dich ngoai

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Gabriel García Márquez

Mấy cô điếm buồn

Mai Kim Ngọc dịch

I

Mụ đàn bà dặn ông già Eguchi:

„Không được làm điều gì lố lăng đấy nhé.

Không được đút ngón tay vào miệng cô gái đang ngủ,

cũng không được toan tính những chuyện tương tự."

(Yusanari Kawabata, Ngôi nhà những mỹ nhân say ngủ)

1.

Năm chín mươi tuổi tôi muốn tự thưởng một đêm tình điên với một xử nữ vị thành niên. Tôi nghĩ đến Rosa Cabarcas, mụ tú bà thường gọi cho khách quen mỗi khi có gái mới. Tôi chưa từng sa ngã trước những đề nghị dung tục của mụ, nhưng mụ chắc không tin tưởng vào những nguyên tắc sống trong sáng của tôi. Tôi đoán mụ sẽ cười ranh mãnh mà bảo, rồi anh coi, đạo lý cũng chỉ là vấn đề thời gian. Mụ trẻ hơn tôi chút đỉnh, nhiều năm qua bặt tin, và tôi tưởng mụ đã chết. Vậy mà tôi nhận ngay ra tiếng mụ trong điện thoại. Tôi vào đề liền:

"Hôm nay nhé."

Mụ thở dài cái sượt:

"Ái chà, anh giáo đa sầu đa cảm của tôi. Anh đi biến đâu cả hai chục năm nay, để bây giờ trở về đòi những chuyện khó thế."

Rồi lấy lại tức thì phong thái nghề nghiệp điêu luyện, mụ đưa ra khoảng nửa tá đề nghị, nhưng toàn là những món hàng đã có người dùng qua. Tôi nhất định không chịu, bảo phải là gái tơ, mà phải có ngay tối nay. Mụ làm bộ sửng sốt hỏi lại:

"Anh tự cho mình là thứ gì mà hách thế."

Tôi trả lời là chẳng là thứ gì cả, tôi biết cái gì làm được và cái gì không làm được. Tỉnh bơ, mụ bảo là mấy ông giáo chuyện gì cũng tưởng mình biết, mà thực ra chẳng biết chuyện gì. Trên cõi đời này làm gì còn gái trinh, trừ mấy cô nàng sinh tháng tám đúng vào con giáp xử nữ của hoàng đạo. Mà tại sao lại không cho hay trước nhỉ. Tôi bảo chơi đĩ, làm sao mà biết khi nào nổi hứng. Không bao giờ chịu lép vế với đàn ông, mụ nói chịu khó đợi vài bữa mụ sẽ đi lùng. Tôi nghiêm trang bảo:

"Chuyện này ở tuổi tôi, một giờ quý như một năm."

"Nếu vậy thì dứt khoát là không được", mụ nói chắc như đinh đóng cột. Nhưng rồi mụ đổi giọng:

"Để xem nào. Đã thế cóc cần, tôi gọi lại anh trong vòng một giờ."

Tôi không nói ra, nhưng biết rõ từ lâu là mình xấu trai, lại nhút nhát vụng về. Vì luôn luôn mong ước là mình không xoàng xĩnh tầm thường, tôi đã thành công làm ra bộ như mình không hề khiếm khuyết về những mặt này. Mãi cho đến hôm nay tôi mới quyết định tự nhìn bản thân, có sao nhận vậy, ít nhất là để nhẹ nhõm trong lòng. Khởi sự là cú điện thoại bất thường cho Rosa. Tôi lấy sự trung thực làm nguyên tắc cho cuộc sống mới của mình kể từ hôm nay, ở cái tuổi mà người ta phần đông đã chết ngủm.

Tôi ở một ngôi nhà kiểu thuộc địa, phía dãi nắng của công viên San Nicolás. Tôi sống tại đây từ khi lọt lòng mẹ, không vợ, không tài sản; cũng tại đây cha mẹ tôi đã sống và đã mãn phần, và tôi cũng tính sẽ từ giã cuộc đời này trong cô đơn, ngay trên chiếc giường mà tôi lọt lòng mẹ, hy vọng không đau đớn, và trong một ngày còn lâu mới tới.

Cha tôi mua ngôi nhà trong một cuộc đấu giá vào khoảng cuối thế kỷ mười chín. Ông cho một tổ hợp thương mại Ý thuê tầng duới làm tiệm bán xa xỉ phẩm, giữ lại tầng trên để sống những ngày hạnh phúc với ái nữ của một trong những thương gia của tổ hợp. Florina De Dios Cargamentos biết chơi nhạc Mozart, nói được nhiều sinh ngữ, và là người đàn bà đẹp nhất và tài hoa nhất từng sống trong thành phố: người đàn bà này chính là mẹ tôi.

Ngôi nhà rộng thênh thang và đầy ánh sáng, với những vòm cửa cong đắp bằng vữa, sàn lát gạch vuông bàn cờ kiểu Ý, bốn cửa kính lớn mở ra ban-công dài nơi mẹ tôi cùng mấy chị em họ thường ra ngồi ca hát những buổi tối tháng Ba. Từ đấy có thể nhìn ra công viên San Nicolás với nhà thờ lớn, thấy tượng đài Cristobal Colón, và xa hơn nữa thấy giang cảng với những nhà kho cùng chân trời bao la của sông Magdelena hai mươi dặm trước khi tới biển. Bất tiện độc nhất của ngôi nhà là mặt trời trong ngày di chuyển từ cửa sổ này sang cửa sổ khác, và những trưa hè nóng nực nếu muốn ngủ trong bóng râm thì phải đóng kín tất cả lại.

Năm 32 tuổi, còn lại một mình trên đời, tôi dọn vào phòng ngủ của cha mẹ và trổ cửa từ đấy sang phòng sách. Tôi bán đấu giá dần tất cả những đồ đạc không cần thiết để ăn, trừ những pho sách và chiếc đàn dương cầm.

Tôi làm biên tập viên tin điện cho tờ Hoà bình Nhật báo suốt bốn mươi năm qua, việc chính là chụp bắt tin tức thế giới đang di chuyển trong không trung bằng sóng điện hay mật mã, và dịch ra ngôn ngữ địa phương. Việc này đã hết, và tôi sống tạm bằng lương hưu trí nhỏ nhoi của nó; chút hưu trí khác nhờ dạy văn phạm Tây Ban Nha và La Tinh còn nhỏ nhoi hơn, và nhỏ nhoi hơn nữa là lợi tức từ những bài báo chủ nhật tôi đã viết không mệt mỏi hơn nửa thế kỷ nay; và sau cùng kể như không mang lại lợi tức gì đáng kể là những bài bình luận âm nhạc kịch nghệ người ta nể tôi mà đăng, khi tôi viết về những nghệ sĩ nổi danh đi qua thành phố.

Tôi không làm được gì đáng kể ngoài chuyện viết lách, nhưng lại không giỏi cách kể chuyện và hoàn toàn dốt về kỹ thuật dựng kịch. Tôi nhảy vào nghề văn chỉ vì tin tưởng vào nguồn sáng nhờ đã đọc sách suốt đời. Nôm na mà nói, tôi không có tài, bản thân không chút hào quang, chắc chẳng có gì để lại gì cho hậu thế, nếu không có mối tình lớn mà tôi đang ráng ghi chép lại đây.

Hôm đúng chín mươi tuổi, tôi thức giấc như thường lệ vào lúc năm giờ sáng. Vì là thứ Sáu, nên có việc viết cột báo chủ nhật cho tờ Hoà bình. Tảng sáng đã có những báo hiệu không tốt là xương cốt đau nhức và hậu môn xót. Trời lại đổ mưa giông sau ba tháng hạn hán. Tôi tắm rửa, đợi cà-phê ngấm. Rồi tôi rót một tách uống với mật ong, ăn cặp bánh, và mặc áo choàng làm việc vào.

Đề tài hôm ấy tất nhiên là về ngày sinh nhật thứ chín mươi của tôi. Tôi chưa từng nghĩ đến tuổi tác như chỗ mái nhà dột, nhắc nhở cho ta đời sống còn được bao lăm. Thuở thơ ấu tôi nghe kể là có người khi chết, chấy trên đầu sợ hãi chạy trốn ra gối, làm xấu hổ cho cả gia đình. Chuyện ám ảnh đến nỗi tôi cắt tóc ngắn đi học, và lấy xà-phòng tắm chó gội kỹ những cọng tóc lơ thơ còn lại. Bây giờ nhớ chuyện cũ, tôi thấy từ tấm bé tôi sợ mất thể diện hơn là sợ chết.

Tôi đã định từ mấy tháng nay là cột báo chủ nhật này không phải là để than tiếc như thường lệ những năm tháng đã qua, mà ngược lại để vinh danh tuổi già. Tôi bắt đầu bằng cách ôn lại xem mình có ý niệm về chuyện già nua từ bao giờ, và tôi tin rằng cũng mới đây thôi. Năm bốn mươi hai tuổi tôi có đi khám bệnh vì vai đau mỗi khi thở. Bác sĩ bảo không can gì, tuổi này như vậy cũng là bình thường. Tôi hỏi lại: "Vậy thì chuyện bất bình thường là tuổi của tôi chăng." Ông ta cười như thương hại. Ông ta nói: "Ông bạn có vẻ hiền triết nhỉ."

Đó là lần đầu tiên tôi liên hệ tuổi tác với già nua, nhưng quên sự việc ngay sau đó. Tôi đã quen với cái đau mỗi khi thức giấc; nó thay đổi vị trí và thể cách với năm tháng, có khi như thần chết đang cào cấu để rồi hôm sau lại tự giảm đi.

Tôi có nghe nói triệu chứng già nua là khi ta bắt đầu thấy giống cha mẹ mình. Nếu vậy, tôi nghĩ mình bị trời phạt là phải trẻ vĩnh viễn, vì cái bán diện mặt ngựa của tôi không bao giờ giống những nét thô tạp thổ dân vùng Caribbe của cha, lại cũng không mang những nét quý phái La Mã của mẹ.

Sự thật là những thay đổi vì tuổi tác xảy ra rất chậm, khó mà ghi nhận. Tự nhìn từ trong ta thấy ta bao giờ cũng vậy, nhưng kẻ khác nhìn từ ngoài vào lại thấy ngay kết quả của thời gian.

Năm năm mươi, tôi bắt đầu tưởng tượng tuổi già là như thế nào, khi bắt đầu có những lúc quên quên nhớ nhớ. Lục lọi khắp nhà để tìm kính, để thấy kính đang đeo trên sống mũi, hoặc đang tắm mà không tháo kính ra, hoặc đeo kính đọc sách chồng lên kính nhìn xa. Có ngày ăn sáng hai lần, vì quên mất đã ăn lần đầu. Có khi thấy bạn bè lúng túng ngượng ngùng vì mình kể lại câu chuyện mới kể tuần trước. Từ đó tôi lập trong đầu hai cuốn sổ, một cho các khuôn mặt quen biết, một cho danh tính từng người, nhưng khổn nỗi lúc hữu sự lại quên tên nào đi với mặt nào.

Sự lão hoá về dục tình không làm tôi bận tâm, vì rằng khả năng của tôi về mặt này không tuỳ thuộc tôi. Nó tuỳ thuộc các bà, vì quý phu nhân khi muốn thì rành rẽ phương cách cũng như nguyên do thành bại. Hôm nay tôi thấy tức cười những cậu mới tám mươi sợ hãi đi khám bác sĩ vì tình dục suy nhược, không biết rằng nó sẽ còn suy nhược hơn nữa ở tuổi chín mươi, nhưng có gì quan trọng đâu: đó chẳng qua chỉ là một trong những bất trắc ở đời.

Đổi lại, cuộc sống toàn thắng vì ông già chỉ hay quên những chuyện tầm phào, nhưng hiếm khi không nhớ những chuyện đáng nhớ. Cicéron đã phóng bút một câu tài tình minh hoạ chuyện này: Không có ông già nào quên chỗ mình giấu của.

Sử dụng những ý trên, tôi viết xong bản nháp đầu của cột báo chủ nhật khi nắng tháng Tám rọi vào những cây hạnh ngoài công viên, và chiếc tàu tải thư chậm đã mấy tuần vì hạn hán bây giờ đang hụ còi tiến vào bãi sông. Tôi nghĩ thế là ngày sinh nhật thứ 90 của mình đang tới.

Tôi không bao giờ hiểu tại sao mà cũng không giả bộ hiểu, nhưng những cảm nghĩ như ma quỷ lúc ấy làm tôi quyết định gọi điện cho Rosa Cabarcas, nhờ mụ giúp tôi khánh thành ngày sinh nhật này bằng một đêm trác táng. Tôi đã sống nhiều năm trong hoà bình thánh thiện với thân xác mình, tận tuỵ đọc lại sách cổ điển mà trước kia đọc không mấy chuyên cần, và nghe lại những chương trình nhạc hay, nhưng lòng dục của tôi hôm ấy khẩn cấp như lời Chúa gọi. Sau cú điện cho tú bà, tôi không ngồi yên nổi để viết tiếp. Mắc chiếc võng trong góc phòng sách nơi nắng sớm không rọi tới, tôi nằm ruỗi người đợi tin, tâm thần căng thẳng, ngực nặng trình trịch.

Ngày xưa tôi đã là đứa con được nuông chiều với bà mẹ có nhiều tài năng thiên phú chết mòn mỏi vì lao vào tuổi năm mươi, cùng với người cha nghiêm khắc cứng cỏi chưa bao giờ chịu nhận mình sai điều gì, sau cùng chết trong cảnh goá bụa chính hôm hiệp ước Neerlandia ký kết chấm dứt cuộc chiến ngàn ngày cũng như bao nhiêu cuộc nội chiến khác của thế kỷ trước.

Hoà bình thay đổi thành phố theo một chiều hướng mọi người không ngờ mà cũng không thích. Một đám phụ nữ không lấy gì làm tiết hạnh tới tụ họp tại các quán rượu đường Ancha, đã đổi tên thành hẻm Abello và bây giờ trở thành xóm Colón, trong cái thành phố thân yêu của tâm hồn tôi mà mọi người ưa thích vì thuần phong mỹ tục của dân chúng và sự trong lành của khí hậu.

Tôi chưa bao giờ ngủ với đàn bà mà không thù lao, và trong vài trường hợp hiếm hoi mà đương sự không thuộc giới chuyên nghiệp, tôi cũng ráng thuyết phục bằng lý hay bằng lực để họ nhận tiền, dù nhận xong có quẳng vào thùng rác cũng được. Năm hai mươi tuổi tôi bắt đầu ghi sổ danh tánh, tuổi tác, nơi chốn, cùng với đôi ba hàng về hoàn cảnh nào mà gặp gỡ và kiểu cọ làm sao. Tới tuổi năm mươi, sổ ghi được năm trăm mười bốn vị nữ lưu đã ngủ với tôi ít nhất một lần. Tôi ngưng việc biên chép khi sức lực đã xuống, và tôi có thể nhớ mà không cần sổ sách. Tôi có nguyên tắc đạo lý của tôi. Tôi không tham dự những vụ cuồng dâm tập thể hay bắt bò lạc nơi công cộng, mà cũng không chia sẻ bí mật hay kể lại những cuộc phiêu lưu thể xác hay tâm hồn với ai, vì từ tấm bé tôi đã biết là không có chuyện vay nào mà không phải trả.

Ngoại lệ độc nhất là mối liên hệ nhiều năm với con sen Damiana chung thuỷ. Gần như một em bé gái, nó dáng dấp thổ dân, khoẻ mạnh và quê mùa; nó ăn nói gần như cục cằn, đi chân đất trong nhà để khỏi làm mất yên tĩnh những khi tôi viết. Tôi nhớ hôm ấy đang nằm võng ngoài hành lang đọc La Lozana Andaluza, tình cờ thấy nó lúi húi trong phòng giặt, chiếc váy quá ngắn để lộ những đường cong mầu mỡ. Như nổi cơn dâm, tôi tới vén váy nó lên, tụt quần lót nó xuống tới mắt cá, và từ sau đâm vào mình nó. "Ối chao ôi là ông chủ ơi", nó rên lên một tiếng hãi hùng, "cái này không phải để vào mà là để ra". Toàn thân run lên, nhưng nó vẫn đứng vững. Về sau, tôi xấu hổ vì đã đối xử một cách đáng xấu hổ với con sen. Tôi muốn trả tiền cho nó gấp đôi giá tôi thường trả điếm đắt nhất bấy giờ, nhưng nó không nhận một trinh, và tôi phải tăng lương tính theo giá mỗi tháng một lần, luôn luôn trong khi đang giặt quần áo, và từ sau làm tới.

Có lần tôi nghĩ những chuyện dục tình như vậy có thể dùng làm chất liệu để viết lại cuộc đời lầm lạc khốn khổ của tôi, và tựa cuốn truyện như từ trên trời rớt xuống: Nhớ lại mấy cô điếm buồn.

Còn cuộc sống của tôi dưới mắt mọi người chẳng có gì đặc sắc: mồ côi cả cha lẫn mẹ, độc thân, không tương lai, nhà báo tầm thường, bốn lần vào được chung kết kỳ thi thơ Juegos Florales de Cartagena de Indias, và được các nhà hoạt hoạ yêu thích vì có khuôn mặt xấu xí một cách điển hình. Tóm lại, một cuộc sống lãng phí đã sai lầm từ đầu, kể từ hôm 19 tuổi được mẹ tôi cầm tay dắt đi tới tờ trụ sở tờ Hoà bình Nhật báo để xem họ có muốn in bài phóng sự về đời sống học đường tôi viết trong lớp văn chương. Bài được ra mắt trong số chủ nhật với lời tựa đầy khuyến khích của vị chủ biên. Nhiều năm sau, khi tôi biết là mẹ tôi đã trả tiền cho toà báo để in bài ấy cũng như bảy bài tiếp theo, thì sự việc quá trễ để xấu hổ. Cột báo của tôi đã có thể tự nó bay bổng, và ngoài ra tôi còn được phụ trách mục điện báo kiêm bình luận âm nhạc.

Sau khi đậu bằng cử nhân với hạng cao, tôi bắt đầu dạy văn chương Y Pha nho và La Tinh tại ba trường trung học công lập cùng một lúc. Tôi là một thày giáo xoàng, không có huấn luyện sư phạm, không năng khiếu, không chút xót thương đám học sinh tội nghiệp đến trường chỉ để trốn ông bố độc đoán ở nhà. Chuyện độc nhất tôi làm cho các em là giữ các em dưới kỷ luật sắt của cây thước gỗ, để ít nhất nhờ tôi chúng học được bài thơ tôi tâm đắc:

Hỡi Fabio

những gì ngươi bây giờ trông thấy,

những cánh đồng cô quạnh này

những núi đồi héo úa kia

đã có thời là nước Ý lẫy lừng.

Mãi về già tôi tình cờ mới biết sau lưng tôi đám học trò đã đặt cho tôi hỗn danh là giáo sư "Núi đồi héo úa".

Cuộc đời chỉ cho tôi chừng ấy, và tôi cũng không tìm cách đòi hỏi gì thêm. Mỗi ngày ăn trưa một mình giữa hai buổi dạy học, và sáu giờ chiều tới toà soạn để chụp bắt những tin tức từ sóng điện hay mật mã bay qua trong không gian. Mười một giờ đêm toà soạn đóng cửa, tôi bắt đầu cuộc sống thực của mình. Tôi vào khu đèn đỏ ngủ mỗi tuần vài lần với những bạn tình khác nhau, nhờ chuyên cần đã hai lần được phong là khách quý của năm. Thường là sau bữa ăn tối tại tiệm Roma, tôi chọn hú hoạ một nhà chứa nào đấy, và vào bằng lối cửa sau cho kín đáo. Đi nhà thổ cốt vì vui thú, vậy mà cũng có dịp hành nghề báo chí, nhờ cái miệng bép xép của mấy tay chính khách có tật chia sẻ bí mật quốc gia với bạn tình một đêm, không ngờ bên kia tấm vách các-tông mỏng là lỗ tai của công luận. Tất nhiên nhờ vậy tôi cũng biết được họ nghĩ gì về mình. Họ cho tôi độc thân là vì đồng tính luyến ái, đêm đêm thoả thích đồng dâm với đám con trai không cha không mẹ của mấy con phố tội lỗi. Tôi bỏ qua chuyện bị nói xấu oan, vì lý do chính đáng là có khi cũng được nghe người ta nói tốt về mình.

Tôi không bao giờ có bạn thân, mấy người có thể gọi là thân lại đang ở Nữu Ước. Nói như vậy có nghĩa là họ đã qua đời, vì tôi cho rằng thành phố này là nơi các linh hồn trì trệ đau khổ tới cư ngụ để khỏi phải nhìn thấy sự thật về cuộc đời đã qua của họ. Từ khi về hưu, tôi rất rảnh, chỉ có việc mỗi chiều thứ Sáu mang bài tới toà soạn cho cột báo chủ nhật, hay những công việc quan trọng khác như thể nghe hoà tấu ở trung tâm văn nghệ, hay ngắm tranh triển lãm ở Hội Mỹ thuật mà tôi đã góp phần sáng lập, hay thỉnh thoảng đi nghe thuyết trình tại Hội Phát huy Cộng đồng, hay dự những buổi trình diễn quan trọng như của Fábregas tại nhà hát Apolo. Hồi còn trẻ, tôi hay đi xem chiếu bóng ngoài trời, nơi có thể cùng lúc ngắm nguyệt thực hay bị sưng phổi vì cơn mưa bất ngờ. Nhưng thật ra phim ảnh không thú vị bằng mấy con chim đêm chịu ăn nằm với giá chỉ bằng tấm vé vào cửa, có khi lại miễn phí hay cho chịu. Điện ảnh không phải món tôi chuộng. Sự thờ phượng thô bạo người ta dành cho Shirley Temple là giọt nước tràn đầy cái bình chịu đựng của tôi.

Cho đến năm ba mươi hai tuổi, tôi mới đi du lịch được tất cả bốn lần để dự thi thơ, và một chuyến đi đò máy đêm khi được Sacramento Montiel mời đi khánh thành nhà thổ của y mới mở ở Santa Marta. Còn đời sống riêng, tôi ăn ít mà cũng dễ ăn. Từ khi Damiana có tuổi và không tới nhà lo bếp núc nữa, chuyện ăn uống hàng ngày của tôi chỉ còn là mấy cái bánh khoai tại tiệm Roma sau khi toà báo đóng cửa.

Như thế trước hôm sinh nhật, đợi Rosa Cabarcas báo tin, tôi đã bỏ ăn trưa và cũng không chú tâm được vào chuyện đọc sách. Ve sầu kêu inh ỏi trong cái nắng hai giờ trưa. Mặt trời di chuyển qua mấy cửa sổ làm tôi phải đổi chỗ mắc võng ba lần. Tôi có cảm tưởng là sinh nhật tôi, thời tiết thường nóng nhất trong năm, và đã quen như vậy, nhưng tâm trạng tôi hôm ấy làm sự chịu đựng còn khó khăn hơn. Đến bốn giờ tôi gắng tĩnh tâm nghe bản đàn Chê-lô của Sebastián Bach do Pablo Casals trình diễn không đệm. Tôi thường cho bản nhạc này hoàn mỹ nhất, nhưng bấy giờ thay vì thư giãn lại làm tôi kiệt quệ hơn. Qua khúc 2 tôi thấy như có gì thiếu thốn, ngủ thiếp đi, và trong mơ tôi lẫn lộn tiếng đàn than van với tiếng còi buồn thảm của con tầu đang rời bến. Có lẽ chính lúc ấy, điện thoại làm tôi thức giấc, và cái giọng đặc biệt của mụ Rosa làm tôi sống lại.

"Thánh nhân đãi khù khờ", mụ nói. "Tôi kiếm được cho anh một con nhỏ còn khá hơn anh mong ước. Chỉ có vấn đề là nó mới mười bốn."

Không hiểu ý mụ, tôi nói đùa:

"Tôi không ngại thay tã."

"Vấn đề không phải cho anh, mà là có chuyện gì thì ai trả cho tôi ba năm tù?"

Tôi nghĩ chẳng ai phải đi tù, nhất là mụ thì lại càng không. Mụ thu dụng em út trong đám trẻ vị thành niên, vỡ lòng cho chúng, vắt chúng khô kiệt cho đến khi chúng tốt nghiệp sang một cuộc sống còn tệ hơn của cô điếm thập thành. Mụ chưa từng trả tiền phạt, vì nhà chứa của mụ là vườn chơi cho chức sắc địa phương, từ ông thống đốc cho đến anh thư ký quèn toà tỉnh. Không ai có thể nghĩ là mụ không có khả năng muốn làm bậy thế nào cũng được. Nên chi những ái ngại cuối cùng của mụ chẳng qua là để moi tiền: chuyện càng có thể phạm pháp thì giá càng đắt. Sự sai biệt thanh toán bằng hai đồng bạc chi thêm vào lệ phí mười đồng, và chúng tôi thoả thuận là tối nay mười giờ, tôi có mặt tại nhà mụ với năm đồng tiền mặt đưa trước. Không được sớm một phút, con bé còn phải cho mấy đứa em ăn, dỗ chúng đi ngủ, và đưa mẹ tàn phế vì tê thấp lên giường.

Còn bốn giờ nữa mới tới lúc hẹn. Trong khi thời gian qua, ngực tôi trào lên nước chua làm cho khó thở. Tôi cố gắng một cách vô hiệu để giúp thời gian qua mau bằng những nghi thức ăn mặc. Tất nhiên là chuyện không có gì đặc biệt đáng ngạc nhiên, dù Damiana nói rằng tôi sửa soạn trịnh trọng với như một vị tổng giám mục. Tôi cạo mặt bằng con dao thẳng lưỡi của thợ cúp chuyên nghiệp. Tôi phải đợi cho nước bị mặt trời hâm nóng trong ống nguội đi, và chỉ cần lấy khăn lau mình là mồ hôi lại nhễ nhại. Tôi ăn diện thích nghi đêm vui này: bộ com-lê trắng, áo sơ-mi rằn xanh cổ hồ cứng, cà-vạt lụa Tàu, giầy ủng ngắn đánh phấn trắng lại cho mới, và chiếc đồng hồ vàng dây móc vào khuyết ve áo. Sau cùng tôi vén gấu quần lên để giấu mình đã lùn đi vài phân vì tuổi già.

Tôi mang tiếng là tằn tiện, vì thấy tôi sống tại nơi đang sống không ai tin rằng tôi nghèo đến thế. Sự thật là phí tổn cho một đêm như đêm nay quả là quá cao cho phương tiện của tôi. Để trả tiền thuê phòng, tôi moi ra hai đồng từ cái rương nhỏ đựng vốn liếng giấu dưới giường, bốn đồng nữa để trả mụ chủ, ba đồng cho con bé, năm đồng để ăn tối và những chi tiêu lặt vặt khác. Nói cách khác, đó là cả tháng lương toà soạn trả tôi để viết cột báo chủ nhật. Tôi cất tiền trong ngăn thắt lưng bí mật, và xức dầu thơm hiệu Lanman & Kemp-Barclay. Ruột tôi thắt lại vì lo sợ. Khi nghe chuông đồng hồ đánh tám giờ, tôi lần mò trong bóng tối xuống thang lầu. Mồ hôi vã ra vì sợ, truớc ngày sinh nhật của mình, tôi bước vào bóng đêm.

Trời đã mát. Đàn ông tụm năm túm ba trên ngõ Colón bàn cãi ồn ào về trận túc cầu, giữa những xe ta-xi đậu ngay trên vỉa hè. Một ban nhạc kèn đồng chơi bản luân vũ dưới khóm cây đang rộ bông. Có cô điếm nhỏ tội nghiệp thường săn mấy ông khách bộ tịch nghiêm nghị trên phố Công Chứng Viên, làm bộ xin tôi điếu thuốc lá thường lệ. Và như thường lệ tôi trả lời: "Tôi bỏ thuốc lá được ba mươi ba năm hai tháng và mười bẩy ngày". Ngang qua El Alambre de Oro, tôi ngắm gương thấy hình mình khác hẳn với những gì cảm thấy trong lòng, mà già hơn và áo quần xập xệ hơn.

Trước mười giờ một chút, tôi lấy tắc-xi bảo tài xế đưa đến Nghĩa địa Công cộng, hy vọng giấu anh ta tôi đi đâu. Anh ta nhìn tôi ranh mãnh qua gương chiếu hậu và nói:

"Cụ giáo ơi, đừng doạ con như vậy. Con chỉ mong Chúa cho con được khoẻ mạnh như cụ thôi."

Không có tiền lẻ thối lại, anh ta xuống xe với tôi vào tiệm rượu Nấm Mồ trước nghĩa trang đổi tiền; nơi đây đám say rượu thường tới khóc cho thân nhân quá cố. Thanh toán tiền xe xong, anh tài xế nghiêm trang bảo tôi:

"Ông giáo cẩn thận nhá, nhà mụ Rosa Cabarcas không còn như xưa đâu."

Tôi chỉ còn nước cảm ơn anh ta, quả thật không có gì dưới gầm trời mà các anh tài tắc-xi xóm Colón không biết. Tôi đi vào hẻm, thấy không còn giống gì cái khu nghèo tôi biết thuở trước. Tuy vẫn là những con đường cũ đầy cát nóng, những ngôi nhà mở sẵn cửa, vách tường bằng ta-bơ-lô trần không trét hồ, mái lợp lá cọ đắng, phía trước trải đá vụn, nhưng dân chúng đã đánh mất cái an tĩnh ngày xưa. Gần như nhà nào sân trước cũng có những cuộc vui chiều thứ sáu loại dữ dằn, trống và phèng la ầm ĩ làm ruột gan bập bùng theo. Có 50 xu, ai muốn vào đâu thì vào, nhưng nếu cứ ở ngoài đường nhảy miễn phí thì cũng tốt thôi. Tôi bước đi, bụng dạ căng thẳng như sợ bị nuốt vào lòng đất. Nhưng chẳng ai để ý đến tôi với bộ đồ công tử, trừ một thằng mọi lai gầy còm đang tựa khung cửa một căn nhà mà ngủ đứng. Hắn la lớn:

"Chúa che chở cho ông giáo. Chúc ông đi bắn súng cho sướng nhá."

Chỉ còn nước làm thinh mà cảm ơn thằng cha. Leo đến con dốc cuối, tôi đã phải dừng lại ba lần để thở. Từ đỉnh dốc tôi thấy mặt trăng to đỏ như thau đang mọc nơi chân trời, và bụng tôi bất ngờ nôn nao sợ hãi những gì sắp tới. Tới cuối đường, nơi xóm nối tiếp với vườn cây ăn trái, tôi bước vào nhà Rosa Cabarcas.

Mụ thay đổi rất nhiều. Mụ là chủ chứa rất kín miệng, vì vậy mà được nhiều người chiếu cố. Ngày xưa mụ được chúng tôi bầu cho là bà cai cứu hoả, vừa vì thân xác vạm vỡ đẫy đà, mà cũng vừa là khả năng khôn khéo khi dẹp những vụ ồn ào trong cộng đồng. Nhưng cuộc sống đơn chiếc đã làm cho mụ xọp hẳn, da dẻ héo hon và giọng nói khó nghe; sự thay đổi làm mụ giống như một đứa con gái nhỏ bị lão hoá. Tất cả thuở xưa chỉ còn lại bộ răng rất đều rất tốt của mụ, với một chiếc bịt vàng không phải vì sâu mà vì làm dáng.

Mụ để tang rất kỹ cho người chồng chết sau năm mươi năm chung sống, lại đội thêm chiếc mũ đen để tang cho đứa con trai độc nhất thuở sinh thời vẫn đỡ đần mẹ trong những sinh hoạt mờ ám. Chỉ còn đôi mắt sáng và dữ dằn của mụ là vẫn tinh anh, và qua đôi mắt ấy tôi thấy tâm tính mụ cũng vẫn như xưa.

Cửa hàng mụ treo ngọn đèn trần lù mù, trong tủ gần như chẳng có bày hàng hoá gì, dù chỉ để nguỵ trang cho một dịch vụ ai cũng biết mà không nói ra. Rosa Cabarcas đang tiếp một khách hàng khi tôi nhẹ bước đi vào. Không biết mụ không nhận ra tôi thật, hay chỉ vờ vịt. Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu đợi, và gắng dựng lại trong đầu hình ảnh của mụ ngày xưa. Nhiều lần trong quá khứ khi cả hai chúng tôi còn trẻ trung khoẻ mạnh, mụ đã giúp tôi rũ bỏ một số ảo tưởng của mình. Tôi nghĩ mụ đọc được ý nghĩ tôi, vì mụ bỗng quay lại nhìn tôi rất kỹ. Mụ buồn bã phân bì:

"Thời gian như chừa anh ra."

Tôi nịnh mụ:

"Nhưng thời gian làm chị trẻ lại."

Mụ không vừa:

"Thật ra thời gian có làm cho cái mặt ngựa của anh linh hoạt hơn đôi chút."

Tôi trêu mụ:

"Chắc tại nhờ hay đổi nhà thổ."

Trở nên hứng chuyện, mụ nói:

"Tôi nhớ ngày xưa anh có cái dùi đục to như của tù khổ sai. Nó có khoẻ không?"

Tôi đánh trống lảng:

"Kể từ xa chị, chuyện độc nhất xảy ra cho tôi là nhiều khi bị xót hậu môn."

Mụ định bệnh tức thì:

"Chắc tại ít dùng phải không?"

Tôi cãi:

"Chúa sinh nó ra để làm việc gì, thì tôi chỉ dùng vào việc ấy. Nhưng sự thật là tôi bị xót hậu môn đã lâu, vào bao giờ cũng vào ngày trăng tròn."

Rosa lục trong túi đựng kim chỉ ra một hộp thiếc nhỏ, đựng một thứ thuốc mỡ màu lục có mùi hăng hắc. Mở nắp, mụ nói:

"Bảo con nhỏ lấy ngón tay mà bôi cho anh. Bôi như thế này này", mụ vừa nói vừa đưa ngón tay trỏ ra, dáng điệu sỗ sàng trắng trợn.

Tôi bảo mụ, nhờ Chúa tôi vẫn giữ gìn được sức khoẻ mà khỏi cần thuốc cao đơn nhà quê của chị. Rosa chế nhạo tôi:

"Ái già, xin lỗi ông giáo nhé. Chẳng qua là sống nhiều nên có kinh nghiệm vậy thôi."

Và mụ vào chuyện:

"Con bé tới phòng lúc 10 giờ. Nó đẹp đẽ, sạch sẽ, có phép, nhưng sợ chết khiếp vì một con bạn của nó từ Gayra trốn nhà theo một thằng phu bến tàu, băng huyết suốt hai tiếng đồng hồ."

Mụ cũng ghi nhận rằng, mấy thằng đực rựa vùng Gayra có tiếng là đã chơi, thì lừa cái cũng phải khóc thét lên.

Rồi mụ trở lại chuyện chính:

"Tội nghiệp con bé, vậy mà suốt ngày còn phải đơm khuy trong hãng may."

Tôi nghĩ đơm khuy áo thì có gì mà vất vả. Mụ bảo:

"Đàn ông thường nghĩ vậy. Nhưng đập đá còn nhẹ hơn."

Ngoài ra mụ cũng thú thật đã cho con bé uống một liều thuốc ngủ, và hiện tại nó đang ngủ say.

Tôi đã nghi lòng thương hại của mụ nói ra chỉ là ngón xin thêm tiền, nhưng không, mụ bảo bao giờ mụ cũng nhất ngôn. Với mụ, món nào trả món ấy, tiền mặt, đưa trước. Cứ như vậy mà làm.

Tôi theo chân mụ băng qua sân, nhìn mụ da dẻ nhăn nheo, bước đi khó khăn với đôi chân sưng to trong đôi tất dày mà thấy thương hại. Vầng trăng tròn đã tới đỉnh trời, và tạo vật như phủ một làn nước màu lục. Gần tiệm mụ là một rừng cọ nhỏ chánh quyền dùng để tổ chức hội hè cho công chúng, với vô số ghế đẩu bằng da bò và võng mắc vào cột gỗ. Nơi sân sau tiệm, tiếp giáp với vườn cây ăn trái là sáu căn phòng ngủ tường đất sét không trát vôi, cửa sổ giăng vải đay để ngăn muỗi. Phòng độc nhất có thắp đèn lù mù, và giọng ca sĩ Tona la Negra từ radio vang ra bài hát cho những mối tình bất hạnh. Rosa thở dài nói, âm nhạc mà thật như cuộc đời. Tôi đồng ý với mụ, nhưng cho đến bây giờ chưa dám viết ra như vậy. Mụ đẩy cửa bước vào, một lát trở ra và nói:

"Vẫn còn ngủ. Anh nên để cho nó ngủ cho đã, đêm của anh dài hơn của nó."

Tôi ngạc nhiên vì lời căn dặn:

"Chị nghĩ tôi phải làm gì bây giờ?"

Mụ bình thản:

"Làm gì thì anh phải tự biết lấy thôi. Anh chẳng là ông giáo thông thái sao?"

Mụ xoay lưng bước đi, bỏ tôi lại một mình truớc hoàn cảnh khó khăn.

Không có lối thoát. Tim đập loạn xạ, tôi bước vào căn phòng, thấy trên chiếc giường thuê rộng mênh mông, con bé thư thái nằm ngủ, trần truồng như lúc mới chào đời. Nó nằm nghiêng mặt nhìn ra cửa, ngọn đèn trần chói chang không khoan nhượng chiếu lên thân thể nó. Tôi ngồi lên mép giường ngắm con bé, tất cả giác quan như bị hấp hồn. Người ta đã hoàn tất trên con bé một chương trình vệ sinh và thẩm mỹ kỹ càng, cho đến cả lông háng cũng không bỏ qua. Tóc nó uốn, móng tay móng chân sơn màu tự nhiên, nhưng nước da mần quân có vẻ xù xì và không được thường xuyên chăm sóc. Cặp vú mới mọc trông như vú con trai, nhưng đã có vẻ căng lên vì một năng lực bí mật như sắp bùng nổ. Phần đẹp nhất trên thân thể con bé là đôi bàn chân với những ngón mảnh như ngón tay và có lẽ cũng nhạy cảm như vậy. Dù có quạt máy con bé vẫn đầm đìa mồ hôi, và đêm càng khuya lại càng nóng nực. Không thể đoán ra khuôn mặt nó như thế nào dưới lớp trang điểm khá nặng tay, má trét đầy phấn gạo cùng hai má hồng bệt trên lưỡng quyền, mi lắp lông giả, mí mắt cũng như lông mày một màu đen ướt của thuốc đánh quầng, và cặp môi tô dày thêm bằng son màu chocolat. Tuy nhiên bấy nhiêu hoá trang không che nổi tính nết con bé: cái mũi kiêu kỳ, đôi mày rậm, và cặp môi đa mê. Tôi nghĩ: đúng là con bò tót non.

Mười một giờ, tôi vào nhà tắm sửa soạn, thấy trên chiếc ghế đống quần áo con bé đã gấp gọn với cái ngăn nắp của đứa con gái nhà giàu, gồm chiếc áo dài in bươm bướm, chiếc quần lót rẻ tiền màu vàng và đôi dép bằng xơ đay. Trên đống quần áo là chiếc vòng tay rẻ tiền và sợi dây chuyền mảnh với tượng Đức Mẹ đồng trinh. Trên vành bồn rửa mặt là chiếc ví với thỏi son, thuốc má hồng, chiếc chìa khoá, và ít tiền lẻ. Mọi thứ xoàng xĩnh và cũ mòn, tôi khó tưởng tượng có ai nghèo như nó. Tôi cởi quần áo, cẩn thận treo lên giá để chiếc sơ-mi lụa khỏi nhăn, và bộ com-lê khỏi mất nếp. Tôi đi tiểu trong thế ngồi như mẹ đã dạy để khỏi văng vãi ra xung quanh, và không muốn khoe khoang, tôi nghĩ tôi đái mạnh và liên tục như con ngựa non. Khi rời phòng tắm, tôi ngắm mình trong gương. Con ngựa từ trong gương nhìn lại không phải là chết hẳn mà thê thảm, da cổ chảy xuống như bị, mí mắt húp híp, mái tóc nghệ sĩ năm xưa chỉ còn lưa thưa vài sợi. Tôi nói với con ngựa:

"Cục c., nếu mày không thích tao thì tao cũng đành chịu."

Tránh không đánh thức con bé, tôi ngồi xuống giường, trần truồng. Mắt đã quen với ánh sáng hồng lừa dối, tôi ngắm lại con bé từng ly từng tý. Tôi lấy đầu ngón tay trỏ vuốt nhẹ cái gáy ướt của nó. Con bé rùng mình như một dây đàn bị gảy, làu bàu lăn lại phía tôi, và hơi thở chua chua nó toả ra bao trùm lấy tôi. Tôi bóp mũi nó, con bé quay đầu né tránh, xoay lưng lại mà vẫn không thức giấc. Tôi bỗng nổi hứng, lấy đầu gối toan banh cặp chân nó. Hai lần đầu nó dùng sức chống lại. Tôi hát khẽ vào tai nó: Cái giường của bé Delgadina có thiên thần bao quanh. Nó thư giãn đôi chút. Mạch máu tôi nóng bừng bừng, và con vật chậm chạp đã về hưu của tôi bỗng thức dậy từ giấc ngủ dài bấy lâu.

Tôi lo lắng năn nỉ nó:

"Delgadina yêu dấu, linh hồn của ta..."

Con bé rên lên môt tiếng rùng rợn, thoát ra khỏi cặp đùi tôi, quay lưng lại và cuốn tròn như con ốc. Liều thuốc ngủ không những hiệu nghiệm với nó, mà hoá ra cũng hiệu nghiệm với tôi, vì rằng không có chuyện gì xảy ra cho cả hai. Nhưng không sao. Tôi tự nhủ, đánh thức nó dậy nào có ích gì, khi trong lòng tôi cảm thấy hổ thẹn, buồn bã, và hiện tại thì lạnh như con cá chết.

Có tiếng chuông mười hai giờ đêm, âm thanh rành rọt rõ ràng, báo hiệu ngày 29 tháng tám, ngày của thánh Marinio de San Juan Bautista. Có ai khóc ầm ĩ ngoài đường, mà không ai thèm để ý. Tôi cầu nguyện cho y, nghĩ rằng chắc y cần cầu nguyện, và cũng cho chính tôi, tạ ơn cho những lợi lạc nhận được. Tôi đọc câu kinh: Không, đừng tự lừa dối mình, nghĩ rằng những điều mong ước sẽ bền hơn những điều đã thấy. Con bé rên trong giấc mơ, và tôi cũng cầu nguyện cho nó: mọi chuyện rồi cũng phải như thế mà trôi qua. Rồi tôi tắt đèn, tắt radio đi ngủ.

Tôi thức giấc lúc còn khuya, không nhớ ra mình đang ở đâu. Con bé tiếp tục ngủ, cuộn tròn co quắp, lưng xoay lại tôi. Tôi có cảm tưởng mơ hồ là thấy nó thức giấc trong đêm và nghe tiếng tháo nước nhà tắm, nhưng cũng có thể nằm mơ mà thấy và nghe như vậy.

Kinh nghiệm vừa qua mới lạ cho tôi. Không biết cách chinh phục phái nữ, tôi thường chọn bạn gái một đêm tuỳ theo may rủi, vì giá cả hơn vì duyên dáng, và làm tình mà không cần có tình, với người nữ thường thường quần áo chưa cởi hết và luôn luôn trong bóng tối để tôi có thể tưởng tượng là bạn tình đẹp đẽ hơn.

Đêm nay, tôi được hưởng cái thú vui mới bất ngờ, là chiêm ngưỡng thân thể đàn bà đang ngủ, không có cái lụp chụp khẩn cấp của dục vọng phá rầy, mà cũng không bị trở ngại vì tính hay xấu hổ của bản thân.

Tôi thức giấc lúc năm giờ sáng, thấp thỏm vì cột báo phải nạp cho phòng biên tập trước mười hai giờ trưa. Tôi đi cầu đúng giờ như thường lệ, vẫn cái xót hậu môn những hôm trăng tròn, nhưng khi giựt nước thì những phiền muộn trôi tuột xuống cống.

Khi trở vào phòng, mát mẻ và quần áo chỉnh tề, tôi thấy con bé nằm ngang giuờng mà ngủ trong nắng mai êm dịu, cánh tay dang ra như hình thánh giá, hoàn toàn làm chủ cái trinh tiết của mình. Tôi nói với nó, "Xin Chúa che chở bảo vệ cho bé". Còn bao nhiêu tiền trong túi, phần nó và phần tôi, tôi lấy ra để trên gối, và tôi hôn cái hôn từ biệt lên trán nó. Nhà thổ lúc bình minh yên tĩnh an bình, có thể ví với thiên đàng cũng không sai lắm. Tôi đi bằng cửa sau để khỏi gặp ai. Lúc xuống đến mặt đường nóng bỏng, tôi bỗng cảm thấy tất cả gánh nặng của chín mươi năm tuổi đời, và tôi đếm từng phút từng phút của những đêm còn lại trước khi chết.

2.

Tôi viết cuốn hồi ký này với những gì còn sót lại trong thư phòng cha mẹ tôi để lại, mấy giá sách mọt gặm năm này qua năm khác tưởng đến lúc sắp sụp xuống; bộ tự điển đủ loại; hai pho đầu của bộ Episodios Nacionales do Benito Pérez Galdós soạn; và cuốn La Montana Magica để hiểu những cơn vui buồn bất bình thường vì bệnh lao của mẹ tôi. Chỉ chừng ấy là đủ để tôi làm nốt những chuyện còn phải làm trên đời này.

Khác với những đồ đạc khác, và khác với cả bản thân tôi, chiếc bàn giấy lớn xem ra càng ngày càng tốt hơn với thời gian; nó được ông nội tôi, nguyên thợ chuyên đóng tầu chế tạo bằng gỗ quý. Dù cần viết hay không, sáng nào tôi cũng thu xếp bàn giấy thật ngay ngắn, với cái kỹ lưỡng tỷ mẩn đã làm tôi lỡ mất bao nhiêu mối tình trong quá khứ. Ngang tầm tay là những pho sách tâm đắc: hai cuốn tự điển có minh hoạ của Viện Hàn lâm Hoàng gia in năm 1903; cuốn Ngữ vựng đồng nghĩa của tiếng Tây Ban Nha do Sebastián de Covarrubias soạn; cuốn văn phạm của Andrés Bello vô cùng cần thiết khi đang viết mà gặp điều gì nghi ngại; cuốn Tư tưởng tự vị tân biên của Julio Cesares; cuốn Ngữ vựng Ý văn của Nicola Zingarelli để giúp tôi hiểu tiếng mẹ đẻ đã học từ lúc nằm nôi, và sau hết, cuốn Tự điển La-tinh, vì gốc nguồn của hai ngôn ngữ Ý và Tây Ban Nha nên được coi như của đất nước tôi.

Bên trái bàn viết, tôi luôn luôn có sẵn năm trang giấy khổ văn phòng dành cho cột báo chủ nhật, cùng với cái sừng đựng cát mịn mà tôi thích dùng hơn là giấy thấm kiểu mới. Bên phải là bình mực và giá bút gỗ balsa nhẹ để gác những cây bút vàng, vì tôi vẫn viết bằng kiểu chữ hoa mỹ mẹ dạy, thay vì viết theo kiểu chữ hành chánh của cha tôi, một công chứng kiêm kế toán viên cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng. Có thời toà báo ra lệnh cho chúng tôi viết bằng máy chữ để tiện in ấn, nhưng tôi không bao giờ chịu tập thói xấu ấy. Bây giờ tôi vẫn viết tay trước rồi mới chuyển sang máy chữ bằng lối gà mổ, nhờ đặc quyền của người nhân viên già nhất. Hôm nay, về hưu nhưng chưa chịu thua cuộc, tôi lại hưởng thêm cái đặc quyền thiêng liêng là viết ở nhà, điện thoại tháo ra để khỏi bị quấy rầy, và cũng không có kiểm duyệt viên tới ám sau lưng.

Tôi sống không chim không chó không người giúp việc, ngoại trừ Damiana trung thành vẫn còn cứu tôi khỏi những khó khăn gia chánh bất ngờ. Người gia nhân cũ tiếp tục tới hàng tuần làm những việc cần thiết, mặc dù thị cũng không khỏe gì, mắt đã yếu mà tinh thần cũng không còn lanh lợi như trước.

Mẹ tôi lúc sắp qua đời trên giường bệnh năn nỉ tôi lập gia đình khi còn trẻ cùng với một phụ nữ da trắng, ít nhất phải có ba đứa con trong đó một con gái sẽ mang tên bà mà cũng là tên của bà ngoại và mẹ của bà ngoại. Tôi có ý định làm theo lời mẹ dặn, nhưng chẳng may lại cứ nghĩ là tuổi trẻ co giãn và không bao giờ quá trễ để thi hành lời hứa.

Một buổi trưa nóng nực trong tư thất gia đình Palomares de Castro tại vùng Pradomar, tôi mở lầm một cánh cửa và bắt gặp cô gái út của họ tên là Ximena Ortiz đang cởi truồng ngủ trưa. Đang xoay lưng ra ngoài, cô gái vụt quay đầu lại nhìn tôi, nhanh đến nỗi tôi trốn không kịp.

"Ấy chết, tôi xin lỗi..."

Cổ còn nghẹn, tôi phải khó khăn mới nói nên lời. Cô mỉm cười quay cả mình ra ngoài duyên dáng như con hoãng, phô bày toàn thân cho tôi thấy. Tính chất riêng tư của cô gái cởi truồng trùm lấy toàn thể căn phòng. Thật ra cô không hoàn toàn trần truồng, mà có để bông hoa độc cánh vàng trên vành tai như trong tranh Olympia của Manet, tay phải đeo vòng vàng, và cổ đeo một chuỗi hạt trai nhỏ. Lúc ấy tôi nghĩ không thể có gì còn khêu gợi hơn trên đời, và sống đến hôm nay tôi tin là tôi đã không nghĩ sai.

Tôi đóng mạnh cửa lại, lúng túng vì đã lầm cửa, và quyết định sẽ quên cô ta đi. Nhưng Ximena Ortiz không để cho tôi quên. Nhờ mấy người bạn chung, cô gửi cho tôi những lá thư tình khiêu khích, đe doạ, tàn nhẫn, đồng thời loan tin chúng tôi say mê nhau như điên như dại, dù chúng tôi không trao đổi lấy một lời. Không cách nào có thể khước từ cô. Cô gái có đôi mắt mèo hoang, có tấm thân dù mặc quần áo hay cởi truồng cũng đều quyến rũ, có mái tóc dầy vàng chói toả ra mùi hương đàn bà làm tôi đêm đêm như điên dại vì tình mà phát khóc trên gối. Tôi biết sự quyến rũ ma quái này sẽ không bao giờ trở thành tình yêu, nhưng nó ám ảnh đến nỗi mỗi lần gặp bất kỳ người con gái mắt xanh nào tôi cũng muốn giải quyết trên người ta sự khao khát mà cô đã khêu gợi lên trong tôi. Không dập tắt nổi ngọn lửa bừng bừng trong lòng mỗi khi nhớ lại cái giường của ngôi nhà Pradomar, tôi đành đầu hàng, hỏi cô làm vợ, trao nhẫn cho cô, và định cử hành đám cưới trước lễ Pentecostés.

Tin này nổ lớn trong xóm đèn đỏ cũng như những nơi giao tế sang trọng. Mới đầu người ta cho là chuyện dỡn, nhưng về sau các vị nữ lưu thông thái lại lấy làm phật lòng, vì họ coi hôn nhân là một định chế khôi hài hơn là thiêng liêng. Lễ hứa hôn của tôi theo đúng nghi thức Gia Tô, được tổ chức trên sân nhà nàng với vô số phong lan Amazon và thiên tuế trồng trong các chậu treo. Tối hôm đó tôi tới nhà nàng lúc bảy giờ, diện bộ đũi trắng, mang theo kẹo chocolat Thuỵ Sĩ và hạt thuỷ tinh làm bằng tay, chuyện trò với nàng nửa bằng thứ ngôn ngữ thường nửa bằng mật hiệu cho đến mười giờ, dưới sự chứng giám của dì Argénida, người đàn bà chớp mắt đã ngủ gật như nhân vật tiểu thuyết thời ấy.

Chúng tôi càng quen nhau hơn, Ximena lại càng háu ăn về tình dục. Khi nắng tháng sáu đem cái nóng về, cô sẵn sàng nới lỏng xiêm y, ai nhìn vào sẽ dễ dàng tưởng tuợng sức công phá mãnh liệt của cô trong bóng râm sau làn cửa khép. Hứa hôn được hai tháng, chúng tôi không còn gì để nói với nhau. Không cần lời, cô nêu lên đề tài con cái bằng cách đan móc những chiếc giày bằng len thô cho trẻ sơ sinh. Là vị hôn phu dễ bảo, tôi học đan móc với cô, và cứ như thế những ngày giờ chờ cưới vô dụng trôi qua, chàng đan giày xanh con trai nàng đan giày hồng con gái để xem ai đoán trúng, cho đến khi đủ giày cho hơn năm chục hài nhi. Rồi khi đồng hồ điểm mười giờ tối, tôi nhảy xe ngựa đến xóm đèn đỏ để sống cái đêm trung thực của mình trong hoà bình với Chúa.

Tiệc giã từ đời trai độc thân tổ chức cho tôi tại xóm đèn đỏ thật trái ngược với buổi chiều ngột ngạt tại hội quán trưởng giả. Sự trái ngược giúp tôi biết mình thuộc về thế giới nào. Tôi có ảo tưởng thuộc về cả hai, tuỳ theo lúc, vì dù đứng từ phía nào tôi cũng nuối tiếc thấy phía kia rời xa tôi, não ruột như tiếng còi hụ của hai con tàu di chuyển ngược chiều trên biển cả. Buổi khiêu vũ đêm trước hôm cưới tại quán ruợu có tên Uy quyền của Chúa có tiết mục cuối cùng xứng đáng cho một tu sĩ tu đạo dâm, với toàn thể nữ nhân viên nhà hàng trùm mặt và cài hoa vàng để cùng kết hôn với tôi trong một lễ cưới tập thể. Quả là một đêm không thánh thiện với hai mươi hai người đàn bà thề sẽ yêu đương và phục tòng tôi, và tôi hứa lại sẽ chung thuỷ và săn sóc các cô mãi mãi cho đến bên kia nấm mồ.

Tôi thao thức như linh tính một chuyện gì vô phương cứu vãn sắp xảy ra. Từ nửa đêm về sáng, tôi bắt đầu đếm thời gian qua chiếc đồng hồ của đại giáo đường, canh thời điểm khủng khiếp là bảy giờ đúng phải có mặt tại nhà thờ. Điện thoại reo lúc tám giờ, dai dẳng không ngưng, kéo dài hơn tiếng đồng hồ. Không những tôi không dám trả lời, mà còn nín khe không dám thở. Gần mười giờ, có ai tới trước nhà, mới đầu đập cửa, về sau la hét, giọng quen thuộc rất khả ố. Có lúc tôi sợ đương sự đạp đổ cánh cửa mà vào, nhưng tới mười một giờ yên lặng trở lại cho ngôi nhà như cái êm ả sau bão tố. Rồi tôi khóc cho cô ấy mà cũng khóc cho tôi, và với hết lòng thành kính tôi cầu nguyện để hai chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau. Có lẽ có ông thánh nào đó chỉ nghe lời cầu xin của tôi nửa chừng, vì cô ấy rời khỏi xứ ngay hôm ấy để hai mươi năm sau lại trở về với bảy đứa con lẽ ra là con của tôi.

Sau sự cố, tôi phải khó khăn mới giữ được việc làm và tiết mục chủ nhật tại toà soạn Hoà bình nhật báo. Nhưng không phải đây là lý do họ chuyển bài của tôi xuống trang 11, mà vì tốc độ chóng mặt của thế kỷ hai mươi. Hai chữ "tiến bộ" trở thành huyền thoại của thành phố. Mọi chuyện đổi thay; phi cơ lượn trên trời, và một hành khách lôi ra từ chiếc Junker một bị đựng đầy thư, và thế là bưu điện hàng không được phát minh.

Chỉ có một thứ không thay đổi là cột báo của tôi. Giới trẻ tấn công nó như một xác ướp từ thời cổ đại cần phải phá huỷ, nhưng tôi vẫn viết với phong cách cũ, không nhượng bộ, chống lại không khí cải cách. Tôi không chịu nghe ai. Các biên tập viên trẻ đặt điều nọ kia để chế riễu cột báo đã bốn mươi tuổi. Vị chủ biên gọi tôi vào ra lệnh phải theo trào lưu mới. Nghiêm nghị, ông ta nói như một chân lý mình mới khám phá là trái đất tiếp tục tiến tới trong tiến bộ. Tôi trả lời đúng, trái đất tiến tới chứ, nhưng bao giờ cũng trở lại quay xung quanh mặt trời.

Tôi được lưu dụng vì họ không kiếm được ai khác cho chân biên tập điện báo. Bây giờ thì tôi biết mình có lý, và tại sao. Những người trẻ thế hệ tôi tham lam vì cuộc sống, quên cả xác lẫn hồn rằng tương lai đầy ảo tưởng, cho đến khi thực tế dạy cho họ rằng ngày mai không như họ mơ ước. Bấy giờ họ mới khám phá ra quá khứ và hoài niệm. Đó là vị trí những bài chủ nhật của tôi bây giờ, những bảo vật khảo cổ kiếm ra được từ những phế tích cũ, và người ta ghi nhận rằng chúng không phải chỉ dành cho người già mà còn cho người trẻ không sợ già. Nên chi cột báo trở lại mục quan điểm, có khi lại còn được in ngay trang nhất.

Ai hỏi tôi tại sao không lấy vợ, câu trả lời thành thật là tại quá bận rộn với các cô điếm. Tuy nhiên, tôi phải ghi nhận rằng tôi chưa bao giờ giải thích như vậy cho đến hôm sinh nhật thứ 90 khi từ nhà Rosa Cabarcas về với quyết định là sẽ không bao giờ thách thức số phận nữa. Tôi cảm thấy mình thành một con người khác. Tôi bực mình vì đám đông nhếch nhác đang đứng tựa hàng rào sắt bao quanh công viên.

Tôi gặp Damiana đang bò xuống chùi sàn nhà phòng khách, nét trẻ trung của cặp đùi ở tuổi ấy làm cái rung động thời xưa trở về. Chắc Damiana cũng cảm thấy điều tôi đang nghĩ nên kéo váy xuống. Không đừng được, tôi hỏi:

"Damiana đang nhớ chuyện gì đấy?"

Damiana trả lời:

"Cháu chẳng nhớ gì cả, nhưng khi ông hỏi thì cháu bỗng nhớ lại."

Ngực nặng trề trề, tôi nói:

"Tôi chưa yêu ai bao giờ."

Damiana ngần ngại rồi nói:

"Cháu thì có."

Và người đàn bà nói tiếp, tay vẫn chùi nhà:

"Vì ông mà cháu khóc suốt hai mươi năm qua."

Tim tôi lỡ một nhịp. Tôi tìm một lối ra:

"Chúng mình lẽ ra có thể đã thành một cặp tốt đôi."

Damiana nói:

"Bây giờ mà nói chuyện này ra thật là không phải, ông có còn gì để cho cháu nữa đâu, dù chỉ là một sự an ủi."

Khi ra khỏi nhà, Diamina nói với trở lại:

"Chắc ông không tin, nhưng cháu vẫn còn trinh, lạy Chúa."

Lát sau, tôi khám phá ra người đàn bà đã bày những bình hoa hồng đỏ khắp nhà, và để một tấm các sai chính tả trên gối tôi: "Chúc ông sống đến chăm tuổi".

Miệng đắng, tôi ngồi xuống viết nốt bài báo hôm qua bỏ dở nửa chừng. Tôi viết một hơi chưa đến nửa giờ đã xong. Tôi đã "vặn cổ con thiên nga" như có nhà thơ Mễ Tây Cơ từng nói, không cho ai thấy mình rơi lệ viết thẳng từ gan ruột ra. Trong ngẫu hứng lúc viết gần xong, tôi kết luận bằng lời báo tin rằng, với bài này tôi sung sướng chấm dứt một sự nghiệp dài mà không cần phải chấm dứt sự sống.

Tôi dự tính sẽ để bài báo nơi bàn giấy cô thư ký tiếp tân rồi bỏ về nhà. Nhưng dự tính không thi hành được, vì toàn thể nhân viên đang đợi chúc mừng sinh nhật tôi. Toà báo đang trùng tu, thang bày khắp nơi, bụi bặm cùng vật liệu xây cất văng vãi tứ tung, nhưng người ta đã tạm ngưng công tác để làm tiệc. Đồ uống để chúc mừng bày đầy trên một chiếc bàn thợ mộc cùng với những gói quà đủ màu sắc. Đèn máy ảnh làm tôi chói mắt khi người ta chụp liên tiếp những tấm hình lưu niệm.

Tôi lấy làm vui khi thấy nhân viên vô tuyến và phóng viên các tờ báo khác trong tỉnh đều có mặt đông đủ; El Herado, tờ tin sáng cấp tiến, và El Nacional, tờ tin chiều có xu hướng giật gân thường cố gắng làm trật tự công cộng bớt căng thẳng với những phơi-ớt-tông uớt át. Phóng viên nhiều phe cùng tới không phải là chuyện lạ, vì trong tinh thần thành phố này, thân tình giữa binh lính luôn luôn là chuyện dễ coi, trong khi các sĩ quan có thể đánh phá nhau bằng những trận chiến bỉnh bút.

Tuy không phải giờ làm việc, Jerómino Ortega, viên chức chính quyền lo kiểm duyệt cũng có mặt. Chúng tôi thường gọi y là Con người khiếp đảm của lúc chín giờ, vì đêm đêm y thường tới toà báo đúng vào giờ ấy cùng với cây bút đỏ như máu. Y ở lại cho đến khi chắc chắn không còn một chữ nào không bị kiểm tra trong số báo sáng hôm sau. Y có ác cảm riêng với tôi, có thể vì bộ điệu chuyên gia văn phạm của tôi, mà cũng có thể vì tôi hay dùng những từ Ý mà không bỏ chúng vào ngoặc kép hay đổi thành chữ nghiêng, vì nghĩ để nguyên như vậy chúng tạo ấn được tượng mạnh hơn, và cũng vì hai ngôn ngữ giống nhau như anh em song sinh nên có dùng qua mượn lại cũng là điều phải. Sau khi chịu đựng suốt bốn năm ròng, sau cùng chúng tôi chấp nhận y như một điều gì bất ưng trong chính lương tâm mình.

Các cô thư ký mang vào phòng khách chiếc bánh với chín mươi ngọn nến đã thắp, làm lần đầu tiên trên đời tôi phải đối diện với số tuổi của mình. Tôi phải nuốt nước mắt khi họ hát lời chúc tụng sinh nhật, và tôi bỗng vô cớ nhớ tới đứa con gái tối hôm trước. Không phải vì giận trách gì nó, mà vì một thứ thương hại muộn cho một sinh vật tôi đã nghĩ không bao giờ mình có ngày nhớ lại.

Rồi đến lúc người ta đưa tôi con dao để cắt chiếc bánh sinh nhật. Sợ bị riễu, không ai chịu ứng khẩu một bài diễn văn. Còn tôi, thà chết còn hơn phải đáp từ như vậy. Để chấm dứt cuộc vui, anh chủ biên, một người tôi không có nhiều thiện cảm, đưa tôi về thực tại một cách tàn bạo. Anh hỏi:

"Này bậc trưởng thượng chín mươi, bài của cụ đâu?"

Sự thật là suốt buổi tiệc, bài viết của tôi nóng bỏng như hòn than hồng trong túi áo, nhưng vì tràn trề cảm động với lễ sinh nhật người ta làm cho mình, nên tôi không có bụng dạ nào nỡ phá niềm vui bữa liên hoan bằng cách báo tin mình xin từ chức.

Tôi nói:

"Lần này thì khất."

Anh chủ biên bực mình với sự thiếu sót chưa hề xảy ra từ thế kỷ trước.

Tôi cắt nghĩa:

"Làm ơn thông cảm cho một lần. Đêm qua tôi khó ở nên sáng nay thức dậy vô cùng mệt mỏi."

Anh khôi hài với cái chua cay thường lệ:

"Lẽ ra cụ có thể viết về chính chuyện ấy. Độc giả chắc thích được người có kinh nghiệm bản thân cho biết cuộc sống như thế nào vào tuổi chín mươi."

Cô thư ký ranh mãnh nhìn tôi và nói xía vào:

"Chắc là đêm qua cụ có chuyện bí mật thú vị lắm. Đúng không nào?"

Mặt tôi nóng bừng. Tôi nghĩ, cơ khổ chưa, cái tính dễ đỏ mặt này thật là hay phản bội ta. Một cô khác đưa ngón tay chỉ chỉ vào tôi. Cô trêu:

"Kỳ diệu thay, ông cụ vẫn chưa hết lẳng, vẫn còn biết đỏ mặt đấy."

Sự rắn mắt của cô gái làm cho tôi đã đỏ mặt lại càng đỏ mặt thêm.

Cô đầu tiên nói:

"Chắc phải là một đêm trời long đất lở. Đáng thèm thay."

Và cô hôn tôi lên mặt. Mấy tay thợ ảnh nhào tới.

Lúng túng, tôi đưa bài cho anh chủ biên, nói rằng lúc nãy tôi nói chơi là không viết xong, và vụng về rút lui giữa tiếng vỗ tay của mọi người để khỏi phải hiện diện khi họ khám phá tôi nạp đơn xin từ chức sau nửa thế kỷ khổ sai.

Tối hôm ấy về nhà tôi vẫn còn xúc động khi ngồi mở các gói quà. Đám sắp chữ lại chọn sai, cho tôi thêm chiếc bình cà-phê mới giống như hai chiếc cũ đã nhận được những hôm sinh nhật trước. Đám đả tự viên cho tôi giấy phép để lãnh một con mèo tại sở phú-de đô thành. Ban quản trị cho tôi một món tiền thưởng tượng trưng. Mấy cô thư ký cho tôi ba cái quần lót lụa có in vô số hình môi hôn và một lá thư rằng nếu tôi muốn, các cô xin tình nguyện tới cởi chúng ra. Tôi chợt nghĩ một trong những thú vị của tuổi già là những khiêu khích mà đám con gái trẻ tự cho phép, chúng bạo như vậy là vì nghĩ rằng tôi không còn làm ăn được gì nữa. Không biết ai tặng tôi cái đĩa nhạc Chopin do Stefan Askenase trình diễn. Phần đông các biên tập viên tặng tôi mấy cuốn sách thời thượng.

Tôi chưa mở xong các gói quà thì Rosa Cabarcas gọi, với câu hỏi tôi không muốn nghe:

"Anh có chuyện gì với con bé con thế hử?"

Tôi nói mà không nghĩ:

"Chẳng có chuyện gì cả."

"Anh không thèm đánh thức nó dậy, vậy mà cho là không có chuyện gì sao? Đàn bà không tha thứ cho ai mới gặp đã coi rẻ họ."

Tôi cãi lại rằng, có lẽ con bé sợ nên vờ ngủ say, vì ban ngày chỉ có việc đơm khuy áo, không lẽ mệt đến thế. Mụ bảo:

"Chỉ có chuyện quan trọng là nó tưởng anh không còn làm ăn gì được nữa, và tôi không thích nó đi rêu rao với tất cả mọi người."

Tôi không cho mụ cái thú nghĩ rằng mụ làm tôi bất ngờ. Tôi nói:

"Dù có thật như vậy, nhưng tình trạng con bé bết bát quá, ngủ hay thức cũng chẳng được việc gì. Lẽ ra chị cho nó vào nhà thương là đúng nhất."

Mụ xuống giọng:

"Lỗi hay phải chẳng qua là tại gấp gáp quá, nhưng đã có cách chữa, rồi anh coi. Để tôi hỏi chuyện lại con bé. Nếu quả như vậy thì bắt nó trả lại tiền. Anh nghĩ sao?"

Tôi nói:

"Thôi bỏ đi. Chuyện không có đáng gì. Và ngược lại, sự việc kể như bằng chứng là tôi hết thích hợp với những vụ như vậy. Về ngả này, con bé có phần đúng: tôi không còn làm ăn được nữa."

Tôi gác máy, với cảm nghĩ sung sướng chưa bao giờ có trong đời, là sau cùng mình được giải phóng khỏi ách nô lệ của cái bản năng đã chi phối mình từ tuổi mười hai đến giờ.

Gabriel García Márquez

Mấy cô điếm buồn

Mai Kim Ngọc dịch

II

Tới bảy giờ tối, tôi được mời làm khách danh dự cho buổi hoà tấu tuyệt vời của Jacques Thibault và Alfred Cortot trong thính đường của Hội Mỹ thuật, trình diễn bản xô-nát soạn cho vĩ cầm và dương cầm của Cesar Frank. Trong lúc tạm nghỉ giữa hai phần trình diễn, tôi được nghe những lời ngợi khen bất ngờ. Nhạc sư lớn Pedro Biava kéo tôi vào phòng diễn viên để giới thiệu với các nhạc công. Tôi quá xúc động đến nỗi khen họ vì bản xô-nát của Schumann mà họ không trình diễn, và bị người ta sửa lưng ngay trước công chúng bằng những lời lẽ khó chịu. Ấn tượng là tôi vì dốt mà đã lầm hai bản xô-nát được truyền bá trong môi trường nhạc địa phương, và sự cắt nghĩa lúng túng của tôi về sau chỉ làm cho nặng nề hơn.

Lần đầu tiên trong đời tôi muốn giết người. Tôi về nhà với sự dằn vặt bởi con quỷ con vô hình cứ thì thầm vào tai những câu trả lời đích đáng mà tôi đã không đưa ra kịp thời. Nghe nhạc cũng như đọc sách không thuyên giảm nổi nỗi bực dọc. May mắn, mụ Rosa gọi. Mụ la to trong điện thoại:

"Tôi rất mừng đã đọc bài báo. Tôi cứ tưởng là năm nay anh trăm tuổi thay vì chín mươi."

Bực tức tôi đáp lại:

"Chị nghĩ tôi tệ hại đến thế ư?"

Mụ trả lời:

"Trái lại, tôi ngạc nhiên thấy anh tráng kiện. Thật là điều hay vì anh không phải là một lão già dê khai thêm tuổi để người ta khen già thế mà trông còn được lắm."

Bất thình lình, mụ đổi đề tài:

"Tôi có quà cho anh."

Tôi ngạc nhiên thật sự:

"Quà gì?"

Mụ nói:

"Con bé con."

Tôi nói không cần suy nghĩ:

"Cảm ơn, nhưng chuyện ấy như nước đã chảy qua cầu."

Mụ thở dài thườn thượt. Rồi mụ rồi nói:

"Tôi gửi nó cho anh, gói trong giấy Tàu, sau khi đã ninh cách thuỷ trong nước trầm hương, hoàn toàn miễn phí."

Tôi nhất định không. Mụ thành thật giải thích rằng hôm thứ sáu đó, con bé quá mệt vì phải khâu tay hai trăm cái khuy. Nó quả có sợ vụ băng huyết, nhưng mụ đã giảng cho nó... rằng đêm nó ngủ với tôi, nó có thức giấc để đi nhà tắm, thấy tôi ngủ say quá nó không nỡ đánh thức, và về sáng nó thức giấc lần thứ hai thì tôi đã đi rồi. Tôi tỏ ra bực mình vì lời nói dối không cần thiết. Rosa tiếp tục:

"Thế này nhé, dù quả thật có như vậy, con bé cũng đã rất ân hận. Tội nghiệp cho nó, nó đang đứng trước mặt tôi đây này. Tôi đưa máy cho nó nhé."

Tôi nói:

"Không, đưa làm gì."

*

Tôi bắt đầu viết khi cô thư ký toà soạn gọi tôi. Cô cho hay là chủ nhiệm muốn gặp tôi ngày hôm sau, lúc mười một giờ sáng. Tôi đến đúng giờ. Công tác trùng tu toà báo thật là ồn ào và khó chịu, búa đập chí chát, không khí ô nhiễm với bụi và khói nhựa đường nấu chảy, nhưng nhân viên ban biên tập đã quen làm việc trí não trong cảnh vô trật tự này. Văn phòng chủ nhiệm ngược lại có máy lạnh và yên lặng, thuộc về một thế giới khác hẳn thế giới của chúng tôi.

Cháu ba đời của Marco Tulio, trẻ măng, đứng dậy khi thấy tôi bước vào. Y tiếp tục cuộc điện đàm đang dở dang, giơ tay qua bàn giấy cho tôi bắt, và chỉ ghế mời tôi ngồi. Mới đầu tôi nghĩ chẳng có ai ở đầu dây bên kia, y chỉ đóng kịch để lòe, nhưng tôi chóng khám phá ra là y đang nói chuyện với thống đốc, và câu chuyện có vẻ khó khăn giữa hai đối thủ lịch sự. Tôi cũng tin rằng y làm bộ cứng rắn vì có mặt tôi, tuy y cũng đã đứng dậy để nói chuyện điện thoại với cửa quyền.

Rõ ràng là anh chàng có thói ăn mặc cầu kỳ. Vừa tròn hai mươi chín tuổi, thạo nhiều sinh ngữ và có ba bằng phó tiến sĩ quốc tế, y hoàn toàn khác ông nội y, vị chủ nhiệm đầu tiên và cũng là chủ nhiệm mãn đời, người đã tạo ra cơ nghiệp báo chí này sau khi làm giàu bằng buôn bán phụ nữ da trắng. Cung cách y tự nhiên dễ dàng, đẹp trai, chỉ có một nhược điểm là giọng nói hơi phá tuớng. Y mặc chiếc vét thể thao, với bông lan cài ve áo, y phục đâu vào đấy rất hợp với người, và chắc không thích nghi với đường phố bụi bậm mà với mùa xuân trong văn phòng của y. Tôi là người đã bỏ ra hai giờ đồng hồ để ăn mặc, mà nhìn y tôi cảm thấy hoàn toàn cay đắng phận nghèo, và cơn giận lại gia tăng trong lòng.

Nhưng độc địa nhất là tấm ảnh dài chụp toàn thể nhân viên vào ngày kỷ niệm thành lập tờ báo năm thứ hai mươi nhăm, có đánh dấu chữ thập nhỏ trên đầu những người đã chết. Tôi là người thứ ba đếm từ bên phải, đội mũ ca-nô rơm, cà-vạt nơ to, kim gài có gắn hạt ngọc, hàm râu đại tá nhân dân tự vệ tôi đã để cho đến tuổi bốn mươi, và cặp kính kiểu học trò chủng viện tôi luôn luôn đeo đã nửa thế kỷ. Tôi đã thấy tấm ảnh này treo tại nhiều văn phòng khác nhau, nhưng chỉ đến bấy giờ tôi mới ghi nhận ý nghĩa của nó: trong số bốn mươi tám nhân viên nguyên thuỷ, bây giờ chỉ còn lại bốn mạng, và người trẻ nhất vừa mãn hạn tù vì tội sát nhân tập thể.

Chủ nhiệm nói điện thoại xong, bắt gặp tôi đang ngắm tấm ảnh, và y mỉm cười. Y chối không phải là người đã đánh dấu những chữ thập nhỏ lên ảnh. Làm như thế quả là thiếu tế nhị.

Y ngồi xuống bàn giấy, đổi giọng:

"Cho phép tôi nói ngay là chưa bao giờ tôi gặp ai khó đoán ý như bác."

Thấy tôi ngạc nhiên, y nói như biết trước câu hỏi của tôi:

"Về vụ bác đòi từ chức đấy."

"Sau cả một đời..." Tôi chỉ nói được như vậy, y đã ngắt lời:

"Chính vì thế, bác về hưu không phải là một giải pháp đúng. Tôi thấy cột báo thật là hay, tôi chưa thấy ai viết về tuổi già tài tình như bác. Tôi thấy vô lý nếu chấm dứt mục này bằng một quyết định như vậy. Khác gì một sự khai tử...

May mắn là cái Con người khiếp đảm của lúc chín giờ khi đọc bài đã lên khuôn. Anh ta thấy không thể chấp nhận được, và không hỏi ý kiến ai, tự tiện lấy bút gạch xéo từ trên xuống dưới trang quan điểm. Sáng hôm sau biết chuyện, tôi liền cho chỉ thị phản kháng lên chính quyền. Tôi phải làm như vậy, nhưng giữa bác và tôi, tôi có thể thú thật rằng tôi cảm ơn trong bụng sự độc đoán của anh chàng. Vì tôi không muốn đóng mục báo thú vị này.

Tôi năn nỉ bác với tất cả tấm lòng. Xin đừng bỏ dở khi con tầu chúng ta đang ở giữa biển cả."

Và y long trọng kết luận:

"Chúng mình còn rất nhiều điều để nói về âm nhạc."

Thấy y đã quả quyết như vậy, tôi không còn dám cãi lại để cho tình thế rắc rối thêm. Vấn đề là thực tế tôi cũng không có lý do nghiêm túc để bỏ cuộc, và tôi cũng không muốn nhận lời mà không thật lòng chỉ kiếm kế hoãn binh. Tôi ráng chế ngự cái thói đa cảm đang làm tôi muốn khóc. Một lần nữa, như thường lệ sau nhiều năm cộng tác, liên hệ chúng tôi lại trở về nếp cũ.

Tuần sau, tâm thần bất định hơn là vui tươi, tôi đi lãnh con mèo mà mấy người thợ in xin cho. Tôi không thích thú vật, cũng như không thích trẻ con khi chúng chưa biết nói. Cả hai loài sinh vật, linh hồn chúng như vô ngôn. Tôi không ghét chúng, nhưng chúng làm tôi khó chịu vì không biết đối xử với chúng như thế nào. Tôi thấy những ai mà thân với chó hơn với vợ, dạy chó ăn ỉa theo giờ giấc, giải thích này kia cho chó, hay chia sẻ những sầu muộn của chó, là trái với lẽ thường. Nhưng không đi lãnh con mèo thì bất lịch sự với đám thợ in. Vả lại con mèo đẹp có bộ lông màu hồng, đôi mắt sáng, và tiếng meo meo nghe gần như tiếng người. Họ giao nó cho tôi trong một chiếc sọt mây cùng với tờ giấy ghi rõ gốc tích và cuốn chỉ dẫn cách nuôi, tương tự như cách lắp chiếc xe đạp mới.

Một đội lính đang xét giấy những người qua đường trước khi cho họ vào lâm viên San Nicolás. Tôi chưa bao giờ thấy cảnh như vậy, cũng chưa bao giờ có thể tưởng tượng nổi triệu chứng của tuổi già là chỉ vì chuyện này mà mất vui. Đám quân nhân bốn người, do một sĩ quan còn trẻ chỉ huy. Những người lính thô kệch, lầm lì, gốc gác từ những vùng cao nguyên hoang dã, nặng mùi chuồng ngựa, má rám nắng như dân núi xuống biển. Sau khi xem giấy tờ của tôi, viên sĩ quan hỏi có gì trong giỏ mây. Một con mèo, tôi trả lời. Y muốn mở coi. Tôi cẩn thận mở giỏ vì sợ con mèo chạy mất, nhưng một nguòi lính vì luồn tay xuống duới đáy giỏ khám xem có gì giấu nên bị nó cào. Viên sĩ quan can thiệp.

"Con mèo thật là đẹp", tôi nói.

Y lẩm nhẩm điều gì và ve vuốt con vật. Con mèo lần này không tấn công, nhưng làm ngơ như không để ý. Y hỏi, nó mấy tuổi. Tôi bảo không biết, người ta vừa cho tôi. Y bảo:

"Tôi hỏi vì xem nó khá già, chắc đến mườì tuổi."

Mặc dù y tử tế và lịch sự, tôi không dám hỏi làm sao mà y biết, và cũng không dám hỏi y thêm đôi điều khác nữa. Y lại nói:

"Tôi nghĩ còn mèo này đã bị chủ bỏ rơi, và chắc chẳng được ai săn sóc. Đừng bắt nó theo ý cụ, mà ngược lại, cứ để tự nhiên cho đến khi nó tự thoải mái với cụ. Mà cụ làm nghề gì nhỉ?"

Tôi trả lời là làm phóng viên.

"Bao lâu rồi?"

Tôi bảo đã nửa thế kỷ.

Y bảo tôi tin lời cụ. Y chìa tay từ giã với một câu có thể là khuyên mà cũng có thể là doạ:

"Cụ nên giữ gìn cẩn thận đấy."

Trưa hôm ấy, tôi lấy điện thoại ra khỏi móc, lẩn trốn vào một chương trình âm nhạc tuyệt vời với bản ráp-xô-đi viết cho kèn đồng và hoà tấu của Wagner, bản khác cho cho xắc-xô-phôn của Debussy, và bản ngũ tấu tuyệt vời cho đàn dây của Bruckner. Chẳng mấy chốc tôi cảm thấy hòa mình vào bóng râm êm dịu của phòng làm việc.

Tôi bỗng cảm thấy có gì trượt dưới bàn, không hẳn thân thể một sinh vật mà một sự hiện diện siêu hình đang cọ vào chân tôi. Tôi hét lên và chồm dậy. Hoá ra là con mèo với cái đuôi xù, uể oải bí mật, gốc gác huyền bí, làm tôi rùng mình nghĩ mình đang sống chung trong nhà này với một sinh vật không phải loài người.

Khi chuông nhà thờ điểm bảy giờ, có vì sao rất sáng trên bầu trời màu hồng và một con tầu hụ lên tiếng còi chia ly buồn thảm, tôi cảm thấy trong cổ họng thắt lại vì cái nghẹn ngào huyền bí của tất cả những mối tình có thể hiện hữu và đã không hiện hữu cho tôi. Tôi không chịu nổi thêm nữa. Nhấc máy điện thoại, trái tim như ngậm trong miệng, tôi quay bốn số rất từ từ để khỏi lầm lẫn, và khi chuông reng lần thứ ba, tôi nhận ra giọng nói quen thuộc. Thở dài nhẹ nhõm, tôi nói:

"Chị ơi, mong chị bỏ qua cơn nóng nảy của tôi sáng ngày."

Mụ bình thản:

"Đừng bận tâm. Tôi cũng đang đợi anh gọi lại đây." Tôi dặn:

"Tôi thích con bé đợi tôi trong tình trạng nguyên sơ, như khi Chúa cho nó ra đời. Không son phấn, không vẽ mặt nhá."

Mụ cười tiếng cười quen thuộc như từ sâu trong cổ. Mụ nói:

"Sẽ y theo lời anh dặn. Nhưng anh sẽ mất cái thú lột nó ra từ từ từng tấm một mà đám bô lão thường khoái. Tôi thật không hiểu nổi các cụ."

Tôi bảo tôi hiểu, lý do là các cụ mỗi lần mỗi già hơn. Mụ coi câu chuyện như vậy là xong. Mụ nói:

"Tốt, cứ thế nhé. Tối nay đúng mười giờ, trước khi con bé đổi ý."

3.

Tên nó là gì nhỉ? Mụ chủ chưa cho tôi biết. Khi nói chuyện, mụ chỉ gọi nó là con nhỏ. Tôi coi đó như tên thật của nó. Vả lại Rosa Cabarcas đặt tên cho đám con gái của mụ tuỳ theo mỗi khách hàng. Riêng tôi, tôi trông mặt chúng mà đoán tên, và ngay từ đầu tôi đinh ninh là con bé có một cái tên dài, như Filamena, Saturnina, hay Nicolasa. Tôi đang suy nghĩ về những tên đó, thì nó xoay mình, lưng quay lại tôi, chỗ nó vừa nằm trông như một vũng máu in đúng hình thân xác nó. Phải một lúc sau tôi mới nhận ra đó là vết ẩm mồ hôi trên khăn trải giường.

Rosa Cabarca dặn tôi phải nhẹ tay với nó, vì nó vẫn còn cái sợ của lần đầu. Còn nữa, những sửa soạn quan trọng làm nó càng sợ hơn. Liều thuốc ngủ bị gia tăng nên chi nó ngủ yên đến nỗi tôi nghĩ là không nỡ đánh thức nó dậy mà không hát một bài ru em cho nó. Tôi lau khô mồ hôi cho nó bằng khăn tắm trong khi khẽ hát bài ru em về sự tích Delgadina, cô công chúa út của cổ tích bị vua cha quyến rũ. Trong khi tôi lau, nó quay sang tôi, bên sườn mồ hôi lại đổ ra ướt sũng theo nhịp lời ru: Delgadina, Delgadina, em là mối tình yêu dấu của ta. Tôi vui sướng vô cùng khi vừa lau xong bên này, thì nó lại ứa mồ hôi ra bên kia, làm cho bài ru như bất tận. Tôi hát vào tai con bé: Dậy đi em, dậy mặc chiếc váy lụa của em vào. Và khi bài hát đến đoạn đám hầu cận của nhà vua thấy công chúa đã chết trong giường vì khát, tôi nghĩ con bé của tôi cũng vừa thức giấc khi nghe gọi đến tên. Thế là con bé có tên Delgadina.

Tôi trở lại giường với chiếc quần đùi in đầy hình môi hôn, và tôi nằm xuống bên nó. Tôi ngủ đến năm giờ sáng trong nhịp thở bình thản của nó, êm ả như tiếng ru. Tôi vội vã mặc quần áo mà không tắm rửa, và chính lúc ấy tôi thấy hàng chữ viết bằng son trên gương: Con hổ không ăn xa. Tôi biết không thể là tối hôm qua, và không ai có thể vào trong phòng, thành tôi cho đây là món quà của ma. Ra đến cửa, một tiếng sấm lớn làm tôi giật mình, và mùi đất ướt tràn vào phòng. Tôi không kịp ra đi trong khô ráo. Một cơn mưa rào lớn đổ xuống, thứ mưa làm thành phố khốn đốn từ tháng năm cho tới tháng mười, biến những con đường cát nóng chạy ra sông thành những dòng thác ào ào cuốn đi mọi vật. Tháng chín bất thường năm đó, sau ba tháng hạn hán, mưa có thể vừa tốt lành vừa tàn phá.

Vừa mở cửa vào, tôi có cảm giác phủ tạng là không phải chỉ có một mình tôi trong nhà. Tôi thoáng thấy con mèo từ xô-pha nhảy lên và phóng ra ban-công. Trên cái đĩa con là những gì sót lại từ bữa ăn không biết ai dọn ra cho nó. Mùi nước tiểu và phân của nó nhiễm vào mọi đồ vật. Tôi đã nghiên cứu về mèo cẩn thận như ngày xưa học La-tinh. Sách chỉ dẫn dạy rằng mèo hay cào đất để giấu phân, và nhà nào không có vườn như nhà này, nó hay dùng chậu cây hay một chỗ kín nào khác để thay thế. Chuyện nên làm là ngay từ ngày đầu cho nó một cái hộp cát để tập cho nó quen, và tôi đã làm như vậy. Sách cũng dạy rằng việc đầu tiên con mèo làm tại nhà mới là đánh dấu lãnh thổ của mình bằng cách tiểu ra khắp nơi, chuyện có lẽ đã xảy ra, nhưng sách không nói xử lý làm sao. Tôi rình để biết thói quen của nó, nhưng tôi không biết những chỗ trốn bí mật của nó, những chỗ nó nghỉ ngơi, cũng như những gì làm cho tính tình nó thất thường. Tôi gắng hết sức dạy nó ăn đúng giờ, dùng cái hộp cát ngoài sân, không leo lên giường trong khi tôi ngủ, cũng như không lại ngửi đồ ăn bày trên bàn, và tôi không làm sao cho nó hiểu được là nhà tôi là nhà của nó, và không cần phải xử lý như chiến lợi phẩm chiếm được. Sau cùng tôi đành để kệ cho nó muốn làm gì thì làm.

Tới khoảng chiều, trời đổ cơn mưa lớn với những trận cuồng phong như muốn thổi bay ngôi nhà đi. Tôi hắt hơi liền mấy cái, đầu đổ nhức và lên cơn sốt, nhưng cảm thấy trong người tràn trề sức khỏe cũng như ý chí chưa từng có để làm bất cứ chuyện gì. Tôi chạy đi đặt nồi niêu trên sàn hứng nước, và nhận ra có nhiều chỗ dột mới kể từ mùa đông qua. Chỗ dột lớn nhất bắt đầu làm lụt phía bên phải phòng sách. Tôi vội vã cứu nguy cho mấy tác giả Hy-La đang sống tại đấy, nhưng khi lấy mấy pho sách đi tôi phát hiện ra một tia nước mạnh phát xuất từ một ống nước vỡ bên trong tường. Tôi tạm lấy giẻ rách nút chỗ vỡ lại để có thì giờ cứu mấy cuốn sách. Ngoài công viên, gió gào thét và nước chảy ào ào mỗi lúc mỗi mạnh. Rồi sấm sét nổ vang làm không gian khét mùi lưu huỳnh. Gió làm vỡ mấy ô kính ngoài ban-công và tung chốt cửa, tạt nước vào trong nhà. Vậy mà chỉ trong mười phút, trời quang mây tạnh. Mặt trời huy hoàng làm khô mấy con đường còn ngổn ngang di tích tàn phá của cơn giông, và sự vật ấm áp trở lại.

Khi hết giông, tôi vẫn cảm thấy không phải một mình trong nhà. Tôi chỉ có cách giải thích độc nhất là ta thường quên các sự việc, nhưng có những sự việc không quên được lưu trữ mãi trong đầu tựa như nó vẫn đang xảy ra. Nên chi khi nhớ lại hôm mưa lũ ấy, tôi không thấy tôi một mình trong nhà mà luôn luôn có Delgadina bên cạnh. Cái đêm ngủ với nó, tôi đã gần gũi đến nỗi bây giờ còn nghe được tiếng thở của nó cũng như tiếng nó dụi má vào gối.

Phải vậy tôi mới hiểu được tại sao nó và tôi có thể làm chung được nhiều chuyện như thế trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cơn giông. Tôi nhớ mình đã leo lên cái ghế đẩu trong phòng sách, và tôi nhớ nó thức dậy trong chiếc áo hoa in, đón sách từ tay tôi để cất vào chỗ khô ráo. Rõ ràng tôi thấy nó chạy từ đầu nhà này đến đầu nhà kia, chống chọi với mưa, mình ướt dầm dề và nước ngập đến mắt cá. Tôi nhớ sáng hôm sau, nó nấu bữa điểm tâm không có thật và bày bàn ăn, trong khi tôi chùi khô sàn và xếp lại thứ tự cảnh nhà bừa bộn như sau cơn đắm tầu. Không bao giờ tôi quên nét tư lự của nó khi nó hỏi tôi trong bữa ăn sáng:

"Tại sao già thế này rồi ông mới gặp em?"

Tôi nhớ đã trả lời nó rằng:

"Già hay trẻ không phải là đã sống bao nhiêu năm, mà là cảm thấy trong lòng như thế nào."

Tôi thấy nó trong trí nhớ rõ ràng đến nỗi tôi muốn làm gì với nó cũng được. Tôi có thể thay đổi màu mắt nó theo trạng thái tâm hồn: trong màu nước khi mới thức giấc, ngọt màu mật khi cười, cháy bỏng màu lửa khi nó không vừa ý. Tôi trưng diện cho nó theo những kiểu khác nhau, tuỳ trạng thái vui buồn của mình: như cô gái mới biết yêu tuổi hai mươi, như cô điếm sang trọng tuổi bốn mươi, như nữ hoàng Babilonia tuổi bảy mươi, như một nữ thánh tuổi một trăm. Chúng tôi cùng nhau hát nhạc song ca của Puccini, nhạc boleros của Augustín Lara, nhạc tango của Carlos Gardel, và một lần nữa chứng minh rằng những ai không ca hát, không bao giờ tưởng tượng nổi cái hạnh phúc của ca hát. Bây giờ thì tôi hiểu đây không phải chỉ là một ảo ảnh mà còn là phép lạ thần diệu của mối tình đầu tuổi chín mươi.

Khi căn nhà dọn dẹp ngăn nắp xong, tôi gọi mụ Rosa Cabarcas. Nghe giọng tôi, mụ nói lớn:

"Lậy Chúa, tôi đã tưởng anh chết đuối vì trận lụt rồi. Mà tôi không thể hiểu tại sao anh lại ngủ một đêm nữa với con bé mà vẫn không đụng đến nó. Anh hoàn toàn có quyền không thích nó, nhưng ít nhất phải cư xử ra người lớn."

Tôi định cắt nghĩa, nhưng mụ đã đổi đề tài mà không cần chuyển mạch:

"Dù sao, tôi cũng đã nhắm cho anh một con bé khác lớn hơn một chút, đẹp đẽ và vẫn còn trinh. Bố nó đòi đổi lấy một căn nhà, nhưng ta có thể thuơng lượng."

Lời mụ như nước giá đổ vào tim tôi. Đến thế là hết nói. Hốt hoảng, tôi vội vã khẳng định:

"Tôi vẫn thích con bé cũ, và cứ như mọi lần, không có lôi thôi gì hết."

Đường dây lặng câm, sau cùng với giọng từ tốn như nói một mình, mụ lẩm nhẩm rằng có lẽ đây là cái mà các bác sĩ gọi là chứng lẩn thẩn của bệnh lão hoá.

Đêm ấy, tôi đi đến phòng hẹn lúc mười giờ đêm với anh tài xế nổi tiếng là không tọc mạch. Tôi mang theo chiếc quạt điện di động, một bức tranh của Orlando Rivera - cũng là anh chàng Figurita yêu mến -, búa và đinh để treo tranh. Trên đường tôi dừng xe mua bàn chải và thuốc đánh răng, xà-phòng thơm, nước thơm, và kẹo cam thảo. Tôi cũng muốn mang tới một bình cắm hoa và một cành hồng vàng để tẩy trừ tạp khí của mấy bông hoa giả bằng giấy nhưng không tiệm hoa nào mở, nên đành ăn trộm cành tường vi vừa đơm bông trong một khu vườn tư gia bên đường.

Theo lời dặn thường lệ của mụ chủ, tôi tới bằng con hẻm dọc mương đào sau nhà, và vào phòng qua ngả vườn cây ăn trái để khỏi ai trông thấy. Anh tài xế căn dặn tôi:

"Cụ ơi cẩn thận nhá, trong nhà này đã có án mạng chết người đấy."

Tôi trả lời:

"Nếu là chết vì tình thì cũng tốt thôi."

Ngoài sân tối thui nhưng bên trong các phòng ngủ có đèn thắp, và nhạc vặn hỗn độn. Từ phòng tôi, tôi nhận ra giọng ca ấm áp của Pedro Vargas, danh ca tê-no của châu Mỹ, trình diễn một bản boléro của Miguel Matamoros. Chao ôi, tôi xúc động đến chết được. Hồi hộp, tôi đẩy cửa và thấy Delgadina trên giường, dáng nằm hệt như tôi nhớ trong đầu: khoả thân, nghiêng phía bên tim, say ngủ trong sự thảnh thơi thánh thiện.

Trước khi ngả lưng, tôi bày chiếc máy hát ra, thay chiếc quạt cũ đã rỉ bằng chiếc quạt mới, và treo tấm tranh trên tường đối diện để con bé có thể nhìn từ giường. Tôi nằm xuống bên nó, và ngắm nó từng phân từng ly. Đúng là con bé mà tôi thấy đi lại trong nhà tôi: đúng là đôi bàn tay nhỏ đã tìm tôi trong tối, đúng là đôi bàn chân với những bước mảnh dẻ có lần tôi lầm với bước chân con mèo, đúng là mùi mồ hôi đã ướt sũng vải giường nhà tôi, và đúng là ngón tay xinh đẹp đeo chiếc đê khâu. Thật là kỳ lạ, con bé nằm đấy bằng xương bằng thịt, mà lại không thật bằng con bé tôi vẫn tưởng tượng ra.

Tôi nói với nó:

"Có bức tranh ta treo trước giường cho em đấy. Figurita vẽ bức tranh ấy. Ta rất quý anh ta. Figurita là vũ sư hạng nhất của các nhà thổ từ trước tới nay, tốt bụng đến nỗi ma quỷ anh ấy cũng thương. Anh vẽ bằng sơn tàu thuỷ, vải bố thì bóc ra từ chiếc tàu bay lâm nạn trong núi Sierra Nevada de Santa Marta, còn cọ thì làm bằng lông con chó của anh ấy. Người đàn bà mẫu là một nữ tu anh ta bắt cóc từ một tu viện và lấy làm vợ. Ta treo tranh đây nhá, để thức giấc là em có thể thấy nó liền."

Con bé không thay đổi dáng nằm khi tôi tắt đèn vào lúc một giờ sáng, và hơi thở của nó nhẹ đến nỗi tôi phải sờ cổ tay nó để cho chắc là nó vẫn sống. Tôi nghe máu theo mạch lưu thông êm ả đến những vùng kín đáo riêng tư nhất của thân xác nó, để trở về tim tinh khiết vì đã được thanh lọc bởi tình yêu .

Trước khi ra về lúc rạng đông, tôi lấy giấy chép lại chỉ tay nó, dụng ý đem cho Diva Sahibí đọc để hiểu tâm hồn nó. Và kết quả như sau: Con bé nghĩ gì nói nấy. Việc bằng tay thì nó khéo đến độ hoàn hảo. Nó có liên hệ với một kẻ đã quá vãng và đã trông đợi y giúp đỡ, nhưng nó đã lầm: sự giúp đỡ con bé cần thì lại sẵn ngay tầm tay bây giờ. Nó chưa có ràng buộc mật thiết với ai, nhưng khi chết thì rất thọ và có chồng. Hiện giờ nó đang có một người đàn ông tóc đen, nhưng người này không phải là người đàn ông cho cuộc đời nó. Có thể có tám con, nhưng nó sẽ quyết định chỉ sẽ có ba. Vào tuổi ba mươi nhăm, nếu nghe lời con tim thay vì trí tuệ mà xử sự thì nó sẽ rất giàu. Sẽ du lịch rất nhiều. Có một cuộc sống kép và một may mắn kép, và có khả năng thay đổi số phận mình. Chuyện gì cũng muốn thử, vì tò mò, nhưng sẽ ân hận nếu không để cho con tim dìu dắt.

Quay quắt vì tình, tôi cho sửa sang những hư hại vì trận bão mới rồi, đồng thời tu bổ lại những gì nhiều năm qua vì túng vì lười tôi đã sao nhãng. Tôi tổ chức lại phòng làm việc, xếp các bộ sách theo thứ tự đã đọc. Sau cùng, tôi thanh toán cái đàn dương cầm với hơn trăm ống nhạc cổ điển, và mua một cái máy hát cũ nhưng tốt hơn cái tôi đang có, với loa có độ chuẩn cao, làm căn nhà như rộng hơn. Tôi kể như sắp khánh kiệt, nhưng thật ra đã được đền bù rộng rãi vì phép lạ là tuổi này vẫn còn sống sót.

Ngôi nhà phục hưng lại từ tro tàn, và tôi phơi phới sống trong tình yêu tràn trề với Delgadina, hạnh phúc cho đến bây giờ tôi mới được biết. Nhờ con bé mà tôi trực diện lần đầu tiên trong đời với cái Tôi trung thực, trong khi năm chín mươi tuổi của tôi tiếp tục trôi qua. Tôi khám phá rằng mình ngăn nắp đến mức ám ảnh, thích mỗi đồ vật phải ở chỗ riêng của nó, chuyện nào phải vào dịp nấy, mỗi chữ phải dùng cho đúng thể cách, tất cả chừng ấy không xứng đáng được khen thưởng mà ngược lại là một giả vờ có hệ thống để che giấu cái bản tính vô trật tự. Rằng tôi trọng kỷ luật chỉ vì phản ứng lại tật lơ đãng của mình. Rằng tôi thảo lảo không phải vì rộng rãi mà chỉ vì mong che giấu thói tiểu nhân. Rằng tôi làm ra bộ khôn ngoan chỉ để che giấu sự thiếu suy nghĩ. Rằng tôi không thù dai chỉ vì sợ rơi vào những cơn giận dồn ép trong lòng. Rằng tôi đúng giờ chỉ để không ai biết tôi coi rẻ thì giờ của người khác. Tôi khám phá sau cùng rằng tình yêu không phải là một trạng thái của tâm hồn mà chỉ là một trong mười hai con giáp của hoàng đạo.

Tôi trở thành một người khác. Tôi gắng đọc lại những sách truyện cổ điển hướng dẫn tôi thuở thiếu thời, mà vì khó đọc đã bỏ đi. Tôi đắm đuối trong thơ văn lãng mạn mà tôi đã khước từ khi bị mẹ ép buộc, và nhờ đó thấy được rằng cái khí lực vô song đã vận chuyển thế giới là những tình yêu không được đáp đền thay vì hạnh phúc. Khi sự thưởng lãm âm nhạc của mình có vấn đề, tôi khám phá ra tại mình lạc hậu già nua, và mở lòng ra đón nhận những thú vui bất ngờ nhờ may rủi mà kiếm được.

Tôi tự hỏi làm sao tôi có thể sống với cái chóng mặt liên tục này mà tôi vừa sợ hãi lại vừa tự tạo ra. Tôi bập bềnh giữa những đám mây lang thang, và tự nói chuyện với mình trong gương với cái ảo tưởng là đã tìm ra mình là ai. Cơn hôn mê của tôi như vậy, nên gặp đám biểu tình của các cháu sinh viên trang bị vỏ chai và đá cuội, tôi phải vận dụng hết nghị lực để không bước vào hàng đầu với tấm bảng ghi chân lý riêng của mình là tôi điên vì tình.

Mất phương hướng vì hình ảnh Delgadina nằm ngủ mãnh liệt như một quyền lực luôn luôn trở về trong trí nhớ, tôi đổi tinh thần những bài báo chủ nhật tuy không chút chủ tâm ranh mãnh. Bất cứ đề tài gì tôi cũng viết cho con bé, vì nó mà cười mà khóc trong cột báo, và từng chữ tôi hạ xuống giấy đong đầy sự sống trong tôi. Thay vì dạng thức chạo chuyện như từ trước đến nay, bây giờ bài tôi viết như những bức thư tình mà ai cũng có thể muốn viết. Tôi đề nghị bài báo xuất hiện trên giấy dưới dạng viết tay nắn nót theo kiểu florentin, thay vì chữ in thường lệ. Anh chủ biên tất nhiên thấy đây là tính già làm dáng quá đáng, nhưng ông tổng giám đốc lại thuyết phục anh ta bằng một câu còn truyền tụng trong ban biên tập: Đừng lầm nhé, mấy người điên hiền thường đi trước tương lai. Độc giả phản ứng tức thì và rất hân hoan, và toà soạn tràn ngập bởi thư của những người đang yêu. Có bài được đọc lại trên radio ngang hàng với những tin thời sự nóng bỏng, và những bản in lại bằng thạch bản hay giấy than bán đắt như thuốc lá lậu trên những góc phố dọc đường San Blas. Từ đầu rõ ràng là tác phẩm tôi tuân theo cái khao khát biểu lộ bản thân mình, nhưng tôi nhiễm lấy thói quen là rất lưu tâm đến sự khao khát ấy khi viết, và luôn luôn với quan điểm của ông già 90 mà chưa học cách suy nghĩ như một ông già. Cộng đồng trí thức như thường lệ tỏ ra nhút nhát và có ý kiến trái ngược, mấy chuyên gia xem tướng chữ không ngờ đưa ra những bàn luận ngược xuôi về bút pháp của tôi. Chính họ đã chia rẽ dư luận, hâm nóng các cuộc bút chiến, và làm hợp thời trang mối hoài niệm cho thời xa xưa, khi viết tay còn thông dụng.

Chưa hết năm tôi đã thu xếp với Rosa Cabarcas cho lưu lại luôn trong phòng chiếc quạt điện và những đồ vật tôi tiếp tục mang lại cho có đôi chút tiện nghi. Tôi thường tới lúc mưởi giờ, bao giờ cũng mang món gì mới cho con bé hay cho sở thích chung, và dùng vài phút mở tủ dọn ra những gì cần thiết đã cất đi lần trước, để bố trí cho những đêm của chúng tôi. Khi về nhà, ít khi sau năm giờ sáng, tôi lại phải cất đi tất cả vào ruơng tủ và khoá lại. Căn phòng ngủ lại trở lại tồi tệ bẩn thỉu, trả lại cho những cuộc tình buồn bã của khách làng chơi thường lệ.

Một buổi sáng tôi nghe tin Marcos Pérez (giọng nói rất được ưa chuộng của vô tuyến), tuyên bố sẽ đọc lại bài báo chủ nhật của tôi vào buổi phát thanh ngày thứ hai. Khi chặn được cơn nôn vì quá xúc động, tôi nói:

"Delgadina à, em biết rồi đấy, danh vọng như con mụ béo phì không ăn nằm với ta, nhưng luôn luôn đứng trước giường ngắm ta."

Vào khoảng thời gian này, một hôm tôi ở lại ăn sáng với mụ Rosa Cabarcas, mà bây giờ tôi thấy ít thê thảm hơn trước, mặc dầu mụ vẫn mặc bộ tang phục cũ và vẫn đội cái mũ đen sụp xuống lông mày. Bữa điểm tâm nhà mụ có tiếng là ngon, và ớt nhiều, cay đến phát khóc. Cắn miếng đầu tiên, tôi nói trong nước mắt là bây giờ không cần trăng rằm mà tôi cũng xót hậu môn. Mụ bảo, đừng có than thân trách phận. Phải ơn Chúa anh còn hậu môn để mà xót.

Mụ ngạc nhiên khi tôi nói đến tên Delgadina. Mụ nói:

"Tên nó không phải như vậy. Tên nó là..."

Tôi ngắt ngang:

"Đừng, đừng nói... Với tôi, nó là Delgadina."

Mụ nhún vai:

"Thôi được, trước sau nó cũng là của anh, nhưng Delgadina nghe như tên món thuốc lợi tiểu."

Tôi kể cho mụ nghe hàng chữ về chuyện con hổ bữa trước con bé lấy son viết trên gương. Mụ nói:

"Không thể nào là nó, con bé không biết đọc biết viết."

"Vậy thì ai viết?"

Mụ nhún vai:

"Chắc là ai đấy trước kia đã chết trong căn phòng này."

Nhân dịp những bữa ăn sáng như vậy tôi giải bầu tâm sự với mụ, và xin mụ những ơn huệ nhỏ nhoi như thêm chút tiện nghi cho Delgadina hay cho phép nó ăn diện hơn... Mụ chấp thuận một cách dễ dàng như không cần phải suy nghĩ, với sự ranh mãnh của cô nữ sinh tinh nghịch. Một lần như vậy, mụ nói:

"Thật là tức cười. Tôi cảm thấy như anh đang xin cưới nó làm vợ."

Và bình thản mụ nói tiếp:

"Mà nhân tiện nói chuyện cưới xin, sao anh không lấy nó nhỉ?"

Tôi sững sờ. Mụ nói vào:

"Tôi nói thật đấy, như vậy đỡ tốn kém cho anh hơn. Dù sao tuổi anh, vấn đề là có còn làm ăn được không, nhưng anh bảo tôi hôm trước là chuyện ấy vẫn tốt mà."

Tôi ngắt lời mụ:

"Dục tình là phần thưởng an ủi cho những ai không với tới được tình yêu."

Mụ cười lăn cười bò:

"Ối chao ôi, anh giáo ơi. Tôi vẫn biết anh là tay đàn ông đầy nam tính. Ngày xưa đã là vậy. Tôi mừng là anh bây giờ vẫn còn 'khoẻ' chán, trong khi kẻ thù của anh đã xếp giáo quy hàng từ lâu. Họ bàn tán về anh như vậy là có lý do. Anh đã nghe Marcos Pérez chưa?"

Tôi lảng đi:

"Ai chả nghe Marcos Pérez."

Nhưng mụ nói tiếp:

"Giáo sư Camacho y Cano cũng vậy, trong mục 'Đôi lời cho mọi chuyện' bảo thế giới ngày nay khác thế giới ngày xưa, vì đàn ông chẳng còn bao nhiêu người được như anh."

Cuối tuần ấy, Delgadina lên cơn sốt và ho. Tôi dựng Rosa Cabarcas dậy, xin mụ ít thuốc thông thuờng, rồi mang tới phòng một hộp cứu thương với một vài vị thông dụng. Hai ngày sau Delgadina vẫn ốm và không về hãng để tiếp tục đơm khuy. Bác sĩ kê đơn cho con bé mà bệnh cúm thường ông chắc trong một tuần lễ cũng sẽ tự khỏi; nhưng ông ái ngại vì tình trạng suy dinh dưỡng chung.

Tôi không gặp được Delgadina, cảm thấy thiếu thốn quá nhiều và lợi dụng thời gian này để một mình sắp xếp lại căn phòng. Tôi mang đến một bức hoạ bằng bút mực do Cecilia Porras vẽ để minh hoạ cho cuốn Chúng tôi đợi nàng, tập truyện ngắn của Álvaro Cepeda. Tôi cũng mang tới cuốn Juan Cristóbal, sáu tập cùa Romain Rolland để đọc những đêm không ngủ. Kết quả là khi Delgadina trở lại, con bé thấy căn phòng xứng đáng cho một hạnh phúc êm đềm; không khí trong lành thơm ngát mùi thuốc xịt sát trùng, tường sơn lại màu hồng, đèn có chụp, hoa tươi trong bình, những cuốn sách tâm đắc của tôi, và những bức tranh đẹp của mẹ tôi treo theo thẩm mỹ hiện đại. Tôi đã thay chiếc radio cũ bằng một máy sóng ngắn bắt một đài có chương trình âm nhạc văn hoá cao, để Delgadina có thể ngủ trong tiếng nhạc Mozart, tuy nhiên một đêm tôi thấy đài vặn lại về một chương trình bolero thời thượng. Tất nhiên đó là sở thích của con bé, và tôi chấp nhận vui vẻ, vì cũng là sở thích của tôi trong những ngày trẻ trung. Trước khi về nhà ngày hôm sau, tôi lấy son viết lên gương câu: "Bé ơi, hai ta chỉ có nhau trên đời".

Vào thời điểm này, tôi có cảm nhận lạ kỳ là con bé trưởng thành sớm hơn tuổi. Tôi trao đổi nhận xét này với Rosa Cabarcas, và mụ thấy chuyện đó cũng bình thường. Mụ nói:

"Nó sắp mười lăm tháng mười hai này. Hoàn toàn là một con bé tuổi nhân mã."

Tôi lúng túng ghi nhận con bé có thật bằng xương bằng thịt và có ngày sinh nhật. Cho nó quà gì bây giờ. Rosa Cabarcas góp ý:

"Cho nó chiếc xe đạp. Nó phải đạp xuyên thành phố ngày hai lần để đơm khuy."

Mụ chỉ cho tôi chiếc xe đạp cũ của nó để ở sân sau nhà, quả thật là mấy miếng sắt vụn không xứng đáng với con bé yêu dấu thế này. Vậy mà tôi vẫn chưa hết xúc động vì bằng chứng nó có thật trên đời.

Đi mua xe cho nó, tôi không cưỡng được cám dỗ leo lên đạp thử vài vòng quanh nhà kho của tiệm. Anh bán hàng hỏi tôi bao nhiều tuổi, và tôi trả lời với cái làm dáng của ông già: Tôi sắp ăn sinh nhật chín mốt. Anh ta nói điều tôi muốn nghe:

"Vậy mà tôi tưởng cụ trẻ hơn đến hai mươi tuổi đấy."

Chính tôi cũng không hiểu làm sao tôi còn nhớ cách đạp xe từ hồi còn là học sinh trung học, và lòng tôi tràn ngập niềm vui. Tôi cất tiếng hát. Mới đầu tôi hát khẽ như để mình mình nghe, sau cao giọng hát bài ruột của đại ca sĩ Caruso, giữa những cửa tiệm lòe loẹt ngoài chợ và trong đám xe cộ qua lại như mắc cửi. Mọi người thú vị nhìn tôi, ồn ào cổ võ và thúc giục tôi tham dự vòng đua toàn quốc bằng xe lăn. Tôi chào lại bằng cái chào của người lính thủ vui tính, miệng vẫn hát tiếp. Tuần ấy, để vinh danh tháng chạp, tôi viết một bài rất bạo: "Hạnh phúc cỡi xe đạp vào tuổi chín mươi như thế nào".

Đêm sinh nhật của con bé, tôi hát cho nó toàn bài từ đầu đến cuối, và hụt hơi hôn nó từ đầu đến chân: nào là sống lưng, từng đốt từng đốt một, nào là hôn xuống mông, phía có nốt ruồi son, nào hôn phía trái tim không mệt mỏi của nó. Trong khi tôi hôn, người nó nóng dần và toả ra một mùi hương hoang dã và trinh nguyên. Con bé run lên mỗi lần một phân một ly vuông da nó được chạm tới, và mỗi ly mỗi phân vuông ấy có độ nóng khác nhau, có vị ngon ngọt khác nhau, kèm theo một tiếng rên khác nhau, và toàn thân bên trong nó rung lên như theo một bản đàn, và đầu vú nó không chạm tới mà nở ra như cánh hoa. Tôi chợp ngủ và lúc gần sáng nghe thấy tiếng ồn ào như có đám đông người nói cười ngoài biển, và lá cây lao xao như hốt hoảng, âm thanh như nhói nơi tim tôi. Tôi vào phòng tắm, lấy son viết lên gương: Bé Delgadina yêu dấu ơi, gió Giáng sinh đã tới.

Một trong những kỷ niệm hạnh phúc nhất của tôi là cơn gió vào một buổi sáng đã lâu như sáng hôm nay, khi tan trường về. "Chuyện gì vậy, nhỏ?", cô giáo ngạc nhiên hỏi tôi. Rồi cô nói tiếp: "Ái chà, em bé không biết đó là gió sao?". Tám mươi năm đã qua cho đến hôm nay nằm trong giường Delgadina, tôi nghe lại sự dao động đó, cũng trong tháng chạp đúng hẹn trở về với bầu trời trong, với những trận bão cát, với những gợn gió lốc lang thang trong phố làm tốc mái nhà và cũng làm tốc váy mấy đứa học trò con gái. Thành phố vào dịp này, âm thanh có khả năng vang vọng bất thường. Những đêm trở gió, tiếng la hét từ những chợ rất xa của một làng trên núi cao nghe gần như từ góc đường kế cận. Không hiếm khi những trận lốc tháng chạp làm ta tìm lại được những người bạn thất lạc rải rác trong các nhà thổ xa xăm.

Tuy nhiên tháng chạp mang lại cho tôi cái tin xấu là Delgadina không thể ở với tôi Giáng sinh năm nay mà phải về với gia đình. Tôi nghĩ nếu có gì đáng ghét trên đời này chính là những ngày lễ lạt bắt buộc mà người ta khóc vì hạnh phúc quá, với pháo bông, với những bài hát ngớ ngẩn, với những chùm hoa bằng giấy, tất cả không ăn nhằm gì đến một hài đồng ra đời 2000 năm trước trong một máng lừa nghèo nàn. Tuy nhiên đêm Giáng sinh tới, không cưỡng nổi niềm thương nỗi nhớ, tôi một mình tìm đến căn phòng vắng bé. Tôi ngủ ngon để thức giấc bên cạnh một con gấu biết đi hai chân như gấu Bắc Cực, và tấm cạc viết hàng chữ "Tặng ông bố xấu trai". Rosa Cabarcas có lần nói với tôi là con bé đang học, nhờ những gì tôi viết trên gương cho nó, và tôi thấy nét chữ của nó kể như khá tấn bộ. Nhưng rồi mụ lại làm xẹp mất ảo tưởng của tôi với cái thông tin đáng ghét là chính mụ đã cho tôi con gấu. Nhưng đêm tân niên lên giường lúc tám giờ, tôi thiếp đi mà không cay đắng. Tôi sung sướng, vì rằng khi đồng hồ đánh mười hai tiếng nửa đêm, giữa tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, tiếng còi hụ của nhà máy và xe chữa lửa, tiếng còi tầu thuỷ, tiếng pháo nổ, tôi nghe Degadina rón rén đi vào tới nằm bên và hôn tôi. Cảm giác thật đến nỗi tôi nghe trong miệng vị ngọt của kẹo cam thảo.

4.

Sang năm mới, chúng tôi bắt đầu hiểu nhau biết nhau như thể đã từng sống với nhau trong khi thức, vì tôi đã tìm ra cách nói để con bé không cần tỉnh dậy mà vẫn nghe được và trả lời lại bằng một động tác thân thể. Bằng cách quan sát giấc ngủ của nó, tôi có thể đọc trạng thái tâm thần nó. Lúc đầu mệt mỏi và trằn trọc, dần dần tới được tình trạng bình an nội tâm làm gương mặt nó đẹp và giấc ngủ nó sâu hơn. Tôi kể cho nó nghe cuộc sống của tôi, thầm thì vào tai nó những gì tôi mới viết nháp cho cột báo chủ nhật, trong đó không cần phải nói, có nó và chỉ có nó mà thôi.

Vào thời gian này, một hôm tôi để lại trên gối cho nó đôi bông tai ngọc lục bảo của mẹ tôi. Nó đeo đôi bông tai ấy đêm hẹn sau, nhưng trông không hợp. Sau đó tôi mang cho nó đôi bông tai khác hợp với màu da nó hơn. Tôi cắt nghĩa đôi bông tai trước không đi với kiểu tóc của em. Nó để tai trần trong hai lần hẹn tiếp theo, nhưng đến lần thứ ba thì đeo đôi bông tai mà tôi khuyên nó. Tôi chợt hiểu nó không muốn chỉ vâng lời tôi, mà đợi cơ hội tự nguyện mới đeo bông tai tôi thích và làm tôi vừa lòng. Bây giờ thì tôi đã quen với cuộc sống chung với nó, thay vì ngủ truồng tôi mặc bộ pi-ja-ma lụa Tàu mà đã lâu không muốn mặc, lý do là trước kia có mặc vào cũng không biết cởi ra với ai.

Tôi bắt đầu đọc cho nó truyện Hoàng tử bé của Saint-Exupery, nhà văn Pháp được thế giới thán phục hơn cả chính dân Pháp. Đó là cuốn truyện đầu tiên tôi đọc cho nó giải trí trong giấc ngủ, và phải hai tối liền mới đọc xong. Tiếp theo là Truyện của Perrault, Lịch sử thánh thiện, và Ngàn lẻ một đêm đã thanh lọc cho hợp với trẻ em. Nhờ những truyện khác nhau, tôi phát hiện ra rằng giấc ngủ của con bé có nhiều tầng nông sâu, tuỳ theo nó thích ít hay nhiều. Khi thấy nó đã đạt tới giấc say nhất, tôi tắt đèn và nằm xuống ôm nó ngủ cho đến lúc gà gáy.

Có lúc cảm thấy hạnh phúc tràn trề, tôi hôn nó nhẹ lên mí mắt, và một lần, lần đầu tiên, như một tia ánh sáng hiện ra trong trời đêm, nó mỉm cười. Lát sau không lý do rõ ràng, nó lăn đi một vòng trên giường, quay lưng lại tôi, và nói như có điều bực tức: chính con Isabel làm cho mấy con sên khóc. Tôi vui mừng tưởng nó nói chuyện với tôi, tôi hỏi theo đà: mấy con sên nào? Nó không trả lời. Giọng nó có gì thô tạp, như không phải của chính nó mà của ai khác bên trong cơ thể nó. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, quả thật tôi thích nó khi ngủ hơn.

Vấn đề độc nhất của tôi bây giờ là con mèo. Con vật bỗng biếng ăn và khó tính, nằm liệt hai ngày liền không ngóc đầu trong xó nhà. Khi tôi định bỏ nó vào bị cói để Damiana mang đi khám thú y thì nó cào tôi như một con thú bị thương. Nó vùng vẫy trong bị và khó khăn lắm Damiana mới mang nó đi được. Lát sau Damiana gọi điện thoại về cho hay, người ta bảo tình trạng con vật không cách gì cải thiện, và họ chờ tôi cho phép đánh thuốc mê. Tôi hỏi tại sao. Damiana bảo tại nó già quá. Tôi giận dữ nghĩ rằng, vậy thì chính tôi cũng có thể bị người ta đem đi nướng trong một lò thiêu đầy mèo. Tôi rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan: không thích mèo, nhưng không nỡ lòng nào ra lệnh cho người ta giết con mèo này chỉ vì tội nó già. Sách nuôi mèo đâu có nói như vậy.

Tôi xúc động đến nỗi viết một bài cho cột báo chủ nhật, bằng một tựa đề lấy của Pablo Neruda: "Con mèo có phải là con hổ trong phòng khách không?". Bài báo khơi nguồn cho một cuộc bút chiến, một lần nữa chia quần chúng độc giả ra làm hai phe, thích mèo và không thích mèo. Sau năm tuần, người ta tới được chủ thuyết rằng có thể giết mèo vì lý do y tế cộng đồng chứ không thể nào vì nó quá già.

Sau khi mẹ tôi qua đời, tôi đã mất ngủ vì sợ bị chạm vào mình trong giấc ngủ. Có lần tôi cảm thấy mẹ chạm vào người tôi, nhưng giọng nói của bà làm tôi yên bụng: Con trai tội nghiệp của mẹ. Một đêm khuya gần đây, tôi lại bị chạm vào người khi ngủ trong phòng Delgadina, và tôi sung sướng tưởng con bé đã đụng vào tôi. Nhưng không phải. Đó là Rosa Cabarcas đang hiện ra trong bóng tối. Mụ nói:

"Mặc quần áo và đi theo tôi, có chuyện quan trọng."

Quả vậy, và chuyện còn quan trọng hơn tôi có thể tưởng tượng. Có người khách sộp của mụ bị giết bằng dao găm trong phòng số một. Hung thủ đã đào tẩu. Một xác chết to tuớng, trần truồng nhưng chân còn đi giày, tái mét như con gà luộc nằm trong chiếc giường đẫm máu. Mới bước vào phòng tôi đã nhận ra nạn nhân: Y tên là J.M.B., chủ một ngân hàng lớn, nổi tiếng là người lịch thiệp dễ thương, ăn mặc chải chuốt, và còn nổi tiếng hơn nữa vì tư thất rất lịch sự của y. Có hai vết thương nơi cổ như hai cái môi không khép, và vết đâm ở bụng còn rỉ máu. Tuy nhiên xác còn mềm. Điều làm tôi chú ý không hẳn là các vết thương, mà là chiếc "áo mưa" phòng bệnh có vẻ chưa dùng xong, còn đeo ở cái dương vật đã teo lại trên người chết.

Rosa Cabarcas không biết y đã ở với ai trong phòng, vì y cũng được đặc quyền tự do vào cửa riêng phía vườn trái cây. Chuyện bạn tình của y cũng là phái nam là một giả thuyết chưa thể loại bỏ. Mụ chủ chỉ nhờ tôi một chuyện là mặc quần áo cho tử thi. Mụ tỉnh táo bình thản, và tôi nghĩ với mụ chuyện chết chóc cũng không quan trọng gì hơn chuyện bếp núc hàng ngày. Tôi nói:

"Không có gì khó hơn là mặc quần áo cho xác chết."

Mụ nói:

"Tôi đã làm việc này nhiều hơn là một lần. Nếu có ai giữ cái xác cho vững, thì cũng dễ thôi."

Tôi bảo mụ:

"Ai mà tin. Cái thây bên trong thì bị đâm nát thế này, mà bộ côm-lê Ăng-lê bên ngoài lại nguyên vẹn không một vết dao."

Tôi tỏ ý lo lắng cho Delgadina. Mụ bảo:

"Nếu vậy, tốt nhất là anh dẫn nó đi."

Tôi trả lời:

"Tôi chẳng thà chết còn hơn."

"Anh sợ hả?"

"Sợ cho con bé", tôi nói, tuy rằng câu nói chỉ đúng một nửa. "Chị bảo nó đi trước khi người ta đến."

Mụ bảo:

"Đồng ý. Tuy nhiên, anh là nhà báo mà lo can gì."

Tôi bảo:

"Chị cũng vậy, chị là người dân chủ độc nhất có ảnh hưởng trong chính phủ cộng hoà này."

Thành phố này được người ta tìm đến vì bản chất an bình, vậy mà hàng năm thường bị tai tiếng một lần vì một vụ giết người tàn bạo. Vụ này không thuộc vào loại trên. Báo cáo chính thức với cái tựa to quá khổ mà nội dung lại thiếu sót, kể rằng có ông chủ ngân hàng trẻ tuổi không hiểu vì lý do gì bị đâm chết ngoài xa lộ Pradomar. Ông ta không có kẻ thù. Thông báo của nhà chức trách nghi rằng hung thủ thuộc đám tỵ nạn từ miền Trung đang tràn tới. Đám này đang gây ra vô số những sự việc tồi bại, khác hẳn với tinh thần văn minh chung của dân chúng. Trong những giờ qua, người ta đã bắt được khoảng năm mươi tên nghi can.

Ngạc nhiên đến công phẫn, tôi quay sang anh biên tập viên tư pháp, một nhà báo điển hình của những năm 20, với mũ lưỡi trai nhựa màu lục và đeo băng trên tay áo sơ-mi. Anh đang phỏng đoán sự việc. Anh chỉ biết vài chi tiết sơ sài về án mạng, và tôi giúp anh trong mức độ an ninh cá nhân của tôi. Bằng bốn bàn tay, chúng tôi viết năm trang cho bài báo tám cột ngay trang nhất, xuất xứ tài liệu đổ lên đầu con ma muôn thuở là "một nguồn tin hoàn toàn đáng tin cậy". Nhưng tay kiểm duyệt viên không ngần ngại chọn đăng bản tin của chính quyền, rằng đây là tội ác của đám dân chủ côn đồ. Để thanh hoá lương tâm, tôi đành góp phần thương vay khóc mướn tại cái đám tang đạo đức giả nhất và cũng đông người tham dự nhất thế kỷ này.

Về nhà đêm đó, tôi gọi cho Rosa Cabarcas để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra cho Delgadina. Nhưng mụ không trả lời điện thoại, lúc đó cũng như bốn ngày sau. Ngày thứ năm, tôi nghiến răng mò đến nhà mụ. Cửa ngõ bị niêm phong, không phải bởi cảnh sát mà bởi sở y tế. Trong xóm, không ai biết ất giáp gì. Bặt tin tức Delgadina, tôi lùng kiếm ráo riết, thậm chí có phần khôi hài và làm tôi kiệt sức.

Tôi bỏ nhiều ngày ra công viên bụi bặm ngồi rình đám trẻ đi xe đạp, quan sát mấy đứa đang chơi đùa hay leo lên tượng đài tróc sơn của Simón Bolivar. Chúng đạp xe qua lại như những con hoãng; chúng xinh đẹp, sẵn sàng bị bắt trong trò chơi bịt mắt bắt dê.

Khi tuyệt vọng, tôi tìm an bình trong nhạc bolero. Nhạc như một liều thuốc độc: mỗi âm thanh là mỗi có con bé ở trong. Thường thì tôi cần yên lặng để viết, vì tôi dễ sao nhãng nếu nghe nhạc cùng lúc. Nhưng lúc đó thì ngược lại. Tôi chỉ có thể viết trong cái an bình che chở của nhạc bolero. Tôi sống ngụp lặn trong niềm thuơng nỗi nhớ. Những cột báo tôi viết hai tuần ấy điển hình cho thư tình viết bằng mật mã. Anh chủ nhiệm bực mình vì toà soạn bị tràn ngập bởi thư độc giả, ra lệnh cho tôi phải bớt những chuyện ướt át đi, trong khi tờ báo tìm cách an ủi các bạn đọc đang đau khổ vì tình.

Tình trạng bất ổn làm tiêu tan trật tự hàng ngày của tôi. Tôi dậy lúc năm giờ, nhưng ở lì trong bóng tối để nghĩ tới Delgadina sinh hoạt trong cuộc sống của nó mà tôi tưởng tuợng ra; con bé chắc đang đánh thức các em dậy, sửa soạn quần áo cho chúng đi học, cho chúng ăn điểm tâm nếu nhà còn đồ ăn, rồi đạp xe từ đầu này tới đầu kia thành phố để đơm khuy áo. Tôi ngạc nhiên tự hỏi: không biết khi ngồi đơm khuy thì đàn bà con gái nghĩ ngợi gì? Không biết con bé có nhớ đến tôi không? Nó có tìm Rosa Cabarcas để đi gặp tôi không?

Một tuần trôi qua, tôi vẫn mặc bộ đồ thợ máy, không tắm, không cạo râu, không đánh răng, vì ái tình dạy tôi lúc đã quá trễ rằng người ta chỉ làm dáng vì người khác, và tôi chưa từng có ai để làm dáng như vậy. Damiana tưởng tôi ngã bệnh khi thấy tôi trần truồng nằm võng lúc mười giờ sáng. Tôi nhìn Damiana với con mắt đục sắc dục và rủ nó khoả thân ra đánh vật với tôi. Với ý trách trong lời nói, nó bảo:

"Ông có nghĩ là nếu cháu thuận, thì ông sẽ làm sao nhỉ?"

Tôi khám phá ra bất hạnh đã làm hư hỏng tôi rất nhiều. Tôi không nhận ra tôi trong sự đau khổ như của một đứa thiếu niên thất tình. Tôi không ra khỏi nhà vì sợ lỡ có ai gọi. Tôi không tháo máy điện thoại ra khỏi móc như thường lệ khi viết, và chuông vừa reng là tôi chồm dậy, hy vọng là Rosa Cabarcas. Tôi bỏ ngang mọi chuyện để cầm phôn gọi mụ, và cứ như vậy nhiều ngày cho đến khi tôi hiểu rằng chiếc điện thoại này không biết thương người.

Một hôm trời mưa, tôi về nhà thấy con mèo nằm co ro trên tam cấp cửa trước. Nó nhớp nhúa, tàn tạ, không chút sinh khí như bị đau nặng, trông thật xót xa. Nhờ cuốn sách dạy nuôi mèo, tôi biết nó đang ốm, và tôi làm theo những gì sách dạy để nó khỏe hơn. Rồi bất thần đang chợp mắt tôi bỗng thức giấc vì nẩy ra ý nghĩ là có thể theo nó mà tìm được chỗ Delgadina ở. Tôi bỏ nó vào cái rọ và mang tới tiệm mụ Rosa Cabarcas. Đang nằm im, nó bất thần vùng vẫy, nhẩy ra ngoài rọ và phóng qua tường vườn cây ăn trái. Tôi đấm cửa phòng, một giọng lính tráng vọng ra:

"Ai đấy?"

Không ngán, tôi nói:

"Một người bạn tìm bà chủ nhà."

"Không có bà chủ nào hết", giọng trong nhà trả lời.

Tôi nói:

"Ít nhất mở cửa ra cho tôi tìm con mèo của tôi."

Trong nhà nói ra:

"Làm gì có con mèo nào."

Tôi hỏi:

"Anh là ai?"

"Không là ai cả", giọng nói trả lời.

Tôi vẫn nghĩ chết vì tình chỉ là cách nói cho thơ mộng. Nhưng chiều hôm ấy, về nhà không có con mèo mà cũng không có con bé, tôi hiểu là không những người ta nói chung có thể chết về tình, mà chính tôi trơ trọi già nua, cũng đang chết dần chết mòn vì tình đây. Tuy nhiên tôi cũng tìm ra một chân lý ngược của hoàn cảnh, là tôi sẽ không đổi bất cứ chuyện gì vật gì trên đời với nỗi sầu muộn này. Tôi đã hoài công suốt mười lăm năm để dịch thơ của Leopardi, và chỉ buổi chiều hôm ấy tôi mới hiểu thơ ông một cách thấm thía:

Chao ôi thân phận mình,

Phải đây là tình

Mà sao hành hạ...

Thấy tôi vào toà báo vẫn mặc bộ đồ thợ, râu không cạo, tất nhiên có người nghi ngờ trạng thái tâm thần của tôi không mấy ổn định. Trụ sở xây cất đã xong, với những phòng nhỏ tường kính và đèn trần, đầy ánh sáng như một bệnh viện sản khoa. Máy điều hoà không khí tiện nghi và êm ru làm người ta tự nhiên nói nhỏ và bước rón rén. Những tấm chân dung bằng sơn dầu của các vị giám đốc quá cố cùng ba vị giám đốc có nhiệm kỳ mãn kiếp được treo trong hành lang long trọng như các vị phó vương, cùng với ảnh chụp các khách quý đã đến thăm toà báo. Trong phòng chính thênh thang là tấm ảnh khổng lồ của tất cả nhân viên toà soạn chụp buổi chiều hôm sinh nhật. Tôi không khỏi so sánh với tấm ảnh chụp năm tôi ba mươi tuổi, và tôi khủng khiếp ghi nhận rằng trong ảnh người ta già nhanh và xấu hơn là bên ngoài nhiều. Cô thư ký đã hôn tôi hôm sinh nhật hỏi thăm có phải tôi ốm không. Để cho cô ta không tin, tôi sung sướng trả lời bằng sự thật, rằng tôi ốm tương tư. Cô ta nói, "Tiếc rằng không phải cụ ốm vì em". Tôi cũng tinh nghịch trả lời, "Ấy, chưa chắc đâu đấy nhé".

Biên tập viên tư pháp buớc ra khỏi bàn giấy, lớn tiếng rằng hiện trong nhà xác của thành phố có thi thể hai cô bé không có giấy tờ căn cước. Tôi sợ hãi hỏi, "Độ bao nhiêu tuổI". Anh ta nói, "Không biết, nhưng còn nhỏ lắm. Có thể là dân tị nạn từ miền Trung bị đám côn đồ của chính quyền rượt ra ngoài này".

Thở dài nhẹ nhõm, tôi nói:

"Tình thế cứ âm thầm lan ra như một vết máu."

Anh ta đi đã xa, lớn giọng nói vọng lại:

"Cụ ơi, không phải vết máu đâu, mà là vết c."

Vài ngày sau, một sự việc còn tệ hại hơn nữa xảy ra. Một con bé ôm cái bị giống như cái bị có con mèo, rảo bước trước thư quán Thế Giới. Tôi rảo bước theo, chen vai thích cánh với người đi đường trong cái náo nhiệt giữa trưa. Con bé rất đẹp, nó thoăn thoắt rẽ đám đông mà đi, tôi khó khăn mới theo kịp. Sau cùng tôi vượt được nó và quay lại ngắm nó tận mặt. Con bé không dừng bước, và không xin lỗi đưa tay gạt tôi sang bên để đi tiếp. Tôi nghĩ nó không phải là con bé của tôi, nhưng tôi cũng thấy thương tổn vì thái độ cao kỳ của nó. Rồi tôi ghi nhận là tôi không thể nhận diện Delgadina khi thức và mặc quần áo đàng hoàng, và nó cũng chắc không nhận ra tôi vì chưa bao giờ thấy mặt. Ba ngày liền tôi ngồi đan mười hai đôi giày len con nít để có can đảm không nghe nhạc, không hát, không nhớ lại những bài hát làm tôi nhớ đến nó. Sự thật là tôi bất lực với lòng mình, và bắt đầu thấy vì tuổi già mà yếu mềm trước ái tình.

Một thử thách còn ghê gớm hơn nữa đã xảy đến cho tôi hôm chiếc xe đò đâm phải một con bé đi xe đạp ngay giữa trung tâm thành phố. Người ta đã đưa nạn nhân lên xe hồng thập tự, và với chiếc xe đạp đã thành đống sắt phế thải chỏng chơ trên vũng máu tươi thì mức trầm trọng của tai nạn là quá rõ ràng. Tôi không quan tâm tới sự huỷ hoại, mà tới kiểu xe, màu xe và hãng xe. Nhất định là chính cái xe tôi đã mua tặng Delgadina.

Nhân chứng mục kích tai nạn đồng ý rằng nạn nhân rất trẻ, cao ráo, mảnh khảnh, tóc cắt ngắn và uốn quăn. Trong lòng vô cùng lo lắng, tôi vẫy chiếc ta-xi đầu tiên chạy qua, và bảo chở tới nhà thương Caridad. Toà nhà cổ tường quét vôi mầu hoàng thổ trông như một nhà tù lún xuống vũng cát lỏng. Phải nửa giờ mới vào tới trong, và nửa giờ nữa mới tới sân bệnh viện thơm mùi cây ăn trái đang nở hoa. Có người đàn bà tiều tuỵ chặn đường tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:

"Em là người anh tới tìm đây này."

Tôi chợt nhớ ra là nhà thương này cũng có chức năng chăm sóc những bệnh nhân điên loại hiền. Tôi tự giới thiệu với ban giám đốc, mình là nhà báo để được cô y tá dẫn đến khoa cấp cứu. Trong sổ nhận bệnh, tôi đọc: Rosalba Ríos, mười bảy tuổi, nghề nghiệp không rõ. Định bệnh: chấn thương não. Tiên đoán khó qua.

Tôi xin phép chủ nhiệm khoa cấp cứu được gặp nạn nhân, trong bụng mong được từ chối, nhưng họ lại sung sướng chiều ý tôi, có lẽ hy vọng tôi sẽ viết về tình trạng bị bỏ quên của bệnh viện. Tôi đi qua một khu bệnh lý chật chội, màu sắc hỗn độn, nặng mùi acít phê-ních, với những bệnh nhân nằm còng queo trên giường.

Người bệnh chúng tôi muốn gặp nằm cuối phòng, trên một chiếc giường sắt. Sọ bệnh nhân quấn kín băng trắng, mặt sưng tím không thể nhận ra, nhưng chỉ cần nhìn đôi bàn chân tôi cũng biết không phải là con bé. Chỉ đến lúc ấy, tôi mới nghĩ ra rằng nếu đúng là con bé, thì tôi làm gì đây.

Ngày hôm sau, đầu óc còn hoang mang trong mạng nhện của đêm, tôi lấy can đảm đi tới nhà máy sơ-mi nơi con bé làm việc, như Rosa Cabarcas có lần cho tôi hay. Tôi xin chủ nhân cho đi xem cơ sở lao động của ông để làm mẫu cho một dự án lục địa của Liên Hiệp Quốc. Chủ nhân là một người Li-băng lầm lì, da dày như voi, mở cửa vương quốc của y cho tôi coi, với ảo vọng nhờ bài báo của tôi mà trở thành mẫu mực cho toàn thế giới.

Ba trăm em gái mặc bờ-lu trắng trên trán đánh dấu tro, ngồi đơm khuy trong căn phòng rộng thắp đèn sáng trưng. Thấy chúng tôi vào, các em lễ phép đứng dậy như những nữ sinh, nhìn trộm chúng tôi trong khi chủ nhân nhà máy trình bày những đóng góp của ông vào cái nghệ thuật có từ ngàn xưa về việc đơm khuy áo. Tôi quan sát từng khuôn mặt, với lo lắng là tìm ra Delgadina trong tình trạng thức và quần áo đầy đủ. Nhưng sự việc lại hoá ra tôi bị nhận diện bởi một trong các cô bé. Mắt sáng lên với sự ngưỡng mộ không dung tha, cô nói:

"Cụ làm ơn nói cho con nghe. Có phải cụ là tác giả những lá thư tình trên báo phải không?"

Tôi chưa từng tưởng tượng nổi một cô bé say ngủ có thể tạo ra chừng ấy khốn đốn cho một ông già. Tôi trốn khỏi nhà máy không kịp từ giã ai, mà cũng không nghĩ tiếp là có con bé nào trong đám xử nữ khổ sai trong trại lao động ấy có thể là con bé tôi đi tìm. Ra tới bên ngoài, cảm nghĩ độc nhất tôi còn giữ được trên đời là muốn khóc.

Gabriel García Márquez

Mấy cô điếm buồn

Mai Kim Ngọc dịch

III

Một tháng sau, Rosa Cabarcas gọi điện cho tôi. Sự cắt nghĩa của mụ khó tin: Sau vụ ông chủ ngân hàng bị người ta ám sát, mụ đã đi nghỉ mát ở Cartagena de Indias. Tôi không tin tất nhiên, nhưng tôi cũng tỏ lời mừng cho mụ, và đợi mụ phóng đại câu chuyện nói dối của mụ xong, tôi hỏi mụ câu hỏi nóng sốt trong lòng:

"Thế con nhỏ thế nào?"

Rosa Cabarcas yên lặng rất lâu. Sau cùng mụ nói:

"Nó vẫn ở đấy."

Nhưng giọng mụ trở nên mơ hồ khi mụ nói tiếp:

"Phải đợi một thời gian thôi."

"Bao lâu?" Tôi hỏi.

Mụ bảo:

"Không biết bao lâu, nhưng tôi sẽ cho anh hay."

Cảm thấy mụ sắp bỏ đi, tôi chặn mụ lại:

"Khoan đã, cho tôi chút tin tức chớ."

Mụ nói:

"Tôi không có tin tức gì để cho anh."

Và mụ kết luận:

"Anh phải cẩn thận, nóng nẩy có hại cho anh, và hơn nữa, có hại cho con bé."

Tôi không chịu cái lối giả dối này. Tôi năn nỉ cho tôi biết chút ít sự thật. Tôi nói, dù sao mụ với tôi cũng là đồng loã. Mụ không nhượng bộ dù một bước:

"Anh phải bình tĩnh thôi. Con bé mạnh giỏi và đợi tôi gọi nó, còn bây giờ thì không thể làm gì hơn, mà tôi cũng không có gì hơn để nói. Thôi nhé."

Tôi cầm điện thoái trong tay không biết làm gì tiếp, vì thật ra tôi biết tính mụ đủ để hiểu rằng đừng hòng khai thác gì thêm nơi mụ nếu mụ không thuận tình. Xế trưa, tôi kín đáo đi một vòng qua nhà mụ, cầu may hơn là có hy vọng hợp lý gì, và thấy cửa đóng then gài, với dấu niêm phong của sở y tế. Tôi nghĩ có lẽ mụ gọi tôi từ một chỗ khác, có thể từ một tỉnh khác, và ý nghĩ ấy làm cho tôi thấy vô vàn những điềm đen tối. Nhưng sáu giờ chiều, lúc tôi ít ngờ nhất, mụ gọi tôi qua điện thoại và đọc cho tôi mật hiệu riêng tôi thường dùng:

"A lô, hôm nay nhé."

Mười giờ tối, run rẩy, mím môi để khỏi khóc, tôi mang gói chocolat Thuỵ Sĩ, kẹo lạc nu-ga, kẹo ca-ra-mel, và một bó hồng đỏ. Cửa phong hé mở, đèn thắp sáng và radio chơi bài xô-nát số 1 cho vĩ cầm và dương cầm của Brahms. Delgadina nằm trên giường, nó đẹp huy hoàng đến nỗi tôi không nhận ra ngay.

Con bé già dặn hơn, không phải vì tầm vóc mà vì một sự chững chạc đặc biệt làm cho nó trông lớn hơn hai hay ba tuổi. Và hôm nay nó trần truồng hơn bao giờ hết. Đôi gò má cao và làn da rám nắng biển, đôi môi thanh lịch và mái tóc ngắn và uốn quăn làm mặt nó thấm nhuần một vẻ đẹp con trai như tượng Apolo de Praxíteles. Nhưng không thể lầm lẫn được, vú nó đã mọc tới độ lòng bàn tay úp không hết, háng nó đã phát triển đầy đủ, và xương nó đã trở thành chắc chắn và hài hoà. Tôi vô cùng ngưỡng mộ công việc của thiên nhiên, nhưng tôi khựng lại vì phần trang điểm nhân tạo của con bé: lông mi giả, móng tay móng chân sơn màu xà-cừ, mùi nước hoa hai xu không ăn nhằm gì đến yêu đương. Nhưng cái làm tôi vô cùng bất mãn là những món nữ trang đắt tiền trên mình con bé: nào bông tai vàng ấn ngọc lục bảo, nào vòng hạt trai thật, nào nhẫn ngọc, nào vòng xuyến vàng nhận kim cương, nào nhẫn ngọc đeo đủ tám ngón. Trên chiếc ghế là chiếc áo dạ tiệc kim tuyến và đôi giày sa-tinh.

Tôi quát lên:

"Đồ đĩ."

Như có con quỷ nó nói nhỏ vào tai tôi một ý tưởng đen tối. Là đêm xảy ra án mạng, Rosa Cabarcas không kịp mà cũng không tĩnh trí để báo tin cho con bé biết mà chạy đi, và cảnh sát thấy nó trong phòng một mình và còn vị thành niên không có người lớn đi kèm. Không ai có thể sánh được với Rosa Cabarcas trong hoàn cảnh tương tự: mụ đã trao đổi trinh tiết con bé cho một tên khách đầu sỏ của mụ để thân mụ được vô can. Tất nhiên trước tiên phải biến đi một thời gian cho việc nguội bớt. Tuyệt vời thay, một tuần trăng mật tay ba, hai đứa nằm trên giường còn mụ già ra ngoài sân thượng hưởng thụ cái cảnh tự do không tù tội của mình.

Mù quáng vì cơn giận vô lý, tôi đập tất cả đồ đạc trong phòng: đèn, radio, quạt máy, gương, bình nước, chai lọ. Tội đập không vội vã nhưng liên tục, đầu óc nhiễm độc có phương pháp để hả giận. Với tiếng vỡ đầu tiên, con bé giật mình, nhưng nó không nhìn tôi mà quay đầu vào trong xoay lưng lại phía tôi, run lên từng cơn cho đến khi vụ đập phá chấm dứt. Đêm về sáng, chó và gà trong sân hùa vào sủa và gáy lại càng làm cho ầm ĩ hơn. Với cái mù quáng mà rất tỉnh của cơn giận, tôi muốn nổi lửa đốt nhà, khi Rosa Cabarcas tỉnh bơ trong áo ngủ hiện ra bên ngoài khung cửa. Tôi không nói gì. Mụ đảo mắt như ước lượng sự tổn thất vật chất, và ghi nhận con bé đang cuộn tròn như con sên, đầu giấu vào hai cánh tay, vô cùng sợ hãi nhưng không thương tích.

Mụ nói lớn:

"Lậy Chúa tôi. Tôi sẵn sàng cho hết tài sản trên đời để được ai yêu như thế này."

Mụ nhìn tôi từ đầu đến chân một cách thương hại, rồi ra lệnh:

"Anh đi theo tôi."

Tôi theo cho đến nhà mụ. Mụ yên lặng rót cho tôi tách nước, ra hiệu cho tôi ngồi xuống trước mặt:

"Thôi được, bây giờ thì cư xử như người lớn nhé. Kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra."

Tôi kể cho mụ câu chuyện đã khám phá ra mà tôi cho là sự thật. Rosa Cabarcas yên lặng nghe, không ngạc nhiên, và sau cùng tỏ ra đã hiểu vỡ được sự việc. Mụ bảo:

"Màu nhiệm thay, tôi vẫn nói ghen tuông biết nhiều hơn sự thật."

Rồi mụ cho tôi hay tất cả sự thật. Mụ nói quả thật đêm xảy ra án mạng, trong lúc hỗn loạn, mụ có quên mất con bé còn đang ngủ trong phòng. Một trong những khách hàng của mụ, luật sư của nạn nhân, thường có thói quen vung tiền ra mua chuộc chính khách, mời mụ ra nghỉ tại một khách sạn vùng Cartagena de Indias, chờ cho chuyện nguội đi. Mụ nói:

"Tin tôi đi, suốt thời gian này, không lúc nào tôi không nghĩ đến anh và con bé. Mới về lại được hai hôm, việc đầu tiên là tôi gọi anh, nhưng không ai cầm điện thoại. Ngược lại con bé tới ngay tức thì, tình trạng thật thảm thương nên chi tôi tắm rửa cho nó, cho đi mỹ viện, dặn người ta sửa soạn cho nó như một bà hoàng. Anh thấy con bé rồi đấy, tuyệt vời phải không."

"Quần áo đắt tiền ư? Đó là một trong những chiếc áo tôi thuê cho mấy đứa con gái nghèo của tôi mặc để đi khiêu vũ với khách. Ngọc vàng ư? Của tôi cả đấy, nhưng anh chỉ việc cầm lên là thấy mấy viên ngọc là đồ ve chai, còn vàng và bạch kim chẳng qua là thiếc nhuộm. Hãy chấm dứt trò ghen thối này đi. Gọi con bé dậy mà xin lỗi nó đi, và tiếp tục chăm sóc nó. Không ai xứng đáng hạnh phúc bằng hai đứa bay."

Tôi cố gắng tin mụ, nhưng yêu và ghen còn mạnh hơn lẽ phải. Vẫn còn khốn khổ với ngọn lửa đang sôi sục trong bụng, tôi la lớn:

"Đồ đĩ. Bọn bay là đồ đĩ tuốt. Đĩ thối đĩ thiu. Ông không muốn liên can gì với tụi bay nữa, với bất cứ một con điếm nào trên đời này nữa, và nhất là con điếm oắt con này."

Tới cửa tôi giơ tay làm hiệu vĩnh biệt, mà xem ra mụ cũng tin là vĩnh viễn. Buồn bã mụ nói:

"Chúa che chở cho anh."

Và thực tế mụ nói tiếp:

"Tôi sẽ gửi anh phiếu tính tiền để anh bồi thường sự đập phá này."

5.

Trong khi đọc The Ides of March, tôi gặp một câu mà tác giả cho là của Julius Caesar: Rốt cuộc, anh cũng trở thành những gì mà người ta nghĩ về anh. Tôi không xác định được có phải quả là của Ceasar hay là của những người viết tiểu sử của ông, từ Suetonius tới Carcopinus, nhưng câu nói cũng đáng biết. Ý niệm định mệnh chứa đựng trong câu nói ấy áp dụng cho cuộc đời tôi những tháng tiếp theo, làm tôi quyết định không những viết hoài niệm về các cô điếm buồn, mà còn không chút thẹn thùng khai bút bằng cuộc tình với Delgadina.

Tôi không yên ổn được dù một giây một phút, biếng ăn, và sụt cân đến nỗi thắt lưng quần rộng thùng thình. Tôi có những cơn đau bất ngờ, vui buồn bất thường không có lý do, tối tối là tình trạng mê muội không nghe nhạc mà cũng không đọc sách được, để ngược lại ban ngày thì lúc nào cũng ngủ gật mà ngủ thật thì lại không xong.

Tự nhiên tình trạng thuyên giảm nhờ một may mắn như từ trên trời rơi xuống. Trên một chuyến xe đò chật chội từ Loma Fresca, có bà khách ngồi bên không biết lên xe khi nào, ghé tai tôi nói thầm:

"Anh bắn súng vẫn tốt đấy chứ?"

Đó là Casilda Armenta, một cô điếm có hồi trẻ đẹp và kiêu kỳ và tôi đã là khách hàng chuyên cần của thị. Sau về hưu, bệnh tật, không một xu dính túi, thị lấy một anh Tàu có trại rau. Nhờ anh, thị thành bà Tàu chủ trại, và có lẽ cũng nhờ anh có được phần nào tình yêu. Tuổi bảy mươi ba, thị vẫn không mập ra, vẫn đẹp và tính tình vẫn cứng cáp, và miệng lưỡi chị em ta vẫn giữ được y nguyên.

Mụ mời tôi về nhà, một nông trại Tàu trên ngọn đồi bên con xa lộ dẫn ra biển. Chúng tôi ngồi ngoài sân duới bóng mát, trên hai chiếc ghế vải loại bày ngoài biển. Sân trồng thiên tuế và hoa, với những lồng chim treo dọc hiên nhà. Có đám thợ Tàu đội nón lá đang trồng rau trên sườn đồi dãi nắng, và dưới chân đồi là dải nước xám của cửa biển Ceniza, nơi hai con đê đá dẫn sông ra thẳng ngoài khơi cả mấy dặm. Trong khi chúng tôi nói chuyện, một con tàu trắng loại xuyên Đại Tây dương tiến vào cửa biển, và chúng tôi nhìn theo cho đến khi nghe thấy tiếng còi hụ buồn vang lại từ phía bến sông. Thị thở dài:

"Anh biết không, đây là lần đầu tiên trong nửa thế kỷ mà em không tiếp anh trên giường."

Tôi nói:

"Chúng ta không còn như ngày xưa."

Không nghe tôi, thị nói tiếp:

"Mỗi lần trên đài họ nói đến anh, vinh danh anh vì quần chúng quý mến anh, gọi anh là sư phụ của tình yêu, anh có thể tưởng tượng không, em nghĩ là không ai hiểu anh, biết anh duyên dáng và dễ thương bằng em."

Nghiêm trang thị nói tiếp:

"Không ai có thể ủng hộ anh nhiều hơn em."

Tôi không chịu thêm được nữa. Thị cảm nhận được sự xúc động của tôi, thấy mắt tôi ướt, và chỉ lúc ấy thị mới khám phá ra tôi không còn là tôi ngày trước. Chịu đựng cái nhìn của thị với tất cả can đảm có thể có, tôi nói:

"Chẳng qua là anh già rồi."

Thị nói nhỏ:

"Cả anh và em cùng già rồi. Chuyện già là tự nhìn mình từ trong nên không thấy, còn tất cả thế giới nhìn mình từ ngoài nên thấy nó liền."

Không thể nào mà không cởi mở nỗi lòng, tôi kể cho thị câu chuyện đang nung nấu ruột gan, từ lần đầu tiên gọi điện thoại cho Rosa Cabarcas trước hôm sinh nhật chín mươi của tôi, cho đến cái đêm thê thảm mà tôi đập phá tan hoang căn phòng rồi không trở về nữa. Mụ chăm chú nghe tôi giãi bầu tâm sự như chính mụ đang sống trong chuyện, chậm rãi suy nghĩ, và sau cùng mỉm cười:

"Muốn làm gì thì làm, anh không được để lạc con nhỏ đó nhé. Không có gì khốn khổ hơn là chết một mình."

Chúng tôi lấy tàu đi Puerto Colombia, chiếc tàu bé như đồ chơi, chạy chậm như ngựa kéo. Chúng tôi ăn trưa trước bến tàu ven sông dựng bằng kè gỗ, nơi mà ai cũng phải đặt chân xuống để vào đất nước này, cho đến khi mở cửa sông Bocas de Ceniza. Chúng tôi ngồi dưới mái hiên lợp lá kè, nơi các bà mọi đen to lớn bệ vệ dọn ra món cá rán với cơm nấu nước dừa cùng những lát chuối xanh. Chúng tôi nghỉ trưa trong cái nắng ủ ê của hai giờ chiều ngày hè, tiếp tục trò chuyện cho đến khi ông mặt trời to và đỏ như lửa chìm xuống biển. Cảnh trước mặt thật là tuyệt mỹ.

Thị nói đùa:

"Thế là xong tuần trăng mật của anh em mình."

Rồi thị nghiêm trang nói:

"Hôm nay nhìn lại, em thấy cái đội ngũ đàn ông cả ngàn đứa đã ngủ với em, và em nghĩ bất cứ đứa nào trong bọn em cũng đánh đổi cả linh hồn em để lấy làm chồng, ngay cả với cái thằng tệ hại nhất. Cảm ơn Chúa, em đã kịp thời bắt được chú Chiệc của em. Lấy chú như lấy ngón tay út của mình, nhưng dù sao cũng là chồng em, của mình em."

Thị nhìn mắt tôi như đo lường tôi phản ứng với điều thị vừa kể. Và thị lại nói:

"Vì vậy, những chuyện anh ghen mà nghi dù có thực sự xảy ra chăng nữa, anh cũng phải đi tìm cái con bé tội nghiệp đó ngay. Dù sao chăng nữa, không ai có thể phủ nhận là anh đã có những ngày hạnh phúc với nó. Nhưng lần này, không có vụ ông nội lãng mạn lẩm cẩm nhá. Đánh thức nó dậy mà chơi cho nó tảng hồn với cái dùi đục to tuớng mà quỷ thưởng cho anh vì keo kiệt hà tiện."

Nghiêm trang thị kết luận, thành thực với tất cả linh hồn:

"Anh, đừng từ giã cõi đời này mà chưa được hưởng cái phép màu nhiệm là yêu mà đ. ai..."

Ngày hôm sau, tay tôi run rẩy khi quay số điện thoại. Vừa vì nôn nao nghĩ đến gặp lại con bé, vừa không chắc mụ Rosa Cabarcas sẽ phản ứng thế nào. Tôi với mụ đã cãi nhau nặng nề về phiếu tính tiền quá đáng của mụ cho những phá phách tôi đã làm trong căn phòng. Tôi đã phải bán một bức tranh rất quý của mẹ để lại, lẽ ra giá trị bằng một gia tài mà chỉ thu được một phần mười ảo vọng. Tôi mang món tiền bán tranh với tất cả những dành dụm tới mụ, ra tối hậu thư: Chỉ có thế, không lấy thì thôi. Hành động dại dột của tôi có thể coi như tự vẫn, vì chỉ cần bán đi một trong những bí mật của tôi là mụ có thể tiêu diệt toàn bộ tiếng tăm của tôi.

Lời tôi doạ không làm mụ nao núng, vì cái đêm tôi nổi giận mà đập phá, mụ đã cất giữ những bức tranh trong phòng để làm tin. Chỉ một ván bài mà tôi thua tất cả: Tôi mất con bé, mất mụ Rosa Cabarcas, mất tất cả vốn liếng dành dụm.

Vậy mà chuông reng một lần, hai lần, ba lần, và sau cùng giọng mụ: Tôi đây. Tôi sợ hãi nói không ra hơi, và gác máy lại. Tôi nằm xuống võng, cố gắng bình tĩnh trở lại bằng cách đọc những đoạn văn trữ tình nghệ thuật của Satie, nhưng mồ hôi tôi vã ra đến nỗi ướt cả vải võng. Đến ngày hôm sau, tôi mới có lại can đảm gọi mụ lần nữa. Lấy giọng chững chạc, tôi nói:

"Mụ này, hôm nay nhé."

Rosa Cabarcas tất nhiên không chấp nê và đứng trên mọi chuyện. Mụ thở dài, rồi nói với cái tinh thần không bao giờ chịu thua của mụ:

"Ông giáo đáng buồn của tôi ơi, anh biến đi đâu hai tháng để bây giờ trở về đòi chuyện hão huyền."

Mụ kể đã hơn tháng nay không gặp Delgadina, nhưng xem ra con bé đã phục hồi được cơn sợ vì sự điên dại của tôi tối hôm đó, nên không nhắc lại chuyện cũ mà cũng không hỏi thăm tin tức. Nó rất mãn nguyện với công việc mới, thoải mái hơn mà tiền lương cũng cao hơn.

Một ngọn lửa nóng bốc lên đốt cháy ruột gan tôi. Tôi nói:

"Công việc mới cái gì? Nó chỉ có thể làm điếm thôi."

Rosa tỉnh bơ trả lời tôi:

"Đừng làm bộ ngu xuẩn, nếu làm điếm thì nó đã tới đây với tôi rồi. Ở đâu bằng ở đây?"

Miệng lưỡi nhanh như cắt của mụ làm tôi lại càng nghi ngờ. Tôi nói:

"Làm sao tôi biết được là nó không đang làm đĩ với chị ngay bây giờ đây này."

Mụ nói:

"Trong trường hợp ấy, anh không biết thì tốt cho anh hơn. Có phải như vậy không nào?"

Một lần nữa, con mụ chủ nhà thổ này thật là đáng ghét. Mụ ta làm bộ tỉnh như không, hứa sẽ tìm con bé. Không hy vọng nhiều, vì điện thoại của người láng giềng mụ thường dùng để gọi nó mấy hôm nay đã bị cắt, và mụ không biết nó ở đâu. Nhưng cũng không chết chóc gì, mụ nói, tôi sẽ gọi lại trong vòng một giờ.

Cái một giờ ấy lâu ba ngày, nhưng mụ đã tìm được con bé, và biết nó khỏe mạnh và rảnh rang.

Tôi trở lại căn phòng cũ, ân hận và xấu hổ. Như để chuộc tội, tôi hôn nó từng phân từng ly vuông, từ đầu đến chân, từ nửa đêm cho đến gà gáy sáng. Sự xin lỗi dài này tôi tự hứa sẽ lặp lại mãi mãi, và như bắt đầu lại từ đầu một lần nữa. Căn phòng đồ đạc đã bị rỡ đi, cùng với sự sử dụng nặng tay đã tàn phá tất cả những gì tôi mang tới. Rosa Cabarcas đã để nguyên tình trạng, và cho tôi hay rằng những tu bổ gì tôi muốn làm cho căn phòng thì kể như trừ vào số tiền tôi còn nợ mụ.Tuy nhiên, tình trạng kinh tế của tôi đã kiệt quệ. Tiền mất giá, lương hưu trí của tôi mãi lực càng ngày càng ít đi. Chút ít đồ đạc bán được còn lại trong nhà, trừ mớ ngọc nữ trang thiêng liêng của mẹ tôi, toàn là thiếu giá trị thương mãi, cũ nhưng chưa cũ đủ để thành đồ cổ. Vào thời thịnh trị, ông thống đốc đã dạm mua toàn bộ sách cổ điển với các tác giả La-Hy và Tây Ban Nha của tôi cho thư viện trong vùng, nhưng khi ấy tôi không nỡ tâm bán chúng đi. Về sau, với những đổi thay chính trị và tình trạng thế giới suy đồi, không ai trong chính phủ còn quan tâm đến văn học nghệ thuật.

Chán nản vì mãi không tìm ra giải pháp, tôi nhét đầy túi những đồ ngọc của mẹ mà Delgadina trả lại, toan đi cầm tại một con hẻm rùng rợn trên lối ra chợ. Tôi làm bộ như nhà giáo đãng trí bước tới bước lui cái khu địa ngục ấy, qua những tiệm sách cũ, những quán rượu tồi tàn, và tiệm cầm đồ, và mỗi lần cứ nghĩ đến cái cung cách quý tộc trang nhã của mẹ, tôi lại không dám vào cầm ngọc của bà. Rồi tôi quyết định mang ngọc đi bán, đàng hoàng trang trọng tại một tiệm kim hoàn tử tế.

Một nhân viên vừa hỏi tôi vài câu, vừa quan sát những viên ngọc bằng cái kính lúp một mắt. Anh ta coi ngọc mà nghiêm túc như một thày lang khám bệnh. Tôi cho anh ta hay đây là ngọc gia bảo thừa hưởng từ mẹ tôi. Anh ta gật gù nghe tôi cắt nghĩa, và sau cùng tháo chiếc kính một mắt ra và nói:

"Tôi rất tiếc. Nhưng nữ trang này toàn là đồ ve chai thôi."

Thấy tôi ngạc nhiên, anh ta nhẹ nhàng nói, vẻ thương hại hiện ra mặt:

"Tuy nhiên, phần vàng đúng là vàng, và phần bạch kim thì cũng đúng là bạch kim."

Tôi sờ lại túi cho chắc là có mang theo phiếu mua, và tôi nói không chút gây gổ:

"Thế nhưng ngọc này mua chính tại tiệm này đã hơn trăm năm."

Anh ta không thay đổi sắc diện, nói rằng với thời gian đồ gia bảo thường mất dần những viên ngọc quý; chúng bị đánh tráo bời đám con cháu ngỗ nghịch, hay các thợ kim hoàn bất lương, cho đến khi có ai trong gia đình định bán đi mới khám phá ra sự cố. Anh ta nói:

"Nhưng cho tôi một giây."

Anh ta mang ngọc vào phòng trong của tiệm. Sau một lúc, anh ta trở lại, không cắt nghĩa gì thêm, mời tôi ngồi xuống ghế đợi, và tiếp tục làm việc của mình.

Tôi nhìn quanh cửa tiệm. Tôi đã đến đây với mẹ tôi nhiều lần, và nhớ một câu bà thường dặn:

"Con đừng kể với ba nhé."

Một ý nghĩ chợt tới và làm tôi sững người. Có thể nào Rosa Cabarcas và Delgadina, đồng loã với nhau đã bán ngọc thật và trả lại cho tôi các món đồ đã tráo ngọc giả.

Lòng tôi đang nóng như lửa vì sự nghi ngờ, khi một cô thư ký mời tôi theo cô cũng qua cái cửa cuối tiệm, vào một căn phòng nhỏ có giá sách dài và những pho sách nặng. Một người Ả-rập khổng lồ ngồi sau bàn giấy đứng dậy và chìa tay cho tôi bắt, cậu cậu tớ tớ với tôi như bạn hữu thân tình lâu năm. Y nói như một lời chào hỏi:

"Tụi mình thi tú tài cùng lượt với nhau."

Tôi nhận ra anh ta ngay. Anh ta là cầu thủ bóng đá hay nhất trường, mà cũng là tay vô địch trong cảnh nhà thổ nhập môn của bọn tôi bấy giờ. Tôi không nhớ đã không gặp nhau lại từ bao giờ, và chắc anh thấy tôi tiều tuỵ lắm nên lầm tôi với một người bạn thơ ấu nào.

Trên mặt pha lê bàn giấy là một cuốn sổ to nặng mở sẵn, trong đó ghi chép lý lịch những viên ngọc của mẹ tôi. Bản báo cáo chính xác đầy đủ ngày tháng ghi rõ rằng chính mẹ tôi tự thân cho tráo nữ trang của mười hai thế hệ Cargamantos danh tiếng, và bán những viên ngọc thật cũng cho chính tiệm này. Sự việc xảy ra khi ông già của chủ tiệm đương thời còn đứng ở quầy hàng đằng trước, và chính y còn cắp sách đến trường. Nhưng cũng chính y trấn an tôi rằng sự việc như thế cũng thông thường đối với những đại gia gặp lúc sa sút, để giải quyết những cơn túng ngặt mà không cần phải sứt mẻ uy tín. Trước sự thật phũ phàng, tôi quyết định giữ những món nữ trang lại như kỷ vật của một bà Florina de Dios khác mà tôi chưa từng biết.

Đầu tháng bảy, tôi biết khoảng cách thật sự giữa tôi và thần chết. Tim tôi lỡ nhịp và tôi bắt đầu thấy từ nhiều phía những điềm rõ ràng của màn kết. Điềm rõ ràng nhất xảy ra nhân một bữa nghe hoà tấu ở Viện Mỹ thuật. Máy điều hoà không khí hỏng, và các nhân vật tinh hoa của văn học nghệ thuật như bị nấu cách thuỷ trong cái đại sảnh đường đông nghẹt, nhưng một bầu không khí thần tiên hiện hữu nhờ phép màu của âm nhạc. Sau cùng, vớì bản Allegretto poco mosso, tôi bỗng như bất thần nhận định đây là bàn hoà tấu cuối cùng số kiếp cho tôi được thưởng lãm trước khi qua đời. Tôi không thấy đau cũng không thấy sợ mà thấy cái cảm nghĩ là mình đã sống đủ bỗng xâm chiếm toàn thân.

Sau cùng, mồ hôi đầm đìa và mở được đường cho mình qua những cái ôm chào và những chụp ảnh, tôi bất ngờ gặp Ximena Ortiz, như một nữ thần già trăm tuổi ngồi xe lăn. Tôi thấy sự hiện diện của người đàn bà này cũng nặng nề như sự trừng phạt của một tội lỗi đáng chết. Thị mặc chiếc áo lụa màu ngà, mượt như da người, một chuỗi hạt trai thật ba vòng, đầu tóc nhuộm màu xà cừ cắt theo kiểu những năm hai mươi, đôi mút cánh hải âu vẽ trên đôi lưỡng quyền, và đôi mắt vàng nổi bật lên vì đôi quầng tự nhiên. Tất cả nơi thị cải chính tiếng đồn là thị đã lãng trí. Sững sờ trước thị, tôi chỉ còn cách là gắng cưỡng lại cơn chóng mặt mà chào thị bằng cách yên lặng nghiêng mình như lối chào quý tộc thường thấy nơi điện Versailles. Thị cười như một nữ hoàng, và cầm tay tôi. Lúc ấy tôi ghi nhận đây cũng là số mệnh trả thù, và tôi không lỡ cơ hội để gỡ ra chiếc gai bấy lâu hành hạ tôi. Tôi nói:

"Từ nhiều năm nay tôi đã đợi lúc này."

Không nghe tôi, thị trả lời:

"Nhưng anh là ai?"

Tôi không biết thị có quên thật không, hay đây chỉ là sự trả thù cuối cùng trên đời.

Ý niệm chắc chắn là mình sẽ chết, mặt khác, đã đến với tôi ít lâu trước đó vào khoảng tuổi năm mươi, trong một dịp tương tự, một đêm dạ hội, trong đó tôi nhảy tango apache với một người đàn bà tôi không hề thấy mặt, nặng hơn tôi đến bốn mươi cân Anh, cao hơn tôi khoảng độ hai tấc, mà vẫn để cho tôi dắt nhẹ như chiếc lông chim trong gió. Chúng tôi nhảy sát nhau đến nỗi tôi cảm thấy máu lưu thông trong tĩnh mạch người đàn bà, và tôi như bị ru ngủ vì sung sướng trong nhịp thở nặng của bà, trong mùi a-mô-ni-ắc, và đôi vú vĩ đại, khi bất thần tôi nghe tiếng tử thần gầm thét làm tôi sửng sốt gần như ngã vật xuống đất. Có lời sấm rót vào tai tôi: Anh có làm gì chăng nữa, trong năm nay hay trong một trăm năm tới, anh sẽ chết một cách vĩnh viễn.

Người đàn bà tách ra khỏi tôi, sợ hãi hỏi:

"Chuyện gì vậy?"

Ráng chế ngự quả tim đang đập loạn xạ, tôi nói:

"Ô, tôi run vì bà mà thôi."

Từ đó tôi bắt đầu đo cuộc sống không phải bằng năm mà bằng thập niên. Tuổi năm mươi là tuổi quyết định vì tôi biết phần đông xung quanh trẻ hơn tôi. Tuổi sáu mươi là tuổi căng thẳng nhất vì tôi bắt đầu nghi rằng tôi không còn nhiều thì giờ để lầm lẫn. Tuổi bảy mươi là tuổi dễ sợ vì nó kèm theo xác suất khá chắc chắn có lẽ đây là thập niên cuối cùng. Tuy niên, khi tôi thức giấc hôm sinh nhật thứ 90 trong cái giường hạnh phúc của Delgadina, tôi chợt có ý nghĩ rằng cuộc đời không phải như dòng sông nước đục của Heráclito, mà còn là cơ hội độc nhất được trở lại lò nướng để tự nướng mình phía bên kia thêm chín mươi năm nữa.

Tôi trở nên dễ khóc. Bất cứ xúc động nào liên quan đến sự êm đềm đều làm tôi nghẹn ngào, và tôi vẫn không thành công chế ngự mình khi nghĩ đến chuyện phải chấm dứt cái thú vui cô đơn ngắm con bé ngủ, không phải vì sợ chết, mà vì cái đau lòng tưởng tượng nó không còn có tôi suốt cuộc sống còn lại của nó. Một trong những ngày bất định đó, tôi tình cờ đi tới con đường sang trọng mang tên Phố Công Chứng Viên, và tôi ngạc nhiên thấy cái khách sạn rẻ tiền ngày xưa nơi tôi bị, hay được vỡ lòng vào nghệ thuật làm tình trước khi tròn mười hai tuổi, tất cả chỉ còn là gạch vụn. Khách sạn này xưa kia là một ngôi biệt thự của những chủ hãng đóng tàu, lộng lẫy như một số ít các toà nhà như vậy trong tỉnh, với những cột ốp thạch cao tuyết hoa và những diềm trang trí thếp vàng, xung quanh cái sân trong có vòm pha lê phản chiếu ngũ sắc sáng chói như một lâu đài bằng kính. Tầng dưới với chiếc cửa gô-tích mở ra đường là văn phòng của những người công chứng viên thời thuộc địa, nơi cha tôi đã làm việc, đã thành công, và đã thất bại trong cả một cuộc đời với những giấc mơ huyễn ảo. Dần dần những đại gia dọn đi, và sau cùng tầng trên bị chiếm bởi một đội gái ăn sương đi lên đi xuống cầu thang cùng với những khách hàng một đồng rưỡi nhặt được từ mấy quán rượu bến sông gần đấy.

Năm mười hai tuổi, còn mặc quần cộc và đi bốt ngắn đồng phục học sinh tiểu học, tôi không chống lại được cái cám dỗ đi coi tầng trên của toà nhà, trong khi cha tôi bận thảo luận sôi nổi trong những buổi họp bất tận của ông. Và tôi gặp một cảnh thần tiên. Những phụ nữ đã bán thân xác suốt đêm trở về nhà từ khoảng mười một giờ sáng; vì nóng nực không thể chịu được, họ cởỉ truồng làm việc nội trợ trong khi bàn tán với nhau về những cuộc phiêu lưu đêm qua. Tôi thật là vô cùng kinh hãi. Chuyện độc nhất tôi có thể làm được là trốn ra bằng lối đã dùng để vào, thì một mụ trần truồng sực nức mùi xà phòng nhà quê ôm tôi từ phía sau nên tôi không thấy rõ mặt. Mụ mang tôi về căn phòng chỉ có tường các-tông của mụ, trong tiếng la ó cổ võ của các mụ khác cũng trần truồng không kém. Mụ quẳng tôi nằm ngửa trên cái giường của mụ, rộng thênh thang đủ cho bốn người sử dụng, thành thạo lột quần tôi ra và cỡi lên tôi, mặc cho tôi vì sợ hãi đến giá lạnh toàn thân mà không đón tiếp mụ được như một người đàn ông thực thụ. Đêm đó tôi mất ngủ trong giường ở nhà vì sự xấu hổ của cuộc tấn công, và lòng mong mỏi gặp lại mụ không cho tôi chợp mắt được quá một giờ. Tuy nhiên sáng hôm sau, trong khi những con cú ăn sương chưa thức giấc, tôi run rẩy leo lên phòng mụ, khóc ầm ĩ và đánh thức mụ dậy, cứ như thế kéo dài cho đến khi trận gió phũ phàng của đời sống thổi tới. Tên mụ là Castorina và là vị nữ hoàng trị vì nhà chứa này.

Phòng của khách sạn này giá 1 peso cho những mối tình qua đường, nhưng ít đứa trong bọn chúng tôi biết có thuê cả ngày cũng một giá đó. Castorian cũng dẫn tôi vào cái thế giới nhếch nhác của mụ, nơi chị em có khi mời những khách hàng nghèo đói của mình một bữa ăn sáng thịnh soạn, cho họ mượn xà-phòng, cho họ cả thuốc nhức răng, và nếu là trường hợp khẩn cấp, tế độ đãi họ một chầu ái tình.

Nhưng trong buổi chiều tà của tuổi rất già của tôi, không ai còn nhớ nàng Castorina bất tử, chết không biết đã bao lâu, cô gái làng chơi đã vươn lên từ những góc đường khốn khó của bến tầu ven sông, tới ngai vàng của mụ tú bà, mắt trái che băng đen như hải tặc vì phải móc ra sau một trận ẩu đả trong quán rượu. Tên đĩ đực cuối cùng của mụ là một gã da đen có phước gốc Camaguey mà người ta gọi là Jonás el Galeote, có thời đã là nghệ sĩ kèn đồng thượng hạng cho đến khi bị tai nạn tàu hoả mà mất luôn cả nụ cười.

*

Sau chuyện cay đắng kể trên, tôi cảm thấy một cái đau nhói nơi tim mà dùng thuốc thông dụng ba ngày vẫn chưa hết. Ông y sĩ mà tôi đến khám như một bệnh nhân cấp tính thuộc về một vọng tộc, là cháu nội của vị bác sĩ đã khám tôi hồi tôi bốn hai, trấn an tôi là không có gì bất thường. Y trông già như ông nội y hồi bảy mươi, vì hói đầu sớm, đeo kính cận nặng và có một nét buồn không nguôi trên nét mặt. Y khám tổng quát toàn cơ thể tôi, nghiêm trang và chuyên chú như nhân viên nhà đòn. Y nghe tim nghe phổi, nghe trước nghe sau, đo áp huyết, gõ phản xạ đầu gối, khám võng mô, và lật mí lên coi niêm mạc. Trong khi tôi xoay trở trên bàn khám bệnh, y hỏi tôi những câu vừa mơ hồ vừa nhanh làm tôi không kịp trả lời. Một giờ sau, y nhìn tôi và mỉm cười hiền hậu. Y nói:

"Tôi không nghĩ có gì cần phải làm cho ông."

"Ông muốn nói gì?"

"Tôi muốn nói rằng ở tuổi ông, tình trạng như vậy là tốt nhất đấy."

Tôi nói:

"Thật là đáng chú ý, vì ông nội ông cũng nói với tôi như vậy khi tôi bốn hai tuổi, tựa hồ như thời gian ngưng lại từ lần khám bệnh ấy đến bây giờ."

Y nói:

"Bao giờ cũng sẽ có người nói với ông câu này, vì rằng bao giờ ông cũng ở một tuổi nào đấy."

Tôi khiêu khích:

"Chết mới thật là hết nói chuyện tuổi."

Y nói:

"Đúng, nhưng chết không dễ gì, khi sức khỏe khả quan như ông. Tôi thật tình không chiều ông chuyện này được."

Đêm rạng ngày hai chín tháng tám tôi cảm thấy tất cả trọng lượng của thế kỷ đang lạnh lùng đợi tôi khi tôi leo những bước nặng như chì vào nhà. Rồi tôi lại thấy mẹ tôi nằm trong giường tôi, cũng là giường của bà cho đến khi mãn phần, và mẹ lại cầu chúc cho tôi như lần chót hai giờ trước khi mẹ chết. Tôi vô cùng chấn động bởi sự việc, coi đấy là điềm báo hiệu của giờ cuối cùng, và tôi gọi Rosa Cabarcas rằng ngay đêm ấy mụ phải mang tôi đi gặp con bé, sợ rằng tôi không thực hiện nổi cái ảo vọng sẽ sống sót cho đến hết tuổi chín mươi. Tôi gọi mụ lần nữa lúc tám giờ, nhưng mụ lại trả lời là không thể nào chiều tôi được. Tôi hốt hoảng la lên trong máy rằng bằng mọi giá phải giúp tôi. Tôi gác máy không lời từ giã, nhưng mười lăm phút sau, mụ gọi lại:

"Con bé đang có ở đây."

Tôi tới nơi lúc mười giờ hai mươi, và đưa cho mụ lá thư tuyệt mệnh, với những thu xếp cho con bé sau cái chết hãi hùng của tôi. Mụ cho rằng tôi đã bị vụ chết đâm trong phòng số một ám ảnh, và nói đùa rằng "Nếu anh định chết, mong rằng đừng chết ở đây. Hãy tưởng tượng sẽ phiền cho tôi đến thế nào".

Nhưng tôi nói với mụ:

"Khi ấy hãy cắt nghĩa với mọi người là tôi bị con tàu Puerto Colombia đâm, cái con tàu tội nghiệp không đâm chết nổi ai."

Đêm ấy mọi thứ chuẩn bị xong, tôi nằm xuống chờ đợi cái đau cuối cùng khi năm thứ chín mốt bắt đầu. Tôi nghe chuông nhà thờ đổ hồi xa xa, nghe thấy cái hương thơm của linh hồn con bé đang ngủ bên cạnh, nghe tiếng ai la hét nơi xa xăm, tiếng nức nở của người có lẽ đã chết trong phòng ngủ này thế kỷ trước... Tôi tắt đèn cùng vớí hơi thở cuối cùng, tay đan tay với con bé để có thể dắt nó đi, và đếm mười hai tiếng chuông nửa đêm cùng với mười hai giọt nước mắt cuối cùng, cho đến khi gà bắt đầu gáy, tiếp theo là chuông vinh danh Chúa đổ hồi, cùng với pháo tân niên, ca ngợi niềm vui đã sống quá tuổi chín mươi.

Những lời đầu tiên của tôi là nói với mụ Rosa Cabarcas: Tôi sẽ mua lại căn nhà, cửa tiệm, vườn trái cây, tất cả tất cả... Mụ nói:

"Chúng mình chơi cái trò người già đánh cuộc đi. Ai mà sống lâu hơn ai thì lấy tất cả tiền bạc của cải của người chết trước. Thị thực đàng hoàng."

Tôi bảo không, khi chết tôi để tất cả của cải cho con bé. Mụ nói:

"Thế thì cũng thế thôi, vì anh chết tôi sẽ là người chăm sóc cho nó. Khi tôi chết, tôi sẽ để lại cho nó tất cả tài sản của anh cũng như của tôi. Tôi không còn ai trên đời này. Trong khi chờ đợi chúng mình hãy tân trang cái phòng của anh với máy điều hoà không khí, sách vở, âm nhạc..."

"Chị nghĩ con bé nó chịu không?"

Mụ cười ngất, và nói:

"Chao ôi, cái ông giáo lẩm cẩm của tôi. Già thì còn được, nhưng ngu thì không nên. Con bé khốn khổ này nó mê anh như điếu đổ."

Tôi bước ra đường tràn trề hạnh phúc, và lần đầu tiên tôi có thể thấy chính tôi trên chân trời xa của thế kỷ đầu tiên của mình. Ngôi nhà tôi, yên lặng và ngăn nắp lúc sáu giờ mười lăm, bắt đầu phô trương màu sắc hạnh phúc trong nắng đầu tiên của ngày. Damiana đang cất giọng hát to trong bếp, và con mèo đã hồi sinh lấy đuôi quấn cổ chân tôi, cứ thế theo tôi đến bàn viết. Tôi xếp lại cho thứ tự xấp giấy, lọ mực, khi mặt trời chiếu qua mấy cây hạnh trong công viên, và con tàu đưa thư đã trễ một tuần vì hạn hán, đi vào cửa sông hụ còi ầm ĩ. Sau cùng, đây là cuộc sống thật với trái tim tôi lành lặn, bị kết án sẽ chết cùng hạnh phúc yêu đương bất cứ bao giờ, quá ngày sinh nhật thứ một trăm của tôi.

Nguồn: Bản tiếng Tây Ban Nha: Gabriel García Márquez, Memoria de mis putas tristes. Editorial Sudamericana / MONDADORI, First Edition, Second Printing, Buenos Aires

Bản tiếng Việt © 2007 talawas

Phụ lục

Mai Kim Ngọc

Vài cảm nghĩ nhân đọc và dịch Mấy cô điếm buồn của Gabriel García Márquez

Nếu không phải là truyện của García Márquez với thành tích văn học đồ sộ của ông, chỉ cần cái tựa Mấy cô điếm buồn cũng đủ làm nhăn mặt những vị có xu hướng tranh đấu nữ quyền mà chuyện chà đạp nhân phẩm đàn bà như mãi dâm, dù chỉ nói tới cũng là điều không nên. Đọc vào trang đầu, chắc nhiều người khác thấy tác phẩm còn đáng kiểm duyệt hơn vì phương diện đạo lý: chuyện mãi dâm ở đây liên quan đến trẻ vị thành niên. Quả thực, García Márquez hạ bút mở đầu chương 1 rằng: "Năm 90 tuổi tôi muốn tự thưởng một đêm tình điên với một xử nữ vị thành niên".

Nhưng rồi người đọc nhớ lại đây là văn học hư cấu, không phải chuyện phi pháp cần cấp thời báo cảnh sát để ngăn chặn. Vả lại như đã nói, tên tuổi García Márquez làm ta yên tâm. Dù đề tài gì, cảnh sống gì, những nhà văn như ông không đưa độc giả vào chuyện thô tục.

Vả lại tình dục của ông già hay người lớn với trẻ vị thành niên không phải là một đề tài mới, và các nhà văn lớn như Kawabata với cuốn Ngôi nhà các mỹ nhân say ngủ hay Vladimir Nabokov với cuốn Lolita, hay André Gide với cuốn La symphonie pastorale (Bản đàn thôn dã) đã chứng tỏ có giá trị văn học và nhân văn trong những khu vực tưởng chỉ có mìn bẫy của văn chương khiêu dâm. Còn nữa, cổ tích dân gian đời này tiếp đời khác đã không loại bỏ những truyện như Delgadina về cô công chúa út của một ông vua loạn luân đòi lấy con gái làm vợ. Chính cổ tích này cũng được García Márquez dùng tới khi dựng truyện Mấy cô điếm buồn.

Cuộc sống trăm nghìn dạng thức, vừa trong vừa ngoài luân lý, và tìm hiểu nhân tâm trong những hoàn cảnh đặc biệt cũng là một chức năng của văn học. Một trong những giá trị của văn chương là tìm được hiện thực tâm lý con người trong mọi hoàn cảnh hay thử thách của cõi nhân sinh.

*

Với Mấy cô điếm buồn, không phải lần đầu García Márquez chạm tới đề tài dâm dục với nhi đồng. Ông đã làm chuyện ấy khoảng 20 năm trước trong cuốn El amor en los tiempos del colera. Nhân vật chính Florentino Ariza trước khi gặp người yêu cho cả một đời, đã có một cô nhân tình bé con. Cô tên là América Vicuña cũng 14 tuổi, bị Florentino quyến rũ, chinh phục, và vỡ lòng cho chuyện tình dục. Cô học trò tỏ ra có nhiều năng khiếu, chẳng mấy chốc tấn tới vượt bực. Sau cùng bị Florentino bỏ rơi, cô âm thầm tự tử và mang theo bí mật xuống tuyền đài. Vì cô bé chỉ là một nhân vật rất phụ, và cuộc tình bé con bất hạnh chỉ là một chi tiết nhỏ trong tác phẩm lớn hay đến mê hồn, nên độc giả có lẽ ít ai nhớ đến.

Có lẽ García Márquez cảm thấy chưa hả, chưa khai thác đủ liên hệ của người lớn với trẻ nít trong Cuộc tình thời dịch tả, nên trong cuốn truyện cuối cùng này tác giả đã trực diện vấn đề, xử lý đề tài thêm lần nữa mà xem tay nghề của ông đạt được tới đâu. Nhân vật ông giáo của Mấy cô điếm buồn rất giống nhân vật Florentino hai mươi năm trước. Y cũng dính dáng đến văn thơ, cũng nhiều nhân tình, và cũng ghi sổ các cố nhân đã ăn nằm ít nhất một lần, đầy đủ tên tuổi, hoàn cảnh gặp gỡ, kiểu cọ làm tình vân vân... Florentino tổng kết số phụ nữ đã ăn nằm với mình là 622, còn ông giáo của Mấy cô điếm buồn dừng lại ở số 514; sai số 108 vị nữ lưu có nguyên do là về sau ông giáo không buồn ghi sổ nữa.

Cốt truyện Mấy cô điếm buồn được dựng công phu, để bên những vấn đề phụ lác đác đó đây, xử lý đề tài chính là tuổi già và tình yêu, giữa già dù đến mức già lắm của tuổi 90 với trẻ dù còn trẻ lắm của tuổi 14. Phải chăng tác giả cũng hy vọng hay cố gắng chứng minh rằng tình ái vong niên oái oăm không bắt buộc chung cuộc phải thê thảm.

*

Khi đọc nguyên bản bằng tiếng Tây Ban Nha, tôi có những nhận xét xin trình bày lần lượt sau đây.

Thứ nhất là xuất xứ của đề tài dục tình với trẻ thơ. García Márquez gặp đề tài này bao giờ và tại đâu, nói cách khác: ông đã chịu ảnh hưởng từ ai để hai lần đương đầu với nó? Câu trả lời tương đối dễ dàng. Người đi trước ông trong công việc nhìn vào cõi nhân tâm của lão hóa bằng ngả dục tình là Kawabata, với tác phẩm Ngôi nhà các mỹ nhân say ngủ (1961). Tác phẩm này rất hấp dẫn, thâm trầm, và quen thuộc với giới đọc sách. Nhân vật của Kawabata tên Yoshio Eguchi tuổi đã xế chiều nhưng chưa hẳn đã bất lực, sử dụng dịch vụ của một mụ tú bà chuyên tìm gái trẻ, đánh thuốc cho ngủ mê để các ông già tùy nghi ve vuốt. Nhà thổ có gia pháp của nhà thổ, và mụ cấm các cụ xâm nhập vào thân thể cô gái, kể cả đút ngón tay vào miệng cũng không được. Với đa số khách hàng, chuyện cấm này không cần thiết, thuở ấy chưa có thuốc cường dương và các cụ có muốn cũng không làm ăn gì được. Tuy Eguchi chưa lão hoá đến như vậy, nhưng ý định cuỡng dâm cô gái chỉ thoáng qua nhường chỗ cho những tư duy về tuổi già bị cuộc sống coi như trẻ con, và thân phận con người nói chung, về các bạn tình khác nhau trong quá khứ, về con gái, về chính mẹ mình, về sống chết, và nhất là về chết bằng tự vận... Ông Nhật già nghĩ thế giới của tình yêu và tình dục bao la bao nhiêu mà ông chỉ biết được bao nhiêu, còn bao nhiêu năm nữa ông sẽ bất lực như đa số khách hàng của ngôi nhà này... Ông nghĩ về cái nhũ hoa của mẹ khi ông săn sóc cho bà lúc bà thổ huyết, và cái nhũ hoa đẹp như mơ như mộng trong tay ông bây giờ, ông nghĩ thân phận già nua thịt xương mỗi ngày một lỏng lẻo bạc nhược trong khi thịt da người trẻ mượt mà nõn nường tiếp tục xuất hiện quanh ông... Có thơ, có ý, có dữ, có đẹp, có buồn, có tình trong Kawabata... ai đọc qua khó mà quên.

Và tất nhiên García Márquez đã đọc Kawabata, có lẽ rất kỹ, và rõ ràng không quên. Hai tác phẩm có quá nhiều điểm giống nhau, có thể nói như anh em song sanh. Cũng là ông cụ bất lực hay sắp bất lực đi chơi gái, cũng là những cô gái nhỏ bị đánh thuốc mê, cũng là những suy tư bắt nguồn từ chiêm nguỡng thân thể đàn bà, nhờ trong phòng kín mà không cần xấu hổ phải phô bày cái nhăn nheo cũng như cái bất lực của tuổi già...

Có lẽ để trả ơn Kawabata, người chủ nợ văn học của mình, García Márquez lẩy đoạn mở đầu của Ngôi nhà các mỹ nhân say ngủ, bản dịch Y Pha Nho, để tại ngay đầu sách của mình: "No debía hacer nada de mal gusto, advirtió al anciano Eguchi la mujer de la posada. No debía poner el dedo en la boca de la mujer dormida ni intentar nada parecido" (Yusanari Kawabata, La casa de las bellas dormidas).

Theo tự truyện Sống để kể chuyện của ông (Living To Tell The Tale, 2003), García Márquez đã làm một việc vay mượn tương tự trong quá khứ. Khi viết xong bản thảo Trận bão lá nửa thế kỷ trước (1955) và cho Gustavo Ibarra đọc, ông được bạn cho biết rằng có nhiều tình tiết quá giống truyện Antigone của Sophocles. García Márquez lấy Antigone ra xem lại, và lấy làm thú vị là không chủ tâm mà viết giống như một đại văn hào. Sau khi biên tập lại truyện của mình, ông lẩy một câu của Sophocles đặt vào đầu sách để ghi nhận món nợ văn học.

Có lẽ García Márquez còn nợ Vladimir Nabokov, với cuốn Lolita xuất bản 50 năm trước. Món nợ này nhẹ hơn, vì người đàn ông trong truyện của Nabokov chỉ mới trung niên và trẻ hơn ông giáo trong Mấy cô điếm buồn, còn Lolita lại nhỏ tuổi hơn, chỉ mới 12 tuổi.

Tuy nhiên, Florentino của García Márquez trong Cuộc tình thời dịch tả khá giống người đàn ông trung niên của Lolita khi làm tình, là từ từ cởi từng mảnh từng mảnh y phục của đứa bé gái. Có lẽ ông giáo trong Mấy cô điếm buồn thích người nữ của mình khỏa thân sẵn khi ông nhập cuộc, thật ra cũng giống nhân vật của Nobokov, tuy theo cách của một âm bản. Trần sẵn ra như nhộng hay nai nịt xiêm y để lột ra từ từ, tất cả chỉ là hai mặt âm dương của cùng một cung cách.

*

Sự giống nhau giữa hai tác phẩm của hai nhà văn nêu lên một câu hỏi nhức nhối. Thế nào là đạo văn, và ranh giới của nó ở đâu? Một mặt, có những vụ đạo văn trắng trợn trơ trẽn, sao chép tác phẩm người khác và nhận là của mình mà không hề ghi xuất xứ. Mặt khác, thật ra không cuốn truyện hay nào hoàn toàn mồ côi, nghĩa là không cha không mẹ, không có ít nhiều gốc gác từ một tiểu thuyết trước của tiền nhân. Không có ai có thể lấy từ chân không ra một tác phẩm nghiêm túc, nói chi một đại tác phẩm.

Cuốn Kiều bất hủ của chúng ta, có thể gọi là "phóng tác" từ nguyên bản Trung Hoa của Thanh Tâm Tài Nhân. Cụ Nguyễn Du đã đóng góp rất nhiều cho tác phẩm, làm cho nó bội phần hay hơn. Cụ cũng không giấu diếm là đã viết Kiều để chia sẻ với hậu thế thú vui được đọc một cuốn truyện hay của người khác mà cụ tâm đắc. Ngay từ câu thứ bảy, cụ đã dõng dạc kể rằng:

Cảo thơm lần giở trước đèn

Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh

Nên chi tôi không nghĩ hai chữ "đạo văn" có thể áp dụng cho Mấy cô điếm buồn, một khi García Márquez đã gián tiếp ghi nhận xuất xứ của cốt truyện bằng đoạn văn lẩy từ tác phẩm của Kawabata.

Lại càng không phải đạo văn nếu ta ghi nhận những khác biệt quan trọng giữa Mấy cô điếm buồn và Ngôi nhà các mỹ nhân say ngủ. Truyện của Kawabata như đã nói, có thơ, có ý, có đẹp, có buồn, có tình... Cái mà Kawabata không có, là cái hậu của câu chuyện. Ngôi nhà các mỹ nhân say ngủ kết thúc với cái chết có lẽ vì bệnh tim của ông khách, tiếp nối bởi cái chết vì thuốc ngủ quá liều của cô gái thứ năm mà Eguchi dùng. Truyện của Kawabata gần như không bao giờ có hậu, mà hình như ông cũng không muốn có hậu. Ông thường tả một cảnh đời không chung không thủy, không phán xét, không ngợi khen. Khi đi vào cõi nhân tâm, ông cố gắng trung thực tìm cái đẹp, mà cái đẹp của ông thường buồn, hay rất buồn. Hình như ông không tìm cái tốt.

Cô gái say ngủ của Kawabata chết vì ngộ độc và không bao giờ thức dậy. Kawabata không tìm lời giải cho câu hỏi là khi cảnh hư thực của giấc ngủ không còn thì cuộc sống sẽ ra sao. Ngược lại, trong Mấy cô điếm buồn, con bé xử nữ của xứ Colombia dưới Nam Mỹ đã thức dậy hai lần. Lần đầu, khi ông giáo đập phá tan hoang cái tổ uyên ương của hai người vì nghi nó đã trở thành gái điếm thực thụ. Lần thức ấy, nó dậy để thấy tình yêu dưới dạng ghen tuông. Mụ Cabarcas ngắm cảnh ông giáo hung hãn, khi được biết sự tình, thấy ngay tức thì rằng ghen tuông này là biểu hiệu của một tình yêu lớn. Mụ nói trong chương 4: "'Dios mío. Qué no hubiera dado yo por un amor como éste!" (Lậy Chúa tôi! Con sẵn sàng cho đi mọi tài sản trên đời để đổi lấy mối tình như thế này!".

Lần thứ hai tuy García Márquez không viết rõ ra, Delgadina thức giấc trong viễn tượng hôn nhân với ông giáo, để huởng một hạnh phúc lâu dài như truyện thần tiên, vì ông đã được mụ điếm già có chồng Tàu khuyên rằng không được đánh mất con bé dù nó đã trở thành điếm thật. Mụ còn dặn là lần này thì đừng đóng vai ông nội ướt át tình cảm, mà phải dựng nó dậy và làm tình với nó cho trời long đất lở...

*

Nhiều người cho rằng theo những tiêu chuẩn cao, thì cuốn Mấy cô điếm buồn tuy không dở, nhưng không phải là một thành tựu siêu việt. Nó không cùng đẳng cấp với Trăm năm cô đơn, hay Cuộc tình thời dịch tả của một García Márquez trẻ hơn hai ba thập niên trước. Cái hiện thực huyền bí của tác giả bây giờ hình như không còn đầy đủ năng lực cũ để thuyết phục ta về những chuyện siêu thực ông kể. Con mèo của ông giáo ốm và già, hơn là một con mèo phù thủy có khả năng siêu hình. Hình ảnh con bé Delgadina trong đầu ông chưa đủ mạnh để ta không sững sờ khi thấy nó theo ông về nhà mà hiện ra thành người như bằng xương bằng thịt để dọn dẹp nhà cửa, hay nấu cho ông bữa ăn sáng... Tuy nhiên những gì còn lại vẫn đủ làm cho cuốn sách là một tác phẩm hay.

Có lẽ cái làm cho tôi thích nhất trong Mấy cô điếm buồn không liên hệ đến tay nghề của nhà văn lớn, mà là nét tích cực của truyện, đặc thù cho tất cả những tác phẩm khác của García Márquez. Ông có lập trường rõ ràng về con người, và một lòng tin vào cái tốt của nhân tâm. Tất cả nhân vật của ông, dù có bị xã hội xếp vào hạng vô luân, vô luật, vẫn ấm áp hơi người, không phải hơi người chung chung mà hơi người tốt. Nếu họ có xấu, thì cuối truyện họ phục hồi và cải thiện. Ông giáo là bằng chứng rất hùng hồn cho sự cải thiện ấy. Khởi sự bằng ý định dùng gái trinh vị thành niên để giải buồn, ông tiến đến chỗ coi trinh tiết phụ nữ như một thực thể thiêng liêng, và sau cùng tìm được tình yêu tử tế và vô cùng nhân bản trong sự cải thiện ấy.

Những cô điếm của nhà văn là một bằng chứng hùng hồn khác cho tình yêu mà García Márquez dành cho con người. Tất nhiên cô điếm có lòng là một nhân vật đã có nhiều trong các tiểu thuyết kim cổ đông tây. Từ Thúy Kiều và Đạm Tiên của Nguyễn Du, cho tới cô Tuyết trong Đời mưa gió của Nhất Linh, cho tới cô điếm tôi không nhớ tên của John Steinbeck trong một truyện lấy Salinas Califonia làm bối cảnh, khó mà ghét nổi khi cô điếm đã được một nhà văn có tài khai sinh cho, phấn son cho, và bỏ vào một cuốn truyện hay.

Nhưng với cái văn phong hiện thực huyền ảo và cái tâm nhẹ nhàng, có lẽ García Márquez đã mang lại cho các cô chút gì đặc biệt hơn ở nơi khác. Dưới ngòi bút của ông, họ hiện ra với cách ăn nói thô bạo, cãi nhau, cợt nhả nhau, sẵn sàng phô trương cái vỏ chai sạn. Nhưng đó là chai sạn hình thức, và xuyên qua cái hình thức ấy, ông cho ta thấy cái tốt trong tất cả các cô điếm của ông. Cả ba nhân vật nữ quan trọng trong cuốn truyện ngắn của ông: con bé Delgadina, mụ Rosa Cabarcas, và mụ Casilda Armenta, đều tử tế, đều đáng yêu. Mụ Cabarcas hành xử như một người bạn gái chung thủy, làm ăn thì phải tính toán, nhưng lúc cần sẵn sàng giúp bạn thì không thù dai mà cũng không chấp nê. Casilda Armenta đãi ngộ cố nhân khi gặp lại như một người tình chung thủy, hay như một cô em gái, sẵn sàng an ủi và khuyên nhủ khi ông anh đau khổ vì tình... Mấy cô điếm của một cơ sở đèn đỏ khác, nơi ông giáo đã được vỡ lòng về dục tình khi còn là cậu bé 12 tuổi, thường hay góp tiền đãi những kẻ thất cơ lỡ vận một bữa ăn sáng ngon lành, và trong trường hợp khẩn cấp lại còn ban phát thêm cho kẻ bất hạnh món quà cây nhà lá vườn đặc biệt của năm mười phút hạnh phúc... Và sau cùng, mấy con chim đêm của các rạp chiếu bóng ngoài trời cũng dễ thương không kém. Chúng kiếm chác chẳng được bao nhiêu, đi khách với giá rẻ mạt của một vé vào cửa, nhưng cũng có thể cho chịu hay đãi không cho ông giáo (thời còn trẻ) trong tinh thần bạn tri âm tặng nhau.

Trở lại cái tựa của García Márquez. Các cô điếm của nhà văn buồn bao nhiêu? Tôi không nghĩ các cô buồn lắm. Nếu có, cái buồn của các cô như García Márquez cho ta cảm thấy, nhẹ như tiếng còi tàu thủy xa vắng, một buổi xế trưa ủ ê vang vọng nơi cửa sông rộng mênh mang, trong khi hai người bạn già ngồi ôn lại chuyện cũ dưới mái cọ của một quán ăn lộ thiên ngoài bến sông...

Nhưng điều chắc chắn là García Márquez không để cho các cô biết giận, biết trách, biết thù, biết ác... Tất nhiên là các cô biết đùa, biết cho, biết nhận, biết vui, biết yêu, thậm chí biết cả thủy chung... Tin lời ông, người ta có thể mơ ước lấy điếm làm vợ, làm bạn gái, làm em gái, làm chị gái, làm tất cả những điều tốt người nữ có thể làm, cho đến nữ thánh đồng trinh... Tất nhiên là ta cần một liều lượng hiện thực huyền ảo để hoàn toàn tin nhà văn về điểm này.

© 2007 talawas

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#relax