó đã qua đời từ năm năm trước, Thanh Tuyền  mượn nó làm nơi đặt chân chính là vì nó chỉ cách Tà Đế Miếu có nửa canh giờ  cước trình”. 

Nhìn xuyên qua tấm rèm trúc mỏng, thấp thoáng thấy nữ tử đặc biệt này  ngồi xuống một chiếc kỷ nhỏ bên cạnh chiếc giường kê sát tường, quay lưng về  phía gã, đối mặt với tấm gương đồng hình tròn treo trên tường. Trong mông lung  mơ hồ, tất cả đều bị tấm rèm trúc làm tịnh hoá, khiến cho thân hình và tư thái  diễm lệ của nàng càng thêm nổi bật. 

Từ Tử Lăng tán thưởng: “Đây đúng là một nơi tuyệt vời để lánh đời ẩn thế,  nếu không phải có tiểu thư dẫn tới đây, chỉ sợ tại hạ tìm một vạn năm cũng không  tìm được mất”. 

Gian tiểu thạch ốc này nằm ở một hiệp cốc nhỏ cách động dơi chừng hơn  mười dặm về phía Đông Nam, sau lưng là một dòng thác và hồ nhỏ, trước nhà  cây cỏ hoa lá tốt tươi, cảnh vật đẹp vô cùng. 

Thạch Thanh Tuyền cầm chiếc lược lên, chải chải mái tóc dài mềm mại,  động tác tư thế đều đẹp đến mê hồn. Chỉ nghe nàng chậm rãi nói: “Tại sao huynh  không hỏi chủ nhân cũ của nơi này là ai? Lẽ nào huynh không thấy hiếu kỳ ư?”. 

Trong lòng Từ Tử Lăng chợt dâng lên một cảm giác thoải mái và ấm áp,  giống như đang cùng thê tử xinh đẹp của mình sống an lạc trong ngôi nhà nhỏ, ngồi cách một tấm màn trúc bàn chuyện lặt vặt trong gia đình vậy. Đây là một  cảm giác hết sức mới vẻ đối với gã. Chỉ nghe gã mỉm cười nói: “Có lẽ là vì tính  cách mỗi người thôi! Tại hạ rất hiếm khi có những xung động kiểu không biết  chuyện này thì không được như những người khác. Có điều tiểu thư đã đặc biệt  gợi ra chuyện này, chắc hẳn chủ nhân cũ của gian thạch ốc này phải là một nhân  vật rất có lai lịch, bây giờ lòng hiếu kỳ của tại hạ lại bị khơi gợi lên rồi”. 

Thạch Thanh Tuyền khẽ cười hỏi: “Thanh Tuyền có thể hỏi Từ huynh một  vấn đề hơi đường đột được chăng?”. 

Từ Tử Lăng vừa ngưng thần lắng nghe tiếng chim chóc vui đùa chích chích  bên ngoài, vừa thuận miệng đáp: “Xin tiểu thư cứ hỏi!”. 

Thạch Thanh Tuyền liền nói: “Dám hỏi Từ huynh, trong mấy năm hành khứ  giang hồ, đi khắp Nam Bắc, huynh đã từng hại bao nhiêu thiếu nữ phải xiêu hồn  lạc phách, mê đắm nhớ nhung rồi?”. 

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Tại hạ xưa nay chưa từng nghĩ việc này, chắc  là không có đâu”. 

Thạch Thanh Tuyền vui vẻ bật cười: “Cuối cùng cũng tìm ra lúc huynh  không thật thà rồi nhé. Tạm thời chưa tính sổ vội, để Thanh Tuyền hỏi ngược lại  vậy, Từ huynh đã gặp không biết bao nhiêu mỹ nữ nổi danh trong giang hồ, đã có  ai có thể khiến huynh một lòng ái mộ hay chưa?”. 

Từ Tử Lăng cười khổ: “Vấn đề này của tiểu thư còn khó đối phó hơn bất cứ  thứ kỳ công tuyệt nghệ nào mà Từ Tử Lăng đã từng gặp qua, tiểu đệ có thể đầu  hàng cho qua chuyện được không?”. 

Thạch Thanh Tuyền buông lược xuống, che miệng cười khúc khích: “Đúng là  đồ vô dụng! Nam tử hán đại trượng phu thì phải dám yêu dám hận chứ, thì ra Từ  Tử Lăng danh chấn thiên hạ về mặt này lại yếu ớt kém cỏi như vậy”. 

Từ Tử Lăng thoải mái nhún vai đáp: “Tiểu đệ đối với chuyện tình cảm nam  nữ cảm thấy rất nhạt nhẽo, cũng không có cầu mong và kỳ vọng gì đặc biệt, tất  cả đều tùy ngộ nhi an mà thôi. Nếu như có mong muốn, thì chỉ mong được tự do  tự tại, chu du thắng cảnh danh sơn trong thiên hạ, như vậy là đã không uổng kiếp  này rồi”. 

Thạch Thanh Tuyền im lặng giây lát rồi chậm rãi nói: “Cách nghĩ của huynh  và Thanh Tuyền rất giống nhau, khác biệt chỉ là một tĩnh một động thôi. Cuộc  sống lý tưởng trong lòng Thanh Tuyền chính là được ẩn cư sơn lâm, nghiên cứu  những kỹ nghệ và học vấn mà mình yêu thích, lấy đó làm tiêu khiển, sống một cuộc đời bình lặng. Chính vì thế mà Thanh Tuyền mới nôn nóng đem gánh nặng  này chuyển qua cho Từ huynh như vậy”. 

Từ Tử Lăng gật đầu: “Cuối cùng thì tiểu đệ cũng hiểu được tâm ý của tiểu  thư rồi. Xin cứ nói! Chỉ cần có thể làm được, Từ Tử Lăng này nhất định sẽ giúp  tiểu thư hoàn thành tâm nguyện!”. 

Thạch Thanh Tuyền thở dài: “Ôi! Huynh làm người tốt thế này khiến Thanh  Tuyền thật xấu hổ. Ngại quá! Từ huynh có thể tạm thời nhắm mắt lại không,  người ta phải thay y phục!”. 

Từ Tử Lăng giật mình đánh thót vội vàng nhắm nghiền hai mắt lại.

Tiếng cởi y phục xột xoạt vang lên trong phòng, Thạch Thanh Tuyền vẫn  thoải mái tự nhiên như không nói: “Đạo Tâm Trủng Ma Đại Pháp là thần công chí  cao vô thượng của Ma Môn, so với Thiên Ma Đại Pháp của Âm Qúy Phái còn cao  hơn một bậc. Kỳ quái nhất là trong quá trình tu luyện, tính cách và khí chất của  người luyện sẽ thay đổi, từ ma nhập đạo. Nghe Lỗ đại sư nói: Tà Đế luyện loại  thần công này gần thành công thì thất bại, hơn nữa còn rước phải đại hỏa ma hỏa  thiêu thân, nhưng trước khi thảm tử đã bỗng nhiên tỉnh ngộ, hối hận về những  chuyện tàn hại chúng sinh mà mình đã làm trước đây, nên đã ra sức bổ cứu”. 

Từ Tử Lăng suýt chút nữa thì mở bừng mắt ra, ngạc nhiên nói: “Thế gian có  thứ ma công như vậy sao, thật là kỳ lạ”. 

Trường Sinh Quyết tuy có thể làm khí chất của Khấu Trọng và gã thay đổi,  nhưng cũng chỉ theo cá tính của hai gã mà phát triển tự nhiên, không giống như  Đạo Tâm Trủng Ma Đại Pháp này, có thể thay đổi cả tính tình thâm căn đế cố  của một con người như vậy. 

Thạch Thanh Tuyền dường như đã thay xong y phục, còn vén màn bước ra  ngoài, nhưng vẫn không lên tiếng bảo Từ Tử Lăng mở mắt, nhẹ giọng nói: “Lúc  đó, điều mà Tà Đế không yên tâm nhất chính là bốn tên ác đồ Vu Ô Quyển này,  không có ai hiểu rõ lũ ác nhân thiên sinh tà ác này hơn y, thế nên đã lợi dụng  nhược điểm muốn làm Tà Đế đời sau của chúng, lấy Tà Đế Xá Lợi làm mồi nhử,  bức chúng lập thệ bằng Huyết Chú của Ma Môn, thề sau khi lấy được Tà Đế Xá  Lợi, kế tục ngôi vị Tà Đế thì mới được khai tông lập phái. Mặt khác, lại ngấm  ngấm thông tri cho Chúc Ngọc Nghiên, nói cho mụ biết mình đã truyền Tà Đế Xá  Lợi cho bốn tên nghịch đồ, giáng đại họa này cho chúng”. 

Từ Tử Lăng vẫn nhắm nghiền hai mắt nên nhìn thấy thần tình của nàng lúc  này, có cảm giác như đang đi trong màn sương mù mịt, hoang mang nói: “Tại sao  Tà Đế Xá Lợi lại quan trọng như vậy?”. 

Thanh âm ngọt ngào của Thạch Thanh Tuyền vang lên bên tai gã: “Đó là  một bí mật của Tà Cực tông, từ khi lập tông đến giờ đã truyền từ đời này sang đời  khác một thứ dị thuật bí pháp, Tà Đế Xá Lợi do một thứ Hoàng Tinh Thạch cực kỳ  quý hiếm mài thành, bắt đầu từ Tà Đế đời thứ nhất, lịch đại Tà Đế khi biết đại hạn  của mình sắp tới, liền lấy dùng thứ dị thuật này dồn toàn bộ công lực cả đời  ngưng tụ thành tinh khí, đẩy vào Hoàng Tinh Thạch, hi vọng người kế tục viên tà  thạch này có thể hấp thụ được tinh nguyên đó, khiến Tà Cực tông đời sau mạnh  hơn đời trước, độc bộ võ lâm! À! Bây giờ huynh có thể mở mắt được rồi!”. 

Từ Tử Lăng liền từ từ mở mắt, thấy Thạch Thanh Tuyền đang đội mũ lên  mái tóc đen tuyền đã búi thành búi thư sinh, hoàn thành việc cải dạng nam trang,  còn là kình trang bó sát người để đi xa nữa. 

Chiếc mũi xấu xí của nàng đã biến mất vô tăm vô tích, nhưng da thịt đã trở  nên thô ráp ngăm đen, có điều dù là vậy, nàng vẫn đẹp đến độ khiến người ta  phải nín thở. Không biết có phải vì đặc biệt lưu tâm và so sánh hay không mà Từ  Tử Lăng cảm thấy sống mũi thẳng nhỏ nhắn của nàng khiến gương mặt thanh lệ  nàng càng thêm cao quý và hoàn mỹ. 

Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp lãnh mạc và thần bí, đây có lẽ là do sự  thanh thuần ngạo thế mà nàng đã có từ khi sinh ra trên đời, khiến người ta không  dám tiếp cận, nhưng lại khát vọng mong cầu được lọt vào mắt xanh của nàng.  Thêm vào ấn tượng trước đó, Từ Tử Lăng dám khẩn định mỹ nữ có phong cách  đặc biệt, ngôn từ bạo dạn này tuyệt đối không hề thua kém những tuyệt thế giai  nhân điên đảo giang hồ như Sư Phi Huyên hay Loan Loan. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười: “Tại sao cứ nhìn người ta chằm chằm vậy, có  phải thấy Thanh Tuyền biến đổi nhiều quá không?”.

Từ Tử Lăng bật cười nói: “Tiểu thư chắc đã đọc được suy nghĩ trong lòng tại  hạ rồi! Hắc! Nếu những lời vừa rồi tiểu thư nói là sự thật, vậy thì thế lực của Tà  Cực tông phải vượt xa Âm Qúy Phái mới đúng, tại sao sự tình lại ngược lại như  vậy?”. 

Thạch Thanh Tuyền thở dài: “Chuyện này phức tạp dị thường. Huynh hãy trả  lời Thanh Tuyền một câu trước, bây giờ huynh chuẩn bị đi đâu?”. 

Nghe Từ Tử Lăng trả lời, Thạch Thanh Tuyền liền vui vẻ nói: “Chúng ta còn  có hai ba ngày đồng hành nữa, đợi sau khi đến Trường Giang, huynh qua sông  Nam hạ, còn Thanh Tuyền sẽ ngồi thuyền đi về phía Tây, chúng ta vừa đi vừa nói  được không?”. 

Từ Tử Lăng nằm mơ cũng không ngờ được đột nhiên lại có thêm một mỹ nữ đồng hành như vậy, có điều mỗi một khắc ở bên mỹ nhân, đều sẽ là những kỷ  niệm mỹ lệ mà cả đời này gã cũng không thể nào quên, nên liền gật đầu mỉm  cười nói: “Nếu tiểu thư không ngại, thì chúng ta có thể lập tức lên đường!”. 

o0o 

Lạc Mã Hồ nằm ở phía Đông Nam Sơn Đông đệ nhất đại hồ Vi Sơn Hồ,  được dòng Tứ Thủy chảy qua. 

Lạc Mã Hồ nước rộng trời cao, dõi mắt nhìn ra chỉ thấy không gian tưởng  chừng như vô tận, sóng biếc lăn tăn, ngư sản và các loại thủy sản khác rất phong  phú, trong đó có cá chép, cá diếc, cá trắm và tôm cua là nhiều nhất, ngoài ra nơi  này còn nổi tiếng với các loại đặc sản khác như củ ấu, ngó sen, bồ khẩu thảo... 

Mỗi khi thời tiết đẹp, những con thuyền cá ẩn hiện giữa làn khói sóng, mái  chèo gạt nước ì oạp, trên cao lũ thủy điểu bay lượn dập dìu, phong cảnh mê người. 

Hạ Phi Thành - căn cứ địa của Lạc Mã Bang nằm cách Lạc Mã Hồ chừng  mười dặm về phía Tây Bắc, là nơi giao hội của ba dòng sông lớn Tứ Thủy, Nghi  Thủy và Biện Thủy, quan trọng nhất là nơi này chỉ cách Bành Thành chừng nửa  ngày đi thuyền. 

Giao thông thiện lợi khiến Hạ Phi trở thành trạm trung chuyển giữa Lạc Mã  Hồ và Vi Sơn Hồ, khống chế cả toàn bộ thủy đạo trong vùng, điều này mang đến  cho Hạ Phi một lượng giao dịch rất lớn, làm cho Lạc Mã Bang ngày càng lớn  mạnh. Kết minh với mã tặc Khiết Đan, chính là một cơ hội mở rộng tầm ảnh  hưởng và dã tâm của Lạc Mã Bang bang chủ Đô Nhậm. 

Khấu Trọng, Lạc Kỳ Phi và mười thủ hạ giả thành thương lái đến Lạc Mã Hồ  mua lương thực, an nhiên tiến vào Hạ Phi. 

Người giúp họ đả thông mọi cửa quan là cự phú buôn bán lương thực và dầu  ở bản địa Thẩm Nhân Phúc. Trước nay quan hệ của y và Bành Lương Hội đều rất  mật thiết, tuy bề ngoài vẫn giữ giao tình với Lạc Mã Bang, nhưng bên trong từ lâu  đã vô cùng bất mãn với sự tham lam vô độ, hoành hành bá đạo của Đô Nhậm.  Tin tức tình báo của Lạc Kỳ Phi đều là y cung cấp. 

Thẩm Nhân Phúc là thương nhân giỏi tính toán, vốn không muốn tham gia  vào việc tranh giành địa bàn của các thế lực, nhưng Đô Nhậm và Quật Ca kết  minh với nhau khiến y không thể nhẫn nhịn được nữa, bởi vì cả nhà nam nữ lão ấu của thân đệ y đều đã chết trong tay Quật Ca và đám thủ hạ, thù sâu tựa biển.  Nhưng quan trọng hơn cả là sự kính ngưỡng và lòng tin của y với Khấu Trọng, thế  nên vừa gặp nhau đã hợp ngay, quyết ý toàn lực giúp đỡ Khấu Trọng đối phó Đô  Nhậm và Quật Ca. 

Sau khi Khấu Trọng và Lạc Kỳ Phi đến Thẩm phủ, ba người liền lập vào mật  thất bàn bạc. Thẩm Nhân Phúc dáng người cao lớn rắn chắc, mái tóc đã lấm tấm  điểm bạc, tự tin mà hiền hoà, hai mắt sáng như sao, râu rậm, niên kỷ ước chừng  ngoài bốn mươi, gây cho Khấu Trọng ấn tượng y là người tinh minh quyết đoán. 

Sau mấy lời khách khí, Thẩm Nhân Phúc bắt đầu vào chính sự: “Sau khi  được Quật Ca chi viện, Đô Nhậm ra sức chiêu binh mãi mã, chuẩn bị đại triển  quyền cước, làm các thành trấn gần đây ai nấy đều lo lắng, sợ rằng y sẽ cùng với  Quật Ca đi khắp nơi giết người phóng hoả, công thành chiếm đất”. 

Khấu Trọng chau mày nói: “Quật Ca chỉ có vài trăm tên mã tặc, tại sao Đô  Nhậm lại giống như có trái núi lớn để dựa vào như thế?”. 

Thẩm Nhân Phúc thở dài: “Trong mắt của Khấu gia, Quật Ca đương nhiên  chỉ là nhân vật nhỏ không đáng để ý, nhưng khắp một vùng này, có ai nghe tiếng  mã tặc Khiết Đan mà không biến sắc đâu chứ. Nếu cộng cả số thủ hạ mà Quật  Ca lưu lại vùng duyên hải, nhân số của bọn chúng cũng phải hơn một ngàn người.  Đám mã tặc này kẻ nào kẻ nấy đều võ công cao cường, dũng mãnh như sói,  công phu trên ngựa càng thuần thục hơn người Trung Nguyên một bậc, hơn nữa  lại đến đi như gió, ngoại trừ trận đại bại trong tay Khấu gia và Từ gia ở Đô Lương  ra, xưa nay đều bách chiến bách thắng. Hiện giờ có thêm Đô Nhậm cho bọn  chúng tin tức và căn cứ địa, đích thực là như hổ thêm cánh, khiến những thương  nhân như chúng tôi người người đều lo sợ nơm nớm. Chỉ mong Khấu gia có thể  chủ trì chính nghĩa, báo cừu tuyết hận cho những người vô tội đã bị chúng tàn sát”. 

Khấu Trọng trầm tĩnh nói: “Thẩm lão bản cứ yên tâm, chỉ riêng chuyện toàn  gia lệnh đệ bị sát hại, ta đã không thể tọa thị bàng quan được rồi, nhất định ta sẽ  khiến đám ác tặc ngày vĩnh viễn không thể trở về quê hương. Không biết Quật Ca  hiện giờ đang ở đâu, Đô Nhậm chắc chắn không dám dẫn sói vào nhà, cùng ăn  cùng ngủ với Quật Ca đâu nhỉ?”. 

Thẩm Nhân Phúc thấy Khấu Trọng nể mặt mình như vậy, cảm kích đến suýt  nữa thì rơi lệ, bái tạ mấy câu rồi nói: “Quật Ca và thủ hạ hiện đang ở tại một mục  trường ở chân núi Trạch Sơn cách Hạ Phi mười dặm về phía Tây để đợi đồng bọn  đến tập hợp, còn về việc hắn và Đô Nhậm đang âm mưu điều gì thì tiểu nhân vẫn  chưa dò la ra được”. 

Khấu Trọng vươn mình, thở dài nói: “Thẩm lão bản có biết trong Lạc Mã  Bang, ai phản đối việc kết minh này mạnh mẽ nhất không?”. 

Thẩm Nhân Phúc không cần nghĩ ngợi mà đáp ngay: “Đương nhiên là nhị  đương gia Tiểu Lữ Bố Tiêu Hồng Tiến, người này là một anh hùng hảo hán, rất  được chúng nhân tôn kính, cả Đô Nhậm cũng phải e dè cố kỵ. Một nửa nguyên  nhân của lần việc kết minh này chính là Đô Nhậm muốn đối phó y. Từ sau khi  phản đối kết minh không thành, Tiêu Hồng Tiến đêm nào cũng đến thanh lâu,  mượn rượu giải sầu. Theo tiểu nhân thì y đã có ý rời khỏi Lạc Mã Bang, bằng  không sớm muộn gì cũng bị Đô Nhậm hại chết”. 

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Lữ Bố không yêu giang sơn yêu mĩ nhân, hi vọng  Tiểu Lữ Bố này tiến bộ hơn một chút. Chúng ta sẽ bắt đầu từ người này vậy, nói  không chừng có thể thu phục cả Lạc Mã Bang mà chẳng tốn một binh một tốt  cũng nên. Lúc đó thì đảm bảo đám mã tặc Khiết Đan kia sẽ chết không đất chôn  thây, còn chúng ta thì lại có thêm một số chiến mã đã được huấn luyện, món này  cũng hời đấy chứ?”. 

Thẩm Nhân Phúc hân hoan nói: “Tiểu nhân và Tiêu Hồng Tiến có chút giao  tình, tất cả cứ để tiểu nhân sắp xếp là được”. 

Khấu Trọng lắc đầu nói: “Thẩm lão bản không tiện ra mặt, nhân tâm nan  trắc, ai biết được Tiêu Hồng Tiến sẽ phản ứng thế nào, Kỳ Phi có đề nghị gì  không?”. 

Lạc Kỳ Phi từ nãy giờ vẫn ngồi một bên lắng nghe mà không nói gì, lúc này  cũng gật đầu đồng ý với Khấu Trọng: “Thẩm lão bản có thể không xuất diện là tốt  nhất, nhưng làm sao mới có thể tiếp xúc với Tiêu Hồng Tiến đây?”. 

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Chuyện này chúng ta sẽ tùy cơ hành sự. Y thích  đến nơi nào nhất thì chúng ta sẽ đến đó gặp y. Nếu y không chịu trợ giúp chúng  ta thì thuận tay cho y một đao là xong, sau đó sẽ đến lượt Đô Nhậm”. 

Khẩu khí của gã tuy hơn lớn một chút, nhưng Thẩm Nhân Phúc và Lạc Kỳ  Phi đều cảm thấy hết sức bình thường. So với Nhậm Thiếu Danh và Lý Mật, Đô  Nhậm chẳng là thứ gì cả. 

Khấu Trọng nghĩ ngợi giây lát rồi lại nói với hai người: “Nếu đã không ai biết  bước tiếp sau Đô Nhậm và Quật Ca định làm gì, vậy thì chúng ta tiện thể giúp bọn  chúng một phen luôn, hãy cho người phao tin đồn, khiến các thành trấn gần đây  người người đều hoảng loạn. Lúc đó chỉ cần chúng ta trừ diệt hai tên này, chúng  nhân sẽ càng bội phần cảm kích. Hà hà, chỉ dùng mấy câu nói mà đã mua được  nhân tâm, trên đời này còn có việc gì lợi hơn thế nữa không?”. 

Hai người bọn Lạc Kỳ Phi đều gật đầu khen hay, thầm nhủ quả là “người nổi  danh đều không phải tầm thường, người tầm thường thì không thể nổi danh”, kế  sách như vậy mà cũng nghĩ ra được. 

Khấu Trọng trầm ngâm: “Tin đồn phải hợp tình hợp lý, chi bằng cứ nói... à...  Thẩm lão bản... thử nói xem, người ở những vùng xung quanh đây sợ nhất là gì?”. 

Thẩm Nhân Phúc cung kính đáp: “Đô Nhậm xưa nay luôn có ý đoạt lấy Lưu  huyện và Bái huyện ở bên Vi Sơn Hồ, như vậy thì y sẽ có cứ điểm ở vùng Vi Sơn  Hồ, từ đó tấn công các thành trấn lớn gần đó. Chúng ta có thể dùng điểm này để  tạo ra tin đồn. Vi Sơn Hồ phía bắc thông đến ba hồ lớn là Thiệu Dương, Độc Sơn,  Nam Dương, đầu đuôi tương tiếp giống như là một hồ vậy, nếu như để lọt vào tay  Đô Nhậm, vậy thì y sẽ khống chế được toàn bộ mạch máu kinh tế của vùng Sơn  Đông”. 

Lạc Kỳ Phi nói: “Muốn lấy Vi Sơn Hồ, trước tiên phải đoạt Bành Thành, vì  vậy chỉ cần chúng ta phao tin Đô Nhậm muốn tấn công Bành Thành, những người  khác sẽ lập tức đoán được dã tâm và đại kế của y”. 

Khấu Trọng bật cười nói: “Chuyện này càng nói càng thật, đến cả ta cũng  bắt đầu tin rồi đó! Chi bằng chúng ta thêm mắm dặm muối, nói Quật Ca sẽ đánh  trận đầu để rửa mối nhục đã bị ta đánh bại, thế nên sẽ thấy người là giết, gà chó  không tha... hai người thấy thế nào?”. 

Thẩm Nhân Phúc và Lạc Kỳ Phi đều gật đầu khen hay. 

Khấu Trọng cười cười nói tiếp: “Lão Đô, Lão Quật! Xem các ngươi còn được  bao nhiêu ngày phong quang nữa!”. 

Thẩm Nhân Phúc hưng phấn nói: “Làm việc cho Khấu gia thật là thống  khoái, tiểu nhân sẽ lập tức y kế hành sự!”. 

Khấu Trọng nói: “Chậm đã! Tin đồn tốt nhất nên để truyền từ bên ngoài,  như vậy thì Đô Nhậm muốn điều tra cũng không biết điều tra từ đâu! Thẩm lão  bản hãy lập tức phái người đến các thành trấn gần đây...! Hắc! Chi bằng hãy để  các thương lái truyền tin này đi, như vậy thì sẽ càng có hiệu quả hơn!”. 

Thẩm Nhân Phúc liền lĩnh mệnh chạy đi. 

Khấu Trọng lại vươn người một cái, quay sang nói với Lạc Kỳ Phi: “Kỳ Phi,  hãy đi dò la xem Tiểu Lữ Bố gia gia của chúng ta hay đến thanh lâu nào? Ta ngủ  dậy sẽ đến đó tìm y uống rượu bàn chuyện làm ăn!”. Nói đoạn liền há miệng  ngáp dài, lẩm bẩm nói một mình: “Mệt chết đi được!”.

Huỳnh Dị

Đại Đường Song Long Truyện

 

Hồi 240

Cơ Duyên Tấu Xảo

Hoàng hôn. 

Từ Tử Lăng đeo mặt nạ Nhạc Sơn và Thạch Thanh Tuyền đóng giả làm  phụ tử đến Hợp Phì, một thành lớn ở phía Tây Bắc Lịch Dương, cách  Trường Giang chừng hai ngày lộ trình, đương nhiên là dựa vào cước trình nhanh  chóng của họ để tính toán. Thành này nằm trong lãnh địa của quân Giang Hoài,  nhưng trên tường thành cắm kỳ hiệu của Phụ Công Hựu chứ không phải của Đỗ  Phục Uy. 

Khắp các thôn huyện bên ngoài thành đều là đồng ruộng trải dài, vàng tươi  xanh thắm, thẳng cánh cò bay, khiến tinh thần con người cũng sảng khoái hơn rất  nhiều. 

Sau khi nộp thuế vào thành, cảnh sắc mê người của vùng sông nước lưu  vực Trường Giang càng khiến hai người thêm hứng khởi. 

Trên phố dùng đá xanh hoặc gạch khối lát đường, dạt dào ý niệm hoài cổ,  nhà cửa nhỏ mà thanh nhã, tường trắng ngói đen, thạch cấp cửa gỗ, mộc mạc  hiền hoà. Trong thời đại chiến hỏa liên miên, hoang phế ngàn dặm này, đặc biệt  khiến cho người ta cảm thấy bình yên và thư thái. 

Sau khi đi xuyên qua con phố hẹp hai bên nhà cửa san sát, Thạch Thanh  Tuyền từ đầu vẫn chưa mở miệng nói nửa câu đột nhiên mỉm cười cất tiếng:  “Thanh Tuyền vốn định sau khi ăn cơm sẽ lập tức rời thành, như vậy ngày mai  chúng ta sẽ có thể đến được Trường Giang, nhưng không hiểu sao vào thành rồi  lại sinh ra lười nhác mệt mỏi, hiện giờ chỉ muốn vào khách điếm nghỉ ngơi, sau đó  ra ngoài dạo chơi một phen, ý Từ huynh thế nào?”. 

Từ Tử Lăng cũng cười cười đáp: “Việc đi đường chậm một đêm hay nửa đêm  cũng không ngại gì, huống hồ chúng ta cũng rất cần ngủ một giấc tử tế nữa, tại  hạ hoàn toàn không có ý kiến”. 

Hai người tìm được một khách sạn khá sạch sẽ gần đó, thuê hai gian phòng  cạnh nhau, tắm rửa thay đồ rồi cùng nhau ra khu phố nhiệt náo trong thành dùng  cơm. Sau khi ngồi xuống một góc vắng trong quán, Thạch Thanh Tuyền gọi vài  món chay, rồi câu chuyện của hai người lại trở về với chuyện Tà Cực tông. 

Thạch Thanh Tuyền không muốn để những khách nhân ở các bàn bên cạnh nghe được những gì họ nói, nên ngồi sát bên cạnh Từ Tử Lăng, quay lưng lại với  những người khác, thân thiết ghé miệng sát tai gã nói: “Vấn đề là xưa nay chưa  từng có người nào đắc lợi được từ Tà Đế Xá Lợi này, nhưng đã thành một truyền  thống, trước khi lâm chung tông chủ các đời đều dồn toàn bộ công lực của đời  mình vào trong xá lợi. Ngoại trừ những người bạo tử không thể làm chuyện này,  đến nay tổng cộng đã có mười một vị tông chủ hiến nguyên tinh vào đó rồi”. 

Trong lòng Từ Tử Lăng bất chợt dâng lên cảm giác không lạnh mà run,  thầm nhủ cung cách hành sự của những người trong tà phái quả thật kỳ dị khôn  lường, khiến người ta không thể đoán biết. 

Thạch Thanh Tuyền lại nói tiếp: “Đến đời Tà Đế Hướng Vũ Điền thì mới xuất  hiện biến chuyển. Hướng Vũ Điền là người đầu tiên ngộ ra được cách dùng xá lợi  tu luyện ma công, chính vì vậy mà ông ta trở thành tuyệt đại tông sư của tà phái,  xếp trên cả Âm Hậu Chúc Ngọc Nghiên, chỉ đáng tiếc là cả ông ta cũng không  qua được cửa ải của Đạo Tâm Trủng Ma Đại Pháp. Trước khi lâm chung, Hướng  Vũ Điền đã lần lượt truyền bí pháp lợi dụng Tà Đế Xá Lợi luyện công cho bốn tên  nghiệt đồ khi sư diệt tổ kia và Chúc Ngọc Nghiên của Âm Qúy Phái, đồng thời  giao Tà Đế Xá Lợi cho Lỗ đại sư nhờ cất giấu. Lợi hại nhất là Hướng Vũ Điền đã  tung tin huyền hoặc, khiến bọn Vu Ô Quyển tưởng rằng ông ta đã giao Tà Đế Xá  Lợi đã giao cho Chúc Ngọc Nghiên, còn Chúc Ngọc Nghiên lại tin là Xá Lợi nằm  trong tay bốn người bọn chúng, hậu quả của việc này chắc Thanh Tuyền không  cần nói Từ huynh cũng đoán được rồi”. 

Kết quả đương nhiên là một trận quyết đấu ác liệt đã diễn ra, còn bọn Vu Ô  Quyển thì đã thảm bại trong tay Chúc Ngọc Nghiên, từ đó không dám lộ diện trên  giang hồ nữa. Kế sách này quả thực vô cùng lang độc, qua đây có thể thấy tuy là  Hướng Vũ Điền có vì luyện Đạo Tâm Trủng Ma Đại Pháp mà thay đổi tính tình,  nhưng vẫn không phải là lòng dạ bồ tát gì, thậm chí còn có tâm ý lấy ác diệt ác  nữa. 

Thạch Thanh Tuyền chậm rãi kể tiếp: “Giấy cuối cùng cũng không gói được  lửa, có điều sau cả hai phía đều biết Tà Đế Xá Lợi đang nằm trong tay Lỗ đại sư  thì đã kết mối thâm cừu không thể hóa giải được rồi”. 

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Tại sao chuyện này lại liên quan đến tiểu thư  vậy?”. 

Thạch Thanh Tuyền thở dài một tiếng nói: “Thanh Tuyền có thể tạm thời  không nói chuyện này được không?”. 

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Tiểu thư đã có chỗ khó xử, vậy thì không nói cũng được. Có điều ngày mai chúng ta đã chia tay nhau rồi, tiểu thư có điều gì phân  phó tại hạ hay chăng?”. 

Thạch Thanh Tuyền lắc đầu: “Không phải ngày mai, mà là đêm nay”. 

Từ Tử Lăng ngẩn người ngạc nhiên. 

o0o 

Khấu Trọng ngủ đến quá trưa, rồi một mình một ngựa đến con phố lớn nhiệt  náo nhất thành Hạ Phi, hứng thú đi khắp nơi dạo chơi. 

Để tránh bị dòm ngó, gã không mang theo Tỉnh Trung Nguyệt xưa nay vốn  vật bất ly thân, hơn nữa còn đóng giả làm một phong lưu công tử, phong thái chỉn  chu nữa. 

Trên phố thi thoảng lại thấy một đoàn những đại hán vận kình trang lam sắc  đi qua, dáng vẻ hoành hành bá đạo. Đây chính là bang chúng của Lạc Mã Bang,  có điều cũng không có kẻ nào gây chuyện thị phi, quấy phá dân chúng. 

Trong thời đại chiến loạn liên miên này, nhân dân chính là nguồn gốc của  nhân lực và vật lực, việc Đô Nhậm ước thúc thủ hạ cũng là hết sức bình thường,  bằng không để nhân dân chạy hết, thành thị náo nhiệt ắt sẽ thành hoang phế,  bản thân y cũng không thu lợi được gì. 

Trên phố người xe tranh đường, ngoại trừ quy mô tương đối nhỏ ra, sự nhiệt  náo của nơi này có thể nói là hoàn toàn không thua kém gì con phố lớn nhất chạy  xuyên suốt thành Lạc Dương. 

Ngủ gần ba canh giờ, thể lực tinh thần Khấu Trọng đã khôi phục đầy đủ,  tinh lực sung mãn, giờ gã chỉ hận không thể tìm được mấy tên ác nhân để phát  tiết bớt ra ngoài, thầm nhủ nếu có Từ Tử Lăng ở đây cùng nói chuyện phiếm, nói  vài câu thô lỗ thì thật là thích thú. 

Đi qua hai ngã rẽ, gã dừng lại trước cửa một thanh lâu có tấm biển lớn đề ba  chữ “Tiểu Xuân Quang”, hít sâu một hơi, rồi ra vẻ nghênh nganh như những kẻ đã  quen lui tới chốn này, sải chân bước vào bên trong. Đại hán canh cửa tưởng rằng  gã là một con dê béo, vội vàng cung kính dẫn gã vào sảnh đường, để cho mụ tú  bà chiêu đãi. 

Khấu Trọng lấy bạc thưởng cho tên gác cửa và mụ tú bà, khéo léo để đối phương cho rằng mình là đại hào khách từ nơi khác tới đây buôn bán làm ăn, tiêu  tiền như rãi nước, sau đó chỉ đích danh cô nương nổi tiếng nhất ở đây là Thu  Nguyệt ra hầu hạ. 

Mụ tú bà tên gọi Thanh Di lộ vẻ khó xử lúng túng nói: “Đại gia lần này thật  không may rồi! Thu Nguyệt tối nay đã có hẹn với một vị đại gia khác. Chi bằng để  Thu Dung hầu hạ ngài vậy! Luận về thanh sắc hay kỹ nghệ, Thu Dung cũng  không đều không kém gì Thu Nguyệt đâu”. 

Khấu Trọng lấy nửa lượng hoàng kim dúi vào tay mụ tú bà, rồi thấp giọng  nói: “Vị cô nương đầu tiên mà đã không mời được thì thật không may mắn! Thanh  Di cứ cọi Thu Dung đến hầu rượu cũng được, nhưng làm sao cũng phải mời Thu  Nguyệt đến uống một chén, tại hạ sẽ thưởng thêm nửa lượng nữa”. 

Qúy khách ra tay hào phóng thế này thật hiếm thấy, đôi mắt tham lam của  Thanh Di lập tức sáng bừng lên, nhưng vẫn còn vẻ do dự chưa dám quyết định. 

Khấu Trọng ghé sát tai y thị thì thầm đề nghị: “Hay là thế này đi! Thanh Di  chỉ cần sắp xếp cho ta ở cạnh gian phòng mà nàng tiếp khách cũng được, nghe  tiếng ca truyền qua là coi như cũng được một nửa tâm nguyện của ta rồi. Nửa  lượng vàng này ta vẫn thưởng như thường!”. 

Thanh Di thầm nhủ không ngờ trên đời này lại có tên ngốc tiêu tiền như rác  thế này, hân hoan dẫn gã lên lầu. 

o0o 

Ngọc dung ngăm ngăm đen của Thạch Thanh Tuyền lộ ra một nụ cười rạng  rỡ như ánh mặt trời xua tan mây mù, dịu dàng nói: “Huynh chớ nên đa tâm, chỉ là  đột nhiên Thanh Tuyền thay đổi chủ ý, muốn hồi gia bằng đường bộ mà thôi”. 

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Cũng được! Vậy sau khi dùng bữa chúng ta sẽ  cùng rời khỏi đây, có thể đến được Ba Lăng nhanh hơn một chút thì càng lý  tưởng!”. 

Thạch Thanh Tuyền im lặng nhìn gã một lúc rồi mới khẽ nói: “Thể hình của  huynh của thật rất giống với Nhạc lão, chỉ là thiếu đi bá khí và bá lực của ông ấy  thôi. Huynh có muốn đóng giả giống hơn một chút không?”. 

Từ Tử Lăng điềm đạm nói: “Bất luận bề ngoài giống như thế nào, lúc động thủ cũng không thể giấu được, vì vậy không cần tốn công làm gì”. 

Thạch Thanh Tuyền nhẻo miệng cười cười: “Ta nói giống hơn một chút,  đương nhiên là bao gồm cả đao pháp và bá lực của ông ấy, huynh quên rằng khi  ông ấy qua đời người ta ở bên cạnh hay sao?”. 

Từ Tử Lăng hoang mang nói: “Nhạc Sơn và tiểu thư làm sao lại ở với nhau?”. 

Từ góc độ này nhìn sang, Từ Tử Lăng thấy gương mặt nghiêng của Thạch  Thanh Tuyền đẹp như thiên tiên giáng thế, khiến người ta không thể không thở  dài khen tuyệt, đặc biệt là vì phấn dị dung đã che đi làn da trắng như bạch ngọc  của nàng, nên càng khiến tâm thần Từ Tử Lăng tập trung vào những đường nét  thanh tú ấy. 

Đôi mắt đẹp của Thạch Thanh Tuyền thoáng hiện thần sắc trầm tư mặc  tưởng: “Bốn mươi năm trước, Nhạc lão thảm bại trong tay Thiên Đao Tống Khuyết,  mang trọng thương vượt ngàn dặm đến gặp gia mẫu, vốn chỉ định nhìn người một  lần cuối trước khi về chốn cửu tuyền, nhưng gia mẫu đã không tiếc hao tổn chân  nguyên, dùng thủ pháp kim châm kích huyệt giữ được tính mạng cho ông ta,  khiến Bá Đao Nhạc Sơn sống thêm được ba mươi năm nữa, có điều cũng không  thể giữ được võ công cho ông ấy...”. 

Nói tới đây, chợt nàng liếc nhìn Từ Tử Lăng hỏi: “Tại sao lại nhìn người ta  chằm chằm như thế?”. 

Từ Tử Lăng vội vàng nhìn lảng sang chỗ khác, lúng túng nói: “Tại hạ nghe  quá tập trung nên tự nhiên là phải nhìn tiểu thư rồi, nếu tiểu thư không thích thì tại  hạ không nhìn là được”. 

Thạch Thanh Tuyền bật cười hồn nhiên khả ái như một tiểu nữ tử, chúm  miệng nói: “Người ta cố ý đùa huynh thôi, huynh không giống như những nam  nhân khác, bất luận là người ta hóa trang xấu thế nào, huynh cũng giống như là  phát hiện ra được chỗ nào đó khiến huynh rung động vậy, bây giờ làn da Thanh  Tuyền vừa đen vừa ráp, huynh nhìn ra được thứ gì chứ?”. 

Từ Tử Lăng suýt chút nữa là đập đầu xuống bàn, ra vẻ khổ sở nói: “Hình  như tiểu thư rất sợ người khác hân thưởng vẻ đẹp của mình, nhưng thực sự tiểu  thư rất xinh đẹp, đó là một sự thực không thể nào thay đổi được”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười: “Có lẽ là vì vết xe đổ của gia mẫu, từ khi hiểu  chuyện đến nay, Thanh Tuyền chưa từng thấy người cười bao giờ. Đừng lảng  sang chuyện khác nữa, vừa rồi đã kể tới đâu rồi nhỉ?”. 

Từ Tử Lăng thầm nhủ rõ ràng là tự nàng lảng sang chuyện khác, bây giờ lại đổ hết tội danh lên đầu lão tử, có điều gã đương nhiên không tính toán những  chuyện này, chỉ cười cười đáp: “Tiểu thư đang nói tới Nhạc Sơn giữ được tính  mạng, nhưng không giữ được võ công...”. 

Thạch Thanh Tuyền vỗ vỗ trán, thở dài kể tiếp: “Đúng rồi! Tình tiết bên  trong tương đối dài dòng, ở đây không nhắc đến nữa. Kể từ sau khi Thanh Tuyền  hiểu chuyện thì Nhạc lão đã dựng nhà ở bên ngoài U Lâm Tiểu Cốc của hai mẫu  nữ chúng tôi định cư. Thỉnh thoảng Thanh Tuyền cũng đến chơi với ông ấy, nghe  kể chuyện giang hồ, vì vậy mọi chuyện của ông ấy Thanh Tuyền đều biết rất rõ.  Những lúc rảnh rỗi, Nhạc lão lại lấy giấy bút ra viết lại Thất Thập Nhị Hậu đao  pháp thành danh của mình, đóng thành sách. Nếu như Thanh Tuyền tặng nó cho  huynh, thì đảm bảo cả võ công huynh cũng có thể giả mạo được rồi”. 

Từ Tử Lăng chợt động tâm hỏi: “Thạch tiểu thư có biết Nhạc Sơn và Chúc  Ngọc Nghiên có một nữ nhi không?”. 

Thạch Thanh Tuyền nói: “Đó là chuyện hối hận nhất trong đời Nhạc lão, lúc  đầu ông ấy còn tưởng Chúc Ngọc Nghiên có cảm tình đặc biệt đối với mình,  chẳng ngờ Chúc Ngọc Nghiên... ôi! Thanh Tuyền không muốn nói nữa!”. 

Từ Tử Lăng liền lên tiếng kháng nghị: “Đây có phải là thói quen của tiểu thư  không? Cứ làm người khác sinh dạ hiếu kỳ rồi lại không nói nữa...”. 

Thạch Thanh Tuyền mỉm cười: “Cuối cùng thì cũng phải nói thật rồi nhé!  Người ta ghét nhất là thái độ chuyện gì cũng không để ý của huynh, lần này bỏ  qua cho huynh đó!”. Nói đoạn nàng lại kể tiếp: “Người trong ma giáo hành sự luôn  ngược với nhân tình thiên tính, giống như chuyện sinh con nuôi con vốn là luân  thường đạo lý, bọn họ lại cho là chướng ngại. Chúc Ngọc Nghiên chọn Nhạc Sơn  làm phu thê một đêm, tất cả đều vì ông ấy là người mà mụ căm ghét nhất, vì vậy  cho dù có xảy ra quan hệ nam nữ, cũng sẽ không thể đem lòng yêu thương đối  phương đến nỗi không thể dứt ra được, huynh nói như vậy có phải là bất bình  thường không?”. 

Từ Tử Lăng nghe mà trợn mắt há miệng, không biết nói gì. 

Thạch Thanh Tuyền trầm mặc hồi lâu, rồi khẽ nói tiếp: “Huynh thay Thanh  Tuyền giết bọn Vu Ô Quyển và Chu Lão Thán, Than Tuyền sẽ mời huynh đến  tiểu cốc, dùng chân diện mạo toàn tâm toàn ý tấu lên một khúc tặng huynh, điều  kiện này có khiến huynh vừa ý không?”. 

o0o 

Thu Dung cô nương đến hầu Khấu Trọng uống rượu quả nhiên dung nhan  bất tục, hơn nữa còn rất tươi trẻ, tuyệt đối không phải hạng tàn hoa bại liễu. Nàng  thấy Khấu Trọng lưng hùng eo gấu, dung mạo tuấn tú khôi ngô thì lập tức xuân  tình dào dạt, dính chặt người vào gã, giở mọi ngón nghề để lấy lòng. 

Khấu Trọng bề ngoài tỏ ra mê đắm, nhưng tai lại vểnh lên lắng nghe Tiểu  Lữ Bố Tiêu Hồng Tiến và Thu Nguyệt nói chuyện ở phòng bên. 

Lúc này Thu Nguyệt và họ Tiêu đang chơi trò đoán quyền phạt rượu, tới lượt  Tiêu Hồng Tiến phải uống rượu phạt. Khấu Trọng thầm nhủ đã đến lúc, bèn định  đứng dậy định bước sang chào hỏi thì chợt nghe tiếng bước chân dồn dập vang  lên, khí thế hung hăng, làm cho Thu Dung cũng phải giật mình rời khỏi lòng gã,  hoa dung thất sắc. 

Tiếng bước chân sầm sập của hơn mười người chạy qua cửa phòng, rồi  dừng lại trước cửa gian phòng của Tiêu Hồng Tín bên cạnh. 

“Bình!”. 

Không biết ai đã đá bật cửa phòng, kế đó là thanh âm ngạc nhiên của Tiêu  Hồng Tiến: “Đại đương gia!”. 

Khấu Trọng giật mình, biết là Đô Nhậm đã đến, chỉ là không hiểu vì chuyện  gì mà khiến y hung hăng, chẳng hề nể mặt Tiêu Hồng Tiến chút nào như vậy. 

Một giọng nam nhân khàn khàn, trầm đục vang lên: “Những người khác cút  hết ra ngoài!”. 

Tiêu Hồng Tiến im lặng không nói gì, tiếng bước chân của Thu Nguyệt đi xa  dần, lúc nặng lúc nhẹ, rõ ràng là đã sợ đến hồn bất phụ thể. 

Cửa phòng đóng lại. 

“Chát!”. 

Đô Nhậm đập bàn nói: “Nói cho ta biết, kẻ nào nào đã tiết lộ kế hoạch tấn  công Bành Thành của chúng ta ra ngoài?”. 

Khấu Trọng nghe mà trợn mắt há miệng, trong lòng thầm nhủ không ngờ lại  xảo hợp đến vậy, đồng thời cũng thầm khen Thẩm Nhân Phúc hành sự hiệu quả. 

Tiêu Hồng Tiến có vẻ không vui đáp: “Ta không hiểu đại đương gia đang nói  gì cả”. 

Đô Nhậm tức giận quát lên: “Ngươi không hiểu thì ai hiểu? Chuyện tấn công  Bành Thành chỉ có ngươi, ta và Quật Ca biết, nhưng bây giờ đã truyền khắp ngoài  kia rồi, thứ tự tấn công trước sau thế nào cũng nói hết sức rõ ràng, nếu không phải lộ ra từ miệng của ngươi, lẽ nào là ta hay Quật Ca tự rêu rao ra chứ? Ngươi  có còn gì để nói nữa không?”. 

Tiêu Hồng Tiến trầm giọng đáp: “Tiêu Hồng Tiến này đã đi theo đại đương  gia bao nhiêu năm, đã bao giờ nói dối nửa câu chưa? Ta nói không tức là không,  đại đương gia có tin hay không thì tùy”. 

Sau một hồi trầm mặc, Đô Nhậm đột nhiên đứng bật dậy, nói liền ba tiếng  “hảo, hảo, hảo” rồi bỏ đi như một trận gió. 

Khấu Trọng mấy lần định xuất thủ, nhưng cuối cùng vẫn bỏ đi ý nghĩ này,  bởi vì nếu gã hạ sát Đô Nhậm lúc này, sẽ rất khó thực hiện được kế hoạch thu  phục Lạc Mã Bang trong hòa bình đã định ra trước đó. 

Gã đột nhiên đứng bật dậy. 

Thu Dung còn chưa hết sợ lại bị gã làm cho giật mình đánh thót, kéo kéo  ống tay áo gã nói: “Khách quan muốn đi đâu?”. 

Khấu Trọng đưa tay vuốt lên má phấn của nàng một cái, tiện tay lấy một  đĩnh vàng đặt lên bàn, cười cười nói: “Ta đi an ủi một vị bằng hữu, nàng ngoan  ngoãn ngồi ở đây, đừng đi hầu hạ nam nhân nào khác đấy!”. 

o0o 

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Ta chỉ có thể hứa là sẽ cố hết sức! Tiểu thư thou  nghĩ mà coi! Đêm qua trong mê cung động dơi, điều kiện có lợi như vậy mà chúng  ta vẫn để cho chúng đào thoát! Chỉ nội chuyện này cũng đủ thấy hai tên tà nhân  đó lợi hại thế nào rồi, sau này tiểu thư cũng nên cẩn thận một chút!”. 

Thạch Thanh Tuyền chớp chớp mắt, nhìn gã một lúc lâu rồi mới mỉm cười  để lộ hai hàm răng trắng đều đặn: “Chuyện hôm nay huynh làm không được,  không có nghĩa là ngày mai cũng làm không được, chỉ cần huynh chịu đáp ứng là  tốt rồi”. 

Lúc này cơm chay đã được bưng lên. 

Thạch Thanh Tuyền cầm đũa gắp thức ăn vào bát cho Từ Tử Lăng: “Bữa  cơm này coi như là tiệc tiễn huynh lên đường, thế nên phải để tiểu muội mời  khách! Hà! Thật thoải mái! Từ khi sau khi gia mẫu tiên khứ, Thanh Tuyền chưa lúc  nào cảm thấy vui vẻ như lúc này”. 

Từ Tử Lăng chỉ biết cười khổ đáp lại. 

Thạch Thanh Tuyền như vừa chợt nhớ ra chuyện gì, bật cười nói: “Quên mất  không nói cho huynh cách tìm người ta ở Xuyên Trung, bằng không huynh có tìm  một vạn năm cũng không tìm ra đâu. Hì! Không hiểu vì sao mà Thanh Tuyền thấy  mình càng lúc càng thích trêu trọc huynh hơn! Nhìn thần sắc lúng túng của huynh  là Thanh Tuyền lại không nín nổi cười!”. 

Từ Tử Lăng còn biết nói gì nữa.

Hai người gắp đi gắp lại cho nhau, chẳng mấy chốc đã ăn sạch sẽ đồ ăn  trên bàn. Nhìn mấy chiếc đĩa sạch trơn, cả hai đều cảm thấy tức cười. 

Sau khi trả tiền, ra đến ngoài phố, Thạch Thanh Tuyền mới nói: “Huynh có  đồ gì lưu lại khách sạn không?”. 

Từ Tử Lăng lắc đầu. 

Thạch Thanh Tuyền lại nói: “Đêm khuya thế này, thành môn chắc đã đóng  rồi. Chúng ta vượt tường thành ra vậy, huynh có muốn tiễn Thanh Tuyền một  đoạn không?”. 

Từ Tử Lăng cười cười: “Đương nhiên rồi”. 

Thạch Thanh Tuyền vui vẻ nói: “Vậy thì theo Thanh Tuyền!”. 

Nói đoạn liền đi về phía Tây Thành. 

Từ Tử Lăng đi theo sau nàng, mỉm cười nói: “Có rất nhiều chuyện tiểu thư  chỉ nói một nửa, có phải nhân lúc này nên nói cho rõ hơn một chút không?”. 

Thạch Thanh Tuyền lắc đầu: “Những chuyện đó đều rất phức tạp, nói thế  nào cũng không hết, để sau này huynh đến kiếm Thanh Tuyền mới nói có được  không? Huynh là người khách đầu tiên được Thanh Tuyền mời đến nhà đó!”. 

Từ Tử Lăng chau mày: “Chỉ e trong thời gian tới tại hạ không thể phân thân”. 

Thạch Thanh Tuyền thoải mái ung dung nhún vai nói: “Đương nhiên khi nào  rảnh Từ huynh mới đến”. 

Từ Tử Lăng đang định nói gì thì chợt nghe tiếng kiện mã hí vang, một cỗ xe  ngựa bất ngờ dừng lại ở con phố đối diện. 

“Bình!”. 

Nóc xe bật tung ra, một bóng người từ bên trong lao vút ra, hạ thân xuống  sau lưng gã và Thạch Thanh Tuyền, thanh thế kinh người. Từ Tử Lăng và Thạch  Thanh Tuyền đưa mắt nhìn nhau, đều không biết xảy ra chuyện gì. 

“Bá Đao Nhạc Sơn, không ngờ là huynh!”. 

Từ Tử Lăng nghe mà cảm thấy phiền phức, thầm kêu oan uổng. Chợt bên  tai gã vang lên giọng nói của Thạch Thanh Tuyền: “Đừng sợ, đây là lão bằng hữu  Tả Du Tiên của huynh. Thanh Tuyền nói một câu, huynh nói một câu, đã hiểu  chưa?”. 

Vừa nói nàng vừa thừa cơ bước sang một bên. 

Từ Tử Lăng chậm rãi quay người lại, y theo chỉ thị của Thạch Thanh Tuyền,  thản nhiên nói: “Từ khi từ biệt ở Trường Bạch tới nay thấm thoắt đã bốn mươi năm  rồi, Du Tiên huynh phong thái vẫn như xưa, đúng là chuyện đáng mừng, đáng  mừng!”. 

o0o 

Khấu Trọng đẩy cửa bước vào. 

Ánh mắt sắc bén của Tiêu Hồng Tiến xạ thẳng ra nhìn gã, nhưng thanh âm  lại bình tĩnh cực kỳ: “Các hạ là ai?”. 

Người này không hổ danh Tiểu Lữ Bố, gương mặt tuấn tú khôi ngô, cao lớn  đầy đặn, mỗi cái cất tay động chân đều tỏ rõ y là người hết sức tự tin. 

Khấu Trọng cười cười, thản nhiên ngồi xuống đối diện với y: “Tiểu đệ Khấu  Trọng, Tiêu huynh khoẻ chứ?”. 

Tiêu Hồng Tiến thoáng giật mình, đưa tay cầm thanh đại đao đặt trên bàn  lên. 

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Chậm đã!”. 

Tiêu Hồng Tiến tay đặt lên chuôi đao, nhưng vẫn chưa rút ra, thấp giọng hỏi:  “Lẽ nào các hạ đến tìm ta uống rượu sao?”. 

Khấu Trọng xòe hai tay ra, tỏ rõ mình không có ý tấn công, mỉm cười nói:  “Nếu ta muốn giết người, vừa rồi đại đương gia của Tiêu huynh đã không thể rời  khỏi chỗ này rồi, đúng không?”. 

Tiêu Hồng Tiến bình tĩnh trở lại, chăm chú quan sát đối phương hồi lâu rồi  mới gật đầu nói: “Tại sao các hạ không động thủ?”. 

Khấu Trọng đáp: “Bởi vì ta nể mặt Tiêu huynh!”. 

Tiêu Hồng Tiến đang ngẩn người thì tiếng bước chân lại vang lên, ít nhất  cũng phải có đến mấy chục người từ hai bên hành lang truyền lại. 

Khấu Trọng ung dung nói: “Đô Nhậm muốn lấy mạng Tiêu huynh đó!”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro