DM co che QLKT la NC cbach va su tdoi tu uy ve KTTT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tại sao nói: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết? Trình bày quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) cho tới nay?

Bài làm.

13.1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết. Bởi vì:

+ Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch kinh tế 5 năm xây dụng chủ nghĩa xã hội ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985) nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải rất nhiều những khó khăn thử thách, yếu kém do những sai lầm khuyết điểm gây ra, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, lạm phát tăng cao chưa từng có trong lịch sử đất nước ta. Hoàn cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành công cuộc đổi mới.

+ Do yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển đất nước, cần phải khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thập niên 80, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên. Đổi mới còn xuất phát từ sự thay đổi trong tình hình thế giới, nhất là trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Như vậy đổi mới là vấn đề sống còn của chủ nghĩa xã hội, ở nước ta đổi mới là vấn đề phù hợp với xu thế tất yêu của thời đại.

+ Dưới sức ép của tình thế khách quan và hoàn cảnh hiện tại lúc bấy giờ của đất nước, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước cải biến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để, đó là:

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bi thư Trung ương ( khóa IV), thực hiện chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An.

Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa V – 1985) về giá – lương – tiềm.

Nghị định số 25 và Nghị định số 26/CP của Chính phủ.

Đây là những căn cứ thực tế để Đảng và Nhà nước ta đi đến quyết định đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

+ Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI ( 12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yêu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta mà Đại hội Đảng lần VI ( 12/1986) đề ra là một nhu cầu cấp thiết.

13.2). Quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986) đến nay.

a). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI ( 12/1986) đến Đại hội VIII (6/1996).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội. Đại hội Đảng lần VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra đường lối đối mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Một là: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

+ Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, các yếu tố thị trường như: cung – cầu – giá cả có tác động quan trọng, điều tiết quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, phân bổ các nguồn lực như vốn, vật tư, sức lao động,… phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường đóng vai trò là công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tê. Trong nền kinh tế các nguồn lực được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất. Tuy nhiên kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên ở trình độ thấp chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, ngăng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất, kinh tế thị trường lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

+ Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng nó đạt đến sự phát triển cao trong xã hội tư bản. Điều đó khiến không ít người nhầm tưởng rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại, bởi vì kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.

- Hai là: kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực và điều tiết mối quan hệ giữa con người với con ngươi. Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội.

+ Kinh tế thị trường vừa có thể liện hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu. Vì vây, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 24 – 27/6/1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội. Trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế đối với các thành phần kinh tê. Đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Từ ngày 28/6 – 1/7/1996 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng họp tại Hà Nội, tiếp tục thực hiện đường lối trên, đã để ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, có thế và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

+ Giá cả cơ bản do quy luật cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

+ Nền kinh tế có tính mở cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.

+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

b). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay.

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cớ vận hội lớn, nhưng đông thời cũng phải đối mặt với những thử thách không nhỏ. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục đổi mới, từ ngày 19 – 22/4/2001 Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX đã họp tại Hà Nội. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những tư duy của Đại hội IX, từ ngày 18 – 25/4/2006 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó được thể hiện ở bốn tiêu chí là:

- Về mục đích phát triển: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn minh”.

+ Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân, mọi người đều được hưởng những thành quả của phát triển kinh tế.

- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tôi đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội – văn hóa – giáo dục và đào tạo. Hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu qua chế độ phấn phối làm theo năng lực hưởng theo lao động, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.

- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhân dân.

+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Như vậy, sau suốt một thời gian dài từ 1954 – 1986 Nhà nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã dấn tới sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào những năm cuối của thập niên 80, vì vậy mà việc Đảng – Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại Đại hôi Đảng lần VI ( 12/1986) là một nhu cầu cấp thiết. Với đường lối đổi mới từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là rất kịp thời, đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần VI đến nay, càng cho thấy rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp và đúng đắn. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng và hiện nay đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa và mục tiêu từ nay đến năm 2020 đư nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là rất khả quan.

Tại sao nói: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết? Trình bày quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) cho tới nay?

Bài làm.

13.1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết. Bởi vì:

+ Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch kinh tế 5 năm xây dụng chủ nghĩa xã hội ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985) nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải rất nhiều những khó khăn thử thách, yếu kém do những sai lầm khuyết điểm gây ra, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, lạm phát tăng cao chưa từng có trong lịch sử đất nước ta. Hoàn cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành công cuộc đổi mới.

+ Do yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển đất nước, cần phải khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thập niên 80, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên. Đổi mới còn xuất phát từ sự thay đổi trong tình hình thế giới, nhất là trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Như vậy đổi mới là vấn đề sống còn của chủ nghĩa xã hội, ở nước ta đổi mới là vấn đề phù hợp với xu thế tất yêu của thời đại.

+ Dưới sức ép của tình thế khách quan và hoàn cảnh hiện tại lúc bấy giờ của đất nước, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước cải biến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để, đó là:

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bi thư Trung ương ( khóa IV), thực hiện chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An.

Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa V – 1985) về giá – lương – tiềm.

Nghị định số 25 và Nghị định số 26/CP của Chính phủ.

Đây là những căn cứ thực tế để Đảng và Nhà nước ta đi đến quyết định đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

+ Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI ( 12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yêu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta mà Đại hội Đảng lần VI ( 12/1986) đề ra là một nhu cầu cấp thiết.

13.2). Quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986) đến nay.

a). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI ( 12/1986) đến Đại hội VIII (6/1996).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội. Đại hội Đảng lần VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra đường lối đối mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Một là: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

+ Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, các yếu tố thị trường như: cung – cầu – giá cả có tác động quan trọng, điều tiết quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, phân bổ các nguồn lực như vốn, vật tư, sức lao động,… phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường đóng vai trò là công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tê. Trong nền kinh tế các nguồn lực được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất. Tuy nhiên kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên ở trình độ thấp chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, ngăng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất, kinh tế thị trường lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

+ Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng nó đạt đến sự phát triển cao trong xã hội tư bản. Điều đó khiến không ít người nhầm tưởng rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại, bởi vì kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.

- Hai là: kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực và điều tiết mối quan hệ giữa con người với con ngươi. Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội.

+ Kinh tế thị trường vừa có thể liện hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu. Vì vây, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 24 – 27/6/1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội. Trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế đối với các thành phần kinh tê. Đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Từ ngày 28/6 – 1/7/1996 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng họp tại Hà Nội, tiếp tục thực hiện đường lối trên, đã để ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, có thế và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

+ Giá cả cơ bản do quy luật cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

+ Nền kinh tế có tính mở cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.

+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

b). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay.

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cớ vận hội lớn, nhưng đông thời cũng phải đối mặt với những thử thách không nhỏ. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục đổi mới, từ ngày 19 – 22/4/2001 Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX đã họp tại Hà Nội. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những tư duy của Đại hội IX, từ ngày 18 – 25/4/2006 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó được thể hiện ở bốn tiêu chí là:

- Về mục đích phát triển: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn minh”.

+ Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân, mọi người đều được hưởng những thành quả của phát triển kinh tế.

- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tôi đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội – văn hóa – giáo dục và đào tạo. Hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu qua chế độ phấn phối làm theo năng lực hưởng theo lao động, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.

- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhân dân.

+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Như vậy, sau suốt một thời gian dài từ 1954 – 1986 Nhà nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã dấn tới sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào những năm cuối của thập niên 80, vì vậy mà việc Đảng – Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại Đại hôi Đảng lần VI ( 12/1986) là một nhu cầu cấp thiết. Với đường lối đổi mới từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là rất kịp thời, đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần VI đến nay, càng cho thấy rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp và đúng đắn. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng và hiện nay đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa và mục tiêu từ nay đến năm 2020 đư nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là rất khả quan.

Tại sao nói: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết? Trình bày quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) cho tới nay?

Bài làm.

13.1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết. Bởi vì:

+ Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch kinh tế 5 năm xây dụng chủ nghĩa xã hội ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985) nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải rất nhiều những khó khăn thử thách, yếu kém do những sai lầm khuyết điểm gây ra, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, lạm phát tăng cao chưa từng có trong lịch sử đất nước ta. Hoàn cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành công cuộc đổi mới.

+ Do yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển đất nước, cần phải khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thập niên 80, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên. Đổi mới còn xuất phát từ sự thay đổi trong tình hình thế giới, nhất là trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Như vậy đổi mới là vấn đề sống còn của chủ nghĩa xã hội, ở nước ta đổi mới là vấn đề phù hợp với xu thế tất yêu của thời đại.

+ Dưới sức ép của tình thế khách quan và hoàn cảnh hiện tại lúc bấy giờ của đất nước, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước cải biến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để, đó là:

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bi thư Trung ương ( khóa IV), thực hiện chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An.

Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa V – 1985) về giá – lương – tiềm.

Nghị định số 25 và Nghị định số 26/CP của Chính phủ.

Đây là những căn cứ thực tế để Đảng và Nhà nước ta đi đến quyết định đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

+ Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI ( 12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yêu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta mà Đại hội Đảng lần VI ( 12/1986) đề ra là một nhu cầu cấp thiết.

13.2). Quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986) đến nay.

a). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI ( 12/1986) đến Đại hội VIII (6/1996).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội. Đại hội Đảng lần VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra đường lối đối mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Một là: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

+ Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, các yếu tố thị trường như: cung – cầu – giá cả có tác động quan trọng, điều tiết quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, phân bổ các nguồn lực như vốn, vật tư, sức lao động,… phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường đóng vai trò là công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tê. Trong nền kinh tế các nguồn lực được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất. Tuy nhiên kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên ở trình độ thấp chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, ngăng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất, kinh tế thị trường lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

+ Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng nó đạt đến sự phát triển cao trong xã hội tư bản. Điều đó khiến không ít người nhầm tưởng rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại, bởi vì kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.

- Hai là: kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực và điều tiết mối quan hệ giữa con người với con ngươi. Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội.

+ Kinh tế thị trường vừa có thể liện hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu. Vì vây, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 24 – 27/6/1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội. Trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế đối với các thành phần kinh tê. Đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Từ ngày 28/6 – 1/7/1996 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng họp tại Hà Nội, tiếp tục thực hiện đường lối trên, đã để ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, có thế và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

+ Giá cả cơ bản do quy luật cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

+ Nền kinh tế có tính mở cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.

+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

b). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay.

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cớ vận hội lớn, nhưng đông thời cũng phải đối mặt với những thử thách không nhỏ. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục đổi mới, từ ngày 19 – 22/4/2001 Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX đã họp tại Hà Nội. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những tư duy của Đại hội IX, từ ngày 18 – 25/4/2006 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó được thể hiện ở bốn tiêu chí là:

- Về mục đích phát triển: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn minh”.

+ Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân, mọi người đều được hưởng những thành quả của phát triển kinh tế.

- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tôi đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội – văn hóa – giáo dục và đào tạo. Hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu qua chế độ phấn phối làm theo năng lực hưởng theo lao động, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.

- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhân dân.

+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Như vậy, sau suốt một thời gian dài từ 1954 – 1986 Nhà nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã dấn tới sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào những năm cuối của thập niên 80, vì vậy mà việc Đảng – Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại Đại hôi Đảng lần VI ( 12/1986) là một nhu cầu cấp thiết. Với đường lối đổi mới từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là rất kịp thời, đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần VI đến nay, càng cho thấy rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp và đúng đắn. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng và hiện nay đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa và mục tiêu từ nay đến năm 2020 đư nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là rất khả quan.

Tại sao nói: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết? Trình bày quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) cho tới nay?

Bài làm.

13.1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết. Bởi vì:

+ Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch kinh tế 5 năm xây dụng chủ nghĩa xã hội ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985) nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải rất nhiều những khó khăn thử thách, yếu kém do những sai lầm khuyết điểm gây ra, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, lạm phát tăng cao chưa từng có trong lịch sử đất nước ta. Hoàn cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành công cuộc đổi mới.

+ Do yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển đất nước, cần phải khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thập niên 80, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên. Đổi mới còn xuất phát từ sự thay đổi trong tình hình thế giới, nhất là trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Như vậy đổi mới là vấn đề sống còn của chủ nghĩa xã hội, ở nước ta đổi mới là vấn đề phù hợp với xu thế tất yêu của thời đại.

+ Dưới sức ép của tình thế khách quan và hoàn cảnh hiện tại lúc bấy giờ của đất nước, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước cải biến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để, đó là:

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bi thư Trung ương ( khóa IV), thực hiện chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An.

Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa V – 1985) về giá – lương – tiềm.

Nghị định số 25 và Nghị định số 26/CP của Chính phủ.

Đây là những căn cứ thực tế để Đảng và Nhà nước ta đi đến quyết định đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

+ Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI ( 12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yêu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta mà Đại hội Đảng lần VI ( 12/1986) đề ra là một nhu cầu cấp thiết.

13.2). Quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986) đến nay.

a). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI ( 12/1986) đến Đại hội VIII (6/1996).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội. Đại hội Đảng lần VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra đường lối đối mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Một là: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

+ Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, các yếu tố thị trường như: cung – cầu – giá cả có tác động quan trọng, điều tiết quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, phân bổ các nguồn lực như vốn, vật tư, sức lao động,… phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường đóng vai trò là công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tê. Trong nền kinh tế các nguồn lực được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất. Tuy nhiên kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên ở trình độ thấp chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, ngăng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất, kinh tế thị trường lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

+ Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng nó đạt đến sự phát triển cao trong xã hội tư bản. Điều đó khiến không ít người nhầm tưởng rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại, bởi vì kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.

- Hai là: kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực và điều tiết mối quan hệ giữa con người với con ngươi. Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội.

+ Kinh tế thị trường vừa có thể liện hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu. Vì vây, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 24 – 27/6/1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội. Trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế đối với các thành phần kinh tê. Đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Từ ngày 28/6 – 1/7/1996 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng họp tại Hà Nội, tiếp tục thực hiện đường lối trên, đã để ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, có thế và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

+ Giá cả cơ bản do quy luật cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

+ Nền kinh tế có tính mở cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.

+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

b). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay.

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cớ vận hội lớn, nhưng đông thời cũng phải đối mặt với những thử thách không nhỏ. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục đổi mới, từ ngày 19 – 22/4/2001 Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX đã họp tại Hà Nội. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những tư duy của Đại hội IX, từ ngày 18 – 25/4/2006 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó được thể hiện ở bốn tiêu chí là:

- Về mục đích phát triển: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn minh”.

+ Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân, mọi người đều được hưởng những thành quả của phát triển kinh tế.

- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tôi đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội – văn hóa – giáo dục và đào tạo. Hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu qua chế độ phấn phối làm theo năng lực hưởng theo lao động, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.

- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhân dân.

+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Như vậy, sau suốt một thời gian dài từ 1954 – 1986 Nhà nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã dấn tới sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào những năm cuối của thập niên 80, vì vậy mà việc Đảng – Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại Đại hôi Đảng lần VI ( 12/1986) là một nhu cầu cấp thiết. Với đường lối đổi mới từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là rất kịp thời, đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần VI đến nay, càng cho thấy rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp và đúng đắn. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng và hiện nay đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa và mục tiêu từ nay đến năm 2020 đư nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là rất khả quan.

Tại sao nói: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết? Trình bày quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) cho tới nay?

Bài làm.

13.1) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta trong năm 1986 là một nhu cầu cấp thiết. Bởi vì:

+ Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch kinh tế 5 năm xây dụng chủ nghĩa xã hội ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985) nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng ta đã gặp phải rất nhiều những khó khăn thử thách, yếu kém do những sai lầm khuyết điểm gây ra, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, lạm phát tăng cao chưa từng có trong lịch sử đất nước ta. Hoàn cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành công cuộc đổi mới.

+ Do yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển đất nước, cần phải khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thập niên 80, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên. Đổi mới còn xuất phát từ sự thay đổi trong tình hình thế giới, nhất là trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Như vậy đổi mới là vấn đề sống còn của chủ nghĩa xã hội, ở nước ta đổi mới là vấn đề phù hợp với xu thế tất yêu của thời đại.

+ Dưới sức ép của tình thế khách quan và hoàn cảnh hiện tại lúc bấy giờ của đất nước, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước cải biến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để, đó là:

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban bi thư Trung ương ( khóa IV), thực hiện chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp; bù giá vào lương ở Long An.

Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa V – 1985) về giá – lương – tiềm.

Nghị định số 25 và Nghị định số 26/CP của Chính phủ.

Đây là những căn cứ thực tế để Đảng và Nhà nước ta đi đến quyết định đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

+ Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI ( 12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đối với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yêu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta mà Đại hội Đảng lần VI ( 12/1986) đề ra là một nhu cầu cấp thiết.

13.2). Quá trình thay đổi tư duy về kinh tế thị trường của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986) đến nay.

a). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI ( 12/1986) đến Đại hội VIII (6/1996).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội. Đại hội Đảng lần VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. Đại hội đã đề ra đường lối đối mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn này đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Một là: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

+ Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, các yếu tố thị trường như: cung – cầu – giá cả có tác động quan trọng, điều tiết quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, phân bổ các nguồn lực như vốn, vật tư, sức lao động,… phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường đóng vai trò là công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tê. Trong nền kinh tế các nguồn lực được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất. Tuy nhiên kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên ở trình độ thấp chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, ngăng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại của người sản xuất, kinh tế thị trường lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

+ Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng nó đạt đến sự phát triển cao trong xã hội tư bản. Điều đó khiến không ít người nhầm tưởng rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

+ Chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại, bởi vì kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.

- Hai là: kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực và điều tiết mối quan hệ giữa con người với con ngươi. Kinh tế thị trường đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội.

+ Kinh tế thị trường vừa có thể liện hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu. Vì vây, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 24 – 27/6/1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội. Trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế đối với các thành phần kinh tê. Đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Từ ngày 28/6 – 1/7/1996 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VIII của Đảng họp tại Hà Nội, tiếp tục thực hiện đường lối trên, đã để ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, có thế và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.

+ Giá cả cơ bản do quy luật cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.

+ Nền kinh tế có tính mở cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu.

+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

b). Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến nay.

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cớ vận hội lớn, nhưng đông thời cũng phải đối mặt với những thử thách không nhỏ. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục đổi mới, từ ngày 19 – 22/4/2001 Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX đã họp tại Hà Nội. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những tư duy của Đại hội IX, từ ngày 18 – 25/4/2006 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó được thể hiện ở bốn tiêu chí là:

- Về mục đích phát triển: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ. văn minh”.

+ Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống nhân dân, mọi người đều được hưởng những thành quả của phát triển kinh tế.

- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tôi đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội – văn hóa – giáo dục và đào tạo. Hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu qua chế độ phấn phối làm theo năng lực hưởng theo lao động, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.

- Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhân dân.

+ Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.

Như vậy, sau suốt một thời gian dài từ 1954 – 1986 Nhà nước ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đã dấn tới sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng vào những năm cuối của thập niên 80, vì vậy mà việc Đảng – Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại Đại hôi Đảng lần VI ( 12/1986) là một nhu cầu cấp thiết. Với đường lối đổi mới từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là rất kịp thời, đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần VI đến nay, càng cho thấy rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp và đúng đắn. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng và hiện nay đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa và mục tiêu từ nay đến năm 2020 đư nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là rất khả quan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro