ĐỀ CƯƠNG HÌNH SỰ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỀ CƯƠNG HÌNH SỰ

A.Hình phạt: Khái niệm, mục đích, các hình phạt từ điều 26 đến điều 40

B, CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Đ46 BLHS)

Là các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Là tình tiết thuộc yếu tố khách quan, chủ quan hay nhân thân người phạm tội-những yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Nội dung của các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Khoản 1, Điều 46 BLHS cụ thể là các tình tiết sau:

1/. Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm. đây là trường  này hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm, nếu ko có j ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn ko để cho tác hại xảy ra hoặc hạn chế đc tác hại của tội phạm, Mức độ giảm nhẹ TNHS do có tình tiết này ko những phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại Ví dụ: A đâm B 2 nhát sau đó A đưa B đi cấp cứu.

2/. Ng phạm tội Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Ví dụ: Người phạm tội có hành động tích cực như giúp đỡ nạn nhân vượt qua những khó khăn do hậu quả tội phạm để lại nhằm làm giảm nhẹ hậu quả tội phạm sau khi đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại. Tìm lại đứa trẻ đã bán, nhận bố mẹ của nạn nhân là bố mẹ nuôi, thường xuyên lui tới chăm sóc nạn nhân. . Đây là trường hợp ng phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và đã tự nguyện tìm cách hạn chế hậu quả của tội phạm như sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm. Các biểu hiện nêu trên ít nhiều phản ánh thái độ ăn năn, hối lỗi của người phạm tội đối với hành vi phạm tội của mình. Mức độ giảm nhẹ TNHS trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của ng phạm tội cũng như bào mức độ hậu quả đc khắc phục trong thực tế

3/. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Giống 2 về mặt khách quan ở chỗ thiệt hại gây ra ko lớn or ko xảy ra nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến . trường hợp 3 có nguyên nhân là khách quan nằm ngoài ý muốn của ng phạm tội, còn trường hợp 2 ng phạm tội đã có hành động tích cực để có đc kết quả đó. Do hậu quả của tội phạm cũng là yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên luật hs coi trường hợp chưa gây thiêt hại or gây thiệt hại ko lớn là t.hợp đc giảm nhẹ TNHS.

      4/. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn PVCĐ 

      5/. Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.

      6/. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác gây ra.: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng không hoàn toàn làm chủ về tình cảm do tác động của hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra hoặc người khác gây ra dẫn đến sự hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi . Mức độ giảm nhẹ trong từng trường hợp cụ thể tùy thuộc vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi tác động, mức độ bị kích động và mức độ phản ứng của ng bị kích động

7/. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình tự gây ra.Ví dụ: A có số tiền 20 triệu đồng mang theo để đưa mẹ đi đến bệnh viện cấp cứu.Trên đường đi đã bị kẻ gian lấy hết số tiền đó, A đã vận chuyển thuê thuốc phiện cho M để lấy tiền điều trị cho mẹ. … Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm do bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại. đó là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tai dịch bệnh hỏa hoạn tai nạn hoặc do nguyên nhân khác quan khác. Mức độ giảm nhẹ TNHS của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng tìm cách khắc phục của ng phạm tội

8/. Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức. Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi của mình và bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Đe dọa trong trường hợp này đc hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại nếu người đe dọa ko thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình, Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức. Mức độ giảm nhẹ TNHS trong trường hợp này tùy thuộc nhiều vào mức độ bị đe dọa hoặc cưỡng bức.

9/. Phạm tội do lạc hậu tức là người phạm tội xử sự theo phong tục, tập quán lạc hậu. Ví dụ: Giết người do bị nghi là MaLai của người Bana ở Tây Nguyên. Đây là trường hợp phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu, thấp kém đã hạn chế nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Khi cân nhắc mức độ giảm nhẹ TNHS trong trường hợp này cần căn cứ vào mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương-nơi người phạm tội sinh sống.

10/. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Ví dụ: A là nhân viên đường sắt làm nhiệm vụ tại rào chắn với đường bộ. Khi có tàu chạy qua, A bị lên cơn sốt rét cấp tính không đủ sức khoẻ để kéo rào chắn dẫn đến gây tai nạn. Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển của hành vi do mắc bệnh. Người phạm tội trong trường hợp này là người khi thực hiện tội phạm do mắc bệnh nào đó nên đã không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình hoặc tuy đã nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm đó nhưng lại bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội là lỗi hạn chế nên họ được coi là có tình tiết giảm nhẹ TNHS. Mức độ giảm nhẹ TNHS phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc mức độ hạn chế khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội

11/ Người phạm tội là phụ nữ có thai : Đây là trường hợp ng phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Do mang thai nên người phụ nữ có nhiều thay dổi về tâm sinh lí và sức khỏe. Lưu ý đến đặc điểm đó và chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo đối với bà mẹ trẻ em nên luật hình sự việt nam quy định người phụ nữ có thai phạm tội bị xử lí nhẹ hơn người bình thường phạm tội với mục đích là giảm mức độ trừng trị và tăng mức độ giáo dục trong hình phạt cụ thể cần quyết định đối với họ

12/người phạm tội tự thú: TH ng phạm tội chưa bị phát hiện nhưng đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi của mình

13/người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải

 +thành khẩn khai báo là TH ng  phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả nh j liên quan tới hvi phạm tội mà họ đã thực hiện.

 +ăn năn hối cải  là TH ng phạm tội đã day dứt, hối hận về việc đã thực hiện tội phạm và thể hiện mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh PL, tích cực lao động……

14/ng phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện , điều tra tội phạm

Ng phạm tội cung cấp các bằng chứng, tại liệu, tin tức hoặc làm những việc mà cơ quan chức năng yêu cầu về tội phạm mà họ thực hiện hoặc tội phạm khác mà họ biết.mức độ giảm nhẹ TNHS chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả của hành vi của người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm điều tra

15/ng phạm tội lập công chuôc tội

Ng phạm tội có thành tích đột xuất tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão lụt hoặc cứu ng trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng……..Việc lập công nè thể hiện phần nào sự hối hận cũng như quyết tâm cải tạo của ng lập công.

16/ng phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu học tập và công tác

Trong Th ng phạm tội đươc tặng thưởng huân huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua

17/ng phạm tội là ng già

Tuy chưa có quy định cụ thể nhưng thực tiễn xét xử thừa nhận là 60 tuổi trở lên.Việc quy định  tình tiết này là là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này.

Ngoài ra:

-ng phạm tội là thương binh hoặc có người nhà thân thích như vợ chồng bố mẹ hoặc con là liệt sĩ

-ng phạm tội là ng tàn tật nặng do tai nạn trong lao động hoặc trong công tác

-phạm tội trong TH ng bị hại cũng có lỗi

Các tình tiết tăng nặng TNHS

a)    Phạm tội đối với trẻ em phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng hko thể tự vệ đc hoặc đối với ng lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc cá mặt khác

Đây là trường hợp phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ hoặc có khả năng tự vệ hạn chế và đòi hỏi đc chính ng phạm tội hoặc những ng khác bảo vệ trc sự xâm hại. Do phạm tội với các đối tượng cần đc bảo về đặc biệt đó nên đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ bà mẹ trẻ em hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xhcn và nguyên tắc nhân đạo trong qhxh( phạm tội đvs ng già, ng ở trong tình trạng không thể chống cự đc và người lệ thuộc vào mình về mặt vật chất công tác hay mặt khác) . do đó t.hop phạm tội này có mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp đối với đối tượng phạm tội bình thường.

b)    Xâm phạm tài sản của nhà nước: đây là tình tiết

Tăng nặng TNHS đc quy điịnh mới trong BLHS năm 1999.  Để thực hiện thái độ bảo vệ đặc biệt đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước do vị trí và vai trò quan trọng của hình thức này trong nền ktqd , BLHS đã quy định tình tiết xâm phạm tài sản của nhà nước là tình tiết tăng nặng TNHS

c)    Phạm tội có tổ chức

d)    DÙng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác và thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người

e)    Lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội: đây là trường hợp ng phạm tội đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để dễ dàng thực hiện tội phạm

f)     Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để thực hiện tội phạm

Đây là trường hợp ng phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn , phức tạp của xã hội để dễ dàng thực hiện tội phạm. hành vi phạm tội có tình tiết này có tính chất nghiêm trọng hơn trường hợp phạm tội bình thường vì nó ko chỉ cản trở sự khắc phục khó khăn mà còn làm tăng thêm những khó khăn đang có của xã hội

g)    Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Đây là tình tiết tăng nặng TNHS chỉ trường hợp liên tiếp phạm tội và việc phạm tội trở thành thu nhập chính

h)   Phạm tội có tính chất côn đồ: Phạm tội mà hành vi và các tình tiết khách quan khác thể hiện sự hung hãn coi thường người khác, coi thường pháp luật của người phạm tội.

i)     Phạm tội vì động cơ đê hèn : đây là trường hợp phạm tội bị thúc đẩy bởi động cơ đê tiện và thấp hèn. Hành vi phạm tội trog trường hợp này thường là biểu hiện của sự bội bạc hèn nhát ích kỉ . lỗi của người phạm tội trong trường hợp này có mức độ nghiêm trọng hơn trường hợp bình thường

j)      Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng: Đây là biểu hiện của ý chí quyết tâm thực hiện tội phạm thông qua việc khắc phục mọi trở ngại để thực hiện được tội phạm do đó mức độ lỗi trong trường hợp này cao hơn bình thường

k)    Phạm tội nhiều lần, Tái phạm, tái phạm nguy hiểm: Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội phạm mà trc đó ng phạm tội đã phạm tội này ít nhất 1 lần và chưa bị xét xử. hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn bình thường

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là trường hợp phạm tội khi đã bị kết án và chưa đc xóa án tích về tội phạm nhất định ( xem d49 blhs)

l)     Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng,rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

Hậu quả của mỗi loại tội xảy ra trên thực tế ở trên mức bình thường có thể phân thành 3 mức như  trên. Việc xác định hậu quả của tội phạm ở mức nào do tòa án xác định hoặc xác đinh theo hướng dẫn. phạm tội gây hậu quả từ nghiêm trọng trở lên bị tăng nặng TNHS ở mức độ tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hậu quả. 

m)  Có hành động xảo quyêt, hung hãn nhằm trốn tránh che giấu tội phạm

Đây là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm , người phạm tội đã có những hành vi gian dối quỷ quyệt hoặc hành vi dùng vũ lực , đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm trốn tránh che giấu tội phạm.

n)   Xúi giục ng chưa thành niên phạm tội

C.Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là trường hợp bị cáo thực hiện

nhiều hành vi phạm tội thuộc nhiều loại tội phạm khác nhau, đều chưa hết thời hiệu, chưa bị xét xử và bị đưa ra xét xử cùng một lần.

Gồm có 2 TH:

+TH người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi cấu thành 1 tội riêng( các tội này có thể có hoặc ko liên quan tới nhau)

+TH người phạm tội có 1 hành vi phạm tội nhưng nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau.

Nếu bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm nhiều tội thì Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội theo quy định tại Điều 45 BLHS rồi sau đó tổng hợp hình phạt của các tội đó theo nguyên tắc:

61

a.  Đối với hình phạt chính (Khoản 1, Điều 50 BLHS)

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 50 BLHS thì việc tổng hợp hình phạt chính trong trường hợp phạm nhiều tội tuân thủ theo nguyên tắc sau:

Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo ko giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn thì các hình phạt được cộng lại thành hình phạt chung, hình phạt chung không được vượt quá 3 năm đối với cải tạo ko giam giữ, không quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn (Khoản 1, Điểm a, Điều 50 BLHS).

Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo ko giam giữ và tù có thời hạn thì đổi 3 ngày cải tạo ko giam giữ thành 1 ngày tù, rồi tổng hợp thành hình phạt chung, hình phạt chung không vượt quá 30 năm tù.

Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân thì lấy đó là hình phạt chung.

Trục xuất và phạt tiền không được tổng hợp với các hình phạt khác loại, Các khoản tiền

phạt được cộng lại thành hình phạt chung (không giới hạn mức tối đa).

 b. Đối với hình phạt bổ sung (Khoản 2, Điều 50)

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 50 BLHS thì việc tổng hợp hình phạt bổ sung trong trường hợp phạm nhiều tội tuân thủ theo nguyên tắc sau:

Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì quyết định hình phạt chung trong giới hạn của loại hình phạt đó (trừ hình phạt tiền không hạn chế mức tối đa)

Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì không tổng hợp mà bị cáo phải chấp hành

đồng thời các loại hình phạt đó.

D/Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án : có 2 TH

a. Đối với người đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án này (Khoản 1, Điều 51 BLHS)

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS thì việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp người đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án này tuân thủ theo các bước sau:

Bước 1: Toà án quyết định hình phạt đối với tội đang xét xử.

Bước 2: Tổng hợp với hình phạt của bản án đang chấp hành thành hình phạt chung theo quy định của Khoản 1, Điều 50 BLHS.

Bước 3:Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

b. Đối  với người đang chấp  hành  một bản án mà lại bị xét xử  về tội mới thực  hiện

(Khoản 2, Điều 51 BLHS)

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS thì việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp người đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội mới thực hiện tuân thủ theo các bước sau:

Bước 1: Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới.

Bước 2: Tính phần hình phạt còn lại của bản án đang chấp hành.

Bước 3: Tổng hợp hình phạt của tội mới với phần hình phạt còn lại của bản án đang chấp hành theo quy định Khoản 1, Điều 50 BLHS.

E/Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt:

Khi xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự, các nhà làm luật đã dự liệu và quy định loại và mức hình phạt áp dụng cho từng loại tội cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu Toà án tuyên cho họ một hình phạt ở mức thấp nhất của khung hình phạt thì hình phạt đó vẫn còn quá nghiêm khắc. Trong trường hợp này, luật cho phép Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự.Quy định này được quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Điều kiện áp dung: Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 của bộ luật này.

 Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng chỉ đc tới giới hạn sau:

_phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật;

_ trong trường điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”.

F. Án treo  Điều 60

G Người thành niên phạm tội: Điều 68 đến điều 77

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro