ss12

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ừ ẤY - VỘI VÀNGĐề bài: Quan điểm sống của Xuân Diệu và Tố Hữu thể hiện trong hai bài thơ “Vội vàng” và “Từ ấy”.Gợi ý làm bài:1. Điểm chung:- Nhân vật trữ tình trong hai bài thơ đều là hình tượng cái tôi tác giả, vì thế nó thể hiện đầy đủ những nét độc đáo của thế giới tinh thần ở cả hai nhà thơ.- Cái tôi trẻ trung giàu nhiệt huyết, có tâm hồn sôi nổi, nồng nhiệt trong tình cảm.- Hai tác giả đều hướng đến cới cuộc đời, với con người bằng tình yêu chân thành, mãnh liệt.2. Điểm riêng:a. Cơ sở hình thành quan điểm sống:a1. Tố Hữu (Từ ấy):- Sự soi chiếu của ánh sáng lí tưởng cộng sản.- Niềm tin tưởng và hạnh phúc khi đón nhận lí tưởng ấy.a2. Xuân Diệu (Vội vàng):- Nhận thức về hữu hạn của thời gian, tuổi trẻ, giá trị của sự sống.- Rung động mãnh liệt:+Lo sợ, hoảng hốt trước bước đi của thời gian.+Tình yêu, niềm say mê với những vẻ đẹp của cuộc sống.b. Nội dung và quan điểm sống:b1. Tố Hữu:- Đối tượng hướng đến: tầng lớp quần chúng cần lao.- Thái độ: thiết tha gắn bó ( “buộc” ) ; sự gắn bó bằng tình cảm, bằng trái tim tự nguyện ( “buộc lòng tôi với mọi người” ).- Mục đích: +Chia sẻ, đồng cảm giã cá nhân với cộng đồng ( “Để tình trang trải với muôn nơi” )+Tạo thành một khối đoàn kết đầy sức mạnh ( “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” giữa “hồn tôi” với bao “hồn khổ” ).=> Tận hiến.b2. Xuân Diệu: - Đối tượng hướng đến: tất cả những gì thuộc về sự sống ở thời tươi – trên mặt đất, giã trần gian, xung quanh con người và ngay trong tầm tay với.- Thái độ: khát khao giao cảm, chiếm lĩnh và hưởng thụ bằng cả thể xác cường tráng và tâm hồn nồng nhiệt.- Mục đích: hưởng thụ trọn vẹn tát cả những gì gọi là tinh tuý nhất của sự sống trần gian ( “mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc,...” ) để đạt tới niềm hạnh phúc viên mãn ( “chuếnh choáng, no nê, đã đầy,...” ).=> Tận hưởng.c. Khái quát chân dung tâm hồn hai nhà thơ:c1. Tố Hữu: là một người say mê lí tưởng, sẵn sàng đem nhiệt tình của tuổi trẻ cống hiến cho lí tưởng cộng sản -> bộc lộ mình như một nàh thơ Cách mạng.c2. Xuân Diệu: một tâm hồn nhạy cảm, giàu rung động trước những vẻ đẹp của cuộc sống trần gian, một cái tôi chân thành và mãnh liệt cảm xúc, một cái tôi công khai bộc lộ khát vọng cá nhân -> bộc lộ mình như một nhà thơ lãng mạn.
ĐẤT NƯỚC - SÓNG “Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hẹn hòĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”                                         (Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)“Con sóng dưới lòng sâuCon song trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ đượcLòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”                                         ( Sóng – Xuân Quỳnh)Gợi ý:Mở bài:Đề tài tình yêu là một trong những đề tài làm tốn nhiều giấy mực nhất đối với các thi nhân.Cuộc sống càng muôn màu thì tình yêu càng muôn vẻ, có bao nhiêu người yêu nhau thì có bấy nhiêu cách cảm nhận về tình yêu.Bằng sự cảm nhận của riêng mình, mỗi thi sĩ lại khoác cho tình yêu ấy một vẻ đẹp khác nhau. Điều đó đã được Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh thể hiện rất rõ trong hai đoạn thơ trích trong hai tác phẩm “Đất Nước” được sáng tác 1971 in trong trường ca “Mặt đường khát vọng” và “Sóng” sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” 1968:“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”(Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)Và:“Con sóng dưới lòng sâuCon song trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ đượcLòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”( Sóng – Xuân Quỳnh)Khi chúng ta đi đối chiếu so sánh hai đoạn thơ sẽ thấy được điểm tương đồng và khác biệt một cách độc đáo của hai đoạn thơ, hai phong cách, hai thi sĩ này.Thân bài :Luận điểm 1 :Giới thiệu vài nét về hai tác giả, hai tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và vị trí hai đoạn thơ cần phân tíchSóng- Xuân Quỳnh.– Nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị.– Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc.Tác phẩm+ Xuất xứ: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.+ Đoạn thơ thứ 5 miêu tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình ” Em”Đất nước- Nguyễn Khoa ĐiềmThơ Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút người đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng, ông cất lên tiếng nói của một người trí thức thiết tha gắn bó với quê hương, giàu ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nước.Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm này được hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước.Đoạn thơ trên thuộc phần đầu chương VLuận điểm 2 : Điểm giống nhau-Trước hết điểm tương đồng giữa hai đoạn thơ chính là viết về tình yêu đôi lứa trong nỗi nhớ, niềm thương.+Đúng vậy, tình yêu thì luôn gắn liền với nỗi nhớ, có ai yêu mà chưa bao giờ nếm mùi của cảm giác chờ mong, khắc khoải. Tất cả biểu hiện của nỗi nhớ trong tình yêu rốt cuộc cuối cùng chỉ là khát khao hướng tới người mình yêu, mong muốn được ở gần người trong trái tim mình.+Trong ca dao xưa chẳng phải người xưa họ cũng đã từng diễn tả cái nỗi nhớ trong tình yêu rồi hay sao:“ Nhớ ai bổi hổi, bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than”Hay“ Đêm nằm lưng chẳng tới giườngMong cho mau sáng ra đường gặp anh”+ Âý thế nhưng, trong đoạn thơ của NKĐ để diễn tả nối nhớ trong tình yêu, tác giả đã mượn hình ảnh của chiếc khăn – tín vật giao ước kết đôi mà biểu hiện nỗi nhớ:“ ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”Tín vật tình yêu chính là điểm giao kết cho đôi bạn tình. Từ xừa đến nay, những người yêu nhau như càng muốn thể hiện sự khăng khít gắn bó mặn nồng, thường lấy một tín vật nào đó mà kết duyên, giao ước.Họ coi đó như là “sợi chỉ hồng” của ông lão bà tơ se duyên kết mối. Hình ảnh chiếc khăn được nhắc đến trong đoạn thơ là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao xưa:“Khăn thương nhớ aiKhăn rơi xuống đấtKhăn thương nhớ aiKhăn vắt lên vaiKhăn thương nhớ aiKhăn chùi nước mắt…”Đó là chiếc khăn tín nghĩa, biểu trưng cho tình cảm thật đẹp, thật trong sáng trong nỗi nhớ yêu thương.+Còn trong đoạn thơ của bài Sóng, cái tình yêu khát vọng của người phụ nữ “khát khao sống, khát khao yêu” dù bình dị nhưng rất đỗi mãnh liệt này không cần đến vật giao ước kêt đôi mà vẫn diễn tả được hết tất thảy cái nỗi nhớ đến điên cuồng mãnh liệt. Bởi tình yêu ấy đã vượt qua mọi chiều kích giới hạn chật hẹp để đến với tình yêu( sâu- rộng), vượt qua mọi bến bờ của vũ trụ, xuyên qua không gian, thời gian ( ngày – đếm) và kết tụ ngay cả khi “thức” lẫn khi “ngủ” của Xuân Quỳnh. Nó rợn ngợp giống như nỗi nhớ đã bao trùm giăng mắc mọi thứ xung quanh như ám vào vạn vật nên cần chi “vật giao ước” mà thể nghiệm nỗi lòng thương yêu?. Cho nên tình yêu ấy với nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, khắc khoải hơn bao giờ hết. Nó không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ bình thường vụt đến rồi vụt tan mà nỗi nhớ ấy đã trở thành gánh nặng tâm tư trong lòng người con gái đang yêu mất rồi.-Nếu thật thiếu sót nếu chúng ta không nhìn nhận ra điểm tương đồng của hai đoạn thơ ấy chính là: cả hai thi sĩ đều rất tài tình dụng công mượn hình ảnh, sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh để diễn tả tâm tư tình cảm của mình.+ Với đoạn trích trong bài thơ ĐN, tác giả đã kể đến những sự vật xung quanh mỗi chúng ta. Đó là trường học, là nơi sinh hoạt hằng ngày ( nơi em tắm), là nơi cu trú, định cư ( nơi chim về, nơi rồng ở). Tất cả nhưng sự vật xung quanh của mỗi chúng ta ấy đều là những cái bình dị, thân thương mà chúng ta ít chú ý đến. Tác giả nhắc đến mỗi sự vật ấy đều gắn với hai tiếng ĐN chính là muốn truyền tải tư tưởng: ĐN không tồn tại ở đâu xa xôi mà nó hóa thân, hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Đó chính là mỗi sự vật mà chúng ta nhìn thấy, tất cả những sự vật nhỏ bé ấy đều góp phần làm nên dáng hình, diện mạo ĐN.+ Còn Sóng của XQ cũng vậy, chị đã mượn hiện tượng tự nhiên của sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng lên khát vọng trong tình yêu và nỗi nhớ:“Con sóng dưới lòng sâuCon song trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ được”Những đợt sóng dâng trào, sóng tiếp sóng ào ạt lúc thì lăn tăn gối lên nhau trên “ mặt nước”, lúc lại luôn tiềm ẩn cái dữ dội, ồn ào “ lòng sâu” dưới đáy bể đại dương bao la thăm thẳm. Tất thảy những đợt sóng đều cuồn cuộn xô đuổi nhau đến tận chân trời, đưa sóng đến gần hơn với bờ. Bởi bờ chính là điểm đến của sóng, là chỗ dựa vững chắc cho điểm về của sự bình yên, phẳng lặng.Luận điểm 3 :Sự khác biệt-Bên cạnh điểm giao thoa, kết sóng thì giữa hai đoạn thơ còn có điểm khác biệt rõ ràng. Nhưng chính điểm khác biệt ấy đã tạo nên cái độc đáo, cái sức hấp dẫn riêng của mỗi phong cách thi nhân.+Tình yêu đôi lứa trong đoạn thơ ĐN của NKĐ gắn liền với tình yêu ĐN, tình yêu đôi lứa dưới con mặt của ông là một thứ tình yêu “hóa thân”, “nảy mầm” nên tình yêu ĐN. Chính tình yêu đôi lứa cũng là một yếu tố góp phần làm nên diện mạo của một đất nước trù phú, tươi vui. Điều này, cũng đã được các nhà thơ cùng thời với NKĐ ý thức rất rõ, ta có thể lấy dẫn chứng tiêu biểu trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rétTình yêu ta như cánh kiến hoa vàngNhư xuân đến chim rừng long trở biếcTình yêu làm đất lạ hóa quê hương”+ Còn trong đoạn thơ của bài thơ Sóng, tình yêu luôn tuyệt đối hóa trong tình yêu riêng tư, tình yêu đời thường. Cái chất đời thường trong tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ấy đã được XQ diễn tả thông qua hình tượng “ sóng” với sự phân thân của nhân vật trữ tình “em”:“Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”Đó là một “cái tôi” tràn đầy cảm xúc khi đang tự lòng mình diễn tả nỗi nhớ người yêu trào qua đầu ngọn bút. Tất cả như cuồng nhiệt, như say mê mà muốn nhấn chìm đi mọi thứ xung quanh. Chả thế mà bài thơ vốn được viết theo thể ngũ ngôn nay đến khổ thơ này đã tự dôi ra hẳn hai câu thơ và nhà thơ lại còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ ấy bằng chính nhịp đập của trái tim mình thì quả thực cái nỗi nhớ của cái tôi cá nhân ấy không có một bút lực nào có thể tả xiết. Trong một bài thơ khác của chị, chị cũng đã từng thẳng thắn bộc bạch hết mọi tâm can của mình hướng tới người mình yêu. Đó là biểu hiện của một trái tim đang yêu chân thành, đằm thắm:“ Em trở về đúng nghĩa trái tim emLà máu thịt đời thường ai chả cóCũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữaVẫn yêu anh cả khi chết đi rồi”+Đoạn thơ ĐN sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với nghệ thuật chiết tự từ ( Đất là gì?, Nước là gì?) cùng với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh sự vật tự nhiên đã có tác dụng diễn tả thật đắt tư tưởng Đất Nước của mình. Hướng người đọc đến sự hóa thân kỳ diệu của ĐN trong từng sự vật nhỏ bé, đơn sơ, bình dị đến lạ thường.+Đoạn thơ trong bài sóng của XQ sử dụng thể thơ ngũ ngôn với việc mượn hình tượng sóng biển để soi tỏ nhịp đập thổn thức của trái tim người phụ nữ đang yêu có tác dụng diễn tả thật đát nỗi nhớ niềm thương và tấm lòng thủy chung son sắt của một tâm hồn đa sầu, đa cảm.-Như ta đã biết, Nghệ thuật luôn đòi hỏi tính sáng tạo, mỗi người ngệ sĩ luôn cố gắng tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Vì thế các tác phẩm tạo ra mới không bị nhòe lẫn vào các tác phẩm của nhà thơ khác.+ Không nằm ngoài lệ, NKĐ luôn thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Với sự tự ý thức về vai trò- chức năng của một nghệ sĩ – chiến sĩ thì đối với ông, thơ ca chính là ngọn nguồn cảm hứng viết lên những bản tình ca bất hủ về ĐN. Cho nên tình yêu đôi lứa dưới con mắt của nhà thơ nó chính là một phần biểu hiện của một tình yêu đất nước muôn đời.+Còn thi sĩ XQ thì ngược lại, chị tìm cho mình một tiếng nói riêng trong trái tim của một người phụ nữ hồn hậu đa sầu, đa cảm với những khoảnh khắc rung động trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy luôn cháy rực ngọn lửa trong các trang thơ của XQ thật muôn vẻ muôn phần. Vì thế, dưới con mắt của thi sĩ, tình yêu luôn được cụ thể hóa trong một tâm hồn khát khao hướng tới hạnh phúc riêng tư, đời thường.Luận điểm 4 Lí giải sự khác biệt :+ Do hoàn cảnh sáng tác+ Do phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơKết bài :Như vậy,qua việc cảm nhận ở trên ta thấy rằng cả hai đoạn thơ đều có chung đặc điểm viết về tình yêu đôi lứa nhưng mỗi thi sĩ lại có một tiếng nói riêng cho tư tưởng của bản thân mình. Với NKĐ tình yêu đất nước là vĩnh cửu, với XQ tình yêu đôi lứa là muôn thưở muôn đời. Chính mỗi người lại có một phong cách thơ và cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc sống, đều góp phần đắc lực cho vườn thơ dân tộc thêm sáng trong và tỏa hương thơm ngát.
BÀ CỤ TỨ - NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI        a. Vài nét về tác giả tác phẩm:- Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, “một nhà văn viết ít nhưng ngày càng được khâm phục nhiều”. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, rút từ tập “Con chó xấu xí” (1962)- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng đi tiên phong trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau 1975. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm xuất sắc của ông ở giai đoạn này.         b. Giải thích ý kiến:     Ý kiến chỉ ra sự giống nhau của hai nhân vật: đều yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời; đồng thời chỉ ra sự khác nhau: tình yêu thương con của bà cụ Tứ là sự vị tha, bao dung, lạc quan; còn tình yêu thương con của người đàn bà hàng chài là sự chịu đựng, hi sinh, nhẫn nhục. Đó là những nét riêng của tình mẫu tử trong hai tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu.         c. Chứng minh:* Điểm tương đồng: Cả hai nhân vật đều yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời.         - Bà cụ Tứ:+ Khi biết người phụ nữ theo không con mình về làm vợ, bà cụ Tứ lặng người, cúi đầu nín lặng, khóc, vừa xót xa cho số kiếp con trai, vừa tủi thân, tủi phận cho chính mình vì ngèo mà không lấy nổi vợ cho con.+ Đồng cảm với người vợ nhặt “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình”, đồng cảm với con trai “…Mà con mình mới có được vợ”, vun vén cho hạnh phúc của đôi trẻ “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”…          - Người đàn bà hàng chài:+ Tình yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng sự đày ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe mạnh “chèo chống khi phong ba” và “để cùng làm ăn nuôi nấng một sấp con”+ Khi đối thoại với Phùng và Đẩu ở Tòa án huyện, chị đã nói “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.* Sự khác biệt:Tình yêu thương con của bà cụ Tứ là sự vị tha, bao dung, lạc quan.- Thấu hiểu việc vượt quyền cha mẹ của Tràng- Cảm thông, xót thương cho tính cách và trân trọng giá trị của người vợ nhặt.- Suy nghĩ, hành động, lời nói luôn lạc quan, hướng về tương lai trong những ngày đói.+ Bà truyền cho con cái niềm hi vọng “không ai khó ba đời”+ Hành động xăm xắm thu dọn, quét tước nhà cửa.+ Dự định ngăn buồng cho đôi trẻ, mua đôi gà, bữa cơm mừng dâu mới với “chè khoán”…Tình yêu thương con của người đàn bà hàng chài là sự chịu đựng, hi sinh, nhẫn nhục:- Người đàn bà hàng chìa chịu đựng, hi sinh xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh khi các con đã lớn vì sợ các con sẽ bị tổn thương khi chứng kiến cảnh bạo lực đau lòng.- Vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác có thể làm điều dại dột với ba nó mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng ở với ông ngoại đã nửa năm nay.Khi chồng đánh đập đau đớn chị lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nhục như một người câm nhưng khi thằng Phác lao vào đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị “mếu máo” gọi con. “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra”, “chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy”. Đó là nỗi đau của người mẹ khi không che chắn nổi cho tuổi thơ của các con được trong sáng, nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực…        d. Đánh giá:- Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến:+ Chỉ ra được những khác biệt trong tình yêu thương con của hai nhân vật. Từ đó giúp người đọc nhận ra được những nét độc đáo của mỗi hình tượng, những khám phá riêng trong cách thể hiện, xuất phát từ cái nhìn khác nhau về con người của hai nhà văn trong hai giai đoạn văn học khác nhau.+ Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được sự gặp gỡ trong tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn và những tư tưởng, tình cảm mà họ gửi gắm.

CHIM HÓT - TIẾNG SÁOTrong tác phẩm văn học,chi tiết nghệ thuật cực kỳ quan trọng,nếu ko có nó,tác phẩm dường như chưa thực đitsự mang tầm. Chi tiết nghệ thuật giống như một hạt cát nhưng đủ để mang đến một sa mạc mênh mông,chi tiết nghệ thuật giống như một giọt nước nhưng có thể làm đồng hiện cả đại dương bao la.Trong tác phẩm CP và Vợ chồng A Phủ hai tác giả Nam Cao và Tô Hoài đã làm nên hai"hạt cát","hai giọt nước ấy".Đó là 'tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá.tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.tiếng của mấy bà đi chợ về' (Chí Phèo ) và 'Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi..'(Vợ chồng A Phủ ).Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang lại sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng.sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm xúc và thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ ở chi tiết. Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh,biểu hiện cái toàn thê.NC̉ xây dựng chi tiết Chí Phèo thức dậy sau cơn say dài và nghe được âm thanh của cuộc sống đời thường rất đỗi bình dị.TH thì thâm nhập vào mê cung tâm trạng của Mị để thổn thức với tiếng sáo gọi bạn tình rập rờn,thiết tha,bổi hổi. Như vậy, điểm chung nhất của NC và TH đó chính là họ đã thổi vào tác phẩm của mình một âm thanh.Đó là những âm thanh hết sức diệu kỳ,nó len lỏi vào tận sau trong tâm hồn vốn tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khao khát sống mãnh liệt.giả dụ như ko có âm thanh ấy, Chí Phèo đã triền miên trong cơn say dài để chẳng bh biết mình có mặt trên cõi đời này.giả dụ ko có tiếng sáo ấy,Mị vẫn chỉ là cô gái ngồi quay sợi gay bên tảng đá,mãi vô cảm,vô hồn như 'cái vỏ ko có ý nghĩa gì hết'.thế nhưng âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức cô Mị ngày xưa,đã đưa cô đến với những phút giây hồi sinh mãnh liệt.Để rồi có sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh thực tại mang đến bao nhiêu cảm xúc cho người đọc.và cũng chính nhờ thứ âm thanh bình dị, thân thuộc của cuộc sống thôn quê mà Chí Phèo nghe được đã thức dậy cái tính Người vốn dĩ đã vùi dập trong chí. Để rồi sau đó ta thấy một Chí Phèohiền lành, lương thiện biết bao trong cái hình hài vốn đã bị hư hao rất nhiều sau những tháng năm bán mình cho quỹ dữ.       Xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc ấy, NC và TH đã chung nhau một điểm đó là'mượn âm thanh' để gơị dậy những'âm thanh' vốn dĩ bị chìm khuất trong nhân vật.Đấy cũng là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm Chí Phèo -NC và Vợ chồng A Phủ -TH  Cùng xây dựng chi tiết nghệ thuật ấy nhưng do quan niệm và cách viết khác nhau,đề tài khác nhau nên ở hai chi tiết nghệ thuật trong CP và Vợ chồng A Phủ lại mang những ý nghĩa riêng. Ở tác phẩm'Chí Phèo ' là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh 'hôm nào chả có' . Đó là tiếng chim hót ngoài vườn, tiếng mấy bà đi chợ về,tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá....giả dụ như đó là tiếng quát mắng của Bá Kiến,hay cái giọng lè nhè say của Tự Lãng, hay tiếng khóc tỉ tê của một người vừa bị Chí làm cho đỗ vỡ thì chắc NC ko bao giờ lay động được lòng người như những âm thanh bình dị này. Lần theo cái trạng thái tâm lý'miệng đắng,lòng mơ hồ buồn' của Chí ta thấm thiá được một thân phận.Thân phận của một kẻ cùng đường. Thân phận làm người nhưng ko được công nhận là con người . Chí phèo được nhà văn NC xây dựng bằng một lòng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã vui buồn,khổ đau cùng với số phận nhân vật ngay từ đầu cho đến cuối tác phẩm.Vui mừng khi Chí Phèo sống với ước mơ thời tuổi trẻ'chồng cuốc mướn cày thuê,vợ ở nhà dệt vải'.buồn khi Chí Phèo trở thành con qũy dữ của làng Vũ đại,buồn khi Chí trượt dài trong tội lỗi' ăn trong lúc say,thức trong lúc say, thức dậy hãy còn say..say nữa,say vô tận.những cơn say của hắn tràn từ cơn say này sang cơn say khác thành những cơn dài mênh mang.chưa bh hắn tỉnh táo để thấy mình có mặt trên cõi đời này'.Nhưng NC ko từ bỏ chí,nhà văn đã mang tấm lòng yêu thương của mình đến với chí.NC đã phái một 'thiên sứ'tình yêu đến vớiChí Phèo . Đó là Thị Nở-thiên sứ ấy ko có đôi cánh thiên thần nhưng có trái tim nhân ái.và sau cuộc tình ấy trong đêm trăng rắc bụi vàng trên sông. Chí Phèo đã thoát ra khỏi cơn mê của cuộc đời hắn.Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con qũy dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lý.từ khi đi tù về,đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm chì hết say,hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống,.tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá.tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Tiếng mấy bà đi chợ về' những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay chí mới nghe được bởi vì đến bh hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang.từ tiếng chim hót,tiếng mái chèo,tiếng người nói...như những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn chí,như dòng nước mát lành,như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất tâm hồn khô cằn sỏi đá của chí.vùng đất khô hạn tình thương ấy, vùng đất chỉ biết đến thứ nước luôn tưới lên nó là rượu và nuớc mắt của người lương thiện.nay đọc được những thứ'nhựa sống'của cuộc đời tưới vào thắm sâu tâm hồn của chí.tư đó̀ tâm hồn của anh bùng lên đầy xúc cảm.anh như con chim trong lồng chiếc lồng giam cầm,xa cuộc sống đồng loại,bỗng một ngày được nghe tiếng hót ca của bạn bầu bỗng như tìm lại được mình lại vui ca hót.Âm thanh đó đã đánh thức trong chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra ngoài cái lều ẩm ướt thấp chỉ có hơi mờ lờ của mình rằng:'mặt trời chắc đã lên cao,và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ''. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, nhưng với anh, đây là cảm giác,cảm xúc vừa bị đánh thức.phải rồi, nếu hắn đang là con quỷ thì làm sao hắn có được cái cảm giác'mơ hồ buồn' đó được. và là quỷ nhất lại thứ quỷ khát máu như chí sao có thể biết buồn chứ?Khi Chí Phèo nghe những âm thanh của cuộc sống chính là anh đã dần ý thức về cuộc sống. Âm thanh cuộc sống ý như như âm thanh tíc tắc của chiếc kim đồng hồ quay ngược time đã đánh thức trong chí về giấc mơ thời trai trẻ.Âm thanh của cuộc sống bình dị đã đưa anh nhớ về quá khứ,rằng có một thời,đã'ước mơ có một cuộc sống gia đình nho nhỏ.chồng cuốc mướn cày thuê.vợ dệt vải.bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng.khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm'. Cả kí ức ấy sống lại trong chí thật đẹp,thật dung dị đời thường xiết bao cái qúa ấy đẹp đến thì chí lại cô đơn trong hiện tại bấy nhiêu. Thông thường,người ta nhớ lại time quá vãng để hiểu hiện tại.Chí cũng vả,đến lúc hắn chợt nhận ra rằng'hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.buồn thay cho đời!có lí nào như thế được?hắn đã già rồi hay sao? ngoài bốn mươi tuổi đâu....hắn đã tới cái kia của đời'.hình dung cuộc đời mình chí thấy mình chẳng có gì ngoài hai chữ"cô độc".nếu lão Gôriô trong trang văn của thi hào Banzắc có cô độc,cô đơn đến bao nhiêu thì lão vẫn còn một niềm an ủi là tình thương mù quáng của mình dành cho hai con gái.lão vẫn còn một người hiểu lão là chàng sinh viên Ratinhắc.Nhưng ở đây, Chí Phèo có một sự cô độc đến trọn vẹn. Cũng chính âm thanh bình dị mà chí nghe được lại làm cho anh phải nghĩ suy nhiều hơn,sâu xa hơn. Chí hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước. Ở những người như hắn,chịu đựng biết bao biết bao là chất độc,đày đọa cực nhọc,mà chưa bh ôḿ 'một trận ốm có thể là dấu hiệu bao ́ rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.Nó là cơn mưa cuối thu cho biết trời gió rét,này mùa đông đã đến'. Chí Phèo ko có thị nở vào,cứ để hắn vẫn vơ,thì đến khóc được mất. Đến đây, ko ai nghĩ CP là con quỷ dữ của làng Vũ đại nữa, một người ko những giàu cảm giác,cảm xúc, mà còn ý thức có phần sâu sắc về cuộc đời,về bản thân phải là con người bình thường. Với bàn tay ân ái của Thị Nở, Chí như được lột bỏ vỏ quỷ đê trở lại hình hài của con người.bát cháo hành có thể là liều thuốc giải cực mạnh đã góp phần tâỷ ố men rượu,tâỷ ố những nhơ nhuốc của cuộc đời bất hạnh,trả lại cho anh những điêu ̀ đã mất. lòng yêu của Thị Nở là lòng yêu của 'một ngươi ̀ làm ơn và các cả lòng yêu của người chịu ơn'. Còn Chí Phèo , anh cảm nhận được một điều thật chua chátưa nay nếu tôi muốn ăn thì phải giật,nạt,dọa,cướp.cuộc đời hắn chưa bh được bàn tay đàn bà nào cho.và thị nở là lần đầu.Lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho,được sống trong tình cảm yêu thương thực sự.bát cháo hành đã ngấm càng làm hắn suy nghĩ nhiều.Từ cảm nhận về tình yêu của thị nở,cảm xúc,cảm giác càng được đánh thức sâu sắc hơn ở CP:' hắn thấy mắt hình như ươn ướt...hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng..hắn thấy vừa vui vừa buồn..hắn thấy lòng thành trẻ con.hắn muốn làm nũng thị như với mẹ.ôi sao mà hắn hiền..'.không những thế, ở chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn..hối hận về tội ác khi ko đủ sức mà ác nữa. Và có lẽ sự bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị nở là khát vọng lương thiện.đấy cũng là đỉnh điểm của sự thức tỉnh của Chí Phèo :'hắn thèm lương thiện,hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được . Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai . Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng , thân thiện của những người lương thiện...» Đoạn văn ngắn nhưng chứa đựng trong đó là câu sự khao khát cháy bỏng của Chí Phèo . Tình người của Thị Nở đánh thức tính người ở chí. Tình người vẫy gọi Chí trở về với đồng loại, bởi con người chỉ thực sự là con người khi đồng loại chấp nhận . Khát vọng ấy ở con người như chí thật cảm động biết bao.Cũng chính nhờ âm thanh ấy mà Chí Phèo đã tự ý thức và trở về với một Chí Phèo hiền lành,lương thiện. Cũng chính nhờ âm thanh ấy cùng với những ngày hp trong tình yêu,tình người với Thị Nở mà Chí Phèo đã trở nên chính mình.cuối tác phẩm, Chí Phèo xách dao đi đòi lương thiện, giết chết con cáo già Bá Kiến, trừ haị cho dân và cũng chính Chí cũng tự kết liễu cuộc đời mình.phải chăng cũng là do âm thanh ấy trong cuộc sống ấy đã thức tỉnh chí để đi đến một hành động đầy đau đớn nhưng cũng rất tất yếu và hợp lý?Đánh giá về giá trị nghệ thuật của chi tiết ấy,ta thấy âm thanh 'tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá,tiếng mấy bà đi chợ về' là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lý và bi kịch của nhân vật.chi tiết ấy nhỏ,chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bản làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác.nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nữa cuộc đời của chí.qua việc tập trung vào chi tiết đắt giá ấy, NC đã tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc mang đến cho người đọc những trang viết đẹp,xúc động.Nếu như 'tiếng chim.......qúa' đã thức dậy cả một linh hồn tưởng như đã chết thì chi tiết 'Mị.....bổi hổi..'mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ -TH) cũng mang đến cho nhân vật và bạn đọc nhiều xúc cảm mãnh liệtMị là cô gái trẻ đẹp nhưng vì món nợ của bố mẹ mà mị đã bị bắt vào nhà thống lý Pá Tra sống kiếp trâu ngựa.Mị bị tước đoạt tình yêu,tuổi xuân,hp ,bị bóc lột sức lao động thậm tệ.Mị trở thành "súc nô"-một tù nhân với bản án tù chung thân suốt đời trong chốn địa ngục trần gian nhà thống lý.Từ đó,cô gái người Mèo ấy sống trong vô cảm'lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa'.cô cứ tưởng mình là'con trâu mình cũng là con ngựa ''Mị dần mất đi tiếng nói'càng ngày càng ko nói'. Từ đó Mị trở thành người đàn bà lặng câm,vô cảm.Nhưng mùa xuân trên miền núi Tây Bắc đã đến, mùa xuân ấy được miêu tả rất đẹp, sắc màu của 'cỏ gianh vàng ửng','những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm ́ sặc sỡ, tiếng cười nói của đám trẻ chơi quay đợi tết, đặc biệt là tiếng sáo da diết xoáy sâu vào trái tim tưởng như băng giá của Mị. Tiếng sáo khi ở xa thì 'lấp ló' nơi đầu núi,khi lại gần thì 'lửng lơ bay ngoài đường' rồi cuối cùng nhập vào hồn Mị: 'Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo'. Tiếng sáo chính là hiện thân của tuổi trẻ,của tình yêu,của qúa khứ,của tài năng mà Mị có. Bởi vậy, khi nghe tiếng sáo thổi, Mị thấy 'tha thiết bổi hổi' tâm hồn Mị được hồi sinh mãnh liệt.Tiếng sáo hối thúc Mị, tiếng sáo như cơn gió thổi bung đi lớp tro tàn nguội lạnh đang phủ lấy tâm hồn Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị làm đồng hiện quá khứ tươi đẹp của một cô gái giàu tài năng.bước nhảy tâm lý đầu tiên của Mị đó là việc Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTa ko có con trai con gáiTa đi tìm người yêu Bài hát ấy lâu rồi Mị ko hát,điệu sáo ấy lâu rồi mị ko thổi. Nhưng đêm nay mị lại nhớ,lại nhẩm thầm,,mị vẫn thuộc.nghĩa là mị ko vô cảm.nói đúng hơn, sự vô cảm chỉ là lớp vỏ bề ngoài, còn bên trong Mị vẫn có một trái tim khát sống,rực lửa yêu thương. Nó là ngọn lửa âm ỉ cháy trong lớp tàn tro,sẽ bùng lên khi gặp gió. Tiếng sáo ấy là ngọn gió lành thổi về bao mộng đẹp.Chính tiếng sáo dẫn mị đến hành động'nổi loạn về nhân cách'':"Mị lén lấy hủ rượu,cứ uống ừng ực từng bát.rồi say,mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng,người hát,nhưng lòng mị đang sống về ngày trước".mị uống như nuốt cay,nuốt đắng,nuốt hận vào trong lòng. Uống cho quên nhưng lại nhớ.một khi uống rượu ko còn đủ sức làm người ta quên thì nó lại quay lại thức tỉnh cả con tim và lý trí, Mị lại nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Rượu chính là chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. Rượu làm Mị sống lại một quá khứ đầy ắp niềm vui sướng: 'ngày trước, mị thổi sáo giỏi.mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo mộ'. Tiếng sáo ấy cùng những hoài niệm và men rượu hòa quyện.Sau đó,mị lại bước vào buồng, lại'ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng'. trong nhà thống lý là tù ngục, ngoài ô cửa kia là thiên đường tuổi trẻ. Chi tiết này cho thấy, Mị nhìn về phía ánh sáng, có nghĩa là tâm hồn Mị đang khao khát 'vượt ngục'.'Mị thấy phơi phới trở lại,trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước'.đó là niềm của kẻ đã tìm lại được mình.Và mị ý thức được rằng' Mị trẻ lắm.mị còn trẻ.mị muốn đi chơi'.nhận thấy mình còn trẻ và muốn đi chơi có nghĩa là trong mị rất khát khao tự do.đúng là bi kịch.khi một người đàn bà chợt nhận ra mình còn trẻ trong hoàn cảnh trớ trêu này thì đúng là bi kịch.qúa khứ làm mị trẻ lại.hiện tại làm Mị đau đớn,ê chề.Đỉnh điểm của cảm xúc bi kịch là nỗi tủi thân:mị đã có c.sống ko hp với A Sử:'a sử với mị,ko có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau'.đau đớn qúa,mị khao khát :'nếu có nắm lá ngón trong tay này,mị sẽ ăn cho chết ngay,chứ ko buồn nhớ lại nữa'.muốn chết,nghĩa là mị sẽ ko còn như trước nữa, Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh ấy. Mị đã ko còn chấp nhận cái thực trạng ê chề này. đó chính là sức sống đã được đánh thức.Âm thanh đó đã làm thức dậy trong mị ý thức về tình yêu,hp và lòng khát khao cuộc sống tự do. Từ đó, Mị đi đến quyết định táo bạo:bỏ nhà đi theo những đám chơi.đó là ý định giải thoát lặng lẽ như vô cùng mãnh liệt.'mị đến góc nhà,lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng'.ngọn đèn được thắp lên,ánh sáng của nó xua tan cái bóng đêm ảm đạm đang vây quanh mị,đang thắp lên ngọn lửa trong tâm hồn miu.một loạt các hành động gấp gáp được TH diễn tả:'mị muốn đi chơi,mị cũng sắp đi chơi...mị quấn tóc lại,mị với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách..'.đó là nhu cầu làm đẹp bản thân trước lúc đi chơi. Mị làm tất cả,thật bình thản và ko hề để ý đến thái độ của A Sử chứng tỏ,sức sống mãnh liệt trong Mị đang lớn hơn tất cả, bóng ma thần quyền cũng ko thể lớn hơn sức sống của Mị.Ý định giải thoát của mị không thành khi a sử trở về . Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trỗi dậy đó:'nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng mị vào cột nhà,.tóc mị xoã xuống, A Sử buộc luôn tóc lên cột , làm cho Mị ko cúi , ko nghiêng được đầu nữa..'.miêu tả sự tàn nhẫn của a sử chính là sức mạnh của ngòi bút TH đã tố cáo và lên án mặt bất nhân của bọn chủ nô phong kiến miền núi.Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, chứ ko trói được tầm hồǹ của Mị, bởi tâm hồn Mị đang tự do dạo chơi trong thế giới của khát vọng sống:' trong bóng tối,mị đứng im lặng như ko biết mình bị trói,hơi rượu còn nồng nàn,mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi,những đám chơi..'.Mị ko biết mình bi trói nghĩa là cô ko sống bằng thể xác nữa mà thực sự đang sống bằng tâm hồn.có lúc tiếng sáo gọi bạn tình nhập vào hồn mị,mi vui sướng quá đến nỗi: 'Mị vùng bước đi'. và thực sự cô tỉnh khi' tay chân đau ko cựa được'.tỉnh rồi lại nghe tiếng chân ngựa đập vào vách,âm thanh tiếng chân ngựa đập vào vách đã đưa Mị từ nỗi nhớ trở về với hiện tại. giấc mơ tan biến. Tiếng sáo cũng không còn.chỉ còn Mị với nỗi đau thân phận, tỉnh rồi mới thấy lòng cay đắng' Mị thôn̉ thức nghĩ mình ko bằng con ngựa'.Cũng như âm thanh tiếng sáo đánh thức mà ngọn lửa tình yêu và khát vọng tự do trong mị lại một lần nữa bùng cháy và chắc chắn sẽ trở thành ngọn lửa rực rỡ mà bằng chứng là hành động cởi trói dây cho a phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.Xét về giá trị nghệ thuật: ta thấy đây là chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lý của nhân vật.tâm lý nhân vật từ khi nghe tiếng sáo đã có sự chuyển biến phức tạp nhưng sâu sắc. Tiếng sáo tạo ra bước ngoặt tâm lý và cũng là chi tiết mà ở đó,TH đây ý đồ nghệ thuật của mình đến mức tài năng. Chính âm thanh ấy làm thay đổi tất cả con người của mị,từng việc 'ngồi nhẩm thầm tiếng sáo 'đã đứng dậy thành hành động.điều đó chứng tỏ tài nghệ miêu tả tâm lý sống động cũng như tấm lòng nhân đạo (phát hiện ra sức sống tiềm tàng..) của nhà văn.Có thể nói,"chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn", chi tiết là những hiện thực đời sống được nhà văn tái hiện trong tác phẩm là đơn vị cấu tạo nên tác phẩm,mang sức chứa lớn về nội dung và nghệ thuật.tuỳ theo sự thể hiện cụ thể mà chi tiết có khả năng giải thích, tái hiện,biểu hiện...khiến hình tượng nghê thuật trở nên cụ thể, gợi cảm và sống động,khiến ý đồ tư tưởng của nhà văn hiện hình rõ rệt, trở thành tiêu điểm,điểm hội tụ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm.những chi tiết thường được chọn lọc, gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là sự dồn nén những điều mà nhà văn muốn nói.Tóm lại, qua hai chi tiết nghệ thuật trong hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ mà ta vừa phân tích ở trên.hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta hai thiên truyện ngắn đặc sắc nhất của văn chương VN. Qua hai chi tiết nghệ thuật ấy ta càng hiểu sâu sắc hơn tấm lòng nhân đạo của hai nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc

MỊ - CHÍ PHÈOCảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật Mị trong cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài (“Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu (“Chí Phèo” – Nam Cao), để nhận xét về cách khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người lao động của hai nhà văn?                HƯỚNG DẪN1. Giới thiệu chung– Giới thiệu về tác giả Tô Hoài; Nhân vật Mị trong cảnh đêm tình mùa xuân.– Giới thiệu về tác giả Nam Cao; Nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu.® Hai nhà văn đều đi sâu khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người lao động.2. Cảm nhận hình tượng nhân vật Mị trong cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài – Mị có phẩm chất tốt đẹp nhưng bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần+ Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời; chăm chỉ làm ăn, yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình.+ Mị là giàu lòng vị tha, đức hi sinh.+ Là con dâu gạt nợ, Mị bị đối xử như một nô lệ. Mị sống khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm.+ Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm “ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.– Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân+ Bên trong hình ảnh “con rùa nuôi trong xó cửa” vẫn đang còn một con người khát khao tự do, hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm hồn Mị. + Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái, Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. + Tiếng sáo (biểu tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi sâu vào tâm tư Mị.+ Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại; tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi.– Khái quát nghệ thuật+ Bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị.+ Có áp bức, có đấu tranh; Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do.3. Liên hệ nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượua. Liên hệ nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu:– Sau khi gặp Thị Nở và được Thị chăm sóc, yêu thương, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh rượu sau những cơn say triền miên và đã có sự chuyển biến sâu sắc trong tâm trạng:+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ: Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi ra tù, Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng đây lại là lần đầu tiên Chí mới nhận ra. Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc. Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện.® Nam Cao cho cho ta thấy được bản tính tốt của con người có ngay trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có chất xúc tác.b. Nhận xét về cách khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người lao động của hai nhà văn– Hai nhân vật Mị và Chí Phèo của nhà văn Tô Hoài, Nam Cao là những hình tượng điển hình cho số phận con người lao động vượt lên sự đè nén của cường quyền và thần quyền để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của con người.+ Mị: Tưởng chừng như đã trở thành vật vô tri, vô giác trong nhà thống lý, nhưng vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân.+ Chí Phèo: Dù bị hủy hoại cả về nhân hình lẫn nhân tính nhưng Chí vẫn khao khát hướng đến cuộc sống lương thiện.® Mỗi nhà văn có một cách sáng tạo riêng, nhưng khi viết về người nông dân thì các tác giả đều hướng tới khám phá vẻ đẹp tâm hồn của họ. Từ đó, đề cao, trân trọng những phẩm chất đáng quý của người nông dân.
VNHAT - VCAP - CTNXPhụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “Vợ nhặt” và bà cụ Tứ trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân và nhà văn Nguyễn Minh Châu, với hình ảnh người đàn bà hàng chài qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.Góp vào nền văn học nước nhà, Tô Hoài với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Kim Lân với “Vợ nhặt” và tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tô đậm hơn hình tượng người phụ nữ. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.Đến với “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp hình ảnh Mị-một người phụ nữ dân tộc Mèo bất hạnh với sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân, ta cảm thấy xót xa cho cô vợ với niềm khao khát được sống, được tồn tại đến cháy bỏng.Rồi ta lại khóc thương cho số phận của người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu- một người phụ nữ cam chịu và giàu đức hi sinh.“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút từ tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài, viết vào năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung.Tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống của dân nghèo miền núi dưới ách áp bức bóc lột của thế lực phong kiến thực dân. Đồng thời là một bài ca về sức sống khát vọng, tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đời của họ. Tiêu biểu nhất cho những con người ấy là Mị, một nhân vật có số phân bi đát,đáng thương nhưng mang đầy phẩm chất tốt đẹp.Mở đầu tác phẩm Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa “lúc nào cũng vậy dù thái cỏ ngựa, dệt vải,chẻ củi hay cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình tượng con người nô lệ bị chà đạp. Nhưng Mị là ai?_ Cô là con dâu gạt nợ nhà Pá Tra, một số phận bất hạnh.Mị vốn là một cô gái dân tộc Mèo, con nhà nghèo. Một cô gái vừa đẹp người , đẹp nết. Không những vậy lại cần cù, đảm đang, hiếu thảo, ham sống, giàu lòng yêu đời và rất mực tài hoa. Tiếng sáo của Mị đã có sức lôi cuốn hấp dẫn đặc biệt đối với bao chàng trai Mèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình yêu đã không đến với cô gái nghèo khổ này. Mị mang bi kịch một cô gái với niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát. Chỉ vì món nợ truyền kiếp - ngày trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được nợ nên Mị phải đem thân làm dâu trừ món nợ ấy.Kể từ khi làm dâu cho nhà thống lý,Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương,tủi nhục tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị là một thứ nô lệ không công. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh thần. Đã mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Cô gái tội nghiệp ấy đã có lúc định kết liễu đời mình bằng nắm lá ngón, nhưng có chết thì món nợ vẫn còn, bố Mị còn khổ sở hơn bây giờ gấp nhiều lần.Vì thương bố nên Mị đành phải quay về chấp nhân cuộc đời làm nô lệ. Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người lại bị rẻ rúng như vậy.Bị giam hãm đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống lý, Mị đang chết dần, chết mòn với năm tháng. Thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị gần như tê liệt sức sống. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không hiện tại và không cả tương lai. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi”, “cô ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cuộc đời Mị chỉ còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng không có cả ý thức về cái chết nữa.Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn, mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “ Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”- một thành công đáng kể của Kim Lân.Từ trước đến nay, đọc “ Vợ nhặt”, chúng ta vẫn thường bàn nhiều hơn về hai mẹ con anh Tràng mà gần như ít chú ý đến cô vợ nhặt. Thực ra, từ nhân vật này, nhà văn Kim Lân đã thể hiện được niềm thông cảm sâu sắc của mình trước số phận éo le của người phụ nữ. Ngay từ tựa đề của tác phẩm đã gợi lên sự chua xót, mỉa mai, một nỗi đau không thể nói thành lời. “Vợ nhặt” một hành động nghe sao đơn giản mà lại dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:“ Tậu trâu, lấy vợ, làm nhàTrong ba việc ấy thật là khó thay”Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi. Anh Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân cư ngụ không có khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, không cần phải cưới hỏi gì. Thật tủi nhục thay cho thân phận người “vợ nhặt” - vợ theo không, ngay cả cái tên thị cũng không có. Chỉ với bốn bát bánh đúc người đàn bà nghèo khổ chấp nhận theo người đàn ông chưa từng quen biết. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã từng viết: “Tình huống giống như thứ nước rửa ảnh, nó sẽ làm nổi hình, nổi sắc các nhân vật, bộc lộ các số phận, các tính cách, các tâm trạng…” Thông qua hình tượng vợ nhặt, thân phận rẻ rúng của người phụ nữ đươc biểu hiện một cách sinh động, cụ thể. Người vợ nhặt không được miêu tả với dáng vóc đậm đà, chắc nịch của một người phụ nữ lao động, càng không có vẻ đẹp thuần phác như chị Dậu của nhà văn Ngô Tất Tố. Ngoại hình người vợ nhặt được phác hoạ bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy xọp” trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt “hai con mắt trũng hoáy”. Những chi tiết đó không thể không khiến ta nghĩ đến một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí như một bóng ma vật vờ. Cái đói, cái khổ không chỉ làm thay đổi đi vẻ bề ngoài của con người mà còn làm mất đi cái bản tính hiền hậu, dịu dàng đáng quí vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt” của người đàn ông xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!Bức tranh “Chiếc thuyền ngoài xa” chụp cảnh một gia đình làm nghề chài lưới. Trong đó có người chồng, người cha vũ phu; có thằng Phác thương mẹ, muốn ngăn cản việc cha nó đánh mẹ…tất cả đều gây cho người đọc một ấn tượng đặc biệt. Nhưng không hiểu sao, đôi mắt và trái tim ta như bị hút theo cái người đàn bà hàng chài không tên đó. Chị không đẹp, hay nói cách khác, bệnh tật, những trận đòn và cuộc sống lao động khắc nghiệt đã bẻ gãy những nét duyên dáng của một người phụ nữ. Chị trạc ngoài bốn mươi, khuôn mặt thô kệch, mặt rỗ. Lúc nào cũng xuất hiện với gương mặt mệt mỏi, người đàn bà ấy đã trải qua một cuộc đời nhọc nhằn lam lũ. Số phận lận đận của chị dường như đã được báo hiệu ngay ở cái tuổi thanh xuân “Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”, “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai làng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Những dòng tâm tự được nói ra với giọng điệu bằng bằng như một tiếng thở dài, kìm nén bao cảm xúc. Người đàn bà ấy chầm chậm kể ra bất hạnh nhan sắc của đời mình, đối với người phụ nữ ai chẳng muốn mình xinh đẹp. Biết đâu trong những lúc suy nghĩ về cuộc đời của mình, chị một lần đã nghĩ đến hai chữ “giá như…”. Vâng, giá như có nhan sắc, số phận đã không run rủi đưa đẩy chị đến với người chồng miền biển này; giá như không quá khổ cực trong cuộc sống, ghe thuyền chật hẹp vất vả, chồng chị đã không đến nỗi dữ dằn, hung tợn…Nhưng tất cả những gì tốt đẹp và hạnh phúc sinh ra không phải dành cho người đàn bà hàng chài khốn khổ này. Cái cuộc đời quá cơ cực của chị luôn phải đối mặt với hai cơn bão táp: bão táp từ biển khơi lạnh lùng và bão táp từ người chồng vũ phu, thô bạo. Người đàn bà ấy khốn khổ và chật vật để cho từng bữa cơm, manh áo cho gia đình. Đói khổ đã trở thành nỗi ám ảnh luôn thường trực trong cuộc sống của chị. “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình: Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”Cả cuộc đời người đàn bà ấy gói gọn trong nỗi lo đói khổ, lo miếng cơm manh áo hàng ngày. Bão táp biển khơi đã làm chai sạm, rỗ đi, thô kệch cái vẻ phụ nữ của chị. Nhưng còn đáng sợ hơn là bão táp từ những trận “đòn” hằng ngày vẫn đổ lên trên thân xác và tâm hồn chị. Vẻ bề ngoài và những cử chỉ của lão đàn ông - chồng chị đã phơi ra ngoài tất cả những sự dữ dằn và khắc nghiệt của mình, “Tấm lưng rộng và cong như như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Ánh mắt ấy khiến cho người đọc luôn ám ảnh, đằng sau tất cả những khó khăn đè nặng, lão đàn ông nhìn chằm chằm người đàn bà, nhìn vợ mình không phải như một điểm tựa yêu thương mà nhìn như một nguồn căn của mọi sự đau khổ, khốn khó đã đè nặng lên lão. Cái ánh mắt hằn học như muốn ăn tươi nuốt sống, trút hết mọi những oán hờn lên người phụ nữ yếu đuối này. Ta hiểu, những khó khăn một phần đến từ đàn con nheo nhóc, nhưng người phụ nữ ấy có tội gì đâu! Chị đã phải cong mình lên chịu đựng những bi kịch đời thường, chịu đựng những trần đòn roi như trước đây chị vẫn thường hay chịu. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, mật độ dày đặc, những trận đòn vẫn như mưa đổ xuống. À ơi…!ai ru câu ca dao “thân em như tấm lụa đào à ơi…!” có làm cho chị cúi đầu nuốt dòng nước mắt đắng cay chua xót cho số phận của mình. Chị sinh ra cũng như bao người phụ nữ khác, có mạnh mẽ thì cũng chỉ là gồng mình gắng gượng,tâm hồn của chị vẫn thật yếu đuối mỏng manh. Ai nói rằng những giọt nước mắt của người đàn bà rơi xuống, nhưng bây giờ không phải chỉ vì những trận đòn roi, mà một bàn tay nào đó đã bóp vụn trái tim và sự nhạy cảm trong tâm hồn con người ấy.Giữa xã hội phát triển đó vẫn còn là một câu hỏi xót xa!Như vậy, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX đầy ấn tượng và đặc sắc. Đó là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng- thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ. Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.Như nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết: “ Sự sống nảy sinh trong cái chết, hạnh phúc hiện hữu từ trong những cái hi sinh gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”. Và có lẽ đấy là dư âm vang sâu nhất trong tâm hồn mỗi độc giả khi đọc các tác phẩm “Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cô “uốn chiếc lá trên môi , thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê , ngày đêm thổi sáo đi theo Mị “. Đấy là dấu hiệu về một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn, biểu hiện của một sức sống trẻ trung, rạo rực … Mị cũng đã từng đựơc yêu và cô cũng đã từng yêu. Trái tim giàu khao khát của cô đã từng rung động theo tiếng gọi của tình yêu ,hồi hộp trước những âm thanh hò hẹn. Nhưng người con gái vùng sơn cước ấy lại bị rơi vào một cảnh sống có thể gọi là bạc mệnh , chẳng khác gì kiếp hồng nhan. Vì món nợ của cha mẹ mà cô đành phải cam chịu cảnh làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý . Đó là cái cảnh ngộ làm dâu trên danh nghĩa còn trong thực tế chẳng khác gì kẻ ăn người ở trong nhà, không bằng con trâu con ngựa “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân ,đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc đêm cả ngày, không những thế còn bị đánh, phạt, trói cho đến chết bất cứ lúc nào”. Mị mới ngày nào là cô gái tươi tắn, xinh đẹp, giờ biến thành một cái xác không hồn. Đúng là một cách diễn tả thật hay về cái ngục thất tinh thần và sự đày ải hết sức vô nhân đạo của nhà thống lý, dần dần Mị trở nên chai sạn, cái nhựa sống trong cô gần như bị cạn kiệt. Với Mị lúc này sống dường như không còn ý nghĩa ngay đến ý thức cũng tồn tại đâu đó trong cõi xa xăm. Cô sống vật vờ y một cái bóng “lùi lũi như 1 con rùa nuôi xó cửa”.Nhưng điều quan trọng là nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ. Và trong tác phẩm của mình nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy sức sống tìm tàng đó bằng một quá trình phát triển tâm lí , hành động khá sâu sắc và hợp lý . Ngay sau khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị cầm nắm lá ngón về nhà lạy chào vĩnh biệt cha. Cô định tự tử vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy. Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì không muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cô đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát … nhưng rồi cô lại không thể chết vì còn đó món nợ truyền kiếp. Thương cha không muốn cha phải khổ và thế là Mị đành phải sống, sống mà như đã chết bởi “ ở lâu trong cái khổ dần dần Mị cũng quen đi “. Chính lúc này, cô gái lại càng đáng thương hơn, bởi muốn chết nghĩa là con người ấy còn ham sống, không chấp nhận một cuộc sống không xứng đáng nhưng phải sống tủi nhục đoạ đày và không còn ý nghĩ đến cái chết, nghĩa là sự ham sống của con ngưòi dường như đã không còn nữa .Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan. Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đọa đày, đau khổ kia vẫn còn âm ĩ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi. Và điều ấy đã đến, đó là vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Năm ấy Tết dường như đến sớm hơn mọi năm , rất có không khí và tâm trạng, do đó , nó cũng khơi gợi sự sống hơn mọi năm . Khung cảnh tết năm ấy , có cái gì đó khác hẳn mọi cái tết khác ở Hồng Ngài : “Trên đầu núi , các nương ngô nương lúa đã gặt xong , ngô lúa đã xếp yên đầy các kho […] trong cá làng mèo đó , những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mõm đá xoè như con bướm sặc sỡ […]hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau , đỏ thậm rồi chuyển sang màu tím ngắt …” Đặt biệt, cái không khí chờ đợi tết, những đứa trẻ con chơi bi, chơi quay, tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng, tha thiết bồi hồi khi đêm về v.v... .Mị nghe tiếng sáo vọng lại tha thiết, bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thối sáo “mày có con trai con gái / mày đi làm nương / ta không có con trai con gái ta đi tìm người yêu …”Những yếu tố ngoại cảnh đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng dẫn đến sự diễn biến tâm lý nhân vật nó đóng vai trò của nhân tố gợi hứng đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ, một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc, tâm trạng và cuối cùng là hành động . Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say lịm người, cái say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên . Nhớ những ngày còn con gái, nhớ những đêm xuân hò hẹn …và lãng quên thực tại. Mị nhìn, nghe mà không thấy,cuộc rượu tàn lúc nào không hay : “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đỏng người hát […]rượu đã tan lúc nào người về , người đi chơi đã vắng cả . Mị không biết Mị ngồi trơ một mình giữa nhà …”.Nhưng “lòng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”.Quá khứ dồn dập trở về rất sống động , rất rõ , thiết tha … nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng :Mị vẫn còn là một con người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm ,Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi , A sử với Mị không có lòng với nhau nhưng phải ở với nhau …” trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh ấy, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo réo rắt “gọi bạn yêu vẩn lơ lững bay ngoài đường anh ném pao, em không bắt/ em không yêu quả pao rơi rồi” đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”. Nhưng chính lúc yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt , tâm hồn cô đang phơi phới trở lại cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng .Vừa lúc A Sử về biết ý định của Mị ,hắn lấy dây trói nghiến cô vào cột nhà rồi bỏ đi chơi . Suốt cái đêm đen tối bị trói đứng cái cột giữa nhà thống lí đó Mị hết thiếp đi rồi chợt tỉnh dậy , nhưng hình như cả đêm ấy , tiếng sáo dìu dặt của đám bạn trai vẫn đưa tâm hồn Mị sống lại những ngày đẹp đẽ ở quê nhà , tiếng sáo vẫn đưa cô đi theo những cuộc chơi của đám trai làng . Tâm hồn cô vẫn sống với không khí của ngày hội xuân. Cô định bước đi nhưng tay chân đã bị trói chặt cứng, không tài nào cựa quậy được . Những lúc ấy Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và trong lòng lại trào lên một nỗi đau sót, tủi nhục. Mị lại thổn thức , miên mang nghĩ về thân phận không bằng con trâu , con ngựa của mình rồi dần thiếp đi .Gần sáng cô bừng tỉnh, thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết , ý thức được sống lại trở về và trong lòng Mị lo sợ rằng nếu phải chết cay , chết đứng trên cái cột trói này…Sau cái Tết ấy , những năm tháng nặng nề trong phân thận nô lệ tủi nhục của Mị tưởng lại cứ âm thầm lặng lẽ trôi đi….cho đến khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói vì tội để mất trâu của nhà thống lí. Cái cảm giác ban đầu của Mị thật thản nhiên. Mị dường như đã trở nên vô cảm trước tất cả. Một suy nghĩ thật giản đơn và có phần nhẫn tâm chiếm lĩnh tâm trí cô “Nếu A Phủ là một cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Có khi Mị cứ cả đêm nhìn ngọn lửa nhảy múa và nghĩ , những ý nghĩ tủi cực, đau xót. Cho đến hôm ấy, “ trời đã khuya, Mị lại trõi dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại...”thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây...Ý nghĩ A Phủ rất có thể sẽ bị chết trong đêm nay đã hoàn toàn đánh thức tình thương và lòng căm hận trong long Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn bạo và vô lí, bất công “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết [...]. Nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác [...]. Ta là thân đàn bà đã bị nó bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...Người kia việc gì mà phải chết...” Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hông Ngài. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới. Đó chính là cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài đối với những kiếp người bất hạnh, đau thương- một cái nhìn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp trong mỗi con người.Nếu như Mị hiện lên dưới cái nhìn của Tô Hoài là một nười phụ nữ với số phận đầy bi kịch nhưng từ sâu thẳm trong tâm hồn là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt thì khi đến với nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm của Kim Lân, ta sẽ cảm nhận được cái niềm khao khát được sống, và mong muốn được “ sống cho ra sống” thật đáng quý của một người phụ nữ không tên “vợ nhặt”.Là một người đàn bà bị cái đói xô đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần hậu của người phụ nữ lao động. Bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ bị chết đói nên có lúc bên ngoài thành ra trâng tráo, trơ trẽn. Nhưng đó không phảỉ là bản chất vốn có của chị phải đến lúc cùng đường, bị rơi vào tình thế phải theo không một nguời đàn ông xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ rõ. Trên con đường theo Tràng về nhà, chị không khỏi cảm thấy ngượng ngùng xấu hổ, lòng chị vừa xấu hổ tủi nhục vì dẫu có là bước đường cùng chị không thể tránh khỏi cái tiếng xấu nhất đối với một người phụ nữ là “đàn bà theo giai”trong cái bối cảnh của một xã hội lạc hậu, còn đầy rẫy những định kiến nặng nề đó. Lo lắng phấp phổng vì không biết cái gì đang chờ đợi trước mặt. Liệu người đàn ông mà chị đánh liều theo không này có giúp được cho chị khỏi phải chết đói? Liệu người thân trong gia đình của anh có thông cảm cho cảnh ngộ và chấp nhận chị. Một biến cố cuộc đời đến quá bất ngờ khiến lòng chị không yên với bao tâm trạng lo âu . Do đó, bên cạnh dáng điệu phởn phơ tự đắc của tràng , vẻ e thẹn ngượng ngập của chị càng thêm nổi bật. Riêng cái cách đi đứng của chị cũng là dấu hiệu cho thấy đây là một người phụ nữ hiền thục, đoan trang, ý tứ … “người đàn bà đi sau hén chừng 3- 4 bước, thị cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, thị có vẻ rốn rén, e thẹn”Cả đến lúc đã gặp cụ Tứ và đã được chấp nhận, được cảm thông, thương yêu thì trong bóng tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè khép nép. Nhà văn dường như đã hiểu thấu đến tận cùng nỗi lòng của chị và thể hiện được một cách thật tinh tế những gì đang xảy ra trong lòng người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng. Chắc là với, chị con đường âý dài dặt và xa lắm, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách đễ dàng ? Liệu cái hạnh phúc “thử liều nhắm mắt đưa chân “ này có cho chị được một chút ấm áp hay lại còn khốn nạn, cay đắng hơn ? Liệu cái anh chàng xa lạ có vẻ cũng dễ mến này có giúp chị thoát khỏi những cảnh chết đói hãi hùng trước mặt ? Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột trong lòng chị đã phải bật lên thành tiếng , chị đã mấy lần sót ruột hỏi Tràng: “sao lâu thế” “sắp đến chưa” “vẫn chưa đến à?”rồi “nhà có ai không ?” …Chị hỏi vào tình cảnh phải theo không Tràng cũng chẳng qua chỉ là bất đắt dĩ cần tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể may ra tránh được sự chết đói. Nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ là một cái nhà vắng teo, trên mảnh vườn mọc lỗn nhổn những bụi cỏ dại thì chị không nén nỗi một tiếng thở dài. Hoá ra cái gia cảnh của anh mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “rich bo cu hả” là thế này đây. Nhưng chị còn biết sao được nữa, chị cảm thấy thất vọng , buồn tủi, chua sót quá nên mặt cho Tràng lăng săn đôn đả, “thị nhép mép cười nhạt nhẽo […], hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. “Tại sao đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi mà người phụ nữ kia vẫn ôm khư khư cái thúng thế ?” Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá ư chật chội, chị phải biết để nó ở đâu ? Hay vì giờ đây cái thúng là tài sản duy nhất chị có nên chị không thể xa rời.Không tìm được sự no đủ nhưng dẫu sao, chị cũng bớt được một nổi lo trong dạ khi biết nhà tràng chỉ có một mẹ già. Dĩ nhiên, chị hiểu đấy là đỡ phức tạp , khả năng bị xua đuổi hắt hủi bị giảm xuống mức thấp nhất , mà đấy chẳng phải là một nửa sự sống đó sao? Cho nên lúc ấy chỉ đã có thể “tủm tỉm cười” rồi lại đùa với Tràng “đà mỗi một mình tôi lại còn mấy u. Bé lắm đấy”. Và mặc dù vẫn còn rất buồn vì thất vọng chua chát,nhưng hầu như chị chẳng nói năng gì kể từ khi chứng kiến gia cảnh của mẹ con Tràng. Nhưng trước sự cảm thông , yêu thương đùm bọccủa những người xung quanh trong một mái ấm gia đình. Sáng hôm sau, chị đã săm sắn quét dọn cùng với mẹ chồng thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một cô con dâu thực sự trong nhà. Và chính điều ấy đã đem đến cho chị những thay đổi đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên “Tràng nôm thị hôm nay khác lắm. Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chua chát như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh".Đặc biệt là trong bữa ăn của một ngày mới, người nói đến “toàn chuyện vui chuyện sung sướng về sau này “ lại là bà cụ gần đất xa trời , con người nói đến đấu tranh “ phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật duy nhất không có tên trong tác phẩm. Từng đoàn người “ những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp[…]cờ đỏ bay phấp phới” do câu chuyện của chị gợi ra có lẽ cũng là một dụng ý nghệ thuật , nhằm khẳng định khát vọng và sức sống manh mẽ của những con người như chị.Trong tác phẩm này 1 nhân vật cũng được nhà văn dành nhiều trong miêu tả và có những thành công nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ- mẹ của Tràng. Những gì đã diễn ra trong tấm lòng của một bà mẹ nghèo khó nhưng rất từng trải và giàu lòng nhân hậu này rất đúng để người đọc suy ngẫm. Xúc động cụ thể, hiểu hơn ai hết gia cảnh của mình cùng cảnh ngộ của con trai bà trong những ngày đói kém hiện tại . Vì vậy, lúc đầu thấy có một người đàn bà xa lạ đến nhà mình , lai gọi bằng “U”, bà hết sức ngạc nhiên. Sao lại gọi mình bằng u? Nhưng bằng kinh nghiệm và sự từng trải , qua thái độ rối rít như một đứa trẻ và những cô phân trần cắt nghĩa không mấy rành rẽ của con trai , bà đã hiểu ra tất cả cơ sự . Kim Lân đã khôn khéo chọn giọng điệu và ngôn ngữ nội tâm rất đáng với nhân vật để diễn tả tâm trạng của một bà lão nghèo khó, già cả nhưng vẫn còn rất nhạy cảm và từng trải “bà lão cúi đầu nín lặng” một sự nín lặng chứa đựng biết bao nổi thương sót và trĩu nặng suy tư : bà lão hiểu rồi , lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự , vừa ai can sót thương cho số kiếp đứa con mình , chao ôi người ta dựng vợ gã chồng cho con là trong nhà lúc ăn nên làm ra , những mong sinh con mở mặt sau này còn mình thì …Biết nó chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không". Đó là tâm lí thương thân tủi phận . Nhưng là sự thương thân tủi phận của một người mẹ từng trải và giàu lòng nhân hậu , bởi trong cái ý nghĩ buồn tủi của bà còn chứa đựng biết bao nhiêu tình thương và trách nhiệm. Do vậy mà nó ẩn chứa bao nổi lo lắng, dằn vặt , xót xa của tấm lòng người mẹ của tấm lòng người mẹ trước cảnh ngộ trớ trêu và đáng thương của đôi con trẻ trong những ngày đói khát trước mặt.Nhưng cụ tứ thương con vô bờ bến, bà cụ đã từ chỗ tủi cho tận mình, thương cho con mình, bà lão chuyển sang cảm thông , thương xót cho người đàn bà xa lạ bỗng nhiên trở thành “vợ nhặt” con mình: “bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”.Tác giả đã diễn tả những ý nghĩ âm thầm , tủi cực mà đầy thông cảm của người đàn bà xa lạ ấy. “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này , người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới được vợ …” Vậy là tình yêu thương con, yêu thương đồng loại, một trái tim giàu lòng nhân ái bà mẹ nghèo đã vượt qua được những định kiến hẹp hòi nặng nề trong xã hội cũ lúc ấy để đạt đến sự cảm thông lớn lao. Bà đã chấp nhận con dâu sáng hôm sau, bà lão xăm xắn nhanh nhẹn khác hẳn ngày thường. Bà vui tươi quét dọn cùng với cô con dâu bữa ăn đầu tiên của ngày. Người mẹ nhân hậu và từng trải muốn nhom nhén một niềm vui sống, niềm hi vọng mới giúp con người có thêm sức sống để vượt qua những khắc nghiệt của đói nghèo hiện tại, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cái nhìn đầy cảm thông, yêu thương của bà cụ tứ đối với con dâu hay đó cũng là cái nhìn đầy nhân đạo của Kim Lân đối với nhân vật người vợ nhặt” một số phận đáng thương, một tâm hồn đáng quý.“Dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở hiện tại, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. Đó là nhân vật của Kim Lân!Bước vào thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu , ta sẽ bắt gặp hình ảnh người đàn bà làng chài - là hiện thân cho mảnh đời tăm tối, cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta qua truyện ngắn “chiếc thuyền ngoài xa”. Một cuộc sống gia đình với nạn bạo hành mà chị phải gánh chịu của người chồng vũ phu, tàn bạo: “Chẳng nói chẳng rằng , lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn…”. Theo chị kể người chồng chị trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm không bao giờ đánh đập tôi”.Nhưng rồi việc trốn lính làm cho khuynh gia bại sản , rồi hoàn cảnh sống suốt ngay lênh đênh trên một con thuyền “ đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều con quá” vất vả cơ cực đã nhiễm vào người đàn ông chài thói vũ phu: “bất kể lúc nào thấy mệt lại lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ”. Một sự nhẫn nhục cam chịu dường như quá sức đối với chị .Nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, một sự thấu hiểu hiểu người và hiểu đời, một tình yêu thuỷ chung, son sắc , đáng thương. Để “nuôi đặng một sắp con” chị đã chịu đựng nhịn nhục một cách thật nhẫn nại đến mức khó hiểu, mặc cho chồng cứ đánh, cứ chửi “người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục , không hề kêu lên một tiếng, chống trả, chạy trốn”. Chị càng không dám bỏ người chồng vũ phu, độc ác ấy với chỉ một lý do cũng rất đơn giản “cuộc mưu sinh khó nhọc, đầy bất trắc trên một chiếc thuyền chài lênh đênh sông nước không thể thiếu một người đàn ông”.Và ở người đàn bà lam lũ khốn khổ đó , ta cũng nhận thấy le lói ánh sáng những hạt ngọc lấp lánh của tâm hồn còn khuất lấp trong cái u tối , cay cực của đời chị. Chị phải chấp nhận cuộc sống cay cực với mọi cực hình, chịu đựng sự đánh đập hàng ngày của chồng vì chị hiểu rất rõ hoàn cảnh của mình, hiểu rõ cái khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người, chị không đồng ý ly hôn với người chồng vũ phu theo lời khuyên của Đẩu –viên chánh án toà án huyện và nói với Đẩu “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu hiểu được cái việc của những người làm ăn khó nhọc”. Chị hiểu nỗi bế tắc, khốn khổ của người chồng và hơn cả chị hiểu thiên chức làm mẹ của mình . Phải chăng cũng chỉ vì thiên chức đó mà chị phải xin chồng không đánh chị trên thuyền, trước mặt các con mà được bị đánh ở bãi xe tăng hỏng bên bờ biển. Chị không muốn đàn con đói khổ của chị bị tổn thương. Vì thế mặc cho thằng chồng vũ phu ra sức đánh đập, chị không hề kêu khóc , nhưng khi biết đứa con bé bỏng của mình chứng kiến người bố đánh mẹ chúng thì chị “vô cùng đau đớn và xấu hổ, nhục nhã” cứ hết ôm chầm lấy con chị lại vái lấy vái để trước mặt nó. Đau đớn vì rốt cuộc ,cái tình cảnh khốn nạn của chị vẫn không giấu nỗi các con không tránh được sự tổn thương trong tâm hồn, tình cảm của chúng. Xấu hổ và bất lực vì sự nhục nhã của mình , vì sự thật về cái tình cảnh khốn nạn của mình mà chị muốn giấu kín thì đã bị phơi bày ra hết .Và có lẻ cũng vì thiên chức đó mà chị chấp nhận tình trạng bị hành hạ, chấp nhận cả cuộc đời cay đắng và đen tối chỉ để mong có được niềm hạnh phúc thật bình dị, thật nhỏ nhoi: “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ “hoặc”vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó đã căng no”…phải chăng ,đó chính là cái thứ ánh sáng lấp lánh của những hạt ngọc tình mẫu tử ,tấm lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của những người phụ nữ lao động trong những mảnh đời còn nhiều cơ cực tăm tối quanh ta? Có điều , những hạt ngọc đó còn quá lấm láp và nhiều tì vết bởi nó còn lẩn trong buồn đất, trong cát bụi của sự nghèo đói, lạc hậu, tối tăm …Như vậy, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin yêu và đức hi sinh cao cả đã phác họa nên bức chân dung về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX.Người phụ nữ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam bức tượng đài bất hủ của những con người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn đi tìm, hướng tới những gì tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc đời. Họ luôn là những mẫu hình lí tưởng về người phụ nữ Việt Nam thời kì đó, cho hôm nay và cả về sau.Họ luôn trường tồn trong tâm thức người đọc là “Những con người đáng thương nhưng đáng trọng.”

CHÍ PHÈO - VỢ NHẶTMBGiới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.Khám phá riêng của mỗi tác giả.TB:1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :-Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù.Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhăt-Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )-Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.. Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự nghèo đói và thê thảm.3. Kết thúc của hai tác phẩma. Khác nhau-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.a. Của “Chí Phèo”- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với “Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.b. Của “Vợ nhặt”- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như nằm bên bờ vực thẳm của cái chết.- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống.
CHÁO CÁM - CHÁO HÀNH1. Giới thiệu chung về các tác giả, tác phẩm và hai hình ảnh:- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất đặc điểm nghệ thuật của nhà văn.- Kim Lân là một cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Văn phong của ông giản dị mà thấm thía. Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và văn học kháng chiến nói chung.- Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.2. Trình bày cảm nhận:a. Hình ảnh bát cháo hành:* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở - Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.* Ý nghĩa:- Về nội dung:+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư, không vụ lợi của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí, gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.- Về nghệ thuật:+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.b. Hình ảnh nồi cháo cám:* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.*Ý nghĩa:- Về nội dung:+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ.Bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực.Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.+ Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.- Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.3. So sánh:- Giống nhau:+ Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.+ Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở "Chí Phèo" là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở "Vợ nhặt", số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.+ Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn.- Khác nhau:+ Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.+ Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng c/mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.+ Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn (chú ý thời điểm sáng tác các tác phẩm)
SÔNG HƯƠNG - VĨ DẠVẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường.Hướng dẫn cách làm bài :Mở bài :Giới thiệu bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Giới thiệu bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường Giới thiệu vấn đề nghị luận : Vẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩmThân bài : Luận điểm 1 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử+Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động. Con người xứ Huế hiền lành, phúc hậu.+Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền chở đầy ánh trăng nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn.+Khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực.Tóm lại : Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết.Luận điểm 2 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thực chất là phân tích vẻ đẹp của dòng sông HươngCó thể tham khảo những ý chính sau:– Vẻ đẹp được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên:Sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của rừng già” khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn; có vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ khi trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa đất cố đô, có vẻ đẹp phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, có vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn; có vẻ đẹp mang màu sắc “triết lí, cổ thi” khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long; có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó dời xa dần thành phố để đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ….– Vẻ đẹp sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa. Tác giả cho rằng đã có một dòng thi ca về con sông Hương, một dòng thơ không lặp lại mình, ấy là “dòng sông trắng- lá cây xanh”, trong thơ Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.– Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử: sông Hương từng là dòng sông bảo vệ biên thùy tổ quốc thời Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi đến cách mạng tháng tám, chiến dịch mậu thân năm 1968….– Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của tác giả:Ông đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, từng có lúc là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều đục. “Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…”.
 Luận điểm 3 : Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt*Nét tương đồng:– Cả hai nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của xứ Huế (Vĩ Dạ và sông Hương) làm điểm nhấn và khởi hứng cảm xúc.– Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiênnhiên, cảnh sắc con người xứ Huế rất riêng, rất thơ mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác giả.– Cả hai đều là những cây bút tài hoa,tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú.*Nét khác biệt:–Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử nên điểm nhìn cảm xúc trong một khônggian hẹp, cái nhìn từ kí ức. Cảnh vật của xứ Huế hiện lên với những nét đặctrưng rất bình dị, quen thuộc, gần gũi nhưng cũng thật lãng mạn: cảnh khu vườn mướt như ngọc, sông trăng huyền ảo, con người với vẻ đẹp đằm thắm, dịudàng…cảnh vật in đậm cảm xúc về tình đời, tình người.– Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện lên ở rất nhiều góc độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn hóa….Vì thế vùng đất cố đô hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế,là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa.
 Luận điểm 4 : Lí giải sự khác biệt+Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về cảm xúc, tâm trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và khách quan.+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trở thành kỉ niệm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn máu thịt của ông.Kết bài : Đánh giá chung về sự sáng tạo của mỗi tác giả
MỊ - CHÍ PHÈO UỐNG RƯỢU1. Mị uống rượu:+ xuất thân của Mị: Mị là ng con gái H'Mông đẹp người, đẹp nết và căng tràn sức sống nhưng số phận của Mị trở nên tăm tối khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà PÁ Tra+ Hoàn cảnh Mị uống rượu: Khi Mị đang ở nhà thống lí Pá Tra; Trong một đêm tình xuân khi mà muôn vật đang ở thì tươi đẹp; rộn ràng khắp nơi. + Phân tích cảnh Mị uống rượu: Trc khi uống rượu Mị chỉ như con rùa lùi lũi nơi xó cửa; mảnh đất và không gian mùa xuân đã gieo mầm hi vọng sống trong cô gái trẻ. Mị uống rượu và thả hồn theo giai điệu của tiếng sáo Mèo; Mị nhỡ lại thời kỳ xuân xanh của mình; mùa xuân đến được đi chơi; đc đắm chìm trong giai điệu của tiếng sáo Mèo; đc đi theo tiếng gọi của trái tim và tình yêu mãnh liệt. " Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi" : men rượu làm cho Mị tỉnh ra, ý thức đc sự ham sống của tuổi trẻ. Mị muốn đi chơi như bao cô gái đã có chồng khác. Tiếp theo là hàng loạt nh~ hành động thể hiện sự ý thức về sự sống của Mị "lấy mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng"; "lấy váy hoa trên vách"; ....=> Men rượu làm cho Mị từ cái xác không hồn trở nên có ý thức về sự sống; có ý thức muốn sống và thoát khỏi cuộc sống hàng ngày. => Sức sống tiềm tàng không bao giờ mất đi; khi có cơ hội nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ như ngọn lửa => giá trị nhân đạo tác giả gửi gắm2. Chí Phèo uống rượu:+ xuất thân: trc khi bị vào tù, CP là một chàng canh điền lương thiện đi ở cho nhà Bá Kiến; do Bá Kiến ghen tuông đã đẩy CP vào tù. Sau 3 năm ở tù ra CP trở thành 1 kẻ khác hẳn; không còn là anh canh điền lương thiện năm xưa nữa, CP chìm ngập trong rượu chè sớm tối. Và bi kịch của CP cứ tiếp diễn từ đó+ Hoàn cảnh uống rượu: Sau khi ra tù và trc khi gặp Thị Nở, CP lúc nào cũng trong tình trang say khướt. Thế nhưng từ khi gặp Thị và có tình yêu vỏn vẹn trong 5 ngày, CP đã giữ cho mình luôn tỉnh táo. Rồi sau 5 ngày bị Thị cự tuyệt CP trở về với rượu, men rượu là thứ để CP giải khuây trong lòng. Trong lúc uống rượu CP đau khổ khi nhận ra bi kịch của bản thân.+ Phân tích:CP tìm đến rượu để giải tỏa nỗi đau bị Thị Nở cự tuyệt; nhưng càng uống CP càng tỉnh ra càng nhận thấy sự thật đắng cay rằng đến cầu nối giúp CP trở về bờ bến lương thiện đã mất. CP bị cự tuyệt làm người, bị cả cộng đồng làng Vũ Đại xa lánh và không bao giờ đc hòa nhập lại nữa.CP uống rượu và có lẽ đó là lúc CP tỉnh táo nhất, CP nhận ra kẻ thù đã đẩy mình đến bước đg cùng này ko ai khác chính là Bá Kiến. Tuy mồm chửi cô cháu Thị Nở, nhưng bước chân lại dẫn CP cầm dao tới nhà BK và đâm chết kẻ thù đã hại mình.=> Thấy đc giá trị hiện thực: cuộc sống ng nông dân trong XHPK, khổ vì bi kịch là ng nhưng ko đc chấp nhận là ng=> Tư tưởng tác phẩm 3. So Sánh+ Giống: CP và Mị tìm đến rượu khi cuộc sống của họ đang gặp phải bế tắc.CP và Mị đều là công cụ trong tay của bọn cường hào PK thời bấy giờCP và Mị đều có xuất thân trong sáng, không chút bùn nhơ nhưng bị XH xô đẩy và bị kiềm tỏa bởi những hủ tục phong kiến+ Khác:Mị: Ý thức đc sự sống, sự sống trong Mị luôn cháy âm ỉ chờ ngày bùng cháy => tương lai một ngày nào đó sẽ thoát ra khỏi đc cuộc sống tăm tối hiện tạiCP: Ý thức sống bị dập tắt đến bi thảm => cái chết => một vòng luẩn quẩn sẽ vẫn còn lặp lại
MAI - NGƯỜI ĐÀN BÀ– Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp của tình mẫu tử qua hai nhật vật: Mai (Rừng xà nu) của Nguyễn Trung Thành) và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) của Nguyễn Minh Châu
+ Giới thiệu về hai tác giả và hai tác phẩm;+ Phân tích vẻ đẹp của tình mẫu tử ở hai nhân vật:Nhân vật Mai:Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn của Mai, người con gái Tây Nguyên có trái tim yêu thương nồng nàn và phẩm chất anh dũng, bất khuất. Giây phút đối mặt với kẻ thù hung bạo, Mai đã đem thân mình, chịu đòn thù để mong bảo vệ con trai. Dù vô cùng đau đớn, nhưng Mai vẫn không chịu đầu hàng kẻ địch. Tình mẫu tử cao đẹp thể hiện trong bối cảnh chiến tranh đã làm cảm động trái tim người đọc.Nhân vật người đàn bà hàng chài:Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn của chị thể hiện trong lẽ sống vì con, chịu đựng đắng cay tủi nhục vì con, mong “đàn con tôi chúng được ăn no”. Chị cố bảo vệ cho tâm hồn con trẻ khỏi bị tổn thương, khi việc ấy là không thể được, mỗi đau của chị trào tuôn thành những giọt nước mắt trên khuôn mặt rỗ. Chị cố gắng giữ mái gia đình cũng là vì đàn con.+ Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của vẻ đẹp tình mẫu tử trong hai nhân vật: Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được:Sự tương đồng: Hai nhân vật đều mang một tình mẫu tử sâu sắc và cao cả, họ là những người mẹ sẵn sàng chết vì con, giàu đức hi sinh cao cả.Sự khác biệt:+ Nhân vật Mai là hình tượng người mẹ Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mỹ ở Tây Nguyên. Nỗi đau của Mai là nỗi đau của cả dân tộc trong một thời kì đánh giặc ngoại xâm để bảo vệ quê hương, tổ quốc.+Nhân vật người đàn bà hàng chài là hình tượng người mẹ nghèo của đời thường vốn còn nhiều nhọc nhằn, vất vả. Từ cuộc đời và phẩm chất cao đẹp của chị, ta thấy được nỗi đau của bi kịch đói nghèo và bạo lực gia đình.

GIỌT NƯỚC MẮT CỤ TỨ -  ĐÀN BÀ HÀNG CHÀITrong vô vàn những tác phẩm văn học Việt Nam, đề tài về người nông dân, người mẹ trong những hoàn cảnh gian khổ, nghèo đói vẫn chiếm số lượng lớn. Và “Vợ nhặt” – Kim Lân cùng “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm khá tiêu biểu thuộc đề tài đó. Hai tác phẩm của hai tác giả tưởng như hoàn toàn khác nhau lại cùng gặp nhau ở một chi tiết, đó là chi tiết“dòng nước mắt” “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân) và “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn, đó cũng là những điểm sáng trong sự nghiệp văn học của cả hai tác giả. Hai tác phẩm đều khắc họa tình người, tình mẹ và chi tiết “dòng nước mắt” chính là một phương tiện để biểu hiện.Vợ nhặt là những trang văn mà Kim Lân kể về số phận, cuộc đời của những người nông dân nghèo trước cách mạng. Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo, cao tuổi chỉ còn cậu con trai duy nhất là anh cu Tràng. Gia cảnh của bà cũng như biết bao gia đình khác lúc bấy giờ đó là sự đói kém, nghèo khó đến cùng cực. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, đứa con trai ngờ nghệch của bà đã “nhặt” về một cô vợ. Ban đầu bà cũng ngờ vực, ngạc nhiên rồi bất ngờ lắm. Nhưng khi nghe lời giới thiệu của cậu con trai “ Nhà tôi về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà “ bỗng hiểu ra bao nhiêu là cơ sự”. Và rồi trong suy nghĩ chậm chập vì tuổi tác cua bà cụ Tứ “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Dong nước mắt “ chính là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi và hơn hết là lo lắng vô cùng. Bà cụ Tứ đã ở tuổi gần đất xa trời, cuộc đời đã rất nhiều đau khổ, chồng và con gái mất, chỉ còn lại mẹ góa con côi, đắp đổi nuôi nhau qua ngày. Anh con trai thì lại chẳng sáng sủa để mong lấy được vợ, bà chỉ có mong mỏi lớn nhất là hy vọng gây dựng được gia đình cho con. Mong ước ấy giản đơn nhưng sao thật xa vời khi cảnh đói nghèo cứ vây lấy cuộc sống, hiện thực “chết đói như ngả rạ” khiến bà chẳng còn dám nghĩ đến mong mỏi ấy. Sau biết bao tháng ngày đau khổ của cuộc đời, dường như bà cụ Tứ đang ở mức tận cùng của bất hạnh trong hiện thực xót xa của nạn đói 1945 đó. Vậy mà bỗng nhiên con trai bà – anh cu Tràng đưa về một người phụ nữ, không lễ nghi, không thủ tục nhưng hai đứa con đáng thương ấy nên vợ nên chồng. Bà cụ Tứ ngổn ngang bao tâm trạng. Mừng vì “người ta có gặp bước khó khăn này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”, nhưng mừng rồi bà lại tủi, bởi “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”, giá như bà cụ có thể làm được “dăm ba mâm” thì có lẽ nỗi tủi hờn ấy sẽ vơi đi phần nào, nhưng trong nạn đói lúc bấy giờ thì đó thực sự là điều quá viển vông, xa xỉ. Và bao trùm lên tất cả là sự lo lắng của người mẹ “liệu chúng nó có nuôi nổi nhau, cuộc đời chúng nó có khá hơn cuộc đời vợ chồng bà trước kia không”. Trong những cảm xúc ngổn ngang ấy, “kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống những dòng nước mắt”. Tác giả đã để cho dòng nước mắt ấy “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời với toàn những năm tháng khốn khổ dường như bà cụ đã cạn khô nước mắt rồi. Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng đã từng viết “tuổi già hạt lệ như sương/Hơi đây ép lấy hai hàng chứa chan" hay Nam Cao khi mieu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiên cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi. Kim Lân đã để chân dung bà cụ Tứ hiện lên qua chi tiết “kẽ mắt kèm nhèm” – một bức chân dung đầy khổ hạnh của người nông dân lớn tuổi. Dòng nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận mà còn là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng, mừng hay tủi hay lo lắng cũng đều xuất phát từ tình thương con đến thắt lòng, từ trái tim nhân hậu của người mẹ. Có thể nói, chi tiết “dòng nước mắt” đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhan đạo sâu sắc. Chỉ “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ nhưng ta có thể thấy được tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945. Đặc biệt, đó còn là sự cảm thông thương xót những người nông dân khốn khổ, là sự tố cáo xã hội, tố cáo giai cấp thống trị đã đè nén áp bức người dân. Nhưng đặc biệt nhân đạo ở đây là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ mà Kim Lân dành nhiều tâm huyết vào ngòi bút của mình. Chi tiết “dòng nước mắt” còn mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Dù chỉ là chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lại rất lớn, diễn tả chân thực, sinh động nội tâm nhân vật.Còn lý do vì sao mà tác phẩm của Nguyễn Minh Châu lại có sự xuất hiện của “Dòng nước mắt”. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm mà ông nói về cuộc đời của người dân trong thời kì sau cách mạng, thời kì còn nhiều u tối, khó khăn. Phùng – một nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp đã vô tình bắt gặp và rồi đắm say trước hình ảnh của chiếc thuyền mờ ảo hiển hiện trên sông. Nhưng anh đâu biết rằng, đằng sau đó là bi kịch bạo lực của một gia đình. Người đàn bà hàng chài hằng ngày phải gánh chịu những trận đòn dã man của người chồng – người chịu áp lực mưu sinh nuôi sống cả một gia đình đến 9, 10 người con trong hiện thực đói nghèo. Và rồi, thằng Phác, con trai chị đã xông đến đánh chính cha mình để bảo vệ cho mẹ để rồi nhận hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”Nếu chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận, xót xa thì “dòng nước mắt” của người đàn bà hàng chai là biểu hiện của sự đau đớn bởi hoàn cảnh gia đình bế tắc. Gia cảnh nghèo khó, thuyền chật lại đông con chín mười đứa khiến khó khăn chồng chất khó khăn, số lượng cá bắt được thì không đổi nhưng nhu cầu thì ngày càng tăng, con ngày một lớn hơn khiến gia đình người đàn bà hàng chài càng túng bách, bế tắc. Điều đó làm người chồng phải tìm cách giải tỏa nhưng lại giải tỏa bằng cách đánh vợ, bằng bạo lực gia đình, một cảnh bạo lực không lối thoát, không biết bao giờ có thể kết thúc bởi chỉ khi nào gia đình ấy thoát khỏi đói nghèo, tìm hướng đi cho riêng mình thì mới hy vọng thoát khỏi thảm cảnh ấy. Nhưng điều đó liệu có xảy ra được không khi cái nghèo ngày một lớn, cảnh bạo lực ngày càng trầm trọng them. Kéo theo đó là tội ác trái luân thường đạo lí của thằng con và nỗi lo lắng của người đàn bà về sự phát triển nhân cách lệch lạc của những đứa trẻ tội nghiệp thường xuyên phải chứng kiến cảnh cha chúng đánh mẹ một cách không thương tiếc. Và “dòng nước mắt” một lần nữa là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng. Chị khóc vì thương con. Khi chồng đánh, chị không hề có bất kì phản ứng nào, không chạy trốn, không chống trả chỉ đứng im chịu đòn, cam chịu đến mức trong con mắt của Phùng và Đẩu thì sự cam chịu ấy là bắt nguồn từ việc thất học, từ sự u mê tăm tối. Thế nhưng trước hành động của thằng con, nó lao đến bố mình như một viên đạn rồi đánh bố mình và sau đó nhận hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát, chị như sực tỉnh. Hành động của thằng con như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà để thức dậy nỗi đau tận cùng. Chị khóc, chị mếu máo, vái lạy con rồi lại buông ra…Vô cùng đau đớn! Chị không chỉ cảm thấy thương con, xót xa cho con mà còn cảm thấy có lỗi với con nữa. Thân là một người mẹ nhưng chị chẳng thể che chắn, bảo vệ cho con, mang đến cho chúng tuổi thơ trong trẻo yên bình. Những cảnh bạo lực gia đình cứ tàn nhẫn ăn sâu vào kí ức hàng ngày của chúng, cảnh cha mẹ bất hòa đã làm lệch lạc những suy nghĩ, nhận thức và hành động của những đứa trẻ tội nghiệp. Chị nhận lỗi về mình, nhận lỗi vì không thể nuôi dạy những đứa con cho tốt. Ai dám chắc rằng khi chúng lớn lên sẽ không trở thành những hung thần bạo lực, những hung thần thậm chí còn kinh khủng hơn bố nó trước kia. Chỉ một chi tiết “dòng nước mắt” mà truyền tải nội dung ý nghĩa thật lớn, mang đến cho người đọc cái nhìn sâu thẳm vào nội tâm nhân vật, dồng thời mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nó đã phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước đổi mới 1986. Một hiện thực khổ ải vì nghèo đói, vì tăm tối, vì bạo lực…Con mắt nhân đạo của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua sự cảm thông, thương xót cho số phận của người đàn bà hàng chài hay cũng như biết bao người phụ nữ đáng thương, tội nghiệp như vậy trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó, ông còn dùng ngòi bút của mình cất lên lời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ. Trong nỗi đau, người mẹ vẫn cam chịu, vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận cho chồng đánh để chồng giải tỏa phần nào áp lực từ cuộc sống đói nghèo để rồi tiếp tục cùng mình bươn chải, mưu sinh lo toan cho gia đình, nuôi lớn các con.Chi tiết “dòng nước mắt” của cả hai tác phẩm đều có những điểm chung. Đó đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ, là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hy sinh. Bên cạnh đó, hai chi tiết đều góp phần thể hiện giá trị nội dung và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau, thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả và cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc.Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau nên dòng nước mắt cũng mang nỗi niềm riêng. Chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, bà cụ tuy cảm thấy ai oán, xót xa và thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm. Còn “dòng nước mắt” của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình chị diễn ra trước mắt nghệ sĩ Phùng. Chị cảm thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Tội nghiệp thay khi phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc. Để khắc họa chi tiết “dòng nước mắt”, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị còn Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.Cùng gặp nhau ở những điểm chung bởi cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều cùng hướng đến đề xuất giải pháp cách mạng từ nỗi đau của chính nhân vật và cùng ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống. cùng là nhà văn nhân đạo và hiện thực sâu sắcThế nhưng hoàn cảnh va tương lai khác bởi các chi tiết được tạo nên trong những bối cảnh khác nhau. Kim Lân viết sau khi cách mạng thành công viết nên từ cảm quan lạc quan Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại, ông không thể chắc chắn rằng liệu tương lai có tốt đẹp hơn với người phụ nữ hàng chài đáng thương không. Đồng thời phong cách mỗi tác giả luôn có sự khác biệt không trộn lẫn. Vì thế cùng là chi tiết dòng nước mắt nhưng mỗi ngòi bút lại có cách tiếp cận riêng, tạo ấn tượng riêng nơi người đọc.Chi tiết “dòng nước mắt” ở hai tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đều đạt thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Tất cả mang đến những màu sắc riêng biệt để người đọc tìm đến văn học, tìm đến hiện thực, tìm đến các giá trị nhân văn với nhiều cánh cửa khác nhau
CÂU NÓI CHÍ PHÈO - TRÀNGSau khi nhận được bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:– Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11)Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:– Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những câu nói trên.Mở bài :Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và giới hạn đề.– Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” là một trong những chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.– Kim Lân là một nhà văn thành công đặc biệt khi viết về người nông dân và cuộc sống nông thông trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xúc động nhất của ông. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Chi tiết “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của truyện.Thân bài: lần lượt phân tích từng chi tiết sau đó so sánh1. Chí Phèo+Ý khái quát : nêu ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác, nội dung và bối cảnh dẫn tới câu nói của Chí Phèo.+Về chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao:– Về nội dung:+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ Chí Phèo có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí.+ Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức ở Chí khát vọng được sống cuộc sống của một người bình thường “Hắn thèm lương thiện”. Cử chỉ mộc mạc của thị gieo vào lòng Chí niềm hi vọng: thị sẽ là người mở đường dẫn Chí về với “cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.+ Câu nói Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui cho thấy khát vọng hạnh phúc, được yêu thương vẫn ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo sau bao nhiêu năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Chí không dám nói một lời “cầu hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọn cách nói lấp lửng thể hiện sự âu lo, phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh.– Về Nghệ thuật:+ Cách Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và cảnh ngộ của nhân vật.+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.2. Vợ nhặt+Ý khái quát : nêu ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác, nội dung và bối cảnh dẫn tới câu nói của Tràng+Về chi tiết :Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về trong Vợ nhặt- Kim Lân:Tràng là một chàng trai nông dân nghèo, ế vợ. trước tình cảnh của người đàn bà bị cái đói xô đẩy, Tràng đã đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau đó, Tràng nói một câu với hình thức như một câu nói đùa: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.– Về nội dung:+ Câu nói đùa nhưng lại thể hiện niềm khát khao hạnh phúc có thật, mãnh liệt cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân nghèo ấy mà ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể dập tắt.+ lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh phúc trong Tràng đước thắp lên từ câu nói đùa ấy lại thật sự bùng cháy. Tràng trân trong hạnh phúc của mình cũng như bằng tất cả những gì có thể, anh biến cuộc hôn nhân với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc.– Về nghệ thuật:+ Là một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm lí của nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Kim Lân 1,53. So sánh:– Sự tương đồng:+ Đó là những câu nói đặc biệt, có ý nghĩa hêt sức quan trọng trong cuộc đời các nhân vật và có sức tác động diệu kì, tạo nên những khoảng khắc ngọt ngào hạnh phúc cho họ.+ Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát vọng hạnh phúc ở những con người những tưởng như đã hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đời.– Sự khác biệt:+ Ở Chí Phèo, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất người ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo, sau khi cảm nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở thị Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền lành, chân chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con quỷ dữ Chí Phèo.+ Ở Vợ nhặt, chi tiết khẳng định sức mạnh của tình người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình yêu thương chiến thắng sự đe dọa của nạn đói và cái chết.4. Lí giải :+Do hoàn cảnh sáng tác+Do phong cách, cá tính sáng tạo của nhà vănKết bài : Đánh giá chung:Hai chi tiết nhỏ đã thể hiện khả năng thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn đối với vẻ đẹp và sức sống tâm hồn người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Đó là sự tiếp nối xuất sắc của nam Cao và Kim Lân với mạch nguồn nhân đạo của văn học Việt Nam.
LÁI ĐÒ - HUẤN CAO1. Hoàn cảnh* Điểm chung– Phải đối mặt với một môi trường sống chứa đựng nhiều nguy hiểm, đầy thử thách.– Môi trường ấy đồng thời cũng là cơ hội để họ bộc lộ trọn vẹn những vẻ đẹp độc đáo trong tâm hồn, tính cách, khả năng của họ.* Điểm riêng– Huấn Cao+ Chế độ phong kiến suy tàn, bắt đầu bộc lộ tính chất xấu xa, đen tối.+ Vì chống lại triều đình phong kiến mà Huấn Cao đã bị bắt, bị xử án tử hình, bị giam cầm để chờ ngày ra pháp trường chịu án chém. Những ngày cuối cùng của cuộc đời ông phải sống trong buồng giam tử tù, nơi không có chỗ cho sự tồn tại của thiên lương hay cái đẹp. Do đó, Huấn Cao luôn phải chuẩn bị tâm thế cho những trò đốn mạt, cạm bẫy xấu xa của kẻ tiểu nhân.– Ông lái đò+ Môi trường lao động đầy nguy hiểm: Con sông Đà hung bạo, độc dữ như kẻ thù số một.+ Công việc lái đò lại là công việc dễ tổn thọ bởi nó đầy những hiểm nguy, buộc người lái đò phải luôn tay, luôn mắt, luôn gân, luôn tim. Nguy hiểm nhất là những lần vượt thác – nơi dòng sông thể hiện đầy đủ nhất cái uy lực khủng khiếp của nó.
2. Đặc điểm:Tài năng phi phàm, xuất chúng:– Huấn Cao:+ Tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật – đòi hỏi sự uyên bác và một tâm hồn phóng khoáng.+ Tài viết chữ: Nét chữ vuông vắn, tươi tắn, viết nhanh và đẹp. Hồn chữ – điều được kí thác trong từng nét chữ là hoài bão tung hoành của một đời người. Danh tiếng: chữ Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn đến kẻ vô danh tiểu tốt cũng biết đến mà ngưỡng mộ. Chữ Huấn Cao là một vật báu ở đời, là niềm ao ước của những ai có sự am hiểu về chữ thánh hiền và cảm nhận được giá trị của cái đẹp. Chữ Huấn Cao có khả năng lay động, chinh phục lòng người.– Ông lái đòTài năng bộc lộ trong lao động với một công việc rất bình thường: lái đò+ Tay lái ra hoa: Những động tác chèo lái chứa đựng vẻ đẹp. Cái đẹp đời thường, giản dị mà cũng vô cùng độc đáo.+ Linh hoạt trong từng động tác để ứng phó, hoá giải những đòn đánh, thế tấn công của con sông không chỉ độc dữ mà còn có khả năng quân sự tuyệt vời.Sông Đà đã phối hợp được sức mạnh của cả đá và nước. Ông lái đò chỉ đứng trên một con thuyền với một mái chèo, một mình đơn độc giữ bao la sóng thác. Đá sông Đà dàn thạch trận với những cửa sinh, của tử biến ảo không lường. Nước sông Đà có những thế võ và sức mạnh đủ để quật ngã những tay lái non gan và ít kinh nghiệm. mái chèo chỉ là một công cụ bình thường nhưng khi ở trong tay ông lái đò lại như một cây đũa thần, giúp ông ổn định thế trận, hoá giải sức mạnh của mọi đòn tấn công.Với sự linh hoạt của động tác, ông lái đò đã đưa chiếc thuyền vượt qua thạch trận. Lúc thì đè sấn lên sóng thác mà đi, chặt đôi sóng mà tiến,… Con thuyền dưới sự điều khiển của ông lái đò khi tiến khi thoái, khi công khi thủ. Có lúc nó lao vút như một mũi tên tre, xuyên nhanh qua nước, vừa bơi, vừa tự dộng lái được, lượn được.Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò lại đổi tay lái và đổi luôn chiến thuật. Trong trận chiến trên sông, không phải không có lúc người lái đò méo bệch mặt đi vì những vết thương bởi sóng đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm. Nhưng chính nhờ xự linh hoạt của động tác, sự biến hoá của chiến thuật đã khiến cho lũ đá nơi ải nước phải tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Con thuyền của ông lái đò đã bỏ lại phía sau mình tiếng gieo hò của sóng thác để thanh thản hoà mình vào một không gian mới, không khí mới trên chính con sông vừa mới đây thôi còn là đối thủ trong trận chiến sinh tử.Khí phách hiên ngang, bất khuất trước những hiểm nguy, thử thách không chịu đầu hàng, lùi bước mà sẵn sàng đối mặt với một tâm thế bình thản, ung dung nhất có thể. Thậm chí, họ còn coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.* Điểm chung: Coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.– Huấn Cao: Quản ngục vì lòng cảm mến Huấn Cao, muốn ông được sống những ngày cuối cùng thoải mái nên đã biệt đãi người tử tù nguy hiểm. Hằng ngày, quản ngục đều sai người mang rượu thịt vào tận buồng giam tử tù. Do chưa biết rõ về con người quản ngục nên trong mắt Huấn Cao, rượu thịt đưa vào là một thứ cạm bẫy. Nhưng ông không hề né tránh mà vẫn đón nhận như một thú bình sinh.– Ông lái đò: Ông lái đò là người không thích chèo đò ở những quãng sông bằng phẳng bởi nó tạo cho ông cảm giác dại chân, dại tay và dễ buồn ngủ. Ông coi những nghềnh thác hiểm nguy chính là tình cảm đậm đà con sông dành cho nhà đò.* Điểm riêng: Tình thế phải đối mặt– Huấn Cao: Cái án tử hình, chốn ngục tù dơ bẩn với những trò tiểu nhân thị oai, với quyền lực xấu xa và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối mặt với tình thế ấy, Huấn Cao luôn giữ thái độ ung dung, bình thản, tự do, tự tại. Trò tiểu nhân thị oai không ngăn cản ông thực hiện ý định của mình. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực đen tối. Ngay cả cái chết cũng không gợi trong ông dù chỉ một thoáng phân vân. Nếu cái tin ngày mai Huấn Cao bị giải về kinh chịu án chém làm viên quản ngục tái nhợt đi, thầy thơ lại hớt hơ hớt hải thì không khiến Huấn Cao bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của Huấn Cao bấy giờ chỉ là nên hay không nên cho chữ quản ngục.– Ông lái đò: những trận thuỷ chiến trên sông, hiểm nguy luôn thường trực trong cuộc sống của những người lao động trên sông nước. Thậm chí, cuộc sống của người lái đò là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Bởi con sông Đà mà ông lái đò phải đối mặt hung bạo, độc dữ như một người dì ghẻ, một kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò dám chung sống suốt đời với nghề chèo đò, dám đối mặt tới cùng (cưỡi trên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ) với tư thế hiên ngang không chịu đầu hàng, lùi bước, luôn bình tĩnh, tỉnh táo để chỉ huy con thuyền vượt sóng thác.
Tấm lòng, nhân cách đáng quýĐều đem cái tâm trong sáng, cao quý để đối xử với cuộc sống, con người để vun đắp những mối quan hệ tốt đẹp, để xây dựng những mối tri kỉ, tri âm.* Huấn CaoLà người có tài viết chữ nhưng ông không dùng cái tài để mưu lợi cá nhân. Bởi ông biết rằng cái quý của chữ nằm ở giá trị tinh thần của nó. Vì thế, ông chỉ cho nhữ những người tri âm tri kỉ, những con người hiểu được tấm lòng của ông.Huấn Cao cho chữ viên quản ngục bởi ông nhận ra ở quản ngục một thiên lương trong sáng, một tấm lòng đáng trọng. Trao bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn vào tay quản ngục là trao cái đẹp vào tay người say mê cái đẹp, là trao tấm lòng cho người có tấm lòng. Hơn thế nữa, từ khi nhận ra con người quản ngục, Huấn Cao đã thể hiện sự trân trọng trong cách xưng hô, lựa chon không gian, thời gian viết chữ. Niềm mong muốn bảo vệ thiên lương cho con người đáng trọng đó bộc lộ ở lời khuyên chí tình. Chính tấm lòng, nhân cách của Huấn Cao đã lay động sâu sắc đến tình cảm của viên quan coi ngục, khiến quản ngục nghẹn ngào, cúi đầu xin bái lĩnh.Như vậy, cái đẹp do Huấn Cao sáng tạo ra có thể tồn tại bất tử và có ý nghĩa đối với con người, cuộc đời.* Ông lái đò– Gắn bó thuỷ chung với con sông Đà, ông coi sông Đà như một kì phùng địch thủ để thi thố tài năng. Đồng thời, với ông, con sông Đà lắm tài nhiều tật còn là một người tri kỉ tâm giao. Chính sự am hiểu đã giúp ông chinh phục được sông Đà.– Tấm lòng và trách nhiệm đối với quê hương đất nước+ Quá khứ: Thời chúa đất ngăn sông cắt bến, kẻ thù lùng sục, không thể trực tiếp chèo đò đưa bộ đội qua sông, những con đò bỏ vắng ven sông cùng với quy ước ngầm của những người lái đò (anh cán bộ nếu không muốn cho địch biết cái bến mình vừa sang thì cứ việc thả cho thuyền trôi dọc sông, người bến dưới bắt được sẽ gửi trả lại người phía trên này) chính là tấm lòng của người lao động với cách mạng, kháng chiến.+ Hiện tại: Khi đất nước đang trong thời kì dựng xây, ông lái đò lại rất tự hào kể về việc được chở một đoàn chuyên gia ta và chuyên gia Nga đi khảo sát địa hình, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy thuỷ điện. Đây là một ngườiềm tự hào chân chính của một người công dân khi được đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước.3. Đánh giá chung– Cả hai nhân vật đều được xây dựng bằng biện pháp lí tưởng hoá, xuất phát từ cơ sở của cái nhìn độc đáo về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ để có thể làm nổi bật những vẻ đẹp phi thường trong tài năng, cốt cách của các nhân vật. Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống đầy thử thách, những mối quan hệ nhìn bề ngoài là đối nghịch nhưng bên trong là tri kỉ, tri âm để các nhân vật vừa bộc lộ khí phách, nhân cách, tài năng xuất chúng hơn người. Đồng thời, để tạo nên sức thuyết phục của hình tượng nhân vật, Nguyễn Tuân đã huy động kho vốn kiến thức trên nhiều lĩnh vực kết hợp với trí tưởng tượng độc đáo.* Chữ người tử tùSáng tác trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân lúc này là một nhà văn lãng mạn, ông đã tìm kiếm sự độc đáo bằng cách xây dựng những nhân vật đặc tuyển – hình mẫu lí tưởng của những cong người một thời vang bóng, những anh hùng bất đắc chí, những nho sĩ cuối mùa dù sa cơ thất thế vẫn cương quyết không chịu dung hoà với môi trường đen tối, với xã hội bát nháo, lố lăng.* Người lái đò sông ĐàSáng tác vào những năn 60, Nguyễn Tuân lúc này đã trở thành một nhà văn cách mạng. Ông không còn đối lập xưa – nay, cổ – kim, cũng không còn tìm kiếm cái đẹp của một thời vang bóng mà ở ngay cuộc sống hiện tại với những con người bình thường. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò tuy chỉ là một người lao động bình thường nhưng lại có khí phách của một người anh hùng và tài năng, tấm lòng của một người nghệ sĩ.– Nếu như khi xây dựng Huấn Cao, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng tri thức về nghệ thuật thì khi xây dựng nhân vật ông lái đò, nhà văn cần rất nhiều vốn tri thức đời sống. Bởi vậy, những chuyến đi thực tế, sự gắn bó với những người lao động, công phu tìm hiểu cuộc sống, công việc của họ chính là điều kiện cần thiết để ngòi bút nhà văn có thể thăng hoa. Chính điều này giúp ngòi bút Nguyễn Tuân giữ được uy lực của mình, vẫn giữ được tài năng của mình. Những tác phẩm văn chương thống nhất ở tư tưởng nhưng phong phú, sáng tạo trong nghệ thuật biểu hiện.
MỊ - LIÊN ANCảm nhận của anh/ chị về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Từ đó, liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. (0,5 điểm)2. Cảm nhận về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (2,25 điểm)- Giới thiệu sơ lược về đặc điểm con người và số phận đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra.- Vài nét về bối cảnh nhân văn của thiên nhiên và cuộc sống, sinh hoạt ở Hồng Ngài trong mùa xuân.- Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị: nhẩm thầm bài hát - uống rượu và say - sống dậy những ngày quá khứ tươi đẹp và thức tỉnh tình cảnh thê thảm ở thực tại - muốn chết và muốn đi chơi.- Niềm khao khát được đi chơi là biểu hiện cho sức sống, khao khát tự do, ý thức làm người bấy lâu bị tê liệt nay đã hồi sinh ở Mị.3. Liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An (1,0 điểm)- Hai chị em Liên An từng có những ngày tuổi thơ tươi đẹp ở Hà Nội, nay vì gia cảnh sa sút mà phải sống buồn lặng, tăm tối ở phố huyện nghèo. Mỗi ngày, hai chị em chỉ có một niềm vui duy nhất: ngắm nhìn chuyến tàu đêm từ Hà Nội qua phố huyện.- Điểm giống nhau: Các nhân vật đều khao khát thoát khỏi thực tại buồn chán, tăm tối trói buộc sự sống; đều khao khát được đổi thay, được sống có ý nghĩa hơn.- Điểm khác nhau:+ Chị em Liên, An là những đứa trẻ, niềm mong ước đổi thay còn nhỏ bé, mơ hồ, mong manh.+ Niềm khao khát được đi chơi ở Mị chuyển hóa thành những hành động cụ thể; dù không thành nhưng là bước đột phá trong sự vận động tâm lí nhân vật, tạo chuyển biến cho hành động trốn khỏi nhà Pá Tra ở đêm mùa đông năm sau.4. Nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa. (0,5 điểm)- Với Thạch Lam: Viết về đề tài thị dân nghèo, quan tâm đến mảnh đời nhỏ bé, thương xót cho những kiếp người vô danh nhất là những em bé nên ao ước cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Nhưng nhà văn lãng mạn - dù có cái nhìn gắn với thực tại đời sống - chưa tìm được lối thoát cho nhân vật.- Với Tô Hoài: Viết về đề tài cuộc sống của người lao động trong xã hội cũ nhưng có cách nhìn, cách lí giải mới gắn với đổi thay trong tư tưởng của nhà văn, vì thế, cuộc sống có ý nghĩa là cuộc sống được tự do, được sống trong niềm vui sống của tuổi trẻ.5. Đánh giá (0,25 điểm)- Về nhân vật Mị- Về giá trị nhân đạo của hai tác phẩm.
TRÀNG - CHÍ PHÈO“…Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà...”.(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008)Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhận vật Tràng trong đoạn trích trên. Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở (Truyện Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục 2008) để bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn.          1. Giới thiệu chung– Giới thiệu Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.– Nêu vấn đề cần nghị luận            2. Phân tích a. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích: b. Cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích: * Về nội dung:- Sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện.- Có sự thay đổi trong suy nghĩ: + Yêu thương, gắn bó với gia đình.+ Thấy có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con.- Niềm tin vào tương lai tươi sáng. * Về nghệ thuật: - Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc.          3. Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở (Truyện Chí Phèo, Nam Cao) để bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn.(1.0đ)- Khái quát diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở: Lần đầu tiên hắn tỉnh rượu, tỉnh ngộ để nhận thức về cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại, tương lai; khao khát được trở lại làm người lương thiện…- Bình luận về tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn:+ Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo, Nam Cao thể hiện niềm thương cảm trước bi kịch con người, tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người nông dân trước cách mạng;+Trong đoạn trích Vợ nhặt, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim Lân đã phát hiện ta sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành động của nhân vật Tràng từ lúc “nhặt”được vợ. Qua đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, ca ngợi người nông dân dù trong hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.- So sánh::+Giống nhau: Cả hai nhà văn dù ở 2 thời kì cách mạng khác nhau nhưng đều gặp ở tư tưởng nhân đạo: khám phá sức sống, khát vọng hạnh phúc, nâng niu trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của tâm hồn con người.+Khác nhau: Tuy nhiên số phận mỗi nhân vật lại hoàn toàn khác nhau. Nhân vật Chí Phèo tuy thức tỉnh để khao khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy hạnh phúc đích thực của cuộc đời…- Đánh giá: Đó là tư tưởng nhân đạo mới mẻ, sâu sắc; góp phần nâng cao giá trị nội dung của văn xuôi hiện đại Việt Nam, hướng người đọc có tình cảm yêu thương, tin tưởng vào sức mạnh của con người trên con đường đi tìm hạnh phúc…        4. Kết bài: Kết luận về nội dung, nghệ thuật thể hiện nhân vật Tràng qua đoạn trích. Cảm nghĩa của bản thân về tư tưởng nhân đạo của 2 nhà văn.
 
CHÈ KHOÁN - XƯƠNG RỒNG LUỘC Cảm nhận của anh/chị về chi tiết nồi “chè khoán” của bà cụ Tứ trong truyện “Vợ nhặt”( Kim Lân) và “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của nhân vật người đàn bà hàng chài truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”( Nguyễn Minh Châu).1. Vài nét về tác giả, tác phẩm- Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945, trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”;- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983 là một truyện ngắn đặc sắc của ông trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. - Nêu ý kiến cần nghị luận: chi tiết nồi “chè khoán” của bà cụ Tứ trong truyện “Vợ nhặt”( Kim Lân) và “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của nhân vật người đàn bà hàng chài truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.2. Cảm nhận hai chi tiết nồi chè khoán và xương rồng luộc chấm muối          a. Cảm nhận chi tiết nồi “chè khoán” của bà cụ Tứ trong truyện “Vợ nhặt”( Kim Lân)*Ý nghĩa về nội dung - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: trong bữa cơm ngày đói đón con dâu mới của bà cụ Tứ- Thể hiện số phận của một bà mẹ nghèo khổ trong nạn đói Ất Dậu năm 1945- Tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày hạnh phúc của con trai- Ca ngợi tấm lòng nhân hậu, vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng- Chi tiết có giá trị hiện thực: gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít lúc bấy giờ. Chính chúng là thủ phạm đẩy người nông dân vào hoàn cảnh bi đát nhất.- Chi tiết có giá trị nhân đạo: trong tận cùng của cái đói, cái chết, người nông dân Việt Nam vẫn thương yêu, cưu mang nhau, có niềm tin vào tương lai và sự sống bất diệt.* Ý nghĩa nghệ thuật :- Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sắc nét tính cách, tâm lí và hành động của nhân vật bà mẹ nghèo nhưng rất thương con - Là chi tiết nhỏ nhưng gửi gắm tư tưởng lớn: tin tưởng vào khát vọng sống hạnh phúc và sức mạnh của tình thương, của tình người.           b. Cảm nhận chi tiết “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của nhân vật người đàn bà hàng chài ...*Ý nghĩa về nội dung - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: trong lời kể của người đàn bà hàng chài với chánh án Đẩu tại toà án huyện.- Lời kể của người đàn bà đã hé mở cuộc đời lam lũ, bất hạnh của chính bà và của cả gia đình bà;- Dự báo nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình mà bà sẽ kể tiếp sau đó cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng nghe ở phần sau. Lão đàn ông vì khổ quá nên xách bà ra đánh;- Chi tiết có giá trị hiện thực: phản ánh cái đói, cái nghèo của người dân miền biển nói riêng, của người dân nói chung thời hậu chiến;- Chi tiết có giá trị nhân đạo: Nhà văn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người; gióng lên tiếng chuông báo động về tình trạng bạo hành gia đình mà gốc rễ của nó chính là do đói nghèo gây ra.* Ý nghĩa nghệ thuật :- Là chi tiết chân thực, tạo cầu nối giữa phần trước đó và sau đó để mạch truyện được dẫn dắt tự nhiên, góp phần tạo tình huống nhận thức của câu chuyện.- Là chi tiết nhỏ nhưng gửi gắm tư tưởng và nghệ thuật mới mẻ của nhà văn: cần quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.3.Về sự tương đồng và khác biệt- Tương đồng. Cả hai chi tiết đều gợi nhớ đến cái đói trong cuộc sống, góp phần biểu hiện tình mẫu tử thiêng liêng. Những chi tiết đó đều bộc lộ khả năng sáng tạo độc đáo của các nhà văn Việt Nam trước và sau năm 1975.- Khác biệt. “Chè khoán” của bà cụ Tứ đã gửi gắm bức thông điệp: trong cái đói, cái chết thì sự sống đã ươm mầm, trong khổ đau đã có hạnh phúc, trong hiện tại đã thấy tương lai. “ Xương rồng luộc chấm muối” tạo ra sức ám ảnh lớn với người trong cuộc ( trong truyện là nhân vật Phùng và chánh án Đẩu) và người ngoài cuộc ( bạn đọc), đó là: chính cái đói, cái nghèo sinh ra tội ác. Phải có cái nhìn toàn diện và nhân văn về số phận con người sau chiến tranh.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ - TÂY TIẾNSo sánh hai đoạn thơ sau" Mơ khách đường xa khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà"và "Người đi châu mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa"Gợi ý làm bài1.Mở bàiGiới thiệu hai đối tượng được so sánh ( Nếu như là mở bài gián tiếp thì cần thêm bước dẫn dắt đầu tiên): Đoạn trích trong Tây Tiến của Quang Dũng cũng như đoạn trích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử2. Thân bài INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET ♦ Về Tây Tiến- Giới thiệu khái quát vài nét về tác phẩm,vị trí đoạn trích và tác giả- Làm sáng rõ đoạn trích trong Tây Tiến ( cần vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận nhưng chủ yếu là vận dụng thao tác phân tích): Đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây hoang sơ nhưng cũng rất thơ mộng+ Âm điệu: nhịp nhàng,trữ tình,tha thiết ~> kỉ niệm êm đềm+ Không gian: chiều sương ấy ~> không gian huyền ảo,lung linh+ Nhân hóa hồn lau: lau sậy cũng không còn vô tri vô giác mà nó như có hồn tạo thành hồn riêng trong chiều sương Châu Mộc+ Hình ảnh nổi bật trên dòng sông huyền thoại cổ tích là hình dáng mềm mại,uyển chuyển của con người trên chiếc thuyền độc mộc+ Hòa hợp với hình ảnh con người là bông hoa rừng: bằng cảm nhận tinh tế,tác giả gợi được cả cái đong đưa duyên dáng tình tứ của bông hoa trên dòng nước lũ.Hai nét vẽ về con người và thiên nhiên trong đoạn thơ đều chứa đựng linh hồn của vạn vật,những hình ảnh ấy chỉ có ở người nghệ sĩ tài hoa như Quang Dũng với cặp mắt đa tình mới bộc lộ hết được♫ Đoạn thơ như đưa người đọc được sống dậy cùng Tây Tiến giữa cảnh sông nước miền Tây – bức tranh thiên nhiên con người mĩ lệ,thơ mộng hài hòa qua nét vẽ tinh tế của nhà thơ.Không phải là những dốc cao vực sâu,ghềnh thác thú dữ như đoạn thơ đầu,vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây được gợi lên từ những chi tiết và hình ảnh mang cái bình yên thi vị,cái duyên dáng và tình tứ của thiên nhiên núi rừng.Một làn sương mỏng bâng khuâng buổi chiều nơi Châu Mộc mà Chế Lan Viên cũng từng nhắc về một kỉ niệm về Tây Bắc:“ Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủNơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”Hay những bông hoa lau phất phơ trong gió nhẹ,cánh hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ, chỉ với những nét vẽ ấy cảnh vật hiện lên như có linh hồn,có sức sống ,vẻ thanh bình thơ mộng chính là cái thần của bức tranh.Nổi bật giữa cái nền của thiên nhiên thi vị ấy là hình ảnh con người của Quang Dũng lại gợi nhiều liên tưởng: “ Có thấy dáng người trên độc mộc” Người đọc có thể cảm nhận vẻ đẹp thanh tú mềm mại,duyên dáng uyển chuyển của cô gái Thái trên thuyền độc mộc cũng có thể tìm thấy ở đó là một nét khỏe khoắn ,1 tư thế hùng dũng của chàng trai trong tư thế chủ động làm chủ thiên nhiên núi rừng. Dù hiểu theo cách nào cũng không làm mất đi cái vẻ đẹp thơ mộng hài hòa của bức tranh thiên nhiên,con người nơi đây. Cảm xúc thi nhân là nỗi nhớ da diết mãnh liệt tràn chảy không ngừng. Từ những câu thơ ở đoạn đầu “ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”, “ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” thì ở đây ta bắt gặp các từ “có thấy”,”có nhớ” tạo nên âm điệu của tiếng lòng.Nhà thơ vừa như hỏi vừa như gợi nhắc về chính những kỉ niệm đã qua trong lòng mình.Buổi chiều sương Châu Mộc thực sự đã trở thành kí ức đẹp đẽ đã không thể nào quên được INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET ♦ Về Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử- Giới thiệu khai quát về tác phẩm,vị trí đoạn trích và tác giả- Làm sáng rõ đoạn trích cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử: Đoạn thơ bộc lộ cảm xúc trực tiếp của Hàn Mặc Tử+ Mơ:○ Sự mộng tưởng không có thực○ Mơ khách đường xa ( 2 lần) mong muốn ,hi vọng có người đến thăm~>Không thành hiện thực : tuyệt vọng+Áo em trắng quá nhìn không ra: Hình ảnh cô gái hiện lên không rõ ràng,càng cố gắng nắm bắt thì càng không thể~> Nỗi buồn dâng lên đến đỉnh điểm+ Ở đây: nơi Hàn Mặc Tử đang sống cô độc,nỗi đau bệnh tật và tuyệt vọng đối lập với ngoài kia ( thôn Vĩ) với cuộc sống tươi đẹp+ Ai biết tình ai có đậm đà?○ Đại từ phiếm chỉ "ai" (4 lần) không xác định rõ ràng○ Câu hỏi khép lại bài thơ: Bộc lộ nỗi băn khoăn của thi sĩ,không biết tình cảm mọi người dành cho Hàn Mặc Tử còn đậm đà còn sâu sắc?~> Hàn Mặc Tử vẫn khao khát được sống,được giao cảm,chia sẻ đau buồn♫ Đoạn thơ mỗi ngày một khắc khoải,điệp từ “khách đường xa” được lặp lại mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng.Phải chăng đó là người khách mà nhà thơ hằng mong đợi thấp thỏm,nơi gửi gắm tình yêu,khát vọng. Nếu ở khổ thơ trước xứ Huế đẹp thơ mộng ở cấu trúc nhà vườn xinh xắn,ở hàng cao cao vút vươn mình đón ánh nắng ban mai,đẹp ở dòng sông Hương lặng lẽ yên bình trôi,ở dòng sông trăng lung linh huyền ảo thì đến với khổ thơ cuối, Huế hiện ra tha thiết duyên dáng trong hình ảnh cô gái áo trắng tinh khôi.Tuy nhiên trong hoàn cảnh của nhà thơ nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần đã khiến cho ý thức,cảm nhận về thời gian không gian trở nên nhạt dần,nhòe dần đi.Từ bức tranh rõ đến cả đường nét,màu sắc ánh sáng ở những khổ đầu thì bức tranh xứ Huế ở đây như đang tan dần vào cõi mộng. Từ “mơ” như khẳng định dưới cái nhìn của Hàn Mặc Tử hình ảnh xứ Huế chỉ còn là ảo ảnh. Cô gái Huế trong tà áo trắng sương khói nhạt nhòa,xứ Huế mộng mơ xứ Huế mơ mộng…tất cả như hòa tan trong nhau như thật khó xác định.Câu thơ cuối lại cháy lên một niềm khao khát cũng là nỗi băn khoăn day dứt trong câu hỏi tu từ “ Ai biết tình ai có đậm đà?”.Đại từ phiếm chỉ”ai” khiến độc giả trở nên mơ hồ,liệu đó có phải cô gái tác giả thầm thương hay là Hàn Mặc Tử ,những người dân xứ Huế nơi thôn Đoài? Tuy nhiên vượt lên trên uẩn khúc của thế giới hư ảo,nỗi đau đớn tuyệt vọng đến tột cùng là chữ tình tha thiết sâu nặng.Đó là tất thảy những tình cảm đáng trân trọng của con người trong cuộc đời này.Từ láy “đậm đà” khép lại bài thơ,khép lại một cuộc đời,một mối tình để lại âm hưởng,dư ba trong lòng người đọc INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET ♦ So sánh nét tương đồng và điểm khác biệt giữa hai đối tượng trên hai bình diện: nội dung và hình thức nghệ thuật ( sử dụng chủ yếu thao tác phân tích và so sánh)- Điểm tương đồng:+ Cả hai đoạn thơ đều là cái nhìn đầy tình cảm của cái tôi trữ tình về thiên nhiên,con người nơi mình từng gắn bó sâu nặng+ Cái tôi lãng mạn đã vẽ nên khung cảnh lung linh,huyền ảo đầy thơ mộng+ Qua hai đoạn thơ,ta nhận thấy rõ sự tài hoa của tác giả- Điểm khác biệt:+ Đoạn thơ về Tây Tiến cho thấy được nỗi nhớ da diết về sông nước miền Tây và kỉ niệm đời lính thời chiến+ Đoạn thơ về Đây thôn Vĩ Dạ lại cho thấy những tâm trạng giằng xé và tình cảm sâu nặng của Hàn Mặc Tử dành cho nơi thôn Vĩ mộng mơ- nơi có cô gái thầm thương INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f2d/1/16/2666.png" \* MERGEFORMATINET ♦ Lí giải sự tương đồng và khác biệt:+ Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những nhà thơ tài hoa,lãng mạn+ Ở Quang Dũng đó là một nghệ sĩ đa tài gắn liền với thời chiến nói chung và đoàn binh Tây Tiến nói riêng cùng phong cách thơ phóng khoáng,tinh tế,lãng mạn và hào hoa+ Ở Hàn Mặc Tử: đó là một hiện tượng thơ kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới,là hồn thơ đan xen tinh khiết trong sáng và những hình ảnh ma quái cuồng loạn.Hơn thế nữa,trong hoàn cảnh Hàn Mặc sáng tác bài thơ là sự đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần vì bệnh tật~> Chính hoàn cảnh riêng biệt của mỗi nhà thơ làm nên sự khác biệt cho mỗi tác phẩm để lại những dư vị khác nhau trong lòng độc giả 3. Kết bài- Khát quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu- Nêu những suy nghĩ của bản thân+ Mỗi đoạn thơ cho thấy được tài năng của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng+ Nó cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của hai con người trong những hoàn cảnh khác nhau làm nên phong cách nghệ thuật – vị thế đứng của mỗi nhà thơ trên thi đàn văn học Việt Nam,góp phần làm phong phú cho kho tàng thơ ca Việt Nam
HỒI SINH MỊ - CHÍ PHÈONam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi để xây dựng nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Đọc Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị, nhất là sự hồi sinh nhân tính của họ.“Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình.“Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính người, tình người được sống lại. Nói về sự hồi sinh nhân tính, ta đã bắt gặp sự hồi sinh ấy trong văn học trước đó, bất cứ nhân vật nào, một khi đã tha hóa, họ đều có quá trình thức tỉnh về tâm hồn, như Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ, như Hộ (Đời thừa – Nam Cao),… Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ thức tỉnh sau khi đánh đuổi vợ con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ đã khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là bằng chứng cho sự thức tỉnh, hồi sinh nhân tính. Còn sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?Để lí giải sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đều viện dẫn đến những tác nhân tác động từ bên ngoài. Đúng vậy, phải có sự tác động thì con người ta mới có thể thức tỉnh, cũng giống như con người khi chìm vào giấc ngủ say triền miên, phải có sự tác động thì ta mới có thể tỉnh giấc. Cả Chí Phèo và Mị đều có tác nhân như vậy.Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Tình người của thị Nở đã đánh thức tình người nơi Chí và chỉ có tình người ấy mới khơi dậy sự hồi sinh của Chí. Còn Mị lại thức tỉnh về nhân tính trong đêm tình mùa xuân. Nếu như Chí nhờ có tác động của con người, tình người thì Mị lại nhờ sự tác động của cảnh vật, để hồi tỉnh lại nhân tính.Trước khi hồi sinh nhân tính, cả Chí và Mị đều có những số phận và bi kịch đau đớn giống nhau.Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính, về nhân hình, Chí là một con vật lạ với khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, về nhân tính, Chí là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ và làm tay sai đòi nợ cho bá Kiến. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người, cha mẹ từ chối Chí, dân làng cũng từ chối Chí”. Chí rơi vào bi kịch khi không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội bằng phẳng kia. Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như vậy, đâu ai dám sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chĩ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Mị giống như một con rùa được nuôi trong xó cửa. sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như những người phụ nữ trong nhà này, làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với con người thì Mị lại không buồn giao tiếp. Mị lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính người nhưng “tính người” bị mất đi ở đây khác với Chí. Nếu như Chí Phèo bị tha hóa về nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị lại mất đi nhân tính ở chỗ cô không được coi là một con người. Sống ở nhà thống lí Pá Tra, MỊ như một “con trâu, con ngựa”. Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống.Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.Sự hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị Nở, chính tình người của thị Nở đã đánh thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị là một tấm lòng rất bao dung và vị tha. Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tĩnh dậy, Chí lần đầu tiên để tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị. Và Chí thèm được làm người lương thiện. Khát vọng lương thiện ấy chính là bằng chứng cho sự hồi sinh nhân tính của Chí. Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị Nở cũng có duyên và muốn cùng thị chung sống. Chí đã mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người lương thiện.Nhờ có tình người của thị mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị sống trong nhà thống Pá Tra như một con người đã mất đi linh hồn. Thế nhưng, trong đêm tình mùa xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân. Cũng giống như Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo rất hay. MỊ uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và Mị cũng muốn đi chơi. Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy. Những hành động ấy chứng tỏ rằng Mị đã thật sự hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã được sống dậy nhờ âm thanh của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay cả khi Mị đã bị A Sử trói chặt vào cột nhà. MỊ đã thả hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự hồi sinh nhân tính của Mị rất mạnh mẽ.Chí Phèo và Mị đều được hồi sinh nhân tính. Sự hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở về với cuộc sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô. Cả Nam Cao và Tô Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng nhữỉig ước mơ bình dị của họ. Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh ấy. Cái xã hội với những tàn dư phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự tha hóa.Và những hủ tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch, bào mòn sức sống của Mị.Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật đều là sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân đạo của tác phẩm.Gấp lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể nhận thấy sự hồi sinh nhân tính đưa hai nhân vật đến với những cuộc sống mới khác nhau nhưng giá trị của sự hồi sinh ấy lại có một giá trị hết sức giống nhau, nó phản ánh tiếng lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho nhân vật Chí Phèo và Mị, những con người có số phận rất đáng thương xót.
MỊ - ĐÀN BÀ HÀNG CHÀII. Đặt vấn đềĐại thi hào Nga M. Goocki cho rằng “ Văn học là nhân học” Còn Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của chúng ta quan niệm: “ một tác phẩm văn học có giá trị phải vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn ca ngợi tình thương bác ái, sự công bình… làm cho người gần người hơn do tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người do con người tạo ra để phục vụ con người. Vì thế nhà văn chân chính đồng thời phải là nhà nhân đạo “ từ trong cốt tủy”. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm thành công với tinh thần vì con người, đặc biệt là người phụ nữ.Tô Hoài là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Vợ chồng A Phủ in trong “ truyên Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc 1952. Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến .Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ cũng là cây bút tiên phong thời kì đổi mới. Nếu ở giai đoạn kháng chiến chống Mĩ sáng tác của ông mang cảm hứng sử thi. Lãng mạn thì từ những năm 80 của thế kỉ XX, ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu ở thời kì sau, viết về một lần giáp mặt của một người nghệ sĩ với đầy nghịch lý của một gia đình làng chài qua đó thể hiện nỗi lòng xót thương nỗi âu lo với người và những trăn trởVợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa, Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu những tác phẩm khác nhau về đề tài, về phong cách nghệ thuật xuất hiện trên văn đàn cách nhau tới 30 năm có lẽ, song đã gặp nhau trong mối quan tâm về người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.II. So sánhMị là nhân vật chính của Tây Nguyên “ Vợ chồng A Phủ” trong lời kể trầm buồn mở đầu tác phẩm, hình ảnh Mị đã mang đến cho người đọc một sự ám ảnh sâu sắc: “ Ai ở xa về, có việc vào nhà Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi đay bên tảng đá cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” . Đó là tư thế vẻ mặt của một người cam chịu làm nô lệ, không dám ngẩng đầu, cô chìm vào trong lao động khổ sai và lần như lần nào các vật vô tri: quay sợi, tảng đá, tàu ngựaTheo lời kể chuyện, cuộc đời Mị dần hiện lên như một cuốn phim. Thuở thiếu nữ, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, thùy mị, nết na, tài hoa, hiền lành, yêu đời và vui sống. Mị làm siêu lòng bao chàng trai Mông: “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẫn cả bức vách đầu buồng Mị” Mị rất nhạy cảm với cái đẹp bao nhiêu rung động của tâm hồn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng, của người tình Mị gửi vào tiếng sáo: “ có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị cũng có một tình yêu, có điệu gõ vách hẹn hò và ngón tay đeo nhẫn. Tâm hồn thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa ấy đã rộng mở để đón nhận hương hoa của cuộc đời.Nhưng tất cả đã chấm dứt trong cái đêm ai oán khi Mị bị bắt cóc về nhà thống lý Pá Tra trong tiếng nhạc sinh tiền cúng ma, cô đã trở thành con dâu nhà thống lý để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ để lại. Mị trở thành con dâu gạt nợ là người con gái hiếu hạnh và cũng là cô gái trong trắng, yêu đời, khao khát được sống được yêu thương, Mị đã tìm cách cứu cha, cứu mình, cô van xin cha: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lòng hiếu hạnh của cô gái Mông trong trắng ngây thơ không chống lại được hoàn cảnh và uy quyền của cha con nhà thống lý. Cô bị chúng biến thành nô lệ trung thân.Những ngày đầu làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị tước đoạt: “ Có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Mị tìm đến lá ngón mong kết thúc cuộc sống không đáng sống. Cô Mị hiếu thảo trước khi ăn lá ngón đã về lạy cha để vĩnh biệt và xin người cha khốn khổ cho mình được chết. Vì những lời nói thống thiết của cha già, Mị không thể chết. Mị đành ném nắm lá ngón, quay lại nhà thống lý, chấp nhận cuộc đời nô lệ.vo-chong-a-phuThân phận trâu ngựa của nhân vật Mị khi làm dâu nhà thống lý Pá traNgày tháng trôi qua lạnh lùng “ ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”. Tháng ngày của Mị là công việc, những công việc giống nhau, nối tiếp nhau, lặp đi lặp lại một cách nhàm chán”. Ăn tết xong thì đi lên núi hái thuốc phiện, giữa năm giặt đay se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp”. Mị đã trở thành công cụ trong nhà thống lý Pá Tra “ dù làm gì trong tay cô lúc nào cũng có bó đay để tuốt thành sợi”. Những nhọc nhằn về thể xác đã khiến tinh thần Mị tê liệt. Nhà văn đã dùng phép so sánh nghệ thuật đau đớn “ Mị như con trâu con ngựa. Mị không bằng con trâu con ngựa. Mị như con rùa lùi lũi trong xó cửa” cách so sánh ấy đã cực tả nỗi đau của kiếp người là kiếp vật. Có thể nói rằng Mị đã bị bóc lột một cách trọn vẹn, bị tước đoạt cả về ý thức thời gian không gian “ ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”Mị còn mang một nỗi ám ảnh ghê gớm: “ Con ma nhà thống lý, dù bị A Sử tra tấn tàn bạo, Mị không bao giờ nghĩ đến chuyện phản kháng.Mị là hiện thân của sự bất hạnh của người phụ nữ miền núi thời phong kiến, nạn nhân của thần quyền và thần quyền.Người đàn bà của làng chài là hiện thân của người phụ nữ lao động vùng biển thời hậu chiến. Nếu nhân vật Mị hiện trước mắt người đọc qua lời trần thuật của Tô Hoài thì người đàn bà làng chài xuất hiện qua một tình huống mang tính nhận thức. Đó là tình huống của nghệ sĩ Phùng chụp được một tấm ảnh đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, chụp chiếc thuyền ngoài xa. Khi chiếc thuyền vào bờ người nghệ sĩ đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực ngang trái: “ Người chồng tới tấp đánh vợ, đứa con ngăn bố với tốc độ thù ghét”.Người đàn bà trong mắt của nghệ sĩ luôn săn tìm cái đẹp là “ người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người phụ nữ ấy gây ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn lam lũ. Nhà văn miêu tả nhân vật của mình một cách chân thật đến từng chi tiết khiến người đọc cảm giác người đàn bà từ chiếc thuyền lưới vó bước thẳng vào trang giấy. Hình ảnh chị với “ tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng” gợi bao xót xa thương cảm.Người đàn bà đã tự kể về mình “ từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận đậu mùa nữa” một ngoại hình thiệt thòi, việc lấy chồng của chị cũng là việc không bình thường: “cũng vì xấu. Trong phố không ai lấy. Tôi chủ động có mang với một anh chàng trai nhà hàng chài giữa phố hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Lời tâm sự của chị dấy lên trong lòng người đọc sự đồng cảm với người phụ nữ kém may mắn. Hạnh phúc đến với chị khó khăn, chật vật biết nhường nào. Khát vọng lớn nhất của chị là có được chiếc thuyền rộng rãi và có đủ gạo để nuôi sống đàn con. Trong cảnh túng quấn, người chồng thay đổi tâm tính. Anh ta cho rằng nỗi khổ của mình là do đám vợ con đông đúc gây nên. Anh đã không bỏ mặc vợ con nhưng càng lao vào con đường kiếm sống gian nan, anh ta càng rơi vào bế tắc. Hệ quả tất yếu là anh ta trở nên dữ tợn, biến vợ thành nô lệ cho những hành động xâm hại lỗ mãng của mình.Tác giả dành khá nhiều chi tiết để làm nổi bật vẻ cam chịu của người đàn bà, từ khuôn mặt mệt mỏi, cặp mắt nhìn xuống chân đến vẻ mặt lúng túng khi đi vào công sở: “ Nếu như có một thoáng nào đó người đàn bà lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế mà thôi, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi” rồi lại trở về trong phút chốc ngồi trước mặt chúng tôi vẫn là người đàn bà đầy lúng túng sợ sệt: “ Đặc biệt lạ là hành động vái lạy của chị. Lần thứ nhất như lời van xin của đứa con trai đừng làm điều gì dại dột với bố khi thằng bé bênh mẹ, lao vào trả thù bố. Lần thứ hai hành động đó lặp lại với Đẩu vị chánh án đang ra sức bảo vệ công lý, với những đề nghị khẩn thiết: “ Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.Nếu trong “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài nhân vật Mị với so sánh tiềm tàng đã phản kháng, chờ có cơ hội thoát khỏi những đọa đầy thì người đàn bà thầm lặng chịu mọi đớn đau dù bị chồng thường xuyên đánh đập: “ ba ngày một trận nhẹ….” Chị hiểu rằng những trận đòn của chồng bắt nguồn từ sự ức chế tâm lý: “… là lão xách tôi ra đánh … cũng như đàn ông khác uống rượu”. Chị nhớ rất rõ điểm tốt của chồng để biện hộ cho những hành động tội ác của anh ta: “ Lão chồng tôi khi ấy là một chàng trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Chị tha thiết xin quý tòa đừng bắt mình phải ly dị lão chồng vũ phu ấy. Với chị đàn bà vùng biển: “ Phải gánh lấy cái khổ”, “ đàn bà ở thuyền đôi chúng tôi phải sống cho con chứ, không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Điều duy nhất chị dành cho mình là việc xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh vì không muốn các con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ”. Nếu có một lúc nào đó khuôn mặt người đàn bà sáng lên nụ cười hạnh phúc là lúc chị nhớ đến “ ở trên thuyền cũng có lúc việc chúng ta sống hòa thuận vui vẻ”. Đó là những giây phút hiếm hoi quá ít ỏi so với những trận đòn cơm bữa của chồng, sự hòa thuận vui vẻ đó như những đốm sáng lóc lên trong cuộc đời tăm tối dài dằng dặc của chị.Song nếu như người đàn bà thuận theo sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu sẽ ly dị lão chồng độc ác thì: cuộc đời người đàn bà sẽ đi về đâu? Ai sẽ giúp mụ nuôi những đứa con. Như thế với cái nhìn của người ngoài, người đàn bà ấy bất hạnh, trong khi đàn bà ấy ý thức rằng được ở với người chồng vũ phu đã là một may mắn hạnh phúc. Đó là cái hạnh phúc dựa trên nỗi đắng cay, hạnh phúc được nhờ sự hy sinh.Nguyễn Minh Châu chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định, đó là dụng ý của nhà văn. Ông muốn nói hộ người đàn bà vô danh ở những vùng biển suốt một dải non sông, bao nỗi niềm đau thương, bao nhiêu giọt nước mắt tủi hổ của người đàn bà mà đời không nhìn thấy. Thấp thoáng trong chị là bóng dáng biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hy sinh.Nhân vật Mị và người đàn bà làng chài đều là những nhân vật bé nhỏ nạn nhân của hoàn cảnh. Tội ác của phong kiến chúa đất đã biến Mị thành con dâu gạt nợ kiếp người thành kiếp vật, còn người đàn bà là nạn nhân của tình trạng đói nghèo và nhận thức tăm tối. Khát vọng sống mãnh liệt đã khiến Mị vùng dậy, đổi đời nhờ cách mạng. Với người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu khiến người đọc luôn day dứt về số phận người phụ nữ thời hậu chiến. Công cuộc giải phóng dân tộc chúng ta đã hoàn thành vẻ vang nhưng ở đâu đó vẫn còn những phận người khốn khổ chưa được giải thoát. Hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến chống đói nghèo tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến chống ngoại xâm. Và chừng nào chưa thoát được đói nghèo, người phải chung sống với cái xấu cái ác. Và nữa qua nhân vật người đàn bà Nguyễn Minh Châu còn gửi gắm những quan điểm nghệ thuật: mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và đời sống, yêu cầu hiểu biết và bản lĩnh trung thực của người nghệ sĩ, chủ nghĩa nhân đạo trong như thế trong thể xa lạ với sự vật cụ thể của con người.III. Tổng kếtQua hai nhân vật, các nhà văn Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu không chỉ mang đến cho người đọc niềm thương cảm sâu sắc với thân phận người đàn bà mà còn giúp chúng ta cảm nhận được những phẩm chất tốt đẹp của họ: lòng yêu đời, khát vọng sống mạnh mẽ, sự hy sinh thầm lặng nhẫn lại để vun đắp hạnh phúc gia đình. Những nhân vật, những thân phận ấy ám ảnh ta để thêm phần trân trọng tấm lòng của người nghệ sĩ, những người luôn “ một mối hoài thương trực rẽ, hạnh phúc của những người chung quanh mình” Nguyễn Minh Châu
TRÀNG - NGƯỜI ĐÀN ÔNG HÀNG CHÀIVăn chương chân chính là văn chương vì con người, phục vụ con người, văn chương ấy: “là thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo một xã hội giả dối và tàn ác làm cho lòng người thêm thanh sạch” (Thạch Lam). Hành trình dài rộng của văn học cũng chính là hành trình miệt mài của người nghệ sĩ đấu tranh với cái xấu cái ác để tôn vinh cái đẹp, cái thanh sạch, cái cao thượng. Kim Lân với Vợ nhặt, Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa là những nhà văn chân chính đã nói lên tiếng nói nhân đạo của mình trong việc lên án cái ác cái xấu và ngợi ca cái đẹp qua những hình tượng nghệ thuật sống động: Tràng và lão đàn ông hàng chài.II. THÂN BÀI1. Khái quát– Giới thiệu tác giả Kim Lân, xuất xứ tác phẩm Vợ nhặt (Nếu mở bài như mở bài 1 thì các em giới thiệu từ A đến Z về Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt. Nếu mở bài như mở bài 2 thì không giới thiệu nữa mà chủ yếu nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt” và tình huống truyện độc đáo)2. Nội dung chính2.1. Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Tràng2.1.1. Kim Lân miêu tả nhân vật Tràng qua vài nét khắc hoạ nhưng nhân vật hiện lên sống động, ấn tượng. Tuy vẻ ngoài của người lao động ấy nổi bật vẻ nghèo khổ, xấu xí, thô kệch nhưng bên trong con người ấy lại là tấm lòng nhân hậu, rất tốt bụng và cởi mở, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ.– Phân tích làm rõ luận điểm trên.2.1.2. Phía sau con người thô kệch, tính cách có phần dở hơi, chỉ thích đùa với trẻ con, Tràng lại là người đàn ông có khát khao hạnh phúc mãnh liệt và biết chăm lo, vun vén cho hạnh phúc của chính mình.– Phân tích làm rõ luận điểm trên.2.1.3. Tràng không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó thể hiện rõ ở tâm trạng của anh vào sáng hôm sau:– Phân tích làm rõ luận điểm trên.* Vài nét nghệ thuật xây dựng nhân vật:Tình huống truyện độc đáo.Kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.Ngôn ngữ đối thoại hấp dẫn phù hợp với tính cách nhân vật.Tóm lại, nhà văn đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật Tràng, một thanh niên nghèo nhưng có lòng nhân hậu, có khát vọng hạnh phúc, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Qua câu chuyện của nhân vật Tràng, tác giả vừa phản ánh, tố cáo hiện thực về nạn đói, vừa phát hiện và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo. Có thể nói, câu chuyện của nhân vật Tràng đem đến cho người đọc một cảm nhận xót xa nhưng đồng thời nó đem lại một niềm tin về con người trong hoàn cảnh thử thách của cuộc sống.2.2. Liên hệ hình ảnh người đàn ông hàng chàiChuyển đoạn: Bên cạnh việc phát hiện khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, văn chương cũng cần phải chỉ ra, lên án cái ác, cái xấu. Bởi vì trong muôn mặt của đời sống cái ác cái xấu luôn song hành tồn tại cùng với cái đẹp, cái cao thượng. Sứ mệnh của nhà văn không chỉ dùng ngòi bút và tư tưởng của mình để vinh danh cái đẹp mà còn có trách nhiệm đưa ra ánh sáng những mặt trái của cuộc đời để góp phần cải tạo xã hội. Với ý nghĩa ấy, Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đã góp phần không nhỏ khi mang đến cho người đọc những hình tượng nhân vật sống động tiêu biểu cho cái đẹp và cái xấu, cái ác. Nếu trước đó, người đọc cảm động trước nhân vật Tràng hiện lên thật đẹp đẽ, nhân hậu; người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) “lấp lánh vẻ đẹp hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Thì hình ảnh người đàn ông thuyền chài lại là mặt tối của cuộc đời với nhiều góc khuất.2.2.1 Giới thiệu vài nét về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”Nguyễn Minh Châu là “vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới” – “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Sáng tác của ông từ cảm hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975 đã chuyển thành cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm chất triết lí nhân sinh trong giai đoạn văn học mới. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn.Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn (in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác sau 1975.2.2.2. Liên hệ những điểm giống nhau giữa Tràng và người đàn ông hàng chài– Họ đều là những người đàn ông có vẻ ngoài kém hấp dẫn. Người đàn ông hàng chài được nhà văn miêu tả: mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, lông mày rậm cháy nắng, đôi mắt đầy vẻ độc dữ, lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, trông lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước.– Họ đều là nạn nhân của hoàn cảnh đói nghèo: lão đàn ông và gia đình ở trên một chiếc thuyền lưới vó, thuyền chật, con đông; cuộc sống đói nghèo, lam lũ, nhiều lần biển động gia đình phải ăn xương rồng luộc chấm muối.– Họ đều là những người đàn ông có bản chất tốt đẹp: Tràng là một người nông dân hiền lành, nhân hậu; lão đàn ông hàng chài thì xưa kia là một thanh niên hiền lành chẳng bao giờ đánh đập vợ con, hắn từng trốn đi lính cho ngụy, chấp nhận túng quẫn, đói nghèo chứ không cầm súng bắn vào đồng bào mình. Lão đàn ông ấy cũng không uống rượu, hút thuốc. Vậy phải chăng đó là mẫu đàn ông lý tưởng?2.2.3. Điểm khác nhau giữa Tràng và người đàn ông hàng chài:– Họ đều là nạn nhân của hoàn cảnh đói nghèo nhưng trong khi Tràng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp thì lão đàn ông lại bị hoàn cảnh làm cho tha hóa.(Phân tích làm rõ)* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:– Xây dựng tình huống truyện mang tính nhận thức, khám phá.– Kể chuyện sinh động, khách quan; ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế– Người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào trong những tình huống và góc nhìn của các nhân vật khác như Phùng, Đẩu, người đàn bà hàng chài, thằng Phác…Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn của hắn được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan như chính chúng ta cũng thường bắt gặp đâu đó hình ảnh này trong cuộc sống.3. Đánh giá chung“Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời” (Nguyễn Văn Thạc). Quả đúng như vậy, cuộc sống quanh ta nhiều bi thảm, cái đẹp luôn song hành và trộn lẫn niềm sầu buồn; trong nên thơ vẫn còn đâu đó là nước mắt. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta đã khóc vì một tấm lòng đôn hậu với tình người lấp lánh trên mỗi câu văn. Đọc Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ta không khỏi xa xót vì vẻ ngoài chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ lại chứa đựng bên trong một bi kịch gia đình mà lão đàn ông là nguồn cơn của tình trạng bạo lực gia đình. Tấm lòng cao cả của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đã góp phần soi rọi lên văn chương dân tộc những hình tượng nghệ thuật độc đáo để chúng ta không chỉ khóc vì cái đẹp mà còn biết căm giận cái xấu, cái ác, cái bất lương, để từ đó đấu tranh loại bỏ cái ác, cái xấu, cái đê hèn ra khỏi cuộc đời và làm cuộc sống thanh sạch hơn.III. KẾT BÀI“Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp” (Ai – ma – tôp). Với ý nghĩa đó, Kim Lân và Nguyễn Minh Châu xứng đáng là những cây đại thụ của nền văn học nước nhà.

CHÍ PHÈO - VỢ NHẶTĐau đớn, quằn quại, Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện. Mòn mỏi, lay lắt, những kiếp người trong "Vợ nhặt" của Kim Lân sống trong nghèo khổ, tủi nhục và âm thầm tiến đến bên bờ vực của cái chết, ngay khi đang sống. Mỗi trang văn củaNam Cao và Kim Lân như thấm đẫm những day dứt, đau đớn về số phận con người, đau đáu một khát khao cho hạnh phúc nhânthế và ngời sáng một niềm tin bất diệt về con người. Dẫu hai tác phẩm đã có những hướng đi khác nhau, một bên là sự trăn trở trước nỗi khổ của một số phận bị chà đạp, mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính, không được quyền làm người, một bên là nỗi đau đớn của những thân phận bị rẻ rúng trong cái đói, nghèo, nhưng hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn chương chân chính: ấy là cảm hứng nhân đạo thiết tha.Thân bài1. a. Nam Cao (1915-1951) là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn 1939-1945. Năm 1941, tác phẩm "Chí Phèo" ra đời đã gây một tiếng vang lớn, đưa tên tuổi của Nam Cao lên đến đỉnh vinh quang của thành công nghệ thuật về đề tài người nông dân. Trước đó, văn học Việt Nam cũng đã xây dựng được những hình tượng người nông dân khá hấp dẫn trong xã hội cũ như chị Dâu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, anh Pha trong "Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan... nhưng phải đến khi Chí Phèo " ngật ngưỡng" bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta mới thực sự thấy được hình tượng điển hình sắc sảo nhất cho nỗi thống khổ của người nông dân trước Cách mạng.   b. Cùng viết đề tài người nông dân trước 1945, trong nền văn học Cách mạng (1945-1975), Kim Lân đã viết truyện ngắn "Vợ nhặt" dựa trên một chương truyện dài "Xóm ngụ cư"cho ta thấy được tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong nạn đói 1945 khủng khiếp. Ý của truyện là " Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết thảm đạm để mà vui, mà hy vọng"
2. Từ đề tài chung đó, mỗi tác phẩm đã có những khám phá riêng về số phận và cảnh ngộ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tam - 1945        a. Khám phá mới mẻ của Nam Cao là khám phá về cuộc sống của người nông dân trong tột cùng nỗi khổ, trong bi kịch bị tha hoá, bị đày đoạ lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người. Họ khao khát, ước mơ một cuộc sống lương thiện nhưng lại bị chà đạp tàn bạo về nhân phẩm khiến không những không được làm người mà còn bị biến thành quỷ dữ, bị xã hội xa lánh. Chí Phèovốn có một thân phận khốn khổ từ khi sinh ra: hắn là đứa trẻ bị bỏ rơi, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Tuy nhiên, đã có một thời Chí cũng là một người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn. Cả đời hắn chỉ có một ước mơ bình dị: có một gia đình, chồng cày thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải. Nhưng rồi cái mơ ước bé nhỏ và chính đáng ấy cũng không bao giờ thực hiện được. Bi kịch cuộc đời Chí bắt đầu từ khi hắn làm canh điền cho nhàBá Kiến, bị bắt đi ở tù mà không hiểu vì sao! Từ một thanh niên hiền lành, nhà tù thực dân đã biến Chí thành một tên lưu manh, mang diện mạo của một con quỷ dữ, mất cả nhân tính lẫn nhân hình, khi trở về làng. Chính vì thế, Chí Phèo đã phải chịu nỗi khổ đầu tiên là bị con người xa lánh, bị cả xã hội ruồng bỏ. Hình ảnh Chí Phèo với "cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết" khật khưỡng vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa lảm nhảm... mà không có một lời đáp lại là biểu tượng cho nỗi cô đơn tột đỉnh của Chí. Niềm khát khao giao hoà với cuộc sống của Chí đã bị cái ngoảnh mặt lạnh lùng của xã hội dập tắt. Người ta không thèm ném cho hắn dù chỉ là một tiếng chửi. Số phận của người nông dân là thế, từ Năm Thọ, Binh Chức đến Chí Phèo, cuộc đời bị bọn thống trị độc ác và nhà tù tàn bạo của chế độ thực dân làm cho tha hoá, và bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người.- Đỉnh cao của những nỗi khổ trên là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở. Được sự săn sóc giản dị với bát cháo hành hiện thân của nhân tình, ý thức nhân tính trong con người Chí Phèo đã thức dậy. Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống bằng phẳng của những con người lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô Thị Nở hiện thân của những thành kiến, định kiến bất công, tồi tệ, vô nhân đạo của xã hội cũ đã không cho Thị Nở "đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Thế là Chí Phèo thực sự lâm vào một tấn bi kịch tâm hồn đau đớn: bi kịch bị xã hội dứt khoát cự tuyệt làm người. Kết cục Chí Phèo phải tìm đến một cái chết đầy bi phẫn, thảm thương của một con vật.- Qua "Chí Phèo", Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội phổ biến ở nông thôn ViệtNam trước Cách mạng: một bộ phận người nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.         b. Trong "Vợ nhặt" của Kim Lân, thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng, dân ngụ cư thật tội nghiệp: nghèo tới mức một đời khao khát lấy được một người vợ để có được một mái ấm gia đình mà cũng không được.- Khi nạn đói khủng khiếp năm 1945 tràn đến, thân phận người nông dân hiện ra mới thảm thương làm sao! "Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngỗn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng về không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên...mùi gây của xác người", "Tiếng quạ... cứ gào lên từng hồi thê thiết...". Cái đói đã huỷ hoại cả hình thức lẫn tâm hồn người vợ nhặt "Nom chị ta rách rưới quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa". Chị ta "gầy xọp", "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt". Cái đói khiến thị phải gợi ý Tràng cho ăn và chị cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc liền rồi "ton ton" chạy theo về làm "vợ nhặt"người đàn ông xa lạ kia. Cái cảnh rước dâu diễn ra thật thương tâm: Thị cúi đầu lầm lũi, thèn thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời trêu chọc và ánh mắt của trẻ con và người lớn xóm ngụ cư. Và bữa cỗ ngày cưới cũng thật tội nghiệp: "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một cái đĩa muối ăn với cháo". Cùng với một nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"... Tất cả những điều ấy đã phơi bày được sự nghèo đói và tình trạng thê thảm của con người trong bối cảnh lúc bấy giờ.3. Sự kết thúc của hai thiên truyện     a. Sự khác nhau:Truyện "Chí Phèo" kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm. Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong óc thị thoáng hiện ra hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không và vắng bóng người qua lại.Còn truyện "Vợ nhặt" kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong óc Tràng: đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cùng với hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả trong những phần trước của thiên truyện.      b. Giải thích vì sao có sự khác nhau:- Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: "Chí Phèo" viết trước cách mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam đương thời. Còn "Vợ nhặt" là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng tích cực của đời sống xã hội.       c. Kết thúc "Chí Phèo" đầy ám ảnh, góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sựluẩn quẩn bế tắc của số phận người nông dân; đồng thời cho ta thấy "hiện tượng Chí Phèo" vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc "Vợ nhặt" mở ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát cùng đường thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng tới Cách mạng.4. Phân tích những nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm     a) Nhà văn Sêkhốp đã từng nói: " Mỗi nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". Điều này rất đúng với Nam Cao và Kim Lân. Trên mỗi trang sách của hai nhà văn luôn luôn có một trái tim đập thổn thức vì nỗi đau của con người và một tấm lòng trân trọng trước vẻ đẹp của họ. Tuy nhiên mỗi nhà văn đã có những cách thể hiện, khám phá riêng rất đặc sắc để làm nên tính sinh động, đa dạng, hấp dẫn cho từng tác phẩm.     b) Ở tác phẩm "Chí Phèo", điểm đặc sắc riêng của Nam Cao là đã lớn tiếng tố cáo tội ác của xã hội thực dân phong kiến đã đấy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính và nhân hình của con người. Từ đó, tác phẩm đã vút lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Điều đặc biệt là Nam Cao vẫn có niềm tin bất diệt vào bản chất lương thiện của người lao động và khẳng định khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi họ bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với "Chí Phèo" , Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.     c) Còn trong "Vợ nhặt", Kim Lân đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với tình trạng đói khổ cùng cực của người nông dân lao động. Nhà văn khẳng định bản chất tốt đẹp của họ. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau. Ánh sáng của tình người là thứ ánh sáng đẹp nhất, rạng rỡ nhất trong những ánh sáng le lói trong bầu không khí ảm đạm của tác phẩm. Kim Lân còn thể hiện một khát vọng nhân bản của con người. Khi bị đẩy đến bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin, họ vẫn khao khát hạnh phúc, khao khát sống, bám lấy sự sống như một quy luật sinh tồn tất yếu. Điều đặc biệt là "Vợ nhặt"còn mở ra một con đường giải quyết cái đói nghèo, bế tắc, đó là cách mạng.Kết luận:Trải qua bao nhiêu năm, " Chí Phèo" và "Vợ nhặt" vẫn là những tác phẩm xuất sắc về đề tài người nông dân trước năm 1945. Với một đề tài cũ, song hai tác phẩm đã thể hiện sự phát hiện, khám phá mới mẻ về cảnh ngộ người nông dân và tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đó là những tác phẩm sẽ "Vượt qua sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết". (Sêđrin)
VIỆT BẮC - ĐẤT NƯỚCĐỀ: Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:“Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu….”                                    (Trích: Việt Bắc - Tố Hữu)“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”                                    (Trích: Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)_________+ Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.+ Trích dẫn hai đoạn thơ+ Lần lượt phân tích vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ.• Trong đoạn thơ trong bài Việt Bắc:- Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần làm nổi bật được tình cảm sâu nặng của Cán bộ cách mạng với người dân Việt Bắc biểu hiện qua:+ Cách ngắt nhịp 3/3 “ta với mình, mình với ta” làm cho người đọc cảm nhận, “ta với mình tuy hai mà một gắn bó không thể tách rời”. Cấu trúc so sánh và tăng tiến “lòng ta….đinh ninh”nhấn mạnh tình cảm sâu nặng của người Cán bộ.+ Câu “Mình đi mình lại nhớ mình” không chỉ là câu hỏi mà còn là lời tâm tình tự nhủ, nhớ Việt Bắc cũng là nhớ về cuộc sống của bản thân mình.+ Cách so sánh đặc biệt “bao nhiêu… bấy nhiêu”cụ thể hóa tình cảm của người Cán bộ.• Đoạn thơ trong bài “Đất Nước”:- Cần làm nổi bật được Đất Nước là những không gian thân quen, gần gũi gắn bó với cuộc sống của mỗi người: là nơi anh đến trường, là nơi em tắm, là nơi gieo mầm cho hạt giống tình yêu, là nơi mang nỗi tâm tư của người con gái.- Nghệ thuật: Sử dụng nghệ thuật chiết tự, điệp cấu trúc, chất liệu văn học dân gian…+ Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn thơ để thấy được vẻ đẹp riêng của mỗi đoạn.• Tương đồng.-Thể hiện tình cảm gắn bó quê hương đất nước.-Vận dụng sáng tạo chất liệu dân gian (ca dao) để thể hiện ý nghĩa sâu sắc..- Hình thức thể hiện mang tính chất tình cảm lứa đôi nhưng mục đích hướng đến lsị là tình cảm chung-tình cảm đối với quê hương, Cách mạng.- Hình ảnh thơ vừa gần gũi, quen thuộc, bừa có ý nghĩa biểu tượng, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết.• Khác biệt- Việt Bắc ra đời khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa hoàn thành, khung cảnh được tái hiện phù hợp với không khí chia tay lịch sử ngay sau khi chiến thắng, khi Trung ương chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Chủ yếu thể hiện tình cảm gắn bó của người Cán bộ với Việt Bắcđề cao ân tình Cách Mạng. Hình thức đối thoại đồng thời là lời tự hứa khẳng định tấm lòng thủy chung của người ra đi. Thơ lục bát, kết cấu đối đáp “mình-ta”đoạn thơ đậm tính dân tộc.-Đất Nước ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang vào giai đoạn khốc liệt. Chủ yếu thể hiện Đất nước là tất cả những gì gần gũi, thân thiết nhất của mỗi con ngườikhơi gợi lòng yêu nước, góp phần thức tỉnh tuổi trẻ các đô thị tạm chiến miền Nam. Hình thức là lời trò chuyện tâm tình đã thuyết phục người nghe. Thể thơ tự do với âm hưởng trường ca, đầy cảm xúc nhưng vẫn giàu chất trí tuệ.
CHUYẾN TÀU - LÁ CỜCảm nhận của anh, chị về hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.I/ MỞ BÀI:_ Nếu sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc ấy là nhờ chi tiết, hình ảnh nghệ thuật._ Đọc“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta không thể quên hình ảnh chuyến tàu đêm qua phố cũng như không khỏi ám ảnh bởi hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân .II/ THÂN BÀI :(1/ Nói qua về chi tiết, hình ảnh nghệ thuật):Chi tiết nghệ thuật truớc hết là những yếu tố về ngôn ngữ, lời văn được dùng để diễn tả nội dung tư tưởng của tác phẩm.. Nếu trong thơ, chi tiết có thể là một từ như: “Vèo” (Thu điếu – Nguyễn Khuyến), một hình ảnh tu từ như: “Hồn tôi là một vườn hoa lá” (Từ ấy – Tố Hữu) v.v… Thì trong tác phẩm tự thì chi tiết có thể là lời nói của nhân vật, bộ điệu, cử chỉ, nét mặt, đồ vật, cảnh tượng, hoặc có khi là một tình tiết của cốt truyện.2/ Cảm nhậna/ Hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ*/ Tóm tắt hoàn cảnh xuất hiện hình ảnhHai đứa trẻ của Thạch Lam là một truyện ngắn trữ tình không có cốt truyện. Câu chuyện diễn ra theo bước chuyển của thời gian, xoay quanh tâm trạng của chị em Liên từ lúc chiều muộn đến đêm khuya. Khi phiên chợ đã vãn, bóng tối chưa sụp xuống phố huyện thì cuộc đời bóng tối đã dần hiện ra . Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ “tìm tòi” “ bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Mẹ con chị Tí :Ngày thì mò cua bắt tép. Chập tối cho đến đêm dọn chõng hàng nước chè tươi. Bà cụ Thi đến mua rượu với tiếng cười khanh khách quen thuộc rồi lảo đảo lẫn vào bóng tối. Bác phở Siêu với chấm lửa nhỏ, vàng lơ lửng đi trong đêm tối mênh mông.Gia đình bác Xẩm không khách, không hát, không tiền.Chị em Liên vốn ở Hà Nội, nhưng vì cảnh nhà sa sút mới dọn về đây. Mẹ Liên mở một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, giao cho Liên trông coi. Đêm nào cũng vậy, hai chị em ra ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng trong bóng tối, vừa cố bán thêm hàng vừa quan sát những cảnh đời nơi phố huyện và cũng cố thức nhìn đoàn tầu qua phố – hoạt động cuối cùng của đêm khuya.*/ Cảm nhận :(_/ Tàu đến )Chỉ vậy thôi chăng ? Không ! Còn có một cái gì đó sâu hơn nhiều đối với chị em Liên và càng sâu sắc hơn đối với đám người khốn cùng ở phố huyện.Mỗi chuyến tầu từ Hà Nội sẽ qua phố huyện trong mấy phút. Mỗi đêm, hai đứa trẻ lại chờ đờ đợi. Hẳn các em phải chờ chuyến tầu ấy qua suốt một ngày buồn tẻ. Nỗi chờ đợi càng trở nên khắc khoải hơn khi đêm đổ xuống : đèn thắp sáng ở các nhà xung quanh, ngọn đèn leo lét nơi hàng nước nhà chị Tí, cái chấm lửa nhỏ của bác phở Siêu… đó chính là những điểm mốc, bước đi của thời gian đang đưa các em xích lại gần với chuyến tàu. Nên mặc dù đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai em vẫn cố gượng, và cho đén khi không thể chờ thêm được nữa, An vẫn còn dặn chị : tàu đến thì chị đánh thức em nhé._ Họ khao khát chờ đón đoàn tầu như chờ đón một sự cố trọng đại. Bởi chính chuyến tầu đêm đã mang một thế giới khác đến gợi cho các em nhớ lại một vùng sáng rực rỡ lấp lánh có nhiều thứ quà ngon lạ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, mà giờ đây với các em đã là một thứ xa xỉ nhiều tiền không bao giờ mua được ._ Đoàn tàu gợi cho các em nhớ lại một hồi ức đẹp. Hồi ức đó, ước mơ đó như trong truyện cổ tích nhưng chẳng khác gì một ảo ảnh, vụt chớp sáng rồi vụt qua ngay, xa dần, xa dần để rồi ngày mai lại xuất hiện, lại hi vọng mơ hồ._ Đoàn tàu còn là niềm an ủi nỗi khát khao mơ hồ, ước mơ không bao giờ tắt về một chút tươi sáng cho sự nghèo khổ hàng ngày.Chuyến tàu qua, tiếng rầm rộ của đoàn tàu, tiếng ồn ào của hành khách, cả cái ánh đèn sáng trắng chiếu xuống đương làm phố huyện như bừng tình trong chốc lát_ Chuyến tàu là niềm vui duy nhất giải toả tâm lí sau một ngày mệt mỏi buồn chán._/ Nhưng rồi chuyến tầu cũng nhanh chóng xa dần, khuất dần. Phố huyện hết náo động, chỉ có bóng đêm lồng với bóng người đi về. Chị Tí sửa soạn đồ đạc. Bác phở Siêu gánh hàng vào làng, vợ chồng bác Xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ. Liên như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ cũng ngập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm trong phố huyện tịch mịch và đầy bóng tốiSự xuất hiện của chuyến tàu đêm càng làm nổi bật cuộc sống buồn tẻ tù đọng đáng thương nơi phố huyện.Và hình ảnh ngọn đèn dầu chiếu sáng một vùng đất nhỏ xuất hiện cuối tác phẩm mang ý nghĩa: cuộc sống tăm tối trong hiện tại vẫn xâm chiếm tâm hồn chị, cuộc sống tươi sáng trong tương lai vẫn còn xa xôi. Điều đó đã gợi lên ở người đọc một niềm bâng khuâng thương cảm sâu sắc.(_/ Ý nghĩa )Truyện ngỡ chẳng có gì để nói, ấy vậy mà Thạch Lam đã nói được rất nhiều, nhất là về tình trạng đời sống của những con người nhỏ bé trong xã hội. Thông qua hình ảnh chuyến tàu đêm qua phố huyện, nhà văn bày tỏ niềm cảm thông, xót thương sâu sắc trước cuộc sống tăm tối của người lao động, đồng thời thể hiện thái độ trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn và niềm khát khao của họ. Từ đó nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: Hãy quan tâm đến cuộc sống con người, giúp cho con người thoát khỏi sự tù túng, tăm tối; hãy giúp cho họ có một cuộc sống tươi sáng hơn thực tại mà họ đang sống.b/ Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong ý nghĩ của Tràng*/Tóm tắt ngắn gọn hoàn cảnh xuất hiện hình ảnhTràng nhà nghèo, xấu xí, có nét dở hơi, dân ngụ cư lại sống với một mẹ già. Ai cũng tưởng Tràng ế vợ suốt đời. Ấy vậy mà đúng vào lúc ranh giới giữa cái sống và cái chết mong manh như sợi tóc, thì Tràng nhặt được vợ – biểu trưng của hạnh phúc, chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu nói đùa. Bà cụ Tứ đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn, sự thương cảm sâu sắc và nồi cháo cám . Tràng từ vô tình đùa cho vui nay đã thành sự thật. Lúc đầu anh cũng thoáng lo, rồi chậc kệ, còn bây giờ anh đã thấy mình đổi khác. Tràng đã có niềm vui, niềm tin, thấy mình đã thành người có trách nhiệm. Dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt của mùi chết chóc và tiếng khóc hờ ai oán, dù bữa ra mắt của họ chỉ là nồi cháo cám chát xít, nghẹ bứ nhưng Tràng đã thấy lá cờ đỏ sao vàng, thấy đoàn người đi phá kho thóc trên đê Sộp*/ Cảm nhận:_ Quên cả đói khát và chết chóc, Tràng thoáng nghĩ đến lá cờ đỏ sao vàng. Nghĩa là amh đang hướng về cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.Một câu kết như thế chứa đựng bao nhiêu sức nặng về nội dung và nghệ thuật. Vắng bóng chi tiết này, thiên truyện sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra kết cấu mở khiến tác phẩm thực sự vượt qua phạm trù của văn học 30 – 45 để bước tới phạm trù của văn học hiện đại. Nhờ thế thiên truyện đóng lại mà số phận mới vẫn tiếp tục mở ra. Cái “lá cờ đỏ” kia như tín hiệu của một sự đời đổi mới. Nhân vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin về phía cuộc sống. “Lá cờ đỏ” như gợi mở một sự thanh toán triệt để kiểu số phận bế tắc như anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo… Chi tiết này không phải là ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó có cơ sở vững chắc từ trong hiện thức đời sống.Điều đó không chỉ phản ánh niềm tin của người nông dân đối với cách mạng mà còn cho thấy khả năng cách mạng của họ. Chúng ta tin rằng, Tràng sẽ có mặt trong đám người đói vùng lên, tham gia tổng khởi nghĩa cho đến ngày độc lập…3/ So sánh:_ Hai hình ảnh kết thúc tác phẩm trên đây thể hiện tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo của các nhà văn, đồng thời là những thông điệp mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Với cách “kết thúc mở”, các nhà văn vừa gợi niềm bâng khuâng thương cảm, vừa gieo vào lòng người đọc một niềm tin về cuộc sống tương lai của người lao động và hiện thực tươi sáng của cách mạng._ Nếu hình ảnh kết thúc “Hai đứa trẻ” lay động niềm bâng khuâng thương cảm và dư vị sâu lắng của người đọc trước niềm khát khao mong ước có phần mơ hồ, xa xăm với hiện thực cuộc sống bấy giờ thì hình ảnh kết thúc “Vợ nhặt”, dù chưa rõ nét nhưng đã làm vang lên dư âm lạc quan cho câu chuyện, gợi người đọc suy tưởng, phán đoán về tương lai của người nông dân sau nạn đói 1945.
GIỌT NƯỚC MẮT VỢ NHẶT - CTNXI. Mở bàiGiới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xaHai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp VHHai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết "dòng nước mắt" là một phương tiện biểu hiện.II. Thân bài           a) Cảm nhận chi tiết "dòng nước mắt" trong Vợ nhặtGiới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiếtNêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: tình huống truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ TứCảm nhận, phân tích chi tiết "dòng nước mắt":Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bàlão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng...Giọt nước mắt chỉ "rỉ" ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc..."Kẽ mắt kèm nhèm" là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổiLà biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòngĐánh giá:Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹĐặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.           b) Cảm nhận chi tiết "dòng nước mắt" trong Chiếc thuyền ngoài xaGiới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiếtNêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của NĐBHC: câu chuyện gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng NĐBHCCảm nhận, phân tích chi tiết "dòng nước mắt":Là biểu hiện của nỗi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc -> tình trạng bạo lực trong gia đình không có lối thoát → câu chuyện thằng con phạm vào tội ác trái luân thường đạo lí không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch lạc của con đã không tìm được giải pháp...Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hề có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùngĐánh giá:Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kì Đổi mới 1986Nhân đạo: cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹĐặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.              c) So sánhĐiểm tương đồngVề nội dung:Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổĐều là "giọt châu của loài người", giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinhĐều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắcĐiểm khác biệtVề nội dung: Hoàn cảnh riêng của 2 nhân vật khác nhau- nước mắt cũng mang những nỗi niềm riêngChi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng "nhặt" được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhómCòn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắcVề nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.           d) Lí giảiVì sao giống? Giống về nội dung vì cùng hướng đến:Từ nỗi đau -> đề xuất giải pháp cách mạngTừ vẻ đẹp tâm hồn -> ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ VN truyền thống -> cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắcVì sao khác?Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác nhau (KL từ sau khi CM thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan; NMC nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở tương lai) – PCNT của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫnIII. Kết luậnKhẳng định vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.
SÓNG - VỘI VÀNGĐề bài:Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước, và cây, và cỏ rạngCho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sánCho no nê thanh sắc của thời tươi.”                                    (Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD, tr.23) “Làm sao được tan raThành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêuĐể ngàn năm còn vỗ.”                                    (Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB GD, tr.156) Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.Hướng dẫn làm bài:1. Giới thiệu chung:- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.- Xuân Diệu - một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945. Ông được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới" bởi những cách tân cả về tư tưởng và bút pháp nghệ thuật."Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.- Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt.2. Thân bài:             a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.             b. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.             c. So sánh:- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí. - Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử … 3. Kết bài:Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.
CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG A PHỦ TNÚTô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau của đất nước. Vợ chồng A Phủ (1952) là một truyện ngắn đặc sắc rút từ tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Truyện đã xây dựng thành công vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và quá trình vùng lên chống lại bọn thực dân, chúa đất để tự giảiphóng của đồng bào vùng cao Tây Bắc tổ quốc.Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên. Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965; đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc là tác phẩm đặc sắc của ông .Truyện xây dựng thành công vẻ đẹp của con người Tây Nguyên đi theo cách mạng, kiên cường, bất khuất, lựa chọn con đường đấu tranh vũ trang chiến đấu chống lại kẻ thù để tự giải phóng.Tô Hoài xây dựng nhân vật A Phủ hiện lên với hình ảnh vô cùng đẹp: Chàng vượt lên bất hạnh ( mồ côi cha mẹ) trở thành một thanh niên lao động giỏi, thạo công việc , cần cù chịu thương chịu khó, tính cách bộc trực, thẳng thắn, hồn nhiên, ham hoạt động…Không sợ cường quyền bạo chúa , bị đẩy vào cuộc sống nô lệ vẫn mạnh mẽ ,gan góc …Có khát vọng sống tiềm tàng mãnh liệt, chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra tìm đến chân trời tự do, tham gia đấu tranh góp phần giải phóng bản làng.Với nghệ thuật khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính: nhân vật A Phủ hiện lên thiên về hành động, công việc và vài lời đối thoại ngắn …Tác phẩm thành công ở nghệ thuật kể chuyện: cách giới thiệu nhân vật, dẫn dắt khéo léo , ngôn ngữ sinh động chọn lọc , nhiều sáng tạo …Vẻ đẹp của nhân vật Tnú được thể hiện qua những phẩm chất như: Tnú là người gan góc, dũng cảm, mưu trí.Tnú là người gắn bó, trung thành với cách mạng được tôi luyện qua thử thách trở thành người chiến sĩ kiên trung, có tính kỉ luật cao.Tnú là người có trái tim yêu thương và sôi sục căm giận, biến đau thương thành hành động. Xây dựng thành công nhân vật vừa có nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu. Nghệ thuật trần thuật sinh động , khắc họa nhân vật trong những tình huống quyết liệt và mang đậm chất Tây Nguyên từ ngôn ngữ, tâm lí đến hành động…Số phận, con đường giải phóng của nhân vật A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tố Hoài và nhân vật Tnú trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành có sự tương đồng và khác biệt trong vẻ đẹp của hai nhân vật:Điểm tương đồng: Là hai nhân vật trung tâm trong văn học giai đoạn 1945-1975. Cả hai là những chàng trai của núi rừng tự do, mồ côi cha mẹ , đều có nghị lực vươn lên trong hoàn cảnh khắc nghiệt trở thành những con người có phẩm chất tốt đẹp ,đi theo cách mạng , chiến đấu bảo vệ quê hương. Cả hai đều được khắc họa với những chi tiết sống động, mang tính cách đậm bản sắc miền núi…Nhưng vẫn có sự khác biệt: A Phủ là người con của núi rừng Tây Bắc, côi cút từ nhỏ, tự vươn lên trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chế độ chúa đất và thực dân Pháp; còn Tnú là người con của núi rừng Tây Nguyên, sớm giác ngộ cách mạng được dân làng Xô Man nuôi dạy, vươn lên trong hoàn cảnh thử thách ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Tnú là nhân vật được khắc họa mang đậm tính sử thi…Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động vả chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của Tô Hoài thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm tinh tế và phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ.Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những phong tục, tập quán xã hội. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng cùng con người Tây Bắc với tính cách độc đáo… đã được tác giả khắc họa bằng ngòi bút tài hoa, mang phong vị đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc.Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật điểu cần thể hiện.Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi. Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.Dù có như thế nào đi chăng nữa thì hai nhân vật Tnú và A Phủ chính là hai trong những anh hùng dân tộc ở miền ngược. Họ có những tố chất và phẩm chất của một người anh hùng. Thông qua 2 nhân vật, tác giả xây dựng nên hai số phận, và con đường giải phóng có nhiều điểm giống nhau. Nhưng họ đều có những cái riêng, cái đặc trưng mà không thể lẫn vào đâu được.
TNU - A PHỦTô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều là những cây bút văn xuôi tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam sau năm 1945. Nếu Tô Hoài rất sở trường với hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc thì Nguyễn Trung Thành lại gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Nếu nói đến Tô Hoài, không thể quên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - một truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống của những người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến, thực dân, thì nhắc đến Nguyễn Trung Thành là phải nói đến Rừng xà nu - một “Đất nước đứng lên” của thời đánh Mĩ. Đặt hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ) và Tnú {Rừng xà nu) bên cạnh nhau, ta sẽ thấy rất nhiều ý nghĩa trong những nét tương đồng và khác biệt giữa họ.- Sự tương đồng:+ A Phủ và Tnú tuy được xây dựng trong hai tác phẩm của hai tác giả ở hai thời kì khác nhau, ở hai miền đất khác nhau, nhưng đều là những con người miền núi. Một người thuộc dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc nên thơ (A Phủ), một người thuộc dân tộc Strá ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ (Tnú). Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, mang dáng dấp những đứa con côi trong cổ tích. A Phủ và Tnú đều sớm dạn dày, gan góc bởi hoàn cảnh sống đầy thử thách. Có nét gì chung rất dễ nhận ra ở hai con người cách nhau hàng ngàn cây số: đó là sự mạnh mẽ về thể chất và tinh thần. A Phủ đã dám đánh cả con quan, để rồi kiên gan chịu đựng những trận đòn báo thù khủng khiếp. Tnú thì thuở ấu thơ đã dám ra rừng đem gạo nuôi cán bộ, bị bắt, bị chém ngang dọc trên bụng trên lưng vẫn không hé răng khai báo nơi ở của cán bộ, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu vẫn cắn mồi đến bật máu để chịu đựng. Hai người chịu hai kiểu hành hạ, hài kiểu cực hình khác nhau, nhưng ta đều thấy ở họ sự chịu đựng phi thường.+ Cả A Phủ và Tnú đều là những con người luôn hướng về ánh sáng. Tnú bắt gặp lí tưởng cách mạng được truyền từ anh Quyết, cán bộ của Đảng hoạt động bí mật, Tnú giống như cây xà nu tiếp ánh sáng mặt trời để không ngừng vươn toả lên bầu trời tự do. A Phủ cũng lao khỏi bóng tối ở Hồng Ngài, chạy hàng tháng trời trong rừng để đến Phiềng Sa - khu du kích, rồi sau đó gặp cán bộ, được giác ngộ, trở thành đội trưởng đội du kích. Phẩm chất cách mạng ở những người dân miền núi trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã được hai nhà văn thể hiện rất sinh động.+ Hai nhân vật ở hai vùng đất khác nhau, thuộc hai tộc người khác nhau, nhưng ta vẫn thấy ở họ có nét nào đó tương đồng trong tính cách. Ngoài sự cứng cỏi, gan góc, A Phủ và Tnú đều rất lặng lẽ, ít nói. Họ thuộc loại nhân vật hành động. Ấn tượng sâu nhất mà người đọc có được về hai nhân vật này là những hành động của họ. Với A Phủ, đó là hành động đánh con quan, hành động đi săn thú rừng, vác cả con bò bị hổ ăn mất một phần, làm bất cứ việc nặng nhọc nào trong nhà thống lí... Nó cho thấy sức mạnh thể chất của một con người. với Tnú, đó là hành động mang gạo ra rừng nuôi cán bộ, đi một mình lên núi cao ba ngày để mang đá trắng về làm phấn học chữ, lấy đá tự đập vào đầu khiến máu chảy ròng ròng khi học chữ không vào, cùng dân làng thức mài vũ khí hằng đêm để chuẩn bị chiến đấu, bóp chết tên đồn trưởng của giặc bằng hai bàn tay thương tích...- Bên cạnh nhiều điểm tương đồng, A Phủ và Tnú còn có những nét riêng, độc đáo, thể hiện khả năng cá biệt hoá của hai nhà văn. Điều này thể hiện đầy đủ qua số phận riêng của từng nhân vật.+ Nhân vật A Phủ:A Phủ hiện ra qua những trang truyện của Tô Hoài là một chàng trai mang trong mình những phẩm chất đáng quý. A Phủ lao động giỏi, có thể đúc lưỡi cày hoặc làm bất cứ việc gì. Thế nhưng, dù giỏi giang như vậy, rốt cuộc A Phủ cũng chỉ an phận làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Mặc cho bao nhiêu con gái trong bản ước ao có được A Phủ, chàng trai nghèo này không bao giờ dám mong có được một tổ ấm hạnh phúc gia đình. Một nét nổi bật của A Phủ là sự mạnh mẽ và phóng túng. Không bị trói buộc bởi mặc cảm nghèo hèn, A Phủ vẫn hoà mình vào những cuộc hẹn trong đêm tình mùa xuân như bao nhiêu trai gái trong bản. Cũng bởi tính cách mạnh mẽ, không chấp nhận sự ngang ngược vô lí của kẻ quyền thế, A Phủ dám đánh cả con quan. Có thể đây chỉ là hành động bột phát, tức thời, nhưng nó cũng cho thấy cái sức mạnh thể chất và tinh thần của một con người.Cũng vì hành động liều lĩnh ấy mà A Phủ phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Trước hết là những trận đòn báo thù độc ác. Bọn người nhà thống lí trói A Phủ, đưa về, đánh chửi tàn nhẫn mấy ngày liền, khiến cho mặt mày sưng lên như mặt hổ phù. Không dừng lại ở đó, chúng còn muốn tước đoạt quyền sống của một người tự do bằng cách bắt A Phủ phải nộp một trăm đồng bạc trắng để ăn vạ. Số tiền đó là một đời A Phủ nằm mơ cũng không thấy. Buộc A Phủ vay tiền để nộp vạ, thực chất, thống lí Pá Tra đã sử dụng một thủ đoạn quen thuộc: dùng những đồng tiền nợ để trói buộc số phận con người. Hãy nghe lời tuyên án: "Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Với A Phủ, đó là bản án chung thân.• Đi ở trừ nợ có nghĩa là phải chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Với sự hỗ trợ của thần quyền, chúng tước đoạt hoàn toàn ý thức về sự tự do tối thiểu của con người. Đã làm kiếp con ở trừ nợ, A Phủ không hề có ý định bỏ trốn, dù đó là việc nằm trong tầm tay. Dường như có sợi dây trói vô hình siết chặt, khiến A Phủ chấp nhận số phận mình như một lẽ đương nhiên.• Nỗi đau khổ ghê gớm nhất của A Phủ thể hiện qua việc chịu đựng hình phạt của thống lí Pá Tra. Mải đi săn nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra áp dụng hình phạt mà hắn quen dùng: trói đứng vào cột cho đến chết. Theo lệnh thống lí, A Phủ lặng lẽ đi lấy cọc, tự tay chôn cọc, lấy dây rồi ngoan ngoãn đứng vào bên cọc để thống lí thực hiện hành động trừng phạt. Không một sự phản kháng, không có sự vùng vằng chống đối. Con người mạnh mẽ, từng dùng cả con quay bằng gỗ ngát đánh vào mặt con quan giờ đây chỉ là một kẻ nô lệ mà sự sống chết hoàn toàn bị định đoạt bởi bàn tay của chủ. Hành động trừng phạt A Phủ không chỉ cho thấy sự tàn bạo của những kẻ thống trị, mà quan trọng hơn, nó thể hiện sâu sắc bi kịch của những con người bị áp bức. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác, mà còn là nỗi thống khổ khôn cùng về tinh thần. Sợi dây trói và thái độ của A Phủ ở đây có tính chất như một biểu tượng. Nó giúp người đọc hiểu rằng: sợi dây trói vật chất thì có thể cắt đứt bằng dao, nhưng sợi dây trói tinh thần thì vô cùng bền chặt. Sợi dây ấy chỉ có thể bị chặt đứt bằng sự giác ngộ về quyền làm người của mỗi cá nhân mà thôi.+ Nhân vật Tnú:• Xây dựng nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành tô đậm hai nét cơ bản trong tính cách của Tnú: sự gan góc, dũng cảm và đời sống tình cảm phong phú. Thuở ấu thơ, sống trong sự đùm bọc của dân làng, Tnú đã tỏ ra gan góc đến liều lĩnh. Không gì có thể khiến Tnú run sợ. Chính điều đó đã phát triển thành phẩm chất dũng cảm vô song của Tnú lúc trưởng thành. Vượt ngục trở về, Tnú thực hiện ngay hai điều anh Quyết dặn lại trước lúc hi sinh: thay anh làm cán bộ và cất giữ vũ khí để có lúc dùng đến. Làm cán bộ của Đảng và mài vũ khí để cất giữ chẳng khác nào thách thức sự truy diệt của kẻ thù. Với lòng dũng cảm, Tnú đã đối mặt với thử thách ghê gớm này. Ấy là khi anh bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tấm nhựa xà nu. Là con người bằng xương bằng thịt, Tnú cũng đau đớn đến cháy ruột cháy gan, nhưng anh không thèm kêu. Anh đã giữ vững dũng khí của một người cách mạng, để người dân Xô Man nhìn vào anh mà hiểu rằng, kẻ thù dù tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt tinh thần quật cường của họ.• Con người dũng cảm, cứng cỏi như sắt đá ấy cũng là một người rất giàu tình cảm. Tình cảm phong phú, đẹp đẽ của Tnú được thể hiện trước hết trong quan hệ với Mai. Từ nhỏ, Tnú và Mai đã bên nhau trong lúc vui cũng như lúc buồn, từng cùng nhau mang gạo ra rừng tiếp tế cho cán bộ, từng chụm đầu bên nhau để học những con chữ đầu đời. Vượt ngục trở về, người mà Tnú gặp đầu tiên lại cũng là Mai. Tình yêu trong sáng, thắm thiết giữa đôi trai gái tự do, phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên đã cho kết quả là một gia đình hạnh phúc với đứa con trai đầu lòng. Tình cảm của Tnú đối với Mai và con đã trải qua những thử thách ghê gớm. Đó là lúc Tnú phải chứng kiến cảnh Mai và con bị đánh bằng roi sắt hết sức dã man, để rồi anh phải nhảy xổ ra giữa lũ giặc khi trong tay không một tấc sắt. Đó là đêm về thăm làng, bên bếp lửa xà nu tại nhà cụ Mết, hình ảnh Mai lại hiện lên rõ nét trong tâm trí anh, đến mức, thoạt nhìn thấy Dít, anh ngỡ đó là Mai.• Tình cảm riêng tư của Tnú hoà quyện đẹp đẽ với tình yêu quê hương. Đi chiến đấu ở chiến trường xa, anh xin về dù chỉ một đêm thôi để được nhìn thấy những khuôn mặt thân thương, để được sống trong không khí ấm áp, để được nghe lại câu chuyện huyền thoại của làng mình.Như vậy, A Phủ và Tnú, bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú.
TÂY TIẾN - ĐẤT NƯỚCCảm nhận về hai đoạn thơ sau:Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu, anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành(Tây Tiến - Quang Dũng) Em ơi em Đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất nước muôn đời(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)________________GỢI Ý LÀM BÀI- Cảm nhận về hai đoạn thơ:+ Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:++ Nội dung:+++ Câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính:"biên cương","viễn xứ" là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm trùng bước Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lý tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi:"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".+++ Chiến trường là đạn bom ác liệt là hy sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người, ai cũng quý cũng yêu. Vậy mà người lính lại "chẳng tiếc đời xanh". Câu nói ấy vang lên chắc nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh xuân là họ đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho Tổ quốc chính là chết cho lý tưởng. Còn quyết tâm nào cao quý và thiêng liêng hơn thế nữa chăng? Ta chợt nhớ tới tích Kinh Kha sang đất Tần hành thích bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng, bên bờ sông Dịch chàng dứt áo ra đi với khẩu khí yêng hùng tráng sĩ:”Sông Dịch ù ù gió thổi/Tráng sĩ một đi không trở về”. Vậy là người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính đượm màu hiệp sĩ xa xưa. Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình(Tuổi hai mươi làm sao không tiếc)Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc(Thanh Thảo)+++ Áo bào là áo vua ban cho những người làm nên công trạng. Ở đây, điều kiện thiếu thốn đủ bề, người lính ra đi trong chiếu rách nhàu bọc lấy thân rồi vùi xuống đất. Nhưng qua câu thơ của Quang Dũng, manh chiếu rách ấy đã thành áo bào. Bởi vậy, cuộc tiễn đưa trở nên bi tráng. Nhà thơ vẫn gợi lên sự thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông núi.+++ Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn của người tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính – sự hi sinh làm cho lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc. Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói giảm nói tránh ”anh về đất” làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc khỏi ngậm ngùi. “Anh về đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón các anh trở về sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ thì ở đoạn thơ này sông Mã lại xuất hiện trong tiếng gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng, trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.+++ Cả bài thơ Tây Tiến không có một trận đánh nào được nói tới, không có một tiếng súng nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thật. Đó chính là cái nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng nước độc…++ Nghệ thuật:+++ Thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.+++ Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chín năm kháng chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt.+++ Cảm xúc của nhà thơ rất chân thành; giọng điệu thơ có chút xót xa nhưng nổi bật là sự dứt khoát, mạnh mẽ làm nên sự bi tráng trong cái chết của người Tây Tiến.+ Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:++ Nội dung:++++ Bốn câu thơ nhẹ nhàng, chân thành và tha thiết. Cách dùng đại từ “em” gợi cảm, gần gũi, thân mật đủ để làm “mềm hóa” những điều mang tính rộng lớn bao quát: đó là những suy niệm về Đất Nước. “Em ơi” trong câu thơ này không mênh mang, dìu dặt đưa người về cõi xa bên dòng sông Đuống, pha lẫn chút vị hư ảo trong câu thơ toàn vần bằng như “Em ơi buồn làm chi” (Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm). “Em ơi” ở đây là lời nói và tâm niệm của chàng trai với cô gái, người “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là lời tâm tình của người yêu với người yêu. Chọn câu chuyện tình yêu nam nữ để nói lên tình yêu đất nước, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã “mạo hiểm”? Không, chính tình yêu đất nước đã hòa lẫn trong câu chuyện tình yêu nam nữ mới tạo nên nét độc đáo hơn cho tác phẩm của nhà thơ.+++ Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:Ôi Tổ quốc ta ơi, ta yêu như máu thịtNhư mẹ cha ta, như vợ như chồngÔi Tổ quốc, nếu cần ta chếtCho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…(Chế Lan Viên)Ngoài ra, hình ảnh "máu xương" còn gơi lên trong lòng người đọc lịch sử đất nước với biết bao con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc :Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướmCó những ngày trốn học bị đòn roiNay yêu quê hương vì trong từng nắm đấtCó một phần xương thịt của em tôi.(Giang Nam) +++Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận :Đất nước là…nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết…/ phải biết…để làm nên… Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý : máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khảng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con ngườiphải biết gắn bó và san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy gẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng của mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hóa thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời! Những câu thơ in đậm chất duy lý cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người. Tinh thần này đã từng bắt gặp trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi :Người ra đi đầu không ngoảnh lạiSau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Hay:Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thực !Mẹ thà coi như chiếc lá bayChị thà coi như là hạt bụiEm thà coi như hơi rượu say.(Tống biệt hành – Thâm Tâm)Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ quên hết tình riêng một lòng hướng về nhân dân đất nước.++ Nghệ thuật:+++ Thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi nhịp nhàng, linh hoạt gợi về quá trình lịch sử đầy gian khổ của Đất Nước, gợi về sự hi sinh vĩ đại của nhân dân ta. +++ Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.+++ Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ Đất Nước được lặp lại jai lần kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”.So sánh:+ Giống nhau: Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho đất nước, non sông.+ Khác nhau: ++ “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ của người lính vùng cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả thực và lãng mạn. Đất Nước hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: “Đất Nước” là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuổi trẻ.++ Đoạn thơ trong bài Tây Tiến viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.3. Kết bài:Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh hùng vô danh. Họ đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất nước muôn đời”. Đó là những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vô cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên đã có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lý tưởng cao đẹp của những chiến sĩ, về sự hy sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.
SÔNG HƯƠNG - SÔNG ĐÀVẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường.Hướng dẫn cách làm bài :Mở bài : INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Giới thiệu bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Giới thiệu bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Giới thiệu vấn đề nghị luận : Vẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩmThân bài : INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Luận điểm 1 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử+Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động. Con người xứ Huế hiền lành, phúc hậu.+Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền chở đầy ánh trăng nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn.+Khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực.Tóm lại : Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Luận điểm 2 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thực chất là phân tích vẻ đẹp của dòng sông HươngCó thể tham khảo những ý chính sau:– Vẻ đẹp được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên:Sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của rừng già” khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn; có vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ khi trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa đất cố đô, có vẻ đẹp phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, có vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn; có vẻ đẹp mang màu sắc “triết lí, cổ thi” khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long; có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó dời xa dần thành phố để đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ….– Vẻ đẹp sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa. Tác giả cho rằng đã có một dòng thi ca về con sông Hương, một dòng thơ không lặp lại mình, ấy là “dòng sông trắng- lá cây xanh”, trong thơ Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.– Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử: sông Hương từng là dòng sông bảo vệ biên thùy tổ quốc thời Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi đến cách mạng tháng tám, chiến dịch mậu thân năm 1968….– Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của tác giả:Ông đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, từng có lúc là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều đục. “Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…”. INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Luận điểm 3 : Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt*Nét tương đồng:– Cả hai nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của xứ Huế (Vĩ Dạ và sông Hương) làm điểm nhấn và khởi hứng cảm xúc.– Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiênnhiên, cảnh sắc con người xứ Huế rất riêng, rất thơ mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác giả.– Cả hai đều là những cây bút tài hoa,tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú.*Nét khác biệt:–Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử nên điểm nhìn cảm xúc trong một khônggian hẹp, cái nhìn từ kí ức. Cảnh vật của xứ Huế hiện lên với những nét đặctrưng rất bình dị, quen thuộc, gần gũi nhưng cũng thật lãng mạn: cảnh khu vườn mướt như ngọc, sông trăng huyền ảo, con người với vẻ đẹp đằm thắm, dịudàng…cảnh vật in đậm cảm xúc về tình đời, tình người.– Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện lên ở rất nhiều góc độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn hóa….Vì thế vùng đất cố đô hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế,là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa. INCLUDEPICTURE "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET  INCLUDEPICTURE  "https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/f4c/1/16/25aa.png" \* MERGEFORMATINET ▪ Luận điểm 4 : Lí giải sự khác biệt+Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về cảm xúc, tâm trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và khách quan.+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trở thành kỉ niệm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn máu thịt của ông.Kết bài : Đánh giá chung về sự sáng tạo của mỗi tác giả
MỊ - LIÊNTrong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những **** người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.Bài 2:Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 như một làn "gió đầu mùa" tinh khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, "tiềm tàng trong mọi vật bình thường" khiến cho "lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn". Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối. Truyện ngắn Hai đứa trẻ - câu chuyện về hai chị em ở phố huyện nghèo - như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận con người.Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực Văn đoàn, những anh em của Thạch Lam cũng hay nói về cảnh nhà quê, người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sống ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số anh em họ Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà văn, phố huyện Cẩm Giàng (Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến cho ông khi viết về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến, gắn bó thuở thiếu thời.Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phố huyện chuyển dần vào bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động tình thương của cô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của quê hương, một "mủi riêng của đất, của quê hương này". Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn quê hương dìu dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phố huyện. Tất cả những gì nhà văn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện không có cốt truyện. Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ những nét bình dị, lặng lẽ trong một không khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh không lối thoát.Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác Xẩm... từng ấy nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính là đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong bóng tối ấy, cũng giống như không gian phố huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề lịm tắt.Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời điểm nối tiếp: hoàng hôn - tối - khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tối. Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thế giới người lớn nên "bóng tối ngập đầy dần" đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người "đi lần vào bóng tối", "từ từ đi vào bóng đêm" và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng đời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là "nguồn sáng" xa lạ của những vì sao trên trời. Là những "khe sáng", "quầng sáng", "hột sáng" mong manh của những con người cùng sống nơi phố huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. "Vùng sáng rực và lấp lánh" của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: "Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa". Đó là sự chấp nhận, là thực tế đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ.Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên - An được sống bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước "mấy đứa trẻ con nhà nghèo", còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ, bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh nhất: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ"..."Một cái gì tươi sáng hơn", bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra "con đường sáng" cho những con người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút Tự lực Văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng không trông chờ nhiều vào hoạt động của "Hội Ánh sáng" do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho những người bán hàng đêm như chị em Liên mong "may ra còn có một vài người mua". Nhưng vượt lên cuộc sống thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hy vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu "mang ánh sáng của một thế giới khác đi qua" để con người không đánh mất niềm tin vào sự sống . Vì vậy Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợi chờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc. Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên có tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến nhân vật chính là khoảnh khắc ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: "Liên khẽ quạt cho em, vuốt lại mái tóc tơ (...) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu". Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳn không thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tối. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳn mọi người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Ánh sáng rực rỡ của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sống mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà đêm nào cô cũng được sống trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm: hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như không gian phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy hy vọng.Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy những tình cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là một khía cạnh khác của tâm hồn nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ. Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng "Thạch Lam là một người Việt Nam thành thực nhất", có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người nghèo khổ qua những trang văn thấm đượm tình người, những trang văn "rất nhiều Thạch Lam trong đó". Độ chân cảm từ những trang văn Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi xúc động./.Bài 3: Phân tích khung cảnh phố huyện và tâm trạng chị em Liên khi chờ tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch LamHai đứa trẻ in trong tập "Nắng trong vườn" cũng giống như một số truyện ngắn khác của Thạch Lam, hai đứa trẻ bề ngoài như chẳng có gì đáng chú ý nhưng đi sâu vào bên trong, nơi sâu kín của tâm hồn thì mảnh đời nào cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm.Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là huyện nhỏ. Cảnh phố huyện hiện ra từ cái chòi canh lẫn vào lũy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng "sắp tàn", cánh đồng đầy ắp "tiếng ếch nhái kêu ran". Cửa hàng bé xíu của chị em Liên "muỗi bay vo ve", chợ phố huyện đã vãn. Bây nhiêu chi tiết đều nhằm vào cái thế giới thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày và cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng ngày càng mạnh mẽ của những cảnh đêm, trong đó bóng tối sẽ ngự trị cảnh vật, ngự trị tâm hồn cả con người và cuộc đời.Tác giả đã lựa chọn những âm thanh, hình ảnh, màu sắc độc đáo vẽ nên cảnh chiều tàn ở phố huyện xa xôi, hẻo lánh, tiêu điều, xơ xác và sự sống gần như tàn lụi.Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã "lên đèn" nhưng những nguồn sáng ấy không đủ xua tan bóng tối khiến những hòn đá nhỏ vẫn còn "một bên sáng, một bên tối". Có ánh sáng của ngàn vì sao lấp lánh, ánh sáng của ngọn đèn, ánh sáng lập lòe của bếp lửa bác Siêu. Những nguồn sáng này không xua tan được bóng tối mà còn làm nền tăng thêm bóng tối, bóng tối trở nên dày thêm, làm cho phố huyện bị bao trùm ở bóng tối. Cảnh phố huyện về đêm êm ắng, mát mẻ, đêm ngập tràn bóng tối "Đường phố và ngõ ngập tràn bóng tối và tối cả con đường ra sông, các ngõ vào làng đen sẫm". Chiếc đèn ghi nhà ga thì "xanh biếc như đóm lửa ma trơi" trong khi xung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối dày đặc, đen nghịt, mênh mông vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng tối thêm tăm tối, âm u.Trong cảnh xơ xác, tiêu điều và ngập tràn bóng tối ấy là những cuộc đời bóng tối. "Hai đứa trẻ" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết đó là bức tranh đời sống. Bức tranh đời sống chân thật và thấm đượm cảm xúc trữ tình của nhà văn đã gây nên cảm giác buồn thương, day dứt trong lòng người đọc.Ngay từ lúc ngày còn nhá nhem, phiên chợ đã vãn. Bóng tối chưa sụp xuống mà cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ "lom khom nhặt nhạnh những gì người ta vứt lại". Đây là cuộc sống của những người không có tương lai, không có hy vọng. Cuộc đời của chúng quá nghèo khổ. Mẹ con chị Tí ngày mò cua, tối lại dọn gian hàng nước ra. Chị Tí nóng lòng trước cảnh hàng ế ẩm: "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?". Dù rằng chị đã biết trước : "Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì?" Nói ra một cách ngẫu nhiên mà lại hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị: đã cơ cực lại còn chỉ trông chờ vào sự may rủi, một sự trông chờ cầm chắc là vô vọng. Cái nghèo cái khổ đã đè nặng lên gia đình chị Tí mà không sao thoát được.Gia đình bác Xẩm lại cơ cực hơ, tối tăm hơn. Bác Xẩm ngồi ngay trên chiếc chiếu rách, thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng chổng trơ trước mặt, tất cả im lìm, ngoài mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên mặt đất. Bà cụ Thi hơi điên đi dần vào trong bóng tối gợi lên một nỗi buồn xót xa đến tê tái trong lòng. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là "một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối", mất đó rồi hiện đó, chỉ làm cho bóng bác thêm mênh mang đen tối.Nhưng tội nghiệp nhất vẫn là Liên, An. Hai chị em đã từ giã nơi phồn vinh, nhộn nhịp để đến nơi nghèo nàn, xơ xác, hẻo lánh. Vào ngày chợ phiên, hai đứa bé không bán được gì.Cuộc sống của người dân phố huyện nghèo khó buồn tẻ, héo hắt với những con người lam lũ sống trong bế tắc, quẩn quanh trong cái nghèo túng. Thế nhưng họ không lụi tàn. Thạch Lam vẫn để cho họ một niềm hy vọng: hằng ngày họ đều chờ đợi tàu chạy qua phố huyện. Con tàu như con thoi ánh sáng, mang lại ánh sáng làm cho phố huyện sáng rực lên dù chỉ một ít. Đem lại cho phố huyện một sức sống mới. Âm thanh, tiếng cười nói của hành khách mang đến cho phố huyện một chút náo nhiệt.Chiều xuống, "mắt Liên ngập đầy dần bóng tối" thể hiện tâm trạng buồn nhưng không hiểu. Cảnh chiều tàn và cuộc sống tối tăm của người dân phố huyện đã gợi lên một nỗi buồn thấm thía trong lòng Liên. Liên nhìn lũ trẻ nghèo bới rác, nhặt nhạnh mà động lòng thương, thế nhưng chính chị cũng không có tiền để giúp cho chúng. Liên xót xa trước cảnh nghèo, chính cái nghèo đã cướp đi một phần tuổi thơ của Liên. Liên chán ngán trước cuộc sống hiện thực. Tâm trạng muốn trốn tránh, muốn quên đi hiện thực.Tác giả mô tả chân dung cuộc sống thật đáng thương của hai chị em, qua đó cho ta thấy niềm vui và khát khao cuộc sống của hai chị em vẫn chưa hoàn toàn dập tắt, vẫn còn tồn tại dù chỉ nhỏ nhoi.Tàu sắp đến, dường như ai cũng tỉnh hẳn dậy. Liên cũng dắt em đứng dậy để nhìn cho rõ. Tàu lướt qua, chỉ thấy cái "toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh". Rồi tàu lại đi vào đêm tối, cho đến khi "chiếc đèn xanh ở toa sau cùng xa mãi rồi khuất sau rặng tre". Tàu đến với ánh sáng, tiếng ồn, tàu đi với chiếc đèn đuôi khuất dần. Với chị em Liên, đó vừa là ký ức vui tươi vừa là ước vọng mơ hồ mà đẹp đẽ như trong truyện cổ tích, nhưng chẳng khác gì một ảo ảnh, vụt sáng rồi chợt qua ngay, xa dần, nhỏ dần, tắt dần như một sự nuối tiếc. Ấy là vì chị em Liên đã biết qua một chút cảnh sống bình thường nhưng có hạnh phúc. Còn đối với đám người nghèo khổ kia thì đó chỉ là cảnh sống của một thế giới thần tiên, mơ hồ, xa lạ nhưng đêm đêm lại hiện ra như một giấc mộng đẹp, một ước mơ xa xôi chẳng bao giờ thành hiện thực, nhưng vẫn có gì như một niềm an ủi chốc lát cho cảnh đời cơ cực của họ. Và chuyến tàu đêm vẫn là một hình ảnh lạ lạ, vui vui, ít nhất cũng gây được một chút lãng quên cần thiết để họ đi vào giấc ngủ đầy bóng tối nhưng yên bình. Thể hiện tâm trạng đợi tàu của chị em Liên, tác giả bày tỏ niềm thông cảm và xót thương với những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc và ánh sáng. Sống mòn mỏi trong cơ cực triền miên, số phận họ bị đè nặng bởi sự túng quẫn về vật chất, nghèo nàn về tinh thần. Ước mơ của những con người ấy chẳng qua như một chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện xơ xác ngập đầy bóng tối, vụt lóe lên rồi vụt biến mất vào bóng tối."Hai đứa trẻ" là truyện ngắn khá thành công của Thạch Lam. Với lời văn nhẹ nhàng, cảm xúc tinh tế và ngôn ngữ giàu hình ảnh, tác giả đã vẽ lên một bức tranh khá chân thật về cuộc sống của người dân ở một nơi phố huyện xa xôi, hẻo lánh. Qua đó tác giả cũng bộc lộ niềm cảm thông đau đớn và chua xót đối với cuộc sống tối tăm và ước vọng mơ hồ của tuổi thơ và đó cũng chính là cuộc sống của tuổi thơ Việt Nam trong xã hội đen tối bấy giờ. Truyện cũng làm bật lên tinh nhân văn cao cả của nhà văn Thạch Lam.Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dầu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Những đêm tình mùa xuân đã tới.Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:Mày có con trai con gái rồiMày đi làm nươngTa không có con trai con gáiTa đi tìm người yêu.Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi... có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:Anh ném pao, em không bắt,Em không yêu, quả pao rơi rồi...Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động "nổi loạn" diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à?, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào... Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya... Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tĩnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.
VỢ NHẶT - NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀIAi đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hang chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.Có thể nói, trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm.Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sang sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa than phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám khá của nhân vật Phùng, nhân vât người đàn bà hang chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.Xuất hiện trước mắt độc giả , người đàn bà hang chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lơn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hang chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao song gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.
SÓNG - VIỆT BẮC“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy                             (Việt Bắc – Tố Hữu)và“Con sóng dưới lòng sâuCon sóng trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ đượcLòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức.”                                                                (Sóng – Xuân Quỳnh)HƯỚNG DẪN DÀN Ý CHI TIẾTI. MỞ BÀIGiới thiệu về hai tác giả và hai bài thơ, hai đoạn thơ:II. THÂN BÀI2. Cảm nhận hai đoạn thơ2.1. Đoạn thơ trong bài thơ Sóng– Nỗi nhớ tràn ngập khắp không gian: dưới lòng sâu, trên mặt nước– Nỗi nhớ tràn ngập khắp thời gian: ngày đêm không ngủ được– Nỗi nhớ tràn cả vào ý thức, vô thức, tiềm thức “cả trong mơ còn thức”* Nghệ thuật: thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu; phép ẩn dụ, nhân hóa, điệp cấu trúc, tươgn phản..2.2. Đoạn thơ trong Việt Bắc– Nỗi nhớ tràn ngập không gian thời gian, thấm vào cảnh vật thiên nhiên:+ Thiên nhiên bình dị tươi đẹp: nắng chiều, trăng lên đầu núi, bản khói cùng sương, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…+ Con người Việt Bắc cần cù chăm chỉ, chịu thương chịu khó: sớm khuya bếp lửa người thương đi về* Nghệ thuật:– Thể thơ lục bát âm điệu ngọt ngào sâu lắng; sử dụng phép điệp từ, ngôn ngữ bình dị3. So sánh:– Giống nhau: Cả hai đoạn thơ đều tập trung thể hiện nỗi nhớ của một tình yêu tha thiết sâu đậm đối với con người, cuộc sống, quê hương, đất nước của hai thi sĩ.Nội dung cảm xúc: Cả hai đoạn thơ đều viết về nỗi nhớ, một trạng thái cảm xúc nảy sinh trong cuộc chia ly với những con người đã từng gắn bó sâu nặng, thắm thiết, những mảnh đất để lại dấu chân đi qua.– Nghệ thuật thể hiện: Hai đoạn thơ, các tác giả đều tập trung khắc họa những cung bậc trạng thái phong phú, đa chiều của nỗi nhớ. Nỗi nhớ mênh mang được đặt trong quan hệ với không gian thiên nhiên vô tận. Nỗi nhớ triền miên da diết được đặt trong thời gian của đêm – ngày, sớm – chiều. Nỗi nhớ còn được so sánh, thể hiện trong những điều sâu thẳm, mãnh liệt nhất (nhớ người yêu, cả trong mơ còn thức). (Hai đoạn thơ đều sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ để khéo léo diễn tả nỗi nhớ sâu đậm, giọng điệu da diết, khắc khoải của con người khi phải chia ly.– Điểm khác biệt:Việt Bắc (Tố Hữu) – Nội dung cảm xúc: nỗi nhớ trong thơ Tố Hữu thuộc về tình cảm lớn lao, tình cảm chính trị, tình cảm cách mạng. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt bắc ân tình đùm bọc, cưu mang họ trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến.Đoạn thơ sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), ẩn dụ (ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê) và tiểu đối đã góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng.Sóng (Xuân Quỳnh) – Cảm xúc của chủ thể trữ tình được thể hiện vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ (có nỗi nhớ cồn cào, cháy bỏng, có nỗi nhớ triền miên, da diết, có nỗi thao thức, bồi hồi trăn trở, nỗi nhớ còn lặn cả vào trong tiềm thức, trong giấc mơ).Sóng – Đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt sâu sắc. Đoạn thơ có hình ảnh sáng tạo diễn tả nỗi nhớ trong mơ (Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức).Kết luận chung:– Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được nét đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung.III. KẾT BÀIĐánh giá chungTrên đây là dàn ý chi tiết đề so sánh hai đoạn thơ Sóng Xuân Quỳnh và Việt Bắc Tố Hữu. Mỗi bài thơ đều có những cách thể hiện khác nhau. Nhưng acr hai đều nói lên tình yêu mãnh liệt của con người. Mỗi tác giả vẽ lên một nét cho bức trành tình yêu thật đẹp.
THỊ NỞ - VỢ NHẶTMBGiới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.Khám phá riêng của mỗi tác giả.TB:1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :-Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù.Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhăt-Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )-Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.. Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự nghèo đói và thê thảm.3. Kết thúc của hai tác phẩma. Khác nhau-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.a. Của “Chí Phèo”- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với “Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.b. Của “Vợ nhặt”- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như nằm bên bờ vực thẳm của cái chết.- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống.
CHÍ PHÈO - TRƯƠNG BASo Sánh bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo,,- Nam Cao) và hồn Trương Ba ( “Hồn Trương Ba,da hàng thịt,,- Lưu Quang Vũ).Bài tham khảoNam Cao là nhà văn lớn, có những đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc. Nếu chọn ra ba tác giả văn xuôi nổi tiếng nhất thế kỉ XX của người Việt thì chắc chắn không thể vắng ông- nhà văn của những trí thức, những nông dân nghèo khổ, khốn cùng. Vànếu phải chọn ra ba kiệt tác của Nam Cao thì không thể không có “Chí Phèo,,. Trong một số câu chữ không quá nhiều, nhà văn đã chuyển tải được những thông điệp có ý nghĩa rất lớn với con người. Còn Lưu Quang Vũ lại được xem như một nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của gần 50 vở kịch trong đó có những vở gây chấn động dư luận như “ Lời thề thứ 9, “Tôi và chúng ta,, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt,,.. Kịch của Lưu Quang Vũ đã phản ánh được những vấn đề bức thiết của thời đại, đồng thời mang tính triết lí sâu sắc. Truyện ngắn “Chí Phèo,, của Nam Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt,, của Lưu Quang Vũ tuy ra đời trong những hoàn cảnh xã hội - lịch sử khác nhau nhưng tất thảy đều đề cập đến những bi kịch của con người, trong đó có bi kịch tha hóa.Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về bi kịch. Thông thường, người ta cho rằng bi kịch là trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hóa giải, khi mong muốn khát vọng và thực tiễn hoàn toàn trái ngược… Còn “tha hóa,, theo nhiều nhà nghiên cứu, vốn có xuất xứ từ trong triết học của Hê-ghen.Giờ đây, nó đã biến đổi về nghĩa rất nhiều so với ban đầu. Tha hóa được hiểu là đánh mất giá trị, bản chất thông thường vốn có. Chúng ta vẫn quen dùng hai chữ ấy để chỉ những gì thuộc về con người và các hoạt động của con người, liên quan đến chủ thể con người, theo hướng chẳng tốt đẹp gì. Do những nguyên nhân khác nhau, cả Chí Phèo và Trương Ba, hai nhân vật trung tâm trong hai tác phẩm đều rơi vào bi kịch tha hóa đau đớn.Trong tác phẩm “Chí Phèo,,, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm, rách áo bần cùng khốn khổ của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến.Nhà văn trăn trở băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc hơn cả đói rét bần cùng. Đó là sự tha hóa… Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng VĐ, chửi những ai không chửi nhau với hắn và cuối cùng chửi người đã sinh ra hắn.Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng đôi khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.Qua tiếng chửi của CP, người đọc cảm thấy như đang đối diện với một con “người- vật,, quái gở, đang ở tận cùng của khổ đau, đang trút lên cuôc đời tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy đau khổ của mình.Cũng qua tiếng chửi của Chí, người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái độ hằn học, thù địch đau khổ của Chí, thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời, thái độ phẫn uất thương cảm của tác giả.Tiếng nói nhân ái của nhà văn đã đánh thức tấm lòng người đọc. Qua cách dẫn dắt của người kể chuyện, người đọc hiểu rằng trước kia Chí vốn hiền lành lương thiện, tự trọng.Hắn đã từng mơ ước được sống bằng hai bàn tay lao động của mình với “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..,,.Làm canh điền cho lí Kiến bị bà bà lợi dụng xúc phạm Chí cảm thấy rất nhục.Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hóa thành một kẻ khác hẳn “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn…,,.Cái mặt hắn cũng trở nên dị biệt “không trẻ cũng không già, nó không còn phải là mặt người,nó là mặt một con vật lạ..,,Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Những cơn say triền miên đã cướp đi ngày tháng của hắn “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu chửi bới rạch mặt ăn vạ trong lúc say..,,Trong cơn say, hắn đã phá nát bao cơ nghiệp , đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện,,.Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Nhưng hắn chưa bao giờ nhận ra sự thật nghiệt ngã ấy. Thậm chí còn tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta,,.Sự tha hóa hằn in trong bộ dạng trong ngôn ngữ trong hành động và cả trong những ngộ nhận của nhân vật về mình. Chí đã rơi vào tình trạng đáng lo ngại mà không biết.Bị đối xử tàn bạo Chí đã phản kháng bằng sự bạo tàn. Đó là sự “phẫn nộ tối tăm,, như Lênin đã từng nói. Trong “Chí Phèo,,, Nam Cao đã chỉ ra rằng, Chí Phèo không phải một ngoại lệ. Bên cạnh hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ.. Đó là kết quả tất yếu của một lô-gic: một khi đã có Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo.. thì tất sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức…Đó không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà còn là một phương tiện thống trị “Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò.,,.Xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí Phèo thành công cụ thống trị xã hội.Cũng như Chí Phèo, Trương Ba trước đây là con người hoàn toàn khác. Trương Ba là người nông dân chăm chỉ, khéo léo,yêu thương vợ con, chiều quý các cháu, tốt bụng với hàng xóm láng giềng, yêu cây cỏ...Từ khi sống trong xác anh hàng thịt,Trương Ba trở nên vụng về, thô tục, thô bạo, vô tình…Trương Ba thích bán thịt, ham uống rượu, những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn, vô hồn…Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, chi phối. Nếu Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận thấy rất rõ tình trạng khốn khổ của mình. Cho dù không muốn thừa nhận, cho dù muốn bám víu vào trò chơi tâm hồn thì Trương Ba vẫn không thể phủ nhận sự thật là ông đang đánh mất mình “ Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta a, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta,,. Cuộc đối thoại thẳng thắn giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt đã đã diễn tả khá sâu sắc nỗi hoang mang hoài nghi, sự bất lực của con người. Mọi lí lẽ của Trương Ba không thể lung lay thứ lập luận lấm láp bụi trần nhưng hùng hồn thuyết phục của xác hàng thịt “Hai ta đã hòa vào nhau làm một rồi,,. Dù khinh bỉ xác hàng thịt, Trương Ba vẫn phải quay trở lại xác hàng thịt. Sự thay đổi của hồn Trương Ba trong thời gian trú ngụ ở xác hàng thịt càng ngày càng rõ nét.Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lời các nhân vật khác- những người thân trong gia đình Trương Ba để chỉ ra điều ấy.Hồn Trương Ba bây giờ đâu còn là người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con như trước. Ông cũng chẳng quan tâm dến chuyện của bà con làng xóm. Hồn Trương Ba thô lỗ phũ phàng không còn nhẹ nhàng khéo léo khi chữa diều, chăm sóc cây cối như trước nữa. Ngày cả chị con dâu người thông cảm cho tình cảnh của hồn Trương Ba, cũng xót xa ngỡ ngàng bởi không thấy hình ảnh con người “hiền hậu, vui vẻ tốt lành,, của Trương Ba trước đây. Những lời thoại sau đó của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức sâu sắc, thấm thía về tình cảnh trở trêu của mình:“ Ông chĩ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết,,. Nỗi khốn khổ của Trương Ba và Chí Phèo đều do kẻ thống trị gây nên. Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù 7,8 năm. Tiếp thu sự giáo dục của nhà tù thực dân Chí Phèo đã trở thành kẻ côn đồ hung hãn. Hắn vùng lên liều mạng để trả thù. Nhưng hắn đã gặp kẻ thống trị nham hiểm, xảo quyệt và bị biến thành công cụ cho kẻ thù của mình. Ông Trương Ba hiền hậu tử tế, tốt bụng còn đang rất khỏe mạnh,mặc dầu chưa tận số đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, lừa thầy phản bạn, dối trá tham tàn bởi cung cách làm việc luộm thuộm, thiếu trách nhiệm, muốn xong việc nhanh của Nam Tào. Nếu cứ để Trương Ba chết đi thì tác phẩm chỉ là tiếng nói tố cáo sự cẩu thả vô trách nhiệm của Nam Tào. Nhưng Đế Thích đã sữa chữa sai lầm của Nam Tào bằng cách để cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác hàng thịt. Không chỉ Nam Tào mà Đế Thích cũng mắc phải sai lầm. Đâu phải cứ làm điều tốt cho người khác là mang lại hạnh phúc cho họ.Ở địa vị cao, mà không thận trọng với những quyết định của mình, con người dễ gây ra những sai lầm không thể sửa chữa. Bi kịch tha hóa của hồn Trương Ba có nguyên nhân trực tiếp từ sự tắc trách, quan liêu của quan nhà trời. Nhưng còn nguyên nhân gián tiếp ? Ấy là định kiến của con người về xác hàng thịt. Đối với những người thân của Trương Ba và ngay cả Trương Ba, xác hàng thịt là hiện thân cho những gì tầm thường phàm tục nhất. Song đó lại là những nhu cầu thiết thực cho mọi sự sống: được ăn, được mặc, được thỏa mãn những nhục cảm cá nhân.. Phủ nhận những nhu cầu ấy là phủ nhậnphần bản năng trong mỗi người. Vậy thì đâu chỉ có Trương Ba bất hạnh. Xác hàng thịt cũng thật đáng thương !. Chí Phèo tha hóa đã gây ra bao thảm cảnh cho dân làng. Còn hồn Trương Ba đã trở thành tâm điểm của sự rối ren. Không chỉ riêng hồn Trương Ba hay gia đình ông khốn đốn mà còn bao gia đình khác, bao nhiêu cuộc sống khác chao đảo, chịu hệ lụy. Lỗi lầm bắt đầu từ tiên thánh, những kẻ nắm vận mệnh con người và sau đó con người với sự vô sỉ, thỏa hiệp cùng cái xấu đã đẩy tất cả dến chỗ rối ren hơn. Tái hiện sống động và rõ nét bi kịch tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ một cái nhìn hiện thực sắc sảo đồng thời nói lên sự gắn bó đồng cảm thấu hiểu sâu sắc cuộc sống của người nông dân. Ông đã đem đến cho những trang viết của mình sức mạnh của sự khám phá phát hiện. Trước Nam Cao, các nhà văn hiện thực chỉ mới chú ý tới tình trạng bần cùng hóa. Trước Nam Cao, Nguyên Hồng mới chỉ phản ánh và miêu tả loại nhân vật lưu manh thành thị. Hiện tượng tha hóa, lưu manh ở nông thôn với những đặc điểm riêng, với ý nghĩa quan trọng của nó lần đầu tiên được Nam Cao quan tâm và miêu tả tập trung, rõ nét. Ông đã đem đến cho văn học hiện thực 1930-1945 một điển hình về người nông dân, phơi bày bản chất của nông thôn đen tối trước Cách mạng. Với Lưu Quang Vũ, sự tha hóa của hồn Trương Ba cũng là một hiện thực nhức nhối trong xã hội. Con người “muốn nuôi sống xác thân/ Đem làm thịt linh hồn,, ( Chế Lan Viên). Nhưng bi kịch của Trương Ba còn gợi ra những suy tư về mối quan hệ giữa hồn và xác, giữa ý thức và bản năng...Có ai là toàn vẹn hoàn hảo không? Những đòi hỏi của thân xác có phải tội lỗi đáng ghê tởm không ? Vở kịch do vậy vừa có ý nghĩa xã hội vừa mang tính triết lí sâu xa.Những điều mà hai nhà văn muốn nói qua tấn bi kịch tha hóa không chỉ có thế.Người đọc có thể sẽ nhớ dến một ý kiến rất sâu sắc của Nguyễn Minh Châu: “ Có một số khá đông con người bây giờ đang sống trong một cái thế rất chông chênh giữa một câu nói lịch sử và một câu nói gắt bẳn(...). Và trong từng con người luôn luôn có tiếng gọi thì thầm “Đừng nói thế, đừng làm thế!,, Rồi lại một lời thúc giục khác: “ Cứ nói bừa đi! Cứ làm bừa đi!,,. Nam Cao, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Minh Châu đã rung chuông thức tỉnh mỗi con người chúng ta. Bởi nhiều khi chúng ta vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm nhưng ít khi chúng ta thành quan tòa của chính mình. Trong một cơn say, Tự Lãng đã hỏi Chí Phèo: “Con người ta đứng lên bằng cái gì,,. Lời giải đáp tùy thuộc vào bản lĩnh và hoàn cảnh của mỗi con người. Có điều, ngã xuống ở đâu thì nên đứng lên ở đó!
TÂY TIẾN - VIỆT BẮCĐề bài: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng:Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.(“Tây Tiến” – Quang Dũng)Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết:“Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”.(“Việt Bắc” – Tố Hữu).Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên ?HƯỚNG DẪN LÀM:Khái quát chung:Giới thiệu Quang Dũng, Tố Hữu và hai tác phẩm:+ Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.+ Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.TRÌNH BÀY CẢM NHẬN:A. Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”:*Vẻ đẹp bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”.Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá.+ Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính.+ Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính TT: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của QD, người lính TT hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, QD vẫn dùng từ “đoàn binh” – gợi cảm giác về 1 đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.+ Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả doàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của QD khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.Liên hệ: Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán ướt mồ hôi”(“Đồng chí” – Chính Hữu)“Giọt giọt mồ hôi rơiTrên má anh vàng nghệAnh vệ quốc quân ơiSao mà yêu anh thế”.(“Cá nước” – Tố Hữu).Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:“Nơi thuốc súng trộn vào áo trậnCơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”.*Cái hào hoa:+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàn rất lính, hóm hỉnh đùa vui với khó khăn gian khổ của mình.+ Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ.*Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.+ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội.Người lính TT không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa,… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc, vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.B. Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”:*Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân:“Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùng”+ Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do.+ Không khí sôi nổi của những ngày chiến dịch được tác giả tái hiện sinh động qua những từ ngữ, hình ảnh: rầm rập, đất rung, những từ láy: điệp điệp, trùng trùng. Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh, vừa tạo hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật so sánh, tượng trưng được tác giả sử dụng triệt để giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đang ngày đêm tiến về mặt trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.*Vẻ đẹp lãng mạn:“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.Đây có thể là hình ảnh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu.C. So sánh hai đoạn thơ:Giống nhau: Đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng.Khác nhau:+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ “Tây Tiến”, vẻ đẹp hào hùng của người lính phảng phất sự bi thương.+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ “Việt Bắc”, vẻ đẹp lãng mạn của người lính còn được Tố Hữu gắn liền với hiện thực.Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực. Bên cạnh đó, Quang Dũng là một chàng trai rất hào hoa nên thơ ông có cái lãng mạn rất riêng; còn ở Tố Hữu, thơ ông là thơ trữ tình chính trị, luôn có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào cách mạng.ĐÁNH GIÁ CHUNG:Hai đoạn thơ bên cạnh những điểm tương đồng còn có những nét riêng độc đáo, thể hiện tài năng của hai nhà thơ.Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền văn học cũng như trong lòng độc giả.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro