Diem_doi_lua4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 81

Tràn đầy hy vọng, Gabrielle Ashe đứng bên bàn làm việc của Yolanda Cole tại phòng sản xuất của Đài Truyền hình ABC và quay số tổng đài.

Những gì Thượng nghị sĩ vừa nói với cô, nếu chứng minh được sẽ gây chấn động lớn. NASA nói dối về PODS. Gabrielle có xem buổi họp báo đó, và đã cảm thấy có gì lạ lùng, nhưng sau đó đã quên ngay, cách đây vài tuần thì PODS chưa phải là vấn đề nóng hổi. Tuy nhiên, trong đêm nay, nó sẽ trở thành tâm điểm của mọi chú ý.

Lúc này Thượng nghị sĩ cần có thông tin nội bộ về PODS, càng nhanh càng tốt. Và ông muốn nhờ "người đưa tin" của Gabrielle. Cô đã hứa với ông là sẽ làm ngay. Vấn đề là người đưa tin của cô lại chính là Marjorie Tench, và lúc này không thể nghĩ đến chuyện nhờ vả gì bà ta hết. Cho nên cô sẽ phải tìm thông tin bằng cách khác.

"Dịch vụ tổng đài". Giọng nói vang lên từ đầu dây bên kia.

Gabrielle nói những thông tin cô cần. Và nhận được ba số điện thoại có tên sở hữu là Chris Harper ở Washington. Gabrielle quay thử cả ba số.

Số đầu tiên là của một hãng luật. Số thứ hai không có người nghe máy. Và chuông đang đổ ở số điện thoại thứ ba.

Một phụ nữ nghe máy. "Nhà Harper đây ạ".

"Bà Harper có phải không ạ? Tôi hy vọng không làm bà thức giấc".

"Ồ không! Ai mà ngủ được trong một đêm như đêm nay cơ chứ!" Giọng bà ta đầy phấn khích. Gabrielle nghe trong máy có tiếng tivi đang nói. Bình luận về tảng thiên thạch. "Cô gọi cho Chris có phải không?"

Mạch Gabrielle đập dồn: "Vâng, đúng ạ, thưa bà".

"Tiếc quá, Chris không có nhà. Buổi họp báo kết thúc, ông ấy lao ngay đến cơ quan" Bà ta vừa nói vừa khúc khích cười. "Chắc chắn chẳng có ai làm việc vào giờ này cả. Chắc lại tiệc tùng thôi. Ông ấy cũng hoàn toàn bị bất ngờ khi nghe Tổng thống công bố. Cô biết đấy, ai mà chẳng thế. Điện thoại nhà tôi réo liên tục từ lúc ấy đến giờ. Tôi đoán là toàn bộ nhân viên của NASA đều đã có mặt ở đó rồi".

"Ở khu liên hợp trên phố E phải không ạ?" Gabrielle hỏi, đoán rằng bà ta đang nhắc đến trụ sở của NASA.

"Đúng thế cô ạ".

"Cảm ơn bà. Tôi sẽ tìm ông nhà ở đó".

Gabrielle gác máy, cô hối hả đi khắp phòng sản xuất để tìm Yolanda. Yolanda vừa hoàn thành khâu chuẩn bị để cho lên sóng chương rình bình luận của sáu nhân viên NASA về tảng thiên thạch.

Thấy Gabrielle, chị mỉm cười: "Trông em khá hơn hẳn rồi đấy! Bắt đầu nhìn thấy Mặt trời rồi sao?"

"Em vừa mới nói chuyện với Thượng nghị sĩ. Cuộc gặp của ông ấy tối nay không phải như em tưởng".

"Chị đã bảo là Tench xạo em mà lại. Thượng nghị sĩ phản ứng thế nào sau khi nghe công bố về tảng thiên thạch?"

"Tâm trạng của ông ấy khá hơn em tưởng nhiều".

Yolanda tỏ vẻ ngạc nhiên: "Chị cứ tưởng ông ấy đang chuẩn bị lao đầu vào xe mà tự sát ấy chứ!"

"Ông ấy cho rằng có thể có kẽ hở trong dữ liệu của NASA".

Yolana nhướng mày: "Ông ấy có xem hết toàn bộ buổi họp báo không? Còn phải nghe thêm bao nhiêu lời khẳng định và chứng thực nữa thì mới đủ cơ chứ?"

"Em sang trụ sở NASA để kiểm tra lại vài thông tin đây".

Đôi chân mày tỉa tót cẩn thận của Yolanda nhướng hẳn lên, đầy vẻ đề phòng. "Cánh tay đắc lực của Thượng nghị sĩ Sexton mà lại đến trụ sở của NASA ngay lúc này hay sao? Em có biết mình đang làm gì không?"

Gabrielle kể lại cho Yolanda những nghi ngờ của Thượng nghị sĩ về khả năng Chris Harper nói dối về quá trình khắc phục sự cố phần mềm của vệ tinh PODS.

Yolanda tỏ vẻ không tin. "Chính đài chị đã truyền hình trực tiếp buổi họp báo đó. Gab này, chị thừa nhận là hôm ấy trông ông ta rất khác thường. Nhưng NASA nói rằng ông ấy bị ốm mà".

"Thượng nghị sĩ Sexton thì lại tin rằng ông ta nói dối. Một số người khác cũng thế. Những người rất có thể lực".

"Nếu phần mềm của vệ tinh PODS chưa được khắc phục xong thì làm sao NASA phát hiện được tảng thiên thạch?"

Thượng nghị sĩ Sexton cũng đã suy luận hệt như thế, Gabrielle thầm nghĩ. "Em không biết, nhưng Thượng nghị sĩ yêu cầu em tìm câu trả lời".

Yolanda lắc đầu: "Sexton đang đẩy em vào tổ kiến lửa đấy. Em đừng đi. Em có nợ ông ta cái gì đâu?"

"Em đã gây tổn thất lớn cho chiến dịch của ông ấy".

"Vận rủi đã gây ra tổn thất đó đấy chứ!"

"Nhưng nếu suy luận của Thượng nghị sĩ là đúng, rằng Giám đốc Dự án PODS đã nói dối thì..."

"Em ơi, nếu ông Giám đốc Dự án đó lừa dối cả thế giới thì vì cớ gì mà ông ta lại đi thú nhận với em cơ chứ?"

Gabrielle đã lường trước chuyện đó và đã bắt đầu tính trước đường đi nước bước. "Nếu em tìm được cái gì thì em sẽ báo ngay với chị".

Yolanda cười lớn, đầy hoài nghi:

"Nếu em mà tìm được cái gì thì chị sẽ nuốt chửng mũ của chị cho em xem".

Chương 82

Hãy gạt bỏ tất cả những gì mình đã biết về tảng thiên thạch.

Vốn đang suy nghĩ rất lung bung về tảng thiên thạch, giờ nghe Rachel hỏi, Michael Tolland cảm thấy vô cùng bất an. Ông nhìn phiến đá mỏng trên tay.

Giả sử có người đưa cho ông miếng đá này và không nói bất cứ điều gì về nguồn gốc cũng như đặc tính của nó. Những phân tích của cá nhân ông sẽ là gì nào?

Tolland biết, câu hỏi của Rachel chứa đựng rất nhiều hàm ý. Nhưng nếu để phân tích vấn đề một cách logic, thì câu hỏi đó quả là hợp lý. Nếu gạt bỏ hết những dữ liệu người ta đã chuyển cho ông khi ông vừa chân ướt chân ráo vào trong bán sinh quyển, Tolland phải thừa nhận rằng những phân tích của ông tỏ ra khá thiên kiến - tảng đá có hóa thạch ở bên trong là thiên thạch.

Nếu người ta không nói gì với ông về tảng thiên thạch thì sao? Ông tự hỏi. Dù chưa thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào khác, Tolland vẫn tự ép mình phải dành thời gian để gạt sang một bên giả thuyết về "tảng thiên thạch". Càng suy nghĩ theo hướng ấy, ông càng cảm thấy băn khoăn. Tolland và Rachel, cùng với Corky, đang cùng nhau bàn luận.

"Tức là..." Rachel nhắc lại, giọng căng thẳng "Mike, anh nói xem, nếu có người đưa cho anh mẩu đá hóa thạch này và chẳng giải thích gì hết, thì có thể anh đã kết luận rằng đây chỉ là đá trái đất mà thôi".

"Dĩ nhiên". Tolland trả lời. "Làm sao kết luận khác được? Khẳng định rằng đã tìm thấy một thiên thạch chưa hóa thạch động vật quả thực khác rất xa việc khẳng định rằng đã tìm thấy một tảng đá của trái đất có chứa mẫu hóa thạch. Năm nào các nhà khoa học chả phát hiện ra hàng chục loài sinh vật mới".

"Những con chấy dài hơn nửa mét sao?" Corky lên tiếng, đầy hoài nghi. "Anh cho rằng con vật này có xuất xứ từ trái đất hay sao?"

"Có thể không phải là trong thời đại của chúng ta", Tolland đáp, "không nhất thiết phải là một loài đang còn tồn tại. Đây là mẫu hóa thạch mà. Nó có niên đại những 170 triệu năm. Cùng thời gian với kỷ Jura, vô khối động vật hóa thạch thời tiền sử to lớn đến nỗi khi phát hiện hóa thạch của chúng, người ta phải giật mình - những loài bò sát biết bay, khủng long, cả chim nữa".

"Tôi không hiểu gì nhiều về vật lý, Mike ạ", Corky nói "nhưng lập luận của anh có lỗ hỗng rất lớn. Những động vật thời tiền sử mà anh vừa kể tên - khủng long, bò sát, chim - đều có xương bên trong. Cho nên chúng có khả năng phát triển thành những loài to lớn, bất chấp lực hút của trái đất. Nhưng hóa thạch này... - ông ta giơ cao mẩu đá. - Những động vật này có vỏ cứng ở bên ngoài. Thuộc bộ chân đốt. Loài bọ. Chính anh cũng đã nói rằng những con bọ to thế này chỉ có thể sống trong những môi trường có lực hút nhỏ. Nếu không, chính cái vỏ lớn này sẽ bị đổ sụm xuống vì trọng lượng của chính nó".

"Chính xác". Tolland nói. "Nếu loài này di chuyển trên mặt đất thì nó sẽ bị để bẹp bởi chính trọng lượng của nó".

Corky bực bội nhướng mày. "Mike, trừ trường hợp có người tiền sử nào đó lập ra những trại gia súc phi trọng lượng... Tôi không thấy có cách gì giải thích cho sự tồn tại của một con bọ dài những hơn nửa mét trên Trái đất cả".

Tolland mỉm cười một mình vì Corky lại có thể bỏ qua một chi tiết quan trọng đến thế. "Thật ra thì còn có khả năng khác nữa". Ông quay sang người bạn thân của mình: "Corky này, tạm dừng nhìn lên một lúc đi, thử nhìn xuống mà xem. Ngay trên trái đất của chúng ta cũng có khối môi trường không trọng lực đấy chứ. Và chúng tồn tại suốt từ thời kỳ tiền sử đến ngày nay".

Corky trợn tròn mắt: "Anh đang nói cái quái quỷ gì thế?"

Cả Rachel cũng thấy bất ngờ.

Tolland đưa tay chỉ mặt biển lóng lánh ánh trăng bên dưới máy bay: "Đại dương".

Rachel khẽ thốt lên:

"Ừ nhỉ".

"Nước là môi trường có trọng lực yếu". Tolland giảng giải. "Trong môi trường nước, mọi thứ đều có trọng lượng nhỏ hơn. Vì thế trong đại dương có những dạng sống yếu ớt vô cùng, đến nỗi không thể tồn tại được trên cạn - sứa này, mực ống lớn này, lươn này..."

Corky đồng tình nhưng không sốt sắng lắm. "Đúng thế. Nhưng trong lòng đại dương thời tiền sử làm gì có những con bọ khổng lồ thế này?"

"Chắc chắn là có! Ngay cả ngày nay nữa ấy chứ. Người ta vẫn dùng làm thức ăn hàng ngày mà. Chúng còn là đặc sản của nhiều vùng ấy chứ".

"Mike, làm quái gì có ai ăn những con bọ biển to thế!"

"Tất cả mọi người vẫn ăn tôm hùm và cua đấy thôi".

Corky tròn xoe mắt...

"Loài giáp xác chiếm tỉ lệ rất lớn trong số các sinh vật biển". Tolland giải thích. "Chúng là một hệ của loài chân khớp - chấy, cua, nhện, sâu bọ, châu chấu, bò cạp, tôm hùm - tất cả đều có họ với nhau. Chúng đều có khung xương ở bên ngoài và các phần phụ có đốt".

Corky trông như sắp phát ốm.

"Nhìn từ góc độ đó, chứng rất giống các loài bọ". Tolland giải thích tiếp. "Loài cua hình móng ngựa trông rất giống những con bò ba thuỳ khổng lồ. Và chân tôm hùm trông rất giống chân của bò cạp".

Corky tái mét. "Ừ nhỉ. Tôi cũng mới ăn tôm hùm".

Rachel cảm thấy vô cùng phấn khích. "Tức là các loài chân đốt trên mặt đất có kích cỡ nhỏ bé là do tác động của trọng lực. Nhưng trong môi trường nước, trọng lượng cơ thể của chúng giảm đi, cho nên chúng trở lên to lớn hơn".

"Chính xác". Tolland nói. "Con cua lớn ở vùng Alaska có thể bị nhầm với con nhện khổng lồ nếu chúng ta chỉ có một phần hóa thạch".

Sự phấn khích của Rachel dần chuyển sang thành trạng thái lo lắng. "Mike này, một lần nữa hãy gạt bỏ giả thiết rằng đây đích thị là tảng thiên thạch, hãy nói cho tôi nghe: Anh có cho rằng mẫu hóa thạch chúng ta nhìn thấy trên phiến băng Milne có thể có nguồn gốc từ dưới biển không? Biển trên trái đất ấy?"

Ánh mắt chăm chú của cô khiến cho Tolland cảm nhận rất rõ sức nặng của câu hỏi. "Về mặt lý thuyết thì có đấy. Dưới đáy biển cũng có những bộ phận có niên đại một trăm chín mươi triệu năm. Giống như những mẫu hóa thạch này. Và trên lý thuyết, đại dương cũng có thể bao gồm những dạng sống rất giống thế này".

"Xin anh!" Corky nhạo báng. "Tôi không còn tin nổi vào tai mình nữa. Gạt sang một bên tính xác thực của tảng thiên thạch này à? Đó là một tảng thiên thạch, không thể chối cãi được. Thậm chí nếu đáy đại dương của trái đất cũng có niên đại y như thế đi nữa, thì lấy đâu ra lớp vỏ ngoài bị nung chảy đây? Lại còn hàm lượng nickel rất dị thường, cả các chondrules nữa chứ. Lập luận này rất thiếu cơ sở".

Tolland biết Corky có lý. Tuy nhiên, nghĩ rằng những mẫu hóa thạch đó chẳng qua chỉ là một loài sinh vật biển làm cho nó mất thiêng đi nhiều. Lúc này, nó không còn mang dáng vẻ xa lạ nữa.

"Mike này", Rachel nói "thế tại sao các nhà khoa học của NASA không xem xét khả năng hóa thạch này là của những sinh vật biển? Thậm chí là biển trên một hành tinh khác?"

"Có hai lý do. Các mẫu hóa thạch ở biển - được lấy lên từ đáy đại dương - thường chứa nhiều loài sinh vật lẫn lộn. Bất kỳ loài nào sống trong đại dương rộng lớn đều chìm xuống dưới đáy sau khi chết. Như thế tức là đáy đại dương là nghĩa địa của tất cả các loài sống ở tất cả các độ sâu, các tầng áp suất và môi trường nhiệt khác nhau. Nhưng mẫu đá ở Milne thì rất sạch - chỉ có một loài. Nó giống với một mẫu tìm thấy trên sa mạc hơn. Một số những sinh vật cùng loài bị chôn vùi trong trận bão cát chẳng hạn".

Rachel gật đầu. "Còn lý do thứ hai khiến anh nghĩ tới môi trường cạn thay vì đại dương?"

Tolland nhún vai. "Chỉ là bản năng thôi. Các nhà khoa học vẫn cho rằng nếu có sự sống trong vũ trụ thì chắc chắn có dạng giống sâu bọ. Và quả thật, khi quan sát vũ trụ, chúng ta thấy đất và đá nhiều hơn so với nước".

Rachel lặng im.

"Mặc dù..." Tolland nói thêm. Ông vẫn đang tiếp tục suy nghĩ. "Phải thừa nhận rằng ở đáy biển có những vùng rất sâu mà các nhà đại dương học coi là vùng chết. Chúng ta chưa thực sự hiểu hết những nơi đó, nhưng đó là những khu vực mà điều kiện về hải lưu và thức ăn không cho phép sự sống tồn tại. Chỉ một số ít những loài ăn xác thối dưới đáy biển thôi. Trên cơ sở đó, tôi cho rằng những mẫu hóa thạch chỉ có một loài duy nhất không phải là không có".

"Này, này..." Corky làu nhàu. "Thế còn lớp vỏ bị nóng chảy? Còn hàm lượng nickel? Còn các chrondrule? Giải thích thế nào về chúng?"

Tolland không nói gì.

"Vấn đề hàm lượng nickel này", Rachel nói với Corky "anh giải thích hộ tôi lần nữa đi. Hàm lượng nickel trong các loại đá của trái đất thường hoặc rất cao hoặc rất thấp, còn trong các tảng thiên thạch thì lại ở mức trung bình, đúng không?"

Corky gật đầu quả quyết: "Chính xác".

"Và hàm lượng nickel trong mẫu đá này rơi vào đúng giới hạn trung bình đó chứ?"

"Rất sát, đúng như thế".

Rachel ngạc nhiên: "Gượm đã nào. Sát à? Thế nghĩa là sao?"

Corky như sắp nổi cáu. "Như tôi đã giải thích từ trước, tỉ lệ khoáng vật học trong các tảng thiên thạch không giống nhau. Mỗi khi các nhà khoa học tìm thấy những thiên thạch mới, chúng tôi lại phải cập nhật chuẩn mới về hàm lượng nickel của các thiên thạch".

Rachel giơ cao mẫu đá, kinh ngạc. Tức là tảng thiên thạch này buộc anh phải đánh giá lại mẫu chuẩn về hàm lượng nickel? Nó không nằm trong khoảng trung bình được thừa nhận từ trước hay sao?

"Chỉ một chút xíu". Corky đốp chát.

"Sao trước đó chẳng thấy ai nhắc đến chuyện này?"

"Cái đó không quan trọng. Vũ trụ học là ngành khoa học động, luôn luôn được cập nhật".

"Trong khi tiến hành một phân tích vô cùng quan trọng ư?"

"Tôi nói thế này nhé", Corky tức tối "Tôi đảm bảo với cô rằng tỉ lệ nickel trong tảng thiên thạch đó gần với các tảng thiên thạch hơn là các loại đá trái đất".

Rachel quay sang Tolland: "Anh đã biết chuyện này chưa?"

Tolland miễn cưỡng gật đầu. "Lúc đó, mọi người coi nó là chuyện vặt. Tôi đã được thông báo rằng hàm lượng nickel trong tảng đá này cao hơn so với các tảng thiên thạch khác chút xíu. Nhưng các chuyên gia của NASA đều tỏ ra không quan tâm".

"Trên cơ sở vững chắc?" Corky ngắt lời. "Bằng chứng về tỉ lệ khoáng chất ở đây không dẫn đến kết luận rằng tảng đá này có "nguồn gốc vũ trụ", nó chỉ cho phép kết luận rằng tảng đá này không giống đá trái đất".

Rachel lắc đầu. "Xin lỗi anh, nhưng trong ngành của tôi, kiểu lập luận lỏng lẻo như thế có thể làm người khác bị chết oan. Thừa nhận rằng một tảng đá không giống đá trên trái đất chưa đủ để chứng minh rằng nó là một tảng thiên thạch. Như thế mới chỉ chứng minh được rằng nó khác với các loại đá trên trái đất mà chúng ta đã biết".

"Như thế thì có gì khác nhau!"

"Chẳng khác nhau chút nào". Rachel đáp. "Nếu anh đã nghiên cứu tất cả mọi loại đá trên trái đất".

Corky im lặng giây lát. "Thôi được", cuối cùng ông ta nói "nếu cô thấy có vấn đề thì chúng ta bỏ qua hàm lượng nickel. Chúng ta vẫn còn lớp vỏ bị nóng chảy và các chodrule".

"Chắc chắn rồi". Rachel nói, vẫn chưa hết nghi ngờ. "Hai trong ba bằng chứng, không tồi chút nào".

Chương 83

Đại bản doanh của NASA là tòa nhà kính khổng lồ hình tứ giác tọa lạc tại số 300 phố E, Wasington. Bên trong tòa nhà là hệ thống dây cáp tải dữ liệu chằng chịt dài tới hai trăm dặm và vô số máy tính với trọng lượng lên tới hàng ngàn tấn. Đây là nơi làm việc của 1134 nhân viên dân sự, những người hàng ngày vẫn điều hành mười hai trụ sở của NASA trải khắp trên toàn nước Mỹ, những người tiêu tốn của Chính phủ mỗi năm mười lăm tỉ đôla.

Dù đêm đã về khuya, Gabrielle không hề ngạc nhiên khi thấy phòng chờ của tòa nhà đầy chặt người, những nhân viên của NASA trong tâm trạng rất hồ hởi, và những phóng viên báo chí cũng phấn khích không kém. Gabrielle hối hả tiến vào. Lối vào trông khá giống một viện bảo tàng với những mô hình tên lửa và vệ tinh nhân tạo cỡ lớn treo lủng lẳng trên đầu. Mấy toán phóng viên truyền hình đang tác nghiệp trong căn phòng rộng lớn lát đá hoa cương. Một số nhân viên của NASA vừa bị chặn lại để phỏng vấn.

Gabrielle đưa mắt nhìn khắp lượt, nhưng không thấy người nào trông giống Giám đốc Dự án PODS Chris Harper. Một nửa số người trong sảnh đeo biển nhà báo, tất cả những người còn lại đeo thẻ ra vào của NASA. Gabrielle không có thẻ. Trông thấy cô gái đeo thẻ ra vào của NASA, Gabrielle lại gần.

"Xin chào! Cô có biết Chris Harper ở đâu không?"

Cô gái chăm chú nhìn Gabrielle, như thể láng máng nhận ra cô, nhưng không chắc chắn lắm. "Tôi nhìn thấy tiến sĩ Harper được một lúc lâu rồi, mình như ông ấy lên gác rồi thì phải. Tôi có biết chị không nhỉ?"

"Chắc là không đâu". Gabrielle đáp, quay mặt đi chỗ khác. "Làm thế nào để lên được tầng trên?"

"Chị có làm việc cho NASA không?"

"Không".

"Thế thì chị không thể lên được đâu".

"Thế à? Thế ở đây có máy điện thoại..."

"Này". Cô ta nói, bất thần trở nên cáu kỉnh. "Tôi biết chị. Tôi đã trông thấy chị trên truyền hình, cùng với Thượng nghị sĩ Sexton. Làm sao chị dám vác mặt..."

Gabrielle đã kịp biến mất trong đám đông, không còn ở đó nữa. Nhưng vẫn nghe rõ mồn một cô ta đang oang oang loan báo cho những người xung quanh rằng cô đang ở đây...

Khiếp thật. Mới cô hai giây, mình đã bị liệt vào danh sách truy nã.

Trên tường có sơ đồ tòa nhà. Cô nhìn bao quát một lượt khắp sơ đồ, tìm cái tên Chris Harper. Không thấy. Sơ đồ này không ghi tên người. Chỉ có các phòng ban.

PODS? Cô tự hỏi, nhìn khắp sơ đồ lần nữa, hy vọng thấy dấu hiệu nào đó liên quan đến máy chụp cắt lớp địa cực trong quỹ đạo. Cũng không thấy. Cô bồn chồn nhìn lại đằng sau, sợ bị nhân viên của NASA phát hiện. Gabrielle vừa trông thấy trên tường một hàng chữ có vẻ hứa hẹn, tầng 4:

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TRÁI ĐẤT, GIAI ĐOẠN HAI

Hệ thống quan sát trái đất (EOS)

Vẫn cố gắng không để người khác nhận ra mình, Gabrielle đến bên thang máy được bố trí cạnh đài phun nước. Cô tìm nút bấm điều khiển thang máy, nhưng chỉ nhìn thấy mấy cái hốc để đưa thẻ vào. Chết tiệt. Thang máy ở đây chỉ dành cho nhân viên - phải có thẻ ra vào thì mới sử dụng được...

Một toán thanh niên hăm hở đến bên thang máy, nói cười hoan hỉ. Họ đều đeo thẻ ra vào của NASA. Gabrielle ngay lập tức làm ra vẻ cúi xuống bên đài phun nước, mặt quay ra phía khác. Một anh chàng mặt đầy trứng cá đưa thẻ vào khe cửa thang máy, cánh cửa mở ngay lập tức. Anh ta vừa gật gù đầy hưng phấn vừa cười lớn.

"Mấy anh chàng bên SETI chắc đang hóa điên!" Anh ta nói khi cả nhóm đã ở trong buồng thang máy. "Mấy cỗ máy ọc ạch của họ suốt hai mươi năm nay hoài công săm soi các giải thiên hà, trong khi bằng chứng về sự sống lại bị chôn vùi trong băng hà ngay trên trái đất suốt ngần ấy năm!"

Cửa thang máy khép lại, toán thanh niên biến mất.

Gabrielle đứng thẳng dậy, quệt mồ hôi trên trán, không biết nên làm gì. Cô đưa mắt nhìn quanh, tìm máy điện thoại nội bộ. Không thấy. Cô nghĩ đến chuyện ăn cắp thẻ ra vào, nhưng ngay lập tức tự nhủ rằng như thế là dại dột. Gabrielle nhìn thấy cô gái ban nãy vừa tỏ ra bực bội với cô. Cô ta đang len qua đám đông, cùng với một nhân viên an ninh của NASA.

Người đàn ông đầu hói, có ria, hối hả bước tới thang máy. Gabrielle lại cúi xuống bên đài phun nước. Ông ta không hề để ý xưng quanh. Gabrielle lặng lẽ nhìn ông ta tra thẻ vào khe cửa. Cửa thang máy lạỉ mở, ông ta bước vào.

Nhanh lên. Gabrielle tự nhủ, quyết tâm chớp lấy cơ hội. Hoặc bây giờ, hoặc không bao giờ.

Cửa thang máy sắp khép lại, Gabrielle nhảy bổ vào, tay giữ cánh cửa. Hai cánh cửa lại mở rộng ra, cô bước vào, ánh mắt ngời sáng, đầy phấn chấn. "Anh đã bao giờ được chứng kiến sự kiện nào giống thế này chưa?"

Cô nhanh nhẩu nói, làm ông ta giật mình. "Lạy Chúa, quá tuyệt vời!"

Ông ta gật đầu nhìn cô lạ lẫm.

"Mấy anh chàng bên SETI chắc sắp hóa điên!" Gabrielle nói. "Mấy cỗ máy ọc ạch của họ suốt hai mươi năm săm soi dải thiên hà, trong khi bằng chứng về sự sống thì nằm chơn vùi trong băng hà ngay trên Trái đất!"

Ông ta tỏ vẻ ngạc nhiên: "À... ừ... Đúng là..." Ông ta nhìn Gabrille, tỏ vẻ băn khoăn vì không thấy cô đeo thẻ. "Xin lỗi, cô là..."

"Cho tôi lên tầng 4. Tôi vội đến nỗi suýt quên cả áo lót!" Cô cười khanh khách, mắt liếc thật nhanh thẻ ra vào của ông ta: JAMES THEISEN, trưởng phòng tài vụ.

"Cô có phải là nhân viên không?" Ông ta có vẻ không thoải mái. "Cô là...?"

Gabrielle giả bộ há hốc miệng. "Jim! Em thất vọng quá! Phụ nữ ghét nhất là bị quên tên đấy!"

Ông ta tái mặt, mất tự nhiên, bối rối gãi đầu: "Tôi xin lỗi. Quá phấn khích ấy mà, cô biết đấy. Quả thật trông cô quen lắm. Cô ở chương trình nào nhỉ?"

Chết tiệt. Gabrielle tự tin mỉm cười: "EOS".

Ông ta chỉ tay vào con số bốn đang nhấp nháy sáng trên tường. "Dĩ nhiên rồi. Chính xác là dự án nào nhỉ?"

Tim Gabrielle đập thình thịch. Cô chỉ nghĩ được duy nhất một cái tên. "PODS".

Ông ta tỏ vẻ ngạc nhiên. "Thế à? Tôi tưởng tôi đã biết hết nhân viên của tiến sĩ Harper rồi".

Cô ngượng ngùng gật đầu. "Chris giấu tôi kỹ lắm. Chính tôi là nhân viên lập trình ngớ ngẩn đã nhầm chỉ số voxel khi viết phần mềm".

Lần này ông ta há hốc miệng. "Hóa ra là cô à?"

Gabrielle nhăn nhó. "Tôi mất ngủ mấy tuần liền".

"Nhưng tiến sĩ Harper đã nhận hết trách nhiệm cơ mà!"

"Tôi biết. Chris là người như thế. Vô cùng độ lượng. Nhưng mà buổi họp báo tối nay thì tuyệt vời. Tảng thiên thạch ấy mà. Tôi phát điên lên mất!"

Thang máy đừng lại ở tầng bốn. Gabrielle bước ra ngay. "Rất vui được gặp lại anh, Jim ạ! Cho tôi gửi lời hỏi thăm các chàng trai ở phòng tài vụ nhé!"

"Tất nhiên rồi". Ông ta lắp bắp khi cửa thang máy khép lại. "Rất vui được gặp lại cô".

Chương 84

Cũng như đa số những đời Tổng thống trước, mỗi đêm. Zach Herney chỉ được ngủ khoảng bốn đến năm giờ đồng hồ. Tuy nhiên, trong những tuần vừa qua, ông còn được ngủ ít hơn thế. Khi những hân hoan, hờ hởi của thắng lợi bắt đầu lãng dần xuống, ông nhận ra rằng đêm đã về khuya.

Cùng một vài cộng sự thân thiết, ông vừa uống rượu sâm banh để mừng thắng lợi trong phòng Rooservelt. Các kênh truyền hình thay nhau phát đi phát lại những hình ảnh của buổi họp báo, trích đoạn bộ phim tài liệu của Tolland, và cả những lời xác nhận của các chuyên gia. Ngay lúc này, trên màn hình tivi là cảnh một phóng viên tay cầm micro đang đứng ngay trước Nhà Trắng.

"Ngoài những tác động to lớn đối với toàn thể nhân loại", cô ta nói là những tác động chính trị không thể chối cãi ngay tại Washington. "Tảng thiên thạch được tìm thấy đúng vào thờí điểm cực kỳ, thuận lợi cho ngài Tổng thống vốn đang phải hứng chịu những đòn công kích rất gay gắt". Giọng cô ta chuyển sang trầm trọng "Và vào thời điểm chết người đối với Thượng nghị sĩ Sexton". Ngay sau lời nhận định đó là trích đoạn cuộc đối thoại diễn ra đầu giờ chiều cùng ngày hôm nay: "Sau ba mươi lăm năm chờ đợi", Sexton công bố "tôi tin là chúng ta không thể tìm thấy sự sống trong vũ trụ"

"Thế nếu anh sai thì sao?" Marjorie Tench hỏi.

Sexton sừng sộ: "Ồ, lạy Chúa, nếu thế thì tôi sẽ nuốt chửng mũ của tôi".

Tất cả những người đang ngồi trong phòng Rooservelt cười phá lên. Xem lại thế mới thấy câu hỏi của Tench quả là ác hiểm, nhưng ngay lúc đó thì chưa ai để ý, giọng điệu và lời lẽ của Sexton vô cùng ngạo mạn, và thật đáng đờỉ ông ta.

Tổng thống nhìn khắp căn phòng, tìm Tench. Ngay từ trước cuộc họp báo bà ta đã biến mất, và đến giờ vẫn không thấy tăm hơi.

Lạ thật, ông thầm nghĩ, đây cũng chính là thắng lợi của bà ta cơ mà.

Bản phân tích tin được phát tiếp theo đó lại một lần nữa đề cập tới thắng lợi giòn giã của Tổng thống và sự trượt dốc thê thảm của Thượng nghị sĩ Sexton.

Chỉ sau một ngày mà thời cuộc đổi thay ấy à? Tổng thống thầm nghĩ. Trên chính trường, cả thế giới có thể xoay vần chỉ trong vài tích tắc ấy chứ.

Đến lúc bình minh lên, chính Tổng thống sẽ hiểu hết ý nghĩa của những lời ấy.

Chương 85

Pickering có thể gây chuyện, Tench đã nói vậy.

Quá đắm chìm trong chuỗi suy tư, Giám đốc Ekstrom không nhận thấy rằng cơn bão đang mạnh lên từng phút trên dòng sông băng. Những sợi dây néo bị kéo căng rền rĩ to hơn, và các nhân viên của NASA đang tán gẫu vì không ai ngủ được. Nhưng tâm trí của Ekstrom đang bận bịu với cơn bão khác - cơn giông tố chính trị đang hình thành ở Washington. Những giờ vừa rồi thật là lắm sự kiện, và ông đã một mình đường đầu. Nhưng lúc này, một vấn đề khác liên quan đến nhiều người hơn đã nảy sinh.

Pickering có thể gây chuyện.

Trên thế gian này, có lẽ không một bộ óc nào có thể sánh ngang tầm với ông, trừ Pickering. Bao năm nay ông ta đã giày vò NASA tìm mọi cách can thiệp vào các vấn đề nội bộ của NASA, vận động hành lang để giành quyền ưu tiên trong rất nhiều điệp vụ, và lớn tiếng công kích tất cả những thất bại của họ.

Ông biết, Pickering căm ghét NASA từ rất lâu, trước vụ nổ tên lửa đẩy của NASA phá hủy hoàn toàn vệ tinh SIGNT trị giá bạc tỉ của NRO, hay quyết định tuyển dụng nhân sự cấp cao của NASA. Thái độ không bằng lòng của Pickering đối với NASA là cả một câu chuyện dài tạo nên bởi những thất vọng và giận dữ.

Tàu vũ trụ X33 của NASA đã hoạt động lâu hơn thời hạn định trước những năm năm, khiến cho hàng chục chương rình bảo dưỡng và phóng thiết bị mới của NRO bị huỷ bỏ hoặc hoãn lại. Mới đây cơn cáu giận của Pickering về tàu vũ trụ X-33, chuyển thành cơn thịnh nộ khủng khiếp khi ông ta phát hiện ra rằng NASA đã huỷ bỏ dự án ấy, gây thiệt hại khoảng 900 triệu đô la.

Ekstrom về đến phòng làm việc của mình. Ông kéo rèm cửa, bước vào trong. Ông sắp phải cân nhắc vài quyết định. Ngày hôm nay, sau bước khởi đầu tốt đẹp, đang dần chuyển thành một cơn ác mộng. Ông cố đặt mình vào địa vị của Pickering để suy nghĩ. Ông ta sẽ hành động thế nào đây? Một người có đầu óc như Pickering chắc chắn phải nhận thức được tầm quan trọng của phát kiến này. Ông ta sẽ phải chấp nhận một số vấn đề vặt vãnh nảy sinh ngoài dự kiến ông ta phải thấy được những tác động ghê gớm của việc làm hỏng giây phút vinh quang này.

Pickering sẽ làm gì sau khi thu thập được thông tin? Liệu ông ta có thẳng tay bắt NASA phải trả giá cho những thiếu sót ấy hay không?

Ekstrom rên rỉ, điều này thì ông không còn nghi ngờ gì nữa.

Rốt cuộc thì những khúc mắc của Pikering đối với NASA quả là vô cùng sâu sắc... Đó là những chua chát của cá nhân ông ta...

Những khúc mắc sâu sắc hơn những vấn đề chính trị này nhiều.

Chương 86

Rachel ngồi yên lặng, dõi nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc phi cơ G4 đang đưa cả nhóm về phương nam, ngang qua bờ vịnh St. Lawrence thuộc địa phận Canada. Cạnh cô, Tolland đang chuyện trò với Corky. Dù phần lớn các chỉ số cho thấy tảng thiên thạch là thật chi tiết mà Corky vừa thừa nhận, rằng hàm lượng nickel trong chất đá của nó nằm ngoài khoảng trung bình đã một lần nữa nhen lên trong tâm trí Rachel những nghi ngờ ban đầu. Bí mật khoan thủng phiến băng từ phía dưới để đưa tảng đá vào trong lòng băng là một âm mưu hoàn hảo.

Dù sao thì những bằng chứng khoa học vẫn chỉ ra rằng đó đích thực là một tảng thiên thạch.

Rachel thôi không nhìn ra ngoài nữa, cô cúi xuống nhìn mẫu đá đang cầm trên tay. Những chrondrule bé tí phản quang lóng lánh. Corky và Tolland đã thảo luận về những chrondrule bé nhỏ này hồi lâu, họ nhắc đến những thuật ngữ khoa học nằm ngoài phạm vi hiểu biết của cô - mức độ olivine cân bằng, chất nền siêu bền, những biến dạng đã tái đồng nhất. Nhưng kết luận thì rất rõ: Corky và Tolland đều thống nhất quan điểm cho rằng những chrondrule là bằng chứng chắc chắn chứng minh cho nguồn gốc vũ trụ của tảng đá. Dữ liệu đó thì không thể làm giả được.

Xoay xoay mẫu đá mỏng trong lòng bàn tay, ngón tay của Rachel chạm vào lớp vỏ bị cháy xém. Lớp vỏ nóng chảy trông rất mới - chẳng có vẻ gì là đã được ba trăm tuổi cả - mặc dù Corky đã giải thích rằng trong suốt thời gian đó, tảng thiên thạch bị bao kín trong băng đá và không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào của bầu khí quyển. Có vẻ rất logic. Rachel đã thấy trên tivi những xác người bị chôn kín trong băng bốn ngàn năm mà nước da vẫn gần như hoàn hảo.

Chăm chăm nhìn lớp vỏ bị nóng chảy, một ý nghĩ chợt loé lên trong trí não Rachel - một dữ liệu hiển nhiên đã bị bỏ sót. Cô tham tự hỏi không hiểu người ta đã cố ý làm vậy khi giải thích với cô về tảng đá, hay chỉ là một sơ suất vô tình.

Cô đột ngột quay sang hỏi Corky: "Mọi người đã kiểm tra niên đại của lớp vỏ nóng chảy này chưa?"

Corky nhìn cô bối rối: "Cái gì?"

"Đã có ai kiểm tra niên đại của lớp vỏ bị cháy chưa? Chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng lớp vỏ này được tạo ra cùng thời điểm với sự kiện Junger Fall hay không?"

"Rất tiếc", Corky trả lời, "cái đó thì không thể xác định được. Oxy đã mài mòn sạch dấu vết các chất đồng vị. Đấy là chưa kể đến tỉ lệ giảm chất đồng vị phóng xạ rất thấp đã không cho phép xác định bất kỳ vật gì với niên đại dưới năm trăm năm".

Rachel ngẫm nghĩ trong giây lát, giờ thì cô đã hiểu vì sao không ai nhắc đến niên đại của lớp vỏ cháy xém. "Như thế có nghĩa là lớp vỏ này có thể bị nóng chảy từ thời Trung Cổ, hoặc mới tuần vừa rồi, đúng thế không?"

Tolland cười khà khà: "Có ai dám khẳng định là khoa học đã trả lời được mọi câu hỏi đâu!"

Rachel nói thành tiếng những suy nghĩ của mình: "Chỉ cần nung ở nhiệt độ cao là sẽ có một lớp vỏ bị nóng chảy. Về mặt kỹ thuật thì lớp vỏ này có thể xuất hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong vòng nửa thế kỷ qua, bằng nhiều cách khác nhau".

"Sai rồi". Corky đáp. "Nung nóng bằng nhiều cách khác nhau ư? Không đâu. Chỉ bằng một cách mà thôi. Cọ xát vào bau khí quyển".

"Không có cách nào khác à? Thế còn trong lò nung thì sao?"

"Lò nung?" - Corky nói. "Chúng tôi đã dùng kính hiển vi điện tử để soi lớp vỏ bị nóng chảy này. Ngay cả lò nung sạch sẽ nhất hành tinh này cũng vẫn để lại cặn nhiên liệu trên mặt đá - phóng xạ hạt nhân hoá chất, nhiên liệu hoá thạch. Quên khả năng đó đi. Lại còn các sọc dọc do rơi qua tầng khí quyển nữa chứ. Trong lò nung thì sao có cái đó được?"

Corký lắc đầu: "Lớp vỏ nóng chảy này quá tinh khiết".

Rachel nhìn sang Tolland. Nhà đại dương học gật đầu: "Tiếc là tôi có hiểu biết đôi chút về núi lửa, cả trên cạn lẫn dưới nước. Corky nói đúng đấy. Trong tro bụi của núi lửa có rất nhiều độc tố - dioxyt carbon, dioxit sunfur, sunfat hydro, acide chlohydric - tất cả những thứ đó sẽ hiện rõ mồn một trong kính hiển vi điện tử. Buộc phải thừa nhận rằng lớp vỏ nóng chảy này là kết quả của quá trình ma sát với bầu khí quyển tinh khiết".

Rachel thở dài, lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Nóng chảy tinh khiết. Những ngôn từ ấy cứ bám chặt lấy tâm trí cô. Rachel lại quay sang Tolland. "Nóng chảy tinh khiết có nghĩa là sao?"

Ông nhún vai: "Đơn giản là khi soi bằng kính hiển vi điện tử. không phát hiện được dấu vết nào của nhiên liệu hoá thạch, nên người ta kết luận rằng nhiệt lượng tạo ra nóng chảy chỉ có thể là kết quả của năng lượng tạo ra do động lực chứ không phải do hoá chất hay các nguyên liệu hạt nhân".

"Nếu không có vết tích của nhiên liệu thì người ta sẽ tìm thấy cái gì? Thành phần cụ thể của lớp vỏ nóng chảy này là gì?"

Corky lên tiếng: "Chúng tôi tìm thấy đúng những thứ đang chủ đích tìm. Những thành phần của bầu không khí tinh khiết. Ni tơ, oxy hydro... Không nhiên liệu hoá thạch, không sunfur, không acide núi lửa. Không có gì đặc biệt cả. Chỉ toàn những chất tạo ra trong quá trình tảng thiên thạch rơi trong bầu khí quyển mà thôi".

Rachel ngả người trên ghế, cố tập trung suy nghĩ.

Corky nhoài người về phía cô. "Xin cô đừng nói với tôi là cô đang nghĩ đến chuyện NASA đưa một tảng đá có hoá thạch lên trên trời bằng tên lửa đẩy, sau đó ném ùm xuống mặt đất với hi vọng là không một ai nhìn thấy quả cầu lửa rơi xuống, hay nghe thấy vụ nổ khủng khiếp, hay nhìn thấy cái hố khổng lồ mà nó tạo ra".

Rachel chưa nghĩ xa đến thế, nhưng quả thật đó cũng là một khả năng. Tuy không thực tế, nhưng rất hấp dẫn. Thực ra, những ý nghĩ trong đầu cô gần mặt đất hơn nhiều. Tất cả những thanh phần tự nhiên của khí quyển. Nóng chảy tinh khiết. Những vằn sọc do rơi tự do trong bầu khí quyển. Một tia sáng le lói vừa tắt ngấm trong tâm trí Rachel. "Thành phần của khí quyển mà anh nhìn thấy ở tảng đá này", cô nói "có trùng khớp hoàn toàn với tất cả những tảng thiên thạch khác hay không?"

Dường như Corky có ý thoái thác câu hỏi này: "Cô nói gì cơ?"

Nhận thấy thoáng phân vân của Corky, tim Rachel đập rộn lên. "Tỉ lệ đó không trùng khớp, đúng thế không?"

"Có thể giải thích chi tiết đó một cách khoa học".

Mạch Rachel đập dồn: "Anh có tình cờ nhận thấy bất kỳ thành phần nào có tỉ lệ khác thường không?"

Tolland và Corky chột dạ nhìn nhau.

"Có đấy, nhưng mà..." Corky nói.

"Có phải tỉ lệ hydro bị ion hóa không?"

Nhà vũ trụ học trố mắt kinh ngạc: "Làm sao cô biết được điều đó?"

Ánh mắt của Tolland cũng đầy kinh ngạc.

Rachel nhìn thẳng vào họ: "Thế tại sao không ai nói gì với tôi?"

"Vì có một cách giải thích hết sức khoa học cho chỉ tiết đó". Corky dõng dạc.

"Tôi đang nghe đây". Rachel nói.

"Tỉ lệ hydro bị ion hoá quả là có cao hơn". Ông ta nói tiếp. "Bởi vì tảng thiên thạch này rơi xuyên qua vùng khí quyển của Cực Bắc. Và điều kiện từ trường đặc trưng của vùng này đã tạo ra tỉ lệ khí hydro bị ion hóa hơi cao hơn bình thường".

Rachel nhíu mày: "Tiếc rằng tôi lại có một cách giải thích khác".

Chương 87

Hành lang lầu bốn của NASA trông không ấn tượng như đại sảnh ở tầng một - dọc những bức tưởng đơn điệu là các cánh cửa vuông thành sắc cạnh trông buồn thảm. Hành lang không một bóng người. Những tấm biển chỉ hướng được đính trên tường.

<-- LANSAT 7

TERRA -->

<-- ACRIMSAT

<-- JASON 1

AQUA -->

PODS-->

Gabrielle đi theo hướng tấm biển đề PODS. Sau vài lần rẽ ngang rẽ dọc, cô đứng trước hai cánh cửa sắt nặng nề. Trên cửa có tấm biển:

MÁY CHỤP CẮT LỚP ĐỘ ĐẬM ĐẶC ĐỊA CỰC TRÊN QUỸ ĐẠO (PODS)

Giám đốc Dự án, Chris Harper

Cửa khóa, chỉ mở khi có thẻ ra vào và mã số PIN. Gabrielle áp tai vào cánh cửa thép. Hình như loáng thoáng có tiếng người bên trong. Tranh cãi. Cũng có thể không phải. Cô thầm cân nhắc liệu có nên đập cửa thật mạnh để gọi họ ra mở cửa hay không. Nhưng ý đồ của cô đối với tiến sĩ Harper đòi hỏi sự tinh tế hơn nhiều so với sách lược đập cửa này. Cô nhìn quanh tìm lối vào khác, nhưng không có. Chỉ thấy có một hốc tường ngay cạnh cửa ra vào. Cô bước vào, đưa mắt tìm chùm chìa khóa hay cái thẻ ra vào nào đó. Không thấy gì. Chỉ toàn những chổi và cây lau nhà.

Gabrielle lại quay về bên cánh cửa, áp sát tai nghe ngóng. Lần này thì cô nghe rất rõ tiếng người bên trong. Mỗi lúc một to hơn. Cả tiếng bước chân nữa. Có người đang tra chìa vào ổ từ bên trong.

Khi cánh cửa bật mở, Gabrielle không kịp quay lại nấp trong hốc tường. Cô nhảy vội sang một bên, áp sát người vào tường, sau cánh cửa. Một toán người bước ra, vừa đi vừa tranh luận ầm ỹ. Họ có vẻ bực bội.

"Không hiểu Harper có vấn đề quái quỷ gì nữa. Đáng nhẽ ra ông ta phải sung sướng tột độ mới phải chứ".

"Một đêm như đêm nay", một người khác nói tiếp khi cả nhóm đi qua ngay sát Gabrielle "thế mà ông ấy lại muốn ở một mình!"

Khi nhóm người đi hết, những chiếc bản lề đệm hơi bắt đầu khép cánh cửa lại, để lộ ra Gabrielle đang đứng sát tường. Cô cố đứng im càng lâu càng tốt, cho đến khi chỉ còn vài inch nữa là cánh cửa đóng hẳn, lại. Cô nhảy bổ vào, tay chộp lấy mép cửa. Rồi Gabrielle lại tiếp tục đứng im thin thít, đợi cho bọn họ đi khuất hẳn cuối hành lang. Mải mê với đề tài bàn luận của mình, chẳng ai để ý thấy Gabrielle đang có mặt ở đó...

Tim đập thình thình, Gabrielle kéo cánh cửa mở rộng ra và bước vào trong sảnh lớn mờ tối. Cô khẽ khàng đóng cửa lại.

Đây là khu làm việc rộng rãi, khá giống phòng thí nghiệm vật lý trong trường đại học: máy tính, khu làm việc có vách quây, dụng cụ điện tử. Khi mắt đã quen với bóng tối, cô bắt đầu nhận ra những màn hình vi tính màu xanh sẫm đặt quanh phòng. Toàn bộ khu này đều tối, ngoại trừ một căn phòng ở phía cuối thấy có ánh sáng hắt ra từ dướỉ khe cửa. Gabrielle lặng lẽ tiến về phía đó. Cửa đóng, nhưng nhìn qua cửa sổ, cô thấy một người đang ngồi bên máy vi tính Gabrielle ngay lập tức nhận ra người đã phát biểu trong buổi họp báo của NASA. Tấm biển trên cánh cửa có ghi:

Chris Harper

Giám đốc Dự án, PODS

Đã vào đến tận đây, vậy mà Gabrielle chợt cảm thấy sợ hãi, thầm lo không hiểu có tìm ra được sự thật hay không. Cô nhớ lại thái độ quả quyết của Thượng nghị sĩ khi ông nói rằng Chris Harper đã nói dối. Tôi có thể lấy toàn bộ sự nghiệp ra để đành cược điều này, ông đã nói thế. Dĩ nhiên là còn nhiều người khác nữa cũng có cảm giác đó, những người giờ đang trông cậy vào cô để vạch trần được sự thật, hòng trừng phạt NASA để gỡ gạc lại phần nào sau những sự kiện kinh khủng tối nay. Sau khi, bị Tench và Tổng thống Herney hù dọa một cách hèn hạ lúc chiều, cô rất nóng lòng muốn lập công.

Cô giơ tay lên định gõ cửa, rồi lại thôi. Những lời nói của Yolanda chợt vang lên trong, tâm trí. Nếu Chris Harper lừa phỉnh cả thế giới về PODS thì hà cớ gì ông ta lại thú nhận với em cơ chứ?

Sự sợ hãi, Gabrielle tự nhủ, suýt nữa thì ngày hôm nay cô đã trở thành nạn nhân của nó. Cô đã có một kế hoạch. Bao gồm chiến thuật mà Thượng nghị sĩ thỉnh thoảng vẫn dùng đến để dọa dẫm đối phương. Sau một thời gian phò tá Thượng nghị sĩ, Gabrielle đã học được khá nhiều, tuy không phải tất cả những thứ cô tiếp thu được đều thánh thiện và tốt đẹp Nhưng tối nay cô cần tất cả những thứ đó. Nếu cô có thể ép Chris Harper thừa nhận đã nói dối - bất kể vì lý do gì - thì cô đã mở được một cánh cửa cho chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ. Chỉ chừng đó là đủ, bởi với tài biến báo của mình, Sexton có thể tự lèo lái chiến dịch tranh cử qua tất cả những chặng còn lại.

Ý đồ của Gabrielle lúc này là sử dụng kế sách mà Sexton gọi là "bắn chỉ thiên" - một phương pháp thẩm vấn do những người La Mã phát minh ra để dụ cho những tên tội phạm bị tình nghi đang nói dối phải nhận tội. Một sách lược đơn giản đến không ngờ.

Khẳng định thông tin cần đối tượng thú nhận...

Sau đó buộc đối tượng vào những tội to hơn.

Mục đích là để cho đối tượng có cơ hội chọn tội nhẹ hơn - chính là sự thật trong tình huống này.

Để áp dụng phương sách này cần phải rất tự tin, mà đó chính là thứ lúc này hình như cô không có nổi. Hít một hơi thật sâu, cô duyệt lại lần nữa kịch bản trong đầu. Rồi mạnh bạo gõ cửa.

"Tôi đã bảo là đang bận!" Harper nói vọng ra, ngữ điệu Ăng-lê rất quen thuộc...

Cô lại gõ cửa. Mạnh hơn.

"Tôi đã bảo là không muốn xuống đó mà lại!"

Lần này, Gabrielle đấm cửa thình thình.

Chris Harper bước ra giật mạnh cánh cửa. "Đồ quỷ sứ, các anh..." Ông ta im bặt, ngạc nhiên trông thấy Gabrielle.

"Tiến sĩ Harper". Gabrielle lên tiếng, cố làm ra vẻ đầy tự tin.

"Làm sao cô vào được tận đây?"

Mặt Gabrielle lạnh te: "Ông có biết tôi là ai không?"

"Sao không! Sếp của cô bêu riếu chúng tôi suốt mấy tháng nay còn gì? Làm sao cô vào được tận trong này?"

"Thượng nghị sĩ Sexton phái tôi đến đây".

Ông ta đưa mắt nhìn phòng thí nghiệm vắng tanh sau lưng Gabrielle. "Ai dẫn cô lên đây?"

"Cái đó ông không cần biết. Thượng nghị sĩ có rất nhiều mối quan hệ".

"Trong tòa nhà này?" Ông ta ngờ vực nhìn Gabrielle.

"Ông đã xử sự không trung thực, tiến sĩ Harper ạ. Rất tiếc phải thông báo với ông là Thượng nghị sĩ đang kêu gọi thành lập một uỷ ban Thượng viện để điều tra những hành vi không trung thực của ông".

Vẻ mặt ông ta thoáng chút sững sờ. "Cô đang nói về chuyện gì?"

"Giả bộ ngây ngô là một hành động xa xỉ hoàn toàn không thích hợp với những người có đầu óc như ông đâu, tiến sĩ ạ. Ông đang gặp rắc rối, và Thượng nghị sĩ phái tôi đến đây để thỏa thuận với ông một điều. Tối nay chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ đã bị giáng một đòn chí tử. Ông ấy không còn gì để mất, và rất sẵn lòng kéo luôn ông xuống đất đen cùng một thể nếu cần".

"Cô đang nói cái quái gì thế hả?"

Gabrielle hít thật sâu để lấy thêm can đảm. "Trong buổi họp báo về phần mềm xử lý thông tin trên vệ tinh PODS, ông đã nói dối. Chúng tôi đều biết điều đó. Cho nên không cần bàn đến nữa".

Harper chưa kịp nói câu gì. Gabrielle đã tiếp tục nói phủ đầu: "Ngay lúc này Thượng nghị sĩ có thể lôi chuyện ông nói dối ra, nhưng ông ấy không quan tâm đến điều đó. Ông ấy đang để tâm đến một sự kiện khác quan trọng hơn. Tôi tin rằng ông biết rõ tôi đang nói đến cái gì".

"Không, tôi..."

"Lời đề nghị của Thượng nghị sĩ là thế này: ông ấy sẽ không đả động đến chuyện ông nói dối trong buổi họp báo nếu ông đồng ý công khai tên tuổi nhân vật chóp bu của NASA đang đồng loã với ông biển thủ công quỹ".

Hai mắt Harper mở thao láo: "Cái gì? Tôi đâu có biển thủ công quỹ!"

"Tôi tin rằng ông là người ăn nói chín chắn, thưa tiến sĩ... Uỷ ban Thượng viện đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều tháng nay rồi. Chẳng lẽ ông tin là có thể giữ kín được cơ à? Dám cả gan giả mạo chứng từ của dự án PODS, dùng thủ đoạn chi tiền sai mục đích để bỏ túi tư lợi? Nói dối và tham ô sẽ khiến ông phải vào nhà đá đấy, thưa tiến sĩ Harper".

"Tôi đâu có làm chuyện đó!"

"Ông bảo là không nói dối về dự án PODS hay sao?"

"Không! Tôi khẳng định không hề biển thủ công quỹ?"

"Có nghĩa là ông thừa nhận có nói dối về PODS?"

Ông ta trợn tròn mắt, không nói nên lời.

"Hãy bỏ qua chuyện ông nói dối". Gabrielle nói tiếp, chuyển hướng cuộc đấu khẩu. "Thượng nghị sĩ Sexton không quan tâm đến chuyện ông nói dối trong cuộc họp báo đó. Chuyện đó quá thường. NASA đã tìm thấy tảng thiên thạch, bằng cách nào thì cũng thế cả thôi. Cái ông ấy đang chú tâm chính là chuyện biển thủ công quỹ. Ông ấy muốn hạ bệ một nhân vật chóp bu ở đây. Nếu ông chịu thú nhận kẻ đồng loã với ông thì ngài Thượng nghị sĩ sẽ lái cuộc điều tra để ông không bị động đến. Nếu ông không muốn sung sướng, không chịu nói cho chúng tôi biết tên của kẻ đồng loã đó, thì Thượng nghị sĩ sẽ chẳng nương tay, và sẽ ngay lập tức cho điều tra về những lời dối trá liên quan đến phần mềm xử lý thông tin của các ông".

"Cô đừng có xạo? Chẳng có trò biển thủ nào hết!"

"Ông đúng là đồ dối trá trơ trẽn, tiến sĩ Harper ạ. Tôi đã đọc tất cả các tài liệu đó. Tên của ông lù lù trên mặt giấy. Không biết bao nhiêu lần".

"Tôi thề là không hề biết gì về việc đó!"

Gabrielle thở dài, làm ra vẻ thất vọng. "Ông hãy thử đặt mình vào địa vị của tôi, tiến sĩ ạ. Trong tình thế này thì tôi chỉ có thể rút ra hai kết luận mâ thôi. Hoặc là ông đang nói dối tôi, y như đã nói dối trong cuộc họp báo đó. Hoặc là ông nói thật, và nhân vật chóp bu nào đó trong cơ quan này đang dựng ông lên làm bù nhìn để che tội cho bản thân".

Câu nói ấy dường như khiến Harper tĩnh trí được đôi phần.

Gabrielle giơ tay lên xem đồng hồ. "Thượng nghị sĩ chỉ dành cho cuộc thỏa thuận này một giờ đồng hồ. Ông có cơ hội tự cứu mình bằng cách nói ra tên của nhân vật chóp bu NASA đang cùng ông biển thủ tiền thuế của dân Mỹ. Ngài Thượng nghị sĩ không quan tâm đến ông. Ông ấy muốn bắt được con cá to kia. Hiển nhiên là người thứ hai trong vụ này phải là người có vai vế ở NASA; và người đó không để tên mình chường ra trên mặt giấy, chỉ có tên ông xuất hiện như hình nhân thế mạng mà thôi".

Harper lắc đầu: "Cô nói dối".

"Ông có muốn đứng trước tòa để nói ra điều đó không?"

"Sao không? Tôi sẽ phủ nhận mọi cáo buộc".

"Sau khi đã thề chỉ nói sự thật à?" Gabrielle lên giọng đầy khinh bỉ. "Chắc ông cũng sẽ lớn tiếng nói rằng không hề nói sai sự thật về phần mềm của PODS đấy nhỉ?" Vừa nhìn thẳng vào mắt ông ta, Gabrielle vừa nghe thấy tim mình đập đến vỡ cả lồng ngực. - Ông hãy lựa chọn cho kỹ, tiến sĩ ạ. Nhà tù Hoa Kỳ không phải là chốn dễ chịu lắm đâu".

Harper cũng nhìn thẳng vào mắt cô, còn Gabrielle thì cố tập trung tinh lực để khiến ông ta phải cụp mắt xuống. Trong một tích tắc Gabrielle tưởng như nhìn thấy ý định đầu hàng trong mắt ông ta. Nhưng khi Harper len tiếng, giọng ông ta sắc lạnh. điềm tĩnh.

"Cô Ashe này!" ông ta dõng dạc, mắt quắc lên giận dữ "thôi cái trò bắt nọn ấy đi. Cả tôi lẫn cô đều biết rằng ở NASA chẳng có trò biển thủ công quỹ nằo hết. Kẻ duy nhất đang nói dối trong căn phòng này chính là cô đấy".

Gabrielle thấy cơ thể như hóa đá. Ánh mắt sắc lạnh của ông ta chòng chọc nhìn thẳng vào cô. Mình bày trò xảo trá trước mặt một nhà khoa học về tên lửa. Thế này là đáng đời mày lắm Gabrielle ạ. Cô cố ngẩng cao đầu. "Tôi chỉ cần biết là", cô làm bộ tỉnh bơ, không thèm đếm xỉa đến phản ứng của ông ta "tất cả những tài liệu mà tôi đã đọc đều cho thấy hành vi gian lận của ông và một nhân vật khác trong NASA. Và tôi chỉ biết là Thượng nghị sĩ phái tôi đến đây để đề nghị ông hãy khai ra kẻ đồng loã của mình để khỏi phải chịu tội một mình. Và bây giờ tôi sẽ về báo cáo với Thượng nghị sĩ là ông muốn một mình ra trước vành móng ngựa ông cứ việc nói vớỉ tòa như vừa nội với tôi, rằng ông không biển thủ công quỹ, và cũng không nói dối về phần mềm của dự án PODS". Cô nhếch mép cười hăm doạ. "Nhưng sau buổi họp báo chẳng ra đâu vào đâu cách đây hai tuần thì tôi rất nghi ngờ điều đó". Gabrielle quay gót và sải bước ra khỏi phòng làm việc của Giám đốc Dự án PODS, thầm nghĩ chính ra cô mới là người phải vào nhà đá trước chứ không phải là ông ta.

Gabrielle ngẩng cao đầu bước đi, thầm mong Harper gọi mình lại. Im lặng. Cô đẩy cánh cửa thép và bước ra sảnh ngoài mờ tối, ao ước giá thang máy ở đây không được cài đặt để vận hành bằng thẻ ra vào. Cô đã thua. Cô đã cố hết sức, nhưng Harper không mắc bẫy. Biết đâu ông ta nói thật trong buổi họp báo đó thì sao? Gabrielle thầm nghĩ.

Tiếng cửa mở đánh sam vang khắp sảnh khi cánh cửa sắt sau lưng Gabrielle bị giật mạnh. "Cô Ashe này". Harper gọi theo. "Tôi thề không biết gì về vụ biển thủ đó. Tôi là người trung thực!"

Tim Gabrielle đập rộn lên sung sướng, nhưng hai chân cô vẫn tiếp tục sải bước. Gabrielle làm bộ nhún vai và nói vọng lại: "Trung thực nhưng tại sao ông lại nói dối trong buổi họp báo đó?"

Im lặng. Gabrielle tiếp tục tiến ra cửa.

"Dừng lại đã!" Harper hét ầm lên. Ông ta chạy đuổi theo Gabrielle, mặt tái mét. "Về vụ biển thủ công quỹ này", ông ta hạ giọng "tôi biết kẻ nào đã dựng chuyện cho tôi rồi".

Gabrielle đứng lại, chưa dám tin hẳn vào tai mình. Cô làm ra vẻ thật tự nhiên, chậm rãi quay đầu lại. "Ông muốn tôi tin là có người dựng chuyện cho ông ư?"

Ông ta thở dài: "Tôi thề là không hề biết gì về vụ thụt két đó. Nhưng nếu có những chứng cứ chống lại tôi thì..."

"Nhiều lắm".

Harper thở dài. "Nếu thế thì tất cả đều là trò vu khống. Chắc chắn là để làm tôi bị mất uy tín. Và chỉ một người có thể làm được điều đó".

Harper nhìn sâu vào mắt Gabrielle: "Lawrence Ekstrom rất căm ghét tôi".

Gabrielle hoàn toàn bất ngờ. "Giám đốc NASA ư?"

Harper gật đầu một cách nghiêm trang: "Chính ông ta đã ép tôi phải nói dối trong cuộc họp báo đó".

Chương 88

Dù động cơ đẩy chạy bằng nhiên liệu metan của nó mới hoạt động hết nửa công suất cho phép mà chiếc phi cơ Aurora đã bay nhanh gấp ba lần tốc độ âm thanh - trên hai ngàn dặm một giờ. Tiếng nổ đều đều của những động cơ đẩy bằng sóng dao động khiến mọi người đều cảm thấy buồn ngủ. Bên dưới, cách họ khoảng 30 mét, bị tác động của luồng gió phản lực kéo dài như một cái đuôi công phía sau máy bay, mặt biển đang nổi sóng dữ dội.

Đây chính là lý do tại sao loại máy bay SR-71 bị thay thế, Delta-Một thầm nghĩ.

Aurora là loại máy bay bí mật mà trên nguyên tắc không ai được biết, nhưng trên thực tế thì mọi người đều đã biết cả. Kênh truyền hình Discovery thậm chí còn phát cả một chương trình về quá trình bay thử loại máy bay này ở Groom Lake, Nevada. Thông tin mật về loại máy bay này bị rò rỉ có thể đã bắt nguồn từ tiếng động cơ nổ vang trời của nó mà tận Los Angeles cũng nghe thấy, cũng có thể là do mấy anh chàng công nhân trên dàn khoan Northsea vô tình nhìn thấy nó, mà cũng có thể tại nhân viên của Tổng thống đã hớ hênh để tên nó trong bản quyết toán ngân sách của Lầu Năm Góc để công khai cho công chúng. Không ai biết được chính xác, nhưng chẳng hề gì. Công chúng đã biết: Quân đội Mỹ đã sở hữu một loại máy bay mới có tốc độ gấp sáu lần bình thường, đã chế tạo thành công chứ không còn trong giai đoạn thiết kế nữa. Và nó đã sẵn sàng tung cánh giữa trời xanh.

Loại máy bay thân dẹt giống quả bóng chày này do hãng Lockheed chế tạo. Những vằn sọc sáng bóng như pha lê chạy bao quanh thân máy đồ sộ với bề dài gần 40 mét và bề ngang 20 mét. Tốc độ bay của nó được quy định bởi loại động cơ đẩy kiểu mới gọi là động cơ đẩy dạng sóng. Đốt khí hydro dạng lỏng đục, để lại một vệt khói dài rất dễ nhận thấy trên bầu trời, nên loại máy bay này thường chỉ được sử dụng vào ban đêm.

Đêm nay, với lợi thế về tốc độ, đội Delta đang thực hiện một hành trình dài xuyên đại dương để về nhà. Họ cũng đang kết hợp bám đuổi mục tiêu. Mợi người đã bàn đến chuyện rượt đuổi để bắn hạ chiếc máy bay mà họ đã xác định được, nhưng chỉ huy lại sợ rằng các máy quét radar có thể phát hiện ra, và xác chiếc máy bay rơi sẽ dẫn đến cuộc điều tra quy mô. Tốt nhất là cứ để cho nó hạ cánh đã, chỉ huy đã quyết định như vậy. Một khi xác định được địa điểm hạ cánh của chiếc phi cơ đó, đội Delta sẽ ra tay.

Lúc này, khi cả nhóm đang bay qua vùng biển Labrado buồn tẻ thiết bị Cryptalk trên tay Delta-Một nháy sáng báo hiệu có cuộc gọi đến. Anh trả lời máy.

"Tình hình đã thay đổi". Giọng nói đã qua thiết bị xử lý điện tử trong máy vang lên. "Các anh có thêm một mục tiêu nữa trên đất liền trước khi Rachel và hai nhà khoa học kia hạ cánh".

Thêm một mục tiêu nữa. Delta-Một đã biết trước điều này. Kế hoạch đang bị bại lộ. Chỉ huy vừa phát hiện thêm một vết rò rỉ nữa trên thân tàu, và họ sẽ phải hàn kín vết rò càng nhanh càng tốt. Đáng ra con tàu không bị vết rò rỉ nào, Delta-Một tự nhắc mình, nếu cả đội đã diệt gọn mục tiêu trên phiến băng Milne. Anh biết quá rõ chính mình là người gây ra những rắc rối mới này.

"Thêm một đối tượng thứ tư nữa vừa nhúng tay vào". Chỉ huy thông báo.

"Đó là ai?"

Chỉ huy chần chừ một lúc - rồi cũng nói ra tên người đó.

Ba người lính sững sờ nhìn nhau. Họ biết rất rõ cái tên này. Thảo nào chỉ huy chần chừ không dám nói ngay! Delta-Một thầm nghĩ. Kế hoạch ban đầu cho điệp vụ này là "không sát thương", thế mà lúc này số lượng xác chết đang tăng lên nhanh chóng. Các bắp thịt trên người anh như co cứng lại khi nghe chỉ huy thông báo thời gian và địa điểm tiêu diệt mục tiêu.

"Mức độ mạo hiểm đang tăng lên nhanh chóng". Chỉ huy nói tiếp "Nghe cho kỹ. Tôi chỉ nói một lần thôi đấy".

Chương 89

Trên bầu trời xứ Main, chiếc máy bay G4 vẫn đang tăng tốc tiến về Washington. Trên máy bay, Michael Tolland và Corky Marlinson chăm chú lắng nghe Rachel Sexton thuyết minh cho giả thuyết của cô về lý do khiến cho hàm lượng hydro trong lớp vỏ nóng chảy của tảng thiên thạch.

"NASA có một cơ sở kiểm tra của riêng họ, mang tên trạm Plum Brook". Rachel nói, chính cô cũng không dám tin là bản thân mình đang tiết lộ bí mật quốc gia. Cô chưa bao giờ tiết lộ bí mật cho những ai không có quyền tiếp cận thông tin. Nhưng trong tình huống này, Tolland và Corky có quyền được biết. "Plum Brook là nơi NASA tiến hành chạy thử tất cả các loại động cơ mà họ mới chế tạo được. Cách đây hai năm, chính tay tôi đã viết một tóm tắt tin nói về loại động cơ mà NASA đang cho chạy thử ở đó - hình như là một loại động cơ chu kỳ rộng thì phải".

Corky nhìn cô nghi hoặc: "Động cơ chu kỳ rộng vẫn còn trong giai đoạn lý thuyết. Mới có trên giấy thôi. Chưa có ai chạy thử được thứ đó. Phải vài thập niên nữa".

Rachel lắc đầu: "Xin lỗi anh, Corky, NASA quả thực đã có mô hình đó trong tay rồi. Họ đang trong giai đoạn thử nghiệm mà".

"Cái gì?" Corky vẫn hoài nghi. "Loại động cơ đó chạy bằng khí oxy hydro hóa lỏng, mà khí đó lên đến vũ trụ thì đông đặc lại ngay, cho nên NASA có dùng được đâu! Họ đã thông báo là sẽ không chế tạo động cơ đó cho đến khi khắc phục được vấn đề nhiên liệu đông cứng cơ mà".

"Họ đã khắc phục được rồi. Họ bỏ thành phần oxy đi, rồi đưa khí hydro vào một dạng "hỗn hợp bùn" tức là một hỗn hợp nhiên liệu đông lạnh có chứa hydro ở tình trạng bán đông lạnh. Động cơ này cực mạnh, và cháy rất sạch. Và rất có thể được sử dụng nếu NASA cho phóng tàu vũ trụ lên sao Hỏa".

Corky vẫn chưa hết kinh ngạc: "Không thể nào!"

"Hoàn toàn là sự thật đấy. Tôi đã tóm tắt, tin cho Tổng thống mà. Và Giám đốc của tôi đã phải lao tâm khổ tứ vì NASA muốn công bố rộng rãi thành công vang dội đó của họ, còn Pickering thì muốn Nhà Trắng buộc NASA giữ bí mật về thế hệ động cơ này".

"Tại sao?"

"Cái đó không quan trọng". Rachel nói. Cô đã tiết lộ thông tin mật vì buộc phải làm thế, và không có ý định tiến xa hơn nữa. Sự thật là Pickering muốn giữ bí mật loại động cơ này là do hiện đang có mối quan ngại về an ninh quốc gia ngày càng gia tăng - Trung Quốc đang phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ với tốc độ nhanh chóng khôn lường. Gần đây Trung quốc còn cho xây dựng một sân bay vũ trụ "cho thuê" và ai bỏ giá thầu lớn thì sẽ mua được quyền sử dụng, mà hầu hết những nhà thầu đó chắc chắn sẽ là kẻ thù của Mỹ. Cho nên an ninh quốc gia của Mỹ đang bị uy hiếp. May mắn thay, NRO biết được rằng Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo động cơ nhiên liệu đẩy để sử dụng cho sân bay vũ trụ đó. Cho nên Pickering thấy không có lý do gì để đánh động cho Trung Quốc biết NASA đã có thứ họ đang ao ước.

"Tức là", Tolland nói, vẻ rất không thoải mái "cô nói rằng NASA đã có trong tay loại động cơ đẩy dùng khí hydro tinh khiết làm nhiên liệu à?"

Rachel gật đầu. "Tôi không có con số chính xác, nhưng nhiệt độ khí thải của loại động cơ này cao hơn nhiệt độ của bất kỳ thứ gì con người từng tạo ra được trong lịch sử. Cho nên NASA đã phải nghiên cứu một loại ống xả bằng chất liệu đặc biệt". Cô ngừng một lát "Để một tảng đá lớn đằng sau động cơ nổ đẩy kiểu này, tảng đá đó sẽ bị nóng chảy bởi khí thải ở nhiệt độ cực kỳ lớn phả ra từ động cơ thể là có một lớp vỏ nóng chảy".

"Thế đấy!" Corky nói. "Cô lại quay về với giả thuyết tảng thiên thạch giả rồi".

Tolland chợt trầm tư. "Ý tưởng đó rất đáng suy nghĩ đấy. Cũng tương tự như việc đặt tảng đá bên dưới bệ phóng tên lửa trong một lần phóng vệ tinh lên vũ trụ thôi mà".

"Lạy Chúa tôi", Corky ca cẩm, "tôi đang bay cùng hai kẻ gàn dở không can nổi".

"Corky này", Tolland nói tiếp. "trên lý thuyết thì khi đặt tảng đá trước luồng khí thải của động cơ nóng như vậy cũng sẽ tạo ra các vằn dọc giống như khi tảng thiên thạch rơi tự do trong bầu khí quyển, đúng không nào? Bề ngoài sẽ giống nhau, cả vằn dọc lẫn những lớp bề mặt nóng chảy bị thổi tạt về phía sau".

Corky làu bàu: "Chắc thế".

"Và động cơ sử dụng khí hydro tinh khiết cũng sẽ không để lại cặn bã gì hết. Chỉ duy nhất khí hydro thôi. Hàm lượng hydro bị ion hóa trên lớp bề mặt nóng chảy sẽ cao hơn bình thường".

Corky trợn trừng mắt: "Nghe này, nếu những động cơ đẩy đó là có thật và chạy bằng nguyên liệu hydro tinh khiết thật, thì điều đó là có thể. Nhưng những động đó còn lâu chúng ta mới có được".

"Tại sao?" Tolland cật vấn. "Quy trình cũng khá đơn giản mà".

Rachel gật đầu tán đồng: "Tất cả những gì ta cần là một tảng đá có hóa thạch niên đại 190 triệu năm. Đem nung nóng bằng động cơ đẩy Sau đó vùi vào trong băng hà. Thế là có thiên thạch ăn liền".

"Có thể khách du lịch sẽ tin vào câu chuyện đó". Corky phản đối "Nhưng không thể nói thế với các nhà khoa học của NASA được. Thế các chrondrule thì giải thích sao đây?"

Rachel cố nhớ lại xem Corky đã giải thích với cô về các chrondrule thế nào. "Anh đã nói rằng các chrondrule được hình thành do quá trình nung nóng và làm lạnh trong vũ trụ đúng không nào?"

Corky thở dài: "Chrondrule hình thành khi một tảng đá, có nhiệt độ rất thấp ngang với nhiệt độ môi trường trong vũ trụ, đột ngột bị nung lên đến nhiệt độ nóng chảy không toàn phần - 1550 độ C. Sau đó tảng đá nguội đi, cực kỳ nhanh, làm cho các túi đá nóng chảy đông cứng ngay lại thành các chrondrule".

Tolland chằm chằm nhìn ông bạn:

"Và tất cả quá trình đó không thể xảy ra trên mặt đất được sao?"

"Không thể". Corky tuyên bố. "Môi trường nhiệt trên trái đất không cho phép điều đó xảy ra. Chúng ta đang nói tới nhiệt độ trong lò phản ứng hạt nhân và độ không tuyệt đối trong môi trường chân không. Những thái cực đó không có được trên hành tinh của chúng ta đâu".

Rachel tỏ ra băn khoăn: "Ít ra là không có được trong tự nhiên".

Corky quay sang cô: "Thế có nghĩa là sao?"

"Tại sao quá trình nung nóng và làm lạnh đó không thể xảy ra trong điều kiện nhân tạo trên trái đất được?" Rachel chất vấn. "Người ta có thể dùng động cơ nổ đẩy để nung nóng nó lên, rồi đặt vào thiết bị làm lạnh".

Corky trợn mắt: "Các chrondrule nhân tạo sao?"

"Biết đâu đấy".

"Một ý tưởng kỳ quặc". Corky đáp liền, giằng mẫu đá trên tay Rachel. "Chắc cô đã quên mất chi tiết rằng những chrondrule này có niên đại 190 triệu năm". Ông ta nhấn mạnh từng tiếng "Theo như tôi hiểu, thưa cô Sexton, cách đây 190 triệu năm không có người nào trên trái đất này điều khiển động cơ nổ đẩy và thiết bị làm lạnh nào hết".

Dù gì đi nữa, Tolland thầm nghĩ, mỗi lúc chứng cứ một nhiều lên. Ông đã yên lặng khá lâu sau khi nghe Rachel nói về loại động cơ nổ đẩy dạng sóng. Giả thuyết của cô, dù vô cùng táo bạo, đã mở ra mọi cánh cửa, khiến cho ý nghĩ của ông chạy lan man theo mọi hướng. Nếu lớp vỏ bị nóng chảy có thể nhân tạo được, thì liệu còn gì khác nữa không?

"Sao anh yên lặng thế?" Rachel hỏi ông.

Tolland nhìn cô gái. Trong khoảnh khắc, dưới ánh đèn từ trần cabin phả xuống, ông chợt thấy trong mắt Rachel ánh lên cái nhìn hiển dịu của Celia. Ông lắc đầu, gạt ký ức ra khỏi tâm trí, rồi thở dài mệt mỏi. "À, tôi chỉ đang nghĩ..."

"Về tảng thiên thạch phải không?" Cô mỉm cười.

"Còn chi tiết nào nữa đây?"

"Anh đang cố nghĩ xem còn chi tiết nào bị bỏ sót không chứ gì?"

"Đại loại thế..."

"Thế anh có nghĩ ra cái gì không?"

"Chưa có gì đặc biệt. Nhưng tôi không được thoải mái lắm khi thấy nhiều chi tiết bị đổ đến như thế, đơn thuần chỉ vì chúng ta biết được lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch".

"Tập hợp dữ liệu thu được dựa trên những yếu tố được mặc định trước luôn là thế". Rachel nói. "Chỉ cần lật lại chi tiết đầu tiên, thế là tất cả lung lay. Vị trí của tảng thiên thạch là chi tiết đầu tiên của chúng ta.."

Mình sẽ nói cho cô ấy biết. "Khi tôi đặt chân lên phiến băng Milne, ông Giám đốc đã nói rằng họ vừa tìm thấy một tảng thiên thạch nằm trong túi băng hoàn toàn kín. Tảng đá đó có độ đậm đặc cao hơn tất cả các loại đá khác trong vùng. Và tôi đã coi đó là bằng chứng về nguồn gốc vũ trụ của tảng đá".

"Và chúng tôi nữa chứ".

"Hàm lượng nickel trung bình, dù cũng là một căn cứ, nhưng vẫn chưa đủ để kết luận".

"Hàm lượng đó rất gần mức trung bình mà". Corky chêm vào, hóa ra ông ta vẫn lắng nghe tất cả.

"Nhưng không hoàn toàn chính xác".

Corky gật đầu đồng tình, nhưng khá miễn cưỡng:

"Lại nữa", Tolland nói "những con bọ vũ trụ chưa ai thấy bao giờ đó. Dù rất dị thường, có thể chỉ là một loài giáp xác tầm thường trong đại dương".

Rachel gật đầu: "Và bây giờ đến lượt lớp vỏ bị nóng chảy..."

"Tôi không muốn thừa nhận điều này chút nào", Tolland quay sang nói với Corky "nhưng dường như những bằng chứng tiêu cực bắt đầu trở thành đa số mất rồi".

"Không thể dựa vào linh cảm để làm khoa học được". Corky nói "phải căn cứ vào các dữ liệu cụ thể chứ. Các chrondrule ở tảng đá này khẳng định nó chính là thiên thạch. Tôi thừa nhận là có rất nhiều chi tiết khiến chúng ta phải suy nghĩ, nhưng không thể bỏ qua các chrondrule. Những bằng chứng tích cực đều rất quan trọng, đã thế những bằng chứng chống lại tảng thiên thạch đều chỉ dựa trên suy diễn mà thôi".

Rachel nhíu mày: "Thế thì ta phải kết luận thế nào đây?"

"Chẳng thế nào cả". Corky nói. "Các chrondrule đã chứng tỏ chúng ta có trong tay tảng thiên thạch. Vấn đề chỉ là tạỉ sao nó lại được đưa vào trong lòng băng hà mà thôi".

Dù rất muốn tin vào lập luận của bạn mình, Tolland vẫn cảm thấy có gì đó không ổn.

"Anh có vẻ vẫn chưa tin hẳn. Mike ạ". Corky nhận xét.

Tolland bối rối nhìn Corky: "Tôi cũng chẳng biết nữa. Hai trong số ba dữ liệu không hề ít đâu. Chúng ta chỉ còn sử dụng được một trong ba dữ liệu quan trọng. Có lẽ chúng ta vẫn bỏ sót chi hết nào đó".

Chương 90

Mình đi đời rồi, Chris Harper thầm nghĩ, lòng tê tái khi nghĩ đến cảnh tù đày. Thượng nghị sĩ Sexton đã biết rằng trình nói dối về phần mềm của PODS.

Dẫn Gabrielle vào phòng làm việc của mình và đóng cửa lại, ông thấy căm ghét Giám đốc NASA. Đêm nay thì Harper đã biết những lời dối trá của ông Giám đốc có thể thậm tệ đến thế nào. Không chỉ ép ông nói dối về dự án PODS. Ông ta còn nguỵ tạo bằng chứng để sẵn sàng hãm hại ông trong trường hợp ông thay đổi thái độ và không muốn tiếp tục nói dối nữa.

Bằng chứng về hành vi biển thủ công quỹ. Harper thầm nghĩ. Để dọa. Thật quỷ quyệt. Suy cho cùng thì sẽ chẳng một ai đem đặt lòng tin vào kẻ tha hóa muốn làm hỏng giây phút huy hoàng nhất trong lịch sử chương trình nghiên cứu vũ trụ của Hoa Kỳ. Vốn đã biết rằng Giám đốc dám làm mọi chuyện để bảo vệ NASA, ông vẫn cảm thấy choáng váng khi nghe Tổng thống tuyên bố về tảng thiên thạch có hóa thạch bên trong.

Harper đi đi lại lại bên chiếc bàn lớn đặt mô hình thu nhỏ vệ tinh PODS - một vật hình lăng trụ với rất nhiều ăng ten và kính phản quang. Gabrielle ngồi xuống, chăm chú nhìn ông ta, chờ đợi. Cảm giác nôn nao trong dạ lại một lần nữa khiến Harper nhớ lại những gì ông ta cảm thấy trong suốt buổi họp báo ấy. Ông ta đã trình bày một cách rất không thuyết phục, và rất nhiều người đã thắc mắc với ông về điều đó. Thế là Harper buộc phải tiếp tục nói dối rằng hôm ấy ông bị ốm nặng. Cả cánh phóng viên lẫn các đồng nghiệp của ông đều tỏ ra không hài lòng, nhưng rồi đều nhanh chóng quên bẵng đi cuộc họp báo kỳ quặc đó.

Giờ đây, lời dối trá đó quay lại ám ảnh tâm trí ông.

Gabrielle Ashe tỏ ra nhã nhặn hơn: "Ngài Harper này, giờ Giám đốc đã trở thành đối thủ của ông rồi, nên ông cần phải có một đồng minh. Và Thượng nghị sĩ Sexton sẽ là người bạn duy nhất mà ông có được trong bối cảnh này. Chúng ta hãy bắt đầu với câu chuyện về phần mềm của PODS. Hãy cho tôi biết những diễn biến cụ thể".

Harper thở dài. Ông biết đã đến lúc phải thú nhận sự thật. Đáng ra hôm ấy mình chẳng nên nói dối! "Công đoạn phóng vệ tinh PODS diễn ra suôn sẻ". Ông bắt đầu. "Vệ tinh bay trên một quỹ đạo quanh vùng cực, đúng như dự định".

Thật nhàm chán. Cái đó thì Gabrielle Ashe đã biết trước rồi. "Ông nói tiếp đi".

"Sau đó vấn đề nảy sinh. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu vùng băng hà vĩnh cửu để tìm các vị trí có độ đậm đặc khác thường. Và phần mềm phát hiện độ đậm đặc trên vệ tinh không hoạt động".

"Rồi, cái đó tôi đã biết".

"Phần mềm đó đáng ra phải có khả năng xem xét hàng ngàn hécta diện tích và phát hiện ra những khu vực có độ đậm đặc khác so với độ đậm đặc của băng tuyết. Trước hết là phải tìm được những khu vực mềm hơn bình thường - những bằng chứng của quá trình nóng lên toàn cầu - nhưng nếu phát hiện ra những đối tượng có độ đậm đặc khác thường thì nó cũng phải báo về. Đó cũng là một phần của kế hoạch. Mục đích chính là để PODS chụp cắt lớp Cực Bắc trong vòng vài tuần nhằm phát hiện những dấu hiệu bất thường để đánh giá mức độ ấm lên toàn cầu".

"Nhưng vì phần mềm không hoạt động", Gabrielle tiếp lời, "cho nên PODS chẳng làm được gì. Đáng ra NASA đã có thể nghiên cứu kỹ từng xăng-ti-mét vuông vùng Cực Bắc để phát hiện các bất thường".

Harper gật đầu, nhớ lại những cảm giác ghê sợ sau sai lầm ngớ ngẩn của mình. "Phải mất vài thập niên mới khắc phục được, tình hình lúc đó vô cùng xấu. Vì sai sót của tôi trong khâu lập trình, PODS trở thành hoàn toàn vô dụng. Đã thế lại đúng vào giai đoạn tranh cử và Thượng nghị sĩ Sexton đã công kích NASA". Ông ta thở dài.

"Sai sót của ông vô cùng tai hại đối với NASA và Tổng thống".

"Đó là thời điểm vô vùng nhạy cảm. Giám đốc giận tím gan. Tôi đã cam kết với ông ấy sẽ khắc phục được sự cố trong lần phóng vệ tinh tiếp theo - chỉ đơn giản là vấn đề thay vài con chíp trong máy tính mà thôi. Nhưng quá muộn. Ông ta cho tôi nghỉ phép năm, nhưng thực ra là sa thải tôi. Đó là chuyện cách đây một tháng".

"Thế nhưng cách đây hai tuần, ông đã xuất hiện trên tivi và công bố rằng đã khắc phục xong sai sót đó".

Harper đổ sụp xuống ghế. "Đó là lỗi lầm khủng khiếp. Hôm ấy, tôi đã nhận được cuộc gọi của Giám đốc. Ông ấy nói rằng có sự kiện quan trọng, vừa xảy ra, và có cách để chạy tội cho tôi. Tôi đã đến ngay văn phòng để gặp ông ấy. Và đã nhận được lệnh tổ chức họp báo để công bố rằng sẽ khắc phục xong sai sót trong phần mềm của PODS trong vòng vài tuần sau đó. Và ông ấy còn bảo sẽ giải thích sau".

"Và ông đã đồng ý?"

"Không. Tôi từ chối! Nhưng một giờ sau thì ông Giám đốc đã đến phòng làm việc của tôi, cùng với cố vấn của Tổng thống!"

"Cái gì?" Gabrielle bàng hoàng.

Bà ta thật đáng sợ. Harper thầm nghĩ, gật đầu. Bà ta cùng ông Giám đốc bắt tôi ngồi xuống, và nói rằng vì tôi mà cả NASA và Tổng thống bị đẩy đến bên bờ vực thẳm. Tench nói với tôi rằng ngài Thượng nghị sĩ có ý định tư hữu hóa NASA nếu đắc cử. Và vì thế tôi mắc nợ cả NASA lẫn ngài Tổng thống: Sau đó bà ta giải thích mọi chuyện.

Gabrielle nhoài hẳn người về phía trước: "Ông nói tiếp đi".

"Bà ta giải thích rằng, do may mắn tình cờ. Nhà Trắng đã nghe lén được nguồn tin rằng một tảng thiên thạch đang bị vùi lấp trong lòng phiến băng Milne. Tảng thiên thạch lớn chưa từng thấy. Và tảng thiên thạch to lớn đến thế chắc chắn sẽ được coi là một phát kiến quan trọng của NASA".

Gabrielle ngỡ ngàng. "Gượm đã nào, ông nói rằng người ta biết trước về sự có mặt của tảng thiên thạch trước khi PODS tìm thấy nó à?"

"Đúng thế PODS chẳng liên quan gì đến phát kiến này cả. Giám đốc đã biết trước về sự tồn tại của tảng thiên thạch. Ông ta chọ tôi biết tọa độ, và bảo tôi định vị PODS đúng vị trí đó để giả vờ là vệ tinh của chúng tôi đã tìm ra nó".

"Ông nói đùa?"

"Tôi cũng đã phản ứng y như thế khi họ yêu cầu tôi tham gia vào âm mưu kia. Họ từ chối không chịu nói đã tìm thấy tảng thiên thạch đó bằng cách nào. Tench chỉ nhắc đi nhắc lại rằng điều đó không quan trọng, rằng đây là cơ hội để tôi khắc phục sai sót của mình. Nếu tôi giả vờ rằng chính PODS đã tìm ra tảng đá đó thì NASA sẽ công bố thông tin rộng rãi nhằm tuyên truyền về thắng lợi của NASA, để cho chiến dịch tranh cử của Tổng thống có thể cất cánh".

Gabrielle kinh hoàng. "Và dĩ nhiên nếu chưa tuyên bố đã khắc phục xong lỗi phần mềm của PODS thì không thể nói rằng chính nó đã tìm thấy tảng thiên thạch".

Harper gật đầu. "Cho nên đó là buổi họp báo dối trá. Tôi bị ép phải làm thế. Cả bà Tench lẫn Giám đốc đều xử sự một cách nhẫn tâm. Họ nhấn mạnh rằng chính tôi đã kéo tất cả mọi người xuống tận bùn đen - Tổng thống đã chi ngân sách cho dự án PODS, NASA đã mất bao năm mới hoàn tất được nó, và giờ đây tôi đẩy tất cả những công sức ấy xuống bùn đen, chỉ vì một sai lằm ngớ ngẩn".

"Thế là ông nhận lời giúp họ".

"Tôi chẳng còn cách nào khác. Nếu không làm thế thì sự nghiệp của tôi chắc chắn sẽ chấm hết. Và sự thật là nếu tôi không làm hỏng phần mềm ấy thì PODS đã tìm thấy tảng thiên thạch đó rồi. Cho nên lúc đó những gì tôi nói cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi tự thuyết phục bản thân rằng sau vài tháng nữa, khi tàu con thoi được phóng lên, sai sót đó sẽ được khắc phục. Vì thế tôi chỉ thông báo sự thật sớm hơn một chút mà thôi".

Gabrielle gật gù: "Một lời nói dối vô hại để tận dụng cơ hội tảng thiên thạch".

Nhắc đến chuyện này, Harper trông như sắp phát ốm. "Thế là tôi đã làm điều đó... theo chỉ đạo của Giám đốc. Đầu tiên, tôi tổ chức cuộc họp báo để công bố rằng đã có biện pháp khắc phục được sai sót phần mềm của PODS; đợi vài ngày sau, tôi điều khiển cho PODS nằm cố định đúng ở tọa độ có tảng thiên thạch; sau đó, theo đúng chỉ thị của ông ấy, tôi báo với Giám đốc Chương trình EOS là PODS vừa phát hiện được một vật thể có độ đậm đặc cao bất thường trên phiến băng Milne, cho ông ấy biết tọa độ chính xác, và nói thêm rằng độ đậm đặc này chỉ ra rằng rất có thể đó là một tảng thiên thạch. Trong tâm trạng phấn khích, NASA cử một toán đi khoan thăm dò để lấy mẫu đá Và đó chính là lúc sự việc trở nên ầm ỹ".

"Và mãi đến tối nay ông mới được biết rằng tảng thiên thạch chứa hóa thạch bên trong?"

"Ở đây chẳng ai biết một tí gì. Tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên. Bây giờ ai cũng bảo tôi chính là người hùng đã có công tìm ra tảng thiên thạch đó, và tôi chẳng còn biết nói gì nữa".

Im lặng hồi lâu, đôi mắt đen cương nghị của Gabrielle nhìn thẳng vào ông tiến sĩ: "Nhưng thực ra PODS không tự phát hiện được tảng thiên thạch. Làm sao ông Giám đốc biết được là nó đang ở đó?"

"Đầu tiên là một người khác đã tìm thấy nó".

"Người khác? Ai thế?"

Harper thở dài. "Nhà địa chất học người Canada tên là Charles Brophy - nhà nghiên cứu trên đảo Ellesmere. Trong khi đang nghiên cứu độ sâu trên phiến băng Milne. Ông ta đã tình cờ phát hiện được một vật rất giống thiên thạch. Ông ta thông báo tin đó bằng sóng radio, và NASA nghe lén được cuộc nói chuyện".

Gabrielle trợn tròn mắt:

"Thế người Canada không phản ứng gì khi NASA cướp công của họ à?"

"Không". Harper đáp, giọng thê thảm. "Thật tiện cho NASA là ông ta đã chết rồi".

Chương 91

Michael Tolland nhắm mắt lại, để tiếng nổ đều đều của động cơ máy bay dội vào màng nhĩ. Ông quyết định không nghĩ thêm bất kỳ điều gì nữa cho đến khi họ về đến Washington. Theo Corky, các chrondrule không thôi đã đủ để kết luận; tảng đá trên phiến băng Milne có thể là tảng thiên thạch thực sự. Rachel muốn có một kết luận chính xác trước khi máy bay tiếp đất, nhưng nỗ lực của trí não đã dẫn họ vào con đường cụt liên quan đến các chrondrule. Dù dữ liệu của nó rất đáng ngờ, tảng đá trông rất thật.

Có thể nó là thiên thạch thật.

Rachel đã bị những biến cố trên biển làm cho mệt mỏi. Thế nhưng sự dẻo dai của cô đã khiến Tollan phải kinh ngạc, lúc này cô đang chăm chú nhìn mẫu đá trên tay, muốn chứng minh một cách rõ ràng, dứt khoát về xuất xứ của nó, và muốn tìm ra đích xác kẻ đã ra lệnh tấn công bọn họ.

Trong suốt hành trình, cô thường ngồi ngay cạnh ông. Dù ở trong những tình huống không hề dễ dàng, ông vẫn thích những giây phút được chuyện trò với cô. Rachel đã vào nhà vệ sinh được mấy phút, và Tollanđ ngạc nhiên thấy mình đang thấy thiếu vắng cô ông thầm hỏi mình đã bao lâu rồi chưa biết mong nhớ phụ nữ kể từ sau khi Celia mất đi.

"Thưa ông Tolland".

Tolland ngước nhìn lên...

Người phi công từ khoang lái đang thò đầu vào trong cabin. "Nãy ông có dặn là khi nào máy bay vào đến vùng phủ sóng điện thoại thì báo ông biết. Bây giờ thì ông có thể gọi điện thoại được rồi đấy".

"Cảm ơn anh". Tolland bước ra lối đi.

Trong buồng lái, Tolland bấm máy gọi cho thủy thủ đoàn của mình. Ông muốn báo cho họ biết mấy ngày nữa ông mới về đến nơi. Dĩ nhiên ông không có ý định nói cho họ nghe những sự kiện đang diễn ra.

Chuông điện thoại đố nhiều hồi, và ông ngạc nhiên thấy hệ thống trả lời tự động SHINCOM 2100 trả lời máy. Câu trả lời được ghi sẵn không nghiêm túc và mô phạm như thường lệ, mà là giọng nói vui vẻ rủa một thành viên trong thủy thủ đoàn, một chàng trai suốt ngày pha trò hài hước.

"Xin chào, đây là con tàu Goya". Anh ta tuyên bố. "Rất tiếc là hiện giờ không còn ai trên tàu nữa, tất cả chúng tôi đã bị những con chấy rất lớn bắt cóc! Nói thật là chúng tôi vừa lên bờ để ăn mừng chiến công của Mike. Chúa ơi, chúng tôi thấy tự hào biết bao! Xin quý vị hãy để lại tên và số điện thoại. Ngày mai, khi đã bình tĩnh lại, chúng tôi sẽ gọi cho quý vị. Chào nhé! Chúng ta đi nào!"

Tolland phá lên cười, ngay lập tức ông thấy nhớ đội thủy thủ của mình. Dĩ nhiên là họ đã xem truyền hình buổi họp báo. Ông hài lòng thấy họ đã lên bờ, ông bị Tổng thống túm đi quá đột ngột, và ngồi không trên biển thì đến phát điên mất. Dù đoạn băng nói rằng tất cả đã lên bờ, ông đoán rằng chắc chắn họ phải để lại một người trông tàu, đặc biệt là ở vùng hải lưu mạnh như vùng biển họ đang bỏ neo.

Tolland bấm số máy liên lạc nội bộ. Có một tiếng bíp. Lại một đoạn băng thu sẵn. Vẫn là giọng nói vui nhộn của anh chàng ban nãy.

"Chào Mike, chương trình truyền hình thật tuyệt! Lúc anh nghe thông điệp này thì có lẽ chúng tôi đang tham dự bữa tiệc rất hoành tráng tại Nhà Trắng và đang tự hỏi không biết anh đang ở chỗ nào. Xin lỗi vì tất cả chúng tôi đã rời tàu, nhưng đêm nay mà không uống rượu mừng thì làm sao mà chịu nổi! Anh đừng lo, chúng tôi đã thả neo rất chắc và bật tất cả các bóng điện ngoài lan can tàu. Chúng tôi đều thầm mong cướp biển sẽ đến tấn công để cho đài NBC phải sắm cho anh một con tàu mới! Đùa đấy Mike ạ. Anh đừng lo. Xavia đã đồng ý ở lại trực trên chiến hào! Cô ấy nói là thà ở một mình còn hơn dự tiệc cùng với một lũ ngư phủ say mèm. Anh có tin nổi không?"

Tolland lại phá lên cười lần nữa, lòng nhẹ nhõm khi biết tàu có người trông. Xavia là người rất có trách nhiệm, và không bao giờ thích tiệc tùng đàn đúm. Cô là nhà hải dương học có tiếng là thẳng thắn đến mức cay độc.

Đoạn băng thu sẵn lại tiếp tục: "Mike này, dù sao thì đêm nay cũng vô cùng đặc biệt. Nó sẽ khiến anh trở thành nhà khoa học đầy kiêu hãnh, đúng thế không nào? Ai cũng bàn tán rằng sự kiện này quá có lợi cho NASA. Họ đúng là chết đuối với được cọc, thật đấy! Và chúng ta cũng được lợi nhiều, còn hơn cả NASA ấy chứ! Đại dương kỳ thú sẽ có thêm hàng triệu khán giả sau đêm hôm nay. Anh trở thành người của công chúng thật rồi đấy. Xin chúc mừng! Anh tuyệt lắm!"

Có người xì xào nói chuyện, rồi đoạn băng lại tiếp tục: "À, suýt quên mất Xavia. Để anh khỏi quá huyênh hoang, cô ấy muốn cạo gáy anh đây này. Anh nghe nhé!"

Giọng nói chát chúa của Xavia vang lên trong máy: "Mike này, Xavia đây, anh chúa thật! Yada yada! Vì rất yêu quý anh nên tôi mới bằng lòng ở lại trực trên con tàu cổ lỗ sĩ sắp hỏng này đấy! Thật thà mà nói thì tôi chỉ mong được thoát khỏi mấy tay du đãng tự nhận là nhà khoa học này lấy một lúc. Ngoài việc bắt tôi đóng vai chó giữ nhà, thủy thủ đoàn còn giao cho tôi nhiệm vụ làm cho anh bớt tự cao tự đại đi một chút đấy. Sau một đêm như thế này thì việc đó quả là khó như đi lên trời, nhưng có điều này tôi vẫn phải nói thật - anh đã mắc một số sai lầm trong đoạn phim tài liệu vừa rồi. Thật đấy, anh còn nghe máy không đấy? Một sai sót hiếm hoi của Michael Tolland. Anh đừng lo, trên khắp hành tinh này chỉ có vài ba nhà thạch học thật sự có khả năng nhận ra điều đó thôi, và họ đều là những người khô khan kiệm lời cả. Giống tôi ấy mà! Anh vẫn nói về bọn tôi thế mà - lúc nào chẳng bới lông tìm vết!" Cô ta phá lên cười. "Không có gì trầm trọng cả, chỉ là sai sót rất nhỏ về thạch học thôi. Tôi phải nói ra để cho anh đỡ vui quá mà sinh bệnh ra. Thế nào cũng có vài người gọi điện cho anh về chi tiết đó, nên tôi phải báo cho anh biết trước để lúc đó đừng để lộ ra sự ngây ngô của anh, tuy chúng tôi đều biết anh vốn là kẻ ngẫn ngờ từ trước". Cô ta lại cười lớn. "Tôi không phải là kiểu người ưa tiệc tùng nên đã đồng ý ở lại trực trên tàu. Anh cứ gọi tôi nhé. Tôi phải để máy trả lời tự động vì nhiều nhà báo gọi điện đến đây quá trời! Bất chấp sai sót đó, anh vẫn là vì tinh tú của đêm nay đấy. Dù sao thì tôi cũng sẽ giải thích tất cả khi nào anh về đến đây. Chào nhé".

Đầu máy bên kia im bặt.

Michael Tolland nhíu mày. Sai sót trong đoạn phim tài liệu ư?

Trong buồng vệ sinh trên chiếc phi cơ G4, Rachel Sexton đang ngắm mình trong gương. Cô nhận thấy vẻ mặt mình xanh xao, yếu ớt hơn hẳn mọi khi. Những sự kiện khủng khiếp đêm nay đã lấy đi của cô biết bao sinh lực. Rachel thầm hỏi không biết đến bao giờ cô mới hết được cảm giác hãi hùng mỗi khi đến gần đại dương. Cởi mũ trùm đầu của thủy thủ đoàn tàu Charlotte ra, cô để mái tóc vàng xòa xuống hai vai. Trong khá hơn, cô tự nhủ, cảm thấy tự tin hơn đôi chút.

Tự nhìn sâu vào mắt mình, Rachel nhận thấy ánh âu lo trong đó. Và đằng sau sự âu lo là quyết tâm sắt đá. Cô biết đó chính là món quà mẹ để lại cho mình. Không một ai có thể chỉ đạo con cái gì được làm và cài gì không được làm. Rachel cảm tưởng như mẹ cô đã biết trước sẽ có một đêm như thế này trong đời cô con gái cưng của bà. Có kẻ muốn giết con, mẹ ạ. Có kẻ muốn giết tất cả bọn con...

Trí não Rachel, hệt như suốt những giờ khắc vừa quat lại điểm lại những cái tên.

Lawrence Ekstrom... Marjorie Tench... Tổng thống Zach Herney. Tất cả đều có động cơ. Và, đáng sợ hơn, tất cả đều có phương tiện. Tổng thống không dính líu vào việc này. Rachel tự nhủ. Cô vẫn bám lấy tia hi vọng rằng ngài Tổng thống, người cô kính trọng hơn chính cha đẻ của mình, chỉ là người ngoài cuộc vô tội trong vụ án tảng thiên thạch này.

Chúng con vẫn chưa biết được gì hơn mẹ ạ.

Chưa biết đó là kẻ nào... và vì sao.

Rachel muốn có những câu trả lời dứt khoát để báo cáo với William Pickering, nhưng tất cả những gì cô làm được cho đến giờ phút này chỉ là việc nêu ra các câu hỏi.

Ra khỏi phòng vệ sinh, Rachel ngạc nhiên không trông thấy Michael Tolland đâu. Corky đang gà gật ngủ gần đó. Cô đang nhìn quanh thì thấy Mike từ buồng lái bước ra, tay vừa gác ống nghe điện thoại lên giá. Mắt ông mở lớn, vẻ rất băn khoăn.

"Có chuyện gì vậy?"

Tolland kể cho cô nghe những gì ông nghe được trên điện thoại giọng nặng nề.

Sai sót trong đoạn phim tài liệu sao? Rachel nghĩ có lẽ Tolland chỉ phản ứng thái quá mà thôi. "Chắc không có gì trầm trọng đâu, cô ấy không nói rõ luôn sai sót đó là gì à?"

"Là chi tiết nào đó liên quan đến thạch học".

"Thành phần cấu tạo của tảng đá à?"

"Ừ, cô ấy nói những nhà thạch học có khả năng nhận ra sai sót đó chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Có vẻ như sai sót của tôi có liên quan đến hàm lượng thành phần hóa chất của tảng đá".

Rachel hít thật sâu, lúc này thì cô đã hiểu. "Các chrondrule sao?"

"Tôi không biết nữa, nhưng chắc có sự trùng lặp nào đó rồi".

Rachel gật đầu. Các chrondrule là chứng cớ duy nhất còn đứng vững để khẳng định rằng tảng thiên thạch do NASA tìm được là thật.

Corky đến bên họ, tay dụi mắt. "Có chuyện gì thế?"

Tolland thông báo lại tình hình cho ông ta.

Corky quắc mắt, lắc đầu: "Không liên quan đến các chrondrule đâu. Mike ạ. Không thể nào. Tất cả các dữ liệu của anh là do NASA cung cẩp. Và do chính tôi chuyển cho anh. Không thể có sai sót được".

"Thế thì tôi có thể phạm phải sai lầm gì khác về thạch học nào?"

"Ai mà biết được cơ chứ! Mà các nhà hải dương học thì biết gì về thạch học mà bàn!"

"Tôi không biết, nhưng giọng cô ấy có vẻ chắc chắn lắm".

"Trong tình huống này", Rachel nói "có lẽ chúng ta nên nói chuyện với cô ấy trước khi báo cáo với Pickering".

Tolland nhún vai. "Tôi đã gọi cho cô ấy bốn lần cả thảy, nhưng toàn nghe máy trả lời tự động. Rất có thể cô ấy đang ở trong phòng thí nghiệm, và sẽ chẳng nghe thấy gì hết. Sớm nhất là sáng mai thì cô ấy mới trả lời". Tolland ngừng lại, giơ tay lên xem đồng hồ. "Mặc dù..."

"Mặc dù sao?"

Tolland chăm chú nhìn Rachel: "Có thực sự cần thiết phải nói chuyện với cô ấy trước khi báo cáo với Giám đốc của cô không?"

"Nếu cô ấy định nói gì liên quan đến các chrondrule thì thực sự quan trọng đấy, Mike ạ". Rachel nói. "Lúc này chúng ta có rất nhiều giả thuyết trái ngược nhau. Và William Fickering thì chỉ quen nghe những câu trả lời dứt khoát. Khi gặp mặt ông ấy, tôi muốn có những để đạt cụ thể và chi tiết để ông ấy quyết định hành động".

"Thế thì chúng ta hãy dừng lại một chút".

Rachel hỏi lại: "Trên tàu của anh à?"

"Tàu hiện ở ngoài khơi New Jersey, ngay trên đường về Washington. Chúng ta có thể nói chuyện với Xavia để xem cô ấy đã phát hiện ra điều gì. Corky vẫn còn cầm mẫu đá, và nếu Xavi muốn tiến hành kiểm tra địa chất học thì phòng thí nghiệm trên tàu cũng khá đủ dụng cụ. Chắc chắn chỉ chưa đầy một giờ đồng hồ sau là chúng ta có kết quả".

Rachel thấy mạch đập dồn, lo ngại. Ý nghĩ lại phải ở trên mặt biển một lần nữa khiển cô e ngại... Kết luận chính xác, cô tự nhủ, đầy hy vọng. Pickering chắc chắn đang mong được nghe điều đó...

Chương 92

Delta-Một thấy mừng vì lại được đặt chân lên mặt đất.

Dù mới bay với nửa tốc lực, chiếc phi cơ Aurora đã đưa họ đi một vòng quanh đại dương, về đến tận đây, trong vòng vỏn vẹn có hai giờ đồng hồ. Delta-Một và đồng đội của anh có thời gian bình tĩnh chuẩn bị cho điệp vụ tiếp theo.

Giờ đây, trên đường băng quân sự kín đáo ở ngoại vi Washington, đội Delta đang đổi từ máy bay Aurora sang phương tiện khác - máy bay trực thăng OH-58D Kiowa Wamor.

Lại một lần nữa, chỉ huy đã chuẩn bị sẵn những phương tiện tốt nhất, Delta-Một thầm nghĩ.

Máy bay trực thăng Kiowa Wamor, lúc đầu được thiết kế làm máy bay trinh sát hạng nhẹ, đã được gia cố và cải tiến để trở thành dòng máy bay quân sự chuyên dụng mới nhất. Với khả năng cảm ứng hết sức nhạy bén với tia hồng ngoại, thiết bị định vị bằng laze của nó cho phép người sử dụng điều khiển những vũ khí tối tân siêu chính xác như tên lửa Stinger "không - đối - không" và hệ thống tên lửa AGM 1148 Hellfire. Thiết bị định vị số hóa tốc độ cao lắp trên máy bay cho phép ngắm bắn sáu mục tiêu cùng một lúc. Hầu như không địch thủ nào từng nhìn thấy Kiowa còn được sống sót để mà kể lại về nó cho người khác.

Trèo lên thang máy bay và ngồi vào khoang lái, Delta-Một thấy trong tim dâng trào cảm giác lâng lâng của kẻ mạnh trong cuộc chiến. Anh đã ba lần tham gia tập trận trên loại phi cơ này. Dĩ nhiên, chưa bao giờ anh nhận lệnh tiêu diệt một nhân vật nào quan trọng như lần này. Phải thừa nhận rằng Kiowa đúng là thứ phương tiện vô cùng lợi hại đối với những nhiệm vụ như thế này. Động cơ Royce Allision của nó luôn hoạt động cùng lúc với hai bộ phận giảm thanh chứa chất lỏng dạng sệt, điều đó đồng nghĩa với việc đối phương sẽ không hề nghe thấy bất cứ tiếng động nào cho đến khi chiếc phi cơ đã ở ngay trên đầu. Và vì chiếc máy bay này có khả năng bay trong đêm tối mà không cần sử dụng bất cứ ngọn đèn nào, thân máy bay được sơn đen, số hiệu ở đuôi máy bay được sơn bằng loại sơn không phản quang, cho nên nó có đặc điểm của máy bay tàng hình, trừ phi đối phương có radar.

Chiếc phi cơ màu đen lặng lẽ.

Đã có rất nhiều tin đồn cũng như những bình luận về loại máy bay này. Một số người cho rằng nó là hiện thân của "thế hệ vũ khí tấn công vũ bão đại diện cho trật tự thế giới mới". Một số khác lại tin rằng đây là những tàu thăm dò vũ trụ của người ngoài hành tinh. Lại có những người tận mắt chứng kiến Kiowa bay trong trời đêm còn tin rằng họ vừa nhìn thấy đèn của những thiết bị bay vô cùng tối tân - một chiếc đĩa bay có thể bay theo phương thẳng đứng.

Toàn những tin thất thiệt. Nhưng quân đội thích những lời đồn kiểu đó.

Trong lần tập trận gần đây. Delta-Một đã bay trên chiếc Kiowa có trang bị loại vũ khí bí mật nhất của quân đội Mỹ - một thiết bị tạo ảnh giao thoa bằng laze cực kỳ hiện đại có tên S&M. Dù thoạt đầu gợi nhớ đến từ "ác dâm" [1], hai chữ cái này lại có nghĩa là "khói và gương" [2] - những ảnh giao thoa laze được "phóng lên" trên vùng trời của đối phương. Chiếc phi cơ Kiowa của anh đã "phóng" những ảnh giao thoa laze các phi cơ của Mỹ trên vùng trời có thiết bị phát hiện máy bay của đối phương. Thế là các tay súng phòng không của đối phương hoảng hốt bắn như vãi đạn vào con ma đang lượn lờ trên đầu họ. Đến khi đối phương đã hết đạn thì các phi cơ thật của Không lực Hoa Kỳ mới bắt đầu ra tay.

Cùng hai đồng đội của anh cất cánh, Delta-Một vẫn thấy vang lên trong tâm trí mệnh lệnh của chỉ huy: "Các anh có một đối tượng nữa". Xét đến địa vị và quyền lực của người này, từ đối tượng quả là một cách nói tránh xuất sắc. Anh tự nhắc nhở mình rằng chất vấn không phải là nhiệm vụ của anh. Đội của anh đã nhận được lệnh, và họ sẽ thực thi mệnh lệnh đó theo đúng những "phương pháp đã được huấn luyện" - phải hết sức bất ngờ.

Mình thật sự hy vọng chỉ huy đã đưa ra quyết định đúng đắn trong tình huống này.

Sau khi chiếc trực thăng Kiowa rời khỏi đường băng, Delta-Một nhằm thẳng hướng nam. Anh đã vài lần nhìn thấy tượng đài FDR, nhưng đêm nay là lần đầu tiên anh sẽ nhìn thấy nó từ trên cao.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Sadomasochsim (tiếng Anh) - ác dâm (N.D).

[2] Smoke - khói; Mirror - gương (N.D).

Chương 93

"Người đầu tiên phát hiện ra tảng thiên thạch đó là nhà địa chất học người Canada sao?" Gabrielle Ashe chăm chú nhìn chuyên gia lập trình trẻ tuổi Chris Harper. "Và người Canada đó giờ chết rồi sao?"

Harper gật đầu xác nhận.

"Ông đã biết điều này được bao lâu rồi?" Cô chất vấn.

"Cách đây khoảng một hoặc hai tuần. Sau khi tôi đã nói dối trong cuộc họp báo đó, ông Giám đốc và bà Marjorie Tench cho rằng tôi sẽ không bao giờ quật lại chính mình, nên đã cho tôi biết tất cả".

PODS không hề dính dáng gì đến quá trình phát hiện ra tảng thiên thạch! Gabrielle chưa biết thông tin này sẽ dẫn tiếp đến đâu, nhưng rõ ràng là sẽ rất tai tiếng. Tin xấu đối với Tench. Tin tốt lành đối với Thượng nghị sĩ.

"Như tôi đã kể với cô", tiến sĩ Harper nói tiếp, "tảng thiên thạch được phát hiện là do NASA đã thu được một làn sóng radio. Cô đã bao giờ nghe nói đến chương trình có tên là INSPIRE chưa? Thí nghiệm tương tác vật lý và sóng điện từ giữa tầng điện ly và vũ trụ của NASA".

Gabrielle đã từng nghe nói đến chương trình đó, nhưng không hiểu lắm.

"Về bản chất", Harper nói tiếp "đó là một loại máy thu tín hiệu radio ở Cực Bắc dùng để nghe các âm thanh do trái đất phát ra - những đợt phun sóng plasma từ Cực Bắc, những đợt xung lớn từ sấm chớp trong các cơn bão đêm, những thứ đại loại như vậy".

"Tôi hiểu rồi".

"Cách đây vài tuần, một máy thu INSPIRE đã nhận được một chuỗi tín hiệu phát đi từ đảo Ellesmere. Một nhà địa chất học đang phát đi tín hiệu cấp cứu ở tần số rất thấp". Ông ta ngừng một lát. "Chuỗi tín hiệu đó có tần số thấp đến nỗi chỉ các thiết bị INSPIRE của NASA mới có thể nghe được mà thôi. Và mọi người đoán rằng ông ta phát đi tín hiệu từ rất xa".

"Cái gì cơ?"

"Phát tín hiệu ở tần số thấp nhất để sóng đi được xa nhất có thể".

"Hãy nhớ rằng ông ta ở giữa nơi hoang vắng, và sóng radio với tần số thông thường chắc chắn sẽ không thể đi được đủ xa để có người nghe thấy".

"Thông điệp của ông ta là gì vậy?"

"Thông điệp rất ngắn gọn. Nhà khoa học đó nói rằng ông ta đang thăm dò địa chất trên phiến băng Milne; ông ta đã phát hiện được một vật thể có độ đậm đặc bất thường nằm sâu trong băng hà, và đoán rằng đó có thể là một tảng thiên thạch. Ông ta đang đo đạc tảng thiên thạch này thì gặp bão. Ông ta thông báo tọa độ, yêu cầu trợ giúp để thoát ra khỏi cơn bão, rồi tắt máy. NASA đã lệnh cho một máy bay cất cánh từ sân bay quân sự Thule đến cứu. Họ tìm kiếm suốt mấy giờ đồng hồ, rồi cuối cùng cũng phát hiện ra ông ấy đã bị chết trong một khe nứt cùng với xe trượt và con chó, cách tọa độ thông báo đến mấy dặm. Chắc là ông ấy đã tìm cách thoát khỏi cơn bão, nhưng không nhìn thấy đường, và đã lao xuống khe nứt".

Gabrielle tư lự về những thông tin cô vừa được nghe, rồi cảm thấy ngạc nhiên. "Thế là đột nhiên NASA biết về một tảng thiên thạch, và không ai khác biết chuyện này?"

"Chính xác. Mỉa mai thay, nếu phần mềm của PODS không bị trục trặc thì chúng tôi đã phát hiện được tảng thiên thạch đó trước ông ta một tuần".

Sự trùng lặp ngẫu nhiên này khiến Gabrielle thắc mắc: "Một tảng thiên thạch bị chôn vùi suốt ba trăm năm, và rồi đột nhiên được phát hiện hai lần liền trong vòng một tuần?"

"Tôi biết: Thoạt nghe có vẻ khá kỳ quặc. Nhưng trong khoa học chuyện đó khá phổ biến. Lúc thì no dồn, lúc thì đói góp. Vấn đề là Giám đốc tin rằng không cách này thì cách khác, tảng thiên thạch đó sẽ được phát hiện - nếu tôi không mắc phải sai lầm đó. Ông ấy bảo tôi rằng, vì người Canada kia đã chết rồi, sẽ chẳng ai nghi ngờ gì nếu tôi lặng lẽ điều khiển cho PODS cố định ở tọa độ mà anh ta đã thông báo qua sớng radio. Sau đó, tôi chỉ việc giả vờ là đã phát hiện ra tảng thiên thạch, và cứu vãn thất bại đầy tai tiếng của mình".

"Và ông đã làm đúng như thế?"

"Như tôi đã nói, không còn cách nào khác. Chính tôi đã phá hoại dự án mình phụ trách". Ông ta ngừng một lát. "Nhưng hồi tối, lúc xem truyền hình buổi họp báo của Tổng thống tôi mới biết rằng bên trong tảng đá đó có hóa thạch..."

"Ông ngạc nhiên?"

"Tôi đã thật sự bối rối!"

"Theo ông thì Giám đốc có biết trước rằng trong tảng thiên thạch ấy có hóa thạch không?"

"Cái đó thì tôi chịu. Tảng đá ấy đã bị vùi lấp trong băng hà, nguyên vẹn, cho đến khi đội nhân viên của NASA đặt chân tới. Tôi đoán rằng NASA cũng chẳng biết gì đến tận lúc họ khoan thăm dò và lấy lên vài mẫu đá. Họ yêu cầu tôi nói dối về PODS, chắc tưởng rằng kích cỡ to lớn của tảng thiên thạch đó sẽ được coi là một thành công đáng kể. Rồi khi đến tận nơi, họ mới nhận ra phát kiến đó vĩ đại biết chừng nào".

Gabrielle gần như ngạt thở vì phấn khích: "Thưa tiến sĩ Harper, ông có sẵn lòng đứng ra làm chứng rằng chính NASA và Nhà Trắng đã ép ông phải nói dối về phần mềm của PODS hay không?"

"Tôi cũng chưa biết". Ông ta có vẻ lo sợ. "Tôi chưa thể thấy hết được những tác hại của hành động đó đối với NASA... và đối với phát kiến này".

"Thưa tiến sĩ, cả hai chúng ta đều biết rằng tảng thiên thạch đó vẫn sẽ là một phát kiến tuyệt vời, bất kể nó được tìm ra bằng cách nào. Vấn đề ở đây là ông đã nói dối trước dân Mỹ. Họ có quyền được biết rằng không phải mọi chi tiết NASA Công bố về PODS đều là sự thật".

"Tôi cũng chưa biết nữa. Tôi khinh bỉ ông Giám đốc, nhưng còn các đồng nghiệp của tôi..., họ đều là người tốt".

"Chính vì thế họ có quyền được biết mình đang bị lừa dối".

"Và đây sẽ là bằng chứng cho thấy tôi không biển thủ công quỹ chứ?"

"Ông có thể quên hẳn chuyện ấy đi". Gabrielle nói, suýt nữa quên hẳn chi tiết ấy. "Tôi sẽ nói với Thượng nghị sỹ rằng ông không biết gì về vụ đó. Đó chỉ là những chứng cứ giả mạo do ông Giám đốc dựng lên để ép ông phải im lặng về PODS".

"Thượng nghị sỹ có thể bảo vệ được tôi không?"

"Chắc chắn là được. Ông đâu có làm gì sai trái. Ông chỉ đơn thuần làm theo lệnh cấp trên. Bên cạnh đó, vì đã có thông tin về nhà địa lý người Canada, tôi tin rằng Thượng nghị sỹ sẽ chẳng cần đến những chứng cứ về biển thủ công quỹ. Chúng ta sẽ chỉ tập chung vào việc NASA đưa tin sai lệnh về PODS và tảng thiên thạch. Một khi Thượng nghị sỹ đã lên tiếng về nhà khoa học Canada kia, ông Giám đốc sẽ không dám mạo hiểm dùng biện pháp dối trá để hủy hoại thanh danh của ông nữa đâu".

Harper có vẻ vẫn lo ngại. Phân vân, ông ta ngồi lặng lẽ, vẻ mặt rầu rĩ. Gabrielle để mặc ông ta suy nghĩ. Từ nãy cô đã nhận ra sự trùng lặp tình cờ rất khó hiểu trong câu chuyện này. Cô không định nhắc đến điều đó, nhưng rõ ràng tiến sỹ Harper cần thêm một cú hích nữa.

"Ông có chó không, thưa tiến sĩ?"

Ông ta ngước mắt lên: "Cô nói gì cơ?"

"Tôi thấy thật kỳ lạ. Ban nãy ông kể rằng sau khi nhà địa lý học người Canada kia phát tín hiệu thông báo tọa độ của tảng thiên thạch thì lũ chó kéo xe của ông ấy lao xuống khe nứt phải không?"

"Có bão. Cả người và chó bị lạc đường".

Gabrielle nhún vai, tỏ ra hoài nghi. "Cũng có thể thế".

Harper nhận thấy sự băn khoăn của cô. "Ý cô là sao?"

"Tôi cũng không biết nữa, có quá nhiều sự trùng lặp ngẫu nhiên trong phát kiến này. Một nhà địa lý học người Canada thông báo tọa độ của tảng thiên thạch trên một tần sồ radio mà chỉ mỗi NASA nghe được. Và rồi lũ chó kéo xe của ông ấy lao xuống khe nứt". Rachel ngừng một lát. "Hiển nhiên là cái chết của ông ấy đã dọn đường cho NASA giành được thành công rực rỡ".

Mặt Harper biến sắc. "Cô cho rằng Giám đốc dám giết người vì tảng thiên thạch này ư?"

Trò chơi chính trị vĩ mô. Mẻ lướí kinh tế vĩ mô, Gabrielle thầm nghĩ, "Để tôi về báo cáo lại với Tổng thống, sau đó chúng ta sẽ liên lạc. Tòa nhà này có cổng sau không nhỉ?"

Gabrielle Ashe chia tay tiến sĩ Chris Harper mặt xám ngoét, rồi xuống dọc cầu thang thoát hiểm để ra khỏi trụ sở NASA.

Cô lên ngay chiếc taxi vừa đưa thêm mấy nhân vật nữa tới chúc mừng NASA.

"Khu căn hộ cao cấp Westbrooke". Cô nói với người tài xế. Thượng nghị sĩ Sexton chẳng bao lâu nữa sẽ thấy vô cùng vui sướng.

Chương 94

Tự thấy ngạc nhiên về quyết định của mình, Rachel kéo điện thoại máy bay ra khỏi cửa khoang lái để người phi công khỏi nghe thấy Corky và Tolland đều đang chăm chú nhìn cô. Mặc dù Rachel và William Pickering, Giám đốc NRO đã thỏa thuận là sẽ không liên lạc với nhau cho đến khi máy bay về đến sân bay quân sự Bolling ở ngoại vi Washington, Rachel tin chắc Pickering muốn được biết ngay thông tin mà cô đang có. Cô gọi số điện thoại cầm tay mà lúc nào ông cũng mang bên mình.

Pickering nói rất vắn tắt khi trả lời máy: "Xin hãy nói thận trọng, đường dây này có thể bị nghe lén".

Rachel hiểu. Giống điện thoại của tất cả các nhân viên NRO, máy cầm tay của Pickering luôn có tín hiệu báo trước khi có người gọi đến bằng đường dây không an toàn. Và bởi vì Rachel đang gọi bằng sóng radio, một trong những đường dây ít an toàn nhất, nên máy của ông đã báo ngay lập tức. Cuộc nói chuyện này sẽ phải thật chung chung. Không có tên người. Không có địa điểm.

"Giọng nói của tôi chắc ông đã nhận ra". Rachel chào hỏi ông theo đúng kiểu mà những nhân viên tình báo vẫn thường làm trong những tình huống như thế này. Cô tưởng khi thấy cô liều lĩnh liên lạc kiểu này thì ông sẽ không vui, nhưng trái lại, giọng điệu của Pickering tỏ ra rất tích cực.

"Ừ, tôi cũng đàng định gọi cho cô đây. Chúng ta phải thay đổi kịch bản. Tôi e rằng khi hạ cánh cô sẽ phải đối mặt với một nhân vật thứ ba nữa".

Rachel chợt cảm thấy lo lắng. Có kẻ đang nghe lén chúng ta đấy. Cô cảm nhận được nguy hiểm qua giọng nói của Pickering. Thay đổi kịch bản. Ông sẽ rất hài lòng khi biết rằng cô gọi ông cũng vì lý do đó, mặc dù vì một lý do khác hẳn.

"Chúng tôi đã thảo luận với nhau về tính xác thực của đối tượng". Rachel nói. "Và vừa tìm ra một cách để khẳng định chính xác".

"Tốt lắm. Tình hình đã thay đổi đáng kể, và tôi cần những cơ sở vững chắc để đưa ra quyết sách".

"Để có quyết định đó, chúng tôi sẽ phải dừng chân để vào một phòng thí nghiệm..."

"Đừng nêu địa điểm chính xác. Để đảm bảo an toàn cho chính cô".

Rachel cũng không có ý định nói tên phòng thí nghiệm đó trên đường dây không an toàn này. "Giám đốc có thể lệnh cho máy bay hạ cánh xuống GAS-AC được không?"

Pickering im lặng giây lát. Rachel biết ông đang cố luận ra nghĩa của những chữ cái đó. GAS-AC là ký hiệu viết tắt mà các nhân viên NRO thường sử dụng thay cho Sân bay Cứu hộ Bờ biển Atlantic. Rachel hi vọng sếp luận được nghĩa đó.

"Được rồi". Cuối cùng ông lên tiếng. "Cái đó thì tôi sẽ thu xếp. Đó sẽ là đích cuối cùng của cô chứ?"

"Không ạ. Chúng tôi muốn tiếp tục di chuyển bằng máy bay trực thăng".

"Sẽ có máy bay đợi sẵn".

"Cảm ơn Giám đốc".

"Từ bây giờ đến lúc có thêm thông tin chính xác, cô hãy nhớ phải thật thận trọng. Đừng nói thêm gì nữa. Những nghi ngờ của cô đã khiến những nhân vật quyền thế vô cùng lo lắng".

Tench, Rachel nghĩ, cô thầm ước giá như báo được cho Tổng thống tin này ngay từ đầu.

"Tôi đang lái xe, trên đường đến điểm hẹn với người mà chúng ta đang quan tâm. Bà ta muốn gặp riêng tôi ở nơi kín đáo. Sẽ biết thêm rất nhiều điều".

Pickering đang lái xe đến điểm hẹn với Tench sao? Nếu bà ta nhất định không chịu nói trên điện thoại thì chắc hẳn thông tin đó phải vô cùng quan trọng...

Pickering nói: "Không được thông báo tọa độ của cô cho bất kỳ ai. Và không liên lạc bằng sóng vô tuyến nữa. Rõ chưa?"

"Rõ, thưa Giám đốc. Hẹn gặp tại GAS-AC sau một giờ nữa".

"Phương tiện sẽ đợi sẵn. Khi đã đến đích cuối cùng thì cô hãy gọi cho tôi bằng đường dây an toàn hơn". Ông ngừng một lát. "Tôi nhắc lại thận trọng là cần thiết cho sự an toàn của cô. Tối nay cô đã có những kẻ thù mới đầy quyền lực. Phải thật thận trọng".

Pickering tắt máy.

Rachel quay sang Tolland và Corky, đầy âu lo.

"Thay đổi địa điểm nữa à?" Tolland lên tiếng, ánh mắt đầy dò hỏi.

Rachel gật đầu, miễn cưỡng trả lời: "Đúng thế. Đến tàu Goya".

Corky thở dài, đưa mắt nhìn mẫu đá trong tay. "Tôi vẫn không thể tin rằng NASA có khả năng..." Corky bỏ lửng câu nói, mỗi lúc trông ông một mệt mỏi.

Chúng ta sẽ biết nhay thôi mà, Rachel nghĩ.

Cô mang máy điện thoại sang trả cho buồng lái: Nhìn những đám mây bàng bạc dưới ánh trăng như đang đuổi theo máy bay, cô linh cảm những gì phát hiện được ở phòng thí nghiệm trên tàu Goya sẽ không thể khiến họ vui lòng.

Chương 95

Lái xe dọc đại lộ Leesburg Pike, William Pickering lại cảm thấy cô đơn trống trải. Đã gần hai giờ đêm, đường vắng tanh. Không biết bao lâu rồi mới lại có lúc ông tự lái xe lúc khuya khoắt thế này.

Giọng nói chát chúa của Marjorie Tench lại vang lên trong trí não ông. Gặp nhau ở chân tượng đài FDR.

Pickering nhớ lại lần gần đây nhất ông gặp trực tiếp Marjorie Tench - lần nào gặp bà ta là lần đó thấy khó chịu. Hôm ấy cách đây hai tháng. Tại Nhà Trắng. Bà ta ngồi đối diện ông, bên chiếc bàn gỗ sồi dài, cùng với đại diện của Hội đồng An ninh quốc gia, các tổng tư lệnh CIA, Tổng thống Herney, và Giám đốc NASA.

"Thưa các vị". Giám đốc CIA lên tiếng, hướng thẳng về Marjorie Tench. "Lại một lần nữa, tôi phải lên tiếng yêu cầu các vị tìm biện pháp xử lý cuộc khủng hoảng về an ninh hiện nay của NASA".

Tuyên bố này chẳng khiến bất kỳ ai trong căn phòng đó ngạc nhiên. Những sơ suất về bảo mật của NASA đã trở thành cái gai trong mắt giới an ninh từ bao lâu nay. Cách đó hai hôm, bọn tin tặc đã tải trộm được từ cơ sở dữ liệu của NASA hơn ba trăm bức ảnh chụp bề mặt trái đất có độ phân giải cao của vệ tinh nhân tạo. Trong số những bức ảnh bị tuồn ra chợ đen lần này có cả hình ảnh căn cứ huấn luyện quân sự bí mật của Hoa Kỳ ở Nam Phi. Và rất có thể các thế lực thù địch ở Trung Đông đã mua được chúng.

"Dù không cố ý", Giám đốc CIA tiếp tục nói, vẻ lo lắng. "NASA tiếp tục là một để dọa đối với an ninh quốc gia. Nói một cách đơn giản, cơ quan nghiên cứu vũ trụ của chúng ta không có các biện pháp bảo mật đủ mạnh để bảo vệ chính những phát kiến của họ".

"Tôi cũng thấy là đã có những sai lầm đáng tiếc". Tổng thống lên tiếng. "Những rò rỉ thông tin kiểu này rất nguy hiểm, và tôi thấy rất lo về điều đó". Ông hướng về phía Giám đốc NASA, Lawrence Ekstrom đang lầm lì ngồi trong một, góc. "Tất cả chúng ta đều muốn có những biện pháp thích hợp để thắt chặt an ninh cho NASA".

"Xin được mạn phép Tổng thống", Giám đốc CIA lên tiếng, mọi biện pháp sẽ đều vô hiệu nếu NASA vẫn không có cơ quan chủ quản mới là Cộng đồng An ninh quốc gia.

Lời nói của ông ta khiến mọi người trong phòng bắt đầu xì xào bàn tán. Ai cũng hiểu ông ta muốn nói lên điều gì.

"Như các vị đã biết", Giám đốc CIA nói tiếp, giọng sắc lạnh, "tất cả những đơn vị sử dụng thông tin tình báo đều phải tưân thủ quy chế bảo mật nghiêm ngặt. Quân đội, CIA, NSA, NRO đều phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về việc bảo mật những thông tin thu thập được cũng như những công nghệ tiên tiến có được. Trong khi đó NASA đang hàng ngày hàng giờ tạo ra những thành tựu về khoa học vũ trụ, chụp ảnh kỹ thuật bay, phầm mềm máy tính do thám và thông tin liên lạc. Xin hỏi các vị, tại sao cơ quan này lại được phép nằm ngoài sự quản lý của hệ thống an ninh quốc gia?"

Tổng thống thở dài nặng nề. Đề xuất này quá rõ ràng. Tái cơ cấu lại NASA để nó trở thành thành viên của Cộng đồng An ninh quốc gia. Mặc dù nhiều cơ quan khác đã bị tái cơ cấu theo kiểu này. Tổng thống không muốn để cho Lầu Năm Góc, NRO, CIA hay bất kỳ cơ quan an ninh nào khác quản lý NASA. Hội đồng An ninh Quốc gia đã bắt đầu bị chia rẽ về vấn đề này, một số tán đồng quan điểm vừa nêu.

Trong những cuộc họp như thế này, Lawrence không bao giờ thấy thoải mái, và hôm nay cũng vậy. Ông nhìn Giám đốc NASA một cách khó chịu. "Tôi buộc phải nhắc lại với các vị rằng những phát minh của NASA không nhằm mục đích quân sự mà là vì khoa học thuần tuý. Nếu các vị thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia muốn bắt chúng tôi hướng kính viễn vọng về phía Trung Quốc thay vì quan sát bầu trời thì đó là việc riêng của các vị".

Giám đốc CIA hình như đã giận sôi lên.

Pickering nhận thấy vẻ bực bội của ông ta và lên tiếng. "Larry này", ông nói thật thận trọng "năm nào NASA cũng phải bò lên trước Quốc hội để xin tiền. Các anh chẳng bao giờ có đủ tiền để chi cho các dự án của mình, và cái giá phải trả là những dự án thất bại liên tiếp. Nếu NASA chịu sự quản lý của Cộng đồng An ninh quốc gia thì sẽ không còn cái cảnh phải ngửa tay xin tiền như thế nữa. Các anh sẽ được hưởng nguồn tài chính trong ngân sách bí mật, và dĩ nhiên là sẽ được nhiều tiền hơn. Cả hai bên đều được lợi. NASA sẽ có đủ tiền để chi cho các dự án, và Cộng đồng An ninh sẽ được ăn ngon ngủ yên vì không còn phải lo lắng về chuyện bảo mật các anh nữa".

Ekstrom lắc đầu: "Về nguyên tắc, tôi không thể chấp nhận để xếp NASA vào chung một rọ với các cơ quan an ninh, chúng tôi chẳng liên quan gì đến lĩnh vực đó hết".

Giám đốc CIA đứng phắt dậy, một hiện tượng hiếm hoi khi Tổng thống đang ngồi. Chẳng ai tỏ ý ngăn cản. Ông ta giận dữ quắc mắt nhìn Giám đốc NASA: "Anh nói là những công nghệ của các anh không liên quan gì đến an ninh quốc gia hả? Lạy Chúa tôi, liên quan nhiều lắm đấy Larry ạ. Chính thế mạnh về khoa học và kỹ thuật là yếu tố sống còn cho an ninh của đất nước này. Và dù muốn dù không, các anh đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển khoa học - kỹ thuật. Điều đáng buồn là mạng lưới an ninh của các anh thủng chi chít chẳng khác gì cái giần, và không biết bao nhiêu lần đã mắc sai lầm rồi!"

Căn phòng chìm trong yên lặng.

Lần này đến lượt Giám đốc NASA đứng dậy, mắt long sòng sọc nhìn thẳng vào người vừa công kích mình. "Anh muốn đem nhốt kín hai mươi ngàn nhà khoa học của NASA vào các phòng thí nghiệm bí mật và bắt họ phải làm việc cho các anh à? Anh nên nhớ rằng nếu không vì niềm đam mê khoa học của họ thì chúng tôi đã không thể chế tạo được những kính viễn vọng cực mạnh để quan sát bầu trời. NASA tạo ra được những đột phá ngoạn mục chỉ vì một lý do duy nhất - các nhà khoa học của chúng tôi muốn khám phá vũ trụ. Họ là những người biết mơ mộng, và có niềm đam mê, luôn khát khao hiểu biết. Niềm đam mê và khát vọng chính là hai động lực thúc đẩy chúng tôi tiến bộ, chứ không phải những mối quan tâm về an ninh quốc gia".

Pickering hắng giọng, rồi nhẹ nhàng nóil cố làm dịu bầu không khí đang gay gắt: "Larry này, tôi tin chắc là anh ấy không hề có ý bắt các nhà khoa học của anh chế tạo vệ tinh do thám đâu. Tôn chỉ của NASA sẽ không thay đổi gì hết. NASA vẫn sẽ hoạt động y như trước, chỉ khác là giờ các anh có nhiều tiền hơn và mức độ bảo mật cao hơn". Lúc này Pickering quay sang nói với Tổng thống "Các biện pháp bảo mật đều tốn kém, tất cả những người có mặt ở đây đều biết rằng những rò rỉ thông tin của họ là do phải chịu cảnh giật gấu vá vai. NASA phải chi tiêu dè sẻn, bớt chút các khoản đáng phải chi cho công tác bảo mật, tham gia vào các dự án liên doanh với các quốc gia khác để bớt gánh nặng tài chính. Tôi đề nghị là NASA cứ việc đóng vai trò nghiên cứu khoa học thuần tuý của họ, nhưng với ngân sách lớn hơn và cẩn mật hơn".

Một số thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia gật đầu tán thưởng.

Tổng thống chậm rãi đứng dậy, nhìn thẳng vào William Pickering, rõ ràng không vừa lòng với những gì ông vừa nói. "Bill tôi xin hỏi anh một câu: NASA đang mơ ước đặt chân lên sao Hỏa vào thập niên tới. Cộng đồng An ninh Quốc gia liệu có bằng lòng chia sẻ phần lớn ngân sách của họ cho việc đưa con người lên sao Hỏa hay không? Sự kiện đó sẽ mang lại lợi ích gì cho an ninh quốc gia nào?"

"NASA sẽ được phép làm những gì họ muốn".

"Được phép cái cơn tườu!" Herney gầm lên.

Ai nấy đều trợn tròn mắt. Tổng thống Herney không mấy khi văng tục.

"Có một điều tôi đã học được kể từ khi ngồi trên ghế Tổng thống". Ông nói tiếp. "Kẻ nào có tiền thì kẻ đó có quyền. Tôi không đồng ý để NASA chịu sự quản lý của những cơ quan không có cùng tôn chỉ hoạt động với họ. Chẳng khó gì mà không tưởng tượng được NASA có được phép tiếp tục làm khoa học thuần túy nữa không nếu hầu bao của họ lại nằm trong tay quân đội".

Herney, đưa mắt nhìn một lượt khắp phòng, rồi chăm chăm nhìn William Pickering.

"Bill này", Herney thở dài "anh hơi thiển cận khi không muốn cho phép NASA tham gia vào các dự án liên doanh với các quốc gia khác. Ít nhất thì cũng có người đang cộng tác rất tích cực với Nga và Trung Quốc. Hòa bình trên thế giới này sẽ được kiến lập không phải chỉ bằng sức mạnh quân sự. Nó sẽ nở hoa bởi những con người một lòng chung sức với nhau bất kể những thiên kiến khác nhau của Chính phủ mỗi nước. Xin được khẳng định rằng những dự án liên doanh của NASA đóng góp cho hòa bình thế giới nhiều hơn những vệ tinh nhân tạo nhiều tỉ đô la đấy. Và nhờ có họ, chúng ta có quyền hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn nhiều".

Pickering cảm thấy cơn giận dữ như đang ngấm vào từng chân tơ kẽ tóc của ông. Làm sao Tổng thống dám ăn nói kiểu đó với mình cơ chứ! Ý tưởng của Herney chỉ phù hợp với các phòng họp mà thôi, chứ ngoài đời thật, nó khiến bao người bị chết oan.

"Bill này", Marjorie Tench nói xen vào, như thể bà ta biết được rằng ông sắp nổi đóa đến nơi "chúng tôi biết anh đã mất một đứa con. Tất cả mọi người ở đây đều biết chuyện này động chạm đến những tình cảm rất riêng tư của anh".

Pickering không nghe thlấy bất kỳ điều gì, trừ vẻ kẻ cả của bà ta.

"Nhưng xin các vị nhớ cho rằng Nhà Trắng hiện đang giữ hàng đống tài liệu về những nhà đầu tư đang có tham vọng kinh đoanh trong vũ trụ. Tôi xin khẳng định rằng, bất chấp tất cả những sai sót của họ, NASA vẫn luôn là người bạn lớn của ngành an ninh. Còn các anh thì lúc nào cũng chỉ biết chăm chăm bắt lỗi người khác thôi".

Tiếng động ầm ầm từ trên cao vọng xuống lôi Pickering về với thực tại. Sắp đến chỗ ông phải rẽ rồi. Gần đến lối rẽ vào thủ đô, ông thấy một con nai chết máu me đầm đìa nằm bên vệ đường như thể báo điểm gở. Ông chợt thấy hơi do dự, nhưng vẫn cứ đi tiếp.

Ông sắp có cuộc hẹn

Chương 96

Đài tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt là một trong những đài tưởng niệm lớn nhất trên toàn nước Mỹ. Với công viên, thác nước nhân tạo; bức tượng, những mảng tường uốn cong, đài tưởng niệm được chia thành bốn khu vực trưng bày ngoài trời, mỗi khu tượng trưng cho một nhiệm kỳ Tổng thống của FDR.

Cách đài tưởng niệm một dặm, chiếc trực thăng Kiowa Wamor đang trườn tới, tất cả đèn trên máy bay đều bị tắt. Ở một thành phố vốn vẫn tự hào là nơi tập trung nhiều VIP và các phóng viên báo chí như thủ đô Washington, trực thăng trên trời nhiều như những bầy chim di trú đang bay về phương nam. Delta-Một biết rằng nếu họ tránh được khu "mái vòm" - vừng trời xung quanh Nhà Trắng được lực lượng phòng không bảo vệ - thì họ sẽ không bị chú ý. Dù sao thì họ cũng chẳng ở đây lâu.

Chiếc phi cơ giảm dần tốc độ khi đến gần đài tưởng niệm FDR. Delta-Một cho máy bay lượn vòng tròn, kiểm tra lại vị trí của mình. Anh liếc sang bên trái, thấy Delta-Hai đang điều chỉnh kính viễn vọng nhìn trong bóng tối. Trên màn hình video, lối vào đài tưởng niệm hiện lên. Không một bóng người.

Họ sẽ đợi một lát.

Đây sẽ không phải là vụ ám sát lặng lẽ. Có những nhân vật không thể bị giết một cách lặng lẽ. Dù có sử dụng cách thức nào đi nữa, vẫn có những tác động ngược trở lại. Những cuộc điều tra. Những buổi thẩm vấn. Vì thế, cách nguỵ trang tốt nhất là gây ra nhiều tiếng động. Những tiếng nổ, lửa, và khói khiến người ta nghĩ đến bọn khủng bố quốc tế, những kẻ giết người công khai. Đặc biệt trong trường hợp mục tiêu là một nhân vật cấp cao.

Delta-Một nhìn kỹ cảnh đài tưởng niệm um tùm cây cối trong đêm trên màn hình video. Cả khu đỗ xe lẫn lối vào đều vắng người. Nhanh thôi mà, anh thầm nghĩ. Điểm gặp gỡ này, dù ở giữa lòng thành phố, vào giờ này vắng vẻ bất ngờ. Delta-Một quay sang nhìn thiết bị điều khiển vũ khí của mình.

Hệ thống Hellfire quả là loại vũ khí thích hợp với nhiệm vụ tối nay. Là loại tên lửa chống xe bọc thép, được dẫn đường bằng tia laze, Hellfire cho phép "bắn - rồi - quên". Đạn phóng ra sẽ nhằm thẳng tới một chùm tia laze chiếu ra từ đài quan sát trên mặt đất, trên máy bay, hay từ chính chiếc máy bay phóng tên lửa. Đêm nay quả tên lửa này sẽ được dẫn đường bằng bộ phận chiếu tia laze gắn ở đầu ăng ten máy bay. Sau khi máy bay Kaiowa chiếu một chùm laze thẳng vào mục tiêu, tên lửa Hellfire sẽ tự tìm đường. Vì loại tên lửa này có thể được phóng từ cả trên mặt đất lẫn trên máy bay, vết tích của nó ở đây không nhất thiết phải liên quan tới một máy bay. Thêm vào đó, loại tên lửa này trôi nổi khá nhiều ngoài chợ đen, nên người ta có thể đổ lỗi cho bọn khủng bố.

"Xe mui kín". Delta-Hai nói.

Delta-Một liếc nhìn màn hình video. Một chiếc xe mui kín màu đen sang trọng đang tiến vào lối rẽ đúng vào giờ đã định. Đây là loại xe dùng chung của các cơ quan Chính phủ. Vào đến gần đài tưởng niệm, người lái xe tắt đèn pha. Chiếc xe lượn vài vòng rồi đỗ cạnh một lùm cây. Delta-Một quan sát trên màn hình trong khi đồng đội của anh hướng ống kính viễn vọng vào cửa bên của chiếc xe. Sau một tích tắc, khuôn mặt người lái xe chiếm trọn màn hình.

Delta-Một thở gấp.

"Mục tiêu được xác định". - Delta-Hai nói.

Delta-Một nhìn màn hình lần nữa - vẻ mặt của nhân vật này hiện lên rõ mồn một trên màn hình. - anh chợt tưởng như mình là tay bắn tỉa đang chĩa nòng súng vào một thành viên của hoàng gia. Mục tiêu được xác định.

Delta-Hai quay sang thiết bị điện tử đặt bên trái anh và kích hoạt máy chiếu tia laze. Anh ngắm bắn, và dưới mặt đất, cách họ hai ngàn foot, một chấm sáng rất nhỏ xuất hiện trên nóc xe mà người ngồi trong không hề hay biết.

"Mục tiêu đã được chiếu laze". Delta-Hai tuyên bố.

Delta-Một hít một hơi thật sâu. Anh nhấn nút, khai hỏa.

Dưới thân máy bay, một tiếng xì mạnh vang lên ngay tức thì, tiếp theo đó là luồng sáng nhạt di chuyển rất nhanh xuống mặt đất. Một giây sau, chiếc xe tan thành từng mảnh trong muôn vàn lưỡi lửa. Mảnh kim loại méo mó văng khắp nơi. Lốp xe bắt lửa lăn vào lùm cây.

"Nhiệm vụ đã hoàn tất". Delta-Một nói, cho máy bay rút khỏi hiện trường. "Gọi chỉ huy đi".

Cách đó không đầy hai dặm, Tổng thống Zach Herney đang chuẩn bị đi ngủ. Kính của cửa sổ chống đạn Lexan cạnh giường ông dầy đến một inch. Herney không hề nghe thấy tiếng nổ.

Chương 97

Sân bay của đội cứu hộ bờ biển Atlantic tọa lạc ở một nơi được canh gác cẩn mật bên trong Trạm không lưu Liên bang William J. Hughes đặt tại sân bay quốc tế thành phố Atlantic. Trạm này phụ trách toàn bộ khu vực thềm lục địa Atlantic từ Asbury Park đến tận Cape May.

Rachel Sexton bừng tỉnh khi bánh máy bay kêu ken két trên đường băng trải nhựa nằm lọt giữa hai tòa nhà lớn. Ngạc nhiên thấy mình đã ngủ thiếp đi, cô giơ tay xem đồng hồ.

Hai giờ mười ba phút. Rachel tưởng như cô đã ngủ mê mệt không biết bao lâu.

Ai đó đã quấn quanh người cô tấm chăn ấm áp, và bên cạnh cô, Michael Tolland cũng vừa tỉnh dậy. Ông nhìn cô, mỉm cười, vẻ mệt mỏi.

Corky loạng choạng bước dọc lối đi, nhăn nhó khi nhìn thấy họ. "Khỉ thật, hai người vẫn còn ở đây à? Giá như đêm nay chỉ là một giấc mộng thì hay quá".

Rachel hoàn toàn thông cảm với ông ta. Mình lại phải ra biển.

Máy bay dừng hẳn, cùng hai nhà khoa học, Rachel bước xuống đường băng. Trời đầy mây, nhưng gió biển ấm áp thổi khá mạnh. So với Ellesmere thì New Jersey chẳng khác gì vùng nhiệt đới.

"Đằng này!" Có người gọi to.

Cả ba quay lại và thấy chiếc máy bay HH-65 Dolphin màu đỏ sẫm, loại máy bay chuyên dụng của đội cứu hộ trên biển, đang đợi sẵn. Một viên phi công nai nịt sẵn sàng, đứng cạnh đuôi máy bay, đang đưa tay vẫy.

Tolland gật đầu nhìn Rachel vẻ thán phục: "Sếp của cô quả là chu đáo".

Anh chưa biết ông ấy là người thế nào đâu, cô nghĩ.

Corky ngồi sụp xuống: "Đi luôn à? Không được ăn uống gì sao?"

Người phi công chào hỏi niềm nở, sau đó giúp họ leo lên máy bay. Không cần hỏi tên tuổi của họ, anh ta cứ bô bô trò chuyện.

Chắc hẳn Pickering đã nói rõ với đội cứu hộ rằng đây không phải là chuyến bay công khai. Tuy nhiên, bất chấp chỉ thị của ông, Rachel nhận thấy bí mật về danh tính của họ chỉ kéo dài được vài giây. Người phi công trợn tròn mắt, không giấu nổi vẻ kinh ngạc khi thấy Michael Tolland, ngôi sao truyền hình nổi tiếng.

Thắt đai an toàn, ngồi xuống cạnh Tolland, Rachel bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Loại động cơ Aerospatiale trên đầu họ bắt đầu rú lên, những cánh quạt Dolphin dài 39 foot bắt đầu quay tít. Động cơ tiếp tục gầm rú to hơn nữa, và chiếc máy bay rời đường băng, bay vào bầu trời đêm.

Viên phi công thò đầu vào trong khoang và nói lớn, "Tôi được thông báo là các vị sẽ cho biết đích đến sau khi chúng ta cất cánh".

Tolland cho anh ta biết tọa độ chính xác của một vị trí cách sân bay khoảng ba mươi dặm về hướng đông nam.

Tàu của anh ấy ở cách bờ mười hai dặm, Rachel thầm nghĩ, rùng mình.

Anh chàng phi công nhập tọa độ vào hệ thống định vị của máy bay. Sau đó anh ta điều chính một số nút bấm và cần gạt. Chiếc máy bay lao thẳng về hướng đông nam.

Khi những đụn cát trên bờ biển New Jersey đã lùi về phía sau, Rachel quay mặt đi, không muốn nhìn đại dương tối sẫm trải rộng bên dừới máy bay. Dù rất lo lắng khi phải ra biển lần nữa, cô cố an ủi mình rằng bên cạnh cô là người suốt đời coi đại dương là bạn thân. Tolland ngồi sát cạnh cô trong khoang máy bay chật chội, vai và hông của hai người bị ép vào nhau. Nhưng chẳng ai tỏ vẻ muốn thay đổi tư thế.

"Tôi biết là không nên nói ra", đột nhiên viên phi công thốt lên, "nhưng chắc chắn anh là Michael Tolland, chắc chắn thế, anh xuất hiện trên tivi suốt cả đêm! Tảng thiên thạch ấy mà! Không thể tin nổi! Chắc anh phải kinh ngạc lắm!"

Tolland kiên nhẫn gật đầu: "Đến nỗi không thốt nên lời".

"Đoạn phim tài liệu thật tuyệt vời! Anh biết không, các đài truyền hình thay nhau phát lại. Đêm nay chẳng phi công nào muốn cất cánh ai cũng muốn ngồi nhà xem tivi, chúng tôi phải bốc thăm! Anh có tin nổi không! Bốc thăm! Và thế đấy! Nếu cánh phi công mà biết tôi đang chở ai thì..."

"Chúng tôi đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của anh", Rachel xen ngang, "nhưng việc chúng tôi có mặt ở đây thì chỉ mình anh được biết thôi. Anh không được nói cho bất kỳ ai khác".

"Dĩ nhiên rồi, thưa cô. Chỉ huy cũng đã nói thế". Anh ta do dự một lát, rồi mắt lại sáng lên. "Này, có phải chúng ta đang bay tới con tàu Goya không?"

Tolland miễn cưỡng gật đầu. "Đúng thế".

"Chúa thật!" Anh ta thốt lên. "Xin lỗi anh nhé, nhưng tôi đã nhìn thấy con tàu ấy trong các chương trình của anh. Nó có hai thân song song, phải không nhỉ? Con quái vật kỳ dị! Tôi chưa bao giờ được đặt chân lên tàu ngầm. Không ngờ bây giờ lại được lên hẳn tàu của anh!"

Rachel không nói gì, càng xa bờ cô càng cảm thấy bất an.

Tolland quay sang nhìn Rachel. "Không sao chứ? Cô ở trên bờ cũng được. Tôi bảo từ nãy rồi mà".

Đáng ra mình nên ở lại trên bờ, Rachel nghĩ, lòng thầm biết cô không mặt mũi nào mà làm thế. "Không sao, cảm ơn anh. Tôi không sao".

Tolland mỉm cười. "Tôi sẽ trông chừng cho cô".

"Cảm ơn anh". Rachel ngạc nhiên thấy giọng nói ấm áp của ông làm cô cảm thấy an tâm hơn hẳn.

"Cô đã trông thấy con tàu Goya trên tivi rồi đúng không?"

Cô gật đầu. "Quả là... trông..., khá hấp dẫn".

Tolland cười lớn: "Đúng thế. Hồi đầu nó là hình mẫu vô cùng hiện đại, nhưng vẻ ngoài của nó quả có hơi kỳ dị".

"Chẳng giống một ai". Rachel nói đùa, nghĩ đến hình dáng khác thường của con tàu.

"Hiện nay đài NBC đang giục tôi chuyển sang sử dụng con tàu mới. Có lẽ... tôi cũng chẳng biết nữa, trông đẹp hơn, hào nhoáng hơn. Một hai năm nữa, họ sẽ bắt tôi phải chia tay Goya". Giọng Tolland đầy tư lự.

"Anh không thích có tàu mới ư?"

"Tôi chẳng biết nữa... Tàu Goya gắn bó với tôi bao kỷ niệm".

Rachel cười mỉm: "Mẹ tôi thường nói rằng sớm muộn gì chúng ta cũng phải để quá khứ lại sau lưng".

Ánh mắt hai người tình cờ gặp nhau. "Ừ, chắc phải như vậy thôi". Tolland nói.

Chương 98

"Khỉ thật". Người lái xe tắc xi quay lại nói với Gabrielle. "Hình như đằng trước có tai nạn. Lại không đi được rồi. Chắc cũng lâu đấy".

Gabrielle nhìn ra ngoài và thấy những chớp sáng từ đèn xe cấp cứu lóe lên trong đêm tối. Mấy nhân viên cảnh sát đang đứng phía trước, chặn tất cả mọi xe cộ qua lại xung quanh khu đài tưởng niệm.

"Chắc tai nạn phải khủng khiếp lắm". Người lái xe nói, tay chỉ những lưỡi lửa vẫn đang bốc cao trong đài tưởng niệm FDR.

Gabrielle nhìn những ngọn lửa đang cháy lem lém, nhíu mày. Lại đúng vào lúc này cơ chứ. Cô muốn báo ngay cho Thượng nghị sĩ thông tin vừa có được về PODS và nhà địa chất học Canada. Cô thầm băn khoăn không hiểu vụ ầm ỹ này có đủ để mang lại sinh khí cho chiến dịch bầu cử của Thượng nghị sĩ hay không. Có thể đối với những chính trị gia khác thì vẫn là chưa đi - cô thầm nghĩ, nhưng Sedgewick Sexton là người dựa trên khiếm khuyết và thất bại của kẻ khác để xây dựng cương lĩnh chính trị của mình.

Dù Gabrielle chưa bao giờ thán phục cách Thượng nghị sĩ biến những khiếm khuyết về nhân cách của đối thủ thành những lợi thế chính trị của bản thân, nhưng phải thừa nhận rằng đó là cách thức lợi hại. Với miệng lưỡi sắc sảo, Sexton có thể làm cho hành vi thiếu trung thực này của NASA biến thành cả một vấn đề trầm trọng liên quan đến tư cách của người đứng đầu NASA và một cách gián tiếp, đến cả Tổng thống.

Ngoài kia, lửa tiếp tục bốc cao thêm trong khu vực tưởng niệm FDR. Một số cây to đã bắt lửa, và lính cứu hỏa đang ra sức phun nước. Người lái taxi ấn nút bật đàì, và đang dò sóng.

Thở dài, Gabrielle ngả người trên ghế, cảm nhận sự mệt mỏi đang lan đến từng chân tơ kẽ tóc. Hồi mới đặt chân đến Washington, cô đã dự định sẽ làm chính trị cả đời, thậm chí cả trong Nhà Trắng. Ấy thế mà giây phút này, cô cảm tưởng như đã chán ngán tất cả - cuộc đấu trí với Marjorie Tench, những bức ảnh chụp cô và Thượng nghị sĩ ăn nằm với nhau, những lời dối trá của NASA...

Phát thanh viên trên đài đang đưa tin về một vụ đánh bom và những suy đoán về khủng bố.

Mình phải đi khỏi thành phố này thôi, cô nghĩ, lần đầu tiên kể từ giây phút đặt chân đến thủ đô của nước Mỹ.

Chương 99

Chỉ huy rất hiếm khi thấy mệt mỏi, nhưng ngày hôm nay quả là nhiều thương vong. Không một chi tiết nào diễn ra đúng như dự định - quá trình khoan phiến băng để đưa tảng thiên thạch vào lòng băng hà, những khó khăn nảy sinh trong khâu bảo vệ bí mật, và bây giờ là số lượng nạn nhân tăng không ngừng.

Đáng ra không một ai phải chết... trừ người Canada đó.

Thật mỉa mai, chi tiết kỹ thuật khó thực hiện nhất hóa ra lại êm xuôi nhất. Việc đưa tảng đá vào giữa lòng phiến băng được hoàn tất từ trước đó vài tháng mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Sau khi mọi sự đã hoàn tất, chỉ cần đợi vệ tinh PODS được phóng lên quỹ đạo vệ tinh chụp cắt lớp độ đậm đặc Cực Bắc này có nhiệm vụ quản sát những khu vực rộng lớn ở vùng Cực Bắc, và không sớm thì muộn, phần mềm trên vệ tinh sẽ phát hiện ra tảng thiên thạch, và NASA sẽ được biếu không một phát kiến quan trọng.

Nhưng phần mềm chết tiệt đó không hoạt động được.

Khi chỉ huy được thông báo rằng phần mềm phát hiện những dị thường về độ đậm đặc của PODS bị lỗi và phải đợi đến sau kỳ bầu cử thì mới khắc phục xong, toàn bộ kế hoạch có nguy cơ bị phá sản. Không có PODS, tảng thiên thạch sẽ âm thầm nằm trong lòng băng tuyết. Thế là chỉ huy phải tìm cách báo cho người của NASA biết về tảng thiên thạch đó. Giải pháp được lựa chọn là giả danh nhà địa chất học người Canada để thông báo vị trí của tảng thiên thạch. Dĩ nhiên là phải giết nhà khoa học đó ngay lập tức rồi dàn cảnh một vụ tai nạn. Quăng nhà địa chất học vô tội từ trên trực thăng xuống mới chỉ là bước khởi đầu. Lúc này, sự thật có nguy cơ nhanh chóng bị bại lộ.

Wailee Ming. Norah Mangor. Cả hai đều đã chết.

Vụ sát hại dã man tại đài tưởng niệm FDR.

Chẳng mấy chốc nữa sẽ đến lượt Rachel Sexton, Michael Tolland, và tiến sĩ Marlinson.

Không còn cách nào khác, chỉ huy thầm nghĩ, cố dằn cảm giác hối hận đang dâng lên trong lòng. Nếu không thì cái giá phải trả sẽ còn lớn hơn nhiều.

Chương 100

Khi chiếc máy bay Dolphin của đội cứu hộ bờ biển còn cách chiếc tàu Goya những hai dặm, Tolland đã gọi người phi công.

"Máy bay của anh có trang bị thiết bị nhìn xuyên đêm NightSight không?"

Người phi công gật đầu: "Chúng tôi được trang bị đầy đủ!"

Tolland không mong gì hơn. NightSight là thiết bị chụp ảnh cảm ứng nhiệt của hãng Raytheon, cho phép xác định được những người còn sống sót sau khi đắm tàu trong đêm tối. Hơi ấm toả ra từ đầu của nạn nhân sẽ hiện lên như một chấm đỏ trên nền đại dương đen thẫm.

"Bật lên đi". Tolland bảo anh ta.

Người phi công thắc mắc: "Anh muốn tìm người dưới biển sao?"

"Không, tôi muốn xem cái này".

"Ở độ cao này thì chẳng nhìn thấy gì đâu, trừ phi dưới kia có một vệt dầu loang đang bốc cháy".

"Anh cứ bật lên đã nào". Tolland khăng khăng.

Người phi công ném về phía Tolland ánh mắt khó chịu, rồi ấn mấy cái nút, điều chỉnh vài cái cần, chỉnh ống kính cảm ứng nhiệt lắp dưới bụng máy bay để nhìn bao quát vùng biển có đường kính ba dặm trước mặt họ. Màn hình LCD trên bảng điều khiển trước mặt anh ta sáng lên. Ảnh cảm ứng nhiệt được chuyển ngay.

"Ái chà chà!" Máy bay hơi tròng trành mất mấy giây khi anh ta co người lại vì kinh ngạc, rồi bình tĩnh lại và ngồi thẳng dậy, chăm chú nhìn màn hình.

Rachel và Corky nhoài hẳn người về phía màn hình, không kém phần ngạc nhiên. Trên nền đại dương đen thẫm là một vòng xoáy lớn màu đỏ sáng lòe.

Rachel bối rối quay sang Tolland: "Trông như một xoáy nước vậy".

"Nó đấy". Tolland đáp "một dòng hải lưu ấm chảy xoáy. Đường kính của nó phải đến nửa dặm".

Anh chàng phi công cứu hộ ồ lên kinh ngạc: "Dòng xoáy này lớn thật. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp xoáy nước ấm, nhưng chưa thấy cái xoáy nào rộng đến mức này".

"Nó mới xuất hiện tuần trước", Tolland giải thích "chắc chỉ vài hôm nữa là biến mất".

"Cái gì tạo nên xoáy nước này?" Rachel hỏi, bối rối thấy một xoáy nước lớn đến thế giữa lòng đại dương.

"Magma đấy". Viên phi công nói.

Rachel quay sang Tolland, giọng lo lắng: "Có núi lửa sao?"

"Không". Tolland đáp. "Bờ biển phía đông không có núi lửa nào cả, mà thỉnh thoảng chỉ có những túi đá nhão xuất hiện dưới đáy biển, tạo ra những vùng nước nóng mà thôi. Vì những túi nước nóng đó, một gradien nhiệt độ đảo ngược xuất hiện - nước nóng ở dưới đáy trong khi nước mát lại ở bên trên. Do đó mà có những xoáy nước nóng lớn thế này. Chúng được gọi là các megaplume. Những xoáy nước này chỉ hoạt động trong khoảng một hai tuần rồi sẽ biến mất".

Người phi công quan sát xoáy nước nóng đang chảy trên màn hình. "Trông xoáy nước này có vẻ còn mạnh lắm". Anh ta ngừng lại một lát, kiểm tra lại tọa độ mà tàu ngầm của Tolland đang neo đậu, rồi quay lại, vẻ ngạc nhiên: "Anh Tolland này, hình như con tàu của anh đang thả neo rất gần trung tâm dòng xoáy này thì phải".

Tolland gật đầu. "Gần trung tâm thì tốc độ dòng chảy có chậm hơn đôi chút. Mười tám hải lý. Gần giống như thả neo trên một dòng sông chảy xiết. Những dây néo của chúng tôi đã bị kéo căng suốt cả tuần vừa rồi".

"Lạy Chúa tôi". Viên phi công nói. "Hải lưu có tốc độ mười tám hải lý! Ngã một cái là xong!" Anh ta phá lên cười.

Rachel không cười nổi. "Mike này, không hề thấy anh nhắc gì đến túi đá nhão, megaplum hay dòng hải lưu nóng nào hết".

Ông đặt tay lên đầu gối, cô động viên: "An toàn tuyệt đối, cứ tin ở tôi".

Rachel nhíu mày: "Tức là các anh đang quay phim về megaplume này à?"

"Megaplume và sphyrna mokarranan".

"Đúng đấy, tôi đã nghe thấy anh nói đến thứ đó!"

Tolland mỉm cười bẽn lẽn: "Sphyrna mokarranan rất thích nước ấm, và ngay lúc này, trải dài khắp một trăm dặm quanh đây, chúng đang tập trung vô cùng đông đúc".

"Hay thật". Rachel gật đầu, không chút thoải mái. "Và chúng thế nào? Lũ sphyrna mokarranan ấy?"

"Loài cá xấu xí nhất đại dương".

"Giống cá bơn à?"

Tolland cười lớn: "Cá mập đầu búa".

Rachel sợ cứng người:

"Quanh tàu của anh có cá mập đầu búa à?"

Tolland nháy mắt: "Bình tĩnh nào, chúng không nguy hiểm đâu mà".

"Nếu chúng không nguy hiểm thì anh đã chẳng phải nói vậy".

Tolland cười ha hả: "Chắc cũng đại loại như thế". Ông tinh nghịch gọi người phi công "Này, kể từ lần gần đây nhất mà các anh cứu được người nào bị cá mập đầu búa tấn công đến nay là bao lâu rồi?"

Anh ta nhún vai: "Phải đến mấy chục năm nay chưa có lấy một lần".

Tolland quay sang Rachel: "Thấy chưa, mấy chục năm rồi. Lo gì!"

"Nhưng mà mới tháng trước, có mấy tay lặn tự do bị..."

"Này" Rachel lên tiếng "Anh nói là mấy chục năm chưa cứu người nào cơ mà!"

"Đúng thế!" Anh ta đáp. "Cứu sống. Thường là chúng tôi đến quá muộn. Giống cá này tấn công nhanh lắm".

Chương 101

Từ trên cao, họ thấy bóng dáng tàu Goya lung linh phía chân trời.

Cách nửa dặm, Tolland nhận ra ngay những bóng đèn mà Xavia đã bật trên boong. Nhìn những ngọn đèn, ông chợt thấy mình giống lữ khách mệt mỏi vừa nhìn thấy mái nhà thân yêu hiện lên phía cuối đường.

"Tôi tưởng chỉ có một người trực trên tàu cơ mà?" Rachel ngạc nhiên thấy nhiều đèn sáng đến vậy.

"Chẳng lẽ những lúc ở nhà một mình thì cô không bật đèn sao?"

"Một bóng thôi, không phải toàn bộ căn nhà như thế kia".

Tolland mỉm cười. Dù cố tỏ ra vui vẻ, Rachel không giấu nổi cảm giác bồn chồn lo lắng. Ông muốn đặt bàn tay vai cô gái để nói đôi lời an ủi, nhưng chẳng biết nói gì vào lúc này. "Đèn bật lên thế kia là để cho an toàn. Để làm ra vẻ vẫn có rất nhiều người trên tàu".

Corky cười khùng khục: "Các anh sợ cướp biển à?"

"Không. Nguy cơ lớn nhất lại chính là những kể khờ không biết đường mà dùng radar. Cách tốt nhất để không bị đâm là để cho ai cũng phải thấy mình".

Corky liếc nhìn con tàu chan hòa ánh sáng: "Nhìn thấy à? Trông như thể các anh sắp mở vũ hội hóa trang nhân dịp năm mới thì có. Dĩ nhiên là tiền điện thì đã có đài NBC chi trả".

Chiếc trực thăng của đội cứu hộ bờ biển nghiêng cánh và lượn vòng quanh con tàu. Người phi công bắt đầu cho máy bay tiếp cận sân bay trực thăng trên nóc tàu. Từ trên cao, Tolland thấy rõ những thanh giằng của con tàu đang phải chịu áp lực rất lớn của dòng hải lưu. Được thả neo từ phía mũi - con tàu Goya như đang đâm thẳng vào dòng nước xoáy, những dây xích để neo tàu bị kéo căng, như thể một quái vật biển đang kéo căng xiềng xích muốn vùng thoát ra ngoài...

"Con tàu này đẹp gớm". Người phi công vừa nói vừa cười.

Tolland biết ngay anh ta đang nói mỉa. Tàu Goya trông rất xấu. "Xấu không chịu nổi" theo cách nói của một biên tập viên truyền hình. Nó là một trong mười bảy chiếc tàu duy nhất hiệu SWATH, con tàu hai thân vùng ngấn nước hẹp này trông không đẹp mắt chút nào.

Về cơ bản, con tàu là một khối kết cấu nằm ngang nổi bồng bềnh trên những thanh giằng rất lớn gắn với bốn xà lan. Nhìn từ xa, nó giống như giàn khoan loại thấp. Nhìn gần thì nó giống như cái xà lan lớn gắn trên những cây cột khổng lồ. Khu ở của thủy thủ đoàn, các phòng nghiên cứu cũng như khoang điều khiển được xếp thành dãy tít trên cao, khiến người ta liên tưởng đến đống hổ lốn những, nhà cửa, phòng cao ốc bị chất chồng trên cái bàn cà phê bé nhỏ.

Dù trông không vừa mắt chút nào, con tàu Goya có ưu điểm là vùng ngấn nước rất hẹp, do đó ít tròng trành hơn. Mặt nền được treo rất thăng bằng cho phép họ dễ dàng quay phim và thao tác trong phòng thí nghiệm, và ít người bị say sóng hơn.

Dù đài NBC đã đề nghị mua cho ông con tàu mới, Tolland vẫn từ chối. Dù rằng hiện nạy có những con tàu mới có độ ổn định cao hơn, nhưng Goya đã là nhà của ông từ hơn chục năm nay - trên chính con tàu này, ông đã chiến đấu với nỗi cô đơn trống trải sau khi Celia ra đi mãi mãi. Thỉnh thoảng vẫn có đêm ông như nghe thấy tiếng nàng trên boong tàu lộng gió. Chừng nào những tiếng gọi ấy không còn vang lên nữa thì ông sẽ chuyển sang tàu mới.

Còn hiện tại thì chưa.

Cuối cùng thì chiếc trực thăng cũng hạ cánh xuống boong tàu Goya.

Rachel Sexton thở phào. Tin tốt là cô không còn bay qua đại dương nữa. Tin xấu là giờ đây, cô đang đứng trên mặt biển. Rachel cố giữ cho hai chân không run lên khi cô bước lên boong và nhìn quang cảnh xung quanh. Boong tàu chật chội kỳ lạ, đã thế chiếc máy bay lại choán hẳn phần đuôi tàu. Dõi mắt về phía mũi tàu, Rachel chăm chú quan sát cấu trúc xấu xí mất cân đối của con tàu.

Tolland đứng sát bên cô. "Tôi biết", ông nói to để át tiếng dòng nước ào ào bên dưới "Khi lên tivi, cái boong này có vẻ rộng hơn".

Rachel gật đầu. "Và cũng có vẻ ít tròng trành hơn".

"Đây là một trong những con tàu an toàn nhất. Thật đấy".

Tolland đặt tay lên vai Rachel và dẫn cô đi dọc boong tàu.

Ông không ngờ hơi ấm từ bàn tay mình lại có thể khiến Rachel an lòng đến vậy. Tuy nhiên, khi Rachel nhìn về phía đuôi tàu, cô thấy dòng hải lưu chảy xiết cuộn lên như thể con tàu đang chạy hết tốc lực. Chúng ta đang ở ngay trên một xoáy nước lớn, cô thầm nghĩ.

Ở tận cùng phía đuôi tàu, Rachel nhận ra chiếc tàu lặn nhỏ Triton - được đặt tên theo thần biển của người Hy Lạp - trông chẳng giống vị thần biển bị nhốt trong lồng sắt chút nào. Ngay trên mũi con tàu nhỏ này là vòm chứa acide acrylic, khiến nó trông giống chiếc bể cá hơn là chiếc tàu ngầm. Rachel thầm nghĩ trên đời này không còn gì đáng sợ hơn ở một mình trong lòng biển sâu, sát cái vòm chứa đầy acide kiểu này. Nhưng theo lởi Tolland, khó chịu nhất lại là giai đoạn đầu, khi con tàu được thả xuống biển bằng cái tời gắn bên hông tàu Goya, treo lủng lẳng như quả lắc đồng hồ trên không trung, cách mặt biển ba mươi mét.

"Xavia chắc đang ở trong phòng thí nghiệm". Tolland nói, đi dọc boong tàu. "Lối này".

Rachel và Corky bước theo Tolland. Còn viên phi công thì ngồi lại trên máy bay, được dặn dò kỹ lưỡng là không được dùng sóng vô tuyến để bên lạc với bất kỳ ai.

"Hai người hãy xem nhé". Tolland nói, dừng lại bên lan can ở đuôi tàu.

Rachel miễn cưỡng tiến sát đến mép tàu. Lan can khá cao. Mặt nước bên dưới cách họ những ba mươi foot, thế mà Rachel vẫn cảm thấy vô cùng sợ hãi.

"Nhiệt độ ở đây tương đương với nước ấm trong bồn tắm". Tolland nói trong tiếng nước ào ào. Ông với tay bật công tắc gắn trên tay vịn. "Xem này".

Một chùm sáng tỏa rộng chiếu xuyên qua vùng nước phía đuôi tàu. Cả Rachel và Corky đều thấy ngộp thở.

Quanh con tàu là hàng chục hình dáng ma quái. Chỉ cách mặt nước vài foot, hàng đàn cá lớn đen xì, bóng nhẫy bơi song song ngược dòng hải lưu, những cái đầu hình búa không lẫn vào đâu được đang lắc qua lắc lại trong một nhịp điệu ma quái đặc trưng mà tổ tiên chúng từ thời tiền sử truyền lại.

"Chúa ơi". Corky lắp bắp. "Rất mừng được anh báo trước thế này, Mike ạ".

Rachel đờ người. Cô muốn lùi xa mép tàu, nhưng chân không nhúc nhích nổi. Những gì vừa trông thấy đã khiến cô ngây dại.

"Cảnh tượng hiếm có, đúng không?" Tolland nói. Ông lại đặt tay lên vai Rachel để trấn an. "Chúng sẽ vui đùa ở vùng nước ấm này vài tuần. Những con cá này thính mũi nhất đại dương - thùy khứu giác telencephalon của chúng cực kỳ nhạy bén. Chúng có thể ngửi được mùi máu cách xa một dặm".

Corky tỏ ra hoài nghi: "Thùy khứu giác telencephalon cực nhạy à?"

"Anh không tin ư?" Tolland đến bên cái tủ bằng nhôm đặt gần đó. Loáng một cái, ông đã lôi ra một con cá nhỏ. "Tuyệt lắm". Ông lấy con dao nhỏ và khía vài nhát trên mình con cá mềm oặt. Máu bắt đầu rỉ ra.

"Mike này, lạy Chúa tôi". Corky nói. "Ghê quá!"

Tolland ném con cá xuống biển. Ngay khi con cá rơi xuống mặt biển, gần chục con cá mập lập tức lao bổ đến, những chiếc răng trắng nhởn, sắc nhọn bổ phầm phập vào con cá bé nhỏ. Sau một tích tắc, con cá hoàn toàn biến mất.

Kinh hãi, Rachel quay lại nhìn Tolland ông đã cầm trên tay một con cá nữa. Cùng loại. Cùng kích cỡ.

"Lần này không có máu". Tolland nói, rồi ném luôn con cá xuống biển mà không lấy dao cắt ra như lần trước nữa. Con cá rơi xuống nước, nhưng không có bất kỳ động tĩnh nào. Lũ cá mập đầu búa dường như không hề để ý. Con cá mồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi, không gây ra bất kỳ xáo động nào.

"Chúng chỉ tấn công khi ngửi thấy có mùi máu". Tolland đứng dựa người vào lan can boong tàu và nói. "Thực ra chúng ta có thể bơi ở khu vực này mà vẫn an toàn với điều kiện là trên người không có vết thương hở nào".

Corky chỉ tay vào những mũi khâu trên mặt ông ta.

Tolland nhíu mày: "Đúng thật, cậu thì không được bơi".

Chương 102

Chiếc taxi của Gabrielle Ashe không thể nhúc nhích.

Bị mắc kẹt trong đám tắc đường gần đài tưởng niệm FDR, Gabrielle đưa mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, và chợt cảm thấy màn sương mờ siêu thực như đang ôm trùm lấy thành phố. Lúc này phát thanh viên trên đài đang thông báo rằng người vừa bị tai nạn có thể là một nhân vật cao cấp của Chính phủ.

Lấy điện thoại cầm tay ra, cô gọi Thượng nghị sĩ. Chắc chắn giờ này ông đang băn khoăn tại sao cô lại biến mất lâu đến thế.

Đường dây đang bận.

Nhìn đồng hồ đo độ dài của chiếc taxi đang nhấp nháy, Gabrielle nhnl mày. Mấy chiếc xe xung quanh đang quay đầu để đi đường khác.

Người lái xe quay đầu lại hỏi: "Cô có muốn đợi không? Lâu quá là đồng hồ sẽ tự nhảy đấy".

Thêm nhiều xe của cảnh sát đang kéo đến. "Không. Quay lại thôi".

Người lái xe làu nhàu gì đó vẻ đồng tình rồi cho xe quay lại. Đi qua chỗ ngoặt, cô lại gọi cho Thượng nghị sĩ lần nữa.

Máy vẫn bận.

Vài phút sau, sau khi vòng vèo, chiếc xe đi qua phố C., Gabrielle nhìn thấy tòa cao ốc văn phòng Phillip A. Heart lờ mờ phía trước. Cô định đến thẳng nhà riêng của Thượng nghị sĩ, nhưng nếu văn phòng của ông ở ngay gần đây thế này thì...

"Dừng lại đi". Cô bảo người lái xe."Tôi xuống đây cũng được. Cảm ơn anh".

Xe dừng bánh.

Thanh toán tiền xong, Gabrielle cho anh ta thêm mười đô la nữa. "Anh có thể đợi tôi mười phút được không?"

Người lái xe cầm tiền và nhìn đồng hồ đeo tay: "Đúng mười phút thôi nhé".

Gabrielle hối hả bước đi. Năm phút nữa tôi quay ra ngay.

Vào lúc khuya khoắt này, khu văn phòng lát đá hoa cương của Thượng nghị sĩ trông thật đìu hiu. Đi lướt qua dãy tượng đặt cạnh hành lang tầng ba, Gabrielle chợt có cảm giác căng thẳng. Những đôi mắt bằng đá như đang theo dõi từng cử động của cô.

Đến cửa khu văn phòng mà Thượng nghị sĩ thuê riêng, cô tra thẻ ra vào vào khe để mở cửa. Hành lang mờ tối. Qua sảnh chờ rộng, cô tiến tới hành lang dẫn vào phòng thư ký. Cô vào trong, bật đèn lên, và bước thẳng tới bên chồng tài liệu trên bàn của mình.

Gabrielle có cả cặp tài liệu về những chi phí của NASA cho dự án PODS cũng như những thông tin về chính dự án đó. Rất có thể Thượng nghị sĩ sẽ cần có ngay những tài liệu cần thiết về PODS sau khi nghe cô báo cáo về Harper.

NASA nói dối về PODS.

Gabrielle chưa kịp chạm tay vào cặp tài liệu thì điện thoại cầm tay của cô đổ chuông.

"Thượng nghị sĩ phải không ạ?" Cô trả lời máy.

"Không đâu, Gabrielle. Yolanda đây". Người bạn thân thiết của cô lên tiếng."Em vẫn còn ở trụ sở NASA đấy à?"

"Không. Em ở văn phòng".

"Có tìm được gì ở NASA không?"

Chị không thể tin nổi đâu. Gabrielle biết rằng cô nên nói chuyện với Thượng nghị sĩ trước rồi mới kể với Yolanda. Thượng nghị sĩ sẽ quyết định xử lý thông tin theo cách nào. "Em phải báo cáo với Sexton trước rồi mới kể với chị được. Em đang trên đường đến nhà riêng ông ấy".

Yolanda im lặng một lúc. "Gab này, em còn nhớ những điều hồi nãy em nói với chị về chuyện tiền bạc giữa Sexton và SFF không?"

"Em đã bảo chị là em sai và..."

"Chị vừa được biết rằng hai phóng viên chuyên phụ trách mảng vũ trụ của đài chị đang điều tra về chuyện ấy đấy".

Gabrielle ngạc nhiên: "Thế nghĩa là sao?"

"Chị không biết. Những họ đều là người tử tế, và đều tin rằng Sexton nhận tiền của SFF. Biết tin là chị gọi cho em ngay. Hồi tối chị có nói với em là chuyện đó không thể có thật. Những thông tin mà Marjorie Tench cung cấp có thể không chính xác. Nhưng những phóng viên của đài chị..., chị cũng chẳng biết thế nào, có lẽ em nên nói chuyện với họ rồi hãy đến gặp Thượng nghị sĩ".

"Nếu họ tin là thế thật thì tại sao chưa cho phát tin lên sóng?"

Gabrielle không ngờ giọng điệu của cô lại đanh thép đến thế.

"Họ chưa có bằng chứng cụ thể. Thượng nghị sĩ rất giỏi xóa dấu vết".

Chính khách nào mà chả thế. "Không có chuyện ấy đâu Yolanda ạ. Em khẳng định với chị là Thượng nghị sĩ chỉ nhận những khoản hiến tặng trong giới hạn cho phép".

"Chị biết là ông ấy bảo em thế, Gab ạ. Chị không muốn khẳng định điều gì đúng, điều gì sai. Chị chỉ cảm thấy có trách nhiệm phải báo cho em biết vì chị đã khuyên em đừng tin lời nói của Marjorie Tench; và giờ đây chị vừa được biết rằng những người khác cũng có cùng quan điểm với bà ta. Thế thôi".

"Hai phóng viên đó tên là gì?" Gabrielle chợt cảm thấy bực bội.

"Chị không thể nói tên. Nhưng chị có thể dàn xếp một cuộc gặp Họ tử tế lắm. Và rất am hiểu luật..." Yolanda lưỡng lự giây lát "Em biết không, họ còn tin rằng Sexton đang khốn đốn vì tiền thậm chí đến mức phá sản".

Trong văn phòng yên ắng, Gabrielle tưởng như nghe rõ mồn một giọng nói chát chúa của Yolanda. Sau khi Catherine mất, Thượng nghị sĩ đã tiêu tán phần lớn số tiền bà ấy để lại vào những khoản đầu tư thiếu khôn ngoan, vì hưởng thụ cá nhân, và đánh đổi cho mình chút thành công nhỏ mọn trước mắt. Cách đây khoảng sáu tháng, ông ta đã phá sản.

"Hai phóng viên này chắc sẽ đồng ý nói chuyện với em đấy". Yolanda nói.

Dĩ nhiên rồi! Gabrielle thầm nghĩ. "Em sẽ gọi lại cho chị".

"Hình như em không tin tưởng lắm".

"Bao giờ em cũng tin chị. Em luôn tin ở chị. Cảm ơn chị".

Gabrielle tắt máy.

Người vệ sĩ đang gà gật trên chiếc ghế bành ngay cửa căn hộ của Thượng nghị sl Sexton tại khu Westbrooke, đột nhiên chuông điện thoại trong túi áo vang lên khiến anh ta giật mình tỉnh giấc. Ngồi bật dậy, anh ta dụi mắt rồi nghe máy.

"Tôi nghe".

"Owen à? Gabrielle đây..."

Vệ sĩ của Sexton nhận ra giọng cô. "À, xin chào".

"Tôi có chuyện cần nói với Thượng nghị sĩ. Anh gõ cửa hộ tôi được không? Máy bàn của ông ấy bận suốt".

"Đêm khuya lắm rồi".

"Ông ấy vẫn thức đấy. Tôi biết mà". Gabrielle tỏ ra rất nôn nóng.

"Khẩn cấp lắm".

"Lại chuyện khẩn nữa à?"

"Vẫn chuyện ban nãy. Bảo ông ấy trả lời máy tôi ngay. Có chuyện này tôi phải hỏi ông ấy".

Anh chàng vệ sĩ thở dài đứng dậy. "Thôi được, thôi được. Tôi sẽ gõ cửa". Anh ta sải bước về phía cửa phòng riêng của Sexton. "Hồi tối đã cho cô vào rồi thì giờ phải gọi cửa cho cô nốt vậy. Đã chót thì phải chét". Anh ta miễn cưỡng giơ tay lên định gõ cửa.

"Anh vừa bảo gì cơ?" Gabrielle hỏi.

Anh chàng vệ sĩ rụt phắt tay lại. "Tôi bảo là lúc nãy Thượng nghị sĩ tỏ ra hài lòng vì tôi đã để cô vào. Ông ấy bảo tôi xử sự thế là đúng. Không có vấn đề gì cả".

"Anh đã cho Thượng nghị sĩ biết à?"

"Ừ. Thế thì sao?"

"Không tôi tưởng..."

"Quả là ông ấy hơi bị bất ngờ. Phải mất vài giây ông ấy mới nhớ ra là cô cũng ở trong đó. Chắc bọn họ uống khá nhiều rượu".

Im lặng một hồi lâu. "Thôi... thôi. Chẳng có gì đâu. Để lúc khác tôi hỏi Thượng nghị sĩ cũng được. Tôi gọi vào máy bàn xem thế nào đã. Biết đâu lại được. Nếu cần tôi sẽ gọi lại nhờ anh gõ cửa".

Anh chàng vệ sĩ trợn tròn mắt. "Thế cũng được, cô Ashe ạ".

"Cảm ơn Owen. Phiền anh quá".

"Không có gì". Anh ta tắt máy, lại nằm phịch xuống ghế rồi ngủ ngay.

Một mình trong văn phòng, Gabrielle đứng chết lặng mất mấy giây rồi mới tắt được máy. Sexton đã biết mình vào trong căn hộ... nhưng không nói với mình một lời.

Đêm nay, một đêm đầy biến động, trời trở nên u ám. Gabrielle nhớ lại cuộc nói chuyện điện thoại với ngài Thượng nghị sĩ lúc còn ở đài NBC ông ta làm ra vẻ không biết cô ở đó, ra vẻ tự nguyện kể hết cho cô nghe về cuộc gặp bí mật cũng như chuyện tiền bạc. Tưởng ông ta thật thà, cô đã tin ngay. Giờ đây, Gabrielle nhận ra rằng ngài ứng cử viên của mình không trung thực đến thế.

Tiền chẳng đáng bao nhiêu, Sexton đã nói với cô như thế. Hoàn toàn hợp pháp.

Đột nhiên, tất cả những điều Gabrielle nghi ngờ về Thượng nghị sĩ Sexton cùng đồng loạt quay trở lại.

Dưới đường, người lái taxi đang bấm còi inh ỏi.

Chương 103

Đài chỉ huy của tàu Goya là một căn phòng hình vuông, cao hơn boong chính hai tầng lầu. Từ đây, Rachel có thể quan sát khắp vùng biển tối sẫm xung quanh, một quang cảnh chẳng mấy hấp dẫn, tập trung vào công việc đang dở dang, cô không nhìn ra ngoài nữa.

Sau khi để Tolland và Corky đi tìm Xavia, Rachel liên lạc với Pickering. Cô đã hứa với Giám đốc là đến nơi thì sẽ gọi ngay về, vả lại lúc này Rachel cũng nóng lòng muốn hỏi xem ông đã biết thêm được gì sau khi gặp Marjorie Tench.

Hệ thống liên lạc SHINCOM 2100 của tàu Goya rất quen thuộc đối với Rachel. Cô biết những cuộc đàm thoại ngắn bằng hệ thống liên lạc số hóa này thường rất an toàn.

Quay xong số máy cá nhân của Pickering, cô đợi, áp chặt ống nghe vào tai. Rachel tưởng Pickering sẽ nghe máy ngay sau hồi chuông đầu tiên. Nhưng chuông cứ đổ mãi.

Sáu hồi. Bẩy hồi. Tám...

Rachel đăm đăm nhìn mặt biển tối sẫm, không liên lạc được với chỉ huy, cô càng cảm thấy bất an trước biển.

Chín hồi chuông. Mười hồi. Nghe máy đi sếp!

Rachel đi đi lại lại, chờ đợi. Có chuyện gì thế nhỉ? Lúc nào Pickering chả mang máy theo người, ông còn dặn Rachel gọi lại cơ mà.

Sau mười lăm hồi chuông. Rachel gác máy.

Lo lắng bồn chồn, cô quay số một lần nữa.

Bốn hồi. Năm hồi.

Sếp đâu nhỉ?

Cuối cùng thì cũng kết nối được. Rachel thấy nhẹ nhõm, nhưng chẳng được bao lâu. Không có ai trả lời máy. Hoàn toàn im lặng.

"Alô". Rachel lên tiếng. "Phải Giám đốc đó không?"

Có ba tiếng bíp vang lên.

"Alô?" Rachel nói.

Một loạt những tiếng bíp bíp vang lên ầm ĩ, nghe rất chói.

Rachel phải đưa ống nghe ra xa tai. Những tiếng bíp đột nhiên chấm dứt. Sau đó là một loạt những tiếng lách cách, mỗi tiếng cách nhau nửa giây. Rachel hiểu ra. Rồi thấy sợ.

"Chết tiệt!"

Quay về bên bàn điều khiển, cô dập mạnh ống nghe, ngắt cuộc gọi. Rachel sợ hãi đứng chết sững mất mấy giây, thầm băn khoăn không biết ngắt cuộc gọi như thế có kịp thời không.

Cách boong chỉ huy hai tầng lầu, phòng thí nghiệm của tàu Goya là một khu làm việc khá rộng được chia thành nhiều ngăn nhỏ, chứa đầy thiết bị điện tử - thiết bị quan sát đáy biển, thiết bị phân tích dòng hải lưu, các phòng kính, phòng làm lạnh mẫu vật, máy tính cá nhân, và hàng loạt khay nhựa đựng số liệu nghiên ứu và các phụ từng dự trữ.

Khi Tolland và Corky bước vào, nhà địa lý học duy nhất trên tàu Goya, Xavia đang ngồi trước tivi. Cô không quay đầu lại.

"Các anh hết tiền mua bia rồi à?" Cô nói vọng ra, tưởng mấy thủy thủ của tàu vừa quay về.

"Xavia đấy à?" Tolland lên tiếng, "Mike đây".

Nuối vội miếng bánh mì kẹp đang ăn dở, Xavia quay phắt lại. "Mike à?" Cô lắp bắp, vô cùng kinh ngạc. Đứng dậy, cô tắt tivi và tiến lại gần hai người, miệng vẫn đang nhai. "Tôi cứ tưởng mấy anh chàng vừa đi nhậu nhẹt về. Anh làm gì ở đây thế?" Xavia khá đậm người, da ngăm đen, giọng nói sắc lạnh và vẻ mặt hằm hằm khó chịu. Cô chỉ chiếc tivi đang phát lại đoạn phim tài liệu của Tolland. "Anh ở trên phiến băng không được lâu lắm nhỉ".

Có chuyện rắc rối xảy ra. Tolland nghĩ thầm. "Xavia này, tôi đoán là cô biết Corky Marlinson".

Xavia gật đầu: "Rất hân hạnh được gặp tiến sĩ".

Corky thèm thuồng nhìn mẩu bánh mì mà Xavia đang ăn dở. "Trông ngon lành ghê".

Xavia khó chịu liếc xéo nhà cổ sinh học.

"Tôi đã nghe đoạn băng cô thu sẵn cho tôi trên điện thoại". Tolland nói với Xavia. "Trong đoạn phim tài liệu của tôi có sai sót à? Cô hãy nói rõ hơn về điều đó".

Nhà địa chất học trợn tròn mắt nhìn Tolland rồi phá lên cười sằng sặc. "Chỉ vì thế mà anh phải quay về đây ngay à? Mike ơi là Mike! Tôi đã bảo anh là chi tiết đó không có gì đáng kể cơ mà. NASA đã cung cấp cho anh những dữ liệu quá lạc hậu. Nhưng không có gì trầm trọng đâu. Chắc chỉ dăm ba nhà địa chất hoc hàng đầu nhận ra được sai sót đó thôi mà".

Tolland gần như nín thở khi ông hỏi: "Có phải sai sót đó liên quan đến các chrondrule không?"

Xavia kinh ngạc đến tái mặt: "Chúa ơi! Đã có người gọi điện đến cho anh về chuyện đó rồi cơ à?"

Tolland ngồi sụp xuống. Các chrondrule. Ông hết nhìn nhà cổ sinh học rồi lại quay sang nhìn chuyên gia địa lý học: "Xavia này, hãy nói với tôi tất cả những gì cô biết về các chrondrule. Sai sót của tôi là thế nào?"

Xavia nhìn Tolland chăm chú, và cuối cùng cũng nhận ra dáng vẻ hết sức căng thẳng của ông. "Mike, thực ra chẳng có gì to tát cả. Dạo trước tôi đã đọc một báo cáo khoa học đăng trên tạp chí. Nhưng tại sao anh lại lo lắng đến mức thái quá như vậy nhỉ?"

Tolland thở dài. "Xavia này, câu chuyện này vô cùng lạ lùng, nhưng đêm nay cô càng biết ít càng tốt. Hãy nói với chúng tôi tất cả những gì cô biết về chrondrule, sau đó phân tích hộ tôi một mẫu đá".

Dường như Xavia vẫn đang tò mò không biết có chuyện gì, nhưng không hỏi gì thêm. "Được, để tôi quay về phòng lấy bài báo đó cho anh xem". Cô để miếng bánh đang ăn dở xuống ghế và nhanh nhẹn tiến ra cửa.

Corky gọi với theo: "Này, cho tôi nốt nhá!"

Xavia dừng lại, không tin vào tai mình: "Ông muốn ăn nốt cái bánh của tôi à?"

"À, nếu cô không muốn ăn nữa thì..."

"Ông tự đi lấy bánh mới mà ăn!" Xavia bỏ đi.

Tolland cười ha hả, chỉ cái tủ lạnh đặt trong góc phòng. "Ngăn dưới cùng bên trái, Corky. Cạnh túi để mực khô ấy".

Trên boong tàu, Rachel đang hối hả sải bước từ lầu chỉ huy xuống đuôi tàu, chỗ chiếc trực thăng đang đậu. Đang gà gà gật gật, người phi công ngồi thẳng dậy khi cô đập thình thình lên cửa cabin.

"Xong rồi cơ à?" Anh ta hỏi. "Sao nhanh thế?"

Rachel lắc đầu, vẻ mặt vô cùng căng thẳng: "Anh làm ơn bật hết cả radar quét trên không và trên mặt biển lên".

"Được ngay. Bán kính quan sát là mười dặm".

"Làm ơn bật ngay lên hộ tôi".

Người phi công vặn nút, gạt vài cái cần, và màn hình radar bật sáng. Ông kính quan sát bắt đầu quay chầm chậm.

"Có thấy gì không?" Rachel hỏi ngay.

Người phi công đợi đến khi ống kính đã quay kín một vòng. Chỉnh lại ống kính, rồi lại chờ. Không thấy gì hết. "Chỉ có vài con thuyền nhỏ đi lướt qua ở tít ngoài xa, nhưng đều đi ra hướng khác. Chẳng có gì hết. Cả mặt biển lẫn bầu trời đều trống không".

Rachel Sexton thở phào, dù vẫn chưa hoàn toàn yên tâm. "Tôi nhờ anh một việc. Nếu thấy bất kỳ cái gì tiến về phía chúng ta - thuyền, máy bay, bất kỳ cái gì - thì báo cho tôi ngay, được không?"

"Được! Mọi thứ vẫn ổn cả chứ?"

"Không có gì. Tôi chỉ muốn biết có ai đang tiếp cận chúng ta hay không thôi".

Người phi công nhún vai: "Tôi sẽ quan sát, thưa cô. Nếu có tiếng bíp nào thì cô sẽ là người đầu tiên được biết".

Rachel đi về phía phòng thí nghiệm, ruột gan như có lửa đốt. Đến nơi, cô thấy Tolland và Corky đang đứng trước một cái máy tính nhồm nhoàm nhai bánh mì.

Đầy miệng bánh, Corky trông thấy cô là gọi liền: "Cô muốn ăn loại nào? Xa lát gà và cá, cá bologna, hay cá và trứng nào?"

Rachel chẳng nghe thấy gì. "Mike, mất bao lâu nữa thì chúng ta xong việc và rời khỏi nơi này được?"

Chương 104

Tolland đi đi lại lại trong phòng thí nghịêm, ông cùng với Corky và Rachel đang đợi Xavia quay lại. Thông tin mới về các chrondrule cũng như những gì Rachel vừa kể lại đều rất đáng lo ngại.

Giám đốc không trả lời máy.

Có người cố tình xác định tọa độ của tàu Goya.

"Chúng ta hãy bình tĩnh". Ông nói. "Chúng ta vẫn an toàn. Người phi công cứu hộ vẫn đang quan sát bằng radar. Nếu có kẻ nào đến đây thì chúng ta sẽ được báo trước để chuẩn bị ứng phó".

Rachel gật đầu tán thưởng, dù vẫn rất lo lắng.

"Mike, cái gì đây?" Corky hỏi, tay chỉ một màn hình máy tính Sparc đầy những sinh vật lạ lùng đang chuyển động nhịp nhàng sống động.

"Thiết bị chụp ảnh mặt đáy bằng sóng siêu âm đấy". Tolland trả lời. "Dùng để quan sát mặt cắt của dòng hải lưu bên dưới đáy tàu cũng như những thay đổi nhiệt độ của đáy biển".

Rachel trợn tròn mắt: "Chúng ta đang thả neo ngay bên trên những thứ này sao?"

Tolland buộc phải thừa nhận rằng quang cảnh này quả là hơi đáng sợ. Trên mặt biển là màu xanh lục cuộn sóng, nhưng sâu dần xuống dưới đáy, nước biển chuyển sang màu đỏ cam thật đáng sợ do nhiệt độ tăng lên. Gần đáy biển là xoáy nước cuồn cuộn đỏ rực.

"Đấy chính là một megaplume đấy". Tolland giải thích.

Corky lẩm bẩm: "Trông y như một núi lửa ngầm dưới đáy biển".

"Về bản chất thì chính là nó đấy. Thông thường thì càng sâu xuống đáy đại dương, áp suất càng tăng lên, nhiệt độ càng giảm xuống. Nhưng tại đây, những điều kiện đó bị đảo ngược. Nước dưới đáy nóng và nhẹ hơn, nên nó nổi lên trên bề mặt. Trong khi đó nước trên bề mặt thì lại mát và nặng hơn, nên chìm xuống dưới để lấp vào chỗ trống đó. Đôi khi có những hiến tượng y hệt như bão nhiệt đới, nhưng ở trong lòng đại dương. Đó là những xoáy nước lớn rất mạnh".

"Cái bướu lớn sát đáy biển là gì thế?" Corky chỉ tay vào vùng đáy biển khá rơng lồi lên như nhà mái vòm, phập phồng như cái bong bóng lớn. "Tâm của dòng nước xoáy nằm ngay bên trên nó".

"Chỗ lồi lên đó là vòm nham thạch". Tolland nói. "Nham thạch phun ra từ đáy đại dương".

Corky gật gù: "Trong như cái hậu môn khổng lồ".

"Đó cũng là một cách so sánh".

"Nếu nó phun trào lên thì sao?"

Tolland nhíu mày, ông nhớ lại sự kiện magma phun trào nổi tiếng năm 1986 ở vùng biển Juan de Fuca Ridge. Hàng ngàn tấn magma ở nóng 12 ngàn độ C bỗng bị phun vọt lên tận mặt biển, và lập tức tạo ra một xoáy nước xiết khổng lồ. Các dòng hải lưu trên biển lập tức chảy mạnh do xoáy lan lên tận mặt biển với tốc độ chóng mặt. Tối nay Tolland không muốn kể cho Corky và Rachel nghe những gì xảy ra tiếp sau đó.

"Các vòm magma ở vùng biển Atlantic thường không đột ngột phun mạnh lên". Tolland nói. "Nước lạnh liên tục chảy qua miệng vòm làm nó nguội đi, và đá cứng lại, khiến cho magma bị nén chặt bên dưới lớp đá cứng. Cuối cùng cả magma cũng nguội đi nốt, và xoáy nước cũng biến mất. Các vòm magma thường không có gì nguy hiểm cả".

Corky chỉ quyển tạp chí cũ nhàu nát ai đó để ngay gần chiếc máy tính bên cạnh họ: "Thế chẳng lẽ Tạp chí Khoa học Hoa Kỳ đăng chuyện khoa học viễn tưởng hay sao?"

Tolland trông thấy trang bìa. Ông nhíu mày, chắc ai đó đã lấy cuốn tạp chí này từ tủ sách trên tàu Goya. Số xuất bản tháng Hai năm 1999. Trên bìa trước là tranh vẽ một tàu chở dầu lớn bị lọt vào giữa xoáy nước khổng lồ. Dòng tít chạy ngang qua bức tranh: VÒM MAGMA - SÁT THỦ NGẦM DƯỚI ĐÁY ĐẠI DƯƠNG?

Tolland cười lớn, rồi nói át đi: "Tình huống này thì lại khác. Bài báo đó nói về những vòm magma ở những khu vực hay có động đất cơ. Đó là một giả thuyết rất được ưa chuộng vài năm trước về tam giác quỷ Bermuda, để giải thích cho sự biến mất của tàu bè. Về mặt kỹ thuật mà nói thì nếu có động đất dưới đáy đại dương, thì vòm magma này có thể phun ra rất nhiều nham thạch, và xoáy nước có thể lớn đến nỗi... anh cũng biết rồi đấy..."

"Không, chúng tôi không hề biết gì hết". Corky nói.

Tolland nhún vai: "Nó sẽ lan đến tận mặt biển".

"Kinh quá, thật may là chúng ta đang ở trên tàu".

Xavia quay lại, tay cầm mấy tờ giấy: "Các vị đang chiêm ngưỡng đáy đại dương đấy à?"

"Vâng, đúng thế!" Corky chua chát "Mike đang giải thích với chúng tôi rằng nếu cái vòm này phun trào thì chúng ta sẽ bị dòng nước xiết hút thẳng vào tâm xoáy nước khổng lồ".

"Dòng nước xiết thôi à?" Xavia lạnh lùng chỉnh lại. "Giống bị xả xuống một cái toa lét khổng lồ thì đúng hơn".

Trên boong tàu Goya, viên phi công trên chiếc trực thăng cứu hộ đang chăm chú quan sát màn hình radar MES. Anh ta đã nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của Rachel, và cũng đang thầm cảm thấy bất an. Rõ ràng là Rachel Sexton đã tỏ ra rất lo lắng khi yêu cầu anh bật máy quét radar lên để quan sát tất cả những vị khách không mời muốn tiếp cận tàu Goya.

Cô ấy sợ ai thế không biết, anh ta băn khoăn.

Trong phạm vi mười dặm kể từ vị trí của tàu Goya, không có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào cả trên biển lẫn trên trời. Cách họ tám dặm có một con tàu đang đánh cá. Thỉnh thoảng lại có một chiếc máy bay sượt qua rìa màn hình rời mất hút phía xa.

Người phi công thở dài, đưa mắt nhìn mặt biển cuộn sóng xung quanh thân tàu. Thật kỳ quái, cứ như thế con tàu đang chạy hết tốc lực chứ không phải là đang bỏ neo nữa.

Anh lại quay sang nhìn màn hình radar, đầy cảnh giác

Chương 105

Trên tàu Goya, Tolland vừa giới thiệu Xavia với Rachel. Nhà địa chất học trên con tàu càng lúc càng cảm thấy băn khoăn về những người đang đứng trong phòng thí nghiệm lúc này. Thêm vào đó, thái độ nôn nóng muốn kết thúc công việc thật nhanh để rời khỏi con tàu của Rachel càng khiến cô thấy không thoải mái.

Cứ từ từ, Xavia, Tolland bảo cô. Chúng tôi cần phải biết mọi thứ.

Xavia bắt đầu nói, giọng chắc nịch:

"Trong đoạn phim tài liệu của mình, Mike, anh nói rằng những chrondrule chỉ có thể xuất xứ từ vũ trụ".

Tolland thấy tim thắt lại vì sợ hãi, chrondrule chỉ có thể bắt nguồn từ trong vũ trụ, NASA đã nói với mình như vậy mà.

"Nhưng theo một trong những tài liệu này", Xavia giơ cao tập giấy trên tay "thì điều đó không hoàn toàn chính xác".

Corky trợn tròn mắt. "Dĩ nhiên điều đó là chính xác!"

Xavia quắc mắt nhìn ông ta, tay vung vẩy mấy tập tài liệu.

"Năm ngoái, một nhà địa chất học trẻ tuổi ở Trường Đại học Drew đã sử dụng một loại người máy mới để tiến hành thăm dò vỏ trái đất ở vực ngầm Mariana, sau đó đưa lên được một khối đá mềm có những phần tử về thạch học cực kỳ khác thường. Nhìn bề ngoài thì rất giống các chrondrule. Anh ta đặt tên cho chúng là "những khoáng chất plagiocla thể vùi" - những túi kim loại cực nhỏ hiển nhiên là đã trở nên tái đồng đẳng khi phải chịu áp suất cực cao dưới đáy đại dương. Tiến sĩ Pollock rất kinh ngạc khi thấy những túi kim loại này trong đá đại dương, và ông đã đưa ra giả thuyết hoàn toàn mới để giải thích cho hiện tượng đó".

Corky lẩm bẩm: "Dĩ nhiên là thế chứ còn gì!"

Xavia không thèm đếm xỉa đến nhà cổ sinh học. "Tiến sĩ Pullock khẳng định rằng loại đá đó được hình thành trong môi trường biển có áp suất cực lớn. Áp suất đó khiến những tảng đá có sẵn bị biến chất, cho phép một số kim loại khác nhau trong thành phần của nó chảy ra".

Tolland trầm tư. Vực ngầm Mariana sâu tới mấy dặm, một trong những địa điểm mà hầu như chưa được giới khoa học để tâm nghiên ứu. Mới chỉ có một vài tàu thăm dò không người lái được thả xuống độ sâu đó, và chưa xuống đến đấy đã bị nát vụn. Áp suất nước trong vực ngầm đó cực lớn - ba mươi sáu ngàn pound trên một xăng ti mét vuông so với hai mươi tám pound trên mặt biển. Các nhà hải dương học vẫn còn hiểu biết rất ít về các thực chất khác nhau tồn tại ở độ sâu đó. "Tức là tiến sĩ Pullock cho rằng vực ngầm Mariana có thể tạo ra những tảng đá có các phần tử trông giống chrondrule à?"

"Lý thuyết này vẫn còn khá mơ hồ". Xavia nói. "Thực ra người ta vẫn chưa chính thức công bố lý thuyết này. Tháng trước, do tình cờ tôi đã tìm được những ghi chép cá nhân của tiến sĩ Pullock khi đang tìm tài liệu về những tương tác của đá nóng chảy để chuẩn bị cho bộ phim mới của chúng ta về vòm nham thạch. Nếu không thì tôi cũng chẳng thể nào biết được".

"Lý thuyết này chưa được công bố là vì nó quá ngớ ngẩn". Corky nói. "Phải có nhiệt lượng thì mới có được các chrondrule. Không cách gì áp suất nước lại có thể làm biến đổi những cấu trúc nội tại của đá được".

"Áp suất mới là yếu tố quan trọng nhất trong các biến đổi địa chất trên hành tinh chúng ta". Xavia phản bác. "Ông đã bao giờ nghe nói tới đá biến chất chưa? Địa lý học nói đấy".

Corky giận tím mặt.

Tolland nhận thấy Xavia có lý. Dù nhiệt năng quả thực đóng vai trò nhất định trong sự hình thành của một số loại đá biến chất trên trái đất, đa số các loại đá biến chất được hình thành dưới tác động của áp suất. Các vỉa đá sâu trong lòng trái đất chịụ áp lực lớn đến nỗi chúng tương tác với nhau như những chất lỏng sệt chứ không phải như những loại đá cứng, trở nên đàn hồi và trải qua những thay đổi về hóa học. Tuy nhiên, giả thuyết của tiến sĩ Pullock mới chỉ là suy đoán mà thôi.

"Xavia này, tôi chưa bao giờ nghe nói đến chuyện chỉ cần áp lực nước cũng đủ để làm thay đổi đặc tính hóa học của một tảng đá. Là nhà địa chất học, cô nghĩ thế nào?"

"Thực ra mà nói thì..." Xavia vừa nói vừa lật giở tập tài liệu "có vẻ như áp suất của nước không phải là yếu tố duy nhất". Cô tìm thấy trang tài liệu liên quan và đọc từng chữ một. "Vỏ trái đất ở đáy vực ngầm Mariana, ngoài lực thủy tĩnh cực lớn, còn phải chịu sức ép của các lực kiến tạo của một khu vực đang lún dần".

Dĩ nhiên rồi, Tolland thầm nghĩ. Vực ngầm Mariana, ngoài việc chịu áp lực của khối nước sâu chín dặm, còn là khu vực đang sụt lún nằm đúng trên vết đứt gãy của trái đất, nơi đĩa Pacific và đĩa Indian trôi theo hai hướng ngược nhau và đâm vào nhau. Nhiều lực ép kết hợp với nhau chắc chắn phải tạo ra áp suất rất lớn. Và bởi khu vực này rất xa xôi và nguy hiểm, nếu như các chrondrule thực sự được hình thành ở đó thì số người biết hiện tượng đó cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Xavia vẫn đang đọc tiếp. "Lực thủy tĩnh và lực kiến tạo kết hợp với nhau có thể biến vỏ trái đất ở khu vực đó chuyển sang trạng thái nửa lỏng, buộc các phần tử nhẹ hơn chảy ra biến thành các tinh thể trông giống chrondrule vốn được coi là chỉ có thể hình thành trong vũ trụ".

Corky quắc mắt: "Không thể nào!"

Tolland đưa mắt nhìn ông ta: "Liệu có thể giải thích theo cách nào khác sự hiện diện của các chrondrule trong tảng đá mà tiến sĩ Pullock đã tìm được không?"

"Dễ thôi". Corky đáp. "Pullock đã tìm thấy một tảng thiên thạch thật sự. Thiên thạch vẫn thường xuyên rơi xuống biển chứ. Pullock có thể không nghĩ đến điều đó vì sau thời gian dài, nước có thể ăn mòn mất lớp vỏ nóng chảy bên ngoài tảng đá đó. Và nhìn thoáng qua thì nó giống các loại đá thông thường khác". Ông ta quay sang nói thêm với Xavia. "Tôi cho là gã đó không đủ thông minh và tỉnh táo để kiểm tra hàm lượng nickel đâu".

"Thực ra ông ta đã làm điều đó". Xavia bác bỏ, lại một lần nữa lật lật các trang tài liệu. - "Pulllock đã viết thế này: "Tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy hàm lượng nikel trong mẫu đá rơi vào tỉ lệ trung bình không thường gặp trong các loại đá mặt đất thông thường"."

Tolland và Rachel nhìn nhau, choáng váng.

Xavia lại đọc tiếp:

"Dù hàm lượng nickel không rơi đúng vào ngưỡng trung bình đặc trưng của thiên thạch, nhưng rất sát với tỉ lệ đó".

Rachel tỏ ra rất quan tâm: "Gần đến mức nào? Liệu có thể nhầm thiên thạch với đá thường dưới lòng đại dương được không?"

Xavia lắc đầu. "Tôi không chuyên về thạch học hóa học. Nhưng tôi biết là còn có nhiều khác biệt về hóa học giữa tảng đá của Pollock và thiên thạch thứ thiệt".

"Là những khác biệt nào vậy?" Tolland hỏi ngay.

Xavia chăm chú xem những bảng biểu in trong tập tài liệu. "Theo tài liệu này thì bản thân thành phần của các chrondrule cũng khác biệt. Có vẻ như tỉ lệ titan, zirconium khác nhau. Tỉ lệ này trong mẫu đá của ông ta gần như bằng không". Cô ngước nhìn lên. "Chỉ có hai phần triệu".

"Hai phần triệu!" Corky thốt lên. "Các thiên thạch có tỉ lệ cao hơn thế hàng ngàn lần!"

"Chính xác". Xavia thừa nhận. "Vì thế cho nên Pollock mới tin rằng tảng đá mà ông ấy lấy được lên không phải là một thiên thạch".

Tolland nhoài sang hỏi Corky: "NASA có kiểm tra tỷ lệ titan, zirconium trong tảng đá ở phiến băng Milne không?"

"Dĩ nhiên... là không". Ông ta lắp bắp. "Chẳng ai làm thế làm gì. Chẳng khác nào đã nhìn rõ một cái xe hơi rồi lại còn đi lấy thước để đo lốp xe xem đấy có đúng là ô tô không!"

Tolland thở dài, quay lại hỏi Xavia: "Nếu đưa cho cô một mẫu đá thì cô có thể xác định được các chondrule của nó có bản chất thiên thạch hay chỉ là tảng đá đại dương của Pollock không?"

Xavia nhún vai: "Chắc là được. Độ phân giải của kính hiển vi điện tử chắc đủ để xác định được. Nhưng chuyện thế này nghĩa là sao?"

Tolland quay sang bảo Corky: "Đưa cho cô ấy đi".

Corky miễn cưỡng lấy mẫu đá trong túi áo ra đưa cho Xavia.

Cầm miếng đá mỏng. Xavia nhíu mày. Cô quan sát lớp vỏ bị nóng chảy và mẫu hóa thạch trong lòng mẫu đá. "Chúa ơi!" Cô thốt lên, tay giơ cao mẫu đá. "Chẳng phải mẫu này được lấy từ..."

"Đúng thế đấy". Tolland thừa nhận. "Chẳng may là đúng như thế".

Chương 106

Một mình trong văn phòng, Gabrielle Ashe đứng phân vân bên cửa sổ, không biết nên làm gì tiếp. Cách đây chưa đến một giờ đồng hồ, cô đã rời khỏi trụ sở NASA trong tâm trạng đầy háo hức muốn được báo ngay cho Thượng nghị sĩ biết về lời nói dối của Cris Harper, Giám đốc Dự án PODS.

Giờ đây, tâm trạng ấy đã tan biến.

Yolanda vừa cho cô biết rằng hai phóng viên độc lập của Đài Truyền hình ABC đang nghi ngờ rằng Sexton đã lén lút nhận tiền của SFF. Thêm vào đó, Gabrielle vừa được biết rằng Sexton thực ra đã biết chuyện cô nghe lén cuộc họp bí mật giữa ông ta và SFF tại nhà riêng, nhưng ông ta lại không hề hé răng nửa lời.

Gabrielle thở dài. Xe taxi đã bỏ đi từ lâu. Chỉ cần vài phút là gọi được ngay xe khác, nhưng Gabrielle biết rằng ngay, lúc này cô có việc phải làm.

Không lẽ mình định làm thế thật sao?

Gabrielle nhíu mày, tự nhủ không còn cách nào khác. Cô chẳng còn biết nên tin vào ai nữa.

Ra khỏi văn phòng của mình, Gabrielle bước ra hành lang để sang dãy phòng đối diện. Cuối hành lang là hai cánh cửa gỗ sồi chắc chắn, hai bên treo hai lá cờ, một bên là cờ Old Glory, đối diện với nó là cờ Delaware - phòng làm việc của Thượng nghị sĩ Sexton. Cánh cửa này, giống như ở hầu hết các phòng làm việc dành cho những Thượng nghị sĩ trong tòa nhà này, có khung bằng thép, được trang bị ổ khoá thông thường kèm theo khoá điện tử mở bằng thẻ từ thêm vào đó là hệ thống báo động.

Gabrielle biết rằng nếu cô có thể vào trong, dù chỉ trong vòng vài phút, tất cả sự thật sẽ được phơi bày. Chân vẫn bước lại gần hai cánh cửa nặng nề, nhưng Gabrielle không hề có ý định động đến hai cánh cửa kiên cố này. Cô có những dự định khác.

Còn cách phòng làm việc của Sexton mười mét, Gabrielle rẽ sang phải, vào nhà vệ sinh nữ. Đèn tự động bật sáng, ánh sáng phản chiếu từ những bức tường trắng bóng, nhà vệ sinh nữ sáng trưng. Đợi đến khi mắt đã thích nghi với ánh sáng, Gabrielle ngắm mình trong gương. Như thường lệ, vẻ mặt của Gabrielle luôn khiến cô hài lòng. Những đường nét dịu dàng. Ngược với vẻ ngoài yếu ớt Gabrielle vốn là người rất dẻo dai.

Việc này có thực sự đáng làm không?

Gabrielle biết Sexton đang nóng lòng đợi cô về để có thông tin cụ thể về PODS. Thế nhưng cô vừa mới nhận ra rằng mình đang bị ngài Thượng nghị sĩ xỏ mũi. Gabrielle Ashe không bao giờ chấp nhận được điều đó. Đêm nay, Thượng nghị sĩ tỏ ra không trung thực. Cô cần biết sự thật. Chắc chắn câu trả lời sẽ có trong văn phòng của ngài Thượng nghị sĩ - liền tường với nhà vệ sinh.

"Năm phút là xong" Gabrielle nói lên thành tiếng, hạ quyết tâm. Đến bên tủ đựng đồ thay thế trong góc nhà vệ sinh, Gabrielle lần tay lên bên trên khung cửa. Một cái chìa khóa lách cách rơi xuống nền nhà. Các nhân viên tạp vụ trong tòa nhà Philip A. Hart đều ăn lương nhà nước, và mỗi khi công đoàn tổ chức đình công thì họ đều biến mất, có đợt đến mấy tuần liền. Cánh phụ nữ trong văn phòng của Sexton, quá mệt mỏi vì chuyện đó và không muốn bị thụ động, đã tự đánh thêm một chìa khoá dự trữ để đề phòng những trường hợp "khẩn cấp".

Đêm nay là trường hợp khẩn cấp, Gabrielle tự nhủ.

Cô mở tủ.

Đằng sau cánh tủ là lỉnh kỉnh những dụng cụ chùi rửa, giẻ lau, giá đựng đồ, giấy vệ sinh. Tháng trước, trong lúc lục tìm giấy vệ sinh, Gabrielle đã tình cờ phát hiện ra. Vì không với được đến giá trên cùng, cô phải lấy cán chổi để chọc, cho một cuộn giấy rơi xuống. Nhỡ tay, cô làm rơi một mảng gỗ ép từ trên trần xuống. Trèo lên để gắn lại tấm gỗ, Gabrielle đột nhiên nghe thấy tiếng Thượng nghị sĩ Sexton đang nói chuyện.

Rõ mồn một.

Thượng nghị sĩ lúc đó đang độc thoại trong nhà tắm dành riêng cho ông. Những tấm gỗ ép tháo rời được là vật duy nhất ngăn cách phòng tắm ấy với cái tủ đựng đồ này.

Lần này, Gabrielle mở tủ không phải để lấy giấy. Cô cởi giầy trèo lên giá, dỡ bỏ tấm gỗ ép dát trần, đu người lên. An ninh quốc gia mà hớ hênh thế này đây, cô nghĩ thầm. Gabrielle sắp vi phạm không biết bao nhiêu đạo luật, cả cấp bang lẫn cấp liên bang.

Lách người qua khe hở trên trần, cô chui sang phòng tắm của Sexton, tì chân vào bồn rửa mặt, rồi tụt xuống nền. Nín thở, cô vào phòng làm việc của Sexton.

Những tấm thảm phương Đông trên sàn thật dầy, thật ấm.

Chương 107

Cách con tàu Goya ba mươi dặm, chiếc trực thăng chiến đấu Kiowa màu đen đang bay sát những cánh rừng thông ở miễn bắc Delaware. Delta-Một kiểm tra lại tọa độ mà họ vừa nhập vào hệ thống định vị.

Dù thiết bị liên lạc vô tuyến ở trên tàu mà Rachel sử dụng cũng như điện thoại cầm tay của Pickering đều sử dụng chế độ mã hoá để chống bị nghe lén, nội dung của cuộc điện thoại không phải cái mà Đội Delta quan tâm khi họ bắt được cuộc gọi của Rachel từ ngoài biển. Mục tiêu của họ là dò tìm vị trí của đối tượng. Nhờ có hệ thống định vị toàn cầu và hệ thống máy tính trên mặt đất, việc xác định tọa độ của một cuộc điện đàm đã trở lên dễ dàng hơn nhiều so với việc nghe lén nội dung của những cuộc gọi ấy.

Delta-Một luôn cảm thay thú vị về điều này. Hầu hết những người sử dụng điện thoại cầm tay đều không hề hay biết rằng mỗi khi họ bấm số để liên lạc với bất kỳ ai, Chính phủ có thể xác định vị trí của họ với sai số không đến mười foot, bất kể nơi nào trên trái đất - tiện ích này bị cấm quảng cáo. Đêm nay, đội Delta đã dò được tần số của một cú điện thoại gọi đến máy cầm tay của William Pickering, họ dễ dàng lần ra tọa độ của người gọi.

Lúc này, họ chỉ còn cách con mồi chưa đầu hai mươi dặm. "Chuẩn bị chiến thuật hình cái ô". Anh quay sang nói với Delta-Hai đang điều khiển hệ thống radar và vũ khí.

"Rõ. Sẽ bắt đầu ở khoảng cách năm dặm".

Năm dặm! Delta-Một nghĩ. Anh sẽ phải lái chiếc máy bay này vào trong tầm quan sát của hệ thống radar của đối phương rồi mới sử dụng được vũ khí. Anh đoán chắc rằng tàu Goya đang căng mắt quan sát khắp bầu trời và bởi vì nhiệm vụ của đội Delta là diệt gọn mục tiêu, không để cho họ có cơ hội kêu cứu bằng sóng vô tuyến điện, Delta-Một phải kín đáo tiếp cận mục tiêu.

Cách mục tiêu mười lăm dặm, vẫn nằm ngoài tầm quan sát của hệ thống radar trên tàu Goya, Delta-Một bất ngờ lái chiếc máy bay Kiowa lệch sang hướng tây ba lăm độ. Anh cho máy bay lên đến độ cao ba ngàn foot - độ cao thường thấy ở các máy bay hạng nhẹ - và chuyển sang tốc độ một trăm mười hải lý.

Trên con tàu Goya, thiết bị radar của trực thăng cứu hộ bờ biển kêu một tiếng bíp khi một vật thể bay xuất hiện trong bán kính mười dặm. Người phi công ngồi thẳng dậy, quan sát màn hình. Dường như đó là một chiếc máy bay vận tải hạng nhẹ đang di chuyển về phía tây.

Chắc bay đến Newark.

Nếu chiếc máy bay cứ tiến thẳng theo hướng ấy, nó sẽ tiếp cận tàu Goya ở khoảng cách bốn dặm, nhưng rõ ràng chỉ là tình cờ. Tuy nhiên, người phi công vẫn rất cảnh giác, anh chăm chú quan sát những chấm đỏ lập loè bên phải màn hình, chiếc máy bay này di chuyển khá chậm. Giờ nó chỉ còn cách con tàu của họ bốn dặm về phía tây. Chiếc máy bay vẫn bay thẳng, khoảng cách từ máy bay đến con tàu bắt đầu tăng lên.

4,1 dặm. 4,2 dặm.

Viên phi công thở phào nhẹ nhõm.

Rồi một sự kiện kỳ lạ xảy ra.

"Chiến thuật hình cái ô bắt đầu". Delta-Hai lên tiếng. Anh đang ngồi trên chiếc ghế bên cánh trái máy bay, trước mặt là bảng điều khiển vũ khí. Tiếng ồn gây nhiễu điều biến và hàng rào xung điện đã được khởi động...

Delta-Một ngay lập tức cho máy bay rẽ ngoặt sang phải, thẳng hướng con tàu Goya. Hệ thống radar trên tàu sẽ không thể nhận biết được thay đổi này.

"Sóng radar gây nhiễu đã được khởi động!" Delta-Hai hô to.

Delta-Một gật đầu. Chiến thuật gây nhiễu radar đã được một phi công người Anh đầy mưu trí nghĩ ra từ thời Thế chiến thứ Hai. Trong khi tiến hành không kích, anh ta đã cho thả những bó cỏ khô bọc giấy thiếc xuống vùng trời đối phương. Quân Đức nhìn thấy quá nhiều vật thể phản quang trên màn hình radar nên chẳng biết bắn vào cái gì. Kể từ đó đến nay, người ta liên tục cải tiến chiến thuật này.

Hệ thống gây nhiễu radar "hình cái ô" được trang bị cho máy bay Kiowa là một trong những phương tiện tác chiến điện tử tối tân nhất. Bằng cách tung ra những sóng âm thanh có biên độ dao động lớn bao trùm đối tượng, máy bay Kiowa có thể vô hiệu hoá mắt, tai, cũng như giọng nói rủa đối tượng. Vừa rồi, chắc chắn toàn bộ màn hình radar trên tàu Goya đều bị nhiễu loạn. Khi thủy thủ đoàn muốn phát tín hiệu cấp cứu, họ sẽ hoàn toàn bất lực. Tất cả mọi phương tiện liên lạc trên tàu đều sử dụng sóng điện hoặc vi sóng - không có liên lạc hữu tuyến. Khi máy bay Kiowa đến gần hơn nữa, toàn bộ hệ thống liên lạc trên tàu Goya sẽ ngừng hoạt động; một bức tường bằng sóng âm vô hình do máy bay Kiowa phát ra sẽ có tác động như chiếc đèn pha khổng lồ, mọi sóng liên lạc đều bị vô hiệu hóa...

Hoàn toàn đơn độc, Delta-Một nghĩ. Họ không thể tự vệ.

Những người này đã may mắn thoát chết trên phiến băng Milne. Điều đó sẽ không lặp lại lần nữa. Rachel Sexton và Michael Tolland đã quyết định sai lầm. Đây sẽ là sai lầm cuối cùng trong đời họ.

Trong Nhà Trắng, Zach Herney ngồi nguyên trên giường đờ đẫn, tay cầm điện thoại. "Ngay bây giờ à? Ekstrom cần nói chuyện với tôi ngay bây giờ à?" Herney liếc nhìn đồng hồ báo thức đặt cạnh giường. Ba giờ mười bảy phút sáng.

"Đúng thế, thưa Tổng thống". Nhân viên tổng đài của Nhà Trắng đáp. "Ông ấy nói là gấp lắm ạ".

Chương 108

Corky và Xavia đang chăm chú nhìn vào kính hiển vi điện tử để xác định tỉ lệ zirconium trong các chrondrule, Rachel theo Tolland sang phòng thí nghiệm nhỏ bên cạnh. Ông khởi động máy tính trong phòng. Rõ ràng là nhà hải dương học nổi tiếng muốn kiểm tra thêm chi tiết nào đó.

Trong khi đợi máy tính chuẩn bị làm việc, ông quay sang Rachel, ngập ngùng, như muốn nói điều gì, nhưng lại lặng im.

"Có chuyện gì vậy?" Rachel hỏi. Cô thầm ngạc nhiên cảm nhận được sức hút lan tỏa từ cơ thể cường tráng của ông, ngay trong những giây phút gấp gáp như lúc này. ước gì Rachel có thể quên hết tất cả mọi sự, để được ở bên Mike - dù chỉ trong giây lát.

"Tôi nợ em một lời xin lỗi". Ông nói, ánh mắt đầy vẻ nuối tiếc.

"Vì sao?"

"Về con tàu... Về cá mập đầu búa. Tôi quá sung sướng được quay về tàu. Đôi khi tôi quên mất là có những người rất sợ hãi khi phải đối mặt với biển cả".

Mặt giáp mặt Tolland, Rachel tưởng như mình trở lại thời còn là nữ sinh ngây thơ lần đầu hẹn hò với bạn trai. "Cảm ơn anh. Không sao đâu mà. Thật đấy". Dường như ông rất muốn được hôn cô.

Rồi ông ngượng ngùng quay đi. "Tôi biết em rất nóng lòng được lên bờ ngay. Chúng ta vào việc nhé".

"Vào việc thôi!" Rachel mỉm cười, nói khẽ.

"Ừ!" Tolland ngồi vào trước máy tính.

Rachel đứng sát sau lưng Tolland, tận hưởng sự yên tĩnh và ấm cúng của căn phòng nhỏ. Cô nhìn Tolland di chuyển con chuột qua một dãy file. "Chúng ta làm gì bây giờ?"

"Mở cơ sở dữ liệu để tìm con chấy đại dương khổng lồ Biết đâu chúng ta lại tìm được hóa thạch nào đó giống như trong tảng thiên thạch của NASA". Ông kích chuột vào chương trình tìm kiếm và gõ mấy chữ in hoa: PROJECT DIVERSITAS...

Vừa di con chuột dọc thanh công cụ, ông vừa giảng giải: "Diversitas là cơ sở dữ liệu liên tục được cập nhật về các loại sinh vật trong đại dương. Mỗi khi nhà hải dương học nào đó phát hiện được một loài mới, anh ta có thể báo cho các đồng nghiệp khác biệt bằng cách tải thông tin và ảnh của loài vật đó lên cơ sở dữ liệu trung tâm. Vì sau mỗi tuần lại có rất nhiều thông tin mới nên đây là cách duy nhất để khỏi bị lạc hậu".

Rachel nhìn Tolland bấm nút trên thanh công cụ. "Và bây giờ chúng ta nối mạng intemet à?"

"Không. Ở biển rất khó nối mạng intemet. Chúng tôi lưu giữ tất cả các dữ liệu cần thiết trong một loạt ổ đĩa hình ở phòng bên. Mỗi khi cập cảng thì chúng tôi lại cập nhật thông tin từ máy chủ để nhận các dữ liệu mới. Đây là cách tiếp cận dữ liệu không cần đường truyền, và thông tin của chúng tôi không bao giờ bị lạc hậu quá một tháng". Tolland vừa cười vừa gõ từ khóa vào ô tìm kiếm trên máy tính. "Chắc Rachel đã từng nghe nói tới phần mềm nghe nhạc mở tên là Napster?"

Rachel gật đầu.

"Diversita được coi là phiên bản dành cho các nhà hải dương học của Napster. Chúng tôi đặt cho nó biết hiệu là LOBSTER[1] - Cơ sở dữ liệu vô cùng lập dị của các nhà hải dương học cô đơn".

Rachel cười phá lên. Khiếu hài hước của Tolland đã đánh bạt được cảm giác lo lắng của cô trong những giờ phút căng thẳng như thế này. Rachel chợt nhận thấy cuộc sống của cô gần đây quá thiếu vắng tiếng cười.

"Đây là cơ sở dữ liệu khổng lồ". Tolland vừa nói vừa đánh những từ khóa cuối cùng vào ô tìm kiếm. "Hơn mười terabyte thông tin và hình ảnh. Nó chứa những thông tin không ai biết đến, và sẽ chẳng có ai buồn quan tâm đến. Đơn giản là các loài thủy sinh vật quá đa dạng". Ông nhấn chuột vào nút "tìm kiếm". "Rồi, để xem đã có ai thấy hóa thạch nào gần giống với mẫu hóa thạch trong tảng đá của NASA không nào".

Vài giây sau, màn hình chuyển, một danh sách có bốn mục hóa thạch hiện lên. Tolland lần lượt kích chuột vào từng mẫu hóa thạch và xem xét. Không mẫu hóa thạch nào có bất cứ nét nào tương đồng với con chấy hóa thạch khổng lồ trong tảng thiên thạch trên phiến băng Milne.

Tolland nhíu mày. "Thử cách khác xem nào". Ông xóa bỏ từ hóa thạch trong chuỗi từ khóa rồi nhấn vào nút "tìm kiếm". "Chúng ta tìm các sinh vật đang sống vậy. Biết đâu mợt loài đang sống nào đó có những đặc điểm gần giống hóa thạch trong tảng đá của NASA".

Màn hình lại chuyển lần nữa.

Tolland lại nhíu mày. Lần này hàng trăm đề mục hiện lên trên màn hình. Ông ngồi im lặng giây lát, tay gãi gãi cái cằm lởm chởm râu. "Nhiều quá, phải giới hạn bớt lại xem".

Rachel quan sát Tolland kích vào một thanh công cụ nằm dọc có tên là "môi trường sống". Số lượng đề mục để chọn quả là khổng lồ: Vùng thủy triều, đầm, phá, vùng có đá ngầm, núi ngầm trong lòng đại dương, vùng có mạch phun sulfur. Tolland di chuột xuống tít bên dưới và chọn dề mục NHỮNG KHE SÂU ÍT SỰ SỐNG, VỰC SÂU ĐẠI DƯƠNG.

Rất sáng suốt, Rachel thầm nhận xét. Tolland đang giới hạn phạm vi tìm kiếm vào những khu vực mà họ cho rằng có thể hình thành các chrondrule.

Màn hình chuyển. Lần này Tolland mỉm cười hài lòng. "Tốt lắm, chỉ còn ba đề mục".

Rachel nhìn cái tên đầu tiên trên màn hình. Limulus poly... lạ hoắc.

Tolland nhấn chuột vào đó. Một bức ảnh hiện ra. Con vật này trông giống loài của móng ngựa khổng lồ nhưng không có đuôi.

"Không phải". Tolland nói, rồi quay về trang trước.

Rachel nhìn cái tên thứ hai trên danh sách. Tômus Machêus Quỷhờnus. Thật khó hiểu. "Đây có phải là tên thật không?"

Tolland cười phá lên. "Không đâu. Đây là một loài mới và chưa được phân loại. Anh chàng nào phát hiện ra nó quả là có óc hài hước. Anh ta đề nghị cho con vật này cái tên chính thức là Tômus Machêus Quỷhờnus". Ông nhấn chuột vào đề mục, hiện ra hình ảnh một chú tôm xấu xí có râu và những cái ăng ten phát sáng.

"Cái tên quả là thích hợp", Tolland nhận xét "nhưng không giống con bọ vũ trụ mà chúng ta đang tìm". Ông quay lại trang đầu. "Cơ hội cuối cùng của chúng ta là..." Ông kích chuột vào cái tên thứ ba, và trang tài liệu được mở ra.

"Bathynomous giganteus..." Tolland đọc to cái tên của nó, khi từng dòng chữ lần lượt hiện lên. Một bức ảnh được tải xuống. Ảnh màu, chụp cận cảnh.

Rachel nhảy dựng lên. "Lạy Chúa tôi!" Con vật như đang nhìn thẳng vào cô, khiến Rachel thấy ớn lạnh.

Tolland hít một hơi thật dài: "Trời đất ơi, anh chàng này trông giống quá chừng".

Rachel gật đầu, không thốt nên lời. Bathynomous giganteus. Giống y chang một con chấy biết bơi khổng lồ. Rất giống mẫu hóa thạch trong tảng thiên thạch của NASA.

"Có vài khác biệt không đáng kể" Tolland nói, ông di chuột qua một vài tiêu bản giải phẫu học và bảng số liệu. "Giống nhau kinh khủng, đặc biệt là nếu nghĩ rằng loài vật này đã tiến hóa qua một trăm chín mươi triệu năm".

Giống lắm, Rachel thầm nghĩ, quá giống.

Tolland đọc to những miêu tả hiện trên màn hình: "Được cho là một trong những loài cổ xưa nhất trong đại dương. Đây là một loài hiếm gặp và mới được xếp loại. Bathynomous giganteus là một loài đẳng tức ăn xác thối hiếm gặp ở đại đường. Có chiều dài tới hơn nửa mét, loài này có lớp vỏ kitin che phủ khắp đầu, ức, và bụng. Chúng có hai phần phụ, ăng ten, và mắt hỗn hợp giống các loài côn trùng trên mặt đất. Loài sinh vật đáy biển này không bị bất kỳ loài nào khác ăn thịt và sống ở những vùng có môi trường cằn cỗi mà cho đến gần đây chúng ta vẫn tưởng là không có sự sống". Tolland ngước mắt lên. "Chi tiết này giải thích vì sao trong tảng đá đó không có bất kỳ mẫu hóa thạch nào khác!"

Rachel chăm chăm nhìn con bọ trên màn hình, vừa phấn chấn, vừa không biết nên hiểu tất cả mọi sự như thế nào cho phải.

"Thử tưởng tượng xem". Tolland hào hứng nói "Cách đây một trăm chín mươi triệu năm, một ổ Bathunomous bị chôn sâu trong một túi bùn dưới đáy đại dương. Và khi túi bùn ấy bị thạch hoá, những con bọ này trở thành hóa thạch! Trong suốt thời gian đó, đáy đại dương luôn luôn biến đổi do các đĩa kiến tạo di chuyển. Vì vậy, tảng đá này bị chuyển đến một vùng có áp suất cực lớn, và các chrondrule hình thành!" Những lời nói của Tolland mỗi lúc một gấp gáp. "Và nếu một phần của tảng đá ấy vỡ ra, - rồi trôi dạt đến một khe sâu không quá khó tiếp cận dưới đáy đại dương, nó sẽ được phát hiện!"

"Nhưng nếu NASA.." Rachel lắp bắp. "ý em là nếu đây là một sự lừa dối, NASA phải biết là sớm muộn gì cũng sẽ có người tình cờ phát hiện ra sự giống nhau giữa các hóa thạch và loài sinh vật đại dương này, đúng thế không nào? Y như cách chúng ta vừa tìm ra đấy".

Tolland bắt đầu in bức ảnh chụp Bathynomous. "Chẳng biết nữa. Nếu có người vô tình phát hiện ra những điểm giống nhau giữa những mẫu hóa thạch và loài chấy biển này đi nữa thì đặc điểm sinh học của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau. Điều đó càng có lợi cho NASA".

Rachel chợt hiểu ra. "Thuyết tha sinh". Cuộc sống trên Trái đất bắt nguồn từ trong vũ trụ.

"Chính xác. Những nét tương đồng giữa một sinh vật của trái đất vả một sinh vật từ vũ trụ sẽ mang ý nghĩa khoa học rất lớn. Loài chấy biển này sẽ càng có lợi cho NASA".

"Trừ trường hợp người ta nghi ngờ về tính xác thực của tảng thiên thạch".

Tolland gật đầu. "Một khi đặt vấn đề nghi ngờ về tảng thiên thạch thì mọi chi tiết sẽ sụp đổ hết. Loài chấy biển này sẽ không còn là phao cứu hộ của NASA nữa, nó sẽ thành một cái thòng lọng".

Rachel đứng im trong khi bức ảnh của loài Bathunomous từ trong máy in từ từ chạy ra. Cô cố thuyết phục mình rằng đây chỉ là một sai sót trung thực của NASA mà thôi, nhưng thâm tâm cô vẫn quả quyết rằng không phải vậy. Những người mắc phải sai lầm một cách trung thực không bao giờ ra tay giết người.

Đột nhiên nghe thấy giọng nói léo nhéo của Corky từ phòng thí nghiệm bên cạnh. "Không thể nào!"

Cả Tolland lẫn Rachel cùng lúc đều quay sang...

"Đo lại cái tỉ lệ chết tiệt này lần nữa đi! Không thể có chuyện đó!"

Xavia hối hả bước ra khỏi phòng, tay cầm tờ giấy vừa rút ra từ máy in, mặt tái mét. "Mike này, tôi cũng không biết phải nói thế nào nữa..." Xavia lạc giọng: "Tỉ lệ titan, zirconium mà chúng tôi đo được ở mẫu đá này..." cô hắng giọng "chắc chắn là NASA đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Đây chỉ là tảng đá có xuất xứ từ đại dương thôi".

Tolland và Rachel nhìn nhau, không ai nói được câu gì. Họ biết. Bao nhiêu hồ nghi, ngờ vực lúc này đều đã được chứng minh rõ ràng.

Tolland gật đầu, ánh mắt buồn bã. "Vâng, cảm ơn cô, Xavia".

"Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả". Xavia nói. "Còn lớp vỏ bị cháy xém, còn vị trí của nó trong lòng băng hà..."

"Trên đường vào đất liền chúng tôi sẽ giải thích". Tolland nói. "Đi thôi".

Rachel nhanh chóng vơ lấy tất cả những gì có thể dùng làm bằng chứng. Những bằng chứng này vô cùng hiển nhiên: ảnh chụp cắt lớp vết khoan bên dưới phiến băng Milne, ảnh chụp một loài sinh vật biển rất giống hóa thạch trong tảng đá, bài báo về sự hình thành các chrondrule trong môi trường đại dương của tiến sĩ Pollock, và kết quả quan sát trên kính hiển vi điện tử cho thấy tỉ lệ ti tan/ zirconium.

Không thể có kết luận nào khác. Lừa dối.

Tolland nhìn tập giấy trong tay Rachel và thở dài buồn bã "Lần này thì William Pickering có bằng chứng rồi".

Rachel gật đầu, lại một lần nữa băn khoăn vì sao Giám đốc của cô không trả lời máy.

Tolland nhấc máy điện thoại đặt trong phòng, chìa cho Rachel. "Hay thử gọi cho ông ấy lần nữa?"

"Thôi chúng ta lên đường ngay đi. Chúng ta gọi từ trên máy bay cũng được". Rachel đã quyết định sẽ bay thẳng về NRO nếu cô không thể gọi cho Giám đốc từ trên máy bay cứu hộ bờ biển. NRO chỉ cách họ có 180 dặm.

Tolland đang định gác máy, bỗng dừng phắt lại. Ông nhíu mày, áp sát ống nghe vào tai, vẻ ngạc nhiên. "Kỳ quặc. Không thấy có tín hiệu gì cả".

"Anh nói cái gì cơ?" Rachel lo lắng, hỏi.

"Lạ thật". Tolland nói. "Sóng liên lạc trực tiếp COMSAT có bao giờ bị mất thế này đâu".

"Anh Tolland ơi!" Người phi công lao xong xộc vào phòng thí nghiệm, mặt tái xám.

"Có chuyện gì thế?" Rachel hỏi. "Có người đến đây à?"

"Chắc là thế". Anh ta trả lời. "Tôi chả hiểu gì cả. Đột nhiên toàn bộ hệ thống radar bị mất tín hiệu".

Rachel nhét mớ giấy thật sâu vào trong áo khoác. "Lên máy bay! Chúng ta phải đi ngay. NGAY LẬP TỨC".

--------------------------------------------------------------------------------

[1] LOBSTER - Lonely Oceanic Biologist Sharing Totally Eccentric Research

Chương 109

Dò từng bước trong văn phòng tối sẫm của Thượng nghị sĩ Sexton, tim Gabrielle đập thình thịch. Căn phòng thật rộng rãi và sang trọng tường ốp gỗ, những bức tranh sơn dầu, những tấm thảm Ba Tư, những chiếc ghế bọc da, và chiếc bàn gỗ gụ bóng lộn. Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng là những tia sáng màu tím sẫm tỏa ra từ màn hình máy tính của Sexton.

Gabrielle đến bên bàn làm việc.

Thượng nghị sĩ Sexton say sưa mô hình "văn phòng số hóa" đến mức điên khùng. Ông luôn tránh những chồng hồ sơ dày cộp, và ưa thích sự gọn gàng, tiện dụng của chiếc máy tính cá nhân. Trong chiếc máy tính này là vô vàn thông tin - biên bản các cuộc họp, những tài liệu đã được đưa vào máy quét, những bài phát biểu, những ghi chú cá nhân... Máy tính của Thượng nghị sĩ Sexton chính là mảnh đất thiêng của riêng ông, và vì thế lúc nào ông cũng khóa cửa văn phòng rất cẩn thận để bảo vệ chiếc máy tính này. Thậm chí ông còn từ chối sử dụng intemet vì sợ tin tặc đột nhập vào chiếc máy thiêng liêng của mình.

Chỉ cần cách đây một năm thôi, Gabrielle sẽ nhất định không chịu tin rằng các chính trị gia lại ngu si đến mức lưu trữ tất cả những tài liệu có thể bị sử dụng để buộc tội họ, nhưng Washington đã dạy cô rất nhiều điều. Thông tin chính là quyền lực. Gabrielle đã rất kinh ngạc khi biết rằng tất cả những chính trị gia nhận tiền hiến tặng bất hợp pháp đều giữ lại những tài liệu làm bằng chứng cho các khoản tiền ấy - thư từ, hóa đơn ngân hàng, biên lai... - thảy đều được cất ở nơi kín đáo và an toàn. Chiến thuật chống tống tiền này có tên tục là "bảo hiểm kiểu anh em sinh đôi người Xiêm"; nó có tác dụng bảo vệ chính trị gia trước những người có ý nghĩ rằng những khoản tiền hiến tặng hào phóng của họ là vật bảo đảm cho những áp lực mà họ có quyền tạo ra đối với các chính trị gia. Nếu bị ép quá, chính trị gia chỉ cần lôi bằng chứng ra để cho đối tác biết rằng cả hai bên đều vi phạm luật pháp. Bằng chứng ấy sẽ khiến cho cả chính trị gia lẫn đối tác của mình bị dính chặt vào nhau từ ngang hông trở lên - như hai anh em sinh đôi dính nhau người Xiêm La nọ trong tiểu thuyết của Mark Twain.

Gabrielle ngồi xuống bên bàn làm việc của ngài Thượng nghị sĩ. Cô nhìn chiếc máy, hít thật sâu. Nếu Thượng nghị sĩ nhận tiền của SFF, tất cả bằng chứng sẽ nằm hết trong chiếc máy tính này...

Ảnh chờ trên máy tính của Thượng nghị sĩ là cảnh Nhà Trắng và mặt tiền của nó do một nhân viên vốn luôn lạc quan của ông thiết kế cho ông. Xung quanh bức ảnh là tấm biểu ngữ rất dài với dòng chữ:

"Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton... Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton..., Tổng thống Hoa..."

Gabrielle chạm nhẹ tay vào con chuột, một hàng chữ hiện lên.

HÃY NHẬP MẬT KHẨU:

Gabrielle không hề thấy bất ngờ. Chẳng có gì khó khăn. Tuần trước, cô bước vào phòng đúng lúc Thượng nghị sĩ vừa ngồi xuống và đang nhập mật khẩu vào máy. Cô thấy ông bấm rất nhanh ba ký tự.

"Thế mà cũng đòi là mật khẩu sao, thưa Thượng nghị sĩ?" Cô vừa bước vào vừa nói.

Sexton ngước lên. "Gì cơ?"

"Thế mà ai cũng tưởng Thượng nghị sĩ rất quan tâm đến vấn đề bảo mật cơ đấy". Cô mắng yêu. "Mật khẩu gì mà chỉ có mỗi ba ký tự. Các chuyên gia máy tính vẫn khuyến cáo mọi người phải dùng ít nhất sáu ký tự cơ".

"Chuyên gia máy tính rặt một lũ trẻ ranh. Làm sao mấy anh chàng đó hiểu được rằng đã qua tuổi bốn mươi thì chẳng ai nhớ được sáu ký tự ngẫu nhiên cả. Cửa phòng này đã có hệ thống báo động rồi. Chẳng ai vào được đây".

Gabrielle tươi cười đến bên ông: "Thế nhỡ có người lẻn vào lúc Thượng nghị sĩ đang ở nhà vệ sinh thì sao?"

"Phải mò tất cả các ký tự đã". Ông cười lớn. "Tôi thường ở trong đó lâu, nhưng không lâu đến mức ấy đâu".

"Cá một bữa tối ở nhà hàng Davide là em có thể lần ra mật khẩu của ông trong vòng mười giây".

Sexton trở nên tò mò đầy thú vị: "Cô không đủ tiền trả cho nhà hàng Davide đâu, Gabrielle ạ".

"Tức là ông sợ không dám cá chứ gì ạ?"

Sexton nhận lời gần như không giấu nổi vẻ thương hại đối yới Gabrielle. "Mười giây à?" Ông thoát ra khỏi chương trình đang chạy và ra hiệu bảo Gabrielle ngồi xuống ghế. "Cô nên biết là mỗi khi đến Davide tôi chỉ gọi mỗi món saltimbocca thôi đấy. Và món ấy không rẻ chút nào đâu".

Gabrielle ngồi xuống, nhún vai nói: "Ông sẽ phải tự trả tiền thôi mà".

NHẬP MẬT KHẨU:

"Mười giây". Sexton nhắc lại.

Gabrielle không nhịn được cười. Cô chỉ cần không quá hai giây. Từ tận ngoài cửa đã thấy là ông gõ ba ký tự rất nhanh bằng ngón tay trỏ. Rõ ràng là cùng một nút ký tự. Chẳng khôn ngoan chút nào. Cô cũng đã thấy là tay ông hướng về phía bên trái bàn phím - có nghĩa là chỉ còn lại khoảng chín mười phím ký tự mà thôi. Và việc chọn ký tự cũng chẳng có gì khó khăn - Thượng nghị sĩ vốn rất ưa thích điệp âm Sexton trong cái tên của mình. Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.

Đừng bao giờ đánh giá thấp một chính trị gia.

Cô gõ ba chữ SSS, và màn hình chờ biến mất.

Sexton há hốc miệng..

Đó là chuyện từ tuần trước. Lúc này Gabrielle lại đang ngồi trước máy tính, cô tin rằng Thượng nghị sĩ chưa có thời gian để thay mật khẩu khác. Cần gì phải thế? Ông ấy hoàn toàn tin tưởng ở mình cơ mà.

Cô gõ ba chữ SSS

MẬT KHẨU KHÔNG CHÍNH XÁC - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI

Gabrielle sững sờ.

Rõ ràng là cô đã đánh giá quá mức sự tin tưởng của Thượng nghị sĩ đối với mình.

Chương 110

Hoàn toàn bất ngờ, họ bị tấn công. Từ phía tây nam con tàu, bóng ma đen trùi trũi đầy chết chóc của chiếc trực thăng hiện ra. Rachel không thể hiểu nổi nó là cái gì, và vì sao lại có mặt ở nơi này.

Trong bóng tối bao trùm, một loạt đạn xả từ mũi máy bay xuống, lia khắp từ mũi tới tận đuôi tàu. Không kịp tìm chỗ trú ẩn ngay. Rachel bị một quả đạn sượt qua cánh tay. Cô ngã dúi xuống sàn gỗ, rồi co người, lết đến nấp sau chiếc tàu ngầm Triton có mái vòm bằng kính.

Tiếng cánh quạt kêu rú lên inh tai khi chiếc máy bay trực thăng lao vụt qua thân tàu, sau đó đột ngột im hẳn đi khi nó lao ra biển để chuẩn bị lộn trở lại lần thứ hai.

Run rẩy, nằm sau chiếc tàu ngầm mini, Rachel vừa ôm cánh tay vừa quay lại nhìn Tolland và Corky. Cả hai đã kịp nấp sau kho chứa đồ, giờ vừa mới đứng dậy, đang hoảng hốt quan sát bầu trời Rachel đứng dậy. Quang cảnh quanh cô giờ y như một bộ phim vừa bất ngờ chuyển sang chế độ chiếu chậm.

Lom khom sau mái vòm trong suốt của chiếc tàu ngầm nhỏ, Rachel quan sát phương tiện thoát thân duy nhất của cả nhóm - chiếc trực thăng cứu hộ bờ biển. Xavia đã leo được lên đến cabin máy bay, và đang rối rít vẫy họ lên. Rachel thấy rõ viên phi công đang lom khom trong buồng lái, ấn nút, gạt cần, vặn núm. Cánh quạt máy bay bắt đầu quay... chậm chưa từng thấy.

Quá chậm.

Nhanh lên!

Rachel giờ đã đứng thẳng dậy và chuẩn bị chạy. Cô băn khoăn không biết mình có kịp băng qua boong tàu trước khi chiếc máy bay đen kia quay lại lần nữa không. Cô nghe tiếng chân của Tolland và Corky đang chạy về phía mình, về phía chiếc trực thăng đang đợi sẵn. Phải rồi. Nhanh lên!

Rồi cô trông thấy...

Cách họ khoảng một trăm mét, từ trên trời cao, một chùm tia laze sáng đỏ nhỏ bằng cây bút chì xuất hiện giữa bóng đêm mịt mùng. Chùm tia ấy quét dọc thân tàu. Rồi tìm thấy mục tiêu nó dừng lại ở sườn chiếc máy bay phản lực cứu hộ bờ biển đang đợi họ.

Chỉ trong tíc tắc, Rachel hiểu ngay mình vừa nhìn thấy gì.

Trong giây phút ấy, tất cả những gì đang diễn ra trên boong tàu Goya dường như hòa thành một mớ hỗn loạn những âm thanh và hình ảnh. Tolland và Corky đang cố sức lao thật nhanh về phía cô Xavia ra sức vẫy họ lên máy bay - chùm tia sáng màu đỏ rực xuyên thủng màn đêm.

Quá muộn mất rồi.

Rachel lao như tên bắn về phía hai người đàn ông đang ra sức chạy thật nhanh về phía chiếc phi cơ. Cô chặn đường họ, dang hai tay thật rộng để ngăn cả hai lại. Cả ba người lao vào nhau đánh sầm, cùng ngã nhào như một toa tàu vừa trệch khỏi đường ray, mằm chồng chất lên nhau.

Phía xa, một luồng sáng trắng cực mạnh loé lên. Rachel kinh hãi rụng rời thấy luồng khí xả phụt ra theo đúng đường thắng mà chùm tia laze kia vừa vạch sẵn về phía chiếc máy bay đang đậu trên boong tàu.

Khi quả tên lửa Hellfire lao đúng vào thùng chứa nhiên liệu của nó, chiếc trực thăng nổ tung thành từng mảnh, y như một món đồ chơi. Luồng hơi nóng và tiếng động tràn khắp boong tàu, vỏ đạn rơi như mưa. Chiếc máy bay ngùn ngụt lửa lắc lư trên cái đuôi đã vỡ tan tròng trành trong giây lát rồi nhào khỏi boong tàu rơi đánh ầm xuống biển, cả một đám mây lớn những hơi nước vụt bay lên.

Rachel nhắm mắt lại, cảm thấy hụt hơi. Cô nghe rõ mồn một tiếng xèo xèo, ùng ục khi chiếc máy bay đang rừng rực lửa chìm xuống nước, rồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi. Trong tất cả những hỗn độn ấy, cô nghe tiếng Michael Tolland đang la hét. Cánh tay rắn chắc của ông vừa túm lấy vai cô, kéo Rachel đứng dậy. Nhưng Rachel không thể cử động.

Người phi công cứu hộ bờ biển và Xavia đã chết.

Tiếp đến sẽ là chúng ta.

Chương 111

Trên phiến băng Milne, trời đã yên, bán sinh quyển đã yên tĩnh trở lại Nhưng Giám đốc NASA, Lawrence Ekstrom, không có ý định lên giường đi ngủ. Ông đã đi đi lại lại trong căn nhà mái vòm suốt mấy giờ đồng hồ, rồi chăm chú nhìn lỗ thủng mà tảng đá để lại trên mặt băng, rồi lại vuốt về lớp vỏ cháy xém của tảng đá.

Cuối cùng, ông đi đến quyết định.

Giờ đây, ngồi trong phòng thông tin liên lạc PSC, ông đang nhìn thẳng vào cặp mắt ngái ngủ của Tổng thống Zach Herney. Vị Tổng thống Hoa Kỳ vẫn mặc nguyên quần áo ngủ và có vẻ chẳng lấy gì làm dễ chịu. Ekstrom biết, sau khi đã biết hết sự thật thì Tổng thống sẽ không thể cảm thấy dễ chịu một chút nào hết.

Sau khi Ekstrom nói xong, Tổng thống tỏ vẻ khó chịu như thể ông đang nghĩ rằng mình quá buồn ngủ nên chưa hiểu đúng những lời vừa nghe thấy.

"Gượm đã nào". Herney nói. "Tôi vẫn chưa hiểu ra thế nào hết. Có phải anh vừa bảo là các anh tình cờ biết được tọa độ của tảng thiên thạch do bắt được tín hiệu cấp cứu bằng làn sóng điện - rồi sau đó giả vờ là PODS đã phát hiện ra nó à?"

Ekstrom không nói gì, im lặng trong bóng tối, ông cố không để cho cơn ác mộng này nhấn chìm bản thân mình.

Rõ ràng là Tổng thống không thích sự im lặng đó chút nào. "Trước Chúa, Larry, anh hãy nói với tôi rằng tất cả những điều này đều không phải là sự thật!"

Ekstrom thấy miệng đắng ngắt. "Tảng thiên thạch đã được tìm thấy thưa Tổng thống. Đó mới là điều quan trọng nhất".

"Tôi đã bảo anh hãy nói với tôi rằng tất cả không phải là sự thật cơ mà!"

Hai tai Ekstrom như ù đi. Mình cần phải cho Tổng thống biết tất cả, ông tự nhủ. Khó khăn một chút nhưng rồi mọi cái sẽ qua thôi mà. "Thưa Tổng thống, thất bại của dự án PODS đã khiến uy tín của Tổng thống bị sa sút nghiêm trọng. Khi bắt được lời kêu cứu bằừng sóng radio có nhắc đến tảng thiên thạch trong lòng băng hà, chứng tôi cho rằng đây là cơ hội để giúp Tổng thống giành lại điểm".

Herney choáng váng: "Bằng cách giả mạo thành công của PODS ư?"

"PODS sẽ nhanh chóng được khắc phục và sẽ hoạt động tốt, nhưng không kịp cho cuộc bầu cử lần này. Tổng thống đang mất điểm từng ngày, và Sexton thì không ngớt chỉ trích NASA, cho nên.."

"Anh mất trí hẳn rồi, Larry?"

"Cơ hội sờ sờ ngay trước mắt, thưa Tổng thống. Và tôi đã quyết định chớp lấy nó. Chúng tôi bắt được làn sóng điện do một nhà khoa học Canada phát đi sau khi phát hiện ra tảng thiên thạch. Ông ấy đã chết vì gặp bão. Không một người nào khác biệt gì về tảng thiên thạch đó. Mà PODS thì lại đang bay trong quỹ đạo. NASA đang cần một chiến thắng, chúng tôi lại sẵn có tọa độ trong tay".

"Tại sao lúc này anh lại nói với tôi tất cả những thứ đó?"

"Tôi cho rằng anh nên biết sự thật".

"Anh có biết Sexton sẽ làm những gì khi phát hiện ra điều này không?"

Ekstrom không muốn nghĩ đến khả năng đó.

"Ông ta sẽ lu loa với cả thế giới là Tổng thống và NASA đã lừa dối dân Mỹ. Mà anh cũng thừa biết là ông ta đúng chứ không sai đâu".

"Tổng thống không nói dối, chỉ là tôi thôi. Tôi sẽ nhận tất cả về mình..."

"Larry, anh quên mất một điều quan trọng! Tôi quyết tiến hành tranh cử một cách trung thực và tích cực! Chả ra cái gì cả! Tối qua thật sạch sẽ. Vẻ vang. Thế mà bây giờ anh cho tôi biết là tôi vừa nói dối cả thế giới!"

"Chỉ một chi tiết nhỏ thôi, thưa Tổng thống".

"Vẫn là nói dối cả thôi! Larry ạ". Herney nóng nảy nói.

Ekstrom cảm thấy căn phòng chợt ngột ngạt và tù tứng vô cùng. Còn rất nhiều điều ông muốn báo cáo với Tổng thống, nhưng có lẽ phải đợi đến sáng mai. "Xin lỗi đã đánh thức Tổng thống dậy. Tôi chỉ nghĩ là nên nói hết sự thật với anh".

Ở phía bên kia thành phố, Sedgewich Sexton nhấp một tợp rượu cô nhắc nữa và cáu kỉnh đi đi lại lại trong phòng.

Gabrielle đi đâu rồi không biết!

Chương 112

Trong văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton, Gabrielle Ashe đang ngồi trong bóng tối, chán nản nhìn chiếc máy tính trước mặt.

MẬT KHẨU KHÔNG ĐÚNG - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI

Cô đã thử một số chùm ký tự khác nhau, nhưng lần nào cũng không được. Sau khi lục khắp văn phòng để tìm một ngăn kéo nào đó mà Thượng nghị sĩ bỏ quên không khoá, hay bất kỳ một manh mối nào để dò tìm, Gabrielle đành bỏ cuộc. Đang chuẩn bị ra về thì Gabrielle chợt trông thấy một cái gì đó lấp lánh trên lịch bàn của Thượng nghị sĩ. Có người đã dùng bút bóng màu xanh, đỏ, vàng để đánh dấu ngày bầu cử Tổng thống. Dĩ nhiên Thượng nghị sĩ không bao giờ làm thế. Gabrielle với lấy quyển lịch. Những chữ cái POTUS được viết bằng mực bóng đè lên con số của ngày hôm ấy!

Chắc chắn cô thư ký luôn lạc quan của Sexton đã viết những chữ này. Bên mật vụ vẫn thường dùng chữ viết tắt POTUS để chỉ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Vào ngày bầu cử, nếu mọi sự diễn ra suôn sẻ, Sexton sẽ trở thành POTUS mới...

Gabrielle để lại cuốn lịch vào chỗ cũ và đứng lên, định ra về.

Cô đột ngột dừng lại, liếc nhìn màn hình máy tính.

NHẬP MẬT KHẨU:

Cô lại nhìn cuốn lịch.

POTUS.

Gabrielle chợt tràn đầy hy vọng. Rất có thể Sexton dùng POTUS làm mật khẩu. Đơn giản, lạc quan, và liên quan đến cá nhân.

Cô gõ những ký tự ấy.

POTUS

Nín thở, Gabrielle ấn nút enter. Một tiếng bíp vang lên.

MẬT KHẨU KHÔNG ĐÚNG - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI

Gabrielle ngồi sụp xuống ghế, quyết định bỏ cuộc. Cô quay lại nhà tắm để trèo ra khỏi văn phòng. Nhưng vừa đi được vài bước thì điện thoại cầm tay của cô đổ chuông. Đang trong tâm trạng căng thẳng, Gabrielle giật nảy mình. Cô dừng phắt lại ngước lên chiếc đồng hồ Jordain lớn treo trên tường để xem giờ, tay rút điện thoại trong túi ra. Gần bốn giờ sáng. Giờ này chắc chắn chỉ có một người gọi cho cô mà thôi - Sexton. Chắc chắn Thượng nghị sĩ đang băn khoăn không hiểu cô biến đi đâu lâu như vậy. Có nên trả lời máy không nhỉ? Nếu trả lời máy thì Gabrielle sẽ phải nói dối. Nhưng nếu không trả lời thì chắc chắn Sexton sẽ nghi ngờ.

Cô nhận cuộc gọi: "A lô?"

"Gabrielle đấy à?" Sexton tỏ ra rất sốt ruột. "Sao lâu thế?"

"Em bị mắc kẹt ở đài tưởng niệm FDR". Gabrielle trả lời. "Và bây giờ đang..."

"Rõ ràng là cô không ở trong taxi".

"Không ạ". Cô đáp. "Tiện thế em đã ghé qua văn phòng để lấy thêm một số tài liệu về NASA có liên quan đến dự án PODS. Nhưng vẫn chưa tìm được".

"Nhanh nhanh lên. Tôi muốn tổ chức họp báo ngay đầu giờ sáng, và phải có con số cụ thể".

"Em đến ngay đây ạ".

Đường dây đột ngột im lặng. "Cô đang ở trong văn phòng à?"

Hình như Sexton đột ngột thấy khó hiểu.

"Vâng ạ. Mười phút nữa em sẽ lên đường ngay ạ".

Đường dây lại im lặng một lúc. "Tốt lắm. Lát nữa gặp lại nhé".

Gabrielle tắt máy, sơ suất không để ý thấy những tiếng tích tắc ba hồi một rất đặc trưng đang đều đều phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường Jordain ngay trước mặt.

Chương 113

Mãi đến khi kéo cô vào nấp phía sau chiếc tàu ngầm mini Triton và nhìn thấy vệt máu trên cánh tay Rachel thì Tolland mới biết cô đã bị thương. Nhìn ánh mắt thất thần của Rachel, ông đoán ngay rằng cô chưa hề cảm thấy đau. Đặt cô yên ổn sau chiếc tàu, ông quay sang tìm Corky. Nhà vũ trụ học đang hối hả chạy băng qua boong tàu, mắt dại đi vì sợ hãi.

Phải tìm chỗ ẩn nấp. Tolland nghĩ. Bận bịu lo đối phó với những diễn biến quá nhanh, ông chẳng còn thời gian để cảm thấy sợ hãi. Theo bản năng, Tolland đưa mắt nhìn những bậc thang dẫn lên cao. Cầu thang trơ trọi chạy thẳng lên đài quan sát bằng kính trong suốt quá trống trảỉ. Đi lên đó thì chẳng khác nào tự sát. Chỉ còn lại một hướng đi duy nhất.

Ngay lập tức, ông quay sang nhìn chiếc tàu ngầm mini Triton, thầm hi vọng biết đâu nó có thể đưa cả ba người xuống dưới nước, thoát khỏi làn đạn từ chiếc máy bay đen sì chết chóc kia.

Ngớ ngẩn. Tàu Triton chỉ đủ chỗ cho một người, và phải mất mười phút thì máy tời mới thả được con tàu đó xuống mặt đại dương. Ngoài ra, nếu ắc quy và máy nén không được sạc đủ điện thì con tàu cũng sẽ chết dí trong lòng đại dương mà thôi.

"Chúng quay lại rồi!" Corky lạc giọng vì sợ hãi, đưa tay chỉ lên trời.

Không kịp ngẩng lên nhìn, Tolland chỉ tay vào vách ngăn gần đó một lối đi bằng nhôm thoai thoải dẫn xuống những boong bên dưới. Corky chẳng đợi giục đến lần thứ hai, ông ta khom người chạy băng qua chỗ boong tàu trống trơn, rồi lao vụt xuống lối đi đó. Tolland ôm chặt Rachel, kéo cô chạy theo. Cả hai vừa kịp chạy khuất thì chiếc máy bay quay lại, vãi đạn như mưa xuống boong tàu bằng gỗ.

Tolland dắt Rachel chạy theo lối đi dốc bằng lưới nhôm, xuống tít boong bên dưới. Xuống đến nơi, ông chợt thấy toàn thân Rachel co cứng lại. Tưởng cô lại bị trúng một viên đạn nữa, ông quay sang nhìn.

Trông vẻ mặt Rachel, ông biết ngay không phải là đạn. Nhìn theo ánh mắt đầy kinh hãi của cô đang hướng xuống dưới chân họ, Tolland chợt hiểu ra.

Rachel đứng như trời trồng, hai cẳng chân như hóa đá. Cô sợ hãi, trân trân nhìn cảnh tượng hãi hùng dưới chân mình.

Vì được cấu tạo theo trường phái SWATH, tàu Goya không có hầm tàu, mà được chống đỡ bằng bốn mảng bè lớn giằng vào nhau.

Đi hết lối đi dốc, họ vừa đặt chân vào lối đi rất hẹp dẫn qua một khe hở rất lớn, dưới chân họ, cách ba mươi foot, là mặt biển hung dữ. Nước vỗ ầm ầm vào những cái bè lớn, tạo nên tiếng ầm ầm đinh tai nhức óc. Đã thế, một ngọn đèn pha vẫn bật sáng, rọi những tia sáng màu xanh nhạt xuống vùng nước bên dưới. Rachel khiếp đảm thấy sáu bảy bóng đen ma quái. Những con cá mập đầu búa. Những cái thân đen sì, bóng nhẫy đang quẫy qua quẫy lại, lũ cá bơi tại chỗ, ngược dòng nước xiết.

Cô nghe thấy tiếng Tolland. "Rachel, không sao đâu mà. Nhìn thẳng về phía trước đi. Có anh đây rồi". Từ phía sau, ông dịu dàng kéo bàn tay Rachel đang xiết chặt lan can. Đến lúc này Rachel mới nhìn thấy dòng máu đang chảy dọc cánh tay của mình và rơi từng giọt tõm xuống mặt biển. Cô đưa mắt nhìn theo hướng đó. Dù không nhìn thấy gì, Rachel biết rằng ngay khi giọt máu chạm đến mặt nước, cả lũ cá mập hung dữ kia sẽ ngoác những hàm răng sắc nhọn của chúng và lao bổ vào.

Thùy khứu giác telencephalon cực nhạy...

Đánh hơi được mùi máu từ càch xa một dặm.

"Em hãy nhìn thẳng về phía trước". Tolland nhắc lại, giọng nói thật ấm áp và mạnh mẽ. "Tôi ở ngay sau em đây rồi".

Ông xiết chặt lấy Rachel, đẩy cô về phía trước. Cô không nhìn xuống cảnh tượng kinh khủng dưới chân, cô tiến bước. Cánh quạt của chiếc trực thăng đang rít lên ầm am ngay trên đầu họ. Lảo đảo, lắc lư như người say, Corky đã chạy trước họ một quãng khá xa.

Tolland gọi ông ta: "Chạy xuống hết thanh giằng đi, Corky! Chạy xuống dưới!"

Lúc này thì Rachel đã hiểu họ đang chạy đi đâu. Trước mặt họ là mấy cầu thang ngoặt hình chữ chi khác cũng dẫn xuống dưới. Ở ngang tầm với mặt nước là một cái boong khá hẹp nối thêm vào đuôi tàu Goya. Mấy cầu tàu nhỏ nhô ra từ boong hẹp đó tạo thành một bến tàu mini. Có một tấm biển lớn:

KHU VỰC LẶN

Thợ lặn có thể bất ngờ nổi lên không báo trước.

Thận trọng khi lái thuyền.

Rachel hy vọng Tolland không có ý định chọn vùng nước này làm nơi trú ẩn, nhưng ngay lập tức lại lo lắng đến cháy lòng khi thấy ông dừng lại rồi mở kho chứa đồ có lưới sắt bao quanh. Bên trong chứa toàn những bộ đo lặn, ống thở, chân vịt, áo bảo hộ, và xiên đâm cá. Rachel chưa kịp nói câu gì thì ông đã chộp lấy một cây súng bắn pháo sáng. "Đi nào".

Cả ba lại đi tiếp.

Chạy rất nhanh, Corky đã đi đến tận chỗ ngoặt và bắt đầu bước xuống một cái cầu thang. "Tôi thấy rồi!" Ông ta sung sướng hét lên, át cả tiếng nước đang chảy ầm ầm.

Thấy cái gì? Rachel tự hỏi, nhìn Corky đang chạy băng băng. Cô chỉ nhìn thấy có mặt đại dương đầy những cá mập đang trải rộng dưới chân họ. Tolland tiếp tục hối thúc cô tiến về phía trước. Và đột nhiên, Rachel hiểu ra vì sao Corky sung sướng đến thế. Ở tít cuối bến tàu là chiếc thuyền máy được neo gọn gàng. Corky chạy ngay về phía đó.

Rachel trợn tròn mắt. Dùng xuồng máy để chạy trốn máy bay trực thăng hay sao?

"Trên đó có cái máy bán dẫn", Tolland nói, "nếu chiếc xuồng máy này có thể đưa chúng ta thoát khỏi vùng nhiễu sóng của máy bay thì..."

Rachel không nghe được hết những lời còn lại. Những gì vừa bất thần đập vào mắt đã khiến máu cô ngừng chảy trong huyết quản. "Quá muộn rồi". Cô thét lên, tay run run chỉ lên cao. Thế là hết...

Ngước nhìn lên, Tolland ngay lập tức biết là không còn kịp nữa.

Từ đầu bên kia của con tàu, chiếc máy bay đen trũi đã quay lại, sà xuống rất thấp y như một quái vật đang nhòm vào miệng hang. Ông tưởng nó định bay xuyên qua khoảng không giữa hai tầng boong để đâm vào bọn họ, nhưng không, nó lượn vòng và bắt đầu ngắm bắn.

Tolland nhìn theo hướng những cái nòng súng đang chĩa tới. Không!

Đang lúi húi bên chiếc xuồng máy để tháo dây neo, Corky ngước nhìn lên đúng lúc một tia chớp sáng loè phụt ra từ khẩu súng máy bên dưới thân máy bay. Corky bị trúng đạn loạng choạng. Ông ta vẫn lao như điên ra mép tàu, bò xuống xuồng, rồi nằm rạp xuống để tránh đạn, máu bê bết từ ngang ống chân phải trở xuống. Vẫn nằm sát xuống lòng xuồng, Corky giơ tay lên, quờ quạng rồi tìm được chìa khoá. Động cơ Mecury 250 mã lực của chiếc thuyền rú lên ầm ỹ.

Chỉ sau đó một tích tắc, một chùm tia laze xuất hiện từ mũi chiếc máy bay đang lượn lờ, nhằm thẳng vào chiếc thuyền.

Theo phản xạ bản năng, Tolland đưa thứ vũ khí duy nhất trong tay lên ngắm bắn.

Tolland kéo cò, một luồng sáng chói lòa từ nòng súng phụt ra, lao thẳng đến chiếc trực thăng trên đầu. Nhưng Tolland biết ông hành động quá muộn. Đúng vào lúc quả đạn phảo sáng chạm vào cửa chắn gió của máy bay, một quả tên lửa cũng lao vụt ra từ dưới bụng nó. Cũng đúng lúc quả tên lửa rời khỏi bệ phóng, chiếc máy bay rẽ ngoặt sang một bên, rồi bay thốc lên cao để tránh viên đạn đang lao tới.

"Cẩn thận!" Tolland hét to, dắt Rachel xuống cầu thang sắt.

Quả tên lửa bị trệch hướng, không trúng vào Corky, mà bay dọc theo thân tàu Goya, rồi lao xuống thanh giằng lớn bên dưới, cách Rachel và Tolland ba mươi foot.

Một tiếng nổ khủng khiếp. Lửa và nước văng tung toé. Những mảnh kim loại nham nhở vặn xoắn bay loạn xạ rồi rơi loảng xoảng xuống cầu thang ngay trước mặt họ. Có tiếng sắt nghiến vào nhau kêu ken két đinh tai, con tàu tròng trành một hồi, rồi giữ yên ở thế cân bằng mới, hơi nghiêng về một bên.

Khi khói đã tan bớt. Tolland mới thấy một trong bốn thanh giằng lớn của con tàu đã bị hư hại nặng. Dòng hải lưu hung dữ chảy tràn qua chiếc thuyền phao, tấm phao sắt khổng lồ của con tàu Goya cổ thể bị gãy tan bất kỳ lúc nào. Cầu thang xoắn bằng sắt dẫn xuống tầng dưới đang lung lay chao đảo dữ dội.

"Đi nào!" Tolland hét lớn. "Chúng ta phải xuống dưới đó!"

Nhưng không kịp nữa rồi. Có tiếng răng rắc nứt gẫy, rồi chiếc cầu thang sắt rời ra và rơi ùm xuống biển.

Trên cao, Delta-Một vật lộn với những cần và nút điều khiển của chiếc máy bay. Bị đạn pháo sáng làm lóa mắt, anh đã cho máy bay lao thốc lên, khiến quả tên lửa bay lệch hướng. Vừa lầm rầm nguyền rủa, anh vừa cho máy bay sà xuống sát mũi tàu để thực thi nốt nhiệm vụ.

Tiêu diệt toàn bộ hành khách. Lệnh của chỉ huy rất rõ ràng.

"Chết tiệt! Nhìn kia!" Từ ghế sau, Delta-Hai hét lên. "Thuyền máy kìa!"

Quay phắt lại, Delta-Một nhìn thấy chiếc thuyền máy bị trúng đạn lỗ chỗ vừa rời khỏi con tàu Goya và lao vút vào bóng đêm

Anh phải quyết định ngay

Chương 114

Hai bàn tay bê bết máu, Corky vẫn xiết chặt bánh lái của chiếc thuyền máy Crestliner Phantom 2100 đang lao vun vút trên mặt biển. Ông tăng ga hết cỡ, chạy với tốc độ tối đa. Chợt cảm thấy đau nhói, Corky cúi xuống nhìn, và nhận thấy máu đang tuôn xối xả từ cẳng chân bên phải. Nhà vũ trụ học ngay lập tức thấy sa sẩm mặt mày.

Tì người vào bánh lái, ông quay lại nhìn con tàu Goya, mong thấy chiếc máy bay đuổi theo mình. Nhận thấy không thể đợi được Tolland và Rachel đã bị mắc kẹt ở boong trên, ông buộc phải quyết định thật nhanh.

Chia để trị.

Corky tính toán rằng nếu ông có thể lừa cho chiếc máy bay tách xa khỏi con tàu thì Rachel và Tolland sẽ có cơ hội dùng làn sóng điện để kêu cứu. Oái oăm thay, chiếc trực thăng vẫn đang sà xuống sát bên cạnh con tàu, như thể lũ sát nhân vẫn còn đang do dự.

Lũ chó ma kia! Đuổi tao đi!

Nhưng chiếc phi cơ không đuổi theo ông. Thay vào đó, nó lượn trước mũi tàu, rồi hạ cánh xuống boong. Không! Corky sững sờ, thế là ông đã bỏ mặc Tolland và Rachel trong lúc khó khăn nhất rồi!

Biết rằng người duy nhất có khả năng gọi cứu viện lúc này chính là mình, Corky đưa tay sờ soạng tìm núm điều khiển. Lần thấy chiếc đài phát thanh, ông bật nút điện. Chẳng thấy gì cả. Không có đèn báo. Không có tín hiệu. Ông vặn núm cho âm lượng lên hết cỡ. Vẫn không thấy gì. Thôi mà! Tạm thời buông bánh lái ra, ông cúi xuống nhìn cho rõ, và không dám tin vào mắt mình. Bảng điều khiển đã bị đạn bắn tơi tả, cần dò sóng bị gãy rời ra. Dây điện đứt lung tung. Corky trợn tròn mắt, thật không thể tưởng tượng nổi.

Thật họa vô đơn chí...

Run rẩy. Corky cố đứng thẳng dậy, tự hỏi liệu còn có tình huống nào trên đời tồi tệ hơn thế này không. Rồi khi quay lại nhìn con tàu Goya lần thứ hai, ông lập tức nhận được câu trả lời. Hai người lính vũ trang đầy đủ vừa nhảy từ trên máy bay xuống boong tàu. Sau đó chiếc máy bay lại cất cánh, và tăng tốc nhằm thẳng con thuyền của Corky.

Corky ngồi sụp xuống. Chia để trị. Rõ ràng là chỉ có ông mới sáng suốt nghĩ đến chiến thuật khôn ngoan này.

Băng qua boong tàu, đến bên lối đi dọc lót lưới sắt, Delta-Ba nghe văng vẳng tiếng phụ nữ la hét ở bên dưới. Anh quay lại ra hiệu với Delta-Hai rằng mình sẽ xuống dưới đó. Đồng đội của anh gật đầu, ở lại để khống chế boong trên. Hai người sẽ dừng thiết bị CrypTalk để liên lạc với nhau; thiết bị gây nhiễu của Kiowa đường nhiên phải chừa lại một tần số cho chính nó.

Tay xiết chặt khẩu súng máy nòng hếch, Delta-Ba lặng lẽ tiến đến lối đi xuống boong dưới. Với sự thận trọng của một sát thủ chuyên nghiệp, anh lần từng bước một xuống, súng luôn trong tư thế sẵn sàng.

Do tầm nhìn rất hạn chế nên Delta Ba phải khom người xuống để quan sát. Bắt đầu nghe rõ những tiếng la hét. Anh tiếp tục xuống sâu hơn. Xuống được nửa cầu thang, anh bắt đầu nhìn thấy những lối đi chằng chịt đan vào nhau ở tầng boong bên dưới. Tiếng la thét giờ đã to hơn hẳn.

Anh đã trông thấy cô ta. Đứng ngay chỗ những lối đi chằng chịt kia giao nhau, Rachel Sexton đang cúi xuống bên tay vịn, tuyệt vọng gào to: "Michael Tolland".

Hay Tolland bị ngã xuống đó rồi? Chắc do chấn động của vụ nổ.

Nếu thế thì nhiệm vụ của Delta-Ba quả là dễ dàng. Anh chỉ cần tiến thêm vài bậc thang nữa để lấy điểm ngắm bắn. Bắn một con cá trong chậu. Anh chỉ hơi băn khoăn chút xíu vì Rachel đang đứng cạnh tủ chứa đồ, có nghĩa là cô ta có thể có vũ khí - xiên đâm cá, hoặc súng bắn cá sấu - dù cả hai thứ đó đều không thể đọ với súng máy của anh. Tin vào thế áp đảo của mình, Delta-Ba hạ súng xuống, bước thêm một bậc cầu thang nữa. Lần này thì Rachel Sexton đã nằm trong tầm ngắm. Anh giương súng lên.

Thêm một bậc nữa.

Có cái gì động đậy dưới chân anh. Thấy Michael Tolland đang cầm một thanh nhôm dài và thọc mạnh vào chân mình, anh chỉ bị bất ngờ chứ không hề sợ hãi. Dù bị mắc mưu, Delta-Ba chỉ cảm thấy buồn cười trước những nỗ lực vô ích đến mức hài hước của đối tượng.

Nhưng rồi thanh nhôm tưởng như vô hại kia bất chợt đâm thẳng lên gót chân anh.

Bàn chân phải của anh nổ tung, cảm giác bỏng rát, nhói buốt khủng khiếp chạy khắp thân thể. Anh bị mất thăng bằng, ngã nhào và lăn lông lốc xuống cầu thang. Khẩu súng máy rơi xuống bậc cầu thang sắt, rồi nảy lên, và văng xuống biển. Đau đớn, anh co người. Ôm lấy bàn chân phải, nhưng bàn chân không còn nữa.

Tolland ngay lập tức có mặt bên kẻ vừa định tấn công mình, tay vẫn xiết chặt cây gậy nhôm - thiết bị đặc dựng dài năm foot để khống chế cá mập. Cây gậy nhôm đặc biệt này được gắn thiết bị cảm ứng áp suất ở đầu, kèm theo một băng đạn mười hai viên - vũ khí tự vệ của thợ lặn khi bị cá mập tấn công. Tolland đã ngay lập tức nạp băng đạn khác vào vũ khí của mình, và giờ đang chĩa thẳng cái đầu gậy vẫn còn nóng bỏng vào yết hầu đối phương. Anh ta nằm bất động trên sàn, khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc, đau đớn và tức tối.

Rachel chạy lại. Đáng ra cô đã lấy được khẩu súng máy, nhưng chẳng may nó đã bị văng xuống nước mất rồi.

Thiết bị bộ đàm đeo ở thắt lưng anh ta bắt đầu kêu sột soạt. Một giọng nói như của máy tính vang lên: "Delta-Ba đấy à? Lên đi! Tôi vừa nghe thấy tiếng súng".

Anh ta không trả lời.

Máy bộ đàm lại kêu tít tít lần nữa: "Delta Ba, trả lời đi, anh có cần tôi yểm trợ không?"

Gần như ngay lập tức, một giọng nói khác vang lên trong máy.

Vẫn là giọng nói qua máy tính xử lý, nhưng nghe rõ tiếng động cơ máy bay đang nổ ầm ầm: "Delta-Một đây. Tôi đang đuổi theo chiếc thuyền máy. Delta-Ba, hãy trả lời đi. Anh xuống boong dưới à? Có cần yểm trợ không?"

Tolland dí khẫu súng bắn cá mập vào sát cổ họng anh ta. "Bảo gã phi công kia đừng đuổi theo chiếc thuyền nữa. Nếu nó giết bạn tao thì mày sẽ phải chết".

Nhăn nhó vì đau, người lính đưa thiết bị bộ đàm lên môi. Tay bấm nút để trả lời máy, anh ta vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Tolland: "Delta-Ba đây. Tôi vẫn ổn. Hãy tiêu diệt chiếc thuyền".

Chương 115

Gabrielle Ashe đã quay trở lại phòng tắm trong khu văn phòng của Sexton và đang chuẩn bị trèo ra ngoài. Cuộc gọi của ngài Thượng nghị sĩ đã khiến cô rất lo lắng. Rõ ràng là ông ta đã tỏ ra nghi ngờ khi cô nói rằng đang ở trong văn phòng dành cho thư ký - như thế đã đoán ra là cô đang nói dối. Dù sao thì cô cũng không mở được máy tính cá nhân của ông ta, và giờ vẫn chưa biết nên làm gì tiếp.

Sexton đang đợi.

Trèo lên đến bồn rửa mặt, đang chuẩn bị đu người lên tran để ra ngoài thì cô nghe có cái gì rơi leng keng xuống sàn nhà. Quay lại, Gabrielle bực bội thấy mình vừa đá phải hai cái móc cài tay áo mà Sexton vẫn để trên thành bệ.

Phải để mọi thứ y như cũ.

Gabrielle lại trèo xuống, nhặt hai cái móc cài và để lên thành bệ y như cũ. Đang quay người định trèo lên lại thì Gabrielle dừng lại, nhìn những cái móc cài một lần nữa. Nếu là những lúc khác thì chắc chắn cô đã chẳng để ý đến nó, nhưng đêm nay những chữ viết lồng này đặc biệt thu hút sự chú ý của Gabrielle. Giống như nhiều biểu tượng chữ viết lồng khác của ông Thượng nghị sĩ háo danh, đây lại là hai chữ Sexton viết lồng xoắn xuýt lấy nhau. SS. Gabrielle nhớ lại mật khẩu máy tính đầu tiên của ông ta: SSS. Cô nghĩ đến những chữ viết bằng mực phản quang trên quyển lịch... POTUS và hình ảnh chờ có cảnh Nhà Trắng và những tấm biếu ngữ đầy lạc quan chạy khắp xung quanh màn hình.

Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton... Tổng thống Hoa Kỳ

Sedgewick Sexton... Tổng thống Hoa Kỳ...

Gabrielle băn khoăn ngẫm nghĩ. Chẳng lẽ ông ta quả thật chủ quan đến thế sao?

Biết rằng chỉ cần vài tích tắc là tìm ra sự thật, Gabrielle quay trở lại văn phòng, ngồi xuống ghế và gõ bảy chữ cái vào ô mật khẩu.

POTUSSS

Màn hình chờ lập tức biến mất.

Gabrielle sững sờ, không thể tin nổi.

Đừng bao giờ đành giá thấp một chính trị gia

Chương 116

Corky Marlinson không giữ chặt bánh lái của chiếc thuyền máy Crestliner Phantom nữa. Ông nghĩ rằng dù có giữ bánh lái hay không thì chiếc thuyền này sẽ chạy theo một đường thẳng. Theo hướng nguy hiểm nhất...

Ngồi phía đuôi con thuyền đang bị đại dương đẩy lên dằn xuống dữ dội, ông đang xem xét vết thương ở chân. Một viên đạn đã bay đúng vào phía trước xương trụ, may không phải là xương đùi. Không thấy có vết thương hở nào ở mặt sau chân phải, có nghĩa là viên đạn vẫn ở bên trong. Ông lục tìm khắp xung quanh, tìm kiếm một ít bông băng để cầm máu, nhưng chẳng thấy gì - chỉ có chân vịt, ống thở, và mấy cái áo phao cứu sinh. Không có dụng cụ sơ cứu. Luống cuống, Corky tìm thấy cái ngăn kéo bên trong có giẻ rách, băng dính. dầu nhờn, và một số dụng cụ sửa chữa khác. Nhìn cẳng chân đầy máu của mình. Corky tự hỏi không biết còn bao lâu nữa thì ông sẽ thoát ra khỏi vùng có nhiều cá mập.

Chắc còn xa lắm.

Delta Một cho chiếc Kiowa bay là là sát mặt biển để tìm chiếc thuyền Crestliner đang chạy trốn. Đoán rằng chiếc thuyền sẽ tìm cách vào đất liền và tránh con tàu Goya càng xa càng tốt, anh cho máy bay lao thẳng theo hướng lúc nãy chiếc thuyền đã xuất phát.

Lẽ ra mình phải rượt chiếc thuyền đó rồi mới phải.

Thường thì chỉ cần dùng máy quét radar là tìm thấy ngay những mục tiêu kiểu này, nhưng thiết bị gây nhiễu bằng sóng âm địa nhiệt của chiếc máy bay này có tác động trong bán kính những mấy dặm, nên cả radar của anh cũng không hoạt động được. Phải đợi đến khi tiêu diệt xong tất cả các đối tượng thì mới được tắt thiết bị gây nhiễu. Đêm nay, không một ai trên con tàu Goya được đàm thoại với người ngoài.

Bí mật về tảng thiên thạch sẽ bị chôn vùi. Tại đây. Chính vào lúc này.

Delta Một may mắn có một thiết bị khác để thay thế hệ thống radar. Anh có thễ dễ dàng phát hiện được tín hiệu nhiệt phát ra từ chiếc thuyền, ngay cả trong vùng có dòng hải lưu nóng như thế này. Anh bật máy quét. Nhiệt độ nước ở vùng biển này lên đến 95 độ F, nhưng may thay, nhiệt độ của chiếc thuyền có động cơ 250 mã lực đang chạy hết tốc độ còn cao hơn thế gấp mấy lần.

Corky Marlinson thấy chân tay mình bắt đầu tê cứng.

Không biết làm gì hơn, ông đã dùng giẻ để lau sạch máu ở ống chân rồi lấy băng dính quấn chặt xung quanh. Khi cuộn băng dính hết sạch thì toàn bộ ống chân của ông, từ đầu gối đến tận mắt cá, đã được bọc trong lớp vỏ nhựa màu bạc. Đã cầm được máu, nhưng hai tay và quần áo của ông thì vẫn bê bết toàn máu là máu.

Ngồi yên trên thuyền, Corky lấy làm lạ tại sao chiếc máy bay vẫn chưa tìm được nình. Ông quay lại đằng sau, nhìn thật kỹ, tìm những ngọn đèn trên tàu Goya và bóng chiếc máy bay đang bám đuổi sau lưng. Lạ thật. Chẳng thấy gì cả. Toàn bộ bóng đèn trên tàu Goya đều đã tắt ngấm, không lẽ ông đã đi được xa đến thễ.

Corky chợt thấy tràn trề hy vọng. Biết đâu vì trời tối nên bọn chúng không tìm được ông. Biết đâu ông về được đến đất liền!

Bất ngờ, Corky nhận thấy đường rẽ nước ở sau đuôi cơn thuyền này rất khác thường. Nước rẽ thành một đường cong nhẹ đều đặn từ sau đuôi thuyền, như thể nó đang đi theo đường vòng cung chứ không phải đường thẳng. Bối rối, ông đưa mắt nhìn theo rẽ nước sau đuôi thuyền đang tạo thành một đường tròn rất lớn trên mặt biển: Gần như ngay tức khắc, Corky trông thấy nó.

Con tàu Goya sừng sững hiện ra bên mạn trái, cách ông không đến nửa dặm. Kinh hãi, Corky nhận ra sai lầm chết người của mình. Vì bánh lái bị bỏ không, chiếc thuyền máy đã tự động đi xuôi theo dòng hải lưu chảy xiết - xoáy nước lớn bao quanh vòm nham thạch. Mình đang đi theo một đường tròn lớn!

Ông đã tự đá bóng vào lưới nhà.

Nhận ra mình vẫn luẩn quẩn trong khu vực có nhiều cá mập, ông hãi hùng nhớ lại những lời của Tolland. Thùy khứu giác telencephalon cực kỳ thính nhạy... Giống cá mập đầu búa có thể nhận được mùi máu từ cách xa một dặm. Corky lo lắng nhìn cẳng chân quấn băng và hai bàn tay bê bết máu của mình.

Chẳng bao lâu nữa chiếc trực thăng sẽ tìm thấy chiếc thuyền này.

Cởi bỏ bộ quan áo dính đầy máu, Corky bò về phía đuôi thuyền. Tin chắc rằng không một con cá mập nào có thế bơi nhanh bằng chiếc thuyền máy của nình, ông vớt nước bắn lên từ đường rẽ nước sau đuôi con thuyền, cẩn thận rửa thật sạch máu dính ở hai bàn tay cũng như trên khắp cơ thể.

Từng giọt máu một...

Rửa xong, ông đứng thẳng dậy, biết rằng giờ chỉ còn một động tác nữa là xong. Ông nghe nói các loài động vật dùng nước tiểu để đánh dấu lãnh thổ của chúng, và chất acide uric chính là chất bài tiết nặng mùi nhất trên cơ thể con người.

Có tác dụng mạnh hơn máu. Corky thầm hi vọng. Vừa lầm bầm ao ước giá như vừa được uống vài vại bia hồi tối, ông gác chân phải lên bảng điều khiển và cố đái vào lớp băng dính quấn xung quanh. Ra đi nào! Corky kiên nhẫn chờ đợi. Thật không gì khổ bằng phải cố mà đái vào người trong khi bị máy bay đuổi theo sát nút.

Mãi rồi nó cũng phải ra. Corky đái ướt đẫm lớp băng quấn quanh ống chân. Ông tận dụng nhũng giọt cuối cùng còn sót lại trong bàng quang để thấm ướt miếng giẻ rồi chà xát khắp người.

Quả là dễ chịu.

Từ trên trời đêm, một chùm tia laze xuất hiện, chiếu chếch xuống chiếc thuyền máy, trông như lưỡi thép sắc lạnh của cái máy chém khổng lồ. Chiếc máy bay xuất hiện chếch từ một bên. Rõ ràng là viên phi công cũng bị ngạc nhiên khi thấy Corky lộn trở lại bên con tàu Goya.

Mặc xong bộ quần áo phao bảo hộ, Corky nhanh nhẹn di chuyển xuống đuôi thuyền. Một đốm sáng đỏ rực xuất hiện trên chiếc thuyền vấy máu, chỉ cách chân ông khoảng mười xăng ti mét.

Đã đến lúc.

Trên boong tàu Goya, Tolland không nhìn thấy chiếc thuyền máy Crestliner Phantom 2100 bị một ánh chớp sáng lòa nuốt chửng, rồi khói lửa cuộn lên ngùn ngụt.

Nhưng ông nghe thấy tiếng nổ.

Chương 117

Thông thường, vào giờ này thì chái Tây của Nhà Trắng thường rất tĩnh mịch, nhưng thái độ vội vã của Tổng thống cùng với bộ quần áo ngủ và đôi dép lê ở chân ông đã khiến cho các trợ lý và nhân viên đang trực phiên thấy lo lắng và bật dậy khỏi những chiếc giường gấp đặt ngay cạnh bàn làm việc và những phòng ngủ nhỏ bố trí rải rác tại đây.

"Thưa Tổng thống, không thấy bà ấy đâu cả". Một trợ lý trẻ vừa nói vừa hối hả theo Herney vào phòng bầu dục. Anh ta đã tìm kiếm khắp nơi. "Cả điện thoại cầm tay lẫn máy nhắn tin, bà Tench đều không nghe ạ".

Tổng thống cáu gắt: "Thế anh đã sang tìm ở..."

"Bà ấy đã rời khỏi Nhà Trắng rồi ạ". Một trợ lý khác vừa bước vào phòng đã nhanh nhảu báo cáo. "Bà ấy ra khỏi cổng cách đây một giờ. Chắc là đi sang bên trụ sở NRO rồi. Nhân viên tổng đài cho biết tối qua bà ấy đã điện đàm với Pickering".

"William Pickering à?" Tổng thống ngỡ ngàng. Tench và Pickering chưa bao giờ chịu quan hệ với nhau. "Cậu đã gọi cho ông ấy chưa?"

"Cả ông ấy cũng không trả lời máy ạ. Nhân viên tổng đài của NRO cũng không gọi được ông ấy. Họ nói là máy của ông ấy thậm chí còn không đổ chuông. Như thể là ông ấy đã biến mất khỏi trái đất".

Herney tròn mắt nhìn hai người trợ lý của mình một hồi lâu, rồi đến bên quầy rượu và tự rót cho mình một ly Bourbon. Ông vừa mới đưa ly rượu lên môi thì một nhân viên mật vụ xuất hiện.

"Tôi rất không muốn đánh thức Tổng thống, nhưng vừa có vụ đặt bom gần đài tưởng niệm FDR".

"Cái gì?" Suýt nữa Herney làm rơi cái ly.

"Cách đây một giờ". Anh ta nói giọng rầu rĩ. "Và bên FBI đã nhận dạng được nạn nhân..."

Chương 118

Cảm giác nhức nhối dội lên từ chân của Delta-Ba. Anh tưởng như mình đang trôi nổi, bông bềnh trong vô thức. Hay đây chính là cái chết? Anh gắng gượng cử động chân tay, nhưng không được, đến cả hít thở cũng thấy khó khăn. Hai mắt anh chỉ nhìn được những đốm đen trắng lờ mờ. Rồi tỉnh táo hơn lên, anh nhớ lại tiếng nổ trên mặt đại dương, vẻ giận dữ điên cuồng trong ánh mắt của Michael Tolland khi ông ta đứng đó, tay chĩa cây gậy bắn cá mập vào cổ họng anh.

Chắc Tolland đã giết mình...

Nhưng rồi cơn đau như xé ở chân nhắc Delta-Ba rằng anh vẫn còn sống. Và tất cả những sự kiện lần lượt hiện về trong tâm trí.

Nghe tiếng nổ trên đại dương khi chiếc thuyền máy Crestliner bị trúng tên lửa, Tolland đã gào lên đau đớn và căm hận vì mất người bạn quý. Rồi ông ta, quay sang anh, mắt quắc lên giận dữ, lưng khom xuống, như thế định ngay lập tức đâm mạnh vào yết hầu của anh; nhưng hình như đúng lúc ấy lương tâm của ông ta đã lên tiếng can ngăn. Thế là Tolland quẳng cây gậy sang một bên, mắt long lên, rồi thúc mạnh mũi ủng vào bàn chân vừa bị bắn nát của anh.

Chi tiết cuối cùng mà Delta-Ba còn nhớ được là anh đau đớn đến nỗi nôn hết mật xanh mật vàng, tối tăm mặt mũi và ngất đi. Lúc này anh đã hồi tỉnh lại, nhưng không thể nhớ nổi mình đã bị bất tỉnh bao nhiêu lâu. Hai khuỷu tay anh bị trói giật ra đằng sau, nút dây trói xiết chặt khủng khiếp, chắc chỉ có thủy thủ chuyên nghiệp mới xiết chặt được đến thế. Hai cẳng chân anh cũng bị bẻ giật về phía sau, và bị buộc vào cùng với hai cổ tay, khiến cho thân người bị bẻ cong về phía sau một cách hết sức kỳ quái. Anh cố hét to lên, nhưng không âm thanh nào thoát ra khỏi cổ họng. Miệng anh đã bị nút chặt.

Delta-Ba không thể tin rằng sự thể lại đến nông nỗi này. Chợt thấy có làn gió ấm áp thổi nhẹ và những ngọn đèn sáng chói, anh nhận ra mình đang ở trên boong chính của tàu Goya. Anh vặn vẹo, nhìn quanh, hi vọng thấy đồng đội đến cứu mình, nhưng chỉ thấy một hình ảnh hãi hùng - hình ảnh méo mó và ngoặt ngoẹo của chính anh, phản chiếu trên mặt kính Plexiglas của chiếc tàu lặn mini. Chiếc tàu lặn đang lơ lửng trước mặt, và Delta-Ba thấy mình đang nằm ngay trên ngưỡng cửa giật trên boong tàu, thật nguy hiểm. Và không kém phần đáng sợ là một câu hỏi vừa hiện lên trong óc.

Mình ở trên boong..., còn Delta-Hai ở đâu?

Delta-Hai mỗi lúc một thêm lo lắng.

Dù đồng đội của anh đã trả lời là không có gì bất ổn, nhưng tiếng súng phát một anh vừa nghe thấy rõ ràng không phải ra từ súng máy. Rõ ràng là Rachel Sexton và Tolland vừa bắn. Delta-Hai đến sát bên lối lên xuống mà đồng đội của anh lúc nãy bước xuống, và trông thấy máu.

Súng lên đạn sẵn, anh xuống cầu thang, lần theo vết máu dọc một hành lang hẹp dẫn đến mũi tàu. Đến đây, vết máu anh đến cầu thang thứ hai dẫn xuống boong chính. Không thấy ai. Càng lo lắng hơn, Delta-Hai tiếp tục lần theo vết máu dọc theo boong, đến tận đuôi tàu, gặp lại chính cầu thang đầu tiên mà anh đặt chân xuống.

Có chuyện gì thế nhỉ? Vết máu dường như tạo thành một vòng tròn lớn.

Thận trọng, vừa chĩa súng tứ phía vừa nhích từng tí một, Delta Hai tiến đến khu đặt các phòng thí nghiệm. Vệt máu kéo dài mãi đến tận boong sau. Cẩn thận đi vòng rộng ra để tránh góc ngoặt, mắt anh vẫn nhìn theo vết máu.

Rồi anh trông thấy.

Lạy Chúa lòng lành!

Delta-Ba đang nằm đó - bị trói chặt, bịt miệng - ngay trước chiếc tàu lặn mini của tàu Goya. Từ xa anh đã thấy một bên chân của Delta-Ba không còn nữa.

Sợ bị gài bẫy, Delta-Hai giương súng sẵn sàng, thận trọng tiến lên. Delta-Ba đang vùng vẫy và cố nói với anh điều gì đó. Trong cái rủi có cái may, có lẽ do chân bị trói quặt ra đằng sau mà Delta-Ba còn sống được đến lúc này, máu chảy ra từ vết thương có vẻ đã giảm nhiều.

Đến gần chiếc tàu lặn cỡ nhỏ, tầm nhìn bao quát phía sau của Delta-Hai không thể tốt hơn, vòm kính của buồng lái phản chiếu toàn bộ boong tàu. Mãi đến lúc đã đứng sát người đồng đội không may mắn của mình, Delta-Hai mới nhận ra ánh mắt đầy hàm ý của Delta-Ba, nhưng đã quá muộn.

Bỗng đâu tia chớp màu bạc bất thần lóe lên.

Một trong những cánh tay máy của chiếc tàu lặn Triton chợt tung ra và túm chặt đùi trái của Delta-Hai. Anh cố giãy ra, nhưng cánh tay máy càng xiết chặt thêm, chặt đến nỗi xương bị gãy. Delta-Hai thét lên đau đớn. Anh trừng mắt nhìn vào trong cabin tàu lặn. Đằng sau những đường nét của boong tàu phản chiếu trên mặt kính là khuôn mặt xanh xao, người đó ngỗi thu mình gọn lỏn ở góc khuất trong con tàu Triton.

Michael Tolland đang ở trong tàu lặn, bên bàn điều khiển.

Quá ngu, Delta-Hai rít lên, nén đau để giương súng máy lên.

Anh nhằm thẳng vào ngực trái của ông ta, ngay sau lớp kính, chỉ cách anh không quá ba foot. Anh kéo cò, đạn nổ ầm ầm. Tức tối vì bị mắc bẫy, Delta-Hai giữ chặt cò súng cho đến khi không còn một viên đạn. Thở hắt ra, anh quẳng súng xuống đất, rồi chằm chằm nhìn mái vòm bằng kính bị thủng lỗ chỗ.

"Chết đi con!" Vừa gằn giọng rít lên, Delta-Hai vừa cố gỡ chân khỏi cánh tay máy. Những cái móc thép nghiến sâu thêm, làm da thịt rách toác ra. "Chết tiệt!" Anh quờ tay lần tìm máy bộ đàm đeo ở thắt lưng. Nhưng vừa cầm được chiếc máy thì bị một cánh tay máy nữa bật ra và xiết chặt cổ tay. Máy bộ đàm CrypTalk rơi xuống boong tàu.

Đúng lúc ấy một bóng ma hiện ra ở cửa sổ kính ngay bên cạnh anh. Khuôn mặt nhợt nhạt ban nãy đang ngó qua mép kính còn nguyên vẹn và nhìn anh chòng chọc. Choáng váng. Delta-Hai nhìn lại vòm kính của chiếc tàu lặn, hóa ra không một quả đạn nào xuyên nổi qua lớp kính dày của mái vòm trước mặt. Mặt ngoài mái vòm chi chít những vết đạn.

Sau giây lát, một cánh cửa mở ra trên nóc mái vòm kính, Michael Tolland nhô đau lên. Ông ta vẫn còn run, nhưng không hề hấn gì. Xuống đến mặt boong, ông chăm chú nhìn cửa sổ tàu ngầm thủng lỗ chỗ.

"Những mười ngàn pound một inch đấy". Tolland lên tiếng. "Đáng ra anh bạn nên dừng loại súng lớn hơn".

Đứng trong phòng thí nghiệm của cơn tàu, Rachel biết cô không còn nhiều thời gian. Cô vừa nghe tiếng súng nổ, và thầm khẩn cầu cho mọi sự diễn ra đúng như dự kiến của Tolland. Bây giờ cô không cần biết ai là kẻ đứng sau tất cả những chuyện này - Giám đốc NASA, Marjorie Tench, hay đích thân Tổng thống - chi tiết đó không còn quan trọng nữa.

Kẻ đó sẽ không thể phủi tay sau tất cả những gì đã gây ra. Dù kẻ đó có là ai thì sự thật vẫn phải bị phanh phui.

Vết thương trên cánh tay Rachel đã hết chảy máu, và một lượng lớn hoóc-môn adrenaline đang thấm đẫm từng tế bào của cô, khiến cho phản xạ nhạy bén hơn, đồng thời cảm giác đau cũng bớt đi nhiều. Tìm được giấy và bút, Rachel đã nén đau viết một bức điện hai dòng. Những ngôn từ trên giấy không được hùng hồn cho lắm, nhưng lúc này đâu phải là lúc trau chuốt câu chữ. Cô để tờ giấy ấy vào cùng một xấp với những bằng chứng khác - bức ảnh chụp cắt lớp phiến băng Milne, ảnh loài sinh vật biển Bathynomous Giganteus, bản sao những bài báo về các chrondrule hình thành trong lòng đại dương, bản in kết quả soi mẫu đá trên kính hiển vi. Tảng thiên thạch đó hoàn toàn là giả mạo, và những tài liệu này sẽ chứng minh điều ấy.

Rachel xếp tất cả những giấy tờ đó vào máy fax. Do không thuộc lòng nhiều số fax, cô không có nhiều chọn lựa, nhưng Rachel đã quyết định ai sẽ là người nhận được những thông tin này. Nín thở cô cẩn thận bấm số của người nhận.

Vừa nhấn vào nút "gửi". Rachel vừa thầm mong mình đã chọn lựa một cách sáng suốt.

Một tiếng bíp vang lên từ chiếc máy fax.

LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN

Không có gì bất ngờ. Hệ thống liên lạc của con tàu vẫn bị nhiều. Cô kiên nhẫn quan sát chiếc máy hoạt động, hi vọng nó được cài đặt cùng một cơ chế với chiếc máy cô vẫn thường dùng ở nhà riêng.

Nhanh lên nào!

Năm phút sau, lại có một tiếng bíp nữa.

ĐANG KẾT NỐI LẠI...

Tuyệt lắm! Chiếc máy đang tự động quay lại số mà Rachel vừa bấm.

LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN

ĐANG KẾT NỐI LẠI...

Để cho chiếc máy tiếp tục tự động đợi tín hiệu đường truyền, Rachel lao ra ngoài boong tàu, vừa kịp lúc chiếc trục thăng sầm sập quay lại

Chương 119

Cách con tàu Goya một trăm sáu mươi dặm, Gabrielle Ashe đang tròn mắt nhìn màn hình máy tính cá nhân của Thượng nghị sĩ Sexton, kinh ngạc đến sững sờ. Tất cả những nghi vấn của cô đều đúng sự thật.

Nhưng cô không thể ngờ lại đúng đến mức này.

Gabrielle đang xem hàng chục tờ séc ngân hàng mà Thượng nghị sĩ đã quét vào máy tính - đều từ các công ty vũ trụ tư nhân gửi vào tài khoản của Sexton tại đảo Cayman. Tờ có mệnh giá nhỏ nhất cũng trị giá tới mười lăm ngàn đô la. Có mấy khoản lên tới nửa triệu đô.

Chỉ là những khoản chẳng đáng kể, nguyên văn lời ông ta là thế. Tất cả những khoản hiến tặng của họ đều duới mức hai ngàn đô la.

Hiển nhiên là ông ta đã nói dối từ bao lâu nay. Những bằng chứng về hoạt động gây quỹ tranh cử bất hợp pháp không thể tha thứ đang hiện ra sờ sờ trước mắt Gabrielle. Trái tim cô nhói lên, đau vì bị lừa dối, đau vì thất vọng. Ông ta nói dối!

Gabrielle thấy mình thật ngu ngốc, thật nhơ nhuốc. Cô như muốn phát điên.

Ngồi chết sững trong bóng tối, Gabrielle chẳng biết nên thế nào.

Chương 120

Chiếc trực thăng Kiowa đang lượn trước mũi con tàu Goya, Delta-Một đang cúi gập người xuống để nhìn, mắt anh đang chứng kiến một tình thế không thể tưởng tượng nổi.

Michael Tolland đang đứng trên boong tàu, cạnh chiếc tàu lặn cỡ nhỏ. Delta-Hai đang bị treo lủng lẳng trên hai cánh tay máy của chiếc tàu lặn - như thế vừa bị một chú côn trùng khổng lồ bắt làm tù binh - và đang bất lực giãy giữa trong hai cánh tay thép khổng lồ.

Lạy Chúa lòng lành! Cái gì thế không biết?

Rachel Sexton cũng vừa chạy lên boong, đang đứng ngay cạnh một người bị trới giật cánh khuỷu ngay bên chiếc tàu lặn. Chắc chắn đấy là Delta-Ba. Như thế muốn thách thức họ, Rachel đang chĩa súng máy lên trời, loại súng máy đặc biệt chỉ đội Delta mới được trang bị.

Delta-Một thực sự choáng váng, anh không thể hiểu nổi làm sao mà lại thảm hại đến thế. Sai sót của đội Delta trên phiến băng Milne quả là hi hữu, nhưng còn có thể lý giải được. Nhưng sự kiện này thì quả là không tưởng...

Chỉ nguyên thế thôi cũng đã sượng mặt lắm rồi, thế mà đêm nay trên máy bay của Delta-Một còn có một nhân vật vô cùng quang trọng. Sự hiện diện của ông trong một điệp vụ kiểu này gần như là ngoại lệ, nỗi nhục này quả là không lời nào tả xiết.

Đó chính là chỉ huy.

Sau phi vụ ám sát tại chân đài tưởng niệm FDR, chỉ huy yêu cầu anh cho máy bay đáp xuống công viên vắng vẻ gần Nhà Trắng.

Delta-Một được lệnh tiếp đất tại gò nhỏ khuất trong lùm cây. Chỉ huy đã đợi trước ở chỗ tối, và lập tức sải bước lên máy bay. Chỉ sau vài giây, chiếc máy bay lại tiếp tục lao đi làm nhiệm vụ.

Dù rất hiếm khi chỉ huy trực tiếp có mặt trong khi đội của anh thi hành nhiệm vụ, Delta-Một không thể phản đối. Do quá thất vọng sau những gì đội Delta đã làm trên phiến băng Milne, và sợ rằng những sơ suất tương tự có thể dẫn tới những nghi ngờ không cần thiết chỉ huy đã tức thời quyết định là sẽ trực tiếp đôn đốc họ.

Giờ đây, chỉ huy đang tận mắt chứng kiến một thất bại ê chề vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đội Delta.

Phải kết thúc chuyện này. Ngay lập tức.

Từ trên chiếc trực thăng Kiowa, chỉ huy nhìn xuống boong tàu Goya và cũng không thể hiểu nổi. Mọi thứ đều không theo đúng kế hoạch - những nghi ngờ về tảng thiên thạch, cuộc hành quyết bất thành của đội Delta trên phiến băng Milne, rồi vụ ám sát bất đắc dĩ tại đài tưởng rùệm FDR.

"Thưa chỉ huy", mắt vẫn đang nhìn xuống con tàu, Delta-Một lắp bắp, giọng bẽ bàng "tôi không thể tưởng tượng nổi.."

Cả tôi cũng thế đây, chỉ huy nghĩ thầm. Rõ ràng là họ đã đánh giá quá thấp đối thủ của mình.

Chỉ huy cúi xuống nhìn Rachel Sexton. Tay cầm máy điện đàm, cô gái đang nhìn thẳng vào tấm kính phản quang ở cửa sổ máy bay. Khi những lời nói của cô vang lên từ giàn thiết bị âm thanh trên máy bay Kiowa, chỉ huy tưởng rằng cô sẽ yêu cầu tắt hệ thống gây nhiễu để Tolland gọi người đến cứu. Nhưng không, những gì cô nói đáng sợ hơn thế.

"Các người đến muộn mất rồi". Rachel khẳng định. "Ngoài chúng tôi ra, một người khác đã biết chuyện này".

Những từ ngữ ấy như lấp đầy khoang máy bay mất một lúc.

Khả năng tuyên bố đó là thật đã khiến chỉ huy lưỡng lự, dù thoạt đau nó có vẻ chẳng ăn nhập gì với tình huống của họ. Muốn đảm bảo thành công cho kế hoạch, họ cần phải tiêu diệt hết những ai biết sự thật; và sau khi đã giết chừng ấy mạng người, chỉ huy cần phải đảm bảo một cách chắc chắn là những hành động của họ không uổng phí.

Thêm một người nữa biết...

Rachel Sexton vốn là người nghiêm ngặt tuân thủ những quy định bảo mật thông tin, nên chỉ huy không tin là cô đã chia sẻ những thông tin thu lượm được với bất kỳ ai không liên quan trực tiếp đến vụ này.

Những lời nói của Rachel lại lần nữa vang lên trong máy bộ đàm:

"Lùi lại thì tôi sẽ bảo đảm mạng sống cho người của các anh. Cố tình tiếp cận thêm nữa thì họ sẽ chết. Dù thế nào thì sự thật cũng sẽ bị phơi bày. Đừng giết người nữa. Lùi lại đi".

"Cô nói dối". Biết rằng máy tính sẽ làm biến đối chất giọng thật của mình, chỉ huy cất tiếng. "Cô chưa kịp báo với ai hết".

"Anh thật sự tin là thế sao?" Rachel đáp ngay. "Vì không thể liên lạc được với William Pickering nên tôi đã báo tin cho một người khác để phòng trường hợp bất trắc".

Chỉ huy nhíu mày. Quả là đáng gờm.

"Bọn chúng không tin thì phải". Rachel nói với Tolland.

Anh chàng đang bị cánh tay máy treo lơ lửng cười khẩy trong đau đớn. "Khẩu súng đó hết đạn rồi, và chiếc phi cơ này sẽ cho cả hai người xuống địa ngục ngay lập tức cho mà xem. Các người chẳng thể sống nổi đâu. Tốt nhất là thả bọn ta ra".

Chết tiệt, Rachel thầm nghĩ, băn khoăn không biết nên làm gì tiếp, rồi cô quay sang anh chàng đang bị trói giật cánh khuỷu và nhét giẻ vào mồm đang nằm trên boong. Mất nhiều máu, trông anh ta có vẻ đã rất yếu. Rachel cúi xuống, nhìn vào đôi mắt dữ dằn của người lính đó. "Tôi sẽ lấy cái giẻ trong mồm anh ra. Anh hãy nói vào máy bộ đảm bảo họ cho máy bay lùi lại. Hiểu chưa?"

Anh ta gật đầu vẻ khuất phục.

Nhưng miếng giẻ vừa được lấy ra thì anh ta đã lập tức phun đầy mặt Rachel những máu hòa lẫn với nước dãi trong miệng.

"Đồ chó!" Anh ta hổn hen nói. "Không đời nào tao làm thế. Họ sẽ giết chết mày như giết súc vật, và tao sẽ thưởng thức cảnh đó".

Rachel chùi máu và nước dãi trên mặt, Tolland kéo cô lại phía sau, giúp cô đứng vững, rồi cầm lấy khẩu súng máy trên tay cô. Hình như ông đã quyết. Tolland bước đến bên bàn điều khiển gần đó, tay cầm cần gạt, mắt không rời gã đội viên Delta đang nằm trên boong.

"Mày tự đếm đến hai đi", ông nói "rồi trắng mắt ra mà nhìn".

Tolland gạt cần, vẻ mặt giận dữ và sắt đá. Một cánh cửa giật lớn ở boong bên dưới mở toang. Anh chàng đội viên Delta hú lên đầy kinh hãi, rồi biến mất. Ngã nhào xuống lỗ cửa rộng đó, rồi rơi tõm xuống mặt nước cách đó mười mét. Nước toé lên đỏ lòm, anh ta bị lũ cá mập xé xác ngay tắp lự.

Giận run lên, chỉ huy nhìn xuống dòng hải lưu chảy xiết. Nước biển ngầu lên màu máu. Mấy con cá mập đang tranh nhau rỉa một cánh tay của Delta-Ba.

Lạy Chúa tôi.

Chỉ huy nhìn lên boong tàu. Delta-Hai vẫn bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy, và lúc này con tàu ngầm mini Triton đang lơ lửng ngay trên cánh cửa giật đã mở sẵn. Delta-Hai đang chới với. Tolland chỉ cần gạt cần một lần nữa là anh ta sẽ hết đời.

"Được rồi". Ông nói vào máy bộ đàm. "Dừng lại, dừng lại đã!"

Từ mặt boong, Rachel ngước nhìn lên. Dù đang ở tít trên cao, chỉ huy vẫn cảm nhận được lòng quyết tâm đang ngời lên trong mắt cô gái. Rachel đưa máy bộ đàm lên sát miệng. "Các người vẫn chưa tin à?" Cô nói. "Hãy gọi đến tổng đài của NRO, xin số của Jim Samiljan ở Ban Quan hệ công chúng. Tối nay anh ấy trực, và tôi đã cho anh ấy biết toàn bộ sự thật về tảng thiên thạch. Anh ấy sẽ xác thực điều đó".

Lại còn tên tuổi đàng hoàng nữa cơ à? Có vẻ không thật lắm.

Rachel Sexton không phải là người khờ khạo, nhưng chỉ cần vài giây là chỉ huy sẽ biết ngay sự thật. Dù chỉ huy nghĩ rằng không có ai tên là Jim Samiljan làm việc cho NRO, nhưng tổ chức này quá lớn. Biết đâu Rachel nói thật. Trước khi xuống tay, chỉ huy cần phải biết rõ sự thật.

Delta-Một quay sang chỉ huy. "Chúng ta tắt thiết bị gây nhiễu sóng để chỉ huy gọi về kiểm tra nhé?"

Chỉ huy cúi nhìn xuống tàu, cả Rachel lẫn Tolland đều đang ở trên boong. Nếu họ sử dụng điện thoại di động hoặc máy phát vô tuyến thì Delta-Một sẽ lập tức kích hoạt bộ phận gây nhiễu sóng. Không thể có rủi ro.

"Tắt sóng nhiễu đi". Chỉ huy nói, thò tay vào túi lấy điện thoại di động. "Tôi muốn biết chắc chắn rằng Rachel nói dối. Sau đó chúng ta sẽ tìm cách cửu Delta-Hai và kết thúc điệp vụ này".

Tại Fairfax, nhân viên tổng đài ở Sở chỉ huy của NRO tỏ ra cáu kỉnh. "Tôi đã bảo anh rồi, tôi không tìm thấy cái tên Jim Samiljan nào cả".

Đầu dây bên kia vẫn cứ khăng khăng: "Chị tìm tất cả những cách viết khác nhau chưa? Chị đã kiểm tra tất cả các ban chưa?"

Dù đã kiểm tra hết lượt, cô nhân viên tổng đài vẫn rà lại lần nữa. Vài giây sau, câu trả lời: "Không ban nào có ai tên là Jim Samiljan cả. Tôi đã kiểm tra tất cả các cách đánh vần khác nhau".

Thật kỳ quặc, đầu dây bên kia tỏ ra rất hài lòng. "Có nghĩa là NRO không có nhân viên nào tên là Jim Samil..."

Đột nhiên, có người kêu lên, đầu dây bên kia náo động. Người gọi đến chửi rủa ầm ĩ rồi bất thần ngắt cuộc gọi.

Trong khoang máy bay trực thăng Kiowa, Delta-Một giận dữ kêu lên, tay gạt vội cần điều khiển để kích hoạt hệ thống gây nhiễu sóng. Nhưng đã quá muộn. Giữa vô số nút bấm và đồng hô đo trên bàn điều khiển, máy đo NED cho thấy một cuộc gọi trên tần số SATCOM vừa được thực hiện từ tàu Goya. Bằng cách nào nhỉ? Hai người kia vẫn đứng nguyên trên boong cơ mà? Cuộc gọi từ tàu Goya tự kết thúc một tích tắc trước khi Delta-Một kịp gạt cần điều khiển xuống.

Trong phòng thí nghiệm của tàu Goya, một tiếng bíp vang lên từ máy fax.

ĐÃ TÌM ĐƯỢC KÊNH LIÊN LẠC... FAX ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI.

Chương 121

Nếu không giết người thì sẽ bị người giết. Rachel nhận thấy trong bản thân mình một phẩm chất bao lâu nay vẫn tiềm ẩn: Bản năng sinh tồn - khả năng chịu đựng dẻo dai trong tình huống hiểm nghèo.

"Bản fax vừa gửi đi có nội dung gì thế?" Câu hỏi vang lên trong máy bộ đàm.

Như vậy là máy fax hoạt động đúng như dự kiến, Rachel thấy nhẹ cả người. "Các người hãy đi khỏi đây!" Cô ra lệnh, mắt nhìn thẳng lên chiếc trực thăng đang lượn trên đầu. "Thế là hết. Bí mật của các người đã bị lộ tẩy. Rachel điểm qua tất cả những tài liệu được gửi đi. Gần chục trang tài liệu và hình ảnh. Những bằng chứng không thể chối cãi về tảng thiên thạch giả mạo. Nếu hại chúng tôi thì các người sẽ càng gặp nhiều rắc rối hơn".

Im lặng hồi lâu:

"Cô gửi bản fax đó cho ai?"

Rachel chẳng dại gì trả lởi câu hỏi đó. Cô và Tolland phải kéo dài thời gian một cách tối đa. Cả hai đang đứng ngay gần cửa sập trên boong tàu, tạo thành một đường thẳng với tàu lặn Triton. Nếu những kẻ trên máy bay bắn vào họ thì tên lính đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy kia sẽ trở thành bia đỡ đạn.

"William Pickering". Kẻ đó phỏng đoán, có vẻ đầy hy vọng. "Cô đã gửi cho William Pickering".

Sai rồi. Rachel thầm nghĩ. Quả thật cô đã nghĩ ngay đến William Pickering, nhưng lại sợ những kẻ đang truy sát mình đã ra tay với ông trước - nếu đã làm thế thật thì chúng sẽ quyết giết cô bằng được. Trong lúc tuyệt vọng. Rachel đã gửi tài liệu đến số máy duy nhất mà cô thuộc.

Văn phòng của cha cô.

Sau khi mẹ cô qua đời, cha của Rachel đã liên tục dùng máy fax để giải quyết tất cả những vấn đề bất động sản có liên quan đến con gái thay vì trực tiếp tìm gặp Rachel, và số máy của ông đã tạo thành một vết hằn trong tâm trí của cô. Rachel đã tự nhủ lòng sẽ không bao giờ chịu ngửa tay cầu xin ông ta bất kỳ điều gì, nhưng đêm nay, Thượng nghị sĩ Sexton có đủ hai yếu tố quan trọng nhất những động cơ chính trị mạnh mẽ để công bố những tài liệu này không chút chậm trễ, và đủ thế lực để gọi điện đến Nhà Trắng nhằm yêu cầu bọn họ lệnh cho đội Delta ngừng lại ngay.

Giờ này chắc chắn cha của Rachel không có mặt trong văn phòng, nhưng văn phòng của ông những lúc thế này luôn cửa đóng then cài cẩn mật, và những tài liệu giá trị sẽ được lưu trữ trong két có khóa hẹn giờ. Giả sử những kẻ đang truy sát cô biết rõ đích đến của bản fax này thì chúng cũng không cách gì lọt qua hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt của tòa nhà Phillip A. Heart của Chính phủ mà không gây ra cảnh náo loạn ầm ỹ.

"Cô đã gửi bản fax đó cho ai?" Câu hỏi lại một lần nữa vang lên trong máy bộ đàm. "Cô vừa đặt người đó vào vòng nguy hiểm".

Rachel biết cần phải ăn nói một cách đàng hoàng rắn rỏi, dù trong lòng vô cùng sợ hãi. Cô đưa tay chỉ người lính Delta đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy. Máu từ đùi anh ta vẫn tiếp tục nhỏ giọt xuống mặt nước cách đó mười mét. "Người duy nhất bị nguy hiểm lúc này chính là anh ta". Cô nói vào máy bộ đàm. "Quá muộn rồi. Các người cút đi. Tài liệu đã được gửi đi. Các người thua rồi. Cút mau, nếu không kẻ kia sẽ phải chết".

Kẻ đang đối thoại với Rachel trên máy bộ đàm phản công: "Cô Sexton, cô chưa hiểu hết tầm quan trọng của..."

"Hiểu hết à?" Rachel ngay lập tức đốp lại. "Tôi hiểu là các người đã sát hại những người vô tội! Tôi hiểu rằng các người đã dối trá về tảng thiên thạch? Tôi hiểu rằng các người sẽ không thể ém nhẹm chuyện này! Dù các người có giết hết cả nhóm chứng tôi thì cũng không thay đổi được tình hình đâu!"

Im lặng hồi lâu, rồi giọng nói ấy lại vang lên. "Thôi được, tôi sẽ xuống".

Rachel thấy toàn thân co cứng lại. Xuống ư?

"Tôi không mang theo vũ khí". Giọng nói ấy lại vang lên lần nữa "Các vị đừng xử sự hấp tấp. Chúng ta cần phải nói chuyện một cách thẳng thắn".

Rachel chưa kịp phản ứng thì chiếc trực thăng đã đáp xuống boong tàu Goya. Cửa máy bay mở ra, và có người bước xuống.

Người đó mặc chiếc áo khoác màu đen giản dị và đeo cà vạt. Trong thoáng chốc, Rachel tưởng mình bị mất trí.

Cô đang trông thấy William Pickering.

Đứng trên boong tàu, William Pickering nhìn Rachel đầy tiếc nuối.

Ông không thể nào lường trước được cơ sự này. Chân bước lại gần cô gái, ông có thể cảm thấy rõ ràng phức hợp những cảm giác trái ngược trong lòng Rachel.

Kinh ngạc, bị phản bội, sững sờ, giận dữ.

Cũng dễ hiểu, ông thầm nghĩ. Có quá nhiều chuyện cô ấy đâu có biết.

Bỗng Pickering nhớ đến con gái mình. Không hiểu trước khi chết, Diana đã cảm thấy thế nào. Cả con bé và Rachel đều là nạn nhân của một cuộc chiến, cuộc chiến mà Pickering đã tự thề với lòng mình là sẽ không chịu chùn bước. Nhưng đôi khi cái giá phải trả thật là thảm khốc.

"Rachel". Pickering lên tiếng. "Chúng ta có thể giải quyết chuyện này một cách ổn thỏa. Có một số điều tôi cần phải giải thích với cô".

Rachel đẳy vẻ kinh hãi, dường như thậm chí còn thấy buồn nôn. Tolland chĩa thẳng nòng súng máy vào giữa ngực Pickering, mặt ông cũng đầy vẻ ngỡ ngàng.

"Lùi lại!" Tolland thét lớn.

Còn cách họ năm mét thì Pickering dừng lại và nhìn thẳng vào mắt Rachel. "Cha cô đang nhận tiền hối lộ, Rachel ạ. Tiền của các công ty vũ trụ tư nhân, ông ấy có ý định giải thể NASA và cho phép các công ty tư nhân nhảy vào kinh doanh vũ trụ. Vì an ninh quốc gia nên tôi phải chặn tay ông ấy lại".

Sắc mặt Rachel đầy vẻ kinh hoàng.

Pickering thở dài. "Bất chấp những sai lầm của nó, NASA phải là một cơ quan của Chính phủ". Chắc chắn là cô ấy hiểu hết những nguy cơ ấy. Tư hữu hóa có nghĩa là tạo điều kiện để nguồn chất xám siêu việt của NASA chảy sang các công ty tư nhân. Sẽ không còn các bí mật quốc gia nữa. Quân đội cũng không còn cơ hội tiếp nhận những tiến bộ khóa học nữa. Để tìm kiếm siêu lợi nhuận, các công ty tư nhân sẽ bán những sáng chế của NASA cho bất kỳ nhà thầu nào trả giá cao!

Giọng Rachel run rẩy: "Ông lấy danh nghĩa an ninh quốc gia để giả mạo tảng thiên thạch đó ư?"

"Câu chuyện đã diễn biến khác hẳn dự kiến". Pickering phân trần. "Tôi chỉ lên kế hoạch cứu nguy cho một cơ quan nhà nước. Giết người không hề là một phần của phác thảo kế hoạch".

Pickering biết, giống như tất cả những mưu đồ tình báo khác, kế hoạch về tảng thiên thạch này chính là kết quả của sự sợ hãi. Cách đây bảy năm, trong khi đang triển khai hệ thống tai nghe ngầm dưới nước của NRO tại những vùng biển thật sâu để không kẻ phá hoại nào có thể xuống được đến đó, Pickering đã cho sử dụng công nghệ mới của NASA để chế tạo một tàu ngầm siêu bền có khả năng đưa người xuống tận những vùng biển cực sâu - kể cả khu vực đáy biển Mariana Trench.

Con tàu hai người lái này được chế tạo bằng loại gốm siêu bền mới. Còn bản thiết kế chi tiết thì được đánh cắp từ máy tính của kỹ sư người Califomia tên là Graham Hawkes - một thiên tài chế tạo tàu ngầm luôn mang trong tim giấc mơ về con tàu có khả năng lặn rất sâu mà anh ta tự đặt tên là Deep Flight II. Hawkes không thể tìm được nguồn tài trợ để xây dựng nguyên mẫu cho thiết kế của mình. Nhưng Pickering thì có nguồn tài chính không bao giờ cạn.

Sau khi đã có con tàu trong tay, Pickering cử một đội xuống đáy biển để lắp đặt những tai nghe mới tại khu vực đáy biển Mariana Trench, ở những độ sâu không ai dám nghĩ tới. Tuy nhiên, trong khi khoan, họ đã tìm thấy một cấu trúc địa chất mà chưa nhà khoa học nào biết tới, bên trong cấu trúc ấy là những chrondrule và các mẫu hóa thạch của một loài vật không tên. Và bởi NRO cần phải giữ bí mật về chiếc tàu ngầm loại mới này, họ không thể chia sẻ những gì phát hiện được với bất kỳ ai.

Mãi đến gần đây, do có quá nhiều mối lo ngại, đội ngũ cố vấn khoa học của NRO mới quyết định sử dụng những kiến thức về thiên thạch thu thập được ở Mariana Trench để trợ giúp cho NASA. Biến một tảng đá lấy từ đáy biển lên thành một tảng thiên thạch hóa ra lại vô cùng đơn giản. Dùng động cơ đốt hydro ECE, họ tạo ra lớp vỏ ngoài cháy xém y như thật. Sau đó, họ cho một tàu ngầm cỡ nhỏ lặn xuống dưới phiến băng Milne và chôn tảng đá ngược từ dưới lên. Công việc hoàn tất, tảng đá nằm im trong lòng băng hà như thể nó đã nằm đó từ mấy thế kỷ nay.

Rủi thay, những phi vụ bí mật kiểu này rất hay bị phanh phui và đi đến thất bại chỉ vì vài tiểu tiết. Ngày hôm qua, toàn bộ âm mưu của họ đã đổ vỡ chỉ vì một dúm những sinh vật biển phù du...

Ngồi trên máy bay, Delta-Một lặng lẽ quan sát màn kịch đang diễn ra. Dù Tolland và Rachel có vẻ như đang hoàn toàn không chế tình hình, anh suýt nữa không nhịn được cười trước sự ngây thơ của bọn họ. Khẩu súng máy trong tay Tolland hoàn toàn vô tác dụng, từ tít xa anh đã thấy ngay là cò súng đã bị đẩy tít về phía sau, có nghĩa là không còn một viên đạn nào trong nòng súng cả.

Delta-Một nhìn người đồng đội của mình đang giãy giữa trong gọng kìm sắt của chiếc tàu ngầm mini, anh biết giờ là lúc không thể chậm trễ được nữa. Cả hai đối tượng trên boong đều đã tập trung chú ý vào William Pickering, giờ là lúc Delta-Một hành động. Vẫn để động cơ nổ đều, anh mở cánh cửa phụ bên hông máy bay, tụt xuống. Tay cầm súng máy, anh tiến về phía mũi tàu. Trước khi máy bay hạ cánh, Pickering đã ra những mệnh lệnh rất rõ ràng, và lần này Delta-Một quyết không làm hỏng việc.

Chỉ trong vòng vài phút, anh biết rõ thế, câu chuyện này sẽ kết thúc.

Chương 122

Vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ, Zach Herney đang ngồi bên bàn làm việc, trong phòng bầu dục, đầu ong ong. Ông vừa được thông báo về một rắc rối mới.

Marjorie Tench đã chết.

Các trợ lý của Herney nói rằng họ có thông tin cho thấy Tench đã lái xe đến đài tưởng niệm FDR để gặp riêng William Pickering.

Giờ đây, khi cả Pickering cũng mất tích, mọi người đang lo rằng cả ông ta cũng đã bị sát hại.

Gần đây, Tổng thống đã có những bất đồng đáng kể đối với Pickering. Cách đây mấy tháng, ông được biết Pickering đã mượn danh ông để làm một số chuyện phi pháp với lý do là để bảo vệ cho uy tín của Tổng thống đang tạm thời bị uy hiếp.

Sử dụng phương tiện và nhân lực của NRO, Pickering đã bí mật thu thập khá nhiều thông tin về sự đồi bại của Thượng nghị sĩ Sexton, đủ để đánh đắm chiến dịch tranh cử của ông ta - những bức ảnh chụp ông Thượng nghị sĩ đang giao hoan với trợ lý thân tín Gabrielle Ashe, những con số và tài liệu chứng minh Sexton đã nhận tiền hối lộ của các công ty vũ trụ tư nhân. Pickering đã nặc đanh gửi tất cả những tài liệu đó đến cho Tench và cho rằng Nhà Trắng sẽ sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Nhưng ngay khi nhìn thấy những tài liệu ấy, Tổng thống đã cấm tuyệt đối không cho Tench được động đến chúng. Những vụ bê bối tình ái và nhận tiền hối lộ chẳng khác nào căn bệnh ung thư của thành phố Washington này, và đem công khai thêm một vụ nữa chỉ càng làm người dân mất lòng tin vào Chính phủ mà thôi...

Sự hoài nghi sẽ hủy hoại đất nước này.

Dù biết rằng mình có thể đánh bại đối thủ, nhưng Herney từ chối làm điều đó, vì cái giá phải trả sẽ là thanh danh hoen ố của Thượng nghị viện Hoa Kỳ.

Không dùng các biện pháp tiêu cực, Herney sẽ chiến thắng Sexton bằng các phương cách khác.

Tức tối khi thấy Nhà Trắng không sử dụng những tài liệu mình công bố, Pickering đã tự tay xì thông tin cho cánh báo chí rằng Sexton đã ăn nằm với Gabrielle Ashe. Rủi thay, Sexton đã khẳng định sự vô tội của ông ta một cách thuyết phục và đầy công phẫn đến nỗi chính Tổng thống đã phải lên tiếng xin lỗi. Rốt cuộc thì William Pickering chỉ gây thêm thua thiệt. Và Herney đã nói thẳng với Pickering rằng nếu còn tiếp tục can thiệp thô bạo kiểu đó nữa thì ông ta sẽ bị truy tố. Khôi hài là ở chỗ William Pickering chẳng yêu mến gì Tổng thống Herney. Những nỗ lực của Giám đốc NRO chẳng qua là để cứu nguy cho NASA. Trong số hai con quỷ thì Herney có vẻ ít hung dữ hơn.

Chẳng lẽ có kẻ đã sát hại Pickering rồi sao?

Herney không thể tin nổi.

"Thưa Tổng thống". Một trợ lý lên tiếng. "Theo lệnh của Tổng thống, tôi đã liên lạc với Lawrence Ekstrom và thông báo với ông ấy chuyện của Marjorie Tench".

"Cảm ơn anh".

"Ông ấy muốn nói chuyện với Tổng thống".

Herney vẫn còn rất giận Ekstrom vì đã nói dối về PODS. - Bảo ông ta là sáng mai tôi mới có thời gian.

"Ông Ekstrom muốn nói chuyện với Tổng thống ngay bây giờ ạ?" Người trợ lý có vẻ miễn cưỡng. "Trông ông ấy rất lo lắng!"

Ông ta lo lắng sao? Herney không thể kìm chế nổi cơn giận dữ. Vừa sải bước đến bên máy điện thoại, ông vừa băn khoăn không hiểu ông ta còn có điều gì muốn nói nữa đây

Chương 123

Trên boong tàu Goya, Rachel thấy đầu óc quay cuồng. Màn sương mờ bí hiểm bao quanh sự kiện đang dần được vén lên. Sự thật quá bất ngờ khiến Rachel cảm thấy chới với và phẫn nộ. Nhìn con người xa lạ trước mặt, cô thấy căm ghét giọng nói của ông ta.

"Chúng ta cần phải tạo dựng lại hình ảnh cho NASA". Pickering nói tiếp "Sự xói mòn lòng tin và cắt giảm ngân sách đã gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm". Pickering ngừng lời một lúc đôi mắt mầu xám nhìn như thể muốn thôi miên Rachel. "NASA cần có một thắng lợi, rất cần. Và phải có người tạo nên thắng lợi đó cho họ".

Cần phải hành động, Pickering thầm nghĩ.

Tảng thiên thạch thực ra là một nước đi tuyệt vọng. Pickering và nhiều người khác đã cố cứu NASA bằng cách vận động hành lang để sáp nhập cơ quan này vào chung một cộng đồng an ninh với họ để nó có thể được hưởng một nguồn ngân sách dồi dào hơn, tuy nhiên Nhà Trắng hết lần này đến lần khác từ chối với lý do rằng họ có ý đồ can thiệp vào các hoạt động nghiên cứu khoa học thuần tuý. Những lý tưởng thiển cận. Khi những luận điệu chống NASA của Sexton ngày càng chiếm được sự đồng cảm của công luận Pickering và những nhà quân sự khác biệt rằng họ không còn nhiều thời gian nữa. Tất cả đều đồng tình rằng đánh vào trí tưởng tượng của công chúng cũng như Nghị viện là cách duy nhất còn lại để giải quyết vấn đề. Để duy trì sự tồn tại của nó, trình nghiên cứu vũ trụ quốc gia cần có một luồng sinh khí mới vĩ đại - một cái gì đó để gợi cho công chúng nhớ lại những năm tháng huy hoàng thời con tàu Apollo. Và Herney cũng cần có sự trợ giúp, để có thể đánh bại được Thượng nghị sĩ Sexton.

Mình đã cố hết sức để giúp ông ấy, Pickering tự nhủ khi nhớ đến tất cả những tài liệu ông đã giao cho Marjorie Tench. Thật đáng tiếc Zach Herney đã không cho phép bà ta sử dụng những bằng cớ đó. Không còn cách nào khác, Pickering đành phải dùng đến biện pháp mạnh.

"Rachel này" Pickering nói "những thông tin mà cô vừa fax đi, quả thật rất nguy hiểm. Cô phải hiểu điều đó. Nếu những thông tin này lộ ra ngoài, cả NASA lẫn Tổng thống sẽ bị coi là những kẻ đồng loã. Người ta sẽ phản ứng rất dữ dội. Tổng thống và NASA không biết gì hết, Rachel ạ. Họ vô tội. Chính họ cũng tin rằng tảng thiên thạch đó là thật".

Pickering không hề có ý định để Herney hay Ekstrom biết sự thật về kế hoạch này. Họ quá lý tưởng, và chắc chắn sẽ không chấp nhận hành động dối trá này, dù rất có lợi cho NASA và thắng lợi của Tổng thống. Tội lỗi duy nhất của Giám đốc NASA Ekstrom chỉ là thuyết phục Giám đốc Dự án PODS nói dối về phần mềm bị lỗi của họ. Chắc chắn ông ta sẽ rất lấy làm ân hận khi thấy tảng thiên thạch này bị săm soi kỹ đến thế.

Phẫn nộ trước đường hướng tranh cử tích cực của Tổng thống, Marjorie Tench đã hiệp lực với Lawrence Ekstrom trong vụ lừa dối về phần mềm của PODS. Hi vọng của họ là sự kiện này sẽ giúp Tổng thống giành lại vị thế trước những đòn tấn công liên tiếp của Sexton.

Nếu Tench chịu sử dụng những bức ảnh và những tài liệu về tài chính mà mình cung cấp thì những chuyện này đâu có xảy ra!

Cái chết của Tench, dù quả là vô cùng đang tiếc, đã được quyết định ngay khi Rachel gọi điện cho bà ta để thông báo về những dữ liệu không chính xác. Pickering biết rằng bà ta sẽ cho điều tra đến cùng để tìm cho được mục đích thật sự của Rachel, và ông không thể để cuộc điều tra đó diễn ra. Nực cười là ở chỗ bà ta càng có ích cho Tổng thống sau cái chết ấy. Chết đi như thế, bà ta sẽ khiến cho nhiều người vì thương cảm mà bỏ phiếu cho Tổng thống, và cũng sẽ khiến cho công chúng nghi ngờ, rằng chính Thượng nghị sĩ Sexton đã chơi xấu sau khi bị bà ta đẩy vào tình thế quá nhục nhã trên kênh CNN.

Rachel vẫn không thay đổi thái độ, cô nhìn thẳng vào mắt Giám đốc của mình.

"Cô hãy hiểu rằng nếu những tin này lọt ra ngoài, cô sẽ làm hại Tổng thống vô tội và một tổ chức cũng vô tội như thế. Và cô cũng sẽ góp phần đẩy một phần tử rất nguy hiểm vào chiếc ghế Tổng thống. Hãy cho tôi biết cô đã fax tài liệu cho ai?"

Sắc mặt Rachel chợt thay đổi khi ông ta nói đến đó - vẻ mặt của người đang kinh hoàng và đau đớn khi nhận ra sai lầm nghiêm trọng của bản thân mình.

Sau khi đi qua mũi tàu và sang đến mạn phải, Delta Một lúc này đang đứng trong phòng thí nghiệm. Lúc máy bay mới đến, anh thấy Rachel từ đây bước ra. Màn hình máy tính trong phòng đang hiển thị những hình ảnh khiến người ta khó có thể an lòng - một xoáy nước sâu đầy màu sắc sặc sỡ đang hoạt động dữ đội đâu đó bên dưới còn tàu Goya.

Thêm một lý do nữa để biến khỏi nơi này, anh thầm nghĩ, thẳng tiến tới mục tiêu của mình...

Trên cái bục nhỏ, ở sát mảng tường đối diện, anh nhìn thấy máy fax. Trên khay máy có một xấp giấy, đúng như Pickering đã dự đoán Delta Một cầm lấy xấp giấy ở trên cùng là những chữ viết tay của Rachel. Chỉ có hai dòng. Anh đọc lướt.

Trúng vấn đề ghê, anh thầm nghĩ.

Xem lướt qua tập tài liệu, anh vừa ngạc nhiên vừa thán phục những gì liên quan đến tảng thiên thạch giả mà Tolland và Rachel đã phanh phui ra được. Đọc những trang giấy này, không ai còn có thể mảy may nghi ngờ. Không cần ấn nút "quay lại số" - Delta Một cũng thấy ngay bản fax vừa rồi được gửi tới đâu. Số fax mới nhất vẫn còn hiện nguyên xi trên màn hình LCD.

Một số máy ở thủ đô Washington.

Anh thận trọng ghi lại số máy đó, cầm toàn bộ xấp tài liệu, rồi ra khỏi phòng thí nghiệm.

Tolland chĩa súng máy vào giữa ngực William Pickering, hai bàn tay nhớp nháp mồ hôi xiết chặt lấy khẩu súng. Giám đốc NRO vẫn tiếp tục thuyết phục Rachel cho ông ta biết cô vừa gửi thông tin cho ai, và Tolland bắt đầu cảm thấy bất an. Rõ ràng là ông ta đang lấy cớ để kéo dài thơi gian. Để làm gì?

"Nhà Trắng và NASA hoàn toàn vô tội". Pickering nhắc lại. "Hãy hợp tác với tôi. Đừng để những sai lầm của cá nhân tôi hủy hoại nốt chút danh tiếng ít ỏi còn lại của NASA. Nếu tin này lọt ra ngoài thì cả thế giới sẽ cho rằng NASA là kẻ chủ mưu. Chúng ta cần phải thỏa hiệp một chút. Tổ quốc cần tảng thiên thạch đó. Lúc này vẫn còn chưa muộn. Hãy cho tôi biết cô đã fax thông tin cho ai".

"Để ông lại giết thêm một người nữa à?" Rachel nói. "Ông khiến tôi thấy buồn nôn".

Thái độ bất khuất của Rachel khiến Tolland kinh ngạc. Cô khinh bỉ cha mình, nhưng không hề có ý định đặt ông ta vào bất kỳ tình huống nguy hiểm nào. Thật đáng tiếc, động thái này của Rachel không mang lại hiệu quả mong muốn. Giả sử ngài Thượng nghị sĩ có mặt tại văn phòng, đọc bản fax, sau đó gọi điện cho Tổng thống để khẳng định rằng tảng thiên thạch chỉ là giả mạo và yêu cầu ông ta lệnh cho đội đặc nhiệm dừng tay ngay lập tức thì Nhà Trắng cũng không thể hiểu nổi Sexton đang ở đâu và đang nói về cái gì.

"Tôi chỉ nhắc lại một lần này nữa thôi". Pickering nói, mắt nhìn Rachel đay hăm dọa. "Tình thế lúc này vô cùng phức tạp và cô không thể hiểu hết được. Cô đã phạm phải sai lầm trầm trọng khi fax những thông tin ấy. Cô vừa đặt cả quốc gia trong vòng nguy hiểm".

Mục đích duy nhất của William Pickering chỉ là kéo dài thời gian, lúc này Tolland đã hiểu ra. Có một kẻ đang từ mạn phải lừ lừ tiến lại. Trông thấy tên lính đó cầm trên tay xấp tài liệu và khẩu súng máy, ông chợt thấy sợ.

Phản ứng tức thì và quyết liệt của Tolland khiến chính bản thân ông phải ngỡ ngàng. Vẫn giữ chặt khẩu súng, ông quay về phía tên lính, và xiết cò.

Chỉ có một tiếng cách vang lên.

"Tôi đã tìm được số máy đó". Delta-Một nói, đưa xấp tài liệu cho Pickering. "Và ông Tolland hết đạn rồi".

Chương 124

Sedgewick Sexton lao ngay đến tòa văn phòng Thượng viện Philip A. Hart. Không hiểu bằng cách nào mà Gabrielle đã vào được văn phòng của ông. Khi nói chuyện với cô ta trên điện thoại. Ông nghe rõ mồn một tiếng tích tắc nhịp ba rất đặc trưng của đồng hồ treo tường Jordain. Chắc chắn là sau khi nghe lỏm cuộc họp bí mật của ông với SFF, cô ta đã nghi ngờ và đến đây lục lọi tìm bằng chứng.

Làm thế quái nào mà cô ta vào trong được nhỉ.

Sexton lấy làm mừng, ông mới đổi mật khẩu máy tính.

Đặt chân đến cửa văn phòng. Sexton gõ mật khẩu, tắt chuông báo động. Ông lục túi tìm chìa khoá, tra chìa vào ổ, mở toang cửa, lao thẳng vào trong, định bắt quả tang Gabrielle ở trong phòng.

Nhưng văn phòng chẳng có một ai, tối mò mò, nguồn sáng duy nhất là đèn tín hiệu màn hình máy tính. Ông bật đèn lên, mắt sục sạo khắp nơi. Mọi thứ vẫn y nguyên Trừ tiếng tích tắc nhịp ba phát ra từ đồng hồ treo tường, căn phòng hoàn toàn im lặng.

Cô ta ở chỗ quái nào nhỉ?

Có tiếng sột soạt trong nhà tắm, ông đâm bổ vào bật đèn lên.

Không có ai. Ông kiểm tra đằng sau cánh cửa. Không có gì.

Bối rối, Sexton ngắm mình trong gương, băn khoăn không hiểu có phải tại đêm nay ông đã uống quá nhiều rượu hay không. Mình đã nghe thấy mà. Thẫn thờ, bối rối, Sexton quay trở ra văn phòng.

"Gabrielle!" Ông gọi to. Ông bước ra ngoài hành lang, sang văn phòng của thư ký. Chẳng thấy đâu. Phòng năy cũng tối om.

Có tiếng ai xả nước trong nhà vệ sinh nữ, Sexton quay phắt lại, sải bước về plúa ấy. Ông đến nơi đúng lúc Gabrielle vừa bước ra và đang hơ tay cho khô. Nhìn thấy Sexton, cô nhảy dựng lên.

"Chúa ơi! Giật cả mình!" Gabrielle có vẻ hoảng hốt thực sự "Ông làm gì ở đây thế?"

"Cô nói rằng đến văn phòng để tìm tài liệu về NASA". Ông lên tiếng. "Tài liệu đâu?"

"Em không tìm được. Em phải lục lọi khắp cho nên mới lâu thế".

Sexton nhìn thẳng vào mắt cô gái. "Cô vào văn phòng của tôi phải không?"

Máy fax đã cứu mạng mình, Gabrielle thầm nghĩ. Vài phút trước, cô vẫn còn ngồi trước máy tính của Sexton, xoay xở tìm cách in bằng chứng về những khoản tài chính bất hợp pháp. Những tệp tin đó được bảo vệ bằng phương pháp gì đó, cô không thể gõ lệnh in vào máy. Nếu không có chuông máy fax bất thần vang lên để kéo Gabrielle về với thực tại thì chắc lúc này cô vẫn ngồi nguyên ở đó. Gabrielle cho rằng hồi chuông ấy chính là điểm báo. Không kịp xem nội dung bản fax, cô tắt máy tính, xếp lại mọi thứ như cũ, rút ra ngoài bằng con đường lúc nãy cô đã đột nhập vào. Chưa trèo qua hẳn tường phòng tắm, Gabrielle nghe tiếng Sexton lao vào văn phòng.

Lúc này, khi Sexton đang đứng chặn trước mặt cô, mắt gườm gườm, Gabrielle có cảm giác rằng ông ta đang nhìn xoáy vào sâu trong mắt cô để kiểm tra xem cô có gian dối hay không. Sedgewick Sexton cực kỳ mẫn cảm với những lời nói dối. Khi nào Gabrielle nói dối là ông ta biết ngay.

"Thượng nghị sĩ đã uống quá nhiều rượu". Gabrielle vừa nói vừa quay mặt đi. Làm thế nào mà ông ta biết là mình vào trong văn phòng nhỉ?

Sexton túm lấy vai Gabrielle và xoay cô gái về phía mình. "Cô có vào trong văn phòng của tôi không?"

Gabrielle thấy sợ. Rõ ràng là Sexton đã uống rất nhiều. Ông ta xiết vai cô rất mạnh. "Trong văn phòng của ông sao?" Cô hỏi, gượng cười phá lên. "Bằng cách nào? Để làm gì?"

"Tôi nghe thấy tiếng tích tắc nhịp ba của đồng hồ treo tường Jordain lúc nói chuyện điện thoại với cô cơ mà".

Gabrielle chột dạ. Đồng hồ treo tường sao? Cô không hề để ý đến điều đó. "Ông không thấy điều đó là rất lố bịch à?"

"Ngày nào tôi chả ngồi trong văn phòng suốt. Tôi phải biết đồng hồ của tôi kêu thế nào chứ".

Gabrielle cảm thấy rằng nên giải quyết chuyện này một cách chóng vánh. Tấn công chính là cách phòng thủ tốt nhất. Yolanda vẫn luôn nói vậy. Tay chống nạnh, cô hùng hổ quay phắt về phía ông ta. Đứng sát trước mặt Sexton, nhìn thẳng vào mắt ông ta, phẫn nộ: "Thượng nghị sĩ cho phép tôi nói thẳng. Bây giờ là bốn giờ sáng, ông say rượu, ông nghe có tiếng tích tắc trên điện thoại, thế là ông lao thẳng đến đấy chứ gì?" Cô sừng sộ chỉ cánh cửa văn phòng của ông ta ở cuối hành lang. "Ông định buộc tội tôi qua mặt hệ thống báo động của Liên bang, mở hai ổ khoá, đột nhập vào văn phòng của ông, rồi lại ngu si đến mức trả lời cuộc gọi của ông trong khi đang tiến hành việc làm tày đình đó, tiếp đó lại bật hệ thống báo động lên rồi đi ra ngoài, và cuối cùng lại còn bình tĩnh vào nhà vệ sinh và quay ra tay không. Tôi nói có đúng không, hả?"

Sexton trợn trờn mắt ngỡ ngàng.

"Phải có lý do thì người ta mới bảo nhau không nên uống rượu một mình chứ". Gabrielle nói tiếp. "Ông có muốn nói tiếp chuyện NASA nữa hay không đây?"

Sexton quay về văn phòng của mình, đờ đẫn. Ông tiến thẳng tới quầy bar, rót một ly Pepsi. Rõ ràng là ông không hề cảm thấy say. Chẳng lẽ ông lại nhầm? Trên bức tường đối diện, chiếc đồng hồ Jordain vẫn đều đều phát ra tiếng tích tắc nhịp ba như muốn trêu ngươi. Uống một hơi cạn ly Pepsi, Sexton rót thêm ly nữa cho mình và một ly cho Gabrielle.

"Có uống không, Gabrielle?" Ông hỏi. Gabrielle không vào trong phòng. Cô vẫn đang đứng ở ngưỡng cửa, chân di di mũi giầy. "Thôi nào, vì Chúa, vào đi. Nói xem, cô đã tìm được thông tin gì về NASA?"

"Tôi nghĩ rằng đêm nay thế là đã quá đủ". Gabrielle tỏ thái độ xa cách. "Để mai chúng ta nói cũng được".

Sexton chẳng còn lòng dạ nào mà chờ đợi. Ông cần thông tin ngay lập tức, và không có ý định tỏ ra quy luỵ. Ông thở dài mệt mỏi. Hãy tỏ ra tin tưởng ở cô ta. Đây là vấn đề lòng tin. "Tôi thật là điên". Ông nói. "Cho tôi xin lỗi. Ngày hôm nay quả là khủng khiếp. Tôi cũng chẳng hiểu nổi mình đang nghĩ gì".

Gabrielle vẫn không nhúc nhích..

Sexton bước lại bên bàn làm việc, đặt ly Pepsi của Gabrielle lên khay nước. Ông ra hiệu bảo Gabrielle đến ngồi vào chiếc ghế bọc da của mình - chiếc ghế quyền lực. "Ngồi xuống đã nào. Uống một chút đã. Tôi phải đi vã chút nước lên mặt". Ông đi về phía phòng tắm.

Gabrielle vẫn đứng nguyên ở cửa.

"Hình như có người fax tài liệu đến". Sexton nói vọng ra từ nhà tắm. Phải thể hiện rằng mình tin tưởng cô ta. "Cô xem hộ tôi cái".

Sexton đóng cửa lại, đợi cho nước lạnh chảy đầy bồn rửa mặt. Ông vã nước lên mặt, lên đầu nhưng không hề thấy khá hơn. Chưa bao giờ ông rơi vào tình thế này - biết chắc rằng mình đúng, thế mà hóa ra lại không đúng. Sexton luôn tin vào bản năng và bản năng mách bảo rằng Gabrielle Ashe đã đột nhập vào văn phòng của ông.

Nhưng bằng cách nào? Không thể nào.

Sexton đành hạ quyết tâm bỏ qua chuyện này để tập trung vào vấn đề trước mắt: NASA. Lúc này ông cần Gabrielle. Giờ không phải lúc tạo khoảng cách với cô ta. Cần phải biết những thông tin cô ta đang có. Quên bản năng đi. Mình đã lầm.

Lau khô mặt, Sexton ngửa đầu ra sau rồi hít một hơi thật dài.

Hãy thư giãn, ông ta tự bảo bản thân. Đừng tỏ ra quá quắt. Nhắm mắt, thở sâu thêm lần nữa, ông cảm thấy tỉnh táo hơn.

Ra khỏi phòng tắm, Sexton thở phào nhận thấy Gabrielle đã vào trong văn phòng. Tốt lắm, ông nghĩ thầm. Giờ thì có thể bắt đầu làm việc.

Gabrielle đang đứng bên máy fax, đọc lướt những tài liệu vừa được gửi tới. Tuy nhiên, khi nhìn thấy vẻ mặt của Gabrielle, Sexton bối rối. Nỗi sợ hãi và sự ngỡ ngàng hằn rõ trên nét mặt cô gái.

"Cái gì thế?" Sexton nói, chân bước lại phía Gabrielle.

Thư ký riêng của ông loạng choạng, như thể sắp ngã đến nơi.

"Cái gì thế?"

"Tảng thiên thạch..." Gabrielle nghẹn ngào, giọng nói yếu ớt. bàn tay nm rẩy đưa trước mặt Sexton xấp tài liệu. "Và con gái của ông... Chị ấy đang gặp nguy hiểm".

Ngỡ ngàng, Sexton tiến lại, cầm lấy tệp tài liệu từ tay Gabrielle.

Trên cùng là một trang viết tay. Ông nhận ra ngay nét chữ này. Ngôn từ vô cùng đơn giản, nhưng nội dung thì quả là một cú sốc lớn.

Tảng thiên thạch là giả. Đây là bằng chứng. NASA, Nhà Trắng đang tìm cách giết con. Cứu! RS.

Rất hiếm khi Thượng nghị sĩ lâm vào tình trạng không hiểu nổi những gì đang đọc, nhưng khi đọc những dòng chữ này của Rachel ông không hiểu nổi.

Tảng thiên thạch là giả sao? NASA và Nhà Trắng đang tìm cách giết cơn bé ư?

Đầu óc rối bời, Sexton bắt đầu xem lướt những trang còn lại.

Đầu tiên là một bức ảnh số hóa bên trên có dòng chữ "máy chụp cắt lớp trái đất (GPR)" có vẻ như đây là bức ảnh chụp cắt lớp một phiến băng bằng sóng âm. Sexton nhìn thấy hố trục vớt tảng thiên thạch mà trên tivi đã nhắc tới. Ông nhìn thấy hình đáng của một người chìm trong hố nước sâu đó. Rồi ông nhìn thấy một chi tiết khác đường nét của một cái lỗ thứ hai ngay bên dưới vị trí của tảng thiên thạch - dường như tảng đá này đã được đưa ngược lên từ dưới đáy phiến băng.

Quái quỷ gì thế này?

Lật sang trang tiếp theo, Sexton trông thấy ảnh chụp một loài sinh vật biển có tên là Bathynomous Giganteus. Ông kinh ngạc đến sững sờ. Đây chính là loài sinh vật hóa thạch trong tảng thiên thạch!

Lật trang tiếp theo. Ông thấy một biểu đồ có các chỉ số chất hydro ion hóa của lớp vỏ bị cháy xém của tảng thiên thạch. Có một hàng chữ viết tay vội vã ở bên dưới: Đốt bằng nhiên liệu hydro? Động cơ chu kỳ mở rộng của NASA?

Sexton không dám tin vào mắt mình. Ông lật sang trang cuối cùng, thấy căn phòng bắt đầu chao đảo - ảnh một tảng đá có chứa những bong bóng kim loại trông giống y hệt như những bong bóng trong tảng thiên thạch. Kinh ngạc hơn, cạnh bức ảnh là dòng chữ cho thấy tảng đá này là sản phẩm của núi lửa ngầm dưới đại dương. Đá lấy từ đại dương lên sao? Sexton phân vân. Nhưng NASA khẳng định rằng các chrondrule chỉ hình thành trong vũ trụ cơ mà!

Sexton đặt xấp tài liệu lên mặt bàn và ngồi sụp xuống ghế. Chỉ sau mười lăm giây, ông đã kịp ghép nối những gì vừa đọc thành một bức tranh lớn. Ý nghĩa của những trang tài liệu này đã quá rõ ràng. Thậm chi những kẻ đần độn cũng có thể thấy được những ảnh chụp này nói lên điều gì.

Tảng thiên thạch của NASA là giả.

Trong suốt đời mình, Sexton chưa trải qua ngày nào lắm thăng trầm đến vậy. Ngày hôm nay, cảm giác tuyệt vọng rồi lại khấp khởi hy vọng đã hoán đổi nhau không biết bao nhiêu lần. Những dự định của Sexton chợt trở lên quá bé nhỏ, vô nghĩa so với ảnh hưởng của những trang tài liệu này.

Nếu đem công bố những thông tin này, chắc chắn chiếc ghế Tổng thống sẽ thuộc về mình!

Trong giây phút tràn trề mãn nguyện, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton quên hẳn lời cầu cứu của con gái, quên rằng Rachel đang trong cơn hoạn nạn.

"Rachel đang gặp nguy hiểm". Gabrielle nhắc. "Chị ấy viết rằng NASA và Nhà Trắng đang tìm cách..."

Máy fax của Sexton bỗng đổ chuông lần nữa. Gabrielle quay lại nhìn Sexton cũng nhìn chăm chú. Không biết Rachel định gửi thêm gì cho ông? Thêm bằng chứng nữa ư? Có nhiều nữa không nhỉ? Thế nay đã là nhiều lắm rồi!

Khi may fax trả lời cuộc gọi, không có trang tài liệu nào được gửi tới. Không nhận được dữ liệu, chiếc máy chuyển sang chế độ tự động trả lời.

"Xin chào!" Những lời nói được ghi âm sẵn cúa Sexton được bật lên "Đây là văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Nếu quí vị muốn gửi fax, xin cứ tự nhiên. Nếu không, xin quí vị hãy để lại lời nhắn".

Sexton chưa kịp nhấc ông nghe lên thì chiếc máy đã phát ra một tiếng bíp.

"Thượng nghị sĩ Sexton đấy à?" Một giọng đàn ông lạnh lùng cất lên. "Tôi là William Pickering, Giám đốc NRO. Có lẽ lúc này ông không có mặt trong văn phòng, nhưng tình thế vô cùng cấp bách nên tôi phải nói luôn". Ông ta dừng lại giây lát, dường như đợi xem có ai nhấc máy không.

Gabrielle với tay định nhấc ống nghe lên.

Sexton giật phắt tay cô lại, gạt mạnh ra.

Gabrielle sững sờ. "Nhưng đó là chỉ dẫn của..."

"Thượng nghị sĩ", Pickering nói tiếp, dường như tỏ ra nhẹ, nhõm vì không thấy ai nghe máy "e rằng thông tin mà tôi báo cho ông không được dễ chịu cho lắm. Tôi vừa nhận được tin là cô Rachel con gái ông đang ở trong tình thế vô cùng hiểm nghèo. Ngay lúc này đây tôi đã phái một biệt đội đi giải cứu cho cô ấy. Hiện giờ thì chưa thể nói gì nhiều trên điện thoại, nhưng tôi đã được báo cáo rằng cô ấy đã fax cho ông tài liệu gì đó liên quan đến tảng thiên thạch của NASA. Bản thân tôi cũng chưa được đọc những tài liệu đó và không biết nội dung nó là gì, nhưng những kẻ đang giam giữ con gái ông nói rằng nếu những tài liệu đó bị công khai thì chúng sẽ giết Rachel ngay tức khắc. Xin lỗi Thượng nghị sĩ vì những lời lẽ không được tế nhị này, nhưng tôi phải trình bày sự thể một cách rõ ràng. Mạng sống của con gái ông đang bị để doạ. Nếu quả thực cô ấy có fax cho ông tài liệu nào thì cũng đừng cho ai xem. Lúc này thì chưa được. Mạng sống của con gái ông đang phụ thuộc vào nó. Ông hãy ở yên tại văn phòng. Tôi sẽ tới đó ngay". Ông ta ngừng một lát. "Thưa Thượng nghị sĩ, nếu may mắn thì chúng tôi sẽ giải quyết xong vụ việc này trong đêm nay. Trong trường hợp ông đến văn phòng mà chưa thấy tôi thì cứ ở yên đó và đừng gọi điện cho ai hết. Tôi đang dốc hết khả năng để bảo vệ mạng sống cho cơn gái ông".

Pickering dập máy.

Gabrielle run lẩy bẩy. "Rachel bị giữ làm con tin sao?"

Sexton cảm nhận rõ ràng rằng dù đang rất thất vọng về ông.

Gabrielle vẫn đầy thương cảm khi biết một phụ nữ xinh đẹp đang bị lâm vào vòng nguy hiểm. Lạ lùng là ở chỗ chính bản thân ông lại không hề có chút xíu cảm giác nào đạì loại như thế. Toàn thân ông lúc này đang lâng lâng như một đứa bé vừa nhận được quà Giáng sinh và không hề có ý định để món quà quý báu đó tuột khỏi tay.

Pickering yêu cầu mình im lặng về chuyện này sao?

Sexton đứng yên lặng giây lát, cố hiểu cho thật thấu đáo những gì vừa nghe thấy. Nhưng trong đầu ông, trong một góc khuất lạnh lùng đầy tham vọng, cỗ máy bắt đầu hoạt động - cỗ máy điện toán chính trị trong ông đang chạy thử tất cả mọi tình huống và đánh giá mọi kết cục có khả nang xảy đến. Ông đưa mắt nhìn xấp tài liệu trên tay và bắt đầu cảm nhận được sức nặng của những thông tin đang có. Tảng thiên thạch này của NASA đã nghiến nát giấc mộng Tổng thống của ông. Nhưng đó chỉ là trò lừa gạt, một thứ giả mạo. Giờ là lúc những kẻ dựng lên chuyện này phải trả giá. Chính tảng thiên thạch mà những kẻ đối đầu với ông dựng lên để hại ông sẽ khiến ông trở nên hùng mạnh hơn bao giờ hết. Và con gái ông đã biễn điều đó thành hiện thực.

Dĩ nhiên là chỉ có một kết cục duy nhất hợp lý, ông biết thế. Một nhà lãnh đạo thực thụ không thể hình động theo bất kỳ cách nào khác.

Giấc mơ chói lọi về sự hồi sinh của mình khiến cho Thượng nghị sĩ sung sướng đến mụ mị đầu óc. Đang ở trong văn phòng mà ông cảm thấy như đang ở giữa biển sương mù. Đến bên máy photocopy. Ông bật máy lên, chuẩn bị sao chụp những tài liệu Rachel vừa gửi về.

"Thượng nghị sĩ định làm gì thế?" Gabrielle hoảng hốt.

"Chúng không giết Rachel đâu". Sexton tuyên bố. Giả sử trong trường hợp mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ thì kẻ thù của ông sẽ khiến ông càng mạnh hơn. Đằng nào thì ông cũng thắng. Rủi ro này là hoàn toàn chấp nhận được.

"Những bản photocopy này là để cho ai?" Gabrielle căn vặn. "William Pickering đã dặn là không được cho ai biết cơ mà!"

Vẫn đứng bên máy photocopy, Sexton quay sang nhìn Gabrielle. Đột nhiên ông thấy cô thư ký của mình trở nên xấu xí khủng khiếp. Trong khoảnh khắc ấy, Thượng nghị sĩ Sexton trở lên hoàn toàn xa cách. Hoàn toàn biệt lập. Ông đang có trong tay tất cả những gì ông cần để biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Giờ đây, không gì có thể cản bước ông được nữa. Những cáo buộc nhận hối lộ, những lời xì xào về chuyện tình ái, tất cả đều vô nghĩa.

"Về đi". Gabrielle. "Tôi không cần cô nữa đâu".

Chương 125

Thế là hết! Rachel tham nghĩ...

Cô và Tolland ngồi sát vào nhau, mắt chăm chú nhìn nòng súng máy của Delta-Một đang chĩa thẳng vào họ. Thật không may, lúc này Pickering đã biết được địa chỉ mà Rachel fax thông tin tới: Văn phòng Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.

Rachel nghĩ rằng có lẽ cha cô thậm chí sẽ chẳng bao giờ nhận được những thông tin mà Pickering vừa nhắn vào trong máy văn phòng của ông. Rất có thể là sáng sớm mai Pickering sẽ về đến văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton trước khi bất kỳ người nào kịp đặt chân tới đó. Nếu đến trước, ông ta sẽ thu hết những tài liệu được gửi tới, xóa tin nhắn lưu trong máy, và không cần phải sát hại Thượng nghị sĩ nữa. Có lẽ William Pickering là một trong số ít người ở Washington có khả năng vào trong tòa văn phòng nghị viện một cách êm thấm và suôn sẻ. Xưa nay Rachel vẫn luôn bị ngạc nhiên khi thấy chỉ cần nhân danh "an ninh quốc gia" là người ta có thể làm mọi chuyện.

Dĩ nhiên nếu làm thế vẫn không xong thì Pickering chỉ cần cho máy bay áp sát vào cửa sổ văn phòng và phóng một quả tên lửa Hellfire vào là xong, Radiel thầm nghĩ. Nhưng thâm tâm cô mách bảo rằng ông ta sẽ không phải viện đến hạ sách đó.

Ngồi sát bên Tolland, Rachel ngạc nhiên thấy ông đang dịu dàng xiết chặt tay cô. Những ngón tay ông đan vào tay cô, dịu dàng, mạnh mẽl và thân thuộc đến mức tưởng như họ đã từng làm thế rất nhiều lần trong đời. Ước gì lúc này Rachel được nằm trong vòng tay Mike, được tránh xa những tiếng gầm gào đầy đe dọa của dòng nước xoáy dưới chân họ.

Sẽ chẳng bao giờ. Rachel hiểu, chuyện ấy là không thể.

Michael Tolland thấy mình đúng là kẻ tìm thấy hi vọng sống đúng vào lúc bị điệu đến giá treo cỗ.

Số phận thật trớ trêu.

Bao năm sau cái chết của Celia, Tolland đã phải trải qua những đêm dài đau đớn và cô quạnh, đến nỗi nhiều lúc ông nghĩ tới cái chết để trốn chạy tất cả. Tuy nhiên, ông đã không làm điều đó, và tự nhủ rằng ông có thể sống một mình. Hôm nay, lần đầu tiên sau bao năm đằng đẵng, ông bắt đầu hiểu ra những điều mà bạn bè vẫn thường nói với ông.

Mike, cậu không cần phải sống một mình mãi, cậu sẽ lại tìm thấy tình yêu.

Xiết tay Rachel thật chặt, ông cảm thấy số phận mình thật trở trêu. Định mệnh thật độc ác. Tolland thấy những bức tường vô hình bao kín trái tìm ông từ bao lâu đang rơi rụng lả tả. Trong thoáng chốc, trên boong tàu Goya này, Tolland lại thấy hồn ma của Celia hiện về như nàng đã từng hiện về biết bao lần trong quá khứ. Giọng nói của nàng như hòa lẫn vào tiếng đại dương... nhắc lại những lời cuối cùng nàng đã nói với ông trước khi ra đi mãi mãi.

"Anh sẽ tiếp tục sống". Nàng thì thầm. "Hãy hứa với em là anh sẽ tìm cho mình một tình yêu khác".

"Anh sẽ không bao giờ yêu bất kỳ người nào khác". Tolland trả lời nàng.

Celia mỉm cười, đầy trí tuệ: "Rồi anh sẽ học cách làm điều đó".

Giờ đây, trên boong tàu Goya, Tolland biết ông đã học được điều đó. Một nguồn xúc cảm dạt dào trong trái tim ông.

Hạnh phúc.

Và cùng với nó là ý chí sống mãnh liệt.

Pickering cảm thấy khó tập trung một cách khác thường khi tiến lại gần hai tù nhân của mình. Ông dừng lại trước mặt Rachel, thầm ngạc nhiên thấy giây phút này không khó khăn như ông vẫn tưởng.

"Đôi khi vì tình huống bắt buộc nên chúng ta phải làm những điều mình không hề muốn".

Ánh mắt Rachel nhìn xoáy vào ông, không khoan nhượng: "Chính ông đa tạo ra tình huống này".

"Có chiến tranh là có tổn thất". Pickering nói, giọng tự tin hơn. Hãy thử hỏi Diana Pickering, hay bất cứ ai đã ngã xuống cho dân tộc nay mà xem. "Điều này cô phải hiểu chứ, Rachel". Ông nhìn thẳng vào mắt Rachel "Iactura paucourm serva multos". [1]

Nhìn vẻ mặt của Rachel, ông biết cô gái hiểu câu nói đó - đây là điều mà những nhân viên an ninh vẫn thường nói. Hy sinh một vài người để cứu rất nhiều người.

Ánh mắt Rachel nhìn Pickering đầy ghê tởm: "Lúc này tôi và Michael thuộc về cái một vài ấy của ông có phải không?"

Pickering suy tính. Nhưng không còn cách nào khác. Ông quay lại bảo Delta-Một:

"Giải cứu đồng đội của anh rồi kết thúc phi vụ này nhanh đi".

Delta-Một gật đầu.

Pickering nhìn Rachel một lần cuối rồi sải bước lại bên lan can gần cầu thang dẫn xuống boong dưới, quay mặt nhìn ra biển. Ông không muốn tận mắt chứng kiến cảnh này.

Xiết chặt báng súng, liếc nhìn đồng đội của mình, Delta-Một cảm thấy mình thật quyền uy. Việc còn lại bây giờ chỉ là đóng cánh cửa lật dưới chân Delta-Hai, thả cậu ta ra khỏi cánh tay sắt, rồi khử Rachel Sexton và Michael Tolland.

Rủi thay, Delta-Một đã nhận ra sự rối rắm ở bảng điều khiển gần cánh cửa giật - một loạt cần gạt và núm vặn chắc chắn để điều khiển cánh cửa giật, môtơ tời, và hàng loạt chức năng khác nữa. Anh không có ý định giật nhầm cần và thả con tàu lặn xuống biển, để dọa mạng sống của bạn mình.

Loại trừ tất cả mọi bất trắc. Không cần phải hấp tấp.

Anh sẽ buộc Tolland phải làm điều đó. Và để đảm bảo rằng ông ta sẽ không giở bất cứ thủ đoạn nào, Delta-Một sẽ dùng biện pháp bảo đảm mà đội lính đặc nhiệm vẫn gọi đùa là "vật ký quỹ biết thở".

Chia rẽ đối tượng và bắt chúng chống lại nhau.

Delta-Một quay nòng súng sang chĩa thắng vào mặt Rachel, mũi súng chỉ cách trán cô có vài inch. Rachel nhắm nghiền mắt lại, và Delta-Một nhận thấy Tolland giận dữ xiết chặt nắm đấm.

"Cô Sexton, đứng lên". - Delta-Một nói.

Rachel làm theo.

Gì sát súng vào lưng Rachel, Delta-Một bắt cô đến bên những bậc thang bằng nhôm dẫn lên nóc con tàu lặn Triton. "Trèo lên đứng trên nóc tàu".

Rachel không hiểu, sợ hãi.

"Lên mau". Delta-Một nói.

Trèo lên những bậc thang bằng nhôm sau lưng con tàu Triton, Rachel tưởng mình đang trong cơn ác mộng. Lên đến đỉnh, thì cô dừng lại, không muốn bước qua khe hở sâu để sang nóc tàu Triton.

"Bước sang nóc tàu lặn". Người lính đặc nhiệm nói. Anh ta quay về phía Tolland và gì mũi súng vào đầu ông.

Ngay trước mặt Rachel, tên lính đặc nhiệm bị treo lủng lẳng nhìn Rachel chòng chọc, quằn quại đau đớn, nôn nóng muốn được giải thoát. Rachel nhìn họng súng chĩa vào đầu Tolland. Trèo lên nóc tàu. Cô không còn lựa chọn nào khác.

Rachel bước sang bệ máy, khoảng hẹp bằng phẳng sau mái vòm của tàu Triton, chẳng khác gì vừa bước qua vực thẳm sâu hun hút giữa hẻm núi. Chiếc tàu lặn mini treo lủng lẳng ngay bên trên cánh cửa giật như quả dọi khổng lồ Dù dây tời đã bị khóa chặt, con tàu nặng chín tấn vẫn lắc lư khi Rachel đặt chân lên, và khi Rachel lấy thăng bằng, con tàu lại một lần nữa dao động vài milimét.

"Được rồi, đi". Người lính đặc nhiệm quát bảo Tolland "Đến bảng điều khiển và đóng cửa giật lại".

Bị chĩa súng thẳng vào đầu, Tolland buộc phải bước tới chỗ bảng điều khiển, Delta-Một theo sát gót ông, Rachel bước chậm rãi và cô thấy mắt Tolland nhìn cô chăm chú như muốn nói điều gì đó.

Ông nhìn thẳng vào Rachel, rồi nhìn xuống cánh cửa vòm đã mở sẵn trên nóc tàu Triton.

Rachel liếc xuống. Cánh cửa khum khum hình mái vòm nặng nề đã mở sẵn, cô có thể nhìn xuyên vào trong buồng lái dành cho một người của con tàu. Mike muốn bảo mình vào trong đó sao? Sợ mình hiểu nhầm ý của ông, Rachel ngước nhìn lên lần nữa. Ông đã ở gần bảng điều khiển lắm rồi. Tolland vẫn đang nhìn cô chăm chú. Ánh mắt lúc này càng khẩn thiết hơn.

Ông mấp máy môi nói thầm: "Nhảy xuống đi! Nhanh lên!"

Thoáng thấy hành động của Rachel. Delta-Một lập tức quay phắt lại và nã đạn đúng lúc Rachel vừa kịp nhảy vào trong con tàu. Đạn va vào cửa tàu rồi nảy bật trở lại, lửa đạn loé sáng loè; cửa tầu đóng sập lại.

Ngay khi thấy họng súng không còn chạm vào lưng nữa, Tonand hành động ngay. Ông nhảy sang bên trái, tránh xa cánh cửa giật, rồi lăn người đúng lúc chân chạm mặt boong, cùng lúc ấy Delta-Một quay sang Tolland xả đạn không thương tiếc. Tolland đã kịp nấp vào sau trục dây tời - một cái trục lớn gắn mô tơ, quấn quanh nó là hàng ngàn mét dây cáp bằng thép nối với mỏ neo, đạn găm vào mặt boong ngay sau lưng ông, lửa lóe lên chíu chíu.

Tolland đã có một kế hoạch trong đầu và phải hành động thật nhanh. Trong khi người lính đặc nhiệm lao thẳng về phía ông, Toaand vươn cả hai tay lên, với lấy khóa neo, kéo mạnh xuống. Ngay lập tức, cuộn dây neo bắt đầu quay, nhả cáp ra, tàu Goya tròng trành giữa dòng hải lưu chảy xiết. Chuyển động bất ngờ của con tàu khiến tất cả mọi người cũng như mọi vật trên boong nghiêng ngả. Do con tàu tiếp tục bị dòng hải lưu đẩy đi, cuộn dây neo mỗi ìúc một quay nhanh hơn, nhả nhiều cáp hơn.

Nhanh lên chút nữa nào, bé yêu. Tolland thầm giục con tàu của mình.

Delta-Một lúc này đã lấy lại thăng bằng, tiến lại chỗ Tolland. Đợi cho con tàu thôi không lắc lư nữa, Tolland cố hết sức gạt khóa neo lên, khóa chặt cuộn dây tời. Sợi cáp bất thần bị kìm chặt lại, làm cho con tàu giật mạnh. Tất cả mọi thứ trên boong đều bị xô dạt. Người lính đặc nhiệm ngã khuỳu xuống ngay cạnh Tolland. Pickering bị hất ra khỏi lan can thành boong. Chiếc tàu lặn Triton được treo bằng dây cáp cũng lắc lư dữ dội.

Từ bên dưới thân tàu, tiếng thép gãy vang lên nhức óc, con tàu rung lắc dữ dội, một thanh giằng gãy rời ra. Mũi tàu Goya bắt đầu sụp xuống vì sức nặng của chính nó. Cả con tàu lớn chao đảo, nghiêng hẳn về một bên, y như chiếc bàn lớn vừa bị gãy mất một chân. Từ bên dưới vọng lên những âm thanh chói tai lọng óc - tiếng những thanh thép lớn bị vặn xoắn, tiếng thép nghiến vào nhau, tiếng sóng đập ầm ầm.

Mặt tái mét, ngồi trong khoang lái của tàu Triton, Rachel cố giữ thăng bằng khi cố máy nặng chín tấn lắc qua lắc lại bên trên cánh cửa giật lúc này cũng nghiêng hẳn về một bên. Nhìn qua đáy tàu bằng kính, cô thấy biển cả đang nổi cơn cuồng nộ. Ngước nhìn lên, Rachel lia mắt khắp boong tàu để tìm Tolland, cô sững sờ chứng kiến cảnh tượng đang bày ra trước mắt.

Cách tàu Triton chỉ một mét, bị kẹp chặt trong cánh tay máy, anh chàng đội viên Delta đang rú lên vì đau đớn, anh ta cũng bị hất qua hất lại như con rối bị gắn chặt vào cần điều khiển. William Pickering bị hất trượt đi một đoạn dài trên boong cho đến khi ông ta túm được cái cọc. Ở bên cần khóa neo, Tolland cũng đang bám thật chặt vào sợi dây cáp để khỏi bị văng xuống biển. Khi thấy người lính đặc nhiệm cầm súng máy cạnh Tolland đã lấy lại được thăng bằng, cô gào thật to: "Mike, cẩn thận!"

Nhưng Delta-Một không hề để ý đến Tolland. Người lính này đang há hốc miệng vì kinh hãi, mắt đờ đẫn nhìn chiếc trực thăng. Rachel quay lại, nhìn về phía đó. Chiếc máy bay chiến đấu Kiowa, vẫn đang nổ máy, bắt đầu chầm chậm trượt về phía mũi tàu. Những thanh trượt kim loại rất dài gắn dưới thân máy bay lúc này chẳng khác gì những thanh trượt tuyết trên dốc tuyết trơn nhẵn. Đến lúc này Rachel mới nhận ra rằng cỗ máy khổng lồ đó đang lao thẳng tới tàu lặn Triton.

Leo ngược lên qua mặt boong dốc nghiêng, Delta-Một trèo lên khoang lái. Anh không định để cho phương tiện thoát thân duy nhất của họ lao xuống biển. Anh vồ lấy bảng điều khiển của máy bay và kéo vội cần gạt. Cất cánh đi nào! Động cơ rú ầm lên, cánh quạt bắt đầu quay, tạo lực phản lại để nâng chiếc máy bay nặng lên không trung. Lên đi! Chết tiệt thật! Chiếc máy bay vẫn trượt thẳng về phía tàu Triton và Delta-Hai đang bị treo lơ lửng trên cánh tay máy.

Vì mũi máy bay chúc xuống, nên cánh quạt nó cũng bị nghiêng. Vậy là khi chiếc máy bay rời boong tàu, nó lao thẳng về phía trước thay vì lên cao rồi tăng tốc lao thẳng vào tàu Triton chẳng khác gì một cái cưa máy có tốc độ cực lớn. Lên đi nào! Delta-Một kéo mạnh cần gạt, thầm ước có thể thả ngay tức thì nửa tấn đầu đạn Hellfire khỏi khoang máy bay. Cánh quạt sượt sát qua đầu Delta-Hai và mái vòm của tàu Triton, nhưng vận tốc của chiếc trực thăng quá lớn. Và nó không thể tránh được dây cáp treo tàu Triton.

Khi những cánh quạt thép dày và cứng của chiếc Kiowa quệt vào sợi tời bằng thép chịu trọng tải mười lăm tấn của chiếc tàu lặn mini, đêm đen dậy lên tiếng thép nghiến vào nhau nghe lọng óc. Những âm thanh chát chúa khiến người ta nghĩ tới những trận huyết chiến thời Trung cổ. Ngồi trong cabin máy bay, Delta-Một thấy cánh quạt máy bay nghiến vào sợi tời thép y như cái cưa máy cực lớn đang nghiến phải sợi xích sắt. Lửa toé ra sáng loè, và cánh quạt máy bay rách tan tành. Delta-Một thấy máy bay rơi xuống, thanh đế của nó va mạnh vào boong tàu. Anh vẫn cố sức kéo mạnh cần gạt, nhưng máy bay không thể cất cánh lên được nữa. Chiếc máy bay đồ sộ nảy lên hai lần, rồi trượt dọc boong tàu dốc đứng, trượt về phía tay vịn bằng sắt ở mũi tàu.

Trong một tích tắc. Delta-Một tưởng tay vịn sắt kia sẽ giữ chiếc máy bay lại.

Rồi anh nghe thấy tiếng răng rắc. Chiếc máy bay to lớn nặng nề nghiêng lệch hẳn đi trên mép boong, rồi lộn nhào xuống biển.

Trong tàu Triton, Rachel Sexton ngồi sững sờ, toàn thân bị ép chặt vào thành ghế. Chiếc tàu mini bị chao đảo dữ dội khi cánh quạt máy bay quệt vào dây cáp, nhưng cô đã giữ được thăng bằng. Dù phần thân tàu không bị va vào cánh quạt, Rachel biết rằng sợi dây cáp đã bị phá hủy trầm trọng. Trong giây phút này, ý nghĩ duy nhất xuất hiện trong tâm trí cô là phải thoát ra ngoài ngay lập tức. Người lính đặc nhiệm bị kẹp trong cánh tay máy đang trân trối nhìn cô ánh mắt đờ dại, máu chảy ròng ròng, thân thể đầy vết bỏng do những mảnh kim loại nóng văng vào. Rachel thấy William Pickering vẫn đứng trên boong, tay bấu chặt vào cọc sắt.

Michael đâu nhỉ? Rachel không thấy ông đâu cả. Nhưng nỗi sợ hãi này chỉ kéo dài có một tích tắc rồi ngay lập tức bị thay thế bằng nỗi kinh hoàng khác. Trên đầu Rachel, sợi cáp bị cứa nát của con tàu phát ra những tiếng răng rắc khi những sợi thép nhỏ vốn được bện chặt vào nhau bắt đầu rời ra. Rồi một tiếng rắc lớn vang lên, sợi cáp đứt rời ra.

Có một tích tắc không trọng lượng, thân thể Rachel như bồng bềnh trong khoang lái khi chiếc tàu lặn rơi xuống. Boong tàu biến mất nhanh chóng, những cầu thang hẹp bên hông tàu Goya sượt qua trước mắt cô. Người lính bị khóa chặt trong cánh tay máy đờ người vì sợ hãi, anh ta chằm chằm nhìn Rachel khi con tàu tiếp tục lao thẳng xuống đại dương.

Thời gian như ngừng lại.

Khi chiếc tàu lặn nhỏ đập mạnh xuống mặt nước dưới gầm tàu Goyal nó nẩy bật lên rất mạnh, khiến cho Rachel bị ấn chặt xuống ghế. Xương sống của cô như bị chùn lại khi mặt nước nhanh chóng trùm lên nóc chiếc tàu lặn cỡ nhỏ Rachel như ngộp thở khi con tàu giảm dần tốc độ rồi từ từ nổi lên mặt nước, bập bềnh như cái nút chai.

Lũ cá mập tức thì lao xốc vào. Ngồi sau lớp kính bao quanh khoang lái. Rachel chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt.

Delta-Hai thấy những cái đầu hình búa của lũ cá lao vào anh với sức mạnh của những hung thần. Một cái kẹp lớn sắc như dao khợp vào cánh tay anh, cắt vào đến tận xương, khóa cứng anh lại. Cảm giác đau đớn tột cùng xuyên suốt cơ thể khi con vật hung dữ lắc mạnh đầu, xé toạc cánh tay anh; xé rời ra khỏi cơ thể. Những con cá khác ùa vào. Vô vàn mũi dao nhọn đâm vào khắp hai cẳng chân. Thân mình. Cổ. Khi lũ cá đói xé toạc những phần thân thể anh và lôi đi, Delta-Hai không còn sức để thét lên, dù đau đớn đến tột độ. Hình ảnh cuối cùng lọt vào mắt anh là một cái mồm lớn hình lưỡi hái, nghiêng về một bên, hai hàng răng nhọn hoắt lởm chởm trùm qua mặt anh.

Chỉ còn lại tăm tối.

Bên trong tàu Triton, tiếng những cái đau cứng va thùm thụp vào kính cuối cùng cũng không còn. Rachel mở mắt. Người lính ấy đã hoàn toàn biến mất. Những đợt sóng đỏ lòm vẫn đang tấp vào còn tàu trong suốt.

Rã rời, Rachel co người trên chiếc ghế, hai đầu gối thu trước ngực. Hình như con tàu đang di chuyển. Nó bị dòng hải lưu chảy xiết đẩy đi lúc lúc lại va vào thành boong dưới của tàu Goya. Rachel còn cảm nhận được một hướng nữa trong sự chuyển động này. Xuống dưới.

Bên ngoài, tiếng nước òng ọc chảy vào khoang đồ dùng vang lên rất rõ. Mặt nước đang dần dần nhích lên bên ngoài lớp kính bảo vệ bao kín lấy Rachel.

Mình đang chìm!

Luồng cảm giác kinh hoàng xuyên suốt toàn thân Rachel, cô đứng bật dậy. Với tay lên, cô túm lấy giàn khung thép trên đầu.

Nếu ra được ngoài nóc tàu, Rachel sẽ kịp nhảy lên boong dưới cùng của tàu Goya. Boong này giờ chỉ cách cô vài chục xăng ti mét.

Mình phải ra ngoài!

Trên khung nóc có những hàng chữ và mũi tên rõ ràng chỉ cách mở nắp tàu. Rachel thu hết sức mình. Nắp tàu không nhúc nhích. Cô thử lại lần nữa. Không thấy dấu hiệu gì. Trục cửa đã bị kẹt cứng. Cong oằn hẳn xuống. Cảm giác sợ hãi dâng lên trong lòng, y như mặt biển đang dần dâng lên bên ngoài con tàu, Rachel thử đẩy mạnh lần cuối cùng.

Nắp tàu không nhúc nhích.

Tàu Triton đã chìm thêm vài inch nữa; nó xô vào thành tàu Goya lần cuối cùng trước khi chìm xuống dưới đáy con tàu méo mó tả tơi. Chìm xuống vùng biển sâu thăm thẳm.

Chương 126

"Đừng làm thế". Thấy Sexton đã photocopy xong xấp tài liệu, Gabrielle lại tiếp tục nài nỉ. "Thượng nghị sĩ đang hại chính con gái mình đấy!"

Sexton tảng lờ như không nghe thấy gì, ông mang mười xấp tài liệu vừa photocopy lại bên bàn làm việc. Xấp nào cũng có những trang tài liệu mà Rachel gửi về, cả trang giấy viết tay với nội đung rằng tảng thiên thạch là giả và Nhà Trắng hoặc NASA đang tìm cách sát hại cô.

Cuộc họp báo tai tiếng nhất trong lịch sử, Sexton thầm nghĩ, bắt đầu xếp những xấp tài liệu vào mười chiếc phong bì lanh màu trắng. Trên mỗi phong bì đều có tên, địa chỉ văn phòng cũng như con dấu Thượng nghị sĩ của ông. Vụ tai tiếng chính trị của thế kỷ, Sexton thầm nghĩ, và mình sẽ là người đưa sự việc ra ánh sáng!

Gabrielle vẫn tiếp tục cầu xin cho sự an toàn của Rachel, nhưng Sexton không nghe thấy gì hết. Tay xếp tập phong bì, tâm trí vị Thượng nghị sĩ này đã lui vào trong một thế giới riêng nào đó sâu kín xa xăm. Sự nghiệp chính trị nào cũng bao gồm những giây phút có tính quyết định. Đây là thời điểm của chính mình.

Trong lời nhắn ghi trên máy, William Pickering đã nói rằng nếu công khai những thông tin này thì mạng sống của Rachel sẽ bị đe doạ. Không may cho Rachel, ngài Thượng nghị sĩ biết rõ rằng một khi ông đã công bố những tài liệu này, bất kỳ hành động liều lĩnh nào của Nhà Trắng hay NASA sẽ chỉ làm cho thắng lợi chính trị của ông trở nên vang dội hơn mà thôi, vang dội đến mức chưa từng có trên chính trường Hoa Kỳ.

Trong cuộc sống đôi khi phải đưa ra những quyết định khó khăn, ông thầm nghĩ. Và những người biết đưa ra những quyết định như thế sẽ là người chiến thắng.

Gabrielle Ashe đã từng thấy ánh mắt này của Sexton một lần.

Tham vọng mù quáng. Cô thấy sợ. Và Gabrielle đã nhận ra. Rõ ràng là Sexton đã chủ định phó mặc mạng sống của con gái mình để trở thành người đầu tiên công bố trò lừa đảo này của NASA.

"Chẳng lẽ Thượng nghị sĩ không thấy là ông đã nắm chắc phần thắng rồi hay sao?" Gabrielle hỏi. "Zach Herney và NASA không cách gì gượng dậy được sau vụ bê bối này. Bất kể ai là người công bố tin này! Bất kể khi nào nó được công bố! Hãy đợi đến khi biết chắc Rachel được an toàn đã. Đợi đến khi ông nói chuyện rõ ràng với Pickering đã chứ!"

Nhưng Sexton không còn nghe nữa, ông ta mở ngăn kéo, lôi ra một tờ giấy nền có những con dấu bằng sáp mạ kền một mặt có keo khắc nổi tên mình. Gabrielle biết Thượng nghị sĩ thường dùng những con dấu này cho những lời mời chính thức, nhưng hiển nhiên là ông ta muốn màu đỏ của con dấu trên nền phong bì trắng sẽ tạo ấn tượng về một kịch bản chính trị mùi mẫn. Gỡ những con dấu sáp từ tờ giấy nến ra, ông ta lần lượt gắn những con dấu lên từng chiếc phong bì.

Lúc này, tim Gabrielle lồng lên vì phẫn nộ. Cô nghĩ đến những tờ séc bất hợp pháp được quét ảnh số hóa lưu trong máy tính của ông ta. Nếu Gabrielle nói hở ra thì lập tức ông ta sẽ xóa sạch. "Ông đừng làm thế", cô nói "nếu không tôi sẽ công bố mối quan hệ giữa hai chúng ta".

Sexton cười phá lên, tay vẫn không ngừng gắn những con dấu lên phong bì. "Thật thế à? Và cô nghĩ rằng thiên hạ sẽ tin à? Một cộng sự máu mê quyền lực khước từ một chỗ làm trong chính quyền mới của tôi và tìm cách báo thù à? Tôi đã từng một lần phủ nhận sự dính líu đó, và cả thế giới đã tin. Tôi sẽ phủ nhận một lần nữa".

"Nhà Trắng có ảnh đấy". Gabrielle tuyên bố.

Sexton không thèm ngẩng lên. "Họ không có ảnh. Mà nếu có đi chăng nữa thì cũng hoàn toàn vô nghĩa". Ông ta gắn con dấu cuối cùng. "Tôi đã có lá bùa hộ mệnh. Những phong bì này sẽ vô hiệu hóa bất kỳ đòn tấn công nào nhằm vào tôi".

Gabrielle biết ông ta nói đúng. Nhìn Sexton ngắm nghía công trình của mình, cô cảm thấy thật bất lực. Trên bàn lúc này là mười phong bì lanh màu trắng, trên mỗi phong bì đều đề tên, địa chỉ và gắn một con dấu sáp đỏ chói khắc lồng những chữ cái đầu tên của ông ta. Trông như những lá thư của Hoàng gia. Và chắc chắn nhiều người đã từng được phong vương vì những vấn đề còn lâu mới quan trọng đến thế này.

Sexton cầm xấp phong bì và chuẩn bị ra khỏi phòng. Gabrielle đứng lên chặn đường. "Thượng nghị sĩ đang làm một việc sai lầm. Việc này có thể hoãn lại được mà".

Sexton nhìn xoáy vào Gabrielle: "Này, chính tôi đã gây dựng cho cô, và giờ tôi trả cô về với con số không".

"Những giấy tờ Rachel fax về sẽ mang lại cho Thượng nghị sĩ chiếc ghế Tổng thống. Ông mắc nợ chị ấy".

"Tôi đã cho nợ rất nhiều thứ khác".

"Nhỡ có chuyện gì xảy đến với chị ấy thì sao!"

"Thì chắc chắn tôi sẽ giành được nhiều lá phiếu vì thông cảm".

Gabrielle không thể ngờ những ý nghĩ ấy có thể xuất hiện trong đầu ông ta, càng không thể tin ông ta dám nói thẳng ra như thế. Kinh tởm, cô với điện thoại: "Tôi sẽ điện cho Nhà".

Sexton quay phắt lại và tát mạnh vào mặt Gabrielle.

Gabrielle loạng choạng cảm thấy môi bị rách toạc. Cô lấy lại thăng bằng, bám lấy mép bàn, kinh ngạc nhìn người đàn ông mà cô đã từng ngưỡng mộ...

Sexton hằn học nhìn cô hồi lâu. "Nếu cô tin là có thể cản bước được tôi nói cho mà biết, tôi sẽ khiến cô phải ân hận suốt quãng đời còn lại". Ông ta đứng đó, kẹp xấp phong bì trong tay, mắt vằn lên tức tối.

Đến lúc Gabrielle ra khỏi tòa cao ốc, ra ngoài trời đêm giá lạnh, môi cô vẫn tiếp tục chảy máu. Cô vẫy một chiếc taxi và lên xe. Lần đầu tiên từ ngày đặt chân đến Washington, Gabrielle đổ sụp xuống, khóc nức nở

Chương 127

Tầu Triton đang chìm...

Loạng choạng trên boong tàu nghiêng dốc, từ sau cuộn dây tời, Tolland nhìn về chỗ trước đó tàu lặn Triton vẫn được treo lủng lẳng bằng dây cáp. Rồi quay về phía mũi tàu, ông nhìn khắp mặt biển bên dưới. Tàu Triton đang từ dưới nước trôi dần lên. Thở phào thấy chiếc tàu nhỏ vẫn còn nguyên vẹn. Ông nhìn cửa tàu, mong được thấy Rachel mở cửa bước ra, nguyên vẹn và an toàn. Nhưng nắp tàu vẫn đóng im ỉm. Tolland băn khoăn, hay Rachel đã bị văng ra ngoài khi con tàu nhỏ bị lắc mạnh và rơi xuống nước?

Dù ở tít trên cao, Tolland vẫn thấy ngay rằng tàu Triton đang ở rất thấp dưới mặt nước, thấp hơn nhiều so với ngấn nước thông thường của con tàu nhỏ này. Nó đang chìm! Tolland không thể hiểu lí do là gì, nhưng lúc này cái đó không hề quan trọng chút nâo.

Mình phải đưa Rachel ra ngoài! Ngay bây giờ!

Tolland vừa quay người định chạy ra mép boong thì một làn mưa đạn bay chíu chít quanh ông, bắn trúng vào cuộn dây tời bằng thép, lửa tóe đỏ rực. Ông vội quỳ thụp xuống. Khỉ thật! Ông nhìn xuống phía đuôi tàu, và thấy Pickering đang đứng đó, súng chĩa thẳng về phía ông như người làm vườn đang cầm kéo hạ cành. Delta-Một đã quẳng súng để trèo lên chiếc phi cơ định mệnh, giờ thì Pickering đã nhặt khẩu súng lên. Lúc này ông ta đang đứng ở vị trí rất thuận lợi.

Bị kẹt sau cuộn dây tời, Tolland cúi xuống nhìn con tàu nhỏ đang chìm dần. Cố lên nào, Rachel! Ra đi nào! Ông đợi nắp tàu mở ra. Nhưng vẫn không thấy gì.

Quay lại nhìn quanh boong tàu Goya, Tolland ước lượng khoảng cách từ chỗ ông đang đứng đến lan can ở mép boong.

Khoảng bảy mét. Không có vật che chắn thì khoảng cách đó là quá lớn. Tolland hít một hơi thật sâu và hạ quyết tâm. Ông xé toạc áo sơ mi và quăng sang bên phải chỗ mặt boong trống trải. Trong khi Pickering nã đạn vào tấm áo vốn đã rách tơi tả, Tolland lao sang bên trái, dọc theo dốc nghiêng của boong tàu, đến bên lan can ông nhảy thật mạnh qua lan can, nhảy khỏi boong tàu. Lăng mạnh người trong không trung, ông nghe tiếng đạn réo khắp xung quanh, và biết rằng chỉ cần một vết xây xước nhẹ cũng đủ để ông trở thành mồi ngon của lũ cá mập đầu búa ngay khi chạm mặt nước.

Rachel Sexton cảm thấy mình giống như một con thú hoang bị sa bẫy. Hết lần này đến lần khác, cô ra sức mở nắp tầu, nhưng vô hiệu. Rachel nghe rõ tiếng nước ùng ục tràn vào một khoang nào đó bên dưới đáy tàu, và cảm nhận rõ ràng là trọng lượng của con tàu đang tăng dần lên. Làn nước đen thẫm đang từ từ dâng lên bên ngoài lớp vỏ tàu trong suốt, như tấm màn đen đang được kéo dần từ dưới lên...

Nhìn xuyên qua lớp vỏ tàu bằng kính, Rachel thấy biển mênh mông đen thẳm chẳng khác nào lăng mộ. Khoảng đen sẫm vô cùng ấy như muốn nuốt chửng cả cô lẫn con tàu vào lòng nó. Cô lại túm lấy núm vặn cánh cửa và cố sức quay, nhưng cái núm vẫn không hề nhúc nhích. Hai lá phổi của Rachel lúc này đã bắt đầu thấy đau, không khí trong khoang lái thật nặng mùi, lượng khí CO2 quá lớn khiến hai lỗ mũi cô cay xè.

Mình sắp bị chết chìm trong đơn độc.

Rachel nhìn mọi cần gạt và núm điều khiển của con tàu, nhưng tất cả các bảng chỉ dẫn đều đen ngòm. Không có điện. Cô bị mắc kẹt trong một hầm mộ bằng thép, và đang chìm dần xuống đáy biển.

Tiếng nước chảy ùng ục mỗi lúc một nhanh và mạnh hơn, chỉ còn chưa đến nửa mét nữa là con tàu sẽ chìm hẳn xuống nước. Xa xa, từ bên kia khoảng tối vô tận của mặt nước hiện ra một dải sáng màu đỏ ối. Bình minh đang lên. Rachel sợ, rất có thể đây sẽ là những tia sáng cuối cùng cô được trông thấy. Nhắm chặt mắt để khỏi phải thấy kết cục không tránh khỏi, Rachel chợt thấy những ác mộng ngày nào ùa về, tràn lấp toàn bộ trí não.

Ngã nhào qua lớp băng đang tan. Chừn xuống nước sâu.

Ngạt thở. Không thể nổi lên được. Chìm dần xuống.

Tiếng mẹ gọi thảng thốt: "Rachel! Rachel!"

Tiếng đập thình thình vào nắp tàu kéo Rachel khỏi cơn mơ. Cô mở mắt.

"Rachel!" Tiếng gọi nghe nghèn nghẹt. Một khuôn mặt ma quái hiện ra bên ngoài thân tàu, trong tư thế lộn ngược mái tóc đen bị nước đẩy rối tung. Phải nhìn thật kỹ Rachel mới nhận ra.

"Michael!"

Tolland trồi lên mặt nước, thở phào nhẹ nhõm thấy Rachel vẫn còn cử động. Rachel còn sống! Tolland sải tay thật mạnh, bơi vòng ra khoang máy của con tàu ở đằng sau cabin. Dòng nước chảy xiết nóng rát như muốn kéo ông xuống. Tolland tìm điểm tựa, khom người xuống để tránh đạn của Pickering vẫn đang tiếp tục nã xuống, và nắm thật chắc khóa vít khung nắp tàu.

Thân tàu Triton vẫn chưa bị chìm hẳn xuống nước, và Tolland biết nếu muốn cứu sống Rachel thì phải thật khẩn trương. Nóc tàu chỉ còn cách mặt nước có mười inch, và khoảng cách ấy đang rút xuống rất nhanh. Mở nắp con tàu sau khi nó đã chìm hẳn xuống có nghĩa là một luồng nước cực mạnh sẽ chảy tràn vào trong thân tàu, khóa chặt Rachel trong đó, và con tàu sẽ nhanh chóng chìm xuống tận đáy biển.

"Hoặc là ngay lúc này, hoặc là không bao giờ". Ông hít hơi thật mạnh, xiết chặt bánh răng điều khiển nóc tàu, xoay ngược chiều kim đồng hồ. Không nhúc nhích. Ông thử lại lần nữa, dồn toàn bộ sức mạnh cơ thể vào những ngón tay. Một lần nữa, nóc tàu không chịu nhúc nhích.

Ông nghe tiếng Rachel đang nói, bên kia lớp kính dày, đằng sau cánh cửa hình vòng cung: "Em thử rồi!" Cô hét to. "Không mở được!"

Nước bắt đầu dâng lên đến mép cửa trên nóc tàu Triton. "Cùng xoay nào!" Ông hét to bảo Rachel. "Em vặn xuôi chiều kim đồng hồ!" Ông biết chiều vặn núm đã được chỉ dẫn rõ ràng trên thành tàu. "Nào!"

Tolland tì người vào thùng đồ để có điểm tựa, lấy hết sức vặn thật mạnh. Bên trong tàu, Rachel cũng đang làm y như thế. Núm điều khiển xoay được khoảng một xăng-ti-mét rồi bị chết cứng.

Lúc này Tolland mới hiểu ra. Bờ mép của cánh cửa cong không còn được phẳng và đều như trước nữa. Giống như cái nắp chai đã bị đè chặt xuống và vặn hết cỡ, nó đã bị kẹt. Dù lớp đệm bằng cao su vẫn nguyên vẹn, mép sắt của nó đã bị bẻ cong, có nghĩa là cách duy nhất để mở cánh cửa này là dùng mỏ hàn.

Nóc tàu giờ đã chìm xuống dưới mặt nước, và Tolland chợt thấy sợ hãi đến tột cùng. Rachel Sexton sẽ không thể ra khỏi con tàu nhỏ này.

Bên dưới, cách con tàu gần một ngàn mét, chiếc máy bay Kiowa bẹp dúm dó đang chìm rất nhanh, nó đã trở thành tù binh của cả trọng lực lẫn sức hút của xoáy nước nóng khổng lồ dưới đáy biển. Trong khoang lái, xác Delta-Một lúc này đã hoàn toàn biến dạng bởi áp lực nước.

Chiếc máy bay lao thẳng xuống, những đầu đạn Hellfire vẫn nguyên trên hai cánh, và vòm nham thạch nóng đỏ rực đang đợi sẵn dưới đáy biển. Dưới lớp tro dày ba mét là một vùng nham thạch đang sôi sùng sục ở một ngàn độ, một núi lửa mới sắp hình thành.

Chương 128

Tolland đứng trên khoang máy của con tàu Triton đang dùm dần, nước đã dâng lên đến ngang gối, và ông vắt óc tìm cách đưa Rachel ra ngoài.

Không được để cho nó chìm!

Ông quay sang nhìn tàu Goya, nghĩ đến chuyện móc con tàu nhỏ này vào dây tời để giữ cho tàu Triton không chìm xuống quá sâu. Không thể. Cuộn dây tời cách xa những năm mươi mét, và Pickering vẫn đang đứng trên cao, ở một điểm nhìn bao quát, y như một hoàng đế La Mã đang oai vệ ngồi bên chiếc ống nhòm Coloseum vấy máu.

Nghĩ đi! Tolland tự ra lệnh cho bản thân. Tại sao nó lại chìm?

Cơ chế phao của chiếc tàu ngầm này vô cùng đơn giản: Những bể đồ dằn được bơm đầy hoặc nước hoặc không khí để điều khiển con tàu di chuyển hướng lên trên hoặc xuống dưới.

Dĩ nhiên là nước đang vào trong các bể dằn.

Nhưng sao lại thế được?

Mọi bể dằn đều được lắp hai van - một ở trên và một ở dưới. Van bên dưới, là "van lụt", luôn mở, trong khi van bên trên - van khí có thể mở ra hoặc đóng vào để cho phép nước chảy vào trong bể.

Hay là van khí đã bị mở vì lý do nào đó? Tolland không thể nghĩ ra nổi. Ông nằm xoài trên sàn khoang máy, tay lần tìm những lỗ van trên bể dằn. Van khí vẫn đóng. Nhưng trong khi lần tìm những cái van, Tolland còn phát hiện ra một điều nữa.

Các lỗ đạn!

Khỉ thật! Khi Rachel nhảy xuống tàu, con tàu này đã bị trúng đạn rất nhiều. Tolland lập tức lặn xuống và bơi dưới đáy con tàu, tay lần khắp mặt dưới của bể dằn quan trọng nhất - bể âm. Người Anh gọi nó là "tàu cao tốc chạy xuống". Người Đức gọi nó là "đi giày đế chì". Cả hai cái tên đều phản ánh đúng chức năng của nó. Khi đầy nước, bể âm kéo con tàu xuống dưới.

Lấy tay sờ bên thành bể, Tolland tìm thấy hơn chục vết đạn.

Nước đang chảy vào trong. Dù Tolland có muốn hay không thì chiếc tàu ngầm nhỏ này cũng sắp chìm đến nơi.

Nóc tàu lúc này đã cách mặt nước một mét. Bơi vòng qua mặt trước tàu Tolland áp sát mặt vào lớp vỏ kính để nhìn vào bên trong. Rachel đang ra sức đập ầm ầm vào lớp vỏ kính và hét to điều gì đó. Nỗi sợ hãi trong giọng nói của cô càng khiến Tolland cảm thấy bất lực. Trong chốc lát, ông lại thấy mình trong bệnh viện lạnh lẽo, thấy người phụ nữ ông yêu sắp chết mà không biết làm gì để cứu. Bơi bơi trước con tàu, Tolland tự nhủ rằng ông sẽ không thể chịu đựng điều này thêm một lần nữa. Anh là người sống sót, Celia đã nói thế, nhưng Tolland không muốn sống một mình... thêm một lần nữa.

Phổi đau rát vì hết dưỡng khí, nhưng ông vẫn ở lại bên con tàu Mỗi lần Rachel đập mạnh vào kính, Tolland thấy bọt khí nổi lên, và con tàu lại chìm sâu xuống thêm một chút. Rachel đang nói với ông rằng nước lọt vào qua khe cửa sổ...

Cửa sổ quan sát bị rỉ nước sao? Thật khó tin. Hai lá phổi sắp nổ tung đến nơi, Tolland phải nổi lên. Vừa trồi lên vừa lấy tay sờ khắp gờ cửa sổ, ông phát hiện được một đoạn gioăng cao su đã bị trật ra. Hóa ra một đoạn roăng bên ngoài đã bị dập nát khi con tàu rơi xuống. Vì thế cho nên khoang lái mới chìm. Lại thêm một tin xấu.

Lên đến mặt nước, Tolland hít ba hơi thật dài, cố suy nghĩ cho thật mạch lạc. Nước vào trong khoang lái sẽ chỉ khiến cho con tàu chìm nhanh hơn. Con tàu giờ đã cách mặt nước một mét rưỡi, và phải rướn thì chân Tolland mới chạm được nóc tàu. Rachel vẫn đang đập mạnh vào thành tàu một cách tuyệt vọng.

Tolland chỉ nghĩ ra được một giải pháp duy nhất. Nếu ông lặn xuống chỗ khoang máy của tàu Triton và tìm được ống khí áp cao thì có thể dùng nó để bơm đẩy khoang âm. Dù bơm khí vào khoang dằn thủng là một việc làm vô ích, nhưng điều đó sẽ giúp cho con tàu nổi ở gần mặt nước thêm một phút nữa trước khi nó lại tiếp tục chìm xuống sâu hơn.

Sau đó thì sao?

Không nghĩ ra cách nào khác, Tolland chuẩn bị lặn xuống. Hít một hơi thật dài, ông cố kéo cho hai lá phổi giãn nở ra hết cỡ, giãn đễn phát đau. Thêm dung tích cho buồng phổi. Thêm khí oxy. Lặn được lâu hơn. Nhưng khi hai buồng phổi giãn ra, ép vào mạng sườn, một ý tưởng lạ lùng xuất hiện.

Nếu ông tăng áp suất bên trong khoang lái thì sao nhỉ? Cửa quan sát đã có một đoạn gioăng bị trật ra. Nếu tăng được áp suất trong buồng lái, ông có thể khiến cho khoang lái tách khỏi con tàu và cứu Rachel thoát ra.

Ông thở ra, dừng lại trên mặt nước thêm giây lát, xem xét tính khả thi của ý tưởng này. Chẳng phải làm thế là rất logic sao? Suy cho cùng thì tàu ngầm bao giờ cũng được thiết kế để chịu sức ép chỉ từ một phía. Chúng phải chịu được sức ép rất lớn từ bên ngoài, chứ không phải từ bên trong.

Thêm vào đó, để giảm thiếu số đồ phụ tùng dự trữ phải mang theo trên tàu Goya, tất cả các van trên tàu Triton đều cùng một loại. Có thể tháo van ở ống khí cao áp ra rồi lắp vào bộ phận điều khí cấp cứu bên phải thành tàu! Tăng áp suất như thế sẽ làm cho cơ thể Rachel vô cùng đau đớn, nhưng cũng có thể mở ra một con đường sống.

Tolland hít hơi thật sâu và lặn xuống.

Lúc này con tàu đã cách mặt nước gần hai mét rưỡi, và dòng hải lưu cùng với bóng tối khiến ông phải vất vả mới xác định được phương hướng, tìm được bể khí áp cao. Tolland nhanh chóng lắp vòi khí sang chỗ khác để chuẩn bị bơm khí vào khoang lái. Chạm tay vào miệng van, ông thấy một hàng chữ viết bằng sơn phản quang, và biết việc làm này nguy hiểm đến mức nào. CHÚ Ý: KHÍ NÉN - 3000 PSI.

Ba ngàn pound trên một inch diện tích, Tolland suy tính. Hi vọng rằng áp suất sẽ khiến cho cửa quan sát bị bung ra trước khi Rachel bị dập nát phổi. Tolland nối vòi rồng dập lửa vào khoang lái của chiếc tàu ngầm với hi vọng rằng khoang lái sẽ nhanh chóng bị bật tung ta.

Ông chụp lấy khóa van, hạ quyết tâm. Lơ lửng trong nước, ở đằng sau khoang lái của tàu Triton, Tolland vặn khoá, mở van. Ngay lập tức cái vòi căng phồng lên, Tolland nghe tiếng khí tràn vào trong khoang lái với tốc độ cực cao.

Bên trong tàu Traton, Rachel chợt cảm thấy một cơn đau buốt nhới thọc mạnh khắp toàn thân. Cô hé môi, nhưng tiếng thét đau đớn chưa kịp bật ra thì không khí đã xộc mạnh vào, ép mạnh đến mức tưởng là hai lá phổi sắp nổ tung ra. Hai mắt như bị ấn sau mãi vào tận hộp sọ. Những tiếng ùng ùng vang rền trong tai, Rachel tưởng như sắp ngất lịm đi. Theo bản năng, cô nhắm nghiền mắt lại, lấy hai tay bịt chặt lỗ tai. Cảm giác đau đớn vẫn tiếp tục tăng thêm.

Rachel nghe tiếng đập thình thình ngay trước mặt. Cô dùng hết ý chí, hé hai mi mắt chỉ đủ để trông thấy bóng ma của Tolland trong nước biển tối sẫm. Mặt ông áp sát vào lớp vỏ tàu bằng kính. Tolland đang ra hiệu bảo cô làm gì đó.

Cái gì nhỉ?

Phải thật căng mắt Rachel mới nhìn thấy Tolland trong bóng đêm đen kịt. Bị sức ép quá lớn, đồng tử của cô dường như đã biến dạng. Tuy thế, cô vẫn biết con tàu nhỏ đã chìm sâu xuống dưới quầng sáng phát ra từ tàu Goya. Khắp xung quanh lúc này chỉ còn một màu đen thăm thẳm.

Tolland bám vào vỏ tàu Triton, tiếp tục đập mạnh vào kính. Long ngực đau tức vì thiếu dưỡng khí. Ông biết một vài giây nữa thôi, ông sẽ phải nổi lên để lay hơi.

Đẩy mạnh vỏ kính đi! Ông ra lệnh cho Rachel bằng ánh mắt. Tiếng bong bóng khí xì ra qua khe hở nghe rất rõ. Lớp roăng đệm đã bị bục ra ở một điểm nào đó. Tolland lần lần khắp mép cửa sổ quan sát tìm một chỗ vênh lên để chêm ngón tay vào. Không thấy gì hết.

Phổi hết sạch dưỡng khí, tầm nhìn đã hẹp hẳn lại, ông đập mạnh vỏ kính con tàu thêm một lần cuối cùng. Lúc này đã không còn trông thấy Rachel được nữa. Tối đen như mực. Tận dụng chút dưỡng khí cuối cùng còn lại trong phổi, ông hét to:

"Rachel... phá... vỏ... kính... đi!"

Những lời nói ấy không phát thành tiếng, chỉ là những bọt khí nổi lên.

Chương 129

Trong khoang lái tàu Triton, đầu Rachel dường như đang bị xiết chặt bằng những chiếc kẹp nhục hình thời Trung cổ oằn oại bên chiếc ghế duy nhất trong cabin, cô cảm nhận cái chết đã rất gần kề. Trước mắt cô là khung cửa sổ quan sát trơ trọi. Tối đen. Không còn tiếng đập vào kính nữa...

Tolland không còn đó nữa. Ông đã bỏ mặc cô.

Tiếng không khí tiếp tục phun phì phì trên đầu làm cho Rachel nhớ đến những cơn gió katabatic trên phiến băng Milne. Nước trên sàn khoang lái giờ đã ngập đến gối. Hãy cho tôi ra ngoài! Muôn vàn ý tưởng và hồi ức bắt đầu bủa vây tâm trí như hàng ngàn tia sáng màu tím sẫm.

Trong bóng đêm thăm thẳm, con tàu bắt đầu nghiêng đi, Rachel mất thăng bằng. Lộn nhào khỏi chiếc ghế, cô ngã dúi về đằng trước, va mạnh vào cửa sổ vòm bằng kính. Vai đau ê ẩm.

Rachel ngã sụp xuống bên cạnh cửa sổ, và ngay lúc đó cảm thấy một sự khác biệt bất ngờ - áp suất đột nhiên giảm đáng kể. Những tiếng ùng ùng trong màng nhĩ giảm đi nhanh chóng. Rachel còn nghe thấy tiếng không khí đang xì mạnh ra ngoài.

Phải mất một tích tắc cô mới hiểu được những gì vừa diễn ra. Khi ngã văng vào cửa sổ, sức nặng của Rachel làm cho tấm kính vốn đã bị hư hại lỏng ra để không khí bên trong thoát bớt ra ngoài. Rõ ràng là cái vòm kính này không đến nỗi quá kiên cố! Rachel chợt hiểu ra vì sao Tolland cho tăng áp suất không khí trong khoang.

Mike muốn đẩy bung cánh cửa này ra!

Trên đầu cô, vòi khí áp cao vẫn tiếp tục phun phì phì. Nằm trên sàn, Rachel thấy áp suất lại bắt đầu tăng trở lại, lần này cô hân hoan đón nhận nó, dù áp suất cao khiến cô như sắp ngất đi. Lồm cồm ngồi dậy, Rachel cố duỗi dài người, căng sức đẩy thật mạnh vào lớp vỏ kính.

Lần này không nghe thấy tiếng nước ồng ộc. Tấm kính không lay chuyển.

Cô lại một lần nữa lăng mạnh người vào tấm kính lớn. Không tác dụng. Vết toạc ở vai nhức buốt, Rachel cúi xuống nhìn. Máu đã khô lại. Rachel chuẩn bị lăng người lần nữa, nhưng không kịp. Con tàu ngầm tả tơi bất thần xoay nghiêng về phía trước. Buồng máy nặng đã xoay xuống bên dưới khoang lái và các bế dằn, tàu Triton bắt đầu lặn thụt lùi.

Rachel bị ngã ngửa trên sàn khoang lái. Nằm trong nước ngập lõm bõm, Rachel nhìn lên cửa quan sát lúc này đã ở thẳng trên đầu, nước vẫn tiếp tục rỉ vào trong, trông hệt như giếng trời trên mái của ngôi nhà nào đó.

Bên ngoài chẳng có gì ngoài bóng đêm... và hàng ngàn tấn nước đang ép xuống.

Rachel cố hết sức ngồi dậy, thân xác rã rời, kiệt quệ. Lại một lần nữa, tâm trí cô sống lại hồi ức về làn nước băng giá ngày nào.

"Cố lên, Rachel!" Mẹ đang cố túm lấy tay Rachel để kéo lên. "Nắm lấy tay mẹ!"

Rachel nhắm nghiền mắt. Mình đang bị chìm. Hai chiếc giày trượt nặng như chì, kéo cô xuống. Trên mặt băng, mẹ đang nằm xoài ra để phân tán trọng lượng, chìa tay ra.

"Đạp đi, Rachel! Chân đạp mạnh vào!"

Rachel cố sức quẫy chân thật mạnh. Người nhô lên được một chút xíu. Một tia hi vọng. Mẹ túm chặt tay Rachel.

"Thế!" Mẹ thét to. "Giúp mẹ kéo con lên! Đạp mạnh vào!"

Vừa được mẹ túm tay kéo lên, Rachel vừa thu hết sức lực co chân đạp thật mạnh. Vừa đủ, mẹ kéo Rachel lên khỏi cơn hiểm nghèo. Mẹ kéo cô cơn gái ướt sũng nước thêm một đoạn nữa, rồi mới sụp xuống, khóc òa...

Giờ đây, trong khoang tàu ướt sũng và nóng nực, Rachel mở mắt nhìn vực thẳm bóng đêm chung quanh. Tiếng mẹ thì thầm từ trong mộ, vang vọng vào tận khoang tàu kín bưng.

Đạp thật mạnh đi con.

Rachel ngước nhìn vòm kính trên đầu. Thu toàn bộ chút sinh lực cuối cùng, cô trèo lên chiếc ghế lúc này đã nẳm ngang hẳn ra y như ghế nha khoa. Nẳm ngửa, Rachel thu hai gối lại thật sát, hướng thẳng bàn chân về phía trước, và đạp thật mạnh. Miệng thét lớn tuyệt vọng nhưng dũng mãnh, Rachel sục chân thật mạnh vào tấm kính cong. Cảm giác đau buốt chạy dọc ống chân, xuyên lên tận óc. Đột nhiên thấy sấm nổ bên tai, áp suất tức thì giảm hẳn đồng thời với một tiếng rầm rất lớn. Đoạn gioăng bên trái vừa long ra, tấm kính bung ra như cánh cửa chuồng gia súc bị gãy bản lề.

Một luồng nước xộc vào cực mạnh ấn chặt Rachel vào lưng ghế. Nước biển ập vào khắp trong khoang, chảy ùa dưới lưng, nhấc cô ra khỏi ghế. Rachel bị tung lên lộn xuống như một chiếc bít tất trong máy giặt. Cô quờ tay tìm chỗ bấu, nhưng bị lẳng trượt đi.

Nước tràn vào lấp kín khoang lái, và con tàu nhỏ bắt đầu chìm thẳng xuống đáy biển. Rachel bị hất ngược lên nóc khoang, bị xoay đảo. Vô số bọt khí khí ùng ục xung quanh, xoay vần, kéo cô sang trái rồi lên trên. Mép kính vỡ sắc lẻm sượt qua hông.

Lập tức Rachel được giải thoát...

Vừa ra đến vùng nước đen đặc bóng đêm, hai buồng phổi đã thấy đau rát vì thiếu không khí. Phải ngồi lên mặt nước! Rachel nhìn quanh tìm ánh sáng, nhưng chẳng thấy gì. Hướng nào cũng hệt như nhau. Đen kịt. Không trọng lượng. Không biết đâu là trên, đâu là dưới.

Trong khoảnh khắc kinh hoàng đó, Rachel không biết phải bơi về hướng nào.

Cách Rachel hàng ngàn mét, sát đáy biển, chiếc trực thăng Kiowa nát nhừ đang lừ lừ chìm xuống do sức kéo của trọng lực. Mười lăm quả tên lửa chống tăng hạng nặng Hellfire AGM-114 vẫn nguyên trên bệ phóng, vỏ máy bay đã bị bẻ khum lại thành hình nón, và ngòi nổ của những quả tên lửa hơi thụt vào trong, đầy chết chóc.

Ở cách đáy biển ba mươi mét, cột magma phun trào hút mạnh máy bay Kiowa xuống, rồi kéo thẳng chiếc phi cơ đầy chết chóc vào giữa cái chóp đỏ rực của vòm nham thạch nóng. Như một loạt que diêm lần lượt đánh lửa do va mạnh vào thành hộp quẹt, chuỗi tên lửa Hellfire nổ tung, tạo thành một lỗ thủng toang hoác ngay giữa miệng vòm dung nham nóng đỏ.

Nổi lên lấy hơi xong, Tolland lặn xuống độ sâu ba mét và đang căng mắt tìm hình bóng Rachel trong bóng đêm đặc quánh thì những tên lửa Hellfire nổ tung. Luồng sáng trắng xoáy cuộn lên trên, soi sáng cả một vùng rộng lớn, một cảnh tượng kinh hoàng mà Tolland sẽ nhớ đến hết đời.

Bên dưới, cách ông ba mét, Rachel đang lập lờ như một con rối cũ nát nhàu nhò. Tít bên dưới, tàu Triton đang chìm xuống rất nhanh, miệng vòm mở toang. Lũ cá mập đều đang quay đầu bỏ chạy, chúng đã cảm nhận được con quái vật dưới đáy đại dương vừa vùng đứt tung xiềng xích.

Tâm trạng phấn khởi trong lòng Tolland khi thấy Rachel thoát được ra ngoài liền tắt lịm ngay bởi ông hiểu ra những hệ quả tiếp theo của biến cố này. Ghi nhớ vị trí của Rachel sau khi luồng sáng đã tắt, Tolland lặn sâu xuống, vươn tay túm chặt lấy cô.

Cách họ hàng ngàn mét, lớp vỏ dày bao phủ vòm dung nham vỡ vụn ra, núi lửa ngầm trong nước lập tức phun trào, phụt luồng nham thạch một ngàn hai trăm độ C vào lòng biển. Luồng magma nóng lập tức làm bốc hơi toàn bộ lượng nước bao quanh nó, tạo thành luồng khí phụt mạnh lên mặt biển theo phương thẳng đứng, đúng tâm miệng núi lửa. Bị chi phối bởi cơ chế động học hệt như những cơn lốc xoáy ở vùng nhiệt đới, luồng năng lượng phụt mạnh lên trên cân bằng với vòng nước xoáy nghịch hướng xuống dưới bao quanh nó, chuyển năng lượng theo hướng ngược lại.

Di chuyển theo hình xoắn ốc quanh cột khí đang phụt mạnh lên, luồng hải lưu mạnh lên nhanh chóng, giật, xoáy. Cột khí vọt lên tạo thành một vùng chân không rộng lớn hút hàng ngàn ga-lông nước xuống dưới, tiếp xúc với cột nham thạch nóng rẫy. Xuống đến nơi, đến lượt luồng nước này hóa hơi và cần có chỗ để thoát ra, vì thế hơi nóng tiếp tục khiến cho luồng khí phụt lên trên lớn thêm lên, kéo thêm nhiều nước nữa xuống dưới đáy. Càng nhiều nước bị hút xuống tiếp xúc với cột nham thạch, xoáy nước càng rộng ra và mạnh thêm, cứ mỗi tích tắc trôi qua, đỉnh của nó lại càng tiến sát lên mặt biển.

Một lỗ đen trong lòng đại dương vừa chào đời.

Rachel thấy mình giống như một đứa bé nằm trong bựng mẹ. Đêm đen ẩm và ướt bao kín lấy cô. Trí não mụ đi vì sức nóng tác động vào từng lỗ chân lông. Thở. Rachel vật lộn kìm nén phản xạ, tự nhiên ấy. Luồng sáng vừa loé lên chắc chắn là từ trên mặt biển, nhưng sao thấy xa xăm quá. Ảo ảnh đấy. Ngoi lên mặt nước nào. Một cách yếu ớt, Rachel bơi về hướng phát ra ánh sáng. Cô thấy ánh sáng rực rỡ hơn... Một vùng đỏ kỳ lạ ở tít xa. Ánh bình minh chăng? Cô sải tay mạnh thêm...

Một bàn tay túm lấy cổ chân Rachel.

Suýt nữa thì Rachel kêu thét lên, hắt nốt chút dưỡng khí cuối cùng ra khỏi buồng phổi.

Bàn tay ấy kéo, rồi xoay Rachel về hướng ngược lại hai bàn tay thân thuộc ôm chặt lấy Rachel - Michael Tolland - ông kéo Rachel theo hướng ngược lại.

Trí não cô cho rằng ông kéo cô xuống dưới. Nhưng con tim khẳng định rằng Michael biết rõ ông đang làm gì.

Chân đạp mạnh đi con, lại tiếng mẹ thì thầm.

Rachel cố sức đạp thật mạnh.

Chương 130

Dù cả hai người đã lên được đến mặt nước, Tolland nghĩ rằng họ không thể sống sót. Vòm magma đã phun trào. Ngay khoảnh khắc xoáy nước khổng lồ kia lan đến mặt nước, trận cuồng thuỷ bạo tàn sẽ kéo tất thảy mọi thứ xuống tận dưới đáy. Lạ thay, mặt nước không còn là bình minh yên ả mấy giây trước đó nữa. Ầm ỹ kinh khủng. Gió quất như thể một trận bão vừa nổi lên trong những giây phút ngắn ngủi, ông lặn xuống dưới.

Tolland gần như lả đi vì thiếu oxy. Ông cố kéo Rachel, nhưng cô đang bị kéo tuột khỏi tay ông. Dòng thủy triều! Tolland cố xiết chặt hai tay, nhưng Rachel càng bị kéo đi mạnh hơn. Bất thần, ông tuột tay, và Rachel bị kéo phăng mất - lên phía trên...

Choáng váng, Tolland thấy Rachel bị kéo lên khỏi mặt nước.

Trên cao, chiếc trực thăng cánh quạt nghiêng đang kéo Rachel lên. Trước đó 20 phút, đội cứu hộ đã nhận được tin báo về vụ nổ ngoài biển. Do mới bị mất liên lạc với chiếc máy bay Dolphin đang làm nhiệm vụ ngoài biển, họ nghĩ đến tai nạn. Nhập toạ độ mới nhất của chiếc trực thăng Dolphin vào hệ thống lái tự động, họ thầm cầu nguyện.

Từ cách xa nửa dặm, họ đã nhìn thấy con tàu Goya sáng trưng đang chao đảo trên dòng hải lưu chảy xiết. Ngay gần con tàu là người đàn ông đang ra sức vẫy tay. Họ kéo ông ta lên. Toàn thân người này trần như nhộng, trừ một cẳng chân quấn đầy băng dính nhựa.

Kiệt sức. Tolland ngước lên nhìn chiếc trực thăng cánh quạt nghiêng đang gầm rú trên đầu. Cánh quạt máy bay thốc xuống những đợt gió vô cùng mạnh. Rachel được kéo tít lên cao, rồi được rất nhiều cánh tay đỡ vào trong khoang. Đang vui mừng thấy Rachel được cứu thoát, Tolland chợt trông thấy một khuôn mặt quen thuộc ngay cạnh cửa máy bay.

Corky? Tim ông đập rộn. Anh vẫn còn sống đấy à?.

Ngay lập tức, dây tời được thả xuống, và nó chạm mặt biển cách ông khoảng ba mét. Tolland muốn bơi đến đó, nhưng đã bắt đầu cảm nhận thấy sức hút của xoáy nước. Nước như đang ôm chặt lấy ông, không chịu nhả ra.

Xoáy nước kéo ông xuống. Tolland ngồi lên, nhưng toàn thân rã rời. Anh là người sống sót, ông nghe thấy có người động viên mình. Tolland quẫy chân thật mạnh, ngồi lên đến mặt nước, cố nhoài sang, nhưng vẫn chưa chạm được sợi dây. Xoáy nước lại kéo ông xuống. Ngước lên, giữa gió thốc, giữa tiếng ồn, ông bắt gặp ánh mắt của Rachel. Cô đang nhìn xuống, như muốn dùng nhãn lực để kéo ông lên.

Lấy hết sức, Tolland bơi bốn sải và với được sợi đây. Với chút sức lực cuối cùng, ông chui đầu, luồn hai tay vào trong lưới móc rồi ngã vật xuống.

Ngay lập tức mặt biển lùi xuống phía dưới.

Tolland cúi xuống và nhìn thấy xoáy nước vừa hiện ra. Xoáy nước khủng khiếp quanh núi lửa ngầm cuối cùng đã lan lên đến mặt biển.

Đứng chết sững trên boong tàu Goya, William Pickering trân trân nhìn cảnh tượng đang bày ra trước mắt. Ngay bên phải mũi tàu, một vùng trũng như lòng chảo vừa xuất hiện trên mặt biển. Xoáy nước rộng hàng trăm mét, và đang nở rộng ra nhanh chóng. Khắp nơi dậy lên những tiếng ầm ào vọng lên từ sâu thẳm đại dương. Nhìn hố nước trũng lòng chảo đang tiến lại phía mình như một con quỷ đói đang ngoác sẵn mõm sẵn sàng nhận vật hiến tế, Pickering thấy đầu óc hoàn toàn tê liệt.

Chắc mình đang mơ, ông ta nghĩ.

Bất thần, một tiếng nổ lớn làm kính cửa sổ của còn tàu Goya vỡ loảng xoảng, rồi một luồng hơi nóng phụt lên từ chính giữa xoáy nước. Tiếp đến là những tiếng gầm réo dữ dội, rồi một cột nước phun thẳng lên bầu trời tối sẫm.

Ngay lập tức, xoáy nước mạnh hẳn lên, bán kính của nó rộng hẳn ra, và tâm xoáy nhanh chóng di chuyển về phía con tàu mà William đang đứng. Mũi tàu Goya chao đảo rồi hướng thẳng vào giữa cái hang lớn đang hoác miệng trên mặt biển kia. Pickering mất thăng bằng, quỵ xuống. Ông trân trối nhìn xuống vực thẳm khổng lồ vừa hình thành trên mặt biển, như thể một đứa bé đang đứng trước Chúa.

Những suy nghĩ cuối cùng của Pickering đều hướng về con gái Diana. Hi vọng rằng trước khi chết con bé không phải trải qua cảm giác kinh hoàng như ông lúc này.

Những chấn động do cột hơi nóng bốc lên từ núi lửa ngầm đẩy chiếc máy bay phản lực Osprey dạt sang một bên. Rachel và Tolland xiết chặt tay nhau trong khi các phi công giúp chiếc phi cơ lấy lại thăng bằng rồi sà xuống thật thấp bên tàu Goya. Họ thấy Pickering - tín đồ Quaker mộ đạo - mặc áo khoác đen, đeo cà vạt đen, đang quỳ trên boong chính.

Đuôi tàu lắc mạnh rời xoay hẳn về phía mắt xoáy nước, dây néo bị đứt. Tàu Goya trôi lùi về phía tâm xoáy, mũi tàu gần như dựng hẳn lên, rồi bị hút thẳng xuống miệng vực sâu hoắm ở chính giữa dòng xoáy khủng khiếp ấy. Vào khoảnh khắc tàu Goya bị nuốt chửng giữa lòng đại dương, những bóng đèn điện trên tàu còn vẫn sáng rực.

Chương 131

Bình minh trên thành phố Washington thật trong trẻo và thoáng đãng.

Gió nhẹ thổi thốc những chiếc lá khô trên mặt đất, tạo thành một vòng xoáy nhỏ vàng rộm gần tượng đài Washington. Thường thì tượng đài lớn nhất thế giới này lặng lẽ soi bóng xuống mặt hồ Refleding, nhưng sáng nay rất nhiều nhà báo đang đã tự tập ở nơi này, họ đang nôn nóng đứng dưới chân tượng đài, chờ đợi.

Bước ra từ chiếc xe Limousine, tự cảm thấy bóng mình trải ra lồng lộng, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton sải bước về phía đám nhà báo dưới chân tượng đài. Ông đã mời đến đây đại diện của mười tờ báo lớn nhất toàn quốc và hứa hẹn với họ về một vụ tai tiếng tầm cỡ thế kỷ...

Để hấp dẫn bầy kền kền thì mùi xác thối quả là nhất hạng! Sexton nghĩ thầm...

Trong tay Sexton là xấp phong bì bằng vải lanh trắng có đóng con dấu nổi khắc ba chữ S lồng vào nhau hết sức tao nhã. Nếu thông tin là quyền lực thì hôm nay ông đang có trong, tay một quả tên lửa màng đầu đạn hạt nhân.

Chân sải bước về bục diễn thuyết, Sexton cảm thấy chuếnh choáng trong hơi men danh vọng. Ông hài lòng nhận thấy bục diễn thuyết của mình hôm nay đã có sẵn hai "hàng rào danh dự" - hai tấm vách ngăn trông như những tấm rèm màu xanh lính thuỷ ở hai cánh bên của bục diễn thuyết - một giải pháp mà Ronald Reagan đưa ra để tránh làm loãng sự chú ý của cử toạ khi ông ta phát biểu.

Sexton lên bục từ bên phải, ông bước ra từ phía sau tấm vách ngăn, hệt như diễn viên bước ra từ sau cánh gà. Cánh nhà báo nhanh chóng ngồi xuống những hàng ghế ngay sát bục diễn thuyết. Phía đông, Mặt trời đang nhô lên từ mái vòm Capitol, chiếu những tia sáng rực rỡ xuống vai Sexton, hệt như những ha sáng từ thiên đàng rọi xuống...

Quả là một ngày lý tưởng để trở thành người quyền thế nhất hành tinh.

"Xin chào quý vị". Sexton đặt xấp phong bì lên bục và nói. "Tôi sẽ trình bày một cách hết sức ngắn gọn và từ tốn. Thật thà mà nói thì những thông tin tôi sắp chia sẻ với quý vị quả là rất đáng lo ngại. Bên trong những phong bì này là bằng chứng về vụ lừa dối ở cấp cao nhất trong Chính phủ. Tôi rất buồn phiền phải kể cho các vị biết rằng cách đây nửa giờ Tổng thống đã gọi cho tôi để cầu xin, thế đấy, xin tôi đừng công khai những bằng chứng này". Ông lắc đầu ra vẻ kinh khiếp. "Nhưng tôi là người tôn trọng sự thật. Bất kể sự thật đó đau xót đến chừng nào".

Sexton ngừng một lát, giơ xấp phong bì lên, kích dộng đám nhà báo. Mắt họ đánh sang trái rồi sang phải, nhìn như muốn nuốt chửng xấp phong bì, chẳng khác gì lũ chó đói đang rỏ nước rãi trước miếng ngon chúng chưa bao giờ được nếm thử.

Cách đây nửa giờ, Tổng thống đã gọi cho Sexton để giải thích mọi chuyện. Từ một chiếc phi cơ nào đó, an toàn, Rachel đã trao đổi với Tổng thống. Thật kinh ngạc, hoá ta cả Nhà Trắng lẫn NASA đều vô tội và vô can, thất bại này chính thuộc về William Pickering.

Cũng chẳng khác gì nhau, Sexton thầm nghĩ. Zach Herney sẽ lụn bại trong chớp mắt.

Sexton ước gì ông bỗng hoá thành một chú ruồi bé xíu và bay vào trong Nhà Trắng để được thấy vẻ mặt của Tổng thống khi ông ta biết rằng thông tin đã bị công khai. Sexton đã thoả thuận gặp ông ta tại Nhà Trắng đúng vào giờ này để thảo luận cách thức thông báo tin này với công chúng. Rất có thể lúc này Zach Herney đang đứng trước một tivi nào đó, kinh ngạc đến sững sờ thấy rằng Nhà Trắng không còn khả năng thay đổi định mệnh được nữa.

"Thưa các bạn". Sexton nhìn thẳng vào mắt cử tọa và lên tiếng. "Tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều, cũng đã từng nghĩ đến chuyện thuận theo ý Tổng thống và giữ bí mật những thông tin tôi đang có, nhưng tôi không thế lừa dối lương tâm mình". Sexton thở dài, ngửa cổ lên một chút, ra vẻ mệt mỏi vì trách nhiệm nặng nề trước lịch sử. "Sự thật là sự thật. Tôi không hề có ý định áp đặt chính kiến của cá nhân tôi đối với các vị. Tôi sẽ chuyển những dữ liệu này đến tay các vị một cách mộc mạc và không thiên kiến".

Sexton nghe thấy tiếng cánh quạt máy bay trực thăng phành phạch từ xa vọng lại. Ông băn khoăn, biết đâu vì quá lo sợ nên Tổng thống lại đích thân đến tận đây để cản trở cuợc họp báo này

Nếu thế thì chẳng khác nào đem kem đến phết lên bánh gatô hộ mình, Sexton đắc chí nghĩ thầm. Lúc đó vẻ mặt ăn năn hối lỗi của ông ta sẽ như thế nào nhỉ?

"Tôi chẳng sung sướng gì khi phải làm thế này". Sexton nói tiếp, cảm thấy mình đã chọn được thời điểm hoàn hảo nhất cho sự kiện này "Nhưng nghĩa vụ của tôi là phải cho nhân dân Mỹ biết rằng họ đã bị lừa dối".

Chiếc phi cơ ầm ầm đến sát trên đầu rồi hạ cánh xuống khoảng đất trống bên phải bục diễn thuyết. Sexton liếc nhìn sang, và ngạc nhiên thấy không phải máy bay của Tổng thống mà chỉ là loại trực thăng cánh quạt nghiêng Osprey...

Trên thân máy bay có hàng chữ ĐỘI CỨU HỘ BỜ BIÊN HOA KỲ.

Bối rối, ông chăm chú nhìn cửa khoang lái mở ra và một phụ nữ bước xuống. Người này mặc chiếc áo khoác màu da cam của Đội Cứu hộ Bờ biển và có vẻ rũ rượi như vừa trải qua một trận chiến. Cô ta tiến về phía cánh nhà báo. Mất một lúc Sexton mới bất thần nhận ra.

Là Rachel sao? Miệng ông ta há hốc. Con bé làm cái quái gì ở đây kia chứ?

Đám đông bắt đầu xì xào bàn tán.

Gắn lên mặt nụ cười rộng ngoác, Sexton quay lại nhìn đám nhà báo và giơ ngón tay lên làm hiệu xin lỗi. "Xin các vị thứ lỗi cho giây lát. Tôi rất lấy làm tiếc". Ông lại làm bộ thở dài. "Gia đình là trên hết".

Mấy nhà báo phá lên cười.

Thấy con gái đang phăm phăm tiến lại, Sexton tính rằng cuộc hội ngộ cha con này nên kín đáo một chút. Phiền thay, lúc này thì thật khó mà kín đáo cho được. Sexton nhìn ngay sang tấm vách ngăn bên tay phải.

Vẫn mỉm cười một cách điềm tĩnh, Sexton giơ tay vẫy con gái và bước khỏi bục diễn thuyết. Ông khéo léo chọn hướng đi để cho Rachel buộc phải đi vòng ra sau vách ngăn thì mới có thể giáp mặt ông. Hai cha con gặp nhau ngay sau vách ngăn, khuất khỏi tai mắt của cánh nhà báo.

"Con yêu!" Ông mỉm cười, giang rộng tay khi Rachel tiến lại. "Cha ngạc nhiên quá!"

Rachel bước lên và vả vào giữa mặt Sexton.

Khuất sau tấm vách ngăn, chỉ có hai cha con với nhau. Rachel trừng mắt nhìn cha mình một cách đầy khinh bỉ. Bị tát như trời giáng. Ông chỉ cố kiềm chế bản thân, không phản ứng ngay. Nụ cười giả dối tan biến, thay vào đó là ánh mắt đầy giận dữ.

Sexton giằn giọng: "Con không đến đây thì hơn đấy".

Rachel nhận thấy ánh giận dữ điên cuồng trong mắt cha, nhưng lần đầu tiên trong đời cô không cảm thấy sợ hãi. "Con đã cầu cứu bố, còn bố thì bán đứng con gái của chính mình! Suýt nữa thì con mất mạng!"

"Con khỏe mạnh sờ sờ ra đấy thôi". Sexton nói, vẻ thất vọng.

"NASA vô tội!" Rachel nói. "Tổng thống đã nói với bố rồi kia mà! Bố đang làm gì ở đây thế?" Hành trình về Washington của cô trên chiếc phi cơ của Đội Cứu hộ Bờ biển Osprey đã bị cắt ngang bởi vô số cuộc điện đàm giữa cô với Nhà Trắng, với cha cô, cả với Gabrielle Ashe nữa. "Bố đã hứa với Zach Herney là sẽ vào Nhà Trắng cơ mà!"

"Đúng thế!" Sexton cười khẩy, "Sau ngày bầu cử".

Rachel tưởng phát ốm khi nghĩ rằng người đàn ông này chính là cha đẻ của mình. "Những gì bố sắp làm là vô cùng điên khùng".

"Thế à?" Sexton cười hô hố. Ông ta quay lại và chỉ tay về bục diễn thuyết đằng sau tấm vách ngăn. Trên bục, một xấp phong bì màu trắng được xếp ngay ngắn. "Những chiếc phong bì kia chứa những thông tin do chính con đã gửi về. Chính con. Rachel ạ. Tay con đã vấy máu của Tổng thống rồi đó".

"Con gửi cho bố những thông tin đó vì lúc ấy con tưởng NASA và Tổng thống có tội. Lúc đó con cần sự trợ giúp của bố!"

"Căn cứ vào những tài liệu đó thì chắc chắn là NASA có tội chứ còn gì nữa!"

"Nhưng không phải thế! Họ xứng đáng có được cơ hội tự thú nhận sai lầm của mình. Thắng lợi đã thuộc về bố rồi. Zach Herney đã hết thời? Bố biết thế còn gì! Hãy để cho ông ấy giữ lại một chút thể diện".

Sexton rên lên. "Thật quá khờ khạo. Đây không chỉ là chuyện thắng cử, Rachel ạ. Đây là vấn đề quyền lực, là chuyện chiến thắng tuyệt đối những hành động vĩ đại, tiêu diệt đối thủ, và kiểm soát các thế lực ở Washington để có thể làm những gì mình muốn".

"Và cái giá phải trả là gì?"

"Con đừng có lên mặt đạo đức thế. Bố chỉ công bố các chứng cứ mà thôi. Mọi người có quyền tự kết luận xem ai có tội, ai không".

"Bố thừa biết mọi người sẽ nghĩ thế nào".

Sexton nhún vai. "Mà cũng đã hết thời của NASA rồi".

Thượng nghị sĩ Sexton biết cánh nhà báo đang ngồi sốt ruột lắm rồi, và ông không định đứng đây cả buổi sáng để nghe con gái thuyết giáo. Vinh quang đang đợi ông.

"Thôi nhé!" Ông nói. "Các nhà báo đang đợi bố".

"Con gái duy nhất của bố đang cầu xin đấy". Rachel nài nỉ. "Bố đừng làm thế. Bố hãy nghĩ mà xem. Còn có cách khác hay hơn kia mà?"

"Bố không thấy thế".

Có tiếng lạo xạo vang lên trong hệ thống loa ở phía sau, Sexton quay lại và trông thấy một nữ nhà báo đến muộn giờ đang lom khom bên bục diễn thuyết, xoay xở đặt máy ghi âm của mình vào cạnh những chiếc máy khác đã được sắp xếp sẵn.

Sao những kẻ đần độn này không thể đến đúng giờ được cơ chứ! Sexton cáu kỉnh.

Luống cuống, nhà báo kia vừa làm đổ cả chồng phong bì của ông xuống đất.

Chết tiệt! Sexton quay lại, thầm nguyền rủa cô con gái đã làm ông bị xao lãng. Ông quay về đến bục diễn thuyết khi nhà báo kia đang lúi húi nhặt những chiếc phong bì nằm ngổn ngang trên mặt đất. Sexton không trông rõ mặt cô ta, nhưng rõ ràng đây là người của bên truyền hình - áo khoác vải cashemere dài chấm gót, khăn choàng vai cùng màu, mũ bê rê đội lệch có gắn phù hiệu của đài ABC.

Đồ đần, Sexton nghĩ thầm. "Đưa cho tôi". Sexton đưa tay ra và giật lấy xấp phong bì.

Cô ta nhặt chiếc phong bì cuối cùng rồi giao cả xấp lại cho Sexton, vẫn không ngẩng mặt lên. "Tôi xin lỗi..." Cô ta lắp bắp, vẻ bối rối. Cúi rạp xuống vì ngượng, cô ta len vào giữa đám đông.

Sexton nhanh tay đếm lại xấp phong bì. Mười. Tốt lắm. Hôm nay ông sẽ không để bất cứ kẻ nào cuỗm mất đòn sấm sét trong tay. Xếp lại chồng phong bì cho ngay ngắn, ông chỉnh lại micro rồi mỉm cười hài hước nhìn đám đông. "Có lẽ tôi nên chuyển cho các vị những phong bì này trước khi có người bị thương vì chúng!"

Tất cả cười phá lên, lộ rõ vẻ háo hức.

Sexton cảm thấy Rachel vẫn còn ở đây, ngay đằng sau tấm vách ngăn, bên cạnh sân khấu.

"Đừng làm thế". Rachel vẫn tiếp tục nài nỉ. "Rồi bố sẽ hối tiếc cho mà xem".

Sexton tảng lờ.

"Bố hãy tin con". Rachel lớn giọng. "Đây là một hành động sai lầm".

Sexton nhấc xấp phong bì lên; vuốt thẳng các mép.

"Bố ơi". Giọng Rachel lúc này đầy khẩn thiết. "Đây sẽ là cơ hội cuối cùng để bố chọn con đường đúng đắn đấy".

Đúng cái gì cơ chứ. Sexton lấy tay bịt micro lại và làm ra vẻ đang hắng giọng. Ông kín đáo liếc nhìn sang Rachel. "Đúng là mẹ nào con nấy, nhỏ nhen và hão huyền. Đàn bà làm sao hiểu được thế nào là quyền lực cơ chứ?"

Quay lại nhìn đám nhà báo đang chen chúc nhốn nháo, Sexton quên hẳn con gái mình. Ngẩng cao đầu, ông đi vòng quanh bục diễn thuyết và đưa phong bì cho những cánh tay chìa sẵn chờ đợi. Ông thấy xấp phong bì nhanh chóng được phân phát. Ông nghe tiếng lớp xi gắn bị bẻ gẫy, tiếng vải phong bì bị xé nát như lũ trẻ con đang háo hức mở quà Giáng sinh.

Cả đám đông đột nhiên ồ lên.

Trong tích tắc, tất cả lặng phắc, Sexton cảm nhận rõ ràng sự nghiệp của mình đang ở giây phút bước ngoặt.

Tảng thiên thạch là giả mạo. Và mình chính là người khui ra vụ việc.

Sexton biết phải mất một lúc thì các nhà báo mới hiểu hết ý nghĩa của những tài liệu họ đang cầm trong tay: ảnh chụp cắt lớp lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch trong lòng phiến băng, một loài động vật biển rất giống những mẫu hoá thạch của NASA, bằng chứng về những chrondrule được hình thành trên trái đất. Những chứng cứ này sẽ đưa đến những kết luận đầy choáng váng.

"Thưa Thượng nghị sĩ". Một phóng viên lắp bắp, mặt lộ rõ vẻ ngỡ ngàng. "Những cái này là thật chứ ạ?"

Sexton thở dài vẻ sầu não. "Đúng thế. Tôi e rằng tất cả đều là sự thật".

Những tiếng xì xào bàn tán gỉờ bắt đầu lan khắp đám đông.

"Tôi dành cho quý vị một chút thời gian để xem qua những trang đó", Sexton nói. "Sau đó tôi sẽ trả lời các câu hỏi của quý vị và cố gắng giải thích cặn kẽ về những tài liệu các vị đang cầm trong tay".

"Thưa Thượng nghị sĩ". Một nhà báo khác lên tiếng, vẻ quá choáng váng. "Những hình ảnh này là thật chứ ạ?... Không bị chỉnh sửa gì chứ ạ?"

"Một trăm phầm trăm". Sexton đáp, giọng chắc nịch. "Nếu không thì tôi đã không cung cấp cho các vị những chứng cứ này".

Đám đông càng tỏ ra phân vân, và hình như có ai vừa cười phá lên, khác hẳn những phản ứng mà ông trông đợi. Sexton bắt đầu sợ rằng các nhà báo không đủ hiểu biết để nắm được nội dung của những trang tài liệu này.

"Dạ, thưa Thượng nghị sĩ". Một người lên tiếng, vẻ mặt khoái trá một cách kỳ quái. "Xin ngài hãy khẳng định một cách chính thức rằng những bức ảnh này là thật".

Sexton bắt đầu phát cáu. "Thưa các bạn, tôi xin khẳng định lần cuối cùng những bằng chứng này là thật một trăm phần trăm. Nếu có người chứng minh được điều ngược lại thì tôi sẽ nuốt chửng cái mũ của tôi!"

Sexton đợi những tiếng cười, nhưng chẳng nghe thấy gì hết.

Im lặng chết chóc. Những cái nhìn ngỡ ngàng.

Tay phóng viên vừa lên tiếng tiến lại phía Sexton, vừa đi vừa lật qua lật lại những tờ giấy trên tay. "Thượng nghị sĩ nói đúng, những bức ảnh này quả là vô cùng tai tiếng". Anh ta ngừng lời, gai đầu gãi tai. "Điều chúng tôi đang băn khoăn là tại sao lúc này ngài lại cho chúng tôi xem những bức ảnh này, trong khi trước đây ngài đã lớn tiếng bác bỏ toàn bộ sự việc".

Sexton không hiểu anh ta đang nói về cái gì. Người phóng viên đưa cho ông ta xấp ảnh. Sexton nhìn tập giấy, và trong chốc lát đầu óc ông như mê đi.

Ông không nói được nên lời.

Ông đang thấy những bức ảnh lạ hoắc. Ảnh đen trắng. Hai người. Hoàn toàn loã thể. Tay chân xoắn xuýt vào nhau. Lúc đầu ông không hiểu. Rồi ông vỡ lẽ. Sét đánh ngang mày.

Kinh hoàng, Sexton ngẩng lên nhìn đám nhà báo. Họ đang cười. Một số đã bấm máy gọi về trụ sở của họ.

Có người vỗ vai Sexton.

Mụ mẫm, ông quay lại nhìn.

Rachal đang đứng đó.

"Con đã hết lời khuyên can". Cô nói.

"Chúng tôi đã cho ông cơ hội". Một phụ nữ đứng cạnh Rachel lên tiếng. Cô ta chính là nhà báo mặc áo khoác cashmere và đội mũ bê rê nỉ - người ban nãy đã làm rơi xấp phong bì. Trông thấy mặt cô ta, máu trong huyết quản Sexton lập tức đông quánh lại.

Đôi mắt xám nhạt của Gabrielle đang rọi thẳng vào tận tâm can của Sexton.

Cô cúi xuống và mở khuy áo khoác, để lộ ra một tập phong bì trắng ngay ngắn kẹp ở cánh tay.

Chương 132

Trong phòng bầu dục, chỉ có một luồng sáng dịu nhẹ duy nhất tỏa ra từ ngọn đèn bàn chân đồng trên bàn làm việc của Herney. Đầu ngẩng cao, Gabrielle Ashe đang đứng trước mặt Tổng thống. Bên ngoài cánh cửa sổ sau lưng ông, ánh hoàng hôn đang trải dài trên thảm cỏ phía tây của Nhà Trắng...

"Tôi được thông báo rằng cô quyết định sẽ ra đi". Herney lên tiếng, vẻ thất vọng.

Gabrielle gật đầu. Rất tử tế, Tổng thống đã hứa sẽ bảo đảm cho Gabrielle một nơi an toàn ngay trong Nhà Trắng để tránh cánh nhà báo, tuy nhiên Gabrielle không muốn tránh bão ngay tại mắt bão. Cô muốn đi càng xa càng tốt. Ít nhất là trong thời gian trước mắt.

Từ sau bàn làm việc của mình, Herney chăm chú nhìn cô gái trẻ. "Gabrielle, hành động của cô sáng nay thật là..." Ông ấp úng, hình như không thể nói nên lời. Ánh mắt của ông thật chân thành và giản dị, khác hẳn cặp mắt sâu bí hiểm một thời đã hút cô tới bên Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Ngay giữa trung tâm quyền lực này, Gabrielle vẫn cảm nhận hết sức rõ ràng sự nhân hậu, nhân cách và danh dự trong ánh mắt của Tổng thống, ánh mắt mà cô sẽ không dễ gì quên được.

"Hành động đó cũng là vì lợi ích của chính tôi mà". Gabrielle đáp lời.

Herney gật đầu. "Dù sao thì tôi cũng rất biết ơn cô". Ông đứng dậy, ra hiệu bảo cô gái đi theo mình ra đại sảnh. "Thực ra tôi đã hi vọng rằng cô sẽ ở lại đây một thời gian, và hi vọng rằng sẽ có dịp bố trí cô vào bộ phận gây quỹ tranh cử của tôi".

Gabrielle quay sang, hoài nghi nhìn Tổng thống: "Chặn đứng thâm thủng và khởi đầu tái thiết sao, thưa Tổng thống?"

Ông cười. "Cũng đại loại như vậy".

"Chắc Tổng thống cũng đồng ý với tôi rằng lúc này thì tôi sẽ là gánh nặng cho Tổng thống thay vì một cộng tác viên hiệu quả".

Herney nhún vai: "Sau vài tháng là tất cả sẽ chìm vào quên lãng. Rất nhiều người đã phải trải qua những hoàn cảnh tương tự như cô lúc này, nhưng rồi vẫn trở thành những người vĩ đại". Ông nháy mắt tinh nghịch: "Một số thậm chí còn trở thành Tổng thống Hoa Kỳ nữa cơ đấy".

Gabrielle biết đó là sự thật. Mới thôi việc có vài giờ mà cô đã phải từ chối hai đề nghị cộng tác - của Yolanda Cole ở đài ABC và của tạp chí St. Martin (với những ưu đãi đặc biệt, nếu cô đồng ý xuất bản cuốn tự thuật về bản thân - thật nhầy nhụa). Không, tôi xin kiếu.

Chân bước theo Tổng thống dọc hành lang, tâm trí Gabrielle quay về với những bức ảnh của mình giờ này chắc đã được phát trên hầu hết những kênh truyền hình lớn nhỏ.

Nếu không thế thì đất nước này sẽ phải chịu những tổn thất vô cùng khủng khiếp, cô tự nhủ, khủng khiếp hơn thế nhiều lần.

Sau khi đến trụ sở Đài Truyền hình ABC để lấy lại tập ảnh và mượn thẻ nhà báo của Yolanda Cole, Gabrielle đã một lần nữa lẻn vào văn phòng của Sexton để lấy những chiếc phong bì lanh màu trắng và in tất cả những bằng chứng về hành vi ăn đút lót của ông ta. Sau cuộc chạm trán ở đài tưởng niệm Washington, Gabrielle đã giơ những bằng chứng ấy sát vào khuôn mặt lúc bấy giờ đã thất thần của ngài Thượng nghị sĩ rồi tuyên bố yêu sách: Hãy để cho Tổng thống có cơ hội thú nhận sai lầm của bản thân ông ấy, nếu không tất cả những bằng chứng này sẽ tiếp tục bị đem công bố. Thượng nghị sĩ Sexton chỉ nhìn thoáng tập tài liệu trên tay Gabrielle rồi lầm lũi chui vào trong chiếc Limusine của mình và đi thẳng. Từ lúc ấy đến giờ không ai trông thấy ông ta ở đâu nữa...

Lúc này, họ đã đến cửa sau của phòng thông tin, và Gabrielle nghe thấy tiếng ồn ào của cánh báo chí đang nôn nóng chờ đợi ở bên trong. Lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ, cả thế giới lại nóng lòng nghe thông điệp Liên bang thứ hai của Tổng thống.

"Tổng thống sẽ nói với họ như thế nào?" Gabrielle hỏi.

Herney thở dài, vẻ mặt yẫn rất điểm tĩnh. "Suốt bao năm qua, tôi đã học đi học lại một bài học lớn.." Ông đặt tay lên vai Gabrielle, cười mỉm "Không gì có thể thay thế được sự thật".

Gabrielle chợt thấy dạt dào cảm giác tự hào khi nhìn Tổng thống sải bước vào phòng. Zach Herney sắp phải thừa nhận sai lầm lớn nhất trong đời, và kỳ lạ thay, chưa lúc nào cô thấy Tổng thống vĩ đại hơn lúc này

Chương 133

Rachel tỉnh giấc, căn phòng tối mịt.

Đồng hồ treo tường chỉ mười giờ mười bốn phút đêm. Không. Phải giường của cô. Rachel nằm im không nhúc nhích, băn khoăn không hiểu mình đang ở chỗ nào. Rồi mọi sự kiện dần dần hiện lên trong đầu... Vòm magma ngầm dưới nước... Buổi sáng nay ở đài tưởng niệm Washington... Tổng thống mời cả nhóm ở lại trong Nhà Trắng.

Mình đang ở trong Nhà Trắng, Rachel nhận ra. Mình đã ngủ suốt cả ngày.

Theo lệnh của Tổng thống, chiếc trực thăng của Đội Cứu hộ Bờ biển đã chở Micheal Tolland, Corky Marlison và Rachel Sexton từ đài tưởng niệm Wasinhton về thẳng Nhà Trắng. Họ được chiêu đãi một bữa hết sức thịnh soạn, được các bác sĩ khám cẩn thận, và được chọn bất cứ phòng nào mà họ thích trong số mười bẩy phòng ngủ của Nhà Trắng để phục hồi sức khỏe.

Họ đã nhận lời.

Rachel không tin nổi rằng mình đã ngủ suốt từ lúc ấy đến giờ.

Cô mở tivi, kinh ngạc thấy Tổng thống Herney đã kết thúc cuộc họp báo. Cả hai nhà khoa học và Rachel đã tỏ ý muốn xuất hiện cùng Tổng thống khi ông công bố trước toàn thế giới sự thật đáng buồn về tảng thiên thạch. Đây là lỗi chung của tất cả chúng ta. Nhưng Herney nhất mực đòi nhận hết trách nhiệm về mình.

"Thật đáng buồn", bình luận viên chính trị đang xuất hiện trên màn hình nói, "rốt cuộc thì NASA không hề phát hiện được bằng chứng về sự sống trên vũ trụ. Đây là lần thứ hai trong vòng một thập niên NASA có những kết luận sai lầm về những tảng thiên thạch mang dấu hiệu về sự sống ngoài trái đất. Tuy nhiên, lần này thì một số nhà khoa học tiếng tăm đã phải chịu trận cùng với họ".

"Thường thì", một nhà phân tích khác tiếp lời "có thể khẳng định rằng một vụ lừa gạt tai tiếng thế này sẽ huỷ hoại toàn bộ sự nghiệp của Tổng thống... Tuy nhiên, xem xét những sự kiện vừa diễn ra sáng nay tại đài tưởng niệm Washington, phải nói là cơ hội tái đắc cử Tổng thống của Zach Herney lúc này đang lớn hơn bao giờ hết".

Nhà phân tích kia gật đầu đồng tình: "Tóm lại là không có sự sống trong vũ trụ, nhưng cũng chẳng còn sức sống trong chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Lý do là lúc này, khi những thông tin tiếp tục được đưa ra về vấn đề gây quỹ bất hợp pháp của ông Thượng nghị sĩ..."

Tiếng gõ cửa thu hút sự chú ý của Rachel.

Michael, cô hy vọng. Rachel nhanh chóng tắt tivi rồi ra mở cửa phòng. Cô chưa nhìn thấy ông suốt từ sau bữa sáng. Đặt chân vào đến Nhà Trắng, cô chỉ có một khát khao duy nhất - được ngủ trong vòng tay của Michael. Cô biết chắc ông cũng cùng chung khát khao ấy, nhưng Corky đã xía vào. Ông ta nằm chung giường với Michael và thao thao bất tuyệt kể đi kể lại chuyện ông ta đã tự đái vào chân mình. Cuối cùng, vì quá mệt mỏi, Michael và Rachel đành bỏ cuộc. Mỗi người về một phòng ngủ riêng.

Giờ đây, vừa bước tới cánh cửa, Rachel vừa tranh thủ liếc mắt vào gương, và thấy mình ăn mặc quả là kỳ dị. Trong ngăn tủ chỉ có duy nhất một chiếc áo len bó hiệu Pen State. Chiếc áo dài đến gối trở thành áo ngủ của Rachel.

Tiếng gõ cửa lại vang lên.

Rachel mở cửa, thất vọng thấy chỉ là một nữ nhân viên mật vụ của Nhà Trắng. Cân đối và xinh xắn, cô gái mặc chiếc áo cộc đồng phục màu xanh nước biển.

"Thưa cô Sexton, quý ông ở phòng Lincoln nghe tiếng cô mở tivi. Ông ấy nhờ tôi nói với cô là nếu cô thức dậy rồi thì..." Cô gái nhướng mày, ngừng lời, rõ ràng là đêm nay chẳng có vị khác nào tổ chức chiêu đãi ở tầng trên cùng của Nhà Trắng cả.

Rachel đỏ mặt, da nóng ran. "Cảm ơn cô".

Cô nhân viên mật vụ dẫn Rachel đi dọc theo hành lang được trang trí cực kỳ đẹp mắt, đến bên cánh cửa gỗ giản dị.

"Đây là phòng ngủ Lincoln". Cô gái nói. "Tôi có nhiệm vụ phải đứng canh ở ngoài cửa. Chúc chị ngủ ngon, cẩn thận có ma đấy".

Rachel gật đầu. Những huyền thoại về ma trong phòng Lincoln thì ai cũng biết. Người ta kể lại rằng Winston Churchil đã trông thấy bóng ma của Lincoln trong phòng này, và vô số người khác nữa, bao gồm Eleanor Rooservelt, Amy Carter, diễn viên Richard Dreyfuss, và không biết bao nhiêu người quản lý cũng như nhân viên phục vụ. Người ta còn kể rằng cơn chó yêu của Tổng thống Reagan đã sủa hàng tiếng đồng hồ trước cửa căn phòng này.

Nghĩ đến hồn ma của những nhân vật lịch sử ấy, Rachel chợt nhận ra căn phòng này linh thiêng biết chừng nào. Đột nhiên cô cảm thấy ngượng ngùng - mặc chiếc áo lùng thùng, chân không, cô chẳng khác gì một nữ sinh năm thứ nhất đại học đang định lẻn vào phòng ngủ của bạn trai. "Có ngại không nhỉ?" Cô thì thào hỏi nữ nhân viên mật vụ. "Đây là phòng ngủ Lincoln cơ mà".

Cô nhân viên trẻ nháy mắt tinh nghịch: "Phương châm của chúng em ở tầng này là: Không hỏi gì, và cũng không nói gì cả".

Rachel mỉm cười. "Cảm ơn em". Bị kích thích bởi những gì chờ đợi mình sau cánh cửa, Rachel đưa tay định xoay quả đấm.

"Rachel!" Từ tít cuối hành lang, một giọng nói khê khê vang lên đầy hăm hở.

Cả Rachel lẫn cô nhân viên mật vụ đều quay lại. Corky Marlinson đang lạch cạch chống nạng tiến lại, lúc này chân ông ta đã được băng bó tử tế. "Tôi cũng bị mất ngủ mới hay chứ!"

Rachel ngồi sụp xuống, có lẽ cuộc hẹn hò bí mật của bọn họ lại sắp tan thành mây khói một lần nữa.

Corky đưa mắt nhìn cô nhân viên mật vụ trẻ trung xinh xắn, rồi cười thật tươi: "Tôi rất thích ngắm những cô gái đẹp mặc đồng phục!"

Cô nhân viên kéo áo khoác ngoài sang một bên, để lộ ra khẩu súng giắt bên mạng sườn.

Corky lùi ngay lại.

"Đã ngắm sẵn mục tiêu rồi cơ đấy!" Ông ta quay sang hỏi Rachel "Mike cũng thức dậy rồi à? Cô có vào không?" Corky có vẻ rất háo hức muốn được nhập bọn.

Rachel rên rỉ: "Corky này, thực ra thì.."

"Thưa tiến sĩ Marlinson". Cô nhân viên mật vụ xen vào, tay rút từ túi áo ra một mẩu giấy. "Theo những chỉ dẫn đã được ghi sẵn trong này, thì ông Tolland lệnh cho tôi phải hộ tống ông xuống nhà bếp, yêu cầu đầu bếp nấu cho ông bất cứ món gì ông muốn, và nhờ ông giải thích thật chi tiết làm thế nào mà ông đã tự bảo vệ được bản thân trước cả đàn cá mập bằng cách..." cô nhân viên trẻ ngừng một lát, làm bộ nhíu mày rồi đọc tiếp... "bằng cách tự tè vào chân mình".

Rõ ràng là cô gái vừa đọc lên những lời thần diệu. Corky quẳng ngay cái nạng gỗ xuống đất và quàng tay lên vai cô gái: "Bé yêu, thế thì chúng ta xuống nhà bếp nào".

Không nghi ngờ gì nữa, Corky cảm thấy vô cùng sung sướng khi được cô nhân viên mật vụ trẻ dìu đi. "Vấn đề cốt yếu chính là nước giải", - Rachel nghe thấy ông ta đang lớn tiếng giải thích "bởi vì những thuỳ khứu giác của chúng có thể đánh hơi thấy mọi thứ!"

Vào trong, Rachel nhận thấy phòng Lincoln rất tối. Cô ngạc nhiên thấy giường trống không và nguyên xi chưa ai đụng đến.

Chẳng thấy Michael Tolland đâu cả.

Một cây đèn dầu cổ đang toả sáng gần chiếc giường, và trong ánh sáng dịu nhẹ của nó, Rachel phải căng mắt mới nhìn thấy tấm thảm Brussel..., chiếc giường bằng gỗ hồng có chạm trổ nổi tiếng... chân dung Marry Todd - phu nhân của Tổng thống Lincoln... và cả chiếc bàn nơi Lincoln đã từng ký Sắc lệnh Giải phóng nô lệ.

Đóng cánh cửa sau lưng lại, Rachel thấy bàn chân trần của mình đang dẫm lên trên mặt sàn lạnh. Michael đâu nhỉ? Một ô cửa sổ để ngỏ, tấm rèm lụa trắng đang lay động. Rachel bước tới đóng cửa sổ lại, và những tiếng thì thầm kỳ quái vang lên từ sau tủ cốc chén...

"Ma...rrr...ry..."

Rachel quay lại.

"Ma...rrr...ry...?" Tiếng thì thầm ấy lại vang lên lần nữa. "Có phải cô đấy không? hả Mary Todd Liiiiincoln?"

Rachel đóng nhanh hai cánh cửa sổ và đến bên tủ đựng cốc chén. Dù biết rõ là không có ma, tim cô vẫn đập thình thịch. "Mike, em biết đấy là anh mà!"

"Khôooong..." Giọng nói ấy vẫn tiếp tục. "Không phải Mike đâu, tôi là Aaaabe".

Rachel đứng chống nạnh: "Thật thế sao, hả ngài Abe trung thực?"

Có tiếng cười khe khẽ. "Abe hơi trung thực một tí,... tôi đây".

Lúc này thì cả Rachel cũng cười phá lên.

"Cô phải sợợợợ chứ. Phải rất sợ mới đúng chứ!"

"Tôi không sợ đâu".

"Làm ơn sợ chút xíu đi nào..." Giọng nói ấy rên rỉ. "Đặc điểm tâm lý của loài người là cảm giác sợ hãi và khoái cảm tình dục có liên hệ trực tiếp với nhau đấy".

Rachel cười phá lên.

"Đây là ý tưởng của anh để khơi mào đấy à?"

"Hãy tha lỗi cho tôiiiii..." Giọng nói ấy lại vang lên lần nữa. "Đã lâuuuu lắm rồi tôi chưa gần gũi bất cứ phụ nữ nào".

"Rõ ràng là thế". Rachel vừa nói vừa mở tủ đựng cốc chén.

Michael Tolland đứng trước mặt cô, đôi môi đỏ cười thật tươi.

Ông mặc bộ pijama lụa màu xanh lính thủy thật quyến rũ. Trên ngực áo lại còn có cả phù hiệu của Tổng thống nữa.

"Quần áo của Tổng thống à?"

Tolland nhún vai. "Tôi tìm thấy trong ngăn kéo tủ".

"Và em cũng chẳng tìm được gì ngoài chiếc áo len này".

"Đáng ra em nên chọn phòng ngủ Lincoln"

"Đáng ra anh phải có lời mời chứ!"

"Anh nghe nói tấm thảm trải sàn này tồi lắm, vải lông ngựa cổ đấy". Tolland nháy mắt tinh nghịch, đưa tay chỉ hộp quà xin xắn trên mặt bàn khảm đá cẩm thạch. "Cái này sẽ đền bù cho sự bất tiện đó".

Rachel cảm động: "Dành cho em ư?"

"Tôi đã nhờ một trợ lý của Tổng thống tìm mua cho em đấy. Vừa mang về đến đây. Em đừng lắc nhé".

Rachel cẩn thận mở lớp giấy bọc, nhấc ra một vật nằng nặng.

Đó là một hình cầu bằng pha lê, bên trong có hai con cá sần sùi xấu xí màu cam đang bơi lội. Rachel nhìn chăm chú, thất vọng, không hiểu. "Anh đùa phải không Mike?"

"Helostoma temmincki đấy". - Ông tuyên bố đầy tự hào.

"Anh mua cá vàng để tặng em sao?"

"Loài cá hôn của Trung Hoa cực kỳ hiếm gặp đấy. Vô cùng lãng mạn".

"Cá chẳng có gì lãng mạn cả. Mike ạ".

"Em thử nói điều đó cho mấy chú cá này nghe xem nào? Chúng sẽ hôn nhau hàng giờ liền cho mà xem".

"Lại là một mánh nữa của anh để mào đầu đấy à?"

"Anh không được lãng mạn lắm. Thôi thì em cho anh điểm thái độ và nỗ lực vậy".

"Từ sau trở đi, Mike, nhớ là cá chẳng bao giờ trở thành màn dạo đầu lãng mạn cả. Phải dùng hoa".

Tolland chìa ngay ra bó hoa lili trắng từ nãy vẫn giấu sau lưng. "Anh định đi tìm hồng đỏ", ông phân trần, "nhưng suýt nữa thì ăn phải mấy phát đạn của cảnh vệ vì định đột nhập vào vườn hồng".

Tolland kéo Rachel vào lòng, hít hít mái tóc thơm tho của cô, ông thấy những vết chai sần trong tim sau bao năm cô đơn lập tức mềm dịu lại. Michael hơn nồng nàn, và thân thể nóng ấm của Rachel cũng quấn chặt lấy ông. Bó lili trắng bị buông rơi, Tolland thấy tất cả những bức tường vô hình bao kín trái tim ông từ bao lâu đang tan chảy hết.

Bóng ma đã biến mất.

Rachel đang đẩy ông từng bước một về phía chiếc giường, nàng thì thầm vào tai ông: "Anh thật sự nghĩ rằng loài cá cũng biết sống đắm say à?"

"Thật chứ". Ông vừa đáp vừa hôn Rachel nồng nàn. "Em hãy thử xem nghi lễ tình yêu của loài sứa mà xem. Lãng mạn và say đắm vô cùng".

Rachel ấn Tolland nằm ngửa xuống chiếc giường trải đệm vải lông ngựa, thân thể mảnh mai của nàng ép chặt lên người ông.

"Và loài cá ngựa..." Tolland nói, ông như tan chảy dưới bàn tay của Rachel đang vuốt về bên ngoài lớp áo pijama lụa. "Lũ cá ngựa..., còn có điệu nhảy tỏ tình tuyệt mỹ vô song".

"Nói chuyện cá thế đủ rồi". Rachel thì thầm, cởi cúc áo pijama của Mike. "Nói em nghe anh biết gì về những nghi thức tình yêu của loài linh trưởng nào".

Tolland thở dài. "E rằng loài linh trưởng thì anh lại không hiểu biết lắm".

Rachel ném áo len xuống sàn. "Không sao, nhà khoa học tự nhiên ạ. Chắc anh sẽ học nhanh thôi mà".

Trên bầu trời Nam Cực, chiếc máy bay vận tải của NASA đang nghiêng hẳn cánh sang một bên.

Trên máy bay, Giám đốc Lawrence Ekstrom nhìn lại lần cuối tảng đá khổng lồ bị cháy xém trong khoang hàng. Hãy về với biển, ông thầm nghĩ, nơi chú mày đã được hình thành.

Theo lệnh của Ekstrom, người phi công mở cửa khoang hàng thả tảng đá xuống. Hai người chăm chú nhìn tảng đá lớn rơi xuống từ sau thân máy bay, tạo thành một hình cung trên bầu trời chan hòa ánh nắng rồi biến mất dưới cột bọt nước tung lên trắng xóa.

Tảng đá khổng lồ chìm rất nhanh.

Dưới nước, ở độ sâu một trăm mét, ánh sáng rất yếu, chỉ đủ để tảng đá xù xì hiện lên mờ mờ. Chìm thêm hai trăm mét nữa, tảng đá xuống đến vùng đêm đen vĩnh cửu.

Nó tiếp tục rơi xuống rất nhanh.

Xuống sâu hơn nữa.

Tảng đá cứ tiếp tục chìm sâu xuống trong suốt mười hai phút.

Thế rồi, y như một tảng thiên thạch đâm vào nửa tối của Mặt trăng, tảng đá đâm sầm xuống đáy biển đầy bùn, khiến cho bùn bị khuấy tung lên. Giây lát sau, khi bùn đã bắt đầu lắng dần, một trong vô vàn loài sinh vật biển bơi đến để thám thính vật thể lạ kỳ quặc mới xuất hiện.

Nó thấy chẳng có gì đáng chú ý, nên bỏ đi ngay.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoaian