ĐIỀU TRỊ TIA XẠ BỆNH UNG THƯ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐIỀU TRỊ TIA XẠ BỆNH UNG THƯ

Mục tiêu học tập

1. Nắm được nguyên lý và các nguyên tắc điều trị tia xạ.

2. Hiểu rõ chỉ định điều trị tia xạ trong ung thư.

3. Nắm được các tai biến trong xạ trị và biện pháp xử trí.

I. ĐẠI CƢƠNG

            Điều trị tia xạ được áp dụng để điều trị ung thư hơn 100 năm qua với mốc đầu tiên được

đánh dấu là Roentgen khám phá ra tia X năm 1895, sau đó người ta bắt đầu áp dụng tia X để điều

trị ung thư. Từ đó,điều trị ung thư bằng tia phóng xạ đã phát triển thành một chuyên khoa sâu

trong Y học.

            Gia  đình  Curie  phát  hiện  ra  chất  phóng  xạ  Radium  năm  1898  và  sau  đó  Alexander

Graham Bell gợi ý sử dụng nó trong điều trị tia xạ áp sát bằng cách cắm trực tiếp vào khối u ác

tính dưới dạng các  cây  kim. Sau đó nguồn phóng xạ bằng  cobalt và caesium được đưa vào sử

dụng. Cuối năm 1940 tia xạ bằng máy gia tốc (linear accelerators) ra đời và phát triển.

            Thời gian đầu áp dụng điều trị tia xạ, người ta thiếu các phương pháp để tính toán giới

hạn liều lượng một cách chính xác. Quy định đơn vị chuẩn của phóng xạ đầu tiên là liều gây ra đỏ

da. Một trong những yếu tố làm hạn chế điều trị trong thời gian này là do mức chịu đựng của da

kém, do đó người ta không dám nâng liều lên cao.

            Những trở ngại ban đầu đó đã được Courtard giải quyết năm 1934 bằng cách áp dụng tia

xạ phân liều nghĩa là chia tổng liều thành những liều nhỏ hơn làm nền tảng trong lĩnh vực xạ trị

cho đến nay.

            Với sự khám phá ra máy chụp cắt lớp vi tính của Godfrey Hounsfield, phương pháp lập kế

hoạch điều trị mới theo không gian 3 chiều đã được thực hiện và đã chuyển hẳn phương pháp lập

kế hoạch điều trị từ 2 chiều sang 3 chiều. Bác sĩ xạ trị và kỹ sư vật lý phóng xạ không còn bị hạn

chế về liều lượng bởi vì lập kế hoạch điều trị dựa trên chụp cắt lớp vi tính cho phép bác sĩ đo trực

tiếp liều tia xạ ở các vị trí giải phẫu dựa trên hình ảnh của các mặt cắt ngang.

            Trong vài thập niên trở lại đây, kỳ vọng của những kỹ thuật hình ảnh mới như cộng hưởng

từ trong những năm 1970 và PET (positron emission tomography) trong những năm 1980 cũng

như sự phát triển những máy xạ trị có năng lượng cao, các quang tử và âm điện tử có năng lượng

cao  cùng  với  kỹ  thuật  số  hóa  đã  chuyển  điều  trị  tia  xạ  từ  không  gian  3  chiều  thành  IMRT

(Intensity Modulated Radiation Therapy) thành 4 chiều trong một tương lai gần. Những tiến bộ

trong xạ trị đã đem lại kết quả điều trị tốt hơn và ít biến chứng hơn. Hiện nay 70% bệnh nhân ung

thư được điều trị tia xạ như một phần trong liệu trình điều trị ung thư.

II. CÁC LOẠI BỨC XẠ ION HÓA

            Trong những năm đầu của thế kỹ 20 người ta đã phát hiện ra rằng một vài chất có trong tự

nhiên bị biến đổi tự phát về cấu trúc của chúng để làm cho chúng trở nên bền hơn. Các chất như

thế được gọi là các chất phóng xạ và sự phân rã phóng xạ được định nghĩa là sự biến đổi xảy ra

trong các nhân của nguyên tử làm cho chúng bền hơn.

            Các quá trình phân rã phóng xạ dẫn đến sự phát xạ của các hạt tích điện và các tia. Hầu

hết sự phát xạ là phát ra các hạt alpha, hạt beta và tia gamma. Các phát xạ khác có thể phát ra

positron, tiaX, và rất hiếm trường hợp phát ra nơtron.

            Các hạt và các tia được phát ra từ sự phân rã phóng xạ có đủ năng lượng để bứt các điện

tử từ nguyên tử môi trường vật chất mà chúng đi qua. Các hạt, các tia này được xếp loại là bức xạ

ion  hóa.  Như  vạy  bức  xạ  ion  hóa  được  định  nghĩa  là  một  hạt  hoặc  một  tia  bất  kỳ  có  đủ  năng

lượng để bứt các điện tử khỏi các nguyên tử, phân tử. Các bức xạ ion hóa bất kỳ từ nguồn nào khi

tác động đến cơ thể con người gây ra các hiệu ứng sinh học bức xạ làm tổn thương các tế bào của

cơ thể người.

1. Các đại lượng và đơn vị đo

          Năng lượng của bức xạ ion hóa được đo bằng đơn vị electronvolts(eV), là đơn vị rất nhỏ

của năng lượng. Một electronvolt là năng lượng thu được bởi một điện tử khi gia tốc qua hiệu

điện thế một volt và một cách toán học bằng 1,6x10-19 joules. Trong thực tế, đơn vị của năng

lượng  bức  xạ  ion  hóa  thường  được  biểu  diễn  dưới  dạng  bội  số  của  electronvolt  như

kiloelectronvolt (keV hoặc 103 eV) hoặc megaelectronvolt (MeV hoặc 106 eV).

2. Các loại bức xạ ion hóa

Các phát xạ phổ biến nhất sinh ra từ phân rã phóng xạ là các hạt alpha, các hạt beta và các

tia  gamma.  Các  phát  xạ  khác  có  thể  bao  gồm  các  hạt  positron,  tia  X  và  rất  hiếm  là  các  hạt

neutron.

+ Hạt Alpha: Hạt alpha bao gồm 2 proton và 2 neutron liên kết chặt chẽ với nhau.

Nó có thể được coi là hạt nhân của nguyên tử Heli có số khối nguyên tử là 4u và điện tích là +2e.

Hạt alpha được biểu diễn bằng ký hiệu α.

+ Hạt Beta: hạt Beta về cơ bản là hạt điện tử mà nó được phóng ra từ các hạt nhân

phóng xạ trong quá trình phân rã phóng xạ. Chúng được tạo ra khi 1 nơtron trong hạt nhân đó

chuyển thành một proton và 1 điện tử. Proton bị giữ lại trong hạt nhân còn điện tử thì được phát

ra như một hạt Beta. Giống như các điện tử, các hạt beta có khối lượng nhỏ (xấp xỉ 1/1840 u, u là

đơn vị khối lượng nguyên tử) và một điện tích âm đơn lẻ (tức là một điện tích bằng-1e). Chúng

được ký hiện là β.

+ Tia gamma: tia gamma là bức xạ điện từ được tạo ra từ hạt nhân của một nguyên

tử. Bức xạ điện từ gồm các bó năng lượng còn gọi là các photon chúng được truyền dưới dạng

sóng với tốc độ ánh sáng. Tia gamma không có khối lượng và điện tích, nó được ký hiệu là γ.

+ Positron:Positron được tạo ra khi một proton được biến đổi thành 1 nơtron và

một điện tử dương( Positron). Nơtron ở lại trong hạt nhân còn positron được phát ra với tốc độ

lớn. Positron cũng giống như hạt beta nhưng khác biệt chính là positron có một điện tích dương.

Vì thế các positron được ký hiệu là β+ để chỉ ra sự giống nhau và sự khác nhau của chúng đối với

các hạt beta.

+ Tia X : Giống như tia gamma, tia X cũng là tia bức xạ điện từ không có khối

lượng và điện tích. Tuy nhiên tia X khác tia gamma ở chỗ tia gamma được tạo ra bởi sự biến đổi

trong hạt nhân của một nguyên tử trong khi đó tia X được tạo ra khi điện tử nguyên tử bị thay đổi

về quĩ đạo.

+ Nơtron (được ký hiệu là n) là hạt được tìm thấy trong hạt nhân của một nguyên

tử với số khối là 1u và không có điện tích.

III. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA ĐIỀU TRỊ TIA XẠ 

             Cơ chế chính xác của sự chết tế bào do tia xạ là một lĩnh vực đang được tích cực nghiên

cứu. Hiện nay người ta đã tìm ra một số cơ chế sau:

            Dưới tác dụng của bức xạ ion hoá, trong tổ chức sống trải qua 2 giai đoạn biến đổi: giai

đoạn hoá lý và giai đoạn sinh học.

1. Giai đoạn hóa lý

            Giai đoạn hoá lý thường rất ngắn, chỉ xảy ra trong khoảng thời gian 10-16- 10-13 giây.

Trong giai đoạn này các phân tử sinh học cấu tạo tổ chức sống chịu tác dụng trực tiếp hoặc gián

tiếp của bức xạ ion hoá.

            Dưới tác dụng trực tiếp: bức xạ ion hoá trực tiếp tác động vào DNA trong nhân tế bào làm

DNA bị đứt, gãy liên kết làm cho tế bào không nhân lên được và chết.

Dưới tác dụng gián tiếp: bức xạ ion hoá tác dụng lên phân tử nước (chiếm 75% trong cơ

thể người) gây hiện tượng ion hoá các phân tử nước tạo thành các ion H+ và OH-, các hợp chất

có khả năng oxy hoá cao HO2, H2O2, chúng tác dộng gián tiếp lên DNA gây tổn thương chúng.

Các tổn thương ở giai đoạn này chủ yếu là tổn thương hoá sinh.

            Tia phóng xạ cũng tác động lên chu trình tế bào làm cho tế bào trở nên già yếu và chết theo lập trình. Nhiều quá trình hiện nay bắt đầu được làm sáng tỏ và vận dụng để làm cho điều trị tia xạ ngày càng hiệu quả hơn.

2. Giai đoạn sinh học

            Giai đoạn này có thể kéo dài vài giây đến vài chục năm sau khi bị chiếu xạ. Những tổn

thương sinh hoá ở giai đoạn đầu nếu không được hồi phục sẽ dẫn đến những rối loạn về chuyển

hoá, tiếp đến là những tổn thương về hình thái và chức năng của tế bào. Kết quả cuối cùng là

những hiệu ứng sinh học trên cơ thể sống được biểu hiện hết sức đa dạng.

            Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh học bức xạ

3. Liều chiếu

Liều chiếu là yếu tố quan trọng nhất quyết định tính chất và tổn thương sau chiếu xạ

            Liều càng lớn tổn thương càng nặng và xuất hiện càng sớm.

            Bảng 1: Liều chiếu

Liều

Hiệu ứng

0,1Gy

Không có dấu hiệu tổn thương trên lâm sàng. Tăng sai lạc nhiễm sắc thể có

thể phát hiện được.

1Gy

Xuất hiện bệnh phóng xạ trong số 5-7% cá thể sau chiếu xạ.

2-3Gy

Rụng lông, tóc, đục thuỷ tinh thể, giảm bạch cầu, xuất hiện ban đỏ trên da. Tử

vong 10-30% số cá thể sau chiếu xạ.

3-5Gy

Giảm bạch cầu nghiêm trọng, ban xuất huyết, xuất huyết, nhiễm        khuẩn,

rụng long tóc. Tử vong 50% số cá thể sau chiếu xạ.

6Gy

Vô sinh vĩnh viễn cả nam lẫn nữ. Tử vong 50% số cá thể sau chiếu xạ kể cả

khi được điều trị tốt nhất.

4. Suất liều chiếu

      Cùng với một liều hấp thụ như nhau, thời gian chiếu kéo dài sẽ làm giảm hiệu ứng sinh học

của bức xạ. Nguyên nhân được giải thích bởi khả năng tự hồi phục của cơ thể ở các mức liều

khác nhau. Với suất liều nhỏ tốc độ phát triển tổn thương cân bằng với mức độ hồi phục của cơ

thể. Tăng suất liều thì quá trình hồi phục giảm nên mức độ tổn thương tăng lên,hiệu ứng sinh học

sẽ tăng lên.

5. Diện tích bị chiếu

        Mức độ tổn thương sau chiếu xạ phụ thuộc rất nhiều vào diện tích bị chiếu, chiếu một phần

(chiếu cục bộ) hay chiếu toàn cơ thể. Liều tử vong khi chiếu xạ toàn thân thường thấp hơn nhiều

so với chiếu cục bộ.

6. Các tổn thương do phóng xạ

6.1.Tổn thương ở mức phân tử

       Khi chiếu xạ, năng lượng của chùm tia truyền trực tiếp hoặc gián tiếp cho các phân tử sinh

học có thể phá vỡ mối liên kết hoá học hoặc phân ly các phân tử sinh học. Tuy nhiên bức xạ ion

hoá khó làm đứt hết mối liên kết hoá học mà thường chỉ làm mất thuộc tính sinh học của các

phân tử sinh học.

6.2.Tổn thương ở mức tế bào

        Khi bị chiếu xạ, các đặc tính của tế bào có thể thay đổi ở cả trong nhân và nguyên sinh chất.

Nếu bị chiếu xạ liều cao tế bào có thể bị phá huỷ hoàn toàn.

        Các  tế  bào  khác  nhau  có  độ  nhạy  cảm  với  tia  phóng  xạ  khác  nhau:  Các  tế  bào  non  đang

trưởng thành (tế bào phôi), tế bào sinh sản nhanh, dễ phân chia (tế bào cơ quan tạo máu, niêm

mạc ruột, tinh hoàn, buồng trứng) thường có độ nhạy cảm phóng xạ cao. Các tế bào thần kinh, tế

bào  lymphô  tuy  thuộc  loại  không  phân  chia  nhưng  cũng  nhạy  cảm  với  tia  phóng  xạ.  Do  vậy

không chỉ định chiếu xạ đối với phụ nữ có thai, đang cho con bú và đặc biệt đối với trẻ em nếu

không bắt buộc.

6.3.Tổn thương ở mức toàn cơ thể

       Tổn thương sớm xuất hiện khi bị chiếu ở mức liều cao trong thời gian ngắn (chiếu toàn thân

trên mức liều 500mSv).

IV. ĐƠN VỊ ĐO BỨC XẠ

            Về đo bức xạ ion hoá cũng như đo lường bức xạ nói chung, hiện nay tồn tại hai hệ thống

đơn vị: đơn vị mới là đơn vị hệ thống quốc tế còn gọi là đơn vị chuẩn SI, đơn vị cũ là đơn vị đặc

biệt. Năm 1974  Uỷ ban  quốc tế về các đơn vị bức xạ (International Commission on Radiation

Units viết tắt là ICRU ) đã đề nghị việc sử dụng hệ thống quốc tế.

            Trong đo bức xạ tiêu chuẩn theo hệ thống quốc tế hiện nay (SI), liều hấp thụ bức xạ có

đơn vị đo là Joule trên kg, ký hiệu là J/kg.1 Joule trên kilôgam (1 J/kg) là liều hấp thụ bức xạ mà

khối lượng 1 kg của chất bị chiếu xạ hấp thụ được năng lượng bằng 1 Joule của bức xạ ion hoá

loại bất kỳ. Đơn vị 1 J/kg được gọi là 1 Gray (ký hiệu là Gy ); như vậy 1 Gy = 1 J/kg.

            Bên  cạnh đơn vị đo chính thống là Gray, ngày  nay  đơn vị đo ngoại  hệ  là Rad vẫn  còn

được sử dụng rất rộng rãi trong lĩnh vực đo liều hấp thụ bức xạ.

            1 Gy = 1 J/Kg = 100 Rad.

V. MỤC ĐÍCH CỦA ĐIỀU TRỊ TIA XẠ

1.  Điều trị tia xạ triệt căn

            Mục đích: Mục đích của điều trị tia xạ triệt căn là để tiêu diệt hoàn toàn các tế bào ung thư

trong thể tích được chiếu xạ để đạt được điều trị tận gốc của bệnh ung thư.

            Điều kiện cần thiết: Không có di căn xa

            Thời gian điều trị thường kéo dài nhiều tuần bởi vì cần phải sử dụng liều dung nạp cao

trong khi phải bảo vệ mô lành và nhắm tới mục tiêu khối u một cách chính xác.

            Để điều trị triệt căn, liều xạ trị cần thiết để kiểm soát khối u phải thấp hơn liều chịu đựng

của các cơ quan lân cận. Ranh giới giữa thành công và thất bại là tương đối hẹp, do đó bắt buột

phải thực hiện kỹ thuật hết sức chặt chẽ: phải cân nhắc kỹ giữa nguy cơ tái phát tại chỗ và nguy

cơ hoại tử nếu chúng ta tăng hoặc giảm liều.

            Nói chung, khối u phát triển nhanh nhạy cảm với tia xạ hơn là các khối u xâm lấn.

Theo Pr.Jean-Pierre Gerard mức độ nhạy cảm của nhiều loại khối u với tia xạ như sau:

Bảng 1: Mức độ nhạy cảm của khối u với tia xạ

Loại Ung thư

Liều trung bình để tiêu diệt khối u

Leukeamia

15-25 Gy

Seminoma

25-35 Gy

Dysgerminoma

25-35 Gy

U Wilms

25-40 Gy

Bệnh Hodgkin

35-45 Gy

U lympho không Hodgkin

35-55 Gy

Malpighian carcinoma

55-75 Gy

Adenocarcinoma

55-80 Gy

Urothelial carcinoma

60-75 Gy

Sarcoma

60-90 Gy

Glioblastoma

60-80 Gy

Melanoma

70-85 Gy

2. Điều trị tia xạ tạm thời

            Mục đích: làm giảm sự tiến triển của khối u đã xâm lấn rộng tại chỗ hoặc khối u đã cho di

căn không thể điều trị triệt căn. Điều trị nên rút ngắn thời gian và liều tương đối thấp hơn liều

điều trị triệt căn.

3. Điều trị triệu chứng

            Mục đích: làm giảm một số triệu chứng chính của ung thư giai đoạn cuối như:

+ Đau: do di căn xương. Hiệu quả giảm đau nhanh sau vài lần điều trị. Người ta

nhận thấy rằng 75% bệnh nhân giảm đau một phần hoặc hoàn toàn vào cuối đợt điều trị.

+ Hội chứng xuất huyết.

+ Chèn ép: như là chèn ép tuỷ sống hoặc rễ thần kinh. Chèn ép tuỷ sống là một

trong những cấp cứu của điều trị tia xạ, điều trị càng sớm càng tốt ngay khi ngay khi xuất hiện

triệu chứng đầu tiên. Điều trị tương đối có hiệu quả nếu bệnh nhân còn cảm giác 2 chi dưới

VI. KỸ THUẬT THỰC HÀNH XẠ TRỊ

            Điều trị tia xạ phải đảm bảo nguyên tắc đủ liều tại khối u và che chắn tốt nhất tổ chức lành

chung quanh. Thực hành xạ trị liên quan đến nhiều bước quan trọng.

Chỉ định điều trị tia xạ 

            Chỉ định điều trị tia xạ được thực hiện trong buổi hội chẩn với nhiều thầy thuốc của nhiều

chuyên khoa khác nhau: Bác sĩ xạ trị, bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ nội khoa ung thư, bác sĩ giải phẫu

bệnh và bác sĩ chẩn đoán hình ảnh sau khi đã trình bày rõ ràng về khối u và tình trạng toàn thân

của bệnh nhân.

            Một vài biện pháp dự phòng trước khi xạ trị nên đưa ra thảo luận tuỳ theo tình trạng bệnh

nhân:

- Chăm sóc về răng miệng đối với các ung thư vùng đầu mặt cổ.

- Chăm sóc về dinh dưỡng khi cần thiết.

- Sử dụng Corticoid trị liệu trước khi tia xạ vào não.

- Làm các xét nghiệm về máu, đặc biệt là khi tia xạ vào một thể tích lớn hoặc tia

xạ sau điều trị hoá chất.

- Làm các xét nghiệm về Xquang đặc biệt là CT-Scanner và cộng hưởng từ để xác

định một cách chính xác thể tích bia cần điều trị.

- Đối với những bệnh nhân bị kích thích, đau đớn phải dùng thuốc an thần, giảm

đau để bệnh nhân nằm yên trong quá trình điều trị.

- Với những bệnh nhân đã phẫu thuật trước đó phải kiểm tra vết thương liền sẹo

trước khi tiến hành điều trị tia xạ.

- Xác định thể tích bia

            Xác định thể tích bia cần điều trị phụ thuộc vào các yếu tố sau:

- Kích thước của khối u (cần thêm sự phân tích của các bác sĩ Xquang)

- Bản chất tự nhiên của bệnh ung thư (ví dụ: tia xạ một cách hệ thống vào hạch

thượng đòn đối với các ung thư thực quản 1/3 trên).

- Bản tường trình biên bản phẫu thuật, báo cáo về xét nghiệm giải phẫu bệnh học

(cắt bỏ được hoàn toàn khối u hay không, xâm lấn vỏ của những hạch lấy ra làm xét nghiệm hay

chưa.v.v.)

            Tiêu chuẩn của IRCU

            Theo   tiêu   chuẩn   của   IRCU   (International   Commission   on   Radiation   Units   and

Measurements) nguời ta xác định nhiều thể tích để điều trị tia xạ:

- Thể tích bia thô: GTV (gross target volume) liên quan đến thể tích rõ ràng của

khối u

- Thể tích bia lâm sàng: CTV (clinical target volume) liên quan tới sự xâm lấn tới

các tổ chức chung quanh.

- Thể tích bia lập trình: PTV(planning target volume) liên quan tới bệnh nhân, sự

di chuyển của khối u và sự không hoàn hảo của chùm tia.

            Lưu ý rằng các mô lành nhạy cảm có thể bao gồm trong thể tích bia lập trình và tạo thành

những nguy cơ chính trong điều trị

            Sự phân định chính xác ranh giới cần được chiếu xạ, xem xét các cơ quan có nguy cơ bị

thương tổn và liều lượng chiếu xạ là trách nhiệm của bác sĩ xạ trị và có sự hỗ trợ của kỹ sự vật lý

phóng xạ.

            Dưới đây là ví dụ một lập trình điều trị của ung thư tiền liệt tuyến. Trực tràng là một trong

những cơ quan bị nguy cơ chính.

            Sơ đồ này có 4 trường chiếu, trực tràng tiếp nhận khoảng 85% liều chiếu xạ (60-65Gy) và

chỏm xương đùi tiếp nhận 50% liều chiếu.

VII. LIỀU ĐIỀU TRỊ

            Liều lượng sử dụng trong điều trị tia xạ được đo bằng Gray (Gy). Theo qui ước liều điều

trị thay đổi tùy theo loại ung thư và giai đoạn ung thư. Đối với những trường hợp điều trị ưng thư

triệt căn, đặc biệt liều điều trị các loại ung thư biểu mô đặc thay đổi từ 60 - 80 Gy.

            Liều điều trị bổ trợ thường trong khoảng 45Gy- 60Gy với phân liều 1,8-2Gy (đối với ung

thư vú, ung thư đầu mặt cổ). Các nhà xạ trị ung thư có thể chọn liều điều trị dựa vào một số yếu

tố khác như là bệnh nhân đang điều trị hóa trị kết hợp, điều trị xạ trị tiền phẫu hoặc hậu phẫu và

còn dựa vào mức độ thành công của phẫu thuật.

1. Phân liều điều trị

            Tổng liều điều trị được phân liều (trải dài trong quá trình điều trị) để cho các tế bào bình

thường có thời gian phục hồi. Cách thức phân liều đặc thù hóa giữa các trung tâm điều trị xạ trị

và ngay cả theo cá nhân các bác sĩ xạ trị.

            Ở Hoa kỳ, Úc, Châu Âu sự phân liều sắp xếp đối với người lớn là 1,8 - 2 Gy mỗi ngày, 5

ngày mỗi tuần. Ở Anh, phân liều thông thường là 2,67 - 2,75Gy mỗi ngày. Đối với trẻ em phân

liều là 1,5 - 1,7Gy mỗi ngày.

            Trong một số trường hợp, 2 phân liều mỗi ngày được sử dụng ở cuối của liệu trình điều

trị.  Một  trong  các  chế  độ  phân  liều  khác  được  biết  là  CHART  (Continuous  Hyperfactionated

Accelerated Radiotherapy ). CHART được dùng để điều trị ung thư phổi, bao gồm 3 phân liều

nhỏ mỗi ngày. Mặc dầu đã có những thành công đáng kể, CHART có thể là một công việc căng

thẳng ở các khoa xạ trị.

2. Theo dõi điều trị

            Sự giám sát điều trị liên quan đến điều kiện kỹ thuật của tia xạ, sự dung nạp và hiệu quả

thường do các kỹ sư vật lý đảm nhiệm.

            Các điều kiện giám sát kỹ thuật của điều trị tia xạ:

+ Kỹ sư vật lý và kỹ sư điện làm việc trong khoa xạ trị giám sát các thông số kỹ

thuật và hệ thống điện của máy xạ trị.

+ Hệ thống vi tính kết nối với máy xạ trị kiểm tra thời gian điều trị và liều lượng

của mỗi trường chiếu.

+ Bác sĩ xạ trị kiểm tra tư thế chính xác của bệnh nhân và chùm tia phóng xạ ở các

buổi điều trị đầu tiên bằng cách dùng hệ thống đèn chiếu laser(gammagraphies).

+ Trong các buổi điều trị tiếp theo kỹ thuật viên tiếp tục thực hiện điều trị theo kế

hoạch

3. Theo dõi lâm sàng

            Theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị tia xạ là công việc của bác sĩ tia xạ. Khi

bắt đầu khám và điều trị lần đầu bác sĩ tia xạ phải giải thích cho bệnh nhân phương thức điều trị

và các tác dụng phụ có thể gặp. Lo lắng,bất an và trầm cảm nên được xem xét và điều trị, những

trường hợp thể trạng kém phải cho nhập viện để theo dõi và nên có chế độ vệ sinh, dinh dưỡng

hợp lý. Nên theo dõi đều đặng trọng lượng của bệnh nhân. Theo dõi chính xác kích thước của

khối u để đánh giá hiệu quả của điều trị.

            Nên có kế hoạch hội chẩn bệnh nhân hằng tuần để đánh giá lại đáp ứng của bệnh nhân với

điều trị (trọng lượng, thể trạng chung, các độc tính về hệ tạo máu trong xạ trị), các phản ứng tại

chỗ. Bác sĩ xạ trị cũng phải đánh giá về đáp ứng của khối u cũng như các yếu tố tâm lý lo lắng

của bệnh nhân.

            Ngừng điều trị tia xạ trong trường hợp bệnh nhân không chịu đựng được.

            Sau khi hoàn tất điều trị tia xạ, phải làm bản tường trình chi tiết về liều điều trị, kỹ thuật

điều trị đã sử dụng và đáp ứng của bệnh nhân, bản tường trình được gởi đến các thầy thuốc điều

trị có liên quan và để theo dõi.

VIII. ĐIỀU TRỊ KẾT HỢP

            Điều trị tia xạ có thể kết hợp với phẫu thuật, hoá chất hoặc điều trị nội tiết.

            Điều trị tia xạ đơn thuần: Ngoại trừ một số trường hợp điều trị tia xạ triệu chứng, điều trị

tia xạ đơn thuần có thể thực hiện ở một số loại ung thư: ung thư đầu cổ, ung thư tiền liệt tuyến,

ung thư cổ tử cung.ung thư ống hậu môn hoặc bệnh Hodgkin.

            Kết hợp phẫu thuật và xạ trị: thường được thực hiện khi ung thư đang còn giai đoạn tại

chỗ và tại vùng.

            Xạ trị hậu phẫu: mục đích để tránh nguy cơ tái phát tại chỗ, thực hiện sau khi vết thương

liền sẹo, thường khoảng 1 tháng sau phẫu thuât. Ví dụ xạ trị vào vú sau mổ cắt 1/4 vú, xạ trị vào

vùng cổ sau mổ ung thư đầu cổ.

            Xạ trị tiền phẫu: mục đích của xạ trị tiền phẫu là để giảm thể tích của khối u, biến khối u

không cắt được trở thành khối u cắt bỏ được. Khoảng chừng 2 tháng sau xạ trị, tổ chức xơ sau xạ

trị giảm nhiều thuận lợi hơn cho phẫu thuật. Ví dụ như xạ trị tiền phẫu trong ung thư trực tràng,cổ

tử cung.

            Kết hợp xạ trị và hoá trị: nhìn chung hoá trị được chỉ định khi khối u có khả năng cho di

căn cao. Hoá trị còn được chỉ định để làm giảm thể tích khối u đối với những khối u nhạy cảm

với hoá trị trước khi phẫu thuật hoặc tia xạ.

            Kết hợp hoá trị và xạ trị cũng làm gia tăng độc tính của cả 2 phương pháp điều trị: độc

tính trên hệ tạo máu, độc tính trên tim mạch, độc tính trên phổi.

            Những phác đồ điều trị mới đã được thực hiện để cải thiện tái phát tại chỗ và tránh phẫu

thuật cắt bỏ rộng rãi:

- Kết hợp hoá trị và xạ trị trong ung thư thực quản.

- Kết hợp xạ trị ngoài, xạ trị áp sát và hoá trị đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn

muộn để tránh cắt bỏ rộng rãi vùng chậu.

- Kết hợp xạ trị và hoá trị trong ung thư bàng quang để tránh cắt bàng quang.

 - Kết hợp xạ trị và hoá trị trong ung thư thanh quản sớm để bảo tồn giọng nói.

            Xạ trị toàn thân: Xạ trị toàn thân được chỉ định để chống thải loại mảnh ghép trong ghép

tuỷ  xương  đối  với  những  bệnh  nhân  điều  trị  hoá  chất  liều  cao  trong  bệnh  bạch  cầu  cấp.  Bệnh

nhân nhận 1 liều 8Gy (liều gây chết người nếu bệnh nhân không được ghép tuỷ kịp thời). Liều tia

xạ này cho phép phá huỷ các tế bào tuỷ gây thải loại mảnh ghép.

IX. XẠ TRỊ ÁP SÁT

            Nguyên tắc cơ bản: xạ trị áp sát là sử dụng nguồn phóng xạ đặt trong khối u để phát xạ. 

Như vậy khối u sẽ nhận liều tia xạ cao nhất và liều sẽ giảm nhanh ra tổ chức lành chung quanh.

            Nguồn phóng xạ sử dụng là các nguồn mềm có thể uốn nắn được như Iridium 192 hoặc

Cesium 137 và kỹ thuật nạp nguồn sau được đã được phát triển một cách nhanh chóng trong xạ

trị áp sát. Trước hết các catheter rỗng được đặt vào bên trong khối u với gây tê tại chỗ hoặc gây

mê toàn thân. Vị trí chính xác của catheter và sự phân bố về liều lượng được kiểm tra chặt chẽ,

sau đó tiến hành đặt nguồn phóng xạ vào trong catheter.

            Ưu điểm chính của xạ trị áp sát là khả năng đưa liều phóng xạ lên cao trong một thể tích

rất nhỏ và liều giảm nhanh ra ngoại vi không ảnh hưởng đến tổ chức lành chung quanh. Điều này

đòi hỏi các bác sĩ xạ trị có kinh nghiệm để đặt một cách chính xác catheter vào khối u và tính

toán chính xác sự phân bố về liều lượng.

Các phương pháp điều trị tia xạ áp sát

            Xạ trị áp sát xuất liều thấp: đây là phương pháp điều trị xạ trị áp sát chuẩn với thời gian xạ

trị từ 1 đến 5 ngày với suất liều thấp (30-100cGy/giờ). Liều ở điểm tiếp xúc của nguồn là cao

nhất nhưng giảm đi một cách nhanh chóng (trong khoảng vài mm), như vậy cho phép bảo vệ các

tổ chức lành chung quanh.

            Bệnh nhân được  giữ lại  nằm vài ngày trong phòng tường  có chắn chì,  có hệ thống che

chắn để bảo vệ nhân viên y tế trong quá trình chăm sóc.

            Xạ trị áp sát suất liều cao: kỹ thuật này sử dụng nguồn gia tăng hoạt độ phóng xạ, như vậy

sẽ giảm thời gian tia xạ và giảm thời gian bất động bệnh nhân.

            Kết hợp với các phương pháp điều trị khác: xạ trị áp sát chỉ là một phần trong quá trình

điều trị ung thư. Thông thường xạ trị áp sát kết hợp với điều trị phẫu thuật (đối với phần lớn các

ung thư phụ khoa), kết hợp với điều trị tia xạ ngoài (trong ung thư phụ khoa hoặc ung thư tiền liệt

tuyến) và mới đây xạ trị áp sát còn kết hợp với hoá trị.

X.ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ (Radioisotope Therapy)

            Điều trị tia xạ có thể thực hiện qua đường tiêm truyền hoặc bằng đường uống. Ví dụ như

chuyền Metaiodobenzynguanidine (MIBG) để điều trị neuroblastoma, hoặc uống 

Iode-131 để điều trị ung thư tuyến giáp.

            Năm 2002, cơ quan FDA của Hoa kỳ đã cho phép sử dụng Ibritumomabtiuxetan (zevalin),

là một kháng thể đơn dòng kháng CD20 kết hợp với phân tử Yttrium-90. Năm 2003 FDA cho

phép  Tositumomab  Iodine-131  (Bexxar)  kết  hợp  với  một  kháng  thể  đơn  dòng  kháng  CD20.

Những  thuốc  này  là  những  tác  nhân  đầu  tiên  được  gọi  là  miễn  dịch  phóng  xạ  trị  liệu

(radioimmunotherapy), chúng được cho phép sử dụng để điều trị bệnh Non-Hodgkins lymphoma

không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác

XI. CÁC PHẢN ỨNG CỦA TIA XẠ

            Điều trị tia xạ là phương pháp điều trị không gây đau. Điều trị tia xạ triệu chứng với liều

thấp (ví dụ điều trị tia xạ di căn xương ) thường rất ít hoặc không gây ra triệu chứng gì. Điều trị

với liều cao gây ra nhiều phản ứng phụ trong quá trình điều trị . Phản ứng xảy ra trong thời gian

điều trị hoặc 2-3 tuần sau hoàn tất điều trị (phản ứng phụ cấp tính), trong nhiều tháng hoặc nhiều

năm sau điều trị (phản ứng phụ lâu dài), hoặc phản ứng phụ xảy ra sau khi điều trị tia xạ lại (phản

ứng phụ tích lũy). Tính chất, mức độ trầm trọng và thời gian kéo dài của phản ứng phụ tùy thuộc

vào cơ quan tiếp nhận tia xạ, vào phương pháp điều trị (loại tia xạ, liều lượng, suất liều chiếu, hóa

trị đồng thời ) và phụ thuộc vào bệnh nhân.

            Hầu hết các phản ứng do tia xạ là có thể dự đoán được. Phản ứng phụ thường giới hạn ở

những vùng bị chiếu xạ. Một trong những mục đích của điều trị tia xạ hiện đại là làm giảm phản

ứng  phụ  tới  mức  thấp  nhất  và  giúp  bệnh  nhân  hiểu  được  và  đối  mặt  với  những  phản  ứng  phụ

không thể tránh khỏi đó.

            Bệnh nhân thường có cả phản ứng cấp và mãn tính, tuy nhiên thầy thuốc quan tâm nhiều

hơn đến phản ứng mãn tính bởi vì phản ứng cấp tính gây ra khó chịu cho người bệnh nhưng có

thể điều trị khỏi hoàn toàn, phản ứng mãn tính gây tổn thương tổ chức khó hồi phục, kéo dài mãn

tính và tiến triển nặng thêm. 

            Có 2 giả thuyết được đưa ra để giải thích cho các thương tổn mãn tính. Một lý thuyết cho

rằng thương tổn mãn tính gây ra do sự phá huỷ các vi mạch máu trong quá trình điều trị tia xạ,

trong khi giả thuyết khác cho rằng thương tổn mãn tính do sự suy yếu của tế bào mầm sau xạ trị.

1. Phản ứng cấp tính

Thương tổn tế bào biểu mô bề mặt (epithelial surfaces): các tế bào biểu mô bề mặt như da,

khoang miệng, vùng hầu họng, niêm mạc ruột, niêm mạc đường tiết niệu. Mức độ thương tổn tùy

thuộc vào sự hồi phục của tế bào biểu mô.

1.1.Da

Bắt đầu trở nên màu hồng và đau sau vài tuần điều trị và kéo dài sau khi kết thúc điều trị

khoảng 1 tuần và da có thể bị nứt nhưng thường hồi phục nhanh chóng. Phản ứng da có khuynh

hướng trở nên trầm trọng ở những vùng có nếp gấp của da như nếp gấp dưới vú ở phụ nữ, ở sau

tai và ở các điểm tỳ.

1.2.Các biểu mô lót

Niêm mạc khoang miệng, hầu họng, thực quản và ruột có thể bị thương tổn do tia xạ. Nếu

tia xạ vào vùng đầu cổ, đau và viêm loét vùng  khoang miệng, hầu họng thường xảy ra. Nếu trầm

trọng bệnh nhân nuốt đau, ăn uống kém dẫn đến suy kiệt. Mất mùi vị xảy ra sớm trong tuần thứ 2

điều trị kèm theo khô miệng.

- Phần thấp của ruột già có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tia xạ do điều trị trực

tiếp vào vùng hậu môn trực tràng, hoặc bị nhiễm xạ do điều trị tia xạ vào vùng khung chậu như

tiền liệt tuyến, bàng quang, cổ tử cung .v.v. Triệu chứng đặc biệt là đau, bụng chướng, tiêu chảy

và nôn mữa.

1.3.Máu và cơ quan tạo máu

            Biểu hiện lâm sàng là các triệu chứng xuất huyết, phù nề,thiếu máu. Giảm lympho, bạch

cầu hạt,tiểu cầu và hồng cầu. Xét nghiệm tuỷ xương thấy giảm cả 3 dòng sớm nhất là dòng hồng

cầu.

1.4.Sưng phù 

Sưng nề các mô mềm có thể gây ra nhiều triệu chứng trong quá trình điều trị. Phù não là

biến chứng thường xảy ra trong khi điều trị tia xạ vào khối u não, hoặc các khối u di căn lên não,

đặc biệt với những trường hợp đã có tăng áp lực sọ não trước đó. Đối với các khối u đã gây chít

hẹp  gần hoàn toàn khẩu kính (ví dụ thực quản,hạ họng thanh quản, khí  quản, đường mật, trực

tràng), tia xạ có thể gây phù nề và tắc nghẽn hoàn toàn. Có thể đề phòng bằng cách phẫu thuật

trước khi điều trị tia xạ hoặc dùng steroids trong quá trình điều trị tia xạ để chống phù nề.

1.5.Vô sinh 

Buồng trứng và tinh hoàn rất nhạy cảm với tia xạ, chúng không thể tạo ra được giao tử sau

khi hấp thụ các liều điều trị tia xạ thông thường, do đó cần che chắn tốt khi điều trị tia xạ vào

vùng chậu.

1.6.Mệt mỏi toàn thân

2. Phản ứng muộn

            Các phản ứng muộn liên quan đến vị trí, liều điều trị, thể tích chiếu xạ và thời gian chiếu

xạ. Các phương pháp điều trị khác như là phẫu  thuật, hoá chất làm trầm trọng thêm bệnh liên

quan đến xạ trị

2.1. Xơ hóa

Mô bị chiếu xạ có xu hướng trở nên ít đàn hồi thường do quá trình sẹo hóa lan tỏa.Tia xạ

liều cao vào vùng mặt cổ gây xơ hoá làm hạn chế vận động, gây khít hàm ăn uống khó khăn.

2.2. Rụng tóc

Rụng  tóc  thường  xẩy  ra  ở  những  bệnh  nhân  xạ  trị  vào  não.  Không  giống  như  rụng  tóc

trong hóa trị, rụng tóc do xạ trị khó phục hồi và thường chỉ giới hạn ở vùng bị chiếu xạ.

2.3.Khô các tuyến tiết

Tuyến nước bọt và tuyến lệ chịu được liều khoảng 30Gy trong phân liều 2Gy mỗi ngày.

Trong điều trị xạ trị ung thư đầu mặt cổ thường sử dụng liều cao hơn nhiều do đó thường gây tổn

thương tuyến nước bọt và tuyến lệ gây khô miệng (xerostomia) và khô mắt (xerophthalmia) làm

ảnh hưởng trầm trọng chất lượng sống của bệnh nhân. Các tuyến mồ hôi cũng ngưng hoạt động

gây khô da và khô vùng âm đạo khi tia xạ vào vùng chậu.

2.4. Nghẽn các hệ thống bạch huyết dưới da gây phù bạch huyết, có thể kết hợp với các giai đoạn

viêm quầng (erysipelas).

2.5 Suy nhược

Suy nhược là triệu chứng thông thường của điều trị tia xạ và có thể kéo dài vài tháng đến

vài năm . Thiếu năng lượng, giảm các hoạt động và luôn luôn cảm thấy mệt là các triệu chứng

thường xuyên.

2.7. Ung thư

Tia xạ có thể gây ra ung thư, và ung thư thứ hai đã bắt gặp ở một số ít bệnh nhân sau điều

trị tia xạ.

2.8. Phản ứng phụ do tích lũy liều (Cumulative side effects): phản ứng phụdo tích lũy liều không

nên nhầm lẫn với phản ứng  muộn. Phản ứng phụ do tích lũy liều sẽ biến mất trong thời gian ngắn

còn phản ứng muộn có biểu hiện lâu dài. Tia xạ lại những trường hợp này còn đang tranh cải.

2.9.Phản ứng về sinh thể

Giảm tuổi thọ, đục thuỷ tinh thể, tần suất xuất hiện bệnh ung thư cao hơn là ung thư máu,

ung thư da, ung thư xương, ung thư phổi.

2.10. Phản ứng về di truyền

Tăng tần suất xuất hiện các đột biến về di truyền, dị tật bẩm sinh, quái thai. Hiệu ứng này

còn gọi là hiệu ứng ngẫu nhiên do bản chất ngẫu nhiên của nó. Hiệu ứng này xảy ra trong toàn bộ

dãi liều

CÂU HỎI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Nắm được nguyên lý và các nguyên tắc điều trị tia xạ.

2. Hiểu rõ chỉ định điều trị tia xạ trong ung thư.

3. Nắm được các tai biến trong xạ trị và biện pháp xử trí.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Nguyễn Bá Đức, Nguyễn Chấn Hùng, 2002. Công tác phòng chống ung thư ở Việt Nam và vai

trò của ghi nhận ung thư trong công tác phòng chống ung thư. Tài liệu tập huấn ghi nhận ung thư

2. Phạm Thụy Liên, 1999Tình hình ung thư ở Việt Nam, nhà xuất bản Đà Nẵng.

3. Oxford Handbook of Oncology 2002, Epidermiology of cancer, pages 3-11.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro