dean intel-amd

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lời mở đầu

Từ thời xa xưa con người luôn phải đối đầu với nhiều khó khăn trong cuộc sống nhất là việc tư duy tính toán Song xã hội loài người phát triển không ngừng kèm theo đó là sự hình thành rất nhiều lĩnh vực kinh tế khoa học giáo dục và toán học….đòi hỏi phải tính toán với những dãy số phức tạp. Từ những trăng trở ấy hàng loạt công cụ tính toán đã ra đời xuyên suốt lịch sử loài người nhằm giải toả bớt áp lực tính toán cho bộ não. Nhưng với sự phát triển nhanh như vũ bão của các lĩnh vực trên thì các công cụ ấy sớm trở nên lạc hậu và không mang lại hiệu quả trong công việc. Vào tháng 2/1946, hai ông J. Presper Eckert và John Mauchly đã đưa ra giới thiệu chiếc máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới. Chiếc máy tính ENIAC (Electronic Numerical Integrator and Computer) của họ có khả năng xử lý được 5.000 phép tính cộng trong mỗi giây, nhanh hơn bất cứ thiết bị nào ở thời điểm đó. Sự ra đời của chiếc máy tính đầu tiên đã làm thay đổi lịch sử và đưa con người đến với một tầm cao mới đồng thời khai sinh ra ngành công nghệ thông tin. Tiếp sau đó là cuộc bùng nổ công nghệ cho đến ngày nay. Hàng loạt máy tính nhỏ gọn tốc độ xử lý mạnh gấp hàng triệu lần so tổ tiên của chúng đã ra đời và phát triển không ngừng. Điều kì diệu đó nằm ở CPU (Central Processing Unit). Đó là bộ vi xử lý trung tâm nơi chịu trách nhiệm xử lý lưu lượng thông tin khổng lồ được truyền đến. Intel và AMD, hai ông lớn trong ngành sảng xuất chip vi xử lý. Trong suốt thập niên 60 đến nay đã cho ra đời hàng loạt mẫu CPU với hiệu suất và tính năng tăng đến chóng mặt chỉ sau vài năm. Song điều mà người yêu công nghệ luôn đặt dấu chấm hỏi đó chính là liệu AMD và Intel ai mạnh hơn ai. Nắm bắt được nhu cầu đó bài viết sau sẽ đưa các bạn đến với lịch sử phát triển của hai ông hoàng công nghệ này và đưa ra đúc kết nhận xét đối với một vài thế hệ CPU thông dụng của hai hãng trên.  

Nhận Xét Của Giáo Viên

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

-------------------------------------------------------------------------------------------

Mục Lục

1. Tổng quan về AMD.. 5

1.1.    Lịch sử phát triển AMD.. 5

1.2.    Quy mô phát triển. 6

1.2.1.    Chế tạo và sản xuất6

1.2.2.    Cơ sở hạ tầng. 7

1.2.3.    Hợp tác chiến lược. 9

1.2.4.    Những mốc son của AMD.. 9

1.3.    Các dòng vi xử lý của AMD.. 10

1.4.    Giới thiệu về các dòng vi xử lí hiện tại của AMD.. 14

2. Tổng quan về Intel15

2.1.    Lịch sử hình thành. 15

2.2.    Quá trình phát triển. 17

2.2.1.    Quy mô và kế hoạch. 17

2.2.2.    Phát triển gần đây. 18

2.2.3.    Quản bá thương hiệu. 19

2.2.4.    Giá trị thương hiệu. 21

2.2.5.    Các sự kiện lịch sử. 21

2.3.    Các dòng CPU của Intel24

2.3.1.    Thế hệ vi xử lý sơ khai24

2.3.2.    BXL 32bit vi kiến trúc NetBurst (NetBurst MICRO-ARCHITECTURE)27

2.3.3.    Bộ xử lý 64 bit kiến trúc NETBURST. 35

2.3.4.    Kiến trúc Core. 38

2.3.5.    Kiến trúc Nehalem.. 42

2.3.6.    Đôi nét về nền tản Intel Sandy Bridge. 46

3.So sánh giữa AMD và Intel51

3.1.    Sự đối đầu giữa AMD và Intel51

3.1.1.    Giới thiệu. 51

3.1.2.    Lịch sử đối đầu giữa AMD và Intel55

3.2.    Công nghệ. 56

3.2.1.    Intel56

3.2.2.    AMD.. 60

3.3.    So Sánh một số thế hệ CPU thông dụng. 64

Mục Lục Hình Ảnh

Hình 1.1. 8

Hình 1.2. 9

Hình 1.3. 13

Hình 1.4. 14

Hình 1.5. 14

Hình 1.6. 15

Hình 1.7. 16

Hình 1.8. 17

Hình 2.1. 17

Hình 2.2. 26

Hình 2.3. 27

Hình 2.4. 27

Hình 2.5. 28

Hình 2.6. 28

Hình 2.7. 29

Hình 2.8. 30

Hình 2.9. 30

Hình 2.10. 31

Hình 2.11. 32

Hình 2.12. 33

Hình 2.13. 34

Hình 2.14. 35

Hình 2.15. 36

Hình 2.16. 37

Hình 2.17. 38

Hình 2.18. 38

Hình 2.19. 39

Hình 2.20. 40

Hinh 2.21. 41

Hình 2.22. 42

Hình 2.23. 43

Hình 2.24. 44

Hình 2.25. 45

Hình 2.26. 45

Hình 2.27. 46

Hình 2.28. 47

Hình 2.29. 47

Hình 2.30. 48

Hình 2.31. 49

Hình 2.32. 52

Hình 2.33. 53

Hình 3.1. 54

Hình 3.2. 60

Hình 3.3. 63

Hình 3.4. 67

Hình 3.5. 67

Hình 3.6. 68

Hình 3.7. 69

Hình 3.8. 70

Hình 3.9. 71

Hình 3.10. 72

Hình 3.11. 73

Hình 3.12. 73

Hình 3.13. 74

Hình 3.14. 75

Hình 3.15. 76

Hình 3.16. 76

Hình 3.17. 77

Hình 3.18. 78

Hình 3.19. 79

 Nội Dung Đồ Án

1. Tổng quan về AMD

1.1.                      Lịch sử phát triển AMD

AMD - Advanced Micro Devices là một công ty chuyên về sản xuất các chất bán dẫn Hoa Kì. Công ty có đại bản doanh ở Sunnyvale - California này được thành lập năm 1969 do Jerry Sanders và nhóm nhân viên cũ của Fairchild Semiconductor sáng lập, bao gồm Jerry Sanders, Ed Turney, John Carey, Sven Simonsen, Jack Gifford và ba thành viên của Gifford's team là Frank Botte, Jim Giles, và Larry Stenger

Hình 1.1

Hiện nay chủ tịch hội đồng quản trị và là tổng giám đốc là Tiến sĩ Hector Ruiz, chủ tịch tập đoàn và là giám đốc điều hành là ngài Dirk Meyer

AMD là nhà cung cấp lớn thứ hai thế giới về các bộ xử lý máy tính (CPU) trên nền x86. Đồng thời cũng là nhà cung cấp card đồ họa và bộ xử lý đồ họa (GPUs) lớn thứ ba thế giới kể từ khi nắm quyền sở hữu công ty ATI Technologies vào năm 2006. AMD cũng nắm giữ 21% cổ phần trong Spansion, một nhà cung cấp bộ nhớ flash không thay đổi (non-volatile). Năm 2007, AMD đứng thứ 11 trong các nhà SX chất bán dẫn hàng đầu thế giới

AMD thông báo về việc sáp nhập với ATI vào ngày 24 tháng bảy, 2006. AMD đã trả 3,4 tỉ USD tiền mặt và 58 triệu cổ phiếu của họ để mua lại ATI, tổng giá trị của hợp đồng lên đến 5,4 tỉ USD. Việc sáp nhập hoàn tất vào ngày 25 tháng 11, 2006 và bây giờ ATI đã là một phần của AMD

Hình 1.2

1.2.                     Quy mô phát triển

1.2.1.     Chế tạo và sản xuất

Tất cả các bộ xử lý của AMD đều được sản xuất ở các nhà máy chế tạo chất bán dẫn (semiconductor Fabrication Plants ) của riêng họ , được gọi là “FABs”. AMD quy ước đặt tên những nhà máy của họ là “FAB x”, trong đó “x” là số năm tính từ khi thành lập AMD đến khi FAB đi vào hoạt động (ví dụ FAB 36, nơi đang nghiên cứu chế tạo Deneb 45nm)

Trong các nhà máy của họ, AMD sử dụng một hệ thống gọi là Automated Precision Manufacturing – APM (tạm dịch là hệ thống chế tạo chính xác và tự động hóa). APM là tập hợp các công nghệ sản xuất mà AMD đã nghiên cứu trong suốt quá trình phát triển của mình (nhiều công nghệ trong số này đang được AMD giữ bằng sáng chế), chúng được thiết kế để tăng cường cho quá trình sản xuất bộ vi xử lý, chủ yếu về mặt hiệu suất.

AMD hiện đang có một thỏa thuận hợp tác sản xuất với Chartered Semiconductor Manufacturing có trụ sở ở Singapore, cho phép Chartered có thể tiếp cận với quy trình công nghệ APM của AMD, đổi lại Chartered sẽ giúp AMD tăng cường năng lực sản xuất nhờ vào các nhà máy của mình.

Thông qua việc sở hữu ATI, AMD cũng có những hợp đồng sản xuất với TSMC để sản xuất ra các loại chipset và BXL đồ họa ATI. Hiện tại không rõ sẽ có những yếu tố (manufacturing needs) nào của ATI sẽ được chuyển về sản xuất tại các FAB riêng của AMD và những yếu tố nào sẽ sẽ do các đối tác của họ đảm nhận việc chế tạo. Nhưng AMD đã thông báo kế hoạch trong tương lai những bộ xử lý của họ sẽ do TSMC phụ trách, và có một sự trùng hợp khi TSMC cũng thông báo về những đơn đặt hàng chế tạo các bộ xử lý x86 mà họ nhận được

1.2.2.     Cơ sở hạ tầng

Những nhà máy thiết kế và chế tạo bộ xử lý chính của AMD nằm ở vùng Dresden, phía đông Đức. Ngoài ra các bộ vi xử lý tích hợp cao (highly integrated microprocessors ) cũng đang được sản xuất bởi bên thứ ba (third-party manufacturers) dưới sự cấp phép (license) của AMD. Từ năm 2003 đến 2005, AMD cũng đã xây dựng nhà máy bán dẫn thứ hai (chế tạo wafer 300mm dùng công nghệ 90nm SOI) trong cùng khu liên hợp để tăng sản lượng chip và nhờ đó sẽ có sức cạnh tranh hơn với Intel. Nhà máy mới này được mang tên “FAB 36”, nhằm kỉ niệm 36 năm ngày AMD ra đời, và đi vào sản xuất vào giữa năm 2007. AMD cũng đã thông báo họ đã hoàn tất việc chuyển đổi đổi công nghệ từ 90nm sang 65nm ở FAB 36 và hiện nhà máy cũng đang tiến hành nghiên cứu thử nghiệm công nghệ 45nm.

AMD cũng đang lên kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất của họ. Ngoài việc hoàn thành FAB 36, AMD cũng nâng câp FAB 30 (gần kề FAB 36) ở Dresden từ công nghệ 200mm 90nm SOI sang 300mm 65nm SOI và đổi tên nhà máy thành FAB 38. Ban đầu FAB 30 được cho là nơi bắt đầu chế tạo các sản phẩm công nghệ 65nm vào năm 2007, tuy nhiên AMD đã thông báo trì hoãn việc nâng cấp để giảm thiểu phí tổn

AMD Saxony ở Dresden, nơi sản xuất ra các tấm wafer chính của AMD

Các nhà máy lắp ráp và kiểm định chip bán dẫn của AMD được đặt ở Singapore, Malaysia và Trung Quốc.

Bên cạnh đấy, AMD cũng dự định mở một nhà máy 3,2 tỉ USD ở khu công nghệ Luther Park, Stillwater, New York. Nhà máy FAB “4x” này sẽ sản xuất nên các sản phẩm 300mm 32nm SOI, việc xây dựng sẽ tiến hành từ năm 2009 đến 2010. Một số thông tin cho thấy nhà máy sẽ sử dụng công nghệ cổng high-k metal mà AMD tiếp thu được từ IBM.

AMD cũng sẽ xây dựng FAB City đầu tiên của Ấn Độ, một nhà máy sản xuất chip bán dẫn với vốn đầu tư khoảng 3,2 tỉ USD.

Tháng Sáu 2006, Chartered Semiconductor trở thành nhà phân phối các bộ xử lý của AMD, nhiều trong số chúng được gửi từ Singapore sang Đài Loan và Trung Quốc dưới dạng OEM/ODM cho các công ty lắp ráp máy tính như Levono hay Dell.

AMD vẫn đang duy trì các nhà máy thiết kế chính của họ ở Fort Collins (Colorado), Sunnyvale (California), Austin (Texas), Boxborough (Massachusetts ), và Bangalore (Ấn Độ). Với việc sở hữu ATI Technologies, công ty có được thêm quyền sở hữu các nhà máy thiết kể ở Markham (bắc Toronto), và Santa Clara (California).

1.2.3.     Hợp tác chiến lược

AMD tận dụng các quan hệ đối tác chiến lược nhằm đẩy lùi thế thống trị độc tôn của Intel, Một trong các đối tác đó phải kể đến nVIDIA với dòng chipset nForce cho hệ thống AMD

AMD cũng hợp tác với hãng Alpha Processor trong việc nghiên cứu Hyper Transport, một chuẩn cung cấp kết nối tốc độ cực nhanh theo kiểu điểm đến điểm để kết nối các thành phần trên mainboard, được ứng dụng trong những lĩnh vực đòi hỏi dữ liệu được truyền đi với cường độ cao, tốc độ lớn và độ trễ nhỏ. Hiện công nghệ này đang được dùng trong các mainboard tương thích với bộ xử lý AMD.

AMD cũng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với IBM, giúp AMD có thể tiếp cận được các công nghệ mới như công nghệ sản xuất SOI (silicon on insulator), công nghệ 90nm,...Thỏa thuận hợp tác này được AMD thông báo sẽ kéo dài đến năm 2011, qua đó IBM sẽ tiếp tục hỗ trợ AMD trong việc nghiên cứu phát triển công nghệ 32nm và 22nm.Bên cạnh đó AMD cũng có quan hệ hợp tác với các hãng lắp ráp máy tính như HP, Compaq, ASUS, Alienware, Acer, Evesham Technology, Dell,...

Vào ngày 18 tháng 5 năm 2006, Dell công bố việc phát hành các dòng máy chủ nền tảng chip Opteron của AMD, chấm dứt nhiều năm hợp tác độc quyền với Intel. Dell cũng tung ra thị trường các dòng desktop xử dụng BXL Athlon X2 vào tháng Chín, 2006

AMD cũng là nhà tài trợ cho đội đua xe công thức 1 Scuderia Ferrari Marlboro từ năm 2002 và đội đua xe đạp Discovery Channel Pro từ năm 2004.

1.2.4.     Những mốc son của AMD

·        1976: AMD và Intel kí thỏa thuận cùng chia sẻ sáng chế.

·        1981:  AMD và Intel nâng thỏa thuận năm 1976 lên tầm cao hơn.

·        1982 : AMD và Intel kí thỏa thuận trao đổi công nghệ dựa trên kiến trúc iAPX86.

·        1986 : Giới thiệu chip 32-bit trong họ sản phẩm 29300.

·        1991 : AMD tách khỏi liên minh với Intel và đưa ra bộ vi xử lý Am386 đầu tiên, tích hợp 200.000 transistor trên công nghệ 0,8 micro mét.

·        1993 : Bộ xử lý Am486 ra đời trên công nghệ 0,35 micro mét, chứa 1 triệu transistor (mật độ gấp 5 lần Am386 nhưng kích thước lại nhỏ hơn).

·        1994 : Giới thiệu AMD-K5.

·        1997 : Giới thiệu AMD-K6.

·        1998 : AMD K6-2 sản xuất bằng công nghệ 0,25 micro mét, chứa 9 triệu transistor trên đế cắm có kích thước 78x78 mm.

·        6/2000 : AMD Athlon (AMD-K7) tích hợp 37 triệu transistor ra đời trên dây chuyền vi mạch công nghệ 0,18 micro mét và đạt tốc độ vượt qua ngưỡng 1Ghz.

·        2001 : AMD Athlon XP ra đời.

AMD Athlon MP hai nhân dành cho máy chủ và trạm xử lý cũng được phát hành vào năm này

·        2003 : Giới thiệu bộ xử lý máy chủ AMD Opteron theo kiến trúc 64-bit nhưng vẫn hỗ trợ ứng dụng 32-bit, sản xuất trên công nghệ 0,13 micro mét.

1.3.                      Các dòng vi xử lý của AMD

v     8086, Am286, Am386, Am486, Am5x86

Đây là các bộ xử lý nhái theo kiến trúc x86 của Intel, được SX theo những thỏa thuận về bản quyền kéo dài 17 năm giữa Intel và AMD. Thỏa thuận này cho phép AMD trở thành nhà cung cấp chip dự phòng của Intel trong trường hợp nhu cầu vượt quá khả năng cung cấp.

Điều tồi tệ đã xảy ra với AMD khi Intel chấm dứt thỏa thuận cấp phép trước thời hạn bởi Intel đã quá mạnh để không cần tới những nguồn dự phòng như AMD nữa. Cuối cùng, AMD buộc phải tự đứng lên.

v     K5, K6, Athlon (K7)

AMD phát hành bộ xử lý K5 – bộ xử lý x86 đầu tiên của riêng họ vào năm 1996. Chữ “K” là viết tắt của từ “Kryptonite”, một loại đá hư cấu được xem có thể gây hại cho Siêu Nhân trong truyện tranh Superman. Nó ám chỉ đến Intel, được xem là Superman của nền công nghiệp chip bán dẫn, vốn đang thống trị thị trường vào thuở ấy.

Hình 1.3

Năm 1996, AMD mua lại NexGen nhằm tiếp cận dòng chip xử lý nền x86 của hãng này. AMD đã giao cho đội ngũ thiết kế Nexgen nhà xưởng của mình, đồng thời cho họ thời gian và tiền bạc để xây dựng lại (rework) kiến trúc Nx686. Và kết quả là bộ xử lý AMD K6 được ra đời vào năm 1997

Hình 1.4

K7 là thế hệ vi xử lý thứ bảy của AMD, xuất hiện lần đầu vào ngày 23 tháng Sáu, 1999, dưới tên gọi AMD Athlon. Ngày 9 tháng 11 năm 2001, Athlon XP được phát hành, tiếp sau đó Athlon XP với 512KB Cache L2 được tung ra vào ngày 10 tháng 2 năm 2003

v     Athlon 64 (K8)

K8 là phiên bản cải tiến của kiến trúc K7, với những tính năng đáng kể nhất là hỗ trợ tập lệnh x86-64bit (với tên gọi chính thức là AMD64), tích hợp khối điều khiển bộ nhớ vào trong chip, kiến trúc kết nối trực tiếp với tốc độ cực nhanh theo kiểu điểm đến điểm HyperTransport. Những công nghệ này ban đầu được ứng dụng trong bộ xử lý dùng cho máy chủ Opteron. Một thời gian ngắn sau, chúng cũng được xuất hiện trong bộ xử lý Athlon 64 dùng cho desktop.

v     AMD X2

Hình 1.5

AMD phát hành bộ xử lý Opteron lõi kép đầu tiên ngày 21 tháng 4 năm 2005. Một tháng sau bộ xử lý lõi kép dùng cho desktop Athlon 64 X2 ra mắt.

Vào tháng 5 năm 2007, AMD quyết định sửa tên gọi của BXL 2 nhân desktop của mình. Theo đó chữ số 64 sẽ được bỏ qua và tên gọi chính thức chỉ còn là Athlon X2, đồng thời chuyển mục tiêu mà Athlon X2 nhắm đến trên thị trường từ mainstream sang value (từ trung cấp sang phổ thông giá rẻ)

v     AMD K10

AMD K10 hiện là kiến trúc vi xử lý mới nhất của AMD. AMD K10 là kiến trúc kế vị trực tiếp của K8. Vi xử lý đầu tiên dựa trên nền K10 được phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2007, bao gồm 9 bộ xử lý lõi tứ Opeton Thế hệ III. Các bộ xử lý K10 sẽ ra mắt ở các phiên bản Dual Core, Triple Core và Quad Core, tất cả các lõi đều được triển khai trên một đế.

                                                        Hình 1.6        

v     Nền tản AMD Fusion

Sau nhiều lần trì hoãn, vừa qua AMD đã thông báo hãng sẽ chính thức giới thiệu dòng chip Fusion - chip xử lý tích hợp chip đồ họa - tại CES2011 sẽ diễn ra trong vài ngày tới. Đây được xem là bước đi tiếp theo của AMD trong cuộc chiến với dòng chip Atom của Intel

Những tính năng nổi trội để AMD tự tin vào dòng chip Fusion so với đối thủ là công suất làm việc tốt hơn, hỗ trợ DirectX11 cho khả năng xử lý đồ họa vượt trội, hỗ trợ tốt chuẩn full HD 1080p với cổng HDMI, tiêu thụ ít điện năng và nhất là thời lượng pin ấn tượng - trên 10 giờ. Sẽ có tất cả 4 loại chip được chia làm 2 dòng:

Dòng Zacate E - Series: dùng cho các máy tính xách tay, máy tính để bàn tất cả trong một và máy tính để bàn bình thường. Dòng E - Series này sẽ có 2 loại là E - 350 (lõi kép, xung nhịp 1.6GHz) và E - 240 (lõi đơn, xung nhịp 1.5GHz). Công suất tiêu thụ điện năng của dòng E - Series là 18W.

Dòng Ontario C - Series: dùng cho netbook HD. Dòng C - Series này cũng sẽ có 2 loại là C - 50 (lõi kép, xung nhịp 1.0GHz) và C30 (lõi đơn, xung nhịp 1.2GHz). Điện năng tiêu thụ của dòng C - Series chỉ là 9W.

Tại thời điểm hiện nay, đã có một số hãng công bố những dòng máy mới sẽ trang bị con chip Fusion mới này như Lenovo với Lenvo X120E hay HP với HP Pavilion dm1. Với sự tự tin của AMD vào khả năng làm việc của dòng chip Fusion mới, 2011 hứa hẹn sẽ là một năm sôi động trên thị trường chip xử lý. Hãy cùng chờ xem giữa Fusion và Atom, cái tên nào sẽ giành được nhiều sự ưu ái hơn từ phía các nhà sản xuất.

Dự đoán AMD Fusion sẽ là đối thủ cạnh tranh của Intel Sandy Bridge trong tương lai gần.

1.4.                                                                                                                            Giới thiệu về các dòng vi xử lí hiện tại của AMD

·        Dành cho laptop

Hình 1.7

·        Dành cho máy tính để bàn

Hình 1.8

2.    Tổng quan về Intel

2.1.                                                                                                                             Lịch sử hình thành

Hình 2.1

Intel được sáng lập năm 1986 bởi hai nhà nghiên cứu máy tính Noyce và Gordon Moore. Khi đó Moore đã tuyên bố ‘Chúng ta là những nhà cách mạng thực thụ’ nhưng phải mất đến 30 sau những lời nói của ông mới trở thành sự thật. Trong thời gian đó, Moore và Noyce bắt đầu tạo nên những bộ nhớ máy tính hiệu quả hơn dựa trên công nghệ bán dẫn. Thiết bị bán dẫn 1103 được tung ra thị trường năm 1970 trở thành thiết bị bán dẫn bán chạy nhất trên thế giới.

Tuy nhiên,  cơ hội cho bước đột phá quan trọng nhất của họ là khi một công ty Nhật có tên là Busicom đặt hàng thiết kế 12 con chíp dùng trong máy tính. Vào thời đó, mỗi sản phẩm điện tử đòi hỏi phải có một con chíp riêng cho nó, nhưng vị kỹ sư của Intel Ted Hoff nhận thấy rằng ông có thể tạo được một con chíp có khả năng thực hiện những chức năng rất khác nhau – đó là bộ nhớ của những chiếc máy tính sau này. Và phát minh của ông đã thành công. Intel nhận ra họ đã tạo ra một sản phẩm với những ứng dụng có thể gọi là vô hạn. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, theo như nguyên gốc bản hợp đồng thì Busicom nắm trọn quyền sử dụng sản phẩm.

May thay, vào thời điểm đó, Busicom gặp phải khó khăn về tài chính. Vì vậy, Moore và Noyce thương lượng mua lại quyền sử dụng con chip với giá chỉ 60 ngàn USD. Thoạt đầu nó được coi như là một ‘microcomputer’. Intel cho ra đời bộ vi sử lý đầu tiên của mình là 4004 vào năm 1971. Cũng trong thời điểm đó, công ty đưa ra bộ vi xử lý 8008 và vài năm sau những lời tiên đoán của Moore đã trở thành hiện thực – con chíp đã làm một cuộc cách mạnh hoá đối với những sản phẩm như máy đếm tiền, đèn giao thông, máy bơm xăng, hệ thống đặt vé máy bay…- những sản phẩm có rất ít ứng dụng thời đó . Ngay khi con chip được lắp đặt, Intel đã tạo ra những phiên bản nhỏ hơn và mạnh hơn.

Đầu những năm 80, IBM bắt đầu thương lượng với Intel về việc sử dụng bộ xử lý 8088 cho một sản phẩm bí mật mới. Trước đó IBM chưa bao giờ sử dụng sản phẩm của một công ty nào khác và những chi tiết vẫn được giữ bí mật. Chỉ đến khi hợp đồng có hiệu lực Intel mới thực sự nhận ra rằng nó đã cung cấp bộ nhớ cho dòng máy PC đầu tiên. Mặc dù vậy, lúc đó, không công ty nào hình dung được thị truờng máy tính gia đình sẽ phát triển như thế nào.

Intel lại tiếp tục phát triển những bộ vi xử lý có chức năng cao hơn như bộ xử lý Pentium® năm 1933 và bộ xử lý này trở nên nổi tiếng. Hiện nay, công ty đã đưa ra bộ xử lý Pentium Extreme Edition 840 - bộ xử lý màn hình lõi kép đầu tiên trên thế giới. Những bộ xử lý dual-core và multi-core được thiết bế bao gồm 2 hoặc nhiều lõi (có thể thi hành lệnh một cách hoàn chỉnh) được gắn vào một bộ xử lý duy nhất có khả năng thực hiện nhiều mệnh lệnh cùng một lúc. Khi nó được kết hợp với công nghệ Hyper-Threading của Intel, thiết bị này tạo cho người sử dụng máy tính nhiều cơ hội để sở hữu những sản phẩm audio, video, digital design và những trò chơi điện tử có độ phân giải cao, âm thanh trung thực, hình ảnh 3-D.

2.2.                      Quá trình phát triển

2.2.1.     Quy mô và kế hoạch

Intel được thành lập năm 1968, với chỉ 12 nhân viên và hoạt động trong một toà nhà cho thuê trên góc đường vắng California với doanh thu là 2.672 USD/năm. Ngày nay, công ty có 80 ngàn nhân viên với số tài sản lên gần 175 tỉ USD. Trong quí 1 năm 2005, Intel báo cáo lợi nhuận là 2,2 tỉ USD – tăng 25% so với cùng kỳ năm 2003.

Vị trí hàng đầu của Intel có thể được coi là nhờ vào một chuỗi những bước đột phá về khoa học và sự phát triển liên tục theo thời gian. Cơ hội đầu tiên đến vào năm 1971 với bộ vi xử lý 4004 khi nó được tiếp cận những nhà sản xuất máy tính Nhật. Mười năm sau, IBM chọn bộ xử lý máy tính 8088 của công ty để sử dụng cho dòng máy PC đầu tiên.

Năm 1993, Intel giới thiệu ra thị trường bộ xử lý máy tính Pentium® đầu tiên. Từ đó, hầu như mỗi năm công ty đều tiếp tục tung ra những sản phẩm mới của chính mình - một chiến lược chưa từng thấy ở một công ty kinh doanh nào khác. Người sáng lập Intel Gordon Moore đã từng nói ‘Nếu công nghệ ô tô phát triển nhanh như công nghệ bán dẫn thì một chiếc Rolls-Royce có thể chạy 500 ngàn dặm mà chỉ phải tốn 1 galon nhiên liệu và nó rẻ đến nỗi tiền để mua một chiếc Rolls-Royce mới còn ít hơn cả tiền gửi nó ở bãi’.

Công nghệ di động Intel® Centrino™ là một thành tựu lớn mới của Intel khi mang công nghệ mạng không dây đến với công chúng. Ngày nay, Intel là một trong những công ty tiên phong trong cuộc cách mạng Wi-Fi.

2.2.2.     Phát triển gần đây

Năm 2004, Intel đã đầu tư trên 4,8 tỉ USD cho việc nghiên cứu và phát triển. Những hoạt động gần đây của Intel tập trung vào việc thúc đẩy và phát triển việc sử dụng công nghệ mạng không dây. Mới đây, công ty đã tung ra một loạt những bộ xử lý máy tính mới dựa trên công nghệ Intel XScale® được thiết kế để kết nối với những mạng truyền thông băng thông rộng ứng dụng trong những PDA và điện thoại di động cao cấp.

Những bộ xử lý này được thiết kế nhằm đáp ứng yêu cầu của những thiết bị di động cầm tay: đa truyền thông, đa phương tiện, an ninh, ít hao năng lượng mà vẫn có đẩy đủ khả năng điện toán để cung cấp khả năng chụp ảnh, quay phim, phát lại video chất lượng hình ảnh như một đầu DVD thực thụ.

Gần đây, Intel lại thông báo về sự có mặt của sản phẩm  WiMAX đầu tiên cung cấp cho những nhà sản xuất và hãng truyền thông những thiết bị có khả năng phân phối mạng truyền thông băng thông rộng không dây thế hệ mới ra toàn thế giới.

WiMAX (viết tắt của Worldwide Interoperability for Microwave Access) là một công nghệ không dây chuẩn cung cấp việc kết nối băng thông rộng chặng cuối, tốc độ cao cho gia đình, công ty và mạng di động không dây. Đây là một công nghệ có tốc độ cao, chi phí thấp.

Ứng dụng đầu tiên của công nghệ WiMAX  cho phép đưa công nghệ Internet băng thông rộng đến những nơi xa xôi - những nơi hiện nay chưa có cáp hoăc chưa có đường truyền ADSL. Vì là một công nghệ chuẩn, WiMAX được mong chờ để đem đến sự tiện dụng và hiệu quả kinh tế cho người sử dụng Internet không dây.

Gần đây, Intel lại nỗ lực thử nghiệm trên thị trường Anh bằng việc đưa cộng nghệ WiMAX vào những viện bảo tàng khoa học ở Wroughton. Đó là  một  nơi rộng lớn có diện tích 545 mẫu Anh dành để lưu giữ  bộ sưu tập những vật thể có kích thước lớn trong 11 chiếc máy bay cũ. WiMAX cho phép những người phụ trách bảo tàng ở những nơi khác nhau có thể giao tiếp với nhau nhanh chóng để có thể cập nhật thông tin, dữ liệu về các cổ vật có trong bảo tàng.

2.2.3.     Quản bá thương hiệu

Sự phát triển của thương hiệu Intel gắn liền cùng với sự phát triển của con chíp và hình ảnh của Intel càng trở nên gắn liền với hình ảnh của một nhà lãnh đạo trong lĩnh vực công nghệ: chất lượng và đáng tin cậy.

Thành công này có được nhờ vào chương trình Intel Inside®. ra mắt năm 1991, là nỗ lực đầu tiên của một nhà sản xuất linh kiện nhằm đáp ứng mục tiêu là người tiêu dùng chứ không phải công nghệ điện tử.

Thử thách lớn nhất của Intel chính là nó không phải là một sản phẩm độc lập, nó chỉ là một linh kiện, nằm sâu trong một thiết bị khác. Sau thời gian nghiên cứu, công ty ứng dụng  thành công kỹ thuật tiếp thị tới người tiêu dùng, kỹ thuật đã được áp dụng bởi những công ty cung cấp thành phần cho những sản phẩm hoàn hảo như NutraSweet,Teflon và Dolby. Những công ty quảng cáo cho Intel như Dahlin, Smith & White  luôn luôn đưa ra khẩu hiệu “Intel.The computer inside.”, sau đó được thu gọn lại thành “Intel Inside®” và trở nên nổi tiếng.

Vào  thời điểm đó, Intel cũng bắt đầu tiếp cận với những nhà  sản xuất máy tính với ý tưởng bắt đầu một chương trình tiếp thị hợp tác mới: Intel sẽ chi trả một phần chi phí cho những mẫu quảng cáo có đính kèm logo của Intel. Trong năm đầu tiên có 300 công ty đã chấp nhận đề nghị này. Trong khi đó,vào năm 1995 Intel bắt đầu khuếch trương sản phẩm của mình trên TV bao gồm logo sống động và 5 nốt nhạc hiệu trở nên quen thuộc cho đến tận bây giờ.

Theo một cuộc nghiên cứu thực hiện bởi Intel năm 1991, chỉ 24% những người mua PC quen thuộc với logo của Intel. Một năm sau, con số đó tăng lên 80% và năm 1995 nó đạt 94%. Ngày nay, có hơn 2500 nhà sản xuất máy tính được phép sử dụng logo của Intel. Công ty đang xúc tiến việc quảng cáo trên web, và tiếp tục duy trì hoạt động quảng cáo trên TV của chính mình bên cạnh việc hợp tác quảng cáo với các đối tác. Nhưng thành công nào cũng có cái giá của nó, năm 1991 Intel phải chi hơn 7 tỉ USD để thuyết phục người tiêu dùng tin rằng công nghệ mang logo “Intel Inside®” là công nghệ tốt nhất. Intel cũng sử dụng PR để gia tăng sự nhận biết về thương hiệu cũng như công nghệ của mình. Năm 2003, khinh khí cầu Intel Centrino Mobile Technology đánh dấu sự có mặt của Intel ở lể hội Bristol Balloon và là biểu tượng cho sự phát triển của công nghệ không dây.

Từ đó, quả kinh khí cầu được tung bay nhiều lần ở Anh cũng như ở các nước khác cho mục đích thi đấu cũng như cho các lễ hội từ thiện bao gồm Newbury Show, Bristol 2004 và Alberque ở Mỹ (lễ hội khinh khí cầu lớn nhất thế giới với hơn 2000 đội tham dự). Nói chung, 2 năm qua đã có 500 người được bay trên quả khinh khí cầu bao gồm công chúng, những người hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và giới báo chí. 

2.2.4.     Giá trị thương hiệu

Giá trị của thương hiệu Intel thể hiện rất rõ qua những mẫu quảng cáo. Trong những mẩu quảng cáo, Intel luôn nhấn mạnh mình là một công ty có công nghệ cơ bản chất lượng cao, đáng tin cậy.

Khi Robert Noyce và Gordon Moore xây dựng Intel, họ đã cố gắng xoá đi hệ thống cấp bậc, họ thích xây dựng nên một công ty không có ban lãnh đạo, không có đặc quyền đặc lợi và không có chỗ đậu xe ưu tiên. Ngoài các nguyên tắc cơ bản của công ty như sự định hướng khách hàng, chất lượng, rủi ro và kết quả, Intel cũng đưa ra mục tiêu trở thành “một nơi làm việc tuyệt vời”(a great place to work). Chính những điều đó đã giúp Intel giữ cho linh hồn của người sáng lập được sống mãi.

2.2.5.     Các sự kiện lịch sử

v     1971 : Chip 4004 là bộ vi xử lý đầu tiên của Intel, được trang bị cho máy tính Busicom và mở đường cho xu hướng tăng thêm sự thông minh cho mọi thiết bị, trong đó có máy tính cá nhân.

v     1972 : Chip 8008 mạnh gấp đôi 4004. Thiết bị Mark-8 sử dụng chip 8008 từng được một bài viết đăng năm 1974 trên báo Radio Electronics phong tặng là máy tính gia đình đầu tiên. Nhưng hệ thống này rất khó xây dựng, bảo trì và vận hành.

v     1974 : 8080 trở thành bộ não của máy tính cá nhân đầu tiên mang tên Altair, đặt theo tên địa danh hạ cánh của phi hành đoàn Starship trong loạt phim truyền hình Star Trek nổi tiếng. Giá một bộ Altair lúc ấy là 395 USD nhưng hàng chục ngàn máy đã được bán hết sạch chỉ trong vài tháng đầu.

v     1978 : BVXL 8086-8088 được bán chủ yếu cho IBM để tạo nên dòng PC IBM nổi tiếng. Sự thành công của chip 8088 đưa Intel vào hàng Fortune 500 và được tạp chí Fortune bình bầu là một trong những công ty thành công trong thập niên 70 (Business Triumphs of the Seventies). Chính từ sự thành công này, Intel đã chọn làm mốc khởi đầu cho kiến trúc Intel (Intel Architecture-IA).

v     1982 : BVXL Intel286, tên đầy đủ là Intel 80286, là chip đầu tiên của Intel tương thích ngược với tất cả phần mềm trước đó, giúp tiếp tục duy trì thế mạnh của dòng vi xử lý Intel. Trong 6 năm, trên thế giới đã có khoảng 15 triệu PC 286 được bán ra.

v     1985 : BVXL Intel386 trang bị 275.000 transistor (gấp 100 lần so với 4004), dùng giao tiếp 32-bit và có khả năng xử lý đồng thời nhiều tác vụ (multi tasking).

v     1989 : CPU (central processing unit - BVXL trung tâm) Intel486 DX cho phép người dùng từ bỏ giao diện dòng lệnh tẻ nhạt và chuyển sang giao diện tương tác bằng chuột máy tính. Lần đầu tiên có thêm bộ đồng xử lý toán học, nhận bớt phần xử lý các phép toán phức tạp cho CPU nhằm tăng hiệu năng hệ thống.

v     1993 : BVXL Intel Pentium cho phép máy tính xử lý được nhiều dạng dữ liệu thực tế như giọng nói, âm thanh, chữ viết và hình ảnh.

v     1995 : BXL Intel Pentium Pro được thiết kế cho máy chủ và trạm ứng dụng 32-bit, giúp nâng cao tốc độ tính toán cho ngành khoa học, cơ khí và thiết kế trên máy tính. Pentium Pro được trang bị bộ đệm thứ cấp tốc độ cao và tích hợp được tới 5,5 triệu transistor.

v     1997 : BVXL Pentium II tích hợp 7,5 triệu transistor và trang bị thêm công nghệ MMX để xử lý dữ liệu video, âm thanh và hình ảnh hiệu quả hơn. Kiểu đóng gói được chuyển sang dạng Single Edge Contact Cartridge và được tích hợp thêm chip nhớ dạng cache tốc độ cao.

v     1998 : Intel Pentium Xeon được thiết kế nằm đáp ứng yêu cầu của dòng máy chủ cao cấp và tầm trung chuyên cung cấp dịch vụ Internet, lưu trữ dữ liệu, tạo nội dung kĩ thuật số, thiết kế tự động. Sử dụng Xeon, hệ thống có thể kết hợp 4 hoặc 8 BXL với nhau.

v     1999 : BVXL Intel Celeron được thiết kế riêng cho thị trường bình dân với tiêu chí đạt hiệu năng cao nhất, trong mức giá hợp lý, được tối ưu hóa cho trò chơi và phần mềm giáo dục.

Cũng trong năm, Intel Pentium III ra đời, có thêm 70 lệnh mới (Internet Streaming SIMD Extension) giúp tối ưu hiệu ứng xử lý ảnh, 3D, âm thanh trực tuyến, video và nhận dạng giọng nói. BVXL này được tích hợp 9,5 triệu transistor và sản xuất dựa trên công nghệ 0,25 micro mét.

Intel Pentium III Xeon mở rộng thị trường sang máy chủ, máy trạm chạy ứng dụng thương mại điện tử hoặc ứng dụng cấp doanh nghiệp lớn.

v     2000 : BVXL Pentium IV ra đời. Nó tích hợp 42 triệu transistor, sản xuất theo công nghệ 0,18 micromet, đạt tần số 1,5Ghz.

v     2001 : BVXL Intel Xeon hướng đến thị trường máy trạm 2 BVXL, tầm trung và hiệu năng cao, máy chủ đa BVXL. Dựa trên kiến trúc Intel NetBust, BVXL xử lý tốt ứng dụng âm thanh và video, Internet và đồ họa 3D phức tạp. Tùy theo cấu hình ứng dụng, máy trạm Xeon chạy nhanh hơn Pentium III Xeon từ 30% tới 90%.

Intel Itanium là BVXL đầu tiên thuộc họ 64-bit của Intel, được thiết kế kiến trúc mới hoàn toàn dựa trên công nghệ Explicitly Parallel Instruction Computing (EPIC), và trang bị thêm bộ đệm cấp 3 (không tích hợp trong nhân nhưng vẫn đạt tốc độ xung hoạt động bằng nhân).

Itanium tập trung vào thị trường máy chủ, máy trạm cao cấp nên hỗ trợ chạy các ứng dụng tính toán phức tạp cấp xí nghiệp như bảo mật giao dịch thương mại điện tử, hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, tính toán khoa học,...

v     2002 : Intel Itanium 2 là phiên bản thứ hai của dòng BVXL 64-bit Itanium dành cho xí nghiệp, thực sự phát huy được hết sức mạnh của kiến trúc Intel (Intel Architecture - IA) cho môi trường ứng dụng tính toán kĩ thuật, dữ liệu quan trọng với doanh nghiệp, bảo mật giao dịch, ...

v     2003 : Intel Pentium M kết hợp cùng chipset Intel 855 và card mạng Intel Pro/Wireless 2100 tạo ra nền tảng cơ bản cho công nghệ di động Centrino nhằm nâng cao tính di động và hiệu năng cho máy tính trong môi trường mạng LAN không dây. Công nghệ Centrino còn giúp kéo dài thời gian thiết bị hoạt động với pin và giúp mỏng, nhẹ hóa hơn nữa máy tính xách tay.

v     6/2003 : Intel giới thiệu BVXL Mobile Pentium IV với mục tiêu mang sức mạnh công nghệ của dòng Pentium IV cho máy PC vào máy tính xách tay, giúp giảm giá thành sản phẩm, tăng sức mạnh xử lý nhưng lại không hỗ trợ tính năng di động như Pentium M.

2.3.                     Các dòng CPU của Intel

2.3.1.     Thế hệ vi xử lý sơ khai

v     BXL 4 bit (intel 4004)

4004 là BXL đầu tiên được Intel giới thiệu vào tháng 11 năm 1971, sử dụng trong máy tính (calculator) của Busicom. 4004 có tốc độ 740KHz, khả năng xử lý 0,06 triệu lệnh mỗi giây (milion instructions per second - MIPS); được sản xuất trên công nghệ 10 µm, có 2.300 transistor (bóng bán dẫn), bộ nhớ mở rộng đến 640 byte.

Hình 2.2

4040, phiên bản cải tiến của 4004 được giới thiệu vào năm 1974, có

3.000 transistor, tốc độ từ 500 KHz đến 740KHz.

Hình 2.3

v     BXL 8bit

8008 (năm 1972) được sử dụng trong thiết bị đầu cuối Datapoint 2200 của Computer Terminal Corporation (CTC). 8008 có tốc độ 200kHz, sản xuất trên công nghệ 10 µm, với 3.500 transistor, bộ nhớ mở rộng đến 16KB.

v     Bộ xử lý 8008 SX năm 1972

8080 (năm 1974) sử dụng trong máy tính Altair 8800, có tốc độ gấp 10 lần 8008 (2MHz), sản xuất trên công nghệ 6 µm, khả năng xử lý 0,64 MIPS với 6.000 transistor, có 8 bit bus dữ liệu và 16 bit bus địa chỉ, bộ nhớmở rộng tới 64KB.

v     Bộ xử lý 8085 SX năm 1976

8085 (năm 1976) sử dụng trong Toledo scale và những thiết bị điều khiển ngoại vi. 8085 có tốc độ 2MHz, sản xuất trên công nghệ 3 µm, với 6.500 transistor, có 8 bit bus dữ liệu và 16 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng64KB

Hình 2.4

v     BXL 16bit

8086 xuất hiện tháng 6 năm 1978, sử dụng trong những thiết bị tính toán di động. 8086 được sản xuất trên công nghệ 3 µm, với 29.000 transistor, có 16 bit bus dữ liệu và 20 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng 1MB. Các phiên bản của 8086 gồm 5, 8 và 10 MHz.

v     Bộ xử lý 8086 SX năm 1978

8088 trình làng vào tháng 6 năm 1979, là BXL được IBM chọn đưa vào chiếc máy tính (PC) đầu tiên của mình; điều này cũng giúp Intel trở thành nhà sản xuất BXL máy tính lớn nhất trên thế giới. 8088 giống hệt 8086

nhưng có khả năng quản lý địa chỉ dòng lệnh. 8088 cũng sử dụng công nghệ 3 µm, 29.000 transistor, kiến trúc 16 bit bên trong và 8 bit bus dữ liệu ngoài, 20 bit bus địa chỉ, bộ nhớ mở rộng tới 1MB. Các phiên bản của 8088 gồm 5 MHz và 8 MHz.

Hình 2.5

v     Bộ xử lý 8088 SX năm 1979

80186 (năm 1982) còn gọi là iAPX 186. Sử dụng chủ yếu trong những ứng dụng nhúng, bộ điều khiển thiết bị đầu cuối. Các phiên bản của 80186 gồm 10 và 12 MHz

Hình 2.6

v     Bộ xử lý 80186 và 80286 SX năm 1982

80286 (năm 1982) được biết đến với tên gọi 286, là BXL đầu tiên của Intel có thể chạy được tất cả ứng dụng viết cho các BXL trước đó, được dùng trong PC của IBM và các PC tương thích. 286 có 2 chế độ hoạt động: chế độ thực (real mode) với chương trình DOS theo chế độ mô phỏng 8086 và không thể sử dụng quá 1 MB RAM; chế độ bảo vệ (protect mode) gia tăng tính năng của bộ vi xử lý, có thể truy xuất đến 16 MB bộ nhớ.

2.3.2.     BXL 32bit vi kiến trúc NetBurst (NetBurst MICRO-ARCHITECTURE)

v     BXL 32bit

Intel 386 gồm các họ 386DX, 386SX và 386SL. Intel386DX là BXL 32 bit đầu tiên Intel giới thiệu vào năm 1985, được dùng trong các PC của IBM và PC tương thích. Intel386 là một bước nhảy vọt so với các BXL trước đó. Đây là BXL 32 bit có khả năng xử lý đa nhiệm, nó có thể chạy nhiều chương trình khác nhau cùng một thời điểm. 386 sử dụng các thanh ghi 32 bit, có thể truyền 32 bit dữ liệu cùng lúc trên bus dữ liệu và dùng 32 bit để xác định địa chỉ. Cũng như BXL 80286, 80386 hoạt động ở 2 chế độ: real mode và protect mode.

Hình 2.7

v     Bộ xử lý Intel 386 SX năm 1985

486DX sử dụng công nghệ 1 µm, 1,2 triệu transistor, bộ nhớ mở rộng 4GB; gồm các phiên bản 25 MHz, 35 MHz và 50 MHz (0,8 µm). 486SX (năm 1991) dùng

trong dòng máy tính cấp thấp, có thiết kế giống hệ 486DX nhưng không tích hợp bộ đồng xử lý toán học. 486DX sử dụng công nghệ 1 µm (1,2 triệu transistor) và 0,8 µm (0,9 triệu transistor), bộ nhớ mở rộng 4GB; gồm các phiên bản 16, 20, 25, 33 MHz.

Hình 2.8

v     Bộ xử lý Intel 486 SX năm 1991

Pentium MMX (năm 1996), phiên bản cải tiến của Pentium với công nghệ MMX được Intel phát triển để đáp ứng nhu cầu về ứng dụng đa phương tiện và truyền thông. MMX kết hợp với SIMD (Single Instruction Multiple Data) cho phép xử lý nhiều dữ liệu trong cùng chỉ lệnh, làm tăng khả năng xử lý trong các tác vụ đồ họa, đa phương tiện.

Hình 2.9

v     BXL Pentium II

BXL Pentium II đầu tiên, tên mã Klamath, sản xuất trên công nghệ 0,35 µm, có 7,5 triệu transistor, bus hệ thống 66 MHz, gồm các phiên bản 233,266, 300MHz.

Pentium II, tên mã Deschutes, sử dụng công nghệ 0,25 µm, 7,5 triệu transistor, gồm các phiên bản 333MHz (bus hệ thống 66MHz), 350, 400, 450 MHz (bus hệ thống 100MHz). Celeron (năm 1998) được “rút gọn” từ kiến trúc BXL Pentium II, dành cho dòng máy cấp thấp. Phiên bản đầu tiên, tên mã Covington không có bộ nhớ đệm L2 nên tốc độ xử lý khá chậm, không gây được ấn tượng với người dùng. Phiên bản sau, tên mã Mendocino, đã khắc phục khuyết điểm này với bộ nhớ đệm L2 128KB.

·        Xuất hiện năm 1997

·        Kiểu đóng gói : Kiểu gắn trên khe Slot1 hoặc Slot2, chíp được hàn cố định trên một vỉ nằm nghiêng

·        Tốc độ xử lý : gồm các phiên bản 233MHz, 266, 300, 333, 350, 400 và 450MHz

·        Tốc độ FSB : 66MHz , 100MHz

·        Cache từ 512KB trở xuống

Hình 2.10

v     BXL Pentium III

Pentium III (năm 1999) gồm các tên mã Katmai, Coppermine và Tualatin.

Coppermine có bộ nhớ đệm L2 - 256 KB được tích hợp bên trong nhằm tăng tốc độ xử lý. Đế cắm socket 370 FC-PGA (Flip-chip pin grid array), có các tốc độ như 500, 550, 600, 650, 700, 750, 800, 850 MHz (bus 100MHz), 533, 600, 667, 733, 800, 866, 933, 1000, 1100 và 1133 MHz (bus 133MHz).

Tualatin có bộ nhớ đệm L1 32KB, L2 256 KB hoặc 512 KB tích hợp bên trong BXL, socket 370 FC-PGA (Flip-chip pin Grid Array), bus hệ thống 133 MHz. Có các tốc độ như 1133,1200, 1266, 1333, 2900 MHz.

Celeron Coppermine (năm 2000) được “rút gọn” từ kiến trúc BXL Pentium III Coppermine, có bộ nhớ đệm L1 32KB, L2 256 KB tích hợp bên trong BXL, socket 370 FC-PGA, Có các tốc độ như 533, 566, 600, 633, 667, 700, 733, 766, 800 MHz (bus 66 MHz), 850, 900, 950, 1000, 1100, 1200, 1300 MHz (bus 1000 MHz).

Celeron Tualatin (năm 2000) được “rút gọn” từ kiến trúc BXL Pentium III Tualatin, có bộ nhớ đệm L1 32KB, L2 256 KB tích hợp, socket 370 FC-PGA, bus hệ thống 100 MHz, gồm các tốc độ 1,0, 1,1, 1,2, 1,3 GHz.

Hình 2.11

·        Xuất hiện năm 1999

·        Kiểu đóng gói: Soket 370

·        Tốc độ xử lý: có các tốc độ như 500, 550, 600, 650, 700, 750, 800, 850 MHz (bus 100MHz), 533, 600, 667, 733, 800, 866, 933, 1000, 1100 và 1133 MHz (bus 133MHz).

·        Tốc độ bus FSB: 100MHz , 133MHz

·        Cache từ 512KB trở xuống

Hình 2.12

v     BXL Pentium IV

Intel Pentium 4 (P4) là BXL được giới thiệu vào tháng 11 năm 2000. P4 sử dụng vi kiến trúc NetBurst có thiết kế hoàn toàn mới so với các BXL cũ (PII, PIII và Celeron sử dụng vi kiến trúc P6).

Pentium 4 đầu tiên (tên mã Willamette) xuất hiện cuối năm 2000, có bus hệ thống (system bus) 400 MHz, bộ nhớ đệm tích hợp L2- 256 KB, socket 423 và 478. P4 Willamette có một số tốc độ như 1,3, 1,4, 1,5, 1,6, 1,7,1,8, 1,9, 2,0 GHz.

·         Socket 423 chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian rất ngắn, từ tháng11 năm 2000 đến tháng 8 năm 2001 và bị thay thế bởi socket 478.

·         Xung thực (FSB) của Pentium 4 là 100 MHz nhưng với công nghệ Quad Data Rate cho phép BXL truyền 4 bit dữ liệu trong 1 chu kỳ, nên bus hệ thống của BXL là 400 MHz.

Hình 2.13

P4 Northwood xuất hiện vào tháng 1 năm 2002, có bộ nhớ cache L2 512 KB, socket 478. Northwood có 3 dòng gồm Northwood A (system bus 400 MHz), tốc độ 1,6, 1,8, 2,0, 2,2, 2,4, 2,5, 2,6 và 2,8 GHz. Northwood B (system bus 533 MHz), tốc độ 2,26, 2,4, 2,53, 2,66, 2,8 và 3,06 GHz (riêng 3,06 GHz có hỗ trợ công nghệ siêu phân luồng Hyper Threading - HT). Northwood C (system bus 800 MHz, tất cả hỗ trợ HT), gồm 2,4, 2,6, 2,8, 3,0, 3,2, 3,4 GHz.

P4 Prescott (năm 2004). Là BXL đầu tiên Intel sản xuất theo công nghệ 90 nm, có bộ nhớ đệm tích hợp L2 của P4 Prescott gấp đôi so với P4 Northwood (1MB so với 512 KB). Ngoài tập lệnh MMX, SSE, SSE2, Prescott được bổ sung tập lệnh SSE3 giúp các ứng dụng xử lý video và game chạy nhanh hơn. Đây là giai đoạn “giao thời” giữa socket 478 - 775LGA, system bus 533 MHz - 800 MHz

Hình 2.14

Prescott A (FSB 533 MHz) có các tốc độ 2,26, 2,4, 2,66, 2,8 (socket 478), Prescott 505 (2,66 GHz), 505J (2,66 GHz), 506 (2,66 GHz), 511 (2,8GHz), 515 (2,93 GHz), 515J (2,93 GHz), 516 (2,93 GHz), 519J (3,06 GHz), 519K (3,06 GHz) sử dụng socket 775LGA.

Prescott E, F (năm 2004) có bộ nhớ đệm L2 1 MB (các phiên bản sau được mở rộng 2 MB), bus hệ thống 800 MHz. Ngoài tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3 tích hợp, Prescott E, F còn hỗ trợ công nghệ siêu phân luồng, một số phiên bản sau có hỗ trợ tính toán 64 bit.

Dòng sử dụng socket 478 gồm Pentium 4 HT 2.8E (2,8 GHz), 3.0E (3,0 GHz), 3.2E (3,2 GHz), 3.4E (3,4 GHz). Dòng sử dụng socket 775LGA gồm Pentium 4 HT 3.2F, 3.4F, 3.6F, 3.8F với các tốc độ tương ứng từ 3,2 GHz đến 3,8 GHz, Pentium 4 HT 517, 520, 520J, 521, 524, 530, 530J, 531, 540, 540J, 541, 550, 550J, 551, 560, 560J, 561, 570J, 571 với các tốc độ từ 2,8 GHz đến 3,8 GHz.

v     BXL Celeron

Hình 2.15

BXL Celeron được thiết kế với mục tiêu dung hòa giữa công nghệ và giá cả, đáp ứng các yêu cầu phổ thông như truy cập Internet, Email, chat, xử lý các ứng dụng văn phòng. Điểm khác biệt giữa Celeron và Petium là về công nghệ chế tạo và số lượng Transistor trên một đơn vị.

Celeron Willamette 128 (2002), bản “rút gọn” từ P4 Willamette, có bộ nhớ đệm L2 128 KB, bus hệ thống 400 MHz, socket 478. Celeron Willamette 128 hỗ trợ tập lệnh MMX, SSE, SSE2. Một số BXL thuộc dòng này như Celeron 1.7 (1,7 GHz) và Celeron 1.8 (1,8 GHz).

Celeron NorthWood 128, “rút gọn” từ P4 Northwood, có bộ nhớ đệm tích hợp L2 128 KB, bus hệ thống 400 MHz, socket 478. Celeron NorthWood 128 cũng hỗ trợ các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, gồm Celeron 1.8A, 2.0, 2.1, 2.2, 2.3, 2.4, 2.5, 2.6, 2.7, 2.8 tương ứng với các tốc độ từ 1,8 GHz đến 2,8 GHz.

Celeron D (Presscott 256), được xây dựng từ nền tảng P4 Prescott, có bộ nhớ đệm tích hợp L2 256 KB (gấp đôi dòng Celeron NorthWood), bus hệ thống 533 MHz, socket 478 và 775LGA. Ngoài các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, Celeron D hỗ trợ tập lệnh SSE3, một số phiên bản sau có hỗ trợ tính toán 64 bit. Celeron D gồm 310, 315, 320, 325, 325J, 326, 330, 330J, 331, 335, 335J, 336, 340, 340J, 341, 345, 345J, 346, 350, 351, 355 với các tốc độ tương ứng từ 2,13 GHz đến 3,33 GHz

v     Pentium 4 Extreme Edition

Pentium 4 Extreme Edition (P4EE) xuất hiện vào tháng 9 năm 2003, là BXL được Intel “ưu ái” dành cho game thủ và người dùng cao cấp. P4EE được xây dựng từ BXL Xeon dành cho máy chủ và trạm làm việc. Ngoài công nghệ HT “đình đám” thời bấy giờ, điểm nổi bật của P4EE là bổ sung bộ nhớ đệm L3- 2 MB. Phiên bản đầu tiên của P4 EE (nhân Gallatin) sản xuất trên công nghệ 0,13 µm, bộ nhớ đệm L2 512 KB, L3- 2 MB, bus hệ thống 800 MHz, sử dụng socket 478 và 775LGA, gồm P4 EE 3.2 (3,2 GHz), P4 EE 3.4 (3,4 GHz).

Hình 2.16

2.3.3.     Bộ xử lý 64 bit kiến trúc NETBURST

v     P4 Prescott (năm 2004)

Vi kiến trúc NetBurst 64 bit (Extended Memory 64 Technology - EM64T) đầu tiên được Intel sử dụng trong BXL P4 Prescott (tên mã Prescott 2M).

Prescott 2M cũng sử dụng công nghệ 90 nm, bộ nhớ đệm L2 2 MB, bus hệ thống 800 MHz, socket 775LGA. Ngoài các tập lệnh MX, SSE, SSE2, SSE3, công nghệ HT và khả năng tính toán 64 bit, Prescott 2M (trừ BXL 620) có hỗ trợ công nghệ Enhanced SpeedStep để tối ưu tốc độ làm việc nhằm tiết kiệm điện

năng. Các BXL 6×2 có thêm công nghệ ảo hóa (Virtualization Technology).

Prescott 2M có một số tốc độ như P4 HT 620 (2,8 GHz), 630 (3,0 GHz), 640

(3,2 GHz), 650 (3,4 GHz), 660, 662 (3,6 GHz) và 670, 672 (3,8 GHz).

Hình 2.17

v     Pentium D (năm 2005)

Pentium D (tên mã Smithfield, 8xx) là BXL lõi kép (dual core) đầu tiên của Intel, được cải tiến từ P4 Prescott nên cũng gặp một số hạn chế như hiện tượng thắt cổ chai do băng thông BXL ở mức 800 MHz (400 MHz cho mỗi lõi), điện năng tiêu thụ cao, tỏa nhiều nhiệt. Smithfield được sản xuất trên công nghệ 90nm, có 230 triệu transistor, bộ nhớ đệm L2 2 MB (2×1 MB, không chia sẻ), bus hệ thống 533 MHz (805) hoặc 800 MHz, socket 775LGA.

Ngoài các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, Smithfield được trang bị tập lệnh mở rộng EMT64 hỗ trợ đánh địa chỉ nhớ 64 bit, công nghệ Enhanced SpeedStep (830, 840). Một số BXL thuộc dòng này như Pentium D 805 (2,66 GHz), 820 (2,8 GHz), 830 (3,0 GHz), 840 (3,2 GHz).

Hình 2.18

v     CPU Pentium D 805 ( Dual Core )

Cùng sử dụng vi kiến trúc NetBurst, Pentium D (mã Presler, 9xx) được Intel thiết kế mới trên công nghệ 65nm, 376 triệu transistor, bộ nhớ đệm L2 4 MB (2×2 MB), hiệu năng cao hơn, nhiều tính năng mới và ít tốn điện năng hơn Smithfield. Pentium D 915 và 920 tốc độ 2,8 GHz, 925 và 930 (3,0GHz), 935 và 940 (3,2 GHz), 945 và 950 (3,4 GHz), 960 (3,6GHz). Presler dòng 9×0 có hỗ trợ Virtualization Technology.

Hình 2.19

v     Pentium Extreme Edition (năm 2005)

BXL lõi kép dành cho game thủ và người dùng cao cấp. Pentium EE sử dụng nhân Smithfield, Presler của Pentium D trong đó Smithfield sử dụng công nghệ 90nm, bộ nhớ đệm L2 được mở rộng đến 2 MB (2×1 MB), hỗ trợ tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, công nghệ HT, Enhanced Intel SpeedStep Technology (EIST) và EM64T. Pentium 840 EE (3,20 GHz, bus hệ thống 800 MHz, socket 775LGA) là một trong những BXL thuộc dòng này.

Pentium EE Presler sử dụng công nghệ 65 nm, bộ nhớ đệm L2 được mở rộng đến 4 MB (2×2 MB), hỗ trợ tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, công nghệ HT, Enhanced Intel SpeedStep Technology (EIST), EM64T và Virtualization Technology. Một số BXL thuộc dòng này là Pentium EE 955 (3,46GHz) và Pentium EE 965 (3,73GHz) có bus hệ thống 1066 MHz, socket 775.

Hình 2.20

2.3.4.     Kiến trúc Core

Tại diễn đàn IDF đầu năm 2006, Intel đã giới thiệu kiến trúc Intel Core với năm cải tiến quan trọng là khả năng mở rộng thực thi động (Wide Dynamic Execution), tính năng quản lý điện năng thông minh (Intelligent Power Capability), chia sẻ bộ nhớ đệm linh hoạt (Advanced Smart Cache), truy xuất bộ nhớ thông minh (Smart Memory Access) và tăng tốc phương tiện số tiên tiến (Advanced Digital Media Boost). Những cải tiến này sẽ tạo ra những BXL mạnh hơn, khả năng tính toán nhanh hơn và giảm mức tiêu thụ điện năng, tỏa nhiệt ít hơn so với kiến trúc NetBurst.

Intel Pentium Dual-Core Processor

·        Kiểu chân: Soket LGA775

·        Tốc độ xử lý từ 1,6GHz đến >= 2,4GHz

·        Tốc độ FSB: 800MHz

·        Cache 1MB

·        Tương thích với Memory là DDR2

Hinh 2.21

v     Intel Core 2 Duo

BXL lõi kép sản xuất trên công nghệ 65 nm, hỗ trợ SIMD instructions, công nghệ Virtualization Technology cho phép chạy cùng lúc nhiều HĐH, tăng cường bảo vệ hệ thống trước sự tấn công của virus (Execute Disable Bit), tối ưu tốc độ BXL nhằm tiết kiệm điện năng (Enhanced Intel SpeedStep Technology), quản lý máy tính từ xa (Intel Active Management Technology). Ngoài ra, còn hỗ trợ các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, SSSE3.

Core 2 Duo (tên mã Conroe) có 291 triệu transistor, bộ nhớ đệm L2 4 MB, bus hệ thống 1066 MHz, socket 775LGA. Một số BXL thuộc dòng này:

E6600 (2,4 GHz), E6700 (2,66 GHz). Core 2 Duo (tên mã Allendale) E6300 (1,86 GHz), E6400 (2,13 GHz) có 167 triệu transistor, bộ nhớ đệm L2 2MB, bus hệ thống 1066 MHz, socket 775LGA. E4300 (1,8 GHz) xuất hiện năm 2007 có bộ nhớ đệm L2 2 MB, bus 800 MHz, không hỗ trợ Virtualization Technology.

Intel® Core™2 Duo Processor

·        Kiểu chân: Soket LGA775

·        Tốc độ xử lý từ 1,8GHz đến >= 3,16GHz

·        Tốc độ FSB: 800MHz, 1066MHz và 1333MHz

·        Cache từ 2MB đến 6MB

·        Tương thích với Memory là DDR2

·        Chipset hỗ trợ là Intel 945GC, 945GT, 946PL, 946GZ, Q963, Q965, P965,G965

Hình 2.22

v     Core 2 Extreme và Core 2 Quad

BXL lõi kép dành cho game thủ sử dụng kiến trúc Core, có nhiều đặc điểm giống với BXL Core 2 như công nghệ sản xuất 65 nm, hỗ trợ các công nghệ mới Enhanced Intel SpeedStep Technology, Intel x86-64, Execute Disable Bit, Intel Active Management, Virtualization Technology, Intel Trusted Execution Technology… các tập lệnh MMX, SSE, SSE2, SSE3, SSSE3.

Intel® Core™2 Extreme Processor

·        Kiểu chân: Soket LGA775

·        Tốc độ xử lý từ 2,66GHz đến >= 3,2GHz

·        Tốc độ FSB: 1066MHz, 1333MHz, 1600MHz

·        Cache từ 4MB đến 12MB

·        Tương thích với Memory là DDR2 và DDR3

·        Chipset hỗ trợ là Intel 925, 955, 975X

Hình 2.23

Core 2 Extreme (tên mã Conroe XE) (tháng 7 năm 2006) với đại diện X6800 2,93 Ghz, bộ nhớ đệm L2 đến 4 MB, bus hệ thống 1066 MHz, socket 775LGA. Cuối năm 2006, con đường phía trước của BXL tiếp tục rộng mở khi Intel giới thiệu BXL 4 nhân (Quad Core) như Core 2 Extreme QX6700, Core 2 Quad Q6300, Q6400, Q6600 và BXL 8 nhân trong vài năm tới. Chắc chắn những BXL này sẽ thỏa mãn nhu cầu người dùng đam mê công nghệ và tốc độ.

Intel® Core™2 Quad Processor

·        Kiểu chân: Soket LGA775

·        Tốc độ xử lý từ 2,4GHz đến >= 2,83GHz

·        Tốc độ FSB: 1066MHz, 1333MHz

·        Cache từ 6MB đến 12MB

·        Tương thích với Memory là DDR2

Hình 2.24

v     Core Xeon

Bộ vi xử lí Intel Xeon (ngoại trừ dual core Intel Xeon LV,Intel Xeon 5100 series) dựa trên nền vi kiến trúc Intel NetBurst; Cùng một dòng họ trong IA-32,nhưng nó được thiết kế cho đa bộ vi xử lí cho hệ thống server và workstation hiệu năng cao.

Bộ vi xử lí Intel Xeon MP 3.6 GHz hỗ trợ Hyper-Threading.

Bộ vi xử lí 64-bit Intel Xeon 3.6 Ghz được xử dụng để giới thiệu kiến trúc Intel 64. Dual-core Xeon bao gồm công nghệ dual core. Bộ vi xử lí Intel Xeon 70xx series hỗ trợ công nghệ Intel Virtualization .

Series Intel Xeon 5100 tiết kiệm điện năng hơn, vi kiến trúc Intel Core hiệu năng cao. Bộ vi xử lí này dựa trên kiến trúc Intel 64; nó bao gồm công nghệ Intel Virtualization và dual-core. Bộ vi xử lí Intel Xeon 3000 series cũng dựa trên vi kiến trúc Intel Core . Bộ vi xử lí Intel Xeon 5300 series giới thiệu 4 nhân xử lí trong 1 package vật lý , nó cũng dựa trên vi kiến trúc Intel Core.

2.3.5.     Kiến trúc Nehalem

v     Core i

Những dòng CPU thế hệ Core™ i7, i5, i3 của Intel đã bắt đầu có bước nhảy vọt so với tiền thân của nó là core 2 duo . Nổi bật là các bước tiến về xữ lí, xung nhịp và GPU ....

Hình 2.25

Điểm khác biệt nổi bật nhất của Intel® Core™ i7-9xx so với các thế hệ CPU trước đây là: Bộ điều khiển RAM (Memory Controller) đã được tích hợp vào CPU (thay vì tích hợp trong Chipset như trước đây:

Hình 2.26

Bắt đầu từ dòng Intel® Core™ i7-8xx,Core™ i5, Core™ i3, Intel đã tích hợp cả bộ điều khiển giao tiếp PCI Express 2.0 vào CPU. Lúc này, so với những thế hệ máy trước đây, có thể xem CPU và Chip bắc đã gộp thành một.

Hình 2.27

Với dòng Core™ i5-6xx và Core™ i3, Intel tích hợp luôn cả Bộ xử lý đồ họa (Graphic Controller) vào trong CPU.

Sau đây là danh sách các đặt tính của CPU được so sánh rõ nhất (sự khác biệt nằm ở mã số của CPU đó):

Hình 2.28

Hình 2.29

Hình 2.30

2.3.6.      Đôi nét về nền tản Intel Sandy Bridge

Intel luôn rất ham muốn chiếc bánh đồ hoạ mà AMD và nVidia đang nắm giữ. Hầu hết người dùng bình thường đều không cần những con chip đồ họa của 2 hãng trên mà chỉ cần những giải pháp đồ họa tích hợp là đủ. Đó chính là lý do để Intel giới thiệu nền tảng Sandy Bridge(SB). Theo lời của hãng thì nền tảng này có hiệu năng xử lý đồ họa mạnh gấp 4 lần so với chip tích hợp Intel HD trong các thế hệ Core i đầu tiên hay 25 lần so với Intel GMA4500. Intel cũng trình diễn thử nghiệm StarCraft 2 với card đồ họa gắn rời để chứng minh cho khả năng chơi game của Sandy Bridge.

v     Sức mạnh vuợt trội Core i:

Hình 2.31

Sandy Bridge là thế hệ thứ 2 của vi xử lý Core, nó được trang bị nhân xử lý đồ họa mạnh hơn đồng thời được tích hợp công nghệ Turbo 2.0. Trong một thử nghiệm của Intel, nền tảng mới nhanh gấp 2-3 lần hệ thống Core i7 hiện hành khi mã hóa video sử dụng phần mềm Media Show Espresso. Tuy phần mềm này đã được tối ưu hóa cho Sandy Bridge nhưng nó vẫn là một ví dụ rất sống động về sức mạnh của thế hệ CPU Intel mới.

Một thử nghiệm khác về việc chuyển đổi phim HD cũng cho thấy sự vuợt trội của SB khi nó hoàn thành 1 đoạn phim 1080p khi mà Core i7 mới chỉ được 30%. Đại diện Intel cho biết SB có thể xử lý đến 8 luồng video 1080p cùng lức, cho phép phân tích video theo thời gian thực. Ngoài ra thì SB cũng hỗ trợ tập lệnh AVX (Advanced Vector Extensions), kế thừa các tập lệnh mở rộng MMX và SSE trước đó hỗ trợ cho các công việc biên tập đa phương tiện. Tập lệnh mới thật sự mạnh mẽ trong việc tính toán dấu chấm động khi hỗ trợ engine 256bit thay vì 128bit của SSE cũ.

Sandy Bridge sẽ sử dụng tiến trình 32nm và sẽ không bao giờ đạt đến 22nm cho dù Intel cũng đồng thời trình diễn việc sản xuất SRAM trên 22nm tại IDF 2010. Dự kiến những tế bào SRAM này sẽ xuất hiện vào đầu năm sau và có thể nền tảng tiếp theo của Intel là Ivi Bridge mới được dùng 22nm vào cuồi 2011. SB là bước nhảy Tock, một bước nhảy lớn để sau đó Ivy Bridge sẽ có bước cải tiến Tick. Bước Tock tiếp theo sẽ là nền tảng Haswell vào năm 2012

v     GPU trong đế CPU:

Nói sâu hơn 1 chút về nhân đồ họa của SB, nó sẽ được tích hợp trực tiếp vào đế CPU, tức là sẽ được chia sẻ tuyến ring bus (học của AMD) tốc độ cao mà Intel gọi là LLC (Last Level Cache, ở đây là cache L3-người dịch). Đây là 1 cải tiến rất rất quan trọng vì nó cho phép GPU sử dụng chung cache với CPU, các trình điều khiển sẽ có thể quyết định thành phần đồ họa nào cần cache lại, từ đó tăng sức mạnh vì các tuyến cache có tốc độ rất cao. Mặt khác, GPU cũng không phải liên lạc với bộ nhớ RAM hệ thống, giảm độ trễ và tiết kiệm năng lượng hơn. Cứ mỗi kết nối như vậy sẽ có băng thông cực kỳ kinh khủng là 96GB một giây. Bạn hãy chú ý đến từ mỗi kết nối nhé vì SB là một nền tảng được thiết kế theo kiểu module, lượng cache của nó kết nối chặt chẽ với số nhân của vi xử lý, qua đó nhân xử lý càng nhiều thì băng thông đi qua càng nhiều. Lấy một ví dụ đơn giản, một vi xử lý SB 5 nhân sẽ có tốc độ truyền tải dữ liệu 96x4=384GB qua tuyến ring bus, trong khi 2 nhân là 192GB.

Ngoài ra, nằm trong nhân CPU nên tính năng Turbo Boost mà chúng ta quen thuộc ở Core i cũng sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, do được cải tiến nên Turbo Boost 2.0 mới sẽ tự động tăng xung của CPU và GPU riêng tùy theo nhu cầu. Bên cạnh đó nó cũng hỗ trợ tăng xung hệ thống vượt quá TDP trong một thời gian ngắn (tối đa 25 giây), đủ để tăng sức mạnh mà vẫn giữ cho máy an toàn. Dù vậy thì GPU này không hỗ trợ thư viện đồ họa DirectX 11 mà chỉ đừng lại ở bản 10.1. Sẽ có 2 phiên bản nhân GPU được bán ra cho các nhà sản xuất lựa chọn, 1 có 12 EU (execution units) và 1 có 6 EUs. Các phiên bản máy tính xách tay mặc định có 12 EU còn máy tính bàn mới được lựa chọn.

v     Chipset mới, socket mới:

Quay trở lại với SB, nhân xử lý của nó sẽ là một phiên bản nâng cao của Westmere hiện tại. Tuy vậy, có 1 sự xuất hiện của 1 thành phần mới ở chip cầu bắc: System Agent. Sysem Agent sẽ được nằm chung với memory controller, PCIe controller, DMI, display controller và PCU (power control unit). PCU cũng sẽ có cải tiến từ PCU cũ của nền tảng Nahalem. Socket mà SB dùng sẽ là LGA-1155,bạn sẽ phải mua bo mạch chủ dùng chipset dòng 6 mới của Intel thôi, không thể tận dụng bo mạch cũ đâu!

Về phần USB 3.0, hãy quên ý nghĩ Intel sẽ hỗ trợ nó đi. Cho dù đồn đại rất nhiều trước IDF nhưng Intel đã chính thức xác nhận USB 3.0 sẽ không được tích hợp mà các nhà sản xuất phải mua chip từ bên thứ 3 (chẳng hạn như NEC). Chipset thuộc series 6 sẽ hỗ trợ 2 cổng SATA 6Gbps, đủ sức cho các ổ đĩa SSD tung hoành. Ngoài ra thì khe PCIe 2.0 tốc độ 5GT/s sẽ được kích hoạt.

v     Kết luận:

Một thử nghiệm từ Anantech cho thấy CPU cấp trung Core i5 2400 có sức mạnh ngang ngửa với Core i7 880 ở thời điểm hiện tại cho dù chưa kích hoạt Hyper Threading, hơn khoảng 30% so với i5 760. Kết quả thử nghiệm đồ họa cũng rất ấn tượng, cực kỳ ấn tượng thì đúng hơn khi mà GPU tích hợp Intel mạnh ngang ngửa với AMD Rareon HD 5450 (phiên bản 12 EU). Dự kiến SB sẽ xuất hiện trên cả máy tính để bàn và xách tay vào đầu 2011. Có thể thấy qua những cải tiến của Intel thì SB rất đáng để chờ đợi. Điều đáng tiếc nhất là Intel không hỗ trợ USB 3.0.

v     Các phiên bản:

§        Core i:

Hình 2.32

SB sẽ có 3 dòng sản phẩm khác nhau với tên mã cuối cùng lần lượt là K, S và T, khá phức tạp. Bạn cần nhớ những nguyên tắc sau để phân biệt:

Tên mã CPU gồm 4 phần riêng biệt, ví dụ CPU Intel Core i7 2600K gồm 4 phần tương ứng: Intel Core là tên thương hiệu i7 là dòng 2600 là tên mã và K là hậu tố cuối cùng. Chúng ta đã quen với 3 cái đầu, cái sau gồm K, S và T như đã nói ở trên. K là dóng đầy đủ sức mạnh như nhưng nó cũng tiêu thụ nhiều điện nhất, lên tới 95W. S cân bằng giữa điện năng và hiệu suất trong khi T tiết kiệm điện nhất. Ngoài ra thì ta còn có 1 loại ko có hậu tố cuối cùng!

Dòng S sẽ chạy với xung nhịp thấp hơn dòng không có hậu tố, ví dụ như CPU i7 2600 chạy ở 3,4GHz trong khi 2600S là 2,8GHz. Dù vậy thì cả 2 có tốc độ Turbo Boost cao bằng nhau là 3,8GHz. Các CPU có chữ S có mức độ tiêu thụ điện là 65W trong kih không S vẫn là 95W như K. Các CPU T sẽ có mức TPD là 35 hoặc 45W. Chưa có thông tin về số EU của các phiên bản này, không biết chúng có giống nhau hay không.

§         Xeon:

Cũng nhận dịp này, Intel trình diễn thế hệ vi xử lý máy chủ Xeon tiếp theo. Chúng sẽ có 8 nhân, hỗ trợ tối đa 2 CPU trên 1 máy. Như vậy, kết hợp với công nghệ Hyper Threading thì số luồng xử lý tối đa cùng lúc là 32 luồng. Những con Xeon mới sẽ xuất hiện vào cuối 2011.

Hình 2.33

3.    So sánh giữa AMD và Intel

3.1.                                                                                                                            Sự đối đầu giữa AMD và Intel

3.1.1.     Giới thiệu

Trước kia ,AMD chỉ là một 'tí hon' so với Intel - nhà khổng lồ đang thống lĩnh thị trường BXL. Nhưng những gì AMD đang làm không thể không gây sự chú ý cho những người hoài nghi và buộc Intel cũng phải luôn để mắt tới.

Hình 3.1

Giờ đây, vai trò của AMD đã được nâng lên, có vị trí xứng đáng trên thị trường BXL. Sau mấy thập kỷ nhái theo kiến trúc Intel, kiến trúc AMD64 – là cơ sở của các chip Opteron và Athlon 64 – đã làm cho Intel thay đổi chiến lược và công bố Nocona, phiên bản 64-bit của Intel Xeon . Bộ xử lý 64-bit Nocona là sự điều quân cấp tốc của Intel để đối phó với AMD khi Intel cảm nhận được mối đe dọa từ Opteron (BXL 64-bit dành cho máy chủ, nhưng có thể chạy trên các hệ thống 32-bit hiện tại; tham khảo “BXL AMD Hammer với công nghệ x86-64bit”, TGVT-PCW VN A số tháng 11/2002, trang 64) trên thị trường máy chủ, nơi mà Intel đang đặt hi vọng vào Itanium (BXL 64-bit dành cho máy chủ, không tương thích với các hệ thống 32-bit). Với những nỗ lực mạnh mẽ từ Intel, liệu AMD có đứng vững trên thị trường cạnh tranh quyết liệt?

Bất kỳ ai có nhu cầu mua sắm máy chủ đều cần phải cân nhắc rất kỹ sự lựa chọn này. Opteron mở ra hướng đi mới, tiếp tục nhắm vào các hệ x86 truyền thống. Còn Itanium thì hầu như rũ bỏ cấu trúc cũ. Để hiểu được vấn đề và những tác động của nó, chúng ta hãy cùng xem xét một cách thấu đáo về công nghệ cũng như vai trò trên thị trường của hai công ty từ trước tới nay.

·        Vừa là bạn vừa là thù

AMD đã có chỗ đứng và tác động được đến thị trường kể từ khi có Opteron. Trước đó công ty luôn phải theo sau Intel. Sự việc bắt đầu từ khi AMD đưa ra chip 8080A, phiên bản nhái lại của Intel 8080. Ngay sau đó, Intel và AMD đã đi đến những thỏa thuận về bản quyền kéo dài 17 năm, cho phép AMD trở thành nhà cung cấp chip dự phòng của Intel trong trường hợp nhu cầu vượt quá khả năng cung cấp.

Mặc dù đạt được những thành công và không ít các sáng chế giá trị về sản phẩm và công nghệ bán dẫn, AMD chỉ được coi như một nhà sản xuất chip nhái ăn theo Intel. AMD là một trong số các nhà sản xuất được cấp phép kiến trúc x86 bao gồm Cyrix, NEC và Nexgen.

Điều tồi tệ đã xảy ra với AMD khi Intel chấm dứt thỏa thuận cấp phép trước thời hạn bởi Intel đã quá mạnh để không cần tới những nguồn dự phòng như AMD nữa. Cuối cùng, AMD buộc phải tự đứng lên.

Với việc giới thiệu chip Athlon vào năm 1999, AMD đã cho thấy một hứa hẹn thực tế là họ có thể đi theo con đường riêng của mình. Trước khi có Athlon, về khía cạnh công nghệ, bộ xử lý của AMD nằm đâu đó ở giữa dòng 80486 và các chip Pentium đời đầu. Athlon đã phá vỡ truyền thống này để theo hướng khác sau khi Intel ra mắt Pentium II. Đây là bước ngoặt đầy mạo hiểm. Trước hết, Athlon không phải là sản phẩm thay thế với chip xử lý của Intel. Mặc dù Athlon đòi hỏi bo mạch chủ và chipset riêng nhưng lại tương thích về phần mềm với chip Intel, buộc các nhà sản xuất phải thiết lập dây chuyền sản xuất và kiểm nghiệm riêng cho BXL Athlon.

Điều này đã tạo điều kiện dễ dàng cho Intel cầm chân AMD bởi Intel đang kiểm soát phần lớn các nhà sản xuất thiết bị cơ bản (OEM) chủ chốt; mà hầu hết các OEM này đều ngần ngại đầu tư sản xuất thiết bị tương thích AMD và đối đầu mạo hiểm với Intel. Khi Microsoft bắt đầu nghiêm túc bước vào lĩnh vực xí nghiệp bằng việc tung ra Windows 2000 Server thì Intel đã có Pentium II, Pentium III và Xeon sẵn sàng cho thị trường các hệ máy chủ cấp thấp, nơi mà các nhà sản xuất máy chủ Unix như HP, IBM và Sun Microsystems không mấy quan tâm. Và ở đây, với ưu thế của mình, Intel đã chiếm được thị phần lớn, không để một cơ hội nào cho AMD.

·        Giải thoát

Chiến lược của AMD nhằm thoát khỏi sự phong tỏa của Intel cũng khá độc đáo. AMD nhắm tới các nhà bán lẻ giá trị gia tăng (VAR – value added reseller) nhỏ và những người tự lắp ráp máy tính - trong đó phải kể đến giới say mê công nghệ và các tay chơi game chuyên nghiệp. Các “nhà sản xuất” nhỏ này tự thiết kế hệ thống của mình từ các thành phần chuẩn và bo mạch chủ của các nhà sản xuất châu Á rất được ưa chuộng. Không thể thuyết phục được các nhà sản xuất bo mạch chủ phá vỡ sự ràng buộc với Intel, AMD buộc phải tự thiết kế bo mạch chủ và cung cấp chúng đến các website dành cho giới say mê công nghệ để những nơi này có thể chạy thử chip Athlon và công bố kết quả thử nghiệm. Nhờ những sự so sánh, đánh giá khách quan giữa Pentium và Athlon mà hình ảnh AMD không bị Intel che khuất.

Nỗ lực của AMD cuối cùng cũng được đền đáp. Dần dần, trước đòi hỏi của thị trường, các nhà cung cấp bo mạch chủ, trước tiên là một số nhà cung cấp nhỏ, sau đó là các nhà cung cấp lớn hơn như MSI, Supermicro và Tyan đã đưa ra bo mạch chủ dành cho Athlon nhưng vẫn coi sản phẩm này như một lựa chọn bổ sung bên cạnh dòng sản phẩm Intel. Và AMD cũng đã có được phần của mình ở thị trường máy chủ với BXL kép Athlon MP.

Với mục đích bước sâu hơn vào thị trường máy chủ, AMD đã đặt cược vào Hammer, chip xử lý đầu tiên của AMD có kiến trúc hệ thống hoàn toàn khác Intel. Tháng 4/2003, AMD công bố BXL 64-bit Opteron (tên chính thức của Hammer).

Sự có mặt của Opteron, chip 64-bit nhưng có khả năng chạy trên các hệ 32-bit ở chế độ mô phỏng, đã tác động đến thị trường máy chủ, làm Intel thay đổi chiến lược, tung ra chip Nocona (bản Xeon 64-bit) để đáp trả, và Microsoft cũng hứa hẹn sẽ hỗ trợ kiến trúc của AMD trong các phiên bản Windows 64-bit.

Cuộc chiến 64 - bit đang nóng và chưa ai có thể nhìn thấy điểm kết thúc.

3.1.2.     Lịch sử đối đầu giữa AMD và Intel

·        1968: Intel được thành lập bởi Bob Noyce và Gordon Moore.

·        1969: AMD được Jerry Sanders và nhóm nhân viên cũ của Fairchild Semiconductor sáng lập.

Đầu những năm 80: IBM chọn sử dụng chip x86 của Intel và hệ điều hành phần mềm DOS của Microsoft. Để tránh quá phụ thuộc vào chip của Intel, IBM yêu cầu hãng này tìm cho mình một nhà cung cấp thứ hai.

·        1982: Intel và AMD ký thỏa thuận trao đổi công nghệ, biến AMD thành nhà cung cấp thứ hai. Hợp đồng này tạo cơ hội cho AMD tiếp cận công nghệ chip thế hệ hai 286 của Intel.

·        1984: Intel lập kế hoạch để phát triển độc lập chip 386 thế hệ ba, mà AMD khẳng định đó chính là một phần trong kế hoạch bí mật của Intel nhằm độc quyền chip máy tính.

·        1987: AMD trình văn bản pháp lý tranh chấp chip 386.

·        1991: AMD khởi tố Intel thực hiện những hành động trái pháp luật trong việc duy trì độc quyền.

·        1992: Tòa án yêu cầu Intel bồi thường AMD 10 triệu USD cho mỗi mẫu sáng chế Intel sử dụng trong thiết bị xử lý 386.

·        1995: AMD tiếp tục cuộc tranh chấp với Intel về thoả thuận chia sẻ một phần trong thiết kế chip x86 - cấu trúc chip cơ bản trong máy tính cá nhân ngày nay.

·        1999: Giành được quyền tự phát triển chip x86, AMD tạo ra phiên bản mới của x86 - chip Athlon.

·        2000: AMD kiện lên Ủy ban châu Âu rằng Intel xâm phạm nghiêm trọng luật chống cạnh tranh khi việc lạm dụng các chương trình tiếp thị. AMD tiến hành cuộc chiến này nhằm mục đích tiếp cận tài liệu trong vụ kiện chống độc quyền mà Intel phải trả cho Intergraph 225 triệu USD cho chip Itanium.

·        2003: AMD tạo nên bước đột phá lớn khi giới thiệu phiên bản 64 bit của chip x86, chạy trên Windows, đánh bại Intel. Đây là lần đầu tiên hãng chip số một thế giới phải rượt đuổi sau AMD để phát triển công nghệ tương tự. AMD ra mắt dòng chip Opteron cho hệ thống máy chủ siêu mạnh, dòng Athlon cho máy tính để bàn và xách tay.

3.2.                                                                                                                            Công nghệ

3.2.1.     Intel

·        Hyper threading technology (siêu phân luồng)

Công nghệ hyper threading technology (tạm dịch là công nghệ siêu phân luồng- HT): là phát minh của Intel ban đầu được trang bị cho dòng pentium 4 extreme edition (pentium iv ee), tuy nhiên hiện nay hầu hết các chip xử lý pentium 4 đều được trang bị công nghệ này(vì một lý do dễ hiểu là AMD cũng có một công nghệ khác rất ưu việt trang bị cho dòng chip của họ). Công nghệ này được phát triển nhằm cải thiện hiệu suất làm việc của CPU, cho phép chạy đa ứng dụng một lúc mà không gây ra nghẽn thông tin. Nội dung cơ bản của công nghệ này là khả năng khiến cho hệ điều hành nhận ra là có hai CPU đang chạy đồng thời (1 physical, 1 logical). Tuy nhiên  đừng nghĩ là giống như hình thái dual, vì thực chất nó vẫn chỉ là 1 CPU, và vẫn chỉ có thể xử lý được 1 tập lệnh một lúc. Tuy nhiên chính vì việc ảo hóa thành 2 CPU mà công nghệ này cho phép chạy hai loại chuỗi hoặc luồng lệnh trong một thời điểm nhằm hạn chế thời gian “rảnh” của CPU trong khi chờ đợi tín hiệu output được vận chuyển đi và thay bằng cái mới. Hai luồng lệnh mà CPU nhận để xử lý có thể từ hai chương trình ứng dụng trở lên, đó chính là bản chất của việc máy có hỗ trợ ht có thể xử lý đa tác vụ một lúc.

Mặt trái cuả HT:

Đối với một số tác vụ cơ bản thì chính công nghệ ht này lại làm chậm quá trình xử lý, nguyên nhân là CPU thực hiện quá nhiều chuỗi lệnh đơn giản, trùng lặp với nhau. Thêm vào đó để đáp ứng cho công nghệ này, CPU cần có nhiều transitor hơn tức là nó sẽ nóng hơn và ngốn nhiều điện hơn…

    Để khắc phục những khuyết điểm đó thay vì phải thay đổi công nghệ Intel đã chuyển hướng qua việc tối ưu hóa công nghệ này. Chẳng hạn họ sử dụng lệnh dừng (halt). Một trong các CPU logic sẽ tối đa hoạt động cho những ứng dụng không được sử dụng công nghệ ht, CPU còn lại sẽ hoạt động như là hệ thống gồm một CPU. Nếu một tác vụ sau đó có thể sử dụng ht thì bộ xử lý logic thứ hai được huy động.

·        Công nghệ EM64T

Intel đưa ra thị trường công nghệ 64 bit để cạnh tranh với công nghệ 64 bit của AMD (AMD64). Công nghệ này gọi là EM64T (extended memory 64 technology) hay còn được gọi lntel 64, nó được sử dụng trong pentium 4 6xx, 5xx, pentium ee, một số CPU dòng celeron d, celeron dual core, pentium d, pentium dual core exxx, một số CPU trong dòng pentium dual core txxx, và hầu như tất cả các CPU dòng core 2 duo (trừ e4700), core 2 extreme và core 2 quad. Chú ý rằng các CPU dành cho máy laptop đều không hỗ trợ EM64T.

CPU sử dụng công nghệ EM64T có một kiểu hoạt động mới gọi là ia32e mà trong đó lại có hai kiểu :

Ø     Kiểu tương thích (compatibility mode) cho phép hệ điều hành 64bit chạy những phần mềm 32 bit và 16 bit. Hệ điều hành 64 bit có thể chạy 64bit và các chương trình ứng dụng 32 bit, 16 bit cùng một lúc. Đối với các chương trình 32 bit CPU sẽ truy cập được 4gb ram chương trình chạy 16 bit sẽ chỉ truy cập được 1mb ram.

Ø     Kiểu 64 bit (64-bit mode): cho phép hệ thống hoạt động 64 bit có nghĩa là công nghệ này có thể dùng 64 bit địa chỉ.

Công nghệ EM64T có thể sử dụng hệ điều hành 64 bit như windows 64bit, có thể dùng hệ điều hành 32 bit như windows xp 32bit, lúc này nó sẽ chạy kiểu ia32 thông thường và truy cập được 32 bit địa chỉ - 4gb ram.

Những đặc điểm của kiểu 64-bit.

64-bit địa chỉ có nghĩa là ứng dụng có thể sử dụng 16eb (exabytes) bộ nhớ (2^64). Trong khi đó bộ vi xử lí celeron d, pentium 4 và xeon hỗ trợ EM64T chỉ có 36 bit địa chỉ, có nghĩa là chỉ có thể sử dụng được 65gb ram (2^36). Xeon dp hỗ trợ EM64T chỉ có 40 đường địa chỉ tức là có thể truy cập bộ nhớ 1tb (2^40). Giới hạn này sẽ được thay đổi trong tương lai , do đó trong tương lai Intel sẽ phát hành bộ vi xử lí có thể truy cập bộ nhớ tới 16eb.

Thêm 8 thanh ghi: trong kiểu 64 bit, CPU có tất cả 16 thanh ghi 64 bit. Những thanh ghi mới này có tên là r8 tới r15. R được hiểu là thanh ghi 64 bit. Hình dưới đây bạn có thể xem thanh ghi 64 bit.

Hình 3.2

Thêm 8 thanh ghi sử dụng cho tập lệnh simd (mmx, sse, sse2, sse3 ). Trong kiểu EM64T bộ vi xử lí có tất cả 16 thanh ghi mmx 64 bit. Thanh ghi xmm có độ dài 128 bit , số của thành ghi xmm từ 8 lên 16 thanh ghi.  Những thanh ghi xmm được sử dụng trong những phép tính dấu phảy động sse.Tất cả register pointer và instruction pointer có độ rộng 64 bit. Thanh ghi trong fpu có độ rộng 80 bit.

Tất cả thanh ghi 64 bit được chia thành những thanh ghi nhỏ 8 bit như hình trên. Sơ đồ như hình trên gọi là “uniform byte-register addressing”.

Ø     sử dụng kỹ thuật fast interrupt-priorization

Ø     có instruction pointer mới liên quan tới EM64T gọi là địa chỉ rip-relative

·        Enhanced Intel speedstep® technology (eist)

Enhanced Intel speedstep® technology (eist) là công nghệ đặc biệt của Intel được áp dụng cho các sản phẩm vi xử lý của họ, eist sẽ giúp các vi xử lý chạy với tốc độ phù hợp nhất trong các thời điểm khác nhau tuỳ theo trạng thái các ứng dụng đang chạy. Ta hãy hình dung một CPU có tốc độ 3.06ghz với công suất 110w có thể chạy chỉ với tốc độ 2.8ghz khi máy tính ở trạng thái nhàn rỗi và mức tiêu hao điện năng cũng như độ ồn hệ thống suy giảm đáng kể.

Thực tế ta thấy trong suốt một buổi làm việc, các máy tính thường xuyên hoạt động dưới mức công suất tối đa vì thế nếu eist được ứng dụng sẽ tiết kiệm được một lượng điện năng đáng kể, đặc biệt là với các nhà máy công sở có sử dụng máy vi tính với số lượng lớn.

·        Intel Intelligent power capability

Intel Intelligent power capability là một bộ các khả năng được thiết kế nhằm giảm mức tiêu thụ điện năng và những yêu cầu về thiết kế. Tính năng này quản lý lượng tiêu thụ điện năng thời gian hoạt động của tất cả các nhân của CPU

·        Virtualization technology

Virtualization technology cho phép bạn sử dụng nhiều hệ điều hành cùng một lần. Điều này có nghĩa là bạn có thể chạy ứng dụng windows trong 1 “cửa sổ” và ứng dụng linux trong “cửa sổ” khác cùng lúc. Vt đặc biệt phù hợp cho đối tượng khách hàng có nhu cầu sử dụng 2 hệ điều hành windows và linux.

·        Công nghệ dual core

Công nghệ hai nhân, khác với ht, dual core có hai nhân thực sự nên hiệu năng đạt rất cao. Công nghệ này chỉ áp dụng cho các dòng pentium d và core 2 duo. Khác với ht, dual core không đòi hỏi sự hỗ trợ của hệ điều hành.

·        Công nghệ xd(excute disable bit)

Công nghệ này cho phép CPU chống lại được lỗi tràn bộ đệm, ví dụ đơn giản là các virus blaster, sasser hoạt động trên nguyên lý tràn bộ đệm sẽ bất lực trước CPU loại này.

§        Turbo Boost ( tự động ép xung)

Đây là công nghệ hoàn toàn mới của Intel vừa cho ra mắt bằng việc tích hợp trên dòng core i thế hệ thứ 2 trong năm nay. Turbo Boost được điều khiển hoàn toàn tự động bởi bios máy tính và chipset trên bo mạch chủ do đó có thể nói nó an toàn tuyệt đối. CPU sẽ tự động thay đổi xung nhịp tùy theo tải, khi làm việc nặng sẽ tự nâng xung nhịp lên và ngược lại, hạ xuống thấp nhất khi ở trạng thái nghỉ. Thí dụ Core i7 720QM có tốc độ mặc định 1,6GHz tuy nhiên khi cần có thể tự nâng lên tối đa đến 2,8GHz, hoặc mức 1,2GHz khi ở trạng thái nghỉ.

3.2.2.     AMD

·        Công nghệ 3dnow!

Cùng một lúc với phát hành phiên bản k6-2 , vào tháng 5 năm 1998 , AMD đã lấy một phần tương tự như công nghệ katmai của Intel mà được phát hành cho tới cuối năm sau.  Vào cuối tháng 3 năm 1999 , AMD đã tích hợp công nghệ 3dnow! Vào k6-2 , làm tăng hiệu quả của pc và đã bán được 14 triệu đơn vị trên toàn thế giới.

Bằng việc cải tiến bộ vi xử lí có khả năng tính toán dấu phảy động mạnh , công nghệ 3dnow! Kèm theo làm tăng hiệu quả tính toán của CPU với những phép tính đồ hoạ và những chương trình multimedia.

Quá trình xử lí đồ hoạ sử dụng pipeline có 04 tầng bao gồm :

o       physics : CPU thực hiện những tính toán tập trung liên quan đến dấu phảy động để tạo nên những mô phỏng của thế giới thực và những vật thể bên trong nó.

o       geometry - hình học : nó là sự tính toán những thuộc tính cơ bản của mỗi điểm của vật thể trong không gian 3 chiều.  Những thuộc tính bao gồm : toạ độ xyz , giá trị màu rgb , hêk số phản chiếu. ...

o       setup : CPU bắt đầu xử lí để tạo nên những hình ảnh 3d theo luật phối cảnh.  Những lệnh bao gồm liên quan đến hình dáng , kích cỡ , vị trí. ..

o       rendering : cuối cùng , bộ phận tăng tốc đồ hoạ cung cấp hình ảnh thực để pc đưa lên màn hình ,tính toán từng pixel : màu sắc , độ sáng tối , vị trí.

Hình 3.3

Mỗi một lệnh 3dnow! Điều khiển hai phép toán liên quan đến dấu phảy động và vi cấu trúc k6-2 cho phép thực hiện 02 lệnh 3dnow! Trong một chu kì xung nhịp đồng hồ như vậy tổng cộng nó thực hiện được 04 lệnh liên quan đến dấu phảy động trong một chu kì xung nhịp đồng hồ.

Trong thiết kế bên trong k6-2 có những thành phần multimedia để tính toán những lệnh mmx , cùng với 3dnow! Cả hai kiểu có thể thực hiện công việc tính toán một cách liên tục.

Tất nhiên trong card đồ hoạ đã có phần cứng để tăng tốc quá trình tính toán nhưng đối với những phép tính liên quan đến dấu phảy động còn phải tính toán rất nặng nề.  Trong cấu trúc của Intel dùng pentium ii và celeron cũng có những phép tính hỗ trợ đến phần trangle setup và AMD , cyrix , ibm còn phải đi sau.

Những lệnh 3dnow! Mới cũng cần bằng một phần nào của những phép toán dấu phảy động single instruction multiple data (simd) để tăng hiệu quả tính toán hình học 3d và mã hoá mpeg.

Ứng dụng rộng rãi của công nghệ 3dnow! Cho phép cyrix và idt/centaur sử dụg trong những bộ vi xử lí của họ.

·        Hypertransport

Hypertransport giúp việc truyền thông tin giữa các chip (cầu nam, cầu bắc, bxl, bộ nhớ,...) Nhanh hơn, điều này không có nghĩa tốc độ của chip sẽ nhanh hơn mà chỉ là khả năng 'nói chuyện' với một chip hoặc thiết bị khác nhanh hơn với lượng dữ liệu nhiều hơn. Bạn có thể hình dung, nếu tuyến đường cao tốc giữa hai thành phố là hai chiều cho hai làn xe thì sẽ dễ xảy ra tai nạn và tắc nghẽn. Hypertransport làm cho tuyến đường này rộng hơn, do đó xe có thể chạy nhanh và nhiều hơn. Công nghệ này có thể áp dụng cho tất cả băng thông của bo mạch chủ, từ chipset đến bxl, bộ nhớ, agp, pci,...

Cung cấp tốc độ cực nhanh theo kiểu điểm đến điểm kết nối các thành phần trên mainboard, được phát minh bởi AMD và được ứng dụng trong những lĩnh vực đòi hỏi dữ liệu được truyền đi với tốc độ cao, tốc độ lớn và đỗ trễ nhỏ.

Ứng dụng công nghệ hypertrasport trong kiến trúc hệ thống nhằm vào các lợi ích sau:

Ø     Tăng cường đáng kể độ rộng dải băng tần so với các ứng dụng khác

Ø     Thời gian trờ thực thi chỉ lệnh ngắn, giảm thiểu mọi hạn chế đối với xung nhịp bộ xử lý.

Ø     Xử lý giao thức dạng biểu kiến đối với hệ điều hành, không tạo xung đột trên các trình điều khiển thiết bị ngoại vi.

·        Phòng trống virus ( enhanced virus protection):

Được kích hoạt khi sử dụng winxp2 trở lên, tự động cô lập, tiêu diệt virus, ngoài ra còn giúp ngăn ngừa hiện tượng tràn bộ đệm(buffer overflow).

·        Tích hợp cảm ứng nhiệt (intergrated heat spreader):

Bảo vệ an toàn cho CPU, tự động tắt hệ thống khi nhiệt độ vựot quá mức cho phép.

·        Công nghệ AMD-v (AMD virtualization technology).

Công nghệ máy tính ảo giúp người sử dụng tại 1 thời điểm có thể dùng đồng thời song song nhiều hệ điều hành (hđh) trong cùng 1 máy tính.trước khi có công nghệ này, máy tính muốn dùng nhiều hệ điều hành thì sử dụng 1 trong 2 cách sau:

Ø     Sử dụng nhiều hđh cùng 1 lúc nhưng chỉ có 1 hđh khai thác trực tiếp tài nguyên hệ thống , các hđh còn lại được xem như 1 ứng dụng của hđh đầu tiên, chúng vẫn khai thác được tài nguyên của máy nhưng gián tiếp, tức là các hđh này không nhận diện được hệ thống phần cứng, chúng chỉ nhận diện được 1 hệ thống giả lập (không có thật, do phần mềm quản lí các hđh ảo tạo ra).

Ø     Cài nhiều hệ điều hành (HĐĐ) trong 1 máy nhưng tại 1 thời điểm chỉ có thể sử dụng được 1 HĐĐ, HĐĐ được sử dụng có thể khai thác trực tiếp tài nguyên hệ thống.

AMD virtualization giúp người dùng có thể cùng 1 lúc dùng nhiều hđh, các hđh đó đều khai thác trực tiếp tài nguyên hệ thống. Công nghệ này còn có tên mã là pacifica.

·        Energy efficient.

Thế hệ CPU AMD dùng socket 939 đã nổi tiếng về lượng điện năng tiêu thụ ít. Thế hệ CPU AMD sử dụng socket am2 đã có bước tiến lớn lớn hơn nữa về công suất tiêu thụ. Công suất tiêu thụ của các CPU dùng socket am2 thấp hơn thế hệ 939 từ 10% đến hơn 30%. Đây thực sự là 1 cải tiến hữu ích cho ocer và. .. Các phòng net. (công suất tiêu thụ điện thấp -> mát  -> dễ oc cao).

·        Công nghệ tính toán 64 bit(AMD64):

Chạy tốt cho hệ điều hành 32bit hiện nay và sẵn sàng tương thích cho hđh 64 bit trong tưong lai. Cấu trúc nền của AMD đã được thiết kế để tương thích và thực thi hiệu quả không những đối với các ứng dụng 32bit mà cả 64bit.

·        Bộ điều khiển bộ nhớ (memory control):

Tích hợp vào trong nhân của CPU (core) nên cho dù bus bộ nhớ cao đến máy thì CPU đều đáp ứng được. Đồng thời giúp giảm đáng kể "độ trễ của dữ liệu do không phải truyền qua chípet cầu bắc và ngược lại, giúp "vứt bỏ" nút thắt dữ liệu và gia tăng băng thông giữa CPU với bộ nhớ ram.

·        Bộ nhớ DDR2.

Thế hệ CPU sử dụng socket am2 hỗ trợ ram ddr2 ở chế độ dual channel. Ram ddr2 có tốc độ cao hơn ddr1 , tiêu thụ điện năng ít hơn và hiện nay, ddr2 là chuẩn ram phổ biến nhất.

3.3.                      So Sánh một số thế hệ CPU thông dụng

·        CPU dành cho máy chủ Intel Xeon và AMD Opteron

Hình 3.4

Chip AMD Opteron 140, 142, 144, 146, 148, 150, 152 và 154 mạnh hơn Intel Xeon 2.0 và 3.6 Ghz. AMD Opteron 240, 242, 244, 246, 248, 250, 252 và 254 mạnh hơn chip lõi kép Intel Dual Xeon 2.0 - 3.6 Ghz. AMD Opteron 840, 842, 844, 846, 848, 850, 852 và 854 thì không có chip Xeon nào địch lại vì Opteron là chip hệ 8, ta có thể cho 8 chip chạy chung với nhau cùng 1 lúc. Xeon của Intel chỉ có thể cho 4 con chạy với nhau là tối đa.

Xeon và Opteron thuộc hạng dùng cho server, cho những công ty lớn.

·        CPU cho máy để bàn Athlon của AMD và Pentium 4 của Intel.

Hình 3.5

Athlon chia ra nhiều hạng gồm: Athlon FX, Athlon 64, Athlon Barton Core và Athlon XP

Pentium cũng chia ra nhiều hạng: Pentium 4 EE, Pentium 4 HT, Pentium 800 Mhz Bus và Pentium 4 533 Mhz Bus…

Hiện thời, dùng để chơi game thì không có con chip nào địch lại Athlon FX của AMD. Cũng vì thế mà hệ FX mắc kinh khủng. Athlon XP và Athlon Barton Core thuộc hệ cũ, dùng socket A hết còn thông dụng. Cả hai tuy rất tốt nhưng tỏa nhiệt quá nhiều. Các đời chip cũ của AMD đều nóng hơn Intel khá nhiều.

Athlon FX và Athlon 64, đời mới của AMD, dùng socket 939 (socket 940 dùng cho Operton). Đây mới thật là những con CPU mạnh và nhất là được dùng dưới dạng 64 bit. Nếu đem so sánh với những CPU cùng hạng của Intel dưới dạng 32 bit thì ngang ngửa nhau, AMD có nhanh hơn nhưng không đáng nói. Dưới 64 bit thì cả Xeon và Pentium 4 không phải là đối thủ của Operton và Athlon 64. Chẳng hạn con chip AMD Athlon 64 3.700+ Socket 574 tại Việt Nam có giá đến 538 USD, còn con Atholon 64 3.500+ Socket 939 “bèo hơn” cũng có giá đến 256 USD.

·        Thế hệ CPU rẻ tiền Celeron của Intel và Sempron của AMD

Hình 3.6

Sempron là hậu thân của Duron, AMD dùng Sempron cạnh tranh với Celeron D của Intel. Sempron đời cũ, dùng socket 454 yếu hơn Celeron của Intel. Nhưng Sempron đời mới, Sempron 64 dùng socket 754, mạnh tương đương với Pentium 4, hơn hẳn Celeron D. Cái đáng chú ý là Sempron 64 dùng cho hệ thống điều hành chạy dưới dạng 64 bit được, Celeron D không được.

·        Thế hệ CPU lõi kép

Hình 3.7

Thời gian hơn 1 năm nay, cả AMD lẫn Intel đều đẩy mạng cuộc đua CPU lõi kép. Chip lõi kéo có nghĩa là 2 con CPU cùng được đặt trên một bản mạch silicon và được xem là một “chip lõi kép”. Tuy rằng chỉ có 1 con CPU nhưng lại mạnh tương đương với 2 con thường. Intel có Xeon Dual Core, Pentium D và Pentium Duo. AMD có Opteron Dual Core, Athlon FX Dual Core và Athlon X2.

Opteron Dual Core gồm có: Opteron 165, 170, 175 và 180 của hệ 1; Opteron265, 270, 275 và 280 của hệ 2; Opteron 865, 870, 875 và 880 của hệ 8.

Athlon FX Dual Core và Athlon X2 đều mạnh hơn, dùng ít điện hơn, phát ra hơi nóng thấp hơn Pentium Dual Core.

·        Thế hệ CPU di dộng

Hình 3.8

Trong các loại CPU, AMD đều qua mặt Intel không ít thì nhiều ngoại trừ những con CPU dùng cho máy xách tay. Intel Pentium M và Mobile Pentium mạnh hơn Athlon XP-M, Mobile Athlon và Turion 64. Pentium M cộng với công nghệ Centrino vừa ít hao điện tạo điều kiện cho pin xài được lâu hơn, vừa tiết ra ít hơi nóng lại vừa mạnh hơn Turion 64.

AMD Turion 64 là CPU đặc biệt cho laptop mới nhất của AMD, mỗi con dùng từ 25 - 35 Watt/giờ. Trong khi đó Pentium M chỉ dùng từ 23 - 27 Watt/giờ. Nhưng Turion lại hơn Pentium M ở 2 vấn đề:

1. Turion 64 và những Athlon 64 đời mới có kèm theo chức năng chống virus. Máy dùng Turion 64 hoặc Athlon 64 sẽ hạn chế sự phá hoại của virus.

2. Turion 64 dùng dưới hệ thống 32 lẫn 64 bit đều được. Pentium M chỉ dùng dưới hệ 32 bit mà thôi.

·        Dòng vi xử lí 4 nhân Phenom II X4  và Core 2 Quad

Hình 3.9

Nếu không cần đến các ứng dụng xử lý đa luồng thì đây là sự thay thế mạnh mẽ cho BXL mạnh nhất của AMD - Phenom II X6 1090T.

AMD ra mắt BXL Phenom II đầu tiên là Deneb 4 nhân vào tháng 1/2009. Tiếp đó là những BXL 3 nhân X3 (hiệu năng nằm giữa những người anh em 2 nhân và 4 nhân của nó). Sau đó vài tháng là BXL X4 945 3,0GHz tương thích đế cắm AM3 hoàn toàn, và hỗ trợ bộ nhớ DDR3.

Chip 4 nhân giá 2.673.000đồng (140USD) này chỉ chậm hơn 7% trong thử nghiệm WorldBench 6 so với Phenom II X6 1090T 6 nhân hàng đầu của AMD. X6 cũng giống dòng sản phẩm X4 ngoại trừ nhiều hơn 2 nhân. Cả hai dòng này đều chia sẻ 6MB bộ nhớ đệm L3 và chạy trên kiến trúc HyperTransport (công nghệ tương tự QPI của Intel) nhưng X6 1090T chạy ở 3,2GHz và có khả năng tự động ép xung lên 3,6GHz. Trong thử nghiệm Cinebench, hiệu năng của X6 1090T 6 nhân vượt X4 945 4 nhân đến 60%.

Hình 3.10

CPU 4 nhân của Intel đã gây sửng sốt với các tác vụ đa nhiệm như: truyền thông đa phương tiện, video số, triệt tiêu thời gian chờ, chạy nhiều ứng dụng chuyên sâu cần tính toàn cùng một lúc. Với 4 nhân và bộ nhớ đệm cache lên đến 12MB và FSB đến 1333 MHz Core 2 Quad mang lại hiệu quả cao và mạnh mẽ.

Kiến trúc của Core 2 Quad thật sự là 2 lõi (die) Core 2 Duo được gắn lên cùng một con chíp, cùng chung một FSB. Vì thế số lượng transitor của CPU đóng gói này phải tăng lên gấp đôi. Mỗi lõi có 2 nhân với bộ nhớ đệm L2 Cache riêng theo công nghệ chia sẻ thông minh Advanced Smart Cache. Điều cần lưu ý là bộ L2 cache của die nào do die đó sử dụng chứ không dùng chung. Tuy cơ chế giống như Pentium D, nhưng bù lại là dung lượng L2 Cache lớn và được cả 2 nhân trên một die dùng chung.

Core 2 Quad được tích hợp nhiều công nghệ mới nhất của Intel như: Intel Wide Dynamic Execution, Intel Power Intelligent Capability, Intel Smart Memory Access, Intel Advanced Smart Cache, Intel Advanced Digital Media Boost….

Hình 3.11

·        AMD Phenom II X4, AMD Athlon II X4 và Core I

Hình 3.12

o       AMD Phenom II X4 945

Hình 3.13

Nếu không cần đến các ứng dụng xử lý đa luồng thì đây là sự thay thế mạnh mẽ cho BXL mạnh nhất của AMD - Phenom II X6 1090T.

AMD ra mắt BXL Phenom II đầu tiên là Deneb 4 nhân vào tháng 1/2009. Tiếp đó là những BXL 3 nhân X3 (hiệu năng nằm giữa những người anh em 2 nhân và 4 nhân của nó). Sau đó vài tháng là BXL X4 945 3,0GHz tương thích đế cắm AM3 hoàn toàn, và hỗ trợ bộ nhớ DDR3.

Chip 4 nhân giá 2.673.000đồng (140USD) này chỉ chậm hơn 7% trong thử nghiệm WorldBench 6 so với Phenom II X6 1090T 6 nhân hàng đầu của AMD. X6 cũng giống dòng sản phẩm X4 ngoại trừ nhiều hơn 2 nhân. Cả hai dòng này đều chia sẻ 6MB bộ nhớ đệm L3 và chạy trên kiến trúc HyperTransport (công nghệ tương tự QPI của Intel) nhưng X6 1090T chạy ở 3,2GHz và có khả năng tự động ép xung lên 3,6GHz. Trong thử nghiệm Cinebench, hiệu năng của X6 1090T 6 nhân vượt X4 945 4 nhân đến 60%.

o       AMD Phenom II X6 1090T

Hình 3.14

BXL 6 nhân đầu tiên cho máy tính để bàn của AMD mạnh nhất nhưng vấn đề là bạn phải quyết định có nên nâng cấp để tận hưởng những tiến bộ của nó hay không.

AMD bước vào cuộc chơi hiệu năng ở vị trí thứ 3 bằng BXL 6 nhân mới, tốc độ 3,2GHz là Phenom II X6 1090T. Có tên mã là “Thuban”, BXL 45nm, giá 5.709.000đồng (299USD) này có thể đạt đến tốc độ 3,6GHz nhờ công nghệ Turbo Core của AMD (tương đương công nghệ ép xung tự động Turbo Boost của Intel).

X6 1090T có dung lượng bộ nhớ đệm L3 là 6MB (bằng ½ so với chip 6 nhân của Intel) và có hiệu năng thấp hơn Intel Core i7-980X 20%. X6 1090T cũng không có lời đáp trả cho công nghệ siêu luồng có trong dòng sản phẩm cao cấp của Intel.

Nếu bỏ qua khoảng cách về hiệu năng, X6 1090T lại thắng thế trong cuộc đua về tính tương thích. Bạn có thể gắn BXL này trên bất kỳ BMC nào hiện có đế cắm AM3 hay AM2+ (sau khi nâng cấp BIOS). Sự kết hợp của khả năng nâng cấp đơn giản và giá siêu rẻ của BXL này mang lại cơ hội nâng cấp tuyệt vời cho BMC và bộ nhớ hiện có của bạn nếu muốn hưởng lợi từ BXL mới

o       AMD Athlon II X4 635

Hình 3.15

Không cần đến bộ nhớ đệm L3 nhưng vẫn bảo đảm hiệu năng.

Đôi lúc bạn cũng nên tự hỏi lại chính mình là có cần đến dung lượng cache L3 “khủng” hay không? Về tính năng Athlon II X4 635 2,9GHz cũng tương đương Phenom II X4 945 3,0GHz. Cả hai BXL đều dùng đế cắm AM3 nhưng X4 945 hỗ trợ hệ số nhân đến 15X so với 14,5X của Athlon II X4 635.

Điểm khác biệt lớn nhất giữa X4 635 2.291.000đồng (120USD) với X4 945 là không có cache L3. Tuy nhiên, điều này không ảnh hưởng đến hiệu năng tổng thể trong thử nghiệm WorldBench 6 của Athlon II X4 635 vì nó cũng đạt điểm 110 như Phenom II X4 945. Thử nghiệm Cinebench cho thấy X4 945 mạnh hơn trong xử lý đa nhiệm nhưng mức tăng hiệu năng cũng chỉ 9,5%.

o       AMD Athlon II X2 255

Hình 3.16

BXL cấp thấp này không chậm hơn nhiều so với Phenom II X6 1090T ngoại trừ trong các ứng dụng đa luồng.

Athlon II X2 255 2 nhân, 3,1GHz, giá 1.432.000đồng (75USD) không có cache L3. Bộ nhớ đệm L2 thì được chia thành 1MB cho mỗi nhân. Sản xuất theo công nghệ 45nm, đế cắm AM3, nó tương thích với bất kỳ BMC nào dùng Socket AM3 hay AM2+.

Về hiệu năng, khi so sánh với Phenom II X6 1090T 6 nhân đỉnh của AMD thì X2 255 chỉ kém 15% trong thử nghiệm tổng thể nhưng chậm hơn đến 70% trong phép đo đa nhân Cinebench. 

o       Intel Core i3-540

Hình 3.17

Khó quyết định để chọn lựa nhưng cần lưu ý là hiệu năng chung của nó cao hơn “đàn anh” Core i5-750.

Như đã từng lưu ý, quy ước đặt tên không phải bao giờ cũng có thể diễn dịch thành ưu thế về hiệu năng. Intel Core i3-540 là BXL 2 nhân, tốc độ 3,06GHz và thuộc dòng sản phẩm Clarkdale. Ra mắt sau Lynnfield (dòng Intel Core i7-870) 4 tháng, Clarkdale dựa trên công nghệ sản xuất 32nm so với công nghệ 45nm của Lynnfield.

Core i3-540 giá 2.769.000đồng (145USD) thiếu công nghệ Turbo Boost nên không thể chạy nhanh hơn 3,06GHz. Tuy bị hạn chế này và chỉ có 4MB bộ nhớ đệm L3, nó vẫn có hiệu năng vượt Intel Core i5-750 8,5% trong thử nghiệm WorldBench 6; tuy nhiên i5-750 lại vượt hơn 25% trong thử nghiệm với Cinebench (tối ưu cho đa nhân).

Core i3-540 rất đáng giá với người dùng vì không chỉ cho hiệu năng đáng nể của BXL 2 nhân mà còn có sẵn nhân xử lý đồ họa (GPU) đi kèm BXL. Tuy nhiên, món “lẩu” hiệu năng và đồ họa tích hợp lại có thể buộc bạn phải đầu tư BMC mới với chipset Q57, H55 hay H57 vì chipset phổ biến P55 không hỗ trợ nhân GPU của Core i3-540.

o       Intel Core i5-750

Hình 3.18

Không có công nghệ xử lý đa luồng nên BXL 4 nhân này bị ảnh hưởng trong thử nghiệm xử lý đa nhiệm.

BXL 2,66GHz, 4 nhân này thuộc dòng Lynnfield của Intel cũng có cùng đặc điểm như Core i7-870 với một điểm khác biệt quan trọng: BXL này không có công nghệ siêu phân luồng vì thế bạn chỉ có 4 nhân vật lý chứ không thể có được 8 nhân như với Core i7-870.

Sự khác biệt này ảnh hưởng như thế nào đến hiệu năng của “con chip” giá 3.800.000đồng (199USD) này? Thử nghiệm WorldBench 6 cho thấy hiệu năng của i5-750 thấp hơn i5-870 17%, gần như gấp đôi chênh lệch 9% về tốc độ xung giữa 2 BXL này; Tuy nhiên với Turbo Boost, i5-750 có thể nâng xung nhịp lên đến 3,2GHz khi cần. Sự khác biệt trong thử nghiệm Cinebench còn rõ nét hơn khi i5-750 có điểm thấp hơn i5-870 đến 40% (tham khảo www.pcworld.com.vn/A0910_42).

Ngoài bộ điều khiển bộ nhớ kênh đôi (hỗ trợ 4 khe cắm DIMM), bộ điều khiển PCI Express của BXL trên đế cắm 1156 này có thể cung cấp một khe cắm x16 PCI-E cho card đồ họa hay chia thành 2 kết nối x8. Điều này không ảnh hưởng đến hiệu năng trừ phi bạn muốn chạy một cặp card đồ họa song song.

o       Intel Core i7-870

Hình 3.19

Giá giảm đáng kể trong khi chỉ mất một ít hiệu năng so với BXL mạnh nhất của Intel làm cho BXL 4 nhân công nghệ 45nm này là lựa chọn hết sức sáng giá.

Tốc độ 2,93GHz (có khả năng tự động ép xung lên 3,6GHz) Core i7-870 chiếm vị trí thứ 2 trong thử nghiệm. Sự khác biệt giữa BXL giá 10.769.000đồng (564USD) này và Core i7-980X là hiệu năng kém hơn 14%.

i7-870 có bộ nhớ đệm L3 thấp hơn - chỉ 8MB. Mặt khác, nó được sản xuất theo công nghệ 45nm, nghĩa là số transistor trên BXL sẽ ít hơn so với công nghệ 32nm.

Ngoài ra, BXL tầm trung này cũng giới hạn số khe cắm bộ nhớ trên BMC chỉ là 4 thay vì 6

o       Intel Core i7-980X “Bay” qua các thử nghiệm

Hình 3.20

Giá 19.076.000đồng (999USD), tốc độ 3,33GHz Core i7-980X (có khả năng tự động ép xung lên 3,6GHz) là sản phẩm “đỉnh” của Intel trong dòng BXL dành cho người tiêu dùng. Đây là BXL đầu tiên dành cho máy tính để bàn có 6 nhân vật lý và với công nghệ siêu luồng (hyper threading) thì có đến 12 BXL ảo. Sáu nhân này chia sẻ 12MB bộ nhớ đệm L3 tích hợp. Kết quả cuối cùng dựa trên hiệu năng đo được trên các ứng dụng đã được tối ưu hóa - điểm WorldBench 6 là 147

Với thiết kế theo công nghệ 32nm, 980X hoàn toàn tương thích với các bo mạch chủ (BMC) chipset X58 dùng đế cắm LGA 1366. Những BMC này dùng kiến trúc liên tuyến (Quickpath Interconnect - QPI) thay cho thiết kế tuyến truyền (Front Side Bus) cũ trên những BXL Core 2 (giờ đã “hết thời”) để mang lại băng thông nhanh hơn và lớn hơn cho việc truyền thông giữa BMC, các thành phần hệ thống và BXL.

Intel đã chia BXL cho máy tính để bàn và di động thành ba dòng: Core i7, Core i5, Core i3 tương ứng với sản phẩm cao, trung và cơ bản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chip Core i5 sẽ luôn chậm hơn Core i7 như bạn sẽ thấy trong phần sau. Tương tự, Core i7 không phải luôn luôn có 4 nhân vật lý. Dòng sản phẩm i7 của Intel dành cho di động mặc định sẽ có 2 nhân trừ những chip có phần mở rộng là QM hay XM.

Kết Luận

Bài viết đã giới thiệu sơ lược với các bạn lịch sử hình thành và phát triển của hai nhà sản xuất chip vi xử lý hàng đầu thế giới Intel và AMD. Bên cạnh đó chúng tôi còn giới thiệu sơ lược về một loạt các công nghệ hiện đại trong lõi chip cũng như những đánh giá sơ bộ về các thế hệ CPU của hai hãng. Sau quá trình phân tích chúng tôi đúc kết một số nhận xét như sau. Intel hướng đến khả năng tiện lợi và ổn định trong khi đó AMD lại hướng đến sức mạnh, hiệu năng và giá thành. Chúng tôi khuyên rằng nếu bạn là một người không chuyên về máy tính hoặc tính chất công việc đòi hỏi sự ổn định cao thì hãy chọn Intel như một giải pháp an toàn, tiện lợi. Song nếu bạn là một người đam mê công nghệ luôn đòi hỏi cấu hình cao để thử sức với các ứng dụng đồ hoạ hoặc game khủng thì nên chọn AMD. Đồng thời bạn hãy chịu khó đầu tư thêm vào hệ thống tản nhiệt để CPU hoạt động tốt hơn vì chip xử lý mạnh thì luôn đồng nghĩa với việc toả nhiều nhiệt. Một số lời nhận xét bên ngoài Intel mạnh hơn hoặc AMD mạnh hơn hoàn toàn không có cơ sở. Mỗi hãng đều hướng đến một đối tượng người dùng riêng. Nếu bạn đam mê công nghệ hãy tìm hiểu kĩ mục đích và tính chất xây dựng máy tính cá nhân và có quyết định sáng suốt khi lựa chọn giữa intel và AMD. Vẫn còn nhiều thông tin và công nghệ mà chúng tôi chưa đề cập đến trong bài viết vì quá cũ hay ít công bố. Song bấy nhiêu cũng đã mang lại cho bạn một kiến thức kha khá về bộ vi xử lý giúp bạn nhanh chóng hội nhập với công nghệ thông tin.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro