DLTKTM (1-9)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đề 2:

Cương lĩnh chính trị đàu tiên:

    Hoàn cảnh ra đời: cuối  năm  1929,  những  người  cách mạng  Việt  Nam  trong  các  tổ  chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành  lập một Đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản ánh quá  trình  tự ý  thức của những người cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất.

    Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi cho những cộng sản Đông Dương tài liệu  Về  việc  thành  lập một Đảng  cộng  sản  ở Đông Dương,  yêu  cầu  những  người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia  rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản.

    Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng (họp tại Hương Cảng, Trung Quốc)

   Các văn kiện được thông qua tại hội nghị thành  lập Đảng cộng sản Việt Nam như: Chính  cương  vắn  tắt,  sách  lược  vắn  tắt, Chương  trình  tóm  tắt  của Đảng  hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam. 

    Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:

-  Phương hướng chiến  lược của cách mạng Việt Nam  là: “tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

-  Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là và thổ địa cách mạng:

          o  Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn  toàn độc  lập;  lập chính phủ công nông binh;  tổ chức quân đội công nông.

          o  Về  kinh  tế: Thủ  tiêu  hết  các  thứ  quốc  trái;  tịch  thu  toàn  bộ  sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản  lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa  làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu  thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

         o  Về văn hóa - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức hội họp, nam nữ bình quyền, v.v; phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.

-  Về giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng:  

“1/ Đảng  là đội quân  tiên phong của vô sản giai cấp phải  thu phục cho  được  đại  bộ  phận  giai  cấp mình,  phải  làm  cho  giai  cấp mình lãnh đạo được quần chúng.

2/ Đảng phải thu phục được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo  làm  thổ địa cách mạng đánh  trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.

3/ Đảng phải  làm cho các đoàn  thể  thợ  thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư sản quốc gia.

4/ Đảng  phải  hết  sức  liên  lạc  với  tiểu  tư  sản,  trí  thức,  trung  nông, thanh niên, Tân Việt… để lôi kéo họ vào phe vô sản giai cấp. Còn đối   17với bọn phú nông,  trung,  tiểu địa chủ và  tư bản An Nam mà chưa rõ mặt  phản  cách mạng  thì  phải  lợi  dụng,  ít  lâu mới  làm  cho  họ  đứng trung  lập. Bộ  phận  nào  đã  ra mặt  phản  cách mạng  (như Đảng Lập Hiến) thì phải đánh đổ.

5/ Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút  lợi  ích gì của công nông mà đi vào đường  lối  thỏa hiệp”. 

-  Về  đoàn  kết  quốc  tế: Cách mạng Việt Nam  là một bộ phận  của  cách mạng  thế giới. Đảng phải  liên kết với các dân  tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp để xây dựng một Mặt trận chung nhằm đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

-  Về phương pháp cách mạng: Phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạng tổng hợp của quần chúng nhân dân, đó là bạo lực cách mạng: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến, đánh đổ các Đảng phản cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.

-  Xây dựng Đảng: Sự  lãnh đạo của Đảng  là nhân  tố quyết định cho mọi thắng lợi của Đảng. Vì thế Đảng không chỉ kết nạp công nhân tiên tiến mà còn phải kết nạp những người tiên tiến trong các giai cấp khác.

    Thực  tiễn quá  trình vận động của cách mạng Việt Nam  trong 80 năm qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

chủ trương "hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ & công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ mội trường.

-  Thực  hiện  chính  sách khuyến  khích  làm  giàu đi đôi  với  tích  cực  thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộcvà các căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo nhằm mục tiêu ổn định và  tạo động  lực cho sự phát  triển. Chính sách đó  tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của sự phát triển. :

+ Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội.

+ Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội Đảng gần đây, từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều văn bản đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.

Thuc trang: Chương trình 135 thuc hien 1998- 2000 giai doan 2:2006-2010 kết thúc, các mục tiêu cơ bản đã đạt được: giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 30% và tăng thu nhập lên 3,5 triệu đồng/hộ/năm góp phần tạo nên diện mạo mới về kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Những kết quả đó được Chính phủ và cộng đồng quốc tế ghi nhận của mô hình giảm nghèo ở Việt Nam.

Chuong trinh 30a cho 61 huyen cua nghèo của 20 tỉnh

-  Xây dựng hệ  thống bảo hiểm xã hội đa dạng và  linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh  tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở  rộng các hình  thức bảo hiểm bắt buộc và  tự nguyện, bảo đảm quyền  lợi của người tham gia bảo hiểm. Chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội; đảm bảo cho họ có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cuộc sống và tự vươn lên. Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội.

-  Hoàn  thiện  luật pháp,  chính  sách  về bảo vệ môi  trường,  có  chế  tài đủ mạnh  đối  với  các  trường  hợp  vi  phạm,  xử  lý  triệt  để  những  điểm  ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn để không phát sinh thêm.

+ hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường sinh thái không dung hoà nhau mà bộc lộ những mâu thuẫn mang tính sinh tồn ngày càng trở nên rất rõ nét trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng được các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ qua, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đối với các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò rất to lớn, đóng góp đáng kể vào tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Song, nếu khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm bảo vệ môi trường

+ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong 10 tỉnh thành phố được điều tra có tỉ lệ ô nhiễm môi trường cao nhất,

Đề 3

Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, thực hành đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị  với các quốc gia, dân tộc trên thế giới đã được Chủ  tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối mở cửa kinh tế, chuyển nền kinh tế sang kinh tếthị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, tích cực và chủ động hội nhập kinh tếquốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương này, sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế  nước ta đã hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới

Trong các văn kiện của Đảng  liên quan đến đối ngoại, đặc biệt  là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:

- Đưa các quan hệ quốc  tế đã được  thiết  lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các  thành viên khác khi  tham gia vào việc hoạch định chính sách  thương mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để  đấu  tranh  bảo  vệ  quyền  lợi  dianh  nghiệp Việt Nam  tranh  các  cuộc  tranh  chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chủ động và  tích cực hội nhập kinh  tế quốc  tế  theo  lộ  trình phù hợp: Chủ động và tichá cực xác định  lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên  tắc, quy định của WTO: bảo đảm  tính đồng bộ của hệ  thông spháp  luật; đa dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên  quyết  loại  bỏ  nhanh  các  thủ  tục  hành  chính  không  còn  phù  hợp;  đẩy mạnh  phân  cấp  gắn  với  tăng  cường  trách  nhiệm  và  kiểm  tra,  giám  sát;  thực  hiện công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.

- Nâng cao năng  lực cạnh  tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm  trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng  lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất  trên cơ sở xác định đúng dắn chiến  lược sảnphẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nângcao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hộinhập: Bảo vệ và phát huy các giá  trị văn hoá dân  tộc  trong quá  trình hội nhập; xâydựng cơ chế kiểm soát và chế  tài xử  lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụvăn hoá không  lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát  triển đất nước, văn hoávà con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoátruyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài.

Câu 2:Chu truong xay dựng MTTQ va cac to chuc chinh trị xã hội

Mặt  trận Tổ  quốc Việt Nam  và  các  tổ  chức  chính  trị  -  xã  hội  có  vai  trò  rất quan  trọng  trong việc  tập hợp, vận động, đoàn kết  rộng  rãi các  tầng  lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn…, quy chế dân chủ ở mọi cấp để mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

Đổi mới hoạt động của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng  hành  chính  hóa,  nhà  nước  hóa,  phô  trương,  hình  thức. Nâng  cao  chất  lượng hoạt động. Làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Thực tiễn: Mặt trận chưa thực sự được tạo điều kiện để các hoạt động giám sát diễn ra có hiệu quả. Nhiều khi cán bộ đứng đầu cơ quan Mặt trận các cấp ở địa phương là người nhiều tuổi từ cấp ủy, chính quyền chuyển sang. Số đồng chí này thường có hạn chế một số mặt nên giải quyết công việc nội bộ rất trì trệ, khó thực thi được những hoạt động giám sát cho đến nơi đến chốn. Trong khi đó, cán bộ trẻ, năng động thấy công tác mặt trận khó khăn nên tìm cách chuyển đi cơ quan khác. Mặt khác, cơ sở vật chất rất thiếu, chỉ đủ để duy trì một số hoạt động mang tính sự vụ. Cơ quan Mặt trận được cung cấp thông tin chậm và thiếu tính toàn diện. Nhiều trường hợp Mặt trận được xin ý kiến nhưng cũng chỉ là hình thức.

Để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong phản biện xã hội và giám sát xây dựng Đảng, cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp:

Các cấp ủy đảng cần bố trí cán bộ trẻ, có năng lực về làm công tác Mặt trận. Cán bộ Mặt trận cần được luân chuyển sang công tác đảng, chính quyền theo nhiệm kỳ. Mặt trận ở cả 4 cấp đều có cán bộ biên chế và kiêm nhiệm. Số cán bộ này được đào tạo, tập huấn định kỳ, bồi dưỡng chuyên đề và được đãi ngộ thỏa đáng.

Các cấp ủy đảng phải nắm vững Luật Mặt trận Tổ quốc và phát huy dân chủ mạnh mẽ; có cơ chế phối hợp công tác cụ thể, thường xuyên.

Cần tăng cường cơ sở vật chất cho Mặt trận. Nguồn tài chính để thực hiện phản biện xã hội do ngân sách cấp và từ tài trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước.

Mặt trận Tổ quốc phải coi việc giám sát, xây dựng Đảng là hoạt động trọng tâm, thường xuyên. Để hoạt động giám sát diễn ra sâu, rộng, cần có những hình thức tiếp nhận sự phản ánh dư luận (như đặt hòm thư) và sử dụng hiệu quả hệ thống truyền thông.

Trong giám sát tránh làm cản trở nhân tố năng động, sáng tạo; chọn điểm để thử nghiệm các hoạt động giám sát và thường xuyên rút kinh nghiệm. Thông qua ban thanh tra nhân dân ở ba cấp địa phương để Mặt trận chỉ đạo hoạt động giám sát vừa chuyên và vừa mở rộng, vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn và xã hội. Ngoài các chuyên gia là thành viên 8 Hội đồng tư vấn trên các lĩnh vực: Dân chủ - pháp luật, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học và giáo dục, đối ngoại nhân dân và kiều bào, tôn giáo và dân tộc, hoạt động giám sát, phản biện xã hội cần khai thác trí tuệ của lực lượng cộng tác viên và đoàn viên, hội viên. ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thường xuyên tổng hợp ý kiến, đề nghị, kiến nghị của cử tri, các tầng lớp nhân dân để làm tốt vai trò phản biện xã hội và giám sát, xây dựng Đảng. Quá trình tổ chức phản biện xã hội phải bảo đảm tính đảng, tính nhân dân; tính trung thực; tính khoa học, khách quan và thiết thực. Mặt khác, các kiến nghị phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp thu và giải trình đầy đủ trước khi đề án được ban hành. Có như vậy, hoạt động phản biện của Mặt trận mới thật sự góp phần làm cho chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sát hợp với thực tiễn của đời sống xã hội, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Đề 4:

Trung ương Đảng lần thứ 7-1936 Đảng ta lại đưa ra chủ trương đấu tranh mới?

Hoàn cảnh:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

Ra đời của chủ chương

     Trước những biến chuyển của tình hình  trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản, trong những năm 1936 – 1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp hội nghị  lần thứ hai (7/1936), lần thứ 3 (3/1937), lần thứ 4 (9/1937) và lần thứ 5 (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.

Ban  chấp  hành Trung  ương  xác  định  cách mạng Đông Dương  vẫn  là  “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Song. Xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực  tiếp đánh đổ đế quốc Pháp,  lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp bách trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.

 Về kẻ thù của cách mạng: bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động  thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. 

Để  thực  hiện  những  nhiệm  vụ  trên, Ban  chấp  hành Trung  ương  quyết  định thành lập mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể  chính  trị,  xã  hội  và  tín  ngưỡng  tôn  giáo  khác  nhau,  với  nòng  cốt  là  liên minh công  nông. Để phù  hợp  với  yêu  cầu  tập  hợp  lực  lượng  cách mạng  trong  tình  hình mới, Mặt  trận  nhân  dân  phản  đế  đã  được  đổi  tên  thành  mặt  trận  dân  chủ  Đông Dương.

Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ,  dân  sinh  thì  không  những  phải  đoàn  kết  chặt  chẽ  với  giai  cấp  công  nhân  và Đảng  cộng  sản Pháp  “ủng  hộ Mặt  trận  nhân  dân Pháp”, mà  còn  đề  ra  khẩu  hiệu “ủng hộ chính phủ mặt trận nhân dân Pháp” để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phát xít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.

Về hình thức tổ chức và phản biện đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ chức bó mật không hợp pháp sang các hình  thức  tổ chức và đấu  tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đao quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp và không hợp pháp và phải bảo đảm sự  lãnh đạo  của  tổ  chức  đảng  bí mật  đối  với  những  tổ  chức  và  hoạt  động  công  khai,  hợp pháp.

Tóm  lại,  trong  những  năm  1936  –  1939,  chủ  trương mới  của Đảng  đã  giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa  liên minh công – nông và mặt  trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra  các hình thức tổ  chức  và  đấu  tranh  linh  hoạt,  thích  hợp  nhằm  hướng  dẫn  quần  chúng  đấu  tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do.

Câu 2: CNH gan HDH và CNH,HDH gan voi pt kinh te tri thưc’

Bối cảnh thế giới: Cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 vào thế kỉ 17,18 tại các nước tay Âu và Bắc Mĩ và hiện tại thế giới đang trong cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 cuộc cách mạng về khoa học kĩ thuật với sự phát triển của máy tính điện tử, công nghiệp xanh, vật liệu mới…

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: theo tinh thần của hội nghị TƯ VII khóa 7,CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinhdoanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sangsử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khao học-công nghệ,tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hiện đại hóa là quá trình sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với côngnghệ của thế giới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Nguyên nhân phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa:

+ Đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bịchiến tranh phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây dẫn đến nền kinh tế bị tụt hậu so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa.

trong thời đại ngày nay, Đại hội X nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá  trình phát  triển  lực  lượng  sản  xuất”. Cuộc  cách mạng khoa  học –  công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi  lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó,   60xu  thế hội nhập và tác động của quá trình  toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.

Nước  ta  thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi  trên  thế giới kinh  tế  tri thức đã phát  triển. Chúng  ta có  thể và cần  thiết không  trải qua các bước  tuần  tự  từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi  thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát  triển kinh  tế  tri  thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Y kien

Một là, sớm xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế tri thức, coi đây là khâu đột phá để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, coi việc tập trung nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là ở bậc đại học và dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học, công nghệ đầu đàn, những doanh nhân tầm cỡ và lao động lành nghề. Đồng thời, phải trí thức hóa giai cấp công nhân, nông dân lao động, nâng cao dân trí trong toàn xã hội. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học phải được triển khai cùng với những chủ trương, chính sách khác để tập trung vào một số lĩnh vực có chọn lọc mà chúng ta thường nói là “đi tắt đón đầu”.

 Hai là, cần đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức toàn dân về thời cơ và thách thức đối với dân tộc ta khi nhân loại đang có một bước chuyển quan trọng, quyết định từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ - tương ứng với thời kỳ quá độ lên CNXH, để bắt nhịp với nền kinh tế tri thức đang hình thành trên thế giới, đây cũng là cơ hội để thực hiện đường lối mà Đảng ta đã vạch ra là "đi tắt, đón đầu" trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Ba là, cần coi trọng phát triển khoa học - công nghệ trên cơ sở dẫn dắt và hỗ trợ của doanh nghiệp, được khuyến khích bởi động lực cạnh tranh thị trường bình đẳng và lành mạnh. Chú trọng phát triển thị trường công nghệ coi đây là môi trường kích thích quang trọng của nền khoa học công nghệ quốc gia. Điều quan trọng để tạo lợi thế cạnh tranh trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức là phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, cùng với việc tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới hệ thống hành chính. Cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt về giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ. Vì thế, nhà nước cần tạo môi trường pháp lý để các pháp nhân hoạt động trên thị trường khoa học – công nghệ được cạnh tranh bình đẳng.

Bốn là, cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học...

5la phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới, phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, và phải thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.

Đê 5 :

1. nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ( phản đế và điền địa). Ý nghĩa của nhận thức đó

*Hoàn cảnh:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

* Nhận  thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân  tộc và dân chủ:

  Trước những biến chuyển của tình hình  trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản, trong những năm 1936 –1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp hội nghị  lần thứ hai (7/1936), lần thứ 3 (3/1937), lần thứ 4 (9/1937) và lần thứ 5 (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.

   Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện  các quyền dân  chủ dân  sinh, Ban  chấp hành Trung ương Đảng đã đặt  vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa rong cách mạng Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10.1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”. Vì ằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho úc  hiện  thời,  còn  vấn đề giải quyết điền  địa  tuy quan  trọng  nhưng  chưa phải  trực iếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.

      Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch  liệt, đồng thời, vì muốn tăng  thêm ực  lượng  tranh  đấu  chống  đế  quốc,  cần  phải  phát  triển  cuộc  cách mạng  điền  địa. “Nói  tóm  lại, nếu phát  triển  cuộc  tranh đấu  chia đất mà ngăn  trở  cuộc  tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để  tập  trung  lực  lượng của một dân  tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

    Đây  là  nhận  thức mới  của Ban  chấp  hành Trung ương, nó phù  hợp với  tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930. Tuy nhiên trong hoàn cảnh thời kì này nêu lên nv giải phóng dân tộc chưa có thể đặt ra 1 cách trực tiếp

Câu 2 thực trạng quan điểm Hoàn thiện thể chế đảm bảo dồng bộ ….

Hoàn  thiện  thể  chế  về  giá,  cạnh  tranh  và  kiểm  soát  độc  quyền  trong kinh  doanh.  Hoàn  thiện  khung  pháp  lý  cho  ký  kết  và  thực  hiện  hợp đồng. Đồng thời hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế. Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Tự do  hóa  thương mại  và  đầu  tư  phù  hợp  cam  kết  quốc  tế. Xây  dựng  hệ thống  tiêu chuẩn chất  lượng hàng hóa vệ sinh an  toàn  thực phẩm, môi

trường và tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ và xử lý sai phạm. Phát  huy  tốt  vai  trò điều hành  thị  trường  tiền  tệ  của ngân  hàng nhà nước vừa  thúc đẩy  tăng  trưởng kinh  tế vừa kiểm soát  lạm phát và   từng bước mở rộng thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cho phù hợp với cam kết quốc tế.

-  Hoàn  thiện  hệ  thống  luật  pháp,  cơ  chế,  chính  sách  cho  hoạt  động  và phát triển  lành mạnh của thị  trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống  các  giao  dịch  phi  pháp,  các  hành  vi  rửa  tiền,  nhiễu  loạn  thị trường. Tạo điều kiện phát  triển các doanh nghiệp bảo hiểm  thuộc các thành phần kinh  tế, đa dạng hóa và nâng cao chất  lượng các sản phẩm bảo hiểm,  thực hiện  lộ  trình mở cửa  thị  trường bảo hiểm  theo cam kết hội nhập quốc tế; hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để các quyền tự  về  đất  đai  và  bất  động  sản  vận  động  theo  cơ  chế  thị  trường;  hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công trong đó tiền lương phải được  coi  là  giá  cả  của  sức  lao động  hình  thành  theo quy  luật  thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động.

-  Xây dựng đồng bộ  luật pháp, cơ chế, chính sách quản  lý, hỗ  trợ các  tổ chức  nghiên  cứu,  ứng  dụng,  chuyển  giao  công  nghệ. Đổi mới  cơ  chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu  quả  hoạt  động  của  cơ  quan  quản  lý  thị  trường  công    nghệ. Nhà nước tăng đầu tư và đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa cho các ngành giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao. Nhà nước ban hành tiêu chuẩn, tiêu chí về các hoạt động dịch vụ này, tăng cường quản  lý nhà nước để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường đối với các hoạt động dịch vụ.

Đề 6: Noi dung chuyển hướng chiến lược 39-45

Kể  từ  khi  chiến  tranh  thế  giới  thứ  II  bùng  nổ, Ban  chấp  hành  Trung  ương Đảng họp hội nghị lần thứ 6 (11/1939), hội nghị lần thứ 7 (11/1940) và hội nghị lần thứ 8  (5/1941). Trên cơ sở khẳng định khả năng diễn biến của chiến  tranh  thế giới thứ  II và căn cứ vào  tình hình cụ  thể ở  trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

-  Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

       Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi  “trong  lúc này nếu  không  giải quyết được  vấn đề dân  tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân  tộc  còn  chịu mãi  kiếp ngựa  trâu, mà quyền  lợi  của bộ phận, giai  cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

         Để  tập  trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng  lúc này, Ban chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”…

-  Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.

       Để  tập  hợp  lực  lượng  cách mạng  đông  đảo  trong  cả  nước, Ban  chấp  hành Trung ương quyết định  thành  lập Mặt  trận Việt Nam độc  lập đồng minh  (gọi  tắt  là Việt Minh) thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ  lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động,  thu hút mọi người dân yêu nước, không phân biệt  thành phần,  lứa  tuổi, đoàn kết bên nhau, đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

-  Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.

              Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng  lợi, cần phải ra sức phát triển  lực lượng cách mạng, bao gồm  lực  lượng chính  trị và  lực  lượng vũ  trang, xúc  tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban chấp hành Trung ương chỉ rõ việc “chuẩn bị khởi nghĩa  là  nhiệm  vụ  trung  tâm  của Đảng  ta  và  nhân  dân  trong  giai  đọan  hiện  tại”. Trung ương quyết định duy  trì  lực  lượng du kích Bắc Sơn và chủ  trương thành  lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Ban chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình  thái khởi nghĩa ở nước  ta: “Phải  luôn  luôn chuẩn bị một  lực  lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội  thuận tiên hơn  cả mà đánh  lại quân  thù…  với  lực  lượng  sẵn  có,  ta  có  thể  lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.

        Ban  chấp  hành Trung ương  còn đặc biệt  chú  trọng  công  tác  xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chú trọng gấp rút đào  tạo cán bộ, cán bộ  lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

Câu 2:  lấy phát huy nguồn  lực  con người  là  yếu  tố  cơ bản  cho  sự phát  triển nhanh, bền vững.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người  luôn được coi  là yếu  tố cơ bản. Để  tăng  trưởng kinh  tế cần 5 yếu  tố chủ yếu  là : vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản  lý nhà nước  trong đó con người  là yếu  tố quyết định. Để phát  triển nguồn  lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặc biệt chú ý đến

phát triển giáo dục, đào tạo.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó  lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản  lý và đội ngũ công nhân  lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân  lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ta hiện nay. Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh , William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của LSX. Trong truyền thống VN xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ".

Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện : + Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn. + Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. + Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. + Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.

Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.

Đề 7: Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta

Vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến  tranh  thế giới  thứ  II bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Berlin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.

   Ngay đêm ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

   Chỉ  thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật  lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.

   Chỉ thị xác định: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể  trước  mắt  duy  nhất  của  nhân  dân  Đông  Dương.  Vì  vậy  phải  thay  khẩu  hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.

  Chỉ  thị chủ  trương: Phát động một cao  trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và  đấu  tranh  lúc  này  phải  thay  đổi  cho  thích  hợp  với  thời  kỳ  tiền  khởi  nghĩa  như tuyên  truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc…

    Chỉ  thị  nêu  rõ  phương  châm  đấu  tranh  lúc  này  là  phát  động  chiến  tranh  du kích, giải phóng vùng, mở rộng căn cứ địa.

   Chỉ  thị dự kiến  những điều kiện  thuận  lợi để  thực hiện  tổng khởi nghĩa như khi  quân Đồng minh kéo  vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo  ra mặt  trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có  thể  là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành  lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Ý nghĩa với CmT8: + Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã kịp thời chỉ đạo CMVN trước những diễn biến của tình hình mới, chỉ thị có tác dụng thúc đẩy phong trào kháng Nhật cứu nước, tương ứng với thời kì tiền khởi nghĩa.

+ Sau khi chỉ thị ra đời, phong trào đấu tranh đã dâng lên mạnh mẽ trên phạm vi khắp cả nước với nhiều hình thức đấu tranh khác nhau từ mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi thị, ... đặc biệt là phong trào phá kho thóc của Nhật. Phong trào này đáp ứng nguyện vọng bức thiết của nhân dân ta, đồng thời cũng là dịp để biểu dương lực lượng và phát động tinh thần đấu tranh.

- Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 có giá trị như 1 chương trình hành động, 1 lời hiệu triệu, 1 ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cao trào kháng Nhật cứu nước, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.

Câu 2: Chủ chương xây dựng hệ thống chính trị thời kì trước đổi mới 75-89

Trong giai đoạn này việc xây dựng hệ thống chính  trị được quan niệm  là xây dựng chế độ  làm chủ  tập  thể xã hội chủ nghĩa. Tức  là xây dựng một hệ  thống hoàn chỉnh  các quan hệ  xã hội  thể  hiện  ngày  càng đầy đủ  sự  làm  chủ  của nhân dân  lao động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên,  làm chủ bản  thân. Do đó, chủ  trương xây dựng hệ  thống chính  trị gồm

những nội dung sau đây:

-  Xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, được thực hiện  chủ  yếu  bằng  kế  hoạch Nhà  nước  đồng  thời  thực  hiện  bằng  hoạt động của các đoàn thể quần chúng.

-  Xác  định Nhà  nước  trong  chế  độ  làm  chủ  tập  thể  là Nhà  nước  chuyên chính vô sản, một  tổ chức  thực hiện quyền  làm chủ  tập  thể của giai cấp công  nhân và  nhân dân  lao động. Một  tổ chức  thông qua đó Đảng  thực hiện sự  lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Muốn thế nhà nước phải đủ năng  lực  tiến hành 3 cuộc cách mạng: cách mạng xây  dựng  chế  độ mới,  nền  kinh  tế mới,  nền  văn  hóa mới  và  con  người mới.

-  Xác  định Đảng  là  người  lãnh  đạo  toàn  bộ  hoạt  động  xã  hội  trong  điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế  độ  làm  chủ  tập  thể  của  nhân  dân  lao  động,  cho  sự  tồn  tại  và  hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

-  Xác định nhiệm vụ chung của các đoàn  thể  là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ  nghĩa xã  hội. Vai  trò và  sức mạnh  của  các đoàn  thể  chính  là ở khả năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới. Hoạt động của các đoàn  thể phải năng động, nhạy bén   87với  những  vấn  đề mới  nảy  sinh  trong  cuộc  sống,  khắc  phục  bệnh  quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các hình  thức  tổ chức  theo nghề nghiệp,  theo nhu cầu đời sống và sinh hoạt văn hóa để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã hội, chính trị.

-  Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.

Y nghia: Hệ  thống chính  trị giai đoạn 1975 – 1986 được xây dựng  theo đường  lối của các Đại  hội  IV  và V đã mang  lại  những  thành  tựu  nhưng  cũng đầy khó  khăn,  thử thách. Trong giai đoạn này, Đảng đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của hệ thống chính trị, đã xây dựng mối quan hệ Đảng  lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong hoạt động của hệ thống chính trị ở tất cả

các cấp, các địa phương

  Đã khắc phục được khá nhiều cách hiểu,  cách  làm chuyên chính cực  tả, cực đoan đã từng diễn ra trong những năm trước đây.

Nhược điểm: Mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân từng cấp, từng đơn vị chưa dược xác định thật rõ, mỗi bộ phận, tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tôt chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm ko nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa còn nhiều thiếu sót

Bộ máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu quả mà cơ chê quản lí còn quan lieu bao cấp là nguyên nhân. Không ít cơ quan không tôn trọng ý kiến của người dân, không làm công tác vận động quần chúng, chỉ quen dung biện phâp mệnh lệnh hành chính

Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năg của các đoàn thẻ trong việc vận động nhân dân tham gia quản lý kinh tế xã hội

Hệ thống chuyên chính vô sản còn có biểu hiện bào thủ,trì trệ chậm đổi mới so với đột phá trong cơ chế kinh tế. Do đó cản trở quá trình đổi mới kinh tế

  Đề 8: chỉ thị kháng chiến kiến quốc

a.  Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng tháng Tám:

Sau  ngày Cách mạng  tháng Tám  thành  công,  nước Việt Nam Dân  chủ  cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng  trước bối cảnh vừa có thuận lợi cơ bản vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Thuận lợi cơ bản:

-  Trên  thế giới: hệ  thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình  thành.  Phong  trào  cách mạng  giải  phóng  dân  tộc  có  điều  kiện phát  triển,  trở  thành  1 dòng  thác  cách mạng. Phong  trào dân  chủ  và

hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. 

-  Ở  trong nước: chính quyền dân  chủ  nhân dân được  thành  lập,  có hệ thống  từ  trung ương  đến  cơ  sở. Nhân  dân  lao  động  đã  làm  chủ  vận mệnh  của đất  nước. Lực  lượng  vũ  trang  nhân dân được  tăng  cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Khó khăn nghiêm trọng:

-  Hậu quả do chế độ cũ để  lại rất nặng nề như: nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ quốc  gia  trống  rỗng. Kinh  nghiệm quản  lý đất  nước  của  cán bộ các cấp non yếu.

-  Nền độc  lập  của  nước  ta  chưa được quốc gia  nào  trên  thế  giới  công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.

-  Với danh nghĩa quân Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng  lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn nhằm  tách Nan Bộ ra khỏi Việt Nam.

-  “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc’.

b.  Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng:

Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân  tích  tình  thế, dự đoán chiều hướng phát  triển của các  trào  lưu cách mạng  trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh   36nhằm  giữ  vững  chủ  quyền,  bảo  vệ  nền  độc  lập  tự  do  vừa  giành  đươc,  Ngày 25/11/1945, Ban  chấp  hành  Trung  ương Đảng  ra Chỉ  thị Kháng  chiến  kiến  quốc, vạch  con đường đi  lên  cho  cách mạng Việt Nam  trong  giai đoạn mới. Chủ  trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

-  Về  chỉ  đạo  chiến  lược:  Đảng  xác  định  mục  tiêu  phải  nêu  cao  của  cách mạng Việt Nam  lúc này  vẫn  là dân  tộc giải phóng. Khẩu  hiệu  lúc  này  là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết” nhưng không phải giành độc lập mà là giữ vững độc lập.

-  Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận Việt – Miên – Lào .v.v…

-  Về  phương  hướng,  nhiệm  vụ: Đảng  nêu  lên  4  nhiệm  vụ  chủ  yếu  và  cấp bách cần khẩn trương thực hiện  là: “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.

   Chỉ  thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan  trọng. Chỉ  thị xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam  là thực dân Pháp xâm  lược. Đảng chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến  lược và sách  lược cách mạng, nhất là nêu rõ 2 nhiệm vụ chiến  lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảovệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.

   Những nội dung của chủ  trương kháng chiến kiến quốc được Đảng  tập  trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương,  linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1946.

Câu 2: Phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách quan

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

    Lịch sử phát triển sản xuất xã hội cho thấy sự sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn,  tư  liệu  sản  xuất,  sức  lao động… phục vụ  cho  sản  xuất và  lưu  thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế khi các nguồn  lực kinh  tế được phân bổ bằng nguyên  tắc  thị  trường  thì người  ta gọi đó là kinh tế thị trường.

   Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa  tư bản. Kinh  tế thị trường và kinh tế hàng hóa đều dựa  trên cơ sở phân công  lao động xã hội và các hình  thức sở hữu khác nhau về  tư  liệu  sản xuất  làm  cho  những người  sản  xuất vừa độc  lập vừa phụ thuộc vào  nhau. Trao đổi mua bán  hàng  hóa  là phương  thức giải quyết mâu  thuẫn trên. Tuy nhiên, kinh  tế hàng hóa và kinh  tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát  triển. Kinh  tế hàng hóa ra đời  từ kinh  tế  tự nhiên, đối  lập với kinh  tế  tự nhiên nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường  là kinh tế hàng hóa phát triển cao. Kinh tế thị trường  lấy khoa học, công nghệ hiện đại  làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

   Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện  rõ  rệt  nhất  trong  chủ  nghĩa  tư  bản. Nếu  trước  chủ  nghĩa  tư    bản,  kinh  tế  thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình  độ  cao  đến mức chi  phối  toàn  bộ  cuộc  sống  của  con  người  trong  xã  hội  đó. Điều đó khiến người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà  là thành tựu phát triển chung của nhân  loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.

  Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế,  là phương diện điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh  tế  thị  trường chỉ đối  lập với kinh  tế  tự nhiên,  tự cấp,  tự  túc chứ không đối  lập  với  các  chế độ xã hội khác. Bản  thân kinh  tế  thị  trường không phải  là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh  tế cơ bản  của xã hội. Kinh  tế  thị  trường  tồn  tại và phát  triển ở nhiều phương  thức  sản  xuất khác  nhau. Kinh  tế  thị  trường  vừa  có  thể liên  hệ với  chế độ  tư hữu  vừa  có  thể  liên  hệ  với  chế độ  công  hữu  và phục  vụ  cho  chúng. Vì  vậy,  kinh  tế  thị  trường  không  đối  lập  với  chủ  nghĩa  xã  hội,  nó  tồn  tại khách quan trong  thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh  tế thị trường không phải  là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi  theo con đường  tư bản chủ nghĩa và  tất nhiên, xây dựng kinh  tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định kinh tế thị trường.

    Đại hội VII của Đảng (6/1991)  trong khi khẳng định chủ  trương  tiếp  tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh  tế  vừa  cạnh  tranh  vừa  hợp  tác, bổ  sung  cho  nhau  trong  nền kinh  tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối  lập với chủ  nghĩa  xã  hội,  nó  tồn  tại  khách  quan  và  cần  thiết  cho  kinh  tế  hàng  hóa  nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta  là “cơ chế thị trường có sự quản  lý  của nhà  nước” bằng pháp  luật, kế hoạch,  chính  sách và  các  công  cụ khác. Trong  cơ  chế kinh  tế đó,  các đơn vị kinh  tế  có quyền  tự  chủ  sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện, thị trường có  vai  trò  trực  tiếp  hướng  dẫn  các  đơn  vị  kinh  tế  lựa  chọn  lĩnh  vực  hoạt  động  và phương án  tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhà nước quản  lý nền kinh  tế

để định  hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.

   Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

  Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:

  Kinh  tế  thị  trường không đối  lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn  tồn  tại khách quan trong thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

   Kinh  tế  thị  trường  là  thành  tựu của văn minh nhân  loại, bản  thân kinh  tế  thị trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

-  Các  chủ  thể  kinh  tế  có  tính  độc  lập,  có  quyền  tự  chủ  trong  sản  xuất, kinh doanh, lỗ - lãi tự chịu.

-  Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

-  Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành  theo quy  luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.

-  Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Với những đặc điểm  trên, kinh  tế  thị  trường có vai  trò rất  to  lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội.   73

  Trước đổi mới, do chưa  thừa nhận  trong  thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc  trưng quan  trọng nhất của kinh  tế xã hội chủ nghĩa, đã  thực hiện phân bổ mọi nguồn  lực theo kế hoạch  là chủ yếu còn thị trường chỉ được coi  là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch do đó không cần  thiết sử dụng kinh  tế  thị  trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

  Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị trường, nếu biết vận dụng đúng  thì  có  vai  trò  rất  lớn đối  với  sự phát  triển kinh  tế  -  xã  hội. Có  thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất  thông qua cơ chế cạnh  tranh,  thúc đẩy cái  tiến bộ, đào  thải cải  lạc hậu, yếu kém.

  Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực  tiễn đổi mới ở nước  ta cũng đã minh chứng sự cần  thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đề 9:

Câu1: KC chống pháp giai đoạn 45 - 50

Mục  đích  kháng  chiến: Kế  tục  và  phát  triển  sự  nghiệp Cách mạng  tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

-  Tính  chất  kháng  chiến:  “Cuộc  kháng  chiến  của  dân  tộc  ta  là  một  cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất  toàn dân,  toàn diện,  lâu dài”. “Là cuộc chiến  tranh  tiến bộ vì  tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

-  Chính  sách  kháng  chiến:  “Liên  hiệp  với  dân  tộc Pháp,  chống  phản  động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân  tộc yêu chuộng  tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ  toàn dân. Thực hiện  toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

-  Chương  trình  và  nhiệm  vụ  kháng  chiến:  “Đoàn  kết  toàn  dân,  thực  hiện quân, chính, dân nhất  trí… Động viên nhân  lực, vật  lực,  tài  lực,  thực hiện toàn  dân  kháng  chiến,  toàn  diện  kháng  chiến,  trường  kỳ  kháng  chiến. Giành  quyền  độc  lập,  bảo  tòan  lãnh  thổ,  thống  nhất  Trung,  Nam,  Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc…”.

-  Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực  hiện  kháng  chiến  toàn  dân,  toàn  diện,  lâu  dài,  dựa  vào  sức mình  là chính.

-  Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân  tộc, bất kỳ người già, người  trẻ. Hễ  là người V.n phải đứng  lên đánh  thực dân Pháp”,  thực  hiện mỗi  người dân  là một  chiến  sĩ, mỗi  làng xóm là một pháo đài.

-  Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

o  Về  chính  trị:  thực  hiện  đoàn  kết  toàn  dân,  tăng  cường  xây  dựng Đảng, chính quyền, các đoàn  thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

o  Về  quân  sự: Thực  hiện  vũ  trang  toàn  dân,  xây  dựng  lực  lượng  vũ trang nhân dân,  tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai,  thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến  lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ.

o  Về kinh  tế: Tiêu  thổ kháng chiến, xây dựng kinh  tế  tự cung  tự  túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công  nghiệp quốc phòng.

o  Về  văn  hóa: Xóa  bỏ  văn  hóa  thực  dân,  phong  kiến,  xây  dựng  nền văn  hóa  dân  chủ mới  theo  3  nguyên  tắc:  dân  tộc,  khoa  học  và  đại chúng.

o  Về  ngoại  giao: Thực  hiện  thêm  bạn  bớt  thù,  biểu  dương  thực  lực. “Liên hiệp với dân  tộc Pháp, chống phản động  thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

o  Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có  thời gian phát huy yếu  tố “thiên  thời, địa  lợi, nhân hòa”  của  ta,  chuyển  hóa  tương  quan  lực  lượng  từ  chỗ  ta  yếu  hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

o  Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị bao vây 4 phía,  chưa được nước nào  giúp đỡ nên phải  tự  lực  cánh sinh. Khi nào có điều kiện  ta sẽ  tranh  thủ  sự giúp đỡ của các nước

song lúc đó cũng không được ỷ lại.

Triển  vọng  kháng  chiến: Mặc dù  lâu dài,  gian  khổ, khó khăn  song nhất định thắng lợi.

      Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên  lý về chiến  tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với  thực  tế đất nước  lúc bấy giờ. Đường  lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có  tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát  triển đúng hướng,  từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

   Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950, Đảng đã tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch  trong các đô  thị, củng cố các vùng  tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch  lên Việt Bắc;  lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương,  tìm cách chống phá  thủ đoạn “lấy chiến  tranh nuôi chiến  tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên  Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Câu2:

Tính quy  luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa  là  tỳ  trọng của nông nghiệp giảm  còn  công  nghiệp, dịch  vụ  thì  tăng  lên.

Nông Nghiệp

  Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp theo hướng tạo ra giá  trị  gia  tăng  ngày  càng  cao,  gắn  với  công  nghiệp  chế  biến  và  thị  trường;  đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao sản xuất, chất  lượng và sức cạnh  tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm  từng vùng, từng địa phương.

  Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp

Công nghiệp

    phát  triển  công  nghiệp  công  nghệ  cao,  công  nghiệp  chế  tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ  trợ có  lợi  thế cạnh  tranh,  tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều  lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu  kinh  tế,  nâng  cao  hiệu  quả  của  các  khu  công  nghiệp,  khu  chế  xuất.  Khuyến

khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp  sản  xuất  hàng  tiêu dùng  và  hàng  xuất khẩu;  sản  xuất  tư  liệu  sản xuất quan trọng  theo hướng hiện đại; ưu  tiên  thu hút đầu  tư của các  tập đoàn kinh  tế  lớn của nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.

   Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng về khai  thác dầu khí,  lọc dầu và hóa dầu,  luyện kim, cơ khí chế  tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài.

Dịch vụ

    Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất  là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành dịch vụ cao hơn với tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển ngành ‘công nghiệp không có khói’ này. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất  lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn  thông, du  lịch. Phát  triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.

    Đổi mới căn bản cơ chế quản  lý và phương  thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hàng lang pháp lý, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Thực trạng: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những kết quả quan trọng, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông,  lâm nghiệp và  thủy sản giảm  (thời kỳ 2001 – 2005,  tỷ  trọng công nghiệp và xây dựng  tăng  từ 36,7% năm 2000  lên 41% năm 2005; còn  tỷ  trọng của nông,  lâm nghiệp và  thủy  sản  giảm  từ 24,5% năm 2000 xuống  còn 20,9%  năm 2005). Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch  tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường

 CNH phải gắn với HĐH, CNH - HDH gắn với phát triển nền kinh tế tri thức Khái niệm CNH truyền thống: CNH là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc trong sản xuất CNH phải gắn liền với HDH do sự phát triển của cách mạng KHCN cùng với xu hướng hội nhập toàn cầu hoá. Vì vậy, chúng ta có thể tận dụng, nhập khẩu công nghệ mới để phát triển kinh tế ở một số khâu, một số lĩnh vực. CNH - HDH phải gắn với phát triển nền kinh tế tri thức vì trên thế giới nhiều nước đang chuyển từ nước công nghiệp sang phát triển kinh tế tri thức. Do đó ta tận dụng được lợi thế của một nước phát triển sau, ta ko cần phát triển tuần tự mà phát triển theo con đường rút ngắn Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đặc trưng của kinh tế tri thức: Tất cả những ngành tác động đến nền kinh tế là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới của KHCN Những ngành kinh tế truyền thống được ứng dụng KHCN cao Đặc điểm của kinh tế tri thức: LLSX – trí thức: trở thành yếu tố hàng đầu quyết định đến sự tăng trưởng ktế Công nghệ thông tin: thông tin là tài nguyên của quốc gia và nền kinh tế có hệ thống mạng thông tin được phát triển rộng rãi. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hoá, sáng tạo và học tập trở thành nhu cầu và đổi mới thường xuyên. Nhiều điều tưởng như nghịch lí: giá trị sử dụng của hàng hoá càng cao thì giá bán càng rẻ, cái đã biết không còn giá trị và tìm ra cái chưa biết sẽ làm mất giá trị của cái đã biết. Cơ hội và thách thức: thách thức mang tính cơ hội Cho phép những nước đi sau phát triển theo con đường rút ngắn song cũng tạo ra nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước đã phát triển Tận dụng được lợi thế về công nghệ mới để hiện đại hoá nền kinh tế nhưng cũng có thể biến nước ta thành một bãi rác công nghệ của các nước phát triển. Tình trạng dễ nhập khẩu chuyên gia có thể bị đảo ngược bởi tình trạng chảy máu chất xám. Đôi khi, thách thức hay sự yếu kém của nền kinh tế lại mang đến cơ hội mới. VD: khi mạng lưới điện thoại viễn thông chưa có gì -> ta có thể phát triển mạng lưới này với tốc độ nhanh, đi thẳng đến công nghệ hiện đại mà ko mất chi phí tháo dỡ mạng lưới cũ. CNH - HDH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế Lực lượng: Trước đây, tiến hành CNH trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp -> lực lượng tiến hành CNH là Nhà nước bằng một hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch, pháp lệnh. Trong thời kì đổi mới, có nhiều thành phần kinh tế nên CNH - HDH được xem là sự nghiệp của toàn dân trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. VŨ NGỌC TÙNG CQ46/11.08 

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam + + + + • • • - - Phương thức phân bổ các nguồn lực Trước đổi mới: phân bổ các nguồn lực thông qua kế hoạch, chỉ tiêu Nhà nước Trong thời kì đổi mới: phân bổ các nguồn lực theo cơ chế thị trường -> hiệu quả kinh tế cao hơn Chiến lược phát triển: Trước đổi mới: phát triển theo mô hình khép kín Trong thời kì đổi mới: CNH được tiến hành trong bối cảnh mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để phát huy được nhân tố con người cần coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, phải có cơ cấu lao động hợp lí. KHCN là nền tảng, động lực của CNH - HDH Vai trò của KHCN: quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả của SXKD. Từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc điểm của KHCN nước ta: trình độ thấp, nên để tiến hành CNH - HDH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phải phát triển KHCN Giải pháp: nhập khẩu công nghệ, kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… Phát triển nhanh hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Mục tiêu xây dựng CNXH là thực hiện dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Biện pháp: phát triển kinh tế nhanh, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng. Phát triển bền vững đòi hỏi: phải bảo vệ môi trường và bảo tồn sự đa dạng sinh học, đó cũng chính là bảo vệ môi trường sống của con người. IV- Nội dung, định hướng CNH-HDH gắn với phát triển k. tế tri thức 1. Nội dung QĐ của ĐH 10: Chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình CNH,HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH,HĐH a. Phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao nhưng phải dựa nhiều vào tri thức, kết hợp tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của thời đại. b. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng c. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí + Khách quan: tỉ trọng nông nghiệp giảm, tỉ trọng công nghiệp và dvụ tăng CQ46/11.08 VŨ NGỌC TÙNG 

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam + Xét về tính hiện đại: trình độ kĩ thuật của nền kinh tế ko ngừng lớn mạnh, phù hợp với yêu cầu tiến bộ KHCN + Xét về tính hiệu quả: cho phép khai thác được tiềm năng thế mạnh của các vùng, địa phương, quốc gia. + Xét về tính thị trường: cho phép tham gia phân công lao động, hợp tác quốc tế sôi động -> cơ cấu kinh tế mở d. Giảm chi phí trung gian, tăng năng suất lao động ở tất cả các ngành, lĩnh vực. 2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình CNH HDH gắn với kinh tế tri thức • Đẩy mạnh CNH nông nghiệp nông thôn đồng thời giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân * Một là CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn Sự cần thiết phải CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn: + Tính quy luật của quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, dịch vụ và đô thị. + Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trờng rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. + Nông thôn là nơi chiếm đa số cư dân thời điểm bắt đầu tiến hành CNH. Vai trò của nông nghiệp + Cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội + Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, quyết định quy mô phát triển của công nghiệp nhẹ + Cung cấp một phần vốn cho CNH + Nông nghiệp là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ + Bảo đảm an ninh lương thực, an ninh chính trị xã hội Định hướng CNH ở nông nghiệp, nông thôn: + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hớng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với phát triển công nghiệp chế biến và thị trường; đa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phơng. + Tăng nhanh tỷ trọng và giá trị sản phẩm các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động trong nông nghiệp * Hai là về quy hoạch phát triển nông thôn Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng văn hoá xã hội đồng bộ như thuỷ lợi, giao thông, điện, nước sạch, các cụm công nghiệp, y tế, bưu điện. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh trật tự an toàn xã hội. * Ba là giải quyết lao động, tạo việc làm ở nông thôn. Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xoá đói giảm nghèo. • Phát triển nhanh công nghiệp xây dựng dịch vụ Đối với công nghiệp và xây dựng CQ46/11.08 VŨ NGỌC TÙNG 

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam + + + + + + • + + + • - • • - Phát triển ngành công nghệ cao, công nghệ chế tác, phần mềm để tạo ra lợi thế cạnh tranh Phát triển các khu kinh tế mở, các đặc khu kinh tế Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp, thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại. Đối với dịch vụ: Tạo ra sự đột phá đối với dịch vụ có chất lượng cao Phát triển mạnh dịch vụ truyền thống Đổi mới căn bản cơ chế quản lí và phương thức cung cấp dịch vụ Phát triển kinh tế vùng Vai trò: Cơ cấu vùng kinh tế được xác định đúng sẽ cho phép khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Định hướng: Một là, có chính sách, cơ chế phù hợp để các vùng phát huy đợc lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và tạo ra sự liên kết giữa các vùng trong phát triển. Hai là, xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền bắc, trung, nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao ... Ba là, bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, kinh doanh tại vùng khó khăn. Phát triển kinh tế biển Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành một số hành lang kinh tế ven biển Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ Cơ cấu lao động: Đến năm 2010 có cơ cấu lao động đồng bộ, chất lượng cao và tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn dới 50%. Chú trọng công nghệ cao, đi ngay vào công nghệ hiện đại để tạo đột phá kết hợp với sử dụng công nghệ nhiều lao động để tạo việc làm. Kết hợp chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục đào tạo. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính. Bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là tài nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản. Tăng cường quản lí tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản, và rừng. Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thuỷ văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn Xử lí tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lí tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lí, khai thác và sử dụng tài nguyên nước. VŨ NGỌC TÙNG CQ46/11.08 

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam V- - + + + a. a. b. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế, ng.nhân của CNH-HDH thời kì đổi mới 1. Kết quả Cơ sở vật chất - kĩ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm ngày càng tăng. Các ngành công nghiệp luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hoá dầu… đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt được những kết quả quan trọng: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm (giai đoạn 2001 - 2005, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% lên 41%, còn tỷ trọng nông lâm thuỷ sản giảm từ 24,5% xuống còn 20,9%). Trong từng ngành kinh tế còn có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường. Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh chóng đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 đến 2005, tỉ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%, trong nông lâm ngư nghiệp giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%, lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25%. Những thành tựu của CNH - HDH đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến 2005 đạt trên 7.51%/năm, các năm 2006 - 2007 đạt 8%/năm, thu nhập đầu người tăng lên đáng kể: năm 2005 đạt 640USD/người thì năm 2007 đạt trên 800USD/người, góp phần quan trọng vào công tác xoá đói, giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện. 2. Ý nghĩa Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở phấn đấu để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 3. Hạn chế Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kì đầu công nghiệp hoá. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, tập trung vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Nguồn nhân lức đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả: tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy. VŨ NGỌC TÙNG CQ46/11.08 

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam c. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung CNH - HDH nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao, tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều. d. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức. e. Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các thành phần kinh tế. f. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lí kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. g. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 4. Nguyên nhân h. Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. i. Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả. Công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu. j. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém k. Công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lí dẫn đến quy hoạch “treo” khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lí làm cho đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lí yếu kém

sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.

Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển. 

• Thứ nhất: KTTT không phải cái riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của nhân loại:

- KTHH ra đời từ KTTN, KTTT là giai đoạn phát triển cao của KTHH

- KTHH là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của quá trình dùng để thoả mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi, mua bán

- KTTT là phương thức tổ chức,vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người

- KTHH và KTTT giống nhau về bản chất (đều chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường) và nguồn gốc (xuất phát từ KTTN và sự phân công lao động xã hội)

- KTHH và KTTT khác nhau về trình độ phát triển: KTTT phát triển sau nên với trình độ cao hơn, KTHH có đầu ra thông qua thị trường nhưng đầu vào thì chưa chắc, trong khi KTTT có cả đầu ra và đầu vào thông qua thị trường

-> Tóm lại: KTTT tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, nó không phải là sản phẩm riêng của CNTB mà là thành tựu chung của nhân loại nhưng hiện nay có nhiều mô hình KTTT khác nhau (KTTT tự do, KTTT xã hội)

• Thứ hai: KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên CNXH

- Tính tất yếu khách quan phải phát triển KTTT trong thời kì quá độ lên CNXH

+ KTTT là 1 kiểu tổ chức kinh tế, là trình độ phát triển cao của KTHH

+ KTTT đối lập với KTTN, chứ không phải là đặc trưng bản chất của 1 chế độ kinh tế cơ bản của xã hội

+ KTTT tồn tại ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau

+ Trong thời kì quá độ có những cơ sở kinh tế là điều kiện tồn tại và phát triển của KTTT và phát triển KTTT là cần thiết cho quá trình xây dựng CNXH

-> Vì vậy mô hình phát triển tổng quát của nước ta là: “phát triển KTHH nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước”

- Đặc trưng của mô hình:

+ Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh và hợp tác với nhau

+ Các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và phương án tổ chức sản xuất theo sự hướng dẫn của thị trường

+ Nhà nước quản lí nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội

• Thứ ba: Sự cần thiết phải sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng XH ở nước ta

Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế xã hội vì đặc trưng chung của KTTT:

- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh

- Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường phát triển đầy đủ và có tác dụng là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế

- Nền kinh tế có tính mở cao và vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường

- Nền kinh tế thị trường hiện đại còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước

Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.

Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề raquan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Theo chúng tôi, có những khía cạnh đáng lưu ý, quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội hoá các lực lượng sản xuất.

Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những thành công nhất định trong phát triểnkinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, nhân loại đã nhận thức được rằng, mô hình phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu. Những mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu - nghèo. Hơn nữa, nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển hơn, đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ "trung tâm - ngoại vi".

Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình. Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải. Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường riêng của mình, nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã chủ trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà nước tư bản chủ nghĩa ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội, tạo ra cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Nhưng trong phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những nỗ lực trên rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn.

Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Nếu như nền văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp thì trái lại, nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp. Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi điện tử và sinh học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội, với nguồn nguyên liệu sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước lạc hậu.

Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn.

Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.

Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội.

Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinhtế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro