ĐLCM HCM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương mở đầu

ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

 MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN  CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

a. Khái niệm “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3- 2- 1930, Đảng là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc.  Ngay từ khi ra đời, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta giành thắng lợi to lớn. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản trước hết là đề ra đường lối cách mạng và hoạch định đường lối.

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.

Nhìn tổng thể đường lối cách mạng của Đảng bao gồm đường lối đối nội và đối ngoại. Về đối nội còn có đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và phong phú. Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng, như: đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử, như: đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có đường lối cách mạng đề ra cho từng lĩnh vực hoạt động, như: đường lối công nghiệp hoá; đường lối phát triển kinh tế ..

Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ảnh đúng qui luật vận động khách quan.Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Đảng không ngừng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, phát triển đường lối.

b. Đối tượng nghiên cứu của môn học

Môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ yếu nghiên cứu đường lối do Đảng đề ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay. Do đó, đối tượng chủ yếu của môn học là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình cách mạng Việt Nam- từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, làm rõ sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam- chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.

Hai là, làm rõ quá trình hình thành, bổ sung và phát triển đường lối cách mạng của Đảng.

Ba là, làm rõ kết quả thực hiện đường lối của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam.

Yêu cầu đặt ra đối với việc dạy và học môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Đối với người dạy: Cần nghiên cứu đầy đủ các cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng, đảm bảo cập nhật hệ thống đường lối của Đảng. Mặt khác trong giảng dạy phải làm rõ hoàn cảnh lịch sử ra đời và sự bổ sung, phát triển các quan điểm của Đảng trong tiến trình cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy.

Đối với người học: Cần nắm vững nội dung cơ bản đường lối của Đảng để từ đó lý giải những vấn đề thực tiễn và vận dụng được quan điểm của Đảng vào cuộc sống.

Đối với cả người dạy và người học: trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc đường lối của Đảng, cùng với các tri thức chuyên ngành của mình, có thể đóng góp ý kiến cho Đảng về đường lối, chính sách đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA

                   VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC

1. Phương pháp nghiên cứu

a. Cơ sở phương pháp luận

Nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa trên thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin. Các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng

Với phương pháp luận khoa học, các nhà sử học chân chính có thể nhận thức được lịch sử một cách chính xác, khoa học. Họ có thể nhận thức và phản ánh đúng hiện thực khách quan khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng, một quá trình lịch sử nào.

b. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phải dựa trên cơ sở sự vận động của nội dung. Phương pháp nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài phhương pháp luận chung đã nêu trên, đối với mỗi nội dung cụ thể cần vận dụng một phương pháp nghiên cứu phù hợp. Trong đó, sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc là hết sức quan trọng. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác, như phân tích, tổng hợp, so sánh …

2. Ý nghĩa của việc học tập môn học                                                                    

Môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với việc bối dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trước nhiệm vụ trọng đại của đất nước.

Qua học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội … theo đường lối, chính sách của Đảng.

 

Chương 1

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó

Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Các nước đế quốc, bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

b. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin

Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, yêu cầu phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau Lênin phát triển thành chủ nghĩa Mác- Lênin.

Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi giai cấp công nhân phải thành lập ra đảng Cộng sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính qui luật mà chính đảng của giai cấp công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành chính quyền và xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.

Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam,

   c. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác- Lênin trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu cho một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại cách mạng giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhân dân lao động các nước và một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của các đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (1918); Đảng cộng sản Mỹ (1919)..

Đối với các nước thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười Nga đã dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công nông  làm gốc, phải có đảng vững bền…)

Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.

Đối với Việt Nam Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Hoàn cảnh trong nước

a. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp.

- Chính sách cai trị của thực dân Pháp

Từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.

Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, thâu tóm mọi quyền hành trong tay các viên quan người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu.

Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành chính sách cướp ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống giao thông phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam

- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.

Giai cấp địa chủ phong kiến đã câu kết với thực dân Pháp, tăng cường áp bức, bóc lột nông dân. Tuy nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân hóa. Có một số địa chủ có lòng yêu nước, căn ghét chế độ thực dân, họ đã tham gia vào các phong trào chống Pháp với hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã hình thành.

Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền, vùng mỏ.

Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh; Giai cấp công nhân được kế thừa truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.

Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Khi được tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.

Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi tới thành công.

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam,  bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, …. Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ khi được giác ngộ, họ là một lực lượng quan trọng của cách mạng.

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đối với Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.. Các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước. Vì vậy, trong xã hội tồn tai hai mâu thuẫn, đó là: toàn thể nhân dân Việt Nam mâu thuẫn với thực dân Pháp xâm lược; giai cấp nông dân mâu thuẫn với giai cấp địa chủ phong kiến. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: một là, đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất  cho nông dân.

b. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến mà tiêu biểu: Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Đến ngày 1- 11- 1888, Vua Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển đến 1896. Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, mà tiêu biểu như:

Phan Bội Châu, theo xu hướng bạo động, chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi, Ông đến Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng giải phóng dân tộc.

Đại diện cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh với chủ trương vận động cải cách văn hoá, xã hội; động viên lòng yêu nước, đã kích bọn vua quan phong kiến; đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; phản đối đấu tranh võ trang và cầu viện bên ngoài. Hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam..

Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng chính xác đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên đã bị kẻ thù dập tắt.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.

Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền.

Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Thanh niên cao vọng (1926…

 Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Đến ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng bùng nổ ở Yên Bái và một số địa phương  nhưng cũng bị thực dân Pháp dập tắt.

Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước nói trên là: Chúng ta phải chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh; các nhà lãnh đạo các phong trào yêu nước nói trên đã không gắn vấn đề dân tộc với vấn đề dân chủ; không tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn là công nhân và nông dân; họ không nhìn thấy thế giới đã chuyển sang thời đại mới, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản; Họ bị hạn chế bởi quan điểm chính trị của giai cấp xuất thân.

Trước yêu cầu của lịch sử xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp đã diễn ra sôi nổi. Mục tiêu các cuộc đấu tranh này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng đều bị thất bại. Tuy bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. thể hiện truyền  thống yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc; tạo cơ sở thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba yếu tố (nguồn gốc) dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 c. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

* Nguyễn Ái quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

+ Chuẩn bị về chính trị, tư tưởng: Trước yêu cầu của cách mạng, ngày 5- 6-1911, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học- kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào thoát khỏi ách xiềng xích nô lệ.

 Trong những ngày hoạt động cách mạng sôi nổi đó, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Người hướng đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.

Tháng 7- 1920, nguyễn Ái Quốc đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc, vấn đề thuộc địa của Lệnin. Người tìm thấy trong Luận cương lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.

Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Người nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".

Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác- Lênin để truyền bá vào nước, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng Cộng sản ở Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân . Người viết một số tác phẩm, đặc biệt Bản án chế độ thực dân Pháp, được xuất bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925. Bằng những dẫn chứng cụ thể, tác phẩm đã tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa.

Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các nước thuộc địa đi tới giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ tác phẩm này và các bài viết khác của Nguyễn Ái Quốc, mà hướng tới con đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự các Hội nghị Quốc tế, đồng thời học tập kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin.

Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào tháng 6- 1925. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên.  Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, phần đông được đưa về nước hoạt động. Đây là sự chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Đường kách mệnh nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau;

Đường kách mệnh đã chỉ rõ cách mạng việc chung của cả dân chúng, chứ không phải việc riêng của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công nông, phải luôn ghi nhớ rằng công nông là gốc của cách mạng, là chủ của cách mạng.

Đường kách mệnh khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, "Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định “Cách mạng An Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.

Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh phải giác ngộ, tổ chức quần chúng cách mạng, làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm, hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức bóc lột..

Tác phẩm Đường kách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.

* Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.

Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản bằng những hình thức tự phát như chống đánh đập, đòi tăng lương ..

Đến những năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển. Trong năm 1926- 1927, có 10 cuộc đấu tranh. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh. Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành, nhiều địa phương. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có Đảng lãnh đạo.

* Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời

Cuối tháng 3-1929, một số phần tử tiên tiến họp ở nhà số 5D, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 đảng viên, do Trần Văn Cung làm Bí thư.

Tháng 5-1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại hội về nước.

- Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.

- An Nam Cộng sản Đảng: Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và với sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Ngày 25-7-1929, các đồng chí trong bộ phận Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc gửi Đông Dương Cộng sản Đảng một bức thư thông báo rằng họ quyết định lập một đảng cộng sản bí mật là An Nam Cộng sản Đảng.

- Đông Dương Cộng sản liên đoàn: Cùng với sự phân hoá trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ.

Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929) và An Nam cộng sản Đảng (8-1929) tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt, những đảng viên tiên tiến đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9-1929, họ lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.

Việc hình thành ba tổ chức Đảng phản ảnh sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng. Yêu cầu của cách mạng nước ta là phải hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng cộng sản thống nhất.

II.     HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH

                          CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

1. Hội nghị thành lập Đảng

Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất.

Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập đảng là phải bắt đầu việc xây dựng các chi bộ trong nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế.

Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc). Người chủ động triệu tập "đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)" và chủ trì Hội nghị hợp nhất các Đảng. Hội nghị bắt đầu họp ngày 6-1-1930. Sau này, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) căn cứ vào những tài liệu hiện có, đã ra Nghị quyết về ngày thành lập Đảng, trong đó ghi rõ: "lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.

Tham dự Hội nghị có; một đại biểu của Quốc tế Cộng sản, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm).

Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội dung:

“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản ở Đông Dương;

2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;

3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;

4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;

5. Cử Ban chấp hành lâm thời, gồm chín người trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”

Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước; quyết định ra báo và tạp chí của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 8-2-1930 các đại biểu về nước thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập gồm có 7 người, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu.

Ngày 24-2-1930, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời họp và ra Quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản mang ý nghĩa lịch sử như một đại hội thành lập Đảng. Thành quả lớn nhất là hội nghị đã qui tụ toàn bộ phong trào công nhân và phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của một Đảng, dẫn đến sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong phong trào cách mạng của cả nước.

2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:

Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:

Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.

Về kinh tế, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.

Về văn hóa xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.

Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc.

Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp.

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. "Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".

Quan hệ quốc tế,  Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo nguyên lý chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lỏi của cương lĩnh này.

Nhờ sự thống nhất về tổ chức và Cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã qui tụ ba tổ chức Cộng sản thành một đảng duy nhất- Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng chính trị và hành động trong phong trào cách mạng của cả nước hướng tới một mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với các mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta, chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.

Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng; mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.

Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.

Câu hỏi thảo luận:

1. Khái quát hoàn cảnh thế giới và Việt Nam cuối thế ký XIX, đầu thế kỷ XX

2. Nội dụng cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên

3. Hội nghị thành lập Đảng  và ý nghĩa lịch sử.

Chương 2

ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN

(1930 - 1945)

I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ 1930 ĐẾN 1939

1. Trong những năm 1930- 1935

a.  Luận cương chính trị tháng 10- 1930

 Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú về nước hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Từ ngày 14 đến 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị quyết "Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng" và Điều lệ Đảng; thông qua Luận cương chính trị của Đảng.

Luận cương chính trị của Đảng xác định:

Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa".

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền", "có tính chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng". Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Luận cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng.

Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".

Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mang. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm nền tảng tư tưởng, lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Ý nghĩa của Luận cương

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó, nên Luận cương chính trị đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, do đó không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.

b. Chủ trương khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng

Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Giữa lúc phong trào phát triển mạnh, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng. Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn quần chúng yêu nước bị bắt, bị giết hại hoặc bị tù đày. Các cơ quan của Đảng từ Trung ương đến địa phưong lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban chấp hành Trung ương bị bắt.

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ dẫn của Nguyễn Ái Quốc, nhân dân ta nêu cao ý chí đấu tranh chống khủng bố trắng và mọi thủ đoạn lừa bịp nham hiểm của kẻ thù, bảo vệ Nghệ - Tĩnh đỏ, duy trì lực lượng và phong trào quần chúng.

Đầu năm 1932, trước tình hình các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hầu hết ủy viên các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ bị địch bắt,  theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí hoạt động ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng, công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chương trình hành động nêu những yêu cầu chung trước mắt của quần chúng là: (1) Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài; (2) Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình;(3) Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác;(4) Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.

Chương trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân.  

Chủ trương đấu tranh trước mắt do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng từng bước được khôi phục.

Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại từ cơ sở đến Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng trong nước và ngoài nước.

Đại hội đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng; Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Liên Xô, Trung Quốc.

Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân,...Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.

2 Trong những năm 1936-1939

a. Hoàn cảnh lịch sử

- Tình hình thế giới

Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 và tình trạng tiêu điều tiếp theo trong các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, như phátxít Hítle ở Đức, phátxít Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phátxít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Tập đoàn phátxít cầm quyền ở Đức, ý và Nhật đã liên kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường thế giới. Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.

Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu. Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phátxít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chủ nghĩa xã hội, mà là chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.

Đại hội chỉ rõ đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

- Tình hình trong nước

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc không những đến đời sống của những giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét bóc lột và khủng bố, phong trào đấu tranh của nhân dân ta làm cho bầu không khí chính trị và kinh tế hết sức ngột ngạt. Mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau một thời kỳ đấu tranh cực kỳ gian khổ, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới.

b.  Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

Trước những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai (7- 1936); lần thứ ba (3- 1937); lần thứ tư (9- 1937); lần thứ năm (3- 1938) đề đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và đấu tranh.

Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh. Trung ương xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là "cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xôviết. Song xét rằng cuộc vận động quần chúng hiện thời chưa đạt tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông. Trong khi đó yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta là tự do, dân chủ, hoà bình.

Về kẻ thù:  kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

Về nhiệm vụ: nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; Ban chấp hành Trung ương quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ, sau này đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Về đoàn kết quốc tế: Để cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng, đòi các quyền dân chủ, dân sinh, không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", mà còn đề ra khẩu hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa.

Về hình thức tổ chức đấu tranh: phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp.

Nhận thức mới về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ

Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936, Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng". Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc, rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.

 Tháng 7 năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của các đảng viên hoạt động công khai trong hoạt động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (4-1939). Tác phẩm đã vượt qua giới hạn của vấn đề tranh cử, đi vào phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận.

Tóm lại: Trong những năm 1936- 1939, chủ trương của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng; giải quyết tốt các mối quan hệ giữa liên minh công- nông và đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp; giữa phong trào cách mạng Đông Dương với cách mạng thế giới; đề ra hình thức tổ chức thích hợp nhằm tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn. Nghị quyết thời kỳ này đã đánh dấu một bược trưởng thành của Đảng, mở ra thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng.

II. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ 1939-1945

1. Hoàn cảnh lịch sử  và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

a. Tình hình thế giới và trong nước

- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ

Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tiến công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã dùng biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Tháng 6-1941, Đức tiến công Liên Xô.

-  Tình hình trong nước

Chiến tranh đã ảnh hướng đến Đông Dương, ngày 28- 8- 1939, toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản; giải tán các hội hữu ái, các nghiệp đoàn.

Thực dân Pháp thi hành chính sách thống trị thời chiến, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 22- 9- 1940, phát xít Nhật tiến vào nước ta. Ngày 23- 9- 1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật, từ đó nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức của Pháp và Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc phát xít Pháp- Nhật gay gắt hơn bao gờ hết.

    b. Nôi dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược mới của Đảng

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11 năm 1939), Hội nghị lần thứ bảy (11- 1940), Hội nghị lần thứ tám (5- 1941). Trên cơ sở phân tích tình thình thế giới và trong nước, Ban chấp hành Trung ương đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Trên cơ sở phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp, Ban chấp hành Trung ương nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật. "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được".

 Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, Ban chấp hành Trung ương quyết định tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.

Hai là, quyết định thành lập Mặt trậnViệt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc; đổi tên các hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc..)

 Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng và hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa.

Ban chấp hành Trung ương xác định phương châm, hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù". Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

Ban chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Ban chấp hành trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chí đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc mà Đảng đề ra đã tập hợp mọi người Việt Nam yêu nước vào Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đường lối đó là ngọn cờ đưa đường dẫn lối cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc lập, tự do.

Thực hiện chủ trương của Đảng các cấp bộ đảng và mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng lực lượng cách mạng. Ngày 25- 10-  1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố thành lập, tự đó lan tõa ra cả nước. Tháng 6- 1944, Đảng dân chủ Việt nam ra đời, tham gia làm thành viên của Mặt trận Việt Minh. Ngày 22- 12- 1944, thành lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. ..

2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

a. Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần

- Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô đang truy kích phátxít Đức trên chiến trường châu Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin, Ở châu Á, phátxít Nhật cũng rất nguy khốn.  Mâu thuẫn Nhật- Pháp càng gay gắt. Đêm 9-3-1945, Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng.

Ngay đêm 9- 3- 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".  Trong chỉ thị nêu rõ:

Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi (chính trị khủng hoảng, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt).

Kẻ thù chính là phátxít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật".

Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên quần chúng chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Vì vậy, phải thực hiện những hình thức tuyên truyền và đấu tranh cao hơn và mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy, bãi công chính trị, tổ chức quần chúng phá các kho thóc để giải quyết nạn đói; Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, sẵn sàng tiến lên tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Chỉ thị cũng dự kiến thời cơ khởi nghĩa: khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. Chỉ thị còn nêu rõ rằng, dù sao ta vẫn không được ỷ lại vào người và tự bó tay mình trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.

Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của các địa phương. Vì thế, chỉ thị có tác động  trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.

- Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận

Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.

Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng các chiến khu trong cả nước, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang..

Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang diễn ra liên tiếp. Chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương lần lượt ra đời. Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người khác sống ngắc ngoải. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần chúng. Trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng

b. Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa

Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến hồi kết thúc. Ở châu Âu, tháng 5-1945, Quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn bọn phátxít Đức. Tại châu Á, tháng 8-1945, Quân đội Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn một triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu (TQ). Chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam gục ngã. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phátxít Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng kịp thời quyết định tổng khởi nghĩa.

 Từ ngày 13 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, quyết định phát động tổng khởi nghĩa, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.

Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng.

Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc…. ;

Hội nghị còn quyết định cử Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách và kiện toàn Ban chấp hành Trung ương. Ngay đêm 13- 8- 1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.

Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16-8-1945 Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:

"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Chúng ta không chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!".

Hưởng ứng chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, hơn hai mươi triệu nhân dân ta đã nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công liên tục và dũng cảm, với ý chí “dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8) cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Trước cuộc míttinh của hàng chục vạn đồng bào thủ đô, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

c. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám

- Kết quả và ý nghĩa

Đối với dân tộc ta, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập, tự do, làm chủ vận mệnh của mình.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Về mặt quốc tế, thắng lợi của cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, cung cấp nhiều kinh nghiệm quí báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

 Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết “Chẳng những giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức khác có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng các nước thuộc địa và nửa thuộc địa một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi, nắm chính quyền trong toàn quốc

- Nguyên nhân thắng lợi

Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương và chính quyền tay sai hoang mang, giao động. Đảng đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.

Cách mạng Tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Thắng lợi này còn nhờ có sự chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng của các vị lãnh tụ tiền bối, của đồng bào và chiến sĩ trong cả nước, họ đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của đân tộc

- Bài học kinh nghiệm

Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Khi thời cơ đến, Đảng kiên quyết, kịp thời phát động tổng khởi nghĩa. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

        Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.

        Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

         Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân

Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

         Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phátxít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch.

Những bài học kinh nghiệm nêu trên là những phương hướng hành động đúng, làm cho Đảng trở nên vững mạnh. Với đội ngũ 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công. Những bài học kinh nghiệm đó được vận dụng rất có kết quả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta sau này.

 Câu hỏi thảo luận

1. Trình bày hoàn cảnh lịch sử và nội dung chuyển hướng chiến lược của Đảng 1939- 1945

2. Trình bày hoàn cảnh lịch sử và chủ trương phát động khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng

3. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân  thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Chương 3

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945- 1975)

  I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ

    KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945- 1954)

1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945- 1946)

a. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám 

 Thuận lợi: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Nước Việt Nam trở thành một nước có chủ quyền. Nhân dân trở thành người làm chủ đất nước. Đảng ta trở thành một đảng cầm quyền.

Trên thế giới, hệ thống XHCN đã hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển mạnh. Phong trào dân chủ, hoà bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.

Khó khăn: Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.

Với danh nghĩa quân đồng minh đến tước vũ khí quân Nhật, cuối tháng 8- 1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra, chúng đem theo bọn "Việt quốc" và "Việt cách", chúng ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.

Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Hơn 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.

Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc lâm nguy!

b. Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của đảng

Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạc rõ con đường đi lên của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng la:

Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".

Về xác định kẻ thù, Đảng đã phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy, phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.

Về phương hưóng, nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước ta lúc này là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân".

Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung ương đề ra các công tác cụ thể, như: Về nội chính, cần xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân; Về quân sự, phải động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài; Về ngoại giao, phải kiên trì nguyên tắc "bình đẳng tương trợ", thêm bạn bớt thù trong quan hệ với các nước, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện", chủ trương "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm nghèo của nước nhà, nhất là đã nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng đi dôi với bảo vệ đất nước.

c. Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

Về chính trị: Đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch Chính phủ và trao quyền cho Người lập chính phủ chính thức – Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. ..

Về kinh tế và văn hoá: Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý; giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân vùng bị thiên tai; ... Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt "giặc dốt".

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến công ra các tỉnh Nam Bộ, Thường vụ Trung ương Đảng đã nhất trí với quyết tâm kháng chiến của Xứ uỷ Nam Bộ và kịp thời lãnh đạo nhân dân đứng lên kháng chiến. Đảng đã phát động phong trào cả nước hướng về Nam Bộ. Đảng đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế đương đầu cùng một lúc với nhiều kẻ thù.

Khi tình hình thay đổi, Đảng chủ trương hoà với Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước. Thực hiện chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14- 9- 1946, đã tạo điều kiện cho quân ta có thời gian hoà bình để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

 Ý nghĩa: đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững được chính quyền cách mạng, xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho chế độ mới; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó

Nguyên nhân thắng lợi: Nhờ Đảng đánh giá đúng tình hình và đề ra chủ trương “kháng chiến kiến quốc” đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Bài học kinh nghiệm: (1) xây dựng khối đoàn kết toàn dân, dựa vào dân. Phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chính quyền.(2) Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính, nguy hiểm nhất.

2 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946- 1954)

a. Hoàn cảnh lịch sử

Sau khi đưa quân ra miền Bắc, thực dân Pháp đã bội ước, xóa bỏ các điều khoản đã ký. Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng thêm với chúng được nữa, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.

Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến. Mệnh lệnh chiến đấu đã được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20- 12- 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.

Thuận lợi: cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập của chúng ta, đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa; có “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”; ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt cho nên về lâu dài ta có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự cả trong nước và tại Đông Dương không dễ gì khắc phục được ngay.

Khó khăn: của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Trong khi đó thức dân Pháp có vũ khí tối tân, đã chiếm được hai nước Lào và Camphuchia.

b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp. Cụ thể như:

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, ra ngày 25- 11- 1945, Đảng đã xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.

Ngày 19- 10- 1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Hội nghị đã đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân và dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung ở ba văn kiện, đó là văn kiện Toàn dân kháng chiến (12- 12- 1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19- 12- 1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh.

Nội dung đường lối;

Mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng tháng Tám, “Đánh bọn thực dân phản động Pháp xâm lược giành thống nhất và độc lập”.

Tính chất của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến…. Phải tự cấp, tự túc về mọi măt,

Chương trình kháng chiến: Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí … Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố chế độ dân chủ cộng hoà; Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự cung, tự cấp”

Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Kháng chiến toàn dân: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, không chia tôn giáo, đảng phải, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp, thực hiện mối người dân là một chiến sĩ, mỗi xóm làng là một pháo đài kiên quyết giáng trả quân xâm lược.

Kháng chiến toàn diện: Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến, đồng thời để phát huy mặt mạnh của cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta, nên chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng của địch trên đất nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước. Trong đó:

Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân; Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.

Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy. Bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài

Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung, tự túc, tập trung phát triển  nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

Văn hoá: xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng

Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

Kháng chiến lâu dài:  để chống laị âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi nhân hoà” của ta, chuyển hoá tương quan lực lượng từ chổ ta yếu hơn địch đến chổ ta mạnh hơn  đich, đánh thắng địch. Về đại thể kháng chiến lâu dài trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công.

Dựa vào sức mình là chính: trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, ta ở thế bị cô lập nên phải dựa vào sức mình là chính, không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do, đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Triển vọng kháng chiến: Mặc dù kháng chiến lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với nội dung như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vừa đúng với các nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối đó trở thành ngọn cờ dẫn đắt nhân dân tiến lên giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược.

Thực hiện đường lối nêu trên, từ năm 1947- 1950, Đảng tập trung chỉ đạo chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố vùng tự do, đánh bại các cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc. Mở chiến dịch Biên giới (1950), giành thắng lợi lớn, mở ra quan hệ với các nước.

Đầu năm 1951, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mới, đòi hỏi Đảng phải bổ sung đường lối, đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành. Đại hội họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, thay mặt cho hơn 73 vạn đảng viên.

Đại hội quyết định: do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đảng riêng. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hộicủa Trường Chinh; Đại hội đã thông Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.

Nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam:

Tính chất xã hội: "Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến". Các tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. "Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa".

Đối tượng cách mạng: Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.

Nhiệm vụ cách mạng: "Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội"... Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược...

Động lực của cách mạng: gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân.Nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

Đặc điểm của cách mạng: Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

 Triển vọng của cách mạng: Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Con đường đi lên  chủ nghĩa xã hội: trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp lãnh đạo cách mạng và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”. “Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ XHCN ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”.

Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho CNXH và  đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.

Quan hệ quốc tế:Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới; thực hiện đoàn kết Việt- Trung- Xô, Việt- Miên-Lào.

Đại hội lần thứ hai đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau Đại hội, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Ban Chấp hành Trung ương (khoá II) đã tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề do yêu cầu thực tiễn đặt ra trên tất cả các mặt.

Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 3-1951) tập trung giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và bảo đảm cung cấp cho quân đội; thực hiện phương châm tác chiến là tiêu diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân; tăng cường công tác địch vận.

Hội nghị Trung ương lần thứ hai (tháng 9-1951) đã ra Nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ chung, về công tác củng cố nội bộ, về nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. Hội nghị còn bàn về công tác vùng địch chiếm đóng.

Hội nghị Trung ương lần thứ ba (tháng 4-1952) đã quyết định chỉnh Đảng, chỉnh quân coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội.

Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1-1953) đã kiểm điểm tình hình thực hiện chính sách ruộng đất, chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất.

Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11-1953) quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến đến thắng lợi”. “ Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ”.

Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chi độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH của Đảng được thực hiện trên thực tế ttrong giai đoạn 1951- 1954.

3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm

a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử

- Kết quả thực hiện đường lối

Về chính trị, Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; bộ máy chính quyền các cấp được củng cố; khối đoàn kết toàn dân được mở rộng.

Về quân sự, sau chiến thắng Biên giới (1950), quân ta mở nhiều chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Đông Xuân 1953- 1954, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, từ ngày 13-3-1954 và kết thúc vào ngày 7-5-1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, tạo điều kiện mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, kết thúc cuộc kháng chiến.

Về ngoại giao, cùng với chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra thông tư nói rõ: Hồ Chủ tịch đã tuyên bố rõ "lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam". Ngày 8-5-1954, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc ở Giơnevơ (Thụy Sĩ). Ngày 20 -7-1954, các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.

- Ý nghĩa lịch sử

Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Đối với quốc tế, thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".

b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm

Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta là do các nhân tố cơ bản sau đây:

- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, có sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.

- Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, Mặt trận Liên Việt - được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí thức vững chắc.

- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.

- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.

- Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Camphuchia cùng chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.

- Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu sắc đường lối đó cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh về mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Thứ ta, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.  

II.       ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC,

                      THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954- 1975)

1. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954- 1964

a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7 – 1954

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi. Cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn phức tạp. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.

       Thuận lợi: Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi, Châu Mỹ Latinh; phong trào đấu tranh đòi hoàn bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.

          Miền bắc được giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cách mạng cả nước; thế và lực của cách mạng lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta từ Nam chí Bắc.

       Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh, đang có âm mưu làm bá chủ thế giới, lại đang tiến hành xâm lược nước ta; thế giới đang chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang, đối đầu giữa hai phe XHCN và TBCN; đất nước bị chia làm hai miền, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

            Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng ở hai miền đất nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954. Đặc điểm bao trùm và những thuận lợi khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng hoạch định đường lối.

b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối

       - Quá trình hình thành và nội dung đường lối

Hoàn cảnh nêu trên đòi hỏi Đảng phải đề ra đường lối đúng đắn vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình mới: từ chiến tranh chuyển sang thời bình; đất nước bị chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển đến tập trung.

Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định:  Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

 Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định. Nghị quyết ghi rõ: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên XHCN. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương phgáp hoà bình”.  

Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng nhận định “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đàng ta lãnh đạo bao gồm hai niệm vụ chiến lược: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện đưa cả nước tiến lên CNXH.

Nghị quyết Hội nghị  15 của Trung ương chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”;

Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dụng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. “Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam có khả năng hòa bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.

Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Tới dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.

Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã hoàn chính đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:

            Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở Đong Nam Á và trên thế giới”.

            Nhiệm vụ chiến lược: cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có hai nhiệm vụ chiến lược: một là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ ttrong cả nước.

            Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.

            Mối quan hệ giữa cách mạng hai miền: Do thực hiện mục tiêu chung, hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau và tác dụng thúc đẩy lẫn nhau

            Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển toàn bộ cách mạng Việt Nam và với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.

            Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ, sẵn sàng hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Nhưng chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng đối phó với mọi tình thế, Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây chiến tranh hòng câm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

            Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta.

- Ý nghĩa của đường lối:

Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.

- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nươc Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động được sức mạnh của cả nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

- Đường lối đó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề khong có tiền lệ tỏng lịch sử, vừa đúng với Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

- Đường lối cách mạng chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quan và dân ta phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai của chúng ở miền Nam.

2. Đường lối trong giai đoạn 1965- 1975

a. Bối cảnh lịch sử

Từ năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh của Mỹ và các nước đồng minh vào miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc nước ta. Trước tình hình đó, Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

Thuận lợi: Khi chúng ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, chúng ta nhận được sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN và sự ủng hộ của nhận loại tiến bộ. Miền Bắc đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm. Sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam được đẩy mạnh. Ở miền Nam, quân và dân ta đã vượt qua thời kỳ khó khăn, phong trào đấu tranh đã phát triển mạnh.

Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô với Trung Quốc trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam; Việc đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.

Tình hình đó đặt ra cho Đảng nhiều vấn đề phải giải quyết, phải đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối

- Quá trình hình thành và nội dung đường lối:

Đến năm 1965, trước hành động gây chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, đòi hỏi Đảng phải có đường lối đúng đắn cho cả miền Bắc và miền Nam. Để giải quyết vấn đề đó, trong năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp liên tiếp hai hội nghị. Hội nghị 11 (3-1965) và Hội nghị 12 (12-1965) để đánh giá tình hìnhvà đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

Về nhận định tình hình và đề ra chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, tiền hành trong thế thua, thế bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ nhận định đó, Trung ương quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nhà”

Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công, liên tục tiến công. Tiếp tục duy trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời, tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.

Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền:: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”

Ý nghĩa của đường lối:Đường lối nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng:

- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập, tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

- Thể hiện tư tưởng nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh.

- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để cả dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

3. Kết qủa, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và, kinh nghiệm 

a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử

- Kết quả

Ở miền Bắc, thực hiện đường lối của Đảng, sau 21 năm nổ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng CNXH đã đạt được thành tựu đáng tự hào. Một chế độ mới, chế độ XHCN bước đầu hình thành; Miền Bắc đánh thắng oanh liệt chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; Miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước, nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.

Ở miền Nam, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Từ chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt; chiến tranh cục bộ đến Việt Nam hoá chiến tranh, mà đỉnh cao là đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam

- Ý nghĩa lịch sử

 Đối với dân tộc ta, với thắng lợi này, nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại miền tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quí báu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.

Đối với cách mạng thế giới, bằng thắng lợi vĩ đại của mình, nhân dân ta đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bảo vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội; làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở đầu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tăng cường lực lượng của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.

Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".

b. Nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm

- Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.

Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc".

Thắng lợi đó cũng là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Thắng lợi đó còn là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.

- Kinh nghiệm lịch sử

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đã để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị lịch sử và thực tiễn sâu sắc.

Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.

Đường lối đó của Đảng thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với trào lưu của cách mạng thế giới nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng hùng hậu của nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một nhân tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, biện pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi đến thắng lợi.

Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Để chống lại kẻ xâm lược hùng mạnh phải tiến hành chiến tranh nhân dân. Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương pháp chiến đấu  đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo. Đó là phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm: lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân,…. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân đã được phát triển đến một đỉnh cao mới.

Bốn là, trên cơ sở  đường lối, chủ trương, chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ chức thực hiện giỏi, năng động, sáng tạo cúa các cấp bộ đảng trong quân đội, của các ngành, các cấp, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.  

Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông Dương và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước XHCN, của nhân dân và chính phủ các nước  yêu hòa bình và công lý trên thế giới.

Câu hỏi thảo luận:

1. Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945- 1946

2. Hoàn cảnh lịch sử, quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

3.  Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

4. Hoàn cảnh lịch sử, quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước  (1965- 1975)

6. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân và kinh nghiệm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Chương 4

ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ

I. CÔNG NGHIỆP HOÁ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI

1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá.

a. Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hoá XHCN

    Trước đổi mới nước ta đã có 25 năm tiến hành CNH theo hai giai đoạn: ở miền bắc (1960- 1975); cả nước (1975- 1985)

- Ở miền Bắc, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm của miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, Đại hội III của Đảng (1960) xác định: Muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá XHCN. Tức là khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hoá đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

             Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác định là xây dựng nền kinh tế XHCN cân đối hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội . Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

            Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá, Hội nghị Trung ương bảy khoá III (6- 1962), nêu phương hướng chỉ đạo xâydựng và phát triển công nghiệp là:  Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; Kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp; Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; Ra sức phát triển công nghiệp Trung ương đồng thời phát triển công nghiệp địa phương

- Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội lần thứ IV của đảng (12- 1976),  đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”. Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản  về công nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có sự bổ sung, phát triển thêm.

Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hoá 5 năm 1976- 1981, Đảng đã rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên điều quan trọng là phải xác định bước đi của công nghiệp hoá cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3- 1982) xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong thời kỳ này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội coi đó là nội dung chính của công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn bước đi của công nghiệp hoá phù hopự với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.

b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới.

Nhìn chung từ năm 1960- 1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ, với các đặc trưng chủ yếu:

- Công nghiệp hoá theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.

- Công nghiệp hoá chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN; chủ lực thực hiện công nghiệp hoá là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước, việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hoá thông qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các qui luật của thị trường.

- Nóng vội, giản đơn, chủ quan, duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế, xã hội.

2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa

 Công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, những tiền đề vật chất hết sức hạn chế, lại chịu hậu quả của chiến tranh, nhưng cũng đã đạt được những kết quả quan trọng:

- So với 1955, xí nghiệp tăng 16,5 lần, nhiều khu công nghiệp đã hình thành, có những cơ sở đầu tiên của ngành công nghiệp nặng quan trọng như: Điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất.

- Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn, tăng 19 lần so với 1960.

Những thành quả đạt được nêu trên có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở ban đầu để nước ta tiến nhanh hơn trong giai đoạn sau.

b. Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hâu. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

- Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp chỉ mới bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào tình trạng khủng hoảng và kinh tế - xã hội.

- Nguyên nhân:

Về khách quan: Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.

Về mặt chủ quan, chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, về bố trí cơ cấu kinh tế.. Đó là những sai lầm xuất phát từ tư tưởng chủ quan, duy ý chí trong nhận thức và trong chủ trương công nghiệp hoá.

II. CÔNG NGHIỆP HOÁ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.      Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá.

a.      Đại hội lần thứ VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công

nghiệp hoá thời kỳ 1960- 1985

             Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá, thời kỳ 1960- 1985, cụ thể:

            - Chúng ta đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế … Do tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết; mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, duy trì quá lập cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp.

            - Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư thường xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến hiệu quả và khả năng thực tế, không kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp, không thừa nhận tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Kết quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

            - Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết Đại hội lần thứ V, như vẫn chưa coi nông nghiệp là mặt  trận hàng đầu.

            b. Qúa trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá từ Đại hội VI đến Đại hội X

            Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã cụ thể hoá nội dung công nghiệp hoá trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được ba chương trình mục tiêu: lương thực- thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm đạt mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, xã hội và tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của CNH trong chặng đường tiếp theo.

            Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991), thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nêu lên chủ trương “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại nhằm từng từng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH”. Đến Hội nghị Trung ương bảy khoá VII (1- 1994) đã có bước đột phá trong nhận thức về công nghiệp hoá. Hội nghị đã đưa ra khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn bộ các hoạt động của sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

            Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhìn lại đất nước trong 10 năm đổi mới đã có nhận định rất quan trọng: nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội tiếp tục khẳng định các quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu ra ở Hội nghị Trung ương bảy (1- 1994). Đại hội nêu mục tiêu công nghiệp hóa “ Đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Và Đại hội đưa ra sáu quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá và định hướng những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90, thế kỷ XX.

            Đại hội IX (4- 2001) và Đại hội X (4- 2006) tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về công nghiệp hoá.

            - Con đường công nghiệp hoá ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cần thiết của nước ta nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Những nước đi sau có điều kiện tận dụng kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ của các nước đi trước, tận dụng xu thế hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

            Tuy nhiên để công nghiệp hoá rút ngắn chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, từng bược phát triển kinh tế tri thức.

            - Hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là phát triển nhanh và có hiệu quả các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu

            - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hoá trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại

            - Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và sản phẩm nông nghiệp.

2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá

a. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá

            Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng- an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

            Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt mục tiêu cụ thể. Đại hội X của Đảng xác định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

b. Năm quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những quan điểm chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ bảy (1- 1994) nêu ra và được bổ sung, phát triển qua các Đại hội của Đảng. Dưới đây là khái quát lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ đổi mới.

Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.

            Đại hội X nhận định “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập tác động đến quá trình toàn cầu hoá, tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó ta cần và có thể tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn thời gian khi lựa chọn con đường phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

            Hơn nữa, nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hoá.

            Vậy kinh tế tri thức là gì?

          Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng sống. Trong nền kinh tế tri thức những ngành kinh tế có tác động to lớn đối với sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành công nghệ truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học và công nghệ cao.

Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

            Khác với công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới, tiến hành trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lực lượng làm công nghiệp chỉ có Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành trong nền kinh tế thị trương định hướng XHCN, nhiều thành phần kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường, không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vì, khi đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô như thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính đến hiệu quả kinh tế.

            Mặt khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh tế của thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập còn khai thác thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Đó là cách kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững.

            Để tăng trưởng kinh tế cần có năm yếu tố chủ yếu: vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước, thì con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.

            Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo ra công nghệ mới.

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

            Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phải phát triển khoa học và công nghệ là một tất yếu và bức xúc. Phải đẩy nhanh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

            Xây dựng CNXH ở nước ta thực chất là thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó trước hết phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy mới có khả năng xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục …rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển.

            Sự phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo vệ sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học chính là sự bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.

            Nắm vững và vận dụng sáng tạo những quan điểm nêu trên nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà Đảng đã đề ra.

3. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức

a. Nội dung

Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.

Nội dung cơ bản của quá trình này là:

- Phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng các nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại

- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế- xã hội.

- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.

- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.

b. Định hướng phát triển các ngành và các lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.

(1) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân

Một là, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hoá. Bởi vì, công nghiệp hoá là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Hơn nữa nông nghiệp, nông thôn là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp, thành thị và là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá. Vì vậy, quan tâm đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá. Trong những năm tới định hướng phát triển cho quá trình này là:

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường

- Tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.

Hai là, qui hoạch phát triển nông thôn.

Khẩn trương xây dựng các qui hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

 Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đồng bộ như thuỷ lợi, giao thông, điện, đường, trường, trạm….;

Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nến sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí

Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn

Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.

Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

(2) Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

Tính qui luật của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

- Đối với công nghiệp và xây dựng

+Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động…

+ Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.

+ Khẩn trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào một số dự án quan trọng như về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu...

- Đối với dịch vụ:

+Tạo bước phát triển vượt bậc của ngành dịch vụ, nhất là ngành dịch vụ có chất lượng cao, tiềm năng lơn và sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tộc độ tăng trưởng GDP.

+Tiếp tục mở rộng và và nâng cao chất lượng một số ngành: vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông..

+ Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công cộng…

(3) Phát triển kinh tế vùng

Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Xác định đúng đắn cơ cầu vùng có ý nghĩa quan trong, nó cho phép khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng, trong những năm tới phải:

+ Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng.

+ Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này có đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển của đất nước.

(4) Phát triển kinh tế biển

+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.

+Hoàn chỉnh qui hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển. Đẩy nhanh ngành công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản.

(5) Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ

Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức cần phải:               

+ Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn khoảng 50% lực lượng lao động xã hội.

+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số lĩnh vực then chốt.

+ Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức.

+ Đổi mới cơ bản quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ

(6) Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên

Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, công nghiệp hóa đi liền với hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ và sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định:

+ Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường; Tích cực phục hồi môi trường và các hệ sinh thái bị phá hủy. Tiếp tục phủ xanh đất trống đồi núi trọc..

+ Từng bước hiện đaị hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng-thủy văn; chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.

+ Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững;

+ Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú ý lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

Những định hướng nêu trên nhằm phát huy thế mạnh của các ngành, các lĩnh vực trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.

4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa

   Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhứng thành tựu quan trọng, trong đó có nhứng thành tựu nổi bật của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể:

Một là, cơ sở vật chất- kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, đến nay cả nước đã có hơn 120 khu công nghiệp, khu chế xuất. Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất  như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hoá chất cơ bản, khai thác và hoá dầu đã và đang có bước phát triển mạnh mẽ. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng: sân bay, bến cảng, đường bộ … đã được xây dựng

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dạt được những kết quả quan trọng. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005.Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 24,6% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005; cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng.

Cơ cấu lao động đã có chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 đến 2005, tỷ trọng lao động công nghiệp và xây dựng tăng lên từ 12,1% lên 17,9%;  dịch vụ từ 19,7% lên 25, 3%; lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 68,2% còn 56,8%.

Ba là, những thành tựu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 2001- 2005 đạt 7,51%. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Những thành tựu trên có ý nghĩa quan trọng, góp phần khẳng định sự đúng đắn của đường lối coong nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng đề ra ; tạo ra tiền đề, điều kiện để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

b. Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:

            + Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hoá.

            + Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy.

            + Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Trong công nghiệp sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỷ trọng lao đông nông nghiệp còn cao..

            + Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi vào cơ cấu kinh tế hiện đại.

            + Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.

            + Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.

            Nhìn chung mặc dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

- Nguyên nhân: Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, như:

            + Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để phát huy và sử dụng tốt nhất các nguồn lực vào công cuộc phát triển kinh tế -xã hội.

            + Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả.

            + Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.

            Ngoài ra còn có những nguyên nhân cụ thể, trực tiếp như công tác qui hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến qui hoạch “treo” khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém.

Câu hỏi thảo luận:

1. Trình bày nội dung đường lối CNH trước thời kỳ trước đổi mới.

2. Trình bày nội dung đường lối CNH, HĐH từ Đại hội VIII đến Đại hội X của Đảng.

3. Nêu mục tiêu và những quan điểm của Đảng về CNH, HĐH

Chương 5

ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới

a. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp

Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:

Một là, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết, áp đặt từ trên xuống dưới. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lãi thì Nhà nước thu, lỗ thì Nhà nước bù.

Thứ hai, Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.

Thứ ba, quan hệ hàng hoá- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ vật chất là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát- giao nộp”.

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.

Cơ chế bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu như:

Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá tài sản, vật tư, thiết bị, hàng hoá thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị trường, hoạch toán kinh doanh chỉ là hình thức.

Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước qui định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên chức thông qua tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành tiền lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.

Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng của ngân sách, vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin- cho”.

Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này còn tác đụng nhất định cho phép tập trung tối đa nguồn lực kinh tế vào mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn. Khi nền kinh tế chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên cơ sở áp dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ thì cơ chế này bộc lộ những bất hợp lý, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và cả nước ta lâm vào khủng hoảng.

Trước đổi mới chưa thừa nhận sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường, không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần.

b. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

 Đề cập đến sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực để phát triển, làm suy yếu kinh tế, xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế , kìm hãn sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết, cấp bách.

2.      Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới

a. Tư duy của Đảng ta về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Dại hội VIII.

            So với thời kỳ trước đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường trong giai đoạn này có sự thay đổi cơ bản và sâu sắc.

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có mầm mống từ xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá có cùng bản chất đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và trao đổi thông qua quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đều dựa trên sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Trao đổi mua bán hàng hoá là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hoá ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hoá ở qui mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao, thị trường trở thành yếu tố quyết định đến sự tồn tại hay không tồn tại của người sản xuất hàng hoá. Kinh tế thị trường lấy khoa học và công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hoá cao.

Kinh tế thị trường có cơ sở phát triển lâu dài, nhưng đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hoá, do đó, kinh tế thị trường  với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển của nhân loại.

Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ quản lý khác.. Đến 1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.

Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất cứ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

- Giá cả cơ bản do quan hệ cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ, hoàn hảo.

- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui luật vốn có của kinh tế thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu,  qui luật cạnh tranh có hệ thống pháp qui kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước

Với đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn với sự phát triển kinh tế- xã hội., kể cả trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến Đại hội X

            Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?

Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN là: một kiểu tổ chức kinh tế vừa theo qui luật kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội”. Định hướng XHCN được thể hiện trên ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối nhằm mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

            Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết đó không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cũng không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho nền kinh tế thị trường nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Kế thừa tư duy Đại hội IX, Đại hội X của Đảng làm sáng tỏ thêm một bước những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, thể hiện ở 4 tiêu chí lớn là: 

Về mục đích phát triển: Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm:

- Thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.

Mục tiêu trên đây thể hiện phát triển kinh tế vì con người. Trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển sức sản xuất, phát triển kinh tế làm cho mọi người được hưởng những thành quả của sự phát triển. Điều đó khác hẵn với mục tiêu tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích nhà tư bản, xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản. 

Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân, vùng, miền ..phát huy tối đa nội lực, tạo sự phát triển nhanh của kinh tế.

Trong nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là sự thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Để đảm bảo được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chứ không phải dựa vào sự bao cấp, cơ chế “xin- cho” hay độc quyền kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần hóa là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nước, đảm đương tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Vê định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

- Trên lĩnh vực xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển, từng chính sách là để hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, từng bước thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết các lĩnh vực xã hội bao gồm y tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

- Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để khuyến khích sự đóng góp của các cá nhân cho sự phát triển, phân phối còn theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác.

Về quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.

Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng quan trọng nhất để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế…”

II. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

     ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.

1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản

a. Một số khái niệm

            - Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như: thể chế chính trị, thể chế giáo dục …. Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu và các đạo luật, qui chế, qui tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hoá, văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành của nền kinh tế.

Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ qui tắc, luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường.

Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:

- Các qui tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường- các bên tham gia thị trường với tư cách là chủ thể thị trường.

- Cách thức thực hiện các qui tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.

- Các thị trường - nơi hàng hoá được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, qui định của luật lệ.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo qui luật thị trường, vừa chịu sự chi phối của các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế thị trường, trong đó thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được hình thành trên những nét cơ bản.

b. Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là làm cho nó phù hợp với nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.

Những năm trước mắt cần đạt mục tiêu:

Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển thuận lợi.

Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.

Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.

Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân trong quản lý phát triển kinh tế xã hội.

c. Quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

(1) Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận đụng đúng đắn các qui luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam, đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế.

 (2) Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố  thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá.

 (3) Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn nước ta, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

(4) Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm.

 (5) Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2. Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiên thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

a. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

            Muốn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một số điểm cần thống nhất là: Cần thiết sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội; kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN; kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo qui luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế của CNXH và các yếu tố đảm bảo tính định hướng XHCN.

b. Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.

            - Hoàn thiện thể chế về sở hữu:

            + Sự cần thiết hoàn thiện thể chế về sở hữu: Kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên sự tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Đó là yêu cầu khách quan. Do đó các yêu cầu này cần được khẳng định trong các qui định của pháp luật đảm bảo các quyền vè lợi ích của chủ sở hữu. Pháp luật phải qui định về sở hữu đối với các tài sản mới như: trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước ..

            + Phương hướng cơ bản hoàn thiện chế độ sở hữu là:

            Khẳng đinh đất đai thuốc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, đồng thời tôn trọng các quyền của người sử dụng.

            Tách biệt vai trò Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế- xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản vốn của Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

            Qui định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại tài sản, đồng thời qui định trách nhiệm của họ đối với xã hội.

            Ban hành các qui định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài ở Việt Nam.

            - Hoàn thiện thể chế về phân phối:

            Hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được phân phối theo cơ chế thị trường và chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước, bảo đảm hiệu quả kinh tế- xã hội. Chính sách phân phối và phân phối lại phải đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, của người lao động và của doanh nghiệp.

            - Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế. Đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; Đổi mới, phát triển các HTX, tổ hợp tác theo yêu cầu cơ chế thị trường, theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng; Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.

c. Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.

            - Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Hoàn thiện khung pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Đồng thời hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết các tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế.

            - Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường.

            - Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế chính sách quản lý, hổ trợ các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thị trường công nghệ.

d.  Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.

            - Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi, vùng căn cứ cách mạng trước đây.

            - Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội.

            - Hoàn thiên luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm.

e.   Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội.

            - Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở chổ chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ  đầy đủ và cụ thể hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt những nội dung về định hướng xã hội chủ nghĩa để ra sự đồng thuận trong toàn xã hội. 

            - Đổi mới và nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước thể hiển ở chổ phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            - Các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nghề nghiệp và nhân dân có vai trò quan trong trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy vai trò của họ, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cơ chi chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi các chủ trương phát triển kinh tế- xã hội.

3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả và ý nghĩa

            - Kết quả:

            Một là, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

            Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra động lực và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất phát triển.

            Ba là, các loại thị trường đã cơ bản ra đời và từng bước phát triển, thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang đi vào cuộc sống thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Các doanh nghiệp, doanh nhân được tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.

            Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.

            - Ý nghĩa: Sau hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng đã hình thành và đi vào cuộc sống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, khắc phục khủng hoảng về kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

            b. Hạn chế và nguyên nhân

            - Hạn chế: Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp với yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế; Vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất là khi cổ phần hoá; Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả, hiệu lực quản lý còn thấp, tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng; Cơ chế chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội chậm đổi mới, chất lượng y tế, giáo dục, đào tạo còn thấp.

            - Nguyên nhân: Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của nhà nước còn chậm, nhất là giải quyết các vấn đề bức xúc; Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc  và các tổ chức chính trị xã hội còn yếu.

Câu hỏi thảo luận:

1.Trình bày cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới

2. Vì sao Việt Nam phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

3. Quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ ĐH VI đến ĐH X

4. Mục tiêu và quan điểm hoàn thiện thể chi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chương 6

ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

            Trước 1986 và trong một số năm đầu của quá trình đổi mới, trong các văn kiện của Đảng dùng khái niệm “chuyên chính vô sản”. “hệ thống chuyên chính vô sản”. Đến tháng 3- 1989, Hội nghị Trung ương sáu, khóa VI, lần đầu tiên dùng khái niệm hệ thống chính trị. Từ Đại hội VII đến nay chúng ta chỉ dùng khái niệm hệ thống chính trị.

            Hệ thống chính trị của CNXH được quan niệm là hệ thống các tổ chức chính trị-  xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Hệ thống chính trị này bao trùm và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội; giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội; giữa các yếu tố xã hội, tập thể và cá nhân về vấn đề quyền lực, về hoạch định đường lối, chính sách phát triển xã hội.

            Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể chính trị- xã hội: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh Việt Nam và mối quan hệ gữa các thành tố trong hệ thống.

I.                   ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

                THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1945- 1989)

1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị

*  Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (giai đoạn 1945- 1954)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời (1945), đánh dấu sự hình thành ở nước ta một hệ thống chính trị cách mạng với các đặc trưng:

-  Có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng, đánh đuổi bọn xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến làm cho người cày có ruộng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho CNXH.

-         Dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hết sức rộng rãi, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, ý thức hệ, chủ thuyết, không chủ trương đấu tranh giai cấp, đặt lợi ích dân tộc là cao nhất.

-         Có chính quyền tự xác định là công bộc của dân, coi dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ sống và làm việc giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.

-  Vai trò lãnh đạo của Đảng (11- 1945 đến 2- 1951) được ẩn trong vai trò Quốc hội và Chính phủ, trong vai trò cá nhân Hồ Chí Minh và các đảng viên trong Chính phủ.

- Có Mặt trận Liên Việt và nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi làm việc tự nguyện, không hưởng lương

- Cơ sở kinh tế chủ yếu của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân là nền sản xuất tư nhân hàng hoá nhỏ, phân tán, tự cung, tự cấp, tự túc..

- Đã xuất hiện sự giám sát của xã hội dân sự đối với Nhà nước và Đảng; sự phản biện giữa hai đảng phái (Xã hội và Dân chủ) đối với Đảng cộng sản. Nhờ đó đã giảm thiểu rõ rệt các tệ nạn thường thấy ở bộ máy công quyền.

* Hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn 1955- 1975 và 1975- 1989

     Ở nước ta khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng XHCN, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.

      Bước ngặt ấy đã diễn ra ở miền Bắc từ năm 1955 và trên cả nước từ 1975. Với thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng chuyển sang giai đoạn tiến hành cách mạng XHCN. Dó đó, hệ thống chính trị nước ta chuyển sang giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm vi nửa nước sang hệ thống chuyên chính vô sản hoạt động trên phạm vi cả nước.

     Đại hội IV của Đảng nhận định: muốn đưa sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng “điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.

 a. Cơ sở hình thành hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta.

- Một là, lý luận Mác- Lênin về thời kỳ quá độ, về chuyên chính vô sản. C.Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ đến xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, nhà nước của thời kỳ ấy không thể cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh muốn chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài. Bản chất của chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới. Như vậy, chuyên chính vô sản là một tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

- Hai là, đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Về đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn mới, Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng có đoạn viết: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-  kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học- kỹ thuật là then chốt”. Đại hội lần thứ V của Đảng (1982) tiếp tục khẳng định đường lối cách mạng XHCN mà Đại hội IV đề ra.. Như vậy, từ Đại hội III (1960) đến khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản. Do vậy, tên gọi chính thức của hệ thống này là hệ thống chuyên chính vô sản.

- Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta được hình thành từ năm 1930 và đã bắt rễ vững chắc trong lòng dân tộc và xã hội. Điểm cốt lõi của cơ sở chính trị đó là sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng.

- Bốn là, cơ sở kinh tế của hệ thống chuyên chính vô sản là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là một mô hình kinh tế hướng tới mục tiêu xóa bỏ nhanh chóng và hoàn toàn chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, với ý nghĩa là nguồn gốc và cơ sở của chế độ người bóc lột người, thiệt lập chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; loại bỏ triệt để cơ chế thị trường, thiết lập cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.

- Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên chính vô sản là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Kết quả của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi XHCN đã tạo ra một kết cấu xã hội bao gồm hai giai cấp và một tầng lớp: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tình hình này đã ảnh hưởng đến sự thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc.

b.      Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản mang đặc điểm của Việt Nam.

         Trong giai đoạn này việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN; tức là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chính trị gồm năm nội dung sau:

- Một là, xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hoá bằng pháp luật và tổ chức.

- Hai là, xác định Nhà nước trong thời kỳ quá độ là “Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ  xã hội chủ nghĩa”, là một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với sự phát triển của xã hội. Muốn thế Nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân, vì dân.

- Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước XHCN.

- Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra hoạt động của Nhà nước, đồng thời là trường học về CNXH. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, nânng cao giác ngộ XHCN cho quần chúng. Muốn thế các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ chức và nội dung hoạt động cho phù hợp với điều kiện mới.

- Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý là cơ chế  chung trong quản lý toàn xã hội.

2. Đánh giá thực hiện đường lối.

a.      Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

-         Kết quả và ý nghĩa

Hệ thống chính trị trong giai đoạn này được xây dựng với nội dung như trên đã góp phần mang lại những thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm đầu xây dựng CNXH trên cả nước. 

     Đã xây dựng được mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, hình thành cơ chế chung trong hoạt động của hệ thống chính trị, ở tất cả các cấp, các địa phương. Khắc phục được khá nhiều cách hiểu, cách làm chuyên chính cực tả, cực đoan đã từng diễn ra trong những năm trước đây (1954- 1975)

-         Hạn chế và nguyên nhân:

Trong hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn này, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp chưa được xác định rõ; Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

            Nguyên nhân chủ quan: Duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hiện bảo thủ, trì trệ; bệnh chủ quan, duy ý chí và tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh trong vai trò lãnh đạo của Đảng.

II. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

                      THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.Quá trình hình thành đường lối đổi mới hệ thống chính trị

          - Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị.

            Đảng ta khẳng định đổi mới là cả một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Phải tập trung đổi mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới thành công kinh tế mới tạo điều kiện đổi mới hệ thống chính trị. Mặt khác nếu không đổi mới hệ thống chính trị thì đổi mới kinh tế sẽ gặp khó khăn trở ngại. Hệ thống chính trị được đổi mới kịp thời, phù hợp là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế.

            - Nhận thức mới về mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị.

            Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân”. “Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”.

            - Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

            Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN .. đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

            Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

            - Nhận thức mới về cơ cấu và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.

            Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

            - Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính trị

            Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được đề ra ở Hội nghị lần thứ hai của BCH Trung ương Đảng khóa VII (1991), đến Hội nghị giữa nhiệm kỳ và các Đại hội VIII, IX, X, tiếp tục khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và làm rõ thêm nội dung của nó. Đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và Pháp luật; Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, sống và làm việc theo khả năng của minh trong phạm vi pháp luật cho phép.

            - Nhận thức mới về vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị.

            Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng quan tâm xây dựng, củng cố Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị- xã hội, phát huy vai trò của các thành tố này trong quản lý, điều hành xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.

2. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới.

a.      Mục tiêu

            Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chưc và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng  và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

     b. Bốn quan điểm

- Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm từng bước đổi mới chính trị.

- Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hay thay đổi bản chất của nó mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn, đặc biệt phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

- Ba là, đổi mới hệ thông chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có hình thức, bước đi và cách làm phù hợp

- Bốn là, đổi mới mối quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với nhau và với xã hội, tạo nên sự vận động cùng chiều, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

 b. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị

*Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.

            Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. Trong đó vấn đề mấu chốt và khó khăn nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xẩy ra là Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.

            Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiền hành đồng bộ với đổi mới các mặt công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, thích ứng với đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

            Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung, dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội.

            Đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm cao, đồng thời phải thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.

            Đổi mới phương thức hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đối với mỗi cấp, mỗi ngành vừa quán triệt nguyên tắc chung, vừa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp.
* Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

          Chúng ta hiểu định chế nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước riêng. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước. Còn nhà nước pháp quyền là cách tổ chức phân công quyền lực nhà nước.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng theo 5 đặc điểm sau đây:

- Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp

- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật và đảm bảo cho hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

- Nhà nước tôn trọng và bảo đả quyền con người, quyền công dân

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Để xây dựng được nhà nước pháp quyền cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

            + Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể và khả thi của các qui định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền

            + Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới qui trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh.

            + Đầy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

            + Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.

            + Nâng cao hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.

* Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

 chính trị xã hội trong hệ thống chính trị.

            Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội có vai trò quan trong trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng..

         Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

            Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật thanh niên, Luật công đoàn… qui chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

            Đổi mới hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội cần phải khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức; phải nâng cao chất lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách gần dân, trọng dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

3. Đánh giá sự thực hiện đường lối

a.      Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa

    * Kết quả thực hiện chủ trương đổi mới hệ thống chính trị

-  Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta có nhiều đổi mới góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện về dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

-         Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được phân định rõ hơn, phân biệt quản lý nhà nước với  quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước từng bước được kiện toàn.

-         Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội đã có nhiều đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, phát huy dân chủ.

-         Đảng thường xuyên coi trọng xây dựng, chỉnh đốn, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong điều kiện mới.

* Ý nghĩa của kết quả đổi mới

    - Các kết quả đạt được khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, khắc phục được những khuyết điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây.

   - Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã góp phần làm nên thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.

b. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế:Trong thực tế hệ thống chính trị nước ta còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội chưa ngang với đòi hỏi của tình hình.

* Nguyên nhân:

-  Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về đổi mới hệ thống chính trị chưa có sự thống nhất cao, trong hoạch định thực hiện một số chủ trương, biện pháp còn ngập ngừng, lúng túng, thiếu dứt khoát, không triệt để.

- Việc đổi mới hệ thống chính trị chưa được quan tâm đúng mức, còn chậm trễ so với đổi mới kinh tế.

- Lý luận về hệ thống chính trị, về đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta còn nhiều điểm chưa sảng tỏ, nên chưa thực sự thống nhất trong nhận thức một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị.

Câu hỏi thảo luận:

1.  Khái quát đường lối xây dựng  hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới

2.  Trình bày mục tiêu, quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới.

3. Trình bày vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị.

Chương 7

 

ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ

VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

I.                   QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI

                               XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ

1. Thời kỳ trước đổi mới

a. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới

      - Trong những năm 1943- 1954

            Năm 1943, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã thông qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam, do đồng chí Trường Chinh dự thảo. Đề cương xác định lĩnh vực văn hoá là một trong ba mặt trận của cách mạng Việt Nam và đề ra ba nguyên tắc của nền văn hoá mới: Dân tộc hoá (chống lại ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa), Đại chúng hoá (chống lại mọi chủ trương hành động làm cho văn hoá phản lại hoặc xa rời quần chúng nhân dân), khoa học hoá (chống lại tất cả những gì làm cho văn hoá phản tiến bộ, phản khoa học). Nền văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức, dân chủ về nội dung.

      Ngày 3- 9- 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày với các bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá là: chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân. Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và tính thời sự của nó.

            Đường lối văn hoá kháng chiến được hình thành dần tại chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của BCH TW Đảng và trong bức thư nhiệm vụ của văn hoá Việt Nam của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh (16- 11- 1946) và tại Báo cáo chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, trinhg bày tại Hội nghị văn hoá cứu quốc (7- 1948)

            Đường lối đó gồm các nội dung: xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc; cổ động văn hoá cứu quốc; xây dựng nền văn hoá dân chủ Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng, mà khẩu hiệu thiết thực lúc đó là Dân tộc, Dân chủ (nghĩa là yêu nước và tiến bộ); phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc; ngăn ngừa sự xâm nhập của văn hoá thực dân, phản động; đồng thời học hỏi cái hay, cái mới của văn hoá thế giới; hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho cuộc kháng chiến.

            - Trong những năm 1955- 1986

            Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành bắt đầu từ Đại hội III (1960) mà điểm cốt lỏi là chủ trương tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật; là chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. Mục tiêu là làm cho nhân dân ta thoát nạn mù chữ và thói hư, tật xấu, có trình độ ngày càng cao..

            Đại hội IV và Đại hội V tiếp tục phát triển đường lối của Đại hội III, xác định nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nhiệm vụ của văn hoá trong giai đoạn này là tiến hành cải cách giáo dục, phát triển khoa học, văn hoá nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể.

b.      Đánh giá sự thực hiện đường lối

- Thành tưu và ý nghĩa:

Nền văn hoá dân chủ mới- văn hoá cứu quốc  đã bước đầu được hình thành và đạt nhiều thành tựu trong kháng chiến- kiến quốc. Trong những năm 1955- 1986, công tác tư tưởng văn hoá đạt được nhiều thành tựu to lớn, đã góp phần nâng cao dân trí, cổ vũ quần chúng sản xuất, chiến đấu, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới.

-         Hạn chế và nguyên nhân:

Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống văn học, nghệ thuật còn có những mặt bất cập…

Sở dĩ còn hạn chế như vậy là vì: đường lối xây dựng và phát triển văn hoá giai đoạn này (1955- 1986) bị chi phối bởi tư duy chính trị “nắm vững chuyên chính vô sản” mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường, giữa hai phe, đấu tranh ý thức hệ; Mục tiêu, nội dung của cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị qui định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là xoá bỏ triệt để tư hữu, xoá bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt; Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục, kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.

2. Trong thời kỳ đổi mới                                                

a. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá

            Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng, vai trò, vị trí của văn hoá trong phát triển kinh tế- xã hội, nhập nhập quốc tế.

            Đại hội VI, xác định khoa học- kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế- xã hội, có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

            Cương lĩnh do Đại hội VII thông qua, đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan điểm nền văn hoá Việt Nam có nội dung XHCN, có tính dân tộc, tính đảng và tính nhân dân sâu sắc đã nêu ra trước đây. Cương lĩnh cũng đưa ra chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.

            Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X và nhiều nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đây là tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với tầm nhìn chung của thế giới đương đại.

            Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII khẳng định khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới.

            Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa VIII (7- 1998) nêu 5 quan điểm chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ CNH, HĐH. Hội nghị Trung ương chín khóa IX (1- 2004) xác định thêm “phát triển văn hóa  đồng bộ với phát triển kinh tế”. Hội nghị Trung ương mười khóa IX (7- 2004) đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng nhận thức của Đảng về vị trí của văn hóa.

            b. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển văn hoá

Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Quan điểm này chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển xã hội.

            - Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội.

             Văn hoá phản ảnh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.

            Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội. Vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hoá và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (thí dụ cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà- Làng- Nước) đồng thời nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội- văn hoá. (bao gồm văn hoá vật thể, phi vật thể)

           Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng các dân tộc vượt qua sóng gió, thác ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển.

            Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế- xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng văn hoá phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới.

            - Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển

            Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội  nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân tộc là văn hoá.

            Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng cho thấy ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần kinh tế tạo ra. Nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có những bước tiến đáng kể so với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế kế hoách hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở sự phát triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và cơ chế quản lý, còn do sự giải phóng về tư tưởng và phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ,  cán bộ quản lý và lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trong nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy.

            Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới không ngừng. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hoá, nghĩa là trong tri thức và khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.

            Nói cách khác, hàm lượng văn hoá trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế- xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu.

-         Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển.

Mục tiêu xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hoá.

Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 1991- 2000 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”, đồng thời nêu rõ yêu cầu “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Phát triển phải hướng tới mục tiêu văn hoá- xã hội mới đảm bảo phát triển bền vững.

Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi giành được độc lập, các nước đang tìm con đường dẫn đến ấm no, hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế- xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng.

Để cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển chúng ta chủ trương phát triển văn hoá phải kết hợp chặt chẽ đồng bộ với phát triển kinh tế- xã hội. Cụ thể khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội, làm cho phát triển văn hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội phải đồng thời xác định, thực hiện mục tiêu văn hoá, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.

Việc phát triển kinh tế- xã hội cần nhiều nguồn lực khác nhau như: tài nguyên, vốn, những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị cạn kiệt. Chỉ có tri thức của con người là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu như không có những con người có trí tuệ và năng lực khai thác chúng.

Quốc gia nào đạt thành tựu cao trong giáo dục, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn, thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. “Tài nguyên con người”, cái vốn con người nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên con người”.

Hai là, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

            Nền văn hoá tiên tiến là văn hoá yêu nước, tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì sự phát triển toàn diện con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện và phương tiện truyền tải nội dung phải tiên tiến, hiện đại.

            Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; đó là lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, giản dị trong cuộc sống. Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong những hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

         Nói chung bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để cùng tồn tại.

            Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Ba là, văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

            Nét đặc trưng nối bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng Việt Nam có nền văn hoá chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng trong sự thống nhất. Không có sự đồng hoá hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá của các dân tộc.

Chúng ta chủ trương tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống của các dân tộc trong nước và phát triển văn hoá các dân tộc lên một tầm cao mới.

Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

            Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.

Để xây dựng đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, Đảng ta xác định: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.

Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ trương:

+ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong học sinh, sinh viên đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh của con người Việt Nam.

+ Chuyển dần giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học .. tạo nhiều khả năng, cơ hội cho người học.

+ Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông.

+ Phát triển mạnh hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, tăng nhanh qui mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế..

+ Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng nhân tài.

+ Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học. Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực của người học.

+ Thực hiện xã hội hóa giáo dục.

+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo

+ Phát triển khoa học xã hội; phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.

Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

            Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh là cả một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó “xây” phải đi đôi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với giữ gìn, phát huy truyền thống văn hoá quí báu của dân tộc, chúng ta phải tiếp thu những tinh hoa văn hoá tiến bộ của nhân loại.

c. Đánh giá thực hiện đường lối

            * Kết quả và ý nghĩa

            Thực hiện chủ trương nêu trên, trong những năm qua cơ sở vật chất, kỹ thuật của văn hoá đã bước đầu được xây dựng; giáo dục đào tạo có bước phát triển mới. Qui mô giáo dục đào tạo được tăng lên ở tất cả các cấp; khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội; viêc xây dựng đời sống văn hoá, nếp sống văn minh có tiến bộ ở tất cả tỉnh thành trong cả nước

            Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối, chính sách văn hoá của Đảng và Nhà nước ta  đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hoá.

            * Hạn chế và nguyên nhân

            Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng với khả năng và chưa vững chắc; sự phát triển văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế; xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, thiếu đồng bộ, hạn chế tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội; tình trạng nghèo nàn, thiếu tốn, lạc hậu về đời sống văn hoá- tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

            Hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, song cần nhấn mạnh  về nguyên nhân chủ quan, đó là: các quan điểm chỉ đạo phát triển văn hoá chưa được quán triệt đầy đủ. Bệnh chủ quan duy ý chí trong phát triển kinh tế- xã hội kéo dài 29 năm đã tác động tiêu cực đến triển khai đường lối phát triển văn hoá; chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp về phát triển văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

II.                QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG

                    GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Thời kỳ trước đổi mới           

a. Chủ trương của Đảng giải quyết các vấn đề xã hội

     - Giai đoạn 1945- 1954: Sau Cách mạng tháng Tám và những năm kháng chiến, chính sách xã hội của Đảng ta được chỉ đạo bởi tư tưởng: chúng ta đã giành được độc lập, tự do rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Do dó, chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân có ăn, dân có mặc, làm cho dân có chổ ở, làm cho dân được học hành …Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả thiết thực.

      Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình dân chủ nhân dân: Chính phủ có chủ trương, hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động, tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội

      - Giai đoạn 1955- 1975: Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan, dựa vào viện trợ của các nước XHCN.

      - Giai đoạn 1975- 1985: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng về kinh tế- xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm, bị bao vây, cấm vận.

b.      Đánh giá thực hiện đường lối

- Thành tựu và ý nghĩa

      Chính sách xã hội thời kỳ trước đổi mới tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã đảm bảo được sự ổn định xã hội, đồng thời còn đạt được những thành tựu đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hoá, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức..

      Những thành tựu đó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết được các vấn đề xã hội trong chiến tranh kèo dài.

- Hạn chế và nguyên nhân:

Trong xã hội đã hình thành tâm lý ỷ lại vào Nhà nước và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội; chế độ phân phối bình quân đã không khuyến khích được các đơn vị, cá nhân làm tốt..

Nguyên nhân là do chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội với các chính sách khác, đồng thời áp dụng quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp.

2. Trong thời kỳ đổi mới            

a. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội.

            Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nâng các vấn đề xã hội lên chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội với chính sách kinh tế. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.

Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chổ nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và là tiến đề để thực hiện các chính sách xã hội và ngược lại thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

            Đại hội lần thứ VIII của Đảng chủ trương hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau:

            - Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất.

            - Thực hiện nhiều hình thức phân phối.

            - Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo

            - Các vấn đề chính sách xã hội phải được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá.

            Đại hội IX chủ trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động.

            Đại hội X chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế  với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương.

            Hội nghị Trung ương bốn khóa X (1- 2007) nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nãy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO.

b. Quan điểm giải quyết các vấn đề xã hội

Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.

Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển trên các lĩnh vực xã hội. Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xẩy ra. Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Sự kết hợp giữa hai mục tiêu này phải được quán triệt ở các cấp, các ngành, các địa phương.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của các cấp, các ngành, các địa phương) cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.

Chính sách xã hội có vai trò tương đối độc lập với kinh tế, nhưng không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp. Mặt khác để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ; chấm dứt cơ chế “xin- cho” trong chính sách xã hội.

Bốn là, coi trong chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội. Quan điểm này khẳng định mục tiêu cao nhất của sự phát triển phải vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh công bằng, dân chủ, văn minh.

      c. Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội.

Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xoá đói,giảm nghèo. Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực để phát triển. Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư, bằng tài năng, sáng tạo của bản thân. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo.

Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội; Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xẫ hội, tạo nhiều việc làm trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động; Đổi mới chính sách tiền lương, phân phối thu nhập xẫ hội công bằng, hợp lý.

Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả. Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc tốt hơn đối với đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ y tế công  nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập.

Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi. Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi trước các đại dịch và tệ nạn xã hội.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách về dân số và kế hoạch hoá gia đình. Giảm tốc độ tăng dân số; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ; chống nạn bạo hành trong gia đình.

Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.

Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công.

d. Đánh giá thực hiện đường lối.

- Kết quả và ý nghĩa

            Sau hơn 20 năm đổi mới chính sách xã hội, nhận thức về vấn đề phát triển xã hội của Đảng và nhân dân ta  đã có những thay đổi có ý nghĩa bước ngặt quan trọng như: bỏ được tâm lý thụ động, ỷ lại chuyển sang tính năng động trong tất cả các tầng lớp dân cư; từ chổ đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, thi hành hình thức phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, chuyển sang phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; từ chổ không chấp nhận có sự phân hoá giàu- nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, coi việc có một bộ phân dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. ….

            Tính năng động xã hội khác hẵn thời kỳ bao cấp. Một xã hội mở đang dần dần hình thành, với những con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không  chấp nhận nghèo đói, lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh tranh và hành động vì công đồng, vì Tổ quốc. Cách thức quản lý dân chủ, cởi mở hơn, đề cao pháp luật.

            Bên cạnh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, đã xuất hiện ngày càng đông đảo các doanh nhân, tiểu chủ, chủ trang trại và các nhóm xã hội khác phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh”.

            Coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

            Những thành tựu đó đã tạo tiền đề phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào 2020.

-         Hạn chế và nguyên nhân

Áp lực gia tăng dân số lớn. Chất lượng dân số thấp đang là cản trở lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Vấn đề việc làm hết sức bức xúc và nan giải; sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, gây thiệt hại kinh tế và an sinh xã hội; môi trường sinh thái bị ô nhiễm thêm; hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được đảm bảo.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là: Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời với mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số lượng; quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển của kinh tế- xã hội.

Câu hỏi thảo luận

1. Trình bày quan điểm và chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa ttrong thời kỳ đổi mới

2. Trình bày vai trò, vị trí của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay.

3. Nhận xét quá trình thực hiện đường lối xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ đổi mới

4. Phân tích quan điểm, chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ đổi mới

Chương 8

 

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI

I.   ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ 1975- 1986

1. Hoàn cảnh lịch sử

a. Tình hình thế giới

Cuối những năm 80 cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Xu thế chạy đua kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn.

Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ thống XHCN mở rộng, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Nhưng từ giữa thập kỷ 70, tình hình kinh tế- xã hội ở các  nước XHCN xuất hiện sự trì trệ mất ổn định.

b. Tình hình trong nước

Sau khi miền Nam giải phóng, cả nước độc lập thống nhất cùng đi lên xây dựng CNXH và đã đạt những kết quả quan trọng. Đây là thuận lợi cơ bản, tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều khó khăn, do hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam. Đất nước vừa có hoà bình, vừa chống lại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch.

2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã xác định nhiệm vụ đối ngoại là: “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong qua hệ với các nước Đại hội IV củng cố tăng cường quan hệ với các nước XHCN, sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực, mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và cùng có lợi.

            Đại hội V, xác định công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực đấu tranh nhằm làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch. Đại hội tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược, luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại, và thương lượng để giải quyết các vấn đề trở ngại; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc.

            Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn (1975- 1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; củng cố và tăng cường đoàn kết với Lào và Camphuchia, mở rộng quan hệ với các nước.

3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả và ý nghĩa

            Thực hiện đường lối nêu trên, quan hệ Việt Nam với các nước XHCN được tăng cường, đặc biệt là quan hệ với Liên Xô. Ngày 29- 6- 1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Ngày 31- 11- 1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô. Từ 1973- 1977, Việt Nam thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước. Ngày 20- 9- 1977, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc. Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

            Kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng Việt Nam, tạo điều kiện để khôi phục đất nước sau chiến tranh và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các hoạt động ngoại giao trong giai đoạn tiếp theo.

b. Hạn chế và nguyên nhân

            Từ 1975- 1986, trong quan hệ quốc tế Việt Nam gặp phải những khó khăn, trở ngại lớn. nước ta bị bao vây, cô lập, đặc biệt từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, lấy cớ “sự kiện Camphuchia, các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam.

            Nguyên nhân dẫn đến khó khăn trên là do chúng ta chưa nắm hết được xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do đó đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Suy cho cùng là do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội.

II. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP

     KINH TẾ QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối

a. Hoàn cảnh lịch sử       

- Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX

            + Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.

            + Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, dẫn đến sụp đổ ở một số nước.

            + Trên thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Xu thế chạy đua kinh tế khiến các nước đang phát triển thay đổi tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế.

- Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó. Dưới góc độ kinh tế toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ quốc tế phát triển vượt qua rào cản bởi biên giới các quốc gia và khu vực, lan toã ra trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hoá vừa có những tác động tích cực, vừa có những tác động tiêu cực đến sự phát triển của các nước. Thực tế cho thấy các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị cô lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá.

- Tình hình khu vực châu Á- Thái Bình Dương là khu vực tồn tại những bất ổn như vũ khí hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải, nhưng vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; là khu vực có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế.

- Yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng về kinh tế- xã hội. Vì vậy, giải toả tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận là yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Mặt khác để khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước, ngoài việc phát huy tối đa nội lực, chúng ta cần tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, do đó cần mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế.

b. Các giai đoạn hình thành, phát triển của đường lối

- Giai đoạn 1986- 1996 là giai đoạn xác lập đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.

+ Đại hội lần thứ VI, đánh giá tình hình thế giới, trong nước và đưa ra chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và yêu cầu mở rộng quan hệ, hợp tác với các nước ngoài hệ thống XHCN

+ Tháng 5- 1988, BCT ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Trong đó khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. BCT đưa ra chủ trương kiên quyết, chủ động chuyển  cuộc đấu tranh cách mạng  từ chổ đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình.

+ Đại hội VII của Đảng đưa ra chủ trương “hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

- Giai đoạn 1996- 2006, là giai đoạn bổ sung, phát triển thêm đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Đại hội lần thứ VIII, khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế.

+ Đại hội lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực”. Đại hội đưa ra phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, dộc lập và phát triển”.

+ Đại hội lần thứ X của Đảng nêu quan điểm thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển. Đồng thời đề ra chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối. chính sách hội nhập, không để rơi vào thế bị động

Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong để tham gia hội nhập có hiệu quả

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

2. Nội dung đường lối  đối ngoại,hội nhập kinh tế quốc tế.

a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo

* Cơ sở đế xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo.

Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại.

 - Cơ hội và thách thức

+ Về cơ hội: Xu thế hoà bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hoá kinh tế tạo điều kiên thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mắt khác thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện mới cho quan hệ đối ngoại và hội nhấp kinh tế quốc tế.

+ Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia .. gây tác động bất lợi đối với chúng ta trong quá trình hội nhập.

Nền kinh tế Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế- tài chính.

Ngoài ra lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.

Những cơ hội và thách thức trên có tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác đụng mà tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại nếu không nắm bắt được cơ hội, bỏ qua cơ hội, thách thức sẽ tăng lên lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. …

* Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại

Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế, xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc. dân chủ và tiến bộ xã hội.

* Tư tưởng chỉ đạo

Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt sâu sắc các (9) quan điểm sau:

(1)- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.

(2)- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.

(3)- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác, tránh trực diện đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập.

(4)- Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực, chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu  vực, toàn cầu.

(5)- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.

(6)- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

(7)- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

(8)- Trên cơ sở các cam kết gia nhập tổ chức WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.

(9)- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong các văn kiện của đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2- 2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:

- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiệt lập đi vào chiều sâu, ổn định bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ củng cố địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập trật tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng các ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, qui định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát, thực hiện công khai, minh bạch trong mọi chính sách, cơ chế quản lý.

- Nâng cao năng lực  cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp điều chỉnh qui mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh qui hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế giám sát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với nền văn hoá bên ngoài.

- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có biện pháp cấm, hạn chế nhấp khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoạicủa Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương, đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.

- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân trong tâm là cải cách hành chính.

3. Thành tựu và ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Thành tựu và ý nghĩa

            - Thành tựu: Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu như:

            Một là, phá được thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như: Tham gia ký Hiệp định Pari (23- 10- 1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Camphuchia, mở ra riền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và quốc tế. Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10- 11- 1991); Tháng 7- 1995, Việt Nam giai nhập ASEAN..

           Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới lãnh thổ, biển đảo với các nước liện quan. Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác lại tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Việt Nam đã ký với Trung Quốc Hiệp ước về phân định biện giới trênn bộ; Hiệp định phân Vịnh Bác Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá.

            Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Lần đầu tiên ttrong lịch sử Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Dã ký Hiệp định khung với EU(1995); năm 1999 ký thoã thuận với Trung Quốc khung khổ quann hệ :láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Việt Nam đẫ thiết lập ngoại giao với  169 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới.

            Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.

            Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như: quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 11- 01- 2007, Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150 của (WTO)

            Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý.

            Về mở rọng thị trường, Việt Nam đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 74 nước áp dụng qui chế tối huệ quốc. Kim ngạch xuất khẩu  không ngừng tăng lên, năm 1986 là 789 triệu USD, đến năm 2007 đạt 48 tỷ USD; năm 2008 khỏng 62,9 tỷ USD.

            Việt Nam đã thu hút khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20, 3 tỷ USD thì năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD.

            Sáu là, từng bước đưa các hoạt động doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, không ngừng vươn lênn trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển

            - Ý nghĩa; Những thành tựu trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài, kết hợp các nguồn lực trong nước hình thành nguồn lực tổng hợp góp phần đưa đến nhứng thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định hướng XHCN; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế.

b. Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:

Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây dựng được một hệ thống lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước;

Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế;

Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể, dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế;

Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp trình độ còn lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh  đều kém phát triển và chi phí cao.

Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng, cán bộ doanh nghiệp ít hiểu về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.

- Nguyên nhân có nhiều nhưng đáng chú ý là về mặt chủ quan bộc lộ rõ những yếu kém về tư duy lý luận trong việc hoạch định chủ trương, đường lối giải quyết các vấn đề đối ngoại chưa thẻo kịp với yêu cầu đổi mới của đất nước; Việc đào tạo đội ngũ cán bộ doanh nghiệp nói chung, cán bộ làm công tác đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Câu hỏi thảo luận

1. Trình bày nội dung đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ 1975- 1986.

2. Trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới của Đảng.

3. Trình bày thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới.

         

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro