Đề cương sửa đổi pháp lệnh thú y

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU PHÁP LỆNH THÚ Y

Thực hiện Nghị quyết số 12/2002/ QH11 của Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ hai về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002- 2007) và năm 2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao chủ trì soạn thảo Dự án Pháp lệnh thú y (sửa đổi).

Để phục vụ cho việc soạn thảo Pháp lệnh thú y bảo đảm tiến độ, xây dựng dự thảo Pháp lệnh thú y có chất lượng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh thú y 1993; đã tổ chức nghiên cứu các quy định về thú y của Tổ chức thú y quốc tế và pháp luật về thú y của một số nước trên thế giới và trong khu vực; tập hợp và nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật mà nhà nước ban hành trong những năm qua; tổ chức các hội nghị lấy ý kiến tham gia của các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Thú y của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nay là 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học để xin ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý trong lĩnh vực thú y và các đối tượng có liên quan đến hoạt động về thú y.

Pháp lệnh thú y đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2004 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Pháp lệnh này thay thế Pháp lệnh thú y ngày 04 tháng 02 năm 1993.

I. SỰ CẦN THIẾT , MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC SỬA ĐỔI PHÁP LỆNH THÚ Y

1.1. Sự cần thiết

Pháp lệnh thú y ban hành năm 1993 trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, có chọn lọc và kế thừa thực tiễn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về thú y đã được Nhà nước ban hành từ những năm 1954- 1991; nội dung quy định của Pháp lệnh năm 1993 đã thể hiện được phần nào đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm 1990, đáp ứng được bước đầu tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới.

Nội dung của Pháp lệnh thú y năm 1993 về cơ bản đã kết hợp được giữa yêu cầu hoạt động về chuyên môn, nghiệp vụ với các biện pháp quản lý nhà nước về thú y và đã quy định tương đối đầy đủ về: phòng, chống dịch bệnh cho động vật; kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y động vật, sản phẩm động vật; quản lý thuốc và giống vi sinh vật dùng trong thú y, đồng thời đã hình thành cơ bản khung pháp lý để quản lý các hoạt động có liên quan đến lĩnh vực thú y.

Pháp lệnh thú y năm 1993 đã góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đóng góp tích cực trong việc lập lại trật tự trong sản xuất, kinh doanh thuốc thú y, trong giết mổ động vật và góp phần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người, nâng cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh và mở rộng quan hệ quốc tế trong các hoạt động có liên quan đến thú y.

Sau hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh thú y năm 1993 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế chủ yếu sau đây:

1. Thực hiện chủ trương chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi hàng hoá để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; các cơ sở, trang trại chăn nuôi tập trung ngày càng phát triển về số lượng và quy mô đòi hỏi hệ thống pháp luật về thú y nói chung và Pháp lệnh thú y nói riêng phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong các hoạt động về thú y ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2. Việc phân công trách nhiệm quản lý về thú y giữa các ngành, các cấp thiếu cụ thể đã dẫn đến sự chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ trong việc thực hiện Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật về thú y. Vấn đề này được thể hiện ở một số điểm điển hình, cụ thể sau đây:

a. Đối với sản phẩm thuỷ, hải sản tiêu dùng trong nước, nhất là ở các chợ chưa được kiểm tra chất lượng để bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng;

b. Việc sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y trong chăn nuôi, trong nuôi trồng thuỷ sản ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm động vật. Nhưng hiện nay việc kiểm tra vệ sinh thú y đối với thức ăn chăn nuôi, việc quản lý sử dụng thuốc thú y còn nhiều bất cập. Trong thời đại công nghiệp và tiến bộ xã hội, Luật thú y quốc tế đặt ra yêu cầu phải kiểm tra vệ sinh thú y từ giai đoạn sản xuất (từ trang trại) đến khi sử dụng thực phẩm (đến bàn ăn). Đây là vấn đề đòi hỏi nhà nước phải có quy định về mặt pháp luật để quản lý chặt chẽ hơn, nhất là quá trình hội nhập quốc tế hiện nay;

c. Việc chăn nuôi, giết mổ động vật, chế biến sản phẩm động vật còn chưa được kiểm soát chặt chẽ gây mất vệ sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường;

d. Việc tổ chức xây dựng và quản lý lò giết mổ gia súc, gia cầm tập trung chưa giao cho một ngành nào, cấp nào chịu trách nhiệm và tổ chức thực hiện.

Những tồn tại và bất cập trên cần được nghiên cứu kỹ và được quy định trong Pháp lệnh thú y (sửa đổi) để làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về thú y, quy định rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp cụ thể và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác thú y.

3. Hệ thống thú y được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đóng góp đáng kể trong công tác phòng chống dịch bệnh, phát triển chăn nuôi hàng hoá và hội nhập quốc tế trong thương mại động vật và sản phẩm động vật. Pháp lệnh thú y cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để làm cơ sở cho việc đổi mới và kiện toàn hệ thống thú y đặc biệt là hệ thống tác nghiệp nhằm góp phần thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả. Những hệ thống tác nghiệp cụ thể là:

a. Hệ thống thông tin, giám sát dịch bệnh;

b. Hệ thống theo dõi, chẩn đoán dịch bệnh;

c. Hệ thống kiểm soát chất lượng thuốc thú y, vệ sinh thú y trong thức ăn chăn nuôi;

d. Hệ thống kiểm soát vận chuyển, kinh doanh động vật và sản phẩm động vật;

đ. Củng cố mạng lưới thú y ở tuyến xã, phường trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi, giám sát, khống chế, thanh toán dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần tích cực trong việc xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật theo yêu cầu giao lưu thương mại với các nước.

4. Pháp lệnh thú y năm 1993 quy định về công tác phòng, chống dịch bệnh còn mang tính bị động, cần chuyển sang chủ động thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh bằng các Chương trình khống chế các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, xây dựng các vùng an toàn dịch bệnh để xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật theo tiêu chuẩn quốc tế.....với sự đầu tư thích đáng của nhà nước và sự đóng góp của các đối tượng được trực tiếp hưởng lợi từ các chương trình trên.

5. Quy định quốc tế về phòng chống dịch bệnh, an toàn dịch bệnh, quản lý và sử dụng thuốc thú y, kiểm tra vệ sinh thú y và một số yêu cầu khác trong hoạt động thú y của nước ta chưa được quy định hoặc chưa quy định đầy đủ, đồng bộ trong Pháp lệnh thú y năm 1993 đã hạn chế quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế, hạn chế trong việc xúc tiến thương mại.

6. Những năm gần đây nhà nước đã ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi nhiều luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực thú y như: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Hải quan, Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh phí và lệ phí, Pháp lệnh chất lượng hàng hoá.....Do đó, Pháp lệnh thú y cần phải được sửa đổi cho phù hợp, thống nhất, đồng bộ và có tính khả thi cao với các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành.

Từ những lý do trên đây, việc ban hành Pháp lệnh thú y là rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và tăng cường quản lý nhà nước về công tác thú y đồng thời phục vụ cho quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.

1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc sửa đổi Pháp lệnh thú y

- Pháp lệnh thú y (sửa đổi) cơ bản thể chế hoá được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thú y, đáp ứng được yêu cầu tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động thú y trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết về kế hoạch tầm vĩ mô của nhà nước.

- Pháp lệnh thú y (sửa đổi) góp phần hình thành ngành chăn nuôi hàng hoá, tạo điều kiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ liên quan đến thú y cho mọi thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, tăng cường nguồn lực cho ngành thú y, như: việc xây dựng vùng an toàn dịch bệnh; kiểm dịch động vật, kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y; bỏ các giấy phép con và các yêu cầu khác nhằm tạo thông thoáng cho sản xuất, lưu thông, tạo điều kiện mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại.

- Các quy định của Pháp lệnh thú y (sửa đổi) phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan như: Luật bảo vệ môi trường, Luật doanh nghiệp, Luật Thuỷ sản, Luật Hải quan, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm, Pháp lệnh quảng cáo ..... tạo sự thống nhất đồng bộ và có tính khả thi cao, khắc phục được những mâu thuẫn, chồng chéo trước đây.

- Pháp lệnh thú y (sửa đổi) đã có những quy định phù hợp với quy định về pháp luật của Tổ chức dịch tễ thú y quốc tế (O.I.E), như các quy định về: ban hành " Danh mục bệnh nguy hiểm của động vật"; phòng, chống dịch bệnh; các trạm, chốt kiểm dịch cửa khẩu ở nước nhập khẩu và áp dụng các biện pháp kiểm soát cửa khẩu.

- Pháp lệnh cũng đã có những quy định phù hợp với quy định WTO, AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh phòng dịch và kiểm dịch động vật, thực vật (SPS), Hiệp định về rào cản thương mại (TBT).... như các quy định về: nội dung phòng, chống dịch bệnh, các biện pháp để bảo vệ sức khoẻ cho người và động vật; động vật, sản phẩm động vật nhập khẩu phải được kiểm dịch và có giấy chứng nhận kiểm dịch; động vật, sản phẩm động vật xuất khẩu được kiểm dịch theo yêu cầu của nước nhập khẩu.

- Pháp lệnh cũng đã có những quy định phù hợp với quy định của ASEAN về xây dựng và công nhận các vùng an toàn dịch bệnh trong các nước thành viên, về "Thực hành sản xuất tốt"(GMP: Good Manufacturing Practices) trong sản xuất thuốc thú y, vắc- xin.

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LỆNH

1. Pháp lệnh thú y được xây dựng phải thể chế hoá được các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực thú y, nhằm góp phần:'' Phát triển chăn nuôi, ... đầu tư cải tạo đàn giống, Tăng cường công tác thú y ; chế biến thức ăn chăn nuôi; ..." (trích Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001- 2005 của BCH Trung ương Đảng Khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX); "... khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang trại với quy mô phù hợp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, an toàn dịch bệnh. Nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi có trang bị hiện đại đạt yêu cầu chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước ưu tiên đầu tư và có chính sách khuyến khích áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm..." (trích Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khoá IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001- 2010).

2. Quán triệt quan điểm và bảo vệ động vật, bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về thú y; nâng cao hiệu quả công tác phòng chống và ngăn chặn dịch bệnh lây lan mang tính thụ động được chuyển thành thế chủ động mang tính tích cực hơn để nâng cao hiệu quả phòng bệnh, khống chế và thanh toán dịch bệnh.

3. Bảo đảm kế thừa những quy phạm pháp luật hiện hành có tính khả thi, còn phù hợp và được thực tiễn chấp nhận; bổ sung những quy định mới để đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước; khắc phục những bất cập trước đây; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam mới được ban hành.

4. Quy định cụ thể và rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyển trong lĩnh vực thú y và tạo thuận lợi cho các đối tượng hoạt động có liên quan đến thú y.

5. Phù hợp với các điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước hiện nay và những năm tới đồng thời phù hợp với yêu cầu tiến trình hội nhập của nước ta với các nước trong khu vực và quốc tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết tầm vĩ mô của Nhà nước.

III. BỐ CỤC VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA PHÁP LỆNH THÚ Y

1. Phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh

Để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, cũng như tính khả thi, Pháp lệnh Thú y quy định một số vấn đề chính sau:

- Phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật, chống dịch bệnh cho động vật;

- Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật;

- Kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y;

- Quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y;

- Hành nghề thú y.

2. Bố cục của Pháp lệnh

Pháp lệnh thú y (sửa đổi) vẫn có tên gọi là "Pháp lệnh thú y", bao gồm 7 chương và 58 điều.

3. Những nội dung chính của Pháp lệnh

3.1.Chương I. Những quy định chung, gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8).

Nội dung chính của chương I, quy định những vấn đề chung nhất của hoạt động thú y, cụ thể: phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật, chống dịch bệnh động vật; kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; hành nghề thú y (Điều 1).

Trong chương này còn quy định: nguyên tắc hoạt động thú y; chính sách của Nhà nước về thú y; trách nhiệm quản lý nhà nước về thú y; những hành vi bị nghiêm cấm ....Đặc biệt Pháp lệnh thú y (sửa đổi) đã bổ sung và giải thích đầy đủ, rõ ràng 30 từ ngữ, trong đó có một số từ ngữ mới như: vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật; dịch bệnh động vật; vùng có dịch; danh mục các bệnh phải công bố dịch (Danh mục A); danh mục các bệnh nguy hiểm của động vật (Danh mục B); vùng bị dịch uy hiếp; đối tượng kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; đối tượng kiểm soát giết mổ; các biện pháp phòng bệnh bắt buộc....So với Pháp lệnh thú y năm 1993, chỉ giải thích 6 từ ngữ, nay đã giải thích tăng thêm 24 từ ngữ mới để các đối tượng hiểu rõ ràng hơn.

Một điểm mới của Pháp lệnh thú y mới được ban hành là: không quy định hẳn một chương riêng "Quản lý nhà nước về công tác thú y" như Pháp lệnh thú y năm 1993. Những nội dung về quản lý Nhà nước trong công tác thú y đã được quy định tại các điều cụ thể trong Pháp lệnh: Trách nhiệm quản lý nhà nước về thú y của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (Điều 6); trách nhiệm các cơ quan nhà nước trong việc phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh cho động vật (Điều 10); trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh cho động vật (Điều 11); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật (Điều 25); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giết mổ động vật (Điều 34); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kiểm tra vệ sinh thú y (Điều 37); trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong quản lý thuốc thú y, vi sinh vật, chế phẩm sinh học, hoá chất dùng trong thú y (Điều 51).

3.2. Chương II. Phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh cho động vật, gồm 14 Điều (từ Điều 9 đến Điều 22). Quy định về điều kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi, xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh nhằm tăng tính chủ động trong việc khống chế, thanh toán những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và phù hợp với quy định của các nước trong khu vực và quốc tế trong xuất khẩu, nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật. Quy định cụ thể, rõ hơn về trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đối tượng có hoạt động liên quan trong việc thực hiện áp dụng các biện pháp khi phát hiện dịch bệnh; thẩm quyền, điều kiện công bố và huỷ bỏ công bố dịch, vùng bị dịch uy hiếp khi có dịch bệnh nghiêm trọng.

Đặc biệt, trong chương II có quy định một điều mới về Quỹ phòng, chống dịch bệnh cho động vật (Điều 22). Quy định như vậy là nhằm tạo điều kiện cho ngành thú y chủ động trong việc phòng, chống dịch, dập tắt dịch nhanh chóng khi có dịch xẩy ra và khắc phục hậu quả sau dịch. Quỹ phòng, chống dịch bệnh cho động vật gồm hiện vật và tiền, được sử dụng cho ba mục đích là: phòng, chống dịch bệnh cho động vật; dập tắt dịch bệnh động vật; khắc phục hậu quả dịch bệnh động vật. Quỹ phòng, chống dịch bệnh cho động vật được thành lập ở trung ương và cấp tỉnh. Việc lập, chế độ quản lý, sử dụng quỹ phòng, chống dịch bệnh cho động vật do Chính phủ quy định.

3.3. Chương III. Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ; kiểm tra vệ sinh thú y, gồm 15 điều (từ Điều 23 đến Điều 37). Quy định về những nguyên tắc, nội dung và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y.

Tên của Chương III đã được thay đổi cho phù hợp với nội dung và được chia làm 3 mục:

Mục 1. Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật;

Mục 2. Kiểm soát giết mổ động vật;

Mục 3. Kiểm tra vệ sinh thú y.

Một số nội dung mới được quy định trong chương này:

1. Có một điều mới quy định về kiểm dịch động vật tham gia hội chợ, triển lãm, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật; sản phẩm động vật tham gia hội chợ, triển lãm (Điều 30);

2. Động vật, sản phẩm động vật khi vận chuyển với số lượng, khối lượng lớn ra khỏi huyện phải được kiểm dịch một lần tại nơi xuất phát (khoản 1 Điều 23);

3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quy hoạch địa điểm xây dựng khu cách ly kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật và chỉ đạo các cơ quan Hải quan, Thương mại, Giao thông vận tải, Công an có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về thú y thực hiện việc kiểm dịch động vật, sẩm phẩm động vật trong phạm vi địa phương (khoản 3 Điều 25);

4. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật phải chấp hành các quy định về kiểm tra vệ sinh thú y; trả phí và lệ phí kiểm tra vệ sinh thú y theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.

3.4. Chương IV. Quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y, gồm 14 điều (từ Điều 38 đến Điều 51). Quy định về: điều kiện sản xuất, gia công, san chia thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; điều kiện kinh doanh thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu thuốc thú y; điều kiện kiểm nghiệm, thử nghiệm, khảo nghiệm và kiểm định thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; quy định về nhãn thuốc thú y; công bố chất lượng thuốc thú y; và những trường hợp và hình thức xử lý thuốc thú y.... để các đối tượng có hoạt động liên quan về thú y biết rõ và thực hiện nghiêm chỉnh đối với từng trường hợp cụ thể.

Trong Pháp lệnh thú y năm 1993, tên của chương này là "Thuốc thú y". Pháp lệnh thú y (sửa đổi) lấy tên mới là "quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y" để nhấn mạnh việc quản lý đầy đủ các nội dung trên theo yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

3.5. Chương V. Hành nghề thú y, gồm 3 điều (từ Điều 52 đến Điều 54). Đây là một chương mới so với Pháp lệnh thú y năm 1993. Quy định về: phạm vi hành nghề thú y; điều kiện đối với người hành nghề thú y; thẩm quyền, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề thú y.

- Phạm vi hành nghề thú y bao gồm: tiêm phòng, xét nghiệm, chẩn đoán bệnh, kê đơn, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ động vật; phẫu thuật động vật; sản xuất thuốc thú y, chế phẩm sinh học,vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; kinh doanh thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; kiểm nghiệm, khảo nghiệm, thử nghiệm thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; các hoạt động tư vấn dịch vụ khác có liên quan đến thú y.

- Về điều kiện để hành nghề thú y đối với cá nhân: có bằng cấp phù hợp với chuyên môn hành nghề; có chứng chỉ hành nghề do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về thú y cấp; có phương tiện, trang thiết bị, dụng cụ thú y phù hợp với hình thức đăng ký hành nghề; có đủ sức khoẻ để hành nghề và có đạo đức nghề nghiệp.

- Về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề thú y:

+ Cơ quan quản lý nhà nước về thú y thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản có trách nhiệm kiểm tra điều kiện và cấp chứng chỉ hành nghề cho các cá nhân hành nghề thú y trong việc sản xuất thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú ý; kinh doanh thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; kiểm nghiệm, khảo nghiệm, thử nghiệm thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y.

+ Cơ quan quản lý nhà nước về thú y cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra điều kiện và cấp chứng chỉ hành nghề thú y cho cá nhân hành nghề thú y trong việc tiêm phòng, xét nghiệm, chuẩn đoán bệnh, kê đơn, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ động vật; phẫu thuật động vật; kinh doanh thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y; các hoạt động tư vấn, dịch vụ khác có liên quan đến thú y.

- Hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề thú y bao gồm:

+ Đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề thú y;

+ Bản sao bằng cấp, giấy chứng nhận trình độ chuyên môn;

+ Sơ yếu lý lịch;

+ Giấy chứng nhận sức khoẻ.

Hồ sơ này được gửi đến cơ quan thú y có thẩm quyền.

3.6.Chương VI. Thanh tra, giải quyết tranh chấp, gồm 2 điều ( từ Điều 55 đến Điều 56).

Điều 55, quy định thanh tra thú y là thanh tra chuyên ngành về thú y. Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành về thú y theo quy định của pháp luật về thanh tra.

Điều 56, quy định tranh chấp về thú y được giải quyết theo quy định của pháp luật.

3.7. Chương VII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều ( từ Điều 57 đến Điều 58).

Điều 57, quy định về hiệu lực thi hành.

Điều 58, quy định về hướng dẫn thi hành. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.

IV. MỘT SỐ VIỆC CẦN TRIỂN KHAI ĐỂ THỰC HIỆN PHÁP LỆNH THÚ Y

Pháp lệnh thú y đựợc thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Để Pháp lệnh được thực hiện tốt trong cuộc sống, trước mắt cần tập trung một số công việc sau đây:

1. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Pháp lệnh

Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Pháp lệnh cho tất cả đối tượng có liên quan, bao gồm các bộ; cơ quan ngang bộ; cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp; các Tổng công ty; Công ty và doanh nghiệp nhà nước; đến tận cán bộ quản lý và người lao động có hoạt động liên quan trong lĩnh vực thú y về những nội dung quy định trong Pháp lệnh, nhất là những nội dung quy định mới so với Pháp lệnh thú y năm 1993. Đặc biệt, cần quán triệt nội dung quy định để tránh hiểu sai, hiểu lầm về những quy định cụ thể trong Pháp lệnh, tạo sự thống nhất chung về nhận thức giữa đối tượng thực hiện, tuân thủ pháp luật với người thực hiện áp dụng pháp luật theo thẩm quyền;

2. Xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh

Sau khi Pháp lệnh thú y được ban hành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục chỉ đạo Cục Thú y chủ trì với các đơn vị trong và ngoài Bộ có liên quan xây dựng các văn bản cụ thể mà trong Pháp lệnh thú y quy định, trong đó có những nội dung quan trọng như:

- Nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh thú y;

- Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y;

- Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành về thú y;

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về ban hành các danh mục, các văn bản hướng dẫn về kỹ thuật.... như đã quy định trong Pháp lệnh;

- Thông tư và Thông tư liên tịch với các bộ, ngành để hướng dẫn các lĩnh vực cụ thể trong hoạt động thú y.

3. Tổ chức rà soát lại toàn bộ các văn bản có liên quan để phát hiện những văn bản không còn phù hợp cần bãi bỏ; các văn bản cần sửa đổi, bổ sung; những văn bản cần được xây dựng mới để đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh kế hoạch xây dựng vào 6 tháng cuối năm 2004 hoặc kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ năm 2005.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Thú y ) và các cơ quan hữu quan thuộc Bộ cần bảo đảm tốt hơn về kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất để bảo đảm cho công tác quản lý và phát triển thú y.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro