Đề 13:

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1:

Phân tích nội dung đổi mới tư duy của Đảng về CNH từ đại hội VI đến đại hội VII. Ý nghĩa của việc thay đổi tư duy đối với công cuộc CNH- HDH đất nước hiện nay.

trả lời

Đại hội lần thứ VI của đảng (12-1986) với tinh thần “ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985 đặc biệt là trong 10 năm(1975-1985). Trong đó, đảng ta khẳng định:chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về mục tiêu về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.do tư tưởng chủ quan, nóng vội nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; chưa thực sự coi nông nghiệp là mặ trận hàng đầu….

Đại hội VI của đảng đánh dấu quá trình đổi mới tư duy, nhận thức về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:

-         Đại hội đã cụ thể hóa nội dung chính của CNH XHCN trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực- thực phẩm, hang tiêu dung và hang xuất khẩu

-         Hội nghị trung ương khóa 7 (7-1994) đã có bước đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hóa khi ra nghị quyết về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH-HDH đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” và đưa ra khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa “ CNH-HDH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sả xuất kinh doanh dịch vụ vầ quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dự trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”

-         Đại hội VIII (6-1996)tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới đã nêu lên những nhận thức quan trọng:nước ta đã khỏi khủng kinh tế xã hội; nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho coong nghiệp hóa đã cơ bản đã hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH-HDH, hiện đại hóa đất nước; đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước t cơ bản trở thành nước công nghiệp. đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra ở hội nghị trung ương 7 khóa VII

-         Đại hội VIII nêu ra 6 quan điểm về CNH-HDH và định hướng những nooj dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 của thế kỷ XX

-         Đến đại hội IX (4-2001) và đại hội X (4-2006) đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số diểm mới về CNH-HDH:

-         Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước nhằm sớm thu hẹp khaongr cách về trình độ phát triển so với các nước truong khu vực và trên thế giới

-         Hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở nước ta phai là phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu  

-         Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế đọc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

-         Đảy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Câu 2:

Phân tích hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1975 - 1985.

Trả lời

Hoàn cảnh lịch sử

1.1.1 Tình hình trong nước

Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, tổ quốc hòa bình, thống nhất cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây cũng chính là thuận lợi cơ bản của nước ta. Nhưng ngoài những mặt thuận lợi trên thì nước ta cũng đã gặp vô vàn khó khăn trong thời kì này. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào công cuộc khắc phục hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, và cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này đã làm suy giảm tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định “Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội.

1..1.2 Tình hình thế giới: Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn của các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những mâu thuẫn bất đồng. Tình hình Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan rã; ngày 24 – 2 – 1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình hợp tác trong khu vực.

1.2 Chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nướ ta”.

Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.

Từ giữa năm 1978, Đảng ta đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như: Chú trọng củng cố tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình tự do, trung lập ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3-1982), Đảng ta xác định: Công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.

Về quan hệ với các nước, Đảng tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại giữa hai bên; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật.

Trên thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986) là xây dựng mối quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và không phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch.

1.3 Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước. Về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuân lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình hữu nghị và hợp tác. Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam cũng gặp những trở ngại lớn. Từ những năm cuối của thập kỉ 70, nước ta bị bao vây, cấm vận vế kinh tế, cô lập về chính trị, vừa phải đương đầu với “một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch. Những hạn chế của đối ngoại Việt Nam giai đoạn này suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản được Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ ra “là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro