De cuong triet hoc Mac Lenin

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

<P align=center _mce_style="text-align: center; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Đề cương triết họcMác Lênin</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 1: Triết học là gì? Đối tượng của triết học là gì? Hãy nêu vấn đề cơ bản của triết học và giải thích vì sao đây được coi là vấn đề cơ bản của triết học?</B></P>

<P _mce_style="line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">1. Khái niệm triết học</B><BR>Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy.</P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            <B>2. Đối tượng nghiên cứu của triết học</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người được, nó nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này coi <I>triết học là khoa học của các khoa học .</I>Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu và nó ảnh hưởng to lớn đối vơi sự lịch sử phát triển của các khoa học.</P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Thời trung cổ, ở Tây âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học kinh viện, phụ thuộc vào thần học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho Kinh thánh.</P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phục hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, các khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập so với triết học. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII - XVIII như chủ nghĩa duy vật của Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, Điđrô, Xpinôza, v.v... trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo làm xuất hiện tư duy siêu hình. Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen.</P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Điều kiện kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác, đoạn tuyệt với quan niệm triết học "khoa học của các khoa học". Triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu các qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Triết học phương Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình, nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Những đặc điểm cơ bản của triết học Tư sản hiện đại:</P>

<P class=MsoBodyTextIndent _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Tiếp tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm;</I></P>

<P class=MsoBodyTextIndent _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Xa rời phép biện chứng;</I></P>

<P class=MsoBodyTextIndent _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức và lôgíc học;</I></P>

<P class=MsoBodyTextIndent _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">- <I>Triết học tư sản hiện đại đã đặt ra những vấn đề cấp bách của triết học hiện đại. Nhất là vấn đề về mối quan hệ giữa triết học và khoa học và tính chất chuyên ngành trong triết học. Nhìn chung học chưa giải quyết một cách triệt để của một số vấn đề cấp bách đó. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B>3. Vấn đề cơ bản của triết học</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Trong tác phẩm "Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", Ăngghen đã viết: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại". Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Mặt thứ nhất</I> trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào? <I>Mặt thứ hai</I> trả lời câu hỏi, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học bởi vì : </B></P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">, vật chất và ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó cũng là nội dung cơ bản nhất được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn để phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học, giữa triết học và khoa học. </P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế giới quan và phương pháp luận của triết học.</P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Câu 2: Thế nào là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm: các hình thức của chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học?</I></B></P>

<P class=MsoBodyTextIndent2 _mce_style="line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">1. Chủ nghĩa duy vật </B>Là 1 trường phái triết học quan niệm vật chấtt có trước, ý thức có sau và vật chất quyết định ý thứcCho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hính thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Chủ nghĩa duy vật chất phác</B>  là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại.   Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này   trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ chất phác. Tuy còn nhiều    hạn chế nhưng   chủ nghĩa duy vật cổ đại    về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên giải  thích giới tự nhiên<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Chủ nghĩa duy vật siêu hình</B>: là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ 15 và 18 và đỉnh cao là thế kỷ 17 -18. Đay là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo lên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo điển hình là thời kỳ chuyển từ đêm trường trung cổ sang thời kỳ phục hưng.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Chủ nghĩa duy vật biện chứng</B> là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật do C.Mác và F.ăngghen xây dựng vào những năm 40 thế kỷ 19, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó và sử dụng khá triệt để thành tực khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục mọi hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.<B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">2. Chủ nghĩa duy tâm</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 0in 0in 0pt;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">CHỦ NGHĨA DUY TÂM CHỦ QUAN</B><STRONG> </STRONG>: khuynh hướng của triết học duy tâm phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, coi nó là một cái gì hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quyết định. Cơ sở nhận thức luận của CNDTCQ là tuyệt đối hoá vai trò tích cực của chủ thể trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Những người theo CNDTCQ cho rằng thế giới bên ngoài (hiện thực) chỉ là cảm giác, tri giác, biểu tượng, ý thức của cá nhân, của chủ thể và không tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể. CNDTCQ đẩy tới giới hạn cuối cùng sẽ dẫn tới thuyết duy ngã. Các đại diện cổ điển của CNDTCQ là Beckơly (G. Berkeley), Hium (D. Hume), Fichtơ (J. G. Fichte). Ngay cả Kantơ (I. Kant) cũng phát triển những tư tưởng của CNDTCQ. CNDTCQ thế kỉ 19 - 20 có nhiều biến thể. Đó trước hết là những trường phái khác nhau của chủ nghĩa thực chứng (chủ nghĩa Makhơ, chủ nghĩa thực dụng...), chủ nghĩa hiện sinh... đều bắt nguồn từ triết học của Beckơly, Hium, Kantơ, vv. Hiện nay, những người theo CNDTCQ trước hết là những người thuộc các trường phái khác nhau của chủ nghĩa thực chứng có xu hướng gạt bỏ thứ chủ nghĩa chủ quan thể hiện quá gay gắt, nhằm thực hiện mưu toan tìm ra những tiêu chuẩn để lựa chọn "các chân lí có giá trị phổ biến". Bằng cách đó, người ta xoá bỏ dần ranh giới khá rõ rệt giữa CNDTCQ và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Những yếu tố của CNDTCQ và của chủ nghĩa duy tâm khách quan được kết hợp, chẳng hạn trong các trào lưu đa dạng của chủ nghĩa thực tại mới. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 0in 0in 0pt;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN</B><STRONG> </STRONG>: khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm thừa nhận ý thức, tinh thần là tính thứ nhất (tính có trước), vật chất là tính thứ hai (tính có sau), và coi cơ sở đầu tiên của tồn tại không phải là ý thức cá nhân con người như theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, mà là một ý thức nào đó ở bên ngoài thế giới như "tinh thần tuyệt đối", "lí tính thế giới", vv. Về thực chất, "tinh thần tuyệt đối" chỉ là khái niệm được tuyệt đối hoá, tách khỏi vật chất đem đối lập với vật chất. Coi khái niệm là cái gì có trước so với các đối tượng vật chất, do đó, đã thần bí hoá những quan hệ hiện thực giữa các đối tượng với nhau. Chẳng hạn, Platôn coi những khái niệm chung là vĩnh viễn tồn tại trong "thế giới ý niệm", còn các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất chỉ là những cái bóng mờ nhạt của ý niệm ấy. Hêghen cũng cho rằng "ý niệm tuyệt đối" tồn tại và phát triển đến mức độ nhất định thì sản sinh ra thế giới vật chất, và xã hội loài người chỉ là những "tồn tại khác" của "ý niệm tuyệt đối". CNDTKQ thường kết hợp với thần học và là cơ sở triết học độc đáo của tôn giáo. Ở phương Tây, nhiều trào lưu triết học tư sản hiện đại bắt nguồn từ triết học duy tâm khách quan của Thánh Tômat (Saint Thomas), Laibnit (G. W. Leibniz), Hêghen (G. W. F. Hegel) như chủ nghĩa Tômat mới, chủ nghĩa Hêghen mới.<B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 3: Định nghĩa vật chất của Lênin, ý nghĩa phương pháp luận:                                                           </B> - Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà triết học đi trước, khái quát những thành quả của khoa học tự nhiên và cơ sở thực tiến những năm cuối TK 19 đầu TK 20, từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống CN duy tâm, Lê nin đã vach rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà triết học duy tâm, khẳng đinh bản chất vật chất của thế giới và đưa ra đinh nghĩa về vật chất: " Vật chât là phạm trù triết học dùng đẻ chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"                <BR>             <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Định nghĩa vật chất của Lê nin có 3 nội dung quan trọng</B>:        <BR>            + Thứ nhất, khẳng định vật chất là một phạm trù triết học có nghĩa là muốn khẳng định và phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn dề cơ bản của triết học) với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành ( tức khái niệm dùng chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính, những biểu hiện cụ thể củ thế giới vật chất, tự nhiên hay xã hội) <BR>            + Khẳng định vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan nghĩa là: Thực tại khách quan là thuộc tính quan trọng nhất để phan biệt vật chất và ý thức, để khẳng định rằng đó những cái đang tồn tại độc lập với ý thức con người trong đời sống xã hội vật chất đó là tồn tại XH, nó không phụ thuộc vào ý thức XH.     <BR>            + Khẳng định vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"> - ý nghĩa phương pháp luận:</B> Định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa quan trọng đốí với sự phát triển của CN duy vật và nhận thức khoa học:        <BR>            + Khẳng định bản chất của thế gới là vật chất, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh, chỉ là sản phẩm của vật chất đồng thời định nghĩa cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng chụp lại, chép lại, phản ảnh thế giới vc.         <BR>            + Định nghĩa vật chất đã bác bỏ quan điểm xuyên tạc của CN duy tâm về CN duy vật và khẳng định bản chất của CN duy vật luôn được "khẳng định và tồn tại", cơ sở nền tảng của CN duy vật vẫn tiếp tục phát triển và nó cũng bác bỏ các quan niệm trước đây về vật chất, góp phần mở đường cho các KH tự nhiên trong việc tìm ra các hình thức mới của vật chất để chứng minh cho sự phong phú của cấu trúc vật chất. Vì vậy nó cung cấp thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"> Câu 4: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động. không gian, thời gian  </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">1. Vận động:</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">            a. Vận động là gì?</B>  Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức đ­ược hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến t­ư duy".                                                                                                                                         Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự biến đổi nói chung. <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">b. Vận động là phư­ơng thức tồn tại của vật chất.  </B><BR>            Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại. <BR>            Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động; bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến sự biến đổi nóichung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.          <BR>            Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất đư­ợc nhận thức thông qua sự vận động của chúng. <BR>            Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu diệt đư­ợc. Nguyên lý này đ­ược chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lư­ợng.          <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.</B>Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:  <BR>            Vận động cơ học: Sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Vận động vật lý: Sự vận động của các phân tử, nguyên tử, các hạt cơ bản, vận động của điện tử, các quá trình nhiệt, điện ...</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Vận động hóa học: Vận động của các hóa trình hóa hợp, phân giải các chất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Vận động sinh học: Sự biến đổi của các cơ thể sống</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Vận động xã hội: Sự biến đổi của các chế độ xã hội    <BR>Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:<BR>            Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.          <BR>            Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. <BR>             Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.   <BR>            Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học, cho khuynh h­ướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đồng thời còn chống lại một khuynh h­ướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp hơn.  <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">d. Vận động và đứng im.      <BR></B>Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật, hiện tượng.<BR>Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm sau:      <BR>            - Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.   <BR>            - Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. <BR>            - Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.<BR>            - Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; còn vận động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">2. Không gian và thời gian   </B><BR>            - Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính như­ cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính  <BR>            - Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như­: Độ lâu của sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất <BR>            - Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và đều là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động.Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất đang vận động.            <BR>            Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không gian như­ cái hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian như­ dải băng đư­ợc trải ra một cách đều đặn.  <BR>            Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên. Hình học phi Ơclít của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng không gian và thời gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích th­ước của nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:    <BR>            1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm của ý thức con ngư­ời.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.      <BR>            3. Tính vĩnh cửu và vô tận</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 5 : Quan điểm của triết học duy vật biện chứng về nguốn gốc và bản chất của ý thức ?</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : Ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội . Để hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức cần phải xem xét trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội .        <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">I . Nguồn gốc của ý thức :    <BR>1. Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức :    </B><BR>- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại .<BR>- Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp . Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất .         <BR>- ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người .     <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">2. vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và phát triển của ý thức :</B><BR>- Lao động là đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả động vật khác .     <BR>            + Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ và sử dụng các công cụ để tạo ra của cải vật chất .            <BR>            + Lao động của con người là hành động có mục đích - tác động vào thế giới khách quan làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu con người .   <BR>            + Trong quá trình lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển .   <BR>- Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ .            <BR>            + trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy. vì vậy ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động .            <BR>            + Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ . Chính vì vậy Angghen coi : lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chú yếu biến bộ não con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức .     <BR>            Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức .         <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">II . Bản chất của ý thức</B> :      <BR>Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khác quan vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất .  <BR>- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan . Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất của chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm .          <BR>- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới            <BR>            + Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó không bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định . Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu được cái được phản ánh . Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan . Song , sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh .   </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất của ý thức có tính xã hội .         <BR>            Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động của thế giới vật chất .</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 6: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của MQH giữa vật chất và ý thức.</B>   <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">1.Vật chất:</B> Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán LêNin đã định nghĩa: vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại kháchquan được đem lại cho con người trong cảm giác,đựoc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.   <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">2.Ý thức:</B> là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Tuy nhiên ko phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là tự nhiên trở thành ý thức.Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.Vì vậy ý thức là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó.  <BR>            Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.Trên cơ sở những cái đã có,ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật,có thể tưởng tượng ra những cái ko có trong thực tế.ý thức có thể tiên đoán dự báo về tương lai,có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao.Tuy nhiên sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.<BR>Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển XH nên về bản chất là có tính XH.<BR>            <B>3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">a. Cơ sở lý luận:</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Lênin cho rằng: Vật chất là <I>thực tại khách quan, </I>nghĩa là<I> </I>tất cả những gì có thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập với ý thức của con người. Vật chất tồn tại khách quan là tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng, hệ thống vật chất và mối liên hệ giữa chúng trong một chỉnh thể thống nhất là thế giới vật chất. Xét theo tính hệ thống, thế giới vật chất bao gồm: thế giới vật chất vô cơ, hữu cơ và vật chất dưới dạng xã hội. Vật chất trong hoạt động thực tiễn xã hội là điều kiện hoàn cảnh vật chất (khách quan), hoạt động vật chất của xã hội và các qui luật khách quan vốn có của đời sống vật chất xã hội.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người, hoặc là "hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Ý thức không phải là vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Khác với vật chất là cái tồn tại khách quan, sự tồn tại của ý thức là sự tồn tại chủ quan và có khả năng phản ánh tồn tại khách quan. Ý thức trong hoạt động thực tiển là đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần (nhân tố chủ quan) như tình cảm, ý chí, tư tưởng, tri thức, v.v...</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">b. Nội dung: </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất</I> có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần là cái có sau, cái phụ thuộc vật chất. Cho nên, toàn bộ hoạt động tinh thần đều là sự phản ánh hiện thực khách quan và bị qui định bởi hoạt động hoạt động vật chất của con người. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước v.v... cũng phải dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở thành hiện thực.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất, bởi "chỉ có lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất mà thôi". Điều này cũng sẽ đúng ngay cả khi ý thức của con người đã phản ánh đúng về hiện thực khách quan.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>Thứ hai,</I> <I>xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức</I> là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Cho nên, sự phản ánh của ý thức về hiện thực khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính tích cực, năng động và sáng tạo. Kết quả của sự phản ánh đúng về hiện thực bao giờ cũng có ý nghĩa định hướng cho hoạt động thực tiễn và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của hoạt động thực tiễn.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là, ý thức, tư tưởng của con người với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể phát huy được năng lực tối đa của các nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định. Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố tinh thần.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B>4. Ý nghĩa phương pháp luận</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách quan trong sự xem xét (xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực khách quan).</I> </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng đắn và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất - ý thức, giữa khách quan - chủ quan. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến. Yêu cầu của nguyên tắc tính khách quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>- Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người (trong hoạt động thực tiễn xã hội).</I> </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Nguyên tắc tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát huy tính sáng tạo của ý thức.<I> </I>Ý thức không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà có <I>tính tích cực, năng động và sáng tạo. </I>Tính tích cực, năng động và sáng tạo của nhân tố tinh thần được thể hiện ngay từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức, phương pháp thực hiện mục tiêu đã đề ra. <I>Sức mạnh của ý thức</I> còn tùy thuộc vào mức độ sự xâm nhập của tri thức khoa học vào hoạt động của quần chúng. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Thực hiện nguyên tắc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực khách quan và nguyên tắc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người một mặt phải thấy được vai trò quyết định của các nhân tố khách quan (vật chất) đối với nhân tố tinh thần (chủ quan); mặt khác phải phê phán bệnh chủ quan duy ý chí, chống chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 7: Trình bày nội dung ý nghĩa về mối liên hệ phổ biến</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><STRONG>            Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến:</STRONG><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Các nhà triết học duy tâm tôn giáo cho nguồn gốc của mối quan hệ  phổ biến là từ thần linh, thượng đế <EM>"Ý niệm tuyệt đối"</EM><STRONG><I> </I></STRONG>sinh ra.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Các nhà triết học siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến nhưng họ cho sự vật, hiện tượng tồn tại một cách cô lập, tách rời nhau, cái nầy bên cạnh cái kia, hết cái nầy tới cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau, có chăng chỉ là sự hời hợt bề ngoài, ngẫu nhiên.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Triết học Mác-Lênin cho rằng, thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng, nhưng chúng lại thống nhất với nhau ở tính vật chất, nên tất yếu giữa chúng phải có mối liên hệ với nhau. Những mối liên hệ đó có tính khách quan, phổ biến vì đó là những cái vốn có của các sự vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, hay thần linh thượng đế, và chỉ có liên hệ  với nhau sự vật mới tồn tại, vận động phát triển.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><STRONG>TÍNH CHẤT CỦA MỐI LIÊN HỆ</STRONG> :</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <EM>Tính phổ biến:</EM> Khoa học về mối liên hệ phổ biến: diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: Tự nhiên (người với tự nhiên), xã hội (người với người), tư  duy (cảm tính, lý tính). Trong từ sự vật (đồng hóa - dị hóa, điện tính âm - dương); giữa các sự vật (vật nầy-vật kia, quốc gia nầy - quốc gia kia...).</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <EM>Tính khách quan:</EM> Do nội tại bản thân sự vật tự có (không do áp đặt bên ngoài). Xuất phát từ nguyên lý triết học: tính thống nhất vật chất, thế giới chỉ có một nguyên lý duy nhất là thế giới vật chất, không do thần linh nào cả, chúng có mối liên hệ ràng buộc nhau.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <EM>Tính nhiều vẽ</EM> (tính đa dạng): Mối liên hệ vô cùng phong phú như liên hệ bên trong - bên ngoài, trực tiếp - gián tiếp, bản chất - không bản chất... Tuy nhiên không có mối liên hệ nào giống cái nào như bên trong quyết định bên ngoài, trực tiếp quyết định gián tiếp, bản chất quyết định không bản chất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><STRONG>Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN:</STRONG></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Vì các sự vật và hiện tượng trên thế giới đều tồn tại trong mối quan hệ phổ biến, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Quan điểm toàn diện yêu cầu khi phân tích sự vật, chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ với sự  vật  hiện tượng khác.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Phải xem xét các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các mắc khâu trung gian gián tiếp trong bản thân mỗi sự vật. Tuy nhiên, toàn diện không có nghĩa là  xem xét một cách cào bằng, tràn lan mà phải thấy được vị trí  của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng để đi đến nắm bắt được bản chất của sự vật.</P>

<P class=MsoBodyText _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Vận dụng  vào thực tế:</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Xây dựng chính sách dàn đều và chính sách có  trọng điểm: Trong quá trình quán triệt Đảng ta đã vận dụng: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để  nhưng đổi mới kinh tế là trọng tâm (văn kiện đại hội VIII của Đảng ).</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Quan điểm lịch sử cụ thể còn đòi hỏi chúng ta vận dụng quan điểm trên vào việc xem xét, giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức với hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó  tới sự ra đời và phát triển của nó. Ví vụ: Nền kinh tế thị trường hiện nay, có người cho rằng là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng chúng ta phải thực hiện để gắn với điều kiện lịch sử cụ thể .</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Mối liên hệ là dùng để chỉ sự ràng buộc, làm tiền đề chỉ ra sự tồn tại giữa các mặt trong 1 sự vật hay giữa các sự vật với nhau, mối liên hệ trên mang tính phổ biến, gồm có liên hệ bên trong và bên ngoài; liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Vì vậy, khi xem xét chúng ta có cái nhìn toàn diện. Liên hệ trong không gian xem xét sự vật ở vị trí khác nhau dẫn đến có mối liên hệ khác nhau. Liên hệ thời gian, xem xét mối liên hệ khi chúng ở nhiều thời điểm, quá trình khác nhau của sự phát triển. Vì dụ: Hôm nay, anh ta là người xấu nhưng ngày mai anh ta trở thành người tốt.<BR>- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ ràng buộc lại với nhau. Mối liên hệ này phải là mối liên hệ phổ biến khách quan để sự vật và hiện tượng luôn phát triển, không cô lập. Mối liên hệ phổ biến khách quan chi phối tổng quát mọi sự vận động của sự vật, hịên tượng.<BR>Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta phải chú trọng tất cả các mối liên hệ, đánh giá đúng vai trò mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn, chúng ta sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát triển một cách tích cực. Ví dụ: Về không gian, trước đây anh ta là con nhà giàu, nhưng hiện nay anh ta là người nghèo. Vì vậy trước đây anh ta là người tốt nhưng hiện nay anh ta trở thành kẻ trộm cắp.</I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 8: Trình bày nội dung ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><STRONG>Nguyên lý về sự phát triển :</STRONG><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>a. Khái niệm phát triển: Phát triển là gì ? Nó khác vận động thế nào?</EM></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Vận động</STRONG>: Là một  phạm trù chỉ sự biến đổi nói chung, dù tính khuynh hướng và kết quả như thế nào đi nữa, là sự vận động không ngừng, tiến tới hay thục lùi.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Phát triển</STRONG>: Là  biến đổi, vận động theo khuynh hướng tiến lên: cái mới ra đời thay thế cái cũ, sự vận động đi lên có thể diễn ra theo chiều hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Trong tự nhiên: Phát triển các sinh vật, loài vật ngày càng hoàn thiện hơn</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Xã hội loài người: Từ công xã nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><EM><B>          b. Nội dung của nguyên lý về sự phát triển:</B></EM><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Phép siêu hình</STRONG> : Cho mọi sự vật không có sự vận động phát triển, nếu có là vận động tuần hoàn khép kín lắp đi lắp lại, như trăng tròn rồi khuyết rồi lại tròn, hay nước đầy rồi vơi rồi lại đầy... không có sự phát triển đi lên. Phát triển chỉ tăng lên về lượng không có sự biến đổi về chất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Phép biện chứng</STRONG>: Cho rằng mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới đều có sự liên hệ, vận động và phát triển, sự phát triển là khuynh hướng chung, sự phát triển nầy có tính khách quan, có tính phổ biến.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><EM>Tính khách quan</EM>: Sự phát triển nầy là do nguyên nhân nội tại bên trong sự vật, không do bên ngoài tác động (siêu hình cho là có lực đẩy từ bên ngoài, là thượng đế )</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><EM>Phổ biến:</EM> Diễn ra trong tất cả các mặt: Tự nhiên, xã hội, tư duy</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Ngoài ra còn mang <EM>tính kế thừa</EM> của sự phát  triển, là quá trình lọc bỏ  (Chọn lọc, loại bỏ): Chọn lọc tinh hoa cái cũ, loại bỏ cái tiêu cực làm cho sự phát triển ngày một tiến lên. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Nó còn bao hàm tính <EM>lắp lại</EM> nhưng trên cơ sở  cao hơn, khuynh hướng chung là tiến lên vô tận theo đường xoắn trôn ốc (luôn có sự quay lại cái cũ ).  Siêu hình cho là lắp lại theo hình tròn, tuần hoàn.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>c. Ý nghĩa phương pháp luận:</EM></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng muốn thực sự nắm được bản chất sự vật và hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trí tuệ.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Quan điểm phát triển là gì ?</STRONG> Quan điểm phát triển yêu cầu chúng ta khi phân tích một sự vật, một hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng, tức là phải thấy được khuynh hướng phát triển trong tương lai, quan điểm nầy cũng đòi hỏi chúng ta thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển, nhưng sự quanh co phức tạp đó  chỉ có tính chất tạm thời, khuynh hướng chung của sự  vật vẫn là tiến lên, cái mới sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ sẽ chiến thắng cái lạc hậu.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Trong đường lối của  Đảng ta, mặc dù các nước XHCN Liên xô, Đông Âu sụp đổ nhưng Đảng ta vẫn kiên trì con đường đi lên CNXH, thực hiện theo nguyên lý phát triển.Vì Đảng ta thấy được khuynh hướng là tiến lên, cái gì tiến bộ, hợp quy luật là chiến thắng, tồn tại và phát triển.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Còn chế độ tư bản không thể hòa hợp được giữa lực lượng sản xuất và mâu thuẩn trong xã hội... đến lúc nào đó nhường chỗ cho xã hội mới tiến bộ hơn là xã hội chủ nghĩa.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Do đó Đảng ta quyết lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là đúng đắn mặc dù con đường đi còn nhiều khó khăn, gian nan.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 9: Trình bày nội dung ý nghĩa phương pháp luận quy luật mâu thuẫn</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>a. Vị trí của quy luật :</EM></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Quy luật mâu thuẩn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,  nó có vai trò, là hạt nhân của phép biện chứng. Vì nó vạch ra được nguồn gốc và động lực của sự phát triển, nó giúp ta hiểu rõ quy luật  khác, là cơ sở để hiểu rỏ quy luật khác.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><EM>          </EM><STRONG><I>b. Nội dung của quy luật</I></STRONG><EM> :</EM></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>Mâu thuẩn của biện chứng</EM></B>: Mâu thuẩn là sự khác nhau, đối lập nhau  nhưng không phải bất kỳ sự khác nhau, đối lập nhau nào cũng là mâu thuẩn biện chứng, chỉ một mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khắng khít với nhau tác động qua lại với nhau, thâm nhập vào nhau, loại trừ nhau tạo nên sự vận động phát triển của sự vật.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Ví dụ : Giữa tư sản và vô sản, chúng dựa vào nhau để tồn tại, làm tiền đề cho nhau, mặt dù vô sản muốn loại bỏ tư sản.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>Những nội dung cơ bản của quy luật :</EM></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Sự vật nào cũng là thể thống nhất của các mặt đới lập. Chẳng hạn nguyên tử là thể thống nhất giữa hai mặt đối lập của hạt nhân mang điện tích dương và điện tử mang điện tích âm. Hay xã hội có giai cấp đối kháng là thể thống nhất giữa các giai cấp thống trị, áp bức bốc lột  và giai cấp bị trị, bị áp bức bốc lột ... các mặt đối lập nầy nương tựa vào nhau không có mặt đối lập nầy thì cũng không có mặt đối lập kia và ngược lại.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Sự đấu  tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định nhau. Nó diễn ra các dạng sau: Có thể làm thay đổi các yếu tố, các bộ phận của mỗi mặt đối lập, có thể làm cho cả hai mặt đối lập chuyển lên một trình độ cao hơn, và cũng có thể làm cho 2 mặt đối lập đó mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới, chuyển hóa các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.  Đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới được xác lập, sự vật phát triển. Lênin nói<EM>: " Sự phát triển là một  cuộc Đấu tranh giữa các mặt đối lập".</EM></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Thật vậy, đấu tranh của các mặt đối lập: Âm - dương; hút - đẩy;  hóa hợp - phân giải; đồng hóa - dị hóa ... làm cho  sự vật của thế giới vật chất vận động, phát triển không ngừng.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Trong xã hội <EM>"đấu tranh" </EM>giữa lực  lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn gốc, động lực phát triển, đưa xã hội chuyển xã hội nầy sang xã hội khác cao hơn.  </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Trong nhận thức, thường xuyên có sự <EM>" đấu tranh "</EM> giữa nhu cầu cần hiểu biết với khả năng hiểu biết; giữa hiểu biết đúng với hiểu biết sai. Nó làm cho nhận thức  ngày càng nâng cao. Như vậy đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối còn thống nhất là tương đối.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Sự  thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, vì bất cứ sự thống nhất  nào cũng là sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thoáng qua gắn liền với đứng  im tương đối của sự vật. Đó là thời điểm các mặt đối lập phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau, là trạng thái cân bằng, tương quan lực lượng giữa các mặt đối lập. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vì nó diễn ra liên tục không bao giờ ngừng, trong suốt quá trình tồn tại của hai mặt đối lập, từ đầu đến cuối; ngay trong thống nhất cũng có đấu tranh. Đấu tranh làm cho thống nhất nầy mất đi để thống nhất mới ra đời và sự đấu tranh lại tiếp tục. Đấu tranh gắn liền với vận động, mà vận động của vật chất là tuyệt đối nên đấu tranh cũng là tuyệt đối .</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><STRONG> </STRONG><STRONG>Một số loại mâu thuẩn:</STRONG></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Mâu thuẩn bên trong - bên ngoài</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Mâu thuẩn cơ bản - không cơ bản </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Mâu thẩn chủ yếu  - thứ  yếu </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Mâu thuẩn đối kháng - không đối kháng</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><STRONG>          Ý nghĩa phương pháp luận :</STRONG></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Mâu thuẩn là cái khách quan vốn có của các sự vật, là nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển, do vậy nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu những mâu thuẩn của nó. Sự vật khác nhau thì mâu thuẩn cũng khác nhau. Trong một sự vật, một quá trình có nhiều mâu thuẩn, và mỗi mâu thuẩn lại có vai trò khác nhau ... nên khi nghiên cứu và giải quyết mâu thuẩn phải có quan điểm cụ thể, để có những  phương thức, những biện pháp, những phương tiện, những lực lượng để giải quyết mâu thuẩn.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Giải quyết mâu thuẩn phải theo phương thức đấu tranh các mặt đối lập, chứ không theo hướng dung hoà các mặt đối lập. Đó là sự khác nhau căn bản giữa người cách mạng và người cải lương, cơ hội trong cuộc đấu tranh giải quyết các mâu thuẩn xã hội trong xã hội có giai cấp.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"> <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 10: Trình bày nội dung vai trò ý nghĩa phương pháp luận quy luật</B><STRONG> chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại ( gọi tắc là quy luật lượng - chất ).</STRONG><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>a. Những nội dung cơ bản của quy luật :</EM></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Chất của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng, nói lên nó là gì, để phân biệt nó với cái khác. Thông thường từ chất chỉ tính hiệu quả hoặc vật liệu cấu thành của sự vật. Ví dụ: vải, gỗ ...</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;">Lượng của sự vật: Là phạm trù triết học chỉ tính quy định của sự vật về mặt quy mô,  trình độ phát triển của nó, biểu thị các con số, các thuộc tính, các yếu tố cấu thành của nó. Lựơng của sự vật nói lên kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt ...</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Chất nói lên sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Lượng nói lên sự đặt trưng, đồng nhất giữa sự vật giống nhau. Ví dụ: Tấm bảng đen hình chữ nhật, làm bằng gỗ, dùng  để  viết ( chất ) ; dài 2,4m, rộng 1,2m (lượng).</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Chất gắn bó chặt chẽ  với sự vật. Lượng  gắn bó lỏng lẻo hơn, lượng của chất. Khi chất thay đổi, lượng không còn nữa; khi lượng thay đổi chưa chắc sự vật biến thành cái khác.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          </B><EM><B>b.  Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất</B></EM><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">:</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất, lượng nào chất  ấy, chất nào lượng ấy. Không có chất, lượng nói chung tồn tại tách rời nhau.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Sự thống nhất giữa lượng và chất được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là <EM>"độ"</EM><STRONG><I>. </I></STRONG>Vậy<EM> "độ"</EM> là giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa lượng và chất, hay <EM>"độ"</EM> là giới hạn mà ở đó đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự  thay đổi về chất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Sự vật biến đổi chính là chất lượng biến đổi, nhưng chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến động hơn. Lượng biến đổi trong giới hạn<EM> "độ"</EM> thì sự vật chưa biến đổi, nhưng lượng biến đổi  vượt <EM>"độ"</EM> thì nhất định gây nên sự biến đổi về chất, chất biến đổi thì sự vật biến đổi. Chất biến đổi gọi là <EM>"nhảy vọt"</EM><STRONG><I>.</I></STRONG>  Nhảy vọt là bước ngoặc của sự thay đổi về lượng đã đưa đến sự thay đổi về chất, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Nhảy vọt xảy ra tại <EM>"điểm nút"</EM>. Điểm nút là một đỉnh của giới hạn mà tại đó đã diễn ra sự nhảy vọt.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Lượng chuyển thành chất phải có điều kiện. Ví dụ nước sôi ở 100 độ C bóc thành hơi chỉ trong điều kiện áp suất bình thường.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Chất mới ra đời đòi hỏi lượng mới, đó là chiều ngược lại của mối quan hệ  giữa lượng và chất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Ví dụ: Nước sau khi sôi, bốc hơi, tốc độ vận động của phân tử hơi nước tăng lên gấp bội so với tốc độ vận động của phân tử nước .</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Hay nhịp điệu vận động phát triển của xã hội dưới cơ chế thị trường của nước ta hiện nay nhanh hơn nhiều so với nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ chế hành chánh quan liêu bao cấp.<B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <EM>c. Ý nghĩa phương pháp luận</EM>:</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Về nhận thức cũng như trong hoạt động  thực tiển phải khắc phục cả hai khuynh hướng <EM>"tả khuynh" </EM>và<EM> "hữa khuynh".</EM> </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><STRONG>Tả khuynh</STRONG> chính là  tư tưởng nôn nóng, vội vàn thường không chú ý  đến quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động thực tiển thường dễ chủ quan duy ý chí cho rằng, sự phát triển chỉ gồm những bước nhảy liên tục, phủ nhận sự cần thiết phải có sự  tích lũy về  lượng.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          <STRONG>Hữu khuynh</STRONG> là tư tưởng ngại khó, sợ sệt, không  dám thực hiện những bước nhảy vọt, không dám làm cách mạng. Họ cho rằng phát triển chỉ là những biến đổi đơn thuần về lượng. Trong hoạt động  thực tiễn những người hữu khuynh thường bảo thủ, trì trệ để đi đến cải lương, dung hòa, thỏa hiệp ...</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">          Thực hiện những bước nhảy trong lĩnh vực đời sống xã hội phải chú ý  cả điều kiện  khách quan và nhân tố chủ quan, chống máy móc giáo điều. Khi có tình thế thời cơ thì kiên quyết tổ chức thực hiện những bước nhảy để dành thắng lợi.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"> <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 11: Trình bày nội dung vai trò ý nghĩa phương pháp luận <STRONG>Quy luật phủ định của phủ định</STRONG></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">          <STRONG>1. Khái Niệm Phủ Định Và Phủ Định Biện Chứng </STRONG><BR>            </B>Trong thế giới hiện tượng, vật chất các sự vật luôn luôn biến chuyển thay đổi, sinh ra, tồn tại và mất đi. Sự vật cũ mất đi được thay bằng những sự vật, hiện tượng mới, sự thay thế đó được gọi là sự phủ định. Sự phủ định sự vật này là một quy trình tất yếu trong quá trình vận động và phát triển sự vật mà không phải phủ định là xoá bỏ hoàn toàn cái cũ như các nhà siêu hình học nhìn nhận.       <BR>            Theo triết Mác, phủ định phải là phủ định biện chứng, tức là sự phủ định tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, từ cái cũ thành cái mới, hoàn thiện, phức tạp và cao cấp hơn cái cũ. Tuy nhiên, phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân, từ sự phát triển tự thân nên phủ định biện chứng mang những đặc trưng cơ bản sau: <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">a. Tính Khách Quan</B>: các sự vật luôn luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển do sự đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bên trong của các sự vật. Từ đấu tranh các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển không ngừng, do vậy, phủ định biện chứng luôn mang tính khách quan trong quá trình vận động và phát triển.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">b. Tính Kế Thừa</B>. Phủ định là phát triển tự thân của sự vật nên nó không phải thủ tiêu cái cũ mà là gạt bỏ những cái xấu, không tốt, lạc hậu để tiếp thu, chọn lọc những cái hay, cái đẹp khi hình thành cái mới. Do vậy, cái mới đó được hình thành từ cơ sở chọn lọc của cái cũ. Cái mới là mới từ cái cũ và cái cũ là cũ của cái mới. Giữa cái cũ và cái mới có mối liên hệ và khắng khít với nhau. Đó chính là tính kế thừa của phép phủ định biện chứng.<BR>            Trong quá trình phủ định biện chứng, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, phủ định mặt xấu, tiêu cực còn khẳng định những mặt tích cực, tốt đẹp. Do vậy, cái mới có mặt là một phần tất yếu, xuất phát từ cái cũ nhưng khác chất cái cũ. Và tất nhiên, quy trình phủ định biện chứng cần phải đảm bảo được ba điều kiện sau:1) Tính thời đại. 2) Tính dân tộc. 3) Tính mỹ thuật.<BR>            <STRONG>2. Nội Dung Quy Luật Phủ Định Cái Phủ Định</STRONG>    <BR>            Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời trên cơ sở khẳng định và phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu thuẫn đấu tranh với nhau mà vượt qua giới hạn độ thì sự vật mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế nhưng sự vật không dừng lại ở đó mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái mới hơn phủ định. Quá trình phủ định hai lần đó được gọi là Phủ định của phủ định và từ đây "sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển".[1]           <BR>            Quá trình phủ định cái phủ định của sự vật đó làm xuất hiện những sự vật mới là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực mới được bổ sung và từ những lần khẳng định và phủ định trước đó. Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu kỳ này lại là điểm bắt đầu của một chu kỳ mới. Do vậy, kết quả phủ định cái phủ định luôn luôn bao giờ cũng có hình thức mới hơn, có nội dung toàn diện và phong phú hơn những cái ban đầu.<BR>Tuy nhiên, sự tiến lên của sự vật không theo con đường thẳng tắp mà được diễn ra theo hình "xoắn ốc". Bởi "sự phát triển theo đường "xoắn ốc" là biểu thị sự rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên".[2]      <BR>            Khi nghiên cứu về Quy luật phủ định của phủ định chúng ta không nên máy móc trong nhận thức. Nghĩa là chúng ta không nên khăng khăng cho rằng sự vật, hiện tượng phải đủ hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Thực ra, có nhiều sự phát triển còn cần nhiều hơn cả con số hai lần phủ định như thế, hai lần là con số tối thiểu, chẳng hạn quá trình biến đổi trứng thành con tằm. Do vậy, trong vấn đề nhận thức quy luật này, chúng ta cần phải linh hoạt, không được máy móc. Không nên lấy cái cố định để ràng buộc cái bất định, nếu làm như thế là đi sai với quy luật và đó là một sai lầm.       <BR>            <STRONG>3. Ý Nghĩa Phương Pháp Luận</STRONG>       <BR>            Từ việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định trên, chúng ta rút ra được một số ý nghĩa phương pháp luận sau:          <BR>            - Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được tính đúng đắn và tất yếu của sự vật bởi phát triển là khuynh hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến thắng. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con đường xoắn ốc: quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai đoạn trung gian.            <BR>            - Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước thế nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, có nhiều lúc, cái mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của nó.      <BR>            - Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động phù hợp sao cho sự vật phát triển nhanh hay chậm, tránh được những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo thủ trong công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải chống thái độ phủ định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi thường giá trị truyền thống mà cần phải biết phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.</P>

Câu 12: Thế nào là cái riêng, cái chung và cái đơn nhất. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng

<I>            1. Khái niệm </I>"<I>cái riêng</I>"<I>, </I>"<I>cái chung</I>"<I>, và </I>"<I>cái đơn nhất</I>"<I>              <BR></I>Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau; đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng ta lại có những mặt giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng nhất định. Để phản ánh điều đó, phép biện chứng duy vật quan niệm:     <BR>            - <I>Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.             <BR>            - Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác</I>. <BR>            Cần phân biệt "cái riêng" với "cái đơn nhất". <I>Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất nhất định, không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. </I>Thí dụ, thủ đô Hà Nội là một "cái riêng", ngoài các đặc điểm chung giống các thành phố khác của Việt Nam, còn có những nét riêng như phố cổ, có Hồ Gươm, có những nét văn hóa truyền thống mà chỉ có ở Hà Nội mới có, đó là cái đơn nhất.       <BR>            <I>2. Quan hệ biện chứng giữa </I>"<I>cái riêng</I>"<I>,</I><I> </I>"<I>cái chung</I>"<I> và </I>"<I>cái đơn nhất</I>" <BR>            Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung":            <BR>            <I>Phái duy thực</I> cho rằng, "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ thuộc vào "cái riêng" mà còn sinh ra "cái riêng". Theo Platon, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời. Thí dụ, bên cạnh cái cây riêng lẻ, có ý niệm cái cây nói chung; bên cạnh cái nhà riêng lẻ, có ý niệm cái nhà nói chung v.v.. Cái cây, cái nhà riêng lẻ, có ra đời, tồn tại tạm thời và mất đi, nhưng ý niệm cái cây, cái nhà nói chung thì tồn tại mãi mãi; cái cây, cái nhà riêng lẻ là do ý niệm cái cây, cái nhà nói chung sinh ra. <BR>            <I>Phái duy danh</I> cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những cái tên gọi trống rỗng, do tư tưởng con người bịa đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. Chẳng hạn như họ cho khái niệm con người, giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, v.v., không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ngay đến cả những khái niệm như vật chất, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, v.v., họ cũng cho là những từ không có nghĩa. Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xoá nhoà và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.     <BR>            Cả quan niệm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.           <BR>            <I>Phép biện chứng duy vật</I> cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:<BR>            Thứ nhất,<I> cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. </I>Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ,và được phản ánh trong khái niệm "cây". Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.   <BR>            Thứ hai, <I>cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.</I> Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Thí dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.     <BR>            Thứ ba,<I> cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.</I> Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Thí dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn v.v., còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.       <BR>            Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.       <BR>            Thứ tư, <I>cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình  phát triển của sự vật.</I> Sở dĩ như vậy là vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Thí dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó  được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.<I><BR>            </I><I>3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận           </I><I><BR>            </I>Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. <BR>Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp. Thí dụ, khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lý đó cho thích hợp, có vậy mới đưa lại kết quả trong hoạt động  thực tiễn.     <BR>            Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần  phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái  chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất"

Câu 13. Nguyên nhân và kết quả

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả          <BR>            a) Định nghĩa <BR></I></B>Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật,  hiện tượng trong hiện thực khách quan.     <BR>            - <I>Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn  nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi  nhất định nào đó.             <BR>            - Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sư vật với nhau  gây ra.   <BR>            </I>Chẳng hạn, không phải nguồn điện là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng mà chỉ là tương tác của dòng điện với dây dẫn (Trong trường hợp này, với dây tóc của bóng đèn) mới thực sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn là phát sáng. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư  sản là nguyên nhân đưa đến kết quả là cuộc cách mạng vô sản nổ ra.<BR>Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn cho dòng điện là nguyên nhân của ánh sáng đèn; giai cấp vô sản là nguyên nhân của cuộc cách mạng vô sản... Nếu hiểu nguyên nhân và kết quả như vậy sẽ dẫn đến chỗ cho rằng nguyên nhân của một sự vật hiện tượng nào đấy luôn nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng nhất định sẽ phải  thừa nhận rằng nguyên nhân của thế giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, tức là nằm ở thế giới  tinh thần. <BR>            Cần phân biệt  nguyên nhân với nguyên cớ và nguyên nhân với điều kiện. Nguyên cớ và điều kiện không sinh ra kết quả, mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân.<BR>            <B><I>b) Tính chất của mối liên hệ nhân quả         </I></B><I></I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Phép biện chứng duy vật khẳng định  mối liên hệ nhân quả có <I>tính khách quan, tính phổ  biến,  tính tất  yếu.         <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Tính khách quan</B> </I>thể hiện ở chỗ:  mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu mình. Quan điểm duy tâm không thừa nhận mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan trong bản thân sự vật. Họ cho rằng, mối liên hệ nhân quả là do Thượng đế sinh ra hoặc do cảm giác con người quy định.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Tính phổ biến</I></B> thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Tính tất yếu</I></B> thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu. <BR><B><I>            2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả<BR>            a) Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện <BR>            </I></B>Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả. Thí dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân, sấm kế tiếp chớp,v.v, nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày, mùa xuân là nguyên nhân của mùa hè, chớp là nguyên nhân của sấm, v,v.. Cái phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ <I>nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh ra nhau</I>. Nguyên nhân của ngày và đêm là do sự quay của trái đất quanh trục Bắc - Nam của nó, nên ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sáng được phần bề mặt trái đất hướng về phía mặt trời. Nguyên nhân của các mùa trong năm là do trái đất, khi chuyển động trên quỹ đạo, trục của nó bao giờ cũng có độ nghiêng không đổi và hướng về một phía, nên hai nửa cầu Bắc và Nam luân phiên chúc ngả về phía mặt trời, sinh ra các mùa. Sấm và chớp đều do sự phóng điện giữa hai đám mây tích điện trái dấu sinh ra. Nhưng vì vận tốc ánh sáng truyền trong không gian nhanh hơn vận tốc tiếng động, do vậy chúng ta thấy chớp trước khi nghe thấy tiếng sấm. Như vậy không phải chớp sinh ra sấm. <BR><I>Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau</I>. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Thí dụ, nguyên nhân của mất mùa có thể do  hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do sâu bệnh, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật, v.v.. Mặt khác, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể  sinh ra những kết quả khác nhau. Thí dụ, chặt phá rừng có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán, thay đổi khí hậu của cả một vùng, tiêu diệt một số loài sinh vật v.v. Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng của nhau, thậm chí  triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phân tích vai trò của từng loại nguyên nhân, có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn) phát huy tác dụng. Thí dụ, trong nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế chung. Các thành phần kinh tế vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí còn cản trở nhau phát triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều có điều kiện phát triển, trong đó thành phần kinh tế nhà nước phải đủ sức giữ vai trò chủ đạo, hướng các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách v.v. thích hợp. Nếu không như vậy, nền kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế có thể triệt tiêu lẫn nhau. Do vậy phải tìm hiểu kỹ vị trí, vai trò của từng nguyên nhân.       <BR>            <B><I>b) Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân      </I></B><I><BR>            </I>Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực). Thí dụ, trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế và giáo dục.     <BR>            <B><I>c) Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi  vị trí cho nhau</I></B><I><BR></I>Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy, Ph.Ăngghen nhận xét rằng:            Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được     áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng, không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.             <BR>            <B><I>3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận</I></B><I>           <BR></I>Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách rời thế giới hiện thực .<BR> Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.<BR>Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả.Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện  cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.          <BR>Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích. </P>

<EM>Câu 14. Tất nhiên và ngẫu nhiên</EM>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><EM><B>            1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên           <BR>            </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Tất nhiên (tất yếu)</B></EM><EM> là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Ngẫu nhiên</B> là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện như thế khác. <BR>            </EM>Thí dụ, đã là nhà tư bản thì tất yếu phải bóc lột sức lao động của công nhân. Điều đó do bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Nhưng nhà tư bản tiến hành sản xuất cái gì: ô tô, vải vóc hay vũ khí, chất độc, và bóc lột công nhân như thế nào... thì lại là cái ngẫu nhiên vì nó do những nguyên nhân riêng biệt, do những điều kiện cá nhân không thuộc bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định.       <BR>            Cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Do vậy không nên cho những hiện tượng con người chưa nhận thức được nguyên nhân là hiện tượng ngẫu nhiên, còn những hiện tượng con người đã nhận thức được nguyên nhân và chi phối được nó là cái tất nhiên. Quan niệm như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, vì đã thừa nhận sự tồn tại của cái ngẫu nhiên là do nhận thức của con người quyết định. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có quy luật, những quy luật quy định sự xuất hiện cái tất nhiên khác với quy luật quy định sự xuất hiện cái ngẫu nhiên.            <BR><B><I>2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên   <BR>a) Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật          </I></B><I><BR></I>Không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm. Thí dụ; cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng của phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu sắc của phong trào đạt được như thế nào...          <BR><B><I>b) Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần tuý cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy  </I></B><I><BR></I>Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: <I>cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.          <BR></I>Ph.Ăngghen nhận xét: sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải cái tất nhiên, vì cái đó không phụ thuộc vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất hiện.  Như vậy ở đây cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển. Khuynh hướng đó không tồn tại thuần tuý, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần tuý mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.<BR>            <B><I>c) Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau</I></B><I>    <BR>Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành ngẫu nhiên và ngược lại.</I> Thí dụ: việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thuỷ lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích luỹ. Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.    <BR>Sự chuyển hoá giữa tất nhiên và ngẫu nhiên  còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái tất yếu. Như vậy, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.             <I><BR>            <B>3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận</B>           <BR>            </I>Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật nó có thể xảy ra, có thể không. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, mà không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên, vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, người ta thấy có phương án hành động dự phòng để chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.             <BR>            Vì cái tất nhiên không tồn tại thuần tuý mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Do vậy muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra cái tất yếu.     <BR>            Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành cái tất nhiên. Do vậy trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển của sự vật.</P>

Câu5. Nội dung và hình thức

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>1. Khái niệm nội dung và hình thức</I></B><I> <BR>- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên  sự vật.<BR>- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.   <BR>            </I>Thí dụ, nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế bào, các khí quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ thống... để tạo nên cơ thể đó. Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống... tương đối bền vững của cơ thể.            <BR>            Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của nó. Song phép biện chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung. Thí dụ, nội dung một tác phẩm văn học là toàn bộ những sự kiện của cuộc sống hiện thực mà tác phẩm phản ánh, còn hình thức bên trong của tác phẩm đó là thể loại, những phép thể hiện được tác giả sử dụng trong tác phẩm như phương pháp kết cấu bố cục, nghệ thuật xây dựng hình tượng, các thủ pháp miêu tả, tu từ... Ngoài ra, một tác phẩm văn học còn có hình thức bề ngoài như màu sắc trình bày, khổ chữ, kiểu chữ... Trong cặp phạm trù nội dung và hình thức, phép biện chứng duy vật chủ yếu muốn nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung chứ không muốn nói đến hình thức bề ngoài của sự vật.<BR><I>            <B>2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức     <BR>            </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">a) Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức          </B><BR>            </I>Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.<BR>Nội dung và hình thức không tồn tại tách rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định, và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Thí dụ, quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân công trong quá trình sản xuất có thể khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới những hình thức khác nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác nhau. Vậy là một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b) Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự vật      <BR>            </I></B>Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho các yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố của nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Để sự vật phát triển được, đến một lúc nào đó, hình thức nhất định phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của nội dung. Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn, lúc đầu quan hệ sản xuất còn là hình thức thích hợp cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất biến đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, con người phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>c) Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung</I></B>          <BR>Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: Nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Thí dụ, trong cơ chế bao cấp ở nước ta trước đây, do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên không kích thích được tính tích cực của người sản xuất, không phát huy được năng lực sẵn có của lực lượng sản xuất của chúng ta. Nhưng từ sau đổi mới, khi chúng ta chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nước ta, do vậy tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất phát triển. <BR><I>            <B>3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận           </B><BR></I>Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức. Cùng một nội dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình thức, ngược lại, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.<BR>Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo được sự vật, trước hết ta phải căn cứ vào nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.           <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 16. Bản chất và hiện tượng      <BR><I>            1. Khái niệm bản chất và hiện tượng</I></B><I>            <BR>            - Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.<BR>             - Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.</I><BR>            Thí dụ: Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân, còn những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân. Bản chất quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột. Giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân làm ra. Nhưng biểu hiện của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng, hai bên được tự do thỏa thuận với nhau. Người công nhân có quyền ký hoặc không ký vào bản hợp đồng với nhà tư sản. Thậm chí nhà tư sản còn chăm lo đến sức khỏe của người công nhân và gia đình họ nếu điều đó có lợi cho việc tăng khối lượng giá trị thặng dư. <BR>            Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. Thí dụ: Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của con người như đều có đầu, mình và các chi... đó là cái chung, nhưng không phải bản chất của con người.        <BR>            Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về mức độ nhận thức của con người) nhưng không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất còn bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.     <BR>            <B><I>2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng    </I></B><I><BR>            </I>Quan điểm duy tâm không giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, vì họ không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.            <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Chủ nghĩa duy tâm chủ quan</I> </B>cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người.             <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Chủ nghĩa duy tâm khách quan</I></B> tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất nhưng đó không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần. Thí dụ: Platôn cho rằng, thế giới những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất biến là bản chất chân chính của mọi sự vật. Những sự vật mà chúng ta cảm nhận được chỉ là hình bóng của những thực thể tinh thần mà thôi.         <BR>            Trái với các quan điểm trên đây, <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>chủ nghĩa duy vật biện chứng</I></B> cho rằng, cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật; hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.      <BR>            Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.      <I><BR>            <B>a) Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng        <BR>            </B></I>Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. V.I. Lênin viết: "<I>Bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính bản chất</I>"(1).     <BR>            Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo. Thí dụ: Bản chất của giai cấp tư sản của chế độ tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Bản chất này được bộc lộ ra ở nhiều hiện tượng trong chủ nghĩa tư bản như bần cùng hóa giai cấp vô sản, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chiến tranh. Khi không còn giai cấp tư sản, không còn chế độ bóc lột giá trị thặng dư nữa thì những hiện tượng trên cũng sẽ mất theo, con người sẽ làm chủ thực sự được tự nhiên, xã hội và bản thân mình.   <BR>            Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. <BR>            <B><I>b) Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng </I></B><I><BR>            </I>Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:      <BR>            Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. V.I. Lênin viết: "<I>Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt thường biến mất, không bám "chắc", không "ngồi vững" bằng "bản chất</I>"(2)­­­­­.<BR>            Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Thí dụ, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư, bản chất đó được thể hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý, thậm chí tăng lương và cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công nhân... để nhằm mục đích nâng cao giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản, cho nên nếu không tìm hiểu kỹ sẽ không thấy được bản chất thật sự của giai cấp tư sản mà chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài của nó, không có được sự đánh giá toàn diện đúng đắn về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">   <BR><I>            3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận           </I></B><I><BR></I>Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng, vì vậy muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế. Hơn nữa bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. V.I. Lênin cũng viết rằng: "<I>Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai, v.v.. </I><I>cứ như thế mãi</I>"(1).<BR>Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 17</B><B>. Khả năng và hiện thực       <BR>            <I>7.1. Khái niệm khả năng và hiện thực          <BR> </I></B><I>- Phạm trù hiện thực được dùng để phản ánh những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.<BR> - Phạm trù khả năng được dùng để chỉ những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng             .<BR>            </I>Cần phân biệt khái niệm hiện thực với khái niệm hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan là khái niệm chỉ các sự vật, vật chất tồn tại độc lập với ý thức của con người. Còn hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức của con người. Tuy nhiên ở đây không nên quan niệm khái niệm hiện thực rộng hơn khái niệm hiện thực khách quan mà đây là những khái niệm triết học phản ánh những mặt khác nhau của thế giới trong đó chúng ta đang sống.<BR>            Khả năng là "cái hiện chưa có" nhưng bản thân khả năng với tư cách "cái chưa có" đó lại tồn tại. Tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng để xuất hiện sự vật đó thì tồn tại. Thí dụ: Trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh... đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này, cái bàn là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế nhưng khả năng xuất hiện cái bàn thì tồn tại trên thực sự. Như vậy dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực là ở chỗ: khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại.            <BR>            Cần phải phân biệt khả năng với tiền đề, hoặc điều kiện của một sự vật nào đó. Tiền đề hay điều kiện của một sự vật nào đó đều là những cái hiện đang tồn tại thật sự là những yếu tố hiện thực trên cơ sở đó xuất hiện cái mới. Còn khả năng không phải là bản thân các tiền đề, điều kiện của cái mới mà là cái mới đang ở dạng tiềm thế, chỉ trong tương lai với những điều kiện thích hợp nó tồn tại thực. Khả năng cũng không đồng nhất với cái ngẫu nhiên và phạm trù xác suất.       <BR>            Mọi khả năng đều là khả năng thực tế nghĩa là khả năng thực sự tồn tại do hiện thực sinh ra. Nhưng có khả năng được hình thành do quy luật vận động nội tại của sự vật quy định, được gọi là khả năng tất nhiên. Có khả năng được hình thành do các tương tác ngẫu nhiên quy định được gọi là khả năng ngẫu nhiên. Thí dụ: Gieo hạt ngô xuống đất, khả năng hạt ngô sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại do những hạt ngô mới là khả năng tất nhiên, nhưng cũng có khả năng hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hoại nên không thể nảy mầm, không thể phát triển thành cây, cho hạt được. Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được gọi là khả năng ngẫu nhiên. Trong khả năng tất nhiên lại bao gồm khả năng gần, nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực và khả năng xa, nghĩa là chưa đủ điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.         <BR>            <B><I>2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực<BR></I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật</I></B>. Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất.<BR><I>Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng</I>. Thí dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau khi phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu vực đã nhận định rằng, đất nước ta hiện nay đang "có cả cơ hội lớn và thách thức lớn", những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng "tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lớn đó là 4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và quan liêu, "diễn biến hòa bình" do thế lực thù địch gây ra. Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều khả năng (cả thuận lợi, cả khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải nhận thức rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.<BR>Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Thí dụ: Nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.<BR>            Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện. Thí dụ để một hạt thóc có khả năng nảy mầm, cần một tập hợp các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp suất...   <BR>            Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiện khách quan. Như vậy chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            <B>3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận</B>           <BR>            </I>Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động của mình.             <BR>            Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên... Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.         <BR>            Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Vì vậy, trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người đề biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.        <BR><B>            NOTE  </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Một số vấn đề chung về phạm trù</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B>1. Định nghĩa phạm trù và  phạm  trù triết học     <I><BR></I></B><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau con người thường phải sử dụng những khái niệm, chẳng hạn khái niệm "cái cây", "cái nhà", "thực vật", "động vật", "con người", v.v.. Khái niệm là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản của một lớp những sự vật, hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan.    Khái niệm rộng nhất thì được gọi là phạm trù. Vậy, phạm trù  là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định của hiện thực khách quan.        <BR>            Do đối tượng nghiên cứu chi phối, mỗi bộ môn khoa học có một hệ thống phạm trù riêng của mình. Thí dụ, trong toán học có phạm trù "số", "hình", "điểm", "mặt phẳng", "hàm số",v.v.. Trong vật lý học có các phạm trù "khối lượng", "vận tốc", "gia tốc", "lực",v.v.. Trong kinh tế học có các phạm trù "hàng hoá", "giá trị", "giá cả", "tiền tệ", "lợi nhuận", v.v..  <BR>            Các phạm trù trên đây chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực  nhất định của hiện thực thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học chuyên ngành. Khác với điều đó, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như "vật chất", "ý thức", "vận động", "đứng im", "mâu thuẫn", "số lượng", "chất lượng", "nguyên nhân", "kết quả", v.v.. là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ  cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. <BR>Giữa phạm trù của triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là quan hệ giữa cái chung và cái  riêng.          </I><BR><I>            </I><B>2. Bản chất của phạm trù<I>     </I></B><I><BR>            </I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Trong lịch sử triết học, các trường phái triết học đã đưa ra cách giải quyết khác nhau về vấn đề bản chất của phạm trù.         <BR>            Những người thuộc phái duy thực cho rằng: Phạm trù là những thực thể ý niệm, tồn  tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Ngược lại những người thuộc phái duy danh lại cho rằng: Phạm trù chỉ là những từ trống rỗng, do con người tưởng tượng ra, không biểu hiện một cái gì của hiện thực.        <BR>            Khác với các quan niệm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: <BR>Các phạm trù không có sẵn trong bản thân con người một cách bẩm sinh, cũng không tồn tại sẵn ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người như quan niệm của những người duy thực, mà được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Mỗi phạm trù xuất hiện đều là kết quả của quá trình nhận thức trước đó, đồng thời lại là bậc thang cho quá trình nhận thức tiếp theo của con người để tiến gần đến nhận thức đầy đủ hơn bản chất của sự vật. V.I.Lênin viết: "Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng, con người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là sự nhận thức thế giới. Chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm được màng lưới"</I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">[1]</I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">.<BR>Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Vì vậy nội dung của nó mang tính khách  quan, bị thế giới khách quan quy định, mặc dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. V.I.Lênin viết: "Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu  tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc"[2]</I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">.   <BR>            Các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc lập với ý thức của con người, mà còn luôn vận động, phát triển, chuyển hoá lẫn nhau. Mặt khác, khả năng nhận thức của con người cũng thay đổi ở mỗi giai đoạn lịch sử. Do vậy các phạm trù phản ánh thế giới khách quan cũng phải vận động và phát triển để có thể phản ánh đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan. Vì vậy, hệ thống phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là một hệ thống đóng kín, bất biến, mà nó thường xuyên được bổ sung bằng những phạm trù mới cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận thức khoa học.</I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B>                   Câu 18: Bản chất của nhận thức       <BR></B>Khi trình bày bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện một số quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.      <BR>          <B><I>1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trướcMác<BR>          </I></B>Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự "hồi tưởng lại" của linh hồn bất tử về "thế giới các ý niệm" hoặc là sự "tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối". Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người.<BR>Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức.  Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được các thuộc tính bề ngoài, còn bản chất bên trong của sự vật thì không thể nhận thức được.   <BR>          Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.<BR>          Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác- Lênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.      <BR><B><I>2. Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin</I></B>  <I><BR>          </I>Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các thành tựu khoa học, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: <BR>          <I>Một là</I>, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.           <BR>          <I>Hai là</I>, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.           <BR>          <I>Ba là</I>, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.         <BR>          <I>Bốn là</I>, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. <BR>          Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B>          Câu 19. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức   <BR>          <I>1. Phạm trù thực tiễn      </I></B><I><BR>          </I>Trong lịch sử triết học trước Mác, các trào lưu đều có quan niệm chưa đúng, chưa đầy đủ về thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hiểu được thực tiễn là hành động vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt động con buôn đê tiện, không có vai trò gì đối nhận thức của con người.<BR>Triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học.         <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Vậy thực tiễn là gì?</I></B><I>         </I><BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.<BR></I></B>Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng và bản  chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Do vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã hội. <BR>          Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.<BR>Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm vật chất nhằm duy trì sự tồn tại thiết yếu của mình. <BR>Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. <BR>Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận động  của đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.<BR>Giữa các dạng hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất tạo ra điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển; đồng thời cũng tạo điều kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn các dạng hoạt động khác nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật chất được tăng cường, nếu phản tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.<BR>Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.  <BR>          <B><I>2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức</I></B><I>     <BR></I>          Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự  vật vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong. Các thuộc tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận chuyển thành những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất các quy luật phát triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu cần đo đạc diện tích, đo sức chứa của các bình mà toán học ra đời và phát triển... Suy cho đến cùng không có một lĩnh vực nào lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ hướng dẫn thực tiễn.          <BR>          Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất... mà đòi hỏi các môn khoa học quản lý ra đời và phát triển.<BR>Hơn nữa, nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết không phải vì bản thân nhận thức mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn. Chẳng hạn, các môn khoa học quản lý ra đời nhằm giúp các nhà quản lý tìm ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.      <BR>          Như vậy, thực tiễn vừa là cơ sở, động lực vừa là mục đích của nhận thức. Không những thế thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận thức, kiểm tra chân lý. Bởi vì nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình thức trực tiếp và gián tiếp, điều đó không thể tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự vật cần nhận thức không đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng. Trong quá trình đó, nhiều thuộc tính, nhiều mối quan hệ mới đã bộc lộ mà nhận thức chưa kịp phản ánh. Để phát hiện mức độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận thức phải dựa vào thực tiễn. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Qua thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện kết quả nhận thức. C. Mác viết: "<I>Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý</I>".<BR>Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: "<I>Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức</I>". Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.       <BR><BR>          <B>Câu 20 : Phân tích con đường bản chất cảu quá trình nhận thức      <BR>          </B>Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân ra thành cấp độ khác nhau: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.<I><BR>          <B>1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính <BR>          </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">a. Nhận thức cảm tính</B></I> (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm các hình thức sau:<BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">-  <I>Cảm giác</I></B> là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lênin viết: "<I>Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan</I>".      <BR>          Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.  <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>- Tri giác</I></B> là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. <BR>So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.   <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- <I>Biểu tượng</I></B> là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan.      <BR>          Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.       <BR>          <I>Như vậy, nhận thức cảm tính có đặc điểm</I>: Là giai đoạn nhận thức trực tiếp sự vật, phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện cơ quan cảm giác, kết quả thu nhận được tương đối phong phú, phản ánh được cả cái không bản chất, ngẫu nhiên và cả cái bản chất và tất nhiên. Hạn chế của nó là, chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.      <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b. Nhận thức lý tính</I> (Tư duy trừu tượng</B>) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.<BR>          - <I>Khái niệm</I> là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật.         <BR>          Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.    <BR>          Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.           <BR>          <I>- Phán đoán</I> là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán. Bởi vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc" "Việt Nam" với khái niệm "anh hùng".         <BR>          Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.<BR>Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.     <BR>          <I>- Suy luận</I> là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.       <BR>          Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.          <BR>          Từ ba hình thức trên ta có thể rút ra giai đoạn nhận thức lý tính có đặc điểm sau: Là giai đoạn nhận thức gián tiếp, trừu tượng, khái quát sự vật. Nhận thức lý tính phụ thuộc vào năng lực tư duy của con người. Do đó phản ánh được chính xác mối liên hệ bản chất tồn tại bên trong một sự vật hay một lớp các sự vật.<BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính</I></B><I>         <BR>          </I>Nhận thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản ánh, đó là các sự vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn quy định. Đây là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức. Do vậy, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng cho nhận thức cảm tính để có thể phản ánh được sâu sắc hơn.<BR>Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có được những tri thức về đối tượng. Còn bản thân tri thức đó có chân thực hay không thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng định, nhận thức phải trở về thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn.<B><I><BR>          2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận    </I></B><I><BR></I>Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.     <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a. Nhận thức kinh nghiệm</I></B><I>        <BR>          </I>Đây là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại, tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.   <BR>          <I>- Tri thức kinh nghiệm thông thường</I> là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất phong phú, nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để điều chỉnh hoạt động hàng ngày.<BR>          <I>- Tri thức kinh nghiệm khoa học</I> là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để hình thành nhận thức khoa học và lý luận.           <BR>          Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.    <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b.Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận)</I></B><I>         <BR>          </I>Đây là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.     <BR>          Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, có quan hệ biện chứng với nhau.Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Vì nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận và cung cấp tư liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ tổng kết kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những sự kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.<BR>          Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức đó cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trọng việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.<BR><I> <B>         3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học         </B><BR></I>Khi căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân ra thành nhận thức thông  thường và nhận thức khoa học.<BR>          <I>a. Nhận thức thông thường</I> (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được.          <BR>          <I>b. Nhận thức khoa học</I> là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật.<BR>Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật  ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ.     <BR>Như vậy, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.<BR> <B>Câu 21 : Chân lí là gì ?các tính chất cơ bản của bản chân lí  <BR>          <I>1. Khái niệm chân lý       <BR>          </I></B>Có nhiều quan điểm khác nhau về chân lý. Các nhà thực chứng cho rằng chân lý là những tư tưởng, quan điểm được nhiều người thừa nhận. Đây là một quan điểm phiến diện, bởi vì trong thực tế có những quan điểm được nhiều người thừa nhận nhưng lại không đúng đắn.         <BR>          Chủ nghĩa phát xít lại đưa ra quan điểm coi chân lý là những luận điểm của kẻ mạnh, chân lý thuộc về kẻ mạnh. Đây là quan điểm sai lầm, bởi vì dùng yếu tố chủ quan để xác định giá trị của những tri thức phản ánh thuộc tính khách quan.<BR>Bác bỏ những quan điểm sai lầm đó, triết học Mác - Lênin cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Như vậy chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.<BR>          <B><I>2. Các tính chất của chân lý      <BR>          </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a. Chân lý có tính khách quan</I>. </B>Tính khách quan của chân lý biểu hiện nội dung phản ánh của chân lý độc lập với ý thức của con người và loài người, không phải là sản phẩm thuần tuý chủ quan, mà nội dung nó thuộc về khách quan, do thế giới khách quan quy định.           <BR>          Ví dụ, luận điểm cho rằng: "Trái đất quay xung quanh mặt trời" là một chân lý. Chân lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung luận điểm đó phản ánh đúng sự kiện có thực, tồn tại độc lập đối với mọi người.   <BR>Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật dùng để phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng so với chủ nghiã duy tâm và thuyết không thể biết. Vì vậy trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, hoạt động theo quy luật khách quan.<BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b. Chân lý có tính tuyệt đối và tính tương đối</I></B>. Tính tuyệt đối của chân lý  là tính phù hợp hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, con người có thể đạt tới tính tuyệt đối của chân lý. Bởi vì, khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Song khả năng đó bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể, bởi điều kiện xác định về không gian, thời gian.<BR>Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa giữa nội dung của chân lý với khách thể phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một khía cạnh nào đó.   <BR>          Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối; ngược lại, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối.         <BR>          Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuỵêt đối của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu hoá tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại nếu tuyệt đối hoá tính tương đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối; từ đó dẫn đến chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật nguỵ biện.   <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>c. Tính cụ thể của chân lý</I></B>. Điều đó có nghĩa mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định. Nội dung đó không phải sự trừu tượng thuần tuý thoát ly hiện thực mà luôn gắn bó với một đối tượng, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất cứ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử - cụ thể. Nếu thoát ly tính cụ thể, thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần tuý. Lênin viết: "<I>không có chân lý trừu tượng</I>", "<I>chân lý luôn luôn là cụ thể</I>".<BR>Việc nắm vững nguyên tắc tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể; Phải xuất phát từ điều kiện cụ thể mà vận dụng lý luận chung cho phù hợp.<BR>Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tương đối, tuyệt đối và tính cụ thể. Các tính chất đó không tách rời nhau mà quan hệ chặt chẽ với nhau. Thiếu một trong những tính chất đó thì những tri thức đạt được không thể có giá trị đối với đời sống của con người. <I><BR>          <B>3.Tiêu chuẩn của chân lý</B>          <BR>          </I>Khi bàn đến tiêu chuẩn để đánh giá chân lý, có nhiều quan điểm khác nhau.<BR>Chủ nghĩa duy tâm quan niệm, tính rõ ràng, tính chặt chẽ là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý.          <BR>          Có quan điểm cho rằng, lấy việc được nhiều người thừa nhận làm tiêu chuẩn để đánh giá chân lý.      <BR>          Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, chân lý là kết quả của quá trình nhận thức khoa học nên bao giờ cũng đảm bảo tính rõ ràng, chặt chẽ và sớm hay muộn cũng sẽ được nhiều người thừa nhận, nhưng đó chưa phải là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý; tiêu chuẩn để đánh giá nhận thức không thể nằm trong nhận thức mà phải cao hơn nhận thức. C.Mác đã viết: "<I>Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý</I>". Như vậy tiêu chuẩn sát thực để đánh giá chân lý là thực tiễn, tiêu chuẩn đó quy định nhận thức không thể đạt ngay đến trạng thái vĩnh cửu.   </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B>Câu 22 : Trình bày mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ: "Quan điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức". Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: "Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của đảng". Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là cần thiết.<BR>Để giải quyết vấn đề nêu trên, theo chúng tôi trước hết cần phải xác định rõ khái niệm thực tiễn phân biệt nó với khái niệm hoạt động, sau đó là với khái niệm hoạt động lý luận. Trong các tài liệu khoa học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thực tiễn, nhưng có thể nói, chưa có một ý kiến thống nhất về vấn đề này. Tính đến các quan điểm khác nhau, chúng tôi xin trình bày vắn tắt quan điểm của chúng tôi về khái niệm thực tiễn như sau.           <BR>            Thứ nhất, thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù người. Khái niệm thực tiễn đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài người. <BR>            Thứ hai, thực tiễn là hoạt động người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đây là điểm khác biệt của thực tiễn so với hoạt động nhận thức.        <BR>            Thứ ba, thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục đích được đặt ra từ trước.<BR>            Thứ tư, thực tiễn mang tính chất lịch sử xã hội. Đó là những đặc điểm chung của thực tiễn mà nhiều tác giả đã nhất trí.       <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Vậy thực tiễn là gì?</B> Theo chúng tôi, có thể xác định thực tiễn làhoạt động của một chủ thể lịch sử cụ thể, trong quá trình hoạt động ấy nó tiến hành cải tạo vật chất đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản thân, với mô hình lý tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối liên hệ giữa đối tượng hóa và giải đối tượng hoá trong quá trình này mà nó tự cải tạo chính bản thân mình. Định nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng của thực tiễn xã hội và phân biệt nó với các hoạt động không phải là hoạt động thực tiễn. Điều cơ bản trong định nghĩa này là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình, chủ thể chuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể hiện ra là lực lượng tích cực của sự cải tạo.             <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào</B>? Phải lưu ý rằng có nhiều tác giả đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo chúng tôi, hoạt động hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số tác giả đã dựa vào câu nói của C.Mác - "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để đồng nhất hai khái niệm "thực tiễn" và "hoạt động". Theo chúng tôi, không có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó. Câu nói mang tính nguyên tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên đồng nhất bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào (lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực tiễn.             <BR>            Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù "hoạt động", xét về ngoại điên, là rộng hơn phạm trù "thực tiễn". Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?       <BR>            Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình lý luận của đối tượng. Còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên chực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy theo chúng tôi, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng hoá của khoa học, còn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.      <BR>            Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà không có tính chủ quan, tính hướng đích? Theo chúng tôi, đây là vấn đề quan trọng để phân biệt hoạt động /ý luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn không thể thiếu ý thức. Song luận điểm đó không chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và lý luận. Thứ nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động lý luận có một giá trí độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như là một mô hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mô hình, lý tưởng), trong trường hợp này, không có một giá trị độc lập, nó không có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đấy đủ) để đưa các kết quả hoạt động lý luận vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh hướng nghiên cứu mới - nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do quần chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó không thểthiếu lý luận, lý luận được tiếp biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội.         <BR>            Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức lý luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).             <BR>            Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo chúng tôi, còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề - khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư duy lý luận, con người bằng xương thịt. Chủ thểđược thể hiện qua tồng thể các đặc trưng xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn có thề nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thề, phát triển các năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó trong thế giới.           <BR>            Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thì thông qua quan hệ chủ thể - khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ...) thành cái vật chất (khách thể được cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thìchúng ta không thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.<BR>            Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận của con người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vòng khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.<BR>Song, sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tướng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô. hình lý luận. Theo chúng tôi, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau. <BR>            Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của lý luận là có tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận cách mạng hoàn toàn không phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội. <BR>            Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo chúng tôi cần được-vạch rõ cả trên các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả trình độ của ý thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính "thử nhất" và "thứ hai" áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo chúng tôi, ở đây chỉ có thể nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.           <BR>            Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội hoàn thành vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, không nên tuyệt đối hoá cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.<BR>            Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của quá trình đó, theo chúng tôi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta luôn có được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.      <BR>(Tham khảo Các-Mác và Angghen tuyển tập, Tạp Chí Triết học)</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B>Câu 23: </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Tại sao nói sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì?            <BR>            </B>Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen, "điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất"(1).<BR><I>Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.        </I><BR>            Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Bằng việc "sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình"(2).<BR>Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v... đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Khái quát lịch sử phát triển của nhân loại, C.Mác đã kết luận: "Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp tạo ra một cơ sở, chính từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta"(3).     <BR>            Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất vật chất của xã hội.          <BR><B>Câu 24: Phân tích nội dung quan hệ sản xuấtphải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất</B> </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất<BR>            </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a. Phương thức sản xu t        </I></B><I><BR>            </I>Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức nhất định. <I>Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.    <BR>            </I>Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.      <BR>            Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.         <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b. Lực lượng sản xuất           </I></B><I><BR>            </I>Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.       <BR>            Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, "<I>lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động</I>"(1). Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.     <BR>            Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa", nó "nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.<BR>Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ và là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.       <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>c. Quan hệ sản xuất</I></B><I>   <BR>            Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất</I> (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.<BR>Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất"(1). Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.<BR>            Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.   <BR>            Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.<BR>Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.           <BR>            Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.<BR>            <B><I>2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất             </I></B><I><BR>            </I>Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.            <BR>            Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.   <BR>            Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. <BR>            <I>Trình độ lực lượng sản xuất</I> trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.<BR>Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là <I>tính chất của lực lượng sản xuất</I>. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa. <BR>            <I>Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.</I> Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.   <BR>            <I>Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. </I>Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"(1).         <BR>            <I>Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.</I> Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.   <BR>            Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><BR><B>Câu 25: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng<BR>            <I>1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng          <BR>            </I></B>Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"(1).   <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a. Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.       </I></B><I><BR>            </I>Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.<BR>Như vậy, <I>xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng</I>.         <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b. Kiến trúc thượng tầng: </I></B><I>Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định</I>. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.<BR>Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối kháng, trong đó, đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị - tư tưởng của giai cấp thống trị.        <BR>            Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.<BR>            <B><I>2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng        <BR>            </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng       <BR></I></B>Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. <BR>            - Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v.. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.             <BR>            - Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng"(1). <BR>            Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.     <BR>            Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.<BR>Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.             <BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>b. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng</I></B><I><BR>            </I>Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.        <BR>            Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.<BR>Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.           <BR>            Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.<BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 26. Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Vì sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?        <BR>            <I>1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội           </I></B><I><BR>            Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.        <BR>            </I>Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.<BR>Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.      <BR>            Quan hệ sản xuất là "<I>quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác</I>"(1). Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.        <BR>            Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v... các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển trên cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.<BR>Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.    <BR><B><I>2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên</I></B><I><BR></I>Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"(1).<BR>Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.<BR>Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I. Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"(2).       <BR>            Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.<BR>Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.             <BR>            <B><I>3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội</I></B><I>           <BR>            </I>Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Đó là:      <BR>            Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.   <BR>            Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.             <BR>            Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. V.I. Lênin viết: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"(1).<BR>Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó "không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp... duy nhất khoa học để giải thích lịch sử"(2).<BR>Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đòi phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.           <BR><B>Đọc thêm :Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta             <BR>1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa<BR></B><I>            </I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.        <BR>            Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Khi đó, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa xã hội.            <BR>            Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.          <BR>            Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. </I><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.   <BR>            Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".      <BR>            "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.            <BR>            Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ"(1).        <BR>            </I><B>2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa            <I><BR>            </I></B><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"(2).          <BR>            Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.            <BR>            Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.   <BR>            Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc"([1]).            <BR>            Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: "Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối"(2).             <BR>            Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. "Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động của toàn thể nhân dân"([2]).      <BR>            </I><B>3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta</B><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">             <BR>Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.    <BR>            Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.           <BR>            Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.     <BR>            </I><B>4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội <I><BR>            </I></B><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.     <BR>            Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".             <BR>            Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.         <BR>            Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ ra: "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao"(1).</I></P>

<EM>            Câu 27:Phân tích định nghĩa giai cấp của Lênin.Ý nghĩa của định nghĩa</EM>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B><EM>1. Giai cấp      </EM></B><BR>           Trong tác phẩm <I>Sáng kiến vĩ đại</I>, Lênin định nghĩa : "<I>Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định</I>".   <BR>           Như vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:              <BR>           <I>Thứ nhất</I>, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội.        <BR><I>           Thứ hai</I>, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội         .<BR>           <I>Thứ ba</I>, khác nhau về phương thức sản xuất và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội.      <BR>           Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất. Tập đoàn người nào nắm tư liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các tập đoàn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.<BR>           Trong các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị còn có những tầng lớp và giai cấp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hoá. Nhân tố chi phối sự phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.        <BR>           Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.      <BR>            <B><I>2. Nguồn gốc hình thành giai cấp     </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><BR>            </B>Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: "<I>Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất</I>"<I>.</I> Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.<BR>           Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.  <BR>           Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.        <BR>           Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.<I>.</I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B><I>3. Kết cấu xã hội - giai cấp.</I></B><I>   </I><BR>           Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế lẫn nhau trong lịch sử. Mỗi kiểu xã hội có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô nệ trong chế độ nô nệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại. <BR>            Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số tầng lớp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ( như nô lệ trong buổi đầu của xã hội phong kiến), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất trong tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến). Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, đó là tầng lớp trí thức.    <BR><B><I>Câu 28:Đấu tranh giai cấp là gì? Vai trò của đấu tranh giai cấp    </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><BR></B>           Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là "<I>cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản</I>".<BR>           Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột.             <BR>           Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.   </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I _mce_style="mso-bidi-font-style: normal;">Vai trò của đấu tranh giai cấp - làmột trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp<BR></I>Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu  tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội vì vậy "đấu tranh giai cấp là <I>động lực trực tiếp</I> của lịch sử các xã hội có giai cấp"             .<BR>           Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.<BR _mce_style="mso-special-character: line-break;"><BR _mce_style="mso-special-character: line-break;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 29: Đấu tranh của giai cấp công nhân? Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay  </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">Đấu tranh của giai cấp công nhânĐấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.             <BR>           Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết "Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được".             <BR>           Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.     <BR>          Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.<BR>           Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của cả nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức mới. Bởi vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền. Mối quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột chống nghèo nàn lạc hậu đấu tranh chống tình trạng đói nghèo, kém phát triển. Vì vậy, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội .           <BR _mce_style="mso-special-character: line-break;"><BR _mce_style="mso-special-character: line-break;"></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 30: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước. Các kiểu hình của nhà nước trong lịch sử</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            a. Nguồn gốc của nhà nước </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có điều kiện khách quan để dẫn đến sự phân hóa giai cấp nên nhà nước chưa xuất hiện. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra; việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng các quy tắc chung không cần đến các công cụ cưỡng bức đặc biệt. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu. Đó là cơ sở kinh tế khách quan dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Để các giai cấp không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội thì một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, sau đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Theo quan điểm của Lênin, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được; và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            <B>b. Bản chất của nhà nước </B></I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Theo Ph. Ăngghen, về bản chất thì "Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác."(). Không có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Theo bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại nó lại làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều xuất ph2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng cơ bản của nó. Bất kỳ nhà nước nào cũng gồm có 3 đặc trưng cơ bản sau: </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            a. Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định, có quyền lực với mọi thành viên không phân biệt huyết thống. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            b. Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy quản lý hành chính và các đội vũ trang đặc biệt ( quân đội, cảnh sát, nhà tù...), mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            c. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            <B>3. Chức năng cơ bản của nhà nước:</B> Bản chất của nhà nước còn thể hiện ở chức năng của nó. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            <B>a. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội </B></I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chi phối chức năng xã hội và chỉ được thực hiện thông qua chức năng xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            b. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị, thực hiện thông qua sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng bộ máy thông tin tuyên truyền, văn hóa, giáo dục... để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho nó trở thành chính thống trong xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia khi lợi ích của quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            4. Các kiểu và hình thức nhà nước </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            a. Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp - xã hội và đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước... </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            b. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Tuỳ theo tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước có thể được tổ chức theo những hình thức nhất định. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Nhà nước chiếm hữu nô lệ có hình thức quân chủ và cộng hòa. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Nhà nước phong kiến có hình thức phân quyền và tập quyền. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>- Nhà nước tư sản có hình thức cộng hòa và quân chủ lập hiến. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 31: Những đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước vô sản khác với các nhà nước trong lịch sử như thế nào? </B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            a. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, Mác đã viết: " Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản." </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản là vì trong thời kỳ quá độ, xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Đồng thời, sự tồn tại các giai cấp và tầng lớp trung gian khác mà do địa vị kinh tế - xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với nhân dân. Lênin viết: " Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản, chuyên chính của giai cấp đó"(). Nghĩa là, chuyên chính vô sản là phương thức, phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thì giai cấp vô sản phải nắm vững công cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp những thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản nhất của chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực với bọn bóc lột mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chuyên chính vô sản, là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm cơ sở. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Chuyên chính vô sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp đỡ từ mọi phương diện có thể được cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Nhà nước vô sản là tổ chức thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            <B>b. Nhà nước CHXHCN Việt Nam</B> là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Nhà nước CHXHCN được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Nhà nước CHXHCN Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức và hoạt động của mình. Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân có khả năng phát hiện và giai quyết những vấn đề có liên quan tới chức năng xã hội. Ngược lại, việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Để nhà nước ta thực sự là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, trong giai đoạn trước mắt chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt nhiệm vụ: " Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp"(). Đồng thời, chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, cũng cần phải kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược để vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách, vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 32: Khái niệm cách mạng xã hội? Tại sao nói cách mạng xã hội là đầu tàu cả lịch sử?<I></I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            a. Khái niệm cách mạng xã hội: </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế-xã hội cao hơn. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tốt đẹp hơn. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>             b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội. </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. " Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"(). </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại diện cho lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng công cụ nhà nước có trong tay để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền nhà nước. Do đó, cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp, là bước nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            c. Vai trò của cách mạng xã hội </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hóa - tư tưởng. Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Trong các thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ, như Mác đã nói: cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><I>Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của 4 cuộc cách mạng xã hội đưa nhân loại trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau, trong đó cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội mới về chất. Nếu các cuộc cách mạng trước đây chỉ thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân và chế độ bóc lột, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng triệt để con người. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>            d. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội </I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Tính chất của cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn trong kinh tế và xã hội. Nó phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp nào, xóa bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Lực lượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít hoặc nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><I>            Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng. </I></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Vai trò lãnh đạo trong cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại. </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 33: Trình bày khái niệm tồn tại xã hội? Ý thức xã hội? Kết cấu của ý thức xã hội</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>          1.1. Khái niệm tồn tại xã hội     </I></B><I><BR>            </I>Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.            <I><BR>            </I>Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó có các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.      <I><BR>          <B>1.2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của nó      <BR>            </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">a. Khái niệm       <BR></B>            </I>Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.<I><BR>            </I>Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Các ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải lúc nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một thời đại xã hội nhất định.<I><BR>            </I>Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.          <I><BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">b. Kết cấu của ý thức xã hội   </B><BR>            </I>Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau. Chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:         <I><BR>            <B>-Ý</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"> thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.</B>    <BR>            </I>Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. <I><BR>            </I>Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trò quan trọng ở chỗ, nhờ nó mà tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình thành các lý thuyết khoa học.<I><BR>            </I>Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.   <I><BR><B>            </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội</B>.       <BR>            Tâm lý xã hội</I> là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.<I><BR>            </I>Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống của xã hội và phản ánh có tính tự phát, do vậy thường ghi lại những mặt bề ngoài không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận.<I><BR>            </I>Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong đời sống xã hội, biểu hiện ở chỗ, nếu nắm bắt được trạng thái tâm lý của nhân dân thì sẽ tìm ra được các biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.<I><BR>            Hệ tư tưởng</I> là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián tiếp, tự giác, khái quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo). <I><BR>            </I>Đặc điểm của hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội do vậy có khả năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.<I><BR>            </I>Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.        <I><BR>            </I>Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội.  Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư  ảo hoặc xuyên tạc.      <I><BR>            </I>Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định và làm cho hệ tư tưởng, lý luận xã hội bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.   <BR>          Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Đọc thêm <I>1.3.Tính giai cấp của ý thức xã hội        </I></B><I><BR>            </I>Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, có những lợi ích khác nhau; do đó ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.            <I><BR>            </I>Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm đối với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở hệ tư tưởng thì tính giai cấp biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng có sự đối lập nhau giữa tư tưởng của giai cấp bóc lột, thống trị và tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.<I><BR>            </I>Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của gia cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động, chống lại giai cấp bóc lột, thống trị, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bót lột. Hai loại hệ tư tưởng đó thường đấu tranh với nhau, phán ánh cuộc đấu tranh giai cấp về lĩnh vực tư tưởng.        <I><BR>            </I>Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời còn cho rằng ý thức của các giai cấp trong xã hội thường có sự tác động qua lại với nhau. Các giai cấp bị trị do bị áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng thống trị. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội tuỳ vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.      <I><BR>            </I>Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, mà trái lại giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Đặc biệt ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ hệ tư tưởng của giai cấp mình, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp cách mạng.<I><BR>            </I>Ý thức cá nhân trong xã hội có sự phân chia giai cấp, về bản chất là biểu  hiện mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp. Nhưng mỗi cá nhân lại có hoàn cảnh giáo dục, trường đời mà họ phải qua rất khác nhau, làm cho ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp vừa mang đặc điểm cá nhân. Điều đó tạo thành thế giới tinh thần của cá nhân này khác với thế giới tinh thần của cá nhân khác trong cùng giai cấp.<I><BR>            </I>Tuy nhiên, quá nhấn mạnh những điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân trong ý thức con người sẽ dẫn đến hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Vì vậy, khi đánh giá các hiện tượng ý thức xã hội có giai cấp phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân. <I><BR>            </I>Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách... của dân tộc phản ánh điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Những bộ phận đó truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.<I><BR></I>2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội<I><BR>2.1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định<BR>            </I>Công lao to lớn của Các Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, vì đã giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và xậy dựng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong đầu óc của con người, mà phải tìm trong hiện thực vật chất.<I><BR>            </I>Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.<I><BR>            </I>Như vậy: "không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ"([1]). Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng, lý luận xã hội, quan điểm chính trị, pháp quyền.v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh  tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 34: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B><I>1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định<BR></I></B><I>            </I>Công lao to lớn của Các Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, vì đã giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và xậy dựng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong đầu óc của con người, mà phải tìm trong hiện thực vật chất.        <I><BR>            </I>Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản. <I><BR>            </I>Như vậy: "không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ"([1]). Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng, lý luận xã hội, quan điểm chính trị, pháp quyền.v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh  tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.  <I><BR>          <B>2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội  </B><BR>            </I>Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:           <I><BR>            a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội       <BR></I>          Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:           <I><BR>            Một là</I>, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.      <I><BR>            Hai là</I>, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.      <I><BR>            Ba là</I>, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. <I><BR>            </I>Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.       <I><BR><B>            </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội </B><BR>            </I>Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội  so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.    <I><BR>            </I>Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế       .<I><BR>            </I>Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.     <I><BR> <B>         </B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển</B>         <BR></I>          Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.<BR>          Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.<BR>          Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.<BR>          Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.   <BR>          Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam          .<BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng</I></B><I><BR>          </I>Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.<I><BR>          </I>Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.           <I>         <BR>          <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội   <BR></B>          </I>Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: "Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế".       <I><BR>          </I>Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.           <I><BR>          </I>Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.      <I><BR>          </I>Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 35: Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.</B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội đã chứng minh rằng con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vai trò quyết định sự phát triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay của các cá nhân có phẩm chất đặc biệt - vĩ nhân lãnh tụ? Vấn đề đó chúng ta sẽ giải quyết dưới đây:    <BR><I>            <B>1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân.</B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"> <BR>            a. Khái niệm</B>   <BR>            </I>Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần chúng nhân dân bao gồm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.<BR>           Như vậy<I>, quần chúng nhân dân là một bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.     </I><BR>            Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi nội dung sau:<BR>            <I>Thứ nhất</I>, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.       <BR>            <I>Thứ hai</I>, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.         <BR>            <I>Thứ ba</I>, những giai cấp, những tầng xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiép trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.      <BR>           Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.             <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>            b. Vai trò của quần chúng nhân dân.           </I></B><I><BR></I>             Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên, và trao quyền cho các cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao vai trò của các vĩ nhân, còn quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm của xã hội khi cho rằng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận vai trò của các vĩ nhân hoặc không lý giải được một cách khoa học vai trò quần chúng nhân dân.      <BR>           Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần cúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.<BR>           Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung sau:<BR>           <I>Thứ nhất,</I> quần chúng nhân dân là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là dông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.       <BR>           <I>Thứ hai,</I> quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.   <BR>           <I>Thứ ba,</I> quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.   <BR>           Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hộ, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.<BR>           Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.          <BR>            <B><I>2. Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ <BR>            </I></B><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>a. Khái niệm. </I></B><I><BR></I>            Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.      <BR>           <I>Vĩ nhân</I> là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ trong phong trào của quần chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận. Đó là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, kinh tế, nghệ thuật...<BR>           Để trở thành lãnh tụ, ngoài những phẩm chất trên, cá nhân kiệt xuất còn phải gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.             <BR>Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:<BR><I>Một là,</I> có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.      <BR><I>Hai là,</I> có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.     <BR><I>Ba là,</I> gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.    <BR>           Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào của quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhu cầu của lịch sử. Lênin viết: "<I>Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào</I>".<BR>           <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"> <I>b. Vai trò của lãnh tụ             </I></B><I><BR></I>            Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu như sau: <BR><I>Thứ nhất</I>, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại, trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội. <BR><I>Thứ hai</I>, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.<BR> <I>Thứ ba</I>, tổ chức lực lượng giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.<BR>           Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau: <BR>            <I>Một là,</I> thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Nếu lãnh tụ nắm bắt được những quy luật vận động và phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại, nếu không nắm bắt được những quy luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển đối với xã hội, thậm trí có thể dẫn lịch sử đến những bước quanh co, phức tạp. <BR>            <I>Hai là,</I> lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển  và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy. <BR>            <I>Ba là, </I>lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với một thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và niềm tin của quần chúng nhân dân.<BR>            <B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>4.3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ</I></B><I>         <BR></I>            Cần phải khẳng định rằng, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng. Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện:<BR><I>           Thứ nhất</I>, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.          <BR>           <I>Thứ hai</I>, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Lợi ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá... Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về ý trí và hành động. Lợi ích đó vận động và phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp và tầng lớp xã hội. Từ đó, có thể thấy rằng, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.            <BR>           <I>Thứ ba</I>, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.          <BR>           Bởi vậy, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là biện chứng vừa thống nhất vừa khác biệt.     <BR>           Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đồng thời đánh giá vai trò của lãnh tụ, kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân.      <BR>           Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hoá cá nhân người lãnh đạo dẫn đến tuyệt đối hoá cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và của quần chúng nhân dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình. Người mắc căn bệnh sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Họ không thực hiện đúng chính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong cán bộ và nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ đối với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức khiêm tốn, gần gũi với nhân dân, đề cao vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân, xứng đáng là những cá nhân kiệt xuất mà toàn thể loài người tôn kính và ngưỡng mộ.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;">Câu 36 Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người? Phân tích quan điểm này.<BR>            <I>a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội</I></B><I>.<BR>            </I>Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.<BR>            Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người". Con người là một bộ phận của tự nhiên.<BR>            Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người, điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">           Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động. Là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy.             <BR>            Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.<BR>           Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.    <BR>           C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: "Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu <I>sản xuất ra</I> những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".   <BR>           Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên : "Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên".      <BR>           Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.     <BR>           Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau  nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.             <BR>           Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm  mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần     .<BR>           Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội .        <BR><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>            b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.</I></B></P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 130%; margin: 3pt 0in;">            Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.<BR>           Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong <I>Luận cương về Phoiơbắc </I>:"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"             .<BR>           Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.  <BR>           Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .       <BR>                                    </P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 140%; text-indent: 0.5in; margin: 3pt 0in;"><B _mce_style="mso-bidi-font-weight: normal;"><I>c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử            </I></B><I><BR>            </I>Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định " Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm<I> Biện chứng của tự nhiên,  </I>Ph.Ăngghen cũng cho rằng : " thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu".       <BR>           Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.         <BR>           Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử  xã hội loài người .</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 140%; margin: 3pt 0in;">           Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.</P>

<P _mce_style="text-align: justify; line-height: 140%; margin: 3pt 0in;">           Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.</P>

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro