Đề cương ôn tập kinh tế chính trị + Chủ nghĩa xã hội khoa học

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá.

-Hàng hoá là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

+Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ....

-Hàng hoá có hai giá trị thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

+Giá trị sủ dụng của hàng hoá: là công dụng của hàng hoá thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.

Bất cứ hàng hoá nào cũng có 1 hay 1 số công dụng nhất định. Chính công dụng đó làm cho hàng hoá có 1 hay 1 số giá trị sử dụng. Ví dụ: công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn.... cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên( lý, hoá học) của thực thể hàng hoá đó quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản xuất.

Giá trị sủ dụng của hàng hoá được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kĩ thuật và của lực lượng sản xuất nói chung.

Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hoá không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỉ lệ về lượng trao đổi giữa những hàng hoá có các giá trị sử dụng khác nhau( ví dụ: 1 m vải đổi bằng 5 kg thóc).

+Giá trị của hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.

-Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá: hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

+Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là hàng hoá. Nếu thiếu 1 trong 2 thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hoá. Chẳng hạn, một vật có ích( tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra( tức không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá.

+Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hoá thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại với tư các là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá.

Thứ hai, tuy giá trị sử sụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hoá, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó nếu giá trị của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.

Câu 2: trình bày nội dung yêu cầu, tác động của qui luật giá trị.

Quy luật giá trị hàng hoá là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.

-Nội dung yêu cầu của qui luật giá trị:

+Sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.

Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hoa phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai hàng hoá được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh 1 lương lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.

+Giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị → Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá.

+Sự vận động giá cả thị trường( sự lên xuống của giá cả phụ thuộc vào: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.... tách rời với giá trị) của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.

-Tác động của quy luật giá trị

+Thứ nhất: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mo sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hoá khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

Nếu một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Nếu mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này

→Quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỉ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hoá từ nơi giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn và do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

+Thứ hai: kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.

Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động các biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hoá nào mà có mức hoa phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội càn thiết thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.

Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.

+Thứ ba: thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.

Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bàn hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết( theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.

Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hoa phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.

Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay.

Câu 3: Phân tích điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và dũng để trao đổi với nhau.

Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra không để tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu của người khác thông qua trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:

-Phân cồng lao động xã hội:

+Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội.

+Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài lại sản phẩm nhất định. Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.

+Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. C.Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động chưa trở thành hàng hoá. Bởi vì tư liệu sản xuất của chung nên sản phẩm và từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của chung; công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. C.Mác:" Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá".

→Vì vậy muốn sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai nữa.

-Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:

+Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà thời khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội', xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.

Sản xuất hàng hoá khác với kinh tế tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.

Sản xuất hàng hoá có đặc trưng và ưu thế như sau:

-Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.

-Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

-Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất " mở" của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triểm. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái của nó như phân hoá giàu-nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoàng kinh tế-xã hội, phá hoại môi trường sinh thái,....

Câu 4: Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá.

-Lượng giá trị hàng hoá:

+Giá trị hàng hoá là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.

+Lượng giá trị của hàng hoá không phải do mức hao phí lao động các biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.

+Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lai động trung bình trong xã hội đó.

+Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy.

-Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá: Tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá.:

+Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuát ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hoá sẽ giảm cuống và ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

+Cường độ lai động là đại lượng chỉ mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lai động tăng lên thì số lượng( hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hoá vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.

+Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.

Câu 5: Phân tích quy luật giá trị thặng dư.

Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vị vậy. LêNin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dự là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng xã hội cao hơn.

Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.

Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nha, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phất triển mạnh mẽ, nền sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

→Tất cả những yếu tố đó đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình.

Câu 6: Trình bày nguồn gốc và các đặc điểm của tư bản thương nghiệp.

-Nguồn gốc của tư bản thương nghiệp

+Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.

+Trước chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp chủ yếu là do mua rẻ, bán đắt.

+Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá.

→ hoạt động của tư bản thương nghiệp chỉ là những hoạt động phục vụ cho quá trình thực hiện giá trị hàng hoá của tư bản công nghiệp. Công thức vận động của nó là: T-H-T'.

-Tư bản thương nghiệp có đặc điểm vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính đọc lập tương đối. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ: chức năng chuyển hoá cuối cùng của hàng hoá thành tiền trở thành chức năng riêng biệt tách khỏi tư bản công nghiệp, nằm trong tay người khác.

-Khi tư bản thương nghiệp xuất hiện, nó có vai trò và lợi ích to lớn đối với xã hội, bởi vì:

+Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua-bán hàng hoá nên lưưọng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này.

+Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua-bán hàng hoá, người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.

+Nhờ có thương nhân chuyên trách mua-bán hàng hoá, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.

Câu 7: Phân tích nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp.

-Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cho mình. Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân.

-Tư bản công nghiệp" nhường" một phần giá trị thặng du cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị thực tế của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp.

Việc phân phối giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh và thông qua chênh lệch giữa giá cả sản xuất cuối cùng(giá bán lẻ thương nghiệp) và giá cả sản xuất công nghiệp( giá bán buôn công nghiệp).

Câu 8: Phân tích thực chất tích luỹ tư bản và các nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản.

-Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại tư bản gọi tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản hoá giá trị thặng dư. Nói một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.

-Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản:

+Tái sản xuất đơn giản không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản, mà hình thái tái sản xuất điển hình của nó là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một số bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.

+Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.

→Thục chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Nói 1 cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.

+Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c+20v+20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá hân, mà được phân thành 10m dũng để tích luỹ và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần 10m dùng để tich luỹ được phân thành 8c+2v, khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c+22v+22m(nếu m vẫ như cũ). Như vậy, vào năm thứ 2, quy mô tư bản bất biến và tư sản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.

-Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:

+Một là: nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi(m) cứ đạp vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.

+Hai là: quá trình tích luỹ đã làm choquyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người ki. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.

-Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản-quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nàh tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

-Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.

-Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản: với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, nhưng nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản. Những nhân tố đó là:

+Trình độ bóc lột sức lao động:

Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sụ sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.

Các nhà tư bản còn nâng cao trình đọ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.

+Trình độ nằng suất lao động xã hội:

Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước.

Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hóa thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản.

+Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng:

Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn thì, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự ohục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.

+Quy mô của tư bản ứng trước:

Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.

Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận xét chung để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

Câu 9: Phân tích bản chất của tiền công. Nêu các hình thức tiền công cơ bản.

-Sau quá trình lao động, nhà tư bản trả cho người công nhân 1 lượng tiền nhất định gọi là tiền công.

-Bản chất của tiền công: tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động. Tuy vậy dễ có sự lầm tưởng trong xã hội tư bản tiền công là giá cả của lao động vì:

+thứ nhất: nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất ra hàng hóa

+thứ hai: tiền công đc trả theo thời gian( giờ, ngày, tuần, tháng)hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất ra được. Cái mà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sử dụng lao động. Trong khi nếu thừa nhận nhà tư bản mua của công nhân là lao độngt thì vấp phải các vấn dề là việc thừa nhận lao động là hàng hóa, việc thừa nhận này sẽ dẫn đến 1 trong 2 mâu thuẫn về lý luận sau:

thứ 1: nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận giá trị thặng dư. Điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luận giá trị thặng dư trong xã hội tư bản.

thứ 2: nếu "hàng hóa sức lao động" được trao đổi ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản thì phải phủ nhận quy luât giá trị.

-Các hình thức tiền công cơ bản: 2 hình thức:

+tiền công tính theo thời gian: là hình thức tiền công tính theo thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn( giờ, ngày, tuần, tháng..).

+tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công tính theo số lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công viêc đã hoàn thành trong 1 thời gian nhất định.

tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân có được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.

tiền công thực tế là số tiền được quy đổi từ tiền công danh nghĩa sang các tư liệu sinh hoạt.

Câu 10: Phân tích nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Theo C.Mác khi nghiên cứ về quy luật tích lũy tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh đã đưa ra dự báo sau: " Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này khi phát triển tới một mức độ nhất định lại dẫn tới độc quyền".

- Sự phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, một mặt làm xuất hiện những ngành mới, ngay từ đầu là những ngành có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi hình thức tổ chức mới, đó là những xí nghiệp lớn. Sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất mạnh. Mặt khác nó cũng dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng giá trị thặng dư tương đối.Việc nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích lũy tư bản và sản xuất.

- Cạnh tranh tự do tác động mạnh mẽ đến tích tụ và tập trung tư bản. Một mặt, nó buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng trong cạnh tranh và giành lợi nhuận tối đa. Mặt khác kết quả cạnh tranh là nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật thấp kém bị các doanh nghiệp lớn thôn tính. Vì vậy chỉ còn một số ít những nhà tư bản lớnnắm địa vị thống trị trong một ngành hay trong một số ngành.

- Khủng hoảng kinh tế dẫn đến nhiếu xí nghiệp nhỏ và vừa phá sản, những xí nghiệp và công ty lớn phải đổi mới sản xuất, đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.

- Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

- Những xí nghiệp và công ty lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh tranh với nhau vô cùng khốc liệt, khó phận thắng bại, vì thế nẩy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.

Câu 11: Nêu các đặc điểm của kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, phân tích đặc điểm thứ nhất.

*)Những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền

a/ Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

-Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng cơ bản của CNĐQ. Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn, thậm chí toàn bộ sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.

-Trong những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự liên kết giữa những doanh nghiệp trong một ngành dưới hình thức Cácten, Xanhđica, Tờrớt.

+Cácten là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp thành viên để thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán.....còn việc sản xuất và thương nghiệp vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện.

+Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc mua và bán do một hội đồng quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất là công việc độc lập của mỗi thành viên.

Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ, vì khi tương quan lực lượng thay đổi, mỗi thành viên thường chạy theo lợi ích cục bộ dẫn đến vi phạn những cam kết. Bởi vậy, một hình thức tổ chức độc quyền cao hơn là tờ rớt ra đời.

+Tờ rớt thống nhất cả việc sản xuất và thương nghiệp vào tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cô động.

-Tiếp đó xuất hiện liên kết dọc, nghĩa là liên kết không chỉ những xí nghiệp lớn mà cả những xanhđica, tờ rớt....thuộc những ngành khác nhau, nhưng liên quan với nhau về kinh tế kỹ thuật, hình thành các Côngxoócxiom.Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới - liên kết đa ngành - hình thành những côngglômêrat hay consơn khổng lồ thâu tóm những ngành công nghiệp khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận tải, thương nghiệp , ngân hàng và các dịch vụ khác...

-Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vựcc sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng đưa ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá sản xuất đối với giá mua vào, trước hết là nguyên liệu. Qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.

→ Giả cả độc quyền là giá cả hàng hóa vượt rất xa giá cả sản xuất. Già cả độc quyền bằng chi phí sản xuất công với lợi nhuận độc quyền cao.

-Việc thực hiện chính sách giá cả độc quyền cũng gặp phải những giới hạn kinh tế, trong đó có sự cạnh tranh. Sự xuất hiệncác tổ chức độc quyền không thủ tiêu sự cạnh tranh nói chung. Độc quyền và cạnh tranh luôn tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Trong thời đại CNĐQ , tính cạnh tranh đã thay đổi căn bản. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa những tổ chức độc quyền lớn trong nội bộ ngành, giữa những ngành trong một quốc gia TBCN và giữa các quốc gia TBCN với nhau.

b/ Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

-Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa những tư bản độc quyền trong ngân hàng.

-Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội tư bản, bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự". Thực chất của chế độ tham dự là nhà tư bản tài chính lớn hoặc tập đoàn tài chính, nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế và chi phối được các công ty gốc hay công ty mẹ, rồi các công mẹ chi phối các công ty con.....cháu. Bởi vậy với một số tư bản nhất định nhà tư bản tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất rất lớn.

c/ Xuất khẩu tư bản

-Một đặc trưng lớn của CNĐQ so với CNTB tự do cạnh tranh là xuất khẩu tư bản.

-Xuất khẩu tư bản trở thành một tất yếu , vì trong những nước tư bản công nghiệp đã phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình tạng thừa tư bản. Tình trạng này không phải là thừa tuyệt đối mà thừa tưng đối, nghĩa là không tìm được nơi đâu để đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước.

-Xét về hình thức đấu tư, có thể phân chia xuấ khẩu tư bản thành xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao (FDI). Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lời.

d/ Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của các nhà tư bản

-Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân chia thị trường thế giới.

e/ Sư phân chia thế giới giữa các cường quốc

-Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền về nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 - 1918 và lần thứ hai 1939 - 1945.

-Từ năm đặc điểm trên ta có thể rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền; về mặt chính trị là sự xâm lược nước ngoài, là hệ thống thuộc địa nảy sinh tư yêu cầu kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nếu định nghĩa một cách vắn tắt thì chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Định nghĩa cụ thể chủ nghĩa đế quốc gồm năm đặc trưng cơ bản.

-Tóm lại, sự ra đời chủ nghĩa đế quốc đã thúc đẩy lực lượng sản xuất, kinh tế thế giới phát triển. Chủ nghĩa đế quốc đó là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, đó cũng là một giai đoạn mà các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển và trở nên hết sức gay gắt.

*)Đặc điểm 1: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

-Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

-Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp, nhưng chiếm hơn 3,4 tổng số máy hơi nước và điện lực gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thoả hiệp với nhau để nắm độc quyền.

-Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

-Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.

-Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten,xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom,cônggơlômêrát.

+Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô, sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán, v.v.. Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.

+Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

+Tơrớt là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia tơrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

+Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cá các xanhđica, tơrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy một côngxoócxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.

Câu 12: Nêu các đặc điểm của kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, phân tích đặc điểm thứ hai.

*)Đặc điểm 2: Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

-Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn.

-Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các ngân hàng lớn hơn, thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sát nhập vào các ngân hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

-Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

-V.I.Lênin nói: "Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp".

-Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính.

-Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là "công ty mẹ"); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

-Ngoài "Chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như: lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.

+Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

Câu 13: Nêu các đặc điểm của kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, phân tích đặc điểm thứ ba.

*)Đặc điểm 3: Xuất khẩu tư bản

V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

-Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

-Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:

+Một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước .

+Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

+Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp).

+Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài.

+Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức cho chính phủ, thành phố, hay một ngân hàng ở nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.

-Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

-Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại, để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi...

-Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị "thân cận", đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

-Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

-Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.

-Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.

Câu 14: Phân tích nguyên nhân ra đời và nêu những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

*)Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

-Thứ nhất, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung tư bản càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sư kế hoạch hóa tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội lực lượng sản xuất đã đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền kinh tế.

-Thứ hai, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản không thể hoặc không muốn kinh doanh đầu tư vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốbn chậm, ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng, Giao thông vận tải...

-Thứ ba, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với gia cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách xoa dịu những mâu thuẩn đó, như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phá triển phúc lợi xã hội.....

-Thứ tư, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vẫn vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đốt lợi ích với các đối thủ trên thị trường. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế; nhà nước tư sản có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các quan hệ đó.

*)Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền:

a/ Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản

-VI Lênin đã từng nhấn mạnh,sự liên minh về nhân sự của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ theo kiểu: Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng. Hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng.

-Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.

- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện:

+ Thông qua các đảng phải tư sản.

+ Thông qua các hội chủ xí nghiệp:

Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước

Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.

b/ Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước.

-Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của nhà nước và độc quyền kết hợp với nhau trong lĩnh vực kinh tế và nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chổ sở hữu nhà nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư bản tư nhân, hai sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.

-Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau:

+ Xây dựng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách;

+ Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân bằng cách mua lại;

+ Nhà nước mua cổ phiếu của các xí nghiệp tư nhân'

+ Mở rộng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân.

c/ Sự điều tiết kinh tế của nhà tư bản

-Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có những tác động tích cực và tiêu cực. Bởi vậy, khi nào và ở đâu mà trính độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã vượt quá giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thỉ tất yếu đòi hỏi bổ sung bằng sự điều tiết của nhà nước. Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có những mặt tích cực và tiêu cực. Vì thế hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế

-Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc, bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chánh - pháp lý , bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường ...và bằng những giải pháp ngắn hạn như chống khủng hoảng tài chính, tiền tệ, lạm phát ...

-Tùy theo học thuyết kinh tế được vận dụng, hệ thống điều tiết kinh tế ở mỗi nước có những nét khác nhau: - còn được gọi là "mô hình thể chế kinh tế"-như "mô hình trọng cầu", "mô hình trọng cung","mô hình trọng tiền"..... các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là biểu hiện quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

→Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh là một tất yếu kinh tế, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa cao độ của các lực lượng sản xuất trong khuôn khổ chế độ tư bản, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhưng vẫn vấp phải những giới hạn và mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản không vượt qua được.

Câu 15: Phân tích những thành tựu, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.

*)Thành Tựu:

Trong quá trình phát triển của mình nếu chưa xét đến hiệu quả mà CNTB gây ra loài người, thì CNTB vẫn có mặt tích cực với sản xuất đó là:

-Thực hiện xã hội hóa sản xuất.

-Phát triển lực lượng sản xuất tăng năng xuất lao động xã hội.

-Chuyển sản xuất nhỏ thành sản lớn hiện đại.

Tuy nhiên những thành tựu mà CNTB đạt được không phải chỉ có một chiều mà trong sự vận động đầy mâu thuẫn. Điều đó biểu hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau:

-Xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế là do yêu cầu nội tại và xu thế tăng nhanh tốc độ của việc phát triển lực lượng sản xuất gắn với cuộc cách mạng và khoa học công nghệ.

-Xu thế trì trệ của nền kinh tế : Đó là sự thống trị của độc quyền đã tạo ra những nhân tố ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất.

-Lực lượng sản xuất phát triển cao nhất hiện nay là ở các nước tư bản phát triển. Các nước này đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Năm nội dung chính của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là : cách mạng vi điện, điện tử khoa học, cách mạng trong lĩnh vực năng lượng, cácch mạng trong lĩnh vực vật liệu mới, cách mạng sinh học, cách mạng trong lĩnh vực công cụ sản xuất ( Robot thế hệ thứ V ).

Hầu hết các nước tư bản phát triển đã đạt tới trình độ phát triển cao của khoa học và kỹ thuật, nền kinh tế phát triển cao. Vì vậy C.Mác noí: chủ nghĩa xã hội chỉ thắng lợi khi nó tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.

-Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã có nhiểu thay đổi:

+Đa dạng hóa hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước ngày càng gia tăng, sở hữu hỗn hợp là phổ biến.

+Tổ chức sản xuất mang tính toàn cầu, thể hiện hệ thống tài chính mang tính toàn cầu. Một nước bị khủng hoảng là lan ra khắp thế giới.

+Quan hệ phân phối có nhiều biến đổi, các nước tư bản hiện nay đã đưa ra được công nghệ phân phối tốt, động viên được mọi nguồn lực phát triển khoa học và kinh tế. Có hai cách phân phối là phân phối theo cơ chế thị trường và phân phối bằng nhà nước, tức là phải có chính sách phân phối, chế độ phân phối gọi chung là công nghệ phân phối. Người giàu là phổ biến, người nghèo là thiểu số, quan hệ chủ tớ thay đổi, quyền con người đuợc đề cao.

-Kiến thúc thượng tầng: đời sống tinh thần xã hội xuất hiện nhiều thành tựu văn minh mới, bao gồm: tiêu chí về xã hội và giai cấp thay đổi. Đánh giá con người dựa trên trình độ sở hữu và nắm giữ thông tin khoa học và sở hữu trí tuệ đặt lên hàng đầu.

-Xu hướng đầu tư cho con người được đề cao.

-Sự tồn tại trong quan niệm và trong thực tế về nhà nước phúc lợi chung.

→ Đáng giá chung: Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử: CNTB đã đưa loài người từ xã hội thần dân sang xã hội công dân là một bước tiến của lịch sử.

Chủ nghĩa tư bản đưa con người đến đỉnh cao của trí tuệ và văn minh. Đến chủ nghĩa tư bản hôm nay, con người mới hạnh phúc nhất. Giúp con người hiểu rõ hơn về xã hội chủ nghĩa văn minh, lí tưởng của nhân loại. Xã hội lý tưởng đó sẽ ra đời từ xã hội tư bản với trình độ cao nhất và văn minh nhất.

Tuy nhiên, mặt khác CNTB cũng đưa con người xuống vực thẳm của địa ngục

*)Hạn chế:

-Bên cạnh mặt tích cực trình bày ở trên, CNTB cũng gây ra hậu quả nặng nề cho nhân loại:

+CNTB là thủ phạm chính của 2 cuộc chiến tranh thế giới I và II và hàng trăm cuộc chiến tranh cục bộ.

+Là thủ phạm chính của cuộc chạy đua vũ trang và ô nhiễm môi trường.

+CNTB phải chịu trách nhiệm chính về nạn đói nghèo bệnh tật của hàng trăm triệu người ở các nước chậm phát triển.

-CNTB cũng đứng trước giới hạn mà nó không thể vượt qua: Giới hạn đó bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB đó là : Mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Mặc dù CNTB ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất định trong những hình thức quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn này. Mâu thuẫn đó được biểu hiện ra thành những mâu thuẫn cụ thể sau:

+Một là: Mâu thuẫn giữa tư bản lao động.

+Hai là: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc.

+Ba là: Mâu thuẫn với các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.

+Bốn là: Mâu thuẫn giữa CNTB và CNXH.

-Tội ác về chiến tranh và chạy đua vũ khí : Cuộc chiến tranh thế giới lần I (1914-1918) để chia lại thuộc địa của các nước đế quốc đã lôi kéo 38 nước trên thế giới tham gia, huy động 37 triệu quân và đã làm 10 triệu người chết, 20 triệu bị thương, trong đó 20% là dân thường. Chiến tranh thế giới lần 2 (1939- 1945) lúc đầu là cuộc chiến tranh đế quốc, sau đó chuyển thành cuộc chiến tranh chống phát xít đã lôi kéo 72 nước của bốn châu lục tham gia, huy động 110 triệu quân chính quy, làm cho gần 55 triệu người chết, trong đó 50% là thường dân ( Liên xô:22 triệu, Đức 15 triệu, Ba lan: 6 triệu).

Chiến tranh lạnh do chủ nghĩa đế quốc khởi xướng và diễn ra trong 5 thập kỷ, là thời kỳ căng thẳng, chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử loài người. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, xung đột vũ trang tiếp tục tăng lên. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, bình quân trên thế giới có 4,3 cuộc xung đột vũ trang trong một năm. Tính từ 1975 đến 1998 trên thế giới xảy ra 150 cuộc chiến tranh cục bộ, làm 30 triệu người chết.

Trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, những mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo phức tạp phát triển.

-Tội các gây ra sự nghèo khổ, lạc hậu của nhân dân các nước chậm phát triển: Bản tuyên ngôn cuộc họp nhóm 15 tại Giamaica đã vạch rõ: "'do kết quả vòng đàm phán Urugoay về thương mại thế giới; Hoa kỳ thu lợi được 100 tỷ USD, EU thu lợi được 55 tỷ USD và Nhật Bản thu lợi được 45 tỷ USD. Ngược lại hơn 50 nước đang phát triển bị thiệt hại ngang bằng con số ấy. Theo thống kê của LHQ, 48 nước kém phát triểnnnhất thế giới chiếm 10% dân số nhưng chỉ chiếm 0,1% GDP thế giới. Trong khi đó nhóm G7 chỉ chiếm 20% dân số thế giới nhưng chiếm 62,5 GDP thế giới. Năm 1997, 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm 86% GDP, 82 % xuất khẩu hàng hóa, 68 % đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong khi đó, 20% dân số nghèo nhất thế giới chỉ chiếm 1% GDP, 1% XK, 1%FDI.

Thế giới hiện nay có hơn 830 triệu người thiếu ăn, ngay tại các nước phát triển cũng có đến trên 100 triệu người sống dưới mức nghèo khổ.

-Tội ác ngay tại các nước tư bản phát triển: thất nghiệp, bạo lực, tệ nạn xã hội...

-Môi trường thế giới đang bị tàn phá nặng nề.

*)Xu hướng:

-CNTB trong quá trình phát triển của nó đã: Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển rất mạnh mẽ, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại nhưng cũng làm chothuẫn cơ bản của nó ngày càng gay gắt thêm.

-Ngày nay CNTB hiện đại đang nắm giữ những ưu thế về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, đang có khả năng thích ghi trong chừng mực nhất định , song CNTB đã buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về quan hệ sản xuất, song khôgn thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó, không thể vượt quá giới hạn lịch sử của nó.

-Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển tiến bộ của mình.

-CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại, cùng với khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.

→Vì Vậy, sớm hay muộn CNTB sẽ bị thay thế bằng một chế mới cao hơn - xẫ hội CSCN mà giai đoạn thấp là CNXH

-Ngày nay cả thế giới đang hướng tới một nền văn minh mới- xã hội cộng sản một cách hiện thực hơn và thực tiễn hơn. Khi nào chủ nghĩa công sản tạo ra được một năng suất lao động lớn hơn năng suất lao động của CNTB hiện nay...

-CNTB ngày nay còn đang phát triển và có khả năng tự điều chỉnh để phát triển nhưng những mâu thuẫn cơ bản vẫn chưa giải quyết.

-CNTB hiện tại là sự chuẩn bị đầy đủ nhất về vật chất và tinh thần cho xã hội chủ nghĩa của loài người.

Các Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: "đối với chúng ta, chủ nghĩa công sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa công sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện tại tạo ra"

Câu 1: Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là gì? Trình bày những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

-Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịhc sử giao phó cho một giai cấp để nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một hình thái kinh tế-xã hội đã lỗi thời sang một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

-Phân tích một cách khách quan địa vị kinh tế, xã hội của giai cấp công nhân, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu một cách khái quát nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, không có người bó lột người trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công.

-Cụ thể có 3 nội dung cơ bản sau đây:

+Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức để nhân dân lao động giành chính quyền về tay mình, xoá bỏ chính quyền của cá chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp tư sản( và mọi giai cấp áp bức bóc lột khác); giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ, xây dựng chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nội dung này có thể thực hiện bằng biện pháp bạo lực là chủ yếu, tuy nhiên tranh thủ tối đa biện pháp hoà bình khi có điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết.

+Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức nhân dân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời tổ chức xây dựng đaats nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., để từng bước hình thành xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế giới.

Đây là nội dung cơ bản quyết định cuối cùng của sứ mệnh lịch sử của giai cấo công nhân và cũng là nội dung rất khó khăn, phức tạp vì nó rất mới mẻ và là quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Do đócần phải trải qua từng bước, lâu dài với yêu cầu ngày càng cao đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, nhất là đối với Đảng cộng snr, với giai cấp công nhân cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị. Không thể nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí... mà hoàn thành được nội dung này.

+trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại-cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở kinh tế cho tất cả các nước theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển ngày càng cao. Không có giai cấp công nhân lớn mạnh, không một nước nào(kể cả các nước phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại và phát triển trong thời đại hiện nay. Nội dung này là nội dung thường xuyên và thực hiện suốt trong các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở tất cả các nước.

Điều kiện khách quan:

-Do những địa vị kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân:

+Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất tiên tiến có trình độ xã hội hoá ngày càng cao, họ tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, lao động thặng dư của họ là nguồn gố chủ yếu đem lại sự giàu có cho xã hội.

+Do bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản, họ phải bán sức lao động để kiếm sống, họ bị bóc lột nặng nề và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sản phẩm của họ làm ra, họ có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp có vai trò đi đầu trong cải tạo các quan hệ xã hội, muốn xoá bỏ giai cấp tư sản và mọi giai cấp bóc lột khác.

-Do đặc điểm chính trị-xã hội của giai cấp công nhân:

+Giai cấp công nhần là giai cấp tiên tiến nhất: do yêu cầu khách quan của việc không ngừng đổi mới công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung thêm những công nhân có trình độ chuyên môn và học vấn ngày càng cao; môi trường lao động côngn ghiệp với kỹ thật ngày càng hiện đại mở mang trí tuệ cho giai câp công nhân; cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ đã cung cấp những tri thức chính trị-xã hội cần thiết để trở thành một giai cấp tiên tiến.

+Giai cấp công nhận có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền phong và có chính đảng của mình là Đảng cộng sản, do đó, có khả năng tổ chức, lãnh đạo các giai cấp tư sản vì lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động.

+Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để do bị áp bức bóc lột nặng nề dưới chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức bóc lột khác; đồng thời sứ mệnh lịch sử của họ chỉ giành được thắng lợi hoàn toàn khi xã hội thoát khỏi tình trạng áp bức, bất công. Do vậy, muốn tự giải phóng mình, giai cấp công nhân phải đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn xã hội.

+Giai cấp cồng nhân là giai cấp có tổ chức kỷ luật cao, do được tôi luyện trong môi trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến trước đây cũng như chống giai cấp tư sản ngày nay.

+Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế do địa vị kinh tê-xã hội của họ trên toàn thế giới giống nhau, họ có khả năng đoàn kết để thực hiện được mục tiêu chung: xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công để xâu dựng chủ nghĩa xã hội.

-Trong chủ nghĩa tư bản đã có mâu thuẫn cơ bản hình thành một cách khách quan gồm 2 mặt:

+Mặt kinh tế: là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

+Mặt chính trị-xã hội: là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.

-Cả 2 mặt mâu thuẫn cơ bản này không thể triệt để trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản.

Tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức. Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trí thức, nông dân... sẽ là lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ không thể là lực lượng lãnh đạo và tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì trí thức, nông dân không đại biểu cho một phương thức sản xuất riêng trong lịch sử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là cách mạng của giai cấp công nhân lãnh đạo để lật đổ giai cấp tư sản, để giải phóng giai cấp công nhân, đồng thời giải phóng cho cả nông dân, trí thức và nhân dân bị áp bức bóc lột...

Câu 2: Làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?

-Đàng cộng sản là nhân tố đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử:

+Đảng cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản bao gồm những phần tử ưu tú nhất, tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân.

+Đảng cộng sản ra đời đáp ứng đòi hỏi của phong trào công nhân và làm cho phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác.

+Đảng cộng sản là tổ chức bao gồm những người ưu tú tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, nắm được quy luật vận động phát triển khách quan của lịch sử, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ" hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"

+Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Nhờ có lý luận tiên phong, Đảng cộng sản đã vận dụng vào điều kiện cụ thể đề cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược, nhiệm vụ của qua trình cách mạng cũng như từng giai đoạn

Tập hợp, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, động viên giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện, nhằm biến chủ trương đường lối của Đảng thành hiện thực

+Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động: là người tổ chức, chỉ huy, bố trí cán bộ lãnh đạo quá trình cách mạng.

→Dưới sự lãnh đạo của ĐẢng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, tập trung được sức mạnh của giai cấp và dân tộc. Để thực hiện được vai trò của mình theo LêNin: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có lí luận tiên phong hướng dẫ mới làm tròn nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong.

-Đảng cộng sản Việt Nam:

+Đảng cộng sản Việt Nam ra đời(2-1930) là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác LêNin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân. Đảng cộng sản Việt nam ra đời đã tạo ra bước ngoặt trong phong trào cách mạng Việt Nam, chấm dứt giai đoạn khủng hoảng đường lối cách mạng.

+Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn và lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động nước ta thực hiện, đưa tới thắng lợi trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.

+Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình đi lên ch nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bó lột người, từng bước nâng cap đơi sống nhân dân...

+Đảng cộng sản Việt Nam đẫ đề xướng và lãnh đạo nhan dân ta thực hiện công cuộc đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và bước vào thời kì phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới đã và đang thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tình hình kinh tế-xã hội ổn định, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên.

→Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đại hội VIII đã nêu ra." Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở cả các cấp các ngành"(Văn kiện Đại hội VIII).

Câu 3: Trình bày khái niệm và nguyên nhân của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa?

Cách mạng xã hội được hiểu theo 2 nghĩa:

-Nghĩa rộng: là một quá trình cải tiến cách mạng toàn diện, triệt để lâu dài, bao gồm hai giai đoạn:

+Giai đoạn 1: bắt đầu từ khi giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình lãnh đạo nhân dân lao động dùng bạo lực đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+Giai đoạn 2: giai cấp công nhân sử dụng nhà nước của mình để làm công cụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Quá trình cải biến xã hội này chỉ kết thúc khi xã hội mới được tạo lập một cách vững chắc.

-Nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh chính trị, kết thúc bằng việc giai cấp công nhân giành được chính quền, thiết lập chuyên chính vô sản hoặc còn được hiểu là sự chuyển biến từ cách mạngdân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước thuộc địa sau khi giành độc lập.

Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa:

-Cũng như các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử, cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phát triển các mâu thuẫn và là con đường giải quyết mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản.

+Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

+Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức với giai cấp tư sản.

+Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa xuất hiện thêm những mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc.

-Những mâu thuẫn này phát triển đến mức gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là tất yếu nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó.

-Cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể diễn ra một cách tự phát mà là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chủ động, tạo ra tình thế chớp lấy thời cơ cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.

-Hiện nay, nhờ có cách mạng khoa học, công nghệ, chủ nghĩa tư bản ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ trong sản xuất đã tạo ra bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế, nó đã góp phần giúp chủ nghĩa tư bản có điều kiện điều chỉnh một số vấn đề xã hội, giúp chủ nghĩa tư bản tồn tại trong giới hạn của nó, cũng chính sự phát triển ở mức độ cao đó, chủ nghĩa tư bản cũng đồng thời đang tạo ra những tiền đề vật chất quan trọng, ngày càng chín muồi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó bộc lộ những mâu thuẫn vốn có của nó, nội tại của nó ngày càng sâu sắc hơn( Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển làm cho giai cấp công nhân tăng cả về số lượng, chất lượng-yếu tố quyết định đến sự tồn tại hay không tồn tại của chủ nghĩa tư bản; tệ nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt giàu nghèo...). Đây chính là những yếu tố khách quan phủ nhận chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Câu 4: Phân tích những nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa?

-Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng.

-Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân phải tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ thống trị của giai cấp bóc lột, giành chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là tiền đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động, mở đầu cho một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử.

+Dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội nhằm khẳng định và tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động tào tiền đề chính trị để đưa xã hội tới trạng thái mới.

+Nâng cao ý thức dân chủ và khả năng thực hiện dân chủ của nhân dân lao động, thúc đẩy họ tham gia đông đảo và có hiệu quả vào quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

-Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một qua trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới. Ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.

-Trên lĩnh vực khin tế: Đây là nội dung chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+Tiến hành xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu, phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại. Từng bước nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân lao động thực hiện công bằng xã hội.

+Xây dựng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là một qua trình phát triển kinh tế-xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn mà tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung với những bước đi vững chắc.

-Trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng: Giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, thực hiện sự cải biến căn bản trong đời sống tinh thần của xã hội theo xu hướng triệt để giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích nô lệ về mặt tinh thần. Làm cho thế giới quan Mác-LêNin và nhân sinh quan cộng sản chếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tạo điều kiện để nhân dân lao động hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hoá hướng tới xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bẳn sắc dân tộc.

Câu 5: Làm rõ tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân?

Sự liên minh công-nông-trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Đó là một khối liên minh tự nhiên bắt nguồn từ trong xã hội tư bản. Khi các giai cấp và tầng lớp xã hội đó cùng bị áp bức bóc lột nặng nề, tất yếu phải liên minh với nhau để có sức mạnh chống lại và lật đổ giai cấp thống trị, xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.

-Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền về tay công nhân và nhân dân lao động thì nhu cầu liên minh công-nông-tri thức do tính tất yếu khách quan mới. Đó là yêu cầu xây dựng một xã hội mới - vì lợi ích cơ bản, lâu dài và thiết thân của những lao động buộc họ phải liên minh với nhau.

+Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, sẽ không thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình nếu không liên kết được với các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động khác. Bởi vì sự nghiệp đó không chỉ cần đến sự ủng hộ của số đông mà còn cần đến sức mạnh của trí tuệ. Chỉ khi nào giai cấp công nhân giành được sự ủng hộ, sự đồng tâm hiệp lực với quyết tâm cao của nông dân và trí thức thì mới có thể hoàn thành được cuộc cách mạng toàn diện và triệt để nhất trong lịch sử.

+Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng chứng minh rằng giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công nông không dần dần nâng cao dân trí thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

+Liên minh công - nông - tri thức còn là tất yếu khách quan và ích lợi của nông dân và tri thức. Bản thân giai cấp nông dân và tâng lớp tri thức cũng tìm thấy ở giai cấp công nhân điều kiện quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện các nhu cầu giải phóng, dân chủ và phát triể của họ. Nông dân và trí thức là những lực lượng xã hội quan trọng, nhưng địa vị kinh tế - xã hội của họ không cho phép họ trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội và tự giải phóng mình, mà phải dựa vào sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Ở Việt Nam, ngay từ khi Đảng cộng sản ra đời, Hồ Chí Minh đã khẳng định: lực lượng cách mạng chủ chốt là công nông, nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng tri thức... Công - nông - trí thức cần phải đoàn kết thành một khối.

Về phương diện kinh tế - kỹ thuật: trong xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì bắt buộc phải "công nghiệp hoá, hiện đại hoá" để dùng công nghiệp, khoa học công nghệ hiện đại mà giúp đỡ, cải tạo công nghiệp, nông dân và nông thôn; do đó bắt buộc phải ắn công nghiệp với nông nghiệp và với khoa học công nghệ hiện đại trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật thống nhất của cả nước. Đây chính là sự liên kết của 3 chủ thể.

Đây là 3 lực lượng chính trị - xã hội cơ bản nhất đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp. Nếu tách rời nhau thì không thể ổn định và phát triển. Củng cố khối liên minh này được coi là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và giai cấp công nhân, nó là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân và của hệ thống chính trị.

Câu 6: Phân tích nội dung liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.

Có 3 nội dung cơ bản của liên minh. Đó là:

*)Thứ nhất: Liên minh trên lĩnh vực chính trị:

Mục tiêu của liên minh trên lĩnh vực này là giải quyết lợi ích chính trị lao động - nông trí, đó là, tiếp tục giải phóng công - nông - trí thức khỏi mọi áp bức, bất công, xác lập quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước cho 3 chủ thể nhằm thực hiện thành công mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

-Để thực hiện mục tiêu nêu trên vần:

+Thống nhất mục tiêu, lợi ích chính trị chung của công - nông - trí thức và toàn xã hội là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

+Tạo điều kiện để công - nông - trí thức tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân thông qua việc ứng cử, bầu cử, góp ý kiến vào việc xây dựng các chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước.

+Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền cho công - nông - trí thức hiểu rõ về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để có niềm tin, trách nhiệm với mục tiêu và con đường đó.

+Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là ở cấp cơ sở nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân.

+Động viên công - nông - trí thức tham gia vào việc giữ gìn và bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thông qua đó thực hiện lợi ích chính trị cho công - nông - trí thức.

+Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong khối liên minh.

*)Liên minh trên lĩnh vực kinh tế:

-Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong khối liên minh.

-Mục ti của liên minh trên lĩnh vực này là:"Kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế" của: công nhân, nông dân, trí thức và toàn bộ xã hội( Nhà nước đại diện). Thông qua các nội dung cơ bản sau đây:

+Xác định đúng những tiềm lực kinh tế và những nhu cầu kinh tế của công nhân( gắn với công nghiệp), của nông dân( gắn với nông nghiệp và nông thôn), của trí thức( gắn với khoa học và công nghệ) và của toàn xã hội( Nhà nước đại diện) trong điều kiện cụ thể. Thực hiện có hiệu quả việc liên kết" 4 nhà" trong phát triển các lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt chú trọng quan hệ Nhà nước với nông dân ở một số nước đi lên từ nông nghiệp. Qua đó, gắn công nghiệp - công nhân với nông nghiệp - nống dâ; gắn trí thức đem khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp, nông thôn, nông dân....

+Xác định đúng cơ cấu kinh tế trên phạm vi cả nước và phạm vi của nhành, địa phương, cơ sở sản xuất... nhằm tập trung( chú trọng) phát triển kinh tế trên cơ sở thế mạnh, lợi thế của từng vùng, miền, ngành, qua đó tạo điều kiện cho liên kết, hợp tác của 3 chủ thể.

+Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp - nông nghiệp - khoa học công nghệ; giữa quốc gia và quốc tế... nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống công, nông, trí thức và toàn bộ xã hội như: hội chợ, triển lãm,....

+Đa dạng hoá sở hữu, quản lí sử dụng các tư liệu sản xuất trong công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, trong toàn xã hội; từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức, bước đi phù hợp nhằm phát triển sản xuất nhanh và bền vững;( nhất la trong nông dân, nông nghiệp nông thôn; trong công nghiệp và dịch vụ.... liên quan nhiều hất đêns công - nông - trí thức).

*)Liên minh trên lĩnh vực văn hoá - xã hội:

-Mục tiêu của liên minh trên lĩnh vực này là nhằm xâu dựng một xã hội không chỉ dân giàu, nước mạnh mà còn công bằng, dân chủ, văn minh, có điều kiện đáp ứng tối đa nhu cầu văn hoá, tinh thần cho công - nông - trí thức và được phát triển toàn diện.

-Do đó, cần phải:

+Vừa khuyến khích công, nông, trí thức... làm giàu chính đáng, vừa tích cực xoá đói giảm nghèo - nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, nông thôn, miền núi, các dân tộc thiểu số.

+Đẩy mạnh việc nâng cao dân trí, văn hoá... cho nông dân, công nhân và nhân dân lao động, xoá mù chữ, phổ cập văn hoá phổ thông. Chăm sóc sức khoẻ nhân dân - đặc biệt là nông dân và công nhân. Chống các biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội.

+Thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là trong nông dân( sau những tổn thất của chiến tranh vệ quốc và những khó khăn...).

+Việc quy hoạch phát triển đô thị gắn với công nghiệp, khoa học công nghệ phải gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo,... Đây vừa là nội dung văn hoá - xã hội, vừa mang ý nghĩa kinh tế - chính trị sâu sắc và toàn diện của liên minh công - nông - trí thức trong xy dựng chủ nghĩa xã hội.

Câu 7: Trình bày tính tất yếu của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội?

-Thời kì quá độ:

+Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-LêNin quan niệm việc xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một việc làm lâu dài và phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp - chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản. Trong quá trình lịch sử đó, theo các ông, phải có một giai đoạn đặc biệt hay còn gọi là thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

+Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và lâu dài trên các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho xã hội mới trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa được thực hiện.

-Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

+Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử đối với tất cả các nước đi lên chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội không thể tự phát ra đời trong lòng chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa tư bản chỉ tạo tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội cũng không nảy sinh ngay lập tức sau khi giai cấp công nhân giành chính quyền mà là kết quả của quá trình đấu tranh, cải tạo và xây dựng lâu dài của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

+Chủ nghĩa xã hội( giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản) phát triển từ chủ nghĩa tư bản hoặc tiền tư bản. Do đó, nhiều tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại lâu dài trong xã hội mới. Hơn nữa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ khó khăn, phức tạp, chưa từng có trong lịch sử. Cho nên cần phải có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư của xã hội cũ và tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.

+Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu ra hai kiều quá độ lên chủ nghĩa xã hội: qúa độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản và quá độ gián tiếp từ những xã hội tiền tư bản. Nhưng dù trực tiếp hay gián tiếp đều phải trải qua thời kì quá độ. Do điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở mỗi nước khác nhau mà độ dài, ngắn của thời kì quá độ có khác nhau.

Câu 8: Làm rõ những đặc điểm và thực chất của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội?

-Đặc điểm của thời kì quá độ: Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại, đan xen giữa những nhân tố của xã hội mới và những tàn tích của xã hội cũ trên tát cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

+Về chính trị: Nhà nước của giai cấp vô sản được thiết lập, củng cố và không ngừng hoàn thiện nhằm thực hiện dân chủ cho nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, đập tan những âm mưu của các thế lực phản động.

+Về kinh tế: Thời kì này tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa còn có các thành phần kinh tế khác với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Trong đó kinh tế nhà nước, sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

+Về xã hội: cơ cấu xã hội có nhiều giai cấp, trong đó có những giai cấp lợi ích cơ bản chưa hoàn toàn phù hợp với nhau: thậm chí đối lập với nhau. Còn có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, giữa lao động trí óc và chân tay.

+Về văn hoá tinh thần: bên cạnh hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đang được hình thành, phát triển còn tồn tại những tàn dư của nền văn hoá cũ, hệ tư tưởng cũ lạc hậu

Sự tồn tại đan xen, đấu tranh giữa cái mới và cái cũ quy định thực chất của thời kì quá độ.

-Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: là thời kì đấu tranh quyết liệt giữa một bên là giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp lao động khác đã giành được chính quyền nhà nước đang phấn đấu đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một bên là giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, chúng có sự tiếp tay của các thế lực phản động quốc tế nuôi hi vọng giành lại" thên đường đã mất. Cuộc đấu tranh đó diễ ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và là cuộc đấu tranh lâu dài phức tạp.

Câu 9: Nêu những đặc trưng của xã hội - xã hội chủ nghĩa?

-Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp.

+Mỗi chế độ xã ội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kĩ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tính cách là một chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất - kĩ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa.

-Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

+C.Mác và Ph.Ăngghen có nhận định rằng: sau khi giành được chính quyền nhà nước," giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước...".

→Do vậy, chỉ đến xã hội xã hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ. Tới thời kì này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn tình trạng người bóc lột người.

-Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và kỉ luật lao động mới.

+Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hoá, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo ra điều kiện cho người lao động kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Thời kì này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất - kĩ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ cao, do vậy đòi hỏi một kỉ luật lao động chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội theo những quy định chung của luật pháp.

+C.Mác, Ph.Ăngghe, V.I.LêNin cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỉ luật và tự giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.

-Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.

+Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có những hạn chế nhất định, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là tất yếu. Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Ngoài phương thức phân phối theo lao động là phương thức cơ bản nhất, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông,... Đó là những công trình phúc lợi, phục vụ cho mọi nười trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất, là một nội dung quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.

-Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.

+Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.

+Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào cồng việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân.

+Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lí và trong thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị của dân tộc, nâng chúng lên ngang tầm với yêu cầu của thời đại.

-Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã họi đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

+Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng với sự phát trển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc xoá bỏ đối kháng giai cấp, xoá bỏ bóc lột, con người có điều kiện phát triển tài năng các nhân, amgn tài năng đó đóng góp cho xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên, do giới hạn phát triển của những điều kiện khách quan, sự bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới mức hoàn thiện như trong giai đoạn cao xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Câu 10: Trình bày những đặc trưng và chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa?

-Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những đặc trưng cơ bản:

+Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

+Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân, nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện sự trấn áp những kẻ chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nàh kinh điển của chủ nghĩa Mác - LêNin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã họi mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

+Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và theo V.I.Lênin, con đường vận đông, phát triển của nó là: ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

+Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt," nhà nước không còng nguyên nghĩa", là" nửa nhà nước". Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại cảu nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nha nước" tự diệt vong". Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.

→Từ những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lí xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.

-Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội.

+Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi người, do đó, bạo lực, trấn áp cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đều cho rằng, với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của một cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đi tới giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển toàn diện con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo là, phải sử dụng quyền lực nhà nước" để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất". Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.

-Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; quản lý văn hoá - xã hội, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục - đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khoẻ nhân dân... Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, ôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.

Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga XôViết, V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.

+Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước vô sản là phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản phẩm, củng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động.

+Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả ăng vân dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hoá thông qua nhưng tổ chức thích hợp.

Câu 11: Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định: đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Dự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một nền dâ chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.

Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trung cơ bản sau đây:

-Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã họi chủ nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đang của nó. Nhà nước bảo đảm thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân. Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

-Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình xã hội hoá ngày càng cao của sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động. Đây là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình cải tạo và xây dựng lâu dài kể từ khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến khi chủ nghĩa xã hội thực sự trưởng thành.

-Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội( do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện), nền dân chủ xã hội có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước( bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật,...). mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử va đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp.

-Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.

Câu 12: Vì sao phải xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa?

Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những căn cứ sau đây:

-Thứ nhất, tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội xã hội chủ nghĩa.

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định phương thức sản xuất tinh thần, do đó khi phương thức sản xuất cũ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bị xoá bỏ, phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa ra đời thì việc xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất của ý thức xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới phù hợp với sự thay đổi về chất đã tạo ra với việc xác lập quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

-Thứ hai, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ đề lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu dài của quá trình xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hoá, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.

-Thứ ba, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần chúng.

Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã chỉ ra ba kẻ thù của chủ nghĩa xã hội là bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chũ và nạn hối lộ. Đồng thời, Người cũng khẳng định chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải có văn hoá, nâng cao trình độ văn hoá của quần chúng nhân dân thì mới có thể chiến thắng được những kẻ thù.

-Thứ tư, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, bởi vì văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Văn hoá vừa là kết quả phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa tạo những tiền dề quan trọng nâng cao phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân dân lao động, tạo cơ sở nâng cao năng suất lao động... Văn hoá xã hội chủ nghĩa với nền tảng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện tinh thần của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và là động lực, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Câu 13: Phân tích những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-LêNin trong giải quyết vấn đề dân tộc?

Các dân tộc có quyền bình đẳng:

-Bình đẳng dân tộc là quyền của mỗi dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ văn hoá cao hay thấp, không phân biệt màu da ahy chủng tộc. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được nắm giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị văn hoá.

-Quyền bình đẳng của các dân tộc phải được ghi vào công pháp quốc tế và luật pháp quốc gia, và quan trọng hơn, nó phải được thực hiện thực tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột các dân tộc khác.

-Trong tình hình hiện nay, bình đẳng giữa các dân tộc đặt lên hàng đầu là việc xoá bỏ tình trạng áp bức giai cấp để trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc, là tạo điều kiện để khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển trên các lĩnh vực giữa các dân tộc, là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hợp tác, giao lưu giữa các dân tộc.

Các dân tộc có quyền tự quyết:

-Mỗi dân tộc đều cs quyền tự quyết, quyền tự chủ đối với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm: quyết tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc.

-Quyền tự quyết bao gồm quyền phân lập thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, hoặc tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.

-Tự quyết là quyền của các dân tộc nhưng khi thực hiện phải đảm bảo những nguyên tắc sau:" bình đẳng, cùng có lợi ích, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đa số nhân dân lao động, các dân tộc vì mục tiêu phát triển hoà bình, ổn định, phồn vinh và hữu nghị".

-Quyền tự quyết phải được đặt trong những điều kiện cụ thể, xuất phát từ thực tiễn của mỗi quốc gia dân tộc để thực hiện. Quyền tự quyết không đồng nhất với "quyền" của các tộc người thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc gia độc lập.

Đoàn kết công nhân các dân tộc:

-Để thực hiện có hiệu quả quyền ình đẳng và tự quyết của các dân tộc cần phải đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng nòng cốt của phong trào đấu tranh cho tiến bộ, hoà bình và phát triển. Với bản chất quốc tế và địa vị kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của các dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân các nước, là lực lượng trung tâm của phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, hoà bình và phồn vinh của nhân loại.

Câu 14: Trình bày lý do tôn giáo còn tồn tại trong chủ nghĩa xã hội?

-Thứ nhất: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại và phải xác định tôn giáo sẽ còn tồn tại lâu dài. Trên thực tế, những tôn giáo lớn của thế giới như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo đã tồn tại trên dưới 2000 năm mà đến nay vẫn có rất nhiều tín đồ. Nhưng, trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo tồn tại với tư cách là tàn tích cũ chứ không phải với tư cách nằm trong kiến trúc thượng tầng của xã hội mới.

-Thứ hai: dưới chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, con người trong những chừng mực nhất định vẫn còn bị những lực lượng tự phát của tự nhiên chi phối. Các hiện tượng bão lụt, diễn biến thất thường của các hiện tượng tự nhiên, biến đổi của môi trường sinh thái, khoa học kỹ thuật trong phát triển nhưng chưa lý giải được hết những hiện tượng tự nhiên cũng như một số hiện tượng trong xã hội( bệnh tật, rủi ro) con người nhiều khi cũng chưa lí giải được.

-Thứ ba: chủ nghĩa xã hội là một xã hội cộng sản chủ nghĩa chưa hoàn chỉnh. Hơn nữa, khi thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, chủ nghĩa xã hội đã làm này sinh tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tôn giáo tồn tại.

-Thứ tư: tôn giáo mang tính quần chúng, tính nhân đạo, nhân văn hướng thiện ở một mức độ nào đó nó đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của một bộ phận nhân dân. Hơn nữa con người sáng tạo ra tôn giáo rồi phát triển tôn giáo của mình trong quá trình lịch sử, chính sự đổi mới và phát triển đó đã làm cho tôn giáo phù hợp và đáp ứng yêu cầu của thời đại.

_Thứ năm: xét về bản chất, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ, lạc hậu. Do vậy, nó ăn sâu vào tình cảm, tâm lý của con người từ thế hệ này sang thế hệ khác và không dễ dàng mất đi khi tồn tại xã hội mà nó phản ánh đã có những thay đổi căn bản. Mặt khác, các thế lực phản động trong và ngoài nước vẫn tiếp tục lợi dụng tôn giáo vào mục đích và âm mưu chính trị phản động.

Câu 15: Phân tích các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-LêNin trong giải quyết vấn đề tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội?

Chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng chủ đạo của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng tôn giáo khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường đi tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những khía cạnh sau:

-Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, tín ngưỡng phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Hướng con người vào việc xây dựng xã hội tốt đẹp, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện chia rẽ vì sự khác nhau giữa các tôn giáo. Tuyên truyền, giáo dục thế giới quan duy vật khoa học một cách thường xuyên cho nhân dân.

-Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi người ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo mà mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào. Việc vào đạo, chyển đạo hay bỏ đạo theo quy định của pháp luật hiện hành là quyền tự do của mỗi người. Mọi người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về nghĩa vụ, quyền lợi; không có sự phân biệt, đối xử vì lí do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoat động đi ngược lại lợi ích của nhân dân.

-Phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Việc khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực này phải gắn với quá trình cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc của nhân dân.

-Tôn giáo và tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, do đó, phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, tuyệt đối không xâm phạm đến tình cảm tôn giáo của công dân.

-Thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết những người theo hoạc không theo tôn giáo, những người theo các tôn giáo khác nhau nhằm thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

-Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo để có những hình thức và biện pháp giải quyết các mâu thuẫn một cách hợp lí. Mặt tư tưởng thể hiện nhu cầu tín ngưỡng trong tôn giáo. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của những phần tử đội lốt tôn giáo.

Câu 16: Trình bày những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực?

-Chế độ Xã hội chủ nghĩa từng bước đưa nhân dân lao động làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới

-Những thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội

Xây dựng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác thành liên bang hùng cường

Khi mới bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Liên Xô chỉ bằng 1/22 của MỸ, chỉ sau một thời gian Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới. 1985 thu nhập quốc dân bằng 66% của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ.

Trong kinh tế: Phát triển xã hội công bằng, dân chủ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (kinh sách kinh tế mới của Lênin), tạo điều kiện phát triển kinh tế khoa học giao lưu văn hoá kinh tế giữa các nước được mở rộng.

-Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

-Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, bảo vệ hoà bình thế giới.

-Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của chủ nghĩa xã hội đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, các phúc lợi xã hội... Với sức ép của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước phương Tây đã phải nhượng bộ và chấp nhận thực tế rất nhiều yêu sách đó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro