Phần Không Tên 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu1:Trình bày khái niệm tài chính, vai trò và chức năng của thị trường tài chính?

*Khái niệm: Thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền s ử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.

Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn

Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất định

Chức năng:

* Chức năng
-Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính

Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển giao những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thoả mãn nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn tài chính. Thị trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích luỹ và đầu tư,giữa người cùng nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau giữa hình thức mua bán các chứng khoán.

-Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán.

Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi vậy, nhờ thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các chứng khoán khác họ muốn. Khả năng thành khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những chủ yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán bảo đảm cho thị trường tài chính hoạt động năng động có hiệu quả.

- Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá

Chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể phát hành, tức là tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ phần đang lưu hành. Vì vậy, thông qua giá cổ phiếu của một doanh nghiệp người ta có thể đánh giá được giá trị của doanh nghiệp đó.



*Vai trò của thị trường tài chính

Thực hiện các chức năng của thị trường tài chính sẽ phát huy được vai trò của thị trường tài chính. Các vai trò đó là:

-Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.

Để phát triển kinh tế xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi với thời hạn ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với các công cụ là các loại chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về mệnh gía và thời hạn sử dụng kết hợp với cơ chế linh hoạt: mua bán chứng khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó thị trường tài chính đã thu hút, chuyển giao các nguồn tài chính nhàn rỗi,bé nhỏ, phân tán trong xã hội thành nguồn tài chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Thị trường tài chính với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, bộ máy quản lý hữu hiệu và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng khoán và đầu tư chứng khoán, người dân sử dụng nguông tài chính tiết kiệm được của mình để mua chứng khoán với niềm tin là khoản vốn và lãi của mình sẽ được đảm bảo. Nguồn tiết kiệm này, nếu không có thị trường tài chính sẽ có khả năng tiếp tục nằm yên dưới dạng tích trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng không đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính đã giảm bớt được nhu cầu tiêu dùng cao, dành nguồn tài chính vào đầu tư thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do chứng khoán không có tính lỏng như tiền mặt, một khi đã mua chứng khoán, nguồn tài chính đã vận động vào đầu tư, số tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống . Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán chứng khoán của người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao của chứng khoán trên thị trường tài chính đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư.

Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tưtất lớn. Nó không chỉ thu hút huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài chính là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối giữa vốn đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách "mở cửa nền kinh tế ". Như vậy, thị trường tài chính bổ xung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.

-Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính

Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra trên cơ sở quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố các vấn đề tài chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của doanh nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán của những doanh nghiệp thành đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng khoán, không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có hiệu quả .

Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong từng doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn sử dụng các nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức năng cung cấp thông tin chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích và có quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động đúng đến nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả.

-Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhànước.

Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu...., giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính hay chính sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước cũng có thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc Nhà nước vay tiền của dân đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm giảm áp lực của lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.

Câu2:Tại sao cần có thị trường tài chính? Trình bày cấu trúc của thị trường tài chính?

*Tại sao cần có thị trường tài chính:Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.

*Cấu trúc TTTC:

Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được

1. : Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm);

2. : Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.

Căn cứ theo phương thức huy động nguồn tài chính

1. Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên;

2. Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ).

Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn tài chính

1. : Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian là các ngân hàng;

2. : Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này thì người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty phát hành không thu được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp.

Căn cứ vào tính chất pháp lý

1. Thị trường tài chính chính thức: là bộ phận của thị trường tài chính, mà tại đó mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia được pháp luật thừa nhận và bảo vệ;

2. Thị trường tài chính không chính thức: là thị trường tài chính, mà ở đó mọi hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính không theo những nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định.

Câu3:Liệt kê các công cụ của thị trường tài chính và ý nghĩa của chúng?

a)Công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ:

*Tín phiếu kho bạc Treasury Bill- T bill) Các công cụ trên thị trường tài chính Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do Kho bạc phát hành để bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước Đặc điểm - Là chứng khoán chiết khấu - Là công cụ tài chính có rủi ro thấp nhất, có tính thanh khoản cao nhất - Được phát hàng thông qua hình thức đấu giá - Là công cụ được ngân hàng trung ương các nước sử dụng như một công cụ để điều hành chính sách tiền tệ thông qua thị trường mở.

*Thương phiếu (commercial paper) Thương phiếu là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. - Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp hơn mệnh giá. - Thị trường thương phiếu ngày nay rất sôi động và phát triển với tốc độ rất nhanh. Việc chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện bằng hình thức ký hậu.

*Chấp phiếu ngân hàng (Banker's Acceptance) Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu "đã chấp nhận" lên tờ hối phiếu.)

*Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit) là một công cụ nợ (debt instrument) do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc (được gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho người gửi tiền khi đến ngày đáo hạn.

*Hợp đồng mua lại (Repurchase agreement - Repo) Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lượng tín phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp.

b)Công cụ lưu thông trên thị trường vốn

* Cổ phiếu (Share) Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành * Một số thuật ngữ liên quan - Cổ phần (Share) - Cổ đông (Shareholder) - Cổ tức (Dividend)

Đặc điểm của cổ phiếu - Là chứng khoán vốn (xác nhận việc góp vốn vào CTCP) - Không có thời hạn - Được phát hành khi thành lập công ty cổ phần hoặc khi công ty cần tăng vốn điều lệ - Thông thường, người mua cổ phiếu được quyền nhận cổ tức hàng năm

*Trái phiếu (Bonds, debentures) Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành * Một số thuật ngữ liên quan - Trái chủ (Bonders) - Mệnh gía (Face of Value) - Giá phát hành (Issue Price) - Thị giá (market price) - Kỳ trả lãi (Coupon Dated) - Lãi suất - Thời hạn của trái phiếu (Term to Maturity / Maturity)

Đặc điểm của trái phiếu - Trái phiếu là loại chứng khoán nợ - Thời hạn lưu hành được xác định trước - Trái phiếu là loại chứng khoán có thu nhập xác định trước - Giá trị danh nghĩa luôn thể hiện trên bề mặt của trái phiếu

*Chứng chỉ quĩ (Certificate of fund's contribution) Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.

Đặc điểm - Do công ty quản lí quỹ đầu tư phát hành - Xác nhận việc góp vốn của nhà đầu tư vào quỹ - Khác với cổ phiếu,người sở hữu nó không có quyền tham gia bầu cử ứng, bầu cử... - Tuỳ theo mỗi loại quỹ mà nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ có thể rút vốn trực tiếp hay qua thị trường chứng khoán.

* Các khoản vay thế chấp (Mortgage Loans) Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua hoặc xây dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay.

Câu4:Trình bày vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với thị trường tài chính

Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng tái tạo, hay còn được coi như " cái gốc của nền tài chính". Sự phát triển hay suy thoái của sản xuất- kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý ; sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.

Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đã hoạch định hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý năng động như các chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lưu vốn. .. Trong điều kiện như vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò sau:

Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh.

Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh.

Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp nghiệp nhà nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao... đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình.

Tài chíh doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả.

Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của kế toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.

Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh.

Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp...Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.

Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn...có thể dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.

Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.

Câu 5:Nêu mối quan hệ giữa các chức năng của tài chính. Liên hệ các chức năng đó vào hoạt động của một doanh nghiệp

Chức năng của tài chính bao gồm chức năng phân phối và chức năng giám đốc:

*Chức năng phân phối: là sự phân chia các nguồn tài chính cho biết tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ tập chung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thỏa thuận các nhu cầu chung của nhà nước xã hội và dân cư.

-Đối tương phân phối của tài chính: toàn bộ của cải dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính mà chủ thể là tổng sản phẩm quốc dân.

-Chủ thể phân phối: những người trực tiiếp tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính( có quyền sở hữu, quyền sử dụng. Có quyền lực chính trị và có sự ràng buộc các quan hệ xã hội).

Kết quả của phân phối:có quỹ tiền tệ được tạo lập và có quỹ tiền tệ được sử dụng,

Đặc điểm của phân phối:

+ Chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị.

+ Luôn gắn liền với hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.

+ Diễn ra thường xuyên, liên tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại.

-Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội: là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ. Phân phối lần đầu nguồn tài chính hình thành những bộ phận của các quỹ tiền tệ sau:

+ Phần bù đắp những chí phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phần này hình thành quỹ khấu hao TSCĐ và quỹ bù đắp vốn lưu động đã ứng ra.

+ Phần hình thành quỹ tiền lương để trả cho người lao động.

+ Phần đóng góp vào việc hình thành các quỹ bảo hiểm: BHXH, bảo hiểm thương mại.

+ Một phần là thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn và các nguồn tài nguyên: nộp ngân sách, trả nợ vay ngân hàng, phân chia thu nhập cho người góp vốn.

->Phân phối lần đầu hình thành thu nhập cơ bản của các chủ thể và các khoản thu cho các quỹ tiền tệ.

-Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi rộng hơn để đáp ứng nhu cầu tích lũy, tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Được thực hiện bằng hai phhương pháp:

+Huy động tập chung một phần thu nhập của các tổ chức và dân cư vào các quỹ tiền tệ: thuế, các khoản vốn nhàn rồi rồi gửi vào hệ thống tín dụng ngân hàng, mua các loại cổ phiếu, trái phiểu...

+Sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội.

*Chức năng giám đốc: là chức năng mà nhờ đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo mục đích đã định.

-Đối tượng giám đốc của tài chính: quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quyá trình vận động các nguồn tài chính.

-Chủ thể giám đốc: là chủ thể của phân phối, đó là sở hữu các quỹ tiền tệ.

-Đặc điểm của giám đốc tài chính: giám đốc bằng tiền đối với các hoạt động tài chính, có tính toàn diện, thường xuyên, liên ttục, rộng rãi, kịp thời.

-Qúa trình giám đốc:

+Công tác kế hoạc hóa: dự tính nhiều phương án tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ từ đó chọn phương án hiệu quả nhất, an toàn nhất.

+Công tác kế tóa: ghi chép các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ từ chứng từ vào sổ sách và lập báo cáo kế toán, từ số liệu đó có thể kiểm tra tính cần thiết quy mô và hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.

-Kết quả giám đốc: phát hiện và điều chỉnh tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục đích đã định.

Câu 6: Tại sao hệ thống tài chính có thể di chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn một cách có hiệu quả?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro