Đêm trước đổi mới-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHÉN CƠM NGUỘI CỦA MÁ

Khác với đại đa số người Việt Nam không thích ăn sáng, hoặc bữa sáng của họ chỉ là ly cà phê và cho rằng nhịn ăn sáng cũng chẳng chết ai, thì đối với tôi, nếu không ăn sáng là tôi chết liền.

Sáng nào tôi cũng thức dậy lúc 4g30, đó là lúc giấc ngủ ngon nhất, đó là lúc trời lạnh lẽo nhất, đó là lúc tôi thèm ngủ nướng nhất, nhưng tôi phải bật ngồi dậy thôi vì công việc của buổi sáng đang chờ đợi. 5g sáng, tôi bắt đầu gõ bàn phím thoăn thoắt. 6g sáng, tôi cởi áo khoác, vươn vai, hít thở, vặn vẹo người chừng vài phút. 7g sáng, tôi bước vào rest-room để cho bản thân được thư giãn và 8g sáng thì tôi hoàn tất bản tin buổi sáng để gởi đi. Xong đâu đó, tôi cảm thấy đói ngấu, đói như người nông dân cày xong ba thửa ruộng, đói như người đạp xích lô đạp dzòng dzòng khắp Sài Gòn - Chợ Lớn suốt năm tiếng đồng hồ. Nếu không ăn sáng, chắc tôi gục ngã như người chiến sĩ chưa kịp ra trận đã bị bắn cái "bùm" trúng bụng.

Và bữa ăn sáng của tôi thường là cơm nguội.

Tôi sống đời share phòng, đâu có được phép nấu nướng thì làm gì có cơm nguội mà ăn. Ấy là nhờ cứ chiều hôm trước, khi tôi làm siêng lái xe qua nhà Má để ăn ké cơm tối thì Má lại bới cho tôi thêm một chén cơm nguội mang về, để hôm sau tôi hấp nóng lên, ăn sáng. Má tôi lo lắng cho tôi giống hệt như hồi còn ở Việt Nam, giống hệt cảnh một con cò mẹ tần tảo đùm bọc một con cò con (lông lá tả tơi), cho qua đi cơn dông bão của cuộc đời.

Tối hôm qua, sau khi bới cho tôi một chén cơm nguội xong, Má ngồi xẹp trên giường chơi tứ sắc một mình. Lẽ ra tôi cầm chén cơm nguội và mở cửa ra về nhưng không hiểu sao tôi nấn ná đứng lại xem Má chơi đánh bài tứ sắc. Má chơi một mình, vừa làm chủ, vừa làm khách, miệng Má lẩm nhẩm tính toán. Cầm lòng không đậu, tôi sà xuống và nói Má chỉ cho con chơi với. Má vui vẻ chỉ đây là tướng, sĩ, tượng; đây là xe, pháo, mã. Tôi chắc lưỡi, chu choa, con sĩ nó giống con tốt hè. Má lầu bầu nho nhỏ, cái con này, giống đâu mà giống.

Má biểu tôi thấy lá bài nào giống nhau thì xếp thành một đôi. Lá bài nào hổng giống ai thì đó là "rác". Tôi vừa chơi vừa cười hi hi vì cứ nói lộn tên lá bài hoài khiến cho Má bực mình lên. Nhưng Má vui vẻ thấy rõ (và tôi nhìn thấy điều đó). Tôi chỉ nán lại 15 phút nhưng hiểu thêm một chút chuỗi ngày hiu quạnh của Má.

Sáng nay, ăn chén cơm nguội mà tối qua Má bới cho, tôi chợt nhớ câu lầm bầm của Má: "Cái con này, con tướng mà nó cứ lộn qua con tượng hoài", và tôi lại nhe răng cười một mình.

Chén cơm nguội

Trời Florida hôm nay quá nóng 92 độ F  bằng 33 độ C  . Với cái tuổi Thất thập cổ lai hi nầy tôi không dám ra ngoài vì sợ " heat strock " .Tôi lên mạng dạo một vòng thế giới ,thẳng tuốt về việt Nam .Vô cái viết blog 360plus  của cô em gái TLQ .Chà hôm nay em  có bài mới đây ,Tựa đề hay quá " Nửa dề cơm cháy ".mới đọc xong tựa đã nghe thèm chảy nước mìếng rồi , cơm cháy là món  ruột của tôi mà .Hồi nhỏ cũng vì dành cơm cháy mà chị em tôi hay gây gổ giửa bửa ăn . Đó cũng là một kỷ niệm vui  đáng nhớ .Có một thời gian ngắn ở cái thời xa lắc xa lơ đó có một dạo tôi cùng ở chung vói gia đình em TLQ .Trưa trưa sau bửa cơm chúng tôi hay lục cơm nguội , chang chút nước cá kho còn lại ra trước hàng ba  hai đứa nhâm nhi ,mầy muổng tao muổng và nói chuyện tào lao tầm phào .Tụi tôi ăn cơm nguội vì có lẻ cơm cháy đả bị ai ăn mất rồi .Mà cơm cháy phải ăn lúc nóng mới ngon.

Nói về cơm nguội tôi nhớ ông chồng tôi ổng rất ghét cơm nguội mặc dù tôi hâm lại bằng máy Microwave ,hột cơm vẩn xốp dẻo như cơm mới vậy .Tôi thì ăn cơm gạo lức còn ổng ăn gạo nàng thơm .Vậy mà khi còn cơm  dư ông biểu tôi bỏ đi .Tôi nói đâu có được .Hột gạo là hột ngọc của trời cho  ,không được phí phạm bỏ đi .Nhưng ổng kỳ khôi dằn chén đi lấy cơm mới nấu cho mình chứ nhứt định không ăn cơm nguội hâm lại .Tôi ngẩn ngơ làm lạ ,hỏi ổng mà ông không nói .Sự thắc mắc lớn dần trong tôi cho đến một ngày nó vở tung cái óc của tôi .Tôi hỏi  với ý hơi giận và tò mò .

-Tại sao không ăn cơm nguội  ? ông phải nói lý do ,không tôi sẻ cho ăn hoài !

-Tôi thù cơm nguội vì nó nhắc cho tôi một khoảng thời tuổi trẻ đau buồn của tôi .

Ngày đó cha tôi chết sớm ,Mẹ tôi đem cho tôi ở với người chú họ .Lúc đó tôi mới vào lớp Nhứt ở trường tiểu học Vỏ Tánh . Ông chú họ đó là người chịu ơn nghỉa của ba tôi ngày xưa ,nên muốn trả ơn bằng cách nuôi cho tôi ăn học .Ông ta làm nghề giáo ,tánh tình rất nghiêm khắc với vợ con .Cứ mổi sáng trước khi đi làm ông cho tôi 1$ để ăn sáng  đi học .Khi ông bước chân ra khỏi nhà thì bà vợ  giựt đồng bạc lại trên tay tôi và quát.

-Vô lấy cơm nguội ăn  ! không được nói với chú mầy tao lấy tiền lại nghe chưa  !.

Sáng ăn cơm nguội đi học mà trưa về bắt làm đủ thứ công chuyện nhà ,nào lau nhà quét sân ,nào qua phông tên xách nước đổ cho đầy lu đầy khạp .Nào lặn xuống sông đóng gộc cầu tiêu .Với cái tuổi nhỏ chưa đầy 15  mà bắt làm như người lớn vậy .Tối ông còn bắt đấm bóp cho ổng nửa ,mà mổi lần mẹ tôi  xuống thăm không hề hỏi tôi coi có được đối xử tử tế hay không . Bà xuống vì quyền  lợi của bà.Bởi vậy  bây giờ đừng bao giờ cho tôi ăn cơm ngưội .Tôi thấy cơm nguội la tôi ghét nó vi  tôi ăn nó quá nhiều , ăn trong đau bưồn tủi nhục

--À,thì ra vậy ! có nói thì tôi mới biết chứ ,thôi từ đây không cho ăn cơm nguội  hấp lại nửa mà ăn cơm mới tinh khôi .Còn cơm ngưội tàng trử đó khi nào được 1 tô  tôi sẻ làm cơm chiên ,bỏ nào  bơ,tôm tươi nào lạp xưởng hảo hạng ,rồi trứng chiên xắt lát mỏng để lên chịu hôn?

Ông chồng tôi làm thinh không trả lời , như vậy là tôi biết ổng chịu rồi . Cùng là gạo nấu thành cơm mà nó ở trạng thái khác nhau làm người vui kẻ buồn .Hạt gạo nó không có tội chi hết , đừng ghét nó .Nó làm người ta no bụng  để tiếp tục cuộc sống .Tôi thích cả cơm cháy lẩn cơm nguội .Ngày  trẻ khi tôi có mang nghe mùi cơm nóng tôi không chịu được .Tôi phải ăn cơm nguội với chuối với chao . Rồi những ngày tôi mới về nhà chồng mồi sáng mẹ chồng tôi phát cho tôi 2$ để ăn quà sáng .Tôi nhịn quà, ăn cơm nguội để dành 2$ đó sắm áo sắm quần . Vì chồng tôi biểu là đừng có đua đòi .Chừng nào anh thấy áo quần rách anh sẻ may cho . Mẹ chồng tôi dạy chồng tôi là :dạy con dạy thuở còn thơ ,dạy vợ dạy thuở ban sơ mới về .Bới vậy tôi về hôm trước hôm sau nó dằng mặt tôi liền bằng  câu nói đó .

Tôi thoáng buồn nhưng hình như tuổi trẻ mau quên nên tôi chấp nhận cuộc sớng mới . Làm sao tôi  có thể đợi tới áo quần rách .vừa củ củ là tôi ra chợ mua vải mới may liền vì mổi sáng tôi chịu khó ăn cơm nguội để té ra 2$ ,một tháng là 60$chứ ít sao .Vải dạo đó chỉ có 10$  một thước là vải loại tốt .tha hồ tôi  sắm áo quần  tùy thích . Tôi cám ơn cơm nguội đả giúp tôi giải quyết  một vấn đề .Cơm nguội cũng nhắc cho tôi một kỷ niệm buồn nhưng tôi không ghét nó mà còn cám ơn nó nửa .Cơm  nóng ,cơm nguội ,cơm cháy đều là bạn thân thiết của tất cả mọi người . Qua đây đã 35 năm rồi , xứ Mỹ là xứ bánh mì mà ngày nào tôi cũng xơi cơm . Ngày còn đi làm con nhỏ Mỹ nó  hỏi tôi : ngày nào sao tao thấ mầy cũng ăn cơm vậy? Tôi nhìn nó và nói :Ồ ! cũng như mầy ngày nào tao cũng thấy mầy xơi bánh mì .Vậy là nó với tôi cười huề .

Thuở thiếu thời, con cá - không kể cá gì - gần như là thức ăn quá tầm với chị em chúng tôi trong bữa cơm hằng ngày. Nhưng đột nhiên hôm đó mẹ hý hửng đi về với một cái rổ trên tay. Vừa đi tới đầu ngõ mẹ đã mừng rở lớn tiếng "Con Lang bắt cơm lên, con Dung ra đám ruộng dì Sáu nhổ mớ rau chốc rau mác vô đây" (rau chốc rau mác là loại rau dại mọc theo các đám ruộng lúa). Nghe mẹ nói tôi cảm thấy có lẻ hôm nay sẽ được ăn một món ăn ngon. Hai chị tôi ai nấy cũng vui vẻ đi làm nhiệm vụ. Có lẽ hai chị cũng cảm nhận được như tôi nên chỉ nhanh nhẩu đi theo lệnh mà không cần hỏi thêm.

Tôi chạy u lại nhìn vào rổ trên tay mẹ. Mẹ cười vui vẻ "Thầy giáo Hân cho má mớ cá bóng kèo vợ thầy vừa bắt được. Để má kho tiêu cho con với mấy chị ăn". Mẹ luôn luôn dành món ăn ngon cho chị em chúng tôi nếu có trong tay món ăn ngon nào đó. Tôi chợt như chùng chân lại. Má tôi vỗ vào đầu tôi nói có vẻ văn hoa mà thuở ấy tôi không thể nào hiểu nổi "Người lớn thì ăn nước, con nít mới ăn cái con ơi". Tôi chỉ ngẩn ra và ậm ừ đi theo chân mẹ.

Mẹ đem rổ cá kèo vào sau bếp hốt một nắm tro. Đổ cá kèo vào chậu sành, mẹ thẩy nắm tro vào và lấy rổ đậy lại. Cá nhẩy nghe rột rột rồi thì.... nằm im. Tôi ngạc nhiên vì mới thấy lần đầu nên nhìn mẹ và tròn xoe mắt. Mẹ tôi cười "Bỏ tro vào cá để cho nó ra hết nhớt, cá kèo này phải làm như vậy mới sạch. Mở rổ ra, tôi thấy lũ cá nằm im nhớt nhao ra tùm lum. Mẹ lấy tay chà xát lũ cá trên thành chậu, một lát thì nhớt nhao có vẻ đã ra hết, mẹ đổ nước vào chà thêm cho thật sạch. Nhìn con cá bóng kèo trắng trẻo tôi đã thấy phát thèm. Mẹ vớt cá vào rổ và chỉ cắt đuôi và cắt mỏ lại và rửa thêm lần nữa mà không mổ bụng. Tôi thắc mắc: Má, sao má không mổ bụng cá kèo? Mẹ tôi cười ngất" Cha mày, cá kèo ngon nhờ cái bụng làm sao má mổ được "Tôi cũng ngẩng người thắc mắc trong bụng..."

Má cắt đôi con cá kèo dĩ nhiên là khúc đầu còn dính bụng mà không đổ ruột cá.

Lấy cái ơ đất ra. mẹ cho cá, nước mắm, một ít đường (cũng may nhà còn một ít đường thẻ) ít nước màu và những hột tiêu cuối cùng đập dập dập vào ơ để đó chờ cơm chín.

Trong khi mẹ chuẩn bị món ăn ngon thì hai chị tôi người nào việc nấy cũng vừa xong nhiệm vụ.

Cơm vừa thật chín tới. Mẹ bắt ơ cá kèo vừa ướp khoảng 20 phút lên bếp than hồng vừa nhóm tiếp... Ơ cá sôi lạch ạch và rút dần nước. Mùi thơm của ơ cá kèo đã bắt đầu dậy lên. Mẹ bảo tôi ra sân hái cho mẹ ít rau râm trên dàn rau nhà trồng . Tôi trố mắt : "Sao lại rau răm?", mẹ cười : "Cá kèo kho tiêu phải nêm rau răm mới thơm cá kèo con ơi ". Tôi vẫn trố mắt và làm theo lệnh....

Mẹ rửa sạch rau răm rồi cắt nhỏ bỏ vào ơ cá và nhắc ra khỏi bếp.

Hôm ấy đối với tôi là ngày Đại Tiệc với món ăn ngon  Cá Bóng Kèo Kho Tiêu chấm với rau dại.

Mâm cơm dọn lên thấy mà phát thèm. Cá bóng kèo kho nêm rau răm bốc mùi thơm nức mũi. Nhìn rổ rau dại non bóng lưỡng xanh um thấy không chịu nổi. Mẹ tôi cười cười "Con Dung con Lang là chị ăn khúc đầu vì nó có gan và mật cá hơi nhẫn nhẫn, thằng Long còn con nít ăn khúc đuôi" Tôi chen vào: "Còn má?" Má cười "Hồi nãy má nói rồi: "Con nít thì ăn cái, người lớn thì ăn nước"....

Tôi gắp khúc đuôi bỏ vào chén cơm của má: "Má ăn khúc này không có đắng" Má tôi cười "Thôi được nếu con có hiếu cho má thì cho má khúc đầu đi để má ăn thử coi có chết không?"............ Tôi biết mẹ tôi nói vui khi thấy tôi gắp cá bỏ vào chén mẹ.

Hai chị tôi ăn ngon lành, tôi hơi thắc mắc và rồi lén lén gắp khúc đầu cá kèo bỏ vào chén..... Trời ơi tôi không tưởng tượng nổi: vị đăng đắng của ruột cá kèm với vị rau chốc rau mác mùi tiêu vị rau răm nêm trong cá kho tạo nên hương vị ngon hết biết luôn. Ăn như vậy, ăn cá kèo kho tiêu kèm với rau chấm là phải ăn khúc đầu để mà thưởng thức cuộc đời.... Ăn như vậy thì cá kèo kho tiêu mới trở thành món ăn ngon, mà là món ăn ngon tuyệt chiêu của dân Nam Bộ.

Khỏi phải nói, từ khi tôi phát hiện phần mà mẹ tôi nói là đắng không dành cho con nít mới thật sự là món ăn ngon hôm nay thì tôi cứ lầm lũi cúi gầm ăn... và ăn.... để thưởng thức một món ăn ngon đầu tiên trong thời niên thiếu nghèo khổ của mình.

Tôi cứ lầm lũi ăn cho tới khi nghe một cái "Cốc" trên đầu bằng đôi đũa của chị Hai tôi

"Cái thằng xấu nết ăn, hễ gặp món ăn ngon là quên hết trời đất"

Chén mắm tiêu ngày ấy

Xem tin gốc 

Thanh Niên - 6 tháng trước 20 lượt xem

Tiếng cối giã đều đều, tiếng nổ lách cách của chén nước mắm pha tiêu đặt trên chiếc lò xô cũ... Đã từng có một thời, hai anh em tôi cố tình dầm mưa dãi nắng thật nhiều để "được" đổ bệnh và tìm thấy cái cảm giác ấm áp đến lạ kỳ bên chén mắm tiêu đang sủi tăm trên bếp. Cũng tiêu, cũng nước mắm bình dân, cũng chiếc chén cũ mẻ miệng và ngọn lửa liu riu... nhưng tất cả được hòa quyện với nhau qua bàn tay của mẹ. Và đối với anh em tôi, món ăn đặc sánh ấy ngon hơn bất cứ cao lương mỹ vị nào, nhất là trong những ngày trời rét cắt cả da thịt ở miền Trung...

Sài Gòn vào mùa mưa cũng lạnh. Nhưng cái lạnh đất Sài Thành so ra vẫn chẳng thấm vào đâu so với cái lạnh của đất Quảng. Một lần, tôi bị cảm, rồi sốt li bì đến hai ba ngày. Lúc ngồi dậy được chỉ thèm mỗi món nước mắm cay nồng phết lên chén cơm trắng ngày ấy. Nhưng thật kỳ lạ! Trên ngọn lửa tỏa đều của bếp ga hiện đại, chén mắm nhĩ với tiêu xay dù nướng cách mấy cũng không tài nào sánh lại như ngày xưa được...

Chiếc chén sứ hoa bỗng nứt rồi vỡ tan trên bếp lửa, cứ như những kỷ niệm thời thơ ấu đang vỡ òa ra trong lòng tôi. Chợt... sao tôi thấy nhớ chén mắm tiêu của mẹ ngày ấy quá!

Cơm nóng, chén mắm mùa lũ

Cứ chu kỳ hai năm, cái xóm nhỏ nơi ngoại thành Quy Nhơn lại mênh mông đục ngầu bởi phù sa và nước. Trẻ con, người già chẳng thể đi đâu, hết đứng lên lại ngồi xuống một chỗ trong nhà. Chợ búa sẽ do những thành viên “sức dài vai rộng” gánh vác. Và thế là cứ mỗi sáng, mỗi chiều, hoặc quá giang đò hoặc cởi trần quần đùi bì bõm, ba mang về lũm đũm những bao, những túi, trong đó là gạo, mì gói và mắm.

Mùa lũ về, còn có cái để ăn là còn hạnh phúc. Nước tràn về, cây cối, rau màu chìm trong biển nước. Tàu thuyền đánh cá cũng neo bờ tránh bão. Những món tươi ngon trở nên khan hiếm. Và con mắm trở thành món ăn thiết thân của bà con vùng lũ. Món này tuy khô khan, khó ăn đối với trẻ nhỏ nhưng là món khoái khẩu của nhiều người. Mở nắp vung, một làn khói nghi ngút tỏa ra mang theo mùi thơm của chén mắm. Cạo một miếng cơm cháy, kẹp vào giữa một ít mắm hoặc một chén cơm nóng cho thêm ít mắm vào, ngon tuyệt! Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng sức quyến rũ của món ăn đối với khứu – thị – vị giác là cực kỳ... mãnh liệt. Các vị thơm, cay, ngọt, bùi hòa lẫn vào nhau cho đến khi cơm hết, bụng đầy mà người ăn vẫn còn thòm thèm... chép miệng! Giờ này ở miền Trung mưa bão đã ngớt nhưng tôi chắc rằng bữa cơm của nhiều gia đình vẫn còn dành chỗ cho chén mắm.

Chén mắm ruốc...

Bữa cơm ấy, vẫn như mọi lần….

Đó là thời gian mà tôi còn “tại chức” tại Trung Tâm Khoa học Thành phố vào khoảng năm 89, 90… thông thường, thì bọn chúng tôi gồm 4 người đều xa gia đình cả, tôi và Khánh là người đã có gia đình, còn Thanh thì còn độc thân, chỉ có Hòa và Lương là hai vợ chồng là người đã nấu cơm tháng cho chúng tôi… trong thời gian mấy năm trời chúng tôi công tác tại đây….

Những bữa cơm, có lẽ không có gì đáng nói… nhưng hôm ấy, Lương – vợ của Kỹ sư Hòa – là một giáo viên cấp II tại Thành phố…. Bữa cơm dọn ra hôm ấy chỉ đạm bạc có mấy món canh rau muống, chén mắm ruốc cùng với những trái cà pháo muối chua, một dĩa su su xào… chỉ ngần ấy thôi… Hòa vốn người Bắc – có thể nói là con người của “xứ rau muống” nhìn tô canh và có ý tấm tắc khen vợ biết ý chồng, còn tôi và Khánh (họa viên kiến trúc) Thanh (chuyên viên phần mềm) nhìn vào “chén mắm ruốc” và nói lên:

- Oh, lâu lắm rồi mới thấy, bữa nay chị Lương cho tôi về quê…

Lương chưa hiểu sự tình chi, cất tiếng hỏi lại:

- Sao bữa nay lại nói tôi cho chú về quê ?

Tôi nhanh nhẩu cười cười nhìn Lương và chỉ vào chén mắm ruốc mà chị Lương chế biến trông rất hấp dẫn:

- Thì nó nhìn cái chén mắm ruốc của chị Lương đấy….

Lương như “khựng lại” chưa hiểu ý…. Tôi nói tiếp:

- Chén mắm ruốc của chị Lương là chị đã “dẫn nó về với quê hương miền Trung đấy chị ạ”

Lương nhìn cả bọn và cười cười, hiểu ý:

- ah, thì ra là thế, anh Hải và mấy chú là người miền Trung mà – tôi quên mất…..

Thế rồi bữa cơm ấy – tuy dẫu là đạm bạc, nhưng chứa đựng rất nhiều không khí thân mật… trong bữa cơm mọi người kể cho nhau nghe “về cái bản chất quê hương của mình” Hòa thì kể về cái ngọn rau muống của xứ Bắc thân yêu, tôi thì nói về “chén mắm ruốc quê nhà” của người miền Trung… còn Khánh thì cười cười … trong bữa ăn như hôm ấy – cũng như những bữa ăn khác có tinh “qua ngày” để tất cả đều lo cho công việc hàng ngày của mình khi đang còn tại thành phố xa hoa này… tất cả - tất cả đều bôn ba và hình như với một công việc, một cuộc sống có tính chạy đua với sự tăng tốc phát triển của xã hội… Khoảng trời đêm bao la ở thành phố với sức chiếu từng chùm đèn điện… không bao giờ như ở xứ quê chúng tôi, ngồi nói chuyện trước hiên nhà – chúng tôi chuyện này chuyện nọ, cái này cái kia.. nhưng tôi chợt nhớ đến “chén mắm ruốc” lúc nãy…

Hồi đó ở Đà nẵng, thời gian còn nhỏ… những ngày của mùa mưa gió, hình ảnh mẹ tôi tần tảo ngoài chợ đi về… ít có thức ăn như mùa nắng… thì chén mắm ruốc ở tại nơi ấy, anh em chúng tôi cứ dành nhau với từng chén cơm nóng… trời mưa xứ miền Trung thường kéo dài ngày, mỗi bữa cơm thì những món mắm miền trung là cái hình ảnh đặc trưng của con người xứ này… hầu như nói lên cho tất cả những tảo tần hôm sớm, của người mẹ già biết lo toan, của những món ăn dân dã và thuần túy với những lúc nhiều công việc, các loại mắm dưa, mắm nêm, mắm cà… hầu như đã nói lên tất cả những nỗi nhọc nhằn của con người miền Trung kham khổ ấy… hình ảnh những đồng lúa xanh tươi đã ấn tượng cho tôi với những lần theo bạn đi bắt cá lia thia tận mãi gần xứ hoang đã Nam Ô…. Trong những ao nước ở Ngã Ba Cai Lang… nhớ lại “mắm ruốc” vào thời điểm ấy sao nó mặn mà như chất chứa tình người miền Trung của chúng tôi vậy….

Trước thềm nhà của vợ chồng Hòa – Lương, chúng tôi chuyện trò, bàn thảo công việc… nhưng trong tôi hình ảnh chén mắm ruốc lúc nãy đã làm cho tôi nhớ về ngày tháng xa xưa của cái đất miền Trung nghèo thưở ấy… và hình như:

- Chén mắm ruốc mặn mà chất chứa tình người đã làm cho tôi nhớ lại sau câu nói của Thanh – chị Lương ngẫn ngơ qua câu nói chưa hiểu nỗi cái hàm ý quê nhà của nó…

- Chén mắm ruốc mặn mà của một bộ phận con người khi xa quê… mà chính bây giờ khi sống trên mảnh đất xa lạ này – xa đi cái tổ ấm cảu tuổi thơ, xa đi cái hình ảnh ruộng lúa, xa đi hình bóng người mẹ tảo tần sớm hôm và lo cho con cái ăn học nên người…

- Chén mắm ruốc không cao sang, không cao lương mỹ vị như “nem công chả phụng” mà cái chén nhỏ nhắn xinh xinh kia, như mời gọi cho những ai đi xa đều nhớ về cho quê mẹ, nhớ về cho những ngày mưa trên phố nhỏ, nhớ về cho những đêm về có ánh trăng, nhớ về cho những phố chiều mưa bay của xứ Đà thành có một thời cũng là hoa lệ ấy…

- Chén mắm ruốc tuy đơn sơ, mộc mạc – hiền hòa, một chút ân tình của người con miền Trung khúc ruột ân tình, để tuổi thơ ngày đó nuôi ta lớn lên cùng cái nắng cái gió – đem ta lớn lên thành người trong những cơn mưa giông bão, đưa ta về với những dòng nước mát cảu một dòng sông quê chất chứa…

- - Chén mắm ruốc của ngày xưa – mà hôm nay vô tình chị Lương đưa lại hình ảnh ấy – đã làm cho Khánh, Thanh và ngay cả chính tôi – không thể nói lên được gì khi phải chạnh lòng nghĩ về cho cái xứ miền Trung bây giờ còn mãi tận nơi đâu, sống trong thành phố xô bồ và bôn ba, chén mắm hiền hòa, chứa đựng biết bao nhiêu ân tình của những người con xa quê và chính hôm nay – đêm nay chị Lương đã…..

- - Chén mắm ruốc – tôi chỉ ngồi và nhớ về… nghĩ miên man qua làn khói thuốc mỏng manh trong đêm tối… không nói gì, không kêu ca, không than oán, không trách móc, không hờn oán gì cho một điệp khúc tháng ngày của tuổi thơ đã qua đi rồi…. qua mất rồi… và hôm nay, trong cái không gian này… không lẽ……

- Những ngày với mẹ tôi, đến hôm nay “người bạn đời trăm năm” và cũng là người yêu muôn kiếp trọn đời của tôi đôi khi cũng đã đem tôi về với hình ảnh của ngày xưa ấy… tuy “người yêu trọn đời của tôi” là người của xứ rau muống như anh Hòa… nhưng cũng đã có những lúc tảo tần công việc, vì muốn cho mau chóng… nên đã vô tình cho tôi về với hình bóng quê nhà của tuổi thơ ngày nào… đôi khi “hai vợ chồng cũng ngồi kể cho nhau về những kỷ niệm của riêng mình như thế,

- Chén mắm ruốc hôm nay của chúng tôi – hầu như cũng có phần nói lên một niềm hạnh phúc bao la trong tình nghĩa vợ chồng, của những ngày tháng còn là yêu đương thắm thiết, của những ngày đầu mới cưới cho đến tận hôm nay… chén mắm ruốc trong bữa cơm gia đình tuy rất đạm bạc, nhưng hầu như chất chứa cả một niềm hạnh phúc bao la trong đó, chất chứa cả những nụ cười “của người yêu trọn kiếp” và cũng đã có sự cảm thông cho nhau trong cái nghèo hèn, trong những thiếu thốn, trong những lo toan của đời sống tình nghĩa ấy….

Từ những nghĩ suy – câu chuyện chỉ là “chén mắm ruốc” một món ăn dân dã của con người miền Trung nghèo nàn kia – như cũng như tôi – hầu như trong đó chất chứa cả những “mặn nồng” chất chứa với những “nghĩa ân tình” , chất chứa với những niềm yêu thương pha lẫn cho nhau… cuộc sống vẫn còn muôn vàn cái khó, vẫn còn đầy dẫy những bon chen, vẫn còn chất chứa những lo toan, nhưng vợ chồng chúng tôi – chén mắm ruốc đã đưa lên với những nụ cười, và những niềm thương yêu thắm thiết, và tôi cũng đã nhớ về cái lời thề trong chính cái đêm noel của năm 1982:

Anh…. Xin nhận e….. làm vợ - và hứa sẽ tôn trọng em những lúc bệnh hoạn cũng như lúc gian nan, lúc hạnh phúc cũng như lúc đau yếu… để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi..

Bùi ngùi miếng sắn tuổi thơ

Nhớ thuở thiếu thời, mỗi khi đến bữa, nhìn chiếc mâm gỗ chỉ vỏn vẹn có đĩa rau luộc, loa canh chuối cùng bát nước mắm, mở nồi cơm thấy toàn là sắn, mấy anh em tôi mếu máo còn bố ngao ngán thở dài.

Thương các con, bố mẹ thường vét đáy nồi đơm “cơm không” (cơm không lẫn sắn) cho mỗi đứa lưng bát. Ðưa miếng cơm bùi lên miệng, ngó sang bát sắn của bố mẹ, nước mắt tôi chảy dài...

Quê tôi, một miền đất trung du cằn cỗi được người ta gọi là “vùng đất sắn”. Người quê tôi sinh ra đã nhìn thấy đồi sắn, lớn lên mấy ai không một lần bị sắn làm say nghiêng ngả. Búp sắn non nấu canh, củ sắn ăn thay cơm, sắn khô là lương thực chính nuôi cả người và vật nuôi trong những ngày đông tháng giá hay khi giáp hạt. Xưa, chỉ người nghèo đói mới phải ăn sắn. Ngày nay, xôi sắn, sắn lùi, dưa sắn chua, canh rau sắn trở thành đặc sản đến ngay cả những người đi ô tô, ở biệt thự cũng thích...

Khi tôi còn bé, làng mất mùa lúa quay quắt đói, chiều mưa dầm mấy đứa trẻ chăn trâu lén rủ nhau lên nương đào trộm sắn non để nướng. Bụng rỗng, sắn non ăn thì ngon mà dễ say. Tôi đã từng bị say ô tô, say sóng trên tàu nhưng chưa khi nào thấy đáng sợ như say sắn. Ðầu đau, bụng chướng, chân tay bải hoải vừa ngứa như kim châm lại tê như đã lìa khỏi cơ thể. Ðã say sắn thì “miệng nôn trôn tháo”, nôn khan đến bong niêm mạc miệng, những cơn lòi ói ợ trào cửa miệng thứ khí nóng nhức như than hồng tỏa ngược từ dạ dày tựa như vừa ăn cả một rổ ớt. Những ai thoát cơn say sẽ sợ sắn đến mãi về sau, dù biết rằng ở đất này chỉ có sắn mới nuôi mình lớn nổi thành người...

Mùa phơi sắn ở quê tôi thường bắt đầu khi heo may về se sắt và sương sớm đủ làm tê buốt hơi thở những ai tinh mơ đã rời nhà. Ðể phơi kịp nắng, bố mẹ tôi thường dựng lán trên nương, ở đó cả ngày để nhổ, cạo vỏ, băm, phơi. Bữa trưa ăn cơm nắm trên nương, tối về đến nhà gà đã lên chuồng. Trên nương cao ấy gió thổi nhiều lắm, hanh và khô, dáng bố mẹ gầy gò vật lộn với từng bụi sắn. Gió làm cho gót chân mẹ vốn đã hay nứt nẻ vào mùa đông nay càng sần sùi như gốc cây gạo. Ðêm về mẹ không ngủ được vì gót chân đau, vì ngay ngáy lo trời mưa, sương dày hỏng sắn... Bố tôi bảo rằng, cây sắn quê mình như người nông nghèo quanh năm cặm cụi bám lấy đất sỏi mà vươn lên khó có sức mạnh nào ngăn trở được. Thân sắn, gốc sắn kia qua mùa thu hoạch củ, cái xác vờ teo quắt miễn là mắt mấu còn tiếp xúc được với đất là còn có cơ nảy mầm. Mà sắn đã nảy được mầm, thì thế nào cũng có củ. Củ không xứng vào nồi đồng điếu nhà giàu thì vào niêu đất méo miệng nhà nghèo. Ngày xưa, trai làng này trồng sắn trước khi ra trận. Người nọ tiếp bước người kia, bới vồng sắn người đi trước trồng thì lại vùi xuống đất một gốc sắn khác để dành người đi sau. Những bậc cao niên, các ông già, bà cả trong làng mượn thân cây sắn róc sạch mấu làm gậy chống để những bước đi dễ dàng hơn...

Nhớ những ngày mưa không thể đi làm, mẹ tôi thường mang sắn đã phơi khô ra giã lấy bột làm bánh sắn. Sau khi nhào bột ướt, mẹ sẽ dùng một chiếc đũa làm tâm rồi nặn cục bột xung quanh để đến lúc rút ra, bánh sẽ có một cái lỗ bên trong, như thế, khi luộc bánh sẽ nhanh chín. Nhà tôi nghèo nên món bánh này thường được dùng để ăn thay cơm. Hôm nào có thêm bát mật mía hay chén đường để chấm bánh sắn thì anh em tôi đã sướng lắm rồi. Lại nhớ những độ mùa gặt vừa xong, có ít nếp mới, thèm ăn bữa xôi nhưng không dám phung phí, mẹ nấu gạo nếp với sắn cho cả nhà làm lũ trẻ chúng tôi háo hức cả buổi. Mở nồi xôi ra, mùi thơm lừng của nếp mới tỏa ngào ngạt khắp gian bếp nhỏ. Vị dẻo quánh, ngọt thơm của những hạt nếp quyện với vị bùi, bở tung của sắn trắng ngần là cảm giác no ấm của tuổi thơ tôi...

Một mùa đông nữa lại về. Mùa sắn năm nay, nghe tiếng thở dài của bố mẹ, tôi biết sắn mất mùa, giá lại rẻ trong khi các em tôi vẫn đang tuổi ăn, tuổi học. Tôi từ phố phường về quê nghe gió đông thổi cạn thời gian, thổi rám lá sắn, thổi quắt quéo cả cuộc đời bố mẹ. Ðặt lên vai chiếc đòn gánh cong hai đầu là những củ sắn chắt chiu mồ hôi, công sức đã bao ngày, tôi bước đi chênh chao. Gió mùa vẫn thổi ràn rạt, nhìn bố nở nụ cười hiền nhăn nheo, lòng tôi quặn thắt... Ngày mai tôi lại phải xuôi với những công việc nhàn nhã của mình chốn Hà Thành.

BA BỊ CHÍN QUAI

   Ít lâu nay, chợ Đồn làng tôi xuất hiện một lão ăn mày. Vào buổi chợ, lão chống gậy lom khom đi hết dãy hàng này sang dãy hàng khác, chìa cái bát bằng gáo dừa bóng như sừng ra để xin của bố thí. Ai cho cái gì lão cũng nói: Xin đội ơn chư vị!”. Có người không cho còn đuổi quầy quậy, lão cũng vẫn nói: “Xin đội ơn chư vị!” và bước tiếp sang hàng khác. Chợ làng tôi chỉ họp có buổi sáng nên buổi chiều lão ăn mày chọn một túp lều làm nơi tá túc. Lão ăn mày không bẩn thỉu nhưng rách rưới. Cái áo lão khoác trên người vá chằng vá đụp. Mụn vá đủ loại màu, cứ như những miếng vải vá trên áo là lão  cũng được thiên hạ mỗi người bố thí cho một miếng vậy. TRên vai lão lúc nào cũng khoác ba cái bị cói to tướng, cũ mèm như lão. Có lẽ gia tài của lão chứa cả trong ấy. Thực tình trông lão cũng ghê ghê. Lão lại khoác hẳn ba cái bị. Mỗi cái bị của lão phải đựng được mấy đứa trẻ con ấy chứ! Xưa nay, người lớn vẫn đem “ông Ba bị” ra dọa chúng tôi đấy là gì! Lão ăn mày xét ra cũng chẳng làm hại ai nên người ta mặc kệ lão. Làng tôi không lớn, lại nghèo nên xưa nay ít có ăn mày đến. Bây giờ tự nhiên có lão, lũ trẻ con chúng tôi cứ thấy là lạ, sờ sợ nhưng cũng vui vui. Đi học về, cả lũ chúng tôi nghêu ngao hát:

                   Ba bị chín quai

                  Mười hai con mắt

                Hay bắt trẻ con…

     Tôi nghe bà Ngọ kể rằng, trước đây chợ Đồn cũng vào loại chợ to có tiếng trong vùng. Những nhà buôn ở nơi khác thường đem hàng về đây bán. Họ chở hàng bằng thuyền đại từ sông Cái đi vào bằng con sông Đào bắt từ sông Cái chảy qua chợ Đồn. Chả cứ ngày phiên, chợ cũng đông kẻ mua người bán khó len chân nổi. Hàng gì cũng có bán ở chợ. Bà Ngọ cứ kể đi kể lại về con trai một người buôn hàng tấm như kể về chàng hoàng tử trong chuyện Tấm Cám. Người buôn hàng tấm ấy có một con thuyền đại to hơn cái nhà của bà, chở toàn vải vóc lụa là đi bán khắp các chợ. Thủa còn con gái, một lần bà Ngọ đến mua vải ở cái thuyền buôn ấy và gặp người con trai chủ thuyền trò chuyện ý hợp tâm đầu. Phiên chợ nào bà cũng đến chỗ thuyền buôn hàng tấm. Tôi hỏi: “Để mua vải hở bà?”. Bà cười: “Không, bà chỉ đến để xem thôi!”. Về sau, tự nhiên chợ Đồn không có thuyền buôn nào đến nữa. Nghe đâu, tại người ta đắp một cái đập ở chỗ nào đó để bắc cầu qua sông Đào. Từ dạo ấy, chợ Đồn ngày một vắng dần, hàng quán trở nên thưa thớt và mặt chợ cũng thu hẹp lại, chỗ đất thừa cỏ mọc xanh um. Trên cây đa già ở đầu chợ trước kia buổi chiều thường có đầy những con quạ khoang về đậu, chúng xuống chợ kiếm mồi bằng những con cá ươn, những miếng thịt thiu thối buổi sáng còn ế người ta đổ đi. Ăn no, chúng lên đậu đen cả ngọn đa, phởn chí cãi nhau “quạ, quạ” inh ổi, điếc cả tai. Từ ngày có lão ăn mày về đây, chợ bỗng trở nên tấp nập, ngày phiên cũng như ngày thường, chả mấy khi còn hàng ế. Người tứ xứ lại về buôn bán tấp nập như trước, chỉ có điều không có cảnh trên bến dưới thuyền như trước. Bãi cỏ quanh chợ giờ lại bị dẫm nát, trơ mặt cát phẳng lỳ. Chợ lại rộng ra như cũ. Trong buổi chợ, ai bố thí cho lão ăn mày một chút là y như rằng hôm ấy phát tài. Và thế là chẳng ai bảo ai, người ta đua nhau bố thí cho ông lão. Lão ăn mày không vì thế mà xin nhiều. Mỗi ngày lão chỉ xin đủ ăn cho hai bữa lưng lửng dạ, cùng lắm là đủ bữa cho ngày hôm sau.. Chiều chiều, ông Ba Bị thường cắm cúi, rờ rẫm vá những chỗ áo rách bằng cây kim to như kim bà tôi thường dùng khâu bao tải đựng thóc. Những người đi chợ kháo nhau rằng hình như lão có phép lạ gì đó. Nghe thế, một buổi chiều mấy thằng chúng tôi rủ nhau ra chợ. Chúng tôi chỉ dám đứng từ xa nhìn lại, vì từ chỗ ông lão ngồi chúng tôi cảm thấy có một luồng khí tỏa ra lành lạnh. Ông lão chả nhìn ai bao giờ cứ y như ở đời này chả có gì đáng để cho ông lão ngó tới.

       Hôm sau, mang giầu cau sang nhà bà Ngọ, tôi định kể cho bà nghe chuyện ông Ba Bị. Chưa kịp kể bà đã hỏi:

      -Lâu rầy cháu có theo bà cháu ra chợ không?

     Tôi đáp;

      -Không, bà ạ!

     Bà Ngọ khẽ cười, vẻ buồn buồn:

    -Ờ nhỉ! Bà quên. Con giai ai lại theo đi chợ chứ!

    Thấy vậy, tôi vội chữa:

    -Nhưng cháu với mấy đứa có ra chợ chơi vào buổi chiều bà ạ!

    Bà Ngọ hờ hững:

    -Vậy hử?

    Tôi nhớ đến chuyện ông lão ăn mày:

    -Chúng cháu ra xem ông Ba Bị mới về ngoài chợ.

    Vẫn nụ cười buồn, bà hỏi:

     -Sao bảo đấy là ông lão ăn mày?

     Tôi cãi:

     -Nhưng ông ấy lúc nào cũng đeo ba cái bị to lắm! To đến nỗi hai ba thằng như cháu bị nhốt vào đấy cũng đủ chỗ!

     -Chả có gì phải sợ cháu ạ! Từ bé đến giờ bà chưa thấy ông Ba Bị bắt những đứa trẻ ngoan bao giờ!

     Thì ra ông Ba Bị có bắt trẻ con thật, tuy rằng chỉ bắt những đứa trẻ hư. Tôi đâm ngại. Vì tôi cũng hay bị bu tôi mắng và còn bị thầy tôi cho xơi dăm bảy trận đòn đau quắn đít sau những trò nghịch ngợm. May mắn làm sao, hôm nọ chúng tôi không đến gần lão ăn mày Ba Bị. Bà ngọ lại ngồi yên lặng như đang nhớ về một miền nào đó xa xăm lắm. Trông bà có vẻ buồn. Tôi chợt nhớ ra:

     -Bà ơi! Người ta bảo ông Ba Bị có cái bát bằng vỏ gáo dừa đẹp lắm! có chạm hai con rồng, trông như bát của nhà vua bà ạ!

     Bà Ngọ không hề ngạc nhiên mà gật đầu xác nhận như chính bà đã từng nhìn thấy cái bát kỳ lạ ấy trước tôi lâu lắm rồi;

     -Bà cũng nghe người ta nói thế! Cái bát ấy là bảo bối gia truyền đấy cháu ạ!

     -Bà biết không? Hình như ông Ba Bị có phép lạ …

     Bà Ngọ lại gật đầu:

     -Ừ! Có nhẽ đúng như vậy thật!

     Đắn đo một lúc bà mới kéo tôi lại sát bên cạnh, móc từ trong người ra một cái túi bằng vải nâu nhỏ xíu như quả cau, rờ rẫm đặt vào tay tôi rồi bảo:

     -Hiếu này, bà muốn nhờ cháu một việc…saóng nào đi chợ, cháu nhớ bỏ cái túi này vào cái bát gáo dừa của ông lão… Bà cũng muốn có được chút may mắn...

     Bà bỗng rụt tay về:

     -Hay là thôi vậy. Sợ người ta biết lại chê cười bà lẩm cẩm…

     Tôi quả quyết:

    -Bà yên chí! Cháu sẽ chẳng để cho ai biết đâu!

   Bà lại đặt cái túi vào tay tôi:

    -Thế thì cháu giúp bà một tí vậy!

     Tôi cầm cái túi giơ lên xem. Cái túi của bà Ngọ cũng kỳ lạ, nó được khâu kín mọi phía và bên trong đựng thứ gì xốp nhẹ như bông, ở giữa có một cái vòng rắn, tròn tròn, nho nhỏ. Nhưng thôi, bà chưa bao giờ nhờ tôi  làm hộ việc gì, lần này chắc tin cậy tôi lắm bà mới nhờ tôi. Tôi loay hoay nhét cái túi vào trong cạp quần. Bà Ngọ lần cởi cái kim băng ở túi áo đưa cho tôi:

     -Cháu cài cái túi vào áo của cháu cho khỏi rơi.

    Tôi cài cái túi vào bên trong cạp quần. Nhìn vẻ mặt bà Ngọ chứa chan hy vọng, tôi làm bộ cứng cỏi:

     -Thực ra cháu cũng không sợ ông Ba Bị tí nào!

        2.

    Cái Thảo còi bỗng dưng bị ốm. Sáng hôm trước ngồi trong lớp, đến gần hết buổi nó cứ gục đầu xuống bàn. Lúc nào thày giáo đi xuống gần nó mới ngẩng nhìn lên bảng với ánh mắt đờ đẫn, mệt mỏi.. Có lần thầy giáo nhìn xuống chỗ nó mà nó vẫn không biết. Tôi vội lấy tay động vào nó nhưng vội rụt tay lại. Người nó nóng hầm hập. Mặt nó đỏ gay và nó không nhấc đầu lên nổi nữa. Thầy giáo phải dừng buổi học để đưa nó về nhà.

    Cái Thảo ốm lơ mơ thế mà phải nằm bệnh viện mãi tận trên huyện cách nhà hàng chục cây số. Bác Thoại, bu nó phải ở trên ấy trông nom. Nhà nó nghèo lắm. Còn nghèo hơn cả nhà tôi. Nó bằng tuổi tôi mà có những bốn đứa em nữa. Em nó đứa nào cũgn bụ bẫm chỉ có mình nó là còi cọc như vậy. Hôm đưa nó đi bệnh viện, bác Thoại đã phải sang nhà tôi vay hai thúng thóc đem bán mới có tiền cầm đi. Không ai nghĩ nó lại phải nằm ở đó lâu vậy. Hết tiền, thầy nó ở nhà không biết xoay sở thế nào đành phải đến bệnh viện trông thay  để bu nó về chạy tiền đem đi mua thuốc cho nó. Nửa đêm, bác thoại còn đến gõ cửa nhà tôi. Không biết sao mà cả bác Thoại lẫn bu tôi cùng sụt sịt. Hình như tiền chữa bệnh cho nó hết nhiều lắm! Bác Thoại than thở:

     -Biết vay mượn ở đâu bây giờ?

    Bu tôi bảo:

    -Bác làm đơn xin vay thóc nghĩa thương của hợp tác vậy.

    -thì tôi đã làm rồi! Mỗi lần chỉ được vay ba chục cân mà nộip đơn cho ông chủ nhiệm hợp tác xã đến cả nửa tháng nay còn chưa thấy gì.

    -Này, chị thở đánh liều hỏi vay thóc nhà ông ấy xem sao. Trong buồng nhà ông ta cao đến vài ba cây thóc quây cót cao đến tận nóc nhà, còn hơn nhà thầy em khi xưa ấy chứ! Chả kém gì kho hợp tác. Không cho vay để nó mục ra à?

    Bác Thoại bật khóc:

    -Vay làm sao được! Người ta chọn mặt gửi vàng cơ! Tôi đã đến hỏi mấy lần nhưng bà ta bảo đã bán cho hàng xáo hết rồi. Cực chẳng đã, hôm qua tôi lại lần đến định nói khó với ông bà ấy nhưng thím xem đây này. Nhà nó thả chó ra cắn tôi tím cả bắp chân, không coa cái nón có nhẽ còn bì chó cắn què ấy chứ!

    Tôi nghe mà sởn cả người. Tôi đã nghe thằng Long thò lò khoe nhà nó nuôi con chó tây to bằng con bê con, cho chó ăn cơm với thịt bò đựng trong bát ô tô bằng sứ hẳn hoi chứ không như chó nhà chúng tôi toàn ăn cơm hớt với cứt trẻ con. Ở nhà ngoài, bu tôi xót xa:

     -Lạy Chúa tôi! Thật không ngờ lại có người bụng dạ hẹp hòi quá thể! Thôi thế này, đằng nào thì nhà em cũng chả đủ thóc ăn đến mùa, sáng mai bác cứ sang mà lấy. Cứu người là trọng. Thiếu ăn chạy sau cũng được! Bác cứ lo đi chạy chữa cho cháu, còn lũ trẻ ở nhà để em nói với bà em xem có đỡ được tí nào không.

    Bác Thoại cứ ngồi khóc mãi không nói được câu nào. Bu tôi giục:

   -Thôi, bác về đi kẻo lũ trẻ nó mong!

   -Thì từ sáng đến giờ tôi cũng chưa kịp ngó ngàng đến lũ trẻ ở nhà!

   Tôi dỏng tai nghe tiếng con Vện nhà tôi ư ử chạy theo chân bu cái Thảo ra tận ngõ.

          3.

      Sau trận mưa rào, bọn thằng Thọ, thằng Khải cầm chai đến rủ tôi đi vồ châu chấu về rang. Người làng tôi gọi châu chấu là “tôm bay”. Châu chấu bắt về, rang qua lên, vặt cánh, rút đầu bỏ đi, còn lại đem dầm kỹ với nước cà, với riềng vàng giã nhỏ, cho thêm tí mỡ nữa thì trong bếp rang, đi mãi ngoài đường đã thèm chảy nước rãi.

     Tôi kể chuyện tối qua nghe được cho chúng nó nghe. Cả bọn tức lắm. Thằng Khải hăng hái:

    - Chúng mình sẽ cho đồ độc ác ấy biết tay! Thọ, mày nghĩ cách gì đi!

    Thằng Thọ đang cầm cái chai lít để đựng châu chấu ném xuống đất vỡ tan tành. Nó cáu:

     - Nhưng tao chưa nghĩ được cách gì cả! Tức quá! Tao vẫn chúa ghét thằng Long. Lúc nào nó cũng thò lò mũi xanh còn ra vẻ ta đây con ông chủ nhiệm!

     Tôi rụt rè bảo:

     - Hay là... con chó...

    Mắt thằng Thọ, thằng Khải sáng lên:

     -Con chó cũng được! Nhưng chúng mình làm gì có bả chó?

    - Tao có cách này!...

     Chúng tôi thì thầm bàn với nhau quên cả việc đi vồ châu chấu. Tối hôm ấy, chúng tôi hái một quả mướp non và cầm theo một cái bùi nhùi bện ở chân đống rơm nhà thằng Khải đi vào xóm trong, nơi có con chó tây đang ông ổng sủa. Xong việc, chúng tôi về ngồi ở sân đình nhưng đứa nào cũng có vẻ buồn buồn. Tôi cũng thấy như mình vừa làm một việc gì đó không phải lắm. Im lặng mãi cũng không được, thằng Khải kể:

     - Nó đúng là con chó nhà giàu, ác dã man. Chó nhà hàng xóm vớ vẩn đến gần nhà nó thể nào cũng bị nó cắn chết, moi ruột gan lòng thòng rồi lôi về tâng công với chủ. Có lần nhà thằng Khiêm ở sát nách nhà ông chủ nhiệm, biết chắc là chó nhà mình bị con chó tây ấy cắn chết, thấy thằng Khiêm khóc thương con chó quá thể, lại thấy nhà bên ấy đang đánh chén thịt chó mà bố nó chỉ dám đứng kêu ca bên kia hàng rào. Thấy vậy, ông chủ nhiệm nói với mấy anh bảo vệ của hợp tác xã đang đánh chén ở đó sẻ ra một bát chiết yêu rựa mận đem sang  “gọi là cho cháu”. Thằng Khiêm bưng bát thịt chó khóc hu hu...

    Thằng Thọ cắt ngang:

     - Rồi thằng Khiêm có ăn không?

    - Có!

    Thằng Thọ phẩy tay:

    - Xì! Thằng ấy cũng chả ra gì!

    Chúng tôi lại nghe rõ tiếng thằng Khải nuốt nước bọt. Nó nói nhỏ:

     - Tại bát rựa mận thơm bỏ mẹ!

    Thằng Thọ nghi ngờ:

     - Sao mày biết?

     Thằng Khải chống chế:

     - Thì nhà bà ngoại ta cũng ở kề bên nhà thằng Long mà!

     - Ừ nhỉ!

     Sáng hôm sau đến lớp học, chúng tôi đang nghĩ cách để hỏi thằng Long xem con chó nhà nó hôm nay thế nào thì nó đã chạy đến tí tởn khoe:

     - Trưa nay về tao được ăn thịt chó cơ!

     Chúng tôi nhìn nhau. Thằng Thọ hỏi;

     - của người ta biếu à?

     Long vênh mặt:

     - Đếch phải! Thịt chó nhà tao đấy!

     Thằng Khải vờ xuýt xoa:

     - Con chó tây nhà mày to nhất làng thế mà lại đem giết đi, phí thế!

     Thằng Thọ còn ghé vào tai thằng Long nói khích:

     - Mày ăn độc quá thể! Con chó nhà mày to thế, giết thịt mà không cho chúng tao một miếng! Ăn độc chốc mép chết cha mày!

     Chúng tôi cười ồ lên. Thằng Long thật thà:

     - Chó nhà tao nhiều thịt lắm! Nhưng bu tao cóc cho ăn, chỉ để lại có một miếng nấu bát rựa mận còn đem ra chợ bán tuốt!

     - Con chó chết như vậy bu mày không tiếc à?

     -Tiếc chứ! Bu tao chửi bọn trộm suốt đêm, khản cả cổ. Nhưng tao chẳng tiếc! Sáng nay chú Kiểng kế toán hợp tác đã hứa với tao đến chủ nhật chú ấy sẽ lên tận Hà Nội mua về cho tao một con béc khác. Vừa được ăn thịt chó, vừa có con chó khác để nuôi, việc đếch gì phải tiếc!

     Rồi không cần biết chúng tôi cười cái gì, Long thì thầm kể:

    - Chúng mày không biết thì thôi! Đêm hôm qua nhà tao tí mất trộm nhá! Bọn ăn trộm đã trèo qua cổng đang khoét tường chui vào trong nhà thì bị con Beo nhà tao phát hiện, bọn trộm bí quá liền vứt quả mướp còn nóng ngùn ngụt vào con Beo làm nó ngoạm phải. Quả mướp nóng đến nỗi con Beo bị trụt cả răng nanh lẫn răng cửa. Thế bọn trộm mới thoát được, không thì đừng có hòng!

     - Nhưng con chó nhà mày chỉ bị trụt răng chứ có chết đâu!

    - Nó không chết nhưng bu tao bảo nó móm rồi thì làm sao giữ nhà được nữa. Có mà nuôi báo cô nó à?

    Thằng Thọ tặc tặc lưỡi, phun nước bọt phì phì. Thằng Long vẫn ra vẻ bí hiểm:

     - Trước đấy, con Beo đã kịp cắn một thăng què cẳng nhá!

     Không thể nhịn được nữa, thằng Thọ lấy tay búng vào cái mũi đỏ như quả cà chua của thằng Long và cười to:

     - Giê-su-ma lạy Chúa tôi! Cái thằng nói phét đếch chịu được!

     Cả lũ chúng tôi cười ngặt nghẽo, bỏ đi chỗ khác. Một lúc sau đã thấy thằng Long thầm thì kể với mấy đứa con gái:

     - Đêm qua con Beo nhà tao tí nữa thì bắt được bọn ăn trộm nhá!...

     4.

    Cái Thảo ốm mỗi ngày một nặng hơn. Bác sĩ bảo phải chuyển nó lên viện tỉnh may ra mới cứu nổi. Mấy thùng thóc nhà tôi cho vay mới chỉ đủ trả tiền thuốc những ngày trước. Trên tỉnh, ông bác sĩ lắc đầu:

     - Bệnh của cháu phải mổ mới cứu được.

     Bác Thoại lại về. Nước mắt ướt đẫm vạt áo nâu bạc phếch. Bu tôi ngao ngán:

     - Chả lẽ lại vào nói khó với ông chủ nhiệm lần nữa/ Thôi, lần này để em đi xem sao.

     Bác Thoại gạt nước mắt:

     - Thôi thì thím giúp tôi vậy. Mà nhớ cầm theo cái gậy ngộ nhỡ con chó có xồ ra thì...

     Tôi nói chen vào:

     - Nó chết rồi! Không còn cắn ai được đâu bác ạ!

     Sớm hôm sau, bu tôi te tái cầm nón đi ra ngõ. Tôi ôm túi sách chạy theo. Bu tôi gắt:

    - Ơ hay, sao không đi học lại theo tao làm gì?

    - Con vào bảo thằng Long giả con quyển tập đọc rồi đi học luôn.

    - Cái thằng! Có quyển sách không giữ mà học còn đem cho mượn! Nhỡ nó đánh mất thì lấy gì mà học, hử?

     Tôi im lặng. Tôi cho thằng Long mượn sách thật nhưng chưa cần đòi. Tôi chỉ nóng lòng xem bu tôi có vay được thóc của nhà ông chủ nhiệm không thôi. Bu con tôi đến cổng đã nghe tiếng mâm bát lách cách trong nhà. Không hiểu nhà thàng Long thổi cơm gạo gì mà mùi thơm bay ra ngào ngạt. Tôi chợt nhớ chưa kịp ăn củ khoai để dành ở góc chạn. Nước bọt tứa ra khắp chân răng làm tôi phải nuốt vội. Bu kéo tôi lùi lại:

     - Chờ tí hẵng. Bây giờ nhà người ta mới ăn sáng.

     Bu con tôi đứng mãi ngoài cổng. Chắc nhà thằng Long chưa mua được con chó mới nên không thấy tiếng sủa. Trên ngọn đống rơm ở góc sân, một con gà trống cường uể oải vỗ cánh nhưng không gáy mà chỉ vươn cổ nhìn ra chung quanh. Dưới chân đống rơm, lũ gà con mổ nhau chí chóe. Những hạt cơm nguội gà không ăn hết còn trắng cả góc sân. Gần chỗ cống thoát nước một con gà mái béo xệ đít đang bới tung lớp cơm vãi trôi về đấy, đọng thành lớp dày màu đen xỉn. Một mùi khăn khẳn bốc lên. Chờ một lúc, bu giục:

     - Thôi con cứ đi học trước đi. Chớ nó lâu lắm!

     Tôi bảo:

     - Để con gọi nó!

     Hít một hơi thật sâu, tôi gọi:

     - Long ơi! Đi học không?

     Tiếng bu nó giục:

     - Kìa, đứa nào đang gọi đi học đấy! Cứ rặn rụa mãi!

     Thằng Long nói với ra:

     - Chờ tao với!

    Nó chạy ra, một tay xách cặp, một tay cầm nắm cơm cháy vàng ruộm kẹp miếng thịt to tướng ở bên trong. Mùi thơm từ nắm cơm lại làm tôi cồn cào trong bụng. Tôi hỏi:

     - Nhà mày ăn xôi à?

    - Đâu! Bằng cơm tẻ đấy chứ!

      - Sao thơm vậy?

     Nó dẩu mỏ lên cắn một miếng cơm cháy nhai rau ráu. Thấy tôi nuốt nước bọt, nó bảo:

     - Mày ăn không? Tao cóc muốn ăn tí nào!

    Tôi ngoái lại thấy bu tôi đã vào trong sân nên cầm lấy nắm cơm cắn thử một miếng rồi đưa trả nó. Thằng Long xua tay:

     - Thôi, mày ăn hộ tao với!

    Tôi ăn liền. Không hiểu sao lúc ấy tôi lại thèm đến vậy! Về sau bọn thằng Thọ biết chuyện cứ gọi tôi là “Trư”. Tôi tức quá mà không làm sao được. thì cũng tại tôi cả.

     Hôm ấy ngồi trong lớp tôi cứ mong cho chóng hết giờ để về xem bu tôi có vay dược thóc hay không. Những hôm cái Thảo ốm, cả bọn chúng tôi chẳng đứa nào thích bày trò nghịch ngợm. Tan học là rủ nhau ba chân bốn cẳng chạy một mạch về nhà. Vừa bước vào sân đã thấy bà Ngọ ngồi ở hè nhà tôi, cái gậy tre để bên cạnh. Cửa nhà tôi vẫn đóng im ỉm. Chẳng có ai ở nhà. Thấy động, bà Ngọ hỏi:

     - Hiếu đã đi học về rồi như cháu?

    Tôi sà ngay alij bên cạnh bà:

      - Sao bà biết là cháu?

     - Chẳng mày thì còn đứa nào vào đấy nữa! Bước đi cứ hấp ta hấp tấp. gót chân này chưa bén đất, mũi bàn chân kia đã chạm đất rồi. Người có bước đi như vậy sau này vất vả lắm cháu ạ! Sao hôm nay mẹ mày về muộn thế nhỉ? Bà chờ đã lâu rồi đấy!

     Tiếng bu tôi láo phảo ngoài ngõ đầy vẻ tức giận:

     - Người đâu mà chỉ nhìn thấy cái lợi to như núi!

     Bà Ngọ gõ cái gậy xuống sân cồng cộc:

     - Mẹ mày nói với ai thế?

     Bu tôi vứt cái nón cũ xuống gốc cau:

     - Thì con nói cho bõ tức chứ có ai đâu! Bà đến lâu chưa?

     - Lâu rồi!

     - Có việc gì thế bà?

     Bu tôi ngồi xuống cạnh bà Ngọ. Tôi đứng sau mành dỏng tai nghe trộm. Bà Ngọ đưa tay lần túi áo mở mấy cái ghim băng gài miệng túi lấy ra một gói nhỏ xíu đưa cho bu tôi:

     - Con bé nhà Thoại ốm nặng thế lấy đâu ra tiền mà chạy chữa. Nghe nói vợ chồng nhà ấy đã chạy hết cửa rồi. Bà có một chút tự ngày xưa. Mẹ mày là người giữa, chịu khó đổi ra tiền đưa cho nó hộ bà. Bảo nó cứ cầm lấy thuốc men cho con bé. Bao giờ bà chết hẵng hay.

     Nắm cái túi trong tay, bu tôi kêu khẽ:

     - Bà!...

     Đứng trong nhà, tôi mừng chảy nước mắt. Bà Ngọ sờ soạng tìm cái gậy rồi đứng dậy:

     - Tiếc rằng bà chỉ còn cầm có một cái khuyên này thôi. Hồi ông bà lấy nhau tuy vụng trộm gia đình nhưng ông ấy cũng kéo cho bà một đôi khuyên tai hai đồng cân cơ đấy!

     Bà đi ra ngõ. Bu tôi gọi:

     - Hiếu ơi! Con đưa bà về này!

     Tôi lau vội nước mắt chạy ra. Bà Ngọ một tay bám vào vai tôi, tay kia vẫn khua cái gậy lộc cộc trên lối ngõ.

     Từ nahf bà Ngọ về, tôi thấy bà tôi đang vội vàng đi vào ngõ nhà tôi. Tôi gọi:

     - Bà ơi!

     Bà quay lại:

     - Thằng Hiếu hử? Lại đi chơi đâu về đấy con? Mau chạy về bảo mẹ mày là bà đã thổi cơm cả bên bà rồi nhá! Thôi bà về dọn cơm chờ mẹ con nhà mày sang ăn luôn thể. Cu thuận với lũ trẻ nhà bác Thoại ăn no đã ngủ cả rồi! Con rảo cẳng lên!

     Bà tôi quay về còn tôi chạy tọt vào trong ngõ.

     Cơm nước xong, bà gọi bu tôi vào buồng, mở chiếc hòm gỗ lấy ra một cái tay nải màu nâu. Bà lấy thứ gì ở trong đó đưa cho bu tôi:

     - thứ này bu sắm từ hồi còn thầy con. Bu định sau này để lại cho con, cho cháu. Bây giờ bu đưa con. Nhà Thoại nó đang vận hạn thế. Con dùng thế nào thì tùy con.

    Bu tôi không nói gì chỉ ngồi đờ đẫn, mãi sau mới nói:

     - Bu ơi! Thế thì con bé được cứu sống rồi1

    Ngay chiều ấy tôi chạy đi tìm bọn thằng Thọ, thằng Khải. Nghe chuyện tôi kể chúng nó mừng lắm. Thằng Thọ bàn:

     - Này, chúng mình ra chợ tìm ông lão ăn mày xin một ít may mắn cho cái Thảo.

     Tôi với thằng Khải cùng ồ lên:

     - Thế mà chúng mình không nghĩ ra!

     - Nhưng phải cho ông ấy cái gì đó thì mới có may mắn được!

     Thằng Thọ phẩy tay:

     - Khó gì. Bây giờ mỗi đứa về nhà lấy một ít gạo đem cho ông lão. Mau mau lên rồi đến đây nhá!

     Thằng Khải ngần ngừ:

      - Nhưng nhà tao chỉ còn một tí gạo để nấu cháo cho cái Tí. Trưa nay ăn toàn khoai khô.

     Thằng Thọ bảo:

     - Thì có gì cho nấy.

     Cả ba thằng chúng tôi chạy muuons choàng cả chân lên cổ. Xâm xẩm tối, chúng tôi về nhà với cái túi nhỏ của ông Ba Bị. Tôi nhận ra chính là cái túi hôm nọ bà Ngọ bảo tôi mang ra cho ông lão. Tôi nắn cái túi vẫn thấy có vật gì tròn tròn, răn rắn bên trong. Thằng thặng đưa bu tôi cái túi và bảo:

     - Ông lão dặn khi nào đến chỗ cái Thảo còi mới được mở cái túi này ra!

     Bu tôi gật đầu, cầm cái túi cất đi. Sớm hôm sau, một mình bu tôi đi đến bệnh viện tỉnh.

Khi còn nhỏ xíu, sống ở Hà nội, lúc ấy mọi loại thịt gia súc gia cầm đều bị cấm bán tự do, tất cả là tem phiếu, mỗi tháng mỗi người được hai lạng hay hơn chút tùy theo chức vụ cán bộ hay dân thường. Thịt bò, thịt lợn, thịt gà, thịt vịt đối với bọn trẻ chúng tôi là những món ăn xa xỉ, có tí nào thì bố mẹ cũng phải đổi thành mỡ để còn ăn dần dà. Riêng thịt chó thì được phép bán công khai ngoài chợ.

Tôi còn nhớ, ông ngoại tôi hay dắt tôi ra chợ Ngô Sĩ Liên mỗi khi ông được lãnh chút tiền lương con con, ông dắt tôi ra ngay cái xe thồ đầu chợ, con chó luộc sau khi họ thui rơm vàng óng ả, tàu lá chuối trải ra vỉa hè, cái thớt dày cộp, con dao chặt to tổ đùng. Ông bán thịt chó tay nhanh thoăn thoắt, miệng hô hai lạng, ba lạng, lạng dồi....và thịt con chó được phanh ra chặt thành từng miếng nhỏ, gói vào cái lá chuối xanh lè, thơm nức mũi với đám trẻ ranh mấy tháng không được nhìn thấy miếng thịt heo thịt gà, thèm nhỏ dãi. Nắm chặt tay ông ngoại bước mau về nhà để được ăn miếng thịt, đến nhà, ông bỏ cái gói thịt chó xuống mâm, tôi lui cui mở sợi dây rơm buộc, thịt chó bung xòe ra thơm tho, hấp dẫn đến nao cả người, mỡ chó dính trên lá chuối bóng loáng, càng tạo cho tôi cái cảm giác đói như sắp phát điên. Năm sáu người lớn với hai đứa trẻ con quây quần quanh ba lạng thịt chó, ăn, hít hà, nhai ngấu nghiến, mỗi đứa bé được người lớn nhịn mồm nhường cho ăn nhiều, cũng chỉ hai ba miếng, tôi cắn từng tí leo một thưởng thức vị thịt ngòn ngọt ngấm vào từng tế bào lưỡi, vào từng kẽ răng, cái vị ấy nó ngọt khác hẳn cái vị rau muống với nước rau muống đánh sấu mà ngày nào chúng tôi cũng ăn với cà pháo mặn chát, hay ca la thầu Trung quốc đen như thuốc tễ hôi hôi sần sật.

Lúc ấy nghèo quá, đói quá, chúng tôi còn phân biệt quái gì thịt con này hay con khác? Miễn là có tí chất đạm bồi dưỡng cho cơ thể là may rồi.

Sau đó đi sơ tán về quê, lúc ấy họ cũng chỉ được ăn thịt gà, với thịt chó trong dịp lễ tết mà thôi.

Năm 75, cả nhà chuyển vào Sài gòn theo ba, lúc ấy tôi mới được ăn thịt cá tử tế, ba mẹ tôi có bao nhiêu tiền là mua đồ ăn cho hai chị em tôi ăn thả cửa. Không bao giờ ba mẹ tôi nhắc đến thịt chó nữa. Và tôi cũng được ba mẹ cho phép nuôi chó với mèo. chúng ngủ cùng giường với tôi. Tôi ăn một miếng, cắn nhè ra chia tụi nó một miếng. Tôi không còn một tí nào cảm giác nhớ thịt chó như ngày xưa ở Hà nội. Chó mèo là hai đứa bạn thân thiết của tôi.

Đến năm đi thực tập lần hai ở Long Thành, đám sinh viên lại đói quá, đi đập trộm chó của bọn lính xe tăng kế bên, đem vào rừng nấu rồi đem về trại ăn lén, tôi cũng tham gia, và sau đó tôi đau bụng sốt, ói lê lết. Nhủ thầm, có chết đói cũng không ăn thịt chó nữa.

Tôi bắt đầu cảm giác thấy chó không còn chỉ là loài vật nuôi giữ nhà hay cứu đói nữa mà nó trở thành như một người bạn, hay một đứa bé con làm nũng mẹ vậy. Tôi ăn gì nó ăn nấy, không bao giờ chê bai món gì tôi cho ăn, lắm lúc chỉ là tí cơm thừa chan tí nước rau,với nước mắm, tối đối xử với nó như với chính tôi. Và tôi tìm thấy mối liên hệ tình cảm đặc biệt của những chú chó tôi nuôi, tình yêu, sự trung thành, đồng cảm. Chúng không biết nói, nhưng đôi mắt chúng biết nói, hành động của chúng biết nói. Và tôi không còn những giây phút lạc lõng khi buồn tủi, khi mất mát...chúng cố bù đắp cho tôi.

Tôi bắt đầu nhìn những người ăn thịt chó bằng con mắt e dè căm ghét, hình như tôi nhìn họ bằng cặp mắt của bọn chó cũng nên.

Bi giờ, sau gần mười năm nuôi lũ cún Chi hua hua này, tôi lại càng ghét cái đám hay ăn thịt chó. Thằng chồng tôi mà đi ăn thịt chó về là tôi hằn học, chửi rủa đến nỗi năm năm nay nó cũng ghét luôn cái vụ ăn thịt chó.

Bạn cứ nghĩ đi, khi bạn về, mệt mỏi, buồn phiền, lũ nhỏ nhảy lên bên cạnh bạn, cái đuôi con vẫy tít mù, cái lưỡi nhỏ xíu ấm ấm liếm tay, liếm má bạn an ủi, bạn có dễ chịu không? Chân mày bạn đang nhăn nhăn, cũng phải giãn ra vì bọn nhỏ đang an ủi bạn, chả vì thưc ăn hay vật chất như con người, mà đơn giản là chúng yêu bạn vô điều kiện.

Có một lần tôi ngồi nói chuyện với một con bạn, cao hứng nó vồ tay tôi lắc lắc, thằng cu Tu của tôi nó nhào ra cắn con nhỏ kia liền, nó tưởng mẹ nó bị tấn công. Hehehe, cu Tu to chỉ bằng cái ly to thôi chứ mấy, con bạn tôi to như tôi. Thế thì bạn có cảm động không? Bữa hôm trước tôi cãi nhau với một người to tướng, cu Tu, cái MÍ nhào ra trước tôi gân cổ sủa người đó, ý là mẹ tao sao mày muốn ăn hiếp, thằng đó mà nó đá một phát thì cu Tu với Mí nhà tôi bẹp dí dị, nhưng chúng nó không hề biết sợ hãi. thế đấy! Bi giờ tôi mới hiểu rằng động vật cũng có suy nghĩ và linh hồn như con người, tôi yêu lũ cún và ngày càng bớt ăn thịt động vật, cố ăn rau, đậu nhiều nhiều, bởi dù sao, các loài cũng có quyền được sống như chúng ta đòi quyền được sống.

Thật là mâu thuẫn phải không bạn? nhưng không bao giờ tôi đụng đến thịt chó. Quá khứ ấy đau buồn lắm rồi. Bây giờ tôi chỉ có mấy chú cún yêu quý của tôi làm bạn thôi.

Tản mạn gói mì ăn liền

Chúng ta đã ăn phở tái, bún giò, miến ngan… từ xa xưa (từ thuở Hà Nội – băm sáu phố phường, Huế – thần kinh) nhưng ăn mì ăn liền thì mới chừng mấy chục năm nay.

Mì ăn liền là một thực phẩm khô, chiên trước với dầu cọ, vô gói (từ 60 -  80g), ăn liền sau 3 -  5 phút dội nước sôi lên. Mì ăn liền ra đời muộn mà có sức lan tỏa, “chiếm lĩnh thị trường” mạnh, nhanh, đến sớm rộng khắp. Có thể nói, ngày nay gói mì ăn liền đã đến với từng nhà, kết bạn với từng người. Có thế, nước ta mới mỗi năm sản xuất tới 6 tỉ gói mì với đủ các thương hiệu (Hảo Hảo, Miliket, 3 Miền, Tiến Vua, Bò Rau Thơm, Gấu Đỏ… Mì lâu đời nhất là mì Colusa gói giấy vẫn còn được ưa chuộng). Có những con số của năm 2005, tôi đọc được trên báo: Trung Quốc, ăn nhiều mì tôm nhất thế giới với 44, 3 tỉ gói / năm 2005, Indonesia thứ hai với 12, 4 tỉ gói / năm 2005, Nhật thứ ba – 5, 4 tỉ gói / năm 2005. Tiêu thụ mì ăn liền nhiều nhất, tính theo đầu người: Hàn Quốc 69 gói / người / năm,  Indonesia 55 gói / người / năm, Nhật 42 gói / người /  năm.

Nó nhờ vào đâu vậy?

- Chắc trước hết, nó nhờ vào cái giá rẻ: Trừ gói mì 5000đ – 6000đ dành cho người chuộng món ngon, gói mì phổ thông ba bốn ngàn đồng / gói, rẻ hơn cả đĩa bánh xèo rải rau giá búp, chén bánh bèo rắc tôm bột của mấy bà bán dạo xóm cho người nhàn rỗi vừa ngủ giấc trưa dậy. Đó là nói thời giá bữa nay, chứ hồi cách đây vài năm, mì ăn liền chỉ 500đ / gói thôi. Ít thấy có món vừa rẻ vừa ngon, theo nghĩa “tiền nào của nấy”, như gói mì. Ăn phở bò, bún giò thì “dội” lắm, lâu lâu mới dám cải thiện một bữa. Ăn bún cá, bún riêu cua giá cũng gấp rưỡi, gấp đôi gói mì tôm, mì thịt bằm ăn liền. Ăn bánh xèo, bánh bèo, ổ bánh mì cặp thịt “bình dân” đấy, nhưng bị thiếu nước, khô khan, khó nuốt, nhất là đối với người già ăn ít, có tật ăn hay mắc nghẹn. Sau cùng, nhiều người đã chọn “giải pháp” ăn gói mì, vừa rẻ vừa có cả cái lẫn nước, dễ nuốt trôi. Ăn xong tô mì tôm (cách gọi chung cho các loại mì), anh công nhân, chị cán bộ, bác nông dân yên tâm rằng mình đã nạp đủ “năng lượng” cho một buổi mai làm việc, từ sáng tới trưa. Nói, nhờ giá rẻ mà mì ăn liền tiêu thụ mạnh, “chiếm lĩnh thị trường” nhanh, chưa chắc trúng! Vì có những nước giàu vẫn ăn nhiều mì tôm kia mà.

- Ưu điểm thứ hai của gói mì tôm dễ thấy, là tiện lợi. Trước hết, tiện cho việc để dành, để trên bàn ăn, đậy rổ lại, hoặc cất trong chạn là tốt, miễn sao đừng để chú chuột đục khoét. Vì chuột mà đục khoét gói mì, chẳng khác gì ông Tám Khừng quê tôi, gặp cỗ giỗ được cho ngồi vào mâm. Mà cũng tiện cho việc chế biến, người bận rộn công việc, với gói mì tôm và chút nước sôi trong phích là có ngay bữa ăn, ăn lẹ. Bởi khỏi phải chế biến lâu lắc, ăn lẹ để còn công việc, gói mì tôm mới được đặt tên là “mì ăn liền” (nhưng cái tên này  người ta ít gọi hơn cái tên mì tôm đã quen miệng, quen miệng đến mức gói mì chay cũng bị gọi là mì tôm chay).

Trong đời, tôi đã gặp nhiều cảnh ăn mì ăn liền cảm động lắm. Cái hôm máy bay trực thăng sà xuống tới đọt tre, thả hàng cứu trợ xuống “ốc đảo” quê tôi (vùng đang bị thiên tai lũ lụt bao vây), tức thì từ trong các nhà ngập lũ sâu, bà con đã ào ra, bơi theo dòng nước cuộn chảy, vớt những thùng mì tôm bọc trong giấy nhựa. Và từ bữa đó, bà con làng tôi đã ăn mì tôm cầm hơi, suốt những ngày bão lũ gian nan, cơ cực. Khối cô cậu sinh viên, học sinh nghèo trọ học xa gia đình, vừa mua sách học vừa “kế hoạch” túi tiền, mua chục gói mì tôm để dành “ăn dặm”, vì nhiều bữa phải mì tôm thay canh, mì tôm bữa sáng đến trường, bữa tối thức khuya học bài. Khối anh chị công nhân nhà máy, ông bà cán bộ hưu trí (từng làm nhân viên cho lãnh đạo), đến kỳ lĩnh lương, liền ưu tiên dắt nhau ra siêu thị, mua một thùng mì tôm ôm về, bảo đã làm xong “kế hoạch tiền lương”. Một bà chủ quán trong khu dân cư nghèo đã có lần kể cho tôi nghe, những ngày giáp Tết, quán bà bán mì tôm chạy lắm, nhà nào cũng mua mì tôm ăn Tết, có nhà mua tới mấy thùng. Hình như đoán trước được, tôi sẽ có câu hỏi, tại sao, bà giải thích luôn: “Bởi tại cái gu của dân vùng này và cũng vì, bà con sợ ngày Tết quán xá nghỉ, mà lo trước còn hơn”.

Không ít người phong lưu, thích ăn ngon, phải bữa mì tôm, người ta đã “gia công” cho gói mì: cho thêm thịt ướp, chả giò, nhánh rau thơm, tiêu bột, củ hành ngâm chua, dội nước lèo nấu xương heo, sụn bò… Thế là thực khách có được một tô mì tôm hảo hảo, khác xa cái hương vị ban đầu của nó. Hương vị thuở ban đầu của tô mì ăn liền, nếu là mì tôm thì có chút hương vị tôm, mì thịt bằm chút hương vị thịt, mì bò bip – tết tí xíu hương vị thịt bò. Ngoài cái hương vị thịt hay tôm, theo tên gọi của gói mì, còn có cái hương vị rau thơm, cà rốt (hoặc khoai tây, đậu Hà Lan), muối, bột ngọt có trong bì gia vị của mỗi gói mì… Mì chay có hương vị nhiều loại rau: ngò thơm, cà rốt, khoai tây… và mùi thơm nấm (thay cho hương vị thịt, tôm, cua).

Đem mì tôm so sánh với bánh bèo, bánh xèo mới thấy cái “bất công” trong sự “đối đãi” của con người. Gói mì tôm (ba, bốn ngàn đồng) lại được sản xuất trong nhà máy công nghệ với dây chuyền sản xuất tiên tiến, có thương hiệu mĩ miều, bao bì láng bóng rực rỡ, được đóng thùng lịch sự, sang trọng; trong khi đó cái bánh chưn, chồng bánh xèo, đĩa bánh bèo…(cùng giá) lại chế biến trên lò than, bếp củi lọ lem, tới khi có cái bánh rồi, cũng chẳng gì hơn, vì bị thảy ra mâm, ra mẹt. May mà gặp người ăn tinh đời, có bụng tốt còn biết, đây là: “Món ăn dân dã”… để mà thương nhau.

Mì ăn liền chắc không bị cuộc cạnh tranh ráo riết, mặc dù ngày nay có xuất hiện gói phở ăn liền, miến ăn liền, cháo ăn liền… Tôi nghĩ, những gói sau này chỉ làm đa dạng, phong phú thêm cho gói mì ăn liền đang phục vụ cuộc sống hối hả thời nay.

Thử hỏi, ở trong nước mình, món ăn nào có tính phổ cập, “phủ sóng” toàn miền, toàn cõi, toàn quốc? Phở chăng? -Nhiều thị trấn không có quán phở tái, nạm. Bún bò giò heo chăng? –Cũng không. Cháo lòng, bánh hỏi thuộc “gu” của dân Bình Định, nhưng nơi khác thì cũng chẳng có “biệt nhãn”gì. Cao lầu vẫn “cố thủ” ở thành phố Hội An – Quảng Nam, Don “an phận thủ thường” ở thành phố Quảng Ngãi… Thưa, chỉ có gói mì ăn liền.

Học sinh cơm đùm, mì gói “nuôi“ ước mơ thoát nghèo

Cập nhật 06/10/2011 08:08 (GMT+7)

Hầu hết, nhà các em nằm chênh vênh trên đỉnh của các ngọn núi cao, đường xá xa xôi, mỗi lần đi học phải thức dậy từ sớm. Ngày qua ngày, các em bám theo các ngọn núi, vách đá cả 7km mới đến được trường. Nhiều em phải gói cơm mang theo, nếu không thì ra quán nhỏ cạnh trường ăn tạm mì gói lót dạ cho buổi học chiều.

Cơm gói, mì tôm “cõng con chữ”

Một ngày đầu tháng 10/2011, chúng tôi men theo con đường từ Trung tâm TP.Tam Kỳ, Quảng Nam vượt gần 30 km đường dốc núi đến trường THCS Lê Cơ (xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước), nhìn vào hàng quán đối diện trường thấy hàng chục em học sinh lớp 6,7,8 đang ngồi bóc những gói cơm và những tô mì gói ra ăn.

Dặm hỏi, các em cho biết do nhà xa trường đến gần 10km, nếu trưa tan học về nhà ăn cơm và quay trở lại trường học tiếp thì trễ học, nên các em đành lót dạ bằng những tô mì gói và cơm gói. 

Em Huỳnh Thanh Kiều (lớp 8, trú thôn 4, xã Tiên Sơn) cho biết: “Nhà em  cách trường 7 km, mỗi lần đi học rất khó khăn phải đi từ 5 giờ sáng, học xong khi về đến nhà cũng đến gần 1 giờ trưa. Em phải tự đạp xe đi vì bố mẹ ở nhà còn làm ruộng và chăm hai em nhỏ. Mỗi lần ở lại, bố mẹ cho 5.000 đồng để ăn trưa rồi học tiếp buổi chiều”.

Em Kiều hồn nhiên cho biết thêm, em ăn gói mì thì không đủ no (mì gói bán ở hàng quán 3.500 đồng/gói) nhưng đành bấm bụng vậy, vì nhà em khó khăn và bố mẹ còn lo cho 2 em nhỏ nữa.

Anh Võ Đức Mậu, chủ hàng quán trước trường THCS Lê Cơ cho biết: "Tôi bán quán ở đây gần 20 năm rồi. 20 năm qua, tôi chứng kiến cảnh học sinh đi học gói cơm và ăn mì tôm ở quán tôi rất nhiều. 

Lúc mới thành lập trường, một hôm, tôi tình cờ thấy các em có nhà xa ở lại gói cơm theo ăn với mắm. Mỗi lúc tan trường, các em ra đứng cạnh ống nước sau trường, cứ ăn một miếng cơm, một miếng mắm lại uống một ngụm nước thay canh. Nhìn thấy vậy, tôi bàn với vợ là mở quán để cho các em vào ngồi ăn cơm. Ở đây, đa số các em có hoàn cảnh đáng thương hết, nghèo và sống trên đỉnh núi cao. Nhiều lúc có em ăn mì gói không có tiền trả, tôi cũng đành cười trừ”, anh Mậu chia sẻ. 

Nuôi “ước mơ” thoát nghèo

Ông Nguyễn Đức Phiến, Hiệu trưởng trường THCS Lê Cơ, cho biết: “Trường có 8 phòng học, nhưng chỉ dạy có 5 phòng, còn 3 phòng kia để làm nơi cho các em thực hành vi tính. Trường còn khó khăn lắm, giáo viên và hiệu trưởng, phó hiệu trưởng gộp chung vào một phòng”.

Theo thầy Phiến, hiện trường có đến 53,6% là các em học sinh con của hộ nghèo, nhất là những em có nhà cách trường gần 10 km. Mùa nắng còn đỡ, chứ mỗi lần mưa gió xuống là trong cặp các em có thêm cái đèn pin. Đến ngày lễ, hay Tết trường thường tổ chức quyên góp mua quà cho các em có hoàn cảnh đáng thương này. “Mong muốn của chúng tôi là trường được đầu tư thêm vật chất, thiết bị để các em học đỡ phần nào”. 

Ông Nguyễn Phúc Lịch, Chủ tịch UBND xã Tiên Sơn cho biết: “Điều đáng mừng là cuối năm học vừa qua, các em vẫn trụ vững, không bỏ học. Tuy nhiên, cơ sở vật chất trường còn quá khó khăn. Chúng tôi cũng rất muốn quan tâm nhưng điều kiện kinh tế của địa phương quá eo hẹp. Chúng tôi hy vọng có những tấm lòng hảo tâm quan tâm san sẻ giúp một phần cho sự nhọc nhằn với các thầy cô giáo và học sinh nơi đây”.

Vài nét về thực trạng của tù cải tạo

Vĩnh Khanh

Sau 30-4-75 với chiêu bài "chính sách khoan hồng nhân đạo", chính quyền CS đã quy tụ hầu hết các thành phần sĩ quan lùa vào những trại tập trung cải tạo khổng lồ trên khắp các miền đất nước. Những sĩ quan từ cấp Tá trở lên, đa số bị chuyển ra các trại ngoài miền Bắc xa xôi. Còn các sĩ quan cấp úy thì hầu hết bị chia đều rải rác ở những trại tập trung trong miền Nam. Những trại tập trung này nhiều đến nỗi ít có người biết chính xác con số của nó là bao nhiêu! Người ta chỉ có thể biết chắc rằng trong lịch sử của VN chưa bao giờ có nhiều trại tù đến như thế, và số phận của những sĩ quan QLVNCH từ sau tháng 4-1975 đã phải trải qua khoảng thời gian dài tăm tối nhất trong cuộc đời của họ ở những trại tập trung đó. Ngoài chuyện phải xa cách gia đình và những người thân, hàng ngày người tù cải tạo còn bị bắt buộc làm những công việc lao động cực nhọc ẩn dưới cái khung mỹ miều "Lao động là vinh quang" trong khi đó khẩu phần ăn được cấp phát thì quá ít ỏi. Mãi cho đến khi được nếm mùi Đại Học cải tạo của của chính quyền CS, trước đây chưa bao giờ các sĩ quan QLVNCH thấu hiểu và thấm thía chữ "Đói" một cách sâu sắc đến như vậy... Khi chẳng may bị bệnh thì lại không có đủ thuốc men và nhiều người đã phải chết bởi những chứng bệnh tầm thường không ra gì cả! Nguyên nhân chỉ vì không có thuốc chữa! Chính sách "khoan hồng nhân đạo" của chính quyền CS có nhân đạo hay không, thì giờ này cả thế giới đã biết quá rõ, tưởng không cần phải bàn thêm ở đây. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn kể lại một vài thực trạng khó khăn của tù cải tạo trong môi trường thiếu thốn đủ mọi mặt ở mấy trại tập trung mà tôi có dịp trải qua.

Nghe theo chiêu bài "trình diện học tập 10 ngày", các sĩ quan cấp úy QLVNCH sau khi trình diện từ nhiều địa điểm khác nhau, đa số bị tập trung về Trảng Lớn và được chia ra cho các đơn vị bộ đội thuộc Uỷ Ban Quân Quản CS quản lý. Chúng tôi được sắp xếp về đơn vị Trung Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5 của CS ( L3T5 ) quản lý. Những tháng đầu tiên tại Trảng Lớn chưa ai được thăm nuôi hoặc nhận quà từ gia đình gì cả. Nên khẩu phần thực phẩm được phân phát sao thì ăn vậy. Rau cải nấu canh lỏng bỏng với chút muối hột, còn gạo để nấu cơm thì những tháng đầu tiên ở đây, chúng tôi chỉ được phân phát gạo đã bị mốc, mọt hết cả. Khi vo gạo thì hơn 2/3 nổi hết lên trên mặt nước vì bên trong hạt gạo đã bị mọt ăn rỗng ruột hết. Do thế chất B1 trong gạo không còn nữa. Sau một thời gian ăn loại gạo mối mọt này, bệnh phù thũng hoành hành chúng tôi thê thảm. Ai nấy chân tay đều sưng vù, trương nước vì thiếu chất B1. Nhất là ở chân, nếu lấy ngón tay nhấn nhẹ vào rồi lấy ngay ngón tay ra, sẽ để lại một lỏm sâu hóm thấy mà ghê luôn. Tình trạng bệnh phù thũng này đến mức báo động. Mỗi ngày chúng tôi được phát mỗi người 1 viên B1, ai bị nặng thì được phát thêm một ca nước cơm để có thêm chất B1 trong nước cơm …Còn bị nặng hơn thì lên nằm bệnh xá. Thực tế thì 1 viên B1 được phát cho mỗi người cũng không ngăn chận được chứng bệnh này. Ca nước cơm cũng chẳng còn chất B1 trong đó nữa vì cũng được lấy từ số gạo mục nát đó nấu ra. Những ai bị phù thũng nặng được khiêng lên nằm bệnh xá thì cũng chẳng có thuốc men gì nhiều, cho nên đã có nhiều người chết trên bệnh xá vì chứng bệnh phù thũng này. Nguyên do chỉ vì thiếu chất B1, một chất mà gần như trước đây trong cơ thể con người hầu như không có ai bị thiếu, vì trong thức ăn hàng ngày đã có đầy đủ. Nay lại phải bị chết vì nó, nghĩ lại thấy đúng là trớ trêu.

Người bị bệnh phù thũng nặng khi đứng lên hai chân bủn rủn, bước đi rất khó khăn và thậm chí vừa đứng lên đã té xuống ngay. Cá nhân tôi chẳng may rơi vào dạng bị phù thũng nặng, không còn đi đứng gì được nữa, chỉ nằm một chỗ. Khi cần tiểu tiện thì phải bò. Chân tay tôi lúc bấy giờ sưng vù lên một cách kinh khiếp, da ở hai chân tôi từ đầu gối trở xuống căng mỏng đến độ láng bóng. Còn hai mắt cá chân không thấy đâu nữa vì các phần sưng ở chân đã bao phủ mất hai mắt cá. Đến lúc tôi bị nặng nhất là lúc da chân nứt ra và rỉ nước vàng. Tinh thần tôi lúc đó phải nói là suy sụp trầm trọng. Tôi chỉ nằm cầu nguyện và nghĩ mình chắc chắn sẽ chết, nhưng nhất quyết không chịu đi bệnh xá. Tôi nghĩ lên đó cũng nằm chờ chết, chi bằng ở lại trại, nếu có gì còn có bạn bè giúp đỡ. Thế rồi không hiểu sao từ từ tôi khỏi được mặc dầu không có thuốc men gì thêm ngoài 1 viên B1 được cấp và ca nước cơm nhà bếp phát cho mỗi ngày. Qua khỏi cơn bệnh này, tôi có cảm tưởng như chết đi sống lại!

Còn một chuyện nữa liên quan tới vấn đề thiếu thốn thuốc men mà tôi còn nhớ. Khi chúng tôi chuyển đến trại Cây Cầy A (tên chính thức là Trường Quản Huấn Khu A) thuộc tỉnh Tây Ninh. Có một ca mổ ruột thừa hi hữu mà tôi có dịp chứng kiến. Một anh trong trại bị đau ruột thừa đã đến thời kỳ nguy kịch. Các bác sĩ QLVNCH đang cải tạo trong trại kết luận nếu không mổ gấp thì anh ta sẽ chết. Tuy nhiên ở trại, thuốc men và dụng cụ gần như không có gì cả. Cuối cùng sau khi được phép ban chỉ huy trại. Các bác sĩ đã thực hiện ca mổ ngay lập tức trong điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ. Dụng cụ mổ là lưỡi dao lam. Kim chỉ may vết thương là kim chỉ thường dùng để may vá quần áo. Bông gòn, thuốc đỏ, trụ sinh và các thuốc chống đau nhức thì anh em tù cải tạo trong trại quyên góp. Vấn đề thiếu thốn quan trọng nhất là các bác sĩ không có thuốc mê hoặc thuốc tê nên đành phải mổ sống bệnh nhân! Thà liều còn có cơ hội cứu sống người bệnh. Sau khi nghe các bác sĩ giải thích về tình trạng nguy kịch của chứng bệnh cũng như hiểu rõ hoàn cảnh thiếu thốn lúc đó, bệnh nhân chấp nhận cho mổ.Tôi còn nhớ ca mổ hôm đó gồm 4 bác sĩ, hai y tá cũng là tù cải tạo trong trại. Rất tiếc không nhớ hết tên mấy vị này. Chỉ nhớ có hai bác sĩ tên Mỹ và Dân. (Nếu tôi nhớ không lầm thì bác sĩ Mỹ chuyên khoa về mắt, trước tháng 4-1975 có làm việc tại bệnh viện Bình Dân).

Chúng tôi ở bên ngoài đứng chung quanh các cửa sổ căn nhà dùng làm trạm xá  theo dõi ca mổ đặc biệt này. Các bác sĩ giăng một cái mùng lớn ở giữa nhà và ca mổ được thực hiện trong mùng để tránh ruồi muỗi. Bệnh nhân bị cột tay chân thật chặt cho khỏi dảy dụa và miệng cắn chặt khăn. Đứng bên ngoài xem mà chúng tôi không khỏi rùng mình. Mặc dù bị cột chặt tay chân và có bốn người đè chặt, bệnh nhân vẫn ưỡn người dãy dụa và dù cắn chặt khăn, ở bên ngoài vẫn nghe rõ tiếng ú ớ rên la đau đớn khủng khiếp của người bệnh khốn khổ. Cuối cùng ca mổ hy hữu cũng thành công tốt đẹp và người bệnh được cứu sống. Không bao lâu sau khi hồi phục, anh này trốn trại. Không thấy anh bị bắt lại nên chúng tôi nghĩ anh đã trốn thoát.

Kể từ khi được vào "đại học cải tạo", tù cải tạo mới biết đến hai chữ “cải thiện” của Cách Mạng để chỉ sự trồng thêm, kiếm thêm thực phẩm… cho bữa ăn được khá hơn, đầy đủ hơn... Riêng đối với tù cải tạo thì hai chữ "cải thiện" này dần dần trở thành một cái gì quen thuộc hằng ngày, và việc "cải thiện" của tù cải tạo phải nói là đa hình đa dạng. Từ cóc, nhái, rắn rít, chuột, bò cạp… hễ bắt gặp được là tù cải tạo ăn tuốt hết.

Có những kỷ niệm tôi còn nhớ rất rõ, không biết nên liệt vào kỷ niệm vui hay buồn:

Khi còn ở Trảng Lớn, khu vực chúng tôi ở sát vành đai hàng rào. (Trước 1975 đơn vị pháo binh sư đoàn 25 bộ binh QLVNCH đóng tại đây). Dọc theo hàng rào là một giao thông hào lớn, bên dưới có nhiều chuột cống con nào con nấy to lớn, lông đen thui nhìn thấy sợ luôn. Có một anh làm bẫy bắt được một con chuột cống thật lớn và anh nói sẽ ăn thịt nó vì lâu quá rồi không được ăn miếng thịt nào. Ban đầu tưởng anh nói đùa, nhưng khi thấy anh nấu nước sôi trên lon guigoz rồi cạo lông nó, chúng tôi mới biết anh nói thật. Cả đám tù cải tạo xúm lại xem anh ta làm thịt con chuột. Ai nấy đều thấy ghê tởm vì trước đây chưa có người nào trong bọn ăn thịt chuột cống cả. Có người nói với anh: "Ăn tầm bậy tầm bạ coi chừng bị dịch hạch chết luôn đó.". Mọi người khuyên anh chàng bắt được chuột đừng ăn. Anh ta cứ tỉnh bơ vừa làm thịt con chuột vừa nói: "Tại mấy anh không biết chứ con chuột có bị dịch hạch hay không là do ở hai cục hạch nằm dưới hai nách con chuột. Lấy hai cục hạch đó ra thì khỏi còn sợ gì hết." Anh lấy dao lẻo ra hai cục hạch nhỏ ở dưới hai nách con chuột cống rồi đưa chúng tôi xem. Sau khi cạo lông và làm sạch sẽ, con chuột cống được thui lên vàng tươi trông hấp dẫn, ngon lành lắm. Anh lấy mỡ trong bụng của con chuột chiên nó lên. Mùi thơm bay ngào ngạt. Khỏi nói cũng biết anh ta đã thưởng thức bữa thịt chuột rô ti đó ngon lành như thế nào rồi! Thế là sau đó nhiều người bắt chước làm bẫy bắt chuột. Phong trào tự nguyện diệt chuột để "cải thiện" thêm cho bữa ăn hằng ngày của tù cải tạo bỗng dưng trở nên sôi nổi hẳn lên! Có người may mắn bắt được 2,3 con một ngày. Từ từ rồi chuột lớn, chuột nhỏ gì cũng bị bắt ăn thịt hết. Tù cải tạo lại trở về với cơm canh Cách Mạng như cũ! Thành thật mà nói, trong thời gian trong các trại tù cải tạo, tôi chưa bao giờ dám thử ăn thịt chuột cống dù cũng đói rã người và thèm có được một chút chất thịt lắm. Tuy không dám ăn, nhưng tôi hoàn toàn đồng tình và thấu hiểu được hoàn cảnh lúc đó với các bạn tù. Bây giờ nhớ lại giai đoạn đã qua, thấy cảm khái vô cùng. Đã có lúc thịt chuột cống trở thành một món ngon bổ dưỡng cho những người tù cải tạo!!

Từ khi đám tù cải tạo chúng tôi chuyển từ Trảng Lớn đến Đồng Pan, rồi từ nơi đây lại chuyển đến trại Cây Cầy A, chúng tôi được thăm nuôi gặp mặt mỗi tháng một lần. Với sự tiếp tế của gia đình, tình trạng có đỡ hơn lúc chưa được thăm nuôi, nhưng chúng tôi vẫn ở trong tình trạng thiếu thốn không đủ ăn. Đó là những người may mắn được gia đình thăm viếng, có thức ăn tiếp tế. Khỏi nói đến những anh em có gia đình ở xa hoặc gia đình khó khăn không đủ khả năng thăm nuôi hàng tháng thì chắc chắc là đói dài dài. Tiêu chuẩn của trại phát cho tù cải tạo trừ những ngày lễ lớn, hoặc Tết thì còn thấy chút váng mỡ và chút thịt bằng đầu ngón tay, ngoài ra thì chỉ toàn là rau nấu canh với tí muối hột… Khẩu phần ăn chính yếu cho mỗi người chỉ vào khoảng chén cơm hoặc một mẫu bánh hấp làm bằng bột mì… không đủ đâu vào đâu, lại phải lao động nặng nên đứa nào đứa nấy đói rã ruột. Để sinh tồn, đám tù cải tạo phải tìm bất cứ chất độn nào có thể kiếm được, chủ yếu để nhét vào dạ dày được càng nhiều càng tốt, và nhờ thế tạm đánh lừa cái đói. Mỗi khi đi vào rừng lao động, sau khi ra sức số gắng đạt đúng những "chỉ tiêu" được giao trong ngày, thì giờ hiếm hoi còn lại chúng tôi để ý tìm những cây cải trời, lá giang, lá bứa, đào những bụi sâm chỉ… những mụt măng non mang về thêm vào bữa ăn mà chủ yếu chất độn là chính yếu còn cơm chỉ là phụ, miễn làm sao có cảm giác lưng lửng bụng để có sức lao động tiếp. Do đó vấn đề “cải thiện” bên ngoài là một điều gần như tù cải tạo nào cũng làm. Ngoài ra ở trại, chúng tôi còn phải dành thì giờ rảnh trồng thêm rau, bầu bí mướp... ăn độn thêm. Tuy thế cái đói vẫn thường xuyên theo đuổi chúng tôi. Mỗi tối khi nằm ngủ, bụng đứa nào đứa nấy sôi rột rột trong đêm khuya nghe rất rõ. Đôi khi bụng sôi quá không ngủ được, người nào còn đường tán thì bẻ một tí nhấm nháp - lại đánh lừa bao tử -  cho bụng đỡ sôi để dễ ngủ!

Cũng có những kỷ niệm vui vui về chuyện "cải thiện". Đôi khi chúng tôi cũng may mắn tìm được món ngon chứ không phải lúc nào cũng èo uột cả đâu:

Tôi còn nhớ khi mới chuyển trại đến Đồng Pan, lần đầu tiên chúng tôi đi chặt tre. Khi vào rừng tre, cả bọn rất vui mừng vì kiếm được nhiều mụt măng non. Thế là ngoài chỉ tiêu hai cây tre lớn cho mỗi người phải mang về ngày hôm đó, chúng tôi còn đeo nhiều "xâu" măng non lủng lẳng. Đường từ rừng tre về trại xa thăm thẳm, lại vác nặng, nhưng trong bụng đứa nào đứa nấy cũng vui vì có "chiến lợi phẩm". Sau đó chúng tôi chế biến thành đủ thứ món: Măng trộn gỏi (dĩ nhiên không có tôm thịt gì cả), măng luộc, canh măng… rồi đến măng ngâm chua hoặc phơi khô để dành ăn dần… Thôi thì bữa ăn nào cũng có măng độn vào. Nghe người ta nói ăn măng nhiều sẽ bị đau nhức mình mẩy… hoặc dễ bị sốt rét rừng hơn người không ăn(?). Cả đám tụi tôi cứ ăn tỉnh bơ, chỉ mong có gì nhét vào bao tử cho no là tốt rồi, những chuyện đau mình, đau mẩy thây kệ. Tính sau!

Cũng ở trại Đồng Pan này, những ngày đầu khi vào rừng đốn cây về làm doanh trại, có rất nhiều hố bom do B52 thả lúc trước và bây giờ trở thành những cái ao nhỏ. Chúng tôi phát giác có ếch, cóc, nhái, rắn, cá trong đó. Thế là đám tù chúng tôi bảo nhau làm lưỡi câu chế biến từ một sợi kẽm nhỏ hoặc từ một cây kim cúc. Mồi thì chỉ là những thứ vớ vẩn gì đó có thể kiếm được. Lúc đầu chúng rất dạn, cứ quăng cần câu một lúc là có thể câu dính được ếch nhái hoặc cá ngay. Những ngày đó phải nói là đại tiệc đối với chúng tôi. Nhưng rồi số lượng tù cải tạo quá đông, nhiều người câu quá, chúng trở nên nhát mồi và khó câu hơn. Chúng tôi lại phải đi lao động làm đúng chỉ tiêu nên đâu có thì giờ nhiều để đánh bắt. Do thế chúng tôi đan lợp, đặt bẫy... xong lấy cỏ che lại. Có dịp đi lao động ngang qua thì ghé thăm bẫy. Với cách này thỉnh thoảng cũng bắt được cá.

Hoặc có vài lần gặp may mắn, đi chặt tre hoặc cắt tranh ở rừng về qua những con suối tình cờ chúng tôi tìm được nguyên đám rau càng cua hoặc rau sam thật lớn mọc dưới chân các tảng đá dọc hai bên suối. Những hôm như vậy chúng tôi hay nói đùa là : "Hôm nay Trời đãi tụi mình". Thông thường khi đi lao động trong rừng, chúng tôi chia ra những nhóm nhỏ 2,3 người đi với nhau, vì thế những đám rau lớn đó không thể lấy hết một lần. Mỗi đứa cởi áo làm thành một cái bọc đựng đầy rau trong đó, còn lại tính "để dành" bữa khác tìm cách trở lại lấy nữa. Nhưng qua mấy hôm sau khi chúng tôi đến thì cả đám rau lớn hôm trước đã sạch bách hết không còn một cọng bởi những "đàn anh" tù cải tạo nào khác đi ngang qua "dớt" hết rồi.

Chế độ kềm chế tù nhân bằng bao tử của CS quả thật rất tàn nhẫn. Nó làm cho con người đôi khi trở nên hèn mòn chỉ vì một miếng ăn nhỏ. Kể từ khi chúng tôi chuyển đến trại Cây Cầy A, vấn đề doanh trại và những dãy láng trại, nhà ở… đã được những tù cải tạo ở trước xây cất đâu đó nề nếp hết rồi. Nên khi chúng tôi chuyển đến trại này, việc lao động chủ yếu là trồng trọt, canh tác hoa màu. Chúng tôi phá rừng, khai hoang trồng lúa, bắp, khoai mì, bo bo, mía… phải nói là rộng bạt ngàn. Diện tích canh tác hoa màu ở trại này không biết bao nhiêu mà kể. Hoa lợi thu hoạch về rất nhiều nhưng chỉ bán cho bên ngoài. Tới mùa thu hoạch xe vận tải của nhà thầu bên ngoài ra vô nườm nượp chở lúa, khoai mì, bắp, mía… từ sáng tới tối liên tục ngày này qua ngày khác cả mấy tuần lễ mới hết. Chúng tôi làm quần quật trên những cánh đồng này từ mờ sáng. Khai thác xong, khuân vác đến cân đo đong đếm rồi chất lên xe để nhà thầu chở đi. Hoa màu thì đầy dẫy vào những mùa thu hoạch như thế mà không được cho ăn no. Mỗi ngày cũng vẫn chỉ được phát với tiêu chuẩn ăn "chết đói" lưng một chén cơm. Do thế không đứa nào là không bẻ trộm bắp, khoai mì ăn thêm cả. Nhớ lại giai đoạn đó quả thật con người của chúng tôi đã đi đến chỗ bần cùng, thê thảm chưa từng có! Chính tự tay chúng tôi khai hoang, trồng xới, từ lúc miếng đất còn là một cánh rừng cho đến khi thu hoạch, thế rồi cũng chính chúng tôi đi bẻ trộm những hoa màu đó ăn cho đỡ đói. Nếu bị bắt được thì bị phạt cùm giò nhốt vào connex nửa tháng. Đúng là khôi hài không tả nỗi. Tuy nhiên dù có bị kỷ luật, hù doạ… chúng tôi vẫn cứ phải bẻ trộm bắp, nhổ khoai mì để ăn chứ đứa nào đứa nấy đói lả ra, lấy sức đâu mà lao động!

Những lúc thu hoạch khoai mì hoặc bắp trên cả một cánh đồng thật rộng lớn, đám tù cải tạo chúng tôi được phân chia khu vực cho mỗi tổ, giăng hàng ngang và cứ thế tiến lên  thu hoạch . Chúng tôi được giao chỉ tiêu vừa nhổ khoai mì, bẻ lấy củ gom lại thành đống lớn để chiều xe vận tải tới cân và chở đi. Tổ nào không làm đúng số lượng đã được giao thì tối về bị phê bình kiểm điểm tới khuya… Chỉ tiêu đưa ra là con số phải làm cật lực mới có thể đạt được. Bụng thì đói meo mà làm nặng nhọc như vậy thì chịu sao nổi. Do đó trong khi làm việc chúng tôi cử ra một người lén nướng khoai mì hoặc bắp cho các anh em trong tổ cùng ăn. Khổ nỗi khi khoai mì, bắp nướng lên sẽ có mùi thơm lan ra. Hôm nào không có cán bộ quản giáo và các vệ binh ở gần thì chúng tôi còn nướng ăn đàng hoàng được. Nhưng hôm nào có đám cán bộ canh chừng, đốc thúc chúng tôi làm cho nhanh thì không thể nướng lên được. Những bữa như vậy, chúng tôi chỉ biết dấu vào bọc áo, chiều tối về trại luộc ăn. Nếu có ai đói quá thì đành phải vừa làm vừa nhai khoai mì sống cho đỡ đói. Còn bắp thì là bắp khô không ăn sống được vì hột cứng quá thì khi nghỉ giải lao, chúng tôi lén lảy hột đựng vào bình đựng nước để chiều mang về trại. Chúng tôi vẫn làm như vậy. Nhưng một hôm có một anh đang làm ở đội gần bên ăn khoai mì sống nhiều quá, gặp lúc trời nắng như đổ lửa nên bị "say" nắng (hoặc "say" khoai mì sống chúng tôi cũng không rõ). Anh ta giãy tê tê, miệng sùi bọt mép với chất nhựa trắng của khoai mì ra đầy hết cả. Các bạn anh hoảng hồn, phải dìu anh núp vào chỗ mát. Lấy nước rửa chất sữa trắng khoai mì trên miệng và quần áo để phi tang và báo cán bộ là anh ta bị bệnh. Một người được cử ra cạo gió cho anh, nhìn tướng anh lúc đó rất thê thảm. Vậy mà qua hôm sau đi lao động, lại thấy anh ta tiếp tục nhai khoai mì sống ngon lành.

Tù cải tạo hái rau cải hoang, bẻ măng rừng, cóc nhái, rắn rết…  ăn thì không sao. Nhưng rủi mà bị cán bộ quản giáo bắt quả tang lúc đang "cải thiện" khoai mì, bắp, mía… thì tối đến khi về trại, thế nào cũng có màn kiểm điểm ở trong tổ cho đến thật khuya. Cái khốn nạn của màn kiểm điểm này là cán bộ quản giáo bắt buộc các anh em trong tổ từng người phải có ý kiến phê phán, lên án hành động "trộm cắp" của anh tù nào xui bị bắt gặp. Nhưng có tù cải tạo nào mà không phạm cùng một tội đâu!! Cho nên những buổi kiểm điểm tố khổ như vậy chẳng qua chỉ là những trò hề. Nhưng đau đớn thay, chính chúng tôi là những con rối trong trò hề đó. Người bị bắt gặp bẻ trộm hoa màu sau đó còn bị phạt nhốt connex nửa tháng. Trong thời gian bị phạt, khẩu phần ăn bị cắt phân nữa. Những bạn tù mỗi khi đi lao động ngang qua connex, nếu canh không có vệ binh hoặc cán bộ ở gần thì lén quăng vội vào cho bạn mình một củ khoai, hoặc chút ít thực phẩm gì giúp cho anh ta đỡ đói. Khi được thả ra sau nửa tháng ngồi connex, có người phải nhờ bạn bè dìu về trại chứ đi một mình không nỗi nữa.   

Cứ thế đám tù cải tạo khốn khổ lây lất sống từ trại này qua trại khác với hy vọng thật mong manh của một ngày đoàn tụ không ai biết trước được. 

Trải qua bao nhiêu năm, những khi hồi tưởng lại hoặc có dịp ngồi ôn lại với bạn bè cùng chung cảnh ngộ trước đây. Tôi không khỏi cảm khái. Những hình ảnh cũ trong giai đoạn tủi nhục vẫn còn in rất rõ trong tâm trí tôi cũng như của biết bao người tù cải tạo khác. Còn rất nhiều những kỷ niệm chua xót trong thời gian ở trại tập trung cải tạo mà tôi tin chắc rằng những ai đã trải qua khó lòng có thể quên được. Bài viết này chỉ ghi lại một vài hình ảnh nhỏ mà thôi.

CHÀNG ƠI PHỤ THIẾP LÀM CHI !

* Nguyễn Thanh Ty

          Câu ca dao:

Chàng ơi phụ thiếp làm chi!

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng!

làm ta liên tưởng đến cảnh một người vợ đang chạy theo ra tận cổng, tay nắm chéo áo chồng kéo lại, miệng cất tiếng kêu tuyệt vọng, thiết tha năn nỉ người chồng sắp đan tâm đoạn tình, đoạn ngãi với mình để chạy theo một bóng sắc khác, xin đừng bỏ đi, nghe thật là thương cảm.

Thiếp như cơm nguội...

Lời hạ mình ví von, nghe tội nghiệp thảm thiết làm sao!

Có thật cái hình ảnh người vợ đầu ấp tay gối bao nhiêu năm trời với mình giống như chén cơm nguội đỡ khi đói lòng như người đàn bà than?

Riêng đối với tôi, con nhà nghèo đi học xa, trưa ở lại trường, thì cơm nguội mà ăn với cá khô nướng, hay mực muối nướng thì quả là tuyệt cú mèo, tưởng trên đời “yến nhà vua” cũng không ngon bằng!

Nhất là sau tháng tư năm bảy lăm, đi “cải tạo” trong trại tù CS nhiều năm tháng, đói khổ triền miên, mà có được cái món mực muối nướng ăn với cơm nguội, sau một ngày lao động khổ sai, mệt rã rời thân xác trong những ngày mưa dầm gió bấc, vừa đói, vừa lạnh run cầm cập thì quả thật là “tiên trên đời”.

Lúc đó người tù cảm thấy mình sướng hơn vua.

Chỉ thua ông cọp có cái đuôi!

Theo nghề biển, từ tháng sáu đến tháng 8 Âm Lịch, là mùa mực nổi. Mực nhiều hằng hà, vố số kể.

Mực đủ loại được ngư dân đánh bắt nhiều lắm, nhiều lúc khẳm cả thuyền.

Người dân chài gọi mực là mực chứ không gọi là “cá mực” như mấy ông nhà văn thích vẽ vời trong sách rồi người ở phố kêu theo.

Đánh bắt mực cũng có nhiều cách như câu, xúc, kéo lưới và “bắt bông”.

Bài này nói về “ăn” mực chứ không nói về cách “đánh bắt” mực, nên cách “bắt bông” như thế nào để bắt được mực, xin hẹn khi khác có dịp.

Nào là mực ống, mực thước, mực lá...  to và dài từ hai, ba tấc tây cho đến nửa thước. Loại này được xẻ phơi khô một nắng, hai nắng hay khô hẵn để bán quanh năm cho dân... nhậu và xuất cảng.

Còn loại mực nhỏ, dài chừng nửa gang tay trở lại, ngoài những món ăn tươi trong bữa ăn hàng ngày như xào, nấu canh ngót hành ngò, nấu canh chua với é, me, ngổ, đúc bánh xèo, nhồi thịt để chiên, hấp cuốn bánh tráng với rau sống v.v... kỳ dư nhà nào cũng muối mấy tỉn trong nhà để dành ăn trong những ngày mưa bão.

Muối mực rất đơn giản, dễ dàng hơn muối cá để làm mắm nước hay mắm nêm. Muối mực không cần phải theo công thức “năm cá ba muối” như làm nước mắm hay “năm cá hai muối” để làm mắm nêm.

Muối mực cứ “một mực một muối”, dù nhiều ông Hòn Khói té vào thêm cũng không hề gì, bởi độ mặn sẽ bảo hòa, không cách gì mặn hơn nữa.

Muối cá hay muối mực mà dùng muối hột Hòn Khói là số dzách, không có muối nơi nào so bì được với muối Hòn Khói, kể cả muối Cà Ná.

Trước bảy lăm, muối Hòn Khói được các tàu Nhật và Pháp đến ăn rất nhiều.

Sau khi trộn đều mực với muối, người ta ém vào tỉn, lèn thật chặt... đậy kỹ, rồi để quanh lò ông táo... rồi quên nó đi cho tới kỳ “Ông tha mà Bà không tha, Trời làm bão lụt hăm ba tháng mười” thì mới sực nhớ đến nó.

Đến lúc “ông tha mà bà không tha” suốt cả tháng cứ mưa dầm, gió bấc lạnh như cắt da từ hướng Bắc thổi về ù ù suốt ngày, nước mắt ông Trời không biết thương nhớ ai mà cứ tuôn tràn hết ngày nọ sang ngày kia, làm cho tràn ruộng, tràn đồng...

Ngoài biển thì sóng to theo gió lớn cứ cuồn cuộn nối đuôi nhau như những con khủng long đang lúc điên cuồng, nhe nanh múa vút, lồng lộn lên  cao cả mấy thước, đánh vào bờ ầm ầm như uốn nuốt gọn cả cái xóm chài nhỏ bé nằm nép mình ven biển, cho hả cơn cuồng nộ.

Những ngày đó, dân xóm tôi trốn trong nhà ru rú, không dám thò đầu hay ló mặt ra để nhìn... trời.

Ai nấy đều co ro trong những chiếc áo phong phanh. Người nào có được cái áo len choàng bên ngoài là nhất rồi. Đa số đều là năm tầng, bảy lớp áo, mặc cái nọ chồng lên cái kia cho đủ ấm.

Lúc này những cái tỉn muối mực được trịnh trọng mang ra săm soi.

Những con mực được lèn chặt trong lớp muối qua gần ba, bốn tháng đã ăn no chất mặn, tự động nằm sắp lớp một cách ngoan ngoãn dễ thương trong tỉn được các bà nội trợ lôi ra sắp hàng trên dĩa chuẩn bị cho các buổi ăn trong ngày.

Mực muối mặn không chảy nước, thân mực chỉ y ỷ độ ẩm. Mực có màu đỏ, hơi tím.

Mực muối chỉ có hai cách ăn: nướng và kho.

Nướng mực muối:

Nướng mực, người ta dùng thanh tre nhỏ chẻ tách ra thành những cái kẹp, kẹp mực vào, theo chiều ngang thân mực, mỗi kẹp chừng năm con, rồi kê lên bếp than để nướng. Trở qua lại cho mực chín đều.

Mực chín sủi lên thân mình những bong bóng muối trắng tinh. Mùi mực nướng xông lên thơm lừng điếc mũi và làm cho hai hàm xai ứa nước miếng liên hồi phát mỏi.

Ăn mực muối phải ăn với cơm nguội, mà phải ăn bốc bằng tay, mới đúng điệu con chuồn chuồn. Dùng năm ngón tay (thiên thần) chụm lại nhúm một nhúm cơm nguội trong tô, bỏ vào miệng, cắn một miếng mực nho nhỏ (nhớ là nho nhỏ thôi chớ chơi nửa con là... uống nước chết bỏ, tác giả không can được đâu nha) rồi cứ thong thả, nhẩn nha, chầm chậm mà nhai. Mỗi lần như vậy, vừa nhai vừa suy nghĩ chuyện đời, chuyện bên Tàu, chuyện bên Tây cho đã đời rồi mới nuốt thì mới gọi là biết ăn... cơm nguội với mực muối.

- Sao mà nhiêu khê quá dzị hở chàng? Cách ăn nhà nghèo của chàng sao mà kiểu cọ rắc rối quá dzị?

- Bậu biết sao hông? Để qua nói cho bậu nghe! Hông phải kiểu cọ, rắc rối, rắc mè gì hết trơn mà là tại “cuôm nguội” nó cứng và rời rã từng hột, bậu phải nhai kỹ và chậm nó mới nhuyễn, mới hòa tan từ từ với mực mặn, lúc đó cái khẩu vị của bậu mới cảm nhận hết cái vị ngọt của cơm và vị mặn, béo của mực thấm trong miệng, trên lưỡi, trong từng kẻ răng. Lúc đó bậu nuốt miếng cơm vào trong cổ, bậu sẽ thấy cái ngon nó đi dần từ cuống họng xuống tận bao tử. Chứ nếu bậu ăn với cơm nóng, mềm dẽo, cái vị mặn của mực làm bạn sẽ nuốt ực một cái cho đã miệng thì chẳng khác chi Trư Bắt Giới ăn nhân sâm của bà Tây Vương Thánh Mẫu, nuốt nguyên trái, không biết mùi vị của nhân sâm ra sao cả.

- Thiếp nghe thủng rồi! Thiệt đúng là triết lý ăn “cuôm nguội”. Xin hỏi thêm chàng, ăn “cuôm nguội với mực muối nướng” no bụng xong thì mình uống nước trà nào cho đúng “điệu con chuồn chuồn” như chàng hay nói?

- Ới bậu ơi! Chẳng trà, chẳng lá gì hết! “Níu” mà bậu thích chơi sang, bậu pha bình trà Thiếc Quan Âm để uống, không những là trật chìa con chuồn chuồn mà còn trật chìa lý con sáo nữa đó bậu ơi! Bậu có nghe cô sơn nữ Phà Ca trong tuồng “Người vợ không bao giờ cưới” ca cái câu  “Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương” không? Đó đó, lưng bát nước đó là nước suối, chớ không phải trà Thái Đức hay trà Thiếc Quan Âm đâu. Bậu ở nhà có sẵn lu nước mưa mát rười rượi như nước Cam Lồ của Phật bà Quan Âm, ăn xong rồi, chơi một gáo nước mưa, no cành hông, thì mới là đúng điệu “Khổng Minh tọa lầu”.

Kho mực muối:

Muốn kho mực muối, trước tiên ta phải làm cho mực bớt mặn. Muốn làm mực bớt mặn, nhiều người đem ngâm nước cho độ mặn nhả ra. Làm như thế uổng công, vô ích. Độ mặn vẫn không giảm đi chút nào. Khi kho lên, mực sẽ mặn chát chứ không giống như khi nướng.

Muốn độ mặn giảm đi, ta dùng cách “dĩ mặn trị mặn” (dĩ độc trị độc) nghĩa là hòa nước muối cho mặn rồi mới ngâm mực vào. Cái mặn bên ngoài sẽ hút cái mặn bên trong của mực muối.

Chừng nửa giờ, vớt mực ra cho ráo nước, bỏ vào chảo với chút dầu hay mỡ đã khử tỏi, tao cho mực săn lại, bỏ thêm thịt ba chỉ xắt nhỏ, cà chua bằm, đường, tiêu. Lửa riu riu làm cho đường thấm vào mực. Lúc ăn, mực có vị vừa ngọt vừa mặn.

Ăn mực kho có thể ăn với cơm nóng với rau luộc hay rau sống đều ngon cả. Ăn với cơm nguội thì không cần rau.

Ăn cơm với hai món mực muối vừa kể, ta có thể ăn “thăm thẳm chiều trôi”, ăn no cành hông mà vẫn cứ thèm ăn hoài, không ngán.

Nhưng nhà nghèo, cơm gạo đâu có nhiều mà ăn hoài cho phỉ.

Vài kỷ niệm về ăn mực muối.

Mực muối với con nhà nghèo đi học trường xa:

Lúc còn nhỏ, học Trung học, trường xa nhà, chúng tôi phải mang cơm theo để ăn trưa tại trường.

Cơm mang theo đồ ăn phải là đồ khô cho gọn, tránh đổ tháo và chảy nước hôi hám, nên thường thường là muối tiêu, muối ớt, muối mè, muối đậu phọng, cá khô hay mực muối nướng sẵn ở nhà.

Mấy anh ở nhà quê thì gói cơm trong mo cau. Chúng tôi thì gói cơm trong lá chuối. Buổi trưa thường rủ nhau ra bờ biển ngồi dưới mấy gốc dương mà ăn. Mấy anh ở trên Thành đạp xe đạp xuống Nha Trang học, thường trao đổi cơm trộn đậu đen cho tôi để lấy mực muối ăn cho lạ miệng.

Còn tôi, lâu lâu được ăn cơm độn đậu đen, chấm muối mè cũng thấy ngon miệng lắm. Ngược lại mấy anh kia ăn xong cứ hít hà thòm thèm món mực muối của tôi hoài

Ăn xong cả bọn vô trường, kê miệng vô rô bi nê làm một bụng nước máy là no anh ách tới chiều.

Suốt mấy năm liền anh em chúng tôi trưa nào cũng ăn như vậy mà vẫn cứ ngon miệng, không thấy ngán.

Cái đám Trần Minh khố chuối ấy, sau cơn bão tố, đã tản lạc bốn phương trời, không biết bây giờ còn lại được bao nhiêu?

Có ai còn giữ được những kỷ niệm đậm đà mùi “muối” thuở ấu thơ không?

Mực muối ở trong trại tù “cải tạo”.

Suốt thời gian gần sáu năm sống đọa đày trong tù với cái đói triền miên, tôi cũng như bao nhiêu người tù không được thăm nuôi khác, lúc nào cũng đều nghĩ đến cái ăn.

Ngoài cái ăn ra không thể nào nghĩ đến cái gì khác nữa, trong lúc bụng lép kẹp, đói quay quắt, đói cồn cào, đói đến gan bào ruột thắt, đói đến mờ mắt run tay...

Chính sách thắt bao tử và bắt con người luôn luôn phải ở trong tình trạng... đói, để làm tê liệt mọi ý chí và khả năng đề kháng, đó là sách lược của nhà cầm quyền CS.

Ban đêm, trước khi ngủ, chúng tôi thường có những bữa ăn hàm thụ. Mỗi người kể cho nhau nghe một món ăn đặc biệt ở quê mình để cho mọi người tưởng tượng ra và chảy nước miếng cho đỡ thèm

Cả trong giấc ngủ cũng nằm mơ thấy được ăn và mớ lên thành tiếng.

 Ở trong tù, ngoài đường đen và thuốc lá ra, cá khô, mực muối, ruốc kho sả là những “nhân sâm hảo hạng” của tù nhân.

Mỗi ba hay bốn tháng một lần, Má tôi gửi theo mấy gia đình đi thăm nuôi, một lon ruốc kho sả và nửa ký mực muối.

Ruốc kho sả, mỗi ngày chỉ được múc ra một muỗng cà phê, để hòa vào nước lã nấu với rau rừng làm canh. Hôm nào bắt được một hai con nhái bỏ thêm vào lon ghi-gô canh, bữa cơm hôm đó được long trọng gọi là “yến tiệc nhà vua”.

Riêng về mực muối thì ba ngày mới được ăn một con. Nửa ký mực có độ chừng ba mươi con. Phải chia ra, ăn dần cho đến kỳ “đến hẹn lại lên” thăm nuôi sau.

Mực muối nướng ăn với khoai mì Ấn Độ luộc, gần giống như ăn với cơm nguội.

Giống khoai mì Ấn Độ dễ trồng, có thể sống xanh tốt trên bất cứ loại đất sỏi khô cằn nào. Giống mì này cho nhiều củ to. Tuy nhiên chưa quá sáu tháng, củ còn chứa nhiều mũ độc. Nhiều tù nhân đói quá, đào trộm để luộc ăn đều bị ngộ độc, ói mữa. Nếu không cứu chữa kịp, dễ đưa đến tử vong.

Tôi luôn để dành phần khoai được phát buổi sáng để đến giờ giải lao 10 phút, lúc cơn đói đang kéo đến run tay, đem ra nhai với mực muối nướng.

Khoai mì Ấn Độ cứng và dẽo chứ không có bột và mềm như loại khoai mì gòn.

Mỗi lần nhai mì Ấn Độ với mực muối tôi lại nhớ về những ngày mưa gió ăn cơm nguội với mực muối khi còn nhỏ ở quê nhà.

Không hiểu sao người ta lại ví cơm nguội với người vợ hiền tảo tần, một nắng hai sương, suốt đời lo cho chồng cho con như thế?

Nếu được “người vợ cơm nguội” như trong câu ca dao, níu áo chồng năn nỉ  “chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng” thì người chồng nỡ lòng nào mà phụ ngãi, rãy nhơn.

Người ta kiếm thêm không hết, mình ngu gì lại bỏ.

Phải không các bạn?

Vũ Ánh/Việt Herald

(01/01/2011)

(Tặng những đồng đội cựu tù cải tạo trại A-20 và các trại khác)

Tôi không nghĩ là những người không ở trại trừng giới A-20 Xuân Phước, một trải cải tạo thuộc vào một trong những trại khắt khe nhất trên toàn cõi Việt Nam có thể biết cỏ kiểng là cỏ gì, tại sao gọi là cỏ kiểng và tại sao chúng tôi lại phải ăn cỏ kiểng. Nói thật với các bạn, gần đây có dịp đọc lại cuốn hồi ký của người tù Hỏa Lò John McCain, trong đó ông cho biết những tù binh Mỹ bị giam ở đây do không hiểu rau muống là gì nên đã gọi rau muống là “cỏ” và họ phản đối ban quản trị đã buộc họ phải ăn cỏ, nên tôi mới viết lại chuyện ăn cỏ kiểng vì một số anh em trong trại A-20 chúng tôi từ thập niên 80 đã phải ăn cỏ thật chứ không phải là “cỏ rau muống” như tù binh Mỹ tại Hỏa Lò. Cỏ đó chúng tôi gọi là cỏ kiểng.

Gọi đó là cỏ vì chúng tôi không phải là nhà thực vật học nên không hiểu rõ loại lá cây mà chúng tôi ăn là lá gì nên gọi đại là cỏ cho được việc làng nước cốt, vì lá gì thì cũng chỉ cốt sao nhét đầy vào cái bụng cũng trống cho đỡ đói mà thôi. Nhưng tôi phải mô tả chi tiết một chút thì quí vị mới có thể hiểu được. Trại A-20 không phải chỉ có một trại mà có tới 4 trại khác nhau, mỗi trại cách nhau ba bốn cây số và đều do các tù nhân của chuyến trở về từ Guam của tầu Việt Nam Thương Tín xây dựng. Trại E là trại chúng tôi phải sống lúc đầu, là trại ngoài cùng, khang trang nhất, nhà ngói, vườn rau, ao cá và những hàng dừa thẳng tắp, nhưng lại là trại ghê gớm nhất, với kỷ luật khắt khe với việc trừng phạt trong cuồng cọp tối đa có khi tới 5 năm, nhất là vấn đề thăm nuôi, gởi quà qua bưu điện cực kỳ khó khăn.

Những người mới tới, đứng ngoài cổng phân trại E của A-20 nhìn vào, có thể tưởng lầm đây là một tụ điểm du lịch. Không những trại có vườn rau ao cá, mà việc trang trí cây kiểng cũng dẫn tới việc chúng tôi vì đói quá mà phải ăn cỏ kiểng. Số là, dọc theo những lối đi và vườn rau trong trại, ban quản trại bắt tù nhân chúng tôi lấy gạch đỏ “chạy” thành những bức ngăn chỉ cao bằng viên gạch thẻ, rồi đem cỏ kiểng trồng sát vào các hàng gạch. Gọi là cỏ kiểng chứ thật ra loại cây mọc thành từng cụm này do tù nhân chính trị đào từ ven rừng mang về trồng. Lá của loại “cỏ” này chỉ bằng móng tay cái, có hình thù gần giống như lá rau dền ta nhưng bóng, nhấm thử vào miệng không thấy vị đắng, chát hay the.

“Cứ loại lá nào không đắng, không ngọt, không chát hay the là không có chất độc, có thể ăn được”. Phước “moshe dayan”, một thành viên trong đội lao động ở nhà giam 1 với tôi lúc đó khẳng định như thế. Anh có cái biệt danh mà anh em bạn tù đặt cho là vì anh chỉ còn một con mắt, giống như tướng độc nhãn của Do Thái Moshe Dayan.

Phước “moshe dayan” không phải là một sĩ quan quân lực VNCH mà là thành viên của một trong những lực lượng vũ trang của Hòa Hảo, bị bắt trong một cuộc tảo thanh lực lượng Phục Quốc của chính quyền Cộng Sản ở Hậu Giang. Đó là theo lời anh khai trong lý lịch trích ngang. Là người được sinh ra, lớn lên, sinh sống và hoạt động trong vùng sông rạch Miền Nam nên Phước “moshe dayan” rất rành về “rau rác” ngoài đồng, ngoài ruộng.

Tại trại A-20 Xuân Phước, Phước “moshe dayan” chỉ vẽ cho anh em chúng tôi kiếm rau cỏ mọc hoang ở bờ ruộng hay trong nương sắn có thể ăn được để độn với khoai mì lát cho đỡ đói. Vì thế đã có thời kỳ chúng tôi ăn cả đọt khoai mì luộc, dền gai (có rất nhiều gai, mọc bên đường), đọt cỏ trai, cỏ diệu, cỏ tóc tiên, rau sam, khoai mài dại (trông hình thể giống khoai mà trồng ở vườn, nhưng rất độc, phải xắt ra cho vào bao ngâm ở suối 7 ngày mới lấy lên luộc ăn được)

Tuy nhiên, “đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma” nên Phước “moshe dayan” suýt chết. Một hôm, anh tiết lộ đọt lá “cây hoa cứt lợn” ăn được và bổ. Anh nói: “Dưới vùng tôi, họ dùng cây hoa này để làm phân cho cây trồng, chắc nhiều protein”. Anh cho tôi ăn thử một lá đã luộc chín, nhưng thấy nhám và hôi tôi phải nhả ra ngay. Chắc quí vị cũng biết là của cây hoa cứt lợn dù là đọt hay lá cũng đều có nhiều lông nhọn, sờ vào thấy nhám. Tôi và nhiều anh em khác khuyến cáo Phước “moshe dayan” không nên ăn. Nhưng anh tiếp tục ăn. Thấy không có gì xảy ra tất không có chất độc. Cả trại không ai đi theo Phước độc nhãn trong vụ này vì lá có luộc nhừ rồi cũng vẫn nhám và không hết mùi hôi.

Cho đến 10 ngày sau, bụng Phước “moshe dayan“cứ chướng lên và đau đớn. Anh em trong trại đều cho là anh bị cổ trướng hay ung thư ruột. Hai người tù được đưa lên làm ở bệnh xá lúc đó là bác sĩ Lộc và bác sĩ Châu (trước ở Nhảy Dù) khi chẩn đoán bệnh của Phước đã năn nỉ viên thượng úy VC coi bệnh xá lúc đó cho Phước “moshe dayan” đi bệnh viện Phú Khánh, nếu không anh ấy sẽ chết. Chúng tôi không hiểu là do phép lạ xui khiến hay do một chút lòng nhân còn sót lại trong lòng viên thượng úy y sĩ VC mà Phước “moshe dayan” được anh ta chấp thuận cho đi bệnh viện. Tại bệnh viện, Phước được phẫu thuật để lấy những nùi bã của những đọt lá cây hoa cứt lợn bị kẹt trong phân ở ruột già. Phước độc nhãn thoát chết, nhưng ở lớp da bụng của anh, những vết khâu chỗ mổ của một bác sĩ phẫu thuật nào đó của VC vụng tay nên giống như những chân rết bò khắp bụng.

Vâng, việc chúng tôi ăn cỏ kiểng xẩy ra trước thời gian Phước “moshe dayan” ăn đọt lá cây hoa cứt lợn rất nhám và hôi dù đã luộc chín. Cũng là do Phước độc nhãn và một số anh em bạn tù miệt ruộng với chúng tôi phát giác ra là lá của cây cỏ kiểng ăn được “nấu lên, cho tí muối vào cũng tạm dằn được cơn đói, hơi giống canh rau dền”. Tôi ăn thử và quả loại cỏ kiểng này giống rau dền thật, nhưng cái hậu của nó làm cho cổ ngứa ran ran kéo dài khoảng 15 phút. Cũng may là vụ ăn cỏ kiểng này xảy ra trước lúc Phước “moshe dayan” phải đi bệnh viện, chứ nếu vào thời gian sau thì có cho kẹo chúng tôi cũng không dám.

Một người ăn thấy không sao thì nhiều người khác bắt chước. Dĩ nhiên, lá cỏ kiểng cứ trụi dần. Thời điểm đó, cái đói khát triền miên biến chúng tôi thành đoàn quân giống như quân Mông Cổ “đi đến đâu cỏ không kịp mọc”. Việc tàn sát cỏ kiểng gây chú ý cho Lý “lé” cán bộ an ninh trại. Sau mấy phùa huy động những ăng ten tin cậy nhất, Lý “lé” có cả một danh sách khá dài những anh đã ăn cỏ kiểng và cả đám chúng tôi bị đi “làm việc”, trong đó có cả Phước “moshe dayan”. Lý “lé” đập bàn ghế quát tháo cáo buộc chúng tôi “phá hoại kinh tế xã hội chủ nghĩa”, bôi xấu lãnh đạo trại vì “trại đã nuôi ăn đầy đủ, thiếu đói gì đến nỗi vi phạm 8 điều lệnh nếp sống văn hóa mới”. Lần đó, Lý “lé” không đưa chúng tôi vào chuồng cọp, nhưng cấm “thăm gặp, nhận quà bưu điện”.

Khi về đến trại, thấy chúng tôi vui như tết, anh em hỏi thì Phước “moshe dayan” nói: “Nói thật với các huynh, đệ đây chỉ sợ nó cùm trong biệt giam, không cải thiện bữa ăn bằng cỏ kiểng được nữa, còn cắt thăm gặp và gởi quà thì đệ không sợ vì có bao giờ đệ được thăm nuôi hay gởi quà đâu, “con bà phước” chính hiệu con nai vàng mà bày đặt nhận quà”. (nhóm từ “con bà phước” được một số bạn tù dùng để chỉ những anh em đồng cảnh nhưng gia đình không có điều kiện thăm nuôi, thăm gặp, nghĩa là thành phần được coi là côi cút trong tù cải tạo)

Tôi, Phước “moshe dayan” và một số anh em khác ở phân trại E là “con bà phước” vì nhiều lý do khác nhau: Có người vì không muốn gánh nặng cho gia đình nên khi chuyển trại tự cắt thăm gặp bằng cách không viết thư về cho gia đình, có người gặp cảnh ngộ vợ sang ngang con thì còn nhỏ theo mẹ, có người có vợ vượt biển cùng gia đình không có tin tức hồi báo, có người thì vẫn viết thư về nhà nhưng gia đình không bao giờ có thể thăm gặp được vì nghèo quá, đường sá lại diệu vợi.

Nhưng dù có thăm gặp hay được phép nhận quà qua đường bưu điện thì người tù cũng chỉ đỡ đói trong một thời gian nhất định và cuối cùng cũng phải mưu sinh bằng “rau rác, ếch nhái” ngoài đồng ngoài ruộng để thêm vào những bữa ăn toàn khoai mì lát luộc và nước muối. Đã thế lại còn bị cho ăn đói nữa!

Ngày nay ở Mỹ, có nhiều rượu thịt ê hề, nhưng chẳng dám ăn, không dám uống vì mối đe dọa nào cholesterol, nào tim mạch, cao máu, tiểu đường. Hoàn cảnh oái oăm này ở Mỹ càng làm tôi nhớ đến Phước “moshe dayan”, đến những loại cỏ mà anh đặt tên thành rau, nhớ đến lần anh đi bệnh viện, nhớ đến những lá cỏ kiểng, nhớ đến khoảng thời gian dài trong biệt giam phải đối phó với những cơn khát cùng cực, phải uống nước tiểu của nhau và cho tới bây giờ tôi vẫn cho rằng trong cơn hoạn nạn, lá cỏ kiểng hay những loại cỏ nào ăn vào không chết, không gây bệnh, ngay cả đến loại khoai mì H34 xắt lát, phơi khô rồi mà phải ngâm đến 3 ngày mới hết chất độc trước khi nấu chín, cũng là tặng phẩm của ơn linh thiêng cho tù cải tạo.

Phải nhờ sự linh thiêng dẫn dắt và soi sáng, thì giữa cảnh đói khát trước những vạt rau cỏ dại mọc đầy rừng, cây có độc chất, cây không, nhưng xanh rì hấp dẫn, thì người tù mới nhận ra được những cây có thể ăn được và cây ăn vào sẽ trở thành một liều thuốc tự tử.

Cái Sen

(Lính gái tập 2)

Cái cười là cái Trời cho,

Ai không cười được ốm o gầy mòn.

·         Phan Quân - samedi 20 mai 2006 21:23

Trong số chèo cái mà tôi được biết qua quá trình đi tù cải tạo có Cái Sen, một thứ mẹ xề trong "bầy gà mái" của Trại Nam Hà (Ba Sao). Năm tám tư dạo ấy, Cái Sen cũng phải ngoài ba mươi cái xuân xanh, nhan sắc tương đối có cỡ trong nhóm nữ đồng chí của nàng. Ấy thế mà khi được tù nghêu ngao ngâm đểu :

Trong nhà gì đẹp bằng sen,

         Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng.

thì bà ta cứ tưởng bở, nhíp mắt liếc ngọt, cười ruồi rạng rỡ, tưởng chừng như ai đó tán tỉnh ta đây.

Nhờ ơn Bác và Đảng, bà ta được biên chế vào chân đưa rước tù từ khu giam ra nhà thăm gặp của trại. Vì là một chân việc dễ được bỗng lộc hàm ân của gia đình tù đến trại thăm nuôi thân nhân cũng như của tù được trại chiếu cố cho gặp gia đình. Nhưng cũng phải là tù cải tạo cơ, chứ tù hình sự thì có mà ăn cái dải rút. Mỗi ngày dăm ba chuyến đi về, một lượt chừng nghìn thước, mỗi tuần sáu ngày lao động "vinh quang" như thế mà mụ ta cứ béo tốt ra, hai mông cứ xề xệ như vịt xiêm lai.

Coi lơ mơ vậy chớ người tù nào mà không muốn lấy điểm với bà, trong tinh thần dễ người dễ ta. Bà mà bất bình thì chuyện thăm gặp gia đình sẽ gặp phiền phức ngay. Không có gì lớn - vì bà ta không phải là khâu quyết định - chỉ vài ba cái lẻ tẻ, lặt vặt, thế này, thế nọ thôi mà cũng mất vui.

Người tù cải tạo được bà quý nhất trại là "Cậu Ba Củ Bự" - người tù chuyên đưa tin tức hấp dẫn. Không phải khoái vì cái "củ bự" đích thực và riêng tư thầm kín của Cậu mà vì số lượng quà đông đúc, lại thuộc loại cao cấp, thượng thặng vì là quà "Tây à mày"! Như Cậu Ba thường khoe khoan với bạn bè trong tù. Mổi lần vào cả xe cải tiến, người đẩy, người kéo muốn hụt hơi. Vốn giòng hào hoa phong nhã lại thìch nịnh đầm, Cậu Ba thường thỏa mãn nhu cầu không đáng gì của bà. Hơn nữa Cậu Ba hay đem của phục vụ tấm thân – thân của Cậu cũng như thân của bạn tù – nên Cậu không tiếc gì với Cái Sen. Nhờ vậy nên mỗi khi Cậu ra thăm nuôi là cả đống thơ được chui ra, luồn vào cho mối liên lạc với gia đình tù được phần nhanh chóng và khỏi qua khâu kiểm duyệt của trại. Và đồng thời tiền mặt, vốn bị cấm chỉ và phải "đăng ký" với trại, tuồn vào đáng kể để tù có thể mua bán đổi chác những mặt hàng cấm đoán. Dễ đi thì có mà dễ về thì không vì bản chất của con người cộng sản là hận thù giai cấp. Có lần cay nghiệt với Cậu thế nào không biết, Cái Sen phát biểu thẳng thừng:"Đầu anh bao nhiêu tóc trắng là tội tình bấy nhiêu !" Cậu Ba năm đó cũng xấp xỉ bảy mươi, lại gặp máu xấu nên tóc đã bạc phơ. Gớm chưa, dù là đã có bao nhiêu đặc lợi dành cho bà.

Kỳ đó nhà nước đổi tiền. Loa loan tin sáng sớm mà đến chiều là hết hạn. Tiền mặt của tù đã chui vào thì làm sao đây, chẳng lẽ để cho nó biến thành giấy lộn ? Anh em tù khẩn cấp, tom góp nhanh gọn, trao cho Cậu Ba nhờ Cậu giải quyết hộ. Đường dây sẵn có – qua Cái Sen - Cậu Ba tập trung giấy bạc cũ lại, trao cho bà. Trong khẩn cấp, bà cho tất cả vào tận đáy quần lót của bà, chỗ kín đáo nhất. Ngày đó, thân xác của Bác trong lăng chắc cũng phải trở trăn mấy bận và răng già nghiến trèo trẹo.

Thế nhưng, tiền kia có đi nhưng lại chẳng biết lối về. Mấy ngày sau, dăm ba tháng kế tiếp, Cái Sen cứ phớt tỉnh Ăng-Lê, mỗi lần gặp Cậu Ba cứ như bình thường, không cần biết đến chuyện gì đã qua. Thế là "bai, bai may lô-ve" (Bye, bye, my love), tiền mất buồn ơi là buồn! Cậu Ba không biết phải ăn làm sao mà nói thế nào với bạn bè ? Nhưng, người cán bộ cái kia không nhờ vậy mà giàu sang hơn bọn tù cải tạo. Vẫn ngày ngày cặm cụi "lao động là vinh quang", tám giờ vàng ngọc, cần kiệm liêm chính trong cái xó xỉnh, chó ăn đá, gà lượm muối của trại tù Ba Sao, hậu thân của Đầm Đùn.

Có hôm, cán bộ trại được đặc ân của trại trưởng nên mua được một mớ thịt bò chất lượng. Hôm đó, có khách trên về tham quan cơ sở nên trại ngả bò chiêu đãi tưng bừng, còn ít thịt dư thừa nhưng bán cho tù thì không đủ đâu vào đâu. Trại chiếu cố, quyết định bán đặc biệt cho cán bộ trại. Nhưng tiền đâu mà ăn ngữ ấy, Cái Sen và một số cán bộ khác nữa xách vào trại giam năn nỉ ỉ ôi "để lấy tiền mua thức ăn cho các cháu". Không mấy chốc mà hết sạch, còn không đủ để bán.

Người cai tù có suy nghĩ, thấy cái tréo ngoe của cuộc đời mà ngao ngán. Thế thì ai cải tạo ai đây ?

Mưu Sinh Trong Trại Tù Cải Tạo

Đỗ Văn Phúc

Khó mà nói cho thật hết hay thật rõ ràng để cho mọi người thấy được những đày ải, khổ nhục mà những người tù nhân phải chịu đựng nhiều năm trong các trại tù cải tạo sau khi miền Nam bị Bắc Việt chiếm đoạt. Những người bị giam giữ này lại không phải là thành phần hình sự, can án cướp của giết người; mà là hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức từng phục vụ trong chính quyền Cộng hoà Việt Nam đối kháng với Cộng sản miền Bắc. Họ được Cộng sản gọi bằng mỹ danh là các trại viên học tập cải tạo, nhưng thực ra là các tù khổ sai vô hạn định mà chủ trương cải tạo chỉ là một sự trả thù dã man của những người thắng thế đối với kẻ bại trận.

Ai đã đọc qua cuốn sách Quần Ðảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của Alexander Solzhenitsyn hay đã xem cuốn phim Papillon do tài tử lừng danh Steve McQueen đóng thì chỉ mới hình dung được một phần những điều mà những người tù tại Việt Nam sau 1975 phải chịu đưng. Tuy rằng hàng trăm trại cải tạo dựng nên từ Bắc vào Nam vào cuối thế kỷ 20, nhưng tất cả đều mang bản chất man rợ của thời Trung cổ và những sự tra tấn, khủng bố tinh vi hơn của Gestapo thờI Ðức Quốc Xã.

Ngoài con số ngàn đã chết trong tù vì bệnh hoạn không thuốc men chữa chạy, vì kiệt sức do lao động khổ sai mà không có bồi dưỡng, vì bị tra tấn hành hạ, biệt giam; những người tù còn lại đã sống sót do nuôi dưỡng một tinh thần lạc quan, hy vọng và biết cách đối phó trong từng trường hợp khó khăn.

Chúng tôi là 5 anh em sĩ quan từng sinh hoạt trong các đoàn hướng đạo Huế cùng chung một phân trại E, trại A-20 Xuân Phước. Ðó là Võ Trịnh Xuân, Cái Trọng Ty, Võ Xuân Hy, Trần Văn Chung và tôi. Không nhớ trong trường hợp nào, và lúc nào anh em chúng tôi đã nhận ra nhau. Có lẽ do cái phong thái rất Hướng đạo của nhau chăng? Chúng tôi chưa hề quen nhau ngoài đời cũ. Nhưng một khi đã đưa những bàn tay trái nắm chặt lấy nhau, chúng tôi liền trở thành thân tín và sẵn sàng thổ lộ cho nhau những suy tư mà không hề e dè lo lắng như khi nói chuyện với các anh em khác. Trong những thời điểm khủng bố căng thẳng nhất, chúng tôi chưa thấy anh em hướng đạo nào làm điều sai quấy vừa về đạo lý, vừa về lý tưởng chính trị. Chưa thấy anh em nào bán rẻ tư cách vì miếng ăn trong khi cơn đói, thèm vật vả. Chưa thấy anh em nào chịu quỵ lụy để được hưởng đặc ân từ cán bộ nhà giam. Chúng tôi đã thực hiện trọn vẹn ba lời hứa và 10 điều luật Hướng đạo. Và chính nhờ sự giáo dục tinh thần và kỹ năng của Hướng đạo, mà chúng tôi đã vượt thắng những trở ngại thách thức mà đủ đánh gục những con người trung bình.

Các em tráng sinh và thiếu sinh tại Hoa Kỳ chắc không có dịp nào va chạm những khó khăn quá mức để cần học hỏi kinh nghiệm của chúng tôi ở trong tù. Nhưng tưởng cũng nên kể ra để ôn lại chút kỷ niệm mưu sinh trong trại cải tạo để các em thấy được khả năng ứng phó của con người trong những điều kiện ngặt nghèo nhất.

Trong tù thì đói triền miên năm tháng. Chất bột căn bản là khoai mì công nghiệp giả nhỏ đúc thành bánh cở bằng gói thuốc lá, hay xắt lát và phơi khô. Ngày có hai bữa mỗi lần là một cái bánh hoặc chục lát khoai mì đã luộc chín. Buổi sáng trước giờ di lao động, tù được phát chút ít lát khoai mì luộc. Tuy nhiên, tiêu chuẩn không đồng đều, mà tùy thuộc vào sự đánh giá hàng tháng của cai tù về các mặt lao động và chấp hành nội quy. Có người ăn một cái bánh rưởi, có người chỉ được ba phần tư cái bánh. Thức ăn thì quanh năm chỉ toàn là nước muối. Không rau, không thịt cá trừ ba ngày lễ chính: Tết nguyên đán, 2 tháng 9, và 30 tháng 4.

Ðói như thế nên tù nhân phải tìm mọi cách để tự “cải thiện”. Hoặc lén bắt con nhái, con rắn, chuột; hoặc vặt trộm mớ rau, tìm hái các loại cỏ ăn được. Nhưng phải kín đáo đừng để bị cai tù bắt được.

Việc cho thăm nuôi hay nhận quà từ gia đình không phải là quyền lợi của tù nhân như thường thấy ở các nước tự do. Ðó là một thứ ân huệ mà ban quản lý trại tù dùng để ràng buộc tù nhân phải làm việc hay tuân thủ các quy định của trại. Người tù bình thường, không có vấn đề với trại sẽ được phép nhận 10 kí lô quà mỗi tháng, hay được gặp gia đình hai lần trong một năm. Dĩ nhiên với điều kiện là gia đình có đủ khả năng kinh tế để mua quà hay đi thăm.

Dù có quà từ gia đình hay không, hầu như tất cả tù nhân đều có nhu cầu phải nấu nướng. Người có quà thì nấu thêm chút cơm khô, hâm nóng thịt cá. Người không có quà (chúng tôi gọi đuà là Con Bà Phước) thì luộc chút rau, hay nấu giùm cho các anh có của để được chia chút thức ăn. Khi ra hiện trường lao động, thì cho cơm khô hay thức ăn vào một cái lon gô; đặt ké vào bếp lửa của anh tù nhân nấu nước sôi cho đội tù. Khi về trại, thì phải nấu lén. Vì trại cấm hẳn việc nấu nướng trong nhà giam.

Tuy trại có quy định cho phép nấu nướng vào ngày chủ nhật mỗi tuần tại một nơi nào đó ngoài phạm vi phòng giam; quy định này cũng thất thường như mưa nắng.

Nãu nướng ngoài trời ngày chủ nhật tuy được phép cũng chẳng thoải mái như khi chúng ta đi cắm trại đâu. Thì giờ rất eo hẹp, chỉ vài mươi phút trước khi điểm danh tối mà phải làm sao cho chín nồi cơm, soong thịt. Có lúc trời mưa như trút, gió thổi ào ào tứ bề. Mặt đất ủng nước, củi vụn ướt như vừa vớt dưới sông lên. Lửa mồi từ cục than lấy ở bếp trại, chuyền tay nhau. Vừa nhóm được chút lửa là hơi nước từ mặt đất bốc lên làm tắt ngúm. Chúng tôi phải lót một lớp dày các thứ khô ráo, chọn ba cục đá làm chân lò. Một hai anh cầm tấm nylon che phía trên để một anh ngồi chồm hổm bên dưới phì phò thổi lửa. Khói lùa vào mắt cay xè nhưng vẫn cố gầy lên ngọn lửa bằng cách châm thêm chất đốt bằng giấy báo hay túi nhựa. Vụa thổi, vừa quạt, vừa lau nước mắt. Nước mưa cứ tuôn ào xuống ướt đẫm cả áo quần. Những kỹ năng học được từ thời thiếu niên đi Hướng Ðạo hay bài mưu sinh học được ở quân trường nay mới có dịp đem ra áp dụng thực tế. Ngoài chiến trường có cam go cũng không đến nổi như trong trại tù, vả lại đã có anh lính hoả đàu quân lo cho rồi.

Ðộc đáo nhất là nấu lén trong nhà. Anh em chúng tôi đều tự làm lấy mỗi người ít nhất một cái lò vừa đủ cho cái lon guigoz. Lon guigoz là thứ nồi thông dụng nhất, có thể đun nước, nấu cơm hay kho thịt cá. Tù nhân làm một cái đai sắt và quai xách gắn vào khoảng phía trên thành lon. Một lon guigoz cơm là phần ăn một ngày để tạm có sức khỏe chịu đựng. Chúng tôi dùng một cái lon có đường kính lớn hơn như cỡ lon cà phê thường thấy hiện nay tại các siêu thị tại Mỹ để làm lò. Có hai loại lò: lò than, lò đun hoả tốc. Than vụn thì ăn cắp từ bếp trại, rưới nước cho tắt đi rồi cất dấu trong nhà giam. Hoả tốc là loại nhiên liệu bằng bao nhựa gói đồ cuốn bên ngoài một nùi giẻ. Thứ nhiên liệu này rất dễ cháy, cho nhiệt cao, nhưng bốc khói đen ngòm và khét lẹt, và phải được khều luôn để khỏi bị tắt ngũm. Lỡ xui lửa tắt, khói sẽ bay đầy nhà, mùi khét toả rất xa. Vô tình như thể “lạy ông tôi ở bụi này” báo động cho bọn trật tự thi đua tìm đến để bắt quả tang.

Những người tù, khi nấu lén trong nhà thường thủ sẵn một xô đày nước lạnh ở một góc nhà. Ðược báo động là nhúng cả cái lò dang cháy vào xô nước. Có anh đẩy cái lò than vào dưới cái đòn rồi ngồi lên, làm mặt tỉnh táo đang chơi cờ hay làm một thứ gì đó vô hại. Lửa nóng dưới đít mà phải gồng mình chịu trận cho đến khi hết sự hiểm nguy. Tôi cũng nhiều lần hú vía. Một hôm đang đun một lon nước sôi để nấu mấy vắt mì thì nghe tiếng tên trật tự vang lên ngoài sân: “Có mùi hoả tốc, lại có anh nào nấu nướng linh tinh trong nhà.” Không kịp nhảy xuống dấu lò (và cũng quýnh quá chẳng biết dấu vào đâu), tôi cho tất cả vừa lò vừa lon nước gần sôi vào cái bao bàng (loại túi xách đan bằng lá các bà đi buôn thường dùng ở Việt Nam) và treo lên xà nhà. Khi tên trật tự đến gần, tôi đang làm bộ căng thẳng với một nước cờ chiếu bí. Trực, tên trật tự, dừng lại xem vừa hỏi: “ai đang nấu hoả tốc? Mùi khói bay đầy nhà.” Chảng ai lên tiếng trả lời. Trực nhìn soi mói từng góc nhà vẫn không thấy gì trong khi tôi ngồi bồn chồn vì lò hỏa tốc có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào; và nếu thế thì khói sẽ bay tuôn ra như cho khói tàu lửa. Một phần sợ cái lò nghiêng, nhựa và lửa sẽ tràn ra cháy luôn cái túi; hoặc nước sôi trào ra sẽ tạo nên âm thanh xèo xèo là thua cuộc. Tên Trực tìm một lúc, không tìm thấy gì và cũng không hào hứng quan sát bàn cờ mà chẳng ai động quân nên bỏ đi sau khi buông một vài đe dọa.

Ngoài cái nguy cơ dễ bị phát hiện, lò hoả tốc còn mang lại nguy hại cho sức khoẻ. Vì mỗi ngày phải hít vào buổng phổi loại khói độc do sự cháy của chất hoá học tổng hợp. Tuy nhiên cái đói là nguy cơ truớc mắt. Nỗi nguy xa không thắng được cái nguy gần. Vả lại, trong khoàn cảnh khắc nghiệt này, liệu chúng tôi có sống sót cho đến ngày nhận lãnh cái hậu quả của khói độc không mà lo với lắng!

Có lò, đã dấu diếm hàng ngày, rồi phải nghĩ cách giữ nó khỏi bị tích thu mỗi khi cán bộ khám phòng. Việc khám phòng xẩy ra hàng tháng, thường là bất chợt để tù nhân không phòng bị kịp. Ðang tập trung ở sân trại chờ đi lao động, thì bị gọi lần lượt từng nhà trở về thu xếp hết hành trang đem ra sân. Tù nhân ngồi thành hai, ba dãy. Trải manh chiếu hay tấm vải ra, lôi hết áo quần đồ đạc như bày bán chợ trời, rồi ngồi chờ cai tù và trật tự đến khám từng người. Trong lúc đó, vài tên trật tự và tù hình sự sẽ vào nhà, lục lọi không chừa một khe hở để tìm xem tù nhân có dấu diếm gì không. Một viên thuốc tây nhỏ bằng nửa hạt đậu cũng không thoát với chúng nó. Ngoài sân, cai tù và trật tự nắn nót từng món đồ, vạch miệng, sờ nách, lần háng để khám xét. Chúng tịch thu các thứ bén nhọn, bật lửa, sách vở, những thức ăn bị cấm, và các loại không được phép dùng trong nhà giam. Có khi chúng tịch thu luôn những vật đã cho phép nhận, như cơm khô, soong nồi, viện lý do tình hình an ninh thay đổi. Nói chung, chúng khám xét và tịch thu rất tuỳ tiện. Là thân tù, chỉ biết cam chịu, không biết khiếu nại cùng ai.

Ây thế mà nhiều anh em đã giữ được cái lò, ngay cả loại lò lớn kê được cái nồi hai, nồi ba. Làm thế nào ư? Cứ tuân theo nguyên tắc tình báo: “Chỗ sơ hở nhất chính là nơi an toàn nhất.” Tôi đã để cái lò chình ình ngay giữa sân, cạnh gốc dừa. Bọn trật tự ưa nhìn các nơi kín đáo, ngóc nghách mà chẳng mấy để mắt đến chỗ rất hớ hênh. Một nguyên tắc khác đã giúp tôi giữ được bật lửa, con dao trong hàng năm trời. Ðó là: đừng để bị khám thì sẽ không mất đồ. Trung sách là nắm bật lửa, con dao trong lòng bàn tay. Chờ tên trật tự khám xong một nửa đồ đạc của mình rồi xin phép tên cán bộ cho xếp gọn thứ đã khám vào túi. Lợi dụng lúc này, thả thứ quốc cấm vào túi xách. Thượng sách là khi sắp hàng ngoài sân, nên ngồi ở khoảng giữa hay gần cuối. Sau một hồi khám xét, trật tự và cai tù sẽ bắt đầu thấm mệt. Tù khám xong thu xếp đi vào đi ra tạo cảnh lộn xộn. Ta cứ ung dung thu xếp đồ đạc cho vào túi và làm mặt tỉnh bơ đem túi xách ba lô trở vào phòng như một người đã được khám xét xong. Ðừng nói con dao cái bật lửa; ngay cả cây súng lục (nếu có) cũng dấu được. Miễn là có bản lãnh và bình tĩnh.

Chúng tôi đã từng đem vào trại cả buồng chuối, bó củi, chục củ khoai lang mà không hề bị tịch thu khi bị khám xét ngoài cổng trước khi nhập trại.

Năm 1979, khi trại mua trồng hàng ngàn cây dừa con; chỉ có lác đác vài cây sống và lớn lên. Ðại đa số trái dừa giống chui vào bụng tù nhân. Chúng tôi bẻ cây con cắm xuống đất, lấy trái dừa ăn tại chỗ hoặc mang về phòng nạo lấy cơm dừa và mộng dừa. Hàng trăm vỏ và gáo dừa cứ tống lên trần nhà phi tang mà cả năm sau, bọn trật tự mới tìm thấy.

Mưu sinh trong trại tù còn nhiều hình thái khác, để ứng phó với trong nhiều lãnh vực như sức khoẻ, tâm lý, sinh lý vân vân. Tất cả đều nhằm vào mục đích tự thích nghi với các điều kiện khắt khe để sống còn trong một thời gian tù rất dài, có khi gần cả đời người như trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện hay tiến sĩ Nguyễn Hữu Luyện.

Cái đói khát và sự khủng bố về tinh thần lẫn vật chất trong nhà tù Cộng sản vượt quá giới hạn chịu đựng của con người. Phải có một ý chí, một bản lãnh vững vàng mới giữ được tư cách, không bị kéo xuống hàng một sinh vật giành giật, xâu xé nhau vì miếng ăn. Những người có thăm nuôi, có của ăn dồi dào đủ hương vị dễ dàng bỉu môi lắc đàu khi thấy bạn đồng cảnh mình đánh cắp củ khoai, con gà, hayvặt ngọn rau của trại, của cai tù. Trên quan điểm chính trị và đạo lý thông thường, lấy của kẻ thù đang đày đoạ mình để nuôi sống bản thân không có gì là sai trái cả. Chúng tôi đã thấy những người giàu có đã bán mình vì chút ân huệ của trại; ngược lại cũng thấy những anh em nghèo đói mà tự chế và tự thắng được nhu cầu bản thân, nổi bật lên như những tấm gương cao quý.

Dĩ nhiên, con người ít nhiều có một bản năng thích ứng do thiên phú; nhưng sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu có kinh qua một quá trình đào tạo từ các phong trào sinh hoạt thanh niên như Hướng Ðạo, hay đuợc chuẩn bị từ các khoá học trong quân ngũ. Nhưng có những yếu tố rất quan trọng, đó là lòng tự trọng cá nhân, niềm tự hào của quá khứ xuất thân và sự ràng buộc của những giáo dục gia đình, hướng đạo, quân ngũ đã giúp cho anh em chúng tôi đứng vững vàng trong hoàn cảnh oan nghiệt.

Tạo hoá đã ban tặng con nguời bản năng sinh tồn thật phong phú. Trong cảnh bị đày đoạ, khổ sai không có bản án mà Cộng Sản đã mị ngôn bằng danh từ “ cải tạo “ giam hãm những dân, quân, cán, chính VNCH tại rừng sâu núi thẳm miền Bắc, người tù phải tự tìm giải pháp sinh tồn.

Mũ Xanh (MX ) là biệt danh của anh, một cựu SQ/QLVNCH. Sau 30-04-1975 MX đã bị Cộng Sản tập trung cải tạo đưa ra Miền Bắc trong chuyến đầu tiên. Phương tiện là tàu thuỷ, rồi chuyển sang tàu hoả. Ở đất nước tự do Hoa-Kỳ được đi tàu thuỷ ( Cruise ) là phương tiện du lịch sang trọng, quí phái; đuợc đi tàu hoả là phương tiện tiện nghi thú vị, vì được ngắm cảnh xinh đẹp, lạ lẫm trong cuộc hành trình. Nhưng 2 phương tiện mà CS đưa MX đi từ Miền Nam ra Miền Bắc không phải vậy, mà là 2 món cảnh cáo cực hình sơ khởi.

Đi tàu thuỷ, tù cải tạo ước lượng chừng 200-300 người được đưa xuống hầm tàu tận cùng, nước lẫn dầu cặn đen ngòm nổi tới khỏi mắt cá bàn chân, ể đái bằng 1 thùng gánh nước dùng dây kéo lên khi đầy phân, quá tải dung lượng, phân và nước tiểu trào ra lềnh bềnh, mùi hôi thúi xông lên nồng nặc, lại thêm thời tiết mùa hè tháng bảy, đám tù nhân chỉ biết đứng chết trân mà chịu trận suốt mấy ngày đêm. Trong cuộc hải hành nếu ai lỡ gục ngã xuống nước, thì đành ôm hôi thúi hết thuốc chữa!

Đến đất liền miền Bắc, ôm theo hành trang lên bờ, mỗi người được phát 1 nắm cơm vắt và một í muối hột, đi bộ đến nhà ga xe lửa, trên đoạn đường đi, hình như dân chúng đã được báo trước và được tuyên truyền đầy ác ý . . . Họ chửi xối xả và ném đá vào đoàn tù nhân : “ quân ngụy ác ôn . . !!! “. Đến nhà ga, đoàn tù nhân được chia ra thành nhiều toán, mỗi toán trên trăm người vào một toa tàu chở súc vật bít bùng, chỉ có 4 lỗ thông hơi hình chữ nhật bằng cuốn tập học trò. Mùa hè tháng bảy năm đó nóng điên người, tù nhân ngồi chật chội bên nhau hầu như không nhúc nhích được, mồ hôi tuôn nhễ nhại, nhớp nháp suốt ngày đêm, trong đoàn tù nhân có 2 người chết vì ngộp thở trong chuyến đi tàu hoả nầy!

Qua phà rồi lên xe Molotova, mỗi xe chuyên chở chừng 30 mạng,đoàn xe lắc lư, rên rỉ leo đèo đưa tù nhân tới vùng rừng núi Sơn La. Những tù nhân bị phân loại có thành tích ác ôn bị nhốt vào trại kiên cố xây bê-tông như hầm trú ẩn chiến lũy Magino thời chiến tranh Pháp-Đức, nơi đây vẫn còn đề tên các tù binh Hoa-Kỳ.

Ở đây được vài tháng thì Cộng Sản tuyên bố : “ Các anh được dẫn đi về địa điểm tập trung để làm hồ sơ xuất trại, trở về đời sống thường dân. “ Đoàn tù nhân mừng rỡ, mặc dù đói khát, nhưng suốt lộ trình di chuyển ngoằn ngoèo trên triền đèo hiểm trở có thể trên 20 cây số, không có mất một tù nhân nào hết, vì ai cũng lầm tưởng sẽ được thả về!  Đây là thủ đoạn man trá của CS, vì không có phương tiện chuyên chở tù nhân và khỏi phải sợ tù nhân trốn trại trên đuờng di hành. Thực tế, thời điểm đó, Trung Cộng tấn công Miền Bắc, trừng phạt Cộng Sản . . .  Vì CS sợ mất tù nên phải di tản tù nhân lui về vùng tương đối an toàn. Đến địa danh Hoàng Liên Sơn, tù nhân trụ điểm tại đây. Được phân phối lao động; cắt tranh, chặt gỗ, chặt tre, vang, vầu, nứa … lợp láng trại, làm hàng rào tự nhốt mình!

Ăn uống thiếu thốn, bịnh hoạn không thuốc men, nguời tù nào cũng ốm trơ xương! Chỉ tiêu 1 ngày: 2 cây gỗ dài trên 4 thước đường kính 10 cm, 1 bó vang 10 cây , 1 bó nứa 20 cây dài trên 4 thước, 2 bó tranh đường kính 1 thước, v.v. . . . không ai đạt đuợc chỉ tiêu, nên bị mắng chửi thậm tệ, nếu có ai kháng cự dù bằng ý kiến thì sẽ bị trù dập bằng hình thức cắt xén khẩu phần, hoặc bị nhốt vào hầm tối hay bị đánh đập không thương tiếc . . .vì vậy mà tù nhân chết dần mòn trong ê chề, nhục nhã!

Ăn dưới đất, ể trên trời

Dãy cầu tiêu lộ thiên được làm trên triền núi, mỗi lần đi cầu phải trèo trên 20 bậc thang đất, mưa tuôn trơn trợt. . . cũng những bậc thang đất nầy, tù nhân móc phân hầm cầu, gánh phân người từ trên triền gánh xuống bên dưới để tưới tắm 10 luống rau xanh dài 10-15m, là chỉ tiêu 1 nguời 1 ngày của đội trồng rau xanh. Vì trơn trợt, vì chân yếu, tù nhân thường bị té, phân tươi dòi bọ văng đầy nguời, tắm suối thì cảm lạnh, không tắm thì hôi thúi kinh tởm, đằng nào cũng từ chết tới ngất ngư!!! Chỉ tiêu đã dành cho tù nhân còn nhiều khổ đau quằn quại khác mà MX chưa diễn tả hết. Trong tình huống thê thảm nầy, MX phải tự tìm cho mình con đường sinh tồn . . VẬN CÙNG TẤT BIẾN . . .

Ngày còn tuổi nhỏ học trò, MX sang chơi nhà bà con có tiệm may, tánh tò mò tìm hiểu, nên được biết cách cắt may, thêu thùa . . . Ra lao động, MX xung phong lãnh may đồ riêng tư cho cán bộ quản giáo . . . Khỏi phải lao động chỉ tiêu. Ngày nào không có đồ may, thì MX áp dụng chiêu thức kể chuyện CHUỞNG Kim Dung, hoặc chuyện Tàu Tam Quốc, Thuỷ Hữ, Thuyết Đường . . . Hoặc dạy đan, dạy ca cho mấy cho cán binh dẫn giải, để tránh lao động chỉ tiêu mà sức MX không kham nổi . . . Nhưng không thể khoả lấp được cái ĐÓI triền miên, MX phải tự chế bẫy chim, bẫy chuột, bắt ốc đắng dưới khe suối, hái đọt rau, lá rau ăn đuợc ( MX nhờ được Lực Luợng Đặc Biệt huấn luyện trong bài tập Tẩu Thoát & Mưu Sinh ) nấu chín để sinh tồn. Vấn đề là làm sao nấu chín trong khi trại tù Miền Bắc tuyệt đối cấm tù nấu nướng! Có tù nhân vì không phân biệt được cây lá, trái cây ăn được, nên phải ngộ độc hết thuốc chữa!

Đúng ra là một vật bằng nhôm, đựng sữa bột hiệu GUIGOZ, do Hoà Lan hoặc Pháp quốc sản xuất, xuất cảng bày bán khắp thế giới trong đó có Việt Nam. Trong cuộc thăm nuôi tù cải tạo, thân nhân tù cải tạo đã dùng CÁI GÔ ( cái lon GÔ ), đựng thực phẩm gởi vô trại tù. Qui-chế trại tù Cộng Sản tuyệt đối không cho tù nhân được nhận những vật dụng bằng kim khí, vì sợ tù nhân biến chế thành vũ khí, may sao CÁI GÔ bằng nhôm lại được trại tù Cộng Sản chấp nhận cho tù nhân mang vào trại, MX tự nghĩ có lẽ đây là phép lạ mà ơn trên đã ban cho người tù cải tạo?!

CÁI GÔ, đối với MX là sản phẩm vô giá? Nhờ nó, MX đựng nước đem theo khi đi lao động; nước suối thiếu gì tại sao lại phải đem theo nước uống? Nuớc suối có nhiều độc tố, thú vật chết rữa, lá cây mục nát, nhiều mầm bịnh, mà tù nhân không có đủ sức khoẻ đề kháng, sẽ có nguy cơ nhuốm bịnh tử vong. Nuớc đựng trong GÔ là nước đã được đun sôi do trại cấp phát, mỗi người lãnh 1 gô truớc khi đi lao động. Trong trại tù, tù nhân nào được chỉ định làm phận sự nấu nước là một đặc ân, không phải ra ngoài lao động cực khổ, luôn luôn được sưởi ấm trong mọi thời tiết, thậm chí còn được âm thầm cải thiện không đến đỗi đói meo như tù nhân lao động bên ngoài. Tự cải thiện bằng cách nào? Tù lao động bên ngoài, dấm dúi củ khoai, củ mì, rau lá rừng nấu ăn đuợc, hoặc thịnh soạn hơn là thịt các con vật nhúc nhích: cóc, nhái, cá, ốc, cua hay chuột, thỏ, chồn v.v. . . ngấm ngầm, bí mật tự động chia hai, vì nếu bị cán binh CS bắt gặp thì nguời phụ trách nấu nước mất nhiệm sở béo bở và tù nhân lao động bên ngoài sẽ bị trừng phạt tùy theo cá tính của cán binh CS mà hình thức thường là bị đánh đập không thương tiếc, hoặc bị nhốt chuồng cọp và bị cắt xén khẩu phần ăn trong ngày. Khẩu phần ăn trong ngày đã không đủ no và không đủ chất dinh dưỡng, đằng nầy lại bị cắt xén thì còn tệ hại đến bực nào!

Nhờ vào CÁI GÔ mà MX cầm cựđược với tử thần cho đến ngày được cho ra trại, trở về Miền Nam, mặc dù vẫn bị nhà nuớc CS quản chế chặt chẽ. Với CÁI GÔ, MX có thể tự cải thiện bằng cách nấu chín bất cứ cái gì ăn đuợc, nhồi nhét vào bao-tử cho qua ngày cơ cực đói khổ triền miên. MX trét bùn xung quanh CÁI GÔ, nấu xong ăn liền và xuống suối rửa sạch cho CÁI GÔ không bị đóng lọ nghẹ, vì lọ nghẹ là bằng chứng nấu nuớng, nếu cán binh CS phát hiện thì CÁI GÔ sẽ bị đạp bể và MX sẽ bị trừng phạt thích đáng. Lửa ở đâu mà nấu? Chỉ có cách bí mật liên hệ với nguời tù phụ trách nấu nước, hai bên phải có tình ý thân thiết, có thoả thuận, mới dám có hành động vi phạm nội quy nầy. Tránh cặp mắt cán binh CS đã đành mà còn phải tránh cả cặp mắt của tù nhân khác, cho nên chỉ đuợc ném CÁI GÔ vô lò nấu nuớc trong vòng ít phút, rồi đem ra xa mà rửa sạch lọ nghẹ. Có lần CÁI GÔ đang ở trong lò thi bất ngờ một cán binh CS xuất hiện đến lò hút thuốc lào, lần nầy CÁI GÔ phải bị tiêu hủy một cách oan uổng! Những ngày sau đó MX phải chịu ĐÓI trao đổi với tù nhân khác bằng 7 ngày 1/2 khẩu phần ăn để đổi lấy một cái GÔ.

Thời gian còn ở trong trại tù Miền Bắc, MX nói thầm trong thâm tâm, khi ra trại, phải viết một lá thư cảm tạ với nơi sản suất sữa bột GUIGOZ, nhờ vào cái lon GÔ mà MX còn tồn tại để viết bài tâm sự “ Vận cùng tất biến . . . “ nầy.

Một hạt đậu hai người khiêng

Khánh Giao

Trong trại tù Tiên lãnh, khu nhà Ri thật đặc biệt. Tường là những tấm vĩ sắt (grille) xưa kia dùng lót phi đạo cho những phi trường dã chiến. Mái lợp tôn. Bởi thế, mặc dù tường có nhiều lỗ thông hơi tròn nhỏ, không khí trong phòng lúc nào cũng hâm hấp nóng về mùa hè. Mùa đông thì gió bấc luồn vào lạnh thấu xương. Giường ngủ hai tầng là những sạp gỗ . Trên sạp tù nhân nằm sát nhau. Căn phòng 4mX12m chứa trên 70 người. Tù nhân phần lớn là thanh niên và trung niên, phạm tội vượt biên

Một đêm hè oi bức. 6 giờ chiều thì cửa phòng đã khóa lại. Ðèn điện vẫn sáng cho đến 10 giờ. Ðứng ngoài đêm tối nhìn vào, nhà Ri giống như một lồng sắt to lớn nhốt thú vật. Anh em tù đều ở trần, tay phe phẩy quạt, ngồi tụm nhau để nói chuyện. Nhưng hoạt náo nhất là nhóm những người nghe chuyện kiếm hiệp Kim Dung do giáo sư Lộc kể. Anh ta nhớ từng chi tiết gay cấn, từng cá tính hài hước nhân vật, và gây cho người nghe sự háo hức say mê, và thỉnh thoảng một trận cười khoái trá. Tiểu thuyết Kim dung hàng chục quyển, mà truyện nào cũng tràng giang đại hải, bởi thế tháng nầy qua tháng nọ, Lộc có thể mang lại niềm vui cho anh em trại viên, nhất là làm cho họ quên đi phần nào nỗi đau buồn xa gia đình và thời gian dài dặc ‘’nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại’’.

Ngoài chuyện kiếm hiêp dài hàng tháng, Lộc còn kể cho anh em nghe nhiều giai thoại hài hước Trạng Quỳnh, chuyện cổ tích Anderson , truyện Tàu từ Phong Thần, Ðông Chu liệt quốc đến Thanh triều cận đại. Trí nhớ của anh thật phi thường, nhất là những nhận xét tinh tế của anh về nhân vật. Anh đọc được cả chữ Hán. Một hôm có trại viên gốc Tàu, tội vượt biên được thăm nuôi, mang vào nhiều gói quà bọc trong giấy báo cũ in toàn chữ Tàu.

Tại sao con cóc chết tức tưởi như vậy? Vì nó sẽ bị trại viên tóm ngay, chặt đàu, lột da, bỏ vào gô cải thiện. (gô là lon nhôm guigoz trong trại tù Cộng sản dùng để nấu nướng. Cải thiện tức là kiếm thêm chất thịt để bồi dưỡng, vì trong tù chỉ ăn cơm độn sắn với nước muối. Ăn uống trong trại tù Cộng sản kém cả chất lẫn ượng.) Ðây cũng là cách Lộc mỉa mai chế độ một cách sâu sắc

Lộc nguyên là giáo sư Anh văn trường Trung học Phan chu Trinh, Ðà-nẵng. Tốt nghiệp Ðại học Sư phạm Saì-gòn môn Anh ngữ. Vì cận thị nặng anh được miễn quân dịch. Anh dạy học được 5 năm thì ngày 29-03-75, Cộng quân chiếm Ðà-nẵng.

Anh được lưu dung, dạy Anh Ngữ. Song bấy giờ Nga ngữ thịnh hành hơn. Sự phân biệt đối xử với người chế độ cũ, chế độ đàn áp, độc tôn tư tưởng cùng sự dốt nát của cán bộ giáo dục và nhân viên chính quyền các cấp, làm anh thối chí, và nảy ý định vượt biên. Lộc cùng một số bạn bè vất vả kiếm tiền mua hải bàn, xăng nhớt, thuyền máy v.v. trong 5 tháng trời mới xong. Riêng Lộc đã phải vay mượn một số tiền lớn.

Chuyến đi tuy tổ chức chu đáo, xuất phát từ trại cùi Hải Vân, song định mệnh vẫn mạnh hơn tính toán của con người. Sau khi mọi người đã xuống tàu, một tàu đánh cá nhỏ, vào lúc nửa khuya, thuyền trực chỉ ra khơi. Nhưng mới rời bờ đá độ 100m thì thuyền máy Công an phục kích từ lâu đón bắt. Trọn 40 thanh niên,thiếu nữ bị áp tải về trại giam Chợ Cồn để thẫm vấn rồi sau một tháng tất cả đi cải tạo lao động tại Tiên lãnh. Lộc và các bạn nhập vào nhà Ri. Thấm thóat mà đã 5 năm tù tội. Gia đình sa sút từ ngày mất miền Nam, Lộc ít được thăm nuôi, mỗi năm nhiều lắm hai lần. Ðồ thăm nuôi nghèo nàn, lèo tèo một thẫu thịt heo kho mặn , vài kí- lô đường đen và ít đồ lặt vặt.

Phần ăn trại cấp thì sắn là chính, gạo chỉ độ 100gr mỗi bửa. Thức ăn thì độc một món, nước muối hoặc nước mắm cái nấu loãng. Ăn không no và không đủ chất lượng nên tù nhân chết vì suy dinh dưỡng rất nhiều. Muốn sinh tồn, phải cải thiện, nghĩa là mọi sinh vật dù nhỏ bé và gớm ghiếc đến đâu cũng bị trại viên chộp lấy nấu ăn. Bởi thế bài thơ con cóc kết thúc rất nhanh. Lộc cũng là một tay lão luyện trong nghề cải thiện.

Nhưng như anh đã từng than phiền:’’caution is not stronger than fate’’, anh là nạn nhân mà định mệnh đã chọn trong cuộc sinh tồn. Câu chuyện thương tâm sau đây đã hằn lên đời anh một vết thương chí mạng. Số là về mùa trồng đậu phụng, mỗi tối, trại viên phải làm thêm giờ gọi là tranh thủ . Ăn cơm tối xong, trại viên được nhà trưởng tập họp dẫn lên sân rộng trước nhà kho của trại để lột đậu.

Cứ mỗi tốp năm người ngồi vòng tròn dưới một gốc cây tàng lá sum sê, dưới ánh sáng một ngọn đèn điện 40W mắc trên cành cây. Giống như một tiệm cà-phê ngoài trời ở Sài-gòn, song ở đây ngồi bệt dưới đất. Với mùa lột đậu, phải chuẩn bị một cái ghế nhỏ cầm tay hoặc một miếng gỗ dày để lót mông ngồi trong suốt 3 gìờ. Giữa vòng tròn 5 người là hai thúng đầy đậu vỏ, và một thúng trống để đựng đậu hột . Mỗi trại viên được phát một rổ nhỏ. Lấy đậu vỏ vào rổ, rồi trở về chỗ ngồi, bóp từng trái đậu vỏ vỡ ra, mà không làm nát hạt đậu ở trong. Vỏ đậu quăng ra dưới đất, còn hột đậu thì bỏ vào rổ.

Khi lột hết rổ đậu thì mang đậu hột đổ vào thúng trống, rồi xúc đậu hột về chỗ, làm tiếp. Vừa lột đậu vừa chuyện vãn với nhau, hoặc nghe Lộc kể tiếp kiếm hiệp Kim Dung cũng là những phút thư giản trong cuộc sống ở trại, nhất là được hưởng gió mát và nhiều khi trăng thanh, giữa vùng rừng núi . Một cái thú nữa là thỉnh thoảng nhót một hạt đậu vừa béo vừa ngọt, mà cơ thể đang cần. Ai cũng ăn lén song rất thận trọng kẻo bọn cán bộ canh chừng, đi lãng vãng trong sân kho bắt gặp. Nhưng rủi cho Lộc. một sự rủi ro hi hữu, vì chỉ có mình anh bị bắt trong suốt mùa lột đậu năm ấy.

Vừa lột đậu anh thong thả kể chuyện vui cười để che lấp mình đang nhai đậu sống. Bỗng từ bóng tối góc sân, tên cán bộ bước ra, đi thẳng đến chỗ Lộc ngồi và ra lệnh:

-‘’Anh hãy mở miệng cho tôi xem’’.

Tái mặt, anh chưa biết phản ứng ra sao, thì tên cán bộ đã quát lớn:

-‘’Anh nghe rõ chưa, tôi bảo anh mở miệng ra xem’’.

Lộc mở miệng song không thấy hạt đậu nào. Tên cán bộ lại bảo:

-‘’Anh lè lưỡi ra xem’’.

Lộc lè lưỡi ra, Lưỡi anh trắng nhờ nhờ, tố cáo rằng anh đã ăn đậu phụng. Tên cán bộ kéo anh ra giữa sân. Bốn tên cán bộ khác đã đến vây quanh anh. Năm tên đều mang bốt mà quân đội miền Nam trước kia dùng đi hành quân, loại bốt da cứng (chúng tịch thu khi lục soát tù sĩ quan quân đội miền Nam trại Kỳ sơn lên Tiên lãnh). Lúc đầu thì chúng đấm vào mặt, bụng, ngực anh. Anh ngã xuống vài lần. Song chúng kéo anh đứng dậy. Một tên tuyên bố lớn tội trạng anh:

-’’ Lâu nay chúng tôi biết đậu phụng lột thất thoát nhiều. Chúng tôi nghi các anh ăn lén. Nay bắt được, chúng tôi trừng trị nặng để các anh chừa thói ăn cắp tài sản Xã hội Chủ nghĩa’’.

Tên cán bộ quản giáo nhà Ri biết lý lịch của Lộc, sẵn dịp lại phun ra những lời phỉ báng theo lối giáo dục Cộng sản:

-‘’Anh Lộc là một giáo sư ở chế độ thối nát miền Nam . Bởi thế mang danh là nhà mô phạm dạy con em Cần, kiệm, liêm chính theo gương bác Hồ , anh là người ăn cắp, nêu gương xấu. Ðã biết các anh xấu xa từ bản chất, nên chúng tôi tập trung các anh lại để cải tạo. Song các anh vẫn thói nào tật nấy, không chịu sửa đổi, Nếu chúng tôi có tàn ác cũng chỉ để giáo dục các anh.’’

Lâu nay cán bộ trẻ trong trại có phong trào học võ. Họ bắt các trại viên giỏi võ, dạy họ học nào công phu, karaté v.v. Họ thường đem ứng dụng các thế võ học được trên thân thể trại viên phạm lỗi. Những trận đánh bề hội đồng thường xảy ra trên hiện trường lao động.Lộc bị rơi vào truờng hợp nầy. Năm tên cán bộ thay phiên nhau nhảy lên đá song phi vào người anh. Anh ngã xuống, chúng lại nâng anh đứng dậy. Mặt anh đã sưng phù, máu đã ứa ra khoé miệng.

Cuối cùng, Lộc nằm bất động trên nền đất, thở thoi thóp. Thế mà bọn cán bộ vẫn chưa tha. Chúng còn đá thêm vào người anh. Tên giám thị trại sợ anh chết nên ra lịnh ngưng đánh và bắt hai trại viên nhà Ri khiêng anh không phải về bệnh xá, mà về nhà Ri. Anh em xúm xít lại quanh anh, trong ấy có cả một Bác sĩ tội vượt biên, săn sóc cho anh hồi tỉnh. May mà không có xương nào gảy, chỉ rách môi và vài răng lung lay. Vết bầm thì khắp người.

Anh phải nằm tịnh dưỡng suốt 15 ngày mới đi lại được. Nhân câu chuyện thương tâm trên kia, mới có truyền miệng giai thoại:’’một hạt đậu, hai người khiêng’’. Không phải là hạt đậu to nặng đến hai người khiêng , mà phải khiêng người ăn hạt đậu. Một câu chuyện cười ra nước mắt, mà chỉ chế độ vô nhân Xã hội chủ nghĩa mới có. Riêng với Lộc, đó là một biến cố ảnh hưởng sâu xa đến nội tâm anh. Mặc cảm một nhà sư phạm ăn lén vẫn là hình ảnh không đẹp, mặc dù những bức bách của tình thế.

Người tù trại cải tạo*

Nghe theo chiêu bài "trình diện học tập 10 ngày", các sĩ quan cấp úy QLVNCH

sau khi trình diện từ nhiều địa điểm khác nhau, đa số bị tập trung về Trảng

Lớn và được chia ra cho các đơn vị bộ đội thuộc Uỷ Ban Quân Quản CS quản lý.

Chúng tôi được sắp xếp về đơn vị Trung Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5 của CS ( L3T5 )

quản lý. Những tháng đầu tiên tại Trảng Lớn chưa ai được thăm nuôi hoặc nhận

quà từ gia đình gì cả. Nên khẩu phần thực phẩm được phân phát sao thì ăn

vậy. Rau cải nấu canh lỏng bỏng với chút muối hột, còn gạo để nấu cơm thì

những tháng đầu tiên ở đây, chúng tôi chỉ được phân phát gạo đã bị mốc, mọt

hết cả. Khi vo gạo thì hơn 2/3 nổi hết lên trên mặt nước vì bên trong hạt

gạo đã bị mọt ăn rỗng ruột hết. Do thế chất B1 trong gạo không còn nữa. Sau

một thời gian ăn loại gạo mối mọt này, bệnh phù thũng hoành hành chúng tôi

thê thảm. Ai nấy chân tay đều sưng vù, trương nước vì thiếu chất B1. Nhất là

ở chân, nếu lấy ngón tay nhấn nhẹ vào rồi lấy ngay ngón tay ra, sẽ để lại

một lỏm sâu hóm thấy mà ghê luôn. Tình trạng bệnh phù thũng này đến mức báo

động.

Mỗi ngày chúng tôi được phát mỗi người 1 viên B1, ai bị nặng thì được phát

thêm một ca nước cơm để có thêm chất B1 trong nước cơm …Còn bị nặng hơn thì

lên nằm bệnh xá. Thực tế thì 1 viên B1 được phát cho mỗi người cũng không

ngăn chận được chứng bệnh này. Ca nước cơm cũng chẳng còn chất B1 trong đó

nữa vì cũng được lấy từ số gạo mục nát đó nấu ra. Những ai bị phù thũng nặng

được khiêng lên nằm bệnh xá thì cũng chẳng có thuốc men gì nhiều, cho nên đã

có nhiều người chết trên bệnh xá vì chứng bệnh phù thũng này. Nguyên do chỉ

vì thiếu chất B1, một chất mà gần như trước đây trong cơ thể con người hầu

như không có ai bị thiếu, vì trong thức ăn hàng ngày đã có đầy đủ. Nay lại

phải bị chết vì nó, nghĩ lại thấy đúng là trớ trêu.

Người bị bệnh phù thũng nặng khi đứng lên hai chân bủn rủn, bước đi rất khó

khăn và thậm chí vừa đứng lên đã té xuống ngay. Cá nhân tôi chẳng may rơi

vào dạng bị phù thũng nặng, không còn đi đứng gì được nữa, chỉ nằm một chỗ.

Khi cần tiểu tiện thì phải bò. Chân tay tôi lúc bấy giờ sưng vù lên một cách

kinh khiếp, da ở hai chân tôi từ đầu gối trở xuống căng mỏng đến độ láng

bóng. Còn hai mắt cá chân không thấy đâu nữa vì các phần sưng ở chân đã bao

phủ mất hai mắt cá. Đến lúc tôi bị nặng nhất là lúc da chân nứt ra và rỉ

nước vàng. Tinh thần tôi lúc đó phải nói là suy sụp trầm trọng. Tôi chỉ nằm

cầu nguyện và nghĩ mình chắc chắn sẽ chết, nhưng nhất quyết không chịu đi

bệnh xá. Tôi nghĩ lên đó cũng nằm chờ chết, chi bằng ở lại trại, nếu có gì

còn có bạn bè giúp đỡ. Thế rồi không hiểu sao từ từ tôi khỏi được mặc dầu

không có thuốc men gì thêm ngoài 1 viên B1 được cấp và ca nước cơm nhà bếp

phát cho mỗi ngày. Qua khỏi cơn bệnh này, tôi có cảm tưởng như chết đi sống

lại!

Còn một chuyện nữa liên quan tới vấn đề thiếu thốn thuốc men mà tôi còn nhớ.

Khi chúng tôi chuyển đến trại Cây Cầy A (tên chính thức là Trường Quản Huấn

Khu A) thuộc tỉnh Tây Ninh. Có một ca mổ ruột thừa hi hữu mà tôi có dịp

chứng kiến. Một anh trong trại bị đau ruột thừa đã đến thời kỳ nguy kịch.

Các bác sĩ QLVNCH đang cải tạo trong trại kết luận nếu không mổ gấp thì anh

ta sẽ chết. Tuy nhiên ở trại, thuốc men và dụng cụ gần như không có gì cả.

Cuối cùng sau khi được phép ban chỉ huy trại. Các bác sĩ đã thực hiện ca mổ

ngay lập tức trong điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ. Dụng cụ mổ là lưỡi dao

lam.

Kim chỉ may vết thương là kim chỉ thường dùng để may vá quần áo. Bông gòn,

thuốc đỏ, trụ sinh và các thuốc chống đau nhức thì anh em tù cải tạo trong

trại quyên góp. Vấn đề thiếu thốn quan trọng nhất là các bác sĩ không có

thuốc mê hoặc thuốc tê nên đành phải mổ sống bệnh nhân! Thà liều còn có cơ

hội cứu sống người bệnh. Sau khi nghe các bác sĩ giải thích về tình trạng

nguy kịch của chứng bệnh cũng như hiểu rõ hoàn cảnh thiếu thốn lúc đó, bệnh

nhân chấp nhận cho mổ.Tôi còn nhớ ca mổ hôm đó gồm 4 bác sĩ, hai y tá cũng

là tù cải tạo trong trại. Rất tiếc không nhớ hết tên mấy vị này. Chỉ nhớ có

hai bác sĩ tên Mỹ và Dân. (Nếu tôi nhớ không lầm thì bác sĩ Mỹ chuyên khoa

về mắt, trước tháng 4-1975 có làm việc tại bệnh viện Bình Dân).

Chúng tôi ở bên ngoài đứng chung quanh các cửa sổ căn nhà dùng làm trạm xá

theo dõi ca mổ đặc biệt này. Các bác sĩ giăng một cái mùng lớn ở giữa nhà và

ca mổ được thực hiện trong mùng để tránh ruồi muỗi. Bệnh nhân bị cột tay

chân thật chặt cho khỏi dảy dụa và miệng cắn chặt khăn. Đứng bên ngoài xem

mà chúng tôi không khỏi rùng mình. Mặc dù bị cột chặt tay chân và có bốn

người đè chặt, bệnh nhân vẫn ưỡn người dãy dụa và dù cắn chặt khăn, ở bên

ngoài vẫn nghe rõ tiếng ú ớ rên la đau đớn khủng khiếp của người bệnh khốn

khổ. Cuối cùng ca mổ hy hữu cũng thành công tốt đẹp và người bệnh được cứu

sống. Không bao lâu sau khi hồi phục, anh này trốn trại. Không thấy anh bị

bắt lại nên chúng tôi nghĩ anh đã trốn thoát.

Kể từ khi được vào "đại học cải tạo", tù cải tạo mới biết đến hai chữ “cải

thiện” của Cách Mạng để chỉ sự trồng thêm, kiếm thêm thực phẩm… cho bữa ăn

được khá hơn, đầy đủ hơn... Riêng đối với tù cải tạo thì hai chữ "cải thiện"

này dần dần trở thành một cái gì quen thuộc hằng ngày, và việc "cải thiện"

của tù cải tạo phải nói là đa hình đa dạng. Từ cóc, nhái, rắn rít, chuột, bò

cạp… hễ bắt gặp được là tù cải tạo ăn tuốt hết.

Có những kỷ niệm tôi còn nhớ rất rõ, không biết nên liệt vào kỷ niệm vui hay

buồn:

Khi còn ở Trảng Lớn, khu vực chúng tôi ở sát vành đai hàng rào. (Trước 1975

đơn vị pháo binh sư đoàn 25 bộ binh QLVNCH đóng tại đây). Dọc theo hàng rào

là một giao thông hào lớn, bên dưới có nhiều chuột cống con nào con nấy to

lớn, lông đen thui nhìn thấy sợ luôn. Có một anh làm bẫy bắt được một con

chuột cống thật lớn và anh nói sẽ ăn thịt nó vì lâu quá rồi không được ăn

miếng thịt nào. Ban đầu tưởng anh nói đùa, nhưng khi thấy anh nấu nước sôi

trên lon guigoz rồi cạo lông nó, chúng tôi mới biết anh nói thật. Cả đám tù

cải tạo xúm lại xem anh ta làm thịt con chuột. Ai nấy đều thấy ghê tởm vì

trước đây chưa có người nào trong bọn ăn thịt chuột cống cả. Có người nói

với anh: "Ăn tầm bậy tầm bạ coi chừng bị dịch hạch chết luôn đó.".

Mọi người khuyên anh chàng bắt được chuột đừng ăn. Anh ta cứ tỉnh bơ vừa làm

thịt con chuột vừa nói: "Tại mấy anh không biết chứ con chuột có bị dịch

hạch hay không là do ở hai cục hạch nằm dưới hai nách con chuột. Lấy hai cục

hạch đó ra thì khỏi còn sợ gì hết." Anh lấy dao lẻo ra hai cục hạch nhỏ ở

dưới hai nách con chuột cống rồi đưa chúng tôi xem. Sau khi cạo lông và làm

sạch sẽ, con chuột cống được thui lên vàng tươi trông hấp dẫn, ngon lành

lắm. Anh lấy mỡ trong bụng của con chuột chiên nó lên. Mùi thơm bay ngào

ngạt.

Khỏi nói cũng biết anh ta đã thưởng thức bữa thịt chuột rô ti đó ngon lành

như thế nào rồi! Thế là sau đó nhiều người bắt chước làm bẫy bắt chuột.

Phong trào tự nguyện diệt chuột để "cải thiện" thêm cho bữa ăn hằng ngày của

tù cải tạo bỗng dưng trở nên sôi nổi hẳn lên! Có người may mắn bắt được 2,3

con một ngày. Từ từ rồi chuột lớn, chuột nhỏ gì cũng bị bắt ăn thịt hết. Tù

cải tạo lại trở về với cơm canh Cách Mạng như cũ! Thành thật mà nói, trong

thời gian trong các trại tù cải tạo, tôi chưa bao giờ dám thử ăn thịt chuột

cống dù cũng đói rã người và thèm có được một chút chất thịt lắm. Tuy không

dám ăn, nhưng tôi hoàn toàn đồng tình và thấu hiểu được hoàn cảnh lúc đó với

các bạn tù. Bây giờ nhớ lại giai đoạn đã qua, thấy cảm khái vô cùng. Đã có

lúc thịt chuột cống trở thành một món ngon bổ dưỡng cho những người tù cải

tạo!!

Từ khi đám tù cải tạo chúng tôi chuyển từ Trảng Lớn đến Đồng Pan, rồi từ nơi

đây lại chuyển đến trại Cây Cầy A, chúng tôi được thăm nuôi gặp mặt mỗi

tháng một lần. Với sự tiếp tế của gia đình, tình trạng có đỡ hơn lúc chưa

được thăm nuôi, nhưng chúng tôi vẫn ở trong tình trạng thiếu thốn không đủ

ăn. Đó là những người may mắn được gia đình thăm viếng, có thức ăn tiếp tế.

Khỏi nói đến những anh em có gia đình ở xa hoặc gia đình khó khăn không đủ

khả năng thăm nuôi hàng tháng thì chắc chắc là đói dài dài.

 Tiêu chuẩn của trại phát cho tù cải tạo trừ những ngày lễ lớn, hoặc Tết thì

còn thấy chút váng mỡ và chút thịt bằng đầu ngón tay, ngoài ra thì chỉ toàn

là rau nấu canh với tí muối hột… Khẩu phần ăn chính yếu cho mỗi người chỉ

vào khoảng chén cơm hoặc một mẫu bánh hấp làm bằng bột mì… không đủ đâu vào

đâu, lại phải lao động nặng nên đứa nào đứa nấy đói rã ruột. Để sinh tồn,

đám tù cải tạo phải tìm bất cứ chất độn nào có thể kiếm được, chủ yếu để

nhét vào dạ dày được càng nhiều càng tốt, và nhờ thế tạm đánh lừa cái đói.

Mỗi khi đi vào rừng lao động, sau khi ra sức số gắng đạt đúng những "chỉ

tiêu" được giao trong ngày, thì giờ hiếm hoi còn lại chúng tôi để ý tìm

những cây cải trời, lá giang, lá bứa, đào những bụi sâm chỉ… những mụt măng

non mang về thêm vào bữa ăn mà chủ yếu chất độn là chính yếu còn cơm chỉ là

phụ, miễn làm sao có cảm giác lưng lửng bụng để có sức lao động tiếp. Do đó

vấn đề “cải thiện” bên ngoài là một điều gần như tù cải tạo nào cũng làm.

Ngoài ra ở trại, chúng tôi còn phải dành thì giờ rảnh trồng thêm rau, bầu bí

mướp... ăn độn thêm. Tuy thế cái đói vẫn thường xuyên theo đuổi chúng tôi.

Mỗi tối khi nằm ngủ, bụng đứa nào đứa nấy sôi rột rột trong đêm khuya nghe

rất rõ. Đôi khi bụng sôi quá không ngủ được, người nào còn đường tán thì bẻ

một tí nhấm nháp - lại đánh lừa bao tử - cho bụng đỡ sôi để dễ ngủ!

Cũng có những kỷ niệm vui vui về chuyện "cải thiện". Đôi khi chúng tôi cũng

may mắn tìm được món ngon chứ không phải lúc nào cũng èo uột cả đâu:

Tôi còn nhớ khi mới chuyển trại đến Đồng Pan, lần đầu tiên chúng tôi đi chặt

tre. Khi vào rừng tre, cả bọn rất vui mừng vì kiếm được nhiều mụt măng non.

Thế là ngoài chỉ tiêu hai cây tre lớn cho mỗi người phải mang về ngày hôm

đó, chúng tôi còn đeo nhiều "xâu" măng non lủng lẳng. Đường từ rừng tre về

trại xa thăm thẳm, lại vác nặng, nhưng trong bụng đứa nào đứa nấy cũng vui

vì có "chiến lợi phẩm". Sau đó chúng tôi chế biến thành đủ thứ món: Măng

trộn gỏi (dĩ nhiên không có tôm thịt gì cả), măng luộc, canh măng… rồi đến

măng ngâm chua hoặc phơi khô để dành ăn dần… Thôi thì bữa ăn nào cũng có

măng độn vào. Nghe người ta nói ăn măng nhiều sẽ bị đau nhức mình mẩy… hoặc

dễ bị sốt rét rừng hơn người không ăn(?). Cả đám tụi tôi cứ ăn tỉnh bơ, chỉ

mong có gì nhét vào bao tử cho no là tốt rồi, những chuyện đau mình, đau mẩy

thây kệ. Tính sau!

Cũng ở trại Đồng Pan này, những ngày đầu khi vào rừng đốn cây về làm doanh

trại, có rất nhiều hố bom do B52 thả lúc trước và bây giờ trở thành những

cái ao nhỏ. Chúng tôi phát giác có ếch, cóc, nhái, rắn, cá trong đó. Thế là

đám tù chúng tôi bảo nhau làm lưỡi câu chế biến từ một sợi kẽm nhỏ hoặc từ

một cây kim cúc. Mồi thì chỉ là những thứ vớ vẩn gì đó có thể kiếm được. Lúc

đầu chúng rất dạn, cứ quăng cần câu một lúc là có thể câu dính được ếch nhái

hoặc cá ngay. Những ngày đó phải nói là đại tiệc đối với chúng tôi. Nhưng

rồi số lượng tù cải tạo quá đông, nhiều người câu quá, chúng trở nên nhát

mồi và khó câu hơn. Chúng tôi lại phải đi lao động làm đúng chỉ tiêu nên đâu

có thì giờ nhiều để đánh bắt. Do thế chúng tôi đan lợp, đặt bẫy... xong lấy

cỏ che lại. Có dịp đi lao động ngang qua thì ghé thăm bẫy. Với cách này

thỉnh thoảng cũng bắt được cá.

Hoặc có vài lần gặp may mắn, đi chặt tre hoặc cắt tranh ở rừng về qua những

con suối tình cờ chúng tôi tìm được nguyên đám rau càng cua hoặc rau sam

thật lớn mọc dưới chân các tảng đá dọc hai bên suối. Những hôm như vậy chúng

tôi hay nói đùa là : "Hôm nay Trời đãi tụi mình". Thông thường khi đi lao

động trong rừng, chúng tôi chia ra những nhóm nhỏ 2,3 người đi với nhau, vì

thế những đám rau lớn đó không thể lấy hết một lần. Mỗi đứa cởi áo làm thành

một cái bọc đựng đầy rau trong đó, còn lại tính "để dành" bữa khác tìm cách

trở lại lấy nữa. Nhưng qua mấy hôm sau khi chúng tôi đến thì cả đám rau lớn

hôm trước đã sạch bách hết không còn một cọng bởi những "đàn anh" tù cải tạo

nào khác đi ngang qua "dớt" hết rồi.

Chế độ kềm chế tù nhân bằng bao tử của CS quả thật rất tàn nhẫn. Nó làm cho

con người đôi khi trở nên hèn mòn chỉ vì một miếng ăn nhỏ. Kể từ khi chúng

tôi chuyển đến trại Cây Cầy A, vấn đề doanh trại và những dãy láng trại, nhà

ở… đã được những tù cải tạo ở trước xây cất đâu đó nề nếp hết rồi. Nên khi

chúng tôi chuyển đến trại này, việc lao động chủ yếu là trồng trọt, canh tác

hoa màu.

Chúng tôi phá rừng, khai hoang trồng lúa, bắp, khoai mì, bo bo, mía… phải

nói là rộng bạt ngàn. Diện tích canh tác hoa màu ở trại này không biết bao

nhiêu mà kể. Hoa lợi thu hoạch về rất nhiều nhưng chỉ bán cho bên ngoài. Tới

mùa thu hoạch xe vận tải của nhà thầu bên ngoài ra vô nườm nượp chở lúa,

khoai mì, bắp, mía… từ sáng tới tối liên tục ngày này qua ngày khác cả mấy

tuần lễ mới hết. Chúng tôi làm quần quật trên những cánh đồng này từ mờ

sáng. Khai thác xong, khuân vác đến cân đo đong đếm rồi chất lên xe để nhà

thầu chở đi. Hoa màu thì đầy dẫy vào những mùa thu hoạch như thế mà không

được cho ăn no.

Mỗi ngày cũng vẫn chỉ được phát với tiêu chuẩn ăn "chết đói" lưng một chén

cơm. Do thế không đứa nào là không bẻ trộm bắp, khoai mì ăn thêm cả. Nhớ lại

giai đoạn đó quả thật con người của chúng tôi đã đi đến chỗ bần cùng, thê

thảm chưa từng có! Chính tự tay chúng tôi khai hoang, trồng xới, từ lúc

miếng đất còn là một cánh rừng cho đến khi thu hoạch, thế rồi cũng chính

chúng tôi đi bẻ trộm những hoa màu đó ăn cho đỡ đói. Nếu bị bắt được thì bị

phạt cùm giò nhốt vào connex nửa tháng. Đúng là khôi hài không tả nỗi. Tuy

nhiên dù có bị kỷ luật, hù doạ… chúng tôi vẫn cứ phải bẻ trộm bắp, nhổ khoai

mì để ăn chứ đứa nào đứa nấy đói lả ra, lấy sức đâu mà lao động!

Những lúc thu hoạch khoai mì hoặc bắp trên cả một cánh đồng thật rộng lớn,

đám tù cải tạo chúng tôi được phân chia khu vực cho mỗi tổ, giăng hàng ngang

và cứ thế tiến lên thu hoạch . Chúng tôi được giao chỉ tiêu vừa nhổ khoai

mì, bẻ lấy củ gom lại thành đống lớn để chiều xe vận tải tới cân và chở đi.

Tổ nào không làm đúng số lượng đã được giao thì tối về bị phê bình kiểm điểm

tới khuya… Chỉ tiêu đưa ra là con số phải làm cật lực mới có thể đạt được.

Bụng thì đói meo mà làm nặng nhọc như vậy thì chịu sao nổi. Do đó trong khi

làm việc chúng tôi cử ra một người lén nướng khoai mì hoặc bắp cho các anh

em trong tổ cùng ăn.

Khổ nỗi khi khoai mì, bắp nướng lên sẽ có mùi thơm lan ra. Hôm nào không có

cán bộ quản giáo và các vệ binh ở gần thì chúng tôi còn nướng ăn đàng hoàng

được. Nhưng hôm nào có đám cán bộ canh chừng, đốc thúc chúng tôi làm cho

nhanh thì không thể nướng lên được. Những bữa như vậy, chúng tôi chỉ biết

dấu vào bọc áo, chiều tối về trại luộc ăn. Nếu có ai đói quá thì đành phải

vừa làm vừa nhai khoai mì sống cho đỡ đói.

Còn bắp thì là bắp khô không ăn sống được vì hột cứng quá thì khi nghỉ giải

lao, chúng tôi lén lảy hột đựng vào bình đựng nước để chiều mang về trại.

Chúng tôi vẫn làm như vậy. Nhưng một hôm có một anh đang làm ở đội gần bên

ăn khoai mì sống nhiều quá, gặp lúc trời nắng như đổ lửa nên bị "say" nắng

(hoặc "say" khoai mì sống chúng tôi cũng không rõ). Anh ta giãy tê tê, miệng

sùi bọt mép với chất nhựa trắng của khoai mì ra đầy hết cả. Các bạn anh

hoảng hồn, phải dìu anh núp vào chỗ mát. Lấy nước rửa chất sữa trắng khoai

mì trên miệng và quần áo để phi tang và báo cán bộ là anh ta bị bệnh. Một

người được cử ra cạo gió cho anh, nhìn tướng anh lúc đó rất thê thảm. Vậy mà

qua hôm sau đi lao động, lại thấy anh ta tiếp tục nhai khoai mì sống ngon

lành.

Tù cải tạo hái rau cải hoang, bẻ măng rừng, cóc nhái, rắn rết… ăn thì không

sao. Nhưng rủi mà bị cán bộ quản giáo bắt quả tang lúc đang "cải thiện"

khoai mì, bắp, mía… thì tối đến khi về trại, thế nào cũng có màn kiểm điểm ở

trong tổ cho đến thật khuya. Cái khốn nạn của màn kiểm điểm này là cán bộ

quản giáo bắt buộc các anh em trong tổ từng người phải có ý kiến phê phán,

lên án hành động "trộm cắp" của anh tù nào xui bị bắt gặp. Nhưng có tù cải

tạo nào mà không phạm cùng một tội đâu!! Cho nên những buổi kiểm điểm tố khổ

như vậy chẳng qua chỉ là những trò hề. Nhưng đau đớn thay, chính chúng tôi

là những con rối trong trò hề đó. Người bị bắt gặp bẻ trộm hoa màu sau đó

còn bị phạt nhốt connex nửa tháng. Trong thời gian bị phạt, khẩu phần ăn bị

cắt phân nữa. Những bạn tù mỗi khi đi lao động ngang qua connex, nếu canh

không có vệ binh hoặc cán bộ ở gần thì lén quăng vội vào cho bạn mình một củ

khoai, hoặc chút ít thực phẩm gì giúp cho anh ta đỡ đói. Khi được thả ra sau

nửa tháng ngồi connex, có người phải nhờ bạn bè dìu về trại chứ đi một mình

không nỗi nữa.

Cứ thế đám tù cải tạo khốn khổ lây lất sống từ trại này qua trại khác với hy

vọng thật mong manh của một ngày đoàn tụ không ai biết trước được

TRƯỜNG SƠN TÂY

4

          Hôm sau, đơn vị chúng tôi chuyển hướng sang Tây Trường Sơn. Cấp trên phổ biến, đi vào B2 phải  đi trên đất Lào mới nhanh và an toàn, còn đường Trường Sơn Đông thì vào A Lưới, Thừa Thiên,  Hiên, Giằng Quảng Nam…địch bắn phá ác liệt lắm, chỉ dành cho các đơn vị đi B1, B3. Thằng Chiến, Trung đội 3 , người Huế, bố tập kết đẻ hắn ở Hà Nội bảo rằng, từ Sông Hiền Lương vào Huế chỉ 100 cây số thôi. Từ A Lưới mà về Huế cũng gần trăm cây…Nó tiếc không đi đường ấy để nhìn bầu trời quê hương xứ Huế của mình. Ngày hành quân đầu tiên sang đất Lào, tôi có một  kỷ niệm nhớ đời : Hôm ấy đến phiên tôi “trực nhật” làm cấp dưỡng, phải mang song chảo của đơn vị. Thằng Dũng đã giành mang cái  chảo to, để  hai cái song nhôm cho tôi. Tính tôi hay đãng trí. Bất cứ lúc nào trong đầu cũng nghĩ một ý tưởng gì đó, khi thì một tứ thơ, khi thì một hình ảnh  một bông hoa rừng vừa bắt gặp, hành quân lại  vội vàng nên lần ấy tôi đã quên mang theo  hai cái song nấu  bếp của tiểu đội.  Đi được hai cây số mới nhớ ra. Thế là tiểu đội trưởng  Đảm phải đôn đáo chạy trở lại để tìm. May mà  bãi khách chưa có  đơn vị khác ở. Đảm là vậy, xốc  nổi, hăng hái, sống chí tình chí nghĩa với bạn bè và hay mủi lòng mau nước mắt. Hôm ở Phú Bình trước giờ ra trận, Đảm  bảo chị Quỳnh mời thợ chụp ảnh từ Thành phố Thái Nguyên về chụp ảnh kỷ niệm. Chụp ảnh chung tiểu đội xong , Đảm còn chụp riêng  mình một kiểu  ngồi cấm súng AK, mắt hướng về phía trước như là đang  chiến đấu. Những tấm ảnh đó tôi mang đi suốt đời lính của mình. Từ hôm đó Võ Văn Đảm và Lê Văn Trung  thay nhau mang  hộ song chảo  mỗi khi tôi trực nhật, vì sợ làm mất cái để nấu ăn hàng ngày !

          Qua đất Lào mới thấm câu hát “ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây/ Bên nắng rát bên mưa quay…”. Bên Việt hôm qua mưa như trút, thì hôm nay bên Lào thì nắng hầm hập như đổ lửa. Rừng Lào lại thưa, toàn cây gỗ dầu, cây lá gai trông nhức mắt. Bi đông thằng nào cũng cạn nước lâu rồi, mà nóng khát vẫn đày đọa con người. Suốt chặng  hành quân gần hai tháng trời mùa khô trên đất Lào chúng tôi đều “khát“ nước như thế. Có ngày  được nghỉ, tôi đi theo mấy đứa cấp dưỡng ra chỗ lấy nước để rửa ráy cho thoải mái. Nhưng, tới nơi tôi phải đứng nhìn vì không có nước để rửa. Ở Trạm giao liên này hôm nay có 8 tiểu đoàn bộ đội dừng nghỉ mà chỉ có một vũng nước ở giữa lòng con suối nhỏ, rộng chừng năm sáu mét vuông, sâu đến đầu gối . Cấp trên cấm không ai được lấy nước để rửa, ngoài việc nấu ăn. Thế mà lính phải vét từng “B52 “  nhỏ nước bùn, rồi đợi cho  lắng bùn lắng mới dùng được. Nước  ngấy mùi lá  mục, mùi bùn, đến cơm cũng vàng khè bốc mùi mốc. Nước ấy không biết có bao nhiêu chất hoà vào trong đó. Xác lá rừng, xác súc vật, có khi cả chất độc hoá học Mỹ thả năm trước trôi theo khe  núi xuống, rồi nòng nọc, chao ôi là nòng nọc . Nhiều vô kể. Mấy đứa làm anh nuôi phải  gạn từng bát nước và lấy thuốc lọc nước mang theo bỏ vào mới nấu cơm được. Lính ta hành quân mồ hôi mồ kê lấm láp bụi đường, không có nước rửa, cứ  đeo tất vào mà ngủ…Thế mà thằng Trung, thằng Thước vẫn lầm rầm song ca  …từ nơi em  sang bên nơi anh những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến, như tình yêu nối lời vô tận. Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn…

          Đi trên đất Lào khô nóng, nên mỗi lần dừng nghỉ  bên một con sông là niềm hạnh phúc cho lính. Tôi nhớ lần đầu tiên  nghỉ lại bên sông Sêpon, con sông chảy giữa biên giới Việt Lào, tất cả chúng tôi đều ào xuống sông tắm. Tắm sông Sêpôn mát lắm. Tắm xong, lính rủ nhau vào bản Lào đổi hàng thì gặp một đoàn thương binh B2 ra Bắc. Đoàn thương binh toàn nói giọng  Bắc.  Họ cũng nghỉ ở một  bãi khách  gần chúng tôi. Thấy tân binh mới vô, các anh ý ới gọi chúng tôi ghé chơi , yêu cầu “kể chuyện miền Bắc” cho các anh nghe… Đoàn thương bệnh binh hôm ấy ra Bắc đông lắm, có tới trăm người. Họ bảo họ từ B2 ra.  Họ ăn mặc áo quần xanh đỏ tím vàng, ai cũng đeo đồng hồ orient, lazo chói sáng, đài sony mở Đài tiếng nói Việt Nam oang oang, rồi cười nói, hát hò rôm rả. Nhưng khi đến gần tôi mới hay tất cả họ đều tàn phế. Người thì cụt một chân, người thì cụt hai tay, người chống nạng, người mù mắt, người thì đầu  đang quấn  băng trắng toát…Tội nhất là anh Tiến, quê Thanh Hóa, thương binh cụt cả hai tay hai chân . Anh nằm ngửa trên cáng như một khúc thịt, cười hồn nhiên :”Các em phải vui lên, ăn cho khỏe vào, đường còn xa lắm”. Hàng ngày anh được  người của Trạm giao liên cáng từ trạm này giao sang trạm khác. Các anh cho biết, đoàn đi từ Miền Đông Nam Bộ ra đến đây đã bốn tháng rồi. Ngày chỉ đi được mươi cây số. Ngẫm ra, các Trạm giao liên phục vụ các đoàn thương binh ra Bắc còn vất vả, khổ nhọc  gấp chục lần phục vụ  các sư đoàn bộ đội vào Nam. Vì họ thương tật, nhiều người không tự lo được các việc riêng cá nhân như tắm rửa, vệ sinh , tất cả  đều phải dựa vào cán bộ các Trạm giao liên. Mà Trạm thì nhiều con gái, thương binh thì toàn đàn ông…Cuộc gặp gỡ những thương binh hạng nặng từ mặt trận trở về làm tôi ám ảnh suốt chặng hành quân sau đó. Rồi sau này, mình may mắn lắm mới còn sống để ra Bắc như họ. Được như thế là hạnh phúc lắm rồi ! Cuộc chiến đấu  khốc liệt đang chờ phía trước…

         Gặp gỡ các anh thương binh tới mặt trời lặn chúng tôi mới  tìm được bản Lào để đổi quần áo, muối, mì chính… lấy gạo nếp, gà, rượu…rồi lội suối  mò bắt được mấy xâu cá, lại ghé bãi khách thương binh  gặp mấy anh đồng hương Nam Hà của thằng Dũng ,  nấu nướng ăn uống với nhau cả đêm. Đi về mò mẫm đường rừng sợ lạc quá, thế mà khi về tới bãi khách, mắc võng xong là tôi bấm đèn pin hạt đỗ ghi lại bài thơ Bữa cơm Trường Sơn mới đến dọc đường rừng :

Đặt ba lô là vo gạo thổi cơm

Bếp Hoàng Cầm  chông chênh triền núi dựng

Cá khe Trường Sơn nướng lửa hồng vàng rộm

Bữa cơm chiến trường thơm tỏa xuống thung sâu

Ai bảo Trường Sơn hiếm cá thiếu rau

Bữa cơm lính vẫn canh riêu ngọt lịm

Muôn đời sau hẳn còn dự vị

Bữa cơm rừng tiểu dội chung tay… 

           Mỗi lần lính Việt Nam dừng chân ở  Trạm, là dân các bản Lào gùi sắn, gạo, rau, bí ngô, bí đao, vịt gà… ra đổi  để lấy quần áo, mì chính, muối …  Đắt hàng nhất là muối vì dân Lào khát muối. Cứ đổi một gói muối nhỏ hai lạng thôi cũng được con gà ký rưỡi. Cái quần đùi hay áo lót đổi được cả yến gạo nếp nương. Hình như đồng bào đã quen đổi như thế với nhiều đoàn quân vào trước, nên họ ra giá bằng ngón tay rất nhanh. Việc đồng bào các bản Lào đổi hàng cho bộ đội diễn ra suốt đường hành quân, cũng là một cách để chúng tôi giao lưu, học hỏi. Định lượng mang đi có hạn, không hiểu kiếm đâu ra nhiều áo quần, muối, mì chính mà tôi thấy đến Trạm nào có dân là lính ta đều rủ nhau vào bản đổi hàng…Cũng nhờ những lần  đi đổi hàng cho đồng bào  đó mà tôi nói được rất nhiều từ tiếng Lào như  pay là đi, mưa là về, xamakhi là đoàn kết, kinh khẩu, kinh nậm là ăn cơm, uống nước, khọxơn mà mời, khăm là vàng, tucay là con gà, khọp chay là cám ơn, khọpchay lailai là cám ơn nhiều nhiều.v.v..

          Ấn tượng nhất có lẽ là  việc vượt đường số 9. Đường 9 là con đường nối  Đông Hà với Savanakhet.  Đường rộng, lại trống trải. Cấp trên phổ biến là ở đây địch cài thám báo rất  nhiều và thường xuyên. Chúng  có thể chỉ điểm  cho  máy bay địch oanh kích cả ngày lẫn đêm. Nên phải tuyệt đối bí mật. Cấp trên còn nhấn mạnh hôm nay có Phái đoàn Bốn bên ( về thực hiện Hiệp định Paris ) sẽ xuống cầu KaKi kiểm tra tình hình thực hiện Hiệp định.  Nên phải không để  phái đoàn phát hiện ra ta “vi phạm Hiệp định” vì tiếp tục đưa quân vào Miền Nam.  Năm 1971, Mỹ và quân đội Sài Gòn mở chiến dịch Lam Sơn  719 ở đường 9- Khe Sanh- Nam Lào  nhằm cắt đứt đường tiếp tế Miền Bắc vào Miền Nam . Nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Tất nhiên chúng không bao giờ bỏ việc canh chừng “ tử huyệt” này

TẾT PHỞ

Ngô Minh

Năm 2011, chương trình CNNGo của kênh truyền hình CNN (Mỹ) vừa bình chọn và giới thiệu 50 món ăn ngon nhất thế giới. Trong đó Việt Nam có hai món Gỏi cuốn và Phở được chọn. Nhắc đến phở là nhớ Hà Nội. Nhớ về Hà Nội cái đầu tiên là nhớ phở. Lại nhớ thời sinh viên với những những cái Tết phở . Phở Hà Nội bây giờ ở khắp bắc, trung , nam đâu đâu cũng có, nhưng chỉ có về Thủ Đô mới được thưởng thức “phở thứ thiệt”,” phở Hà Nội rin”. Phở đã vào thơ Tú Mỡ từ gần bảy mươi năm trước. Trong bài thơ Phở Đức Tụng ( ca tụng công đức của phở), hơn 40 câu viết năm 1937 nhà thơ mê phở và luận về phở rất hay : Một vài xu nào đắt đỏ mấy mươi/ Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm,béo, bổ. Bởi vậy:

Đừng khinh phở là món ăn hèn mọn

Đấu xảo thành Ba-lê còn phải đón phở sang

Cùng các món ăn ngoại quốc phô trương

Ngon lại rẻ, phở thường tranh quán giải

Sống trên đời, phở không ăn cũng dại…

Ở hải ngoại các nhà văn gọi phở là Danh thiếp của người Hà Nội, danh thiếp của người Việt Nam . Nghĩa là nói đến phở là người ta nghĩ ngay đến Việt Nam. Từ 35 năm qua, cái thương hiệu phở đó đã thành sứ giả Việt Nam đến mỗi ngày với người dân bốn biển năm châu. Đã có nhiều tiệm phở Việt, phở Hà Nội ở Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada, Nga, Ba Lan ,Cộng hòa Séc.v.v.. Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới phải ghi công đầu cho phở . Ít mặt hàng Việt chiếm được thị phần rộng lớn như thế. Chả thế mà mấy năm trước ở Hà Nội người ra đã xuất bản một cuốn sách dày về phở : Vietnam’s Heritage (Phở, một di sản Việt Nam). Vâng, phở là di sản, cũng giống như di sản Hoàng Thành Thành Long, Quần thể Di tích Cố Đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, như Di sản âm nhạc cung đình, ca trù, quan họ.v.v.. Phở sang trọng, nổi tiếng thế, nhưng phở lại là một món ăn bình dân, món điểm tâm của tất cả các tầng lớp người Việt. Giàu nghèo, già trẻ, lớn bé đều biết ăn phở, thích ăn phở. Nên mỗi người dân đều khoái phở theo “tâm hồn ăn uống” của mình. Và ai cũng có những ký ức riêng về phở. Phở tôi nói đây là phở bò với đủ loại chín –tái, chín nạm; tái- nạm, tái-gầu , chín-bắp…. Bây giờ thì thế gian đầy thứ phở như phở gà, phở vịt, phở ngan… Rồi lại có các loại phở xuất phát từ cách chế biến như phở xào, phở rán, phở cuốn… Tôi không thích những món phở “ăn theo” thương hiệu như thế. Cũng như ở Huế, cơm Hến là món ngon, được ca tụng. Nhưng rồi người ta lại chế biến thêm thứ bún hến , cũng là một loại ẩm thực ăn theo. Cho nên ở Huế tôi chỉ ăn cơm hến, ra Hà Nội, tôi chỉ tìm đến những quán phở bò gốc…

Tôi có bốn năm là sinh viên Hà Nội và 15 năm làm phóng viên báo Thương Mại( Hà Nội), cứ vài ba tháng lại ra cơ quan một lần, đâm ra nghiền phở. Thời sinh viên, chúng tôi thường ăn “phở không người lái” ba hào một bát, giống như phở múc cho trẻ em một hai tuổi bây giờ ( mà trong bút ký phở nổi tiếng , cụ Nguyễn Tuân gọi là “phở nhi đồng”). Bát phở không có thịt bò, tái nạm gì cả, chỉ có bánh phở chan ít nước dùng.Phở ba hào mà phải xếp hàng, thò tay vào cái ô cửa nhỏ xíu chờ hàng giờ cho đến khi bàn tay búp măng của cô mậu dịch viên lạnh lùng đưa bát phở ra, không thấy mặt mũi cô xinh xẻo ra sao, cũng đã thấy hởi lòng hởi dạ. Sung sướng vì cái mùi thơm quyễn rủ của nước phở. Trường Đại học Thương Mại ở Từ Liêm, mỗi lần tôi đạp xe đi ngang Cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Cầu Giấy, nghe “mùi phở” bay ra, lại theo quán tính thò tay vào túi xem có còn đồng nào không. Không có tiền thì đứng tần ngần nuốt nước miếng một lúc, rồi đạp xe thật nhanh như chạy trốn cái sự quyến rũ…Bốn năm học đại học, miền Trung bom đạn nên Tết chúng tôi không được về. Mấy đứa Vĩnh Linh, Quảng Bình ở lại ăn Tết ở trường. Sáng nào chúng tôi cũng đạp xe về Hà Nội “ăn Tết phở”. Ba ngày Tết ăn phở đã đời. Mỗi đứa chịu một bữa. Phở một tô một đồng hai hẳn hoi, chứ không phải phở không người lái. Ăn tô phở nóng kèm thêm mấy cái quẩy là đằm cái bụng xâu đói.

Sau này làm cán bộ, có lương, cứ ra Hà Nội là tôi ăn phở cả tuần. Đêm phở, ngày phở. Sáng phở, trưa , chiều phở . Mười giờ đêm lại mò ra phố làm bát phở gàu mới ngủ yên. Tôi thường ăn phở bò ở ba quán nổi tiếng. Ở đầu phố Lò Đúc, gần cơ quan tôi có quán phở Thìn rất tiếng tăm. Chỗ đặt bàn chế biến phở ngay ở cửa ra vào, nên mùi phở thơm ngào ngạt phố. Phía trong là hai dãy bàn gỗ màu đen, như bàn học trò. Khách đứng ở cửa chờ múc phở, trả tiền rồi bưng vào phía trong ngồi bàn ăn rất đàng hoàng. Phở Thìn là phở bò, không bỏ bột ngọt mà nước dùng ngọt lịm. Ở Hà Nội phở Thìn đã sinh sôi ra nhiều quán ở nhiều nơi, nhưng hương vị phở vẫn giống nhau. Phở Thìn cũng như phở Bát Đàn ( 49-phố Bát Đàn) không có rau sống , giá kèm theo như ở Sài Gòn, Huế. Người ta múc tô phở nóng hổi, điểm xuyết vài cọng hành hoa lên trên rất mát mắt. Bưng bát phở Bát Đàn thịt bò thái tươi rói, thơm ngậy, nước dùng ngọt vị xương hầm, dạy mùi phở Hà Nội truyền thống, lúc nào tôi cũng thấy xúc động. Còn ở trên bàn có lọ tương ớt cay nồng, nước mắm, miếng chanh cốm chua gắt để quý khách dùng theo khẩu vị. Người ăn phở Bát Đàn mấy chục năm nay vẫn phải xếp hàng như xếp hàng mua thực phẩm thời bao cấp. Có buổi sáng tôi thấy người xếp hàng cả trăm mét phố. Đến khi bưng được bát phở trên tay thì nhìn quanh chỗ ngồi đã hết. Vì thế đi ăn phở Bát Đàn phải rủ nhau hai ba người. Người giữ chỗ, người xếp hàng lấy phở. Có lần nhà thơ Trần Quang Đạo rủ tôi và nhà thơ Hoàng Cát đi ăn phở Bát Đàn. Thương binh chân giả Hoàng Cát phải xếp hàng dài tới ba chục mét. Còn tôi và Trần Quang Đạo trai trẻ nhanh hơn thì đứng chờ người ra ăn xong để chiếm ghế. Vất vả, mồ hôi mồ kê, nhưng ai cũng xuýt xoa thoả lòng vì được thưởng thức món phở đầu bảng phở Hà Nội.

Ở Huế, mỗi lần nhớ phở Hà Nội, tôi lại đọc sách Món ngon Hà Nội của Vũ Bằng . Nhà văn quan sát từ xa quán phở bò Hà Nội , đọc mà xốn xang bụng dạ : “ Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí, quyến rũ ta như mây khói chùa Hương, đẩy bước chân ta, thúc bách ta…Qua làn cửa kính đã thấy gì ? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm : chín có, tái có, sụn có, mỡ gàu có, vè cũng có…Người bán hàng thỉnh thoảng lại mở nắp cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ trong rừng mùa thu…Trông mà thèm quá !”.

Ở phố Mai Hắc Đế , Hà Nội có một quán phở rất chật chội, không cắm bảng hiệu, nhưng người ăn đông nghẹt. Ở đây rất ít ghế, nên nhiều người phải bưng bát phở đứng ăn. Thế mà hôm sau họ lại đến. Bán phở là một bà già nhanh nhẹn. Bà vừa múc phở vừa luôn mồn hỏi “ Béo hay gầy,”béo hay gầy”. Tức là hỏi người ăn thích thứ phở có thêm mỡ gầu hay chỉ thịt thôi. Khách hàng trả lời “béó”, bà thái thêm cho một một lát mỡ gàu bò. Nguyễn Tuân viết :”Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn”. Ăn miếng mỡ gầu nghe béo giòn đầu chân răng.

Nói về phở Hà Nội là phải nói tới cái “mùi phở”, mà không có nó thì không thành phở được. Bữa nay nhiều quán trưng biển “Phở Hà Nội” nhưng bưng bát phở lên không có cái “mùi phở” đặc trưng ấy, người ta gọi là “phở mì chính”. Người ta còn mua những gói gia vị “phở” từ Trung Quốc về để bỏ vào nồi nước dùng, nhưng cũng không phải mùi phở Hà Nội gốc. Cái mùi phở Hà Nội do nồi nước dùng ( gọi là nước phở) được chế biến công phu mà có. Tôi nhớ thời bao cấp, có lần Công ty Ăn uống Quốc doanh Bình Trị Thiên ( cũ) mời nghệ nhân phở Đinh Bá Châu từ Bộ Nội Thương về Huế cả tháng để “truyền nghề” chế biến phở cho các đầu bếp trong ngành ở Cửa hàng ăn uống Nam Sông Hương trước mặt Bưu Điện trung tâm Huế bây giờ. Bác Châu là người chế biến phở Hà Nội số 1 Việt Nam bây giờ. Bác Châu hướng dẫn cách hầm xương bò ( xương ống) lửa phải liu riu. Bác bảo :” To lửa thì tủy tan ra, nước đục. Trong quá trình nấu, thỉnh thoảng phải vớt bọt, có thế nước mới trong. Rồi thêm gia vị như gừng, hồi, thảo quả… để khử mùi ngây ngấy của mỡ bò. Cái “mùi phở đặc trưng” đó tuỳ thuộc vào tài nghệ gia giảm các gia vị này. Vừa thì ngon, già tay là lạc mùi ngay. Hầm xương suốt đêm, sáu bảy tiếng đồng hồ tất cả các chất trong xương đều tan vào nước, nước mới ngọt và có mùi thơm đặc trưng. Người đầu bếp phải thức suốt đêm mới có nồi nước dùng ưng ý. Bởi thế mà dạo đó người đếm Cửa hàng Nam Sông Hương ăn phở sáng đông nghẹt.

Có lần sáng đi làm, tôi ghế chỗ nhà thơ Lê Thị Mây ở Liễu Quán để gửi chùm thơ cho Tạp chí của Hội Văn nghệ tỉnh. Khi mở cửa, không biết gió máy thế nào , bổng nhiên nhà thơ mặt tái nhợt, ngất xỉu. Tôi chạy đến nhà bác sĩ Thuỷ ở đường Ngô Quyền nhờ cấp cứu. Bác sĩ Thuỷ khám, cho uống thuốc rồi bảo tôi:” Anh đi mua cho chị Mây tô phở nóng, ăn là tỉnh lại liền!”. Tôi đãng trí, mang cạp-lồng đi mua phở mà không mang cái quai xách, chỉ cầm cái tô nhôm đạp xe ra cửa hàng Nam Sông Hương. Một tay bưng tô phở Hà Nội nóng thơm bốc khói , một tay đạp xe về đến chỗ Lê Thị Mây, thì mấy ngón tay trái của tôi bị bỏng dộp. Nhưng nhìn bạn thơ ăn tô phở Hà Nội, toát mồ hôi, tỉnh lại, tôi lại mừng.

Nghĩ về phở Hà Nội lại nhớ cách ăn phở của Phùng Quán. Sinh thời, mỗi khi tôi ra Hà Nội, dù cơ quan có phòng khách, tôi cũng về “Chòi ngắm sóng” của Phúng Quán bên Hồ Tây trú ngụ ở đó. Anh Quán rất giỏi ẩm thực, sành làm bếp, nhưng anh nghèo nên anh có cách chế biến, cách ăn của anh : Rẻ mà sang!. Anh bảo :” Món gì Hà Nội anh cũng nấu nướng được, trừ phở”. Vì thời gian của anh là để uống rượu với bạn bè và để viết. Anh không có thời gian để chăm lo cho nước dùng suốt đêm được. Mà cái thơm ngon đặc trưng của phở, bao nhiêu bổ béo của phở là ở trong cái nồi nước dùng ấy. Thấy tôi thích phở, sáng nào anh cũng đèo xe đạp chở tôi đi ra chợ Châu Long, có khi ra phố Bát Đàn ăn phở. Anh bảo mình chỉ cần mua một bát phở nhỏ , bưng ra húp hết nước, rồi bưng bát đến cô hàng “cho anh xin ít nước nữa !”. Bao giờ người bán phở cũng sẵn lòng. Ăn như thế “lời gấp đôi”. Nói rồi anh vuốt râu cười…

Về nguồn gốc của phở người ta bảo phở bắt nguồn từ Nam Định, sau mới truyền lên Hà Nội. Từ chục năm lại đây có nhiều quán “ phở gia truyền Nam Định” mở tại nhiều thành phố trong Nam ngoài Bắc. Ở Đà Nẵng, Huế, Đồng Hới cũng có . Nhưng tôi ăn thấy không ngon được như phở Hà Nội. Nhưng so với các quán “phở mì chính” Hà Nội mở tại các địa phương thì phở Nam Định do chính người Nam Định vào làm ngon hơn, nên tôi thường ăn. Về cái tên phở người thì bảo là gọi theo tên một thứ súp hổ lốn ở Pháp (Pot-au-feu). Có người lại kể rằng, hồi Pháp mới sang ta, một người đầu bếp trại lính, nấu nồi nước phở phải hầm suốt đêm, sĩ quan Pháp đi tuần thấy nhà bếp còn đỏ lửa nên hỏi “fue?”, nghĩa là sao tối rồi mà còn lửa. Từ đó, “feu” nói trại thành “phở”.(?) . Dù nguồn gốc cái tên như thế nào, thì phở là âm Việt chính hãng và mãi mãi là hồn quê Việt, hương vị Việt

Gyros thịt chó hay chỉ là những phản ứng thái quá

Người Séc nhìn nhận về người Vệt như thế nào? Để tra lời câu hỏi này một cách thỏa đáng thì thật khó. Xin giới thiệu với bạn đọc một trong số quan điểm của một người Séc trong bài viết sau để thao khảo.

Các bạn cũng như tôi, ai mà chả biết những người xung quanh mình thường mỗi người một ý, người thì không ăn hăm bơ gơ, người thì từ chối ăn gyros, không ăn mì hay không ăn xúc xích kẹp bánh mì… Việc người không ăn thứ này, người không ăn thứ khác ở đâu mà chẳng có nhất là trong đời sống hiện đại, khi chế độ ăn uống thể hiện phong cách sống lành mạnh. Nhưng còn lí do tại sao người không thích ăn mónthứ này, người không ăn món khác lại rất khác nhau.

Bài viết này chắc chắn không ám chỉ một ai cũng như những lí do không ăn món này hay món khác của họ. Nhiều người chẳng thèm để ý xem các loại đồ ăn nhanh có lợi cho sức khỏe hay không mà đơn giản chỉ vì đó là những món ăn do người Việt Nam, người Triều Tiên hay Mông Cổ nấu. Họ nói mà không biết rằng chính quan điểm ấy của họ đã mang dáng vẻ phân biệt chủng tộc rồi.  Những lí do mà họ đưa ra thật nực cười, cách thức đùa cợt quái ác ấy nhiều khi làm người ta rơi nước mắt. Sau đây là một vài ví dụ:

“Tôi chẳng bao giờ ăn ở nhà hàng của người Việt Nam bởi vì điều kiện vệ sinh của họ thật kinh khủng”;

“Tôi chẳng bao giờ ăn ở nhà hàng của người Việt Nam cũng như chẳng bao giờ mua quần bò họ bán bởi vì họ là những người nhập cư đã lấy mất công ăn việc làm của người Séc và là những kẻ trốn lậu thuế của nhà nước”;

“Tôi chẳng bao giờ ăn ở nhà hàng của người Việt Nam bởi vì văn hóa ăn thịt chó là chuyện thường tình của họ, ai mà biết được họ nấu thức ăn từ thứ gì”;

“Tôi chẳng bao giờ ăn ở nhà hàng của người Việt Nam bởi vì tôi không thể nào chấp nhận được lũ lợn da vàng ấy”.

Vâng, chính tôi đã từng gặp những chuyện như vậy dưới nhiều hình thức khác nhau. Thậm chí có người tán đồng cả 4 ý kiến nêu trên. Nhưng quan niệm thái quá như vậy trong xã hội chúng ta đâu có thiếu. Thôi thì hãy bỏ qua chuyện ấy. Thử xem xét từng ví dụ cụ thể một xem sao

Diệu kỳ mắm của người Việt

Báu vật quốc gia

Mắm của người Việt không chỉ là gia vị mà là món ăn khoái khẩu của mọi người. Bởi vậy, mà người ta mới thấy thèm, thấy nhớ mắm quắt quay: Chiều chiều ra đứng ngõ sau/Thấy em kho mắm luộc rau anh thèm” hay “Về quê ăn mắm tép đồng/Xa quê nhớ món rau đồng quắt quay. Khắp ba miền Bắc - Trung - Nam đều có vô số các loại mắm. Chiếm số lượng nhiều và phổ biến nhất là các loại mắm nước làm từ cá biển. Trong đó đệ nhất thiên hạ là mắm cá cơm. Hầu như tất cả vùng duyên hải Việt Nam đều có mắm cá cơm.

Một số nơi mắm cá cơm nổi tiếng như Nam Ô (Đà Nẵng), Cát Hải (Hải Phòng), Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Mắm cá cơm của người Việt lừng danh khiến tác giả Simon Montlake cũng phải tâm phục khẩu phục mà viết trên tờ Người hướng dẫn khoa học đạo Cơ đốc của Mỹ đại ý rằng: “Nước mắm đối với Việt Nam cũng giống như rượu cô-nhắc đối với nước Pháp vậy. Đây là báu vật quốc gia không thể làm được ở bất cứ nơi nào khác. Cá cơm là loài cá cho ra loại nước mắm ngon nhất và đạt được độ đạm cần thiết cho người tiêu dùng. Độ đạm là thông số đo lường chất lượng sản phẩm, muốn sản phẩm có chất lượng tốt thì phải sử dụng nước mắm cốt có độ đạm cao, nhiều chất dinh dưỡng và chất lượng để sản xuất.

Nhưng dân tộc Việt không chỉ có các loại mắm làm từ cá biển, có nhiều loại mắm “độc chiêu” khác. Ở miền Bắc có mắm cáy, mắm rươi. Huế nổi tiếng mắm ruốc, mắm tôm chua, mắm cá rò... Một số vùng duyên hải miền Trung có mắm tôm, mắm mực, mắm sò, mắm nghêu, mắm tép… Miền đất khẩn hoang Nam Bộ có quyền tự hào với các loại mắm đặc sản như mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng, cá linh, cá trèn... Đặc biệt, ở miền Tây Nam Bộ, mắm ba khía là “món ăn khẩn hoang” thuộc hàng độc nhất vô nhị trên khắp hành tinh. Còn Châu Đốc là “thủ phủ mắm” của vùng đất này. Nếu có dịp đến An Giang, bạn nên vào chợ Châu Đốc để khám phá những “núi mắm” đặc sản của miền sông nước miền Tây.

Mắm Việt tỏa hương

Mắm - món ăn dân dã bình dị của người Việt bây giờ đã tỏa hương đi nhiều nước trên thế giới. Trước hết, nỗi nhớ mắm quắt quay của những người Việt xa xứ đã “dẫn đường” cho mắm ra nước ngoài. Hiện nay các siêu thị của người Việt ở California, Texas (Mỹ), hay một số nước châu Âu có nhiều Việt kiều sinh sống nhiều loại mắm quen thuộc trong bữa cơm Việt Nam đều có mặt. Người viết bài này có lần vào một chợ người Việt ở Austin (Texas) và rất dễ dàng mua một chai nước mắm “cải thiện” bữa ăn trong chuyến đi có 14 ngày mà sao nỗi thèm mắm dài như… 14 tháng! Ngay cả một số người phương Tây cũng “ăn quen bén mùi” nước mắm Việt.

Có những nhà hàng ở trời Tây sử dụng loại nước xốt này của người Việt trong chế biến. Thậm chí một số sách, báo nước ngoài viết bằng tiếng Anh, Pháp, đặc biệt là sách dạy nấu ăn bắt đầu sử dụng nguyên văn "sauce nuoc mam" chứ không xài "fish sauce" hay "la saumure" nữa. Tôi còn được biết, một đầu bếp Mỹ gốc Việt tên là Huỳnh Hùng từng thắng giải đầu bếp giỏi nhất của cuộc thi "Top Chief 3 Miami" của đài truyền hình Bravo (Mỹ) với sự tham gia của nhiều đầu bếp danh tiếng Âu - Mỹ là nhờ... mắm! Món tôm rim và món thịt vịt của anh làm các vị giám khảo tấm tắc ngợi khen và cho điểm cao nhất là có sự “tham gia” của nước mắm đặc sản nơi chôn nhau cắt rốn của anh. Bản thân chàng đầu bếp trẻ tuổi này cũng đồng ý: “Nước mắm là gia vị truyền thống bậc nhất của người Việt Nam

man món lạ Âu - Việt

Thứ Ba, 24/01/2012 10:34

Roland đi cùng tôi, chỉ vào cửa bên ngoài một nhà hàng Việt Nam ở khi Hackney phía Đông London hỏi họ viết gì vậy. Theo hướng anh chỉ, tôi thấy tấm bảng viết tay ''Hôm nay có lòng lợn tươi”.

Nhà hàng quả rất tinh đời khi chỉ viết quảng cáo trên bằng tiếng Việt để cuốn hút Việt kiều Anh, chủ yếu là người Bắc đến đây những năm thập niên 1980 thèm lòng heo chấm mắm tôm. Nếu để thêm tiếng Anh, dân Ănglê đọc được chắc cao chạy xa bay, một đi không trở lại.

Cũng lại trong lịch sử người Anh vốn nổi tiếng thám hiểm thế giới, chinh phục các vùng đất xa xôi rừng thiêng nước độc mấy cũng được, nhưng về ẩm thực lại khá nhát gan, thịt ếch còn không dám ăn.

Dân Pháp khoái ăn đùi ếch nên bị dân Anh chọc là “frogs” (con ếch). Dân Pháp cũng không vừa gọi Anh là “rosbif” (phiên âm tiếng Pháp của chữ “roast beef”, món thịt bò đút lò thường được ăn vào chủ nhật ở Anh) hàm ý chê người láng giềng ẩm thực không phong phú.

Sống ở Anh khá lâu nhưng tôi chỉ biết được vài món có thể gọi là kỳ thú ở đảo quốc này. Thứ nhất là haggis, món truyền thống Scotland (thuộc Vương quốc Anh) được làm từ phổi, tim, gan cừu băm nhỏ trộn gia vị nhồi vào bao tử cừu, dùng chỉ khâu lại rồi luộc chín.

Tim, gan đối với người Việt là món ăn bình thường nhưng ở đây rất lạ đời, dân bản địa không phải ai cũng từng ăn. Theo đúng cách ăn kiểu dân gian, khi haggis được dọn lên bàn trong những bữa tiệc, cả khách lẫn chủ sẽ nhảy lên ghế, đặt một chân lên bàn rồi ngửa cổ nốc một hơi hết ly whisky, xong thảy ly ra sau lưng rồi mới ngồi xuống ăn tiệc.

Không biết ngày nay truyền thống đó có còn không, nhưng hy vọng nam giới sẽ không mặc váy kilt kẻ carô của đàn ông Scotland khi dự tiệc kiểu này.

Haggis xuất thân con nhà nghèo, những ai không đủ tiền mua thịt nạc mới tận dụng nấu những thành phần bỏ đi, nhưng nay đã trở thành món quốc hồn quốc túy của vùng cao nguyên lạnh giá. Nhất là từ khi Robert Burns sáng tác thơ hát tặng haggis (Ode to a Haggis, hoặc có bản ghi là Address to a Haggis), dưới đây là đoạn mở đầu:

Gương mặt vui tươi, chân thành của bạn đẹp làm sao

Tộc trưởng của họ nhà bánh pudding

Bạn chiếm vị thế trên tất cả ấy

Dạ dày, bao tử và  ruột

Bạn xứng đáng với sự vẻ vang này

Trích đoạn trên đọc qua sẽ thấy khá ngô nghê, khó tin một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất Vương quốc Anh đã viết bài thơ này.

Bài ca ngợi haggis của Burns ra đời năm 1786, trong bối cảnh Mỹ dưới sự lãnh đạo của tướng George Washington vừa giành độc lập từ Anh trước đó không lâu; Pháp đang trong thời kỳ mâu thuẫn xã hội sâu sắc dẫn đến Cách mạng Pháp ba năm sau; còn ở nội địa mối quan hệ Scotland và Anh không mấy tốt đẹp. Vì vậy có thể nói đây là hành trình tìm kiếm bản sắc dân tộc Scotland của Burns và là cách ông thể hiện tình yêu quê hương xứ sở.

Không biết có phải vì vậy mà đây trở thành bài phổ biến nhất trong số 717 tác phẩm của Robert Burns trên trang web BBC, hơn cả hai bài nổi tiếng của ông là Tình yêu tôi như một hoa hồng đỏ do chính thái tử Charles đích thân ngâm thơ thu radio, và bài Auld lang syne được hát vào mỗi dịp năm mới ở Anh.

Một món lạ nữa là black pudding, tạm dịch: bánh đen, một loại xúc xích từ huyết heo, trộn mỡ heo, hành tây, bột yến mạch và các loại gia vị, tất cả xay nhỏ nhồi vào ruột heo, tương tự món dồi VN.

Cũng như haggis, đây xuất thân là món nhà nghèo nhưng đã trở nên phổ biến, nếu có dịp đến Anh ở khách sạn từ bình dân đến năm sao, bữa sáng bạn sẽ thấy black pudding ăn chung với thịt heo muối, xúc xích, nấm, cà chua chiên, bánh mì lát nướng.

Nhắc đến huyết heo, tôi nhớ cách đây bảy năm, trong lần ghé chơi Vienna, thủ đô nước Áo, chú Thomas của Daniel - bạn tôi - dẫn hai đứa tôi đi ăn nhà hàng. Có một món mà khi tôi ăn, hai đứa nhìn cười ra vẻ bí mật lắm.

Đợi tôi ăn xong, họ mới tiết lộ gọi món xúc xích làm từ huyết heo kiểu Áo, vừa nói vừa nhìn tôi vẻ thăm dò. Tôi tỉnh bơ: “Tưởng gì, huyết heo ở Việt Nam con ăn với bún riêu hoài” làm hai chú cháu xụi lơ vì tưởng tôi sẽ la lối hoặc đấm ngực kêu trời.

Nói vậy thôi chứ tôi rất nhát gan, lớn lên ở Việt Nam nhưng cả đời chưa bao giờ ăn tiết canh vịt, còn hột vịt lộn chỉ ăn miếng màu trắng sần sật và lòng đỏ, vịt con không ăn. Những năm tôi lớn lên vào thập niên 1980, mỗi lần mua hột vịt lộn là mẹ tôi ép ăn cho bổ, có lần tôi nuốt trộng mà nước mắt nước mũi giàn giụa. Nhiều năm sau tôi mới biết hột vịt lộn luôn nằm trong danh sách mười món ghê rợn nhất thế giới đối với phương Tây!

Vì nhát gan lên cuốn du ký ẩm thực châu Âu Bánh mì thơm, cà phê đắng (NXB Trẻ) của tôi không có thức nào quá lạ đời, chỉ toàn mấy món “hiền khô” kiểu thịt heo nướng xiên Hy Lạp, xúp cá Thụy Điển, cá tuyết muối Bồ Đào Nha, vẹm xanh hấp rượu kèm khoai tây chiên Bỉ, bánh kem Slovenia...

Có lẽ món kỳ thú nhất tôi từng ăn trong những chuyến đi xa là món thịt tuần lộc ăn ở Phần Lan. Tuần lộc (reindeer) là con vật kéo xe cho ông già Noel có nhiều ở Scandinavia, nhất là ở vùng cực Bắc Lapland, cả chạy hoang lẫn nuôi trong các trang trại. Khi chúng tôi đi xe qua những con đường xuyên rừng bạch dương thỉnh thoảng lại thấy cả đàn chạy ngang giương mắt nhìn.

Khách sạn chúng tôi trú ngụ những ngày ở Lapland dĩ nhiên cũng có thịt tuần lộc. Có lần trong bữa sáng tôi thấy một cậu bé chừng 9 tuổi lắc đầu không chịu ăn tuần lộc, mếu máo: “Sao mình ăn thịt Rudolph vậy ba?”.

Rudolph là tên chú tuần lộc được chọn kéo xe cho ông già Noel trong bài hát Rudolph, chú tuần lộc mũi đỏ / Có một chiếc mũi bóng lưỡng / Và nếu bạn từng thấy chú / Bạn thậm chí sẽ nói mũi chú tỏa sáng, hầu như Giáng sinh nào cũng được hát trên tivi.

Cậu bé kia là du khách nên thấy lạ chứ trẻ em Phần Lan lớn lên với món thịt tuần lộc nhiều nạc và rất bổ nên xem như thịt bò, thịt heo. Tuần lộc ở đây được chế biến nhiều kiểu như ăn tái, đút lò, nướng, làm hamburger, xông khói, xào lăn, hầm. Tôi đã thử vài lần, thấy rất dễ ăn, sớ thịt mềm, ngon ngọt hơn thịt bò nhiều và không có mùi lạ như thịt cừu

Nhắc đến món chim chóc, ở Anh còn một món khá kỳ thú nữa là bánh nướng làm từ thịt cổ thiên nga, có từ nhiều thế kỷ trước. Bởi vậy nếu có ai khen bạn cổ cao ba ngấn thon thả như cổ thiên nga cũng đừng vội mừng thầm, vì thiên nga cũng như gà vịt vậy thôi. Món này dường như bây giờ đã thất truyền, lý do vì thiên nga ngày nay là tài sản của nữ hoàng Elizabeth đệ nhị nên dù bơi trên sông hồ khắp nước Anh cũng không ai được phép bắt.

Nếu bạn sợ khi nghĩ đến bánh làm từ cổ thiên nga cũng không có gì lạ như ngạn ngữ Anh có câu "Món thịt của người này là độc dược của người khác" vậy, sống đâu quen đó.

Cũng như bàn thờ gia đình cúng tất niên có con gà luộc còn nguyên đầu cả mắt mũi mào, miệng gà ngậm thêm bông hồng tỉa từ trái cà chua ở Việt Nam thấy bình thường nhưng bạn Alastair của tôi tới Việt Nam ăn Tết nhìn thấy đã hồn xiêu phách lạc, "về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.

Việt kiều về quê khoái những món "hổng giống ai"

Chàng kỹ sư nọ ở mấy chục năm bên Pháp nay về thăm quê Mỹ Tho, khi cùng người thân đi dạo phố, hồn nhiên như ngày nào thơ bé chàng xà lại gánh chuối nướng chan nước cốt dừa mua ngay hai bịch và mua thêm mấy trái bắp nướng thoa mỡ hành nóng hổi. Vào nhà hàng, ai uống rượu bia thì uống, chàng bảo cháu gọi cho mình ly nước mía... Một ông VK Nhật, chuyên gia của hãng Sony thì bảo "tôi nhớ lắm món bún mắm, canh chua tép mẹ nấu hồi nhỏ" .

Cậu em kia đi định cư ở Mỹ từ năm lên 14. Sau 20 năm trở về thăm quê, vào dịp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu, đến nhà anh chị, câu đầu tiên cậu nói “Chị chỉ cho em xin miếng mít ướt, sau đó quí nhất là hột mít lùi tro. Em thèm lắm”.

Nghe rất lạ tai, ngay chính những người thân ở Việt Nam, nhưng đó là "nhu cầu" có thật đối với nhiều Việt kiều và cả những du khách quốc tế đến Việt Nam, họ rất muốn thưởng thức một món gì đó rất lạ, biểu trưng cho một vùng địa lý mà họ ngang qua Sự thành đạt của những quán Ngon, Tib hay buffet gánh nơi KS. Hương Sen, buffet đồng quê resort Văn Thánh hay Thanh Đa, Bình Quới là cũng nhờ biết dựa vào việc đáp ứng nhu cầu này. Nhưng thật ra là vẫn chưa đạt, vì những nơi đó, chưa chịu khó sưu tầm để thực hiện những món chân quê, có thể nói là “hổng giống ai” đối với thời hiện đại hóa. Tỉ như món hột mít lùi tro vậy. Ăn mít xong, gom hột lại đem lùi vào tro bếp độ 7 ngày, khi hột mít chuyển mình sắp nẩy mầm thì lấy ra nướng lửa than, vừa thơm, vừa ngọt, vừa bùi.

Cũng hột mít nhưng với tuổi thơ ven giòng Châu Giang - An Giang lại nhớ món bánh sapanat. Cô Mery Ngọc, Việt kiều Úc mới về đến nhà, đã xin được cùng chị làm và ăn lại bánh sapanat, một loại bánh chân quê của người Chăm cũng làm từ bột hột mít, thịt tẩm và đặc biệt, nước dừa phải thắng tới độ “mẹ bông con”. Tức thắng đến khi nước dừa vừa đóng váng dầu trên mặt.

Nghe có vẻ kỳ cục, nhưng sĩ tử và nông dân Huế lại rất nhớ mùi vị của cơm bới mo cau. Đi học, đi cày, đi buôn đều đem theo mo cơm bới, cơm gạo đỏ nhồi trong mo cau, ăn với muối mè có một mùi thơm rất lạ.

Người Quảng Ngãi thì nhớ món Don, một loại như hến, nhỏ li ti, nước luộc Don đựng trong ghè đất, mùa hè húp vào ngọt thanh và mát từ miệng xuống cổ.

Cũng là món nhớ đời, ngô non luộc từ biền bãi sông Hồng, các cô gánh qua bán trong phố cổ Hà Nội. Khách du tìm đến chả cá Lã Vọng cũng chỉ vì món chân quê, cùng với quả hồng ngâm chấm với chuối trứng quốc, bát canh quả sấu, cà pháo mắm tôm.

Huế thì mắm tôm gọi là ruốc, chấm với quả vả sống cũng là món nhớ đời. Quả vả, quả mít non bắt đầu là món “trợ đói”, ấy thế mà khi quán Tib của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn bày món vả trộn, đã hấp dẫn thực khách tổng thống Bush. Vả luộc xé nhỏ, dùng tay bóp nát, nghèo thì trộn với muối mè và rau răm thái chỉ, sang thì thêm tôm, thịt heo ba chỉ. Cũng nằm trong những sản vật “trợ đói nghèo” mà nhiều món ngon lạ xuất hiện. Từ món muối sả, canh me đất, canh rau tập tàng…

Mùa nước nổi trong Nam thì canh bông điên điển, cá linh kho rồ. Kho rồ là cách đơn giản, đổ cả rổ cá linh vào nồi kho nước, mà không cần mổ bụng chà rửa, cá ăn như vậy sẽ còn mùi thơm ruộng đồng hấp dẫn.

Đến Quảng Nam, Hội An vào lễ Tết, thì nhiều người nhớ món bánh tổ, mắm kho rau, mặc nạm hay tô mì sứa, cao lâu. Ngang qua xứ Thanh, trở về quê cũ vào mùa đông giá rét, nhớ làm sao món nhắm. Nhắm chỉ là loại chè trôi nước (trong Nam gọi là chè sôi nước), nhưng thay vì pha nước cốt dừa thì thay bằng mật mía đường và ăn nóng. Hay món nhòe, như bánh ram nhưng hạt nhỏ bằng viên bi, nhưn đậu xanh, vỏ dính đầy mè chiên giòn, nhóm một nhúm thả vào miệng là nhận ra cả một trời quê hương nồng thơm tang dòn trong đó.

Cá bống kho tiêu, cá rô kho tộ, bắp nướng, khoai từ, khoai mì… thì tương đối đơn giản nhưng cũng có nhiều người nhớ nhung.

Đôi lúc chỉ cần nhâm nhi lại được quả chùm ruột, hay cắn lại trái bòn bon, quả ổi sẻ da xanh ruột đỏ thơm lừng sẽ thấy lại thời tuổi thơ tóc còn khét nắng.

Mong rằng các nhà hàng du lịch của làng ta, chịu khó sưu tầm chế tác, làm sao để mỗi nơi có được một món “hổng giống ai” đó, để mà tạo ấn tượng cho thương hiệu, như trường hợp món mít trộn của thương hiệu Tib, hay món quà tặng bằng con bột tò-he ở Cyclo bar của Majestic, để thoả lòng những kẻ xa quê.

Có thể liết kê danh sách cả trăm món “hổng giống ai” mà Việt kiều về quê ăn Tết và "đặt hàng", như những muối sả, canh rau tập tàng, khoai từ, cá bống kho tiêu, mứt dừa, bánh phồng, kẹo chuối… nhưng thật bất ngờ, nơi khách sạn Hương Giang, tôi đã gặp một Việt kiều là một nhà thơ gốc Huế. Anh đòi leo núi Ngự Bình để ăn lại một vài trái sim tuổi thơ và còn lẩm bẩm đọc: “Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước, đi tìm người thương”.

Đói, nhưng chỉ ăn có nửa trái sim, còn nửa kia để dành cho người thương. Thế thì, làm sao không nhớ da diết đến những món ăn quê ran quê rích từ thời thơ ấu, làm sao có thể quên đi một miền ký ức ngọt ngào thấm đẫm tình người hoà quyện hồn quê…

Cá nhậu - món quê tuyệt chiêu

Cập nhật lúc :3:09 PM, 06/05/2010

Quê tôi ở vùng của sông Lạch Trường, ở đó có loài cá rất đặc biệt bơi được trong môi trường nước, trườn trong bùn lầy và sống trong hang đó là loài cá nhậu

Loài cá còn được gọi cái tên kỳ lạ: “cá bỏ giỗ” và gắn với một câu chuyện vui cười ra nước mắt, có nội dung giáo dục sâu sắc mà thâm thuý. Có cô dâu mới được mẹ chồng đưa tiền đi chợ mua cá về làm giỗ, đi qua bãi soi cô thấy vô số là cá nằm chen chúc bò nhởn nhơ ở vũng bùn cạn, cô đinh ninh thế nào cũng bắt được dễ dàng. Có bao tiền đi chợ cô ăn quà bằng hết. Ai dè khi chợ tan cô dâu trở về xăm xăm bước xuống bắt thì loài cá đông đúc hiền lành là thế chỉ trong chốc loáng cái đã biến mất vô tăm tích. Cô hoảng loạn chua xót ngậm ngùi đành làm chiêu lừa gạt đánh mất cả sự kín đáo yểu điệu thục nữ, đành chịu tội bỏ giỗ. Tội này xưa nặng lắm, các cụ đã dạy rằng: “trách kẻ bỏ giỗ không ai trách cỗ lưng” tiếng nhơ chẳng dễ gì gột rửa. Chuyện cổ đã phần nào nói lên môi trường và thói quen sống của loài cá này. Cá nhậu con nhỏ như đầu đũa, con lớn to dài hơn ngón tay trỏ. Thân cá tròn lẳn có lớp da trơn màu nâu xám, những con cá to thường có đốm hoa lân tinh trên mình. Cá có thị giác và thính giác rất nhạy, hễ có động chạy rào rào biến mất một cách mau lẹ. Thị giác thính nhạy là nhờ cấu tạo đặc biệt của mắt. Mắt cá nhậu có khả năng “thụt thò” như tê lê của máy ảnh. Khi quan sát mắt cá trồi giương cao hơn hẳn lúc bình thường.

Cá có khả năng trườn nhanh đến kỳ lạ vì cơ thể chúng có cấu tạo đặc biệt. Khi có động cá khép khít mang và phồng lên như một đệm không khí ở phần đầu. 2 vây trước cấu tạo như hai cái bánh lái kết hợp với túi khí nâng cá lên nhẹ bổng và cá lướt đi mau lẹ. Cá chẳng bao giờ bắt được bằng tay không, thường để bắt cá phải đi đào hoặc là để đi đánh cặm.

Đi đào là cách đánh bắt của các bà phụ nữ, gặp khi nước rặc họ đeo giỏ, mang cái thuổng nhỏ đi đào. Khéo léo phát hiện ra lỗ có “mà” mới, tay cắm phập thuổng xuống, đè ngật thuổng ra phía sau mắt quan sát, tay nhanh chóng chộp lấy cá. Đi đào bắt cá có ưu điểm cá còn nguyên con khoẻ mạnh nên rất tươi, bán được giá. Đi đánh cặm thường được cá to nhưng không được tươi như đi đào. Cá nhậu bị trúng cặm kẹp ngang cổ thường bị chết nên thợ cặm thường phải đi rao bán trong ngày. Cá nhậu tươi sống đem về chẳng phải mổ ruột gì sất. Các cụ xưa còn dạy: “Cứt cá lá rau”. Với cá nhậu thì càng đúng. Chỉ việc cho cá vào chậu cho vào một nhúm muối Cá “tự hành tội sống” nhảy vật vả một hồi trút sạch nhớt, chỉ việc bóp qua và rửa lại cho kỳ sạch. Cá cho vào nồi lơn muối ngấm rồi tra gia vị gồm: tiêu bắc, nước mắm, nước nghệ đặc hoặc bột nghệ và nước hàng (thứ nước cô từ mật mía).

Có hai thứ lá người quê tôi thường kho với cá nhậu là lá găng và lá cúc tần. Lá cúc tần kho ngon hơn cả. Lá cúc tần mọc bên bờ rào, bên lối ngỏ, chọn búp tưoi non và lá bánh tẻ rửa sạch cho vào nồi sắc đều trước khi kho. Đổ chút mỡ lợn và hành củ đập rập đem kho cho kỳ cạn. Cá thẩm thấu được tất cả các gia vị ăn béo ngọt tự nhiên, thơm mùi cúc tần, gợi cảm giác thú vị hiếm có: ai đã ăn một lần rồi thì như bị bỏ bùa mê, không thể không bỏ tiền để được ăn lần thứ hai. Cá ăn đã ngon, lá cúc tần ngấm nước cốt cá và gia vị ăn cũng ngon không kém. Cái lạ là ăn chẳng bao giờ chán. Cá hợp với cơm mới ngọt ngào làm nên bao cảm hứng, cá cực kỳ tốt, lành và bổ nhất là đối với phụ nữ mới sinh. 

Món cá nhậu mà đem nấu dấm dọc mùng, ăn ngon sụt khố. Đem cá nhậu lẫn với gia vị, lựa mức ngưòi dùng cho một đến hai bát nước lạnh, đun sôi cho dọc mùng vào nấu, bắc ra tra rau tía tô sẽ được nồi dấm thơm ngon điệu đà.

Người sau sinh bây giờ thiệt thòi hơn vì không được ăn cá nhậu, do sự thay đổi môi sinh cá nhậu trở nên khan hiếm. Dân đào bắt được kg nào thì người đi buôn đã trực chờ mang đi nơi khác. Nghe đâu giá 1 kg cá nhậu lên tới 250.000 đồng. Cá lên ngôi dần, các cửa hàng đặc sản đặt mua cũng chẳng mấy khi mà mua được. Có khi phải đặt tiền trước mươi ngày, nửa tháng may mắn mới có được 5-7 kg.

Tôi lo sợ loài cá này có nguy cơ tuyệt chủng nên cứ tha thiết giới thiệu, may ra có nhà khoa học, người kỹ sư thuỷ sản nào tâm huyết nghiên cứu để bảo vệ. Khi nghe có dự án của tổ chức Hội chữ thập đỏ quốc tế trồng lại rừng sú ngập mặn người dân quê tôi lấy làm mừng lắm, đê sẽ được bảo vệ, có cây sú sẽ có bùn có sình lầy, có phù du, rong rêu và và hẳn sẽ có đất để loài cá nhậu tự do “sinh con để cái”. Món cá nhậu sẽ dễ dàng có được chứ không phải chỉ để gieo khát thèm cho người sành ẩm thực. Cá nhậu lại nhiều như xưa để cô dâu mới ngày nay mua về cho bà cho mẹ, háo hức mong chờ ngày “khai hoa kết nụ” sẽ được ăn cá nhậu kho cúc tần.

Món ăn Việt ngon, lạ, nhưng độ phủ sóng vẫn kém hẳn bếp Tàu, Thái, Nhật. Thành phố Leuven (Bỉ) gần nhà tôi ở nổi tiếng là thế, tìm mỏi mắt không ra nhà hàng Việt. Muốn ăn phải lên Brussels, chỉ vài góc phố mà quần tụ mấy nhà hàng mở cửa ngó sang nhau.

Hai năm trước, món Việt đầu tiên tôi ăn ở Brussels là miến gà. Bát miến nhỏ không mộc nhĩ, không hành, dĩ nhiên không lòng gà, thay vào đó là những sợi cà rốt mỏng (đúng kiểu bếp Âu, cứ súp là cà rốt!), nước dùng ngọt vị đường, không hợp khẩu vị người Bắc.

Anh bạn Nguyễn Minh sang Đức dự hội chợ sách quốc tế, kể từ sân bay về trong đầu chỉ nghĩ đến hai việc cấp bách "nấu cơm và luộc rau". Đến châu Âu chốc lát, ăn món Tây chóng ngán, đến món Việt cũng thấy lai tạp. Nhiều bếp Việt phải pha chế gia vị, điều chỉnh hương liệu cho gần khẩu vị người Âu hơn để hút khách. Mới sang, vị giác còn... tự vệ khỏe, ở lâu rồi, dần hòa nhập hương vị kiểu này, ăn ngon miệng hơn.

Và khi đã ở đây cả thập kỷ như chị Ngọc Diệp, sẽ thành thạo lựa từng món ngon nhất tại mỗi nhà hàng: "Quán Chào có phở và đặc biệt là bún bò Huế ngon, đúng vị. Phở đủ thịt nạm, thịt tái, nước lèo ngọt. Bún bò Huế có móng heo, bắp bò, thơm mùi mắm ruốc, nhiều loại rau ghém. Còn muốn ăn bánh xèo cực ngon, nước chấm trứ danh, vào quán Cocotier. Gần đây có tiệm Thiên Long phở, bún bò cũng ngon".

Trong số bạn Việt của tôi ở Bỉ, Minh Thu 31 tuổi được cho là may mắn nhất. Những năm đầu, hầu như cuối tuần nào anh chàng Jean cũng lái xe hơn 4 tiếng từ Bỉ sang Paris (Pháp) để đãi vợ món phở quận 13. Thu kể: "Gần nhà khai trương cửa hàng quảng cáo phở hoành tráng nên rủ chồng vào ăn. Tô phở đặc biệt giá 24 Eur. Nhưng sốc không vì giá mà vì thấy những miếng cà rốt to bằng ngón tay trong bát phở! Mất hứng. Nghe người bà con bên Pháp nói phở Việt ở Paris gần vị phở quê nhà nên tuần nào cũng chịu khó đi ăn".

Được Thu mách, sang Paris tôi cũng tìm đến Phở 14 ở quận 13. Đến đây quả thực rất tự hào vì từ "phở" xuất hiện nhiều bậc nhất trên các biển hiệu, nhà hàng. Quay góc nào cũng thấy! Bà con tán chuyện trên internet rằng Phở Mùi đậm vị phở Bắc, Phở 14 là vị phở Nam, cả hai quán đều ở đường Tobiac, quận 13.

Ấy thế mà hỏi đến 2- 3 người Việt trên phố tôi vẫn không tìm ra hàng phở Mùi, tiếp tục không may khi đến Phở 14 dịp quán đóng cửa tu sửa. Kế đó cũng là nhà hàng trưng biển Phở, khách đông nườm nượp, phải xếp hàng gần nửa tiếng mới có chỗ ngồi thưởng thức tô phở giá 7,5 Eur. Phở vị Huế, giống phở ở Brussels, ăn rồi lại tiếc, giá gọi hẳn tô bún bò Huế có hơn không?!

Biết tôi cất công sang Paris tìm ăn phở, chị Dương- theo học Thạc sĩ tại Pháp hơn 5 năm, tỏ vẻ không hứng: "Sao mình ăn đủ kiểu phở ở đây vẫn không thấy ngon, quán nào vị cũng giống nhau. Sau này thạo đường, chịu khó ra chợ Trung Quốc Tang Frères to nhất quận 13, bán đủ thứ, nào hoa hồi, quế để nấu phở, mắm ruốc Huế nấu bún bò, lá lốt nấu ốc chuối đậu, thậm chí cả rau ngót phục vụ các sản phụ ăn cho lành... Tự nấu đúng khẩu vị vừa ngon vừa rẻ. Làm một nồi bún bò, chồng con ăn hai ba ngày không hết, đi nhà hàng một bữa tiêu tốn bằng tiền chợ cả tuần".

Đến bếp nhà

Bếp nhà của người Việt sành ăn, nói không quá, quả là thiên đường quê hương! Đúng ngày toàn nhất 11-11-2011, Ngọc Diệp làm cả đám choáng khi khoe ảnh cậu con trai thứ hai đang thích thú gặm đầu gà. Chén món Nhất Thủ đúng ngày toàn nhất ở Brussels này đúng thật độc nhất! Minh Thu sửng sốt: "Từ ngày sang Bỉ đến nay chưa bao giờ nhìn thấy con gà đã thịt nào còn nguyên đầu. Nhà em bán thịt cho Tây, họ mà nhìn thấy cái đầu gà này chắc ngất".

Câu chuyện về con gà trống chết... toàn thây này còn ly kỳ hơn. Diệp kể: "Tớ mua con gà này ở tiệm chuyên bán đặc sản của Pháp tại Brussels. Nôm na là gà trống Gaulois cơ đấy! Gà bán ở siêu thị chỉ 2- 3 Eur/kg, gà Pháp đặc sản thì 9 Eur/kg. Đem về nhà ướp muối rồi hấp rượu, thịt thơm ngon chả kém gà ri quê nhà. Nhưng càng ăn càng thấy mùi gì đó không ổn, hóa ra nằm sâu trong bụng vẫn còn nguyên bộ lòng gan".

Tôi cũng được Diệp tư vấn cụ thể, tỉ mỉ cách chợ búa ở Brussels để có bữa ăn tươm tất. Mỗi khi nhận được tin nhắn của Thanh, đại loại "Hôm nay đổ bánh xèo, rảnh ghé ăn cho vui?", cả nhà tôi như mở hội bởi không chỉ được ăn món ngon đúng kiểu mà còn được hưởng không khí gia đình tíu tít bếp núc. Nhìn món bánh xèo và tô bún bò bày ra bàn, xúc động!

Bên ngoài tuyết bắt đầu rơi trắng đường phố. Trong nhà, chiếc bánh xèo vàng rộm lấm tấm đỗ xanh bốc khói, tô bún bò nức mùi mắm ruốc và sa tế, đĩa rau sống tươi rói nào cải xanh, húng quế, xà lách, rau răm, mùi tàu, diếp cá, tía tô... Bố mẹ chồng Thanh từng mở nhà hàng kiểu take away ở Leuven nên rất thạo nấu ăn, mua hàng và bảo quản thực phẩm.

Thanh chia sẻ: "Các loại rau thơm mua về chỉ được vài ngày là hỏng. Má chồng em thường đem rửa sạch, cắt khúc, chia thành từng hộp nhỏ để trong tủ đông lạnh, khi nào cần ăn lấy ra để vài tiếng cho rã đá rồi nấu. Nhà hàng cũng phải làm vậy, đặc biệt khi mùa đông đến. Ở các chùa của người Việt tại Brussels, thỉnh thoảng có người đến bán nem, chả nướng, vừa rẻ vừa ngon. Thỉnh thoảng em đến tiệm Nepal còn mua được cả hoa chuối đực, giá khoảng 4- 5 Eur, làm nộm hoa chuối rất ngon”.

Gần Tết, cả bọn dặn tôi nếu muốn ăn bánh chưng, bánh tét thì cùng đặt hàng ở Brussels. Diệp bảo: "Vài gia đình chung nhau đặt 15- 20 chiếc sẽ rẻ, chỉ 5- 7 Eur/chiếc, ngon và mềm hơn các loại bánh bán ở tiệm nhập từ Pháp, Hà Lan đắt gấp rưỡi, hay mặn nhân và chóng lại gạo. Tớ còn có điện thoại của mấy gia đình chuyên nấu xôi gấc, bánh bao cũng rất ngon".

Biết chuyện, cậu tôi đang ở Frankfurt (Đức) tiếc rẻ: "Giá cháu ở gần đây cậu sẽ cho mấy cái bánh chưng hàng xách tay xịn. Tết nào cậu cũng được ăn bánh chưng nấu ở quê nhà vì bạn bè, đồng nghiệp mang sang nhiều lắm, khỏi mua".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro