Diem_doi_lua3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 51

Hoặc phải chống trả, hoặc phải tháo chạy.

Là nhà sinh vật học, Tolland biết rằng khi một sinh vật cảm nhận được hiểm họa, sẽ có rất nhiều thay đổi về sinh lý. Adrenaline dâng tràn lên vỏ não, nhịp tim tăng mạnh, thúc đẩy bộ óc phải đưa ra những quyết định có tính bản năng nhất - hoặc là chống trả, hoặc là tháo chạy.

Bản năng trong Tolland bảo ông hãy tháo chạy, ấy thế nhưng lý trí nhắc nhở rằng ông và Norah Mangor cùng bị buộc vào một sợi dây. Và dù sao thì cũng chẳng biết chạy đi đường nào. Nơi trú ẩn duy nhất trong bán kính vài dặm chính là trong bán sinh quyển; và những kẻ tấn công này, bất kể chúng là ai, đã chiếm giữ vị trí trên đỉnh dốc băng, chặn mất lối thoát ấy. Phía sau ông, phiến băng nở rộng ra thành một dải đồng bằng dài hai dặm phủ lên trên mặt biển băng giá. Tháo chạy về hướng đó có nghĩa là đối mặt với cái chết. Tuy nhiên, cản trở chính lại là những người khác Tolland biết ông không thể bỏ mặc họ. Norah và Corky đang nằm phơi mình trên băng, được nối với Tolland và Rachel bằng một sợi dây.

Tolland cúi rạp bên cạnh Rachel khi những hòn đạn băng tiếp tục nã như mưa xuống chiếc xe trượt đã bị lật sấp ông chộp lấy vài thứ dụng cụ, cố tìm một thứ vũ khí nào đó, súng bắn pháo sáng, radio, hay bất kỳ cái gì.

"Chạy đi!" Rachel hét to, vẫn thở một cách khó nhọc.

Sau đó, làn mưa đạn ngưng đột ngột. Dù gió vẫn đang giật, đêm đột nhiên trở nên yên tĩnh, như thể cơn bão đã bất ngờ tan hẳn.

Lúc ấy, đang thận trọng nhòm qua khe xe trượt, Tolland chứng kiến cảnh tượng hãi hùng nhất trong đời.

Trượt ra chỗ sáng một cách nhẹ nhàng từ bóng tối, ba hình bóng ma quái xuất hiện, chân đeo ván trượt tuyết. Những người này mặc áo liền quần bảo hộ màu trắng. Họ không dùng sào trượt tuyết mà cầm trên tay những khẩu súng trường lớn mà ông chưa từng thấy. Ván trượt của họ trông cũng rất lạ lùng, ngắn và hiện đại trông giống giầy Rollerblades kéo dài ra.

Một cách điềm tĩnh như thể biết rằng đã nắm chắc phần thắng, những người này dừng lại bên nạn nhân gần nhất - Norah Mangor giờ đã bất tỉnh. Tolland run run nhổm người lên để nhòm cho rõ những người này. Họ quay những cặp kính bảo hộ điện tử kỳ lạ về phía ông, nhìn chằm chằm. Rõ ràng là chẳng quan tâm lắm.

Ít nhất là lúc này.

Delta-Một chăm chú nhìn người đàn bà nằm bất tỉnh trên băng, không chút ân hận. Anh đã được đào tạo để thi hành mệnh lệnh mà không cần biết lý do.

Người đàn bà này mặc bộ quần áo giữ nhiệt màu đen dầy, một bên mặt bị sưng to. Chị ta thở gấp, khó nhọc. Một viên đạn từ những khẩu súng trường của họ đã bắn trúng vào má, khiến chị ta bất tỉnh.

Giờ là lúc hoàn tất công việc.

Khi Delta-Một quỳ xuống bên người đàn bà không quen biết, hai đồng đội của anh chĩa súng về những mục tiêu còn lại - một người đàn ông bé nhỏ nằm bất động trên băng ngay gần họ, và hai nạn nhân khác đang nấp sau chiếc xe trượt lật úp. Mặc dù họ có thể dễ dàng tiến tới để kết liễu tất cả, nhưng những nạn nhân kia không có vũ khí và cũng chẳng thể chạy đi đâu. Cố giết tất cả bọn họ ngay lúc này là hành động bất cẩn. Đừng bao giờ chút nhỏ trọng tâm chú ý nếu không thực sự cần thiết. Hãy thanh toán từng đối thủ một. Theo đứng bài bản, Đội Delta sẽ kết liễu từng đối tượng một. Tuy nhiên, điều đặc biệt chính là không một dấu vết nào có thể hé lộ những lý do khiến những người này phải chết.

Cúi xuống bên người đàn bà, Delta-Một tháo găng tay giữ nhiệt và vốc một nắm tuyết. Anh ta gang miệng nạn nhân ra rồi nhét tuyết vào họng. Delta-Một nhét thật đầy, ấn tuyết xuống tận khí quản. Trong vòng ba phút chị ta sẽ chết.

Phương pháp này có tên là belaya smert - cái chết trắng, do mafia Nga nghĩ ra. Nạn nhân sẽ bị chết ngạt trước khi tuyết trong miệng tan ra. Nhưng sau khi chết rất lâu, cơ thể người vẫn còn đủ ấm để làm đám tuyết ấy tan hết. Dù người ta có thể nghi ngờ, nhưng không ai tìm thấy được bất kỳ hung khí hay bằng chứng nào để chứng minh cho hành động giết người. Cuối cùng thì người ta cũng có thể nghĩ ra nguyên nhân thực sự, nhưng lúc ấy thì chúng đã có đủ thời gian. Những viên đạn băng sẽ hòa lẫn vào băng tuyết xung quanh, và vết sưng phồng trên mặt người đàn bà này sẽ trông giống như hậu quả của cú ngã chí mạng - chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi gió thổi mạnh đến mức này.

Ba người còn lại cũng sẽ bị hạ sát theo kiểu này, sau đó Delta-Một sẽ chất họ lên xe, kéo đi xa vài trăm mét và lại buộc họ vào dây rồi bố trí hiện trường giả. Vài giờ nữa người ta sẽ tìm thấy những thi thể đã đông cứng, hiển nhiên giống hệt những nạn nhân của thời tiết xấu. Dĩ nhiên, những người đi tìm sẽ băn khoăn không hiểu những người này ra ngoài trời để làm gì Suy cho cùng thì những cây đèn báo sáng của họ đã tắt hết, thời tiết thì thật kinh khủng, bị lạc lối trên phiến băng Milne có nghĩa là cái chết sẽ ập đến tức thì.

Lúc này, Delta-Một đã nhồi xong tuyết vào cổ họng người đàn bà. Trước khi chuyển sang những nạn nhân khác, anh tháo cái móc nối vào sợi dây của nhóm trên thắt lưng chị ta. Sau này có thể móc vào lại nhưng lúc này anh không muốn những nạn nhân kia nghĩ đến chuyện kéo chị ta ra chỗ khác.

Hành động giết người này quả là dã man quá sức tưởng tượng của Tolland. Sau khi đã tháo sợi dây buộc vào Norah Mangor, cả ba bắt đầu quay sang Corky.

Cần phải tìm cái gì đó!

Corky lúc này đã tỉnh lại, đang rên rỉ, gắng sức ngồi dậy, nhưng một người lính ấn ông ta xuống, ngồi đè cả người lên rồi dùng tay và chân ghìm chặt chân tay Corky xuống tuyết. Corky kêu thét lên đau đớn, nhưng tiếng kêu lập tức bị cơn gió dữ át đi.

Kinh hãi đến phát điên, Tolland lục lọi những đống dụng cụ đổ xuống từ chiếc xe trượt. Chắc chắn phải có thứ gì đó! Một thứ vũ khí nào đó! Chắc chắn phải có! Nhưng ông chỉ tìm thấy những dụng cụ phân tích băng, thảy đều bị trận mưa đạn băng vừa nãy phá tan tành. Cạnh ông. Rachel đang chới với cố thu người ngồi dậy bằng cách dựa người vào cây rìu đá. "Phải chạy đi... Mike..."

Tolland nhìn chiếc rìu mắc ở cổ tay Rachel. Có thể dùng làm vũ khí được. Đại loại vậy. Ông mường tượng cảnh dùng chiếc rìu tí xíu đó để tấn công ba người lính được vũ trang đến tận chân răng kia.

Làm thế là tự sát.

Rachel vừa ngồi hẳn dậy, Tolland chợt nhìn thấy một vật sau lưng cô. Cái túi dù rất to. Thầm cầu Chúa trong túi đó có khẩu súng bắn pháo sáng hay chiếc radio, ông bò qua người Rachel, tay lần cái túi. Trong túi có một tấm vải Mylar rất to, được gấp cẩn thận. Chẳng ích gì. Trong túi dụng cụ nghiên cứu biển của Tolland cũng có một cái gần giống thế này. Đây là quả khinh khí cầu loại nhỏ được chế tạo để vận chuyển những dụng cụ quan trắc khí hậu có trọng lượng chỉ bằng chiếc máy tính cá nhân. Cái khinh khí cầu của Norah chẳng làm được nên trò trống gì trong hoàn cảnh này, nhất là khi không có bình khí helium để gắn kèm vào.

Nghe tiếng Corky đang vật vã, Tolland càng tuyệt vọng. Hoàn toàn tuyệt vọng. Thất bại thảm hại. Đúng như những gì ông thường nghe mọi người nói về chuyện người ta thường nhớ lại những khoảnh khắc quan trọng trong đời trước lúc lâm chung, những kỷ niệm ấu thơ chợt ùa về lấp đầy tâm trí Tolland. Trong vòng một tích tắc, ông nhớ lại thuở còn ở trên chiếc thuyền buồm tại cảng San Pedro, tập bay trên trục buồm lớn - một thú tiêu khiển ưa thích của các thủy thủ - bám tay vào dây tời, đu đưa ngay trên mặt biển, lúc như lao thẳng xuống mặt nước cuồn cuộn, lúc lại hả hê tung người lên cao hệt như một đứa trẻ đang đu trên xà đơn phó mặc sinh mạng cho sợi dây buồm và những ngẫu hứng của gió biển.

Tolland lập tức nhìn như muốn nuốt chửng chiếc khinh khí cầu Mylar trong tay, hóa ra tâm trí ông đâu đã chịu đầu hàng, ông vừa nảy ra một giải pháp! Bay trên trục buồm lớn.

Trong khi Corky vẫn đang đơn độc vật lộn với ba người lính kia, Tolland giật mạnh lớp vải bảo hộ bao quanh chiếc khinh khí cầu ông không ảo tưởng rằng đây là biện pháp hữu hiệu, nhưng ở lại đây có nghĩa là cả ba người sẽ phải chết. Ông lôi mạnh khinh khí cầu ra. Có một dòng chữ in trên móc gài hàng: CẨN TRỌNG: KHÔNG SỬ DỤNG KHI TỐC ĐỘ GIÓ QUÁ 10 HẢI LÝ.

Cẩn trọng cái con khỉ! Cố giữ tay thật chặt để khinh khí cầu không nở phồng ra, Tolland bò đến bên Rachel lúc này đang nằm nghiêng một bên. Ông đọc thấy vẻ ngỡ ngàng trong mắt cô khi quỳ xuống sát Rachel và hét lớn: "Giữ lấy cái này!"

Ông đưa cho Rachel khinh khí cầu được gấp cẩn thận rồi dùng tay kia móc cái móc gài vào thắt lưng mình, sau đó ông lăn người và kéo chiếc móc ấy để gài vào thắt lưng Rachel.

Lúc này hai người đã bị buộc làm một.

Bị buộc chặt vào nhau ngang thắt lưng.

Sợi dây buộc giữa hai người lòng thòng kéo dài trên tuyết đến chỗ Corky đang giãy giữa, rồi tiếp tục kéo dài thêm mười mét nữa đến tận chỗ cái móc nằm chỏng chơ bên cạnh Norah Mangor.

Norah thì không cứu được nữa rồi, Tolland tự nhủ, mình cũng có thể làm gì cho cô ấy nữa.

Ba kẻ kia đang xúm lại bên Corky, chúng đã vốc được một nắm tuyết sắp sửa nhồi vào cổ họng nhà cổ sinh vật. Tolland biết họ không còn thời gian để chần chừ nữa.

Tolland giật mạnh chiếc khinh khí cầu trên tay Rachel. Chất vải dù này nhẹ như giấy, và rất chắc chắn. Đây rồi. "Bám chắc nhé!"

"Mike?" Rachel lên tiếng. "Cái gì..."

Tolland huơ huơ tấm vải trên đầu. Cơn gió dữ lập tức ùa vào giật tung các nếp xếp, tấm vải căng rộng ra như cánh dù giữa gió xoáy. Không khí lùa đầy vào, quả khinh khí cầu căng phồng lên đánh phựt, trên tay ông, tất cả chỉ trong tích tắc.

Tolland cảm thấy bị kéo rất mạnh ở thắt lưng, và ngay tức thì.

Ông biết mình đã đánh giá không hết sức mạnh của loại gió katabatic này. Chỉ trong chớp mắt, ông và Rachel đã bị kéo gần như lơ lửng trong không khí, xuôi xuống dưới dốc băng. Sau một tích tắc, ông thấy thắt lưng bị giật mạnh lần nữa khi sợi dây nối với Corky Marlinson bị kéo căng ra. Cách ông hai mươi mét, ông bạn khốn khổ đang khiếp hãi của ông bị giật mạnh khỏi tay lũ sát thủ, làm cho một tên chới với ngã lộn nhào. Corky kêu lên thất thanh khi bị kéo lê trên băng với tốc độ kinh hoàng, suýt va vào chiếc xe trượt bị lật úp bên cạnh đống dụng cụ ngổn ngang. Một sợ dây khác cũng bị lôi lượt sượt bên Corky... Sợi dây đáng ra được móc vào Norah Mangor.

Mình đâu có thể làm được gì hơn, Tolland tự nhủ.

Cả ba bị kéo lê trên băng chẳng khác gì những con rối bị buộc vào nhau. Đạn băng vãi như mưa quanh họ, nhưng Tolland biết những hung thủ kia chẳng thể làm gì được nữa. Sau lưng ông, bóng ba người lính mặc quần áo trắng đứng trong quầng sáng toả ra từ những cây đèn đang mờ dần đi.

Lúc này, Tolland thấy băng tuyết đang sượt qua dưới bộ áo liền quần bảo hộ trên người ông với tốc độ mỗi lúc một cao hơn, và cảm giác nhẹ nhõm vì thoát chết nhanh chóng tan biến. Phía trước họ, ở khoảng cách không đầy hai dặm, điểm tận cùng dốc đứng như bờ vực của phiến băng Milne đang đợi sẵn, và tiếp đến..., cách mặt băng một trăm foot..., là những con sóng chết người của Biển Bắc.

Chương 52

Tươi như hoa, Marjorie Tench xuống cầu thang, tiến về phòng thông tin của Nhà Trắng; căn phòng có gác xép với những thiết bị thu phát tự động được cài đặt sẵn. Cuộc gặp với Gabrielle đã diễn ra suôn sẻ. Bất kể Gabrielle có hoảng sợ đến nỗi phải, tự công khai vụ việc đó hay không thì thử một phen như thế chẳng phí công chút nào.

Gabrielle đủ thông minh để tránh xa ông ta, bà ta thầm nghĩ. Cô bé tội nghiệp đó không thể biết Sexton sắp rớt đài thảm hại đến thế nào.

Chỉ vài giờ đồng hồ nữa thôi, cuộc họp báo của Tổng thống về tảng thiên thạch sẽ khiến ông ta phải đổ gục. Chưa hết. Nếu Gabrielle chịu hợp tác thì ông ta sẽ bị giáng một đòn chí mạng và sẽ phải lê lết trong nhục nhã. Sáng sớm mai Tench sẽ tung ra bản khai của Gabrielle kèm theo cảnh Thượng nghị sĩ Sexton đang phủ định tin đồn về chuyện đó.

Đòn đúp.

Suy cho cùng, làm chính trị không có nghĩa là chỉ cần thắng cử mà phải là thắng một cách thuyết phục - phải có đủ thế lực để thực thi những dự định trong đầu. Xét trong lịch sử Hoa Kỳ, tất cả những vị Tổng thống đặt chân vào Nhà Trắng với một tỉ lệ phiếu bầu sít sao đều chẳng làm được gì đáng kể; thế của ông ta đã bị yếu đi nhiều ngay trước ngưỡng cửa Nhà Trắng, và Nghị viện sẽ không bao giờ quên chi tiết đó.

Nếu đúng như dự kiến, chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sexton sẽ bị phá sản toàn diện - đây sẽ là một đòn đúp giáng vào cả cương lĩnh chính trị lẫn tư cách đạo đức của ông ta. Chiến thuật này, vốn được chính giới Washington đặt tên là "trèo cao ngã đau", bắt nguồn từ nghệ thuật quân sự. Ép đối phương phải chiến đấu trên cả hai mặt trận. Khi vớ được một nguồn tin về điểm yếu của đối thủ, đa số các ứng cử viên thường đợi thêm cho đến khi có thêm một tin thứ hai, rồi cùng lúc công khai cả hai. Một cú đánh đúp thường có hiệu lực hơn hẳn so với những đòn đơn lẻ thông thường, nhất là khi đòn đúp đó được chĩa vào hai mục tiêu khác nhau trong chiến dịch tranh cử của đối phương - một nhằm vào đường lối chính trị, một vào tư cách cá nhân của đối phương. Dùng lý trí để đánh vào cương lĩnh chính trị, và dùng tình cảm để đánh vào nhân cách, cùng lúc ra đòn từ hai hướng như thế sẽ khiến đối phương không tài nào chống đỡ nổi.

Đêm nay, Thượng nghị sĩ Sexton sẽ phải lê lết tìm cách thoát khỏi cơn ác mộng sau khi thắng lợi của NASA được công bố, và tình cảnh của ông ta sẽ cờn bi đát hơn nữa nếu phải bảo vệ quan điểm về NASA trong lúc bị chính nữ cộng sự thân cận của mình công khai buộc tội dối trá.

Đến cửa phòng thông tin, Tench cảm thấy vô cùng hào hứng với viễn cảnh về cuộc đấu. Chính trị nghĩa là tranh đấu. Bà ta hít thật sâu rồi giơ tay xem đồng hồ. 6 giờ 15 phút chiều. Phát đạn đầu tiên sắp được khai hỏa.

Tench bước vào bên trong.

Họ sẵn sàng cả rồi, bà ta đọc thấy điều đó trong ánh mắt chăm chú của những nhân viên phòng máy.

Căn phòng nhỏ tí xíu này lần nào cũng khiến Tench thấy kinh ngạc. Chỉ cần được báo trước hai giờ, các nhân viên này có thể kết nối với một nửa số người văn minh trên trái đất. Được kết nối điện tử với hàng ngàn nguồn cung cấp tin trên toàn cầu - từ những tập đoàn phát thanh - truyền hình lớn cho tới những tờ báo địa phương - chỉ cần bấm vài cái nút là Nhà Trắng có thể vươn cánh tay tới mọi nơi trên khắp địa cầu.

Máy tính có thể gửi nội dung các buổi họp báo đến thẳng các đài phát thanh, đài truyền hình, các tòa báo và các địa chỉ intemet trải khắp từ vùng Maine đến tận Moscow. Mọi điểm kết nối intemet đều được cài đặt sẵn những phần mềm cho phép tự động nhận những thông tin số hóa loại này. Thiết bị quay số tự động sẽ thực hiện hàng ngàn cuộc gọi đến các nhà cung cấp dịch vụ mạng và chuyển đến họ những đoạn băng được thu sẵn. Một trang web nóng sẽ liên tục cập nhật những thông tin "mới nhất cùng với những thông báo được soạn thảo sẵn". Những hệ thống có khả năng "truyền tin tức thờ" - CNN, NBC, ABC, CBS và các tập đoàn truyền thông nước ngoài - sẽ bị được tiếp cận từ mọi hướng, và sẽ nhận được lời hứa hẹn về một nguồn tin nóng miễn phí. Tất cả các chương trình đang lên sóng của họ sẽ phải ngưng lại để nhường chỗ cho bản tin nóng phát đi từ phủ Tổng thống.

Một cuộc tấn công tổng lực.

Hệt một viên tướng đi duyệt quân, Tench sải bước đến bên bàn photocopy và cầm lên tay một bản in đã được đặt sẵn trên máy fax, y như viên đạn súng ngắn đã lên nòng.

Bà ta đọc, và khẽ cười một mình. Theo đúng thông lệ, lời lẽ của bản thông báo này khá "nặng đô" - nặng về quảng cáo hơn là thông báo - nhưng Tổng thống đã lệnh cho phòng thông tin phải lược hết các đấu chấm câu đi. Đây là kết quả họ có được.

Văn bản này thật hoàn hảo - nhiều từ mạnh. Ít nghĩa ẩn. Một sự kết hợp chết người. Ngay cả các địa chỉ dùng chương trình lọc tin tự động để phân loại thư đến cũng sẽ nhận được vô số từ khóa khiến họ phải chú ý:

Từ: Phòng thông tin Nhà Trắng

Nội dung: Thông báo khẩn của Tổng thống.

Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ tổ chức buổi họp báo khẩn lúc tám giờ tối nay, giờ chuẩn khu đông, tại phòng họp báo của Nhà Trắng. Nội dung buổi họp báo được xếp vào loại đặc biệt. Các nguồn cung cấp tin tức thời tại chỗ sẽ hoạt động như thường lệ.

Để tờ giấy trên bàn như cũ, Marjorie Tench nhìn khắp phòng thông tin một lần nữa rồi gật đầu tán thưởng với mấy nhân viên trực ban. Người nào cũng có vẻ háo hức muốn vào việc ngay.

Châm thuốc, bà ta rít một hơi, mơ màng với viễn cảnh tươi đẹp trước mắt. Cuối cùng, Tench cười rất tười: "Nào các vị, bấm máy bắt đầu thôi!"

Chương 53

Tất cả mọi lập luận logic đều đã biến mất khỏi tâm trí Rachel. Cô không hề nghĩ đến tảng thiên thạch, bức ảnh lạ lùng vừa nhét vào túi áo tiến sĩ Ming, hay vụ đụng độ sinh tử trên phiến băng mờ tối. Lúc này chỉ có một vấn đề thực sự có ý nghĩa.

Sống sót.

Mặt băng nhẵn lỳ như mặt đường cao tốc đang sượt qua dưới bộ áo liền quần của cô. Không biết vì cơ thể đã đờ ra do sợ hãi hay vì được bộ quần áo này che chở, Rachel không cảm thấy đau. Cô chẳng cảm thấy gì cả.

Ấy thế mà...

Nghiêng người, thắt lưng bị móc chặt vào thắt lưng của Tolland, cô nằm mặt-đối-mặt với ông trong một tư thế thật kỳ quặc. Đâu đó trên đầu họ, chiếc khinh khí cầu căng đầy gió y như chiếc dù buộc vào đuôi xe đua công thức một. Corky ở phía sau họ, bị lôi xềnh xệch chẳng khác gì cái rơ moóc bị hỏng phanh. Những vầng sáng đánh dấu địa điểm mà họ bị tấn công đã khuất dạng hẳn phía xa.

Âm thanh tạo ra do mặt vải phủ nhựa của bộ áo liền quần Mark IX sượt trên mặt băng nghe thanh hơn, do tốc độ trượt cũng đang tăng lên nhanh chóng. Cô không biết họ đang trượt với vận tốc bao nhiêu nhưng sức gió này ít nhất cũng phải 60 dặm một giờ, và mặt băng trơn nhẫy đang sượt qua bên dưới họ với một vận tốc đang tăng lên từng giây một. Quả khinh khí cầu siêu bền Mylar không có dấu hiệu nào cho thấy sẽ bị rách hay nhũn ra.

Phải nới lỏng cái dù ra, cô thầm nghĩ. Cả nhóm đang chạy thoát khỏi hiểm họa chết người để lao thẳng vào hiểm họa khác chẳng kém cạnh gì. Chỉ còn cách mặt biển khoảng gần một dặm nữa thôi! Hình ảnh mặt biển băng giá một lần nữa gợi lại trong cô những ký ức hãi hùng.

Gió tiếp tục giật mạnh hơn, tốc độ trượt của họ cũng tăng theo. Sau lưng họ. Corky vừa kêu thét lên kinh hãi. Rachel biết với tốc độ này thì chỉ vài phút nữa là họ sẽ bị văng ra khỏi mỏm băng và rơi xuống biển.

Rõ ràng là Tolland cũng nghĩ như vậy nên ông đang vật lộn với mớ khóa móc trên thắt lưng của họ.

"Tôi không tháo được móc, dây căng quá?"

Rachel hy vọng gió sẽ dịu đi trong chốc lát để sợi dây chùng lại một chút, nhưng gió katabatic vẫn đều đều thồi không thương xót. Để giúp Tolland, Rachel vặn người rồi dúi mạnh đinh mũi giày xuống mặt băng, làm vụn băng bay tung tóe. Tốc độ trượt chỉ giảm chút xíu.

"Nào!" Vừa nhấc chân lên, Rachel vừa hét lớn.

Trong chốc lát, sợi dây néo của khinh khí cầu chùng lại đôi chút. Tolland cố hết sức tận dụng độ chùng của sợi dây để tháo những cái khóa móc trên lưng họ. Vẫn chưa được.

"Lần nữa đi!" Ông hét lên.

Lần này cả hai cùng rướn người lên và dận mạnh mũi giày xuống băng, khiến bụi băng văng lên thành hai hình cung như hai cái đuôi công.

"Nào!"

Cả hai cùng căng hết sức. Trong khi quả khinh khí cầu lại đang tăng tốc trở lại, Tolland ấn mạnh ngón tay cái vào khóa và cố tháo móc gài. Lần này thì gần được. Nhưng sợi dây vẫn phải chùng hơn nữa mới được. Norah đã tuyên bố một cách đầy tự hào rằng những cái móc cài này thuộc loại thượng hạng, chúng được gia cố thêm những rãnh xoắn trên bề mặt để giữ sợi dây thật chặt một khi vẫn còn dù chỉ chút ít sức kéo.

Chết vì những cái móc an toàn, Rachel thầm nghĩ, cô chẳng thấy tình cảnh này có gì hài hước cả.

"Lần nữa nào!" Tolland hét lớn.

Thu hết sức bình sinh và hi vọng, Rachel uốn cong lưng lên, dận mạnh cả hai mũi giày xuống băng. Cong người, Rachel cố dồn hết trọng lượng vào hai bàn chân. Tolland cũng làm theo cô cho đến khi cả hai gần như đã gập đôi người ra sau, sợi dây buộc giữa thắt lưng của họ căng lên. Tolland dận chân xuống thật mạnh trong khi Rachel tiếp tục rướn người lên hết mức. Hai cẳng chân Rachel căng ra, như bị giằng rất mạnh. Cảm tưởng như mắt cá chân sắp vỡ tung ra đến nơi.

"Cố lên..., cố lên..." Tolland vặn mạnh người, cố tháo chiếc móc gài ra trong khi tốc độ trượt giảm đi đáng kể "Gần được..."

Bộ đinh đế giày của Rachel gãy đánh rầm. Bàn đinh đế giày bằng sắt văng ra, nảy về phía sau, sượt qua người Corky. Ngay lập tức quả khinh khí cầu lại tăng tốc, kéo theo cả Tolland lẫn Rachel trong tư thế nằm nghiêng. Chiếc khóa gài tuột khỏi tay Tolland.

"Khỉ thật!"

Quả khinh khí cầu Mylar như thể đã nổi giận vì bị kéo chậm lại lúc này chồm lên, kéo mạnh ra phía biển. Rachel biết họ đang trượt đến rất gần mép phiến băng, và trước cửa tử cách mặt biển một trăm foot đó, họ còn phải đối mặt với một hiểm họa nữa. Những con mương tuyết khổng lồ nằm trên đường trượt của họ. Dù được bảo vệ bởi lớp đệm bằng gel của bộ quần áo, Rachel vẫn thấy kinh hãi khi tưởng tượng cảnh bị hất tung lên cao rồi rơi thẳng xuống mặt băng rắn chắc.

Rachel vật lộn một cách tuyệt vọng với mớ khóa gài và móc ở thắt lưng, cố thoát khỏi quả khinh khí cầu. Đúng lúc ấy, cô chợt nghe thấy tiếng lách cách đều đều trên băng - tiếng một thứ kim loại nhẹ đang cọ mạnh vào mặt băng cứng.

Cái rìu.

Trong cơn hoảng loạn, Rachel đã quên hẳn chiếc rìu móc vào sợi dây thun được gài vào thắt lưng mình. Thứ dụng cụ bằng nhôm rất nhẹ ấy lúc này đang nẩy qua nẩy lại quanh chân Rachel. Cô ngước lên nhìn sợi dây néo của quả khinh khí cầu. Dây dù ni lông dầy và chắc. Nhổm người lên, cô quờ quạng với lấy chiếc rìu. Túm được cái cán, Rachel kéo rìu lên. Vẫn ở tư thế nằm nghiêng, cô giơ tay lên thật cao, hướng cạnh sắc răng cưa của nó về phía sợi dây dù. Một cách vụng về, cô bắt đầu cứa sợi dây.

"Đúng đấy!" Tolland hét lớn, tay cũng quờ với lấy chiếc rìu của mình...

Nghiêng người, Rachel hết sức vươn vai lên cao, cứa sợi dây. Sợi dây dù được bện rất chặt, từng lớp ni lông mỏng bị cứa đứt một cách chậm chạp. Tolland cầm chắc cái rìu của mình, vặn người, giơ tay lên cao quá đầu, gắng sức cứa cắt sợi dây ở đúng vị trí ấy nhưng ngược từ dưới lên. Hai lưỡi rìu hình quả chuối được kéo qua kéo lại như hai lưỡi cưa của những người thợ gỗ. Sợi dây dù bị cứa đứt dần từ cả hai phía.

Sắp được rồi, Rachel thầm nghĩ. Sợi dây sắp đứt rồi!

Đột nhiên quả khinh khí cầu Mylar màu bạc trên đầu họ nẩy dựng lên như thế nó vừa đâm vào một sườn dốc dựng đứng nào đó Rachel kinh hãi nhận ra rằng đó chính là do đặc điểm bề mặt của phiến băng.

Họ đã đến đó.

Những cái mương lớn.

Bức tường trắng hiện ra trước mắt, và chỉ sau một giây họ đã ở trên đỉnh. Mạng sườn bị đập mạnh vào dốc băng dựng đứng, Rachel hụt hơi, chiếc rìu nhỏ văng mất. Như vận động viên trượt sóng vừa mất thăng bằng, ngã lộn nhào, bị sóng lớn kéo đi, Rachel thấy mình bị kéo ngược lên đỉnh ụ băng lớn rồi bị tung thẳng lên cao. Cô và Tolland bất thần bị phóng mạnh lên không trung với tốc độ chóng mặt. Con mương lớn chạy giữa hai ụ tuyết dài lấp loáng tít bên dưới, sợi dây néo vẫn giữ chặt lấy họ nhấc bổng họ lên, lôi cả hai người ngang qua con mương thứ nhất. Trong một tích tắc, Rachel thoáng thấy quang cảnh trước mặt. Hai ụ tuyết nữa - một dải băng phẳng hẹp - rồi đến vực sâu, bên dưới là biển.

Như thể muốn giúp Rachel bộc lộ cảm giác kinh sợ tột độ trong lòng, Corky Marlinson thét lên thất thanh. Sau lưng họ, ông ta vừa bị hất lên từ ụ tuyết thứ nhất. Lúc này, cả ba đều lơ lửng trên không trung, trong khi quả khinh khí cầu vẫn tiếp tục rướn lên cao hơn nữa như một mãnh thú đang cố vùng vẫy để rứt tung những xiềng xích quanh chân nó.

Đột nhiên, nghe như tiếng súng nổ giữa đêm đen, có một tiếng phựt trên đầu họ. Sợi dây dù bị đứt, đầu dây lởm chởm quật vào mặt Rachel. Ngay tức thì, cả ba bắt đầu rơi xuống. Đâu đó trên đầu họ, quả khinh khí cầu Mylar căng đầy gió lao thẳng ra biển khơi.

Bị buộc vào những cái đai và móc sắt nhằng nhịt, Rachel và Tolland ngã xoài trên mặt đất. Khi ụ tuyết lớn thứ hai hiện ra trước mặt, Rachel cố căng người bám vào mặt băng. Trượt qua đỉnh, họ bị ném xuống mặt dốc bên kia, may mắn được che chở bởi lớp đệm dầy bơm giữa hai lớp vải của bộ quần áo và bởi độ thoải của sườn dốc. Cảnh vật xung quanh chốc lát bị thay bằng một mớ hỗn độn những chân, tay và băng tuyet, rồi Rachel thấy mình đang lao như tên bắn về ụ tuyết giữa. Theo bản năng, cô giang rộng cả hai chân hai tay để giảm tốc độ trước khi lên đến ụ tuyết thứ hai. Tốc độ có giảm đi, nhưng không đáng kể, và chỉ vài giây sau họ đã bắt đầu trượt lên dốc tuyết thứ hai. Lên đến đỉnh, có một tích tắc không trọng lượng trước khi bắt đầu trượt xuống. Tiếp đó, cô kinh hãi nhận thấy họ đang trượt nhanh xuống con dốc thứ hai và lao xuống dải băng phẳng hẹp... Những mét cuối cùng của phiến băng Milne.

Trên đà trượt đến mép băng dựng đứng, Rachel cảm nhận được sức nặng của Corky đang bị kéo lệt sệt sau họ, và biết rằng tốc độ đang giảm dần. Nhưng cô biết quá muộn mất rồi. Bờ mép của sông băng đang lao thẳng về phía họ, Rachel kêu thét lên.

Và rồi điều đó đã xảy đến.

Mép phiến băng sượt qua dưới mạng sườn của họ. Sự kiện cuối cùng cô còn nhớ được là họ đang rơi tự do.

Chương 54

Khu căn hộ Westbrooke tọa lạc ở số 2201 phố Đông, bắc Washington. Đây là một trong số hiếm hoi những địa chỉ không ai có thể nhầm được ở thủ đô. Gabrielle hối hả sải bước qua cánh cửa quay mạ kim loại và bước vào hành lang lát đá cẩm thạch có tiếng nước chảy róc rách.

Người gác cổng ngồi bên bàn có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy cô. "Cô Ashe đấy à? Tôi tưởng tối nay cô không tới".

"Tôi bị muộn một chút". Gabrielle nhanh chóng ký tên vào sổ ra vào. Đồng hồ treo tường chỉ đúng 6 giờ 22 phút.

Người gác cổng gãi đầu: "Ngài Thượng nghị sĩ đưa cho tôi một danh sách, nhưng không thấy tên cô".

"Những người được việc nhất lại thường bị bỏ quên như thế đấy". Cô vội mỉm cười nhìn anh ta và sải bước đến thang máy.

Lúc này, người gác cổng có vẻ rất băn khoăn. "Để tôi gọi lên trên đó".

"Cảm ơn anh". Gabrielle nói, chân bước vào buồng thang máy và bấm nút. Hôm nay ngài Thượng nghị sĩ ngắt điện thoại rồi còn đâu.

Lên đến tầng chín, Gabrielle ra khỏi thang máy và bước dọc hành lang lát đá sang trọng. Cuối hành lang, bên cánh cửa căn hộ của Sexton, cô trông thấy anh chàng vệ sĩ cao lớn đang ngồi trong sảnh. Có vẻ đang buồn chán. Gabrielle ngạc nhiên thấy anh chàng này hôm nay không được nghỉ, và anh ta còn ngạc nhiên hơn nhiều khi nhìn thấy cô. Thấy Gabrielle tiến lại, anh ta đứng phắt dậy.

"Tôi biết rồi". Chưa đến nơi cô đã lên tiếng. "Tối hôm nay được dành cho việc riêng. Thượng nghị sĩ không muốn bị ai quấy rầy cả".

Anh chàng vệ sĩ gật đầu. "Ông ấy đã lệnh cho tôi là không cho phép ai..."

"Trường hợp này khẩn cấp lắm".

Anh ta đứng chắn cửa ra vào. "Ông ấy đang có cuộc họp riêng".

"Thế à?" Gabrielle rút phong bì màu đỏ kẹp bên mạng sườn ra. "Tôi vừa từ phòng bầu dục về. Và phải chuyển những thông tin này đến tận tay Thượng nghị sĩ. Bạn cũ thân đến mấy thì cũng có thể nói chuyện với nhau mà không có người ta vài phút. Nào, cho tôi vào".

Anh chàng vệ sĩ tỏ vẻ khuất phục khi nhìn thấy biểu tượng của Nhà Trắng in trên phong bì...

Đừng để tôi phải mở phong bì ra đấy, Gabrielle thầm nghĩ.

"Để phong bì đó lại, tôi sẽ chuyển vào cho ông ấy".

"Không thể được. Tôi được chỉ thị của Nhà Trắng là phải trực tiếp giao tận tay ông ấy. Nếu anh nhất định không chịu thì để ngày mai cả tôi và anh sẽ phải đi tìm việc ở chỗ khác đấy. Anh có hiểu không, hả?"

Anh chàng vệ sĩ có vẻ đang cân nhắc tình hình một cách khó nhọc, và Gabrielle cảm giác hôm nay Thượng nghị sĩ chắc đã tỏ ra dứt khoát hơn hẳn mọi ngày về chuyện không tiếp khách. Cô quyết định tung ngón đòn cuối cùng. Chìa phong bì ra ngay trước mũi anh ta, cô hạ giọng gần như thì thào những từ mà cánh vệ sĩ ở thủ đô ghét nhất.

"Anh không hiểu tình hình đâu".

Vệ sĩ của các chính trị gia không bao giờ nắm bắt được tình hình, và họ ghét điều đó. Họ là những tên lính đánh thuê, đứng trong bóng tối, không bao giờ biết chắc nên nghiêm túc thi hành mệnh lệnh hay đánh liều mất việc khi phớt lờ những vấn đề sờ sờ trước mắt.

Người vệ sĩ nuốt khan, đưa mắt nhìn chiếc phong bì lần nữa. "Thôi được nhưng tôi sẽ báo với ngài Thượng nghị sĩ là cô nằng nặc đòi vào".

Anh ta mở khóa, Gabrielle vào ngay đề phòng anh chàng đổi ý. Cô bước vào trong căn hộ, khẽ khàng khép cửa rồi khóa lại.

Giờ đây, đứng trong sảnh, Gabrielle có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng người nói trong phòng của Thượng nghị sĩ - toàn giọng đàn ông. Buổi tối dành cho việc riêng hôm nay rõ ràng không giống với những buổi tối khác được đánh dấu tương tự trong lịch làm việc của ngài nghị sĩ.

Chậm rãi tiến về phía cuối sảnh, Gabrielle đi ngang qua một ngăn tủ không có nắp và trông thấy khoảng năm sáu chiếc áo khoác ngoài của đàn ông treo bên trong - toàn loại vải len và tuýt. Trên sàn nhà có mấy cái ca táp. Rõ ràng là hôm nay ông ấy đang làm việc. Gabrielle suýt nữa đã bước thẳng qua nếu không bị một chiếc ca táp thu hút sự chú ý. Tấm biển đề tên gắn trên đó in nổi bật lô gô của một công ty: quả tên lửa màu đỏ tươi.

Cô dừng bước, quỳ xuống để đọc cho rõ:

TẬP ĐOÀN VŨ TRỤ MỸ.

Bối rối, cô xem những chiếc cặp khác.

CÔNG TY VŨ TRỤ BEAL, CÔNG TY VĨ MÔ, CÔNG TY TÊN LỬA ROTARY, CÔNG TY VŨ TRỤ CHÂU ÂU KISTLER.

Chất giọng thế thé của Marjorie Tench vẳng lại trong tâm trí Gabrielle. Cô có biết là ông Thượng nghị sĩ đang nhận những khoản hối lộ bất hợp pháp của các công ty vũ trụ tư nhân không?

Mạch Gabrielle đập liên hồi khi cô nhìn xuống cuối hành lang mờ tối dẫn vào phòng riêng của Thượng nghị sĩ. Trí não mách bảo cô nên lên tiếng để mọi người biết rằng cô đã ở đây, nhưng không hiểu sao đôi chân cứ lặng lẽ nhích lên từng bước một. Cô đến bên cánh cửa tối sẫm và im lìm đứng trong bóng tối, lắng nghe tiếng nói chuyện từ bên trong vọng ra.

Chương 55

Trong khi Delta-Ba còn đang dừng lại để nhặt xác của Norah Mangor và gom chiếc xe trượt, hai người lính còn lại liền tăng tốc trượt xuôi dốc băng nhằm bám theo con mồi.

Chân họ đi giày trượt hiệu Elektro Tread. Được chế tạo theo mô hình thanh trượt có động cơ Fast Trax, đây là loại giày trượt đặc dụng cho vùng băng tuyết có gắn xích loại nhỏ - loại xích của những chiếc xe chạy vùng băng tuyết vẫn được lắp bao quanh bánh xe. Tốc độ được điều chỉnh bằng cách ép ngón tay trỏ và tay cái vào nhau, tác động lên hai đĩa tốc độ được gắn trong găng tay bên phải. Một loại pin bằng gel lỏng được đúc trong giày, bao quanh chân, vừa làm tăng độ cách ly lại vừa cho phép người sử dụng có thể trượt cách rất êm. Đặc biệt là lượng điện sản ra bởi trọng lực của chân và bởi tốc độ quay của chiếc xích khi người trượt di chuyển xuôi dốc sẽ được tích lại trong pin để dùng cho lần leo dốc tiếp theo.

Khom người, giữ thẳng hướng với gió katabatic, Delta-Một vừa di chuyển vừa quan sát địa thế sông băng. Cặp kính nhìn xuyên bóng tối mà anh đang đeo khác rất xa loại kính dùng ban đêm Patriot của cánh lính thủy quân lục chiến. Anh đang quan sát địa vật bằng chiếc kính không gọng có những thấu kính sáu phần tử cỡ 40 x 90 mm, thấu kính phóng đại ba phần tử Doubler. Cảnh vật bên ngoài hiện lên với tông màu lam đục lạnh lẽo thay vì màu xanh lá cây như thường lệ - tông màu này đã được chọn lựa kỹ càng cho những địa hình có độ phản chiếu ánh sáng cao như vùng Bắc Cực này.

Đến gần ụ tuyết thứ nhất, kính xuyên đêm của Delta-Một cho thấy hình ảnh vài vệt xước mới nguyên trên mặt băng chạy dọc lên đỉnh ụ tuyết như những mũi tên bằng nê ông trong bóng đêm. Rõ ràng là ba kẻ trốn chạy kia đã không nghĩ đến chuyện tháo bỏ chiếc dù tạm thời của họ, hoặc là đã không thể làm được việc đó. Nếu vượt qua ụ tuyết thứ ba mà họ vẫn chưa tháo được dù ra thì chắc chắn lúc này họ đã ở đâu đó ngoài đại dương rồi. Delta-Một biết những bộ quần áo bảo hộ họ mặc trên người có thể kéo dài cuộc sống của họ trong môi trường nước, nhưng dòng hải lưu chảy xiết sẽ cuốn họ ra ngoài đại dương. Chết đuối là không thể tránh khỏi.

Dù rất tự tin, Delta-Một đã được huấn luyện thói quen không dựa vào suy đoán của mình. Anh phải nhìn thấy xác chết. Cúi thấp người xuống, anh ấn chặt ngón trỏ và ngón cái phải vào nhau, trượt lên con dốc đầu tiên.

Michael Tolland nằm im không nhúc nhích, mình mẩy đau ê ẩm. Dù bị quật lên quật xuống, ông tin là mình chưa bị gãy cái xương nào. Dĩ nhiên là nhờ có bộ quần áo Mark IX này ông mới tránh được những vết thương chí tử. Mở to mắt, phải mất một lúc ông mới tập trung được suy nghĩ của mình. Mọi thứ ở chỗ này có vẻ êm đềm hơn... yên tĩnh hơn. Gió vẫn hú, nhưng mãnh lực thì kém hơn nhiều.

Chẳng phải cả nhóm đã lao xuống vực rồi hay sao?

Cố thu hết tinh lực, ông nhận thấy mình đang nằm trên mặt băng, mình vắt ngang qua người Rachel, gần như tạo thành một góc vuông, những chiếc khóa móc ở thắt lưng của cả hai người đều bị vặn xoắn. Cảm nhận được hơi thở của Rachel ngay bên dưới, nhưng ông không thể nhìn thấy mặt cô. Ông lăn người sang một bên, nhưng các cơ bắp không chịu nhúc nhích.

"Rachel này..." Ông không biết chắc mình có nói được thành tiếng hay không nữa.

Tolland nhớ lại những giây phút cuối cùng trong cuộc trượt băng chí tử của nhóm - quả khinh khí cầu kéo họ lên dốc, rồi dây néo đứt, cả ba rơi thẳng xuống con dốc thoải bên kia ụ tuyết, rồi trượt qua ụ tuyết cuối cùng, trượt tiếp đến mép sông băng - rồi không còn thấy mép băng đâu nữa. Rachel và Tolland rơi tự do, nhưng cú ngã của họ ngắn lạ thường. Thay vì rơi thẳng xuống biển, họ chỉ rơi xuống khoảng ba mét và ngã xuống một phiến băng thấp hơn, rồi do có trọng lượng của Corky làm lực cản nên mới dừng lại được.

Lúc này, Tolland cố ngóc cổ lên để nhìn mặt biển. Cách đó không xa là một vách băng dựng đứng - điểm tận cùng của phiến băng, ông nghe thấy tiếng ào ạt của biển từ dưới vọng lên. Quay lại sau lưng, ông căng mắt nhìn trong bóng đêm, cố thu nhận vào đồng tử hình ảnh cửa dòng sông băng. Mắt ông bắt gặp hình ảnh một bức tường băng dựng đứng cách họ khoảng sáu, bảy mét. Đến lúc này thì Tolland nhận thức được những gì vừa xảy ra. Họ vừa trượt từ phiến băng chính xuống một mặt băng thấp hơn. Tảng băng này rất phẳng, to bằng sân chơi hockey, đã sụp một phần - và có thể trượt xuống biển khơi bất cứ lúc nào.

Sự ra đời của những núi băng trôi, Tolland thầm nghĩ và quan sát mặt băng chênh vênh trước mắt. Đó là một phiến băng lớn và bằng phẳng hình tứ giác gắn vào sông băng như cái ban công khổng lồ, ba bề giáp với biển. Sau lưng họ, một cạnh của tảng băng gắn với sông băng, và Tolland thấy sự gắn kết này không hề bền vững chút nào. Ranh giới giữa tảng băng này với phiến băng Milne là một vết nứt rộng hoác với bề ngang khoảng hơn một mét. Trọng lực sắp sửa chiến thắng trong cuộc chơi này.

Nhưng vết nứt kinh hãi đó vẫn chẳng là gì so với cảm giác hãi hùng khi thấy thân thể của Corky Marlinson bất động nằm co quắp trên băng. Corky nằm cách ông mười mét, vẫn được nối với ông bằng sợi dây như ban nãy.

Tolland gượng đứng dậy, nhưng người ông vẫn còn bị buộc chặt vào Rachel. Xoay người, ông gắng sức tháo những chiếc móc gài đang buộc chặt thắt lưng của họ vào nhau.

Rachel nhỏm người, cố ngồi dậy, trông rất yếu, giọng ngơ ngác: "Chúng ta không rơi xuống à?"

"Chúng ta ngã xuống một khối băng thấp hơn. - Tolland nói, cuối cùng thì cũng tháo được những cái móc gài ra. - Phải xem xem Corky thế nào".

Nhức nhối khắp mình mẩy, Tolland cố đứng dậy, nhưng đôi chân quá yếu ớt ông túm sợi dây và ra sức kéo. Corky bắt đầu trượt về phía họ. Kéo được khoảng mươi nhịp thì Corky đã nằm trên băng, cách họ khoảng một mét.

Trông Corky Marlinson thật thảm hại. Kính bảo hộ, đã văng mất, má rách toạc, mũi bê bết máu. Tolland sợ rằng nhà cổ sinh vật này đã chết, nhưng ngay lập tức ông thấy yên dạ khi ông ta lăn người và trợn ừng mắt giận dữ.

"Lạy Chúa tôi". Corky lắp bắp. "Thế này là thế nào?"

Tolland thấy nhẹ cả người.

Lúc này Rachel đã ngồi được dậy, mặt nhăn nhó vì đau. Cô nhìn quanh. "Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này. Trông khối băng này như sắp rơi xuống đến nơi..."

Tolland hoàn toàn đồng ý. Nhưng vấn để là bằng cách nào.

Họ chẳng có thời gian mà lựa chọn giải pháp: Trên đầu họ, trên phiến băng cao, nghe có tiếng vo vo. Tolland ngẩng phắt lên, nhìn thấy hai bóng áo trắng nhẹ nhàng trượt đến sát mép băng rồi cùng dừng lại. Họ đứng đó một lúc, nhìn ba con mồi thảm bại bên dưới với ánh mắt của những đấu thủ cờ vua hau háu nhìn đối phương trước khi tung đòn tối hậu.

Delta-Một ngạc nhiên thấy ba kẻ trốn chạy kia vẫn còn sống. Tuy nhiên, anh biết rằng đây chỉ là trong điều kiện tạm thời. Họ đã ngã xuống một khối băng sắp sửa tách ra rồi rơi xuống biển. Đội của anh có thể khống chế và giết những người này theo cùng một kiểu với người đàn bà kia, nhưng một giải pháp sạch sẽ hơn nhiều vừa nảy ra trong óc anh. Bằng cách đó thì xác của họ sẽ không bao giờ được tìm thấy.

Quan sát khối băng thấp đó, Delta-Một nhận thấy một vết nứt rộng đang há ra như một cái nêm lớn được chêm vào giữa phiến băng chính và khối băng thấp. Tảng băng lớn mà ba kẻ kia vừa rơi xuống trông rất nguy hiểm... Nó có thể rơi xuống đại dương bất kỳ lúc nào.

Thế thì sao không rơi luôn lúc này...

Trên phiến băng vĩnh cửu Milne, chốc chốc lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc xé tan màn đêm thanh vắng - tiếng những khối băng lớn nứt tách ra khỏi sông băng và rơi xuống biển. Ai mà để ý đến những tiếng nổ này cơ chứ?

Cảm thấy lượng adrelanine trong máu lại tăng mạnh như những lần chuẩn bị ra tay hạ sát con mồi, Delta-Một thò tay vào túi dụng cụ và lấy ra một vật nặng hình quả chanh. Được chế tạo riêng cho các đội đặc nhiệm, vật này có tên là "Vụ nổ sáng lòa" - loại lựu đạn gây chấn động mạnh "không sát thương" nhằm tạm thời đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một luồng sáng chói lòa đi kèm với những sóng chấn động đinh tai nhức óc. Tuy nhiên, đêm nay, Delta-Một biết chắc rằng "Vụ nổ chói lòa" sẽ giết chết đối phương.

Anh đứng sát mép vực và băn khoăn không hiểu vết nứt kia sâu đến đâu. Bảy mét ư? Điều đó không quan trọng. Vết nứt nông hay sâu thì kế hoạch của anh vẫn cứ thành công.

Với sự điềm tĩnh có được sau vô số lần ra tay hạ sát đối tượng, Delta-Một chỉnh kim đồng hồ hẹn giờ đến mốc mười giây trên quả lựu đạn kéo chốt, rồi ném vào trong khe nứt. Quả lựu đạn rơi vào khe nứt tối sẫm rồi biến mất.

Sau đó, Delta-Một và đồng đội của anh lui về tận ụ tuyết và đợi. Sắp có một cảnh rất đáng xem. Dù tâm trí rối bời, Rachel Sexton biết rất rõ hai kẻ kia vừa ném vật gì xuống khe nứt. Không biết Tolland cũng biết vật đó hay chỉ nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của cô mà ông tái mặt, hoảng hốt nhìn tảng băng lớn dưới chân họ, rõ ràng đã nhận ra tình thế tuyệt vọng của cả nhóm.

Giống như ánh chớp lóe lên từ giữa đám mây trong đêm giông bão, một luồng sáng chới lóe lên từ sâu trong lớp băng dưới chân Rachel. Những tia sáng trắng kỳ lạ tỏa ra tứ phía. Trong phạm vi một trăm mét quanh họ, con sông băng chợt sáng loà. Tiếp đến là cơn chấn động. Không phải thứ tiếng nổ ì ầm của động đất mà là luồng sức mạnh khiến người ta váng óc, buốt ruột. Đợt sóng chấn động từ sâu trong tảng băng ấy lan truyền khắp thân thể Rachel.

Ngay lập tức, như thể có ai vừa chêm một cái nêm lớn vào giữa sơng băng và tảng băng lớn nơi họ đang ngồi, những tiếng nứt gãy hãi hùng vang lên. Rachel và Tolland nhìn nhau khiếp sợ. Corky kêu thét lên.

Đáy khối băng vỡ toác ra.

Trong một tích tắc, phiến băng nặng ngàn cân rơi xuống, Rachel thấy mình trong trạng thái không trọng lượng. Rồi sau đó, cả ba người rơi tõm xuống mặt biển lạnh giá cùng với khối băng.

Chương 56

Băng cọ vào băng nghe lộng óc, khối băng khổng lồ từ phiến băng Milne đâm thẳng xuống biển, làm toé lên những cột nước lớn. Đập mạnh vào mặt nước, khối băng giảm tốc độ, cơ thể đang trong trạng thái không trọng lượng của Rachel bị đập mạnh vào mặt băng. Tolland và Corky cũng rơi xuống ngay gần đó.

Theo đà, khối băng chìm sâu xuống nước. Rachel thấy trong mắt mình mặt biển ngầu bọt dâng ngược lên, giống như người ưa mạo hiểm buộc dây vào chân để nhảy từ trên cầu xuống, nhưng sợi dây lại quá dài. Dâng lên..., dâng lên nữa... và thế là... Cơn ác mộng thuở nhỏ bỗng chốc hiện ra. Băng tuyết..., nước..., bóng tối.

Kinh hoàng tột độ.

Mặt trên của khối băng bị nhấn chìm xuống dưới mực nước, và những luồng nước lạnh giá của Bắc Băng Dương chảy ùa vào từ mọi phía. Nước biển táp mạnh vào cơ thể Rachel, rồi bủa vây cô tứ phía. Vùng da mặt không được bộ quần áo bảo hộ che chở rát như bị bỏng. Khối băng tiếp tục chìm xuống thêm nữa, Rachel cố ngoi lên mặt nước, lớp đệm gel lúc này như một chiếc phao.

Nước mặn xộc vào mồm, nhưng giờ cô đã nổi được trên mặt nước.

Hai người kia cũng đang lóp ngóp quanh cô, sợi dây vẫn buộc họ vào nhau. Ngay khi Rachel vừa nổi hẳn lên trên mặt nước thì Tolland đã hét lớn.

"Nó lại nổi lên đấy!"

Ông chưa dứt lời, Rachel đã cảm thấy những luồng nước rất mạnh đẩy từ dưới lên. Như đầu máy xe lửa khổng lồ giảm tốc độ rồi đổi hướng, khối băng lớn đã giảm hẳn tốc độ trong lòng nước, lúc này đang nổi dần lên ngay dưới chân họ. Cách mặt biển vài mét, tiếng ì oạp, ầm ì vọng lên. Khối băng khổng lồ đang trồi lên.

Nó trồi lên rất nhanh, như lao lên từ bóng đêm. Rachel bị nâng bổng lên. Nước xáo động mạnh, mặt trên của khối băng đã chạm người cô. Rachel chới với, cố hết sức giữ thăng bằng, khối băng tròng trành trồi dần lên, đẩy Rachel lên, cùng cả ngàn ga-lông nước biển. Vừa trồi lên, khối băng vừa lắc lư, tròng trành, như thể đang tìm xem tâm trọng lực của nó ở điểm nào. Rachel loạng choạng đứng trên mặt băng rộng mênh mông, nước cao đến ngang bụng. Khi nước bắt đầu rút khỏi mặt băng, dòng chảy xiết cuốn phăng cô ra tận ngoài rìa. Trượt trong tư thế nằm sấp, cô thấy mép tảng băng đang đến tiến sát vào người.

Cố lên! Giọng nói của mẹ cô vang lên y như thuở nào, lúc cô vẫn còn bét đang thì thụp trong cái hồ đóng băng. Cố lên, đừng để bị chìm!

Bị giật mạnh ngang thắt lưng, chút không khí cuối cùng còn lại trong hai lá phổi của Rachel cạn kiệt. Còn cách mép phiến băng vài mét, cô quẫy mạnh người và dừng lại được. Cách đó khoảng mười mét, Corky cũng vừa dừng lại như cô, thân thể nát nhừ. Mỗi người bị cuốn khỏi mặt băng theo một hướng khác nhau, và nhờ có lực đà của ông mà cô dừng lại được. Nước rút đi rất nhanh, và một bóng đen khác xuất hiện ngay gần Corky. Bò lồm cồm, tay bám chặt, sợi dây buộc vào thắt lưng Corky, miệng nôn thốc ra toàn nước biển.

Michael Tolland.

Luồng nước cuối cùng đã thoát xuống khỏi mặt phiến băng, Rachel kinh hãi nằm bất động, nghe những âm thanh của biển. Sau đó cảm thấy băng giá buốt đến tận cổ, cô nhổm người lên. Tảng băng khổng lồ vẫn đang lắc qua lắc lại như viên nước đá khổng lồ trong cốc. Đau đớn, cuồng loạn, cô bò về phía hai người kia.

Trên cao, trên đỉnh phiến băng, Delta-Một dùng kính nhìn xuyên đêm để quan sát nước biển cuộn xoáy quanh tảng băng trôi mới nhất của Bắc Băng Dương. Không nhìn thấy người nào trong nước, nhưng anh không hề ngạc nhiên. Nước biển tối sẫm. Còn các nạn nhân của anh thì mặc quần áo và đội mũ màu đen.

Căng mắt, anh cố nhìn rõ khối băng lớn đang nổi lềnh bềnh. Rất nhanh, nó đang trôi ra xa theo luồng hải lưu thềm lục địa.

Đã định chuyển hướng quan sát xuống mặt biển, anh chợt trông thấy ba đốm màu đen trên mặt băng. Xác của họ đó sao? Delta-Một căng mắt nhìn.

"Cậu có thấy gì không?" Delta-Hai hỏi.

Delta-Một không nói gì, tay điều chỉnh kính phóng đại. Trong ánh sáng mờ ảo hắt lên từ mặt băng, anh kinh ngạc trông thấy ba người nằm bất động. Không thể biết họ còn sống hay đã chết. Và cũng không cần phải biết. Nếu còn sống thì vài giờ nữa họ sẽ chết, dù mặc trên người bộ quần áo vi khí hậu kia; cả ba đều bị ướt, trời lại sắp nổi giông bão, và họ đang trôi dạt ra vùng biển đáng sợ nhất trên trái đất. Không một ai có thể tìm thấy xác của họ.

"Chỉ có vài bóng đen thôi". Delta-Một quay người đáp. "Quay về căn cứ, nào!"

Chương 57

Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton đặt ly rượu Courvoisier trên bệ lò sưởi trong căn hộ của ông tại khu chung cư Westbrooke, vừa cho than vào lò vừa trầm ngâm suy nghĩ. Sáu người đàn ông cùng ở trong phòng với ông đều đang im lặng, chờ đợi Những câu chuyện phiếm đều đã kết thúc, giờ là lúc Thượng nghị sĩ phải tung ra khẩu hiệu quảng cáo cho bản thân mình. Họ biết thế. Ông cũng biết thế.

Làm chính trị cũng giống như đi chào hàng.

Cần phải gây dựng lòng tin. Cho họ thấy là mình hiểu vấn đề của họ. "Chắc các vị cũng biết", ông quay về phía họ và nói, "mấy tháng nay tôi đã gặp rất nhiều người trong tình cảnh giống như các vị". Ông mỉm cười, ngồi xuống cùng với họ. "Các vị là những người duy nhất mà tôi mời đến nhà riêng. Các vị đều là những người xuất chúng, vì thế tôi lấy làm vinh hạnh được làm quen".

Sexton khoanh tay trước ngực, đưa mắt nhìn khắp phòng, nhìn thẳng vào mắt từng vị khách một. Sau đó, ông tập trung vào đối tượng đầu tiên - người đàn ông dáng bệ vệ đội mũ cao bồi.

"Công ty Vũ trụ Houston", ông nói "tôi rất mừng vì ông đã đến".

Ông già Texas đó càu nhàu: "Tôi ghét cái thành phố này".

"Tôi không trách ông về điều đó. Thành phố này đã đối xử với ông một cách bất công".

Ông già đội mũ đó chằm chằm nhìn Sexton nhưng không nói gì.

"Cách đây 12 năm", Sexton bắt đầu nói, "Ông đã đưa ra một đề nghị đối với Chính phủ. Ông muốn xây cho họ một sân bay vũ trụ với mức giá chỉ năm triệu đô la".

"Đúng thế. Tôi vẫn còn giữ bản kế hoạch chi tiết đây".

"Ấy thế nhưng NASA đã thuyết phục được Chính phủ rằng sân sân bay vũ trụ của Hoa Kỳ phải là một dự án của NASA".

"Đúng thế. Họ bắt tay xây dựng sân bay đó cách đây gần chục năm".

"Một thập niên. Và không những sân bay vũ trụ đó chưa thể đi vào hoạt động toàn bộ, mà nó đã ngốn mất số tiền nhiều gấp 20 lần mức giá ông đưa ra. Là người dân đóng thuế, tôi phát sợ".

Tiếng xì xào tán thưởng nổi lên trong phòng. Sexton lần lượt nhìn thẳng vào mắt từng vị khách.

"Tôi cũng biết rằng", ngài Thượng nghị sĩ nói tiếp, "một số công ty của các vị đây đã đưa ra giá năm mươi triệu đô la cho một lần phóng vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo".

Một số người gật đầu.

"Ấy thế nhưng NASA đã nẫng tay trên của quý vị bằng cách chào mức giá có ba mươi tám triệu đô một lần phóng..., mặc dù giá thật của mỗi lần phóng lên tới 150 triệu!"

"Bằng cách đó họ đã ngăn cản chúng tôi tiến vào vũ trụ". Một người lên tiếng. "Các công ty tư nhân không thể cạnh tranh nổi khi họ chấp nhận mức giá lỗ tới bốn trăm phần trăm, nhưng vẫn có thể tiếp tục kinh doanh".

"Các vị cũng không cần phải cạnh tranh theo kiểu đó".

Tất cả đều gật gù.

Lúc này Sexton quay sang nhà kinh doanh dáng khắc khổ bên cạnh mình, ông đã đọc tài liệu về ông ta một cách rất say sưa.

Giống đa số những doanh nghiệp đang tài trợ cho Sexton, nhà quân sự này vì ngán ngẩm mức lương ba cọc ba đồng và tệ quan liêu của Chính phủ nên đã từ bỏ sự nghiệp quân sự để kinh doanh trong lĩnh vực vũ trụ.

"Công ty Kistler", Sexton lắc đầu buồn bã và nói "công ty của các vị đã thiết kế và chế tạo những tên lửa có khả năng vận chuyến hàng hóa lên vũ trụ với giá chỉ hai ngàn đô la một pound, so với mức giá mười ngàn đô la của NASA". Ông ngừng một lát để lời nói có thêm trọng lượng. "Ấy thế nhưng vẫn không tìm được khách hàng nào cả".

"Làm sao mà tôi có nổi khách hàng". Ông ta đáp. "Tuần trước NASA vừa ăn chặn của tôi bằng cách chào giá với Motorola có tám trăm mười hai đô la để phóng một vệ tinh viễn thông. Trên thực tế Chính phủ đã làm vụ đó với mức lỗ lên tới chín trăm phần trăm!"

Sexton gật đầu. Những người đóng thuế đang phải nai lưng ra mà bao cấp cho một tổ chức có hiệu suất thấp bằng một phần mười các đối thủ cạnh tranh của nó. "Thật đau lòng". Ông thấp giọng nói "rằng NASA đang cố sức kìm hãm sự cạnh tranh trong lĩnh vực vũ trụ. Họ hất cảng các công ty tư nhân ra bằng cách cung cấp dịch vụ với mức giá thấp hơn giá thị trường".

"Đó chính là trò Wal-Mart trong vũ trụ, chứ còn gì nữa". Người đàn ông Texas nói.

Sự giống nhau đáng ghét, Sextơn thầm nghĩ. Mình phải nhớ lấy điều này. Wal-Mart từng khét tiếng về chiến thuật thâm nhập thị trường mới bằng cách bán dưới giá, và tiêu diệt hết các doanh nghiệp địa phương.

"Tôi thấy quá mệt mỏi", người đàn ông Texas lại nói tiếp "vì cứ phải trả hết tỉ này đến tỉ khác tiền thuế để Chính phủ có đủ tiền nẫng tay trên các khách hàng của tôi!"

"Tôi biết", Sexton nói "và rất thông cảm với ông".

"Chính vì không được nhận tài trợ nên Rotary Rocket đang chết dần". Người đàn ông ăn mặc rất chỉnh tề, nói. "Luật cấm tài trợ chẳng qua là bộ luật giết người!"

"Tôi hoàn toàn tán thành". Sexton đã từng vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng NASA cũng đã bảo vệ sự độc quyền của họ bằng cách vận động Chính phủ thông qua bộ luật cấm dùng các phương tiện vận tải vũ trụ cho mục đích quảng cáo. Bộ luật đó cấm các công ty tư nhân nhận tiền từ các nhà tài trợ cũng như các hợp đồng quảng cáo logo - giống như cách các tay đua xe chuyên nghiệp vẫn thường làm - các phương tiện vận tải trên vũ trụ chỉ được phép có chữ U.S.A, và tên công ty chế tạo. Ở một quốc gia mà doanh thu từ quảng cáo lên tới 185 tỉ đô la mỗi năm, các công ty vũ trụ tư nhân không thu nổi một xu từ lĩnh vực này.

"Đó là hành động cướp bóc!" Một người lên tiếng. "Tôi dự định duy trì hoạt động của công ty cho đến tháng năm, khi chúng tôi có thể phóng thử mô hình tên lửa du lịch đầu tiên của cả nước. Và hy vọng nhận được rất nhiều tiền từ quảng cáo. Nike đã đề nghị tài trợ cho chứng tôi những bảy triệu đô la để hình chiếc giày của họ kèm theo khẩu hiệu "Hãy xốc tới!" được in trên vỏ quả tên lửa đó. Pepsi đưa ra số tiền nhiều gấp đôi như thế cho dòng chữ "Pepsi: sự lựa chọn của tương lai". Nhưng theo luật Liên bang, nếu in hình quảng cáo thì quả tên lửa đó bị cấm phóng lên!"

"Đúng thế!" Thượng nghị sĩ Sexton nói. "Và nếu đắc cử thì tôi sẽ tìm cách hủy bỏ điều luật cấm tài trợ đó. Tôi xin hứa như vậy. Từng inch trên mặt đất đều được tận dụng để quảng cáo và vũ trụ cũng nên như thế".

Lúc này Sexton đưa mắt nhìn thính giả của mình, nhìn sâu vào mắt từng người một, nói một cách trang trọng. "Tuy nhiên, phải nói rằng trở ngại chính trong công cuộc tư hữu hóa NASA không phải là các đạo luật mà chính là hình ảnh của nó trong lòng công chúng. Hầu hết dân Mỹ vẫn giữ trong lòng hình ảnh đầy thi vị và đẹp đẽ về chương trình vũ trụ của Hoa Kỳ. Họ vẫn tin rằng NASA là một bộ phận cần thiết của Chính phủ".

"Chẳng qua là tại mấy bộ phim chết tiệt đó của Hollywood!" Một người nói. "Hollywood đã làm không biết bao nhiêu bộ phim kiểu NASA cứu nguy cho trái đất khi bị một sao Chổi tấn công. Họ tuyên truyền bằng cách ấy đấy!"

Những bộ phim về NASA được chiếu nhan nhản khắp nơi, Sexton biết, chẳng qua là vì lý do kinh tế. Sau thành công vang dội của bộ phim Súng ngắn siêu hạng do Tom Cruise thủ vai chính, có tác dụng quảng bá mạnh mẽ cho Hải quân Mỹ - NASA nhận thấy rằng Hollywood rất có tiềm năng trở thành bộ phận quan hệ công chúng đặc biệt hữu hiệu. Thế là họ bắt đầu cho phép các nhà làm phim sử dụng cơ sở vật chất của NASA mà không cần phải trả tiền - các bệ phóng, dàn thiết bị điều khiển, các cơ sở luyện tập. Vốn quen phải chi những khoản tiền khổng lồ để thuê địa điểm mỗi khi bấm máy bên ngoài trường quay, các nhà sản xuất phim chớp ngay lấy cơ hội để tiết kiệm cho ngân quỹ của mình hàng tỷ đô la, họ sản xuất những bộ phim hành động về NASA. Dĩ nhiên chỉ sau khi NASA thông qua kịch bản thì Hollywood mới được sử dụng địa điểm của họ mà không mất tiền.

"Đấy là thủ đoạn nhồi sọ công chúng", Một người khác làu bàu. "Những bộ phim đó chẳng là gì so với những tiểu xảo của NASA để lấy lòng dân chúng. Đưa một công dân nào đó lên vũ trụ ư? Hiện giờ họ định đưa một phi hành đoàn toàn là nữ lên quỹ đạo ư? Toàn những thủ đoạn tuyên truyền!"

Sexton thở dài, càng nói giọng ông càng trở nên khúc chiết. "Đúng vậy, không cần phải nhắc chắc các vị cũng nhớ một sự kiện xảy ra hồi cuối những năm tám mươi. Khi đó Bộ Giáo dục bị khủng hoảng ngân sách và quay sang buộc tội NASA là đã phung phí nhiều triệu đô la đáng ra phải được chi cho giáo dục. Thế là NASA bày trò làm ra vẻ quan tâm đến giáo dục. Họ đưa một cô giáo dạy phổ thông lên vũ trụ". Sexton ngừng một lát. "Các vị còn nhớ Christa McAuliffe chứ?"

Căn phòng chìm trong yên lặng.

"Thưa các vị". Sexton nói, dừng bước bên lò sưởi. "Tôi tin là đã đến lúc người Mỹ hiểu ra sự thật, vì tương lai của toàn nước Mỹ. Đã đến lúc người Mỹ phải hiểu ra rằng NASA chẳng hề giúp chúng ta tiến vào vũ trụ, thực ra nó đang gây cản trở cho việc thăm dò vũ trụ. Vũ trụ cũng là một ngành kinh doanh như mọi ngành khác, và ngăn cản không cho các công ty tư nhân tham gia vào là có tội. Cứ nhìn ngành công nghiệp máy tính mà xem, đơn vị thời gian của những tiến bộ và những thay đổi là từng tuần một! Vì sao ư? Bởi vì chúng ta áp dụng cơ chế thị trường tự do ở đó: Hiệu suất làm việc và tầm nhìn xa trông rộng được đền đáp bằng lợi nhuận. Giả sử Chính phủ vẫn đang độc chiếm ngành này xem, chắc giờ chúng ta vẫn phải lóp ngóp trong tăm tối. Ngành vũ trụ của chúng ta đang đình trệ. Chúng ta nên chuyển giao công cuộc thăm dò vũ trụ sang cho thành phần kinh tế tư nhân, vì nó thuộc về họ. Rồi người Mỹ sẽ phải kinh ngạc khi chứng kiến sự tăng trưởng, khi thấy nhiều chỗ làm mới được tạo ra và những giấc mơ của họ trở thành hiện thực. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên để cơ chế thị trường tự do giúp người Mỹ vươn lên tầm cao mới trong vũ trụ. Nếu đắc cử, tôi sẽ nỗ lực hết sức nhằm khai thông mọi bế tắc, và mở rộng cửa thị trường vũ trụ".

Sexton nâng cao ly rượu Cognac trong tay.

"Thưa các vị, hôm nay các vị đã tới đây để xem tôi có xứng đáng với lòng tin của quý vị hay không. Hy vọng rằng những gì tôi vừa thể hiện đã gây dựng được lòng tin đó. Cần phải có các nhà đầu tư thì mới có các công ty; tương tự như thế, phải có các nhà đầu tư thì mới có chiếc ghế Tổng thống. Cũng giống như các cổ đông trông chờ cổ tức, các nhà đầu tư chính trị như các vị trong đợi cơ hội làm ăn. Thông điệp mà tối nay tôi muốn chuyển đến các vị là rất đơn giản: Hãy tài trợ cho tôi, tôi sẽ không quên các vị Không bao giờ. Chúng ta có những ước nguyện giống nhau và cùng chung một mục đích".

Sexton cụng ly với cả nhóm.

"Với sự giúp đỡ của các vị, tôi sẽ nhanh chóng trở thành chủ nhân Nhà Trắng... Còn các vị sẽ vươn tới bầu trời".

Cách đó vài mét, Gabrielle Ashe sững sờ đứng trong bóng tối. Từ trong phòng vọng ra tiếng cụng ly lách cách cùng với tiếng lửa cháy lép bép trong lò.

Chương 58

Hoảng hốt, chàng kỹ thuật viên trẻ của NASA lao như tên bắn trong bán sinh quyển. Vừa xảy ra sự kiện hãi hùng! Anh tìm thấy ông Giám đốc Ekstrom đứng một mình gần khu báo chí.

"Báo cáo Giám đốc", anh hổn hển nói "vừa có tai nạn!"

Ekstrom quay lại, ánh mắt xa xăm, như thể đang đắm chìm trong những âu lo nào đó.

"Cậu nói gì? Tai nạn à? Ở đâu?"

"Ở hố trục vớt tảng thiên thạch. Một cái xác vừa nổi lên. Tiến sĩ Wailee Ming".

Sắc mặt Ekstrom không hề thay đổi. "Tiến sĩ Ming à. Nhưng mà.."

"Chúng tôi vớt được ông ấy lên, nhưng quá muộn. Ông ấy mất rồi".

"Lạy Chúa, ông ấy ngã xuống đó được bao lâu rồi?"

"Chắc là khoảng một tiếng đồng hồ. Có lẽ ông ấy trượt chân xuống đó, chìm xuống tận dưới đáy, đến khi cơ thể đã trương lên thì mới nổi lên".

Nước da đỏ au của Ekstrom trở thành đỏ tía. "Quỷ tặc! Còn ai biết chuyện này nữa?"

"Không ai cả. Mỗi hai chúng tôi thôi ạ. Vừa vớt ông ấy lên, chúng tôi nghĩ là nên báo cáo Giám đốc trước đã..."

"Các cậu làm thế là đúng". Ekstrom thở hắt ra nặng nhọc. "Giấu kín ngay xác tiến sĩ Ming, không nói gì hết".

Anh chàng kỹ thuận viên bối rối. "Nhưng, thưa Giám đốc, tôi..."

Ekstrom đặt bàn tay to bè lên vai chàng kỹ thuật viên. "Cậu nghe tôi nói này. Đây là một tai nạn đáng tiếc, chẳng ai mong muốn điều này. Dĩ nhiên là sẽ đến lúc tôi phải lo chuyện hậu sự cho ông ấy một cách tươm tất. Tuy nhiên, bây giờ chưa phải lúc".

"Tức là bây giờ phải giấu kín cái xác ạ?"

Đôi mắt Bắc Âu lạnh lẽo của Ekstrom cụp xuống. "Cậu nghĩ mà xem. Nói cho mọi người biết cũng được thôi, nhưng làm thế thì được cái gì? Chỉ còn một giờ nữa là cuộc họp báo bắt đầu. Loan báo rằng có tai nạn chết người sẽ phủ bóng đen lên phát kiến của chúng ta và làm ảnh hưởng đến không khí chung. Tiến sĩ Ming đã bất cẩn; và tôi không định để NASA trả giá cho điều đó. Các nhà khoa học dân sự ở đây đã được chú ý quá nhiều. Tôi không có ý định để cho một sai lầm ngu ngốc của họ phủ bóng đen lên vinh quang chung của mọi người. Tai nạn của tiến sĩ Ming phải được giữ kín đến hết cuộc họp báo. Cậu có hiểu không?"

Chàng kỹ thuật viên gật đầu, mặt tái xám. "Tôi sẽ giấu kín xác ông ấy".

Chương 59

Đi biển đã lâu, Michael Tolland hiểu rằng đại dương chẳng do dự, cũng chẳng tiếc thương khi kết liễu sinh mạng các nạn nhân của nó. Kiệt sức, nẳm bẹp trên phiến băng rộng, ông chỉ còn lờ mờ nhìn thấy phiến băng Milne đang dần lùi xa. Ông biết dòng hải lưu Bắc Cực chảy xiết bắt nguồn từ quần đảo Elizabeth chảy theo hình vòng cung quanh chỏm băng Bắc Cực rồi chảy đến sát bờ biển Bắc Nga. Điều đó không quan trọng, hành trình ấy phải mất vài tháng...

Chỉ còn khoảng 30 phút nữa..., nhiều nhất là 45 phút.

Ông biết nếu không có bộ quần áo đặc biệt này, cả ba người đã chết từ lâu. Ơn Chúa, những bộ quần áo liền quần có đệm gel Marl IX này đã giữ cho họ khỏi ướt - điều kiện tối cần thiết để tồn tại trong thời tiết lạnh giá này. Lớp đệm giữ nhiệt bao quanh thân thể họ không đủ giảm nhẹ sức va đập của những cú ngã, nó còn giữ lại cho họ chút hơi ấm ít ỏi còn sót lại.

Chẳng mấy chốc nữa, thân nhiệt của họ sẽ giảm dần. Ban đầu chân tay sẽ có cảm giác tê cứng do máu rút về bảo vệ những cơ quan nội tạng quan trọng nhất. Tiếp đó sẽ là trạng thái mê sảng kèm theo ảo giác khi cả hệ tim mạch lẫn hai lá phổi đều giảm tốc, dẫn đến thiếu ô xy não. Sau đó, cơ thể sẽ bắt đầu nỗ lực cuối cùng nhằm duy trì chút thân nhiệt còn lại bằng cách chấm dứt mọi hoạt động trừ quả tim và buồng phổi, kết quả là trạng thái bất tỉnh. Cuối cùng, khu vực thần kinh trung ương điều tiết tim và phổi cũng sẽ ngừng hoạt động.

Tolland trân trối nhìn Rachel, lòng thầm ước giá như ông có thể làm được điều gì đó để cứu cô.

Cảm giác tê cứng khắp người Rachel Sexton không đau đớn như cô tưởng. Nó gần như một loại thuốc gây tê. Morphine của thiên nhiên. Lúc ngã từ trên cao xuống, kính bảo hộ của cô bị văng mất, giờ đây, giá lạnh khiến hai mắt Rachel không hé ra nổi.

Rachel trông thấy Corky và Tolland ở gần đó. Tolland đang nhìn cô ánh mắt đầy nuối tiếc. Một bên má của Corky bị dập nát, bê bết máu, và ông đang cử động, đầy đau đớn.

Toàn thân Rachel run lên lập cập trong khi tâm trí cô bị xáo tung với những câu hỏi. Ai? Vì sao? Cảm giác nặng nề đang tăng dần trong cơ thể khlen tâm trí lại càng rối bời hơn. Mọi sự kiện trở nên thật khó hiểu. Dường như sức sống trong cô đang cạn dần, và cơ thể đang bị một thế lực nào đó khiến cho mụ mị. Cô gắng sức cưỡng lại. Lúc này, một cơn giận dữ đang tràn lấp tâm trí cô, và Rachel tận dụng nó để thoát khỏi cơn buồn ngủ.

Chúng cố tình giết cả nhóm! Cô đưa mắt nhìn mặt biển và nhận thấy những kẻ đó đã làm được điều chúng muốn. Cả ba coi như đã chết Ngay lúc này, dù biết mình không còn cơ hội sống sót để khui ra toàn bộ sự thật về trò gian trá đang được dựng lên trên phiến băng Milne, cô đã lờ mờ đoán ra kẻ chủ mưu.

Giám đốc Ekstrom là người được lợi nhiều nhất. Chính ông ta đã phái cả nhóm bọn họ ra ngoài phiến băng. Cũng chính ông ta lại có những mối quan hệ với cả Lầu Năm Góc và đội đặc nhiệm. Nhưng đem đặt tảng thiên thạch vào giữa phiến băng như thế thì Ekstrom được lợi lộc gì đây? Còn ai nữa cũng được hưởng lợi từ chuyện này?

Rachel nghĩ tới Zach Herney, thầm băn khoăn không hiểu ông ta là kẻ đồng mưu hay chỉ bị gài bẫy. Tổng thống không hề biết gì hết. Ông ấy vô tội. Hiển nhiên là cả Tổng thống cũng bị NASA lừa. Chỉ còn chưa đầy một giờ đồng hồ nữa là Tổng thống sẽ công bố phát kiến của NASA. Và sẽ có cả những lời xác thực của các nhà khoa học dân sự được phát kèm theo.

Bốn nhà khoa học đã chết.

Giờ đây Rachel không còn làm gì được nữa để ngăn cuộc họp báo đó. Nhưng cô tự thề với mình sẽ không tha thứ cho bất cứ kẻ nào nhúng tay vào vụ việc bẩn thỉu này.

Dồn hết sức lực, Rachel thu người ngồi dậy. Hai chân nặng như chì và mỗi khớp xương đều đau như xé khi chân tay co lại.

Chậm chạp, Rachel quỳ gối thật thăng bằng trên mặt băng trơn. Đầu óc quay cuồng. Xung quanh là đại dương cuộn sóng.

Nằm ngay gần đó, Tolland đang nhìn cô đầy dò hỏi. Có lẽ ông tưởng cô định cầu nguyện. Dĩ nhiên là không, nhưng cách này cũng cố thể mang lại cho họ cơ hội sống sót.

Rachel quờ tay quanh thắt lưng lần tìm chiếc rìu nhỏ. Những ngón tay tê cứng chạm được vào cán rìu, cô lật ngược nó xuống như hình chữ T lộn ngược. Sau đó, với tất cả sức lực còn lại trong cơ thể, Rachel bổ cái rìu xuống mặt băng. Thịch. Rồi lần nữa. Thịch.

Máu trong huyết quản cô hình như đã đặc quánh lại. Thịch. Ánh mắt Tolland đầy ngỡ ngàng. Rachel tiếp tục bổ rìu. Thịch.

Tolland cố chống khuỷu tay nhỏm dậy. "Ra...chel?"

Rachel không trả lời. Cần phải tiết kiệm năng lượng. Thịch. Thịch.

"Tôi nghĩ là...", Tolland nói "ở xa thế này thì..., chắc SAA... không nghe được đâu..."

Rachel ngạc nhiên quay sang. Cô quên mất ông là chuyên gia hải dương học và có thể hiểu vì sao cô làm thế này. Anh nói đúng... nhưng tôi có gọi SAA đâu.

Cô tiếp tục bổ rìu.

SAA (Suboceanic Acoustic Array) là tên tắt của Mạng ăng ten âm học ngầm dưới nước, di vật của thời kỳ chiến tranh lạnh, ngày nay được các nhà hải dương học sử dụng để nghe những tín hiệu của cá heo. Vì trong môi trường nước, âm thanh có thể lan xa đến hàng trăm dặm nên hệ thống năm mươi lăm chiếc loa đặt ngầm trong lòng đại dương của SAA thu được một lượng âm thanh đáng ngạc nhiên. Vùng biển Viễn Bắc này không nằm trong phạm vi của SAA, nhưng Rachel biết có những đôi tai khác đang từng giờ từng phút lắng nghe những âm thanh phát ra từ vùng thềm lục địa này - những thiết bị mà chỉ rất ít người được biết đến.

Thịch... thịch... thịch.

Thịch... thịch... thịch.

Thịch... thịch... thịch.

Rachel không hi vọng hành động này sẽ cứu mạng cho cô và hai nhà khoa học này, cảm giác tê cóng như kim châm đang lan tỏa khắp người. Cô tin họ chỉ còn sống được khoảng nửa giờ nữa, không thể hơn. Gặp được đội cứu hộ lúc này là điều không tưởng. Nhưng cô làm thế này không phải để được ứng cứu.

Thịch... thịch... thịch.

Thịch... thịch... thịch.

Thịch... thịch... thịch.

"Không kịp nữa đâu..." Tolland bảo cô.

Làm thế nay không phải vì chúng ta, cô thầm nghĩ, mà là vì tờ giấy trong túi áo của tôi. Cô nghĩ đến bức ảnh chụp cắt lớp trong túi áo bảo hộ của mình. Tôi phải chuyển bức ảnh này đến NRO, càng nhanh càng tốt.

Dù đầu đã mụ đi, Rachel vẫn tin chắc thông điệp của cô sẽ được chuyển đến đích. Từ giữa thập niên 80, NRO đã lắp đặt một mạng lưới mới mạnh gấp 30 lần để thay thế SAA. Là hệ thống tai nghe ngầm dưới đại dương trị giá 12 tỉ đô la của NRO. Classic Wizard có thể nghe được âm thanh trên khắp địa cầu. Trong vòng vài giờ tới, nhận được một chuỗi âm thanh đều đặn lặp đi lặp lại chuyển về từ các tai nghe ngầm trong lòng Bắc Băng Dương, những siêu máy tính Cray của NRO và NASA đặt tại điểm tiếp nhận âm thanh Menwith Hill, ở Vương quốc Anh sẽ giải mã chúng thành thông điệp SOS, xác định vị trí phát ra âm thanh, rồi phát lệnh cho máy bay cứu hộ tại căn cứ không quân Thule đặt trên đảo Greenland cất cánh. Rồi chiếc máy bay sẽ phát hiện thấy ba người nằm co quắp trên tảng băng trôi. Cứng đờ. Đã chết. Một trong ba người đó là nhân viên cao cấp của NRO, và trong túi áo cô có một bức ảnh.

Bức ảnh chụp cắt lớp.

Di vật cuối cùng của Norah Mangor.

Khi đội cứu hộ xem bức ảnh, bí mật về lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch sẽ bị hé lộ. Rachel không thể tưởng tượng tiếp những sự kiện tiếp theo, nhưng cô biết chắc chắn một điều - bí mật này sẽ không bị chôn vùi cùng với thi thể của họ.

Chương 60

Mới trở thành chủ nhân của Nhà Trắng, vị Tổng thống nào cũng dành thời gian vào xem gian nhà kho được canh giữ cẩn mật chất đầy những đồ đạc quý giá do các đời Tổng thống trước để lại: Bàn ghế, đồ bạc, đồ văn phòng phẩm, giường đệm, những món đó có từ thời Tơng thơng George Washington. Và vị Tổng thống nào cũng được quyền chọn bất cứ thứ gì họ ưa thích để sử dụng trong nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Đồ nội thất cố định duy nhất ở Nhà Trắng là chiếc giường ngủ trong phòng Lincoln. Buồn cười là ở chỗ chính Tổng thống Lincoln thì lại chưa từng nằm ngủ trên chiếc giường đó.

Zach Herney đang ngồi trong phòng bầu dục, bên chiếc bàn do thần tượng của ông để lại - Tổng thống Harry Truman. Tuy có vẻ hơi hẹp so với những chiếc bàn hiện đại, nó chính là nơi người ta đã bí mật gài "bọ nghe lén", và nó luôn nhắc cho Herney nhớ rằng ông sẽ phải chịu trách nhiệm về tất cả những thiếu sót trong nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Ông coi trọng trách mà mình đang đảm nhận là một vinh dự, và thường xuyên khích lệ đội ngũ nhân viên của mình tận tâm tận lực với tất cả những nhiệm vụ được giao.

"Thưa Tổng thống". Một cô thư ký gọi lớn. "Đường dây của ngài đã thông rồi đấy ạ".

Herney vẫy tay: "Cảm ơn cô".

Ông với tay nhấc ống nghe. Dù rất ưa thích sự kín đáo vì muốn tự tay quay số, lúc này ông không thể làm việc đó. Hai nhân viên hóa trang đang lăng xăng chỉnh đốn lại đầu tóc, mặt mũi cho ông. Ngay trước bàn làm việc của ông lúc này là một đội ngũ nhân viên truyền hình đang lắp đặt thiết bị, thêm vào đó là mấy chuyên gia về quan hệ công chúng vừa chạy rối rít khắp phòng vừa sôi nổi bàn luận.

Chưa đầy một giờ nữa...

Herney nhấn nút chiếc máy cá nhân trước mặt. "Lawrence? Phải anh đấy không?"

"Tôi đây". Giọng ông Giám đốc NASA nghe mệt mỏi và xa xăm.

"Mọi thứ ổn cả chứ?"

"Sắp có bão, nhưng nhân viên của tôi khẳng định rằng liên lạc bằng vệ tinh sẽ không bị ảnh hưởng. Tốt cả. Chỉ còn chưa đầy một giờ nữa là sẽ hoàn tất mọi việc".

"Tuyệt lắm. Hi vọng mọi người đều thấy phấn khởi".

"Rất phấn khởi. Nhân viên của tôi đang vô cùng vui vẻ. Chúng tôi vừa cụng ly xong".

Herney cười lớn. "Hay lắm. Lawrence này, tôi muốn gọi điện trước giờ họp báo để nói lời cảm ơn anh. Tối nay sẽ là một buổi tối lịch sử".

Ông Giám đốc ngập ngừng, do dự, khác hẳn cung cách thường ngày: "Chắc chắn là thế, thưa Tổng thống. Chúng ta đã phải đợi khá lâu rồi".

Herney ngần ngừ. "Anh có vẻ hơi mệt thì phải".

"Tôi cần ánh nắng mặt trời và một cái giường thực thụ".

"Một giờ nữa thôi. Hãy cố cười tươi trước ống kính, hãy tận hưởng giây phút ấy, rồi tôi sẽ phái máy bay đưa anh về thủ đô".

"Tôi mong đến lúc đó lắm rồi". Ông ta lại im lặng một lần nữa.

Là một nhà thương thuyết sành sỏi, Herney biết cách lắng nghe những gì người khác không nói ra thành lời. Giọng nói của ông Giám đốc NASA thể hiện điều gì đó hơi khác lạ. "Anh có chắc là mọi việc đều ổn cả không?"

"Tôi chắc chứ".

"Anh đã xem đoạn phim tài liệu do Michael Tolland gửi về chưa?"

"Rồi". Tổng thống đáp. "Ông ta làm tốt lắm".

"Đúng thế! Anh cho gọi ông ấy đến là phải đấy".

"Anh vẫn còn bực nình vì chuyện tôi gọi mấy nhà khoa học dân sự đó đến đấy à?"

"Lạy Chúa, điều này cũng đúng nốt". Ông Giám đốc càu nhàu một cách hóm hỉnh, giọng lại mạnh mẽ như thường ngày.

Herney thấy yên tâm hơn. Ekstrom vẫn ổn, ông thầm nghĩ, chắc chỉ hơi mệt mỏi thôi. "Thế nhé! Tôi sẽ gặp anh trên cầu truyền hình. Chúng ta sẽ cho cả nước một phen choáng váng".

"Đúng thế".

"Này, Lawrence!" Lúc này giọng ông trở nên trang nghiêm "Anh đã lập công rất lớn. Tôi sẽ không bao giờ quên".

Bên ngoài bán sinh quyển, vừa vật lộn với cơn gió dữ, Delta-Ba vừa xếp lại các dụng cụ của Norah Mangor lên chiếc xe trượt đã bị lật úp. Chất các thứ lên xong, anh phủ tấm vải bọc nhựa lên trên, sau đó để xác Norah lên trên cùng, buộc chặt lại. Anh đang chuẩn bị kéo chiếc xe đi thì đã thấy hai đồng đội kia trượt từ dưới chân dốc lên.

"Kế hoạch thay đổi". Delta-Một hét lớn từ phía cuối gió "Ba người kia trượt ra khỏi phiến băng rồi".

Delta-Ba không ngạc nhiên. Anh biết điều đó có nghĩa là gì. Kế hoạch của đội Delta định sắp đặt các xác chết để giả dạng một vụ tai nạn không còn khả thi nữa. Để lại một cái xác duy nhất sẽ khiến người ta đặt ra rất nhiều câu hỏi. "Bị cuốn đi à?" Anh hỏi.

Delta-Một gật đầu: "Tôi sẽ thu thập lại những cây đèn phát sáng, còn hai anh hãy ném cái xe ấy đi".

Trong khi Delta-Một cẩn thận dò ngược lại con đường của các nhà khoa học, nhặt nhạnh hết mọi chứng cứ về sự có mặt của họ, hai người kia đẩy chiếc xe trượt chất nặng về phía cuối sông băng.

Sau khi vất vả vượt qua mấy ụ tuyết, họ cũng đến được bờ mép phiến băng Milne. Họ chỉ cần đẩy nhẹ, chiếc xe cùng với thi thể của Norah Mangor sẽ lập tức lặng lẽ lao qua mép vực, rơi thẳng xuống đại dương.

Sạch sẽ, Delta-Ba thầm nghĩ.

Trên đường quay về căn cứ, Delta-Ba hài lòng thấy gió katabatic đã xóa sạch vết giày trượt của họ trên mặt băng.

Chương 61

Chiếc tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân Charlotte có mặt trên Biển Bắc đã được năm ngày nay. Sự có mặt của nó ở khu vực này được coi là tuyệt mật.

Là một chiếc tàu ngầm thuộc Câu lạc bộ Los Angelesl, Charlotte được thiết kế để "nghe được hết nhưng không bị người khác nghe thấy". Tuốc bin máy của nó nặng bốn mươi hai tấn được đệm bằng lò xo để không một rung động nào bị truyền ra ngoài. Dù là chiếc tàu bí mật, thân con tàu này dài hơn bất kỳ một tàu ngầm hiện đại nào khác. Với chiều dài từ mũi đến đuôi là 120 mét, nếu được đặt trên sân vận động NFL, nó sẽ đè bẹp cả hai cầu gôn. Với chiều dài thân gấp bảy lần chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hoa Kỳ, tàu Charlotte chiếm chỗ của 6.927 gallon nước khi chìm hẳn, và có thể tuần tiễu dưới biển với một vận tốc kinh ngạc - ba mươi lăm hải lý một giờ.

Thông thường, con tàu chỉ lặn ở độ sâu ngay dưới dốc giảm nhiệt, độ sâu đặc trưng luôn làm nhiễu loạn các phản hồi siêu âm khiến cho các trên bờ không thể phát hiện được nó. Đủ chỗ trên boong cho thủy thủ đoàn gồm 148 người, với độ sâu tối đa là năm trăm mét, Charlotte là đỉnh cao, là niềm tự hào của Hải quân Hoa Kỳ. Hệ thống tạo khí oxy bằng phương pháp điện phân, hai lò phản ứng hạt nhân và những động cơ lắp đặt bên trong cho phép con tàu đi vòng quanh trái đất hai mươi mốt vòng liên tục mà không cần phải nổi lên. Chất thải của người ở trên tàu, cũng giống như ở những con tàu khác, được nén thành những khối vuông nặng sáu mươi kg rồi phóng ra biển. Những khối chất thải khổng lồ này vẫn được gọi một cách hài hước là "phân cá voi".

Kỹ thuật viên đang ngồi trực bên bàn đo dao động trong Phòng siêu âm của con tàu là người giỏi nhất trên thế giới trong lĩnh vực này. Bộ não của anh có thể được coi là một cuốn từ điển sống về các loại âm thanh và sóng siêu âm. Anh có thể nhận biết được tiếng động tạo ra bởi những chân vịt tàu ngầm của Nga, bởi hàng trăm loài sinh vật biển, và định vị được những núi lửa ngầm dưới nước ở tận Nhật Bản.

Tuy nhiên, lúc này anh đang tập trung chú ý đến một chuỗi âm thanh đều đều lặp đi lặp lại, dù rất dễ nhận ra, đây là những âm thanh lạ.

"Cậu không tưởng tượng được tớ đang nghe thấy cái gì đâu". Anh chuyển tai nghe sang cho người thư ký đang viết nhật ký tàu.

Người thư ký đeo tai nghe vào, và ngay lập tức nhận ra chuỗi âm thanh ấy. "Chúa ơi, rõ mồn một. Chúng ta làm gì bây giờ nhỉ?"

Anh chàng chuyên viên siêu âm đã lập tức quay số gọi cho thuyền trưởng...

Khi viên thuyền trưởng vào phòng siêu âm, kỹ thuật viên liền cắm giắc tai nghe vào một hệ thống loa phóng thanh nhỏ.

Thuyền trưởng lắng nghe. Ngạc nhiên.

Thịch... thịch... thịch.

Thịch... thịch... thịch.

Chậm dần. Chậm dần. Những tiếng động yếu dần đi, mờ dần đi.

"Tọa độ bao nhiêu?" Viên thuyền trưởng hỏi.

Anh chàng kỹ thuật viên hắng giọng: "Thưa thuyền trưởng, âm thanh này phát ra từ mặt nước, cách chúng ta ba dặm về mạn phải".

Chương 62

Trong hành lang tối bên ngoài căn hộ của Thượng nghị sĩ Sexton, hai chân Gabrielle run lên, không phải vì phải đứng im quá lâu, mà vì thất vọng sau những gì vừa nghe được. Cuộc họp kín trong phòng vẫn còn tiếp tục, nhưng cô không muốn nghe thêm gì nữa.

Sự thật đã quá hiển nhiên.

Thượng nghị sĩ Sexton đang nhận hối lộ của các công ty vu trụ tư nhân. Hóa ra Marjorie Tench nói thật.

Cảm giác kinh hãi vì bị phản bội xâm chiếm khắp cơ thể Gabrielle. Cô đã tin tưởng ông. Đã đấu tranh cho ông. Sao ông lại có thể hành động thế này cơ chứ? Cô đã chứng kiến ngài Thượng nghị sĩ nói dối nhiều lần về đời tư của ông, nhưng làm chính trị thì phải thế. Còn đây là vi phạm luật pháp.

Vẫn còn chưa đắc cử mà ông ấy đã đem bán rẻ Nhà Trắng!

Gabrielle biết cô không thể nào phò tá ngài Thượng nghị sĩ được nữa. Hứa hẹn về đạo luật tư hữu hóa NASA kiểu này là xem thường cả luật pháp lẫn chế độ dân chủ. Cho dù ngài Thượng nghị sĩ có thật sự cho rằng làm như thế là đúng đi nữa thì hành động này cũng có nghĩa là chặn trước ảnh hưởng của những cơ chế cân bằng quyền lực trong Chính phủ, là phớt lờ những lý lẽ có thể sẽ rất thỏa đáng của Nghị viện, các cố vấn, cử tri và các nhà vận động hành lang. Đưa ra lời đảm bảo về đạo luật này đối với NASA, Sexton đã dọn đường cho vô số hành vi lợi dụng chức vụ - nhất là chuyện mua bán nội bộ, chà đạp lên lợi ích chung vì tư lợi cá nhân cho một số quan chức lắm tiền nhiều của.

Ghê tởm, cô không biết nên xử trí thế nào.

Điện thoại đổ chuông ngay sau lưng Gabrielle, phá tan sự yên lặng trong hành lang mờ tối. Giật mình, cô quay lại. Tiếng chuông phát ra từ máy điện thoại cầm tay nằm trong túi áo khoác của một vị khách.

"Xin lỗi các vị" Chất giọng Texas cất lên. "Chuông điện thoại của tôi".

Gabrielle nghe thấy tiếng ông ta sột soạt đứng dậy. Ông ta sắp ra, ngoài này! Quay phắt ra đằng sau, cô chạy ngược về phía cửa ra vào được nửa đường, cô rẽ trái, nấp kín vào phòng bếp, vừa kịp lúc người đàn ông Texas đó ra đến hành lang. Sợ cứng người, cô đứng im thin thít.

Ông ta đi qua sát Gabrielle nhưng không để ý.

Dù tim đang đập thình thịch, cô vẫn nghe tiếng ông ta sột soạt ở chỗ mắc treo quần áo, cuối cùng thì cũng bắt đầu trả lời.

"Sao hả?... Lúc nào?... Thật à?... Chúng tôi sẽ bật lên. Cảm ơn nhé".

Ông ta tắt máy và quay vào trong phòng, vừa đi vừa nói lớn: "Này các vị, bật tivi lên đi. Zach Herney sắp tổ chức hóp báo khẩn cấp. Tám giờ tối nay. Trên tất cả các kênh. Có thể ông ta sắp tuyên chiến với Trung Quốc, mà cũng có thể là sân bay vũ trụ rớt xuống đại dương mất rồi".

"Chúng ta cụng ly vì buổi họp báo đó, nào!" Một người hô hào.

Tất cả cùng cười lớn.

Gabrielle thấy phòng bếp quay cuồng chao đảo quanh cô. Họp báo lúc tám giờ tối sao? Có vẻ như Tench không nói dối. Bà ta đã cho Gabriell suy nghĩ đến tám giờ tối về việc thú nhận có quan hệ với Thượng nghị sĩ. Hãy tránh xa ông ta trước khi quá muộn. Bà ta đã bảo cô thế. Gabrielle tưởng đó là hạn chót để Nhà Trắng bắt đầu rỉ tin cho giới báo chí, nhưng giờ thì có lẽ họ muốn đích thân công bố tin này.

Họp báo khẩn cấp? Càng nghĩ. Gabrielle càng thấy lạ. Herney định công khai mớ bòng bong này ư? Ông ta đích thân làm việc nay hay sao?

Trong phòng, tivi đã được bật lên. Ầm ỹ. Giọng người phát thanh viên có vẻ rất phấn khích. "Nhà Trắng không hé lộ bất cứ chi hết nào về nội dung của buổi họp báo do Tổng thống chủ trì tối nay, và có rất nhiều tin đồn thổi. Một số nhà phân tích cho rằng trong thời gian gần đây Zach Herney thường xuyên vắng bóng trong chiến dịch tranh cử và rất có thể tối nay Tổng thống sẽ tuyên bố rút lui không tranh cử nhiệm kỳ hai nữa".

Những tiếng reo vui đầy hi vọng vang lên trong phòng.

Ngớ ngẩn. Gabrielle nghĩ thầm. Sau khi đã thu thập được chừng ấy thông tin về sự thối nát của Sexton, không thể có chuyện Nhà Trắng tuyên bố bỏ cuộc. Cuộc họp báo nay chắc chắn đề cập đến chuyện khác. Gabrielle thấy lòng nặng trĩu, tin rẳng mình đã biết trước nội dung đó là gì.

Vội vã, cô kiểm tra đồng hồ. Không đầy một giờ nữa. Cô cần phải quyết định một việc. Và Gabrielle biết mình cần phải nói chuyện với ai. Kẹp chặt chiếc phong bì bên mạng sườn, cô lặng lẽ rời khỏi hành lang.

Đứng bên cửa ra vào, anh chàng vệ sĩ có vẻ như trút được gánh nặng: "Tôi nghe có tiếng reo vui trong phòng. Chắc cô vừa mang đến tin tốt lành".

Gabrielle cười gượng, tiến về phía thang máy.

Ngoài đường phố, đêm xuống với cảm giác bứt rứt khác lạ.

Vẫy taxi, Gabrielle cố nhắc nhở bản thân rằng cô biết rất rõ nơi cần phải đến.

"Trường quay đài truyền hình ABC", cô bảo người tài xế "càng nhanh càng tốt".

Chương 63

Nằm nghiêng trên mặt băng, Michael Tolland gối đầu trên cánh tay đã tê dại và mất hẳn cảm giác. Dù hai bờ mi đã nặng trĩu, ông vẫn cố mở mắt ra. Nằm ở tư thế này, ông nhìn lần cuối cùng thế giới quanh nình - giờ đây chỉ còn là biển và băng đá - nhìn theo phương nằm nghiêng. Quang cảnh này có lẽ thật thích hợp với cả một ngày dài toàn những sự kiện dị thường.

Một sự yên tĩnh lạ lùng bao trùm tảng băng trôi. Corky và Rachel đều đang nằm bất động, những tiếng thình thịch không cờn vang lên nữa. Càng xa tảng băng trôi mà họ đang nằm, gió càng nhẹ dần đi Tolland thấy cả cơ thể mình cũng đang dần trở nên tĩnh lặng hơn. Chiếc mũ bó chặt lấy đầu làm cho tiếng hít thở của ông bị phóng đại lên trong màng nhĩ. Những hơi thở đang chậm dần đi, nông dần đi. Cơ thể ông từ lâu đã mất khả năng chống chọi lại cảm giác tê cứng do máu rút khỏi những chỗ xa tim để thu về bảo vệ những cơ quan thiết yếu nhất - phản xạ cuối cùng của bản năng sinh tồn để tránh trạng thái hôn mê, giống như thủy thủ đoàn đang dần dần rút khỏi con tàu.

Ông đã thua, ông biết thế.

Thật kỳ lạ, chẳng còn chút cảm giác đau đớn nào nữa. Cơ thể ông đã qua giai đoạn đó rồi. Lúc này toàn thân ông như một quả bớng mới được bơm căng. Tê dại. Bồng bềnh. Một trong những cơ chế căn bản nhất của cơ thể - phản xạ nháy mắt - bắt đầu ngưng hoạt động, thị lực của ông giảm dần. Lượng hơi ấm chứa hơi nước luân chuyển trong các mạch máu nhỏ quanh đồng tử và giác mạc của ông đang nhanh chóng đông cứng lại. Tolland nhìn lại một lan nữa phiến băng Milne, lúc này dù còn là một khối mờ mờ ảo ảo trong ánh trăng sáng bạc.

Linh hồn ông bắt đầu chấp nhận tư thế của kẻ chiến bại trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ. Ông đưa mắt nhìn những con sóng bạc. Gió vẫn rắt mạnh.

Lúc này ảo ảnh bắt đầu hiện ra. Thật kỳ lạ, trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi chìm vào vô thức, ông không có ảo ảnh về sự cứu rỗi, về sự ấm áp và êm ái. Ảo ảnh cuối cùng trong đời ông thật đáng sợ.

Một con thủy quái nhô lên ngay bên cạnh tảng băng, phun phì phì, làm mặt nước cuộn xoáy. Nó giống hệt một quái vật biển bí hiểm - trơn láng, đen sì, vỏ ngoài bằng sắt, bao quanh bởi vô vàn bọt nước. Tolland vận hết sức lực còn lại để chớp mắt. Ông nhìn rõ hơn được một chút. Con quái vật đang tiến lại gần, chồm lên tảng băng y như con cá sấu khổng lồ đang chồm lên con thuyền bé nhỏ. To khủng khiếp, nó chồm đến sát cạnh ông, da nó nhầy nhẫy nước, và sáng lấp lóa.

Tất cả những hình bóng mờ ảo ấy biến mất. Chỉ còn lại những tiếng động. Tiếng kim loại nghiến vào kim loại. Tiếng sắt nghiến vào băng. Gần, gần hơn. Kéo những xác người đi.

Rachel...

Tolland thấy mình bị lôi đi một cách thô bạo.

Rồi tất cả chìm trong màn đêm.

Chương 64

Gabrielle Ashe chạy thục mạng lên phòng sản xuất trên tầng ba của tòa nhà Đài truyền hình ABC, ấy thế nhưng những người đang làm việc trong tòa nhà này còn chạy nhanh hơn cô. Cường độ làm việc cao, hai mươi tư giờ mỗi ngày là đặc điểm của căn phòng này, nhưng lúc này, căn phòng thậm chí còn mang dáng vẻ của văn phòng thị trường chứng khoán vào giờ cao điểm. Những biên tập viên mặt mày căng thẳng đang ý ới gọi nhau, nhiều nhân viên tay cầm những tờ fax chạy qua chạy lại từ ô này sang ô khác để so sánh thông tin, vài nhân viên vừa hít những ống ngửi Snicker và Mountain Dew vừa thở hổn hển sau những cuốc chạy lăng xăng khắp căn phòng lớn.

Gabrielle đến đây để gặp Yolanda Cole.

Thường thì Yolanda ở trong khu văn phòng tường kính dành cho những nhà quản lý cần có sự yên tĩnh để suy nghĩ. Nhưng tối nay Yolanda ở trong phòng lớn, giữa cảnh vội vã nhốn nháo này. Trông thấy Gabrielle, chị thốt lên vui vẻ, cởi mở như mọi khi.

"Chào Gab!" Yolanda mặc váy hoa, đeo cặp kính có gọng hình mu rùa. Như mọi khi, chị đeo vô số đồ trang sức sặc sỡ trên người vâ quần áo. Chị vừa tiến về phía Gabrielle vừa vẫy vẫy tay. "Ôm hôn nhau đã nào!"

Yolanda Cole là biên tập viên nội dung cho chương trình thời sự của Đài ABC đã được mười sáu năm. Do chị có dáng người béo lùn, nhiều tàn nhang, đầu hơi hói nên mọi người ở đây thường gọi đùa chị là "U già". Đằng sau vẻ ngoài nghiêm nghị và phong cách hài hước của chị là sự nhạy bén và kỹ năng khai thác tin siêu việt. Chị gặp Gabrielle trong buổi tọa đàm về phụ nữ và chính trị mà Gabrielle tới dự hồi mới lên thủ đô. Hai người đã nói về khả năng của Gabrielle, về những thách thức một phụ nữ sẽ phải đối mặt khi sống và làm việc ở Washington, và cuối cùng là về Elvis Presley - niềm đam mê mà hóa ra cả hai cùng chia sẻ. Yolanda đã che chở cho Gabrielle, giúp cô tạo dựng những mối quan hệ cần thiết. Cứ mỗi tháng một lần, Gabrielle lại ghé thăm Yolanda.

Gabrielle ôm hôn Yolanda thật chặt. Sự nhiệt tình của chị ngay lập tức khiến cô thấy phấn chấn hơn.

Yolanda lùi lại một bước và ngắm Gabrielle. "Trông em như già một trăm tuổi vậy, cô bé ạ. Có chuyện gì thế?"

Gabrielle hạ thấp giọng: "Em đang gặp chuyện chẳng lành, Yolanda ạ".

"Câu này nghe hơi vô lý đấy. Ngài ứng cử viên của em đang thắng thế cơ mà".

"Có chỗ nào để chị em mình nói chuyện riêng một chút được không?"

"Không đúng lúc rồi, em yêu ạ. Khoảng nửa tiếng nữa Tổng thống sẽ tổ chức một cuộc họp báo. Và bọn chị vẫn chưa có chút manh mối nào về nội dung cuộc họp. Chị phải chạy chương trình bình luận của nhà phân tích, lại đang phải làm mò đây này".

"Em biết nội dung cuộc họp báo đó".

Cặp kính của Yolanda trễ hẳn xuống sống mũi, trông đầy hoài nghi. "Gabrielle này, người đưa tin của em trong nội bộ Nhà Trắng cũng không biết gì về cuộc họp này cơ mà. Em bảo là Thượng nghị sĩ Sexton biết trước nội dung rồi à?"

"Không. Em bảo là cá nhân em có thông tin. Cho em xin năm phút thôi. Em sẽ nói cho chị biết".

Yolanda đưa mắt nhìn chiếc phong bì màu đỏ của Nhà Trắng trong tay Gabrielle: "Cái phong bì này là của Nhà Trắng. Em lấy ở đâu ra thế?"

"Sau cuộc gặp riêng với Marjorie Tench chiều nay".

Yolanda nhìn cô hồi lâu. "Nào, đi theo chị".

Trong căn phòng tường kính của Yolanda. Gabrielle đã kể hết về đêm ân ái giữa cô và Thượng nghị sĩ Sexton, cái đêm mà Tench đã có những bức ảnh làm bằng chứng.

Yolanda cười lớn, lắc đầu, nhiên là chị làm nghề báo ở Washington đã đủ lâu để không còn bị bất ngờ bởi bất cứ điều gì nữa. "Gab này, chị đã có linh cảm là em và ông Thượng nghị sĩ thể nào cũng quan hệ với nhau. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông ta có danh tiếng, con em lại xinh đẹp. Những bức ảnh này quả là tệ. Nhưng chẳng có gì đáng lo ngại đâu em ơi".

Không có gì đáng lo?

Gabrielle giải thích rằng Tench có chứng cứ cho thấy Sexton nhận những khoản tiền hiến tặng bất hợp pháp từ các công ty vũ trụ, và cô vừa nghe lỏm được một cuộc họp bí mật của SFF cho thấy đó đúng là sự thật. Lại một lần nữa, vẻ mặt của Yolanda chẳng hề thay đổi mãi cho đến khi Gabrielle nói ra ý định của cô.

Lúc này. Yolanda có vẻ lo lắng. "Gabrielle này, nếu em muốn công khai chuyện đã qua đêm với một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và không muốn dính líu đến những lời nói dối trá của ông ấy thì đấy là chuyện của riêng em. Nhưng chị nói em nghe, đó là một quyết định tồi. Em phải suy nghĩ thật kỹ càng, thật chín chắn về những hậu quả của những hânh động ấy".

"Chị chẳng hiểu gì cả. Em làm gì còn thời gian".

"Chị hiểu hết. Em yêu này, dù cho thời gian vẫn đang trôi, có những điều em không được phép làm. Em không thể hạ bệ một Thượng nghị sĩ bằng vụ xì căng đan ái tình. Như thế là tự sát. Nghe chị đi, em bé, nếu em định hạ bệ một ứng cử viên Tổng thống thì trước tiên hãy lên xe và lái đi thật xa thủ đô Wasington. Người ta sẽ treo thưởng cho kẻ nào bắt được em. Người ta phải chi những khoản tiền lớn mới đôn được một ứng cử viên lên. Đây là vấn đề quyền lực và tiền bạc - thứ mà người ta sẵn sàng giết nhau để giành giật đấy!"

Lúc này, Gabrielle lặng im...

"Theo chị", Yolanda nói, "bà Tench chỉ hù dọa tí chút với hy vọng rằng em sẽ quá sợ hãi và làm điều gì đó ngu ngốc - chẳng hạn như rút lui hoặc thú nhận vụ việc này. - Yolanda chỉ chiếc phong bì màu đỏ trong tay Gabrielle. - Những bức ảnh chụp em cùng với Sexton sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu cả em lẫn ông ta đều không công nhận chúng. Nhà Trắng biết rằng nếu họ xì những bức ảnh này thì ông Sexton sẽ lập tức nói rằng đây chỉ là ảnh giả và phản đòn lại Tổng thống".

"Em cũng đã nghĩ đến chuyện ấy, nhưng còn trò nhận hối lộ thì..."

"Này cô bé của chị, em hãy nghĩ mà xem. Nếu Nhà Trắng vẫn chưa công khai chuyện đó thì tức là họ sẽ không làm điều đó. Tổng thống tỏ ra khá kiên định về vấn để vận động tranh cử một cách tích cực. Chị đoán là ông ấy định chặn trước vụ tai tiếng về ngành công nghiệp vũ trụ. Ông ta bảo bà Tench lừa gạt em chút xíu, dọa cho em sợ đến nỗi phải thú nhận vụ tình ái, đây chỉ là một đòn đánh lén thôi".

Gabrielle phân vân. Yolanda có lý, nhưng cô vẫn chưa hết băn khoăn. Cô đưa tay chỉ phòng sản xuất tin thời sự đang nhốn nháo: "Yolanda này, nhân viên của chị đang chuẩn bị tường thuật buổi họp báo của Tổng thống. Nếu không phải chuyện tình ái và hối lộ thì ông ấy sẽ nói về cái gì đây?"

Yolanda có vẻ ngạc nhiên: "Hượm đã nào, em cho rằng em và ông Sexton là nội dung của buổi họp này sao?"

"Hoặc là chuyện nhận hối lộ, hoặc là cả hai. Tench bảo là em được phép suy nghĩ đến tám giờ tối, chậm hơn thì đích thân Tổng thống sẽ công bố..."

Yolanda cười sặc sụa, cười rung cả căn phòng kính. "Ôi! Chị xin em! Em làm chị chết mất!"

Gabrielle chẳng có lòng dạ nào mà cười. "Chị bảo sao?"

"Gab, em nghe chị đi", Yolanda cố nhịn cười "tin chị đi. Chị đã làm việc với Nhà Trắng mười sáu năm nay rồi. Không đời nào Zach Herney sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông chỉ để tuyên bố rằng ông ta nghi ngờ có chuyện nhận hối lộ hay chuyện có người lén lút ăn nằm với nhau. Loại thông tin như thế thì người ta chỉ rỉ tai cánh nhà báo thôi. Cướp thời lượng của tất cả các chương trình khác chỉ để kêu ca, phàn nàn về sex hay những nghi ngờ về tài chính mờ ám trong tranh cử sẽ càng làm cho ông ta mất điểm trong mắt mọi người".

"Mờ ám à?" Gabrielle nhảy dựng lên. "Đem bán rẻ bản thân chỉ để lấy vài triệu đô la cho việc quảng bá tên tuổi của mình mà chỉ là chuyện mờ ám thôi sao?"

"Em có chắc chắn là ông ấy đang thực sự làm thế không?" Giọng nói của Yolanda lúc này trở nên nghiêm trang. "Em có tin chắc đến nỗi công bố trên tivi chuyện đó không? Em nghĩ mà xem. Thời đại này làm gì cũng phải có phường có hội, và tài chính là vấn đề rất phức tạp. Biết đâu cuộc gặp đó của ông Sexton là hợp pháp thì sao?"

"Ông ấy đang vi phạm pháp luật". Gabrielle nói, chẳng phải thế hay sao?

"Rất có thể đấy chỉ là luận điệu của Marjorie Tench mà thôi. Các ứng cử viên vẫn thường xuyên nhận những khoản hiến tặng kín đáo của các tập đoàn lớn. Chuyện đó có thể không đẹp đẽ gì, nhưng chưa chắc đã là phạm pháp. Thực ra hầu hết các điều luật đều đề cập đến chuyện chi tiêu như thế nào chứ không phải chuyện tiền từ đâu mà có".

Gabrielle lưỡng lự, không còn dám chắc như trước nữa.

"Gab này, chiều nay Nhà Trắng đã chơi em một vố đấy. Họ định chia rẽ em và vị ứng cử viên của em. Và cho đến lúc này thì em đã cắn câu rồi. Nếu cần có một người để mà tin tưởng thì có lẽ em nên chọn ông Sexton hơn là nhảy sang thuyền của Tổng thống để làm một người như Marjorie Tench".

Điện thoại của Yolanda đổ chuông. Chị trả lời, gật gù, ghi ghi chép chép. "Hay lắm". Cuối cùng chị nói "Tôi sẽ đến đó ngay, cảm ơn nhé".

Yolanda gác máy, quay lại nhìn cô: "Gab này, có vẻ như em không làm sao cả, đứng như chị dự đoán".

"Chuyện gì thế?"

"Chị chưa có thông tin chính xác, nhưng ít ra cũng biết được rằng cuộc họp báo của Tổng thống sẽ không đề cập đến chuyện ầm ỹ về sex hay tài chính nào cả".

Gabrielle chợt thấy tràn đầy hy vọng, và ước ao đó là sự thật. "Làm sao chị biết được?"

"Có một người trong nội bộ Nhà Trắng vừa rỉ tin rằng nội dung cuộc họp là về NASA".

Gabrielle ngồi thẳng dậy: "NASA à?"

Yolanda nháy mắt tinh nghịch: "Biết đâu đêm nay em lại may mắn. Chị đoán là do sức ép của Thượng nghị sĩ Sexton nên Nhà Trắng buộc phải bỏ dự án sân bay vũ trụ quốc tế đấy. Cho nên họ mới huy động tất cả các phương tiện truyền thông toàn cầu như thế chứ".

Họp báo để thông báo hủy bỏ dự án sân bay vũ trụ sao? Gabrielle không thể tin nổi.

Yolanda đứng dậy. "Bà Tench nói chuyện với em chiều nay phải không? Rất có thể đó chỉ là đòn nhử để gây thêm khó khăn cho ông Sexton trước khi Tổng thống tiến hành họp báo để thông báo tin xấu nào đó. Không thể dùng một chuyện nhảm nhí kiểu như xì căng đang về sex để đánh lạc hướng dư luận khỏi những thất bại của Tổng thống đâu. Dù sao thì chị cũng có rất nhiều việc. Bây giờ em hãy tự pha cho mình một ly cà phê, bật ti vi của chị lên, rồi ngồi đây, cùng mọi người ở đây đợi xem có chuyện gì. Còn hai mươi phút nữa là cuộc họp báo bắt đầu. Chị cam đoan với em là tối nay Tổng thống không đề cập đến vấn để mà em lo sợ đâu. Ông ấy muốn cả thế giới phải chú ý lắng nghe. Cho nên đó phải là một vấn đề vô cùng quan trọng". Yolanda nháy mắt nhìn Gabrielle đầy khích lệ. "Nào, đưa cho chị cái phong bì".

"Gì ạ?"

Yolanda chìa tay ra. "Những bức ảnh này sẽ được khóa kỹ trong ngăn tủ của chị cho đến khi mọi chuyện kết thúc. Chị muốn đảm bảo là em không làm điều gì ngu ngốc".

Miễn cưỡng. Gabrielle đưa chiếc phong bì cho Yolanda.

Yolanda cất chiếc phong bì vào một ngăn kéo tủ, khóa lại cẩn thận rồi bỏ dùa khóa vào túi. "Rồi em sẽ cảm ơn chị, Gab ạ. Chị thế đấy". Vừa đi ra, Yolanda vừa tinh nghịch lùa tay vào tóc Gabrielle. "Ngồi yên nhé. Chị tin là sắp có tin tốt lành rồi đấy".

Gabrielle ngồi một mình trong căn phòng kính, cố giữ cho tinh than phấn chấn như lúc vẫn còn có Yolanda ở đố. Tuy nhiên, nụ cười đầy mãn nguyện và xảo quyệt của Mal)one Tench cứ lởn vởn trong tâm trí cô. Không biết Tổng thống sắp công bố với cả thế giới chuyện gì, nhưng chắc chắn điều đó không có lợi cho Thượng nghị sĩ Sexton.

Chương 65

Rachel Sexton cảm tưởng như cô đang bị người ta thiêu sống.

Một trận mưa lửa!

Cô cố mở mắt, nhưng chỉ nhìn thấy những cái bóng lờ mờ trong một vùng ánh sáng chói loà. Xung quanh cô mưa rơi xối xả. Những giọt mưa nóng bỏng. Rơi như quất xuống da thịt cô. Trong tư thế nằm nghiêng, cô cảm thấy từng luồng nước bỏng rát đang chảy bên dưới mình. Rachel thu mình, như đứa trẻ nắm trong bụng mẹ, cố tránh luồng chất lỏng bỏng rát đang xối xả tuôn xuống. Có mùi hóa chất. Có thể là chất Chroline. Cô cố bò ra chỗ khác, nhưng không thể. Những bàn tay rất khỏe đang túm chặt lấy hai vai, đè cô xuống:

Thả tôi ra! Tôi bị bỏng mất!

Theo bản năng, cô lại cố thoát ra, và lại một lần nữa bị giữ chặt. "Yên nào". Một người đàn ông lên tiếng. Tiếng Anh. Giọng Mỹ, âm chuẩn. "Sẽ hết nhanh thôi mà".

Cái gì sẽ hết? Cô băn khoăn. Cơn đau ư? Cuộc sống của tôi ư? Cô cố nhìn cho rõ. Nơi này quá sáng. Căn phòng rất nhỏ. Chật chội. Trần rất thấp.

"Tôi bị bỏng!" Tiếng thét của Rachel nghe chỉ như thì thào.

"Không sao đâu". Người đó nói. "Nước này chỉ âm ấm thôi. Tin tôi đi!"

Rachel nhận thấy cô gần như không mặc gì, trên người chỉ còn lại bộ quần áo lót ướt sũng. Cô không thấy ngượng, trí não cô côn đang bận bịu với quá nhiều câu hỏi.

Mọi sự kiện ùa về trong tâm trí. Phiến băng. Bức ảnh chụp cắt lớp. Cuộc tấn công. Họ là ai? Tôi đang ở đâu? Cô cổ ghép những sự kiện với nhau, nhưng đầu óc mụ mẫm. Trong tâm trí hỗn độn mụ mị chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Michael và Corky... họ đâu cả rồi?

Rachel cố nhìn cho rõ, nhưng chỉ thấy được những người đang đứng bên cô. Tất câ bọn họ đều mặc quần áo lặn mầu xanh.

Cô muốn nói, nhưng miệng không thốt nên lời. Cảm giác bỏng rát ở da giờ bị thế chỗ cho những cơn đau buốt chạy dọc suốt các cơ bắp, như những chẩn động địa tầng.

"Hãy thả lỏng cơ thể". Người đàn ông đang cúi xuống bên cô nói. "Phải để cho máu lưu thông trở lại trong hệ cơ của cô". Anh ta nói y như thầy thuốc. "Cô hãy cố gắng cử động chân tay càng nhiều càng tốt".

Những cơn đau chạy xuyên khắp cơ thể cổ như thể từng đường gân thớ thịt đang bị ai lấy búa nện. Cô nằm trong luồng nước chảy, ngực co thắt lại, không thở nổi.

"Hãy cử động chân và tay đi". Ông ta ra lệnh. "Đau cũng phải cố".

Rachel cố. Mỗi lần cử động là một lần như có dao đâm vào từng khớp xương. Những tia nước lại một lần nữa chuyển thành nóng. Lại bị bỏng rát. Cơn đau như xé vẫn tiếp tục. Đúng lúc Rachel không thể chịu đựng hơn được nữa, có người tiêm cho cô một mũi. Cơn đau giảm đi nhanh chóng, cảm giác nhức nhối giảm dần. Những cơn co giật giảm dần. Rachel lại bắt đầu thở được.

Một cảm giác khác lại chạy suốt cơ thể cô - cảm giác bị kim châm. Mọi nơi - như dao đâm - mạnh dần lên, mạnh dần lên.

Hàng triệu mũi kim đang châm rất mạnh, châm ở bất cứ vùng nào trên cơ thể mà cô cử động. Rachel cố không cử động, nhưng những tia nước đau rát cứ tiếp tục xối thẳng vào cô. Những người đàn ông này vẫn giữ chặt hai cánh tay của cô, ép cô phải cử động.

Chúa ơi! Đau quá! Quá yếu, cô không thể chống cự lại. Đau đớn và kiệt sức, nước mắt chảy tràn xuống hai má Rachel. Cô nhắm chặt hai mắt lại, không nhìn gì nữa.

Rốt cuộc, cảm giác kứn châm cũng bắt đầu giảm dần. Cơn mưa cũng ngừng. Rachel mở mắt ra, và bắt đầu nhìn được rõ hơn.

Lúc này cô mới nhìn thấy họ.

Ngay gần cô, Corky và Tolland đang nẳm run rẩy, ướt sũng.

Nhìn vẻ đau đớn trên nét mặt hai người. Rachel đoán họ cũng vừa trải qua những cảm giác y như mình. Đôi mắt nâu của Tolland trông đỏ ngầu và đờ đẫn. Nhìn thấy Rachel, ông cố nở một nụ cười, nhưng đôi môi tái xám chỉ hơi run run.

Rachel cố ngồi dậy, nhìn quang cảnh lạ lùng xung quanh. Cả ba người, chân tay vẫn còn đang nm rẩy, chỉ mặc đồ lót, đang nằm trong một phòng tắm chật hẹp.

Chương 66

Những cánh tay to khoẻ nhấc bổng cô lên.

Những người xa lạ ấy lau khô người cho Rachel rồi ủ cô vào trong chăn. Cô được đặt lên chiếc giường y tế và được mát xa khắp hai cánh tay, hai cẳng chân, đến tận bàn chân. Một người tiêm một mũi nữa vào cánh tay cô.

"Adrenaline đấy". Một người nói.

Thứ thuốc ấy lan tỏa khắp huyết mạch Rachel như dòng nhựa sống, đánh thức các bắp thịt. Dù khắp vùng bụng vẫn co thắt lại và vô cùng khó chịu, Rachel thấy máu bắt đầu chảy trở lại trong hai cánh tay và cẳng chân...

Trở về từ thế giới bên kia.

Cô căng mắt nhìn. Corky và Tolland đang nằm trên hai chiếc giường khác gần đó, run rẩy, cũng được được mát xa và tiêm thuốc. Không nghi ngờ gì nữa, những người đàn ông xa lạ này đã cứu mạng cô. Nhiều người trông ướt sũng chắc chắn vì đã tận tình giúp đỡ cho cô trong phòng tắm. Không cần biết họ là ai và làm thế nào mà cứu sống được cả ba người. Chúng ta còn sống.

"Chúng tôi... đang ở đâu?" Rachel gắng sức nói, và chỉ chừng đó cũng đủ để đau cô đau như dần.

Người đàn ông đang mát xa cho cô trả lời:

"Các vị đang ở trong khoang y tế của tàu Los Angeles..."

"Trên tàu!" Một người khác nói to.

Đột nhiên cảm thấy chiếc giường đang lắc lư, Rachel gắng ngồi dậy. Một người đỡ cô dậy, rồi quấn chăn quanh người cho cô Rachel dụi mắt và thấy một người sải bước vào phòng.

Người mới vào này là người Mỹ gốc Phi đầy quyền lực. Đường bệ và quyền lực. Ông mặc bộ đồng phục bằng vải kaki. "Nghỉ". Ông ra lệnh cho mọi người rồi tiến về phía Rachel, dừng lại bên giường, và đôi mắt đen mạnh mẽ nhìn cô chăm chú.

"Harold Brown". Giọng ông trầm ấm, đầy uy lực. "Thuyền trưởng tàu Charlotte. Còn cô là ai?"

Tàu Charlotte, Rachel thầm nghĩ. Cái tên nghe quen quen.

"Sexton..." cô đáp, "tôi là Rachel Sexton".

Ông ta có vẻ bối rối, tiến lại gần, nhìn cô kỹ hơn. "Tôi thật đáng trách, đúng là cô rồi".

Rachel chẳng hiểu gì. Ông ta biết mình là ai. Rachel không thể nhận ra con người này, cô chăm chú quan sát khuôn mặt, rồi nhìn tấm phù hiệu trên ngực áo của ông. Rachel thấy biểu tượng con chim ó quắp cái mỏ neo, xung quanh là dòng chữ "Hải quân Hoa Kỳ".

Lúc này cô mới vỡ lẽ vì sao cái tên Charlotte lại quen tai đến thế.

"Chào mừng cô đã lên tàu của chúng tôi, thưa cô Sexton". Viên thuyền trưởng nói "Nhật ký hàng hải của tàu chúng tôi hôm nay sẽ có tên cô. Tôi biết cô".

"Nhưng các vị làm gì ở vùng bờ biển này thế?" Cô lắp bắp hỏi.

Mặt ông ta hơi nghiêm lại:

"Thưa cô Sextont thật ra thì tôi cũng đang muốn hỏi cô câu đó đấy".

Lúc này Tolland cũng đã ngồi dậy, mấp máy môi, muốn nói. Rachel lắc đầu ra hiệu bảo ông đừng nói gì. Không phải lúc này. Không phải ở nơi này. Chắc chắn thứ đầu tiên mà hai nhà khoa học này muốn nhắc tới chính là tảng thiên thạch, nhưng họ không được phép nói chuyện đó trước mặt thủy thủ đoàn ở đây. Trong ngành tình báo, dù tình huống có cấp bách đến đâu thì Quyền tiếp cận thông tin vẫn là mối quan tâm số một, và tảng thiên thạch thuộc vào loại thông tin tối mật.

"Tôi cần phải báo cáo với Giám đốc Cơ quan An ninh quốc gia William Pickering". Cô bảo ông thuyền trưởng. "Nói chuyện riêng, ngay bây giờ".

Vị thuyền trưởng nhướng mày, rõ ràng là ông không quen bị người khác ra lệnh, nhất là trên con tàu của mình.

"Tôi có thông tin tối mật cần báo cáo với ông ấy".

Thuyền trưởng chăm chú nhìn cô hồi lâu. "Hãy để cho thân nhiệt của cô ổn định lại đã, sau đó tôi sẽ nối liên lạc cho cô với Giám đốc NRO".

"Việc gấp lắm, thưa thuyền trưởng: Tôi phải..." Rachel đột ngột ngừng lời. Cô vừa nhìn thấy chiếc đồng hồ treo trên nóc tủ thuốc.

19:51 tối.

Rachel chớp chớp mắt: "Chiếc đồng hồ kia có chính xác không ạ?"

"Cô đang ở trên tàu của tôi, thưa quý cô. Đồng hồ ở đây lúc nào cũng chính xác".

"Và đây là múi giờ đông chứ?"

"7:51. Giờ đông. Chúng ta đang ở ngoài vùng biển Norfolk".

Lạy Chúa! Rachel sững sờ. Mới có 7.51 thôi sao? Cảm tưởng như đã lâu lắm rồi kể từ lúc họ ra khỏi bán sinh quyển. Vẫn chưa đến tám giờ cơ à? Tổng thống vẫn chưa công bố về tảng thiên thạch! Vẫn có thể bảo ông ấy dừng lại! Cô lập tức tuột xuống khỏi giường, quấn chăn chặt quanh người. Hai chân Rachel run rẩy. "Tôi cần phải nói chuyện với Tổng thống ngay bây giờ".

Vị thuyền trưởng bối rối: "Cô vừa nhắc đến ai cơ?"

"Tổng thống Hoa Kỳ!"

"Tôi tưởng cô muốn gặp William Pickering?"

"Không còn thời gian nữa. Tôi phải nói chuyện với Tổng thống".

Ông ta không nhúc nhích, với vóc người to lớn, ông đứng chặn ngay trước mặt Rachel. "Theo tôi biết thì Tổng thống sắp bắt đầu một cuộc họp báo rất quan trọng. Chắc ông ấy không nghe điện thoại vào lúc này đâu".

Hai chân vẫn run rẩy yếu ớt, nhưng Rachel vẫn cố sức đứng thật thẳng, mắt nhìn xoáy vào viên thuyền trưởng: "Thưa thuyền trưởng vì ông không có quyền tiếp cận thông tin mật nên tôi không thể giải thích được. Nhưng Tổng thống sắp phạm phải một sai lầm lớn. Tôi có thông tin rất quan trọng và ông ấy cần được thông báo ngay. Nào, xin thuyền trưởng hãy tin tôi".

Ông ta chằm chẳm nhìn cô thêm một hồi lâu nữa. Nhíu mày, rồi lại kiểm tra đồng hồ đeo tay. "Chín phút thôi à? Thế thì tôi không thể nối đường dây nội bộ cho cô với Nhà Trắng được. Chỉ có thể dùng điện thoại sóng vệ tinh thông thường thôi. Và như thế thì chúng ta sẽ phải đi xuống phòng ăng ten, mất vài..."

"Thế thì ta đi ngay thôi!"

Chương 67

Phòng tổng đài của Nhà Trắng nằm ở lầu một, chái nhà Đông. Các tổng đài viên luôn luôn túc trực ở đây. Tuy nhiên, lúc này chỉ có hai nhân viên đang làm việc. Người thứ ba vừa chạy sang phòng thông tin. Trên tay cô là một chiếc máy điện thoại không đây. Cô đã cố sức nối liên lạc với phòng bầu dục, nhưng Tổng thống đang bận chuẩn bị họp báo. Cô đã thử gọi vào máy cầm tay của các trợ lý Tổng thống, nhưng trước giờ phát sóng, tất cả các máy cầm tay đều phải tắt hết để khỏi làm ảnh hưởng đến tiến trình cuộc họp.

Những lúc như thế này thì tốt nhất là cầm máy không dây chạy thẳng lên phòng của Tổng thống, nhất là trong trường hợp nhân viên cấp cao của NRO đã khẳng định rằng cô ấy có một thông tin khẩn mà Tổng thống cần phải được báo cáo trước khi lên hình. Người nhân viên tổng đài đang vừa đi vừa chạy. Vấn để là không biết cô có lên đó kịp hay không.

Trong một phòng nhỏ thuộc khu y tế của tàu ngầm Charlotte, Rachel đang dí sát ống nghe vào tai và đợi Tổng thống nhấc máy. Tolland và Corky đều đang ngồi bên cô, vẫn chưa hết run rẩy. Corky bị khâu năm mũi, một bên má tím bầm. Cả ba người đều đã mặc những bộ quần áo giữ nhiệt bó sát người, bên ngoài là những bộ đồng phục hải quân dày dặn, chân đi những đôi tất len to, và cả giày hải quân nữa. Tay cầm cốc cà phê loãng. Rachel bắt đầu cảm thấy lại người đôi chút.

"Sao lâu thế nhỉ?" Tolland sốt ruột. "Gần bảy giờ năm mươi sáu rồi".

Rachel không thể tin nổi. Cô đã kết nối thành công với nhân viên tổng đài của Nhà Trắng, giải thích cho cô nhân viên ở đó rằng đây là một trường hợp hết sức khẩn cấp. Cô ta đã tỏ ra rất thông cảm, và bảo cô chờ máy. Lúc này chắc cuộc gọi của Rachel đang trở thành ưu tiên số một tại tổng đài, đợi nối máy với Tổng thống.

Bốn phút nữa thôi, cô thầm nghĩ, nhanh lên nào!

Nhắm mắt lại, Rachel cố sắp xếp lại những suy nghĩ trong trí não. Mình đang ở trên tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân, cô tự bảo mình, thầm biết rằng thật may mắn biết bao cả ba mới được có mặt tại đây: Theo lời thuyền trưởng, tàu Charlotte đã đi tuần tiễu biển Bering suốt hai ngày trước đó, và họ nhận được những âm thanh rất lạ từ phiến băng Milne vọng đến - tiếng khoan máy, tiếng máy bay trực thăng, rất nhiều cuộc điện đàm được mã hóa. Con tàu đã được chỉ thị trực tiếp là phải nằm im để theo dõi. Cách đây một giơ, họ nghe thấy có tiếng nổ và đến để kiểm tra. Đúng lúc đó thì thấy có tín hiệu cấp cứu của Rachel.

"Còn ba phút nữa?" Lúc này trông Tolland vô cùng sốt ruột, ông liên tục nhìn đồng hồ.

Rachel cũng rất nôn nóng. Sao lâu vậy không biết? Sao Tổng thống không nghe điện? Nếu Zach Herney công bố những con số ông đang có trong tay thì...

Rachel xua ý nghĩ ấy ra khỏi đầu và nắm chặt ống nghe. Nhấc máy lên đi nào!

Chạy lên đến ngưỡng cửa phòng thông tin, cô nhân viên tổng đài thấy rất đông nhân viên đang tụ tập ở đó. Ai nấy đều đang sôi nổi bàn luận, tiến hành những bước chuẩn bị cuối cùng.

Cách họ khoảng hai mươi mét, ở ngay lối vào, Tổng thống đang đứng đợi. Các nhân viên hóa trang vẫn còn đang sửa sang đầu tóc cho ông.

"Cho tôi qua nào!" Cô vừa nói to vừa cố len qua đám đông "Điện thoại của Tổng thống đây! Xin lỗi, cho tôi đi nhờ nào!"

"Hai phút nữa bắt đầu truyền trực tiếp", người phụ trách thiết bị phát sóng kêu to.

Tay xiết chặt điện thoại, cô nhân viên tiếp tục rẽ đám đông để đến gần Tổng thống. "Điện thoại của Tổng thống đây!" Cô thở hổn hển. "Cho tôi đi cái nào!"

Một người cao lều nghều bước tới đứng chắn lối của cô. Marjorie Tench. Cố vấn cấp cao của Tổng thống nhìn cô nhăn nhó khó chịu: "Chuyện gì thế?"

"Khẩn cấp ạ!" Cô nói không ra hơi. "Điện thoại của Tổng thống ạ".

Tench tỏ vẻ không bằng lòng: "Lúc này thì không được!"

"Cô Rachel Sexton gọi cho Tổng thống. Cô ấy nói là việc rất gấp ạ!"

Bà cố vấn nhăn nhó, mặt tối sầm lại, vừa ngạc nhiên vừa bực bội. Bà ta nhìn chiếc máy điện thoại. "Đây là đường dây thông thường. Có phải đường dây an ninh đâu".

"Đúng thế ạ. Nhưng tại vì đường dây kia đang bận mất rồi. Đây là điện thoại sóng vệ tinh. Cô ấy nói là có thông tin cần báo cáo với Tổng thống ngay lập tức".

"Chín mươi giây nữa bắt đầu phát trực tiếp!"

Tench lạnh lùng nhìn cô nhân viên tổng đài, rồi chìa ra cánh tay dài thõng: "Đưa điện thoại cho tôi".

Trống ngực cô nhân viên trẻ đẵp thình thình. "Cô Sexton muốn nói chuyện trực tiếp với Tổng thống. Cô ấy còn dặn tôi yêu cầu hoãn cuộc họp báo cho đến khi cô ấy báo cáo với Tổng thống xong thì mới được bắt đầu. Tôi tin chắc là..."

Lúc này Tench lại gần cô nhân viên, khẽ rít lên: "Cô nghe tôi cho thật rõ mà liệu việc nhé. Cô phải làm theo mệnh lệnh của tôi chứ không phải của con gái ứng cử viên đối lập! Tôi đảm bảo là Tổng thống sẽ được biết chuyện này ngay sau khi tôi tìm hiểu cặn kẽ mọi sự".

Cô nhân viên tổng đài đưa mắt nhìn Tổng thống, lúc này đang bị các nhân viên kỹ thuật, các nhân viên hóa trang và mấy nhân viên thân cận vây kín xung quanh, hoàn tất những chi tiết cuối cùng trước khi ông bắt đầu phát biểu.

"Sáu mươi giây nữa!" Một kỹ thuật viên lại hô to.

Trên tàu Charlotte, đang bồn chồn đi đi lại lại trong căn phòng hẹp thì Rachel Sexton nghe thấy một tiếng bíp phát ra từ máy điện thoại.

Có người cất lên một chất giọng rin rít: "Alô?"

"Tổng thống Herney đấy ạ?" Rachel buột miệng thốt lên.

"Marjorie Tench đây", đầu dây bên kia trả lời, "tôi là cố vấn cấp cao của Tổng thống. Dù cô là ai đi nữa thì cũng xin nhắc trước rằng gọi điện đến phá quấy Nhà Trắng là vi phạm đạo luật..."

Lạy Chúa tôi! "Đây không phải là trò phá quấy! Tôi là Rachel Sexton, là nhân viên của NRO đây mà..."

"Tôi biết cô Rachel Sexton, nhưng làm sao tôi biết được cô có phải là cô ấy hay không. Cô gọi đến đây bằng đường dây thông thường, và lại còn đòi chen ngang vào buổi truyền hình trực tiếp của Tổng thống. Dù có là ai đi chăng nữa thì đây cũng không phải là hành vi..."

"Bà nghe đây", Rachel phát cáu "cách đây chưa đầy một giờ, tôi vừa thông báo vắn tắt cho nhân viên của bà về tảng thiên thạch. Bà ngồi ngay hàng đầu. Còn tôi nói với mọi người từ một màn hình đặt ngay trên bàn làm việc của Tổng thống! Bà còn hỏi gì nữa không?"

Bà ta im lặng một lúc. "Cô Sexton, thế này nghĩa là sao?"

"Nghĩa là bà phải bảo Tổng thống dừng ngay! Tất cả các chỉ số về tảng thiên thạch đó đều sai toét! Chúng tôi vừa mới phát hiện được rằng người ta đã khoan phiến băng từ dưới đáy và đưa ngược tảng thiên thạch lên vị trí đó. Tôi không biết ai làm việc đó! Và cũng không biết để làm gì! Nhưng mọi sự không như chúng tôi tưởng. Tổng thống sắp sửa công bố những dữ liệu hoàn toàn sai lệch, và tôi khuyên ông ấy..."

"Từ từ đã nào!" Tench hạ giọng. "Cô có ý thức được mình đang nói gì không đấy?"

"Có chứ! Tôi ngờ rằng Giám đốc NASA đã dựng lên một trò lừa cỡ bự, và Tổng thống sắp bị sa lầy vào giữa mớ bòng bong đó. Ít ra thì bà hãy bảo Tổng thống hoãn buổi truyền hình lại mười phút để tôi giải thích với ông ấy mọi sự ở đây. Có người đã cố tình sát hại tôi!"

Giọng của Tench trở nên lạnh như băng: "Cô Sexton, tôi xin cảnh báo cô thế này. Nếu cô định đổi ý và giúp đỡ cha cô trong chiến dịch tranh cử thì cô nên làm điều đó từ trước khi cô thông báo với các nhân viên Nhà Trắng về tảng thiên thạch kia".

"Cái gì?" Bà ta có chịu nghe đâu.

"Tôi rất phẫn nộ trước cách xử sự của cô. Cô định bóng gió rằng tảng thiên thạch đó là giả hay sao? Nhân viên an ninh gì mà lại dùng đường dây điện thoại thông thường để báo cáo tin tuyệt mật? Rõ ràng là cô muốn có người nghe lén được cuộc đàm thoại này".

"Vì chuyện này mà Norah Mangor đã bị giết! Tiến sĩ Ming cũng đã chết. Bà phải báo với Tổng thống là..."

"Thôi ngay đi! Tôi không biết cô đang định giở trò gì, nhưng xin nhắc cho cô nhớ - và cả bất kỳ người nào vô tình nghe thấy cuộc nói chuyện này - rằng Nhà Trắng có trong tay lời chứng thực của các chuyên gia hàng đầu của NASA, các nhà khoa học dân sự danh tiếng, và của cả chính cô nữa, cô Sexton ạ, rằng những dữ liệu về tảng thiên thạch là hoàn toàn chính xác. Nếu cô bất ngờ muốn phản thùng thì tôi có thể hiểu được thôi. Dù mục đích của cô có là gì đi nữa, thì từ phút này trở đi cô không còn là nhân viên Nhà Trắng nữa, còn nếu cô vẫn cố tình dùng những lời buộc tội vô căn cứ để bài xích phát kiến này là giả dối, thì tôi sẽ lôi cổ cô ra tòa nhanh đến nỗi cô không kịp gói ghém chút hành lý nào để mang vào nhà đá đâu".

Rachel mở miệng định nói, nhưng không thốt nổi thành lời.

"Zach Herney đã tỏ ra rất rộng lượng với cô rồi đấy", bà ta tiếp tục đốp chát "nói thẳng ra là tôi thấy hành động này sặc mùi quảng bá rẻ tiền của nhà Sexton. Cô phải dừng lại ngay, nếu không tôi sẽ viện đến pháp lý. Tôi thề đấy".

Đường dây bị ngắt.

Rachel vẫn còn đang kinh ngạc há hốc miệng thì thuyền trưởng đã gõ cửa.

"Thưa cô Sexton" ông ta ngó đầu vào và nói "chúng tôi vừa nhận được những tín hiệu không rõ nét lắm từ Đài Phát thanh quốc gia Canada. Tổng thống Zach Herney đã bắt đầu cuộc họp báo rồi".

Chương 68

Đứng trên bục phát biểu trong phòng thông tin của Nhà Trắng, dưới ánh đèn trường quay sáng rực và ấm áp, Zach Herney biết cả thế giới đang chăm chú dõi theo ông. Đòn tấn công dồn dập của bộ phận báo chí Phủ Tổng thống đã tạo ra không biết bao nhiêu lời đồn thổi và phỏng đoán trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những ai không nghe được bản tin này trên tivi, trên đài hay tải được tin này từ mạng internet xuống thì sẽ được nghe hàng xóm, người nhà, và đồng nghiệp kể cho nghe. Đến tám giờ tối, cả thế giới, trừ những ai sống trong các hang động, đều đang đoán già đoán non về nội dung cuộc họp báo của Tổng thống. Trong các quán bar, trong từng phòng ngủ trên khắp hành tinh, hàng triệu người đang hướng về màn hình tivi, chăm chú, băn khoăn.

Chính trong những giờ phút như thế này - những lúc đối diện với cả thế giới - Herney cảm thấy sức nặng của chiếc ghế ông đang nắm giữ. Chỉ những ai chưa bao giờ trải qua cảm giác này mới có thể khẳng định rằng quyền lực là thứ không gây nghiện. Tuy nhiên, khi bắt đầu bài phát biểu của mình, ông hơi cảm thấy bất an. Vốn không phải là người biết sợ ánh đèn trường quay, nỗi e sợ đang len lỏi trong lòng khiến ông cảm thấy ngạc nhiên.

Chẳng qua chỉ vì cử tọa lần này quá lớn, ông tự nhủ. Thế nhưng ông tự biết còn có một lý do nữa. Bản năng của ông ông vừa trông thấy một việc.

Chỉ là chi tiết rất nhỏ, ấy thế nhưng...

Ông tự bảo mình hãy quên đi. Chi tiết đó chẳng có nghĩa gì hết. Nhưng nó cứ hiện lên trong tâm trí ông.

Tench.

Cách đây mấy giây, lúc chuẩn bị bước lên bục phát biểu, ông thấy Tench đứng ở cửa ra vào, tay cầm máy điện thoại không dây.

Lạ lùng. Lạ lùng hơn nữa là cô nhân viên tổng đài đang đứng nói gì đó với Tench, mặt tái nhợt vì sợ hãi. Herney không thể nghe được cuộc hội đàm trên điện thoại của Tench, nhưng ông đoán chắc đó là câu chuyện căng thẳng. Tench nói với vẻ tức tối mà Tổng thống gần như chưa bao giờ thấy - đặc biệt người nổi cáu lại là Tench. Ông đã ngập ngừng một giây, nhìn thẳng vào mắt Tench dò hỏi.

Tench đưa ngón cái lên ra dấu hiệu khuyến khích. Herney chưa bao giờ thấy Tench giơ ngón cái lên làm hiệu với bất kỳ ai. Đó là chi tiết cuối cùng lọt vào trí não khi Herney đến giờ phải bước lên bục.

Cùng với một số nhà khoa học hàng đầu của NASA, Giám đốc Lawrence Ekstrom đang ngồi chính giữa bên chiếc bàn hội nghị được kê trên tấm thảm màu xanh trải trong khu báo chí, trong bán sinh quyển của NASA trên hòn đảo Ellesmere. Trên màn hình lớn đặt ngay trước mặt họ, người ta đang truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Tổng thống. Các nhân viên khác của NASA đang xúm xít quanh những màn hình khác, đang hồ hởi lắng nghe vị tổng tư lệnh phát biểu khai mạc buổi họp báo...

"Xin chào..." Herney nói, vẻ không tự nhiên, khác hẳn lệ thường. "Chào đồng bào của tôi, chào những người bạn của tôi trên khắp thế giới..."

Ekstrom trân trân nhìn tảng đá cháy xém, to xù xì được đặt trang trọng trước mặt ông. Rồi ông quay sang nhìn một màn hình bên cạnh, thấy trong đó cảnh ông đang ngồi bên những cộng sự ăn mặc rất giản dị, sau lưng họ là lá quốc kỳ cỡ lớn và biếu tượng của NASA Hệ thống chiếu sáng được bố trí rất cẩn thận, tạo ấn tượng như họ đang ngồi trước một bức tranh vẽ theo trường phái tân cổ điển - mười hai vị tông đồ đang ngồi ăn bữa tối cuối cùng. Zach Herney đã biến cuộc họp báo này thành chương trình tuyên truyền nặng tính chính trị. Herney làm gì có cách nào khác đâu. Ekstrom chợt thấy mình giống như người lính tiên phong ngoài biên thuỳ, chuẩn bị xả thân vì Chúa.

Khoảng năm phút nữa, Tổng thống sẽ giới thiệu Ekstrom và các cộng sự của ông. Rồi sau đó, bằng tín hiệu vệ tinh, NASA sẽ tham gia vào cầu truyền hình, công bố tin trọng đại cho cả thế giới được biết. Đầu tiên sẽ là phần giới thiệu sơ qua về trình tự dẫn đến phát kiến, ý nghĩa của nó đối với ngành thám hiểm vũ trụ, sau đó là vài lời chúc tụng. Tiếp đó, NASA và Tổng thống sẽ rút lui, nhường màn ảnh lại cho nhà khoa học danh tiếng Michael Tolland. Bộ phim tài liệu của ông sẽ kéo dài khoảng mười lăm phút. Cuối cùng, Ekstrom và Tổng thống sẽ chào tạm biệt, kèm theo những lời hứa sẽ cung cấp thêm thông tin vào những buổi họp báo tiếp theo của NASA.

Ngồi đợi đến lượt mình lên hình, Ekstrom thấy vô cùng hổ thẹn. Ông đã biết từ trước rằng sẽ có cảm giác này. Ông không hề ngạc nhiên.

Ông đã nói dối..., những lời giả dối thậm tệ.

Tuy nhiên, lúc này, những lời giả dối ấy không còn là nỗi sầu muộn lớn nhất trong lòng ông. Còn có vấn đề khác trầm trọng hơn nhiều.

Trong phòng sản xuất của hãng truyền hình ABC, Gabrielle Ashe đứng vai kề vai với những người cô không quen biết. Tất cả đều ngửa mặt nhìn lên dãy màn hình được treo trên trần nhà. Tiếng xì xào nổi lên khi buổi họp báo bắt đầu. Gabrielle nhắm chặt mắt, thầm cầu nguyện rằng khi mở mắt ra cô sẽ không trông thấy thân thể loã lồ của mình trên màn hình.

Nhà riêng của Thượng nghị sĩ Sexton tràn ngập cảm giác phấn khích. Tất cả các vị khách của ông đều đã đứng cả dậy, mắt dán chặt vào màn hình tivi cỡ lớn trong phòng.

Zach Herney đang phát biểu trước toàn thế giới, ấy thế mà màn chào hỏi của ông có vẻ rất lúng túng. Ngài Tổng thống có vẻ không tự tin.

Ông ta đang run, Sexton nghĩ thầm. Ông ta có bao giờ run đâu.

"Nhìn kìa". - Một vị khách nói khẽ. "Chắc là tin xấu rồi".

Liệu có phải là vấn đề sân bay vũ trụ hay không đây? Sexton tự hỏi.

Herney nhìn thẳng vào ống kính máy quay và hít thật sâu: "Thưa các quý vị, nhiều ngày nay, tôi đã trăn trở về chuyện sẽ công bố tin này như thế nào..."

Dễ thôi mà. Thượng nghị sĩ Sexton thầm nhắc. Cứ nói ra sự thật.

Herney dành vài phút để giãi bày rằng vì NASA bỗng nhiên trở thành vấn để nóng bỏng trong chiến dịch tranh cử này, ông muốn ngỏ lời xin lỗi vì phải công bố tin tức trọng đại này vào thời điểm không được thích hợp cho lắm.

"Tôi chỉ ước giá mình được công bố điều này vào bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử". Ông nói. "Sức ép về chính trị lúc này có thể khiến cho những người lãng mạn nhất cũng trở lên hoài nghi. Tuy nhiên, trên cương vị Tổng thống, tôi buộc phải chia sẻ với quý vị những thông tin mà tôi nhận được". Ngài Tổng thống cười mỉm. "Có vẻ như sự huyền diệu của vũ trụ là cái gì đó không ăn nhập cho lắm với khái niệm về thời gian của loài người..., đặc biệt là đối với một vị Tổng thống".

Mọi người trong nhà Thượng nghị sĩ Sexton đều đồng nhất thu mình lại. Cái gì?

"Cách đây hai tuần", Herney nói "máy quét cắt lớp địa cực của NASA trên quỹ đạo đã quét qua phiến băng Milne trên đảo Ellesmere, một địa điểm bên trên vĩ tuyến 88, nằm trên biển Bắc".

Sexton và các vị khách của mình bối rối nhìn nhau.

"Thiết bị này của NASA", Herney nói tiếp "đã phát hiện được một tảng đá lớn có độ đậm đặc cao bị vùi sâu trong dòng sông băng, cách bề mặt hai trăm foot". Lúc này Herney mỉm nụ cười đầu tiên, lấy lại sự tự tin. "Khi dữ liệu được truyền về, NASA ngay lập tức nghĩ đến khả năng họ tìm được một tảng thiên thạch".

"Một tảng thiên thạch à?" Sexton thốt lên. "Có gì ghê gớm đâu!"

"NASA đã phái một nhóm nhân viên đến phiến băng đó để lấy mẫu về. Đó chính là thời điểm NASA đã..." Tổng thống ngừng một lát "Thẳng thắn mà nói, họ vừa có một phát kiến khoa học tầm cỡ thế kỷ".

Sexton tiến lại gần tivi, đầy vẻ ngờ vực. Không thể nào... Các vị khách của ông cũng bắt đầu cảm thấy bất an.

"Thưa các quý vị" Herney tuyên bố "cách đây vài giờ đồng hồ, NASA vừa trục vớt lên từ lớp băng vĩnh cửu của Bắc Cực một tảng thiên thạch nặng tám tấn, bên trong nó là..." Ngài Tổng thống lại lỡ lời một lần nữa, khiến cho cả thế giới phải nhoài người về phía trước chờ đợi. "Đó là một tảng thiên thạch chưa hóa thạch của sự sống. Hàng chục mẫu hóa thạch. Đó là những bằng chứng không thể chối cãi về sự sống trong vũ trụ.

Rất đúng lúc, hình ảnh lớn loé sáng lên sau lưng ngài Tổng thống - một hình phác họa tuyệt hảo mô phỏng một hóa thạch hình con bọ rất lớn giữa tảng đá cháy xém".

Trong căn hộ riêng của Sexton, cả sáu nhà kinh doanh đều đứng bật lên, mắt mở to kinh hãi. Còn bản thân ông Thượng nghị sĩ thì đứng yên như trời trồng.

"Thưa các quý vị", Tổng thống lại nói tiếp "mẫu hóa thạch sau lưng tôi có niên đại 190 triệu năm. Nó nằm trong một mảnh vỡ của tảng thiên thạch có tên là Jungersol Fall, tảng thiên thạch này đã rơi xuống Bắc Băng Dương cách đây gần ba thế kỷ. Thiết bị chụp cắt lớp địa cực trái đất từ vệ tinh của NASA đã tìm thấy mảnh vỡ của nó bị chôn vùi trong lòng một phiến băng lớn. NASA, cùng với Chính phủ, trong suốt hai tuần qua đã thận trọng kiểm tra lại tất cả các dữ liệu để chứng minh cho phát kiến vĩ đại này trước khi công bố rộng rãi. Ngay sau đây, quí vị sẽ được nghe những lời phát biểu của rất nhiều nhà khoa học thuộc biên chế của NASA cũng như các nhà khoa học độc lập, sẽ có cả đoạn phim tài liệu ngắn do đích thân một nhà khoa học danh tiếng sản xuất, tôi tin chắc là quí vị sẽ nhận ra anh ấy ngay lập tức. Nhưng trước hết, tôi xin giới thiệu với quí vị, tại đầu cầu Bắc Cực, một người mà sự quyết đoán, tầm nhìn xa trông rộng, và những nỗ lực của anh ấy đã mang lại cho chúng ta giây phút lịch sử này. Tôi xin hân hạnh giới thiệu Lawrence Ekstrom, Giám đốc đương nhiệm của NASA".

Tươi cười, Herney quay về phía màn hình.

Hình ảnh tảng thiên thạch lập tức được thay bởi cảnh các nhà khoa học của NASA đang ngồi bên một chiếc bàn dài, ở chính giữa là vóc người to lớn của Lawrence Ekstrom.

"Cảm ơn Tổng thống". Ekstrom đứng lên, nhìn thẳng vào ống kính máy quay, vẻ mặt đầy mãn nguyện. "Tôi vô cùng tự hào được chia sẻ với quí vị giây phút vinh quang này - giây phút tuyệt vời nhất trong toàn bộ quá trình tồn tại của NASA".

Ekstrom say sưa kể về NASA và phát kiến vĩ đại của họ. Với điệu bộ rất phô trương, đầy đắc thắng, ông giới thiệu đoạn phim tài liệu của nhà khoa học danh tiếng Michael Tolland.

Thượng nghị sĩ Sexton xem phim, quì sụp xuống sát bên chiếc tivi, vò đầu bứt tai. Không thể nào! Chúa ơi! Không thể nào!

Chương 69

Giận tím gan. Marjorie Tench rút lui khỏi phòng thông tin nhộn nhịp quay về phòng làm việc của mình ở chái nhà phía tây. Chẳng còn lòng dạ nào mà vui vẻ chúc tụng. Cú điện thoại của Rachel Sexton quả là vô cùng bất ngờ.

Vô cùng thất vọng.

Tench đóng sập cửa, sải bước đến bên bàn làm việc và gọi cho tổng đài của Nhà Trắng. "William Pickering. NRO".

Châm một điếu thuốc, bà ta đi đi lại lại trong phòng, chờ nhân viên tổng đài nối máy với Pickering. Thông thường thì buổi tối ông ta ở nhà. Tuy nhiên, do Nhà Trắng công bố buổi họp báo một cách bất ngờ và dồn dập. Tench đoán rằng tối nay ông ta sẽ ở lại văn phòng, sẽ dán chặt mắt vào màn hình tivi, thầm băn khoăn không hiểu có chuyện gì trên đời mà Giám đốc NRO lại không được biết trước.

Tench tự nguyền rủa bản thân vì không chịu làm theo linh cảm của mình. Khi Tổng thống nói rằng ông ấy muốn cử Rachel Sexton đến phiến băng Milne, Tench đã rất cảnh giác và cho rằng đó là nước cờ mạo hiểm không cần thiết. Nhưng Tổng thống đã ra sức thuyết phục rằng trong những tuần vừa qua, đội ngũ nhân viên của Nhà Trắng đã trở nên hoài nghi: Nếu để cho bất kỳ ai khác trong đội ngũ của họ công bố tin này, sẽ có những ngờ vực. Đúng như Herney đã hứa, sau khi nghe Rachel Sexton thông báo về phát kiến này, không một ai nghi ngờ, không một ai bàn ra tán vào, và toàn bộ nhân viên Nhà Trắng đã tỏ ra đồng tâm hiệp lực vì mục đích chung. Rất giá trị, Tench buộc phải thừa nhận điều đó. Ấy thế nhưng lúc này, Rachel Sexton đột ngột phản lại.

Đồ quạ khoang lại còn gọi điện bằng đường dây không an toàn nữa chứ.

Rõ ràng là cô ta quyết tâm phá cho được phát kiến này. Niềm an ủi duy nhất của Tench lúc này là Tổng thống đã ra lệnh ghi lại những lời nói lúc chiều của Rachel. Ơn Chúa. Ít ra thì Herney đã nghĩ đến chuyện giữ lại chút bằng chứng để làm vật bảo đảm. E rằng họ sẽ cần đến nó.

Tuy nhiên, lúc này, bà cố vấn đang tìm cách hạn chế đổ máu bằng những con đường khác. Rachel Sexton là người có đầu óc và nếu cô ta thực sự đối đầu với Nhà Trắng và NASA, cô ta sẽ tìm cách lôi kéo đồng minh. Lựa chọn số một của cô ta chắc chắn sẽ là Wilham Pickering. Tench vốn đã biết thái độ của ông ta đối với NASA. Lúc này cần phải liên hệ với Pickering trước khi Rachel kịp hành động.

"Thưa bà Tench". Trong máy điện thoại, giọng nói rất đặc trưng của Pickering vang lên. "William Pickering đây. Vì sao mà tôm có vinh hạnh nhận được điện thoại của rồng thế này?"

Tench nghe rõ mồn một tiếng tivi trong máy - bộ phim tài liệu về NASA. Nghe giọng nói thì biết ông ta vẫn còn đang choáng váng về những gì vừa nghe thấy. - Tôi có thể xin ông một phút được không, thưa Giám đốc?

"Tôi tưởng bà còn phải chúc tụng người này kẻ nọ. Quả là một đêm nhớ đời. Có vẻ như NASA và Tổng thống đã quay trở lại đường đua".

Giọng nói của William thể hiện sự ngạc nhiên cao độ, và cả một chút chua chát. Chắc chắn là vì con người này vốn rất ghét được thông báo về mọi sự kiện trên đời vào cùng một thời điểm với đại chúng.

"Tôi xin lỗi", Tench nói lấy lòng, "Nhà Trắng và NASA không có điều kiện báo trước cho anh về việc này".

"Chị cũng đã biết", Pickering nói "NRO đã phát hiện những hoạt động của NASA ở Cực Bắc cách đây mấy tuần. Chúng tôi đã cho điều tra".

Tench nhíu mày. Chỉ tổ mất thì giờ. "Vâng, tôi biết. Nhưng mà..."

"NASA nói với chúng tôi rằng không có chuyện gì cả. Họ còn bảo rằng đó chỉ là một đợt tập dượt cho quen với những điều kiện thời tiết đặc trưng. Kiểm tra các trang thiết bị, đại loại thế". Pickering ngừng một lát. "Chúng tôi đã bị lừa".

"Gọi là lừa thì hơi quá". Tench nói. "Đó chỉ là đánh lạc hướng mà thôi. Vì tầm quan trọng của phát kiến này, tôi nghĩ anh cũng hiểu vì sao NASA phải tuyệt đối im lặng".

"Chỉ làm thế với dân chúng thôi thì đúng hơn".

Hờn dỗi không phải là tính cách của Pickering, nhưng tình huống này hơi khác thường một chút, Tench biết thế. "Tôi chỉ nói chuyện được với anh trong vòng một phút tôi", Tench nói để tỏ rõ uy quyền của mình, "và tôi phải cảnh báo anh trước".

"Cảnh báo tôi à?" Cơn giận dỗi của Pickering chuyển thành sự chế giễu. "Hay là Zach Herney mới quyết định bổ nhiệm Giám đốc mới cho NRO với quan điểm thân NASA hơn?"

"Dĩ nhiên là không. Tổng thống hiểu rằng những căng thẳng giữa anh và NASA chẳng qua là vì chuyện anh ninh quốc gia mà thôi và ông ấy vẫn hết sức cố gắng để dàn xếp cho êm đẹp. Tôi gọi thế này là vì nhân viên của anh". Bà ta ngừng một lát. "Rachel Sexton. Tối nay cô ta đã liên lạc với anh chưa?"

"Chưa. Sáng nay tôi đã cử cô ấy sang Nhà Trắng theo yêu cầu của Tổng thống. Chắc các vị đã bắt cô ấy phải bận rộn liên tục đến giờ. Chưa thấy cô ấy quay về".

Tench nhẹ người nhận thấy mình đã gọi cho Pickering trước. Bà ta rít thuốc rồi điểm tĩnh nói: "Tôi nghĩ là cô Sexton sẽ gọi cho anh ngay bây giờ đấy".

"Thế thì tốt. Tôi đang đợi điện của cô ấy đây. Phải nói thật là từ khi Zach Herney công bố cuộc họp báo, tôi đã ngờ rằng các vị sẽ lợi dụng cô ấy để tuyên truyền. Tôi rất hài lòng thấy cô ấy không bị lôi kéo vào việc này".

"Zach Herney là người tử tế". Tench nói. "Tôi e là tử tế hơn cái cô Rachel Sexton đó nhiều".

Đường dây im lặng một lúc lâu. "Tôi hy vọng vừa mới nghe nhầm".

Tench thở dài nặng nhọc. "Không đâu, đáng tiếc là anh không nghe nhầm. Tôi không muốn nói những chuyện kiểu này trên điện thoại nhưng mà Rachel Sexton hình như đang rắp tâm bôi xấu NASA và phát kiến của họ. Không biết làm sao mà sau khi thông báo về tảng thiên thạch cho tập thể nhân viên ở Nhà Trắng xong, cô ta đột nhiên quay ngoắt một trăm tám mươi độ và bây giờ lại tung ra luận điệu khủng khiếp rằng phát kiến của NASA là một sự lừa dối và xảo trá".

Pickering trở nên cảnh giác: "Cái gì cơ?"

"Phức tạp lắm. Dù không muốn nhưng tôi buộc phải nói lại với anh là hai phút trước khi buổi họp báo bắt đầu, cô Sexton đã gọi điện cho tôi và yêu cầu hủy bỏ cuộc họp đó".

"Lý do là gì?"

"Lý do ngớ ngẩn, phảì thừa nhận là thế. Cô ta nói rằng đã phát hiện thấy những sai sót lớn liên quan đến những dữ liệu về tảng thiên thạch".

Sự im lặng kéo dài, đầy hoài nghi của Pickering làm cho Tench thấy không thoải mái chút nào. "Sai sót à?" Cuối cùng thì ông ta cũng lên tiếng...

"Rất lố bịch, thật đấy, sau khi NASA đã dành những hai tuần lễ để kiểm tra cẩn thận và..."

"Tôi tin là một người như Rachel Sexton sẽ không bao giờ yêu cầu Tổng thống ngừng buổi họp báo lại nếu cô ấy không có lí do nào đó rất chắc chắn". - Giọng Pickering có vẻ đầy băn khoăn. "Có thể là chị đã không chịu nghe cô ấy trình bày".

"Tôi xin anh!" Tench buột miệng, vừa nói vừa ho. "Anh đã xem buổi họp báo rồi đấy. Dữ liệu về tảng thiên thạch đã được không biết bao nhiêu nhà khoa học khẳng định đi khẳng định lại rồi. Kể cả các nhà khoa học dân sự. Chẳng lẽ anh không thấy khả nghi hay sao? Con gái của người duy nhất không được lợi lộc gì từ phát kiến mới này bỗng nhiên thay đổi hẳn thái độ".

"Có vẻ khả nghi, chị Tench ạ, nhưng là vì tôi tình cờ biết rằng hai cha con Thượng nghị sĩ Sexton chẳng hề thân thiện với nhau chút nào. Điều mà tôi không thể hiểu nổi là sau bao nhiêu năm làm việc cho Tổng thống, tại sao cô Sexton đột nhiên lại thay đổi thái độ và muốn giúp sức cho cha mình đến thế".

"Có thể là vì tham vọng chăng? Tôi làm sao mà biết được. Có thể là vì muốn được làm con gái của Tổng thống..." Tench bỏ ngỏ câu nói.

Giọng của Pickering đột nhiên trở nên đanh thép: "Vớ vẩn, chị Tench ạ, lý do đó chẳng có gì thuyết phục hết".

Bà trợ lý quắc mắt giận dữ. Nhưng đây là lẽ đường nhiên. Bà đang công kích một trong những nhân viên mẫn cán nhất của ông ta. Chắc chắn ông ta phải bảo vệ người của mình rồi.

"Để chuyện này đấy". Pickering tuyên bố. "Tôi muốn đích thân nói chuyện với cô ấy".

"Tôi e là không thể được". Tench đáp. "Cô ta không có mặt trong Nhà Trắng".

"Thế thì ở đâu?"

"Sáng nay Tổng thống đã phái cô ấy lên phiến băng Milne để đích thân xem xét tảng thiên thạch. Giờ vẫn chưa về tới đây".

Lúc này Pickering trở nên giận dữ. "Không một ai báo gì với tôi hết?"

"Tôi không có thì giờ lo chuyện ai đó cảm thấy tự ái vì bị động chạm đâu, ông Giám đốc ạ. Tôi gọi thế này là lịch sự lắm rồi đấy. Tôi cảnh báo anh là Rachel Sexton đang rắp tâm hành động chống lại những gì vừa được công bố tối nay. Cô ta sẽ phải tìm đồng tình. Nếu cô ta có gọi cho anh, thì anh cũng nên tỏ ra khôn ngoan mà nhớ rằng chiều nay cô ta đã khẳng định những dữ liệu đó trước toàn bộ nhân viên Nhà Trắng, từ một màn hình đặt ngay trên bàn của Tổng thống. Chúng tôi đã cho thu băng rồi. Nếu bây giờ, vì bất kỳ động cơ nào, Rachel Sexton có bất kỳ hành động nào bôi xấu danh dự của Zach Herney và NASA, tôi thề với anh là Nhà Trắng sẽ khiến cho cô ta không ngóc nổi đầu lên đâu". Bà ta đợi giây lát, để những lời đó thật ngấm vào đầu Pickering. "Tôi mong rằng anh sẽ đáp lễ cú điện thoại lịch sự này của tôi bằng cách báo ngay cho tôi biết nếu cô ta gọi cho anh. Cô ta đã công kích Tổng thống một cách trực diện, và Nhà Trắng có ý định tạm giữ cô ta để thẩm vấn trước khi cô ta kịp có bất kỳ động thái nào khác. Tôi sẽ đợi điện thoại của anh, Giám đốc ạ. Chỉ có thể thôi. Chúc ngủ ngon".

Marjorie Tench gác máy, biết chắc chưa bao giờ William Pickering bị ai nói vỗ vào mặt kiểu này. Ít nhất thì ông ta cũng biết rằng đây là chuyện hết sức nghiêm trọng.

Trên tầng cao nhất của NRO, William Pickering đứng bên cửa sổ phòng làm việc, nhìn ra bầu trời đêm Virginia. Cú điện thoại của Marjorie Tench quả là rầy rà. Ông cắn môi, cố sắp xếp lại trong đâu những thông tin vừa nghe được.

"Thưa Giám đốc". Thư ký của ông khẽ gõ cửa và nói. "Có một cuộc điện thoại nữa ạ".

"Tôi không nghe đâu". Pickering lơ đễnh đáp.

"Cô Rachel Sexton gọi về ạ".

Ông ta xoay người lại. Tench thật chẳng khác nào thầy bói. "Thế thì nối máy cho cô ấy ngay đi".

"Thưa Giám đốc, cuộc gọi này thực hiện bằng sóng mã hóa AV. Giám đốc có muốn vào phòng họp để nhận điện không ạ?"

Gọi bằng sóng mã hóa AV à? "Cô ấy gọi từ đâu về?"

Cô thư ký nói tên con tàu.

Pickering trợn tròn mắt. Ngạc nhiên, ông hấp tấp băng xuống phòng họp để nhận điện. Cú điện này thì không thể không nhận.

Chương 70

"Phòng chết" trên con tàu Charlotte - được thiết kế tương tự như mô hình của phòng thí nghiệm Bell - có tên gọi chính thức là phòng không tiếng vang. Không có một mặt phẳng song song thông thường nào, căn phòng đạt tiêu chuẩn sạch về âm học - 99,4 phần trăm âm thanh tạo ra trong phòng bị thẩm thấu hết. Do đặc điểm truyền âm của kim loại và nước, các cuộc hội đàm trong các tàu ngầm rất dễ bị nghe lén bằng các loa hút âm gần đó hoặc các micro nghe lén gắn ngoài vỏ tàu. Phòng chết là một căn phòng nhỏ bên trong tàu ngầm, có đặc điểm là không để lọt bất kỳ âm thanh nào ra ngoài. Mọi cuộc hội đàm bên trong cái hộp thẩm âm này đều tuyệt đối an toàn.

Căn phòng trông giống như một cái tủ quần áo xây chìm trong tường, và bề mặt của trần nhà, nền nhà, cũng như của tất cả các bức tường đều phủ đầy những cục bọt biển hình chóp nhô ra từ mọi hướng. Căn phòng này khiến Rachel nghĩ đến cái hang sâu dưới mặt nước, nơi mọi bề mặt đều phủ đầy măng đá. Có lẽ đặc điểm khó thích nghi nhất của căn phòng này là nó không có mặt sàn...

Sàn của nó chỉ là lớp lưới mắt cáo bằng sắt mỏng chăng ngang, trông giống lưới đánh cá, khiến cho bất kỳ ai bước vào phòng cũng có cảm giác đang bị treo lơ lửng trên tường. Tấm lưới được phủ cao su khá êm. Nhìn xuống bên dưới lớp lưới, Rachel cảm tưởng như đang đi trên chiếc cầu treo vắt ngang qua một cảnh siêu thực gồm nhiều mảnh nhỏ ghép lại với nhau. Phía dưới, cách mặt lưới một mét, là một rừng những kim nhọn bằng bọt biển chọc thẳng lên trên, như thế muốn báo điềm xấu.

Vừa bước vào trong phòng. Rachel đã cảm thấy bị mất phương hướng, mất hết sinh lực, như thể bao nhiêu sinh khí đã bị hút hết ra khỏi căn phòng này từ trước. Cảm tưởng như hai tai bị bịt bông. Chỉ nghe thấy mỗi hơi thở của chính mình vang lên từ trong đầu. Cô cất tiếng, và như thế vừa mới úp mặt vào một chiếc gối lớn để nói. Các bức tường lập tức triệt tiêu hết mọi rung động, chỉ những rung động vang lên bên trong trí não là còn giữ lại được.

Lúc này ông thuyền trưởng đã ra khỏi phòng và khép chặt cánh cửa có đệm mút. Rachel, Corky và Tolland đang ngồi bên một cái bàn hình chữ U được đỡ bởi những trụ kim loại nhô lên từ bên dưới lớp lưới sàn. Trên bàn là mấy chiếc microphone hình cổ ngỗng, tai nghe, một màn hình video có gắn một chiếc camera hình mắt cá bên trên. Trông hơi giống một phòng hội nghị thu nhỏ của Liên hợp quốc.

Là nhân viên ngành tình báo Hoa Kỳ - quốc gia đi đầu trên thế giới về sản xuất microphone laze, máy nghe lén dưới nước hình parabol, cũng như nhiều thiết bị thu thanh siêu nhạy khác - Rachel biết hầu như không ở đâu trên trái đất này người ta có thể giữ kín các cuộc hội thoại. Phòng chết hiển nhiên là một nơi an toàn. Những micro trên bàn cho phép người ta thoải mái nói chuyện mặt đối mặt với đầu dây bên kia, yên tâm rằng tất cả những xung động âm thanh đều bị các bức tường triệt tiêu hết. Tiếng nói của họ, sau khi được truyền qua micro, sẽ được mã hóa trước khi được tiếp tục truyền đi trong không trung...

"Kiểm tra kỹ thuật". Một giọng nói đột ngột vang lên trong tai nghe của họ, làm cả Rachelt Tolland, và Corky đều giật mình. "Cô có nghe được không, thưa cô Sexton?"

Rachel nhoài người về phía micro: "Nghe rõ, xin cảm ơn". Dù anh cô là ai đi nữa...

"Tôi đã nối máy cho cô với Giám đốc Pickering. Ông ấy đã nhận được tín hiệu mã hóa. Tôi sắp rút lui. Ngay bây giờ cô sẽ nhận được tín hiệu".

Đường dây im bặt. Có tiếng u u xa xa, sau đó là một loạt những tiếng bíp bíp và lách cách trong tai nghe. Màn hình trước mặt đột nhiên bật sáng, và Rachel nhìn thấy Giám đốc Pickering đang ngồi trong phòng hội nghị. Ông chỉ có một mình. Thấy Rachel, ông ngẩng ngay lên, nhìn thẳng vào mắt cô.

Rachel cảm thấy nhẹ nhõm kỳ lạ khi được thấy ông.

"Cô Sexton", Ông nói, giọng lo lắng. "Có chuyện gì thế?"

"Chuyện tảng thiên thạch, thưa Giám đốc". Rachel đáp. "Vấn đề rất trầm trọng".

Chương 71

Trong phòng chết của con tàu Charlotte, Rachel Sexton giới thiệu Michael Tolland và Corky Marlinson với Pickering. Sau đó cô tường thuật lại tất cả các sự kiện đã diễn ra trong ngày.

Giám đốc NRO ngồi bất động, nghe chăm chú.

Rachel kể về những sinh vật phù du phát sáng trong hố băng, về hành trình ra khỏi bán sinh quyển của họ, về quá trình phát hiện cột băng nước biển bên dưới tảng thiên thạch, cuối cùng là trận tấn công của một lực lượng mà cô tin chắc là đội đặc nhiệm.

William Pickering vốn có tiếng về khả năng lắng nghe những thông tin phức tạp một cách chăm chú và khách quan, ấy thế mà lần này ánh mắt của ông mỗi lúc một thêm băn khoán khi nghe những diễn tiến của câu chuyện. Rachel cảm nhận được thái độ hoài nghi, rồi đến sự phẫn nộ khi ông nghe cô kể về cái chết của Norah Mangor và tình huống thập tử nhất sinh của họ. Dù muốn buộc tội Giám đốc NASA ngay lập tức, cô hiểu Pickering sẽ không tin nếu không có chứng cớ rõ ràng. Nên cô chỉ vắn tắt và khách quan tường thuật lại các chi tiết. Rachel kể xong, Pickering vẫn ngồi bất động thêm vài giây nữa.

"Cô Sexton này", cuối cùng ông lên tiếng "và cả hai vị nữa". Ông lần lượt nhìn cả ba người. "Nếu những sự kiện đó là thực, tôi không có lý do gì để nghĩ rằng các vị nói dối cả. Cả ba người đã quá may mắn được cứu thoát".

Họ yên lặng gật đầu. Tổng thống triệu tập bốn người khoa học dân sự... và hai trong số họ giờ đã không còn.

Pickering thở dài phiền muộn, như thế không biết phải nói gì tiếp. Những sự kiện đó rõ ràng là chưa nói lên gì nhiều. "Liệu có khả năng cái lỗ khoan mà các vị nhìn thấy bên dưới tảng thiên thạch là hiện tượng tự nhiên không?"

Rachel lắc đầu. "Nó quá hoàn hảo". Cô mở tấm ảnh chụp cắt lớp sũng nước ra rồi giơ lên trước camera. "Vô cùng hoàn hảo".

Pickering nhìn kỹ tấm ảnh, gật gù đồng ý. "Đừng để mất tấm ảnh này nhé".

"Tôi đã gọi cho Marjorie Tench và bảo bà ta cho hoãn cuộc họp báo lại", Rachel nói "nhưng bà ta cương quyết không nghe".

"Tôi biết. Bà ta vừa gọi đến đây".

Rachel ngước nhìn lên, kinh ngạc. "Mariorie Tench đã gọi cho Giám đốc rồi cơ à?" Nhanh thật.

"Vừa xong. Bà ta có vẻ lo lắng. Bà ta sợ là cô định bày trò bôi nhọ Tổng thống và NASA. Có lẽ để giúp cho cha cô".

Rachel đứng phắt dậy. Cô vẫy vẫy bức ảnh, chỉ hai nhà khoa học đang ngồi cạnh mình: "Chúng tôi suýt nữa bị giết chết! Trông cảnh này có giống trò ma giáo để bôi xấu ai không? Tại sao tôi lại phải..."

Pickering đưa tay lên ra hiệu: "Bình tĩnh. Bà Tench không nói cho tôi biết là cô còn cùng với hai nhân vật nữa".

Rachel không nhớ nổi bà ta có cho cô cơ hội để nhắc đến Tolland và Corky hay không nữa.

"Bà ta cũng không nói với tôi là cô có bằng chứng trong tay. Pickering nói tiếp. - Trước khi nói chuyện với cô thì tôi cũng đã nghi ngờ lời nói của bà ta rồi, và giờ tôi tin chắc chắn là bà ta đã sai. Tôi không hề nghi ngờ lời nói của cô. Vấn đề bây giờ là điều này có nghĩa là gì".

Tất cả im lặng hồi lâu...

William Pickering thường chẳng bao giờ tỏ ra bối rối, thế mà lúc này đang đăm chiêu lắc đầu. "Cứ giả sử là có người đã cố tình đặt tảng thiên thạch vào trong lòng phiến băng. Dẫn đến câu hỏi không thể tránh được - mục đích của họ là gì. Nếu NASA có một tảng thiên thạch chứa các mẫu hóa thạch thì tại sao họ lại phải quan tâm đến thế về địa điểm phát hiện ra nó?"

"Có vẻ như" Rachel nói, "người ta đã đưa tảng đá vào trong lòng phiến băng để thiết bị PODS phát hiện được nó, và tảng thiên thạch có liên hệ với một hiện tượng được nhiều người biết đến".

"Sự kiện Jungersol Fall". Corky nói thêm vào.

"Nhưng giá trị của tảng thiên thạch này có liên quan gì đến địa điểm tìm ra nó đâu?" Pickering hỏi, trông như thể ông sắp phát điên đến nơi. "Chẳng phải các hóa thạch là phát kiến vĩ đại của mọi thời đại hay sao? Dù có liên quan đến hiện tượng sao băng hay không thì cũng có ảnh hưởng gì đâu?"

Tất cả cùng gật gù.

Pickering do dự, trông rất buồn phiền. "Trừ phi.., dĩ nhiên là..."

Rachel thấy những ý nghĩ đang vụt qua cái nhìn của Giám đốc. Ông đã tìm ra lời giải thích đơn giản nhất cho hành động cố tình đặt tảng thiên thạch vào giữa lòng phiến băng, nhưng đó cũng chính là giả thuyết rầy rà nhất.

"Trừ phi", Pickering nói tiếp, "địa điểm được lựa chọn cẩn thận đến thế là để che giấu những dữ liệu giả mạo". Ông thở dài, quay sang Corky "Thưa tiến sĩ Marlinson, liệu có khả năng tảng thiên thạch đó được làm giả không?"

"Làm giả? Thưa ngài Giám đốc!"

"Đúng thế. Đồ rởm. Do con người tạo ra".

"Một tảng thiên thạch giả sao?" Corky cười gượng gạo. "Không thể nào! Tảng thiên thạch đó đã được các chuyên, gia kiểm tra kỹ. Cả tôi nữa. Chụp cắt lớp, chụp quang phổ, xác định niên đại bằng phương pháp rubidium stronium. Nó không giống với bất kỳ tảng đá nào trên trái đất này. Đó là một tảng thiên thạch thật. Bất kỳ nhà khoa học vũ trụ nào cũng sẽ khẳng định như thế".

Pickering phân vân hồi lâu, tay mân mê cà vạt: "Thế nhưng xét đến những cái mà NASA đạt được nhờ phát kiến này, những biểu hiện muốn tiêu hủy chứng cứ và việc các vị bị tấn công... Kết luận logic đầu tiên mà tôi có thể nghĩ tới đó là tảng thiên thạch giả mạo được làm khéo léo".

"Không thể nào!" Corky lúc này đã phát cáu. "Tôi không hề có ý xúc phạm, thưa ngài Giám đốc, nhưng tảng thiên thạch này không thể giống một tác phẩm kỹ xảo như những bộ phim Hollywood, tạo ra chỉ để loè vài nhà nghiên cứu vũ trụ ngây thơ. Các tảng thiên thạch là những cấu trúc hóa học rất phức tạp với những kết cấu pha lê cùng những thành phần hóa học có một không hai!"

"Tôi không có ý cật vấn ngài, thưa tiến sĩ Marlinson. Tôi chỉ đang lập luận theo logic mà thôi. Nếu không thì tại sao có kẻ lại muốn sát hại ngài để giữ kín việc tảng đá đã được đưa vào trong phiến băng từ bên dưới? Tôi thấy rất nhiều khả năng việc đó có thể xảy ra trong trường hợp này. Chính xác là chi tiết nào khiến ngài tin rằng tảng đá nằm sâu trong băng đó chính là một tảng thiên thạch?"

"Chính xác à?" Giọng nói của Corky như đang rít lên. "Lớp vỏ ngoài bị nóng chảy, sự có mặt của các chondrul, và tỉ lệ chất nikel không giống với bất kỳ hòn đá nào trên trái đất. Nếu ngài muốn nói rằng có kẻ đã chế ra hòn đá này trong phòng thí nghiệm nào đó với mục đích lừa đảo thì xin thưa rằng phòng thí nghiệm đó chắc chắn phải có niên đại 190 triệu năm". Corky lục túi áo và lôi ra mẫu đá trông giống chiếc đĩa CD. Ông ta giơ ra trước camera. "Có rất nhiều phương pháp hóa học cho phép xác định niên đại của những mẫu đá như thế này. Đặc biệt là phương pháp rubidium strodium thì không ai có thể giở trò lừa lọc được!"

Pickering có vẻ ngạc nhiên: "Ngài có một mẫu đá à?"

Corky nhún vai: "NASA có hàng chục mẫu thế này vứt vương vãi khắp nơi".

"Như thế tức là", Pickering lại nói, lúc này quay sang nhìn Rachel "rằng NASA phát hiện một tảng thiên thạch có chứa hóa thạch sinh vật sống, và để cho mọi người tự do mang các mẫu đá đi khắp nơi hay sao?"

"Vấn đề là ở chỗ", Corky nói "mẫu đá trong tay tôi đích thực là của một tảng thiên thạch". Ông ta giơ mẫu đá gần camera hơn nữa. "Ngài có thể đưa mẫu này cho bất kỳ nhà thạch học, nhà vũ trụ học, hay nhà địa chất học nào, họ sẽ tiến hành kiểm tra, và sẽ đều rút ra hai kết luận. Một là, nó có niên đại 190 triệu năm. Hai là, nó có thành phần hóa học khác với bất kỳ loại đá nào trên hành tinh của chúng ta".

Pickering nhoài người về phía trước để nhìn thật kỹ mẫu đá. Dường như hơi kinh ngạc Rồi ông ta thở dài: "Tôi không phải là nhà khoa học. Tôi chỉ biết rằng nếu tảng thiên thạch đó là thật, mà có vẻ là thế thật thì tại sao NASA không đem nó ra giữa thanh thiên bạch nhật? Tại sao có người lại cố tình đặt nó vào trong lòng phiến băng rồi đi thuyết phục để mọi người tin vào tính xác thực của nó?"

Đúng lúc ấy, tại Nhà Trắng, một nhân viên anh ninh đang quay số văn phòng của Marjorie Tench.

Ngay sau hồi chuông đầu tiên, bà trợ lý cấp cao nhấc máy ngay. "Tôi nghe".

"Thưa bà Tench", nhân viên an ninh nói "tôi đã tìm được thông tin bà đang cần. Cú điện thoại bằng đường dây thông thường mà Rachel Sexton gọi cho bà ban nãy. Chúng ta đã xác định được điểm gọi đi".

"Nói đi".

"Bên mật vụ báo rằng tín hiệu được phát đi từ tàu ngầm Charlotte của Hải quân Hoa Kỳ ạ".

"Cái gì?"

"Họ không có được tọa độ, thưa bà, nhưng họ biết chắc tần số sóng vô tuyến của con tàu đó".

"Ôi! Lạy Chúa tôi!" Tench dập mạnh ống nghe, không nói thêm lời nào.

Chương 72

Trong căn phòng cách âm tuyệt đối trên tàu ngầm Charlotte Rachel bắt đầu thấy hơi buồn nôn. Trên màn hình, cặp mắt đầy băn khoăn của William Pickering hướng về phía Michael Tolland. "Sao yên lặng thế, anh Tolland?"

Tolland ngước nhìn lên, cử chỉ giống hệt một sinh viên bất ngờ bị thầy giáo gọi tên. "Thưa ngài?"

"Anh vừa sản xuất một đoạn phim tài liệu vô cùng thuyết phục". Pickering nói. "Lúc này quan điểm của anh về tảng thiên thạch là thế nào?"

"Thưa ngài Giám đốc", Tolland nói, vẻ không thoải mái "tôi cũng buộc phải đồng ý với tiến sĩ Marlinson. Tôi tin rằng những mẫu hóa thạch và tảng thiên thạch là thật. Tôi cũng khá thông thạo các phương pháp xác định niên đại, và tuổi của tảng đá ấy đã được khẳng định bởi nhiều phép thử khác nhau. Cả tỉ lệ nickel nữa. Những dữ liệu ấy không thể giả mạo được. Một điều chắc chắn là tảng đá đó đã hình thành cách đây một trăm chín mươi triệu năm, nó có tỉ lệ nickel khác với các loại đá trên trái đất, và những mẫu hóa thạch bên trong tảng đá cũng hình thành cách đây một trăm chín mươi triệu năm. Tôi nghĩ không thể có cách giải thích nào khác có lẽ NASA đã tìm thấy tảng thiên thạch thật".

Lúc này Pickering ngồi trầm ngâm. Vẻ mặt ông đầy băn khoăn, một sắc thái mà Rachel chưa từng thấy có ở William Pickering.

"Bây giờ ta làm gì, thưa Giám đốc?" Rachel hỏi. "Chắc chắn phải báo ngay cho Tổng thống biết rằng những dữ liệu này có vấn đề".

Pickering nhíu mày. "Hy vọng là Tổng thống vẫn chưa biết gì cả".

Rachel thấy lòng quặn thắt. Hàm ý của Pickering đã quá rõ. Tổng thống Herney có thể có dính líu. Rachel nghi ngờ điều này, nhưng phải thừa nhận rằng trong vụ này, cả Tổng thống và NASA đều được hưởng lợi.

"Rủi thay". Pickering nói. "Chỉ có mỗi bức ảnh chụp cắt lớp bằng sóng siêu âm cho thấy một trục đá nước mặn ở bên dưới tảng thiên thạch. Tất cả những dữ liệu khoa học khác đều cho thấy NASA đã có một phát kiến vô cùng ngoạn mục". Ông ngừng một lát, vẻ trầm trọng. "Và còn chuyện nhóm các vị bị tấn công..." Ông ngước lên nhìn Rachel. "Cô nhắc đến đội đặc nhiệm phải không nhỉ?"

"Vâng, thưa Giám đốc". Rachel một lần nữa kể lại cho ông nghe về loại đạn ngẫu tác.

Càng lúc vẻ mặt Pickering càng khổ sở. Rachel biết sếp của cô đang điểm tên những nhân vật có quyền điều khiển đội đặc nhiệm.

Dĩ nhiên Tổng thống có quyền đó. Cả Marjorie Tench nữa, trên cương vị cố vấn. Rất có thể cả Giám đốc NASA Lawrence Ekstrom, với những mối quan hệ của ông ta trong Lầu Năm Góc. Rachel xem xét rất nhiều khả năng, và nhận ra rằng thế lực đứng đằng sau vụ tấn công ấy có thể là bất kỳ kẻ nào có địa vị cao và những mối quan hệ cần thiết.

"Tôi có thể gọi điện cho Tổng thống ngay bây giờ" Pickering nói "nhưng như thế là thiếu khôn ngoan, ít nhất đến khi chúng ta biết được kẻ nào dính líu vào vụ này. Nếu Nhà Trắng cũng có liên quan thì tôi ít có khả năng bảo vệ an toàn được cho cô. Thêm vào đó cũng chẳng biết phải nói gì với ông ấy. Nếu tảng thiên thạch là thật mà các vị đều cảm nhận thế, thì thông tin về khả năng nó được đưa từ dưới lên chẳng có ý nghĩa gì. Chắc chắn Tổng thống sẽ đặt dấu hỏi liệu những điều tôi nói có xác thực không?" Ông ngưng một lát như thế đang cân nhắc. "Sự thật có là thế nào chăng nữa, kẻ đó là ai chăng nữa, thì một số nhân vật rất quyền thế sẽ bị tổn thương, nếu tin này được công bố ra. Tôi cho rằng phải đưa các vị đến một địa điểm an toàn ngay lập tức trước khi chúng ta có bất kỳ động thái nào".

Đưa chúng tôi đến một địa điểm an toàn ư? Rachel ngạc nhiên. "Thưa Giám đốc, tôi tưởng một tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân thế này đã là an toàn rồi?"

Ánh mắt Pickering đầy hoài nghi: "Sự có mặt của ba người trên con tàu ấy không giữ bí mật được lâu đâu. Tôi sẽ đưa các vị ra khỏi đó ngay lập tức. Thật thà mà nói, tôi sẽ an tâm hơn nhiều nếu lúc này các vị đang ngồi trong phòng làm việc của tôi".

Chương 73

Nằm co quắp trên giường, Thượng nghị sĩ Sexton muốn trốn khỏi thực tại. Căn hộ tại khu Westbrooke của ông, mới cách đây một giờ còn rộn tiếng nói cười, còn tràn ngập tươi vui, còn đầy những người bạn mới, vậy mà giờ thật vắng lặng, tung toé mảnh ly vỡ, danh thiếp vương vãi khắp nơi, bởi các vị khách của ông đã lao ra khỏi căn phòng này theo đúng nghĩa đen của nó.

Giờ đây, Sexton đơn độc nằm co bên chiếc tivi. Ông muốn tắt chiếc máy đi, nhưng lại không thể không nghe những lời bình luận đang được phát trên khắp các kênh. Trên đất Washington này, các bình luận viên dễ dàng bóc tách lớp vỏ khoa học và triết lý giả hiệu lỏng lẻo được sơn vẽ xung quanh sự kiện này để tiếp cận bản chất xấu xa của nó - chính trị. Các phát thanh viên cứ thay nhau nhắc đi nhắc lại sự thật quá hiển nhiên đó, và cứ xát muối mãi lên vết thương đang há miệng của Thượng nghị sĩ.

"Mới vài giờ trước, Thượng nghị sĩ Sexton còn đang lên như diều". Một nhà phân tích nói. "Giờ đây, phát kiến của NASA đã kéo ứng cử viên đối lập này xuống tận đất đen".

Sexton nhăn mặt, với tay lấy chai rượu Courvoisier, rồi tu một ngụm. Ông biết đêm nay sẽ là đêm cô đơn nhất, lê thê nhất trong đời. Ông nguyền rủa Marjorie Tench đã gài bẫy ông. Ông nguyền rủa Gabrielle Ashe đã khơi ra để tài NASA. Ông khinh ghét Tổng thống vì đã quá may mắn. Và ông khinh ghét cả thế gian vì dám cười nhạo ông.

"Rõ ràng đây là đòn chí mạng đối với ngài Thượng nghị sĩ". Nhà bình luận đó lại nói tiếp. "Với phát kiến này. Tổng thống và NASA vừa có một thành tựu lẫy lừng. Những thông tin kiểu này sẽ mang lại cho Tổng thống thế và lực mới, bất kể Thượng nghị sĩ có thể hiện thái độ như thế nào đối với NASA. Đó là chưa kể chiều nay, Thượng nghị sĩ còn lớn tiếng tuyên bố sẽ giải thể NASA nếu cần có thể nói rằng buổi họp báo vừa rồi của Tổng thống là một đòn đúp, và Thượng nghị sĩ sẽ không thể gượng dậy nổi".

Mình bị gài bẫy, Sexton tự nhủ. Lũ chó đó gài bẫy mình.

Lúc này, nhà phân tích vừa nói vừa cười rất tươi: "Sau tất cả những điều tiếng gần đây, NASA đã lấy lại được lòng tin của người Mỹ. Ngoài đường phố lúc này đang tràn ngập tinh thần ái quốc và lòng tự hào dân tộc".

"Như một lẽ dĩ nhiên, dù vẫn yêu quý Zach Herney, dân chúng đã có lúc mất lòng tin vào Tổng thống. Phải thừa nhận rằng trong thời gian qua Tổng thống đã bị công kích khá nặng nề, nhưng rồi ông đã đứng dậy, ngẩng cao đầu và tỏa sáng".

Sexton nhớ lại cuộc tranh luận lúc chiều trên kênh CNN và thấy lòng quặn thắt. Trong suốt những tháng vừa qua, sự trì trệ của NASA cứ dần dần trở nên trầm trọng hơn, rồi tình trạng đó không những đột ngột dừng phắt lại, mà còn trở thành một cái gông đeo cứng vào cổ ông. Lúc này, ông nào có khác gì một thằng đần. Nhà Trắng đã trơ tráo chơi ông một đòn đểu giả. Từ giờ phút này, ông đã bắt đầu thấy sợ những tranh biếm họa sẽ xuất hiện trên các trang báo sáng mai. Tên tuổi ông sẽ trở thành đề tài đàm tiếu của khắp bàn dân thiên hạ. Tất nhiên sẽ chẳng còn khoản tiền hiến tặng bí mật của quỹ SFF nữa. Mọi thứ đều đổi khác. Tất cả những vị khách lúc nãy có mặt trong căn phòng này đều đã chứng kiến những giấc mơ của họ tan thành mây khói. Cỗ xe tư hữu hóa ngành công nghiệp vũ trụ vừa đâm phải một bức tường đá.

Nhấp ngụm Cognac nữa, Thượng nghị sĩ đứng dậy và đến bên bàn. Ông nhìn chiếc điện thoại đã, bị ngắt dây. Tự biết đó chẳng qua là một hình thức tự hành hạ bản thân tàn bạo, ông chậm chạp cắm dây vào, rồi bắt đầu đếm từng giây.

Một... hai... Chuông reo. Ông để máy tự động trả lời.

"Thưa Thượng nghị sĩ Sexton, tôi là Judy Oliver, đài CNN. Tôi muốn dành cho ngài một cơ hội để thể hiện phản ứng của ngài về phát kiến của NASA ngay tối nay. Xin ngài hãy gọi lại cho tôi". Máy ngắt.

Sexton lại tiếp tục đếm. Một... Chuông lại đổ. Ông mặc kệ, để cho máy tự động trả lời một lần nữa. Lại là một nhà báo.

Tay cầm chai rượu Courvoisier, Sexton tiến về phía cánh cửa dẫn ra ngoài ban công. Ông kéo cánh cửa trượt sang một bên và bước ra ngoài trời đêm mát rượi. Tì người vào ban công, ông trân trối nhìn khắp thành phố, nhìn đến tận mặt tiền sáng rực của Nhà Trắng phía xa. Những ánh đèn lung linh như đang cười giỡn với gió đêm.

Khốn nạn, ông thầm nghĩ. Bao thế kỷ nay loài người vẫn ra sức tìm kiếm sự sống trong vũ trụ. Và rồi lại tìm thấy đúng vào năm mình tranh cử. Đấng tạo hóa thật chẳng lấy gì làm sáng suốt cả.

Trong từng khung cửa sổ, ông đều nhìn thấy có tivi. Ông băn khoăn không hiểu tối nay Gabrielle Ashe đang ở đâu: Đây chính là lỗi của cô ta. Chính cô ta đã đưa tin cho ông về hết thất bại này đến thất bại khác của NASA.

Ông giơ chai rượu lên, tợp một ngụm nữa.

Gabrielle chết dẫm... vì cô ta mà mình bây giờ ra nông nỗi này đây.

Ở đầu kia của thành phố, giữa phòng sản xuất náo nhiệt của đài ABC, Gabrielle Ashe thấy toàn thân giá buốt. Buổi họp báo của Tổng thống đã kết thúc, để lại cô sững sờ trong hoang mang, bấn loạn. Cô đứng đó, chôn chân giữa phòng sản xuất, mắt dán chặt vào một màn hình tivi, mặc cho những huyên náo, tất bật vẫn tiếp tục diễn ra quanh mình.

Những lời tuyên bố đầu tiên của Tổng thống đã khiến cho cả phòng sản xuất lặng phắc. Chỉ thoáng chốc sau, tất cả các phát thanh viên trong phòng bắt đầu tất bật vào việc. Họ là những người rất chuyên nghiệp. Họ không có thời gian cho tình cảm cá nhân. Khi nào xong việc họ mới có thì giờ cho thứ đó. Vào thời điểm này, cả thế giới muốn có thêm thông tin, và ABC cần phải thỏa mãn nhu cầu đó. Sự kiện này hội đủ mọi yếu tố - khoa học, lịch sử, và kịch tính trên chính trường - và sẽ gây nhiều xúc động. Không nhân viên nào của ngành công nghiệp truyền thông lại có thể ngủ trong một đêm như thế này.

"Gab?" Giọng Yolanda đầy cảm thông. "Để chị đưa em về phòng của chị trước khi có người kịp nhận ra em và hành hạ em bằng những câu hỏi về chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sexton".

Gabrielle để cho Yolanda dẫn cô qua cả một biển sương mù, đến căn phòng tường kính của chị. Yolanda bảo cô ngồi xuống, rồi đưa cho Gabrielle một ly nước. Chị cố mỉm cười: "Hãy nhìn tình hình bằng con mắt lạc quan, Gab ạ. Chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ thế là đi đời, nhưng em thì không sao hết. Ít ra là thế".

"Vâng. Thật kinh khủng".

Giọng Yolanda chuyển sang nghiêm trang: "Gabrielle này, chị biết em đang rất khổ sở. Ngài ứng cử viên của em vừa bị một đòn chí mạng. Nếu em muốn nghe, dù xin nói là ông ta không thể gượng dậy được đâu. Ít ra là không đủ thời gian để xoay chuyển tình thế trước khi sự đã rồi. Nhưng ít ra thì trên tivi không ai đả động gì đến tên em cả. Nghiêm túc mà nói nhé. Đó là tin tốt lành đấy. Bây giờ Herney chẳng cần đến một vụ scandal nào về sex làm gì nữa. Ông ta giờ đã quá gần chiếc ghế Tổng thống, nên không thể đụng đến vấn đề nhỏ mọn này nữa được đâu".

Lời an ủi này chẳng có tác dụng gì mấy đối với Gabrielle.

"Còn về việc bà Tench buộc tội ngài Thượng nghị sĩ nhận hối lộ thì..." Yolanda lắc đầu "chị không tin, em ạ. Phải thừa nhận là Herney tỏ ra kiên định về chuyện tranh cử một cách tích cực. Cũng phải thừa nhận là cuộc điều tra về hành động nhận hối lộ sẽ tác động xấu đến khí thế của cả nước: Điều chị băn khoăn là liệu Herney có yêu nước đến nỗi bỏ qua cơ hội nghiền nát đối thủ của nmnh hay không, nếu chỉ để bảo vệ tinh thần dân tộc? Chị đoán là bà Tench đưa ra chuyện này chỉ để hù dọa mà thôi. Bà ta nhử đòn, biết đâu em sợ quá mà mất khôn và biếu không cho Tổng thống một vụ scandal về tình dục: Và chính em cũng phải thừa nhận rằng đêm nay chính là thời điểm để đặt câu hỏi về đạo đức của Thượng nghị sĩ Sexton!"

Gabrielle gật đầu một cách yếu ớt. Thêm một vụ tai tiếng về sex nữa thì sự nghiệp của Thượng nghị sĩ quả là không gì cứu vãn nổi... Không bao giờ.

"Em đã thắng bà ta. Marjorie Tench định lập lờ đánh lận con đen, nhưng em không cắn câu. Em chẳng làm sao cả. Còn có rất nhiều chiến dịch tranh cử khác".

Gabrielle lại yếu ớt gật đầu, không biết nên tin tưởng vào cái gì nữa...

"Em cũng phải thừa nhận là", Yolanda nói tiếp "Nhà Trắng đã đánh bại Sexton một cách ngoạn mục - lừa cho ông ấy sa lầy vào đề tài NASA, lừa cho ông ấy phải nói trắng hết ra, rồi đặt tất cả các quân chủ bài trong tay vào cái bẫy giăng sẵn đó".

Hoàn toàn do lỗi của mình, Gabrielle thầm nghĩ.

"Và lạy Chúa, bản tuyên bố mà chị em mình vừa xem xong quả là tuyệt hảo! Chưa kể đến tầm quan trọng của phát kiến này, chỉ riêng khâu sản xuất thôi cũng quá ngoạn mục. Truyền hình trực tiếp từ Bắc Cực này, đoạn phim tài liệu của Michael Tolland này! Chúa ơi, làm sao em cạnh tranh nổi với ông ta cơ chứ? Tối nay Zach Herney đã ghi điểm tuyệt đối. Phải có lý do thì ông ấy mới là Tổng thống của chúng ta chứ!"

Và sẽ ở vị trí ấy thêm bốn năm nữa...

"Chị phải quay lại làm việc đây, Gab". Yolanda nói. "Em thích ngồi đây bao lâu cũng được. Hãy bình tĩnh lại". Yolanda quay ra cửa. "Em bé này, vài phút nữa chị sẽ quay lại đấy".

Còn lại một mình. Gabrielle nhấp một ngụm nước, nhưng cảm thấy miệng đắng ngắt. Mọi thứ đều đáng ngắt. Hoàn toàn do lỗi của mình, cô thầm nghĩ. Gabrielle cố lấy lại sự thanh thản bằng cách nhớ lại tất cả những buổi họp báo sầu thảm của NASA trong những năm qua - dự án sân bay vũ trụ bị chậm tiến độ, dự án X-33 bị trì hoãn, những tàu thám hiểm sao Thủy bị thất bại, những lần thâm thủng ngân sách liên tiếp. Gabrielle băn khoăn tự hỏi liệu cô có thể hành động khác đi được hay không.

Không thể, cô tự bảo mình. Mình đã hành động hoàn toàn đúng.

Chỉ có điều những hành động ấy đã quật lại chính cô.

Chương 74

Phi cơ trực thăng Ó Biển của Hải quân đang tham gia cuộc tập trận bí mật tại căn cứ không quân Thule đặt trên đảo Greenland. Nó đang bay ở tầm thấp, tránh tầm quét của radar, và ngược luồng gió mạnh đang thổi với tốc độ bảy mươi dặm một giờ giữa đại dương. Thi hành mệnh lệnh mới được giao, người phi công bay ngược gió, rồi lượn tròn tại tọa độ được định sẵn trên biển.

"Điểm hẹn là chỗ nào đây?" Người phi công số hai kêu to, vẻ lúng túng. Họ được lệnh điều một máy bay trực thăng và dây tời cứu hộ nên cả hai phi công phán đoán rằng họ sắp thực hiện nhiệm vụ tìm-kiếm-và-giải-cứu. "Cậu có chắc chắn là tọa độ này không đấy?" Anh ta dùng đèn pha quét khắp vùng biển đang nổi sóng, nhưng chẳng nhìn thấy gì trừ...

"Mẹ khỉ!" Người phi công kéo cần, chiếc máy bay nảy xóc, bay hẳn lên cao.

Ngay sát mũi họ, một núi sắt sừng sũng hiện ra không một tín hiệu báo trước. Chiếc tàu ngầm khổng lồ vừa vứt bỏ đồ dùng và đang nhô dần lên giữa vô vàn bọt nước cuộn xoáy.

Hai phi công nhìn nhau cười. "Chắc họ đấy".

Theo đúng lệnh được giao, điệp vụ diễn ra trong im lặng tuyệt đối về sóng radio. Một cánh cửa đôi mở ra trên đỉnh cột buồm của con tàu, và một thủy thủ dùng đèn nháy để ra hiệu. Chiếc máy bay lượn xung quanh con tàu và thả xuống ba bộ móc kéo cứu hộ gồm những cái thòng lọng đệm cao su và những sợi cáp. Chưa đầy một phút sau, ba người được móc vào các móc kéo cứu hộ đã đung đưa bên dưới thân máy bay, rồi được kéo dần lên cao trong những luồng gió giật mạnh do cánh quạt của máy bay tạo ra.

Rồi người phi công số hai kéo cả ba người vào trong máy bay hai người đàn ông, một người đàn bà. Xong xuôi, anh dùng đèn nháy ra hiệu "xong hết" với tàu ngầm. Trong vòng vài giây, con tàu to lớn biến mất khỏi mặt biển lộng gió, không để lại chút dấu vết, nào về sự xuất hiện của nó.

Đưa ba vị khách lên máy bay an toàn xong, người phi công chúi mũi máy bay xuống, quay về hướng nam, tăng tốc để hoàn thành điệp vụ. Trời sắp nổi giông bão, và ba vị khách này cần được đưa về căn cứ không quân Thule thật an toàn để còn bay tiếp. Anh không biết họ sẽ bay về đâu. Chỉ biết rằng một nhân vật rất cao cấp đã trực tiếp ra lệnh, nhấn đi nhấn lại rẳng anh đang vận chuyển một "chuyến hàng" quan trọng.

Chương 75

Cơn bão cuối cùng cũng nổi lên trên phiến băng Milne, phô trương sức hủy diệt khủng khiếp của nó trước ngôi nhà bán sinh quyển của NASA, khiến ngôi nhà rung lên từng đợt như thể sắp bị giật tung khỏi mặt băng và kéo phăng ra ngoài biển. Dây trại bằng thép bị kéo căng như dây đàn, phát ra những tiếng ren rĩ thê lương. Máy phát điện đặt ngoài trời cũng ậm ạch, khiển đèn điện nháy liên tục, để dọa nhấn chìm cả ngôi nhà trong bóng đêm thăm thẳm.

Lawrence Ekstrom, Giám đốc NASA sải bước trong bán sinh quyển, lòng thầm ước đêm nay ông có thể thoát khỏi nơi quỷ quái này, dĩ nhiên đó là điều không thể. Ông còn phải ở đây thêm một ngày nữa, để sáng mai tổ chức họp báo tại chỗ, và để giám sát việc đưa tảng thiên thạch về Washington. Lúc này ông chỉ ước gì được ngủ một giấc thật sự, những sự kiện ngoài dự kiến ngày hôm nay đã khiến sức lực ông cạn kiệt.

Tuy nhiên, tâm trí ông lại quay về với Wailee Ming. Rachel Sexton, Corky Marlinson. Norah Mangor, và Michael Tolland. Vài nhân viên của NASA đã bắt đầu nhận thấy sự vắng bóng của các nhà khoa học dân sự này.

Bình tĩnh nào, Ekstrom tự nhủ. Tất cả vẫn ở trong tầm kiểm soát mà.

Ông hít thật sâu, tự nhắc nình rằng khắp nơi trên thế giới người ta đang ca ngợi NASA và trở nên háo hức với để tài vũ trụ. Chưa bao giờ để tài sự sống ngoài trái đất lại trở nên nóng hổi đến thế kể từ "sự kiện Roswell" nổi tiếng vào năm 1947. Người ta tin rằng một vật thể bay ngoài hành tinh đã gặp tai nạn tại Roswell, Mexico. Và ngày nay, địa điểm này vẫn đang là đất thiêng của hàng triệu người say sưa với đề tài UFO.

Trong những năm tháng còn làm việc tại Lầu Năm Góc, Ekstrom biết rằng "sự kiện Roswell" chẳng qua là một tai nạn trong chiến dịch tuyệt mật Dự án Mogul. Một quả khinh khí cầu do thám thiết kế riêng cho việc nghe lén các cuộc thử hạt nhân của Nga lúc đó đang được bay thử. Mô hình mẫu đã chẳng may chệch khỏi đường bay và rơi xuống sa mạc New Mexico. Không may, một dân thường đã nhìn thấy đống đổ nát đó trước khi các nhân viên của Bộ Quốc phòng kịp đến nơi.

William Brazel, ông chủ trại cừu ngờ nghệch đã bắt gặp cả một bãi những mảnh vụn gom những vật liệu siêu nhẹ tổng hợp khác hẳn với tất cả những gì ông ta đã tùng nhìn thấy trong đời. Ngay lập tức cảnh sát cũng nhận được thông báo. Báo chí đưa tin về vụ tai nạn kỳ lạ, và công chứng bắt đầu tò mò. Càng tò mò hơn saủ khi Bộ Quốc phòng phủ nhận bất cứ dính líu nào đến tai nạn đó, Cánh nhà báo bắt đầu mở cuộc điều tra, và Dự án Mogul có nguy cớ bị bại lộ. Đúng vào thời điểm thông tin nhạy cảm về khinh khí cầu do thám đó sắp bị phơi bày trên các trang báo, một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Các phương tiện thông tin đại chúng bất ngờ đưa ra một kết luận hi hữu. Họ cho rằng những mảnh vỡ của loại vật liệu chưa có trên trái đất chắc chắn bắt nguồn từ trong vũ trụ - được chế tạo bởi những sinh vật có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển hơn hẳn loài người. Việc quân đội chối hết mọi dính líu đến sự kiện đó chỉ có thể bắt nguồn từ một lý do duy nhất - để che giấu những vụ tiếp xúc bí mật với người ngoài hành tinh! Dù chính họ cũng bị choáng trước cách suy dien đó, lực lượng không quân đã hồ hởi đón nhận nó như một thứ của trời cho. Họ lập tức túm chặt câu chuyện người ngoài hành tinh đó, và thậm chí còn thêm mắm thêm muối vào cho mùi mẫn. Nếu cả thế giới có nghĩ rằng người ngoài hành tinh thỉnh thoảng ghé thăm sa mạc New Mexico thì chẳng phương hại gì đến an ninh quốc gia, nhưng nếu để người Nga đánh hơi được Dự án Mogul thì chí nguy.

Để thêu dệt thêm tình tiết cho câu chuyện người ngoài hành tinh, bộ phận an ninh đã phủ một bức màn bí ẩn lên "sự kiện Roswell" và bắt đầu sắp xếp các vụ "rò rỉ thông tin an ninh" - những lời xì xào về các cuộc tiếp xúc với người ngoài hành tinh, những con tàu của người vũ trụ, thậm chí cả "Nhà chứa máy bay số 18" bí ẩn tại căn cứ quân không quân Wright-Patterson ở Dayton, nơi Chính phủ cất giữ xác người ngoài hành tinh trong các thùng đá lớn. Cả thế giới tin câu chuyện bịa đặt đó, và Roswell trở thành cơn sốt khắp địa cầu. Từ đó trở đi, mỗi khi có người nào vô tình nhìn thấy chiếc máy bay đời mới nào đó của quân đội Mỹ, cánh tình báo chỉ cần cùng nhau giữ im lặng, thế là xong.

Đó đâu phải là máy bay, đĩa bay của người ngoài hành tinh đấy chứ!

Ekstrom rất ngạc nhiên thấy trò dối trá đơn giản đó vẫn còn hiệu lực đến tận ngày nay. Mỗi lần các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin rằng có người vừa nhìn thấy một vật thể bay lạ là ông lại không thể nhịn được cười. Rất có khả năng kẻ may mắn đó vừa thoáng nhìn thấy loại máy bay tối tân của NRO - bảy mươi lăm chiếc máy bay do thám siêu tốc không trang bị vũ khí mang tên Global Hawk, hình thuôn, được điều khiển từ xa, trông chúng khác hẳn bất cứ loại máy bay nào khác hiện có.

Ekstrom cũng thường không nhịn cười nổi khi nghĩ đến hàng triệu du khách mỗi năm vẫn hành hương đến sa mạc New Mexico, mang theo camera cá nhân để quay cảnh bầu trời xứ này. Thỉnh thoảng có người may mắn chộp được "bằng chứng cứng" về một UFO - những đốm sáng lao vụt qua bầu trời với tốc độ cao hơn bất kỳ thiết bị bay thông thường nào do con người chế tạo được. Tất nhiên, những người đó không thể biết rằng có một khoảng cách mười hai năm giữa những gì Chính phủ có thể chế tạo được và những gì công chúng được biết đến. Những người nhìn thấy UFO đó chẳng qua đã nhìn thấy một thế hệ máy bay mới nhất của Hoa Kỳ được chế tạo thử nghiệm tại Khu 51 - rất nhiều mô hình trong số đó là sản phẩm sáng tạo của NASA. Dĩ nhiên là giới tình báo không bao giờ đính chính sự hiểu lầm đó. Sẽ có lợi hơn nhiều nếu cả thế giới tin rằng lại có thêm một người nhìn thấy vật thể bay lạ, thay vì biết được những khả năng thật sự của không lực Hoa Kỳ.

Nhưng từ giờ mọi thứ sẽ khác, Ekstrom thầm nghĩ. Vài giờ đồng hồ nữa thôi, huyền thoại về sự sống ngoài hành tinh sẽ trở thành một sự thật được khẳng định chắc chắn. Mãi mãi là thế.

"Thưa Giám đốc". Một kỹ thuật viên của NASA hối hả bước đến bên ông. "Giám đốc có một cuộc gọi khẩn trong buồng máy PSC".

Ekstrom thở dài quay lại. Lại là chuyện gì nữa không biết? Ông tiến về phía đặt thiết bị liên lạc.

Kỹ thuật viên hấp tấp bước theo. "Nhân viên phụ trách radar trong buồng liên lạc đang rất tò mò, thưa Giám đốc..."

"Hả?" Tâm trí Ekstrom vẫn đang ở tận đâu đâu.

"Một chiếc tàu ngầm rất lớn hiện có mặt ở đây. Sao Giám đốc không nói gì cho chúng tôi biết?"

Ekstrom ngước nhìn lên: "Cậu nói gì cơ?"

"Chiếc tàu ngầm, thưaa Giám đốc. Ít ra thì Giám đốc cũng nên nói cho anh chàng phụ trách radar biết chứ. Có thêm tàu ngầm bảo vệ vùng thềm lục địa thì cũng tốt thôi, nhưng nhân viên radar của chúng ta không được báo trước để chuẩn bị tinh thần".

Ekstrom dừng phắt lại: "Tàu ngầm nào?"

Lúc này cả kỹ thuật viên cũng dừng phắt lại, không ngờ Giám đốc lại ngạc nhiên đến thế. "Chẳng lẽ con tàu đó không tham gia vào điệp vụ của chúng ta hay sao?"

"Không hề! Nó ở đâu?"

Anh chàng kỹ thuật viên nuốt khan: "Cách chúng ta khoảng ba dặm. Nó chỉ nổi lên trong vòng hai phút. Thân tàu khá to. Chắc là tàu lớn. Chúng tôi cứ tưởng Giám đốc yêu cầu bên Hải quân hỗ trợ an ninh cho chúng ta nhưng không thông báo cho chúng tôi".

Ekstrom trợn tròn mắt: "Tôi có yêu cầu gì đâu!"

Giọng chàng trai bắt đầu run run: "Nếu thế thì tôi xin báo cáo với Giám đốc là một chiếc tàu ngầm vừa tiếp xúc một chiếc máy bay trực thăng ở vùng bờ biển ngay gần chúng ta. Có vẻ như là trao đổi nhân sự thì phải. Quả thực, chúng tôi hơi ngạc nhiên vì giữa điều kiện thời tiết này mà có người dám mạo hiểm trao đổi người kiểu đó".

Ekstrom thấy thân thể như đông cứng lại. Không hiểu tàu ngầm làm cái quái gì ngay gần hòn đảo Ellesmere mà mình lại không biết nhỉ. "Các anh có biết sau khi trao đổi người thì chiếc máy bay bay theo hướng nào không?"

"Về căn cứ không quân Thule. Tôi đoán là để đổi máy bay và bay vào đất liền".

Tiếp tục tiến về phòng thiết bị thông tin, Ekstrom không nói thêm gì nữa. Vào trong phòng, ông nghe thấy giọng nói the thé vang lên, quen thuộc.

"Lại có vấn đề nữa đây". Tench vừa ho sù sụ vừa nói. "Liên quan đến Rachel Sexton".

Chương 76

Đến khi nghe có tiếng đập thình thình, Thượng nghị sĩ Sexton không nhớ nổi mình đã đứng nhìn trời được bao lâu. Nhận ra những tiếng đập đó không phải là tác dụng của rượu mạnh trong não bộ mà là tiếng đập cửa, ông liền vứt cái chai rỗng vào một góc phòng, tiến ra cửa.

"Ai đấy?" Ông hỏi to, không chút thân thiện.

Người vệ sĩ của Thượng nghị sĩ nói to tên một vị khách. Ngay lập tức Sexton đứng thẳng người, ông đâu có mời vị khách này đến nhà. Nhanh thật. Ước gì sáng maị ông mới phải gặp mặt ông ta cơ mà.

Hít một hơi thật sâu, vuốt phẳng quần áo, Sexton mở cửa. Một khuôn mặt rất quen thuộc hiện ra - rắn rỏi, cương nghị, dù ông ta đã hơn bảy mươi tuổi. Mới sáng nay Sexton vừa gặp ông ta trong chiếc xe tải cỡ nhỏ tại bãi đỗ xe ngầm của một khách sạn cơ mà. Không lẽ bây giờ vẫn là buổi sáng? Sexton băn khoăn. Lạy Chúa, từ đó đến giờ mọi sự đã đổi khác quá nhanh.

"Tôi vào được chứ?" Ông già tóc đen hỏi.

Sexton đứng tránh sang một bên, nhường lối cho Chủ tịch Hiệp hội Vũ trụ bước vào.

"Cuộc họp diễn ra suôn sẻ chứ?" Ông ta hỏi ngay khi Sexton chưa đóng xong cửa.

Có suôn sẻ hay không ư? Sexton thầm băn khoăn không hiểu lão già này có sống trong hang động hay không. "Mọi thứ đều rất tuyệt cho đến khi Tổng thống xuất hiện trên tivi".

Ông già gật đầu, vẻ không hài lòng. "Ừ, quả là thắng lợi không thể ngờ. Nó sẽ gây tổn thất lớn cho công cuộc của chúng ta".

Gây tổn thất cho công cuộc thôi ư? Ông ta quả là lạc quan. Sau thắng lợi đêm nay của NASA thì lão sẽ chết trước khi Hiệp hội Vũ trụ đạt được mục tiêu tư hữu hóa của họ.

"Suốt bao năm nay tôi đã tin là sẽ tìm được bằng chứng". Ông già nói. "Tôi không thể biết sẽ vào lúc nào và bằng cách nào, nhưng sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ được biết một cách chắc chắn".

Sexton choáng váng. "Ông không thấy ngạc nhiên ư?"

"Những số liệu toán học khẳng định rằng trong vũ trụ phải tồn tại các dạng sống khác nữa". Ông ta đáp, tiến vào phòng riêng của Sexton. "Tôi không hề bất ngờ khi người ta phát hiện ra điều đó. Về mặt học thuật, tôi rất xúc động. Về mặt tâm linh, tôi rất kính sợ Chúa trời. Về mặt chính trị, tôi lo ngại sâu sắc: Thời điểm của phát kiến này quả là không thể tồi tệ hơn được".

Sexton băn khoăn không hiểu ông ta đến nhà mình với mục đích gì. Chắc chắn không phải để chúc mừng rồi.

"Như anh đã biết", ông già nói "các công ty thành viên của SFF đã chi nhiều triệu đô la để mở ra và duy trì mặt trận đòi mở cửa ngành công nghiệp vũ trụ cho thành phần kinh tế tư nhân Mới đây, chúng tôi đã chi khá nhiều, cho chiến dịch bầu cử của anh".

Sexton lập tức trở nên cảnh giác. "Tôi không can hệ gì tới sự kiện tối nay. Chính tôi cũng bị Nhà Trắng gài bẫy nên mới công khai công kích NASA!"

"Đúng thế. Tổng thống đã ra đòn rất hay. Tuy nhiên, chúng ta chưa phải đã mất hết". Mắt ông ta ánh lên tia hi vọng kỳ lạ.

Ông ta lẩm cẩm mất rồi, Sexton thầm nghĩ. Chẳng côn gì nữa. Tất cả các đài truyền hình lúc này đều đang bình luận về tổn thất đối với chiến dịch tranh cử của ông.

Ông già vào trong phòng, ngồi xuổng giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn thẳng vào Sexton: "Anh có còn nhớ trục trặc kỹ thưật mà lúc đầu NASA gặp phải với vệ tinh nhân tạo PODS không?"

Sexton chưa thể biết được câu chuyện của họ sẽ phát triển theo hướng nào. Vào lúc này thì điều đó còn có ý nghĩa khỉ gì nữa? PODS đã tìm được tảng thiên thạch chết dẫm chứa hóa thạch bên trong rồi còn gì!

"Nếu anh vẫn chưa quên", ông ta nói tiếp "phần mềm trên vệ tinh đó lúc đầu không hoạt động được bình thường. Anh đã công kích lỗi đó trên các báo chí rất gay gắt".

"Thì đúng là tôi phải làm thế còn gì nữa?" Sexton ngồi xuống đối diện ông già. "Đó là một thất bại nữa của NASA mà!"

Ông già gật đầu. "Tôi đồng ý. Nhưng ngay sau đó, NASA tổ chức cuộc họp báo công bố là đã khắc phục được sai sót đó, - họ đã sửa lại được phần mềm".

Sexton không tận mắt chứng kiến cuộc họp báo đó, nhưng ông nghe kể lại rằng cuộc họp báo hôm đó rất ngắn ngủi, buồn tẻ, chẳng có thông tin gì đáng kể. Người phụ trách dự án PODS đã miêu tả hết sức tẻ nhạt phương pháp NASA khắc phục lỗi phần mềm của PODS và đưa hệ thống vào hoạt động một cách hiệu quả.

"Tôi đã theo dõi PODS rất kỹ kể từ khi nó gặp sự cố" Ông già nói. Ông ta rút trong túi ra cuốn băng video và bước lại bên tivi của Sexton, cho băng vào đầu VCD. "Anh sẽ thấy có điều rất thú vị đấy!"

Cuốn băng bắt đầu được chiếu lên Cảnh phòng báo chí của NASA tại đại bản doanh của nó ở Washington. Một người đàn ông ăn mặc rất chải chuốt đang đứng nói trên bục. Tấm biển trước mặt ông ta có ghi:

CHRIS HARPER, Giám đốc Dự án.

Vệ tinh chụp cắt lớp Địa cực (PODS)

Chris Harper người cao, quý phái, ăn nói với vẻ trịnh thượng của người Mỹ gốc Âu rất tự hào về nguồn gốc của mình. Giọng điệu của ông ta khá trau chuốt và có học thức. Ông ta đang công bố trước các nhà báo những tin tức xấu về PODS.

"Dù vệ tinh nhân tạo PODS đã được đưa vào quỹ đạo và đang hoạt động tốt, chúng tôi đã gặp phải trục trặc với những máy tính được gắn kèm theo vệ tinh. Đó là một lỗi về phần mềm mà tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cụ thể là máy lọc FIR hoạt động lỗi do chỉ số voxel không chính xác. Điều đó có nghĩa là phần mềm đặc biệt dành riêng cho PODS không hoạt động được. Chúng tôi đang cố gắng khắc phục sự cố này".

Đám đông thở dài, rõ ràng là đã quen nghe nói về những thất bại của NASA. "Sự cố đó có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động của PODS?" Một phóng viên hỏi.

Harper trả lời hết sức trơn tru. Và cũng đầy tự tin. "Hãy tưởng tượng anh có một đôi mắt hoàn hảo nhưng lại không có não bộ để xử lý thông tin. Thực chất thì vệ tinh PODS có thị lực 20/20, nhưng nổ không thể hiểu nổi những gì nó quan sát được. Nhiệm vụ của PODS là phát hiện những túi nước do băng tan trên hai vùng địa cực, nhưng nếu không có máy tính phân tích những dữ liệu do máy quét của nó truyền về, PODS sẽ chẳng thể phát hiện được những thứ chúng ta quan tâm. Lỗi này sẽ được khắc phục sau khi chúng tôi phóng tên lửa lên và tổ chức sửa chữa những máy tính được cài đặt trên vệ tinh đó".

Tiếng xì xào thất vọng lan khắp căn phòng.

Ông già quay sang Sexton: "Ông ta nói về tin xấu rất trôi chảy đúng không?"

"Ông ta là người của NASA". Sexton lầm bầm. "Mà thất bại là hoạt động chính của NASA mà lại".

Cuốn băng bỏ qua đoạn trắng, rồi chiếu cảnh một cuộc họp báo khác của NASA.

"Đây là cuộc họp báo thứ hai", ông già thuyết minh, "cách đây vài tuần, vào buổi đêm khuya. Rất ít người đến dự. Và lần này tiến sĩ Harper công bố tin tốt".

Cảnh phòng hòp báo. Lần này Harper trông nhếch nhác và thiếu tự tin. "Tôi rất hân hạnh được công bố rằng", ông ta lên tiếng, vẻ rất gượng ép, "NASA đã tìm được một giải pháp để khắc phục sự cố của vệ tinh PODS". Sau đó ông ta giải thích nhát gừng về giải pháp ấy - thay đổi hướng đường truyền tín hiệu của vệ tinh để các máy tính đặt trên mặt đất xử lý thông tin thu được, thay vì các máy tính trên vệ tinh. Rất ấn tượng. Giải pháp này có vẻ rất khả thi và hiệu quả. Sau khi Harper trình bày xong, cả phòng họp báo rộn lên tiếng vỗ tay phấn khởi.

"Như thế có nghĩa là bao lâu nữa thì chúng ta sẽ nhận được tín hiệu?" Một người lên tiếng.

Harper gật đầu, mồ hôi đầm đìa: "Khoảng một vài tuần nữa".

Tiếng vỗ tay vang lên to hơn nữa. Nhiều cánh tay giơ lên ra hiệu xin đặt câu hỏi...

"Lúc này chúng tôi chưa thể nói gì hơn". Herper nói, thu dọn giấy tờ trông như sắp phát ốm. "PODS đã trở lại bình thường và hoạt động suôn sẻ. Chúng ta sẽ nhanh chóng nhận được thông tin".

Ông ta lao xuống khỏi bục gỗ theo đúng nghĩa đen của từ ấy.

Sexton nhíu mày. Phải thừa nhận là có điều gì đó rất khác thường. Tại sao lúc báo tin xấu thì Harper đầy vẻ tự tin, còn khi công bố tin tốt thì lại khổ sở đến thế? Đáng ra phải ngược lại chứ. Ông không xem chương trình truyền hình trực tiếp buổi họp báo này, nhưng đã đọc đâu đó về biện pháp khắc phục lỗi phần mềm. Vào thời điểm đó, biện pháp khắc phục sự cố này của NASA có vẻ vô thưởng vô phạt, công chúng chẳng tỏ ra mặn mà gì lắm - PODS chẳng qua chỉ là một dự án thất bại của NASA và đã được gia cố bằng biện pháp chẳng lấy gì làm lý tưởng.

Ông già quay sang nhìn Sexton: "NASA nói rằng hôm ấy tiến sĩ Harper không được khỏe". Rồi ngừng một lúc "Tôi thì lại nghĩ Harper nói dối".

Nói dối ư? Sexton trợn tròn mắt, tâm trí rối bời, ông không thể tìm được một lý do nào hợp logic để giải thích cho điều ấy. Tuy nhiên, trong đời mình, Sexton đã nói dối quá nhiều. Vì thế người khác nói dối thì ông nhận ra ngay. Phải thừa nhận rằng trông tiến sĩ Harper rất khả nghi.

"Chắc anh chưa nhận ra". Ông già nói. "Lời tuyên bố ngắn gọn vừa rồi của Chris Harper chính là cuộc họp báo quan trọng nhất trong toàn bộ lịch sử NASA". Ngừng một lát. "Giải pháp sửa chữa lỗi phần mềm rất dễ thực hiện mà ông ta vừa miêu tả chính là điều kiện tiên quyết để PODS phát hiện ra tảng thiên thạch".

Sexton bối rối. Và ông nghĩ rằng Harper nói dối? "Nhưng nếu Harper nói dối, và phần mềm của PODS thực ra vẫn chưa hoạt động được, thì làm thế quái nào mà NASA phát hiện được tảng thiên thạch?"

Ông già mỉm cười: "Chính xác".

Chương 77

Phi đội bay "Repo" của quân đội Mỹ được sử dụng với mục đích chính là ngăn chặn các đường dây buôn lậu ma tuý, gồm hơn một chục máy bay lên thẳng, bao gồm cả ba chiếc máy bay G4 đã được sửa sang lại để chuyên chở các sĩ quan cao cấp. Cách đây nửa giờ, một trong ba chiếc G4 đó vừa rời khỏi đường băng tại căn cứ không quân Thule, giữa tiết trời giông bão, nhằm thẳng hướng nam, vượt qua không phận Canada để tiến về Washington. Trên máy bay, trong khoang đặc biệt có tám ghế ngồi, Rachel Sexton, Michael Tolland, Corky Marlinson tạo thành đội hình khá nhếch nhác với những bộ đồng phục và mũ được trang bị cho tàu ngầm Charlotte.

Bất chấp tiếng gầm rú của loại động cơ Grumman, Corky Marlinson vẫn ngủ say sưa ở băng ghế sau: Tolland ngồi trên hàng ghế đầu, lơ đễnh nhìn ra ngoài của sổ, trông rất mệt mỏi. Rachel ngồi cạnh ông, biết chắc rằng cô sẽ không thể ngủ được, dù thần kinh đã dịu đi nhiều. Trong đầu cô, những bí ẩn về tảng thiên thạch vẫn không ngừng ám ảnh, cộng thêm cả cuộc nói chuyện vừa rồi trong phòng cách âm với Pickering. Trước khi ngắt máy, ông đã cho Rachel biết hai thông tin không mấy tốt đẹp.

Thứ nhất Marjorie Tench tuyên bố rằng bà ta có trong tay cuốn băng video ghi lại cuộc tọa đàm giữa Rachel và các nhân viên Nhà Trắng. Bà ta đe dọa sẽ dùng cuốn băng làm bằng chứng nếu Rachel cố tình quật lại những gì cô đã nói về tảng thiên thạch. Điều này quả là đáng lo ngại. Rachel đã nhắc đi nhắc lại với Zach Herney rằng những lời nói của cô chỉ là trong nội bộ với nhau, hiển nhiên là ông ta đã phớt lờ điều kiện cô đưa ra.

Tin xấu thứ hai liên quan đến cuộc tranh luận của cha cô trên đài CNN đầu giờ chiều nay. Marjorie Tench đã đích thân lên đài, dẫn dắt một cách xảo quyệt để cha cô nói trắng ra quan điểm chống NASA của ông. Đáng lo ngại hơn, Tench đã đưa đẩy để Thượng nghị sĩ tuyên bố rõ ràng rằng ông không tin có sự sống trong vũ trụ.

Ăn mũ? Pickering kể rằng cha cô thề sẽ làm thế nếu NASA phát hiện được sự sống trong vũ trụ. Rachel thầm băn khoăn không hiểu bằng cách nào mà bà ta lại khiến cho cha cô cắn câu dễ dàng đến thế. Rõ ràng là Nhà Trắng đã giăng bẫy kĩ càng - họ đã bày sẵn thế cờ, dàn xếp từ trước, rồi đợi cho Sexton sa bẫy. Tổng thống và Marjorie Tench, hệt như hai đô vật trong đội đấu vật tiếp sức, đã góp sức cùng hạ sát đối thủ. Tổng thống không ra mặt công khai, Tench đã nhảy vào cuộc, mánh lới, xảo quyệt, giương bẫy sẵn sàng để Tổng thống giật dây.

Tổng thống bảo Rachel rằng chính ông yêu cầu NASA trì hoãn việc công bố phát kiến của họ, mục đích là để xác minh lại các dữ liệu cho đảm bảo. Lúc này, Rachel nhận ra rằng trì hoãn như thế còn có một cái lợi nữa. Khoảng thời gian đó đủ để Nhà Trắng giương sẵn thòng lọng, đợi Sexton tự chui đầu vào, kết liễu bản thân.

Rachel không thấy cha mình đáng thương, nhưng cô vẫn cảm thấy ở Zach Herney, đằng sau vẻ ngoài đôn hậu và khoáng đạt, là khí chất của một sát thủ tàn bạo. Không thể trở thành người đàn ông Số Một của thế giới mà không có chút bản năng săn mồi tối thiểu. Vấn đề bây giờ là liệu con cá mập lớn ấy đứng ngoài cuộc một cách vô tội - hay đã trực tiếp tham gia vào cuộc chơi.

Rachel đứng, hai chân choãi rộng. Rồi cô đi đi lại lại dọc hành lang máy bay, bực bội, vì những mảnh thông tin trong tay không ăn khớp với nhau. Pickering, với những suy luận thuần tuý mang tính logic đã kết luận rằng tảng thiên thạch đó là giả. Nhưng Corky và Tolland, với những bằng chứng khoa học, lại một mực nói rằng tảng thiên thạch đó là thật. Rachel chỉ biết rằng cái mà cô nhìn thấy là tảng đá lớn có hóa thạch bên trong, lớp vỏ ngoài cháy xém, được kéo lên từ lòng băng.

Lúc này, bước ngang qua chỗ Corky đang nằm, cô cúi xuống nhìn nhà vũ trụ học. Bị một trận nhừ tử trên phiến băng, ông đang dần hồi phục. Chỗ sưng ở má đang bắt đầu xẹp xuống, các mũi khâu cũng bắt đầu liền lại. Ngủ rất say, ngáy như sấm, những ngón tay mập ú của ông vẫn nắm chặt mẫu đá hình tròn - như thể đó là tấm bùa hộ mệnh.

Rachel cúi xuống, nhẹ nhàng gỡ mẫu đá từ tay Corky. Cô giơ lên, quan sát những hóa thạch một lần nữa. Hãy gạt bỏ mọi giả thuyết, cô tự nhủ, cố sắp xếp những suy nghĩ trong đầu. Hãy bắt đầu lại từ đầu. Đó là phương pháp kinh điển của NRO. Sắp xếp lại chứng cứ từ các mảnh thông tin rời rạc - phương pháp bắt đầu từ con số không - biện pháp mà tất cả các chuyên viên phân tích đều áp dụng khi các dữ kiện không trùng khớp nhau.

Sắp xếp lại các chứng cứ.

Cô lại bước tới bước lui.

Liệu tảng đá đó có chứa bằng chứng về sự sống ngoài vũ trụ thật không?

Các bằng chứng, cô biết, chỉ là những kết luận dựa trên một kim tự tháp những chi tiết thật, trên nền tảng những thông tin đã được thừa nhận căn cứ vào những chân lý đã được khẳng định.

Hãy bỏ hết các giả thuyết. Quay lại điểm xuất phát.

Ta có gì đây?

Một tảng đá...

Cô phân vân một lúc. Một tảng đá. Trong lòng có các sinh vật hóa thạch. Quay lại đầu cabin, cô ngồi xuống cạnh Michael Tolland.

"Mike này, chúng ta thử một trò chơi nhé".

Thôi không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa!

Tolland quay lại, xa vắng, rõ ràng là đang đắm mình trong suy tư. "Trò chơi à?"

Cô đưa cho ông mẫu đá. "Giả sử đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy mẫu đá này. Chưa ai nói gì với anh về nguồn gốc của nó. Anh sẽ có những nhận xét gì?"

Tolland thở dài chán nản.

"Câu hỏi của cô thật là trùng lặp. Tôi vừa nảy ra ý nghĩ rất kỳ quặc".

Sau lưng Rachel và Tolland, cách họ hàng trăm dặm, chiếc phi cơ có hình thù kỳ lạ đang bay qua đại dương vắng lặng. Trong máy bay, đội Delta ngồi lặng lẽ. Đã nhiều lần họ bị lôi ra khỏi doanh trại trong sự vội vã, nhưng chưa bao giờ như lần này.

Chỉ huy của họ vô cùng bực tức.

Trước đó. Delta-Một đã báo cáo với chỉ huy về những diễn biến không lường trước được trên phiến băng khiến cho họ không còn lựa chọn nào khác ngoài sử dụng vũ lực - hạ sát bốn thường dân, kể cả Rachel Sexton và Michael Tolland.

Chỉ huy bị sốc. Dù vẫn là giải pháp bắt buộc nếu không còn cách nào khác, giết người không nằm trong dự định của chỉ huy.

Một lúc sau, thái độ không bằng lòng đó chuyển thành cơn thịnh nộ ghê gớm khi ông ta biết rằng việc hạ sát đã không thành.

"Các anh đã thất bại!" Chỉ huy gầm lên. Dù đã bị bộ phận mã hóa làm cho biến đổi nhiều, giọng nói vẫn thể hiện cơn thịnh nộ khủng khiếp. "Ba mục tiêu của các anh hiện vẫn còn sống!"

Không thể nào! Delta-Một thầm nghĩ. "Nhưng mà chúng tôi đã trông thấy..."

"Họ đã bắt liên lạc với một tàu ngầm, và lúc này đang trên đường về Washington".

"Cái gì!"

Giọng nói của chỉ huy đầy chết chóc: "Nghe cho kỹ đây. Tôi sẽ ra lệnh mới. Lần này đừng làm hỏng việc".

Chương 78

Tiễn khách ra cửa, Thượng nghị sĩ Sexton lại cảm thấy hi vọng loé lên trong tâm trí. Hóa ra người đứng đầu SFF đến đây không phải để trừng phạt ông, mà để khích lệ ông, và nhắc ông nhớ rằng cuộc đấu vẫn chưa đến hồi kết.

Có thể có một khe hở trên lớp áo giáp sắt của NASA.

Cuốn băng video về cuộc họp báo kỳ quặc của NASA đã khiến Sexton tin rằng ông già có lý: Giám đốc dự án PODS Chris Harper đã nói dối. Nhưng tại sao? Và nếu vẫn chưa thể khắc phục được lỗi của PODS, bằng cách nào mà NASA phát hiện được tảng thiên thạch?

Ra đến cửa. Ông già nói: "Đôi khi, chỉ cần một chút kiên định là đủ để làm sáng tỏ mọi thứ. Biết đâu chúng ta lại tìm được cách để biến phát kiến này của NASA đập lại chính họ. Hãy lớn tiếng tỏ ra nghi ngờ. Ai mà biết chúng ta sẽ đạt được cái gì". Đôi mắt mệt mỏi của ông già nhìn xoáy vào Sexton "Tôi chưa thế chết ngay được đâu Thượng nghị sĩ ạ. Và tôi tin anh cũng thế".

"Dĩ nhiên rồi". Sexton đáp, cố tỏ ra đầy quyết tâm. "Chúng ta đã đi quá xa rồi, quay lại sao được nữa".

"Chris Harper nói dối về vệ tinh PODS đấy". Ông ta nói, đặt chân vào thang máy. "Chúng ta phải tìm cho ra lý do vì sao".

"Tôi sẽ tìm hiểu cành nhanh càng tốt". Sexton đáp. Tôi đang có đúng người cần tìm.

"Tốt lắm. Điều đó sẽ quyết định tương lai của anh đấy".

Quay trở lại phòng riêng, bước chân Thượng nghị sĩ Sexton như nhẹ hẳn đi, đầu ông cũng minh mẫn hơn nhiều NASA nói dối về chuyện PODS. Vấn đề lúc này là làm thế nào để chứng minh được điều đó.

Ngay lập tức, ông nghĩ đến Gabrielle Ashe. Dù đang ở nơi nào, lúc này cô ta chắc đang vô cùng khổ sở. Dĩ nhiên Gabrielle đã xem chương trình truyền hình trực tiếp, và lúc này có lẽ đang đứng ở bờ sông nào đó, sẵn sàng nhảy tùm xuống. Cô ta đã thuyết phục ông biến NASA thành vấn đề chính yếu trong cương lĩnh tranh cử, và hóa ra đó lại là sai lầm lớn nhất trong cả sự nghiệp của Thượng nghị sĩ Sexton.

Cô ta mắc nợ mình. Ông thầm nghĩ. Và cô ta phải tự biết điều đó.

Chắc chắn Gabrielle đã có được những bí mật về NASA, từ một nguồn tin tay trong nào đó. Cô ta có tay trong. Sexton thầm nghĩ. Suốt mấy tuần nay cô ta đã moi được khá nhiều tin. Và không chịu tiết lộ với ông những mối quan hệ bí mật của mình. Có thể lợi dụng mối quan hệ đó để khai thác tin về PODS. Cô ta có món nợ cần phải trả, và Sexton tin chắc cô ta sẽ làm tất cả để giành lại sự ưu ái của ông.

Khi Sexton vào đến cửa, người vệ sĩ gật đầu chào ông. "Chào Thượng nghị sĩ. Tôi tin là đã xử sự đúng khi cho cô Gabrielle vào nhà lúc tối nay. Cô ấy nói là có chuyện gấp cần phải nói với ngài".

Sexton dừng bước. "Cậu nói cái gì?"

"Cô Ashe ấy mà. Lúc tối cô ấy bảo có tin quan trọng cần báo ngay với ngài. Thế cho nên tôi mới để cô ấy vào".

Sexton cứng người. Ông đưa mắt nhìn cửa phòng riêng của mình. Thằng cha này nói lăng nhăng gì thế nhỉ?

Anh chàng vệ sĩ bắt đầu tỏ ra lo lắng: "Thưa Thượng nghị sĩ, không có chuyện gì chứ ạ? Ngài còn nhớ không ạ? Cô ấy đến lúc ngài đang họp dở. Cô ấy đã nói chuyện với ngài rồi phải không ạ? Chắc thế rồi. Cô ấy đã vào đó một lúc khá lâu mà".

Sexton nhìn trân trân, mạch đập thình thình. Gã khờ này cho Gabrielle vào trong lúc mình đang dở cuộc họp sao? Cô ta có mặt ở đây nhưng không hề lên tiếng. Như thế tức là cô ta đã nghe lỏm được hết. Cố ghìm cơn tức tối, Sexton nuốt khan, mỉm cười với gã vệ sĩ: "À, đúng rồi! Xin lỗi, tôi mệt quá. Chúng tôi còn cụng ly nữa mà. Cô Ashe và tôi đã bàn chuyện một lúc. Anh cho cô ấy vào là đúng đấy".

Anh chàng vệ sĩ thở ra nhẹ nhõm.

"Lúc về cô ấy có bảo anh là sẽ đi đâu không?"

Anh ta lắc đầu: "Cô ấy có vẻ rất vội vã".

"Thôi được. Cảm ơn anh".

Sexton tức tối quay vào phòng. Mệnh lệnh của mình có gì khó hiểu đâu cơ chứ! Không cho ai vào hết! Như thế có nghĩa là Gabrielle đã ở đây rất lâu, sau đó lẻn ra ngoài, không nói một lời. Chắc chắn cô ta đã nghe những gì ông không muốn cho cô ta biết. Mà lại đúng vào đêm nay cơ chứ!

Thượng nghị sĩ Sexton biết rằng ông không thể để mất niềm tin của Gabrielle được nữa - khi nghĩ rằng họ bị lừa, đàn bà sẽ trở nên ngu ngốc và rất muốn báo thù. Cần phải giữ chặt lấy cô ta. Nhất là trong đêm nay, ông cần cô ta

Chương 79

Trên tầng bốn, tòa nhà Đài Truyền hình ABC. Gabrielle Ashe ngồi một nình trong văn phòng của Yolanda, lơ đễnh nhìn tấm thảm trải sàn đã sờn. Cô vốn luôn tự hào về trực giác cũng như khả năng đánh giá mọi người của nình. Giờ đây, lâu lắm rồi mới lại có lần thế này, cô cảm thấy mình đơn độc, không còn biết nên tin vào ai nữa.

Tiếng chuông điện thoại cầm tay vang lên, Gabrielle thôi không nhìn tấm thảm trải sàn nữa. Miễn cưỡng, cô mở máy. "Gabrielle Ashe đây."

"Gabrielle đấy à? Tôi đây".

Ngay lập tức cô nhận ra âm sắc của Thượng nghị sĩ Sexton. Sau những gì vừa trải qua, ông có vẻ điềm tĩnh một cách kỳ lạ.

"Quả là một đêm khó quên", ông nói "cô nghe tôi nói nhé. Chắc chắn cô đã xem buổi họp báo của Tổng thống trên truyền hình Lạy Chúa, chúng ta đã chọn nhầm quân bài. Tôi buồn lắm. Và chắc giờ này cô cũng đang tự trách cứ bản thân. Đừng làm thế. Ai mà ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo kiểu này. Cô không có lỗi gì cả. Nhưng cô hãy nghe tôi nói này. Tôi nghĩ là chúng ta có cách xoay chuyển được tình thế đấy!"

Gabrielle đứng dậy, không dám tin những gì vừa nghe thấy. Không ngờ Thượng nghị sĩ lại bình tĩnh được đến thế.

"Tối nay tôi vừa có một cuộc họp", Sexton nói "với đại diện của các công ty vũ trụ tư nhân và..."

"Thế ạ?" Gabrielle thốt lên, kinh ngạc thấy Thượng nghị sĩ tự thú nhận điều này. "Tôi... tôi không biết..."

"Ừ chẳng có gì to tát lắm. Tôi muốn bảo cô tham gia, nhưng mấy tay đó tỏ ra quá nhạy cảm về việc giữ bí mật thông tin. Vì người trong bọn họ muốn hiến tiền cho chiến dịch của chúng ta. Họ không muốn người ngoài biết chuyện..."

Gabrielle hoàn toàn bị bất ngờ. "Nhưng mà... chẳng phải làm thế là bất hợp pháp sao?"

"Bất hợp pháp à? Không đời nào! Tất cả mọi khoản hiến tặng đều có trị giá dưới hai ngàn đô la. Toàn tép riu ấy mà. Số tiền của họ chẳng đáng là bao, nhưng dù sao tôi cũng muốn nghe họ giãi bày. Một hình thức quảng bá cho tương lai ấy mà. Tôi muốn giữ kín, thật ra là vì nghe có vẻ không được hay ho cho lắm. Nếu Nhà Trắng mà biết chuyện thì thế nào cũng có lời ong tiếng ve. Dù sao thì đó cũng không phải là vấn đề chính Tôi muốn kể với cô về cuộc gặp gỡ của tôi với người đứng đầu SFF cũng trong tối hôm nay..."

Dù Thượng nghi sĩ vẫn tiếp tục nói thao thao, Gabrielle có thể nghe được tiếng máu rần rật dồn lên mặt mình vì quá xấu hổ. Cô còn chưa kịp tỏ chút thái độ nào mà Thượng nghị sĩ đã tự kể hết về cuộc họp tối hôm nay. Hoàn toàn hợp pháp. Thế mà Gabrielle suýt nữa đã hành động nông nổi. May mà Yolanda đã can ngăn kịp thời. Suýt nữa thì cô phản bội ông!

"Và tôi cũng đã nói với đại diện của SFF", thượng nghị sĩ nói tiếp "rằng cô có thể giúp chúng tôi thu thập thông tin về chuyện đó".

Gabrielle lại chăm chú lắng nghe: "Vâng ạ".

"Cái người vẫn cung cấp cho cô các thông tin nội bộ của NASA ấy, chắc cô vẫn giữ mối quan hệ đó đấy chứ?"

Marjorie Tench. Gabrielle co rúm người, không thể để ngài Thượng nghị sĩ biết rằng cô đã bị bà ta giật dây bấy lâu nay. "Dạ chắc là được ạ". Gabrielle nói dối.

"Tốt lắm. Tôi cần một số thông tin, ngay lập tức".

Nghe ông nói, Gabrielle nhận ra cô đã đánh giá quá thấp Thượng nghị sĩ. Từ khi cô bắt đầu phò tá cho ông trong chiến dịch tranh cử, hình ảnh của ông trong mắt cô đã phần nào kém rực rỡ đi. Nhưng đêm nay, tâm trí cô lại bừng sáng vầng hào quang ấy.

Vừa bị giáng một đòn chí mạng, vậy mà ông ấy đã lập tức tìm cách phản công. Và chính cô là người đã lôi ông xuống vũng bùn này, thế mà ông không một lời oán hận. Đã thế, ông lại còn cho cô cơ hội để chuộc lại lỗi lầm.

Và cô sẽ chuộc lỗi.

Bằng mọi giá.

Chương 80

William Pickering đăm đắm nhìn những ánh đèn pha ô tô loang loáng trên đường cao tốc Leesburg. Mỗi khi đứng ở những nơi cao như thế này, ông lại nghĩ đến con gái mình.

Quyền lực trong tay... thế mà mình không cứu được con bé.

Diana, con gái của Pickering, đã chết trong tàu của Hải quân ở Biển Đỏ trong khi theo học một khóa huấn luyện. Chiếc tàu đang neo đậu tại một bến cảng thanh bình đầy nắng, một chiếc thuyền đánh cá do hai kẻ cực đoan điều khiển chậm rãi chèo ngang qua rồi bất thần đâm vào thành tàu, khiến con tàu nổ tung. Diana Pickering cùng mười ba thanh niên Mỹ đã chết trong ngày hôm ấy.

William Pickering suy sụp. Nỗi đau đớn tột cùng dày vò ông mất mấy tuần. Khi biết cuộc tấn công đó được thực hiện bởi một nhóm khủng bố mà CIA đã theo dõi sít sao suốt mấy năm trời, cơn giận dữ của Pickering trở nên không thể kiểm chế nổi. Ông sang tận đại bản doanh của CIA để chất vấn.

Câu trả lời thật khó mà chấp nhận.

CIA đã lên kế hoạch ra tay đối với bọn chúng từ nhiều tháng trước nhưng họ vẫn đang đợi ảnh chụp từ vệ tinh để xác định được sào huyệt của chúng ở Afganistan. Vệ tinh Vortex trị giá 1,2 tỉ đô la của NRO đáng ra đã phải chụp được bức ảnh đó, nhưng nó đã nổ tung trên bệ phóng cùng với tên lửa của NASA. Vì tai nạn đó của NASA, cuộc tập kích của CIA bị hoãn lại, và Diana Pickering đã chết.

Lý trí nói với Pickering rằng NASA không trực tiếp có trách nhiệm trong vụ này, nhưng tự đáy lòng nình, ông không thể tha thứ. Cuộc điều tra về vụ nổ đó cho thấy các kỹ sư chịu trách nhiệm tiếp nhiên liệu cho tên lửa phóng vệ tinh đã được chỉ thị phải dùng nhiên liệu loại hai để giảm chi phí.

"Trong các chuyến bay không người lái". Lawrence Ekstrom phân trần trong một cuộc họp báo "NASA cố gắng tối đa để giảm dù phí. Trong trường hợp này, phải thừa nhận rằng kết quả không được như mong đợi. Chúng tôi đang tiếp tục điều tra".

Không được như mong đợi. Diana Pickering đã phải bỏ mạng.

Vì vệ tinh do thám đó thuộc diện bí mật nên công chúng không bao giờ biết được rằng NASA đã phá hỏng một dự án của NRO trị giá tới 1,2 tỉ đô la; và thông qua đó, gián tiếp khiến bao người phải thiệt mạng.

"Thưa Giám đốc". Giọng cô thư ký của ông váng lên trong máy liên lạc nội bộ. "ở đường dây số một ạ. Bà Marjorie Tench".

Pickering cố rũ bỏ tâm trạng sầu muộn và nhìn chiếc máy điện thoại trên bàn. Lại lần nữa ư? Đèn báo cuộc gọi đang nháy sáng lập loè, như muốn báo trước đầu dây bên kia đang vô cùng giận dữ và gấp gáp. Pickering nhíu mày, nhấc ống nghe lên.

"Pickering đây".

Tench rít lên điên dại: "Cô ta vừa nói gì với anh?"

"Cái gì cơ?"

"Rachel Sexton đã liên lạc với anh. Cô ta đã nói gì? Lạy Chúa, cô ta đang ở trong một chiếc tàu ngầm. Anh giải thích đi!"

Pickering biết ngay rằng không thể nói dối, Tench đã tự tìm thông tin. Ông ngạc nhiên vì bà ta đã biết về con tàu Charlotte, chắc chắn đã tận dụng hết mức mọi quyền lực trong tay để moi được tin đó. "Cô Sexton đã liên lạc với tôi, điều đó thì đúng".

"Anh đã bố trí đưa cô ta đi chỗ khác. Sao không nói gì với tôi cả?"

"Tôi đã sắp xếp chuyện ấy. Đó là sự thật". Còn hai giờ đồng hồ nữa thì Rachel Sexton, Michael Tolland và Corky Marlinson mới về đến căn cứ không quân Bolling.

"Thế sao anh không chịu thông báo cho tôi?"

"Rachel Sexton đã đưa ra những lời buộc tội hết sức trầm trọng".

"Về tính xác thực của tảng thiên thạch... Và về việc cô ta bị tấn công chứ gì?"

"Và một số chuyện nữa".

"Cô ta nói dối một cách trắng trợn".

"Chị có biết là có hai người làm chứng cho cô ấy không?"

Tench im lặng một lúc. "Tôi biết. Rất nghiêm trọng. Nhà Trắng rất quan ngại về những lời buộc tội đó".

"Nhà Trắng à? Hay chỉ là cá nhân chị?"

Giọng bà ta đanh lại. "Như nhau cả thôi, Giám đốc ạ".

Pickering chẳng thèm để ý. Ông chẳng lạ gì chuyện những chính khách lên giọng quát tháo và những nhân viên lên mặt cáo mượn oai hùm để moi cho được thông tin tình báo. Tuy nhiên không phải ai cũng phồng mang trợn mép dữ tợn như Marjorie Tench. "Tổng thống có biết chị gọi điện cho tôi không?"

"Thẳng thắn mà nói nhé, tôi bị sốc trước cách xử sự quá quắt của anh đấy".

Bà có trả lời câu hỏi của tôi đâu. "Suy luận một cách logic thì ba người đó chẳng có lý do gì để nói dối hết. Tôi buộc phải suy luận tiếp rằng một là họ nói thật, hai là họ nhầm lẫn với thái độ trung thực".

"Nhầm lẫn à? Về chuyện bị tấn công hay sao? Về những giả dối ở tảng thiên thạch mà cả NASA cũng chưa tận mắt nhìn thấy hay sao? Tôi xin anh! Rõ ràng đây là một mưu đồ chính trị".

"Nếu quả thế thật, tôi cũng chưa nghĩ được ra những động cơ của họ đấy".

Tench thở dài đánh sượt, hạ giọng. "Giám đốc này, có những thế lực liên quan đến chuyện này. Anh chưa thể biết được hết. Chúng ta sẽ nói chuyện ấy sau. Lúc này tôi cần biết cô Sexton và hai người kia đang ở đâu. Tôi phải giải quyết chuyện này hết sức triệt để trước khi cô ta tiếp tục gây chuyện. Họ đang ở đâu?"

"Điều này thì tôi không muốn nói ra. Khi nào họ đến nơi tôi sẽ báo chị sau".

"Nhầm rồi. Khi họ về đến nơi tôi sẽ đích thân đến chào họ".

Cùng với bao nhiêu nhân viên mật vụ? Pickering thầm băn khoăn. "Giả sử tôi cho chị biết thời gian và địa điểm, liệu tất cả sẽ cùng nói chuyện thân tình, hay chị định bố trí nhân viên vũ trang bắt giam họ luôn?"

"Những người này trực tiếp uy hiếp Tổng thống, Nhà Trắng có quyền bắt giam họ để thẩm vấn".

Pickering biết bà ta nói đúng. Theo Điều 3056, Khoản 18, Luật Liên bang, mật vụ của Nhà Trắng được phép sử dụng súng cầm tay, vũ khí sát thương và bắt giữ không cần báo trước tất cả những đối tượng bị nghi là có ý định gây nguy hiểm cho Tổng thống. Mật vụ được toàn quyền hành động. Tuy nhiên, đa số những kẻ bị bắt giam theo diện này chỉ là vài kẻ vô hại đi quanh quẩn xung quanh Nhà Trắng và dăm ba đứa trẻ tinh nghịch gửi thư điện tử để hăm dọa.

Pickering biết chắc mật vụ có cơ sở pháp lý để giam Rachel Sexton cùng hai người kia trong tầng hầm Nhà Trắng. Đó là nước cờ mạo hiểm, nhưng rõ ràng là Tench đã nhận thấy những hiểm họa to lớn đang rình rập. Vấn đề là nếu để cho bà ta cầm trịch thì động thái tiếp theo sẽ là gì. Pickering không cần biết.

"Tôi sẽ làm tất cả những gì cần thiết", Tench tuyên bố "để bảo vệ Tổng thống trước mọi cáo buộc vô căn cứ. Chỉ cần vài lời bóng gió ác ý là đủ để phủ bóng đen lên cả Nhà Trắng lẫn NASA. Rachel Sexton đã lạm dụng lòng tin của Tổng thống. Tôi không có ý định để Tổng thống phải trả giá cho điều đó".

"Thế nếu tôi đề nghị tổ chức buổi tường trình chính thức cho cô Sexton thì sao?"

"Nếu thế thì anh trái lệnh Tổng thống và tạo thời cơ cho cô ta gây ra một vụ ầm ĩ trên chính trường. Tôi hỏi lại lần nữa. Anh đang đưa họ đi đâu?"

Pickering thở dài. Dù ông có nói cho Marjorie Tench biết hay không, bà ta cũng sẽ có cách để tìm ra. Vấn đề là liệu bà ta có thực sự muốn hay không. Nghe khẩu khí quyết liệt đến thế thì biết bà ta sẽ chẳng từ chuyện gì. Marjorie Tench đang lo sợ

"Marjorie này". Pickering nói rành rọt. "Có người đang nói dối. Tôi biết. Hoặc đó là Rachel Sexton cùng hai nhà, khoa học dân sự kia - hoặc đó là chị. Mà tôi thì tin rằng chỉ có chị thôi".

Tench nổi đóa: "Làm sao anh dám..."

"Phản ứng gay gắt của chị không lung lạc được tôi đâu. Đừng làm thế. Chị nên tỏ ra khôn ngoan, tôi có bằng chứng về chuyện NASA và Nhà Trắng vừa bày trò gian dối".

Tench im bặt.

Pickering lặng im một lúc. "Giống như chị, tôi không muốn để xảy ra bất kỳ vụ tai tiếng chính trị nào. Nhưng có người đang nói dối. Những lời dối trá không tha thứ được. Nếu chị muốn nhận được sự giúp đỡ của tôi thì hãy bắt đầu bằng cách nói thật".

Tench có vẻ đã bị thuyết phục, nhưng vẫn cảnh giác. "Nếu anh biết rõ đến thế thì tại sao vẫn chưa ra tay?"

"Tôi không muốn can dự vào chuyện chính trị".

Tench làu bàu trong miệng, nghe như từ "mẹ kiếp".

"Marjorie, chị có dám khẳng định với tôi rằng những gì Tổng thống vừa công bố tối nay là hoàn toàn chính xác hay không?"

Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu.

Pickering biết ông đã bắt thóp được bà cố vấn. "Chị nghe đây! Ông ta đều biết quả bom hẹn giờ sắp phát nổ đến nơi. Nhưng vẫn chưa quá muộn. Vẫn có thể thỏa hiệp đôi chút".

Tench tiếp tục im lặng một lúc nữa. Cuối cùng, bà ta thở dài. "Có lẽ chúng ta nên gặp nhau để nói chuyện".

Sợ rồi, Pickering thầm nghĩ.

"Tôi muốn cho anh xem cái này". Tench nói. "Tôi tin rằng sẽ sáng tỏ được nhiều chuyện".

"Để tôi sang văn phòng của chị".

"Đừng". Bà ta chặn ngay."Muộn rồi. Anh mà sang đây thì có người sẽ dị nghị. Chuyện này chỉ hai chúng ta biết với nhau thôi".

Pickering hiểu ra ngay. Tổng thống vẫn chưa biết gì. "Thế thì chị sang bên tôi vậy". Ông nói.

Tench có vẻ không tin tưởng. "Hãy chọn chỗ nào kín đáo một chút".

Pickering không mong gì hơn.

"Đài tưởng niệm FDR có vẻ được đấy". Tench nói. "Giờ này chắc chẳng có ai".

Pickering phân vân. Đài tưởng niệm FDR nằm giữa đài tưởng niệm Jefferson và đài tưởng niệm Lincoln là nơi rất an toàn. Sau đó hồi lâu, ông đồng ý.

"Một giờ nữa nhé". Tench nói. "Nhớ đến một mình".

Ngay sau khi gác máy, Marjorie Tench lập tức điện cho Giám đốc NASA. Giọng riết róng, bà ta loan báo tin xấu.

"Pickering có thể gây khó khăn cho chúng ta".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoaian