Dinh tu huong 6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một trong những đặc sắc của truyện Vợ nhặt là Kim Lân đã sáng tạo một tình huống truyện vô cùng độc đáo.

Ý cơ bản phải có:

1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo (giải thích)

2. Mở đầu truyện là bức tranh xám ngắt về ngày đói: (đưa bức tranh ngày đói vào)

3. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế vợ đang đứng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết vì đói khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng khiếp 1945.

   + Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “ Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.

   + Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “ Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều “ bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo. Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “ Chậc kệ!” . Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU, nhưng cái Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?

4. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả bản thân của Tràng nữa, vì hai lí do: - Một là, Tràng - một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ) xưa nay đàn bà con gái chẳng ai thèm để ý. Vả lại không có tiền cưới vợ, vậy mà bỗng dưng lấy được vợ, lại là vợ theo hẳn hoi. - Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, chỉ làm nghề đẩy xe bò thuê kiếm sống qua ngày, đến nuôi thân còn không nổi lại còn đèo bòng vợ với con. Bời vậy mới dẫn đến SỰ NGẠC NHIÊN VÀ THƯƠNG CẢM: Trước hết là sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư: Nhìn theo bóng Tràng và người đàn bà, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân “ai đấy nhỉ ? Hay là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên”, có người cười “ hay là vợ anh cu Tràng ?”, có người thương hại “Biết có nuôi nổi nhau qua cái thời đói khát này không ?” Bà cụ Tứ: mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra. Nhân vật Tràng: Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn "ngỡ ngàng". "Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?". Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau. Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này?

5. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: - Không cần đến những lời kết tội to tát mà tội ác của bọn thực dân, phát xít và tay sai vẫn hiện lên rõ mồn một. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945 với trên hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của con người thật rẻ rúng. Người ta có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc…. Đúng là “nhặt” được vợ như lời tác giả nói. - Người dân lao động VN dù ở trong tình huống bi thảm như thế nào đi chăng nữa họ vẫn tin tưởng vào ngày mai tươi sáng: ( Bà cụ Tứ có niềm tin như thế nào ? người vợ nhặt sau khi được chấp nhận làm dâu thì trở nên như thế nào? Tràng có ý thức ra sao sau đêm tân hôn )   

Bài 2.

1.Mở bài :

Kim Lân viết truyện ngắn không nhiều nhưng được coi là một trong những cây bút tài năng để lại những áng văn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội . Trên 50 năm lao động nghệ thuật , ông chỉ có hai tập truyện ngắn ít ỏi .

Vợ Nhặt là một chương được viết lại của truyện dài Xóm ngụ cư mà ông đã làm thất lạc 1946. Hòa bình 1954 được lập lại , theo đơn “ đặt hàng” của báo Văn nghệ nhân kỉ niệm Cách mạng tháng Tám , tác giả đã công bố truyện Vợ Nhặt. Như vậy, truyện ngắn này nó có được cái độ chín của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài và kĩ lưỡng về mặt nghệ thuật.

2.Thân bài:

Khi đề cập đến truyện ngắn , người ta thường quan tâm tới ba yếu tố: tình huống truyện ; nhân vật của truyện, giọng điệu trần thuật của tác giả. Có nhiều truyện ngắn sự sáng tạo tình huống đóng vai trò then chốt, đặt vào trong tình huống ấy, nhân vật truyện thường bộc lộ sâu sắc , tâm lí và tính cách ; tư tưởng nghệ thuật của thiên truyện cũng nhờ thế mà đậm đà ; các chi tiết xoay quanh tình huống ấy trở lên hấp dẫn và giàu ý nghĩa. Phát hiện ra tình huống trong cuộc sống đời thường chằng chịt nhiều mối quan hệ đã là rất khó , thế nhưng, giải quyết tình huống ấy lại cần đến tài năng, bản lĩnh nghệ thuật và quan trọng nhất là tấm lòng người viết. Chỉ có vậy thì tình huống ấy, nhân vật ấy mới trở thành điển hình nghĩa là rất cá biệt , rất lạ đồng thời cũng nói lên được bản chất sâu sắc của cuộc sống.

- Bối cảnh rộng lớn nhất để cho một tình huống này xuất hiện chính là nạn đói khủng khiếp 1945 và qua đây ta thấy được số phận bi thảm của con người . Chính Kim Lân đã công khai ý đồ sáng tác của mình “ trong sự túng đói quay quắt , trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui để mà hi vọng( Báo Văn nghệ- số 19-1993).

Vợ nhặt đã nói lên cái hình tượng nghệ thuật về một sự thực lịch sử là nạn đói 1945 từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói ( Tuyên ngôn Độc lập, cái nạn đói mà trong Đôi mắt của Nam Cao, nhân vật Độ đã hồi tưởng “ Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000 , con cái chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” 2 triệu người quằn quại chết trên tổng dân số 20 triệu người không phải là con số ít ỏi. Bóng đen chết chóc đã phủ xuống xóm làng Việt Nam. Cái đói “ đã tràn đến” quả là hình bóng của thần chết đang lạnh lùng đi gây niềm kinh hoàng cho người dân nước Việt , tràn đến gợi đến những cơn đại hồng thủy, gợi một sự tàn diệt không thể tránh khỏi của con người. Tác giả đã gây ra một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh con người năm đói và hoàn cảnh không gian của nạn đói . Tất cả đều đầy âm khí chết chóc. “ Những gia đình từ những vùng Nam Định , Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt nhau lên, xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ . Người chết như ngã rạ , không buổi sáng nào không gặp 3, 4 cái thây nằm chòng queo bên đường” Kim Lân gọi họ là những bóng ma vật vờ trên dương thế . “ Bóng những người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Con người và bóng ma; cái ăn và cái đói, sự sống và cái chết , chỉ là một lằn ranh như sợi tóc . Tất cả đang bước về phía ma.

Miền trần gian ta cứ ngỡ là miền địa ngục. Trong thế giới của những xác người ngổn ngang ta nghe được ban ngày tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người ; ban đêm tiếng khóc hờ của người sống , với người chết và gây gây bởi đống rấm đốt đồ người chết. Tất cả được chụp bởi vung trời mùa đông xám xịt lặng lẽ - Người chết đã đành, những người sắp chết thật bi thảm có thể thấy điều này qua nhân vật cô gái vô danh sẽ là một người vợ nhặt cũng vô danh của nhân vật Tràng . Cái đói đã làm cho thị rách rưới như tổ đỉa và cái mặt của cô ta trở nên gầy guộc khô lạnh như lưỡi cày . Cô sẵn sàng sà xuống quán ăn liền tù tì một lúc 4 bát bánh đúc và sau đó lon ton chạy theo một người đàn ông không quen để làm vợ với mục đích khỏi chết đói.

Đầy liều lĩnh, buồn vui , lo âu, hi vọng.

a) Trước hết ta ngẫm nghĩ về cái tên của tác phẩm: Người ta thường nói vợ đẹp, vợ hiền, vợ như tiên không ai lại để ở một động từ phía sau để định danh, để xác định một phẩm chất. Vợ nhặt có nghĩa là cô vợ ấy được một người đàn ông nhặt về như một thứ đồ rơi, như một vật thể người ta vứt bỏ mà mình còn tận dụng . Vợ nhặt còn có thể hiểu đó là người vợ không ra gì, giá trị của cô ta chỉ ngang bằng với những gì của một đồ vật “ xí được” . Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân để cho cô vợ nhặt ấy đi hết tác phẩm vẫn không có một cái tên, Kim Lân đã cắt nghĩa “ Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 1945 người dân lao động thường dường như khó ai thoat khỏi cái chết . Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Tuy hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng . Người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - Đúng là nhặt được vợ như tôi đã nói trong truyện”. Như vậy , cái thiêng liêng là “ vợ” đã trở thành cái rẻ rúng ( nhặt) . Cái tên vợ nhặt đã cung cấp cho người đọc theo dõi một tình huống độc đáo.

b) Nhân vật Tràng và người vợ nhặt:

Khi đến bước đường cùng người ta thường liều lĩnh. Tràng đùa nhưng cô gái sắp chết đói thì làm thật. Cô xin ăn và theo không anh về nhà là hành động liều.

Cũng liều nhắm mắt đưa chân.

Mà xem con Tạo xoay vần ra sao

Dù sao, thì Tràng cũng là người vui tính xởi lởi. Anh là niềm vui của bọn trẻ con xóm ngụ cư , cứ mỗi lúc cái anh chàng vừa thô, vừa xấu vừa dở hơi về làng là bọn trẻ con cứ đu lấy anh mà trêu chọc cười đùa. Khi nhận cô gái về làm vợ, Tràng thấy “ chợn” nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi đánh liều. Hai cái liều gặp nhau để định hướng vấn đề rất nghiêm túc. Đó là chuyện lập gia đình, đó là cơ hội duy nhất để Tràng vứt bỏ cái dở hơi của mình. Đúng như bà cụ Tứ nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”. Nhân vật Tràng trên đường đưa vợ về nhà thấy mọi người nhìn ngó đã lấy đó làm niềm tự hào “ Cái mặt cứ vênh lên tự đắc” với mình niềm vui lấn át nỗi lo. Anh không hiểu nổi tại sao vợ lại buồn , mẹ lại khóc , “ Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”. Tràng bỗng nhiên nhặt được vợ , hạnh phúc của Tràng quá lớn và quá đột ngột mãi đến sáng hôm sau Tràng vẫn thấy “ Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui ấy, Tràng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm với tổ ấm gia đình . Anh yêu thương, anh muốn gắn bó với mẹ mình, với vợ mình, với cái nhà, cái sân mảnh vườn của mình “Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng bây giờ hắn mới thấy hắn lên người”, hi vọng đã nhen lên. Ở phần cuối tác phẩm Tràng đã nhớ ra “ Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp “ để phá kho thóc của Nhật” Tràng tự dưng thấy ân hận , tiếc rẻ vẩn vơ khó hiểu, khi nghĩ đến chiếc xe thóc mà mình vẫn đẩy lên làm công cho Liên Đoàn. Biến cố Cách mạng tháng Tám đang đến gần, lá cờ đỏ sao vàng đang phấp phới bay trong óc Tràng sẽ cho hai cái liều của vợ chồng Tràng thoát hiểm, có hi vọng, có tương lai.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ mà tràng nhặt được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng phó thác cả đời mình cho người đàn ông mà mình yêu kính. Thế mà cô vợ của Tràng hoàn toàn đi theo tiếng gọi của cái ăn, không phải đáp ứng nhu cầu của trái tim mà là phải giải quyết quyền lợi của bao tử. Người phụ nữ này không biết Tràng xấu tốt thế nào, chỉ một câu hò bâng quơ và mấy chiếc bánh đúc riêu cua là cô nàng theo không về nhà. Người đọc cảm thấy ghê sợ đến tởm lợm một nhân cách mà là nhân cách phụ nữ: cái ăn đã hạ thấp nhân phẩm; cái ăn khiến cho ta thấy cái nhục kèm theo, cái ăn đã tước đoạt luôn giới tính ngàn đời phụ nữ Việt Nam. Người đàn bà trơ tráo , nhâng nháo không biết đến sĩ diện chút nào!. Sự xấu hổ và ý thức tự trọng đã không còn chút mảy may trong tính cách của người đàn bà nhặt được này. Hoàn toàn có thể hiểu được , khi người ta tự coi mình là cái rơm cái rác mà ai cũng có thể nhặt đầu đường xó chợ. Tuy nhiên trên con đường đi về nhà chồng người vợ nhặt đã lầm lũi lấy nón che mặt như sợ người ta phát hiện mình là một kẻ tội phạm. Cái hành động chào đến ba lần người mẹ của Tràng cụ mới nghe được cùng với cái chi tiết lặng im “ mân mê tà áo đã rách bợt” cho thấy ý thức về bổn phận, ý thức mình là dâu, là vợ đã trở về với cô gái mà mới đây thôi “ đanh đá, ngoa ngoắt chỏng lỏn”. Chính cái việc phục hồi lại nhân phẩm cho mình và những hành động dọn dẹp nhà cửa của người vợ nhặt đã nhen lên một niềm hi vọng, gia đình Tràng có thể hạnh phúc nếu cái đói không cướp đi sinh mạng của họ.

c) Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ khi đón nhận nàng dâu

- Quá trình tâm lí ở bà cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu nhân vật Tràng đang say trong niềm vui của một chàng rể tràn trề hạnh phúc ,tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng thì ở mẹ Tràng tâm lí có kiểu gấp khúc bởi người mẹ này cả cuộc đời đã đổ nhiều nước mắt, đã có nhiều nghiệm sinh. Vì thế, trong chiều sâu của người từng trải và nhân hậu này có bao nhiêu niềm trắc ẩn.

Trước hết là bà cụ rất ngỡ ngàng. Người con trai của bà ngỡ ngàng về một cái đã biết, còn bà cụ thì ngỡ ngàng trước một cái điều dường như không sao hiểu nổi. Đột nhiên có một cô gái xuất hiện trong túp lều của mình, bà cụ Tứ có hàng loạt các câu hỏi thắc mắc.

“ Quái sao lại có người đàn bà nào trong ấy nhỉ? Người đàn bà này lại đứng ngay đầu giường của con trai mình thế kia” và thật lạ kì sao lại chào mình bằng u, “ ai thế nhỉ” thậm chí càng nghi vấn bà càng bối rối ngỡ ngàng “ Ô hay thế là thế nào nhỉ?”. Đối với một người mẹ rất nhân hậu, dành tất cả đời mình lo cho con, dĩ nhiên trong trường hợp này sẽ rất nhạy cảm , có thể bà mẹ sẽ ngạc nhiên nhưng rồi sẽ định thần ngay không hiểu ra làm sao nữa. Hoàn toàn Kim Lân không có ý thức “ kịch hóa” để tạo cái chi tiết này. Đây chính là một nỗi đau thăm thẳm nó xuất phát từ một cái hiện thực: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đáng lẽ rất dễ dàng nhận biết đó. Sau sự ngỡ ngàng nhân vật Tràng đi thẳng tới cái hạnh phúc của mình, bà mẹ thì dích dắc hơn, sau khi “ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số phận đứa con mình” bà lão “ cúi đầu im lặng”. Đó là nỗi xót xa lo thương lẫn lộn , tình thương của người mẹ nhân hậu ấy mới bao dung làm sao, một câu hỏi nữa được đặt ra chứa đựng nỗi lo âu “ Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau , sống qua được cơn đói khát này không”. Vậy là người mẹ không chỉ chấp nhận cái hành động anh con trai mà đã mở tấm lòng người mẹ, đã chấp nhận người con dâu. Cụ Tứ sử dụng từ “ chúng nó” hết sức bình dị trong ngôn ngữ người bình dân nhưng Kim Lân đã cho ta thấy sau giây phút im lặng cúi đầu ấy đã nói ra cái điều không phải là không trăn trở. Bởi cái cúi đầu ấy bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng cái kinh nghiệm sống, bằng cái sự trả giá cho chuỗi đời nặng nhọc và bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh của nạn đói. Từ tình thương bà cụ Tứ đã chuyển sang nỗi lo để tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà không nghĩ đến mình, không nghĩ đến cái việc có nàng dâu được lợi gì, mà chủ yếu dòng ý nghĩ này của người mẹ là quan tâm tới bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình. Bà lão nghĩ đến ông lão, đến con gái út, đến nỗi khổ đời mình và nghĩ đến tương lai của con, tâm trạng rất phức tạp vừa đầy lo âu buồn tủi lại vừa sung sướng tự động viên mình, coi con dâu như một ân nhân của mình đã làm cho bổn phận người mẹ được hoàn thành “ người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Thôi bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo lắng gì được cho con, nghĩ vậy nên cuối cùng dồn tụ trong bao nhiêu lo lắng yêu thương ở câu nói giản dị “ chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Như vậy , trên những bề bộn ngổn ngang buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn ánh lên, và tỏa hơi ấm kì diệu từ …nồi cháo cám. Nỗi hân hoan của mẹ được thốt lên như tiếng reo hạnh phúc của đứa trẻ, “ chè đây – bà lão múc ra một bát – chè khoán đây ngon đáo để”. Rõ ràng, bà lão rất tin cái nồi cháo cám này là ngon. Chúng ta cần cảm nhận tiếng “ ngon” này trong ý nghĩa về tinh thần hơn là về vật chất . Bà mẹ rất tin vào hạnh phúc của con nên cái đắng chát của nồi cháo cám đã trở thành cáu ngọt ngào của hạnh phúc, của tinh thần. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: Trong bất kì hoàn cảnh nào tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện cách sống tình nghĩa và hi vọng. Tuy nhiên Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của bà cụ Tứ vẫn là một niềm vui tội nghiệp bởi hiện tại vẫn là nghiệt ngã: Nồi cháo cám vẫn “ đắng chát” và “nghẹn bử”. Như vậy trong tình huống của câu chuyện nhặt vợ đã có ba nhân vật liên đới. Cả ba đều bị hung thần Đói đe dọa, khi cả ba sống rời rạc như những hình nhân dật dờ không có cơ hội để nhen lên những đốm sáng của chất người, tình người. Thế nhưng khi cả ba chụm lại , thì nó đã nên hòn núi cao của tình người. Giữa cái đói , nhặt vợ về để mưu cầu hạnh phúc,cả ba con người hồi sinh để làm người , chính là tình huống đặc biệt để làm sáng ngời tinh thần nhân đạo. cái vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ, cái thế vượt hoàn cảnh ấy chính là nội dung nhân đạo độc đáo rất cảm động.Nó đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ.

3. Kết luận

Rất nhiều các nhà văn lớn đã viết về bài ca của con người, nhưng bài ca lớn nhất , âm vang nhất vẫn là sức mạnh tinh thần có thể giúp con người phá vỡ hoàn cảnh bế tắc để thoát hiểm, để hi vọng và để xứng đáng với danh dự làm người. Kim Lân đã góp thêm cho bài ca ấy, bài ca con người, một điệu nhạc buồn nhưng trong những dòng nước mắt lặng lẽ, trong cái u ám tối trời, tối đất của nan đói vẫn ánh lên những đốm lửa của hi vọng, của tương lai. Không hiểu sao gấp trang sách lại , toi thấy cái logic của dòng nước mắt, của hành động thắp đèn trong đêm tân hôn, của lá cờ đỏ phấp phới trong óc Tràng và tôi tin, gia đình người nông dân xóm ngụ cư này sẽ vượt qua cái thời tao loạn của nạn đói khủng khiếp này. Họ sẽ hạnh phúc bởi vì chỉ cần một bước nữa thôi Cách mạng tháng Tám 1945 sẽ thành công…

Bài 3

kim lân (1920-2007) tên khai sinh là nguyễn văn tài,quê ở huyện từ sơn(nay là thị xã từ sơn)tỉnh bắc ninh.năm 1944 kim lân tham gia hội văn hoá cứu quốc,phục vụ kháng chiến và cach mạng.ông là nhà văn chuyên về chuyện ngắn.ông có những trang viết đặc sắc về phogn tục và đời sống làng quê.vợ nhặt là chuện ngắn xuất sắc của kim lân.miêu tả một phần nạn đói kinh hoàng năm 45 và cụ thể là số phận của tràng.từ đó nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo đậm nét và sâu sắc. 

Vợ nhặt trước hết là thiên truyện nói về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói tràn đến...” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người dân xứ Việt về một thảm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước ta. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối” nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, đội chiếu lũ lượt bồng bế , dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn : đó là cái thời ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc. Cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mất mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cung với “mùi gây gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống đến mức kinh khủng. Trong một bối cảnh như thế, Kim Lân đặt vào đó một mối tình thì quả thật là táo bạo.Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy , tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm , tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã. 

Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng nên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân muốn toả sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về tình người toả ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết cảm động.

Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng, ngươờ ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc bán ngoài chợ). Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: cái chủ thể của hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy đựoc vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho xóm làng, bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa : “cho đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải như thế . Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.Tình huống tren gợi ra mọt trạng thái tinh tế của lòng người : trạng thán chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có như không. Đây là niềm vui hay nỗi buồn? Nụ cười hay nước mắt?...Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lý cực kỳ tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lý trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai. Trước hết là Tràng, một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể có thể coi là hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực bao giờ cũng gây một chấn động tâm lí lớn. Chấn động ở Tràng tạo một mạch tâm lí ba chặng. Khởi đầu là ngỡ ngàng. Hạnh phúc gây men ở Tràng thành cảm giác mới mẻ kì diệu. Cảm giác ấy hút lấy toàn bộ con người hắn: vừa lặn vào tâm linh vừa tỏa ra vật chất hóa thành cảm giác da thịt.Chàng thanh niên nghèo hèn của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân còn may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn tay Tràng, còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Quá trình tâm lí của cụ Tứ có phần còn phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu. Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cái cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu như một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn.

Trái tim người mẹ có con trai lớn vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: Chính sự cùng quẩn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.

Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão “cúi đầu im lặng”. Cái thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ “cúi đầu”, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới. Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời mình, nghĩ đến tương lai của con… để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị “********* lấy nhau lúc này, u thương quá”. Trên đống buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên: Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kì diệu đó tỏa ra từ …nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất (xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: trong bất kì hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt. Con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng cay và nghẹnbùi”. 

Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái khá tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.. Câu kết truyện: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói lả và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930 – 1945 để bước tới phạm trù của nền văn học mới.Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại mà một số phận mới vẫn tiếp tục được mở ra. Cái “lá cờ đỏ” kia như tín hiệu của một sự đổi đời. Nhân vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. “Lá cờ đỏ” như gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo… Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro