Đề cương CNXHKH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Phân tích khái niệm giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Liên hệ với sự ra đời, phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

Trả lời

1. Phân tích các khái niệm

• Giai cấp công nhân

-GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định , hình thành và phát triển cùng quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của LLSX có tính chất xã hội hóa ngày càng cao.

+ Ở các nước tư bản, GCCN là những người không có hoặc về cơ bản là không có TLSX, làm thuê cho giai cấp tư sản, và bị bóc lột giá trị thặng dư.

+ Ở các nước XHCN, GCCN là những người cùng nhân dân lao động làm chủ những TLSX là chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

- Mác và Angghen đã đưa ra 2 thuộc tính cơ bản của GCCN :

+ Về phương thức lao động, phương thức sản xuất : là những người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp , vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, xã hội hóa cao

+ Về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: là những người lao động không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà TB và bị nhà TB bóc lột GTTD.

• Sứ mệnh lịch sử của GCCN

- Khái niệm: SMLS của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ cách mạng tất yếu mà giai cấp công nhân có thể cần phải thực hiện nhằm thủ tiêu chế độ TBCN, xây dựng CNXH và CNCS trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệm vụ này do địa vị kinh tế, xã hội của CNTB quy định

- Nội dung SMLS của giai cấp công nhân:

+ Xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng GCCN , nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

+ Ở các nước tiền TB, tùy theo điều kiện hoàn cảnh mà GCCN phải thực hiện cách mạng DCTS, hay cách mạng DTDCND và tiếp đó là cách mạng XHCN để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

+ Ở nước ta, GCCN trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, và lãnh đạo cuộc cách mạng đó phải là Đảng Cộng Sản.

2. Liên hệ sự ra đời và phát triển của GCCN với sứ mệnh lịch sử của GCCN :

Có thể thấy, GCCN ra đời và phát triển có sự gắn bó mật thiết với sứ mệnh lịch sử của nó.

- GCCN Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở GCCN , nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ của ach áp bức bóc lột cảu giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng của GCCN được nhân lên gấp bội.

- GCCN Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sục sôi của một lotaj phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục bùng nổ, đã có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Nhưng, những phong trào đó đã thất bại, làm cho sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.

- Cùng lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, ảnh hưởng tới phong trào dân tộc dân chủ ở các nước khác, trong đó có phong trào của nước ta. Vào lúc đó, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường duy nhất và đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, con đường cách mạng DTDCND, và chuyển từ CM DTDCND lên CMXHCN. Đồng thời xác định, GCCN sẽ là người lãnh đạo cách mạng thực hiện cuộc cách mạng đó, thông qua đội tiên phong của nó là ĐCS Việt Nam.

Như vậy, lịch sử VN đã chứng minh được rằng, GCCN VIệt Nam ra đời và phát triến gắn liền với sứ mệnh lịch sử của mình, đó là làm cuộc cách mạng DTDCND, giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, GCCN luôn đi đầu trong việc xây dựng CNXH mới, nhất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nhằm thực hiện mục tiêu : dần giàu, nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Câu 2: Phân tích khái niệm " thời kỳ quá dộ từ CNTB lên CNXH". Liên hệ với thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH ở VN.

Trả lời

• Phân tích khái niêm:

- Quá độ là khái niệm triết học, dùng để chỉ sự chuyển biến, chuyển đổi về vật chất từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác, phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử. Trong triết học xã hội, quá độ thường được dùng để chỉ sự chuyển biến, chuyển đổi có tính chất cách mạng của các tien đề, các điều kiện, cơ sở của một hình thái kinh tế - xã hội mới.

- Quá độ lên CNXH là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ sự chuyển biến có tính chất cách mạng (được diễn ra từ sau khi giai cấp công nhân dành được chính quyền) từ các yếu tố, các tiền đề còn mang tính TBCN từng bước trở thành các yếu tố, các tiền đề xã hội chủ nghĩa, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Thời kì quá độ từ TBCN lên CNXH là một thời kì lịch sử cần thiết để giai cấp công nhân sử dụng chính quyền, tác động và hoàn thành về căn bản toàn bộ sự chuyển biến, quá độ từ các yếu tố, các tiền đề còn mang tính chất TBCN từng bước trở thành các yếu tố, các tiền đề xã hội chủ nghĩa. Thời kì quá độ lên CNXH được tính từ khi GCCN dành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất - kỹ thuật và những quan hệ xã hội căn bản của CNXH.

- Trên cơ sở thừa kế những quan niệm cơ bản của C.Mác - Angghen và phân tích tình hình cách mạng Nga và cách mạng thế giới V.I. Lenin đã luận chứng cho 3 hình thức (kiểu) quá độ lên CNXH, tương ứng với 3 nước khác nhau về trình độ phát triển: thứ nhất, quá độ lên CNXH từ các quốc gia có trình độ TBCN phát triển cao, Thứ hai, quá độ lên CNXH từ các quốc giai TBCN trung bình hoặc thấp, Thứ 3, quá độ lên CNXH từ các quốc gia tiền TBCN. Đây là những kiểu khác nhau của một quá trình chuyển biến có tính quy luật: phải trải qua một cuộc cách mạng có ý thức của GCCN, và nhất thiết không được bỏ qua các bước đi, các nhiệm vụ lịch sử cần thiết cho sự quá độ, mà chỉ có thể rút ngắn các bước đi, rút ngắn thời gian thực hiện các nhiệm vụ đó mà thôi.

* Liên hệ thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH ở VN:

- Những thắng lợi to lớn của và rất cơ bản của cách mạng Việt Nam trong thế kỉ XX gắn liền và phụ thuộc vào nhân tố cơ bản là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng CS. Trong quá trình lịch sử ấy, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoa.

- Trên thực tế chúng ta đã tạo lập được điều kiện chính trị kiên quyết thực hiện bước quá độ lên CNXH theo con đường phát triển không qua chế độ TBCN.

Hiện nay chúng ta b ước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trong xu thế toàn cầu hóa kinh thế, khoa học - công nghệ. Bối cảnh đó tạo ra cơ hội to lớn để chúng ta có thể đi tắt, đón đầu nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Đồng thời bối cảnh thể giới ngày nay cũng tạo ra những thách thức vô cùng to lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Do đó, điều căn bản là chúng ta phải có đương lối đúng đăn, linh hoạt để phát huy được ý chí tự lực, tự cường, khai thác mọi tiềm năng về vật chất và tinh thần của dân tộc, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế tranh thủ thời cơ, khắc phục, vượt qua thách thức để xây dựng nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020.

Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tâng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh thế hiện đại. Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực và sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.

Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cập trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bạo mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

Mục tiêu chiến lược phát triển kinh thế 10 năm 2001 - 2010 là: Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, tăng cường, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh thế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Câu 3: Phân tích khái niệm "chủ nghĩa xã hội". Liên hệ làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam vào việc xác định mô hình CNXH ở Việt Nam.

Trả lời:

1.Phân tích khái niệm: chủ nghĩa xã hội

* Quan niệm của Hồ Chí Minh:

- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn liền với sự phát triển tiến bộ khoa học-kĩ thuật và văn hóa.

- Nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.

- Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

-Chủ nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không có bóc lột, áp bức, con người được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.

- Chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy.

Những đặc trưng này bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội : lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, thiên nhiên và con người. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội chứa đựng trong đó một hệ thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các nhu cầu lợi ích của nó. Vì lấy con người làm mục tiêu phát triển, chủ nghĩa xã hội theo quan niệm Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội của con người, vì con người. Chế độ xã hội đó mang bản chất dân chủ và nhân đạo nhất trong tiến trình vận động của xã hội loài người. Có thể coi đây là mô hình cấu trúc chủ nghĩa xã hội theo quan niệm Hồ Chí Minh.

2. Liên hệ:

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU

1. Liên Xô lâm vào tình trạng "trì trệ" và công cuộc cải tổ

Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng chưa từng có bùng nổ rồi nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ... tiếp diễn theo sau đó, mở đầu cuộc khủng hoảng chung của toàn thế giới, đặt ra cho toàn thể nhân loại những vấn đề bức thiết phải giải quyết như: sự bùng nổ dân số và hiểm hoạ vơi cạn dần những tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho sự sống của con người; yêu cầu đổi mới, thích nghi về kinh tế, chính trị, xã hội trước sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học - kỹ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá cao... Chính trong bối cảnh lịch sử đó, những người lãnh đạo Đảng, nhà nước Liên Xô chủ quan cho rằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng chung toàn thế giới, do đó chậm thích ứng, chậm sửa đổi. Trong những điều kiện mới, mô hình và cơ chế cũ của chủ nghĩa xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội được hình thành trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt trước kia, vốn đã tồn tại những thiếu sót và sai lầm, nay càng trở nên không còn phù hợp và cản trở sự phát triển về mọi mặt của xã hội Xô viết. Mặt khác, những hiện tượng thiếu dân chủ, thiếu công bằng xã hội, vi phạm nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa và những tệ nạn quan liêu, độc đoán dần dần hình thành cơ chế quan liêu độc đoán với những tầng lớp đặc quyền, đặc lợi đã gây nên sự bất mãn của nhân dân, làm cho đất nước dần dần lâm vào tình trạng "trì trệ", "tiền khủng hoảng".

Từ giữa những năm 70 đến giữa những năm 80, mặc dù một số ngành công nghiệp của Liên Xô vẫn sản xuất ổn định, như dầu mỏ, than, quặng, kim loại, máy móc thiết bị công nghiệp, ô tô... nhưng kỹ thuật, chiến lược sản phẩm ngày càng sút kém so với các nước phương Tây. Liên Xô vẫn luôn luôn phải nhập lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và các máy tinh vi, chính xác của phương Tây. Bước sang nửa sau những năm 80, tình hình kinh tế càng trở nên khó khăn, sản xuất công nông nghiệp trì trệ, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, hàng tiêu dùng không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, mức sống của nhân dân ngày càng giảm sút, càng xa cách so với đời sống nhân dân của các nước tư bản phương Tây.

Trong bối cảnh đó, năm 1985, M.Goocbachôp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, tiến hành công cuộc cải tổ nhằm sửa chữa những thiếu sót và sai lầm trước đây, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và xây dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân văn đúng như bản chất của nó. Trong gần 6 năm, cuộc cải tổ chủ yếu được tiến hành về mặt chính trị, xã hội như: thực hiện đa nguyên về chính trị (tức nhiều đảng - tức Đảng Cộng sản, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước Liên Xô), thực hiện dân chủ và công khai... Về kinh tế, chính phủ Liên Xô cũng đưa ra nhiều phương án nhằm chuyển biến nền kinh tế Liên Xô sang cơ chế thị trường nhưng trong thực tế, chưa thực hiện được gì, trong khi đó các quan hệ kinh tế cũ bị phá vỡ mà các quan hệ kinh tế mới thì chưa hình thành. Công cuộc cải tổ đã vấp phải rất nhiều khó khăn trở ngại: sự suy sụp về kinh tế kéo theo những khó khăn về chính trị và những tệ nạn xã hội; sự xung đột giữa các dân tộc và sắc tộc dẫn đến hiện tượng li khai của một số nước cộng hoà ra khỏi Liên bang Xô viết (ba nước Ban Tích, Grudia, Mônđôva...), sự chia rẽ và tách thành nhiều phe phái trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, sự ngóc đầu dậy của các thế lực chống lại chủ nghĩa xã hội với những hoạt động chống phá của nó v.v... Đất nước Liên Xô đứng trước những khó khăn và thử thách nghiêm trọng chưa từng có.

Ngày 19 - 8 - 1991, một số người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Xô viết đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Goocbachốp. Cuộc đảo chính bị thất bại ngày 21 - 8 và đã gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với đất nước Xô viết: Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động trong toàn liên bang; chính phủ Xô viết bị giải thể; 11 nước cộng hoà tuyên bố độc lập, tách khỏi liên bang; một làn sóng chống Đảng Cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội dâng lên khắp mọi nơi.

Ngày 21 - 12 - 1991, những người lãnh đạo 11 nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết đã kí hiệp định thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (tiếng Nga viết tắt là SNG), bao gồm: Nga, Ucraina, Bêlarut, Cadăcxtan, Udơbêkixtan, Tatgikixtan, Cưrơgưxtan, Tuôcmênixtan, Adecbaigian, Acmênia, Mônđôva. Sự ra đời của SNG buộc Tổng thống Liên Xô M. Goocbachốp phải từ chức ngày 25 - 12 - 1991, và cùng ngày này, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống.

Như thế, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết, ra đời năm 1922, đã bị tan vỡ.

2. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu từ cuối năm 1988 đến 1991

Năm 1985, Liên Xô đã bước vào cải tổ, tuy rằng quá muộn, nhưng các nước Đông Âu vẫn chưa hề chuyển động: Anbani vẫn bảo thủ giữ nguyên những cơ chế cũ của 30 năm trước đây và "khép kín cửa" đối với bên ngoài; các nhà lãnh đạo Rumani, Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari thì cho rằng nước mình chẳng có gì sai sót để cải tổ hoặc cải cách; ở Ba Lan, ngay từ đầu những năm 80, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đã trở nên căng thẳng, phức tạp; ở Hunggari, Tiệp Khắc, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ráo riết tập hợp lực lượng, chờ đợi cơ hội. Ở một số nước Đông Âu, hiện tượng tách rời quần chúng và tha hoá của một số nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm biến dạng chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này và làm nhân dân rất bất bình.

Ở Rumani, vợ chồng Xêauxexcu đã biến nhà nước xã hội chủ nghĩa thành một chế độ độc tài "gia đình trị" với cuộc sống vương giả, sa đoạ. Ở cộng hoà dân chủ Đức, Bungari, một số uỷ viên Bộ chính trị Đảng đã lạm dụng quyền lực, hưởng thụ những đặc quyền đặt lợi để đến nỗi bị khai trừ khỏi Đảng và truy tố trước pháp luật.

Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan, từ cuối năm 1988, sau đó lan sang Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội, với sự tiếp sức của các nước phương Tây, ra sức hoạt động, kích động công nhân bãi công, quần chúng biểu tình, đấu tranh đòi Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu phải cải cách kinh tế, chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên về chính trị, xoá bỏ độc quyền lãnh đạo của một Đảng Cộng sạn, tiến hành tổng tuyển cử tự do... Những hoạt động trên đây làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước, đẩy chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng. Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xoá bỏ độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành tổng tuyển cử tự do.

Kết quả, qua tổng tuyển cử tự do, ở hầu hết các nước Đông Âu (Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức), các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đều đã thắng cử, nắm được chính quyền Nhà nước, còn Đảng Cộng sản bị thất bại, để rơi mất chính quyền khỏi tay mình. Ở Rumani, ngày 16 - 12 - 1989, quần chúng nhân dân thành phố Timisoara tiến hành biểu tình hoà bình phản đối nhà cầm quyền bắt giam một mục sư Tin lành và đưa ra những khẩu hiệu chống lại chính phủ Xêauxexcu. Cảnh sát đến đàn áp, quần chúng càng thêm phẫn nộ. Ngày 22 - 12 - 1989, quần chúng đã nổi dậy, làm chủ được tình hình ở Bucaret. Hội đồng Mặt trận cứu nước Rumani tuyên bố xoá bỏ chế độ độc tài Xêauxexcu; ngày 25 - 12 - 1989, vợ chồng Xêauxexcu bị xử tử, toàn thể Bộ chính trị Đảng Cộng sản Rumani và các thành viên nội các (60 người) bị bắt giữ. Toàn bộ hệ thống Đảng, chính quyền của chế độ Xêauxexcu đã bị sụp đổ. Ở Bungari, Nam Tư, Anbani, lúc này chính quyền tuy còn ở trong tay Đảng của giai cấp công nhân, nhưng khủng hoảng vẫn tiếp diễn ngày càng thêm trầm trọng: nội chiến đã diễn ra trọng nội bộ Liên bang Nam Tư giữa các nước cộng hoà Crôatia, Xecbia; chính quyền ở Bungari, Anbani đang lầm vào khủng hoảng sâu sắc trước những cuộc bãi công của công nhân, biểu tình của quần chúng và tình hìh kinh tế trở nên ngày càng khó khăn, căng thẳng.

Như thế, trong những năm 1989 - 1991, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lớn: Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc... quay trở lại đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; Cộng hoà dân chủ Đức sáp nhập vào Cộng hoà liên bang Đức để trở thành một quốc gia thống nhất với tên Cộng hoà liên bang Đức; hầu hết các đảng của giai cấp công nhân ở các nước Đông Âu đều đổi tên đảng và chia rẽ thành nhiều phe phái, nhiều tổ chức với tên gọi khác nhau; tên nước, quốc kì, quốc huy và ngày quốc khánh đều phải thay đổi lại.

Đây là một bước thụt lùi và một thất bại nặng nề của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội trên thực tế không còn tồn tại nữa.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô:

1 - Đã xây dựng nên một mô hình về chủ nghĩa xã hội chưa đúng đắn, chưa phù hợp (không phù hợp với quy luật khách quan trên nhiều mặt phát triển kinh tế - xã hội, chưa dân chủ, chưa công bằng và nhân đạo...);

2 - Chậm sửa chữa, thay đổi trước những biến động lớn của tình hình thế giới, và khi đã sửa chữam thay đổi thì lại rời bỏ những nguyên lí đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin;

3 - Những sai lầm và sự tha hoá về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng của một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong một số nước xã hội chủ nghĩa;

4 - Hoạt động chống phá của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước (cuộc tấn công hoà bình mà họ thường gọi là cuộc "cách mạng nhung").

Nhưng đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn và một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội - như V.I. Lênin đã nói: "Nếu người ta nhận xét thực chất của vấn đề thì có bao giờ người ta thấy rằng trong lịch sử có một phương thức sản xuất mới nào lại đứng vững ngay được, mà lại không liên tiếp trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không?"

*Những nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi CNXH ở việt nam:

- giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng

- nâng cao vai trò quản lý của nhà nước

- phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội

- xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CMXHCN

* Vận dụng sáng tạo của Đảng là

- bước đi và cách làm CNXH ở miền Bắc, phải thể hiện được sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: "xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam"

- khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, thì ta: "vừa sản xuất, vừa chiến đấu", "vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH" (sự sáng tạo)

- xây dựng CHXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá... phải kết hợp cải tạo với xây dựng, mà xây dựng là chủ chốt và lâu dài

- cách làm là: "đem tài dân, của dân, sức dân, để làm lợi cho dân", đó là "CNXH nhân dân", ko phải "CNXH nhà nước", được ban phát từ trên xuống

- nhấn mạnh vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện, chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm 20... có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được.

Câu 4: Phân tích khái niệm cách mạng XHCN. Liên hệ thực tế với cuộc CM XHCN ở Việt Nam?

Trả lời:

I. Khái niệm CMXHCN

1. Khái niệm

- CMXHCN là cuộc CMXH do giai cấp CN lãnh đạo, nhằm thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH và CNCS, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (xoá bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp CN, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng XHCN văn minh).

Nó là cách cải biến xã hội một cách căn bản, đánh dấu bước chuyển từ CNTB lên CNXH, là con đường phát triển tất yếu trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN.

- CMXHCN được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

+ Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

+ Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một

cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.

CMXHCN là cuộc biến đổi chính trị xã hội lớn và căn bản trong đời sống xã hội có nghĩa là cuộc đấu tranh lật đổ chế độ XH cũ đã hết thời và xây dựng chế độ xã hội mới một cách vững chắc và tiến bộ hơn tốt đẹp hơn để chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.

Tư tưởng CM không ngừng của Mác - Ănggen Lý luận CM không ngừng của Lênin

ĐK ra đời - CNTB đang ở giai đoạn cạnh tranh

- giai cấp TS đang là LL tiến bộ

- giai cấp VS còn yếu và thiếu

- giai cấp TS và phong kiến liên minh đánh VS - CNTB chuyển thành CNĐQ

- giai cấp TS đã là lực lượng lỗi thời

- giai cấp VS phát triển mạnh trở thành LL XH độc lập

- Những kẻ cơ hội đòi xét lại CN Mác khi điều kiện lịch sử thay đổi

Nội dung - Giai cấp VS tham gia vào cuộc CM dân chủ tư sản do giai cấp TS lãnh đạo.

- Đánh phong kiến trước rồi đánh tư sản chuẩn bị làm CM XHCN - Giai cấp VS tham gia vào cuộc CM dân chủ tư sản với tư cách người lãnh đạo CM.

- Đánh phong kiến lập chính quyền công nông và chuyển sang làm CM XHCN

điều kiện cách mạng - VS với chính đảng của mình phải giữ vững và tăng cường quyền lãnh đạo của mình trong suốt quá trình CM.

- CC DCCM công nông phải chuẩn bị cơ sở để thực hiẹn nhiệm vụ CCVS.

Giống nhau:

- Đều mang tính giai đoạn và tính liên tục

- Đều thực hiện cuộc CM dân chủ tư sản rồi tiến đến CM XHCN

- Cùng tiến đến thực hiện mục tiêu cuối cùng của CM là làm CM XHCN

2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao, mâu thuẫn với QHSX chiếm hữu tư nhân. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn.

- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt => đòi hỏi CMXHCN để xoá bỏ áp bức bóc lột.

- Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt, nhưng quy luật xã hội không tự nó xảy ra mà phải thông qua hoạt động của con người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ.

3. Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình liên tục gồm hai giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ. V.I. Lênin đã chỉ rõ: giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành được thắng lợi, giành được chính quyền "bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản" (Bạo lực cách mạng được hiểu dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang kết hợp với bãi công chính trị của quần chúng)

- Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo xã hội cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt như: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, v.v..

4. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.

+ Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+ Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân" . Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ"

5. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng lên.

Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân thực hiện quyền làm chủ về chính trị cũng là quá trình đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và tập thể, giữa chủ nghĩa cách mạng và phản cách mạng, v.v..

- Trên lĩnh vực kinh tế: Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết, phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.

Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày

càng tăng cao, từng bước cải thiện đời sống nhân dân lao động, nâng cao chất lượng sức khoẻ, năng lực của người lao động. Mặt khác, dưới chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách phát huy tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của người lao động để ngày càng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển góp phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản.

Dưới chủ nghĩa xã hội, có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải xã hội phục vụ quần chúng nhân dân lao động, vì có sự thống nhất về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội.

- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó.

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hoá tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết và biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội..., có năng lực làm chủ xã hội.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các lĩnh vực đó có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau.

II. Liên hệ

1, CMXHCN trên thế giới

Ngày 7-11-1917, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê-nin và Ðảng Bolsevic đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và địa chủ, thiết lập chính quyền của nhân dân lao động, khai sinh ra Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới.

Ngay đêm thắng lợi đầu tiên của Cách mạng, chính quyền Xô-viết vừa ra đời đã ban hành Sắc lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất, tuyên bố nước Nga Xô-viết rút ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới và thỏa mãn những mơ ước ruộng đất từ hàng nghìn năm của nông dân. Tiếp đó, Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc Nga khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc ở Nga; Sắc luật xóa bỏ mọi sự phân biệt đẳng cấp, dân tộc và mọi tước vị phong kiến, xác lập sự bình đẳng giữa nam và nữ, quyền tự do tín ngưỡng, quyết định nhà thờ tách khỏi trường học.... thực sự tạo được sự tin tưởng trong long dân chúng.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã đập tan ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở nước Nga, đưa giai cấp công nhân, nông dân lên nắm chính quyền, biến ước mơ, nguyện vọng hàng trăm năm của quần chúng lao động về một chế độ xã hội không còn bóc lột, áp bức, bất công và biến lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học thành hiện thực sinh động. Với Cách mạng Tháng Mười, sự nghiệp giải phóng vĩ đại nhất đã mở ra trong lịch sử loài người: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời mở đầu một kỷ nguyên mới gắn mục tiêu phát triển với các mục tiêu cao cả khác là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đây được coi là cuộc CMXHCN tiêu biểu, mở đầu cho những cuộc CMXHCN khác ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam....

2. CMXHCN ở Việt Nam

- Nếu CMXHCN được hiểu theo nghĩa hẹp thì có nghĩa là Việt Nam đã hoàn thành xong cuộc CM này. Vì tính đến thời điểm năm 1954, sau hiệp định Giơ - ne - vơ, miền Bắc đã giành được chính quyền về tay nhân dân, và cho đến 1975 thì nước ta đã hoàn toàn thống nhất. Cả nước có chung một chính quyền do Đảng CSVN, chính đảng của GCCN lãnh đạo.

Thành tựu trong giai đoạn 1954 - 1975 (đây là những số liệu mang tính chất tham khảo)

+ Tháng 9.1954, Hội nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cụ thể như sau: Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.

+ Cuộc vận động cải cách ruộng đất được phát động rộng rãi và khẩn trương. Đến mùa hè 1956 việc cải cách ruộng đất đã hoàn thành ở đồng bằng và trung du và đạt được kết quả đáng kể: đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến, xóa bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, hoàn toàn giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến có từ hàng nghìn năm, đưa giai cấp nông dân miền Bắc lên làm chủ nhân nông thôn.

+ Song song với việc cải cách ruộng đất là việc phục hồi kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố. Sản lượng lương thực đạt trên 4.000.000 tấn, vượt xa mức trước chiến tranh.

+ Trên nền tảng kết quả đạt được trong cải cách ruộng đất và phục hồi kinh tế, miền Bắc tiến lên thực hiện kế hoạch ba năm về việc hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. ở nông thôn, từ năm 1959, cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp đã trở thành một cao trào. Đến cuối năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã bậc thấp đã căn bản hoàn thành. Hơn 85% số nông hộ đã vào hợp tác xã với 68,06% diện tích ruộng đất. ở thành thị, một số hộ tư sản lớn được cải tạo theo xã hội chủ nghĩa. Công nhân được giải phóng khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản. Hơn 26 vạn thủ công đã gia nhập các hình thức hợp tác xã.

=> Kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa đã đạt kết quả khả quan về kinh tế và xã hội, xác lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ được về cơ bản chế độ người bóc lột người trên miền Bắc. Ngày 1.1.1956, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Việt Nam được công bố, khẳng định con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

+ Năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất 2 miền Nam - Bắc, bước vào cuộc xây dựng CNXH thực sự trên cả nước. Nước ta đã thiết lập được hệ thống chế độ mới trong cả nước và đã áp dụng một loạt chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tạo nên cuộc sống hoà hợp dân tộc, làm cho lực lượng cách mạng nước ta lớn hơn bao giờ hết, phát huy có hiệu quả trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

+ Đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở phía Tây Nam và phía Bắc bảo vệ vững chắc Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

+ Trên mặt trận kinh tế cũng như mặt trận văn hoá, đã đạt được một số thành tựu, đáng chú ý là đã cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống.

- Hiểu theo nghĩa rộng thì nước ta vẫn đang tiến hành cuộc CMXHCN, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xh, tức là vẫn trong quá trình cải tạo những tàn dư của xh cũ để xây dựng XHCN văn minh. Cuộc CMXHCN chỉ thực sự hoàn thành khi đất nước xây dựng xong CNXH, còn hiện nay nước ta vẫn chỉ đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH.

+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển thêm và cụ thể hoá hơn những nội dung của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những bước đi, hình thức để đạt được mục tiêu cụ thể hơn. Đó là: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước" .

+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4 năm 2006) của Đảng đã khẳng định: "Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Câu 5: Phân tích khái niệm "Nền dân chủ XHCN". Liên hệ với thực tế xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.

Trả lời:

I. Khái niệm

1. Dân chủ

- Dân chủ trong tiếng Hy Lạp là demoskratos tức là quyền lực thuộc về nhân dân tuy nhiên dân là ai thì phải phụ thuộc vào bản chất xã hội quy định. Ví như trong chế độ CHNL thì dân được quy định gồm chủ nô, tăng lữ, thương gia còn nô lệ không được coi là dân.

- Theo Lê nin dân chủ là một hình thái Nhà nước, là 1 chế độ chính trị, nó mang bản chất của giai cấp thống trị.

2. Dân chủ XHCN

- Dân chủ XHCN thì dân được hiểu là đa số quần chúng nhân dân lao động. Nó là một chế độ xh mà ở đó dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về toàn bộ nhân dân. Đây là nền dân chủ cho đại đa số người - dân chủ của nhân dân lao động dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền dân chủ này giành được do kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài vì tiến bộ xã hội của nhân dân lao động.

• Về chính trị: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện qua sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản đối với toàn xã hội, thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, mà trong đó có giai cấp công nhân .

• Về kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.

• Về văn hóa tư tưởng: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Marx-Lenin (hệ tư tưởng của giai cấp công nhân) làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học, nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hóa, xã hội, tôn giáo ...)

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Chế độ dân chủ bắt nguồn từ chính bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ bản để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Sự sáng tạo của nhân dân, quyền lực của nhân dân và sự bình đẳng, tự do cá nhân là cơ sở lý luận và thực tiễn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo nên những hình thức dân chủ hoàn toàn mới, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, làm cho nền dân chủ đó ngày càng phong phú, đa dạng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nền dân chủ có tính chất dân cử, những hình thức dân chủ trực tiếp khác nhau cũng được phát triển hài hòa, thể hiện trong các hoạt động của những tổ chức xã hội, tổ chức dân lập, trong hệ thống kiểm soát của nhân dân.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền nghỉ ngơi, học hành. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng những quyền đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo cho công dân những khả năng rộng rãi để bày tỏ nguyện vọng và trình bày những ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã hội.

- Dân chủ tư sản (DCTS) và dân chủ xã hội chủ nghĩa (DCXHCN) giống nhau là đều mang bản chất giai cấp, ra đời từ các cuộc CM, dựa trên nề KT cao, có Nhà nước, có giai cấp.

Khác nhau:

DCTS DC XHCN

- Con đường: CM DCTS

- Chính trị: do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo.

- Tư hữu TLSX

- Dân chủ cho số ít, mất dân chủ cho số nhiều

- Đa nguyên đa đảng - CM XHCN

- Do đảng GC CN lãnh đạo

- Công hữu TLSX

- Dân chủ cho đa số nhân dân lao động, mất dân chủ cho thiểu số giai cấp thống trị

- 1 đảng lãnh đạo

- Thống nhất tính dân tộc, tính dân và tính giai cấp CN

II. Liên hệ

- Ðảng ta đã xác định, xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, hoàn thiện cơ chế dân chủ chính là hoàn thiện cơ chế phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo nên động lực to lớn phát triển đất nước.

+ Cơ chế dân chủ càng được xây dựng hoàn thiện, quyền dân chủ của nhân dân càng được phát huy, thì sức mạnh của nhân dân càng được tăng cường; nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước. Phát huy mọi sáng kiến của nhân dân là một trong những cơ sở thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện cơ chế dân chủ.

+ Thực tiễn 20 năm đổi mới tiếp tục chứng tỏ rằng, công sức và trí tuệ của nhân dân đóng góp vào thành công của sự nghiệp đổi mới là hết sức to lớn. Nhờ cơ chế dân chủ từng bước được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các tầng lớp nhân dân trở nên tích cực, chủ động, sáng tạo, năng động trong việc tham gia công việc của đất nước. Các quan hệ xã hội được xây dựng hài hòa, sự đồng thuận xã hội và dân chủ hóa trên các lĩnh vực của đời sống - xã hội được tăng cường.

+ Ðặc biệt, Quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện tốt ở nhiều địa phương, đơn vị, cơ quan, trường học, đã phát huy được công sức, trí tuệ của tập thể của đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động, tạo động lực để họ hăng hái thi đua lao động, sản xuất, giảng dạy và học tập, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

- Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ ở cấp Trung ương với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở cấp Trung ương có tính chất quyết định.

Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị đã động viên sự tham gia của công dân vào công việc của Nhà nước ở cơ sở, trong các hoạt động đa dạng nhằm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Bài học lớn về dân chủ là phát huy tối đa nội lực và ý thức tự lực tự cường của nhân dân; vai trò quan trọng của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đảng và nhà nước; dân chủ đi đôi với việc chấp hành pháp luật, kỷ cương.

- Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm, không chỉ là người thụ hưởng mà còn góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Mỗi chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Xác định các hình thức tổ chức thích hợp với tình hình cơ cấu xã hội - giai cấp đang có sự thay đổi sâu sắc, thu hút và tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tham gia các công việc chung của Đảng, của Nhà nước và xã hội. Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế nhằm tổ chức, thu hút và tạo điều kiện để nhân dân được thụ hưởng và thực hiện các quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với công dân và ngược lại. Bộ máy Nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kiến nghị với Đảng về xây dựng và hoạch định chính sách.

- Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Thể chế hoá và xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống kinh tế - xã hội.

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trong phạm vi được phân cấp. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ quan chính quyền địa phương. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.

- Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền; phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong việc phòng chống tham nhũng, lãng phí.

- Tuy nhiên, hiện nay ở một số nơi, dân chủ XHCN vẫn chưa được thực hiện tới nơi tới chốn dẫn đến mất long tin của nhân dân, các thế lực phản động dựa vào đó để kích động bạo loạn.

+ Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do cơ chế dân chủ chưa được hoàn thiện. Phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội cần phải tiếp tục đổi mới.

+ Ở cơ sở (và ở không ít ngành, địa phương cấp trên cơ sở) việc kiểm tra, giám sát của nhân dân chưa được phát huy. Do đó, chưa ngăn chặn một cách có hiệu quả tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và công chức suy thoái về đạo đức, lối sống, thậm chí không ít người vi phạm kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà nước.

Tài liệu tham khảo

* Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân, theo đó:

"...Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí...".

"... Sửa đổi Hiến pháp; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hoá, xã hội, về hình sự, dân sự, hành chính, về quyền và nghĩa vụ công dân... Nâng cao trình độ của các cơ quan nhà nước về xây dựng luật pháp, sớm ban hành luật về trình tự xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật...

Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân để làm đúng chức năng quy định. Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu, chế độ bầu cử và quy chế hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân.

Dân chủ ở Việt Nam

Nền dân chủ XHCN ở nước ta ra đời từ nền dân chủ nhân dân do ĐCSVN lãnh đạo, là kết quả trực tiếp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt. Đó là nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ; cơ cấu xã hội chủ yếu là nông dân; trìnhđọ văn hoá thấp; tàn dư phong kiến, thực dân nặng nề; lại trải qua 30 năm chiến tranh kéo dài ... Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta không có nhiều thuận lợi.

Qua những năm xây dựng, hoàn thiện và thực hiện, dân chủ XHCN ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và có một số những đặc điểm cơ bản đó là:

Một là, nền dân chủ XHCN ở nước ta là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ

Hai là, nước ta có nền kinh tế phát triển dựa trên LLSX tiên tiến và chế độ công hữu vè TLSX chủ yếu (công hữu các TLSX chủ yếu trong nền kinh tế nhiều thành phần là việc bảo đảm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Ba là, nước ta có nền văn hoá tiên tién, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc

Bốn là, nhân dân được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo lao động.

Năm là, các dân tộc trong nước được bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bô.

Sáu là, nước ta có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các dân tộc trên thế giới

Thực tế của những năm đổi mới đã chứng minh nền dân chủ nước ta phát triển đúng định hướng XHCN. Quá trình dân chủ hoá và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta góp phần to lớn và thành quả của công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, quá trình xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân có nơi, có lúc còn bị vi phạm nghiêm trọng; nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền diễn ra ở một số nơi và gây hậu quả xấu. Mặc khác, hiện tượng dân chủ quá trớn, dân chủ vô chính phủ, coi thường kỷ cương, pháp luật cũng đang có chiều hướng gia tăng...

Tất cả những điều nêu trên cho thấy, việc xây dựng hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Câu 6) Phân tích khái niệm "hệ thống chính trị XHCN" . Liên hệ với thực tế ở VN hiện nay

I) Phân tích khái niệm hệ thống chính trị XHCN

Hệ thống chính trị XHCN(hay hệ thống chính trị vô sản) là 1 tập hợp các thành tố cơ bản gồm ĐCS, Nhà nước pháp quyền XHCN, các đoaàn thể chính trị - xã hội của nhân dân lao động cùng với 1 tập hợp các mối quan hệ cơ bản, ổn định giữa các thành tố ấy, nhằm đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của GCCN, nhân dân lao động trong tiến trình cách mạng XHCN.

Cấu trúc của hệ thống chính trị XHCN

• ĐCS - thiết chế chính trị - xã hội, thành tố cơ bản của hệ thống chính trị XHCN

Khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH, qui luật hoạt động của ĐCS là: tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với các giai cấp, các tầng lớp XH và các tổ chức chính trị - xã hội trong nền dân chủ bằng phương thức lãnh đạothích hợp với điều kiện giai cấp vô sản đã có chính quyền.

Nội dung của hoạt động lãnh đạo của Đảng bao gồm 2 nhiệm vụ: Đề ra đường lối xây dựng nền dân chủ XHCN và chỉ đạo việc thực hiện đường lối trong thực tiễn.

Phương thức để thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị của ĐCS là: xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, lực lượng, phương pháp lớn để xây dựng dân chủ XHCN phục vụ cho quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

• Nhà nước pháp quyền XHCN, thành tố cơ bản thứ 2 của hệ thống chính trị XHCN

Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của giai cấp công nhân trong sự lien minh với các tầng lớp nhân dân lao động khác để thực hiện sự chuyên chính với kẻ thù và dân chủ với nhân dân lao động.

Chức năng cơ bản của Nhà nước XHCn trong nền dân chủ là: thực hiện quyền quản lý đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với sự lãnh đạo của ĐCS nhằm làm cho quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động khác, của các công dân và của các tổ chức chính trị - xã hội của họ được thực hiện trên thực tế.

• Các đoàn thể chính trị xã hội, đại diện cho các giai cấp các tầng lớp xã hội của nhân dân lao động với tính cách là những chủ thể quyền lực chính trị, thành tố cơ bản thứ 3 của hệ thống chính trị XHCN

Qui luật hoạt động của của các đoàn thể nhân dân là qui luật về thực hiện chức năng tham gia tích cực và chủ động vào quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN.

Các phương thức hoạt động chủ yếu: tùy theo Hiến Pháp mà tham gia tổ chức, xây dựng, quản lý Nhà nước, tuyên truyền giáo dục đường lối chính sách của ĐCS và nhà nước đối với quần chúng, tổ chức các chương trình hành động và tổ chức cho hội viên thực hiện chương trình đó...

Liên hệ với thực tế xây dựng hệ thống chính trị XHCN ở VN hiện nay:

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ VI, Đảng ta đã nêu ra đường lối đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta với mục tiêu bao trùm là làm cho quyền lực chính trị của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân được thực hiện ngày càng đầy đủ trên thực tiễn.

Đại hội đã nêu ra những phương hướng cơ bản cho quá trình đổi mới hệ thống chính trị XHCN ở nước ta mà nội dung chủ yếu là: mở rộng dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà trong đó trên lĩnh vực kinh tế là quan trọng nhất, phân định rõ và thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ của mỗi bộ phận cấu thành nền dân chủXHCN và giải quyết tốt mối quan hệ giữa chúng; xây dựng Đảng, Nhà nước các đoàn thể nhân dân trong sạch vững mạnh và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của từng tổ chức đó, nâng cao ý thức trình độ và năng lực hoạt động dân chủ của giai cấp công nhân, của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân lao động khác, đẩy mạnh chống tệ quan liêu tham nhũng trong bộ máy của nền dân chủ XHCN, nêu cao cảnh giác và đập tan mọi âm mưu hành động chống phá nền dân chủ, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế với các nền dân chủ khác trên cơ sở giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Câu 7: Phân tích khái niệm cơ cấu xh giai cấp. Liên hệ với thực trạng, xu thế biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH

Trả lời

1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp

Cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp

- Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn nhau và sự tác động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính cộng đồng. Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu hiệu, nguyên tắc. Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà người ta có thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị, nhóm hoạt động,...). Có hai loại cộng đồng: cộng đồng khách quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý đồ, mục đích của con người.

- Cơ cấu xã hội chỉ một xh xác định với toàn bộ các thành tố cơ bản và những mối liên hệ bản chất giữa các thành tố cơ bản hợp thành của XH. Đó là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã hội đề cập chủ yếu đến các cộng đồng được hình thành một cách khách quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo,... Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số (với dấu hiệu nhân khẩu), cơ cấu xã hội - dân cư (với dấu hiệu cùng cư trú theo địa lý), cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn giáo,....

- Cơ cấu xã hội - giai cấp là cơ cấu xh được phân chia theo giai cấp, là tổng thể các giai cấp, tầng lớp xã hội của mọt xh cụ thể trong một giai đoạn lịch sử nhất định, cùng với quan hệ giữa các giai cấp đó, được phản ánh trong sự vận động và biến đổi của cơ cấu xh. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.

2. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội

- Cùng một con người sẽ thuộc về nhiều cộng đồng người khác nhau theo các hình thức phân chia khác nhau (thuộc về một giai cấp, tầng lớp, một nhóm nghề nghiệp, một địa bàn cư trú, một tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào,...). Các loại hình của cơ cấu xã hội có mối quan hệ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau.

- Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác, vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu nhập. ở các loại hình cơ cấu xã hội khác không có được các mối quan hệ quan trọng và quyết định trên đây. Từ đó cho thấy cơ cấu xã hội - giai cấp có liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị và nó quyết định đến bản chất và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác. Mỗi xã hội có phân chia giai cấp đều có cơ cấu xã hội - giai cấp đặc trưng của mình, nó thể hiện cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội này với cơ cấu xã hội khác. Ví dụ trong xã hội phong kiến thì có cơ cấu xh giai cấp khác với xh của CNTB....

- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.

- Chủ nghĩa Mac cho rằng, CCGCXH không phải lúc nào cũng như lúc nào. Nó phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội, khi hình thái kinh tế - xã hội phát triển sang một hình thái kinh tế - xã hội khác thì CCGCXH cũng biến đổi; có thể có giai cấp mất đi, có thể có giai cấp mới xuất hiện; vai trò, địa vị của mỗi giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp cũng biến đổi, không như cũ.

Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã hội - giai cấp, coi nhẹ các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn theo ý muốn chủ quan.

3. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp

a. Xu hướng chủ yếu

- Sự xích lại gần nhau từng bước giữa các giai cấp, tầng lớp về mối quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này thể hiện thông qua việc dần dần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao. Với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá chế độ sở hữu, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các thành phần xã hội tồn tại bên nhau, xích lại gần nhau, đan xen lẫn nhau để cùng phát triển.

- Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng lớp. Xu hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, áp dụng những thành tựu mới vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất, rút ngắn khoảng cách của sự khác biệt giữa các lực lượng xã hội trong quá trình lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.

- Sự xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng giữa các giai cấp và tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến việc thực hiện ngày càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.

- Sự xích lại gần nhau về tiến bộ về đời sống tinh thần giữa các giai cấp, tầng lớp. Xu hướng này thể hiện trực tiếp thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Từ đó tác động đến sự xích lại gần nhau và xoá bỏ dần mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

Những xu hướng trên đây không tách rời nhau và được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.

b. Những vấn đề có tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH

- Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi biến động cơ cấu kinh tế, cụ thể là cơ cấu ngành nghề kinh tế, thành phần kinh tế, cơ chế hành chính, kinh tế - xã hội. Yếu tố kinh tế luôn giữ vai trò quyết định đối với các vấn đề xã hội trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế tất yếu đưa tới cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp. Trong thời kỳ này có những giai cấp, tầng lớp của cơ cấu xã hội - giai cấp mới và cũ, có đông đảo nhân dân lao động và tồn tại một bộ phận của giai cấp, tầng lớp bóc lột. Cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ tuy vận động theo cơ chế thị trường, song có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt chủ quan, cơ cấu xã hội - giai cấp mới hình thành lại tác động trực tiếp tới sự củng cố và phát triển cơ cấu kinh tế mới.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà những nhân tố của xã hội mới và tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen, đấu tranh với nhau. Cơ cấu xã hội - giai cấp luôn biến đổi trong mọi xã hội. Do đặc điểm của thời kỳ quá độ, quá trình biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội giai cấp mới là quá trình liên tục, đa dạng, phức tạp và mạnh mẽ. Quá trình này sẽ dần dần ổn định vào giai đoạn sau khi nền kinh tế đã ổn định, lực lượng sản xuất đã phát triển và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt được những kết quả cơ bản.

Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội biến động và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn, vừa có mối quan hệ liên minh với nhau, tiến tới xoá bỏ hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội, đưa đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội, đặc biệt là giữa công nhân, nông dân, trí thức. Mức độ và quá trình biến đổi này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở mỗi giai đoạn cụ thể. Mâu thuẫn và liên minh thể hiện tính độc lập tương đối và tính phát triển đa dạng của các giai tầng xã hội tạo nên sự hợp tác, xích lại gần nhau giữa các giai tầng cơ bản trong xã hội, xoá dần những quan hệ bóc lột giữa người với người.

4. Liên hệ Việt Nam

- Xu hướng phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ mang tính đa dạng và thống nhất. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần và ngay cả trong cơ cấu của mỗi giai tầng đó cũng mang tính đa dạng và có sự thay đổi, vận động nhanh chóng để tiến tới sự ổn định tương đối ở các giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ trong cơ cấu xã hội - giai cấp ấy, giai cấp công nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất giữ vai trò chủ đạo trong quá trình cải biến xã hội. Điều này thể hiện ở chỗ giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng với cơ cấu hợp lý. Đồng thời vai trò chỉ đạo đó còn thể hiện ở sự phát triển của mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị - xã hội của nước ta. Từ đó tạo nên sự thống nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp trong suốt thời kỳ quá độ.

- Đặc điểm cơ bản có liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đằng sau các thành phần kinh tế là các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu giai cấp đa dạng, phức tạp bao gồm các giai cấp, tầng lớp vừa liên minh, vừa đấu tranh với nhau, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Sự hình thành cơ chế thị trường đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp cùng với sự vận động phức tạp của các giai tầng xã hội. Tính đa dạng, phức tạp còn thể hiện ở sự biến đổi về chất ngay trong cơ cấu của từng giai cấp, tầng lớp xã hội.

- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân. Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội có sự phát triẻn đa dạng cả về số lượng và chất lượng. Nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội nhưng có xu hướng giảm trong cơ cấu nghề nghiệp. Trí thức ngày càng có vai trò quyết định trong việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Tầng lớp doanh nhân phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của mình, hoạt động theo luật pháp và định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

- Cơ cấu xã hội - giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ, được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội (công nhân, nông dân, trí thức...). Do tính chất chưa ổn định về mặt xã hội, mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng. Sự ổn định dần của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện hình thành từng bước một cơ cấu xã hội - giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp xích lại gần nhau hơn, liên minh, hợp tác chặt chẽ, ổn định hơn. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công - nông - trí thức là lực lượng chính trị - xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Câu 8 : Phân tích khái niệm liên minh của GCCN trong CM XHCN. Liên hệ với liên minh GCCN trong CMXHCN ở Việt Nam hiện nay.

Trả lời

1. Khái niệm

- Liên minh giai cấp là một hình thức liên kết các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm mục tiêu chung đấu tranh trnah thủ tiêu bộ máy của giai cấp thống trị, thiết lập quyền thống trị cảu chế độ xh mới phù hợp với lợi ích của giai cấp là trung tâm của khối liên kết đó.

- Liên minh của giai cấp công nhân trong CM XHCN là một hình thức liên kết hợp tác giữa GCCN với các giai cấp và tầng lớp lao động bị thống trị khác nhằm thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH

+ Cơ sở của việc liên minh GCCN: GCCN, các tầng lớp lao động khác đều có chung mục tiêu đấu tranh xoá bỏ ách thống trị của GCTS

+ Mục tiêu lâu dài: xoá bỏ mọi sự thống trị áp bức giai cấp nói chung. Đây là hình thức liên minh giai cấp cuối cùng trong lịch sử nhân loại.

- Liên minh của GCCN trong CMXHCN ở Việt Nam là liên minh công - nông - trí thức.

2. Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức

- Khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu".

Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I. Lênin khẳng định: "Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.)". Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.

- Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I. Lênin đặc biệt lưu ý mối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: "Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước"2. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.

- Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức.

3. Nội dung của liên minh công - nông - trí thức

Liên minh công - nông - trí thức là sự hợp tác toàn diện giữa công nhân, nông dân và trí thức trong tất cả các mặt khác nhau của đời sống xã hội.

- Nội dung kinh tế: Nhằm thoả mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế của công nhân, nông dân và trí thức.

- Nội dung chính trị: Khối liên minh công - nông - trí thức là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vượt qua những khó khăn trở ngại, đập tan âm mưu chống phá chủ nghĩa xã hội, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Liên minh công - nông - trí thức được xây dựng và củng cố vững chắc chính là để đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.

- Nội dung văn hoá xã hội: Liên minh công - nông - trí thức nhằm đảm bảo xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có khả năng tiếp thu các giá trị, tinh hoa văn hoá của loài người. Trong nội dung văn hoá - xã hội, trí thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công, nông, trí thức dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định, do phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ để thực hiện việc thoả mãn lợi ích kinh tế cả trước mắt và cả lâu dài, cơ bản của xã hội. Trong thời đại ngày nay, vai trò của tri thức ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì sự liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức trở thành vô cùng quan trọng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự liên minh về mặt kinh tế là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định.

4. Liên hệ liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam

- Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay quê hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời sống xã hội.

- Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất thấp. Theo V.I. Lênin, nông dân có "bản chất hai mặt" một mặt họ là những người lao động (đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư hữu nhỏ (đây là mặt hạn chế sẽ được khắc phục trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tuy nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ này để bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác.

Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao động của trí thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát triển xã hội về cả mặt đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần.

Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

 Nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nguyên tắc cơ bản nhất của liên minh là kết hợp đúng đắn các lợi ích về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích dân tộc và đồng thời thoả mãn lợi ích của đại đa số nhân dân lao động nên quan hệ giữa các giai tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quan hệ hợp tác, đấu tranh trong nội bộ nhân dân vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

• Nội dung chính trị của liên minh

- Nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của cả dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai cấp, tầng lớp ở mỗi giai đoạn đều có lập trường chính trị - tư tưởng của mình. Khi liên minh không phải là thực hiện sự dung hoà lập trường tư tưởng - chính trị của cả ba giai cấp, tầng lớp này. Khi chưa giác ngộ cách mạng vô sản thì tư tưởng chính trị của nông dân, trí thức cơ bản còn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội phong kiến hoặc tư bản. Mặc dù có nguyện vọng nhưng nông dân và trí thức không thể tự giải phóng khỏi chế độ tư bản, áp bức bóc lột. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa liên minh giữa ba giai tầng này phải trên lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vì chỉ có dựa trên và phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu, lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức.

- Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Để thực hiện từng bước mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh trên lập trường tư tưởng - chính trị của giai cấp công nhân thì liên minh này phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

Trong thời kỳ quá độ, liên minh công, nông, trí thức là nền tảng chính trị - xã hội và kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Dựa trên lập trường tư tưởng - chính trị của giai cấp công nhân, để thực hiện liên minh cần phải xây dựng từng bước nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính do yêu cầu của nền dân chủ này mà nội dung chính trị của liên minh công, nông, trí thức không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế, với nền kinh tế nhiều thành phần và đa dạng thì việc cụ thể hoá của đổi mới nội dung và tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị của công nhân trong các loại hình xí nghiệp công nghiệp, nông dân ở các cơ sở lao động sản xuất nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học, công nghệ là rất cần thiết. Nội dung hoạt động chính trị phải gắn và thông qua các hoạt động sản xuất, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá, xã hội,... Các hoạt động này luôn vận động và đổi mới với tốc độ ngày càng nhanh chóng do đó các hình thức cụ thể của hệ thống chính trị phải được đổi mới cho phù hợp và tạo điều kiện cho các hoạt động phát triển tốt. Đương nhiên tất cả các hoạt động này phải hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

• Nội dung kinh tế của liên minh

Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất-kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ cách mạng chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế cho nên nội dung kinh tế mà thực chất là kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội được lấy làm trọng tâm (mà trong các giai đoạn trước đó chưa đặt ra một cách trực tiếp). Việc thực hiện kết hợp các lợi ích kinh tế được xác định bởi các nhu cầu kinh tế của các chủ thể lợi ích và các điều kiện thực hiện nó. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hoá ở các điểm sau đây:

- Xuất phát từ thực trạng, tiềm năng kinh tế của nước ta để xác định cơ cấu kinh tế hợp lý trong đó phải tính đến những nhu cầu về kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội trong các điều kiện, thời gian cụ thể. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của cả nước là "công - nông nghiệp - dịch vụ". Điều này thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh công, nông, trí thức, là điều kiện, môi trường để các giai tầng hoạt động và phát triển sự liên minh. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta xác định "từng bước phát triển kinh tế tri thức" trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế đã tạo điều kiện cho trí thức ngày càng gắn bó với sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế khác. Từ đó mối liên minh công, nông, trí thức ngày càng có khả năng tăng cường hơn.

- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu,... trong cả sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các dịch vụ khác; giữa các địa bàn, vùng miền dân cư trong cả nước.

Trong điều kiện từ một nước nông nghiệp tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta xác định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế"4. Nông dân chiếm đại bộ phận về số lượng và khu vực nông thôn còn nhiều tiềm năng chưa được khơi dậy và cũng có nơi còn nhiều khó khăn, thiệt thòi. Do đó, một mặt phải khuyến khích, tạo điều kiện cho người nông dân ngày càng chủ động trong việc hợp tác, liên kết với công nhân, trí thức và các thành phần kinh tế để họ phát huy được tiềm năng của mình. Mặt khác, Nhà nước, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức phải thực sự đến với nông dân, nông thôn không chỉ hợp tác mà còn có nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ cải thiện đời sống kinh tế cho nông thôn và giai cấp nông dân. Đó cũng chính là nhu cầu kinh tế của chính Nhà nước, của các giai cấp công, nông, trí thức.

- Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Theo V.I. Lênin, chế độ hợp tác xã là con đường dễ tiếp thu nhất đối với nông dân, khi thấy có lợi cho họ, họ sẽ mau chóng tham gia hợp tác xã nhưng phải do chế độ hợp tác xã hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng5. Trong quá trình hình thành quan hệ sản xuất phải trên cơ sở công hữu hoá những tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. ở nước nông nghiệp, vai trò của Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Đặc biệt, vai trò của Nhà nước đối với nông dân được thể hiện qua chính sách khuyến nông, qua bộ máy nhà nước, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế nhà nước. Nông nghiệp, nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái - xã hội.

Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: "Đối với giai cấp nông dân... tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn; thực hiện tốt các chính sách về ruộng đất, phát triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hoá, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn; phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới"6. Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển.

Đối với trí thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách về phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật,... Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công, nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống của toàn xã hội. Xây dựng hệ thống các cơ quan hoạt động khoa học - công nghệ, phát huy tiềm năng đội ngũ cán bộ khoa học, tăng cường hợp tác khoa học trong nước và quốc tế.

• Nội dung văn hoá, xã hội của liên minh

Nội dung chính trị mang tính nguyên tắc, nội dung kinh tế là cơ bản quyết định nhất và suy cho cùng là để phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của toàn xã hội. Liên minh về văn hoá, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:

- "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái"7. Đó chính là ưu việt của chủ nghĩa xã hội, tất cả cho con người, vì con người và do con người, trong đó lực lượng đông đảo nhất, nòng cốt là công nhân, nông dân, trí thức. Từ đó tạo cho công nhân, nông dân, trí thức trực tiếp thể hiện vai trò chủ thể của mình trong các hoạt động và là chủ thể trong hưởng thụ thành quả của xã hội.

- Vấn đề xoá đói giảm nghèo cho công, nông, trí thức chủ yếu bằng tạo việc làm đồng thời kết hợp các giải pháp hỗ trợ, cứu trợ. Giải quyết được vấn đề này sẽ khắc phục được hạn chế của các chế độ tư hữu trước đây: con người là vốn quý của xã hội, nhưng người lao động nếu thất nghiệp thì họ lại trở thành gánh nặng cho xã hội, trở thành một trong các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ của chế độ xã hội.

- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội trong điều kiện đại đa số các gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với nước, chịu hậu quả chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản của liên minh. Các chính sách này để hỗ trợ nông dân, công nhân, trí thức và tạo điều kiện cho họ khắc phục khó khăn sau chiến tranh, đồng thời nội dung này còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống,... cho toàn xã hội và các thế hệ sau.

- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản lâu dài tạo cho liên minh phát triển vững chắc. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở và phổ cập trung học, nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu, nhất là ở nông thôn. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tôn sư, trọng đạo, hiếu học và chăm chỉ cần cù nên việc đầu tư cho giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần là được đặc biệt chú trọng. Đây vừa là thuận lợi, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ xã hội, đồng thời vừa là yêu cầu nâng cao chất lượng đối với sự nghiệp giáo dục. Vấn đề gắn bó với trí thức cách mạng, với tầm cao của tri thức của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở vững chắc, có tính truyền thống được kế thừa trong nhiều đời nay của dân tộc ta.

- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học, công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hoá, công nghiệp hoá những trọng điểm ở nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá nông thôn, khai thác những tiềm năng của nông lâm ngư nghiệp. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ ở khu vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Đối với những nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta thì liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức vừa là vấn đề có tính quy luật tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vừa là lực lượng sản xuất, lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo nhất của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Lưu ý: những phần đính kèm sau đây là tài liệu tham khảo cho câu 7,8. Các bạn có thể học theo, hoặc nếu thấy mất nhiều thời gian thì bỏ. Những tài liệu này khá hay nên tớ đính kèm, có thể sẽ có nhiều bạn cần và cũng phòng cho khả năng là sẽ thi đề mở.

Tài liệu tham khảo về các giai cấp ở Việt Nam hiện nay

1.Giai cấp công nhân

Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong những ngành công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức vàkỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trịtăng cao như tư vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).

Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong các ngành nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay là một trong những yếu tố cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay.

Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức thu nhập rất thấp.

Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp công chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng lại bị thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận công nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư sản trải qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân thì nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản lý lại để mai một bảnchất giai cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ ước và sự tự lựa chọn không chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn đối với những người đang trong nghề. Tỷ lệ giai cấp công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không đạt như mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng.

Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến động thường xuyên, ngày càng đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số lượng, chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó được thể hiện tập trung trên các phương diện sau:

-Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; sự tăng lên nhanh của đội ngũ công nhân khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

-Sự đa dạng, phức tạp, không thuần nhất và phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân, đội ngũ trí thức trong các ngành nghề, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và thành phần kinh tế.

-Phản ánh sự đa dạng, đan xen, hỗn hợp của các thành phần kinh tế nhất định nào đó, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc vài thành phần kinh tế: họ vừa là công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa làm việc ở khu vực kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân, hộ gia đình, vv.. Có thể họ vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân khi họ sống bằng nghề phụ (tăng gia, chăn nuôi, thủ công, buôn bán...), hoặc bằng thu nhập khác là chủ yếu, họ có vốn cổ phần ở một mức độ nào đó trong xí nghiệp, nhà máy, công ty,...

-Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần, ngành kinh tế, trên các địa bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng. Nhìn chung, cơ cấu giai cấp công nhân chưa cân đối và đồng bộ. Các ngành công nghiệp nặng còn chiếm tỷ lệ thấp, trong khi đó các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm chiếm tới 40%. Bộ phận công nhân nông nghiệp còn quá ít.

-Sự già hoá, đứt đoạn và giảm đi của đội ngũ công nhân lâu năm, nhiều đời, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi trong những năm gần đây, nhất là ở bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước; sự trẻ hoá của đội ngũ công nhân ở khu vực kinh tế tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.

Tình hình phát triển về số lượng, cơ cấu đa dạng, phức tạp, không thuần nhất, thường xuyên biến động như trên, đã và đang dẫn đến một thực trạng về chất lượng giai cấp công nhân: đang có sự yếu kém về nhiều mặt và sự phân hoá, không thuần nhất giữa các bộ phận của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay. Thực trạng này được phản ánh trên các bình diện sau:

-Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng dều, mất cân đối giữa các bộ phận công nhân. Trình độ kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, khả năng nghề nghiệp của công nhân còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

-Bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm đại đa số trong giai cấp công nhân. Họ mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn của người nông dân, quan hệ xã hội và cả lối sống nông thôn vào trong giai cấp công nhân. Những nhược điểm đó kéo dài cả thập kỷ, thậm chí có phần phát triển dưới chế độ bao cấp và cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung. Người công nhân Việt Nam chưa được rèn luyện nhiều trong nền kinh tế công nghiệp và quan hệ cạnh tranh, phát huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể trong môi trường công nghiệp và thị trường còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy kinh tế, phong cách làm việc, phong cách quản lý của người công nhân.

-Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, phân phối. Một phần, vì người công nhân chưa có thói quen và năng lực làm chủ, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý trong các nhà máy, xí nghiệp và ngoài xã hội chưa tôn trọng quyền làm chủ của giai cấp công nhân. Thậm chí, có nơi quyền dân chủ của công nhân còn bị vi phạm nghiêm trọng. Đây là mặt yếu rất đặc trưng của giai cấp công nhân ở những nước chưa có công nghiệp hiện đại. Tình hình làm việc ngày một căng thẳng, lương không đủ sống, người công nhân phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, phải xoay xở bằng mọi cách để tồn tại; khi ngườicông nhân chưa làm chủ được bản thân mình thì khó có thể làm chủ được nhà máy, xí nghiệp và xã hội. Công nhân nước ta chưa được tôi luyện bao nhiêu trong môi trường kinh tế, khoa học công nghệ và cạnh tranh. Vai trò của giai cấp công nhân trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn chưa đạt được mức độ cần có của nó.

-Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất giai cấp giảm, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp kém.

-Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động, phẩm chất giai cấp và lối sống.

Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân Việt Nam sẽ diễn ra theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức tạp về cơ cấu và không thuần nhất. Trong những năm đầu, xu hướng trên diễn ra mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Công nhân có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế. Xu hướng tăng lên nhanh của bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một cách tương đối. Sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức sống, lối sống, ý thức giai cấp, trình độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc. Trình độ văn hoá, học vấn, tay nghề, trẻ hoá về tuổi đời, tuổi nghề có xu hướng ngày càng tăng, ngày càng được trí thức hoá. Xu hướng phi tập trung hoá công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, số lượng công nhân đông; đội ngũ công nhân - trí thức hoá ngày càng tăng và điều này đã chứng minh hùng hồn và đang hiện thực hoá cho luận điểm rất đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: trí thức hoá công nhân. Xu hướng luân chuyển nghề nghiệp nhiều lần và một bộ phận công nhân lao động ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra thường xuyên với tốc độ nhanh. Xu hướng phát triển đa dạng hoá ngành nghề đi đôi với chuyên môn hoá cao trong công nhân. Sự phân tầng xã hội, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mâu thuẫn về lợi ích ngay trong nội bộ giai cấp công nhân sẽ tăng lên. Quan hệ chủ - thợ trong các cơ sở sản xuất phức tạp hơn; đình công, bãi công sẽ còn diễn ra với mức độ gay gắt, quyết liệt hơn. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từng bước trưởng thành, phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người cá biệt. Xét về thành phần xuất thân, ở nước ta có nhiều Đảng viên không phải là công nhân. Nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.

Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.

Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là: " Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình".

Công cuộc đổi mới đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Hơn lúc nào hết, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải vươn lên để xứng đáng là lực lượng trụ cột của liên minh công - nông - trí, của khối đại đoàn kết dân tộc. Phương hướng củng cố, phát triển công nhân Việt Nam trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mộtlần nữa đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng. Đại hội chỉ rõ: "Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hoá công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước..."

2. Giai cấp nông dân:

Tiến trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chủ yếu làm giảm tỷ lệ giai cấp nông dân trong xã hội, số lượng nông dân giảm đi, số hộ và lao động thuần nông giảm, tỷ lệ nông dân tập thể giảm đi rất nhiều. Kết cấu giai cấp nông dân trở nên phức tạp, gồm nhiều bộ phận, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm. Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh trong nội bộ giai cấp nông dân, giữa các địa phương, vùng, miền khác nhau, phụ thuộc vào mức độ tri thức và kỹ năng, khả năng tiếp cận các nguồn lực, mức độ phát triển của thị trường và sự giúp đỡ của chính quyền đối với người nông dân. Nói cách khác, sự giàu có phát triển của nông dân phụ thuộc vào sự liên kết giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Cái mới trong nông dân so với thời kỳ trước đổi mới là sự xuất hiện của các chủ trang trại.

Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề truyền thống trong khi có ít cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông nghiệp, và trở thành giai cấp khác. Nhiều nông dân giàu xổi nhờ bán đất ở khu vực đô thị hoá nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng nghèo đói. Đặc biệt cần lưu ý là những bấtổn về xã hội và an ninh nước ta mấy năm gần đây đều xảy ra ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là sự yếu kém, xa dân của đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở. Tình trạng này sẽ giảm đi sức mạnhcủa giai cấp nông dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thực trạng diễn ra là, cơ cấu giai cấp nông dân sẽ đa dạng, phức tạp và hình thành một bộ phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động của người sản xuất nhỏ giảm dần. Đội ngũ những người lao động thủ công nghiệp, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu thông tăng lên. Đặc biệt là, một bộ phận nông dân lao động mang tính chất trí thức xuất hiện ngày càng nhiều, do đó, tính chất nông dân thuần tuý ngày càng giảm đi. Tính chất nông dân - công nhân, nông dân - trí thức, nông dân - tiểu thương, nông dân - thợ thủ công,... Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh. Đội ngũ những người nông dân chuyên đi làm thuê, bán sức lao động xuất hiện và phát triển. Bộ phận nông dân tập thể dưới những hình thức hợp tác mới sẽ từng bước được hình thành và phát triển. "Trung nông" sẽ là nhân vật trung tâm trong giai cấp nông dân, trong nông thôn. Các bộ phận trong giai cấp nông dân gồm: chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể, nông dân làm thuê, xã viên của các hợp tác xã kiểu mới. Đồng thời cũng có sự xuất hiện vai trò kép của nhiều người là công chức nhưng mua ruộng làm chủ trang trại nên họ vừa làm công chức, trí thức vừa làm chủ trang trại.

3. Tầng lớp trí thức:

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngày càng nhiều về tri thức khoa học, công nghệ và năng lực sáng tạo, kinh doanh. Trí thức là tầng lớp - lực lượng có ưu thế về các ngồn năng lực trên.

Với khoảng 3 triệu người có trình độ đại học, cao đẳng và 30 ngàn thạc sĩ, tiến sĩ, nước ta có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển. Địa vị xã hội của tầng lớp tri thức được tăng cường và tăng tiến ổn định trong suốt thời kỳ đổi mới.

Tuy nhiên, đội ngũ trí thức hiện nay cũng có sự phân hoá. Về chính trị, trí thức chiếm một tỷ lệ lớn trong đội ngũ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị, nhất là ở cấp tỉnh - thành và Trung ương. Về văn hoá, trình độ học vấn, chất lượng của đội ngũ trí thức chưa tương xứng với số lượng, có hiện tượng mua bằng cấp để "chạy chức, chạy quyền" ; các gia đình khá giả thì chạy đua cho con em du học nước ngoài, xuất hiện nguy cơ một bộ phận trí thức mất gốc, trọng ngoại, giảm sút ý thức dân tộc.

Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có truyền thống yêu nước,có tinh thần đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Truyền thống đó sẽ được tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới nếu chúng ta giải quyết được những vấn đề nổi cộm phát sinh.

Trong tầng lớp trí thức đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ cấu, lượng và chất; phong phú về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào tạo, về thành phần xã hội - giai cấp xuất thân; sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân tầng, phân hoá về lối sống, về quan điểm tư tưởng,... Đi liền với vấn đề đó là sự nảy sinh và tất yếu nảy sinh tính chất phức tạp trong tầng lớp trí thức về cơ cấu xã hội, về ý thức, quan điểm chính trị. Một số trí thức đồng thời là những doanh nghiệp năng động, những chủ trang trại, đa phần trí thức là người trung lưu . Số đông trí thức yêu nước, tán thành lý tưởng chủ nghĩa xã hội.

Công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể, quân nhân chuyên nghiệp trong các lực lượng vũ trang. Công chức là những người làm trong các cơ quan hành chính nhà nước , trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội; còn viên chức là những người có cả trong các cơ quan nhà nước và trong các cơ quan sự nghiệp, quân nhân chuyên nghiệp trong quân đội và cơ quan. Theo sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và theo sự vận hành của cơ chế thị trường thì các đơn vị sự nghiệp ngày càng tăng lên, do vậy lực lượng viên chức ngày càng phát triển đông đảo. Càng ngày, lực lượng công chức, viên chức, quân nhân chuyên nghiệp càng được bảo đảm một cuộc sống ở mức trung lưu. Tuy có hoặc không tham gia (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các hoạt động kinh doanh, song với mức sống trung lưu và chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong dân cư (1 đến 2 triệu người) và hoạt động ở những khâu quan trọng của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... của đất nước nên nhóm xã hội này đóng một vai trò đáng kể vào các quá trình phát triển của đất nước.

Bản thân nhóm xã hội này cũng có sự phân hoá nhanh chóng và mạnh mẽ khác nhau. Cần lưu ý rằng tuy không có địa vị và quyền lực xã hội cao nhưng họ thường trực tiếp phụ trách những khâu quan trọng, nên nếu bị lợi dụng, họ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra những hậu quả khôn lường. Dó đó, bên cạnh việc tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm còn phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.

Liên minh của GCCN được xác định trong Đai hội X của Đảng

Liên minh giai cấp công nhân- nông dân- trí thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam trong mọi thời kỳ cách mạng. Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) khẳng định "Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam".

Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào kinh tế thế giới trong điều kiện khoa học công nghệ thế giới phát triển hết sức nhanh chóng. Điều đó đòi hỏi phát triển mạnh mẽ kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, bảo đảm lợi ích của nông dân, từng bước đưa nông dân lao động vào những hợp tác sản xuất từ thấp đến cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao dần trình độ văn hoá, khoa học - kĩ thuật, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho công nông, đó là những phương hướng và nội dung cơ bản để duy trì và củng cố khối LMCN.

Bên cạnh những nhà khoa học quản lý và khoa học xã hội, số đông những nhà trí thức khoa học công nghệ đã có nhiều sáng chế, phát minh được áp dụng vào sản xuất và đời sống. Việc lai tạo nhiều giống cây và giống con cho nǎng suất cao, đã làm cho nền nông nghiệp nước ta có những đóng góp quan trọng vào chương trình lương thực, thực phẩm thế giới. Trong thực tế, tầng lớp trí thức đã là lực lượng xung kích, nòng cốt của h¬n 40 triệu lao động nước ta, đang xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã coi khoa học và công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới. Khi thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hộihéi do Đại hội X đề ra, không thể tách rời việc xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá víi các mục tiêu phát triển kinh tế hỗ trợ cho nông nghiệp như công nghiệp nặng, kết cấu hạ tầng và các ngành vǎn hoá, xã hội. Không những thế cần chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.

Cần nhanh chóng đưa Nghị quyết Trung ương lần thứ 6, 7 Khoá X vào thực tiễn. Đối với công nhân, cần có những biện pháp cụ thể tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng; đồng thời chǎm lo đời sống vật chất và vǎn hoá, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Đối với trí thức, điều quan trọng để phát huy là bảo đảm quyền tự do sáng tạo, đánh giá đúng nǎng lực và tạo điều kiện nǎng lực của đội ngũ này.

Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân, ngoài thuế là nghĩa vụ bắt buộc duy nhất, mọi quan hệ trao đổi đều là quan hệ mua bán hàng hoá, dựa trên cơ sở vận dụng đúng quy luật giá trị. Đó là quan hệ thuận mua, vừa bán, thật sự bình đẳng.

Mấy biện pháp tăng cường liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức:

Việc củng cố liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong những nǎm tới là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị. Để tăng cường liên minh công nhân- nông dân -trí thức cần: Trước hết, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, liên kết chặt chẽ và có hiệu quả trong sản xuất; Phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị nông sản; Hai là, thu hút lao động nông nghiệp dôi dư vào sản xuất công nghiệp khi ứng dụng máy móc, công nghệ vào nông nghiệp; Giải quyết việc làm lâu dài, bền vững cho nông dân khi thu hồi đất nông nghiệp; Tích cực thu mua sản phẩm nông nghiệp thông qua hợp đồng kinh tế; Hỗ trợ vốn cho nông dân mở rộng gia trại, trang trại; Ba là, dẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, chế tạo máy móc, giống cây con cho năng suất cao để chuyển giao cho nông nghiệp, nông dân sản xuất. Cụ thể là:

Hỗ trợ nhập thiết bị máy móc cho nông dân. Việc đưa cơ giới hoá vào một số khâu nặng nhọc trong sản xuất nông nghiệp như làm đất, thu hoạch, vận chuyển... góp phần giải phóng sức lao động cho người nông dân, nâng cao năng suất cây trồng, từng bước đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời hạn chế mặt trái của vấn đề này như sự dôi dư lao động, hàng hoá nhiều nhưng không tiêu thụ được .

Hỗ trợ nông dân làm giàu. Phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi do Hội Nông dân tổ chức đã thu hút đông đảo nông dân tiêu biểu, các nhà quản lý, khoa học, kỹ thuật và doanh nghiệp...Thực hiện liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và hộ nông dân là giải pháp hữu hiệu để đưa phong trào phát triển mạnh mẽ hơn. Nhà nước có vai trò định hướng hoạt động cũng như đề ra những chính sách phù hợp với tiến trình phát triển. Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong cả quá trình sản xuất như cung ứng cho nông dân vật tư, thiết bị trả chậm; giúp tiêu thụ nông sản làm ra. Nhà khoa học hướng dẫn nông dân kỹ thuật, phương pháp ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất... Trên thực tế, nhiều hộ nông dân ký hợp đồng với công ty chế biến nông sản đầu vụ, nhưng đến cuối vụ do giá thị trường cao hơn đã tự phá hợp đồng bán sản phẩm ra ngoài, gây mất lòng tin với doanh nghiệp. Khi tham gia liên kết "bốn nhà" người nông dân phải tuân thủ những quy định của quá trình sản xuất cũng như việc ứng dụng KHKT vào thâm canh, từ đó tạo ra sản phẩm có chất lượng. Nông dân hiện rất thiếu kiến thức về sản xuất thâm canh cây trồng, vật nuôi, nên cần quan tâm hơn nữa đến việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh nông sản hàng hoá.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá. Hiện nay, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra còn chậm, chưa đồng đều giữa các vùng và chưa rộng khắp. Nguyên nhân cơ bản là do khả năng tập trung mở rộng qui mô diện tích đất sản xuất rất hạn chế, đa số các hộ nông dân còn thiếu vốn sản xuất, thiếu kiến thức kinh doanh, công nghiệp chưa thực hiện được vai trò hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.

Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao dân trí nông dân. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến nâng cao giá trị nông sản. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản còn ít, phần lớn là quy mô nhỏ (70% có vốn dưới 5 tỷ đồng), chủ yếu tập trung ở ven đô thị lớn, việc thu hút lao động vốn là nông dân vào làm việc còn hạn chế. Nhiều khu công nghiệp xây dựng ở nông thôn đã lấy đất nông nghệp, phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, gây ô nhiễm nguồn nước và đất nông nghiệp vùng lân cận, nhưng chỉ có rất ít nhà máy phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp trong vùng và thu hút lao động sở tại. Trong khi đó phần lớn phân bón, máy móc nông nghiệp, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật lại không sản xuất mà vẫn phải nhập khẩu.

Tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, thuộc ngành nông nghiệp, các nông lâm trường quốc doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động, làm nòng cốt trong lĩnh vực kinh doanh lương thực, phân bón, cao su, cà phê.

Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Bồi dưỡng cho nông dân kiến thức khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất luợng sản phẩm nông nghiệp, giá thành hạ, dảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với yêu cầu thị trường, đạt hiệu quả kinh tế cao. Tập trung nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ đưa vào sản xuất, ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại, tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Khoa học xã hội định hướng nghiên cứu nhiều hơn các vấn đề bức xúc trong nông thôn, dự báo xã hội nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và đô thị hoá. Thực hiện các biện pháp như vậy, chắc liên minh công nhân- nông dân - trí thức sẽ bền chặt.

Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, giai cấp công nhân liên minh với toàn thể nông dân, đoàn kết với các lực lượng yêu nước chống lại ách thống trị của đế quốc và phong kiến, để giành độc lập dập, tự do. Ngày nay, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội để xoá đói nghèo, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 9.phân tích khái niệm nền văn hóa XHCN . Liên hệ sự hình thành và phát triển nền văn hóa XHCN ở Việt Nam hiện nay

Trả lời

Phân tích khái niệm nền văn hóa xhcn

Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng giai cấp coong nhân , do Dảng cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân , đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng taooj và hưởng thụ văn hóa.

Chủ nghĩa xã hội do giai cấp công nhân xây dựng lên nên mọi thành tố của nó : kinh tế chính trị xã hội... và đặc biệt là văn hóa đều phải được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân . Có nhủ vậy nền văn hóa ấy mới phát triển đúng hướng phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Muốn phát triển đúng hướng , nên f văn hóa xhcn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng_ đôi tiên phong của giai câp công nhân. Đảng vạch ra chủ trương chính sách cũng như đường lối, nghị quyết để xây dựng và phát triển nền văn hóa xhcn. Mục đích của nền văn hóa xhcn là không ngừng phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân để nâng cao dân trí , nâng cao đời sống tinh thần bên cạnh việ nâng cao đời sống vật chất .

Trong nền văn hóa xhcn nhân dân thực sự là người làm chủ, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Quần chúng nhân dân là những người góp phần xây dựng những công trình vaewn hóa , sáng tạo ra tacxs phẩm nghệ thuật . Một khi con người có tri thức , có hiểu biết về các hình thức nghệ thuật sẽ tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao như những điệu múa đẹp , những tác phẩm văn học có nọi dung phong phú. Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngay f càng mở rộng nền văn hóa xhcn biết tiếp thu có chọn lọc nhũng nét đẹp của nền văn hóa thế giới. Nền văn hóa xhcn tạo điều kiện thuận lợi nhất để con người phát triển hết khả năng của mình.

Liên hệ sự hình thành và phát triển của nền văn hóa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong quá ttrình dựng nước và giữ nước, văn học Việt Nam là một thực thể , đồng thời cũng hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hoá giàu bản sắc của nước ta đã không bị mai một, đồng hoá.

Hơn 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản sắc văn hoá Việt Nam thật sự là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa. Ngay từ năm 1943 khi chiến tranh thế giơí lần thứ 2 đang diễn ra ác liệt trên khắp thế giới, Đảng ta đã đưa ra đề cương văn hoá với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nguyên tắc dân tộc được đặt lên hàng đầu. Trong hoàn cảnh thời bấy gìơ , dân tộc hoá là vũ khí mầu nhiệm chống lại văn hoá nô dịch để bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc. Lối sống Mỹ, sức mạnh của đồng Đôla đã không thể làm biến dạng tư tưởng, tình cảm của người dân ở các đô thị, nông thôn vùng bị tạm chiếm , bởi " Danh dự sức mạnh độc lập tự do, sức mạnh văn hoá của một nước không thể đo bằng cây số vuông ".

Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt trận văn hoá mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn 70 năm qua định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hoá, văn nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khoá VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là " ... xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người "...Có thể nói Nghị quyết 5 là cuốn cảm nâng tinh thần của nhân dân ta bước vào thế kỷ 21 nhằm làm cho văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

Câu 10 :Phân tích khía niệm nhân tố con người. Liên hệ thực trạng nhân tố con người ở Việt nam hiện nay

Trả lời:

Phân tích nhân tố con người

Chủ nghĩa Mác leenin rất chú trọng quan tâm đến nhân tố con người trong xã hội.

Chủ nghĩa Mác khẳng định : nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khả năng, vai trò tiềm ẩn của con người có thể được huy động, trở thành các hoạt động tích cực , sáng tạo của con người, thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội.

Qua khái niệm trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của nhân tố con người trong việc phát triển xã hội . Theo ông , nhân tố con người bao gồm trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, trình độ văn hóa , năng lực giao tiếp ứng xử, phát hiện và xử lí các tình huống chuyên môn , phẩm chất đạo đức lối sống , ý thức chính trị xã hội , trách nhiệm công sân, sức khỏe , thể chất.

Đó là những thành tố cơ bản của nguồn lực con người, nói lên khả năng của con người . Tùy từng khả năng mà mỗi người có thể có những hoạt đông sáng tạo riêng , góp phần tích cực vào sự phát triển của xã hội .

Nhân tố con người sẽ đóng góp những vai trò tiềm ẩn mà khi cần có thể huy động , trở thành những hoạt đông tích cực cho xã hội. Nhân tố con người đống vai trò trong mọi lĩnh vực : kinh tế , chính trị , xã hôi...

Nhân tố con người là lực lượng lao động tham gia quản lí kinh tế , những công việc thuộc về Đảng, nhà nước, chính trị , xã hội...

Như vậy nhân tố con người là toàn bộ những gì liên quan đến tiềm lực của con người, thể hiện đươc vai trò của con người trong đời sống xã hội . Nhân tố con người là yếu tố chính giúp xã hội phát triển một cách mạnh mẽ.

Liên hệ thực trạng nhân tố con người ở Việt Nam

Ở đất nước nào cũng vậy , nhân tố con người luôn được coi trọng và phát huy bởi tầm quan trọng của nó trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hôi . Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kihnt ế chính trị xã hôi j ở mỗi nước, trinhf độ nhận thúc mà nhân tố con người lại có những khác biệt . Ở Việt Nam , nhân tố con người hết sức dồi dào về số lượng và ngày càng đuộc nâng cao về chất lượng. Với số dân trên 80 triệu trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm một tỉ lệ lớn là một thuận lợi rất lớn cho việc phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên điều này lại dẫn tới nguồn nhân công rẻ mạt , việc đào tạo chưa bài bản, tình trnagj thừa lao động, thiếu việc làm gây mất ổn định xã hội Thêm vao đó nguồn lao động phân bố chưa hợp lí giữa nông thôn và thành thị , đồng bằng và miền núi do đó ưu thế về nhân tố con người chưa được khai thác một cách triệt để.

Về chất lượng : người Việt Nam nổi tiếng với phẩm chất cần cù kheo sloes sangst tạo trong lao động , lại có kinh nghiệm trong các ngành nghề thủ công. Hiện nay thì chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao .Người lao động được qua đào tạo , hướng nghiệp nên ngày càng phát huy được những phẩm chất vốn có. Bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại như con mang nặng tác phong nông nghiệp, tính kỉ luật chưa cao, trình độ quản lí thấp kém . Một trong những thực trạng đấng chú ý hiện nay là tình trạng chảy máu chất xám. Lao động được đào tạo nhưng hầu hết đều almf trong các công ti , tập đoàn nước ngoài. Doanh nghiệp và các tổ chức của nhà nước vì thế mà thiếu nhân tài

Nhưng nhìn chung trong những năm qua Việt Nam đã chú trọng phát huy nguồn lực con người và đã đạt được những thành tựu cơ bản sau:

Con người đã trở thành người làm c hủ đất nước, tự tổ chức ra bộ máy Nhà nuiwowcs, tích cực tham gia vào công việc của nhà nước. Mức sống vật chất tinh thần được nâng lên ,có điệu kiện chăm sóc con nguwoif được tốt hơn. Văn hóa được nâng cao, y tế phục vụ được tốt hơn,...

Đạt được những thành tựu đó là do sự lãnh đạo của đảng, nhà nước thông qua hệ thong chính sách xã hôi và sự phấn đấu nỗ lực không ngừng của nhân dân

Câu 11: phân tích khái niệm " phát huy nhân tố con người". Liên hệ với thực trạng của phát huy nhân tố con người ở Việt Nam?

Trả lời

1. khái niệm:

a.Trước khi đưa ra được khái niệm nhân tố con người chúng ta phải làm rõ "nhân tố con người" là gì?

+ vậy nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khả năng hoạt động tích cực, sáng tạo của con người, vai trò của con người như là chủ thể tổng hợp của đời sống xã hội.

+ nhân tố con người bao gồm những yếu tố về vai trò xã hội của con người, về vai trò của con người với tư cách là sản phẩm, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội trong quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

Vai trò của nhân tố con người:

+ vai trò kinh tế: là lực lượng lao động, tham gia quản lý kinh tế

+ vai trò về chính trị: tham gia công việc nhà nước, tham gia các hoạt động xã hội.

+ vai trò xã hội: đấu tranh chống tệ nạn xã hội,giải quyết việc làm

+ vai trò tư tưởng: thấm nhuần tư tưởng cách mạng biến thành sức mạnh vật chất(hiểu rõ được tư tưởng của Đảng biến thành hành động cách mạng, thành động lực xây dựng đất nước...) văn hóa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

b. khái niệm "phát huy nhân tố con người":

Phát huy nhân tố con người là khai thác, sử dụng tất cả những khả năng, điều kiện cho hoạt động tích sáng tạo của con người trong hoàn cảnh có thể nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển xã hội theo hướng tiến bộ

+ Tại sao phải phát huy nhân tố con người?

Vì con người là nguồn lực quyết định, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Trong bất kỳ thời đại nào con người vẫn luôn là LLSX cơ bản hàng đầu của xã hội, giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển kt - xh. Con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là "chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia". Ngày nay, nhờ các tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, các máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại ra đời đã giải phóng phần nào sức lao động của con người, cả lao động thủ công lẫn lao động trí óc. Nhờ đó, năng suất lao động tăng lên gấp nhiều lần. Mặc dù vậy, những thành tựu khoa học đó không thể xóa nhòa vai trò của con người

Cũng như thay thế vai trò của con người trong quá trình phát triển kt - xh của mọi quốc gia, dân tộc. Con người có nguồn tiềm năng trí tuệ vô tận, những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo pt đến đâu, dưới hình thức hoàn hảo như thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là kết quả của hoạt động con người.Do đó cần phải phát huy nhân tố con người

+ Phát huy nhân tố con người là phải phát huy thế nào?

Phát huy nhân tố con người là tận dụng mọi khả năng, mọi điều kiện để phát triển khả năng sáng tạo của con người...

+ Muốn phát huy nhân tố con người thì cần phải:

cải tạo hoàn cảnh, cải tạoquan hệ xã hội, tạo ra môi trường thuận lợi để con ng phát huy tài năng, phẩm chất tốt đẹp

+ thực hiện quá trình cá thể hóa con người với tư cách là 1 cá nhân sinh động. Cá nhân của con người với tư cách là một cá nhân sinh động. cá nhân của con ng với tư cách là 1 thành viên của tập thể, của xã hội. Thực hiện quá trình cá thể hóa con ng là qtrinh làm cho con ng bộc lộ đầy đủ những nét đặc thù riêng của họ, làm cho họ ý thức về mình về nghĩa vụ và trách nhiệm trước bản thân, gd và xh...

+ thực hiện xã hội hóa nhân cách: nhân cách là tổng hòa các giá trị về năng lực, phẩm chất khuynh hướng, năng khiếu....làm cho họ nhận thức đc hành vi, tư tưởng, tc của mình

2. liên hê: thực trạng:

a. Đảng ta xác định:

+ nguồn lực con ng là cơ bản, quan trọng nhất để xây dựng đất nước " dân giàu, nước mạnh, xh công bằng, dân chủ, văn minh"

+ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự pt bền vững"

Việc phát huy nhân tố con ng gồm hai qtrinh:

+ quá trình tạo ra những yếu tố nguồn lực con ng

+ quá trình khai thác có hiệu quả những yếu tố của nguồn lực con người

b. Thực trạng:

+Những kết quả đạt được:

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những người dân Việt Nam đã từ địa vị những người bị mất nước, người dân nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, trai gái, dân tộc, tôn giáo hễ là công dân đều có quyền bầu cử, lựa chọn ra những đại biểu xứng đáng có tài, có đức để tham gia công việc Nhà nước. Ai muốn ra giúp nước đều có quyền ứng cử. Nhà nước của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho mọi người dân phát huy tài năng, trí tuệ đóng góp cho đất nước. Ngay sau ngày Độc lập, Hồ Chí Minh đã phát động nhân dân thực hiện xoá nạn mù chữ. Người quan niệm một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.

Những năm qua, kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành của nhân dân đã được cải thiện so với trước. Đảng và Nhà nước ta đã tạo những điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như kế hoạch phát triển kinh tế của từng địa phương, từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong nhiều đơn vị kinh tế đã động viên mọi người dân đóng góp tài năng trí tuệ, thực hiện cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.

Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỉ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây, tới nay đã gần 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so với trước đây. Nhiều tỉnh đã thực hiện xoá nạn mù chữ, phổ cập tiểu học hay trung học phổ thông cơ sở. Hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo năm sau cao hơn năm trước. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày một tốt hơn. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để "cả nước trở thành một xã hội học tập" . Trong quá trình giảng dạy, học tập, đã tìm mọi biện pháp để thực hiện "phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề" .

Mấy chục năm qua chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại học, hơn một triệu người có trình độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; họ đã có những đóng góp to lớn trong kháng chiến giải phóng dân tộc, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay đang tích cực đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Việc chăm sóc sức khoẻ cho các tầng lớp nhân dân đã được xã hội quan tâm. Những cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng tới tận các xã, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây. Thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Trang thiết bị trong các bệnh viện, trong các cơ sở khám chữa bệnh

ngày một đầy đủ, ngày một hiện đại.

Do trình độ học vấn của người Việt Nam được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động sáng tạo của con người Việt Nam đã được nâng lên so với trước đây.

Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khoẻ, tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức; thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước về mọi mặt; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

b.Hạn chế:

+ Hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam, trước hết chúng ta đề quá cao mặt xã hội, nặng động viên tinh thần; nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi ích cá nhân người lao động; có lúc, có nơi đã đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, nên không phát huy mạnh mẽ được tính tích cực xã hội của người lao động; vai trò của cá nhân bị lu mờ; tài năng cá nhân không được khuyến khích; tính cách riêng của cá nhân không được thừa nhận.

+Hai là, có lúc chúng ta đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại, không chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, chưa làm theo đúng tính quy luật mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra: chủ nghĩa xã hội là sự tiếp nối quá trình phát triển của nhân loại, phải biết tiếp thu những di sản của quá khứ một cách có chọn lọc, nâng lên tầm cao mới. Con người trong xã hội thuộc một giai cấp, một dân tộc nhất định, là cá nhân của một cộng đồng nhân loại, do vậy, trong nó mang dấu ấn của thời đại, những nét đặc trưng của dân tộc và mang bản chất một giai cấp nhất định. Con người muốn phát triển nhân cách một cách đầy đủ phải kết hợp một cách hài hoà tất cả những phẩm chất, không được quá nhấn mạnh yếu tố này đi đến phủ nhận những yếu tố khác. Những khuyết điểm trên đây, dẫn tới sự phát triển khiếm khuyết về nhân cách trong không ít người Việt Nam. Sự hiểu biết về truyền thống văn hoá dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại trong nhiều người Việt Nam còn hạn chế.

Điều đó đang gây ra những khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.

+ Ba là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân đang làm biến dạng nhân cách con người, làm cho con người bị phân thân; không ít kẻ cơ hội, hữu khuynh chui vào tổ chức đảng, cơ quan nhà nước gây ra những tác động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước ta. "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" đang làm giảm nhiệt tình, hăng say lao động, hạn chế sức sáng tạo trong một bộ phận những người lao động, tác động không nhỏ tới niềm tin và sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trau dồi đạo đức cách mạng của các thế hệ trẻ hôm nay.

Nhiều người muốn ở lại thành phố, bỏ nghề gây lãng phí cho xã hội và gia đình. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, giữa các bậc học chưa hợp lý, do vậy dẫn tới tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ hiện nay. Nhìn chung, việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận thanh niên đang tạo ra sức ép lớn cho xã hội.

+ Bốn là, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế. Khí hậu Việt Nam có nhiều thuận lợi cho việc trồng các loại cây nông, công nghiệp vùng nhiệt đới, nhưng hiệu quả khai thác đất đai ở nước ta còn thấp, trong khi đó sức lao động ở Việt Nam còn dôi dư khá nhiều. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, một bộ phận người lao động thất nghiệp ở thành phố đang gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.

+ Năm là, năng lực lao động của người lao động Việt Nam còn hạn chế. Số người lao động qua đào tạo còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Những người lao động được đào tạo còn có sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Người lao động còn mang nặng tư duy ý thức tác phong của người sản xuất nhỏ, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, v.v. Nhiều người đã được đào tạo nhưng lại không làm đúng ngành nghề.

- Những hạn chế trong việc xây dựng, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong thời gian qua do những nguyên nhân sau:

+ Thứ nhất: Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, năng suất lao động còn rất thấp, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, tình trạng nghèo đói còn tồn tại trong một bộ phận dân cư, do vậy, việc chăm sóc đầy đủ, đảm bảo những điều kiện cho con người phát triển toàn diện còn hạn chế.

+ Thứ hai: Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, với khẩu hiệu tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng, chúng ta dồn sức người sức của để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, không có điều kiện chăm sóc cho con người trên nhiều phưong diện.

Hiện nay hậu quả chiến tranh còn để lại rất nặng nề đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải tiếp tục khắc phục.

+ Thứ ba: Những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ như: thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tự ty, tính vị kỷ, cục bộ địa phương, kể cả tác phong gia trưởng trong giáo dục và đánh giá mỗi con người, v.v..

+Thứ tư: Tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội cùng với những hạn chế trong việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã dẫn chúng ta tới những hạn chế trong việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người ở nước ta trong những năm qua. Cơ chế hành chính bao cấp tạo nên tư tưởng trông chờ ỷ lại, sự thiếu dân chủ trong đời sống xã hội đã hạn chế phát triển tính năng động, sáng tạo, tính dám chịu trách nhiệm của con người Việt Nam.

+Thứ năm: Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhưng mặt khác cũng đang tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực như: lối sống thực dụng, chỉ vì chức, vì quyền, vì tiền mà không ít người có thể làm mọi việc bất chấp luân thường đạo lý. Điều đó gây ra những tác động xấu trong xã hội.

+Thứ sáu: Sự đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn hạn chế, "công tác quản lý giáo dục - đào tạo có những mặt yếu kém bất cập" . Phương pháp giáo dục còn chưa kích thích được tính sáng tạo của người học, chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống, cho nên không ít sinh viên sau khi ra trường khó xin việc. Tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế. Những điều đó đang ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.

+Thứ bảy: Những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, tính gia trưởng, sự bảo thủ trong một số cán bộ có chức có quyền, tâm lý đố kỵ, ghen ghét với những người có năng lực của một số người đang hạn chế phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.

3. phương hướng, giải pháp:

a. phương hướng:

- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nền kinh tế quốc dân.

- Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp.

- Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xã hội mới.

b. giải pháp:

Hiện nay cách mạng nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới "Thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước" như Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nhận định. Đây là thời kỳ mà chúng ta cần huy động mọi tiềm năng, sức người, sức của phấn đấu cho sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN". Do đó, hơn lúc nào hết trong thời kỳ này việc nghiên cứu luận cứ một cách khoa học cho việc tìm ra những giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản. Những giải pháp đó phải đánh giá cho đúng tiềm năng của con người Việt Nam, khơi dậy những tiềm năng trong nhân tố con người biến nó thành hiện thực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

+ Để thực hiện việc phát huy nhân tố con người, chúng ta phải có một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn: Đó là hệ thống các chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Ở đây, ta chỉ đề cập đến chính sách xã hội- Vấn đề trực tiếp có tác động đến việc phát huy hay hạn chế vai trò của nhân tố con người tuỳ theo sự phù hợp hay không phù hợp của chính sách đó.

Chính sách xã hội là chính sách của một chính đảng, một nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề quan hệ đến cuộc sống con người, đến nhu cầu và lợi ích của các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp và nhóm người trong xã hội.

Chính sách xã hội bao giờ cũng thể hiện tính kế thừa, tính giai cấp, tính lịch sử. Do đó, các Đảng cầm quyền khác nhau, các nhà nước có thể chế chính trị khác nhau có chính sách xã hội khác nhau. Chính sách xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa về bản chất so với chính sách xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa. Chính sách xã hội chủ nghĩa lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất. Mục đích ấy xuất phát từ mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản là: "Đảm bảo phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả các thành viên trong xã hội"

Như vậy, chính sách xã hội đúng đắn, xét đến cùng là một chính sách lấy việc phát huy nhân tố con người, xây dựng từng bước con người mới là trung tâm. Đây là hạt nhân cơ bản nhất trong chính sách xã hội của Nhà nước XHCN. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải huy động mọi tiềm năng của đất nước, trong đó có tiềm năng của con người. Do đó, giải pháp có tính nguyên tắc và bao trùm nhằm phát huy vai trò của nhân tố con người là Đảng và Nhà nước phải hình thành và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợpTrong thực tiễn hoạt động xã hội xác định tầm quan trọng của chính sách xã hội là cần thiết, nhưng quan niệm đúng về chính sách xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc đề ra những biện pháp cụ thể. Trong một thời gian dài, nhiều người quan niệm chính sách xã hội rất đơn giản, chỉ giới hạn trong các vấn đề như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, giải quyết một số vấn đề thuộc phúc lợi xã hội... Gần đây, khái niệm về lĩnh vực xã hội đựơc rõ hơn, do đó quan niệm về chính sách xã hội được mở rộng hơn. Chính sách xã hội phải được quan tâm một cách bao quát gần như toàn bộ cuộc sống của con người từ lao động đến sinh hoạt, từ cuộc sống mỗi cá nhân đến cuộc sống cộng đồng. Do đó nội dung của chính sách xã hội rất phong phú, đa dạng bao gồm những chính sách đối với người lao động, chính sách nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, chính sách về văn hoá, giáo dục và đào tạo...

+ Thời kỳ mới của đất nước, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đòi hỏi chúng ta phải bằng mọi cách phát triển lực lượng sản xuất: Đây cũng là một nhiệm vụ, suy cho cùng là nhằm phát huy nhân tố con người, bởi vì chính con người, chủ thể của quá trình phát triển lịch sử cũng là một yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Do đó giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn để có một đội ngũ lao động giỏi, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, có phẩm chất cần thiết của người lao động mới, có tri thức văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật và có ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân.

+ giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu: Tuổi trẻ có tri thức, khoa học kỹ thuật, có tinh thần yêu nước và thái độ lao động mới sẽ là người chủ tương lai của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó chúng ta cần quan tâm đầu tư vào việc đào tạo cho đội ngũ đó ngay từ khi họ còn học trong các trường đại học. Sinh viên là những trí thức tương lai của đất nước. Họ phải được đào tạo giỏi về chuyên môn, khoa học kỹ thuật và để "có một đội ngũ cán bộ, trí thức vừa "hồng" vừa "chuyên" thì ngay trong trường đại học, trong các trường cao đẳng và dạy nghề, chúng ta phải thật sự coi trọng công tác giáo dục lý luận tư tưởng chính trị nhằm trang bị cho họ những kiến thức chính trị từng bước hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, từ đó để những trí thức trẻ của đất nước có tinh thần yêu nước chân chính, có thái độ lao động mới, thái độ lao động với tinh thần làm chủ, có như vậy mới khơi dậy được nhân tố con người trong từng công dân trí thức tương lai. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của công tác giáo dục và đào tạo, bởi vì thái độ chính trị đúng đắn, khoa học của người lao động bao giờ cũng là một động lực để giúp họ có niềm tin khoa học trong hoạt động thực tiễn, vượt qua mọi khó khăn trở ngại đưa sự nghiệp xây dựng đất nước đi lên.

Hơn bao giờ hết, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề con người đang có tầm quan trọng lớn lao. Chúng ta phải tìm mọi giải pháp đồng bộ trong các chính sách kinh tế và xã hội để phát huy mức độ cao nhất vai trò nhân tố con người với đầy đủ những yếu tố, những mặt, những chỉ số của nhân tố con người phục vụ cho sự nghiệp vinh quang đó. Trên tinh thần đó, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu.

Câu 12: phân tích khái niệm "chính sách xã hội". Anh chị có khuyến nghị gì đối với việc đề ra và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội?

Trả lời

1. khái niệm:

Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của 1 chính Đảng hay 1 chính quyền nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống con ng, nhu cầu lợi ích của các nhóm ng, các tầng lớp xã hội, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, do chính Đảng và nhà nước của giai cấp thống trị đề ra và thực hiện.

2. phân loại:

a. cách tiếp cận tổng quát: quan hệ cá nhân với xã hội:

+ xuất phát từ trách nhiệm của xã hội đối với cá nhân

+ xuất phát từ trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với xh

b. theo quan hệ nhu cầu lợi ích của công dân:

+ lợi ích của các đối tượng khó khăn, thuộc diện chính sách: ng nghèo, ng già neo đơn...

+ nhu cầu chung của tất cả mọi ng: sức khỏe, giáo dục, dân số...

c. theo tính chất, phạm vi:

+ kế hoạch pt lĩnh vực

+ chính sách chung cho mọi đối tượng: giáo dục, y tế.

+ chính sách giải quyết các vấn đề cấp bách: tệ nạn, việc làm..

+ chính sách đối vơi những đối tượng đặc biệt: ng già, ng tàn tật, tre mồ côi...

3. Thực trạng thực hiện chính sách xã hội ở VIỆT NAM:

Thành tựu:

Thực hiện các chính sách xã hội phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế, tránh nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, tránh tư tưởng tách bạch giữa hai lĩnh vực này. Vấn đề quan trọng là phải gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người. Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội là tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

- Trên cơ sở quan điểm đó, văn kiện Đại hội chỉ rõ: "Chúng ta khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội"(Văn kiện Đại hội X, trang 33)

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng ta chủ trương tạo cơ hội và điều kiện bình đẳng cho mọi người dân làm giàu theo pháp luật, khắc phục tình trạng tâm lí đố kị, nghi kị nhau dù làm giàu bằng sức lao động của mình. Phải thật sự khuyến khích, biểu dương và tôn vinh những người làm giàu chính đáng bằng tài năng trí tuệ, sức lao động của mình. Đồng thời tập trung giải quyết có hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo, thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng xã hội. Công bằng xã hội không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa mà phải trên cơ sở tôn trọng và khuyến khích tài năng phát triển, chấp nhận có phân tầng xã hội nhưng hợp lý, có sự giúp dỡ tương trợ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Đại hội khẳng định: "Xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm...Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm y tế, tiến tới y tế toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Một tư tưởng mới được nhấn mạnh là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi. Thực hiện tốt chính sách dân số, các chính sách ưu đại xã hội...

- Một số số liệu cụ thể về việc thực hiện một số chính sách xã hội tiêu biểu:

+ Chương trình mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006 -2010 được ban hành theo Quyết định số 20/2007 - QĐ của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu cụ thể đến năm 2010: phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ từ 22% năm 2005 xuống còn 10 - 11% (trong năm 5 giảm 50% hộ nghèo). Trong 4 năm thực hiện từ 2006 - 2009, bình quân khoảng 5 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn ưu đãi với mức vay bình quân từ 6 -7 triệu đồng/hộ, ước thực hiện 5 năm đạt khoảng 6,2 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn, mức vay bình quân 7 -8 triệu đồng/hộ, đạt 103,3% kế hoạch 5 năm. Vốn cho vay nhìn chung được hộ nghèo sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Ngoài ra, cũng đã có 350.000 hộ nghèo được hỗ trợ nhà ở; 30.000 lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật; xây dựng 8.500 mô hình trình diễn và hội nghị đầu bờ với 3,7 tiệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn. Ngoài ra, trong 3 năm (2007 - 2009) đã có trên 10.000 lượt người được dạy nghề miễn phí, trong đó có 60% tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm. Các mục tiêu giảm nghèo cơ bản đã hoàn thành trước một năm, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bền vững.

+ Cho đến cuối tháng 12 năm 2009, 100% số xã và 90% số thôn bản đã có cán bộ y tế hoạt động, 69% số xã có bác sỹ làm việc, hơn 65% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, trên 70% số xã đã thực hiện khám bệnh, chữa bệnh ban đầu cho người có thẻ BHYT. Hầu hết các tỉnh đã thành lập Phòng y tế huyện, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn.

Nhiều trường y tế được thành lập mới hoặc nâng cấp như: Trường đại học Y Dược Vinh, Trường trung cấp y tế Bắc Cạn (trên cơ sở trung tâm đào tạo cán bộ y tế Bắc Cạn) và Trường Đặng Văn Ngữ (trên cơ sở lớp trung cấp trong Viện Sốt rét - Côn trùng, ký sinh trùng Trung ương); thành lập 5 trường cao đẳng y tế trên cơ sở trường trung cấp y tế: Điện Biên, Sơn La, Hưng Yên, Ninh Bình, Lâm Đồng.

Thành lập Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm miền Bắc và Trung tâm An toàn vệ sinh thực phẩm miền Trung và miền Nam. 62 tỉnh, thành phố thành lập chi cục An toàn VSTP theo Thông tư 12 - BYT-BNV; thành lập lại 421 trung tâm y tế dự phòng huyện theo Thông tư 03 - BYT-BNV; 63 tỉnh, thành phố đã thành lập Chi cục Dân số - KHHGĐ theo Thông tư số 05 - BYT-BNV; 62 tỉnh, thành phố đã thành lậpThanh tra y tế và Thanh tra ATVSTP.

Hệ thống bệnh viện công lập được giữ vững, củng cố và phát triển. Thực hiện Nghị quyết 18/NQ- QH12, năm 2009, ngành Y tế đã xây dựng đề án đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa liên huyện và đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi, bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn bằng nguồn trái phiếu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 47/QĐ-TTg và Quyết định số 930/QĐ-TTg cho phép sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ hơn 2.000 tỷ đồng (trong gói 20.000 tỷ đồng) để thực hiện nâng cấp 621 cơ sở y tế tuyến huyện và 16 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh vùng khó khăn và một số bệnh viện chuyên khoa, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng ngay tại địa phương. Nhiều bệnh viện đã được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới, bước đầu ngăn chặn được tình trạng xuống cấp. ( đó là một số ví dụ cụ thể để chứng minh cho việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng ta là đúng đắn và có hiệu quả và đã đạt đc những thành tựu cơ bản)

Một thành tựu khá nổi bật là chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội đã có sự đổi mới căn bản. Gắn liền với lộ trình cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, mức trợ cấp ưu đãi xã hội được điều chỉnh trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trợ cấp ưu đãi xã hội 3 năm qua có 3 lần điều chỉnh. Đây là một minh chứng rõ nét nhất sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước, nỗ lực đảm bảo nguồn lực tài chính chi cho lĩnh vực này. Năm 2007, nguồn lực tài chính dành riêng ưu đãi xã hội là 13.000 tỷ đồng, năm 2008 là 15.000 tỷ đồng, năm 2009 là 17.000 tỷ đồng (riêng năm 2009, cùng với nguồn lực tài chính từ địa phương, nguồn huy động từ xã hội hóa, chi ưu đãi xã hội đối với người có công lên tới 20.000 tỷ đồng).

Người có công (đặc biệt là người hoạt động kháng chiến không hưởng lương, bảo hiểm xã hội - khoảng 2,1 triệu người) được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế với mức 3% lương tối thiểu. Nguồn ngân sách chi bảo hiểm y tế, ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối với người có công và thân nhân của họ mỗi năm lên tới trên 1.000 tỷ đồng... Cùng với chế độ trợ cấp thường xuyên hàng tháng, chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp (về kinh tế xã hội) đã góp phần nâng cao mức sống người có công, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ trong ưu đãi xã hội.

Hạn chế:

Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện khá đồ sộ, luôn thay đổi, thiếu tính thống nhất, thiếu chặt chẽ và nhiều nội dung cần được thể chế; việc thực thi cũng chưa thật đồng bộ. Các trình tự, thủ tục ưu đãi về đất đai, nhà ở, thuế, tín dụng, y tế, giáo dục đào tạo...chưa được thể chế hoá kịp thời để sớm tổ chức thực hiện trong cuộc sống. Một số chính sách, pháp luật hiện hành cũng còn nhiều nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Một số chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, về chăm sóc sức khỏe, trang cấp dụng cụ chỉnh hình phục hồi chức năng, chế độ trợ cấp.... cũng cần phải sửa đổi, bổ sung để việc ưu đãi xã hội đồng bộ, đầy đủ và có tính khoa học, hợp lý hơn...

Ngoài ra, vấn đề xã hội hóa công tác chăm sóc người có công (tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách, huy động nguồn lực xã hội) và phong trào đền ơn đáp nghĩa 3 năm qua có xu hướng giảm. Quĩ Đền ơn đáp nghĩa mỗi năm chỉ đạt được mức dưới 150 tỷ đồng, phong trào đền ơn đáp nghĩa chưa thực sự phát triển. Trong số gần 1,7 triệu hộ gia đình người có công vẫn còn xấp xỉ 40% số hộ có mức sống nghèo và cận nghèo (gần 10% số hộ nghèo, gần 30% số hộ diện cận nghèo).

Nguyên nhân:

+ do sự lơ là trong việc quản lý của một số cán bộ nhà nước, không chú ý đến nguyện vọng của nhân dân để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.

+ do nguồn tài chính của nước ta còn hạn chế, nên nhiều khi việc thực hiện các chế độ ưu đãi xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt( trẻ mồ côi, người neo đơn, người tàn tật..) hay những người có công với cách mạng còn chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ...

+ Hiện nay một số chính sách xã hội chưa phù hợp, không thống nhất..nên khi áp dụng vào thực hiện thì không đạt hiệu quả và gây bức xúc cho người dân...

4.iên hệ( khuyến nghị đối với việc đề ra và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội)

Hiện nay chính sách xã hội của Đảng và nhà nước ta khá hoàn thiện và đã được thực hiện có hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế.

Khuyến nghị:

+ Cần tạo ra nhiều việc làm mới chon g lao động.

+ Mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội, cải cách chế độ tiền lương cho phù hợp, tích cực xóa đói giảm nghèo.

+ tích cực tuyên truyền, vận động kế hoạch hóa gd, chăm sóc sức khỏe nhân dân, mở rộng và hoàn thiện mạng lưới y tế....

+ hoàn thiện hệ thống pháp luật....

Câu 13: Phân tích khai niệm dân tộc, trình bày nội dung cơ bản của cương lĩnh dân tộc của CNXH khoa học, liên hệ với quá trình hình thành và phát triển cộng đồng các dân tộc Việt Nam và tình hình thực hiện các chính sách dân tộc ở Việt Nam

Trả lời

1. Khái niệm

Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất là :

- Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. Theo nghĩa này thì dân tộc được hiểu như một tộc người hay một dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Như vậy, nước ta có 54 dân tộc hay 54 tộc người.

- Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Và theo nghĩa này, dân tộc đồng nghĩa với quốc gia - dân tộc như dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa...

2. Nội dung cơ bản của cương lĩnh dân tộc của CNXH khoa học

a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

- Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác.

- Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Trên phạm vi giữa các quốc gia dân - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, chống áp bức bóc lột của các nước tư bản đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.

- Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.

b. Các dân tộc được quyền tự quyết

- Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.

- Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.

- Phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa đàn áp các thế lực tiến bộ.

c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc

- Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.

- Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh to lớn.

3. Liên hệ với quá trình hình thành và phát triển cộng đồng của các dân tộc Việt Nam.

Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thủa ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945.

Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là người trong một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.Từ thời vua Hùng, cộng đồng dân tộc Việt đã đoàn kết với nhau cùng xây dựng và bảo vệ đất nước. Và tinh thần đó luôn được phát huy, nhất là khi nhân dân ta đã đánh thắng 2 cường quốc hùng mạnh là Pháp và Mỹ để giành được độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

4. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam

Với số dân khoảng 86 triệu người (trong đó 75% sống ở nông thôn), Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. 54 dân tộc (người Kinh chiếm 86%) chung sống hòa thuận và có những bản sắc riêng về văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng.

Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát triển bền vững của đất nước. Chính sách này được thể hiện một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

a. Về kinh tế:

- Có chính sách phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ví dụ như: Từ năm 1999 đến năm 2005, chương trình 135 đã đầu tư trọng điểm cho các xã đặc biệt khó khăn, từ nguồn vốn ngân sách Trung ương bình quân mỗi xã được đầu tư gần 3 tỷ đồng. Ngoài nguồn vốn ngân sách Trung ương đầu tư, các địa phương đã chủ động lồng ghép các chương trình, dự án trên cùng địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, tạo nên hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp. Nguồn kinh phí này được đầu tư chủ yếu cho các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, thủy lợi nhỏ đã đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất, ổn định đời sống cho đồng bào các dân tộc các tỉnh Tây Bắc, nếu tính cả nguồn vốn CT 135 và nguồn vốn lồng ghép mỗi xã đặc biệt khó khăn được đầu tư hơn 1,3 tỷ/năm.

b. Các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa được Đảng và nhà nước ta rất chú trọng.

Ví dụ như : Ở vùng miền núi Tây Bắc, nơi tập trung rất đông các dân tộc thiểu số, giáo dục cũng có những bước tiến lớn:

- Đến năm 2009, 90% các xã đặc biệt khó khăn có trường tiểu học, nhà trẻ mẫu giáo. Các bản ở xa trung tâm đều có lớp cắm bản.

- Gần 90% trẻ em trong độ tuổi đến trường.

- 80% xã đặc biệt khó khăn có trường trung học cơ sở kiên cố cấp 4 trở lên, các trường đều được tăng cường về cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện để đảm bảo chất lượng dạy và học.

- 100% các huyện đều có trường trung học phổ thông. ở một số huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa có các trường phổ thông dân tộc nội trú và trường nội trú, bán trú dân nuôi tại các cụm xã.

c. Về chính trị:

- Đi liền với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây bắc được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Tỷ lệ đảng viên người dân tộc thiểu số đã tăng gấp 2-3 lần so với 10 năm trước. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có sự đổi mới về đội ngũ cán bộ và phương thức hoạt động. Từ năm 1998 đến nay các địa phương đã triển khai nghiêm túc Quy chế dân chủ cơ sở, được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần củng cố hệ thống chính quyền cơ sở vùng dân tộc và ở các tỉnh Tây Bắc.

- Các thế lực thù địch thường hay xâm nhập vào những vùng này, lợi dụng đời sống đồng bào khó khăn và trình độ dân trí thấp để lôi kéo, xúi giục, kích động, thực hiện "âm mưu diễn biến hòa bình", gây mất ổn định an ninh chính trị ở một số vùng miền núi, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống nên Đảng và nhà nước luôn tích cực tuyên truyền, phổ biến những chính sách mới và hướng mọi người tin vào sự lãnh đạo cua Đảng, nhà nước.

Câu 14: Phân tích khái niệm: "tôn giáo". Liên hệ với đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam và tình hình thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Trả lời:

1. Khái niệm: tôn giáo

* Là một hình thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có những biến đổi nhất định.

* Quan niệm tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin: bản thể luận

- Tôn giáo là hiện tượng xã hội, có nguyên nhân ngay trong tồn tại xã hội

- Tôn giáo là sản phẩm của bản thân những điều kiện phát triển của xã hội loài người

- Tôn giáo là sản phẩm của tồn tại xã hội, là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa người với người trong xã hội

* Quan niệm tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin: nhận thức luận

- là sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc, hoang đường hư ảo thế giới hiện thực

- là sự phản ánh duy tâm về sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội

- là một trong những hình thái ý thức xã hội, do con người sáng tạo ra

* Quan niệm tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin: xã hội học

- có những chức năng xã hội nhất định, có tác dụng nhất định trong đời sống con người.

- chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội

- tác dụng thuần túy về mặt tinh thần

* Quan niệm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin: khái niệm

- Tôn giáo là khái niệm để chỉ hoạt động của cộng đồng người có cùng một thế giới quan duy tâm về đời sống hiện thực của mình, cùng tôn sùng và phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên và cùng sinh hoạt gắn bó với nhau trong một tổ chức với một thể chế tương ứng.

* Các Mác về tôn giáo:

- sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.

2. Liên hệ:

* Đặc điểm tôn giáo Việt Nam

- đa dạng

- đan xen, hòa đồng các tôn giáo, tín ngưỡng

- niềm tin tôn giáo sâu đậm nhưng không cứng nhắc

- hoạt động tôn giáo có xu hướng gia tăng

* tôn giáo ở Việt Nam:

- 12 tôn giáo: Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi Giáo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tinh Độ Tu Sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh Sư Đạo, Đạo Bhai, Ngũ Chi Minh Đạo.

- 31 tổ chức giáo hội

- ta có khoảng 20 triệu tín đồ, 80 nghìn chức sắc và 25 nghìn cơ sở thờ tự

* Nội dung chính sách tôn giáo Việt Nam:

- Chính sách đối nội:

+ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của công dân cơ sở pháp luật

+ chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc

+ đoàn kết tôn giáo

+ ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong tôn giáo, gắn bó giáo hội với dân tộc

• Chính sách đối ngoại:

+ chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, chống phá cách mạng của các lực lượng thù địch

+ thực hiện quan hệ đối ngoại về tôn giáo trên cơ sở chính sách của nhà nước

 Một số vụ tôn giáo ở Vn:

-'Vụ việc ở Bát Nhã là mâu thuẫn nội bộ người tu' xảy ra tại tu viện Bát Nhã (thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng).diễn ra từ 6.2008 đến 10.2009 xung quang việc mâu thuẫn nội bộ giữa Tu viện Bát Nhã thuộc địa phận xã Damb'ri, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam, có diện tích khoảng 30 hecta, được thành lập năm 1995 bởi thượng tọa Thích Đức Nghi, viện chủ tu viện.[1].

Tháng 2 năm 2005, Thích Đức Nghi đã đồng ý cho Thiền sư Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai để xây dựng Bát Nhã thành một tăng thân và một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai tại Việt Nam.[1]

- Giáo xứ Thái Hà (Hà Nội): Coi thường pháp luật

Lao Động số 191 Ngày 20/08/2008 Cập nhật: 8:30 AM, 20/08/2008

(LĐ) - Ngày 30.6.2008, UBND TP.Hà Nội đã có quyết định giải quyết đơn của ông Trịnh Ngọc Hiên - linh mục chính xứ Thái Hà ở 180/2 Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa - khiếu nại đòi quyền sử dụng đất tại khu vực 178 Nguyễn Lương Bằng.

Quyết định của UBND TP đã khẳng định là việc khiếu nại này không có cơ sở giải quyết. Nhưng trong những ngày qua, một số giáo dân ở đây vẫn ngang nhiên vào khu vực này để dựng lều bạt, đặt tượng Đức Mẹ...

- Không có việc chính quyền đàn áp giáo dân xứ Đồng Chiêm

Lao Động số 13 Ngày 16/01/2010 Cập nhật: 9:11 AM, 16/01/2010

(LĐ) - TTXVN tuyên bố hoàn toàn bác bỏ những thông tin sai sự thật, có dụng ý xấu, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc nói trên và khẳng định không có việc chính quyền đàn áp giáo dân xứ Đồng Chiêm.

Ngày 15.1, Thông tấn xã Việt Nam tuyên bố: Gần đây, một số trang tin trên mạng Internet, trong đó có Hãng tin Công giáo Asianews, đã đăng tải những thông tin có dụng ý vu cáo, với nhiều tình tiết xuyên tạc và những lời bình có tính kích động liên quan đến việc chính quyền thôn Đồng Chiêm, xã An Phú, huyện Mỹ Đức (Hà Nội) tiến hành tháo dỡ cây thánh giá được xây dựng trái phép trên đỉnh núi Chẽ. Thông tin này lại được các đài phát thanh Vatican (Radio Vaticana) và Maria thuộc Tòa thánh đưa lại, gây ngộ nhận trong dư luận quốc tế.

- TTXVN tuyên bố hoàn toàn bác bỏ những thông tin sai sự thật, có dụng ý xấu, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc nói trên và khẳng định không có việc chính quyền đàn áp giáo d Liên tiếp trong ba tháng 5, 6 và 7/2009, nhà cầm quyền CSVN đã tiến hành một đợt khủng bố mới, qua việc bắt thêm 7 người nữa là các vị: Trần Anh Kim (thành viên ban Đại diện lâm thời Khối 8406), Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thị Thu Thu và Trần Thị Thu. "Tội danh" mà bộ máy công an trị Việt Nam gán ghép cho họ là "Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN", chiếu theo Điều 88 của Bộ luật hình sự hiện hành. ân xứ Đồng Chiêm.

Câu 15: Khái niệm gia đình. Các chức năng xã hội của gia đình . Liên hệ với thực trạng gia đình địa phương anh chị hoặc trên địa bàn anh chị đang cư trú.

Trả lời

Gia đình là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện đầy đủ các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ văn hóa, quan hệ tổ chức, v.v... Những biến chuyển xã hội đã và đang dội vào gia đình trên mọi phương diện và đưa đến những hệ quả đa chiều. Thiết chế có tính bền vững này cũng đang vận động, đổi mới và thích ứng với nhu cầu của thời đại.

Trước khi tìm hiểu về gia đình Việt Nam truyền thống hay gia đình Việt Nam hiện đại, chúng ta hãy thống nhất với nhau về khái niệm gia đình. Nói như thế là bởi vì có rất nhiều quan niệm khác nhau về gia đình ở các hệ thống chính trị - xã hội và văn hóa khác nhau và có rất nhiều định nghĩa về gia đình đã được đưa ra. Đó là chưa kể một thực tế là trên thế giới hiện nay xuất hiện nhiều dạng gia đình biến thái khiến cho mọi định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn, một học giả phương Tây - James W. Vander Zanden - cho biết: "Một cuộc thăm dò mới đây đã cho thấy 45% người Mỹ ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống với nhau thì được coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng giới tính có nuôi nấng con cái là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới tính chung sống với nhau là một gia đình.

1. Một số quan niệm chung về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay

Khái niệm gia đình :

-Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử của loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới loài động vật và tự tổ chức cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập, thì cũng là lúc con người tự tổ chức cuộc sống theo các mô hình cộng đồng nhỏ - hình thức sơ khai của gia đình. Lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các thành viên có quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng các con, cháu (giai đình mẫu hệ). Sau đó gì được mở rộng bao gồm thêm các thành viên khác có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng huyết thống. Về quy mô ga đình, lúc đầu số lượng các thành viên gia đình tương đối đông có khi lên tới hàng trăm người. Về sau, do yêu cầu thích ứng với cuộc sống ngày càng phát triển của xã hội loài người nên số lượng các thành viên gia đình giảm dần. Gia đình hiện đại ngày nay, số thành viên có khi chỉ có từ 1 - 3.

-Theo Từ điển Tiếng Việt: "Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái"1. Quan niệm này chỉ mới dừng lại ở một quan niệm phổ quát nhất về các loại gia đình trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình mới đang phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay

.

-Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu "một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhả lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn" Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.

-Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng cùng sống chung và có ngân sách chung.

=> Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau như vậy , tuy nhiên tịu chung lại chung ta có thể phát biểu một cách tồng quát nhất về định nghĩa gia đình như sau: gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng động của con người, một thiết chế văn hoá- xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục ...giữa các thành viên.

2. Gia đình có 4 chức năng xã hội chính :

- Chức năng tái sản xuất ra con người

Tái sản xuất ra chính bản thân con người là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản : tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực đảm bảo tái sản xuất nguồn lao động cho xã hội. chức năng này đáp ưng một nhu cầu rất tự nhiên và chính đáng của con người . tuy nhiên vấn đề gia tăng dân số và mật độ dân số có liên quan tới các vấn đề chiến lực khác của kinh tế - xã hội vì vậy cần được không chỉ mỗi quốc gia mà toàn nhân loại quan tâm một cách thích đáng.

- Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình:

hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yều cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và gia đình. Cùng với sản xuất kinh doanh, các hộ gia đình cung được khuyến khích trong lao đông sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo cơ sở cho tổ chức đời sống của gia đình- một trong những yếu tố đảm bảo gia đình văn minh hạnh phúc.

- Chứ năng giáo dục của gia đình:

chức năng được thể hiện tương đối toàn diện, giáo dục về cả tri thức và kinh nghiệm, đạo đức và lối sống, nhân cách và thẩm mĩ ..phương pháp giáo dục của gia đình khá phong phú nhưng chủ yếu là nêu gương, thuyết phục và chịu ảnh hưởng của tư tưởng, lối sống gia phong của gia đình. Ngày nay, dù giáo dục trong nhà trường và giáo duc xã hội có phát triển đến đâu thì giáo dục gia đình vẫn là một thành tố cơ bản của nền giáo dục và phục vụ cho lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào.

- Chức năng thoả mãn nhu cầu tam sinh lý , tình cảm của gia đình:

Nếu như chức năng kinh tế là tiền đề vật trất của gia đình thì thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý được coi là chức năng có tính chất văn hoá- xã hội của gia đình. Sự hiểu biết , cảm thông chia sẻ và đáp ưng các nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ-chồng, cha me-con cái ... làm cho mỗi thành viên có điều kiện sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần tạo thái độ tích cực trong cuộc sống gía đình và xã hội.

3. Liên hệ thực trạng gia đình ở địa phương

Hiện nay, tại tổ dân phố mà tôi sinh sống các gia đình thực hiện khá tốt các chức năng xã hội của mình.

-Đối với chức năng tái sản xuất con người thi tất cả các gia đình đều thực hiênj đúng với chủ trương sinh đẻ có kế hoạch của đảng và nhà nước. đảm bảo không sinh con thứ 3. từ đó vấn đề nuôi dạy con cái đều được nuôi dưỡng tốt cà thể lực và trí lưc đảm bảo phát triển bình thường.

- Đối với chức năng kinh tế: mặc dù mỗi gia đình có một hoàn cảnh khác nhau, công việc khác nhau nhưng đều cố gắng tổ chức hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động lao động trí oc nhằm đảm bảo đời sống vật chất tốt nhất có thể cho gia đình. Đăc biệt, không chỉ có đàn ông, người chồng tham gia vào hoạt động kinh tế. một số phụ nữ dù chỉ nộ trợ nhưng cũng tranh thủ bán hàng hay làm thêm 1 số công việc.

- Chức năng giáo dục: các gia đình. Đặc biệt là các bậc cha me thường xuyên uốn nắn con cái từ nhỏ, đồng thời cũng là tấm gương để các con noi theo. Đặc biệt là hướng các con tới những truyền thống tốt đẹp của gia đình

- Chức năng thoả mãn nhu cầu âm sinh lý: một số gia dình còn xảy ra cãi vã, mối quan hề giữa các thành viên trong gia đình còn chưa thực sự tốt

Một số hạn chế:

Về vấn đề làm kinh tế, do trình độ và khả năng tham gia các hoạt động kinh tế của một số gia đình còn co hạn nên vấn đề vật chất còn chua thực sự ổn định dẫn tới chưa chăm lo đầy đủ về mặt tinh thần cho các thanh viên trong gia đinh

Thứ 2 là còn 1 số hộ có bất đồng trong gia đình mà chưa được giải quyết nên việc giáo dục con cái trong gia đình còn chưa tốt. thậm chí có gia đình không mấy quan tâm đến con cái dẫn tới chúng trở thành lưu manh, nghiện hút, vướng vào các tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng tới nhưng gia đình xung quanh

Câu 16: khái niệm gia đình văn hoá, văn hoá gia đình. Nêu trách nhiệm của bản thân anh chị đối với gia đình sau khi nghiên cứu xong các khái niệm đó.

Trả lời

1.Khái niệm văn hoa gia đình:

Văn hoá gia đình là một bộ phận, là cái gốc của văn hoá làng, văn hoá nước. đó là những truyền thống quý báu của mỗi gia đình được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và mỗi thành viên trong gia đình phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những truyêng thống tốt đẹp đó của ông cha. Với những đặc điểm như vậy, văn hoa gia đình còn có thể là những quy tắc, chuẩn mực để hình thành bệ phóng cho những nhân cách tốt đẹp. Giá trị gia đình có thể hình thành từ các sinh hoạt thông thường qua thói quen ứng xử, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và trong các mối quan hệ xã hội khác... Chính những giá trị này có tác dụng sâu sắc đến nhận thức, hành vi của mỗi thành viên.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của gia đình và văn hóa gia đình. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc đã nêu: "Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội."

2.Khái niệm gia đình văn hoá:

Gia đình văn hoá là một chỉ tiêu được chính phủ việt nam đề ra để thực hiện trong nhiều gia đình ở việt nam ở cấp độ tổ dân phố nhằm tạo ra một số tiêu chuẩn về văn hoá và khuyến khích các gia đình đạt được các chỉ tiêu này. Các tiêu chuẩn văn hoá của chương trinh này dựa nhiều trên các giá trị văn hoá truyền thống cua việt nam. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn này không khép kín trong truyền thống dân tộc mà còn tiếp nhận các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác.

Hiện nay, việc đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa không thể tách rời việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá từ góc độ văn hóa giađình. Nghĩa là, cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa và tiêu chí gia đình văn hóa hiện nay phải dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam. Đồng thời trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa phải biết giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là cơ sở xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống tốt đẹp, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh từ trong mỗi gia đình, lấy gia đình làm "pháo đài" chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội và những tác động xấu từ mặt trái của cơ chế thị trường. Xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng mô hình gia đình Việt Nam hiện đại, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu chúng ta cần vươn tới và thực hiện là xây dựng gia đình văn hóa truyền thống, hiện đại. Xây dựng gia đình văn hóa là vừa phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp với sự vận động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.

Một số tiêu chuẩn của 1 gia đình văn hoá:

Gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ mạnh và hạnh phúc:

a- Gia đình có kinh tế ổn định, hoà thuận có kỷ cương nề nếp, không có người mắc các tệ nạn xã hội;

b- Thực hiện Nếp sống văn minh, giữ gìn thuần phong mỹ tục, không sử dụng văn hoá phẩm thuộc loại cấm lưu hành;

c- Trẻ em đang độ tuổi đi học đều được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học trở lên;

d- Các thành viên trong gia đình chăm lo rèn luyện sức khoẻ, giữ gìn vệ sinh và phòng bệnh

2- Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân:

a- Các thành viên trong gia đình thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

b- Giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường và nếp sống văn hoá nơi công cộng;

c- Tham gia bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh của địa phương.

3- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình:

a- Mỗi cặp vợ chồng sinh con không vi phạm chính sách kế hoạch hoá gia đình;

b- Có kế hoạch phát triển kinh tế, làm giầu chính đáng;

c- Có kế hoạch tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.

4- Đoàn kết tương trợ trong cộng đồng dân cư:

a- Đoàn kết với cộng đồng dân cư, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn;

b- Tham gia hoà giải các mối quan hệ bất đồng trong địa bàn dân cư

3.Mặc dù đều hướng tới những giá trị văn hóa của dân tộc nhưng 2 khái niệm trên cũng có nhưng điểm khác nhau:

Đầu tiên đó là , nếu như văn hoá gia đình là nhưng thứ đã có sẵn và đã được hình thành từ lâu trong các gia đình thì gia đình văn hoá lại là tiêu chuẩn để các gia đình hướng tới xây dựng và đạt được

Thứ 2 là nếu như trong văn hoá gia đình chỉ bao hàm nhưng yếu tố truyền thống của gia đình, dân tộc thi đối với gia đình văn hoá nó còn được mở rộng ra tiếp nhận yếu tố văn hoá của các dân tộc khác.

Thứ 3 là văn hoá gia đình là yếu tố lich sủ mang tính nhất lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong một cộng đồng người với những giá trị tinh thần sâu sắc thì gia đình văn hoá chỉ là một mô hình mang tính thời điểm với nhưng quy định rieng biệt.

Sau khi phân tích 2 khái niệm trên tôi thấy bản thân cần có 1 số trach nhiêm:

Đối với những truyên thống văn hoá của gia đình cá nhân tôi thấy cần phải học hỏi và tiếp nối những gì mà cha ông đã để lại nhằm giữ gìn nhưng điều tôt đẹp của gia đình đông thời chuận bị đưa lại cho thế hệ sau. Từ đó giúp cho những nét văn hoá gia đình ko bị mai một mà ngày càng phát triển

Còn đối với việc xây dưng gia đình văn hoá. Thì bản thân nhưng năm qua tôi vẫn không ngừng cùng gia đình thực hiện đúng những nếp sống mới, văn hoá mới, với tư cách là một người con lớn trong gia đình tôi luôn y thức những trách nhiệm cũng như nghĩa vụ với gia đình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro