Điệp viên giưa sa mạc lửa 2 - Tác giả: Nhị Hồ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa

Chương 2

1.

Lê Nguyên Vũ nhìn tấm lịch treo tường: ngày 2 tháng 10 năm 1954. Hai chữ chủ nhật màu đỏ nổi bật trên bìa xanh đậm nhạt in cảnh Chùa Một Cột. Nhìn qua kính cửa sổ, bên ngoài trời vẫn còn mưa, màn mưa xiên xiên, gió lay nhẹ cành liễu rủ chòm lá xanh mượt, đong đưa bộ tóc dài sũng nước.

Phía trên cửa ra vào, chiếc đồng hồ cổ, hộp bằng gỗ mun vẫn bóng lọng. Mỗi lần ngồi đây Vũ có thói quen ngắm quả lắc hình mặt trời óng ánh chuyển động không mệt mỏi, đã mấy năm rồi anh vẫn thấy nó cần cù, kiên nhẫn ghi dấu thời gian. Chiếc kim dài bỗng rung nhẹ, tám tiếng chuông cách quãng đều đều ngân cao và trong, giây thiều xổ nhè nhẹ từng mục điểm giờ nghe khá rõ.

Chú nhỏ cao gầy, nét mặt lạnh lùng thiếu hẳn vẻ sinh động tuổi thơ, bước đi nhẹ nhàng, đôi dép như không chạm nền, kiểu di chuyển khi phụ lễ trước bàn thờ chúa. Chú đến cạnh Vũ khoanh tay lễ phép:

- Thưa thầy, cha vừa đi làm lễ về đang dở ăn sáng. Cha mời thầy ngồi chơi chốc lát.

- Cảm ơn em. Tôi chờ.

Vũ nhìn theo chú nhỏ đi vào phía hành lang âm u tối giữa hai dãy phòng có hai hàng cửa đối diện nhau đóng kín. Chủ nhỏ hầu linh mục Bửu Dưỡng đã quen biết Vũ mấy năm rồi. Chú cúng theo cách xưng hô của cha Dưỡng với Vũ bằng "thầy" do anh vừa theo học đại học vừa đi dạy tư tại trường trung học Nam Đồng của Dòng Chúa Cứu Thế ở Ô Chợ Dừa Hà Nội.

Trong những năm ở trung học Alexandre de Rhodes của Nhà Chung Thanh Hóa, có các linh mục nước ngoài giảng dạy, giáo sư linh mục Poncé rất mến Vú, thường cho phép anh ở lại trong khuôn viên Nhà Chung kề cận cha. Nhờ đó Vũ quen biết linh mục Dưỡng mỗi lần từ Hà Nội vào thăm cha Poncé. Hồi đó cha Dưỡng tưởng rằng Vũ là tập sinh của Nhà Chung nên mấy năm học cha ở Đại học này cha dành cho Vũ tình cảm khá đặc biệt.

Cửa chính hướng ra khoảng sân rộng, bên kia là góc trái giảng đường đại học Văn Khoa.

Bốn năm qua Vũ đã gắn bó với nơi này. Giờ đây tất cả đều vắng lặng, trường không còn mở lại từ sau hè. Bức tường rêu ẩm ướt trước đây Vũ không chú ý, bây giờ nhìn lại như xa lạ, mấy bụi cỏ mỏng manh vươn lên từ sát chân tường sống bám vào các lỗ xói mòn trên mặt đá. Thế mà thấm thoát đá hơn bốn năm kể từ tháng 6 năm 1950, Vũ nhận lệnh vào Hà Nội, không phải để công tác mà để học thêm.

Đã một lần từ giã bút nghiên khoác thanh mã tấu lên đường, đang hăng say quần thảo với quân thù, trong tình thương của đồng bào, đồng chí, bỗng anh phải dứt áo ra đi, vào vùng địch chiếm. Lúc đầu Vũ không khỏi băn khoăn, nhưng thủ trưởng cơ quan Trung tâm đã giải thích: "Học cũng là nhiệm vụ. Cứ học đi, giật được mảnh bằng cử nhân coi như đồng chí đã cướp được súng giặc để đánh giặc". Cách đây bốn tháng, ngày đi nhận bằng, Vũ cảm thấy mảnh giấy ấy như có sức mạnh trên tay. Súng đã cướp được rồi - anh nghĩ - nhưng bao giờ mới khai hỏa? Và khai hỏa như thế nào? ...

Đó cũng là những ngày sôi động giữa Hà Nội. Chiến thắng Điện Biên Phủ, tin về hiệp định đình chiến sắp ký kết, Pháp rút quân khỏi miền Bắc, Chính phủ ta về thủ đô... Người hoan hỉ, náo nức; kẻ nhớn nhác lo sợ. Vũ được bí mật đưa ra ngoài học tập, khóa đặc biệt. Anh chị em, đồng chí khác được tập trung đông vui, thảo luận đường lối chính sách chuẩn bị cho ngày tiếp quản thủ đô... Anh thui thủi một thầy, một trò trong một trang trại vắng vẻ ở khu căn cứ vùng trung du. Cách biệt với tất cả, tuy vậy khỏng khí hồ hởi những ngày hòa bình lập lại, miền Bắc giải phóng, vẫn lan tràn vào tận trang trại này.

Học hết khóa, được lệnh trở lại Hà Nội để vào Nam, Vũ rất sung sướng được thủ trưởng Trung tâm gọi anh đến gặp. Cuộc gặp gỡ thật xúc động! Vẫn đồng chí quen thuộc ấy, mấy năm trước tóc còn xanh, nay đã lốm đốm bạc, nhưng người vẫn nhanh nhẹn, thoải mái. ông nhìn Vũ, cười nói ngay:

- Mới bốn năm mà coi ra đã lớn lên nhiều!

Ông ngắm Vũ, gật gù:

- Xem nào? Khỏe là yếu tố của tinh thần minh mẫn. Đẹp, yếu tố chinh phục. Hà, hà!

Ông cười thành tiếng:

- Thư sinh, chất phác là yếu tố bất ngờ đấy. Kẻ thù rất dễ mất cảnh giác trước dáng vẻ "học trò" này!

Ông hỏi luôn:

- Sao, đã được tập huấn kỹ càng về nhiệm vụ rồi, bây giờ nhận quyết định vào Nam công tác lâu dài, còn băn khoăn gì nữa không?

Hỏi nhưng không chờ Vũ trả lời, ông thấp giọng thiết tha:

- Gần năm năm bà cụ vắng im đứa con trai một của mình, nhớ lắm. Tôi đã suy nghĩ, tính toán, định bố trí cho đồng chí về thăm mẹ trước khi đi, nhưng cuối cùng thấy cách nào cũng bất lợi. Hiện nay, ở đâu cũng có kẻ xấu dựa thời cơ trốn chạy vào Nam. Đồng chí đã có công xóa dấu vết cũ trong bốn năm nằm yên trong Hà Nội, đã mở được quan hệ với các đầu mối thù, chúng ta để sơ hở lúc này thật đáng tiếc. Đành chấp nhận hy sinh tình cảm vậy thôi.

Vũ xúc động trước những lời nói và thái độ thiết tha đó. Thật vậy, Vũ không có điều mong muốn nào hơn là gặp lại mẹ lúc này. Bố mất sớm, nhà chỉ còn mẹ và bốn chị em gái. Mẹ thương Vũ nhất vì chỉ một mình Vũ là trai. Mấy năm qua, các chị tìm cách nhắn Vũ, mẹ trông, khóc hoài, nhưng làm sao được? Vũ đã cắt đứt mọi liên hệ, xóa bỏ hết các dấu vết về quê hương, làng xóm, gia đình đối với người khác ở Hà Nội, làm sao có thể về gặp lại mẹ? Vũ đã nghĩ trước đến điều này, chân thành trả lời thủ trưởng:

- Thưa đồng chí, tôi hiểu. Xin sắn sàng nhận nhiệm vụ.

Thủ trưởng gật đầu nhè nhẹ. Vẫn với giọng đang hạ thấp xuống đó, ông nói tiếp, rành rọt:

- Đồng chí trở vào Hà Nội, còn phải làm việc ít ngày nữa với đồng chí trợ lý Thành Minh. Cần nghiên cứu thật kỹ địa bàn hoạt động, nắm vững tình hình miên Nam, đặc biệt là tình hình ở Sài Gòn, trước khi lên đường. Đồng chí Thành Minh đã vào Hà Nội mấy hôm nay rồi, đành phải gặp nhau ngay trong đó, để tranh thủ giải quyết cùng lúc nhiều công việc khẩn cấp khác. Lúc này, kẻ thù của chúng ta đang bay chứ không phải chạy. Chúng vượt hàng ngàn cây số nhào vào miền Nam như bướm ma thấy lửa, không cho phép ta đi bộ ngắm trăng đâu?

Ông ngừng giây lát, nhắc thêm về nhiệm vụ công tác của Vũ rồi bắt tay, kéo ôm Vũ.

Cuộc chia tay ngắn ngủi, nhưng lúc này nhớ lại, Vũ cảm thấy xốn xang.

2.

Tiếng giày da từ phía hành lang vẳng vào khi nặng khi nhẹ, cắt đứt dòng suy tư của Vũ. Anh nhận rõ bước đi quen thuộc của giáo sư triết học Đông phương: linh mục Bửu Dưỡng. Ông ta đã đứng ngay trước cửa, người tầm thước nhưng to ngang, dáng hơi lệch vì chân thấp chân cao, vẫn với chiếc áo dài rộng trắng có dây buộc bên hông, vẫn cặp kính cận dầy làm bóng thêm vừng trán hói. Tỏ ra mừng rỡ, ông vội tiến lên trước Vũ:

- Thầy Vũ! Tưởng bỏ tôi đi trước rồi? Nghỉ hè đi những đâu mà biền biệt, có gì vui không?

Vũ siết nhẹ bàn tay mập mạp. Anh không trả lời vào cáu hỏi của linh mục, tỏ ra mình cũng mừng rỡ và nôn nóng được gặp ông ta:

- Cha mạnh giỏi? Trên đường về đây, tôi cứ băn khoăn không biết còn gặp Cha nữa không, giờ được gặp quả là may mắn. Trở về thấy thiên hạ bỏ đi gần hết, tôi đến xin ý kiến Cha, đi Nam hay ở lại?

Cha Dưỡng kéo Vũ cùng ngồi cặp mắt trợn trừng sau làn kính trắng nhìn thẳng vào mắt anh. Ông ta hỏi lại:

- Ở với Việt Minh cộng sản à? Có điên không đấy?

- Thế ra Cha đã quyết định đi Nam?

- Nếu ngày mai thầy mới tới, sẽ không còn gặp tôi rồi.

Vũ thở dài nhè nhẹ:

- Kể cũng lạ thật, chúng ta cùng hoạt động chung trong Chi hội hòa bình thế giới. Cha đã từng giơ tay đòi hai bên chấm dứt chiến tranh để thôi chém giết, nay đã có ký kết đình chiến, Cha lại bỏ đi vào Nam!

- Chính tôi cũng đã băn khoăn như vậy, nhưng bất ngờ các Cha đồng Dòng ở Sài Gòn ra tìm, buộc tôi vào tiếp tục dạy đại học và giao cho sáng gớm mai đi. Tôi cũng đã suy nghĩ, chúng ta ai chẳng mong muốn có hòa bình, nhưng phải là... phải là... - linh mục ngừng lại xoa trán, vò đầu, cố tìm một tiếng gì diễn đạt cho đúng ý, cuối cùng chậc lưỡi - Phải là loại hòa bình không cộng sản kia?

Ông ta đưa thân mình về phía trước hai bàn tay đặt xuống bàn, như muốn ghé gần lại người đối thoại:

- Các cha Dòng cho tôi biết miền Nam sẽ thành một quốc gia độc lập, như Đài Loan của.

Trung Hoa, dưới sự bảo trợ toàn diện của Mỹ. Như vậy thì loại hòa bình ở miền Nam không phải là hòa bình trong tay quân đội Pháp, cũng không phải là cộng sản Việt Minh, mà thực sự là của chính phủ Ngô Đình Diệm, một con chiên trung thành của Chúa Cứu Thế. Ông Diệm sẽ cương quyết xây dựng một nền hòa bình đúng theo ý Chúa.

Trong nhưng năm gần gũi, Vũ đã hiểu cha giáo sư triết học cổ điển này. Xuất thân từ một gia đình quan lại ở triều đình Huế, bản chất phong kiến, tôn sùng đạo Khổng. ông ta từng thiết tha với một xã hội trong đó là tôn ti trật tự theo kiểu Quân - Sư - Phụ - Dân thứ cho rõ ràng. Mỗi khi giảng bài, ông ta vừa làm bổn phận tông đò của một cha cố, vừa không quên để thêm vào từ chương của Tứ thư, Ngũ kinh, những lời của Chúa Giê-su Ki-tô, nào Bình đằng, Bác ái, nào thương yêu nhau như anh em. Ông tin rằng trong một xã hội mà tất cả đều là con chiên của Chúa, mọi người đều theo lời Khổng Mạnh, chịu an phận thủ thường, thì hòa bình sẽ vĩnh cửu. Vậy mà bây giờ, ông ta thốt ra những lời mang tính chính trị thời cuộc. Rõ ràng ông đã quan tâm nhiều đến những gì các cha cố đồng Dòng từ Sài Gòn ra tâm sự.

Hai má của linh mục chảy xuống quá xương cằm, rung nhè nhẹ. Vũ thường thấy biểu hiện cảm xúc đột ngột đó những khi cha đứng nguyện cầu trước bàn thờ Chúa. Anh ngồi im lặng, quan sát, tin rằng ông ta sẽ nói rõ ra với anh niềm cảm xúc đang trào lên trong lòng ông. Anh là một sinh viên tin yêu của ông. Anh sinh ra trong một gia đình nho giáo, từ nhỏ đã học chữ Hán, đọc thông được Tứ thư, Ngũ kinh, vì vậy anh vào Hà Nội học, vị linh mục giáo sư triết học Đông phương này rất ngạc nhiên về sự hiểu biết của anh, đem lòng quý mến anh đặc biệt.

Hơn nữa linh mục Dương Bảo vẫn tưởng anh là tu sĩ và cha Pông-xê (đã qua đời) là cha linh hồn của anh. Ngoài ra, còn các hoạt động trong "Chi hội hòa bình Việt Nam", nằm trong "Hội hòa bình thế giới" bịp bợm hồi bấy giờ, do bọn đế quốc chi phối. "Chi hội hòa bình Việt Nam" được thành lập, kết nạp bọn Đại Việt, quan lại và một số giáo sư, bác sĩ. Chúng mời anh mục Dương Bảo làm chủ tịch danh dự và đề nghị mở rộng tổ chức ra trong sinh viên. Vũ được chọn mới đi vận động, được bàu vào Ban chấp hành, làm ủy viên tổ chức...

Bám vào Thiên Chúa giáo, bám vào Dương Bảo làm chỗ tựa có lợi cho hoạt động của Vũ sau này. Được trên chấp thuận, anh càng tới lui, gần gũi Dương Bảo, chiếm được cảm tình và lòng tin của linh mục. Cha thường không dè dặt tâm sự với anh. Cha đang thấp giọng tỏ bày:

- Những băn khoăn của tôi đã được các cha Dòng giải đáp. Chúa đã nhận lời cầu xin của chúng ta, ban cho chúng ta hai điều ước nguyện: một quốc gia độc lập, một giáo hội độc lập?

Ông ta ngừng lại làm dấu thánh giá để lấy bình tĩnh sau cơn xúc động, giọng càng thân mật:

- Nếu một tháng trước đây, thầy về gặp tôi hỏi đi hay ở, thì như đối với khá đông eác con chiên đã đến hỏi, tôi đã trả lời: đi, ở là tùy hoàn cảnh và ý riêng của mỗi người. Nhưng lúc này, tôi mạnh dạn khuyên thày di cư vào Nam. Với tính ham học, với sự thông minh, thày vào đó, luận án tiến sĩ thày đoạt được không khó, tương lai sẽ nhiều hứa hẹn. Những người bạn của chúng ta hiện nay đã qui tụ xung quanh ông Diệm tháng trước họ đã tới nhắn tôi tìm thày, thúc thày vào sớm.

Vũ thoáng nghĩ rất nhanh những người bạn đó là ai? Hoàng Văn, Trần Kim Tuyến, Trần Đình... Họ đang làm gì ở Sài Gòn lúc này? ... Cha Bảo lưu luyến đưa chân Vũ ra tận cổng ngoài:

- Thày định bao giờ đi?

Vũ tính thầm giây lát:

- Thưa, kịp thì vào chủ nhật tới.

- Tôi vào trước sẽ tin cho các bạn thày biết.

Cả hai đứng nắm tay nhau thật lâu, trên vai áo đã đầy những giọt nước li ti. Vũ thả bàn tay mập ấm của linh mục, chúc ông ta bình an trong chuyến đi xa này.

3.

Cơ quan dành cho đồng chí trợ lý đón Vũ đến làm việc trong một căn phòng kín đáo, ấm cúng, trên tầng ba, căn nhà ở phố Thuốc Bắc. Đã ba ngày, Vũ quên hết cảnh bên ngoài, quên cả thời gian, say mê nghiên cứu tài liệu. Những bản chụp văn kiện của cơ quan tình báo Pháp, một số công văn tuyệt mật cấp này gửi cấp khác trong nội bộ quân địch. Vũ thích thú trước những khám phá mới, cảm thấy như đang sống trong thế giới bí ẩn của kẻ thù, ngay giữa Sài Gòn, trong lòng miền Nam, nơi mà anh chưa hề đặt chân tới. Mỗi lúc Vũ mỗi thêm thầm phục lớp đàn anh đi trước, những chiến sĩ tình báo của ta, đã thu thập được những tài liệu quý giá này. Anh không khỏi bồn chồn nghĩ tới nhiệm vụ ngày mai liệu mình có theo kịp được bước đi trước của lớp đàn anh?

Đồng chí Thành Minh đẩy cửa bước vào, với tiếng cười ngất ngất:

- Ăn đã chứ? Quên đói rồi sao?

Vũ ngước mắt, tay vẫn còn giữ chỗ đánh dấu tài liệu đang đọc dở:

- Xin để tôi tiếp tục. Tài liệu còn nhiều, nếu có thể anh cho tôi một miếng bánh mì...

- Được thôi, mình đưa cơm vào cùng ăn với nhau nhé!

Thành Minh chỉ hơn Vũ vài ba tuổi nhưng già dặn trông tưởng hơn cả mười năm. Vừa có kinh nghiệm nghiệp vụ, vừa có khả năng huấn luyện, tính tình rất cởi mở, trong mấy tháng gần gũi Vũ cảm thấy anh như muốn trao tát cả những hiểu biết của anh cho Vũ như một võ sư cố truyền cho môn đệ đến thế võ cuối cùng, quyết giúp học trò chiến thắng địch thủ. Xong bứa cơm đơn giản, vừa uống nước, Thành Minh vừa hỏi Vũ:

- Đến lúc này đã nắm được tình hình chung địa bàn hoạt động của mình chưa?

- Vâng, đã hình dung được khái quát. Có lẽ anh tập trung phần lớn tài liệu vào hướng mục tiêu công tác trước mắt của tôi, nên có rất nhiều về những tổ chức vũ trang đội lốt giáo phái, lý lịch những tên cầm đầu có những biệt danh rất anh chị: Bảy Viễn, Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoan... rồi đảng phái phản động lúc nhúc hàng chục danh xưng: Liên Minh, Cấp Tiến, Việt Cách, Lực Việt...

Thành Minh châm thuốc hút, chậm rãi giải thích:

- Lúc này những tên tướng rừng xanh, những phần tử lưu manh chính trị đang bu quanh bọn CIA để cầu xin những chiếc ghế trong tổ chức ngụy quyền Ngô Đình Diệm. Có nhiều tên đã nghiễm nhiên là bộ trưởng của ngụy quyền liên hiệp giữa hai tập đoàn tay sai Pháp, Mỹ vừa hình thành ở Sài Gòn. Ý đồ của Mỹ khá rõ khi đưa Ngô Đình Diệm về. Trước sau gì Diệm cũng sẽ thay thế Bảo Đại, tức là Mỹ ra mặt hất cẳng Pháp, trực tiếp xâm nhập miền Nam. Vậy thì mâu thuẫn Pháp, Mỹ sẽ diễn biến ra sao? Gay gắt hơn, hay Pháp cúi đầu chịu thuần phục?

Anh ngừng lại giây lát, mắt hướng về phía trước như cố tưởng tượng ra con đường có nhiều chướng ngại mà Vũ sẽ phải vượt qua:

- Hai năm, từ đây đến cuối 1956, giai đoạn chuyển biến rất mới, rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi hoạt động nội địch của ta phải hết sức tỉnh táo, dũng cảm và sáng tạo. Mục tiêu chính của chúng ta lúc này là âm mưu của Mỹ, trong khi chúng ta chưa có kinh nghiệm đương đầu với chúng...

Hai người trao đổi tiếp với nhau một lúc nữa, rồi Thành Minh coi giờ, đứng lên:

- Thôi, tôi phải đi. Anh nghiên cứu kỹ các đối tượng mà trong tương lai có thể sẽ phải tìm đến với chúng. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một phương án hành động. Lại còn bao nhiêu việc phải làm nữa, như qui ước mật mã, liên lạc, tiếp xúc sau này... Thời gian không chờ chúng ta?

Vũ lại vùi đầu vào đồng hồ sơ, tài liệu, do Thành Minh giao cho. Anh hầu như tách biệt với không khí sôi động bên ngoài của thủ đô đang gấp rút chuẩn bị đón ngày quân đội ta về. Từng trang tài liệu như hút hết tám trí anh.

́*

"Hồ sơ tuyệt mật.

Số... phòng nhì quân đội viễn chinh Pháp tổng hợp:

Ngày... tháng... năm 1953

"Đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông như biển, nổi lên bảy ngọn núi không cao, chiếm hẳn một khoảnh đất rừng âm u trong quận Tịnh Biên, tên Châu Đốc. Không xa, bên kia là biên giới Cao Miên. Tại đây dân gian có rất nhiều câu chuyện truyền thuyết ma quái. Cũng là nơi thuận lợi cho các tổ chức buôn lậu, trộm cướp làm sào huyệt ẩn náu. Cạnh sông Vàm Nao, con sông nối liền sông Hậu và đoạn cuối sông Cửu Long, một cù lao do đất bồi tạo thành, ruộng đất phì nhiêu, lúa tốt, cây trái quanh năm trĩu cành, đó là làng Hòa Hảo.

"Ông Huỳnh Công Bộ, một chủ đất giàu có, làm hương cả làng này. Ông sinh một người con trai vào năm Kỷ Mùi (theo dân bản xứ gọi là năm con Dê), tức là năm 1919. Ông ta đặt tên cho người con trai đó là Huỳnh Phú Sổ. Cậu Sổ lớn lên không bình thường như các trẻ đồng lứa. Cậu ốm yếu, xanh xao, còi xương, thiếu máu, hàng năm thuốc thang liên tục. Năm cậu ta lên mười, có người mách bảo trong hòn núi Cấm, một trong bảy hòn núi nói trên, có ông thày Miên chuyên làm bùa phép, châm cứu trị bệnh rất giỏi, đó là ông đạo Xom ở chùa Trà Sơn. Ông Bộ gởi con trai cho ông đạo này chữa trị. Cậu Sổ ở tại chùa năm năm, vừa trị bệnh vừa học bùa phép. Ông đạo Xom còn dạy cho cậu ta học thuộc bộ sách giáo lý của nhà sư Nguyễn Văn Quyên, một nhà sư đã được vua Minh Mạng phong là "Phật thày Tây An", chính là người sáng lập ngôi chùa Trà Sơn này. Sau khi truyền dạy cho người học trò duy nhất về bùa ngãi, thuốc nam, châm cứu, cậu Sổ thành nghề thì ông đạo Xom chết. Cậu ta trưởng thành nhưng vẫn gầy ốm xanh xao, đề tóc dài ngang vai, đặc biệt có bộ mặt sáng sủa, có cặp mắt mơ màng trông xa xăm, huyền bí. Người thanh niên đó đã trở thành chủ chùa Trà Sơn, thay đạo Xom tiếp tục hành nghề bùa phép, chữa bệnh. Nhưng chỉ vài năm sau ông hương Bộ bắt buộc con trai phải trở về nhà.

"Ngày 19 âm lịch, nhằm tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), giữa đêm mưa gió, chàng thanh niên đạo sĩ ấy không rõ do sự kích thích nào, bốc đồng đứng trước bàn thờ, tuyên cáo là phật thày Tây An giáng nhập xác thân, truyền cho ông hương Cả phải gọi tất cả dân làng đến cho Phật thầy truyền giảng. ông Bộ vốn đương là chủ làng, nên việc họp dân không mấy khó khăn cho dù đêm hôm mưa gió.

"Những người có mặt đêm đó chứng kiến chàng thanh niên sắc mặt hồng hào, mắt long lanh huyền bí, đang đứng trước bàn thờ đèn nhang sáng rực, tuyên bố sẽ lập nền đạo mới do lệnh truyền của Phật thày Tây An, để eứu nhân độ thế, cấp thuốc chữa bệnh, cho bùa..

tránh nạn, răn sống ngay lành, thờ phật Trời giáng phúc. Đạo Phật giáo Hòa Hảo ra đời kể từ đêm hôm đó. Về sau này ông Huỳnh Phú Sổ được tôn xưng là "đức thày" tức là Phật thày Tây An giáng phàm thông qua thân xác người thanh niên đạo sĩ ấy.

"Giáo lý của đạo Phật giáo Hòa Hảo, do chính ông Sổ tự soạn, rất đơn giản. Cơ bản rút ra từ nền Phật học cổ truyền, dạy tín đồ ăn ở nhân đức làm đầu, gồm bốn điều răn: Không si mê rượu chè, cờ bạc, hút sách. Không ăn thịt trâu bò, không tham lam cướp bóc, lấy vợ người, không giết chóc lẫn nhau. Và tám điều khuyên làm điều thiện. Về nghi lễ thờ phụng cũng đơn sơ, không cần có đền chùa, mỗi gia đình lập một bàn thờ đặt ở phía ngoài sân trước nhà, chỉ một tấm ván nhỏ đóng trên chiếc cột cao bằng đầu người, phía trên treo một lá bùa bằng vải nâu, sau này trở thành eờ đạo. Chính nhờ sự đơn sơ đó, đạo rất thích hợp với cuộc sống cũng đơn giản của nhân dân miền Nam. Người ta chỉ nghĩ rằng, cúng thờ Phật Trời là điều nên làm, không tốn kém, chẳng phiền phức, mà lại được phúc. Điều suy nghĩ đó đã đưa đến sự phát triển tín đồ mau lẹ và rộng khắp một vùng.

"Tiếng tăm lan truyền Đức thày Hòa Hảo chữa bệnh không lấy tiền đã là sự thu hút, rồi bệnh gì thày chữa cũng lành, càng thêm hấp dẫn. Dân chúng khắp nơi kéo đến xin thuốc, xin bùa đông nghẹt bến đò Bình Thủy, con đò không kịp chở khách qua sông, khách phải ngủ lại ban đêm chờ đến lượt mình. Danh tiếng Đức thày lớn lên, một số người nảy sinh ý đồ lợi dụng. Trong số đó có ông điền chủ Lê Công Bộ, đem xe nhà tự đưa đón thày đi giảng đạo, chữa bệnh ở các tỉnh Cần Thơ, Sa đức, Long Xuyên và Mỹ Tho. Đến đâu thày cũng lo giảng đạo chữa lành một số bệnh ngặt nghèo. Thày không nhận tiền, nhưng số người lợi dụng, sần sàng nhận riêng, nói là để chi phí đi lại, nhưng thực ra bỏ túi. Trong mấy năm đi giảng đạo, dân chúng các nơi đua nhau làm bàn thiên thờ cúng coi như theo đạo, theo Thày. Tín đồ phát triển khắp nơi. Trong khi đó, số người lợi dụng không dừng lại, chúng chuyển qua lợi dụng chính trị. Bọn Nhật không bỏ lỡ cơ hội, cho tay sai theo Thày xin làm đệ tử, tuyên truyền cho thuyết Đại Đông Á. Nhà đương cục Pháp lúc đó thấy nguy cơ, liền bắt Thày giữ trong nhà thương điên Chợ Quán mười tháng, kết tội phá rối an ninh, trật tự. Tháng 5 năm 1941 giải Thày về thị xã Bạc Liêu, bắt quản chế tại đó ý định tách rời ra khỏi vùng ảnh hưởng của Thày. Nhưng đến tháng 10 năm 1942, hiến binh Nhật tự động rước Thày về Sài Gòn cùng với ý định lợi dụng vào mục đích riêng của chúng.

"Từ đó quân Nhật đã cung cấp vũ khí cho số tay sai đội lốt tín đô, lấy danh nghĩa bảo vệ Đức thày và nền đạo công khai lấn chiếm một số vùng, nắm quyền hương chức trong các làng xã, tiến tới lớn mạnh dần cả thế và lực. Năm 1944, Nhật lập các đại đội bảo an, công khai chống nhà đương cục Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng vũ trang mệnh danh "linh đạo Hòa Hảo", dưới sự che chở của quân Nhật chiếm thị trấn tỉnh Cần Thơ, thành lập thủ phu "Phật giáo liên hiệp hội". Dụng ý của Nhật là cho mở rộng phạm vi hoạt động không chỉ dành riêng cho tổ chức Hòa Hảo phát triển. Tuy nhiên Lê Công Bộ, một tên tay sai của hiến binh Nhật không được Nhật cử làm chủ tịch, mà đưa ông Huỳnh Phú Sổ ra nắm chức vụ này. Bộ chỉ làm cố vấn, nhưng mọi việc đều do Bộ chủ trương, theo sự chỉ dẫn của bọn hiến binh Nhật. Người Nhật đã chuyển hướng một tổ chức truyền đạo lúc đầu trở thành một hiệp hội hoạt động chính trị có vũ trang, ủng hộ cuộc xâm nhập của Nhật vào Việt Nam, bằng thuyết Đại Đông Á, người Á đông tự làm chủ châu Á.

"Tài liệu này được tổng hợp xong ngày 10 tháng 9 năm 1953, do Phòng nhì quân đội Pháp tại Đông Dương đúc kết.

"Ký tên: A.M. Salvani"

"Hô sơ tuyệt mật. Số... SR/VN

Bạc Liêu, ngày 12 tháng 3 năm 1942:

Chánh ty Liêm phóng Bạc Liêu.

Kính gửi ngài Chánh Sở Liêm phóng Nam Kỳ tại Sài Gòn. Đồng kính gửi ngài Trưởng phòng đặc vụ Tòa Thống Đốc.

Kính thưa ngài.

"Thi hành mật điện số... ngày 2 tháng hai năm 1942, bản Ty đã bố trí người của ta bên cạnh Huỳnh Phú Sổ làm đô đệ và đã được ông ta tin cậy. Người này có tên là Trần Văn Soái, 46 tuổi, quê quán Kiến An, tỉnh Long Xuyên. Nguyên y là chủ một xe đò, bị phá sản vì xe y cán chết người cách đây hai năm. Soái tình nguyện làm nhân viên mật cho Ty tôi đã được ba năm, có năng lực, can đảm và trung thành. Ty tôi bảo đảm Soái sẽ hoàn thành công việc được Ngài giao.

"Hiện nay Soái đã qui tụ được một số đàn em, cũng lấy danh nghĩa bảo vệ "Đức Thày", thành lập trung đội vũ trang, lực lượng có thể lên tới đại đội, nếu như số vũ khí người Nhật chịu cấp đủ. Các tổ chức đội lốt tín đồ của hiến binh Nhật cũng đang lợi dụng danh nghĩa Hòa Hảo, trong ba tỉnh Châu Đốc, Cân Thơ và Long Xuyên. Theo sự tiết lộ của Lê Công Bộ, tên này được Nhật tin dùng: Quân Nhật sẽ cấp vũ khí cho tất cả số đó để đẩy mạnh phong trào chống Pháp, ủng hộ Nhật.

"Đề nghị Ngài chánh Sở ra lệnh cho các Ty kịp thời phối.

"Trân trọng kính chào Ngài.

"Thuộc cấp tận tụy trung thành của Ngài.

Ký tên và đóng dấu .

"Hồ sơ tuyệt mật.

Số. SR/VN.

Sài Gòn ngày 16 tháng 9 năm 1942.

Chánh Sở Liêm phóng Nam kỳ.

Kính gởi Ngài Trưởng phòng đặc vụ Tòa Thống đọc.

Đồng kính gửi Ngài Chánh Sở Liêm phóng Liên bang Đông Dương "kính tường".

"Kính thưa Ngài, Cơ quan hiến binh Nhật có ý định đưa ông Huỳnh phú Sổ, lãnh tụ Phật Giáo Hòa Hảo về Sài Gòn, nhằm đạt hai điều có lợi cho họ:

1) Trên danh nghĩa "cứư" ông ta ra khỏi sự quản chế của nhà đương cục Pháp, Nhật sẽ tạo được uy tín với cả trăm ngàn tín đồ Hòa Hảo trong các tỉnh miền Tây..

2) Người Nhật giữ ông Sổ bên cạnh họ ở ngay Sài Gòn, cốt để cho bọn tay chân lợi dụng danh nghĩa ông ta tổ chức vũ trang, lấy cớ bảo vệ đạo, đánh chiếm từng vùng. Hiện Nhật đang dùng các lực lượng vũ trang này chống lại các cơ quan địa phương, và chiếm một số xã biên giới Miên - Việt.

"Để đối phó với những hành động trên chúng tôi đã làm một số việc sau đây:

- Tuyên bố bãi bỏ lệnh quản chế ông Số tại Bạc Liêu. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu người Nhật đưa ông ta lên Sài Gòn, chúng ta ngăn trở, tự nhiên chúng ta đã tạo sự chống đối của hàng ngàn tín đồ, và quân Nhật dựa cớ vẫn can thiệp được. Bãi bỏ lệnh quản chế trước, ông Sổ tự ý đi khỏi Bạc Liêu, hay hiến binh Nhật đón đi, chúng ta đã không mất uy tín, lại không mất lòng tín đồ đạo Hòa Hảo.

- Chúng tôi đã gài người vào hàng ngũ thân cận của ông Sổ, cũng vận động được cấp vũ khí do Nhật chủ trương, tương kế tựu kế, cũng cướp bóc, lấn chiếm, lợi dụng giả danh tranh giành quyền lợi lẫn nhau, gây xáo trộn, chúng ta có cớ can thiệp mà không mất lòng người Nhật.

Với những việc làm nêu trên, chúng tôi vẫn luôn luôn tuân lệnh của ngài Thống đốc Nam Kỳ, không khiêu khích, không gây hấn với quân đội Nhật trong giai đoạn này.

Trân trọng kính chào Ngài. Thuộc cấp tận tụy và trung thành của Ngài. Ký tên và đóng dấư .

"Hô sơ tuyệt mật.

Số... SR/VN

(Phòng Tình báo quân đội viễn chinh Pháp tổng hợp gửi lên Phòng đặc vụ Cao ủy pháp ngày 2/6/1953).

"Ngày 15 tháng 7 năm ất Sửu (1925), tại tư dinh ông đốc phủ sứ Ngô Quang Chiêu, nguyên quận trưởng quận Phú Quốc, trong một buổi cầu cơ linh ứng, vị thần giáng cơ tự xưng là Đức Cao Đài tuyên phán cho ông Chiêu lập nền đạo mới, họp các tôn giáo cổ truyền thành quốc giáo để nắm lấy vận mệnh nước Việt Nam.

"Ông Chiêu đem việc này bàn với số bạn thân, trong số đó, có Lê Văn Trung cựu thông phán, đương kim nghị viên Hội đồng thuộc địa, Phạm Công Tắc cựu nhân viên quan thuế. Sau đó được sự hỗ trợ của lớp người có chức phận, giàu có trong xã hội lúc bấy giờ, ông Chiêu tuyên bố thành lập đạo Cao Đài.

Ông ta soạn thảo ra giáo lý. Nội dung giáo lý mang tính chất tổng hợp các hệ tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Tu tiên và ít nhiều có bị ảnh hưởng về Thiên chúa giáo. Chủ yếu tuyên truyền một lòng tin vào thượng đế duy nhất, nhìn nhận có linh hồn và linh hồn đầu thai liên kiếp. Con người sinh tồn trong luật luân hồi, kiếp sau phải chịu hậu quả của người thuộc kiếp trước. Cũng như các tôn giáo khác, Cao Đài dạy tín đồ thờ cúng phật thần, linh hồn người chết, hiếu lễ trong gia đình, nhân đức ngoài xã hội. Luân lý cơ bản xếp gọn trong năm điều cấm, bốn điều giữ, tám điều dưỡng, dẫn tới hạnh phúc lâu bền. Khuyến khích ăn chay trường (không ăn các loại thịt cá trọn đời) ăn chay có thời kỳ lễ cúng hoặc thời hạn kiêng cữ, theo âm hạch. Truyền bá cho tín đồ học thuộc những kinh kệ thông thường đọc mỗi ngày, trau dồi đức tin và cầu phúc, giảm bớt trầm luân giữa cuộc đời được chấp nhận là bể khổ. Tối tối tín đồ cúng lạy trước bàn thờ, trên bàn bày hoa quả, trà rượu và đốt hương, đọc bốn lần bản kinh cầu nguyện hàng ngày.

"Ngày 15 tháng Chạp năm Bính Dần (tháng 11 năm 1926), một buổi lễ cầu cơ được tổ chức, có đông người tham dự, gồm số sáng lập viên và các đại tông đồ. Đức Cao Đài giáng cơ phán dạy: "Thay mặt Thượng đế, đấng chí tôn là ta, Thích-ca Màu-ni là ta, Giê-su Ki-tô là ta. Hãy chọn vùng đất dưới chân núi Bà Đen ở Tây Ninh làm Tòa Thánh phụng thờ ta."

"Không bao lâu dưới chân núi Bà Đen, gần tỉnh Tây Ninh, cách Sài Gòn 100 cây số về hướng tây bắc, một ngôi đền to lớn, màu sắc sặc sỡ nổi bật trên nền huyền của quả núi. Đó là Tòa Thánh Cao Đài. Đền kiến trúc nửa giống chùa Phật, nửa giống nhà thờ Thiên chúa giáo. Thị trấn Tây Ninh với đền thờ nguy nga ấy, từng làm cho khách nước ngoài đến viếng không khỏi ngạc nhiên khi đứng trước một bức họa tại cửa ra vào đền, vẽ hình Tôn Dật Tiên nhà cách mạng tư sản dân tộc Trung Hoa). Trạng Trình (Việt Nam) và Victor Hugo (văn hào người Pháp). Cả ba mặc phẩm phục Hàn Lâm Viện sĩ kiểu Pháp, có vòng hào quang trên đầu giống các tượng thánh ở những nhà thờ đạo Thiên chúa. Dưới bức hình lớn đó có khắc mấy chữ: "Nhân ái và Công lý". Bên trong đền thờ tượng Phật Thích ca, Khổng Tử, Lão Tử và cả chúa Giê-su. Cột đền lớn hơn vòng tay người ôm, mỗi cột đắp một con rồng lượn khúc, màu sắc sặc sỡ. Khắp nơi trong đền tô đắp các hình long, lân, qui, phụng, đủ màu chói chang, rườm rà, như những phức tạp, rắc rối huyền bí của giáo lý, có thể hợp với vẻ thâm trầm của phương Đông, nhưng xa lạ với người Tây phương vốn ưa chuộng điều rõ ràng, chính xác.

"Chỉ vì năm sau đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, ảnh hưởng rộng khắp vùng Tây Ninh và một số tỉnh miền Đông. Lê Văn Trung liên tổ chức một buổi cầu cơ, trong buổi cầu này, Đức Cao Đài giáng cơ, tuyên phán giao cho Trung làm giáo chủ, ông Chiêu là người khởi xướng, sáng lập bị gạt ra ngoài. Nắm được quyền, Trung liền tổ chức ngay một bộ máy hành chánh giống như một nhà nước tôn giáo của Đức giáo hoàng La mã. Trung làm giáo chủ có quyền tối cao, dưới là hàng giáo phẩm, lấy số 3 theo giáo lý hợp ba tôn giáo làm bội số phân cấp: ba vi Đại đầu sư, 36 tổng phối sư, 72 phối sư, 3000 mục sư tương đương với chức linh mục cửa Thiên Chúa giáo, cuối cùng là chức Phó tế, cấp này không có con số giới hạn. Phụ nữ cũng có hàng giáo phẩm riêng. Từ đó bắt đầu xây các đền thờ cho từng địa phương, do sự đóng góp của tín đồ, gọi là: "Thánh thất Cao đài Tam kỳ phổ độ". Những người có địa vị xã hội, lớp giàu có, được đưa ra trông coi các thánh thất đó, giữ cấp chức sắc, kể cả hàng ngũ giáo phẩm trung ương trở xuống cũng vậy. Đến năm 1932 đã có nhiều thánh thất mọc lên ở các tỉnh Mỹ Tho, Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bến Tre, tín đồ đã có trên trăm ngàn..

"Đúng vào thời kỳ này trong nội bộ xảy ra tranh chấp quyết liệt. Dựa vào thời cơ thuận.

lợi ông Phạm Công Tắc, một trong số sáng lập viên, liền tổ chức cầu cơ. Đức Cao Đài phán dạy, giao cho ông Tắc thay Trung làm giáo chủ. Nắm quyền rồi, ông Tắc tự đổi tên xưng mình là "Đức Hộ Pháp", thay vì giáo chủ. Từ lâu ông Tắc đã bí mật lập một tổ chức kín có tên là "Phạn môn", qui tụ được khoảng ngàn tín đồ tin cậy, cắt máu ăn thề thần phục ông Tắc, sống chết tuân theo lời và bảo vệ ông ta. Chính nhờ tổ chức này ông Tắc dễ dàng ổn định được nội bộ. Ngay sau khi nắm quyền tối cao, ông Tắc thành lập Hội đồng Tòa thánh, chánh hội đồng này đưa Trung ra xử tội tham ô công quĩ, và đã dẫn dắt đạo sai đường lối của Đức Cao Đài. Trung bị gạt ra khỏi hàng giáo phẩm, không đầy một năm sau, Trung chết đột ngột (1934).

"Năm 1934, ông Tắc tổ chức lại nội bộ. Tại Tòa Thánh lập thành 9 Bộ, giống như một nội các chính phủ. Toàn miền Nam chia thành năm vùng, dưới nữa là quận, xã. Đó là hệ thống hành pháp. Về lập pháp có Hội đồng tối cao và Đại cộng đồng. Tư pháp có hai tòa án, tòa án tôn giáo và tòa án tín đồ. Ngoài ra để có tiền hoạt động, ông Tắc đã tổ chức hệ thống kinh tài mệnh danh là cơ quan từ thiện, xây dựng từ cấp trung ương đến cơ sở địa phương, qui mô chặt ché, tìm mọi cách phát triển tài chính. Có tiền rồi, ông ta cho sửa lại Tòa thánh, lập thành ba phần riêng biệt gọi là tam vị: Thánh thần, Thể xác và Linh hồn. Bàn thờ ở chính giữa, gọi là bát quái đài, thờ đức Cao Đài, phía dưới có cửu trùng đài, tượng trưng cho 9 đẳng cấp của hàng giáo phẩm. Phía trên bát quái đài thờ Thượng đế, nơi có đắp một con mắt tượng trưng gọi là "THIÊN NHÃN". Phía dưới trước bàn thờ Đức Cao Đài, gọi là Hiệp Thiên đài, nơi các vi lãnh đạo đạo pháp hợp thông với đấng tối cao bằng hình thức cầu cơ.

"Sau khi đã củng cố xong tổ chức nội bộ và sửa lại đền thánh, ông Tắc đã tạo được một thời cực thịnh của đạo Cao Đài, với trên ba trăm ngàn tín đồ? Từ tham vọng đưa đạo Cao Đài lên hàng quốc giáo đến tham vọng chính trị, mưu đồ vận mệnh quốc gia, ông Tắc ra mặt chống lại nhà đương cục Pháp. Kết quả ngày 21/8/1941, Phủ Toàn quyền Pháp ra lệnh bắt ông ta, sau đó đày đi Madagascar và quân đội Pháp đóng chiếm Tòa Thánh Tây Ninh.

"Năm 1943, dưới sự bảo trợ của người Nhật, Trần Quang Vinh, cựu thư ký sở Mỹ thuật của Pháp, một trong số chức sắc của Cao Đài được cử qua Nam Vang làm đại diện khi ông Tắc còn tại vị, trở về nắm quyền giáo chủ, được hiến binh Nhật khuyến khích và cấp vũ khí. Vinh thành lập lực lượng vũ trang được ba ngàn người, giúp Nhật làm đảo chính Pháp.

"Sau tháng 8 năm 1945, số đông tín đồ Cao Đài tham gia Việt Minh. Riêng hệ phái Bến Tre, ông Cao Triều Phát cầm đầu từ lâu tách ra khỏi hệ phái Tây Ninh, đã đưa toàn bộ tín đồ theo Việt Minh chống Pháp cho đến cùng.

"Khi quân đội Pháp chiếm lại Sài Gòn, Vinh đã kéo theo một số vũ trang còn lại ra hàng. Nhà đương cục Pháp công nhận đạo Cao Đài Tây Ninh, dùng lực lượng của Vinh làm lính bổ sung, trả lương và cấp thêm vũ khí. Ngày 12 tháng tám năm 1946, theo lệnh của chính phủ Pháp và sau khi ông Tắc chấp thuận những điều kiện, ông được đưa về Tây Ninh, nhận làm Hộ pháp như cũ. Tại Tòa Thánh Tây Ninh, ông ta đã tuyên bố trước nhà đương cục Pháp và báo chí: "Sự hiện diện của Pháp ở Đông Dương là cần thiết. Cao Đài hoàn toàn tín nhiệm nước Pháp về việc vãn hồi an ninh cho xứ sở này. Đạo Cao Đài Tây Ninh, lực lượng vũ trang do ông lãnh đạo, hợp tác với quân viễn chinh Pháp chống lại hiểm họa cộng sản, ủng hộ một chính phủ trong liên hiệp Pháp".

"Lực lượng vũ trang của ông Tắc lớn mạnh dần, ông ta chính thức phong cấp thiếu tướng cho Tư lệnh trưởng Nguyễn Văn Thành, thiếu tướng cho chỉ huy trưởng Cơ thánh vệ Nguyễn Thành Phương, cấp đại tá cho Trình Minh Thế, Dương Văn Đang, Lê Văn Tất, cùng nâng cấp cho các sĩ quan khác.

"Bộ tư lệnh Pháp xác nhận: việc cấp vũ khí trả lương rộng rãi cho lực lượng Cao Đài Tây Ninh là chính đáng. Theo bản tổng kết của phái bộ Cao Đài Tây Ninh làm việc bên cạnh quân đội Pháp, chỉ từ tháng 1 năm 1947 đến tháng 12 năm 1948, quân của ông Tắc đã có 400 chết và trên 500 bị thương, đủ đánh giá công lao của ông Tắc và các sĩ quan cấp dưới đối với nền an ninh của xứ sở này.

"Tuy nhiên trong nội bộ Cao Đài Tây Ninh, các tướng tá thường tranh giành địa vi, quyền lợi có lúc rất quyết liệt như vụ Trình Minh Thế không chịu Nguyễn Văn Thành đã kéo hơn hai ngàn quân ra rừng, tuyên bố ly khai, tự ý thành lập "Mặt trận quốc gia liên minh", dù ông Tắc đã phong cho Thế lên thiếu tướng, giữ chức tham mưu trưởng. Sau vụ này, ông Tắc phong cho Nguyễn Thành Phương lên trung tướng làm tư lệnh, thay Nguyễn Văn Thành.

"Ông Tắc vốn có tham vọng khá lớn, mà lại táo bạo. Chính nhờ vậy mà ông ta đã ổn định được phần nào sự rối loạn trong nội bộ quân đội, phát triển được cả hai mặt: đạo và vũ trang. Ông ta còn cử các chức sắc qua Cao Miên, Pháp, thu thập tổ chức tín đồ sau khi đã tổ chức được tín đồ ở Bắc Việt và Trung Việt. Nuôi ý đồ làm chủ các tôn giáo, ông ta tự phong mình là "Đức Thượng tôn quán thế", hy vọng đem lại thời hoàng kim vua chúa xa xưa cho đất nước. Với ảo tưởng đó, ông ta đã tự sáng chế ra các loại phẩm phục cho các loại chức sắc, và cả chính ông ta, loại áo mão như phường hát Trung Hoa: áo dài thụng màu vàng, áo xẻ giữa từ cổ xuống đến gối với hai hàng khuy cỡ lớn, ngang hông buộc dây lụa đỏ, ngoài choàng áo màu xanh tươi, loại áo hiệp sĩ đạo. Đầu đội nón chóp dứa, trang trí nhiều màu sắc, có dây thao rủ xuống dưới cằm. Ông ta xây riêng một biệt cung đặt tên là "Trí huệ cung" theo kiểu vua chúa, tuyển các nữ đồng trinh gọi là thờ phượng thánh thần, túc trực ngày đêm. Ba chữ "Trí-huệ-cung" được giải thích là nơi tạo ra sự minh mẫn, thông giao với đức Cao Đài và Thượng đế.

"Cái ảo tưởng lỗi thời của ông Phạm Công Tắc đã làm cho các cấp chỉ huy quân sự cũng như hành chánh nhà đương cục Pháp sau này, không còn phải lo ngại, trái lại còn dành cho ông ta nhiều ưu đãi. Chúng ta hãy tự phê phán nhà cảm quyền trước đây, không đi sâu nghiên cứu rõ thực chất của ông Tắc, để phải bắt ông ta đưa đi đày, vừa là một ngộ nhận đáng tiếc, vừa bỏ lỡ một cơ hội hợp tác như sau này, tạo cơ hội cho người Nhật lợi dụng chống phá ta từ cuối năm 1944, và trong cả cuộc đảo chính của Nhật 1945..

"Ký tên: A.M. Salvani".

"Phụ lục bổ sung: Cách cầu cơ của đạo Cao Đài.

"Trong một cuốn sách xuất bản tại Pháp năm 1931, nhan đề "Bịp đời - ảo thuật huyền bí" giải thích về cầu cơ như sau:

Cơ, phiên âm tiếng Pháp Coeur, có nghĩa là trái tim. Người ta lấy một miếng ván thôi (áo quan chôn người chết khi bốc mộ vứt bỏ), gọt đẽo thành hình trái tim mỏng nhỏ bằng chiếc đĩa trà, không được sơn lại, chỉ để mộc sau khi đã mài nhẵn. Thêm một vài vật dùng khác, ba viên bi, một tờ bìa kẻ hai hàng chữ cái từ A, B, C đến X, Y một hàng chữ số từ 0 đến 9. Bên dưới hàng chữ và con số có hai chữ "Có" và "Không".

Người ta chọn một căn phòng yên tĩnh, ba hay bốn người ngồi cơ quanh một bàn tròn, trên bàn đặt tấm bìa có kê chữ, trên bìa đặt miếng ván hình trái tim lên ba viên bi. Những người ngồi cơ đặt nhẹ một ngón tay trỏ lên miếng cơ, số người tham gia ngồi vây quanh, hát một bài gì đó bằng một giọng êm dịu, có vẻ ma quái.

Không bao lâu, bằng một sự bí ẩn nào đó, miếng cơ lăn trên các viên bi chạy quanh các hàng chữ để giải thích sự phán bảo của Đức Cao Đài. Đó chính là lời phán truyền mà không một tín đồ nào được làm trái...

Ngày... tháng... năm 1953.

Phòng.. tình báo quân đội viễn chinh: Pháp tổng hợp".

4.

Từ trong phòng tiếp đón dân di cư, nơi dành cho những người đến ghi tên vào Nam, tại tòa thị sảnh Hà Nội, Vũ đi qua khoảng sân rộng đông nghẹt người, nằm ngồi la liệt rất khó len chân. Ra đến bờ đường, anh nghe tiếng chào:

- Thưa thầy!

Vũ quay lại nhìn cô.. gái học trò cũ của mình:

- Ghi tên di cư hả?

- Thưa vâng. Hôm nay thầy mới ghi tên, chắc phải ít ngày nữa mới đi được. Gia đình em đi chuyến máy bay năm giờ chiều.

- Vậy hả? Còn ở lại được thêm ngày nào hay ngày ấy. Đi rồi, biết bao giờ trở về với cảnh cũ người xưa, bao nhiêu là kỷ niệm.

Cô gái thở dài, vẻ buồn thoáng hiện trên khuôn mặt còn vương nét thơ ngây, cặp mắt thật đen ngước lên nhìn Vũ:

- Chúng em chưa đi mà đã thấy nhớ trước rồi. Lúc đâu mẹ em không chịu đi, định về quê ngoại, nhưng bố em cứ bắt đi. Bố em có đi lính Pháp mấy năm, ở lại sợ Việt Minh bắt tội, vừa rồi lại chót nhận tiền ký tên tình nguyện, không từ chối được nữa, cả nhà đành phải đi theo.

Vũ tò mò:

- Ký tên tình nguyện làm gì?

Cô gái tỏ ra ngạc nhiên:

- Thế thày chưa biết có nhiều người đã ký tên tình nguyện đi lính cho ông Diệm sao? Mỗi người ký tên đi Nam được lãnh ba tháng lương trước, gia đình vào trong đó được họ lo chỗ ăn ở ngay, không sợ bơ vơ. Ở giáo xứ em có đông người tình nguyện, sau khi Cha xứ khuyên mọi gia đình theo Cha vào Nam. Cha hứa, vào đó sẽ xây nhà thờ to đẹp hơn. Cha con lại quy tụ lập xứ.

Cô gái quay nhìn vào phía Tòa thị sảnh, chỉ cho Vũ thấy:

- Đấy là Cha của xứ họ em đấy. Hôm nay Cha đi với đoàn cuối cùng, trong đó có gia đình em.

Vũ nhìn theo bóng chiếc áo dài đen tu sĩ thấp thoáng chuyển động trong đám đông người.

Anh hỏi lại:

- Bố em đã lớn tuổi cũng còn đăng lính được sao? .

- Thưa, mới bốn mươi. Những người trước kia có đi lính Pháp rồi, dù có lớn tuổi nhưng từ cấp đội, quản trở lên vẫn được tuyển lại phong thêm một cấp. Vào trong Sài Gòn, bố em sẽ là thiếu úy. Mẹ em nghe bố em nói là đi lính bây giờ không phải đánh nhau vì đình chiến rồi mà, nên cũng bớt lo.

Vũ từ giã cô học trò nhỏ, vượt qua đường sang bờ hồ Hoàn Kiếm. Chiếc tàu điện ầm chạy qua chầm chậm, trông qua cửa, khách không đông như dạo nào. Mưa bụi không ngừng phủ xuống, bầu trời vẩn đục, rặng liễu cúi đầu, mặt hồ lặng xanh như tấm thảm. Hai bên đường Hàng Rong, Duy Tân, những cửa hàng đóng cửa im lìm, bọn giàu có đã xa chạy cao bay từ bao giờ. Đó là số người không chút băn khoăn, vướng víu, khi trốn bỏ quê hương, tìm đến nơi mà họ tin là vùng đất Hứa. Vũ lầm lùi bước đi trên vỉa hè, thẳng xuống phố Huế, dưới rặng sấu già quen thuộc. Anh nghĩ đến âm mưu của đế quốc Mỹ đang kéo dân, mộ lính. Phải chăng địch đang tích cực xây dựng lực lượng cho tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, chuẩn bị tiếp tục chiến tranh, chống phá hiệp định đình chiến hay chúng chỉ mua chuộc cử tri cho cuộc tổng tuyển cử hai năm sắp tới?

Vũ dừng lại trước cửa quán cà phê còn mở bán. Người chủ quán này cố vét thêm tiền cho đến lúc rời đi, hay sẽ ở lại? Trong quán rất đông khách; khách những nơi khác không còn

mở cửa cũng gom lại ở đây. Bên kia đường, rạp Đại Nam như ngủ say trong hai tấm cửa sắt kéo kín tự bao giờ. Tấm bảng quảng cáo còn treo trên tường, vẽ cô gái Pháp đứng bên cửa sổ ngó vào khoảng không đầy tuyết phủ. Hàng chữ kẻ xéo nét rất đẹp "Feuiles d’Automne". Vũ chợt nhớ nội dung cuốn phim "Lá mùa thu" này, tả lại cảnh quằn quại của những người vợ lính Pháp trong tay quân phát-xít Đức, khi chúng đang làm chủ thành phố Ba Lê? Chẳng lẽ khi coi đoạn phim này, những tên lính thực dân ở đây không nhớ đến cảnh nhục nhã của vợ con chúng trước đây sao? Trước cửa quán cà-phê cũng còn tấm bảng dựng nghiêng, cả hai mặt đều kẻ chữ "Paradis" trên nền xanh có rải rác những vì sao óng ánh.

Vũ bước vào. Hai dãy bàn ghế bằng mây khá sang, không còn chỗ trống. Khách ngồi im lặng, họ đang thả hồn theo bản nhạc buồn, giọng ca Khánh Ngọc, trầm trầm nức nở, day dứt người nghe. Quán không mấy rộng, nhưng rất sâu, Vũ chầm chậm bước mãi vào bên trong, le lói vài bóng đèn màu, không làm giảm cảnh âm u khiến Vũ có cảm tưởng đang đi trên con đường vào sâu lòng đất, vào sâu địa ngục, không hợp với tên quán "Thiên đường". Anh tìm được chỗ trống trong góc cùng, ngồi ngả lưng vào thành ghế, có thể nhìn suốt ra tận ngoài.

Một nhóm mươi tên lính Pháp còn ở lại chúng cũng im lặng, không ầm ĩ như trước đây, ngây ngô ngắm những ly rượu đã vơi. Có lẽ hơi men làm cho chúng thấm nỗi buồn thân phận. Còn lại hầu hết là những thanh niên đang tập vào đời với hàng ria mép thời trang với vẻ ngông nghênh thách thức. Chưa hiểu đời, chúng đã vội chán đời, gục đâu trong khói thuốc, hơi men, mặt còn non nhưng miệng phát ngôn toàn những lời chai sạn. Chắc là chúng đang chờ đến lượt đi, và trong tương lai con đường dễ đi nhất đối với chúng là làm lính đánh thuê cho giặc.

- Ông uống cà phê?

- Vâng, một phin.

Người hàu bàn đến gần hỏi, Vũ trả lời. Ly cà phê mang đến, Vũ vừa chậm rãi nhấm nháp, vừa ngắm những bộ mặt thẫn thờ, ngây ngất theo giọng hát, lời ca đang cuốn hút họ, xô đẩy những tâm hồn non dại vào bùn đầy sa đọa, tội lỗi?

Mùa đông trời thật mau tối. Khi Vũ ra khỏi quán, đèn đường đã bật sáng. Vẫn ánh sáng quen thuộc đó trên đường phố Hà Nội, nhưng đêm nay Vũ thấy có gì khác. Anh được biết là trong nhiều ngày nay, anh em công nhân đã bám xưởng, đấu tranh không cho địch gỡ máy đem đi. Địch phải rút chạy, nhưng Hà Nội điện vẫn sáng?

Vũ kéo vành mũ thấp ngang tầm mắt. Mưa phùn tung bụi nước xuống mặt đường ướt sũng, gió thổi mạnh Vũ muốn đi thật lâu trong đêm Hà Nội giá lạnh này, nhưng lại thấy nôn nóng muốn bay ngay vào địa bàn hoạt động trong kia, bắt tay vào công việc để được hòa nhịp vào những hoạt động âm thầm nhưng sôi sục của Hà Nội. Sài Gòn và miền Nam không còn xa lạ đáng lo ngại như lúc đầu anh mới nhận được lệnh đi, mà qua nghiên cứu tài liệu, qua dặn dò của thủ trưởng, thảo luận với anh Thành Minh, Vũ thấy trong đó trở nên quen thuộc và giục giã anh. Tấm giấy hẹn ngày đi đã nằm trong túi, anh sẽ lên đường mấy ngày trước khi quân Pháp rút khỏi thủ đô. Vũ ngửa mặt nhìn lên hai rặng cây bên đường, hai dãy đèn, những mái nhà yên lặng trong mưa, lẩm bẩm: "Tạm biệt Hà Nội thân yêu!"

Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa

Chương 3

Phù Ninh Đa vừa mở cửa đã ôm chầm lấy khách. Khách là thiếu tá Lucien Conein. Hắn mặc chiếc áo sơ mi chi chít những hình vẽ lộn xộn chim cò và chữ Anh kiểu áo Hồng Lông mới du nhập vào Sài Gòn. Người hắn cao to, khá trẻ so với tuổi bốn mươi ngoài. Hắn bế bổng cô gái lên bước vào phòng, đặt cô ta ngồi tựa trên mép bàn kê cạnh cửa sổ, trong lúc vòng tay mềm mại của cô gái vẫn không rời cổ hắn.

Nhìn sói vào cặp mắt đen xanh lấp lánh của cô gái hắn hỏi:

- Rob đâu?

- Ninh Đa vẫn tươi đẹp như ngày nào!

Ninh Đa mỉm cười duyên dáng, hơi ưỡn người ra ngắm lại hắn:

- Dẹp bộ đồ lính, cạo sạch hàm râu, anh đẹp mà trẻ ra nhiều đấy. Rob đang tắm, ảnh nhắc anh hoài, sao cả năm không thấy mặt?

- Phải đi xa, nhớ quá, cố bay về.

Cô gái cười rúc rích, ghé mặt vào sát má Conein. Roger Trinquier từ trong phòng bước ra, nụ cười làm căng hàng ria mép trên eặp môi xam xám của hắn:

- Hello! Conein hả? Mạnh khỏe chứ?

Tên sĩ quan CIA Mỹ rời cô gái, quay lại bất tay tên trung tá Phòng nhì Pháp:

- Rob, mình về gấp mừng bạn vừa được vinh thăng đấy.

- Và thăm vết đạn của Voòng Pao nữa chứ?

Trinquier cười ha hả và kéo Conein vào phòng khách. Năm 1946, Lucien Conein được Trung tâm CIA cử qua công tác trong Phòng nhì Bộ tư lệnh Pháp tại Đông Dương. Hắn đã sống và cùng hoạt động với Trinquier gần mười năm, trở thành thân thiết với nhau. Cả hai đã từng xây dựng lực lượng vũ trang đánh thuê tại Thượng Lào, miền núi Bắc Việt, cao nguyên Trung Việt, với các phong trào "Dân tộc thiểu số tự trị" lừa bịp. Trong thời gian đi tuyển mộ lính bổ xung, lập các đơn vị người Nùng tại Móng Cái, Lucien Conein tình cờ cứu được cô gái họ Phù thoát khỏi tay bọn phỉ buôn người, sau khi chúng đã sát hại cha mẹ cô ta. Không còn nơi nương tựa, Ninh Đa đành đi theo Conein làm kẻ hầu hạ. Vì có nhiệm vụ phải đi xa, tên sĩ quan CIA giao Ninh Đa lại cho Trinquier nuôi giúp. Từ đó cả hai coi cô gái như của chung, nửa tình nhân nửa tôi tớ. Tuy nhiên, vì Ninh Đa có sắc, lại khôn khéo, nên cả hai đều đối xử với cô thân thiết không còn ranh giới chủ tớ.

Câu nói của Trinquier vừa nhắc về chuyện "vết đạn của Voòng Pao" là gợi lại cuộc tranh chấp ở vùng chuyên sản xuất thuốc phiện nằm giữa ba biên giới Miến Điện, Thái Lan, Lào, thường gọi là khu Tam giác vàng. Khu này trước do quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm đóng và khai thác. Sau theo kế hoạch của Trinquier, Pháp đã chiếm lấy, tổ chức thành một "vùng tự trị" của dân tộc Mèo, với những tên tay sai lợi hại như Voòng Pao. Hàng năm Pháp độc quyền thu mua tại khu này trên ngàn tấn thuốc phiện, đưa về Sài Gòn tiêu thụ tại nội đia, và chở qua Hồng Lông, Marseille, bán khắp châu Á, châu Âu, mỗi vụ thu lợi hàng trăm triệu đô.

CIA đánh hơi được nguồn lợi này. Năm 1954, tên trùm CIA Allen Dulles phái thiếu tá CIA Spellmeir cùng hai trung úy cận vệ đột nhập khu Tam giác vàng. Nhằm thời điểm Pháp đang bị thất bại nặng nề tại Điện Biên Phủ, tên Voòng Pao phản lại chủ Pháp, quay sang hợp tác với CIA. Trong vụ thu hoạch thuốc phiện đầu năm 1954 Spellmeir chặn chiếm trên ngàn tấn chở về Thái Lan và cho Voòng Pao ám sát tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp. Nhờ có số lính Mèo tin cậy cứu, Trinquier thoát chết, quay lại giết cả ba tên CIA đế trả thù...

Trinquier nhắc lại việc trên giọng nửa đùa nửa thật. Tuy vậy rất hiểu rõ tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp này, vốn được mệnh danh là con người máu lạnh, tàn nhẫn, không nương tay với cả bạn, khi đã hết tin nhau. Conein phân trần:

- Từ tháng 6 năm 1954, sau khi chuyến thuốc phiện đầu tiên chuyển xong về Thái Lan, tôi mới được gọi về nhận nhiệm vụ. Như vậy cả hai vụ: Spellmier bị giết và Vòng Pao ám sát hụt anh, không liên can gì đến tôi cả.

Tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp chỉ hơn Conein ít tuổi, nhưng từng trải, già dặn hơn nhiều. Nụ cười trên môi chưa tắt từ lúc gặp Conein vẫn không che được hết. nét sắc lạnh trong đáy mắt xanh lơ của hắn. Hắn đáp lời Conein:

- Nếu là cậu cũng chẳng sao, vì bấy giờ ai phục tùng chủ người ấy, phải không nào? Nhưng riêng tôi, có lẽ mãi mãi tôi không quên tình bạn giữa chúng ta, đã có nhiều kỷ niệm đẹp với nhau.

Hắn quay lại vỗ nhẹ vai Ninh Đa:

- Nào cưng, cho các anh uống rượu mừng đi chứ!

Cô gái uyển chuyển trong bộ đồ trắng mỏng, lộ rõ đường nét sống động của lứa tuổi hai mươi, tuổi của yêu đương, của hưởng thụ. Từ miền biên giới quê mùa, lớn lên trong bộ đồ chàm dân tộc, giờ đây cô gái không còn giữ lại chút gì về gốc gác, tiếng nói lẫn giọng cười mất hẳn vẻ ngây thơ, chất phác. Hình dáng cô gái như làm địu đi những cảnh chém giết, đổ máu, còn sâu đậm trong lòng hai tên sĩ quan tình báo, những mưu mô thủ đoạn đậm đặc trong đầu óc chúng... Cả ba chạm ly chúc mừng nhau. Conein uống cạn trước, đặt ly xuống bàn:

- Thực ra thì ông Allen Dulles giao cho đại tá Edward Lansdale toàn quyền phụ trách vụ thuốc phiện ở khu Tam giác vàng, tôi chỉ làm dưới quyền của ông ta. Anh biết đấy, công việc đâu có dễ dàng, nhiều khó khăn lại phức tạp. Chính Lansdale bảo tôi đến thương lượng với anh, mời anh cộng tác. Lansdale trọng tài anh. Phần tôi, nếu hai chúng mình lại được ở chung với nhau thì hạnh phúc biết bao!

Trinquier hơi sửng sốt:

- Hợp tác trên danh nghĩa gì? Tôi vẫn còn là lính tại ngũ!

- Thì hiện giờ hai chính phủ Pháp, Mỹ chẳng đang hợp tác với nhau đấy sao? Bản thân tôi cũng là lính Mỹ đã phục vụ trong đơn vị anh gần mười năm còn gì?

Trinquier nhìn Conein với ánh mắt thiết tha. Hắn uống một hơi cạn ly rượu:

- Rất tiếc, tôi đá có lệnh trở về Pháp. Trước khi rời Việt Nam, tôi đã định tìm anh. Tôi rất mừng thấy anh đến thật đúng lúc. Tôi cần nhờ anh giúp cho cô bạn gái của tôi, Linh Phương, em tướng Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên...

- Về chuyện gì vậy, Rob?

- Chuyện vặt thôi. Anh hãy dành cho Linh Phương ba mươi tấn thuốc phiện mỗi năm, để cô ta giữ mối phân phối ở miền Nam này. Anh biết đấy trước tôi lo việc cung cấp này, chính Linh Phương đại diện cho tướng Viễn phân phối cả cho Hongkong, cho tổ chức mafia tại Marseilles, hàng năm gần nghìn tản. Nay thì tôi chỉ yêu cầu anh nhượng cho Linh Phương phần phân phối tại Sài Gòn thôi. Đó là điều cô ta yêu cầu. Phần tôi muốn lưu lại cho Linh Phương cái gì được coi là kỷ niệm.

Conein tỏ ra sốt sắng:

- Việc này không có gì khó khăn. Anh dặn Linh Phương lại gặp tôi để sắp xếp. Số thuốc phiện đưa về đây nếu không là cô ta phân phối thì tôi cũng phải giao cho một người khác thôi.

Trinquier quay lại phía Ninh Đa:

- Còn việc thứ hai: Tôi trả Ninh Đa lại cho anh. Về Pháp tôi không thể cho Ninh Đa đi theo được. Anh biết đấy, vợ tôi có tật ghen tuông đã thành quán tính.

- Được thôi, tôi sẽ lo kiếm cho Ninh Đa một người chồng. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ lo cho Ninh Đa tất cả.

Hắn cườ i và kéo đầu cô gái vào ngực hắn:

- Chịu chứ cưng?

Cô gái Nùng khẽ gật đầu, Trinquier nắm chặt cánh tay Conein, rồi vui vẻ giục Ninh Đa:

- Vào thay áo đi người đẹp. Bây giờ chúng ta sẽ cùng đi ăn với nhau một bữa ăn gửi gắm và tiễn biệt!

2.

"Ngày 20 tháng 12 năm 1954, tại tổng hành dinh của tướng Paul Ely, Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, diễn ra một cuộc họp quan trọng. Bên ngoài, Sài Gòn nắng hừng hực, trong phòng không khí càng thêm ngột ngạt, đè nặng trong lòng gần ba mươi viên tướng tá hiện diện. Trong khuôn viên cạnh đại lộ Norodom có tường cao bao bọc kín đáo, trên khoảng sân rộng phía trước những dãy nhà hai tầng hứng chục xe hơi đủ loại rải rác né mình dưới những tầng cây, tránh ánh nắng gay gắt đầu mùa. Từng toán lính Lê dương đứng nghiêm canh gác, lưỡi lê lấp lánh trên những nòng súng. Đại tướng Navarre, phái viên của chính phủ Pháp vừa đến Sài Gòn đã cấp tốc triệu tập các tướng lãnh, các cấp trưởng phòng ở đây đến dự họp.

Việc gì quan trọng xảy ra?

Trước khi Navarre lên máy bay sang Sài Gòn, thủ tướng Pháp Pierre Mendès France đã gặp và căn dặn: "Muốn cứu nước Pháp khỏi bị suy sụp, không còn cách nào khác phải nhượng bộ Hoa Kỳ. Kẻ nào chống lệnh thỏa hiệp này coi như phản bội Tổ quốc! Như ông đă biết, tội phản quốc sẽ xử như thế nào rồi, dù người đó là đại tướng Paul Ely?" Sau đó đến lượt đại tướng De Gaule, người được Thủ tướng Pháp kính trọng coi như cố vấn tối cao, cũng nhắc nhở Navarre: "Ông hãy chuyển lời của cá nhân tôi cho đại tướng Ély là phải nghiêm khắc chấp hành lệnh của chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh. Thẳng tay trừng trị những kẻ có ý đồ bạo loạn, là có công lớn với Tể quốc lúc này."

Hơn ai hết, Navarre đã ý thức được sự khó khăn nghiêm trọng của chính phủ Pháp, nhất là sau ba ngày đích thân Allen Dulles, đại diện Tổng thống Mỹ bay qua họp khẩn cấp với chính phủ Pháp. Trước khi trở về Washington, Dulles đã đến gặp riêng Navarre. Chỉ trong một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, Navarre đã nhận thấy hết sự gay cấn mà những người nắm vận mệnh của nước Pháp đang phải gánh chịu. Ngay từ đêm qua, Navarre đã tâm sự với Ely, vừa là bạn thân từ thuở đi học, vừa là tình chiến hữu. Lão chuyển lại những lời căn dặn của De Gaule và Thủ tướng Pháp. Navarre rất yên tâm khi thấy Ely xúc động và có thái độ phục tùng, hứa sẽ cùng với Navarre lo bàn giao dần dần lại cho Diệm, không để Mỹ thúc hối thêm. Trước mặt, Ely chấp thuận giao một sư đoàn cho tướng Salan kéo qua Bắc Phi chi viện cho nhà đương cục Pháp ở đấy đang cầu cứu. Nhiệm vụ trước đây đã làm cho Navarre mất ăn mất ngủ, nay coi như đã hoàn thành?

Sự diễn biến đột ngột đến với cuộc họp khẩn cấp và quan trọng này làm cho các tướng tá trong Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp thất vọng? Từ lúc bước vào phòng họp, họ chỉ trông chờ ở Ely một lời phản đối, tất cả sẽ sẵn sàng đứng lên sau lưng ông ta. Đã từ lâu, họ rất tin vào thái độ cứng rắn cố hữu của viên đại tướng này, biểu hiện rõ nhất là sau khi Diệm về, ông ta đã chấp thuận cho hai tướng Hinh-Vỹ làm đảo chính, vào tháng 9 vừa qua, và sau khi đảo chính thất bại, đã sắp xếp đưa Hinh tránh sang Pháp. Thế nhưng nay Ely tuyên bố:

- Các ông phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu cá nhân hay một đơn vị thuộc quyền có hành động chống lại mệnh lệnh của chính phủ. Tôi sẽ truy tố tức khắc những kẻ vi phạm trước tòa án binh.

Thế là hết? Cuộc họp kéo dài sáu tiếng đồng hồ, không khí trĩu nặng phẫn nộ và buồn đau. Tất cả những bộ mặt đưa ma bước ra khỏi phòng, họ cúi đầu lầm lúi đi, không chào hỏi, bắt tay nhau. Họ vừa chôn xong một thời vàng son hay vừa vùi sâu cái chế độ thực dần kiểu cũ trên mảnh đất Đông Dương này.

Trong khi đó, Charles Ely, người có nhà máy sản xuất vỏ xe lớn nhất nhì tại Pháp, có hàng vạn mẫu cây cao su tại miền Nam và Cao Miên, cùng với cô tình nhân ngồi chờ tin trong phòng khách riêng của anh hắn. Charles đã trên năm mươi tuổi nhưng vẫn còn trẻ khỏe cao lớn và nhanh nhẹn. Hấn vốn là si quan phi công, đã hưu trí. Trước đây hắn từng tham gia chiến đấu trong hàng ngũ quân đội đồng minh chống Đức - Nhật trong đại chiến thế giới.

Charles đã có mặt trong phòng này hơn một giờ, uống hết cả chục hộp bia để chờ đợi. Hắn rất bồn chồn chờ tin cuộc họp, nhưng không biểu lộ chút bực bội nào, vì bên cạnh đã có cô nhân tình trẻ đẹp đang gục đầu vào ngực hắn, mất lim dim. Cô gái Pháp một trăm phần trăm này đã chào đời ở Việt Nam. Cha là kế toán trưởng của đồn điền, mẹ theo chồng qua Việt Nam chỉ ăn chơi và hưởng thụ. Cô gái độc nhất lên sáu tuổi thì cha bị bệnh chết, người mẹ không về nước, ở lại làm ngay trong đồn điền, nuôi con. Ba năm sau, Charles sang Việt Nam thay quyền đại diện công ty. Hắn đưa cả hai mẹ con cô gái về Sài Gòn nuôi dưỡng. Lúc đầu, người mẹ là tình nhân công khai của hắn, về sau cô bé gái lớn lên và thế là có một mối tình tay ba khá êm thấm. Charles chỉ cần phong cho cô gái chức thư ký riêng để che bớt mắt thiên hạ.

Từ chiều hôm qua, Charles đã được tin có cuộc họp quan trọng do chính Navarre từ Pháp sang triệu tập. Hắn nóng lòng săn tin, hy vọng chính phủ Pháp sẽ có phương sách hợp lý giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam, bảo vệ quyền lợi chung của nước Pháp và cả tài sản của Pháp kiều. Đã mấy tháng nay, sau ngày hiệp định đình chiến ký kết, các chủ công ty xăng dầu, điện mỏ, đồn điền, hỏa xa, tàu biển... đã kéo đến thôi thúc Paul Ely đòi đề đạt nguyện vọng của họ lên chính phủ Pháp, đồng thời cũng đòi Eõ ly phải có thái độ đối với thỏa hiệp Pháp - Mỹ.

Viên tướng già đẩy cửa bước vào phòng, không ngạc nhiên khi thấy Charles. Lão uể oải buông người xuống ghế, vẻ mệt mỏi hiện rõ trên mặt.

- Paulette!

Charles gọi nhỏ và lay đầu cô gái. Paulette đã thấy Ely đi vào nhưng vờ như đang ngủ. Mở cặp mắt thật lớn, hai hàng mi dài cong vút như cánh bướm, đôi môi hồng mở ra, cô gái duyên dáng cúi đầu chào Ely và sửa lại dáng ngồi ngay ngắn. Nhận thấy sự thất vọng trên nét mặt của người anh, Charles chưa dám mở lời gạn hỏi. Ely cũng hiểu được tâm trạng của em mình, nhưng biết nói gì đây? Lão cũng im lặng. Cả hai cúi đầu không nhìn nhau. Trong lúc đó, cô gái liếc qua hai người, khẽ nhún vai. Cô ta chẳng quan tâm đến thời cuộc, không thể hiểu thái độ của hai anh em Ely lúc này vì sao lại câm lặng...

Như không thi gan được nữa, Charles đành phải lên tiếng:

- Thế nào anh? Tướng Navarre qua chắc để truyền đạt lệnh mới của chính phủ?

Vẫn không ngước mắt lên, Ely chậm rãi nói:

- Ông qua để chứng kiến những cuộc bàn giao. Đúng ngày 1 tháng 1 năm 1955 tới đây, chúng ta phải bàn giao các căn cứ quân sự, các kho vũ khí, luôn cả chuyện chỉ huy quân đội cho Diệm.

Charles thấy nhói ở tim, hoảng hốt:

- Còn quân Pháp, rút à?

- Chưa, nhưng phải tập trung về đóng xung quanh Sài Gòn, trong số căn cứ được qui định. Từ đây, toàn bộ lãnh thổ miền Nam sẽ do quân đội Diệm kiểm soát và giữ lấy an ninh, quốc phòng. Quân Pháp không còn nhiệm vụ gì khác ngoài việc yểm trợ.

Như không muốn kéo dài câu chuyện buồn nản, Ely nói nhanh cho hết những điều cần nói:

- Đến 20 tháng giêng sẽ bàn giao tổng ngân khố, các ngân hàng lệ thuộc. Cơ quan viện trợ Hoa Kỳ sẽ trực tiếp làm việc với chính phủ Diệm, không thông qua chính phủ Pháp. Phái bộ TRIM chỉ có nhiệm vụ liên lạc yểm trợ. Mọi công việc, ba bên luận bàn với nhau. Trên thực tế, vì chúng ta còn có trách nhiệm về hiệp định Genève, nên buộc họ phải để tôi có mặt trong phái bộ, chứ quen tối hậu quyết định là do tướng O’Daniel trưởng phái đoàn Mỹ. Đến nay thì mọi việc đã quá rõ ràng!

Hai ba lần Charles sửa lại thế ngồi. Hắn nóng nảy, ấm ức, cố gắng lắng nghe, nhưng rồi không chịu đựng được hơn nữa, hắn đột ngột cắt lời Ely:

- Chúng ta có trách nhiệm với hiệp định Genève. Quyền lợi của nước Pháp gắn liền với hiệp định này. Chính phủ Việt Minh đã công bố thay đổi chính sách đối với chúng ta vì chúng ta đã ký hòa ước, đã chịu rút quân, theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Như vậy, chúng ta vẫn giữ được quyền lợi kinh tế và văn hóa lâu đời ở đây nếu chúng ta nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản đã ký kết.

Ely nhếch môi cười, ngụ ý mỉa mai, cắt lời Charles:

- Chú hãy nhìn lại các sự diễn biến trước đây ắt hiểu thôi. Nào đại diện Mỹ không chịu ký hiệp địa, nào Diệm theo đuôi quan thầy huênh hoang chống đối, chứng tỏ ý đồ của Mỹ đã chống phá hiệp định ngay từ khi được ký kết. Bây giờ Mỹ chỉ cần một yếu tố là ta rút quân về nước trước kỳ hạn hai năm thì hiệp định coi như không còn.

Charles chăm chăm nhìn Ely:

- Còn ý anh? Ý riêng của cá nhân anh?

Viên tướng già lắc đầu chán chường:

- Không làm thế nào khác được? Mỹ không cần đổ quân can thiệp, mà chỉ cần ngừng đổ đô-la vào cho chúng ta thì gần năm mươi triệu dân Pháp chúng ta sẽ chết còn nói gì đến ổn định đất nước? Chú bảo tôi coi thường sự sống còn của Tổ quốc, để lo bảo vệ tài sản của chú thôi sao? Ai cho phép? Không phải chờ đợi bị đưa đến tòa án binh đâu, mà chỉ cần hé ra cho người ta thấy cái ý đồ bạo loạn của mình, tức khắc mạng sống của tôi không còn rồi.

Charles gần phát điên lên. Hắn đã cố gắng để nghe hết đến câu cuối cùng của người anh.

Hắn đứng bật lên không cần ngó lại viên tướng già lúc này đã cúi đầu im lặng. Hắn kéo vội cánh tay cô gái, cả hai lao ra khỏi phòng. Bên ngoài màn đêm đã hạ xuống...

3.

Khách sạn Majestic đồ sộ, cao lớn, chiếm nhẳn một góc vuông nối ráp hai con đường trung tâm thành phố. Cạnh đó sông Sài Gòn mênh mông chuyển gió biển Đông đưa hơi mát làm lạnh các căn lầu của khách sạn. Khách Âu, Mỹ đã sống ở đây hay chỉ ghé qua du lịch, thường đến tìm lại không khí của Paris. Từ lối trang trí, trưng bày, đến những món ăn, bồi bàn phục dịch khách sạn, tất cả mang phong thái sinh hoạt của giới quí tộc Pháp. Chính vậy mà khách tới đây đa số là dân Pháp, hay những kẻ chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, hoặc là loại có quyền thế liên quan đến chế độ đương thời, có thừa tiền, sắn sàng tung ra để xã giao mua chuộc, hy vọng kiếm tiền nhiều thêm hay chiếm vị trí cao thêm. Các phòng ăn đều có nhạc nhẹ thính phòng, nựng lầu trên cùng thường xuyên có những dàn nhạc danh tiếng, luân phiên được mời từ Pháp đến phục vụ cho sàn nhảy rộng thênh thang, đủ sức chứa vài trăm cặp dìu nhau dưới ánh đèn trăng, dật dờ trong giấc mơ cung Quảng. Khách vào đây như đi vào thế giới của nhàn nhã, phong lưu, ngăn cách với không gian và thời gian bên ngoài đang trở thành vũng xoáy của sự yêu vội, sống cuồng lối Mỹ mới bất đầu du nhập.

Ăn xong, vợ chồng Trần Đình đứng lên trước, dắt cô Tư Bình Xuyên ra phía cầu thang đi lên lầu. Trần Đình đi chậm phía sau, kéo Vũ dừng lại, ghé vào tai anh thì thầm:

- Mấy tháng nay cô Tư như một xác chết, hôm nay khác hẳn. Đúng là vẻ thư sinh của cậu đã vựng lại sinh khí của người thiếu phụ đa tình này. Cậu biết không, bọn mình rất biết ơn cậu đấy!

Vũ có phần sửng sốt, quay lại nhìn đôi mắt đỏ gay của người bạn khá nhiệt tình, anh cho là Đình đã quá chén, say chăng?

- Cái gì mà vựng dậy với biết ơn?

Đình kéo Vũ ra phía ban-công, hắn dựa lưng vào vòng sắt chắn, rút thuốc đưa cho Vũ, rồi giải thích:

- Lúc đầu hai vợ chồng mình chỉ định giới thiệu cậu với cô Tư Bình Xuyên, thiếu phụ nhiều tiền, mạnh thế, có thể giúp cậu có chỗ đứng cao, vững ở cái đất Sài Gòn mật ít, ruồi nhiều này. Cô ta vừa là em Bảy Viễn, vừa là vợ Tư Hiếu, tham mưu trưởng quân đội Bình Xuyên. Quen biết, giao dịch rất rộng với các nhân vật lớn quyền, cả Pháp lẫn Việt. Cách đây mấy tháng, có hai việc xảy ra cùng lúc đã làm cho cô ta gần như tuyệt vọng. Trước đây quân đội Pháp giao cho Bảy Viễn, mà Linh Phương là đại diện, hàng ngàn tấn thuốc phiện mỗi năm để phân phối cho thị trường thế giới. Chính mình phụ trách hai chiếc tàu đi Hông Hông để làm việc đó cho cô ta. Gần đây CIA đã cướp đoạt khu Tam giác vàng của Pháp, tất nhiên Pháp mất hết quyền lợi, mà Bảy Viễn cũng chịu trắng tay. Thứ nữa, Linh Phương hình như yêu tên trung tá Phòng Nhì Pháp tên là Roger Trinquier, chính tên này lo việc thuốc phiện đã nhiều năm nay. Sau vụ CIA chiếm trọn vùng sản xuất thuốc phiện, Trinquier nhận lệnh trở về nước, Linh Phương đúng lúc mất cả tiền lẫn tình, đâm ra chán đời, bỏ hết công việc làm ăn. Tôi cũng phải để tàu nằm ụ, gần chết đói cả ba bốn tháng nay. Hôm nay cô ta gặp cậu, mình thấy có sự khác lạ trong người thiếu phụ đa tình này. Phải chăng đây là tiếng sét đã làm cao cô ta tươi tỉnh lại? Đúng là cơ hội để cậu lấp chỗ trống trong lòng cô ta, phần cậu sẽ tạo được thế đứng trong Bình Xuyên, lại còn giúp được cả mình tiếp tục làm ăn, khi cô ta đã lấy lại thăng bằng. Cậu đã hiểu chưa nào, thôi, đi lên, họ chờ lâu rồi đấy!

Vũ suy nghĩ về câu chuyện Trần Đình vừa kể, im lặng theo bạn lên lầu. Đình người trong này, tốt nghiệp đại học hàng hải ở Pháp, về đến Hà Nội thì gặp Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Anh ta ở lại đi kháng chiến, chẳng bao lâu bỏ kháng chiến trở về thành. Trong kháng chiến, anh ta gặp Vũ, được Vũ giúp đỡ như bạn bè. Gặp lại Vũ ở Hà Nội, anh ta tỏ ra "thông cảm" với hoàn cảnh của Vũ, mà chẳng nghi ngờ gì. Anh ta có bằng cấp, được Pháp tin dùng, quay lại giúp đỡ Vũ, về sau lại chịu thêm Vũ một cái ơn nữa là Vũ đã "làm mai" anh ta với Bạch Hường, người bạn nữ sinh văn khoa của Vũ. Hai người đã làm lễ cưới hồi đầu năm nay, cả hai đều tỏ ra nhiệt tình và chân thật với anh. Chính vì mối chân tình đó mà Đình đã nói huỵch toẹt, xúi Vũ "lấp chỗ trống" trong lòng người thiếu phụ lãng mạn kia. Vũ không phiền gì bạn. Anh chỉ lo nghĩ về nhiệm vụ tin là mình đủ nghị lực giữ cho lòng trong sáng..

Bạch Hường thấy hai người lên, vẫy gọi. Họ đã chiếm một bàn gần bên dàn nhạc, ngồi chờ. Sàn nhảy lót ván bóng lộng, trong góc phòng vẫn còn dựng cáy thông với dầy đèn màu nhấp nháy, lất phất những chùm bông giả tuyết. Noel đã qua rồi, nhưng không khí Giáng Sỉnh vẫn còn đó. Bản nhạc êm dịu như ru hồn mấy chục cặp nam nữ chuyển động nhẹ nhàng trong ánh đèn màu tim tím. Hai vợ chồng Đình cố ý dành chỗ cho Vũ ngồi sát cạnh Linh Phương. Trong bóng tối lờ mờ, cặp mắt của người thiếu phụ như lớn hơn và sâu thăm thẳm. Linh Phương không hề tránh cái nhìn của Vũ, cô mỉm cười hỏi anh:

- Hà Nội có nhiều sàn nhảy không anh? Chắc hồi còn ngoài đó anh thường đi nhảy chứ?

- Hà Nội có ba nhà khiêu vũ nho nhỏ, không có chỗ nào lớn bằng ở đây. Phần tôi vừa đi dạy, vừa học, rất ít thì giờ để la cà, cô Tư ạ.

Ngay từ đầu cô Tư Bình Xuyên đã tỏ ra tự nhiên, xưng hô anh em với Vũ như với vợ chồng Trần Đình. Cô vừa nhấp ly sâm-banh vừa tiếp tục hỏi:

- Anh thấy phụ nữ Sài Gòn có khác phụ nữ Hà Nội nhiều không? Riêng em, thấy chị Bạch Hường nếu là mẫu phụ nữ Bắc, thì đàn bà ngoài đó dễ thương thật?

- Đất nước mình kéo dài từ Bắc vào Nam, chia ra hai ba vùng khí hậu, phong thổ khác nhau nên sinh hoạt, tập quán rồi tính tình cũng khác. Ví dụ Hà Nội đang lạnh, phải mặc ấm ăn nóng, ngược lại trong này phải có máy điều hòa nhiệt độ, phải uống đá lạnh. Phần tôi mới chân ướt chân ráo vào đây, phụ nữ Sài Gòn mà tôi được tiếp xúc đầu tiên lại là cô Tư. Nếu cô Tư tiêu biểu cho phụ nữ Sài Gòn, thì đúng là có khác. Các bà ở đây mạnh khỏe, tính tình cởi mở, không mềm yếu e lệ, cô Tư cứ trông Bạch Hường thì rõ ngay thôi.

Vợ Trần Đình chợt nghe Vũ nhắc tên mình vờ thắc mắc:

- Chuyện gì mà có tên em trong đó? Nói xấu người ta hả?

Linh Phương vui vẻ đập nhẹ vai bạn:

- Nói đẹp cho bồ đấy. Anh Vũ khen phụ nữ Hà Nội yểu điệu, thục nữ, chê Phương giống hạng cầm gươm múa kiếm, phải vậy không anh?

Vũ cười:

- Vào đây tôi mang theo một ấn tượng rất đẹp về "cô gái Bình Xuyên" của nhà văn Hồ Dzếnh. Vậy mà không ngờ tôi đang được ngồi bên cạnh cô Tư Bình Xuyên bằng xương

lịch sự đưa tay bằng thịt ấy, đang được hầu chuyện, quả là vinh hạnh! Linh Phương tỏ ra rất bằng lòng về câu nói của Vũ. Cô ta cười thật tươi và ngó anh bằng ánh mắt chan chứa cảm tình:

- Có lẽ anh chưa biết đấy, trong này người ta gán cho anh Viễn là tướng cướp, eòn em là

em của tướng cướp?

Vũ tự nhiên:

- Hồi còn đi học, mấy cậu hỏng thi chê tôi học gạo kiếm cơm. Khi tôi vào đời lại thấy những kẻ thất thời chê bai những người thành đạt. Dư luân thiên hạ chẳng có gì khó hiểu.

Đèn đã đổi màu, bản nhạc mới bắt đầu. Đình đưa vợ ra sàn nhảy, Vũ cũng đứng dậy, lịch sự đưa tay cô Tư dựa, ra theo. Đôi giày da gót nhọn bảy phân, nâng thân hình người thiếu phụ cao hơn mức bình thường. Đi phía sau, Vũ ngắm khuôn hình cân đối, uyển chuyển trong chiếc áo dài màu xanh đọt chuối, có hàng bông thêu chạy dọc một bên tà. Linh Phương không những có bộ mặt đẹp mà toàn thân là một bức tượng thấm mỹ. Vũ dìu người thiếu phụ bước đi trong dòng nhạc, nhẹ nhàng mà chắc chắn. Anh cố giữ cự lỵ lịch thiệp, nhưng không một chút cầu kỳ.

Vợ chồng Bạch Hường đã giới thiệu trước với Vũ: Linh Phương từ nhỏ được theo học trường Pháp, mười bảy tuổi thôi học. Hy sinh cho quyền lợi của người anh họ có công nuôi dưỡng, cô nhận làm vợ bé một tay anh chị gấp hai tuổi mình. Còn Bảy Viễn, gả Linh Phương cho Tư Hiểu, y muốn gắn chặt sinh mạng của đàn em vào sinh mạng của hắn. Để trả thù cuộc hôn nhân gán ghép, cô nữ sinh có học, nhiều mơ mộng, giàu ảo tưởng, đã chán chường, thả nổi cuộc đời mình cho số phận. Từ đó, xài nhiều tiền, tìm khoái lạc, trở thành thói quen của người thiếu phụ trẻ đẹp, vốn mang sẵn một tâm hồn lãng mạn. Cọ xát với cuộc đời, trong một xã hội cuồng loạn máu và tiền, cô mất dần lòng tin, thản nhiên trước cảnh cờ bạc, buôn người, giết chóc, và chính bản thân cô cũng trở thành một món đồ chơi trong những bàn tay tàn bạo. Tư Hiểu, chồng cô, hiện là Tham mưu trưởng "lực lượng bổ sung" của quân đội Pháp đội danh nghĩa Bình Xuyên, một tổ chức đã chuyển biến với thời cuộc. Hắn là người thứ hai, sau Bảy Viễn, mà dân Sài Gòn ghê sợ, đã lấy thuốc phiện, tiền bạc lành lý tưởng, giết chóc để giải buồn, con gái để mua vui. Hắn cần hưởng thụ và cửng để mặc cho Linh Phương hưởng thụ. Về phần Linh Phương không thể tìm thấy tình yêu ở người chồng như thế!

Khách mỗi lúc một đông, sàn nhảy như không còn kẽ hở. Vũ mải suy nghĩ nên không rõ từ lúc nào thân thể người thiếu phụ gắn sát vào người anh. Cô Tư thì thầm, hơi thở ấm.

vành tai anh:

- Anh Vũ nhảy hay ghê, bước đi đẹp như người phương Tây.

- Học mót bạn bè đấy.

- Gia đình anh cũng di cư vào đây cả chứ?

Vũ nhẹ xoay người dìu thiếu phụ ra chỗ trống:

- Cha mẹ tôi mất cả rồi. Anh chì em đều có gia đình riêng. Tỏi côi cút vào đây, may nhờ anh chị Đình giúp đỡ.

- Thế anh chưa lập gia đình?

Vũ hiểu Linh Phương chỉ cần hỏi rồ điều này, anh cười:

- Nuôi thân còn vất vả, chưa dám nghĩ đến lấy vợ, sợ kẹt.

- Anh Đình nói anh học giỏi, bằng cấp cao, lo chi không tạo được sự nghiệp?

- Tôi vốn thích nghề dạy học, vào đây có mấy anh bạn rủ cộng tác mở trường.

Thiếu phụ ngước mắt nhìn Vũ, tỏ vẻ quan tâm:

- Nghề dạy học vừa cực vừa nghèo, đi làm gì đó hơn anh ạ.

- Vâng, vợ chồng Bạch Hường cũng nói vậy. Tôi còn suy nghĩ, nên làm gì đây?

- Anh Bảy em tuy ít học, nhưng rất trọng người trí thức, để em giới thiệu anh với ảnh nghe, được hôn? - Cô ta cười rúc rích - Chỉ sợ anh chê. Má anh có ngán ảnh là tướng cướp không?

Vũ cười giả lả:

- Anh Đình chưa được coi là tùy tướng của ông Bảy, mới chỉ là trợ thủ của cô, vậy mà tôi đã trọng ảnh, huống chi đối với ông Bảy.

Ánh mắt Linh Phương long lanh ngó Vũ, biểu lộ hài lòng. Chính Vũ cũng lấy làm bằng lòng về câu trả lời của mình. Anh đã không lúng túng trước câu hỏi khá bất ngờ...

Đèn bật sáng, bản nhạc ngừng. Anh đưa thiếu phụ về chỗ. Một người ngoại quốc cao lớn đi đến bên bàn, hắn bắt tay Đình, gật đầu chào Bạch Hường và Vũ, rồi nói với Linh Phương:

- Tôi định sáng sớm mai đến Linh Phương, không ngờ lại gặp đây. Để tôi giới thiệu bạn tôi với cô, anh ta sẽ lo giúp cô việc đó.

Cô Tư giới thiệu với Vũ:

- Anh Trinquier bạn tôi. Đây là anh Vũ bạn của anh Đình, mới từ Hà Nội vào.

Vũ bắt tay Trinquier. Hắn xin lỗi và đưa Linh Phương đi qua bàn phía bên kia sàn nhảy, nơi có một tên Mỹ và cô gái Việt Nam trẻ đẹp. Trần Đình thì thầm với Vú:

- Hắn là Roger Trinquier, trung tá trưởng Phòng Nhì Bộ tư lệnh Pháp ở Đông Dương, mà mình vừa nói với cậu đấy. Hắn lo việc khai thác thuốc phiện ở khu Tam giác vàng, phụ trách quân trường bí mật ở Vũng Tàu, chuyên đào tạo lính Mèo, Dao, Miên và Lào, lập các đội quân dân tộc thiểu số xây dựng thành các khu tự trị miền núi và Cao nguyên Trung Việt. Mình đã nhận nhiều lần hàng trăm tấn thuốc phiện tại quân trường của hắn để chở đi Hông Hông, Ma Cao, nên quen hắn.

- Còn tên Mỹ ngồi với Trinquier?

Đình quay lại ngó kỹ một lần nữa lắc đầu:

- Trông màu da, cách ăn mặc đúng là Mỹ, cậu tinh đấy. Tên này mình chưa gặp lần nào.

Từ ngày Diệm về chấp chính người Mỹ lũ lượt kéo qua, Sài Gòn bộn lắm rồi. Theo lời ông Viễn, bọn này đều là nhân viên CIA, đội lốt thành viên phái bộ TRIM, quyền hạn nhiều. Người Pháp đã trở thành thứ yếu. Mình thấy vụ CIA chiếm khu Tam giác vàng trên tay Bộ tư lệnh Pháp, mối lợi quá lớn bị mất như thế mà Pháp phải êm ré. Gần đây thấy quân Pháp lục tục kéo về đóng quanh Sài Gòn, giao hết quyền kiểm soát an ninh cho lính Việt Nam, mình mới tin dư luận thật đúng.

Trần Đình ngửa người ra ghế, thở ra:

- Phải chăng đó là điều may mắn cho chúng ta? Pháp đã thua Việt Minh quá rõ rồi, tiếp tục nữa càng thua đau nữa. Chỉ có Mỹ, vừa giàu vừa mạnh, đủ cân lượng giữ dùm chúng ta nửa nước còn lại khỏi rơi vào tay cộng sản, tuy với Pháp hay với Mỹ, chúng ta vẫn là dân nhược tiểu bị trị.

Bạch Hường nguýt chồng:

- Hừ? Tán dương nhiều đi, không thấy Mỹ vừa nhảy vào chúng mình đã gần chết đói rồi sao? Cướp quyền lợi trên tay người ta mà còn khoe giàu với mạnh.

Đình vỗ vai vợ cười ha hả:

- Mình cho là Mỹ cướp quyền lợi, nhưng có thể chính Pháp đã ngầm bán cái mỏ thuốc phiện đó cho Mỹ, và ngay cả miền Nam này. Chúng mình làm sao biết được?

Câu chuyện ngừng lại. Linh Phương đã trở lại bàn. Trông vẻ mặt cô vui vui, Vũ đoán có điều gì đó đã làm cho người thiếu phụ vừa lòng. Đình có vẻ nôn nóng:

- Công việc đó thế nào cô Tư?

Linh Phương không giấu giếm:

- Trinquier đưa em lại giới thiệu với thiếu tá Lucien Conein, nói là nhân viên tòa đại sứ Mỹ. Nhưng em biết rất rõ hắn ta là dân CIA chính cống. Vừa rồi anh Bảy đã cho em biết hắn hiện được giao nhiệm vụ khai thác thuốc phiện tại vùng Tam giác vàng. Qua lời điều đình của Trinquier, hắn bằng lòng dành cho em số ba mươi tấn mỗi năm để phân phối tại Sài Gòn. Nhiều hơn hắn không có quyền, vì tất cả số thuốc còn lại phải tập trung chuyển về nhà máy chế biến tại Thái Lan. Nhà máy này do Mỹ vừa xáy lắp, thuốc thô sẽ lọc ra ba loại morphine, heroin, loại ba và bốn, nhằm tung ra thị trường thế giới, thu lợi nhiều hơn. Với Pháp thì chỉ làm theo lối thủ công, để thô tiêu thụ, kiếm lời không bằng Mỹ bây giờ.

Trần Đình thở dài, không vui:

- Vậy là tôi vẫn thất nghiệp dài dài, hàng đâu chở đi Hồng Hông?

Linh Phương đập nhẹ vào vai Bạch Hường, cười:

- Bồ coi kìa, ảnh làm như em để ảnh chết đói. Em chỉ cần đủ số thuốc tiêu thụ ở Chợ Lớn để anh Bảy nắm bọn Ba Tàu, các nơi khác không có cũng đã sao? Buôn bán kiếm lời thiếu gì cách. Anh yên tâm, chúng ta sẽ chở hàng khác qua Hông Hông, giá trị thua gì thuốc phiện!

Đèn lại đổi màu, bản nhạc mới trỗi lên. Lần này cô Tư chủ động mời Vũ ra sàn. Như để bộc lộ niềm vui đưa tới bất ngờ, Linh Phương dựa sát vào ngực Vũ, quay người trong nhịp ba như lưới bay trên sàn gỗ. Thiếu phụ say sưa ru hồn vào sóng nhạc, áp sát mặt vào má Vũ, làm anh chợt nhớ tới câu nói của Đình, có lẽ Linh Phương đã lấy lại được thăng bằng, cùng lúc thỏa mãn được cả hai điều tưởng như đã mất đi!

- Anh đang nghĩ gì vậy?

Tiếng nói thì thầm vuốt ve da mặt Vũ. Anh tìm cách trả lời cốt cho nguồn vui đến với thiếu phụ tăng lên:

- Tôi đang dồn hết tâm trí để theo kịp đôi chân tuyệt vời của cô Tư đấy.

- Xạo! Qua bản tango em đã phục anh, bầy giờ quay valse, em bắt đầu thương đôi "giày vàng" của anh...

Vũ thở dài:

- Chà? Anh thợ giày được ghe cô Tư khen chắc phải run lên vì quá xúc động.

Linh Phương cười khúc khích, cấu nhẹ vào vai Vũ:

- Khen cặp chân anh, chứ ai khen gì đôi giày!

Cả hai cùng cười. Đình dìu vợ quay lại gần Vũ:

- Có chuyện chi vui mà cười lớn tiếng vậy?

Bạch Hường tiếp theo:

- Nghe giày giày gì đó, chắc anh Vũ đạp chân cô Tư phải không?

Bản nhạc dứt. Thiếu phụ như chưa muốn rời Vũ. Nhưng rồi cả bốn cùng trở về bàn. Chiếc nút chai sâm banh thứ hai nổ như tiếng pháo.

*

Tư dinh cũng là tổng hành dinh của tướng Lê Văn Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên, hiện đang là Quốc vụ khanh trong chính phủ Diệm, chiếm một khu đất rộng bên kia sông, cạnh cầu chữ Y có sẵn số lực lượng vũ trang đóng rải rác khắp vùng Khánh Hội để bảo vệ nhiều cơ sở kinh tế của hắn. Cạnh tư dinh có một sở thú "bỏ túi" cũng nuôi cọp, cá sấu, khỉ, vượn, cáo, chồn... Năm mươi tuổi với bốn mươi năm lang bạt, Viễn đã ngán cảnh máu xương tìm thú an nhàn, hay noi gương thú dữ, luyện chí mãnh hổ rừng xanh nựng một cõi?

Ngồi trên ghế bành phủ da cọp, cô đào Nhật Bản quỳ gối dưới chân, tay dâng tách trà bốc khói, Viễn say sưa ngắm làn môi người đẹp chúm chím cười. Hắn khẽ nhấp trà, tận hưởng vị hương, đang tự coi mình như võ sĩ Phù Tang. Từ mấy tháng nay, hắn say sưa thú vui bên cô gái Nhật này do công ty tàu đánh cá của Nhật đem tặng. Hắn quên hẳn hai cô gái Ma Cao chủ sòng bạc đã dành riêng cho hắn ở khu Đại Thế Giới, trong căn phòng lộng kính..

Đèn đỏ chợp lên ở cửa phòng. Viễn vốn không chịu nghe tiếng gõ cửa mỗi khi có người xin vào gặp, hắn cho gắn bóng đèn đó thay thế.

- Vào!

Ba Búa - đại úy cận vệ bước vào, thân hình cao lớn trong bộ đồ sĩ quan Pháp, bao súng côn - 12 kéo xệ xuống bên đùi. Hắn rập gót, đứng nghiêm:

- Cô Tư xin gặp ông Bảy.

- Cho vào.

Cô gái Nhật lom khom bước qua mặt Viễn theo Ba Búa ra ngoài. Linh Phương đi vào, vẻ mặt không vui, thả người xuống chiếc ghế đối diện:

- Em mới ở nhà Trệu Vĩnh Kỳ về đây.

Ngước nhìn cô em với cặp mắt lớn, sắc lạnh mà hắn đã cùng để chế ngự hàng ngàn thuệc hạ, Bảy Viễn hỏi:

- Có chuyện chi?

- Ông ta bảo, thuốc phiện hiện tràn ngập thị trường cả tuần nay rồi, giá chỉ bằng hai phần ba giá ta bán trước đây. Vừa kẹt thuốc, giá thuốc ở ngoài lại vừa rẻ, tất cả các tiệm hút và những nhà phân phối không thể chờ, họ đã mua ngoài hết!

- Bọn nào bán?

- Lão Hoàng, nhóm tình báo Đài Loan, cũng trong tay Conein.

Sắc mặt Bảy Viễn vẫn không thay đổi:

- Trinquier đã đi Pháp chưa? Báo cho hắn ta ngay đi.

- Đi rồi. Sáng qua em đã tiễn ảnh ra sân bay. Mãi khi bước lên máy bay, ảnh mới nói là đi Algier với tướng Salan chứ có về Paris đâu. Đi cả một sư đoàn lận!

Viễn trầm ngâm suy nghĩ. Linh Phương gợi:

- Hay ta cứ nhận đại số thuốc phiện của Conein để chở qua Hồng Lông cùng với số lông vịt còn lại phải giao cho họ?

- Không được. Hải quan Pháp đã bàn giao cho Diệm rồi. Mỹ đưa sang cả mười tàu tuần dương lớn nhỏ. Bờ biển, hải phận bây giờ là của Mỹ. Chúng ta giành lấy thị trường, ở đây hay Hồng Lông, ta đầu không còn chỗ tiêu thụ.

- Chính thằng Conein hứa với em dành quyền tiêu thụ cho ta ở Chợ Lớn, mới đó mà hắn đã nuốt lời rồi. Chó đểu?

Viễn lắc đầu:

- Có thể hắn thiện chí đấy, nhưng không đủ quyền.

- Mất một lúc hàng trăm ngàn đô la lợi tức chán quá!

Viễn uể oái đứng dậy, ra khỏi phòng. Linh Phương im lặng đi theo. Viễn nói với cô em, nhưng cúng là để nói với chính mình:

- Tình thế đã thay đổi. Quân Pháp đã tập trung cả về đây. Cấp tốc rút đi một sư đoàn, có thể dần đần rút hết. Sài Gòn sẽ là khu Tam giác vàng thứ hai, lọt vào tay Mỹ. Mình sẽ còn mất nhiều hơn nữa. Khó khăn rồi đấy.

Cả hai bước lại gần bờ hồ nuôi cá sấu. Cặp sấu đã khá lớn đang phơi mình dưới nắng. Mắt chúng lim dim thức ngủ, cạnh đó còn vài miếng thịt trâu tươi không còn sức hấp dẫn khi chúng đã no mồi.

- Anh có cần gì em nữa không?

Viễn ngắm cá sấu, không quay đầu lại:

- Không! À, dành ít thì giờ săn sóc thằng Hiếu chớ?

- Ảnh bận săn sóc các đào hát Đài Loan mà!

Linh Phương làm mặt giận, vùng vằng bỏ đi.

Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa

Chương 4

1.

Cô Tư Bình Xuyên lại nhà Trần Đình sắp xếp công việc cho chuyến hàng đưa qua Hồng Kông xong, liền mời Vũ lại thăm tòa báo Đời Mới, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Bình dân Nam Việt, dân Sài Gòn gọi là "báo Bảy Viễn", nơi tập trung những tên cố vấn chính trị của hắn. Chủ ý của Linh Phương, có thể sau khi cô ta đã hội ý với Viễn, định đưa Vũ gia nhập đoàn cố vấn này, tăng cường vây cánh để thực hiện cao vọng chính trị của hắn từ sau ngày nghiễm nhiên hắn là thành viên nội các chính phủ liên hiệp của Ngô Đình Diệm. Chưa phải làm gì cụ thể, ngoài việc viết một vài bài báo đề cao Viễn mỗi cố vấn đã nhận được mười ngàn bạc lương, trong khi người phu khuân vác, trên danh nghĩa là đoàn viên của Mặt trận Bình dân Nam Việt, làm việc tại bến cảng Sài Gòn mười hai tiếng suốt hai ca một ngày, lãnh chưa đến năm trăm một tháng.

Vũ đang thời kỳ tìm hiểu nội tình Sài Gòn, càng được giao du rộng, quen biết nhiều càng tốt nên anh vui vẻ nhận lời Linh Phương. Trên đường đi, Linh Phương vừa chăm chú lái xe, vừa giới thiệu với Vũ về từng cố vấn trong Mặt trận Bình dân của Viễn, với giọng châm biếm và xem thường:

- Mét Hồ Hữu Tường năm hai mươi mốt tuổi đã có hai bằng tiến sĩ văn chương và luật, có tiếng với giới du học tại Pháp và cả ở Sài Gòn, nhưng đến nay gần sáu mươi vẫn không danh vọng, vẫn nghèo. Lúc đầu em cũng tưởng Mét phải là người tài cao đức trọng, nhưng từ ngày ông về phục vụ dưới trướng của anh Bảy, em mới rõ ông ta cũng tồi tệ như ai vậy thôi.

- Tồi tệ? Đã bất tài lại tồi tệ, sao ông Bảy còn mời ông ta cộng tác chứ?

Linh Phương bỗng cười rinh rích:

- Anh Bảy em chỉ cộng tác với cái tiếng trí thức tiến sĩ kép của Mét mà thôi. Ảnh biết rất rõ Mét không có thực tài. Năm ngoái ông ta bò từ Pháp về, đói rách, phải cam tâm đi làm chồng bé cho con mẹ Helène, tuy mang tên Tây nhưng là người Việt một trăm phần trăm nghe anh, có chồng là ông Tây già công chức về hưu, Hèlene rất mê đồng bóng, tự lập một am thờ trong nhà, thường tụ tập các "me tây" cúng lễ, nhảy nhót. Không rõ trong hoàn cảnh nào, mét Tường làm quen với mụ ta, liền nghĩ cách lợi dụng, khai thác mụ. Ông ta xui Hèlene làm đơn xin phép nhà đương cục Pháp lúc bấy giờ, thành lập một đảng lấy tên là "Hồng Y Tiên Tử", thu hút hàng trăm các bà, cô gia nhập. Từ đó mặc sức làm tiền, hàng tuần tổ chức các buổi cầu cúng, lên đồng, ăn uống, và cả làm tình. Mét Tường được bầu làm hội trưởng danh dự, cũng là phương tiện để các mụ me Tây giải muộn. Bản thân ông ta cũng lên đồng, cũng bận đồ như phường hát nhảy múa như điên, thật trơ trẽn và khả ố hết cớ!

- Sao cô Tư biết rõ vậy?

- Thì chính mét Tường mời em gia nhập đảng. Có một lần do tò mò em bằng lòng đi theo mét tới đó. Em đã cười vui khi thấy những cảnh lộn xộn trong nhóm người lên đồng cô bóng cậu. Mét Tường tưởng em thích liền lên đồng đóng vai hoàng tử Ba, phán em hãy yêu hoàng tử... Em lắc đầu cười rũ ra. Mét biết em châm biếm, liền thôi cái trò xấu xa đó đối với em.

Vũ không thể nhịn cười vì câu chuyện của Linh Phương. Anh nhận thấy cô ta vẫn còn giữ nét bộc bạch thông thường của phụ nữ, tuy cô đã từng thản nhiên đến lạnh lùng sống giữa những khung cảnh tàn bạo, những thủ đoạn lừa lọc và sa đọa. Vú gợi hỏi để cô ta tiếp tục câu chuyện:

- Mét Tường là chủ nhiệm báo Đời Mới mà lại vô liêm sỉ đến mức đó à?

Linh Phương lắc đầu:

- Không, tập san đó hoàn toàn do ông Trần Văn Ân chủ trương. Ông ta làm chủ nhiệm, mét Tường chỉ viết bài thôi. Ông Ân trước kia là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, đã được mời ra làm Bộ trưởng thời Nguyễn Văn Xuân. Ông Ân tuy kém mét Tường về bằng cấp, nhưng tỏ ra có khả năng, nhậm lẹ hơn hẳn mét Tường. Chính ông ta đã lập ra mặt trận Bình dân Nam Việt quy tụ năm sáu ngàn phu khuân vác bến cảng thành hội viên, tạo thành thực lực. Anh Bảy em rất bằng lòng ông ta kể từ thành quả này.

Linh Phương lại cất tiếng cười ngả nghiêng khiến Vũ ngạc nhiên:

- Chắc cô Tư lại có chuyện vui nữa rồi?

- Phải, em nghĩ mét Tường đã vớ vẩn, chuyện ông Ân còn ngộ hơn. Hồi ông ta làm Bộ trưởng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, nhờ có địa vị và chức quyền ông ta dụ dỗ được mụ Thành Ký, đại diện cho một công ty xuất nhập khẩu lớn của Tân Gia Ba, đặt văn phòng giao dịch ở Sài Gòn. Mụ này có chồng con ở bên, bất ngờ lại có mang với ông Ân, đành phải nằm lại đẻ cho ông ta một đứa con, xong mới trở về gấp với chồng, lại đẻ bên Tân Gia Ba cho chồng một đứa con khác, mới trở qua làm đại diện tiếp

- Sang Sài Gòn lại sinh thêm cho chồng bé một đứa con nữa chứ?

- Đúng vậy, bây giờ mụ đã có hai đứa bên này rồi. À mà sao anh biết?

Vũ cười thích thú:

- Đoán mò mà trúng chứ tôi đâu có biết ông Ân. Thôi hãy để ông ta đó, cô Tư giới thiệu tiếp những môn khách của Mạnh Thường Quân đi? Truyện cổ của Tàu đọc có những điều rất thú vi, như các môn khách có vị chỉ làm giả tiếng chó sủa, gà kêu mà thành sự, cô Tư ạ?

- Đến ông chủ biên của tờ báo, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh... Nghe nói ông này có nhiều nơi mời ra cộng tác, ổng đều chê ráo trọi. Đúng là "anh hùng vận khứ" nên ông viết báo ký bút hiệu là Hà Việt Phương, ý nói cái đất Việt này, không có phương nào là chỗ dụng võ của ông ta. Mấy tháng trước đây mới chạy trốn từ Bắc vào, ống đi lang thang lạc vào vườn thú của anh Bảy, bị lính coi vườn bắt giữ, hỏi ra mới biết ông là nhà văn, anh Bảy liền mời ông ta đến chỗ ông ân, tham gia viết báo.

Cứ giọng đó Linh Phương đã giới thiệu với Vũ gần cả chục tên cộng tác với Bảy Viễn, với hàng chục bằng cấp, danh nghĩa kèm theo, và những cá tính đặc biệt. Qua lời của Linh Phương, Vũ nhận thấy Bảy Viễn đã hiểu rõ nhược điểm của từng tên dưới tay của hắn, dù những tên đó đã có những người tôn sùng như bậc thầy!

Đến tòa báo Đời mới, Vũ được tiếp xúc gần hết số cố vấn chính trị của Bảy Viễn. Họ tỏ ra niềm nở với anh, có lẽ vì thấy đích thân cô em ông Bảy mời lại, thêm vào là sự thân mật và kính trọng của Linh Phương dành cho anh. Tuy chỉ trong buổi đầu xã giao, cuộc gặp gỡ này đã tạo cho Vũ những thuận lợi trong các lần tiếp xúc sau này. Lúc anh từ giã ra về, mét Tường đưa chân Vũ ra tận xe. Vũ nhớ lại câu chuyện ngụ ngôn con cáo nói trên lưng cọp đi thăm các thú dữ trong rừng, cáo thú sợ cọp đều cúi đầu làm cáo ta lên râu, tưởng mình là chúa sơn lâm!

Linh Phương tỏ ra rất vui vẻ, sau đó còn sốt sắng đưa Vũ đi tham quan hai sòng bạc lớn, khu giải trí "Bình Khang" và vài tiệm hút thuộc quyền của Bảy Viễn. Vào thăm một tiệm hút thuốc phiện sang trọng ở Chợ Lớn ra, Vũ hỏi Linh Phương:

- Ba người hút mãi mà không hết một hộp thuốc nhỏ như vậy, thế mà hàng năm nghe nói nhập vào hàng chục tấn làm gì cho hết?

Thiếu phụ cười cái ngây thơ của Vũ:

- Linh Phương bán ra ba mươi tấn hàng năm mà còn chưa đủ đó. Loại thuốc thô này chỉ dành cho số người hút bằng bàn đèn, còn chưa kể đến hàng tấn heroin và morphine để chích và hít bằng mũi hoặc vấn vào thuốc lá mà hút..

Vũ lắc đầu ngán ngẩm:

- Cứ lấy mấy chục tấn mà chia cho từng trăm gam một đầu dân ghiền, thì miền Nam này ít ra cũng trên dưới một triệu người là khách hàng tiêu thụ. Cô Tư vẫn tiếp tục bán ra loại hàng "quý" này chứ?

- Trước đây thôi, bây giờ thì em đã không còn liên can đến nó nữa, có thể sẽ là vĩnh viễn.

- Sao vậy? Hôm vừa rồi chính cô Tư nói là ông thiếu tá Mỹ vẫn tiếp tục dành ba chục tấn để cô Tư cung cấp tại đây?

Linh Phương bĩu môi:

- Thằng chả đúng là tên CIA xảo quyệt. Hắn hứa nhượng lại số lượng thuốc đó cho em, mặt khắc hắn lại tung trước thuốc của hắn ra thị trường bán giá rẻ. Hắn thừa biết với thủ đoạn đó buộc em không dám mua lại của hắn nữa...

- Thâm hiểm thật, nhưng cô Tư có nghĩ rằng giá thị trường sẽ trở lại bình thường, có thể cao hơn, sau khi cô Tư từ chối không lấy hàng của hắn?

- Tất nhiên, nhưng khi hắn đã cướp được thị trường, nắm độc quyền nguồn hàng, thì với giá nào "khách tiêu thụ bất buộc" cũng phải nhắm mắt mua hết!

- Nhưng công an ở trong tay ông Bảy, không lẽ ngồi yên để cho không lộng hành sao?

Lại còn trung tá Trinquier nữa?

Linh Phương lắc đầu cười buồn:

- Anh Vũ không thấy tối hôm trưng tâ Trinquier phải đưa em lại năn nỉ với Conein nhượng thuốc lại cho em đó sao?

- Thấy chứ. Nhưng tôi nghĩ, vụ này cô Tư nên báo lại cho trung tá Trinquier biết, coi ông ta tính sao. Tôi là người đứng ngoài, tôi cũng thấy tưng tức làm sao ấy.

Linh Phương liếc nhìn nét mặt cau có của Vũ tỏ ra bằng lòng trước sự đồng tình của anh:

- Đấy, đến anh mà còn giận nữa là anh Bảy và em. Nhưng Trinquier đã theo tướng Salan kéo một sư đoàn lính Pháp qua Bắc Phi rồi. Anh nói bên đó lộn xộn không kém gì ở Việt Nam trước đây. Trước khi đi, anh ấy dặn em, vụ thuốc phiện là giữa chính phủ Pháp với cơ quan CIA đã dàn xếp rồi, chớ nên đụng đến nữa mà mang họa. Trinquier cũng đã báo cho anh Bảy em biết và khuyên đừng đối đầu với Mỹ. Anh Bảy tỏ ra ớn bọn CIA ở đây lắm.

Vũ trầm ngâm:

- Không chi riêng CIA chiếm đoạt mối lợi thuốc phiện, mà nhiều việc khác nữa, tôi cảm thấy người Pháp ở đây bị Mỹ lấn hết quyền hành. Ông Bảy chắc cũng tin là Pháp đã giao quyền cho Mỹ ở đáy và sẽ rút hết quân về nước chứ?

- Anh vẫn chưa tin đâu. Ảnh nói nếu Pháp rút đi thì Việt Minh sẽ nuốt sống bọn lính quốc gia này tức khắc, Mỹ lấy quân đâu mà chống đỡ?

Linh Phương cười xẻn lẻn:

- Anh Bảy còn nói là Trinquier nó hù dọa để rủ em qua Pháp với hắn?

Vũ cười:

- Có thể là vậy chăng?

- Xi! Trinquier mắc mớ gì tới em mà hù dọa?

Đúng thế, đây không phải là vấn đề hù dọa, mà Trinquier đã tiết lộ cho thiếu phụ này nguồn tin quả là cần thiết đối với mình - Vũ nghĩ vậy. Mặt khác chính mắt anh cũng thấy quân đội viễn chinh Pháp đã quy tụ về quanh Sài Gòn, đường phố mỗi ngày càng đông đặc lính Pháp. Nhưng tại nhiều căn cứ của Pháp ở trung tâm thành phố, cờ Pháp đã hạ xuống, thay vào đó những lá cờ ba sọc kéo lên. Những đơn vị lính Nùng án ngữ theo thế cài răng lược cạnh những căn cứ của lính Bình Xuyên. Các đơn vị nhỏ lính bảo an Bắc Việt mới chuyển vào xuất hiện ở các cơ quan đầu não, tăng cường canh gác. Vũ đã nhận ra cái thế lấn dân của Diệm, tức là của Mỹ, tuy trong thành phố còn đang xáo trộn. Số dân di cư từ Bắc chạy vào lúc nhúc ở các khu ngoại thành, nhưng con đường mới đây còn trống vắng, từng xóm nhà tôn gỗ thi nhau mọc lên rất nhanh, chỉ qua một đêm nhìn ra đã thấy xa lạ, đường dài thêm với hai dãy nhà thấp lè tè, tiếp nối. Sài Gòn đang chuyển mình, đổi chủ. Trước đây báo chí phương Tây gắn cho Bảy Viễn là "chủ nhân ban đêm của thành phố" này với mười ngàn lính được vũ trang hùng hậu để giữ gìn an ninh, trật tự, hay bảo vệ mối lợi khổng lồ cho Pháp bằng các tổ chức "tứ đổ tường". Nay thì Bảy Viễn đã mất mối lợi quan trọng về độc quyền thuốc phiện. Viễn mạnh là nhờ ở quân Pháp làm chỗ tựa sau lưng, giờ đây không còn mạnh khi bên nách là những trung đoàn Nùng trung thành của Diệm. Rõ ràng cái thế của Viễn đang bi co dần trước sự lớn lên của Diệm. Phải chăng Diệm, Viễn là tượng trưng cho hai thế lực Mỹ, Pháp ở đây? Nguồn tin của bọn Pháp ở hấng tàu biển Denis Frères nói với Trần Đình, bây giờ là của tên trưởng Phòng nhì quân đội viễn hành Pháp, đã đủ để xác đinh Mỹ đang hất Pháp ra khỏi miền Nam này chưa? Vũ tự hỏi mình.

Xe dừng lại trước nhà hàng Hoa kiều "Loon Choong", Linh Phương tắt máy quay lại nhìn Vũ:

- Trưa rồi, em mời anh Vũ ăn cơm ở đây, sau đó chúng mình chia tay.

Thiếu phụ rất tự nhiên khi thốt ra hai tiếng "Chúng mình" thân mật, nhưng Vũ làm ra vẻ không chú ý:

- Biết làm sao hơn, xin tuân lệnh vậy.

2.

Sài Gòn trời về tối trớ lạnh. Người ta cho là dân di cư đã mang theo giá rét ngoài Bắc vào Nam. Nhà hàng Continental chỉ dành cho khách nước ngoài, khách ngoại giao, khách du lịch hay báo chí, luôn luôn đông đúc. Buổi chiều ai đi ngang qua cũng thấy người chen vai nhau ngồi ăn đông nghẹt căn phòng có yểm kính bao quanh. Khoảng trống trước cửa nhà hát thành phố dành chỗ đậu cho đủ các kiểu xe chờ khách. Phía bên kia đường, góc Catinat và Bonard là quán giải khoát Givral, thường được gọi là quán săn tin của giới ký giả Sài Gòn, khách ở đây đa số lại là người Việt. Vào lúc đó, bên chiếc bàn sát vách kính cạnh cửa ra vào, có hai thanh niên ngồi uống cà phê, nhưng hai cặp mắt thì chăm chú nhìn sang cửa lớn nhà hàng Continental. Cả hai thì thầm trao đổi vài câu ngắn gọn..

- Chắc chắn hắn đến chứ?

- Chắc.

- Đi xe gì?

- Peugeot trắng.

- Số xe?

- Tao biết mặt hắn, hỏi số xe làm gì? Hắn tới sẽ đậu xe phía bên - Tay thanh niên vừa nói vừa hất đầu ra chỗ trống còn lại trước Nhà hát Lớn - khóa xe xong, hắn phải đi vòng sang. Từ đây ra khoảng ba chục thước, mày phải đón đầu ngay. Tao ngồi trên xe mô-tô đầu đường Bonard chờ mày.

- Được " Phải chắc nghe?

- Hai viên bảo đảm.

- Kìa hắn tới.

Vừa lúc đó một chiếc Peugeot sơn màu trắng sữa lướt qua. Hết khúc đường Catinat, xe liền quẹo vào khoảng trống Nhà hát Lớn và dừng lại trong hàng xe đậu. Hai thanh niên đứng lên bước ra hè phố, hướng mắt bám sát một bóng người Âu bận đồ xám nhạt đang lúi húi khóa cửa xe.

“Chính hắn!” Thanh niên vừa nói, đã ra phía đầu đường Bonard. Cạnh lề đường, một chiếc mô tô đã đậu sẵn. Hắn thong thả gạt cây chống, ngồi lên yên, nhích nhẹ tay ga, tiếng nổ rất đều, thì ra xe vẫn để máy nổ từ lúc họ vào nhà hàng. Hai. tiếng súng thật đanh vẳng lên. Một thân người cao lảo đảo. Chiếc mô tô chồm lên, yên sau đã đeo thêm một người lao thẳng về phía bùng binh tòa thị sảnh, rồi mất hút.

Nhóm công an mũ xanh gác cạnh Nhà hát Lớn ùa ra, tiếng còi rít lên từng hồi. Chúng làm hàng rào cản xe và người qua lại, và vây quanh một xác người nằm trên vũng máu. Vừa lúc đó một chiếc Pengeot cũng sơn màu trắng trờ tới, đậu sát góc đường Catinat. Vì không có đường vào bãi đậu, chiếc xe phải dừng tạm bên cạnh nhà hàng Continental. Từ trên xe, Edward Lansdale - tên đại tá CIA - bước xuống và đi vội lại nơi vừa xảy ra vụ giết người, theo sát sau lưng hắn là tên tài xế Tý. Đến trước tên đội trưởng công an, Lansdale hỏi:

- Ai bị bắn chết đấy?

Có thể là tên công an đã biết hắn nên đứng nghiêm chào và lễ độ:

- Thưa, ông Robert. Chủ đồn điền cà phê ở trên Ban Mê Thuột.

Nhóm công an tránh đường để Lansdale tiến lại chỗ nạn nhân. Hắn nhìn thấy bộ đồ xám nhạt, chiếc cà-vạt màu nâu sẫm lật ngược che khuất một vành tai, áo sơ-mi trắng loang máu chỗ hai vết đạn trúng tim, sức dội đã vật ngửa nạn nhân ra mặt đường. Lansdale quay lại thong thả bước về phía nhà hàng Continental, nơi hắn có hẹn gặp một nhà báo Mỹ. Tên cận vệ Tý vẫn lẽo đẽo theo sau:

- Đại tá có nhận thấy người bị giết, từ cách ăn mặc đến khổ người, hao hao giống đại tá không?

- Thấy chớ! Cám ơn anh chàng Robert nào đó đã thế mạng cho tôi. Rất có thể bọn sát nhân đã theo dõi tôi từ trưa nay, lúc tôi vào dinh Thủ tướng, nên lầm lẫn qua bộ quần áo đồng màu của nạn nhân.

Hắn dừng lại tránh đường cho hai xe cảnh sát từ phía nhà thờ đức Bà rú còi lao tới. Tên cận vệ tỏ vẻ băn khoăn:

- Có điều, làm sao chúng biết đại tá sẽ tới nhà hàng vào giờ này?

- Khó gì nhỉ? - tên đại tá CIA cười mai mỉa - hồi sáng tôi đã điện thoại cho tên quản lý nhà hàng bảo dành cho một bàn đón khách.

- Đại tá phải cám ơn ông Ngô Đình Nhu. Ông ta đã cố níu đại tá lại nói chuyện mất mươi phút.

Lansdale bước vào cửa hàng, không quên ném lại phía sau một tiếng tán đồng với tên cận vệ trung thành của hắn: "Đúng!"

Cùng vào giờ đó, trong một biệt thự tại dường De Gaule, Salvani, thiếu tá trưởng Phòng Nhì Bộ tư lệnh Pháp đang ngồi ăn tối. Chỉ một mình hắn với con chó Đức phục bên dưới uể oải liếm đĩa súp còn đầy. Hắn ném chiếc nĩa vào đĩa và uống cạn ly rượu vang. Cô gái hầu rất trẻ, "tạp dê" buộc ngang bụng làm nổi bộ ngực căng đầy, nhẹ nhàng bước đến dọn bàn. Tên sĩ quan Pháp đứng lên đi qua phòng khách, con chó to lớn bỏ đĩa súp lẽo đẽo theo sau, móng chân sao động sin sít trên mặt nền. Salvani thả người xuống chiếc ghế đu dành riêng cho hắn sau mỗi bữa ăn, khay đồ tráng miệng và bình cà-phê bốc khói đã được đặt cạnh đó. Phía trong là chiếc tủ dài, có máy điện thoại, máy quay đĩa tự động, ba chồng báo: Paris Match, Le Monde, Journal d Extrême-Orient... đều được sắp xếp trên mặt tủ gọn gàng, vừa tầm tay khi hắn nằm dài trên ghế.

Hắn nhét vào mõm con chó thỏi chocolate, phần tráng mõm thường bữa của con vật. Nhắp từng ngụm cà-phê, hắn đốt điếu thuốc hiệu "Con mèo" . Có điều gì vui khiến hắn hơi nhếch môi cười với con vật bảo vệ đang nghiêng đầu cố gỡ mảnh kẹo mắc răng. Thực vậy, hắn đã tỏ vẻ thoải mái từ lúc nhận được cú điện thoại báo tin hai tên tay sai tin cậy đã làm xong công việc hắn giao...

Từ sau cuộc thảm bại Điện Biên Phủ đến việc Pháp phải ký hiệp định Genève, hắn xác nhận là nước Pháp đã thua cuộc. Rồi đến cuộc họp do tướng Navavre giải thích là Pháp phải nhân nhượng người Mỹ, nhường miền Nam cho Mỹ, hắn giơ cả hai tay lên trời kêu lên: "Thế là hết". Hắn nhớ lại từ cái ngày còn là tên ăn cắp vặt ở các nhà ga, bến cảng, hắn đã tình nguyện xung vào lực lượng lê dương, qua Bắc Phi. Sáu năm bò từ tên lính trơn đến chức quản. Sang Việt Nam suốt mười bốn năm, nhờ mảnh đất màu mỡ này mà hắn đã thu vén được một nông trại trồng nho, năm bảy tòa nhà nơi quê cha đất tổ. Với nghiệp vụ tình báo Phòng nhì, hắn đã học nói tiếng Việt như người bản xứ. Hắn đã từng đóng khố, uống rượu cần, ăn ba khía nếm mắm tôm, lăn lộn khắp hang cùng ngõ tối, hai bàn tay không ngớt tanh mùi máu dân lành, nạn nhân của hắn. Lòng tham không đáy của hắn đến nay vẫn chưa được thỏa mãn.

Hắn tiếc nuối bao nhiêu quyền lợi đầy rẫy đó đây trên đất nước này. Độc quyền tiêu thụ thuốc phiện đã mất đi rồi, nhưng hắn vẫn còn hy vọng có thể làm cái gì đó để cứu vãn tình thế. Hắn vẫn còn tin vào năm mươi ngàn lính của Trần Văn Soái, Bảy Viễn, Nguyện Thành Phương, Le Roy. Hắn vẫn còn tin vào lòng trung thành của Hinh, Vỹ... những tên tướng bản xứ sẵn sàng nghe lệnh hắn. Salvani không chịu nuốt hận, không bỏ ý định vùng lên, hắn thầm quyết đánh một vàn bài xả láng. Và hôm nay, hắn đã diệt được tên trùm CIA tại đây, Edward Lansdale đối thủ đáng gờm. Salvani tự hào đã thắng một nước cờ đầu quan trọng. Nhưng chuông điện thoại bỗng réo lên, hắn chồm dậy cầm ống nghe:

- Phải, Salvani đây? Lại Văn Sang hả? ...

- Một vụ ám sát trước khách sạn Continental?...

- Sao? Ai bị giết? Ông Robert? Đúng Robert không? Chính anh đá nhận diện rồi à?

Salvani không cần nghe thêm gì nữa, tuy đường dây còn chưa cắt. Hắn ném mạnh ống nghe vào máy, ngồi vật xuống ghế, mặt nhợt nhạt, mắt trừng nhìn thẳng vào khoảng không. Đang từ trạng thái thắng lợi, đột ngột chuyển sang trạng thái suy sụp, thất bại, Salvani không ngất xỉu nhưng tim hắn như ngừng đập. Chỉ một thoáng hắn đã mất hết cảm giác, hai bàn tay siết chặt thành ghế, nghẹt thở, tê dại... Hắn đã thảm bại, vì chính hắn đã giết chết một người em họ của hắn.

3.

Huỳnh Văn Trọng quàng tay qua vai Vũ kéo vào phòng:

- Nghe cha Dưỡng nói chú đã vào đây, tôi đi kiếm mãi không ra. Trốn ở đâu mà kín thế?

Chị Trọng từ trong bước ra thấy Vũ, reo lên trách móc:

- Tệ chưa, vào đây lâu rồi mà tránh bọn tôi không thèm lại hả?

Không kịp để Vũ phân trần, chị tiếp:

- Hôm chúng tôi đi, cả hai đứa đến rủ chú, người ta nói chú đã đi nghỉ hè ở Đồ Sơn.

Trọng khoát tay:

- Mình vào tiếp tục lo cơm đi, mời chú Vũ cùng ăn đấy nhé. Để hai anh em chúng tôi hàn huyên trước đã.

Chị Trọng nguýt chồng:

- Giành đấy à? Thôi được, chú Vũ phải ở lại ăn cơm đấy nhé.

Từ ngày quen hai vợ chồng Huỳnh Văn Trọng đến nay, sau khi họ kết nghĩa anh em và dĩ nhiên Trọng trở thành người anh bằng mười lăm năm ra đời trước Vũ, cả hai vợ chồng luôn dành cho anh một cảm tình thân thích. Trọng mở bia rót đầy hai ly lớn:

- Nào uống? Mừng được gặp chú.

- Chúc sức khỏe anh chị và các cháu.

- Cha Dưỡng đưa chú địa chỉ của tôi phải không?

- Vâng, vào đây muốn đến anh chị ngay nhưng có biết anh chị ở đâu. Chiều hôm qua lên Thủ Đức thăm cha Dưỡng cha mới cho biết anh chị ở đây. Nghe cha nói, anh đã cộng tác với Huỳnh Văn Nhiệm, Tổng trưởng Nội vụ.

- Qua một người quen giới thiệu, Nhiệm mời tôi làm phụ tá cho y. Nhiệm là đại diện của giáo phái Hòa Hảo được cử ra tham chính. Hiện giáo phái Hòa Hảo được giữ bốn bộ trong chính phủ liên hiệp do ông Diệm là Thủ tướng, Lương Trọng Tường, Tổng trưởng Bộ Kinh tế, Nguyễn Công Hầu, Bộ Canh nông và trung tướng Trần Văn Soái, Bộ Quốc vụ khanh. Nói chung các giáo phái thiếu người có khả năng, nên họ đang cần lắm. Từ một lực lượng vũ trang nhảy ra làm chính trị, rồi bây giờ bất ngờ tham chính, rất mới mẻ đối với họ.

- Huỳnh Văn Nhiệm là người thế nào?

- Con một của gia đình địa chủ, từ nhỏ được đưa qua Pháp học, chỉ tốt nghiệp tú tài rồi về quản lý tài sản của cha. Nhiệm theo đạo Hòa Hảo từ ngày ông Huỳnh Phú Sổ còn sống, đến nay coi như hạng đại đồ. Được Soái cử ra tham chính nhưng nhiệm vụ vượt quá khả năng, vì vậy họ mời tôi làm phụ tá cho Nhiệm với chức đổng lý văn phòng. Công việc trong Bộ y khoán trắng cho tôi, một mình tôi làm không nổi, tôi đi tìm chú. Nay chú đã vào, tôi sẽ giới thiệu chú với Nhiệm. Được hai anh em mình phụ tá, y tất mừng lắm.

- Tôi vừa mới vào, chưa hiểu được tình hình nhất là trong các giáo phái. Cộng tác với họ, ít ra cũng phải biết. họ thế nào đã chớ?

- Tình hình chung thì nó bày ra đó, có chi mà phải tìm hiểu nữa? Mục đích của tôi, có lẽ với chú cũng phải vậy thôi, là tạo lấy cuộc sống thoải mái, gió chiều nào che chiều đó, băn khoăn gì cho nó mệt xác. Về giáo phái ở đây tôi sẽ nói lại chú nghe những gì tôi biết về họ.

Thế rồi tuần tự, Trọng đã kể lại cho Vũ nghe về lịch sử ra đời của các giáo phái. Cuối cùng anh nhận xét về lực lượng vũ trang của nhóm Trần Văn Soái. Danh xưng quân đội Hòa Hảo, thực chất không phải là thuộc quyền của giáo phái này, mà là của riêng trung tướng Trần Văn Soái, tục danh Năm Lửa và ba thiếu tướng: Hai Ngoan, Ba Cụt, Nguyễn Giác Ngộ. Lực lượng này từ lâu rồi được coi như "lính bổ sung" của quân viễn chinh do chính Pháp trả lương và sử dụng. Số quân của trung tướng Năm Lửa có khoảng mười ngàn. Ba tướng kia, mỗi người có trên dưới năm ngàn, tổng số hai mươi lăm ngàn, vũ trang đầy đủ. Lúc đầu, Pháp cử tướng Năm Lửa là tổng chỉ huy, nhưng gần đây ba tướng dưới quyền phản ứng không chịu lệ thuộc, có vài lúc gây ra đụng độ. Pháp đành phải để cho mạnh ai nấy sống riêng rẽ từng vùng.

Việc tham gia vào chính phủ liên hiệp cũng vậy, trên danh nghĩa là giáo phái Hòa. Hảo, được giữ bốn Bộ, nhưng thực tế cả bốn Tổng trưởng đều là người thân tín của Năm Lửa đưa ra, vấn đề đang gây thắc mắc trong nội bộ các tướng. Từ khi ông Huỳnh Phú Sổ chết, người lên thay thế chính là ông thân sinh ra Đức Thày, ông Huỳnh Công Bộ. Ông Bộ chỉ lo việc đạo, trụ trì đền thờ Đức Thày tại xã Hòa Hảo, thuộc tỉnh Châu Đốc, danh xưng là "thánh địa" với gần một triệu tín đồ rải khắp các tỉnh miền Tây. Chính ông Bộ cũng như đa số tín đồ không bằng lòng về hành động của nhóm tướng lĩnh, vì các lực lượng vũ trang này vẫn không loại trừ các việc hiếp đáp, bóc lột thuế má cả của họ. Nói chung giáo phái Hòa Hảo phân chia ra bên đạo, bên vũ trang khá rõ rệt, mâu thuẫn trầm trọng giữa bốn cánh quân, đó, là chỗ suy yếu nghiêm trọng, tuy bên ngoài nhìn vào vẫn cho là một tổ chức có lực lượng hùng hậu.

- Nhưng bản thân họ, trong nội bộ, họ có nhận thấy chỗ suy yếu nghiêm trọng đến thế không?

- Có thể họ chủ quan - Trọng gật gù suy nghĩ giây lát rồi tiếp - Qua sự giao dịch với nhau trong số cầm đầu, tôi cảm thấy họ thiếu trung thực. Chính họ phải biết điều nghiêm

trọng trên, có điều họ không chịu nhìn thẳng vào. Bề ngoài họ cần phải dựa vào nhau để giữ uy tín chung cho toàn giáo phái.

- Anh đã từng tiếp xúc với các ông tướng đó anh thấy họ là người ra sao?

- Cả bốn đều xuất thân từ các gia đình trung bình ở nông thôn, nhưng không chiu làm ruộng, chẳng chịu học hành, chỉ ăn chơi, luyện võ tự đo phóng túng từ thuở thiếu thời. Họ luyện được ba "miếng nghề", muốn ra làm cha thiên hạ. Ba tướng kia khi có danh phải cố học để biết qua loa. Còn riêng Năm Lửa chỉ biết độc nhất chữ ký tên mình, hoàn toàn vô học. Từ thái độ, cử chi, cách ăn nói, giao dịch, đến lối suy diễn, giống như một phú ông, nhưng là phú ông "hiện đại", nên nham hiểm, tàn bạo, ghê gớm hơn nhiều. Chẳng thế mà dưới tay Năm Lửa có đủ các hạng người thuần phục, từ trí thức như Lương Trọng Tường, Nguyễn Công Hầu, Quan Hữu Kim hoặc người cũng có trình độ học vấn như Phan Hà, Thành Nam, Văn Phú... Đến các loại anh chị lưu manh, dao búa, tất thảy gọi dạ bảo vâng, cúi đầu nghe lệnh. Chú thấy có kỳ cục không?

Vũ cười:

- Có gì kỳ cục đâu anh, khi trung tướng Soái là người thân tín của đại tướng Paul Ely, và chính Pháp đưa tiền cho ông ta trả lương cho lớp dưới quyền, thì những người anh vừa kể tên có thể cúi đầu vì đồng bạc Đông Dương của Pháp.

- Đã đành là thế, ở đây tôi muốn nói những kỹ sư Tường, Hầu và Kim, rồi số có tú tài như Phan Hà, đại tá Cường tiếng Pháp nói không thua tiếng mẹ đẻ. Họ không làm cho được Pháp trọng dụng hay sao mà phải qua trung gian một viên tướng không biết nói một tiếng Pháp nào?

- Đấy là giai đoạn Pháp cần người giỏi bắn giết hơn người giỏi chứ nghĩa!

Cầu chuyện bi ngưng lại vì chị Trọng đã đưa cơm lên. Trong không khí gia đình, Vũ nhận thấy vợ chồng anh Trọng thật tinh tỏ ra niềm vui thân thích. Cơm xong, khi chỉ còn lại một mình Trọng, anh giữ Vũ lại uống cà-phê trong phòng khách, và gạn hỏi:

- Chú nhận cộng tác với Nhiệm chứ? Cả tháng rồi tôi đã giới thiệu trước về chú, y có ý trông đợi, hai ba lần nhắc tôi tìm chú. Trong Bộ hiện còn thiếu một công cán ủy viên, phụ tá về công tác chính trị.

Vũ trầm ngâm giây lát:

- Anh để tôi suy nghĩ lại đã, chậm một vài ngày có gì quan trọng. Tôi nghe nói họ không mấy tin người Bắc mình, nhất là thuộc tôn giáo khác.

Trọng hoa tay đính chính:

- Không đâu. Dân Bắc như kỹ sư Ngọc, Thành Nam, cả hai rất được tin cậy. Tôi chưa hề thấy có hiện tượng kỳ thị.

- Ông Nhiệm và cả trung tướng Soái có biết anh là nhà tu xuất của Thiên Chúa giáo không?

Trọng cười ha hả:

- Có thể họ biết đấy, nhưng chẳng ai hỏi mà tôi cũng không xưng. Bây giờ họ có thể coi tôi như một tín đồ của họ, có sao đâu? Phần tôi chỉ cộng tác với Nhiệm trên danh nghĩa là nhân viên chính phủ liên hiệp, chủ yếu là Nhiệm và cả tướng Năm Lửa có tin mình hay không, vậy thôi?

- Họ tin anh?

- Tin chứ, qua những công việc giúp Nhiệm, ý kiến đóng góp, tự tôi đã tạo lấy lòng tin ở họ. Còn những vấn đề bí mật trong nội bộ, có thể họ còn giấu mình, phần mình cũng chẳng cần biết làm gì. Tôi chỉ làm để kiếm sống.

Là một nhà tu thuộc dòng Đa Minh Thiên Chúa giáo, Trọng theo học trường luật và tốt nghiệp cử nhân, nên khi bỏ tu anh xin làm công chức ngành tư pháp trong thời Pháp thuộc. Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Pháp, Trọng không chịu nổi cảnh thiếu thốn, bom đạn, bỏ chạy vào vùng địch kiểm soát, chỉ cốt cầu an. Trở lại cuộc đời của người công chức rồi được đặt lên chiếc ghế bộ trưởng trong ngụy quyền bù nhìn của Pháp, Trọng đã thực hiện đúng theo ý nghĩa là gió chiều nào che chiều ấy, cốt để tạo lấy một cuộc sống an nhàn, sung túc.

Trọng cùng người Huế với cha Dượng là bạn đồng tu nhiều năm với cha ở Philippine và Hồng Kông. Làm việc ở Huế nhưng Trọng thường ra Hà Nội và mỗi Giần ra đêu có đến với Dưỡng. Chính qua cha Dưỡng mà Vũ làm quen với Trọng từ sơ đến thân.

Trọng cởi mở, chân tình, nhưng hời hợt, ít quan tâm đến diễn biến tình hình quanh mình, vì ngoài cái địa vị khả dĩ đảm bảo cho mình một cuộc sống như mong muốn, Trọng không có tham vọng chính trị gì, và vốn cũng lười suy nghĩ.

Vũ gợi ý cho Trọng:

- Theo tôi, cuộc sống của bản thân có liên quan rất chặt chẽ với công việc mình làm. Công việc làm có kết quả, có lâu bền mới đưa lại cuộc sống bảo đảm. Mà những thay đổi của tình hình, diễn biến của thời cuộc, luôn luôn ảnh hưởng đến công việc làm của chúng ta. Nghe anh nói khiến tôi cảm thấy anh không mấy quan tâm đến chính cuộc sống thiết thân của anh, là tại sao nhỉ?

Trọng gật gù tỏ ra đăm chiêu:

- Đúng? Tôi có chỗ vô tâm, bàng quan với thời cuộc, và cũng lười suy nghĩ, cứ cho là đến đâu hay đó.

- Vì anh dễ kiếm chỗ đứng, dễ tìm việc làm, kiếm đồng tiền cũng không mấy khó khăn.

Nhưng theo tôi nghĩ, làm gì cũng phải cho chắc, cho vững, được lâu bền mới gọi là thành công, chứ nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác cực thân lắm. Việc anh bàn, cả hai chúng mình cùng vào giúp Nhiệm, một người thân tín của tướng Năm Lửa, tôi cần phải tính lại cho kỹ về phần mình, chứ chưa được ăn đã gặp vạ, dại gì?

Trọng tỏ vẻ ngạc nhiên chồm dậy ngó Vũ:

- Cái gì mà ăn với vạ? Chúng mình là viên chức công khai của chính phủ, lén lút làm loạn đâu mà sợ?

- Một ngày nào đó, có thể là không lâu lắm đâu, người Mỹ và ông Diệm sẽ dẹp tình trạng sứ quân, cát cứ. Bắt cầm tù hoặc cần thì giết các viên tướng lãnh "bổ sung" của Pháp, dẹp hết tập đoàn tay chân của các tướng đó, thì những kẻ đồng lõa như anh và cả tôi nữa sẽ chui vào đâu, ông Diệm sẽ đối xử thế nào?

- Chú nói gì tôi không hiểu. Bất cứ ai cũng thấy rằng sau khi Pháp thất bại, chịu bỏ miền Bắc, buộc Hoa Kỳ phải trực tiếp nhúng tay vào, cùng nhau giữ lấy phần đất miền Nam, một chính phủ liên hiệp hình thành, được đồng minh Pháp - Mỹ bảo trợ, không lẽ họ lại để cho ông Diệm diệt các lực lượng kia, nay đã hợp thức hóa thành quân đội quốc gia?

- Thì đúng như anh nói, nhưng rồi một chính quyền sẽ hình thành trên nền tảng hiến pháp, bầu cử, quốc hội... như ông Diệm tuyên bố, chắc chắn sẽ không thể để tình trạng sứ quân cát cứ tồn tại, anh có nghĩ vậy không? Về phía các lực lượng kia, các tướng lãnh có chịu bỏ tất cả để trở thành những tướng chính qui trong chính phủ cộng hòa của ông Diệm, ngày đi làm tám tiếng đồng hồ ở Bộ Quốc phòng, hay một cơ quan nào khác, cuối tháng lĩnh một số lương theo đúng qui chế, sống bình thường trong vòng pháp luật không? Tướng Trần Văn Soái tướng Bảy Viễn và tất cả các tướng khác có chấp nhận được một chính quyền và một cuộc sống như vậy không?

- Ồ nếu đúng là vậy, họ không bao giờ chịu! - Trọng lắc đầu ngẫm nghĩ rồi tiếp - Vậy mà mới tối hôm kia, trong buổi tiếp tân do tướng Nguyễn Thành Phương tổ chức, tôi đã gặp hầu hết các tướng tá, các Tổng trưởng của ba lực lượng. Họ đều rạng rỡ, đầy tự hào và thỏa mãn, chúc tụng nhau, tỏ ra toại nguyện về những điều đã được ông Diệm nhượng bộ. Họ đứng bên bờ vực thẳm đang chờ họ bước tới, mà họ không biết!

Vũ gật đầu:

- Anh nói đúng. Các lực lượng kia mệnh danh là quân đội giáo phái, mà ngay từ lúc đầu đã tự mình tách ra khỏi khối tín đồ vì hành vi tàn bạo, cướp bóc cả đạo hữu của họ. Nhìn vào thực trạng ơự Sài Gòn thì thấy rõ, người nào mà không căm ghét lính Bình Xuyên. Chắc chắn ông Diệm sẽ không bỏ lỡ thời cơ để trừ đứt đi một tai họa dai dẳng quá lâu rồi. Ông ta sẽ có hai điều lợi: nắm trọn quyền cai trị và lấy được lòng dân, tranh thủ cả triệu phiếu khi có bầu cử. Anh thấy đấy, các lực lượng kia đem lại lợi ích gì cho dân, hay chỉ chuyên reo rắc tai họa, làm sao tránh khỏi bị cô lập với dân chúng và cả khối tín đồ của họ. ông Diệm sớm muộn tất phải thẳng tay với họ?

Trọng lắc đầu thở ra:

- Nguy hiểm thật! Họ đang nầm trong cái thế dao kề cổ mà vẫn dương dương tự đắc.

Vú nói chậm rãi như vừa lần theo từng dòng suy nghĩ của mình:

- Vừa rồi anh nói cả Pháp - Mỹ hợp tác, yểm trợ cho một chính phủ liên hiệp đã được Pháp trao trả quyền tự trị. Trong chính phủ đó thế lực thân Pháp, hay của chính Pháp, giữ một nửa số ghế. Đức quốc trưởng Bảo Đại vẫn tại vị. Hình thức thì vậy, nhìn thực chất?

Trước kia Pháp nhận tiền của Mỹ, bây giờ Mỹ giao tiền trực tiếp cho ông Diệm. Trên nguyên tắc ai nắm tiền người đó sẽ là chủ. Ông Diệm chỉ chi tiền cho những ai thuần phục ông ta, và sẽ cắt lương của bất cứ ai không chiu nghe lời. Để rõ vấn đề, chúng ta hãy nhìn ngược lại thời gian, hồi Đức quốc trưởng là vua mà ông Diệm là Thượng thư Bộ lại của triều đình Huế. Hai người không thuận nhau, Bảo Đại cách chức ông Diệm, hiện nay đài phát thanh và báo chí đang tuyên truyền ông Diệm có tinh thần chống Pháp, nên "rũ áo từ quan". Sau khi cách chức ông Diệm, Bảo Đại còn ra lệnh bắt, khiến ông ta phải chạy trốn. Mối thù không đội trời, chung đó, chằng có gì xóa được trong lòng ông Diệm suốt mười năm câm lặng trong một tu viện ở Hoa Kỳ. Vậy mà bỗng nhiên Đức Quốc trưởng phải đuổi hoàng thân Bảo Lộc của mình ra, để mời ông Diệm về chấp chính. Đâu phải là chuyện đơn giản nhỉ? Sự kiện này đã rõ Pháp nhượng bộ. Từ khi ông Diệm về, người ta chỉ tuyên truyền cho chính phủ Ngô Đình Diệm, chẳng một ai nhắc tới Đức Quốc trưởng hữu danh vô thực. Ngài không được về nước, vẫn phải chịu cảnh lưu vong, Anh thấy đấy! Còn ông Diệm thì đang tích cực cho soạn thảo hiến pháp thành lập chế độ cộng hòa, chuẩn bị tổ chức bầu cử. Ông ta cần tranh thủ lòng dân hạ uy tín đối thủ. Theo tôi nghĩ, đây là thời cơ để ông ta chỉ bắn một mũi tên mà được hai con chim: lôi kéo hoặc diệt lực lượng tay chân của Bảo Đại, tức là của Pháp, làm mất chỗ tựa của đối thủ, vừa được lòng dân. Lực lượng của ông Diệm nay đã mạnh hơn nhiều so với các lực lượng khác. Ông ta nắm quyền chính phủ, nắm đô-la, có trăm ngàn lính quốc gia được trả lương đầy đủ, lại biết lợi dụng lòng dân... chỉ còn chờ lúc ra tay!

Trọng chăm chú lắng nghe không sót một lời Khi Vũ vừa nói dứt. Anh tỏ vẻ hốt hoảng:

- Đúng là ông Diệm sẽ ra tay. Đến lúc đó chính tôi cũng khó tránh bị kẹt, đừng nói đến những tướng tá đối lập.

Vũ cười:

- Tránh được à? Hai bên húc nhau, có thể húc nhau cật lực, anh là người cộng tác với tướng Trần Văn Soái sao khỏi bị coi là đồng lõa?

- Hay tôi rút lui đi thì vừa?

Vũ làm mặt nghiêm, khuyến khích:

- Dù sao thì giữa anh với cá nhân ông Nhiệm cũng đã trở nên bằng hữu, không lẽ bỏ bạn trong lúc khó khăn? Theo tôi, nếu như anh thấy những điều tôi nói là có cơ sở anh nên giảng giải cho ông Nhiệm hiểu. Một khi họ ý thức được ý đồ của ông Diệm và cả của Mỹ, chắc họ sẽ đối phó được kịp thời, đâu đến nỗi phải bó tay. Phần anh, đây là dịp anh đáp lại lòng tin mà họ đã dành cho anh lâu nay.

Trọng trở lại bình tĩnh và sôi nổi:

- Nhất định rồi, tôi sẽ gặp ngay Nhiệm và cảnh tỉnh ông ta. Nhưng riêng về tôi, chú giúp tôi ý kiến chứ?

Vú vui vẻ nói giả lả:

ối, anh đã có gan làm giặc thì phải có gan ở tù.

Vũ đứng lên. Trọng nắm chặt tay anh:

- Định về sao? Tối nay ở lại ngủ. Mải mê chuyện quên không hỏi chú, chú vào đây ở đâu? Đến với vợ chồng tôi nhé, nhà rộng đấy, thấy không?

- Trần Đình đã dành cho tôi một phòng riêng, vợ chồng ảnh tốt với tôi, không thể bỏ đi được. Sáng mai tôi có việc, không ngủ lại được. Mai mốt anh em mình sẽ gặp lại nói chuyện nhiều.

- Vậy tôi đưa chú về để biết chỗ ở. Tôi có xe mà.

Trọng tự lái xe đưa Vũ về Quai de Belgique tận nhà Trần Đình.

Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa

Chương 5

1.

Giám đốc ngân hàng Trung Hoa Lý Gia Hàn, tục danh Lý Cáy, một trong số đại tư bản Hoa Kiều, bị bắt cóc ngay tại nhà hàng "Arc en Ciel" đã làm xanh mặt giới Hoa kiều tư sản Chợ Lớn. Vụ bắt cóc diễn ra khá êm thấm, mãi sáng hôm sau mới phát hiện ra, khi người nhà báo tin Lý Cáy không thấy trở về. Số bạn bè cùng ngồi chung bàn với Lý Cáy tối đó kể lại: Vào khoảng mười một giờ, có một người khách ăn mặc sang trọng vào gặp Lý Cáy nói nhỏ gì đó, rồi cả hai kéo nhau ra ngoài, mãi sau không thấy họ quay lại. Mọi người cho là chuyện thông thường đối với Lý Cáy, luôn luôn giao dịch rộng rãi, chỉ có điều đáng chú ý là tất cả số bạn bè chưa hề quen biết người lạ mặt. Từ lâu rồi những vụ bắt cóc, tống tiền các Hoa kiều giàu có ở Chợ Lớn thường xảy ra, nhưng với ai khác chứ không thể với Lý Cáy, một nhân vật được coi là người quốc tế. Vừa là bạn thân với Bảy Viễn, vừa được Phòng nhì Pháp sẵn sàng bảo vệ và hiện nay đang cộng tác chặt chẽ với phái bộ MAAG của Hoa Kỳ.

Sáng sớm hôm sau Lucien Conein đến biệt thự tại đường Garcler, gặp viên đại tá chỉ huy của y, đang lúc Edward Lansdale ngồi uống cà phê trong phòng ăn.

- Thưa đại tá, Lý Cáy bị bắt cóc đêm hôm qua.

Nguồn tin đột ngột làm Lansdale bực bội:

- Nhưng ai bắt cóc?

- Bảy Viễn.

Conein trả lời khẳng định rồi giải thích:

- Mười hai giờ đêm, sau một giờ Lý Cáy bị bắt cóc, nhân viên của tôi tại nhà hàng "Cầu vồng" mới báo cho tôi biết. Theo lời hắn kể, một chiếc xe hiệu Bel Air màu xanh cánh chả đã chở Lý Cáy đi, ngay khi Cáy từ nhà hàng bước ra. Lúc đó bọn công an Bình Xuyên còn đứng gác quanh đó. Nếu không phải là Viễn, thì Lý Cáy đã dùng mọi cách báo động cầu cứu rồi. Nhưng chắc hắn ta đã biết kẻ uy hiếp mình là ai, nên không dám cầu cứu công an, là đồng bọn của chúng. Tôi cũng nhận thấy chỉ có hai tên có đủ uy lực để kéo Cáy từ bàn tiệc ngoan ngoãn đi ra, là Salvani và Bảy Viễn. Lý Cáy biết rõ rằng từ chối lời mời bắt buộc của chúng có thể chết ngay, hoặc sau này cũng không tránh khỏi chết, nên hắn ta đành im lặng đi theo, chắc hắn tính toán sẽ tùy nghi ứng biến, may ra còn hy vọng bảo toàn. Có thể là vậy, Cáy đã lên xe mà không hề phản ứng.

- Số xe và chủ xe?

- Xe đó của một ký giả Nhật Bản, mướn tại hãng Charner đã một tuần rồi. Chiều hôm qua xe đỗ ở bãi đậu trước khách sạn Continental nơi ký giả đó ở trọ, tối phát hiện mất xe, hắn ta đã trình báo công an. Nhưng sáng sớm nay, chiếc xe đã được trả về chỗ cũ, không rõ từ lúc nào!

Lansdale cau mày tỏ vẻ đăm chiêu, lát sau hất hàm nói:

- Nếu Lý Cáy mất tích hoặc chết, ta sẽ mất bao nhiêu?

- Hắn đã nhận hai mươi tấn thuốc phiện chưa thanh toán.

- Nhiều đấy! Theo anh, Viễn bắt cóc Lý Cáy nhằm mục đích gì? Lão này đã từng cộng tác với Viễn và được Viễn tin cậy?

Conein đã nghĩ tới điều này, nên trả lời không chút đắn đo:

- Lý Cáy quay sang hợp tác với chúng ta, tự nhiên Viễn coi như hành động phản lại hắn.

Viễn đang ức vì mất mối lợi thuốc phiện quan trọng, lại mất luôn Lý Cáy, tức là vuột khỏi tay hắn nhiều nguồn lợi tức liên quan. Viễn không còn chi phối được giới Hoa kiều, hắn mất nguồn lợi kinh tế hiện đang là mạch máu nuôi sống tổ chức của hắn. Bắt Lý Cáy cảnh cáo hoặc thủ tiêu, Viễn nhằm khủng bố giới Hoa kiều Chợ Lớn buộc họ phải tiếp tục thuần phục. Chúng ta không can thiệp ngay để cứu Lý Cáy thì chỉ còn chờ khi nào diệt xong Viễn, chúng ta mới chiếm được thị trường trọng yếu này.

Lansdale gật gù tỏ vẻ đồng tình. Lát sau hắn hỏi Conein:

- Phía Nhu có phát hiện được tin gì không?

- Trước khi đến đây tôi đã gặp Nhu. Chưa có tin gì mới, tuy nhiên họ đang tích cực dò

la. Tôi đá yêu cầu ông ta bằng mọi cách cứu Lý Cáy, đừng để mất mặt với giới Hoa kiều Chợ Lớn.

Lansdale uể oải đứng lên, đi sang phòng khách. Conein im lặng theo sau. Trên bàn kê sát góc tường có ba máy điện thoại, Lansdale nhấc một ống nghe lên quay số:

- Hê lô! Văn phòng đại tướng tư lệnh? ... Tôi Lansdale phái bộ Hoa Kỳ. Vâng, xin được

nói chuyện với đại tướng Paul Ely... Sao? Đại tướng đi Đà Lạt từ hôm qua?... Vâng việc cần... thiếu tướng Gam-bi-ê?... Được, xin ông báo với thiếu tướng tôi qua ngay... cám ơn...

Đặt ống nghe, Lansdale quay lại nói với Conein:

- Ély đi Đà Lạt chưa biết lúc nào về. Hiện có thiếu tướng Gam-bi-ê, phụ tá của ông ta, thay mặt tiếp chúng ta. Anh cùng đi với tôi qua đó..

2.

Từ tối đến giờ, Vũ đóng cửa phòng ngồi đọc hết các bài báo tường thuật cuộc họp báo tại chiến khu Long Mỹ của Ngô Đình Diệm, chiến khu của Cách mạng đã vang danh suốt quá trình đánh Pháp ở miền Tây Nam Bộ, giờ đây lính Diệm đến tiếp thu khi quân ta tập kết ra Bắc.

Đi theo Diệm có hàng chục ký giả ngoại quốc có Edward Lansdale, cùng nhiều tên tay chân tin cậy của Diệm. Tất cả các báo Mỹ, Việt đều rập khuôn một luận điệu: "Nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm đã rũ áo từ quan, để bài phong chống thực, xuất dương tìm đường cứu nước, nay trở về quyết giành cho được độc lập, tự do, hứa hẹn xây dựng một chế độ cộng hòa tại miền Nam, có hiến pháp, có bầu cử..." Trả lời các nhà bác, Diệm lên án cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta, lên giọng cam kết sẽ đem đến cho dân chúng miền Nam hòa bình, phồn vinh và hạnh phúc. Phải chăng đã đến thời điểm Mỹ cho phép Diệm công khai lên án thực dân và Bảo Đại? Công khai chống hiệp định Genève lập một "nước miền Nam" riêng biệt.

Vũ soát xét lại những vụ tranh chấp khốc liệt đã xảy ra giữa hai bọn tình báo Pháp, Mỹ, điển hình là vụ cướp đoạt khu Tam giác vàng, giành thị trường độc quyền ma túy tại Chợ Lớn và một góc thế giới. Những vụ tấn công tàn sát bọn Đại Việt tại Ba Lòng, Quốc dân Đảng tại Quảng Nam, song song với những vụ ám sát mà hàng chục nạn nhân đều là tay sai trung thành của Pháp. Tại miền Trung, em ruột của Diệm là Ngô Đình Cẩn mạnh tay hung bạo. Phái bộ MAAG của Mỹ tung ra tại Liên khu Năm lực lượng mệnh danh là "Hội anh em" gồm cả trăm tên Mỹ gốc Phi, mở chiến dịch "Tình thương" tấn công vùng tự do trong chín năm kháng chiến. Trước các hành động này Bộ tư lệnh Pháp không hề phản ứng, ngược lại vẫn tuần tự im lặng kéo quân về Sài Gòn...

Vũ nhớ lại lời linh mục Dưỡng tiết lộ với anh, hôm anh lên Thủ Đức gặp ông ta: "Một vài người Mỹ có thẩm quyền nói với tôi là Hoa Kỳ đã buộc Pháp phải rút quân, nhưng còn chờ Mỹ xây dựng cho ông Diệm một lực lượng quân đội tương đương với quân Pháp, đủ sức mạnh thay quân Pháp, cho kịp ngày quân Pháp rút trước kỳ hạn hiệp đinh quy đinh. Chủ ý của Mỹ là làm cho hiệp định Genève trở thành vô hiệu khi Pháp không còn có mặt ở đây..." Thêm vào là các nguồn tin của Trần Đình, của Trinquier qua cô Tư Bình Xuyên, đến các tình hình đang diễn biến trước mắt. Tất cả cho phép Vũ xác định: Pháp đã đầu hàng Mỹ, giao miền Nam lại cho Mỹ, chuẩn bị rút quân và rút trước kỳ hạn quy định theo hiệp định Genève? Vậy thì cái ngụy quyền "Chính phủ liên hiệp" hiện nay chỉ là sự liên minh gán ghép tạm thời. Trước sau gì Mỹ cũng sẽ không để tình trạng lộng hành của các "Lực lượng bổ sung" của Pháp. Nhưng các lực lượng này không phải như bọn Đại Việt và Quốc dân đảng ở miền Trung, mà liên can đến hai giáo phái Cao Đài Hòa Hảo có gần hai triệu tín đồ. Nếu dùng quân đội đánh dẹp sẽ tạo ra nội chiến, mà nội chiến lúc này bất lợi cho cả Diệm lẫn Mỹ. Đứng trước tình hình khó khăn này bọn CIA phải tính toán. Chúng sẽ áp dụng ngón nghề quen thuộc là tìm cách mua chuộc bằng tiền và địa vị. Mỹ dại gì mà không nắm lấy năm mươi ngàn quân của Soái, Phương, để sử dụng theo ý đồ của chúng, như trước Pháp và Nhật đã dùng? Lôi kéo được số quân tay sai Pháp vầ phía Mỹ coi như đã nắm được con bài của Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp tại đây, thật dễ dàng thắng cuộc Với đà đó Mỹ sẽ ổn định được miền Nam, tập trung toàn lực hướng về phía cách mạng, như ở miền Trung chúng đã làm và hiện chúng đang chuẩn bi tung ra chiến dịch "Tố cộng diệt cộng" sớm hơn?

Vũ nghĩ đến nhiệm vụ ở trên giao, anh tự ví mình như con vít nhỏ gắn vào chi tiết thiết bi của một bộ máy hoạt động trong nội bộ địch. Anh cần phải thận trọng tối đa để giữ đúng vai trò con vít, chính xác, vững chắc, thì bộ máy mới phát động đều. Cho đến lúc này, về nội tình miền Nam nói chung và các lực lượng vũ trang tay sai của Pháp nói riêng Vũ đá hiểu khá rõ. Anh chỉ còn cân nhắc, lựa chỗ đứng chân.

Với Bảy Viễn, một tổ chức vũ trang đã từ lâu bị dân chúng chán ghét đến căm hờn, Diệm rất cần dẹp đi sớm. Cộng tác với Viễn lúc này là thất sách! Vũ nghĩ đến nhóm Sơn Thái - Tuấn Phong trong giáo phái Cao Đài. Sơn Thái trước làm trong Ngự tiền văn phòng của Bảo Đại, nay là người được giáo phái Cao Đài Tây Ninh cử làm tổng trưởng Thông tin trong "Chính phủ liên hiệp" của Diệm. Tuấn Phong, em họ Thái, cùng học với Vũ bốn năm ở Hà Nội, được Thái nhắn vào đề cử làm giám đốc trường huấn luyện cán bộ trong hệ thống các trường "tâm lý chính trị" của phái bộ Hoa Kỳ. Vũ vào gặp Tuấn Phong, Phong rủ anh cộng tác ở trường huấn luyện, từ đó, Vũ có thể dần dần đi sâu vào đạo Cao Đài. Nhưng anh thấy trước mắt, tiếp cận được với Nguyễn Thành Phương và Phạm Công Tắc đòi hỏi khá nhiều thời gian, trong khi tình hình không cho phép anh chậm trễ.

Vậy thì cộng tác với Nhiệm coi như cận kề được với Soái. Vũ thấy rõ hai điều thuận lợi.

Trên danh nghĩa hợp pháp anh là nhân viên của Bộ Nội vụ trong chính phủ Diệm: là dân Bắc di cư anh có lý lẽ để phủ nhận mình là người của giáo phái Hòa Hảo, thân tín của Trần Văn Soái giữ thế an toàn lâu dài. Về mặt công tác, qua Nhiệm để tiếp cận Soái, dựa thế Soái anh có nhiều khả năng tác động đến Phạm Công Tắc và Bảy Viễn.

Cuối cùng anh quyết định nhóm Trần Văn Soái là chỗ đứng chân, là mục tiêu cho nhiệm vụ giai đoạn. Vũ kiểm điểm lại những điều đã nói với Huỳnh Văn Trọng với chủ ý dùng Trọng tấn công vào chỗ yếu của Nhiệm - Soái. Nếu không lầm Nhiệm sẽ sớm tìm anh, sẽ mời anh cộng tác.

Suy nghĩ chín chắn rồi. Vũ liền ngồi vào bàn viết báo cáo về Trung tâm, xin ý kiến của trên.

3.

Thiếu tướng Ga-bi-ê, tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Pháp, thay mặt đại tướng Ely tiếp Lansdale và Conein trong phòng khách tổng hành dinh Pháp. Gam-bi-ê tỏ vẻ lạnh lùng, xã giao mà không niềm nở. Sau tuần rượu khai vị, Gam-bi-e vào đề:

- Đại tá qua đây chắc có việc gì cần đến chúng tôi?

Lansdale hỏi lại, giọng trịch thượng:

- Chắc thiếu tướng đã biết vụ tên Hoa kiều Lý Cáy bị bắt cóc đêm qua?

Gam-bi-ê ngạc nhiên:

- Hắn ta là chủ Ngân hàng Trung Hoa?

- Vâng, chính hắn.

- Tôi chưa biết gì về vụ bắt cóc này. Thông thường những việc xảy ra xét không quan trọng lắm, một vài ngày sau Phòng nhì mới báo cáo lên tôi. Mà không lẽ vấn đề này đã làm cho đại tá quan tâm?

- Lý Cáy đã cộng tác với phái bộ MAAG cả mấy tháng nay rồi, công việc đang dở dang, thiếu hắn sẽ gây trở ngại cho chúng tôi không ít. Vì vậy tôi qua đây để yêu cầu thiếu tướng can thiệp cho hắn được về.

Vừa ngạc nhiên vừa khó chịu, Gam-bi-ê cau có:

- Vậy tôi phải can thiệp với ai, cơ quan nào?

Lansdale vẫn tỏ ra bình tĩnh:

- Tướng Lê Văn Viễn.

Gam-bi-ê liền thở dài, ngả lưng ra thành ghế, nhếch môi cười mỉa mai:

- Trước đây ít tháng, đại tá bảo tôi can thiệp, tôi có thể gọi ngay tướng Viễn đến, hay ra lệnh cho ông ta phải làm theo ý muốn của đại tá. Nhưng hiện nay thì đổi khác rồi, tướng Viễn là của quân đội Việt Nam, là Quốc vụ khanh của chính phủ ông Diệm, đâu còn thuộc chúng tôi? Theo tôi, chính đại tá hiện là cố vấn đặc biệt của ông Diệm, có lý gì không đủ quyền giải quyết?

Thấy thái độ và lời lễ châm biếm thách thức của Gam-bi-ê, tên sĩ quan tình báo Mỹ cười gằn. Hắn cố gắng lắm mới ngăn chặn được cơn giận như muốn bung ra:

- Cho đến lúc này, tôi vẫn tin Viễn là tay chân trung thành của thiếu tướng, nên tôi mới nhờ đến thiếu tướng can thiệp, với thiện chí mong giải quyết êm đẹp trong nội bộ. Còn nói đến thẩm quyền, vâng, Thủ tướng Diệm bây giờ có thừa khả năng đặt vấn đề thẳng với Viễn.... Nếu vậy tình hình sẽ diễn biến phức tạp, mà tôi tin là cả hai phía chúng ta đều không muốn.

Gam-bi-ê hiểu câu nói úp mở của tên trùm CIA ngụ ý đe dọa. Hiện nay thì Diệm đã đủ mạnh để diệt lực lượng của Viễn không mấy khó khăn, trong lúc đại tướng Navarre còn đang lưu lại Sài Gòn, Bộ tư lệnh Pháp không thể nào cứu Viễn. Gam-bi-ê vốn là con người già dặn, thận trọng, hắn suy nghĩ và tự nhủ mình nhường nhịn? Đến chính phủ Pháp còn phải đầu hàng, cá nhân hắn cam đành thua thiệt. Hắn trở lại bình tĩnh lái câu chuyện sang hướng khác để giải tỏa sự căng thẳng:

- Như vậy đại tá đã có bằng cớ chứng minh tướng Viễn bắt Lý Cáy?

Lansdale thấy mình đã thắng cuộc, hắn trở giọng thân mật:

- Mười một giờ đêm qua Lý Cáy được mời rời khỏi bàn tiệc trong nhà hàng "Arc-en-Ciel", ngoan ngoãn bước lên xe trước mắt tốp công an Bình Xuyên đứng gác tại đó. Thiếu tướng nghĩ coi chỉ có hai nhân vật đủ uy quyền ở đây có thể buộc Lý Cáy phải phục tùng: tướng Viễn và thiếu tá Salvani, nhưng chúng tôi biết thiếu tá Salvani không bắt Lý Cáy. Nếu vậy chúng ta mời tướng Viễn đến đây. Tôi tin là nếu ông ta nhúng tay vào vụ này thì việc giải quyết sẽ không khó khăn gì.

Nhưng đột nhiên Gam-bi-ê như nhớ lại chuyện gì. Hắn ta ngập ngừng dừng tay chưa nhấc điện thoại lên, quay lại hỏi Lansdale khá đột ngột:

- Đại tá có nghi ngờ gì "nhóm đại diện hãng thông tin AFP" vừa đến Sài Gòn không?

Lansdale tự nhiên đỏ mặt. Hắn khẽ lắc đầu lúng túng, nhưng có thể Gam-bi-ê không để ý thấy vì hắn ta đã quay đi, chăm chú quay số điện thoại.

Tại sao Lansdale lại đỏ mặt, lúng túng? Câu hỏi của Gam-bi-ê đã làm hắn nhớ tạt sự kiện nhục nhã xảy ra tuần trước. Dưới cái lốt đại diện hãng thông tin AFP, Francois Spirito đã đến tại nhà riêng thăm hắn vào một buổi tối. Lansdale đang ăn tối, tên quản gia đưa trình hắn một tấm danh thiếp của khách lạ xin tiếp kiến. Cũng chỉ là tấm danh thiếp thông dụng như hàng trăm tấm danh thiếp khác tấp nập bay vào nhà hắn trong nửa năm nay, nhưng Lansdale đã nhận ra dấu hiệu đỏ in trên góc trái. Hắn bỏ ăn, chăm chú ngắm cái hình chữ nhật đứng. Phần trên in con chim ó, phần dưới là hình đầu người buộc chiếc khăn ngang. Hắn đứng bật lên, ra lệnh cho tên Tý mời khách vào phòng. Tên quản gia trung thành tỏ vẻ băn khoăn, kinh ngạc khi thấy mặt chủ tái đi, mất hẳn vẻ kênh kiệu thường ngày. Khách là ai mà làm cho tên đại tá đầy quyền lực phải run sợ?

Khách là một người Âu trung niên, tầm thước, nhưng chắc nịch biểu lộ sức mạnh có thừa. Trán của y cao, cặp mắt sáng xanh và miệng luôn luôn nở nụ cười cởi mở:

- Kính chào đại tá Edward Lansdale.

- Rất hân hạnh được tiếp ông Francoise Spirito. Xin mời ông ngồi.

Cả hai ngồi đối diện, uống rượu mạnh, chúc nhau sức khỏe. Đây là lần đầu tiên tên sĩ quan CIA cao cấp được tiếp kiến một trong những trùm mafia. Lansdale hiểu rõ điều nguy hiểm đang chờ mình, khi một thủ lĩnh nhiều quyền lực như Francoise Spirito bất ngờ đến thăm. Có điều Lansdale yên tâm là mafia ít khi nhúng tay vào chuyện chính trị.

Viên sĩ quan CIA trở lại bình tĩnh, đặt ly rượu đã uống cạn xuống bàn, mạnh dạn vào đề:

- Ông đến đây chắc có việc cần đến tôi?

Vẫn với nụ cười luôn đọng trên môi, khách khá lễ độ khẽ nghiêng đầu cất tiếng, giọng nói còn nặng miền đảo Corse:

- Thưa vâng, mới đây người đại diện của tôi tại Merseille, ông Marcel Francisci, báo về cho chúng tôi biết là đầu năm 1955, số thuốc phiện ba trăm năm mươi tấn hàng năm, nhận ở trung tá Trinquier trưởng Phòng nhì quân đội viễn chinh Pháp, từ Việt Nam qua đã không còn nữa. Chúng tôi hỏi ra mới biết khu Tam giác vàng đã đổi chủ, mà đại tá là đại diện của chủ nhân toàn bộ sản phẩm khai thác được ở đầy. Chúng tôi cũng đã cho người qua Thái Lan để điều đình, xin cung cấp tiếp tục Nhà máy chế biến tại đó chỉ có thể dành cho mười tấn heroin, tương đương với một trăm tấn thuốc thô. Như vậy chúng tôi khòng có đủ để phân phối cho khách hàng như trước. Tất nhiên số hai trăm năm mươi tấn mà cả châu Âu cần phải có, người ta đã mua trực tiếp ở các ngài. Chúng tôi thấy vấn đề không ổn.

Spirito ngừng lại, khoan thai uống cạn ly rượu thứ hai chủ nhà vừa mới châm đầy, thái độ vẫn từ tốn, vui vẻ:

- Chúng tôi không biết làm chính trị, và cũng không thạo về quân sự, nhưng về phương diện buôn bán chúng tôi hiểu đây là lối tranh cướp thi trường!

Khách nhấn mạnh mấy tiếng cuối cùng rồi cười ha hả, lát sau lại tiếp:

- Nghề buôn bán tranh cướp là sở trường của chúng tôi. Như đại tá thấy đấy, trước nay chúng tôi chưa phải nhượng bước một tổ chức, ngay cả một quốc gia nào. Chúng tôi cũng tự hỏi nên giải quyết vụ này ra sao, khi chúng tôi vản kính nể Hoa Kỳ, tôn trọng cơ quan CIA? Do đó, thay vì chặn đón số thuốc của quý ngài khi chuyển sang châu Âu không mất tiền vốn, tôi đã tự thân hành qua đây gặp đại tá với thiện chí hòa bình. Tôi chỉ yêu cầu cho đủ số lượng thuốc hàng năm như trước đây Phòng nhì Pháp đã nhượng cho chúng tôi.

Lansdale hiểu rất rõ, một tổ chức nằm trong bóng tối với những thành viên sẵn sàng coi thường mạng sống của mình để đánh đổi cái chết của địch thủ, gồm luôn cả vợ con, gia đình họ. Không một ai có đủ khả năng đề phòng và đối phó suốt cả đời mình khi bọn chúng rất kiên trì, bền bỉ, bám sát chờ thời cơ để hạ sát, trả thù cho kỳ được mới thôi. Lansdale chẳng đắn đo, mau lẹ chấp nhận đầu hàng:

- Từ khi được giao nhiệm vụ này, quả tình tôi không biết số hàng phân phối tại Pháp lại do người đại diện của quý ông phụ trách. Nhân viên thuỷ quyền không báo cáo rõ cho chúng tôi vụ này, thật là một sơ sót đáng tiếc. Nhưng cũng nhờ vậy tôi mới được hân hạnh biết ông, tôi rất sẵn sàng thỏa mãn yêu cầu của ông.

Khách nhận ly rượu thứ ba của chủ và uống cạn. Không khí thăm dò, thủ thế hoàn toàn giải tỏa. Spirito lấy ở túi áo ra một miếng thẻ nhỏ màu vàng óng ánh. Hắn đứng lên với vẻ quan trọng, hai tay đưa tấm thẻ cho Lansdale:

- Thay mặt tổ chức mafia, tôi trần trọng trao đại tá, cùng với quyết định của toàn nhóm thủ lãnh công nhận đại tá là thành viên danh dự mafia kể từ ngày hôm nay.

Lansdale đứng lên theo, cầm miếng kim khí rồi bắt tay Spirito. Óc hắn rung lên như động cơ phát động. Từ chối ư, không thể vì như thế là mặc nhiên khinh miệt cái tổ chức giết người này. Đành nhận sao, để mãi mãi cúi đầu nghe lệnh? Thời gian không cho phép tên CIA kéo dài suy nghĩ, chỉ thoáng vài giây thôi hắn phải quyết định:

- Tôi xin cám ơn các vị thủ lĩnh và riêng ông.

Khách đã ra về, Lansdale vẫn còn ngồi chết lặng ngó tấm thẻ vàng có hình con Ó và chiếc đầu dân đảo Corse. Hắn biết từ đây hắn phải mang danh là người của mafia. Nhục nhã đầu hàng, hắn không dám chết cho danh dự!

Lansdale đã phải nghĩ đến sự việc vừa qua, hắn không còn giữ được vẻ huênh hoang lúc đầu, khi Gam-bi-ê đặt ống điện thoại quay lại bảo với hắn:

- Tướng Viễn vừa đi khỏi, đại tá cứ yên tâm trở về, tôi sẽ đích thân gặp Viễn để giải quyết vụ này. Nếu đúng ông ta bắt Lý Cáy, tôi tin là can thiệp được thôi.

Gam-bi-ê đã tự khuyên không nên đối đầu với CIA, tất nhiên hắn cũng không muốn để tướng Viễn, tay chân tin cậy của hắn húc đầu vào đá. Về phần tên sĩ quan tình báo Mỹ, hắn vẫn còn chột dạ vì câu hỏi của Gam-bi-ê. Hắn tự hỏi viên sĩ quan Pháp đã biết sự có mặt của trùm mafia tại Sài Gòn, nhưng có biết vụ hắn đã đầu hàng nhục nhã hay không?

Hai tên đều theo đuổi theo ý nghĩ riêng, trở nên lạnh nhạt trong lúc chia tay. Lansdale cùng Conein bước vội ra khỏi phòng.

4.

Đúng năm giờ sáng. Vũ mở đài bán dẫn nhận bản tin của Trung tâm theo định kỳ. Ghi xong, anh thận trọng nhẩm dịch từng chữ, từng lời, ghép trọn câu bằng trí nhớ, không ghi thành nguyên bản ra giấy. Anh phải tập thói quen này, vừa giữ bí mật tối đa, vừa phòng khi bất ngờ, trong khung cảnh mà xung quanh đầy rẫy tai mắt kẻ thù.

Vũ không khỏi bồn chồn trong lòng sau khi đã đọc lại lần thứ ba đoạn chỉ thị công tác của Trung tâm, đã chấp thuận cho anh đứng chân trong nhóm Nhiệm - Soái, và cho phép anh làm "phụ tá về công tác chính trị" của nhóm này. Đốt xong tờ giấy ghi mật mã, anh ngồi im lặng, tập trung suy nghĩ về công việc có nhiều khó khăn và phức tạp. Cộng tác với Nhiệm tức là với Soái, phải làm sao để tránh được tình trạng tự đặt mình trong thế thù địch với Diệm, có vậy mới tồn tại được lâu dài. Trước mắt nếu mất cảnh giác, thiếu tế nhị, rất dễ đưa Soái đến chỗ nghi mình, dân gốc Bắc di cư là tay chân của Diệm, chui vào nội tuyến. Rồi bọn Phòng nhì Pháp vẫn chưa ngừng dòm ngó, dò xét người của Cách mạng tung vào. Vũ phải chấp nhận đương đầu với cả bốn bên địch, loại kẻ thù tàn nhẫn, dã man giết người đã trở nên quán tính.

Vũ từng thận trọng, luôn tự soát xét mình, những lời nói, những việc làm, sau mỗi ngày hành động. Những buổi tiếp xúc, quan hệ với chính kẻ thù, là những màn kịch do anh sắm vai, đạo diễn, và cũng chính anh sáng tác nội dung. Nhưng đây không phát là màn kịch trình diễn trên sần khấu thông thường, mà là diễn xuất ngay trong lòng một xã hội rừng xanh, bao quanh là thú dữ, không pháp luật, không đạo lý. Từng lúc, từng lời sơ hở là dễ dàng va chạm với cái chết!

Sài Gòn như bừng tỉnh sau một đêm dài mệt mỏi, động cơ xe các loại xao động một vùng. Vũ đứng dậy tắt đèn, mở cửa sổ, một góc trời sáng đỏ. Xế trước mặt là cầu Rạch Bền. Dưới cầu thủy triều dâng cao, ánh bình minh làm mặt con rạch ửng hồng, phủ lên màu nước đen thải ra từ hàng trăm cống rãnh.

Chiều hôm đó, đúng như dự tính của Vũ, Tổng trưởng Nội vụ Huỳnh Văn Nhiệm nhờ anh Trọng mời anh tới nhà riêng, ăn cơm tối. Đã mấy ngày rồi, Vũ chuẩn bị rất chu đáo cho buổi tiếp xúc này mà anh tin sẽ diễn ra, với quyết tâm phải thành công, phải đạt cho được mục tiêu công tác. Đột nhập vào nội bộ Trần Văn Soái, không chỉ phải qua mặt cơ quan điều tra của chính tổ chức này, mà còn phải che được mắt người của Phòng Nhì Pháp gài vào như hai tên Thành Nam, Văn Phú. Hai tên này đang giữ vai trò bí thư cho Soái. Nhất cử nhất động của ngay bản thân Soái cũng không tránh khỏi cặp mắt cú mèo của Salvani. Ngoài ra, còn phải chú ý đến cả hệ thống chân rết của hai tên đó ngày đêm dò la nghe ngóng, từ hàng ngũ sĩ quan cho đến những đơn vị lẻ tẻ bên ngoài!

Vũ đã gợi ý cho Trọng tìm mọi cơ hội thông báo lý lịch của anh với Nhiệm, một bản lý lịch rất dễ kiểm tra và bảo đảm, để ngay từ bước đầu tạo được ấn tượng tốt trong lòng Nhiệm, tức là nhẹ bớt phần chú ý của hai tên phòng Nhì Thành Nam, Văn Phú. Lúc này, được Nhiệm mời tới sớm hơn anh dự tính. Vũ nhận thấy cửa chính đã mở rồi. Phần còn lại, là bắt mạch tìm và giải thích đúng đắn cân nguyên tình trạng của bệnh nhân, làm cho người bệnh tin vào khả năng của y sĩ...

- Nhiệm đã báo cáo với ông Soái những điều chú thảo luận với tôi, và trước khi mời chú có thể ông ta đã thảo luận kỹ với viên bí thư Thành Nam, lâu nay vẫn là bộ óc của ông Soái.

Đang chăm chú lái xe, Trọng đề cập đúng điều Vũ vừa suy nghĩ. Anh thích thú quay lại nhìn Trọng thăm dò:

- Vậy sao anh?

Trọng gật đầu, vẻ nghiêm túc lộ rõ trên mặt:

- Quyết định của ông Soái mời chú cộng tác với Nhiệm coi như đã thông qua Thành Nạm, tức là Phòng nhì Pháp đã duyệt. Theo tôi nghĩ chú tính xa vậy thôi, chớ riêng với Nhiệm cũng đủ uy tín với Salvani rồi. Chú không thấy ông ta đã học và lớn lên từ bên Pháp sao?

- Thấy chứ anh, nhưng nếu để cho họ có chút gì băn khoăn về mình ngay từ buổi đầu sẽ khó tạo được lòng tin mà không tin, cộng tác với nhau rất khó! .

Câu chuyện trao đổi ngừng lại, Trọng cho xe chạy thẳng vào sân trước một biệt thự lầu.

Với vóc người cao gầy, tuy ngoài năm mươi, Nhiệm vẫn lanh lợi, giọng cởi mở. Hắn bước ra tận cửa đón Vũ và Trọng. Bắt tay Vũ, hắn dắt luôn vào phòng khách.

- Ông Bộ đã giới thiệu với tôi từ tháng trước lận. Chúng tôi có ý trông chờ, hôm nay rất mừng được gặp ông.

Vũ mỉm cười trang trọng:

- Về phần tôi, trước hết tôi xin cám ơn lòng nhiệt tình của ông Tổng trưởng, tôi rất vinh dự được tiếp kiến.

Không khí khá thân mật trong suốt buổi khai vị xã giao và bữa ăn thịnh soạn. Sau đó cả ba kéo vào phòng riêng dành riêng cho khách thân, ngồi uống cà phê. Tổng trưởng Huỳnh Văn Nhiệm mới vào đề:

- Tôi đã được ông Bộ tường thuật khá tỉ mỉ buổi hai ông trao đổi tình hình với nhau. Tôi khâm phục ông một người mới lần đầu vào đây mà đã nắm được những vấn đề sâu sát sát như thế, trong khi chúng tôi ở giữa Sài Gòn mà vẫn mơ hồ, đúng là đáng trách! Chúng tôi cấp tốc kiểm điểm lại thực trạng diễn biến mới đây, thú thật với ông, tất cả đều giật mình hoảng hốt. Quả như ông đã nhận định, không riêng gì trung tướng Trần Văn Soái mà các lực lượng khác cùng chung cảnh ngộ, đang bị dòn vào thế bí, chưa tìm được lối thoát. Hôm nay chúng tôi mời ông lại với mục đích xin nghe một vài lời cao kiến, bằng cách nào đó mong cứu vãn được tình hình.

Trước thái độ khiêm nhường và lời lẽ chần tình của Nhiệm, Vũ nhận thấy tình hình thuận lợi cho mình đứng chân trong lực lượng này, ở vị trí cao, khả dĩ tác động được không chỉ đối với Nhiệm mà cả với Soái. Anh phấn chấn, nhưng vẫn thận trọng:

- Tôi được biết anh Trọng đang cộng tác với ông Tổng trưởng. Với tình anh em trong nhà, tôi có nêu một vài ý kiến hoàn toàn vô tư, không ngờ lại được ông Tổng trưởng lưu ý. Nay ông Tổng trưởng lại hỏi tới, tôi không có cao vọng sẽ giúp ích được gì mà chỉ với thiện chí đóng góp mong đáp lại thinh tình của ông Tổng trưởng đã dành cho tôi. Như tôi đã nói với anh Trọng theo thiển ý của tôi thì đúng là các lực lượng vũ trang đang ở trong hoàn cảnh khá nghiêm trọng. Nhưng trước khi đề đạt ý kiến, xin mạn phép hỏi ông Tổng trưởng, từ ngày quý vị đại diện ra tham chính đến nay, đối nội đã làm được những việc gì mang lợi ích thiết thực về cho lực lượng vũ trang lẫn giáo phái Hòa Hảo, và đối ngoại đã tạo được ưu thế gì để phát huy ảnh hưởng?

Nhiệm sững sờ đến ngơ ngác, trong khi Vũ rất rõ tại sao ông ta khó trả lời câu hỏi của anh đặt ra. Thái độ của Nhiệm chứng tỏ Trọng nhận xét về họ quả là xác đúng: "Bừng mắt dậy đã trở thành tướng chính qui, nhân vật chính quyền, nắm một góc nội các chính phủ, họ tự hào đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, cứ thế lao vào hưởng thụ..." Đến bây giờ trong khi chờ đợi chuyển số "lính bổ sung" thành "quân quốc gia", họ vẫn thản nhiên tiếp tục làm lãnh chúa từng vùng, tất cả không cần cảnh giác!

Một lát sau, Nhiệm mới ngập ngừng:

- Chỉ một câu hỏi thông thường của ông đã làm cho tôi lúng túng, không biết nói thế nào? Đúng là chúng tôi chỉ nghĩ đến công việc của chính phủ, không lo riêng mình, nên chưa làm được trò trống gì có lợi cho nội bộ, nói gì đến công việc đối ngoại.

Vũ cố giữ thái độ nghiêm túc để tránh mặc cảm của Nhiệm:

- Chắc ông Tổng trưởng đã hiểu, sở dĩ ông Diệm phải nhận những đại diện ba lực lượng vũ trang vào nội các chính phủ, không phải vì mấy chục ngàn quân vũ trang, mà vì hai triệu tín đồ của hai giáo phái. Bằng cớ là ở miền Trung, ông ta đã thẳng tay tiêu diệt các lực lượng Đại Việt và Quốc dân đảng mau lẹ, chỉ vì ông ta biết rất rõ hai tồ chức này không có dân chúng sau lưng.

Anh dừng lại như để thăm dò. Thấy Nhiệm nhìn anh đầy vẻ khích lệ, Vũ nói tiếp:

- Trên thực tế, Trung tướng và ông Tổng trưởng bận bịu nhiều công việc nên không có dịp được nghe dân chúng phàn nàn về nạn thuế má nặng, về binh lính mang danh tín đồ Hòa Hảo lại tác oai, tác quái, hiếp đáp dân lành. Đó là một sơ hở nghiêm trọng, nếu như ông Diệm thấy rõ yếu huyệt này, ông ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội lợi dụng, mua chuộc tín đồ, lôi kéo dân chúng về phía ông ta, trung tướng Soái sẽ bị cô lập như cảnh Đại Việt miền Trung.

Nhiệm chăm chú lắng nghe từng câu từng lời, chỉ khẽ lắc đầu thở dài. Vũ lại tiếp:

- Sự kiện diễn ra ở Ba Lòng, Quảng Nam đã chứng tỏ ông Diệm đang mạnh tay hành động, dẹp mọi phe phái đối lập.

Vũ ngừng lại, Nhiệm tỏ ra nôn nóng tán đồng:

- Gần đây chúng tôi cũng có nghi ngờ ông Diệm thiếu thiện chí trong việc hợp tác. Trong những phiên họp nội các, ông ta dần dần tỏ vẻ độc đoán cá nhân. Bây giờ càng nghe ông phân tích, tôi thấy vấn đề càng sáng tỏ, đúng là ông Diệm đã có ý đồ đối phó với phía chúng tôi. Chúng tôi cũng đã thấy được ông ta dám qua mặt Đức Quốc trưởng, bất chấp Cao ủy Pháp, Bộ tư lệnh quân viễn chinh, vì dựa thế Hoa Kỳ bảo trợ. Ông ta lên giọng bài phong kiến, lên án thực dân, đòi quân Pháp rút... Tình hình đã bày ra trước mắt chẳng còn úp mở. Tôi mong ông giúp cho ý kiến, chúng tôi phải làm gì trước những sự kiện đe dọa dồn dập chúng tôi?

Vũ chậm rãi trình bày ý kiến của mình. Nhiệm lắng nghe, trong lòng thầm cám ơn sự phù trợ của Đức Thầy đã dẫn dắt đến cho mình một cộng sự viên tuy còn trẻ nhưng vô cùng sắc sảo. Cuộc tiếp xúc xong, Nhiêm đưa chân Vũ ra tận cổng ngoài và không quên dặn Trọng sáng mai nhớ dẫn Vũ vào văn phòng để làm hồ sơ chuyển lên Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm chức công cán ủy viên, đặc trách chính trị.

Cuộc hội kiến với Lê Nguyên Vũ đã ghi một dấu ấn sâu đậm trong lòng Huỳnh Văn Nhiệm. Nhưng sau đó, suy nghĩ về những ý kiến của Vũ thì vị Tổng trưởng chưa biết nên bắt đâu từ đâu. Việc nào xem ra cũng cấp bách, cũng là việc sống còn đối với ông cũng như Trần Văn Soái! Nhưng có lẽ cần kíp hơn cả là phải bắt tay soạn thảo ngay một bản thỏa ước thành lập khu Thánh địa tự trị Hòa Hảo do Đức ông Huỳnh Công Bộ trực tiếp làm chủ tịch Hội đồng trị sự. Ngay ngày mai, trước khi đem thông qua nội các, Nhiệm sẽ vận động các phe phái Bình Xuyên, Cao Đài ủng hộ, buộc Diệm phải ra sắc luật..

Bên tai Nhiệm vẫn còn văng vẳng lời của Vũ: "Làm được việc này, tướng Soái có hai cái lợi: mua được lòng Đức ông, tức là hàn gắn được sự cách ly lâu nay với tín đồ Hòa Hảo; mặt khác có một khu thánh địa tự trị, bất khả xâm phạm về mặt pháp lý, từ đó ta xây dựng một căn cứ quân sự, về kinh tế có ruộng đất phì nhiêu để tự túc quân lương, về địa thế có chỗ dựa lưng là vùng Đòng Tháp Mười mênh mông".

"Cao kiến lắm!" Nhiệm không ngớt khen thầm Vũ. Có điều còn làm ông ta băn khoăn là tìm cách trình bày sao để thuyết phục Soái chịu ra lệnh cho binh sĩ dưới quen bãi bỏ việc thu thuế dân chúng bừa bãi, thay bằng việc thành lập một Ban vận động nuôi quân, kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của tín đồ!

Viết bản phúc trình lên Soái, Nhiệm đã cân nhắc từng câu, từng chữ: "Thưa trung tướng! Làm được điều đó, trung trướng đang từ cái thế nhất thời, chuyển sang cái thế lâu dài, mà lại xóa được trong lòng các tín đồ những cảm nghĩ không tốt đối với lực lượng vũ trang của ta!"

Nhiệm rất hiểu tâm trạng của Soái lúc này. Ông ta sợ kẹt, vì đối đầu với Diệm là đối đầu với Mỹ, mà đối đầu với Mỹ thì khó trông mong vào Pháp được. Cái bí của Soái là ở đó.

Nhiệm lại tìm cách diễn đạt những gợi ý của Vũ: "Thưa trung tướng! Bây giờ chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Cả ba lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên cần thực hiện câu ngạn ngữ: "Ba cây chụm lại", thành tâm bắt tay nhau chặt chẽ, mới mong kiến tạo được cơ hội ngõ hầu chống lại sức tấn công, tuy đang âm thầm nhưng rất quyết liệt của ông Diệm! Hơn ai hết, trung tướng là người có đủ uy tín đứng ra xóa bỏ tí hiềm, quy tụ các lực lượng..."

Huỳnh Văn Nhiệm kết thúc bản phúc trình với câu kết: "Trong tình thế phức tạp này, giáo phái Hòa Hảo chúng ta có được một người như ông Vũ nhận lời cộng tác, quả là một sự đáng mừng và hãnh diện? "

5.

Salvani ngồi ngửa ra trên ghế sa-lông, hai chân gác chéo trên góc bàn, vẫn con chó Đức màu xám tro phủ phục dưới chân, lưng con vật vượt lên quá mặt bàn. Cạnh đó, Viễn khoanh hai cánh tay trần để sau gáy, ưỡn bụng nằm ngả ra trên ghế đối diện. Trên bàn, hũ rượu Mai quế lộ bằng sành, hai chiếc chén Giang Tây dưới đáy còn chất nước vàng tươi. Mùi thơm loại rượu quý Trung Hoa phảng phất trong căn phòng. Cả hai có thói quen gặp nhau là song ẩm, mà chỉ với loại rượu lâu năm khó kiếm này. Họ quen tính nết nhau, và hợp nhau nhiều điểm, đặc biệt là ăn uống và chơi bời, nên từ lâu họ chẳng cần giữ kẽ với nhau. Từ lúc Salvani đến, uống rượu, rồi im lặng cho hơi men thấm dần vào mạch máu, cả hai chưa trao đổi với nhau lời nào. Mãi đến lúc này, tên Trưởng Phòng nhì Pháp mới ngẩng mặt nhìn Viễn, khói thuốc lá còn tỏa ra trên trán hắn:

- Diệm có xé bức điện của Đức Quốc trưởng gọi hắn ta qua Pháp, anh biết chưa?

Salvani nói tiếng Việt rất khá. Viễn vẫn lạnh lùng:

- Chưa biết. Nhưng tôi biết là Diệm sẽ không đi. Đọc qua nội dung bức điện đó tôi đoán trước rồi.

- Không lẽ Diệm thấy được ý đồ của chúng ta ở nội dung bức điện?

Viễn ngồi chồm dậy, hai cánh tay tựa trên ghế, nổi rõ hai đám xăm chàm một bên là con rồng, bên kia chiếc đâu cọp:

- Dĩ nhiên. Kêu Diệm qua Pháp bàn công việc, nếu chỉ thế thôi còn có lý, cần gì phải thòng cái đuôi: "Tạm thời giao quyền lại cho tướng Vỹ trong thời gian vắng mặt". Anh thấy đấy ông Vỹ có khác gì ông Hinh, Diệm làm sao tin được hai ông này?

- Đúng? Đức Quốc trưởng vấp phải sai lầm, đáng trách thật.

Viễn lắc đâu:

- Theo tôi cũng chưa hẳn là vì thế. Cái chính là Diệm nắm gọn quyền hành rồi, đã đến lúc thoát ra khỏi vòng kiềm chế của Đức Quốc trưởng, dại gì hắn ta rời Sài Gòn đi? Âm mưu thoán đoạt của hắn đã lộ rõ qua lời tuyên bố vừa rồi trước báo chí, lên án "thực dân, cộng sản bắt tay nhau chia đôi đất nước..."

Viễn dài giọng nhấn mạnh câu nói cuối cùng, rồi cười lên ha hả. Hắn ngửa đầu ra thành ghế, cái bụng cong vồng rung lên. Tràng cười kéo dài, mỉa mai, châm chọc, khiến Salvani phải ngồi bật dậy. Tên trưởng Phòng nhì Pháp không giận thái độ của Viễn, nhưng chắc là khó chịu. Hắn thong thả rói rượu đầy hai chén Giang Tây:

- Thế đấy. Không phải chỉ mình anh nghe, mà mọi người đều nghe, cả đại tướng Navarre đang túc trực bên cạnh đại tướng Ely để chứng kiến công tác bàn giao miền Nam cho Diệm cũng nghe. Đó là luận điệu của Lansdale dùng mõm Diệm phun ra - Salvani đặt mạnh chén rượu đã uống cạn xuống đĩa - Tiếc là tôi đã dùng lầm hai thằng mù, nếu không thì thằng khốn đó hết láo xược từ lâu rồi?

Viễn mở cặp mắt thật lớn nhìn sói vào mắt Salvani:

- Anh yên tâm, với một tấn thuốc nổ tôi đã đặt đúng vào sào huyệt bọn cáo rồi, trước sau gì chúng cũng phải chết. Tôi cần thêm vài khẩu bích kích pháo 81 nữa, anh lo ngay cho tôi đi.

- Có rồi, tôi sẽ cho bọn chúng đưa ra. Tôi qua đây gặp anh để bàn về việc Lý Cáy. Tướng Gam-bi-ê chuyển lời dặn anh phải thả Lý Cáy về thôi, chớ có ném chuột vớ bình. Lý Cáy không phải là đối tượng của ta, kẻ thù của bọn ta là CIA. Nhưng đối đầu với CIA phải thận trọng, kín đáo, lộ ra dù đại tướng Navarre cũng không che chở cho bọn mình được.

Viễn cúi đầu buồn bã, giây lát mới trả lời:

- Thiếu tướng đã chỉ thị cho tôi bằng điện thoại, tôi còn đắn đo vì ức. Nếu không bị kẹt vì các ông, tôi đã chơi hết mình với chúng. Anh biết không, thả Lý Cáy coi như tôi mất hết quyền lợi trong giới Hoa kiều Chợ Lớn. Bọn chúng sẽ mạnh dạn quay lưng lại tôi, bám theo bọn Mỹ.

- Thì chính chúng tôi cũng bị động hoàn toàn. Nếu không vì lệnh của chính phủ Pháp, bọn tôi quyết không sợ mấy chục tên CIA khốn kiếp, lên mặt khinh người. Trung tá Trinquier biết tính tôi, trước khi đi Algerie cứ dặn đi dặn lại tôi đừng đối đầu với CIA, và nhắc lại câu chuyện của anh ta, nếu không nhờ có Conein che chở thì đã toi mạng rồi, vì chính phủ Pháp sẵn sàng hy sinh anh ta để giữ mối quan hệ ngoại giao với Mỹ. Trinquier mà còn như vậy, anh và cả tôi, có nghĩa gì nhỉ?

Viễn lắc đầu:

- Bây giờ thì tôi có khác anh chứ? Tôi đã hết bị ràng buộc với quân đội Pháp rồi. Tôi là Bộ trưởng Quốc vụ khanh của chính quyền Sài Gòn, là cấp tướng của quân đội quốc gia, tôi làm gì tôi chịu.

- Đành vậy, nhưng phải làm cái gì cho ra trò kia. Nhúng tay vào vài ba chuyện vặt vãnh làm hại cho đại cuộc là dại dột, tạo cho chúng có cớ tấn công mình ngay. Nắm hàng ngàn quân lính trong tay, anh phải tận dụng hết sức mạnh của mình. Muốn làm được vậy anh phải tính toán chi li, đường tiến thối lui, từng giai đoạn và lâu dài, để đạt cho được mục đích. Thế đấy. Hãy chuẩn bị để nắm được thời cơ có lợi tối đa mới hành động. Chúng tôi, cả đại tướng Navarre, cũng khuyến khích anh chứ không ngăn trở, vì đó là việc nội bộ của các anh. Còn việc bắt Lý Cáy, hoặc thủ tiêu, anh giải quyết được gì nào? Thị trường Chợ Lớn sớm muộn cũng lọt vào tay CIA, cả cái miền Nam này cũng vậy. Chúng ta chưa chuẩn bị chu đáo đã tạo cớ cho đối phương dùng thế "tiên hạ thủ vi cường" có phải là hạ sách không? Thiếu tướng Gam-bi-ê không phải sợ hành động của anh liên can đến Bộ tư lệnh, mà vì lời đe dọa của Lansdale khiến ông ta lo cho anh, và vì thương anh ông mới nhận lời can thiệp.

Viễn chớp chớp mi mắt biểu lộ xúc động:

- Tôi hiểu. Anh về trình với ông, tối nay tôi sẽ thả Lý Cáy.

Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa

Chương 6

1.

Cô thư ký trẻ của Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị tiếp Lê Nguyên Vũ một cách khá lạnh nhạt. Liếc xéo qua tấm các đè dòng chữ: Lê Nguyên Vũ, công cán ủy viên Bộ Nội vụ, giọng cô vẫn không có gì tỏ ra đậm đà hơn:

- Ông cần gặp ông Giám đốc? Xin cho biết có công vụ gì ạ?

- Dạ, đến thăm hỏi bình thường thôi.

- Ồ! - Cô thư ký phác một cử chỉ thất vọng. - Nếu vậy tôi e khó có thể thỏa mãn yêu cầu của ông. Hằng ngày tôi đã phải từ chối hàng chục trường hợp xin đến thăm viếng bác sĩ Trần Kim Tuyến.

- Xin lỗi vì đã làm phiền cô - Vũ vẫn giữ một thái độ khiêm nhường - Cô cứ vào thưa lại với bác sĩ vì tôi là bạn cũ của bác sĩ từ hồi còn ở ngoài Hà Nội?

Câu nói đơn giản ấy khiên cô thư ký trẻ và kiêu kỳ thay đổi hẳn thái độ:

- Dạ, nếu vậy thì... xin mời ông qua phòng khách của bác sĩ chờ cho chút xíu, tôi xin vào thưa với ổng ngay.

Ngồi một mình trong căn phòng cực kỳ sang trọng, Lê Nguyên Vũ không khỏi mỉm cười vì sự sốt sắng đột ngột của cô thư ký. Hôm được cha Dưỡng báo tin: Bác sĩ Trần Kim Tuyến, hiện là phụ tá của Ngô Đình Nhu, bào đệ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, biết tin anh đã vào Sài Gòn, nhắn anh đến chơi có ý mời cộng tác - Vũ phải suy nghĩ kỹ. Tuyến mời anh đến chơi vì tình bạn cũ hay còn vì lý do nào khác? Chắc chắn Tuyến đã biết anh làm việc ở Bộ Nội vụ, mà Bộ Trưởng là người thuộc giáo phái Hòa Hảo, đương nhiên anh đã đứng ở thế đối lập với Diệm, một tình thế khá tế nhị buộc anh phải cân nhắc, tính toán... Nhiệm vụ trước mắt chưa cho phép anh "bập" ngay vào bọn Nhu - Tuyến, nhưng phải làm cách nào đứng chân ở nhóm Trần Văn Soái mà vẫn giữ được thế an toàn không bị Tuyến đặt dấu hỏi nghi ngờ.

Hồi ở Hà Nội, Vũ đã quen Trần Kim Tuyến. Tuyến học Y khoa, còn anh học Văn khoa. Tuyến ra bác sĩ trước anh một năm và kết bạn với Ngô Đình Nhu, lúc ấy làm ở Viễn Đông bác cổ. Qua quan hệ đó khi vào Nam, Ngô Đình Nhu dùng Tuyến làm phụ tá, cử phụ trách Sở nghiên cứu chính trị, thực chất là cơ quan mật vụ trá hình, dưới sự chí đạo trực tiếp của CIA.

Tuyến và Vũ thân nhau từ khi dùng tham gia "Hội bảo vệ hòa bình" ở Hà Nội, Tuyến biết cha Dưỡng coi Vũ như một người bạn tâm giao. Mà Vũ đã là người thân của cha Dưỡng thì cũng ít có nguy cơ bị Tuyến nghi ngờ anh vào làm ở Bộ Nôi vụ để trở thành đối thủ của Diệm. Tuy nhiên, trước con mắt của một trùm mật vụ mà đằng sau chắc chắn còn một tá cố vấn của CIA, Vũ sẽ từ chối sự mời mọc cộng tác của Tuyến như thế nào? Anh phải giải thích sao cho hợp tình hợp lý, để không có một vương vấn, nghi ngờ nào trong đầu óc Trần Kim Tuyến? ... Trong những tháng phải mở rộng quan hệ, giao dịch với các đầu mối trong hàng ngũ kẻ thù, anh đã gặp không ít tình huống phức tạp. Thái độ thích hợp nhất anh tự rút ra cho mình là trong trường hợp nào cũng đừng để sa vào thế bị động, luôn luôn tỏ ra thẳng thắn, minh bạch, rõ ràng. Một thái độ đàng hoàng như thế đã giúp anh vượt qua nhiều phút tưởng như sóng gió.

Tiếng nói líu ríu của cô thư ký và tiếng giày (chắc là của Tuyến) vang lên ở ngoài hành lang, đã cắt dòng suy tưởng của Vũ.

- Kính chào bác sĩ Giám đốc!

Anh đón Tuyến với thái độ thân mật, pha chút hài hước nửa đùa nửa thật mà xưa kia anh vẫn dùng với Tuyến. Vẫn tầm vóc nhỏ nhắn, dáng văn nhân, Tuyến cười ha hả, nắm tay Vũ kéo ngồi xuống sa-lông:

- Anh vẫn không bỏ được cái kiểu khách sáo ấy hay sao, hở Vũ?

Hắn gọi tên hầu phòng lấy la-ve, rồi tiếp:

- Cha Dượng báo tin anh đã vào, tôi nhờ cha nhắn anh, tôi dài cổ ra chờ, vậy mà mãi nay anh mới lại, tệ lắm đấy nhé!

- Biết anh làm gì, ở đâu, vừa rồi phải lên cha xin địa chỉ, vội đến trình diện!

Tuyến hoa tay ra hiệu cho tên bồi phòng đi ra, hắn tự tay rói la-ve ra ly:

- Cái gì mà trình diện, bỏ cái lối đó đi. Nào mời uống, hãy mừng cho chúng ta gặp lại.

Hắn đặt ly xuống bàn, với vẻ nghiêm túc:

- Anh biết đấy, ông Nhu với tôi quan hệ với nhau từ những ngày ở Hà Nội. Ngày cụ Diệm chuẩn bị về chấp chính, ông kéo tôi vào đây trước rồi giữ tôi làm phụ tá từ đó đến nay. Ông giao tôi phụ trách cơ quan tình báo, tôi học Y có biết gì nghề này đầu. Ông giải thích, cần ở sự tin cậy còn thì vừa làm vừa học mấy ông cố vấn CIA. Lúc đầu tôi kéo Phạm Việt Tuyển, bạn chúng mình đấy, nhưng vừa rồi ông Nhu lại đưa hắn qua giúp Kiều Công Cung xây dựng Tổng ủy công dân vụ. Tôi nhờ cha Dưỡng tìm anh là thế. Ông Nhu rất đè dặt khi sử dụng những người trong này, ổng sợ không dính với Pháp thì cũng dính với Việt Cộng.

Hắn đưa thuốc lá mời Vũ, nó tiếp, khá thân mật:

- Chúng mình cộng tác với nhau lâu hiểu nhau. Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, không chịu Pháp đô hộ, để rồi chán chường, đã một hồi buông xuôi kệ cho đời. Thật là may mắn, bây giờ cụ Diệm đá tìm được con đường mới, con đường dẫn tới thế giới tự do. Với thiện chí của Hoa Kỳ, một nước đứng đầu thế giới về sức mạnh của vũ khí và đô-la, viện trợ cho chúng ta tự bảo vệ, tự xây dựng phần nửa đất nước còn lại. Chúng ta, những người hiểu biết, có trình độ, đủ khả năng, hơn lúc nào hết phải nắm lấy thời cơ, đừng chờ mời mọc. Phải tự nguyện vây quanh cụ Diệm để làm nên lịch sử, đúng vậy không, anh Vũ?

- Rất đúng! Ngay từ ở Hà Nội, cha Dưỡng đã giải thích cho tôi rồi. Cả cha và tôi đều xác nhận đó là con đường tương lai sáng sủa nhất. - Vũ cố ý kết chặt Dưỡng vào với anh, làm mạnh thêm niềm tin trong lòng Tuyến, một con chiên ngoan đạo - Lúc đầu cha cũng hoang mang giao động, anh thấy đấy, hiệp định được ký, miền Bắc hoàn toàn vào tay Việt Minh, miền Nam vẫn là của Pháp, chạy đi đâu? Nhưng sau khi cha được các cha Dòng từ trong này ra tin cho biết, cụ Diệm sắp về, tôi cũng nôn nóng như cha, muốn vào gấp đóng góp được gì cho sự nghiệp chung.

- Tội nghiệp cha già, lúc này ông như trẻ ra, hăng say lao vào công việc huấn luyện cho mấy trường tâm lý chính trị. Còn anh, phải giúp tôi chứ?

Vũ giải thích:

- Anh biết anh Huỳnh Văn Trọng không? Bạn nhà tu của cha Dưỡng hồi xưa đấy. Tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn, anh Trọng đã đón tôi nhất định kéo tôi vào Bộ Nội vụ cộng tác với ảnh, giao cho tôi chức Công cán ủy viên đặc trách chính trị. Chính vì sự nôn nóng chung, anh Trọng cũng như tôi, muốn được lao vào phục vụ cho chính quyền cụ Diệm. Chúng tôi quan niệm trong nội các liên hiệp, dù những Tổng trưởng thuộc phe này nhóm khác, nhưng tất cả đều dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng, mọi công việc của các bộ là công việc của chính phủ. Chúng tôi giữ đúng vị trí của một Đổng lý văn phòng, một Công cán ủy viên của Bộ, chứ không của cá nhân một Tổng trưởng nào, mà cũng không phải là thành viên của Hòa Hảo, hay Cao Đài, Bình Xuyên.

- Các anh đúng thôi - Tuyến không tỏ vẻ thắc mắc gì, ngược lại hắn vẫn giữ thái độ vui vẻ. - Anh Trọng? Phải, tôi có gặp một lân ở chỗ cha Dưỡng, chưa quen nhưng biết tiếng.

Trước kia ảnh từng làm Bộ trưởng Nội vụ. Gia đình đạo gốc, và cũng cảnh tu xuất như tôi, dòng dõi nhà quan, bạn học cùng dòng tu với cha Dượng. Tôi chỉ tiếc là không gặp các anh sớm, nhưng dù sao thì công việc của các Bộ cũng là công việc chung của chúng ta, tương lai các ghế trong nội các cũng là của chúng ta, các anh phải nắm lấy từ lúc này là đúng lắm.

Vũ thở ra nhẹ nhõm, coi như đã giải tỏa xong mối băn khoăn trong lòng. Tuy nhiên, anh cần thăm dò để thử lại cho chắc, gài Tuyến vào cái thế có lợi cho anh về sau, nếu hắn thành thực tiết lộ ý đồ của Diệm:

- Đã là công việc chung, tôi nghĩ, anh cần cho hai chúng tôi bên đó biết đường hướng cụ thể sắp tới ra sao? Theo tôi, nếu không kíp gỡ cái thế bí phe phái hiện nay, tình trạng còn bế tắc kéo dài. Trong khi đó, Việt Minh chắc họ chẳng chịu khoanh tay ngồi ngó chúng ta cứ lờ đi không thi hành các điều khoản của hiệp định đình chiến.

Tuyến không tỏ vẻ gì dè dặt:

- Đúng vậy, cụ Diệm đang tập trung vào hai công việc trước mắt: phải cương quyết thoát ra mọi ràng buộc của hiệp định Genève, đồng thời mở một chiến dịch, chúng ta có thể coi đây là một "cuộc cách mạng", xóa bỏ tệ nạn sứ quân, giải quyết dứt khoát các nhóm vũ trang phe phái, tiến tới tập trung quyền hành, thống nhất quân đội. Như anh thấy đó, ở miền Trung sau khi Pháp rút đi, phái bộ Mỹ giúp cậu Cẩn mở ngay cuộc tấn công diệt hết bọn Đại Việt và lực lượng Quốc dân đảng. Bộ tư lệnh Pháp thấy tay chân giãy chết cũng chỉ ngoảnh mặt làm ngơ, chịu phép. Ngoài đó đã phát động chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", kịp đối phó với phong trào dân chúng nổi dậy đấu tranh đòi thi hành hiệp định. Nếu chậm ư, và không mạnh tay, bắn giết có, thủ tiêu có, bắt bỏ tù hàng loạt, thì đã lâm nguy rồi? Cái gương miền Trung làm cho cụ Diệm và cả ông Nhu bớt chủ quan. Chúng ta phải thừa nhận một thực tế, trong mười mấy triệu dân miền Nam, có ba bốn triệu giáo dân, tín đồ, các tông phái và giáo phái, không phải đều đứng trong hàng ngũ chống Việt Minh cộng sản như chúng ta lầm tưởng. Không đâu! Cứ nhìn cảnh tượng ở Huế, Đà Nẵng, rồi Nha Trang vừa rồi, từng đoàn người biểu tình, họ lao vào họng súng, không chịu dừng trước lửa đạn, còn ở Sài Gòn, ba bốn triệu dân trong cái thành phố thiếu ổn định này, bao nhiêu hướng về phía Việt Minh Chính bài học miền Trung giúp cụ Diệm thấy rõ vấn đề này. Cách duy nhất để chúng ta đứng vững, có thể tồn tại, là vận dụng sức mạnh của vũ khí, ngay cả với dân chúng không võ trang. Đúng như lời khuyến cáo của các cố vấn Mỹ: "Họ, ông già, bà già, phụ nữ, kể cả trẻ con, là Việt Minh cộng sản đấy. Họ không cần vũ trang súng đạn, nhưng họ thừa mạnh để bắt các ngài quỳ xuống như mười hai ngàn lính Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ, nếu các ngài không dám giết họ, một triệu, hai triệu, khi cần có thể nhiều hơn nữa, để bảo toàn chính cuộc sống của các ngài".

Trong phiên họp nội bộ vừa rồi, cụ Diệm vốn là con người trầm tĩnh, điềm đạm mà bất ngờ cụ đã la lên: "Khi cần Tân Thủy Hoàng đã mạnh dạn chôn sống hàng vạn học trò, để có được Vạn lý trường thành lịch sử ngăn chặn rợ Nhung, giữ vững hoàng thành quy giang sơn về một mối. Vì lý tưởng chống cộng sản, các ông cứ mạnh tay, tôi ra lệnh!"

Tuyến say sưa nói hùng hồn như một diễn giả đang thuyết trình. Hắn vẫn giữ nguyên cái tật nói nhiều như hồi còn sinh hoạt trong nhóm sinh viên hòa bình ở Hà Nội. Từ một sinh viên mới ra trường, ngay vào nghề tình báo, chỉ huy cả một cơ quan mật vụ bản xứ của CIA, đúng như Nhu nói với hắn là cần người tin cậy rồi vừa học vừa làm, nhưng rõ ràng hắn chưa học được gì ngay cả danh từ "cảnh giác". Vũ vừa chăm chú nghe vừa tự nghĩ là Tuyến vẫn tin anh như linh mục Dường tin anh. Anh hy vọng còn khai thác được ở hắn, ít ra cũng trong thời gian còn đài cho đến khi CIA đào tạo hắn trở thành một tên thực sự nguy hiểm!

Tuyến giữ Vũ ngồi lại chuyện trò khá lâu, thân mật và tình cảm. hắn đưa dịa chỉ nhà riêng và khi anh ra về, hắn đi theo ra mãi bên ngoài tiễn chân.

2.

Bộ Nội vụ, chiếm phần dưới dinh Norodom, dinh toàn quyền Đông Dương trước kia.

Diệm cải tên là dinh Độc Lập kể từ ngày hắn đưa ngụy quyền ra mắt. Phòng làm việc của Vũ sát ngay phòng tổng trưởng, hai phòng qua lại bằng cánh cửa khép hờ ít khi đóng chốt. Ngô Đình Diệm cùng tất cả văn phòng Phủ thủ tướng chiếm trọn tầng lầu trên. Buổi sáng, Vũ vừa vào phòng làm việc, Trọng đã theo chân vào:

- Ông Nhiệm đang chờ, dặn tôi mời chú qua có chút việc cần bàn.

- Chuyện gì đấy anh?

- Tổng trưởng Nguyễn Công Hầu muốn gặp chú hỏi ý kiến gì đó, liên can tới công việc của Bộ Canh nông.

- Vâng, tôi sang ngay.

Từ trước ngày Vũ nhận việc, Trọng đã nói qua cho anh biết về tên tổng trưởng này. Hắn là kỹ sư nông nghiệp, tốt nghiệp tại Pháp, chuyên môn về sâu rầy phá lúa. Thời Pháp thuộc, chỉ là một công chức cần cù an phận, không quan tâm gì đến thời cuộc, nhưng rất mộ đạo khi trở thành tín đồ Hòa Hảo.

Huỳnh Văn Nhiệm thấy Vũ vào, đứng dậy bắt tay anh và giới thiệu Nguyễn Công Hầu:

- Đây là ông Tổng trưởng Bộ Canh nông, còn đây, ông Lê Nguyên Vũ, công cán ủy viên Bộ tôi.

Mặc dù lớn tuổi hơn Vũ gần gấp hai lần, Nguyễn Công Hầu vẫn giữ đúng tác phong một công chức thời Pháp, lịch sự, lễ độ:

- Hân hạnh được làm quen ông Vũ. - Hắn bắt tay và giữ tay Vũ khá lâu - ông Nhiệm tôi khâm phục ông và qụý mến ông lắm!

Hầu mời Vũ cùng ngồi sau phút chào hỏi xã giao. Nhiệm nói với Vũ:

- Báo tin mừng ông biết, Thủ tướng Diệm đã ký nghị định giao quyền tự trị cho khu Thánh địa. Tôi đã ra lệnh cho anh em tổ chức ngay cuộc kinh lý miền Tây, và nhân dịp về thăm Đức ông, tôi sẽ đích thân mang quà quý này về.

Hầu tỏ ra xúc động:

- Ông Vũ ạ, ông Tổng và mọi người đều vui mừng và không ngớt lời khen ngợi ông trước thành quả này. Chúng tôi tin rằng nhờ bản nghị định mà giải tỏa được mối hiềm khích đã có từ lâu giữa ông Tổng và Thánh địa.

Vũ với thái độ khiêm nhượng:

- Thưa, đây chỉ mới giành được thế hợp pháp trên giấy tờ, còn thực chất phải tự xây dựng khu Thánh địa thành vùng tự trị đúng nghĩa của nó, mạnh về quân sự, vững về kinh tế tự túc. Dựa vào đó, ông Tổng có đường quay về với khối tín đồ, có căn cứ an toàn khả dĩ tự vệ được lâu dài.

- Đúng là ý kiến của nhà mưu lược - Hầu không kiềm nổi lời tán thưởng - Thú thật với ông, trong chúng tôi có nhiều người buồn phiền về thái độ thờ ơ của ông Tồng đối với Đức ông và xa cách bà con trong đạo, đúng là một lỗi lầm rất lớn.

Hắn quay sang Nhiệm:

- Lúc này không lợi dụng thời cơ hàn gắn vết rạn nứt này thì chẳng còn cơ hội nào khác, phải không ông Tổng trưởng?

Nhiệm khẽ gật đầu:

- Dạ, chúng ta phải bàn kỹ với ông Tổng.

Câu chuyện tạm ngừng, cả ba uống trà hút thuốc, lát sau Hầu mới đi vào đề, nói với Vũ:

- Tôi qua đây chỉ vì gặp một việc khó, chưa biết giải quyết thế nào cho ổn, nên định nhờ ông giúp cho vài ý kiến.

Vũ im lặng chờ, Hầu kể lể:

- Gần đây, ông Diệm cho người về Long Xuyên mời Nguyễn Ngọc Thơ lên cộng tác, coi như một phụ tá chính trị. Cả hai tỏ ra tương đắc. Ông Thơ nguyên là Đốc phủ sứ, cựu hội đồng thuộc địa, một đại điền chủ và là một trong số nhân sĩ có tiếng ở miền Tây. Tôi nghe nói lại, có lần ông Thơ gợi ý nhắc khéo ông Diệm về vụ vua Quang Trung tuy chiếm được Thăng Long nhưng không mua chuộc nổi hết số nhân sĩ Bắc Hà. Ông Thơ cho rằng miền Nam chưa biết rõ ông Diệm là người thế nào, nhất là tầng lớp giàu tiền, lắm ruộng, nhiều đời thay phiên nhau làm chủ nông thôn, có thế, có thần. Nếu mua chuộc được tầng lớp này, ông Diệm dế dàng có hậu thuẫn. Sau đó, ông Thớ hiến kế: Trước hết ra lệnh thu hồi lại tất cả ruộng đất mà Việt Minh đã chia cho dân nghèo. Thực hiện việc này sẽ đem lại cho ông Diệm hai điều lợi: được lòng giới nhân sĩ, tức là lớp địa chủ trong Nam này lại vừa xóa đi cái ân huệ mà Việt Minh đã khắc ghi được trong lòng dân chúng. Sau đó tức thời ban hành một chính sách cải cách điền địa mới, cũng phân chia công điền công thổ, bớt một phần của địa chủ khuyến khích khai hoang... nhằm điều hòa quyền lợi cả hai bên, chủ ruộng và người làm ruộng. Ông Diệm chịu liền, ông mời tôi qua chỉ thị giao Bộ Canh nông làm văn kiện bắt buộc dân trả ruộng cho chủ ruộng, và chờ đợi ban hành chính sách phân phối ruộng đất mới, với lời hứa hẹn dân nghèo vẫn có ruộng cày, và ruộng được chia sẽ thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của họ...

Hầu dừng lại nhấp ly nước trà, lắc đầu nhè nhẹ, cười buồn rồi nói tiếp:

- Ông Vũ biết không? Hàng ngàn tín đồ Hòa Hảo chúng tôi hiện đang sống yên vui nhờ số ruộng đất của Việt Minh chia cho từ dạo ấy. Họ đã quên hẳn cảnh làm tá điền cho địa chủ và hiện đang làm chủ ruộng đất được chia. Chính họ đã góp lúa nuôi sống mấy chục ngàn lính của ông Tống suốt bảy tám năm rồi, bây giờ lấy lại được không? Thi hành lệnh của ông Diệm, chính tôi cắt đi nguồn sống của đạo hữu và của quân đội Hòa Hảo. Ông Tổng nghe tôi báo cáo chỉ biết la lối văng tục, nhưng để làm gì? Giải quyết việc này ra sao, chưa ai giúp tôi gỡ được thế bí. Nghĩ đến ông, tôi vội vàng sang, mong ông giúp ý.

Nguyễn Công Hầu đúng là hiện thân của lớp công chức còng lưng tận tụy của chế độ phong kiến thực dân, Vu nghĩ và cười thầm. Còn Nguyễn Ngọc Thơ, cũng là hiện thân của loại địa chủ gian manh. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hắn đã trở thành tư sản mại bản và một tên hoạt đầu chính trị với túi tham không đáy. Phải chăng, nay hắn lại dựa vào Diệm để phục hồi quyền lợi hàng vạn mẫư ruộng đã nhiều đời gia đình hắn thay nhau chiếm hữu của dân. Diệm không phải không thấy được ý đồ của Thơ, nhưng cả hai cùng chung một mục đích, tuy quyền lợi có khác nhau. Về phần bọn Soái, không phải vì cuộc sống của dân nghèo, đạo hữu, mà chúng chỉ lo cho kho lúa thu ven thuế má của dân ngày mai trống rỗng. Vũ không bỏ lỡ cơ hội, anh phân tích:

- Theo tôi, rõ ràng ông Tổng trưởng và cả trung tướng Tư lệnh đang lâm vào cái thế "gậy ông đập lưng ông". Tục ngữ ta có câu: "Một người làm quan cả họ được nhờ", vậy mà các vị ra tham chính, nắm một phần nội các, nhưng đã làm gì để đem lợi lại cho tín đồ, đạo hữu. Họ đã không được nhờ, lại còn bị chính các ông cướp mất ruộng đất của họ. Chúng ta nghĩ coi, nếu làm theo ông Diệm, có phải chúng ta đã tự tách mình ra khỏi lực lượng đạo hữu không? Thâm ý của ông Diệm chính là cắt nguồn sống của mấy chục ngàn quân của ông Tổng, đúng như lời ông Tổng trưởng vừa nói!

Hầu nôn nóng:

- Quả đúng vậy? Nhưng chúng ta phải làm gì đây?

Vũ bình tĩnh gợi ý:

- Theo tôi, nhân danh thành viên của nội các, ông thử đặt lại vấn đề. Xưa kia mỗi vị vua lên ngôi thường xá thuế ba năm cho dân nghèo. Chưa biết vua xấu tốt ra làm sao, nhưng trước mắt tất cả dân vui mừng hoan hỷ. Nay Thủ tướng Diệm mới về nhậm chức mấy tháng mà vội đoạt lại ruộng đất của nông dân, bà con ta vừa thoát nạn chiến tranh đang lo ổn định đời sống, sẽ nghĩ gì về Thủ tướng. Ông Tổng trưởng đề nghị nghiên cứu lại, tôi tin là sẽ có nhiều thành viên của phe chúng ta tán thành. Vấn đề cứ thế kéo dài...

- Hay? - Hầu thốt lên thích thú - vừa không làm mất lòng ông Diệm, lại tạo được cái cớ để hoãn binh. Tôi sẽ làm theo đúng ý kiến của ông, thành thực cám ơn ông Vũ.

3.

Ban khánh tiết Bộ Nội vụ cùng với viên tỉnh trưởng Châu Đốc lo tổ chức đón tiếp phái đoàn liên Bộ của chính phủ, gồm cả bốn Bộ thuộc nhóm Trần Văn Soái về Thánh địa Hòa Hảo để chuyển giao cho Đức ông Huỳnh Công Bộ bản nghị định của Thủ tướng Diệm, trao quyền tự trị cho vùng cù lao này. Hàng vạn tín đồ khắp nơi kéo về đứng dọc hai bên đường, dài mười một cây số, từ bến đò Bình Thủy đến chợ Đình, nơi có đền thờ Đức thầy và là tư dinh của Đức ông. Đoàn xe của phái đoàn chạy chầm chậm giữa hai hàng người phất cờ nâu và cờ ba sọc đỏ.

Trong phòng khách lớn, ông Huỳnh Công Bộ và Ban tổng tri sự, khăn đóng áo dài, chào đón phái đoàn với niềm vui lộ ra ánh mắt. Huỳnh Văn Nhiễm trang trọng đọc bài diễn văn, trong nội dung nhấn mạnh vào công lao của Trần Văn Soái đã tranh đấu đòi được quyền lợi cho giáo phái. Cuối cùng là lời hứa xây dựng cho Thánh địa hai nhà chợ, trường học, bệnh xá, củng cố tổ chức và trang bị cho hai tiểu đoàn tự vệ. Để đáp lại, ông Bộ khen ngợi lòng trung thành của tướng Soái đối với đạo bằng công lao to lớn này.

Sau buổi lễ là bữa tiệc long trọng tổ chức thết đãi phái đoàn. Vũ được gặp gỡ nhiều nhân vật và chú ý đến kỹ sư Nguyễn Văn Ngọc, người gốc Bắc, chú của Thành Nam, kẻ thân tín của trưởng Phòng nhì Salvani đặt trong lòng giáo phái này. Tinh ranh, kín đáo, nghe nhiều, nói ít, Ngọc đúng là mẫu người của nghề nghiệp. Tuy nhiên hắn có vẻ không nghi ngờ gì anh, có lẽ do lời giới thiệu của Nhiệm - Hầu. Hắn khá cởi mở với anh. Cảm tình trong buổi gặp gỡ ban đầu này tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tiếp xúc sau này, theo chủ ý của anh.

Trên đường đi Cần Thơ, Nhiệm thì thầm với Vũ:

- Ông đã giúp chúng tôi giải quyết đưọrc mối xung khắc nặng nề xảy ra lầu nay và tưởng khó mà dung hòa. Một bên, đức ông thì thành kiến, bên này ông Tổng thì nóng nảy, tự kiêu. Đức ông và cả ban tổng trí sự đều hứa là sẽ đứng sau lưng ông Tổng, đúng là thành công mỹ mãn!

Trong hai ngày tiếp theo, cuộc kinh lý bốn tỉnh Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau diễn ra vui vẻ. Cả bốn tỉnh trưởng đều chẳng dám bướng bỉnh, đều hứa dành mọi dễ dàng cho các ban trị sự và đơn vị lính của Soái hoạt động trong phạm vi tỉnh mình. Nhưng khi trở về Cần Thơ, một tỉnh quan trọng đối với lực lượng của Trần Văn Soái, và cũng là tỉnh có vị trí chiến lược ở miền Tây đối với Diệm tình hình lại khác hẳn. Một nửa quân số của Soái đóng trong tỉnh này. Sát bên kia sông là tổng hành dinh Cái Vồn, có văn phòng tư lệnh, tham mưu và bốn phòng trực thuộc, tể chức theo quân đội Pháp. Nơi đây có đủ các kho quân khí, quân trang, lương thực; có trên hai ngàn quân đồn trú - lực lượng dự bị của Tổng tư lệnh. Từ bờ bắc sông Bassac dọc quốc lộ 4 đến An Hữu, Long An là vùng Pháp giao cho Soái trấn giữ, bảo vệ. Sau khi quân Pháp rút về Sài Gòn, giao quyền lại cho quằn đội Diệm, thì Soái vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ giữ gìn con đường lúa gạo này, trục giao thông chiến lược miền Tây Nam Bộ. Nhưng mới đây, Diệm đã đưa xuống thị xã Cần Thơ ba trung đoàn người Nùng, hai tiểu đoàn bảo an người Bắc, những đơn vị được coi là trung thành của Diệm. Đồng thời, Diệm đã thay hàng loạt, từ tỉnh trưởng đến các trưởng ty trong bộ máy hành chính, bằng những tay chân tin cậy của hắn. Nguyễn Ngọc Thơ lại giúp Diệm củng cố bộ máy hành chính mạnh ở Long Xuyên, quê hương của Thơ, tăng cường hơn hai ngàn quân mới tuyển mộ xuống trấn đóng ngay tại tỉnh ly. Trong chuyến đi này, Vũ đã nghe một viên chức người Bắc được Diệm cử xuống tiết lộ là vừa đây Ngô Đình Nhu đã mua được Nguyễn Giác Ngộ, một trong số ba tướng dưới quyền Soái, từ lâu đã ly khai đóng tại Chợ Mới Long Xuyên. Ngô có khoảng mười ngàn lính, một nửa được vũ trang đầy đủ.

Nhìn trên hiện trường, Vũ thấy cách bày binh bố trí của Diệm đã chia cắt và bao vây từng mảng lực lương của Soái. Quốc lộ 4 mà soái vẫn đinh ninh độc quyền kiểm soát, đã bị phân ra nhiều đoạn, chưa kể đến con đường sông Sài Gòn - Cần Thơ do Diệm hoàn toàn làm chủ? Thái độ lạnh nhạt đến khinh thường của viên tỉnh trưởng và các thuộc viên trong tòa tỉnh Cân Thơ đối với phái đoàn kinh lý, chứng tỏ thế của Soái đâ lu mờ, xác minh thêm một lần ý đồ của Diệm trước sau gì cũng diệt Soái.

Trong thị xã Cần Thơ năm sáu ngàn quân, vừa lính Nùng vừa lính Bảo an Bắc Việt trấn đóng và đi lại lúc nhúc trên các đường phố, súng trên vai như để sẵn sàng chiến đấu. Trong lúc đó Ban tham mưu của Soái với năm đại đội dưới tay, hoàn toàn bị cô lập trong mấy căn nhà im lìm, không dám xông xáo, nghênh ngang như ở nơi khác. Vũ tự hỏi, người dân Cân Thơ có băn khoăn gì cho số phận của lính "ông Năm", hay họ đang thấy hả dạ? Nhiệm kéo tay Vũ ra một góc vắng nói nhỏ:

- Tỉnh trưởng Cần Thơ có vẻ chống đối chúng ta, hắn tuyên bố thẳng là không giúp được gì ngoài lệnh của Thủ tướng Diệm bằng giấy trắng mực đen. ông công cán có ý kiến gì không?

Thấy vẻ tức giận của Nhiệm, Vũ khích thêm:

- Ông Tổng trưởng thấy đấy, với lực lượng mạnh như vậy, bọn chúng còn kiêng nể gì vài ba ngàn lính của ông Tổng bên Cái Vồn? Chỉ với quân số này, chúng thừa sức đánh qua sông, chiếm căn cứ của ông Tổng chẳng khó khăn gì. Như tôi đã nói trước, tại đây lại càng thấy rõ hơn ý đồ của ông Diệm. Khi trở về, ông Tổng trưởng phải báo cáo cho trung tướng biết mà đề phòng may ra còn kịp đối phó. Còn viên tỉnh trưởng này, ông Tổng trưởng cứ để đó cho tôi.

Nhiệm lo lắng quay vào. Vừa lúc tên tỉnh trưởng đi ra hành lang, Vũ ra theo, chặn hắn lại nói chuyện. Anh cười giả lẩ:

- Ông tỉnh trưởng có biết nghệ thuật cao cường của nhà quân sự là luôn luôn tạo được thế bất ngờ để tấn công quân địch không?

Thấy hắn còn ngơ ngác chưa hiểu ý anh, Vũ thấp giọng thì thầm:

- Thái độ vừa qua của ông coi như đã báo động cho Nhiệm biết ý định của Thủ tướng Diệm sẽ tấn công trước bọn Soái trong một ngày gần đây, rất gần, phải không nào? Theo tôi, Thủ tướng không bao giờ chỉ thị cho ông làm như vậy. Tôi rất rõ tính tình trầm tĩnh của Thủ tướng.

Tên tỉnh trưởng há miệng kinh ngạc, trố mắt thìn Vũ. Trước ngón đòn đột ngột, trong lúc không kịp suy nghĩ, hắn ngờ ngợ Vũ là người của Diệm. Hắn ngơ ngác hỏi:

- Ông công cán nói sao? Không lẽ tôi lại báo động cho chúng biết?

Vũ nghiêm giọng tấn công:

- Chỉ tinh ý một chút là thấy rõ, cần gì phải báo nhỉ? Trước thái độ khinh thường của ông, Nhiệm có thể tự hỏi, ông tỉnh trưởng dựa vào lý do gì để có thể lạnh nhạt với phái đoàn liên Bộ đi kiểm tra? Dựa vào thế Thủ tướng chăng? Chưa đủ! Chỉ nội nhật ngày mai thôi, Nhiệm về Bộ, ký lệnh cách chức ông. Thủ tướng sẽ chọn Nhiệm hay chọn ông ở lại tại chức? Thủ tướng chưa đến lúc hành động thẳng tay, còn giữ bí mật để tạo thế bất ngờ, "sét đánh không kịp bưng tai". Dù có thương ông cách mấy, Thủ tướng cũng buộc phải bỏ ông, để chiều lòng bọn Soái vì quyền lợi quốc gia. Vậy dựa vào Thủ tướng chưa đủ, phải có yếu tố gì đó khiến cho ông, một viên chức dưới quyền dám coi thường Nhiệm? Nhiệm phải đoán ra, có thể là Thủ tướng đã phát lệnh cho ông tiêu diệt Soái thì ông mới có thái độ chống đối ra mặt như vậy. Trong số họ, chẳng phải đều là ngu xuẩn hết, để không có kẻ suy luận ra điều đó.

Mồ hôi vã ra trên vừng trán quá thấp, hai bên má đầy thịt co giật, tên tỉnh trưởng mất hẳn vẻ kênh kiệu run như lên cơn sốt. Vũ không bỏ lỡ thời cơ, không để hắn lấy lại tinh thần, anh dồn tiếp:

- Tôi sợ, với loại anh chị võ biển như Năm Lửa, hắn rất ưa dùng thế "tiên hạ thủ vi cường". Sau khi nghe Nhiệm kể rõ về thái độ của ông, hắn cũng suy luận như tôi vừa suy luận. Thế là chính ông bị bất ngờ chứ không phải bọn chúng. Thua được tôi không dám đoán chắc thuộc về ai, nhưng ông, vâng chính ông, đã làm hỏng kế hoạch của Thủ tướng chuẩn bị cho một chiến dịch quy mô hoàn hảo.

Với thái độ cầu cứu, bám víu của một kẻ sắp chết chìm, tên tỉnh trưởng nắm chặt tay Vũ kéo vào văn phòng riêng bên cạnh đó, vừa mời Vũ ngồi, hắn hào hển thưa:

- Dạ thưa ông công cán, đúng như lời ông. Thủ tướng sẽ mở chiến dịch Thoại Ngọc Hâu, nhưng đang trong giai đoạn chuẩn bị, chưa có lệnh, và chưa rõ lúc nào khởi sự. Nhưng với cách chuyển quân thế này, chưa thể một vài ngày tới mở màn được. Mà chậm chỉ vài ba ngày thì tôi đã bị mất chức hoặc nếu Soái đánh trước, tôi không lâm nguy về Soái cũng bị trừng tri vì quá dại dột. Nghe ông công cán chỉ dạy, tôi giật mình biết là phạm phải sai lầm lớn. Xin ông che chở tôi, tôi không dám quên ơn ông.

Vũ đã thành công. Anh đã tính trước đến hai điều thuận lợi: một là thái độ kín đáo của anh, của một người Bắc di cư, có vẻ là người của Diệm chứ không thể là tín đồ Hòa Hảo hay tay chân của Soái. Hai, anh đã suy đoán trên cơ sở thực tế đúng như tên tỉnh trưởng đã được biết về ý đồ của Diệm. Vũ an ủi hắn:

- Tôi đảm bảo với ông, còn tôi trong Bộ Nội vụ thì Nhiệm không thể cách chức ông được Nhưng ngay từ lúc này ông phải sửa lại thái độ sai lầm vừa rồi, vuốt ve Nhiệm cùng đại diện bốn Bộ tùy tòng, để xóa đi những ấn tượng nghi ngờ. Mặt khác, ông phải thực hiện đúng chỉ thị của Thủ tướng, hiện là Tổng tư lệnh quân đội quốc gia, chuẩn bị chu đáo hướng đánh của phía ông. Lực lượng Cần Thơ coi như được công đầu nếu chiếm gọn sào huyệt của Soái và cá nhân ông, - Vũ cười cười thái độ tỏ ra vui vẻ - bước thang danh vọng đã đặt ở sát chân ông đó!

Tên tỉnh trưởng trở nên rạng rỡ. Hắn đứng dậy mở khóa tủ sắt lấy ra một cặp bìa trịnh trọng đem lại mở ra được trước mặt Vũ:

- Tôi nhớ ơn ông công cán trọn đời. Nếu không có ông, tôi tin rằng với lầm lỗi vừa qua, Nhiệm chắc chắn sẽ đuổi tôi ra khỏi tòa tỉnh này, đúng như ông nói. Vì quyền lợi quốc gia, cụ Thủ tướng không thể bênh tôi được. Tôi hứa sẽ lập công trong chuyến này để chuộc lỗi. Đây ông công cán xem...

Hắn giở từng trang văn kiện:

- Lệnh của Thủ tướng giao cho tôi hướng tấn công phối hợp với toàn chiến dịch, còn tập này là phó bản chiến dịch "Thoại Ngọc Hầu" do đại tá Dương Văn Minh và ngài Nguyễn Ngọc Thơ chỉ huy, đánh địch cả hai mặt quân sự và chính trị. Phần cuối cùng là các phương án vạch ra để chỉ huy trưởng liên quân tại Cần Thơ mà Thủ tướng giao cho tôi lãnh đạo để tấn công vào sào huyệt Cái Vồn, cùng với cánh quân Long Xuyên dồn địch thành nhiều mảng, bao vây, tiêu diệt, chặn đường chúng chạy vào Đồng Tháp...

Vũ tranh thủ lướt qua từng đoạn, nắm vững những vấn đề chính trong tài liệu. Chẳng bao lâu anh đã gập lại, trao trả cho hắn:

- So sánh thì lực và thế của ta mạnh hơn đích quá rõ ràng. Giừ được bí mật hướng tấn công chính và bất ngờ, chiến dịch mau kết thúc thôi.

Tên tỉnh trưởng cất bản tài liệu tuyệt mật vào tủ sắt rồi quay lại, vắn trịnh trọng:

- Vừa rồi ông Thơ có ghé Cần Thơ nói Thủ tướng đòi hỏi chỉ trong phạm vi một tuần lễ phải giải quyết xong. Kéo dài vừa bị mang tiếng là có nội chiến, vừa tạo cớ để Pháp và Việt Minh can thiệp thì rất nguy hiểm. Chính vì vậy mà Thủ tướng chủ trương tập trung mạnh, đánh mau, ổn định tình hình sớm hơn, để đưa ra chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", tần công phong trào đòi thi hành hiệp định đình chiến đã bắt đầu có ở một số nơi. Vì vậy, chủ trương của "chiến dịch Thoại Ngọc Hầư" nhắm vào mục tiêu chính là Việt Minh cộng sản – hắn đưa bàn tay lên trán vỗ nhè nhẹ, như để nhớ lại trong tập tài liệu vừa cho Vũ xem - vâng, thủ Tướng đã nhấn mạnh: "... Phải tranh thủ tiễu trừ gọn, mau bọn phiến loạn để hướng vào nhiệm vụ chính, tiến thẳng vào các vùng căn cứ cũ của Việt Minh. Chúng ta chớ nương tay đối với chúng, mà phải đào tận gốc, bứng tận rễ "... Mới tuần qua, chúng tôi được Thủ tướng triệu tập về Sài Gòn để huấn thị. Viên quận trưởng Điện Bàn tỉnh Quảng Nam là Trần Quốc Thái, đã báo cáo những kinh nghiệm mà hắn thu lượm được trong chiến dịch "tố cộng, diệt cộng". Theo hắn nói, chỉ một đêm, một mình hắn đã phải giết bốn mươi tên Việt Minh bằng dao găm, chặn đứng cuộc biểu tình tiến công vào quận ly. Cụ Thủ tướng nghe đã đập mạnh nắm tay xuống bàn, dằn giọng: "Chúng ta muốn sống muốn đứng vững, phải mạnh tay. Chỉ có thể nói chuyện với Việt Minh cộng sản bằng vũ khí..." Thưa ông công cán, đúng vậy đó. Chúng tôi không ngán bọn phiến loạn Soái Cụt dù chúng được vũ trang hùng hậu, mà sợ lớp dân chúng tay không đấy.

Tên tỉnh trưởng nheo mắt lắc đầu, rồi chăm chăm nhìn Vũ như muốn được nhận thấy ở anh một thái độ đồng tình. Vũ hiểu là hắn đang cố gắng làm vừa lòng anh. Hắn muốn nói ra những điều tối mật, để tự chứng minh hắn thuộc loại tay chân tin cậy của Diệm. Vũ đứng lên vỗ nhẹ vai hắn:

- Đúng vậy, bọn phiến loạn không đủ làm cho ta lo. Mối lo của ta chính là Việt Minh kia.

Thôi nhé, ông có thể yên tâm, tôi phải ra với Nhiệm.

Hắn xun xoe:

- Thưa lòng công cán, ông Nhiệm đã không bằng lòng về thái độ của tôi vừa rồi...

Vũ chặn lại, mách nước:

- Việc đó theo tôi ông tỉnh trưởng phải đóng kịch lại cho khéo. Ông ra mời Nhiệm vào phòng riêng để phân trần, lấy cớ là tai mắt của Thủ tướng ở đây không ít, nếu công khai thiên về phe ông Soái, chưa kịp giúp được gì mà đã mất chức rồi. Sau đó ông hứa sẽ kín đáo ủng hộ. Tôi tin, Nhiệm sẽ không buồn ông, ngược lại sẽ thông cảm ông hơn.

Tên tỉnh trưởng nắm chặt tay Vũ lắc lắc:

- Thành thật biết ơn ông công cán, tôi xin làm theo lời ông dạy.

Tỉnh trưởng Cần Thơ quả không thiếu khôn ngoan gây lại được cảm tình với Nhiệm. Trong bữa tiệc chiêu đãi, Nhiệm tỏ ra vui vẻ, ăn uống và nói năng cởi mở nhiều. Rồi trong buổi tiễn đưa, có phần lưu luyến.

Đoàn xe xuống phà. Vũ rời xe bước ra phía trước mũi, nhìn khúc sông mênh mông. Dòng nước mang phù sa màu mớ chảy về xuôi. Anh lại nhớ đến sông Hồng. Nhớ Hà Nội, các đồng chí... Nhớ sông Mã và mẹ ở quê nhà! ... Vũ biết là phải luôn luôn tỉnh táo, nhưng cũng không tránh khỏi những phút nao nao như lúc này. Anh quay lại khi Huỳnh Văn Trọng bước đến đứng sát bên anh, thì thào:

- Chú thuyết phục thế nào mà tên tỉnh trưởng quay ngược một trăm tám mươi độ, từ láo xược trở nên dễ dạy như thế?

Vũ mỉm cười đáp với ý định đã có sẵn:

- Lẽ phải chỉ có một, ai biết điều cũng phải khuất phục trước lẽ phải. Viên tỉnh trưởng cũng là người biết điều đó, tôi chỉ bàn chuyện phải trái với hắn thôi.

Trọng cũng cười theo, không hỏi thêm, bắt qua chuyện khác. Vũ biết anh ta tuy hỏi nhưng chẳng mấy quan tâm đến việc đó. Trọng vẫn vậy là người nhiều tình cảm, có thiện chí, chỉ tiếc là chưa được ai hướng dẫn, để cứ buông xuôi theo cuộc sống tùy thời. Vũ đã có ý định, nếu được phép của Trung tâm anh sẽ cảm hóa Trọng. Vũ tin, nếu Trọng được giác ngộ cách mạng, sẽ trở thành người có tác dụng không ít.

Phà đã cặp bờ. Phái đoàn ghé thăm Tổng hành dinh Cái Vồn, nhưng Soái ở Sài Gòn, không có mặt. Vũ một mình đi vòng quanh căn cứ và qua tiếp xúc đã làm quen được một số sĩ quan đàn em dưới Soái. Trên đường về đến tòa tỉnh Long Xuyên, điểm cuối cùng của chương trình kinh lý, Nhiệm được đón tiếp khá thân thiện. Vũ thấy rõ cái nham hiểm của Nguyễn Ngọc Thơ, có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo tỉnh này. Còn Nhiệm thì tỏ ra hân hoan trước cảnh đón tiếp nồng nhiệt. Y quả là nông cạn!

Mười ngày dành cho cuộc thanh tra sáu tỉnh đã chấm dứt. Ngồi trên xe, Vũ nghĩ đến Sài Gòn đang chuyển biến từng ngày, mà không khỏi sốt ruột. Anh muốn mau trở về, dù đoàn xe đang lao với tốc độ trăm cây số giờ. Nhìn quãng đường tráng nhựa thẳng tắp như tấm băng chuyền cuốn vào gầm xe, tải theo hai bên đường những người đi bộ, những xe đạp, đôi lúc cả trâu bò, Vũ nghĩ đến xã hội đang nằm trong tay kẻ thù, cũng quay cuồng cuốn hút đồng bào ta vào cái guồng máy điên loạn của đế quốc. Chúng đang âm mưu tập họp những nanh vuốt, những nọc độc tấn công vào nhân dân miền Nam, mà Vũ là một trong những nhân chứng, đã nhìn thấy tận mắt hành động của chúng từ lúc vừa mới manh nha.

Tại dinh Norodom, Ngô Đình Diệm dành trọn buổi sáng họp với hai Quốc vụ khanh Trần Văn Soái và Nguyễn Thành Phương. Cả ba ngồi đối diện trước khay trà ướp sen. Diệm tự tay pha, rói từng chung trà nhỏ mời hai viên tướng.

Thói quen đá thành cố tật, Diệm không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại, hai cùi tay dựa trên thành ghế xa-lông, bàn tay nọ úp lên trên bàn tay kia, xoa nhẹ. Cúi đầu chăm chú nhìn như để kiểm soát công việc của hai bàn tay máy động, Diệm chậm rãi, nhỏ nhẹ:

- Tôi với hai ông đều là người có đạo, tuy mỗi đạo khác nhau, nhưng chúng ta cùng chung chí hướng, quyết không đội trời chung với Việt Minh cộng sản. Tôi rất mừng được cả hai ông thực lòng cộng tác. Chúng ta phải thừa nhận đương đầu với Việt Minh không phải là việc dễ, bằng cớ là Pháp đã bị thảm bại. Có điều chưa hẳn Pháp bị thua Việt Minh vì yếu sức, mà chính vì không biết tranh thủ lòng dân. Sai lầm của Pháp, của những chính phủ Việt Nam trong Liên hiệp Pháp trước đây, là xua dân chạy theo Việt Minh, nguyên nhân chủ yếu đưa đến thất bại. Nhiệm vụ của ta, phải kịp thời sửa lại. Phải lôi kéo dân chúng về với ta. Phải làm sao để dân thấy ta có chính nghĩa. Phải bảo vệ quyền lợi tính mạng cho dân, không gieo rắc thêm tai họa lên đầu họ. Ở trong thành phố này, người ta đã chán ngấy nạn sòng bạc, nạn gái điếm, nạn cướp bóc do lính của ông Viễn gây ra. Bao nhiêu người đã tan cửa nát nhà. Tôi suy nghĩ mãi, chưa biết giải quyết cách nào cho vui lòng ông Viễn lại được lòng dân. Kéo dài thêm, ta lại đi theo vết xe đổ của những kẻ đi trước. Tôi mời hai ông đến, nhờ hai ông giúp ý cho tôi.

Diệm vừa dứt lời, Nguyễn Thành Phương đã xun xoe hưởng ứng:

- Thưa cụ Thủ tướng, cứ theo thiển ý của tôi nên trệu tập nội các khẩn cấp, đưa vấn đề này ra giải thích. Sau đó cụ ra quyết định cho ông Viễn thi hành. Cần phải dẹp ngay ba cái sòng bạc, nhà điếm đó đi là vừa, dân phàn nàn nhiều quá rồi.

Khác với Phương, Soái ngồi im suy nghĩ. Tuy vô học, nhưng nham hiểm chẳng thua ái, Soái tỏ ra thận trọng. Soái nhớ câu chuyện từ ngày còn lái xe chở khách. Để thu ngắn thời gian trong chuyến xe chạy đường dài, một hành khách đã kể chuyện ba con cáo đói, luận bàn thương xót con mồi trước khi ăn thịt. Lúc này nghe Diệm giải thích nào "vì chính nghĩa", nào "để được lòng dân", cần dẹp các sòng bạc ở Đại thế giới và các "động" ở khu giải trí Bình Khang, Soái thấy con cáo tinh ranh đã bịp hai con bạn thương mồi bỏ đi, để một mình nó độc chiếm. Có thể Diệm bịp được Phương, còn Soái quyết chẳng chịu bị lừa. Sau vài phút ngẫm nghĩ, Soái lựa lời:

- Như lời Thủ tướng vừa nói, tôi thấy quả Thủ tướng có tình có lý đối với ông Bảy. Việc này tôi xin đề nghị Thủ tướng nên bàn thẳng với ông Bảy thì thỏa đáng hơn.

Diệm mỉm cười, giơ bàn tay có những ngón ngắn mập chỉ vào khay nước:

- Mời hai ông dùng trà.

Diệm vừa nhấp trà vừa suy nghĩ. Lát sau nói tiếp:

- Tôi thật khó xử. Nếu chỉ dùng lệnh của chính phủ buộc ông Viễn phải chấp hành, có phần dễ đấy. Nhưng tôi lại muốn ông Viễn nghĩ đến quyền lợi của đại cuộc để tự mình xử lý mới tốt. Vì thế, tôi mới có ý định mời hai ông, vốn là bạn thân, bạn lâu năm của ông Viễn - Diệm nhấn mạnh hai tiếng "bạn thân", và tủm tỉm cười - đại diện cho chính phủ đến để bàn với ông Viễn, như thế tiện nói với nhau hơn.

Phương lại một lần nữa tỏ ra sốt sắng:.

- Chúng tôi sẵn sàng nhận chỉ thị của cụ Thủ tướng đi gặp ông Bảy để bàn về việc này.

Theo tôi nghĩ, ông Bảy từ lâu đã được tiếng là người biết phải trái, lẽ đâu cố chấp?

Soái ngơ ngác ngó sững Nguyễn Thành Phương như muốn xác định mối nghi ngờ đã có trong lòng mình. Phương đã quay lưng lại với Viễn rồi sao? Soái nghĩ, nếu không có cách đỡ cho Viễn, thì ít ra cũng nên giữ được thái độ vô hại đối với người bạn đồng phe, ở đây Phương đã đứng về phía Diệm. Soái băn khoăn và im lặng.

Diệm bỗng cất tiếng cười "hình hịch", liếc xéo vào mặt Soái, rồi cúi đầu kiểm soát hai bàn tay:

- Ông Phương nòi vậy thôi chớ tôi thấy ông Viễn... khác hai ông nhiều mặt. Như tôi đã nói, hai ông là người có tín ngưỡng, quyết một sống một chết với chủ nghĩa vô thần. Chúng ta có lý tưởng chống cộng sản tới cùng. Ông Viễn vốn không theo một tôn giáo nào, lại là người đã từng cộng tác với Việt Minh mấy năm trước đây, giả như Việt Minh thắng, chiếm trọn miền Nam, ông Viễn vẫn còn đường sống nhờ tình bạn cũ xưa che chở. Tôi tự hỏi, vì sự nghiệp chung của đất nước, ông Viễn có chịu hy sinh mỗi ngày một triệu đồng lợi tức thu được ở các sòng bạc, các khu chứa gái, tiệm hút hay không? Trong khi đó ba bốn triệu dân của thành phố này đã căm hờn tai họa tứ đổ tường tàn phá cuộc sống của bao nhiêu gia đình trong số họ?

Diệm ngừng lại. Thành Phương liên tục rít những hơi thuốc dài, hắn khẽ mỉm cười lắc đầu rồi lại bình thản ngó theo khói thuốc vồng lên. Ngược lại, Soái bồn chồn, nóng nảy. Hắn nhìn phần vòng tròn của chiếc bàn xa-lông cỡ lớn, tưởng tượng ra vành móng ngựa tòa án, nơi Viễn gục đầu nghe Diệm luận tội, mà bản án thì đã định sẵn rồi? Vẫn cái giọng đều đều, Diệm tiếp:

- Hai ông nghĩ kỹ đi! Chính quyền của chúng ta, nếu không thực thi được cái gì khác trước, không bảo đảm được cuộc sống hạnh phúc của dân, không đem lại quyền lợi trước mắt cho họ... thì chẳng khác gì các chính quyền của người Pháp trước kia mà dân họ đã chán ghét và căm thù. Họ sẽ chứa chấp Việt Minh, tiếp tay với Việt Minh, đồng tình diệt chúng ta. Trong khi đó, tất cả chúng ta hiện đang trông vào ông Viễn, với năm ngàn công an Bình Xuyên, năm ngàn lính tự vệ toàn là bọn vô học, không biết nghiệp vụ, ngược lại chỉ lo cướp đoạt, làm tiền, trở nên đui mù trước cảnh ra vào thành phố của bọn Việt Minh. Chính quyền này còn có cớ tồn tại, mạng sống của chúng ta và gia đình còn được an toàn, cần phải cương quyết thay ngay toàn bộ lực lượng công an cảnh sát, có đủ khả năng bảo vệ chính quyền và an ninh thành phố. Cả vấn đè này nữa, ông Viễn có vui lòng không? Nếu như ông ta không chịu mất không một triệu đồng lợi tức hàng ngày, không chịu giao ngành công an cho Chính phủ, chúng ta phải làm sao đây? Chịu bó tay chờ chết chăng? Việt Minh chắc chắn không bỏ lỡ thời cơ!

Diệm ngưng lại, hơi ngước mắt lên nhìn cả hai người một thoáng và mỉm cười. Nguyễn Thành Phương nhúc nhích hai bên vai, hèm giọng theo thói quen mỗi. khi hắn định nói gì:

- Cụ Thủ tướng đã nhìn xa thấy rộng, giảng giải đúng quá. Tình trạng này mà còn kéo dài quả là nguy hiểm. Chúng tôi xin cố gắng bàn phải trái với ông Viễn.

Diệm khẽ hất hàm:

- Nếu ông ta vẫn không chịu?

Phương im lặng. Soái bồn chồn nghĩ thầm, phải chăng cả Diệm lẫn Phương đang sắp xếp đẩy mình vào cái thế bất nghĩa với Viễn và theo phe chúng? Soái kiên nhẫn ngậm miệng chờ. Có lẽ thấy cả hai không có phản ứng, Diệm thở dài não nuột, biểu lộ sự trách cứ:

- Chính tôi cũng tự hỏi mình, nếu ông Viễn khăng khăng không chịu đặt quyền lợi sống còn của miền Nam này trên quyền lợi cá nhân của ông ta, tôi sẽ tính sao? Tôi tin toàn nội các chính phủ, quân đội quốc gia, lực lượng của phía các ông, cả triệu đồng bào di cư Bắc Việt bỏ Việt Minh trốn vào đây... nhất định không vì cá nhân ông Viễn để nhắm mắt buông xuôi chờ cộng sản vào giết hại. Tình cảm giữa ông Viễn và tôi buộc tôi phải cân nhắc. Cả hai ông cũng cần cân nhắc như tôi. Đến lúc chính phủ, quân đội, quyết hy sinh ông Viễn vì sự nghiệp chung, hai ông và tôi không thể vị tình riêng đứng về phía ông Viễn. Tôi thiết nghĩ, hai ông nên giúp ông Viễn ngay từ lúc này, để ông ta thấy được vấn đề sớm hơn, tự mình giải quyết chớ để trăm ngàn quân đội chính phủ ra tay. Tới lúc đó, cả ba chúng ta chỉ còn đứng ngó, vô phương cứu giúp.

Tới đây, Diệm coi như đã giải thích đầy đủ trước khi giao nhiệm vụ cho hai Quốc vụ khanh. Hắn chẳng cần, nếu trong hai tướng kia còn có người nào thắc mắc hoặc âm thềm chống đối. Hắn đứng lên, giơ tay cho Soái rồi cho Phương bắt, nhưng không quên nhắc khéo:

- Tôi chờ tin thắng lợi của hai ông chiều mai, có thể bằng điện thoại.

Sau khi lạnh lùng từ giã Nguyễn Thành Phương, Trần Văn Soái ngả mình trong xe trên đường trở về nhà. Hắn đã thấy rõ ý đồ của Diệm, muốn gián tiếp buộc cả hai lực lượng Soái - Phương phải án binh bất động, để tự do diệt Viễn. Với gần trăm ngàn binh sĩ dưới quyền, hàng chục tướng tá tốt nghiệp ở các quân trường bên Pháp đang quay đầu thờ chủ mới, cùng hàng triệu đô Diệm đang có trong tay, rõ ràng Viễn không phải là đối thủ đương đầu được. Số phận của Viễn đã đến ngày cáo chung!

Soái chợt nghĩ đến thân phận mình, mồ hôi vã ra trên vầng trán đã có nhiều vết nhăn. Phải, cả hắn, cả Phương, lúc này cũng không còn đủ cân lượng để nói bằng sức mạnh nếu Diệm gom luôn tất cả chung vào số phận với Viễn. Hay là "ai chết mặc ai, hãy lo lấy phận mình"? Soái lắc đầu nghĩ đến nụ cười khinh miệt của Diệm, đến câu dặn cuối cùng của hắn: "Chờ tin thắng lợi bằng điện thoại". Chắc chắn hắn không dừng lại khi đã diệt xong Viễn, cũng như hắn đã ra lệnh cho mình và Phương thi hành mà không cần chờ kết quả. Nét mặt bình thản, hân hoan của Nguyễn Thành Phương vừa rồi hiện tiếp lên. Soái cảm thấy lạnh buốt ở sống lưng. Phải chăng Phương đã bị những đồng đô-la khuất phục?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro