Câu 10: HCLS và quá trình hình thành đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

a) Hoàn cảnh lịch sử

- Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX:

Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.

Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc.Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.

Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển.

Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự, bằng các tiêu chí tổng hợp trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.

Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó:

+Lực lượng SX và quan hệ kinh tế quốc tế p/triển mạnh mẽ.

+Hàng hóa,vốn tiền tệ ,thông tin....vận động thông thoáng

+hình thành mạng lưới q/hệ đa chiều

-Tích cực

+thúc đẩy kte sx

+tăng tính phụ thuộc lẫn nhau

+Nâng cao hiểu biết giữa các quốc gia, huận lợi cho việc xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.

-Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa: xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo,

-Tình hình khu vực Châu Á — Thái Bình Dương từ những năm 1990 có nhiều chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn như vấn đề hạt nhân, vân đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, tài nguyên và việc một số nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á - Thái Ẹinh Dương vần được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, châu Á — Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.

-Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:

+Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối vối Việt Nam từ nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
+Mặt khác, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ tnrơng, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.

b) Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối

--Giai đoạn 1986 - 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.

Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiết bị và kinh nghiệm tố chức, quản lý sản xuất, kinh doanh phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

-Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới,. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như: quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; an ninh và phát triển; đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam.Sự chuyển hướng này đặt đã đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lộp tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.

-Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu..

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đề ra chủ trương "hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình", với phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua, xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xă hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) chủ trương triền khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại.

Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ đại hội Đảng lần thứ VI, sau đó được các nghị quyết.Đại hội và Hội nghị Trung ương từ khóa VI đền khóa VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.

--Giai đoạn 1996-2001: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Đại hội thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương "xây dựng nền kinh tế mở" và "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới".

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội VIII, nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (tháng 12-1997), chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nghị quyết đề ra chủ tưởng tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á — Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001), Đảng ta nhận định: thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từ năm 1986 đến năm 2001, đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, trong đó đặc biệt là "đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội... Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế". Từ đó, Đảng đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực.

Cảm nhận đầy đủ "lực" và "thế" của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại hội VII là: "Việt Nam muốn là bạn với các nuớc trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triền" thành "Việt Nam sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Tháng 11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (ngày 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bĩnh, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1- 2001), nhận định tình hình trong nước "Những thành tựu kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986-2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước... tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào.

Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại hội XI (tháng 1-2001) được bồ sung, phát triển theophương châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.

(*)Thành Tựu:

- cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao.
- Nền kinh tế phát triển ,tăng trương cao

-VH XH phát triển ,đời sống nhân dân cải thiện nhiều

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro