Dinh tu huong 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Giá trị nhân đạo sâu sắc của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

Đã đọc: 1773 lần / Thời gian: 13-02-2010 09:27 / Người gửi: vuahack19

1. Về kỹ năng 

- Đây là một bài văn nghị luận văn học, phân tích tác phẩm văn xuôitheo định hướng của đề. Trên cơ sở nắm vững truyện ngắn Vợ chồng A Phủcủa Tô Hoài, thí sinh cần phân tích rõ giá trị nhân đạo sâu sắc của tácphẩm. 

- Bài viết cần có bố cục cân đối, chặt chẽ; dùng từ, đặt câu, diễn đạtđúng và hay; biết chọn lọc dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, toàn diện chínhxác; chữ viết rõ ràng, sạch sẽ. 

2. Về kiến thức 

* Giới thiệu: 

- Vài nét về nhà văn: Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng từ trướcCách mạng Tháng Tám. Tác phẩm của ông phong phú về đề tài và thể loại,thể hiện vốn hiểu biết đa dạng, lời văn giàu chất tạo hình và lối kểchuyện sinh động. Sau cách mạng ông vẫn viết đều và viết nhiều, đặcbiệt thành công về đề tài miền núi. 

- Vài nét về tác phẩm và yêu cầu của đề: truyện ngắn Vợ chồng A Phủ introng tập Truyện Tây Bắc, xuất bản 1953 (tác phẩm được giải nhất giảithưởng Văn nghệ 1954 - 1955). Truyện là kết quả của chuyến Tô Hoài cùngbộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Vốn sống từ chuyến đi thực tế 8 thángcùng tình yêu mảnh đất và con người Tây Bắc đã gợi cảm hứng sáng táccho nhà văn. Truyện miêu tả chân thực, sinh động số phận nô lệ đauthương của Mị và A Phủ - những người dân lao động nghèo Tây Bắc, dướiách thống trị tàn bạo của bọn cường quyền miền núi trong xã hội thựcdân phong kiến cùng sự thức tỉnh vươn ra ánh sáng tự do, giác ngộ cáchmạng, đứng lên đấu tranh để giải phóng bản thân, bản làng, đất nước. Từđó truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc. 

* Phân tích: 

Giá trị nhân đạo của một tác phẩm văn học nói chung thể hiện ở thái độcủa nhà văn khi miêu tả hiện thực: quan tâm đến số phận con người vàyêu thương con người. Điều này được thể hiện rất sâu sắc trong truyệnVợ chồng A Phủ, ở những điểm sau: 

- Lòng yêu thương, xót xa, đồng cảm sâu sắc đối với những thân phận nô lệ đau thương của người lao động nghèo miền núi. 

+ Mị: Từ một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, yêu đời, hiếu thảo, cần cù... trởthành nạn nhân đau khổ của cha con nhà thống lý Pá Tra, trở thành nạnnhân của cường quyền và thần quyền; bị bóc lột sức lao động, bị cướpđoạt tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc, dần trở thành một cái xác khônghồn, tê liệt cả cảm xúc, ý thức. 

+ A Phủ: Từ chàng thanh niên khỏe mạnh, tự do chỉ vì dũng cảm dám đánhlại A Sử (cậy thế con quan, phá đám chơi của trai làng) mà bị bắt, bịđánh đập dã man, bị phạt vạ rồi trở thành nô lệ không công, truyền kiếptrong nhà thống lý. 

- Tố cáo mạnh mẽ sự tàn bạo của bọn phong kiến miền núi: cha con nhàthống lý nham hiểm, tàn bạo (bắt người, đánh người, trói người cho đếnchết, cho vay nặng lãi, lợi dụng hủ tục mê tín dị đoan, dựa vào thựcdân...). Bằng mọi cách chúng cột chặt những người dân lao động tự dothành thân phận nô lệ vĩnh viễn. 

- Tin tưởng vào sức sống mãnh liệt, sự phản kháng và khả năng đi tới cách mạng của người dân miền núi bị áp bức bóc lột. 

Nhân vật Mị và A Phủ đều tiềm ẩn những phẩm chất đó. Đặc biệt là Mị khimới bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ phản ứng quyết liệt, suốt mấy thángđêm nào cũng khóc, định ăn lá ngón tự tử; mùa xuân nghe tiếng sáo gọitình yêu theo phong tục của người Mèo, Mị đã thức tỉnh cảm xúc, muốn đichơi như một người tự do; cởi trói cho A Phủ rồi trốn theo A Phủ đểđược sống tự do và hạnh phúc; cuối truyện Mị còn can đảm cùng chồng vàdân làng chuẩân bị đón cán bộ A Châu và bộ đội lên giải phóng bản làng.

* Đánh giá: 

- Truyện được viết ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ácliệt, đòi hỏi sự tham gia dốc sức của toàn quân và toàn dân, thì việcviết về số phận đau thương và khát vọng tự do, sự giác ngộ cánh mạngcủa người dân miền núi càng thể hiện sâu sắc tình yêu thương đồng bàochân thành của tác giả và giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

- Nội dung nhân đạo sâu sắc của truyện lại được thể hiện qua ngôn ngữvăn xuôi giàu chất thơ, nghệ thuật miêu tả tâm lý và tính cách nhân vậtsinh động, lối kể chuyện đậm đà phong vị miền núi Tây Bắc nên càng xúcđộng với bạn đọc nhiều thế hệ.__________________ 

Bài 1,

1. Tô Hoài là một nhà văn có quá trình sáng tác rất dài, từ những năm 40 của thế kỷ trước đến nay. Với số lượng tác phẩm tương đối đồ sộ được viết bằng nhiều thể loại và hầu như thể loạ nào cũng thành công. Thành quả đó đã đưa ông lên vị trí của một nhà văn hiện thực đại xuất sắc. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông. Truyện được viết trong những năm tháng ông theo những bước chân của bộ đội lên tham gia giải phóng Tây Bắc. Trong tác phẩm này nhà văn phản ánh hai quá trình của người dân miền núi, quá trình khổ đau và quá trình đi với cách mạng nhưng đậm nét nhất vẫn là mãn hiện thực đen tối của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách bọn chúa đất chúa rừng, bọn phong kiến tàn bạo. Diễn tả hiện thực đau đời của người dân miền núi, nhà văn vừa thể hiện được một nhận thức mới về người dân, vừa thể hiện được tình cảm nhân đạo cao cả của mình.

2.a. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được kết cấu theo hai phần rất rõ rệt, một phần diễn tả cuộc sống của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài và một phần phản ánh cuộc sống của vợ chồng A Phủ ở Phiềng Sa. Trong hai phần này nhà văn viết thành công nhất là cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài. Thông qua hai nhân vật chính Mị và A Phủ nhà văn đã tái hiện được một bức tranh đời sống của những người dân miền núi Tây Bẳc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Mị và A Phủ là hiện thực cho người dân miền núi Tây Bắc cũng như sự đau đời của họ trong tay bọn phong kiến tàn ác. Mị vốn là một cô gái trẻ đẹp hay lam hay làm hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp Mị đã bỗng nhiên rơi vào cảnh ngang trái, Mị trở thành con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị tước đoạt hoàn toàn về tự do. Cuộc sống đó đã dồn đẩy Mị đến cực điểm của khổ đau đó là cam chịu tê dại mọi cảm giác về hạnh phúc. Nhân vật A Phủ cũng có cảnh ngộ tương đồng như Mị. Nếu Mị trẻ đẹp có đức tính siêng năng cần cù làm ăn thì A Phủ lại vừa khoẻ vừa giỏi gian đã trở thành niềm mơ ước của bao nhiêu cô gái làng bản. A Phủ cũng hứa hẹn một cuộc sống tự chủ và hạnh phúc nhưng sống trong xã hội phong kiến tàn bạo đó A Phủ cũng rơi vào cạn bẫy cảu chúng. Nếu Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là kẻ ở trừ nợ. A Phủ cũng chịu cảnh sống khổ đau tăm tối không khác mấy so với Mị. A Phủ sống cô đơn lầm lũi trong rừng nhưng thống lí Pá Tra vẫn chưa buông tha, nhân việc mất một con bò A Phủ đã bị trói đứng, bị hành hạ, bị tước đoạt hoàn toàn sự sống tự do, quyền tự do. Trong nanh vuốt của bọn thống lí Pá Tra nạn nhân không chỉ là Mị và A Phủ mà còn nhiều rất nhiều người khác nữa. Những người đàn bà ở xung quanh Mị trong nhà thống lí cũng có cùng cảnh ngộ, những cảnh bị trói như Mị và A Phủ cũng có nhiều người trải qua và có người đã chết. Diễn tả một sự tương đồng đó nhà văn nhằm gián tiếp khái quát lên một điều những người dân nghèo khổ của miền núi Tây Bắc đều là nạn nhân của bọn phong kiến của bọn thống lí Pá Tra. Đó là một bức tranh đen tối, đó là một hiện thực tối tăm của người dân miền núi khi chưa được Đảng giác ngộ.

Người dân miền núi sống trong sự bất công ngang trái bởi ở đó hiển hiện một thế lực hắt ám. Thế lực đó chính là bọn phong kiến bọn thống trị chúng là thủ phạm chính gây nên những cảnh đời khổ đau, tăm tối cho người dân. Ở trong tác phẩm này đại diện cho bọn thống trị này là cha con nhà thống lí Pa Tra. Thống lí xuất hiện trong tác phẩm như một kẻ chủ mưu cho mọi tội ác. Nó có thể ra lệnh để bắt người vô lí, để đánh trói người một cách tàn nhẫn mà không một chút đắn đo. Sống trong nhà thống lí cũng có nghĩa là sống trong một sự cai quản chắc chắn của nó, hầu như tất cả mọi người đều biến thành nô lệ. Ngoài sức mạnh uy quyền nó còn dùng sức mạnh thần quyền để ràng buộc tự do để bắt con người cam chịu mà phục vụ một cách ngoan ngoãn cho chính quyền lợi của nó. A Sử vừa là con vừa là tay chân của thống lí cũng không kém phần tàn bạo. Nó ngang nhiên bắt Mị về làm vợ, làm nô lệ, nó hành hạ ràng buộc tự do của Mị. Đối với A Sử không chỉ gieo rắc tai hoạ cho một cá nhân như Mị mà nó còn đi phá đám, phá nát niềm vui, vui xuân của bao nhiêu trai gái bản làng khác. Thống lí Pá Tra và A Sử đã trở thành bóng ma hắt ám ám ảnh bao nhiêu số phận người dân miền núi mà chưa thấy điểm dừng. Không chỉ có cha con thống lí mà bọn quan dịch bọn quan lang trong bản làng cũng một bè một cánh hoà nhau gieo rắt tai hoạ cho A Phủ cho dân lành. Phản ánh bọn thống trị đó nhà văn muốn người đọc liên tưởng đến bọn người tàn ác, tàn bạo đang làm điêu đứng những cảnh đời trên những nẻo rừng Tây Bắc.

b. Phản ánh hiện thực đen tối nói trên là chính tác giả đã thể  hiện được sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời tối tăm, những con người đau khổ của người dân trên những bản làng Tây Bắc. Sự cảm thông này không dừng ở diễn tả nỗi nhục nhã đau đời của Mị và A Phủ, của bao người dân khác mà nhà văn còn gần như trực tiếp tố cáo vạch trần bản chất tàn bạo của bọn thống trị, của bọn người ăn thịt người ngọt sớt.

Trong quá trình phản ánh hiện thực nhà văn đã phát hiện được tâm hồn và tình cảm của những con người cùng khổ. Đó là tình hữu ái giai cấp, tình thương giữa những người cùng hội cùng thuyền cùng cảnh ngộ. Việc Mị động lòng thương và sẵn sàng hi sinh cứu A Phủ là một nét đẹp như thế.

Đặc biệt nhất trong các cung bậc tình cảm trong những biểu hiện nhân đạo củan hà văn đó là đề cao được sức sống tiềm ẩn và khát vọng tự do của những con người bị đè nén, bị ấp bức, tiêu biểu cho vẻ đẹp này là ở nhân vật Mị.

3. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã thành công ở nhiều phương diện, phương diện miêu tả bức tranh hiện thực, bức tranh tâm trạng và đặc biệt hơn hết là thể hiện được quan điểm tiến bộ của nhà văn Tô Hoài trong việc tìm thấy bản chất, sức sống tiềm ẩn, tiềm tàng trong những con người miền núi phải sống trong một xã hội tối tăm mất tự do. Đây là kết quả của nhiều tháng đi thực tế sáng tác trên vùng núi Tây Bắc xa xôi. Tác phẩm này đã thể hiện một sự diễn biến toàn diện về nhận thúc sáng tác của Tô Hoài khi ông cuối xuống phản ánh những cuộc đời bé nhỏ.

Bài 2.

" Vợ chồng A phủ là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài--là truyện ngắn rút ra từ tập" truyện Tây Bắc" viết vào năm 1953." Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc

Truyện viết về cuộc đời của Mị và A phủ ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với CM và niềm cảm thông sâu sắc trước số phận khốn khổ ,bất hạnh tủi nhụckhi bị mất quyền sống của người dân lao động miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân và qua đó ca ngợi tinh thần CM của họ.

Đọc truyện ngắn ta thực sự xót xa xho Mị,một cô gái Mèo đẹp nết,đẹp người: cần cù,đảm đang, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời... chỉ vì gia đình nghèo mà Mị phải đi làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Patra.Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như " con rùa nuôi trong xó cửa", thậm chí nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật:" bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu , mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ ,biết đi làm mà thôi...con trâu con ngựa làm còn có lúc,đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày cả đêm"...

....Những ngày tết A sử đi chơi,Mị còn bị trói đứng trong buồng tối>vậy mà khi vừa được chị dâu cởi trói Mị lại phải đi hái lá thuốc cho chồng , nhỡ mệt thiếp đi thì lại bị A sử lấy chân đạp vào đầu. Danh nghĩa là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị cũng chỉ là một nô lệ làm việc không công.Mị không chỉ bị bố con A sử bóc lột về sức lao động mà còn bị chúng hủy hoại cả cuộc sông tinh thần, ngăn cấm và dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng dù là rất nhỏ của cô gái trẻ>Đã mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc.Đã có lúc cô muốn tìm đến cái chết nhưng vì thương cha, lo cho người cha già yếu không lo nổi món nợ lớn nên cô không thể chết,đành quay lại cuộc đời nô lệ để trả nợ cho cha.

Bị giam hãm đầy đọa trong cái địa ngục ấy, Mị đang chết dần với năm tháng,Mị gần như tê liệt sức sống. Mị không còn ý thức về không gian, thời gian và các mối quan hệ xã hội, không hiện tại và cũng ko có cả tương lai.Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen với cái khổ rồi.Cuộc đời của Mị chỉ thu lại qua khung cửa sổ nhỏ bằng bàn tay "mờ mờ". " trăng trắng không biết là sương hay nắng".Mị hầu như mất hết cả ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận, thậm chí Mị còn không có cả những ý nghĩ về cái chết nữa.

Bên cạnh nhân vật Mị là nhân vật A phủ.A phủ vốn là một thanh niên tràn đầy sức sống, khỏe mạnh , gan dạ, lao động giỏi có lòng nhiệt huyết với công việc vậy mà chỉ vì một lần đánh nhau với A sử-con trai thống lí Patra. A phủ trở thành kẻ đi ở đợ cho nhà thống lí. Cũng như Mị những ngày sống ở nhà thống lí A phủ chịu biết bao sự đầy đọa nhục hình cả về thể xác lẫn tinh thần. Để rồi trong gian khổ hai con người này đã gặp nhau ở sự đồng cảm sâu sắc, ở tình thương con người cùng cảnh ngộ.

Giá trị nhân đạo còn đc thể hiện ở chỗ nhà văn vạch trần những hành vi, việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của cha con nhà thống lí.Chỉ cần xem cách đối sử của A sử với Mị cũng thấy đc điều đó.Sau khi bị A phủ đánh chảy máu đầu, đc Mị bóp thuốc cho A sử ko những ko cảm kích mà ngược lại khi Mị mệt quá thiếp đi,A sử lại dùng chân đạp vào mặt Mị một cách tàn nhẫn...Mặt khác giá trị nhân đạo còn đc thể hiện ở sự cảm thông và thấu hiểu những tâm tư tình cảm,tâm trạng của những con người khốn khổ.Để rồi qua đó tác giả phát hiện ra sức sống tiềm tàng trong họ và phẩm chất tốt đẹp của họ.Tiếng khèn, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bồi hồi.Với Mị , tiếng sáo là tín hiệu của tình yêu, hạnh phúc, tự do và cô khao khát đến cháy bỏng: " ngày trước Mị thổi sao giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê...".Mị sống lại những kỉ niệm đẹp đẽ, ngọt ngào với tiếng sáo, Mị trở về với niềm vui sống trong hiện tại.Mị muốn đi chơi. Lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ. Quên đi những đau đớn thể xác, Mị đã "vùng bước đi". Dòng nước mắt lăn trên má Mị đã khơi dậy trong tâm hồn Mị niềm cảm thông sâu sắc khi thấy A phủ bị trói đứng. Càng thương mình Mị lại càng thưong người.Mị ko thể dửng dưng câm lặng đc nữa. Tình thương đã lấn áp cả nỗi sợ và cao hơn cả cái chết.Mị đã đi đến hành động cắt dây trói cho A phủ.Đây là quá trình tự phát nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả một quá trình sức sống ko ngừng trong con người Mị. Chính những phẩm chất tâm hồn tốt đẹp đã giúp cho Mị và A phủ có đủ sức sống và nghị lực để trỗi dậy, chạy trốn khỏi HỒNG NGÀI, đi tìm tự do cho chính mình.Mị và A phủ đã chạy đến PHIỀNG XA và giác ngộ CM. Từ trong tăm tối, đau thương Đảng đã dẫn đường chỉ lối cho họ, giúp họ tìm ra con đường mới: con đường CM

Tóm lại " vợ chồng A phủ" mang ý nghĩa tư tưởng nhân đạo sâu sắc.Nó đc tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người tiêu biểu là số phận của Mị và A phủ

Bài 3.

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm con “dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nông nô không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột giai cấp. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại phải ở với người đàn ông khác vẫn ở trong nhà ấy. … Phải suốt đời ở trong nhà ấy.

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ giăng trải ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “chiếc cửa sổ ô vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện có phải là vô lí không? Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị tha hóa trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng ko chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Dòng nước mắt của A Phủ chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya.Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa.Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thong cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ rang nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách.

Bài 4.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro