dmbk

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 8: Giở trời rồi

Editor: Tiểu Điệp

Beta: Thanh Du

*****

Tôi bước theo cô ta vào khoang thuyền, bên trong chất từng đống từng đống đồ, gần như ngay cả chỗ đặt chân cũng không có, xem ra họ chuẩn bị vô cùng gấp gáp, tất cả trang thiết bị còn chưa kịp xếp ngay ngắn vào khoang, vứt tứ tung trên lối vào. Tôi vừa đi vừa quan sát, phát hiện ra chủ yếu là thiết bị lặn, máy móc cỡ lớn, đồ ăn, dây thừng, trong đó bình dưỡng khí chiếm phần lớn.

Chúng tôi bước qua đống trang thiết bị tới khoang sau liền với phòng đặt máy, ở đây bày ra vài tấm phản xếp lộn xộn, phía trên phủ một tấm thảm đã bẩn đến mức biến thành màu đen. Trên một tấm phản có một gã trung niên hơi mập và hói đang ngồi, mặt mũi bóng loáng. Thấy tôi bước vào, gã đứng lên bắt tay tôi như điên, nói: “Hân hạnh, hân hạnh, tôi họ Trương.”

Ấn tượng đầu tiên của tôi với người này không tốt chút nào, có điều vì lịch sự, tôi vẫn bắt tay gã một cái. Đôi tay hắn rất khỏe, có lẽ trước đây từng làm việc lao động chân tay.

Ninh tiểu thư giới thiệu với tôi. “Ngài Trương đây là cố vấn công ty chúng tôi đặc biệt mời tới, là chuyên gia nghiên cứu lăng mộ triều Minh, lần này chủ yếu phụ trách phân tích kiến trúc lăng mộ dưới đáy biển.”

Tôi không có nhiều hứng thú lắm với giới khảo cổ chính thống, cũng chưa từng nghe qua tên gã, có điều nhìn gã lộ vẻ mặt đắc ý, không thể làm gì khác đành khách sáo một câu: “Ngưỡng mộ đã lâu.”

Lão Trương hói kia khoa trương khoát tay nói: “Chuyên gia không dám nhận, chỉ là nghiên cứu linh tinh mà thôi, chẳng qua vận số của tôi khá tốt, may mắn công bố được vài bản luận văn. Nói chung thành tựu không đáng kể, không cần nhắc tới làm gì.”

Tôi xưa nay chưa từng gặp ai ăn nói kiểu này, cũng không biết phải đối đáp với gã thế nào, đành nói: “Ngài khiêm tốn quá rồi.”

Gã có vẻ thích thú với lời khách sáo này, lại ra sức bắt tay tôi, hỏi: “Không biết lần này ngài Ngô lấy thân phận gì mà được mời tới đây vậy? Thứ cho tôi nói thẳng, hình như ngành học của ngài ít được chú ý, cũng có thể do tôi kiến thức nông cạn, nên cho tới giờ tôi chưa từng thấy quý danh của ngài Ngô trên tạp chí khảo cổ.”

Mấy câu đó rõ ràng muốn hạ thấp tôi, cũng không biết là cố ý hay vô tình. Tính tình tôi vốn nóng nảy, nghe được mấy câu này gần như muốn nổi điên, nhưng nghĩ lại thì mình vừa lên thuyền không lâu, còn chưa quen với hoàn cảnh, đành nén giận, bực mình nói: “Tôi chuyên việc đào đất.”

Ngữ khí của tôi đã rất khó chịu rồi, nhưng gã lại hoàn toàn không nghe ra, ồ một tiếng: “Ngài là kiến trúc sư? Thảo nào, thì ra không phải người trong nghề chúng ta, có điều cũng là cũng coi như một nửa đồng nghiệp, ngài xây phòng ở cho người sống, tôi nghiên cứu phòng của người chết, chúng ta cũng vẫn có chút quan hệ mà.”

Tôi nghe xong dở khóc dở cười, xem ra người này tuy ăn nói không giỏi, nhưng cũng không phải loại người hai mặt, vỗ vỗ vai gã nói: “Tôi không phải kiến trúc sư, tôi là công nhân khai quật, anh muốn nghiên cứu phòng của người chết, cũng phải để tôi đào trước mới được.”

Nói xong những lời này tôi lại có chút hối hận, tôi vốn không định nhận lời họ đích thân xuống đấu, hiện giờ tình hình nơi đó vẫn chưa rõ ràng, muốn quyết cũng phải chờ tôi quan sát thêm thực tế nữa, nghĩ nghĩ một lúc lại bổ sung thêm: “Có điều đến khi đó có đào hay không, còn phải xem tình hình thế nào. Nếu tình hình không ổn, có muốn đào cũng không được.”

Gã không nhận ra ẩn ý trong lời nói của tôi, còn cúi người đưa danh thiếp cho tôi, nói cái gì mà thêm một người bạn là mở ra một con đường mới, sau này nếu lên phương bắc gặp chuyện gì có thể nhờ gã giúp đỡ. Tôi thấy gã mới gặp tôi được hai phút đã làm như có mười mấy năm giao tình, nếu còn nói tiếp không chừng phải kết bái mất, vội vã chuyển chủ đề, hỏi cô gái kia về sự cố xảy ra trên biển.

Cô gái này cũng là tay lão luyện, tóm tắt một lượt qua cho tôi, tôi cũng hiểu được đại khái.

Thì ra lúc đó chú Ba cũng không xác định được tọa độ chính xác của ngôi mộ dưới đáy biển kia. Chú chỉ dò được bốn vị trí khả nghi, tìm kiếm từng chút từng chút một, sau đó hình như họ đã tìm được, nhưng lần phát tín hiệu cuối cùng của con thuyền mất tích kia khá ngắn gọn, cũng không nhắc tới địa điểm cuối cùng họ tìm được là ở đâu, cho nên hiện giờ chúng tôi chỉ có thể tìm lại lần nữa thôi.

Kế hoạch của họ là bắt đầu tìm từ rặng đá ngầm Tiên Nữ, sau đó đến đảo Vĩnh Hưng tiếp viện thêm một ít vật tư, rồi đến ba vùng biển gần đảo Thất Liên, trên đường không dừng lại quá nửa giờ. Còn về phương pháp tìm kiếm, nước biển Tây Sa rất trong, nếu đủ ánh sáng có thể nhìn sâu xuống nước hơn ba mươi mét, hơn nữa hải lưu cũng bình thường, không phải vùng biển có sóng ngầm hoạt động mạnh, cho nên đạo động mới đào vài ngày trước hẳn là không bị vùi lấp.

Lão lái thuyền vốn rất thông thuộc vùng biển này, người ngoài nghề như chúng tôi nhìn xuống nước thì đâu đâu cũng giống nhau cả, nhưng trong mắt họ, mỗi vùng nước ở đây đều có chỗ đặc biệt của nó, chỉ cần đáy biển có chút biến động, lão lập tức có thể nhìn ra.

Từ cách nói chuyện của cô gái kia, tôi nhận ra cô ta vẫn rất tin tưởng vào sự sống còn của ba người dưới đáy nước. Không biết niềm tin mù quáng này ở đâu ra nữa, tất nhiên, tôi cũng mong được như lời vàng ngọc của cô ta, chú Ba có thể bình yên trong hải đấu.

Lão Trương hói kia thấy tôi nói chuyện với cô nàng rất ăn ý, gạt gã quan một bên, hình như có chút khó chịu, một mình mò đi ngủ. Tôi thấy người này tuổi đã xế tà, tính tình lại vẫn y như con nít, không khỏi buồn cười, người như vậy thực sự rất hiếm (1), không biết có sống chung hòa hợp được không.

Nghĩ đến đây, thuyền bỗng lắc mạnh một cái, lão lái thuyền phía sau đã nổ neo lái thuyền rồi, mà thuyền lại bắt đầu đung đưa. Đây là con thuyền cũ, cho nên không chỉ lắc lư sang trái sang phải, còn lắc lư ra trước về sau không theo nguyên tắc nào, cứ như đang ở trong một cái nôi lớn. Tôi chịu đựng mười mấy tiếng tàu xe mệt nhọc, lại còn bị lộn nhào thế này, cơn buồn ngủ kéo tới, liền ngáp dài một cái. Cô gái kia khá biết điều, bảo tôi nghỉ ngơi đi, tôi cũng không chút khách khí, thật sự mệt quá rồi, vừa đặt lưng xuống đã ngủ luôn.

Lúc tôi tỉnh lại, thuyền đã chạy ra giữa biển rồi. Tôi nhìn xuyên qua khung cửa sổ ra ngoài, phát hiện mới ngủ ngon một giấc dậy mà thời tiết đã thay đổi, mặt biển rộng lớn thoáng chốc chuyển màu xanh sẫm, mặt trời khuất sau tầng mây đen, ánh sáng xuyên qua kẽ mây chiếu xuống, vẽ nên một bức tranh khắc tơ vàng thật lớn, đồng thời rải xuống mặt biển những lớp vảy vàng lấp lánh, trên dưới hòa vào nhau, cảnh tượng vô cùng tráng lệ.

Có điều cảnh đẹp chóng tàn, mây đen nhanh chóng nối lại với nhau, che hết những tia nắng . Biển rộng thoáng chốc chuyển sang một sắc đen khiến người ta sợ hãi. Sóng biển cuồn cuộn trào dâng, cuốn cả thuyền đi. Khi chúng tôi chìm giữa hai đợt sóng, cột nước biển còn cao hơn mạn thuyền, cứ như sắp bị sóng lớn nuốt chửng, đáng sợ vô cùng.

Tôi thấy mấy người chèo thuyền vội vã chạy tới chạy lui, gia cố lại mấy vật tư bằng lưới thừng, tuy gấp gáp nhưng nét mặtlão lái thuyền vẫn không hề tỏ ra sợ hãi.

Tôi đã quen ở thành thị, nhìn cảnh tượng này chỉ thấy vô cùng hưng phấn, muốn lên boong thuyền hỗ trợ, lên tới nơi rồi mới biết không phải cứ nghĩ là làm được. Với tình hình hiện tại, muốn đứng vững trên sàn thuyền thì phản ứng nhanh vẫn chưa đủ. Anh còn phải cực kỳ quen thuộc với sóng biển và thuyền, biết lần này nghiêng thế nào lần sau nghiêng thế nào mà chuẩn bị sẵn sàng. Trình độ của tôi đương nhiên không cao siêu đến mức ấy, mới đi vài bước đã phải túm lấy một cái vòng sắt nhô ra.

Đúng lúc đó, chợt có mấy thuyền viên hình như nhìn thấy thứ gì, bắt đầu la hét, tôi nghe tiếng Mân Nam không hiểu, nhìn theo đầu ngón tay họ chỉ, loáng thoáng thấy bên trái thuyền, giữa những con sóng biển cao ngất, dường như có vật gì đó.

Vì cự ly khá xa, nhìn cũng không rõ lắm, chỉ có cảm giác hình như là một con thuyền. Đúng lúc đó, cô gái kia từ phía sau tôi bước lại gần, tôi liền lên tiếng hỏi cô ta những người này đang kêu cái gì?

Tóc cô nàng ẩm ướt, bị gió thổi rối tung, chăm chú lắng nghe một hồi mới nói: “Hình như họ thấy một con thuyền.”

Lão lái thuyền đi tới bên chúng tôi, dùng thứ tiếng phổ thông nửa đời chưa từng xài đến mà nói: “Bên kia hình như có một con thuyền gặp nạn, chiếu theo quy ước, chúng ta phải qua đó xem.”

Phương án này khá hợp lý, cô gái kia lập tức gật đầu. Lão lái thuyền liền ra một loạt chỉ thị cho đám công nhân bản địa của hắn, thuyền lập tức quay tay lái, quặt sang trái.

Mặt biển giữa cơn sóng gió nhấp nhô như một dãy núi, mỗi cơn sóng đều là một ngọn núi. Thuyền chúng tôi hiên ngang đón từng ngọn sóng, gần như xé sóng mà đi, mỗi lần ập vào là người trên thuyền coi như “được” tắm biển một lần, toàn thân ướt sũng không đếm nổi bao nhiêu lượt. Tôi chưa từng có cảm giác phấn khích như thế bao giờ, không nhịn được ý nghĩ muốn gào lên thật to.

Chúng tôi liên tiếp vượt qua mười mấy ngọn sóng, rốt cuộc cũng có thể thấy rõ đường nét sơ lược của thứ kia.

Đúng lúc ấy, tôi chợt nghe lão lái thuyền kinh hoàng thét to một tiếng, tiếp đó vài thuyền viên cũng ầm ĩ la lên. Tôi vội hỏi cô gái kia xem có chuyện gì, cô nàng vừa nghe xong, mặt mày tái mét, ôm chặt lấy ánh tay tôi nói: “Nhất định không được quay đầu lại nhìn, đó là một con thuyền ma!”

————————————————-

(1) Nguyên văn “

真是一百年不死都有新

”:  Một  trăm năm vẫn không chết ở đây lấy từ cụm “

一百年不死个老

” ám chỉ người già hơn trăm tuổi vẫn không chết, mà người như vậy thực sự rất hiếm, nên câu này còn có nghĩa chỉ người đặc biệt, rất hiếm gặp.

Chương 9: Thuyền quỷ

Edit: Namichan

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi thấy tất cả mọi người đều vội vã ngoảnh đầu sang hướng khác, không một ai dám nhìn về phía con thuyền mục nát. Trong lúc hoang mang chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi không dám tự ý làm bừa, vội vàng quay lưng lại giống như bọn họ. Cô gái kia run rẩy nói với tôi: “Dù xảy ra bất cứ chuyện gì cũng không được quay đầu lại. Thậm chí nếu có thứ gì đó chạm vào anh, thì cũng phải làm ngơ như không biết.”

Tôi nghe cô nói vậy, mồ hôi lạnh tuôn ra như suối: “Cô đừng dọa tôi chứ. Ở đây thì có thứ gì chạm vào tôi được?”

Cô ta liếc tôi một cái, nhẹ nhàng nói: “Anh không tin thì thôi, cứ chờ lát nữa sẽ biết ngay. Giờ thì mau mau ngó qua chỗ khác đi!”

Tôi thấy cô ta nói năng kỳ lạ, rồi lại nhìn đến bộ dạng sợ hãi của các thủy thủ khác trên thuyền, thật chẳng giống như đang cố tình hù dọa tôi, bèn nhẹ giọng hỏi: “Dù sao cô cũng phải nói cho tôi biết, thứ đó rốt cuộc là gì?”

Cô gái kia dùng tay ra hiệu giữ yên lặng: “Đừng hỏi nhiều! Đó là oan hồn tới đòi mạng!”

Cô ta càng nói càng khiến tôi cảm thấy sợ hãi, cái cổ suýt nữa đã không nhịn được mà xoay ra đằng sau nhìn một chút. Vội vàng nhéo đùi mình một cái thật mạnh, tôi gắng gượng giữ cổ mình cứng đờ như bó thạch cao để khỏi làm ra điều gì đáng tiếc.

Con thuyền nghiêng ngả chao đảo theo từng đợt sóng, trên boong thuyền rộ lên những tiếng kèn kẹt, nghe chừng cũng sắp long ra từng mảnh rồi. Tay tôi tóm lấy hai cái vòng sắt trên mép thuyền, cái mông dính chặt vào nó để đứng cho vững, nhưng nửa người trên vẫn không ngừng lắc lư, lại còn cái cổ không được động đậy nữa. Tôi cảm giác mình y chang một con lật đật lắc tới lắc lui, có mấy lần lắc mạnh đến nỗi thiếu chút nữa thì tuột tay.

Lúc này, tôi đã có thể nghe được âm thanh phát ra từ con thuyền quỷ, kẽo cà kẽo kẹt, nghe cứ như có người đang đi lại trên boong thuyền. Nước biển hắt lên theo từng đợt sóng khiến người tôi ướt đẫm, cộng thêm mồ hôi lạnh của mình, cảm giác vô cùng khó chịu. Tôi nhịn không được khe khẽ hỏi cô gái kia: “Hình như có người đang đi lại trên boong thuyền. Vừa rồi cô có nhìn lầm không?”

Cô ta vô cùng sợ hãi, cố gắng bĩu bĩu môi. Tôi nhìn theo hướng miệng cô chỉ, thì ra là một tấm kính trên khoang chứa hàng, phản chiếu rất rõ ràng tất cả những gì đang diễn ra phía sau. Một chiếc thuyền đánh cá lớn gần bằng thuyền của chúng tôi đang đong đưa lúc ẩn lúc hiện, cách thuyền chúng tôi càng ngày càng gần. Những gì xem được mỗi lúc một rõ ràng, tôi nhanh chóng nhìn thấy một lớp gỉ sắt màu trắng như bông bao phủ con thuyền kia, nhìn độ dày có thể khẳng định nó đã chìm dưới đáy biển chừng mấy chục năm rồi. Thật chẳng hiểu vì sao một con thuyền như vậy còn có thể nổi lên mặt biển, hơn nữa phía trên còn thấp thoáng ánh đèn.

Những con thuyền ma xuất hiện trong tiểu thuyết đều được miêu tả mục nát tan hoang, nhưng cơ bản vẫn còn có thể sử dụng. Nhưng con thuyền kia đã hoàn toàn mục nát hư hỏng, mang đi thanh lý được rồi, trông cứ như mới vừa trồi lên từ dưới đáy biển vậy. Đầu óc tôi xoay chuyển rất nhanh, nhớ lại những bản tin về thuyền ma từng xem, hình như chưa bao giờ nghe tới loại thuyền có hình dạng như thế này.

Con thuyền kia mỗi lúc một gần, tôi mơ hồ cảm thấy có điều gì đó bất thường, khe khẽ nói: “Tiểu thư, cứ như thế này cũng không phải cách hay, hình như con thuyền quỷ kia tính đâm vào thuyền ta thì phải. Sao cô không bảo lão lái thuyền mở hết tốc lực đi?”

Cô gái kia cũng có chút sợ, tóc bết hết lên mặt cũng không nghĩ tới chuyện vuốt sang một bên, cô nói: “Lúc nào cần chạy thì ông ấy sẽ cho thuyền chạy. Trọng tải của hai thuyền chắc cũng chẳng khác nhau là mấy, nó có đụng tới đây cũng không sợ. Anh cứ bám cho chặt thì sẽ không rớt xuống đâu.”

Tôi không biết giọng điệu của cô ta là nhắc nhở hay châm chọc mình nữa, nói: “Chỉ sợ lão ta chờ thời cơ nhảy thuyền trốn một mình, đố cô tóm được lão ta đấy.”

“Anh đừng có mà ở đó đâm bị thóc chọc bị gạo. Thuyền đánh cá chính là sinh mệnh của ngư dân, cho dù có chết họ cũng không bao giờ bỏ thuyền.” Cô ta bắt đầu nổi giận, “Anh còn lảm nhảm nữa coi chừng tôi đẩy anh xuống!”

Tôi nghe cô ta dọa như vậy, cũng chẳng muốn nói nữa, tập trung chú ý quan sát con thuyền quỷ phản chiếu trên tấm kính thủy tinh. Với tốc độ của nó, chắc là lúc đụng nhau cũng chỉ tạo chút chấn động nho nhỏ thôi (về sau mới thấy suy nghĩ ấy thật ngu ngốc), trong lòng dần dần bình tĩnh trở lại.

Thuyền kia càng ngày càng gần, tôi có thể nhìn thấy rõ ràng trên đó chẳng có thứ gì cả. Trong đầu vốn tưởng tượng ra những cảnh tượng kinh khủng, tôi không khỏi thở phào nhẹ nhõm. Con thuyền kia đã tới rất gần, xem ra sắp sửa đụng vào thuyền chúng tôi rồi. Tôi nhắm mắt lại, cắn chặt răng, chuẩn bị đón lấy khoảnh khắc hai con thuyền va vào nhau.

Chỉ trong nháy mắt, âm thanh phía sau đột nhiên biến mất. Tôi giữ nguyên tư thế mười mấy giây, đoán chừng cho dù nó có muốn đụng chục lần thì cũng đụng xong rồi, nhưng vẫn chẳng nghe thấy động tĩnh gì, không khỏi cảm thấy kỳ quái. Lúc này, tôi chợt nghe thấy tiếng kẽo cà kẽo kẹt trên boong thuyền truyền tới từ phía sau lưng, trong lòng có chút hoảng hốt. Len lén hé một mắt ra, nhìn tấm kính trên khoang chứa hàng, con thuyền quỷ đã nằm song song dựa vào thuyền của chúng tôi, còn phía sau lưng tôi không có gì cả.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, thử nhìn sang bên cạnh, chỉ thấy cô ta cũng đang nhìn chằm chằm vào tấm kính giống mình, sợ đến mức ngây dại. Tôi cảm thấy hình như có cái gì đó kỳ quái, cố gắng nhìn kỹ, chỉ thấy trên vai cô có hai bàn tay khô quắt vắt lên.

Chương 10: Bàn tay khô

Edit: Popochan

Beta: Thanh Du

*****

Hai bàn tay nhăn nheo đã co rút đến khô quắt kia rõ ràng là tay người, bám lên người cô gái kia, cảnh tượng ấy cho dù chỉ nhìn cũng thấy sởn gai ốc. Tôi không biết cảm giác của cô gái ấy lúc này là gì, chỉ biết lưng tôi đang đổ mồ hôi lạnh không ngớt.

Hai bàn tay đó không cử động gì thêm, chỉ vô lực rủ xuống, trông như một thứ trang sức trên quần áo. Tôi nhìn dọc theo cánh tay để xem bàn tay đó từ đâu vươn tới, nhưng mái tóc cô ta lại rối bù, xoã tung ra nên không thấy rõ lắm.

Hiển nhiên cô ta vô cùng sợ hãi, thân thể run lên bần bật, nếu là một phụ nữ bình thường chỉ sợ đã sớm ngất đi rồi. Tôi thấy toàn thân cô ta gần như nhũn ra, phỏng chừng cũng đã đến cực hạn.

Người lái thuyền quay lưng về phía chúng tôi mà quỳ xuống, vừa dập đầu vừa lầm bầm cầu nguyện, tôi nghe không hiểu giọng địa phương của bọn họ nhưng cũng có thể đoán ra lão ta đang tiến hành nghi thức nào đó, có lẽ là cầu tổ mẫu phù hộ. Ông ta niệm vài tiếng rồi lấy ra hai cái vòng gỗ kỳ quái hình bán nguyệt ném lên boong thuyền, giống như đang xin quẻ vậy. Ông ta ném một lần lại nhìn kết quả rồi dập đầu vài cái, cầm lên ném lại lần nữa. Tôi thấy toàn thân ông ta bắt đầu run lên, xem ra kết quả xin được không tốt cho lắm.

Tôi không tin mấy chuyện mê tín này, nhưng nhìn lão lái thuyền có vẻ thành kính như vậy, trong lòng cũng có chút lo lắng. Người ở đây rất coi trọng mấy trò vớ vẩn này, nếu quẻ bói bảo tôi là ác quỷ, không chừng bọn họ sẽ không chút do dự ném tôi xuống biển.

Đúng lúc này, cô gái kia đột nhiên hét to một tiếng, thân thể bỗng lùi về phía sau. Không rõ là do đứng không vững hay bị bàn tay quỷ kia kéo đi, chỉ trong chốc lát cô ta đã bị kéo sang thuyền ma, mà con thuyền ma đó lại chuẩn bị trôi đi, tình thế cực kỳ nguy cấp. Tôi thấy tình hình không ổn, cũng bất chấp lời cảnh báo không được quay đầu của cô ta khi nãy, vội vàng xoay người định nhảy sang bên đó cứu cô ta. Bất ngờ lão lái thuyền từ phía sau nhào tới ôm lấy tôi, nói: “Không được đâu! Đã lên thuyền ma thì không thể cứu về nữa, đừng có tự đâm đầu vào chỗ chết!”

Lão lái thuyền rất khỏe, tôi không thể hất ông ta ra được. Tôi rủa thầm trong bụng, những người khác trên thuyền thì giống như bị ma ám, đến nước này vẫn không dám quay đầu lại. Lúc này cái tên Trương hói đó không biết chạy ra từ xó nào, túm lấy mỏ neo rồi dùng sức ném mạnh về phía con thuyền ma, móc lại trên mép thuyền. Con thuyền ma kia lướt đi rất nhanh, trong chốc lát đã kéo căng mỏ neo, thuyền chúng tôi chấn động một cái rồi cũng bị kéo theo.

Người lái thuyền sợ mất vía, rút dao định chặt đứt dây thừng thì bị Trương hói đấm cho một cú ngã nhào trên sàn. Đám thuyền viên nhao nhao định xông lên, Trương hói liền rút ra một cây súng khống chế người lái thuyền, quát lớn:“Đừng nhúc nhích, nếu không tôi sẽ giết ông ta!”

Mấy thuyền viên kia chưa bao giờ gặp phải tình huống như thế này, một tiếng thét đó khiến cho bọn họ sợ hãi không dám lại gần. Trương hói lại nói với tôi:“Tiểu Ngô, tôi đã khống chế được bọn họ, cậu mau đi cứu người!”

Tôi há hốc mồm, mình có nghe lầm không đây? Chẳng lẽ gã muốn tôi bơi qua đó giữa sóng to gió lớn thế này sao? Hắn lại ngang nhiên trừng mắt nhìn tôi, chỉ chỉ sợi dây thừng, quát: “Mau lên! Thanh niên thì phải dũng cảm lên chứ!”

Tôi lắc đầu, nói ra thì rất buồn cười nhưng thể dục vốn là điểm yếu của tôi, bảo tôi bơi qua bên kia căn bản là chịu chết. Còn nếu bò qua bằng dây thừng, cho dù có bò được đến nơi thì cũng hết hơi rồi, sức đâu mà cứu người nữa.

Lúc này, tôi bỗng nghe tiếng cô gái kia hét ầm lên trên thuyền ma. Cô ta liều mạng tìm cách trèo lên dây thừng, nhưng dường như bị thứ gì kéo lại, không sao tiến lên được, đành phải dùng cả hai tay bám chặt lấy mép thuyền, hét to: “Ngài Ngô! Cứu tôi với!”

Nghe thế tôi chợt bừng tỉnh, tự tát mình một cái, mắng: “Ngô Tà ơi là Ngô Tà, mẹ kiếp, mày có phải là đàn ông không hả?!”

Tôi cũng không biết cái tát này làm mình tỉnh ra hay là ngu đi, đột nhiên huyết khí dâng trào, cắn răng thét to một tiếng: “Cùng lắm là chết chứ gì!”

Tôi hít sâu một hơi, cầm lấy kính bơi đeo lên, sau đó cởi giầy, đến bên mép thuyền vụng về nắm lấy sợi dây thừng bị kéo căng kia. Chỉ thấy trước mắt sóng gió ngút trời, sợi dây thừng thỉnh thoảng lại ngập vào trong nước.

Sợi dây thừng dài chừng mười hai mét, cực kỳ chắc chắn, nếu tay chân nhanh nhẹn một chút thì chắc cũng không nguy hiểm. Chỉ sợ lúc đang bò trên dây thừng lại bị sóng đánh dạt xuống biển thôi, nghĩ đến đây, quyết tâm của tôi cũng hơi lung lay.

Từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ gặp phải chuyện cần nhiều quyết tâm đến thế, mông nhích tới nhích lui trên mép thuyền một hồi lâu rồi mới chậm rãi lết được bước đầu tiên ra bên ngoài. Tôi dựa theo phương pháp của bộ đội đặc chủng xem trên tivi, dùng cả tứ chi, treo ngược trên dây thừng, vừa đi vừa cầu nguyện. Nhưng còn chưa kịp hé miệng thì một cơn sóng đột nhiên ào tới, nhấn chìm tôi vào trong nước, đến lúc thò được đầu lên thì mặt đã tím tái vì nghẹt thở. Cũng may nhờ vậy mà tôi áng chừng được lực đánh của sóng, cảm thấy vững tâm hơn, hẳn là có thể thuận lợi leo sang bên kia.

Cứ như vậy khi sóng đánh tới thì tôi đứng yên, chờ nước rút xuống lại bò tiếp, cũng không biết qua bao lâu, khi tôi sắp tới gần con thuyền ma kia thì phía sau một ngọn sóng lớn đánh ập tới, cả người tôi bị nhấn chìm trong nước, có lẽ phải sâu tới hơn một mét, bị đánh cho tối tăm mặt mũi. Tôi nín thở, mở to mắt nhìn, đột nhiên thấy một cảnh tượng kỳ lạ. Dưới đáy con thuyền ma kia có một sợi xích rỉ sét rất dài, càng kỳ lạ hơn là phần cuối đoạn xích gắn vào một khối gì đó, nó nằm rất sâu dưới đáy nước nên không thể nhìn thấy rõ ràng.

Tôi thở hắt ra, định nhìn cho kỹ thì đột nhiên sợi dây thừng kia lại nhấc lên, tôi thoát ra khỏi mặt nước. Lần này tôi ở ngay trên đầu ngọn sóng, nhìn xuống dưới thì thấy cô gái kia đang ngẩng mặt lên, lết vào trong khoang thuyền bằng một tư thế kỳ lạ. Nhìn kĩ hơn một chút, bỗng tôi sợ đến ngây người, bởi thứ lôi cô ta đi không phải tay cô ta mà là hai bàn tay quỷ khô quắt kia.

Tôi thấy cô ta không hề nhúc nhích, gần như đã mất đi tri giác, không còn cách nào khác đành phải nhanh tay nhanh chân trèo qua, sau đó xoay người ngã lên boong con thuyền ma.

Chương 11: Boong thuyền

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Boong thuyền này đã bị nước biển ăn mòn nhiều năm, không còn chịu được sức nặng, vừa bị thể trọng 80kg của tôi đè lên đã phát ra âm thanh ken két tựa như muốn gãy. Nhưng tôi cũng không nghĩ được nhiều như vậy, vội nhìn xem cô gái kia thế nào.

Nửa người cô ấy đã bị kéo vào khoang thuyền tối om, tôi vừa thấy thế lập tức cuống lên. Trên người đã không có trang thiết bị chiếu sáng gì rồi, đến cả vũ khí cũng không nốt, lỡ mà bị kéo vào đó, thật chẳng biết sống chết thế nào.

Tôi lăn một vòng qua đó, nắm chặt lấy chân cô ta, dùng hết sức kéo vài cái, phát hiện cô gái đó không hề nhúc nhích. Hơn nữa cô ta mặc bộ đồ lặn bó sát người, không có chỗ bám vào đã đành, lại còn dính nước biển trơn muốn chết, cố mấy cũng chỉ dùng được 80% sức lực.

Tôi thấy nếu cứ tiếp tục thế này thì cô ta tiêu chắc. Trong lúc nguy cấp cũng không nghĩ ra cách nào hay hơn, vội quá tôi liền nhào tới ôm chặt lấy eo cô ta, như vậy trọng lượng hai người cộng lại ít nhất cũng hơn 130kg, để tôi xem hai cái tay khô như que củi kia kéo kiểu gì.

Không ngờ sức chịu đựng của boong thuyền này cũng có hạn, tôi vừa mới đè lên đã nghe một âm thanh giòn tan, rồi tất cả sụp xuống. Mấy giây tiếp theo, tôi cùng một mớ gỗ mục ẩm ướt rơi vào trong khoang thuyền, may mà đáy thuyền còn chắc chắn, không thì chúng tôi đã chui tọt xuống biển rồi.

Cú rơi quá mạnh, tôi lảo đảo ngồi xuống, không khỏi âm thầm cười khổ. Lúc nãy liều mạng để khỏi bị kéo vào trong khoang, bây giờ lại rơi thẳng vào như vậy. Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng cô gái kia vang lên từ bên dưới: “Tránh ra mau, anh nặng muốn chết!”

Bấy giờ tôi mới nhận ra mình đang ngồi trên mông cô ấy, vội vàng tránh ra, thầm nhủ thế này có ổn không vậy? Trước kia xem phim kịch gì đều chỉ thấy nữ ngồi lên người nam, bây giờ thì ngược lại. Cô gái kia khó khăn ngồi dậy, bàn tay trên vai đã biến mất, tôi kinh ngạc vội hỏi: “Hai bàn tay quỷ kia đâu mất rồi?”

Cô sờ bả vai, kinh ngạc nói: “Tôi chịu, từ lúc bị kéo lên thuyền tôi cứ mơ mơ màng màng, cũng không biết nó biến mất lúc nào. Anh không thấy sao?”

Tôi lắc đầu: “Vừa rồi lúc rơi xuống đây tình hình rất hỗn loạn, tôi cũng không để ý. Nhưng hai bàn tay kia có thể kéo được cả một người, chắc chắn là thực chứ không phải ảo giác, không thể tự nhiên mà biến mất được, nhất định là nó bị rớt ra lúc chúng ta rơi xuống, cô xem thử có đè lên nó không?”

Cô gái kia vừa nghe xong liền bị dọa đến tái mặt, vội nhổm dậy xem. Tiếc là bên dưới ngoài ván gỗ ra không còn gì khác. Tôi nói: “Có lẽ nó vẫn còn ở trên bậc thang, chẳng qua lúc rơi xuống bị tuột ra thôi. Cô đột ngột rơi xuống như vậy, nó không kịp trở tay, nhiều khả năng vẫn quanh quẩn bên trên.”

Cô ấy gật gật đầu, cảm thấy có lý: “Không biết nó kéo tôi sang đây để làm gì, xem ra chúng ta nên cẩn thận một chút thì hơn.”

Hai chúng tôi nhìn quanh quất bốn phía, vừa rồi boong thuyền bị vỡ ra một mảng lớn nên ánh sáng lọt xuống cũng đủ để nhìn rõ. Trên thành khoang có một lớp mảng bám màu trắng rất dày, hầu như bao phủ lên tất cả mọi thứ. Chúng tôi nạy ra một ít, có thể nhìn thấy một vài vật dụng thông thường khi đi biển, nhưng đa số đều đã mục nát chỉ còn giữ được hình dạng.

Với quy mô kết cấu như thế này, đây hẳn là một thuyền đánh cá cỡ trung của những năm 70 hay 80, thân thuyền bằng tôn, khoang thuyền rất rộng, dùng ván gỗ ngăn cách, hẳn là phân ra phòng nghỉ của thuyền viên, phòng lái thuyền và kho hàng; lúc này hẳn chúng tôi đang ở trong kho hàng. Nhưng nhìn vào những thứ được gỡ ra, có thể khẳng định con thuyền này không phải bị đắm trên đường vận chuyển hàng.

Bộ khung thuyền có lẽ vẫn chưa hoàn toàn bị ăn mòn, cho nên mới có thể trôi dạt được, bằng không đã sớm bị sóng lớn đánh tan rồi.

Cô gái kia lại lắc đầu: “Thật ra thì tôi cũng có hiểu biết khá rõ về tàu thuyền, hiện trạng con thuyền này rất bất thường… lớp mảng bám dày như vậy, theo lý mà nói thì nó phải chìm dưới đáy biển ít nhất mười mấy năm.”

Tôi hỏi: “Có thể nó được bão lớn cuốn từ đáy biển lên cũng nên?”

Cô ấy trả lời: “Khả năng đó rất thấp, thuyến đắm mấy chục năm, sớm đã bị chôn vùi dưới đáy cát, dù anh có dùng cần cẩu để kéo lên thì cũng rất khó khăn, hơn nữa thân thuyền đã bị giòn, không cẩn thận là vỡ vụn ngay.”

Tôi cũng từng nghĩ đến những điều cô ấy nói, nhưng vẫn còn một chuyện khó hiểu: con thuyền này nếu lúc trước đã bị đắm, bây giờ sao còn có thể nổi lên mặt nước? Cho dù có người trục vớt nó lên, trên thân thuyền chắc chắn vẫn còn vết thủng lưu lại khi thuyền gặp nạn, chẳng lẽ lỗ thủng có thể tự vá lại hay sao?

Tôi thấy chẳng tìm được gì ở đây cả, hai bàn tay kia cũng không thấy bóng dáng mới hơi yên lòng một chút, phủi sạch gỗ vụn trên người rồi cùng cô gái tiến vào cái kho bên trong. Giữa hai kho được ngăn đôi bởi một tấm ván gỗ, giờ đã gần nát vụn. Tôi định đá bay tấm ván xuống nhưng cô gái kia ngăn lại: “Phía trên tấm ván gỗ này là boong thuyền, anh mạnh tay mạnh chân như vậy, lỡ cả boong thuyền rớt xuống luôn thì sao.”

Tôi tự nhủ, nếu cả boong thuyền sụp xuống thì càng tốt, có ánh sáng chiếu vào sẽ đỡ sợ hơn.

Có kinh nghiệm từ hồi ở Lỗ Vương cung, tôi cũng vỡ được ra nhiều điều. Đặc biệt sau vài lần cận kề sinh tử, khả năng ứng biến cũng nhanh nhạy hơn hẳn, cho nên dù đang đứng trên một con thuyền ma, thần kinh quả thực vô cùng căng thẳng, nhưng tôi vẫn giữ được bình tĩnh và tỉnh táo.

Giữa tấm ván ngăn còn có một cánh cửa, tôi không biết nên đẩy hay nên kéo, mới thử kéo trước, nào ngờ tay nắm rớt ra luôn cùng nửa tấm ván cửa. Tôi nhìn cô ta, nói: “Thế này thì chẳng khác phá cửa là mấy nhỉ?”

Cô ta không để ý tới tôi mà chỉ nhìn thoáng qua khoảng không tối đen phía sau cánh cửa. Cô gái này quả là bạo gan, nhưng vừa trải qua chuyện như vậy, có lẽ cũng không dám tùy tiện bước vào. Tôi liền mở lời: “Bên trong tối quá, nếu cô muốn vào thì nên đục thủng một lỗ trên boong thuyền phía trên để ánh sáng rọi vào, tránh cho chúng ta vào rồi lại bị thứ quỷ quái gì đó túm lấy.”

Tôi biết chắc những lời này sẽ hữu dụng, quả nhiên cô nàng bắt đầu do dự. Tôi cười thầm một tiếng, bước đến gạt nhẹ vài cái, tấm ván lập tức sụp xuống gần hết. Trong kho có một cái giường rất lớn, khung giường được làm bằng sắt tây nên vẫn còn đó. Ván giường gần như đã nát vụn hết, xem cách bài trí có thể đoán đây hẳn là chỗ nghỉ ngơi của thuyền viên. Trong góc phòng đặt một cái tủ sắt đóng kín, tôi thử kéo một cái, thấy cánh cửa khá lỏng lẻo.

Với loại thuyền này có lẽ khó mà tìm được bản ghi chép để lại. Lão lái thuyền hiện tại mỗi ngày đều viết nhật ký hàng hải, nhưng thời đó người biết chữ không nhiều nên tôi cũng không trông mong tìm được thứ gì hữu dụng. Đến khi mở tủ sắt ra tôi mới giật mình kinh hãi, trong đó có một cái túi chống thấm đã cũ. Tôi mở túi, từ bên trong rơi ra một quyển bút ký đã gần nát vụn, trên bìa viết mấy chữ: Bản ghi chép khảo cổ bãi đá ngầm Tây Sa.

Tôi lật sang trang sau, trên đó có mấy chữ được viết nắn nót – Tháng 7 năm 1984, Ngô Tam Tỉnh tặng Trần Văn Cẩm.

Chương 12: Lời nói dối của chú Ba

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Nhìn thấy dòng chữ này, tôi ngạc nhiên đến suýt ngất. Ngô Tam Tỉnh với Trần Văn Cẩm chẳng phải là tên đầy đủ của chú Ba với Văn Cẩm đó sao? Chẳng lẽ bản bút ký này là của hai người lưu lại từ ngày đó? Nhưng tại sao nó lại xuất hiện trên con thuyền ma này cơ chứ?

Nếu trước khi con thuyền ma này bị chìm, trên thuyền vừa hay có hai người là Ngô Tam Tỉnh với Trần Văn Cẩm, mà hai người đó cũng trùng hợp là dân khảo cổ, lại trùng hợp đến bãi đá ngầm Tây Sa làm khảo cổ, xác suất trùng hợp như vậy đủ để tôi trúng số độc đắc chứ chẳng chơi.

Tôi suy nghĩ một chút, có lẽ không cần quá lo lắng, bản bút ký này có thể giải thích theo cách khác. Không còn gì phải nghi ngờ, đây hẳn là do nhóm người chú Ba lưu lại. Hơn nữa xem chữ ký bên trên thì quyển sổ này vốn là chú Ba tặng cho Văn Cẩm, còn Văn Cẩm lại dùng nó làm nhật ký ghi chép lại tiến độ khảo cổ ở bãi đá ngầm. Nghĩa là chủ nhân thực sự của bản bút ký này phải là Văn Cẩm mới đúng.

Vậy con thuyền quỷ này hẳn là có liên quan với nhóm khảo cổ của chú Ba năm đó, nhiều khả năng đây chính là con thuyền đánh cá cỡ trung quay về mà không thấy trở lại khi ấy.

Tôi có chút suy tư, không khỏi cảm thấy vô số những nghi vấn đua nhau xuất hiện, đầu đau muốn nứt ra.

Những điều bí ẩn thực sự ẩn chứa trong câu chuyện này, sợ rằng chỉ người trong cuộc mới biết. Lúc này tôi mới hiểu được bề ngoài của câu chuyện, hình như vẫn còn thiếu mất một tình tiết nào đó làm trung tâm kết nối những dữ kiện này lại. Nếu ông chú hồ ly kia mà chịu thành thành thật thật kể hết mọi chuyện cho tôi biết, có lẽ lúc này tôi đã nắm được điểm mấu chốt của vấn đề rồi.

Biết đâu bản ghi chép này có thể cho tôi biết được điều gì đó. Tôi vốn định đem giấu thứ này đi, chờ đến lúc không có ai thì mở ra xem, nhưng lại không thắng nổi sự hiếu kỳ mãnh liệt trong lòng. Dù sao thì sớm muộn gì cô ấy cũng biết chuyện này, vậy đâu cần phải ra vẻ thần bí, nghĩ thế tôi cũng chẳng kiêng kỵ gì nữa, mở luôn ra xem.

Văn Cẩm quả là người rất nghiêm túc với công việc, bản ghi chép của mỗi ngày cô ấy đều dùng cùng một quy cách, liệt kê rõ ràng mạch lạc. Tôi thấy trang đầu chính là ngày đầu tiên bọn họ xuất phát, ngày 15 tháng 7, trên đó liệt kê một danh sách, đứng đầu quả nhiên là Ngô Tam Tỉnh, còn tên Muộn Du Bình kia tên gì nhỉ? Tôi nhớ hình như có lần chú Ba nói hắn họ Trương, tìm một chút thì thấy quả thực có một người tên Trương Khởi Linh, lẽ nào chính là hắn?

Tôi lại lật sang trang sau, nội dung phần đầu chủ yếu là quá trình tìm kiếm và xác định vị trí mộ cổ dưới biển. Mọi việc được ghi chép còn chi tiết hơn cả lời kể của chú Ba, ngay cả loại dây thừng và quá trình suy luận cũng được viết ra rõ ràng, đúng là khác biệt hoàn toàn so với ông chú Ba quê mùa thô kệch của tôi. Thật không thể hiểu nổi tại sao hai người bọn họ lại có thể ở bên nhau nữa. Nhưng đó không phải là chuyện tôi quan tâm vào lúc này. Tôi giở thẳng đến phần cuối, vừa nhìn thấy liền choáng váng.

Thật ra chẳng cần xem hết nội dung phần cuối, chỉ cần nhìn qua mấy tiêu đề cuối cùng trong bản ghi chép đã đủ khiến tôi kinh ngạc rồi, đồng thời cũng không quên rủa thầm ông chú Ba tệ hại kia một trăm lần.

Chỉ thấy cô ấy viết, ngày 21 tháng 7, lần đầu tiên vào mộ huyệt dưới đáy biển.

Nhân viên: Ngô Tam Tỉnh.

Tiến độ: kiểm tra hai phòng bên cùng hành lang lát gạch, chuẩn bị khảo sát hậu thất.

Công việc: Dùng ống dẫn để thông khí cho mộ thất, chuẩn bị cho việc dò tìm trong thời gian dài.

Hiện vật tìm được: Quan tài trẻ con viền vàng, chạm trổ song phượng.

Ghi chú: có chuyện khẩn cấp, sẽ bổ sung chi tiết sau.

Bên dưới cũng có một bản ghi chép, ngày 23 tháng 7, lần thứ hai tiến vào huyệt mộ dưới biển.

Nhân viên: Toàn bộ thành viên.

Tiến độ: Không.

Công việc: Tránh bão lớn mùa hè.

Hiện vật tìm được: Không.

Ghi chú: Không.

Thì ra trước khi dẫn cả đám vào, chú Ba đã vào trước rồi. Với cái tính gian manh của chú, chắc chắn đã thuận tay mang ra rất nhiều đồ. Trong này chỉ ghi là kiểm tra xem xét hai phòng bên với hành lang, ai biết được chú có mở hậu thất hay không! Không chừng những thứ trong quan tài cũng đã bị chú sờ qua một lần. Rốt cuộc lần đầu vào trong đó, lão hồ ly này đã làm cái khỉ gì! Tôi bất giác hận đến nghiến răng.

Tôi nhìn sơ qua một lượt, trong này hẳn là còn ghi rất nhiều điều hữu ích, nhưng hiện giờ không cần xem kĩ làm gì. Tôi cẩn thận cất nó vào túi chống thấm, quay đầu lại thăm dò phản ứng của cô gái kia. Ai ngờ cô ta không thèm chú ý đến tôi, cứ ra sức cạy những mảng bám trên vách ngăn trong phòng thuyền trưởng.

Cô ta làm rất nhanh, thực ra không giống cạy mở mà phải nói là đập ra thì đúng hơn, nháy mắt đã dọn quang một mảng lớn, không ngờ bên dưới lớp mảng bám này lại là thép. Cô ấy cứ thế cạy một mạch cho đến chỗ nối tiếp giữa vách ngăn với thân thuyền. Tôi phát hiện bốn phía của vách ngăn này được hàn dính vào thân thuyền, trông vô cùng chắc chắn, hơn nữa cánh cửa trên vách cũng làm bằng thép, trên cánh cửa còn có một cái khóa kiểu xoay tròn trông như tay lái ô tô.

Cô gái kia vừa cạy mở vừa lẩm bẩm, nghe như là: “Đừng lo, đừng lo, ta thả mi ra ngay đây.”

Tôi nghe vậy liền cảm thấy có gì đó khác lạ, hình như cô ta không được bình thường thì phải. Chỉ thấy cô ta nhanh chóng gạt sạch những mảng bám dính trên cánh cửa thép, lộ ra một lớp cao su giữa cánh cửa và khung, xem ra căn phòng này được đóng rất kín. Sau khi dọn sạch mớ mảng bám, cô ta lại cố gắng xoay chuyển cái khóa tròn kia. Nhưng sức người có hạn, chỉ riêng cái khóa đã rất nặng rồi, hơn nữa bên trong lại đầy mảng bám, không phải thủy thủ lực lưỡng thì không thể mở ra được. Cô ta lại dùng sức xoay xoay mấy cái, mà trước sau vẫn không hề suy suyển.

Tôi cảm thấy có gì đó không ổn, bèn nói với cô: “Nhiều khả năng thứ bên trong không bị ngâm nước, chúng ta không mở ra vẫn hay hơn. Trên người chúng ta không có vũ khí, lỡ như bên trong có quái vật gì thì coi như xong đời với nó luôn.”

Cô ta không hề để ý tới tôi, vẫn cố sức mà xoay. Tôi lắc đầu, cô gái này quả là ngang ngạnh, thiện cảm ban đầu đối với cô giờ đã bay sạch.

Mấy phút sau đó, tôi đứng chống nạnh một bên xem cô nàng phí công toi, trong lòng cảm thấy có phần hả hê. Bỗng cô ta quay lại nhìn tôi, tưởng đâu cuối cùng cũng chịu tỉnh ngộ, ai ngờ cô hét lên một tiếng quái lạ, ngả người về phía sau, hai bàn tay khô từ trong mái tóc nhanh như chớp tóm lấy cái khóa tròn kia, ra sức xoay. Hai bàn tay quỷ quái đó cực khỏe, tôi lập tức nghe được tiếng mảng bám vỡ vụn từ bên trong.

Tôi sợ tới mức da đầu bắt đầu co giật, gần như ngã bệt trên mặt đất. Cảnh tượng này có thể nói đã hoàn toàn vượt quá sức tưởng tượng, thảo nào khi nãy không thấy hai bàn tay kia đâu, thì ra là giấu trong tóc cô ta, không rõ nói chuyện với tôi lúc ấy là ma hay là người?

Lúc này khóa đã lỏng ra, cô gái kia xoay thêm vài vòng định mở cánh cửa thép, đột nhiên bên trong vang lên một tiếng động lớn, một cột nước cao từ trong cửa ào ra. Cánh cửa bị dòng nước mở bung, đập vào lưng cô gái, khiến cô ta bị hất văng lên rồi rơi trúng người tôi, làm tôi té lăn trên mặt đất. Tôi biết tình thế nguy cấp, định đẩy cô ta ra để bỏ chạy, nhưng nước biển đã ập đến cuốn chúng tôi văng xa năm sáu trượng. Tôi gắng sức ngẩng đầu, chỉ thấy một gương mặt khổng lồ phủ đầy vảy dần dần lộ ra sau cánh cửa, nhìn chằm chằm vào tôi.

Chương 13: Hải hầu tử

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Khuôn mặt khổng lồ dữ tợn đó phải lớn hơn đầu tôi đến bốn năm lần, cơ thể nó khuất sau cánh cửa thép, không biết còn bự cỡ nào. Ánh sáng từ lỗ thủng trên boong tàu chiếu xuống khá yếu nên tôi không thể nhìn rõ mặt mũi nó, không biết nó là quỷ hay là động vật nữa, chỉ thấy khuôn mặt này quỷ khí dày đặc, quái dị không tả nổi.

Tôi cứ thế ngơ ngác nhìn nó, cảm giác tê dại lan khắp toàn thân, sợ đến nín thở, mẹ nó, hai chân cũng nhũn ra như bún rồi. Tôi chật vật lùi lại mấy bước, lập tức nghĩ đến cô gái kia vẫn còn nằm trên mặt đất, dù cô ta chẳng tốt đẹp gì nhưng thấy chết mà không cứu thì cũng không phải phép cho lắm.

Tôi lật người cô ấy lại, phát hiện ra hai bàn tay khô kia đã biến mất, nhưng lúc này ai hơi đâu mà để ý nhiều vậy, nếu nước còn tiếp tục tràn vào, đầu cô ấy sẽ ngập trong nước, chết đuối là cái chắc. Tôi đỡ dưới cánh tay cô ấy, từ từ kéo về phía sau. Bên kia khoang thuyền thế nào cũng có thang dẫn lên boong, đưa được cô gái này lên boong rồi thì muốn nhảy xuống biển hay cầu cứu đều được, lựa chọn cũng nhiều hơn.

Tôi vừa nhích từng bước chân run rẩy vừa tự nhủ trong lòng: “Bình tĩnh, bình tĩnh, ở vào tình cảnh này thì càng phải bình tĩnh!”, cứ từng chút một lùi về phía sau, tầm mắt lại không dám rời khỏi khuôn mặt kia.

Con quái vật chỉ lặng lẽ ở đó nhìn tôi, nhất thời xung quanh chỉ nghe tiếng nước chảy ào ào. Nếu em nó có cử động gì, ví như quay đầu hay há miệng, tôi còn thấy dễ chịu hơn một chút, đằng này em nó cứ trừng trừng hai mắt nhìn thẳng vào tôi, khiến tôi đã sợ lại càng thêm sợ. Tôi tự nhủ chuyện này cũng quá bất thường, nhưng nếu mày đã bất động rồi thì cứ bất động ở đó luôn đi, chứ đừng có chờ cho tao lết đến cầu thang rồi mới nhào tới.

Nghĩ vậy tôi dứt khoát không nhìn nó nữa, cúi đầu xuống, cố gắng di chuyển nhanh hơn, vài bước đã đến chân thang. Tôi vừa nhìn lên liền choáng váng, cái thang kia đã gãy vụn, chỉ còn lại mỗi cái khung, một mình tôi còn không biết có leo lên được hay không chứ đừng nói tới chuyện mang thêm một bà cô đang ngắc ngoải. Tôi thấy trên cái thang vẫn còn mấy thanh ngang, liền kéo một cánh tay của bà cô thử leo lên, kết quả vừa giẫm lên đã gãy, thanh ngang tức khắc mủn ra như bùn.

Xem ra chuyện bắt đầu rắc rối rồi đây. Tôi ngoái đầu nhìn lại, thật may là con quái vật kia kiên nhẫn cực kỳ, nãy giờ vẫn cứ ở yên bên đó. Giờ tôi đang đứng trong tối, giữa tôi và nó có một khoảng sáng nhập nhoạng (dưới lỗ thủng trên boong tàu), cho nên căng mắt ra cũng chỉ thấy một hình dáng lờ mờ. Tôi bắt đầu thấy yên tâm hơn, mới để cô gái kia ngồi tựa vào tường, sau đó nghiến răng vận sức nhảy lên, định leo lên trước đã rồi tính sau.

Khổ nỗi hai tay tôi tuy dài nhưng sức lực yếu ớt, sau hai lần thất bại, đã không leo lên được mà còn bị dập môi, đau đến chảy nước mắt, trong lòng chán nản vô cùng. Tôi đứng đó nửa ngày cũng không nghĩ ra cách giải quyết, buồn buồn mới ngoái đầu lại xem con quái kia có còn ở đó hay không. Không quay lại thì thôi, vừa quay đầu đã thấy một bóng dáng to lớn đứng lù lù ngay sau lưng mình từ lúc nào không biết. Hai bên mặt đối mặt, thiếu chút nữa là đụng phải, tôi sợ hãi tột cùng, vô thức thét to lên.

Nếu anh bất thình lình quay đầu lại, thấy một người lẳng lặng đến đứng lù lù ngay sau lưng cũng đủ kinh hoàng lắm rồi, vậy mà thứ tôi nhìn thấy lại là một khuôn mặt dữ tợn, cảm giác sợ hãi này thật sự không sao diễn tả bằng lời. Tôi hét lên, đồng thời cơ thể tự động lui về phía sau, áp sát vào vách khoang.

Lúc này tôi đã nhìn rõ hình dạng của nó, trong đầu tức khắc nhớ lại một chuyện. Trước đây tôi có nghe một người bạn học quê ở vùng biển kể lại, trong thôn cậu ta có một gia đình ngư dân, khi đi đánh cá vô tình bắt được một con vật kỳ lạ trông khá giống người nhưng lại có vảy phủ khắp cơ thể. Họ đem con vật đó về cho người trong thôn xem nhưng không ai biết nó là giống gì. Hôm sau họ mời một người lớn tuổi trong thôn đến, ông lão nhìn thấy nó thì sợ tới mức đứng không vững, la lên: “Nó là con Hải hầu tử, mau thả nó ra, nếu không lát nữa những con Hải hầu tử khác tìm tới thì lớn chuyện đó!”

Nào ngờ gia đình kia nghe nói con vật quý hiếm như vậy lại nổi lòng tham, định nuôi nó rồi bán cho người thành phố. Ngoài mặt thì họ nói với người trong thôn là đã thả nó rồi, thực chất là đem giấu nó trong nhà. Kết quả là hôm sau cả gia đình đó đều mất tích. Người trong thôn cảm thấy có chuyện không hay, tìm kiếm ròng rã hai ngày, cuối cùng tìm thấy thi thể người vợ dưới một vách đá gần bờ biển, phần bụng bị xé toang, nội tạng đều bị ăn sạch.

Ông lão kia thấy cảnh này mới nói đó là những con Hải hầu tử khác đến trả thù. Họ tìm một thầy địa lý, bày một bàn thờ bên bờ biển, thả xuống rất nhiều đầu heo đầu dê, cúng bái rầm rộ suốt mấy ngày trời.

Cậu bạn ấy còn đưa bức tranh vẽ Hải hầu tử cho tôi xem. Cậu ấy bình thường hay vẽ vời thứ này thứ nọ, cho nên bức tranh trông rất sống động. Đối với một đứa trẻ con như tôi lúc ấy, nó để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc khiến tôi mấy ngày liền ngủ không ngon giấc, giờ nhìn một cái là nghĩ ra liền. Có điều tôi không ngờ thứ gọi là Hải hầu tử này lại có cái đầu bự đến thế.

Trong phút hồi tưởng, con quái vật kia vẫn đứng yên một chỗ, chỉ chằm chằm nhìn vào cô gái đang dựa vào vách khoang, miệng chảy cả nước dãi. May thay bà cô này chưa tỉnh, nếu không hẳn là đã sợ đến mức rụng rời tay chân rồi.

Tôi định thần lại, thử chạm vào vách khoang sau lưng, thì ra cũng làm bằng ván gỗ đã mục nát rất dễ vỡ. Tôi âm thầm tính toán, với loại ván gỗ này, chỉ cần tôi dựa mạnh người về phía sau thì nhất định sẽ đục thủng một lỗ trên vách khoang, cho nên nếu con Hải hầu tử kia có xông qua đây, tôi vẫn còn đường lui. Nhưng bên kia vách khoang là đuôi thuyền, bên trong hẳn là có rất nhiều máy móc thiết bị, chẳng biết có thể tìm được thứ gì làm vũ khí hay không.

Tôi đang miên man suy nghĩ, đột nhiên nghe thấy trên boong thuyền phát ra vài tiếng kẽo kẹt, giống như có người vừa lên thuyền. Tôi còn đang nghi hoặc thì đã thấy gã Trương hói nhảy xuống từ lỗ thủng trên boong. Gã hói kia vừa chạm đất lập tức giương súng lên, cảnh giác nhìn cánh cửa thép rồi quay sang bên này, tức khắc hoảng sợ mà thét to: “Má ơi!”

Con quái vật nghe tiếng thét liền quay lại, nhìn thấy gã, nó bỗng kêu lên một tiếng cực kỳ thê lương, thân thể thấp lùn lập tức bổ nhào tới. Gã Trương hói kia ứng biến rất nhanh, vội vàng nằm sấp xuống đất tránh đi cú tấn công thứ nhất, đồng thời bóp cò. Con quái vật trúng đạn bị thương trên vai, rên lên một tiếng rồi nhảy lên tưng tưng, đụng cả vào vách thuyền. Trương hói lại bắn lung tung thêm mấy phát, đầu đạn xẹt qua bên tai làm tôi sợ tới rụt cổ.

Con Hải hầu tử kia cũng khá thông minh, một khi đã biết sự lợi hại của khẩu súng thì không dám tiếp tục tấn công nữa. Nó giả vờ nhào lên rồi đột nhiên  búng người nhảy một cú vượt qua đầu gã Trương hói, lủi thẳng vào phía sau cánh cửa thép.

Gã Trương hói lia súng theo nó, quét thành một loạt lỗ đạn trên vách khoang, nước biển lập tức ào vào, mực nước trong thuyền nhanh chóng dâng lên. Gã quyết tâm đuổi cùng giết tận, bắn hai phát đạn làm nổ tung bản lề cửa, sau đó tung một cước đá văng luôn cánh cửa. Tôi chạy sau gã, đến nơi chỉ thấy nước đang ào ào tràn vào từ một lỗ hổng nơi đáy thuyền, mà con quái vật thì đang cố gắng chui qua lỗ hổng ấy. Tôi nhìn lướt qua đã hiểu đó là mảng vỡ khi sự cố năm xưa xảy ra, chính là nguyên nhân khiến con thuyền này bị đắm. Nhưng giờ đây nó đã bị một lớp mảng bám dày phủ lên, chỉ còn lại một lỗ hổng lớn bằng miệng bát. Con quái vật kia rất mạnh, gã Trương hói vừa nâng súng lên, nó đã húc vỡ lớp mảng bám, mở rộng lỗ hổng đủ để nó chui qua, tiếp đó một hơi lặn mất tăm.

Gã Trương hói vẫn không cam tâm, quét thêm mấy loạt đạn xuống nước. Lúc này cả con thuyền phát ra những tiếng đứt gãy rợn người, tôi thấy nước đã ngập đầu gối, biết chỗ này không thể ở lâu, phải rời đi ngay lập tức. Gã Trương hói chạy lại lay lay bà cô kia mấy cái, gọi: “Ninh, Ninh!”, không thấy cô ta có phản ứng gì, gã liền cõng cô ta lên lưng, một đạp dẫm thẳng vào lưng tôi, nhanh nhẹn leo lên trên. Chết tiệt, một đạp đó của gã suýt làm tôi hộc máu, lưng thì đau muốn gãy. Sau đó gã cúi xuống, đưa tay cho tôi rồi kéo tôi lên.

Chương 14: Đảo Vĩnh Hưng

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi vừa trèo lên boong, con thuyền quỷ đã phát ra một âm thanh đứt gãy rợn người, tựa như có một bộ phận rất lớn bị biến dạng. Tôi thấy con thuyền bắt đầu nghiêng về một phía, thầm nghĩ không ổn, vội nhìn thoáng qua khoang thuyền, quả nhiên khung thuyền đã gãy.

Khung thuyền một khi đã gãy, thân thuyền tất nhiên sẽ vỡ toang ra. Đối với một con thuyền như thế này, chỉ một vết nứt cũng đã là trí mạng. Nước sẽ tuôn ào ào vào trong khoang, có lẽ không cần đến năm phút đồng hồ, con thuyền này đã chìm lỉm rồi.

Gã Trương hói kia cuống đến độ tái mặt, nói: “Thuyền đã đến rồi, chúng ta mau rời khỏi đây, có gì tính sau.”

Tôi nhìn lại, con thuyền đánh cá của chúng tôi đã đến rất gần nhưng vẫn không áp sát vào, người lái thuyền đứng bên đó vẫy tay gọi to: “Mấy người sao rồi?”

Trương hói cõng cô gái kia lên, hướng về phía con thuyền đánh cá vẫy vẫy tay. Trên đó vang lên tiếng hoan hô, rồi con thuyền mở máy nhích dần về phía chúng tôi, mấy ngư dân trên thuyền phấn khởi reo hò. Thực không thể hiểu nổi, vừa nãy bọn họ còn sợ nhũn cả người ra cơ mà? Những ngư dân đơn thuần này quả nhiên không giống chúng tôi chút nào.

Con thuyền ma kia bị nước vào nên tốc độ cứ chậm dần lại. Sau khi thuyền của chúng tôi cập sát vào, có vài ngư dân nhảy sang đây, nét mặt vẫn chưa hết kinh hoàng. Họ lúng túng đưa cô gái kia trở lại thuyền rồi vội vàng thu cái neo lại. Người lái thuyền hạ lệnh: “Cho thuyền chạy nhanh lên, chúng ta mau chóng rời khỏi cái chỗ quỷ quái này đi!”

Người lái thuyền bảo chúng tôi đặt cô gái kia xuống, ra hiệu cho tôi đỡ lấy cô ấy, sau đó vén tóc cô ấy lên.

Dù đã chuẩn bị tâm lý từ trước, nhưng khi nhìn thấy thứ kia tôi vẫn hít một hơi khí lạnh. Trong tóc cô ta có hai bàn tay khô cuộn lại, bây giờ nhìn kĩ mới thấy hai bàn tay này cũng không dài lắm, làn da trông như hóa đá, dưới hai bàn tay đó còn có một bướu thịt. Mà ghê nhất là bướu thịt đó hình như còn có dạng một mặt người nhỏ nhỏ, khuôn mặt ấy không biết làm thế nào mà bám chặt vào sau ót cô ta.

Người lái thuyền vừa nhìn thấy nó, nét mặt bỗng trở nên nghiêm trọng, đầu tiên là dập đầu lạy thứ kia mấy cái, rồi lấy vật gì đó từ trong túi ra ném lên khuôn mặt kia, nó đột nhiên nhăn nhó kêu thét lên. Người lái thuyền lập tức rút một con dao, nhanh chóng cẩn thận lách lưỡi dao vào giữa bướu thịt và da đầu, cậy nó ra, sau đó giật mạnh một cái kéo thứ kia xuống.

Thứ kia rơi xuống đất, quay tới quay lui, dọa cho mấy người đứng xem xung quanh lui lại mấy bước. Một lát sau, nó tan thành một vũng giống như hồ dán, chảy xuống theo khe trên boong thuyền. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ này, liền hỏi: “Đây là…”

Người lái thuyền nhúng dao vào trong nước biển rửa sạch, khẽ nói: “Đây là nhân diện liêm, là oan hồn trên con thuyền quỷ kia, chỉ cần dùng lông trâu ném lên mặt nó là được rồi.”

Nhìn nét mặt người lái thuyền, có thể đoán ra ông ta bắt đầu cảm thấy hối hận vì đã nhận vụ làm ăn này, cứ lẩm bẩm gì đó trong miệng. Sau khi kiểm tra kĩ càng, biết chắc trong tóc cô gái kia không còn thứ gì kỳ quái nữa, ông ta kêu mấy thuyền viên vào khoang sau làm việc. Chỉ trong chốc lát, thuyền bắt đầu di chuyển.

Lúc này mặt biển đã yên tĩnh trở lại, mây đen trên trời vẫn chưa tan hết nhưng đã tản ra thành từng đám nhỏ, ánh dương quang len qua khe hở giữa những đám mây rọi xuống, khoảng không bao la khoác lên một tấm màn kỳ ảo, xem ra cái cơn bão chết tiệt này cuối cùng cũng qua rồi.

Chúng tôi dàn xếp ổn thỏa cho cô gái, sau đó người lái thuyền leo lên nóc thuyền, tôi biết ông ấy muốn quan sát mặt biển xung quanh. Hải hầu tử kia thù cực dai, chẳng biết nó có đi theo chúng tôi tìm cơ hội trả thù không nữa. Nhưng nước ở Tây Sa rất trong, khi có đủ ánh sáng tầm nhìn có thể lên đến hơn 40m, nếu có thứ gì đó đi theo chúng tôi thì chỉ cần liếc mắt một cái là thấy ngay rồi, cho nên tôi cũng không quá lo lắng chuyện đó sẽ xảy ra.

Những người trên thuyền bắt đầu bận rộn lo phần việc của mình, để mặc tôi muốn làm gì thì làm. Vừa rồi tôi tiêu hao rất nhiều thể lực, bây giờ người vừa được thả lỏng đã buồn ngủ muốn chết. Tôi tìm một chỗ thoải mái ngả lưng làm một giấc, đến khi tỉnh lại thì mặt trời đã ngả về Tây, thuyền chúng tôi đang tiến gần vào bờ một hòn đảo. Tôi thấy bờ cát trắng đẹp cực kỳ, nhưng hạt cát lại khá thô, chắc giẫm lên đó cũng chẳng dễ chịu gì, mà ngay trước mặt chúng tôi là một bến thuyền, xem ra nó sắp cập bờ đây.

Tôi những tưởng thuyền sẽ đi thẳng đến địa điểm thăm dò kế tiếp, không ngờ còn có cơ hội cập bờ, bèn thuận miệng hỏi: “Bây giờ chúng ta định đi đâu?”

Người bên cạnh trả lời tôi: “Đi đón vài người trên đảo Vĩnh Hưng”.

 Tôi quay lại, thấy cô gái kia đang ngồi ngay cạnh mình, sắc mặt đã khôi phục phần nào, nhìn qua thì hình như cũng vừa mới tỉnh lại. Tôi vốn không đề phòng phụ nữ bao giờ, thấy bộ dạng ốm yếu của cô nàng cũng có chút thú vị, bèn cười cười hỏi: “Đi đón ai?”

 Cô ấy chỉ về bến tàu đằng xa, ở đó thấp thoáng bóng dáng một tốp người lưng đeo túi du lịch: “Chính là bọn họ, mấy thợ lặn, còn có một người cũng là cố vấn như anh, tôi nghĩ chắc chắn anh có quen biết.”

Tôi căng mắt nhìn kĩ vài lần, cũng nhận ra trong đó có một người mập mạp trông quen quen nhưng không nhớ ra là ai. Sau đó một thuyền viên ra đứng ở đầu thuyền gọi: “Nè, mấy người! Chuẩn bị hết chưa, chúng tôi đến rồi!”

Tên mập kia ngoảnh đầu lại mắng: “Nè cái đầu ông á! Để Bàn gia ta đứng đây hứng gió Tây Bắc nửa tiếng đồng hồ, mẹ nó, mấy người giờ giấc cao su vừa phải thôi chứ!”

Chương 15: Bàn Tử

Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Thanh Du

*****

Lòng tôi có đôi chút kinh ngạc, nhưng cũng đoán được một số khả năng. Trong số những người thoát ra từ Lỗ Vương Cung, Đại Khuê đã chết, chú Ba thì mất tích, Phan Tử vẫn đang hôn mê, Muộn Du Bình sống chết chưa rõ, chỉ còn có tôi cùng Bàn Tử. Tổ chức này coi trọng bản lĩnh đã chuẩn bị kỹ càng, tôi đoán chắc lựa chọn hàng đầu của họ là Bàn Tử, tôi may ra chỉ là phương án bổ sung mà thôi.

Thuyền vào bến cũng không giảm tốc độ, tên Bàn Tử kia mới vài ngày không gặp thôi đã béo lên rồi, được cái thân thủ vẫn nhanh nhẹn như cũ Hắn theo đám người kia nhún mình nhảy phốc lên thuyền, chạy một quãng mới đưa mắt nhìn tôi, hớn hở cười lớn: “Đồng chí, cậu cũng ở đây luôn hả, xem ra uy tín của A Ninh tiểu thư nhà chúng ta cũng không vừa!”

Cô gái kia miễn cưỡng nở với hắn một nụ cười méo xệch, xem ra bọn họ quen nhau đã lâu. Thái độ của tôi đối với Bàn Tử vẫn luôn trong tình trạng giằng co khen chê lẫn lộn, hắn đã đến đây rồi, tôi cũng không biết nên vui hay nên buồn nữa. Nhưng cứ nhớ lại những việc hắn từng làm trong Lỗ Vương Cung, mấy lần hại tôi suýt chết thảm, tôi lại thấy đau đầu.

Hắn đem hành lý lẳng một phát lên sàn thuyền, đến đứng đối diện trước mặt chúng tôi, vừa đấm lưng bồm bộp vừa nói: “Đuổi tôi chạy đến cong cả đuôi, mẹ kiếp, cô cậu làm gì mà thúc giục khiếp thế! Đúng rồi, đã tìm được nơi đó chưa?”

Cô gái tên A Ninh lắc đầu: “Chỉ còn lại duy nhất một địa điểm, không còn nghi ngờ gì nữa, chính là chỗ đó.”

Bàn Tử nói: “Cho mấy người biết, Bàn gia tôi ấy mà, ba cái thứ Tầm long điểm huyệt với Tham huyệt định vị là mù tịt hết. Mấy người tìm được rồi thì báo lại cho tôi một tiếng, còn không tìm được cũng đừng có trách tôi. Tiền tôi vẫn thu như thường, quy tắc giang hồ, Nam phái cô cậu cũng nên nhập gia tùy tục đi!”

A Ninh đau đầu thở dài: “Tôi biết anh dốt mấy thứ đó nên cũng sắp xếp ổn thỏa cả rồi. Cụ thể, việc định vị sẽ do ngài Ngô phụ trách.”

Tâm trạng tôi đang tương đối thoải mái, vừa nghe câu này chợt cảm thấy tai ù đi. Tôi phụ trách? Phụ trách kiểu gì? Tôi ngay đến cả một xẻng cũng chưa từng đào, vội lên tiếng: “Tôi phụ trách? Không phải các cô đã biết hải đấu kia ở chỗ nào rồi sao?”

Cô nói: “Mới chỉ áng chừng được vị trí đại khái thôi, tìm được đạo động vẫn là tốt nhất. Nếu chẳng may tìm không thấy thì phải nhờ anh định vị trên thực tế và phán đoán hình dạng của địa cung rồi. Trong tay chúng tôi chỉ có một mớ tư liệu cũ nát, làm sao thay thế được kinh nghiệm của thổ phu tử? Chú Ba của anh cũng cáo già thật, những tài liệu đó chẳng lưu lại cho chúng tôi tờ nào.”

Lưng tôi đổ đầy mồ hôi, xem ra tối nay đừng hòng ngủ, phải nằm mà liệu liệu nhớ lại những thứ ngày trước ông nội dạy cho, bằng không tới nơi rồi sẽ làm trò cười cho thiên hạ mất!

Hạ xẻng thì không thành vấn đề, dưới đáy biển có chậm chạp chút ít hoặc sai lầm gì đều có thể đổ thừa cho nước biển, thổ phu tử chứ có phải hải phu tử đâu, lĩnh vực này chắc chắn không thuộc phạm trù chuyên ngành của tôi. Nhưng muốn tôi định vị địa cung thì đúng là gay to, may thay tôi không có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nhưng vẫn còn biết chút lý thuyết.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc, tâm trạng căng thẳng khi nãy cũng dần lắng lại, bụng bảo dạ thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng

(1)

, đến lúc đó nếu quả thực thấy không ổn thì cứ phán bừa là địa cung đó rất kỳ quái là được rồi.

Bàn Tử nhìn tôi, nói: “Vậy là tốt, tất cả đã sẵn sàng! Nhưng hiếm khi có dịp đến Tây Sa, tối nay chúng ta hãy đánh chén một bữa no say mà bồi dưỡng sức lực, đổ đấu cũng là lao động tay chân đấy!” Dứt lời huỳnh huỵch chạy đi tìm lái thuyền, xách lão lên mà hỏi trên thuyền có hải sản gì không.

A Ninh hình như không muốn ăn, chỉ đứng một bên không nói năng gì. Nhưng tôi đang lúc đói bụng, vừa nghe có hải sản nước miếng đã biểu tình trong miệng, cũng chạy tới xem.

Ở Tây Sa rất nhiều cá thu, cá lao và cá mú. Người ta nói biển Tây Sa một nửa là nước, một nửa là cá, cho nên thuyền đánh cá ra khơi rất hiếm khi tay trắng trở về. Ðến mùa du lịch, câu cá ở Tây Sa cũng là một thú vui. Bàn Tử gào la thúc ép ghê quá, ông lái thuyền đành miễn cưỡng lấy trong hầm cá ra một con cá thu to tướng đưa cho người làm: “Chặt đầu nó rồi bỏ vào nồi mà nấu.”

Bàn Tử không biết chuyện vừa xảy ra, thấy vẻ mặt đưa đám của ông lái thuyền thì cực kỳ khó chịu, quát: “Mẹ kiếp, có phải ông đây ăn quịt đâu, cũng đếch phải cướp của ngươi!”

Bực bội gì thì bực bội, nhưng đến lúc nồi cá bưng tới, hương vị khỏi phải nói, cảm giác thèm thuồng của tôi cũng theo đó mà dâng lên tận cổ. Trước kia sống nơi thành thị, chưa bao giờ nghĩ tới có ngày mình lại được ăn những thứ như vậy. Bàn Tử ánh mắt như thôi miên, nồi đặt chưa vững hắn đã phóng đũa gắp ngay một miếng da cá còn nóng hổi tống vào miệng, nóng đến mức rớt cả nước mắt.

Uy lực của cái nồi thơm phức này thật sự rất lớn, không biết có phải vì tất cả đều đói gần chết hay không mà ai ai cũng vây lấy nó, ngay cả Trương hói đang ngủ dưới kho cũng phải mò lên, nghe thấy thế cũng góp lời: “Tây Sa hay thật, tha hồ nấu cá cả đời ăn chẳng hết.”

Bàn Tử kéo gã ra mắng mỏ: “Nịnh hót vừa phải thôi , ông ấy, con mẹ nó đừng có phun nước miếng rào rào như thế, không thấy ghê muốn chết sao?!”

Trương hói thấy Bàn Tử lạ mặt, liền chìa tay ra bắt tay hắn: “A, người mới, xin hỏi nên xưng hô thế nào?”

Bàn Tử bụng dạ vốn thẳng như ruột ngựa, liếc gã một cái, quay sang hỏi A Ninh: “Cái lão hói đầu này là ai thế?”

Trương hói vừa nghe sắc mặt lập tức đen lại, cố gắng lịch thiệp: “Xin gọi tôi là ngài Trương, hoặc giáo sư Trương được không?”

Bàn Tử không thèm để ý đến gã, A Ninh thấy không khí căng thẳng mới đứng ra lên tiếng: “Quên chưa giới thiệu cho các anh, vị này là giáo sư Trương, một trong những cố vấn của chúng ta lần này.”

Bàn Tử nghe hai tiếng giáo sư, cũng không dám thất thố, vội nắm tay Trương hói mà nói: “Ấy, thật xin lỗi, tôi không nhìn ra ngài lại là một nhà trí thức. Tôi họ Vương, chỉ là một kẻ thô lỗ bình thường, ngày thường quen thẳng tính, mong ngài đừng để bụng.”

Trương hói nghe thế bất đắc dĩ nhếch mép nở nụ cười: “Trí thức hay người thường cũng là người cả thôi, chẳng phải trí thức cũng từ người bình thường mà ra hay sao? Phân công bất đồng, phân công bất đồng

(2)

.”

Bàn Tử nghe mà đực mặt ra không hiểu, đành phải cười xòa. Trương hói không nhận ra, hỏi tiếp: “Ngài Vương đang làm công việc gì vậy?”

Bàn Tử ngây người, cảm thấy khó chịu, nhưng cũng không thể tỏ ra quá thô lỗ trước mặt một bậc trí thức, đành đáp: “Cái này…nói nôm na thì tôi làm việc dưới lòng đất.”

Trương hói không khỏi kính nể: “Hóa ra là một chiến sĩ công an, thất kính, thất kính

(3)

.”

Tôi ngồi nghe cứ phải bấm bụng nhịn cười, con mẹ nó, lão Trương hói này lải nhải cũng lắm thật. Bàn Tử thấy tôi cười, mới hung hãn trừng mắt liếc xéo một cái, nói với Trương hói: “Chuyện này nói sau cũng được, tới đây ăn mấy miếng đi đã.” Dứt lời liền hô hào mọi người nâng đũa.

Tôi cũng không để ý đến họ nữa, nhấc đũa lên ăn. Mẹ kiếp, mùi vị đúng là hảo hạng, mồm còn chưa nuốt hết miếng thứ nhất, tôi đã gắp đến miếng thứ hai.

Bàn Tử ăn một hồi, ợ lên sung sướng rồi lại đòi uống rượu. A Ninh nói: “Đây là thuyền ngư dân đi đánh cá, đào đâu ra rượu cho anh?” Bàn Tử không tin, phi ngay xuống dưới khoang thuyền lục lọi một hồi, cười toe toét ôm vò rượu lên. Ông lái thuyền thấy thế thì sợ đến run người, luôn mồm giải thích đây là rượu cống cho Long Vương, nói xong chạy tới muốn đoạt lại.

Bàn Tử tức điên người: “Ông lảm nhảm nhiều quá ta không nghe đâu, cái thứ rượu vớ vẩn này của ông, Long Vương nếm thử đảm bảo đánh cho thuyền đắm luôn chứ chẳng chơi!” Nói xong lôi trong túi ra một bình rượu xái, vứt cho ông lái thuyền: “Cầm lấy, cho Long Vương thay đổi khẩu vị chút đi! Đây gọi là trao đổi văn hóa rượu Bắc Nam, nhìn thấy không, là rượu xái Hồng Tinh đấy, là đồ thượng hạng. Mẹ kiếp, ông đúng là có mắt như mù!”

Ông lái thuyền đứng ngây như phỗng không biết phải làm sao. Bàn Tử cứ coi như lão đã đáp ứng, xé niêm phong chia cho chúng tôi. Rượu này đúng là tuyệt, là rượu dừa hảo hạng của thị trấn Lê Miêu. Chúng tôi nốc lấy nốc để một trận như gió táp mưa sa, mãi đến lúc trăng lên đỉnh mới thôi.

Bàn Tử uống ngụm rượu cuối cùng, bụng đã no, vỗ đùi ngồi thẳng lưng: “Các vị, ăn uống no say rồi, cũng nên nói chuyện nghiêm túc một chút.”

_________

Chú thích:

(1) Thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng (nguyên văn:

船到

桥头自然直

): Thành ngữ, ý chỉ việc đâu sẽ có đó.

(2) Phân công bất đông: xuất phát từ câu “chích hữu phân công bất đồng, một hữu đê quý chi phân” ý là các nghề nghiệp chỉ khác nhau về đặc điểm công việc, không phân sang hèn

(3) Nguyên văn Bàn Tử nói là “địa hạ công tác” (

地下工作

). Ở đây tác giả Nam Phái Tam Thúc chơi chữ, cụm từ “địa hạ công tác” vừa có nghĩa là làm việc dưới lòng đất, vừa có nghĩa là công tác ngầm, công tác bí mật.

Chương 16: Họp

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Thấy Bàn Tử biến sắc, tinh thần tôi không khỏi dao động. Gã Bàn Tử này tuy tính tình tùy tiện, nhưng biểu hiện của hắn lúc ở trong cổ mộ rất xuất sắc, ít ra về mặt kinh nghiệm cũng đã hơn tôi không biết bao nhiêu lần. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa tự mình đi đổ đấu lần nào, cũng không biết có cần phải nói vài lời động viên trước khi xuống đấu hay không nên tạm thời cứ làm một cậu trò ngoan, chờ xem hắn muốn nói gì.

Tên mập kia ăn rất nhiều, hắn vỗ vỗ cái bụng căng tròn như bụng trống, nói: “Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa đổ qua hải đấu lần nào, trước hết nhất định phải chuẩn bị đầy đủ để khi xuống đó đỡ phải luống cuống tay chân. Mà hải đấu thì chắc chắn không giống đấu trên cạn, tôi cũng muốn kiểm tra trước xem mấy người chuẩn bị trang thiết bị gì cho tôi đã.”

A Ninh nói: “Ngài Vương, vậy lần này anh nắm chắc được mấy phần? Hay là chúng ta cứ lập kế hoạch trước, trong lòng cũng tự tin hơn.”

Bàn Tử lắc đầu: “Rất khó nói, dựa theo kinh nghiệm của tôi, hải đấu này một là khó xác định vị trí, hai là khó đào đạo động, ba là không nắm rõ tình hình bên trong. Bây giờ chúng ta gác hai vấn đề đầu tiên sang một bên tạm thời không nói đến, quan trọng là cái thứ ba, chẳng biết trong cái hải đấu này có bánh tông hay không, lỡ như có thì quả là phiền phức, còn nếu không có thì nó chẳng qua chỉ là một cái đấu ở dưới nước thôi, giải quyết cũng đơn giản hơn.”

Nói đến bánh tông, tôi đột nhiên nhớ tới con quái vật mà chú Ba kể đã gặp trên đường vào mộ, càng nghĩ càng cảm thấy đó có thể là con Hải hầu tử mà tôi đã đụng độ trên thuyền ma, trong lòng không khỏi có chút sợ hãi, mới nói: “Có bánh tông hay không thì tôi không biết, nhưng có thể chúng ta còn gặp phải thứ phiền toái hơn nhiều.”, nói rồi tôi kể lại cho họ nghe về thứ tôi đã nhìn thấy trên thuyền ma. Những người kia đã nghe gã Trương hói thêm mắm dặm muối kể qua, nhưng chuyện gã kể chắc chỉ xoay quanh đề tài gã đã cứu tôi và A Ninh như thế nào, còn tôi kể thì thật thà hơn nhiều. Chờ tôi kể xong, Bàn Tử nhíu mày hỏi: “Hừ, mẹ nó, còn có thứ này nữa sao?”

Tôi gật gật đầu: “Rất nhiều vùng có truyền thuyết nói về nó, chắc là không sai đâu.”

A Ninh cũng gật đầu: “Trước đây tôi từng nghe qua rồi, lúc ấy còn tưởng người lớn muốn dọa cho tôi sợ, không dám ra chơi gần bờ sông nên mới thêm thắt ra thôi.”

Bỗng ông chủ thuyền chen ngang: “Không đúng không đúng, mấy người không biết được đâu, những thuyền đánh cá quanh đây đều đã gặp phải thứ này, tôi nói cho mấy người nghe, nó không phải là Hải hầu tử gì gì đó đâu, nó là quỷ Dạ Xoa! Nó là thân thích của Long Vương, mấy người đắc tội với nó, chắc chắn nó sẽ quay lại báo thù! Tôi thấy chúng ta nên mau mau quay vào bờ mua đầu heo mời đạo sĩ lo cúng bái, cầu nó đại nhân đại lượng mà bỏ qua cho chúng ta.”

Gã Trương hói nghe thế liền bật cười: “Tôi nói nè, ông chủ thuyền, tôi chỉ dùng một viên đạn mà bắn nát bả vai thân thích của Long Vương, vậy tôi chẳng là Tôn Ngộ Không hay sao?”

Ông chủ thuyền giận đến xanh mặt, nói: “Ông mà Tôn Ngộ Không nỗi gì, là Trư Bát Giới thì có!”

Chúng tôi nghe vậy đều thấy buồn cười, Trương hói xoa xoa khuôn mặt căng tròn bóng lưỡng, chắc là cảm thấy bản thân cũng hơi hơi giống thật, không khỏi buồn phiền.

Bàn Tử cười một hồi mới nói: “Nếu dưới biển có thứ này thật thì chúng ta nhất định phải mang vũ khí. Lỡ như cái hải đấu kia chính là hang ổ của tụi nó, chẳng phải chúng ta đi đâm đầu vào chỗ chết hay sao? Tôi hỏi nè Ninh tiểu thư, cô có chuẩn bị đinh ba hay gì đó tương tự không?”

A Ninh trả lời: “Chúng tôi cũng có nghĩ đến tình huống này nên đã chuẩn bị một ít súng bắn cá, nhưng loại súng này rất cồng kềnh, vả lại chỉ có thể bắn phát một, nếu gặp phải tình huống khẩn cấp e rằng cũng chẳng mấy hữu dụng.”

Tôi có biết loại súng này, dùng khí nén để kích hoạt, tầm bắn chừng dưới 4m, nếu thuận lợi còn có thể đem làm trường mâu. Nhưng hiềm một nỗi súng này quá dài trong khi đường vào mộ lại hẹp, xem ra rất khó sử dụng.

Bàn Tử không để ý tới chuyện đó, kêu to: “Chẳng cần biết có hữu dụng hay không, súng thì chỉ lo thiếu chứ sao lại sợ thừa, mang theo được thì cứ mang. Ngày mai xuống đó, tôi sẽ dẫn đầu, đồng chí Tiểu Ngô theo sau lưng tôi, cô với gã hói kia đi sau cùng. Nếu tôi thấy có điều gì bất thường sẽ khoát tay, mấy người phải lập tức dừng lại, còn nếu tôi ngoắc ngoắc nắm tay, mấy người khỏi cần lo lắng gì hết, cứ trốn đi là được.”

Chúng tôi thấy sắp xếp như vậy cũng khá hợp lý, nhất loạt gật đầu, sau đó lại bàn bạc thêm vài vấn đề. Tôi nhớ lại những chuyện chú Ba kể, viết ra một danh sách để họ chuẩn bị trong đêm nay, nào là đèn thăm dò, dao găm, ống giữ lửa, túi đựng, dây nilon, móc leo núi, còn cả thức ăn, dụng cụ cấp cứu, mặt nạ phòng độc, hộp nhiều ngăn, họ đã chuẩn bị gần như đầy đủ, đến cả móng lừa đen cũng có.

Dặn dò xong trời đã gần sáng bảnh, Bàn Tử bảo chúng tôi đừng có bàn nữa, còn bàn tiếp thì đến nước cũng hết dám xuống luôn, lo mà đi nghỉ ngơi đi, cho nên mọi người đều tự tìm chỗ nghỉ. Loại rượu dừa kia tác dụng mạnh mà chậm, vừa bị gió biển thổi vào người, đầu tôi đã nặng không tả nổi, nhanh chóng chìm vào giấc ngủ sâu, đến xế chiều mới tỉnh lại.

Có vài người đã dậy trước tôi, giờ đang lục đục chuẩn bị. Tôi rửa mặt bằng nước biển, đúng lúc này có mấy thợ lặn ngoi lên từ trong nước, một người tháo ống thở xuống, nói: “Tìm được rồi, chắc chắn là chỗ này, đạo động cũng thấy luôn.”

A Ninh nghe thế vội hỏi: “Anh có vào đó xem thử không?”

Người đó lắc đầu: “Có, nhưng đạo động đó rất dài, tôi vào một đoạn mà vẫn không thấy đáy, không dám tiếp tục tiến sâu vào nữa nên đã đi ra.”

A Ninh gật gật đầu, hỏi người thợ lặn thêm vài câu nữa rồi quay sang nói với chúng tôi: “Được rồi, chúng ta chuẩn bị đi là vừa, chờ họ dọn quang cửa động rồi sẽ thông báo với chúng ta. Nếu bên trong cửa động có dấu hiệu sụt lún, họ sẽ dùng giá đỡ để cố định.”

Chúng tôi nhất loạt mặc đồ lặn vào. Tôi với mấy người kia mặc rất vừa vặn, duy có Bàn Tử là bị hở phần bụng, lộ cả rốn ra ngoài, tuy có hơi bất lịch sự nhưng vẫn phải mặc vào. Chúng tôi kiểm tra lại toàn bộ trang thiết bị, những thứ cần mang đều mang theo cả, sau đó từng người một nối nhau nhảy xuống nước.

Chương 17: Tóc

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Đạo động kia cách thuyền không xa lắm. Tôi thấy đáy biển bị nổ ra một cái hố lớn, ngay dưới đáy hố chính là đạo động, thầm nhủ quả nhiên là cách làm của chú Ba. Trước tiên chúng tôi tìm kiếm bốn phía quanh đạo động, không thấy có dấu hiệu sụt lún, xem ra chú Ba cũng không bị lụt nghề chút nào.

Tôi còn nhìn thấy mấy tảng đá neo trông rất giống với miêu tả của chú Ba, nhưng cũng không dám chắc đó đúng là những thứ mà chú Ba đã kể.

Dấu vết quá trình xác định lăng mộ của chú Ba vẫn còn lưu lại, tôi cùng Trương hói cố gắng ghi nhớ. Đạo động ở vị trí này thì chắc là dẫn xuống phòng bên, tường gạch nơi đó hẳn là mỏng hơn.

Chúng tôi tìm khoảng 5 phút, xem chừng việc tìm kiếm cũng không cần thiết, Bàn Tử khoát tay với tôi, ý hỏi giờ có muốn vào hay không. A Ninh nhìn đồng hồ lặn, gật gật đầu.

Trang bị của chúng tôi bây giờ không giống như 20 năm trước, mọi thứ đều nhẹ nhàng hơn nhiều. Cuối cùng chúng tôi ở cửa động kiểm tra lại trang thiết bị một lần nữa đồng thời thống nhất các ám hiệu. Sau khi chắc chắn không còn vấn đề gì nữa, Bàn Tử mới lấy lại bình tĩnh, bơi trước dẫn đường, mấy người chúng tôi mở đèn thăm dò theo sau, thoáng chốc đã vào sâu vào năm sáu mét.

Đạo động này xiên xẹo khác thường, chỗ rộng chỗ hẹp. Tôi vừa bơi vừa nhìn vách động, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, nhìn thế nào cũng không giống do người tạo nên. Nếu là đạo động do chú Ba đào, chắc chắn chú sẽ cẩn thận hạ từng xẻng một, nhưng dấu vết mà tôi thấy trên tường thì loạn cào cào, mấp mô đủ kiểu, giống như hang động do loài động vật nào đó đào ra.

Chúng tôi khó khăn bơi vào sâu 20m, ánh sáng từ cửa động đã không thể rọi tới. Bỗng đạo động đột nhiên chuyển hướng, đâm thẳng xuống dưới, tôi không khỏi cảm thấy kỳ lạ, chưa đào đến mộ thì thay đổi phương hướng làm gì.

Khốn thay dưới này không nói chuyện được, tôi cũng không biết phải biểu đạt nghi vấn của mình ra sao. Chúng tôi ngừng lại ở chỗ rẽ ngoặt, Bàn Tử ra hiệu cho chúng tôi cẩn thận rồi một mình bơi xuống trước. Thấy ánh đèn của hắn cứ xuống mãi xuống mãi cho đến khi chỉ còn là một điểm sáng mờ, tôi không khỏi líu lưỡi, tự hỏi sao mà sâu quá vậy.

Rồi hắn từ phía dưới huơ huơ ngọn đèn thăm dò, ý nói dưới đó an toàn, chúng tôi liền nối nhau lặn xuống. Tôi nhìn đồng hồ lặn, đã sâu cỡ vài chục mét, tôi chưa từng lặn xuống độ sâu này, chẳng biết cơ thể có chịu đựng nổi hay không.

Bên dưới mở ra một không gian rất rộng, chúng tôi nhanh chóng nhìn thấy tường cổ mộ, trên đó đã bị phá ra một lỗ hổng lớn. Tôi càng nhìn càng thấy nghi ngờ, cái lỗ này sao lại bị phá ra theo kiểu quái lạ như vậy, không giống như đổ đấu bình thường là cẩn thận dỡ từng viên gạch xuống, đằng này lại có mấy viên gạch bị đập vỡ nát. Bàn Tử nhìn tôi, tôi cũng nhìn lại hắn, cả hai cùng nhả ra một đám bọt khí. Hắn chỉ chỉ vào mấy viên gạch vỡ rồi bắt chước động tác của khỉ, tôi hiểu hắn muốn nói: động này có thể do Hải hầu tử đào ra chứ không phải là đạo động.

Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý, chỉ vào khẩu súng bắn cá trên lưng hắn, hắn lấy xuống, mở chốt an toàn, sau đó bơi qua lỗ hổng.

Đây là lần thứ hai tôi vào một cổ mộ, dẫu có chút phấn khích, nhưng nhớ tới chuyện trải qua lần trước, lại cảm thấy không được thoải mái. Đặc biệt lần này lại xuống nước, tay chân vướng víu, nếu gặp nguy hiểm chỉ e không thể cắm đầu chạy thoát thân như khi ở trên mặt đất.

Đường vào mộ lớn hơn tôi tưởng rất nhiều. Tôi tăng độ sáng của đèn thăm dò, lại mở thêm đèn pin chống thấm trong tay, bơi theo ngay sau Bàn Tử. Mấy ngọn đèn của chúng tôi rất mạnh, chiếu rọi cả một vùng rộng lớn, khiến cho cả quãng đường vào sáng trưng lên. Tôi nhìn lên vách tường mộ thì thấy quả nhiên có phù điêu hình mặt người như lời chú Ba kể, không những thế, trên trán những khuôn mặt này đều có khắc vài loại động vật kỳ lạ, đường nét vô cùng tinh xảo. Tôi vừa bơi vừa xem, càng xem càng cảm thấy kỳ quái, những con vật này phần lớn đều là thú giữ mộ, nhưng bọn chúng đều không có mắt, nhìn qua có chút quỷ dị.

Bỗng tôi phát hiện trên trán một khuôn mặt có hình khắc trông giống ba con Xà mi đồng ngư, không khỏi cảm thấy căng thẳng, vội kéo kéo Bàn Tử ý bảo hắn dừng lại rồi tập trung nghiên cứu tấm phù điêu.

Bàn Tử nóng lòng tiến vào bên trong nên không kiên nhẫn chút nào. Hắn nhìn về phía tôi xem tôi đã phát hiện ra điều gì, nhưng mãi vẫn không hiểu nổi, suốt ruột vẫy vẫy tay. Tôi để mặc cho hắn chờ, nhoài người ra xem xét cẩn thận, chỉ thấy ba con Xà mi đồng ngư đó nối đuôi nhau tạo thành một vòng tròn, mỗi con lại có hình dạng khác nhau, tôi có thể nhận ra hai con trong đó đang ở ngay trong túi tôi, còn một con có ba mắt thì tôi chưa từng thấy, không biết nó có ý nghĩa gì. Khuôn mặt ngay dưới con cá cũng hoàn toàn khác biệt với số còn lại, rõ ràng là một khuôn mặt mang đường nét đặc trưng của nữ giới. Có lẽ là do bị nhiều thứ linh tinh bám vào nên nhìn qua trông nó hơi sần sùi thô ráp, khiến người ta cảm thấy không được thoải mái.

Tôi còn muốn nghiên cứu kỹ càng hơn nữa, nhưng A Ninh từ phía sau cũng đã thúc giục, tôi không còn cách nào khác đành phải tiếp tục bơi về phía trước. May là những hình điêu khắc đó cứ đi một đoạn lại thấy xuất hiện, tôi có thể quan sát kỹ hơn một chút, có điều xem tới xem lui cũng không phát hiện ra điều gì bất thường, chỉ mơ hồ cảm thấy có gì đó là lạ.

Xem đi xem lại một hồi, đến khi hình khắc khuôn mặt kia lần thứ năm xuất hiện, tôi mới hiểu ra vấn đề. Tôi nhớ khuôn mặt trên phiến đá thứ nhất nhắm mắt, trên phiến đá thứ hai hình như hơi he hé mở ra, đến phiến đá thứ ba và thứ tư, đôi mắt càng lúc càng mở lớn, còn trên hình khắc thứ năm này, đôi mắt đã mở ra trừng trừng.

Tôi có linh cảm không lành liền kéo Bàn Tử lại, không cho hắn tiếp tục tiến lên phía trước nữa, sau đó lấy sổ ghi chép dùng dưới nước ra, viết: “Đôi mắt của khuôn mặt trên tường mộ dần dần mở ra, tôi sợ có chuyện không hay!”, viết xong chỉ vào vách tường.

Bàn Tử sờ thử khuôn mặt kia, lắc đầu, lại viết: “Tôi không để ý, nhưng đó chỉ là hình khắc trên đá thôi, bên trong nhất định cũng chỉ là đá, cậu cả nghĩ rồi.”

Tôi kiên quyết lắc đầu, ra hiệu cho hắn giương súng lên. Bàn Tử thấy nét mặt tôi nghiêm túc đành miễn cưỡng làm theo. Bơi thêm một đoạn, tôi lại thấy một hình điêu khắc nữa giống y những cái đã xuất hiện trước đó, Bàn Tử nghe tôi nói cũng bắt đầu biết sợ, ngừng lại chiếu đèn quan sát một chút. Khuôn mặt trên phiến đá nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt đã hoàn toàn mở ra, trông có phần ngây dại. Bàn Tử rọi đèn mấy lượt không thấy có gì thay đổi, lá gan cũng lớn ra, mò mẫm một chút rồi vẫy tay với tôi ra hiệu an toàn.

Tôi bơi qua xem, quả nhiên vẫn là một phiến đá như trước, không có gì đặc biệt. Tôi lấy ngón tay chọc thử vào đôi mắt đó cũng không thấy có phản ứng gì, không khỏi lắc đầu tự giễu, xem ra đây chỉ là trò đùa của người thiết kế mộ huyệt nhằm hù dọa những tên trộm mộ có thể vào được đây chứ không hề có ngụ ý đặc biệt gì, vậy mà nãy giờ tôi lại cứ tự mình dọa mình, thật chẳng còn mặt mũi nào. Bàn Tử vỗ nhẹ người tôi, ý bảo đừng suy nghĩ nhiều quá, mau đi thôi.

Chúng tôi lại tiếp tục bơi về phía trước, tôi nhớ lại những điều chú Ba đã kể, chú đụng phải một cơ quan rồi mới bị hút vào trong cái đài phun nước kia, nhưng vách tường mộ chỗ nào cũng như nhau, làm sao mà tìm được nơi chú đã đụng vào?

Tôi thoáng nghĩ, cứ cắm đầu bơi về phía trước như vậy không phải cách hay, cũng không biết lối vào mộ này dẫn đến nơi nào, biết đâu lại là một vòng luẩn quẩn, lỡ lạc đường trong này thì coi như xong đời. Tôi âm thầm suy tính, chú Ba chỉ liếc mắt một cái là có thể nhìn đến tận cuối hàng, có thể đoán đó là một đoạn hành lang rất dài. Vừa rồi chúng tôi lòng vòng qua mấy khúc quanh, đoạn hành lang dài như thế chỉ có hai chỗ, nếu suy theo hướng này thì cũng không đến nỗi khó tìm, nhưng phải mất khá nhiều thời gian.

Đúng lúc này, Bàn Tử bơi phía trước bỗng đột ngột dừng lại khiến tôi không kịp phanh, đâm sầm vào mông hắn. Chắc mẩm phía trước đã xảy ra chuyện gì, thần kinh tôi bất giác căng thẳng, bơi đến gần xem thử mới hay đường vào mộ đã hết, lối đi bị một tảng đá cản lại.

Bề mặt tảng đá kia trụi lủi, không có văn tự hay phù điêu gì cả. Tôi tìm tòi một lúc lâu cũng không phát hiện ra cơ quan gì, ngượng ngùng gãi gãi đầu, A Ninh viết hỏi tôi: “Sao lại là ngõ cụt?”

Tôi viết lại: “Hẳn là có cơ quan ẩn giấu gần đây, chúng ta tìm thử xem có mảng tường nào rỗng ruột không.”

Bọn họ đều gật đầu. Bàn Tử bắt đầu gõ đông gõ tây, kiểm tra cẩn thận những phù điêu hình mặt người. Tôi cố gắng nhớ lại những manh mối ghi trên bút ký, dùng dao găm đảo qua từng kẽ hở nhỏ, nhưng mãi chẳng có gì tiến triển, tảng đá kia vẫn im lìm chắn ở đó không mảy may sứt mẻ.

Tôi không khỏi cảm thấy chán nản, quay đầu lại định nhìn xem Bàn Tử có cách gì không, chợt thấy hắn ngẩn người. Tôi vỗ vỗ vai hắn, viết hỏi: “Có phát hiện được gì không?”

Hắn nhìn tôi với vẻ mặt kỳ quái, viết hỏi: “Hải hầu tử tóc dài à?”

Tôi không biết hắn đột nhiên hỏi như vậy là có ý gì, không khỏi bật cười. Tôi cũng không để ý hải hầu tử tóc dài hay không, nhưng theo trí nhớ thì hình như cái đầu nó trụi lủi chỉ toàn vảy là vảy.

Tôi thuật lại chi tiết cho hắn rõ, lại hỏi hắn muốn biết chuyện đó để làm gì. Hắn chỉ vào kẽ tường, tôi nhìn theo hướng chỉ của hắn thì thấy ở khe hở giữa tảng đá với vách tường có một luồng tóc màu đen.

Tôi sửng sốt đến đờ người, chuyện này hết sức vô lý! Chẳng lẽ bên kia tảng đá có ai đó đang dựa vào?

Bàn Tử vốn can đảm, định với tay kéo xuống xem sao, không ngờ mớ tóc kia đột nhiên co rút lại, lùi về sau khe hở. Bàn Tử liếc mắt nhìn tôi, viết: “Đằng sau tảng đá này có quỷ.”

Chương 18: Một đống tóc

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Trong cổ mộ dưới đáy nước đột nhiên xuất hiện một luồng tóc, còn biết tự động co lại, người bình thường ai chẳng nghĩ ngay là có quỷ, may mà có tảng đá ngăn ở giữa, dù có quỷ thật đi nữa nó cũng không xông qua đây được.

Không túm được luồng tóc kia, Bàn Tử hình như không cam lòng, bèn lấy đèn chiếu vào khe hở, muốn nhìn xem bên kia rốt cuộc có thứ gì. Tôi không được can đảm như hắn, phim kinh dị có liên quan đến tóc đâu có thiếu! Liền tránh xa tảng đá xem phản ứng của Bàn Tử như thế nào.

Hắn nhìn đi nhìn lại vài lần, hình như đã thấy điều gì đó khả nghi, hắn lấy lại bình tĩnh, áp sát vào nhìn thêm lần nữa. Lần này hắn phản ứng rất dữ dội, gấp rút lùi về phía sau, bơi xa một hơi mấy mét giống như đang bỏ chạy, sau đó xoay người lại ra sức ngoắc ngoắc nắm tay với chúng tôi. Ban đầu tôi còn tưởng hắn muốn đánh mình, chợt nhớ ra, mẹ nó! Chẳng phải đó là ám hiệu bảo chúng tôi bỏ chạy đấy sao.

Nhưng vừa rồi đâu có xảy ra chuyện gì? Tôi theo phản xạ quay đầu nhìn lại, chỉ thấy tảng đá chặn đường kia đột nhiên bị đẩy về phía trước, một dòng nước đen như mực dần dần tràn qua từ khe hở. Tôi vội vàng lui lại, cứ tưởng là nước độc, ai dè nhìn kỹ thì sợ muốn rớt cằm, thứ màu đen đó hóa ra đều là tóc người!

Bàn Tử thấy chúng tôi phản ứng quá chậm chạp, vội bơi đến kéo chúng tôi đi. Lúc này cả bọn mới tỉnh ngộ, cuống cuồng lo bỏ chạy. Ở dưới nước, càng căng thẳng thì càng mất sức, bơi lại càng chậm. Tôi thấy trong lúc hoảng loạn thế này không cách nào bơi cho nhịp nhàng được, đành bắt chước Bàn Tử đạp lên tường mà đi, dù rất khó coi nhưng tốc độ khá nhanh, đặc biệt cảm giác chân có điểm tựa vẫn tốt hơn nhiều.

Chúng tôi đạp liền hai mươi mấy bước, đến một ngã rẽ, Bàn Tử kéo chúng tôi lại núp sau khúc ngoặt, ý bảo cứ xem tình hình thế nào đã rồi tính sau.

Chúng tôi hít một ngụm lớn dưỡng khí, vội vàng lui lại nhìn, khỉ thật, đường vào mộ đằng sau toàn tóc là tóc, từng bện từng bện đen kìn kịt. Nhìn cảnh này, yết hầu tôi bất giác run lên, không biết phải nuôi bao nhiêu năm tóc mới dài đến chừng này! Bàn Tử chửi thề một tiếng, điên tiết cầm súng nhắm vào giữa mớ tóc màu đen bắn một phát. Hẳn hắn nghĩ mũi lao có thể đâm xuyên qua tóc, nào ngờ mũi lao mới phóng ra được 5, 6 mét thì chậm dần lại sau đó bị cuốn vào trong đám tóc, mặt mũi phút chốc trắng bệch.

Nhưng mũi lao kia vẫn có chút tác dụng, mớ tóc giống như có ý thức, hơi lui về sau một chút, sau đó cuộn lại. Nói là cuộn lại chứ thực ra trông giống như có vật gì muốn thoát ra khỏi đó hơn, khiến chúng tôi nhất loạt đề cao cảnh giác. Bàn Tử lắp thêm một mũi lao, chuẩn bị đến gần bắn tiếp phát nữa. Bỗng mớ tóc đột nhiên co rụt lại rồi bung ra, tôi nhìn thấy ở chỗ sâu nhất trong mớ tóc đó là một xác người.

Người đó mặc kiểu đồ lặn giống như chúng tôi, có thể là một trong ba người đi cùng chú Ba. Tôi chỉ nhìn thoáng qua cũng thấy trong mũi, miệng anh ta đều là tóc, cả hai tròng mắt cũng có tóc lòi ra, nhìn là biết ngay anh ta bị ngạt thở mà chết. Lúc này cái xác đã ngấm nước trương phình lên, trông cực kỳ khó coi.

Tôi vừa nhìn da đầu đã đã bắt đầu co giật. Mớ tóc này vô cùng ma quái, tôi nghĩ trước hết cứ lo chạy thoát thân cái đã, định kéo Bàn Tử, nào ngờ ngẩng đầu nhìn lên đã chẳng thấy hắn đâu. Tôi hoảng hồn quay đầu lại thì thấy hắn đã bơi được một quãng rất xa, còn vẫy vẫy nắm tay về phía chúng tôi.

Tôi âm thầm chửi rủa hắn không tiếc lời, hóa ra tên mập nhà anh lo chạy trước đến chỗ an toàn mới lo cảnh báo cho bọn tôi, sau đó vội kéo Trương hói cùng A Ninh theo sau. Tên mập đó tỏ vẻ phàn nàn chúng tôi phản ứng chậm, tôi mới tức mình cho hắn một cước vào mông. Bàn Tử bị tôi đá đau, tức tối muốn xông lên đánh lại, A Ninh thấy thế vội ngăn giữa chúng tôi, chỉ chỉ về phía sau. Tôi thấy lúc này lo chạy thoát thân quan trọng hơn, mẹ nó, khi nào thoát ra khỏi đây tôi sẽ tính sổ với hắn sau.

Lúc này đồng hồ đo áp lực khí trên tay tôi chợt rung lên, tôi cúi xuống nhìn, toi rồi, từ khi xuống nước đến giờ đã ngót nghét nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi lại thở gấp như vậy, dưỡng khí tiêu hao nhiều hơn bình thường vài lần, có hơi vượt quá giới hạn. Tôi nhẩm tính thời gian còn lại, tình thế lúc này có thể nói là cực kỳ tệ hại, nếu việc tìm kiếm vẫn cứ dậm chân tại chỗ thì chúng tôi sẽ buộc phải quay về theo đường cũ, bằng không sẽ chẳng còn đủ dưỡng khí mà thở. Thế nhưng phải rời khỏi đây mà chưa tìm được căn phòng chú Ba đã kể, tôi có chút không cam lòng.

Gã Trương hói nãy giờ vẫn bơi sau cùng bỗng đưa tay kéo dây đai trên người chúng tôi, sau đó luống cuống chen lên đầu tiên, chặn đường ngăn Bàn Tử lại. Tôi thấy vẻ dứt khoát trong mắt gã, thầm nhủ, hiểu biết của người này về cấu tạo mộ cổ hơn tôi nhiều lắm, chẳng lẽ gã đã tìm ra được manh mối gì?

Quả nhiên sau đó gã ra hiệu cho chúng tôi theo sau. Bàn Tử cáu điên, nhưng biểu hiện của hắn vừa nãy quá tệ nên chúng tôi chẳng ai thèm để ý đến hắn. Tên mập đó cũng không còn cách nào khác, đành phải ấm ức mà bám đuôi chúng tôi.

Gã Trương hói bơi ngược lại vài mét, chỉ cho chúng tôi thấy một khối đá hơi hơi lõm vào, thì ra vừa rồi Bàn Tử đạp lên đó đã khiến khối đá này lún nhẹ vào trong vách tường.

Tôi thấy thế trong lòng mừng rỡ khôn tả, tìm tới tìm lui một hồi, nơi này đúng là phần cuối của một đoạn hành lang dài, chiếu theo lời kể của chú Ba thì cơ quan tám chín phần chính là ở chỗ này. Nhưng cơ quan này một khi đã mở ra, cả bọn sẽ bị cuốn vào theo dòng nước. Chú Ba năm đó có mũ lặn nên không sứt mẻ miếng nào, còn chúng tôi trên đầu chỉ có mỗi cái kính lặn, nếu bị cuốn theo dòng nước xiết, không chừng sẽ đập đầu vào đâu đó, máu tuôn ra ào ào….

Tôi nhìn lại đằng sau, mớ tóc kia còn chưa đuổi tới, vốn định nhắc nhở bọn họ một tiếng, ai ngờ gã Trương hói kia chẳng biết tốt xấu, chưa chi đã vội ấn vào cơ quan. Tôi không kịp phản ứng, chỉ thấy vô số bọt nước túa ra.

Thôi xong rồi! Thật sự không ngờ năng lực gây họa của gã Trương hói này so với tên mập Bàn Tử chỉ có hơn chứ không hề thua kém. Mẹ nó, câu chửi còn chưa kịp ra khỏi miệng, tôi đã bị một lực khủng khiếp từ sau lưng đẩy vào lỗ hổng trên tường. Bị cuốn vào dòng nước xoáy tròn, tôi lập tức hiểu được cảm giác lục phủ ngũ tạng đều lộn tùng phèo như chú Ba đã nói, giống như bị nhét vào trục lăn trong máy giặt. Cứ thế tôi bị quay cho vài trận, choáng váng đến chẳng còn biết trời trăng gì nữa.

Không biết đã qua bao lâu, khi tôi dần dần tỉnh lại, cảm giác đầu tiên là toàn thân rã rời, cái cổ đau nhức, may mà chưa gãy, vả lại ống thở vẫn còn ngậm trong miệng. Tôi tập trung quan sát, chỉ thấy bốn bề tối đen như mực, bọn Bàn Tử ở bên dưới, coi bộ cũng trải qua một trận choáng váng. Đặc biệt là Bàn Tử, đến lúc này vẫn còn xoay xoay như đang múa ba-lê.

Tôi nhìn quanh một lượt, thấy vách tường xung quanh làm bằng hàn bạch ngọc thượng đẳng; dùng đến vật liệu quý giá như vậy, hẳn nơi này nằm bên trong lăng mộ, xem ra chúng tôi đã đến bên dưới đài phun nước trong phòng phụ mà chú Ba từng nhắc tới. Tôi đạp chân bơi lên, đột nhiên đầu có cảm giác ấm áp, chợt nhận ra mình đã trồi lên khỏi mặt nước.

Bốn bề tối đen như mực, mà ánh sáng của đèn thăm dò lại tập trung, thành ra chỉ chiếu rọi được một khoảng nhỏ. Tôi bèn tắt đi để đổi sang đèn pin rồi quan sát mộ thất tỉ mỉ một lượt. Mộ thất này hình hộp chữ nhật vuông vắn, ngoại trừ bức vẽ năm mươi ngôi sao trên trần ra thì những chỗ khác cũng không có nhiều hoa văn trang trí, có vẻ giản dị tự nhiên.

Bên trong không có quan sàng và quan quách, vậy đây hẳn là một trong những phòng phụ. Tôi tìm kiếm một vòng, hình như không còn cửa ra nào khác ngoài một cánh cửa bên trái thông với hành lang lát gạch.

Tường mộ được trát bởi loại đất sét trắng rẻ tiền, trên đó vốn có vài hình vẽ màu sắc sặc sỡ, tiếc rằng đã bị nước ăn mòn chẳng thể nhìn rõ hình dạng, tôi không biết trên bức tranh đó có phải vẽ hình Cấm bà hay không.

Trên mặt đất có chôn khoảng một trăm món đồ sứ tùy táng, trong đó có mấy cái vò sứ Thanh Hoa Vân Long cỡ lớn rất có giá, đồng thời tôi cũng phát hiện vài dấu chân ướt dẫm lên mặt đất bụi bặm, dấu vết khá mới, xem ra đó chính là kiệt tác của chú Ba.

Tôi kiểm tra chất lượng không khí rồi để cho bọn họ lần lượt nổi lên khỏi mặt nước. A Ninh lên sau cùng, đầu tiên liền lo lắng hỏi về những dấu chân này: “Đây là do kẻ trộm mộ lưu lại sao?”

Tôi nhíu mày, không dám khẳng định, bởi lẽ tôi thấy giữa những dấu chân đó có một vết chân trần nổi bật hơn hẳn, kỳ lạ nhất là dấu chân này rất nhỏ, nhìn như chân một đứa trẻ con không quá 3 tuổi.

Tôi chưa nghe nói đến chuyện đi đổ đấu mà mang con nít theo bao giờ, liền gọi Bàn Tử lại xem. Kinh nghiệm của hắn rất phong phú, có lẽ sẽ hiểu được chuyện gì đã xảy ra.

Bàn Tử thấy vết chân cũng ngẩn người, nói: “Cậu khoan hãy quan tâm đến chuyện nó lớn hay nhỏ, ngay chính bản thân dấu chân này cũng đã bất thường rồi, cậu nhìn kỹ hơn đi.”

Tôi quan sát tỉ mỉ thêm lần nữa, phát hiện trên dấu chân có một lớp vàng vàng giống như sáp bèn dùng dao cạo lên xem, vừa ngửi thấy tức khắc líu lưỡi: “Đây là lớp sáp trên xác không rữa…!”

Chương 19: Bình sứ

Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Thanh Du

*****

Xác không rữa thông thường đều là những xác chết được ngâm trong nước hoặc chôn cất ở nơi có độ ẩm cao hoặc trong bùn nhão, lớp sáp là do chất khoáng cùng với chất béo trong thi thể lâu ngày ngưng kết mà thành.

Tôi lần theo dấu chân, phát hiện chúng kéo dài thành một đường dẫn tới tận góc phòng, lộ ra một chiếc bình sứ Thanh Hoa Vân Long áp lưng vào góc, lòng có chút hồi hộp.

Người ta nói Diêm Vương dễ xử, tiểu quỷ khó đùa, chẳng lẽ ở đây lại có một bánh tông non? Tôi nói với Bàn Tử: “Anh nhìn xem, vết chân này có đi mà không có về, không lẽ…”

Mới nói được có một nửa, Bàn Tử đã khoát tay chặn họng, ý bảo tôi im lặng. Tôi quay lại, đập vào mắt vẫn chỉ là cái bình sứ, bỗng có cảm giác run run.

Bàn Tử nói nhỏ: “Thứ đó đang nấp phía sau đấy…”

Trương hói đang cởi dở trang bị đến dây lưng thì ngừng lại, xách bình dưỡng khí đến hỏi Bàn Tử: “Cái gì thế?”

Bàn Tử bị làm phiền liền rủa: “Bánh tông chứ gì nữa!”

Gã đần mặt: “Bánh chưng? Bánh chưng chay ngũ vị của Gia Hưng ấy à?”

Bàn Tử lắc đầu rồi quyết định lờ gã luôn. Tôi hỏi hắn: “Anh chắc không đấy? Xưa nay tôi chưa từng thấy cái bánh tông nào nhỏ như vậy.”

Bàn Tử đáp: “Chịu, nhưng mặc xác có phải bánh tông hay không, chúng ta cũng phải nhìn cho rõ, bằng không đúng là tai họa, đấu đổ xong cũng chẳng ăn ngon ngủ yên được.” Dứt lời nâng súng hơi lên tay, ngoắc ngoắc tôi. Tôi không muốn đi tí nào, đương nhiên là lắc đầu.

Bàn Tử thở dài sườn sượt, đành phải quay ra gọi Trương hói thay thế. Trương hói lần đầu tiên vào đấu phấn khởi ra mặt, vội vã học theo bộ dạng Bàn Tử đi tới, hai người tạo thành thế vây sườn, rón rén tiếp cận bình sứ Thanh Hoa.

Tuy tôi đang sợ khiếp vía nhưng cũng không thể trưng ra vẻ hèn nhát yếu đuối trước mặt phụ nữ được, đành thủ thế, vừa bám càng Trương hói vừa cẩn thận thăm dò xung quanh.

Chúng tôi nhón chân từng bước, e sợ có thứ quái vật gì đó thình lình nhảy xổ vào mặt. Bàn Tử lia đèn pin chiếu vào bình sứ, nhưng cái bình rất lớn nên không thấy gì cả, lại giơ nòng súng lên chọc chọc. Hành động của hắn làm tôi không nhịn được cười, y hệt như hồi bé tôi vẫn đi bắt chồn vậy. Hắn chọc liền năm sáu phát vẫn chẳng có động tĩnh gì, lúc đấy gan mới lớn thêm được thêm một chút, hùng dũng tiến lại gần, hứ một tiếng rồi gào lên ông ổng: “Mẹ nó chứ, có mỗi cái hòm gỗ mục trống hoác, hại ông mày sợ đứng tim!”

Chúng tôi cũng tiến gần hơn xem xét, thấy một chiếc quan tài trẻ con chỉ nhỏ bằng hộp đàn vĩ cầm khắc hình một đôi phượng, nắp quan đã bị lật sang một bên, lớp quan màu trắng bên trong được bảo tồn rất tốt, có điều thi thể đã mất tăm, chẳng trách Bàn Tử nghĩ đây là cái hòm. Tôi lên tiếng: “Không phải hòm, mà là một loại quan tài.”

Bàn Tử ban đầu còn ngờ vực nhưng cũng nhanh chóng hiểu ra, liền hỏi: “Ý cậu đây là quan tài của cái bánh tông non đó sao?”

Tôi gật đầu rồi tỉ mỉ quan sát, phát hiện trên thân quan tài có vài lỗ thủng, từ đó có một vệt đen sì kéo lê xuống tận mặt đất. Xem ra đã có một thứ chất lỏng chảy ra từ mấy cái lỗ ấy, cảnh tượng này hình như ông nội cũng từng nhắc tới trong bút ký.

Bàn Tử lấy đèn pin soi kỹ cả trong lẫn ngoài, thở dài não ruột: “Nhìn kiểu dáng của cỗ quan tài này, chắc chắn trên người đứa nhỏ đầy bảo vật. Tiếc quá tiếc quá, không biết cái thi thể chết tiệt đó chạy rông đi đằng nào rồi, tóm được phải xử luôn, biết đâu lại moi được vài viên trân châu.”

Tôi đương nhiên đồng tình. Trẻ con chết yểu hoặc bị đem bồi táng, trong quan tài luôn có cả đống đồ quý, hơn nữa hầu như tất cả đều đeo trên mình thi thể. Đặc biệt là trong bụng trẻ bồi táng lúc nào cũng có một viên ngọc chống phân hủy, giá trị thì khỏi phải bàn.

Chúng tôi nhìn quanh quất xem có dấu vết nào của thi thể không, bốn phương tám hướng đều dò xét nhưng một mẩu vụn cũng không có, xem chừng đã bị tên trộm mộ nào đó đánh cắp ra rồi.

Bàn Tử vẫn ấm ức lắm, một mực muốn lục lọi cái quan tài thêm lần nữa nhưng tôi có linh cảm không lành, vội kéo hắn lại: “Quan tài này có gì đó bất thường, không đơn giản là để mai táng người chết đâu. Anh đừng có dại mà đụng vào.”

Bàn Tử cười khẩy: “Thi thể còn đếch sợ nữa là cái quan tài nhép. Cậu sợ cái gì, sợ cái quan tài nhảy dựng lên đợp tôi một phát à?”

A Ninh can: “Mục đích chúng ta đến đây không phải là khoắng minh khí ra ngoài đâu nhé. Bây giờ cần phải tập trung lực lượng đánh nhanh thắng nhanh, còn không mau đến mộ chính đi, cứ cà kê mãi lãng phí thời gian.”

Bàn Tử tự biết mình đuối lý cũng không cãi chầy cãi cối nữa. Chúng tôi cẩn thận chỉnh trang lại đồ lặn, Bàn Tử đeo ba lô lên lưng, bỗng quay ra nhìn tôi, khóe miệng giật giật rồi lại thôi, giống như có điều muốn nói mà không tiện mở mồm. Tôi thở dài mắng: “Mẹ nó chứ, anh muốn gì thì nói toẹt ra đi. Sao nào?”

Bàn Tử nói: “Mấy người nói xem, có khi nào cái bánh tông non kia chui vào trong bình sứ rồi không?”

Tôi nhìn cái bình sứ, giật mình nhận ra đúng là có khả năng này.

Bàn Tử hơi đỏ mặt: “Khi nãy tôi nghe được tiếng động từ phía cái bình, hình như là từ bên trong vọng ra. Tôi còn tưởng mình nghe lầm, bánh tông cũng chẳng phải con chuột mà chui tọt vào vại như thế, nhưng đến giờ vẫn không bỏ được ý nghĩ đó.”

Tôi biết thừa thằng cha này chắc còn đang đem lòng tương tư đám bảo vật đeo đầy trên mình thi thể, đang muốn nói đểu hắn vài câu, bất thình lình cái bình đã “cốp” một tiếng lăn quay ra trên mặt đất. Tôi ngây cả người, lòng rủa thầm, đừng bảo là tên kia nói quá chuẩn nhé.

Cả bốn người cứng miệng không thốt ra được câu nào, căng thẳng dán mắt vào cái bình. Ban đầu nó còn xoay tròn tại chỗ, sau đột nhiên lộc cộc lăn về phía chúng tôi.

Chương 20: Hành lang

Editor: Biển

Beta: Miên Hoa Tử

~oOo~

Vừa rồi tôi chỉ lo tập trung toàn bộ sự chú ý vào cái quan tài nên không nhìn kỹ bình sứ này, vội vàng lui lại mấy bước. Cái bình kia lảo đảo lăn vài vòng rồi thay đổi phương hướng, lăn về phía cửa đá dẫn ra hành lang, cuối cùng “Keng” một tiếng va vào khung cửa, ngừng lại.

Mấy người chúng tôi trố mắt nhìn nhau, đều cảm thấy vô cùng kỳ lạ, chẳng lẽ thực sự như Bàn Tử đã nói, trong đó có bánh tông?

Chúng tôi đần mặt ra dễ đến nửa phút, không ai dám tùy tiện tiến lên, Bàn Tử hạ giọng, nói: “Mọi người, cái bình này đúng là có chút ma quái. Hay là chúng ta tiên hạ thủ vi cường, cứ cho nó mấy mũi lao?”

Tôi tất nhiên không tán thành, nhẹ giọng nói: “Ngàn vạn lần không được, trước hết cứ xác định rõ nó rốt cuộc là cái gì đã hẵng bàn tiếp!”

Tôi nói như vậy, trước hết là do đã nhìn ra được bình sứ lớn này là đồ sứ Thanh Hoa có từ thời Nguyên-Minh, nhất định là một món đồ quý giá, hơn nữa kích cỡ lớn như thế này

,

trên thế giới đã chẳng còn lại mấy cái, chỉ sợ đập cái này là không còn cái thứ hai. Hơn nữa, không biết bên trong rốt cuộc có thứ kỳ quái gì, nếu quả thật là bánh tông như lời Bàn Tử nói thì khó tránh khỏi sẽ có một trận đánh nhau, vừa rồi tôi ở dưới nước tiêu hao rất nhiều thể lực, nếu có đánh nhau thật chắc chắn là chạy không nổi.

Nhưng hiện tại chúng tôi đang ở trong cổ mộ sâu hơn mười mét dưới đáy nước, không khí trong này không biết có thể duy trì được bao lâu, nếu còn giằng co nữa đối với chúng tôi cũng chẳng có gì tốt. Trong tình thế này, tiến tới hay lùi lại cũng rất khó lựa chọn, tôi nhất thời lại không nghĩ ra chủ ý gì, cuống đến nỗi đầu đầy mồ hôi.

Lúc này Bàn Tử thấy tôi do dự bèn nói: “Chúng ta cũng không thể chắc chắn bên trong đúng là

một cái bánh tông, chỗ này thông với biển, nói không chừng là tôm cua gì đó chui vào thôi, việc gì phải đứng đây tự mình dọa mình, cứ qua xem kỹ đi rồi nói.”

A Ninh lắc đầu: “Mục đích chính của chúng ta là tiến vào mộ chính, đừng ở đây lãng phí thời gian, tôi thấy chúng ta tránh được gì thì cứ tránh, tìm thử xem có lối ra ở chỗ nào khác không.”

Tôi thấy đây cũng là một cách hay, lập tức kiểm tra một lượt khắp trong phòng phụ, tiếc là nơi này vừa nhìn qua đã thấy ngay là chẳng có cánh cửa nào khác, cũng không có cái lỗ nào để chúng tôi có thể chui qua.

Bàn Tử có vẻ không còn kiên nhẫn, nói: “Chuyện đã đến nước này, hiện tại nếu không phải dốc bình này ra xem thì là quay trở về chứ bây giờ không còn lối đi nào khác, nhưng mà tôi đã nói với mấy người từ trước rồi, đã đến được tận đây rồi mà còn bị cái cái bình dọa chạy về, Vương Bàn Tử tôi đây mặc kệ!”

Tôi nhìn biểu tình của A Ninh, thấy cô ấy vô cùng kiên quyết, Trương hói thì chẳng nói tiếng nào, không biết trong đầu gã đang nghĩ gì nữa, ba người bọn họ đều nhìn tôi giống như đang trưng cầu ý kiến.

Trong lòng tôi vẫn chưa có quyết định rõ ràng, thầm nhủ nếu tùy tiện xông qua tất nhiên là không ổn lắm, nhưng Bàn Tử nói cũng có lý, những thứ gặp phải trong cổ mộ này đa phần đều là chúng tôi tự mình dọa mình cả. Nhìn ánh mắt kiên quyết của A Ninh, tôi không khỏi mềm lòng: “Được rồi, đi tới đâu tính tới đó vậy, nếu bình an vô sự thì coi như xong, còn nếu đụng phải thứ cứng đầu, trên tay chúng ta còn 4 mũi lao, không việc gì phải sợ nó!”

Bàn Tử vỗ vỗ vai tôi tỏ vẻ khích lệ, tôi cầm lấy khẩu súng, mở chốt an toànrồi nhắm vào cái bình kia. Bàn Tử xung phong dẫn đầu, bốn người chúng tôi áp sát mép cửa, dè dặt tiến vào bên trong.

Tôi cũng không phải là vô cùng sợ hãi, chỉ cảm thấy hơi có chút căng thẳng, trên người lại mặc đồ lặn, mồ hôi không thấm ra được, khó chịu muốn chết.

Ngay tại thời điểm chúng tôi có thể nhìn thấy được thứ đang nằm trong bình, đột nhiên một âm thanh vang lên, cái bình kia bỗng chuyển mình lăn lông lốc, trong tích tắc máu trong người tôi dồn hết lên não, suýt nữa thì bóp cò.

Bàn Tử giật mình lùi lại hai bước, vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đừng cử động, chỉ thấy bình sứ kia đột nhiên tiếp tục lăn, lần này nó vẽ thành một đường vòng cung, lộc cộc lộc cộc lăn vào hành lang tối đen. Chúng tôi nghe thấy âm thanh đó lăn đi rất xa mới lại “Keng” một tiếng đụng vào cái gì đó rồi biến mất.

Chúng tôi lập tức tiến vào, bên trong tối đen như mực, tôi dùng đèn pin rọi sáng, chỉ thấy đây là một lối đi thẳng lát đá cẩm thạch trông vô cùng đơn giản, bên trong hầu như không có thứ gì ngoài hai rãnh đèn trên mặt đất, trên đó cứ cách 1m lại có một chân đèn, ở đầu kia hành lang có một cánh cửa ngọc, mà hai bên trái phải đều có một cánh cửa nhỏ hơn, tổng cộng là 3 cái, tất cả đều mở rộng, xem ra là đã có người vào đó, còn cái bình kia thì đã dừng lại giữa cánh cửa nhỏ bên trái, nằm bất động.

Lần này tôi thực sự cảm thấy có chút kỳ lạ, hành động của cái bình này có vẻ giống như là đang muốn dẫn đường cho chúng tôi, chỉ thiếu điều nói thêm câu “follow me” nữa thôi. Đây nhất định là kiểu hành vi có ý thức, chẳng lẽ thứ trong cái bình này không phải bánh tông mà là một con quỷ?

Tôi nhìn gã Trương hói, cũng không nhìn ra là gã căng thẳng hay sợ hãi, tôi đành nói ra suy nghĩ của mình, Bàn Tử nghe qua cảm thấy có lý, không khỏi hít một hơi khí lạnh: “Điều cậu vừa nói ra cũng khá có lý, ban nãy tôi cũng cảm thấy thứ này lăn đi như vậy, quả thực rất giống với quả bóng bowling.”

Tôi thầm cười khổ, Bàn Tử thấy tôi có hơi do dự, còn nói thêm: “Nếu như đã đến được đây rồi, chúng ta đừng có ở chỗ này mà do dự tới lui nữa, cứ cùng nhau đi qua đó xem thử nó có mục đích gì, dù sao đi tới là một đao, lùi lại cũng là một đao.”

Mọi người gật đầu, Bàn Tử vỗ vỗ tôi, nói: “Đường qua cánh cửa đá trơn bóng

kia thông thường hay có cạm bẫy, Ngô lão đệ cậu xem thử xem nơi này có vấn đề gì không?”

Tôi tự biết mình làm mình chịu, gật gật đầu, liền dùng đèn pin rọi trên mặt đất, hành lang này được lát bằng nhiều miếng đá nhỏ, rất có khả năng che giấu cơ quan nguy hiểm bên dưới. Tôi nghĩ nếu chú Ba đã đi qua nơi này, cơ quan nếu có dù không bị phá hỏng thì cũng đã bị kích hoạt rồi. Nhưng lỡ như không phải vậy thì thật là phiền phức. Tôi nhắc nhở bọn họ vài điều, sau đó xốc lại ba lô tự mình dẫn đầu tiến lên phía trước.

Muốn tránh né cơ quan, tốt nhất là cứ áp người thật sát vào vách tường, nhưng hai bên Hành lang này có hai rãnh đèn, trong đó tối đen không biết có ẩn giấu thứ gì không, chúng tôi chỉ có thể lò dò đi dọc theo con rãnh.

Tôi bảo bọn họ cần đặc biệt chú ý cảm giác dưới chân, nhưng thật ra ngay chính bản thân tôi cũng không nhận ra đầu mối gì, mỗi bước đặt xuống nặng nhẹ thế nào, nhanh chậm ra sao đều phải chú ý kỹ càng, những thứ này đều đúc kết từ kinh nghiệm, tôi không thể nào có được, thế nên càng đi lại càng thêm luống cuống.

Cứ hốt hoảng lo lắng đi liền mấy mươi bước như vậy, cả người tôi đã ướt đẫm mồ hôi lạnh, mấy người đi sau thấy tôi khẩn trương như vậy cũng hoảng theo, Bàn Tử nói: “Xem ra công tác dò mìn này đúng là không dễ dàng gì, tiểu đồng chí, nếu cậu mệt quá thì chúng ta cứ nghỉ ngơi một chút đi?”

Tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu mà tranh luận với hắn, chỉ nói: “Đừng có làm ồn, tôi mà phân tâm là cả bọn cùng chết đó!”, nói chưa dứt lời, dưới chân tôi đột nhiên rung lên, nhìn lại chỉ thấy một phiến đá dưới chân A Ninh đã bị lún xuống dưới, cô ấy hoang mang nhìn tôi.

Tôi khổ sở than một tiếng, thầm nói xong rồi, tại sao lại xui xẻo đến mức này, thế nào rồi cũng bị bắn thành con nhím cho xem, chợt nghe thấy có tiếng rít, một mũi tên đã bay sượt qua tai A Ninh. Tôi còn chưa kịp phản ứng gì, mũi tên thứ hai tiếp đến, bắn thẳng vào lồng ngực cô ấy

Trong một tích tắc, ánh mắt của A Ninh thay đổi, cô ấy xoay người vung tay nhanh như tia chớp, chụp lại mũi tên ngay giữa đà bay, động tác đó dường như chỉ diễn ra trong vòng một phần mấy giây, ngay cả cử động của cô ấy tôi cũng không nhìn thấy rõ ràng.

Tôi vừa thấy thân thủ của cô ấy như vậy, trong lòng liền kinh hãi, nhưng tình hình thực tế lại không cho tôi có thời gian để ngẫm nghĩ, chỉ cảm thấy dưới chân truyền đến chấn động không ngừng, tôi vội kêu to: “Mau nằm xuống, vẫn còn nỏ ngầm!”

Vừa dứt lời đã thấy mười mấy vệt sáng phóng tới, tôi vội cúi đầu tránh thoát một mũi tên, lúc này tôi đột nhiên thấy một sinh vật toàn thân phủ lông trắng bò ra từ trong cái bình ở đằng xa, nhanh chóng chui vào cửa đá bên trái. Tôi vừa định lên tiếng, bất thình lình trên ngực đau nhói, cúi đầu nhìn xuống, chết tiệt! Không biết từ lúc nào trên ngực đã bị trúng hai mũi tên, xem chừng còn cắm sâu vào hai ba tấc.

Chương 21: Mũi tên

Editor: Dứa

Beta: Miên Hoa Tử

——————–

Tôi nhìn mũi tên chưa cắm hết vào cơ thể, lồng ngực bỗng đau kinh khủng, trong lòng hoảng loạn đến mức hồ đồ, không tin đây là sự thật. Tôi còn trẻ như thế, ngay cả tay con gái cũng chưa từng chạm vào, chẳng lẽ lại chịu chết trong ngôi mộ không chút tiếng tăm này? Nếu chết ở đây, chỉ sợ mấy trăm năm sau cũng chưa chắc có ai đến nhặt xác. Kết cục như vậy không phải quá thảm thương sao.

Tên phóng tới như mưa, không biết rốt cuộc là cái gì phóng ra nữa, tốc độ lại quá nhanh, hoàn toàn không có cách né tránh, Bàn Tử dùng ba lô làm tấm khiên, nhanh nhẹn vọt tới trước mặt chúng tôi đỡ giúp mấy tên. Tôi nhìn lưng hắn, không khỏi hít vào một hơi lạnh. Trên lưng Bàn Tử đã cắm hơn mười mũi tên chi chít, nhìn giống lư hương thắp đầy nhang, xem ra cũng chết chắc rồi

,

thế nhưng không hiểu vì sao hắn lại không hề lộ vẻ đau đớn.

Trước đây tôi vẫn thường đọc một số truyện có nhắc đến việc người bị tên bắn chi chít như nhím, nhưng chưa tận mắt nhìn thấy bao giờ, lúc này chứng kiến tình huống như vậy không khỏi thầm chửi một tiếng, đúng lúc ấy, đột nhiên có người túm lấy áo tôi, thô bạo kéo tôi về phía đó, tôi sợ hãi quay đầu lại nhìn thì ra là cô A Ninh kia. Nhìn ánh mắt lạnh lùng đáng sợ của cô ta, tôi thầm cảm thấy không ổn, vội vàng ra sức hất một cái. Cô ta thấy tôi định chạy, nhấc chân thúc một cái vào lưng tôi không chút lưu tình, còn đau hơn cả việc bị hai mũi tên xuyên vào ngực. Toàn thân tôi mềm nhũn, đau đến mức nhất thời mất hết khí lực, cả người liền xụi lơ. Cô ta xách tôi lên, chẳng nói chẳng rằng đi thẳng vào đại ngọc môn. Tôi bị coi như cái khiên, bả vai, bụng, ngực nơi nào cũng bị trúng tên, đau đến suýt chút nữa hôn mê bất tỉnh.

Người ta nói lòng dạ phụ nữ là độc ác nhất, tôi vốn không tin, chẳng ngờ cô gái này thực sự lại tàn nhẫn như vậy. Mới lúc trước vẫn tỏ vẻ sợ hãi, ai biết chỉ chớp mắt sau ả lại có thể dùng tôi làm tấm bia sống chắn tên cho mình.

Tôi đương nhiên không vĩ đại đến mức đó, liền ra sức giãy dụa. Cô ả cũng không khỏe lắm, tôi giãy một chút đã có thể thoát ra được, cả người loạng choạng ngã vào rãnh đèn bên tường. Ả mất đi vật che chắn liền nhanh chóng xoay người, lập tức tránh được hơn mười mũi tên, lại còn hung hăng trừng mắt nhìn tôi. Tôi chửi thầm, con mẹ nó, mày còn có mặt mũi mà trừng ông ư! Tôi hét một tiếng, nhào về phía ả, ả nhìn tôi cười lạnh, từ chỗ đang đứng lộn một vòng đến sát vách tường rồi nhảy lên, đạp một cú vào tường lấy đà rồi nhanh như chớp tiến đến khu vực an toàn, toàn bộ động tác chỉ diễn ra trong tích tắc, vô cùng thành thạo gãy gọn.

Thấy ả ngay một mũi tên cũng không trúng, tôi tức đến vỗ một cú xuống đất. Ả ta quay lại nhìn tôi, đột nhiên khinh khỉnh hôn gió một cái, sau đó bật đèn pin, lắc mông đi vào bên trong ngọc môn kia.

Tôi ức tới độ muốn hộc máu, có điều không biết phải làm thế nào, đành vọt xuống rãnh đèn nấp, trên đầu chỉ nghe tiếng những mũi tên vun vút bay qua, đập vào trên thành tường dũng đạo phát ra âm thanh va chạm của kim loại, trận mưa tên này ước chừng phải kéo dài hơn năm phút mới ngừng. Tôi nhìn sang Bàn Tử, thấy hắn bây giờ không khác gì một quả cầu tên, nghiêng nghiêng ngả ngả như sắp đổ, vội tiến lại dìu hắn, không ngờ tới hắn khoát tay ý bảo mình không sao, hỏi tôi: “Tiểu Ngô, tôi thấy những mũi tên này rất đáng ngờ, cắm vào sâu như vậy cũng không thấy đau, cậu thử rút mấy cái ra cho tôi xem nào.”

Tôi cũng biết có chỗ không hợp lý, chẳng hiểu sao tên bắn vào không nghiêm trọng như tưởng tượng, tôi vẫn có thể thở ổn định, có điều tôi chưa chết bao giờ, cũng chẳng biết cái cảm giác khi bị tên bắn chết ấy là như thế nào.

Bàn Tử muốn tôi nhổ mấy mũi tên đó ra, tôi lại không dám, chần chờ nửa ngày cũng chưa hành động. Đúng lúc ấy Trương hói cắn răng đứng lên, vừa rồi hắn nấp sau lưng Bàn Tử, được che chắn bảo vệ nên không việc gì, thấy tình trạng Bàn Tử như vậy, đột nhiên nói: “Yên tâm, không sao đâu .”

Tôi và Bàn Tử đều sửng sốt, tại sao giọng nói của tên Trương hói này lại thay đổi như vậy, thậm chí còn rất quen thuộc, chỉ thấy hắn đột nhiên lắc mình một cái, có tiếng crắc crắc vang lên, cơ thể đột nhiên cao lên vài centimet. Tiếp theo, hắn vươn tay về phía trước, cũng dùng lực như khi nãy, lại cạch một tiếng, đôi tay cũng dài ra mấy tấc.

Tôi nhìn đến thiếu chút nữa rớt cằm xuống đất, thầm nghĩ đây không phải súc cốt công hay sao ? Tôi từng xem qua trong bút kí của ông nội, đây là công phu cơ bản nhất của nghề đổ đấu thời cổ, khi phải đi qua một không gian quá nhỏ như kẽ hở giữa các xà ngang trên mái vòm điện thờ hay đường ngầm dưới đất đều phải dùng đến. Tôi không nghĩ ra nguyên lý của nó, từ trước đến nay vẫn xem đây là trò đùa, nếu không phải đang chính mắt nhìn thấy, thực lòng tôi cũng không tin trên đời này có tồn tại một loại công phu ảo diệu đến vậy.

[ Mấy năm gần đây còn nghe nói một số kẻ trộm ở Lạc Dương vẫn còn sử dụng loại công phu này, bọn họ đào đường hầm rất nhỏ, súc cốt đi vào, cảnh sát đi qua đều tưởng là hang chồn. Sau biết được đây là đạo động cũng không có cách nào bắt người, bởi trong khi chờ nới rộng những đường hầm này ra, người bên trong đã sớm đào hầm theo hướng khác trốn mất. Chỉ tiếc rằng công phu này vốn cực kỳ khó luyện, cho dù có theo học từ nhỏ đi chăng nữa, nếu cốt cách không hợp cũng rất khó luyện thành.]

Hắn thở phào, đưa tay ra phía sau tai kéo một cái, lôi mặt nạ xuống, lộ ra khuôn mặt thật của mình. Tôi vừa nhìn thấy liền choáng váng, bên trong lớp mặt nạ kia chính là Muộn Du Bình! Ngây người một lát, tôi chợt vô cớ nổi giận, tên này đóng kịch quá khéo, khả năng dám bằng Ảnh đế lắm, tôi hoàn toàn không phát hiện ra một chút gì hết.

Muộn Du Bình lắc lắc cánh tay giống như đã lâu không hoạt động, Bàn Tử một bên cũng không nói được lời nào, qua một hồi lâu mới mở miệng: “Tiểu Ca, anh đây là có ý gì? Không phải anh định giỡn với chúng tôi đấy chứ?”

Muộn Du Bình không nói lời nào, vỗ vỗ Bàn Tử bảo hắn ngồi xuống, nắm lấy một mũi tên trên lưng hắn, dùng sức khẽ kéo, nhẹ nhàng rút mũi tên ra. Tôi nhìn qua một cái, chỉ thấy trên lưng Bàn Tử có dấu màu hồng nhạt, ngoài ra không có vết thương nào khác.

Tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, biết mình sẽ không chết được, liền học theo Muộn Du Bình rút tên trên người xuống, cũng không khó khăn gì, tôi vừa thử đã rút ra được một mũi, vừa nhìn liền hiểu ra. Thì ra những mũi tên này đều được chế tạo rất tài tình, chỉ cần chạm vào vật nào đó, đầu mũi tên sẽ tự động thụt vào, sau đó sẽ có những móc sắt nhỏ phóng ra, găm vào thịt của người trúng tên.

Muộn Du Bình nhìn những mũi tên nằm đầy trên mặt đất, nhẹ giọng nói: “Cú đạp vừa rồi của cô gái kia là cố ý, xem ra cô ta không những rất tự tin về khả năng của bản thân mà còn muốn đem chúng ta ra xử lý một lần cho gọn.”

Tôi nghĩ tới cái hôn gió vừa rồi của cô ả rõ ràng là để cười nhạo mình, tức giận nghiến răng trèo trẹo, quả nhiên phụ nữ đẹp đều không đáng tin, tôi sau này tuyệt đối sẽ không mắc lừa nữa!

Trên lưng Bàn Tử chi chít vết xước, hắn cười toét miệng, nói: “Con mẹ nó, may mà tên ở đây đều là liên hoa tiễn, bằng không mưu kế của ả đã thực hiện được rồi, cứ nghĩ tới Bàn Tử này cả đời anh danh lại hi sinh vì bị tên bắn chi chít như nhím, mọi người hẳn sẽ cười đến chết!”

Tôi nhìn những mũi tên kì quái này, hỏi hai người bọn họ: “Vì sao nơi này lại chỉ dùng một loại mũi tên như vậy? Có dụng ý gì sao?”

Muộn Du Bình nói: “Tôi cũng không biết, nhưng vừa thấy cậu trúng tên đã phát hiện ra đây là liên hoa tiễn, tôi nghĩ mãi cũng không ra lý do nào khác, có lẽ là chủ nhân của mộ thất này muốn để cho chúng ta một con đường sống, khiến chúng ta biết khó mà lui.”

Tôi cảm thấy vẫn có chỗ kì quái khó hiểu, tuy nhiên bây giờ không phải lúc thảo luận chuyện này, cô ả kia đã vào mộ chính, không thể cứ để cô ta dễ dàng ôm đồ đào tẩu được, tôi vừa nghĩ tới đó đã định tiến vào. Muộn Du Bình giữ tôi lại, lắc đầu nói: “Vừa rồi bình quỷ kia muốn chúng ta đến bên trái mộ thất, nhất định là có nguyên nhân, chúng ta cứ theo đó mà đi. Hiện tại đang ở trên địa bàn của người ta, không được manh động.”

Tôi cuống lên, đợi lát nữa nữa lỡ cô ả kia đi ra rồi chạy mất, thật không biết phải tìm ở đâu cho được. Bàn Tử nói: “Không lo, chúng ta quay lại đem tất cả đồ lặn giấu đi, con mẹ nó, xem cô ta có thể nín thở mà ra ngoài được không!”

Thời khắc mấu chốt vẫn là Bàn Tử đầu óc tỉnh táo, tôi thầm nhủ sao mình lại không nghĩ ra chứ, lập tức gật đầu, ba người nhanh chóng chạy về phía nhĩ thất. Tôi dùng đèn pin rọi một vòng xung quanh, vừa nhìn tới liền choáng váng, nơi này chẳng còn lại một thứ gì – bình dưỡng khí của chúng tôi cũng không thấy đâu nữa!

Chương 22: Lần đầu tiên giải mê

Editor: Biển

Beta: Miên Hoa Tử

~oOo~

Ba người chúng tôi đều ngớ cả ra, từ nãy đến giờ cùng lắm là 5 phút, dù có là ai đi nữa cũng không thể mang tất cả trang bị của chúng tôi đi trong thời gian ngắn như vậy được, hơn nữa từ phòng phụ đến hành lang chỉ có duy nhất một con đường, mấy thứ đó có thể đem giấu vào đâu?

Ba người liếc mắt nhìn nhau, sắc mặt rất khó coi, đây đúng là chuyện trước chưa qua chuyện sau đã đến, Bàn Tử cũng bắt đầu sợ hãi bèn hỏi: “Chẳng lẽ dưới này không chỉ có một cái bánh tông?”

Tôi khoát tay, bây giờ không phải là lúc thảo luận về bánh tông, gặp phải bánh tông chúng tôi còn có thể liều mạng, chứ không có thiết bị lặn, chúng tôi làm sao có thể vượt qua được quãng đường vào mộ dài mấy chục mét dưới biển kia, vấn đề này cực kỳ nghiêm trọng, nếu không giải quyết ổn thỏa tất cả chúng tôi đều sẽ phải chết trong cái huyệt mộ nằm sâu dưới đáy nước này.

Tôi hỏi Bàn Tử: “Lúc nãy anh là người cuối cùng cởi bỏ trang thiết bị, lúc anh bỏ ra có đem tất cả mang sang chỗ khác không?”

Bàn Tử nói: “Tất nhiên là không! Tám cái bình khí nặng như vậy, tôi đâu có ăn no rỗi việc mà xách chạy tới chạy lui.”

Tôi thấy cũng đúng, lúc đó chúng tôi đều có mặt, nếu ai đem mấy thứ đó dời đi chỗ khác nhất định sẽ bị phát hiện, hơn nữa những thiết bị đó đúng là rất nặng, nếu muốn một lần dọn dẹp sạch sẽ xem chừng là việc bất khả thi.

Chúng tôi ngẩn người ra ở đó một hồi, Bàn Tử thấy đứng đây nghĩ cũng vô dụng, bảo chúng tôi thử tìm kiếm ở xung quanh, nói rằng dù có là quỷ đến đem đồ đạc đi thì cũng sẽ lưu lại đầu mối gì đó. Tôi thấy hắn nói có lý, mới chạy đến chỗ đặt mấy cái bình sứ kéo hết cả ra xem có thứ gì bị giấu đằng sau không. Kể ra làm thế cũng coi như tự lừa mình dối người, ở một nơi chật dí thế này, nếu có thứ gì bất thường thì chỉ cần liếc mắt một cái đã nhìn ra ngay; nhưng lúc này tôi đâu còn lựa chọn nào khác, đành tìm cách chữa chongựa chết thành ngựa sống

(biến chuyện không thể thành có thể)

thôi.

Chúng tôi cẩn thận tìm kiếm chừng 5, 6 phút gì đó, tôi càng tìm càng cảm thấy có gì đó bất thường nhưng lại không biết là bất thường ở chỗ nào, chỉ thấy toàn bộ nơi này có vẻ cổ quái khó tả thành lời. Cuối cùng vẫn là Bàn Tử phát hiện ra, hắn đột nhiên mắng to một tiếng: “Mẹ nó! Đây căn bản không phải là nơi chúng ta dừng lại khi nãy!”

Tôi quay đầu nhìn lại, chỉ thấy hắn đang chiếu đèn pin vào một góc, theo tôi nhớ thì trong đó vốn không có gì, bây giờ lại xuất hiện một cột đá, một bên khảm vào vách tường, bên kia lộ ra ngoài, trên đó chạm trổ rất nhiều trân cầm dị thú, kết cấu hoàn toàn khác biệt so với mộ thất vừa rồi. Chúng tôi lập tức xem xét ba góc còn lại, quả nhiên, bốn góc tường đều biến đổi như nhau, sau gáy tôi bắt đầu toát mồ hôi, chuyện này không chỉ là bất bình thường mà là thật sự không thể tưởng tượng nổi.

Tôi quay sang Muộn Du Bình, hắn gật gật đầu: “Bàn Tử nói rất đúng, chỗ này dường như là một căn phòng khác, cái quan tài trẻ con trong góc bên kia cũng không thấy, vật bồi táng bày biện cũng không giống nhau, hơn nữa, cậu nhìn phía trên đi…”

Tôi vừa ngẩng đầu nhìn lên liền hoảng hồn, chỉ thấy phù điêu Âm dương tinh đồ trên đó tự nhiên biến thành hai con rắn to quấn lấy nhau uốn quanh trên xà nhà, hình khắc rất sống động, nhìn giống như muốn bổ nhào xuống cắn tôi vậy, tôi vừa thấy liền phát sợ, vội cúi đầu hỏi: “Vậy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chẳng lẽ chúng ta đi nhầm cửa?”

Bàn Tử nói: “Làm sao có thể, chỗ này rõ ràng chỉ có một con đường duy nhất, hơn nữa nơi này lại khá rộng, chúng ta từ đây đi vào trong hành lang kia, bị bắn thành con nhím ở trong đó rồi lại chạy ra đây, đúng là vậy mà! Mẹ nó, như vậy mà còn nhầm thì tôi đây đem chữ Vương viết ngược lại?”

Một lúc sau tôi dần nhận ra, có thể chúng tôi đã gặp phải chuyện giống chú Ba hồi 20 năm trước, nhưng tình hình trước mắt lại hơi khác so với lời kể của chú, không biết trong này lại xuất hiện biến cố gì. Lúc ấy chú Ba vẫn chưa cởi bỏ trang thiết bị lặn nên mới có thể may mắn thoát ra được từ đài phun nước, lúc vào đây tôi đã biết chuyện này sẽ xảy ra, vậy mà đến một chút phòng bị cũng không có, nghĩ thế, tôi không khỏi tự trách mình.

Bàn Tử đã bị đùa giỡn đến mức đầu óc mơ hồ, hỏi tôi: “Không phải người Nam phái rất quen thuộc với các cơ quan trong cổ mộ sao? Chuyện thế này trước kia cậu đã gặp qua lần nào chưa?”

Tất nhiên là tôi chưa từng thấy, thở dài đáp lại: “Ở đây không có người ngoài, tôi nói thật với mấy anh vậy, đây là lần thứ hai tôi vào đấu, đừng nói gì tới xảo thạch cơ quan, ngay cả tên của mấy cái bình bình lọ lọ này tôi còn chưa gọi cho lưu loát, hai người đừng đặt hy vọng vào tôi.”

Bàn Tử nghe xong vẫn không tin: “Đồng chí, cậu đừng có làm tôi sợ nha, tôi vẫn luôn hy vọng cậu có thể nhìn tìm ra lối thoát.”

Tôi cười khổ một tiếng, cũng không biết nên trả lời thế nào bèn nói với hắn: “Chuyện xảy ra quá dị thường, cho dù tôi có thật sự tinh thông thì cũng không nghĩ ra cách, anh xem chỉ có vài phút đồng hồ, cơ quan nào có thể tráo đi toàn bộ đồ vật trang trí trong phòng, ngay cả cấu trúc căn phòng cũng bị thay đổi? Chuyện này hoàn toàn không thể làm được, chắc chắn phải có nguyên do khác.”

Muộn Du Bình thản nhiên gật đầu tỏ vẻ đồng ý, Bàn Tử gãi gãi đầu, hỏi: “Đây không phải cơ quan thì là cái gì? Chẳng lẽ là phép thuật?”

Tôi vừa nghe hắn nói vậy cũng nhớ ra một chuyện: “Cũng có thể, trước kia tôi đã nghe chuyện có người đổ đấu tiến vào cổ mộ, phát hiện bên trong tráng lệ như một cung điện, còn có người đang uống rượu. Người nọ thấy hắn đến, không chỉ mời hắn uống rượu, còn tặng cả đai lưng. Hắn cùng người nọ chén tạc chén thù, say ngã vào trong cổ mộ, đến khi tỉnh lại mới thấy mình đang nằm trên một cỗ quan tài rách nát, còn đai lưng kia là một con rắn. Không phải gần giống với tình huống hiện tại của chúng ta sao?”

Bàn Tử nói: “Giống cái rắm ấy! Mẹ nó, ít ra hắn còn có rượu uống, chúng ta thì chỉ có nước, sao mà so sánh với người ta được.”

Tôi thấy cũng phải, sau đó tôi phân vân không biết có nên đem chuyện của chú Ba kể cho bọn họ biết hay không, chủ yếu là chuyện này không đầu không đuôi, nói ra còn có thể liên lụy đến Muộn Du Bình. Lúc này tôi vẫn chưa biết lập trường của hắn ra sao, lỡ như nói sai điều gì thì lại càng phiền phức, nghĩ tới nghĩ lui, tôi quyết định nói một nửa, giấu một nửa.

Bàn tử vẫn còn ở đó than thở, tôi bảo bọn họ ngồi xuống, lựa chọn vài chi tiết trong câu chuyện của chú Ba đem kể lại cho bọn họ, Bàn Tử không ngừng xen vào, tôi thật sự không nói hết được, đành phải kể vắn tắt lại, cuối cùng Bàn Tử mắng to: “Mẹ nó cái thằng nhóc chết tiệt này, cậu biết bao nhiêu chuyện hay ho mà không chịu nói ra, đáng ghét. Bây giờ cả đám lâm vào cảnh sống dở chết dở thế này, cậu đã vừa ý chưa!”

Muộn Du Bình nghe đến mê mẩn, bỗng nhiên chụp lấy tôi, hỏi: “Lúc chú Ba thiếp đi đã nói gì? Cậu nhắc lại lần nữa đi!”

Tôi thấy vẻ mặt hắn nghiêm túc như vậy, cà lăm trả lời: “Chú… chú nói là ‘Thang máy’.”

Muộn Du Bình à một tiếng, đột nhiên cười, nói: “Thì ra chuyện là như vậy…”

Chương 23: Tiếp tục giải mê

Editor: Thanh Du

Beta: Tiểu Điệp

*****

Hắn đứng dậy, tiến lại gần cánh cửa đá cuối hành lang, sờ sờ khung cửa, nói: “Đây đích xác là một cơ quan, nhưng cấu tạo lại cực kỳ đơn giản, chỉ lừa được trẻ con thôi. Cho nên chú Ba của cậu hai mươi năm trước không nhận ra, hai mươi năm sau lại có thể.”

Bàn Tử thấy hắn hình như đã biết được điều gì đó, vội ngắt lời: “Tiểu Ca, cậu biết gì thì nói toẹt ra đi, cứ úp úp mở mở mãi sốt hết cả ruột!”

Muộn Du Bình đáp: “Tôi lấy một ví dụ đơn giản, anh nghe qua là hiểu ngay. Nếu có một ngôi nhà hai tầng, mỗi tầng có một phòng; anh đi ra từ phòng ở tầng hai, đúng lúc đó tôi lại chồng thêm một tầng xuống dưới đáy tầng một. Đến khi anh quay về, phòng ở tầng hai đã chuyển lên tầng ba, mà phòng ở tầng một lại lên tầng hai.”

Ví dụ này kể ra cũng không được đơn giản cho lắm, Bàn Tử nghe như vịt nghe sấm, xòe hai ngón tay tính tính toán toán: “Một hai, hai một, một hai một, lại còn cái gì mà một hai ba nữa, mẹ nó cậu càng nói tôi càng rối.”

Còn tôi vừa nghe đã hiểu “thang máy” mà chú Ba nói nghĩa là gì, có lẽ chú vừa phát hiện ra bí mật này thì trong đầu đã bật ra từ ấy. Tôi cảm thán, đồng thời cũng không khỏi chấn động. Chuyện này thực sự nằm ngoài dự liệu, nhưng lại hợp lý hợp tình, vả lại kết cấu như thế cũng không quá phức tạp, quả thực chỉ là trò hề để lừa trẻ con.

Tôi thấy Bàn Tử hoàn toàn không hiểu, mới giải thích lại cho hắn một lượt. Hắn hiểu ra, có vẻ mất hứng: “Thì ra là thế, mẹ nó đúng là đơn giản thật. Tôi còn tưởng có bí mật gì ghê gớm lắm, thì ra cũng chỉ đến thế.”

Trong lòng tôi ngấm ngầm cảm thấy hổ thẹn, tôi vốn là dân kiến trúc, cơ quan dạng này hoàn toàn thuộc phạm trù kiến trúc học, thế mà không mảy may phát hiện ra, có lẽ phải nghiêm túc kiểm điểm lại bản thân mới được. Xem ra xét việc gì cũng nên đi từ những điều cơ bản nhất mới phải đạo.

Nét mặt Muộn Du Bình cũng không giãn ra được chút nào, hắn kiểm tra kĩ càng khung cửa rồi lại vòng qua nhìn nước trong đài phun, nhìn cử chỉ của hắn thì hình như còn có gì đó khúc mắc. Tôi hỏi hắn: “Sao vậy, có chuyện gì à?”

Hắn gật đầu, đáp: “Những chuyện chú Ba cậu trải qua so với chúng ta có mâu thuẫn khá lớn, không biết cậu có nhận ra không?”

Tôi nghi hoặc nhìn hắn, kỳ thực tôi cũng hiểu ý kiến hắn vừa đề ra có gì đó mâu thuẫn, nhưng lại không nghĩ ra không hợp lý chỗ nào. Muộn Du Bình tiếp lời: “Chú Ba cậu từ đầu tới cuối chỉ nằm trong căn phòng này, không hề bước ra hành lang, cho dù các phòng có lên lên xuống xuống thì vẫn cứ là căn phòng ấy, làm sao mà thay đổi được ~”

Nghe hắn nói tôi lập tức sáng ra, nhất định là như thế rồi. Hắn còn bồi thêm: “Vả lại phòng phụ trong cổ mộ xưa nay luôn có hai căn đối xứng ở hai bên trái, phải, làm gì có chuyện chỉ có một gian cọc cạch. Theo lẽ đó mà suy thì trước mặt chúng ta hẳn phải có một phòng nữa mới đúng.”

Chúng tôi bước vào hành lang, lấy đèn pin chiếu một vòng, nhưng chỉ thấy một bức tường lát cẩm thạch trắng chắn phía đối diện, không thấy cánh cửa nào cả. Muộn Du Bình ghé tai sát tường, hai ngón tay lần lần trong kẽ gạch, mò mẫm từng rất kĩ lưỡng. Lần mò đến hơn mười phút mới lắc đầu bỏ cuộc, xem ra đây đúng là một bức tường gạch xịn.

Bàn Tử chờ lâu phát sốt ruột, ngáp dài một cái: “Để ý chuyện phòng phụ làm cái gì, mẹ nó đường thoát còn chưa thấy đâu đây này. Dù biết được chuyện gì đã xảy ra thì cũng đến nối đuôi nhau chết là cùng.”

Bàn Tử nói cũng có lý, tôi thở dài, thầm nghĩ làm thế nào mà cả hai lần chú Ba đều thoát ra được, rốt cuộc chú có mánh gì không biết. Lần đào thoát thứ hai trên người chú không hề có đồ lặn, chẳng lẽ chú nín thở bơi một mạch từ cổ mộ ra?

Trong những chuyện chú từng trải qua, tất nhiên còn một số chuyện tôi chưa biết, đúng hơn là lão cáo già kia một mực không chịu khai ra. Chú Ba ơi là chú Ba, chú có biết mấy câu chém gió vô thưởng vô phạt có thể hại chết cháu trai chú dưới đáy biển sâu hơn mười mét này không chứ.

Hai người kia không lên tiếng nữa, có lẽ đang suy xét toàn bộ sự việc. Tôi cũng âm thầm suy tính, thực ra muốn thoát khỏi cổ mộ chỉ có mấy con đường. Một là lối cũ ta về, chuyện này dĩ nhiên không thể xảy ra, trừ phi chúng tôi có thể nhịn thở lâu như cá heo. Hai là tìm được thông đạo bí mật mà nhũng người thợ xây lưu lại, đây là biện pháp hiệu quả đối với đấu trên cạn, nhưng với hải đấu xem ra không khả thi cho lắm. Bởi lẽ mộ thuyền táng dưới đáy biển là loại mộ xây hoàn chỉnh trên một con thuyền rồi mới đánh đắm xuống đáy biển, cho dù đào được thông đạo thì cũng là thông với biển, làn nước này tự nhiên trở thành lằn ranh ngăn cách âm dương cực kỳ tiện lợi.

Thứ ba, chính là chiêu ngu ngốc nhất – đào thẳng từ trong này ra. Tôi ngẩng đầu ngó qua đỉnh mộ, chỉ thấy gạch ngói ảm đạm, không nén nổi một tiếng thở dài. Xem ra cho dù có đào được động cũng tốn không biết bao nhiêu công sức.

Tôi thử đặt mình vào vị trí người thiết kế ngôi mộ này, để xem nếu dùng những nguyên lý kiến trúc đơn giản nhất thì phía trên đỉnh mộ sẽ là gì.

Có thể khẳng định một điều, nếu chỉ toàn gạch thì nhất định không thể hình thành kết cấu kín khí; giữa các kẽ gạch chắc chắc phải bịt kín đất sét trắng, bên trên hẳn phải có một lớp gỗ quét sơn chống thấm nước, trên nữa lại đắp thêm đất sét.

Nghĩ đến đây, đầu tôi chợt lóe lên một ý tưởng, nhanh chóng biến thành một kế hoạch mạo hiểm. Tôi hào hứng nói với hai người kia: “Kỳ thực cũng chẳng có gì đáng sợ, tôi ước chừng chúng ta chỉ cách mặt biển hơn mười thước là cùng. Ngôi mộ này chứa cơ quan vận hành thang máy, dĩ nhiên phải xây tương đối cao, do vậy đỉnh mộ cách đáy biển cũng không quá xa. Nếu rơi vào đường cùng, chúng ta còn có thể đào thẳng lên. Mực nước trên hải đấu này cũng không quá sâu, nếu căn đúng lúc thủy triều xuống, tôi tính chỉ cần lớp cát bên trên không lún xuống thì chúng ta hoàn toàn có thể thoát ra ngoài.”

Bàn Tử xua xua tay, uể oải đáp: “Lúc vào cả đám chẳng mang theo công cụ gì, bên trên toàn là gạch đá, lấy cái gì mà đào, đào bằng tay không chắc?”

Tôi vội nói: “Anh không biết hả, mộ thuyền táng dưới đáy biển, gạch xây mộ phần lớn đều rỗng ruột, chịu được áp lực nhưng lại rất dễ vỡ. Chúng ta chỉ cần kiếm mấy thứ đồ kim loại đập đập vài cái, nhất định có thể đào được một cái động.”

Bàn Tử nghe thế lập tức phấn khích: “Ấy, cách này nghe cũng có lý phết. Chúng ta đừng lo đổ đấu nữa, đi kiếm công cụ đào dần lên thì hơn. Mộ này lớn thế, hẳn là trong gian mộ chính có đồ đồng bồi táng.”

Tên mập này vốn là người như thế, nếu biết mình chết chắc rồi thì chẳng muốn động chân động tay gì nữa, nhưng khi biết vẫn còn một tia hi vọng thì sẽ cố gắng hết sức mình. Tôi suy tính trong giây lát, âm thầm vạch sẵn trong đầu một phương án, cũng may tôi vốn là sinh viên kiến trúc nên rất quen với những chuyện thế này. Đắn đo một hồi, thấy mọi điều kiện đều phù hợp, chỉ cần lợi dụng chừng mười phút triều hạ, cố đào cho xong động thì khả năng chạy thoát thành công khỏi đây là rất lớn!

Lúc này Muộn Du Bình mới lên tiếng : “Thời gian từ giờ đến lúc triều rút còn rất dài, không khí trong này không biết có đủ dùng đến lúc ấy không, mọi chuyện còn tùy vào thiên ý.”

Bàn Tử nhảy dựng lên, nói: “Khỉ gió, vậy khỏi cần biết thủy triều đã xuống hay chưa, cứ đào một cái lỗ đã rồi tính sau. Chết vì ngạt là cái chết phờ phạc, thà bị bánh tông cắn chết còn sướng hơn!”

Tôi định nói cho hắn biết, nếu đào không đúng lúc thủy triều rút thì lớp nước trên đỉnh mộ ít nhất phải dày 2 mét, đám nước này mà ào vào thì đừng nghĩ đến chuyện chui ra; cả mộ thất lớn chừng này đại khái cũng chỉ mất vài phút là ngập đầy nước. Nhưng tôi thấy hắn hào hứng như vậy, cũng không nỡ dội cho gáo nước lạnh.

Ba người chúng tôi xốc lại tinh thần, sửa soạn đồ đạc hướng về phía hành lang. Vừa bước ra khỏi cánh cửa đá, ba người bỗng sửng sốt, Bàn Tử thì chửi oang lên: “Mẹ nó, cái chỗ này sao mà quái thế.”

Trước mặt chúng tôi, ở vị trí bức tường gạch ban nãy đột nhiên xuất hiện một khung cửa. Tôi chiếu đèn pin vào, chỉ thấy sau cánh cửa đặt một cỗ quan tài gỗ lim viền vàng.

Chương 24: Mở quan tài

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Dựa theo kết cấu hai tầng trên dưới của mộ thất này mà suy luận, chỗ này tự dưng xuất hiện một cánh cửa cũng không phải chuyện lạ. Dĩ nhiên là trong thời gian chúng tôi nói chuyện, phòng bên kia đã bắt đầu di chuyển, tuy vẫn chưa biết chủ nhân ngôi mộ này có dụng ý gì khi thiết kế như vậy, nhưng tôi cũng không hoảng hốt nữa.

Ai ngờ trong phòng lại có quan tài, dọa cho tôi nhảy dựng lên, gỗ lim vàng vốn là vật liệu tốt nhất để làm quan tài, từ mấy ngàn năm nay, kích cỡ của gỗ làm vật liệu quyết định kích cỡ của quan tài. Cái quan tài này rất lớn, xem chừng khối gỗ dùng để làm ra nó cũng bự không kém gì 32 khối gỗ lim vàng dùng làm trụ lớn trong Trường Lăng nhà Minh (

*)

. Thứ gỗ này so với bạc trắng nguyên khối cùng kích cỡ thì còn đáng giá hơn.

(*) Trường Lăng là lăng mộ của Minh Thành Tổ Chu Đệ, một trong Thập Tam Lăng nổi tiếng của thời Minh.

Nhưng quan tài quý giá đến thế sao lại đặt trong phòng phụ chứ? Nếu quan tài quý nhường này chỉ được đặt trong phòng phụ, vậy trong mộ chính tệ nhất cũng phải là quan tài bằng vàng ròng. Tôi cảm thấy càng lúc càng khó hiểu, chủ nhân của ngôi mộ này hình như không hề tuân theo quy củ. Không chỉ xáo trộn lung tung phong thủy của nơi này, mà còn bố trí cạm bẫy cực kỳ khéo léo linh hoạt ở khắp nơi nhưng lại không hề gây nguy hiểm đến tính mạng ai, chẳng biết rốt cuộc là có ý đồ gì.

Dân đổ đấu nhìn thấy quan tài khó tránh khỏi muốn động tay động chân, đặc biệt là một cỗ quan tài đầy hứa hẹn như vậy, bên trong tất nhiên sẽ có không ít đồ tốt. Tôi thấy Bàn Tử cứ nhìn chằm chằm vào nó, cười nói: “Thế nào, nhìn thấy quan tài thì đến mạng cũng không cần nữa à? Hay là cứ lấy vài món trong đó ra trước đã?”

Tôi vốn có ý châm chọc hắn, ai ngờ hắn không thèm để ý, còn nghiêm túc nói: “Bàn gia ta đây rất ư giác ngộ, nhiệm vụ chính của chúng ta bây giờ là đi tìm công cụ để xuyên thủng nóc ngôi mộ chết tiệt này, cậu đừng có mà dụ dỗ tôi đào ngũ. Chờ xong việc rồi chúng ta quay lại đây vơ vét vài món cũng chưa muộn!”

Tôi nhìn cái điệu bộ khì mũi nhướng mày của hắn cũng cảm thấy buồn cười, liền nói: “Chờ đến khi anh quay lại, có quỷ mới biết cái cửa này có còn đây nữa không. Nói không chừng lát nữa nó đã trôi xuống rồi.

Bàn Tử vẫn muốn lấy mấy món minh khí này, nghe tôi nói cũng có lý, không khỏi khó xử. Đúng lúc này, Muộn Du Bình bỗng nhiên khoát tay với chúng tôi, khẽ nói: “Yên nào.”

Bọn tôi thấy nét mặt hắn nghiêm túc, vội ngậm miệng vào, không biết chuyện gì xảy ra. Hắn rút súng, nói nhỏ: “Đây không phải là quan tài bình thường mà là quan tài dưỡng xác.”

Tôi nghe không hiểu, nghi hoặc nhìn hắn, mà hắn hình như không muốn giải thích gì thêm, khom lưng bước vào căn phòng phụ đặt quan tài. Bàn Tử đang cố duy trì hình tượng giác ngộ cao của mình, nhưng vừa thấy Muộn Du Bình không chút khách khí tiến vào thì lập tức trở về với bản chất thực, vội vàng bám theo.

Tôi nhìn đoạn hành lang tối đen như mực, nghĩ bụng đứng một mình ở ngoài này thì thật kinh khủng, vội vàng ba chân bốn cẳng chạy theo hai người vào trong.

Căn phòng nhỏ này cũng tương tự như căn phòng vừa nãy, trên trần là phù điêu hình hai con rắn lớn,  ở giữa có một đài phun nước, chẳng qua không có đồ sứ tùy táng, chỉ có một cỗ quan tài rất lớn đặt cách tường 3 mét.

Muộn Du Bình rút đao ra, cắm thẳng vào kẽ quan tài, chậm rãi dò xét, hình như đang tìm cơ quan. Bàn Tử tưởng hắn muốn mở quan tài vội la lớn: “Chờ chút chờ chút, Tiểu Ca cậu bình thường trông có vẻ thành thật, sao vừa nhìn thấy quan tài thoắt cái đã biến thành kẻ liều mạng vậy”, nói rồi cầm một ngọn nến chạy vào góc định thắp lên.

Tôi thấy thế nổi cáu mắng: “Mẹ nó, chúng ta đã chẳng có bao nhiêu không khí mà còn thắp thêm nến, anh chán sống rồi chắc.”

Bàn Tử tức giận đáp lại: “Một ngọn nến bé xíu có thể đốt hết bao nhiêu không khí của cậu, cùng lắm thì Bàn gia ta đây bớt đi vài hơi thở”, dứt lời liền đánh bật lửa. Ánh lửa sáng ngời đột nhiên chiếu rõ thứ gì đó trong góc, Bàn Tử vốn là kẻ gan dạ mà cũng phải phát hoảng, ngã bệt xuống đất. Thấy thế tôi vội mở đèn pin rọi sang, bất giác lui lại mấy bước.

Thì ra trong góc có một con mèo chết khô quắt ngồi đó, cái đầu to bự đã khô quắt lại, hai hốc mắt trống rỗng nhìn chằm chằm vào Bàn Tử, phần lớn da trên người đã rữa nát hết, quai hàm há ra để lộ một hàng răng nanh, trông vô cùng khó coi.

Tôi từ nhỏ sợ nhất là mèo chết, trước đây có lần người trong nhà đánh chết con mèo hoang hay trộm cá rồi ném lên trên cây, mặc cho nó thối rữa. Khi đó tôi còn nhỏ không biết gì cả, đến một ngày, lúc tôi đang chơi dưới tán cây, cổ của cái xác mèo thối rữa đứt ra, cái đầu mèo liền rớt trúng tay tôi. Tôi thấy hàm răng trắng ởn cùng hai hốc mắt đen xì thì sợ đến nỗi tè ra quần, mấy ngày sau vẫn chưa hoàn hồn.

Bàn Tử thấy vật trước mắt chẳng qua chỉ là cái xác mèo, tức mình rủa một tiếng, co chân đá nó văng ra, sau đó thắp nến rồi bước lại gần quan tài. Tôi cảm thấy có điểm bất thường, trong mộ lại có xác mèo, chẳng lẽ không sợ thi hóa sao?

Nhưng nơi này vốn có rất nhiều điểm không hợp lý, tôi mơ hồ cảm thấy dường như chủ nhân ngôi mộ này cố ý làm những chuyện trái với quy củ, mọi thứ đều làm ngược lại với lẽ thường, những thứ trong mộ không nên có, ông ta đều mang đặt vào. Cứ tiếp tục như vậy, không biết đến mộ chính còn đụng phải chuyện quái quỷ gì nữa.

Lúc này Muộn Du Bình đã tìm được khóa Bát bảo linh lung của quan tài, bèn mở hộp đa năng, lấy ra hai cái móc rạch theo kẽ quan tài. Chỉ nghe răng rắc một tiếng, cơ quan đã bị phá, đồng thời nắp quan tài bật mở lên trên, một dòng nước đen nháy mắt tuôn ra. Bàn Tử bất chấp cảm giác ghê tởm, nhanh chóng đẩy nắp quan tài sang một bên, vừa nhìn vào bên trong lập tức hoảng hồn la lớn: “Chết tiệt, sao lắm bánh tông thế này!”

Chương 25: Một người

Editor: Thanh Du

Beta: Tiểu Điệp

Nắp quan tài vừa mở ra, tôi lập tức cảm thấy mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi. Tiến lại gần ngó thử một cái, chỉ thấy trong quan tài ngập một thứ nước đen xì, phía trên hơi nước ẩm thấp ngai ngái, bên dưới có thể mơ hồ nhìn thấy những khúc tay chân quấn vào nhau, cũng không biết có bao nhiêu thi thể, tất cả đều đã hóa sáp dính lại thành một khối thi thể cực lớn. Tôi đếm sơ sơ được 12 khối, cảnh tượng này ghê tởm đến mức nào chắc khỏi phải nói.

Muộn Du Bình thấy cảnh này, nhíu nhíu mày, nhưng nét mặt đã giãn ra một chút, cây súng trong tay cũng buông xuống. Nhìn nét mặt hắn biến đổi, tôi đoán thứ này hẳn là không có gì nguy hiểm, không rõ tại sao vừa rồi hắn lại căng thẳng đến thế.

Mặt trong quan tài có mấy cây đinh tròn tỏa ánh kim, từ trên xuống dưới cứ cách vài phân lại có một hàng đinh, do ngâm trong nước nên không nhìn rõ là vàng ròng hay là mạ vàng

Bên dưới đám thi thể có một khối gì đó trông kì kì, Bàn Tử quét đèn pin rọi từng tấc một từ dưới lên trên, hình như là một phiến đá khắc chữ. Trên cổ và tay thi thể đều đeo đồ trang sức bằng ngọc ngà, đám trang sức này có giá liên thành lại nhỏ gọn dễ cầm.

Bàn Tử thấy thế bắt đầu ngứa ngáy tay chân, nhưng đám thi thể kia ghê muốn chết, dù hắn có lỗ mãng đến đâu cũng không dám thò tay xuống lớp nước đen xì nổi lềnh bềnh một tầng mỡ người mà vớt đồ. Hắn suy tính nửa ngày vẫn không nghĩ ra cách nào, đành phải từ bỏ, quay sang nghiên cứu đám thi thể bên trong, vừa nhìn vừa lắc đầu: “Cảnh này trông cũng thật thê thảm, còn nói cái gì mà chủ mộ này là người tu đạo, hừ, dám làm những chuyện tàn ác thế này thì đắc đạo sao nổi, bị chúng ta đổ đấu cũng đáng đời.”

Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả, có điều nhìn cảnh tượng này, thần kinh bị kích thích đến độ chịu không nổi, không dám nhìn lại lần thứ hai, hỏi hắn: “Cái quan tài hợp táng này sao trông ghê thế.”

Bàn Tử phá lên cười: “Đồng chí à, cậu dốt vừa thôi, cậu xem có ai hợp táng mà trông như bánh quai chèo thế kia không? Đây rõ ràng là chôn sống, những người này bị nhét vào chung một chỗ, bị ngâm thuốc đến chết ngạt trong đó, đây gọi là dưỡng khí tàng thi.”

Tôi nghe hắn nhắc đến bánh quai chèo, cổ họng lập tức ngứa ngáy. Lúc này bụng tôi đã rất đói, tưởng tượng đống xác kia mà là bánh quai chèo thì quả thực chỉ muốn nôn mật ra. Có điều nghe giọng điệu của hắn thì hình như hắn biết lai lịch thứ này, tôi lấy lại bình tĩnh, mới bảo hắn kể lại cho rõ ràng.

Bàn Tử thấy tôi không hiểu, mới nổi hứng trêu chọc, nói: “Chuyện này mà cậu cũng không biết? Năm đó tôi còn là đứa trẻ mồ côi mẹ, ai, nói vậy thì dài quá, năm đó tôi còn ở núi Trường Bạch hiên ngang hùng vĩ –”

Tôi thấy hắn lại bắt đầu ba hoa, vội nói: “Thôi đừng chém nữa ông anh, quan tài dưỡng xác với Trường Bạch sơn cái quái gì, không biết thì ngậm miệng lại cho tôi nhờ!”

Dạng người như Bàn Tử chỉ sợ bị người ta kích bác, gân cổ lên cãi: “Ai bảo tôi không biết, chẳng qua tôi chỉ muốn đi từ khái quát đến chi tiết thôi, cậu không muốn nghe thì cứ bịt tai vào. Đây gọi là quan tài dưỡng xác, là kiến thức phong thủy –, bình thường dùng cho lăng mộ trên cạn, nếu có loại quan tài này thì chắc chắn trong cổ mộ có hai vị trí đặt quan cực tốt. Nếu có hai vị trí mà chỉ đặt một quan tài, chỗ còn trống kia hấp thu linh khí đất trời, sẽ vô tình gọi loài yêu ma đến; cho nên phải đặt thêm một quan tài dưỡng xác, bên trong táng một người có quan hệ huyết thống với chủ mộ, coi như hợp táng. Quan tài này phải giống y hệt cái trong phòng chủ mộ, cái này trong phong thủy gọi là dưỡng khí, hiểu không?”

Bàn Tử nói liên thiên một hồi như bật băng, tôi nghe chỉ hiểu được phân nửa, không khỏi líu lưỡi: “Trong quan tài có nhiều người như vậy, hẳn là –”

Bàn Tử vỗ đùi: “Cho nên tôi suy ra, có khi tên này đem chôn cả nhà vào cùng một chỗ cũng nên, ác thật.”

Tôi vội gào lên: “Vớ vẩn, làm gì có chuyện đó. Người ta chọn nơi phong thủy đẹp là vì lo cho con cháu nhà mình, giờ đem chôn cả nhà một lúc, phong thủy đẹp mà làm cái rắm gì!”

Bàn Tử thấy tôi tin sái cổ mới nói: “Tôi nói gì cậu cũng tin hả, những kẻ lắm tiền đời nào lại đần độn thế, chắc chỉ tìm mấy đứa cháu ngoại nhà nghèo đem đi bồi táng thôi. Kiểu bồi táng này thường thấy trong mộ cổ thời Minh, tôi gặp cũng nhiều rồi, nhưng quy mô lớn đến thế này thì chưa thấy qua bao giờ.”

Tôi nhìn đống thi thể, tưởng tượng ra thời điểm hạ táng mà không sao nén nổi xúc động. Ông nội nói không sai, nhân tâm bất khả trắc

(lòng người thâm sâu khó dò)

, thương thay chỉ vì mấy chuyện đồn đại tào lao không có căn cứ xác thực mà tính mạng những người này dễ dàng bị cướp đoạt như giết đi con sâu cái kiến.

Có điều một khi quan tài đã mở, Bàn Tử sẽ không dễ dàng để yên. Hắn gãi gãi đầu, nói: “Cậu xem, những người này thực đáng thương, tôi nghĩ hay là chúng ta qua phòng bên lấy mấy cái bình múc hết nước ra ngoài đi, nước đọng trong quan tài là điềm cực xấu đó.”

Tôi biết tỏng ý đồ của hắn, nói: “Nhìn cái dáng điệu gian manh của anh đủ biết anh đang có ý đồ chôm chỉa minh khí. Thôi an phận chút đi, chốc nữa vào minh điện sẽ có cả đống đồ cho anh tha hồ lựa.”

Bàn Tử đỏ mặt, quát ầm lên: “Mẹ kiếp, cậu xem Bàn gia tôi là hạng người đó sao?”

Tôi cũng ngại cù nhây với hắn, nói: “Giờ không phải lúc nghĩ đến mấy chuyện vớ vẩn này, lát nữa mà chúng ta không thoát ra được, chết dí ở chỗ này, chỉ sợ cái quan tài cũng chẳng có mà chui vào, để xem lúc ấy còn ai thương xót giùm chúng ta.”

Nhắc tới quan tài, chúng tôi lại trở nên căng thẳng. Bàn Tử chẳng nói chẳng rằng, đi lòng vòng quanh phòng phụ tìm kiếm một lượt, tiếc là ngoại trừ một cái xác mèo thì chẳng còn gì xài được.

Muộn Du Bình nhìn đăm đăm vào đống thi thể kia, nhìn rất lâu rất lâu, chợt phát hiện ra điều gì, hít vào một hơi khí lạnh.

Người này ngày thường cực kỳ bình tĩnh, nếu tỏ ra căng thẳng tất có chuyện lớn rồi. Cho nên vừa thấy hành động này của hắn, tôi lại càng hoảng hốt, vội khom lưng xuống, giương súng lên.

Hắn vẫn nhíu mày đứng nguyên một chỗ, nhìn đăm đăm vào quan tài, im lặng chừng năm phút mới quay đầu nói với chúng tôi: “Trong quan tài này thực chất chỉ có một người –”

Chương 26: Bức tranh trên sứ

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Tôi vừa mới hiểu được dưỡng khí tàng thi Bàn Tử nói lúc nãy có nghĩa là gì, Muộn Du Bình lại không đầu không đuôi phán ra một câu như vậy, khiến tôi đã rối càng thêm rối, bèn hỏi ý hắn là sao.

Muộn Du Bình chỉ vào quan tài, nói: “Cậu nhìn kỹ xem đầu của bọn họ có gì khác nhau.”

Tôi nhìn theo ngón tay hắn, chỉ nhìn thấy sáu cái đầu có lớn có nhỏ, giống như một chùm nho giắt trên cơ thể, ngoại trừ ghê tởm ra thì cũng không có gì đặc biệt. Tôi lắc đầu tỏ ý không nhìn ra được, hắn lại bảo tôi tiếp tục nhìn cho kỹ, lần này tôi nheo mắt quan sát, rốt cuộc phát hiện ra một vấn đề.

Thì ra đống thi hài này, trừ cái đầu trên cùng ra, những cái còn lại hầu như không có ngũ quan; thậm chí đến xương sọ cũng không thấy đâu, nhìn giống như có mấy cái bướu thịt mọc ra trên mặt.

Thấy thế tôi lập tức hiểu ra ý tứ của hắn, liền thuận theo đó tiếp tục tìm kiếm, lại phát hiện ra các đốt ngón tay của mỗi bàn tay dường như đều dính liền vào thân người. Chẳng qua do cơ thể này đã méo mó vô cùng khủng khiếp giống như bị bỏ vào máy giặt vắt khô, lại thêm lớp nước đen đục ngầu cũng ít nhiều cản trở tầm mắt, cho nên nhìn thoáng qua giống như có rất nhiều thi thể cuộn lại một chỗ.

Tôi càng nhìn trong lòng càng phát run, nhưng vẫn còn có điểm thắc mắc. Nếu trong quan tài này là một người dị hình hiếm thấy có đến 12 tay chân, vậy thì rốt cuộc lai lịch và thân phận của hắn là gì? Vào thời đó, một kẻ trông như quái vật tại sao lại được nuôi dưỡng dạy dỗ đến lớn như thế?

Bàn Tử nhìn cũng hiểu, nôn khan một hồi rồi quay ra nói với chúng tôi: “Má ơi! Thứ này mà là người sao? Đây đích thực là giống côn trùng!”

Tên này nói cũng không sai, nhưng có hơi thất đức, tôi nói: “Chúng ta còn bị vướng lớp nước nên không nhìn thấy rõ ràng, bây giờ đưa ra kết luận thì hơi sớm. Theo lý mà nói, dị dạng khủng khiếp như vậy thì đúng là quái vật, mới sinh ra chắc chắn đã bị cha mẹ giết chết, hoàn toàn không có cơ hội được nuôi đến lớn thế này.”

Muộn Du Bình thản nhiên nói: “Không có gì là tuyệt đối cả.”

Tôi lắc đầu, vẫn không thể nào tin nổi. Bàn Tử nói: “Thực ra thì cũng đơn giản thôi, hay cứ làm theo lời tôi, sang phòng bên cạnh lấy mấy cái chậu múc hết nước trong này ra là sẽ thấy rõ ngay. Hơn nữa hai người xem, dưới đống xác này còn có một phiến đá, chi bằng chúng ta lấy ra xem thử, biết đâu lại có phát hiện gì bất ngờ.”

Nghe vậy tôi lập tức cảm thấy hứng thú, từ lúc đi vào hải đấu đến giờ một chữ cũng chưa thấy, thành ra vẫn chẳng biết gì về chủ nhân ngôi mộ này. Nếu trên phiến đá kia có chữ viết, tôi xem dù không hiểu hết ít nhất vẫn có thể đoán ra phần nào, biết đâu lại có ích cho cả bọn.

Tôi cùng Bàn Tử đồng lòng nhất trí, không nói hai lời, nhanh chóng quay lại hành lang đối diện, chọn lấy 3 cái chén sứ có quai. Mấy thứ này ở bên ngoài đáng giá trăm vạn, vào tay tôi coi như trở lại công dụng vốn có; suy cho cùng thì nó cũng chỉ là cái chén mà thôi.

Theo thói quen nhà nghề, lúc cầm chén sứ lên tôi bất giác lướt mắt qua những hoa văn trên lớp men xanh, vừa nhìn thấy liền ngẩn người, không ngờ hoa văn trên mấy thứ này đều là loại tranh kể chuyện.

Đại để từ lúc vào đây trong lòng tôi chỉ nghĩ đến chuyện của chú Ba, cho nên cũng không còn tâm trí đi nghiên cứu mấy thứ đồ tùy táng này. Bây giờ nhìn đến mới nhớ lại một chi tiết không mấy ấn tượng: sau khi chú Ba vào đấu thì cũng giống như tôi, chỉ nhìn lướt qua đám đồ sứ rồi tìm chỗ nghỉ khỏe. Nhưng những người còn lại thì khác, đây là lần đầu vào đấu nên họ vô cùng hào hứng, tất nhiên sẽ không bỏ lỡ cơ hội nghiên cứu tỉ mỉ. Không lẽ trên mấy món đồ này còn ẩn chứa chi tiết gì đó quan trọng?

Nghĩ đến đây, tôi vội cầm mấy cái chén lên quan sát kĩ càng, thì ra những bức họa này vẽ cảnh một nhóm người đang xây một công trình bằng gỗ, có đục đá tảng, có vận chuyển gỗ thô, còn có dựng xà gỗ, thứ tự bày biện của đám đồ sứ chính là trật tự thi công công trình, tôi càng xem càng kinh hãi đến toát mồ hôi hột. Bàn Tử thấy tôi cứ nhấc từng món lên ngắm nghía mới thắc mắc: “Chọn có cái bình mà khó vậy sao? Khỏi chọn đi, cứ lấy đại một cái vừa tay là được rồi.”

Tôi không thèm để ý đến hắn, cúi xuống vừa đi vừa xem, cho đến khi thấy một cái bình bát giác cuối cùng, hình vẽ trên đó là một cánh cửa cực lớn che khuất hết những thứ đằng sau. Tiếp theo không có gì nữa, hẳn là còn nhiều điều được ghi lại trên những món đồ sứ khác.

Tôi thấy chuyện này quả là kinh tâm động phách, đến hơi thở cũng nghẹn lại. Tuy chỉ dựa vào mấy bức họa đơn giản thì chưa thể nhìn ra rốt cuộc bọn họ đang xây dựng công trình gì, nhưng qua đó có thể thấy tầm cỡ công trình này phải sánh ngang với Cố cung, có điều kết cấu mặt trên lại hoàn toàn không phải lối kiến trúc Trung Nguyên. Mẹ nó tôi thật sự không nghĩ ra nổi Trung Quốc thời kỳ đó có công trình kiến trúc nào đồ sộ đến mức này không.

Tôi hoàn hồn, định nói cho Bàn Tử biết về phát hiện kinh người này, nào ngờ quay đầu nhìn lại chỉ thấy sau lưng một mảng tối đen, Bàn Tử đã lượn đi đằng nào không biết.

Tôi sững sờ, chỉ còn biết âm thầm rủa xả. Tên mập chết bầm này này cũng thật là, đã biết tôi không dám ở chỗ này một mình rồi mà còn lẳng lặng chuồn êm không chịu báo trước một tiếng. Tôi tiện tay vớ lấy một cái chậu, đứng dậy vội vàng chạy về phòng phụ phía đối diện, nhưng vừa bước vào hành lang tôi đã ngớ người.

Cánh cửa vào phòng phụ đã biến đi đâu mất, chỉ còn lại một bức tường đá cẩm thạch!

Tôi nghĩ ngay là do cơ quan gây nên, nhưng không thể ngờ cơ quan lại biến đổi nhanh chóng đến vậy, ngay cả một tiếng động cũng không có, khiến người ta không khỏi sợ hãi. Một mình đứng giữa cổ mộ tối đen như mực, tôi không bao giờ muốn trải qua chuyện này thêm một lần nào nữa.

Tôi định thần một chút, tự an ủi mình rằng cơ quan trong ngôi mộ này hoạt động rất đều đặn, chỉ cần tôi kiên nhẫn chờ đợi, phỏng chừng vài phút nữa cánh cửa kia sẽ lại xuất hiện.

Không có Bàn Tử ở bên cạnh, cổ mộ này im ắng rợn người, nghe tiếng tim đập cũng tưởng như sét đánh, bốn phía tối đen tối hù, ở nơi như thế này một phút cũng dài đằng đẵng như một giờ, thật sự không sao kiên nhẫn chờ đợi nổi.

Tôi hít sâu một hơi, lấy đèn pin chiếu về phía ba cánh cửa tối om đằng trước nhưng không thấy gì cả. Trên thế gian thứ kinh khủng nhất chính là suy nghĩ trong đầu, tôi chỉ cần yên lặng trong chốc lát, lập tức cảm thấy có thứ gì đó trong cánh cửa kia đang nhìn mình chằm chằm, sợ muốn chết đi được.

Tôi tự tát mình một cái cho tỉnh, cúi đầu tiến thẳng về phòng phụ, định tiếp tục xem cho hết mấy món đồ sứ không để sót món nào. Đúng lúc ấy chợt nghe một tiếng kêu rợn tóc gáy từ trong phòng phụ truyền ra, tôi rọi đèn pin vào chỉ thấy một con Hải hầu tử rất lớn đang bò ra từ đài phun nước, nửa thân trên đã bò lên bờ, khuôn mặt đầy vảy dữ tợn này có lẽ cả đời tôi cũng không sao quên nổi.

Tôi hoảng hồn, ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào hành lang, cũng chẳng cần biết trong đó có còn cơ quan nào nữa không, cứ nhắm mắt cắm đầu chạy thẳng. Tưởng như chỉ cần vài bước chân nữa là đến được nơi an toàn, đột nhiên dưới chân vấp một cái, vồ ếch trúng cái bình sứ, cũng may phản ứng của tôi khá nhanh, tiện đà lăn một vòng rồi ngồi bật dậy. Nhìn lại chỉ thấy một cặp mắt xanh lè lóe sáng lao ra khỏi phòng phụ, phóng thẳng về phía tôi.

Tôi nghiến răng nhấc cái bình định ném qua, nào ngờ con Hải hầu tử phản ứng rất nhanh, thấy tôi có vũ khí nên không dám liều mạng xông đến, lập tức chuyển hướng nhảy lên trần hành lang. Tôi nhân cơ hội này lách sang cửa ngọc bên trái, sau đó nhanh chóng đóng sập cửa lại.

Bên dưới cánh cửa có một cái chốt bằng đá, cửa vừa đóng lại chốt đã tự động bật lên, khiến cho Hải hầu chỉ còn biết đứng ngoài gào thét, hùng hổ tông mấy cái vào cửa, xem ra nó cực kỳ không cam tâm. Tôi biết loại gỗ làm nên cánh cửa này vô cùng chắc chắn, cơ thể sinh vật vốn mềm yếu hoàn toàn không cách nào tông vỡ được, lúc này mới dần dần bình tĩnh trở lại. Con Hải hầu tử kia tông cửa nửa ngày trời không thấy có kết quả gì, lại tìm đường lách vào từ khe cửa. Tôi thấy nó đang cố nhét cái đầu bự chảng vào trong, điên tiết nâng súng lên bắn thẳng một mũi lao vào khe cửa, cũng không biết bắn trúng chỗ nào, chỉ nghe nó kêu lên một tiếng thảm thiết, tức khắc nhảy ra thật xa.

Tôi không biết cánh cửa cách vách kia có thông với mộ thất bên này không, vội lắp thêm một mũi lao, sau đó bật cả đèn pin lẫn đèn mỏ, chiếu sáng cả căn mộ thất. Tôi nhìn qua một lượt liền hoảng hồn: đây là một mộ thất hình tròn, ở giữa còn có một cái ao lớn, mà tôi lại đang đứng ngay sát mép ao, chỉ cần lùi lại một bước là sẽ rơi tòm xuống đó.

Ngay giữa ao nước có một vật nổi lên, thoạt nhìn trông giống cái chậu rửa chân; dựa vào hình vẽ và phù điêu trên đó có thể nhận ra nó chính là một cỗ quan tài. Tôi không khỏi cảm thấy buồn cười, chủ nhân ngôi mộ này cũng thật sáng tạo, chế ra cỗ quan tài trông y như cái bồn tắm, xem ra lúc sinh thời ông ta rất khoái ngâm mình.

Tôi lại chiếu đèn xuống nước, chỉ thấy ao sâu hun hút không đáy, chẳng biết là sâu đến mức nào, không chừng còn thông thẳng tới đáy mộ. Tôi còn đang thắc mắc không biết thiết kế như vậy là có ý đồ gì, đột nhiên thấy cổ ngưa ngứa.

Chương 27: Vô đề

Editor: Thanh Du

*****

Tôi thử sờ sờ ra sau lưng mới biết cảm giác ấy xuất phát từ vị trí trúng liên hoa tiễn ban nãy. Bốn cái móc sắt đâm vào da thịt tuy không lấy mạng người, nhưng vẫn dứt đi mấy mảng da. Lúc này mồ hôi tôi lại tuôn đầm đìa, thành ra ngứa ngáy không tả.

Chẳng những thế, những vị trí trúng tên khác trên người cũng bắt đầu râm ran ngứa, nhưng ngứa cỡ này vẫn còn chịu được. Tôi không rảnh mà bận tâm đến cảm giác nhoi nhói như muỗi đốt ấy, chỉ gãi gãi qua loa vài cái xong tiếp tục đi nghiên cứu căn mộ thất kỳ quái này.

Tôi không thông hiểu lắm kết cấu địa cung phổ biến của mộ táng thời Minh, chỉ biết một chút về mộ táng của quý tộc, không biết giữa hai cái này có sai biệt nhiều lắm hay không, đành miễn cưỡng đem những tri thức trong đầu đối chiếu với cảnh tượng trước mắt.

Dựa theo suy đoán, hiện tôi đang đứng ở điện thờ phụ bên trái, nhìn sang phía đối diện chính là điện thờ phụ bên phải. Hai điện thờ trái phải hẳn là đối xứng nhau, bên trong lí ra phải có một quan sàng bằng cẩm thạch trắng nhô cao hẳn lên, trên mặt quan sàng lát toàn gạch vàng, chính giữa có một lỗ hổng hình chữ nhật, trong đổ đất vàng, gọi là “Giếng vàng”. Hiện nơi đây hoàn toàn trống trơn, chỉ có một cái ao lớn.

Nơi này nói sao cũng thật kỳ quái, tôi đang đứng trước cánh cửa nằm giữa hai căn điện thờ phụ,  cánh cửa này hẳn là thông với hậu điện, đó mới chính là nơi đặt quan tài. Vậy vì sao trong phối thất có quan tài, nhưng quan tài lại có dạng cái thau rửa mặt? Phải biết loại bồn quan này chỉ thời Chiến quốc mới có, thời Minh hoàn toàn không dùng.

Nói đến Chiến quốc, tôi lại nhớ tới con xà mi đồng ngư lấy ra từ Lỗ Vương cung. Cả hai nơi đều tìm được vật này, mà ở đây lại đặt một cỗ quan tài chỉ có ở thời Chiến quốc, lẽ nào chỉ là trùng hợp?

Nhất thời tâm trí rối như tơ vò, nghĩ mãi vẫn chẳng ra.

Lúc này tôi đã đi gần hết một vòng xung quanh ao nước, quay trở lại cánh cửa ban đầu. Cái bát sứ tôi dùng làm hung khí khi nãy vẫn nằm chỏng chơ gần đó, tôi chợt nảy ra một ý, bèn nhặt nó lên, ngắm nghía hình vẽ trên bề mặt.

Vật này vốn nằm trong căn phòng phụ phía bên kia, có điều một bức vẽ đơn lẻ cũng chẳng chứa được thông tin gì đáng giá. Tôi chỉ thấy một người mặc triều phục đời Minh, đứng trên một ngọn núi, nhìn xuống công trường dưới chân. Cạnh đó còn của mấy người mặc quan phục, xem ra là một bức tranh vẽ lại cảnh thị sát công trường.

Tôi dựa vào hoa văn trên đám đồ gốm sứ, đại khái có thể đoán ra chủ nhân ngôi mộ này nhất định không phải vương công quý tộc gì, mà rất có thể là một nghệ nhân hoặc kiến trúc sư. Chỉ có dạng nhân tài này mới đủ năng lực lẫn tri thức để áp dụng những thiết kế cổ quái như thế trong mộ. Kẻ khác cho dù có ý tưởng tương tự cũng không đủ khả năng thực thi.

Người tài và thợ giỏi sống vào đầu thời Minh không nhiều lắm, xem quy mô ngôi mộ này, nhất định là một người có địa vị hiển hách, có thể huy động một lượng tài lực lớn. Kẻ này không những cần có kinh nghiệm thi công một công trình lớn cỡ hoàng cung triều Minh, mà còn phải thông hiểu phong thủy lẫn những mánh khóe tinh vi xảo quyệt, người như thế kể ra cũng không khó đoán.

Chỉ mất vài giây suy nghĩ, một cái tên đã lóe lên trong đầu tôi – Uông Tàng Hải.

Kẻ này có thể coi là kỳ nhân, hiểu biết về phong thủy của ông ta đã đạt tới đỉnh cao. Vì thế Uông Tàng Hải được bổ nhiệm tham gia thiết kế hoàng cung triều Minh, ngoài ra còn thiết kế thêm vài thành phố lớn của Trung Quốc, đương thời chỉ một câu nói của ông ta thậm chí có thể xóa sổ vài thành thị. Tôi đọc sách cổ còn biết Uông Tàng Hải có một quyển sách viết về phong thủy, nội dung trong đó vô cùng sâu xa bí hiểm, thực tình có thể nói ông ta đã nhìn thấu thiên cơ; tiếc thay con cháu ông ta chỉ sao lại vài bản, về sau đều thất truyền cả.

Vả lại, tương truyền mộ của Thẩm Vạn Tam dưới đáy sông Ngân Tử ở Chu Trang cũng do kẻ này thiết kế; một người như ông ta thừa sức tự thiết kế một mộ huyệt cho riêng mình.

Tôi thấy suy đoán của mình khá hợp lý, hiện giờ chỉ cần tìm được chút văn tự hoặc tư liệu là có thể kiểm chứng xem suy đoán ấy đúng hay sai, đáng tiếc chủ nhân ngôi mộ này hình như là một kẻ thất học, không hề lưu lại chút minh văn nào.

Đúng lúc này, trong ao nước đột ngột truyền tới mấy tiếng ùm ùm, suy nghĩ của tôi nhanh chóng bị cắt ngang, vội lấy đèn pin rọi về hướng ấy. Chỉ thấy khắp ao nước kia bắt đầu sủi bọt, lúc mạnh lúc yếu, từng đợt từng đợt một không theo quy luật nào, tựa như trong cái ao sâu không thấy đáy này có thứ gì đó đang hoạt động

Tôi hoảng hốt, vội vã giương súng, căng thẳng nhìn chằm chằm vào đám bọt khí kia. Gần như cùng lúc, một cái bóng trắng lao lên bờ, lăn tròn một vòng đến tận góc tường, há miệng thở phì phò. Tôi nhìn kỹ, thì ra là Bàn Tử, thật vui mừng không sao tả xiết. Áo hắn đã cởi ra từ lúc nào, lộ ra cái bụng to kềnh càng như trống. Hắn vừa thở hồn hển vừa ngó tôi một cái, lắc lắc đầu, nói: “Mẹ…nó, suýt nữa tôi đã chết…chết ngạt rồi”

Tôi vừa định hỏi hắn chuyện gì đã xảy ra thì bên cạnh chợt có một người ngoi lên mặt nước. Tôi nhìn sang, thấy Muộn Du Bình cũng đã nổi lên, phần thân trên cũng để trần, nhưng hình xăm kỳ lân màu đen đã bay đâu mất. Rõ ràng hắn không mất sức nhiều như Bàn Tử “Đây là bên trái hay bên phải?”

Tôi đáp bên trái, hắn mới thở phào, nhanh chóng ngồi xuống, bụm lấy cổ tay mình. Tôi thấy trên cổ tay hắn hằn lên một dấu tay đen sì, chợt có dự cảm chẳng lành.

Bàn Tử thở hổn hển hồi lâu mới ổn định trở lại, ôm bụng thở một hơi dài. Tôi hỏi hai người làm sao tới được đây, hắn khạc ra mấy bãi nước bọt, nói: “Đừng hỏi nhiều, may mà cậu không thấy cảnh ấy, nếu không đảm bảo sẽ sợ muốn vỡ tim. Má ơi, may mà bên dưới phiến đá đặt quan tài có một cái động thông đến chỗ này, bằng không chúng tôi sẽ chết hết trong ấy.”

Tôi sốt ruột hỏi: “Có thứ gì đáng sợ đến thế ư?”

Bàn Tử đáp: “Mẹ kiếp, tôi cũng chẳng biết phải miêu tả thế nào, thôi ngắn gọn là trong bụng cái thi thể ghép sáu kia… mẹ nó còn có một vật.”

Chương 28: Tiếp tục không đề.

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

————–

Bàn Tử vừa nói xong lại ho khan, văng cả nước bọt ra ngoài, tôi sốt ruột giục hắn nói tiếp, hắn gãi gãi lưng, bảo: “Từ từ đã nào, việc này xảy ra quá bất ngờ, tạm thời tôi không thể nói rõ được, cậu chờ tôi sắp xếp lại ngôn từ đã.”

Tôi thấy sắc mặt hắn trắng bệch,  giọng nói vẫn chưa trở lại bình thường, chắc trong khí quản vẫn còn đọng nước, mới giúp hắn vỗ vỗ vài cái vào lưng. Hắn bị tôi vỗ mạnh đến nỗi thân thể bắt đầu co giật, nôn ra một đống chất lỏng màu trắng dinh dính, nói: “Được rồi, mẹ nó cậu còn vỗ nữa sẽ vỗ chết tôi mất!”

Tôi giục: “Bây giờ đã nói được chưa, rốt cuộc hai người gặp phải thứ gì?”

Hắn khụt khịt mũi, mang tất cả những việc họ đã gặp ra kể lại. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, lời kể của Bàn Tử vì vậy cũng khá lộn xộn, tuy nhiên tôi vẫn hiểu sơ sơ chân tướng sự việc.

Thì ra lúc ấy hắn thấy tôi ngơ ngẩn ngắm đống tranh sứ mới giục vài câu, có điều tôi đang vô cùng tập trung, hoàn toàn không nghe được gì. Bàn Tử thấy tôi không phản ứng cũng không gọi nữa, cơ bản là vẫn còn tiếc mấy thứ trang sức ngọc ngà quý giá kia, bèn một mình quay lại lấy trước. Lúc đó hắn nghĩ  tôi xem xong sẽ tự đuổi theo, hai nhĩ thất chỉ cách nhau năm sáu bước chân, không thể xảy ra chuyện gì nằm ngoài dự liệu.

Nhưng sau đó hắn lại thấy một vật, toàn bộ chú ý đều dồn cả vào đó, thế là quên luôn sự tồn tại của tôi, cũng không biết cánh cửa đá kia biến mất từ khi nào.

Bàn Tử quay lại chỗ đặt quan tài, hai người cùng nhau múc nước ra, khối thi thể kia cũng nhanh chóng nổi lên. Hắn nhìn kĩ, không khỏi hoảng sợ, thì ra thứ hắn vẫn tưởng là bướu thịt trên đầu lại là những bầu ngực to mọng của phụ nữ rủ xuống trên cơ thể dị dạng. Bàn Tử lúc đó rất choáng, hắn vốn không ngờ đây lại là một nữ thi.

Có điều theo lý mà nói, có mười hai cánh tay thì phải có mười hai bầu ngực mới đúng, tại sao phía trước mới chỉ có năm? Chẳng lẽ trên lưng vẫn còn? Bọn họ suy nghĩ một lúc, quyết định mang thi thể ra khỏi quan tài.

Đầu tiên Bàn Tử thử dùng móc câu để mang thi thể lên, nhưng thi thể này đã mềm nhũn từ lâu, từ trên xuống dưới trắng mịn, gần như sáp hóa, không thể chọc vào bất cứ chỗ nào được. Mang găng tay rồi tự mình lôi lên lại càng không ổn, cảm giác cứ như nắm cục xà phòng, vừa đụng tới đã chạm phải một lớp mỡ người, tởm muốn chết. Cuối cùng Muộn Du Bình cũng nghĩ ra một cách, hai người bọn họ cởi áo ra, một người trùm đầu, một người trùm chân, dùng súng làm đòn gánh mới mang được nữ thi kia ra khỏi quan tài.

Dưới ánh đèn sáng lóa, thi thể nhanh chóng khô lại rồi hóa đen, cả hai nghiên cứu kỹ lưỡng, ngoài việc phát hiện một vài bầu ngực đã bị cắt đi, để lại mấy vết sẹo lớn bằng miệng bát hai bên sườn,  còn biết được thân thể người này hóa ra không bị dị dạng, mà là do phát phì, mỡ thừa trên người đắp đống cao như núi.

Lúc đó cả hai không hiểu tại sao bụng của nữ thi này lại lớn đến vậy, chỉ nghĩ cô ta phát phì, hoàn toàn không nghĩ đến việc cô ta đã chết trong thời gian mang thai, trong bụng vẫn còn thai nhi.

Sau khi thi thể được nâng ra, bên dưới xuất hiện một tấm bia đá. Muộn Du Bình nói đó là áp quan thạch, dù cho sau này kết cấu kín khí trong mộ bị phá hỏng, quan tài cũng sẽ không nổi lên. Áp quan thạch kia xù xì thô ráp, bên trên khắc đầy những hàng chữ lớn.

Bàn Tử sau vài lần xem đi xem lại mà vẫn không hiểu, sực nhớ tới tôi, lúc này cả hai mới phát hiện ra cánh cửa đã biến mất. Bàn Tử lập tức phát hoảng, đoan chắc chẳng phải là quan tâm tôi gì đâu, là lo cho mình không ra được thôi. Muộn Du Bình trấn an hắn, nói cánh cửa này cứ cách một khoảng thời gian sẽ tự động xuất hiện, có cuống lên cũng không được gì, chuyện quan trọng lúc này là làm cho xong việc trước mắt đã. Bàn Tử thấy hắn bình tĩnh như vậy cũng an tâm hơn.

Hai người muốn mang nốt tấm bia đá bên trong quan tài ra, chẳng ngờ nó quá nặng, hơn nữa bốn phía còn rót thêm nhựa thông, khiến cho tấm bia đá dính chặt vào đáy quan tài. Bàn Tử thấy sự tình không được thuận lợi, dùng lực gõ vào phiến đá, chợt phát hiện ra bên dưới trống không.

Bọn họ châm ống đánh lửa rồi thả vào bên trong cho nhựa thông chảy ra, sau đó ra sức lật phiến đá lên, bên dưới lộ ra một cái động lớn. Con người Bàn Tử tuy có phần thô kệch nhưng kinh nghiệm của hắn phải nói là phong phú vô cùng, nhưng chứng kiến cảnh này hắn cũng phải kinh ngạc đến mức không khép miệng lại nổi. Động này không phải do người thiết kế mộ cổ cố ý tạo ra, mà là một đạo động!

Đây thực sự là một phát hiện mang tính đột phá, không nói đến những phương diện khác, chỉ tính riêng kỹ thuật định vị thì đạo động này đã có thể coi là thiên hạ vô song, đào một phát trúng ngay đáy quan tài. Nếu không nhờ khối áp quan thạch chắn lại, có lẽ thi thể kia đã sớm bị kéo vào trong động. Khó hiểu hơn nữa là mộ này vốn đặt ở đáy biển, đạo động kia rốt cuộc được đào như thế nào?

Thêm vào đó, nếu mộ thất này có kết cấu trên dưới kiểu thang máy thì phía dưới quan tài phải là một mộ thất khác mới đúng, sao lại có đủ không gian cho một cái động sâu đến thế? Bàn Tử khẳng định ngay, chúng tôi có thể đã hiểu sai về kết cấu ngôi mộ này.

Mọi việc lại rơi vào sương mù, hai người đều trầm mặc. Bàn Tử hiểu rất rõ, vì cái đạo động kia mà kết cấu dưỡng khí tàng thi trong ngôi mộ này đã bị xáo trộn. Tuy thi thể đã hóa sáp, không thể xảy ra thi biến, nhưng địa thế nơi này đã không còn, đương nhiên phong thủy của cả ngôi mộ sẽ bị ảnh hưởng. Hiện tại tuy không rõ chiều hướng biến đổi là như thế nào, nhưng cũng  không loại trừ khả năng linh huyệt sẽ chuyển thành bại huyệt. Bàn Tử đối với thuật phong thủy không có nhiều hiểu biết, nhưng dù gì cũng là người thuộc Bắc phái, hắn biết chắc sự thay đổi này không hay chút nào.

Có điều hắn không phải chuyên gia thuộc lĩnh vực này, đụng việc gì cần lí giải cặn kẽ một chút thì kiến thức lại không đủ. Hắn cho rằng những chữ khắc trên bia đá này có thể là mấu chốt, định chép lại thì nghe Muộn Du Bình đang ngồi bên nữ thi kêu lên:  “Nguy rồi!”

Hắn vừa quay đầu đã thấy tay trái của Muộn Du Bình bị một bàn tay bé nhỏ đầy lông trắng vươn ra từ bên trong nữ thi túm chặt lấy. Bàn Tử không ngờ bên trong nữ thi kia vẫn còn một thai nhi chết yểu, lúc đầu rất hoảng sợ, nhưng hắn vốn là kẻ nhanh nhạy, sau khi lấy lại tinh thần liền giương súng bắn một phát vào bụng nữ thi, hình như đã chạm vào tử huyệt, Muộn Du Bình lập tức giãy ra được. Bàn Tử còn muốn bắn nữa, Muộn Du Bình kêu to: “Không bắn chết được! Đi mau!” Nói rồi kéo hắn chui vào động bên dưới quan tài.

Bàn Tử thấy dưới đáy quan tài vẫn còn chảy xuống thứ nước ghê muốn chết kia, không tài nào nhấc chân bước vào nổi. Có điều khi hắn quay đầu nhìn lại, chợt thấy trên bụng nữ thi lộ ra một khuôn mặt đang liều mạng giãy dụa muốn chui ra, lớp da nơi bụng nữ thi đã gần biến thành trong suốt, ngũ quan trên khuôn mặt kia đều thấy rõ. Hắn lạnh cả xương sống, tự nhủ quân tử không ăn cũng chết đói, đành nghiến răng chui vào.

Đạo động này đào gạch mà thành, kết cấu vô cùng xảo diệu. Mỗi viên gạch chỉ bị đập vỡ một nửa, như vậy hiển nhiên có thể tạo ra một mái vòm bằng gạch trên đỉnh đạo động, những thứ bên trên cũng không thể đè xuống được.  Loại kĩ thuật này tốn rất nhiều thời gian, hoàn toàn không thể làm xong trong ngày một ngày hai.

Muộn Du Bình đã đi trước, Bàn Tử liều mạng đuổi theo, không rõ đạo động này dẫn đến đâu, đi được một lúc nữa thì phát hiện động này có chiều hướng đi xuống, phía dưới có nước, nhưng đoạn ngập nước hình như cũng không dài. Hắn thấy có ánh đèn lấp loáng, nghĩ là tôi, liền lặn ngay xuống nước. Mới bơi được một đoạn thì phía trước quả nhiên rộng ra thành một ao lớn, lúc đó phổi hai người đều đã cạn khí, mới liều mạng ngoi lên, vừa ra khỏi nước đã thấy tôi cầm súng chĩa về phía bọn họ.

Tôi nghe đến đó, cười nhạo: “Thì ra anh cũng chỉ thấy có một bàn tay thôi.”

Bàn Tử nói: “Bàn Tử tôi thực ra không sợ vật đó, nhưng Tiểu Ca lợi hại thế mà thấy nó cũng phải chạy, cậu nói tôi có thể làm gì? Mà giờ nghĩ lại, tôi cũng không hiểu vì sao lúc đó lại phải chạy, Tiểu Ca, thứ đó rốt cuộc là gì, thực sự lợi hại đến thế? Tôi thấy dùng lao đâm vài cái là có thể giải quyết còn gì.”

Muộn Du Bình sờ cổ tay mình, nói: “Đó là một hạn bạt lông trắng, muốn giết phải chém đầu, nhưng nếu làm vậy thì một lượng lớn hơi độc từ thi thể nó sẽ bốc ra, với không gian đóng kín sẽ rất bất lợi.”

Tôi nghe thế liền giật mình, hạn bạt vừa nói đến tương truyền có thể gây ra nạn hạn hán, nghe nói cương thi chết khô sau một thời gian vùi trong loại đất dưỡng xác có thể biến thành hạn bạt. Trong Kinh Thi có nói,

hạn bạt vi ngược, như đàm như phần

(hạn bạt gây họa, như thiêu như đốt)

, tóm lại có không ít chuyện kể về nó, ai ngờ nó lại có hình dáng như thế.  Nhưng đây không phải điểm quan trọng, từ khi tôi bước vào ngôi mộ này đã chuẩn bị tinh thần đối phó với đủ loại chuyện kỳ quái, chỉ là đạo động kia xem ra không phải để tìm tàng bảo mà là để thông đến cái ao này, khả năng ấy không phải là không có. Tôi đoán một trong số những đạo động dưới đáy ao này chính là lối ra, có lẽ người làm ra đạo động này lúc đầu không thể xác định vị trí chính xác, mới đào đạo động về nhiều hướng, đây có thể là một trong số đó. Nghĩ đến đây, tôi liền hỏi bọn họ có thấy ngã rẽ nào không.

Bàn Tử lắc đầu bảo không, đạo động không dài, hoàn toàn là một đường thẳng. Tôi nghe xong cũng không thất vọng, bởi lẽ với động bằng gạch thì chuyện giấu đi một cánh cửa là rất dễ dàng.

Đạo động này, nếu không phá vỡ kết cấu kín khí của mộ thì lối vào chắc chắn cũng nằm trong mộ thôi, có tìm được cũng vô ích, tôi đoán khi kẻ đó lần theo đài phun nước vào căn phòng phụ  thì cánh cửa vẫn chưa xuất hiện, hắn không còn cách nào khác mới phải đào cái động ấy. Có điều kẻ này cũng thật xui xẻo, đào đến phòng phụ thì gặp áp quan thạch, đào đến xứng thất thì gặp cái ao này, không biết hắn đã đào đến mộ chính chưa nữa.

Nghĩ một hồi, Bàn Tử bỗng hỏi: “Hai người nói xem, hạn bạt có biết bơi không?”

Tôi sửng sốt không hiểu hắn có ý gì, hắn bèn chỉ vào mặt nước, tôi nhìn theo, chỉ thấy giữa hồ có vô số bọt khí đang ùng ục nổi lên.

Chương 29: Bia đá

Editor: Thanh Du

*****

Đám bọt nước cứ sủi lên ùng ục, mật độ dày đặc, hơn nữa còn khuếch tán càng ngày càng rộng, tựa như dưới cái ao kia có con vật bự chảng nào đó đang hít thở. Ba người chúng tôi đều đề cao cảnh giác, giương súng lên, lưng áp sát vào tường. Tôi đã căng thẳng đến độ mồ hôi ướt đẫm lòng bàn tay, không biết kết cục đang chờ đợi tôi phía trước là gì, không khỏi cảm thấy lực bất tòng tâm. Đám bọt nước sủi được chừng năm phút, bất chợt dưới đáy ao truyền lên những âm thanh trầm đục không nghe ra là tiếng gì.

Đúng lúc đó, mực nước trong ao cũng bắt đầu rút xuống, trên mặt ao xuất hiện mười mấy xoáy nước. Chỉ thấy bọt bắn lên tung tóe tựa như mười mấy cái bồn cầu tự hoại xả cùng một lúc; cái quan tài hình chậu kia cũng xoay xoay theo dòng nước y như một con quay. Trong nháy mắt nước đã rút đi tầm hai ba mét, tôi ngơ ngác không hiểu có chuyện gì xảy ra, vội chiếu đèn pin xuống ao, bất ngờ phát hiện ra một lối đi hình trôn ốc tạo nên từ những bậc đá gắn vào thành ao, hình như nó dẫn thẳng xuống đáy.

Nước rút đi rất nhanh, tôi còn chưa kịp nhìn cho kỹ thì lượng nước khổng lồ ấy đã mất hút dưới đáy ao đen kịt, chỉ có tiếng òng ọc phát ra từ xoáy nước vẫn vang vang không dứt. Tôi lấy đèn pin quét qua một vòng, phát hiện cái ao này có dạng bát, trên rộng dưới hẹp, sâu hơn mười mét, cho nên ánh sáng đèn pin cũng không chiếu tới nơi. Vả lại bên dưới hơi nước mờ mịt, đáy ao ẩn sau làn sương mù, trong khoảng không tối đen khiến tôi không sao nhìn rõ được.

Tôi chợt nghĩ bọn tôi còn có loại đèn chuyên dùng chiếu sáng trong nước, khả năng xuyên thấu rất mạnh, không biết nó có tác dụng với hơi nước hay không. Vội vàng bảo hai người kia cùng bật đèn lên, điều chỉnh cho tia sáng loe rộng hết mức, đồng loạt chiếu xuống từ ba hướng khác nhau.

Loại đèn này tuy cũng không thể chiếu xuyên qua màn hơi nước, nhưng tạm thời cũng có thể phác họa sơ lược địa hình bên dưới. Đáy ao là một mặt phẳng hình tròn đường kính tầm 10 mét, bên trên khắc phù điêu, cụ thể là hình gì thì không rõ, nhưng có thể khẳng định trên mặt đáy có vài lỗ hổng lớn, xem ra chính là cửa thoát nước.

Khoảng giữa đáy ao phủ kín hơi nước, giữa làn hơi nước có bóng đen lúc ẩn lúc hiện, chẳng biết là vật gì. Bàn Tử nhìn chằm chằm vào nó, cân nhắc hồi lâu rồi nói: “Cậu nhìn xem, giữa đáy ao kia hình như có một tấm bia đá?

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của hắn, chỉ thấy một bóng dáng mơ hồ. Bàn Tử tiếp: “Những bậc thang đá này dẫn xuống dưới, không biết điểm cuối ở đâu. Không chừng bên dưới còn một thông đạo nữa, chúng ta xuống xem thử đi!” Nói rồi nhảy phốc một cái lên đầu thang đá.

Cổ mộ này cực kỳ quái dị, tôi không đồng ý để hắn tùy tiện đi xuống, mới la lên: “Anh việc gì phải vội thế, lúc này xuống dưới đó rất nguy hiểm, muốn xuống thì chí ít cũng phải đợi cho đám hơi nước bên dưới tan hết đã chứ.”

Bàn Tử đã xuống được vài bước, cãi bay: “Không sao đâu, tôi xuống nhìn qua một chút thôi mà, nếu gặp phải trở ngại đương nhiên sẽ quay lên.”

Tôi hiểu tính hắn nên cũng không ngăn cản nữa, chỉ thấy hắn xuống được khoảng hai vòng thì hình như đụng phải thứ gì đó, bèn ngồi xuống nhìn cẩn thận, mới được vài giây đã ngẩng đầu gào lên với chúng tôi: “Chết tiệt, chỗ này lại có chữ Tây!”

Tôi nghe thế thì đờ người luôn, quái, trong cổ mộ thời Minh làm sao có chữ Tây được chứ. Bèn lớn tiếng đáp lời: “Mẹ nó, anh ăn nói linh tinh cái gì thế? Trong cổ mộ thì đào đâu ra chữ Tây, chắc anh nhầm với hoa văn chứ gì?”

Bàn Tử điên tiết quát lên: “Mẹ nó, Bàn gia đây dù không biết tiếng Tây, nhưng cũng đâu có dốt đến độ không biết mấy chữ ABCD cơ bản, cậu xem thường tôi vừa vừa thôi chứ! Nếu không tin thì cậu xuống mà xem!”

Tôi đáp: “Trên đó khắc chữ gì, anh đọc lên xem nào.”

Bàn Tử hình như đã cáu lắm rồi, quát lớn: “Mẹ kiếp, tôi mà đọc hiểu được thì còn gọi cậu xuống làm qué gì!”

Tôi vốn không định xuống, nhưng ở vào tình cảnh này không xuống cũng không xong, đành thở dài một hơi, học theo động tác của Bàn Tử, co chân nhảy lên bậc đá kia. Bậc đá chỉ dài nửa mét, hình như được xẻ ra từ một khối thanh cương nham nguyên vẹn, một đầu gắn vào thành ao, một đầu lơ lửng giữa không trung. Tôi đạp đạp thử mấy cái, xem ra bậc đá này khá rắn chắc, không sợ sụp xuống giữa chừng. Lúc này Muộn Du Bình cũng đã nhảy xuống, hai người chúng tôi một trước một sau tiến lại gần Bàn Tử.

Hắn chỉ vào thành ao nói: “Đây, cậu nhìn xem, mẹ nó nếu đây không phải tiếng Tây thì tôi đem chữ Vương viết ngược lại cho rồi!” (*)

(*) Sở dĩ nói thế vì Bàn Tử họ Vương, câu này ý là “nếu tôi nói sai thì đổi họ cho rồi” í. Cơ mà chữ vương (

) thì viết xuôi viết ngược kiểu gì vẫn là chữ vương, cho nên có thể coi câu thề của anh Vương này như cá trê chui ống :-”

Tôi nhìn qua thì thấy quả thực thành ao bị người ta dùng đục gõ thành mấy chữ cái, dấu vết trông không mới cũng không cũ, lập lức nghĩ tới khả năng những chữ này là do nhóm của chú Ba khắc vào 20 năm trước, không khỏi âm thầm hoảng sợ. Lẽ nào khi chú Ba ngủ, họ đã đến tận đây? Vụ mất tích của bọn họ có liên quan gì đến cái ao quái quỷ này không?

Bàn Tử thấy tôi bắt đầu ngây ra, mới vỗ vai tôi một cái thật mạnh: “Sao, cậu nói đi chứ, tôi nói có sai chỗ nào không?”

Tôi vội gật gù: “Phải rồi phải rồi, để tôi giải thích cho, mẹ nó đây chính xác là tiếng Anh.”

Bàn Tử đắc ý vỗ đùi: “Tôi vẫn thắc mắc tại sao lại có chuyện lạ lùng thế, chúng ta đã đi khắp cái đấu rách nát này mà chẳng tìm được thứ gì ra hồn, thì ra đã có mấy vị anh em tốt người nước ngoài nhanh chân đến trước. Lại nhớ năm nào liên quân tám nước (*) ghé chơi, cũng không nỡ để lại thứ gì cho chúng ta; lần này thì khỏi nói, chắc đã bị vơ vét sạch sẽ rồi.”

(*) Ý Bàn Tử nhắc tới sự kiện liên quân tám nước phương Tây là Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Nga và đế quốc Áo-Hung tiến đánh Bắc Kinh năm 1900 để chống lại sự nổi dậy của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn.

Tôi suy nghĩ một lát rồi đáp: “Không thể phán bừa là người nước ngoài, người Trung Quốc cũng viết được tiếng Tây đó thôi. Lại nói đến khắc chữ, khắc chữ Tây nhanh hơn khắc tiếng Trung nhiều, mấy kí tự này toàn là chữ viết tắt, tôi nghĩ đó có thể là kí hiệu dùng để đánh dấu. Anh xem nét khắc của người này rất ẩu, chỉ sợ khi chạy xuống đây anh ta đã gặp phải chuyện gì cấp bách, cũng có thể đang bị người khác thúc giục; anh ta muốn đánh dấu lại cho người đến sau biết nên mới khắc những chữ cái này.”

Bàn Tử nói: “Cậu nói cũng có lý, nhưng nếu thế thì bọn họ mò xuống đây làm gì? Hay dưới này có bảo bối?”

Tôi biết thừa đầu hắn đang nghĩ lung tung cái gì, quyết định phớt lờ hắn luôn. Bàn Tử đuổi theo tôi, ra sức lải nhải: “Dù sao chúng ta vẫn còn nhiều thời gian, chi bằng xuống đó xem chơi, không chừng còn tìm được đồ đồng đen làm công cụ, chẳng phải là một công đôi việc hay sao?”

Tôi nhìn nhìn xuống dưới, bảo bối với tôi chẳng đáng gì, bỏ mạng vì tiền tôi lại càng không ham, có điều nếu dưới đó có manh mối cho biết nhóm Văn Cẩm đã đi đâu thì cũng đáng xuống xem thử một chuyến. Đang chần chừ không biết có nên đi tiếp hay không, đột nhiên nghe Muộn Du Bình nói: “Hình như tôi đã từng đến nơi này!”

Chương 30: Đáy ao

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Muộn Du Bình dứt lời, cũng không thèm để ý tới thắc mắc của tôi, vội vã leo xuống dưới. Tôi thấy đã có manh mối để tìm ra chân tướng sự việc, dĩ nhiên không thể bỏ qua, vội vàng đuổi theo.

Sương mù từ dưới ao không ngừng bốc lên, tôi mới xuống được mười bậc thang đã lạc vào màn sương mù dày đặc, tầm nhìn nhanh chóng thu hẹp. Ban đầu tôi còn thấy được bóng lưng của Bàn Tử, tiến thêm vài bước thì phía trước chỉ còn thấy ánh đèn pin mờ mờ. Hơn nữa tên mập đó vốn can đảm, mỗi bước nhảy qua ba bậc thang, cuối cùng bỏ tôi lại tuốt đằng sau. Còn chưa xuống hết một vòng, luồng sáng chiếu ra từ đèn pin của hắn tôi cũng chẳng thấy đâu nữa.

Hiện tôi đang ở giữa một đám sương mù lượn lờ, tầm nhìn còn chưa nổi nửa mét. Tôi có hơi hoảng hốt, cảm giác mọi thứ xung quanh trở nên hồ thế này còn khó chịu hơn là ở trong bóng tối mịt mùng.

Khoảng cách từ mặt ao đến đáy ao cũng không lớn lắm, đi chừng một phút chợt nghe Bàn Tử nói vọng lên: “Tôi xuống đến đáy ao rồi!”

Tôi nghe thấy tiếng chân lội bì bõm của hắn, vội sải bước chạy xuống, chợt thấy dưới chân lành lạnh mới biết mình đã lội vào trong nước. Thì ra nước ở đáy ao cũng không rút đi hết, mực nước còn cao gần đến bắp chân, thảo nào lúc trước nhìn xuống tôi không thấy rõ ràng cho lắm.

Tôi quan sát xung quanh một chút, thì ra nơi đây gần như nằm giữa đám sương mù, tầm nhìn lại càng hạn chế. Tôi men theo vách ao đi được vài bước, chợt nghe Bàn Tử gọi từ phía bên trái: “Cậu chú ý bên dưới nhé, chỗ này toàn là cửa thoát nước, cẩn thận kẻo giẫm vào.”

Tôi lấy chân dò thử, quả nhiên trước sau đều có những cái hố lớn bằng miệng bát, xem ra đi đứng trong này phải hết sức cẩn thận mới được. Lúc này Bàn Tử vẫy vẫy đèn pin từ phía sau lớp sương mù ra hiệu cho tôi bám theo hắn.

Tôi gật gật đầu, lội theo sau hắn. Đi được vài bước, đột nhiên phía trước xuất hiện mấy bóng đen, không biết là thứ gì, Bàn Tử tất nhiên đã thấy từ trước nên không hề sợ hãi, dặn tôi đừng có chạm vào. Đi qua quãng đó rồi, tôi thoáng nhìn lại, thì ra là bốn con khỉ đá cao hơn nửa người ngồi trên bệ đá, mặt quay bốn phía, không biết đang cầu nguyện cái gì. Tôi biết đây gọi là Định hải thạch hầu, thường đặt dưới ao, dùng để trừ tà, thứ này xuất hiện ở đây cũng là chuyện thường.

Tôi yên tâm đi thêm vài bước, chỉ thấy ở giữa bốn con khỉ đá đặt một tấm bia đá Thanh cương cao tới hai mét. Muộn Du Bình đang chiếu đèn pin vào tấm bia, cẩn thận quan sát.

Tôi lại gần, hỏi hắn: “Thế nào, anh xem qua mấy thứ này rồi, có nhớ thêm được gì nữa không?”

Hắn chỉ chỉ tảng đá phía trước tấm bia, tôi nhìn theo, thấy bên trên có khắc mấy hàng chữ Khải nhỏ, Bàn Tử không đọc được mới quay sang hỏi tôi trên đó viết gì, tôi đáp: “Mấy hàng chữ kia cho chúng ta biết chủ nhân ngôi mộ này có xây dựng một Thiên cung, cánh cửa dẫn đến Thiên cung nằm ngay trong tấm bia đá này, nếu gặp người có duyên cánh cửa này sẽ mở ra, anh đi qua đó là lên đến trời.”

Bàn Tử nhìn tấm bia đá, sốt ruột: “Có cái cửa khỉ gió nào đâu.”

Tôi đáp: “Những lời này cũng giống như kinh Phật, mỗi người đều có cách lý giải khác nhau, ý ông ta cũng không phải là trong tấm bia này thực sự có một cánh cửa, mà có thể là nội dung khắc trên bia đá ẩn chứa bí mật nào đó.”

Bàn Tử đáp lại tôi: “Mẹ nó, cậu nói trên tấm bia này có ‘nội dung’ ấy hả, đến một chữ tôi còn chẳng đọc nổi!”

Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy mặt ngoài tấm bia được mài đến nhẵn bóng, trông như một khối ngọc, nhưng bên trên lại trống trơn chẳng có chữ nào. Tôi cũng bắt đầu phát bực: “Trong này nói có duyên thì cửa mới mở, anh không có duyên với Thiên cung, đương nhiên không thấy gì rồi.”

Bàn Tử trề môi, thở dài rồi cúi người xuống kiểm tra phần chìm dưới nước, vừa mò mẫm vừa lẩm bẩm: “Không có duyên phận với Thiên cung cũng chẳng sao, tôi chỉ cần có duyên có phận với minh khí là được rồi.”

Tôi quay sang Muộn Du Bình, sắc mặt của hắn trông rất tệ, tôi hỏi vài câu hắn cũng chẳng thèm để ý, chỉ nhìn chằm chằm vào tấm bia giống như đang tìm kiếm thứ gì đó. Tôi cảm thấy kỳ lạ, chẳng qua chỉ là một tấm bia trống trơn mà thôi, không biết hắn tập trung nhìn vào cái gì nữa. Bỗng Bàn Tử vỗ vỗ tay, tôi nhìn sang thì thấy hắn vớt lên một cái kính lặn, nói: “Xem ra đã có nhiều người tới đây.”

Tôi qua bên đó nói với hắn: “Lúc chú Ba tôi thoát ra ngoài, trên người không có thiết bị lặn, mấy cái này có thể là của ông ấy. Anh xem thử có bình dưỡng khí không.”

Lời vừa dứt, Bàn Tử đã lôi từ dưới nước lên một cái bình khí móp méo, hắn dùng thử, dường như không được lại ném xuống nước, hậm hực nói: “Mấy thứ dưới này đều hỏng hết cả, uổng công tôi từ tuốt trên đó chạy xuống, hóa ra là mừng hụt. Tôi thấy chúng ta nên nhanh chóng đi lên thôi, ai biết được khi nào nước lại dâng lên, đợi đến lúc đó có bay cũng chẳng kịp.”

Tôi xem mực nước, thấy Bàn Tử nói cũng có lý, mới quay về chỗ cũ tìm Muộn Du Bình. Nào ngờ ngoảnh đi ngoảnh lại đã không thấy hắn đâu, tôi thử gọi vài tiếng nhưng không có ai trả lời, lòng bỗng dưng trở nên hồi hộp.

Tên nhóc này cứ thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, lúc cần thiết như bây giờ lại chẳng thấy hắn đâu.

Nghĩ đến đấy, tôi bảo Bàn Tử cứ đi tìm quanh, bởi lẽ sương mù tuy dày nhưng nơi này cũng không quá rộng. Chúng tôi đi hai vòng, cuối cùng phát hiện hắn đang ngồi trong một góc tường ao ngơ ngác nhìn về phía trước. Tôi thấy ánh mắt hắn có gì đó bất thường, gần như đã mất đi sự trầm tĩnh vốn có, chỉ còn chất chứa nỗi tuyệt vọng đến trống rỗng; thoạt nhìn trông hắn giống như một người đã chết.

Tôi vội hỏi chuyện gì đã xảy ra. Hắn ngẩng lên nhìn tôi, giọng hắn nhỏ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Chuyện hai mươi năm trước, tôi nhớ ra rồi…”

———————————–

Vâng, từ chương sau trở đi sẽ là hồi tưởng của anh Bình XD

Chương 31- Hai mươi năm trước

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Muộn Du Bình, không, phải gọi là Trương Khởi Linh mới đúng, giọng hắn cứ đều đều không mang theo chút cảm xúc nào. Từ những lời tự thuật của hắn, tôi dần dần hiểu được một phần trong vô số những nghi vấn mơ hồ,nhưng vẫn chẳng thể nào hiểu nổi hắn đã nghĩ gì và nghe thấy gì trong suốt diễn biến câu chuyện, cũng không sao biết được thân thế thực sự của hắn; thôi đành tưởng tượng ra hắn trong bộ dạng một một thanh niên trầm lặng và cơ trí vậy.

Dưới đáy biển sâu không nghe tiếng cuồng phong gào thét trên mặt biển, nhưng vẫn cảm nhận được bầu không khí ngột ngạt trước khi cơn bão kéo đến.

Trương Khởi Linh lẳng lặng ngồi trong góc phòng nhìn bạn bè mình tranh nhau nghiên cứu mấy món đồ sứ men xanh trên mặt đất. Những thứ đồ sứ đó với hắn chẳng có chút hấp dẫn nào, trái lại mấy người bạn học nhìn qua có vẻ lớn tuổi hơn hắn lại bị thu hút hoàn toàn.

Bọn họ truyền tay nhau xem, còn muốn sao chép lại hoa văn trên đó, rồi thảo luận ý nghĩa của những hình vẽ trên mặt sứ. Lúc này đột nhiên có người kêu lên: “Mọi người mau đến xem! Dưới mấy món đồ sứ này có gì lạ lắm!”

Người vừa lên tiếng là Hoắc Linh, cô gái nhỏ tuổi nhất trong ba thành viên nữ của đội khảo cổ, cha mẹ là cán bộ cao cấp, vốn được nuông chiều từ bé, rất thích tỏ vẻ ngạc nhiên để thu hút sự chú ý của người khác. Trương Khởi Linh nghe tiếng cô nàng chỉ thấy nhức đầu, thế nhưng kiểu nữ sinh như cô ta ở trong đoàn lại được yêu thích, một câu nũng nịu là kéo được vài người sang bên đó.

Mấy nam sinh tranh nhau thể hiện, hy vọng có thể chứng tỏ được học vấn của mình trước mặt Hoắc Linh, nhao nhao nói: “Có gì kỳ lạ? Đưa tôi xem nào.”

Hoắc Linh đưa món đồ sứ ra cho bọn họ xem, một người nhìn thoáng qua, nói: “Cái này tôi biết, đây gọi là diêu hào, ký hiệu của lò gốm nơi sản xuất ra món đồ này.”

Một người khác lập tức phản bác: “Không đúng, diêu hào của lò gốm vào thời Minh không giống thế này, đây có thể là phủ hào được khắc trên đồ vật, cho biết thân phận của chủ nhân!”

Người kia muốn giữ thể diện, nóng mặt cãi: “Phủ hào khắc trên đồ vật thường có đến bốn chữ, ở đây chỉ có một, còn nhìn lạ hoắc, điều cậu nói lại càng vô lý.”

Hai người đã quen ăn nói văn hoa, nói qua nói lại một hồi là thành đấu khẩu, còn có xu thế chuyển sang động thủ động cước. Hoắc Linh đã quá quen với cảnh này, chỉ biết thở dài. Bỗng cô nàng thấy Trương Khởi Linh lãnh đạm ngồi trong góc, hình như chẳng thèm để ý tới mình, trong lòng bực bội, lập tức bước lại gần đưa cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài trong tay ra trước mặt hắn, khẽ cười, nói: “Tiểu Trương, anh xem giúp tôi đây là cái gì?”

Trương Khởi Linh căn bản không thèm để ý tới cô nàng, thản nhiên liếc qua một cái, còn chưa nhìn rõ đó là thứ gì đã quay đi, đáp: “Không biết.”

Hoắc Linh biến sắc. Cô nàng xưa nay hiếm khi ở trước mặt con trai mà bị dội cho gáo nước lạnh như vầy, trong lòng không khỏi cảm thấy khó chịu: “Tiểu Trương, anh đừng có mà qua quít cho xong chuyện, xem cho kỹ rồi hãy trả lời tôi!”, nói rồi đem cái bình đó nhét vào tay Trương Khởi Linh.

Trương Khởi Linh thở dài, không còn cách nào khác đành phải cầm lấy. Hoắc Linh đắc ý chỉ cho hắn xem, thì ra mặt dưới cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài ấy có khắc một văn tự rất đặc biệt.

Trương Khởi Linh chưa từng thấy văn tự này bao giờ, bất giác ngây người. Thông thường bên dưới đồ sứ đều là diêu hào của nơi làm ra nó, nhưng ký hiệu này sờ lên lại có cảm giác sần sùi, hình như không phải của bất kỳ lò gốm nào, mà là một con số.

Hắn tiện tay lấy một món khác, quả nhiên cũng có ký hiệu nhưng không giống với cái hắn vừa xem. Đến đây hắn bỗng mơ hồ cảm thấy đồ sứ ở đây không phải chỉ là đồ tùy táng đơn thuần.

Hoắc Linh thấy sắc mặt hắn biến đổi, thầm nghĩ tên đầu gỗ này rốt cuộc cũng biết được gì đó, liền hỏi: “Tiểu Trương, thế nào, đây rốt cuộc là cái gì?”

Trương Khởi Linh phớt lờ cô nàng, hắn cầm mấy món đồ sứ khác lên xem, liên tiếp hơn mười cái, phát hiện bên dưới mỗi cái đều có ký hiệu khác nhau, hơn nữa những ký hiệu này đều biến đổi theo quy luật, hình như chúng được sắp xếp theo một trật tự nào đó.

Tại sao phải đánh số thứ tự cho mấy món đồ sứ này, chẳng lẽ trật tự sắp xếp của chúng nghiêm ngặt đến vậy sao? Hay là, nếu không sắp xếp theo đúng thứ tự này sẽ không đạt được mục đích gì đó? Vô vàn suy nghĩ lóe lên trong đầu Trương Khởi Linh khiến hắn không khỏi cẩn thận xem xét tỉ mỉ từng cái một.

Hắn xem một cái khác, lại càng ngạc nhiên, bởi vì hoa văn vẽ trên đó không tả cảnh xuân canh, không phải đình viện, mà là hình ảnh thợ thủ công đang chạm khắc một bức tượng đá khổng lồ, vào thời đó hình ảnh này bị cho là dung tục, vậy tại sao người ta lại đem vẽ nó lên đồ sứ?

Hắn xem xét một lượt, dần phát hiện ra một vài manh mối. Những bức tranh trên sứ này nếu nằm đơn lẻ thì không có gì đặc biệt, nhưng một khi quan sát theo đúng trật tự, anh sẽ thấy ngay những hình ảnh đó có liên quan mật thiết, hình như là miêu tả quá trình xây dựng một công trình khổng lồ.

Lúc này tất cả mọi người đều bị hành động kỳ lạ của hắn thu hút, đám nam sinh không biết hắn đang bày trò gì, chỉ biết ngơ ngác đứng xem.

Trương Khởi Linh chẳng thèm để ý tới mấy người đó, hắn không xem hết một lượt như tôi mà đi thẳng đến chỗ bình hoa xinh xắn có hai quai ở cuối dãy, cầm lên nhìn kỹ, trong lòng khẽ động. Chỉ thấy trên cái bình hai quai cuối cùng này là quang cảnh cả công trình khi đã hoàn thành.

Đó là một công trình không thể dùng ngôn từ để mô tả, cung điện lơ lửng giữa trời, bên dưới là mây mù che phủ; những người xây cung điện đứng trên mặt đất ngước nhìn lên trời; trên một ngọn núi cạnh đó, có một đạo giả đang dương dương tự đắc mỉm cười.

Hình vẽ trên cái bình hai quai nho nhỏ này không thể diễn tả hết sự hùng vĩ đồ sộ của công trình, nhưng Trương Khởi Linh vẫn cảm nhận được một cơn kích động không cách nào kìm nén, bởi hắn đã biết thứ mà hắn tìm được là gì.

Hắn gần như có thể kết luận, nội dung miêu tả trên đó chính là quá trình Quỷ thủ thần tượng Uông Tàng Hải đầu thời Minh thiết kế và xây dựng nên Vân Đỉnh thiên cung!

Truyền thuyết về cung điện lửng lơ giữa trời này đã sớm xuất hiện trong dân gian thời Minh, khi đó người ta giải thích là Uông Tàng Hải đã sử dụng một con diều thật lớn cùng với vô số tơ vàng để tạo thành cung điện giả lộng lẫy huyền ảo giữa không trung nhằm lấy lòng Chu Nguyên Chương.

Nhưng nếu truyền thuyết là thật thì những hình ảnh này miêu tả cái gì? Còn nếu truyền thuyết không có thật, vậy phải chăng những bức tranh trên sứ muốn chứng minh Uông Tàng Hải đã thật sự xây dựng được một tòa cung điện lơ lửng giữa không trung? Truyền thuyết và sự thật, đâu là thực đâu là giả, Trương Khởi Linh bắt đầu cảm thấy mờ mịt.

Hắn suy nghĩ một hồi cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đem việc này nói với nhóm bạn vẫn còn đang đứng lơ ngơ nãy giờ. Những người này dĩ nhiên không tin, vội bắt chước hắn xem xét từng món đồ sứ một, cả đám không khỏi trợn mắt há mồm. Đây không những là chuyện có một không hai trong lịch sử Trung Quốc mà còn là một bước đột phá không tưởng. Cô nàng Hoắc Linh kia  vừa thấy phát hiện của mình lại dẫn đến một khám phá trọng đại như thế, không khỏi mừng rỡ, lập tức hôn chụt một phát lên mặt Trương Khởi Linh, khiến cho mấy nam sinh kia nổi cơn ganh tị.

Trương Khởi Linh lờ tít cô nàng, hình như hắn không biết mà cũng không muốn biết ai đã hôn mình, đi thẳng một mạch đến chỗ Văn Cẩm, đề nghị lập tức vào tìm kiếm bên trong hậu điện. Hắn cho rằng muốn có nhiều manh mối hơn, tất phải tìm trong quan tài.

(vãi anh, anh thấu triệt tinh thần chỉ có đàn ông quá đấy =))

Văn Cẩm vốn là người phụ trách của cả đoàn, cô thấy làm như vậy quá nguy hiểm, vội can: “Không được, tuyệt đối không được, không có người tiên phong dẫn dắt, chúng ta không thể tự mình đi vào cổ mộ!”

Trương Khởi Linh thấy cô không đồng ý, cũng không nói nhiều, lẳng lặng thu thập trang bị cá nhân rồi đi về phía hành lang. Văn Cẩm khá là cứng rắn, thấy hắn coi mình như không khí thì không hài lòng chút nào, muốn ra tay dạy dỗ hắn một phen. Dù sao ở sở nghiên cứu cô cũng hay giở ra vài chiêu công phu để nắn gân mấy tên nhóc cứng đầu không biết nghe lời.

Nghĩ đến đây cô bất ngờ ra tay, định bắt lấy khớp cổ tay mảnh mai của Trương Khởi Linh, thế này gọi là khóa mạch môn, nếu khống chế được mạch môn thì có thể lấy bốn lạng chống nghìn cân. Sức lực một cô gái tuy không lớn, nhưng chỉ cần hơi mạnh tay một chút cũng đủ làm cho một anh chàng như Trương Khởi Linh đau đến mức phải lên tiếng cầu xin.

Mấy anh chàng kia đều đã nếm qua chiêu này của Văn Cẩm, không khỏi cười thầm, chờ xem Trương Khởi Linh bị đem ra làm trò cười.

Chiêu này của Văn Cẩm trăm lần như một đều thành công, người không học võ khó mà đề phòng, nhưng lần này cô lại chụp không trúng, trong lòng không khỏi kinh hãi. Bỗng Trương Khởi Linh quay lại, thản nhiên nói: “Cô yên tâm, tôi có thể tự lo cho mình!”

Văn Cẩm cười nhạt: “Anh muốn tự lo cho mình? Tiểu Trương, trong viện nghiên cứu anh nổi tiếng vô tổ chức vô kỷ luật, nhưng đây là cổ mộ, dù anh không lo cho bản thân mình thì cũng phải lo cho sự an toàn của mọi người chứ.”

Trương Khởi Linh gật đầu, nhưng lại nói: “Tôi xem xét một chút rồi sẽ trở về ngay.”

Văn Cẩm giận đỏ mặt, thầm than sao mà đau đầu thế này chứ. Giọng điệu hắn không nóng cũng không lạnh khiến cô không sao nổi nóng được, đành bước tới giữ chặt lấy hắn, nói: “Không được, dù thế nào đi nữa anh cũng không được đi, nhóm chúng ta đã mất một người rồi, anh bảo khi về tôi biết phải ăn nói thế nào với mọi người trong viện?”

Trương Khởi Linh dường như bắt đầu sốt ruột, quay lại, lạnh lùng nhìn cô, nói: “Buông tay ra.”

Văn Cẩm vô cùng kiên quyết nhìn hắn, tôi nghĩ bất cứ tên con trai nào thấy một cô gái đáng yêu nhìn mình bằng ánh mắt như vậy thì cũng đều thỏa hiệp. Nào ngờ Trương Khởi Linh lại đột nhiên trừng mắt, trong tích tắc như biến thành ác quỷ, Văn Cẩm bị dọa cho bủn rủn tay chân, bị hắn gạt tay ra.

(thôi thôi đúng là anh bị lãnh cảm với gái dzồi, thôi quay về chính đạo với em Tà đi anh, em thương ~~~)

Khi cô nhìn lại, ánh mắt Trương Khởi Linh đã trở về với vẻ bình thản đến nỗi không tài nào nhìn ra cảm xúc trong đó. Hắn gật đầu một cái với cô, còn nói: “Cám ơn!”

Những người còn lại nhìn thấy cảnh này lại tưởng Văn Cẩm đã đồng ý yêu cầu của hắn, đều tỏ ra không phục. Con người vốn là như vậy, chỉ cần một người phá luật, những người còn lại sẽ hùa nhau làm theo. Mấy người kia thấy Trương Khởi Linh bước vào hành lang, phần thì sợ hắn giành hết công trạng, phần lại nổi lên tính hiếu kỳ, nhao nhao lên chạy theo sau hắn.

Văn Cẩm dù sao cũng chỉ là một cô gái, cô biết ngay khi bàn tay mình bị gạt xuống, cô cũng đã mất đi khả năng khống chế đối với mọi người trong nhóm. Chuyện đến nước này, trừ khi trong tay có khẩu súng, không thì chẳng có cách nào ngăn cản nổi mấy gã choai choai này.

Tính tình chú Ba lại không tốt, nếu lúc này mà gọi chú Ba dậy, với tính khí của ông ấy hẳn sẽ vì sĩ diện mà gây gổ với Trương Khởi Linh một trận tưng bừng, tình hình có lẽ sẽ càng khó cứu vãn. Sau khi đã cân nhắc lợi hại, cô quyết định tự mình dẫn cả nhóm vào hậu điện xem xét rồi nhanh chóng trở lại. Với kinh nghiệm đổ đấu nhiều năm của cô, nếu đây chỉ là một ngôi mộ bình thường thì tất nhiên là không có vấn đề gì.

Chuyện tiếp theo sau đó cũng gần giống như những chuyện chúng tôi đã trải qua, về phần bọn họ vượt qua được hành lang trùng điệp cơ quan như thế nào, rồi phát hiện được bậc thang trong ao ra sao, sau đó xuống đến đáy ao vân vân gì đó dù cũng rất ư là khúc chiết ly kỳ nhưng không phải là chuyện quan trọng đáng nhắc lại. Thời điểm Trương Khởi Linh kể lại cũng chính là câu đầu tiên vừa nãy hắn nói, những sự việc quan trọng chỉ bắt đầu từ khi cả nhóm bọn họ xuống được đến đáy ao ngập nước và nhìn thấy tấm bia đá không có chữ nào kia.

Cảnh tượng dưới đáy ao quả thực vô cùng kỳ dị, ánh đèn pin chiếu vào lớp sương mù dày đặc thỉnh thoảng lại biến thành đủ mọi vẻ mặt khiến cho người ta sinh ra cảm giác sợ hãi. Đến khi xuống được bậc thang đá cuối cùng, cả nhóm lại trở nên đoàn kết, không dám thở mạnh, dẫn dắt nhau đi trong sương mù, trong lòng thấp thỏm lo sợ có thứ gì đó đột nhiên  xông tới.

Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh không sợ hãi chút nào, trong khi mấy đàn anh trong viện ngày thường oai phong lẫm liệt mà bây giờ đều thập thập thò thò rúc hết ra sau lưng hắn, không khỏi nảy sinh chút cảm tình, liền nói với mấy nam sinh kia: “Nhìn mấy người các anh xem, so ra đều lớn hơn Tiểu Trương đến mấy tuổi, vậy mà đến một góc của người ta cũng không bằng, có xấu hổ không chứ!”

Mấy người kia tuổi còn khá trẻ, mà lẽ thường ngựa non háu đá, bị Hoắc Linh nói khích như thế đều hăng tiết lên chẳng thèm quan tâm sống chết nữa, tranh nhau vượt lên phía trước Trương Khởi Linh. Không gian trong ao không rộng, mấy tên đó đi được mấy bước thấy không có chuyện gì, cũng vững dạ hơn, lại càng dấn sâu vào trong màn sương. Mới đi được vài bước, đột nhiên người dẫn đầu hét to: “Trong này có quái vật!”, vừa hét vừa chạy ngược về.

Tiếng hét này thiếu điều hù cả đám sợ đến tè ra quần, mấy người đi sau chưa thấy gì mà da đầu đã tê rần, cũng chạy ngược trở về. Trương Khởi Linh không thèm quan tâm đến bọn họ, dẫn vài người tiếp tục tiến vào mới thấy thứ được gọi là quái vật kia chính là Định hải thạch hầu.

Đồng thời họ cũng thấy được mấy con Định hải thạch hầu còn lại cùng tấm bia đá không có chữ kia.

Trong nháy mắt, mọi người đều cảm thấy chấn động mãnh liệt, tuy những thứ ở đây không hề đồ sộ, nhưng trong mắt họ lại vô cùng ý nghĩa. Tất cả những thứ có trong cổ mộ này đã đánh đổ quan niệm ngàn năm không đổi trong sách giáo khoa Trung Quốc về mồ mả, có giá trị khảo cổ vô cùng lớn.

Ngay cả Văn Cẩm cũng kinh ngạc không thốt nên lời, cô lẩm bẩm: “Trời ạ, những thứ này thật không thể tin nổi, nói không chừng nơi đây sẽ trở thành cột mốc quan trọng trong ngành khảo cổ Trung Quốc.”

Sau nỗi khiếp sợ chính là niềm vui vô hạn, với niên đại của những thứ này, đây sẽ là một phát hiện trọng đại đồng thời cũng là cơ hội vô cùng ý nghĩa. Nếu công bố rộng rãi phát hiện này, ai ai cũng sẽ phải biết đến tên tuổi bọn họ, nghĩ đến đây, người thì cười ngây ngô hệt như tên ngốc, người thì phấn khởi vô cùng, tất cả đều không kiềm chế nổi mà bắt đầu nhảy cẫng lên.

Lúc đó, kẻ khởi xướng chuyện này là Trương Khởi Linh lại nhíu mày, hắn vốn cẩn thận hơn những người khác, đã sớm thấy được cổ văn khắc trên tấm bia đá.

“Thử bi vu hữu duyến giả, tức hiện thiên cung môn, nhập chi, khả đắc tiên cảnh dã.”

(Tấm bia này nếu gặp người có duyên, sẽ hiện ra Thiên cung môn, vào đó có thể đến được cõi tiên)

Câu này khiến hắn chấn động, gợi ra những suy tưởng sâu xa. Do vậy hắn không hề bị ảnh hưởng bởi sự ồn ào của những người xung quanh, chìm sâu vào trầm tư.

Theo như hắn nghĩ, văn tự thế này không thể vô duyên vô cớ được khắc ở đây. Có câu vật tất có chỗ dùng, chủ nhân ngôi mộ này đem mấy thứ này bày ra ở đây hẳn phải có dụng ý.

Trong tấm bia này có lối thông với Thiên cung môn, rốt cuộc là ở đâu? Như thế nào mới được xem là hữu duyên đây? Hắn đứng trước tấm bia đá dò xét từng tấc một, nhưng bia đá chỉ là bia đá, không bất kỳ cơ quan hay dấu vết nào của văn tự in chìm.

Mấy người kia sau một hồi náo loạn cũng dần tỉnh táo lại, Văn Cẩm thấy cũng đã khá trễ, cứ tiếp tục nán lại ở đây thì không hay lắm liền đề nghị cả nhóm quay về. Mấy người kia vui vẻ cũng đủ rồi, học hỏi cũng đã xong, bắt đầu ổn định lại, cười cười nói nói đi về phía bậc thang. Văn Cẩm điểm danh từng người một trong đoàn, cuối cùng phát hiện ra Trương Khởi Linh vẫn chưa quay lại.

Trương Khởi Linh đầu tiên thì không chịu phục tùng, cứ khăng khăng muốn đến hậu điện, bây giờ lại không chịu quay về cùng mọi người, nghĩ đến đây Văn Cẩm cực kỳ tức giận, nhưng là người phụ trách, cô không thể mặc kệ hắn. Cô đành thông báo với cả nhóm, sau đó tất cả lại quay trở vào trong đám sương mù.

Bọn họ đi được mấy bước, thấy Trương Khởi Linh còn đang ngồi trước tấm bia đá nghiên cứu gì đó, Văn Cẩm không khỏi tức giận kêu lên: “Anh còn không đi! Rốt cuộc là định gây rối đến…?”, nói chưa dứt lời, Hoắc Linh bỗng níu chặt tay cô bảo cô đừng nói nữa. Văn Cẩm bực mình, nhìn sang những người khác thì thấy nét mặt bọn họ có vẻ sợ hãi, thật khó hiểu.

Hoắc Linh thấy cô không có phản ứng gì, vội chỉ vào trong đám sương mù, Văn Cẩm nhìn theo tay cô nàng thì thấy sâu trong đó, cách Trương Khởi Linh không đến hai mét, xuất hiện một bóng người cực lớn.

 Chương 32: Kỳ môn độn giáp

 Editor: Thanh Du

*****

Bóng người khổng lồ kia hình như phải cao ngang ngửa tấm bia đá, cũng mơ hồ thấy có đầu có cổ, không khác người thường. Có điều tư thế cong cong lưng của kẻ kia quái dị không tả, khiến người ta không rét mà run.

Văn Cẩm toát mồ hôi lạnh, nhóm bọn họ hiện đang đứng ở chỗ nối tiếp giữa thang đá và đáy ao, chỉ cách bóng người khổng lồ kia có năm bước chân, nói dài không dài mà nói ngắn cũng chẳng ngắn, tình thế khó xử vô cùng. Đáy ao mờ mịt sương, ánh sáng chỉ dựa vào mấy cái đèn pin công suất không lớn lắm, nhất thời không sao thấy rõ thứ đó là người hay quỷ. Mà vừa rồi nơi này có nhiều người như thế, chỗ nào cũng lục soát qua cả rồi, dưới đáy ao sâu hơn mười mét này ngoại trừ bốn con Định hải thạch hầu và một tấm bia đá trống trơn thì chẳng còn gì khác. Vậy cái “người” khổng lồ này, rốt cuộc đã xuất hiện ở đó từ lúc nào? Không ai biết cả.

Mà cái tên Trương Khởi Linh chết tiệt kia hình như chẳng hề phát hiện ra, cứ nhìn tấm bia đá đến nhập thần, không biết rốt cuộc hắn đang nghiên cứu cái gì. Văn Cẩm quả thực đã hận hắn thấu xương, có điều cô là người phụ trách, không thể bỏ mặc hắn được. Nhất thời cô cũng không biết phải làm thế nào, đành dặn những người đứng sau không được lộn xộn.

Qua năm sáu phút liền, “người” khổng lồ kia vẫn ẩn ẩn hiện hiện sau màn sương, hình như không hề có ý cử động.

Lúc này Hoắc Linh đã chịu hết nổi, khẽ khàng gọi: “Tiểu Trương, anh còn ngồi ngây ra đó làm gì ~ mau lại đây với chúng tôi.”

Văn Cẩm vội vàng “hừ” khẽ ra hiệu yên lặng. Trương Khởi Linh ngồi cách thứ kia chỉ hai ba bước chân, nếu manh động, e rằng với khoảng cách quá gần như thế sẽ rất khó toàn mạng trở ra; biện pháp tốt nhất lúc này chính là tạm thời duy trì hiện trạng.

Trong lúc đó, Văn Cẩm nhanh chóng phân tích tình hình hiện tại. Trong cổ mộ tuy không thiếu chuyện hung hiểm, nhưng chỉ cần anh biết mình đang đối đầu với cái gì, tự nhiên sẽ có cách ứng phó. Đáng sợ nhất là thân lâm hiểm cảnh lại ngơ ngơ không biết gì, thường thường sẽ chết không minh không bạch.

Văn Cẩm phân tích sơ bộ, cảm thấy nơi này không thể có bánh tông được. Bởi lẽ cổ mộ này chọn được vị trí cực tốt, quần đảo Tây Sa trong mấy trăm năm nay rất hiếm người lui tới, trên mặt biển vô số dải đá ngầm nhô lên tạo thành những cánh cung lớn, dưới mặt nước cũng liền mạch với nhau, hợp thành một dải núi ngầm dài miên man không dứt. Núi ngầm ẩn dưới đáy biển, tụ phong dưỡng khí, đông thấy đầu rồng tây thấy đuôi, là loại long mạch dưới đáy biển vô cùng hiến gặp. Mà rồng vốn sống dưới nước rồi sau mới bay lên trời, cho nên trong phong thủy thì thủy long còn được đánh giá cao hơn sơn long.

Một nơi như vậy nếu có quan tài thì ắt phải có cả quan lẫn tài (*) Đặc biệt nếu người táng trong cổ mộ thực sự là Uông Tàng Hải, xem danh tự có thể thấy ngũ hành khuyết thủy (**), như vậy làm mộ dưới biển lại càng phù hợp, quả thực có thể nói là đã chiếm hết thiên địa nhân trong phong thủy.

(*) Chỗ này chơi chữ, quan trong quan tài đồng âm với quan trong quan chức, tài trong quan tài đồng âm với tài trong tiền tài. Ý là đã có quan tài thì phải chôn người quyền cao chức trọng, tùy táng thêm nhiều đồ quý.

(**) Đại loại là thời xưa khi đứa trẻ mới sinh sẽ có trò lấy ngày giờ sinh đi xem bói để đoán mệnh. Ngày, giờ, tháng, năm sinh gọi là sinh thần bát tự, cứ 2 chữ thì có một can một chi, trong đó 10 can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) chia làm ngũ hành => trong sinh thần bát tự sẽ có tối đa 4 hành. Nhưng ngũ hành có 5 hành tất cả, nên kiểu gì cũng phải khuyết ít nhất 1 hành, nên khuyết hành nào thì khi đặt tên phải có bộ đó để bổ sung. Uông Tàng Hải = vũng nước, đầm nước chi đó, túm lại là rất nhiều nước => ông này khuyết thủy, ý Văn Cẩm là thế :-”

*đúng là Bắc phái, sợ dzồi :-ss*

Cho nên trừ khi sách viết về phong thủy đều đáng vứt đi hết, bằng không nơi này tuyệt đối không thể có bánh tông. Văn Cẩm nghĩ thế, trong lòng đã nhẹ đi nhiều. Nếu không phải cương thi, thứ kia ắt phải là người hoặc động vật, chỉ cần là vật sống thì nơi này có chừng ấy người, đừng nói là thân cao hai thước, dù ngươi thân cao ba thước chúng ta cũng bắt sống dông về.

Lúc này chợt nghe một nam sinh nói: “Văn Cẩm, tôi thấy có gì đó không ổn. Tôi nhớ chỗ đó vốn đặt con khỉ đá cơ mà, không lẽ có thứ gì trèo lên đứng trên khỉ đá?”

Văn Cẩm trong lòng chấn động, cô đột nhiên nghĩ ra, chẳng lẽ là chú Ba tỉnh lại, thấy mọi người đã không còn ở đó mới mò đến đây tìm họ? Tên này thường làm những chuyện không đứng đắn, có khi nào hắn giận mọi người không nghe lời mình, nên mới trốn sau đám sương mù rồi bò lên trên con khỉ đá để hù bọn họ chơi?

Nếu đúng là như thế thì tên kia thật đáng giận, Văn Cẩm nghĩ vậy, cảm thấy đây là cách giải thích hợp lý nhất, nghĩ rồi cô hướng về phía cái bóng kia gọi to: “Ngô Tam Tỉnh! Đừng có giở trò nhát ma vớ vẩn nữa, mau lăn xuống đây cho tôi!”

Nếu người kia đúng là chú Ba, nghe cô gọi thế chắc chắn phải biết trò đùa của mình đã lộ tẩy, có cù nhây thêm nữa cũng vô ích. Chú Ba là người rộng lượng, chuyện vặt vãnh thế này chú cười xòa một cái là cho qua ngay, tuyệt không để bụng.

Nào ngờ lời còn chưa dứt, cái bóng kia đã đưa tay ra vẫy vẫy, hình như đang ra hiệu cho bọn họ yên lặng.

Văn Cẩm thấy chiều dài cánh tay kia kém xa so với chiều dài thân, cho thấy quả nhiên có người trèo lên khỉ đá. Cô không thèm nghĩ ngợi đã kết luận ngay đó là chú Ba, bực tức giậm chân bình bịch rồi chạy lại gần, nhảy lên khỉ đá định nhéo tai chú một cái.

Đây là chiêu cuối cùng cô dùng để đối phó với chú Ba, bởi vì họ từng giao hẹn sẽ không bao giờ cãi lộn; một khi Văn Cẩm giận đến cực điểm thì có thể nhéo tai chú Ba, cho chú biết mình đã điên lắm rồi đây. Thông thường ở vào tình huống này, cho dù chú Ba có ăn gan hùm mật gấu cũng không dám làm càn.

Nói thì chậm mà chuyện chỉ xảy ra trong chớp mắt, cô vừa nhảy lên con khỉ đá, còn chưa kịp động thủ, người kia đã ôm ngay lấy cô, một tay bịt miệng cô lại, khẽ nói: “Tôi là Tiểu Trương đây! Cô đừng nói gì cả, thử nhìn xuống dưới kia đi.”

Văn Cẩm vốn đang tức điên lên, nhưng vừa nghe giọng nói này cũng không khỏi sửng sốt, đây đúng là giọng Trương Khởi Linh! Sao hắn lại ở trên con khỉ đá?

Cô lại nghĩ nghĩ một lát, đột nhiên toát mồ hôi lạnh. Không ổn! Nếu Trương Khởi Linh đã ở đây rồi, vậy người ngồi trước tấm bia đá là ai?

Cô nhớ lại tình huống vừa rồi, lúc ấy cô chỉ thấy trước tấm bia đá có một người đang ngồi, trên tay lại có đèn pin; hơn nữa cả đoàn chỉ còn thiếu mỗi Trương Khởi Linh, cho nên mới hấp tấp phán đoán. Chẳng lẽ sai lầm của cô chính là do ấn tượng chủ quan?

Nghĩ đoạn cô cũng ló đầu ra nhìn, vừa thấy liền ngây người. Kẻ ngồi trước tấm bia kia dù cũng mặc đồ lặn giống họ, nhưng nhìn dáng người thì không phải ai khác, mà chính là chú Ba!

Vả lại chú Ba còn có điểm gì đó bất thường, ban đầu Văn Cẩm không hiểu nổi chú đang làm gì, nhìn kỹ mới phát hiện ra chú đang soi vào tấm bia đá bóng loáng như gương kia mà chải đầu. Nhưng chuyện làm người ta rợn tóc gáy hơn là động tác ưỡn ẹo này của chú rõ ràng chỉ có con gái mới làm.

Chú Ba chải chải một lúc, lại, chăm chú ngắm nhìn hình bóng mình trong tấm gương đá, hệt như một thiếu nữ khuê các trang điểm vừa xong, đang ngắm nghía thành quả của mình lần cuối.

*ọe :-ss*

Gương mặt chú Ba in trên gương đá khẽ mỉm cười, thoáng nhìn chỉ thấy vô cùng quỷ dị. Hình ảnh này nếu là ngày thường hẳn trông rất nực cười, nhưng ở vào tình thế này, Văn Cẩm chỉ thấy tay chân lạnh ngắt, thở cũng không dám thở mạnh.

Những người bên dưới thấy trên con khỉ đá có hai người ôm nhau, không hề nhúc nhích, ai nấy đều cho là chú Ba giả thần giả quỷ dọa người, mới thở phào một hơi nhẹ nhõm. Hoắc Linh lo lắng cho Trương Khởi Linh, đột ngột chạy lại sau lưng người ngồi trước bia đá, vỗ vỗ vai hắn nói: “Tiểu Trương, anh ngây ra ở đây làm gì thế?”

Chuyện này đúng là vượt ngoài dự liệu, Trương Khởi Linh thầm kêu một tiếng không ổn, muốn đứng ra ngăn cản cũng không kịp nữa. Chỉ thấy người ngồi trước bia đá đứng bật dậy, dọa cho Hoắc Linh thét lên một tiếng chói tai; nhưng cô cũng nhanh chóng nhận ra người đứng trước mặt mình là chú Ba, từ sợ chuyển thành giận, quát lớn: “Ngô Tam Tỉnh, thì ra là anh! Anh không ngủ đi còn ngồi chỗ này ưỡn ẹo làm cái gì?”

Chú Ba nhìn Hoắc Linh, đột nhiên lấy tay che mặt, thét lên một tiếng quái dị, ra sức đẩy cô một cái khiến cô ngã bệt xuống đất, sau đó cắm đầu bỏ chạy. Trương Khởi Linh thấy chuyện không ổn, lập tức nhảy xuống khỏi con khỉ đá mà đuổi theo. Hắn chạy rất nhanh, nhưng chạy qua Hoắc Linh hắn còn dừng lại một lát để xem cô có bị thương không. Nào ngờ hành động ấy lại phá hỏng đại sự, Hoắc Linh vừa thấy Trương Khởi Linh chạy lại liền nghĩ hắn quan tâm đến mình, trong lòng không khỏi cảm động, mới ôm chầm lấy hắn.

Trương Khởi Linh thở dài, trì hoãn vài giây thế này cũng đủ khiến hắt mất hết tiên cơ. Hắn lăn một vòng thoát ra khỏi cánh tay Hoắc Linh, nhưng vừa thấy chú Ba thì chú đã chạy vào màn sương dày đặc, trông theo bóng dáng ẩn hiện thì hình như đã chạy đến vách ao.

Trương Khởi Linh hét lớn: “Coi chừng thang đá! Đừng để hắn chạy lên!” Nói rồi lập tức đuổi theo. Đúng lúc này hắn mơ hồ thấy chú Ba chạy phía trước bỗng xoay người một cái, trong nháy mắt gần như đi xuyên qua vách ao. Nhưng màn sương quá dày, toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào thì hắn không sao nhìn rõ.

Trương Khởi Linh đuổi đến vách ao thì đã chẳng thấy người đâu nữa, đành phải dừng lại. Hắn không tin chú Ba có thể đi xuyên tường, tuy hắn không phải dạng người cứng nhắc nói gì cũng lôi chủ nghĩa duy vật vào, nhưng chuyện diễn ra quá mức khó tin, ắt bên trong phải có điều gì bí ẩn.

Hắn ngây người trong chốc lát, lấy tay sờ lên vách tường đá. Nhưng rõ ràng bức tường đá này là thật, Trương Khởi Linh không tin trên đời lại có thuật đi xuyên tường. Hắn đưa hai ngón tay dài khác thường của mình chạm vào tường đá, trong nháy mắt hai ngón tay cực kỳ mẫn cảm kia bỗng cảm nhận được bức tường đá này đang chuyển động rất chậm.

Tâm trí hắn rối bời, thầm nghĩ thôi xong! Vừa rồi vậy mà lại không phát hiện ra, thực chất bản thân cái ao này chính là một cơ quan khổng lồ!

Hắn đột nhiên cảm khái vô cùng, có thể nói đây chính là một kỳ tích kiến trúc thời cổ. Lấy kinh nghiệm của mình mà đem so với chủ mộ thì chẳng khác nào một đứa trẻ ấu trĩ.

Nhưng rốt cuộc cơ quan này dùng làm gì cơ chứ! Cả đám xuống đáy ao cũng được vài phút rồi mà hình như đáy ao không có gì biến đổi. Lão Uông Tàng Hải chết tiệt kia, lẽ nào lão làm tất cả những chuyện này chỉ nhằm mục đích tạo ra một phòng ăn xoay tròn trong mộ mình?

Nguyên lý hoạt động của cơ quan này, Trương Khởi Linh cũng không lạ lẫm gì. Theo lời hắn nói thì hiểu biết của hắn về cơ quan cạm bẫy trong cổ mộ Trung Quốc sâu sắc hơn bất cứ kẻ nào (nguyên văn) những thứ đại loại như nguyên lý hoạt động, nguồn gốc, khuyết điểm, thậm chí tên người sáng chế đều vô cùng thông thạo.

Dựa theo kinh nghiệm của hắn, cơ quan này chỉ sử dụng nguyên lý cực kỳ đơn giản để vận hành. Bởi lẽ hắn biết thường thì những cơ quan như lò xo tinh xảo, cung gỗ nỏ ngầm, dù sử dụng chất liệu tốt đến chừng nào thì trải qua từ vài trăm năm đến hơn ngàn ngăm, ngòi kích phát đều đã mục nát đến không thể hoạt động được. Cơ quan dùng để ngăn kẻ trộm mộ, thông thường chỉ đơn giản là một tầng cát bên ngoài tường mộ (kẻ trộm mộ khi đào đến tầng cát này, một lượng cát lớn trên mặt sẽ sụt xuống, chôn sống kẻ liều lĩnh. Nhưng đây cũng là cách làm cực kỳ bị động, bây giờ thậm chí kẻ trộm mộ còn căn cứ vào vết cát trên xẻng Lạc Dương để xác định vị trí thực sự của cổ mộ, rồi trực tiếp đục qua mười hai tầng gạch trên đỉnh mộ mà vào)

Nếu muốn có một cơ quan vận hành thông suốt trong vài trăm đến vài ngàn năm, dĩ nhiên phải dùng vật liệu ngàn năm không hư hỏng, ví như đá tảng hay dòng nước chảy mãi không cạn. Những thứ này ở đây đều có cả, không những thế nước ở đây còn lên xuống theo thủy triều, cung cấp động lực không nhỏ, nếu muốn lợi dụng thì càng thuận tiện hơn.

Nếu chủ nhân ngôi mộ này đúng là Uông Tàng Hải, có thể nói sự say mê và năng lực vận dụng kì công xảo thuật của ông ta đã đạt đến độ phi phàm, e rằng trên thế gian này chẳng ai có thể vượt qua được.

Trương Khởi Linh vừa nghĩ vừa sờ thử những đoạn tường đá khác, trong lòng đã có một liên tưởng mơ hồ. Trên bức tường này chắc chắn phải có cửa vào, vừa rồi hắn chỉ lưỡng lự trong giây lát mà cửa vào đã dời đi. Hắn vừa đi vừa mò mẫm, mới tiến lên được vài bước, quả nhiên đã phát hiện ra một cánh cửa ngầm.

Làm gì có chuyện tìm được cửa vào dễ dàng như thế, hắc lắc lắc đầu, không dám đi vào, tiếp tục tiến lên phía trước. Lần này hắn càng đi càng nghi hoặc, đi hết một vòng, một nơi chật hẹp thế này mà có tổng cộng những tám cửa ngầm. Hắn âm thầm tính toán, hình như đã hiểu ra vấn đề. Chết tiệt, đây chẳng phải là kì môn độn giáp hay sao?

Chương 33: Cửa sinh

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Kỳ môn độn giáp xuất hiện từ hơn bốn ngàn sáu trăm năm trước, gần như cùng thời điểm với văn tự Trung Quốc cổ, người đầu tiên dùng thuật này chính là Hoàng Đế lão tổ, về sau truyền cho hậu thế, hầu như mỗi nhà quân sự lúc bấy giờ đều biết một chút. Tuy nhiên từ sau thời nhà Hán thuật kỳ môn độn giáp không còn giữ được nguyên bản, bởi lẽ khi tên khốn Trương Lương được Hoàng Thạch lão nhân truyền cho thuật này liền tìm cách giản lược nó đi, kết quả là người đời sau căn bản không thể hiểu được nữa. (1)

Những kiến thức của tôi về kỳ môn độn giáp đều học từ chú Hai, không phải chú Ba,  tuy hiểu biết không nhiều, nhưng ít nhất khi nghe Trương Khởi Linh nhắc đến nó tôi cũng không đến nỗi mù mờ như Bàn Tử, ngồi nghe cứ như vịt nghe sấm. Ban đầu kỳ môn độn giáp có bốn ngàn ba trăm hai mươi thế cục, đến thời Hoàng Đế chỉ thông hiểu được một ngàn không trăm tám mươi thế, truyền tới Trương Lương còn lại bảy mươi hai, hiện tại chú Hai tôi rút gọn xuống còn bốn mươi hai thế cục. Nhưng như thế đã là quý lắm rồi, bên ngoài bây giờ chỉ lưu truyền có mười tám thế mà thôi, các thế cục còn lại đều là do chú Ba tôi ngẫu nhiên tìm ra trong một ngôi mộ thời nhà Hán.

Kỳ môn độn giáp tuy rất huyền diệu, nhưng thực ra chính là lý luận về binh pháp và số mệnh, dùng nó để bày binh bố trận chẳng qua chỉ là ứng dụng một phần rất nhỏ trong đó mà thôi. Trận địa của kỳ môn độn giáp gồm tám trận, chia ra tám cửa Khai, Hưu, Sinh, Tử, Kinh, Thương , Đỗ, Cảnh, vào cửa sinh thì sống, vào cửa tử thì chết, nếu vào các cửa khác lại thấy xuất hiện tám cửa như cũ, cứ thế lặp đi lặp lại.

Trương Khởi Linh tìm được tám cửa ngầm này, tự nhiên nghĩ ngay đến kỳ môn độn giáp. Những cửa ấy vô cùng hẹp, chỉ có thể cho từng người lách mình đi qua. Nơi này sương mù dày đặc, bên ngoài lại có một cánh cửa di động một chiều, chỉ cần đẩy một phát có thể mở ra, sau khi đi vào sẽ có van tự động đóng lại, nếu không tự mình khám phá đương nhiên sẽ không phát hiện ra ở đây còn có chuyện kì lạ như thế.

Trương Khởi Linh vẫn có điều canh cánh trong lòng, hắn vốn không phải người thô thiển, thế nhưng vừa rồi lại quá chủ quan, cho rằng mọi kỳ môn xảo thuật đều lấy cái nhỏ, cái tinh vi làm trọng. Nhưng lần này mọi chuyện lại đảo ngược hoàn toàn, chủ mộ trọng quy mô lớn khiến hắn không lường trước được.

Hắn trở về chỗ tấm bia đá, đem những điều vừa tìm thấy kể lại. Mọi người đều ồ lên, cánh cửa này chứa đựng rất nhiều triết lý thâm sâu, bọn họ lại vừa trải qua cách mạng văn hóa, làm sao mà hiểu được? Văn Cẩm trầm tư một lát, đột nhiên lên tiếng: “Vừa rồi hành vi của Tam Tỉnh kì lạ như vậy, hệt như bị một nữ quỷ ám vào, liệu đó có phải chủ nhân ngôi mộ này hay không, nếu thế thì cánh cửa anh ấy vừa tiến vào có thể là cửa sinh chăng?”

Trương Khởi Linh nhìn thần thái rạng rỡ của cô giống như vừa phát hiện điều gì, hỏi: “Cô nghĩ ra gì vậy?”

Văn Cẩm bảo bọn họ đi theo mình đến chỗ tấm bia đá, cô bắt chước chú Ba nửa quỳ xuống, đầu hơi ngẩng lên, bắt đầu chải tóc. Cơ thể cô ấy rất đẹp, tư thế bày ra vô cùng mị hoặc, mấy anh chàng kia đều nhìn đến ngây người. Văn Cẩm chải mấy cái rồi rụt rè quay đầu lại, vừa mới cử động, đột nhiên cô run lên, hét lớn: “Tìm được rồi!”

Mọi người vội vã chạy tới đó, xem tới xem lui trên tấm bia đến nửa ngày cũng không thấy gì, Văn Cẩm nói: “Không phải, mọi người nhất định phải quỳ ở chỗ này như tôi mới thấy được!” Trương Khởi Linh như hiểu được điều gì, bắt đầu quỳ xuống, Văn Cẩm đè lên vai hắn: “Anh cao quá, cúi xuống thấp chút nữa, mắt đừng nhìn thẳng, phải nhìn nghiêng về phía thái dương ấy.”

Trương Khởi Linh thấy hơi buồn cười, cũng học theo điệu bộ của cô khi nãy, chải đầu vài phát, sau đó liếc mắt một cái vô cùng nữ tính, chợt hắn thấy nơi bóng mình phản chiếu trên tấm bia đá, ở thái dương có hình bóng mờ mờ ảo ảo của ba con cá nối đuôi nhau thành vòng tròn. Hắn giật mình, đầu hơi cử động, phát hiện chỉ cần góc nhìn lệch đi một chút, dấu hiệu đó liền biến mất.

Hắn à lên một tiếng, cuối cùng cũng hiểu được cái gì gọi là hữu duyên, lòng tức tối chửi thầm, xem ra chỉ có mấy cô nàng nghiệp dư, vô tình quỳ trước bia đá chải tóc mới có thể phát hiện ra dấu hiệu này, hơn nữa cao hơn hay thấp hơn đều không được. May mà Văn Cẩm quan sát cẩn thận, bằng không một gã đàn ông như hắn có nghĩ đến nát óc cũng không ra. (Tôi nghe xong cũng chợt bừng tỉnh, mà nói đi cũng phải nói lại, chẳng lẽ lúc sinh thời chủ mộ này chính là một tên đại sắc lang?)

Hắn tỉ mỉ quan sát hình con cá, phát hiện ấn ký đó di chuyển rất chậm, xem ra bên trong phiến đá này là một cơ quan quay cùng vận tốc với bờ ao, vị trí ấn ký này chỉ vào chính là Thiên môn. Hắn nghĩ tới đây liền bảo Văn Cẩm quan sát, còn mình thì cầm đèn pin chạy tới bên thành ao, lần lượt đứng ở vị trí các cửa ngầm, tới cửa số ba, Văn Cẩm thấy vị trí của ấn ký trùng với luồng sáng của đèn pin, hô lớn: “Là cửa này!”

Mọi người hoan hô mừng rỡ, đến cả Trương Khởi Linh cũng không kiềm được mà siết chặt nắm tay. Hắn đẩy cửa ngầm ra, nghiêng người đi vào, lối đi này cực hẹp, hướng thẳng vào bên trong. Lần này Trương Khởi Linh cực kì cẩn thận, đầu tiên hắn kiểm tra vách tường bốn phía, khẳng định không còn cơ quan nào nữa mới cho mọi người tiến vào.

Đường đi này cũng được xây bằng đá Thanh cương, chiều rộng chỉ đủ cho một người, cho nên đã có hai người hơi mập không thể chui lọt. Trương Khởi Linh bật đèn đi trước xem xét, thấy không gian trước mặt tối đen, hòa với màu vốn có của đá Thanh cương tạo nên cảm giác âm u tựa như màu của cõi âm phủ. Hắn tập trung chú ý, từng bước đi đều vô cùng cẩn thận, chỉ cần một tiếng động nhỏ vang lên cũng sẽ đứng lại nghe ngóng thật lâu. Nhưng lúc này hắn đã trở thành thủ lĩnh tinh thần của cả đoàn, hắn nói gì mọi người nghe theo đó, không ai nói nửa câu thừa thãi.

Bọn họ đi được nửa giờ, xung quanh tuyệt nhiên vẫn tối mịt, Trương Khởi Linh có cảm giác cả vũ trụ lúc này chỉ còn mình họ, trong lòng cũng bắt đầu thấy bức bối khó chịu. Đúng lúc này, đường đi trước mặt bắt đầu dốc lên, hắn ngẩng đầu, bất chợt phát hiện ở tít đằng xa le lói chút ánh sáng, tuy chỉ mờ nhạt như ráng chiều nhưng lại vô cùng ấm áp. Trương Khởi Linh biết đó chính là đích đến, kêu một tiếng, bước chân gấp gáp tiến lên. Điểm sáng càng lúc càng gần, đột nhiên mặt đất dưới chân trở nên bằng phẳng, bốn phía chung quanh bỗng bừng sáng lên như bị ánh vàng bao phủ. Hắn nheo mắt lại trước ánh sáng đột ngột, vừa nhìn sơ qua đã kêu lên kinh hãi, thiếu chút nữa quỵ xuống.

Trước mắt bọn họ xuất hiện một gian phòng lớn hình vuông, không đơn thuần là rộng mà còn ẩn chứa một thứ khí phách mãnh liệt, không gian bên trong chỉ có thể hình dung bằng hai chữ choáng ngợp, khiến người ta cảm thấy xúc động đến mức muốn quỳ sụp xuống.

Mỗi cạnh của gian phòng này đều có mười cây cột gỗ lim vàng đứng ngay ngắn, ba người ôm không xuể, hệt như những cây cột chống trời nơi chân trời góc biển. Cả căn phòng tuyền một màu vàng, mỗi bên trái phải dài mười trượng, xà nhà chạm khắc tỉ mỉ, còn có mười con kim long ngũ trảo (rồng vàng năm móng), vô cùng nguy nga lộng lẫy. Trần căn phòng cao hơn mười thước, khảm năm mươi bức tinh đồ

(bản đồ các ngôi sao)

, mỗi ngôi sao là một viên dạ minh châu, kích thước  áng chừng  bằng một quả trứng ngỗng, phát ra ánh sáng yếu ớt. Bốn góc phòng lại đặt bốn tấm gương lớn, ánh sáng phản xạ qua lại, tuy không sáng đến chói mắt nhưng cũng đủ chiếu sáng không gian. Nhưng thứ khiến cho bọn họ kinh ngạc nhất là một chiếc bàn đá cực lớn được đặt ở chính giữa căn phòng, Trương Khởi Linh vừa nhìn đã nhận ra, bên trên bàn đá là mô hình một cung điện nguy nga. Dù chỉ là mô hình nhưng lầu rồng điện ngọc, núi non sông nước không thiếu thứ gì, cực kì đồ sộ.

Trương Khởi Linh hưng phấn chạy tới, xem xét vài vòng xung quanh, nhận ra đây chính là mô hình Vân Đỉnh thiên cung. Hắn không nghĩ bên trong cổ mộ này lại có một cung điện lớn như vậy, thế nên không thấy có gì thất vọng, chỉ là tâm trí càng thêm rối bời. Xem ra Uông Tàng Hải thực sự xây nên một thiên cung, vậy thiên cung nằm ở nơi nào? Không lẽ thực sự ở trên trời?

Phát hiện này quả thực chấn động, mọi người háo hức dồn tới quan sát, mấy nam sinh còn cao hứng đỡ cả Hoắc Linh lên bàn đá. Hoắc Linh cười cười mãi mới đứng vững được, bỗng nhiên thét lên, nhảy xuống, run run nói: “Bên trên có người chết!”

Trương Khởi Linh kinh ngạc, vội vàng nhảy lên, thấy ở chính giữa mô hình là một hoa viên hình tròn bằng ngọc thạch, trên một tảng đá bên trong đó có một thây khô đã hoàn toàn co rút, quần áo trên người rách nát hết lộ ra thân thể màu đen. Đây là một tọa hóa kim thân* được gió tự nhiên sấy khô, vô cùng hiếm có, chỉ cần đánh thêm chút phấn vàng là có thể đưa lên chùa làm tượng cúng bái. Thi thể này một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tóc và móng tay cũng giống những kim thân khác, sau khi chết đi vẫn không ngừng sinh trưởng, đặc biệt móng tay đã dài gần bằng ngón tay, nhìn vào có điểm không hợp lý.

Tọa hóa kim thân: Chỉ thi thể các hòa thượng viên tịch khi đang trong tư thế ngồi thiền.

Hắn nhảy tới trước mặt thi thể không chút ngại ngần, trước tiên nhìn vào miệng người chết, xác định không ngậm vật gì, sau đó sờ vào nách rồi vừa xoa vừa ấn thi thể từ trên xuống. Văn Cẩm cũng nhảy lên, thấy thế mới đến sau lưng hắn, nhẹ giọng hỏi: “Trương Khởi Linh, rốt cục lai lịch của anh như thế nào, sao lại thông thuộc chuyện đổ đấu như vậy?”

Trương Khởi Linh nhìn cô, không hề mở miệng, Văn Cẩm nổi giận, nắm lấy tay hắn nói: “Anh rõ ràng là một tay chuyên đổ đấu, nếu không khi vào trong mộ sẽ chẳng thể bình tĩnh như vậy. Anh đi theo chúng tôi, rốt cuộc có dụng ý gì?”

Trương Khởi Linh ra hiệu im lặng, đưa tay chỉ vào thi thể, nói: “Chuyện đó không quan trọng, cô xem đây!” Nói xong, hắn cởi số quần áo còn sót lại trên thi thể xuống, lộ ra một vết sẹo lớn trên bụng, kéo dài từ xương sườn cuối cùng bên trái tới tận đan điền, hắn nắn bóp bụng thi thể một lúc, rồi cầm tay Văn Cẩm đặt lên đó xoa xoa. Cô run lên, quả nhiên bên trong bụng thi thể này có giấu thứ gì đó.

Trương Khởi Linh ngẩng đầu, bây giờ hắn không chắc mình có muốn mang thứ trong bụng thi thể ra hay không. Nếu người này trước khi chết đã mang thứ đó giấu vào bụng thì chứng tỏ vật này đối với hắn vô cùng quan trọng, hoặc đây là cách khảo nghiệm của người đã chết đối với bọn họ. Nguyên tắc của Trương Khởi Linh là tuyệt đối không vì bất cứ thứ gì mà hủy hoại thi thể trong cổ mộ, hắn đấu tranh tâm lý thật lâu, lại nhìn sang Văn Cẩm. Cô là người thuộc Bắc phái, đương nhiên trọng đạo nghĩa, lắc đầu nói: “Hạ thủ bất nhân, ắt bị trời phạt.”

Trương Khởi Linh thở dài, quyết định thôi đi vậy. Hắn chầm chậm lùi về phía sau, lạy thi thể kia một lạy, đến khi ngẩng đầu lên bỗng phát hiện có chỗ không hợp lý. Nhìn trái nhìn phải một hồi, hắn chợt hít vào một ngụm khí lạnh, thì ra thi thể khô héo kia vậy mà lại đang nở một nụ cười quỷ dị.

———————————-

(1)

Hoàng Đế 

[

黃帝

]

 (?-

 2599 TCN

), 

còn gọi là 

Hiên Viên Hoàng Đế

, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hoá Trung Quốc, được coi là thuỷ tổ của mọi người Hán. Hoàng Đế được coi là một trong Ngũ Đế, theo huyền sử Trung Quốc thì ông trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN và là người sáng lập ra nền văn minh Trung Quốc.

Trương Lương

[

张良

] (?-188 TCN) tự là 

Tử Phòng

, là mưu sĩ và là văn thần,1 trong “tam kiệt nhà Hán”(phi tam kiệt tất vô Hán thất), cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở, sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Chương 34: Liên hoàn

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Chuyện này thật sự là vô cùng hy hữu, dù là bánh tông đi nữa hắn cũng chỉ mới gặp qua loại biết chạy biết nhảy chứ chưa từng được thấy loại bánh tông biết cười. Trương Khởi Linh cảm thấy hơi căng thẳng, vội lui lại một bước, cả người căng lên chuẩn bị ứng phó với hành động tiếp theo của nó. Thật không ngờ bàn tay đang chỉ lên trên của cái xác khô kia bất ngờ cử động, chuyển hướng sang chỉ về phía đông, đồng thời cả gian phòng bỗng chốc tối sầm lại, mấy viên dạ minh châu trên trần không hiểu vì sao tắt ngúm trong nháy mắt.

Lúc cả bọn vào đây, vì tiết kiệm pin nên đã tắt hết đèn đi, lúc này tất cả đều sợ hãi hét lên. Trương Khởi Linh phát hiện căn phòng dù tối lại nhưng vẫn chưa đến nỗi tối đen như mực, vội ngẩng nhìn lên mới thấy bốn viên Dạ minh châu gần các góc tường nhất vẫn chưa tắt, trông như ánh đèn hiu hắt ở ngã tư đường trong đêm tối mịt mùng, chỉ chiếu sáng được một vùng nhỏ xung quanh. Lúc này lại nghe giọng nói run run của Lý Tứ Địa truyền lại từ bên cạnh: “Trên tường có… có … khuôn mặt!”

Trương Khởi Linh giật bắn người, quay nhìn sang mới thấy bức tường gạch vàng phía đông được viên dạ minh châu chiếu sáng mờ mờ tạo nên những đường nét kỳ lạ, bỗng dưng hiện ra một khuôn mặt người thật lớn trắng bệch.

Trương Khởi Linh biết đây lại là một trò lừa bịp khác, chán nản nhảy xuống đài đá, tiến đến đứng trước bức tường gạch phía đông xem xét, hóa ra trên tường quả thực có hình vẽ. Loại hình vẽ này hình thành khi có ánh sáng chiếu tới từ một hướng cố định, bóng của những khe rãnh trên tường sẽ tạo thành hình ảnh, nếu ánh sáng chiếu tới không đúng góc độ, hình ảnh sẽ không xuất hiện. Cũng vì đường nét của bức tranh này rất quỷ dị, trong tình huống căng thẳng rất dễ bị người ta tưởng tượng thành một khuôn mặt người đáng sợ.

Hắn quan sát thật kỹ, không khỏi giật mình. Hình ảnh trước mắt hắn dường như là một bức tranh tự sự, nội dung trên đó hẳn là miêu tả lại thời điểm Vân Đỉnh thiên cung vừa mới xây xong. Hắn thấy cái gọi là Thiên cung thật ra là một tòa kiến trúc được xây dựng trên một ngọn núi cao chót vót, trên đỉnh núi mây mù bao phủ hầu như che khuất cả cung điện, gây cho người ta cảm giác nó đang lơ lửng trên mây. Trương Khởi Linh thấy trên đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, hẳn là rất cao so với mặt nước biển, không biết là ngọn núi nào.

Hắn ngoảnh đầu nhìn lại, phát hiện trên bốn bức tường đều có hình vẽ hiện ra, vội bước tới bức tường phía nam tiếp tục xem xét. Chỉ thấy trên đó vẽ vách núi dưới thiên cung bị tạc thành rất nhiều sạn đạo (*) và hang đá nối tiếp nhau, một nhóm nhân công đang dùng ròng rọc kéo một cỗ quan tài rất lớn lên dọc theo từng hang đá. Đội ngũ đưa tang xếp thành hàng bám víu vào sạn đạo, khó nhọc leo lên trên. Trương Khởi Linh a lên một tiếng, Thiên cung này hóa ra lại là một lăng mộ, vậy người trong quan tài là ai đây?

(*) đường núi làm bằng cọc gỗ lát ván, dựng ở những nơi hiểm trở như hẻm núi hoặc bờ vực.

Hắn tiếp tục xem đến hình vẽ trên tường phía tây, càng cảm thấy kỳ quái hơn. Trên đó là hình ảnh sạn đạo nơi vách núi chìm trong ngọn lửa hừng hực. Những binh sĩ giữ lăng vì muốn đảm bảo an toàn cho lăng mộ nên đã thiêu hủy con đường duy nhất dẫn lên Thiên cung sau khi nghi thức nhập liệm kết thúc. Làm như vậy về cơ bản có thể ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ bị trộm mộ, dù là người Nam phái hay Bắc phái, không ai có thể đến một nơi cao như thế, vượt qua vách núi hàng trăm mét chỉ để đổ một cái đấu, chuyện này là không thể và cũng không cần thiết…

Trong trí nhớ hắn chưa bao giờ gặp loại mộ táng như thế này, không khỏi cảm thấy kinh ngạc, vội chạy đến trước hình vẽ cuối cùng. Vừa nhìn thấy hắn đã ngây người, vì hình vẽ này đơn giản lạ lùng: Thiên cung trên đỉnh núi bỗng dưng biến mất, chỉ thấy một vùng ngập trong tuyết trắng, không những thế, ngay cả vách núi cũng bị phủ lên một tầng trắng xóa. Tuy hình vẽ không mấy sống động nhưng Trương Khởi Linh vẫn nhìn ra được đây là một trận tuyết lở.

Hắn đoán có thể là do lửa lớn làm hơi nóng bốc lên khiến cho lớp tuyết đọng trên Thiên cung tan ra rồi lở xuống mới tạo thành một trận tuyết lở kinh hoàng như vậy, không chỉ chôn vùi Thiên cung mà còn che phủ cả đỉnh núi dưới lớp tuyết trắng, biến Thiên cung thực sự trở thành một mộ phần.

Hắn xem đến đây không khỏi thở dài một hơi, thật không ngờ vận mệnh của Vân Đỉnh thiên cung cuối cùng lại là như vậy. Xem ra Uông Tàng Hải vẫn luôn canh cánh trong lòng chuyện này, tác phẩm kiệt xuất của bản thân vừa mới hoàn thành không bao lâu đã bị băng tuyết chôn vùi, bấy nhiêu là đủ để ông ta buồn phiền đến chết rồi, chẳng trách ông ta muốn dùng phương pháp bí mật ghi chép lại chuyện này. Đây là lăng mộ của một nhân vật địa vị hiển hách, ông ta chắc chắn không thể đem tác phẩm này ra để lưu danh hậu thế, nhưng với tính cách thích khoe khoang của mình, ông ta nhất định sẽ tìm cách thức nào đó để cho hậu thế biết rằng trong số tác phẩm của mình còn có một tòa Vân Đỉnh thiên cung huy hoàng tráng lệ đến thế.

Hiện tại điều duy nhất hắn không biết chính là người được chôn trong phần mộ này là ai. Trương Khởi Linh hít sâu một hơi, chợt thấy Văn Cẩm cùng hai người nữa đang cố gắng di chuyển tấm gương lớn ở góc ĐôngNam. Hắn cảm thấy cực kỳ khó hiểu, vội hỏi cô làm gì vậy, Văn Cẩm lo lắng nói: “Tôi vừa thấy Tam Tỉnh núp sau tấm gương này, vừa chớp mắt đã chẳng thấy đâu nữa.”

Trương Khởi Linh lúc này mới nhớ tới chuyện của chú Ba, vội đến giúp một tay. Tấm gương đồng khắc chữ Phúc mạ vàng cao gần 2 mét này nặng khủng khiếp, cả bọn dốc hết sức ra mới dịch chuyển được nửa mét, mọi người ngó vào xem thử, chỉ thấy trên vách đá chỗ góc tường đằng sau tấm gương có một cửa động hình vuông cao hơn nửa người. Trương Khởi Linh soi đèn vào, chỉ thấy bên trong tối đen như mực, không biết nó dẫn đến đâu.

Mấy ngày trước, khi chú Ba dự tính quy mô lăng mộ đã không hề phát hiện ra ở đây còn có một căn phòng lớn như vậy, nhưng Trương Khởi Linh đã sớm biết lăng mộ này không chỉ đơn giản như  dự đoán của chú. Mộ thuyền táng không giống như lăng mộ trên đất liền, trong quá trình thuyền đắm, cả con thuyền phải giữ được cân bằng tuyệt đối, vì vậy mà kết cấu lăng mộ cần phải có tính đối xứng vô cùng cao. Chú Ba tính ra quy mô lăng mộ mặc dù không sai về nguyên tắc, nhưng rõ ràng là trên nặng dưới nhẹ, nếu kết cấu ngôi mộ đúng như chú dự đoán thì nói không chừng trong quá trình chìm xuống cả ngôi mộ đã lật nhào giữa biển rồi.

Khi đó hắn không muốn gây sự chú ý nên cũng lười tranh luận với chú Ba, bây giờ nhớ lại, ở đây có một thông đạo để cân bằng cũng chẳng có gì lạ.

Hắn giải thích với mọi người rồi mở đèn pin dẫn đầu đi vào. Từ lúc vào đạo động, đèn pin mở liên tục nên ánh sáng đã bắt đầu yếu đi. Văn Cẩm bảo bọn họ mở đèn đằng trước và đằng sau, còn nhừng người khác thì tắt hết. Bên trong thạch đạo tương đối rộng, đủ để bốn người có thể đi song song. Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh với Văn Cẩm đi gần nhau như thế, cảm thấy có chút khó chịu bèn lách lên chen vào giữa hai người. Lúc này Trương Khởi Linh bắt đầu cảm thấy tình hình có vẻ không ổn, hắn thấy thấp thoáng trong khoảng tối phía trước có thứ gì đó đang chuyển động.

Đồng thời mùi hương càng ngày càng đậm kia cũng khiến hắn chú ý, cảm giác này giống như họ đang tiến đến gần nơi mùi hương phát ra. Đi thêm vài bước nữa, mùi hương đã nồng đến mức hắn không thể nào tập trung được tinh thần. Hắn quay lại định hỏi Văn Cẩm thì thấy mấy người phía sau hầu như đã ngã hết trên mặt đất, Văn Cẩm xoa trán, mơ màng nhìn hắn một cái rồi ngã vào trong ngực hắn.

Trương Khởi Linh thầm than không ổn, lập tức nín thở nhưng đã không còn kịp nữa. Hắn chỉ cảm thấy cơn mệt mỏi kéo tới không cách nào chống cự, thân thể ngã vào vách tường, dần dần mất đi ý thức. Giữa cơn mông lung, hắn thấy chú Ba ngồi xuống nhìn mình, nét mặt không chút biểu cảm.

Muộn Du Bình nói tới đây thì hít sâu một hơi, trở nên trầm mặc: “Lúc tỉnh lại tôi đã thấy mình nằm trên giường bệnh, cái gì cũng không nhớ, cái gì cũng không biết, đến mấy tháng sau mới dần dần nhớ lại một vài chi tiết vụn vặt, lại thêm vài năm nữa, tôi bắt đầu phát hiện cơ thể của mình có vấn đề.”

Tôi sốt ruột muốn xen vào hỏi, phải chăng hắn đã phát hiện ra mình không hề già đi? Nhưng hắn không cho tôi một cơ hội nào, lập tức tiếp lời: “Bây giờ tôi vẫn chưa thể nói cho cậu biết đó là chuyện gì, nhưng mà ba tháng trước tôi gặp chú Ba cậu, thấy ông ấy nhìn rất quen, cũng nhớ thêm vài chuyện nên mới cùng mấy người các cậu đi Lỗ Vương cung.”, nói đến đây, hắn bỗng dưng quay sang nhìn tôi: “Trong Lỗ Vương cung, tôi phát hiện chú Ba cậu thực sự có vấn đề!”

Tôi ngẩn người không biết hắn có ý gì, hắn lại tiếp tục: “Sách lụa tơ vàng các cậu lấy ra từ quan quách đồng đen kia thật ra là giả, nó đã bị chú Ba cậu đánh tráo từ trước rồi.”

Tôi kinh hoàng quát lớn: “Nói bậy! Mẹ nó chứ không phải anh mới là người đánh tráo sao?”

Muộn Du Bình thản nhiên liếc tôi một cái, nói: “Không phải, là chú Ba của cậu làm, ông ấy với Đại Khuê đào động từ phía sau cái cây thẳng tới đáy quan tài. Đại khái đó cũng chính là nguyên nhân vì sao Đại Khuê nhất định phải chết.”

Nghe xong cả người tôi phát run, cảm thấy căng thẳng hơn bao giờ hết. Tuy vẫn còn muốn đứng về phía chú Ba, nhưng trong đầu tôi  như có tia chớp xẹt qua, vô số cảnh tượng thi nhau tái hiện. Tôi nhớ Đại Khuê vì sao mà trúng độc, nhớ Phan Tử trước khi leo lên cây còn rất tỉnh táo nhưng khi chúng tôi lên đến mặt đất anh ta đã chìm vào hôn mê sâu, nhớ lại lúc tôi với Bàn Tử còn chưa kịp leo lên khỏi khe hở kia, chú đã khiêng thùng xăng chạy đến.

Tôi không thể nào nghĩ tiếp được nữa, chỉ cảm thấy mọi thứ trên đời đều đảo lộn, không biết đâu là thật đâu là giả, rốt cuộc tôi nên tin tưởng ai. Tôi cảm thấy đầu óc rối bời, không thể kiềm chế được mà lẩm bẩm: “Không đúng, không đúng, chuyện không đơn giản như vậy, không có động cơ, rốt cuộc chú Ba tại sao phải làm như thế?”

Muộn Du Bình thản nhiên đáp: “Nếu kẻ đó thực sự là chú Ba của cậu thì đúng là không hề có động cơ. Nhưng mà…”, nói tới đây, hắn thở dài.

Tôi không hiểu ý hắn, có điều trong lòng đã bắt đầu tin tưởng hắn, không khỏi cười gượng. Trước kia tôi luôn muốn biết rốt cuộc chú Ba đang gạt tôi những chuyện gì, còn bây giờ tôi lại muốn biết rốt cuộc những chuyện nào chú mới không dối gạt tôi.

Sự việc biến đổi chóng vánh như vậy tôi cũng không thể nào ngờ đến, nhưng nghĩ lại thì lúc này chuyện đó không quan trọng. Bất kể ai thật ai giả đều phải chờ cho chúng tôi thoát ra rồi mới có ý nghĩa, chứ nếu chết cả ở đây thì biết được chân tướng cũng chẳng để làm gì.

Nghĩ vậy tôi vội lấy lại bình tĩnh, để bản thân thả lỏng một chút. Lúc này tôi thấy Bàn Tử chạy tới trước tấm bia đá, lóng ngóng ngồi phịch xuống, nhấc đầu ngón tay, ngồi ở đó lắc lư nghiêng ngó. Tôi nhíu mày kêu lên: “Tên mập chết tiệt, mẹ nó, anh lại bày ra trò gì nữa đây? Anh không thể ở yên một chỗ giùm tôi được sao?”

Hắn khẽ xoay đầu, giả giọng nữ trả lời: “Con mẹ nó, ai gia đang chải đầu, chỉ chải đầu mà không cần cái mạng của ngươi, ngươi nhiều chuyện cái gì?”. Tôi hết cách, mới hỏi hắn: “Chải đầu? Chẳng lẽ anh cũng muốn đi vào Thiên môn xem thử sao?”

Bàn Tử nói: “Đương nhiên, khung cảnh huy hoàng tráng lệ như vậy Bàn gia tôi làm sao có thể bỏ qua. Với lại cậu xem, chúng ta xuống được đến đây cũng chẳng dễ dàng gì, cô nàng kia lại chạy đâu mất, xem ra chúng ta cũng chẳng trông chờ gì được vào tiền thù lao rồi. Dù thế nào đi nữa cũng phải lấy cho bằng được mấy viên dạ minh châu, cái này gọi là có tiền thì không đi đổ đấu, mà đổ đấu thì không tay trắng ra về.”

Tôi mắng: “Nãy giờ anh nghe bao lâu, hóa ra là chỉ nhớ được mỗi Dạ minh châu thôi à?”

Hắn nghe xong, ấm ức nói: “Ai, đúng ra cậu không nên nói tôi như vậy, Bàn gia tôi đây muốn đi vào Thiên môn còn có một nguyên nhân quan trọng khác, các cậu có biết là gì không?”

Chương 35: Dòng chữ bằng máu

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Bàn Tử nghe xong không giận trái lại còn cười, dường như đã sớm có sự chuẩn bị: “Đương nhiên không phải, Bàn gia tôi đây muốn đi vào Thiên môn còn vì một nguyên nhân quan trọng khác, các cậu có biết là gì không?”

Tôi nói với hắn: “Ai biết được trong đầu anh nghĩ gì chứ, thích nói hay không thì tùy anh. Đừng quên lúc này chúng ta vẫn còn đang mắc kẹt, nếu định nói chuyện không đâu thì miễn giùm đi.”

Bàn Tử nói với tôi: “Cậu đừng nóng, chuyện tôi muốn nói có liên quan mật thiết với hoàn cảnh của chúng ta lúc này. Vừa rồi cậu không nghe Tiểu Ca nói sao, hành lang đằng sau Thiên môn dốc lên trên, mà căn phòng lớn nơi đặt mô hình Thiên cung lại vô cùng cao, đã cao còn lên cao nữa, ít nhất cũng phải hơn 10 mét. Cậu nghĩ thử xem cả cổ mộ này sâu bao nhiêu? Tôi đoán trần căn phòng đó chính là nơi cao nhất cổ mộ, cậu nói xem chúng ta muốn thoát ra ngoài thì nên bắt đầu từ đâu?”

Tôi nghe xong chợt bừng tỉnh, vội vàng nhẩm tính. Lúc vừa xuống đến mộ đạo dưới đáy nước, tôi có xem qua đồng hồ lặn, khi đó đã xuống sâu hơn mười ba mét. Bây giờ chúng tôi đang ở dưới đáy ao, từ nền căn phòng xuống đến đây khoảng hơn mười mét, có nghĩa là chúng tôi đang ở độ sâu khoảng hai mươi đến ba mươi mét dưới đáy nước. Tính ra trần của căn phòng nơi đặt mô hình Vân Đỉnh thiên cung kia cách đáy biển chưa đến mười mét, hoàn toàn đúng như lời Bàn Tử đã nói.

Vừa rồi mải lo nghe kể chuyện, không hề chú ý đến chi tiết nhỏ này, tôi không khỏi nhìn Bàn Tử bằng ánh mắt khác hẳn. Người này nhìn qua thì có vẻ lỗ mãng, thật ra lại nhạy bén vô cùng, xem ra sau này có xảy ra chuyện gì thì cũng khó mà gạt được hắn. Nghĩ đến đây, tôi quay ra nói với bọn họ: “Bàn Tử nói rất đúng, nhưng bây giờ có biết cũng vô dụng. Trong tay chúng ta chẳng có thứ gì, chưa nói đến chuyện không leo lên được trần phòng cao mười mét, mà dù có leo lên được đi nữa, trên đó còn mấy tầng gạch, trong tay lại không có công cụ thì cũng chẳng làm gì được. Tôi thấy tốt hơn hết là chúng ta đi tìm vài món minh khí bằng kim loại trước đã rồi mới quay lại thực hiện tiếp kế hoạch đào đạo động ngược lên, chứ còn dây dưa ở đây mãi thì sẽ lỡ thời điểm thủy triều rút mất.”

Dù nói vậy nhưng thực ra trong lòng tôi cũng không hy vọng gì nhiều, bởi lẽ những nơi chúng tôi đi qua từ đầu đến giờ, đồ tùy táng nếu không phải bằng sứ thì là đồ đá, đến một món đồ bằng kim loại cũng không có, điều này có hơi bất thường. Tôi mơ hồ cảm thấy đây hình như là sự sắp xếp có chủ ý của chủ nhân ngôi mộ này; bây giờ chỉ còn cách vào hậu điện xem xét thử, nếu vẫn không có gì thì đúng là ý trời muốn chúng tôi bỏ mạng lại dưới này rồi.

Bàn Tử nghe tôi nói xong, cười ha hả: “Tôi cũng nghĩ kỹ rồi, bốn phía trong căn phòng lớn kia không phải đều có gương đồng khắc chữ Phúc mạ vàng hay sao? Cậu làm nghề buôn bán đồ cổ thì cũng phải biết loại gương này có hình dạng như thế nào chứ? Chúng ta dỡ phần chân đế của tấm gương ra, thứ đó khá nặng, hẳn có thể dùng thay cho búa được.”

Lúc nãy tôi nghe cái tên này thấy cũng quen quen, giờ hắn nói vậy mới nhớ ra mình đã từng sang tay thứ này, nhưng hình dạng của nó ra sao thì tôi quên béng mất rồi. Thấy Bàn Tử khẳng định chắc nịch như vậy, không giống như đang nói chơi, tôi cũng có chút yên lòng bèn nói với hắn: “Được rồi, chuyện này chúng ta cứ quyết định như vậy. Thời gian không còn nhiều, chúng ta bắt đầu hành động luôn đi. Nhưng vào trong đó rồi anh tuyệt đối không được đụng tới bất cứ thứ gì đâu đấy, dưới này đâu đâu cũng là cơ quan, năm tháng sau này của chúng ta còn dài, đừng vì ham hố mấy món đồ của người chết mà hại mình chết dí dưới cái xó này!”

Bàn Tử nghe xong thì gật gật đầu, cam đoan rằng ngoài gạch ra thì hắn kiên quyết không đụng đến những thứ khác. Tôi sợ hắn vẫn còn lưu luyến mấy viên Dạ minh châu, lại nhấn mạnh thêm mấy lần đến khi hắn phát bực mới thôi. Tôi hỏi cho rõ ràng kết cấu của căn phòng đó, cùng hai người kia thống nhất biện pháp giải quyết các tình huống có khả năng gặp phải. Sau đó ba người chúng tôi y theo kế hoạch đã đề ra, đầu tiên là tìm Thiên môn, tiếp đó Bàn Tử dẫn đầu, sau đấy đến tôi, Muộn Du Bình đi cuối cùng, chúng tôi bắt đầu tiến vào trong Thiên đạo chật hẹp.

Từ lời kể của Muộn Du Bình, tôi cũng đã hình dung được cảnh tượng bên trong Thiên đạo, nhưng khi tự mình đi vào lại có cảm giác khác hẳn. Ban đầu cũng không có cảm giác gì, chỉ thấy giống như đi trong con hẻm lát đá ở Tây Đường, Gia Hưng vào buổi tối, có điều hơi chật hẹp hơn một chút mà thôi. Nhưng đi được một quãng, thấy trước không bờ sau không bến, tôi bắt đầu hoảng lên. Tôi đi ở giữa, có tối mấy cũng không phải sợ, nhưng bốn phía lại tĩnh lặng vô cùng. Chúng tôi đều mang theo chân nhái, tiếng bước chân cứ lạch bạch lạch bạch vang dội trong hành lang chật hẹp nghe cực kỳ quái dị, cứ như có một con quái vật đang đi theo đằng sau vậy. Bàn Tử vốn vững thần kinh, đối với chuyện này chẳng hề có cảm giác, chẳng qua chỗ này quá chật chội, hắn đi đứng không được thoải mái nên rất khó chịu: “Mẹ nó, không biết thằng cha nào tạo ra cái thạch đạo này, rõ ràng hắn muốn phân biệt đối xử với người béo như tôi mà. Cậu nói xem Thiên đạo dẫn lên Thiên môn sao lại khó coi như thế, nếu đường đi lối lại trên trời đều giống cái Thiên đạo này thì phật Di Lặc khỏi đi đâu được luôn!”

Tôi nói với hắn: “Không thể nói như vậy được, ông ta thiết kế như vậy hẳn là có lý do riêng. Đây là thuyền táng, thuyền có lớn mấy cũng có giới hạn, có lẽ ông ta vì muốn phô trương Thiên cung của mình nên đành phải tiết kiệm bớt không gian của những nơi khác. Hơn nữa trước giờ người đi đổ đấu toàn dạng vừa thấp vừa gầy, ai ngờ được người mập như anh cũng đi làm nghề này.”

Bàn Tử nghe xong có phần đắc ý, nói: “Ây, nói đến phái Mô Kim từ xưa đến nay, những cái khác không bàn, nhưng luận về sức khỏe Bàn gia tôi thế nào cũng đứng đầu. Tuy hơi béo một tí nhưng là béo khỏe béo đẹp, không ảnh hường gì đến thân thủ của tôi cả, cái này gọi là… ối!”

Bàn Tử đang nói, cả người đột nhiên khựng lại không đi tiếp nữa, tôi nhìn qua thì thấy hai vai hắn dính sát vào vách tường hai bên, bị kẹt cứng ở đó, được thể cười to: “Ai bảo anh khoe khoang rồi tự mình làm xấu mặt mình chứ.”

Bàn Tử thử nhúc nhích vài cái, nhưng không sao qua được, buồn bực nói: “Tiểu Ngô, cậu khoan cười đã, chuyện này có gì lạ lắm. Vừa rồi tôi còn đi qua được mà, sao giờ lại bị mắc kẹt.”

Tôi quan sát bốn phía, trả lời hắn: “Xem ra bề rộng của thạch đạo này không đồng nhất, có thể đoạn chúng ta đi qua lúc nãy rộng rãi hơn một chút, đến đây dần thu hẹp lại. Anh lui lại mấy bước thử xem có lách người ra được không.”

Bàn Tử lắc lắc cái mông căng tròn, cố gắng lui lại mấy bước nhưng vẫn như cũ, hắn nói: “Không đúng, không đúng, không phải nguyên nhân này. Hành lang này rõ ràng là chật hơn lúc đầu, tôi thấy mấy bức tường này lạ lắm, Tiểu Ngô, tôi chỉ sợ có chuyện bất thường.”

Nãy giờ cứ cắm đầu đi thẳng một mạch về phía trước mà không chú ý đến vách tường, nghe hắn nói vậy tôi cũng cảm thấy vách tường có hẹp lại một chút, bèn thử chống tay sang hai bên, bỗng cảm có cảm giác kỳ quái, tôi a lên một tiếng: “Toi rồi, hai bên vách tường hình như đang khép lại!”

Muộn Du Bình cũng sờ sờ vách tường, gật đầu nói: “Xem ra có biến rồi, không còn thời gian, chúng ta lui ra ngoài trước rồi tính sau!”

Tôi nghe vậy, thầm nhủ thôi cả đám gặp họa lớn rồi. Bị hai vách tường này ép lại, ba chúng tôi sẽ thành ba cái bánh nướng áp chảo mất, vội vã quay đầu co giò chạy thẳng. Bàn Tử thấy chúng tôi chạy nhanh như vậy, chỉ biết cố sức nghiêng người lách đi, miệng gào to: “Chờ tôi với, mẹ nó, hai người đừng có khôn lỏi thế chứ!”

Tôi chưa bao giờ chạy nhanh đến thế này, mấy lần suýt vấp ngã, bao nhiêu sức lực đều dùng bằng hết. Lúc tôi chạy gần đến cửa ra, hai bên vách tường rõ ràng đã hẹp lại rất nhiều, đến tôi còn phải nghiêng người mới có thể lách qua, Bàn Tử thì càng khổ sở hơn, chỉ có thể bò ngang như một con cua. Muộn Du Bình đưa tay phải định mở cánh cửa ngầm, đẩy hai cái, bỗng hắn chửi thề một tiếng, quay lại nói với tôi: “Bên ngoài có người chặn cửa xoay rồi!”

Bàn tử vừa nghe liền tái mặt, mắng to: “Cái Thiên môn chết tiệt, lần này coi như xong rồi, hai cậu mau mau nghĩ cách gì đi, không thì mấy gã trai trẻ chúng ta quy thiên tại đây hết bây giờ!”

Tôi nóng lòng đến cuống cả lên, cứ nhìn thấy bức tường từng chút từng chút thu hẹp lại, mẹ nó chứ cảm giác còn khó chịu hơn là chết nữa, nhưng tình thế quá cấp bách, thật chẳng biết làm sao cho phải. Ở vào hoàn cảnh này trừ khi xảy ra biến cố bất ngờ, không thì có là thần tiên cũng hết cách. Tôi bèn nói: “Còn có cách gì nữa, đành phải chạy ngược lại chứ biết sao. Nếu nhanh chân không chừng còn có một con đường sống!”

Muộn Du Bình kéo tôi lại, lắc đầu: “Nãy giờ cũng đã hơn mười phút, không kịp nữa rồi, chúng ta leo lên trên thử xem!”, nói xong hai chân đạp vào hai bên vách tường rồi leo lên phía trên. Tôi ngẩng nhìn lên, chỉ thấy bên trên cũng tối đen như mực, không có vẻ gì là rộng rãi hơn cả, không biết leo lên đó thì ích gì. Nhưng chuyện đã đến nước này, so với đứng đây chờ chết thì leo lên có lẽ vẫn hơn, nghĩ vậy tôi liền gọi Bàn Tử cùng nhau leo lên.

Hành lang hẹp lại, leo lên cũng dễ như đi trên đường vậy, chúng tôi cứ hướng thẳng lên trên, chỉ vài phút đã leo được hơn mười mét, Bàn Tử không khỏi líu lưỡi, nói: “Tiểu Ca quả nhiên nhanh trí, thế này tốt hơn nhiều, có gì trước khi bị ép thành bánh nướng chúng ra cứ nhảy xuống tự sát quách cho xong! Còn hơn bị ép chết, khổ sở không tả được.”

Tôi cũng không biết Bàn Tử đang nói đùa hay thật, nhưng nghĩ tới chuyện bị ép thành bánh thịt lập tức cảm thấy ghê tởm. Chết như thế thực chẳng dễ chịu gì, nói không chừng còn nghe được tiếng xương đầu mình bị ép vỡ, tôi thà ngã chết chứ không bao giờ muốn mình bị ép chết tươi kiểu này. Lúc này Muộn Du Bình từ bên trên nói vọng xuống: “Đừng có nghĩ lung tung nữa, chúng ta vẫn còn thời gian. Hai người có nhớ đến đạo động dưới cái quan tài kia không?”

Bàn Tử trả lời: “Đương nhiên là nhớ, nhưng liên quan gì tới chúng ta?”, lời vừa ra khỏi miệng, hắn liền ồ một tiếng: “Tôi hiểu rồi, ý cậu là, chúng ta nên học tập theo tinh thần của người đó, một khi vẫn còn hi vọng thì quyết không buông tay phải không?”

Muộn Du Bình nói: “Không phải, trên đời này làm gì có ai đi đổ đấu mà địa cung có đường không chịu đi, lại đào động trên vách tường chui tới chui lui? Như vậy chỉ có thể có một khả năng, người đó đã bị vây khốn, không còn cách nào khác mới phải đào động trên tường để thoát thân.”

Tôi nghe thế lập tức hiểu ra, không khỏi giật mình, vội nói: “Ý anh là người đào ra cái động đó cũng giống như chúng ta, lâm vào tình thế cấp bách mới phải đào ra đạo động đó?”

Tôi không thể không khâm phục lối tư duy nhạy bén của Muộn Du Bình, đồng thời cũng hiểu vì sao hắn phải leo lên trên. Nền và hai mặt vách tường hành lang đều làm từ đá Thanh cương, trừ khi có thuốc nổ, không thì không tài nào đào nổi một cái động, nơi có thể ra tay được ngoài trần nhà ra không còn chỗ nào khác.

Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã leo được đến đỉnh, trên này chỉ có một lớp gạch mỏng, tôi gõ thử vài cái, không khỏi mừng rỡ. Chúng tôi đoán không sai, quả nhiên những viên gạch này đều rỗng ruột, loại gạch này có thể chịu được áp lực nhưng lại rất dễ vỡ, chỉ cần có công cụ thích hợp, đục ra một cái lỗ cũng không quá khó khăn. Nhưng nhìn ra bốn phía chỉ thấy một màu tối đen chứ chẳng thấy đạo động đâu cả, Bàn Tử nói: “Không xong rồi, Tiểu Ca, thạch đạo này dài như vậy, cậu nói xem nếu người đó mở đạo động ở tuốt đầu bên kia hành lang thì phải làm sao bây giờ?”

Muộn Du Bình nói: “Bất cứ ai gặp phải trường hợp này chắc chắn đều chạy đến cửa ra, phát hiện cửa ra bị chặn mới bất đắc dĩ phải dùng tới cách đào đạo động thôi, cho nên cửa vào đạo động chắc chắn phải ở gần đây, còn nếu người đó đào ở chỗ khác, chúng ta cũng đành chịu thôi.”

Lời hắn nói rất thuyết phục, tôi cùng Bàn Tử gật đầu, xốc lại tinh thần bắt đầu tìm kiếm xung quanh đó, lúc này tôi với Muộn Du Bình còn dễ thở, nghiêng qua ngoảnh lại vẫn còn rộng ra được một nắm tay, còn Bàn Tử thì đã gần đến cực hạn, phải thót bụng lại mới có thể di chuyển được. Tôi thấy hắn phải chịu áp lực khá lớn bèn an ủi hắn, rằng thì là mỡ có bị nén đến mấy cũng không sao, chỉ cần hai vách tường không ép tới xương cốt anh thì không vấn đề gì đâu. Hắn nghe xong tái cả mặt, khoát tay bảo tôi đừng có nói nhảm nữa.

Chúng tôi bắt đầu từ ngoài cùng, tiếp tục bò vào bên trong hơn mười mét mà vẫn chưa phát hiện được gì. Thật ra thì bò ngang còn mệt hơn nhiều so với leo lên, chân tôi đã bắt đầu muốn nhũn ra, mấy lần suýt trượt xuống. Tôi biết nếu hai vách tường còn tiếp tục thu hẹp lại nữa, đầu gối cũng không thể gập lại được, di chuyển sẽ càng thêm khó khăn. Phía trước lại tối đen như mực, không biết cái đạo động kia rốt cuộc là ở nơi nào, nếu đúng như Muộn Du Bình nói, lỡ như nó được đào ra ở chỗ khác của hành lang này, tôi thật chẳng biết đối mặt với kiểu chết kinh dị này như thế nào nữa.

Nếu sớm biết sẽ lâm vào tình cảnh này, có lẽ cứ để cho Hải hầu tử cắn chết còn dễ chịu hơn. Nhiều người nói bánh tông quỷ quái gì gì đó đáng sợ thế này thế nọ, nhưng lúc này đây tôi thà gặp phải chục cái bánh tông còn hơn là bó tay chờ bị ép chết tươi ở trong này.

Bỗng Muộn Du Bình lấy đèn pin rọi về phía tôi, ý bảo chúng tôi qua đó. Tôi và Bàn Tử nghĩ rốt cuộc đã tìm được đạo động rồi, vui mừng khôn xiết, vội liều mạng chen đến bên cạnh hắn. Nhưng vừa ngẩng đầu nhìn lên đã ngẩn người, chỉ thấy trên lớp gạch trên đỉnh có một dòng chữ được viết bằng máu: “Ngô Tam Tỉnh hại tôi đến bước đường cùng, ngậm oan mà chết, có trời đất chứng giám… Giải Liên Hoàn.”

Tôi xem mà hoảng hồn, thầm nhủ đây cũng đâu phải là tiểu thuyết võ hiệp, bèn hỏi: “Đây… đây là ý gì? Người này là ai? Sao lại nói chú Ba hại hắn?”

Muộn Du Bình nói: “Giải Liên Hoàn cũng là người trong đội khảo cổ, chính là người nắm giữ Xà mi đồng ngư đã chết ở bãi đá ngầm.”

Tôi hả một tiếng, đầu óc rối bời, Muộn Du Bình đẩy tôi một cái, nói: “Người này để lại lời nhắn ở đây, lại không bị kẹp chết, chứng tỏ đạo động chắc chắn ở gần đây. Bây giờ không có thời gian để giải thích lời hắn nói có ý gì, chúng ta mau đi tiếp thôi.”

Tôi tiếp tục bò thêm vài bước, đột nhiên nhớ ra, Giải Liên Hoàn, cái tên này sao nghe quen quen, hình như ông nội tôi đã có lần nhắc tới.

Chương 36: Thoát vòng vây

Edit: Namichan

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi ngẫm nghĩ một chút, chợt nhớ ra Giải Liên Hoàn là ai. Kể ra nhà họ Giải và nhà họ Ngô chúng tôi cũng có gốc gác với nhau, hình như là quan hệ bà con thân thích xa lắc xa lơ gì đó, nhưng trải qua nhiều đời, cho đến thế hệ tôi cũng chẳng còn thân thiết gì cho cam. Có điều, dù sao bọn họ cũng là một gia tộc trộm mộ danh giá có lịch sử lâu đời, mà hình như Giải Liên Hoàn với chú Ba là hai cậu ấm khá thân với nhau. Tôi cũng chỉ mới gặp ông ta mấy lần, cơ mà những lúc quở mắng chú Ba, ông nội tôi vẫn thường xuyên nhắc tới chuyện nhà họ Giải, còn nói vì chú Ba mà cả đời này nhà họ Ngô chẳng thể ngẩng cao đầu trước mặt nhà họ Giải, tiếc cho đứa nhỏ Giải Liên Hoàn này, đi theo mày nên mới gặp phải chuyện đau lòng!

Bây giờ nghĩ lại, Giải Liên Hoàn đã chết như thế, chẳng trách ông già nhà tôi không cho tôi theo chú Ba, nguyên nhân hóa ra vì trước kia chú Ba đã từng có vết nhơ như vậy.

Bàn Tử ở phía sau đẩy đẩy, tôi không còn hơi sức đâu mà nghĩ tiếp, bèn cắn răng dịch lên phía trước mấy bước, quả nhiên trên nóc tường gạch xuất hiện một cửa động tối đen như mực. Bàn Tử vui vẻ kêu to, quả thật nói đại nạn đã ập đến cũng chẳng ngoa chút nào, cả người hắn trước sau đều chằng chịt những vết xước rớm máu do bị đá thanh cương cứa vào, giống như vừa mới tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ vậy

(*)

. Tôi cũng chẳng khá khẩm hơn hắn là bao, chân đã mỏi rã rời, gần như kiệt sức. Có điều bây giờ gấp lắm rồi, Muộn Du Bình lên trước để quan sát, chui vào đá đá hai vách tường của đạo động vài cái, cảm thấy đủ chắc chắn mới lôi tôi theo vào. Bàn Tử thì có chút phiền phức, một mình tôi không lôi được hắn, đành để hắn tự lo. Hắn gào to một tiếng rồi ra sức chui vào, da lưng cũng tróc một mảng lớn mới thoát thân.

(*) Ở Thổ Nhĩ Kỳ có phong tục tắm hơi ở nhà tắm công cộng, khi tắm có người phục vụ massage; tắm nước nóng kết hợp với massage làm huyết mạch lưu thông, khiến làn da ửng đỏ.

Sau khi đứng vững, chúng tôi ngó xuống dưới, bất giác rùng mình, bởi lẽ hai bức tường đã khép sát vào nhau chỉ còn một kẽ hở nhỏ. Tôi không dám nghĩ nếu mình còn chưa thoát ra được thì bây giờ đã bị ép nát bét thành cái dạng gì. Lần này thật đúng là trời không tuyệt đường người, chỉ cần chậm ít phút nữa thôi, cho dù phát hiện ra đạo động thì ba chúng tôi cũng chẳng còn sống mà chui vào.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy cái đạo động hướng thẳng lên trên, đến độ cao tầm một đầu người thì đổi hướng,  nghiêng theo hướng đông xuôi đi, có lẽ là nối với đạo động ở phía trên. Chân tôi gần như nhũn ra, có lẽ cũng chẳng kiên trì được bao lâu nữa, vội vàng thúc giục Muộn Du Bình đi nhanh lên một chút. Ba chúng tôi bò đến một khúc nghiêng, thì sức lực cũng tiêu tan hết, đành dựa vào vách động thở hổn hà hổn hển.

Chợt nghe bên dưới truyền đến âm thanh hai vách tường đá khớp vào nhau, tôi thở dài một hơi, xoa hai chân đã mỏi nhừ, cố gắng trấn tĩnh lại. Mới vừa rồi thực sự quá căng thẳng, bây giờ toàn thân được thả lỏng chợt cảm thấy buồn ngủ, tôi che miệng ngáp vài cái. Bàn Tử dựa vào vách động, mặt tái ngắt, trên người đầy những vết trầy trụa rớm máu, vừa thở hổn hển vừa nói: “Chuyến đi này đúng là nhớ đời, đến khi về thế nào tôi cũng tụt mấy cân cho mà xem, bằng không tôi đem chữ Vương viết ngược lại.”

Vừa rồi tôi có nghe bọn họ nói gạch trong đạo động này rất dễ đánh vỡ, xem ra gã Giải Liên Hoàn này cũng chẳng phải hạng tầm thường. Tôi chiếu đèn pin về phía trước, phát hiện ra đạo động này có hình chữ chi (

) hướng lên trên. Theo kiến trúc học, với cách này, cho dù có chỗ nào đó sụp xuống thì cũng không tạo thành mối nguy hiểm lớn. Nếu vì tiết kiệm chút sức lực mà đào thẳng một mạch lên trên, lỡ gạch phía trên sập xuống thì kết quả chẳng khác gì bị máy đóng cọc táng cho một cú.

Bàn Tử nghỉ ngơi trong chốc lát, rồi quay sang chất vấn Muộn Du Bình: “Tiểu Ca này, rốt cuộc có chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế? Tại sao hai mươi năm trước cái thạch đạo này còn đi đứng bình thường, mà lần này thiếu chút nữa là bị ép thành bánh? Cậu có đi nhầm đường không đấy?”

Muộn Du Bình nhắm mắt dưỡng thần, suy nghĩ một chút rồi đáp: “Khả năng này không lớn, trừ phi những ký hiệu trên tấm bia đá bị người khác động vào. Anh xem tình huống vừa rồi nguy hiểm như thế, có lẽ kẻ đó muốn dồn chúng ta vào cửa tử.”

Bàn Tử có chút buồn bực, hỏi: “Có khi nào cô ả kia biết chúng ta chưa chết, nên mới giở trò hãm hại chúng ta không?”

Tôi lắc đầu, nếu nói cô ta độc ác thì tôi đồng ý cả hai chân hai tay, nhưng tôi không cho rằng cô ta có bản lĩnh thay đổi cơ quan của một ngôi mộ cổ mấy trăm năm trước, chuyện này quá vô lý. Nhưng nơi đây cũng chẳng đào đâu ra người thứ năm, tôi ngẫm nghĩ một chút, bỗng cảm thấy hoài nghi, chẳng lẽ lại là chú Ba?

Muộn Du Bình nhận ra tôi đang lo lắng, nhẹ nhàng vỗ vỗ tôi rồi nói: “Thật ra thì đối với chuyện này tôi cũng có một giả thiết. Nếu cậu quan tâm thì có thể nghe tôi phân tích một chút.”

Đối với chuyện này, Muộn Du Bình là người trong cuộc, hơn nữa có thể nói hắn đã trải qua những tình tiết mấu chốt. Hắn đã có lòng nêu ý kiến, đương nhiên tôi cũng không dại gì mà từ chối, bèn gật đầu ý bảo hắn nói tiếp. Muộn Du Bình tiếp: “Giả thiết đầu tiên: hai mươi năm trước, chú Ba và Giải Liên Hoàn có quen biết nhau, thậm chí quan hệ rất tốt, nhưng bọn họ không biểu hiện ra ngoài. Lần đầu tiên thăm dò tìm kiếm, có thể Giải Liên Hoàn đã phát hiện ra sự tồn tại của cổ mộ dưới đáy biển, nhưng hắn không nói cho bất kỳ ai biết, ngoại trừ Ngô Tam Tỉnh.”

Hai người bọn họ đều xuất thân trong gia tộc đổ đấu, hiển nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội tốt như thế. Bọn họ thừa dịp người khác không chú ý, chọn thời điểm thích hợp rồi lén lút lẻn vào cổ mộ. Dù sao cả hai cũng đều là cao thủ, nên chuyện đó nhất định là chẳng khó khăn gì. Có điều sau khi bọn họ lẻn vào cổ mộ, có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó ngoài sức tưởng tượng khiến chú Ba nổi sát tâm, tính chuyện giết Giải Liên Hoàn.

Quá trình cụ thể thì chúng tôi khó mà biết được, nhưng có thể khẳng định lúc Giải Liên Hoàn bị dồn tới bước đường cùng, hắn đã để lại huyết thư trên lớp gạch này, rồi chợt phát hiện ra những viên gạch ở đây đều rỗng ruột. Đương nhiên trên người hắn còn một số công cụ chuyên dụng, liền nhanh chóng đào một cái đạo động để thoát thân.

Tôi gật đầu, phân tích tới đây có thể nói là không có sơ hở. Muộn Du Bình tiếp tục nói.

Sau khi Giải Liên Hoàn thoát chết, hắn muốn dùng cái đạo động này để thoát ra ngoài. Dựa vào kinh nghiệm của mình, sau mấy lần thất bại, rốt cuộc hắn cũng thoát ra khỏi cổ mộ, đương nhiên việc tiếp theo là lập tức tìm Ngô Tam Tỉnh tính sổ, không ngờ lúc đụng phải Ngô Tam Tỉnh thì trái lại bị ông ta giết chết. Sau đó, thi thể của hắn được ngụy trang giống như mắc kẹt vào bãi san hô, thành một tai nạn ngoài ý muốn.

Tôi nghe hắn phân tích như vậy, trong lòng có chút khó chịu nhưng lại không thể tìm được lý do để phản bác. Hơn nữa hắn cũng chỉ nói là giả thiết, nên tôi đành bình tĩnh nghe tiếp.

Sau đó, Ngô Tam Tỉnh vì mục đích riêng, hoặc là thật sự muốn tránh bão nên mang tất cả chúng tôi xuống huyệt mộ dưới đáy biển, rồi giả vờ ngủ say. Lúc này, tôi phát hiện ra bí mật của mấy món đồ sứ, nên dẫn mọi người xuống phía dưới hồ nước. Có lẽ đó là chuyện mà Ngô Tam Tỉnh không ngờ tới, hắn không còn cách nào khác đành phải giả bộ như bị nữ quỷ nhập thân, dẫn dụ chúng tôi vào gian phòng có đặt mô hình. Sau đó, trong thông đạo phía sau tấm gương, hắn chuốc mê tất cả mọi người.

Sau khi tất cả hôn mê, hắn giở trò gì đó với chúng tôi. Rồi làm sao mà tôi thoát khỏi đó, những người khác đã đi đâu thì tôi không thể biết được. Nhưng tôi dám chắc những người khác có lẽ cũng giống như tôi, mất đi trí nhớ, trong suốt hai mươi năm cho dù có gặp lại nhau cũng chỉ cảm thấy hơi quen quen mà thôi.

Tôi nghe đến đó, mới hỏi ngược lại: “Tại sao lúc ấy chú Ba không dứt khoát giết tất cả đi, làm thế chẳng phải là toi công vô ích sao?”

Muộn Du Bình nói: “Tôi cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa, nhưng có lẽ lúc ấy hắn cho rằng không cần phải giết chúng tôi, vì dù sao chúng tôi cũng chẳng biết gì.”

Hắn giả thiết như vậy, gần như đã biến chú Ba thành một đại ma đầu mưu sâu chước hiểm, tôi thật sự không thể tiếp nhận. Trong tâm trí tôi, chú Ba tuyệt đối không phải là người như thế.

Bàn Tử nghe đến đó, hình như chợt ngộ ra điều gì, quay sang nói với tôi: “Tiểu Ngô, bỗng dưng tôi nhớ đến một chuyện, không chừng có thể giải thích được chuyện này. Có điều tôi nói ra hai người không được cười đâu đấy.”

Tôi nghe vậy, thầm nghĩ giờ đang là lúc cần tiếp thu ý kiến tập thể, Bàn Tử đầu óc khá nhanh nhạy, biết đâu lại có thể nghĩ ra chuyện gì đó mà tôi bỏ sót. Vội vàng giục hắn mau kể đi, hắn còn bày đặt làm ra vẻ thần bí, khẽ khàng nói: “Theo thôi thấy, thật ra chuyện này rất đơn giản. Sau khi chú Ba cậu tới chỗ này, có lẽ đụng phải thứ gì đó không sạch sẽ, liền trúng tà. Không phải mới vừa rồi Tiểu Ca nói chú Ba cậu chải tóc như đàn bà sao? Cậu nghĩ xem, như thế không phải đang gợi ý cách tìm Thiên Môn thì là gì? Chuyện này ai hiểu rõ nhất? Chính là lão quỷ trong mộ này chứ ai nữa! Tôi thấy, chắc chắn chú Ba cậu bị oan hồn của chủ nhân ngôi mộ này khống chế rồi. Nếu tìm được chú Ba cậu, cậu cứ thẳng tay dội một chậu máu chó lên đầu ông ấy, ép con quỷ kia ra là xong.”

Tôi thấy hắn càng nói càng ba hoa, bèn trả lời: “Con mẹ nó giải thích kiểu như anh cũng quá liêu trai rồi. Tôi sống hai mươi mấy năm với chú Ba, cho tới bây giờ cũng chẳng cảm thấy chú có điểm nào giống đàn bà. Đúng là vớ vẩn.”

Bàn Tử nói: “Tôi chưa nói con quỷ đó là nữ nha, đến bệnh thần kinh có có thời điểm phát tác với không phát tác nữa là. Nói không chừng chú Ba cậu ở trước mặt người khác thì bình thường, sau lưng thì lén lút trát phấn làm đẹp với thêu thùa nữa đó.” Bàn Tử vừa nói vừa điệu đà phất tay theo kiểu lan hoa chỉ

(*)

, tôi bật cười, nói: “Anh nghĩ chú Ba tôi là Đông Phương Bất Bại hả, lại còn thêu thùa nữa. Thế mà cũng nói cho được.”

(*) Lan hoa chỉ: tư thế ngón trỏ chụm với ngón cái, những ngón còn lại cong lên như búp hoa lan, thường dùng cho nhân vật nữ trên sân khấu kịch ~

Muộn Du Bình nghe Bàn Tử nói, chợt xen vào: “Không, tôi thấy chuyện anh ta nói rất có thể xảy ra. Trước kia, trong cổ mộ cũng từng có chuyện như vậy.”

Bàn Tử thấy có người đồng ý với ý kiến của mình, lập tức vênh mặt: “Cậu thấy chưa, Bàn Tử tôi không nói vớ vẩn mà, thứ ấy nhất định có liên quan gì đó với cổ mộ dưới đáy biển. Phong thủy phong thủy, nếu nói phong sinh thủy khởi, ngộ thủy nhi chỉ

(*)

, cậu biết vì sao quỷ nước phải tìm thế thân không? Đó là vì hồn phách của nó không thoát ra được. Cổ mộ này xây trong nước, mặc dù phong thủy rất đẹp nhưng lại bất lợi với chủ nhân của nó.”

(*) Đây là lý thuyết phong thủy học, phong sinh thủy khởi có nghĩa gió đi đến đâu thì vạn vật sinh sôi, nước chảy đến đâu thì vạn vật đâm chồi nảy lộc; còn ngộ thủy nhi chỉ xuất phát từ quan niệm “khí” gặp gió thì tan, gặp nước thì ngưng kết lại, do vậy mảnh đất đẹp phải có nước để khí không tan đi mất.

Tôi nghe hắn thao thao bất tuyệt một hồi cũng bắt đầu lung lay, bèn nói: “Vậy chúng ta quyết định thế này đi, nếu tìm được chú Ba, ta cứ lấy phật ấn đóng xuống gáy ông ấy, xem có hiệu quả không.”

Mỗi người chúng tôi đều lần lượt nói ra suy nghĩ của mình, tính ra cũng dây dưa mất một lúc lâu. Bàn Tử nhìn đồng hồ rồi nói: “Chúng ta chấm dứt đại hội đại biểu ở đây được rồi. Như tôi đã nói lúc nãy, nếu chúng ta chết đói trong này thì chắc chắn hồn phách cũng chẳng thoát ra được. Đến lúc đó muốn đầu thai cũng chịu, đúng là lỗ to.”

Bàn Tử nói tới đây, gãi gãi lưng, lại hỏi tôi: “Tiểu Ngô, cậu có cảm thấy từ lúc vào cổ mộ này, không hiểu sao trên người rất ngứa ngáy không?”

—————————-

Chương này dìm hàng chú Ba quá đê, anh mập tưởng tượng chú Ba thành cái dạng gì thế, tô son trát phấn mới sợ chứ =))))

Mà anh Bình dịu dàng với em Tà quá đi >///< *là do mình nhìn dưới ánh mắt fan gơ chăng =))*

À mà, Nami xin lỗi mọi người về sự chậm trễ của chương này *cúi đầu*

Chương 37: Đạo động

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi đang định đi tiếp thì nghe hắn hỏi vậy, không khỏi rụt cổ lại. Vừa rồi vội quá nên không để ý, thật ra lúc ở trong hành lang tôi đã cảm thấy vết thương do Liên hoa tiễn gây ra có hơi sưng, còn thêm ngưa ngứa, nhưng sau đó thì có vẻ đỡ hơn một chút. Tôi xắn quần áo lên xem thử thì thấy miệng vết thương sưng đỏ đã xẹp xuống, cũng không có cảm giác gì khác thường, bèn đáp: “Tôi cũng thấy thế, nhưng bây giờ thì không còn ngứa nữa. Dưới này không khí ẩm thấp, chắc là bị dị ứng thôi.”

Bàn Tử ngứa ngáy thê thảm, ảo não nói: “Có cách nào để trị dị ứng tạm thời không, vừa rồi tôi đổ mồ hôi lạnh khắp người, giờ thì ngứa không chịu nổi.”, vừa nói vừa không ngừng cọ cọ người lên tường, tôi thấy mấy vết máu trên tường đều là do hắn chà xát lưng lên, thấy có gì đó kỳ lạ, vội bảo hắn để tôi xem thử. Hắn vừa đi vừa xoay tới xoay lui, tay gãi liên tục. Tôi đẩy tay hắn ra, rọi đèn pin vào thì thấy từ mấy vết thương do Liên hoa tiễn cào rách trên lưng hắn mọc ra rất nhiều lông trắng, nhìn ghê muốn chết, buột miệng hỏi: “Bàn Tử, anh không tắm mấy ngày rồi?”

Bàn Tử hả một tiếng: “Tắm? Cậu hỏi chuyện này làm quái gì, đây là vấn đề bí mật cá nhân, tôi không tiện trả lời.”

Tôi nói: “Mẹ nó chứ, mấy ngày rồi anh không chịu tắm rửa hả? Tôi nói cho anh biết, anh đừng có mà phát hoảng, lưng anh hình như mốc meo luôn rồi, là mốc trắng nhá

(

白霉

– bạch môi)

, kỳ quan thế giới đó nha. Coi bộ anh mà cố gắng kiên trì thêm vài tháng nữa thì đến cỏ linh chi cũng phải mọc ra.”

Bàn Tử nghe xong không hiểu gì ráo, ngơ ngác hỏi: “Cái gì? Than trắng

(

白煤

– bạch môi)

? Than mà trắng á? Nói chuyện với cậu mệt óc quá, rốt cuộc là có chuyện gì?”

Tôi thấy Muộn Du Bình nhíu mày, dường như tình hình có gì đó không ổn, cũng không dám tiếp tục đùa nữa. Muộn Du Bình bước đến thử ấn tay một cái, tức khắc có máu đen chảy ra. Hắn khẽ nói với tôi: “Phiền phức rồi, đám Liên hoa tiễn lúc nãy có vấn đề.”

Tôi cảm thấy kỳ quái, vừa nãy tôi cũng trúng tên, theo lý mà nói thì cũng phải bị như Bàn Tử mới đúng, chẳng lẽ ông nội đã di truyền cho tôi tính năng gì đặc biệt? Tôi vội cho hai người thấy miệng vết thương của mình rồi nói ra thắc mắc.

Muộn Du Bình nhìn vết thương của tôi, hừ một tiếng, cũng chẳng chịu nói rõ là có chuyện gì xảy ra. Đến đây Bàn Tử bắt đầu thấy sợ, quay lại hỏi tôi: “Lông gì? Mẹ nó hai người đừng có không đầu không đuôi như vậy chứ! Lông ở đâu mà dài?”, nói rồi huơ huơ tay sờ thử, tôi vội chụp lại, nói: “Đừng nhúc nhích, nhìn anh giống như bị bệnh da liễu, để chúng tôi xem kỹ đã. Anh tuyệt đối không được cào, cào nữa thành sẹo bây giờ.”

Bàn Tử bị ngứa thê thảm, làm sao mà nhịn được, tôi bèn nói với Muộn Du Bình; “Không thể cứ để như vậy được, phải tìm cách gì giải quyết thôi. Tôi từng nghe ai đó nói, có người bị bệnh ngứa không trị được, chịu không nổi nên đã tự sát!”

Bàn Tử kêu lên: “Con mẹ nó, bây giờ tôi muốn tự sát lắm rồi! Ngứa muốn chết, không thì cậu cứ giúp tôi cạo xương trị thương như Quan Công đi, khoét hai khối thịt đó ra cho rồi.”

Hồi nhỏ tôi cũng đã từng bị bệnh ngoài da, cũng biết một cách “xử lý” thô, nhưng mà có hơi ghê tởm một chút. Tôi nói với hắn: “Không cần khoét thịt, anh nghĩ anh nhiều thịt lắm chắc, vả lại tôi cũng đâu phải là Hoa Đà. Nhưng tôi có mang theo kem dưỡng da, để tôi bôi cho anh, có thể hơi đau một chút, anh cố chịu đựng.”

Muộn Du Bình ngớ ra mất một lúc, Bàn Tử cũng hả to một tiếng: “Vậy mới nói người thành phố mấy cậu đúng là được nuông chiều quá rồi, mẹ nó chứ đi đổ đấu còn mang theo kem dưỡng da, lần tới cậu nhớ mang theo bộ bài Poker, lỡ bị vây khốn thì chúng ta đem ra lập sòng.”

Tất nhiên tôi không thể nào mang theo kem dưỡng da được, mới đeo bao tay vào rồi nhổ hai bãi nước bọt, xoa lên lưng Bàn Tử. Không ngờ Bàn Tử lại không chịu được đau, vừa bôi nước bọt lên hắn đã gào lên một tiếng thảm thiết, cắm đầu chạy thẳng, còn mắng ầm lên: “Con mẹ nó cậu bôi cái gì vậy! Bà ngoại con ơi, đau thế này thì thà cậu khoét thịt tôi đi cho rồi, kiểu này xem như Bàn Tử tôi thật sự quy thiên rồi.”

Tôi thấy cơn đau này thật có hiệu quả, nói: “Nhìn anh kìa, đau vẫn tốt hơn ngứa chứ, giờ anh có còn ngứa nữa không?”

Bàn Tử đứng đó hoa chân múa tay một trận rồi chầm chậm bước trở lại, ngạc nhiên hỏi: “Này Tiểu Ngô, được lắm đó, đồ của cậu linh thật đó, đúng là thoải mái hơn nhiều rồi. Thứ kem dưỡng da kia nhãn hiệu là gì vậy?”

Tôi thầm nhủ, hắn mà biết đó là nước bọt của tôi, không chừng sẽ xé xác tôi cũng nên, vội nói: “Đừng có dằng dai như mấy bà mấy cô nữa, chúng mau đi thôi.”

Muộn Du Bình thấy cảnh này buồn cười, lắc lắc đầu. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nụ cười của hắn không chút gượng gạo, chợt nhận ra hắn hình như cũng có chút tình người, xem ra con người này không khó giao lưu như vẻ bề ngoài.

Nhưng hắn cười xong lại bày ra vẻ mặt đơ như bài Poker đuổi theo chúng tôi. Ba người cứ tiến về phía trước trong đạo động quanh co, đi khoảng nửa tiếng, chợt nghe Muộn Du Bình đi phía trước nói: “Có ngã rẽ.”

Tôi chen lên, quả nhiên có hai lối đi ở hai bên trái phải. Tôi rọi đèn quan sát thử nhánh bên trái thì thấy vào sâu bên trong một chút có đống gạch vụn, là ngõ cụt, xem lớp gạch vỡ thì có lẽ đó chính là con đường dẫn từ phòng phụ bên phải đến xứng thất bên trái mà Muộn Du Bình với Bàn Tử đã đi. Không biết vì sao con đường bị chặn lại, chẳng lẽ là sợ con hạn bạt kia từ trong quan tài đuổi qua đây?

Nhưng nếu hắn đã chặn lại thì lối thoát cuối cùng chính là cửa động bên phải, Muộn Du Bình cũng thống nhất với tôi, hắn chỉ chỉ vào tôi, cả ba không nói thêm tiếng nào, tiếp tục tiến về phía trước.

Nói thật, tôi lớn bằng này rồi mà chưa từng phải bò lâu đến thế, toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi. Đi thẳng lưng trong hang đất bình thường không mệt đến thế này, chủ yếu là đầu gối không phải nghiến lên nền đất thì sẽ không đau. Bây giờ dưới nền toàn là gạch vụn, đè lên đó giống như phải chịu cực hình, tôi bắt đầu cảm thấy hai đầu gối bỏng rát, xem ra làm người vẫn tốt hơn, kiếp sau cố mà tranh thủ làm người.

Trong lúc tôi còn đang suy nghĩ vẩn vơ, Muộn Du Bình bỗng dừng lại, ra hiệu cho tôi im lặng, Bàn Tử bò sau không thấy gì, khẽ hỏi tôi: “Sao vậy?”

Tôi bảo hắn im lặng, sau đó Muộn Du Bình tắt đèn pin, tôi với Bàn Tử cũng hiểu ý mà làm theo, chúng tôi tức khắc chìm vào bóng tối mịt mùng. Lúc này tôi lại cảm thấy vô cùng bình tĩnh, tim cũng không đập nhanh hơn. (Sau này nhớ lại mới thấy, cái lần suýt bị hai vách tường kẹp chết đã ảnh hưởng rất lớn đến tôi, khiến tôi gần như khắc phục hoàn toàn nỗi sợ hãi vốn có đối với cổ mộ). Tôi không biết Muộn Du Bình có ý gì, nhưng ở trong cổ mộ vẫn nên nghe lời hắn thì hơn.

Chúng tôi im lặng một hồi, nhịp thở dần dịu lại, mồ hôi trên người cũng đã khô, bỗng tôi nghe thấy tiếng bước chân truyền lại từ lớp gạch trên đỉnh đầu, giống như tiếng chân người. Tôi thoáng giật mình, xem ra phía trên chúng tôi hẳn là hậu điện hoặc hành lang, vậy người kia là ai? Có phải là A Ninh hoặc chú Ba không?

Đang suy nghĩ, đột nhiên tôi cảm thấy phần da từ lưng đến gáy bắt đầu ngứa lên, thoáng rùng mình, thầm nhủ chẳng lẽ lông trên người tôi cũng bắt đầu dài ra? Vội đưa tay ra sau lưng sờ thử, bỗng chạm phải một mớ ẩm ướt bê bết ngay trên cổ. Tôi nghĩ Bàn Tử chen lên, thầm rủa một tiếng, đẩy mạnh thứ kia trở lại, lúc rút tay về thì phát hiện bàn tay dính nhớp nháp, còn có mùi thoang thoảng là lạ.

Tôi ghê tởm chà mạnh bàn tay lên tường gạch bên cạnh, thầm nhủ tên mập này hẳn đã bôi lên cái đầu đinh của hắn không ít dầu dưỡng tóc, nếu tìm được chỗ có nước phải lo rửa cho sạch, dầu dưỡng tóc trên đầu hắn không chừng là của mấy tháng trước cũng nên.

Đang nghĩ, trên cổ lại bắt đầu ngứa ngáy, không biết tên mập chết bầm này lại bày trò quỷ gì nữa đây. Tôi không khỏi nổi sùng lên, liền đưa tay túm lấy, kéo hắn đến sát vách tường. Đột nhiên cảm thấy có gì đó là lạ, mặt hắn sao lại nhỏ xíu thế này? Tôi cẩn thận nhổm người dậy mò mẫm từng chút một, tim đập như nổi trống, nhận ra mớ ẩm ướt bê bết đó hình như đều là tóc. Thử kiểm tra thêm lần nữa, tôi phát hiện toàn bộ đám tóc này đều quấn lại một chỗ, tay vừa chạm vào lập tức bị quấn chặt lấy. Tôi nuốt nước bọt, bắt đầu toát mồ hôi lạnh, Bàn Tử không thể có chừng này tóc, vậy mớ tóc này là của ai!

Tôi chợt nhớ đên đám tóc ăn thịt người gặp phải trên đường vào mộ, hơi thở bắt đầu nghẹn lại, không dám mở đèn pin. Thứ kia hình như chỉ cách tôi có mấy centimet, nếu mở đèn pin thì chắc chắn tôi sẽ phải mặt đối mặt với nó, cảnh tượng kinh dị cỡ đó làm sao tôi chịu được. Đang mông lung suy nghĩ, chợt cảm thấy có bàn tay mảnh khảnh ẩm ướt mò lên trên mặt tôi, lạnh ngắt, móng tay rất sắc. Da đầu tôi bắt đầu tê dại, cơ mặt không thể kiềm chế mà run rẩy.

Những ngón tay đó chạm đến cổ tôi, sau đó thu lại, lát sau tôi chở có cảm giác cái đầu kia tiến lại gần, mớ tóc ướt sũng cũng dán lên mặt tôi. Tôi cực kỳ ghê tởm, chỉ biết cắn chặt răng, đã sắp chịu hết nổi. Đột nhiên, trong mớ tóc vang lên một giọng nữ rất khẽ, giọng nói ấy thì thầm bên tai tôi: “Anh là ai?”

Thanh âm kia thật sự rất nhẹ, nhưng tôi lại nghe rất rõ, không khỏi hoảng sợ. Đồng thời thân thể nữ giới nhích lại gần hơn, gần như chui hẳn vào lòng tôi, bàn tay mảnh mai đặt lên vai tôi, rồi đến ôm cổ. Tôi run lẩy bẩy, chỉ thấy “cô gái” này rất nhỏ nhắn, môi cô ta kề bên tai tôi, hơi thở phả ra lạnh ngắt. Tôi chính thức ngu người, chỉ nghe cô ta nói tiếp: “Hãy ôm em đi!”

Tôi vừa nghe lời này, thần trí bỗng trở nên mê muội. Tuy thân thể vẫn không ngừng chống cự, nhưng đã bắt đầu thoát khỏi sự khống chế của đại não, thoáng cái đã vòng tay ôm lấy eo cô ta. Lần này lại càng kinh khủng, tôi nhanh chóng nhận ra cô ta chẳng mặc gì cả, làn da lạnh ngắt mà lại nhẵn bóng khác thường khiến tâm trí tôi bắt đầu rối loạn, mặt đỏ rần lên. Tiếp đó, miệng cô ta đã cọ cọ lên cằm tôi, giống như đang gợi ý cho tôi hôn lên đó. Tôi hoàn toàn  mất tự chủ, vừa định cúi đầu hôn xuống, đột nhiên đèn pin trong tay Muộn Du Bình sáng lên. Tôi nhìn xuống, giật mình nhận ra thứ mình ôm vào lòng là gì, dây thần kinh rủ nhau đứt phừn phựt, lông tơ trên người đều dựng thẳng lên.

 Chương 38: Cấm bà

Editor: Thanh Du

*****

Phía trước, cách mặt tôi chưa đầy một gang tay rõ ràng là một gương mặt người trắng bệch, da mặt không biết đã ngâm trong nước biển bao nhiêu năm mà bị gột đến trong suốt. Càng ghê rợn hơn là cặp mắt ma quái không tròng, màu đen trên đồng tử gần như lấp đầy cả hố mắt, thoạt nhìn trông không khác gì một cái xác đã rữa bị móc đi đôi mắt.

Tôi sợ đến gần như phát điên, hét lớn một tiếng, vội đẩy nó ra, cắm đầu chạy trối chết, trong đầu chỉ còn hiện lên duy nhất một chữ: trốn. Có điều hành lang chật hẹp kia rất khó cho hai người cùng đi, tôi bị kẹt lại ở chỗ Muộn Du Bình, không tài nào nhúc nhích. Tôi thấy chen không nổi, mới túm lấy tay hắn, hét to: “Quỷ! Có quỷ nước!” Hắn liền bịt miệng tôi lại, khẽ hỏi: “Yên nào! Quỷ nước ở đâu?”

Tôi quay lại chỉ loạn xạ về phía sau: “Ngay đằng sau ấy, kia kìa…

Nói chưa hết câu tôi đã khựng lại, “a” một tiếng, chỉ thấy sau lưng tôi chẳng có gì cả. Không có mặt người, không có tóc, thậm chí một vệt nước đọng cũng không có. Tay tôi gần như chỉ thẳng vào mặt Bàn Tử, khiến hắn ngơ ra chẳng hiểu gì, liền đó gào lên: “Tiên sư nó, cậu mới là quỷ nước ấy.”

Tôi ngớ người, vội ngoảnh đầu lại, ngó đông ngó tây một hồi vẫn chẳng thấy gì. Chuyện này thật vô lý, cảm giác ban nãy rất chân thật, không thể là ảo giác được, chẳng lẽ tâm lý tôi có vấn đề với cái cổ mộ này? Tim tôi vẫn còn đập dữ dội, trong đầu lại mông lung như sương mù, cũng không biết nên làm gì cho phải.

Bàn Tử thấy mặt mũi tôi tái mét, bèn an ủi: “Xảy ra chuyện gì vậy, cậu đừng vội, cứ từ từ mà nói!”

Tôi lắp bắp: “Vừa rồi tôi thấy rất nhiều tóc, một cô gái lõa thể, còn có quỷ nước! Còn định hôn tôi!”

Suy nghĩ của tôi đã vô cùng hỗn loạn, lắp bắp nửa ngày cũng không biết mình đang nói cái gì. Bàn Tử mất hết kiên nhẫn, cắt ngang: “Tiểu Ngô, cậu nằm mơ đấy à? Nếu có quỷ nước thật thì cũng phải đi qua chỗ tôi trước đã.” Hắn vỗ vỗ vai tôi, lại nói: “Chẳng qua cậu mới hai mấy tuổi đầu, mơ thấy con gái thoát y cũng là chuyện thường. Khi Bàn gia tôi còn trẻ cũng từng mơ thấy những thứ tương tự, không sao cả.” Tôi gắt: “Mẹ nó anh đừng có nói lung tung, vừa rồi tôi dám chắc mình không nằm mơ! Anh xem cổ tôi vẫn còn ướt đây, là do bị nó cọ lên đấy!” Nói rồi tôi cổ cho bọn họ xem. Muộn Du Bình và Bàn Tử đưa tay sờ thử

(*đá văng Bàn Tử* Aaaaa, hai trẻ tình tứ kìa ~)

đều hơi nhíu nhíu mày. Bàn Tử còn ngẩng đầu nhìn lớp gạch trên đỉnh, chắc hắn nghĩ là do nước bên trên nhỏ giọt xuống. Tôi nói làm gì có chuyện đó, kẽ gạch đều trát đất sét trắng, tuyệt đối không thể thấm nước.

Bàn Tử khó hiểu hỏi: “Chuyện này thật là quái gở, ở đây chỉ có một con đường thông suốt, đúng ra nếu có thứ gì đến gần cậu thì tôi nhất định phải biết chứ.”

Tôi được thể vặc lại: “Không chừng là anh ngủ gật cũng nên, bị người ta bước qua xác cũng không biết.”

Bàn Tử nổi cáu, nói: “Cậu đi chết đi, Bàn Tử tôi dù có ngủ thật thì bị người khác đạp lên người cũng phải biết chứ? Huống hồ đang ở cái chỗ quái quỷ này thì ngủ làm sao được? Nếu cậu không tin thì nhìn xem lưng tôi có dấu chân nào không!” Nói rồi hắn quay lưng lại cho chúng tôi xem.

Lúc ấy tôi đã hoàn hồn, không ngờ thứ kia lại leo lên lưng hắn thật. Bàn Tử vừa quay lưng, thứ kia đã quay thẳng mặt về phía tôi, miệng ghé sát vào chóp mũi tôi. Tôi sợ hết hồn, yết hầu cũng bắt đầu co giật, hét lên một tiếng rồi liều mạng lùi lại. Nhưng mới lùi được hai bước đã cảm thấy chân mình căng căng, cúi đầu nhìn xuống, chợt phát hiện ra chân mình không biết từ khi nào đã quấn đầy tóc. Tôi ra sức vùng vẫy nhưng chân vẫn không sao thoát ra được, lại thêm một mớ tóc nữa bắt đầu quấn lên người tôi, nhắm thẳng miệng tôi mà chui vào. Bình sinh tôi sợ nhất là mấy thứ lông tóc này tràn vào trong miệng, vội lấy tay che chắn loạn xạ. Trong lúc hoảng loạn, Muộn Du Bình đã túm được cổ áo tôi, kéo tôi về phía hắn.

Hắn mới kéo được vài bước thì chính tay hắn cũng bị đám tóc túm lấy, không tài nào nhúc nhích. Tôi quay đầu nhìn lại, thấy Bàn Tử đã bị bọc kín như cái kén tằm, không ngừng giãy dụa bên trong. Nhưng thứ kia lại không thấy đâu cả, cả đạo động tràn ngập những tóc là tóc, tựa như một cái động bàn tơ màu đen.

Muộn Du Bình cố gắng rút tay ra, vội hỏi tôi: “Cậu có mang mồi lửa không? Thứ này sợ lửa”

Tôi mò mò trong cái bao đeo trên thắt lưng, lấy ra một cái bật lửa chắn gió, không khỏi mừng rỡ. Cái bật lửa này nguyên là khi ăn canh đầu cá trên thuyền, tôi có hỏi xin ông lái thuyền ít lửa để nhóm lò, nhóm xong tiện tay nhét luôn vào túi, không ngờ lúc này lại trở thành vật cứu mạng. Nghĩ đoạn tôi đánh bật lửa đốt mớ tóc quấn trên người, đám tóc này dù ẩm ướt nhưng chỉ một mồi lửa cũng có thể cắt đứt một bó lớn. Tôi đốt vài cái đã thoát khỏi mớ tóc, vội lao đến cứu Bàn Tử. Vừa định kéo hắn ra, đột nhiên đống tóc ngay bên cạnh lộ ra một khuôn mặt cỡ bự, gần như áp sát vào lưng tôi.

Tôi thấy thế, biết muốn trốn cũng không kịp, bèn cúi đầu, đấm một quyền về phía đó. Quyền này hoàn toàn là phản xạ tự nhiên của một người bị dồn đến tột cùng sợ hãi, nên tôi cũng không rõ mình đã dùng đến bao nhiêu sức lực, chỉ nghe một tiếng bụp, cái mũi của nó đã bị tôi đấm lõm vào, bắn ra mấy vệt nước đen ngòm. Cũng may trong tay tôi còn cầm cái bật lửa, đến giờ vẫn chưa tắt; tôi bèn nghiến răng tính cho nó một mồi lửa, chợt phát hiện ra nó bỗng run run rồi rụt lại một chút.

Thấy thế, trong đầu tôi chợt lóe lên một tia sáng. Có cách rồi, mẹ nó, quả nhiên là thần quỷ sợ ác nhân, hóa ra con quỷ này cũng còn biết sợ nắm đấm.Thần trí tưởng chừng đã hồ đồ bỗng trở nên hưng phấn, tôi nhấc chân đá cho mặt nó vẹo luôn sang một bên, bay trở lại giữa đám tóc. Tôi sợ đá thêm cú nữa sẽ bị nó quấn lấy, vội vã lùi lại vài bước, giơ cái bật lửa lên, bắt đầu giằng co với nó.

Gương mặt kia lấp ló giữa đám tóc, nét mặt vô cùng oán hận, nhưng nó vốn sợ lửa nên không dám tùy tiện xông lên. Lúc này Muộn Du Bình không biết lấy từ đâu ra mấy ống đánh lửa còn hơi âm ẩm, mới đem cọ lên bật lửa trong tay tôi. Ống đánh lửa tức khắc bốc cháy, ngọn lửa lần này lớn hơn rất nhiều khiến cho con quái vật thét lên một tiếng kinh hoàng rồi vội vàng chạy trốn. Tôi thấy chỉ trong phút chốc nó đã lùi rất xa, lộ ra thân thể béo tròn của Bàn tử, vội thừa dịp này đốt sạch đám tóc quấn trên người hắn.

Muộn Du Bình dồn cho con quái vật kia biến mất trong bóng tối mới chịu thả tay, lúc này ống đánh lửa đã cháy đến tay hắn. Tôi cúi đầu nhìn Bàn Tử, chỉ thấy mũi hắn miệng hắn bịt kín những mẩu tóc vụn, gương mặt vì ngộp thở đã chuyển màu xanh tái. Vội vàng xoa bóp ngực cho hắn đến khi hắn hô hấp bình thường trở lại, từ lỗ mũi hắn phun ra một đống bầy nhầy màu đen.

Tôi thở phào một hơi, cũng may phổi Bàn Tử là phổi trâu phổi bò, mới ép một chút khí quản đã thông, bằng không tôi thà chết chứ không đời nào chịu làm vật hi sinh đi hô hấp nhân tạo cho hắn.

*xin lỗi nhưng đến đây bạn editor bấn quá không chịu nổi nữa ~ Đề nghị tác giả cũng cho bạn Bình nghẹt thở để xem lúc ấy bạn Tà có còn do dự nữa ko =))*

Bàn Tử thở dốc một hồi, ho ra hết những thứ còn vướng trong khí quản, rồi mới ngắc ngoải hỏi chúng tôi: “Mẹ ôi, thứ kia rốt cuộc là cái quỷ gì thế?”

Tôi tắt cái bật lửa nãy giờ vẫn giữ khư khư, cảm thấy nó đã nóng đến bỏng tay, tưởng như da tay tôi cũng muốn tuột ra luôn. Muộn Du Bình cũng chẳng khá hơn tôi là bao, hắn xoa xoa tay, nói với Bàn Tử: “Đây hẳn là Cấm bà.”

Tôi từng nghe lão Hải ở Anh Hùng sơn nhắc đến nó nhưng chỉ nửa tin nửa ngờ, lúc này mới “a” một tiếng, hỏi: “Thật sự có sinh vật gọi là Cấm bà sao?”

Muộn Du Bình gật gật đầu, đáp: “Tôi cũng không biết thứ này sinh ra như thế nào, nhưng truyền thuyết về nó rất nhiều, hẳn là không sai đâu.”

Tôi cảm thấy kỳ quái, bảo hắn kể lại tỉ mỉ cho tôi nghe, nhưng hắn một mực lắc đầu, đáp: “Cấm bà sinh ra từ nước, tôi chỉ biết chắc chắn nó rất sợ lửa, còn những chuyện khác thì không rõ ràng cho lắm. Cũng như bánh tông, từ xưa đến nay người ta chỉ biết nó sợ móng lừa đen, nhưng vì sao nó lại sợ thì chẳng ai biết. Tôi chỉ không ngờ thứ này cũng biết suy nghĩ, chúng ta nhất định phải cẩn thận, nó chắc chắn vẫn còn đi theo chúng ta.”

Bàn Tử vẫn chưa hết sợ, mới hơi nhích lại gần chúng tôi, hỏi: “Quái lạ, mộ này phong thủy rất đẹp, tại sao bên trong lại có lắm thứ quái gở thế?”

Phong thủy ngôi mộ này có đẹp không thì tôi không dám chắc, nhưng tư liệu về Cấm bà thì tôi có đọc qua một ít. Thực ra thứ gọi là Cấm bà này ở vùng núi nơi có các dân tộc thiểu số sinh sống là đại diện cho thầy mo và pháp sư, có điều trong truyền thuyết cổ xưa ở vùng biển lại là ác quỷ bậc nhất thiên hạ. Chẳng hiểu vì sao lại có sự khác biệt một trời một vực đó, chỉ biết kết cục của cấm bà thường là vô cùng thê thảm; nếu bị người bắt được, thông thường đều bị chặt hết tay chân sau đó chôn sống. Lại nói nguồn gốc của Cấm bà hầu hết đều liên quan đến phụ nữ có thai, xem ra căn phòng đặt quan tài dưỡng xác kia nhất định có can hệ với thứ này. Chú Ba từng nói về những bức bích họa hình người có cái bụng căng tròn, Cấm bà có mặt trong đây hẳn cũng không phải chuyện ngẫu nhiên, không chừng là do chủ mộ cố ý an bài.

Trong lúc tôi còn miên man suy nghĩ, Muộn Du Bình ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp, có lẽ hắn lo nếu cứ dây dưa ở đây thì thứ kia sẽ xán lại gần. Tôi nghe ngóng một lát, thấy phía trên đạo động đã hoàn toàn yên ắng; không biết người vừa nãy đi qua là ai, chúng tôi ầm ĩ một trận ở bên dưới, không chừng hắn đã nghe thấy. Nơi này chẳng nên ở lâu, tốt hơn hết là mau mau thoát ra.

Tôi nhìn sang Bàn Tử, hắn ra hiệu mình đã ổn. Tôi thấy hắn cũng không muốn ở lại đây thêm một phút nào nữa, bèn bật đèn pin lên rồi đeo vào thắt lưng, như thế có thể chủ động quan sát phía sau. Tiếp đó tôi giữ chặt bật lửa trong tay, tiếp tục tiến về phía trước

Chúng tôi đi thêm một đoạn nữa, đạo động lại có hình chữ chi hướng lên trên. Tôi nhìn sang bên cạnh, phát hiện ra hắn đào một mạch đến đây thì gặp tường mộ, xem ra bên ngoài chính là nước biển. Hắn chỉ còn cách đổi hướng, tiếp tục đào lên trên; có lẽ Giải Liên Hoàn cũng nghĩ như chúng tôi, muốn thoát ra từ vị trí cao nhất trong mộ.

Thời gian từ khi chúng tôi bắt đầu đi vào cửa động cho đến lúc này đại để cũng được khoảng nửa tiếng đồng hồ, xem ra ngôi mộ dưới đáy biển này cũng không lớn lắm. Trong suốt chặng đường này, tôi luôn có cảm giác mơ hồ, đó là thực ra ngôi mộ này không quá dài cũng không quá rộng, mấu chốt nằm ở độ cao của nó. Hiện giờ tôi ước chừng độ cao của nó khoảng ba mươi mét, nếu dựa theo tiêu chuẩn ba mét một tầng ở thời hiện đại này thì ngôi mộ chìm sâu dưới đáy biển khoảng mười tầng lầu; tuy quy mô hùng vĩ, nhưng tính ra cũng không phải kì tích gì.

Hiện chúng tôi không thể quay về đường cũ, đành tiếp tục hướng lên phía trên. Lại đi thêm một lúc nữa, bỗng Muộn Du Bình đứng khựng lại. Tôi đẩy hắn một cái, hắn liền quay đầu lại, nói khẽ: “Đường cụt”

Tôi ngẩn người, sao lại cụt được chứ, vội chen lên xem thế nào. Chỉ thấy phía cuối con đường quả nhiên bị mấy khối đá Thanh cương chẹn lại, tôi lấy tay đẩy thử vài cái, cảm thấy mấy phiến đá này tuy nặng nề nhưng cũng không phải không đẩy ra được. Tôi và Muộn Du Bình thử hợp sức đẩy lên, đến khi lộ ra một khe hẹp thì phát hiện mộ thất phía trên có ánh sáng hắt xuống. Đang lúc buồn bực, hai tay hơi buông lỏng, phiến đá chắn trên đỉnh đầu chúng tôi bỗng đột ngột biến mất.

Chương 39: Hỗn chiến

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Tôi có hơi ngạc nhiên, lập tức hiểu ra có ai đó đã dịch chuyển phiến đá bên trên, trong tích tắc ấy tôi còn nghĩ rằng đó là chú Ba hoặc A Ninh, bởi lẽ trong cổ mộ này ngoài hai người họ ra thì đâu còn ai nữa. Nhưng khi tôi ngẩng đầu lên lại thấy một con Hải hầu tử cao to người phủ đầy vảy đang khom lưng nhìn xuống tôi lom lom. Tôi thoáng thấy trên vai nó máu me be bét, còn cắm một mũi lao, trong lòng chỉ còn biết thở dài. Mẹ nó chứ, đúng là oan gia ngõ hẹp, con quái này cứ theo ám tôi mãi không tha.

Tôi không sao ngờ được lại xảy ra chuyện kịch tính đến thế, quýnh lên chẳng biết làm thế nào. Lúc này đột nhiên có người kéo kéo quần tôi, tôi cúi xuống nhìn, thì ra là Muộn Du Bình, hắn ra hiệu cho tôi mau trở xuống. Tôi nhìn lại con Hải hầu tử với cơ thể bự chảng, lập tức hiểu được dụng ý của hắn, vội vã bò xuống dưới. Đạo động ngay bên dưới là một quãng khá dốc, tôi lại đang chen chúc cùng một chỗ với Muộn Du Bình, hành động hết sức khó khăn, lại thêm tay chân luống cuống làm chậm mất nửa nhịp, mới xuống được vài bước đã nghe con Hải hầu tử gầm gừ một tiếng rồi cố sức nhoài người xuống dưới. Tôi thấy khuôn mặt khỉ dữ tợn lao thẳng về phía mình, hoảng quá trượt chân, mông ngã bệt vào vách đạo động.

Cú ngã này thật là ê cả mông, nhưng tôi thuận theo đó mà trượt xuống dưới, thầm nhủ coi như trời giúp một phen vậy. Như thế có thể nhanh chóng quay trở vào trong đạo động, con Hải hầu tử kia to xác cỡ này, có đánh chết cũng chui không lọt được, xem ra đã có thể an tâm ít nhiều rồi. Tôi vốn cứ nghĩ vậy là ổn, ai ngờ trời phụ lòng người, mới trượt xuống được nửa mét đã thấy Bàn Tử chắn ngay trước mặt, còn đang cố sức leo ngược lên. Hắn luống cuống kêu to: “Lên mau lên mau, mụ gà mái kia đã đuổi đến nơi rồi!”. Tôi nghe thế, trong lòng chấn động, vội nhìn ra đằng sau hắn thì thấy một luồng tóc vượt qua khúc ngoặt cuối cùng, trong lòng âm thầm rủa xả. Thật đúng là phước bất trùng lai họa vô đơn chí, đúng là ghét của nào trời trao của nấy mà. Tôi vội ném bật lửa cho Bàn Tử để hắn chặn chúng lại trước, còn mình thì ngẩng lên quan sát tình hình phía trên. Vừa mới xoay đầu, bả vai chợt đau buốt, tôi nhìn lại mới biết con Hải hầu tử này dù vai bị kẹt nhưng cổ lại vô cùng linh hoạt, tôi vừa lơ là một chút đã bị nó đớp trúng vai phải.

Thật là phiền phức, tôi bị nó đớp trúng chỗ nhược, răng nanh đâm sâu vào da thịt, đau muốn ngất đi được, may mà không thương tổn gì đến gân cốt. Tôi chưa kịp vùng vẫy thì đã bị nó giằng mạnh một cú, kéo cả người ra khỏi đạo động.

Con Hải hầu tử xách tôi lơ lửng giữa không trung, hình như nó vẫn chưa muốn kết liễu tôi ngay bây giờ, nhưng tôi biết chỉ cần nó vung vẩy mạnh một chút là có thể cắn đứt rời cánh tay tôi. Lúc này dù sợ mấy đi nữa cũng phải cố mà phản kháng, chợt tôi thoáng thấy mũi lao bắn ra khi nãy vẫn găm trên vai nó, trong lúc cấp bách liền đạp một cú vào đó. Một đạp này làm khiến mũi lao cắm sâu vào thêm bốn năm phân, nó rống lên một tiếng, lập tức quẳng tôi ra xa.

Tôi vận hết sức lực toàn thân, lăn bảy tám vòng trên mặt đất, cuối cùng cũng giảm bớt được chấn động sau va chạm, nhưng vừa định đứng dậy mới phát hiện ra tay phải đã không còn cử động được nữa. Con Hải hầu tử kia đau quá hóa giận, nổi điên gầm lên mấy tiếng rồi lại xông tới, lần này là nhắm đến cổ, xem ra nó muốn một phát cắn đứt đôi yết hầu tôi rồi.

Nó lao đến rất nhanh, tôi muốn tránh cũng không xong, đành phải lấy tay ra đỡ. Vẫn biết chỉ là châu chấu đá xe, nhưng nếu không làm vậy chỉ sợ  đến cái đầu tôi cũng không giữ lại được. Bất ngờ Bàn Tử từ phía sau nhào tới ôm lấy chân nó, khiến nó bị mất đà, cả hai cùng ngã nhào xuống đất, lăn thành một đống. Bàn Tử vô cùng nhanh nhẹn, còn muốn học theo Võ Tòng đánh hổ, định leo lên lưng nó. Nhưng con Hải hầu tử kia quá mạnh, hắn không đè nổi nó, còn bị nó đá văng ra.

Tôi thấy Bàn Tử không khống chế được nó, thầm than không ổn. Quả nhiên con Hải hầu tử nhe răng đe dọa Bàn Tử rồi quay đầu xông về phía tôi, tôi nghĩ bụng, mẹ nó chứ mày nhắm vào tao thật đấy à! Tôi vội lần tìm khẩu súng đeo bên hông, vừa sờ đến chợt nhớ ra, vừa rồi lúc bò lên vách tường, để dễ dàng thoát thân tôi đã ném khẩu súng dài ngoằng như cây giáo ấy đi, bây giờ chắc hẳn nó đã bị ép thành đồng nát rồi.

Bây giờ có hối cũng đã muộn, Hải hầu tử nháy mắt đã ở ngay trước mặt. Tôi cứ ngỡ nó sẽ ngoạm vào cổ rồi bẻ đầu tôi xuống, bèn dứt khoát nhắm mắt chờ chết. Ai ngờ đâu nó vẫn chưa hết cơn điên, co chân giẫm mạnh lên bụng tôi. Một đạp này của nó thiếu điều bẻ gãy cả xương sống, khiến tôi phun ra một ngụm máu, đau muốn ngất xỉu. Nó còn chưa chịu bỏ qua, lại co chân muốn đạp lên ngực tôi, nhưng nó vừa nhấc chân lên thì đột nhiên nghe thấy một tiếng “Rầm” rất lớn, cũng không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chỉ thấy nó rống lên một tiếng đã bị đánh văng ra, ngã lộn nhào mấy vòng.

Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy Bàn Tử trong bộ dạng thiên thần đang đi tới, tấm gương đồng lớn trong tay vẫn còn rung rung. Tôi thấy mà líu lưỡi, xem ra thứ gây nên âm thanh vang dội vừa nãy chính là thứ này; tên mập ra tay cũng ác thật, nếu đó là người sống thì chắc chắn đã bị đập chết tươi rồi. Tôi vội vàng âm thầm tự nhắc bản thân, sau này tuyệt đối không được đắc tội với hắn.

Bàn Tử hiện đang nổi nóng, không chờ con Hải hầu tử kia kịp đứng lên đã xông tới bồi thêm cú nữa, lại một tiếng “Rầm” vang lên, mặt con Hải hầu tử bị đập đến biến dạng, lại lăn xa thêm mấy mét nữa. Có điều con Hải hầu tử này rất sung, mấy cú đánh vừa rồi không khiến nó bị thương quá nặng, nhưng ít ra nó cũng biết được sự lợi hại của Bàn Tử, không dám xông bừa vào nữa mà vội vàng nhảy lên bám lấy một cây cột, rồi từ trên đó nhìn xuống Bàn Tử mà gầm gừ. 

(Em Hải hầu tử cute quá =)) trong mắt mình cảnh tượng này đúng ra phải là “Hải hầu tử nhìn Bàn Tử với cặp mắt hình trái tym, bước những bước duyên dáng đến bên một cây cột rồi bắt đầu biểu diễn múa cột” mới đúng =)) 

Lúc này tôi mới phát hiện ra nơi đây chính là căn phòng đặt mô hình Thiên cung Muộn Du Bình đã từng nhắc tới, bằng chứng rõ ràng nhất chính là bốn bức hình lớn trên bốn mặt tường. Hiện giờ tôi không thể xem xét tỉ mỉ mấy bức tranh để biết nó có giống với miêu tả của hắn không, nhưng vẫn có thể khẳng định hiện trạng nơi này so với lúc cả nhóm bọn họ rời đi hai mươi năm trước không hề có chút thay đổi. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc chính là, căn phòng này không được hoành tráng như hắn đã kể. Thứ duy nhất cho tôi cảm giác nguy nga tráng lệ là bốn cây cột bằng gỗ lim vàng ở bốn góc, thực sự lớn đến ba người ôm, còn những thứ khác cùng lắm chỉ có thể xem là xa hoa mà thôi.

Bàn Tử ra tay thắng lợi, liền hăng máu lên xổ một tràng: “Móa mày, ông đây không biết đã đập chết bao nhiêu cái bánh tông rồi, một con Hải hầu tử tép riu như mày mà dám tự tung tự tác trước mặt ông, đúng là không xem ông nội Bàn gia mày ra gì cả.”, nói rồi còn định ném luôn cái gương đồng vào mặt nó, thế nhưng cái gương này thật sự rất nặng, vừa rồi Bàn Tử phang ra hai cú cật lực, thành ra bây giờ tay chân rã rời, chỉ đứng tại chỗ nhúc nhích được mấy cái.

Con Hải hầu tử kia cực kỳ xảo trá, thấy Bàn Tử đã thấm mệt, bèn nhảy từ trên cây cột xuống, xô hắn ngã lên mặt đất. Hắn chưa kịp phản ứng đã bị nó đè lên, nhất thời không cách nào thoát ra được, kết quả là bị móng vuốt của nó cào cho một vệt bay mất một mảng da. Bàn Tử đời nào chịu yếu thế như vậy, mắt lập tức đỏ vằn lên, điên cuồng hét lớn, cắn mạnh vào mặt con Hải hầu tử khiến nó rống lên đau đớn, bật dậy nhảy xa ra mấy bước.

Tôi thấy trên mặt nó tróc ra một mảng vảy lớn, máu chảy đầm đìa, trông lại càng thêm dữ tợn. Nhưng nó cũng đã bị Bàn Tử dọa cho một phen hoảng hồn, trở nên cảnh giác hơn, bắt đầu đứng từ xa quan sát chúng tôi, hình như nó muốn tìm ra sơ hở của Bàn Tử. Lúc này Bàn Tử gắng gượng đứng dậy, tôi thấy hắn đã gần hết hơi, thể lực tiêu hao khá nhiều.

Hai bên giằng co mấy phút, con Hải hầu tử này dù sao cũng là động vật, không thể bằng con người được, cho nên bắt đầu mất tập trung. Nó ngáp một cái, xoay đầu nhìn ra xung quanh, lập tức thấy Muộn Du Bình đang nghiến răng cố gắng đậy phiến đá trên cửa đạo động lại. Phiến đá đó cực nặng, một người thật sự rất khó di chuyển, hắn chỉ có thể kéo nó đi từng đoạn ngắn. Con Hải hầu tử thấy Muộn Du Bình chỉ có một mình, lại nổi lên sát tâm, rống lên một tiếng rồi vọt tới.

Trong lòng tôi phát hoảng, không ngờ nó cũng có đầu óc tính toán, biết tránh khó chọn dễ, vội hô to: “Coi chừng!!!”

Muộn Du Bình dĩ nhiên đã phát hiện ra đằng sau nổi lên kình phong, không còn cách nào khác đành phải buông phiến đá, lăn một vòng tránh được cú tấn công này. Hải hầu tử thấy mình vồ hụt, lại tiếp tục nhào tới. Tôi biết Muộn Du Bình thừa sức đối phó với nó nên cũng không quá lo lắng, chỉ thấy hắn chạy về phía trước vài bước, dụ nó đuổi gần đến một trụ gỗ lim rồi bất ngờ nhảy lên, đầu tiên là lao lên cây cột, sau đó đạp mạnh chân, xoay người trên không một vòng nhẹ nhàng như đang khiêu vũ rồi hạ xuống, hai đầu gối nện mạnh lên vai con Hải hầu tử, đè chặt lên người nó khiến nó phải quỵ xuống. Tôi không biết đây là công phu gì, chỉ biết tròn mắt ngắm nhìn. Con Hải hầu tử này to lừng lững, đòn vừa rồi không ảnh hưởng gì đến nó, nhưng Muộn Du Bình không hề có ý ngừng tay. Hắn không nhảy xuống mà ngược lại kẹp chặt hai chân, dùng đầu gối ghì đầu nó lại, sau đó xoay người mạnh tay vặn một phát. Chợt nghe tiếng xương gãy đanh gọn vang lên, đầu con Hải hầu tử đã bị xoay ngược lại, phần cổ cũng bị vặn đứt rời.

Chuỗi động tác liền mạch này gần như chỉ diễn ra trong vòng một giây, đây đúng là chết không kịp ngáp. Tôi với Bàn Tử thấy mà rớt cả cằm, đều cảm thấy cần cổ tê rần giống như bị rút gân. Tôi chợt nhớ cái đầu của huyết thi kia, thầm nhủ chắc chắn cũng là bị hắn vặn xuống kiểu này, không khỏi hít một hơi khí lạnh. Ra tay kiểu này quá tàn nhẫn, tự dưng tôi lại cảm thấy tội nghiệp thay cho con Hải hầu tử kia.

Muộn Du Bình vừa nhảy xuống đã vội chạy lại đẩy nốt phiến đá kia. Tôi thấy một đám tóc đã chui ra khỏi cửa đạo động, vội gọi Bàn Tử đến giúp một tay. Bàn Tử vẫn làm theo cách cũ, đầu tiên dùng bật lửa đẩy lùi đám tóc đó, sau đó cùng Muộn Du Bình đẩy phiến đá Thanh cương trở về chỗ cũ. Cấm bà kia rất không cam lòng, từ bên dưới húc lên mấy cái như muốn húc vỡ cả phiến đá. Bàn Tử sợ phiến đá bị nó húc vỡ thật, bèn dứt khoát đặt mông ngồi lên, đè chặt lấy cửa động.

Tiếng va đập kéo dài gần mười phút, tiếc cho nó là trên phiến đá còn có một tên mập, không phải nó cứ muốn đẩy là đẩy được. Còn Bàn Tử thì bị chấn động đến kiệt sức, bên dưới vừa mới yên ổn, hắn liền chửi thề một tiếng rồi mệt mỏi nằm lăn ra bất động trên mặt đất.

Tôi thấy nguy hiểm đã qua, nhẹ nhõm thở phào một hơi; hiện giờ tay phải cũng dần khôi phục được cảm giác, có thể cử động được một chút. Tôi thấy Muộn Du Bình đi tới góc đông nam, vội bám theo hắn. Tấm gương ở đó đã bị dời đi, trên tường quả nhiên có một cửa động tối đen, chỉ cao có nửa người, bên trong nhìn sâu hun hút, không biết thông đến tận đâu.

Chương 40: Tường động

Edit: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Cửa động này ắt hẳn là mấu chốt của cả câu chuyện, kí ức của Muộn Du Bình đến đây là đứt đoạn, những chuyện từ đó trở về sau đều mù mờ. Trong động có thứ gì, hắn làm thế nào thoát ra được, những người khác có bị mất trí nhớ giống hắn hay không, tất cả đều không có chút manh mối nào.

Tôi cẩn thận quan sát cửa động, nhìn thoáng qua có thể nói đây là một cái cổng tò vò nhân tạo khá lạc lõng (ngoài địa đạo chiến hào ra, tôi chưa từng thấy ai lại làm cổng ở một nơi như thế này cả), những vị trí bên trong cánh cổng có thể nhìn thấy từ đây đều lát một thứ gạch vàng giống hệt bên ngoài. Kết cấu này vốn rất bình thường, giống hệt những cái giếng trời tôi đã thấy đến mòn mắt trong mấy xưởng đốt than ở Sơn Tây. Nhưng cánh cửa ấy được trổ ở đây lại chẳng ăn khớp gì với bố cục tổng thể của cả mộ huyệt, không biết nó dùng để làm gì nữa.

Theo trí nhớ của tôi, hầu hết các mộ thất đều có kết cấu đối xứng, hiếm khi vô duyên vô cớ làm một thông đạo hay xây dư thêm phòng, trừ phi chiều theo sở thích của chủ mộ. Nếu không phải thế thì chỉ có hai khả năng:

Thứ nhất là, bên trong có giấu vật bồi táng bí ẩn nào đó. Chuyện này cũng không có gì lạ, theo như bút ký của ông nội, việc chủ mộ thiết kế phòng kín trong mộ của mình thì đâu đâu cũng có. Nhưng những phòng kín này đều được ngụy trang rất kĩ, vậy mà động này không có cửa cũng không ngụy trang gì hết, chỉ lắp một tấm gương bên ngoài, có vẻ trẻ con quá đi.

Thứ hai là, chuyện này có liên quan tới phong thủy. Theo như tôi suy đoán, gương là một vật dụng rất quan trọng trong thuật phong thủy, đặt tại nơi này hẳn phải có dụng ý nào đó. Nói như vậy, trổ một cánh cửa trong căn phòng này chính là biểu hiện của chữ “Thông” trong phong thủy, tức là muốn mời thứ gì đến, hoặc là tiễn thứ gì đi.

Đây là tiểu phong thủy, so với đại phong thủy thời cổ có những khác biệt rất lớn, đại khái cũng giống như hai phái Đại thừa và Tiểu thừa của Phật giáo vậy. Tiểu phong thủy chú ý đến “cải”, tức là bằng một số phương pháp nhất định, trong phạm vi hẹp có thể biến xấu thành tốt. Tôi rất thích thú với những kiến thức của tiểu phong thủy, do đó hiểu biết của tôi về nó so với đại phong thủy cũng nhiều hơn đôi chút.

Tôi lần theo mặt gương xem xét những nơi khác, hi vọng tìm ra được một vài gợi ý. Cách bố trí trong gian phòng này giống hệt những gì Muộn Du Bình đã kể; nhưng cũng vì nó còn duy trì hiện trạng của hai mươi năm trước cho nên bốn phía chỉ có bốn viên dạ minh châu chiếu sáng; mô hình Thiên cung ở giữa căn phòng chìm trong bóng đêm, chỉ có thể bật đèn pin lên xem xét. Tôi quét mắt vài vòng, nhanh chóng bị mấy bức tranh trên tường hấp dẫn.

Nội dung bốn bức tranh này tôi đã nghe kể một lần, nhưng qua sự miêu tả mơ mơ hồ hồ của Muộn Du Bình quả thực tôi không hình dung ra nổi. Bây giờ tận mắt nhìn thấy mới biết những bức tranh này miêu tả vô cùng chân thực, chỉ cần để tâm quan sát một chút sẽ phát hiện ra rất nhiều chi tiết nhỏ.

Đầu tiên, tôi vừa liếc mắt đã thấy, dãy núi phủ tuyết trắng nằm chính giữa bức tranh rất có thể là sườn bắc của dãy Trường Bạch tại Cát Lâm. Trí nhớ của tôi cũng không đến mức siêu phàm, chẳng qua mỗi ngọn núi cao của dãy Trường Bạch đều có những đặc điểm riêng biệt, phàm là người đã từng đi qua đều có thể nhận ra.

Trường Bạch

là một dãy núi lửa, nằm trên đường biên giới của Trung Quốc với  Triều Tiên. Sườn bắc của dãy núi này thuộc lãnh thổ Trung Quốc trải dài qua địa phận ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang; sườn nam thuộc lãnh thổ Triều Tiên.

Tiếp theo tôi quan sát bức tranh thứ hai thì thấy đoàn người đưa tang trong tranh đều mặc trang phục thời nhà Nguyên, như vậy người nằm trong quan tài này hẳn phải là một quý tộc địa vị hiển hách triều Nguyên. Xem ra thời gian xây dựng Vân Đỉnh thiên cung kia rất có thể là vào thời mạt Nguyên; ở vào thời điểm loạn lạc như thế mà đủ khả năng xây dựng một lăng mộ hoành tráng cỡ này chứng tỏ chủ nhân ngôi mộ hoàn toàn không đơn giản.

Điểm thứ ba khiến tôi giật mình chính là đoàn người đưa tang toàn bộ đều là phụ nữ, điều này vô cùng bất hợp lý. Tôi không biết nghi thức mộ táng của người Mông Cổ, nhưng cả đoàn đưa tang đều là phụ nữ thì quả thực chưa từng nghe qua.

Hơn nữa, trên bức tranh có quá nhiều chi tiết nhỏ nhặt như thế này, không biết là do người điêu khắc cố ý lưu lại manh mối hay là phong cách làm việc của người đó vốn là như vậy.

Tôi xem đến đây, trong lòng đã hiểu rất rõ. Dựa vào những manh mối này, chỉ cần tìm một người dân bản địa quen thuộc địa hình vùng núi ấy là hoàn toàn có thể tìm ra vị trí của cung điện. Chẳng qua nó đã bị chôn vùi dưới tuyết mấy trăm năm trời, đất lạnh vốn rất xốp, chỉ cần hơi bất cẩn trong quá trình đào xới, một trận tuyết lở nho nhỏ cũng đủ khiến anh vĩnh viễn vùi thây trong tuyết.

Có điều những gợi ý này hoàn toàn không liên quan gì tới cửa động trong góc tường, tôi đi một vòng kiểm tra vách tường phía sau những tấm gương khác cũng không phát hiện ra điều gì đặc biệt, xem ra chỉ còn cách đi vào cái động kia mới tìm được đáp án. Tôi trở lại cửa động, thấy Muộn Du Bình vẫn còn đứng đó, ánh mắt lộ vẻ do dự như đang lo lắng điều gì. Hắn thấy tôi đi tới, đột nhiên nói: “Có lẽ tôi phải vào đó một lần.”

“Không được!” Tôi nghe xong hoảng hốt nói, “Tuyệt đối không thể chui đầu vào chỗ chết! Nếu anh mất trí nhớ thêm hai mươi năm nữa, chẳng phải mọi chuyện chúng ta làm sẽ thành công cốc hết sao?”

Hắn thản nhiên nói: “Tôi không giống các cậu. Đối với hai người, chuyến đi tới đây chỉ là một trải nghiệm ly kỳ, còn với tôi nơi này lại chứa đựng một khúc mắc lớn, nếu không hiểu rõ được, chỉ e đời này dù tôi có nhớ ra tất cả mọi chuyện cũng khó mà sống thanh thản.”

Tôi nghe xong, trong lòng bỗng có cảm giác nôn nóng khó tả. Kỳ thực không phải tôi không hiểu những lời hắn nói, nhưng hoàn cảnh chúng tôi bây giờ không cho phép xuất hiện thêm phiền toái nào nữa. Chuyện cần lo lắng lúc này là làm sao thoát ra khỏi đây; bằng không dù chúng tôi có tìm được tất cả bí mật trên thế giới này thì đợi đến khi dưỡng khí cạn kiệt, cả đám chết ngạt trong này, những bí mật đó cũng hoàn toàn vô giá trị.

Tôi nói với hắn những lo ngại của mình, Muộn Du Bình cũng có vẻ lưỡng lự, hỏi lại tôi: “Chuyện thoát ra khỏi đây, cậu nắm chắc được mấy phần?”

Nghe hắn hỏi tôi mới chợt nhớ ra mình chưa quan sát trần căn phòng, liền ngẩng lên xem xét.

Trong tất cả bút ký tôi từng đọc, mọi trần mộ dạng hình chóp đều được miêu tả là rất vững chắc, theo tôi cái gọi là “thất hoành bát tung” dùng để chịu lực ở trần mộ chính là chỉ kết cấu hình vòm, ở giữa cao, hai bên thấp. Có điều ở đây lại áp dụng kiểu làm trần bằng giống trên đất liền, như thế đào động ở đâu cũng không quan trọng.

Trần căn phòng cao hơn mười mét, nơi này lại không có gì để chồng lên làm điểm tựa, trước tiên đành phải lấy kính đẽo thành từng bậc trên cây cột bên cạnh, sau đó leo lên cạo lớp đất sét trắng bên ngoài, tiếp đó xử lý nốt lớp gạch xanh, không cần quá cẩn thận, chỉ cần tính thời gian cho chuẩn. Phá hỏng kết cấu phía trên rồi, phần trên tự nhiên sẽ vỡ ra thành một cái động, đợi nước biển lấp đầy ngôi mộ này là có thể thoát ra ngoài.

Mấu chốt của kế hoạch này là phải tính thời gian thật chuẩn, nếu không căn đúng lúc thủy triều xuống để phá vỡ kết cấu trần mộ, không chừng cả cái động này sẽ bị nước biển tràn vào phá sụp, chúng tôi cũng bị đè chết trong đống đổ nát.

Tôi bàn qua việc này với Muộn Du Bình, cả hai đều tự an ủi mình rằng khả năng thoát ra là rất lớn, có điều chúng tôi vừa thoát ra thì ngôi mộ này cũng đi tong. Nhưng nó cũng không chạy đi đâu được, cái gì vốn có thì vẫn còn nguyên chỗ cũ, đợi cả đám quay về chuẩn bị vài hôm rồi quay lại cũng chưa muộn, bây giờ không nên nôn nóng.

Hắn gật gật đầu, cuối cùng cũng bị tôi thuyết phục. Bàn Tử đợi không nổi, lên tiếng: “Vậy còn chờ cái qué gì nữa, giờ chúng ta cứ xử lý cái cột này trước đi, không khéo lát nữa chân tay lại luống cuống.”

Tôi nhìn đồng hồ, còn sáu tiếng nữa mới tới giờ thủy triều xuống, thời gian vẫn còn dư dả, lắc đầu nói: “Chúng ta vừa rồi tốn sức quá nhiều, cơm lại chẳng có đến một hột trong bụng, khí lực suy giảm nghiêm trọng. Bây giờ nên nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa ra ngoài chưa biết phải đối mặt với những thứ gì đâu, nói không chừng con thuyền phía trên đã đi rồi, nếu không đủ sức khỏe, thoát ra rồi lại chết đuối thì khổ.”

Bàn Tử vốn là người tích cực, nghe tôi nói có lý như thế đành buồn bực gãi đầu: “Con mẹ nó, còn phải chờ nữa sao? Vậy tôi đi ngủ một lát đây, khi nào bắt đầu thì gọi tôi.”

Tôi cũng tìm một chỗ ngồi xuống nghỉ ngơi, có điều đầu óc vẫn không ngừng hoạt động. Tôi nhẩm tính, khi nước biển bắt đầu tràn vào thì tiếp theo sẽ chảy theo hướng nào, thông đạo dưới đáy ao đã bị tấm bia đá chặn lại, tuy không kín hoàn toàn nhưng nước thoát ra bao giờ cũng chậm hơn chảy vào, vậy chắc chắn sẽ có một lượng lớn nước tràn vào cái động kia. Vấn đề là tôi không biết cái động này thông đến đâu, giả sử thông đến một căn phòng khác thì phiền to, chỗ đó sẽ hình thành một xoáy nước khổng lồ hút hết cả ba người chúng tôi vào.

Nghĩ tới đây, tôi vô thức liếc nhìn vào bên trong động, nghĩ xem có cách nào chặn cửa động này lại được không. Tôi lập tức nghĩ ngay đến mô hình trên bàn kia, xét chiều cao và bề rộng cửa động thì có vẻ lắp vào vừa khít.

Nhưng trong khoảnh khắc tôi chăm chú nhìn vào cửa  động, trong lòng bỗng dâng lên một cảm giác kỳ lạ.

Trong bóng tối phía sau cổng tò vò, có một thứ ma lực hấp dẫn ánh mắt tôi. Thứ ma lực ấy không những mãnh liệt mà còn rất bức bách, tôi muốn quay đầu nhưng chợt phát hiện ra cổ mình đã cứng đờ, ánh mắt cũng không sao dời đi được.

Đồng thời tôi còn cảm nhận được một thứ cảm giác nôn nóng khó giải thích, giống như một người đói khát tới cực điểm vớ được gói thức ăn mà không làm cách nào xé được giấy bao. Cảm giác nôn nóng này rất nhanh chuyển thành sự thôi thúc, dẫn dụ tôi tiến vào bên trong.

Mọi chuyện chỉ diễn ra trong nháy mắt, không có dấu hiệu gì báo trước. Đến khi bọn họ phát hiện ra thì đã muộn, tôi nhanh chóng đẩy Muộn Du Bình trước mắt ra, chạy thẳng vào trong. Từ chỗ tôi đến cửa động chỉ cách một quãng ngắn, chạy vài bước tôi đã chìm vào bóng đêm, hắn có muốn kéo lại cũng không kịp. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết mình đang làm gì, trong lòng chỉ một mực muốn chạy đến nơi sâu nhất trong động, đèn pin cũng không thèm bật, cứ điên cuồng chạy trong bóng tối. Không cần biết dưới chân có gì, cũng không để ý đằng sau có ai đuổi theo hay không.

Nhưng tôi vừa chạy được vài bước đã cảm thấy một luồng kình phong từ phía sau ập tới, đầu gối trái nhói đau, hai chân mềm nhũn, ngã vật xuống đất.

Tôi ngã rất đau, trán đập thẳng xuống nền, đầu ong ong lên, mũi lấm tấm máu tươi. Nhưng cũng nhờ cú ngã này mà cảm nôn nóng trong lòng tôi nhanh chóng biến mất, thần trí lại tỉnh táo như bình thường.

Tôi hơi hồi hộp, trong lòng trào dâng một cảm giác khó nói nên lời. Huyệt động này quả thực nguy hiểm, chỉ cần nhìn vào bóng đêm thăm thẳm ấy là người ta dễ dàng mất trí, tôi vừa nhìn chăm chú trong giây lát đã trúng bẫy ngay.

Quay đầu nhìn lại đã thấy Bàn Tử và Muộn Du Bình đuổi tới nơi, bên cạnh còn lăn lóc một cái đèn pin, xem ra nó chính là thứ đập trúng đầu gối tôi.

Bọn họ dạt sang hai bên, không nói lời nào lập tức lôi tôi ra ngoài. Nhưng một chân tôi đã bị thương, đứng còn không vững, bọn họ kéo thế nào cũng không đi được, vả lại ánh sáng trong đây cũng mờ mờ ảo ảo, tình thế trở nên hỗn loạn vô cùng.

Bản Tử thấy một tay khiêng không nổi liền kẹp đèn pin vào nách, dùng cả hai tay lôi tôi lên, động tác hết sức thô bạo, tôi bị hắn kéo mạnh đến mức muốn xỉu luôn cho rảnh.

Đúng lúc này, ánh đèn vô tình quét qua một góc, mắt tôi chợt lóe lên, trong bóng tối kia hình như có ai đang ngồi.

Ánh sáng quét qua quá nhanh, tôi không sao nhìn rõ, nhưng dám chắc là hình người. Tôi chợt nhớ tới chú Ba, kêu lên: “Chờ đã, bên kia có người!”

Bàn Tử nghe xong quay đầu lại dùng đèn rọi một vòng, nhưng bóng người kia đã đứng dậy chạy biến vào trong động.

Lần này cả ba người đều thấy rõ ràng, chúng tôi ngẩn người, tiếc nỗi không nhìn rõ đó là ai. Muộn Du Bình phản ứng nhanh nhất, hô to: “Mau đuổi theo!”, lời vừa dứt đã chạy biến đi, Bàn Tử chửi một tiếng, đành phải đuổi theo.

Tôi chật vật một lúc mới đứng lên được, khập khiễng lê theo sau. Lúc này Muộn Du Bình đã đuổi kịp người kia, lại thêm Bàn Tử vừa chạy tới, hai người đè kẻ đó xuống đất. Bàn Tử dùng đèn pin rọi vào,  a lên một tiếng kinh ngạc: “Là A Ninh!”

Tôi lết tới nơi, vừa thấy liền kinh hãi. Cô ta đầu bù tóc rối, mặt mũi lem nhem, bộ đồ lặn trên người rách nát tơi tả, toàn thân toát ra một thứ mùi khó ngửi, mũi và miệng đều có vết máu, không biết cô ta đã gặp phải chuyện gì mà thành ra thế này. Lúc này tôi mới phát hiện ra ba chúng tôi tới được đây cũng chẳng dễ dàng gì, nhất là Bàn Tử, cả người chi chít vết thương, vô cùng thê thảm.

Bàn Tử nhìn thấy cô ả liền nổi nóng, chỉ tay vào mặt bắt đầu chửi, nhưng mới được vài câu Muộn Du Bình đã đột ngột ngăn hắn lại, nói: “Chờ đã, cô ta có điểm bất thường!”

Chương 41: Cây san hô

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~oOo~

Nghe Muộn Du Bình nói tôi mới để ý thấy nét mặt A Ninh đờ đẫn bất thường, thậm chí có thể nói là dại ra, khác một trời một vực so với bộ dạng hoạt bát trước đây. Giờ cô ta đang bị Muộn Du Bình đè trên mặt đất nhưng lại không giãy dụa hay la hét gì, thậm chí còn chẳng thèm nhìn chúng tôi lấy một cái, giống như chuyện này không liên quan gì đến cô ta vậy.

Bàn Tử cảm thấy kỳ quái, nói: “Mẹ nó đúng là lạ thật, tôi chửi bới nặng lời như thế mà cô ta cũng không thèm phản ứng, nếu là ngày thường, tôi chỉ cần nặng nhẹ vài câu đã bị cô nàng cho ăn đạp rồi.”

Tôi biết hắn thường ra tay rất ác, bèn hỏi: “Vừa rồi anh có nặng tay lắm không? Anh coi cô ấy nói không nổi nữa kìa, tôi thấy hết tám chín phần là do anh mạnh tay quá, đánh cô ấy ngớ người luôn.”

Bàn Tử giận dữ nói: “Mẹ nó, cậu bớt nói lung tung đi, người như tôi mà lại nặng tay với con gái sao? Vừa rồi tôi đè chân cô ta cũng rất nhẹ nhàng, đến dấu vết lưu lại còn không có, cậu không tin thì hỏi Tiểu Ca đi.”

Muộn Du Bình bảo chúng tôi đừng tranh cãi nữa, hắn nói: “Hai người yên tâm, trên người cô ấy không có chỗ nào đáng ngại cả, chỉ là tinh thần không được tỉnh táo, có thể là do gặp phải chuyện kích động nào đó.”, nói rồi hắn lại huơ huơ tay trước mặt A Ninh, còn búng tay đánh tách một cái, nhưng cô ta hoàn toàn không có phản ứng.

Bàn Tử gãi gãi đầu, nghĩ mãi không ra: “Hay bà cô này đã gặp phải thứ gì đó, sợ đến choáng váng?”

Tôi nói: “Cô ta dữ dằn thấy ớn, thân thủ lại tốt, vừa rồi cô ta đối xử với tôi như thế nào anh cũng tận mắt chứng kiến rồi đó, người như thế thì làm sao bị dọa đến mất hồn được. Anh đừng có để vẻ ngoài của cô ta đánh lừa, nói không chừng bộ dạng này là cô ta đang giả vờ cũng nên.”

Bàn Tử nghe vậy cũng thấy hoài nghi: “Cậu nói không sai, tối độc phụ nhân tâm

(độc nhất là lòng dạ đàn bà)

, chúng ta vẫn nên cẩn thận một chút. Không thì mỗi người chúng ta đánh cho cô ả mấy bạt tai, thử xem cô ta phản ứng thế nào? Bà cô này hiếu thắng cực kỳ, chúng ta cứ đánh cho mấy cái, cho dù có là trinh khiết liệt nữ hay mình đồng da sắt gì thì cũng…”

Tôi thấy hắn bắt đầu nhảm, liền mắng: “Ngừng lại giùm tôi, mẹ nó, anh xem nhiều phim cách mạng quá rồi muốn bắt chước theo đặc vụ Quốc Dân đảng ấy hả? Nhìn bộ dạng cô ta như vậy, anh xuống tay được sao?”

Bàn Tử giơ cao bàn tay to bè, nhằm xuống khuôn mặt nhỏ nhắn của A Ninh vả nhẹ hai cái, cảm thấy đúng là không thể nào ra tay được, chán nản nói: “Tiếc là Bàn gia cậu chưa bao giờ ra tay với phụ nữ, mẹ nó chứ, cậu bảo phải làm sao bây giờ?”

Thời gian tôi tiếp xúc với A Ninh không dài, bảo tôi nhìn phản ứng của cô ta rồi đoán xem cô ta có phải đang đóng kịch hay không là chuyện bất khả thi, tôi nói: “Chuyện này trong chốc lát thì không đoán ra nổi đâu, tôi thấy hay là cứ trói cô ta lại, mang ra ngoài rồi tính sau. Đến lúc đó chúng ta báo cảnh sát để họ xử lý chuyện này là xong.”

Bàn Tử lập tức nổi sùng: “Mẹ nó, cậu ngu thiệt hay giả ngu thế, ba người chúng ta đang đi đổ đấu đấy, cậu có biết vì sao lại phải gọi là đổ đấu không? Giao cho cảnh sát, đầu óc cậu có bị lùng bùng không đó?”

Tôi bị Bàn Tử xổ cho một tràng, ngớ cả người ra, thật muốn tát cho mình một cái, thầm rủa mẹ nó  tư tưởng sao vẫn chưa chịu quen với chuyện này chứ, cứ tự cho mình là anh chủ tiệm đồ cổ. Vội nói với Bàn Tử: “Mấy lần trước tôi xuống đạo động đều là bất đắc dĩ, chứ trong lòng vẫn coi mình là dân thành phố lương thiện chính hiệu, có chuyện gì đều tìm đến cảnh sát nên mới buột miệng nói ra. Anh cứ xem như tôi vừa bốc phét đi, cho tôi nói lại lần nữa vậy.”

Bàn Tử khoát tay: “Thôi khỏi, tôi thấy cậu cũng chả nghĩ ra được cách gì hay ho, tốt nhất chúng ta nên xem Tiểu Ca quyết định thế nào, chứ trông chờ vào cậu thì lỡ hết việc.”

Tôi bị Bàn Tử nói cho cứng họng, đành quay sang Muộn Du Bình. Hắn đang chiếu đèn pin vào mắt A Ninh, sau đó quay lại nói với chúng tôi: “Đừng cãi nhau nữa, đồng tử cô ấy đờ đẫn, phản ứng rất chậm, xem ra nói “sợ đến choáng váng” vẫn còn quá nhẹ, không thể là đóng kịch được.”

Tôi thấy hình như hắn rất chắc chắn, không có lý do gì phải nghi ngờ, bèn hỏi: “Anh có nhìn ra được nguyên nhân cô ta trở thành như vậy không?”

Muôn Du Bình lắc đầu: “Chuyện này tôi chỉ biết được chút chút, cũng là nghe được lúc chính mình bị kiểm tra, còn về phần đánh giá nhận định, tôi không đủ khả năng, việc này cần đến bác sĩ chuyên nghiệp.”

Tôi thở dài, nhớ đến cô gái hoạt bát mình gặp lúc đầu, không khỏi cảm thán: “Được rồi, tôi thấy trong chốc lát không thể tìm ra nguyên nhân là gì đâu, chúng ta đừng ở đây nghĩ ngợi lung tung nữa, cứ đem cô ấy ra ngoài hẵng tính.”

Không ai ý kiến gì về đề nghị này, coi như đã nhất trí. Bàn Tử quay sang nói với Muộn Du Bình: “Thôi đừng nghĩ nhiều nữa, chỗ này ma quái như vậy, chúng ta kiểm tra một vòng xung quanh xem, nếu không có gì thì mau ra ngoài thôi.”

Tôi vốn đã quên mình đang ở đâu, vừa nghe Bàn Tử nhắc tới lập tức cảm thấy rùng mình, chỉ muốn rời khỏi đây ngay lập tức. Nhưng xem ra hai người kia đều có mục đích riêng khó nói, đành phải gắng gượng gật gật đầu.

Bàn Tử lập tức xoay người chiếu đèn vào sâu trong động, tôi nhìn theo ánh sáng từ tay hắn thì thấy động này cũng không quá dài, cách chỗ chúng tôi mấy chục bước chân hình như đã là đáy động, nhưng ánh sáng đèn pin không đủ mạnh nên chỉ có thể thấy được hình dáng mơ hồ của thứ đó.

Thị lực của tôi không tốt như Bàn Tử, không thể nhìn ra bên trong có gì. Lúc này tôi chỉ mong hắn đừng nhìn thấy gì cả, dẹp luôn hy vọng tìm được “thứ gì đó” đi! Thật không muốn ở trong này thêm một phút nào nữa.

Bàn Tử cẩn thận rọi đèn xem xét, chợt nhíu mày, giống như đã nhìn ra thứ đó là gì. Tôi nhìn theo hướng ấy lại chẳng thấy gì cả, chỉ nghe hắn nhỏ giọng hỏi chúng tôi: “Này, hai người xem thử bên trong có phải là có một cái cây không?”

Tôi “A” lên một tiếng, nói: “Trong cổ mộ làm sao mà có cây được, dưới này không có ánh sáng mặt trời, cũng không ai tưới nước, dù thực sự có đi nữa thì cũng chết yểu từ lâu rồi.”

Bàn Tử nhìn thật lâu, hình như cũng không dám khẳng định chắc chắn nên mới chỉ cho tôi xem. Tôi không còn cách nào đành phải thuận theo ý hắn, nhưng thực sự là nhìn không rõ, mắt trợn muốn lọt tròng cũng chỉ lờ mờ thấy một thứ giống như chạc cây, hình dạng trông rất quen nhưng không thể nhớ ra nó là gì. Tôi đáp: “Tôi nhìn không được rõ, nhưng chắc chắn đó không phải là cây.”

Bàn Tử rọi đèn pin lần nữa, ngoan cố nói: “Tôi thấy giống một cái cây thật mà, cậu xem, còn lóe lên ánh kim nữa. Nếu cậu không tin thì chúng ta cứ qua đó xem thử.”

Tôi thấy hắn còn có dụng ý khác, bực bội nói: “Anh đừng tưởng tôi không biết anh đang tính toán cái gì. Cứ coi như trong đó có một cái cây bằng vàng thật đi, anh vác ra được sao.”

Bàn Tử bị tôi vạch trần, vội chống chế: “Có vác ra được hay không thì cũng phải đến tận nơi xem mới biết, không chừng bên cạnh còn có món khác thì sao? Cậu nói xem, chúng ta không vào thì thôi, chứ đã vào rồi, phát hiện ra đồ tốt thì thế nào cũng phải qua xem thử một chút! Huống hồ chúng ta đã vào đến tận đây, không sâu cũng chẳng nông, nếu có chuyện gì thì cũng đã sớm xảy ra rồi. Rõ ràng trong này chẳng có gì đáng sợ, phải không?”

Trong lòng tôi chán chẳng buồn nói, lại không có cách nào phản bác. Lời lẽ của Bàn Tử rất logic, ờ thì xem thử, xem xong rồi thì dọn dẹp sạch sẽ chứ gì. Tên này đúng là ác ma chuyển thế, đụng đến hắn chỉ có xúi quẩy.

Tôi định đâm chọt hắn thêm câu nữa, chợt thấy Muộn Du Bình ra hiệu đừng làm ồn, khẽ nói: “Hai người theo tôi, đừng để tụt lại phía sau.” Nói rồi cũng không quay đầu lại, vội vã bước vào bóng tối.

Bàn Tử mừng rỡ, lập tức cõng A Ninh chạy theo. Tôi cảm thấy kỳ lạ, nhưng Muộn Du Bình đi rất gấp, tôi không kịp suy xét gì thêm, đành khập khiễng lê chân đuổi theo, có gì tính sau.

Muộn Du Bình bước nhanh về phía trước, cái động này từ đầu đến cuối đều có cùng độ rộng, từ chỗ chúng tôi đến đáy động không xa lắm, chỉ đi một lát đã đến trước cái mà Bàn Tử gọi là “cây”. Chỗ này đã là tận cùng của động, Muộn Du Bình rọi đèn vào thứ đó, chúng tôi lập tức nhìn rõ hình dạng thực sự của nó.

Đó là một cây san hô màu trắng rất lớn, cao hơn đầu người, phân thành 12 nhánh xòe rộng, nhìn qua thực sự rất giống một cái cây. Cây san hô được chạm khắc cắt gọt rất đẹp, nhưng phẩm chất quá bình thường, không phải là thứ quý giá gì.

Cây san hô được đặt trong một cái chậu sứ cực lớn, dùng sỏi đè chặt, trên chạc cây còn treo rất nhiều chuông nhỏ màu vàng. Ánh kim mà Bàn Tử nhìn thấy lúc nãy hẳn là phản chiếu lại từ mấy cái chuông này. Nhưng chắc chắn chúng không làm bằng vàng, bởi vì trong khe hở trên thân chuông đã xuất hiện màu xanh của gỉ đồng; xem ra lớp cốt bên trong làm bằng đồng thau, rồi mạ vàng bên ngoài nên mới giữ được độ sáng bóng.

Bàn Tử không thấy cây vàng như hắn tưởng nên chán nản vô cùng. Nhưng hắn vẫn còn nuôi chút hy vọng, bèn rọi đèn xem xét hết xung quanh, còn hỏi tôi: “Tiểu Ngô, cậu nói cây san hô này có đáng tiền không?”

Tôi xem xét kiểm tra hết một lượt, nhớ tới thái độ của hắn vừa rồi, bèn này ra ý muốn chế nhạo hắn, nói: “Không phải là tôi muốn làm anh thất vọng, nhưng xem chất lượng của thứ này, bán ra 16 đồng 1 cân đã được giá lắm rồi.”

Bàn Tử nghe xong nửa tin nửa ngờ, lại chạy đến hỏi Muộn Du Bình. Muộn Du Bình cũng gật gật đầu, hắn thấy thế buồn bực mắng: “Khỉ thật, tôi còn tưởng lần này sắp phát tài rồi chứ, mẹ nó, cuối cùng vẫn là công dã tràng.”

Tôi cười ha hả: “Bàn Tử, anh cũng đừng có nản, tôi nói cho anh biết, san hô tuy không đáng giá nhưng mấy cái chuôngtreo trên đó chính là đồ tốt.”

Bàn Tử tỏ vẻ không tin: “Nhìn cái mặt cười nhăn nhở của cậu kìa! Cậu đừng có mà bịa chuyện, mấy cái chuông

vớ vẩn này tôi đã đổ ra không ít rồi, giá chỉ khoảng một nghìn đồng, cậu bảo đáng giá chỗ nào?”

Tôi nói: “Với đầu óc làm ăn cỡ như anh tất nhiên là không nhìn ra được rồi. Nói thật với anh, giá trị chính xác tôi cũng không đoán được, nhưng chắc chắn còn đáng giá hơn khối vàng cùng thể tích đó. Anh xem hoa văn bên trên chúng đi, niên đại trước thời Minh, thời đó thứ này đã được xem là đồ cổ rồi, anh hiểu ý tôi không?”

Bàn Tử nghe mà nghệch mặt ra, cũng không hiểu tôi nói thật hay là nói giỡn. Tôi thấy vậy khoái chí cực kỳ, cũng không thèm nói thẳng ra. Thực sự thì tôi cũng nhìn không ra nguồn gốc của mấy cái chuôngnày, bởi lẽ giới đồ cổ thường ít chú ý đến nó; bình thường đi đổ đấu chủ yếu là nhắm vào đồ sứ với đồ gốm, còn đồ kim loại dễ bị rỉ sét, cần có phương pháp bảo quản đặc biệt, mà kĩ thuật đó thì chỉ có mấy bảo tàng lớn mới dùng nổi, còn nhà dân bình thường, cho dù có là đại gia lắm tiền nhiều của chăng nữa cũng chịu không nổi. Huống hồ mấy cái chuông này còn phức tạp hơn đồ kim loại bình thường, nó có rất nhiều linh kiện nhỏ, nếu bảo tồn nguyên vẹn được toàn bộ thì sẽ là món đồ cực kỳ quý giá.

Bàn Tử cân nhắc một hồi vẫn không tin lời tôi, định lấy một cái xuống xem thử. Muộn Du Bình chụp hắn lại, nói: “Đứng yên.”

Một chân Bàn Tử đã đặt lên chậu đá cuội, lại bị Muộn Du Bình kéo xuống. Bàn Tử thấy lạ, hỏi có chuyện gì, Muộn Du Bình không thèm để ý tới hắn mà quay sang hỏi tôi: “Cậu có nhớ đã từng gặp loại chuông này ở đâu không?”

Chương 42: Tình cảnh khốn đốn

Editor: Thanh Du

*****

Vừa nghe hắn nói thế, tôi lập tức hồi tưởng lại chuyện của mấy tuần về trước.

Lúc ấy chúng tôi đang chuẩn bị tiến vào Lỗ vương cung, khi vượt qua động xác có bắt được một con bọ ăn xác cỡ bự. Trên đuôi con bọ đeo một cái chuông giống y như thế này, bên trong còn có một con rết xanh to tướng; khi con rết bò qua bò lại, chuông rung lên sẽ phát ra thanh âm nghe như có tiếng người thì thào khe khẽ, ẩn chứa trong đó một thứ sức mạnh huyền bí. Khi ấy chúng tôi bị âm thanh này mê hoặc gần hết, may nhờ Muộn Du Bình nhanh trí, đá bay cả đám xuống nước nên mới tỉnh táo trở lại.

Chú Ba sau khi xem qua cái chuông ấy từng nói niên đại của nó còn trước cả thời Chiến quốc, mà cụ thể là triều đại nào thì chú cũng chịu. Nhưng khi đó tình thế nguy cấp, tôi cũng không quá chú tâm đến nó; vả lại sau đó những chuyện xảy ra trong Lỗ vương cung quả thực giống y như ác mộng, tôi chưa điên lên là còn may, làm sao nhớ được mấy chi tiết lặt vặt này.

Nhưng hiện giờ bảo tôi xác nhận thì tôi cũng không dám chắc, bởi lẽ khi ở trong cái động xác kia cả đám chúng tôi chỉ có vài ngọn đèn mỏ chiếu sáng, tình cảnh cũng tương tự như lúc này. Vả lại cái chuông kia phát hiện ra chưa được bao lâu đã bị Phan Tử đạp bẹp dí, bảo tôi đem so hai cái chuông với nhau thì tôi cũng đành bó tay, cùng lắm chỉ có thể so sánh qua loa mà thôi.

Nếu cái chuông này cùng loại với cái trong động xác, vừa rồi Bàn Tử mà lỡ chạm vào nó thì nguy to rồi. Trước kia chỉ cần một cái chuông đã mê hoặc chúng tôi đến độ không thể khống chế bản thân, chỗ này ít nhất phải có đến bốn mươi cái, chỉ cần một chấn động nhẹ thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Muộn Du Bình thấy tôi suy tư, mới nói: “Cái động xác kia lạ lắm, nơi tích xác trong đó vốn là một mộ thất, chẳng hiểu vì sao lại có liên quan đến Uông Tàng Hải.”

Bàn Tử nghe chúng tôi kể lại mọi chuyện, biết được lai lịch mấy cái chuông, ủ rũ nói : “Các cậu có nhìn lầm không đó, một vật có niên đại trước thời Chiến quốc làm sao mà xuất hiện ở chỗ này được, làm gì có chuyện trùng hợp đến thế chứ. Không lẽ… lão già Uông Tàng Hải này cũng là một tay trộm mộ?”

Lời hắn vừa dứt, tôi và Muộn Du Bình đều ngây người.

“Kể ra thì cũng có khả năng này”, Muộn Du Bình nghĩ ngợi một lát rồi tiếp: “Thời trẻ hắn làm gì, chẳng ai biết cả; hơn nữa hắn còn thông thuộc phong thủy, nếu đi trộm mộ thì hẳn là cực kỳ thành thạo. Có điều tôi nhớ gia thế hắn tương đối hiển hách, mấy đời đều là chuyên gia trong lĩnh vực phong thủy, chẳng phải lo cơm áo, chắc không đời nào đi làm công việc thấp hèn này đâu.”

Muộn Du Bình thản nhiên nói ra hai chữ “thấp hèn” mà mặt không hề đổi sắc, hình như cũng không ý thức được mình vừa mắng một loạt cả ba người. Tôi hỏi: “Tôi cảm thấy giả thiết này không ổn, người làm nghề đổ đấu nhất định sẽ lưu lại dấu hiệu trong mộ mình, để sau này nếu có kẻ hậu sinh nào vào chôm chỉa thì cũng biết đường mà kiêng nể phần nào. Anh có nhận ra dấu hiệu nào trong đây không?”

Muộn Du Bình lắc đầu: “Vừa rồi tôi cũng thử tìm qua, nhưng quả thực không có.”

Trình độ của hắn trong lĩnh vực này thâm sâu khó lường, hắn bảo không có thì nhất định là không có. Tôi lại hỏi: “Vậy thì tại sao trong đây lại có vật này chứ, lẽ nào hắn cũng là người mê đồ cổ, cho nên mới đem món đồ mình yêu thích đi bồi táng?”

“Cậu nói vậy cũng không phải, trên đường tới đây chúng ta đâu tìm được món đồ cổ nào nữa. Tôi thấy còn một khả năng khác”, Bàn Tử tựa hồ đã nghĩ ra điều gì, dương dương đắc ý: “Thực ra nếu không tính dân đổ đấu thì còn một hạng người cũng thường xuyên tiếp xúc với cổ mộ, hai người có biết là hạng nào không?”

Tôi nghe thế lập tức bừng tỉnh: “Ý anh là, hắn đào được mấy thứ này khi thi công những công trình khác?”

Bàn Tử gật đầu: “Kẻ này có thể nói là một tay chủ thầu lớn nhất thời ấy, nhiều khả năng gặp phải chuyện đó. Giờ chúng ta chỉ cần về nhà tra tư liệu là biết ngay sinh thời hắn đã từng đi qua miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông chưa.”

Kiến giải của Bàn Tử hợp tình hợp lý, khiến tôi không khỏi bội phục. Có điều thứ này nhất định không thể đụng vào, tôi đoán có thể A Ninh đã vô tình chạm phải cây san hô này, chừng ấy cái chuông đồng loạt rung lên nên tâm trí mới bị thương tổn nặng nề; không biết tiếng chuông gây ra ảo giác gì trong đầu cô ấy mà để lại hậu quả nghiêm trọng thế này.

Con người ta vốn rất dễ bị ám thị, hiện giờ lại ở trong cổ mộ thần bí, chỉ cần thần kinh không vững thì sẽ dễ dàng phát điên. Tôi có cảm giác Muộn Du Bình mất trí cũng có thể là do thứ này gây ra, bởi lẽ tôi mới phát hiện đám chuông đó đều dùng dây tơ đồng buộc vào thân cây một cách chuẩn xác. Mà san hô vốn rỗng ruột, truyền âm rất tốt, cây san hô đặt ở đây giống như một thứ nhạc cụ, thanh âm phát ra có trăm nghìn loại, chắc hẳn trong đó có một loại khiến người ta quên đi toàn bộ kí ức.

Nhưng ý nghĩ đó của tôi có phần viển vông nên cũng ngại nói ra. Ba người đứng ngây ra mất một lúc, Bàn Tử mới nói: “Xem ra cái động này chẳng qua chỉ là trò lừa vớ vẩn, những chuyện kì bí đều do đám chuông kia gây ra, còn gì nữa không?”

Tôi thấy cái động này chẳng có yêu ma quỷ quái gì, trong lòng cũng nhẹ nhõm đi nhiều. Bây giờ đi hay ở không khác gì nhau, có điều xem đồng hồ thì thời khắc thủy triều rút sắp tới rồi, cứ đứng ngây ra trong này cũng chẳng được tích sự gì, nghĩ vậy bốn người liền quay trở ra.

Tôi vừa đi vừa miên man suy nghĩ, trong đầu vẫn còn hai dấu hỏi lớn. Một là, hai mươi năm trước Muộn Du Bình bị chú Ba dụ vào cái động này, vậy những người trong đoàn ngất xỉu cùng lúc với hắn giờ này đang ở đâu? Có phải chú Ba đã đưa bọn họ ra ngoài không?

Hai là, hai mươi năm trước khi Muộn Du Bình tiến vào đây có ngửi thấy một mùi hương lạ lùng, vậy mà bây giờ lại không có, lẽ nào hai mươi năm trước trong cái động này từng đặt một vật khác?

Những thắc mắc ấy, phải đợi đến khi gặp lại chú Ba mới có thể giải đáp.

Mà chú Ba thì đã mất dạng, chẳng biết đến đời nào mới tìm được. Nếu từ giờ trở đi chú Ba không xuất hiện nữa, những nghi vấn này sẽ trở thành bí ẩn ngàn năm không lời giải.

Nếu đúng như lời Bàn Tử nói, chú Ba bị oan hồn trong mộ nhập vào, vậy giờ này chú đang ở đâu? Khi nhìn thấy tấm ảnh chụp Muộn Du Bình, chú đã nói “Ta hiểu rồi”, rốt cuộc là hiểu ra điều gì?

Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy chuyện này còn thiếu tình tiết nào đó, chỉ cần cho tôi thêm chút manh mối là có thể kết nối tất cả những chi tiết này lại. Mà trực giác lại cho tôi biết, tình tiết này nhất định có liên quan đến Lỗ vương cung.

Trong lúc miên man suy nghĩ, bốn người đã ra khỏi cái động kia. Bàn Tử đặt A Ninh lên mặt đất, nói: “Đã sắp đến giờ, chúng ta cũng nên động thủ đi thôi.”

Tôi nghĩ bây giờ chuyện quan trọng nhất vẫn là thoát ra khỏi đây, bèn dẹp những suy nghĩ vẩn vơ ấy qua một bên, bắt tay vào việc chính. Xưa nay tôi chưa từng phá vỡ đỉnh mộ thời Minh, cho nên cũng không vững tâm lắm, chỉ biết làm đến đâu thì tính đến đó thôi.

Bàn bạc xong xuôi, ba người y kế hành sự. Bàn Tử đã ngứa ngáy tay chân từ lâu, nhanh chóng lấy đồ nghề ra đục đục khoét khoét cây cột. Nhưng hắn đã quá coi thường chất gỗ lim vàng, mới đục được vài cái đã thở hổn hà hổn hển, vậy mà cây cột chỉ bị hắn đập lõm vào một chút.

Hắn bắt đầu sốt ruột, nói: “Tiểu Ngô, cây cột này cứng đơ đơ, nếu ta cứ tiếp tục thế này thì có mất cả tuần cũng không dựng nổi một cái thang.”

Tôi a ủi: “Anh đừng nóng, chỉ cần anh phá vỡ lớp ngoài cùng là coi như xong, vào đến lớp ruột sẽ mềm hơn.”

Bàn Tử nửa tin nửa ngờ, lại cầm đồ nghề lên, dùng hết sức bình sinh thì tình hình mới khá hơn một chút. Đập thêm vài cái, Bàn Tử đã phá vỡ lớp gỗ ngoài cùng cứng như thép, khoét ra một cái hốc đặt vừa bàn chân.

Bây giờ tôi đã biết cái động kia là ngõ cụt, dù nước biển có tràn vào thì cũng chỉ thấm qua kẽ gạch là cùng, không lo sẽ hình thành xoáy nước, bèn qua giúp Bàn Tử một tay. Mới khoét được hai cái hốc đã phát hiện tên mập này đúng là trâu bò ngoại hạng, không chỉ có khí lực mạnh mẽ mà sức chịu đựng cũng tốt. Nãy giờ vận động liên tục mà hắn vẫn khỏe như vâm, không hề tỏ ra mệt nhọc; cùng thời gian ấy tôi cũng làm tương tự như hắn mà đã mệt rã rời, tay chân uể oải gần như không nhấc lên nổi nữa.

Chúng tôi làm đến tối tăm mặt mũi, rốt cuộc sau ba giờ đã leo lên lưng chừng cây cột. Lúc ở dưới còn đục khoét cẩn thận, nhưng khi đã treo lơ lửng giữa không trung thì không thể vận hết khí lực như trước nữa, có chỗ đặt chân đã là may lắm rồi, cuối cùng chỉ đục ra một vệt nông đủ để ghé mũi chân vào mà thôi. Nói chung quá trình thế nào không quan trọng, chỉ cần leo lên được là tốt rồi.

Đến đây chúng tôi đã cởi hết quần áo ra, bởi lẽ trang phục trên người toàn là đồ lặn, đàn hồi rất tốt. Kế đó chúng tôi cắt nhỏ bộ đồ lặn ra từng đoạn một, nối với nhau thành một sợi dây dài rồi bắt chước kiểu leo cây của người Mexico, nối hai đầu dây thành một vòng tròn vây quanh cây cột. Ba người đi theo ba hướng, giữ cho sợi dây căng ra, cứ thế hướng thẳng lên trên.

Quãng đường gian nan này tôi không hiểu mình leo lên bằng cách nào nữa, mỗi bước chân tựa như chết đi một lần. Bàn Tử mệt quá mới nổi cáu, gào lên: “Các cậu theo tôi lên đây làm gì, một mình tôi leo lên phá trần là đủ rồi, tí nữa nước tràn vào thì các cậu nổi lên vẫn kịp cơ mà. Giờ cái sợi dây chết toi này đã sắp xắt tôi ra thành thịt kho tàu rồi, Tiểu Ngô, mẹ kiếp cậu mau xuống cho tôi, bằng không tôi không chịu nổi nữa đâu.”

Tôi đáp: “Anh chỉ nghĩ tôi muốn leo lên mà không quan tâm đến tình hình thực tế, anh đâu biết mình đang tự đâm đầu vào đất chết. Chúng ta còn chưa biết bên trên có tường kép hay không, lỡ như có thì một khi anh phá tường, lớp cát lún bên trên sẽ tràn xuống chôn sống tất cả mọi người trong phòng.”

Những điều tôi nói hoàn toàn là sự thật, bố trí một tầng cát lún bên trong tường mộ là biện pháp phòng trộm cực kỳ phổ biến. Phần trước cũng từng đề cập đến, đây là phương pháp khá hiệu quả. Một ngôi mộ lớn có tầng cát lún, nếu muốn đi vào một cách thuận lợi thì khi đào đạo động phải tạo một cái giếng chứa cát, cho cát lún chảy hết vào trong đó. Có khi để giải phóng hết một mặt tường phải mất mấy ngày đêm, cho thấy lượng cát lún lớn kinh người. Hiện giờ chúng tôi không đủ điều kiện mà làm như thế, nếu thực sự đụng phải loại huyệt này thì cũng chỉ có thể tính cách khác. Nếu bên trên không phải cát lún mà là axit hay dầu hỏa thì lại càng chết.

Bàn Tử từng đổ rất nhiều đấu, dĩ nhiên biết lời tôi nói là thật, phẩy tay ý bảo thôi cứ đi tiếp đi.

Chúng tôi cắn răng trèo thêm nửa giờ nữa mới đến vị trí cao nhất. Bàn Tử sau khi đứng vững thì gần như kiệt sức, cựa quậy hết nổi, chỉ biết ôm chặt cây cột, nói: “Mẹ nó, nếu còn đục đục khoét khoét thêm một lúc nữa, không khéo tôi đây về chầu ông bà mất.”

Lát nữa còn phải nhờ hắn phá gạch, nên tôi để yên cho hắn thở, còn mình thì cẩn thận gõ gõ lên trần phòng thăm dò. Muộn Du Bình ra hiệu cho tôi tiếp tục rồi đặt ngón tay lên mặt gạch, cảm nhận chấn động, nói: “Gạch này đặc ruột.”

Bàn Tử nghe thế thì không dám nghỉ ngơi nữa, không nói lời nào liền bắt đầu đục từ lớp đất sét trắng trên đỉnh. Hắn không dám dùng sức quá mạnh, bởi lẽ sợi dây này dù sao cũng không được chắc chắn cho lắm, vạn nhất đứt phựt một cái thì cả đám sẽ ngã vỡ đầu chảy máu chứ chẳng chơi.

Chúng tôi đều với tay ra túm lấy vai hắn, đề phòng sợi dây này có đứt thì vẫn kịp giữ hắn lại, không đến nỗi rơi tự do từ độ cao mười mét xuống mặt đất. Có điều người hắn nhễ nhại mồ hôi, trơn như bôi mỡ, xem ra lỡ như hắn có ngã xuống thật thì chúng tôi cũng không giữ lại được.

Đất sét trắng rất giòn, hắn mới đục vài cái đã bóc được một mảng lớn, lộ ra lớp gạch xanh bên trong. Bàn Tử nhìn thoáng qua, chợt kêu không ổn, bảo tôi sờ thử xem. Tôi cố vươn tay qua bên đó, vừa sờ đã choáng váng.

Giữa các viên gạch, không ngờ lại gắn với nhau bằng sắt nung.

Chương 43: Bom

Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Thanh Du

*****

Ba người chúng tôi thoáng đưa mắt nhìn nhau, thần sắc đều lộ vẻ bất ổn.

Gạch sau khi xây dùng sắt nung chảy đổ vào cứng chẳng khác gì bê tông cốt thép ngày nay, trên mặt đất bằng phẳng dù có đập bằng búa tạ cũng không hề suy suyển, nói chi đến tình huống hiện tại.

Phía trên tối thiểu cũng có đến bảy tầng kết cấu y hệt thế này, hơn nữa còn đan xen chằng chịt. Không có trang thiết bị hiện đại mà đòi phá mở trần mộ, xem ra bắc thang lên trời còn dễ hơn.

Lòng tôi ân hận vô cùng, chỉ biết tự trách mình ngu ngốc không đoán trước được tình huống này. Mái bằng chịu áp lực không tốt bằng mái vòm, tầng gạch trên kia chắc chắn phải có vật liệu gia cố thêm. Lăng mộ thời Minh vốn chẳng có bài gì mới, cứ diễn đi diễn lại mỗi một màn dùng sắt nung chảy đúc vào kẽ gạch. Bản thân vốn chẳng có gì ngoài một quyển bút ký và mớ kiến thức kiến trúc mèo quào, xưa nay chỉ quen lý luận suông, ba hoa khoác lác không biết ngượng, đến giờ mới được nếm mùi đau khổ.

Bàn Tử nhìn tôi: “Đồng chí kiến trúc sư, giờ phải làm gì đây? Cho ý kiến đi chứ?”

“Còn phải hỏi nữa sao, còn nước còn tát thôi, trước hết cứ xử lý cái thứ phía trên đi đã.” Tôi vẫn muốn thử chút vận may, nói: “Đã qua hơn hai trăm năm, tôi không tin nó còn vững chãi như lúc đầu.”

Bàn Tử thấy tôi vẫn giữ vẻ bình tĩnh cũng tin tưởng vấn đề không quá nghiêm trọng liền bắt tay vào phá gạch. Gạch rỗng ruột phá vỡ rất dễ dàng, nhưng lớp gạch dù có bị phá vỡ thì vẫn còn khung sắt trơ trơ ra đó, Bàn Tử vận hết sức lực cũng chỉ làm xước mấy đường. Hắn biết cách này không ổn liền bảo: “Không xong rồi, những sợi sắt này phía trên rất chắc, cậu có điều xe tải đến cũng chẳng ăn thua gì đâu!”

Tôi gõ thử vài cái, gan bàn tay đã tê đi, biết chắc đây là thứ không thể cậy sức mà đối phó, không khỏi chán ngán: “Xem ra anh em ta đã quá coi nhẹ công nghệ kiến trúc thời cổ đại rồi. Độ tinh khiết của sợi sắt rất cao, căn bản không thể táng vỡ.”

Bàn Tử nói: “Chi bằng cứ mài thử xem, cổ nhân có câu, chỉ cần kiên nhẫn, có công mài sắt ắt có ngày nên kim.”

“Dẹp đi, sợi sắt dày như vậy, anh định mài đến kiếp nào?!” Tôi nói “Còn có hai mươi phút nữa là thủy triều xuống, chờ anh mài xong thì chúng ta đã đi chầu Diêm Vương rồi!”

Bàn Tử nổi khùng: “Vậy thì làm cái khỉ gì bây giờ?! Cậu không nghe cô ả kia nói sao, vùng này chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào mùa bão, bét nhất cũng kéo dài suốt một tuần. Giờ chúng ta mà không ra được thì cũng chỉ còn cách ngồi không dưới đây liên tiếp bảy ngày!” Hắn dài giọng ra nhấn mạnh “Những bảy ngày! Mẹ nó, chúng ta không chết vì chán cũng chết vì đói!”

Tôi biết chuyện này thực sự nghiêm trọng, liền hỏi: “Kinh nghiệm của hai người ở lĩnh vực này nhất định là ăn đứt tôi, vậy thử nói tôi nghe xem bình thường đụng phải loại tường mộ này hai người sẽ dùng biện pháp gì?”

Bàn Tử và Muộn Du Bình không hẹn mà cùng đồng thanh: “Thuốc nổ!”

Bàn Tử thấy tôi ngây ra bèn hảo tâm giải thích: “Đừng lấy làm lạ, độ bền vững của loại tường này cậu không tưởng tượng được đâu. Ngày trước ông đây cũng từng đổ loại đấu này, thông thường động đều được đào vào từ mặt đáy, nếu muốn xâm nhập từ lớp tường phía trên thì chỉ có nước dùng thuốc nổ.”

 Nghe đến đây ruột gan tôi như đông thành đá, chuyện hắn đề cập đến không phải tôi không biết, nhưng đây là một ngôi mộ cổ mấy trăm năm tuổi, bảo tôi xuống đó cho nổ bùm một phát? Nghĩ đến đây lại thấy hối hận, còn nhớ trước khi xuống nước, A Ninh từng hỏi tôi có nên mang theo một ít thuốc nổ hay không. Có điều trong Lỗ Vương Cung tôi từng bị nổ đến tối tăm mặt mũi, cho nên chẳng muốn động đến thứ này chút nào, lập tức quẳng lại kho chứa; nếu là chú Ba thì thế nào chú cũng vác theo.

Giờ ngẫm lại mới thấy lúc ấy mình thật ngu xuẩn, từ nay trở đi tuyệt đối không được chủ quan như thế nữa.

Tôi nhận thấy chuyện thoát ra từ trần căn phòng này là hoàn toàn viển vông, đành thở dài: “Xem chừng cách này không xài được rồi, chúng ta phải tính kế khác thôi.”

“Mẹ kiếp còn tính cái gì nữa?! Chúng ta chỉ còn chưa đầy hai mươi phút cậu biết không?!” Bàn Tử hục hặc: “Tôi thấy nếu thực sự bó tay thì cứ lần theo đường cũ mà quay lại cho rồi, không chừng còn có thể tìm được căn mộ thất mà chúng ta đã đặt đồ lặn.”

Tôi gật đầu, tuy chẳng muốn quay lại cái đạo động kia chút nào nhưng bây giờ cũng chỉ còn cách đó; cứ nghĩ đến chuyện sẽ phải đụng độ với con quái vật trong đạo động cũng đủ đau đầu lắm rồi.

Đúng lúc này, Muộn Du Bình đột ngột lên tiếng: “Khoan đã! Hai người cứ đứng yên ở đây đừng đi đâu cả, tôi đã nghĩ ra một chỗ có thể tìm được thuốc nổ.”

Chúng tôi còn chưa kịp phản ứng, hắn đã buông sợi dây thừng, thả người trượt xuống khỏi cây cột.

Bàn Tử ngơ ngác nhìn tôi, tôi lắc đầu nhìn lại hắn, ra ý cũng chẳng hiểu hơn là bao.

Muộn Du Bình tính tình nghiêm túc, không phải loại người hay nói chơi, nhưng tôi vẫn đinh ninh nơi này đào đâu ra thuốc nổ. Hiện giờ hắn cũng giống như chúng tôi, quần áo đã lần lượt ra đi gần hết, chỉ còn đúng một cái quần xà lỏn, chắc chắn không thể giấu thuốc nổ trên người. Tôi nhìn theo hắn, chỉ thấy hắn phi thân nhảy vọt lên bàn đá đặt mô hình Thiên cung nằm chính giữa căn phòng. Dõi theo ánh đèn pin, tôi thấy hắn ngồi xổm xuống trước một thi thể khô đét ngồi chính giữa bàn đá, liên tục vuốt vuốt bụng nó.

Xác khô này theo như hắn nói chính là Tọa hóa kim thân, nhưng không hiểu hắn đang tìm kiếm thứ gì. Ngẫm nghĩ một hồi bỗng sực tỉnh, tim tôi thình lình lạc mất một nhịp. A, hóa ra là như vậy.

Muộn Du Bình lúc này mới thật cẩn thận nâng thi thể lên; xác khô có lẽ chỉ còn lại trọng lượng của xương cốt, chẳng tốn nhiều sức lực. Bàn Tử hỏi tôi: “Rốt cuộc hắn ta đang làm cái trò gì thế?”

Tôi nói: “Đoán thôi nhé, có lẽ trong xác khô kia có một cơ quan dùng trục Bát Bảo làm ngòi kích phát, bên trong có thể đặt thuốc nổ. Nếu gặp kẻ nào bất kính với người đã khuất, muốn chôm chỉa bảo vật trong thi thể thì nó sẽ nổ ngay.”

Bàn Tử nghe xong líu cả lưỡi: “Làm sao hắn ta biết được chuyện này?”

“Hai mươi năm trước khi hắn động vào thi thể này đã mơ hồ hiểu ra điều gì đó, anh có nghe khi nãy hắn bảo “có thể” không, nói cách khác là hắn cũng không chắc chắn.” Tôi đáp: “Nhưng không hiểu thuốc nổ để mốc meo mấy trăm năm liệu có còn dùng được không.”

Trong lúc tôi còn đang dông dài, Muộn Du Bình đã mang cái xác đến dưới chân cây cột, gọi với lên: “Mau xuống giúp tôi một tay.”

Bàn Tử mà xuống thì phiền phức phải biết, tôi đành để hắn chờ ở trên, đích thân bò xuống. Muộn Du Bình lấy dây thừng cột chặt xác chết vào lưng tôi, không quên căn dặn: “Tuyệt đối không được đụng vào, nếu cơ quan bên trong còn dùng được thì động vào là nổ ngay.”

Tôi vừa nhìn thoáng qua khối Tọa hóa kim thân ở cự ly gần, chỉ cảm thấy rõ ràng miêu tả của Muộn Du Bình khi nãy không sống động bằng một phần vạn thực tế. Thi thể này toàn thân đã chuyển màu đen, một sắc đen bóng cho người ta cảm giác nó đang phát sáng, tựa như không phải thân thể người chết mà do một khối gỗ bóng loáng tạc thành. Xác chết đã teo tóp cả, nhất là khóe miệng trông vừa giống cười vừa giống mếu, nhìn thẳng vào nó một lát thôi cũng đủ nổi cả da gà. Tóm lại một câu, thi thể này chẳng mảy may giống với một cao tăng đắc đạo nơi cửa Phật mà trái lại chỉ khiến người ta cảm thấy điềm xấu đang lởn vởn xung quanh.

Tôi ngao ngán không muốn đụng vào, quay sang hỏi hắn: “Anh chắc thi thể này không có vấn đề gì chứ? Tôi cứ cảm thấy lão ta hình như đang mưu tính quỷ kế gì đó, anh nhìn nét mặt lão xem, thế quái nào mà lại…mà lại…”

“…Quái dị như vậy.” Muộn Du Bình tiếp lời tôi: “Tôi cũng không biết nữa…Xác chết này đúng là khiến cho người ta phải dè chừng, nhưng dù sao nó cũng khô lại rồi, không thể thi biến được nữa.”

Tôi gật đầu nhưng mồ hôi lạnh đã ướt đẫm lưng: “Vậy thì được. Anh khẳng định số thuốc nổ này vẫn còn dùng được?”

Hắn đáp: “Chỉ cần trục Bát Bảo còn hoạt động được thì thuốc nổ vẫn dùng tốt. Chỉ e cơ quan lâu ngày đã thoái hóa mất thôi.”

Cõng một cái xác khô quắt queo, cả người tôi từ trên xuống dưới chẳng có lấy một phân thoải mái, nhất là móng tay dài thượt của lão cứ vắt qua vắt lại trước mặt tôi, nhìn ma quái đến mức nhũn cả chân. Tôi nghĩ đến dân cản thi (*) ở Tương Tây, chắc cũng vác thi thể trên lưng thế này, nhưng người ta bọc trong bọc ngoài tầng tầng lớp lớp rồi mới dám vác. Còn tôi thì ngược lại, thi thể trần trụi, người tôi cũng không một mảnh vải; thịt dán vào thịt, cái cảm giác thô ráp này, mẹ kiếp, lạnh sống lưng miễn bàn.

(*) Cản thi: là loại pháp thuật của Miêu tộc cổ đại, tương truyền nó có thể dẫn dắt các thi thể di chuyển như người sống. Trên thực tế cái gọi là “cản thi” chỉ là “bối thi”, tức là cho người đóng giả thi thể cõng thi thể trên lưng, người kia đóng vai thuật sĩ đi trước dẫn đường cho “thi thể”, một mánh của dân trộm mộ để di chuyển xác chết mà không bị người ta tiếp cận.

Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, may thay ánh sáng tuy mờ nhưng vẫn đủ để nhìn rõ mọi thứ nên tôi cũng chưa đến mức nghĩ quàng nghĩ xiên, đành cắn răng tặc lưỡi coi như đang vác cái bao tải trên lưng, bắt đầu dò dẫm từng bước hướng lên trên. Muộn Du Bình đi ngay phía sau, đề phòng tôi bị trơn mà trượt chân ngã xuống.

Mới đi được khoảng năm sáu bước, tôi chợt thấy thi thể có điểm là lạ. Lưng tôi dính chặt lấy lớp da khô của xác chết nên có thể cảm nhận rõ ràng dường như xác chết hơi phình ra một chút. Tôi dừng lại, tập trung tâm trí, lại không nhận ra có gì khác thường.

Tôi ngoái lại nhìn Muộn Du Bình, hắn leo ngay bên dưới, nếu thi thể có biến hóa dị thường thì hắn sẽ biết ngay. Nhưng cho đến giờ hắn vẫn chưa phát hiện ra chuyện gì, phải chăng tôi đã quá đa nghi?

Không trách được, cõng một xác chết cổ quái trên lưng, không đa nghi mới là lạ.

Còn đang suy nghĩ, bên tai đã nghe thấy Bàn Tử hô hào thúc giục, tôi chỉ còn biết tiếp tục hướng lên trên đó. Vì quá vội vã nên chân tôi bắt đầu phát run, chỉ muốn chấm dứt cái công việc đau khổ này càng sớm càng tốt, sải liền mấy bước, vất vả một hồi cuối cùng cũng đi tới đích.

Có thể nói, Bàn Tử đã chạm trán vô số thi thể, thế nhưng nhìn thấy xác khô này cũng lộ ra vẻ mặt căng thẳng. Dù sao thì khi lấy thừng buộc xác chết còn cách được hai ba nắm tay, giờ vai kề vai mặt kề mặt, khó chịu là phải.

Tôi thu hết kiên nhẫn nói với hắn: “Anh cố định thi thể trên trần rồi xuống đây ngay, chúng tôi sẽ kích nổ từ bên dưới. Nếu chất nổ bên trong còn xài được, hẳn là không vấn đề gì.”

Bàn Tử liếc nhìn trần mộ, cau mày: “Cậu thách đố tôi đấy à? Cố định thế mẹ nào bây giờ? Cậu muốn tôi học theo Đổng Tồn Thụy chắc?”(*)

(*) Đổng Tồn Thụy là một chiến sĩ giải phóng quân TQ, trong một trận đánh đã ôm thuốc nổ lao vào lô cốt địch, hi sinh anh dũng. Học theo Đổng Tồn Thụy = ôm bom cảm tử = đánh bom liều chết= …

Tôi ngẩng đầu, quả nhiên thấy trên trần hoàn toàn không có bất kì điểm tựa hay điểm móc nào, nếu muốn phát huy sức nổ tối đa thì phải tìm cách gắn chặt thi thể lên trần phòng, chuyện này cũng thật gay go.

Tôi ngẫm nghĩ rồi giục: “Nếu không thì buộc đại vào cái cột này cũng được, mau lên đi, thời gian sắp hết rồi.”

Bàn Tử đón lấy thi thể, đưa qua đưa lại tìm vị trí thích hợp, đột ngột hỏi một câu: “Ây, lạ thật, sao thi thể lại mọc đuôi thế này?”

Chương 44: Tróc da

Editor: Triêu Nhan

Beta: Thanh Du

*****

“Cái đuôi ở đâu, sao vừa rồi tôi không thấy?” Tôi vẫn đinh ninh anh ta đang đùa, nói tiếp: “Anh đừng có chọc tôi nữa.”

“Thế đây là cái gì?” Bàn Tử nghiêm túc chỉ cho tôi: “Thị lực của cậu cũng quá “thần”, thứ đó nhô cao như vậy mà không thấy sao?”

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của Bàn Tử, thấy ở chỗ xương cụt của toạ hoá kim thân quả thực có một cái que đen thui thủi nhô lên, dài chừng ba tấc, to bằng hai ngón tay, nhìn qua thấy độ khô ngang bằng với thi thể, trông khá giống một cái đuôi bò khô cứng cong queo hướng thẳng lên trên.

Tôi thấy chuyện này thật quái lạ, vừa rồi lúc di chuyển cái xác hình như tôi còn chưa thấy thứ này, chẳng lẽ nó vừa mới mọc ra?

Ngẫm lại một hồi cũng không thấy gì khả nghi, vả lại vừa rồi do quá mức căng thẳng, rốt cuộc có thấy đuôi hay không thì tôi cũng không dám chắc. Tôi chợt cảm thấy lạnh cả xương sống, đột nhiên có một thứ linh cảm cực xấu.

Tôi vội vàng tự nhủ, giờ không phải là lúc mê tín dị đoan, chẳng qua chỉ là một cái que vớ vẩn gì đó mà thôi, chắc gì đã là đuôi chứ, bèn quay qua nói với Bàn Tử: “Anh đừng kết luận vội, thân người thì làm sao mọc đuôi được, biết đâu là cái đó thì sao? Anh nhìn kỹ lại xem.”

“Xem cái mẹ gì” Bàn Tử cười to: “Cái đó có thể mọc ở đằng mông hay sao? Lại nói, ai đời chết rồi còn – còn -”

Tôi biết tỏng hắn định nói gì, lập tức cắt lời: “Được rồi được rồi, ai biết nó là cái khỉ gì, chỉ biết cứ dây dưa mãi thế này rồi cả đám sẽ nổ tung đến một mảnh vụn cũng không còn mất. Anh cứ vùi đầu vào mà nghiên cứu cái đó đi, đợi thêm vài năm nữa sẽ có người khác đến nghiên cứu chúng ta.”

Bàn Tử bị tôi nhắc nhở, lập tức bừng tỉnh, cũng không để ý đến cái thứ kỳ lạ kia nữa, vội vàng bắt tay vào việc chính.

Tôi giúp hắn xoay cái xác, gỡ dây thừng vốn dùng để hỗ trợ cho việc leo cột xuống, khó khăn lắm mới buộc được cái xác khô lên cây cột. Hiện giờ còn chưa đoán trước được vụ nổ sẽ dữ dội đến mức nào, nhưng tôi từng nghe ai nói thời Tam hiệp ngũ nghĩa, pháo Cửu tử liên hoàn đã có thể bắn vỡ mười tầng nham thạch kim cương, cứ theo lý đó mà suy ra thì thứ này cũng không kém là bao.

Cột xong rồi, tôi mới kéo thử một cái. Lúc này cả đám vẫn chưa hết hoang mang, cột cũng không thật chắc chắn, nhưng chỉ chịu lực một lúc thì hẳn là không vấn đề gì. Tôi không muốn tiếp tục ở lại trên này nữa, kiểm tra lại một lần, thấy mọi thứ đều ổn thoả thì lập tức chuẩn bị leo xuống.

Nghĩ tới thời gian nổ đã gần kề, đầu óc tôi không khỏi căng thẳng. Giờ thì mọi việc có trót lọt hay không chỉ còn trông chờ vào đám thuốc nổ này, mong sao thượng đế sẽ phù hộ, còn những chuyện khác thì thoát ra khỏi đây sẽ tính sau. Tôi cũng không dám mong mọi thứ đều thuận lợi, chỉ cần giữ được cái mạng nhỏ này là đủ rồi.

Đang suy nghĩ miên man, bỗng Bàn Tử kéo tôi, nói: “Đợi một chút, tôi còn chưa chuẩn bị xong.”

Tôi vừa mới kiểm tra qua một lượt, nghe vậy liền sửng sốt: “Còn thiếu chỗ nào nữa, không phải đã ổn hết rồi sao?”

Bàn Tử bảo tôi khoan hãy xuống dưới, sau đó quay đầu lại, kính cẩn nói với cái xác khô: “Vị tiền bối có đuôi, không cần biết ngài là người hay là khỉ, dù sao ngài cũng về Tây phương rồi, thân xác tầm thường này đối với ngài đã không còn công dụng gì nữa. Tuy chúng tôi lấy ngài làm bao thuốc nổ là có phần quá đáng, nhưng thực sự là vì tình thế bức bách, ngài đại nhân đại lượng cũng đừng tính toán với chúng tôi làm gì. Lát nữa ngài cứ coi như tắm sauna (*) thôi, không tranh với đời, không có gì phải kiêng kỵ.” Nói xong ra lạy cái xác kim thân mấy cái có lệ.

(*) Là kiểu tắm hơi xuất phát từ Phần Lan, có lịch sử hơn 2000 năm. Đặc trưng của kiểu tắm này là dùng nhiệt độ rất cao để kích thích các phản ứng của cơ thể như khiến cho mạch máu co giãn, giúp máu lưu thông, chữa được phần nào các chứng viêm khớp, đau lưng, viêm khí quản, suy nhược thần kinh…

Tôi nổi nóng, túm quần xà lỏn của hắn kéo xuống, mắng: “Con mẹ nó, giờ là lúc nào rồi mà anh còn bày vẽ!”

Hắn tuột thẳng xuống cạnh tôi, nói: “Cậu không hiểu à, cái thứ đó trông tà môn lắm, lỡ nó theo ám chúng ta thì sao? Hơn nữa người ta đang yên lành ngồi trên đó, không dưng lại bị chúng ta đem làm bao thuốc nổ; chúng ta đã sai ngay từ đầu, cũng nên nói vài câu hoa mỹ cho người ta vừa lòng.”

Tôi vừa bò vừa mắng: “Thôi đi bố, lúc bố khuân cái xác mười hai tay thì thế nào? Có thấy bố lạy người ta đâu? Chẳng qua cái xác này mọc thêm đuôi thôi, có gì phải sợ chứ.”

Mâu thuẫn giữa hai phái bắc nam nảy sinh chính vì nguyên nhân này, có thể nói là do ý thức hệ bất đồng. Bàn Tử nghe tôi nói vậy thì khó chịu ra mặt, hừ một tiếng, quay đầu qua chỗ khác không thèm nhìn tôi nữa.

Khi chúng tôi xuống đến đất, Muộn Du Bình đã cõng A Ninh lên, gọi bọn tôi vào góc phòng mộ. Chúng tôi đẩy mấy mặt gương đồng che trước mặt mình, coi như tấm khiên, lỡ đâu sức nổ quá mạnh thì cũng không đến nỗi bị đá vụn sát thương. Mọi thứ sắp xếp ổn thoả rồi, chỉ còn đợi đúng lúc thủy triều rút, Muộn Du Bình sẽ dùng kỹ thuật chính xác của mình, lấy một khối chân kính ném trúng ngòi nổ ở bụng cái xác kim thân. Trong Lỗ Vương cung, kỹ thuật ném đao của hắn đã suýt giết chết Bàn Tử, lần này chắc hẳn không thành vấn đề. Vả lại bây giờ có muốn nghĩ cách khác cũng không được, tôi vừa thầm cầu nguyện, vừa chăm chú nhìn ra.

Quy luật của thuỷ triều là: mỗi ngày có hai lần con nước lên, cách nhau mười hai tiếng đồng hồ. Bình thường triều cường phải kéo dài vài tiếng nước mới bắt đầu rút, còn thời điểm triều thoái cực hạn thì nằm vào khoảng giữa hai lần triều cường. Lúc đó mực nước biển rút xuống thấp nhất, thậm chí có khi còn lộ ra đáy biển.

Có điều đáy biển ở đây hẳn sẽ không cạn như thế, nếu không lượng thuyền bị mắc cạn sẽ lớn hơn rất nhiều. Tôi nhẩm tính, nước biển có thể hạ xuống tầm hai mét là lý tưởng nhất.

Tôi không biết thời gian thuỷ triều rút có thể kéo dài bao lâu, theo trí nhớ của tôi thì hình như rất ngắn; vả lại chúng tôi còn phải đợi nước khoét rộng lỗ thủng phía trên, dự tính phải mất thêm một khoảng thời gian nữa, cho nên một khi đã bắt đầu là không thể trì hoãn dù chỉ một phút.

Tính toán như vậy cũng đã là lạc quan, ngoài ra còn có thể có tình huống đột ngột phát sinh, đến lúc đó đành phải tuỳ cơ ứng biến thôi. Tôi càng nghĩ càng miên man, rốt cuộc cũng tại tôi nói linh tinh, nếu như lát nữa mọi chuyện xảy ra không giống như tôi tính toán, mà là cả cái trần này sập xuống, như vậy thật có lỗi với mấy người bọn họ. Vừa nghĩ đến đây, toàn thân cũng bất giác trở nên căng thẳng. Bàn Tử nhìn nét mặt của tôi, đại khái cũng biết tôi có hơi lo lắng, bất an hỏi: “Hai người nói thật cho tôi biết đi, chúng ta có chắc chắn thành công không?”

Tôi không biết trả lời hắn thế nào, đành đáp lấy lệ: “Ở vào tình cảnh này, tôi cũng không dám nói trước điều gì. Dù sao đạn đã lên nòng, anh cứ đợi thêm một lát là biết ngay.”

Bàn Tử thở dài: “Thật là, cậu càng nói tôi càng thấy lo, cậu bảo nếu đợi lát nữa mà nếu cái thứ đó không nổ thì sao? Các cậu còn đường nào xoay sở nữa không? Nói ra trước đi, để tôi yên tâm một chút.”

Tôi nói: “Cách khác thì cũng có, lúc nãy anh đã nói rồi còn gì, đấy là quay lại đường cũ, chờ xem cái mộ thất chúng ta đi vào có hiện ra lần nữa không. Bằng không còn một cách nữa, kể ra cũng không tính là cách, đó là cứ ngồi yên dưới này, đợi đoàn cứu hộ thứ ba tiến vào cứu chúng ta.”

Bàn Tử nhăn mặt: “Biết đợi đến chừng nào, nếu không ai đến cứu chúng ta thì sao? Không lẽ phải đợi đến mãn kiếp? Như vậy chẳng phải sẽ thành người sống trong mộ, dưới đáy Tây Sa, Mô Kim hiệu uý, tuyệt tích giang hồ hay sao.”

(Giải thích một chút cho ai còn ngờ ngợ: 4 câu thơ này anh béo chế từ bài “Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ” của cô gái áo vàng trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, aka anh tự ví mình với TDDH :)))

Tôi an ủi Bàn Tử: “Ý tôi là, nơi này tuy hiểm ác vô cùng, nhưng chúng ta cứ tạm thời chôn chân ở đây thì cũng không chết ngay được; chỉ cần có thời gian suy nghĩ cho kỹ càng, hẳn sẽ tìm ra cách khác. Anh xem nơi này rộng rãi thoáng mát, không khí còn đủ đến mấy ngày, tôi nghĩ có đợi một tuần cũng không thành vấn đề. Chúng ta ngủ nhiều một chút, vận động ít đi một chút, cố gắng tiết kiệm sức lực là được.”

Bàn Tử không đồng tình, vặc lại: “Không khí thì đủ, nhưng chúng ta cũng phải ăn chứ. Nơi này không phải chốn rừng sâu núi thẳm, chẳng có cái cóc khô gì hết; đến gió tây bắc cũng không có mà hít, tôi thà ngộp chết còn hơn đói chết.”

Tôi bật cười, nói: “Cách giải quyết thì thiếu gì, trông anh béo tốt thế kia, có nhịn đói cả tuần cũng không chết được. Nếu anh đói quá chịu không nổi thì còn con Hải hầu tử đó thôi, mà giả như chén hết Hải hầu tử vẫn chưa no thì ta bắt cấm bà dưới kia lên xẻ thịt cũng đủ ăn vài bữa.”

Bàn Tử nghe vậy cũng khoái chí, tên này chỉ cần có người tranh cãi với mình là hăng lên ngay. Hắn vỗ vai tôi nói: “Được đó, mấy câu này của cậu rất có phong cách của Bàn Tử tôi, làm cách mạng là phải có tinh thần không sợ trời không sợ đất, xem ra lần này cậu đúng là tiến bộ không ít.”

Những lời này khiến tôi cũng phải giật mình, từ lúc nào tôi bắt đầu nói những chuyện tào lao vớ vẩn thế này? Xem ra là lây từ Bàn Tử rồi, không được, tuyệt đối không thể giống như Bàn Tử được. Nghĩ rồi tôi không tán gẫu nữa, tiếp tục chăm chú nhìn đồng hồ đeo tay. Còn có năm phút thôi, nếu kích nổ ngay lúc này, hẳn là cũng không chênh lệch nhiều lắm. Nghĩ thế tôi liền quay sang nhắc Muộn Du Bình để hắn có thời gian chuẩn bị trước, tránh cho lát nữa sẩy tay. Cái xác kim thân đó vốn buộc không được chắc, lát nữa mà nó rớt khỏi cây cột, nổ ngay dưới chân thì cũng chẳng phải chuyện hay ho gì.

Muộn Du Bình nhắc nhắc thứ trong tay, gật đầu đồng ý. Đúng lúc này, Bàn Tử đột nhiên kêu lên: “A? Cái xác khô kia đâu rồi?” Chúng tôi vừa nghe tin xấu vội vã quay đầu lại, phát hiện thi thể trên cây cột đã biến đi đâu mất. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là vừa rồi không buộc không được chắc, hẳn là nó rơi xuống đất rồi. Lại nhìn xuống chân cột, móa, mặt đất cũng không có! Chuyện này đúng là quái lạ không sao tả nổi.

Thời khắc sống còn này lại xảy ra sự cố, tôi quả thật nghĩ không ra. Mới rồi còn tính chuyện tuỳ cơ ứng biến, chẳng qua là tự an ủi mình, không ngờ lại ứng nghiệm nhanh thế này.

“Cậu xem đi xem đi, tôi đã nói rồi mà, tiên sư nó, thứ gì có đuôi thì nhất định không bình thường mà.” Bàn Tử kêu lên: “Mau tìm xem nó chạy đâu rồi.”

Chúng tôi đồng loạt xông ra, liếc qua đã thấy vật chúng tôi muốn tìm đang bấu vào trần phòng khuất sau cây cột, lấy móng tay bám chặt những hình khắc nổi. Lớp da đen bóng trên người nó đã bắt đầu nứt nẻ, rớt xuống từng mảng từng mảng một, máu chảy đầm đìa, thật không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra nữa.

Tôi thấy sợi dây vẫn còn buộc chắc vào lưng nó, vì dây làm từ chất liệu đồ lặn khá bền, buộc một người thì dư sức cho nên nó chưa thể giãy ra, nhưng xem tình hình này thì cũng không cầm cự được bao lâu nữa.

Bàn Tử thấy thế vội gào toáng lên: “Mau lên, nhân lúc nó còn chưa kịp chạy thoát thì mau kích nổ rồi nói gì thì nói sau!”

Muộn Du Bình đâu cần hắn phải nhắc, Bàn Tử mới ngẩng đầu lên, tôi đã nghe một tiếng rít dài xé gió, cùng lúc đó một tia sáng xanh xẹt qua, cắm thẳng vào bụng cái xác khô kia.

Chương 45: Thoát ra

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Tôi kêu  lên thất thanh, động tác của Muộn Du Bình quá nhanh mà chúng tôi vẫn chưa tránh kịp, hành động bất ngờ như thế,  lỡ nổ một cái thì chết cả nút.

Nhưng đợi tôi nghĩ đến đó thì làm gì còn kịp nữa, chỉ thấy trước mắt chợt bừng lên một quầng sáng trắng lóa, Bàn Tử nhào tới đè tôi xuống đất, sau đó là một tiếng nổ khiến cả mộ thất ầm ầm rung chuyển. Một luồng hơi nóng rát hất tung chúng tôi lên, tôi lộn nhào trên không khoảng sáu bảy vòng gì đó, bắn ra xa hơn ba trượng, đầu đập thẳng vào tường.

Lần này thực sự là xong rồi, cũng may trước đó Bàn Tử kịp đẩy tôi ngã xuống, chứ không cầm chắc đã gãy cổ. Tôi va vào tường rồi chẳng còn biết gì nữa, mắt không nhìn được, hai tai ong ong, còn tưởng mình đã đi chầu ông vải mất rồi. Nhưng chờ thêm một lát, bỗng cảm giác trước mắt có ánh sáng, tôi chầm chậm mở ra, chỉ thấy trời đất quay cuồng, bụi vàng bay mù mịt, đầu óc choáng váng đến buồn nôn.

Tôi chật vật đứng lên, bên tai văng vẳng đủ thứ thanh âm hỗn tạp, nhưng lúc này tôi làm gì còn sức phân biệt ai là ai nữa, chỉ thấy ồn ào chết đi được, đầu thì đau muốn nứt ra. Trong lúc hỗn loạn, Muộn Du Bình vừa ho khan vừa chạy ra từ đám bụi mù, hỏi: “Cậu không sao chứ?”

Tôi vừa mở miệng định nói thì cắn ngay vào lưỡi, đành xua xua tay ra hiệu đi tiếp. Hai chúng tôi vừa bụm miệng vừa đi lòng vòng tìm Bàn Tử, đi được mấy bước thì thấy hắn đang ngồi một góc, bả vai bị mảnh gạch vỡ va trúng, tượt mất một mảng da. Hắn vừa thấy Muộn Du Bình đã chửi ầm lên: “Chết tiệt, con mẹ nó sao cậu ra tay nhanh vậy, ít ra cũng phải đợi chúng tôi lui vài bước đã chứ. Ông đây chỉ cần nhích sang bên cạnh hai phân thôi thì cánh tay này coi như đi tong rồi!”

Muộn Du Bình xòe tay ra cho chúng tôi thấy miếng kính: “Cậu nhầm rồi, vừa rồi không phải tôi làm.”

“Á, không phải anh?” Chúng tôi đều kinh hãi.

Luồng lực đạo mạnh mẽ và chuẩn xác như vừa rồi nhất định phải do một người cực kỳ lợi hại phát ra, không phải hắn thì là ai? Vừa rồi Bàn Tử không rời tôi nửa bước, vả lại hắn cũng không thể ra tay chuẩn xác như vậy được. Người đó càng không thể là tôi, suy ra ở đây chỉ còn lại một người – tôi đột ngột hiểu ra, vội vàng chạy đi tìm A Ninh.

Bàn Tử cũng nghĩ như tôi, cả hai chạy đến góc phòng thì làm gì còn bóng dáng cô ta nữa. Bàn Tử mắng: “Quả đúng là bà cô kia! Mẹ nó, quả nhiên là ả giở trò!”

Muộn Du Bình hình như hơi sốc, xem ra hắn rất tin tưởng vào phán đoán của mình, không ngờ lại xảy ra sai sót. Tôi càng thêm dè chừng cô ả, nói: “Cô ả quả thật cao tay, xem ra cũng là kẻ sành sỏi trên giang hồ, xưa nay tôi chưa thấy ai giả dại giống đến thế.”

Bàn Tử lầm bầm: “Tôi thấy không phải là sành sỏi bình thường đâu, bèo nhất cũng phải là diễn viên nghiệp dư, lần sau ả có nói gì cũng đừng hòng lừa được tôi!” Vừa dứt lời liền dợm bước định đi tìm cô ta thật, Muộn Du Bình vội kéo tay hắn lại, nói: “Giờ không kịp đâu, thôi quên đi.”

Tôi cũng khuyên: “Đừng gây rối thêm nữa, bây giờ quan trọng nhất là phải xem xem trần mộ có nứt ra không. Anh ráng nhịn một chút, thoát ra rồi hẵng tính.” Lời còn chưa dứt, trên đỉnh đầu đã truyền xuống một chuỗi những tiếng ầm ầm như có vật gì đang chầm chậm đứt gãy. Tiếng động không lớn nhưng cũng đủ làm tim tôi vọt lên tận cổ, trong lòng tự nhủ thôi toi rồi, mới nổ một phát mà mi đã sập xuống luôn sao, thật khiến ta mất hết mặt mũi!

Bàn Tử đang không cam tâm, nghe thấy âm thanh đó mặt cũng tái đi, hỏi: “Con mẹ nó, tiếng động này là sao? Tiểu Ngô, kiểu này lỗ hổng phải bự lắm, đâu có nhỏ như cậu nói!”

Tôi ngẩng đầu nhìn lỗ hổng trên trần, lưỡi líu cả lại, uy lực của trái bom giấu trong bụng thây khô kia quả là kinh khủng, vượt xa dự đoán của tôi. Phần khung sắt phía trên đã vỡ tung gần hết, tạo thành một cửa động đường kính gần nửa mét; lớp gạch không thấm nước trên trần cũng vỡ ra, nước biển ào ào xộc vào giống như một thác nước nhỏ, xem ra thanh âm lúc nãy chính là tiếng nước đổ xuống. Cứ tiếp tục thế này, chẳng mấy chốc trần mộ sẽ sập thôi.

Cây cột gỗ lim vàng bên cạnh cũng đã toác ra, khe nứt trên thân cột vẫn tiếp tục rộng thêm, kéo dài lên trên, hơn nữa còn có dấu hiệu nghiêng ngả. Cây cột quý giá đến thế, xem ra đã hỏng hoàn toàn.

(Du: còn thời gian nghĩ đến cây cột cơ đấy =.= Dứa: Có tố chất người phụ nữ của gia đình =)))

Xem ra  vì cây cột gãy mà một xà ngang bên trên đã bị ảnh hưởng, có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Căn cứ vào âm thanh tôi nghe được, có thể kết luận trên cây xà đã xuất hiện vết nứt, dù đến giờ vẫn cầm cự được nhưng việc sập xuống chỉ còn là vấn đề thời gian nữa thôi.

Tôi trấn an Bàn Tử: “Không sao đâu, anh đừng lo. Mộ này chắc chắn hơn những mộ khác nhiều, chỉ cần không xảy ra động đất thì làm sao dễ dàng sập xuống như thế được.”

Lời còn chưa dứt, mặt đất dưới chân đã bắt đầu chấn động. Tôi sớm đoán biết kết cấu kín khí của ngôi mộ đã hỏng, nước biển phía dưới đang không ngừng dâng lên, nhưng không ngờ lại rung chuyển mạnh đến vậy, chợt thấy căng thẳng muốn ngất đi.

Chấn động càng ngày càng mạnh, vô cùng đáng sợ. Mà đáng sợ hơn nữa chính là nếu cứ tiếp tục cường độ rung lắc thế này,  chỉ e trần mộ chưa sập thì nền nhà đã sụp xuống trước rồi. Bàn Tử bị dọa đến hoảng hốt, kêu lên: “Lạ thật, sao mặt đất lại rung chuyển vào đúng lúc này chứ, chẳng lẽ có động đất thật à? Tiểu Ngô, rốt cuộc vừa rồi cậu cho nổ ở vị trí nào trong mộ thế?”

Tôi giải thích cho hắn nghe rồi nói: “Đừng hoảng, đây là hiện tượng bình thường thôi. Chúng ta nên chuẩn bị sẵn sàng, không chừng lát nữa sẽ có nước phun ra từ các khe trong phòng, cẩn thận bị nước phun trúng đó. Lực phun nước lúc ấy sẽ mạnh như nắm đấm, xô ngã người như chơi.” Vừa dứt lời đã nghe một âm thanh kì quái, khối đá Thanh cương chặn cửa đạo động bị một vòi nước xiết hất tung lên, nước biển bắn cao tới bảy tám thước như suối phun vậy. Tôi còn chưa kịp phản ứng đã thấy một vật gì đó bay ra từ trong đạo động, đập vào trần mộ rồi rơi xuống cái bàn đá ở giữa. Tốc độ nhanh quá nên tôi không sao nhìn rõ được đó là thứ gì, mà trong mộ này thì còn là gì được nữa, chắc là Cấm bà thôi.

Thứ này xuất hiện thật rắc rối, thậm chí có thể nói là rắc rối to. Trong nước đâu thể đốt lửa, lỡ bị nó quấn lấy thì hết cách.

Đáng tiếc lúc này tôi đâu còn tâm trí để ý đến nó, nền đất bên cạnh cửa đạo động kia cũng đã nứt ra, nước cuồn cuộn phun trào không dứt hệt như núi lửa. Đã thế mực nước dâng lên cũng rất nhanh, chỉ trong nháy mắt chúng tôi đã nổi lên cách mặt đất năm sáu mét.

Tôi liếc một vòng tìm A Ninh, lúc này đám khói sinh ra trong vụ nổ đã tản mác hết nhưng vẫn không thấy cô ta, có lẽ đã khuất sau cây cột nào đó rồi. Bàn Tử bơi không giỏi lắm, phải cố gắng lắm mới bơi được, không có hơi sức để ý đến cô ta, có điều nơi này chỉ có một cửa ra, lát nữa thế nào cũng phải gặp nhau. Bàn Tử nháy mắt với tôi, đại khái muốn đợi xem vẻ chật vật của cô nàng, còn tôi vốn không nỡ ra tay với phụ nữ, đành lờ hắn đi vậy.

Chúng tôi nổi lên trên thêm chút nữa, đầu sắp chạm đến trần mộ, bỗng Bàn Tử tự nhiên nổi hứng bơi sang bên cạnh. Tôi không biết hắn muốn làm gì, kêu to: “Đã đến đây rồi sao còn tách ra, anh làm gì thế, không thiết sống nữa à?”

Hắn bơi tới chỗ một viên dạ minh châu, mắm môi mắm lợi gỡ xuống nhét vào quần

(;)))

rồi bơi trở về, nhăn nhở nói: “Thuận tay lấy một viên về bồi thường tổn thất tinh thần cho tôi, bán được giá lắm đấy.”

(=))))))))))

Tôi chợt có ý nghĩ muốn bóp chết tên này, trước đó còn phải mắng cho một trận, nhưng lúc này tôi chẳng biết mắng cái gì nữa, mà cũng không đủ thời gian mắng vì nước đã dâng tới gần mí mắt dưới rồi. Tôi vội vàng nghển cổ hít thật sâu một hơi cuối cùng, vài giây sau đã thấy tai mình lành lạnh, toàn thân chìm hẳn vào trong nước.

Tôi ra hiệu với Bàn Tử, hắn bơi kém nhất thì nên lên trước. Hắn lắc đầu ý bảo mình béo quá, lỡ mắc kẹt lại đó thì sẽ hại cả ba cùng chết. Tôi gật đầu, bơi vào động đầu tiên. Động này mới đầu rộng, sau hẹp dần, tôi vừa nhô đầu ra đã thấy bên trên có một tầng cát dày chừng mười bảy mười tám gang tay, cát không ngừng rơi xuống trắng cả mắt. Tôi không nhìn thấy gì, đành phải cố sức đạp vài cái mới trồi lên được.

Chúng tôi tính thời gian rất chuẩn, lúc này nước biển đang rất nông. Có điều tôi không nhịn thở thêm được nữa, chỉ cố quơ quào tay chân nổi lên, ra khỏi mặt nước là đã muốn ngất. Tôi vội vàng hít sâu một hơi, bắt đầu ho sặc sụa.

Vài giây sau Bàn Tử và Muộn Du Bình nổi lên cùng lúc, Bàn Tử vừa ra khỏi mặt nước đã hắt hơi vài cái, vừa ho khan vừa cười rộ: “Khỉ thật! Thực sự không nghĩ lại có thể thành công, Vương mập ta cuối cùng cũng thoát ra! Ha ha!”

Tôi lấy lại bình tĩnh, nhìn quanh bốn phía. Trời đã về chiều, nơi chân trời có ráng mây đỏ ối phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng, trông vô cùng lộng lẫy. Mặt trời đỏ thẫm tỏa ra hào quang nhàn nhạt, tất thảy quyện với nhau thật hài hòa, tạo thành một khung cảnh ấm áp yên bình hiếm thấy.

Xưa nay tôi đã từng ngắm cảnh hoàng hôn không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa bao giờ thấy một cảnh tượng tuyệt mĩ đến vậy, trong lòng trào dâng vô vàn cảm xúc. Có điều chân tôi đã có dấu hiệu chuột rút, tôi vội quay đầu tìm thuyền của mình, phát hiện nó đang đậu gần một mỏm đá cách nơi này không xa, lập tức cảm thấy yên lòng. Có thuyền, chúng tôi có thể rời khỏi vùng biển khổ sở này ngay lập tức, ngủ một giấc thật ngon.

Bàn Tử sau khi lấy lại tinh thần, chợt nhớ tới điều gì, đột ngột lại lặn vào trong nước. Tôi cũng lặn theo hắn, thấy A Ninh đang kẹt lại trong động, liều mạng giãy dụa nhưng không ra được.

Chuyện này thật khó hiểu, cô ta rõ ràng là thon thả hơn Bàn Tử rất nhiều, không lý nào hắn ra được mà cô ta lại bị kẹt lại thế kia.

Có vẻ A Ninh không nhịn thở thêm được nữa, miệng bắt đầu nổi bọt khí, mắt trợn trừng. Tôi và Bàn Tử bèn lặn xuống, mỗi người nắm một bên tay cô ta kéo lên.

Tôi phát hiện bên trong có lực kéo giữ cô ta lại, nhưng chúng tôi có hai người đương nhiên mạnh hơn, hợp lực một phát đã lôi được A Ninh lên. Tôi nhìn mớ tóc đen trên chân cô ta, biết ngay chuyện gì vừa xảy ra.

Bên trong động đã ngập đầy tóc đen, có lẽ chờ thêm lát nữa Cấm bà có thể cũng theo ra, tốt nhất nên lên bờ ngay. Tôi cùng Bàn Tử nổi lên, hắn xem xét hô hấp của cô ta, phát hiện toàn thân cô ta đã mềm nhũn, hình như đã mất hết sức lực, may mà vẫn còn thoi thóp thở. Bọn tôi bơi lại gần con thuyền, kéo cô ta lên. Miệng A Ninh không ngừng trào nước, mắt trắng dã, tình thế rất nguy kịch.

Tôi không biết gì về cấp cứu người chết đuối, gọi to: “Bác lái đò, có người bị sặc nước! Mau ra cứu người!”

Hô hai tiếng mà không thấy ai trả lời, tôi nghi hoặc bảo Bàn Tử ở lại rồi vào thuyền tìm một vòng, không khỏi bực bội, sao lại chẳng có lấy một ai? Tôi chợt có cảm giác khác thường, không đúng, nơi đây là ngoài khơi, làm sao lại không có ai trên thuyền, dù có đi bơi chăng nữa cũng phải có người ở lại trông thuyền chứ?

Tôi lại gào to thêm mấy tiếng, vẫn không ai trả lời. Bàn Tử nghe thế bèn chạy vào hỏi xem có chuyện gì, tôi khoát tay một vòng, nói: “Anh thấy đó, trên thuyền không có ai!”

Bàn Tử ngẩn người, cũng tìm quanh một vòng, gãi đầu: “Không có ai thật, nhưng đám cá mới bắt lên trong kho vẫn còn sống, chứng tỏ nửa tiếng trước họ vẫn còn đánh cá. Không hiểu trong khoảng thời gian ấy họ đã đi đâu?”

Chương 46: Tổng kết

 

Editor: Tiểu Điệp

*****

Tôi kiểm tra mấy thứ máy móc gần bánh lái, nhìn qua trông cũng rất bình thường, liền nói: “Con thuyền này vẫn bình thường mà, trông không giống xảy ra sự cố… Anh nói xem, liệu có phải đội tuần tra biển tới bắt hết người về rồi không?” Bàn Tử lắc đầu phản đối: “Nếu người đi thì thuyền nhất định cũng bị kéo về theo, làm gì có chuyện còn dừng lại ở đây? Chuyện này tuyệt đối không liên quan đến đội tuần tra biển. Vùng này vốn loạn, có đủ loại thuyền qua lại, thôi thì chúng ta ra kho hàng nhìn xem, nếu mất đồ thì chắc chắn là gặp hải tặc rồi.”

Lúc mới tới đây tôi có trò chuyện với ông lái thuyền, nên cũng biết chuyện có hải tặc hoạt động ở vùng này, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy chuyện này hình như có gì không đúng. Khi Bàn Tử nhắc đến, tôi có chút kinh ngạc, hỏi lại: “Chỗ này nói gần biển cũng không gần, nói xa lại chẳng phải xa, chẳng lẽ hải tặc ở đây hoành hành ngang ngược đến thế sao?”

Bàn Tử cười nhạo: “Ngây thơ quá đi, cậu thực sự coi quân đội nhân dân là vạn năng sao? Hổ cũng có khi ngủ gật, tôi nói cho cậu biết, vùng biển này người Việt có, người Nhật có, Malaysia cũng có, nhìn bề ngoài thì yên ổn thế thôi nhưng thực ra sóng ngầm vẫn đang tuôn trào nha. Chẳng biết có bao nhiêu thuyền buôn ma túy, buôn lậu, thăm dò, rồi hải tặc nữa; vả lại đám người đó ai ai cũng có súng, ở đây xuất hiện một con thuyền không người, cũng chẳng phải điều đáng ngạc nhiên.”

Chúng tôi vừa bước vào khoang hàng đã ngửi thấy hương trà thoang thoảng, Bàn Tử đi trước, tôi theo sau, nhìn khắp từ trong ra ngoài. Vật tư vẫn còn đủ cả, bày bừa y chang như lúc tôi mới xuống thuyền, thậm chí trên tấm ván bọn tôi nằm còn đặt một ly trà. Tôi sờ sờ, ngạc nhiên: “Quái lạ, trà vẫn còn ấm.”

Bàn Tử bất đắc dĩ cười nói: “Mấy chuyện kì quái này ngày nào cũng có, nhưng hôm nay lại nhiều đến khó hiểu, lẽ nào toàn bộ người trên thuyền đều bị quỷ bắt đi rồi?”

Tôi nói: “Anh xem, chén trà này mới uống có vài ngụm, nhưng nắp chén lại được đậy cẩn thận, điều này cho thấy họ đi rất vội vàng nhưng không hốt hoảng. Trong trường hợp nào thì anh vội vàng rời đi, nhưng lại tuyệt không hoảng loạn?”

Bàn Tử nhún vai ý bảo không biết. Tôi ngẫm nghĩ một hồi, cũng không đoán nổi chuyện gì đã xảy ra ở đây. Nghĩ rồi chúng tôi lại quay về phòng điều khiển. Bàn Tử kéo vô tuyến điện, kêu vài tiếng cứu mạng, nhưng không ai để ý đến hắn cả. Chợt tôi thấy một cái đài đặt cạnh đó, liền bật lên, thì ra đài đang phát cảnh báo bão cho dân đánh cá Đài Loan.

Từ nãy chúng tôi đã cảm thấy gió bắt đầu mạnh lên, có điều giờ đang là lúc chiều tà, không nhìn được quá xa, nhà đài nói thêm một ít thuật ngữ, tôi nghe cũng không hiểu lắm, nhưng câu cuối cùng: “Mời các đội thuyền đang ở trên biển đến cảng tị nạn” được cường điệu vài lần.

Sắc mặt của Bàn Tử với tôi đều đen lại, lẽ ra hiện giờ chúng tôi chẳng phải làm gì cả, ông lái thuyền tất nhiên sẽ phải lo mấy chuyện này. Vậy mà bây giờ lại cho chúng tôi một con thuyền trống không, ông trời cũng thật biết trêu người.

Bàn Tử nhìn đồng hồ, nói: “Xem ra đứng ngây ra ở đây cũng không phải cách hay, với cái con thuyền rách nát con con này, chờ thêm lát nữa chắc cả lũ đều thăng thiên hết. Trước tiên cứ nổ máy đi đã, gặp bão chỗ biển sâu cùng lắm chỉ chịu ít xóc nảy, nhưng ở đây đều là đá ngầm, bị sóng đánh trúng nhất định sẽ va phải. Cậu mau kéo neo lên đi.”

Nói rồi hắn đốt một điếu thuốc, khà ra vài hơi, động tác còn ra vẻ kiểu cách. Tôi thấy kỳ quái liền hỏi: “Con mẹ nó, anh biết lái thuyền không đó? Chuyện này không nói giỡn được đâu, bốn người bọn ta vất vả lắm mới ra nổi, nhỡ lát nữa anh lại lái va phải đá ngầm, cả đám làm mồi cho cá hết thì sao.”

Bàn Tử cười ha ha với tôi, nói cái này là thiên phú của hắn, đừng nói tàu thuyền, ngay cả có là máy bay, để hắn nghịch vài cái cũng có thể bay lên trời được.

Tôi nghe xong, cũng chẳng biết hắn nghiêm túc thật không, vẫn rất lo. Bàn Tử thành thạo khởi động động cơ, nói với tôi ngày trước khi hắn tới vùng nông thôn, còn làm cái gì mà tổ trưởng tổ chăn nuôi cá, mấy thứ cơ bản này hắn vẫn biết, hơn nữa lúc học lái xe, mấy thứ khoa học kỹ thuật mới này hắn đều xem qua hết, tin rằng nếu không gặp phải gió to sóng lớn gì đó, lái thuyền tuyệt đối không thành vấn đề.

Thực ra cái hắn gọi là tổ trưởng chăn nuôi, chính là cầm chông săn cá ở dưới suối, có điều khi đó tôi thấy hắn nói rất chắc chắn, không như đang khoác lác, liền tin luôn, còn vui vẻ vội vàng chạy đi nhổ neo.

Lúc thuyền bắt đầu chạy, Bàn Tử liền bảo tôi đừng làm phiền hắn, thuyền còn đang ở trong vùng đá ngầm, hắn phải tập trung tinh thần. Tôi thấy trán hắn chảy đầy mồ hôi, vẻ mặt nghiêm túc, biết hắn đang nói thật, liền quay về boong tàu.

Muộn Du Bình đang xoa bóp tay cho A Ninh, thúc đẩy tuần hoàn máu của cô nàng. Cô ta trông có vẻ khá hơn lúc ban đầu một chút, nhưng sắc mặt vẫn rất xấu, hơi thở lúc nhanh lúc chậm, không ổn định chút nào. Tôi hỏi Muộn Du Bình tình hình sao rồi, anh ta gật đầu, phỏng chừng không phải vấn đề lớn.

Tôi lấy ra ít lương khô, cho mọi người ăn một chút. Trải qua nhiều chuyện như vậy, tuy hiện giờ còn chưa thoát khỏi nguy hiểm, nhưng cuối cùng cũng tính là đã trở về nơi quen thuộc rồi. Tôi bình tĩnh lại, liền cảm thấy mệt mỏi rã rời, nên thay vào bộ thường phục của mình, cuộn một tấm thảm lông quanh người dựa vào cạnh phòng điều khiển ngủ gật.

Vốn tôi chỉ định ngủ vài tiếng, sau đó thì đi xem Bàn Tử có muốn đổi ca không, nhưng thân thể mệt nhọc không chịu nổi, khi tỉnh lại đã qua ngày hôm sau, không biết là sáng hay chiều nữa.

Tôi nhìn mặt biển bên cạnh. Sóng vẫn rất lớn, rải rác có thể thấy vài chú hải âu, bay là là mặt nước. Bầu trời âm u, những đám mây tụ lại thành từng mảng, cứ như thể sắp đổ mưa. Trên biển vốn không có những tòa nhà cao tầng chống đỡ, mây đen phủ hết tầm hình của bạn, dưới cảnh tượng này, ai cũng sẽ nghĩ bản thân mình vô cùng nhỏ bé, loại cảm giác bị áp bức này không thể so sánh với những thứ trong thành thị.

Tôi liếc qua phòng điều khiển, Bàn Tử đang rúc vào một góc ngủ gật, ngáy to như sấm. Muộn Du Bình đang cầm bánh lái. Tôi vừa tỉnh ngủ, tuy cảm thấy tình cảnh này không hợp lý lắm, nhưng cũng không để ý nhiều, lại trở mình ngủ tiếp, mãi cho đến giữa trưa mới bị Bàn Tử đánh thức.

“Đồng chí Thiên Chân Vô Tà, ăn thôi, cầm đũa đi nè.”

Tôi mở mắt, liền thấy Bàn Tử đang ngồi nấu lẩu cá, còn dùng đũa khuấy khuấy. Canh đã biến thành màu trắng, lửa cũng hợp độ. Tôi nhìn con cá này rất quen, hình như là con cá mú của lão thuyền trưởng, thoáng cười thầm. Con cá này Bàn Tử đã thèm thuồng lâu rồi, có điều ông thuyền trưởng sống chết không cho ăn, nói là muốn bán cho tiệm rượu, không ngờ vẫn không trốn được độc thủ của Bàn Tử.

Bàn Tử bận rộn cắt hành, cho thêm ớt, đập cá, xem ra cũng là tay lão luyện, tôi cười nói: “Bàn Tử, được đó, rất có tài, học được chiêu này ở đâu vậy?”

Bàn Tử đáp: “Lúc ông đây lên núi vào rừng, không mẹ không vợ, cái gì cũng phải tự thân vận động, lúc đó săn thú bắt cá rình tổ ong ở trên núi, chuyện gì cũng làm hết rồi, đây chỉ là một nồi canh cá, chút lòng thành thôi.”

Tôi giơ ngón cái lên, “Bàn gia, Bàn gia, tôi rất ít bội phục người khác, nhưng con mẹ nó, anh lợi hại quá, tôi phải học tập anh nhiều.”

Hắn không nhận lời khen, mắng: “Con mẹ nó nịnh vừa thôi, muốn ăn thì ăn nhanh, không ăn thì cút, đừng có phun nước miếng nữa!”

Tôi đương nhiên sẽ không bỏ đồ ăn ngon, lập tức cầm đũa giành thịt, chưa đầy hai mươi phút sau, một con cá mú hơn cân rưỡi đã bị chúng tôi chén sạch, tôi ăn đến mức ợ chua cả lên.

Ăn no rồi, Bàn Tử liền đi thay ca cho Muộn Du Bình. Trên thuyền tuy có trang bị dẫn đường, nhưng chúng tôi lại không biết dùng, không thì con thuyền này tự chạy cũng được. Bàn Tử ăn uống no say, một tay cầm bánh lại, một tay móc viên dạ minh châu của hắn ra ngắm nghía, miệng còn ngâm nga: “Hảo cô nương trong Trúc lâu, rực rỡ lóa mắt như Dạ minh châu a.”

Ngâm ngâm nga nga một hồi, hắn thấy tôi đang ngồi ngẩn người một chỗ, liền đưa hạt châu cho tôi, nói: “Cậu nhàn rỗi chẳng có việc gì thì ước chừng định giá cái này cho tôi, đại khái kiếm được bao nhiêu?”

Tôi đón lấy, lại suy nghĩ một hồi, mới bảo: “Đồ giả, đây không phải dạ minh châu.”

Bàn Tử suýt nghẹn, trừng mắt nhìn tôi, tôi vội vàng an ủi hắn: “Đừng kích động, dù là đồ giả nhưng cũng đáng tiền. Đây là Ngư Nhãn Thạch, anh biết tại sao gọi là Ngư mục hỗn châu không? Chính là chỉ cái này đó. Thứ này rất hiếm gặp, nhưng phải xem có người mua không đã. Lúc tôi vừa thấy nó đã biết rồi, anh nghĩ thử xem, một cái Bảo đỉnh mà chứa nhiều Dạ minh châu như thế, anh nghĩ Uông Tàng Hải là ai chứ, làm sao có khả năng đó được? Tính hết mộ hoàng thất ở Trung Quốc, tích lũy qua mấy trăm năm, cũng không thể tìm được nhiều viên như thế.”

Bàn Tử nghe xong thoải mái hơn một chút, mắng: “Con mẹ nó, sau này cậu đừng nói năng lấp  lửng kiểu đó có được không, suýt chút nữa bị cậu dọa nghẹt thở. Vậy cậu đoán thử xem, món này đáng giá bao nhiêu tiền?”

Tôi chưa từng buôn bán thứ này, chỉ có thể đoán đại khái từ chỗ mấy người khách hàng của mình. Tôi báo vài giá, Bàn Tử đều không hài lòng, nói đây là thứ phải đổi cả mạng mới lấy được, nếu giá không cao, thà để nhà làm đèn bàn còn hơn. Tôi thở dài, bảo: “Vậy được rồi, lần trước tôi đi Tế Nam gặp một ông khách quý, khi nào về tôi thử hỏi cho anh xem, có lẽ đổi được một biệt thự cũng không thành vấn đề, anh cũng đừng bận tâm quá.” Bàn Tử nói: “Vậy nhờ cậu hết, biệt thự này của tôi chỉ trông cậy vào cậu thôi. Mà cũng phải nói lại, con mẹ nó, sớm biết thế ráng nín thở thêm vài giây bứt thêm một viên ra, như vậy cũng có thể đổi được thuyền chiến, máy bay cỡ nhỏ, tôi cũng thử học tập mấy vị đại gia nước Mỹ, đúng không?”

Tôi thấy hắn mộng tưởng bay đến tận trời rồi, không thèm để ý đến hắn nữa. Hắn bỏ hạt châu vào túi, hỏi tôi: “Lần này không tìm thấy chú Ba của cậu rồi, cậu còn có dự định gì không? Tôi thấy chuyện này vẫn chưa kết thúc đâu, cậu còn phải tìm kiếm vất vả nhiều.”

Tôi vốn định về nhà, lục tung cả căn nhà của chú lên, xem chú rốt cuộc đang làm trò quỷ gì. Nhưng Bàn Tử hỏi tới, tôi cũng không thể nói thẳng ra thế được, đành cười cười: “Tôi còn tính toán gì nữa, trở về tiếp tục mở cửa hàng thôi. Mấy cái đấu này tôi tuyệt đối không dám xuống nữa, tuy là có kiếm được tiền, nhưng đổi lại là cái mạng này, không đáng.”

Bàn Tử cười to, cũng không nói thêm gì nữa.

Mấy tiếng sau, chúng tôi cũng tới được đảo Vĩnh hưng. Trên đảo đang chuẩn bị phòng thiên tai, thuyền đánh cá tới tị nạn rất nhiều. Chúng tôi sắp xếp hành lý của mình, thừa dịp loạn lạc bỏ chạy, thuyền cũng vứt luôn. Bàn Tử cõng A Ninh đi đến viện dịch tễ quân y, sau đó chúng tôi tìm một nhà khách ở trọ. Ngư dân đều lưu lại trên thuyền của mình, có chuyện gì cũng có thể lập tức chi viện. Bão to gió lớn thế này, du khách tới đây không nhiều, nhà khách này cơ bản cũng trống trơn.

Chúng tôi trú lại đảo chờ đến khi lịch bay bắt đầu khôi phục, đại khái phải đến gần bảy ngày. Trong thời gian đó cả ba đều không ngừng thảo luận về ngôi mộ dưới đáy biển này, rút ra được một số kết luận.

Đầu tiên, chúng tôi đều thừa nhận đây là mộ của Uông Tàng Hải, nhưng cái xác ngồi thiền trên bàn đá kia có phải hắn không, cũng không thể khẳng định được. Bởi vì cái xác khô đó rõ ràng đã bị người ta đụng tay đụng chân, tuy Uông Tàng Hải tính tình cổ quái, nhưng cũng không tới mức phát rồ như thế.

Thứ hai, Vân Đỉnh thiên cung ở ngay trên đỉnh núi Trường Bạch, còn về chuyện nó chôn cất ai, cũng không thể nói trước, chỉ có thể suy đoán bên trong có lẽ là một người Mông Cổ, hơn nữa khả năng lớn còn là một nữ nhân có thân phận vô cùng đặc biệt.

Thứ ba, Xà mi đồng ngư xuất hiện ở Lỗ Vương cung và ngôi mộ dưới đáy biển, chuông đồng lục giác cũng xuất hiện ở hai nơi này, chỉ rõ, chuông đồng lục giác và xà mi đồng ngư, có thể có mối liên hệ nào đó. Lỗ Thương Vương là dân trộm mộ, Uông Tàng Hải là người xây dựng, điểm chung duy nhất của hai người họ chính là thường phải đào đất. Liệu bọn họ có phải là đào được thứ gì đó ở cùng một chỗ hay không, cũng chưa thể nào biết được.

Thứ tư là do Muộn Du Bình đưa ra. Anh ta phác ra sơ đồ cho chúng tôi, rồi vẽ thêm đường đi của chúng tôi trong cổ mộ, rồi phác thêm kết cấu của cổ mộ. Sau đó, anh ta chỉ vào mấy chỗ, những khu vực này giáp với phòng đỉnh mộ (nơi chúng tôi phá động thoát ra) cùng với không gian dưới đáy mộ, ở đó hẳn là còn vài gian phòng nữa. Muộn Du Bình đoán, kết cấu của ngôi mộ này có hơi giống với Hoàng lăng thời Chiến quốc, trong mấy thứ treo lơ lửng trên gian phòng kia, hẳn có một thứ là trân cầm dị thú, những thứ kỳ quái hiếm gặp này, nói không chừng chính là từ đây mà ra.

Tôi nghe xong dựng hết cả tóc gáy, hỏi anh ta: “Anh nói Uông Tàng Hải nuôi hạn bạt với Cấm bà làm thú cưng? Con mẹ nó, khoe khoang quá rồi đi?”

Muộn Du Bình gật đầu, nói: “Hắn không phải là người đầu tiên. Mấy hoàng lăng của nhà Thương, nhà Chu, cả lăng Tần Thủy Hoàng đều có. Hơn nữa Uông Tàng Hải lại giỏi về mặt này, hắn làm vậy cũng không có gì đáng trách.”

Lúc nhàn hạ, thỉnh thoảng tôi cũng rút máy tính xách tay ra, dùng đường dây điện thoại cố định lên mạng, muốn tra thử những tư liệu về Uông Tàng Hải, nhưng trên mạng ít đến đáng thương. Chỉ biết Úc Môn là do hắn thiết kế, sao chép theo hình dạng của một tòa thành khác. Vài ngày sau buồn chán muốn chết, bão lớn căn bản còn chưa đến cửa. Ngày thứ tư, đường dây điện thoại đứt, chúng tôi không thể làm gì khác, đành chơi Sừ đại D với Bàn Tử. Muộn Du Bình không giỏi cái này, cả ngày tựa vào giường nhìn trần nhà, nhìn nhìn suốt một ngày trời, tôi cũng chẳng có cách nào với anh ta.

Còn đám lông trắng trên lưng Bàn Tử, sau cũng không để ý tới nữa, vậy mà cuối cùng lại khỏi luôn, kỳ quái. Tôi thật hoài nghi có lẽ nước bọt của mình cũng có chỗ xài được, cảm giác có hơi là lạ, nhưng việc này tôi cũng không muốn truy tận gốc lắm, sau đó cũng quên luôn. Kỳ thực lúc này tôi đã cảm thấy có chút bất hợp lý, nhưng biết làm sao, tính tôi sinh ra đã thế, được đến đâu hay tới đó, phải trải qua kiếp số này cũng đáng đời.

Mấy ngày nay tôi cũng thử dò hỏi thân thế của Muộn Du Bình, nhưng anh ta toàn làm như không nghe thấy. Bản lĩnh giả ngu của người này có lẽ còn trên cơ A Ninh nữa.

Đến ngày thứ năm, dây điện thoại rút cuộc cũng thông, tôi lại tiếp tục lên mạng. Lúc này, tôi nghĩ tới thân thế của Trương Khởi Linh, đột nhiên linh cảm, nếu Trương Khởi Linh có thể khôi phục ký ức, vậy những người đã trải qua sự việc này như hắn không chừng cũng có người khôi phục ký ức rồi. Ma xui quỷ khiến thế nào, tôi liền gõ tên hắn vào ô tìm tòi, rồi click search. Tất cả đều là ghi chép của người trùng tên trùng họ, tôi tùy tiện mở vài mục, phát hiện ra cũng chẳng có tin tức gì có ích.

Cứ tìm như vậy cũng không phải cách, tôi liền thêm tên chú Ba vào, lần này chỉ có lại một tin. Xem tiêu đề, là tin tức tìm người.

Phát hiện này quả thực ngoài dự tính của tôi, thoáng chốc có cảm giác khó thở. Vừa mở ra nhìn thì thấy đó là bức ảnh chụp chung của họ tại bến tàu trước khi xuất phát, được người ta quét lên mạng, phía dưới còn liệt kê ra tên của từng người. Tôi đọc từ trên xuống dưới, phát hiện ra cuối cùng còn viết thêm một câu.

Câu nói này rất ngắn, nhưng lại thu hút toàn bộ suy nghĩ của tôi.

“Cá đang ở chỗ ta.”

——-

Thành thực xin lỗi vì chương cuối này xuất hiện hơn muộn. Thực ra tớ edit xong chương này từ 30/3 rồi nhưng nhà tớ lại đột ngột mất mạng từ thứ 6, hơn nữa thứ 7 tớ lại trực viện cả ngày nên dây dưa đến tận giờ mới sửa được. Thành thật xin lỗi mọi người, đặc biệt là Du Du ;____;

Chương 1: Lão Dương ra tù

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Chỉ vài chữ ngắn gọn lại thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi.

“Cá ở chỗ tôi…”

Cá gì? Chẳng lẽ là Xà mi đồng ngư?

Theo hình vẽ khắc trên đá trong cổ mộ, ba con Đồng ngư kỳ lạ này có đầu đuôi nối liền với nhau, hiện giờ trong tay tôi đã có hai con, hẳn là còn một con Đồng ngư nữa đồng bộ với hai con này. Ý nghĩa của câu nói khó hiểu trên là gì? Không phải là muốn ám chỉ con cá cuối cùng đang nằm trong tay hắn đấy chứ?

Người đưa ra thông tin đã có tấm hình này, lại biết cả chuyện về Đồng ngư, liệu có phải là một trong số những người mất tích vào năm đó hay không?

Tôi cẩn thận xem qua trang web một lượt, thời gian đăng tin là hai năm trước. May mà trang web này chưa bị đóng cửa, không thì thông tin này chắc chắn đã sớm biến mất trên mạng rồi. Nhưng thông tin này ngoài một câu đó ra thì không có bất cứ chữ ký hay phương thức liên lạc nào khác.

Tôi cảm thấy có phần khó hiểu, nếu là tìm người sao lại không để lại cách thức liên lạc, thế này chẳng phải là phí công sao?

Tôi chuyển sang lục lọi trên Google, hy vọng có thể tìm được nhiều thông tin hơn, nhưng lục đi lục lại một hồi cũng chỉ tìm được duy nhất một tin  ấy.

Tôi không khỏi chán nản, song đây đã là phát hiện lớn lắm rồi, ít ra có thể chứng tỏ vẫn có người biết đến chuyện của 20 năm trước, vậy thì người này rốt cuộc là ai?

Không lâu sau, cơn bão chết tiệt kia cuối cùng cũng chịu tan. Ngày hôm sau, có tàu Quỳnh Sa xuất phát từ Thanh Lan thuộc Văn Xương ghé qua, chúng tôi thấy không thể chờ mãi ở đây, bèn thu dọn hành lý chuẩn bị trở về.

Trước lúc rời đi chúng tôi có đến quân y viện tìm A Ninh nhưng không thấy, hỏi bác sĩ mới biết mấy ngày trước, lúc cơn bão vẫn chưa dứt, có một người nước ngoài đội mưa bão đột ngột xuất hiện đón cô ấy đi rồi, ông ấy còn tưởng người đó đi cùng chúng tôi. Hơn nữa gió lớn làm đứt dây điện thoại, mà chỗ bọn họ thì không ai rảnh rỗi đi làm việc tốt nên cũng không thông báo cho chúng tôi.

Trong lòng tôi hiểu rõ, hẳn là người tiếp ứng của A Ninh trên đảo đã đưa cô ấy đi. Mấy ngày qua hòn đảo nhỏ này bị bão cô lập, dù chúng tôi có muốn ngăn cản cũng đành chịu.

Bàn Tử bực tức mắng mỏ, nói thế là quá dễ dàng cho cô ả rồi. Tôi thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vì tôi vốn không biết nên xử trí cô ấy như thế nào cho phải, giết thì dĩ nhiên không được, cũng không thể nghiêm hình bức cung. Chuyện xảy ra thế này chính ra lại hợp ý tôi, đi thì đi đi, dù sao cô ta cũng đâu có làm gì được chúng tôi.

Có điều, hình như công ty của họ vào hải đấu không chỉ đơn giản là đi cứu người, rốt cuộc bọn họ có mục đích gì? Giữa chú Ba và bọn họ đã xảy ra chuyện gì? Những người còn lại hiện giờ ở đâu? Những bí mật còn bị che giấu không biết đến khi nào mới lộ ra khỏi mặt biển Tây Sa tĩnh mịch xanh thẳm.

Nói tóm lại, chúng tôi theo tàu Quỳnh Sa vòng về đại lục. Hai ngày sau, tại sân bay ở hải cảng, tôi chia tay với Muộn Du Bình và Bàn Tử, lên máy bay đi Hàng Châu. Cuộc sống hiện đại thật là thuận tiện, bốn tiếng đồng hồ sau tôi đã về đến nhà.

Hoạt động mạnh liên tục trong thời gian dài đã khiến tôi kiệt sức, mấy ngày sau đó tôi ngủ mê man, mỗi ngày chỉ thức dậy có một lần, đều là bị cơn đói đánh thức, sau đó vớ đại thứ gì đó trong tủ lạnh để bỏ bụng, ăn xong lại lăn ra ngủ, thấm thoắt đã qua hai tuần. Có người bạn còn tưởng tôi đã chết dí trong nhà bèn tìm đến, tôi mới chợt nhận ra mình đã nghỉ ngơi đủ rồi.

Ngủ quá nhiều nên cả người tôi đều khó chịu. Đầu tiên tôi gọi điện thoại cho Vương Minh hỏi về tình hình làm ăn của cửa hàng, ngoại trừ buôn bán ế ẩm ra thì tất cả bình thường. Thật ra thì buôn bán ế ẩm cũng là chuyện dễ hiểu, ông chủ đi vắng mà buôn may bán đắt mới là lạ. Sau đó tôi lại gọi cho cô Ba, bà Sáu, dượng Bảy, hễ là người thân thích có lui tới với chú Ba tôi đều hỏi qua một lượt, xem thử họ có biết hiện giờ chú Ba đang ở đâu không, nhưng đều không có kết quả. Cuối cùng tôi gọi đến cửa hàng của chú Ba, một cậu nhân viên của chú nhận điện thoại, tôi hỏi: “Chú Ba tôi đã trở lại chưa?”

Cậu ta chần chừ một chút mới đáp lời: “Ông Ba vẫn chưa trở lại, nhưng có một quái nhân tự xưng là anh em với cậu, hỏi chúng tôi cậu đang sống ở đâu. Tôi không biết lai lịch hắn như thế nào, nhưng trông hắn có vẻ gian gian, không giống người tốt nên tôi đã thay cậu đuổi hắn đi rồi. Trước khi hắn đi có để lại một số điện thoại, hay là cậu cứ gọi thử xem sao?”

Tôi ngẩn ra một chút, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tôi có rất nhiều bạn bè sơ giao ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng biết tìm đến chỗ chú Ba để hỏi tin tôi thì cũng không được mấy người, suy nghĩ một chút bèn hỏi hắn: “Người đó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi không nói chính xác được, đại khái chắc cũng tầm tầm tuổi cậu, nhìn qua có vẻ từng trải hơn cậu một chút, đầu tóc húi cua, mắt tam giác, mũi rất cao, có đeo kính, còn đeo một chiếc hoa tai, nhìn qua chẳng biết là Trung hay Tây, chẳng ra làm sao cả.”

“Chẳng ra làm sao cả?”, tôi lặp lại câu nói của cậu ta, thầm hỏi rốt cuộc đó là ai mới được chứ. Đang ngẫm nghĩ trong lòng bỗng dưng giật thót, bèn hỏi cậu nhân viên kia: “Người đó nói chuyện không được lưu loát lắm phải không?”

“Đúng, đúng, đúng…, chỉ mỗi một câu mà tên kia cà lăm đến mấy chục lần mới nói cho xong.”

Tôi đã biết đó là ai, trong lòng không khỏi vui sướng, vội ghi lại số điện thoại rồi gọi sang. Chỉ chốc lát sau đã nối máy được, từ đầu dây bên kia truyền lại một giọng nói nửa thân quen nửa xa lạ: “Ai… ai… ai đó?”

Tôi cười ha ha: “Tôi đập chết cậu bây giờ! Đến cả giọng tôi mà cũng không nhận ra là sao?”

Hắn lặng đi mất một lúc, sau đó phấn chấn hú lên vài tiếng, kêu to: “Ba… ba… ba năm không nghe cậu nói chuyện, tất nhiên là nghe… nghe không ra, cậu xem giọng của cậu đi, đúng là trưởng thành cả rồi.”

Sống mũi tôi cay cay, thật muốn rơi nước mắt, liền mắng: “Cậu còn mặt mũi nào mà nói tôi, mấy năm qua không thèm liên lạc thư từ với tôi lấy một lần, tôi còn tưởng cậu đã chết mất xác ở đâu rồi chứ!”

Ở đầu dây bên kia chính là lão Dương, tên thật của hắn là gì tôi đã quên mất rồi. Tôi với hắn là bạn nối khố cùng nhau lớn lên, chuyện gì cũng cùng nhau trải qua, có một thời gian còn thân thiết gắn bó với nhau như với chính bản thân mình vậy. Nhà hắn tương đối khó khăn, sau khi tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm thì đến làm công trong cửa hàng của tôi. Đừng nghĩ hắn nói năng không lưu loát, thực ra miệng lưỡi lừa tình ngoại hạng, hai người ngưu tầm ngưu mã tầm mã, kinh doanh bát nháo cũng tự do tự tại sống qua ngày.

Không ngờ ba năm trước, tên nhóc này lại học thói xấu, theo một người anh họ ở Giang Tây đi Tần Lĩnh đổ đấu cho biết, kết quả là bị bắt. Ông anh họ trực tiếp lãnh án chung thân, còn hắn dựa vào miệng lưỡi dẻo quẹo của mình, tự biến mình thành một anh thanh niên lương thiện bị đám bất lương trong xã hội lừa bịp dụ dỗ, cuối cùng vớt vát chỉ phải ở tù có ba năm. Thời gian đầu tôi còn đi thăm hắn, nhưng tên nhóc này sĩ diện ngất trời, không thèm ra gặp tôi. Sau này tôi lại dọn nhà, cứ thế mà mất luôn liên lạc, không ngờ giờ hắn đã được ra tù.

Lại nói đến chuyện hắn đi đổ đấu, tôi cũng có trách nhiệm rất lớn. Từ nhỏ tôi vẫn luôn khoác lác trước mặt hắn rằng ông nội tôi lợi hại như thế nào, còn đem bảo bối của ông nội ra khoe với hắn, xem ra từ lúc đó hắn đã có ấn tượng rất sâu sắc về nghề này. Tên nhóc này gan to cùng mình, hồi còn nhỏ luôn là tôi gợi ý cho hắn gây chuyện rồi gặp rắc rối, nhưng tôi hoàn toàn không ngờ chuyện nguy hiểm chết người như thế mà hắn cũng dám đâm đầu vào làm.

Những điều tôi muốn nói với hắn suốt ba năm qua, đã bắt đầu thì không thể dừng lại được! Tôi nói cực kỳ khí thế, nói đến mỏi miệng, di động cũng đã nóng lên mà vẫn chưa thỏa lòng, mãi mới bảo hắn: “Mẹ nó, buổi tối cậu rảnh không, thằng bạn chí cốt này muốn mời cậu dùng cơm, chúng ta đi ra ngoài nhậu một trận cho thoải mái.”

Lão Dương cũng đang hào hứng, liền đáp: “Đương… đương nhiên rồi, ba năm qua ông đây chưa được đụng tới miếng thịt nào, lần này phải ăn cho thỏa thích!”

Chuyện này quyết định như vậy, tôi cũng hưng phấn đến ngủ không yên giấc, tắm rửa qua loa rồi dọn dẹp một vòng trong nhà, sau đó đến quán ăn trước chờ tên nhóc kia. Tôi nhìn một lượt thực đơn, món thịt nào cũng gọi lên một phần. Trời chưa kịp tối tên nhóc đó đã đến, tôi vừa nhìn, ơ hay, tên nhóc này cũng giỏi thật, ngồi tù ba năm mà còn mập ra cho được.

Hai người bạn cũ chúng tôi gặp lại, không nói hai lời đã thủ tiêu cả nửa bình rượu ngũ lương. Nhớ lại cuộc sống trước kia, lại nghĩ đến tình cảnh bây giờ đều không khỏi sụt sùi. Cứ uống đến lúc cơm no rượu say, chén dĩa trên bàn chất thành chồng cao ngất mới phát hiện những điều cần nói cũng đã nói hết cả rồi.

Khi đó tôi đã ngà ngà say, đầu óc trở nên lộn xộn, nghĩ đến chuyện hắn phạm tội năm đó, tôi ợ một tiếng, hỏi hắn: “Cậu nói thật cho tôi biết, mẹ nó chứ năm đó mấy người các cậu đổ được cái quái gì vậy? Ông anh họ ở Giang Tây của cậu sao lại phải lãnh án chung thân?”

Lời vừa thốt ra tôi lập tức hối hận, thầm nhủ sao lại hỏi chuyện này làm gì, lỡ như gợi lại chuyện buồn của hắn thì thật chẳng biết phải xử lý thế nào.

Không ngờ vừa nghe tôi hỏi vậy, mặt hắn đã lộ ra vẻ đắc ý, nghiến răng mà nói: “Thứ tớ đổ ra, hà hà, rất là ma quái, không… không phải là tôi không muốn nói cho cậu biết, mà cho dù tôi có nói thì cậu cũng không biết được.”

Tôi thấy hắn khinh thường mình liền nổi giận: “Cậu có thôi đi không, ông đây cũng không còn là thằng nhóc chẳng biết gì của ba năm trước nữa. Đường Tống Nguyên Minh Thanh, chỉ cần cậu nói ra hình dạng thì tôi sẽ biết ngay nó là thứ gì.”

Lão Dương thấy tôi nghiêm túc như thế, chỉ cười nói: “Nhìn… nhìn bộ dạng cậu kìa, còn nói cái gì mà Đường Tống Nguyên Minh Thanh nữa chứ!”, nói rồi hắn nhúng đầu đũa vào rượu, vẽ lên bàn một thứ có hình dạng kỳ lạ, “Cậu… cậu đã từng thấy thứ này chưa?”

Tôi say đến mắt mũi lờ đờ, nhìn mấy lần cũng không rõ, chỉ cảm thấy nó giống một thân cây, lại giống như một cây cột, liền mắng: “Cậu là con lừa chết tiệt, ngồi ba năm trong kỹ viện mà vẽ vời không đỡ hơn được tí nào, hình cậu vẽ nên gọi là gì cho phải? Là một cái chày gỗ á!”

Lão Dương nói: “Cậu… cậu… cậu nhìn lại cho kỹ đi! Mắt… mắt mũi như cậu cũng chỉ xứng xem loại hình vẽ cỡ này thôi!”

Tôi cẩn thận xem lại, thật sự là không nhìn ra nổi hình này vẽ cái quái gì, bèn vặc lại: “Có quỷ mới biết cậu vẽ thứ gì! Cậu nhìn mấy cái nhánh này đi, ý cậu là hoa văn ấy hả? Tôi trông cứ như cái chạc cây ấy, tóm lại cái hình vẽ cùi bắp này tôi nhìn không nhìn ra được!”

Lão Dương đắc ý cười, hạ giọng ra vẻ thần bí nói với tôi: “Cậu dám…dám nói, đây là một cái chạc cây, chạc cây bằng thanh đồng to cỡ cổ tay?”

Tôi vừa nghe liền ớ ra, hóa ra tên này dám đổ ra một một món đồ bằng thanh đồng, đúng là chán sống rồi mà, cho hắn lãnh án 3 năm đã là quá hời cho hắn rồi, tôi bèn nói: “Thứ này nặng lắm đó nha, những món nhỏ nhỏ cậu không đổ, lại đi đổ một món vừa to vừa quý như vậy, không phải là tự gọi người ta đến bắt mình sao?”

Hắn vỗ vỗ vai tôi, lột một củ khoai sọ nướng bỏ vào miệng, nói: “Cậu không ở đó nên không biết, chỗ kia không giống như tưởng tượng của cậu đâu, chuyện dài lắm.”

Tôi cũng có nghiên cứu chút ít về đồ đồng, cân nhắc hình vẽ thứ kia của hắn, chợt nhớ trước đó không lâu ở gò Tam Tinh có đào ra rất nhiều cây thanh đồng, cũng khá giống món này.

Gò Tam Tinh là di tích của nước Thục cổ, nghiêm túc mà nói đó không phải là phạm vi mà giới mua bán đồ cổ chúng tôi có thể rớ tới, vì niên đại quá xa, giá trị quá lớn, có hét giá bao nhiêu cũng không bị xem là đắt. Nếu chỗ lão Dương từng đến có thứ này cũng không biết đối với hắn là may hay rủi nữa.

Tôi liền nổi lên hứng thú với thứ đó, bèn hỏi hắn chuyện lúc ấy diễn ra như thế nào. Hắn uống cũng nhiều nên không thèm giấu diếm gì cả, kể hết từ đầu tới cuối cho tôi nghe.

Khi đó, bọn họ đi vào Tần Lĩnh đã hơn mười ngày, ngoại trừ rừng rậm ngút tầm mắt ra thì chẳng có thứ gì khác, coi như sắp rơi vào hoàn cảnh hết đạn cạn lương.

Lão Dương và anh họ hắn thật ra đều không có kiến thức cơ bản về trộm mộ, chỉ có nhiệt huyết tràn đầy. Lúc đó anh họ hắn đã nản chí ngã lòng muốn thoái lui, còn lão Dương thì vẫn kiên trì không chịu quay về.

Một ngày nọ, bọn họ lặn lội vào một khe núi khuất giữa núi non trùng điệp. Mấy ngày vừa qua họ không biết đã gặp được bao nhiêu khe núi như vậy, nhưng lúc ấy lão Dương lại phát hiện khe núi này có điểm khác biệt.

Nơi này không cao lắm so với mặt nước biển, nhiệt độ lại khá cao, cảnh vật lại vô cùng kỳ lạ. Ở trung tâm khe núi có một rừng đa già cỗi rộng kênh mông, chà, trong khu rừng đó không biết có đến bao nhiêu cây đa lớn hơn mười người ôm che khuất mặt trời, rễ đa bò đầy trên mặt đất, hầu như không còn chỗ trống để bước đi.

Anh họ lão Dương vừa nhìn cảnh đó liền cảm thấy có điểm không hợp lý, rừng đa quy mô lớn đến thế này không giống như được hình thành tự nhiên.

Nói về đất có câu châm ngôn, gọi là: “Hàm địa bất trường cao, nhật thượng cửu bát kiều, ngốc sơn bất mạo lâm, tất hữu sa nê đào”, tức là, cỏ cây sinh trưởng ở nơi không bình thường, dưới lòng đất hoặc bốn phía xung quanh ắt có vấn đề, thường là có cổ mộ.

Bộ rễ đa như rắn quấn vào nhau, cánh rừng này rậm rạp hơn rất nhiều so với rừng cây bình thường, chỉ sợ muốn vào cũng không dễ dàng gì. Nhưng ngẫm lại, đã đến được đây, chịu biết bao nhiêu khổ sở mà may mắn vẫn chưa thấy đâu anh họ lão Dương cũng không cam tâm, liền hạ quyết tâm dẫn lão Dương cùng tiến vào.

Bọn họ cứ đi thẳng vào bên trong, đi mãi đến khi trời ngả về chiều mới đến gần khoảng giữa khu rừng. Ở đó bốn phía văng vẳng tiếng cú đêm kêu liên tiếp không ngừng, bốn bề tối tăm u ám. Cả đám bật đèn pin, giảm tốc độ di chuyển để khỏi lạc đường.

Đúng lúc đó, anh họ lão Dương vấp phải cái gì đó, suýt nữa ngã nhào. Lão Dương vội đỡ lấy anh, xoay người nhìn lại mới thấy dưới gốc cây đa có thứ gì đó bị đám rễ quấn lấy thành một khối lồi lên khỏi mặt đất.

Bọn họ dùng rìu nhỏ gạt sạch mớ rễ đa bao phủ làm lộ ra thứ bên trong, rọi đèn pin thì thấy đó là một tượng người đá phủ đầy rêu xanh, nhìn quần áo và trang sức thì dường như là phong cách trước thời Lưỡng Hán, hoa văn Totem chạm nổi cực kỳ sắc nét.

Tượng người đá này xuất hiện khiến bọn họ lập tức hiểu ra, trong cánh rừng này thực sự có thứ gì đó tồn tại, lời cổ nhân nói quả không sai…

Bọn họ kiểm tra xung quanh tượng người đá, rất nhanh liền phát hiện dưới tầng lá đa rụng dày trên mặt đất là rất nhiều phiến đá lớn, dường như ẩn giấu di tích một con đường cổ. Tượng người đá được đặt ở bên rìa di tích thạch đạo cổ, giống như những kẻ canh giữ cho thạch đạo này.

Kết cấu như vậy có phải là thần đạo của hoàng lăng hay không? Lão Dương nhớ lại: lúc còn ở thôn nhỏ cách đây mấy chục dặm, có một ông già nói trong ngọn núi này chôn cất rất nhiều nhân vật thời Tây Tấn, lẽ nào sau bao nhiêu ngày khổ cực bọn họ đã thực sự gặp được?

Nếu đúng là như vậy, mấy ngày khổ sở vừa qua cũng thật đáng giá.

Hai anh em bàn bạc với nhau một chút, quyết định trước tiên cứ thử tìm kiếm dọc theo cổ đạo, nếu có cổ mộ gần đây, tất nhiên sẽ để lại dấu vết gì đó.

Bọn họ lặn lội theo cổ đạo thêm mấy giờ nữa, đi vào giải đất trung tâm khu rừng. Hai bên thạch đạo, bọn họ lại phát hiện được không ít di tích tượng người đá, cái thì nằm ngang trên thạch đạo, cái thì bị rễ cây quấn lấy, tất cả đều phủ đầy rêu xanh, dấu vết của thần đạo càng lúc càng rõ ràng.

Bọn lão Dương mừng thầm trong dạ, chân bước nhanh hơn. Chỉ kỳ lạ một nỗi, càng đi sâu vào cổ đạo, đám rễ cây lại càng dày đặc; cuối cùng bọn họ buộc phải chặt đứt rễ cây mới có thể vượt qua được, cứ như đám cây cối ở đây không muốn có người lạ vượt qua con đường này vậy.

Họ cứ miệt mài đi như thế đến quá nửa đêm, sức cùng lực kiệt mới thấy ánh trăng xuyên qua khe hở mấy tán cây trước mặt, dựa vào đó lão Dương ước chừng họ đã sắp đến cuối thạch đạo. Bọn họ leo qua một đống đá lớn, lại chặt đứt đám rễ cây cuối cùng, cuối cùng đã vượt qua khỏi rừng đa.

Dưới ánh trăng lấp loáng, một hố đá trông như kim tự tháp lật ngược xuất hiện ngay trước tầm mắt họ, rộng cỡ một sân bóng lớn, hình dạng giống như một cái đấu khổng lồ. Hố nằm chính giữa rừng rậm, bốn phía thành hố được tạo hình bậc thang, chừng một trăm bậc, hướng thẳng xuống đáy.

Lão Dương nhìn cảnh ấy mà choáng váng, hắn không sao tưởng tượng nổi nơi cuối thạch đạo lại là một di tích kiến trúc đồ sộ đến thế, chỉ cảm thấy tim đập rộn ràng, hai chân nhũn ra như muốn quỳ phục xuống lạy cái hố.

Nhưng tất nhiên đây không phải là cổ mộ, vậy rốt cuộc đây là đâu? Từ thời đại nào lưu lại?

Anh họ lão Dương dù có chút bản lĩnh thì nhìn thấy cảnh này cũng vô cùng khiếp sợ, nói với lão Dương: “Chỗ này chắc chắn có liên quan đến một loại nghi thứ cúng tế nào đó, nhìn qua giống như là một đàn tế, chúng ta mau xuống xem thử trong hố cúng tế có món minh khí nào không.”

Lúc này trăng đã lên, ánh trăng u ám lạ kỳ. Bọn họ mở đèn pin để khỏi bị vấp vào đám rễ ngổn ngang như rắn bò, mang theo tâm trạng lo lắng bất an bước xuống bậc thềm đá, tiến vào đáy hố.

Bốn phía xung quanh hố đều có rễ đa che phủ, nếu không lần theo cổ đạo thì dù có đi ngang qua ngay bên cạnh cũng không thể phát hiện ra nơi này. Những phiến đá ở mặt trong của hố đã nứt vỡ gần hết như những mảnh rời của bộ đồ chơi ghép hình, rất nhiều rễ cây chen ra từ trong đá rồi lại biến mất trong khe hở bên cạnh, cả di tích gần như đã bị phá hỏng thành một bộ mặt hoàn toàn khác hẳn.

Đáy hố cũng bị che phủ bởi một tầng cỏ dại thật dày, chỉ một vài chỗ mới lộ ra dấu vết của những phiến đá xanh.

Cỏ dại cao đến cả nửa thân người, bọn họ vừa dùng dao phát vừa tiến tới, không bao lâu đã đến trung tâm của tế đàn.

Giữa tế đàn là một giếng đất có vòng đá xếp xung quanh, giếng sâu chừng hơn mười mét, soi đèn xuống dưới cũng chỉ thấy toàn cỏ là cỏ. Bọn họ hạ dây thừng xuống đáy giếng, trước tiên là tìm kiếm xung quanh, không tìm được gì liền trực tiếp hạ xẻng Lạc Dương.

Xẻng thứ nhất hạ sâu đến mười lăm mét vẫn không chạm được gì, lão Dương rút ra, kiểm tra bùn đất trên xẻng thì thấy trong đó còn hòa lẫn tro than, giống như có một lượng lớn vật chất bị thiêu hủy, hơn nữa bên trong tro than còn có mảnh vụn của gốm sứ và ngọc.

Than đất trong bùn nhão là những gì còn sót lại sau khi thiêu hủy tế phẩm, trong những thứ bị thiêu hủy còn có đồ gốm và ngọc. Xem ra giếng đất này là nơi thiêu hủy tế phẩm cúng bái dành cho người chết vào thời đó, và không chỉ được sử dụng một hai lần.

Lão Dương đã bắt đầu không kiềm chế nổi sự hưng phấn của mình. Trong lịch sử, khi cúng bái người ta thường thiêu hủy một lượng lớn đồ đồng tinh xảo cùng với đồ ngọc; nếu có thể đào ra được một hai cái thì bọn họ sẽ thật sự phát tài.

Bọn họ bắt đầu dùng xẻng thay phiên nhau đào không biết mệt mỏi, chỉ chốc lát sau, ở độ sâu bảy mét so với đáy giếng, họ đào được một lượng lớn mảnh vỡ của đồ ngọc và đồ gốm, không sao đếm hết. Nào là ngọc miếng, ngọc viên, bình gốm, hũ gốm, hầu như thứ gì cũng có, nhanh chóng chất thành một đống.

Đáng tiếc là đa số đồ ngọc và đồ gốm đều đã bị hư hại, giá trị không cao, điều này khiến cho anh em lão Dương vô cùng thất vọng, mà thất vọng nhất là không tìm được đồ thanh đồng như họ nghĩ.

Họ vẫn chưa từ bỏ ý định, lại tiếp tục đào, rất nhanh đã đào sâu đến mười mét nhưng vẫn không tìm được thứ gì tốt. Mà hố đất đào thẳng xuống hơn mười mét là đã đến giới hạn, nếu còn đào xuống tiếp nữa, có nguy cơ cả đạo động sẽ sụp xuống, bọn họ không thể không ngừng lại.

Anh họ hắn khá là thận trọng, mới nói ta đào mãi vẫn không tìm được gì, chỉ sợ thời có cái đàn tế này người ta không dùng tế phẩm bằng thanh đồng, đừng đào nữa, hốt mớ đổ nát này về bán đi cũng đủ gỡ vốn, coi như chúng ta đi chuyến này xui xẻo vậy.

Nhưng lão Dương không cam lòng, mặc kệ ông anh họ nói gì, hắn vẫn muốn tiếp tục đào. Lão Dương để cho anh họ leo lên, còn mình thì đào thêm gần hai giờ nữa, sâu đến khoảng mười bốn mét, bỗng nhiên nghe keng một tiếng, xẻng của hắn đụng phải một khối kim loại.

Hai anh em liếc mắt nhìn nhau rồi đồng loạt nhìn xuống, phát hiện ngay giữa hố đất lộ ra một khối màu xanh thẫm.

Quả nhiên là có đồ thanh đồng. Lão Dương bỗng thấy hồi hộp, đến tay cũng run rẩy. Anh họ hắn reo lên vui sướng, vội quẳng xẻng đi rồi nhảy vào trong hố, hai người bắt đầu dùng tay đào thứ đó lên.

Rất nhanh, một thứ kỳ lạ xuất hiện ngay trước mắt hai người. Trông nó giống như một cây gậy bằng đồng, nhưng không biết cụ thể là gì. Bọn họ phải phủi sạch lớp than và đất bám bên ngoài mới nhìn ra nó là một nhánh cây tinh xảo được đúc bằng thanh đồng.

Hai anh em vui mừng khôn xiết, họ chưa từng được thấy qua thứ này, chắc chắn là rất đáng tiền. Hai người vội dùng tay đào vòng xung quanh để lấy thứ đó lên, nhưng đào xuống mấy mét vẫn không rút nó ra nổi. Tiếp đó họ đành dùng xẻng để đào, đào tiếp sáu bảy mét nữa vẫn chưa thấy được phần gốc của nhánh cây.

Lão Dương bắt đầu cảm thấy kỳ quái, hắn từng buôn bán đồ cổ một thời gian nên cũng biết rất hiếm có món đồ thanh đồng nào dài quá ba mét. Nhưng thứ ngay trước mắt hắn thì thật dị thường, ước chừng phải cao đến hai mươi mét, không biết còn chôn bao sâu dưới lớp bùn đất này.

Đạo động đã sâu gần hai mươi mét, còn cố đào sâu nữa chắc chắn sẽ sập, nhưng tay không trở về thật sự chẳng phải là chuyện dễ chịu gì. Hai người mờ mịt đứng ngây ra đó, không biết nên làm gì cho phải.

Cuối cùng, anh họ hắn nghĩ ra được một cách. Tại phần đất cách gốc của cây đồng khoảng hơn một mét, anh ta hạ xẻng Lạc Dương hướng xiên về phía cây đồng, sau đó tiếp tục nối thêm ống thép hạ xiên xuống, hạ một hơi đến gần mười mét, tiếng gõ ống bắt đầu trở nên nặng nề rồi không gõ thêm được nữa.

Lão Dương nói đến đó, nét mặt trở nên khó xử, bèn châm điếu thuốc hít vào một hơi dài, nói: “Vậy có nghĩa là phần chôn dưới đất của nhánh cây kia còn sâu trên mười mét, suy ra cả cây ít nhất phải cao đến ba mươi mét; một vật lớn như vậy, dù có đào ra được thì cũng không vác về nổi.”

Tôi nghe xong líu cả lưỡi, cảm thấy tên này cũng có khoa trương thêm ít nhiều. Ti Mẫu Mậu Đỉnh (1) khai quật được ở Hầu gia trang thôn Võ Quan, An Dương, Hà Nam là món đồ đồng lớn nhất cả nước, cũng chỉ cao hơn một mét. Thời đó muốn đúc một thứ lớn như vậy đã cần đến sức lực của gần hai ba trăm người, vậy cần đúc một cây thanh đồng cao hơn ba mươi mét chẳng phải là cần huy động đến hàng vạn người sao?

Nhưng thấy hắn nói nhiều như vậy tôi cũng không nỡ bẻ lại, bèn hỏi: “Vậy sau đó thì sao? Có tiếp tục đào xuống nữa không?”

Lão Dương nói: “Không, tôi còn định đào nữa, nhưng anh họ tôi lại đột nhiên nói thứ này có thể là thần vật, không chừng là mọc ra từ trong lòng đất, không thể đào được. Sau đó tôi lại nghĩ có tiếp tục đào nữa cũng không an toàn nên thôi… cậu thấy có lạ không? Tôi đoán gốc cây đó chỉ là  phần trên của một món đồ thanh đồng cực lớn, phần bên dưới có lẽ còn lớn hơn nữa; nếu đào hết ra, có lẽ sẽ chấn động cả thế giới.”

Tôi cảm thấy khó hiểu: “Vậy là cậu không mang được cây thanh đồng kia ra, thế sao lại bị tóm?”

Hắn đáp: “Chuyện này nói tiếp lại thấy kỳ lạ, khi ấy chúng tôi không cam lòng, đào tiếp mấy hố nữa ở chỗ khác, cuối cùng đào ra được một mớ bát gáo nồi chậu nguyên vẹn, sau khi ra khỏi Tần Lĩnh thì kiếm chỗ để tẩu tán. Nhưng anh họ tôi sau khi thấy vật kia thì thần kinh bắt đầu có vấn đề, vừa vào nội thành anh ấy đã nói oang oang cho người ta biết chuyện về nhánh cây thanh đồng. Dân vùng Tần Lĩnh xưa nay vốn có ác cảm đối với đám đào trộm mộ, tin đồn cũng lan truyền rất nhanh. Lúc chúng tôi vừa ra khỏi một tiệm đồ cổ, có mấy người nghe anh họ tôi nói lung tung, nhìn ra thân phận của hai anh em liền chạy đi tố giác! May mà anh công an đi bắt người là đồng hương của chúng tôi, thấy tôi còn trẻ nên bày vẽ cho tôi nói là “bị người ta lừa” mới gỡ được thành án ba năm. Còn anh họ tớ vốn cũng chỉ chịu án bốn năm năm thôi, ai ngờ ổng tự dưng nổi cơn điên, bao nhiêu chuyện đổ đấu từ trước đến giờ đều phun ra hết, cuối cùng lãnh án chung thân, thiếu chút nữa là dựa cột rồi.”

Tôi “Ồ” một tiếng: “Cậu làm nghề này bao lâu sao chẳng có tí kinh nghiệm nào, thế mà tôi còn tưởng cậu đem mấy món đồ đó về đến tận nhà chứ. Tôi đã nói với cậu không biết bao nhiêu lần rồi, đừng có tẩu tán minh khí ngay gần đó. Đã làm nghề không đàng hoàng rồi, lại còn nhằm ngay vào dân bản xứ, cái này gọi là quả báo nhãn tiền đó.”

Lão Dương thần bí cười: “Cũng… cũng không thể nói là tôi không vớ được… được gì, cậu xem thứ này đi… thế nào?”, nói rồi chỉ vào khuyên tai mình đang đeo!

——————————-

(1) Ti Mẫu Mậu Đỉnh là cái này:

——————————–

Vô cùng xin lỗi vì đã ngâm dấm phần 3 này, lần lữa mãi đến giờ mới trình diện *dập đầu* từ giờ đến hết phần 3 mình sẽ cố gắng làm việc chăm chỉ mà, xin đừng chọi gạch :”<

Chương 2 – Chuông lục giác

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Tôi chồm qua nhìn cho rõ, ánh mắt lập tức bị vật đó cuốn hút. Tôi còn kéo vành tai hắn đến trước mặt để xem cho kỹ, vừa nhìn rõ, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh. Chiếc khuyên tai kia lớn bằng ngón tay út, hình dạng vuông vức nhìn sơ qua có lẽ ai cũng tưởng đó chỉ là loại khuyên tai rẻ tiền một đồng hai đôi mua ở quán ven đường; tôi phải nhìn kỹ mới phát hiện ra đây thực chất là một cái chuông lục giác.

Dù là hình dạng hay màu sắc, ngoại trừ chuyện cái này hơi nhỏ một chút ra thì khá giống với loại chuông tôi đã nhìn thấy trong động xác và trong ngôi mộ dưới đáy biển, có điều hoa văn trên đó hình như có hơi khác một chút.

Tôi lập tức tỉnh rượu đến quá nửa, hỏi hắn: “Cậu tìm đâu ra thứ đồ chơi này vậy?”

Hắn bị tôi kéo đến méo miệng, nổi sùng: “Mẹ nó, cậu… cậu… cậu uống nhiều quá rồi! Cậu có biết tôi… ghét nhất bị người khác kéo tai không, cậu còn… còn kéo nữa tôi sẽ xử cậu luôn đó!”

Tôi thấy mình có chút men rượu vào người thì ra tay cũng hơi thô bạo thật, vội thả tai hắn ra.

Hắn xoa xoa cái tai bị tôi kéo đến đỏ hồng, khóe miệng co giật: “Khỉ thật, cậu đúng là đồ thô lỗ, nhìn thấy đồ tốt cũng đâu cần phải mạnh tay như vậy, ôi cái lỗ tai đáng thương của tôi.”

Tôi không hơi đâu tranh luận với hắn, chỉ hỏi: “Nói mau, thứ này là sao, kiếm được từ đâu?”

Hắn cười hì hì, đắc ý nói: “Chưa từng thấy chứ gì, tôi nói cho cậu biết mà tức chết, thứ này tôi tìm được trong hố hiến tế đó, lấy từ trên người một cái bánh tông, sao nào? Cậu nhìn đi, sắc xanh lại pha đen, chính là đồ thanh đồng cổ thượng hạng, đảng cấp cao hơn hẳn mấy món đồ giả mà cậu đang bán.”

Tôi càng nghe càng rối: “Bánh tông cái gì? Chẳng phải cậu nói là chỉ đào ra được mấy cái nồi bát gáo chậu gì đó thôi sao? Sao lại lòi đâu ra một cái bánh tông nữa?”

Lão Dương còn tưởng tôi đang nghen tị với hắn, lại càng đắc ý: “Cái bánh tông kia quấn kín trong dây thừng, trông như cái kén tằm. Tôi đào ra được ở một hố đất khác, đại khái là người này lúc còn sống thân phận cũng khá cao, thứ này đeo… đeo trên tai cái bánh tông đó, tôi thấy vừa mắt bèn tháo xuống. Sao hả, cậu mắc chứng gì mà căng thẳng dữ vậy? Thứ này có lai… lai lịch thế nào? Có đáng tiền không?”

Đầu tôi rối tung, trăm ngàn ý nghĩ cùng nảy sinh một lượt. Tôi cau mày, thầm hỏi đó rốt cuộc là nơi nào? Loại chuông này xuất hiện ở đó, chẳng lẽ cái hố đá mà hắn kể có mối liên hệ với những chuyện mà tôi từng trải qua?

Lúc này lão Dương mới phát hiện ra điểm bất thường, kỳ quái hỏi: “Sao mặt mũi cậu nhăn nhó khó coi vậy? Dù thấy tôi có đồ tốt cũng đâu cần tỏ thái độ đó, nếu cậu thực sự thích thứ này thì để tôi tặng cậu luôn.”

Tôi nói: “Không phải, mẹ nó chứ, chẳng giấu gì cậu, cái khuyên tai của cậu không phải vật tầm thường. Tuy tôi không rõ lai lịch của nó nhưng đã từng thấy nó ở chỗ khác, chuyện là thế này…”

Tôi đem chuyện Lỗ Vương cung và chuyện trong hải đấu ra kể tóm tắt lại cho hắn nghe, đặc biệt nhấn mạnh đến mấy cái chuông kia, chỉ thấy sắc mặt hắn lúc trắng lúc xanh, tóm lại là mờ mịt.

Một lúc lâu sau hắn mới than: “Bà ngoại con ơi, tôi còn tưởng ba năm ngồi tù của tôi cũng đủ ớn cả đời rồi, ai ngờ đem ra so với chuyện của cậu thì chẳng là cái đinh gì hết. Cậu mà bị bắt thì chỉ có nước xử bắn thôi nha.”

Tôi thật không ngờ lại hắn lại hâm mộ mình đến thế, bèn nói: “Chuyện này thì có gì mà hay ho, nếu sớm biết đổ đấu phải khổ sở đến thế thì có đánh chết tôi cũng không bao giờ chui xuống đó.”, rồi chỉ vào tai hắn: “Cái chuông của cậu mới quái gở, chỉ cần rung lên lập tức khiến cho người nghe trở nên mê muội. Tôi không hiểu sao cậu đeo nó ngay bên tai mà đến giờ vẫn không việc gì?”

“Không đến nỗi quái gở như cậu nói chứ, để tôi lấy xuống cho cậu xem thử!”, nói đoạn liền tháo khuyên tai xuống.

Tôi soi chiếc khuyên tai dưới đèn, lại đưa lên mũi ngửi ngửi, lập tức hiểu rõ nguyên nhân, thì ra bên trong cái chuông này có rót nhựa thông nên không thể rung lên thành tiếng. Tôi lại cẩn thận xem xét cả hai mặt, càng xem càng thấy nó giống y hệt với cái tôi đã gặp trong cổ mộ.

Lão Dương thấy tôi lật qua lật lại xem tới xem lui, tưởng tôi thích thứ này bèn đeo lại vào tai rồi nói với tôi: “Nếu cậu thật sự thích nó thì ở chỗ đó vẫn còn vô khối, toàn là bánh tông vẫn còn nguyên đai nguyên kiện chưa bị ai phát hiện. Tôi đã đánh dấu đường đi, tụi mình có thể tìm đến lần nữa, nói không chừng còn có thứ bảo bối khác.”, nói rồi nhìn quanh bốn phía, hạ giọng, ra vẻ thần bí: “Nói thật, thằng bạn nối khố của cậu đang ở vào hoàn cảnh cực kì tệ hại, mấy ngày nay tôi tính quay lại đó làm thêm chuyến nữa.”

Tôi tưởng hắn đang nói đùa, liền đáp: “Thôi dẹp đi, tôi không muốn ăn cơm tù chung với cậu đâu. Mà cậu cũng đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, cứ sống yên ổn là tốt rồi!”

Lão Dương nhích lại gần tôi, trịnh trọng nói khẽ: “Đừng…đừng nói thế, cậu nghĩ lại đi, cậu còn được gia đình lo… lo cho, muốn thế nào cũng được, còn tôi đã lãng phí mất ba năm rồi, giờ chỉ có hai bàn tay trắng, không thể không… không tính toán cho tương lai!”

Tôi nhìn vẻ mặt nghiêm túc của hắn không giống như nói đùa, liền mắng: “Cậu mơ à, mẹ nó chứ phí mất ba năm đi đóng gạch, tôi nói cho cậu biết, ra tù còn bị bắt lại coi như cố tình tái phạm, mà như thế là bị phạt nặng. Lỡ cậu sơ ý bị bắt lần nữa, không chừng người ta còn cho đi dựa cột luôn ấy chứ.”

“Nếu xui xẻo đến thế thì cũng đành chịu thôi.” lão Dương nói, “Tôi cũng đâu còn lựa chọn nào khác, túng quá hóa liều mới phải tính đến nước này. Tôi nghĩ kỹ rồi, đầu tiên ta đến Hàng Châu ở vài ngày, sau đó đi Tần Lĩnh,thế nào cũng phải đổ cho được mười mấy vạn. Hôm nay tôi tìm cậu cũng chính vì chuyện này, cậu là anh em tốt của tôi, mong cậu có thể đi cùng, đổ được thứ gì thì chúng ta chia nhau.”

Tôi nhìn vẻ mặt rầy rĩ của hắn mà nổi sùng: “Cái gì mà không còn lựa chọn nào khác, không phải cậu đang thiếu tiền đấy chứ? Thiếu bao nhiêu cứ nói, nể tình anh em tôi tính lãi cho cậu bằng 95% lãi suất cố định của ngân hàng trung ương thôi.”

(đồ gian thương =))))) tưởng ẻm bảo thiếu đâu tôi giúp phần nào, hóa ra là thiếu đâu tôi cho vay tính lãi =)))))))

Lão Dương đẩy tôi một cái, khinh khỉnh nói: “Cậu dẹp đi, cậu có bao nhiêu tài sản tôi còn không rõ sao. Hỏi vay cậu tám hay mười vạn cậu còn kham được, chứ nhiều hơn nữa cậu lấy đâu ra? Rõ thật là, còn làm bộ hào phóng.”

Tôi mắng: “Tám vạn mười vạn cậu còn chê ít, mẹ nó chứ cậu định làm gì? Phải lòng siêu sao à? Mẹ kiếp cậu ăn no rửng mỡ rồi vẽ thêm chuyện đấy hả, làm ơn chín chắn giùm một chút đi.”

Lão Dương nghe không lọt tai, chửi thề một tiếng, khoát tay nói: “Tôi muốn làm gì đâu liên quan đến cậu, cậu không có tiền thì thôi, đừng có lên mặt dạy đời tôi… thôi quên đi, anh em bọn mình lâu ngày gặp lại, có giúp hay không cũng chẳng vấn đề gì, đừng nhắc đến chuyện bực mình nữa.”, nói rồi rót rượu cho tôi.

Tôi thấy hắn khinh thường mình, men rượu bốc lên, nổi giận đùng đùng: “Tôi nói cậu nghe nè lão Dương, con mẹ nó, cậu đừng có khinh người quá đáng. Mấy năm nay tôi cũng có chút tiền dư dả, cậu nói thật cho tôi biết cậu cần bao nhiêu tiền, tôi lập tức đưa cho cậu!”

Hắn nhìn tôi, hơi rượu cũng bốc lên, nghiêm túc đứng dậy xòe bốn ngón tay huơ huơ trước mặt tôi: “Chừng này, cậu mà có thì tôi làm trâu cho cậu cưỡi cũng được.”

“Bốn mươi vạn?”, tôi hỏi, vậy cũng không nhiều lắm, hiện giờ bốn mươi vạn tưởng lớn chứ thực ra chẳng thấm vào đâu, “Không thành vấn đề, tôi đi lấy ngay, nhà tôi có đủ!”

Không ngờ hắn lại lắc lắc đầu: “Thêm một con số 0 nữa!”

“Bốn trăm vạn?”, tôi há hốc mồm, cả người lạnh toát, “Má ơi, tôi nể cậu rồi đó, con mẹ nó cậu cần từng ấy tiền làm cái khỉ gì?”

Lão Dương than một tiếng, đáp: “Cậu đừng hỏi nhiều, tóm lại là tôi đang thiếu chừng ấy tiền, cậu nói xem cậu có đào ra được nhiêu đó không?”

Bốn trăm vạn không phải là số tiền nhỏ, mặc dù trong buổi đấu giá thì một món đồ sứ vỡ bất kỳ cũng có thể chém tới hơn một ngàn vạn, nhưng phần nhiều là những thứ được mua đi bán lại nhiều lần. Sức mua trên thị trường có hạn, những thứ văn vật lấy lên từ đấu lần sang tay đầu tiên lợi nhuận thường không cao, thu về khoảng mười vạn là mừng lắm rồi, bốn trăm vạn này tôi thật sự không có.

Lão Dương thấy vẻ mặt hoang mang của tôi, biết tôi đang hoảng, bèn rót đầy cho tôi một chén rượu, còn nói: “Tôi biết ngay cậu không có mà. Nếu chỉ cần bốn mươi vạn thì tôi tìm tới cậu làm gì?”

Tôi nói: “Đừng quyết định sớm thế, để tôi giúp cậu đi hỏi vay mấy chỗ xem thế nào, người làm nghề này phất lên nhanh lắm, không chừng có thể lo liệu được. Nhưng cậu phải cho tôi biết cậu cần nhiều tiền như vậy làm gì?”

Lão Dương xoay đầu đi, hừ một tiếng: “Xoay sở cái quái gì chứ, cậu tính hỏi ai mà xoay sở, bạn bè cậu có ai là tôi không biết đâu, làm gì có ai kham nổi món tiền lớn như thế. Hơn nữa chuyện này tôi vẫn chưa thể nói cho cậu biết được, dù sao có bốn trăm vạn này là có thể giải quyết một việc lớn liên quan đến tính mạng tôi.”

Tôi thấy cũng phải, phần lớn bạn bè tôi đều là do lão Dương giới thiệu, thật sự không có mấy người dư dả để cho mượn. Còn hỏi ông già tôi ấy à, không chừng lão quỷ keo kiệt ấy còn bóp chết tôi ấy chứ, chuyện này đúng là không đơn giản chút nào.

Lão Dương vỗ vai tôi, dùng một giọng điệu vờ vịt mà nói: “Lão Ngô, vậy mới nói chúng ta đừng có vay tiền, bàn cách khác đi, tốt nhất là cậu chịu khó chịu khổ một chuyến, cùng tôi vượt qua trận gian nan này. Dù sao với cậu thì đây cũng không phải lần đầu tiên, cậu cũng đừng ngại. Suy cho cùng thì như thế chưa thể gọi là đổ đấu, chúng ta đến cái hố tuẫn táng kia, cậu giúp tôi kiểm tra cái nào đáng giá cái nào không, vậy chỉ gọi là nhặt của rơi thôi, đâu có phạm pháp. Cậu cứ coi như là đi du lịch một chuyến đi, bên đó non xanh nước biếc sơn nữ mỹ miều, cậu vẫn còn cô đơn chứ gì, cứ vào đó xem thử, không chừng còn lấy được một cô người Thái về làm vợ.”

(Chém chết lão Dương, dám xúi tiểu thụ nhà người ta đi lăng nhăng à =)))))))

Tôi không hơi đâu nghe hắn nói nhảm, lắc đầu: “Cậu nói đơn giản quá, chỗ tồi tàn cậu nói có thể kiếm được bốn trăm vạn sao? Nếu muốn làm một vụ lớn thì cậu phải tìm đến mộ thời Lưỡng Hán kìa, mà loại mộ đó thì người ta đã đổ hết lâu rồi, cậu có đi cũng chỉ phí công thôi.”

Lão Dương kiên nhẫn nói: “Trời đất, cậu nghĩ tôi là đồ ngốc à, chuyện này cậu chưa nghĩ thấu đâu. Tôi cho cậu biết, lần này tôi không quay lại chỗ cái hố cúng tế kia nữa. Lần trước đến đó với ông anh họ, ông ấy nói gần hố cúng tế chắc chắn có lăng mộ hoàng tộc cỡ lớn. Bây giờ tôi lấy đó làm mục tiêu, cậu cũng biết chút phong thủy, cứ đến đó xem thử, tôi nghĩ nhất định có thể tìm được!”

Tôi phớt lờ hắn: “Cổ mộ tôi lại càng không muốn, cậu đi mà tìm người khác.”

Lão Dương đẩy tôi một cái: “Lão Ngô, cậu không phải là anh em của tôi sao, nghĩ lại mà xem, nếu đi cùng tôi thứ nhất cậu có thể giúp tôi, thứ hai, cậu còn có dịp điều tra về chuyện của chú Ba cậu. Chuyện này ít nhiều liên quan đến chú Ba, coi như cậu không vì tôi thì cũng vì chính cậu, sao không đi thử một chuyến cho biết chứ?”

Hắn nhắc tới chuyện chiếc khuyên tai, tôi lại cảm thấy khó chịu. Hắn nói thế quả không sai, chuyện của chú Ba cứ mơ mơ hồ hồ, manh mối ít đến thảm thương, mà loại chuông này đã từng xuất hiện trong động xác gần Miếu Hạt Dưa lẫn hải đấu, hẳn là có liên quan rất mật thiết, nếu không nắm lấy cơ hội này chỉ sợ về sau muốn điều tra lại càng thêm khó khăn.

Nhưng nhớ lại hai chuyến đi vừa rồi, chân tôi lại bắt đầu muốn nhũn ra, giờ nhớ lại vẫn chưa hết sợ, hơn nữa leo núi còn vất vả đủ đường, tôi thật sự không muốn thử.

Tôi do dự mất vài phút, nghĩ đi nghĩ lại, nếu tôi không đi chuyến này thì chỉ sợ từ rày về sau không cách nào sống thanh thản được. Lão Dương hiếm khi năn nỉ tôi đến mức này, nếu còn tiếp tục từ chối, sau này cũng khó nhìn mặt nhau. Hay là cứ đồng ý trước rồi đến đó xem tình hình thế nào, nếu quả thật không kham nổi thì đến lúc đó đổi ý cũng được.

Chúng tôi vốn là hạng người mệnh phạm Thái Cực, rất hiếu kỳ đối với những chuyện bản thân không biết rõ. Tìm được cái cớ hợp lý rồi, tôi cũng vững tâm hơn hẳn.

Nghĩ thế tôi liền hạ quyết định, nói với lão Dương: “Được rồi, nếu cậu đã nói thế thì tôi sẽ đi cùng cậu một chuyến, nhưng trước hết cậu phải đưa khuyên tai cho tôi xem thử xem nó thuộc triều đại nào, có đáng tiền không. Nếu nó là đồ rẻ tiền, tức là chỗ kia không đáng để ta phí công, cậu còn phải tính kế khác.”

Lão Dương vừa nghe tôi đồng ý giúp hắn thì vui mừng khôn xiết, vội gật đầu lia lịa: “Được, cậu nói gì tôi nghe đó, tặng luôn cho cậu cũng được!”

Tôi nói: “Nhưng tôi đã cảnh báo trước rồi đó, nếu đã đi thì bất cứ chuyện gì cũng phải nghe lời tôi, muốn đánh rắm cũng phải báo trước với tôi một tiếng, đồng ý không?”

Tên nhóc này đã sớm bỏ lời tôi ngoài tai, hồn đã bay tuốt đến Tần Lĩnh luôn rồi, vừa rót rượu cho tôi vừa nịnh nọt: “Được rồi được rồi, chỉ cần đổ được bốn trăm vạn thì cậu chính là cha mẹ tái sinh của tôi. Đừng nói là không được đánh rắm, cậu muốn tôi hít rắm cũng không thành vấn đề!”

Hai chúng tôi sẵn men rượu liền thỏa thuận luôn chuyện này. Sau lại tán dóc đủ chuyện trên trời dưới đất, uống đến tận nửa đêm, say khướt nằm gục luôn xuống mặt bàn.

Một tháng sau đó, mỗi người chúng tôi đều có chuyện riêng cần xử lý. Những trang thiết bị chúng tôi mua trong chuyến đi Sơn Đông lần trước đã bị chôn vùi tại chỗ, phải mua mới toàn bộ. Tôi dựa vào kinh nghiệm từ hai chuyến đi vừa rồi liệt kê một số thứ ra giấy, để lão Dương chuẩn bị cho chu đáo.

Sau đó tôi dựa vào vài mối quan hệ chuẩn bị một ít thuốc men trong quân đội. Lúc đi Sơn Đông, bình nước mang theo thật sự quá nặng, tiêu hao thể lực khủng khiếp. Khe núi bên trong Tần Lĩnh có nhiều mạch suối ngầm, không cần mang theo quá nhiều nước, nhưng lại cần mang theo một ít thuốc tiêu chảy. Dạ dày đám dân thành thị chúng tôi chắc chắn không thích ứng nổi với nước suối thiên nhiên trong núi rồi.

Dặn dò xong tôi bay đi Tế Nam, đến chợ Anh Hùng sơn gặp lão Hải, đưa viên Ngư Nhãn Thạch của Bàn Tử cho ông ta xem thử.

Lão Hải thấy nó thì vui đến mức cười toe toét không ngậm miệng lại nổi: “Đại gia à, tôi đây buôn bán đồ cổ, thứ này hẳn là nên đem đến tiệm châu báu bảo bọn họ định giá thì hơn.”

Tôi nói: “Viên Ngư Nhãn Thạch này cũng là đồ cổ đó nha, ít nhất phải đến bốn trăm năm tuổi.”

Lão cười cười: “Tôi cũng biết vậy, thứ ngài lấy ra chắc chắn là đồ tốt. Có điều viên ngọc này nếu đính trên trâm cài tóc hay trên mũ thì quả là bảo bối, nhưng cậu lại chỉ có một viên ngọc không như vậy thì tôi biết làm thế nào? Cậu nói đây là đồ cổ người ta cũng không tin tưởng lắm đâu. Hay là thế này đi, tôi giúp cậu làm một cây trâm ngọc khảm viên Ngư Nhãn Thạch này lên, xem thử có bán được hay không? Tôi đưa cho cậu ít tiền đặt cọc, cậu cứ để đồ lại đây, người có con mắt tinh tường tự nhiên sẽ trả giá cao thôi.”

Lão chân thành nói vậy, tôi cũng không thừa thời gian mà đôi co qua lại với lão về chuyện này, đành cầm hai mươi lăm vạn tiền cọc ỉu xìu quay về Hàng Châu. Sau đó tôi đem chiếc khuyên tai lão Dương cho đi tìm một người bạn của ông nội, nhờ ông ấy xem thử lai lịch của chiếc chuông này thế nào, rốt cuộc có đáng giá để tôi lặn lội đường xa đi Thiểm Tây hành xác một chuyến hay không.

Ông cụ đó họ Tề, là một trong những người buôn đồ cổ sớm nhất ở Hàng Châu, hiện giờ có thể đứng ngang hàng với giáo sư cấp quốc gia, có chỗ ngồi danh dự trong nhiều trường đại học, đặc biệt ông ấy còn nghiên cứu khá nhiều về dân tộc thiểu số. Lúc đưa cái chuông kia ra, tôi phát hiện ông ấy nhìn nó chăm chăm, bàn tay nhận lấy chuông cũng run lên.

Ông Tề cầm lấy chuông đồng, xem xét nó suốt ba tiếng đồng hồ, lật ra sáu bảy cuốn sách dày cộm mới chịu ngẩng đầu lên. Tôi ngồi chờ bên cạnh đến gật gà gật gù, ông nhìn tôi, thờ dài: “Thật hổ thẹn, lão già này đã nghiên cứu về dân tộc thiểu số bao nhiêu năm mà vẫn chưa từng thấy qua vật này, Tiểu Tà, cháu nói rõ ràng cho ông biết, thứ này lấy từ đâu ra?”

Trước mặt người lớn tôi cũng không dám đáp lấy lệ, liền thêm mắm dặm muối lung tung kể thành một câu chuyện. Nhìn ông ấy nghe mà hai mắt sáng lên, tôi cảm thấy chuyện này có vẻ không đơn giản, bèn hỏi: “Ông à, thứ này có vấn đề gì sao?”

Ông lại thở dài, nói là dựa theo phân tích của mình, kỹ thuật làm nên chiếc chuông này nằm trong giai đoạn từ triều Hạ đến triều Tây Chu, hoa văn trên đó tên là

s

ong thân nhân diện văn xà

(hoa văn rắn mặt người hai thân)

, rất có khả năng thứ này có nguồn gốc từ một quốc gia thời cổ ở khu vực từ Thiểm Tây đến Hồ Bắc có tên gọi là “Xá Quốc”; mà quốc gia này đã đột nhiên biến mất từ hai ngàn năm trước.

Lịch sử của quốc gia này có khi rõ khi không, chỉ còn lại một ít thông tin được ghi chép vụn vặt trên thẻ tre cổ, vào khoảng đầu thời Tây Chu đột nhiên phát triển thịnh vượng, đến giữa thời Tây Chu lại bất ngờ mất tích không để lại dấu vết, cứ như đã biến mất trong rừng núi hoang sơ chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi chưa đến hai mươi năm.

Rất nhiều câu chuyện thần thoại đều có nhắc đến sự tồn tại của họ, trong Sơn Hải kinh cũng có một đoạn ghi chép rất dài, trong đó nhắc đến “Xà Quốc” nằm phía ngoài Tứ Xuyên, có lẽ chính là quốc gia này. Chữ Xá đọc chệch từ chữ Xà, dân tộc này thờ cúng một loại rắn mặt người hai thân như thần linh, nên trên rất nhiều thứ trang sức đều có hoa văn rắn hai thân.

Bây giờ hầu hết những người nghiên cứu lịch sử của quốc gia này cho rằng, “Xá Quốc” là hậu duệ của một nhóm người tách ra từ “Hoa Tư cổ quốc”, nhóm người này muốn đưa xã hội lúc ấy trở về chế độ mẫu hệ. Xá Quốc lấy hình vẽ rắn mặt người hai thân làm biểu tượng chủ yếu là vì “Hoa Tư cổ quốc” có truyền thuyết về “Phục Hy mặt người thân rắn”.

Bởi lẽ những tư liệu này đều lấy từ sách cổ và tài liệu khai quật được, cho nên quốc gia này có thực sự tồn tại hay không luôn là vấn đề gây tranh cãi trong giới học thức. Cái chuông này nếu đưa tới chợ đồ cổ, có lẽ sẽ không ai nhận ra giá trị của nó, nhưng đối với một số người có chút ít nghiên cứu chuyên môn thì lại là báu vật vô giá.

Tôi nghe nói thứ này ít được biết đến, trong lòng không khỏi hồi hộp. Nếu quả thật như vậy, cho dù chúng tôi có thể tìm đường vào cổ mộ đem đồ ra, chỉ sợ cũng không bán được giá cao, chuyến đi này e rằng chỉ phí công thôi.

Ông Tề thấy vẻ mặt của tôi liền hỏi có phải tôi gặp rắc rối gì không? Tôi biết ông là một thương nhân già dặn kinh nghiệm, bèn kể cho ông về tình cảnh của mình.

Ông suy nghĩ một lát, đầu tiên là mắng tôi một chặp, sau lại vỗ vỗ vai tôi, nói rằng nếu tôi muốn bán thứ này, ông có thể giúp tôi tìm được người mua giá cao, bốn trăm vạn hoàn toàn không thành vấn đề; có điều chuyện này tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài.

Nghe xong, tôi cũng ngầm hiểu được đại khái. Mẹ nó, ông già này xem ra cũng là dạng trùm trong đường dây ngầm, có lẽ đã hoạt động bí mật từ trước giải phóng. Nhưng đã có ông ấy nhận làm môi giới thì tôi cũng hoàn toàn yên tâm, vội gật đầu cảm ơn.

Trước khi rời khỏi chỗ ông Tề, tôi còn mang theo không ít tư liệu về Xá Quốc. Tôi tranh thủ giở ra xem trên taxi, thấy có rất nhiều hình chụp bích họa, trong số đó có một bức rất kỳ lạ, đó là hình ảnh nhiều người quỳ lạy trước một thân cây, xem chú giải bên cạnh thì hình như đây là hoạt động cúng tế vô cùng quan trọng của Xá Quốc, cúng tế một loại “cây Xà Thần”, truyền thuyết nói rằng chỉ cần hiến máu tươi cho loại cây này là có thể cầu được ước thấy, là một loại cây ước nguyện.

Cái cây này nhìn rất giống với hình lão Dương đã vẽ cho tôi xem, chẳng lẽ cây thanh đồng hắn đào thấy kia chính là biểu tượng của loại cây Xà Thần này?

Trong rất nhiều bức bích họa đều có hoa văn rắn mặt người, rõ ràng chính là nét đặc thù của Xá Quốc. Tôi không nhớ nổi loại chuông trong động xác gần Miếu Hạt Dưa và loại gặp trong huyệt mộ dưới đáy biển có hoa văn rắn mặt người hai thân trên đó không, nhưng xem hình dạng thì những cái chuông ở ba nơi này chắc hẳn có cùng một nguồn gốc, mà Xá Quốc thần bí này có thể là điểm mấu chốt.

Hai ngày sau, trên chuyến xe giường nằm đi Tây An, tôi và lão Dương nằm hai gường song song, vừa cắn hạt dưa vừa nói chuyện phiếm.

Tôi vốn định đi máy bay đến Tây An rồi tính tiếp, nhưng khổ nỗi tôi không được nể mặt như chú Ba, một bao lớn hàng cấm bị giữ lại ở cửa an ninh, cuối cùng đành phải ngồi ô tô, hơn nữa cũng chỉ có thể ngồi xe hãng tư nhân.

Để tiết kiệm chi phí vận chuyển, xe chạy lúc nhanh lúc chậm, ngoặt trái quẹo phải trên đường đèo, cứ lặp đi lặp lại đến phát chán. Tôi với lão Dương tán dóc đủ chuyện, nào là chỗ kia có thể có một ngôi mộ thời Hán, nơi nọ có thể có một cái lăng thời Đường, khiến cho lão Dương hận không thể nhảy luôn khỏi xe mà đào.

Nói chuyện với nhau một hồi, lão Dương hỏi tôi, sau khi vào xem cái hố ba năm trước hắn đã đến, có còn muốn đi chỗ nào khác nữa không. Suy cho cùng vào núi đâu phải chuyện chơi, nếu mang được nhiều đồ thì không nên lãng phí, nếu có thể tìm được lăng mộ khác quanh đó lại càng tốt hơn.

Thực ra từ sớm tôi đã có tính toán, khu vực phụ cận có khả năng nằm trong phạm vi Xà Quốc cổ đại, ngoài cổ mộ gần hố tuẫn táng hẳn là còn có những di tích khác, nếu có thể tìm được một hai cái, lấy vài món đồ đem về sẽ có ích rất nhiều đối với chuyện tôi muốn điều tra. Tôi âm thầm tính toán, không nói ra miệng, còn hay đùa với hắn: “Đừng có ham hố, mẹ nó chứ chưa chắc cậu còn nhớ đường, nếu không tìm thấy cái hố tuẫn táng kia, để xem cậu lo liệu thế nào.”

Lão Dương nhìn tôi cười mờ ám, nói hắn đã sớm để lại ký hiệu, tôi liền cười lớn: “Ba năm, ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này thì ký hiệu nào lưu lại được ba năm chứ?”

Hắn cười ha hả đáp lời: “Cậu nhìn là biết ngay thôi, ký hiệu của tôi đừng nói là ba năm, có là ba mươi năm cũng vẫn còn nguyên.”

Tôi không biết hắn đánh dấu kiểu gì, cứ mặc kệ hắn, lại tán dóc một hồi rồi dần dần ngủ thiếp đi.

Sau khi đến Tây An, chúng tôi tìm một nhà khách nhỏ nghỉ qua đêm, dùng thử món cơm rang dưa chua ăn với canh phù dung đặc sản của địa phương, nhân tiện đi dạo chợ đêm, đi đến tận mười hai giờ, lão Dương lại thèm món cơm rang, gào rú đòi đến quầy bán hàng ăn đêm. Chúng tôi tùy tiện tìm một quán nhỏ ven đường ngồi xuống, gọi hai chai bia, vừa uống vừa ăn. Lúc này tôi cũng chẳng còn kiêng kỵ gì, thầm nhủ chúng tôi dùng khẩu âm phương Nam, người ở đây có nghe cũng không hiểu, mới vô tư bàn về chuyện đổ đấu ngày mai. Trò chuyện hăng say một hồi, chợt nghe ông già ngồi bên cạnh hỏi: “Hai cậu, muốn theo a đáp (*) đi buôn bán thổ sản không?”

(*) A đáp là phương ngữ Ôn Châu dùng trong xưng hô chỉ người đàn ông đáng tuổi ba mẹ, tương tự như chữ “chú” trong tiếng Việt.

Chương 3: Theo dõi

Editor: Nhôm

Beta: Thanh Du

 *****

Chúng tôi đang tán gẫu hăng say, hắn nói những câu không đầu không đuôi, giọng địa phương đặc sệt, mọi người nghe đều không hiểu. Lão Dương nghe vậy mới “A” một tiếng, hỏi: “A Đáp là nơi nào?”

Lão nhân kia thấy chúng tôi có vẻ không hiểu, liền thay đổi giọng từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông hỏi: “Ý của tôi là hai vị muốn đến nơi nào để buôn bán? Có phải đến lấy hàng thổ sản hay không?”

Tôi còn chẳng biết cái gì gọi là hàng thổ sản, hơn nữa người ở phía Nam tính tình lãnh đạm, ngoại trừ mấy thằng cha chào hàng thì không có mấy người lại tùy tiện bắt chuyện với khách qua đường. Nhất thời không biết đáp thế nào, cũng may có lão Dương nhanh trí, học theo điệu bộ của lão già kia, nói: “Tôi, chúng tôi tới đây du lịch, không có hứng thú với thổ sản. Ông là người bán hàng thổ sản phải không?”

Lão già kia cười ha hả, khoát tay với chúng tôi, trở về chỗ ngồi của mình. Hai người chúng tôi ù ù cạc cạc, chẳng hiểu chuyện gì, chợt nghe lão già ấy nhẹ giọng nói với mấy người ngồi cùng bàn: “Không sao đâu, hai đứa ngồi kia là thanh đầu thượng cương, ha ha, ta mắng chúng nó cũng không hiểu, không cần ra tay.”

Lão Dương nghe xong mặt liền biến sắc, hạ giọng bảo tôi mau đi. Tôi thấy khó hiểu, nhưng lại thấy vẻ mặt lão rất căng thẳng, đành bỏ lại mười đồng rồi bỏ đi với hắn. Tới một ngã rẽ, tôi vội hỏi lão Dương: “Sao lại phải đi? Rượu còn chưa uống hết một nửa.”

Lão lén lút nhìn trước ngó sau, đáp: “Ban…ban nãy lão già kia nói với tên ngồi cùng chúng ta là thanh…thanh đầu. Hồi tôi ngồi tù có nghe mấy người trước đây phiêu bạt giang hồ nói qua, ‘thượng cương’ chính là tiếng lóng vùng này ám chỉ việc trộm mộ, còn ‘thanh đầu’ ý bảo chúng ta không phải người qua đường. Bọn người này toàn thân tanh mùi bùn đất, chỉ sợ cũng là dân trong nghề, vừa rồi nghe chúng ta nói đến chuyện đổ đấu mới chạy qua nghe ngóng.”

Tôi cười, nói: “Vậy cũng đâu tới nỗi phải bỏ đi, binh đến tướng đỡ, nước dâng thì đất chặn. Giữa nơi đông người như vậy, bọn họ làm gì được chúng ta?”

Lão Dương vỗ vai tôi, bảo tôi không hiểu chuyện, chuyện trong hắc đạo khó mà nói cho rõ ràng được. Những lời chúng ta nói ra khi nãy, không chừng đã bị nghe thấy hết, cũng không rõ người nghe hiểu được mấy phần. Hiện giờ mộ tốt chỉ có thể gặp chứ không thể cầu, nếu bị bọn chúng theo dõi, coi chừng đêm dài lắm mộng.

Tôi biết lão Dương đã từng ở tù, chỉ sợ lại nghe bạn tù thêm mắm thêm muối kể đủ chuyện trên trời dưới bể, không buồn cãi nhau với hắn, chỉ gật đầu rồi cùng hắn quay về nhà trọ.

Hôm sau, chúng tôi đi bộ suốt bảy giờ đồng hồ, mỗi người mang 15kg cả trang bị lẫn lương khô, hướng về phía long mạch lớn nhất Trung Quốc.

Trước đây tôi đã từng tới Tần Lĩnh một vài lần, mỗi lần tới đều có hướng dẫn viên dẫn đi, chẳng biết đường này nên đi thế nào. Lần này còn đi theo lão Dương, ba năm trước hắn cũng chỉ đi theo đoàn. Đoàn đi như thế nào lần này hắn cũng phải đi đúng như thế, bằng không sẽ lạc đường.

Chúng tôi đi dọc theo đường cao tốc Tây Bảo, theo lộ trình thì ước chừng ba giờ nữa sẽ đến núi Thường Dương thuộc thành phố Bảo Kê, Thiểm Tây, sau đó lại chuyển hướng đến đầu nguồn sông Gia Lăng.

Đường tôi đi hàng ngày thường thường đều là đi thẳng về thẳng. Đường quốc lộ lên Bàn Sơn này thì khác, cứ năm giây có một khúc cua nhỏ, mười giây có một khúc cua lớn, đầu tôi dán chặt vào lưng ghế trước, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo hết cả lên. Lão Dương lại càng tệ, đã ba năm hắn không đi xe, dọc đường đi đã muốn ngất xỉu, giờ tình hình lại càng nghiêm trọng, nôn ra mật xanh mật vàng, than thở: “Già rồi, già rồi, người già là giống vô dụng. Ba…..ba năm trước cũng đi con đường này, tôi còn đủ sức ngồi cãi nhau với đám đàn bà con gái, ai ngờ lần này mắt còn chả mở được.”

Tôi nói: “Con mẹ nó, cậu đừng có nhiều lời, còn bày đặt đường cao tốc thì không chịu đi, đòi đi đường Bàn Sơn (1) xoắn như cái ruột dê này, bây giờ hối hận cái rắm.”

Lão liền quay sang tôi khoát khoát tay, ý bảo đừng nói nữa, lão khó chịu lắm rồi.

Đúng lúc này bỗng có tiếng nổ lớn từ xa truyền tới, mạnh tới nỗi khiến cửa kính xe cũng phải rung chuyển, người trong xe bắt đầu hoảng hốt. Thò đầu ra khỏi cửa xe, tôi chỉ thấy ngọn núi đối diện bị phủ kín trong khói bụi. Lão Dương bị dọa cho nhảy dựng, vội hỏi: “Động….lại động đất sao?”

Người ngồi đằng trước dáng dấp trung niên quay lại cười, nói: “Hai vị từ nơi khác tới nên không biết, đấy là do có người nổ mộ, mùa này, suốt từ sáng đến tối luôn có hai đến ba vụ.”

Tôi ngạc nhiên: “Giữa ban ngày ban mặt ai lại có gan đi trộm mộ chứ?”

Hắn nhếch mép cười, lộ ra một miệng toàn răng vàng: “Ngọn núi đằng kia không giống bên này, cậu đừng nghĩ chẳng qua chỉ cách nhau một con sông Gia Lăng. Bên này chúng ta còn có đường Bàn Sơn, bên kia đến một con đường mòn còn chẳng có. Bây giờ mà báo cảnh sát thì họ cũng phải mất một ngày một đêm mới đuổi tới nơi, trừ phi mọc cánh bay qua, bằng không cũng đành phải trơ mắt mà nhìn.”

Tôi gật gật đầu, lưỡi líu hết lại: “Còn có chuyện này nữa sao?”

Người nọ nhìn tôi một lúc rồi cười nói: “Đây cũng coi như là điểm đặc sắc của chỗ chúng tôi, đặc biệt là vào mùa này, hai ngày trước còn bắt được một nhóm trộm. Mấy năm nay cổ mộ bị khai phá cạn kiệt nên ngày càng ít đi, trong núi sâu có thể vẫn còn, có điều đường quá khó đi, chính quyền cũng chỉ biết đứng nhìn. Vừa nãy có động lớn, e là dùng rất nhiều thuốc nổ.”

Tôi “à” một tiếng, quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Đây hẳn là một trong vô vàn nhánh núi Tần Lĩnh, nhìn về phía trước chỉ thấy một mảng rậm rạp um tùm, dưới tán cây rậm rạp đã xảy ra chuyện gì, căn bản không sao nhìn rõ.

Trước khi đến đây tôi đã từng tra qua tư liệu, núi Tần Lĩnh thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây, địa hình cao chót vót, hai phía đông – tây phân ra vô số nhánh núi. Núi non trùng điệp cùng thung lũng giao nhau thành từng hàng, vô số con sông chảy vòng quanh các nhánh núi. Tám trăm dặm Tần Xuyên xưa nay nổi tiếng là nơi tập trung nhiều văn vật cổ, đặc biệt là nơi sườn núi phía Bắc vẫn còn khá nhiều lăng mộ của vua chúa; những quan lại, quý nhân, phú hào được táng ở đây lại càng nhiều, cho nên nơi này từ lâu đã trở thành chốn để kẻ trộm mộ chen chân. Nào ngờ còn chưa đi sâu vào dãy Tần Lĩnh, đã có kẻ trắng trợn cho nổ mộ ngay bên ngoài, xem ra bây giờ tìm được một hai ngôi mộ đáng để ra tay cũng không phải là chuyện dễ.

Người địa phương kia thật nhiệt tình, chuyện vừa khơi ra đã thao thao không dứt. Hắn đưa chúng tôi một điếu thuốc, hỏi: “Hai người tới đây du lịch phải không? Muốn đi chỗ nào?”

Tôi đáp: “Tôi muốn đến núi Thái Bạch ngắm cảnh.” Hắn liền gật gật đầu, nói: “Hai người không đi du lịch theo đoàn thì không nên vào quá sâu. Đường đi trong núi này khúc khuỷu quanh co, không cẩn thận sẽ lạc đường, có cần tôi đi cùng một đoạn không? Nhà tôi ở trong một thôn nằm ngoài rìa khu bảo hộ, vòng qua hai ngọn núi là đến nơi. Cậu xem, bây giờ ra ngoài du lịch, tìm người hướng dẫn cũng là điều tất yếu phải không?”

Tôi vừa nghe đã đoán ra kẻ này ắt là một tay hướng dẫn hắc ám, dân trong núi toàn hạng to cao lực lưỡng, không chừng tụi nó kéo tôi đến bên khe núi lụi cho một dao thì đi đời. Nghĩ đến đây tôi vội lắc đầu nói: “Không cần, không cần, chúng tôi đã chuẩn bị cả rồi.”

Người nọ nói: “Cậu đừng vội từ chối, nơi này không giống những nơi khác, nơi đây rừng núi rậm rạp, hai người muốn tiến bừa vào trong núi sâu thì rất dễ gặp nguy hiểm, cậu cũng nên lo lắng đi. Tôi cũng có chút danh tiếng trong nghề dẫn đường ở vùng này, tuyệt đối không hù dọa hai người.”

Tôi nghe hắn nói cũng có chút thành khẩn, không tiện từ chối, đành nói lần này chúng tôi đến đây chủ yếu là muốn vào thôn của người dân tộc thiểu số trong núi. Theo kế hoạch thì trước tiên cứ ở tạm dưới chân núi vài ngày, cho nên cũng không vội tìm người dẫn đường, chờ khi nào muốn vào trong núi thì sẽ gọi hắn.

Hắn vội nói: “Ấy, đến sớm không bằng đến đúng lúc, đường này tôi đi nhiều rồi. Cậu muốn tới thôn người Dao gần nhất thì chí ít cũng phải vượt qua ngọn núi này.” Nói rồi hắn chỉ về rặng núi phía xa: “Kia là núi Xà Đầu, nơi cao nhất có độ cao hơn một nghìn mét so với mực nước biển, cả ngọn núi trông giống đầu con rắn nên mới gọi là núi Xà Đầu. Khách du lịch từ bốn phương tám hướng, nếu muốn đến được làng của người dân tộc, thì chỉ có cách đi bộ từng bước. Núi này đã vùi xác nhiều người, năm ngoái có mấy học viên trường nghệ thuật đi vào vẽ cây cối phong cảnh, đến giờ vẫn chưa thấy trở ra. Cậu nói xem, có cần người dẫn đường không?”

Tôi nhìn theo hướng hắn chỉ thì thấy núi Xà Đầu vắt ngang tầm mắt, xanh biếc một màu, đỉnh núi cao ngất khuất sau tầng mây. Cũng bởi điều kiện khí hậu mà ngọn núi quanh năm phủ trong sương mù, không thể nhìn rõ diện mạo, chỉ có thể miễn cưỡng nhìn thấy mặt quay về sông Gia Lăng. Đáng tiếc là quanh sông đều là vách đá dựng, thế núi dốc đứng, đến khỉ cũng chẳng leo lên nổi.

Đây đúng là “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.”

(Mây che Tần Lĩnh nhà chẳng thấy, tuyết phủ Lam Quan vó ngựa chùn).

 Đầu lưỡi tôi líu hết lại, thầm nghĩ vượt qua núi này có còn cơ hội sống sót không?

Xe đi thêm một giờ nữa, cuối cùng cũng tới chân núi Thái Bạch, tôi và lão Dương lảo đảo xuống xe. Đằng nào tên hướng dẫn kia cũng sẽ giới thiệu khách sạn cho chúng tôi, tôi nghĩ dù sao cũng đã đến địa bàn của hắn, không uống rượu mời tất phải uống rượu phạt, đành phải đi theo. Hắn dẫn chúng tôi tới quán trọ nhỏ của một gia đình nông dân, tôi thấy giá cả cũng vừa phải, xem ra người này thực sự nhiệt tình.

Đợi chúng tôi sắp xếp ổn thỏa chỗ nghỉ ngơi, hắn mới chắp tay cáo từ, trước khi đi còn để lại số điện thoại, nói khi lúc nào vào núi thì gọi cho hắn, hắn sẽ dẫn đường cho chúng tôi.

Chủ nhà trọ cũng rất nhiệt tình, họ làm cơm chiều rồi mời chúng tôi cùng ăn. Không tiện ăn chung với chủ nhà, tôi cáo lỗi rồi cùng lão Dương trở về phòng, tựa vào bệ cửa sổ, vừa ăn vừa xem bản đồ vùng này.

Tên hướng dẫn kia nói cũng không sai, muốn đi vào Tần Lĩnh từ hướng này thì phải vượt qua ngọn núi cao một nghìn thước so với mực nước biển, đây là điều hoàn toàn không ngờ tới. Với kinh nghiệm của chúng tôi, muốn tự mình đi vào núi chẳng khác nào tìm lấy cái chết. Nhưng nếu tìm tên hướng dẫn nọ để đưa chúng tôi vào thì đến lúc ra ắt cũng phải nhờ đến hắn. Bảo hắn chờ ở ngoài một hai ngày còn được, nhưng chúng tôi đi vào trong núi có thể phải mất cả tuần, khó mà khiến hắn không nghi ngờ.

Lần trước lão Dương đến đây, anh họ hắn có tìm một tay dẫn đường già dặn; nhưng bây giờ anh họ hắn đang ăn cơm tù, tay dẫn đường kia đương nhiên không thể tìm được nữa. Hắn cũng không ngờ mình sẽ đến đây lần thứ hai nên chẳng còn nhớ tí gì về sơn đạo, không thể dựa vào hắn được. Hỏi bà chủ nhà vẫn chẳng tìm được cách nào khác, bởi vì người sống trong thôn thường thường chỉ khi nào có phiên chợ mới ra khỏi cửa. Mà bọn họ muốn ra ngoài thì đều leo qua núi, xưa nay chưa từng nghe ai nhắc tới con đường tắt; xem ra muốn vượt ngọn núi này không phải chuyện đơn giản.

Đang cân nhắc xem nên làm thế nào, lão Dương bỗng vỗ tôi một cái, khẽ nói: “Lão Ngô, nhìn… nhìn kìa, người dưới đó là ai?”

Tôi liếc mắt qua cửa sổ, chỉ thấy dưới sân nhà trọ có năm người. Nhìn kĩ hơn thì bất ngờ nhận ra một trong năm người đó chính là lão già chúng tôi đã gặp ở quán nước ven đường ở Tây An.

Tôi thầm nhủ, thế quái nào mà nhóm này cũng tới đây, lẽ nào lão Dương nói đúng, bọn họ cũng đến đây để kiếm đường làm ăn?

Lão Dương vội kéo rèm che, chỉ chừa lại một khe hở nhỏ, khẽ khàng bảo tôi: “Mấy tên này cũng mang theo túi lớn túi nhỏ hệt như chúng ta, không phải chúng nghe được những chuyện bọn mình nói ở Tây An hôm trước rồi muốn đi theo chờ thời cơ ăn chặn đấy chứ?”

Tôi thấy bà chủ trọ vui vẻ ra đón bọn họ vào, lắc lắc đầu, nói: “Chắc không phải đâu, cậu xem họ thân thiết như vậy, có lẽ những người này là khách quen thường trọ lại ở đây. Nhà trọ ở vùng này không nhiều, chắc là chúng ta tình cờ chọn cùng chỗ với bọn họ thôi.” Nếu lão Dương nói đúng, họ cũng là dân đổ đấu thì chỗ này hẳn là điểm dừng chân cố định, e rằng mỗi lần đến đây làm ăn họ đều ở trọ lại chỗ này.

Lão Dương lo lắng nói: “Toi rồi, ở Tây An bọn họ đã nghe chúng ta nói chuyện, nếu để họ bắt gặp ở đây thì dễ bị chú ý lắm, hay là ta rời khỏi đây ngay trong đêm đi?”

Tôi suy nghĩ một chút, cảm thấy chuyện này không có gì phiền toái, ngược lại còn là một cơ hội tốt, lắc đầu nói: “Không. Đám người này chỉ là ruồi nhặng, trứng không ung thì chẳng đậu lại làm gì (*), họ tới đây chắc chắn có mục đích. Chúng ta đều không có kinh nghiệm, thay vì mò mẫm đi lung tung, chi bằng cứ theo bọn họ, không chừng lại thu được thứ gì hay ho, sau đó còn có thể theo họ vượt núi.”

(*) Lấy ý từ câu tục ngữ “Thương dăng bất trành vô phùng đích đản” tức là quả trứng nguyên lành không nứt vỡ thì ruồi nhặng chẳng thèm liếc mắt tới.

Lão Dương nói: “Đám người này toàn kẻ liều mạng, giết người không ghê tay. Đi theo bọn chúng lỡ bị phát hiện, không chừng còn bị thủ tiêu, như vậy có quá mạo hiểm không?”

Tôi bật cười, chế giễu hắn: “Cậu biến thành bà mụ từ khi nào vậy? Nơi này rừng sâu núi thẳm, sao có thể dễ dàng bị phát hiện? Vả lại chúng ta đâu phải lũ ngốc, bị phát hiện chẳng lẽ không biết đường chạy? Nếu cậu thật sự lo lắng, vậy trước hết ta cứ đi theo xem chúng có cảnh giác không đã. Nếu không theo được thì thôi, chúng ta cũng đâu có mất gì, phải không?”

Lão Dương nghe tôi nói vậy, nhất thời không phản bác được gì, đành phải gật đầu. Chúng tôi liền đi chuẩn bị đồ đạc thật kĩ càng, tránh cho ngày mai lại cuống. Tôi nhẩm tính mấy ngày nữa có thể sẽ tương đối vất vả, bèn đi đặt báo thức sớm, bảo lão Dương đừng làm chuyện gì nữa, lo mà nghỉ ngơi đi.

Do đi đường quá mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống là ngủ một mạch tới giữa trưa, hoàn toàn không nghe thấy tiếng chuông đồng hồ báo thức. Lúc tôi mở mắt thì mặt trời đã đứng bóng, liền giật mình tỉnh giấc, dựng lão Dương dậy. Xuống hỏi bà chủ trọ mới biết mấy người kia vừa xuất phát đi về hướng núi Xà Đầu, cũng may thời gian chưa quá lâu.

Hai người chúng tôi vội vàng chạy đi mua mấy cái bánh nướng làm lương khô rồi một đường hướng về phía ngọn núi, gấp rút đuổi theo bọn họ. Chạy ước chừng mười lăm phút, cuối cùng khi đến chân núi chúng tôi cũng đuổi kịp bọn họ.

———————————–

(1) Đường núi Bàn Sơn xoắn ruột mèo ~

Chương 4: Tiếp tục theo dõi

Edit: Hằng

Beta: Thanh Du

*****

Đám người kia sau khi mua vé thì đi thẳng vào khu sinh thái, chúng tôi cẩn thận bám theo, cách chúng một khoảng khá xa.

Khu sinh thái này không có lấy một bóng người, chúng tôi sợ bị phát hiện, đành phải bảo nhau chui vào bụi cỏ, da thịt bị tra tấn, bị hết lá cỏ sắc lại đến bụi cây thi nhau cứa vào, vừa ngứa lại vừa đau. Chỉ trong chốc lát, tôi đã cảm thấy khốn khổ vô cùng.

Vượt qua chân núi là coi như đã tiến vào phạm vi núi Xà Đầu. Nơi này có mấy điểm du lịch, đường đi đều lát đá, vì vậy đi lại không mấy khó khăn. Sơn đạo men theo thế núi, quanh co khúc khuỷu, dọc hai bên đường có khe suối róc rách cùng với rất nhiều khối đá khắc hình danh nhân, phong cảnh tuyệt đẹp, hiềm nỗi nhóm người này một mạch đi thẳng, không thèm ngừng chân lại ngắm cảnh, dường như không hề có chút hứng thú đối với cảnh sắc núi Tần Lĩnh.

Thể lực của tôi dạo gần đây không tệ, đi một mạch tới tận đây cũng không có cảm giác gì. Nhưng lão Dương kia vừa trải qua thời gian cải tạo trong tù, không mấy khi vận động, tim gan phèo phổi hoạt động không năng suất bằng tôi, chỉ chốc lát đã chịu hết nổi, bắt đầu phì phò thở dốc.

Đường lên núi càng lúc càng yên tĩnh, chúng tôi không dám nói một lời, ngậm miệng im re bám theo sau đoàn người nọ. Cho đến khi trời sập tối, trăng lên ngang trời, đám người kia mới dừng lại.

Chúng tôi tìm một bụi cây xa xa ngồi xuống, dõi theo bọn họ. Bỗng lão Dương đưa tay kéo kéo tôi, tôi quay đầu lại nhìn, thấy hắn tái mặt, vầng trán đẫm mồ hôi, mới biết hắn chịu không nổi nữa rồi, liền lấy cho hắn miếng nước rồi để hắn nghỉ ngơi cho thoải mái.

Lão Dương vừa thở vừa nói với tôi: “Lão… lão Ngô, tôi thấy ta theo họ đến đây được. . . được rồi, họ đổ được cái gì thì là của họ, ta đổ được là của ta, cứ đi nữa rồi lại thành ra tranh giành miếng ăn với nhau.”

Tôi cũng không khá khẩm hơn hắn là bao, nghe hắn nói vậy, trong lòng cực kỳ khó chịu, khẽ mắng: “Con mẹ nó, cậu mới chỉ ngồi tù có ba năm, sao đã thành một thằng vô dụng rồi? Đã theo đến đây còn bỏ, bao nhiêu khổ sở chúng ta phải chịu trên đường chẳng thành công cốc hết hay sao? Tốt nhất là cậu ngậm miệng lại cho tôi.”

Lão Dương lại nói: “Vậy cậu đoán xem còn phải bám theo chúng bao lâu nữa. . . bọn chúng dừng lại, có phải đã đến nơi rồi không?”

Tôi lại nhìn về phía đám ngưới kia, đáp: “Chưa, nơi này vẫn còn cách núi một khoảng khá xa, có thể chúng mệt mỏi muốn dừng chân nghỉ ngơi thôi. Cậu xem, họ nhóm lửa lên rồi, chắc hẳn là muốn qua đêm ở đây. Chúng ta cũng đừng lãng phí thời gian nữa, trước tiên cần lấp đầy cái bụng rồi đánh một giấc, xong xuôi có gì thì tính sau.”

Chúng tôi rốt cuộc cũng tìm được một chỗ khuất, kiếm rơm rạ trải qua loa. Tiếc rằng lúc này đã là nửa đêm, chúng tôi không thể nhóm lửa vì ánh sáng sẽ dễ dàng khiến kẻ khác phát hiện ra, đành để mặc quần áo ướt nhẹp mồ hôi dính chặt lên người, muốn hong cho khô cũng không được. Chỗ lương khô mang đáng lẽ phải nướng lại, mà giờ chỉ có thể ngồi nhai một đống nguội ngắt. Lão Dương than thở, luôn miệng oán trách tôi vì cái chủ ý ẩm ương này.

Tôi cũng hối hận không ngớt, trong lòng bắt đầu thấy khó chịu, nhưng những lời lão Dương cũng không lọt tai chút nào. Tôi thầm nghĩ, ta tới giúp mi mà mi còn ở đó nói nhảm, liền mắng lại: nếu có chút khổ sở thế này cũng không chịu nổi thì tốt nhất là quay về đi, bằng không có vào trong núi thì cũng trốn về thôi.

Lão Dương buồn bực hồi lâu, đột nhiên thốt lên: “Không xong rồi, lão Ngô, chúng ta bị động theo. . . theo dõi như vậy cũng đâu phải cách hay, không biết bọn họ có muốn vượt qua núi hay không. Nếu theo bọn họ hướng thẳng lên đỉnh núi, chui vào rừng rậm thì chúng ta tiêu đời.”

Ta nghe vậy cũng ngẩn ra, tự nhủ hắn nói cũng đúng, mình cứ đinh ninh đám người này muốn vượt núi, nhưng lỡ như họ không vượt núi, mà đi dạo lòng vòng xung quanh thì chẳng phải hai thằng tự nộp mạng cho chúng nó rồi sao?

Chuyện này thật khó xử, cũng không thể chui ra hỏi đám người đó được. Tôi nhìn về phía ánh lửa phía trước, đần người ra.

Lão Dương thấy tôi không đưa ra được phương án nào hữu dụng, thở dài một hơi, nghĩ ngợi ít lâu rồi nói trông cậy vào tôi chỉ tổ tiêu đời, dựa vào hắn vẫn hơn. Hắn định qua đó nghe lén mấy người kia nói chuyện, bọn họ sắp tiến vào núi, không thể không bàn bạc công chuyện được.

Tôi bị hắn huyên thuyên một hồi, rốt cuộc không không còn cách nào khác, đành phải đồng ý. Có điều để một mình hắn đi tôi không yên tâm, vì vậy cũng mò đi cùng hắn.

Rón ra rón rén đi tới, quả thật núi này yên tĩnh kinh khủng, chúng tôi đi chưa xa đã có thể nghe thấy tiếng nói truyền về. Lão Dương kéo tay tôi, ý bảo trốn ở đây được rồi, không cần phải tiến thêm nữa.

Tôi gật đầu, cả hai cùng ngồi xuống, ngưng thở, nghe tiếng bọn họ đang cười rất to. Có một chuyện nằm ngoài dự tính của chúng tôi, đó là lẫn trong đám đông ồn ào vẫn nghe ra được tiếng nói của hai người đậm chất Quảng Đông.

Chuyện này thật quái lạ, xưa nay tôi chưa từng nói người Quảng Đông cũng có hứng thú với mấy vụ này.

Bọn họ ở đó cười cười nói nói, chợt nghe một người thanh niên lên tiếng: “Thái thúc à, chú nhẩm tính xem nhóm ta còn phải đi bao lâu mữa mới tới nơi? Chân tôi hôm nay đã mỏi muốn rụng rời rồi.”

Một giọng nói khàn khàn đáp lời: “Ngày thường tao đã bảo mày chịu khó tu tâm dưỡng tính, ai mà ngờ con bà mày chỉ biết ăn chơi gái gú cờ bạc rượu chè, cắm mặt vào đôi gò mấy ả đàn bà, giờ đã biết thân chưa? Tao nói cho mày biết, muốn qua núi Xà Đầu này, đoạn có đường phải đi hết hai ngày, đến khi hết đường thì tao không dám chắc. Nếu mày chịu không nổi thì cút xuống núi ngay bây giờ cũng chưa muộn, đừng quẩn chân ông nữa.”

Người thanh niên kia hiển nhiên có chút e dè với Thái thúc, nói: “Gần đây tôi có hơi đổ đốn thật, nhưng chú yên tâm, vụ mua bán này nếu thành công thì bọn tôi không cần phải tới mấy hẻm núi kiểu này làm ăn nữa. Bọn tôi sẽ đi theo ông chủ Vương cùng ông chủ Lý tới Hồng Kông mở mang tầm mắt, cũng có thể thưởng thức cuộc sống của giới thượng lưu.”

Một người giọng Quảng Đông lên tiếng: “Được rồi được rồi, không sao cả, mọi người đừng cãi nhau. Chỉ cần mấy người tìm được đồ tốt, muốn bao nhiêu chúng ta sẽ có bấy nhiêu. Vụ làm ăn này coi như đổi đời, chỉ cần làm tốt thì tất cả mọi người có thể nghỉ ngơi thoải mái được rồi. Đến lúc đó hãy tới Hồng Kông rực rỡ xa hoa bậc nhất vung tay tiêu tiền từng xấp từng xấp, như thế dù có cực khổ chút xíu cũng đáng giá.”

Thái thúc lại nói: “Ông chủ Lý, ông đừng có ba hoa đắc chí như thế. Cái đấu này có nằm quanh đây không, chúng tôi chỉ biết dựa vào mấy lời đầu môi chót lưỡi của ông. Ông mà đưa tin giả, để chúng tôi toi công thì coi chừng.”

Ông chủ Lý đáp: “Ôi dào, tôi bảo này, ông đa nghi quá rồi. Chúng ta hợp tác với nhau bao lâu rồi, tôi chẳng qua chỉ hỏng việc có một lần, đâu cần để bụng đến tận bây giờ chứ. Thật lòng mà nói, lần này chỉ cần mọi người đặt chân đến được nơi đó thì sau này dù có là lăng mộ Tần Thủy Hoàng mọi người cũng không coi vào đâu.”

Thái thúc không thích nghe những lời khách sáo kiểu này, cười nhạt nói: “Lời này tất nhiên tôi không tin được rồi, ông cũng đừng chơi kiểu phóng ngựa trước pháo (*). Tuy chúng ta đúng là đã hợp tác lâu năm, nhưng tôi còn chưa được biết ông có được mớ tin tức này từ đâu. Dù sao thì đây cũng là lần cuối cùng, nếu ông không ngại, sao không nói ra cho các anh em tôi nghe chơi, coi như mở mang kiến thức.”

(*) Thành ngữ gốc “phóng mã hậu pháo” mang nghĩa chuyện qua rồi mới biết mà tìm cách phòng chống, gần nghĩa với “mất bò mới lo làm chuồng”. Tác giả đổi lại là “phóng mã tiền pháo” tức chuyện chưa xảy ra đã nói như đúng rồi, aka ăn bánh vẽ :))

“Đúng vậy đó, nói nghe coi!” Tên thanh niên kia lập tức chen miệng vào: “Ít ra sau này tôi còn có cái đem ba hoa với đám đàn bà.”

Ông chủ Lý cười dài một tiếng mới tiếp lời: “Haiz, hai người thật là. . .  nếu hai người thật sự muốn biết thì tôi kể lại cũng được, chỉ sợ nói ra kChương 5:  Nghe lén

Edit: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Đám người kia im lặng hồi lâu mới nghe ông chủ Lý lên tiếng: “Chuyện này đáng ra tôi không nên kể cho người khác, có điều mọi người đã theo tôi lâu như vậy, cũng coi như là người một nhà rồi. Nếu mọi người muốn biết, tôi nghĩ có nói ra cũng không sao.”

Thanh niên kia trở nên hưng phấn: “Có khí khái lắm! Không giấu gì ông, chúng tôi quả thực vẫn còn đoán già đoán non, không biết ông có tuyệt kĩ gì mà một phát tìm được ngay cổ mộ đấy.”

Ông chủ Lý ngừng một chút, miễn cưỡng trả lời: “Chuyện đó cũng không phải bí mật gì, mọi sự tính ra đều liên quan tới tổ tiên tôi. Trong gia phả tôi có ghi lại một chuyện thế này, mọi người trước hết hãy nghe tôi kể qua đã.”

Ông chủ Lý bắt đầu kể một câu chuyện li kì:

Vào thời Bắc Ngụy, chiến tranh loạn lạc liên miên, một ngày không biết phải đánh bao nhiêu trận. Người lớn chết trận gần hết, ông tổ của lão mới sáu tuổi đã phải đi chăn trâu thuê, kiếm kế sinh nhai.

Năm ấy thôn bên phát sinh bạo loạn, triều đình phái quan binh đến trấn áp, mọi người trong thôn đều chạy nạn hết cả. Nhà họ không kịp chạy đi, đành nấp kín trong phòng. Bên ngoài chém chém giết giết đến mờ mịt đất trời, phải ba ngày sau mới hết.

Ông tổ của lão nơm nớp lo sợ, len lén ra ngoài xem sao, thấy xác người chất đầy mặt đất, lại có rất nhiều người vẫn còn thoi thóp. Bị dọa đến ngẩn cả người, ông vội chạy đi tìm trâu nhà mình, kết quả là trong chuồng trâu đâu chẳng thấy, lại thấy lù lù một người bị thương nằm lăn lóc trong đám rơm.

Kẻ kia vừa câm vừa điếc, vết thương đã nặng lắm rồi. Ông tổ lúc ấy tuổi còn nhỏ, làm sao phân biệt được đây là binh lính hay quân tạo phản, chỉ thấy người này sao mà đáng thương, mới mang nước cho hắn uống, còn lấy vải thô băng bó để cầm máu. Có điều hắn ta bị thương quá nặng, thành ra cầm cự chẳng được bao lâu. Trước khi chết người đó lấy ra một cuộn vải bố chi chít chữ, ra hiệu cho ông tổ của lão phải cất giữ thật cẩn thận.

Đáng tiếc nhà lão lúc ấy từ trên xuống dưới đều thất học, không ai hiểu được chữ viết trên đó. Qua tiết Đại Hàn năm ấy, lại thêm rất nhiều người chết cóng, người nhà liền mang súc vải ấy ra may áo bông.

Đến tuổi trưởng thành, ông tổ của lão tòng quân, chiến đấu dưới thời Nam Bắc triều đạt được những chiến công hiển hách,  về sau được cất nhắc tới chức giáo úy. Nhưng vì nhiều năm sống trong nghèo đói mà thời cuộc lại thay đổi quá nhanh nên khi ông tổ lão về già thì gia thế nhà lão bắt đầu lụn bại. Đến khi ông tổ lão qua đời, chỉ còn sót lại chiếc áo bông bồi táng.

Về sau gia tộc nhà lão còn trải qua nhiều phen thăng trầm, cho đến cuối triều nhà Thanh đã trở thành hào phú một vùng.  Trong một lần di dời mộ tổ, do mấy người công nhân không cẩn thận nên quan tài bị nghiêng làm thi cốt bên trong rơi xuống đất. Khi tẩy rửa hài cốt, ông nội lão phát hiện mọi thứ bên trong đều đã rữa nát hết, chỉ có mảnh vải bố bên trong chiếc áo bông chôn cùng là vẫn còn nguyên vẹn như cũ.

Ông nội lão cảm thấy chuyện này thật kì lạ, mới đem áo bông nhờ một người làm nghề buôn đồ cổ xem giúp. Người này vừa nhìn qua đã phát hiện áo bông này quả thực không phải vật tầm thường, những chữ viết trên đó chính là “ách văn”, tương truyền chỉ có người câm điếc mới hiểu được.

Ông chủ Lý nói tới đây thì ngừng lại, hỏi xung quanh: “Mọi người có biết tấm vài đó dùng để làm gì không?”

Mọi người im lặng suy nghĩ, rồi một giọng nói rất lạ vang lên: “Chuyện này tôi từng nghe qua, thời ấy Bắc Ngụy có một đội quân, tất cả đều là người câm điếc; đây hẳn là vật họ dùng để truyền thông tin cơ mật, chữ bên trên gọi là ách văn, người bình thường xem không hiểu được. Đây là tôi nghe người lớn trong nhà kể lại.”

Ông chủ Lý gật gù đáp: “Sư gia quả nhiên là sư gia, vậy chắc anh cũng biết nhiệm vụ của đội quân kia là gì chứ?”

Vị sư gia kia cười nói: “Tôi không biết rõ, nhưng nghe nói đội quân câm điếc này của Bắc Ngụy là noi theo đội quân Mô Kim hiệu úy của Tào Tháo, ngoài mặt là hộ vệ của hoàng đế, sau lưng lại làm nghề đổ đấu… Do họ câm điếc, mà ách văn thì ngoài họ ra không ai đọc được, thành ra những ngôi mộ họ từng khai phá chỉ có họ và hoàng đế biết. Hành tung của những người này tới nay vẫn là bí ẩn lớn.”

Nói tới đây, vị sư gia kia ngừng một chút rồi mới tiếp lời: “Ông chủ Lý, không lẽ ông muốn nói tấm vải kia chính là “hà mộc tập”?

Ông chủ Lý cười phá lên, đắc ý gật đầu: “Lợi hại, lợi hại, có sư gia ở đây, tôi có muốn gạt người cũng không được. Không sai, chính là nó!”

Sư gia hít một hơi khí lạnh, trả lời: “Thật khó lường, đồng nghiệp bất đồng mệnh, thì ra Lý gia nhờ thứ này mà phát tài.”

Thanh niên kia nghe không hiểu, hỏi lại sư gia: “Cái gọi là “hà mộc tập” đó thực ra gì? Sao lại liên quan đến cổ mộ?”

Sư gia đáp: “Tương truyền, sau khi quân câm điếc tìm được cổ mộ thì thường không vội đào ngay, mà chỉ ghi lại vị trí rồi dùng ngựa san bằng mặt đất, sau đó đổ một lớp sắt nóng chảy lên, sau này cần đến thì căn cứ vào những bản ghi chép này mà tìm lại. Người ta gọi chúng là ‘hà mộc tập’.”

Thanh niên kia giật mình nói: “Tôi hỏi này, nói vậy thông tin về mấy cái đấu chúng ta đã đổ đều từ đó mà ra? Oa, ông chủ Lý, ông cũng thật là, có thứ quý giá như vậy đúng ra phải chia sẻ với anh em chút ít chứ.”

Ông chủ Lý cười nói: “Vẫn chưa hết đâu, vật của tổ tiên không phải không dùng được. Mảnh vải trong quan tài cụ tổ tôi ghi lại vị trí của hai mươi bốn cổ mộ, cái này đã là cái cuối cùng rồi. Có điều ngôi mộ cuối cùng này ắt hẳn phải là ngôi mộ đáng giá nhất trong tất cả.”

Thanh niên kia lại hỏi: “Trên đó có ghi bên trong có gì không?”

Ông chủ Lý nhíu mày, lắc đầu đáp: “Không ghi chép gì cả, nhưng tấm vải đó có viết những thứ trong ngôi mộ này không phải thứ người thường có thể dùng, là cực phẩm trong cực phẩm, so với báu vật trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng còn hơn vài phần. Tin tôi đi, tuyệt đối không sai đâu.”

Tôi với lão Dương nghe đến đó đã hiểu rõ, bọn họ vào đây quả nhiên có mục đích, chỉ là không nghĩ tới nội tình lại hay ho đến vậy. Lão Dương hỏi tôi: “Này, cậu… cậu bảo tên họ Lý này nói thật… thật hay dối? Trên đời này còn có lăng mộ nào có thể so sánh với lăng mộ Tần Thủy Hoàng ư?”

Tôi lắc đầu, trả lời: “Tôi không chắc, nhưng xem khẩu khí của lão, ít nhất cũng đúng đến năm phần. Ngày mai bọn họ chắc chắn sẽ vượt núi, chúng ta cứ đi theo là được.”

Lão Dương nói: “Chúng…chúng ta cứ bám theo họ đến cùng xem sao, mục tiêu lần này của bọn họ nhất định không nhỏ, chúng ta có nhặt phần thừa cũng đủ dùng rồi… Cái hố tuẫn táng kia, chúng ta đừng đi nữa.”

Hắn vì quá căng thẳng thành ra nói năng lắp ba lắp bắp, có mấy chữ nói ra nghe rõ mồn một, tôi thấy nguy đành vội vàng bịt miệng hắn lại, dỏng tai nghe ngóng động tĩnh đối phương. Nhưng đã muộn mất rồi, phía bên kia đột nhiên im bặt, hẳn là đã phát hiện xung quang có điểm bất thường.

Tôi và lão Dương nín thở, cố gắng không gây ra tiếng động nào, tim đập như nổi trống. Bọn họ cũng không nói lời nào, dường như cũng đang căng tai nghe ngóng xung quanh. Hai bên đều không lên tiếng, giằng co được một lúc thì lão già bên kia không chịu nổi nữa, ra lệnh: “Nhị Ma Tử (chính là thanh niên kia), bên kia hình như có tiếng động, sang đó xem thế nào!”

Lời vừa dứt, tôi liền nghe thấy hai tiếng lách cách lên đạn của súng lục, toàn thân lập tức đổ mồ hôi lạnh. Chết mẹ rồi, đám này quả nhiên là tội phạm, lần nãy lão Dương hại chết chúng tôi rồi!

Tôi quay đầu nhìn quanh bốn phía, nếu bỏ chạy bây giờ thì tám phần là thoát được, có điều về sau muốn tiếp tục theo dõi sẽ rất khó khăn. Nếu không chạy, tôi thật sự không dám chắc có thể trốn thoát khỏi tầm mắt cú vọ của họ không.

Đang do dự thì phía xa bỗng truyền đến những âm thanh ồn ào, tôi quay đầu về phía đó, thấy năm sáu ánh đèn pin đang tiến về phía chúng tôi, là đội tuần tra núi. Tôi nghe tiếng ông chú bên kia kêu lên khe khẽ: “Mẹ nó, chúng ta chạy mau!”. Nói xong họ dập lửa, mang đồ đạc chạy sâu vào rừng.

Lão Dương vừa rồi còn bị dọa chết khiếp, giờ thấy người ta chạy tự nhiên lại sốt ruột hỏi tôi: “Làm… làm sao bây giờ? Đuổi theo… theo hay không theo?”

Tôi cẩn thận thò đầu ra nhìn, thấy bọn họ đều không mang đèn pin, trong rừng tối đen không thấy một bóng người, bèn đáp: “Không được đâu, cậu xem trời tối đen như mực thế này, chúng ta đuổi theo không khéo còn vượt qua mặt họ. Giờ cứ nghỉ ngơi đã, ngày mai lần theo dấu chân họ sau. Họ không thể đi xa được, chắc chắn phải dừng lại nghỉ ở đâu đó chứ.”

Lão Dương trong lòng hồi hộp lo lắng nhưng cũng không có cách nào khác. Lúc này mấy người trong đội tuần tra đã tới rất gần rồi, nếu không mau đi chúng tôi cũng sẽ bị tóm. Tôi đành ngăn lão Dương đang lải nhải lại, lôi hắn về phía khu rừng lúc nãy đám người kia đi vào.

Chúng tôi sợ lạc nên không dám đi quá xa, đành trốn sau một lùm cây bụi. Qua một lúc, thấy ánh đèn pin xa dần, cả hai mới thở phào nhẹ nhõm.

Tôi nghĩ nghĩ rồi nói với lão Dương: “Trên đường đến đây, dân địa phương ai cũng nói thời gian này dân trộm mộ hoạt động mạnh, e là hoạt động tuần tra cũng được tăng cường, tôi nghĩ chúng ta đừng mong ngủ yên. Tốt nhất ta nên tìm chỗ trú tạm một đêm đã, sáng mai đi thẳng vào rừng luôn, hai người lạ bị bắt ở đây thì có mười cái miệng cũng không cãi được.”

Lão Dương gục gặc đầu, tôi khẽ đẩy hắn mới biết hắn đã gà gật từ lâu. Tôi thầm thở dài một tiếng, đắp thêm áo cho hắn, tự nhủ xem ra tối nay mình phải canh rồi. Tôi dựa vào gốc cây, mơ mơ màng màng một hồi rồi bất giác cũng chìm vào giấc mộng.

Hôm sau cả hai đều tỉnh dậy từ sớm, sau một đêm ngủ dưới gốc cây, đầu ai cũng toàn phân chim, thối đến mắc ói. Lão Dương chẳng để ý, thuận tay vò đầu một phát, lập tức đòi chạy đi tìm mấy người kia. Tôi chịu không nổi cảnh vác một đống phân chim trên đầu chạy qua chạy lại trong rừng, đành phải hi sinh nửa túi nước để rửa tạm.

Chúng tôi vội vã trở lại chỗ hôm qua, thầm mong trên mặt đất vẫn còn lưu lại dấu vết của đoàn người nọ, nhưng đi vài vòng luẩn quẩn mà đến cả đám tro tàn từ đống lửa tối qua cũng không tìm thấy. Lão Dương không bằng lòng, cứ lải nhải: “Cho nên mới nói… nói, hôm qua cứ đi… đi theo có hơn không, bây giờ cậu xem… xem đi, giờ thì hay rồi, cá đã nằm… nằm trên thớt mà còn để tuột… tuột mất.”

Tôi bực mình: “Cậu đừng ý kiến nữa được không, cậu xem nơi này chỉ có một con đường, bọn họ có thể đi đâu được chứ? Chúng ta cứ tiến lên phía trước, tôi không tin ta không tìm được.”

Chúng tôi men theo sơn đạo suốt một buổi sáng, đường cũng sắp hết mà chẳng thấy bóng dáng một ai. Phía trước là một vạt rừng rậm rạp, cây cối xoắn xuýt, cỏ dại tràn lan, hoàn toàn không có biển chỉ đường. Tôi thấy hơi e ngại, xem ra đoạn đường tiếp theo ngay cả đội tuần tra núi cũng không đi, giờ mới thực sự là vượt núi băng rừng. Phía trước mới là sơn đạo đúng nghĩa, không biết chúng tôi sẽ phải trèo qua bao nhiêu vách đá đây.

Trên đường đi không hề thấy dấu vết đốt lửa nào, tôi thầm thất vọng, mấy người đêm qua có lẽ là vội vã trốn đội tuần tra núi,  không dừng lại nghỉ ngơi mà đã vượt núi ngay trong đêm. Nếu thực sự là thế, cơ hội chúng tôi đuổi kịp bọn họ e rằng chỉ là con số 0 tròn trĩnh.

Tôi đứng chần chừ trước sơn đạo một lúc, cuối cùng quyết định. Sức người có hạn, cứ cho là mấy người này đã trốn đội tuần tra núi cả đêm, vậy thì ban ngày chắc chắn phải nghỉ ngơi. Hơn nữa ban đêm tốc độ phải chậm hơn ban ngày, bọn họ hẳn không cách chúng tôi bao xa. Chúng tôi vẫn có hy vọng đuổi kịp, chỉ là phải hết sức cẩn thận, không được để họ phát hiện.

Chúng tôi lấy dao găm quân dụng từ trong ba lô ra giắt bên hông, mỗi người chặt một nhánh cây làm gậy. Tần Lĩnh có rất nhiều thú dữ, lớn thì có hổ và gấu, nhỏ hơn thì có sói và lợn rừng, nếu xui xẻo gặp phải một hai con, chúng tôi chắc cũng đủ cho chúng no mấy bữa.

Lão Dương hỏi tôi, lỡ như tôi tính lầm, đuổi không kịp bọn họ thì sao? Tôi suy nghĩ một lát rồi đáp, căn cứ vào những tư liệu tôi thu thập được, trong núi không thiếu những túp lều tạm do người đi hái thuốc dựng lên, bên trong có đồ dùng nhà bếp, củi lửa và thịt khô hong khói. Nếu chúng tôi có thể tìm được một cái, tối hôm nay cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi mới quyết định sau.

Lão Dương nói: “Cậu phải tính cho kỹ, giờ chúng ta vẫn còn cơ hội quay lại, còn nếu đi… đi vào thì sao? Cậu nhìn… nhìn xem, xung quanh đến cả qu… quỷ còn không có,đến lúc lạc đường bên trong thì có hối cũng đã muộn. Đường vào đất Thục khó hơn lên trời (*), từ xưa người Trường An vào Thục, trong hơn ngàn năm đã có biết bao người tử nạn trong dãy núi dài mấy trăm dặm này, ban đêm không thiếu chuyện ma quái đâu.”

(*) “Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên” là một câu trong bài Thục đạo nan (đường vào Thục khó) của Lý Bạch ~

Tôi cười nhạo hắn: “Hùng tâm tráng chí vừa nãy đã bay đi đâu hết rồi? Mẹ nó chứ, cậu đúng là một thằng chỉ biết lý luận suông. Còn chưa vào đến trong núi mà đã kêu Thục đạo nan, được rồi, nếu cậu không dám đi thì hai ta về.”

Lão Dương cười nói: “Tôi nói trước để thử xem cậu có bao nhiêu quyết tâm thôi, xem ra Tiểu Ngô nhà chúng ta không còn là cậu thư sinh ngày nào nữa, đã trở thành lưu manh thực thụ rồi nha. Cậu yên tâm, tôi tuyệt đối không phải một thằng lý thuyết suông, đừng nói là Thục đạo nan, có là cẩu đạo nan tôi cũng không sợ.”

Chúng tôi vừa lấy nhánh cây đập vào những bụi rậm trước mặt vừa tiến sâu vào rừng, lấy ngọn núi phía xa làm mốc. Đau đầu ở chỗ, đường lên núi gập ghềnh khó đi, dưới chân cỏ mọc um tùm, trên đầu tán cây rậm rạp che khuất gần hết bầu trời, ánh nắng khó mà chiếu xuống được. Chúng tôi đi không biết bao lâu, chỉ thấy trời đất âm u, đường đi nhìn chỗ nào cũng thấy quen. Khi tôi bắt đầu hoài nghi có phải từ nãy tới giờ cả hai chỉ quanh quẩn một chỗ, hướng núi bỗng xoay thẳng lên trên, trước mặt chúng tôi xuất hiện một vách đá, trên mặt hiện ra một dãy sạn đạo không biết có từ khi nào.

(*) Sạn đạo: đường núi làm bằng cọc gỗ lát ván, thường dựng ở những nơi núi non hiểm trở.

Sạn đạo lâu năm không được sửa sang, bám đầy rêu xanh ẩm ướt, bên trên phủ kín hoa cỏ dại, dây leo quấn chẳng chịt, dường như đã lâu lắm không có người đi qua. Chúng tôi vừa dợm bước lên thì từ trong rừng cây bỗng có tiếng ai kêu lên: “Này, hai người đang làm gì đó?”

Tôi và lão Dương hoảng hốt quay đầu lại, chỉ thấy một nhóm người từ xa đi tới, thoạt nhìn trông giống người địa phương, nam có nữ có. Chắc họ cũng giống chúng tôi, muốn đến ngôi làng ở dãy núi bên kia đây mà.

Tôi không biết mình nên vui mừng hay là sợ hãi, mới đánh mắt sang lão Dương, ngầm bảo hắn len lén giấu con dao giắt bên thắt lưng đi, sau đó tiến về phía bọn họ tỏ vẻ thành khẩn: “Chào các anh chị, tôi là du khách phương xa muốn đến ngôi làng ở bên kia núi. Xin hỏi từ đây qua đó có còn xa lắm không?”

Một người phụ nữ mặc áo khoác đỏ nhìn tôi chăm chăm một hồi mới lên tiếng: “Ý anh là thôn chúng tôi? Anh lặn lội từ xa đến cái thôn tồi tàn của chúng tôi làm gì?”

Tôi nghĩ thầm, phụ nữ nơi này tinh thần cảnh giác cũng thật cao, đành bịa chuyện: “Tôi đến thăm một người, hai năm trước tôi từng ghé qua thôn các vị và được một cụ già tiếp đón. Giờ tôi muốn trở lại thăm cụ, có điều qua hai năm đã không còn nhớ rõ đường nữa.”

Người phụ nữ trung niên kia trừng mắt nhìn tôi: “Hừ, nhìn bộ dạng liên láo của anh, ai biết là có ý đồ gì? Người như các anh tôi đã gặp qua nhiều rồi, không phải bọn trộm mộ cũng là lũ săn trộm, muốn qua mặt tôi hả, chưa đủ trình độ đâu!”

Tôi bị mắng đến nghẹn họng, không biết đáp sao cho phải. Lão Dương đẩy tôi sang một bên, rút một trăm đồng chìa tới trước mặt người phụ nữ kia: “Nói… nói nhiều vô ích, cô nhìn thế nào mà nói chúng tôi giống dân trộm mộ, ăn nói lịch sự hơn chút đi. Đây… một… một trăm đồng là của cô, con mẹ nó, còn dám dài… dài dòng nửa câu, lão tử cho ăn bạt tai bây giờ!”

Trong nhóm có vài người đàn ông lực lưỡng, tôi nghe lão Dương nói thế, thầm than thôi nguy rồi; người miền núi tính tình thô lỗ, cậu còn dám ăn nói kiểu đó sao? Nghĩ rồi bèn lùi lại vài bước chuẩn bị chuồn. Ai ngờ người đàn ông đứng sau cô ta nhìn thấy số tiền đó liền nhận ngay, mỉm cười nói: “Đừng nóng, đừng nóng, vợ tôi nói đùa với hai người thôi. Muốn đến thôn chúng tôi hãy đi về bên trái, vượt qua đỉnh núi sẽ thấy một thác nước. Hai người cứ men theo dòng nước rồi sẽ đến thôn chúng tôi, đó là con đường tắt nhanh nhất để vượt núi.”

Lão Dương nhếch miệng: “Anh gạt tôi sao, nếu phải qua núi, trèo lên sạn đạo kia có phải nhanh hơn nhiều không?”

Người đàn ông đáp: “Sạn đạo kia chẳng biết làm từ bao giờ, nhiều năm qua không được tu sửa, giờ chẳng ai dám đi lên đó nữa rồi.”

Tôi nghe xong bụng đánh thót một cái, thầm nghĩ may mà gặp bọn họ. Vừa rồi chúng tôi hồ đồ, thiếu chút nữa là trèo lên đó rồi, lỡ như mắc kẹt lại trên đó thì đúng là dở khóc dở cười.

Người đó nhìn sắc trời: “Ai da, tôi nghĩ tối nay hai người cũng không đến nơi được đâu, kiểu gì cũng phải qua đêm trong núi. Con suối kia phân nhiều nhánh, nếu không quen đường dễ bị lạc lắm. Chi bằng thế này, chúng tôi sang bên kia cắt cỏ, hai người nếu không vội thì hãy chờ một lát, ngày mai hẵng theo chúng tôi về thôn. Đi cùng chúng tôi thì yên tâm là không việc gì.” Nói rồi anh ta còn xách đỡ đồ đạc cho tôi.

Tôi thấy anh ta quả thực nhiệt tình, xem ra không phải người xấu, trong lòng âm thầm tính toán. Nơi chúng tôi muốn đến là một khe sâu nằm phía bên kia núi Xà Đầu, tìm được đến đây đã mất đến ba ngày. Sức người có hạn, lương khô chúng tôi mang chỉ đủ dùng trong mười ngày, vượt núi rồi chắc chắn còn phải mua thêm vật dụng ở thôn bọn họ. Năm người đi trước đã mất dạng từ lâu, không chừng là rẽ đi ngả khác, khó khăn lắm mới gặp được mấy người này, không nên mạo hiểm để rồi lại đi lạc.

Tôi liếc mắt ra hiệu cho lão Dương, vội gật đầu đáp: “Người anh em, cảm ơn nhiều. Ta đi thôi!” rồi rút ra mấy điếu thuốc lá mời bọn họ.

Người phụ nữ kia còn muốn nói gì đó, người đàn ông liền liếc mắt một cái, cô ta đành im lặng, quay sang ngấm nguýt chúng tôi.

Phong tục vùng núi thường để đàn ông làm chủ nhà, phụ nữ không có địa vị gì đáng kể, chỉ cần ngoan ngoãn nghe lời đàn ông là được rồi, mấy người đàn bà này xem ra không làm gì được chúng tôi. Tôi thấy vẻ mặt của cô ta, trong lòng cười thầm.

Chúng tôi nhập bọn với họ, người đàn ông trung niên kia có vẻ là người lớn tuổi nhất, không cần làm nhiều. Lão Dương ra sức làm thân với anh ta, anh ta mới nói mình là bí thư của thôn này. Thôn anh ta vốn lạc hậu, tuy đã có điện nhưng giao thông không thuận lợi nên không phát triển nổi, giờ thanh niên đều ra ngoài tìm việc cả, việc nhà nông không ai đảm nhiệm, thành ra cán bộ như họ đều phải lội bộ mấy chục dặm đường núi ra đây cắt cỏ. Lưng anh ta còn có tật, làm không bao lâu đã phải nghỉ lấy sức.

Tôi vừa chuyện trò vừa cảm khái trong lòng, thì ra cuộc sống của họ cũng không dễ dàng.

Chúng tôi đi theo họ một đoạn, tới nơi thì họ bắt tay vào làm việc. Chúng tôi quan sát địa hình xung quanh, có điều nơi này thế núi không dốc lắm, không thể nhìn rõ cảnh tượng phía bên kia, chỉ thấy núi non nối đuôi nhau trải dài tít tắp, xanh ngắt một màu. Cái hố tuẫn táng theo lời lão Dương kể kia không biết nằm ở đâu giữa vùng núi non trùng điệp này đây?

Cỏ cắt xong thì trời cũng đã tối mịt, chúng tôi giúp họ cõng một bao cỏ lớn gần bằng thân người trên lưng, đi dưới trời chiều được khoảng một giờ thì sắc trời cũng dần dần tối đen. Đi thêm một quãng, bỗng tôi thấy nét mặt lão Dương biến đổi, mắt đảo bốn phía, liếc qua liếc lại.

Tôi hỏi hắn có chuyện gì, lão Dương nhỏ giọng đáp: “Đường này tôi đã đi qua, nếu tôi nhớ không lầm thì phía trước hẳn phải có chỗ trú chân.”

Quả nhiên đi một lúc nữa, phía trước xuất hiện một căn nhà gỗ do những người hái thuốc dựng nên. Lão Dương hưng phấn hẳn lên, đánh mắt sang phía tôi, ý nói thấy chưa, tôi nói cấm có sai. Người đàn ông kia đẩy cửa, quay đầu nói với chúng tôi: “Đêm nay chúng ta sẽ nghỉ lại ở đây, chỗ này có cả bếp đun, hai người có thể tự nấu nướng.”

Tôi theo họ vào bên trong, nhận ra căn nhà này có hai tầng, có cầu thang lên xuống; bên trên là một căn gác xép, không có vật dụng gia đình, chỉ trải đầy những mấy tấm ván lớn.  Chính giữa phòng có một cái hố đất, bên trong toàn bụi than, xem ra là để nhóm lửa sưởi ấm. Chúng tôi đặt đồ đạc xuống, ra ngoài tìm củi khô, nhanh chóng nhóm lửa lên. Sau đó chúng tôi lấy lương khô trong túi ra nướng lên ăn, đến khi ăn xong ngoài trời đã tối đen như mực, đâu đây văng vẳng tiếng dã thú vọng về.

Lão Dương châm thuốc, hỏi vị bí thư chi bộ đó là tiếng con gì. Anh ta lắc đầu nói không rõ, nơi này từ lâu đã không còn ai đi săn thú nữa, muốn biết phải tìm người già trong thôn. Còn đế thêm: “Buổi tối đàn ông chỉ được ngủ nửa giấc, lúc nào cũng phải có người canh chừng không cho lửa tắt, nếu không chỉ e dã thú bên ngoài sẽ lọt vào.”

Tôi không có ý kiến gì, hôm nay đi đường quả là mệt mỏi; cứ nghĩ trong vài tuần tới ngày nào cũng phải khổ sở thế này, tôi không khỏi hối hận vì sao lúc trước lại dại dột đồng ý đi với lão Dương, bèn quay sang hắn nói: “Để tôi gác ca cuối cùng cho, giờ cứ đánh một giấc đã, nửa đêm cậu nhớ gọi tôi thay ca.” Hắn nghe thế liền giãy nảy lên phản đối, nhưng tôi vì quá mệt đã nhanh chóng chìm vào mộng đẹp, chẳng nghe thấy gì nữa.

Tôi ngủ không sâu, cứ lăn qua lăn lại, đến hơn nửa đêm thì bỗng có ai đó lay lay người tôi. Tôi mở mắt, thấy mọi người đều đang ngủ, lão Dương nhìn quanh rồi khều nhẹ tôi một cái, nói khẽ: “Dậy, dậy mau.”

hông ai tin thôi.”

Chương 6:

Đào bới

Editor: Namichan

Beta: Thanh Du

*****

Tôi ngủ không ngon giấc, gần như là nửa tỉnh nửa mê bò dậy, trong lòng cảm thấy vô cùng bực bội. Vừa định mở miệng mắng người, hắn đã nhanh tay bịt miệng tôi lại, thì thào: “Yên nào! Đi theo tôi.”

Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả, thấy vẻ mặt lo lắng của hắn bèn nhanh chóng khoác thêm áo rồi nhỏm dậy, hỏi: “Sao thế? Xảy ra chuyện gì rồi à?”

Lão Dương khẽ nói: “Theo tôi, tôi dẫn cậu đi xem thứ này.”

Tôi chăm chú nhìn hắn một hồi lâu, thầm nghĩ chuyện này thật kỳ quái. Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không giống như đang đùa, tôi bèn mặc thêm áo khoác rồi cùng hắn lẻn ra khỏi phòng.

Bốn phía xung quanh cái chòi này đều là rừng rậm, lão Dương mở la bàn xác định phương hướng, lấy thêm cái xẻng gấp từ đống hành lý rồi bảo tôi đi theo mình.

Chúng tôi bật đèn pin, đi ngược chiều gió chừng mười phút đồng hồ thì hắn dừng lại, lấy cái xẻng cắm xuống vạt đất ngay dưới chân rồi nói: “Chính là chỗ này.”

Tôi cảm thấy chuyện này cực kỳ đáng ngờ, nhìn dáng vẻ hắn ta, đừng nói là đêm hôm khuya khoắt tự dưng nổi hứng muốn chạy tới đây trồng cây nha?

Thấy sắc mặt tôi sa sầm lại, hắn vội vàng giải thích: “Trước kia tôi với ông anh họ ra khỏi núi cũng qua đêm ở chỗ này. Nửa đêm hôm đó tôi phát hiện ổng lén lút chạy ra ngoài, không biết đi làm gì nên mới lén đi theo, kết quả phát hiện ổng chôn cái gì đó ở chỗ này. Nhưng tình hình khi ấy rất phức tạp, tôi cũng chẳng hơi đâu mà quan tâm đến ba cái chuyện vớ vẩn này, chỉ muốn rời ngọn núi này thật nhanh nên không thèm so đo gì. Bây giờ chợt nhớ ra mới cảm thấy tình cảnh lúc đó có chút bất thường.”

“Cậu có chắc là chỗ này không?” Tôi hỏi.

Hắn ta gật đầu, “Từ lúc ra khỏi cái động kia thì ông anh họ tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không biết trúng cái tà khỉ gió gì nữa, tôi dám chắc ổng có chuyện gì muốn gạt mọi người. Vừa hay lần này quay lại đây, tôi định đào lên coi rốt cuộc ổng chôn cái gì. Cậu canh chừng giúp tôi nha!”

Tôi gật đầu, lão Dương bắt đầu hạ xẻng.

Đất ở nơi này không cứng lắm, nhưng những thôn dân kia ngủ cách chỗ này không xa, chẳng biết có bị đánh thức không. Vì thế lão Dương cứ đào ba nhát lại phải ngừng một chút để nghe ngóng động tĩnh xung quanh.

Hắn đào chừng nửa giờ thì tôi bắt đầu hoài nghi có phải hắn nhớ lộn chỗ rồi hay không. Bỗng lưỡi xẻng như đụng phải kim khí, phát ra một tiếng “keng” trong trẻo.

Hắn lập tức ngưng đào xới, cúi người xuống, lấy ra từ trong hố ra một vật có hình dáng giống cây côn.

Vật hình cây côn ấy lấm lem bùn đất nên tôi không đoán nổi nó là cái gì, nhưng theo trực giác thì có lẽ nó là một khúc xương. Lão Dương lau qua, mặt bỗng biến sắc, quay sang nói với tôi: “Con mẹ nó chứ, không ngờ lại là thứ này.”

Tôi lại gần nhìn cho kỹ, thấy đó là một khúc thanh đồng bám đầy rỉ sét màu xanh lục, dưới đế có vết gãy rất rõ ràng, xem ra là bị người ta cưa ra từ một vật làm bằng thanh đồng khác. Soi đèn pin nhìn kỹ, tôi thấy phía trên có hoa văn từa tựa như con rắn hai đầu. Có lẽ đây chính là đồ của “Xá tộc” gì đó mà ông giáo sư từng nhắc tới.

Lão Dương nói với tôi: “Đây chính là một nhánh của cây thanh đồng tôi đã nói với cậu, không ngờ ông anh họ tôi dám lén lút cưa nó xuống.”

Tôi nhíu mày. Có thể nói bọn họ là tầng lớp có phẩm cách tồi tệ nhất trong giới trộm mộ, tiếc thay cũng là tầng lớp đông nhất. Chỉ vì dăm ba đồng mà phá hư cả một tuyệt thế trân phẩm là chuyện bình thường như cân đường hộp sữa.

Lão Dương tiếp tục đào bới xem còn thứ gì bị vùi lấp nữa không, nhưng đào một hồi lâu vẫn chẳng thấy gì nên bắt đầu xúc đất lấp cái hố lại.

Chúng tôi lấy vải bố gói ghém nhánh cây thật cẩn thận rồi rón rén trở về, cũng may những người khác vẫn say ngủ sau một ngày lao động mệt nhọc. Hai chúng tôi không sao ngủ được nữa, hắn đành ngồi xuống đối diện tôi, bắt đầu bỏ thêm củi vào đống lửa.

Nhìn vẻ mặt hình sự thấp thoáng nét lo âu của lão Dương, tôi số ruột lên tiếng hỏi: “Trông cậu mấy ngày qua buồn vui thất thường, có chuyện gì khó nói phải không? Hay là mọc trĩ rồi?”

Lão Dương châm một điếu thuốc, thở dài: “Aizz, nếu đơn giản vậy thì tốt quá. Tôi cảm thấy chuyện này thật kì lạ , có vài việc nghĩ mãi không ra.”

Tôi không tiếp lời, lẳng lặng nghe hắn nói tiếp.

Lão Dương nói: “Chủ yếu là chuyện ông anh họ tôi thôi. Lúc tôi cùng ổng vào núi thì ổng vẫn rất bình thường, nhưng từ khi nhìn thấy cây thanh đồng thì tôi cảm giác ổng bắt đầu thay đổi. Ban đầu chẳng qua ổng có hơi chập mạch, nhưng dần dần tôi phát hiện ra hình như ổng càng ngày càng thất thường…”

Tôi hỏi: “Ý cậu là, việc ổng phát điên có liên quan tới thứ đồ chơi này?”

Lão Dương gật đầu: “Cậu xem, việc quái gì ổng phải lén cưa khúc cây này xuống rồi lại mang đi chôn chứ?”

Tôi nhìn khúc cây thanh đồng lão Dương đang xoay xoay trong tay, bỗng cảm thấy hình như đã trông thấy nó ở đâu rồi. Vội vàng lấy tập tài liệu mà giáo sư Vương đưa cho, lật đến trang có tấm ảnh thì thấy quả nhiên không sai. Đó là bức bích họa trên nham thạch trong một sơn động ở Tương Tây do giáo sĩ Thomas người Anh sao lại năm 1845, vẽ một vật thể trông giống như cái cây, Thomas còn chú thích thêm phía dưới rằng đây là “thần thụ” của thổ dân địa phương. Sau đó bản ghi chép này rơi vào tay giáo sư Vương, căn cứ vào miêu tả trong đó, ông ta cho rằng thần thụ này là một trong những nét văn hóa của Xà quốc, tượng trưng cho tính “thần” của đất đai và sinh sản.

Tôi lấy khúc cây thanh đồng ra so sánh, phát hiện ra nó là khúc cuối của một nhánh cây, chiếu theo tỷ lệ thì cái cây thanh đồng kia hẳn phải cao đến bảy tám chục mét. Nếu có thể khai quật hoàn chỉnh cây thanh đồng này thì chắc chắn sẽ gây chấn động toàn thế giới.

Tôi vỗ vỗ vai lão Dương, bảo hắn đừng suy nghĩ lung tung nữa. Nếu quả thật khúc cây này có vấn đề thì hắn đã sớm dở điên dở dại giống như ông anh họ kia rồi.

Chương 7: Mắc câu

Editor: Tiểu Phong Hoa

*****

Lặn lội suốt năm tiếng đồng hồ đằng đẵng, cuối cùng chúng tôi cũng vòng qua được núi Xà Đầu. Sau khi đặt chân được tới tiểu thôn đầu tiên dưới chân núi, chúng tôi rối rít cảm tạ người bí thư đã dẫn đường rồi chia tay đường ai nấy đi. Lão Dương hăng hái dẫn tôi đi tìm hộ lần trước đã cho lão tá túc bởi nơi này trước đây lão đã từng ghé qua.

Sơn thôn được xây dựa vào thế dốc của sườn núi, nhấp nhô những ngôi nhà dân bằng đá theo kiến trúc thời Minh, Thanh đã được hàng trăm năm tuổi, đường vào thôn trên dốc núi cũng lát toàn đá xanh. Đứng bên dưới nhìn lên, ngôi nhà trên đỉnh dốc cao hơn dưới chân dốc phải đến trăm mét. Một dòng suối nhỏ chảy men theo con rạch ven đường, dưới đáy tuyền một màu rêu xanh biếc. Tôi đảo mắt thăm dò, thấy tường bao của nhiều hộ dân ở đây thường xây lẫn gạch lấy từ những ngôi mộ có niên đại khác nhau, qua đó có thể thấy tập tục đào mộ lấy gạch đã xuất hiện rải rác từ thời xa xưa.

Chúng tôi tìm đến ngôi nhà lão Dương từng trọ mua một ít lương khô, tranh thủ dùng nước suối tắm rửa sạch sẽ, quần áo cũng giặt giũ rồi đem phơi nắng. Sau cùng trên mình cả hai chỉ còn cái quần đùi, đành ngồi luôn bên suối chụm đầu bàn bạc xem tiếp theo nên làm gì.

Muốn qua mặt năm người kia cũng không phải không có khả năng, kiểu gì chúng tôi cũng đã vượt núi suôn sẻ, nhưng trước mắt vẫn phải dựa vào ký hiệu của lão Dương để tìm ra địa điểm ba năm trước hắn đã tới.

Tôi tra hỏi một hồi để xem rốt cuộc lão để lại ký hiệu quỷ quái gì, liệu bây giờ còn không hay lão tự tin quá hóa nói liều. Lão Dương kể, khi đó hắn tìm đến địa đạo tuẫn táng phải vượt qua một địa điểm vô cùng kỳ bí tên là Giáp Tử Câu. Mọi người đa phần đều biết nơi này, đến được Giáp Tử Câu là đến được địa đạo. Chỉ có điều, Giáp Tử Câu cách sơn thôn này hơn bốn mươi cây số, tức là nằm sâu trong rừng.

Nghĩ lại thảm cảnh bi thống khi vào núi mà không có người dẫn đường, chúng tôi liền hỏi bí thư một người có khả năng đương đầu với hành trình gian nan trước mắt.

Viên bí thư gọi đứa con nhỏ, bảo nó dẫn chúng tôi đi tìm một lão thợ săn. Hai người chúng tôi theo chân một đứa trẻ trần như nhộng đi lòng vòng trong thôn mấy lượt, tới một căn nhà ngói hai tầng, nó bèn chỉ vào một ông già đang phơi nắng nói với chúng tôi: “Chính là ông Lưu đấy.”

Ông Lưu là người vùng khác, thời trẻ trốn việc tráng đinh mà lưu lạc rồi định cư luôn ở đây, lấy nghề săn bắn làm kế mưu sinh. Ông đã hơn tám mươi tuổi nhưng sức khỏe vẫn còn tốt, hầu như tất cả những người muốn vào rừng, từ đoàn khảo cổ cho đến dân trộm mộ đều phải nhờ ông dẫn đường, ông lão cũng vui vẻ giúp đỡ. Thứ nhất rút tiền phải lẹ, thứ hai địa vị phải cao, nghe chúng tôi trình bày ý định ông chẳng hề tỏ vẻ kinh ngạc, chỉ lắc đầu nói: “Không được, thời điểm này đi Giáp Tử Câu là hỏng.”

Tôi nghe vậy không khỏi chán nản, hỏi ông: “Vì sao không thể vào núi? Bây giờ đang là cuối thu, thời tiết mát mẻ săn thú rất thuận lợi. Lúc này không đi thì còn đi lúc nào?”

Ông gọi con ra rót trà cho tôi, đáp: “Mùa này trên núi tà khí dày đặc, ma quỷ quậy phá dữ lắm. Tôi tám mươi tuổi đầu rồi không lẽ còn đi lừa đứa trẻ ranh như cậu? Cho cậu hay, vùng Giáp Tử Câu đó kỳ thực chính là một đoạn đường núi của âm binh, cậu gặp chúng mà nhường đường thế nào cũng bị câu hồn hấp phách, tà ma quỷ quái vô cùng!”

Tôi chưa bao giờ tới đó đương nhiên làm sao biết được địa lý địa hình ra sao, nghe ông nói thế chỉ thấy buồn cười. Nhưng người già có quan điểm của người già, chúng tôi cũng không miễn cưỡng, năn nỉ kỳ kèo mãi cũng không có kết quả, chỉ hỏi lão kỹ càng về lộ trình.

Ông lão cho chúng tôi hay, từ thôn này tiến vào vùng núi non trùng điệp Tần Xuyên, theo hướng Tây mà đi, bảy ngày sau sẽ gặp một ngọn núi có tên Thiên Môn, hai bên đều là vách đá trơn trượt, leo lên là điều không tưởng nhưng trong núi có một khe đường kì lạ, hai người đi song song có thể băng qua, người ta thường gọi là “đường trời”, cũng chính là Giáp Tử Câu mà lão Dương nhắc tới. Tương truyền cuối thời Nam Bắc triều, ở nơi đó chứng kiến một đạo quân Bắc Ngụy thông qua đường núi vào Tần Xuyên. Đạo quân này cực kỳ bí hiểm, trong lúc hành quân ai nấy mặt lạnh như tiền không hề lên tiếng, cứ thế đi thẳng vào trong núi. Khi họ vừa đặt chân vào trong khe đường đó, đột nhiên đất trời rung chuyển, khe hở lớn bất ngờ khép kín, toàn bộ đội quân bị nuốt vào trong, từ đó về sau biệt tung biệt tích không thấy trở ra.

Thời nhà Thanh có mấy thầy phong thủy giúp một người giàu nứt đố đổ vách tìm mộ, vào núi hơn mười ngày, khi trở về chẳng còn ra hình người, một mực nói rằng hôm đó ở sơn môn có thác Hoàng tuyền thông tới Địa phủ, bọn họ thiếu chút nữa có đi mà không có về.

Ban đầu dân cư quanh núi còn bán tín bán nghi, nhưng càng về sau càng có nhiều người khẳng định ở rạch nước đó nghe thấy trên núi rành rành tiếng chiến mã chồm lên. Sự việc từ đó lan truyền mạnh mẽ, người ta xâu chuỗi các sự việc rồi cho rằng đó là âm binh từ thác Hoàng tuyền ra vào giữa hai giới âm dương. Bắc Ngụy quân thời Nam Bắc triều chính là một đạo quỷ binh từ dương gian trở về âm giới.

Ông lão còn nói chúng tôi có thể đi tới núi Thiên Môn, nhưng vùng đất phía sau núi là cực hạn chịu đựng của con người, bên trong cây cối thâm u rậm rạp có những thứ quái gở gì, không một ai biết. Phàm là người đặt chân đến đó, bất luận là Thát Tử quân của nhà Thanh hay bại binh thời Quốc Dân đảng đều bặt vô âm tín. Ông tuổi đã quá cao không thể dẫn chúng tôi đi được, người trong thôn cũng không ai dám cả gan. Nếu chúng tôi vẫn ngoan cố muốn đi, ông chỉ có thể chỉ đường. Theo chỉ dẫn của ông chắc chắn chỉ sau khoảng bảy tám ngày có thể đến nơi, nhưng có sự cố gì phát sinh thì ông ta nhất định không chịu trách nhiệm.

Bút ký của ông nội có ghi, trong quá trình tìm kiếm lăng mộ, phàm là vùng đất có truyền thuyết địa phương tường tận đến thế đều phải lưu ý. Tôi y lời, đặc biệt chú tâm đến những dặn dò của ông lão, trong lòng càng thêm nắm chắc địa điểm chúng tôi muốn tìm hẳn là chỉ ở quanh đây.

Chúng tôi cảm ơn ông lão rồi muốn ra về nhưng hình như ông lão bình thường rất ít khách viếng thăm, một mực giữ chúng tôi lại ăn cơm, phải ra sức từ chối. Ông lão hết cách đành dúi cho tôi một túi đầy đồ muối. Tôi ngại làm phiền người khác, đang muốn trả lại thì liếc thấy bên trong có thịt nướng. Cái bụng mấy ngày nay lấp toàn bằng lương khô dứt khoát biểu tình không chịu thiệt thòi, đành phải nhận.

Sau một ngày nghỉ ngơi chúng tôi bắt đầu lên đường. Giờ đây mục tiêu đã xác định, chúng tôi cứ trực chỉ hướng Bắc mà đi, cắn răng chịu khổ, trèo đèo lội suối, dứt khoát chui vào thám hiểm khu rừng nguyên sinh thần bí nhất Trung Quốc đại lục.

Dọc đường không có chuyện gì đáng nói, tôi cũng nghĩ chẳng cần ghi chép giấy trắng mực đen làm gì cho mệt. Sau bảy ngày, khi lão Dương chỉ lên phía những tán cây cao vút, tôi mới nhận thấy đỉnh núi Thiên Môn đã hiện ra tự lúc nào. Chúng tôi dừng lại chỉnh đốn, phát hiện bản thân chẳng khác dã nhân là bao.

Lão Dương chăm chú xem xét bốn phía một hồi, hớn hở thông báo chính là nơi này. Đi qua Giáp Tử Câu sang phía bên kia sẽ gặp một cái khe nhỏ nhưng rất sâu, đó cũng là địa điểm bọn họ phát hiện ra địa đạo tuẫn táng.

Tôi trèo lên một cây sam lớn, một tay bám vào thân cây, một tay cầm ống nhòm quan sát. Núi Thiên Sơn cao chọc trời, hình thế kỳ vĩ, thoạt nhìn vô cùng thâm u trùng điệp khiến quang cảnh rất kỳ quái. Có điều ngọn núi này không hề có dạng cánh cổng như tôi nghĩ, cái tên núi Thiên Môn không biết từ đâu mà ra. “Đường trời” ở chính giữa kia, lúc này nhìn lại chỉ tựa như một sợi chỉ đen nhỏ xíu.

Chúng tôi leo lên ngọn núi tiếp giáp với núi Thiên Môn, cứ thuận theo thế núi mà vừa đi vừa xem xét địa hình phía trước, gần chính Ngọ thì tới được chân núi Thiên Môn. Đoạn Giáp Tử Câu đầu tiên nhìn thấy giống như một đoạn đường núi bình thường đầy rẫy những đất đá rải rác.

Tần Lĩnh, nếu nói là một nơi kỳ diệu cũng không ngoa, đặc biệt ở thời điểm này vẫn chưa mở đường để khai thác du lịch, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ. Dưới vách đá Thiên Môn ngẩng đầu nhìn lên, địa thế cực kỳ hùng vĩ nhưng hình dạng cũng bình thường, ở giữa có một khe núi hẹp giống như đá núi bị một thanh kiếm sắc bén bổ xuống mà thành. Dưới đáy khe núi này chính là Giáp Tử Câu. Địa hình núi rất cao nên nơi này sản sinh ra một “đường trời”, cảnh quan tách biệt hẳn với những dãy núi thấp còn lại. Phóng tầm mắt cao nữa có thể thấy tia sáng rất nhỏ từ trên đỉnh núi xa xôi, y như cả không gian bị ép vào thành một đoạn. Nếu không phải tận mắt chứng kiến làm sao có thể lĩnh hội dù chỉ một phần.

Trong Giáp Tử Câu, phía đáy đá núi lởm chởm trùng trùng điệp điệp, hai bên rải rác những dòng suối nhỏ trong vắt, rêu xanh bám đầy trên đá rất khó đi nhưng xem ra đường cũng không xa mấy, ánh sáng lại rõ ràng. Đoạn đầu đường này chưa lên cao nên bầu trời cũng chưa hẳn là “đường trời”, có lẽ nên gọi là “khoảng trời” thì hơn.

Lão Dương nhớ lại, muốn đi hết Giáp Tử Câu cũng phải mất một buổi chiều, hơn nữa càng vào sâu bên trong gió lùa càng lớn, mặt đất càng ẩm ướt, không tiện nhóm lửa. Chúng tôi quyết định dừng lại ngay gần điểm xuất phát, đốt một đống lửa trại ăn một bữa cơm trưa. Đồ ăn muối ông lão cho tôi đều bỏ vào nồi đem đun lên, cũng từa tựa như ăn lẩu. Dân miền núi khi nấu ăn rất chú trọng các loại gia vị, hương vị cũng không tệ nếu không muốn nói so với gặm lương khô thì ngon hơn vạn lần. Mấy hôm trước ăn uống phải chi li hà tiện, giờ cũng sắp đến nơi, có thể thả phanh một bữa, tôi và lão Dương ăn như hai con hổ đói, chẳng mấy chốc đã giải quyết sạch sành sanh cả đống thịt muối.

Tôi ăn còn chưa no, sực nhớ ra có một gói gà rừng ngâm măng. Đang muốn lôi ra ăn quách cho rồi nhưng sờ soạng một hồi vẫn không thấy đâu, hóa ra cả gói thịt to tướng đã không cánh mà bay.

Tôi tìm lại xung quanh một lượt vẫn chẳng thấy đâu, bực mình định hỏi lão Dương, đột nhiên hắn rống lên: “Chết dẫm, thằng nào phun hết cả xương vào cổ áo ta thế này???”

Tôi ngớ người, làm gì có chuyện đấy. Lúc tôi ăn, bao nhiêu xương xẩu đều nuốt hết, đâu có lãng phí đến mức để văng bừa văng bãi như thế.

Còn đang lấy làm lạ, một cục xương đã từ trên vách núi rơi xuống đất. Tôi ngẩng đầu lên liền bắt gặp mười mấy con khỉ lông vàng to tướng, chẳng biết từ khi nào đã tụ tập ở vách núi. Một con trong đó đang ôm gói gà rừng ngâm măng mà ăn, xem cách thức ăn của nó hẳn là đã đói đến mềm ruột, nuốt không còn một miếng.

Nó giải quyết nhanh gọn gói thịt xong xuôi bắt đầu bò xuống dưới, mắt chăm chú dán chặt vào ba lô của tôi.

Tôi thầm kêu không ổn, con khỉ chết tiệt này hẳn là cho rằng trong túi toàn là đồ ăn, âm mưu cướp lấy, mà như thế thì phiền phải biết. Còn đang tính cách, con khỉ kia đã kêu lên một hồi chói tai, trong chớp mắt, toàn bộ đám khỉ đều lao bổ về phía chúng tôi.

Chương 8 – Khỉ

Editor: Biển

*****

Con khỉ đầu đàn bự tổ chảng nhìn tôi, không ngừng há miệng nhe ra răng nanh trắng hếu, đồng thời phát ra những âm thanh mang tính đe dọa như đang muốn cảnh cáo chúng tôi.

Tôi và lão Dương mỗi người vội cầm lấy một thanh củi đang cháy khua liên tục, muốn ép mấy con khỉ đang định xông lên phải lùi lại, có một con hơi chậm liền bị tôi dí thanh củi cháy vào mông, đau quá ré lên, cắm đầu chạy ra thật xa.

Nhưng cùng lúc, có mấy con khỉ cực kỳ thông minh len lén tiến đến gần hành lý của chúng tôi, chờ đến khi tôi phát hiện ra thì đã trễ, mấy cái túi chống thấm lão Dương chưa kịp bỏ vào ba lô đã bị con khỉ nhỏ ôm chạy đi mất, tôi vừa thấy thế, thầm nhủ không ổn, vội bước tới giật lại. Nhưng tôi vừa bước lên, sau lưng đã có một con khỉ nhảy đến muốn chôm hành lý.

May mà đống hành lý của tôi nặng kinh khủng, nó kéo vài cái, thấy không có cách nào mang đi được nên thôi không kéo nữa mà thò tay vào định chôm chỉa đồ trong đó.

Tôi choáng váng mặt mày: mấy con khỉ này hành động cực kỳ chuyên nghiệp, nhìn kiểu tấn công người như thế này thì chắc chắn đây không phải lần đầu tiên. Tôi vốn cho rằng mấy con khỉ dù có thông minh mấy cũng phải có giới hạn, bây giờ xem ra, nếu coi cướp giật là một loại nghề nghiệp thì chúng tôi không thể so được với chúng.

Tôi chỉ mới phân tâm một chút, con khỉ đó đã lấy ra một cái hộp từ trong túi hành lý, tôi vừa nhìn liền thấy nguy to, đó là một hộp

lương khô

.Tôi mặc kệ không đuổi theo con khỉ kia nữa mà xoay người tung chân đá bay con khỉ này, sau đó nhét lại hộp lương khô vào túi.

Ngay lúc đó, trước mắt tôi ánh vàng chợt lóe, con khỉ đầu đàn đã nhảy bật lên, vươn bàn tay chụp thẳng vào mặt tôi. Tôi đã từng thấy cảnh một con khỉ bắt giết thỏ, móng vuốt của chúng sắc bén kinh khủng, nếu bị chụp trúng thì nát mặt còn gì.

Dưới tình thế cấp bách, tôi không kịp né tránh, đành phải đưa thanh củi cháy trong tay lên đỡ cánh tay liền bị nó cào ra một đường máu dài ngoằng, đau đến nhe răng, thanh củi cũng rớt khỏi tay.

Con khỉ đầu đàn vừa chạm đất đã lập tức phóng ngược lại, tôi không kịp nhặt thanh củi, buộc phải vội vàng tung chân đá tới, ngờ đâu nó lập tức ôm lấy chân tôi, thuận đà há mồm cạp luôn một phát.

Cú này thì miễn bàn, tôi đau muốn phát điên lên, liền vung tay đánh tới. Nó phản ứng rất nhanh, lập tức xoay người nhảy tách ra, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, tôi lại chụp được đuôi nó.

Đối với khỉ, đuôi là bộ phận vô cùng quan trọng, đang đánh nhau mà bị túm đuôi thì cũng coi như là bị phán án tử, nó lập tức luống cuống, rống lên một tiếng, liều mạng nhằm vào mặt tôi mà xông tới.

Tôi nổi lên sát tâm, khẽ nghiêng người tránh cú tấn công sau cùng của nó, sau đó nắm chặt cái đuôi quật mạnh xuống đất. Tôi đoán con khỉ này nhẹ nhất cũng phải đến bốn mươi cân, cú này dù không nguy hiểm đến tính mạng thì vẫn đủ đập cho nó bất tỉnh.

Nhưng con khỉ đầu đàn khỏe mạnh khác thường, lần này chính tôi cũng cảm thấy mình hơi mạnh tay, nhưng nó lại không hề hấn gì, còn rú lên định xông qua thêm lần nữa. Tôi bắt đầu luống cuống không biết phải làm sao, vội cố sức quăng thêm một cú, đập mạnh nó vào một thân cây. Cú này dùng sức quá mạnh, bàn tay không còn giữ nổi khiến nó bị văng ra xa mấy mét, nó lăn vài vòng rồi lập tức bật dậy leo lên cây.

Lão Dương tiếc mấy cái túi, vẫn còn đang đuổi theo mấy con khỉ giật đồ lúc nãy. Bọn chúng thấy con đầu đàn bị thất thế làm sao còn dám liều lĩnh, lập tức chạy tứ tán, nhưng chúng cũng không chạy xa mà tiếp tục làm ra vẻ đe dọa, lão Dương đuổi một con thì mấy con còn lại chạy theo đằng sau ném đá khiến cho hắn bực mình kinh khủng, cứ chạy tới chạy lui một hồi như vậy, hắn đã mệt muốn hụt hơi mà lại chẳng đánh được con khỉ nào.

Tôi thấy tình hình có vẻ không ổn, mấy con khỉ hoang dã này to xác đã đành, phản xạ lại nhanh nhẹn, phiền nhất là bọn nó không hề sợ người. Tôi đối phó với mỗi con đầu đàn thôi đã mệt muốn bở hơi tai rồi, nếu như có hai con nhảy lên tấn công cùng lúc, e rằng hôm nay chỉ có thể nhừ đòn tại nơi này. Hơn nữa, đám khỉ là chúa thù dai, không hiểu sao lần này chúng tôi lại đụng phải mấy con quái lông dà

y

này nữa, nếu không giải quyết triệt để chỉ sợ về sau không yên ổn được với chúng.

Lão Dương truy đuổi nửa ngày, kiệt sức thở hổn hển chạy về nói: “Không… không xong rồi, tụi nó chạy trốn nhanh quá, chúng ta đừng thèm chấp tụi nó nữa, cứ đi luôn cho rồi, mất thứ gì thì cứ coi như là tặng Sơn thần làm quà ra mắt là xong.”

Tôi thấy thật sự cũng không có cách nào. Đối phó với đám khỉ khoái chôm chỉa trong rừng già, chúng tôi hoàn toàn bó tay, lỡ như cứ dằng dai ở đây, biết đâu lại sinh ra tổn thất khác. Hơn nữa những thứ bị mất cũng không quá quan trọng, ví dụ như

ống huỳnh quang

thì chúng tôi có thể thay thế bằng đuốc chẳng hạn.

Vì thế tôi gật đầu với lão Dương: “Nói đúng lắm, trong này rất sâu, một khi trời tối đường lại cáng khó đi, nhưng mà, mẹ nó chứ tên nhóc cậu lo mà giữ đồ cho kỹ, đừng có để bị đám lông dày kia chôm chỉa nữa.”

Lão Dương nhớ tới chuyện vừa rồi, vẫn còn chưa nguôi giận liền khoát tay với tôi: “Được rồi, cậu đừng có nói nữa, sườn núi này đến đây là hết rồi.”

Hai người chúng tôi cột chặt ba lô, lớn tiếng hò hét xua đuổi bày khỉ rồi tiếp tục men theo con đường hẹp. Bầy khỉ thấy chúng tôi rời đi cứ tưởng là bọn tôi bỏ chạy liền nhao nhao nhảy lên hai bên vách núi đuổi theo, vừa đuổi vừa hú hét chế giễu chúng tôi. Lão Dương nghe thế nổi khùng, quay đầu mắng to: “Lũ lông dày chúng mày đừng có mà đắc ý, ông đây mà còn về được là ông bắt thịt hết cả đám chúng mày!”

Bầy khỉ thấy hắn gào to lại càng hăng say đuổi, đặc biệt là con đầu đàn, bày ra điệu bộ kẻ chiến thắng đuổi theo sát rạt, định nhân lúc tôi không chú ý mà xông lên. Lão Dương thấy thế nổi sùng, cúi xuống nhặt hòn đá ném ngay vào sống mũi nó, cú ném này khá nặng tay khiến cho nó rớt luôn khỏi vách đá.

Không ngờ đám khỉ này thẹn quá hóa giận, liền nhặt đất đá trên mặt đường ném ào ào về phía chúng tôi, chẳng mấy chốc đất đá bùn rủ nhau nhằm vào đầu tôi mà hạ cánh, may mà chẳng bị ai thấy, không thì tôi chỉ có nước đâm đầu tự sát luôn cho khỏi bị mất mặt.

Chúng tôi cắm đầu chạy như điên gần năm phút mới dừng lại, lúc này chúng tôi đã hoàn toàn tiến vào giữa khe núi, “khoảng trời” trên đầu giờ đã thành “vệt trời”, bởi vì khoảng cách vách núi hai bên thu hẹp lại rất nhiều, gây ra cảm giác như là hai đỉnh núi đang ép xuống khiến ngươi ta lạnh toát sống lưng, chỉ muốn rời khỏi nơi này ngay lập tức.

Xem ra lão Lưu nói không hề sai, tôi thầm nghĩ, nếu làm không xong thì khe núi này quả thật chính là đường dẫn xuống suối vàng.

Tiếp tục đi về phía trước, cảm giác này càng nặng nề, cứ theo đà này, nếu không phải đã hỏi thăm trước đó, ắt hẳn tôi sẽ nghĩ đến cuối cùng hai quả núi này sẽ nhập lại làm một.

Tôi nhớ lại những điều lão dẫn đường từng nói, nhớ đến truyền thuyết mà lão đã kể.

Truyền thuyết về âm binh tôi từng được nghe không ít lần, cũng không ít người nhàm chán đưa ra phỏng đoán, tương đối nổi tiếng trong số đó là Kinh Mã Tào của Giang Nam, truyền thuyết kể rằng Nam Man vương Mạnh Hoạch tìm người đào lên, địa danh đó đến bây giờ vẫn còn, vào mỗi mùa mưa dông đều nghe thấy truyền ra âm thanh vũ khí va chạm, giết chóc. Một chuyện nữa là về trận động đất ở Đường Sơn, chuyện này lại càng mơ hồ, nghe kể rằng có rất nhiều người đã nhìn thấy một đoàn xe ngựa dài dằng dặc chở theo mười vạn đầu lâu đi ra từ Đường Sơn, sau đó gặp phải đội vận chuyển của quân giải phóng vào thành phố cứu trợ, rồi vân vân gì nữa tôi không nhớ rõ.

Lão Dương còn kể thêm vài chuyện khác, rằng cái khe này từ khi hình thành tới giờ hầu như không có người qua lại, nhưng đến một gốc cỏ dại cũng không mọc nổi, giống như là ngày ngày đều có vó ngựa dẫm qua. Mấy năm trước có một người muốn xây dựng gì đó trong này, nhưng chỉ cần đội thi công vừa đến, ở đây liền có mưa to, lần nào cũng vậy. Mấy người lãnh đạo cũng không có cách nào, hơn nữa chỗ này cách khu dân cư thật sự quá xa nên đành thôi.

Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào, càng đi càng thấy tĩnh lặng, không biết khe núi này dài bao nhiêu, càng đi sâu vào bên trong lại càng tối tăm, nhiệt độ cũng giảm dần, âm u vô cùng, lại có một cảm giác khó hiểu giống như là đang bị theo dõi. Hơn nữa không biết từ lúc nào, bầy khỉ không còn đuổi theo chúng tôi nữa, cả khe núi hầu như chìm trong im lặng đáng sợ, chỉ còn có tiếng gió rít cùng những âm thanh kỳ dị khó tả thành lời. Loại cảm giác này khiến chúng tôi vô cùng khó chịu.

Tôi cùng lão Dương mỗi người một chuyện, suy nghĩ nhanh chóng thay đổi, sự chú ý cũng dời đi chỗ khác, không còn bị không khí kỳ lạ trong khe núi này ảnh hưởng. Dù vậy tôi vẫn cảm thấy vô cùng bất an. Hơn nữa càng đi sâu vào, cảm giác đó lại càng rõ ràng, thậm chí có mấy lần tôi cảm thấy như vệt trời mỏng manh trên đầu chúng tôi có thể biến mất bất cứ lúc nào, chúng tôi sẽ vĩnh viễn bị vây khốn giữa bóng tối mịt mùng trong lòng núi lớn.

Tôi miên man suy nghĩ, cũng không biết đã đi được bao lâu, bỗng lão Dương ngay đằng trước tự nhiên dừng lại, tôi không kịp phản ứng nên va luôn vào lưng hắn, cú này đụng rất đau, tôi hơi cay cú bèn hỏi: “Lại chuyện gì nữa? Muốn dừng là dừng, cũng không chịu báo trước một tiếng.”

Hắn xoay đầu lại, mặt mũi tái mét, miệng mấp máy một hồi mới cà lăm được mấy chữ: “Lão Ngô, phía… phía trước có… có người…”

Tôi ngẩn ra, thầm hỏi “Người” gì chứ, khu dân cư gần nhất cũng cách chỗ này đến 40km, làm sao có người ở đây được, vội ló đầu qua xem thử. Vừa mới liếc qua, da đầu tôi lập tức tê dại, choáng váng đầu óc, suýt nữa cắn luôn cả lưỡi, khuỵu chân ngã bệt trên mặt đất.

Hóa ra giữa bóng râm của khe núi trước mặt, thật sự có bóng một “Người” nào đó, khuôn mặt khuất trong bóng tối, lẳng lặng nhìn chúng tôi.

Chương 9 – Người đá

Editor: Biển

*****

Ngây ngây ngẩn ngẩn cả đoạn đường, đột nhiên phát hiện đằng trước xuất hiện một người nào đó, chẳng mấy ai có thể kịp phản ứng.

Chúng tôi bất giác lùi về phía sau muốn giữ khoảng cách với người kia, nhưng nhất thời cả hai đều không nhấc nổi chân lên, chỉ cảm thấy kinh hoàng, thân thể cứng đờ ra.

Lão Dương can đảm hơn tôi một chút, hít vào một hơi thật sâu rồi hô to: “Ai… ai đó?”.

Người kia không hề phản ứng, cũng không nhúc nhích, giống hệt như một tảng đá.

Lão Dương hạ giọng hỏi tôi: “Cậu xem, sao hắn lại không thèm chú ý tới chúng ta? Lão Ngô, chẳng lẽ ông già Lưu kia nói đúng, gặp phải âm binh rồi sao?”

Một cơn gió lạnh thổi qua, tôi thoáng tỉnh táo lại, liền đáp: “Đừng hoảng, nếu là người thì không việc gì phải sợ, chờ chúng ta thấy rõ ràng hẵng nói!”, dứt lời tôi lấy đèn pin chiếu về phía đó.

“Người” kia mặc một bộ quần áo cổ quái, để lộ ra cánh tay màu xám trắng, đứng ngây ra giữa đường đi, trong bóng tối giữa khe núi âm u, nhìn có vẻ quỷ dị vô cùng. Đèn pin chiếu trên người kẻ đó, hắn lại không hề nhúc nhích.

Lúc này tôi lại phát hiện có chỗ bất thường.

Thì ra trên cơ thể người này bao phủ một lớp rêu xanh biếc.

Trừ rùa đen thì đúng ra chẳng có loài nào để cho rêu xanh mọc trên người mình mới phải chứ? Tôi nhìn kỹ lại mới thấy “Người” này không phải bằng xương bằng thịt mà dường như được điêu khắc nên từ đá, chỉ là người đá này được điêu khắc quá mức sinh động, trong cảnh tranh tối tranh sáng thế này rất dễ bị nhìn nhầm thành người thật.

Dù vậy tôi vẫn không cười nổi, người đá này được tạo hình quá sắc sảo điêu luyện, chạm khắc giống hệt như thật, dù chúng tôi đã nhìn ở khoảng cách rất gần vẫn có cảm giác sợ hãi, đầu đổ đầy mồ hôi lạnh.

Chờ nỗi sợ hãi qua đi, sau đó chúng tôi mới thấy nửa thân dưới của “Người đá” bị chôn trong đống đá vụn, có lẽ là do phần đá ở trên bị sạt lở, nó cũng bị rơi xuống theo. Tượng đá chỉ còn lại cổ, không có phần đầu. Tôi ngẩng nhìn lên quả nhiên thấy vách núi thẳng đứng bên trên có một khoảng khá rời rạc, chỉ có điều thế núi hơi nghiêng hình thành một góc chết, tôi không quan sát được tình hình thật sự là như thế nào.

Người đá để hai tay trần, không phải phong cách văn hóa của thời Hán, tôi đã phát hiện ra trên quần áo người này có điêu khắc hoa văn rắn hai đầu, kiểu cách quần áo tôi chưa từng được thấy, màu sắc đã bị phai đi ít nhiều, phần đầu bị khuyết, có lẽ là lúc ngã xuống bị đụng vỡ ra.

Quan sát một lượt, tôi khẳng định thứ này hẳn là tượng người đá bồi táng.

Tôi ngẩng nhìn lên trên, tượng người đá từ phía trên rớt xuống đây, xem ra bên trên hẳn là có gì đó.

Lão Dương vốn nóng nảy, không chờ cho tôi quan sát kỹ càng đã hấp tấp tìm đường bò lên. Tôi cũng theo hắn áp sát vào vách đá, từng chút một bò lên theo sườn dốc, rất nhanh đã lên được đến chỗ bị sụp xuống.

Phía trên dường như là một cái hố cạn được đục vào vách đá, có không ít người đá giống y hệt như thế đang quỳ lạy trong đó. Kỳ lạ một nỗi, những người đá này đều không có đầu, trên cổ có gắn đầu lâu, dùng bùn trát lại.

Tôi biết cái này gọi là tượng đầu người, ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, nếu đem cả cỗ thi thể về để tranh công thì quá nặng nên chỉ lấy đầu người, những cái đầu này đem gắn lên trên người đá để tuẫn táng thay cho người sống.

Ngoài ra còn có hình khắc đá khoảng thời đầu Tây Chu, nhưng hầu hết đã bị nước mưa rửa trôi không còn phân biệt được màu sắc nữa. Dưới đáy động có một bức tượng bán thân được điêu khắc dựa theo thế núi, phần cơ thể từ ngực đến đầu đã bị phá vỡ vụn, chỉ còn lại một bàn tay và nửa bả vai là còn nhìn ra được hình dạng.

Ở giữa vùng bị sạt lở có một cái hố cỡ bằng quả bóng rổ đen thăm thẳm, tôi dằn lại nỗi vui mừng khôn xiết, rọi thử đèn pin vào bên trong, liền thấy không gian trong đó rất rộng lớn.

Trực giác của tôi mách bảo rằng, đằng sau bức tượng người đá khổng lồ này có thể là một cổ mộ, hơn nữa rất có thể đây chính là mộ huyệt mà cái hố tuẫn táng kia cúng tế như lão Dương đã nói, chẳng qua không biết là cao nhân nào đã vào đó trước một chuyến rồi.

Nói như vậy, có thể đặt mộ ở đây, thân phận của chủ nhân ngôi mộ hẳn là vô cùng hiển hách. Nhưng người có thể đổ một cái đấu ở nơi như thế này lại càng là cao thủ trong cao thủ, dân trộm mộ bình thường dù có đi qua đi lại trong khe núi này đến mấy trăm lượt cũng tuyệt đối không thể nghĩ ra được ở trên đầu còn có cả một thế giới khác.

Tôi cùng lão Dương tính toán một hồi, quyết định cứ vào xem thử trước, dù sao mục tiêu cũng ở ngay gần đây, nếu trong này không có thứ gì thì chỉ cần quay trở ra thôi. Chúng tôi đi chuyến này, thấy động mà không chui vào quả là khó chịu chết được.

Hắn gầy hơn nên chui vào trước, cửa động này hơi cao, chân hắn không chạm đến đáy nên đành phải tựa trên vách đá. Tôi đưa đèn pin cho hắn, hắn vừa lấy rọi xuống liền mắng: “Khỉ thật, trong này có nước.”

Tôi ló đầu vào xem, bên trong là một thạch thất dạng mái vòm rất lớn, hẳn là được đào nên, trên đỉnh có vài dấu vết của hình khắc đá, mực nước trong này rất cao, gần lên đến sát mép phần mái vòm, có thể thấy được phía dưới mặt nước, vách tường bốn phía đều được đục thành nhiều hố cạn, bên trong đầy tượng người đá không đầu phủ đầy rêu xanh. Nước ở đây không biết là do nước mưa từ cửa động chảy vào tích lại hay vì nguyên nhân nào khác.

Lão Dương nói với tôi, lần trước hắn đến đây, tượng người đá kia chưa bị sụp xuống, vậy có nghĩa là, lỗ hổng này mới chỉ xuất hiện trong vòng ba năm gần đây, lượng nước này không thể nào là nước mưa tích lại được.

Tôi dặn hắn phải tuyệt đối cẩn thận, hắn lại ỷ vào mình bơi giỏi, buông tay nhảy xuống, lập tức nước liền ngập tới ngực, hắn hoảng hồn, cả người chới với.

Tôi nhìn mà líu cả lưỡi, mực nước ở đây có thể sâu quá đầu, bèn hỏi hắn: “Cậu thăm dò dưới đáy nước thử xem dưới đó là bùn hay là đá?”

Lão Dương nói: “Không chạm được tới đáy. Mẹ nó chứ, nước dưới này lạnh thấy bà luôn.”

Tôi lấy túi chống thấm ra bọc hai cái ba lô lại, một cái ném cho hắn, một cái đeo trên lưng, sau đó cẩn thận trượt xuống nước, lập tức một cảm giác lạnh toát truyền đến từ hai bàn chân khiến tôi run cầm cập.

Dười chân trống không, quả nhiên là rất sâu, tôi thầm nhủ, bởi vì ban đầu không hề ngờ tới chuyện phải hoạt động trong nước, tôi không chuẩn bị trang bị phù hợp nào, chúng tôi chỉ còn cách mở đèn pin bơi vào bên trong.

Mới bơi được vài sải đã thấy một cánh cửa đá mở ra ở phần trong cùng của vách tường.

Vì mực nước dâng khá cao nên phần cửa đá lộ ra vô cùng thấp, bên trong cửa là một thạch đạo đủ rộng cho hai chiếc xe vận tải cỡ lớn tối đen như mực, những nới ánh sáng đèn pin chiếu qua đều là vách đá màu xanh xám, có dấu vết đục đẽo thô sơ, có vài nơi xuất hiện hình khắc nhưng đa phần đều đã bị ăn mòn không còn nhìn ra được.

Bơi thẳng vào bên trong khoảng hơn mười mét, thạch đạo đột nhiên chuyển hướng một góc 90 độ. Tôi lại rọi thử đèn pin, phát hiện bên trong thật đáng sợ, không khỏi ngừng lại, chẳng dám xông bừa vào.

Thực ra thì, với tình hình hiện giờ, tiếp tục tiến vào bên trong là rất không sáng suốt, mực nước sâu như vậy, lại không nhìn được dưới nước có gì, điều này thực sự khiến cho người ta hoảng sợ. Nếu chút nữa mà có thứ gì trồi lên từ dưới nước, dù đó chỉ là một khúc gỗ thôi cũng đủ hù cho tôi chết khiếp rồi.

Lão Dương nhìn vách tường bốn phía, hỏi tôi: “Cậu có phát hiện ra không, ngôi mộ này tuy rằng rất lớn nhưng xây dựng lại rất thô sơ, cậu nhìn mấy tảng đá này đi, tảng nào tảng nấy đều nham nhở, hoàn toàn không hề được gia công chế tác, không phải nói là chủ nhân ngôi mộ này rất giàu có sao, mở được núi chẳng lẽ lại không có tiền trang hoàng sửa sang.”

Tôi nói: “Đây có thể là khu vực ngoài cùng của lăng mộ, cậu xem chỗ này có nhiều tượng người đá chưa hoàn thành như vậy, có thể chỉ là nơi những người thợ xây lăng điêu khắc đá thôi, vào sâu nữa có lẽ sẽ rõ ràng hơn.”

Chúng tôi tiếp tục tiến về phía trước, từ chỗ ngoặt bơi vào thêm được mấy phút liền nghe thấy từ bóng tối đằng trước truyền lại tiếng quẫy nước trầm trầm, giống như có thứ gì đó đang lặn dưới nước.

Tôi chụp tay lão Dương, lấy đèn trong tay hắn rọi về phía phát ra âm thanh, lập tức nhìn thấy ba vết nước hình tam giác đồng thời xuất hiện, nháy mắt đã chìm vào trong nước.

Tôi còn chưa kịp phản ứng gì, lão Dương đã hất tay tôi ra, quay đầu hét to một tiếng: “Chạy!”

Chương 10: Hucho Taimen (Triết La Khuê)

Editor: Tiểu Phong Hoa

*****

Lão Dương nói thế nhưng ở dưới mực nước sâu đến thế này, có mà chạy thoát đằng trời. Tôi quẫy nước mấy cái, đến khi quay đầu nhìn lại, vệt nước hình tam giác kia đã lao vọt về phía tôi nhanh như điện xẹt khiến mặt nước dềnh lên một làn sóng đục ngầu.

Tôi vội vã buộc chặt đèn pin vào cổ tay, rút con dao găm vẫn giắt nơi thắt lưng rồi trưng dụng luôn cả chiếc ba lô đang đeo trên lưng thành khiên. Trong lúc cuống cuồng tôi vẫn không ngừng gọi lão Dương ứng cứu, có điều gã này thoắt cái đã một đường bơi thẳng ra ngoài đến hơn mười mét.

Tôi ngấm ngầm lôi cả mấy mươi đời tổ tông nhà hắn ra nguyền rủa. Thứ quái vật phía sau đương nhiên không thèm chừa ra giây nào cho tôi nhẩn nha suy nghĩ, nháy mắt đã đâm bổ đến trước mặt.

Tôi chùn người xuống một chút, chuẩn bị sẵn tinh thần lãnh một cú đánh của quái vật. Vệt nước hình tam giác chỉ còn cách tôi chừng ba mét, không ngờ trên mặt nước lại đột ngột xuất hiện một đợt sóng, vệt nước thoáng cái đã biến mất tăm.

Nói thì chậm nhưng thực ra mọi việc chỉ trong vài khắc. Chưa kịp hoàn hồn, phía trước mắt tôi một đám bọt nước chợt nổ tung tóe đồng thời trên ngực chịu một luồng lực mạnh kinh khủng. Lần này thực sự nhanh đến mức không kịp trở tay. Tôi còn đang chẳng hiểu chuyện gì xảy ra đã sặc lên mũi một ngụm nước hôi thối, tối tăm cả mặt mũi.

Luồng lực này không những dìm tôi chìm nghỉm vào trong nước mà còn đẩy ngược tôi lại cả chục mét. Khi lặn xuống nước tôi không hề lấy hơi, giờ đã thiếu khí lắm rồi, nói là sức cùng lực kiệt cũng không ngoa. Cứ đà này bị ép xuống không thở được kiểu gì cũng đi đời nhà ma. Cùng đường, tôi nghiến răng, dao găm nãy giờ vẫn lăm lăm trong tay khua lung tung một hồi bỗng thấy chấn động, không biết đã đâm trung chỗ nào trên người nó. Quái vật bị đau quằn quại liên hồi trong nước, quật tôi văng ra đập đầu vào vách một cú mạnh đến choáng váng.

Nhưng nhát dao này xem ra đã cứu tôi một mạng. Luồng lực kia biến mất, ngực tôi cũng được thả lỏng.

Tôi biết nó đã nhả ra, vội vàng giãy dụa nhô đầu lên khỏi mặt nước hít lấy hít để không khí vào phổi rồi sờ sờ chiếc ba lô. Mẹ kiếp, không những rách toạc một nửa mà các thứ bên trong hầu như cũng rơi rớt sạch sẽ, may mà tôi chắn ba lô trước ngực không thì đã ra người thiên cổ từ lâu rồi. Thứ quái vật này cắn khiếp thật.

Tứ phía đều tối tăm mờ mịt, chỉ thấy luồng sáng rọi thẳng từ phía sau của chiếc đèn pin trên tay lão Dương. Nhưng ánh sáng mỏng manh đó đã chiếu không ra hình thù gì thì chớ, gặp nước lại phản quang càng khiến tầm nhìn tôi bị ảnh hưởng.

Tôi thở hổn hển một hồi, đầu óc dần tỉnh táo trở lại, lúc đó mới phát hiện ra dao găm đã không cánh mà bay, không biết trong biến cố vừa rồi đã rớt xuống nước hay là vẫn cắm trên người nó chưa rút ra. Tôi rên thầm trong lòng, giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, ba lô cũng không được tích sự gì nữa rồi. Nếu quái vật lại đớp cho một miếng có khi bao nhiêu ruột gan đều lòi ra mất.

Tôi bèn nép sát người vào vách đá, chỗ này rất hẹp, cứ dán mình vào một bên như thế, muốn cắn tôi cũng chẳng dễ dàng gì đâu.

Sau trận vật lộn kịch liệt vừa rồi, tôi mơ hồ cảm thấy đó là một con cá khổng lồ, nhưng trong mỏ quặng kín mít này làm sao lại có cá được, hơn nữa kích thước lại to lớn bất thường, điều này thoạt nghĩ đã thấy không hợp tình hợp lý. Mà cho dù có thật, nó ăn gì mà sống? Chẳng lẽ gặm đá tảng?

Từ phía sau, lão Dương đã chạy tới, vừa nhìn thấy tôi đã gọi to: “Cậu không sao chứ? Tay chân có sứt mẻ miếng nào không?”

Tôi vội vàng cản hắn lại rồi ấn hắn dính luôn vào vách đá, thì thầm: “Đừng ra đây, thứ đó vẫn ở gần lắm.”

Hắn nghễnh ngãng không nghe được tôi nói gì, còn hỏi: “Không sao hả? Vừa rồi tớ đánh động muốn thu hút sự chú ý của nó, không ngờ nó lại không thèm…” Nói chưa dứt lời, người hắn đột nhiên nghiêng hẳn đi, thoắt cái đã bị lôi ngã lộn xuống nước, bọt nước văng tứ tung. Một cái đuôi cá to tướng quẫy vùng lên khỏi mặt nước, hắt cả vào mặt tôi.

Gay to rồi! Không hiểu lão Dương bị cắn vào chỗ nào, nếu trúng người thì đúng là nguy hiểm, dù Diêm Vương tha mạng thì bét cũng phải tàn phế.

Tôi sờ khắp cả người mà chẳng lần ra được một tấc sắt, sau cùng chỉ moi ra được một con dao mở hộp quân dụng. Chất thép rất tốt, của đáng tội con dao lại ngắn ngủn, đâm cả trăm nhát chưa chắc đã giết nổi một người. Nhưng hiện giờ cũng không phải lúc đứng ca cẩm, tôi hét lớn một tiếng rồi liều mình phi thân vào trong nước, bơi về hướng lão Dương.

Trận hỗn chiến dưới nước đang hồi quyết liệt, tôi chẳng nhìn thấy gì chỉ còn nước sờ soạng. Mới sờ được vài cái, mặt lại bị cái đuôi cá khổng lồ quật vào. Tôi bị một cú đập đến thất điên bát đảo, thân thể lộn mất mấy vòng, cổ như gãy rời ra rồi.

Lòng bàn tay tôi nóng bừng lên, gấp rút cắn chặt răng lao vọt lại. Trong lúc rối ren tôi ôm bừa lấy thứ quái vật nọ, cảm thấy như bị trượt đi trên lớp da trơn tuột toàn vảy. Tôi thầm nhủ cóc cần biết chỗ nào, cứ giơ dao lên đâm bừa một nhát.

Tuy là dao mở hộp nhưng lưỡi thép ngang lại vô cùng sắc bén. Con quái vật bị thương vặn vẹo điên cuồng, tôi không ôm nổi nữa, bị hất lên mặt nước. Nhưng lần này đã có kinh nghiệm, tôi nghiến răng nghiến lợi giữ chặt lấy chuôi dao. Lưỡi dao vẫn móc trong cơ thể quái vật, chỉ cần nó cố thoát thân, vết thương trên người nó sẽ càng bị rạch toác ra.

Lúc tôi thò đầu lên khỏi mặt nước, máu tươi đã nhuộm đỏ lòm cả một vùng nước vốn xanh biếc, hai thứ màu xanh đỏ hòa vào nhau trông thật tởm lợm. Tôi giơ tay lên nhìn liền nhận ra con dao mở hộp đã gấp lại từ bao giờ, lưỡi dao khi gấp quay ngược cắt một đường vào ngón tay đã ngâm lâu dưới nước đến trắng bệch của tôi. Có lẽ vừa rồi tôi đã quá tập trung tinh thần vào trận chiến mà không hề phát hiện.

Nhưng giờ không phải lúc suy nghĩ nhiều như vậy. Tôi vừa lấy lại chút bình tĩnh lội một bước về phía trước, thình lình từ dưới nước nhô lên một cái đầu cá khổng lồ, chỉ kịp nhìn thấy một khoang miệng đầy răng nhọn lởm chởm đâm bổ đến muốn táp vào đầu tôi. Trong lúc nguy cấp, tôi vội vàng ngửa người ra sau, con cá đang đà chồm vào, tôi lập tức bị dìm sâu xuống nước.

Tôi giãy dụa kịch liệt cốt tìm lấy một điểm tựa mà bám vào, chợt một người nắm lấy tay tôi, dồn sức lôi lên khỏi nước. Tôi ngẩng đầu, hóa ra là lão Dương, người ngợm máu me be bét đang thở khò khè.

“Sao rồi?” Tôi vội hỏi “Cậu bị cắn vào đâu?”

Hắn nhấc dưới nước lên nửa cái ba lô, nở nụ cười méo xệch. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Xem ra vì trong này quá chật chội, con cá có muốn tấn công chúng tôi cũng chỉ có thể tấn công vào phần ngực. Đúng là trong cái rủi có cái may.

Con cá rõ ràng rất đau đớn, không ngừng quằn quại khiến dòng nước trở nên đục ngầu, thỉnh thoảng lại va phải vách đá. Chúng tôi vẫn đề phòng, có điều không lâu sau, cái bụng của nó đã nổi lềnh phềnh mà phơi lên trời, hai vây vẫn hơi run rẩy nhưng xem ra chẳng còn sống được bao lâu.

Tôi kiên nhẫn chờ thêm một lúc, thấy nó đã cứng đơ rồi mới đánh bạo bơi tới.

Con cá ít nhất cũng phải dài đến hai mét rưỡi, đầu to tướng, khoang miệng mở ra phải lớn bằng cái chậu rửa mặt, bên trong toàn răng nhọn có móc. Điều kỳ quái là trên gáy nó còn có hoa văn nhìn rất lạ mắt cùng một con dao găm không chuôi cắm ở đó, không biết là do lão Dương hay tôi đâm vào.

Tôi lập tức nhận ra, đây là một con cá Hucho Taimen, một giống cá nước ngọt vô cùng tàn bạo. Nếu đúng là loại này thì con cá vẫn còn nhỏ chán. Lạ ở chỗ, giống cá đó chỉ ưa sống ở vùng nước lạnh, làm sao lại đến được nơi này và chui vào tận đây?

Còn đang ngờ vực chợt nghe lão Dương kêu: “Nhìn xem, đằng kia có bậc thang!”

Sau trận ác chiến vừa rồi, dường như con cá đã dẫn chúng tôi đi rất xa, xem chừng đã vào rất sâu trong thạch động. Tôi quay đầu lại, thấy ngay bên cạnh có mấy bậc thang nhô ra khỏi mặt nước, dẫn lên một khoảnh đất trống bằng phẳng, lia đèn pin qua còn có thể nhìn thấy vài bức bích họa.

Chúng tôi vừa rét run vừa ngứa ngáy toàn thân, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng nghỉ ngơi cho hồi sức. Cả hai bàn bạc một lúc rồi quyết định tìm một chỗ khô ráo từ từ xử lý mấy vết thương.

Lão Dương đã lạnh cóng kinh khủng, không nói năng gì nữa, lẳng lặng tóm lấy quai hàm con cá mà lôi vào trong. Tôi lấy làm lạ, hỏi hắn mang con cá này đi làm gì. Hắn đáp: “Bỏ trang bị ra rồi nhét nó vào trong túi, cậu không biết thứ này sẽ giúp chúng ta phát tài thế nào đâu, kiểu gì tôi cũng phải mang nó ra bằng được!”

Tôi nghe xong chỉ còn biết lắc đầu. Ngăn hắn cũng không xong, đành phải giúp hắn một tay đẩy con cá về phía trước. Những bậc thang thẳng tắp, tôi leo dần lên, phía trên là một gian phòng đá chất đầy gỗ, ngoài ra còn có một con đường đá thông đến nơi khác. Bên trong tối đen như mực, nhưng cũng khá rộng rãi, có lẽ là nơi tạm chứa đất đá phế thải. Gỗ bên trong đã có phần mục ruỗng, bích họa trên bốn vách tường cũng rất đơn giản, hơn nữa còn có khuynh hướng trừu tượng. Người tôi đang khó chịu, chẳng còn tâm trí đâu mà ngắm nghía.

Chúng tôi cởi hết quần áo, lấy vài thanh gỗ mục nhóm lên một đống lửa để hong khô quần áo. Lão Dương chưa gì đã vội vàng rút đồ ra mổ bụng con cá, vừa mổ vừa bảo tôi: “Con cá này to như thế, vứt đi đúng là phí của giời. Chúng ta lóc thử vài miếng thịt ra ăn thử xem mùi vị thế nào.”

Tôi lấy từ trong nửa cái túi của lão Dương ra một ít thuốc, đầu tiên khử trùng ngón tay, sau đó mới cẩn thận băng kín lại, nói: “Cậu đi mà ăn. Nước bẩn như nước cống, con cá thì không rõ lai lịch, nó ăn gì uống gì cũng không biết, tớ chẳng dám liều mạng.”

Lão Dương lúc đó đã cắt dạ dày con cá, cắt một nhát mở phanh cả cái dạ dày. Một mùi tanh tưởi xộc lên khiến tôi ngạt thở suýt chết, kìm không được tính tò mò phải ngó một cái. Bên trong dạ dày con cá chảy ào ra những thứ thập cẩm đã nát nhừ cùng một khối tròn tròn, lăn vài vòng đến trước mặt tôi.

Tôi vừa nhìn thấy đã “A!” lên một tiếng.

Không ngờ đó lại là một cái đầu người.

———————-

Chú thích:

Cá Hucho Taimen

Là một giống cá ăn thịt thuộc họ cá hồi, thường được biết đến với tên Hucho Taimen hoặc cá hồiSiberia.

Dao mở đồ hộp: 

Chương 11: Đầu người

Editor: Biển

Beta: Miên Hoa Tử

~oOo~

Từ lúc chúng tôi vào núi đến giờ, trừ phần thịt rừng ông già dẫn đường đưa cho ra, thức ăn của chúng tôi toàn là lương khô khó nuốt, mà mớ thịt rừng còn chưa ăn được miếng nào đã bị đám khỉ phá hỏng, bây giờ vẫn còn thèm thuồng, lúc lão Dương nhắc đến cá, tôi dù ngoài miệng nói thôi, thực ra trong lòng đã bắt đầu nôn nao, lại còn tưởng tượng lại cảnh được ăn lẩu đầu cá trên biển lần trước.

Nhưng nhát dao chết tiệt này đã làm tan nát mộng đẹp của tôi. Tôi thấy hình ảnh cái đầu máu me be bét dính đầy dịch tiêu hóa kia trôi nổi giữa nồi lẩu đầu cá trong mộng, một cảm giác buôn nôn xông thẳng lên cổ họng, gần như muốn phun luôn ra ngoài.

Lão Dương ngày thường cũng gan lỳ, nói đến người chết, hắn dù chưa gặp đến ngàn người thì ít ra cũng được tám trăm, nhưng thấy tình cảnh như vậy cũng tái mặt, nửa ngày cũng chưa bình tĩnh lại được.

Cố nén ghê tởm, tôi dùng dao găm xoay ngược cái đầu lại, chỉ thấy lớp da trên mặt đã có dấu hiệu thối rữa, nhưng cái đầu hầu như vẫn còn tương đối nguyên vẹn, hẳn là mới bị nuốt cách đây không lâu, lúc con cá ăn cái đầu này chắc là có nhai vài cái khiến nó hơi bị biến dạng, tình trạng khuôn mặt hầu như không thể diễn tả bằng lời, cũng chẳng thể đoán ra được rốt cuộc là ai.

Người này vào bụng cá chưa được bao lâu, có thể nói là hắn chỉ vừa mới chết gần đây thôi.

Tôi một tay che mũi, một tay dùng dao găm gạt những thứ chảy ra từ bụng cá sang hai bên, muốn xem thử những bộ phận khác của người này ở đâu. Rất nhanh tôi đã tìm được bàn tay và một khối thịt, cũng đã bị ăn mòn ít nhiều, không cách nào đoán ra được thân phận quê quán của người này.

Tôi tiếp tục gạt thêm vài thứ nữa, liền tìm được hành lý của chúng tôi bị nó nuốt vào, đồ đạc bên trong bị lẫn cùng với đủ thứ bẩn thỉu trong bụng cá, trừ những thứ không thể vứt đi, tất cả còn lại đều bị ném sang một bên không thương tiếc. Lương khô tuy được cẩn thận bọc kín trong bao nilon, nhưng tôi thật sự không thể nào thuyết phục bản thân ăn cho nổi.

Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy giữa đống nhầy nhụa có thứ gì đó màu đen, tôi còn chưa kịp lôi hết nó ra, lão Dương đã la lên: “Khỉ chứ, là ‘Phách tử liêu’.”

Tôi không biết Phách tử liêu là cái quái gì nên cho rằng đó lại là tiếng lóng hắn học được từ trong tù, bèn rút ra xem thử, hóa ra là một khẩu súng ngắn tự chế, loại súng này đã lỗi thời lắm rồi. Nó thực ra chính là súng săn đem cưa ngắn hai nòng rồi sửa phần báng súng thành kiểu của súng lục. Với hai nòng súng có thể bắn được hai lần, nhưng không tự đẩy vỏ đạn ra được, cần phải lấy vỏ đạn ra mới lắp được đạn mới vào, cho nên súng này đem ra đối phó với nhưng con thú nhỏ không có khả năng tấn công thì còn được, chứ gặp phải những con thú cỡ lớn, một phát mà không hạ gục được nó, chờ cho anh nạp xong đạn để bắn phát thứ hai thì cổ đã bị cắn đứt rồi. Mặt khác, khẩu súng này ở cự ly gần có uy lực khủng khiếp, nhưng vượt quá cự ly hai mươi mét thì đến chó cũng bắn không chết, thật ra thì không thể nào đem ra so sánh với súng lục chính thống được.

Tôi rút khẩu súng ra, chà xát lên mặt đất cho sạch hết những thứ dính trên đó rồi mới cầm lại xem. Mở nòng súng ra kiểm tra thì thấy bên trong có hai viên đạn, dưới báng súng có gắn một hộp đạn bằng sắt, bên trong có tám viên, bốn xanh bốn đỏ, không biết là loại đạn gì.

Có khả năng người này đến đây săn trộm, vô tình phát hiện ra động này nên muốn vào xem thử, kết quả là làm mồi cho cá. Khẩu súng này có thể là do lúc cá ăn thịt người thì nuốt vào theo, đúng thật là xui xẻo, ai mà ngờ cho được trong này lại có con cá ăn thịt người lớn đến vậy.

Súng là thứ tốt, vào lúc khẩn cấp có thể dùng để phòng thân, có điều đạn quá ít ỏi. Lão Dương sau khi đã moi ra hết trang bị của chúng tôi lại chọc ngoáy trong bụng cá một hồi nữa nhưng cũng chẳng tìm ra thêm được gì. Tôi nhìn cơ thể con cá, thấy ngoại trừ những vết thương do hai người bọn tôi gây ra còn có một vài vết đạn nhỏ, nghĩa là con cá này đã bị thương trước khi tấn công chúng tôi, chẳng qua nó chỉ trúng đạn ghém, lực sát thương quá nhỏ không thể gây cho nó vết thương chí mạng.

Lão Dương thấy con cá kỳ lạ, bèn hỏi tôi: “Lão Ngô, cậu nói xem ở chỗ này sao lại có cá ăn thịt người, hay là do có người nuôi nó ở trong này?”

Tôi nói với hắn: “Không phải đâu, tôi thấy dưới mặt nước trong thạch đạo này còn có dòng chảy khác nối liền với mạch nước ngầm ở gần đây, mà mạch nước ngầm vùng này thường hợp với sông Gia Lăng, con cá này hẳn là từ ngoài sông bơi vào đây.”

Lão Dương nói: “Không đúng, mấy ngàn năm trước làm gì có thiết bị lặn, bọn họ làm cách nào mà đào đường ngầm dưới nước được?”

Tôi thấy lão Dương rất có hứng thú với chuyện này, bèn giải thích: “Đây không phải là đào nên, tôi đoán là được hình thành từ sự biến đổi nào đó thôi.”

Hồi còn học kiến trúc tôi có có môn cơ học tự nhiên dạy về kết cấu địa chất. Trong đó có nhắc đến, do vận động tạo sơn vào đại Thái Cổ

(Liên đại Thái Cổ (Archean, Archaean, Archaeozoic, Archeozoic) là một liên đại địa chất diễn ra trước

liên đại Nguyên sinh (Proterozoic), kết thúc vào khoảng 2.500 triệu năm trước)

, bên trong các loại loại núi đá nham thạch thường xuất hiện các khoảng rỗng, gọi là nham mạch. Nếu nham mạch nối liền với khe núi, rất có khả năng tồn tại cả một hệ thống dòng chảy ngay trong lòng núi. Trong trường hợp đào hầm mỏ, nếu đào đến những chỗ đó thì có thể gặp phải sự cố nghiêm trọng, nhẹ thì phải bỏ một vài đoạn đường hầm, còn nặng thì tất cả bị nước dìm sạch.

Chỗ này là động khai thác đá, thường không được bố trí đường hầm thoát nước, bị nhấn chìm như thế này có thể cũng là do gặp phải sự cố như vậy.

Nhưng mà, từ đó chúng tôi có thể suy ra được, quy mô của động khai thác đá có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng tôi đã thấy, chẳng qua là vì bị ngập cả dưới nước nên có nhìn cũng chẳng thấy được bao nhiêu. Dùng đến nhiều đá như vậy, xem ra quy mô của cổ mộ chúng tôi đang tìm không thể nào là nhỏ được.

Chúng tôi đẩy cả xác cá lẫn đầu người vào trong nước, nhưng cái mùi kia quả thật là chịu không nổi, cả hai nghỉ ngơi không bao lâu, thấy quần áo đã tạm khô, chúng tôi chỉnh trang quần áo lại lần nữa, đem toàn bộ những thứ cần thiết cất vào trong túi rồi vội vàng xuất phát.

Lão Dương mở đèn pin dẫn đường phía trước, hai người một trước một sau đi sâu vào thạch đạo.

Bên trong cũng tối đen như mực, tượng người, động vật bằng đá nằm ngổn ngang trên đường, vách tường hai bên gồ ghề, vết nứt dày đặc, có đôi lúc còn có thể thấy phù điêu chạm khắc đá chưa được hoàn thành.

Mấy thứ này cái nào cái nấy đều rất lớn, tôi không khỏi thắc mắc những khối đá ở đây được vận chuyển đến cổ mộ như thế nào.

Dựa theo những tài liệu mà ông Tề đưa cho tôi, lãnh thổ của Xà quốc cũng không lớn, phần lớn là miền núi, sống chủ yếu dựa vào săn bắn, lực lượng sản xuất tương đối lạc hậu, hẳn là không có khả năng vận chuyển đá đến nơi xa xôi được. Để thuận lợi cho việc vận chuyển, cổ mộ hẳn là ở khá gần nơi này.

Cái động vừa nãy chúng tôi vào là do kẻ trộm mộ phá đá tạo thành, vậy có thể nói cửa ra của thạch động này hẳn là ở bên kia, chẳng lẽ chỉ đi qua một đoạn như vậy là đã tới được cửa vào lăng mộ?

Tuy nhiên cũng có không ít người vì che giấu vị trí mộ mà cố ý chuẩn bị vật liệu ở rất xa, nếu thật vậy thì chúng tôi cũng không thể chắc chắn được bao nhiêu.

Chúng tôi đi sâu vào trong khoảng chừng nửa giờ, bốn bề tối đen như mực, đèn trong tay lão Dương đã gần hết pin, bắt đầu mập mờ, tôi cũng đã cảm thấy mệt liền bảo hắn dừng lại thay pin, sẵn tiện làm điếu thuốc cho lên tinh thần.

Chúng tôi ngồi bệt trên mặt đất, đèn pin để ngay bên cạnh chiếu vào mấy bức tượng người giống hệt như thật. Lão Dương liền hỏi tôi: “Mấy bức tượng này, mỗi cái đều được điêu khắc giống hệt như thật, nhìn sợ chết được, cậu nói đây là thuộc triều đại nào? Sao mà đến một điểm đầu mối tôi cũng không thấy?”

Tôi cũng chẳng hiểu gì như hắn, lịch sử ngành điêu khắc của Trung Quốc có nguồn gốc sâu xa và được lưu truyền rộng rãi, từng có một khoảng thời gian dài dung hòa với kho tàng văn hóa của Ấn Độ cổ đại, nhưng chủ yếu là lấy thủ pháp tả thực để thể hiện lên tác phẩm. Trong trí nhớ của tôi, thủ pháp này đã từng xuất hiện một lần, đó chính là tượng binh mã trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng, thế nhưng tượng đá ở đây hoàn toàn không giống với tượng binh mã, thật sự là rất khác biệt.

Hơn nữa trên người những tượng đá này đều có đặc điểm nổi bật là hoa văn rắn hai thân, nhất định là thuộc phạm vi văn hóa của Xá tộc cổ đại, cho dù đường hầm này có thuộc về cổ mộ chúng tôi muốn đến hay không thì hiện giờ chúng tôi cũng đã tiến vào lãnh thổ của Xà quốc cổ đại, tuyệt đối không sai.

Lão Dương nói nhiều kinh khủng, vừa hút thuốc vừa hỏi này hỏi nọ, tôi bị hỏi tối tăm mặt mũi, bèn bảo hắn đừng có cái gì cũng đè đầu tôi mà hỏi, tôi cũng đâu phải là dân khảo cổ, chúng tôi cứ việc lấy đồ rồi biến, còn nghiên cứu nọ kia thì cứ để cho mấy ông giáo sư già đi mà làm.

Sau khi thay pin, vừa đi được mấy bước liền thấy phía trước có ánh sáng phản xạ lại, quả nhiên đằng trước là một mặt thạch bích, cuối thạch đạo là một căn phòng đá cỡ vừa, bên trong có không ít tượng người đá không đầu vỡ vụn nằm ngổn ngang, bốn phía có đèn đá, giữa phòng có đặt một cỗ quan tài bằng đá.

Quan tài rất lớn, trên nắp quan có khắc hình rắn hai thân, hai thân rắn chia ra quấn chặt hai bên quan tài, nét điêu khắc vô cùng tinh tế, nhưng phần đuôi rắn rõ ràng vẫn chưa được hoàn thành, chỉ mới khắc ra vài nét cơ bản sơ sài.

Chiếu đèn pin lên thì thấy loại đá làm quan tài hiện lên một màu trắng hơi mờ giống như mỡ đặc, nắp quan không được đậy khít, để lộ ra một khe hở khoảng bằng cánh tay. Quan tài được đặt trên quan sàng, xung quanh không còn có bất cứ thứ gì.

Xem ra đây là một quan tài bồi táng, có thể là thừa ra sau khi nhập liệm, hoặc là chuẩn bị để dự phòng rồi vứt luôn trong này.

Nhưng sao thạch đạo dài như vậy lại chỉ thông đến nơi này, tôi thấy buồn bực vô kể, không thể như vậy được, chỗ này rõ ràng là nơi vứt sản phẩm không hoàn thiện, không hề có lối ra, hai đầu thạch đạo này đều bị chặn, chẳng lẽ đường vận chuyển đá chính là dòng chảy sâu dưới mặt nước chỗ chúng tôi đi qua ban nãy? Hoặc cũng có thể trong căn phòng đá này có lối đi bí mật?

Nếu cửa vào ở dưới nước thì không ổn tí nào, tôi thầm nghĩ như vậy.

Trong căn phòng đá này không có thứ gì là không kỳ quái cả, tôi với lão Dương xem xét xung quanh hết một lượt, cuối cùng chạy đến bên quan tài đá.

Lão Dương lần đầu tiên thấy quan tài, rất háo hức, đi vòng quanh hai vòng mới hỏi tôi: “Trong này có bánh tông không?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Không có đâu, trước giờ chưa từng nghe nói đến chuyện nhập liệm rồi lại tiếp tục điêu khắc quan tài, đây là quan tài rỗng.”

Lão Dương nhìn qua khe hở của quan tài, còn rọi đèn pin vào bên trong, nói: “Nhưng hình như có thứ gì đó được đặt trong này? Không tin cậu cứ lại đây mà xem.”

Tôi đi đến bên cạnh hắn, vừa nhìn sơ qua, quả nhiên qua khe hở của quan tài, tôi nhìn thấy một bóng đen nằm bên trong, nhưng đó là gì thì hoàn toàn không thể nhìn ra được.

Lão Dương thổi sạch lớp bụi trên nắp quan tài, gõ gõ vài cái, định đưa đèn pin vào trong khe hở để soi cho rõ, nhưng cái đèn pin chúng tôi mua có phần đầu quá lớn, thử cả nửa ngày cũng không nhét vào được, hắn hỏi: “Có muốn mở ra xem một chút không?”

Tôi cảm thấy có chút bất thường, trước đây mỗi lần mở quan tài luôn có người ở bên cạnh, mà mấy người đó toàn là dân kỳ cựu, bây giờ chỉ có một mình tôi, đến một chút tự tin cũng không có nổi, tôi lắc đầu: “Chuyện này có vẻ không bình thường, tôi có cảm giác không hay, đừng tùy tiện mở nó ra.”

Còn chưa dứt lời, lão Dương bỗng nhiên rụt tay lại lui về sau mấy bước, ngã bệt xuống đất, đèn pin văng khỏi tay lăn ra xa.

Tôi bị hắn làm cho giật mình, vừa định hỏi hắn có chuyện gì, tay đột nhiên lạnh ngắt. Tôi cúi xuống nhìn, chỉ thấy một bàn tay khô trắng bệch chẳng biết từ khi nào đã vươn ra khỏi khe hở của quan tài, nắm chặt cổ tay tôi.

Chương 12: Mạch nước ngầm

Edit: Hằng

Beta: Tiểu Điệp

******

Da đầu tôi nhất thời tê dại, toàn thân sởn gai ốc, liều mạng rút tay về như thể phát điên. Nhưng bàn tay khô kia mạnh kinh khủng, tôi không những không rút được tay ra, trái lại còn bị nó kéo thẳng vào trong quan tài.

Tôi hoảng sợ đến độ gần như mất hết lý trí, trong cơn hỗn loạn vội móc ra khẩu Phách tử liêu, muốn dùng nó đánh gãy cánh tay kia. Nhưng chưa kịp chờ tôi ra tay thì sau lưng đột nhiên vang lên tiếng ẩu đả, cổ tay cầm súng của tôi bị tóm chặt lấy.

Lúc đó tôi không biết cái gì đang giữ chặt tay mình, vừa hét lên vừa giãy dụa, không hiểu vì sao lại giãy bàn tay khô kia ra, liền đạp chân lên nắp quan tài, đẩy cả thứ đằng sau mình ngã nhào xuống mặt đất.

Hai người ngã lăn vài vòng trên đất. Tôi vừa biết  kẻ tập kích mình là con người, liền can đảm hơn hẳn, xoay người bật dậy vung tay chuẩn bị bóp cò.

Nhưng tôi còn chưa kịp thấy rõ người phía trước rốt cuộc là ai thì đột nhiên nghe thấy phạch một tiếng, không biết một luồng gió từ đâu ào tới đập mạnh một cú vào sau gáy, mắt tôi tối sầm lại, suýt chút nữa đã mê man bất tỉnh.

Tôi bị đánh ngã xuống đất, lập tức liền có ít nhất hai người tiến lên nắm lấy cánh tay tôi, xách tôi lên tha tới cạnh chiếc quan tài. Quay đầu nhìn lại, lão Dương cũng vừa bị tóm, còn bị trói gô vứt nằm chèo queo trên mặt đất.

Một người đứng sau dùng thắt lưng tôi trói tay tôi lại, đẩy tôi ngã nhào trên đất rồi dí súng vào đầu tôi. Lúc này tôi mới nhìn rõ bọn họ, đây chẳng phải chính là mấy kẻ chúng tôi đụng phải ở quán ven đường gần Tây An sao.

Mấy người này sao lại ở đây? Tôi âm thầm kinh ngạc. Lẽ nào bọn họ vẫn luôn chú ý đến chúng tôi như lời lão Dương nói, còn đi theo chúng tôi tới tận đây?

Hỏng bét rồi, đây toàn là dân giang hồ, rơi vào tay bọn họ chỉ e lành ít dữ nhiều, những nơi như thế này quả thực là địa điểm giết người tốt nhất, sợ rằng thi thể tới mấy trăm năm cũng chưa được ai phát hiện ra.

Mấy người kia trói chặt chúng tôi lại rồi vứt qua một bên, không đánh cũng chẳng giết mà chạy tới đẩy nắp quan tài chúng tôi vừa xem xét. Tôi cùng lão Dương liếc qua, cánh tay khô kia vẫn còn vắt vẻo bên ngoài quan tài, không khỏi xám mặt, sợ hãi kêu lên: “Các người định làm cái gì thế, bên trong có bánh tông đó! Thả nó ra thì tất cả chúng ta sẽ tiêu hết!”

Mấy người kia vừa nghe xong, sửng sốt một lúc rồi lập tức cười ầm lên, một tên thanh niên nói: “Bánh tông nào hả? Mày nhìn thật kỹ xem bên trong là cái gì đi!”

Vừa nói vừa dùng sức đẩy nắp quan tài, giữa lúc tôi cùng lão Dương ở cạnh bên hoảng hồn kêu to, nắp quan tài rầm một tiếng đã bị đẩy sang một bên, một ông lão gầy gò như nông dân lập tức ngồi dậy trong quan tài.

Tôi vừa nhìn đã muốn chửi thề, đó còn không phải là ông chú già kia sao? Lão ấy sao lại nằm trong quan tài? Nhưng lập tức hiểu ra liền, thật muốn vả cho chính mình mấy cái, mẹ nó, rốt cuộc lại để cho kẻ khác xỏ mũi dắt đi!

Ông lão đứng lên,  đút cánh tay quỷ khô quắt nhăn nheo trắng bệch như người chết kia vào trong túi áo, sau đó nhảy ra khỏi quan tài, đi tới trước mặt chúng tôi.

Tôi nhìn bàn tay lão, móng tay vàng khè, vừa dài lại vừa nhọn, bỗng nhiên nhớ tới một người bạn của ông nội khi tôi còn bé. Ông ấy từng bị bánh tông nắm chân, phải qua hơn chục ngày sau mới khỏe lại, nhưng từ đó về sau chân ông ấy dần dần teo rút lại, hình dạng khô héo, giống y hệt bàn tay của ông chú này.

Tôi thầm nghĩ trong bụng, tay của ông chú này bị như vậy còn không phải là do bị bánh tông nắm mà tạo thành sao? Bỗng hối hận vì sao vừa rồi mình không nghĩ đến chuyện này, nếu lúc nãy không bị dọa tới mức ấy thì giờ đây chúng tôi đâu thể dễ dàng bị bắt lại thế này.

Ông chú quan sát chúng tôi mấy lần, không nói gì, chỉ châm một điếu thuốc, dùng ngôn ngữ địa phương nói với người bên cạnh vài câu, mấy người kia nhìn chúng tôi một chút rồi gật đầu.

Tôi cho rằng có thể họ muốn gây bất lợi với chúng tôi, cả người không khỏi căng lên đề phòng, không ngờ bọn họ cũng chẳng thèm để ý đến bọn tôi nữa mà quay sang quây lấy cỗ quan tài. Ông chú kia chuyển sang dùng tiếng phổ thông nói với một người: “Ông chủ Vương, theo phương vị bát quái mà ông chủ Lý nói lúc ấy, chỗ này chính là mạch nước ngầm của lăng mộ, nhưng nơi này lại chẳng có gì, chuyện này là sao?”

Một gã trung niên mập mạp mệt mỏi ngồi xổm xuống, lấy từ trong người một cuốn sổ ghi chép ra xem rồi nói: “Không sai, chính là chỗ này, nhất định là sau khi niêm phong lại ngôi mộ, họ đã giấu kín lối vào, cửa ngầm chắc hẳn vẫn còn ở đâu đó trong này thôi.”

Ông chú nhìn chung quanh, lại hỏi một người khác cạnh đó: “Trợ lý Lương, cậu có nghiên cứu về vấn đề này, cậu thấy sao?”

Người kia đứng lẩn khuất trong bóng tối, tôi không thể nhìn rõ bộ dáng hắn ta, chỉ nghe  một giọng nói khá trẻ trung vang lên: “Tôi đã xem qua bản đồ của ông chủ Lý, hẳn là không sai, vừa rồi tôi đã xem qua nơi này, nếu thực sự có cửa ngầm, những chỗ khác không thể có, vậy thì nhất định chỉ có thể nằm ở quan sàng phía dưới.”

Bọn họ cúi đầu nhìn xuống bộ phận nhô ra bên dưới quan tài đá, ông lão dùng báng súng gõ gõ vài cái rồi nói: “Mở ra thế nào đây?”

Trợ lý Lương suy nghĩ một chút, lắc đầu: “không rõ lắm, thử đẩy ra xem.”

Ông lão đứng dậy, đi tới bên cạnh cậu thanh niên. Hai người ghé vai vào quan tài, dùng sức đẩy mạnh, rắc một tiếng, quan tài xê dịch khỏi vị trí một chút, để lộ ra một khe hở tối thui trong quan sàng bên dưới.

Những người khác cũng tiến lên giúp đỡ, bọn họ dồn sức đẩy vài cái, chiếc quan tài trống không trượt xuống một nửa, một lối vào rộng khoảng một mét hiện lên trước mắt chúng tôi.

Tôi rướn cổ nhìn, bên trong một mảnh tối đen như hũ, dường như có những bậc thềm đá vô cùng dốc dẫn thẳng xuống phía dưới. Tôi ngửi thấy được một thứ mùi kỳ lạ từ phía bên dưới xộc lên, có chút quen thuộc, nhưng lại không thể nhớ nổi đó là gì.

Tên thanh niên kia lấy chiếc đèn pin rọi xuống, đang muốn thò đầu vào nhìn, lại bị ông chú vươn tay ngăn cản, lão hất cằm về phía tôi rồi dùng thứ tiếng địa phương nói với bọn họ vài câu. Người thanh niên kia gật đầu, bước tới kéo lê tôi về phía mép động rồi cởi trói cho tôi, sau đó đẩy tôi về phía cửa động, ngoắc ngoắc khẩu súng đang chĩa vào đầu tôi, ý bảo tôi xuống trước.

Tôi vừa liếc liền nhận ra bọn họ vừa rồi không thủ tiêu chúng tôi ngay là vì nguyên do này đây, con đường hầm ở đây họ chưa từng đi qua, lại sợ có cơ quan, nên mới bắt chúng tôi đi trước dò mìn. Nhớ lúc lão Dương tới cầu tôi còn nói chuyến này coi như là đi du lịch, trong lòng nhất thời vô cùng hối hận, tại sao lại nghe lời hắn nói kia chứ, lần này xong đời thật rồi, tầng bên dưới tám chín phần có cơ quan, coi như chết chắc.

Tôi hoạt động cánh tay một lát, thầm nghĩ thôi thì cùng lắm liều mạng với họ, đằng nào cũng chết, nếu bên dưới đường ngầm không có cơ quan thì sau khi dò mìn còn có cơ hội sống sót, nhưng chưa chắc lúc nào cũng được may mắn như vậy, giờ liều mạng với họ không chừng vẫn còn một con đường sống. Lúc này lão Dương nháy mắt ra hiệu với tôi, khẽ nói: “Không có chuyện gì đâu, cứ xuống đi.”

Tôi bực bội, hắn có đi qua đâu mà biết sẽ không có chuyện gì, nhưng nhìn vẻ mặt hắn nghiêm túc giống như là  nắm chắc chín mười phần, cũng không đoán ra hắn đang tính toán gì, chỉ còn nước cầm theo đèn pin, hai tay chống vào bên vách, thật cẩn thận đưa chân xuống dò xét.

Tôi hít một hơi thật sâu, thử rọi đèn pin, phát hiện ra đây là một hành lang gần như thẳng tắp, sâu không thấy đáy, vách đá bốn bề không hiểu vì sao vô cùng ẩm ướt, bàn tay tựa vào có chút trơn trượt. Nhưng phía dưới không có nước, không biết hơi ẩm thấp này từ đâu mà ra nữa.

Tôi còn đang mải suy nghĩ, ông chú kia vỗ vỗ đầu tôi, đưa cho tôi một cái còi, nói: “Tới đáy rồi nhớ dùng cái còi này thổi vài tiếng, nửa giờ sau không thấy tiếng còi, tôi đây sẽ làm thịt người anh em của cậu.”

Tôi biết là lão sợ tôi trốn thoát, trong lòng cười khẩy một tiếng, nhận lấy cái còi rồi cúi đầu chui vào trong địa đạo.

Loại thềm đá dốc thẳng này vô cùng khó bước đi, lúc người ta làm cũng khá ẩu, bậc mỏng bậc dày, đa số chỉ có thể đặt vừa non nửa bàn chân. Tôi xuống được vài chục bước đã bắt đầu thở dốc, mũi chân bắt đầu đau. Ngẩng đầu nhìn lên, cửa đá bên trên đã biến thành một điểm sáng nho nhỏ, bốn bề tối đen như mực, tôi thấy thấp thoáng mấy bóng dáng mơ hồ lay động, rõ ràng là bọn họ vẫn không ngừng quan sát tôi.

Ban đầu tôi còn lo những thềm đá có thể ẩn chứa cơ quan, nên mỗi bước đi đều vô cùng cẩn trọng, nhưng càng hướng xuống dưới, tôi phát hiện ra con đường đá xây càng dần càng ẩu hơn, mỗi phiến thành từng khối riêng rẽ, xây dựng thủ công như vậy, chắn chắn không thể ẩn chứa cơ quan được.

Đi thêm một đoạn, góc độ đường hầm bắt đầu xuất hiện sự thay đổi, bậc thang cũng dễ đi hơn nhiều. Tôi còn thấy nham thạch trên đường biến thành màu nâu đỏ, khi có ánh sáng chiếu tới còn phản xạ lại vô số những tia sáng li ti.

Đây có lẽ là đá hoa cương, bên trong có lẫn mi-ca, vô cùng rắn chắc, bọn họ đổi hướng đào hầm có thể là vì muốn tránh tầng đá hoa cương này. Tới đây chắc hẳn đã tiến vào bên trong ngọn núi rồi.

Không biết từ lúc nào, bên dưới đường ngầm truyền đến tiếng nước chảy, vòng vo thêm một hồi, tiếng nước chảy vọng lại càng thêm rõ nét, nghe như âm thanh vang dội của vạn mã tung vó, nước nơi đây chắc hẳn chảy rất xiết.

Tôi nhìn đồng hồ, phát hiện ra bản thân cũng đã đi được gần 20 phút, cảm thấy nếu còn đi tiếp, tiếng còi có thể không truyền tới bên trên được nữa, bèn lấy ra thổi vài tiếng.

Thanh âm luẩn quẩn truyền đi, rất nhanh, bên trên cũng truyền đến tiếng còi hồi âm.

Tôi tiếp tục đi xuống, đoạn đường hầm phía trước khá là rộng rãi, cửa ra liền xuất hiện trong tầm mắt, một luồng gió mạnh đột nhiên ập tới, suýt chút nữa thổi bay cả tôi đi. Tôi chạy xuống thêm vài bước, bên tai bỗng vang lên tiếng nổ ầm, người đã thoát ra khỏi đường hầm đặt chân lên một bãi bồi, song song với đó, một mạch nước ngầm chảy xiết hiện ra trước mắt tôi.

Mạch nước ngầm này ước chừng rộng bằng cả một khoảng sân bóng rổ, trần đá cao tầm chừng hơn mười thước, hai bên trái phải thông suốt hút ngàn, không biết sẽ dẫn đi tới đâu. Trần sơn động không có thạch nhũ, nhưng đá tảng bốn phía giống như đã trải qua nhiều năm bào mòn, trở nên tròn trịa trơn bóng, tôi nhìn sơ qua kích thước của động này, biết chắc rằng nơi đây không thể do bàn tay con người tạo nên

Dòng nước chảy vô cùng xiết, vừa nãy ở trên tôi đã có thể nghe thấy được âm thanh ào ào nước chảy, bởi lẽ huyệt động nơi đây kết cấu tựa như một chiếc loa phóng thanh, khuếch đại tiếng nước chảy lên gấp bội. Tôi bước ra giữa dòng. Nhiệt độ của nước là khá cao, di chuyển có hơi khó, hơn nữa càng đi về phía trước mực nước càng sâu, mới đi mấy bước nước đã dâng gần đến đầu gối, tôi bèn vội vã lùi về.

Nơi này chắc hẳn là một nhánh nham mạch, giống hệt như mạch máu trong cơ thể con người, là mạch máu của núi lửa. Tôi nhìn về phía xung quanh, phát hiện hai bên mạch nước ngầm này có khuynh hướng thu lại, độ rộng từ từ giảm bớt, trên vách đá bên bờ trái dòng nước còn giăng đầy những dải xích.

Đang lúc cảm thấy kỳ quái, người thanh niên kia lặng lẽ từ trong chỗ tối đi ra, dẫm một chân vào trong nước rồi kêu to: “Mẹ nó chứ, nước nóng khủng khiếp!”

Tôi quay đầu lại nhìn, thấy một người trẻ tuổi khác cũng bước ra sau hắn, người này đeo một cặp kính, nhìn qua có vẻ nho nhã, chắc là vị trợ lý Lương kia, lúc hắn đến gần, tôi mới nhận ra người này cũng đã có chút tuổi tác, không còn trẻ như khi nhìn từ xa. Người thứ ba đi ra là lão Dương, phía sau còn có một người trung niên mập mạp nữa, đi cuối cùng là ông chú, tôi còn cho rằng phía sau chắc hẳn vẫn còn một người nữa, rốt cuộc lại không có ai, trong lòng hơi buồn bực, chẳng phải lúc họ vào núi có mang theo tất cả là năm người sao.

Mấy người bọn họ bật hết đèn pin lên, quét qua quét lại quanh dòng nham thạch, trợ lý Lương khẽ thốt lên một tiếng: “Tinh vi quá, thần đạo dẫn tới lăng mộ lại là một mạch nước ngầm, nếu không phải được tận mắt chứng kiến, chắc tôi sẽ chẳng bao giờ tin nổi mất.”

Người thanh niên kia lội xuống nước bước đi vài bước, nhíu mày quay lại, nói với mấy người kia: “Mẹ nó, nước sâu quá, ông chú, nơi này khó đi, không ổn đâu.”

Ông lão nhìn thoáng qua ông chủ Vương, hỏi: “ông chủ Vương, hiện tại nên đi thế nào đây, tấm bản đồ bảo bối kia của ông có viết thêm gì không?”

Ông chủ Vương thầm chửi lão ngu ngốc, nói: “Trên bản đồ có nhắc đến, bọn họ lần trước tới thăm dò lăng mộ, từng đặt hai sợi xích sắt ở dưới nước vậy nên chỉ cần mò được chúng, chúng ta có thể tìm thấy cửa vào địa cung.”

Rọi hết đèn pin xuống nước, quả nhiên thấy được một sợi xích sắt to bằng cổ tay dưới đáy nước. Ông lão kia kéo nó lên khỏi mặt nước, xem xét một chút rồi kêu lên: “Mẹ nó, có thật này.”

Tên thanh niên đi tới giật thử mấy cái, mãi cũng không thấy nhúc nhích, có chút bất an nhìn thoáng qua phía trước, nói: “Ông chú này, loại đường ngập nước này đi sợ không ổn lắm, vừa rồi ông chủ Lý chết thê thảm như vậy, nếu giờ gặp lại loại cá đó, chúng ta còn không phải đang tự dâng thịt của mình lên à.”

Trợ lý Lương nhúng tay vào nước nói: “Không có chuyện đó đâu, nước nơi này nóng như vậy, bên dưới nhất định là nguồn nước nóng, tuyệt đối không có cá, nếu có thì sớm muộn gì cũng bị luộc chín thôi, Nhị Ma Tử anh cũng đừng nghĩ ngợi nhiều quá.”

Nhị Ma Tử nhếch khóe miệng lên, tựa hồ không mấy tin tưởng hỏi lại: “Thật sao?”

Trợ lý Lương vỗ vỗ bờ vai hắn, toan mở miệng, đột nhiên vùng nước sau lưng Nhị Ma Tử sùng sục nổi lên bọt sóng, dường như chỉ trong nháy mắt, chúng tôi đã bị hất té xuống nước, cả người ướt đẫm. Tôi bối rối hoảng hốt đem đèn pin chiếu lại, chỉ thấy một cột nước lao lên khỏi bề mặt con sông, đụng phải trần động rồi mau chóng vỡ ra thành vô số những hạt mưa nóng hổi rơi xuống.

Trợ lý Lương sợ đến tái mặt, ngồi bệt trong nước phát run lên, chẳng biết có lỡ tè dầm ra quần không nữa. Ông chú kia không hổ là người đã từng trải, vừa đứng lên liền rút súng, quay sang trợ lý Lương hỏi to: “Con mẹ nó, cái thứ quái quỷ gì đây?”

ương 13: Thác Hoàng tuyền

Editor: Rikatoji

Beta: Thanh Du

*****

 Mạch nước ngầm xối xả chảy xiết, nhiệt độ cực cao. Chúng tôi chắc mẩm trong nước không có loài sinh vật nào sống sót, không ngờ câu trước câu sau phía dưới đã có cột nước màu vàng đột nhiên phun vọt lên trên, hất hết cả đám vào vùng nước cạn.

Trong lúc hỗn loạn, tôi không tài nào thấy rõ Nhị Ma Tử vừa bị cột nước vọt tới hiện giờ ra sao, chỉ nghe Thái thúc lớn tiếng hỏi trợ lý Lương xem trong nước có thứ gì, nhưng người kia vốn đã sợ muốn tè ra quần, lắp bắp nói không thành tiếng, căn bản không thể trả lời ông ta. Tôi quay đầu nhìn lại, chỉ còn thấy một vùng bọt nước nhấp nhô, rốt cuộc là thứ gì đang ẩn mình dưới làn nước thì ngay cả hình dáng cũng không xác định nổi.

Cột nước kia phun lên tới trần động, được một lúc cũng không thấy có dấu hiệu suy yếu, ngược lại càng lúc càng thêm mãnh liệt khiến tôi liên tưởng tới loài cá kình ngoài biển khơi. Nhưng khe suối này làm sao có thể xuất hiện cá kình, nếu gặp chuyện quái đản đến thế thì tôi cũng đừng mong sống sót. Nhưng ngoại trừ cá kình ra, còn loài vật nào có thể gây ra chấn động lớn tới nhường ấy? Tôi lại nghĩ, có khi nào đó chính là loài cá trong truyền thuyết kia không. . . dài hơn hai mươi mét, đầu to như một chiếc xe tải, là cá Hucho Taimen trưởng thành? Trong lòng âm thầm oán thán, đầu năm nay bồ tát nhắm mắt hay sao mà để yêu ma quỷ quái xổng hết ra đường thế này, cái đấu này chỉ e cả đám không đủ sức mà đổ thôi.

Lúc này Nhị Ma Tử đột nhiên chới với nổi lên trên mặt nước, không biết vì sao toàn thân hắn đỏ phừng phừng, mới đi vài bước đã ngã quỵ trong nước, sau đó không thấy nhúc nhích gì nữa. Thái thúc không biết chuyện gì đã xảy ra, hung hăng đá tôi mấy cú, kêu tôi đi kéo hắn về.

Tôi âm thầm rủa xả lão là cái đồ rách việc, ngặt nỗi sau lưng còn có súng chĩa nên đành ngậm ngùi nhảy vào giữa đám bọt nước. Cột nước phun lên tới đỉnh rồi thi nhau trút xuống như mưa. Tôi bị nước đó bắn vào, lập tức phát hiện ra điểm bất thường. Nước này nóng như đã được đun sôi, dính vào người lập tức nổi mụn nước, trong lúc vội vã tôi chỉ biết kéo quần áo che chắn, tay còn lại quơ quơ tìm Nhị Ma Tử.

Nhưng khi vừa đụng vào người Nhị Ma Tử, cơn bỏng rát khiến tôi vội rụt tay lại, trong lòng hoảng sợ, mẹ nó, tên này bị luộc chín nhừ hết cứu nổi rồi.

Lúc này bỗng vang lên một tiếng nổ thật lớn, từ chỗ cột nước phun ra một luồng khí màu vàng, tôi vừa nhìn đã cảm thấy có điểm bất thường. Mẹ nó cái thứ này tuyệt đối không phải là cá, thông thường bất cứ loài sinh vật nào sống trong nước nóng cỡ này thì sớm muộn cũng bị luộc thành canh.

Lão Dương hướng về phía tôi hét lớn : “Con mẹ nó, cậu còn đứng ngây ra đó làm gì, không mau lặn xuống nước đi? Đây là lúc suối nước nóng phun cách quãng, bỏng chết người không đền mạng đâu.”

Cột nước này càng lúc càng lớn, những giọt nước nóng bỏng bắt đầu ào ào trút xuống như mưa. Tôi vội vàng lặn xuống con sông ngầm, mấy người còn lại bị nước mưa hắt bỏng không ngừng kêu la như heo bị chọc tiết, thấy tôi lặn xuống nước cũng vội vàng lặn xuống theo.

Suối nước nóng nhanh chóng hòa vào với mạch nước ngầm, nhiệt độ nước sông cũng tăng lên rất nhanh, một mạch lặn xuống cảm giác như rơi vào nồi cát nóng bỏng, toàn thân như bị thiêu đốt. Tôi bơi được vài mét mới thò đầu ra, quay lại nhìn thì thấy nước sông xung quanh đã bắt đầu sôi lên sùng sục, hơi nóng nhanh chóng lan tỏa, dường như cả mặt sông cũng bắt đầu bốc hơi nước ngùn ngụt, nếu không mau mau tìm chỗ cao mà leo lên, không khéo đời tôi cũng kết thúc y như Nhị Ma Tử mất.

Lúc này muốn quay lại  quãng đường hầm lúc vào là chuyện không tưởng, nhiệt độ nước phía bên kia cực cao, tưởng như sắp sôi lên sùng sục rồi, chỉ có một đường là trôi xuôi theo dòng nước. Tôi nhìn hướng nước chảy, trong lòng hối hận: lúc xuống nước lẽ ra nên đi ngược dòng, như vậy dòng chảy sẽ đẩy luồng nước nóng xuôi xuống. Bây giờ chúng tôi lại xuôi cùng luồng nước nóng, thân chìm trong nước mà đòi bơi nhanh hơn nước, quả đúng là chuyện nực cười.

Nhưng chuyện đã tới nước này, cũng không còn cách nào khác, chẳng lẽ lại ngồi yên chờ chết hay sao? Tôi gọi lão Dương, sau đó bơi lên phía trước dẫn đầu, mấy người phía sau thấy vậy cũng tự động bơi theo tôi.

Nương theo dòng chảy, trong chốc lát tôi đã bơi được mấy trăm mét, cho đến khi cảm thấy nhiệt độ của nước đã ổn định trở lại thì trong lòng mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi quay đầu bơi ngửa, đồng thời lấy đèn pin ra chiếu một vòng, chỉ thấy lão Dương hướng về phía tôi liều mạng ngoắc tay, la lớn: “Mau dừng lại! Đằng trước. . . ”

Lời còn chưa dứt, bỗng hắn đột ngột đụng phải thứ gì, miệng đè vào trong nước, mấy chữ sau tôi không sao nghe được. Cùng lúc đó, tôi chợt nghe tiếng nước đổ ào ào, quay đầu nhìn lại chỉ thấy cách đó không xa có một đám bọt nước đang nổi lên ùng ục, chắc chắn ở đó phải có một triền dốc đứng. Dòng nước màu vàng chảy xuôi theo triền dốc, phía dưới vách đá truyền về tiếng thác đổ ào ào như sấm dội, đây nhất định phải là một thác nước cực lớn.

Tôi tức khắc ngây ra, tiêu rồi, giờ mình lao đầu xuống dưới mà được chết toàn thây mới là lạ. Đúng lúc đó lão Dương lại thò đầu ra, la lớn: “Mau dạt sang bên!” Nghe thế tôi mới bừng tỉnh, vội vàng bơi tạt vào mép nước, dùng sức bám trụ vách động, thân thể bị dòng nước cuốn đi khoảng 3-4 mét mới dừng lại. Tôi vừa định thả lỏng một hơi, đột nhiên lại bị trợ lý Lương vừa giãy giụa vừa thất thanh kêu cứu xô mạnh một cái, khiến tôi tuột tay, hai người cứ thế víu lấy nhau thành một cục trong làn nước xiết.

Lúc tôi thò được đầu ra khỏi mặt nước thì đã trôi gần tới thác, nhất thời không nghĩ được cách nào ứng phó cũng không đủ thời gian, tôi theo bản năng quơ quào loạn xạ hai tay, đột nhiên lại tóm được một đoạn xích sắt. Tôi cắn răng túm chặt lấy sợi xích, rốt cuộc thân thể cũng dừng lại trước thác nước, hai chân mấp mé bên bờ vực thẳm, phía dưới tiếng nước đổ ào ào, tối đen như hũ nút, không biết là sâu đến đâu.

Tôi còn đang mừng thầm vì mình lớn mạng, nào ngờ bên dưới đột nhiên có người hẩy hẩy chân tôi. Tôi lấy đèn pin chiếu lại, thì ra trợ lý Lương cũng đang ôm cứng lấy một sợi xích sắt khác và chân tôi thì đang dẫm lên chốc đầu hắn. Tôi dùng sức đạp mấy cái, gạt hắn qua một bên, đưa tay mò mẫm xung quanh, phát hiện dưới làn nước giăng rất nhiều xích sắt, đan xen lẫn nhau, tạo thành một hàng lan can ngăn lại mọi thứ trôi từ thượng du xuống. Có điều hiện giờ một vài đoạn xích đã bị đứt gãy, treo lơ lửng trước ngọn thác, trên bề mặt hàng “lan can” đã xuất hiện không ít lỗ hổng.

Lúc này lão Dương đã trôi đến chỗ tôi, tôi liền túm lấy tay hắn, kéo hắn lại gần, cùng lúc đó Thái thúc với lão mập ở đầu bên kia cũng bắt được một đoạn xích sắt và dừng lại. Thi thể Nhị Ma Tử trôi qua bên người chúng tôi, đến khi đụng phải xích sắt thì khựng lại rồi mắc kẹt giữa hai sợi xích. Lão Dương liền đưa tay qua mò mẫm rồi lấy hết mấy khẩu súng giắt trên thắt lưng hắn.

Tôi thấy hắn lấy được súng liền gắng gượng vươn tay ra khỏi mặt nước nhắm bắn Thái thúc, vội vàng giữ hắn lại mà mắng: “Con mẹ nó, cậu đang nghĩ cái quái gì thế, nòng súng dính nước, cậu muốn cướp cò hay sao!”

Lão Dương gào lên: “Không nhân lúc này mà bắn bỏ bọn họ, cậu nghĩ sau này chúng ta còn có cơ hội chắc.”

Tôi kéo hắn lại lần nữa, hét lớn: “Bây giờ cậu còn tâm trí nghĩ mấy chuyện này sao, mau nhìn đằng trước đi!”

Hắn quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trước mắt hơi nước bốc lên ngùn ngụt, thì ra luồng nước sôi đã đuổi tới nơi. Luồng nước này dù đã chảy qua vài trăm mét cũng không thấy hạ nhiệt độ là bao, tôi ở cách đó hơn mười mét cũng có thể cảm nhận được hơi nóng phả vào người. Lão Dương thấy luồng nước ấy, khóc ròng nói: “Con mẹ nó, xưa nay mình vẫn khoái ăn lẩu dê (*), không ngờ hôm nay chính mình cũng bị đem đi làm lẩu.”

Tôi không muốn chết dễ dàng như thế, gấp gáp tới độ cắn chặt răng, thầm nghĩ mình phải làm gì bây giờ? Cơ hội để sinh tồn duy nhất hiện giờ chính là từ thác nước lao xuống, nhưng phía dưới là cái gì tôi cũng không rõ nữa; nếu thác quá cao thì chẳng khác gì đi nhảy lầu cả.

Trợ lý Lương treo lơ lửng bên dưới tôi đột nhiên lên tiếng: “Tôi có cách này!”

Tôi hỏi: “Cách gì? Nói mau!”

“Trước hết cậu cứ kéo tôi lên cái đã!” Trợ lý Lương kêu to, “Kéo tôi lên rồi tôi mới nói cho cậu biết được, nếu không thì cả hai chết chung.”

Tôi vội vàng đưa tay xuống kéo hắn lên, tay kia túm lấy cổ áo hắn: “Nói mau!”

Hắn túm chặt lấy sợi xích sắt, thoáng thấy dòng nước sôi sục đang ào ào xô tới, bất giác nuốt một ngụm nước miếng: “Lớp nước nóng nổi lên trên tầng nước lạnh, chúng ta chỉ cần lặn sâu xuống dưới chờ cho dòng nước nóng trôi qua là được, nếu có thể nín thở suốt quãng thời gian đó thì vẫn còn một con đường sống.”

Nghe thế tôi cũng không rảnh suy tính xem phương án này có khả thi không, nhanh chóng dúi hắn xuống, sau đó chính mình cũng lặn sâu vào nước, kéo theo cả sợi xích sắt.

Con sông ngầm này trông vậy mà khá sâu, tôi lặn xuống được chừng hai mét thì cảm giác nhiệt độ xung quanh đã giảm đi rất nhiều, lập tức ngưng thần tĩnh khí, chờ cho dòng nước nóng phía trên trôi đi.

Đúng lúc này, tay tôi đột ngột đụng trúng vật gì đó, giống như có thứ gì vướng vào xích sắt. Tôi bèn lấy đèn pin rọi thử, đột nhiên trông thấy phía sau sợi xích sắt nhô ra một khuôn mặt cực kỳ dữ tợn khiến tôi sợ đến ná thở, suýt chút nữa đã hít luôn cả nước vào trong phổi.

Xích sắt dưới nước quấn quanh một thi thể nát rữa, thịt trên người đã tã ra hết, hai hốc mắt trống rỗng trừng trừng nhìn thẳng vào tôi, trông hết sức dữ tợn. Tôi quan sát kỹ hơn, phát hiện trên người anh ta mặc trang phục leo núi mùa đông, sau lưng còn đeo theo một chiếc ba lô.

Thì ra người này là khách du lịch, nhưng sao lại trôi tới tận đây? Tôi ngậm đèn pin vào miệng (đây là loại đèn pin chuyên dụng cho người leo núi, trên tay cầm có linh kiện giúp người dùng điều khiển đèn bằng các bộ phận khác trên cơ thể), lục lọi người anh ta một lúc, chợt phát hiện ra mấy cây bút vẽ tả thực. Tiếp tục mở cái ba lô bị mắc vào hàng rào xích sắt, bên trong còn có khung vẽ cùng rất nhiều tuýp thuốc màu. Tôi chợt hiểu ra người này hẳn là một trong những sinh viên vào núi vẽ cây cối phong cảnh rồi mất tích mấy năm trước mà tay hướng dẫn viên du lịch có nhắc tới lúc ở trên xe.

Thi thể có lẽ là trôi từ vùng thượng du xuống, sau đó mắc kẹt lại đây. Đầu nguồn con sông hẳn là lộ ra khỏi mặt đất, số anh ta cũng thật đen đủi, không dưng lại chết ở nơi này.

Tôi ra sức lục lọi đồ vật bên trong, tuy không có thứ gì đặc biệt hữu dụng, nhưng dù sao cái ba lô của mình cũng vừa mất, có còn hơn không, bèn lấy nó đeo lên lưng.

Lúc này, nước sông bốn phía đã nóng dần lên, toàn thân tôi bắt đầu cảm thấy đau rát, bèn cắn chặt răng tiếp tục lặn sâu xuống.

Làn nước nóng bỏng thoáng chốc đã vây chặt lấy tôi, trong vài giây ngắn ngủi tôi lập tức ý thức được cách làm kia của trợ lý Lương căn bản không khả thi. Lượng nước sôi quá lớn, nếu không lặn sẽ chín nhừ người thì lặn xuống chí ít cũng phải chín đến bảy phần. Lão Dương khi nãy cũng lặn xuống cùng tôi, lúc này đã bỏng tới phát cuồng, co chân đá tôi một cú, chỉ chỉ về phía thác nước đằng kia, ý nói có lặn sâu trong nước cũng vô ích thôi, chi bằng cứ nhảy quách xuống đi cho thống khoái!

Tôi nhìn thoáng qua thi thể, trong lòng tự nhủ: người anh em, tôi sắp xuống với cậu ngay đây. Thế rồi một dòng nước sôi đột ngột xô tới, tôi cắn răng một cái, buông tay ra, theo dòng nước xiết trôi thẳng xuống triền dốc.

——————————————————

(*) Nguyên văn là xuyến dương nhục (

涮羊肉

) dịch nghĩa đơn giản thì là lẩu dê thôi. Nhưng dân Tàu nổi tiếng với văn hóa ẩm thực cầu kỳ, cho nên cùng là món lẩu dê, bên mình chỉ đơn giản là thịt dê thái mỏng nhúng nước dùng sôi, bên đó lại thái thịt dê miếng này miếng kia đều tăm tắp, ngấn mỡ trắng nổi lên giữa màu thịt đỏ, cuốn thành nhiều hình nhiều vẻ, vừa nhìn bụng đã sôi ùng ục. Vài hình ảnh cho mọi người thèm chơi :))

Chương 14: Hồ sâu

Editor: Rikatoji, Biển Bạc

Beta: Thanh Du

*****

      Tôi mơ mơ màng màng mở mắt, phát hiện ra mình đang nằm trên mặt đất, bốn bề tối đen như mực. Tôi sờ lại cổ tay, phát hiện chiếc đèn pin buộc trên đó chẳng biết đã rớt đi đằng nào.

Dưới lưng là một phiến bằng phẳng lạnh ngắt, bên tai dường như còn truyền tới tiếng nước chảy róc rách, đây là nơi nào vậy?

Tôi hít một hơi thật sâu, trí nhớ bắt đầu tái hiện lại từng chi tiết, thác nước, con suối sôi sục, thi thể kẹt trên xích sắt, bất chợt một tia sáng lóe lên, chuyện xảy ra khi nãy bỗng chốc ùa về trong tâm trí.

Hình như vừa rồi tôi theo dòng nước trôi thẳng xuống triền dốc, sau đó chìm xuống đáy đầm, nước trong đầm lạnh ngắt như băng, so với nước suối sôi sùng sục quả là cách biệt một trời một vực. Khoảnh khắc rơi vào trong nước, tôi cảm thấy mọi thanh âm xung quanh bỗng chốc câm bặt, sau đó thì không còn nhớ gì nữa. Có thể lúc ngã xuống đầu tôi đã đụng trúng thứ gì rồi ngất đi chăng? Rơi xuống nước từ độ cao vài chục mét, nếu tư thế không chuẩn thì có khác gì tông thẳng xuống nền xi măng đâu.

Tôi sờ lại thân thể, vẫn còn khá ẩm ướt, có lẽ sau khi rơi xuống khỏi con thác thì tôi lại tiếp tục bị dòng nước cuốn đến nơi này? Hay là tôi đã chết rồi, âm hồn hiện đang vất vưởng chốn âm tào địa phủ?

Tôi thử đứng dậy, vừa mới ngẩng đầu thì đột nhiên nghe “cộc” một tiếng, đầu tôi đụng phải thứ gì đó, đau tới nổ đom đóm mắt. Đưa tay lên sờ thử, tôi phát hiện ra hình như phía trên là một khối cứng đanh, trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, nơi đây sao lại thấp thế này? Lẽ nào tôi đã trôi tới một khe nham thạch hoặc là kẹt lại dưới một tảng đá?

Tôi sờ soạng xung quanh một lượt mới biết mình đoán lầm, trong vòng một thước chỉ sờ thấy những tấm ván gỗ thô ráp, gõ thử thì phát hiện phía sau là ruột rỗng. Trong không gian chật hẹp, tôi chỉ có thể xoay người ở tư thế nằm, muốn nâng đầu hay duỗi vai đều không được.

Tôi thử nâng tấm ván gỗ phía trên để áng chừng xem nó dày khoảng bao nhiêu, chợt phát hiện ra nó có thể dịch chuyển được, bèn đẩy một cái. “Cạch” một tiếng, trong bóng đêm đen đặc bỗng lóe lên một tia sáng. Tôi thu đầu gối, nhẹ nhàng đẩy tấm ván sang một bên mà ngồi thẳng dậy, nào ngờ vừa nhìn ra bên ngoài đã không khỏi sửng sốt.

Đây là một căn phòng bằng cẩm thạch trắng, bốn góc phòng đều đốt đuốc sáng trưng. Tôi nhìn lên trần căn phòng thì thấy hai con mãng xà quấn chặt lấy nhau, mà bất ngờ nhất là tôi lại đang ngồi trong một cỗ quan tài, nắp quan tài đã bị tôi đẩy sang một bên.

Khỉ gió! Đây là cái chỗ quái quỷ nào vậy? Là ai nhốt tôi vào trong quan tài?

Tôi trèo ra khỏi quan tài, nhìn quanh bốn phía, trong lòng càng lúc càng thêm nghi hoặc. Căn phòng xây bằng cẩm thạch trắng, trên đỉnh có khắc mãng xà, rõ ràng vô cùng quen thuộc. Tôi ngẫm nghĩ một chút, chợt nhận ra nơi này xem chừng khá giống với mộ thất dưới đáy biển.

Chuyện này thật vô lý!

Dạo quanh căn phòng một lượt, tôi mới phát hiện ra chuyện kì quái vẫn chưa hết. Quần áo trên người tôi không biết từ khi nào đã đổi sang đồ lặn bằng cao su, không những thế còn là loại đồ lặn của những năm tám mươi. Trong lòng càng thêm nghi hoặc, mẹ nó, kiểu dáng lỗi thời như vậy không biết là từ kẽ đất nào nứt ra?

Tôi rút lấy một cây đuốc ở góc tường, bước ra khỏi cửa của mộ thất. Bên ngoài hiện ra một hành lang, tôi thoáng nhìn qua đã “A” lên một tiếng, trời ạ, vẫn là hành lang cẩm thạch dẫn thẳng tới ba cánh ngọc môn, thực sự giống y đúc với ngôi mộ dưới đáy biển.

Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế này? Tại sao tôi lại quay trở lại đây? Da đầu tôi chợt run lên, suy nghĩ bắt đầu trở nên hỗn loạn, nơi này rốt cuộc là một mộ thất có kiến trúc giống với mộ thất dưới đáy biển, hay là tôi vốn chưa hề thoát khỏi mộ huyệt dưới đáy biển? Trời ơi, rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra với tôi đây?

Tôi nhéo má mình mấy cái, nâng cây đuốc cao hơn, cẩn thận quan sát xung quanh, nếu đây chỉ là một mộ thất hình dạng tương tự thôi thì chắc chắn phải có điểm gì đó khác biệt.

Trên hành lang có dựng một khung gỗ trông giống như giàn giáo, mặt trên có lót ván làm thành một cây cầu vượt sơ sài bắc qua hành lang, có thể tránh kích hoạt cơ quan, không biết do ai thiết kế. Tôi cẩn thận đặt chân lên, bước qua phía bên kia hành lang. Trong ngọc môn chính giữa hậu điện có ánh đuốc bập bùng, điện thờ phụ hai bên thì lại tối đen như mực.

Lúc này tôi mới chợt nhớ tới lão Dương. Hắn cùng tôi nhảy xuống thác nước, tôi rơi xuống đầm, hôn mê lâu như thế, hơn nữa còn đến một nơi không tưởng, chẳng biết giờ này hắn ra sao rồi?

Tôi vừa nghĩ vừa bước tới cánh cửa có ánh lửa truyền ra. Ánh lửa hắt ra từ khe hở dưới chân ngọc môn, xem ra rất sáng. Tới gần cửa, tôi nghe loáng thoáng bên trong có tiếng người vọng ra, vội vàng áp tai vào cửa, nghe được vài tiếng ho khan.

Tiếp theo có tiếng ai đó cất lên: “Làm sao đây? Không mở được quan tài?”

Một giọng nói khác chen vào, nghe có vẻ khó xử: “Tam Tỉnh nói tạm thời không nên động vào mấy thứ ở đây, chúng ta cứ nghe lời hắn thì hơn.”

Vừa nghe giọng nói của hai người kia, tôi liền ngẩn người. Người lên tiếng đầu tiên không ngờ lại là Muộn Du Bình, người thứ hai thì không nghe ra là ai. Hơn nữa bọn họ còn nhắc tới tên chú Ba, lẽ nào chú Ba đang ở nơi này?

Mà chuyện khiến tôi thực sự kinh ngạc lại diễn ra ngay sau đó, một giọng nói thứ ba lập tức cất lên: “Ngô Tam Tỉnh giờ còn đang ngủ, chúng ta chẳng qua chỉ mở ra xem chút xíu thì có chết ai, tôi ủng hộ Tiểu Trương.”

Tôi không hiểu hết những gì họ nói, nhưng không nghi ngờ gì nữa, người thứ ba này chắc chắn là con gái.

Những câu nói của bọn họ có ý gì đây? Nghe qua hình như là Muộn Du Bình muốn mở một cỗ quan tài, nhưng có người khác vì lời cảnh cáo của chú Ba mà tỏ ra do dự, sau đó lại có một người con gái đứng ra ủng hộ Muộn Du Bình. Tôi lập tức cảm thấy rối tinh rối mù, Muộn Du Bình chẳng lẽ đã tìm được chú Ba rồi sao?

Tôi vừa nghĩ vừa nằm úp sấp, mặt ghé sát vào khe cửa, muốn ngó qua xem người đang nói chuyện bên trong là ai. Đáng tiếc tầm nhìn của khe cửa có hạn, tôi chỉ trông thấy tấm lưng của một cô gái mặc bộ đồ lặn màu sắc giống hệt tôi, vóc dáng mảnh mai, mái tóc tết lại thành một bím dài.

Lúc này, tôi lại nghe giọng nói của người thứ tư: “Vậy thì tính sao với Tề Vũ đây? Tên nhóc này cũng quậy quá đi, giờ chẳng biết đã chui vào xó nào rồi, không lẽ chúng ta bỏ mặc hắn lại nơi này?”

Tôi nghe hắn nói thế, bỗng có chút bần thần. Tề Vũ, hình như cũng là một cái tên nằm ở phần đầu danh sách thành viên trong bút ký của chú Ba, khó trách tôi có cảm giác quen thuộc. Khoan đã, không phải vậy!

Tôi bỗng cảm thấy có gì đó rất bất thường. Tề Vũ, cái tên này đâu chỉ gợi cảm giác quen thuộc, mà giống như đã từng nghe đi nghe lại vô số lần, khiến lòng tôi nảy sinh một thứ cảm giác đặc biệt.

Lúc này, cô gái đứng cạnh khe cửa dời bước, trước mắt tôi xuất hiện khoảng trống. Tôi thấy Muộn Du Bình đang đứng cạnh một cỗ quan tài màu đen, cầm trong tay một cây xà beng, thoáng chút do dự, sau đó cô gái kia lại bước vào tầm nhìn của tôi. Tôi vừa nhác thấy gương mặt cô, tức khắc kinh ngạc đến độ suýt nữa đánh rơi cả cây đuốc đang cầm trên tay.

Người này chẳng phải là Văn Cẩm đó sao? Trời ạ, chuyện gì đang xảy ra thế này? Tuy tôi chưa gặp cô lần nào nhưng chú Ba lại có rất nhiều ảnh chụp cô, mỗi khi năm hết tết đến xem lại ảnh cũ, tôi thường xuyên nhìn thấy cô, cho nên chỉ cần liếc mắt một cái đã nhận ra ngay, tuyệt đối không sai vào đâu được.

Nỗi nghi hoặc trong lòng tôi đã dâng lên đến cực điểm, xém chút nữa là đẩy cửa bước vào trong. Đúng lúc này lại có một giọng nam lạ hoắc xen vào: “Ngôi mộ dưới đáy biển này lớn như vậy, chúng ta muốn tìm ra hắn nào có dễ, tôi thấy mình cứ kệ xác hắn đi thì hơn. Dọc đường đi chúng ta chỉ cần đánh kí hiệu, hắn thấy được tự nhiên sẽ tìm tới chỗ ta thôi. Tiểu Trương, chi bằng cậu cứ động thủ đi.”

Muộn Du Bình gật đầu, giơ xà beng lên chuẩn bị xuống tay. Chính lúc này, từ phối thất bên trái đột nhiên truyền tới tiếng nước xối xả, dọa cho tôi sợ đến hết hồn.

Người trong hậu điện nghe thế đều quay đầu lại, giọng nam kia liền hỏi: “Tiếng gì vậy, hình như là từ bên kia vách tường truyền tới!”

“Đi! Chúng ta mau đi xem!” Muộn Du Bình đặt xà beng xuống rồi chạy về phía cửa. Tôi thấy tình thế không ổn, vội vàng xoay người trốn vào căn phối thất bên phải, ném cây đuốc xuống đất rồi dẫm cho tắt ngóm, cũng vừa đúng lúc cả đoàn người chạy vào hậu điện, chui vào một cánh ngọc  môn bên cạnh. Tiếp đó liền có tiếng một cô gái hoảng hốt kêu lên: “Nhìn kìa, ở đây có một cái ao!”

Tôi nấp phía sau cánh cửa, trong lòng kinh ngạc tới cực độ. Chuyện xảy ra vừa rồi chẳng phải là những sự việc phát sinh sau khi chú Ba ngủ mà Trương Khởi Linh đã kể với tôi lúc trước hay sao? Nhưng tại sao nó lại xảy ra với tôi, không lẽ đây là ảo giác? Hay tôi đã thực sự phát điên rồi?

Bốn phía lại một lần nữa chìm vào bóng tối, tôi hít thật sâu vài hơi, muốn đi tìm cây đuốc mà thắp lại. Đúng lúc này, tôi bỗng phát hiện ra có người tay cầm ống đánh lửa bước xuống từ cây cầu vượt, len lén chuồn vào phối thất bên trái nằm sau ngọc môn rồi quét mắt nhìn vào bên trong. Tôi vừa nhìn thoáng qua lập tức nhận ra đó chính là chú Ba thời trẻ, trông chú tựa như đang vô cùng ảo não, đôi mày nhíu lại thật chặt.

Một lát sau, tiếng ồn ào của nhóm Trương Khởi Linh từ từ khuất xa, giờ này chắc hẳn bọn họ đang đi trên những bậc thang xoáy trôn ốc dẫn xuống đáy ao. Chú Ba dập tắt ống đánh lửa, nhanh chóng lẻn vào ngọc môn, tôi thấy thế thì sợ hết hồn, không cần bận tâm đây là ảo giác hay là trong mơ nữa, vội vã bám theo chú. Nhưng vừa chạm vào cánh cửa của phối thất bên trái, ló đầu ra tính nhòm trộm vào bên trong, bỗng dưng trước mắt thấp thoáng bóng người, chú Ba đã đột ngột phi ra từ sau cánh cửa, nhanh chóng bóp lấy cổ họng tôi, hạ giọng nói: “Thì ra là cậu theo dõi tôi!” Nói rồi cánh tay càng xiết chặt hơn vào yết hầu.

Trong lúc nguy cấp, tôi rất muốn hét lên thật to: “Chú Ba! Là cháu đây mà!” Nhưng có cố đến đâu cũng không thể thốt lên thành lời, chỉ còn cách ra sức gỡ từng ngón tay chú ra.

Còn đang giãy dụa, tôi chợt nghe một giọng nói cất lên: “Lão Ngô, tỉnh mau, cậu gặp ác mộng đấy à?”

Tôi giật mình một cái, đột nhiên trước mắt tối sầm, mọi thứ xung quanh cũng đột ngột biến mất, trước mắt là một khoảng mờ mịt mông lung, lại thấy lão Dương đang lay tôi tỉnh lại.

Thì ra chỉ là một giấc mộng thôi sao? Tôi cười gượng một tiếng, vuốt vuốt cổ mình rồi ngồi thẳng dậy. Quay đầu nhìn lại, tôi phát hiện ra mình đang nằm trên một ghềnh đá, ngay cạnh là đầm nước. Tiếng thác đổ ào ào vẫn còn vang vọng bên tai nhưng tôi không thấy thác nước đâu cả, trên ghềnh đá vẫn còn một đống lửa đang bập bùng cháy. Lão Dương đang đỡ lấy tôi, thuận miệng hỏi xem tôi có làm sao không.

Tôi phẩy tay nói không sao đâu, sau đó đưa tay nhéo mũi mình mấy cái, trong lòng cảm thấy vô cùng nghi hoặc. Tại sao mình lại có một giấc mơ kỳ quái như vậy chứ, chẳng lẽ là do ngày nghĩ vơ vẩn, đêm đến nằm mơ?

*chuẩn dzồi, cái này gọi là ngày nhớ đêm mong đây mà. Ban ngày nhớ anh riết rồi đêm đến mơ thấy anh luôn =)))))* 

Lão Dương đem bình nước qua cho tôi, tôi hớp lấy một ngụm rồi nhìn quanh bốn phía, sau đó khàn giọng hỏi hắn: “Đây là đâu thế? Vừa rồi tôi bị sao vậy?”

Lão Dương nói:  “Chỗ này là bên bờ cái đầm dưới chân thác, con thác ở về phía đằng kia. Vừa rồi lúc rơi xuống nước cậu đã ngất đi, tôi phải giữ chặt lắm cậu mới không bị dòng chảy ngầm dưới chân thác cuốn xuống đáy nước. Cậu cũng nên tạ ơn tôi mới phải đạo, giờ tay chân tôi mỏi rã rời ra rồi, muốn nhấc cũng nhấc không nổi.”

Tôi lầm bầm chửi rủa hắn một tiếng rồi thử đứng dậy, thấy thân thể không có gì đáng ngại mới mệt nhọc di chuyển vài bước rồi quan sát bốn phía xung quanh. Ánh sáng từ đống lửa soi rọi một bãi đá không lớn hình trăng lưỡi liềm. Một bên là đầm nước đen kịt diện tích cực lớn, từ trên đỉnh hang có vô số thạch nhũ sần sùi to bằng bắp chân buông xuống mặt nước, hình thành nên các trụ đá muôn hình muôn vẻ. Mà xung quanh mép nước cũng có vô số hang động đá vôi, lớn thì bằng cái huyệt, nhỏ thì chỉ bằng lỗ chuột chui, cái nào cái nấy sâu hun hút, cái nhô lên cao, cái chìm dưới nước, từ những hang động ấy nước ngầm không ngừng hút vào chảy ra, nhìn toàn cảnh thì thấy đây rõ ràng là một hồ ngầm đặc trưng của địa hình hang động đá vôi.

Tôi biết loại địa hình này thường được hình thành vào kỷ Băng hà đệ tứ, trải qua hơn vạn năm từ từ mở rộng mới đạt tới quy mô như hiện giờ. Những hang động có niên đại xa xôi hơn cả lịch sử loài người ấy không ngờ lại xuất hiện ngay trong núi Thiên Môn.

Trên bãi cạn ngoại trừ hai người chúng tôi ra còn có vô số những nhánh cây lẫn rác rưởi dạt vào, lão Dương kéo chúng lên hong khô, đống lửa kia cũng dùng mấy thứ này mà nhóm lên. Nhiệt độ đầm nước thấp kinh người, nếu không có đống lửa này chỉ e tôi đã chết cóng mất rồi.

Tôi nghĩ tới nhóm người Thái thúc, bèn hỏi lão Dương: “Những người còn lại ra sao rồi?”

Lão Dương nói: “Mấy con rùa đó chỉ e không được may mắn như chúng ta, từ lúc rơi xuống nước tôi cũng chẳng thấy bọn họ đâu nữa, còn không rõ họ có nhảy xuống hay không. Tôi nghĩ nếu bọn họ cũng nhảy xuống như chúng ta, thì một là trôi dạt vào chỗ nào đó, hai là đã đi chầu hà bá cả rồi.” Dừng lại một chút rồi tiếp lời: “Nhưng tình hình hai ta cũng chẳng khá hơn là mấy, trang bị mất hết, sắp tới không biết đi theo lối nào mới phải. Cậu nhìn nơi này xem, ngóc ngách nhiều vô số kể, loại động này nổi tiếng phức tạp chẳng khác gì mê cung, muốn tìm lối thoát là chuyện cực khó.”

Tôi cân nhắc một chút, nhìn qua có thể ước lượng những hang động đá vôi nhô lên khỏi mặt nước đủ lớn để đi lại được đại khái có khoảng bảy tám cái, tính cả những cái hang khuất trong bóng tối thì còn nhiều hơn, mới nói: “ Vừa rồi tôi có nghe tên mập người Quảng Đông kia nói, muốn đi qua khu động đá vôi này cần phải tìm được xích sắt người cổ đại dùng để dẫn đường. Những đoạn xích sắt này đều chìm sâu dưới làn nước, một đầu nằm phía cuối mật đạo, đầu kia chắc hẳn phải nằm trong đầm nước này, nếu ta tìm được thì có thể lần theo nó tiến vào cổ mộ.”

Lão Dương nhíu mày đắn đo suy nghĩ rồi nói: “Nói đến xích sắt tôi lại nhớ tới chuyện này. Cậu biết không, trong nháy mắt rơi xuống, đầu óc tôi bỗng dưng tỉnh táo trở lại, thoáng cái đã chìm xuống tầm sáu bảy mét dưới mặt nước. Dưới đáy nước con mẹ nó tất cả đều là tượng đá hình đầu người mà chúng ta  nhìn thấy dọc theo thạch đạo, trong chớp mắt hình như tôi còn thấy một sợi xích sắt vắt ngang dưới nước. Nhưng nói cho cậu biết, sợi xích ấy không thông tới một trong những động đá vôi kia, mà xuyên thẳng vào dòng nước xiết dưới chân con thác.”

Tôi nghe xong không khỏi sửng sốt, làm sao có thể chứ, nếu đúng như lời lão Dương nói thì cửa vào thông với cổ mộ không lẽ lại ẩn trong dòng nước xiết phía sau con thác?

Tôi nghe tiếng thác nước đổ ào ào cách đó không xa, nhớ lại tình cảnh khi chúng tôi rơi xuống nước, trong đầu chợt lóe lên tia sáng, quay sang nói với Lão Dương: “Vậy thì đúng rồi, nếu tôi đoán không lầm thì cổ mộ này có lẽ không xây trên ‘dương thế’ của chúng ta, mà ẩn giấu dưới âm tào địa phủ. . .”

Địa ngục!

Lão Dương nghe tôi nói thế, không rõ tôi có ý gì. Bị ngữ khí lạnh lùng của tôi thu hút, hắn bèn thấp giọng hỏi: “Cậu nói nhăng nói cuội gì vậy, làm sao có chuyện đó được?”

Tôi lắc đầu hỏi lại: “Cậu còn nhớ ông già họ Lưu trong thôn đã nói gì với chúng ta không, thác nước Hoàng tuyền cổ được một vị đạo sĩ triều Thanh nhắc đến và truyền thuyết về âm binh vạn mã di chuyển trong núi ấy?”

Lão Dương gật đầu nói: “Dĩ nhiên là nhớ chứ, ông ta nói trong lòng núi Thiên Môn có một thác nước Hoàng tuyền, thác nước này chính là lối đi nối liền hai cõi âm dương, lúc ấy chẳng phải cậu đã nói đấy chỉ là mê tín thôi sao?”

Tôi đáp lại: “Không, bây giờ xem ra những lời đó không phải là mê tín, chẳng qua chúng ta hiểu lầm ý tứ của người xưa thôi. Cậu nhớ lại đi, vừa rồi chúng ta rơi từ trên thác nước xuống, do có mạch nước nóng nên nước trong thác nhuộm một sắc vàng rất kỳ dị, nếu tôi đoán không lầm thì đó chính là thác nước ‘Hoàng tuyền’.”

Lão Dương suy nghĩ một chút rồi nói: “Hình như là thế, nhưng không thể đâu, chỉ những người từng đi vào trong núi và tận mắt chứng kiến quang cảnh này mới biết được chuyện về thác nước. Nhưng địa hình nơi đây phức tạp, người bình thường không phải ai cũng có thể tiến vào.” Nói tới đây, hình như chính hắn cũng nhận ra điều gì, bèn kêu to: “Con mẹ nó, không lẽ gã thầy phong thủy triều Thanh trong truyền thuyết kia cũng là đồng nghiệp với chúng ta?”

Tôi gật đầu đồng ý, khen đểu: “Hóa ra cậu vẫn còn biết suy luận.”

Lão Dương tràn đầy hưng phấn: “Vậy là rõ rồi, cậu có nghĩ phần lớn truyền thuyết về âm binh bắt đầu lưu truyền từ triều Thanh, phải chăng đều từ miệng mấy gã thầy phong thủy cố ý phát tán ra ngoài?”

Tôi gật đầu: “Rất có thể là như thế, có điều hiện giờ chúng ta không cần để ý tới chuyện này. Cậu nhớ lại xem, trong truyền thuyết còn có một câu ‘thác nước Hoàng tuyền là lối đi nối liền hai cõi âm dương’, cậu nghĩ xem xích sắt thông ra phía sau thác nước, vậy mặt sau thác nước ắt hẳn phải có lối đi thông tới cổ mộ. Nói cách khác, chẳng phải cổ mộ kia đặt ở âm phủ hay sao?”

Sắc mặt lão Dương trở nên khó coi, nói: “Không thể nào, cậu đừng dọa tôi. Nếu nơi đó thực sự là âm tào địa phủ, chúng ta đi vào đó chẳng phải là cầm chắc cái chết hay sao?”

Tôi mắng hắn một tiếng rồi nói: “Dốt, chuyện như thế mà cậu cũng tin được à. Cậu nghĩ xem, nếu mấy gã thầy phong thủy kia mà là đồng nghiệp với chúng ta, thì lời họ nói không thể lí giải theo kiểu thẳng tưng như thế được. Tôi nghĩ câu nói này có thể hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, có thể đó là một câu tiếng lóng đương thời, ám chỉ thác nước này chính là lối đi thông giữa cổ mộ với thế giới bên ngoài; thứ hai, có lẽ bọn họ đã nhìn thấy cảnh tượng gì đó trong động đá vôi phía sau thác nước, cảnh tượng ấy khiến họ nghĩ rằng mình đã bước vào âm tào địa phủ. ”

Tôi thoáng dừng chân, tiếp lời: “Nếu là ý thứ hai, vậy chúng ta phải chuẩn bị tâm lý cho thật vững đi, cảnh tượng trong đó e rằng sẽ rất kinh khủng đấy. . .”

Lão Dương trầm mặc một lúc mới nói: “Hay là chúng ta quay về đi…”

Tôi lắc đầu, vất vả lắm mới đến được đây, không vào xem thử một lần cho biết thì tiếc lắm. Hơn nữa, thác nước này to lớn hùng vĩ, làm sao mà leo ngược lên trên được, hang đá vôi bốn bề lại là chốn cửu tử nhất sinh, bây giờ chỉ có một đường là đi vào cổ mộ rồi tìm lối thoát ra ngoài mới là lựa chọn sáng suốt.

Lão Dương không thuyết phục được tôi nên đành phải nghe theo, chúng tôi vừa nghỉ ngơi vừa bắt đầu kiểm tra trang bị xem còn sót lại những món gì.

Vũ khí thì chúng tôi hiện có Phách tử liêu và khẩu súng lục TT-33 (*) lão Dương lấy thêm được từ chỗ Nhị Ma Tử, về mặt hỏa lực hẳn là không thành vấn đề. Mặt khác, tôi mở cái ba lô lấy được từ thi thể dưới nước kia, tìm thấy trong đó một ít đồ hộp không biết đã quá hạn hay chưa, có cả rượu trắng, bình nước, găng tay, còn có một lượng lớn cọ và màu vẽ.

(*) Nguyên văn là

托卡列夫手

, một loại súng của Nga cải tiến từ TT-30, về sau Trung Quốc bê mẫu súng này về sản xuất hàng loạt và đến giờ vẫn còn dùng.

Lão Dương thấy mấy thứ đó chẳng dùng vào việc gì được nên định ném đi cho nhẹ. Tôi vội nói, rượu có thể chống lạnh, màu vẽ có thể dùng để đánh dấu đường đi, găng tay cũng có lúc phải dùng đến, nói chung không có gì là thừa thãi cả, giữ lại hết vẫn hơn.

Xem đi xét lại một hồi tôi mới nhận ra chuyện đau đầu nhất lúc này chính là chúng tôi không có thiết bị chiếu sáng. Đèn của lão Dương đã cạn sạch pin, của tôi thì không biết đã rơi mất từ lúc nào, lát nữa bơi dưới nước mà phải chiếu sáng bằng đuốc thì thật sự không ổn.

Lão Dương cầm súng tiến lên mấy bước, nhìn bốn bề tối tăm, nói: “Giờ chỉ còn một cách, chúng ta gom đống củi này lại, châm cho lửa cháy thật lớn, sau đó nương theo ánh lửa mà bơi qua bên kia, nếu như bơi không tới thì cũng có thể theo ánh lửa mà bơi về, cậu thấy thế nào.”

Tôi suy nghĩ một chút, biết đây là biện pháp khả thi duy nhất, bèn nói: “Được rồi, bọn mình cứ thử đánh cuộc một lần xem sao.”

Chúng tôi cởi quần áo nhét hết vào trong ba lô, sau đó lại dùng găng tay và gậy gỗ làm thành mấy cây đuốc ngắn bỏ trong ngăn không thấm nước của ba lô, tiếp đó lại đốt lên một đống lửa lớn. Khi đã ấm người rồi, hai chúng tôi nhảy xuống đầm, bắt đầu lần theo tiếng nước mà bơi về phía dòng thác.

Nước lạnh đến tê tái, chỉ mới bơi được vài sải tôi đã cảm thấy toàn bộ nhiệt lượng trên người đều bị hút đi hết, cũng may mà gần đây tôi có hơi mập ra, không đến nỗi chưa chi đã tê cóng người.

Bơi chừng năm phút, tiếng nước dần dần trở nên rõ ràng, hai chúng tôi dừng lại, vừa giữ thăng bằng trong nước vừa lắng nghe động tĩnh từ bốn phía, muốn xác định đúng phương hướng rồi mới bơi tiếp.

Lúc này, cách chỗ chúng tôi không xa có thứ gì đó lao xao trên mặt nước, chúng tôi vội quay đầu lại, nhưng chỗ này đã cách đống lửa quá xa nên không thể nhìn được gì.

Lão Dương rút khẩu TT-33 ra, vẩy khô nước trong nòng rồi cảnh giác giương cao súng nhìn quanh bốn phía, hỏi: “Lão Ngô, dưới này chắc không có con cá Hucho Taimen nào chứ?”

Tôi lạnh sống lưng, sực nghĩ vùng nước dưới này rộng lớn, nếu thực sự có cá ăn thịt người thì chúng tôi đã toi mạng từ đời nào rồi. Vừa định bảo không có, cách đó không xa lại truyền đến tiếng nước cực kỳ rõ ràng, tôi chợt cảm thấy bất an, bèn nói: “Tớ không biết, nói gì thì nói chúng ta cũng mau bơi đi thôi, loại cá này sợ tiếng ồn, chúng ta càng đến gần thác nước thì càng an toàn.”

Hai chúng tôi lập tức sải tay tiếp tục bơi về hướng thác nước, lúc này ánh lửa phía sau càng lúc càng yếu ớt, chỉ còn là một đốm sáng nhỏ. Chúng tôi đành phải kiên trì cùng nhau tiến về phía trước trong bóng tối mịt mùng.

Chỉ chốc lát sau, dòng nước dần dần chảy xiết, chúng tôi đã đến gần khu vực thác nước đổ xuống. Chúng tôi dốc sức bơi nhưng tốc độ lại càng ngày càng chậm, bơi rất khó khăn, tôi nghiến răng muốn đạp nước lao về phía trước nhưng vài lần đều không thành.

Thể lực tiêu hao từng chút một, nghĩ đến tình cảnh bị dòng nước đẩy ngược trở về, lòng tôi nóng như lửa đốt. Lúc này lão Dương gọi to, nói rằng cứ bơi kiểu này thì chắc chắn không qua nổi, phía trước là vùng nước xoáy ngay dưới chân con thác, bên trong toàn là xoáy nước lớn nhỏ đủ kiểu, nếu muốn vượt qua bắt buộc phải lặn xuống đáy đầm rồi từ từ bơi qua phía dưới các dòng xoáy.

Nói xong hắn liền ngụp đầu lặn sâu vào trong nước. Tôi cũng bắt chước hắn cố gắng lặn sâu xuống mấy mét. Xuống đến đáy hồ, chợt thấy đằng trước có một khoảng sáng trắng chập chờn.

Tôi nhận ra ánh sáng ấy chính là từ cái đèn pin không thấm nước của mình, trong lòng thầm nhủ đồ mua mất hơn một ngàn đồng có khác, quả nhiên là hàng xịn, đến giờ vẫn còn sáng, vội dồn sức bơi về phía đó.

Dưới đáy hồ không có bất cứ một sinh vật gì, trong vùng sáng trắng tôi nhìn thấy rất nhiều tượng người đá sắp xếp ngay ngắn bên dưới, phần đầu người đã rữa nát ra hết chỉ còn lại sọ trắng có cái đã long ra, có cái vẫn dính chặt trên cổ tượng. Giữa đáy hồ thấp thoáng một bệ đá, trên đó hình như có một khối thi thể bọc vải trắng đang lửng lơ trong nước.

Nhưng đèn pin mới chính là mối quan tâm lớn nhất của tôi lúc này. Tôi nhìn qua vài lần rồi chẳng để ý đến nữa mà lách người vào giữa những bức tượng, bám lấy thân thể cố định của chúng rồi mới dần dần hướng về phía đèn pin.

Đúng lúc tôi vừa tiến lại gần nó, một luồng nước bỗng nhiên ập đến từ sau lưng. Tôi biết có chuyện không ổn, lập tức đề phòng, nhưng không sao ngờ được mình sẽ bị thứ gì đó đụng mạnh vào người. Trước mắt thoáng thấy một bóng trắng hiện lên va trúng vào tay tôi, cánh tay đang bám chặt tượng đá không còn trụ nổi, thoáng cái buông lỏng, cả người liền bị đẩy lên phía trên.

Tôi biết tình hình không ổn, trong chớp mắt đã bị đẩy vào trung tâm của vùng nước xoáy phía trên. Lực đẩy tôi lên trên đột nhiên thay đổi phương hướng, ném tôi lệch sang một bên khiến tôi chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, bị dòng nước xoay vòng vòng một hồi, cuối cùng cũng chẳng còn kiểm soát được cơ thể mình nữa.

Trong lúc lộn xộn tôi không biết mình đã bị cuốn đi bao nhiêu vòng, chỉ thấy cái bóng trắng hiện lên trước mắt vài lần nhưng không nhìn ra đó là cái gì.

Ý thức nhanh chóng trở nên mơ hồ, tôi còn tưởng mình đã chết chắc rồi, nào ngờ đúng lúc đó lưng tôi bị thứ gì đó táng mạnh vào. Cơn đau giúp tôi tỉnh táo lại, vội vàng quơ tay về phía sau, vừa hay tóm được sợi xích sắt mà lão Dương nói.

Cuối cùng tôi bỏ qua cái đèn pin, kéo sợi xích, cố gắng bò dọc theo nó đến đầu bên kia, trong chốc lát đã tới dưới chân thác nước. Nhưng lúc này tôi đã hết hơi, chỉ cảm thấy một luồng áp lực ngàn cân trút lên đầu ép tôi xuống tận đáy hồ, bò đi chưa đến hai mét đã không còn nhúc nhích gì được nữa.

Lão Dương từ đằng sau bơi đến, chụp lấy tay tôi kéo lên trên. Chúng tôi vừa níu sợi xích vừa giẫm đạp lung tung lên đám tượng đá, cuối cùng cũng vượt qua vùng chân thác nước. Tôi thấy áp lực trên đầu đột nhiên giảm bớt, liền nổi lên mặt nước há miệng thở dốc, hoa mắt chóng mặt.

Bốn bề tối đen như mực, chỉ nghe tiếng thở dốc của lão Dương, hắn ho khan vài tiếng rồi hỏi tôi: “Không sao chứ? Hình như chúng ta đã vượt qua được rồi.”

Tôi cũng ho mấy tiếng đáp lại: “Mau đốt lửa lên xem, nước trong hồ này lạ lắm, chỉ sợ dưới đó có thứ gì không sạch sẽ.”

Lão Dương đánh bật lửa tanh tách muốn quan sát cảnh tượng bốn phía, nhưng xung quanh bắn đầy bọt nước, lửa vừa lóe lên đã tắt ngóm.

Chúng tôi mò mẫm bơi vào phía trong, bỗng bên tai tôi lại nghe âm thanh giống như tiếng nước đã từng nghe bên ngoài con thác, lúc này đã ở rất gần, giống như cách tôi hai ba mét có thứ gì đó đang bơi lội.

“Cẩn thận đấy!”, tôi nhớ đến cái bóng trắng đã đụng vào mình dưới nước, lập tức trở nên căng thẳng, vội nói với lão Dương: “Hình như quanh đây có…”, lời còn chưa dứt, tôi đột nhiên cảm thấy có một bàn tay trơn ướt lạnh lẽo đặt nhẹ lên vai mình.

Tôi sợ quá thét lên, thầm hỏi rốt cuộc đây là thứ gì, chẳng lẽ lại là tượng đầu người dưới nước sống lại? Theo bản năng, tôi lộn người một vòng trong nước, đạp mạnh vào vật đằng sau đẩy nó ra xa, sau đó cố gắng ngoi lên gọi lão Dương thật to: “Mẹ nó, dưới nước có quỷ! Bật lửa lên mau!”

Lão Dương đã đánh bật lửa, thấy tôi hoảng sợ vội đưa bật lửa sang phía tôi. Không đưa qua thì thôi, vừa có ánh sáng soi đến, da đầu cả hai chúng tôi lập tức tê rần, sợ đến đứng tim. Chỉ thấy từ dưới mặt nước sau lưng tôi trồi lên một cái đầu trắng bệch đang nhìn mình trừng trừng với vẻ mặt hết sức dữ tợn.

Chúng tôi hoảng sợ, vội bơi lùi lại một chút, lão Dương cuống quít muốn rút súng ra nhưng lại bị kẹt không tài nào rút ra được.

Kẻ đó trợn trừng cặp mắt trắng dã, miệng mấp máy như muốn nói điều gì, sau đó bỗng dưng bổ nhào về phía tôi. Tôi hét to một tiếng muốn bỏ chạy, nhưng lại phát hiện không còn đường lui nữa, đầu kẻ đó lập tức đè lên người tôi.

Tôi gào thét như điên, cố gắng đẩy “nó” ra xa, lại bị “nó” cố sống cố chết ôm chặt cứng. Trong cơn hỗn loạn, tôi chợt nghe kẻ đó ghé tai mình nói rành mạch một câu: “Cứu… mạng…”

Tôi sửng sốt, tay chân cũng đờ ra, đầu óc choáng váng, thầm nghĩ quỷ nước sao lại đi kêu cứu mạng? Vội đỡ cái đầu kia lên, gạt tóc hắn ra hai bên nhìn cho rõ, nhìn rõ rồi thì thiếu điều hộc máu.

Lạy chúa! Có phải là quỷ nước gì đâu, đây chẳng phải là gã trợ lý Lương trong đám người kia sao.

Gã đã kiệt sức, cặp mắt trợn trắng muốn ngất đi, chẳng trách sắc mặt lại tái mét đến thế này. Tôi nhanh chóng vòng ra sau lưng gã, đỡ gã lên đồng thời gọi lão Dương đến giúp một tay.

Lão Dương đến gần, nhìn qua là nhận ra hắn ngay, cau có hỏi: “Mẹ kiếp, sao tên này lại ở đây? Hắn vào bằng cách nào thế?”

Tôi đáp: “Có khả năng tên này rơi xuống đây một mình, không dám tự tung tự tác nên đành âm thầm theo dõi chúng ta, thấy chúng ta xuống nước hắn cứ tưởng đã tìm được đường ra ngoài mới cùng theo xuống. Chẳng qua hắn không thể ngờ chúng ta lại muốn đến một nơi nguy hiểm như vậy.”, tiếng nước tôi nghe thấy dọc đường tới đây xem ra chính là của gã.

Trợ lý Lương còn đeo ba lô, thứ đó thấm nước tăng trọng lượng kéo theo gã chìm xuống, lão Dương vội vàng tháo nó ra khỏi người gã rồi hỏi tôi: “Chúng ta làm gì với tên này bây giờ? Hắn là đồng bọn của đám người kia, mang theo có sợ rước thêm phiền phức không?”

Tôi cũng thấy nhức đầu, nhưng có phiền phức đến đâu cũng phải mang theo, đâu thể để mặc gã chết chìm ở đây được, bèn nói: “Bây giờ cũng chẳng còn cách nào khác, thôi ta cứ tìm chỗ lên bờ đã rồi xử lý hắn sau.”

Chúng tôi chỉnh lại tư thế, bơi vào bờ thêm vài mét, bên dưới bỗng xuất hiện một thềm đá khá rộng, từ dưới đáy lên đến mặt nước khoảng mười bậc, phần nhô lên trên lại kéo dài hơn mười bậc nữa. Chúng tôi từ từ tiến lại gần, sau đó đạp lên từng bậc thang, bước ra khỏi hồ nước.

Tôi mệt mỏi rã rời, liền ngã người xuống bậc thang há miệng thở dốc. Lão Dương bên cạnh lại phấn chấn lạ thường, lấy cây đuốc đã chuẩn bị lúc nãy ra, tẩm thêm rượu trắng rồi châm lửa, bốn phía tức khắc sáng bừng lên.

Tôi ngoảnh đầu quan sát xung quanh, hóa ra cái gọi là cửa thông đến Địa phủ chẳng qua chỉ là một hang động đá vôi ẩn đằng sau thác nước. Cái hang này không lớn không nhỏ, xem ra là hang tự nhiên, nhưng ở vài chỗ có dấu vết tu sửa do con người để lại.

Tận cùng dãy bậc thang là một thạch đài bằng đá vân xanh, bốn phía còn có bốn cột đá khắc đầy hoa văn hình chim thú, giữa thạch đài có đặt một cái bình siêu bự hình dạng kì quái làm bằng thanh đồng, trông giống như một cái hồ lô khổng lồ cao hơn tôi cả một cái đầu, lốm đốm hoen rỉ, trên mặt đều là hoa văn rắn hai thân và hoạt động cúng tế.

Đây là một đàn tế, tôi thầm nghĩ, Xá tộc coi trọng việc cúng tế chứ không nặng về chuyện chôn cất. Vật này xuất hiện ở đây, xem ra mình đã đến rất gần cổ mộ rồi.

Chúng tôi bước lên thạch đài, để gã trợ lý Lương nằm trên mặt đất cùng với ba lô, sau đó xem xét phía bên kia thạch đài. Ở đó có một dãy bậc thang đá rộng rãi uốn lượn dẫn xuống sâu bên trong hang động này, ước chừng hơn trăm bậc, ánh sáng từ cây đuốc không thể chiếu tới đáy động nên không ai biết được có thứ gì đang chờ mình bên dưới. Tôi nói với lão Dương: “Nếu đây là đường vào Địa phủ thì chỗ này chính là Quỷ môn quan, bên dưới chỉ e chính là mười tám tầng địa ngục, cậu có sợ không?”

Lão Dương chỉ vào trợ lý Lương ngay bên cạnh, nói: “Sợ khỉ gì, tớ chỉ hận không thể mau mau bước xuống thôi, nhưng còn gã này thì giải quyết thế nào đây?”

Cửa vào cổ mộ đã gần đến thế, tôi và lão Dương đều sốt ruột muốn lập tức xuống đó xem thử, thế mà lại vướng phải thằng cha họ Lương này, nói sao cũng không thể bỏ mặc gã lai được nên đành đập cho gã tỉnh trước rồi tính sau.

Chúng tôi lột đồ gã ra, sau đó lấy rượu trắng dội lên, sắc mặt gã nhanh chóng dịu lại. Lão Dương vạch mắt hắn ra nhìn rồi hỏi: “Này, có nói chuyện được không đó?”

Trợ lý Lương dần dần khôi phục lại ý thức, biết đã lọt vào tay chúng tôi, bất đắc dĩ gật đầu, ho khan một tiếng.

Lão Dương nói: “Anh đừng sợ, bọn tôi không giống như đám người mấy anh đâu, sẽ không bắt anh phải làm gì hết. Nhưng bọn tôi cũng muốn đảm bảo an toàn của bản thân, cho nên anh cố mà thành thật một chút, chúng tôi sẽ mang anh theo vào, bằng không bắn bỏ luôn tại chỗ, hiểu chưa?”

Trợ lý Lương gật gật đầu, mở miệng định nói gì đó rồi lại nói không nên lời.

Lão Dương lại trút thêm mấy ngụm rượu vào miệng gã đến khi gã ho sặc sụa mới thôi, sau đó rút dây lưng ra trói gã thật chặt, còn nói với tôi: “Tớ vẫn không yên tâm, mấy tên này toàn là dân xóm liều, cứ trói hắn lại đã rồi tính sau.”

Trợ lý Lương cũng chẳng còn hới sức đâu mà chống cự, để mặc lão Dương trói gô gã lại. Chúng tôi thấy gã không có gì đáng ngại mới đỡ dậy để cho gã dẫn đầu, ba người đi đến bên kia thạch đài, bước lên những bậc thang đá dẫn thẳng xuống dưới.

Thật ra thì người Xá quốc không am hiểu về chế tạo cơ quan hay kỹ thuật tinh xảo, nhưng vì cẩn thận, chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian mới đi hết hơn trăm bậc thang này, cuối cùng trước mặt chúng tôi hiện lên một bãi đất bằng, xem ra đã đến đáy hang.

Cuối những bậc thang là một cây cầu đá đen kịt nhẵn bóng, tiếp đó là một vách đá.

Loại địa hình này, có thể là do các mạch nước ngầm chảy trong nham mạch dưới lòng đất nơi đây thực chất có kết cấu hình bậc thang hướng xuống dưới, cộng thêm một ít vận động địa chất ở vùng núi này, tạo ra một loạt các vết đứt gãy địa tầng mà hình thành nên.

Dưới vách đá là một khoảng không tối đen sâu hun hút, không thể nhìn thấy được gì.

Chúng tôi nhìn mà phát rầu, nếu có đèn pin thì tốt rồi, lúc này chúng tôi chỉ có một cây đuốc nhỏ thì làm sao mà thấy được bên dưới có gì? Lão Dương hỏi tôi làm sao bây giờ, có cần ném luôn cây đuốc xuống không. Tôi nói vậy sao được, ném đuốc đi rồi cả bọn xuống đó kiểu gì?

Lúc này trợ lý Lương mới thều thào nói: “Hai cậu, trong… trong ba lô của tôi có súng báo hiệu…”

Lão Dương vội lục trong ba lô của hắn, quả nhiên tìm được một khẩu, liền ngạc nhiên nhìn trợ lý Lương: “Chà, anh cũng khá lắm đó, rất biết hợp tác nha.”

Tôi kiểm tra sơ qua, thấy súng báo hiệu không có vấn đề gì, bèn mở chốt an toàn sau đó nhắm vào phần trên vách đá, bắn ra một quả pháo sáng.

Ánh sáng bừng lên rọi sáng một vùng rộng lớn, trong nháy mắt cả sơn động hiện lên rõ ràng ngay trước mắt tôi.

Chúng tôi nhìn xuống dưới, cả ba người lập tức ngây ra tại chỗ.

Mới đầu tôi vẫn chưa nhận ra mình đã nhìn thấy thứ gì, đến khi nhận ra lập tức ngớ người, miệng há hốc, gần như không dám tin vào mắt mình.

Trợ lý Lương đi đằng trước vốn đang kiệt sức, vừa thấy khung cảnh phía dưới bước chân đã lảo đảo, suýt chút nữa là ngã nhào xuống đất, lão Dương cũng tái mặt, bất giác lùi lại một bước.

Dưới vách đá mười mấy mét là một hang động thiên nhiên rất lớn, bên trong chất đầy ắp thứ gì đó trông giống như củi khô, nhìn kỹ lại mới biết hóa ra toàn là xương cốt, lớp này nối tiếp lớp kia, có chỗ còn chồng chất lên thành đống lớn, đếm sơ sơ cũng phải được hơn vạn bộ xương.

“Đây… đây là chỗ quái quỷ nào vậy!”, tôi hoảng hồn nói, “Trời đất ơi, đây chẳng phải một hố chôn tập thể sao?”

Chẳng trách mấy ông thầy phong thủy thường nói mình có thể nhìn thấy âm phủ, cảnh tượng này quả thực khiến người ta chấn động, dẫu là ai nhìn thấy chắc chắn đều liên tưởng đến khung cảnh dưới địa ngục!

Nhưng không hiểu vì sao tôi lại cảm thấy cảnh tượng trước mắt trông vô cùng quen thuộc, hình như đã từng gặp qua ở đâu đó? Tôi nhíu mày cố gắng hồi tưởng, đột nhiên trong tâm trí hiện lên một hình ảnh tương tự, phải rồi! Cái động xác gần Miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông chẳng phải rất giống với nơi này sao?

Suy nghĩ của tôi thoáng chốc rối bời, cảm giác như cổ họng nghẹn đắng, nói không nên lời. Nơi này quả nhiên có liên quan tới động xác gần Miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông! Cái động xác kia có một cỗ quan tài thủy tinh treo trên vách đá còn có một nữ thi áo trắng tóc dài chấm đất, nơi này chẳng biết có hay không?

Tôi vội vàng nhìn khắp xung quanh, lúc này pháo sáng đã rơi xuống cuối quãng hành lang quanh co. Trong khoảnh khắc ánh sáng vụt tắt, tôi thấy loáng thoáng giữa đống thi thể hình như có thứ gì đó rất lạ.

Chương 15: Nghỉ ngơi

Editor: Biển Bạc

Beta: Tiểu Điệp

♥♥♥

Lão Dương nạp thêm pháo sáng, hướng về phía quả ban nãy vừa xịt, bắn thêm một phát, lần nữa chiếu sáng khu vực bên đó. Tôi nhận ra đó là một khoảnh đất trống không có bất cứ một thi thể nào chiếm cả trung tâm huyệt động, rộng tầm hai mươi, ba mươi mét vuông. Ánh sáng từ quả pháo không đủ để tôi có thể nhìn rõ khu vực này có gì đặc biệt không, chỉ có thể khẳng định rằng khoảnh đất trống đấy trũng xuống phía dưới, chắc là một cái hố.

Lúc này lão Dương đã bình tĩnh lại, chỉ vào cái hố kia, nói rằng hố tuẫn táng ba năm trước hắn nhìn thấy khá giống với nơi này, ở giữa cũng có một khoảng đất trống như vậy, chạc cây thanh đồng mà bọn họ có đào thế nào cũng không đến được gốc chính là ở giữa cái hố này.

Ánh sáng từ quả pháo bắt đầu lụi dần, huyệt động lại chìm vào bóng tối. Lão Dương còn định nạp thêm một viên nữa nhưng bị tôi ngăn lại. Những gì cần thấy cũng đã thấy rồi, không cần phung phí.

Hắn lại hỏi tôi: “Làm sao bây giờ? Náo loạn cả nửa ngày, hóa ra Âm phủ chính là chỗ như thế này sao, nói không chừng đây cũng là một nơi cúng tế, chúng ta có nhất thiết phải xuống không?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “‘Hà mộc tập’ của ông chủ Lý có nói trong đấu có đồ tốt hẳn là không sai, chúng ta theo xích sắt đến chỗ này, về lộ trình coi như không có vấn đề. Tôi thấy thứ hắn nói đến ở ngay bên dưới, chỗ khả nghi nhất chính là khoảng đất trống giữa đám thi thể, tôi nghĩ hay là chúng ta qua đó xem thử… Nhưng mà từ xưa đến nay, những nơi tích tụ xác chết luôn là nơi ma quái nhất, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống tệ nhất có thể xảy ra.”

Tôi vốn định nhắc đến chuyện đã gặp phải ở Sơn Đông, nghĩ lại, hai người kia nghe mà không bị hù chết mới là lạ, vì thế đành nói khác đi.

Lão Dương hoàn toàn không muốn xuống đó, nhưng người đề nghị tới đây chính là hắn, bây giờ không thể rút lui, đành phải bất đắc dĩ gật đầu.

Tôi nhớ lại cảnh tượng nhìn thấy ban nãy, muốn tới được khoảng đất trống kia bắt buộc phải xuống dưới vách đá, băng qua đám thi thể, từ cầu đá chỗ chúng tôi đứng đến chỗ mảnh đất bằng phẳng kia khoảng chừng hai trăm mét, hẳn là không phải vấn đề lớn. Vấn đề ở đây là làm thế nào để leo xuống được vách đá cao mười mấy mét này. Chúng tôi không có dây thừng, tay không đi xuống thì không có khả năng, có lẽ cần phải bàn bạc kĩ hơn.

Còn vấn đề nữa là dưới đó có bánh tông hay không, bên dưới chắc cũng không có nhiều thi thể được bảo tồn nguyên vẹn, đại đa số đã khô queo hoặc trở thành xương khô. Nhưng ban nãy lúc bắn pháo sáng, tôi thấy có rất nhiều thi thể có nét mặt vô cùng dữ tợn, hoàn toàn vượt ra khỏi giới hạn biểu hiện cảm xúc của người bình thường, không biết là vì sao.

Đang cân nhắc, bỗng dưng có tiếng người té ngã.

Tôi quay lại nhìn, chỉ thấy trợ lý Lương đang rón ra rón rén lui về phía thềm đá.

Lão Dương lập tức giơ súng lên đe dọa hắn, quát: “Dám đi bước nữa tao đánh gãy chân mày rồi bỏ lại đây luôn.”

Trợ lý Lương vừa nghe tiếng hắn liền sợ hãi bỏ chạy. Lão Dương liền bắn một phát lên trời, tiếng súng chát chúa lập tức vang vọng khắp hang động.

Trợ lý Lương nghe tiếng súng sợ tới mức cứng đờ người, rụt cổ xoay người nói: “Đừng  nổ súng! Đừng nổ súng! Tôi không chạy nữa.”

Lão Dương mắng: “Quỷ mới tin mày. Biết điều thì ngồi yên một chỗ. Nếu dám chạy lần nữa, tao bắn!”

Trợ lý Lương tiu nghỉu quay lại ngồi xuống bên cạnh chúng tôi, vẻ mặt cầu xin, nói: “Hai vị tiểu ca, các cậu thấy đấy, tôi chỉ là một phần tử trí thức đi theo lão thái  kiếm miếng cơm ăn, lừa gạt mấy vị khách Quảng Đông chút chút, nếu xét ra thì cũng chỉ là tòng phạm, hay là các cậu tha cho tôi đi. Bây giờ hai cậu muốn đi làm ăn lớn, tôi thì trói gà không chặt, có đi theo cũng chỉ làm vướng víu, lỡ như tay chân vụng về làm vạ lây đến các cậu cũng không hay.”

Lão Dương thấy tay gã vẫn còn giữ chặt cái balo kia liền không khỏi tức giận, lấy súng chỉ chỉ vào hắn, nói: “Mày nghĩ bọn tao muốn mang mày theo chắc, mày muốn bọn tao bỏ qua cũng được, cứ để cái ba lô đó lại rồi muốn đi đâu thì đi.”

Trợ lý Lương nhìn cái ba lô, khó xử nói: “Nhưng túi này là của tôi… Người ta có câu, là quân tử…” Lão Dương giơ súng trong tay, nói: “Tao không phải quân tử, tao là súc sinh, đừng có nói lý lẽ với tao.”

Tôi thấy trợ lý Lương cũng rất có bản lĩnh, nếu bây giờ để gã đi, lỡ như gã gặp được bọn lão Thái thì khác nào chúng tôi tự tăng thêm cho mình một kẻ địch, giữ lại có khi còn có tác dụng. Tôi ngăn lão Dương nói tiếp, quay về phía trợ lý Dương nói: “Tình cảnh chúng ta bây giờ chẳng mấy khả quan, anh mà đi một mình, cho dù anh còn nguyên trang thiết bị, nhưng không có kinh nghiệm thì cũng đừng mong thoát ra được. Hay là thế này, anh  cùng chúng tôi xuống đó xem thử, nếu có đồ tốt, lão Thái chia cho anh bao nhiêu thì chúng tôi cũng sẽ chia bấy nhiêu, ba người cùng cùng nhau hành động, khả năng sống sót sẽ cao hơn. Anh xem nơi này âm khí ngút trời, nếu có gặp phải cô hồn dã quỷ, chẳng ai cứu nổi anh.”

Lão Dương lập tức tiếp lời: “Nếu không muốn đi cùng cũng được thôi, những thứ nên để lại thì để lại, quần áo cũng cởi ra…”

Hắn nghe tôi nói sẽ được chia một phần minh khí, nhất thời lộ vẻ dao động, đã thế còn bị lão Dương hù dọa, vội nói: “Đừng đừng, chuyện này có thể thương lượng. Nếu hai vị để mắt tới tôi, tôi cũng không tiện từ chối. Thực ra vốn hiểu biết của tôi có phối hợp cùng kinh nghiệm của hai cậu, quả là quần anh hội tụ.”

Tôi vừa nghe liền cảm thấy thằng cha này như ngọn cỏ đầu tường, nghiêng nghiêng ngả ngả, gió chiều nào theo chiều ấy, trong lòng cảm thấy buồn cười. Ông nội nói đúng, lòng người hiểm ác, trên cái thế giới này, dạng người gì cũng có.

Chúng tôi lấy lại cái ba lô của trợ lý Lương, đổ hết đồ bên trong ra, tìm xem có cái gì hữu dụng không, đại loại kiểu như dây thừng hay đèn pin. Nhưng trong túi hắn chỉ có đồ ăn cùng quần áo. Hắn nói mọi trang bị quan trọng đều ở chỗ ông nội cùng hai tên mặt rỗ. Súng báo hiệu của hắn cũng chỉ dùng để cầu cứu khi bị tách đoàn.

Không có dây thừng, muốn xuống vách núi này chắc chắn phải học bích hổ du tường. Nơi này dốc đứng như vậy, cũng không biết có thích hợp để leo trèo không. Tôi châm một cái pháo hoa lạnh* lên, phóng thẳng về phía vách núi. Theo ánh sáng rọi xuống, tôi thấy cũng có khá nhiều chỗ có thể đặt chân, nếu có như cái gì để chiếu sáng lâu lâu một chút, việc đi xuống cũng không quá khó khăn.

*pháo hoa lạnh: nhiệt độ của pháo chỉ tầm 30-35*, ít làm tổn thương thân thể hơn pháo hoa thường

Bây giờ ở bên ngoài cũng tầm mười một giờ tối, trên suốt đường đi chúng tôi chưa hề nghỉ ngơi, khuya hôm nay chẳng còn sức đâu mà cố nữa, bèn quyết định nghỉ ngơi cho khỏe, tranh thủ xử lý vết thương, đợi ngày mai hẵng xuống đó. Bằng không cứ với tình trạng mệt mỏi này mà mò xuống, lỡ có chuyện gì xảy ra sẽ không ứng phó được.

Lão Thái cùng cái tên mập người Quảng Đông kia hiện giờ sống chết ra sao chưa rõ. Trong tay bọn họ còn có hai khẩu súng. Bây giờ có va chạm chắc không tránh khỏi đánh nhau. Cũng cần phải đề phòng.

Tôi muốn hỏi trợ lý Lương lai lịch của bọn họ nhưng nghĩ lại, bây giờ không phải thời điểm thích hợp. Quan hệ của chúng tôi bây giờ căng thẳng như vậy, gã chắc chắn sẽ không chịu nói, chờ đến lúc gã lơ là hãy hỏi, khi đấy mới có thể biết được sự thật.

Tôi nói ra suy nghĩ của mình cho lão Dương nghe, hắn gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng vẫn còn nói: “Con mẹ nó, nơi này là nơi quái nào, bên dưới nhiều thi thể như vậy, hay là chúng ta đi lên đi, lên chỗ đài cúng tế mà nghỉ ngơi.”

Tôi cũng nghĩ như vậy, liền bước lên thềm đá, trở lại nơi tế đàn.

Lão Dương đốt lửa thêm lần nữa, lấy một cái hũ trống múc chút nước vào đặt lên lửa đun, bỏ thêm một ít lương khô vào nấu mềm ra rồi ăn. Mọi người ăn xong lại ăn thêm một ít socola để tăng lượng đường trong máu.

Lão Dương ăn xong thì buồn ngủ. Tôi bảo bọn họ đi ngủ trước còn mình lo canh lửa. Lão Dương bảo nơi này cũng không có dã thú, không cần phải cẩn thận như thế. Tôi nói thầm với hắn, tôi chủ yếu là muốn canh chừng gã trợ lý Lương kia. Loại người này nhìn qua thì là người hèn nhát, bình thường thâm tàng bất lộ. Trong lúc chúng ta đang ngủ có khi hắn lại để lộ ra bộ mặt thật của mình.

Lão Dương nói: “Sao cậu phải lo, ta đập hắn ngất xỉu là được.”

Tôi vội xua tay, nếu đánh ngất thì thật là phiền phức.

Lão Dương cứ thế đi ngủ. Tôi lấy Phách tử liêu vốn giấu trong quần áo ra, mở chốt bảo hiểm rồi giắt vào dây lưng. Sau đó đun một chút nước để rửa miệng vết thương. Lúc ở thác nước, tay tôi bị phỏng nặng. Nếu xử lý không tốt chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng.

Chờ xử lý xong vết thương, tôi đánh thức lão Dương rồi mới đi ngủ. Giấc ngủ không hề thoải mái, cả người đau nhức, miệng vết thương vừa ngứa lại vừa đau. Lúc tỉnh lại mới biết mình chỉ ngủ có năm tiếng, toàn thân khó chịu, đến cả cái mũi cũng tắc tịt.

Lão Dương đun nước cho tôi rửa mặt, cảm giác có khá hơn một chút. Lúc ăn sáng, tôi thấy trợ lý Lương không còn vẻ mặt đề phòng như ngày hôm qua liền nói bóng gió về lai lịch của bọn lão thái.

Trợ lý Lương vốn đã biết tên chúng tôi, hắn nhìn tôi, nghe ra được ý tứ, chớp mắt nói: “Tiểu Ngô ca, bây giờ chúng ta đã là một nhóm, tôi cũng không giấu gì cậu. Lúc chúng tôi đến đây có năm người, trong đó chỉ có lão Thái với Nhị Ma Tử là dân trong nghề, tôi chỉ đi theo ông chủ Vương với ông chủ Lý tới, thứ nhất muốn xem tiên hóa*  được khai quật như thế nào, thứ hai là hai ông chủ muốn tôi lựa ra những thứ đáng tiền nhất trong cổ mộ lấy tra trước. Cho nên nói thật thì tôi cũng chỉ là người chịu thiệt thôi.”

* tiên hóa: ám chỉ đồ vật bằng vàng ròng.

Lão Dương nghe vậy liền hỏi hắn: “Kì quái. Ban nãy tôi chỉ thấy có bốn người. Đào đâu ra người thứ năm?”

Trợ lý Lương nói: “Người anh nói đến chính là ông chủ Lý, lúc chúng tôi theo đường hầm đi xuống, ông ấy đến chỗ một hồ nước rửa mặt, cuối cùng lúc chúng tôi phát hiện ra, đầu ông ta đã bị thứ gì đó trong nước cắn đi mắt…”

Tôi với lão Dương đang ăn vội bịt mồm hắn lại, chuyện sau đấy ai cũng biết, nói ra chúng tôi ăn không vào.

Tôi đoán hắn có sao nói vậy, thầm nhủ tên này coi như là thức thời, lại thừa cơ hỏi hắn về hoàn cảnh hai ông chủ kia.

Trợ lý Lương đứng lên, nói: “Hai ông chủ đó đấy, không nói thì coi như không biết, nói ra chỉ e các vị lai nhảy dựng hết lên. Họ không phải dân buôn đồ cổ bình thường, hai cậu từ từ nghe tôi kể chi tiết…”

Chương 16: Trèo

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Trợ lý Lương lập tức ngưng bữa, kể giản lược cho chúng tôi nghe hoàn cảnh của hai người nọ.

Hai ông chủ Quảng Đông kia, người họ Vương tên là Vương Kỳ, người họ Lý tên là Lý Tỳ Bà, cả hai đều là dân Phật Sơn (*), trong giới đồ cổ địa phương rất có tiếng tăm, trong đó xuất thân của Lý Tỳ Bà thì chúng tôi đã biết, lão phất lên hoàn toàn nhờ “hà mộc tập” ghi chép vị trí một lượng lớn các cổ mộ.

(*) Phật Sơn: Tên một địa khu hành chính cấp thị thuộc tỉnh Quảng Đông.

Tôi biết điều này vì tôi với lão Dương từng trộm nghe lão nói chuyện, có điều tất cả chỉ là lời nói phiến diện một chiều, không biết trong đó có mấy phần bốc phét. Bây giờ nghe trợ lý Lương nói vậy, lời nói chân thực, xem ra chuyện này cũng khá đáng tin.

Gia thế của Vương Kỳ không hiển hách như Lý Tỳ Bà nhưng lại có phần chân thực hơn, nghề mà tổ tiên người này làm gọi là “triều phụng”.

“Triều phụng” là gì? Triều phụng chính là người làm thuê trong các hiệu cầm đồ, ngồi trên quầy cao, công việc của họ là xác định thật giả rồi định giá đồ vật thật nhanh chóng.

Trong đó, người phụ trách thẩm định các vật phẩm cao cấp và quản lý công việc hằng ngày được gọi là đại triều phụng. Đại triều phụng trong những hiệu cầm đồ lớn có thể nói là những người có nhiều hiểu biết về bảo vật nhất trên đời, những chuyện kì lạ cổ quái đều đã gặp qua. Tổ tiên của Vương Kỳ tên Vương Hiến Sơ, chính là một đại triều phụng nổi tiếng như thế. Những năm cuối đời, ông viết một cuốn bút ký lấy tên là “Cổ dục trai kỳ kiếp dư lục”, đáng được xếp vào hàng kì thư, bên trong liệt kê tất cả những vật có thể coi là kỳ trân dị bảo mà ông đã từng thấy, mỗi vật đều có ghi chú rõ ràng kèm theo đánh giá của ông. Quyển sách này trong giới khảo cổ có giá trị tham khảo rất lớn.

Trình độ văn hóa của Vương Kỳ không cao, nhưng trí nhớ của ông ta lại thuộc hạng siêu phàm, cuốn “cổ dục trai kỳ kiếp dư lục” ông ta đọc đi đọc lại, bất giác thuộc lòng không sót một chữ. Có lần nọ tại một hội chợ trên phố, ông ta thấy một con sư tử bằng bạch ngọc rất giống với những ghi chép về một loại hộp đựng đồ trong “cổ dục trai kỳ kiếp dư lục”. Vương Kỳ liền thể hiện trước mặt mọi người, làm theo ghi chép trong sách, mang con sư tử bỏ vào nước trà, không lâu sau miệng sư tử mở ra, để lộ một miếng vàng lá. Từ đó danh tiếng của Vương Kỳ lên nhanh như diều gặp gió, không gì cản nổi.

Về phần hai người kia bắt tay với nhau từ khi nào thì trợ lý Lương không nói rõ, cũng đúng thôi, ông ta chỉ là trợ lý nên những việc này cũng không tiện hỏi.

Nghe đến đó tôi hỏi trợ lý Lương, tại sao lần này hai người đó lại muốn đích thân tới đây? Họ sống an nhàn sung sướng đã quen, cớ sao lại khăng khăng đòi đi chịu khổ?

Lão Dương nói: “Có gì lạ đâu, cái này gọi là “rảnh rỗi sinh nông nổi”, là vung tiền qua cửa sổ chứ gì nữa. Với kẻ có tiền thì tiền dẫu nhiều cũng không khẳng định được bản than là ai giữa đời, cái họ muốn là đi tìm giá trị cuộc sống của mình. Có người sở hữu gia tài bạc triệu mà vẫn ra ngoài xin ăn đó thôi, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.”

Trợ lý Lương cười ha hả: “Ban đầu tôi cũng cho là thế, nhưng sau lại thấy không phải. Lần này cả hai rất kiên quyết, tôi đoán đằng sau chuyện này có ẩn tình chi đó, mà chìa khóa nằm ngay trong cổ mộ.”

Tôi hỏi hắn: “Đúng rồi trợ lý Lương, anh đã từng xem qua “hà mộc tập” đúng không, vậy vào trong thác nước rồi thì tiếp theo chúng ta phải đi như thế nào?”

Anh ta liếc mắt nhìn tôi: “Này, “hà mộc tập” đó là bảo bối của Lý Tỳ Bà đấy, chúng tôi chỉ được nhìn qua ghi chép của lão vài lần sau khi xong việc. Nội dung trong sách tôi cũng xem được khá nhiều, nhưng riêng phần ghi chép về cổ mộ này thì lại chưa hề rờ vào. Quyển sách kia về sau lại nằm trong tay lão Vương, chúng tôi không được tiếp cận. Có điều xét tình hình hôm qua, xem ra lối vào cổ mộ nằm ngay bên dưới đống thi thể kia.”

Trợ lý Lương đã nói không biết, chúng tôi cũng chỉ còn cách tin tưởng anh ta. Ăn xong điểm tâm, chúng tôi đeo ba lô lên, tôi cởi trói cho trợ lý Lương, buộc áo bên hông, thắt chặt dây giày. Ba người chuẩn bị xong xuôi rồi bước lên cầu đá, việc đầu tiên là thử đi xuống bên dưới xem sao.

Buồn cười nhất ở chỗ, trong ba người tôi lại là kẻ có thể lực tốt nhất, thành ra tôi phải cầm đuốc. Nhớ lần trước vào Lỗ Vương Cung, tôi hoàn toàn chỉ là gánh nặng cho cả đoàn, bây giờ đã đảm đương trách nhiệm quan trọng như thế này rồi, nghĩ lại chính mình cũng thấy bất ngờ.

Nói vậy chứ ở vào tình cảnh này tôi cũng biết không nên mở lời, chúng tôi bước từng bước thật chậm xuống vách núi, hướng về đáy động đen thăm thẳm bên dưới.

Đường đi vô cùng hiểm trở, mấy lần tôi suýt nữa đã trượt chân lăn xuống vách núi. Tuy nhiên nơi này nhìn thì cao chót vót nhưng cũng không khó leo là mấy, chỉ cần can đảm và cẩn trọng, con gái cũng xuống được đó thôi, có điều hơi mất thời gian một chút.

Xuống được một nửa thì chân trợ lý Lương đã mỏi rã rời, xem ra anh ta không quen đi đường núi. Mất thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, chân của tôi mới chạm được đến đáy động.

Những thi thể trên mặt đất ngùn ngụt toát ra một cảm giác đáng sợ khó nói nên lời. Đây hẳn là những nô lệ hay tù binh bị mang đi tuẫn táng, thi thể quanh năm suốt tháng nằm trong hang động âm u ẩm thấp không thấy ánh mặt trời, xương cốt đều phủ một lớp nấm đen xì, không khí ngập tràn mùi ẩm mốc. Nhiều thi thể đã không còn nguyên vẹn, nét mặt dữ tợn, thậm chí tôi còn phát hiện một số thi thể hình như răng nanh dài hơn bình thường.

Tôi đỡ trợ lý Trương từ trên vách núi xuống, anh ta tập tễnh giẫm ngay phải một cái đầu lâu, làm thủng một lỗ trên khung sọ vốn đã mục nát, may mà tôi kịp níu lại mới không ngã xuống. Vất vả lắm anh ta mới đứng vững được, lau mồ hôi trên trán: “Thật xin lỗi, hai người thấy rồi đó, tôi từ nhỏ đã lắm bệnh, ra gió là ốm ngay. Với tình hình gân cốt tôi thế này, lần đổ đấu này chỉ sợ là lần cuối cùng rồi.”

Tôi an ủi anh ta vài câu rồi giương cao đuốc soi bốn phía, tính toán đường đi.

Thi thể chất chồng như núi, giữa những đống xác người có một lối đi nhỏ thẳng tắp dẫn về phía trước. Ánh lửa không thể chiếu xa, chúng tôi chỉ có thể quan sát trong vòng mười thước, xa hơn nữa thì không thấy gì cả. Có điều khi còn ở trên vách núi chúng tôi đã quan sát kĩ càng, con đường này nối liền với bãi đất trống kia, xem ra cứ đi thẳng là sẽ đến đích.

Trợ lý Lương quả thực là mệt gần chết rồi, có lết cũng không lết nổi. Tôi để anh ta ngồi nghỉ lấy sức, tranh thủ xem xét một vòng đám thi thể này.

Chúng tôi đi loanh quanh vài vòng, lát sau thấy trợ lý Lương biến sắc, bèn hỏi: “Sao, anh phát hiện ra chuyện gì à?”

Anh ta nói: “Nơi này hình như có môt số thi thể không phải là người, kết cấu xương sọ rất lạ.”

Tôi nổi cả da gà da vịt, không lẽ đó là xương cốt của cương thi sau khi xảy ra thi biến? Tôi vội hỏi anh ta, đây không phải người thì là gì?

Trợ lý Lương trả lời: “Bây giờ tôi vẫn chưa rõ, muốn biết phải nghiên cứu kĩ hơn, tốt nhất là tìm được thi thể nào chưa thối rữa hết ấy, không biết giữa đám xác người chồng chất này có không nữa. Hai người muốn xem qua không?”

Lão Dương hít một ngụm khí lạnh: “Anh nói nghe thì dễ lắm, thi thể ở đây âm khí nặng nề, chắc chắn có dấu hiệu của thi biến. Lỡ đen đủi moi ra một cái bánh tông, chúng ta không mang móng lừa đen, anh thì chẳng đánh đấm được gì, không chừng cả ba đều nằm lại dưới này luôn đấy.”

Tôi cũng nghĩ như lão Dương, gật đầu đồng tình: “Ừm, chúng tôi không cần nghiên cứu gì hết.”

Trợ lý Lương xem ra cũng có nghe qua mấy chuyện bánh tông này nọ, gật đầu: “Tôi nói vậy thôi, chứ bảo tôi làm tôi cũng không dám đâu.”

Tôi thấy cây đuốc cháy đã lâu, lửa không duy trì được bao nhiêu thời gian nữa, đuốc mà tắt lúc này thì toi mạng như chơi. Ở đây muốn tìm ra nguồn sáng là gần như vô vọng, trường hợp xấu nhất là chúng tôi phải lần mò theo đám thi thể này mà tìm đường ra. Thế nên cả bọn không nấn ná lâu, nghỉ một lát là giục nhau lên đường ngay.

Chúng tôi đi dọc theo con đường phía trước, hai bên thi thể chất chồng, tôi thấy giữa đám thi thể còn có rất nhiều tượng đá thì tạm thời yên tâm. Đáy huyệt động là đất đen, chuyện này thật khiến người ta kinh ngạc, đi lại trên đó cũng không được vững lắm. Cứ nghĩ tới chuyện những thứ đen đen này đều do xác chết thối rữa mà thành, tôi chợt cảm thấy một cơn ớn lạnh truyền lên từ lòng bàn chân.

Đi được một lát, ngọn lửa cứ lụi dần, phạm vi chiếu sáng thu hẹp lại, chúng tôi guồng chân đi nhanh hơn, bắt đầu chạy chầm chậm về phía trước. Đi được một lát tôi cảm thấy quái lạ, từ vách núi nhìn xuống, khoảng cách từ nơi này đến miệng hố chỉ khoảng hai trăm thước, với tốc độ thế này thì lâu nhất cũng chỉ mất năm phút là tới, sao chúng tôi đi gần một khắc (*) rồi vẫn chưa thấy bóng dáng cái miệng hố kia? Không lẽ do xung quanh tối quá, cả ba đã rẽ nhầm sang lối nào rồi?

(*) Đơn vị đo thời gian cổ, một khắc bằng 15 phút.

Chúng tôi cứ miệt mài chạy về phía trước, mọi thứ vẫn như cũ, trước sau đều chỉ thấy xương cốt chất thành gò, phía xa là một mảng đen ngòm. Tôi chửi thầm, xem ra lần này tính sai rồi, thật không ngờ xuống dưới này tầm nhìn hạn chế, trước sau đều đen ngòm như nhau, không biết đã chạy đến xó nào rồi.

Lúc này trợ lý Lương chịu không nổi nữa, vừa thở hổn hển vừa níu tôi lại, nói: “Tiểu Ngô ca,… đừng … chạy nữa…vô ích thôi… Không chừng…. chúng ta trúng kế rồi.”

Chương 17: Thi trận

Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp

 ¤¤¤

Chúng tôi chạy cả nửa ngày, đầu váng mắt hoa mà vẫn chưa thấy đích, trong lòng sớm đã nảy sinh nghi ngờ, nay nghe trợ lý Lương nói thế, lão Dương liền dừng lại hỏi: “Anh Lương, anh nói trúng kế là sao?”

Trợ lý Lương vừa xoa ngực vừa chỉ xuống đất: “Hai người xem, cái đầu lâu  này nhìn có quen không?”

Tôi nghe vậy bèn nâng cây đuốc, quả nhiên trên mặt đất có một cái đầu lâu thủng mất một lỗ, hệt như cái đầu lâu trợ lý Lương đã giẫm lên lúc mới nhảy từ vách núi xuống. Tôi cảm thấy không ổn, quay lại xem thử, quả nhiên phía bên kia chính là vách núi.

Lão Dương nhìn bốn phía, bực tức nói: “Lão Ngô, cậu dẫn đường kiểu gì vậy, đây chẳng phải nơi xuất phát lúc đầu sao?”

Tôi cũng tức giận trả lời: “Làm sao tôi biết được, nơi này chỗ nào trông cũng như nhau, con mẹ nó, chúng ta đi không chú ý, không biết có phải là rẽ nhầm chỗ nào mà quay lại đây rồi không.”

Trợ lý Lương điều chỉnh lại hô hấp, khoát tay nói với chúng tôi: “Không phải, hai người không để ý rồi, tôi nhớ rõ mồn một là con đường mòn này thẳng tắp, không cõ chỗ rẽ nào cả. Chuyện này thực sự không đơn giản, nếu tôi không nhầm, chúng ta có lẽ đã bị thứ gì đó đánh lừa.”

Lão Dương biết manh mối có vấn đề, mặt trắng bệch ra: “Hỏng rồi, có khi nào oan hồn của những thi thể này vì bảo vệ thánh địa của họ mà không cho chúng ta đến chỗ bãi đất trống kia không?”

Tôi thầm cười khổ, nơi này toàn là thi thể, âm khí tích tụ cả ngàn năm, nói là không có ma quỷ thì chắc chẳng ai tin. Trợ lý Lương suy nghĩ một chút rồi lại lắc lắc đầu: “Tôi nghĩ cũng không phải đâu. Trên người tôi có đeo linh vật, nếu mơ hồ thì cũng chỉ có các cậu, tôi tuyệt đối không vấn đề gì.”

Tôi biết người này thực sự có hiểu biết, liền hỏi: “Trợ lý Lương, về mặt này anh hẳn phải hiểu rõ hơn chúng tôi, anh nghĩ đây là tình huống gì? Cây đuốc này không duy trì được bao lâu nữa, đợi khi đuốc tắt thì thực sự là kêu trời không thấu kêu đất không hay đấy, mau mau nghĩ biện pháp gì đi.”

Trợ lý Lương nói: “Theo tôi thấy,  chúng ta đi một vòng luẩn quẩn là vì cách sắp xếp thi thể ở nơi này có vấn đề. Mấy ngàn bộ xương cốt đặt khắp nơi, ở giữa rất có thể bày bố kỳ môn dịch thuật, biến cả động này thành một mê cung. Cậu cũng biết ngày xưa Gia Cát Lượng lập trận đồ, chỉ cần chục phiến đá mà vây hãm được hơn mười vạn đại quân, huống chi nơi này là cả ngàn bộ xương vây lấy ba chúng ta, chẳng phải dễ như ăn sáng hay sao?”

Chuyện xưa Gia Cát Lượng bày trận tại bến Ngư Phúc bên bờ Trường Giang để chặn quân truy đuổi của Lục Tốn

(1)

thì tôi và lão Dương đều biết, có điều miêu tả trong tiểu thuyết làm sao không khoa trương khuếch đại thêm chứ, tôi không tin lắm là mấy tảng đá lại có uy lực lớn như thế, nếu vậy thì còn cần xe tăng đại pháo làm gì?

Lão Dương cũng không tin, nói: “Trợ lý Lương à, anh đừng mang mấy chuyện lấy ra lừa gạt đám ông chủ ở Quảng Đông để lừa chúng tôi đi, chuyện Bát trận đồ tôi đọc trong Binh thư không giống với những gì anh vừa nói. Hơn nữa lúc nãy chúng ta đã quan sát từ trên vách đá, xương cốt chỗ này loạn xì ngầu cả lên, không hề giống như có sắp xếp sẵn, thế thì làm sao lại có thể vây được chúng ta dưới này? Lẽ nào đám thi thể này biết đi?”

Nói vừa dứt câu, lão Dương như sực nhớ ra chuyện gì, vội vã che miệng nhìn bốn phía: “Đại cát đại lợi, trẻ con chưa hiểu chuyện, các vị không nên chấp nhặt.”

Trợ lý Lương nói: “Không phải vậy, lúc ở trên quan sát xuống chỉ là nhìn sơ qua, trong quãng thời gian ngắn như thế, cậu có thể nhớ kỹ hết đường đi lối lại trong đám thi thể này không? Xuống dưới này tối mờ tối mịt, chỉ cần một bộ xương hơi chệch đi một chút là có thể thay đổi đường đi của chúng ta, khiến cả bọn chệch qua một lối rẽ đã được thiết kế sẵn, rồi không biết lúc nào đã quay lại chỗ cũ rồi. Hai vị đều là những người từng trải, tôi cũng không muốn nói nhiều, tài trí của người xưa không thể xem thường được.”

Tôi thấy trợ lý Lương nói có lý nhưng cũng không tin hẳn, nói sao thì nói, nơi này chắc chắn phải có điều gì bí ẩn, muốn đến bãi đất kia chỉ sợ không phải chuyện đơn giản, liền hỏi anh ta có ý kiến gì không.

Trợ lý Lương thở dài: “Không phải tôi khoe khoang, đây thực sự là một trận pháp, nếu không có gì bất ngờ thì vẫn có thể phá giải được dễ như trở bàn tay. Có điều việc này rất tốn thời gian, chỉ sợ cây đuốc không duy trì nổi đến lúc đó. Hơn nữa tôi cho rằng chúng ta còn có chuyện quan trọng hơn phải quyết định trước.”

Tôi hiểu ý của anh ta, vấn đề của chúng tôi không phải là phá trận pháp này thế nào, mà là phải đối phó với hoàn cảnh trước mắt ra sao. Tiến không được, lùi cũng không xong, lần này may mắn về lại được chỗ cũ, lần tiếp theo đi chẳng biết sẽ dẫn đến đâu, đến khi ngọn đuốc tắt rồi, trước không chỗ trú sau không chỗ ngủ, không mệt mỏi đến chết mới là lạ.

Kỳ thực phương pháp phá trận tốt nhất chính là đạp lên đám thi thể mà đi, có điều không ai đề ra cả.

Giằng co một lúc, ngọn lửa trên cây đuốc kêu vài tiếng, lụi dần đi. Lão Dương nhìn cây đuốc, đột ngột kêu lên: “Con mẹ nó, ta nghĩ ra rồi, cứ cho một mồi lửa, đốt sạch hết đám thi thể này là xong!”

Tôi nghe tên lúc thông minh lúc lại ngốc không chịu được này nói chuyện, cái chủ kiến dở hơi như thế mà cũng nói ra được, liền mắng: “Xương cốt nơi này đều gần hóa thạch cả rồi, cậu đốt có cháy nổi không? Hơn nữa thiêu hết chỗ này cũng là tự tử luôn đấy, không chết cháy cũng chết ngạt, quên ngay cho tôi! Tôi nghĩ thế này, tôi cầm đuốc đi trước, hai người ở sau quan sát, nếu thấy ánh lửa đi chệch hướng thì báo cho tôi dừng lại, chúng ta sẽ biết được vấn đề nằm ở chỗ nào.”

Lão Dương nói: “Không được, lỡ nửa đường đuốc tắt, một mình cậu sao giải quyết được, mà cũng không ai tới đó cứu cậu được. Lúc này chúng ta tuyệt đối không thể tách ra.”

(1)     Theo “Tam Quốc diễn nghĩa” hồi thứ 84, do sai lầm của Chúa Thục Lưu Bị nóng lòng trả thù cho Quan Công, đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã phá tan quân Thục, đốt cháy doanh trại liên tiếp 700 dặm và dẫn quân truy kích về hướng Tây. Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, bèn dừng ngựa bảo bộ tướng “Phía trước chắc có mai phục, không được khinh địch”, rồi cho lui quân, bày thành trận thế, cho thám mã đi thám sát. Quân về báo không có gì cả, Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn xuống, sát khí lại xông lên, cho quân đi do thám lần nữa vẫn là phía trước không người. Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp 8, 9 đống đá lớn mà thôi, không một bóng người.

Lục Tốn cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: “Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu”, rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Bộ tướng thưa “Trời đã tối, xin đô đốc trở về”, “Tốn vừa muốn lui, hốt nhiên cuồng phong nổi dậy, trong chớp mắt cát chạy đá bay, mịt mù trời đất. Chỉ thấy quái thạch sừng sững, đan chéo như gươm, đất dựng dọc ngang, trùng trùng như núi, sóng dâng gào thét như tiếng trống dậy gươm khua. Lục Tốn kinh hoàng nói: “Ta trúng kế Gia Cát Lượng rồi!”, muốn quay trở về, đã bít lối ra. Nếu lúc ấy không có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường dẫn lối ra khỏi trận thì chắc Lục Tốn cùng quân lính đã bị bị vây khốn trong trận đồ đó.

(Theo wikipedia.)

Chương 18: Ma thổi đèn

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Ngọn đuốc tắt ngóm, không gian vốn tranh tối tranh sáng bỗng dưng tối đen như mực. Tôi sợ đến nỗi toàn thân toát mồ hôi lạnh, cây đuốc suýt nữa tuột tay rơi luôn xuống đất.

Trợ lý  Lương còn nhát hơn tôi, lập tức hét lên, nhanh chân bỏ chạy. Chạy được vài bước bỗng nghe “bịch” một tiếng, chắc là đụng phải vật gì, đau quá mà khóc ầm lên.

Tôi lấy bật lửa châm lại ngọn đuốc soi soi cây đuốc, thấy phần trên ngọn đuốc vẫn chưa cháy hết, không hiểu sao lửa lại tự dưng vụt tắt. Có khi nào là do gió thổi? Nhưng trong cái hang này thì lấy đâu ra gió?

Lão Dương hả hê nói: “Lão Ngô, tay nghề của cậu chẳng ra sao cả. Ngọn đuốc này cũng quá tệ, nói tắt là tắt

,

hại tôi nhảy dựng lên”

Tôi mắng: “Mẹ nó cậu lắm mồm vừa thôi, rảnh rỗi cười nhạo tôi sao không đi xem trợ lý Lương thế nào, đừng để hắn ngã vào đống xác chết.” Nói rồi tôi châm lại cây đuốc, vừa giương cao đã thấy trợ lý Lương đang ngã lên một bộ hài cốt, xương cốt tức khắc vỡ vụn ra.

Tôi vội tới gần đỡ gã dậy, chỉ thấy mặt gã tái nhợt, xem ra đã sợ hãi đến cực độ rồi. Lão Dương vỗ vai gã: “Sư gia, anh đùa chúng tôi à? Lá gan bé như thế này mà còn muốn vào đấu.”

Trợ lý Lương thấy ngọn đuốc đã được châm lại mới thở phào: “Hai…..hai người đừng hiểu nhầm, không phải tôi sợ bóng tối mà do ban nãy, con mẹ nó, cứ như có thứ gì đó thổi một hơi lạnh ngắt sau gáy tôi. Tôi cứ nghĩ là có bánh tông nhào ra, sợ đến hết hồn.”

Lão Dương cười to: “Khí lạnh gì cơ? Tôi thấy có mà mồ hôi lạnh từ cổ anh toát ra thì có, bánh tông ở sau lưng người không cắn cho một phát mà còn thổi khí, mẹ nó chứ, ông nghĩ bánh tông đều là tiểu thư khuê các hay  sao?”

Tôi cũng nói: “Đúng đó trợ lý Lương, anh nên bình tĩnh một chút đi, đừng thần hồn nát thần tính.”

Trợ lý Lương thấy chúng tôi không tin liền nổi nóng, ho khan một tiếng: “Hai…..hai anh nhất định phải tin tôi. Vừa rồi chắc chắn có người đứng sau gáy tôi thổi khí, mẹ nó chứ cảm giác thật rợn gai ốc. Tôi thấy nơi này không chỉ có ba chúng ta, nhất định còn có thứ khác nữa.”

Tôi nhìn vẻ mặt của gã, lại nhớ tới ngọn đuốc ban nãy tự nhiên tắt ngúm, bỗng cảm thấy lời của trợ lý Lương cũng không phải bịa đặt hoàn toàn. Cây đuốc không thể mang so với ngọn nến, phần đầu nếu chưa bị đốt rụi thì rất khó tắt, chuyện xảy ra vừa rồi nhất định là có vấn đề. Hơn nữa ở một nơi thế này, người ta cũng nên cẩn thận một chút.

Nghĩ vậy, tôi liền liếc mắt ra hiệu với lão Dương, ý bảo mình cứ đi xem cho chắc ăn. Hắn gật đầu, chúng tôi liền rút súng ra, một trước một sau tiến về chỗ trợ lý Lương đứng lúc nãy.

Chỗ trợ lý Lương đứng ban nãy, cách chưa đến một mét về phía sau là một khối tượng đá, phần đầu đã khô quắt, tuyệt đối không thể thổi khí được. Nơi duy nhất có thể ẩn nấp chính là ngay sau lưng người đá.

Tôi và lão Dương cẩn thận bước qua, trước hết dùng ngọn đuốc thăm dò một chút sau đó nghiêng đầu liếc qua, chỉ sợ có thứ gì đó lao đến, sau đó lão Dương nhảy bổ ra, kêu to: “Giơ tay lên.”

Rốt cuộc không có chuyện gì xảy ra, mặt sau người đá cũng trống không.

Tôi thở phào, tự nhủ trợ lý Lương quả đúng là thần hồn nát thần tính. Nhưng cũng không thể trách gã được, trong tình huống như vừa rồi, lại ở một nơi chưa từng biết đến, sợ hãi là điều khó tránh khỏi. Nghĩ lại cái hồi còn ở trong Lỗ Vương Cung, chẳng phải tôi cũng giống hệt gã hay sao, lá gan quả thật là thứ cần phải qua rèn luyện mới có được.

Lão Dương chán ngán liếc tôi một cái, lắc lắc đầu. Chúng tôi xoay người, vừa định cất súng thì đột nhiên nghe một tiếng “xì”, ngọn đuốc trên tay tôi lại tắt.

Tôi ngớ người ra, sao lại thế này? Lửa tắt quá bất ngờ. Ngay lúc ấy trong bóng tối mịt mùng phía sau, lão Dương bỗng kêu to: “Chết tiệt! Lão Ngô cẩn thận! Nơi này thực sự có thứ khác! Mau đốt đuốc lên!”

Tôi lập tức tỉnh táo trở lại, vội mò tìm bật lửa, nhưng chưa kịp chạm vào thì sau lưng đã cảm thấy lạnh ngắt, một luồng kình phong ập đến nhanh như chớp. Trong lòng thầm nhủ không xong rồi, trong cảnh tối lửa tắt đèn tôi không thể nhìn ra đó là cái gì, vội cúi thấp người xuống. Luồng gió vụt qua sát rạt trên đầu, dưới chân cũng lảo đảo, tôi ngã nhào xuống đất.

Cú ngã không quá đau, có điều tôi lại đụng vào làm mấy người đá bên cạnh nghiêng ngả rầm rầm, không biết có thứ gì rơi trúng mặt tôi. Bất chấp cảm giác buồn nôn, tôi vội vàng đánh bật lửa, mau chóng châm lại ngọn đuốc.

Đuốc vừa sáng lên, chỉ thấy lão Dương và trợ lý Lương nằm úp sấp trên mặt đất, mặt mũi vàng chạch. Trợ lý Lương đã sợ tới mức hồ đồ, luôn mồm niệm “A di đà phật”.

Lão Dương vẫn chưa hết sợ, nói với tôi: “Mau soi qua đây, con mẹ nó, ban nãy rốt cuộc là cái gì? Sao lại nhanh như như chớp thế?”

Tôi cắn chặt răng đứng dậy, huơ ngọn đuốc một vòng, phát hiện xung quanh ngoài mấy người đá bị chúng tôi đụng ngã ra thì chẳng có gì khác lạ, ngay cả dấu chân cũng không hề in lại. Nỗi sợ hãi trong lòng tôi bắt đầu bùng lên, luồng gió vừa rồi lướt qua nhanh như chớp, có thể cảm thấy đối phương đã đến rất gần, nhưng nơi này đá tảng lăn lóc, thi thể ngổn ngang, trong lúc chờ lửa sang lên, không gian xung quanh là một khoảng tối đen, cho dù có chạy trốn nhanh đến mấy cũng không thể không lưu lại chút dấu vết nào. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, móa, không lẽ chúng tôi vừa gặp quỷ?

Ngọn đuốc tắt hai lần, chẳng lẽ con quỷ này muốn học theo ma thổi đèn, xem cây đuốc của tôi như ngọn nến? Mẹ nó chứ ma mãnh gì mà chẳng có đạo đức nghề nghiệp, có muốn thổi cũng đừng đi thổi đuốc chứ.

Tôi hạ ngọn đuốc hạ xuống ngang vai để khỏi bị thổi tắt bất ngờ nữa, sau đó đỡ trợ lý Lương đứng lên. Gã này đã sợ nhũn cả người, có kéo thế nào cũng không đứng dậy nổi, cứ như bùn nhão vậy. Tôi kéo hai lần, thực sự là không đứng nổi, lão Dương cũng hết cách đành bước tới giáng liền hai tát.

Tôi sợ hắn mạnh tay, vội vàng ngăn hắn lại, lúc này trợ lý Lương đã có phản ứng, nhìn quanh bốn phía rồi gào khóc: “Ối mẹ ơi là mẹ ơi! Mẹ bảo con lắm chuyện, cứ ngoan ngoãn ở nhà là được rồi, học theo người ta đi đổ đấu làm gì; bây giờ thì xong đời rồi, con chết nơi đất khách quê người…”

Lão Dương thấy gã còn chưa chịu ngừng lại, vội bịt miệng gã lại, mắng: “Đã chịu thôi chưa, bằng này tuổi đầu rồi còn không biết xấu hổ, còn làm ồn nữa thì bọn tôi bỏ anh lại đây cho tự trèo lên nhá.”

Trợ lý Lương không kiềm chế được cảm xúc, bị chúng tôi hù một trận, lập tức lau mặt, không dám gào khóc nữa. Lão Dương quay đầu hỏi ta: “Lão Ngô, vừa rồi là cái gì cậu có thấy rõ không? Có phải bánh tông không?”

Tôi lắc lắc tay với hắn, nói: “Không phải, cậu xem chúng ta đánh trực diện mà ngay cả một cọng lông của đối phương cũng không nhìn thấy, bánh tông không thể nhanh đến thế được.”

Lão Dương nói với tôi: “Cậu xem nơi này bao nhiêu xác chết, dù nói không có bánh tông cũng chẳng ai tin. Tôi nghe nói bánh tông cũng phân cấp bậc, không khéo lần này chúng ta đụng phải bánh tông cao thủ khinh công.”

Tôi không muốn tranh cãi với hắn, bèn đi đến chỗ trợ lý Lương, gạt gạt mấy khối thi thể bên cạnh, dùng súng hất những thứ bên trong ra, nhìn hắn nói: “Nơi này ẩm ướt, đa số các thi thể chỉ còn lại xương cốt, bên trên còn phủ nấm mốc, thứ này tuyệt đối không thể là cương thi được. Tôi dám lấy đầu mình ra đảm bảo.”

Trợ lý Lương cuối cùng cũng trấn tĩnh lại, bước xuống, nhăn mũi nói: “Hai vị tiểu ca, đó có phải là bánh tông hay không chẳng liên quan gì tới chúng ta, tôi thấy bây giờ tranh thủ còn có cây đuốc, chúng ta nhanh chóng leo lên trên vách núi đi, chuyện này để sau hẵng tính.”

Tôi biết hắn không chịu đựng nổi nữa, bắt đầu muốn rút lui, liền vỗ vỗ vai hắn, giải thích rằng hiện tại địch ở trong tối ta ở ngoài sáng. Nếu bây giờ đi lên vách núi, không chừng thứ đó lại xông đến, lúc đó chúng ta có muốn tránh cũng không được, chỉ có thể xuống âm tào địa phủ khóc cho Diêm Vương nghe. Cho nên trước khi mọi chuyện rõ ràng, không nên hành động thiếu suy nghĩ.

Lão Dương nói: “Lão Ngô nói đúng. Bây giờ chúng ta còn có súng, cho dù có bánh tông thật, hai ta cũng không sợ.”

Trợ lý Lương nước mũi ròng ròng, thẳng thừng lắc đầu: “Tiểu ca, cậu đừng an ủi tôi. Chúng ta chỉ có hai khẩu súng, đụng tới bánh tông là chết chắc rồi. Chỉ sợ muốn giữ toàn thây cũng khó.”

Tôi chưa từng thực sự đụng độ với bánh tông, không biết súng có bắn xuyên qua được không, nhưng nếu là cơ thể bằng xương bằng thịt, tôi không tin nó lại cứng hơn đạn được.

Nghĩ đến đây, sắc mặt của tôi dịu xuống, không còn căng thẳng như trước nữa. Nghĩ lại, tôi cảm thấy có chờ ở đây cũng không phải cách hay, tốt hơn hết là đi về phía trước, nếu không còn đường thì giẫm lên thi thể mà đi, dù sao tình hình bây giờ cũng khiến chúng tôi va phải không ít thi thể, chẳng có gì phải sợ. Còn về đạo đức thì ngay cái mạng nhỏ của mình còn khó giữ nên tôi cũng không ngần ngại quẳng nó ra khỏi đầu.

Lão Dương nghe thế cũng hiểu được bây giờ không còn cách nào khác, lập tức đỡ trợ lý Lương dậy, lên đạn cho súng. Vẫn là lão Dương đi đầu, tôi đoạn hậu, ba người cắn chặt răng, theo con đường nhỏ tiếp tục tiến vào sâu trong thi trận.

Dấu vết chúng tôi đi qua lúc nãy vẫn còn lưu lại, tôi nhớ có mấy chỗ lão Dương cố tình tạo ra mấy dấu chân trên mặt đất, liền theo những dấu vết đó mà đi, quả nhiên không thấy có bất cứ lối rẽ nào. Càng đi tôi càng thấy có gì đó bất thường, tại sao các thi thể ở đây mục rữa không đều? Có thi thể đã thối rữa đến mức xương cốt nát vụn, nhưng một số vẫn còn nguyên da thịt, vừa định bảo bọn họ dừng lại nhìn kĩ xem, bỗng ‘rắc’ một tiếng, một bộ xương trên mặt đất đột nhiên tản rời ra, đầu lâu lăn sang một bên. Tôi hoảng hồn, vừa mới quay đầu lại chợt nghe ‘xì’ một tiếng, cây đuốc trên tay lần thứ ba vụt tắt.

Rút kinh nghiệm từ lần trước, tôi lập tức ngồi thụp xuống. Lúc này chợt nghe bên cạnh có tiếng ồn ào, lão Dương kêu to: “Tiên sư nó! Tôi bắt được nó rồi!”

Chương 19: Câu chuyện của những bộ xương.

Editor: Biển

Beta: Tiểu Điệp

*****

Hắn còn chưa dứt lời, tôi không biết bị ai đá vào ngay giữa mặt, suýt nữa thì ngất đi. Ngay sau đó tôi liền nghe thấy một chuỗi tiếng xương cốt bị nghiền nát vang lên liên tiếp, không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Trong lúc hoảng loạn, tôi vội vã châm đuốc định thần nhìn lại, chỉ thấy lão Dương đang vật lộn với thứ gì đó, cả hai hầu như đã lăn vào trong đống xác chết, cả một dãy xương cốt bị đè cho gãy vụn, sọ người lăn lóc trên mặt đất.

Tôi vội vàng chạy đến hỗ trợ, nhưng căn bản là chẳng giúp được gì, thứ kia tuy không lớn lắm nhưng lại khỏe khủng khiếp, thể trọng hơn nửa tạ của lão Dương đè lên cũng không khống chế nổi nó, hai cơ thể cuộn vào một chỗ đánh đấm loạn xị, tôi hoàn toàn không tiếp cận được. Hơn nữa chỉ cần đến gần một chút liền họa vô đơn chí bị đá cho một phát, tôi thử vài lần đều không thể xen vào giữa cuộc vật lộn, chỉ có thể bất lực đứng ngoài làm khán giả.

Không lâu sau, lão Dương hầu như không còn cầm cự nổi, mấy lần thứ kia suýt vùng thoát ra được, tôi thấy cứ tiếp tục thế này thì không ổn, bèn kéo theo trợ lý Lương, hai người một trên một dưới nhào lên trên người lão Dương, đè ép cả hắn lẫn thứ kia. Lão Dương không ngờ được tôi sẽ dùng đến chiêu này, hắn bị đè đến mức không thở nổi, vội vàng gào lên: “Mẹ nó mấy người vừa phải thôi chứ! Cột sống ông đây sắp gãy rồi!”

Tôi giữ chặt lão Dương, dùng hết sức nặng của cả ba người đè lên thứ kia, đến khi thấy không còn động tĩnh gì mới hỏi hắn: “Thế nào? Nó chết chưa?”

Lão Dương nghiến răng gằn từng tiếng một: “Ai biết! Có điều nếu cậu mà còn không mau xuống thì người chết sẽ là tớ!”

Tôi thấy mặt hắn đã đỏ bừng, vội vàng buông ra, lão Dương xoay người nhổm dậy, thở mạnh một hơi, nói với tôi: “Cậu… con mẹ nó cậu ra tay cũng dã man quá chừng, đừng tưởng vẫn còn phong độ như ngày xưa có bị bảy tám người nằm đè lên cũng không sao, may mà cột sống ông đây chắc chắn, không thì đã bán thân bất toại luôn rồi!”

Tôi nói cậu lắm mồm gì chứ, nếu không phải tại cậu không bắt được thứ kia, tớ việc gì phải lớn bằng này tuổi rồi còn chơi trò xếp chồng tháp người chứ? Thắt lưng cậu gãy, mẹ nó chứ tớ cũng chẳng thoải mái gì hơn đâu.

Lão Dương nghe vậy, vừa xoa thắt lưng vừa mắng tôi vô lương tâm, tôi không thèm để ý tới hắn mà quay sang nói với trợ lý Lương: “Nói cho cùng, thứ kia rốt cuộc là cái gì, tại sao nó nhỏ như vậy mà sức lực lại kinh người đến thế, phải kiểm tra cho thật kỹ.”

Nghe tôi nói vậy, cả bọn lấy lại tinh thần quay đầu sang nhìn, chỉ thấy trong đống xương có một mớ lông lá xồm xàm màu xám lớn gần bằng một con linh miêu, nó bị chúng tôi đè bẹp, vẫn còn đang nằm run rẩy.

Lão Dương lấy một khúc xương đùi lật thứ kia lên, chúng tôi vừa nhìn, khỉ chứ! Làm náo loạn một trận tưng bừng, hóa ra lại là một con chuột bự. Ba chúng tôi trố mắt nhìn nhau rồi bật cười, bảo sao lúc nãy không cách nào tìm được kẻ đánh lén, hóa ra là vì nguyên nhân này. Đám chuột tấn công chúng tôi xong hẳn là lủi trốn vào hốc mắt của mấy cái sọ người nên chẳng thấy tung tích đâu, đám ngớ ngẩn chúng tôi lại cứ tưởng rằng đã gặp phải quỷ, thật đúng là tự mình dọa mình.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn cảm thấy không ổn, mẹ nó chứ, con chuột này cũng quá lớn, không biết là cái giống gì, biết đâu lại là loại ăn xác chết mà lớn lên, cũng chẳng rõ trong động này còn có bao nhiêu con như thế nữa, nếu lỡ gặp phải một bầy thì chắc chắn là chúng tôi lãnh đủ.

Lão Dương cùng chung suy nghĩ với tôi, nụ cười vừa tắt sắc mặt lập tức thay đổi, hắn nói: “Không ổn, con chuột đầu đàn này bị chúng ta đè chết, không biết con cháu nó có đi tìm chúng ta tính sổ không nữa. Tớ thấy tốt nhất là chúng ta rời khỏi đây ngay, không nên ở lại hiện trường.”

Tôi gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý, lão Dương xoay người bước đi, chưa được mấy bước hắn đột nhiên hỏi: “Á, toi rồi… phải đi về bên nào đây?”

Tôi ngẩng nhìn lên, cả bọn vừa trải qua một trận hỗn chiến, lăn qua lăn lại, chỗ này thì sau trước như nhau, bây giờ đã không thể phân biệt được đâu là hướng chúng tôi đến và đâu là hướng chúng tôi muốn đi nữa rồi.

Tuy rằng trong lòng tôi có chút cảm giác có thể mang máng nhận ra phương hướng chính xác, nhưng cảm giác này rất nhạt, tôi hầu như không thể khẳng định cảm nhận của mình là đúng hay sai, chỉ hơi chần chừ do dự một chút, cảm giác ấy liền biến mất không dấu vết.

Lão Dương nhìn tới nhìn lui cả chục lần, thấy đúng là chẳng có cách nào bèn nói với tôi: “Thôi vậy, chúng ta dẹp đám tay chân này ra băng qua chỗ này đi.”

Tôi quan sát một hồi vẫn cảm thấy có gì đó không ổn, định hỏi ý kiến của trợ lý Lương, quay sang nhìn thì thấy gã hoàn toàn không hề nghe chúng tôi nói gì mà đang cẩn thận thu dọn lại những hài cốt vương vãi trên mặt đất

Tôi thầm thấy kỳ lạ, liền kéo lão Dương lại, cả hai đến xem thử gã đang làm cái gì.

Một phen người chuột đại chiến làm vạ lây đến hơn mười cỗ thi thể. Những thi thể này đã sớm mủn ra như đất rồi nên chỉ cần chạm vào thôi là đã nát vụn, hầu hết đều vỡ ra thành những mảnh nhỏ nằm lộn xộn trên mặt đất. Không hiểu vì sao trợ lý Lương lại nhặt từng khúc xương còn chưa vỡ vụn để sang một bên.

Hầu hết những bộ xương này đều không còn nguyên vẹn, đại khái là bị mấy con chuột bự kia đem ra làm dụng cụ mài răng, bề mặt gồ ghề, có mấy khối đã không thể phân biệt được đó là phần nào trên cơ thể.

Lão Dương thấy trợ lý Lương đang trầm tư suy nghĩ liền nổi lên tò mò, bèn hỏi gã: “Anh trợ lý, anh đang tính làm toán đó à?”

Trợ lý Lương ngẩn ra một chút, sau đó xoay đầu lại nói với tôi: “Thật không ngờ đàn chuột này kéo đến đây phá rối lại tình cờ giúp tôi phát hiện ra một bí mật rất lớn.”

Tôi thấy hai mắt gã sáng lên, phấn chấn lạ kỳ, trong lòng tôi càng thấy quái dị, đống xương cốt này thì có thể ẩn giấu bí mật gì?

Trợ lý Lương bảo chúng tôi ngồi xuống, đưa một khúc xương cho chúng tôi, hỏi: “Hai cậu nhìn đi, có phát hiện ra được điều gì không?”

Tôi cùng lão Dương nhìn nhau, không biết gã đang định giở trò gì, lão Dương nở một nụ cười quái đản nói với gã: “Đây không phải là anh đang chế nhạo chúng tôi sao, bọn tôi đi đổ đồ của người chết chứ có đi đổ người chết đâu, anh cứ nói thẳng ra đi, nói cho mau rồi chúng ta rời khỏi đây gấp.”

Trợ lý Lương ngượng ngùng cười: “Tại tôi quá vui mừng, không để ý đến lời nói, các cậu đừng quan tâm, cứ để tôi nói ra những suy luận của mình đã, à… các cậu nhìn chỗ này của khúc xương xem, nhìn cho kỹ đi.”

Tôi nhận lấy khúc xương cẩn thận quan sát, chỉ thấy chỗ gã nói đến có một lỗ hổng trơn nhẵn, miệng lỗ hổng cùng màu với xương, niên đại chắc cũng đã khá xa, nhưng trợ lý Lương đưa tôi xem thứ này để làm gì thì tôi nghĩ không ra.

Thấy vẻ mặt đầy nghi ngờ của tôi, trợ lý Lương nói: “Không nhìn ra cũng không sao, để tôi nói cho các cậu, đây là xương đòn (

xương quai xanh

), nó ở chỗ này.”, gã chỉ vào cổ mình rồi tiếp, “Lỗ hổng trên này chính là vết thương cũ trên xương được tạo thành trước khi chết, cậu xem, miệng lỗ rất bén, không có dấu hiệu liền lại của xương, chứng tỏ thời gian có vết thương này rất gần với thời gian tử vong.”

Lão Dương nghe đến đó, còn tưởng là chuyện gì, liền mất kiên nhẫn nói: “Chuyện này mà gọi là bí mật gì chứ, xương cốt bị thương thì đúng là đáng thương thật, nhưng mà chúng ta mau đi thôi, đuốc gần tàn rồi.”

Trợ lý Lương vội khoát tay nói: “Cho tôi ba phút nữa, sẽ nói xong ngay!”

Tôi thấy gã vô cùng hào hứng, không nói cho rõ ràng chắc chắn sẽ không chịu thôi, lão Dương càng hối thúc ngược lại càng làm mất thêm thời gian, tôi vội đưa mắt ra hiệu cho lão Dương đừng có xen vào rồi quay nói với trợ lý Lương: “Cứ mặc kệ hắn, anh nói đi.”

Gã nuốt nước bọt, nói: “Vừa nói đến đâu nhỉ, à, vết thương này xuất hiện rất gần với thời gian tử vong, tôi có thể kết luận đại khái là vết thương đó chính là nguyên nhân gây nên cái chết. Vết thương ở vị trí như vậy có lẽ là do bị người ta dùng dao cắt đứt phần động mạch cổ ngay phía trên xương đòn, vì hạ dao quá nhanh nên cắt trúng vào xương.”

Tôi nghe thế buồn bực hỏi: “Theo như anh nói thì chủ nhân của khúc xương này bị người ta cắt cổ chết à!”

Trợ lý Lương nở nụ cười quái dị, lắc lắc đầu: “Không chỉ có khúc xương này, toàn bộ thi thể ở đây đều có cùng nguyên nhân tử vong. Cậu xem, riêng ở đây có bảy khúc xương đòn, bên trên đều có vết cắt như vậy, mà thông thường ngày xưa nếu cúng tế bằng người sống đều là bắt người bị hiến tế quỳ gối, tiếp đó thầy tế đứng đằng sau một dao cắt đứt yết hầu. Thế nhưng những người ở đây lại bị cắt họng từ phía trước, cho nên tôi có cảm giác phần lớn những người ở đây không phải là bị tế sống mà là chết trận.”

Trợ lý Lương nói xong liền nhìn tôi với đôi mắt sáng rực. Tôi bị gã nhìn đến sởn gai ốc, tự hỏi sao gã lại như vậy, chết trận thì là chết trận thôi, cũng đâu cần phải phấn khởi tới mức này, vội hỏi gã: “Trợ lý Lương, bí mật lớn mà anh nói chính là điều này?”

Gã tỏ vẻ thần bí: “Không phải, không phải, đây mới chỉ là phần mở đầu của bí mật thôi, điều tiếp theo tôi muốn nói mới là vấn đề chính.”

Nói rồi gã lấy ra một thứ từ trong đống thi thể vỡ vụn, nói với tôi: “Bí mật lớn ấy ẩn giấu bên trong vật này.”

Tôi cầm lên quan sát, đó là một mảnh của thứ gì đó rất khó hình dung, dường như là nón hay một bộ phận nào đó của áo giáp. Có điều thứ này không phải là xương cốt thì tất nhiên chính là minh khí. Tôi cầm lên soi kỹ dưới ánh đuốc, kinh ngạc thốt lên: “Là một mảnh giáp bằng thanh đồng?”

Trợ lý Lương gật đầu: “Không sai.”

Lúc này, không biết là do bị gã trợ lý thần kinh bất bình thường ở ngay bên cạnh tác động hay là do trực giác của chính mình mà tôi mơ hồ cảm thấy chuyện gã đang nói đến có thể  ẩn chứa một sự thật kinh thiên động địa nào đó, nhất thời cả người toát mồ hôi lạnh.

Trợ lý Lương nói tiếp: “Đây là kiểu áo giáp chỉ xuất hiện vào thời Hậu Hán (

947-950, Trung Quốc

), cậu xem mảnh này khồng hề có lớp lót trong, đây là áo giáp dành cho mùa hè, người này chết vào khoảng thời gian đó, còn nữa, kỳ lạ nhất là thứ này”, gã cẩn thận gỡ ra một mảnh nhỏ gì đó từ miếng áo giáp, “cậu xem đi, mảnh nhỏ này dù không bắt mắt nhưng lại chính là mấu chốt, cậu Ngô, cậu là người có hiểu biết, vừa nhìn chắc hẳn đã nhận ra đây là thứ gì.”

Cả người tôi gần như lạnh toát, vừa quan sát theo lời gã liền hiểu ra, mảnh nhỏ kia chẳng phải gì khác mà chính là một mảnh tơ lụa, có lẽ là nó bị dán lên áo giáp lúc thi thể thối rữa.

Những thứ đó là đồ của người Hán, sao lại xuất hiện trong hố bồi táng của người Xá đã tuyệt tích hàng ngàn năm trước?

Trợ lý Lương nhìn ra xung quanh, nói: “Nếu tôi đoán không nhầm, đây thật ra không phải là hố tuẫn táng mà là một bãi chiến trường, thi thể ở dưới này có hai phe, một bên là những người canh giữ cổ mộ, một bên là quân đội người Hán.”

Chương 20 – Hỏa Long trận

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

Tôi chợt nhớ lại truyền thuyết về Giáp Tử Câu, đội quân đã biến mất trong núi chính là đội quân câm lặng của Bắc Ngụy, trong lòng đã rõ ràng hơn phân nửa. Gọi là trầm mặc, thực chất đó là đội quân do một nhóm người câm điếc hợp thành, có thể cũng chính là ‘Bất ngôn kỵ’ thời Bắc Ngụy mà trợ lý Lương đã nhắc đến. Những binh sĩ này tuyệt đối không để lộ bí mật nên hoàng đế mới để bọn họ đi làm những nhiệm vụ không hề vẻ vang, ví dụ như trộm mộ.

Một ngàn năm trước, hậu duệ Xà quốc dần dần biến mất do kết hôn cùng dòng máu Hán tộc ngoại lai, nhưng trong sơn động này vẫn còn lại một nhóm người Xà quốc canh giữ lăng mộ của vị tù trưởng nào đó, không ngừng sinh sôi nảy nở, không hiểu vì nguyên do gì đội quân Bắc Ngụy kia lại biết trong núi có một lăng mộ như thế.

Quân đội người Hán tiến vào nơi này, phá tan những động đá vôi ngoắt ngoéo như mê cung, đi sâu vào hố tuẫn táng. Người dân Xà quốc thề sống chết kháng cự, tiếc thay dẫu sao họ cũng không phải là đối thủ của Bất ngôn kỵ được trang bị đầy đủ, cuối cùng bị tàn sát gần hết.

Có thể khẳng định đa số những thi thể ở đây là của người Xá, chúng tôi đi lang thang trong này có thể là do những oan hồn vẫn còn ở lại giữ lăng mộ tổ tiên tụ họp lại để ngăn cản những kẻ xâm lược là chúng tôi tới gần.

Chuyện này cũng thật khó xử, đã đến đây rồi chẳng lẽ lại quay về, chấp nhận một chuyến trắng tay? Tôi không cam lòng chút nào, nhưng nếu quả thật có quỷ hồn quấy phá thì chúng tôi coi như nắm chắc phần bại.

Cây đuốc dần tàn, chập chờn vài bận, ngọn lửa chỉ còn leo lét như ngọn nến.

Lúc nào lão Dương không còn hối thúc chúng tôi nữa, bởi hắn biết dùng cách thông thường thì không sao đến được cửa mộ, cho dù có quỷ hay không thì cây đuốc cũng không cầm cự được lâu hơn nữa.

Trợ lý Lương nói: “Nếu đây đúng là chiến trường thì những thi thể kia sẽ không thể bị ai sắp đặt, cũng có nghĩa chỗ này chẳng phải thi trận gì sất. Tôi đoán là chúng ta thật sự đã bị quỷ che mắt, đây chắc là quỷ dựng tường, hai người có biết cách nào để vượt qua không?”

Lão Dương bất dắc dĩ thở dài: “Ông anh họ ở Sơn Tây của tôi có nói, gặp phải chuyện này cứ lấy tơ hồng cột vào chân trái là có thể thoát ra. Nhưng trên người cả bọn chẳng có thứ gì màu hồng cả, hay là chúng ta dùng chính máu mình để nhuộm?”

Tôi gạt đi: “Cái đó không cần thiết, nơi này mà có mùi máu dù sao cũng không phải chuyện tốt lành gì, chúng ta nghĩ cách khác đi.”

Trợ lý Lương nói: “Đúng rồi, tôi có nghe thầy tôi nói quỷ dựng tường nhất định phải ở trong bóng tối, chẳng phải chúng ta còn pháo sáng đó sao? Cứ bắn ra một viên rồi chạy đi một đoạn, tôi thấy vậy còn tốt hơn dung đuốc, ít nhất sẽ không bị mê hoặc.”

Tôi thấy cũng có lý, chỉ cần xác định rõ nơi mình muốn đến thì bất cứ thứ gì cũng không mê hoặc được chúng tôi. Vì thế tôi nháy mắt ra hiệu với lão Dương.

Lão Dương thở dài lấy súng báo hiệu ra, nói: “Quá lãng phí.”, dứt lời liền nâng tay bắn một phát hướng lên trên.

Pháo sáng hệt như một dải sao băng bay vút lên cao, tôi vô thức ngẩng đầu nhìn theo chờ giây phút nó cháy sáng rực rỡ, không ngờ dải sao băng vừa bay lên đã nghe bụp một tiếng, bắn ngược trở lại, rớt thẳng xuống dưới.

Tôi thấy thế ơ lên một tiếng, thầm nhủ hôm nay cậu ta mắc chứng gì vậy, không nhớ mình đang ở trong sơn động hay sao mà lại bắn pháo sáng lên trên như thế, pháo còn chưa kịp cháy đã đụng phải trần động rồi.

Pháo sáng nhanh chóng rơi xuống dưới, gần đến mặt đất mới cháy bùng lên. Đây là loại pháo sáng Photpho pentoxit

(P2O5)

vẫn thường được các đội thám hiểm sử dụng, có thể cháy sáng khoảng 50s, khi bắt đầu cháy nhiệt độ rất cao. Tôi vừa thấy khoảng cách giữa đạn pháo và mặt đất đã biết chuyện không ổn, quả nhiên nó vừa rơi xuống vài giây, mặt đất bên dưới đã lập tức bắt lửa.

Tôi đá lão Dương một cú, mắng hắn óc đậu phụ, cũng may ở đây chỉ toàn xương với cốt, không thì sau chuyến này chúng tôi còn phải quay ngược lại đây lo cứu hỏa. Còn chưa nói hết câu, trợ lý Lương đã đập đập tay tôi la lớn: Hai vị gia gia, lần này toi thật rồi!

Tôi nhìn lại, chỉ thấy nơi nhen nhóm một ngọn lửa nhỏ ban nãy đột nhiên cháy bùng lên thành một bức tường lửa. Càng khó tin hơn nữa là, bức tường lửa này đang lan nhanh theo con đường mòn giữa những đống xác chết với tốc độ kinh người, trong nháy mắt chỉ còn thấy một con hỏa long trườn đi trên mặt đất trong sơn động tối đen như mực, trườn tới đâu đám xương cốt hai bên đường mòn đều phát ra tiếng nổ giòn giã tới đó.

Trợ lý Lương thấy cảnh này, mặt mũi tái mét, vội vàng ngồi xuống bốc một ít đất lên ngửi thử, sau đó la lớn: Dầu hỏa! Trong bùn có tưới dầu hỏa!

Tôi nghe vậy thì cực kỳ hoảng sợ, tức khắc ngồi xuống kiểm tra lớp đất nền, thấy quả đúng là như thế, vội bảo lão Dương tắt đuốc đi. Trong lòng tôi vô cùng sợ hãi, không ngờ trong thi trận này còn ẩn giấu một chiêu lợi hại đến thế, chỉ e những cư dân cổ ở đây vì bảo vệ thứ gì đó trong cổ mộ mà đã bố trí nên phòng tuyến cuối cùng này, tiếc rằng lúc ấy chưa kịp dùng đến, bây giờ lại bị chúng tôi kích hoạt. Chúng tôi vào đến tận đây mà vẫn chưa xảy ra chuyện gì thật đúng là kỳ tích, nếu vừa rồi sơ ý đánh rơi cây đuốc xuống đất thì chúng tôi đã bị đốt thành than rồi.

Con Hỏa long ở đằng xa không một phút ngơi nghỉ, chẳng biết từ khi nào đã chia ra thành hai nhánh, ngọn lửa bùng lên cao hơn cả thân người, trong nháy mắt đã chiếu sáng bừng cả hang động. Tôi vừa liếc mắt qua đã có thể nhìn rõ bố cục nơi này, chỉ thấy đường lối trong thi trân đều thông với nhau, ở một nơi chật hẹp thế này thì cũng coi như chúng đã hợp lại làm một. Con hỏa long này sớm muộn gì cũng sẽ cháy đến nơi chúng tôi đang đứng, nhất định phải tránh đi chỗ khác.

Tôi lo lắng nhìn khắp xung quanh, chợt thấy khoảnh đất trũng kia hóa ra chỉ cách chúng tôi chừng mười mét về bên trái, từ nơi chúng tôi đứng đến chỗ cái hố đã bùng lên một bức tường lửa nhưng phần đất bên trong lại không hề bốc cháy, có lẽ là một nơi lánh nạn khá tốt. Lúc này con hỏa long đã bắt đầu trườn về phía chúng tôi, không còn thời gian lo lắng nữa, tôi hét lớn: Đừng có đứng đần mặt ra ở đây nữa, có cái hố bên kia kìa! Mẹ nó cứ nhảy vào đó đã rồi tính sau!

Hai người kia vội vã đạp lên đám thi thể, lao thẳng về phía khoảnh đất trống. Tôi cũng không ngờ mình lại có năng khiếu chạy vượt rào, chỉ một bước đã nhảy qua đầu mấy bức tượng đá, vài giây sau đã đối mặt với bức tường lửa, một luồng khí nóng hầm hập tức khắc phả vào mặt.

Tôi vốn định thuận đà lao luôn qua tường lửa cho khí thế, nhưng vừa tiến lại gần đã ngửi thấy mùi tóc cháy khét lẹt, bước chân thoáng chần chừ muốn dừng lại, nhưng quán tính lại quá lớn, có muốn dừng cũng không được, tôi đành phải hét lớn một tiếng rồi nhắm mắt nhảy qua. May mà tốc độ khá nhanh, tôi vừa cảm thấy lửa liếm lên người mình bỏng rát thì đã ngã xuống đất rồi. Tôi lăn một vòng dập tắt hết lửa trên quần áo, ngay sau đó lão Dương và trợ lý Lương cũng vọt tới, lăn lộn nhiệt tình để dập lửa.

Bấy giờ tôi đã hiểu vì sao mặt đất nơi đây lại hơi trũng xuống, thì ra lớp đất trên mặt đã bị người ta xúc đổ đi. Tôi lăn hết một vòng vẫn chưa kịp nhìn kỹ, lão Dương đã kêu gào thảm thiết lăn đến ngay bên cạnh.

Tôi vội cởi áo khoác giúp hắn dập lửa trên người rồi đỡ hắn dậy, thấy hắn không sao cả, chỉ có lông mi là bị đốt trụi. Ngoảnh đầu lại thì thấy trợ lý Lương vẫn không ngừng lăn lộn, lửa trên người vẫn cháy mạnh, tôi thầm nghĩ có lẽ là do vừa rồi gã ngã xuống đất nên quần áo dính dầu hỏa, lửa không tắt được là phải. Tôi vội vàng đè gã xuống, dùng đất phủ lên người gã dập lửa.

Trợ lý Lương gào khóc thảm thiết, cả người nghi ngút khói trắng. Tôi với lão Dương lột đồ hắn ra, chỉ thấy trên lưng có vài chỗ đã muốn cháy đen, cũng may lúc nãy mồ hôi lạnh toát ra khá nhiều nên cũng đỡ được một chút, nhìn chung không đến nỗi nghiêm trọng. Tôi mở bình nước, giội hết nửa bình lên lưng gã để hạ nhiệt độ, sau đó mới ngẩng lên quan sát tình hình bốn phía.

Khoảnh đất trống chúng tôi đang đứng đã bị tường lửa cô lập, bên ngoài rối tinh rối mù, hơi nóng tạt qua khiến cho toàn bộ lông tóc trên người đều phát ra tiếng xèo xèo, vô số xương cốt không ngừng vỡ vụn ra do hơi nóng làm không khí bên trong giãn nở, những mảnh xương vỡ bị hất tung lên giữa chừng không. Tôi nhìn thoáng qua đã biết tình hình không thể cứu vãn, động xác bị thiêu hủy hoàn toàn, chỉ chút nữa thôi không chừng không khí trong khoảnh đất trũng này cũng bị đốt sạch, đến lúc đó không bị hầm chết cũng bị bỏng chết.

Đang lúc muốn phát điên, lão Dương bỗng kéo tôi, kêu to: “Lớn chuyện rồi, mau…mau rút súng, bị lão Diêm vương chỉ đích danh rồi!

Tôi không biết hắn có ý gì, vừa quay lại đã thấy sáu bảy con chuột bự bị lửa nóng hun đến phát điên, lao qua tường lửa nhằm thẳng mặt tôi định cắn. Tôi cúi người né tránh, lão Dương không chờ cho chúng xông tới lần nữa, bắn một phát đánh bay một con, còn tôi dùng cây đuốc đã tắt làm vũ khí đập mấy con nhảy đến văng ra chỗ khác. Cùng lúc đó hơn chục con nữa phóng qua nhanh như chớp, tôi đứng quá gần nên bị cào mấy vết trên lưng, lập tức ngã lăn trên mặt đất. Lão Dương lại bắn thêm mấy phát súng nữa đẩy bọn chúng lùi lại, tôi ngẩng đầu nhìn lên, ôi mèn ơi, phía ngoài tường lửa chuột lớn chuột nhỏ rủ nhau bu lại, mấy cặp mắt bị lửa hun đến đỏ rực đang nhìn chúng tôi đắm đuối.

Tôi thầm than không xong rồi, mấy con chuột đã nhảy vào bị tiếng súng của lão Dương làm cho kinh sợ không dám đến gần, nhưng đám chuột ở bên ngoài thấy khoảnh đất chúng tôi đang đứng không bị bốc cháy tất nhiên sẽ liều mạng nhảy qua, số lượng sẽ càng lúc càng tăng, đến khi chúng phát hiện ra sự áp đảo về số lượng tất nhiên sẽ đồng loạt xông lên gặm chúng tôi chỉ chừa lại xương trắng.

Tôi thấy cứ liều mạng bám trụ thì không nên chút nào, bèn kéo lão Dương lại, bảo hắn tạm thời cứ mặc kệ lũ chuột, quan trọng nhất là tìm cách thoát khỏi đây. Đúng lúc ấy lại nghe tiếng trợ lý Lương gọi to: “Ở đây có một đạo động!”

Chúng tôi nhìn lại mới thấy giữa hố đất có một cái động nhỏ rất khó phát hiện, không biết là do ai đào nên. Lão Dương rút hộp đạn ra kiểm tra rồi đưa súng cho tôi, sau đó cõng trợ lý Lương lên hướng thẳng về phía đạo động. Tôi một tay cầm súng ngắn, một tay giữ Phách tử liêu đi theo phía sau hắn.

Chưa được vài bước, mấy con chuột gần nhất đột nhiên rít lên một tiếng, phóng tới như chớp. Tôi nâng tay bắn liền bốn phát đạn, trúng được ba con, hai con khác đã muốn bổ nhào vào mặt tôi. Không còn cách nào khác tôi đành dùng đến Phách tử liêu, chỉ nghe một tiếng nổ thật lớn vang lên, hai con chuột bị nát bấy giữa chừng không.

Chương 21 – Tần Lĩnh thần thụ

Editor: Biển

Beta: 

天真教主

Bởi vì tôi dùng Phách tử liêu bằng tay trái, hơn nữa sức giật của loại súng này mạnh khủng khiếp, chỉ sau một phát súng mà gan bàn tay tôi đã tê dại, cánh tay cũng không nâng lên nổi nữa. Nhưng cũng may nhờ vào tiếng nổ kinh người mà đến lão Dương cũng sợ đến mức gần như lảo đảo, mấy con chuột lập tức lùi lại không dám tấn công bừa nữa.

Tôi biết đây chính là cơ hội liền vội vã hối thúc lão Dương đi nhanh lên, Phách tử liêu có uy lực rất lớn ở khoảng cách gần nhưng số lượng đạn có hạn, cho dù một phát bắn chết mười con đi nữa cũng chẳng thấm tháp vào đâu. Vả lại phát đạn tiếp theo không biết có được hiệu quả tốt như vừa rồi không nữa.

Trong lúc suy nghĩ cả bọn đã lui vào giữa hố đất, tôi thử nhìn xuống, trên mặt đất quả nhiên có một cửa động tối đen sâu thăm thẳm, còn lờ mờ thấy được mấy lớp gạch đá phía dưới. Lão Dương ra sức nhét trợ lý Lương vào trong động, bàn tay đang nắm lưng áo vừa buông ra, trợ lý Lương liền rơi xuống dưới, sau đó hắn cũng nghiêng người, hai tay chống đất nhảy xuống.

Tôi đi sau bọc hậu, nghe lão Dương lớn tiếng gọi mình từ bên trong liền làm theo hắn chống một tay nhảy vào trong động.

Xuống chưa được nửa người hai chân đã chạm đất. Tôi đánh bật lửa quan sát, lão Dương đang lo lắng chờ tôi ở bên dưới, trợ lý Lương nằm bẹp một bên chẳng biết sống chết thế nào.

Tôi giao bật lửa cho lão Dương để hắn tìm thứ gì đó chiếu sáng, mình thì lo lấy những vũ khí trên mặt đất chèn vào lỗ hổng ngăn cho lũ chuột khỏi chui vào.

Lão Dương châm mấy cây đuốc trên bốn bức tường mộ thất, xung quanh vừa được chiếu rọi liền phát hiện ra nơi này rõ ràng là một thạch thất mang đậm phong cách Xà quốc, bốn phía đều là khoáng thạch dựng thành tường, trên đó là bích họa sặc sỡ đủ màu sắc, trên trần được khảm gạch xanh, chỉ là vì quá ẩm thấp nên hầu như nhìn đâu cũng thấy toàn là dấu vết của nấm mốc.

Thạch thất rất nhỏ, ngoài vũ khí và một vài loại dụng cụ ra thì không có vật bồi táng nào khác. Giữa thạch thất không có quan tài nhưng trên sàn có dấu vết cho thấy rằng đã từng có quan tài được đặt ở đó.

Ngoài ra không thấy hành lang thông với chỗ khác, tôi vừa nhìn sơ qua một lượt liền không nén nổi mà tự hỏi, chẳng lẽ cái cổ mộ mà bao nhiêu người ngoài kia đã bỏ cả tính mạng ra để bảo vệ chính là căn phòng đá trống không mắc dịch này sao?

Hơi nóng từ phía trên dần lan xuống mang theo cảm giác ngột ngạt, màu sắc của những bức bích họa trên tường nhờ hơi nóng mà bỗng chốc trở nên tươi sáng vô cùng khiến cho người ta không dám nhìn thẳng vào. Trong thâm tâm chúng tôi đều biết, trốn ở dưới này tuy có thể tạm thời bảo toàn tính mạng nhưng lại không phải là biện pháp lâu dài.

Tôi uống vài ngụm nước, sau đó kiểm tra xem thử trợ lý Lương thế nào. Sờ đến trán gã mới phát hiện cả người gã nóng rực, hơi thở mong manh, có triệu chứng sốt cao. Tôi vội đổ hết nửa bình nước còn lại lên người gã, lão Dương thì bấm mạnh vào nhân trung, cuối cùng cũng lay được gã tỉnh lại.

Lũ chuột bên ngoài đã nổi điên, vây quanh cửa động mà ra sức gào rít cố gắng xông vào, tiếc là ở đó nhét đầy vũ khí và dụng cụ sắc bén bằng thanh đồng, bọn chúng không cách nào chui qua được.

Lão Dương dạo vài vòng xung quanh không thấy có lối ra, liền hỏi tôi chỗ này có thể có lối đi bí mật nào không? Nếu thật sự không có, chuyến này chúng tôi bị sấy thành người khô cả mất.

Tôi nhìn ra bốn phía, nơi này quá hẹp, vừa nhìn đã thấy ngay là hầu như không có chỗ nào có thể lắp đặt cơ quan, vừa định nói không có khả năng, bỗng nghe rắc một tiếng, cửa đạo động bị sụp xuống một mảng, có con chuột thậm chí gặm nát cả một viên gạch, chui thẳng vào trong khe hở, tiếc là cái đầu quá lớn nên bị kẹt lại giữa hai viên gạch.

Lũ chuột không gặm nổi thanh đồng liền chuyển sang tấn công mấy viên gạch xanh ngay bên cạnh. Tôi thầm than không xong, gạch xanh tuy rằng khá rắn chắc nhưng vẫn không thể so với kim loại được, lũ chuột mà liều mạng gặm thì nói không chừng gạch cũng bị cắn vụn ra hết.

Tôi lấy một thanh giáo dài đẩy con chuột kia lui lại, sau đó gọi lão Dương đến giúp một tay, hắn vội cởi áo ngoài rồi dùng vũ khí đưa lên nhét vào trong khe hở chỗ cửa động.

Nhưng mà cái áo đó cũng chẳng thấm vào đâu, chưa được bao lâu đã bị con chuột kia gặm ra một lỗ lớn, ngay sau đó hơn mười con chuột liền theo thân giáo chạy xuống.

Chúng tôi vội vàng buông tay. Mấy con chuột kia xuống đến mặt đất lại không hề tấn công chúng tôi mà chạy thẳng đến một góc tường.

Lão Dương thấy vậy lập tức hiểu ra, kêu to: “Lão Ngô, bọn chúng đang tìm lối thoát! Mau đi theo!”

Chúng tôi vội đi qua mới thấy chân tường bên đó có một hang chuột rất khó nhận ra, quỳ xuống xem thử, bên kia tường hình như là một khoảng trống không.

Lão Dương không nói một lời, vớ lấy một cái chùy bằng đồng trên mặt đất, huơ một vòng phang thẳng vào bức tường đó. Cây chùy giáng xuống khiến cho tường đá bị vỡ ra một mảng, trên tường xuất hiện một lỗ hổng lớn bằng đầu người, chúng tôi nhìn qua đó thấy phía sau còn có một thạch thất khác.

“Khỉ chứ, hóa ra lối đi bí mật ở đây là phải đập tường ra mới thấy!”, lão Dương kêu lên, lại giáng thêm mấy chùy nửa mở rộng lỗ hổng ra, sau đó hai người chúng tôi khiêng trợ lý Lương lên rồi bò qua phía bên kia.

Thạch thất bên kia tường hoàn toàn không có trang trí bày biện gì, ở giữa có một cái giếng khoan hình vuông dẫn xuống khoảng tối sâu thăm thẳm phía dưới, bên trong không có nước, lũ chuột không hề chậm lại mà trực tiếp nhảy luôn vào trong đó.

Từ phía sau truyền đến âm thanh gạch bị nứt vỡ, nhìn lại mới biết hóa ra lớp chì gắn kết giữa những viên gạch đã bị mềm ra, mộ thất này sẽ nhanh chóng sụp xuống, tôi và lão Dương cùng hạ quyết tâm, chết thì chết thôi, cả hai nghiến răng theo lũ chuột nhảy vào trong giếng.

Giếng có độ dốc rất nhỏ, chúng tôi trượt xuống một hơi, sau đó nặng nề văng ra lăn một vòng trên mặt đất bằng phẳng. Sực nhớ đến lão Dương và trợ lý Lương ở ngay phía sau, tôi lập tức lăn qua bên cạnh, quả nhiên lão Dương hạ mông đúng vào chỗ tôi vừa rời khỏi, tiếp đó trợ lý Lương rơi ngay trên người hắn đè cho hắn kêu la oai oái.

Phía trên vang lên một tiếng nổ, sau đó là chấn động dữ dội, mộ thất cuối cùng đã bị lửa thiêu sụp, những tảng đá nóng đỏ rơi ầm ầm xuống miệng giếng chỗ chúng tôi vừa đứng.

Lão Dương ngồi dậy hỏi tôi: “Đây là đâu?”

Tôi giơ cây đuốc hắn lấy từ chỗ mộ thất vừa rồi ra quan sát xung quanh, vẫn là vách giếng hình vuông, chỉ là đổi qua hướng ngang mà thôi, liền đáp: “Là đường thoát nước của cổ mộ, một bộ phận của hệ thống thoát nước.”

Lão Dương nhìn những đường hầm rối rắm bốn bề, hỏi: “Vậy chúng ta đi hướng nào bây giờ?”

Tôi nhìn hắn, thầm nói sao tôi biết được, lúc này mấy con chuột trượt xuống từ phía trên nhảy khỏi vai lão Dương rồi lập tức chạy vào thông đạo phía trước.

Tôi giật mình vội nói: “Đi theo chúng!”, dứt lời liền cất bước đuổi theo.

Lũ chuột chạy rất nhanh, chẳng bao lâu đã dẫn chúng tôi qua mấy khúc ngoặt, bọn tôi gần như không theo kịp chúng nó, ba chân bốn cẳng cố gắng đuổi sát phía sau, gắng gượng chừng hơn mười phút, chợt có một trận gió nhẹ thổi tới, lũ chuột thoáng cái đã biến mất. Tôi còn chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra, chân đã bước hụt vào khoảng không, gần như là lăn ra khỏi đường hầm thoát nước.

Tôi không biết tình hình ngoài này ra sao, liền xoay người đứng dậy, lúc này bọn lão Dương cũng văng ra, bốn bề tối đen như mực, tôi vội châm đuốc lên chiếu sáng.

Bốn phía trở nên sáng sủa, hóa ra nơi đây không phải mộ thất mà là dưới đáy của một cái giếng sâu rất lớn hình tròn, đường kính khoảng hơn sáu mươi mét, đáy trũng thành một cái hố sâu. Tường đá xung quanh đều có giá đèn, tôi liền đốt lên vài chỗ cho có thêm ánh sáng.

Trên vách tường của giếng còn có dấu vết đào bới rất rõ ràng, dễ dàng nhận ra cái giếng này là do con người tạo nên, chỉ là họ đào sâu như vậy để làm gì? Chẳng lẽ đây cũng là một bộ phận của động khai thác đá phía trên?

Tôi còn thoáng thấy ở giữa hố có dựng một cái cây gì đó rất lớn, tiếc là ánh sáng không đủ nên không thể nhìn thấy rõ ràng. Nhiệt độ ở đây rất cao, một luồng hơi nóng bỏng từ phía trên thổi xuống khiến cho ai cũng đau đầu choáng váng, ngay cả đứng cũng còn không vững.

Tôi giơ cao ngọn đuốc, bảo lão Dương cõng trợ lý Lương đi vào trong hố, có ánh sáng từ cây đuốc, mọi thứ bên trong trở nên thật rõ ràng.

Trong hố toàn là tượng đá đầu người như chúng tôi đã thấy ở bên ngoài, khoảng chừng đến trăm, đầu người ở trên đều đã khô đét. Giữa hố dựng thẳng một cái cây bằng thanh đồng có đường kính khoảng mười mét, mới nhìn qua còn tưởng đó là một bức tường cong bằng đồng cao chót vót.

Gốc cây thanh đồng cắm vào khối đá ở đáy hố giống như là từ đó mọc ra, làm cho nham thạch ở bốn phía nứt ra rất nhiều khe nhỏ.

Trên cây thanh đồng còn có rất nhiều khúc cây đồng nhỏ đủ kích cỡ rất giống với khúc cây mà lão Dương mang theo, nhìn rất dày đặc, ước chừng không dưới một ngàn cây, lên cao hơn còn nhiều nữa. Cả cây thanh đồng giống như một gốc cây to mọc ra từ trong tảng đá, cành nhánh sum suê, cắm sâu vào đất.

Trợ lý Lương thấy thế mà lạnh cả người, gã leo xuống khỏi lưng lão Dương, nói: “Những người tạo nên chỗ này chắc chắn là muốn đào cây thanh đồng này ra, các cậu xem dấu vết đào bới bên trên đi, thậm chí đã đào đến chân núi vẫn chưa thấy được tận cùng, không biết cái cây thanh đồng này còn cắm sâu tới mức nào nữa.”

Lòng tôi cũng phát lạnh, một thứ đồ bằng kim loại to lớn nhường này đã hoàn toàn vượt ra khỏi trình độ luyện kim của thời kỳ đó, người dân Xá tộc không thể có được kỹ thuật như vậy. Nhưng nếu không phải là bọn họ thì ai mới là người đã tạo nên cây thanh đồng này? Chẳng lẽ là nó mọc lên từ Địa Ngục?

Lúc này trợ lý Lương đột ngột vỗ tôi một cái, tôi quay sang thì thấy lão Dương, người vẫn luôn im lặng nãy giờ, đang nhìn chằm chằm vào cây thanh đồng, bước thẳng đến đó.

Chương 22 – Tiếp tục trèo

Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Tiểu Điệp

*****

Tôi nhìn sắc mặt lão Dương có vẻ không ổn, trong lòng thầm cảm thấy bất thường vội kêu to tên hắn. Lão Dương bị tôi làm giật bắn mình, lập tức phản ứng lại, sợ đến run rẩy mà đứng khựng tại chỗ.

Hai chúng tôi vội lao tới, truy hỏi hắn vừa rồi định làm trò gì.

Lão Dương nhìn nhìn cái cây rồi lại quay sang nhìn nhìn chúng tôi, dè dặt đáp: “Tớ cũng không biết nữa, quái đản thật, ban nãy thoáng nhìn thấy cái cây này đã có cảm giác quen thuộc lắm, bỗng nhiên muốn…leo lên.”

Leo lên? Tôi ngờ vực nhìn lão Dương, ngẩng đầu nhìn cây, tự thắc mắc tên này đâu phải khỉ, kiểu gì mà thấy cây lại muốn trèo lên liền hỏi hắn: “Hay là cậu bị khí thế hoành tráng của nó cuốn hút? Người ta nhìn thấy thứ gì cao cao thường cũng sinh hứng leo trèo mà.”

Lão Dương lắc lắc đầu: “Tớ chịu thôi!”

Trợ lý Lương ngắm nghía cây Thanh đồng, nói: “Cây này lớn như vậy, chắc chắn có điểm quỷ quái. Trong lúc quan sát chúng ta phải cực kỳ thận trọng, cố gắng đừng chạm vào nó.”

Lão Dương gật đầu tỏ vẻ đồng tình, tôi giơ cao bó đuốc, tiến lại gần bộ rễ của thanh đồng đại thụ.

Cây thanh đồng là văn vật vô cùng hiếm gặp, theo trí nhớ của tôi, trừ lần khai quật được ở gò Tam Tinh, những nơi khác hầu như chưa từng có. Tôi xem phóng sự chỉ hiểu được đôi chút, về vấn đề nguồn gốc của thứ này, giới khảo cổ cũng không có kết luận chắc chắn, giả thuyết thì vô số.

Từ khoảng cách gần có thể phát hiện trên mặt cây thanh đồng không được trơn nhẵn cho lắm mà khắc chi chít những bức họa hình rắn hai thân, tượng trưng cho thần tính của cây thanh đồng.

Trợ lý Lương nhìn hồi mới nói với tôi: “Kích thước khổng lồ thế này chưa biết chừng là đồ cúng tế, rơi vào khoảng thời Thương – Chu gì đó, nhưng cụ thể ở thời điểm hiến tế có tác dụng thế nào thì đã quá cổ xưa, vượt quá phạm vi kiến thức của tôi rồi.”

Điều đó cũng giống những lời ông già ngày trước nói cho tôi, nhưng khoảng thời Thương – Chu, nhà Thương kéo dài hơn sáu trăm năm, nhà Chu cũng đến năm trăm hai mươi hai năm, cộng vào cũng lên tới hơn một ngàn một trăm năm. Dao động quanh con số đó, cứ cho là lên xuống tầm bốn trăm năm cũng đã chiếm một nửa những gì sử sách Trung Quốc có ghi lại, những phán đoán thế này thì thà đừng nói còn hơn.

Tôi hỏi gã ta xem liệu có thể xác định chính xác rốt cuộc là thuộc giai đoạn nào ở thời Thương – Chu hay không.

Trợ lý Lương than rằng gã cũng bó tay không còn cách nào khác: “Thứ này mắt thường sao có thể nhìn rõ được, tôi tài hèn chỉ võ đoán cho cậu mà thôi. Cậu nhìn thử xem, những nốt gỉ này đều ngả màu xám đen, rất có thể là thiếc thanh đồng là một chủng loại trong số chì thiếc thanh đồng và chì thanh đồng. Khả năng rơi vào thời Tây Chu là lớn nhất, đại khái khoảng 50%, 50% còn lại kia tôi cũng không biết nói sao. Quy tắc của chúng ta cậu cũng thừa hiểu rồi, tôi chỉ biết được đến thế thôi, nói sâu hơn nữa thì tôi chịu thôi.”

Chế tác đồ cổ cũng có một đường ranh giới phân chia giữa các triều đại, một lượng lớn đồ cổ đều xuất hiện sau thời nhà Tống, trước thời nhà Đường không có mấy, thời Thương – Chu lại càng hiếm hoi. Nhận thức trong nghiệp vụ đối với những thứ này rất ít ỏi, như trợ lý Lương đã là rất khá rồi, còn giỏi hơn tôi nhiều.

Tôi nghe gã ta nói đến thế rồi mà vẫn chẳng có tí khái niệm gì, đành hỏi: “Vậy nếu dựa theo thời Tây Chu thì anh có thể nhận định thêm một chút được không? Trình độ của công nghệ Thanh đồng Tây Chu, trên lý thuyết có thể tạo ra thứ này hay không?”

Trợ lý Lương đáp: “Vấn đề này tôi lại càng không trả lời được, tôi chỉ biết vào thời điểm đó, trước khi chế tác đồ thanh đồng phải làm đào phạm (khuôn đúc để đúc đồ gốm sứ), theo lý mà nói chỉ cần làm được đào phạm, thì tất nhiên đúc được thành phẩm. Có điều vật này quá lớn, e rằng vận dụng công nghệ truyền thống sẽ không tài nào chế được.”

Lão Dương hỏi gã: “Trợ lý, ông nói thứ này có thể là di tích của nền văn minh thời tiền sử, nhưng tôi đọc báo có biết được rằng, mấy triệu năm trước đào mỏ còn chẳng ra nổi một tấc sắt, vật này lớn đến thế, “người” thời đó chắc không làm nổi đâu nhỉ?”

Trợ lý Lương lắc đầu: “Hai ông lớn ạ, về chuyện này thì bản thân tôi đây cảm thấy cũng không hẳn vậy, trước Công nguyên một nghìn năm cho đến khoảng đầu Công nguyên trong lịch sử được người ta xưng tụng là thời đại kỳ tích, đã kiến tạo được vô số kỳ quan tưởng như bất khả thi, như Vạn lý trường thành, Kim tự tháp, lăng mộ Tần Thủy Hoàng, vườn treo Babylon. Các cậu bảo không thể chế ra được cây Thanh đồng, điều đó rất khó khẳng định. Tổ tiên chúng ta khi đó đã biết đúc đồ thanh đồng, chỉ cần Hoàng đế hạ lệnh một tiếng, dân chúng dù cực khổ đến mấy cũng phải thi hành, dù mất vài chục năm nhưng cũng không phải không có khả năng.”

Trợ lý Lương nói cũng có lý, nhưng thời đó ngành luyện kim còn chưa phát triển, kiếm đâu ra nhiều thanh đồng như vậy mà sử dụng? Tần Thủy Hoàng thu hết binh khí trong thiên hạ mới chỉ đúc được mười hai bức tượng đồng, một thân cây này có thể đổi ra hàng trăm bức chứ không đùa, lượng Thanh đồng khổng lồ như thế ở đâu ra?

Tôi nghĩ đi nghĩ lại vẫn không sao lí giải được, nhưng trái lại đột nhiên nhớ ra một sự việc. Hồi chúng tôi nghe lỏm Lý Tỳ Bà nói chuyện, nghe lão nói rằng đồ trong cổ mộ này còn ngon hơn cả đồ trong lăng Tần Thủy Hoàng, nhưng chúng tôi suốt dọc đường mò mẫm xuống đây mãi chẳng thấy có cái của nợ gì hay ho, đi đến đường cùng rồi may ra được cây đồng này an ủi, nhưng bọn tôi cũng đâu phải dân nhặt đồng nát.

Có điều cái cây này cũng đáng giá một ngàn đồ đồng nát, đủ sống phủ phê cả đời đấy…

Trong ‘Hà mộc tập’ của lão nhất định có viết gì đó khiến lão phải cố sống cố chết tìm đến đây. Lão là loại người đã từng thấy qua vô số bảo vật, thứ có thể làm lão phải thốt ra câu đấy chắc chắn không tầm thường chút nào. Nhưng đó là cái gì? Và ở đâu?

Theo lý, đáng ra ở đây hoặc là trong cả cổ mộ, hoặc là trong trung tâm thần tích chắc phải có đồ tốt, cũng có thể là ở gần chỗ này. Nhưng ngoài cái cây này, tôi dám đảm bảo chẳng có thứ gì đáng cho người như ông chủ Lý để mắt tới.

Khoan đã nào…Cây…?

Tôi chợt nảy ra một ý, ngẩng đầu lên nhìn rồi nghĩ thầm: Có khi nào thứ đồ hấp dẫn lão lại giấu trên cây thanh đồng này không?

Cây thanh đồng lớn như thế, đối với người dân Xà quốc thời cổ đại mà nói đúng là công trình cực kỳ đồ sộ, có thể nói là thần tích, khó đảm bảo rằng đế vương của bọn họ sẽ không đem lăng mộ của chính mình xây dựng tại nơi gần thần tích nhất. Nếu nói đây đúng là một cổ mộ thật, thì quan tài của chủ mộ cùng tất cả các loại minh khí rất có thể đang ở trên cây.

Tôi nói thử suy nghĩ của mình với hai người kia, bọn họ đều cho là rất có lý. Tôi hỏi họ, đã như vậy liệu có nên trèo lên không?

Lão Dương đương nhiên đồng tình ngay: “Đã đến tận đây rồi thì trèo thêm một tí cũng chẳng chết ai. Cây này bên trên có rất nhiều mấu, cũng y hệt như leo thang thôi, không tốn sức lắm đâu.”

Tôi cũng không quan tâm lắm, có điều trợ lý Dương vừa bị bỏng, thể lực cũng cạn kiệt rồi, nếu bắt gã leo cây nữa chỉ e cái mạng cũng khó giữ. Chẳng may gã gục giữa chừng chúng tôi lại phải trông nom, còn phiền phức hơn.

Tôi quay đầu định bảo gã cứ ngồi dưới chờ, hai người chúng tôi lên là đủ, nhưng lại thấy trợ lý Lương xoa xoa mặt rồi vỗ tôi một cái: “Không sao hết, đã tới cửa cuối cùng rồi, kiểu gì tôi cũng phải đi xem thử.”

Tôi xem gã có vẻ kiên quyết lắm, biết rằng khuyên thêm cũng bằng thừa, không cần tốn công vô ích, vì thế liền lẳng nhanh ba lô lên vai, giơ bó đuốc nói với lão Dương: “Chúng ta đi tiếp thôi.”

Lão Dương móc trong túi ra một đôi găng tay đeo vào, ngay sau đó đặt chân lên chạc cây đầu tiên, bắt đầu leo lên. Tôi và trợ lý Lương làm theo động tác hắn, ở phía sau cứ theo trình tự bước chân của hắn mà leo một mạch.

Mật độ những chạc cây không quá thưa cũng không quá mau, trèo lên tương đối thuận tay, lão Dương vừa đi vừa nhắc nhở chúng tôi phải chú ý, không được sơ suất mà bước hụt ra ngoài.

Dán mình vào vỏ cây thanh đồng tôi càng nhìn càng thấy rõ ràng. Những nhánh cây mọc ra đều giống như đúc từ cùng một khối với thân cây, những điểm nối cực kỳ hoàn chỉnh không một chút tì vết, không có bất cứ mối hàn nào. Chỉ có một điều làm tôi hơi thất vọng, chính là hình rắn hai thân trên đó khắc quá sâu, tưởng chừng chạm cả vào lõi sâu nhất của thân cây. Tôi nhìn mãi mà không ra trong đó có gì.

Do động tác phải cẩn thận từng li từng tí, chỉ một chốc sau mồ hôi chúng tôi đã nhỏ tong tỏng, ai nấy thở phì phò như trâu. Tôi ngoái nhìn xuống dưới, nhận ra đã không thấy mặt đất đâu nữa, chỉ còn ánh sáng lờ mờ tỏa ra từ hỏa đàn bên cạnh cổng, trông qua chẳng khác gì một vực thẳm không đáy.

Đi được một quãng, sức trợ lý Lương đã chịu không nổi nữa, tôi bèn gọi lão Dương dừng lại, ra hiệu cho hắn đừng nóng vội, để trợ lý Lương nghỉ ngơi một chút.

Trợ lý Lương như được đại xá, liền lập tức ngồi phịch xuống. Gã đã mệt đến mức sắp ngã đến nơi, mồ hôi đầm đìa, chân không ngừng run rẩy, cơ hồ đứng cũng không vững. Tôi ngồi xuống trên chạc cây, hai chân phải lơ lửng giữa không trung thoạt chẳng vững chắc chút nào. Đến nghỉ mà cũng khổ như vậy.

Lão Dương thấy tình hình chúng tôi căng quá liền quăng cho một ít lương khô để có cái mà nhai, nói: “Nhìn mấy người thế này không xong rồi, muốn lên đỉnh còn phải tới hơn trăm mét nữa, sức đuối như vậy có khi phải lê lết ở đây mất một đêm. Ê lão Ngô, nếu không thì cậu với tớ tán chuyện tí cho thư giãn?”

Tôi mệt đến độ mở miệng ra còn thấy ngại, mắng hắn: “Biến, cậu thì không mệt chắc?! Xem cẳng chân thì run như cầy sấy thế kia, cậu thích tán chuyện thì cứ tự biên tự diễn đi, ông đây không dư sức!”

Lão Dương cắn một miếng bánh bột ngô: “Nói thì nói chứ sao, có điều cậu trả lời cho tớ một câu này đã. Lão Ngô, cậu thử phát biểu xem, chúng ta phát hiện ra thứ này mà thông tri với chính phủ thì có được lấy tên mà đặt cho nó không nhỉ?”

Đối với vấn đề này thì đúng là tôi hoàn toàn mù tịt, liền quay lại nhìn trợ lý Lương. Trợ lý Lương thở hổn hển khoát tay: “Dương gia này, anh đã bao giờ nghe nói tới những đồ cổ như ‘Đỉnh vuông Vương Nhị mặt rỗ’ hay ‘Cốc ba chân Triệu Thổ Căn’ chưa? Từ trước đến giờ những người phát hiện ra quốc bảo hầu hết đều là nông dân hoặc công nhân xây dựng, anh phải lấy luôn tên bọn họ mà đặt. Như thế cũng có cái hay. Chúng ta tất nhiên là không có ý kỳ thị nhân dân lao động, nhưng tên của người Trung Quốc không giống tên nước ngoài, cứ thế mà mang ra đặt anh không thấy nghe có vẻ rất bần cùng sao?”

Lão Dương ngẫm nghĩ thấy cũng có lý, lại hỏi tiếp: “Nhưng ít nhất cũng phải cho chúng ta cái quyền đặt tên đúng không? Các hòn đảo khi được phát hiện chẳng phải lấy luôn tên người đầu tiên phát kiến mà đặt à?”

Trợ lý Lương đáp: “Đúng là có quy ước như vậy, có điều tôi chưa nghiên cứu bao giờ.”

Tôi bảo lão Dương: “Hỏi cái này làm gì, tiền cậu còn chưa kiếm ra đã lại lên cơn thèm hốt cả danh lẫn lợi rồi rồi. Cậu ngồi thử ngẫm lại xem một người không liên quan thì mò tới chỗ này chơi không ngắm cảnh chắc? Cậu đang giở trò gì đưa mắt nhìn qua cũng biết.”

Lão Dương nói: “Tớ thấy thứ này ngắm cũng hay hay, cậu nói xem cái cột đồng to như vậy đặt tên gì thì hợp? Hai người cũng nghĩ thử đi, về sau chúng ta mang ra khoe khoang còn thống nhất cách nói.”

Cái suy nghĩ chán chết đó làm tôi thấy phát nhảm chẳng muốn động đến thêm nữa liền nói với hắn: “Tính ra thì cậu là người đầu tiên phát hiện, cho cậu đặt đấy. Tôi đối với cậu tốt đến thế là cùng.”

Lão Dương ngẩng đầu ngắm nghía: “Tớ vừa nhìn thấy vật này trong đầu đã nảy ra một cái tên, đặt cái cột này là ‘Ngã ái nhất điều sài’

(*)

, nghe thế nào?”

(*)Tên của giang hồ đệ nhất xuân dược trong phim Lộc Đỉnh Ký chi Thần Long Giáo, có Châu Tinh Trì 

Tôi nổi khùng: “Cậu lậm phim chưởng quá rồi đúng không? Cậu ‘ái nhất điều sài’, đặt tên này ra ngoài đảm bảo sẽ bị sét đánh chết!”

Lão Dương bật cười, trợ lý Lương cũng lắc đầu cười. Có một chút thời khắc vui vẻ này, ai ai cũng được thư giãn.

Chúng tôi ăn xong đều hồi sức được kha khá, lão Dương liền giục giã tiếp tục leo lên. Tôi vừa nhấc chân định đi bỗng thấy là lạ, nhìn kỹ thì thấy…Ấy, hỏa đàn bên cạnh cửa đã tắt ngấm từ khi nào rồi?

Lão Dương nhíu mày: “Chắc là gió trong này thổi tắt chứ gì?”

Tôi lắc đầu đáp không phải, hỏa đàn lớn như vậy, so với cái tôi làm chuyên nghiệp hơn vạn lần, gió không thể thổi tắt được. Trừ khi bên dưới đã xảy ra chuyện bất thường.

Đang nghĩ ngợi bỗng cả cây đồng chấn động, tuy rất nhẹ nhưng vẫn giống như có gì đó đụng phải. Trợ lý Lương hít một hơi khí lạnh, vội hỏi sao lại thế này.

Lão Dương ra hiệu cho chúng tôi chớ có lên tiếng, sau đó khum tay thành hình loa áp vào vách cây, vừa nghe xong đã biến hẳn sắc mặt: “Bỏ mẹ rồi, hình như có gì đang trèo lên thì phải!”

Chương 23: Vết rách

Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp

Tôi chợt thấy căng thằng, nhớ tới mấy người kia, từ khi bọn tôi ngã xuống thác nước  vẫn không thấy tin tức gì của họ, chẳng lẽ là họ đã tới được đây rồi? Thế cũng không đúng, Hỏa Long trận bên ngoài còn lâu mới tắt, mộ thất cũng đã sập, họ hẳn chưa thể đến nơi này được. Thứ hai, nếu họ muốn đi lên thì phải có gì đó để chiếu sáng, đuốc thì đã tắt rồi, phía dưới lại không thấy ánh đèn pin, họ làm sao mà lên được.

Thế thì thứ đang tiến đến là cái gì?

Tôi nghĩ tới đó mà toàn thân đổ mồ hôi lạnh. Chúng tôi đang cách mặt đất hơn mười mét, không gian di chuyển hạn hẹp, không tiện cử động mạnh, giờ mà gặp chuyện bất ngờ, thật lòng tôi cũng không biết phải ứng phó làm sao.

Lão Dương ném cho tôi một ánh mắt, ý bảo tiên hạ thủ vi cường

(ra tay trước thì chiếm được lợi thế)

, chúng ta xuống đó trước xem sao. Tôi khoát tay ý bảo cậu ta bình tĩnh, bây giờ địch trong tối, ta ngoài sáng, không thể manh động. Nếu thực sự là đám người kia mò lên, giờ chúng tôi mà xuống ắt không tránh khỏi một trận ác chiến, súng đạn không có mắt, khoảng cách gần như vậy chắc chắn sẽ lưỡng bại câu thương

(cả hai bên đều chịu thiệt)

.

Nghĩ vậy, tôi bỗng nảy ra một kế hoạch, lập tức cởi dây lưng, buộc bó đuốc vào một nhánh cây gần đó, còn mình cùng lão Dương và trợ lý Lương nấp vào một chỗ ánh sáng không chiếu tới được.

Mấy người phía dưới nhìn lên chỗ chúng tôi chỉ có thể thấy ánh đuốc mà thôi, nếu như giờ chúng tôi cũng trốn vào chỗ tối sẽ có thể phản khách thành chủ

(từ bị động trở thành chủ động)

khiến họ trở tay không kịp.

Cả ba đều nín thở, lấy tay làm thành ống nghe úp vào vách đồng, có thể cảm nhận được một thứ rung động nhè nhẹ từ xa truyền đến, gấp gáp và hỗn loạn, giống như có rất nhiều móng tay đang gãi vào những đường vân trên thân cây. Tôi càng nghe càng thấy không ổn, bọn người kia chỉ có hai tên, đâu thể phát ra âm thanh dày đặc như vậy được, không lẽ là bọn chuột dưới kia theo lên?

Tôi thật hối hận lúc nãy đã không xử lý cái đạo động kia cho tốt, lòng thầm chửi một tiếng, chuyển súng sang tay phải, lão Dương phía trên cũng đã lên đạn, cả hai đã sẵn sàng để tấn công bất cứ lúc nào.

Người ở dưới di chuyển rất nhanh, không chút do dự, thoắt cái đã gần áp sát chỗ chúng tôi. Tuy nhiên hắn ta lại chưa tiến vào phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc, tôi chỉ có thể thấy được hình dạng mờ mờ, vừa giống vừa không giống bóng người. Tôi căng thẳng đến mức lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, chỉ vài giây ngắn ngủi này mà tưởng như thời gian đã ngừng hẳn lại.

Bỗng nhiên sắc mặt lão Dương ở dưới cùng trở nên vô cùng kinh khủn, hét lớn: “Mẹ nó! Leo lên! Mau leo lên!” Chưa đợi hắn dứt lời, trợ lý Lương như cũng thấy được gì đó, kêu lên một tiếng thảm thiết đầy kinh hãi, cả hai như thấy quỷ, vội vội vàng vàng leo lên trên.

Tôi không biết bọn họ cuối cùng là thấy thứ khủng bố gì, theo bản năng quay xuống nhìn, chỉ thấy có gì đó mờ mờ đang di chuyển trong bóng tối. Lão Dương ngoái lại thấy tôi vẫn đứng im, gào lên: “Tiểu Ngô, cậu còn đứng đần mặt ở đó làm cái mẹ gì hả, chạy mau!”

Tôi thấy sắc mặt tái nhợt của hắn, bụng đánh thót một cái, thôi thì mặc kệ cái gì đang xảy ra, tôi rút bó đuốc, mím môi mím lợi leo lên.

Tôi cũng bị hai người kia ảnh hưởng, trong lòng vô cùng căng thẳng, lại chẳng biết bên dưới là thứ gì, càng leo lên càng cảm thấy ớn lạnh cả người, càng thấy ớn lạnh cả người lại càng leo nhanh hơn, cuối cùng rơi vào trạng thái gần như điên cuồng, chỉ thấy da đầu run lên, toàn thân cứng ngắc, trong đầu chỉ tâm tâm niệm niệm là phải đi theo bọn họ, ngoài ra chẳng nghĩ được gì nữa.

Tầm năm phút sau, trợ lý Lương phía trên tôi cuối cùng cũng dừng lại. Tôi leo lên chỗ hắn mới phát hiện, không phải hắn dừng để nghỉ mà là vì đã kiệt sức rồi, mặt cắt không còn giọt máu, xem ra đã quá sức chịu đựng.

Mồ hôi hắn tuôn như mưa, thấy tôi vẫn đang trèo lên, bèn túm lấy cổ chân tôi: “Chờ… chờ một chút! Đừng… đừng bỏ tôi lại! Tôi… tôi chỉ nghỉ một chút thôi, rồi lại leo lên với cậu!”

Tôi bị anh ta níu lại, thấy chân mềm nhũn ra không còn chút lực nào, dường như không tuân theo sự điều khiển của tôi nữa, bắt đầu run lẩy bẩy.

Leo trèo từ nãy tới giờ đều là hoạt động cường độ rất cao trong hoàn cảnh cấp bách, cơ thể đã sớm không chịu đựng được, lúc này tôi đang trên đà leo lên, rất tốn sức, chẳng kịp suy nghĩ gì nhiều. Bây giờ đã lỡ dừng lại rồi, cơ thể lập tức mất khống chế, có cố gắng đến đâu cũng bó tay.

Lòng tôi nóng như lửa đốt mà lại chẳng biết làm sao, nhìn lên vùng tối đen phía trên chưa biết còn cao bao nhiêu nữa, không tránh được rùng mình, tự hỏi còn phải trèo tới ngày tháng năm nào đây. Mà tới đỉnh rồi thì sao, còn phải đánh một trận hoành tráng, lúc đó cả người nhũn như con chi chi, sợ rằng đến cây súng còn không nhấc nổi. Nghĩ đến đây tim tôi dằn mạnh một cái, thuận tay đưa cây đuốc cho trợ lý Lương, rút súng chĩa xuống dưới, nói với anh ta: “Đi cái rắm! Mẹ nó chứ, tôi cũng đếch đi được nữa rồi, quên đi, mặc kệ bên dưới là thứ gì, ông đây liều mạng với mày!”

Trợ lý Lương nghe tôi nói thế, mặt méo cả lại, tưởng như sẽ xỉu ngay tại trận, một phát rớt thằng xuống dưới. Tôi nhanh tay đỡ lấy hắn, nhìn chung quanh mới phát hiện không thấy lão Dương, bèn hỏi: “Lão Dương đâu? Ở trên hay ở dưới chúng ta?”

Trợ lý Lương đến mở miệng cũng không nổi, khoát khoát tay chỉ xuống dưới.

Tôi nhớ rõ lúc nãy chúng tôi leo một mạch như điên, lão Dương thấy tôi cầm đuốc bèn đi bọc hậu cho tôi, vậy tức là hắn vẫn còn ở dưới. liền vội vàng bảo trợ lý Lương lấy cây đuốc soi thử. Ánh sáng vừa chiếu tới nơi tôi đã bị dọa đến thất hồn lạc phách, bên dưới có một người, bộ dạng như khỉ đang dựa vào thân cây thanh đồng, vô cảm nhìn chúng tôi.

 Gương mặt người này cũng từa tựa như lũ nhóc choai choai bình thường, ngũ quan như thể tượng đá, không có chút hơi người nào. Lúc trợ lý Lương đưa cây đuốc xuống soi, hắn bỗng nhiên hơi lùi về phía sau, hình như là sợ lửa. Nhưng trên khuôn mặt vô cảm kia lại hiện lên nét cười như có như không, quỷ dị đến tột đỉnh.

Tôi nhìn gương mặt ấy mà sợ run cả người, thầm nghĩ lão Dương vẫn còn ở dưới, giờ lại chắng thấy tăm hơi, không lẽ đã xảy ra chuyện? Nhưng tôi lập tức nghĩ tới chuyện hắn vẫn có súng trong tay, nếu gặp chuyện không lẽ lại không nổ súng, mà tôi thì từ nãy tới giờ không nghe thấy tiếng súng, có lẽ hắn đã nấp ở đâu đó rồi cũng nên.

Trợ lý Lương vừa nhìn thấy kẻ kia thì hồn vía đã rủ nhau leo tuốt lên mây, rú lên một tiếng quái dị rồi lại ba chân bốn cẳng bò lên trên, tôi muốn ngăn mà không kịp, quay đầu nhìn xuống phía dưới thì lại phát hiện gương mặt bự chảng của con quái kia đã gần áp sát chỗ tôi.

Lúc nãy nhìn từ xa còn tàm tạm, giờ là zoom cận cảnh khuôn mặt kia đang nhăn nhở cười gần chân mình, làm gì có ai không hoảng hốt cho được. Trong lúc rối trí, tôi theo phản xạ bóp cò súng, chỉ nghe một tiếng “đoàng”, họng súng khạc ra một ngọn lửa, phóng thẳng vào giữa mặt quái nhân kia.

Súng nổ cự ly gần, đạn sắt găm nát khuôn mặt của hắn, đồng thời hất hắn rơi khỏi cây thanh đồng, rơi vào bóng tối phía dưới.

Tôi không ngờ súng lục lại hiệu quả như vậy, thở phào nhẹ nhõm, đang định leo lên kéo trợ  lý Lương lại, đột nhiên từ chỗ quái nhân kia vừa rơi xuống lại xuất hiện thêm hai khuôn mặt lớn trắng bệch khác. Tôi luống cuống bóp cò hai cái, nhưng cả hai lần đều không bắn được, mới nhớ ra súng này chỉ còn hai viên đạn thôi, muốn bắn tiếp thì phải nạp đạn.

Nhưng trong tình cảnh này làm gì có thời gian cho tôi thong thả nhét đạn vào chứ, tôi vừa mở hộp đạn ra, một bàn tay đã chộp ngay lấy bả vai tôi. Tôi giật mình quay lại, thấy một gương mặt khổng lồ đang dán sát vào mũi, mới biết một tên trong đám quái nhân kia đã mò tới sau lưng mình tự lúc nào.

Trợ lý Lương đã mang cây đuốc đi khá xa rồi, không gian quanh tôi lại mờ mịt trở lại, thành ra tôi không thể nhìn rõ ngũ quan của kẻ nọ, đành phải chó cùng rứt giậu, liều mạng đi lên.

Lần này tôi dùng toàn lực, chẳng ngờ mặt của hắn lại cứng như đá vậy, đầu tôi đập vào nghe ông một tiếng, suýt chút nữa tuột tay rơi thẳng xuống. Chợt nghe tiếng lão Dương kêu lên: “Tránh ra!”, rồi lại “đoàng” một tiếng, viên đạt sượt qua đầu tôi đập vào nhành cây bằng đồng bên cạnh, bắn ra tia lửa tung tóe.

Tôi bị chấn động đến gần mê man, vội vàng lui sang một bên, sờ lên mặt thấy ươn ướt mới hoảng hồn, hóa ra áp suất của viên đạn lúc nãy đã rạch một đường trên mặt tôi.

(Sẹo là chiến tích của người đàn ông =))*lăn lộn*)

Lão Dương phía dưới tiếp tục nổ súng, đạn bắn tán loạn, lửa tóe khắp nơi, có điều chẳng viên nào trúng mục tiêu

(-,-)

, toàn bộ đều đập vào thân đồng, thậm chí có vài viên còn bắn ngược trở lại, bay tới bay lui như mấy viên bi trước mắt tôi.

Tôi chẳng còn tâm trí nào để tâm đến đám quái vật kia, chỉ lo tránh trái tránh phải, lòng chửi loạn cả lên, lão Dương này bắn súng thật tệ,còn tiếp tục như thế này không khéo hôm nay chết trong tay hắn!

Có điều mấy viên đạn ấy đã cho tôi chút thời gian xoay xở. Bọn quái nhân kia có vẻ sợ súng, lui lại phía sau cả, tôi thừa cơ lấy ra hai viên đạn lắp vào hộp đạn, lên nòng, bắn thẳng vào mặt tên quái gần nhất, hất hắn rơi khỏi thân cây.

Tôi giải được mối nguy trước mắt, quay xuống nhìn qua chỗ lão Dương, phát hiện thêm một đống quái đang mò tới, ít nhất cũng phải có đến mười cái mặt bự chảng. Bọn nó hình như thích tôi lắm thì phải, gần như đồng thời xông lên, nhè vào tôi mà tấn công như thể bị ma nhập.

Tôi thấy thế mà hết hồn, thực sự không hiểu nổi đây là thể loại gì nữa, nhìn thân thể thì giống người, có điều làm gì có người nào lại có tướng leo cây giống hệt khỉ núi thế này. Hơn nữa đầu của đám quái vật này to như vậy, hoàn toàn không phải kích cỡ người thường. Có điều nếu không phải người thì đây là thứ quái quỷ gì chứ?

Trong nháy mắt đã có hai tên quái nhảy tới cạnh tôi, một tên kéo chân, một tên đè cổ tôi xuống, tôi biết không kịp nạp đạn nữa, đành lấy báng súng làm vũ khí, đánh mạnh vào mặt tên quái vật.

Tôi vốn định đánh tên quái này văng xuống đất, ai dè nó chỉ hơi ngửa đầu ra sau một chút rồi lại cúi xuống chỗ tôi. Tôi chợt nhận ra, giữa khuôn mặt to lớn kia, “rắc” một tiếng, xuất hiện một vết rách.

Chương 24: Ngã chết

Editor: Biển

Beta: Tiểu Điệp

********

Tôi thoáng sững sờ, thầm hỏi đây là chuyện gì, sao mà mặt lại có thể bị rạn nứt? Da mặt có thể khô đến mức đó sao? Không để tôi kịp nhìn kỹ, con quái vật phía dưới đang nắm chân tôi đột nhiên kéo giằng một cái khiến tôi lảo đảo. Thứ này mạnh kinh khủng, tôi hoàn toàn không có cách nào đấu sức với nó, đành phải theo đà kéo nhảy xuống, ngay sau đó một tay chụp lấy chạc cây thanh đồng bên cạnh, một tay dí súng vào cổ họng con quái vật bóp cò một phát, chỉ nghe đoàng một tiếng, đầu nó đã bị nổ tanh bành.

Mỗi lần sử dụng khẩu súng này đều rất khó khăn, sức giật khủng khiếp thiếu điều hất tôi văng khỏi chạc cây, tôi phải nghiến chặt răng mới giữ được cả người lẫn súng. Cái xác không đầu ở bên cạnh bị lực đẩy hất ra khỏi cây thanh đồng, nhưng tay của nó vẫn còn giữ chặt chân tôi, nguyên cái xác treo lơ lửng dưới chân kéo ghì tôi xuống dưới.

Một tay tôi không thể chịu nổi trọng lượng của cả hai cơ thể, đành cố tìm một chạc cây có thể nhảy xuống rồi mới tìm cách hất cái xác kia ra. Lúc này con quái vật bị tôi đánh nứt mặt đột nhiên đổi hướng quay xuống, chụp lấy cổ tôi kéo lên trên. Cổ tôi như bị vòng kim cô khóa chặt, một chút không khí cũng không hít vào được, mặt mũi đỏ bừng. Trong tình thế cấp bách, tôi vung Phách tử liêu lên đập luôn vào mặt nó mấy cái.

Tôi ra tay rất mạnh, mấy cú đó nếu táng lên mặt người bình thường thì đảm bảo mặt mũi biến dạng. Con quái kia bị tôi đánh cho đơ người, lắc đầu lia lịa muốn tránh né. Một cú phang cật lực của tôi rơi ngay vào cái khe trên mặt nó. Con quái vật rú lên một tiếng, đột nhiên buông tôi ra rồi nhảy lên chạc cây phía trên, điên cuồng ôm lấy mặt mình.

Tôi mất điểm tựa, toàn bộ sức nặng lại đổ lên cánh tay. Tôi không còn trụ nổi nữa, tuột tay rơi xuống chừng hơn một mét, vội ôm chặt lấy một chạc cây thanh đồng để dừng lại. Ngẩng nhìn lên chỉ thấy khuôn mặt của con quái vật kia đã hoàn toàn bị vỡ vụn bóc ra thành nhiều mảnh nhỏ màu trắng như váng sữa rơi xuống.

Rất nhanh, tất cả những mảnh nhỏ màu trắng đã rơi xuống toàn bộ. Tôi đón được một mảnh, không ngờ đó lại là đá, chẳng lẽ những người này đều là tượng cả sao? Ngẩng lên nhìn lại thì thấy sau khi mặt đá rớt ra, bên trong vẫn còn có một khuôn mặt lông vàng rậm rạp.

Tôi nhìn kỹ khuôn mặt đó, đột nhiên hiểu ra, liền quay xuống dưới hét lớn: “Lão Dương! Tôi biết cái đám chết tiệt này là gì rồi, mẹ nó chứ tụi này là khỉ, toàn là khỉ bự!”

Lão Dương ở trong bóng tối bên dưới, không thấy rõ được hắn đang thế nào, chỉ nghe hắn trả lời: “Khỉ ông nội cậu ấy! Làm gì có khỉ nào mà mặt người, chẳng lẽ là khỉ thành tinh!”

Tôi hét lớn: “Đó không phải là mặt người mà là mặt nạ! Mấy con khỉ này đeo mặt nạ người bằng đá!”

Lão Dương đã bò lên từ bóng tối bên dưới, quần áo trên người đã bị xé thành từng mảnh, hắn nói to với tôi: “Là gì kệ cha nó! Khỉ thì sao, cậu đánh thắng được bọn nó à?”

Tôi nhìn xuống bên dưới hắn, thấy có những bóng đen nhấp nhổm, không biết là có đến bao nhiêu con khỉ đeo mặt nạ đang đuổi theo. Tôi lại leo lên vào mét nữa ròi mở băng đạn ra kiểm tra, đạn màu đỏ đã dùng hết, chỉ còn lại mấy viên màu lam, đại khái không phải là thiết sa đạn, mà là loại đạn thép như viên bi, loại này ở cự ly xa uy lực không tệ, nhưng vẫn không thể bằng loại đạn thiết sa tác dụng tương đương như pháo kia được. Tôi vừa thấy mấy con khỉ leo lên, hai tay liền giữ chặt báng súng bắn liên tiếp hai phát xuống dưới.

Đạn bi thép văng ra ngoài, uy lực giảm đi nhiều nhưng lại phát huy phạm vi sát thương rất lớn, mấy con khỉ gần nhất bị trúng đạn máu me be bét, đằng xa cũng không ít con bị thương, nếu có thể bắn liền năm phát, tôi thậm chí có thể xử lý toàn bộ đám này.

Bầy khỉ dường như đã khiếp sợ uy lực của Phách tử liêu, cả lũ giảm tốc độ tiếp cận rồi chuyển qua nối gót lão Dương đuổi theo trợ lý Lương. Con khỉ bị tôi đánh vỡ mặt nạ đã bắt đầu biết sợ, nhe răng hăm dọa chúng tôi rồi phóng như bay sang một bên lẩn trốn. lão Dương ngơ ngác nhìn tôi, hỏi: “Mẹ nó chứ, đúng là khỉ, đây là chuyện gì vậy?”

Tôi cũng cảm thấy vô cùng kỳ quái, những cái mặt nạ kia là do ai đeo lên cho chúng? Vì lý do gì mà phải đeo như vậy? Trên mặt nạ không thấy có lỗ mắt, cũng không có phần miệng, vậy thì bình thường bọn chúng sống như thế nào?

Trợ lý Lương đã kéo chúng tôi xuống hơn mười mét, lúc này đang gục ở một bên thở dốc. Chúng tôi nhanh chóng leo sang chỗ gã mới thấy khuôn mặt gã vô cùng hoảng hốt, may mà chỗ này chạc cây dày đặc, cả người gã vướng lại đây không đến nỗi bị rơi xuống, cây đuốc rơi bên dưới gã một chút, kẹt lại giữa một chạc ba.

Lão Dương với qua lấy cây đuốc, một tay vung lên đánh vỡ mặt một con khỉ, súng ngắn đã hoàn toàn hết đạn, hắn định tiện tay ném luôn, nhưng đưa lên nửa chừng lại thấy tiếc, cuối cùng nhét nó trở lại thắt lưng, sau đó huơ huơ đuốc xuống dưới, định dùng ngọn lửa đẩy lùi đám khỉ. Bầy khỉ quả nhiên có hơi sợ hãi, cây đuốc huơ đến đâu thì chúng lùi lại đến đó, nhưng đuốc vừa chuyển sang chỗ khác là chúng liền xông lại, hoàn toàn không cho chúng tôi kịp thở.

Lão Dương đứng vung vẩy nửa ngày, chẳng những không đuổi được chúng đi mà vòng vây lại ngày càng xiết chặt. Tôi kéo kéo trợ lý Lương, gã bây giờ giống như đống bùn nhão không động đậy gì được, lão Dương kêu to: “Mặc kệ hắn, trụ không nổi nữa rồi, rút lui!”

Tôi gấp đến cuống cả lên, thật muốn cho trợ lý Lương một đạp để gã rơi xuống luôn cho rồi, nhưng tên này cũng chẳng phảo là kẻ hung ác, lúc này tôi thực sự không làm vậy được. Tôi đỡ gã lên, cố gắng kéo về phía trước một chút, nhưng ngược lại, mông gã bị trượt khỏi hai chạc cây rơi xuống, tình huống càng trở nên tệ hại.

Lão Dương dùng cây đuốc đuổi được một con khỉ ra xa, lớn giọng mắng tôi: “Chết tiệt! Rốt cuộc là cậu đang làm cái khỉ gì, tên này cũng chả cùng nhóm với chúng ta, nếu mọi chuyện suôn sẻ, nói không chừng hắn đã đem cậu đi làm thịt luôn rồi, mẹ nó chứ cậu đừng có ở đó mà bày trò ưu đãi tù binh.”

Tôi nạp thêm đạn, lại bắn thêm hai phát, hai tiếng nổ vang lên, đánh bay năm con khỉ, cả bầy bị đẩy lùi gần chục mét, sau đó tôi bỏ nốt hai viên đạn cuối cùng vào, vừa định bắn luôn rồi tính, đột nhiên trợ lý Lương chụp lấy tay tôi, thều thào nói: “Bọn chúng sợ lửa, đạn tín hiệu…”

Tôi nghe vậy liền sực tỉnh, lão Dương phản ứng rất nhanh, xoay tay rút ngay súng báo hiệu ra, nhìn tôi hỏi: “Bắn thế nào bây giờ, có trực tiếp bắn xuống cũng vô dụng!”

Tôi giật lấy súng báo hiệu, nhắm vào tường đá đối diện rồi bắn, đạn tín hiệu nhanh như chớp bay đập vào tảng đá cách xa mấy chục mét rồi bắn ngược trở về đập vào cây thanh đồng, cứ dội đi dội lại hai ba lần như vậy rồi bất ngờ bùng sáng lên ngay giữa bầy khỉ, nhiệt độ cực cao lập tức thiêu cho cả bầy chạy tán loạn. Tôi không để cho quả đầu tiên kịp tắt, lại bắn tiếp viên đạn thứ hai, lập tức cả không gian chìm trong màn ánh sáng trắng chói lòa.

Lão Dương bị chói đến hoa mắt, suýt nữa thì ngã xuống, tôi kéo đầu hắn qua một bên, hét to: “Đừng nhìn! Khoảng cách quá gần, ánh sáng này còn gắt hơn ánh sáng hàn điện trăm lần, sẽ bị bỏng võng mạc đấy!”

Cả ba đồng thời nhắm mắt lại, nhưng vẫn có thể cảm giác được ánh sáng chói lòa dường như xuyên suốt qua cả mi mắt. Bầy khỉ bị ánh sáng dọa cho điên loạn, chúng tôi chỉ nghe một trận hỗn loạn xảy ra phía dưới, cùng với mùi da thịt bị cháy khét.

Cũng chẳng biết qua bao lâu, luồng ánh sáng bỏng rát mới dịu lại. Tôi nheo nheo mắt cố hé nhìn xuống phía dưới, bầy khỉ đã chạy mất, đôi mắt tôi bị chói đến phát bỏng, nhìn mọi thứ chỉ có thể thấy được mờ mờ, lão Dương lại càng thảm, nước mắt chảy ròng ròng, phải lấy tay dụi liên tục, còn trợ lý Lương đã hoàn toàn hôn mê bất tỉnh, nếu không phải nhờ tôi giữ cổ áo gã thì gã đã rớt xuống luôn rồi.

Tôi không thấy bầy khỉ đâu liền thở phào nhẹ nhõm, cũng không biết là bọn chúng sợ nhiệt độ cao hay là sợ kiểu ánh sáng mạnh như thế này nữa, nếu vừa nãy bọn chúng nhìn thẳng vào nguồn sáng, đảm bảo hết tám chín phần là bọn nó bị mù luôn rồi, không có chuyện dễ dàng khôi phục trong dăm bữa nửa tháng. Nghĩ vậy tôi liền thở phào nhẹ nhõm, lo lay tỉnh trợ lý Lương. Tôi xốc ngang cánh tay đỡ người gã dậy định kéo lên trên, nhưng tên này thật sự đúng là phế vật, tôi chỉ có thể dìu được gã đứng dậy, còn muốn đưa gã rời khỏi vị trí hiện tại thì hoàn toàn hết cách.

Sau khi để gã ngồi lại vững vàng, tôi quay sang kiểm tra lão Dương, hắn nheo mắt, vừa chửi thề vừa nhổ nước bọt, nhưng cuối cùng vẫn có thể nhìn thấy, hắn nói với tôi: “Con mẹ nó, bắn cũng không thèm nói trước một tiếng, tôi mà bị mù thì tôi liều mạng với cậu.”

Tôi mắng lại: “Mẹ nó chứ, cậu còn mặt mũi mà nói à, có biết tôi vừa cứu mạng cậu không? Hơn nữa cậu có mù đâu.”

Lão Dương nhìn nhìn xuống phía dưới: “Đừng nói nữa, trò này đúng là hữu hiệu, đám khỉ bỏ chạy hay chết cháy cả rồi?”

Tôi nói với hắn có lẽ chết cháy là không có khả năng, chắc là tạm thời bị đẩy lùi, nói không chừng còn có thể leo lên nữa, nhưng nếu chúng ta đã tìm ra cách đối phó với chúng thì cũng không cần phải sợ nữa, đạn tín hiệu vẫn còn mấy phát, cũng đủ đối phó thêm vài lần.

Những cái mặt nạ mà đám khỉ này đeo được làm rất tinh tế, điêu khắc quả là rất giống người thật, chẳng lẽ lại có quan hệ với những pho tượng chúng ta đã nhìn thấy trên vách núi sao? Nhưng vì sao bọn chúng lại tấn công chúng ta?

Thật ra trước kia tôi có xem qua một quyển sách, nói rằng có một nền văn minh cổ đại hay huấn luyện những con tinh tinh để canh phòng giếng mỏ, sau khi nền văn mình cổ đại ấy bị hủy diệt, những con tinh tinh lớn đó lại đem những nội dung huấn luyện giết chóc mà chúng đã học được ra truyền lại cho đời kế tiếp, cứ như vậy cho đến mấy ngàn năm sau, hậu duệ của những con tinh tinh đó vẫn canh phòng giếng mỏ như cũ, thành ra những đội thám hiểm đi đến những nơi ấy để thăm dò hầu như bị giết sạch.

Nhưng những con khỉ này tất nhiên không thông minh bằng loài tinh tinh lớn, lẽ ra không thể làm được chuyện có mức độ khó cao như vậy. Tôi vốn định hỏi trợ lý Lương, nhưng vừa nhìn đến sắc mặt gã thì biết có hỏi cũng uổng công, người này đã hoàn toàn rơi vào khủng hoảng mất rồi, nếu còn không được nghỉ ngơi, e rằng gã sẽ phát điên luôn mất.

Chúng tôi đợi ở đó gần mười mấy phút, cuối cùng không thấy có con khỉ nào xuất hiện bên dưới nữa mới thở phào nhẹ nhõm. Lão Dương lấy ra một ít thức ăn đưa cho chúng tôi nhưng bị từ chối, vấn đề bây giờ không phải là đói mà là nghỉ ngơi không đủ, coi như cậu trực tiếp cho tôi ăn đường glucose tôi cũng không cách nào lết đi cho nổi.

Tôi dựa người trên mấy chạc cây, gối đầu trên ba lô, chỉ một thoáng liền thấy buồn ngủ, lão Dương với trợ lý Lương thì mơ mơ màng màng chẳng hơi đâu mà nói gì đến tôi. Ngay vào lúc tôi sắp ngủ thì bất thình lình có âm thanh va chạm liên tiếp từ phía trên truyền xuống, đồng thời cả cây thanh đồng rung mạnh từng hồi giống như có một con quái vật khổng lồ đang từ từ bò xuống.

Tôi thầm than thôi xong rồi, chỉ sợ lúc nãy đối phó với bầy khỉ đã lỡ đụng chạm đến thành phần nguy hiểm nào đó, chẳng lẽ lại là “Hộ Pháp” từ trên đó xuống sao? Đang không biết nên trốn vào đâu, đột nhiên có một bóng đen hạ xuống nhanh như chớp, rơi mạnh vào giữa chạc cây, một dòng dịch thể tanh hôi bắn lên mặt tôi.

Cú va chạm này vô cùng mạnh, cả cây thanh đồng đều bị chấn động, tôi còn suýt nữa bị ngã xuống, cả ba chúng tôi đều bị dọa cho hết hồn hết vía, một hồi lâu sau mới kịp phản ứng.

Lão Dương là người lấy lại bình tĩnh sớm nhất, hắn giơ cao cây đuốc soi cho chúng tôi qua xem là thứ gì rơi xuống. Chúng tôi đến gần quan sát mới thấy, không ngờ đó là một người bị kẹt lại giữa chạc cây, cơ thể méo mó vô cùng mất tự nhiên, ánh mắt trợn to, mặt mũi đẫm máu, xương sườn lòi cả ra ngoài, vừa nhìn liền biết là chết vì bị ngã từ trên cao xuống.

Lão Dương đưa cây đuốc đến gần mặt người chết, bỗng nhiên kêu lên: “Khỉ chứ, là con rùa già họ Thái kia. Hóa ra cha này vẫn đi phía trước chúng ta, chẳng trách không thấy bọn họ đâu cả!”

Trợ lý Lương run rẩy đi qua, quan sát một lượt, lại đè lên ngực xác chết, máu liền trào ra từ miệng và mũi, gã thờ dài nói: “Chết vì ngã từ trên cao xuống, nội tạng nát hết cả rồi, sao lại bất cẩn để bị ngã như vậy?”

Tôi nhìn xuống phần chân, xương cốt đã lòi ra ngoài, cả cơ thể méo mó kỳ dị, chắc là do lúc rơi xuống bị va liên tục vào mấy cành cây đồng thau nên mới thành như vậy. Trợ lý Lương lại ấn lên tay chân xác chết, chợt gã hít vào một hơi lạnh: “Hai cậu, xem ra bên trên không phải là cao bình thường, các cậu nhìn lão Thái xem, toàn bộ xương ống đều gãy vụn, nếu không phải rơi từ độ cao hàng trăm mét xuống thì cũng chẳng thể thành ra như vậy được.”

Tôi không khỏi âm thầm than khổ, vừa rồi cả bọn cứ cắm đầu cắm cổ mà leo, lên đến đây chắc cũng được khoảng năm sáu chục mét đã mệt rũ người ra kiểu này, nếu phía trên thực sự cao đến vậy thì làm sao mà leo cho nổi. Mà dù cho có leo lên được thì e rằng cũng đã đuối sức, làm không xong thì cũng sẽ dập thành mười tám khúc giống như ông chú này vậy.

Nghĩ đến đó, tôi và trợ lý Lương đều lộ ra vẻ mặt khổ sở.

Lão Dương chẳng hề nhìn thấy con đường phía trước mù mịt ra sao, thấy hai người như vậy liền vỗ vai tôi, rằng cho dù có mấy trăm mét, đường ngang thì cũng chỉ chạy vài giây là xong, chẳng qua bây giờ bị dựng lên thôi, có gì đáng lo đâu. Tôi nói dẹp cha cậu đi cho rồi, nói như cậu thì Everest chỉ cao có 8848 mét, cậu đạp xe đạp nửa giờ thì lên luôn đến đỉnh rồi! Bây giờ không phải là chúng ta chống lại lực ma sát mà là lực hấp dẫn của trái đất, biết không?

Lão Dương khoát tay với tôi tỏ vẻ không muốn tranh luận nữa, nói rồi đi qua tháo ba lô lên lưng lão Thái kia lôi hết đồ đạc bên trong ra ngoài xem thử có thứ gì chúng tôi có thể sử dụng không. Vừa nhìn qua liền mừng như điên, trong nhóm của trợ lý Lương, ông chú này với tên thanh niên gọi là Nhị Ma Tử kia là người mang những trang bị quan trọng, hầu hết thứ  gì cũng có, đạn súng ngắn, vài ngòi nổ, súng tín hiệu, dây thừng, mừng nhất là đã tìm được một cái đèn pin, khỉ chứ, nhớ lại tình cảnh cứ nơm nớp lo sợ cây đuốc bị tắt trong Thiên quan động lúc nãy, tôi thật muốn ôm hôn cái đèn pin này mấy cái, công nghệ hiện đại đúng là tuyệt vời.

Lão Dương đổi băng đạn, sắp xếp lại những thứ khác rồi mang lên lưng, nói với chúng tôi: “Đám lông dày kia chắc chắn vẫn còn ở bên dưới, chỗ này không thể ở lâu, chúng ta đừng nghỉ ngơi nữa, phải lập tức leo lên thôi, Thái Sơn các vị cũng từng leo qua rồi, 1300 mét đi đi về về chẳng phải cũng chỉ trong một ngày thôi sao? Không có gì cả, cứ coi như là đi tham quan du lịch đi.”

Sắc mặt trợ lý Lương có hơi tốt hơn một chút, gượng cười một tiếng, lấy hai ngón tay làm bộ bước đi, nói: “Anh Dương này… Thái Sơn là đi bộ lên, cứ xài chân là đến nơi, còn chúng ta bây giờ là từ hướng thẳng đứng, như vậy làm sao có thể nói là giống nhau được? Hơn nữa kia là phong cảnh nên thơ, nào là hải vân rồi thì quái thạch, còn ở đây có gì đâu.”

Lão Dương đá đá vào thân cây thanh đồng, nói: “Mẹ nó chứ, ông đây chỉ là ví von thôi, cây thanh đồng này tuy rằng thua xa phong cảnh Thái Sơn nhưng ít ra nó cũng rất đồ sộ đúng không, hai quý ngài chịu khó một chút đi, đừng nhụt chí, thành công đã ở ngay trước mắt, mau mau thu xếp một chút rồi cả bọn nghiến răng nghiến lợi leo một hơi lên trên đỉnh, chắc chắn sẽ là cảnh đẹp.”

Tôi xoa bóp cái chân đã bắt đầu sưng lên, nói với hắn rằng không phải là không muốn nghiến răng mà thực sự chẳng còn cách nào khác, còn cố mà nghiến nữa thì răng cũng lòi ra khỏi cằm luôn. Tôi còn có thể gắng gượng được một chút chứ trợ lý Lương bây giờ chỉ còn lại nửa cái mạng, thay vì vội vàng tranh thủ mấy phút, tôi thấy nghỉ ngơi đầy đủ còn có hiệu quả hơn.

Trợ lý Lương cảm kích nhìn tôi, lão Dương thở dài, nói thôi được rồi, nhưng mà phải bỏ thi thể của ông chú kia xuống dưới, để ở trên này nhìn rất khó chịu

Tôi thấy khuôn mặt ông ta méo mó, bộ dạng chết không nhắm mắt, trong lòng cũng chẳng cảm thấy gì, nhưng hai con ngươi muốn rớt ra khỏi hốc măt kia đúng là có hơi đáng sợ, lúc này cũng chả cần đếm xỉa gì tới chuyện có đạo đức hay không, tôi cùng lão Dương định nâng thi thể lên khỏi chạc cây.

Từ trên cao rơi xuống, giữa đường sẽ va chạm với không ít những cành của cây thanh đồng, không bị rớt thẳng xuống đất nát bét thành một đống cũng coi như là còn may mắn rồi. Lúc tôi nâng cái xác lên mới thấy trợ lý Lương nói quả không sai, cả thi thể mềm nhũn, giống như là toàn bộ xương cốt đều bị nát vụn. Vừa mới động đến, một lượng lớn máu từ trong xác chết liền chảy ra, men theo chạc cây chảy vào những hoa văn trên cây thanhh đồng, sau đó lại chảy dọc theo giữa những hoa văn xuống phía dưới.

Tôi và trợ lý Lương cùng lúc phát hiện ra chuyện này, cả hai đều lặng đi. Trợ lý Lương ra hiệu cho chúng tôi dừng lại, mở đèn p

pin rọi vào những khe rãnh, sau đó nhìn sang chạc cây thanh đồng, nói: “Hai cậu, tôi đã biết đại khái cây thanh đồng này dùng để làm gì rồi!”

Chương 25. Lễ hiến tế

Editor: Earl Panda

Beta: Tiểu Điệp

********

Tôi với lão Dương nghe hắn nói thế, liền đồng thanh hỏi xem hắn nghĩra gì rồi. Hắn gãi đầu gãi tai, bảo: “Tôi chỉ đoán đại khái vậy thôi. Có khả năng ngọn đồng thụ này không phải là điểm mấu chốt, những khe rãnh trên mặt cây này có thể là dùng để tập trung nước lại, ví như nước mưa, máu hoặc sương đêm gì đó.”

Lão Dương liền hỏi hắn: “Có phải là giống như ngày xưa người ta gom sương đêm lại để pha trà dâng lên vua không? Thế thì nói làm gì? Toàn là nước không nguồn gốc(*) cả.”

(*) nguyên là “vô căn thủy”: hay còn gọi là thiên thủy, ám chỉ những loại nước rơi từ trên trời xuống như mưa, tuyết, sương, vân vân.

Trợ lý Lương lấy cây bút máy cạo ra một ít vết cặn màu đen trong rãnh. Đã trải qua hàng nghìn năm, không biết liệu những vết cặn này có phải chính là máu của tổ tiên đã khô cứng lại không, hay chỉ là nước mưa lắng đọng. Hắn nhìn mấy nhánh cây, nói: “Cậu trông, phía dưới những cành cây này có cái gì đó trông như lưỡi lê lấy máu, thông với giữa con rắn hai thân, hẳn là nhánh cây này có công dụng gì đó với đàn tế thờ. Khả năng là nó có liên quan đến huyết tế.”

Tôi không hiểu lắm, nên trợ lý Lương đành nói rõ hơn về những khe rãnh này vì sao lại có liên quan đến huyết tế, và cách thức tiến hành huyết tế.

Trợ lý Lương nói, thời Tây Chu, lễ hiến tế tuy không tàn bạo bằng thời nhà Thương, nhưng việc hiến tế người sống là khó tránh khỏi, cái gọi là điểm khác nhau giữa hai thời chỉ là ở cách giết người mà thôi. Ví dụ như, hiến tế cho thần thổ địa thì đem người chôn sống, hiến tế cho thần lửa thì thiêu sống, còn hiến tế cho hà bá thì quẳng xuống sông.

Ở đây, một cây thanh đồng đại thụ cao ngút trời như thế này có khả năng là loại thần thụ Phù Tang nhược mộc hoặc cây thần thờ Phục Hy(**), những loại thần thường phải dùng huyết tế.

(*) Nguyên văn là “câu mang”. Mình tra trên baike thấy bảo nó là mộc thần Phục Hy trong thần thoại Trung Quốc. Còn Phù tang nhược mộc thì là cái cây dâu lớn mọc ở đông hải, là nơi mặt trời mọc lên trong thần thoại.

Vừa rồi, máu của lão Thái chảy dọc theo cành cây thanh đồng, rồi vào giữa con rắn hai thân trên cây, rồi chảy thẳng xuống dưới. Nếu không phải vì đã có thiết kế sẵn thì máu không thể chảy một cách trơn tru như vậy được. Hơn nữa, trên bề mặt cành cây thanh đồng này có các dấu vết rất giống như lưỡi lê, như vậy là đã rõ, nơi này chắc chắn chỉ dùng để chuẩn bị tiến hành huyết tế.

Gọi là huyết tế, vì đại đa số lượng máu đều thấm hết vào đất. Lúc tế lễ, vật tế bị những nhánh cây thanh đồng đâm xuyên qua người mà chết, máu từ thi thể bị rút hết ra, chảy xuống rãnh giữa hai thân xà. Nếu máu không nửa đường đông lại thì sẽ chảy xuống tận rễ cây thanh đồng chôn sâu dưới lớp nham thạch, tượng trưng cho việc lấy máu kính dâng lên thánh thần.

Nói ví von lên, thì các rãnh hoa văn trên cây tựa như các ống dẫn máu trong phòng giải phẫu, thi thể là bệnh nhân, máu chảy ra từ xác đọng lại dù là nhiều hay ít thì cuối cùng vẫn theo ống dẫn máu chảy xuống các ống nước ngầm bên dưới. Chỉ khác cái, ở đây các ống dẫn máu được làm hoa văn nhìn cứ như đồ để trang trí. Hẳn đó là lý do vì sao ở trên các con rắn hai thân đều có các rãnh được khắc rất sâu, không hợp với chuẩn mực thường thấy.

Những lễ hiến tế có quy mô lớn và tàn nhẫn như vậy, cho dù có là đất nước cường thịnh giàu có đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không dám tiến hành thường xuyên. Vì vậy, các ghi chép trong những sách cổ về điều này cũng chỉ toàn những thứ lẻ tẻ vụn vặt, chứ còn cụ thể quá trình ra sao, cần bao nhiều vật tế, không một ai có thể biết được.

Tôi nghe trợ lý Lương nói mà không khỏi nể phục trước trí tuệ của người xưa, đồng thời cũng cảm thấy có phần thất vọng. Một công trình vĩ đại như vậy lại chỉ là một công cụ giết người hàng loạt, thật là ngu xuẩn hết mức. Cứ nghĩ đến việc trên cành cây kia có biết bao nhiêu nô lệ đã bị đóng đinh treo lên đó, máu đổ xuống theo những khe rãnh, biến cả thân cây thành một cái cột đẫm máu, tôi lại thấy rùng mình như thể có khí lạnh đến thấu xương tỏa ra từ các rãnh trên thân cây thanh đồng.

Hơi chột dạ, tôi bèn nói với lão Dương: “Chúng ta đi nhanh lên tí đi, không chờ chốc nữa máu của lão Thái chảy xuống dưới, cái cây thần kia lại tưởng có người đến hiến tế, các cụ thánh thần trồi lên biến bọn mình thành vật tế thì tiêu.”

Lão Dương vốn không thèm để tâm đến lời của trợ lý Lương, liền nói với tôi: “Cậu đừng có tin lời hắn làm gì. Trung Hoa dân quốc thời đó móc đâu ra lắm dân số đến thế cho cậu đồ sát cơ chứ. Tôi thấy, số máu bị nghẽn ở đây là máu heo máu dê thì có, mà nói không chừng, mình bò lên trên chút nữa là thấy đặc sản thịt heo khô nghìn năm cắm ở trển á. Huống hồ, cho dù vật tế đó có là người đi chăng nữa, khi người đã chết thì máu sẽ đông rất nhanh, cậu yên tâm đi, ở trên này cao như vậy, máu làm sao mà trôi xuống tận dưới được? Hơn nữa, máu cậu á, có mà khiến các cụ phát tởm chứ ai thèm vào. Ngày xưa người ta sống gần gũi với thiên nhiên, toàn ăn rau cỏ tươi tốt không thuốc trừ sâu, toàn uống nước trong lành mát lạnh không ô nhiễm, thế nên máu người ta còn có chút vị ngọt. Chứ còn cậu, máu chảy ra, khẳng định các cụ uống vào là ngộ độc thực phẩm, tiêu chảy với táo bón ngay lập tức, thế nên mới nói đây toàn trò bịp cả.”

Tôi nghe xong gân trên trán trồi lên ầm ầm, không khỏi mở miệng mắng: “Tôi nhổ vào, cái gì mà máu tôi có độc hả? Mẹ nó cứ phải vả vào mồm thì cậu mới yên được à?”

Trợ lý Lương trông tôi nổi cáu liền giảng hòa: “Hai vị, cần phải biết xem xét thời thế nha, với tình hình hiện giờ mà còn nói đùa được. Mấy người có cảm thấy những cái cành cây này càng ngày càng xen dày đặc không? Nếu cứ thế này thì hẳn sẽ khó leo lên trên.”

Lão Dương nói: “Ở đây vốn cành cây lỉa chỉa chỗ dày chỗ thưa, phải là càng dày càng tốt chứ, ông anh tính bảo càng thưa càng tốt, tốt nhất là mỗi cành cây cách nhau hai mét đi, thế thì có mà chúng ta xếp đè lên nhau mà leo lên à?”

Tôi bảo lão Dương: “Cậu đừng có mà kết luận vội. Tôi thấy nó cũng không ổn lắm đâu, cậu bật đèn pin lên xem thử xem.”

Lúc mới leo lên trên, chúng tôi vẫn dùng đuốc để chiếu sáng, vì cái đèn trong túi của lão Thái không còn dư dả pin gì cho cam nên chúng tôi không muốn lãng phí. Thế nhưng, giờ muốn soi rõ vật ở xa thì không dùng đuốc được.

Lão Dương bật đèn pin, chiếu ánh sáng lên trên. Chỉ thấy trên đỉnh đầu chúng tôi là những nhánh cây thanh đồng càng ngày càng đan xen dày đặc, mới chỉ lên có bảy, tám mét mà trông đã um tùm kín mít như bụi gai, nếu muốn tiếp tục leo lên nữa thì chỉ còn cách đổi hướng, đi ngược ra phía ngoài, sau đó dẫm lên đầu nhọn của các nhánh cây mà bò lên. Tuy nhiên, làm như vậy còn nguy hiểm hơn cả việc bám sát thân cây thanh đồng mà trèo lên rất nhiều.

Chuyện đã đến nước này, thì phía trước có là hang hùm hang gấu tôi cũng muốn xông pha. Lão Dương bảo chúng tôi đứng yên tại chỗ, rồi hắn bò ra các nhánh cây bên ngoài trước, sau đó ném một đầu sợi dây thừng kiếm được từ chỗ lão Thái xuống dưới. Tôi với trợ lý Lương nắm lấy sợi dây, theo đó trèo lên.

Nhìn qua nhìn lại, tình hình đã không còn giống như lúc ở phía dưới trông lên nữa. Các nhánh cây thanh đồng xen nhau dày đặc đến mức không còn chỗ để chen tay vào. Tôi leo được một đoạn, bụng thầm nhủ, thảo nào lão Thái lại dễ ngã xuống đến vậy, trông chiều hướng này đây, càng đi lên nữa càng ít chỗ để đặt chân, chỉ cần không cẩn thận, hoặc bị gió lùa mạnh một cái, là được xuống dưới kia nhắm rượu với lão Thái ngay.

Lúc này lão Dương leo rất nhanh, tôi chẳng còn hơi sức đâu mà đi gọi hắn nữa, chỉ có thể vừa lấy lại tinh thần, vừa gắng không để bị tụt lại phía sau, đồng thời luôn luôn tự nhắc nhở bản thân cẩn thận kẻo trượt chân ngã. Cây đuốc lúc này không được sử dụng nữa, vì căn bản chẳng ai còn rảnh tay để mà vừa cầm vừa leo. Tôi đành dập tắt đuốc rồi đeo ở bên hông mình.

Địa hình đoạn đường này vô cùng nguy hiểm nên hầu như không một ai dám mở mồm nói năng gì. Rất nhanh, dưới ánh sáng đèn pin, tôi chợt phát hiện vách tường đá xung quanh cây thanh đồng bắt đầu thay đổi. Những thạch nhũ thiên nhiên xuất hiện cùng với muối mỏ hòa tan, hiển nhiên quy mô nơi này đã vượt quá khả năng kiến tạo của con người, quãng hang động trên này hẳn là hình thành hoàn toàn tự nhiên.

Càng đi, vách tường đá càng thu hẹp lại. Tôi nhìn thấy trên hai bên vách đá bắt đầu xuất hiện nhiều hang, hốc lớn nhỏ khác nhau, cũng không sâu lắm, vừa đủ nhìn thấy đáy. Bên trong các hang, hốc có chứa mấy cái gì đó, khi chiếu đèn pin lên sẽ có những phản ứng nhất định. Điều này khiến tôi thấy bất an, nhưng vách đá cách chúng tôi những hơn mười mét, kể cả cho dù có chuyện gì xấu, tôi cũng không tin là nó có thể gây ảnh hưởng được đến chúng tôi.

Tôi mải chú ý đến mấy cái hang hốc trên vách đá, không để ý lão Dương với trợ lý Lương ở phía trên đã dừng lại tự lúc nào. Mãi cho đến khi va đúng vào mông trợ lý Lương tôi mới giật mình ngẩng lên nhìn, chỉ thấy trên đó xuất hiện rất nhiều con khỉ đeo mặt nạ, giống bọn khỉ mà chúng tôi lúc trước gặp ở dưới kia.

Nhìn kỹ lần nữa, tôi mới phát hiện ra những con khỉ này đều đã chết. Xác khỉ bị gió nóng sấy cho khô quắt, méo mó kì dị. Tay chân mắc cả vào các cành cây đan xen dày đặc nên xác mới không bị rơi xuống. Cả thảy có hơn mười xác khỉ – mà kỳ quái thay, xác đã khô quắt rồi nhưng mặt nạ vẫn không bị rớt ra – yên lặng đứng đó nhìn chúng tôi chằm chằm, tựa như chúng có thể bất thình lình sống lại bất cứ lúc nào.

Chúng tôi chầm chậm tiến lại gần, chú ý quan sát những thứ kỳ quái này.

Cơ thể bọn khỉ dường như bị mắc một loại bệnh ngoài da nào đó, lông tóc phần lớn bị bóc ra, để lộ lớp da màu xám trắng trông khá giống với da người, thế nhưng khi nhìn kĩ lại thấy các vết lốm đốm rất rõ ràng. Vóc dáng những con khỉ này khoảng cỡ bằng một đứa trẻ mười lăm, mười sáu tuổi (đương nhiên là không tính Diêu Minh

(Yao Ming =]])

rồi ), hoặc có thể lớn hơn một chút, tôi không chắc lắm. Trong cái tình huống như thế này, tôi còn hơi đâu mà nhìn người đoán chiều cao.

Mặt nạ của bọn khỉ nhìn qua thì là làm bằng đá, được mài một cách vô cùng hoàn hảo, hoàn hảo đến mức tôi còn nghi là nó được làm bằng gốm sứ. Đến xem chỗ mặt nạ gắn vào mặt bọn khỉ mới thấy, cái mặt nạ này dường như đã được in hẳn vào thịt, hẳn là dùng một phương pháp đẫm máu nào đó, khiến mặt nạ lẫn da thịt dính lẫn lộn cả vào nhau.

Xác khỉ phần lớn đều còn nguyên vẹn, còn lại một số ít chỉ có tay với chân. Đại khái là do thời gian đã quá lâu năm, xác khô quắt đến mức tự nhiên vỡ vụn.

Trợ lý Lương ngăn chúng tôi leo lên trước. Hắn chỉ vào một cái xác khô, nói: “Chờ một chút, tôi thấy tư thế mấy con khỉ này có hơi kỳ dị, hình như đã thấy ở đâu rồi thì phải, đợi tôi đến nhìn kỹ xem sao.”

Lão Dương nói với hắn: “Ông anh lắm chuyện nó vừa vừa thôi, cái gì cũng hết xem rồi ngắm. Làm ơn cẩn thận chút cho tôi nhờ, coi chừng lát nữa mấy con khỉ kia nó ngứa mắt ông thì bỏ xừ!”

Trợ lý Lương không để ý đến lời của lão Dương, rón rén đến gần một cái xác khỉ gần nhất, cầm lấy cái mặt nạ của nó. Da mặt khô quắt lập tức rạn nứt, trợ lý Lương nhẹ nhõm kéo cả cái mặt nạ xuống. Hắn dí lại gần bộ mặt của cái xác khô nhìn ngó một lúc, rồi quay đầu nói với chúng tôi: “Hai…vị, cái này… hình như không phải là khỉ, đây là… mặt người a.”

Chương 26. Li cổ

Editor: Earl Panda

Beta: Tiểu Điệp

********

Hai con mắt của cái xác đã bị phân hủy tiêu đi mất, chỉ còn lại hai hốc mắt tối om. Miệng xác mở lớn đến mức khó tin, lộ ra hàm răng thiếu lỗ chỗ. Bộ mặt vì khô quắt nên biến dạng méo mó, trông rất dữ tợn, khiến không ai dám nhìn thẳng vào. Mà dựa vào hàm răng là có thể thấy, cái xác khô này không phải là xác khỉ, mà chính là xác người không chệch đi đâu được!

Lão Dương ngây người một lúc, nói: “Thế này là sao? Lão Ngô, cậu vừa mới nói nó là khỉ cơ mà? Này… cái này… là người nha.”

Tôi cũng lắp bắp: “Tôi… tôi cũng chẳng biết. Vừa nãy tôi đánh rớt cái mặt nạ, rõ ràng là khỉ mà, một con khỉ lông vàng hẳn hoi cơ. Này… này… Giời ạ, đúng là điên cái đầu.” Tôi vò đầu bứt tóc cố gắng nhớ lại xem có phải lúc ấy vì sáng tối mập mờ quá nên mắt mình nhìn lộn hay không.

Bỗng nhiên, trợ lý Lương khoát tay, ý bảo tôi đừng chạm vào thi thể. Sau đó, hắn cẩn thận đứng thẳng người lên, lật mặt sau của cái mặt nạ ra nhìn. Tôi thấy đằng sau chiếc mặt nạ, ở vị trí miệng có gồ lên những hình xoắn ốc to bằng nắm tay, trông như vỏ ốc sên, bên trên lại có một lỗ nhỏ. Trợ lý Lương cầm chiếc mặt nạ ướm thử vào mặt mình, sau đó quay đầu nói với chúng tôi: “Cái mặt nạ này hình như phải há miệng ra mới đeo lên được.”

Lão Dương ngạc nhiên nói: “Gắn vào miệng á? Tức là nhét cả một cái cục vô miệng cho tắc thở á? Vầy khó chịu chết.”

Tôi trông mấy cái xác khô mồm ngoác ra rất rộng, bèn nói với trợ lý Lương: “Lẽ nào mấy cái vỏ ốc sên này có gì kỳ lạ chăng, anh thử đập vỡ nó ra xem. Cái mặt nạ này độ dài vừa đủ cho mặt một con khỉ, nếu gắn vào miệng thì chỗ mắt lại bị che khuất mất. Chắc chắn là có cách gì đó khác đấy.”

Trợ lý Lương nghe vậy bèn chọc chiếc bút máy vào bên trong cái lỗ nhỏ, cố sức cạy ra. Cái “vỏ ốc sên” tức thì vỡ vụn, để lộ bên trong có một khúc gì đó dài dài trông như cái càng cua. Trợ lý Lương liền cạy nó ra thì phát hiện đó là một loại sâu bọ kỳ lạ chưa thấy ở đâu bao giờ, đã bị hóa thạch, chỉ cần dùng lực mạnh một chút là đứt thành nhiều đoạn ngay.

“Xem ra, cái mặt nạ này không phải là do tự nguyện đeo lên đâu.” Trợ lý Lương cau mày nói. “Cơ mà thứ này chắc chắn là đồ nhân tạo. Hai người nhìn hoa văn ở mặt trong cái mặt nạ mà xem, hoa văn này khá giống với hoa văn trên con rắn hai thân trên cây, rõ ràng là người đúc cái mặt nạ này với người đúc ra cây thanh đồng có liên quan mật thiết với nhau.”

Lão Dương cầm lấy cái mặt nạ, hứng chí nhìn ngắm đến nửa ngày, nói: “Này hay đây là con sâu cụ từ thời Tây Chu, không chừng đến giờ đã tuyệt chủng rồi, chẳng trách chúng ta không nhận ra là phải. Ai da, mấy người nhìn coi nè, con sâu này chỉ còn có một nửa.”

Nói xong, hắn nhìn chúng tôi, hỏi: “Thế nửa còn lại ở chỗ nào nhỉ?”

Con sâu nằm cuộn tròn trên phần gồ lên để gắn vào miệng của cái mặt nạ. Như vậy, nửa còn lại của con sâu chỉ nằm ở một nơi. Tôi nghĩ vậy, rồi vô thức nhìn vào cái miệng đang há to của cái xác khô, quả nhiên thấy trong khoang miệng tối om có một nửa con sâu đang bám trên đầu lưỡi. Con sâu khô quắt cắm vào yết hầu cái xác, dường như đang chui vào trong. Vì thi thể bị rữa hết thịt trông rất giống với con sâu hóa thạch, nên nếu không để ý kỹ thì sẽ nhầm tưởng con sâu này là phần lưỡi của thi thể.

Trợ lý Lương thấy thế, chợt biến sắc, kêu lên: “Mau ném đi, ném đi! Ôi ông giời của tôi ơi, nhanh ném nó đi! Cái mặt nạ đó có khi là vật thể sống đấy!” Nói xong hắn vung tay hất văng cái mặt nạ trong tay lão Dương ra. Chiếc mặt nạ nhanh chóng rơi vào trong bóng tối, đập vào các nhánh cây, bốp một tiếng, vỡ nát.

Lão Dương giật mình kinh hoảng, thiếu chút nữa trượt chân rơi tòm xuống luôn, liền gào lên hỏi hắn có phải bị thần kinh hay không, cái quái gì mà mặt nạ là vật thể sống cơ chứ?

Trợ lý Lương khụ một tiếng, hình như là đang hối hận. Hắn vò đầu bứt tai, nhíu mày nói: “Thật hổ thẹn, sao tôi lại ngu đến thế kia chứ, thế mà trước đây không nghĩ ra… Cây đồng thụ này, cách hiến tế này, nói rõ chúng nhất định không phải là tác phẩm của người Hán chúng ta, ôi chao, tôi đúng là ngu ngốc mà, ngu đến hết nói nổi luôn!”

“Ông đang lảm nhảm cái mẹ gì thế?”, lão Dương phát cáu, “Cái gì mà ngu ngốc, liên quan chó gì đến cái mặt nạ? Có gì cứ nói thẳng toẹt ra đi xem nào!”

Trợ lý Lương khoát tay áo, nói: “Không phải, anh kiên nhẫn nghe tôi nói hết cái nào, chuyện này phải kể từ đầu cơ, à mà, biết nói thế nào nhỉ? Kia phải bắt đầu từ chuyện huyết tế chúng ta vừa mới nói…”

Hóa ra, loại cúng tế bằng máu này chủ yếu phổ biến ở các dân tộc thiểu số thời Tây Chu, tất nhiên là khác với các dân tộc thiểu số thời hiện đại bây giờ. Người dân của các dân tộc thiểu số này hầu hết đều đã biến mất, có lẽ là đã nhập với người Hán. Một lễ huyết tế với quy mô lớn như vậy, trong chính sử của người Hán không có ghi chép lại, nhưng trong vài di chỉ còn sót lại của một số dân tộc ít người thì có lẻ tẻ nhắc đến. Đáng tiếc, bởi vì ngôn ngữ chữ viết thất truyền đã lâu, nên tư liệu tỉ mỉ về loại huyết tế này lại càng coi như không có.

Mà, các thánh địa để thờ cúng của các dân tộc thiểu số này đều rất linh thiêng, không chỉ có người canh gác cẩn mật mà đồng thời còn có thể được tế sư nào đó phù phép, bảo vệ thần linh không bị người ngoài quấy rầy. Tương truyền, quá trình phù phép cực kỳ thần bí, loại dị thuật này lưu truyền cho đến tận bây giờ, được thần thánh hóa lên thành một thứ cổ thuật vạn năng không gì không làm được y như trong tiểu thuyết.

Trợ lý Lương còn nói, cổ thuật bắt đầu phân chia từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đến thời tống lại chia ra một lần nữa. Cổ thuật thời trước Tần cực kỳ lợi hại, lợi hại đến mức cũng giống như mấy cái siêu năng lực trong truyện tranh thời bây giờ vậy. Tuy nhiên, cổ thuật này chủ yếu dựa vào sâu bọ, nên có một thời kỳ, nó được gọi là mãnh trùng thuật. Những chiếc mặt nạ mà bọn khỉ và xác khô đeo này rất bí hiểm, có khả năng đó là kết quả của loại cổ thuật từ thời xa xưa này.

Hắn bảo, hắn từng nghe nói đến một loại cổ thuật, gọi là Li cổ, có thể khiến người ta trở nên hiếu chiến. Mà hóa thạch con sâu đang cắm vào yết hầu ở mặt sau chiếc mặt nạ kia có thể chính là nguyên hình của Li cổ từ thời xưa. Có khả năng loại sâu này gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh của động vật, khiến động vật trở nên hiếu chiến, tấn công người lạ. Thế nên, khi bị tôi đánh cho rớt vỡ mặt nạ, mấy con khỉ liền khôi phục bản tính, theo bản năng bỏ chạy khỏi chúng tôi.

Li cổ có thể sinh sôi nảy nở trong cơ thể của vật chủ, đợi khi vật chủ chết đi, chúng liền bám vào một chỗ nào đó, ví dụ như là mặt sau cái mặt nạ này chẳng hạn, chờ vật chủ kế tiếp tới gần, rồi bằng cách nào đó kí sinh trên người vật chủ.

Cái xác khô này, không chừng là một người thợ săn đến đây săn bắn, vô tình đụng phải Li cổ đang trong trạng thái ngủ đông, kết quả là bị cái tà thuật cổ xưa này cho lãnh đủ.

Tất nhiên, chưa ai tìm ra được bất cứ một tài liệu nào ghi chép về cái của Li cổ gì gì đó đó này, cũng chẳng biết có đúng sự thực hay không, chỉ có điều, trong mặt nạ này có hóa thạch con sâu đang thâm nhập vào yết hầu người, thôi thì chả biết thực hay hư, nhưng chắc chắn đây không phải chuyện bình thường, cứ phòng bị cẩn thận là tốt nhất.

Nghe trợ lý Lương nói vậy, toàn thân tôi nổi da gà da vịt. Thực ra, trong mấy tư liệu mà ông Tề ổng có đưa cho tôi cũng có nhắc đến những chuyện tương tự, thế nhưng lúc đó tôi chỉ xem qua loa, bụng bảo dạ rằng này đây có phải phim truyện chiều thứ bảy của điện ảnh nước nhà đâu, nào ngờ, bây giờ mới ngộ ra, phim khoa học viễn tưởng của Mỹ cũng còn phải học hỏi kĩ thuật của tổ tông nhà ta chán, thật không biết nên khóc hay nên cười nữa.

Quay đầu nhìn lại, cái thây khô quắt quỷ dị vẫn đứng im không nhúc nhích như cũ, chiếc mặt nạ trắng bệch tự tiếu phi tiếu, tựa hồ đang liếm môi chờ chúng tôi xáp đến gần.

Lão Dương sắc mặt có chút khó coi, nói thầm hỏi trợ lý Lương: “Nghe ông anh nói cũng kinh khủng quá đi à, vậy giả sử bị cái con Li cổ này nó dính vô người, lập tức lôi nó ra thì vẫn sống phải không? Không tai họa ngầm phải không?”

Trợ lý Lương nói: “Tôi cũng chẳng biết. Li cổ rất khó giải, tôi nghĩ, nếu một khi đi bị nó dính vào người thì chắc chắn không chỉ đơn giản là lôi nó ra là xong đâu. Loại chuyện này, chúng ta vẫn cứ đề phòng thì tốt hơn, cứ cố gắng tránh xa những cái xác khô này là được. Lão Thái trước cũng là trượt chân ngã từ nơi này xuống, lão là người từng trải như vậy, có khi lại không phải là do trượt chân đâu. Phải cẩn thận một chút.”

Lão Dương nhíu màu, cứ như là muốn nói cái gì, nhưng lại không nói thành lời được. Tôi liền hỏi hắn, với tình hình này thì còn phải trèo đến lúc nào nữa đây, nhỡ chẳng may phía trên các nhánh cây cũng dày đặc thế này thì có mà leo cho đến khi chết vì mệt cũng không lên được tới đỉnh. Lão Dương bảo tôi rằng, may ra thì phía trên nó có thể sẽ thưa bớt. Lúc hắn leo tay chỉ có một cái đèn pin bé xiu xiu, chiếu sáng rất kém, nên không để ý thấy những xác khô này, cũng không có con khỉ nào bất ngờ đánh úp hắn. Với lại, giờ hắn cũng chả biết mình đang ở cái chỗ quái nào, nhưng dù sao thì, các cụ dạy “tự cổ Hoa Sơn nhất căn trụ”(*), xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một cái rễ cột to oành, cứ leo lên riết cũng không bắn sang nơi khác được đâu.

(*) Nguyên gốc là “tự cổ Hoa Sơn nhất điều lộ”, tức là: xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một con đường, chẻ Dương đã tùy cơ ứng biến mà chém câu của cổ nhân người ta cho hợp hoàn cảnh (lên Hoa Sơn chỉ có một cái cột để mà bám mà leo) =))))))

Tôi cảm thấy nơi này không thích hợp để ở lâu, liền bảo bọn họ trước tiên cứ qua một đoạn này đã rồi hẵng tính tiếp. Đứng cùng chỗ với trợ lý Lương còn có một ông chủ béo nữa, ông này rất có khả năng sẽ leo lên trước chúng tôi. Nếu mà ông ta lên tới trên đỉnh trước thì sẽ hơi bị phiền phức. Nhỡ đâu có phục kích, ba chúng tôi không chừng sẽ chết không rõ ràng.

Lão Dương nói: “Nói có lý, cậu chờ một chút, tôi đi đốt ít pháo sáng, để xem trên ấy nó có phục kích gì không.” Nói xong hắn lôi ra khẩu súng báo hiệu, chỉa lên phía trên, bắn một đường thẳng tắp.

Đạn tín hiệu bay lên, không nghe tiếng chạm tới đỉnh, lòng tôi nôn nao một trận hồi hộp. Loại đạn này tối thiểu phải lên đến được hai trăm mét, vầy tức là còn phải leo ít nhất hai trăm mét nữa, ha hả, này thật là nản muốn chết quá đi.

Đạn tín hiệu cháy bùng, nhìn lên trước, quả nhiên là phía trên một đoạn không xa nữa các cành cây cũng càng thưa thớt lỏng lẻo dần, không hiểu vì sao lại thiết kế như vậy. Hơn nữa, nhìn cao lên nữa, phạm vi hai trăm mét không phải là giới hạn, tôi còn có thể thấy một vài thứ nữa, tuy là không sao nói được nó là cái gì.

Đạn tín hiệu rơi xuống, lão Dương nhìn kỹ một lúc, rồi nói: “Xem ra ông chủ mập Quảng Đông kia không có phục kích ở phía trên, nói không chừng chỉ có mình lão Thái còn sống nhăn răng mà chạy đến đây, dù sao thì cái đám quan tài trận bên ngoài kia nom chẳng khả quan gì mấy… A, này, cái gì thế kia?”

Khi đạn tín hiệu rơi xuống cách khoảng hơn sáu mươi mét, chúng tôi chợt nhìn thấy cái gì đó gồ ghề nổi lên trên một đoạn thân cây thanh đồng. Nhìn kỹ, tôi tức thì cảm thấy sau ót tê rần rần, mồ hôi lạnh ứa ra tận lòng bàn chân: cách cả bọn chừng mười mét, trên thân cây thanh đồng trồi lên một bộ mặt. Không, phải nói đó là một chiếc mặt nạ hình dạng rất quỷ dị.

Chương 27: Lăng không

Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp Nhi

 ♥♥♥

Pháo hiệu tiếp tục rơi xuống, lướt qua khu vực này, chợt thấy cả một vùng xung quanh chuyển động tránh đường cho quả cầu nóng sáng, nhìn qua giống hệt một rừng côn trùng mặt người lúc nhúc.

Đây hẳn là li cổ mà trợ lý Lương đã nhắc đến, người xưa nuôi dưỡng chúng trong những chiếc mặt nạ đặc biệt, không ngờ đã sinh sôi nảy nở tới mức này. Lúc đầu tôi còn bán tín bán nghi, ai ngờ nhanh như vậy đã đụng phải nguyên một đoàn thế này.

Chúng bám chi chít vào những khe nứt trên cây Thanh Đồng, khi ánh sáng lướt qua thì bày ra vô vàn biểu tình khác nhau, có đau đớn, có u buồn, có dữ tợn, có cả cười âm hiểm… Tôi chưa bao giờ thấy qua cảnh tượng nào quỷ dị như thế, lông tơ trên người dựng đứng cả lên.

Trợ lý Lương lúc nãy giải thích hùng hồn lắm, giờ tận mắt thấy thứ này rồi cũng lắp bắp, run rẩy nói với tôi: “Hai… hai vị tiểu ca, mấy thứ đó đều còn sống cả, li cổ còn bám ngay phía dưới đó, chúng ta làm sao bây giờ, sao mà đi qua được?”

“Đừng hoảng hốt,” lão Dương nói, “Anh xem, bọn chúng có phản ứng với pháo hiệu, chứng tỏ chúng là loài sợ ánh sáng và nhiệt độ, chúng ta đốt đuốc rồi từ từ tiến tới, bọn chúng chắc không dám đụng vào chúng ta đâu.”

Tôi lắc đầu: “Không thể chắc chắn như vậy được, pháo hiệu có độ sáng và độ nóng rất cao, tất nhiên bọn chúng sẽ sợ, còn cây đuốc thì không được như thế. Cậu đừng quên đám khỉ lúc nãy, thấy pháo hiệu thì bỏ chạy, còn khi cậu dùng đuốc dọa thì bọn chúng lại chỉ lùi ra sau một chút mà thôi. Tôi chỉ sợ cậu đốt đuốc trèo lên chẳng những không qua được mà còn dẫn bọn chúng đến bao vây chúng ta, lúc đó muốn thoát cũng khó.”

“Vậy cậu nói giờ phải làm sao?” Lão Dương hỏi tôi, “Cậu nghĩ ra phương án gì rồi?”

Tôi đáp: “Phương án thực sự thì tôi không có, chỉ là có một cách mới nghĩ ra, không biết có thực hiện được không.”

Lão Dương sốt ruột: “Tôi biết cậu nhiều mưu ma chước quỷ, có gì cứ nói luôn đi.”

Tôi chỉ vách núi đá cách đó hơn hai chục thước: “Trực tiếp tiến lên như vậy rất nguy hiểm, nếu như lời trợ lý Lương nói là đúng, lũ bọ kia chắc chắn có cách leo lên mặt chúng ta. Trực tiếp xông vào đó chẳng khác nào ôm bom cảm tử, chi bằng đi đường vòng. Cậu có cách nào giúp chúng ta tới được chỗ vách đá đó không, trên đó có nhiều hõm đá nên không khó đi lắm, chúng ta cũng có thể nghỉ ngơi đôi chút.”

Lão Dương nhìn hướng tay tôi chỉ, kêu lên: “Này… Xa thế? Tới đó sao?”

Tôi gật đầu, ra hiệu: “Tôi mới nghĩ ra cách này thôi, không phải chúng ta có dây thừng sao? Cậu xem thử đủ dài hay không, nếu không đủ thì chỉ còn cách leo xuống thôi, lần sau xách súng phun lửa tới.”

Lão Dương tháo cuộn dây thừng bên hông ra, thứ này vốn là hàng chôm được trên người lão Thái, bên trên có nhãn U.aa. Đây là loại dây thừng leo núi tốt nhất thế giới, là thứ bộ đội đặc chủng thường sử dụng, xem ra bọn họ cũng đầu tư bộn tiền vào trang bị chứ chơi à.

Lần trước đi Lỗ Vương cung tôi có giúp chú Ba chuẩn bị tư trang hành lý, tìm hiểu qua không ít thông tin, thế nên tôi biết, loại dây thừng này nếu đường kính thân trên 10 mm có thể chịu được sức nặng lên đến ba tấn (dù là lực tác động đột ngột), thừa sức chịu được trọng lượng của ba người chúng tôi.

Sức chịu đựng thì đủ, chỉ không biết độ dài có đủ không thôi. Lão Dương bung dây ra xem xét, không khỏi than một tiếng, độ dài sợi dây chỉ hơn mười thước, còn thiếu một đoạn khá dài mới tới được bên kia.

“Làm sao đây?”, lão Dương hỏi tôi, “Có nối thêm thắt lưng của chúng ta cũng không đủ.”

Tôi vân vê sợi thừng, chợt phát hiện đây là loại thừng bện đôi 16 mm, nhanh trí nói: “Không cần lo. Chúng ta tước đôi sợi thừng này ra, nối vào làm một là được.”

“Tiểu Ngô ca, được thật chứ? Dây thừng mỏng như vậy không sợ đứt sao?” Trợ lý Lương nói: “Cậu xem, sợi thừng này còn mỏng hơn cọng bún, dù có vội mấy thì cũng đừng kích động nha.”

“Tạp chí nước ngoài đều nói thế cả, chắc cũng không đến nỗi lừa chúng ta đâu.”

Tôi tước lớp lưới bảo vệ bên ngoài dây thừng, lôi ra một sợi dây nilon mỏng tang, tự mình nuốt một ngụm nước bọt. Con mẹ nó, thực sự mỏng đến phát sợ, theo lẽ thường sợi dây mỏng cỡ đó không tài nào chịu nổi trọng lượng của ba người chúng tôi. Nhưng mà tài liệu nước ngoài quả thực có nói, dây nilon chịu lực đường kính 8 mm có thể dùng làm thang dây leo núi, chỉ cần không tác động lên đó lực kéo quá mạnh thì dây không dễ đứt. Tuy nhiên, sử dụng loại thừng này có độ nguy hiểm nhất định, do đó bình thường vẫn dùng hai sợi bện vào nhau. Chúng tôi giờ chỉ dùng một, chắc phải cầu Trời khấn Phật thương tình cho.

Thôi thì cứ tin tưởng công nghệ cao đi, tôi nghĩ, dù sao cũng không đến nỗi xui xẻo vậy chứ?

Tôi đưa sợi thừng đã được nối chặt cho lão Dương, hắn lôi từ ba lô ra một cái ấm nước, thắt một nút thủy thủ thật chắc vào đó làm quả nặng, dùng sức ném về hướng đối diện, sau vài lần thất bại cũng quấn được vào một măng đá phía bên kia. Chúng tôi kéo thử, sợi thừng căng như dây đàn, vô cùng chắc chắn.

“Được rồi,” Lão Dương nói, “Mẹ kiếp, cuối cũng cùng được. Này lão Ngô, dây thừng thì không nói, nhưng lỡ măng đá bên kia không chắc chắn thì sao?”

“Tôi không biết.” Tôi nói, thầm nghĩ nếu tảng đá kia không chắc chắn, tôi đại khái sẽ văng trở lại chỗ Thanh Đồng thụ này, tốt số chút thìđâm thẳng vào thân cây, nửa sống nửa chết, còn xui xẻo thì trực tiếp rớt vào chỗ mấy chạc cây, bị đâm chi chít như cái sàng.

Đầu dây bên này được buộc vào một nhánh cây Thanh Đồng, lão Dương thắt một nút rất đặc biệt, khi chúng tôi đi qua rồi có thể từ bên đó tháo nút buộc bên này. Tôi nhìn cái nút phức tạp đó đến hoa cả mắt, hỏi hắn học được ở đâu, hắn nói là trong tù.

Chuẩn bị đâu ra đấy rồi tôi kéo kéo sợi thừng, xác định cả hai đầu đều chắc chắn mới bảo họ đi trước đi. Đáp lại tôi là sự bất động của cả hai, tôi quay lại nhìn, thấy bọn họ dùng ánh mắt có-chết-ông-đây-cũng-không-làm-người-đầu-tiên nhìn lại tôi. Đương nhiên, người dám đi đầu tiên trên sợi dây mỏng manh như thế cần một lá gan vô cùng lớn. Tôi nói hai lần nữa, hai người kia vẫn lắc đầu, tôi thầm mắng một tiếng, bất chấp khó khăn xông pha đầu tiên.

Trước khi đi, tôi lần lượt đưa phách tử liêu và ba lô cho lão Dương và trợ lý Lương, cố gắng giảm trọng lượng trên người hết mức có thể, mấy thứ này có thể buộc vào đầu dây bên này, đợi lát nữa lão Dương biểu diễn màn cách không cởinút thì lôi luôn chúng nó qua, kéo lên là được. Lão Dương ở lại bên này cũng không an tâm, lén lấy súng của hắn đưa cho tôi, giữa đường lỡ có phát sinh chuyện gì cũng còn có cái mà xoay xở.

Tôi cảm thán một tiếng, rất có cảm giác của chiến sĩ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, vỗ vỗ vai hai người, quay đầu lại bước lên sợi dây.

Chân vừa đặt lên sợi thừng,trong chốc lát thần kinh tôi cũng căng ra như sợi dây bên dưới, nhắm mắt nghiến răng chờ đợi tiếng đứt thật ngọt. Không ngờ sợi dây này thực sự không hề bị đứt, chỉ phát ra thanh âm kẽo kẹt vô cùng khó chịu từ hai đầu dây bị buộc chặt.

Lòng tôi kêu gào đừng nhìn xuống, nhưng mắt vẫn không tự chủ được liếc một cái, ông trời ơi! Tôi rên một tiếng, lập tức quay đầu, nhắm mắt niệm A di đà Phật!

Lão Dương kêu lên: “Ê lão Ngô, cậu còn dùng dằng ở đó làm gì? Đi mau đi, càng đợi lâu càng nguy hiểm!”

Tôi ân cần hỏi thăm tổ tông tám đời nhà hắn, hít sâu một hơi, động tay chân bắt đầu di chuyển. Loại thừng này có độ co dãn nhất định, sau mỗi bước đi đều rung lắc vô cùng dữ dội, tôi trèo kiểu này vô cùng nguy hiểm, hơn nữa sợi dây lại quá nhỏ, nắm đau tay kinh khủng, chỉ lát sau đã thấy có chút lực bất tòng tâm. Càng về sau đầu óc tôi lại càng trống rỗng, chẳng biết mình làm sao mà đến được bên kia nữa, chân nhũn cả ra, vừa chạm tới măng đá đã ôm chặt lấy, thở hồng hộc.

Tôi mang theo cây đuốc sang bên này, đốt lên rồi cắm nó qua một bên, lại nhìn về chỗ bọn lão Dương, thấy trợ lý Lương đang leo lên sợi dây, răng đánh cầm cập vào nhau. Lão Dương ở phía sau giữ chặt anh ta, bảo đừng đi vội, rồi nói tôi trước hết xem xét tình hình bên đó đã, nếu leo lên không được hay có gì nguy hiểm thì có thể tiết kiệm chút sức lực.

Tôi xem xét mấy cái hang chung quanh, tất cả chỉ cao cỡ nửa thân người, chắc là nhân tạo, có điều trải qua mấy ngàn năm xâm thực, bên trên xuất hiện không ít thạch nhũ vừa thành hình, không khí trong hang rất ẩm ướt. Những cái hang ở đây có lẽ có liên quan tới công trình đúc cây đại thụ khổng lồ năm đó.

Tôi nhìn lên trên, mấy hang này cách nhau khoảng ba bốn thước, tuy trèo lên khá cách quãng nhưng cũng không quá khó khăn. Phía trong nham động trống không, chẳng có gì nguy hiểm, vừa rồi ở trên cây nhìn qua còn thấy bên trong có thứ gì đó, giờ mới biết chỉ là ảo giác. Nơi này quá thiếu sáng, thành ra thần kinh không tránh khỏi có hơi mẫn cảm.

Tôi vừa an ủi chính mình vừa xác nhận, sau đó hất đầu ra dấu cho lão Dương.

Lão Dương vỗ vỗ trợ lý Lương bảo đi trước, anh ta lấy tay xoa mặt mình, bò lên dây đi về phía tôi.

Xem trợ lý Lương đi dây thừng quả là khảo nghiệm thần kinh con người, quá trình thế nào tôi vẫn là không nên nói ra thì hơn, mười phút sau tôi nói chung cũng giơ tay ra kéo được vị sư phụ mồ hôi ướt đẫm kia qua hẳn chỗ mình.

Lão Dương đi sau cùng. Hắn hít một hơi sâu, buộc đèn pin vào tay, kiểm tra lại nút buộc bên kia một lần nữa rồi mới bò lên sợi thừng. Hắn bò rất nhanh, mới đó mà đã đi được một nửa đoạn đường, chợt đầu dây buộc vào măng đá bên này phát ra một âm thanh kì quái. Cả ba chúng tôi đều bất động, lão Dương mặt tái mét liếc nhìn tôi, tôi quay đầu lại nhìn, tim nhảy lên tận họng – trên măng đá xuất hiện một vết nứt!

Xúi quẩy thật! Tôi quay đầu lại: “Nhanh lên! Nơi này không ở lâu được!”

Tôi gọi vài tiếng, lão Dương lại chẳng hề nhúc nhích, ngoắc ngoắc tôi rồi lui về phía sau, vừa lùi vừa ra dấu với tôi, ý bảo tôi cũng quay về ngay.

Làm gì đó? Tôi nghĩ một chút, lòng tự nhiên dâng lên dự cảm không lành…

Lão Dương liều mạng chỉ lên trên đầu chúng tôi, lí nhí nói: “Chạy mau…”

Trợ lý Lương và tôi khó hiểu ngẩng đầu lên, lập tức sợ đến ngây dại.

Vách nham thạch lúc nãy còn trống không giờ đã nhung nhúc toàn mặt nạ người, cả đám chuyển động loạn xạ, vừa kêu rít vừa tràn đến chỗ chúng tôi như thủy triều dâng. Từ dưới nhìn lên cứ như có hàng ngàn người đang vây quanh chúng tôi vậy.

Tôi lúc này thực sự muốn tự tát mình một cái, mẹ ơi ngu quá đi mất, trên cây có li cổ thì vì quái gì trên vách đá lại không có? Lần này chết chắc rồi, chẳng lẽ kết cục của tôi chính là trở thành thể loại giống như lũ khỉ kia, biến thành thây khô ở chỗ này? Chẳng bằng bây giờ nhảy xuống quách, chết cho thoải mái.

Lão Dương nhìn chúng tôi đứng đực ra, kêu to: “Còn ngẩn ngơ cái gì! Quay lại bên này ngay, cắt dây thừng!”

Tôi nghe thấy liền phản ứng ngay, chạy lại chỗ măng đá, dùng sức nhảy lên sợi dây, lực tác động quá mạnh khiến sợi dây chùng hẳn xuống, măng đá liên tiếp phát ra những âm thanh rạn nứt khiến người ta sởn gai ốc. Chưa đợi tôi nắm chắc, trợ lý Lương đã nhảy lên theo, sợi dây dãn ra tới hơn mười centimet, căng tới cực hạn. Tôi lập tức nghe được thứ thanh âm vô cùng không may, rồi roẹt một tiếng, loại dây thừng tốt nhất thế giới cuối cùng cũng không chịu được nữa, đứt đôi.

Dây thừng 8 mm quả nhiên không chịu được trọng lượng của ba người, sau một tiếng giòn vang, nhánh cây Thanh Đồng buộc dây bị đứt đoạn, chúng tôi cứ như đang đu dây, vẽ trong không trung một đường cong thật lớn rồi đâm sầm vào một vách đá, bị tông đến thất điên bát đảo, chút nữa hộc máu.

Lão Dương ở dưới cùng bị va chạm mạnh nhất, trong chốc lát không nắm chặt sợi dây liền trượt thẳng xuống, phải cuống quít bám vào một khe hở giữa mấy tảng đá bên cạnh mới dừng lại được. Tôi với trợ lý Lương cũng chẳng khá khẩm hơn, đầu tôi sượt qua một mỏm đá, rách một mảng lớn, máu tươi đầm đìa. Trợ lý Lương ở ngay dưới tôi, chịu đựng không nổi, sợi dây trong tay tuột ra, thế là rơi thẳng xuống. May mà ở dưới có lão Dương túm lại, chứ không thì toi rồi.

Măng đá phía trên liên tục phát ra âm thanh rạn nứt, có thể gãy bất cứ lúc nào, tôi nhanh tay bám vào nhũ đá bên cạnh, nhảy qua kéo trợ lý Lương lên. Trợ lý Lương sợ đến mất hồn, vừa lên tới nơi đã mở miệng nói cảm ơn,có điều lời còn chưa dứt, một chiếc mặt nạ từ phía trên rớt xuống, chụp lấy mặt anh ta.

Trong nháy mắt, tôi như nhìn thấy dưới lớp mặt nạ kia nhung nhúc những con bọ đang giơ móng vuốt. Trợ lý Lương kêu lên một tiếng thảm thiết, muốn dùng tay che lại nhưng đã muộn, mặt nạ đã dính lên rồi. Trợ lý Lương liều mạng muốn kéo ra, có điều thứ kia hệt như được dán lên mặt anh ta vậy, cứ kéo ra được một chút lại dính trở lại ngay. Tôi định giúp một tay, khổ nỗi anh ta cứ như nổi điên mà khua khoắng chân tay loạn xạ cả lên, chưa kịp lại gần đã bị hất ra mất. Tôi phải nắm lấy sợi dây, đu lại gần chỗ lão Dương mới miễn cưỡng đứng vững được.

Tôi nhìn vực sâu thăm thẳm dưới chân, thầm chửi một tiếng, định trở lên giúp trợ lý Lương. Ai dè vừa ngẩng đầu, một vật gì đen đen to bằng bàn tay bất thình lình giáng từ trên trời xuống, ụp thẳng vào mặt tôi. Trước mắt tôi tối sầm lại, không nhìn được gì, chỉ cảm thấy có vài con bọ lông lá đang chui thẳng vào miệng.

(*câm nín* Anhơighêquáđi~~~)

Trong lúc bối rối, tôi đưa một tay nắm lấy kẽ hở trên vách đá, một tay bóc cái mặt nạ trên mặt ra, cố ngậm miệng cho chặt để lũ gớm ghiếc kia không chui vào. Ai ngờ mới kéo một chút mặt nạ đã tự bong ra, tôi nhanh tay ném đi, chẳng dè lại vừa khéo trúng ngay mông lão Dương. Hắn chửi to một tiếng, cuống quít dùng chuôi súng gạt phăng thứ gớm ghiếc ấy.

Tôi chậm rãi thở ra, vừa quay đầu đã thấy bốn năm con li cổ nhảy tới sát sàn sạt. Tôi sợ đến phát run, nâng súng bắn bốn phát nhưng căn bản vẫn không có tác dụng, lập tức lại có hơn mười con hùng dũng lao lên. Tôi với lão Dương đang lui xuống dưới chợt nghe tiếng kêu thảm thiết, ngẩng lên nhìn thì thấy trợ lý Lương đã gặp họa tới nơi, trên người bám đầy li cổ. Anh ta la hét giãy dụa muốn thoát khỏi đám bọ trên người, có điều vừa phủi đi được con này thì lại một đám khác nhảy bổ tới ngay.

Tôi vừa lui về phía sau vừa xả súng, hết đạn rồi mà tình hình chẳng khá lên được bao nhiêu. Li cổ vẫn ùn ùn tràn tới như thủy triều, vây lấy chúng tôi từ hai phía, quay đầu nhìn thì vách đá bốn phía đã bám kín mấy thứ buồn nôn kì dị kia. Chúng va chạm vào nhau, trong chốc lát không gian chung quanh tràn ngập thứ tiếng động quỷ quái khiến đầu người ta muốn nứt tung ra, mới phân tâm một chút thôi đã thấy mấy con bọ nhảy thẳng vào mặt, không cẩn thận là dính chưởng như chơi.

Chúng tôi vẫn tiếp tục lùi xuống, có điều không nhanh bằng lũ bọ ấy, chẳng mấy chốc xung quanh đã bị bao vây chật cứng. Trong lúc tưởng như đã tuyệt vọng, lão Dương nổ súng. Phách tử liêu nổ giòn một tiếng tan quét sạch một mảng li cổ trên đỉnh đầu chúng tôi, mấy chiếc mặt nạ gần đấy vỡ nát, vụn trắng lả tả rơi xuống như tuyết.

Nhưng chưa đến một giây sau, chỗ trống vừa tạo ra trên vách đá đã nhanh chóng được lấp đầy bằng một đám li cổ khác. Lão Dương thấy cách này vô dụng, nhanh chóng lấy áo trùm kín đầu, hét với tôi: “Lão Ngô! Tôi yểm trợ cậu, mau mau bịt miệng lại rồi đi lấy cây đuốc đi!”

Tôi ngẩng lên nhìn, cây đuốc vẫn còn ở nguyên vị trí lúc nãy tôi thuận tay gắn vào, khu vực xung quanh không thấy li cổ, hẳn là bọn chúng sợ lửa. Chỉ có điều giữa tôi và cây đuốc lúc này là trùng trùng điệp điệp li cổ, cơ bản không tài nào qua nổi. Tôi hét lại với lão Dương: “Để tôi bọc lót cho, cậu đi đi!”

“Tôi không được! Cậu chịu khó một chút đi!” Lão Dương vừa kêu lớn vừa dùng phách tử liêu đập loạn xạ. “Mẹ kiếp, thực là cóc có gì hay ho!”

Tôi nhìn lũ bọ, lòng thoáng run rẩy. Đám li cổ này thực ra không phải lợi hại gì lắm, có điều số lượng quá đông, lại có lớp mặt nạ cứng bảo vệ, thành ra khó mà giết hết, hơn nữa bọn chúng là thứ còn tồn tại sinh trưởng được sau tận mấy nghìn năm. Thật khó mà tưởng tượng ra được, thời ấy vì bảo vệ cây đồng này mà cổ nhân nghĩ ra biết bao thứ kì dị đến thế.

Lão Dương lại thoát khỏi một đám li cổ nữa, định trèo lại gần chỗ tôi, nhưng vừa ngẩng lên nhìn tôi một phát, hắn đã ngây người ra: “Lão Ngô, sao cậu lại thế này?”

Tôi nhìn hắn đứng đực ra, mấy con li cổ trên vai đang nhăm nhe chui vào trong lớp áo, hét lên: “Cái gì mà ‘sao lại thế này’? Cẩn thận!”

Lão Dương lúc này mới phản ứng, cuống quít phủi đám li cổ trên vai đi, sau đó nói với tôi: “Lão Ngô, tôi nói cậu… cậu không phát hiện ra sao? Không bình thường chút nào!”

“Cái gì không bình thường?” Tôi kéo hắn qua, sốt ruột gào lên: “Đợi cái gì nữa, nói toẹt ra xem nào!”

(;_______;)

“Cậu xem, trên người cậu không có con li cổ nào! Sao chúng lại không leo lên người cậu? Sao lại có chuyện đó được!”

Tôi cúi đầu nhìn, a lên một tiếng, nhìn qua trợ lý Lương và lão Dương, trên người cả hai bám đầy li cổ, phủi mãi không hết, tôi thì lại chẳng dính lấy một con.

Tôi chợt thấy hơi hồi hộp, nghĩ lại thì trừ lúc nãy bị một con rơi vào mặt ra, chẳng có con quái nào bò lên người tôi nữa cả. Vừa rồi tôi loạn hết cả lên thành ra không phát hiện, lại còn nghĩ mình vận khí không tồi, giờ xem ra có chỗ không thích hợp. Tôi nhìn xung quanh mới thấy bọn li cổ kia đúng là có bò tới chỗ tôi thật, nhưng gần tới nơi rồi thì lại đột ngột chuyển sang hướng khác, tránh tôi như tránh cây đuốc vậy.

“Sao lại thế này?” Tôi tự thấy kì quái, bèn chạy tới quơ lấy một chiếc mặt nạ gần đó, tay còn chưa chạm tới nơi, một mảng li cổ vội vàng lùi răm rắp ra sau.

Tôi nhìn lão Dương, lão Dương nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau trân trối. Hắn kêu lên: “Ông nội tôi ơi, một chiêu này thật lợi hại! Tay cậu không dính cái gì đấy chứ, nhìn thử xem!”

Tôi đưa tay lên ngó. Ngoài từng mảng máu đọng lại từ vết thương lúc nãy cộng với lớp đất bẩn ra, tay tôi cũng chẳng có gì bất thường cả.

Thật là lạ, bọn chúng vì sao lại sợ tôi? Không lẽ loài ký sinh trùng cũng biết lựa chọn?

Tôi nhìn bọn li cổ lùi ra sau, nhớ lại màn Muộn Du Bình đẩy lùi lũ bọ ăn xác, trong đầu hiện ra dấu hỏi to đùng.

Từ từ, không lẽ là… máu?

Làm sao có thể, chẳng lẽ đám bọ hung hãn tàn bạo này lại sợ máu của người thường là tôi?

Tôi nghi nghi hoặc hoặc nhìn tay mình, đầu óc rối cả lên, chuyện gì cũng không hiểu.

Lão Dương bên kia sắp không chống đỡ được, tôi như phản xạ duỗi tay về phía hắn thử xem sao. Chuyện xảy ra tiếp theo khiến tôi chỉ biết nghẹn họng mà trố mắt ra nhìn: đám li cổ đang bám trên người lão Dương cứ như gián gặp phải thuốc diệt côn trùng, từng con từng con lùi lại phía sau, hệt như lần nọ đám bọ ăn xác kia thấy máu của Muộn Du Bình vậy.

“Không phải chứ!” Cằm tôi đã rớt xuống đất, lòng thầm nghĩ không cần phải nể mặt tôi đến vậy chứ.

Lão Dương không hiểu mô tê gì, cứ kêu gào phải trèo lên lấy cây đuốc, tôi vỗ vỗ vai hắn nói: “Từ từ đã, cậu xem, hình như có chút không thích hợp.”

Nói xong tôi đưa tay ra, đi vài bước về phía trợ lý Lương đang run lẩy bẩy bên kia, chỉ vài bước thôi, đám li cổ quanh đó đồng loạt lùi ra hệt như triều xuống. Tiếng động do mấy chiếc mặt nạ răm rắp chạm vào nhau phát ra đột nhiên nhiễu loạn, thay vào đó là thứ thanh âm chi chi hoảng hốt.

Lão Dương trợn mắt há mồm nhìn tôi như thể thấy quái vật, tôi không để ý tới hắn, trèo lên trên, tiến lên giơ tay trước mặt trợ lý Lương. Chiếc mặt nạ đột ngột co rúm lại, tôi nhanh tay bắt lấy, dùng sức giật nó ra khỏi mặt anh ta, tiện thể giật ra một thứ gì nhầy nhụa trông giống “đầu lưỡi”. Trợ lý Lương lúc này đã rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, “đầu lưỡi” kia mới rời khỏi yết hầu một phát, anh ta liền bật người nôn mửa, nôn đến một thân dơ hầy.

Li cổ trong tay kịch liệt giãy dụa làm tôi gần như tuột tay tới nơi, hơn nữa cái thứ “đầu lưỡi” kia thực sự rất tởm, tôi đành đập mạnh nó lên tảng đá gần đó, nước xanh lè dính đầy lên tay.

Đám li cổ bên cạnh đã lùi ra nhưng không lùi xa, chúng tạo thành một vòng vây thật lớn quanh chúng tôi, lại còn không ngừng thu hẹp lại. Lão Dương nhanh chân đi lấy cây đuốc về quét một vòng, đẩy bọn chúng ra xa một chút. Lúc này trợ lý Lương ho lên hai tiếng, xem ra sắp tỉnh, lão Dương thì đã đi lấy cái ấm nước để thu phần dây thừng còn thừa. Tiếc là thực phẩm và những trang bị khác của chúng tôi vẫn còn ở trong hai cái ba lô treo trên cây bên kia, không biết có cách lấy lại được không nữa.

Tôi đổ chút nước vào lòng bàn tay, đang dấp dấp môi cho trợ lý Lương thì lão Dương trở lại. Vừa nhìn thấy tôi, hai hàng nước mắt của hắn tuôn ra ròng ròng, tôi vừa trông qua đã trợn tròn hai mắt, vội vàng chạy tới lôi hắn sang một bên. Thần kinh lão Dương đã căng thẳng trong một thời gian dài, rất dễ bị kích động, tôi phải ra sức trấn an hắn là chúng ta có cây đuốc đây, bọn chúng không dám tới đâu, để hắn thả lỏng một chút, chứ không hắn phát khùng lên mất. Lão Dương nhìn đám li cổ không dám tới gần mới thở dài nhẹ nhõm, kéo cây đuốc lại giữa chúng tôi, hỏi: “Lão Ngô, chuyện này là sao, từ lúc nào mà cậu trở nên “trâu bò” như vậy hả? Cũng không chịu thể hiện sớm nữa, bắt cả bọn chật vật như thế này.”

Tôi nhìn tay mình, lắc lắc đầu: “Mẹ nó, tôi còn không biết nữa là, cứ tưởng nằm mơ chứ.”

Lão Dương nhìn máu dính trên tay tôi, quệt quệt vài đường, cũng không tin lắm chuyện tôi siêu nhân như thế, hỏi tôi: “Lúc nãy trên đường đi cậu có dính phải thứ gì không? Cậu cẩn thận ngẫm lại xem… Không chừng là đụng phải thứ gì khắc tinh của bọn mặt nạ này mà không biết đó.”

Tôi ngồi nghĩ lại, cái gì tôi chạm qua thì họ cũng chạm qua rồi, chỉ có máu của tôi là họ chưa đụng vào thôi, nhưng mà chuyện này không có khả năng… Nếu máu tôi thực sự lợi hại như vậy, hồi ở Lỗ Vương cung tôi đã phát uy rồi, đâu có chuyện lãng phí cả đống máu như thế… Chẳng lẽ lúc đó dính phải máu người ta nên giờ còn công dụng, không phải đâu – tôi lắc đầu, gạt phắt ý nghĩ đó đi.

Trợ lý Lương tỉnh lại, nghe chúng tôi nói chuyện mới hỏi xảy ra việc gì, anh ta bị mặt nạ che mắt, chẳng thấy được gì cả. Lão Dương lại có ý bắt chẹt tôi, mới nói với trợ lý Lương: “Anh biết không, lúc nãy lão Ngô của chúng ta uy phong như thế này này…”

Trợ lý Lương nghe hắn nói, kêu lên một tiếng, hỏi tôi: “Tiểu Ngô ca, cậu nghĩ lại xem, có phải cậu từng nếm qua một thứ màu đen, to khoảng chừng này…”

 ———————————–

 

Beta lải nhải:

Beta cái chương này quả thực muốn phá ra cười =)) Đọc cái màn đuổi li cổ của em Tà mà mềnh chỉ nghĩ tới một từ: X – mèn cmnr =))))))))))))))

Ai da mà thôi thôi, nói vào chuyện chính ♥

Thông báo cho mọi người một tin mừng là bé Tà siêu nhân nhà mình đã có một suất chắc chắn vào vòng trong của Shounen Tournament 2012 do VNS tổ chức với số phiếu cao thứ 3 trên poll *clap clap* tuy số phiếu thực thì còn phải chờ kết quả kiểm phiếu mới rõ, nhưng kết quả tạm thời này cũng đủ cho chúng ta ăn no ngủ kĩ chờ đến bảng của Tiểu Ca và Tiểu Hoa. 1 ngày (và bao nhiêu ngày trước đó) tranh giành tem, huy động vote đủ kiểu đã được đền đáp xứng đáng, chương này coi như thay mặt nhà Thủy Đạm Nguyệt gửi lời cám ơn chân thành tới các bạn fan gơ Đạo mộ yêu quý của nhà mình ♥ Đọc giải trí lấy sức chiến đấu cho Tiểu Ca và Tiểu Hoa những ngày kế tiếp nhé ♥♥

Chương 28: Kỳ Lân Kiệt

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#đạo