Đề cương đường lối CMCS Việt Nm

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 3:

Nội dung và ý nghĩa  Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 2/1930?

Ngày 3-2-1930 Tại hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Cửu Long-Hương Cảng-Trung Quốc do Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị đã thông qua cương lĩnh chính trị của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đây được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Nội dung của cương lĩnh bao gồm những vấn đề sau:

1-Đường lối chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam:

Đây là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Chỉ ra cho cách mạng Việt Nam là phải làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Cách mạng tư sản dân quyền đánh đổ đế quốc Pháp giải phóng dân tộc, thổ địa cách mạng chống phong kiến lấy lại ruộng đất cho nông dân.

2-Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam:

- Nhiệm vụ về chính trị:

+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.

- Về kinh tế:

+ Tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ công nông binh quản lý: bệnh viện, trường học, trạm xá…

+ Tịch thu ruộng đất của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo mở mang công nghiệp-nông nghiệp miễn thuế cho dân cày nghèo thực hiện ngày làm 8h.

- Về văn hoá:

+ Thực hiện nam nữ bình quyền và phổ thông giáo dục công nông hoá.

3. Lực lượng cách mạng

Toàn thể dân tộc Việt Nam, cương lĩnh chủ trương thu phục tập hợp quần chúng nông dân, công nhân khỏi ảnh hưởng tư sản, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng dựa vào hạng dân cày nghèo lãnh đạo đất nước. Đối với phú nông, tiểu chủ, tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản động thì lôi kéo họ về phía cách mạng hoặc làm cho họ trung lập. Lực lượng nào tỏ rõ bộ mặt phản cách mạng thì cần phải đánh đổ.

4. Lãnh đạo cách mạng

Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam

5. Đoàn kết quốc tế

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới do đó phải liên kết với cách mạng thế giới nhất là cách mạng vô sản Pháp.

* Nhận xét:

- Cương lĩnh đã xác định được nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam.

- Phù hợp với xu thế phát triển thời đại mới, giải quyết được đường lối và giai cấp lãnh đạo đã trở thành ngọn cờ tập hợp các tầng lớp cách mạng, đấu tranh chống Pháp.

- Cương lĩnh đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân và đội tiên phong là Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.

* Điểm sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:

- Cương lĩnh giải quyết được mẫu thuẫn: xã hội Việt Nam tồn tại hai mẫu thuẫn đó là mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp. Cương lĩnh cũng chỉ ra rằng mâu thuẫn dân tộc là quan trọng nhất cần phải được giải quyết ngay sau khi giải quyết xong mâu thuẫn dân tộc thì mới giải quyết mâu thuẫn giai cấp.

- Cương lĩnh cũng đã giải quyết được đường lối cách mạng đó là cách mạng vô sản kết thúc bằng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

* Ý nghĩa

a) Xác lập sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng; thống nhất tư tưởng, chính trị và tổ chức phong trào cộng sản Việt Nam. 

          b) Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam; giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam; nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. 

          c) Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ được sự ủng hộ của cách mạng thế giới.

Câu 5: Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" 12/3/1945.

(Hoàn cảnh lịch sử? Nội dung? Ý nghĩa?)

a. Hoàn cảnh lịch sử:

- Đầu năm 1945, chiến tranh bước vào giai đoạn kết thúc, bọn phát xít lien tiếp thất bại trên nhiều mặt trận. Để tránh nguy cơ đối mặt cùng lúc với nhiều đối thủ, ngày 9/3/1945, phát xít Nhật lật đổ thực dân Pháp độc chiếm Đông Dương.

- Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng.

- 9/3/ 1945, Nhật lật đổ Pháp.

- Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".

b. Nội dung:

- Nhận định cuộc chính biến Nhật lật đổ Pháp đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc làm cho điều kiện cuộc khởi nghĩa trở nên chín muồi nhanh chóng:

+ Chính trị khủng hoảng, kẻ thù không rảnh tay đối phó với cách mạng;

+ Nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng thêm oán ghét quân cướp nước;

+ Chiến tranh bước vào giai đoạn kết thúc.

- Xác định kẻ thù trước mắt và duy nhất của cách mạng lúc này là phát xít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" "thành lập chính quyền nhân dân".

- Khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng: lúc này là thời điểm tiền khởi nghĩa, nhiệm vụ của Đảng là phát động ngay phong trào kháng Nhật cứu nước & gấp rút chuẩn bị tiến tới lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền 8/1945.

- Phát động quần chúng đấu tranh dưới mọi hình thức kể cả khởi nghĩa vũ trang cướp chính quyền, thay đổi hình thức hoạt động, hình thức đấu tranh cho phù hợp với thời kì tiền khởi nghĩa: bãi công, du kích, phá phách, biểu tình có vũ trang...

- Chỉ rõ tương quan lực lượng của ta và địch ở mọi nơi không giống nhau, CM có thể chín muồi ở những địa phương khác nhau nên nơi nào thấy so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho CM thì lãnh đạo quần chúng đứng lên khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận rồi tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

- Dự kiến thời cơ thuận lợib để tiến hành tổng khởi nghĩa:

+ Khi quân đồng minh vào Đông Dương, quân Nhật tiến ra chiến trường để ngăn cản sẽ để phía sau sơ hở;

+ Cũng có thể cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng Nhật được thành lập;

+ Hoặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân viễn chinh Nhật mấtn hết tinh thần.

Tuy nhiên, Đảng ta nêu cao tinh thần: phải dựa vào sức mình là chính, không trông chờ, ỷ lại.

c. Ý nghĩa:

- Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 có giá trị như 1 chương trình hành động, 1 lời hiệu triệu, 1 ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cao trào kháng Nhật cứu nước, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.

- Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Câu 6: Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược mà ĐẢng ta đề ra?

-          Đường lối kháng chiến tập trung thể hiện trong 3 văn kiện lớn:

+ Toàn dân kháng chiến của TW Đảng (12/12/1946)

+ Lời kêu gọi kháng chiến toàn quốc của HCM(12/12/1946)

+ Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh

-          Mục đich kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng tháng 8.

-          Tính chất kháng chiến: Chiến tranh của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài => TÍnh chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới

-          Chính sách kháng chiến lien hiệp với các dân tộc trên thế giới, đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến.

-          Chương trình và nhiêm vụ kháng chiến: Đoàn kết toàn dân, động viên nhân lực vật lực, tài lực. Thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, và trường kì kháng chiến, dành quyền độc lập, bảo vệ lãnh thổ, thống nhất bắc trung nam. Củng cố chế dộ CHDC tăng gia sản xuất

-          Phương châm tiến hành khangs chiến: Chiến tranh nhân dân thực hiện kháng chiến toàn dân toàn diện, lâu dài và dự trên sức của mình là chính,

-          Triển vọng kháng chiến:  Mặc dù gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Câu 18: Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá

Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.

Theo UNESCO: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.

Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam.

Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.

- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.

Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hoá.

Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần tuý kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy.

Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt, cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất dẫn tới suy thoái xã hội.

Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hoá giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ" dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.

- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển

Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hoá

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu "tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường".

Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là vấn đề bức xúc. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm tới con đường dẫn tới ấm no hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế xã hội càng có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.

Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hoá.

Để làm cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển chúng ta chủ trương phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:

Khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.

Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài nguyên, vốn v...v.. Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.

Năm 1990, chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) đưa ra những tiêu chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người, một trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo dục (hai chỉ tiêu khác là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí: Tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho mỗi người.

Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. Như vậy văn hoá trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn "tài nguyên người".

Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nên chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết đọc, biết viết được xếp vào thứ hạng cao trong khu vực nhưng nguy cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, tin học.

Hai là, Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người.

- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường tinh thần đoàn kết, đó là lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất...

Có thể nói bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh, hợp tác để tồn tại và phát triển.

Bản sắc dân tộc thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, nghệ thuật...nhưng được thể hiện sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ ta.

Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật... sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang bản sắc Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương phải mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của nền văn hoá Việt Nam đương đại. Đồng thời phải chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.

Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hoá chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất không có sự đồng hoá hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá của các dân tộc.

54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng. Các giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc.

Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

- Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá do Đảng ta lãnh đạo và Nhà nước quản lý.

- Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.

Như vậy, văn hoá hiểu theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Phát triển nhận thức này đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, đến Hội nghị Trung ương 2, khoá VIII (12/1996) khẳng định:

+ Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

+ Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh.

- Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ trương:

+ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

+ Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học.

+ Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.

+ Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho việc xuất khẩu lao động.

+ Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.

+ Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học.

+ Thực hiện xã hội hoá giáo dục.

+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.

+ Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

+ Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ.

+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.

Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy xây" làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện "diễn biến hoà bình".

Câu 19: trình bày những nội dung quan điểm và chủ trương của ĐẢng về giải quyết các vấn đề xã hội thời kì đổi mới.

b.  Quan điểm về giải quyết các vấn đế xã hội:

Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội 

-  Kế hoạch phát  triển kinh  tế phải  tính đến mục  tiêu phát  triển các  lĩnh vực  xã hội có liên quan trực tiếp.

-  Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có  thể xảy ra để chủ động xử lý.

-  Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách  xã hội.

-  Sự kết hợp giữa 2  loại mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp,  các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở 

Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,  công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.  

-Trong từng bước và từng chính sách phát triển cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc  gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

-Nhiệm vụ gắn kết này không dừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị  mà phải được pháp chế hóa  thành các  thể chế có  tính cưỡng chế, buộc các chủ  thể  phải thi hành.

-Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa,  không chạy theo  số lượng tăng trưởng bằng mọi giá.

Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó  hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.

-          Chính  sách  xã  hội  có  vị  trí,  vai  trò độc  lập  tương đối  so  với kinh  tế, nhưng  không  thể  tách  rời  trình độ phát  triển kinh  tế cũng không  thể dựa vào viện  trợ như  thời bao cấp.

-          Trong  chính  sách xã  hội phải  gắn bó giữa quyền  lợi và  nghĩa  vụ, giữa  cống  hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xóa bỏ  quan điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin – cho trong chính sách xã hội.  

Bốn  là,  coi  trọng  chỉ  tiêu GDP  bình  quân  đầu  người  gắn  với  chỉ  tiêu  phát  triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.

Quan điểm này khẳng định mục  tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát  triển  phải  là vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn  minh. Phát triển phải bền vững, không chạy theo số lượng tăng trưởng.

c.  Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội:

Một  là,  khuyến  khích mọi  người  dân  làm  giàu  theo  pháp  luật,  thực  hiện  có  hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

-  Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát  triển.

-  Tạo động  lực  làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của  bản thân trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.

-  Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo; đề phòng  tái  đói,  tái  nghèo;  nâng  cao  dần  chuẩn  đói  nghèo  khi  mức  sống  chung tăng lên.

Hai  là, bảo đảm  cung úng dịch  vụ công  thiết  yếu, bình đẳng  cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

-  Xây dựng hệ  thống an sinh xã hội đa dạng; phát  triển mạnh hệ  thống bảo  hiểm.

-  Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước  và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

-  Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.

-  Đổi mới chính sách tiền  lương; phân phối  thu nhập xã hội công bằng, hợp  lý.

Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả.

Hoàn thiện mạng  lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các  đối  tượng  chính  sách;  phát  triển  các  dịch  vụ  y  tế  công  nghệ  cao,  các  dịch  vụ  y  tế  ngoài công lập.

Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống  nòi

-  Quan  tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh  tỷ  lệ  trẻ em suy dinh  dưỡng.

-  Đẩy mạnh công  tác bảo vệ giống nòi, kiên  trì phòng chống HIV/AIDS và  các tệ nạn xã hội.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

-  Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý.

-  Xây  dựng  gia  đình  no  ấm,  bình  đẳng,  tiến  bộ,  hạnh  phúc,  bảo  đảm  bình  đẳng giới, chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.

Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội

  Bảy  là, đổi mới  cơ  chế quản  lý  và phương  thức  cung ứng  các dịch  vụ  công  cộng.

___the end___

Họ và tên: Đỗ văn Trình

Lớp 2tđ8a Trường CĐCN Viettronics

ĐỊa chỉ: 118 Cát Bi. Hải An. Hải Phòng. Việt Nam

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro