Dem-truoc-doi-moi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đêm trước Đổi Mới là loạt bài đăng trên báo Tuổi Trẻ cuối năm 2005. Loạt bài này gợi nhớ lại thời mà nhà thơ Nguyễn Duy gọi là "thời khó thở". Bạn nào sinh sau thời này mà chưa được người lớn kể chuyện về thời bao cấp thì nên đọc để về một thời chưa xa nhưng thật "oanh liệt"

"Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

TT - Hòa bình rồi, tiếng reo vui chưa được bao lâu thì người dân hai miền Nam - Bắc phải đối mặt với biết bao gian nan. Cả nước chạy gạo ăn từng bữa.

Nhiều người vẫn còn giữ những tờ tem phiếu, sổ gạo ngả màu ố vàng thời gian, gợi cho họ cả một quãng đời mà người ta quen gọi là thời bao cấp.

Sài Gòn những năm 1980

Sống giữa Sài Gòn thời ấy, ông giáo Nguyễn Văn Hàng thèm bát cơm trắng và đủ thứ: cây viết trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích chưa lộn... Hơn 20 năm rồi ông Hàng vẫn còn nhớ cái hôm chiếc xe đạp cà tàng bị banh niền.

Ông mượn cây kim to và sợi cước dài vật lộn với chiếc lốp suốt đêm. Sáng hôm sau, ông đến lớp mà không cầm nổi viên phấn nhưng không biết phải giải thích thế nào với học sinh. Mấy ngón tay nứt toét, sưng lên. Thế mà ông vẫn ngày hai buổi đến lớp.

Năm ấy, vợ ông sinh con đầu lòng. Tiêu chuẩn gạo hằng tháng được 13kg/khẩu, nhưng thường chỉ lĩnh được 3kg, còn lại qui đổi lúc bo bo, lúc bột mì, lúc mì sợi vụn, lúc khoai lang...

Cả tiêu chuẩn gạo của ông giáo Hàng cũng ưu tiên dành cho vợ, mấy tháng trời ông quên mất trên đời còn có món cơm trắng. Còn thịt chỉ là thứ mơ ước. Một hôm hội đồng giáo viên bỗng nảy ý định biến mơ ước thành hiện thực: nuôi một con heo.

Nhưng bằng cách nào? Cả tập thể nhảy vào bàn bạc và quyết định tập thể cùng nuôi. Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi người không đủ ăn thì làm gì có thừa cho heo.

Nhưng rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá, gốc rau... Nhưng nước vo gạo thì trong veo, gốc rau thì cụt ngủn. Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.

Một học kỳ trôi qua, con heo chẳng lớn được bao nhiêu. Nhưng đến ngày đến tháng hội đồng giáo viên cũng đành xẻ thịt liên hoan. Thế mà buổi liên hoan vẫn linh đình vì có được mấy miếng thịt.

Thầy Hàng bảo nửa năm rồi ông chưa ngửi được mùi thịt. Nuôi heo cực quá, trường thầy Hàng chuyển hướng "đầu tư" nuôi chó. Ông hiệu trưởng "lý luận": không có gì cho chó ăn thì nó vẫn có thể tự kiếm lấy cái ăn.

Tưởng nói đùa hóa ra ông hiệu trưởng đi xin chó con thật rồi gửi nuôi ở nhà bà cụ trong trường. Thầy cô giáo có canh thừa, cá cặn lại gom góp mang đến cho con chó của tập thể.

Cuộc sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa kết trái. Thầy cô cưới nhau trong cảnh mượn của người này chiếc áo trắng, của người kia chiếc cà vạt. Chén, đũa, ly, đĩa... tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm.

Nói thế cho sang chứ khẩu phần mỗi người ăn cỗ cưới chỉ có một miếng chả giò, một miếng dưa hấu và một quả chôm chôm. Thầy Hàng ra sân trường chặt một cành sứ vào trang trí, quét dọn sơ sơ để biến thành căn phòng... hạnh phúc.

Nhưng chiếc giường quá ọp ẹp, chân gãy tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại "tổ ấm" cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: xem như xong cái căn bản nhất...

Không chỉ giới công chức, nhà giáo mà giới kinh doanh cũng khốn khó. Khi cuộc cải tạo công thương bắt đầu thì cuộc sống của ông Trần Văn Thành (nay trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, TP.HCM), từng là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung, nhà cửa đàng hoàng, thường ăn cơm tiệm, cuối tuần hay đi mua sắm... cũng bắt đầu đổi khác.

Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng, dầu, bơm vá...

Tiền lương của ông mỗi tháng không đủ chi tiêu cho một tuần sinh hoạt gia đình. Vì sao vậy? Ông kể: nối nghiệp gia đình theo nghề lái xe, đến năm 1973 ông Thành sắm được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng, tương đương hơn 100 lượng vàng thời đó.

Đây là một tài sản lớn, nghề khác không dễ có được. Ông Thành được xem là nhà tư sản "nhỏ" và ông đã có thể mơ đến chuyện thành lập một hãng xe. Lúc ấy dân tài xế nói riêng, những nhà buôn, dịch vụ nói chung làm ăn khấm khá.

Bến xe miền Tây khi đó có một số hãng xe lớn sở hữu hàng chục phương tiện đắt tiền như Hiệp Thành, Phi Long, Á Đông... không ngừng phát triển.

Nhưng sự phát triển đã dừng lại bởi "sáng kiến" công ty công tư hợp doanh. Tất cả mọi chiếc xe lớn nhỏ dù của ai cũng đều phải đem góp vào công ty. Giá xe do Nhà nước định mà trên thực tế thì nó chỉ tương đương với

1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô.

Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn lương theo qui định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe.

Có những ông chủ hãng xe 30- 40 chiếc, cai quản hàng trăm lái, phụ xe nay muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ xe, còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý.

Hà Nội sau niềm hân hoan

Bà Đinh Thị Vận - 63 tuổi, phường Tương Mai, Hai Bà Trưng (Hà Nội), là công nhân Nhà máy Dệt 8-3 - vẫn còn nhớ: sau giải phóng miền Nam, gia đình, cơ quan, khu phố của bà cũng như nơi nơi đều ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô bờ.

Nhưng sau đấy một vài năm thì giá cả tăng vùn vụt, cơ quan của bà không việc làm. Nồi cơm của gia đình bà nấu gạo "mậu dịch" (gạo từ kho các cửa hàng lương thực của Nhà nước) hôi đủ các thứ mùi: gián, mốc và có khi là xăng dầu..., có khi lẫn những hạt sạn to như hạt ngô.

Sau đó gạo mậu dịch cũng thiếu và ngày một lẫn đầy những sắn, ngô, khoai... Hường, con gái bà, từng nói lên mơ ước trong bài văn nộp cô giáo: "Ngày tết em mong sao có một nồi cơm trắng và một bát thịt kho...". Một ước mơ không có trong tâm thức những người trẻ bây giờ, nhưng không phải hiếm thời đó.

Mỗi tháng, theo chỉ tiêu, cả nhà bà Vận được nhận 2kg thịt. Gọi là thịt nhưng toàn mỡ vụn, bạc nhạc và lại chia làm hai lần. Lần nào cơ quan bà cũng chỉ đủ thịt chia cho 2/3 công nhân.

Mỗi tổ phải tự bắt thăm. Ai trúng thì lĩnh trước, không trúng thì chờ đợt sau. Các chị tiếp phẩm (bộ phận chia thực phẩm) cân hụt mất một lạng, có biết cũng phải cố mà cười. Ngày lĩnh thực phẩm cả nhà cứ phấp phỏng, rình mò và hít khói bếp.

Rán cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vào liễn rồi bà mới cho "cả làng" muối, mắm mặn chát vào kho với mấy miếng thịt để ăn dè. Cả khu tập thể công nhân nhà máy vui như hội. Khu phố lên đèn, ở những gia đình không được lĩnh, có tiếng chì chiết của ông chồng nào đó vì vợ không bốc trúng thăm...

Rất nhiều nhu yếu phẩm khác như xà phòng, mì chính, chất đốt... của tất cả cán bộ công nhân viên chức khác cũng như vậy. Có năm ba tháng liền bà chỉ được lĩnh vải mà không xà phòng.

Có người như cô Hoa chồng chết, nhà có bốn người toàn phụ nữ (mẹ chồng, Hoa và hai con gái) nhưng khi lĩnh tiêu chuẩn quần áo lót thì toàn quần đùi, áo may ô và... dao cạo râu. Cô Hoa khóc cả tuần liền...

Công ty của em bà sản xuất sứ tích điện. Không có tiền, công ty trả lương cho công nhân bằng tích điện. Đơn vị có cao su trả bằng cao su, xí nghiệp có mũ cứng thì trả lương công nhân bằng mũ cứng... Những lúc như vậy lĩnh lương xong cũng không biết đem về đâu, để làm gì?

Chuyên gia kinh tế Lê Văn Viện bảo rằng đó là bối cảnh chung của đời sống người dân trước năm 1986. Hầu như những mặt hàng thiết yếu đều đến tay người tiêu dùng qua kênh phân phối bằng hiện vật, tem phiếu và định lượng bằng chỉ tiêu.

HÀNG CHỨC NGUYÊN - XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Đêm trước" đổi mới: "Vòng kim cô"

TT - Những câu chuyện bi hài của "đêm trước" đổi mới thật khó tưởng tượng được nếu không phải là chứng nhân thời kỳ đó. Tất cả đều chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được ấn từ trên xuống bất chấp qui luật thị trường. Người ta tìm mọi cách để hoàn thành chỉ tiêu cho thật đẹp sổ sách báo cáo, còn đằng sau là đủ thứ sáng kiến cải tiến, cải lùi.

Chỉ tiêu "đổ than"

Câu chuyện thời bao cấp khó tin nhưng có thật: Năm 1979, một công ty khai thác than ở Thái Nguyên được giao chỉ tiêu khai thác 150.000 tấn than. Nhưng năm đó các công ty khách hàng không đủ nguyên liệu sản xuất, máy móc, dây chuyền hỏng hóc... nên hoạt động cầm chừng, không cần nhiều đến than. Sản phẩm của công ty than nọ cứ ngày một chất chồng trong kho bãi. Đến lúc kho bãi không thể chứa thì công tác khai thác cũng phải "phanh" dần.

Tuy nhiên chỉ còn hai tháng nữa là hết năm mà cái chỉ tiêu đó mới thực hiện được hơn nửa. Nỗi ám ảnh không đạt chỉ tiêu đe dọa số phận chính trị của tất cả ban lãnh đạo công ty, đến đồng lương tất cả cán bộ công nhân cũng như danh hiệu thi đua của toàn đơn vị. Không thể "bó tay", ban lãnh đạo công ty quyết định ăn ngủ tại công trường, thức trắng đêm cùng công nhân, vượt qua sương muối, gió may miệt mài khai thác cho bằng đủ chỉ tiêu được giao. Công việc lúc này bận rộn và khó khăn gấp đôi bình thường vì sau khi mất công khai thác, công ty còn mất một công nữa là... đổ than đi. Đổ xuống vực, xuống suối, xuống hang... hay bất cứ đâu cũng được.

Sự việc cuối cùng cũng đến tai cấp trên. Giám đốc công ty than bị khiển trách. Thế nhưng trong phiên họp tổng kết năm của toàn công ty, ông giám đốc mặt mũi đen nhẻm, hốc hác chạy lên bục phát biểu hào hứng: mặc dù gặp rất nhiều khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao, chúng ta đã phát huy phẩm chất sáng tạo, nỗ lực lao động và đã hoàn thành tốt chỉ tiêu cấp trên giao. Tỉnh đã có bằng khen cho tất cả các đơn vị hoàn thành chỉ tiêu.

Ông Bùi Văn Long, nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt VN (tiền thân Tổng công ty Dệt may), vẫn còn ám ảnh những con số chỉ tiêu: Dệt Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải/năm. Nhưng khi 1/3 dây chuyền đắp chiếu vì không phụ tùng thay thế, vốn lưu động Nhà nước cấp không nổi 1/2 nhu cầu thì cái chỉ tiêu ấy vẫn giữ nguyên.

Đến lúc công ty khắc phục được khó khăn, năng lực dư thừa, thị trường "cháy" hàng thì chỉ tiêu ấy cũng không thay đổi. Hai chữ "chỉ tiêu" trở thành "vòng kim cô" khủng khiếp trùm lên toàn bộ mọi hoạt động sản xuất. Nhà nước cung cấp nguyên nhiên vật liệu và vốn lưu động mỗi năm cho doanh nghiệp, kèm theo một con số sản phẩm nhất định mà doanh nghiệp phải làm ra rồi cũng nộp cho Nhà nước.

Tuy nhiên, do thiếu tất cả mọi thứ cộng với phương thức quản lý "của chung" nên hầu như không bao giờ những gì Nhà nước giao tương ứng với những gì Nhà nước muốn thu lại từ doanh nghiệp. Và những chỉ tiêu này cũng hủy diệt gần như hoàn toàn mọi sáng tạo, năng động của doanh nghiệp.

Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong kể lại câu chuyện cao su chạy từ Nam ra Bắc rồi quay lại Nam cũng chỉ vì cái "vòng kim cô" chỉ tiêu: Xí nghiệp Đồ hộp xuất khẩu TP.HCM vì thiếu miếng lót cao su dưới nắp hộp trái cây xuất khẩu nhưng đến mua ở Công ty Cao su miền Nam không được. Lý do: không có chỉ tiêu kế hoạch. Xí nghiệp cầu cứu Ủy ban Kế hoạch TP thì nơi đây chuyền "quả bóng" cho Ủy ban Kế hoạch nhà nước.

Cảnh thường thấy thời bao cấp: hành khách đu bám chật cứng bên ngoài cửa sổ xe đò (ảnh chụp ngày 5-3-1985) - Ảnh tư liệu báo Tuổi Trẻ

Sau khi cân đối đầu ra - đầu vào, Ủy ban Kế hoạch nhà nước đồng ý giao chỉ tiêu 300kg mủ cao su cho xí nghiệp nhưng đó là chỉ tiêu năm tới. Hỡi ôi, trái cây không thể chờ sang năm mới đóng hộp xuất khẩu. Xí nghiệp không thể chịu chết vì cái chỉ tiêu kế hoạch vô hồn. Bà giám đốc xí nghiệp sực nhớ có quen ông giám đốc Nhà máy cao su Sao Vàng Hà Nội. Đánh liều bay ra đàm phán với "ông Sao Vàng", "bà Đồ Hộp" vay được 300kg mủ cao su quí ơi là quí. Sau đó xí nghiệp không có mủ mà trả, đành trả bằng đồ hộp. "Ông Sao Vàng" càng mừng vì có quà cải thiện đời sống công nhân.

Cuộc sống quá khốn khó, động lực sản xuất, tinh thần trách nhiệm ngày một tiêu hao, nhiều căn bệnh phát sinh ở hầu hết các nhà máy xí nghiệp. Điển hình nhất là tệ ăn cắp. Ông Nguyễn Xuân Hà (nguyên giám đốc Công ty dệt Thành Công) vẫn còn nhớ kỷ niệm buồn: năm 1982, khi ông chuyển sang làm giám đốc Công ty dệt Thắng Lợi, có 5.000 công nhân nhưng tệ nạn trộm cắp trong nhà máy quá mức khủng khiếp.

Trong ba tháng thực hiện "bàn tay sạch", nhà máy bắt được 15 kẻ gian trong đó có năm đảng viên. Thậm chí cả bí thư chi bộ cũng lấy cắp môtơ. Trộm cắp được lập thành băng nhóm trong cơ quan, liên kết với bên ngoài và thực hiện bằng các thủ thuật rất tinh vi. Nhưng khi tìm hiểu thì hầu hết thủ phạm đều từng là những người lao động rất tốt nhưng vì hoàn cảnh túng bấn nên họ nhắm mắt làm liều.

Xe chạy xăng thành... chạy than

Ông Trần Văn Khang, nguyên giám đốc Công ty công tư hợp doanh Điều hành bến xe miền Tây, nói: sau giải phóng vài năm thì xăng không đủ cấp cho xe chạy. Những xe chạy xăng thời đó là loại hiện đại, máy móc tốt nhưng chẳng lẽ để đắp chiếu. Một đề tài khoa học rất... nổi tiếng thời đó có khả năng biến loại động cơ hiện đại lùi lại hàng trăm năm đã được áp dụng. Đó là cải tạo xe chạy xăng thành chạy than.

Thế là từ vận tốc 70-100km/g thành 20-35km/g. Từ êm nhẹ chiếc xe thành con quái vật không ngớt kêu gào. Xe chạy đến đâu, lửa, xỉ than rơi vãi ra đường đến đó và lửa từng làm cháy rừng khi đi qua rừng núi. Hành khách, nhà xe mặt lúc nào cũng đen như người âm phủ. Gặp dốc lớn, tất cả lại xuống xe: 1- 2 -3 hò dô ta... đẩy xe lên dốc.

Bến xe miền Tây (TP.HCM) hai mươi mấy năm trước khi thành phố chỉ có 1/4 lượng khách so với bây giờ, nhưng cảnh chen chúc vạ vật của người chờ xe không khác gì chạy loạn. Nhiều người đi từ tờ mờ sáng, ngoài tư trang, hàng hóa, họ còn đem theo một viên gạch. Đến cửa quầy bán vé khi trời chưa rõ mặt người, hành khách đã đua chen nhau đặt hòn gạch để xí chỗ xếp hàng mong mua vé trước. Vậy mà không ít người đợi đến 2-3 ngày vẫn không mua được vé, đành ra về. Lễ tết thì khỏi phải nói.

Bến xe phía Nam (Hà Nội) cũng y như thế. Thời bao cấp không mấy khi hành khách mua được vé trực tiếp từ bến xe mà chủ yếu là vé chợ đen. Riêng bến xe Kim Liên - Hà Nội (cũ) lúc nào cũng có 5-7 băng nhóm phe vé. Mỗi nhóm 5-7 người. Bọn họ bám chặt và sống ký gửi vào bến xe này với công việc duy nhất: mua càng nhiều vé xe càng tốt. Ngày đó những cảnh như một bà lão còng lưng dốc hết tay nải để tìm những đồng tiền cuối cùng nhưng vẫn không đủ đòi hỏi của tay phe vé. Bà phải rớt chuyến. Những hành khách tội nghiệp như bà vừa khóc vừa liêu xiêu giữa bến xe chiều không phải là chuyện hiếm.

Lái xe Trần Văn Thành than: hành khách khốn khổ thì phận lái xe cũng rất khốn nạn. Săm lốp, phụ tùng, thùng, máy, xăng dầu... đều được tính theo chỉ tiêu (tính số kilômet vận hành để được cấp mới hay trung đại tu) nhưng cái chỉ tiêu ấy chỉ có thể áp dụng trên giấy vì nó rất phi lý. Hỏng hóc thiếu thốn, chắp vá đủ kiểu nhưng vẫn không thể sống được. Nhiều người bỏ xe giữa đường, bỏ nghề, bỏ cơ quan về luôn.

Mấy tháng sau, địa phương yêu cầu công ty mới cho xe ra kéo cục sắt ấy về. Ai không dám bỏ nghề thì buộc phải bỏ tiền túi mà cải tạo. Tiền đâu? Lại phải buôn hàng lậu (thật ra chỉ là gạo, thịt, mắm muối, xà phòng...) hay bắt thêm khách, lại phải lo lót, luồn cúi... Trong giới lái xe cũng có rất nhiều người đã phải bán nhà để sửa xe cho Nhà nước. Cho đến tận bây giờ nhiều người khi đã bỏ nghề chạy xe vẫn không mua nổi căn nhà cũ để ở.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Đêm trước" đổi mới: Khi chợ trời bị đánh sập

TT - Chuyện mua bán thời bao cấp với cảnh ngăn sông cấm chợ, giá dưới đất giá trên trời, mua không được bán không xong... là kết quả của quá trình siết chặt quá nóng vội, mạnh tay. Ông Hà Đăng (nguyên tổng biên tập báo Nhân Dân) gọi đó là "một đêm đánh sập chợ trời".

Thời của trạm gác

Một chiếc xe tải lấm đầy bùn đất xịt khói đen chạy ầm ầm qua đường. Thùng xe bịt một tấm bạt lớn đập phần phật. Đi ngược nó là đoàn xe công tác của cán bộ. Và lập tức ông cán bộ cho quay xe đuổi theo. Đến ngang chừng chiếc xe tải, ông rút súng ngắn chĩa lên trời bắn ba phát đạn đanh giòn rợn tóc gáy.

Chiếc xe tải sợ hãi dừng lại. Người rượt đuổi là một ông phó chủ tịch UBND tỉnh muốn kiểm tra hàng lậu. Ông Chín Cần (Nguyễn Văn Chính), nguyên bí thư Tỉnh ủy Long An, kể lại câu chuyện mà ông được chứng kiến tại tỉnh mình vào thời kỳ bao cấp với mệnh lệnh cấm buôn bán tự do như thế.

Chiếc xe tải đó thật ra giống như bất cứ phương tiện nào. Cứ có dấu hiệu chở được thứ gì đó thì sẽ bị cán bộ kiểm tra. Bởi tất cả mọi thứ hàng hóa không phải của ngành thương mại thì đều là hàng lậu. Trong khi cuộc sống đang cần càng nhiều hàng thì nguồn cung từ quốc doanh chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ.

Chính vì vậy mà gạo, thịt, bánh kẹo, bột giặt, áo quần, mũ dép... đều có thể là hàng lậu ở bất cứ nơi nào, lúc nào... Thời đó, người dân nào cũng có thể là "con phe" (dân buôn lậu) nên cán bộ chống buôn lậu rất nhiều. Công an, thuế vụ có thể kiểm tra xét hỏi bất cứ chiếc bì, thúng, sọt, túi... của ai, ở đâu.

Ngoài hai lực lượng này, mọi cán bộ nhà nước đều có thể bắt hàng lậu. Ông Chín Cần kể: "Một đoạn đường vài cây số nhưng có tới hơn chục trạm gác kiểm soát hàng hóa. Những trạm gác này thường bắt được những ông cán bộ mặc quần hai lớp để đựng gạo, chị hàng thịt cuốn quanh người những tảng mỡ heo rồi mặc áo trùm bên ngoài.

Và đặc biệt nhất là chuyện chở heo trốn qua trạm gác. Một con heo 60kg đã mổ thịt lấy đi lòng, tiết chở ra chợ bằng cách chằng sau yên xe với tư thế ngồi chạng chân sang hai bên. Áo mưa trùm kín "người" rồi đội cho chú "heo người" một cái nón lấp mặt.

Khi qua trạm gác, trời mới tang tảng sáng, người "mẹ" vừa đạp xe vừa quàng tay ra phía sau vỗ về và nhắc nhở "con" đóng giả mẹ chở con đi học. Tuy nhiên cái cảnh "gia đình đầm ấm" ấy sau cũng bị cán bộ phát hiện.

Và người dân lại tìm những cách khác để đối phó với mạng lưới chống buôn lậu. Mục đích cuối cùng của người dân chỉ là mong bán được những thứ mình làm ra để lo cho cuộc sống.

Bà Tư Tây (ở ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Bình Thạnh, Châu Thành, An Giang) cùng các cháu nội ngoại trong kho lúa gia đình. Ngày xưa làm được chút lúa bà phải chôn giấu, nay thì mua bán tùy thích - Ảnh: Q.Thiện

Mua như cướp

Thời ấy, bà Tư Tây, nông dân ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang) có 50 công ruộng. Mỗi năm thu hoạch hơn trăm giạ lúa. Theo qui định của Nhà nước, nhà bà chỉ được giữ lại khoảng 60% (đủ để ăn), số còn dư buộc phải bán cho Nhà nước.

Giá bán thấp hơn tiền vốn bỏ ra nên nhà bà cũng như tất cả những nông dân trong vùng đều cố gắng tìm cách giấu lúa không cho chính quyền biết. Cuối vụ từng đoàn cán bộ, có khi cả du kích đeo súng vào từng nhà đo bồ (kiểm tra lúa).

Ai thừa định mức bị buộc phải bán tại chỗ. Có vụ, nhà bà phải xay thành gạo và giấu trong tủ thờ. Đến khi mở ra thì chuột ăn hết quá nửa. Có nhà, vợ giấu gạo, cầm chìa khóa đi vắng, chồng con ở nhà phải nhịn đói...

Để giấu lúa qua trạm thời đó bà con thường làm ghe, xuồng có hai đáy, khi vận chuyển thì đổ trấu lên đáy trên, đựng lúa ở đáy dưới. Trong nhà thì họ khoét rỗng đống rơm rồi thả lúa vào giữa... Người dân Bến Tre thường đi xuồng xuống Cà Mau mua lúa.

Mỗi chuyến đi cả trăm cây số nhưng cũng chỉ có thể mua 1 tạ trở xuống. Dọc tuyến đường độc đạo này có rất nhiều trạm gác. Có lần một bà nông dân bị cán bộ phát hiện chở lúa. Cán bộ bê bao lúa lên thì bà ta ngất xỉu. "Họ uất ức quá, gia đình đói khổ, quần áo te tua, đi mấy ngày mới tới Cà Mau, cả tuần lễ mới mua được bì lúa. Cả nhà trông vào đó...".

Chuyện thu mua lúa hay thu mua vải đều giống nhau cả. Năm 1978 giá thành 1m2 vải calicot sản xuất tại xưởng của Công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng. Thế nhưng tất cả lượng sản phẩm có được, công ty đều phải bán cho Nhà nước với giá 1,2đ/m2.

Giá thành 1m2 vải dệt theo kiểu oxford hết 10đ nhưng công ty phải bán cho Nhà nước giá 9đ/m2. Giá của hai thứ vải trên nếu bán ở thị trường tự do thì cao gấp 10-12 lần. Tương tự như vậy, tất cả mọi sản phẩm công ty sản xuất được đều chung tình cảnh trên.

"Sau bao nhiêu ca lao động cật lực để vượt qua những khó khăn mà Nhà nước không thể hỗ trợ như máy hỏng, nguyên nhiên liệu, vốn... thiếu thì nhà máy mới ra đời được một lượng hàng ít ỏi. Thế nhưng nhìn cảnh đóng hàng xuất cho nội thương với giá thấp hơn vốn bỏ ra, cán bộ công nhân rơi nước mắt...".

Ông Trần Đức Nguyên, nguyên trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng, cho rằng cái từ "thu mua" (vừa thu vừa mua) được hình thành từ thực tế này. Còn dân gian gọi đó là: mua như cướp. Và chuyện "thu mua" tồn tại dưới nhiều hình thức: mua theo giá nghĩa vụ, mua theo giá khuyến khích, bán theo cơ chế có thưởng...

Mục đích là loại bỏ thị trường tự do nhưng cả về thực tế (Nhà nước không đủ hàng) lẫn lý thuyết (giá Nhà nước phải căn cứ theo giá chợ để hình thành) thì hệ thống thị trường chính thống lại bị phụ thuộc vào thị trường tự do.

Bán như cho

Nhà có con rể mới từ chiến trường trở về, bố vợ muốn mua tặng con một đôi dép nhựa và sắm thêm đôi chiếu cói. Ông đi bộ 18km để lên cửa hàng mua bán của huyện. Tới nơi, cô mậu dịch viên vừa cắm cúi thêu khăn vừa nói vọng lên: "Hết hàng!". "Vậy đôi này thì sao?". Hỏi đến ba lần ông mới được cô ta gắt lên: "Mắt ông để đâu vậy? Không nhìn thấy bảng "hàng mẫu không bán" à?".

Về nhà có người mách ông phải gặp kẻ môi giới và trả thêm tiền mới mua được. Chạy vạy mấy ngày, trả thêm gấp đôi tiền cùng rất nhiều lời cảm ơn, cảm tạ cuối cùng ông cũng mua được đôi dép và cặp chiếu cói. Câu chuyện trên của ông Nguyễn Đình Kiên, xã Gia Trung, huyện Gia Viễn (Ninh Bình) về tình trạng quá bình thường của bản thân ông cũng như của tất cả mọi người sống trong thời bao cấp.

Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Mua cây kim cuộn chỉ hay cái bấc đèn cũng cực kỳ khó khăn. Nhà nước bán hàng dưới giá thành và cũng thấp hơn giá chợ (bán phân phối), hàng hóa không đủ

1/10 nhu cầu nên nhân viên thương nghiệp kênh kiệu, xem thường khách hàng vô cùng. "Bán như cho" là lời cửa miệng đầy xót xa của thời ngăn sông cấm chợ lúc bấy giờ.

Các chuyên gia kinh tế bao cấp nghĩ rằng Nhà nước bán rẻ (dưới giá thành) cho dân những mặt hàng thiết yếu thì Nhà nước cũng phải mua sản phẩm của họ với giá rẻ (dưới giá thành). Phần chênh lệch sẽ được tính tương đương nhau, không bên nào bị thiệt mà vẫn ổn định được nhu cầu của mình.

Cả xã hội lúc ấy trở thành một thị trường mua không được bán cũng không xong. Và khi không đủ hàng hóa để cung cấp, sự thất thoát giữa các khâu phân phối trung gian quá lớn thì thương mại quốc doanh trở thành một thứ ân sủng đối với người tiêu dùng. Vì thế thị trường tự do không thể bị xóa bỏ triệt để nhưng cũng không ngừng bị bóp nghẹt. Nó đã đẻ ra môi trường màu mỡ cho những thủ đoạn tiêu cực như móc ngoặc, chà đạp, tham ô, đầu cơ. Hàng hóa đã khan hiếm lại bị đủ thứ trò mánh mung, thiệt thòi nhất vẫn là kẻ mua mà mặt mày thường cứ như người "mất sổ gạo".

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Đêm trước" đổi mới: Công phá "lũy tre"

TT - Thành trì hợp tác xã (HTX) nông nghiệp vừa siết lại ở miền Nam đã đưa đẩy người dân vào cảnh bát cơm độn với ngô khoai. Mọi người đều cảm thấy bức bách tìm đường thoát. Và cái chuyện ngăn sông cấm chợ rồi cũng bị công phá nốt.

Trả lại nông cụ cho dân

Linh hồn của HTX và các tập đoàn sản xuất là công hữu hóa tư liệu sản xuất (ruộng đất và nông cụ). Cuối năm 1978, An Giang quyết định thành lập HTX Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành làm nhân tố điển hình để mở rộng phong trào hợp tác hóa.

Ông Sáu Kiệt, nguyên chủ nhiệm HTX Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành, An Giang, kể: vận động bà con vào HTX, công an còn phải đứng bên bờ yêu cầu nông dân phá hết rau để giao đất cho HTX.

Ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên bộ trưởng Nông nghiệp, từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng có một con trâu, chồng nghe vận động vào HTX, vợ thì không. Khi ra đồng, chồng đòi dắt trâu cày cho hợp tác, vợ giằng lại thừng để cày cho ruộng nhà.

Không thể chống nhiệm vụ được HTX giao, chồng phải trói vợ giữa đồng để cày xong mới thả cả người lẫn trâu... Rồi mạ chết rét, thời vụ sắp hết, loa HTX gọi xã viên ra đồng cấy dặm nhưng từng đoàn người uể oải dắt díu nhau như đi hội. Vừa làm vừa ngẩng đầu tán gẫu chờ kẻng nghỉ trưa.

Và dù không thiên tai thì năm nào cũng như mất mùa... Cảnh cha chung không ai khóc bao trùm lên tất cả các HTX lúc bấy giờ. Cuối mỗi buổi làm, cán bộ HTX ghi điểm từng người. Chỉ cần đánh trống ghi tên là được. Điểm này sau qui ra thóc với giá rất rẻ rúng.

Làm ăn như vậy, cuối vụ thóc thu về bằng 1/4 thời chưa vào hợp tác. Ai dành dụm được chút lúa thì phải bán cho Nhà nước, cấm mang ra chợ. Giá Nhà nước mua chỉ bằng 1/10 giá chợ và không đủ hoàn vốn đầu tư.

Thời trước bà con xã Hòa Bình Thạnh đã đầu tư rất nhiều máy móc phục vụ sản xuất. Toàn xã 900 hộ có hơn 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới... Vận động bà con vào HTX rất khó nhưng lãnh đạo ra chủ trương bằng mọi giá phải công hữu hóa hết số máy móc nông cụ.

Tất nhiên việc ấy thì làm được nhưng hầu hết các chủ máy đều rất miễn cưỡng vào tập thể. Họ nói đây là thứ tài sản lớn, nhiều năm chắt chiu mới có được. Thứ hai phải "hiểu" nó, "yêu" nó thì nó mới sống mà nuôi người được.

Nay đưa vào hợp tác, thu nhập tính bằng công lao động, máy giao người khác như vậy là họ mất không... Thế là dù phải nộp máy cho hợp tác nhưng họ cố tình tháo bớt phụ tùng. Có người chặt gần đứt cả xích, cưa cả trục máy rồi mới giao HTX.

Số máy có thể hoạt động thì những chủ cũ không chịu điều khiển hoặc không được điều khiển nên giao cho chủ mới. Chủ mới thường thiếu kỹ thuật hoặc thiếu tâm huyết nên chẳng mấy chốc cũng lại để đắp chiếu.

Thế là sau một vụ, 100% đầu máy nông nghiệp của xã phải nằm kho, hàng trăm hecta đất không làm kịp vụ phải bỏ hoang.

Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nhớ rất rõ: lúc ấy tỉnh gần như hoàn thành chỉ tiêu hợp tác hóa bằng các tập đoàn sản xuất và HTX. Nhưng đồng hành với việc này là 20.000ha diện tích đất bỏ hoang (chiếm gần 10% tổng diện tích) vì lý do trên.

Không có cách nào khác để khắc phục ngoài việc phải trả máy cho dân. Tuy nhiên, ý tưởng này là trái với ý chí công hữu hóa tư liệu sản xuất. Ông Hơn yêu cầu phải nghĩ cách. Ban đầu tỉnh xin Nhà nước kinh phí để mua máy mới và sửa chữa máy cũ vì an ninh lương thực bị đe dọa.

Tất nhiên trung ương lúc ấy lấy đâu ra ngân sách để mua máy nên đã trả lời không có. Vậy các tập đoàn, HTX muốn hoạt động được phải bỏ tiền ra mà mua, mà sửa máy. Tỉnh ra công văn yêu cầu những đơn vị đó thực hiện ngay.

Với HTX, tập đoàn thì việc này hơn là đánh đố vì làm sao có tiền? Nếu không tiền thì bán lại những cái đống sắt vụn đó cho dân. Tất nhiên phải bán đúng giá mà trước đây các anh đã mua (rất rẻ và chủ yếu nợ trên giấy tờ) của dân và phải bán lại đúng người chủ cũ của máy thì họ mới vận hành được.

May quá, các tập đoàn gỡ được thế bí, thi nhau gọi dân đến bán máy mà thật ra là trả lại cho chủ cũ. Nông dân mừng khỏi phải nói. Và không đầy nửa vụ, toàn bộ những đống sắt phế liệu lại trở thành chỗ dựa cho hạt lúa và người dân An Giang khi chạy xình xịch trên các cánh đồng.

An Giang đã "xé rào" một cách hợp pháp và ngoạn mục như vậy. Đây cũng là phát súng đầu tiên và mang tính quyết định trong chiến dịch giải thể các HTX và tập đoàn sản xuất nông nghiệp của tỉnh, mở ra một hướng đột phá mới.

Những mũi đột phá như thế, đặc biệt là khoán chui ở Vĩnh Phú, rồi ở Đoàn Xá, Đồ Sơn (Hải Phòng) đã đẩy đến điểm chín muồi cho sự ra đời chỉ thị 100 (tháng 1-1981). Văn bản chính thức này cho phép áp dụng "khoán 100" (khoán ba khâu: cấy lúa, chăm bón, thu hoạch) trên cả nước. Đèn xanh đã bật nhấp nháy chuẩn bị cho khoán triệt để (khoán 10) giao đất cho dân, bỏ công điểm... sau năm 1986.

Mở chợ khơi sông

Một trong những yếu tố gây ức chế nhất cho nền kinh tế lúc đó là chính sách giá mà nổi cộm và có ảnh hưởng lớn nhất là giá thu mua lương thực. Điều này không phải những người làm chính sách không nhận thức đầy đủ mà là cuộc đấu tranh giữa hai luồng ý kiến chưa ngã ngũ.

Theo chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong, một số cán bộ cốt cán của Ủy ban Vật giá (UBVG) bảo vệ cơ chế và mức giá cũ với lý lẽ CNXH là ổn định giá chỉ đạo, cách duy nhất có thể đảm bảo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Những trục trặc hiện nay trên thị trường là do lãnh đạo địa phương chưa thông, chưa làm tốt, HTX còn nặng tư tưởng tư hữu... Trong khi Bộ Nông nghiệp và Viện Kinh tế học có ý kiến ngược lại.

Có lần, tại diễn đàn Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, ông Trần Phương, viện trưởng Viện Kinh tế học, phát biểu: cơ chế thu mua này là mua như cướp bán như cho. Cách tính giá của UBVG là sai vì đã không tính đến điều kiện thị trường, sự bất cập trong cơ chế cung ứng vật tư của Nhà nước hay nhu cầu ngày càng tăng của nông dân...

Một người trong hội trường chất vấn: Đây là ý kiến cá nhân hay trung ương? Ông Phương trả lời: Đây là ý kiến trung ương giao tôi trình bày. Đây cũng là ý cá nhân nhưng là ý của đồng chí tổng bí thư...

Sự phản đối cơ chế thu mua này diễn ra ở cơ sở tuy âm thầm nhưng mạnh mẽ hơn nhiều. Làm việc với lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL, một cán bộ UBVG thuyết giảng: những người cộng sản chúng ta lấy lập trường của CNXH hay lập trường thị trường tự do để làm giá?

Ông Bảy Phong, chủ tịch tỉnh Đồng Tháp lúc đó, trả lời: "Nếu nói phẩm chất người cộng sản thì chúng tôi không thua bất cứ ai. Khi chúng tôi lăn lộn đánh Mỹ thì các anh đang ở đâu, làm gì? Đánh Mỹ xong, chúng tôi đi theo CNXH. Nhưng CNXH gì mà mua không được, bán không được.

Người nông dân có thể cho chúng tôi hàng trăm ngàn tạ lúa để đánh Mỹ. Nhưng bây giờ nói mua phải đúng là mua, nói bán phải đúng là bán. Cơ chế mua không được, bán không được trong khi lúa đang còn thì đấy có là CNXH không?".

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng ấy, An Giang chỉ tính toán bằng những phép tính đơn giản. Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nói: năm 1980, khi ông làm chủ tịch tỉnh, trung ương chuyển cho An Giang một lượng hàng tiêu dùng là săm lốp xe đạp, đường, sữa, vải, xà phòng... tương ứng với nghĩa vụ An Giang phải thu mua và nộp về trung ương 100.000 tấn lúa.

Nhiệm vụ này rất khó vì giá lúa ngoài chợ khi ấy cao gấp 10 giá Nhà nước mua. Nông dân không muốn bán cho Nhà nước. Ngược lại, với lượng hàng trung ương phân bổ, tỉnh cũng phải bán cho dân với giá qui định.

Giá đó cũng thấp hơn giá chợ, thấp hơn giá thành của nó nhiều lần. Song giá bán ấy hàm chứa rất nhiều tiêu cực, bất công như đầu cơ, móc ngoặc, tham ô, cửa quyền, nhũng nhiễu...

Cả hai bài toán này đều chung một cách giải đơn giản: tỉnh bán hàng theo giá chợ và lấy tiền đó cũng mua lúa theo giá chợ. Mạnh dạn thực hiện, năm đó An Giang mua được 160.000 tấn lúa, vượt chỉ tiêu 60.000 tấn mà vẫn còn thừa 10 triệu đồng...

Nông dân, Nhà nước đều có lợi... Đồng hành với những mũi tấn công vào cơ chế giá, ở TP.HCM, Công ty Lương thực thành phố cho xe tràn xuống ĐBSCL mua lúa giá chợ về bán cho 3 triệu dân thành phố tuy có tiền nhưng đang phải ăn độn.

Sau cuộc cải cách đó, chủ nhiệm UBVG đương nhiệm chuyển công tác khác. Ông Đoàn Trọng Truyến được cử về thay và tham gia điều hành cuộc tổng điều chỉnh giá. Ông Nguyễn Văn Hơn, bí thư An Giang, tác giả của đột phá ở tỉnh, đến năm 1982 chuyển ra trung ương nhận chức thứ trưởng Bộ Nông nghiệp.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Đêm trước" đổi mới: Chiếc áo cơ chế mới

TT - Sài Gòn sau ngày giải phóng giữa lúc bộ mặt sản xuất ngổn ngang thì hai vợ chồng chủ Hãng dệt Tái Thành (tức Dệt Thành Công sau này) là Huỳnh Ngọc Thái và Đoàn Thị Mỹ đã hiến cho Nhà nước toàn bộ cơ ngơi một nhà máy lớn nhất nhì ngành dệt may thành phố lúc bấy giờ.

Kỳ 1:"Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

Kỳ 2: "Vòng kim cô"

Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

Khi kỹ sư dệt đi vỡ hoang

Ông Nguyễn Xuân Hà, vị giám đốc đầu tiên của Dệt Thành Công (sau giải phóng), còn nhớ: xí nghiệp có hơn 100 cỗ máy, gần 20.000 cọc sợi và 300 công nhân lành nghề luôn cho ra đời mỗi năm 2,4 triệu m2 vải dệt kiểu ôxpho - mặt hàng cao cấp nhất lúc đó. Thời gian đầu máy móc hoạt động bình thường nhưng đến cuối năm 1979 tình hình xấu dần. Ban đầu là máy hỏng vài con ốc.

Tiếp đến cái bánh răng, cuộn dây và cuối cùng là cỗ máy thứ nhất đắp chiếu, ba bốn dàn máy khác trục trặc. Theo qui trình kỹ thuật thì phải bảo dưỡng và thay thế định kỳ, nhưng nay không thể bởi dây chuyền này nhập khẩu từ Mỹ và Nhật - những quốc gia tư bản "ta không chơi".

Nhưng khốn khổ nhất là kho nguyên liệu dự trữ của Tái Thành đã hết. 80% dây chuyền tạm ngừng sản xuất. Bộ phận nhỏ còn lại dệt may những sản phẩm phụ. Không thể xoay nghề khác vì thiếu vốn.

Về nguyên tắc Nhà nước cấp vốn theo kế hoạch từng năm, nhưng thực tế thì chưa năm nào Thành Công được cấp quá 20% nhu cầu. Công nhân không việc làm, đời sống ngày một quẫn bách. Nguồn thu nhập nhỏ nhoi nhất là vải vụn, tơ rối (phụ liệu) có thể làm găng tay, thú nhồi, mũ, túi cũng phải nộp lại Nhà nước.

Ban lãnh đạo công ty liên hệ với các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai đưa công nhân đi trồng trọt, chăn nuôi cải thiện đời sống. Nhưng do không nghề, không vốn và không cả tinh thần làm việc nên sau hàng chục tháng lại về không.

Công ty ngày đó bố trí một bữa cơm ca trưa cho công nhân. Ai cũng cố ăn thật no để buổi chiều về có thể nhường cơm cho gia đình. Có người vì ăn quá no đi lại ì ạch như bà đẻ, không làm việc được trông vừa buồn cười vừa tội nghiệp.

Tìm kẽ hở của chính sách

Lúc này chìa khóa của Dệt Thành Công là ngoại tệ. Có ngoại tệ sẽ có phụ tùng và nguyên liệu. Nhưng Nhà nước không có ngoại tệ cấp cho doanh nghiệp. Vậy đào đâu ra? Thì ra trong lớp lớp lưới tường ngăn, rào chắn vẫn có những khe ngoại tệ chảy vào VN.

Đó là những doanh nghiệp du lịch, bến cảng và xuất khẩu thủy sản. Ban lãnh đạo công ty quyết định tiếp cận những nguồn này. Gõ cửa các công ty: Du lịch Sài Gòn, Thủy sản Ramico, cảng Sài Gòn, giám đốc Nguyễn Xuân Hà bắt đầu "thuyết khách": Tôi bán vải sợi cho anh để anh bán lại cho dân và mua cá. Cá xuất khẩu thu ngoại tệ thì xin anh trả vốn cho tôi bằng ngoại tệ.

Với du lịch và cảng biển thì anh cứ bày bán ở cửa hàng cho khách nước ngoài (nếu anh bán cho khách nội địa thì chạy hàng hơn đấy!). Tiền gốc anh trả tôi nhưng hãy làm ơn trả bằng ngoại tệ...

Không biết bởi may mắn, bởi tài "du thuyết" hay bởi đó cũng là khát vọng chung của những trái tim tâm huyết... mà các đối tác đều OK. Vấn đề tiếp theo là phải có hàng. Muốn có hàng phải có nguyên liệu. Nguyên liệu phải nhập. Nhập phải có đôla... Có nghĩa là phải có đôla trước thì mới đẻ được đôla sau. Đôla trước chỉ có cửa duy nhất là ngân hàng.

Tìm mãi, giám đốc Nguyễn Xuân Hà đã gặp được giám nhiên vay 180.000 USD thì phải làm phương án. Sau hai đêm, phương án ra đời: vay 180.000 USD. Trong số đó, 120.000 USD để mua 40 tấn sợi. Còn lại mua hóa chất, phụ tùng, thuốc nhuộm. Sợi này sẽ sản xuất được 80.000m2 vải. Vải bán cho hải sản, cảng biển và du lịch. Các cơ sở đó xuất khẩu thu ngoại tệ và trả vốn cho Thành Công bằng ngoại tệ. Tiền này thừa để trả ngân hàng, nuôi công nhân, cải tạo dây chuyền, tích lũy và nộp ngân sách. Thế nhưng theo qui định, phương án này phải được bộ chủ quản duyệt.

Chao ôi hồ sơ vay vốn, tự mua nguyên liệu giá ngoài, tự sản xuất theo kế hoạch riêng rồi tự bán ra ngoài... toàn những điều cấm kỵ này mà đưa ra Hà Nội không những không thể được duyệt mà có khi còn bị kỷ luật. Phải tính! Lãnh đạo Bộ Công nghiệp nhẹ có nhân vật đổi mới, thoáng nhất là thứ trưởng Vũ Đại.

Muốn thuyết phục được ông này thì phải gặp riêng và nhất định không phải ở bộ. Thế là đúng lúc thứ trưởng Vũ Đại vào Nam công tác, ông Hà đem một phương án "động trời", một kế hoạch thu phục nhân tâm và một tấm lòng thành khao khát... đệ trình.

Cuối cuộc trao đổi, ông Đại hỏi: "Ừ, hay đấy! Nhưng tớ ký (phương án) có sao không?". "Anh phải ký ngay thì cái hay mới thành sự thật. Chứ đem ra bàn thì hỏng!". Roẹt! Thứ trưởng ký! Nhưng chưa có dấu. Không sao, chủ phương án sẽ ra Hà Nội lấy dấu.

Theo tình quên lý

Dệt Thành Công bàn nhau: mọi việc đã ổn. Bộ đã đồng ý. Trong kho còn một ít hàng cầm cự. Mình sẽ không bán cho nội thương (theo giá qui định) mà lén bán cho các công ty du lịch, thủy sản lấy ngoại tệ. Tháng 8-1980, họ âm thầm xuất lô hàng đầu tiên cho khách hàng mới.

Thật bất ngờ, người ta tranh nhau mua, có người còn đặt tiền trước, hẹn hò khăng khít lắm. Trong đầu ông Hà nảy ra một phép tính mới. Nếu theo đà này, 40 tấn sợi của phương án vay chỉ đủ dùng trong sáu tháng. Đằng nào cũng xin thì xin cho đủ.

Lập tức ông hoãn ngày xin dấu, viết lại phương án 2. Phương án này xin vay số tiền gấp chín lần phương án cũ: 1,7 triệu USD. Không chỉ thế, ông Hà còn biến phương án 2 thành bản thuyết trình xin cơ chế riêng để Dệt Thành Công thoát khỏi cơ chế chỉ tiêu, để tự cân đối vốn, nguyên liệu, lương nhân công; được mở tài khoản tại VCB; được giao dịch và trực tiếp xuất nhập khẩu; được khoán quĩ lương.

Phương án này động đến chủ trương, chính sách, một mình thứ trưởng Vũ Đại không thể tự quyết. Hơn nữa đây là cơ hội cần thẳng thắn lên tiếng cho phương thức mới. Thay vì kín đáo tỉ tê, Thành Công chọn cách ra Hà Nội trực tiếp thuyết trình trước hội nghị của bộ về phương án của mình.

Thứ trưởng đồng ý. Nhưng hình như có mệnh. Cắp cặp ra sân bay, ông Hà nhận một tin mật báo: có một lô hàng 200 tấn sợi giá rẻ bất ngờ (500.000 USD). Chủ hàng đang rất cần tiền. Không mua ngay e muộn. Tiền chưa có. Vay thì chưa biết khi nào được lấy. Nhưng cơ hội ngàn năm có một này cũng không thể bỏ qua.

Quay trở về, ông Hà gặp giám đốc VCB thành phố trình bày. Nghe thì rất hiểu, tâm rất muốn nhưng thủ tục chưa có mà xuất hẳn 500.000 USD cho khách thì...

Chuyện này có thể đi tù chứ không đùa. Nhưng lẽ nào... Giám đốc VCB TP.HCM nắm chặt tay đối tác: "Thôi được, dù phải hi sinh chúng ta cũng vì sự nghiệp!". Thế là nửa triệu đôla được hai ông tiền trảm hậu tấu.

Chuyển hàng về kho, "hậu phương" của giám đốc Nguyễn Xuân Hà làm ông thêm vững tâm khi xách cặp ra Bắc. Đã được tính toán trước, hội nghị tiến hành đúng thời điểm những nhân vật "nguyên tắc"... đi vắng. Ông Hà đọc phương án và bảo vệ như luận án tiến sĩ. Thứ trưởng Vũ Đại chủ trì đồng thời đóng vai trò người hướng dẫn luận án.

Sau bốn tiếng vã mồ hôi bởi sự chất vấn, ông Hà thật sự được giải thoát khi ông Đại đứng lên kết luận: "Đây là mô hình mới, rất tiến bộ nhưng chắc chắn có khó khăn. Các vụ có trách nhiệm giúp đỡ doanh nghiệp chứ quyết không được xỏ ngang, xỏ dọc!". Liên hiệp Dệt được phép soạn hẳn một qui chế cho Dệt Thành Công.

Tiền sắp về đến công ty thì 200 tấn sợi trong kho ngày một lên giá. Sản phẩm bán ra theo giá mới. Riêng tiền chênh lệch đã đủ ăn cả năm. Có tiền, công ty áp dụng phương thức khoán sản phẩm, lương cán bộ công nhân cao gấp 5-6 lần năm trước. Không khí lao động hưng phấn cao độ.

Tiền, hàng, lợi nhuận ra vào như nước. Cuối năm đó không những trả hết vốn vay, Thành Công còn lãi gần 1 triệu USD. Đến năm 1981 quĩ ngoại tệ của Thành Công đã là 1,3 triệu USD, lương lao động cao gấp sáu lần doanh nghiệp khác.

Và quan trọng hơn Thành Công đã minh chứng cho một cơ chế kinh tế mới cực kỳ ngoạn mục. Kế hoạch sản xuất do doanh nghiệp tự cân đối theo thị trường và thực lực. Tự mua nguyên liệu, tự kiếm vốn lưu động. Sản phẩm bán theo giá thị trường.

Người luôn ủng hộ và theo dõi từng bước đột phá của Dệt Thành Công là Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Văn Kiệt lúc đó. Ông hiểu rằng bước đột phá này sẽ đẩy tới những đột phá khác. Quả thật sau đó thuốc lá, bột giặt, cơ khí, rượu bia... cũng rùng rùng chuyển động.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Đêm trước"đổi mới: Tưởng như xa xôi lắm

Kỳ 1:"Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

Kỳ 2: "Vòng kim cô"

Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

kỲ 5: Chiếc áo cơ chế mới

Nối tiếp mạch chuyện đột phá từ An Giang, chúng tôi xin phép tạm để lại bài "Bù giá vào lương" như đã giới thiệu số trước để đăng ngay bài viết của tác giả Nguyễn Minh Nhị - người từng có vai vế và hiểu rõ nội tình "đêm trước" đổi mới ở An Giang.

Mười năm miền Nam trong cơ chế tập trung bao cấp sao mà dài quá và chuyện từ giã cơ chế ấy cũng chỉ mới đây thôi mà tưởng như xa xôi lắm. Tôi gần như quên rồi. Đó là thời kỳ mà thành quả kinh tế tưởng tượng rất lớn, nhưng thành tích cụ thể rất nghèo nàn.

Bệnh nói dối bắt đầu

Sau giải phóng, có những thời điểm quan trọng của đất nước tôi không có mặt tại vị trí công tác. Năm 1975 tôi đang dự lớp học ngắn ngày ở Hà Nội sau khi dự lễ Quốc khánh lần thứ 30 tại Ba Đình lịch sử. Cải tạo công thương nghiệp với các chiến dịch kê biên, quản lý rầm rộ thì tôi đang học hai năm cũng ở Hà Nội.

Tôi hơi buồn vì không có dịp lập công, nhưng sau đổi mới tôi mừng hú vía. Chỉ có cái chuyện cải tạo nông nghiệp mà tôi rất hăng hái - sau khi học xong chương trình lý luận cao cấp T.Ư, làm phó bí thư huyện ủy, trưởng ban cải tạo huyện Phú Tân - dù hăng hái nhưng vẫn không được mảnh giấy khen nào, kể cả suốt quá trình hơn 10 năm sau giải phóng. Trong thâm tâm tôi, cho đến tận bây giờ, đôi khi cảm thấy điều đó là hạnh phúc!

Ở huyện năm năm, kể cả hai năm đi học, tôi làm việc quên mình - trẻ tuổi mà. Những chuyện cười ra nước mắt như mọi người nhắc lại, tôi đều có biết hoặc có làm, kể hoài sao hết, nghe và đọc nhiều cũng nhàm, vì nó lặp đi lặp lại một cách đơn điệu và máy móc như được lập trình.

Nhưng có những cái thì không thể nào quên. Đó là điều tôi nhận thức và giác ngộ rằng làm những chuyện như vậy là lo cho dân, lo cho Tổ quốc VN XHCN hùng mạnh, cho không còn người bóc lột người.

Nhưng khi hướng dẫn đoàn thể và dân nghèo không đất (kể cả dân chạy xe lôi) để cấp đất thì người chủ đất (trung nông) mặt ủ mày chau chứ không phải hung hăng "chống người thi hành công vụ" như một số trường hợp bây giờ, còn người được nhận đất, có số lắc đầu bỏ về.

Chiều, tôi đến hỏi tại sao, được trả lời: "Đất của người ta mà lấy gì kỳ vậy". Tôi báo cáo việc này tại cuộc họp ở tỉnh, một đồng chí lãnh đạo tỉnh phán một câu "không ham đất, không nhận đất là không phải nông dân" (!).

Một buổi sáng năm 1979 tôi đến dự đại hội thành lập tập đoàn sản xuất số 1 ấp Thượng 1, xã Phú Mỹ. Khi đi ngang qua nhà các tập đoàn viên, tôi nghe một phụ nữ khoảng trên 40 tuổi nói to với con: "Ăn cơm lẹ đi để mà dự đại hội".

Lời thì thật mà giọng thì mỉa mai. Đến 9g mà chỉ có toàn con nít và đại diện các đoàn thể xã, ấp và mươi người dân không đất. Rồi đại hội cũng thành công. Đêm tôi không ngủ được với những câu hỏi cứ cật vấn: "CNXH là ưu việt, Đảng ta không có quyền lợi nào khác ngoài quyền lợi của dân, việc đưa nông dân vào HTX, tập đoàn sản xuất là vì họ chứ đâu phải vì ta.

Vậy tại sao dân chống? Cho đất để có ruộng cày mà sao có người lại không chịu...?". Trong bài thơ tặng Đại hội VI của Đảng, tôi tâm sự:

Nhưng đã mười một năm ai cũng nhận ra rằng

Đường hạnh phúc không phải trong gang tấc

Đã làm bạc những mái đầu ái quốc

Những suy tư khi nhắm mắt vẫn chưa rồi

Cảnh đói nghèo chạy gạo ngược xuôi.

Bởi vì: Đơn độc, xa dân dù ta có triệu con người

Cũng là chỉ bóng mờ trên đường thẳm.

Và: Đừng ban lệnh từ trên và cũng không dọa dẫm

Lệnh từ cõi chín tầng dĩ vãng đã lùi xa

Lòng từ bi từ cửa Phật ban ra

Đó cũng chỉ mới là lời cầu nguyện

Mọi ý cao siêu mọi điều phúc hạnh

Không phải từ tấm lòng mà phải từ cuộc sống đặt ra.

(Thơ Mở Đường - 1986)

Đầu tháng 9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước đoàn đại biểu miền Nam ra Hà Nội, đại ý: "Các đồng chí ra đây là đi thăm chơi, nghe và thấy về làm có chọn lọc, đừng bắt chước miền Bắc, làm rập khuôn HTX dân kêu lắm".

Hôm sau lên Tam Đảo, đến trước nhà nghỉ của cụ, cụ ra tiếp nói chuyện vui vẻ và nhắc lại lời nói trên một lần nữa. Nghị quyết của Ban Bí thư về tình hình miền Nam sau giải phóng tôi mới học cũng còn nói duy trì các thành phần kinh tế...

Vậy mà khi về, dự các hội nghị thì nghe "quyết liệt" quá, như chủ nghĩa tư bản chực nuốt ta và nếu cải tạo nền kinh tế tư bản ít năm sau là sẽ có CNXH ngay. Một không khí hừng hực cách mạng, căng thẳng không kém chuẩn bị đồng khởi.

Trong nội bộ bắt đầu có chuyện nhận xét về nhau và bệnh nói dối bắt đầu. Hôm du kích, công an xã Phú An rượt tịch thu bắt đàn vịt mấy trăm con của vợ đồng chí Bảy Hồ, phó bí thư huyện ủy. Vợ đồng chí ngăn cản, tẩu tán... Báo cáo được gửi về huyện.

Lý lẽ vịt ăn lúa còn ghê gớm hơn chim sẻ ăn lương thực ở Trung Quốc nên ai mà không sợ (!). Đồng chí Bảy Hồ rất trầm tĩnh, lắng nghe, còn bên ngoài thì cán bộ xầm xì về việc lãnh đạo không gương mẫu.

Tôi nghe sao ray rứt, bần thần cho chủ trương và thương cho đồng chí mình quá! Phía sau văn phòng huyện ủy có mảnh đất sản xuất lúa hai vụ rất tốt, đang sản xuất 6 tấn/ha, vậy mà khi thành lập HTX Phú Mỹ 1 năng suất chỉ còn trên dưới 3 tấn/ha.

Đây là HTX điểm, đích thân một đồng chí ủy viên thường vụ tỉnh ủy phụ trách chỉ đạo. Vậy mà chỉ từ hội trường huyện ủy đến ngoài ruộng đã nghe nói khác nhau: ngoài ruộng thì nói vào HTX lúa tiêu điều, lên bục phát biểu thì HTX hơn cá thể, "là trục quay" của cách mạng lúc này, HTX Phú Mỹ 1 là thí dụ...

Có người nói móc "cái bục này là chỗ để nói dối"! Được cái là tỉnh ủy và các ban đảng cũng biết nhiều huyện, xã báo cáo "cơ bản hoàn thành" cải tạo nông nghiệp là hình thức, nhưng không bắt tội ai mà còn tặng bằng khen là khác.

Nhờ đó mà An Giang mới ít khổ một chút. Lúc ông Sáu Hơn (Nguyễn Văn Hơn) là thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, mỗi lần về tỉnh gặp anh em, ông hay nói: "Ở bộ tôi chỉ làm cái việc nghe nơi nào cơ bản hoàn thành cải tạo nông nghiệp là tôi đến cấp bằng công nhận. Vậy thôi!".

Không tiền mua được lúa mới hay

Còn chuyện "thu mua" lương thực, mỗi lần vào vụ là "mở chiến dịch giao lương" liên tục ở ba cấp địa phương. Dù thu mua không đạt chỉ tiêu, nhưng với số lúa gom góp được thì không nơi chứa. Có lần tôi tình cờ đem một nắm lúa đã nảy mầm thành mạ từ trạm thu mua xã Tân Hòa về để báo cáo với huyện ủy.

Lúc này đồng chí Nguyễn Văn Linh, trưởng Ban Dân vận T.Ư, đang có mặt tại văn phòng huyện ủy, ông nhận "nắm mạ" từ tay tôi, chau mày và quay sang nói với đồng chí Tư Việt Thắng, bí thư tỉnh ủy: "Anh gói lại gửi cho Ban Bí thư". Tại các điểm thu mua lúa để tràn ra lộ, vậy mà cấp trên cứ "đốc chiến".

Có lần đồng chí bí thư huyện ủy triển khai: "Không có tiền mà mua được lúa mới hay". Trời ơi, mua rẻ mà còn không có tiền, mua không kho chứa phải để lên mộng mà còn đốc chiến liên tục thì thật không giải thích nổi.

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần IV, ông Sáu Hơn về làm bí thư tỉnh ủy, tôi còn tiếp tục làm công tác tổ chức, đề xuất và giúp tỉnh ủy giải quyết chính sách cho hàng trăm cán bộ sơ, trung, cao cấp tỉnh đã đến hoặc quá tuổi để về hưu.

Một đội ngũ cán bộ tương ứng với nhiệm vụ mới được bổ sung, cùng tỉnh ủy tăng tốc. Đó cũng là nhân tố quyết định đổi mới thành công ở An Giang. Và tôi có dịp khắc phục khuyết điểm năm xưa khi ở huyện vì đã "góp phần tích cực" làm cho sản xuất nông nghiệp trì trệ một thời gian dài; đó là đến năm 1988 được tỉnh ủy phân công làm giám đốc Sở Nông nghiệp.

Tỉnh ủy An Giang từ khóa IV đến nay sắp bước vào Đại hội VIII, trải qua 20 năm, cùng với một đội ngũ cán bộ được đào tạo, rèn luyện trong đổi mới đã trưởng thành thật sự. Một đội ngũ có tâm vì dân là trên hết rồi sau đó mới vì cấp trên. Chấp nhận trả giá.

Tôi nay đã 60 tuổi, sẽ từ diễn đàn đại hội tỉnh lần này về thẳng đời sống thường dân, nhưng nhìn đội ngũ anh em đang tiếp tục, tôi thấy vui vui vì sự hùng hậu, trí tuệ và từng trải trong sự nghiệp đổi mới của họ. Và tin họ cũng sẽ vượt qua những cạm bẫy, rào cản trên đường, trong ánh bình minh đổi mới!

Long Xuyên, 4-12-2005

NGUYỄN MINH NHỊ

(phó bí thư tỉnh ủy, nguyên chủ tịch UBND tỉnh An Giang)

__________________

"Đêm trước"đổi mới: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá

TT - Từ năm 1978, sau chiến dịch cải tạo,lập tức TP.HCM thiếu gạo - điều chưa từng có trong lịch sử miền Nam. "Hòn ngọc Viễn Đông" phải ăn độn bo bo là điều không thể tưởng tượng nổi.

Kỳ 1:"Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

Kỳ 2: "Vòng kim cô"

Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

kỲ 5: Chiếc áo cơ chế mới

Kỳ 6: Tưởng như xa xôi lắm

Ý tưởng "xé rào"

Những người chịu trách nhiệm ở TP.HCM lúc đó đứng trước một bài toán nan giải: phải chấp hành chủ trương của Trung ương là tiến hành cải tạo, xóa bỏ thị trường tự do, nắm trọn khâu bán buôn. Nhưng lương thực không có vì không huy động được.

Chuyện thu mua lương thực của các tỉnh đồng bằng là chuyện của trung ương, không phải việc của TP. Thành phố không được phép trực tiếp mua gạo ở các tỉnh. Mà nếu có được mua thì với giá "mua như giựt" cũng không thể nào mua được.

Chưa bao giờ người dân thành phố không có gạo để ăn. Bây giờ sau giải phóng lại không đủ gạo ăn, thay vào đó là khoai mì, khoai lang thậm chí hạt bo bo.

Từng đổ xương máu cho cuộc kháng chiến và sau đó lãnh đạo TP, Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Văn Kiệt có lẽ là người nhức nhối nhất, vì cũng là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Đảng, trước dân TP.

Ông đã tuyên bố trước lãnh đạo các ban ngành TP: "Không thể để một người dân nào của TP chết đói". Nhưng làm thế nào để dân không đói? Gạo không được cung cấp. Tiền thì không có. Nếu có cũng không được phép đi mua. Mua được thì phải bán theo giá cung cấp do Nhà nước qui định. Thế thì càng chết. Nếu dân không chết thì ngân sách chết vì thiếu hụt. Người đi thu mua cũng chết vì vi phạm qui chế. Biết làm sao đây?

Cả tập thể thành ủy và những bộ phận có liên quan, trước hết là cơ quan lương thực, cùng trăn trở. Bà Ba Thi, giám đốc Công ty Lương thực TP, vốn là người năng nổ, xông xáo và có gan tìm ra những giải pháp đột phá, như một bản năng của bà từ thời hoạt động chống Mỹ. Từng lăn lộn khắp đồng bằng sông Cửu Long, bà biết rất rõ thị trường gạo ở đây.

Vấn đề không phải là thiếu, mà là không mua được. Vậy phải tìm cách nào để mua? Bà đề xuất với Bí thư Thành ủy: "Đi về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua gạo trên thị trường, đem về phục vụ đồng bào TP". Ý kiến này cũng đã xuất hiện trong đầu của nhiều cán bộ có trách nhiệm lúc đó. Ý hợp tâm đầu, từ những ý tưởng đột phá cá nhân đã hình thành ý kiến của tập thể.

Anh chị đi tù, tôi sẽ mang cơm nuôi

Ông Lữ Minh Châu, lúc đó là giám đốc Ngân hàng Nhà nước ở TP.HCM, còn nhớ một bữa ăn sáng được mời rất bất ngờ. Ông Châu kể: anh Sáu Dân (tức Võ Văn Kiệt, bí thư thành ủy) gọi điện rủ tới nhà ăn sáng.

Tôi hỏi có chuyện chi để tôi chuẩn bị. Anh nói "lên đây sẽ biết". Tới nơi tôi mới biết anh cũng đã gọi một số người khác. Trong đó có anh Năm Ẩn - giám đốc Sở Tài chính, anh Năm Nam - chánh văn phòng Thành ủy và chị Ba Thi.

Ăn sáng xong, anh Sáu Dân nói: "Hiện nay, dự trữ gạo của TP chỉ còn có vài ngày. Mình không thể để cho dân thiếu gạo được. Nhưng việc này với cơ chế hiện nay, không phải dễ giải quyết. Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp gạo cho TP nhưng chưa bao giờ cung cấp đủ và kịp thời.

Sở Lương thực thì không được phép mua với giá thỏa thuận. Dân đồng bằng sông Cửu Long có gạo nhưng không chịu bán nghĩa vụ cho Nhà nước vì họ bị thiệt.

Trong khi đó dân TP có tiền và sẵn sàng mua với giá thỏa thuận thì lại không được xuống mua và đưa ra khỏi tỉnh. Tại sao chúng ta không ráp hai mối này lại? Đó là vấn đề mà tôi mời các anh chị đến để hiến kế giải quyết".

Ông Châu trầm ngâm nhớ lại: "Đúng là rất khó khăn. Ngoài các vướng mắc mà anh Sáu Dân nêu ra, cơ chế của từng ngành cũng có đủ thứ bó buộc. Chị Ba Thi phải lấy danh nghĩa "cá nhân" chứ không thể lấy danh nghĩa Sở Lương thực để mua gạo theo giá thỏa thuận. Nhưng cá nhân thì tài chính không thể ứng vốn, ngân hàng cũng không thể cho vay hoặc chi tiền mặt. Việc xin mua ở tỉnh và việc vận chuyển về TP cũng không phải dễ dàng.

Bàn tới bàn lui rồi cũng có lối ra, chúng tôi nghĩ: vướng do cơ chế thì chỉ còn cách "xé rào". "Xé rào" không phải khó. Nếu anh Sáu đồng tình với việc làm tuy gọi là "xé rào" nhưng có lợi và hợp tình, hợp lý thì chúng tôi làm được ngay: tài chính xuất tiền vốn chi cho chị Ba Thi mua gạo, ngân hàng xuất tiền mặt theo lệnh chi của tài chính và cho giấy đi tỉnh.

Chị Ba Thi liên hệ với địa phương để mua gạo và xin phép chở về TP tổ chức bán thu tiền về và quay vòng tiếp theo. Để đảm bảo an toàn cho việc "xé rào" thì tài chính phải cử cán bộ đi cùng làm kế toán, ngân hàng cử cán bộ giữ và chi tiền mặt, còn chị Ba Thi phụ trách chung, gọi là tổ trưởng "Tổ thu mua lúa gạo" (có người gọi đùa là tổ buôn lậu gạo).

Ông Sáu Dân đồng tình với phương án này và chịu trách nhiệm về chủ trương để các ngành làm. Bà Ba Thi nói "Làm cách này thì chúng tôi làm được, nhưng nếu Trung ương biết là đi tù đó". Ông Sáu Dân vừa nói vừa cười: "Nếu do việc này mà anh chị đi tù thì tôi sẽ mang cơm nuôi". Một câu tuyên bố như một lời thề mà nhiều người đến nay vẫn thường hay nhắc lại.

Phá cơ chế giá lỗi thời

Chuyện mua lúa giá thị trường tưởng đơn giản nhưng là việc tày đình. Giám đốc Công ty Lương thực TP dám đánh cả đoàn xe xuống ĐBSCL mua lúa giá 2,5 đồng/kg (tương đương 5 đồng/kg gạo). Gạo chở về Sài Gòn bán theo giá kinh doanh (giá mua thực tế + chi phí xay xát + chi phí vận tải + thặng số thương nghiệp).

Trong khi giá lúa do Ủy ban Vật giá qui định, Bộ Chính trị duyệt và Thủ tướng ký là 0,52 đồng/kg. Bà Ba Thi mua cao hơn năm lần quả là chuyện động trời. Nhưng lý do của bà khó ai có thể kết tội: phải lo cho cái bao tử của 3 triệu người dân TP. Đúng là bà dám vượt đèn đỏ, nhưng là ngồi trên xe cứu thương và cứu hỏa vượt công khai, chính đáng.

Cái mốc "phá giá" này đã đẩy giá lúa khắp đồng bằng Nam bộ lên 2,5 đồng/kg. Giá chỉ đạo 0,52 đồng/kg bị vô hiệu hóa. Không bao lâu sau, mức phá giá đó lan ra cả nước. Không lùi được nữa.

Sự đột phá của Công ty Lương thực TP không chỉ cứu cái bao tử người dân TP mà còn cứu nông dân cả nước khỏi cơ chế giá nghĩa vụ quá ư lỗi thời.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)

__________________

"Đêm trước"đổi mới: Bù giá vào lương

TT - Trong cảnh khốn khó của "đêm trước" đổi mới, có những đột phá táo bạo mà những người mở đường chấp nhận đầy rẫy rủi ro, thậm chí bằng cả sinh mệnh và sự nghiệp của họ.

Kỳ 1:"Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

Kỳ 2: "Vòng kim cô"

Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

kỲ 5: Chiếc áo cơ chế mới

Kỳ 6: Tưởng như xa xôi lắm

Kỳ 7: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá

Nhưng may mắn thay, thực tế đã cho câu trả lời đầy thuyết phục. Câu "bù giá vào lương" như lời thần chú của cán bộ công nhân viên thời đó.

Khắc khoải đồng lương

Mẹ con bà Đường (Hà Đông, Hà Tây) hôm ấy dậy rất sớm. Người đi chợ mua thức ăn. Người đánh rửa ấm chén, quét nhà. Người thắp hương, cắm hoa lên bàn thờ... Chiều ấy, sau năm năm đi công nhân cầu đường, ông Bùi Văn Can, chồng bà, về thật.

Đặt balô xuống, ông chia kẹo cho đàn con, đưa vợ nửa cân đường, một lọ mỡ là những thứ ông nhịn ăn trước khi về quê. Cuối cùng là tem gạo (suất ăn) của ông trong mấy ngày nghỉ cùng tờ giấy chứng nhận chiến sĩ thi đua. Có ý chờ mãi nhưng không chịu được, bà Đường hỏi: "Bố mày còn gì đưa tôi cất cho?".

Ông Can nguýt bà một cái nói: "Quà của mẹ nó đây!". Nói rồi ông móc ra hai cái mũ vải. Một cái nam và một cái nữ may bằng vải thô, đường chỉ công nghiệp đơn giản, trong lót vải kẻ, hai bên có khoét lỗ nhôm để xỏ dây, trị giá khoảng một tô phở/chiếc. Bà Đường thất sắc ngồi phịch xuống đất thốt lên cay đắng: "Trời ơi ông đi làm năm năm đằng đẵng mà mang về được hai cái mũ à?"...

Ông Can tâm sự: "70% thu nhập của một cán bộ hay công nhân là tem phiếu. 30% còn lại là lương. Thử hỏi, mỗi tháng tem gạo: 17 kg, thịt: 1,2 kg, đường: 0,75 kg thì tôi có thể để dành được gì? Đấy là chưa kể nó bị hao hụt, mốc, rách, thối, hỏng... khi đến tay tôi cũng như với những công nhân khác.

Cay đắng hơn là người ta không cần biết tháng này tôi thiếu gạo hay dầu, cần xà phòng hay kem đánh răng, áo may ô hay mũ cát két... mà họ cứ có gì thì phát nấy. Nên cái thiếu cứ thiếu, cái thừa cũng chẳng dám bán (vì sợ lúc khác lại thiếu). Còn lương, chao ôi nó ít ỏi kinh khủng! Mỗi tháng tôi được 50 đồng, nếu quá chân ra chợ với mấy ông bạn chỉ một hai bữa nhậu là hết". Ông Can còn chưa dứt cơn bùi ngùi xót xa của hơn 20 năm trước.

Thời đó những người ăn lương nhà nước đều sống trong cảnh như nhà ông Can, bà Đường dù ngoài Bắc hay trong Nam bởi mô hình miền Bắc được áp vào miền Nam sau giải phóng. Thay vì trả hoàn toàn bằng tiền thì Nhà nước trả bằng hiện vật (những thứ mà người lao động nếu có tiền cũng sẽ phải mua).

Tuy nhiên khi mậu dịch quốc doanh không đủ hàng hóa, bắt buộc phải dựa vào thị trường tự do thì toàn bộ những tính toán và hệ thống giá cả của Nhà nước cũng bị chi phối của qui luật cung cầu. Lúc này những yếu tố tích cực của chính sách tiền lương đã biến dạng thành những yếu tố tiêu cực. Sự tiêu cực, méo mó ấy khiến ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống, ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống...

Một đề án không thể bỏ dở

Mũi đột phá chế độ tiền lương gây ấn tượng nhất bắt đầu từ Long An. Ông Chín Cần (Nguyễn Văn Chính), bí thư Tỉnh ủy Long An - một nhà lãnh đạo đậm đặc tính khảng khái Nam bộ, quyết định phải làm gì đó thay đổi cơ chế giá cả, tiền lương. Lựa chọn trong giới trí thức địa phương, ông gọi phó giám đốc Sở Thương nghiệp lúc bấy giờ là ông Hồ Đắc Hi lên trao đổi. Những cái đầu và con tim đang trăn trở gặp nhau.

Ông Hi dốc hết tâm trí soạn thảo đề án cải cách phân phối lưu thông ở Long An. Đề án này xác định lại giá cả, tiền lương phải dựa trên qui luật giá trị và cung cầu cũng như những nguyên tắc kinh tế hàng hóa khác chứ không thể duy ý chí. Ông Hi lấy trường hợp thu nhập của ông Chín Cần để tính toán: tổng tiền lương và 16 mặt hàng phân phối theo định lượng, tất cả qui ra giá thị trường thì lương bí thư tỉnh ủy xấp xỉ 600 đồng.

Tuy nhiên vì những lý do như chất lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn bị cắt xén, hàng được cấp không phù hợp nhu cầu... thì hiệu quả sử dụng của mức lương này chỉ đạt 50-70%. Tốt nhất là đem hết số hàng phân phối của bí thư ra chợ bán theo giá chợ rồi về trả cho ông 600 đồng/tháng. Bí thư cần gì ra đó mà mua.

Như vậy tỉnh nắm được hàng hóa, giá cả. Vợ bí thư thoải mái lựa chọn hàng mua. Nhân viên thương nghiệp, dân buôn, đầu cơ... không còn cơ hội tiêu cực mà Nhà nước chẳng mất đồng nào, lại tiết kiệm được khoản bù lỗ cho thương nghiệp, tem phiếu, thời gian... Tiếc là đề án này đang làm dở thì ông Hồ Đắc Hi được chuyển về trung ương.

Nhưng Long An quyết không dừng lại. Thử nghiệm thực tiễn lại phải đi trước một bước. Tháng 8-1979, sau khi lĩnh toàn bộ định mức hiện vật (tháng chín) của cán bộ công nhân viên trong tỉnh, thay vì phân phối hết cho cơ sở, Long An quyết định chọn một mặt hàng bán ra thị trường. Những đột biến được đề phòng.

Thông thường khi Nhà nước bán hàng ra ngoài thì phần lớn lượng hàng đó bị "tay ngoài" móc ngoặc với "tay trong" để mua. Đợi Nhà nước hết hàng, họ bán ra thị trường với giá cao hơn nữa. Hoặc nếu người tiêu dùng sợ sau này không có hàng mà cố gắng mua nhiều để dự trữ thì sẽ gây khan hiếm ảo. Giải pháp ở đây là chia hàng để bán làm ba lần. Làm như vậy, người mua sẽ hiểu không phải Nhà nước chỉ bán một lần duy nhất. Điều đó đồng nghĩa: đầu cơ sẽ thất bại.

Khi không còn đầu cơ thì các tệ nạn móc ngoặc, tham ô sẽ triệt tiêu dần. Làm từng đợt cũng là để giữ khoảng cách xử lý các tình huống xấu... Về mặt pháp lý, tỉnh ủy xác định: ghi chép thật minh bạch. Thử nghiệm xong tỉnh sẽ chủ động báo cáo toàn bộ kết quả với trung ương. Không tư lợi, không mờ ám mà có ích cho dân, cho tỉnh dẫu bị kỷ luật cũng không sợ.

Xà bông đi trước...

Mặt hàng đầu tiên được chọn là xà bông. Đây là thứ hàng không quá quan trọng như lương thực, thực phẩm nhưng cũng là thứ không thể thiếu đối với đa số người dân. Tháng 9-1979, 4 tấn xà bông được bày bán tại hầu hết các cửa hàng, hợp tác xã mua bán với giá cao gấp 10 lần giá phân phối (chỉ bán có hạn cho từng đối tượng) và tương đương giá chợ.

Như dự tính, trong ba ngày bán không sót một cân và tất nhiên, khách hàng chủ yếu là "con buôn". Thị trường xà bông từ xôn xao, ngơ ngác chuyển sang ngập ngừng nên hàng khan hiếm và hơi nhích giá. Đúng mười ngày sau, 5 tấn xà bông tiếp theo được tung bán với giá y như lần trước (đã thấp hơn giá chợ lúc đó chút xíu).

Hàng cũng hết rất nhanh nhưng tư thương đã dè dặt. Giá xà bông giảm xuống mức ban đầu. Mười ngày sau, lượng xà bông cuối cùng được tung bán. Đồng thời, tiền lương tháng chín được cấp cho tất cả cán bộ công nhân viên chức của tỉnh. Lương không được tính theo mức cũ mà được cộng thêm định mức của mặt hàng xà bông (đã bị cắt) áp theo đúng giá chợ hiện thời.

Ai muốn mua xà bông thì ra chợ. Lúc này tất cả số xà bông những người đầu cơ ở những lần mua trước được tung ra chợ. Giá giảm rất nhiều, người mua thoải mái lựa chọn và không còn phải lo mua dự trữ. Thông tin loan báo rộng rãi: xà bông không phân phối nữa nhưng cũng không thiếu ngoài chợ hay cửa hàng quốc doanh. Câu chuyện xà bông đi trước xem như thành công.

Ba tháng cuối năm 1979, tất cả các mặt hàng phân phối khác đều được Long An tung bán ra thị trường (trừ gạo).

1kg thịt được Nhà nước qui định bán cho công nhân viên 3 đồng thì Long An bán thẳng ra chợ 30 đồng... 100% lương cán bộ công nhân viên trong tỉnh được lĩnh bằng tiền mặt. Toàn bộ số hiện vật đều được qui ra tiền theo mức giá thị trường.

Người nhà nước hết sức phấn khởi, thị trường sôi động, chỉ số giá cả hàng tiêu dùng giảm xuống rõ rệt. Nhưng có lẽ sung sướng nhất là các bà nội trợ không phải thấp thỏm muốn cái gì cũng mua dự trữ (vì sợ lúc khác không được phân phối); không phải nịnh mấy cô thương nghiệp.

Lần đầu tiên người Long An (công nhân viên chức) được ăn gạo ngon của chính quê mình làm ra (trước đây gạo phải bán cho Nhà nước, còn công nhân lại nhận gạo mậu dịch chất lượng thấp qua tem phiếu). Lần đầu tiên được ăn thịt cá tươi sống... Riêng quĩ lương của tỉnh tăng lên gấp bảy lần. Số tiền này Long An thừa sức giải quyết các nghĩa vụ với Nhà nước (mua lúa, thịt và các hàng hóa khác) cũng như trả lương cho công nhân viên chức và còn đủ lập quĩ lương riêng của tỉnh.

Thực tế đã cho câu trả lời quá hùng hồn. Bí thư tỉnh ủy giao cho giám đốc Sở Thương nghiệp Long An là ông Tư Giao tiếp tục hoàn thiện đề án cải cách phân phối của ông Hồ Đắc Hi. Năm 1982, cơ chế bù giá vào lương của Long An chính thức được áp dụng trên toàn tỉnh và sau này mở một hướng đi mới cho cả nước.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

"Thời trang" tư duy

Trước thềm Đại hội Đảng lần VI (1986), những câu hỏi, những quyết định mang tính xoay chuyển vận mệnh dân tộc vẫn chưa định hình rõ. Lãnh đạo TP.HCM nghĩ ra sáng kiến tổ chức một cuộc gặp cho các giám đốc doanh nghiệp trao đổi, chia sẻ với các vị lãnh đạo cấp cao về cơ chế chính sách hiện thời.

Ông Lê Xuân Tùng, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nhớ lại cuộc gặp tổ chức ở Đà Lạt. Rất đông các giám đốc của TP.HCM có tư tưởng mới, có đấu tranh và có thành công đã có mặt. Họ được "bật đèn xanh" thoải mái giãi bày tâm huyết. Hàng trăm trái tim sục sôi muốn mở cửa, muốn thoát đói nghèo, lạc hậu, muốn bung khỏi cơ chế kìm nén... được dịp "thổn thức".

Hàng trăm câu chuyện bi hài về lưu thông hàng hóa, giá cả, đồng lương... được giãi bày. Có giám đốc bật khóc giữa hội nghị khi đang phát biểu... "Mùi xét lại" đã trở thành bữa tiệc tư tưởng hân hoan và mới lạ.

Sau này có nhiều giai thoại về Hội nghị Đà Lạt nhưng nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt khẳng định với chúng tôi rằng đây chỉ là một cuộc "báo cáo" đột xuất của các giám đốc quá bức xúc với các vị lãnh đạo cao cấp nhân chuyến nghỉ mát của các đồng chí lãnh đạo tại Đà Lạt. Nhưng những cuộc tranh thủ như thế cũng như đẩy sự xé rào ra công khai, đòi hỏi được thừa nhận.

Thật ra bức thông điệp được đánh giá sâu sắc và hiệu quả nhất chính là từ Hội nghị Phước Long - TP.HCM hồi tháng 4-1984. Ông Bùi Văn Long, nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt VN, nói: năm 1984 khi làn sóng đổi mới lên cao, lãnh đạo TP.HCM là đồng chí Võ Văn Kiệt rất muốn làm sao để chuyển đến các vị lãnh đạo cao nhất tình hình thực tiễn. Ông bàn với Liên hiệp Dệt mở một hội nghị cho các DN đăng đàn và mời các vị lãnh đạo trung ương về nghe. Lúc đó toàn ngành dệt đang rùng rùng chuyển động.

Kế hoạch hội nghị gồm: phần "lễ" dành để các giám đốc nói về khó khăn vướng mắc trong cơ chế bao cấp, những động cơ, những kết quả xé rào..., tóm lại bộc bạch tất cả những gì trăn trở, thậm chí những oan trái khi bị nghi ngờ lòng trung thành với Đảng, với chế độ. Tiếp đến là những kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách...

Phần "hội" thì ngoài các gian hàng trưng bày sản phẩm mới (do xé rào mà có!) là mục trình diễn thời trang. Đây có lẽ là chương trình thời trang đầu tiên của VN. Chính anh chị em công nhân ngành dệt may trình diễn những tác phẩm của mình làm ra dưới ánh sáng cơ chế mới. Đó là quần âu, áo sơmi, blouson.

Hội nghị tổ chức tại khuôn viên Công ty Dệt Phước Long, thời gian dự kiến hai ngày. Khách mời gồm lãnh đạo, đại diện các ban ngành của thành phố, hơn 20 giám đốc các công ty trong và ngoài ngành dệt, lãnh đạo các bộ ngành trung ương, chủ tịch, bí thư các tỉnh thành khác và các vị lãnh đạo cao cấp.

Các bậc "cây đa, cây đề" Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh... đã về dự cùng hơn 200 đại biểu là các thành phần nêu trên đã có mặt. Tổng giám đốc Bùi Văn Long là người đầu tiên đứng lên báo cáo về tình hình dệt may cả nước và chủ động nói bốn vấn đề xé rào của mình.

Thứ nhất là kế hoạch sản xuất phải căn cứ vào thực lực doanh nghiệp và tình hình thị trường. Phải do doanh nghiệp tự đặt ra chứ không nên là chỉ tiêu cấp trên giao xuống một cách quan liêu. Thứ hai, doanh nghiệp tự lo nguyên liệu đầu vào thì doanh nghiệp tự bán sản phẩm theo giá thị trường chứ không thể bán cho thương nghiệp theo giá qui định thấp hơn giá thành được.

Một đại biểu chất vấn tại sao doanh nghiệp của ông Long có hai sổ hạch toán tài chính. Ông Long nói: tôi có hai sổ vì một sổ hợp pháp (thu chi các sản phẩm đầu vào đầu ra theo giá nhà nước) nhưng không hợp lý và một sổ hợp lý thì không hợp pháp (thu chi theo giá thật trên thị trường). Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên. Sổ hợp lý để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ tôi mua một cây tre về đóng cọc cho công ty.

Người ta bán 1,5 đồng/chiếc trở lên nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép chi 1 đồng. Tôi đành nói anh em mua một cây tre, chặt ra làm đôi tính hai gốc để vào sổ cho hợp pháp. Phần tiếp theo là lương cán bộ công nhân. Nhà nước phải trả lương để công nhân đủ khả năng tái tạo sức lao động. Không thể cào bằng.

Lương phải tính theo sản phẩm. Không cần tem phiếu nữa... Buổi sáng đi qua rất nhanh. Buổi chiều hàng loạt doanh nghiệp khác phát biểu. Hết một ngày, hai rồi ba ngày, các đồng chí lãnh đạo vẫn muốn nghe thêm hỏi thêm. Nhiều đồng chí xuống hàng ghế của anh em cán bộ, công nhân hỏi han từ lương bổng, ăn uống, con cái học hành, đi lại, chế độ sức khỏe...

Nắng đầu mùa gay gắt, hội nghị tổ chức giữa sân. Ngay cả hàng chủ tọa cũng rất oi bức nhưng ai cũng chăm chú, hăng say cả nghe lẫn hỏi và nói. Hội nghị Phước Long kéo dài quá một ngày so với kế hoạch. Những cái bắt tay, vỗ vai và ánh mắt đầy khích lệ của các vị lãnh đạo trung ương khiến những người tổ chức hội nghị hiểu rằng kinh tế đất nước không còn bao lâu nữa sẽ sang trang.

Cảm khái, ông Long viết một bài thơ mà hơn 20 năm sau ông còn nhớ:

"Thành Công (Dệt Thành Công) đổi mới đi đầu

Phá rào bao cấp trên đâu có ngờ.

Thành Công dệt được bài thơ

Đón cờ khen thưởng đó là chứng minh

Việc làm có lý có tình

Có trên có dưới có mình có ta"

Lá bùa hộ mệnh

Thật ra, theo phân tích của nhiều chuyên gia am hiểu tình hình hậu trường, sự chuyển biến trong tư duy kinh tế ở cấp cao bắt đầu thể hiện rõ từ Hội nghị trung ương 6 khóa IV (9-1979). Chương trình nghị sự của trung ương dự định bàn về sản xuất hàng tiêu dùng.

Nhưng ngay trong buổi họp đầu tiên các địa phương đều nêu lên những ách tắc về cơ chế. Và trong khi trung ương đang họp thì thông tin từ các địa phương dội về rằng "hàng rào cơ chế ở nhiều địa phương đã bị vi phạm".

Giá lúa nghĩa vụ do Nhà nước ấn định 0,52 đồng, nhưng TP.HCM rồi ĐBSCL đã tự động mua bán với giá gấp gần năm lần (2,5 đồng). Một số nơi công nhân "tự cứu trước khi trời cứu" bằng cách sản xuất để tự nuôi lấy mình, không nộp sản phẩm cho Nhà nước. Tệ hơn có xí nghiệp đóng cửa luôn vì không thể làm ăn gì được nữa.

Tình hình này buộc hội nghị trung ương "xé rào" chương trình nghị sự, chuyển sang bàn cơ chế kinh tế. Kết quả là trung ương cho ra được hai nghị quyết đột phá (một về sản xuất hàng tiêu dùng, một về sửa đổi cơ chế kinh tế) cho phép "bung ra" và "cởi trói" sản xuất. Các ủy viên trung ương mang nghị quyết trở về địa phương như là "lá bùa hộ mệnh" để xử lý những vấn đề bức xúc tồn đọng lâu nay.

Hội nghị Trung ương 6 như là cú hích dẫn tới hàng loạt sự đột phá trong đời sống kinh tế. Rồi đến lượt nó, những đột phá trong đời sống lại tạo ra cả nhu cầu lẫn khả năng đột phá tiếp về cơ chế. Cuộc chuyển biến này về tư duy kinh tế như là câu trả lời cho những ai đang ngần ngại: mở cửa, bung ra, cởi trói là nguy hiểm, làm mất CNXH, mà ngược lại cứu nguy cho nền kinh tế đất nước và cho đời sống nhân dân.

Hầu hết những người tổ chức xé rào, đi ngược lại chủ trương đều từng là những người xông pha nơi chiến trường. Trên mặt trận kinh tế, họ tiếp tục chiến đấu vì sự nghiệp chung. Cuộc đấu tranh trong hàng ngũ đồng chí phải chấp nhận những hi sinh không mộ chí.

Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc bị phê phán dám áp dụng khoán trong nông nghiệp. Anh đội trưởng đội sản xuất Đoàn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng) bị gọi lên huyện rồi được "mời" thẳng vào nhà giam vì tội "phá" HTX. "Vua lốp" Nguyễn Văn Chẩn (Hà Nội) bị bắt và tịch thu tài sản, công xưởng vì tội "bóc lột".

Số phận những nhân vật đó rất chênh vênh bởi không ít người có thế lực đã công khai tuyên bố "tội trạng" phá nguyên tắc, chống chủ trương của những công dân, đảng viên, cán bộ hay giám đốc doanh nghiệp "xé rào".

Ông Long "calo" (nguyên tổng giám đốc Liên hiệp Dệt VN), ông Thụy "thuốc lá" (giám đốc công ty thuốc lá), ông Lộc "viso" (giám đốc công ty bột giặt)... luôn phập phồng bởi liên tục có tin đồn người này bị bắt, người kia bị kỷ luật.

Không phải không có những người bỏ cuộc. Nhiều người phải đấu tranh tư tưởng không phải trước khó khăn, nguy hiểm mà trước sự khóc lóc, can ngăn của... vợ con, thậm chí ngay cả những người cương quyết nhất cũng có những giây phút nao núng... Nhưng rồi lửa cách mạng và tinh thần đấu tranh trong sáng của họ chính là thông điệp mạnh mẽ gửi đến Ba Đình.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

"Đêm trước" đổi mới: Chuyển đổi vô hình

TT - Thực tiễn có thể xé rào hay bùng nổ hơn nữa, cay đắng hơn nữa nếu không có sự chuyển đổi tư duy. Những người gánh vác trọng trách rồi cũng bước ra khỏi sách vở giáo điều để đi đến những quyết định kịp thời.

- Kỳ 1: "Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

- Kỳ 2: "Vòng kim cô"

- Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

- Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

- Kỳ 5: Chiếc áo cơ chế mới

- Kỳ 6: Tưởng như xa xôi lắm

- Kỳ 7: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá

- Kỳ 8: Bù giá vào lương

- Kỳ 9: Những thông điệp gửi đến Ba Đình

Đột phá tư duy

Lục tìm những tập ảnh kỷ niệm, GS Lê Văn Viện (nguyên giảng viên Trường đại học Kinh tài - nay là Đại học Kinh tế quốc dân) đưa ra một tấm hình đen trắng đã ố màu. Ông nói đây là tấm ảnh được chụp năm 1979 khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm lớp học về NEP (chính sách kinh tế mới) của Lênin do các giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ kinh tế hàng đầu của Liên Xô giảng dạy cho các cán bộ trung, cao cấp VN.

Các khóa học này như là tìm chỗ dựa về lý luận để đúc kết những cuộc phá rào đang diễn ra trong thực tiễn. Bởi chỉ với thực tiễn thì khó mà thay đổi nhận thức những vị làm chính sách quan liêu, giáo điều.

Giáo sư Trần Nhâm ghi lại trong cuốn Trường Chinh với hành trình đổi mới tư duy (NXB Chính Trị Quốc Gia - 2005): "Sau khi nhận thấy yêu cầu cấp bách của thực tiễn cũng như hình hài con đường đổi mới của VN, đồng chí Trường Chinh cho rằng tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa nhưng để thay thế cái cũ phải nắm vững lý luận, hiểu rõ thực tế và nhìn thẳng vào sự thật.

Do vậy ông quyết định làm gấp hai việc: Một là tập hợp một nhóm tư vấn gồm những người có tư duy đổi mới để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm căn cứ và tìm ra phương pháp luận cho việc xác định con đường, bước đi sắp tới. Hai là tổ chức những chuyến đi thực tế các địa phương, tìm rõ cái hay cái dở, thành công và thất bại để có những đánh giá chính xác...".

Cuối tháng 12-1982, nhóm nghiên cứu ra đời gồm: Lê Xuân Tùng, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên, Lê Văn Viện, Nguyễn Thiệu, Võ Đại Lược, Dương Phú Hiệp, Hà Nghiệp, Trần Nhâm... Ông Đào Xuân Sâm nói: nhóm có khoảng chục người "khai sinh" từ lệnh miệng, hoàn toàn không có quyết định thành lập. Vị trí của đồng chí Trường Chinh lúc ấy không điều hành, xử lý công việc cụ thể, có độ lùi để nhìn toàn cục, có thời gian để nắm bắt, lắng nghe tình hình.

Một số vấn đề mà nhóm nghiên cứu tập trung làm rõ là nhận thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới của Lênin và việc vận dụng vào VN; nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN; phân kỳ thời kỳ quá độ; phân tích cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội... Nhóm đã chuẩn bị các phát biểu mang tư tưởng mới cho các đồng chí lãnh đạo tại nhiều cuộc họp Bộ Chính trị và hội nghị trung ương.

Ở TP.HCM cũng có một nhóm chuyên gia kinh tế như vậy thường được nhắc đến với cái tên nhóm "Thứ Sáu" (họ thường tụ tập vào thứ sáu hằng tuần). Thành phần chủ yếu là các chuyên gia có hạng của miền Nam trước 1975. Người từ trại cải tạo về, người không thuộc diện cải tạo thì sống trong cảnh nửa thất nghiệp bên lề xã hội.

Thế mà họ (Phan Tường Vân, Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn, Phan Chánh Dưỡng...) đã được Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Trần Chí lúc ấy trọng dụng như những "quân sư kinh tế". Nhà nghiên cứu kinh tế Đặng Phong cho rằng đây là hiện tượng khá đặc biệt, không chỉ đối với VN mà còn là điều hiếm thấy ở những nước XHCN khác.

Nhóm "Thứ Sáu" nghiên cứu cả chuyện lớn, chuyện nhỏ miễn là góp sức gỡ thế bí, đặc biệt tìm những mũi đột phá cơ chế từ ách tắc thực tiễn. Dấu ấn của họ để lại trong những chuyện xây dựng vùng lúa năng suất cao ở Tiền Giang, nghiên cứu thành lập thí điểm ngân hàng cổ phần, đề xuất lập khu chế xuất... cho đến đột phá về cải cách giá - lương - tiền. Đây là mũi đột phá tư duy đi ngược lại phần lớn ý kiến đương thời. Nền kinh tế lúc ấy đang đứng trước nghịch lý: giá hàng tăng, sản xuất đình trệ, tiền khan hiếm...

TP.HCM có lẽ là nơi gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề nhất của cơ cấu khủng hoảng này. Trong tình hình rối bời, nhóm "Thứ Sáu" được giao giải bài toán "chống lạm phát". Họ lao vào tìm số liệu, phân tích thống kê, so sánh tỉ giá tiền đồng với đôla... để rồi hoàn tất một công trình mang tên "Các biện pháp chủ động về tiền tệ, giá cả nhằm phát triển kinh tế". Họ chẩn bệnh: tình trạng tăng giá mà xã hội đang chứng kiến chỉ là tăng ảo.

Nó không mang lại sự kích thích sản xuất hay giải quyết việc làm như tác động thường thấy của lạm phát trong một nền kinh tế đang tăng trưởng. Mỗi người nhìn giá cả theo góc độ của mình: người tiêu dùng thấy giá hàng tăng nhưng nhà sản xuất lại thấy giá hàng không bù đắp nổi chi phí. Trong khi đó người nước ngoài tiêu xài đôla tại VN thấy giá cả hàng hóa ngày càng rẻ vì so với vàng và đôla thì mọi loại hàng đều giảm.

Nhóm "quân sư" này cho rằng chính sách tiền tệ của các nước kế hoạch hóa tập trung, trong đó có VN, là chống lạm phát bằng cách hạn chế đưa tiền ra lưu thông chỉ tạo ra suy thoái kinh tế và kiệt quệ các lực lượng sản xuất. Thời ấy mà nói thế là "to gan" lắm nếu không có những "cái ô" trên đầu.

Họ chỉ ra bản chất của vấn đề là nền kinh tế tụt dưới mức nhu cầu xã hội nên tình trạng "tăng giá suy thoái" xảy ra triền miên và không thể khắc phục được nếu tiếp tục hạn chế khối lượng tiền tệ. Điều đó dễ dẫn đến nguy cơ phi tiền tệ hóa nền kinh tế. Người dân sẽ dùng vàng và đôla làm phương tiện thanh toán.

Nhóm "Thứ Sáu" không những khẳng định những biện pháp cải cách tiền lương thời đó không phù hợp mà còn cho rằng tình trạng ngăn sông cấm chợ đã làm lệch lạc hệ thống giá cả. Họ kiến nghị chấm dứt tức khắc tình trạng ngăn sông cấm chợ mà trước tiên là bãi bỏ các trạm kiểm soát trên các trục lộ giao thông.

Áp dụng chính sách tiền tệ tích cực nhằm hỗ trợ sản xuất phát triển. Cải tổ hệ thống ngân hàng để tạo sự tín nhiệm cho người dân gửi tiền. Và điều quan trọng là công bố cho dân biết Chính phủ không bao giờ đổi tiền nữa. Kết quả chống lạm phát thành công và sau này nhiều người trong nhóm được mời vào tổ tư vấn cải cách kinh tế của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Thật ra sau giải phóng, theo ông Kiệt, đã từng có ý kiến ở cấp cao muốn duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, xu hướng "tả khuynh" duy ý chí đã thắng thế dẫn tới cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, đưa dân đi kinh tế mới cưỡng bức.

Đó là một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở thời điểm trước đổi mới. Khi nền kinh tế và đời sống nhân dân đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, "tả khuynh" mới bộc lộ rõ tính bất lực của nó.

Đến lúc đó, những tư duy khách quan, tỉnh táo hơn đã cứu vớt từng mảng nền kinh tế. Những cuộc phá rào lúc âm ỉ, lúc bùng phát ở cơ sở tiến đến phá rào trong cả đường lối, chính sách ở trung ương.

Phao bảo hiểm

Hoàn cảnh VN (đặc biệt là miền Nam) khác nhiều nước XHCN khác ở chỗ kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường chưa bao giờ bị xóa sổ triệt để. Những ai đã sống ở "đêm trước" đổi mới chắc hẳn chưa quên cảnh hàng quán lô nhô từ khắp vỉa hè thành phố cho đến ngõ xóm làng quê. Nó như những chiếc phao bảo hiểm khi khu vực quốc doanh không cung ứng đủ hàng cho sản xuất và đời sống.

Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong ví nó như cục bướu con lạc đà lấy chất dinh dưỡng dự trữ sẵn cho chuyến hành trình qua sa mạc khô cằn. Sự khác nhau này góp phần giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì các nước Đông Âu rơi ngay vào thảm cảnh sụp đổ, trong khi mức độ khủng hoảng ở VN nhẹ nhàng hơn.

Hơn nữa, tại các thành phố và gần như toàn bộ nông thôn miền Nam, kinh tế thị trường hay kinh tế tư nhân nói riêng không những kế thừa thời trước 1975 mà còn được hà hơi tiếp sức bởi những quan hệ với Việt kiều và nước ngoài. Hằng năm, Việt kiều khắp nơi gửi tiền, hàng về cho thân nhân trong nước. Tiền tạo thêm vốn kinh doanh hoặc làm tăng sức mua của xã hội. Hàng hóa từ ngoài vào như một nguồn tiếp sức cho thị trường tự do.

Một nguồn lực khác tiếp thêm sức cho thị trường tự do là lực lượng lao động xuất khẩu ở các nước XHCN và thủy thủ tàu viễn dương. Theo ông Đặng Phong, lực lượng này chỉ bằng 1/10 Việt kiều (200.000 so với 2 triệu) nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường nội địa. Họ khai thác nhiều mặt hàng trong nước mang đi như quần áo, đồ mỹ nghệ... và gửi về tất cả những gì trong nước thiếu, từ xe đạp, xe máy, tủ lạnh, tivi... cho đến kim chỉ, bút bi, cúc áo.

Nhờ vậy, dù khu vực kinh tế chính thống rơi vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhưng dân tình không đến nỗi khốn khó như ở Cuba, Bắc Triều Tiên hay Trung Quốc trước thời Đặng Tiểu Bình. Điều này góp phần giải thích vì sao chuyển đổi ở VN thuận lợi, êm thắm hơn. Kinh tế thị trường ở VN là cái đã sẵn có, khi được hợp pháp hóa nó bung ra phát triển ngay lập tức.

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

____________++

Đêm trước đối mới: Imex - "bầu sữa" của đột phá

TT - Sau khi có chủ trương bung ra và cởi trói cho sản xuất của Hội nghị trung ương 6, các địa phương bắt đầu có một cái "gậy" để phá rào. Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài.

Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.

- Kỳ 1: "Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

- Kỳ 2: "Vòng kim cô"

- Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

- Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

- Kỳ 5: Chiếc áo cơ chế mới

- Kỳ 6: Tưởng như xa xôi lắm

- Kỳ 7: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá

- Kỳ 8: Bù giá vào lương

- Kỳ 9: Những thông điệp gửi đến Ba Đình

- Kỳ 10: Chuyển đổi vô hình

Xuất khẩu ở phao số 0

Cuối năm 1979, TP.HCM gần như bế tắc trong chuyện nhập hàng từ bên ngoài. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt và Chủ tịch UBND TP Mai Chí Thọ loay hoay tìm cách nhập khẩu một số nguyên liệu và nhu yếu phẩm tối cần thiết, nhằm nuôi sống các cơ sở sản xuất của thành phố. Việc đó cũng giống như chuyện chạy gạo của Công ty Lương thực: phải tìm một hình thức phá rào mà không bị huýt còi.

Sự bung ra của TP.HCM bắt đầu từ việc sử dụng thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài. Hàng thì có. Đối tác cũng có. Vấn đề là cơ chế.

Một giải pháp được đề xuất: không dựa vào quốc doanh mà sử dụng hệ thống liên hiệp xã của thành phố. Liên hiệp xã là một tổ chức có tính chất mặt trận, phi chính phủ. Chỉ có hình thức này mới có thể huy động tư nhân.

Chỉ có tư nhân mới có điều kiện bỏ vốn, mua hàng và liên lạc với các doanh gia nước ngoài để trao đổi hàng hóa. Thật ra tư nhân có khả năng làm việc đó chỉ có thể là thương nhân người Hoa. Họ vừa có vốn, vừa có quan hệ với các chân hàng trong nước, lại có quan hệ thân thiết với người Hoa ở Hong Kong, Singapore.

Họ có thể liên lạc, chắp nối để biết có thể đem hàng gì đi trao đổi. Giữa người Hoa với nhau có khi không cần văn bản hợp đồng. Chỉ bằng điện thoại, fax là họ có thể thỏa thuận với nhau.

Phương thức này được xúc tiến từ khoảng đầu năm 1980. Bước đầu liên hiệp xã nhờ các thương nhân người Hoa, liên lạc với Hong Kong, Singapore để hẹn mua một số hàng như sợi thuốc lá, sợi dệt, xăng dầu...

Sau đó, họ đi thu gom các mặt hàng như mực khô, tôm khô, lạc, đỗ, đồ thêu ren, sơn mài... để đổi. Giá cả đều tính ra đôla và trao đổi bằng hiện vật. Làm như vậy là vượt qua được cơ chế giá chỉ đạo của Nhà nước là một trong những cửa ải khắc nghiệt nhất.

Việc trao đổi được tiến hành theo phương pháp trực tiếp: hai bên ngầm điện cho nhau biết, hẹn ngày giờ, gặp nhau tại phao số 0 ngoài khơi trao hàng cho nhau, xong thì ai về nước của mình, không có xuất nhập cảnh gì cả.

Một vị lãnh đạo trung ương "huýt còi" và răn đe cách làm của TP.HCM trái nguyên tắc CNXH. Nhưng nếu nghiêm chỉnh chấp hành thì tất cả bó tay.

Không có sự năng động của cơ sở và sự bảo trợ mạnh tay của lãnh đạo thành phố, khó có thể tháo gỡ được cơn đói hàng nhập khẩu. Nhưng dù năng động và mạnh tay thì trước những rào cản về tư duy và cơ chế kể trên, mọi sự tháo gỡ đều phải đi từng bước một, trong xiết bao gian nan và trở ngại.

Trăm "imex" đua nở

Trong năm 1980, phương thức trao đổi ở phao số 0 đã tiến hành được khoảng hơn một chục chuyến. Những chuyến hàng đó đã góp phần giải quyết nguyên liệu cho Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội, sợi dệt cho Nhà máy dệt Thành Công, nguyên liệu làm bột ngọt cho Nhà máy Vifon...

Lúc này thật ra vẫn chưa có vốn vay của ngân hàng. Cả Ngân hàng Ngoại thương cũng như Ngân hàng Nhà nước đều không dám bỏ tiền cho vay hoặc bảo lãnh cho việc xuất nhập khẩu đó. Vốn hoàn toàn là của tư thương, thực chất là của người Hoa bỏ ra để thu gom những mặt hàng trong nước và trao đổi lấy nguyên liệu phục vụ sản xuất và đời sống.

Từ những kết quả buôn bán ở phao số 0, Thành ủy và UBND TP bắt đầu nghĩ tới việc thành lập liên hiệp xã, một đơn vị chuyên lo công việc xuất nhập khẩu. Tháng 5-1981, công ty đầu tiên được thành lập bởi liên hiệp xã mang tên Direximco (nghĩa đen là công ty xuất nhập khẩu trực dụng, tức là trực tiếp dùng hàng đổi lấy hàng).

Sau thành công của Direximco, hàng loạt "imex" ra đời. Quận 5 đã thành lập một công ty xuất nhập khẩu rất nổi tiếng là Cholimex. Hội Công thương gia thành lập Công ty Phiconimex. Công ty dược phẩm cần nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc thành lập Pharimex...

Như vậy là cùng với Imex Sài Gòn là cơ quan ngoại thương chính thức của thành phố, có chức danh như một tổng công ty, thành phố đã có hàng loạt công ty xuất nhập khẩu thật sự là của địa phương.

Từ trung ương đến các địa phương thời đó, người ta vẫn đồn đại về một câu nhận xét rất nổi tiếng của Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Lê Khắc về những tháo gỡ của TP.HCM: "Bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất là đã thấy sặc mùi Nam Tư rồi!".

Cholimex làm luôn cả chuyển kiều hối ngầm. Cholimex liên hệ với đại diện Việt kiều yêu nước tại Canada. Cơ sở Việt kiều đó nhận làm "đại lý" cho việc chuyển tiền về nước. Bất cứ Việt kiều nào ở Canada, Mỹ đều có thể gửi tiền cho cơ sở này.

Cơ sở đó báo về cho Cholimex. Cholimex phải chi tiền Việt để trả cho thân nhân của Việt kiều ở trong nước, tỉ giá được tính sát giá thị trường tự do. Như thế là Việt kiều đã giải quyết được việc giúp thân nhân. Cholimex có một số ngoại tệ tương ứng trừ đi khoảng 2-3% phí dịch vụ cho đại lý hải ngoại.

Khi số tiền của nhiều Việt kiều gửi về gộp lại thành một khoản lớn, Cholimex yêu cầu đại lý đó chuyển khoản về Hong Kong hoặc Singapore để trang trải một món hàng nhập khẩu nào đó.

Để cho các hoạt động này được hợp pháp, có tình có lý, các "imex" báo cáo với Nhà nước rằng đó là Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đỡ phát triển sản xuất và xây dựng đất nước.

Về nguyên tắc thì điều đó không trái với những qui định rất ngặt nghèo của cơ chế kế hoạch hóa tập trung: nếu Việt kiều yêu nước gửi nguyên vật liệu về giúp đất nước thì được khuyến khích và miễn thuế. Như vậy cái vòng đi và vòng về đã khép kín và trót lọt.

Xét về kim ngạch, con đường kiều hối nguyên liệu không lớn bằng con đường xuất nhập khẩu trực tiếp. Mỗi năm tổng số gửi về chỉ khoảng vài chục triệu USD. Tuy nhiên, để giải quyết những thiếu thốn lúc đó, nó cũng đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những năm "đêm trước" đổi mới.

Trong ba năm từ 1980-1982, hoạt động của các "imex" phát triển mạnh không chỉ ở TP.HCM mà đã lan tỏa ra rất nhiều tỉnh trong cả nước. Nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và ngoài Bắc cũng áp dụng phương thức hoạt động này.

Họ cử những đoàn vào nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của TP.HCM. Đó là trường hợp của Dệt lụa Nam Định, Thuốc lá Bông Sen ở Thanh Hóa. Đặc biệt các tỉnh có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng cũng phát triển rất mạnh những hình thức xuất nhập khẩu địa phương.

Tình hình phát triển tới mức mà các cơ quan quản lý ở cấp trung ương đã thấy rằng phải để mắt tới. Bắt đầu có những ý kiến yêu cầu phải siết chặt lại. Lý do thì có rất nhiều: hiện tượng tranh mua tranh bán đã đẩy giá lên cao.

Việc các địa phương mua vét hàng nông sản, lâm sản làm cho cơ quan ngoại thương của trung ương càng thêm khó khai thác các nguồn hàng để xuất khẩu theo các kênh chính thức. Việc mua bán vòng vo, ngoài kế hoạch đã làm rối loạn hệ thống kế hoạch hóa và cơ chế quản lý kinh tế...

Siết lại nhưng chỉ là hình thức

Ngày 14-9-1982, Bộ Chính trị ra nghị quyết 01 về "công tác của TP.HCM" nhằm uốn nắn những biểu hiện bị coi là "chệch hướng". Đến tháng 12-1982, Hội nghị trung ương lần 3 (khóa V) ra nghị quyết "về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu năm 1985". Nội dung chính của nghị quyết này là lập lại kỷ cương trong phân phối lưu thông.

Để thực hiện những tư tưởng trên, một trong những biện pháp quan trọng là dẹp các "imex", tập hợp tất cả vào Imex trong một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất của mỗi tỉnh. Từ đó, tất cả các "imex" của TP.HCM đều bị giải thể và nhập lại trong một đơn vị gọi là Imexco.

Tại các tỉnh, các cơ quan xuất nhập khẩu cũng được tập trung lại thành một cơ quan duy nhất, gọi là Unimex. Tất cả các tác nghiệp xuất nhập khẩu đều được "thanh lý", chuyển toàn bộ tài sản và nhân sự vào một đơn vị thống nhất, do Nhà nước quản lý.

Có thể nói nếu xét về mặt tháo gỡ những ách tắc do cơ chế cũ gây ra thì nghị quyết 01 và nghị quyết của Hội nghị trung ương 3 là một bước lùi trên con đường đi tới cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, đó cũng là điều khó tránh khỏi trong thời kỳ đang phải "dò đá qua sông", vì những năm nửa đầu thập kỷ 1980 vẫn còn là thời kỳ tranh tối tranh sáng, giằng co giữa một bên là cơ chế kế hoạch hóa tập trung và một bên là cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi ý kiến chính thức của trung ương là siết lại, thì ở TP.HCM và nhiều địa phương phần lớn ý kiến lại chưa "thông" với chủ trương đó. Cũng rất may là việc siết lại chỉ mang tính chất hình thức.

Tuy tất cả các tỉnh và thành phố đều chỉ còn một cơ quan xuất nhập khẩu duy nhất, nhưng việc xuất nhập khẩu trong thực tế lại không siết vào được nữa. Sau ba năm bung ra của các "imex", các cơ sở sản xuất đều đã học được cách tiếp cận với thị trường nước ngoài. Khi các "imex" không còn, họ đã kịp tìm được cách tự tổ chức những mối quan hệ.

Cùng với những thành công kể trên, các "imex" cũng phải trả giá vì chưa có kinh nghiệm thương trường, nhiều cơ sở đã bị thua lỗ, phá sản! Và không ít những giám đốc các "imex" đi tù, có người đã tự tử.

Tất nhiên, các "imex" cũng như phần lớn các cuộc phá rào khác chỉ là biện pháp tình thế để khắc phục nhất thời những ách tắc của cơ chế cũ. Để đi tới nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, còn phải tiếp tục trả giá và cả chặng đường dài cam go nữa.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN

__________________

Đêm trước đối mới: Nỗi niềm của tôi

TT - Làn sóng "xé rào" đã dâng trào mãnh liệt, cả đến những vùng cấm nhưng hàng rào bao cấp vẫn muốn siết lại. Trong cuộc giằng co đó, những người trong cuộc thật sự thấm thía bao nỗi niềm...

- Kỳ 1: "Đêm trước" đổi mới: Ký ức thời "sổ gạo"

- Kỳ 2: "Vòng kim cô"

- Kỳ 3: Khi chợ trời bị đánh sập

- Kỳ 4: Công phá "lũy tre"

- Kỳ 5: Chiếc áo cơ chế mới

- Kỳ 6: Tưởng như xa xôi lắm

- Kỳ 7: Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá

- Kỳ 8: Bù giá vào lương

- Kỳ 9: Những thông điệp gửi đến Ba Đình

- Kỳ 10: Chuyển đổi vô hình

- Kỳ 11: Imex - "bầu sữa" của đột phá

Hành trình của bao miến

Năm 1979 khi tôi đang công tác tại TP.HCM, được nghỉ phép về quê tại Nghĩa Đàn (Nghệ An). Chuyến về quê nghỉ phép năm ấy tôi không bao giờ quên vì suýt nữa tôi đã phải ngồi tù.

Ngày ấy cánh lính chúng tôi mỗi khi có việc (nghỉ phép hoặc công tác) ở các tỉnh phía Bắc phải đi tàu hỏa. Xuống tàu tại ga Vinh, tôi khệ nệ nào balô đồ đạc lỉnh kỉnh, vác bao miến "đặc sản Hố Nai" trên vai đến bến xe khách lấy vé về quê, mặc dù cực khổ nhưng trong lòng rất phấn khởi vì sắp được gặp lại những người thân, đặc biệt là lại có bao miến làm quà.

Khi xe chạy vào địa phận Nghĩa Đàn chưa được 1km thì xuất hiện một trạm gác (thời ngăn sông cấm chợ nhiều trạm gác lắm). Dân địa phương gọi trạm này là trạm Khe Son. Trước tiên là cần barie, được làm bằng nguyên cả cây tre, bổ xuống chắn ngang đầu xe. Chiếc xe dừng hẳn lại, hành khách lục tục xuống xe nhưng đa số vẫn ngồi yên.

Một người đàn ông chừng 40-50 tuổi, chẳng biết là nhân viên thuế hay quản lý thị trường, bước một chân lên cửa xe quát: "Tất cả xuống để kiểm tra hành lý!". Đến lúc này hành khách mới miễn cưỡng rời ghế xuống xe. Tôi là người rời xe sau cùng. Hai, ba người đàn ông hùng hổ bước lên xe, lục tung mọi đồ đạc hành lý của hành khách, nhiều đồ đạc bị lôi xuống, tôi nhìn thấy có những nồi đất đựng cá nướng của bà con vùng biển mang lên bán cho vùng núi, mỗi nồi chỉ khoảng 3-4kg cá, mà vẫn bị lôi xuống và bị gọi là hàng cấm, có thể bị tịch thu.

Tôi đang ngạc nhiên về điều đó thì nghe tiếng quát của một nhân viên: "Cái bao bố này của ai?". Tôi chạy lại nói của tôi. Ông ta hỏi tiếp: "Cái gì trong này?". Tôi trả lời là miến, tôi mang từ trong Nam ra để làm quà cho gia đình. Ông ta khẳng định: "Miến làm bằng gạo, là lương thực, là hàng cấm lưu thông, chỉ có Nhà nước mới được vận chuyển từ tỉnh này qua tỉnh khác, anh đã mang hàng không được phép, chúng tôi lập biên bản tịch thu".

Tôi giải thích đây là miến chứ không phải gạo, hơn nữa số lượng không nhiều, không phải mục đích buôn bán gì, chỉ làm quà cho gia đình nhưng ông ta cũng không cho, buộc tôi phải đưa xuống trạm để lập biên bản. Tôi nhất quyết không chịu. Ông ta nắm bao bố định kéo xuống.

Tôi giằng lấy bao miến, nhìn thẳng vào mặt ông ta nói rít qua kẽ răng vừa đủ để ông ta nghe: "Nếu ông dám kéo bao này xuống, tôi sẽ bắn vỡ mặt ông" - vừa nói tôi vừa đưa tay móc khẩu K54 (chỉ để ông ta nhìn thấy). Chẳng biết ông ta sợ khẩu K54 hay sợ ánh mắt nảy lửa của tôi lúc đó, chỉ thấy ông ta buông bao miến ra và lặng lẽ bước xuống xe, đi thẳng vào trạm. Tôi thấy ông ta trao đổi gì đó với một người khác (có lẽ là người phụ trách trạm). Rồi không thấy ông ta ra nữa.

Sau khoảng một giờ đồng hồ lục soát, tiếng quát tháo, tiếng năn nỉ van xin, kẻ chạy ra người chạy vô nhốn nháo, cuối cùng xe cũng được phép chạy và bao miến "đặc sản Hố Nai" của tôi cũng về được nơi tôi muốn. Cho đến bây giờ, đã 26 năm trôi qua, nhưng mỗi khi có dịp được ăn miến gà, miến vịt, miến giò heo... tôi lại nhớ bao miến "đặc sản Hố Nai" và cuộc hành trình gian nan của nó.

TRƯƠNG ĐỨC THẮNG

([email protected])

Thoát nhờ "ông Sáu"

Tôi năm nay đã 86 tuổi, thuộc loại "động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, được xếp vào Sách đỏ của Đảng và chính quyền quận", là chứng nhân của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, và của nhiều thời kỳ lịch sử đương đại ở nước ta và trên thế giới.

Chuyện bao cấp gạo làm tôi nhớ lại một chuyện cũ khá điển hình: hồi đó Bệnh viện Ung thư TP.HCM đang sắp thiếu gạo trầm trọng, chỉ còn đâu hơn một tuần lễ nữa thì có lẽ sẽ phải cho bệnh nhân ăn một bữa cơm, bữa cháo. Chúng tôi xin được một giấy giới thiệu của Văn phòng 2 Bộ Y tế, do thứ trưởng ký, xuống một tỉnh miền Tây mua 3 tấn gạo. Xuống đến nơi, vị chủ tịch UBND tỉnh cầm tờ giấy đọc xong, vứt xuống bàn như một tờ giấy lộn, nhìn mặt tôi nói với giọng hằn học: "Lại gạo, đây có phải là kho gạo của các anh đâu mà cứ xuống nã mãi thế này.

3 tấn à? Đến 3kg cũng không thể bán cho các anh được". Tôi hết sức lo lắng và thất vọng bàn với anh em đổ ra chợ và vào các làng xóm tìm mua với bất cứ giá nào. Người ta lén lút bán cho chúng tôi nhưng không được bao nhiêu.

Đêm hôm đó, đột nhiên đứa con nhỏ của vị chủ tịch lên cơn sốt cao, co giật. Bà vợ hoảng hốt ra gọi tôi. Tôi vào xem thấy cháu bé bị sốt xuất huyết khá nghiêm trọng, vội gọi điện cho phòng cấp cứu bệnh viện tỉnh và đưa ngay cháu đến để được điều trị kịp thời.

Sáng hôm sau, vị chủ tịch cho mời tôi vào cấp một giấy phép mua ở kho gạo tỉnh, không phải ba tấn mà bốn tấn gạo. Tôi mừng rơn, vội vã thu xếp đi về, chiếc xe tải chở gạo đi trước, tôi đi chiếc xe con áp tải phía sau. Vừa ra khỏi địa phận tỉnh, sang đến tỉnh bên thì bị một toán dân quân, súng ống kè kè, chặn xe lại, xem giấy giới thiệu thấy nói mua ba tấn mà sao lại quá tải thế này, bắt đổ cả xuống để cân lại.

Chuyện còn đang rất lùng nhùng thì anh lái chiếc xe con của tôi, vốn trước kia đã là một trung sĩ lái xe cho một sĩ quan cao cấp trong quân đội Sài Gòn, mở cửa xe bước xuống, nét mặt hầm hầm tiến lại phía đám dân quân, quát to lên: "Bọn bay muốn rục xương hả? Không thấy ông Sáu ngồi trong xe kia ư?".

Ông Sáu là tôi, ngồi trong xe không biết là Sáu gì, nhưng run quá, nghĩ không khéo đêm nay nằm cho muỗi đốt thê thảm trong trại giam của tỉnh cũng nên. Nhưng may thay, đám dân quân dẹp sang một bên, hất tay cho xe đi. Hú vía. Đi trót lọt về đến TP thì đã gần nửa đêm, phải đợi đến sáng kiểm tra xong mới được vào.

Ngoài những chuyến xe bão táp đi mua gạo đó, tôi cũng đã từng đứng ở bục giảng Trường đại học Y khoa TP.HCM. Có bữa thầy đang giảng bài trên giảng đường thì ở dưới sinh viên vừa đi lĩnh được gạo về đang tấp nập chia khẩu phần, đành phải hoãn bài giảng, vì bệnh gì thì bệnh cũng không bằng cái bệnh đói của những bao tử đang tuổi ăn, tuổi lớn.

Còn biết bao nhiêu chuyện riêng của tôi và gia đình tôi thì cũng như của biết bao nhiêu cán bộ và gia đình cán bộ vào cái thời bao cấp ấy. Gần đây anh Nguyễn Khải, nhà văn, có nói với tôi: "Chúng mình thời ấy cứ như đang sống trong một cơn mê sảng tập thể vậy".

BS NGÔ VĂN QUỸ

(nguyên phó giám đốc Trung tâm Ung bướu TP.HCM)

Không phá rào?

Sau khi báo Tuổi Trẻ ngày 7-12 đăng bài của tôi về "Từ chạy gạo đến phá cơ chế giá", tôi liền nhận được điện thoại của một bạn trẻ chất vấn: "Thành phố thiếu gạo, dân có tiền, nông dân ĐBSCL có gạo bán thì xuống mua là chuyện thường tình. Có gì mà phải ca ngợi những vị lãnh đạo của thành phố là dũng cảm đột phá, là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...?". Tôi đã trả lời người bạn trẻ. Hôm sau, mấy em học trò của tôi đến khoe đã đọc bài báo đó và cũng hỏi một câu y như thế!

Hóa ra thế hệ trẻ không dễ hình dung nổi những trở ngại về cơ chế và tư duy những năm đó nghiệt ngã đến mức nào!

Thay vì trả lời từng bạn đọc, tôi xin gửi tới báo nội dung trả lời của tôi:

Lúc ấy khuynh hướng của nhiều người, thậm chí của đa số, là không muốn phá rào, mà muốn tìm những định hướng khác như giáo dục tư tưởng, yêu cầu đảng viên phải gương mẫu bán thóc, nhân dân và cán bộ phải chịu đựng gian khổ...

Có một định hướng đã từng được thực thi, mà tôi cùng hàng chục ngàn người đã từng là nạn nhân là: đưa cán bộ công nhân viên chức về nông thôn trồng khoai trồng sắn. Theo chỉ thị số 306-TTg 18-11-1980, các cơ quan xí nghiệp trong cả nước phải thay phiên nhau về nông thôn mượn đất của hợp tác xã để trồng trọt. Đó cũng là lúc người nông dân hợp tác xã đã chán không muốn trồng trọt nữa, sẵn sàng nhường đất cho bất cứ ai muốn xin. Cán bộ công nhân viên buộc phải về những vùng xa xôi 40-50km.

Trường hợp cơ quan tôi thì phải đi từ Hà Nội lên tận Thái Nguyên. Đường sá xa xôi. Tiền xăng, tiền ăn đường còn tốn hơn nhiều so với của cải làm ra. Từ quen cầm bút chuyển sang tay cày tay cuốc. Đã không biết trồng trọt lại không có người trông nom, củ khoai củ sắn bé tí, lại không người chăn nom, trâu bò đến phá...

Cuối cùng tốn vô số thời gian, tiền bạc và công sức mà chẳng được gì. Vậy mà vẫn có vị lãnh đạo nói rằng: "Dù sao thì chúng nó cũng làm ra được củ khoai củ sắn, thêm một chút lương thực cho xã hội, còn hơn là ngồi không ăn hại!". Hóa ra mất không biết bao nhiêu tiền đào tạo những tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ... để làm việc cày cuốc không bằng một người nông dân!

Vậy mà định hướng đó đã từng một thời được coi là có lập trường vững vàng. Còn sự tháo gỡ theo hướng đột phá như TP.HCM thì đã từng bị không ít người cho là chệch hướng. Thật may, nếu không "chệch hướng" mà cứ đúng hướng đi trồng khoai trồng sắn như kể trên thì không biết đến ngày hôm nay "dân mình ra sao"!

Thiết tưởng đó là một bài học rất có ý nghĩa đối với các bạn trẻ hiện nay, là những người không bao lâu nữa sẽ gánh vác trọng trách lèo lái con thuyền VN đi tiếp vào tương lai.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)

__________________

Đêm trước đổi mới: Tôi "trắng án"

TT - LTS: Những đột phá, xé rào thời "đêm trước" đổi mới không chỉ bắt đầu từ bức xúc của nông dân, công nhân, doanh nhân; xoay xở của lãnh đạo mà cả sự nhập cuộc của trí thức. GSTS Võ Tòng Xuân vừa gửi về tòa soạn câu chuyện của chính ông.

Sau giải phóng, tôi về Đại học Cần Thơ, tiếp tục công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Viết kịch bản khuyến nông

Đầu năm 1978, tôi tìm đến Đài truyền hình (ĐTH) TP.HCM và ĐTH Cần Thơ bàn thực hiện chương trình khoa học kỹ thuật nông nghiệp mỗi tuần phát hình một lần dài 30 phút. Đây là sự cộng tác hoàn toàn tự nguyện, không ai lấy tiền của ai.

Chương trình được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các anh ĐTH, còn tôi thì lo viết kịch bản kiêm đóng kịch, với các anh Nguyễn Văn Huỳnh, Phạm Văn Kim và một số nông dân tiên tiến. Lúc đó việc đưa khoa học kỹ thuật lên truyền hình cho nông dân học là một cách làm mới, cho nên muốn bảo đảm tính hiệu quả cao của mỗi chương trình tôi phải nhúng tay vào việc từ viết kịch bản theo đúng kỹ thuật khuyến nông - nghĩa là phải thể hiện các thông tin và kiến thức mới để người xem, nhất là nông dân, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ chấp nhận và dễ làm theo. Tôi không dùng chữ nghĩa cao xa, cầu kỳ, mà chỉ dùng những từ ngữ mà nông dân thường dùng, dùng tiếng nói của nông dân để trình bày những kỹ thuật mới cho họ nghe. Dĩ nhiên tôi phải hỏi cho nông dân trả lời theo trình tự logic để người nghe hiểu và chấp nhận.

Chương trình này nhanh chóng đã trở nên một chương trình được khán giả ưa thích không kém các chương trình cải lương!

Để hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình khuyến nông với ĐTH, qua GS Nguyễn Văn Hiệu, viện trưởng Viện Khoa học, tôi đã tranh thủ với GS Edward Cooperman, chủ tịch Hội Các nhà khoa học Mỹ, hợp tác với VN xin một số thiết bị tối cần như máy thu phát video và tủ lạnh -5OC bảo quản tập đoàn giống lúa mà thầy trò nông nghiệp của ĐH Cần Thơ đã sưu tầm.

Có lẽ tôi là người tiếp nhận bộ máy video đầu tiên trong nước vào năm 1981, gồm có bốn đầu máy Betamax, hai đầu máy Umatic và hai máy camera quay video Sony. Tôi nói "đầu tiên" vì lúc đó chưa cơ quan nào trong nước biết dùng loại thiết bị hiện đại này. Khi nhập vào, Hải quan TP.HCM đòi phải có giấy phép của Bộ

Văn hóa - thông tin, và khi xin được giấy phép, hải quan ghi rõ chi tiết từng số máy như là đối với xe gắn máy bây giờ. Về đến Cần Thơ, chúng tôi phải trình với Sở Văn hóa - thông tin, ghi từng số máy và cam kết không sử dụng vào mục đích gì khác hơn là làm chương trình khuyến nông. Lúc ấy, GS Cooperman cũng đem sang VN hai máy vi tính PC hiệu Apple II mới nhất của Mỹ, một cái đặt tại viện của GS Nguyễn Văn Hiệu và một cái tại ĐH Cần Thơ. Nên nhớ là máy PC lúc ấy chỉ có một đĩa cứng 64 Kilobyte mà thôi (không như bây giờ, nhỏ nhất cũng cỡ 10 Gigabyte).

Mô hình "phản động"

Qua chương trình khuyến nông trên truyền hình, tôi đã mạnh dạn giới thiệu mô hình sản xuất tiên tiến trong nông thôn để mau chấm dứt tình trạng chán nản trong nông dân; cũng vì thế mà tôi và các vị lãnh đạo của ĐTH TP.HCM (ông Huỳnh Văn Tiểng), ĐTH Cần Thơ (ông Lưu Thành Tâm) và Ủy ban Phát thanh - truyền hình VN (ông Trần Lâm) suýt bị kỷ luật. Số là trong quá trình nghiên cứu lúa trên khắp ĐBSCL, tôi thấy một trở ngại rất lớn khiến kỹ thuật không vào được với nông dân, đó là chính sách nông nghiệp của Nhà nước đã không khuyến khích người lao động mà còn bắt buộc họ làm việc như cái máy không được suy nghĩ gì cả.

Từ năm 1979 nông dân gần như bị bắt buộc phải vào hợp tác xã (HTX) hoặc tập đoàn sản xuất (TĐSX) nhưng không ra đồng sản xuất, hoặc nếu có sản xuất thì hụ hợ không màng năng suất cao. Gia đình nông dân không đủ ăn mà họ cũng không có dư lúa để bán cho cửa hàng lương thực nhà nước. Ở nhiều địa phương nông dân không có dư lúa bán cho Nhà nước đã phải chịu đo bồ lúa để chứng minh không có lúa dư.

Trong khi đó chúng tôi cộng tác với một số TĐSX - điển hình nhất là TĐSX số 9 ấp Lung Đen, xã Kế An, huyện Kế Sách, Sóc Trăng - theo kiểu "khoán sản phẩm" thì nhà dân đầy lúa mà kho lương thực nhà nước cũng đầy lúa. Nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh 2-9, tổng kết nông nghiệp sau năm năm hòa bình, tôi đã mạnh dạn đưa mô hình TĐSX 9 Lung Đen lên báo Tin Sáng ngày 2-9-1980 và trong chương trình truyền hình hằng tuần của tôi.

Các chuyên viên của ĐTH TP.HCM từ lâu không kiểm duyệt chương trình của tôi vì toàn là nói về kỹ thuật, không có hơi hám gì về chính trị, không dè trong chương trình ngày 2-9-1980 lại có mục "khoán sản phẩm". Các vị lãnh đạo Ban hợp tác hóa trung ương lập tức gửi công điện khắp các tỉnh, tuyên bố không chấp nhận mô hình "phản động" tôi đã nêu, và yêu cầu ĐTH TP.HCM ngưng phát hình chương trình đi ngược đường lối. Anh Võ Văn Chung - người nông dân Tiền Giang cộng tác rất nhiệt tình với thầy trò nông nghiệp của ĐH Cần Thơ từ 1977 - đã hớt hải đi xe đò sang Cần Thơ ngay hôm sau đó báo cho tôi hay là lãnh đạo tỉnh bảo anh ấy không nên tiếp xúc với tôi nữa vì tôi đã phạm tội với trung ương, và khuyên tôi nên cẩn thận.

Tôi liền báo ngay với ông Phạm Sơn Khai, bí thư Đảng ủy kiêm hiệu trưởng ĐH Cần Thơ bấy giờ. Ông hiệu trưởng trấn an tôi hãy bình tĩnh, để ông tìm hiểu thêm xem trên sẽ bắt tội tôi như thế nào. Trong phiên họp tháng 4-1981, Ban chấp hành T.Ư Đảng đứng trước hai sự chọn lựa: làm hợp tác hóa chính thống thì ra ít lúa hay khoán sản phẩm thì lúa đầy bồ của dân và đầy kho lương thực của Nhà nước.

Đảng đã chọn cách thứ hai, thể hiện trong chỉ thị số 100, mà sau này chúng ta quen gọi là Khoán 100. Ủy ban Phát thanh - truyền hình, ĐTH TP.HCM, ĐTH Cần Thơ và tôi được trắng án.

Phê phán chính sách phá rừng tràm

Từ quyết định lịch sử Khoán 100, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới với những chính sách hợp tình hợp lý hơn. Trong thời gian này tôi tham gia Quốc hội (suốt ba khóa từ năm 1981-1997), đồng thời tham gia các hoạt động tư vấn cho một số viện, trường nông nghiệp quốc tế.

Lần họp Quốc hội đầu tiên của tôi vào tháng 6-1980 đánh dấu một sự thay đổi trong tập quán thảo luận tại hội trường Ba Đình. Bằng những minh chứng khoa học cụ thể, tôi đã phê phán chính sách phá rừng tràm để lập các vùng lúa Tháp Mười, U Minh, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, làm lãng phí ngân sách quốc gia, nhụt chí người lao động (nhất là lao động bất đắc dĩ từ thành thị bị bắt buộc tham gia trồng và gặt lúa, điển hình nhất là ở tỉnh Long An những năm 1978-1980). Trồng lúa không có hiệu quả mà phá hại môi trường sinh thái rừng tràm thiên nhiên.

Sau khi tôi phát biểu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngoắt tôi lại và hỏi tại sao tôi không nói sớm hơn để Nhà nước đỡ lãng phí? Tôi thành thật thưa rằng đây là dịp đầu tiên tôi có cơ hội trình bày, chớ trước đây đâu ai chịu nghe! Sau đó Thủ tướng đã trực tiếp chỉ thị cho Bộ Nông nghiệp (Thứ trưởng Nguyễn Đăng) nhanh chóng sửa sai. Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt trong giờ giải lao cho tôi biết là mặc dù biết mất rừng tràm nhưng áp lực sản xuất lúa bằng mọi giá đã không cho phép ông bảo vệ rừng tràm được.

GSTS VÕ TÒNG XUÂN (Hiệu trưởng Đại học An Giang)

__________________

--------------------------------------------------------------------------------

Đêm trước đổi mới: Chiến thắng chính mình

TT - Đại hội VI đã cận kề. Những thành trì thủ cựu, do dự, rụt rè bị lấn át. Nắm bắt thời cơ có một không hai, người cầm cờ đổi mới đi đến quyết định kịp thời: viết lại văn kiện Đại hội VI. Một quyết định kịp đón nhận bình minh của đổi mới.

Hội nghị bẻ lái

Gần đến ngày Đại hội VI khai mạc, các cuộc họp thảo luận dự thảo văn kiện vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau buộc trung ương phải đi đến một phiên quan trọng: bàn về những ý kiến khác nhau về báo cáo chính trị Đại hội VI với thái độ "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật".

Ông Hà Đăng - nguyên ủy viên Trung ương Đảng - nói: cuộc họp đó sau này gọi là Hội nghị ba quan điểm. Tinh thần của hội nghị được quán triệt là thẳng thắn, dũng cảm và không sợ "phạm húy".

Những cuộc trao đổi, tranh luận sôi nổi cho thấy dự thảo văn kiện dù đã chuẩn bị kỹ nhưng chưa nói được nguyên nhân khủng hoảng và vì vậy không mở được hướng đi mới trước yêu cầu của cuộc sống đang hừng hực khí thế đổi mới. Những cuộc tranh cãi quyết liệt cuối cùng đã bật ra ba quan điểm cần thay đổi.

Một là vấn đề cơ cấu kinh tế. Dự thảo văn kiện lúc ấy vẫn coi công nghiệp nặng là nhiệm vụ then chốt. Nhân tố chính của công nghiệp nặng là cơ khí vì cơ khí sẽ đẻ ra tư liệu sản xuất. Trên nền quan điểm này, hàng loạt dự án đồ sộ như cơ khí Hà Nội, than Cẩm Phả, các nhà máy ximăng... đã hút hầu hết vốn đầu tư của nền kinh tế nhưng hiệu quả rất thấp.

GS Lê Văn Viện nói: quan điểm trên rập khuôn mô hình Liên Xô. Nhưng VN khác Liên Xô ở chỗ thời sa hoàng họ đã có một nền công nghiệp nặng hàng trăm năm. Kèm theo đó là hệ thống hạ tầng, con người tương ứng. Với VN, tất cả những cái ấy đều thiếu. Vốn chủ yếu trông vào viện trợ.

Sau giải phóng, viện trợ bị cắt thì mất chỗ dựa. Trong khi đó nông nghiệp hết sức lạc hậu... Hội nghị kết luận đây là quan điểm duy ý chí, đốt cháy thời kỳ quá độ. Chủ trương này phải thay bằng tập trung phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Hai là vấn đề cải tạo XHCN ồ ạt đã "lỡ" làm triệt để và toàn diện. Xóa bỏ tư hữu đã biến mọi thứ thành của chung tưởng rằng công bằng nhưng không ngờ đã triệt tiêu mọi ham muốn làm ăn, buôn bán. Sự phi lý này đã làm bánh xe lịch sử... xì lốp. Lời giải là phải chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.

Ba là vấn đề cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Tất cả mọi kế hoạch lớn nhỏ như đã và đang làm đều dựa vào ý muốn chủ quan và mệnh lệnh hành chính chứ không dựa vào thị trường hay các qui luật kinh tế - xã hội. Cách thức phân phối gạo, thịt, mắm, muối... căn cứ theo lao động chứ không dựa trên thực tế. Động lực lao động chủ yếu dựa vào tinh thần mà bỏ qua động lực vật chất. Nhận định rõ những nhược điểm của cơ chế hiện thời, nhiều người bắt đầu tỉnh ra: phải dựa trên quan hệ thị trường để điều phối những bất hợp lý trên.

Ông Lê Xuân Tùng, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nói: ba quan điểm trên đã thay đổi cơ bản nội dung của dự thảo báo cáo chính trị. Kết thúc cuộc họp đã lóe lên ánh sáng cuối đường. Đặc biệt sau hội nghị này, Đảng đã vượt lên chính mình, dũng cảm thừa nhận những sai lầm. Cơ hội bám rễ những quan điểm bảo thủ lạc hậu lùi bước.

"Lột xác"

Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng, tháng 7-1986, Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời. Chủ tịch Hội đồng nhà nước Trường Chinh đảm nhận luôn chức tổng bí thư. Ông đẩy nhanh hơn yêu cầu nắm bắt thực tiễn, trực tiếp đi nghiên cứu các mô hình "xé rào".

Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội VI mỗi đêm trở dậy thấy càng thêm xa rời đòi hỏi của cuộc sống. Bù giá vào lương ở Long An, phá chỉ tiêu dệt may ở TP.HCM, mua lúa giá cao ở ĐBSCL... và đặc biệt cuộc cải cách giá - lương - tiền trên toàn quốc đã hợp thành lực đẩy tổng hợp đưa toàn bộ nền kinh tế vào tình thế không thể trở lui.

Giáo sư Lê Văn Viện kể: "Một buổi sáng cuối tháng 9-1986, tôi nhận được tin lập tức theo đoàn cán bộ xuống nhà nghỉ Vạn Hoa - Đồ Sơn (Hải Phòng) họp khẩn cấp với Tổng bí thư Trường Chinh.

Có mặt ở cuộc họp này là toàn bộ tổ biên tập văn kiện Đại hội VI (do ông Hoàng Tùng làm tổ trưởng và ông Đào Duy Tùng làm tổ phó) và một số chuyên viên trong nhóm tư vấn của tổng bí thư. Chính tại đây, ông Trường Chinh tuyên bố: viết lại văn kiện đại hội!".

Tình thế chuyển ngay lập tức. Ba người "tư duy mới" được bổ sung tổ biên tập là Hà Nghiệp, Trần Đức Nguyên và Lê Văn Viện. Tổng bí thư đích thân giao trọng trách cho tổ văn kiện tổng hợp ý kiến đóng góp và rút lấy tinh thần chung để soạn thảo lại văn kiện cho đại hội đã rất cận kề.

Ông Trần Đức Nguyên còn nhớ ông được giao hệ thống hóa lại ba quan điểm theo tinh thần khẩn trương tối đa để trình Bộ Chính trị thảo luận lần cuối. Nhưng sát đại hội, Bộ Chính trị chủ yếu tập trung chuẩn bị nhân sự nên giao trách nhiệm rà soát văn kiện cho hai vị trưởng lão.

Vừa đi công tác Hà Tây về Hà Nội, ông Nguyên bỗng ngớ người ra khi nghe báo lại có ý kiến yêu cầu sửa mười mấy điểm. Toàn là những điểm quay trở lại tư duy cũ. Ông gọi điện phản ứng ngay với thư ký của bậc trưởng lão chỉ đạo rà soát văn kiện: nếu sửa theo ý các anh thì khác với kết luận của Bộ Chính trị.

Nửa tiếng sau, ông Nguyên nhận được điện thoại trả lời: các anh cứ giữ đúng như kết luận của Bộ Chính trị. Ông Nguyên cười: thế là thoát, không phải phục hồi cái cũ. Chủ trương đổi mới dù đã thống nhất nhưng không dễ được bỏ phiếu cao.

Kết luận ba quan điểm này được xem như linh hồn của văn kiện lần hai. Các chuyên gia tổ biên tập lập tức dựng lại hình hài báo cáo chính trị của Đại hội VI. GS Lê Văn Viện còn nhớ ông phải mang quần áo, tư trang vào ở hẳn khu biệt thự Hồ Tây của Trung ương Đảng viết lại văn kiện.

Mỗi người viết một phần theo chuyên môn của mình. Có ngày ông viết được 5-7 trang, nhưng cũng có ngày chỉ viết được vài dòng. Tâm trạng mọi người rất phấn khích, trao đổi với nhau rất hào hứng. Tuy nhiên, cái khó nhất là cân nhắc câu chữ để số đông chấp nhận. Văn kiện chưa dám nói "kinh tế thị trường" phải lách là "hạch toán kinh doanh XHCN".

Có tiếng xì xầm những chuyên gia thảo văn kiện đang đi theo con đường CNXH kiểu Nam Tư. Cái mới mặc dù đã được thực tiễn chứng minh, nhưng không ít những người có quyền vẫn phớt lờ, không muốn thừa nhận chỉ vì nó khác với sách vở mà mình đã học.

Thực tế đổi mới đã rõ như ban ngày vẫn khó khăn, trầy trật khi đi vào nghị quyết. Nhưng cuộc sống đã sang trang, không thể cưỡng lại. Ngày văn kiện in ra, mọi người bồi hồi xúc động: xong việc lớn!

XUÂN TRUNG - QUANG THIỆN

__________________

Đêm trước đổi mới: Uy quyền của lòng dân

TT - Chúng ta có phương thức đổi mới phù hợp với hoàn cảnh, đặc thù đất nước và dân tộc mình. Đó là đổi mới từ thực tiễn đi ngược lên chính sách mà thường gọi là "xé rào".

Đổi mới trong quan điểm tư tưởng, tư duy từ mỗi con người, đơn vị đến toàn Đảng toàn dân bằng cách tự nhận thức và thuyết phục...

Đổi mới không đổ vỡ

Chúng ta không có một văn bản nào chính thức định hướng, hướng dẫn đổi mới; cũng không có ai tuyên bố đổi mới từ đâu, lúc nào, cách nào... Toàn xã hội chung nỗi bức xúc bởi những khó khăn, thiếu thốn, ngột ngạt... Và từ trong mọi ngõ ngách cuộc sống đều khao khát thay đổi để thoát khỏi những khó khăn hiện tại.

Thế là từ những hợp tác xã nhỏ bé đã tìm ra khoán nông nghiệp, từ một công ty đã mạnh dạn phá bỏ chỉ tiêu, một địa phương âm thầm gạt bỏ cơ chế tem phiếu... hợp thành một cuộc đại cách mạng. Mỗi bước đột phá là thêm một sáng tỏ cho con đường đi tiếp. Mục tiêu mỗi đột phá chưa phải là cơ chế thị trường hay những gì lớn lao mà chỉ là nhằm giải quyết những ách tắc, bất hợp lý của cơ chế cũ.

Và tới một ngày chúng ta cùng đến một bờ bến mới thì vỡ lẽ ra rằng: cơ chế thị trường là cái đã được lịch sử lựa chọn. Đổi mới ở VN là đòi hỏi của đời sống toàn xã hội đưa đến, là loại đường mà cứ đi rồi mới thành đường.

Trong khi ở Liên Xô, Đông Âu, những cuộc lột xác gây biến động dữ dội nên thường đổ máu hoặc gánh chịu những đau đớn, mất mát lớn. Ở Trung Quốc, đó là tổng hợp thực tiễn, chuẩn bị tư tưởng, lý luận từ trên sau đó triệt để áp dụng xuống dưới. Cách riêng của VN là đổi mới từ dưới lên, sinh động và vừa đổi mới vừa chỉnh sửa.

Tức là kết quả cụ thể tinh lọc lấy hạt nhân sau đó lựa chọn áp dụng rộng. Điều này hay ở chỗ không khủng hoảng chính trị, không có sự xung đột giữa các lực lượng xã hội; có kết quả đúng rồi thì mới tiến hành. Tuy nhiên hạn chế ở chỗ: chậm, dò dẫm, thiếu triệt để và rất khó. Khó vì nó cần những yếu tố đặc biệt mới có thể tiến hành.

Trong quá trình đổi mới tư duy, chúng ta có các quan điểm đối lập nhau tạm gọi là bảo thủ và đổi mới. Những sự khác nhau không giải quyết bằng phân cực, chia rẽ, đối lập mà chờ đợi và thuyết phục, rồi từng bước khắc phục những khác biệt.

Và như vậy sự tháo gỡ, thay đổi không gây đổ vỡ; năng động không làm hỗn loạn; trái qui định nhưng không mất tính tổ chức. Đổi mới chín dần trong nhận thức có thể sớm hơn ở chỗ này, người này và chậm hơn ở chỗ khác, người khác. Thậm chí ngay trong một người mặt này hăng hái cải cách, mặt khác bảo thủ, nguyên tắc... Có lúc chính người lập ra hàng rào thì sau này lại đồng thuận đi phá hàng rào.

Những người "cầm còi" nào còn khư khư với cơ chế cũ và gây ách tắc cho việc tháo gỡ thì chính họ lại bị "huýt còi". Nhưng đây không phải là sự thanh trừng nặng nề mà rất nhẹ nhàng, thường là thuyên chuyển công tác, tức là chỉ giao "còi" cho người khác mà thôi.

Những mũi đột phá ở VN rất đặc biệt vì không trực diện "tuyên chiến" với chính sách, chủ trương mà thường lách qua một cách tinh tế, tự nhiên. Nếu chính sách là bức tường thành thâm nghiêm cũ kỹ thì mũi đột phá không phải trọng pháo để bắn phá mà nó chỉ là những mũi dao, bay như đồ nghề thợ xây lách qua từng kẽ gạch. Đến một lúc những mũi dao, bay này có thể tháo dỡ cả một bức tường mà không gây đổ nát, kinh động. Thậm chí còn bảo quản được nhiều chất liệu dùng cho công trình mới.

Chúng ta đã lựa chọn một con đường vòng khá dài và tốn kém, mà ban đầu chúng ta vững tin rằng đó là con đường thẳng, ngắn nhất, dễ đi nhất và đi nhanh nhất. Còn cái xa lộ thông thường của qui luật lịch sử thì đã từng bị ngộ nhận là con đường vòng nguy hiểm, đầy tai họa và khổ đau, cần và có thể bỏ qua nó, nên đã đặt ở đó nhiều loại biển cấm và biển báo "nguy hiểm".

Đổi mới là một cuộc đại uốn nắn lộ trình, tìm lại được xa lộ của qui luật, từ đó cỗ xe của chúng ta đi thênh thang, nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Còn các cuộc đột phá chính là việc nhổ dần những biển cấm và biển báo sai qui luật, để đưa chúng ta về xa lộ.

Bản thân việc đi nhổ những chiếc biển báo "nguy hiểm" hẳn cũng là việc nguy hiểm. Thật thú vị là hầu hết những người đi đầu trong các mũi đột phá quan trọng đều từng là những chiến sĩ cách mạng kiên trung trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng. Đó là Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Hơn... đã bao năm lăn lộn trong máu lửa kháng chiến chống Mỹ.

Những con người như thế khó ai có thể nghi ngờ lập trường, phẩm chất của họ. Nói đúng hơn là rất khó "bắt tội" chống CNXH của họ. Vì vậy họ tồn tại và họ có điều kiện để vận động, thuyết phục... Sự nghiệp cách mạng và kháng chiến đã cho những hiệp sĩ ấy tấm "áo giáp" để đột phá cho cả những khó khăn ở thời bình.

Câu chuyện muôn đời

VN tuy đã trải qua nhiều cuộc cải tạo XHCN mạnh tay nhưng nền kinh tế tự do như chợ búa, quán xá, các cơ sở sản xuất tư nhân, hệ thống tư thương xưa gọi là phe phẩy vẫn luôn tồn tại bên cạnh nền kinh tế quốc doanh.

Nó được ví như cái bướu lạc đà. Tuy nó "chia bớt" nguồn dinh dưỡng từ cơ thể kinh tế XHCN để tồn tại nhưng khi quốc doanh gặp khó khăn như thiếu hàng hóa, đói nguyên liệu, không mua không bán được... thì cái bướu đó lại nuôi sống cơ thể xã hội. Đây cũng là lý do góp phần giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội ở các nước Đông Âu bị khủng hoảng trầm trọng, còn ở VN thì nhẹ nhàng hơn.

Bên cạnh đó phải nhớ rằng kể từ sau năm 1975 chúng ta đã có một nửa đất nước là xứ sở của nền kinh tế thị trường. Gần như toàn bộ miền Nam không chỉ kế thừa nền kinh tế thị trường trước đó mà còn được tiếp sức từ nguồn lực nước ngoài và Việt kiều với khoảng vài trăm triệu USD mỗi năm.

Tôi gọi điều này là "quyền uy của lòng dân". Thật ra đó vẫn là câu chuyện muôn đời của hai chữ "vì dân". Đất nước trải qua bao nhiêu gian nan, bi thương bởi chiến tranh. Đến khi hòa bình, thống nhất ai cũng thấy rằng tất cả mọi người trên đất nước này đều xứng đáng, đều rất cần một cuộc sống no ấm, đủ đầy hơn bao giờ hết.

Vậy nên khi đời sống quá thiếu thốn, khủng hoảng ngày một trầm trọng thì những người nắm công quyền cũng không nỡ thực hiện cải tạo một cách triệt để đến mức cắt bằng hết sinh kế của dân. Chẳng lẽ anh cán bộ có thể bắt một bà má (như bà má nào đó đã từng nuôi giấu anh) về tội bà đem con gà, nải chuối hay ống gạo đi bán?...

Mặt khác, ai cũng nhớ rằng mới đây thôi khi cán bộ và quần chúng, Đảng và dân luôn sát cánh bên nhau chia ngọt sẻ bùi, nhân dân không ngại hi sinh bất cứ thứ gì cho CNXH, thì nay làm sao có thể đẩy nhau vào thế đối địch, xử cạn tàu ráo máng với nhau được.

Văn kiện Đại hội VI chuẩn bị trong một thời gian dài tốn nhiều công sức, tiền của nhưng khi thấy không phù hợp, dù thời điểm đại hội đã cận kề thì vẫn phải sửa lại gần như toàn bộ. Nếu thiếu sự quyết đoán đó chúng ta chưa được như hôm nay. Nếu như quyết định sớm hơn thì nay khoảng cách của VN với các con rồng châu Á không phải là lớn và có lẽ ta không thua các nước mạnh trong khu vực.

Trước đây ta có thể "nhờ" hiện tượng xé rào để khám phá chính mình. Nhưng nay nếu ta tham dự sân chơi chung thì ở tầm vĩ mô ta phải nhìn xa trông rộng, dựa vào sức mạnh tổng thể để khai thác thế giới, loại bỏ sự khác biệt về thế hệ và quá khứ cũng như những nghi kỵ, bè phái. Tính Đảng hay CNXH xét cho cùng cũng chính là vì sự giàu mạnh của đất nước, vì những gì mà nhân dân đồng tình.

ĐẶNG PHONG (chuyên gia sử kinh tế VN)

QUANG THIỆN ghi

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoaian