Doa Hoa Rung

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đóa hoa rừng

Lời mở đầu

Húng hính chơi ở trong chốn cố hương được mấy tuần, tôi lóng nghe đô thành đã yên tịnh, không có phi cơ oanh tạc đến viếng nữa. Tôi tò mò trở về Sài Gòn. Nào dè mới về được vài ngày thì còi báo động thổi rân nữa, có bữa báo động tới hai lần. Người ta lo tản cư. Tôi ngao ngán nên cũng chạy như thiên hạ. Mà lần nầy, tôi theo một ông bạn chạy lên miệt trên, tìm nơi cao ráo u nhàn đặng dung thân dưỡng trí. Tôi lên ở Bến Súc. Đến đây tôi liền nhớ cái thớt vườn êm đềm kín đáo, mà năm trước tôi đã thày lay tả vẻ trong một bộ tiểu thuyết của tôi, cái thớt vườn nực nồng thi vị, chan chứa thương yêu, nối tóc xe tơ cho cặp nam nữ thanh niên là cậu Phúc với cô Lý, một tối cựu, một tối tân nhưng hai tâm hồn tương đồng, tương hiệp. Bữa sau tôi đi xem lại thớt vườn nầy, xem coi Thần ái tình còn ủng hộ Phúc với Lý hay không. Miễu ái tình vẫn còn sờ sờ, mội nước trong vẫn còn ro re, tiếng đờn ve vẫn còn inh ỏi, duy thiếu Phúc với Lý. Người ta nói cặp tri âm nầy đã vô Đường Long mấy bừa rày, vô kiếm chỗ mà gây thêm một cái ổ ái tình thứ nhì nữa. Đường Long... Tôi biết rồi, chỗ Phúc khẩn đất để trồng tiêu, trồng nghệ, tôi đã có nói trong quyển „Ái tình miếu". Tôi quyết đi, đi tìm Phúc với Lý, mà cũng đi xem quang cảnh Đường Long. Một ông bạn mượn chiếc xe bò mà chở tôi đi vì đường xa đến năm ngàn thước, đi bộ không tiện. Đi Đường Long mà ông bạn tôi không chịu đi theo lộ đá Kiểm Lâm, lại bắt đi dọc theo mé bưng, nói đi ngã đó tôi mới được thưởng thức đủ cảnh rừng, vườn, bưng, suối. Hồi xưa, cụ Nguyễn Công Trứ ngâm câu „Cỡi trâu êm hơn cỡi ngựa", hôm nay, tôi lại thấy „Ngồi xe bò khỏe hơn ngồi xe hơi". Ngồi xe bò khỏi lật té mà nó còn gây trong lòng tôi một cảm hứng nồng nàn dị kỳ. Tại sao cảm hứng? Tại gặp cái nguồn. Suối Xinô bắt từ trên từng cao, xa lắm, phía trong Cà Tong nữa kìa, quanh co chảy ra sông Sài Gòn. Tuy suối dài đến mấy chục ngàn thước, như mùa khô bề ngang chỉ có năm ba thước, đến mùa ướt mới có nước nhiều. Hai bên suối, đất thấp, thì mưa dào người ta gieo mạ, cấy lúa. Vô trong, đất cao lên một chút, thì người ta làm rẫy, trồng những mía, mì, mè, đậu và ớt nghệ, gừng. Vô trong nữa, đất cao hơn, thì người ta lập vườn trồng những sầu riêng, trái sữa, chanh, mít, tiêu, cau. Phía sau vườn thì là rừng, lố xố những sao, sến, dầu, gõ, bằng lăng, trắc, chỗ còn rừng cấm, chỗ đã có chủ. Phần nhiều chủ đất chiếm từ dưới ruộng lên tới trên rừng. Lại mỗi sở đất đều có người ta ở trồng tỉa, ai ở xa thì cất trại, ai ở tại đó thì cất nhà, có nhà tranh mà cũng có trại ngói. Ngồi xe bò đi cục kịch theo mé rừng hay qua đám rẫy! mắt ngó khoai mía xanh tươi, cây cội chớn chở, tai nghe gà rừng gáy, cu đất kêu, quan cảnh an tịnh làm cho tôi ngẩn ngơ, quên hết các rộn rực ở thị thành, mà cũng quên hết các nổi chìm của thế sự, tâm hồn bắt say sưa với thú lâm viên khỏe khoắn, với thói thôn quê thiệt thà. Vô tới Đường Long, gặp lộ đá Kiểm Lâm, tôi hỏi thăm Phúc và Lý. Người ta nói cách vài bữa trước có thấy đi qua, đi thẳng vô phía trong. Tôi đi theo, đi một đỗi rất xa, mà tìm không gặp. Nghĩ đều rừng thẳm, suối dại, Bóng chim tâm cá, hỏi ai bây giờ. Bạn tôi mới khuyên tôi đừng theo nữa, rủ ghé một trại quen xin nước trà quế bọt mà uống rồi trở về. Ông Ba Lung, ở trại nầy, ông mừng rỡ và dường như ở đây ít người nên ông khao khát nói chuyện, bởi vậy ông tiếp rước chúng tôi rất ân cần, ông nấu nước pha trà đãi chúng tôi rồi ông thuật cho chúng tôi nghe một chuyện ái tình mới kết cuộc cách mấy bữa trước, kết cuộc với màn bi kịch xào xáo rồi tiu hiu, làm cho ở vùng nầy người ta vừa kinh tâm, vừa áo não. Thôi, tìm không được ổ ái tình êm ấm kia, thì tôi chép lại chuyện ái tình xào xáo nầy, kỷ niệm cho buổi nhàn du và luôn dịp bày tỏ Đường Long cảnh vật.

Ðoá Hoa Rừng

Hôm nọ, lúc nửa chiều, con Quế đầu đội nón lá đương lum khum giữa đám dậu, lo xới đất vun gốc đậu, có thím Tư Cam ở gần, muốn vần công[1] nên lại làm phụ với nó cho mau. Thím Tư Canh hay nói chuyện; thím thấy thằng Khoa đương lùa cặp bò cho ăn cỏ dựa mé rừng, thì thím hỏi Quế: - Ủa! Bò của mầy sao còn có một cặp? Còn hai con nữa đâu? - Cặp bò kia mắc đi xe củi trong Bào Đề. Cậu Tư Cu đấu giá mua rừng làm củi. Cậu nói với má tôi, cậu mướn xe ít bữa, nên hôm qua má tôi sai anh Lực đem xe vô trỏng cho cậu. - Thằng khùng đó mà chị Ba dám giao xe giao bò cho nó đem đi xa như vậy sao? - Chớ có ai đâu mà sai. - Thằng Khoa là con nít, nó trị cặp bò kia sao nổi. - Cậu Tư hứa cậu coi chừng dùm, nên má tôi mới chịu. - Anh Tư Cu năm nay bày làm củi chi vậy không biết. - Củi có giá, làm khá lắm chớ. - Khá giống gì? Củi đem ra bến mà bán thì họ dụ bưng họ trả rẻ. Mình mướn ghe chở xuống Thủ[2] hay xuống Sài Gòn thì bán được giá hơn, song đường đi hiểm trở lắm. Đó, ông Ba Lung chở củi đi bán, ổng về hôm kia, rồi cứ ngồi khoanh tay mà khóc đó. - Sao mà khóc? - Ổng bán củi được 130 đồng bạc. Ổng không dám về ghe, lận bạc trong lưng mà đi lên Thủ. Trễ xe hơi, ổng giang xe bò mà về trên nầy, đi tới chỗ Trắc Sùm, bị ăn cướp đón giựt bạc hết trọi, lại đánh ổng sưng cánh tay. - Trời ơi! Ở Trắc Sùm có ăn cướp hay sao? - Có họ nói chừng một tháng nay có đảng ăn cướp năm sáu đứa, có súng, dữ lắm, nó ẩn núp ở đó đón giựt đồ người ta. Bọn nó giựt tới xe máy, xe ngựa nữa, ai chống cự thì nó bắn chết. - Dữ há? Tôi nghe nói Trắc Sùm mà tôi không biết ở chỗ nào. - Ở trên An Tây thôn một đỗi đó. Chỗ đó vắng lắm. - Ăn cướp làm dữ như vây, quan làng không bắt nó sao? - Dễ gì mà bắt. Nó rút vô rừng rồi làm sao mà tìm được. Lại nó có súng, nó bắn chết chớ. - Thím Tư, ăn cướp có súng, mình đi xe hơi tôi tưởng nó đón nó đánh cũng được a thím. - Được nó gạt xe ngừng rồi nó giựt. - Ghê quá! Chắc tôi không dám đi Thủ rồi a. - Không có chuyện cần thì đi làm gì. Mầy hay đi Thủ lắm sao? - Không. Từ nhỏ tới giờ tôi đi có một lần, đi với má tôi. Bận đi thì giang xe bò, bận về đi xe hơi. Lâu lắm rồi, cách bốn năm nay, hồi đó tôi mới mười sáu tuổi. - Thằng Lực nó khoe với họ, nó nói chị Ba sẽ gả mầy cho nó. Chị Ba có hứa với nó hay sao? - Đâu mà có! Anh khùng đó, ai thèm gả. Hai người nói chuyện tới đó, kế nghe phía cầu Đường Long có tiếng ồ ồ, rồi thấy có một chiếc xe hơi ngừng. Quế đứng ngó và nói: - Xe ai mà vô tới trong nầy vậy kìa. Ba người đàn ông ở trên xe leo xuống, rồi đi vô phía Quế với Tư Cam bón đậu, người đi trước mặc âu phục, bộ đàng hoàng còn hai người đi sau thì mặc đồ vắn, lại mỗi người đều có vác đồ trên vai Mấy người đi gần tới. Quế thấy lạ, nên sụp nón ngồi bón đậu, không dám ngó Người đi trước là một thanh niên chừng hăm lăm tuổi, mặt mày sáng rỡ, y phục gọn gàng, tới ngang đám đậu thì đứng lại chỉ nhà bà Ba Hạc, là mẹ của Quế, mà hỏi: - Hai cô, không biết nhà nầy là nhà của ai vậy hả? Quế cứ cúi mặt, không đáp. Thím Tư Cam đứng dậy nói: - Nhà của bà Ba Hạc. Cậu hỏi chi vậy? Người trai cười mà đáp: - Năm trước đi bán trong nầy, tôi có ghé nhà bà Ba một lần. Lâu vô nên tôi quên, bởi vậy tôi muốn hỏi lại cho chắc đặng ghé thăm bà. Không biết có bà Ba ở nhà hay không? - Có. Tôi mới thấy dạng chỉ ra sân hồi nãy. - Cám ơn thím. Người trai ấy đi lại nhà bà Ba Hạc, hai người kia cũng vác đồ đi theo sau. Quế đứng dậy hỏi Tư Cam: - Ai mà quen với má tôi vậy kìa? - Tao có biết đâu. Nói năm trước có ghé nhà mầy; nếu mầy không biết thì tao làm sao mà biết được. - Tôi không nhớ. - Có lẽ hồi người ta ghé, thì không có mầy ở nhà. - Không biết chừng tại vậy... Bây giờ quá nửa chiều rồi. Họ vô đây rồi tối họ làm sao mà về. - Chắc họ vô đặng tối họ đi bắn đèn. - Đi bắn sao không thấy súng? - À! Sao không có mang súng há? Đâu mầy về coi ai đó. - Thôi về làm chi? Có má tôi ở nhà. Để lát nữa rồi tôi sẽ về hỏi coi ai đó cho biết. - Người đó đẹp trai quá phải hôn mậy? Quế chúm chím cười rồi bỏ đi qua liếp đậu khác không nói nữa. Bà Ba Hạc đương ngồi gần miệng giếng, chăm chỉ rửa mớ khoai môn, đặng sáng mai thím Tư Cam đi chợ Bến Súc, bà gởi cho thím bán dùm. Thình lình con chó mực nằm trong cửa hực hực rồi tuông ra sân đứng sủa. Bà ngước mặt ngó ra, thì thấy một dọc ba người xăm xăm đi lại nhà bà, cả ba đều lạ hoắc, lại áo quần không giống người ở chốn nầy. Bà cầm củ khoai, vừa gọt rửa, vừa ngó trân, mái tóc điểm bạc gió thổi phất phơ, gương mặt thiệt thà nắng giọi sáng rỡ. Người trai đi trước, tuy còn đi ngoài rào, nhưng đã kêu mà hỏi: - Bà Ba, bà mạnh giỏi hả bà Ba? Bà Ba Hạc không biết là ai, nhưng nghe kêu "bà Ba" trúng thứ của bà thì bà đứng dậy mà đáp: - Ờ mạnh giỏi. Bà đáp mà bộ lơ lửng, tay cũng còn cầm một củ khoai. Ba người đi ngay lại cái giếng chỗ bà Ba Hạc đứng. Người trai đi trước ngó bà và cười và hỏi: - Chắc bà quên tôi rồi hả? - Ơ... Tôi không nhớ rồi a... - Năm trước tôi theo mấy người vô kiếm bắn mển trong nầy, tôi có ghé nghỉ ở nhà bà đây bà quên sao? - Thiệt tôi quên. - Mấy năm rồi mà bà cũng vậy, không già hơn. Người ta nói ở chốn lâm viên thân thể khỏe khoắn nên lâu già, thiệt phải lắm. Vô đến đây tôi muốn ở luôn trong nầy. - Ở trong nầy buồn chết, cậu ở sao được. - Không. Vui lắm chớ, có buồn đâu bà. Đó, cu kêu đó. Nghe phải vui hôn? Tôi ưa quá. Chiều mát, nằm nghe tiếng cu kêu xa xa, trí khỏe khoắn không biết chừng nào. Nghe cu kêu, tôi muốn xin bà cho tôi ở đậu vài bữa chơi, được hôn bà Ba? - Nhà tôi nghèo, không có chỗ ăn chỗ nằm, cậu ở sao được. - Không hại gì. Bà cho tôi một tấm ván hoặc một cái chõng nhỏ đặng tối tôi ngủ thì đủ rồi. Tôi ở được mà, bà đừng ngại gì hết. Bà Ba Hạc la chó rồi buông củ khoai vô rổ, và cười và hỏi: - Cậu ở đây rồi lấy gì mà ăn? - Xin bà đừng lo. Bà ăn thứ gì, thì tôi ăn được vậy chớ. Tôi lập thế gài cu đất, gài gà rừng bắt làm thịt ăn. Tháng nầy trời mưa, trong rừng thiếu gì nấm. Đi kiếm nấm mối, kiếm măng le đem về xào hoặc luộc mà ăn, ngon lắm mà! Bà đừng ngại, như kiếm đồ ăn không được thì tôi sai người ở với tôi ra chợ mua thịt cá về ăn. - Có vậy thì được; ngặt nhà tôi xấu xa dơ dáy quá không xứng đáng chỗ cậu nằm; tôi ngại chỗ đó, chớ không phải tôi làm hiểm[3] với cậu. - Ở trong rừng đâu có nhà tốt bà. Tôi đã thèm đài cát, tôi muốn tìm thanh tịnh, nên tôi mới vô đây. Có lẽ nào tôi chê nhà bà hay sao mà bà ngại, bà Ba? - Thôi, mời mấy cậu vô nhà, vô rồi cậu mới thấy nhà tôi, trống trước trống sau, thiệt tệ lắm cậu. Bà Ba Hạc bỏ đống khoai mà vô nhà, ba người lạ đi theo, người trai đi trước ngó hai người đi sau mà cười. Nhà bà Ba thiệt là tệ, kêu chòi thì trúng hơn. Một cái chòi tranh ba căn xông: cột gỗ tuy lớn, song đẽo tròn chớ không bào lẵng; kèo và đòn tay đều bằng cây bằng lăng[4] có bào sơ, ở rừng thiếu gì cây tốt mà phải dùng tạp mộc. Căn giữa bỏ trống, không có làm cửa. Hai căn bìa thì đóng song tròn. Còn phía sau với hai đầu xông thì đóng bằng cây sến, đóng hở đến thọc hai ngón tay vô được. Ở đầu xông phía tay mặt, thì có cất nối một mái vại cũng lợp tranh, để nấu ăn. Đồ đạc trong nhà coi không có chi lắm. Ở căn giữa, phía trong, có một bồ lúa lớn, lúa của bà Ba làm ruộng ngoài suối gặt hồi tháng chạp bây giờ còn hơn nửa bồ. Phía ngoài thì để một cái bàn dài, hai bên có để chân ngựa đặng ngồi, chớ không có ghế. Căn xông phía trái, thì ở ngoài, kế song, có lót một cái chõng, còn ở trong có lót một bộ ván gõ dày cui[5] mà không dồi[6] láng. Ván với chõng không lót sát vách xông, bỏ trống một khoảng để dựng cuốc, rựa, búa, cày, cần câu ở trên lại có móc mấy bó bố khô của bà Ba nhổ, đập, phơi hôm tháng trước để dành đánh[7] võng mà bán. Còn căn bên phía tay mặt, khít vại nấu ăn, thì ở trong có một cái giường để cho mẹ con bà Ba ngủ, ở ngoài có úp một cối giã gạo, dựa vách có dựng hai cái chày. Trên cái bàn dài ở giữa thì tộ đá, bình tích xanh, rổ đựng trầu cau, với một trái mít, để nghinh ngang, không có thứ lớp. Trên ván, trên chõng cũng vậy, thúng đậu xanh để một bên tĩn nước mắm, bao trà huế nằm chình ình trên mớ khoai từ. Dắt khách bước vô nhà, bà Ba day lại nói: - Mấy cậu thấy chưa? Tôi nói nhà tôi lôi thôi lắm. Người trai ngó vòng trong nhà rồi cười mà đáp: - Ở trong rừng thì nhà như vậy, có lôi thôi chi đâu. Tôi ở được mà. Xin bà làm ơn cho tôi ở đậu đầu trên đây; có bộ ván với cái chõng nầy thì thiếu gì chỗ nghỉ. Bà Ba nói: - Cậu muốn sao cũng được. Để tôi dọn đồ cho trống đặng trải chiếu mà nằm. Hai người vác đồ đi theo người trai nãy giờ không nói chi hết, bây giờ mới để va ly và gói xuống cái chõng. Chừng thấy bà Ba rinh thúng đậu thì hai người áp lại dành mà dọn dẹp, không để cho bà làm. Người trai trở ra sân, đứng nhắm tứ hướng, rồi đi vòng chung quanh nhà, đi lại coi cái nhà trống để nhốt bò và cất xe, trở qua coi vườn mít gồm trên hai chục cây, cây nào cũng có trái đeo lòng thòng, trái nhỏ chen với trái lớn, rồi đi thẳng vô mé rừng, đứng dòm đường xe bò, hai bên chồi đơm rậm rạp. Chừng trở vô nhà, người trai hỏi bà Ba: - Mé bên nây thấy có đường xe bò, đường đó đi đâu vậy bà Ba? - Đường đó ra đụng đường Kiểm Lâm phân ranh rừng cấm. Đường Kiểm Lâm ở từ ngoài chợ vô đây rồi đi thẳng vô Bào Đế có ngã vô Cà Tong, có ngã qua Thị Tính, qua Bến Cát, đi đâu cũng được hết, đi xa lắm. - Để rồi tôi đi ruồng trong đó coi rừng chơi. Có cọp hôn bà Ba? - Không. Ở đây có cọp hùm gì đâu. Nai hưu bị họ bắn quá nên bây giờ cũng ít. Người trai thấy hai người dọn quét ván chõng xong rồi mới nói: - Hai Phú coi dọn đồ nghe hôn; còn Năm Quí đi theo tôi chơi một chút. Vừa trở ra sân, người trai gặp con Quế ở đám đậu đi về móc cái nón trên cánh tay. Trong nhà bà Ba kêu nói: - Còn mấy củ khoai con rửa hết đi con, rửa đặng mai thím Tư đi chợ gởi cho thím bán. Người trai đứng ngó trân con Quế, tuy quần áo lôi thôi, tay chơn bùn lấm, nhưng mà nước da trắng nõn, mái tóc đen huyền, mặt mày tươi cười, tướng mạo dong dảy, nhứt là cái miệng có duyên dị thường, không cười mà như cười, môi đỏ tợ thoa son, hai hàm răng trắng trong lại nhỏ xíu. Thiệt là một đóa hoa rừng đương nở trong xóm Đường Long, đóa hoa không cần tay người săn sóc mà rất xinh tươi đẹp đẽ. Người trai ngó mê mẩn rồi gật đầu nói: - Cô em in là hồi nãy ngồi bón đậu đàng kia mà. Con gái của bà phải hôn bà Ba? - Phải. Con của tôi. Tôi có một mình con Quế đó. Quế chúm chím cười đi lại gần miệng giếng ngồi rửa khoai, không ngó khách, mà cũng không nói chi hết. Người trai dắt người kêu tên Quí hồi nãy mà đi lại đường xe bò, rồi bị cây bao phủ nên khuất dạng. Quế rửa riết khoai rồi hốt bỏ hết vô thúng bưng đi vô nhà, đặng lo nhúm lửa nấu cơm chiều. Bà Ba hỏi người kêu là Phú hồi nãy: - Cậu trai đó là ai, đi vô trong nầy làm chi mà xin ở đậu vậy cậu? - Cậu Sáu đó đa bà. Con của ông Hội đồng ở trên Châu Đốc, sang trọng giàu có lắm. Cậu Sáu tử tế hết sức, để rồi bà coi. - Hứ! Giàu có sang trọng thì ta ở nhà chơi phải sướng hơn, vô rừng làm chi cho cực khổ? - Ấy tại tánh cậu Sáu ưa thanh tịnh, cậu không muốn ở mấy chỗ phiền ba. Cậu còn học, lúc nầy cậu mệt nên ông bà biểu cậu nghỉ học để đi hứng gió ít ngày. Ở nhà thì cậu nói cậu đi Long Hải, mà chừng lên tới Sài Gòn thì cậu lại đi quẹo lên đây, cậu nói đi vô rừng kiếm chỗ thanh tịnh mà nghỉ mới khỏe. Cậu Sáu rộng rãi, lại biết thương con nhà nghèo. Bà cho cậu ở đậu, cậu sẽ đền ơn cho bà xứng đáng. Chắc chắn như vậy. - Ở thì ở, có gì đâu mà đền ơn. Cậu Sáu chưa có vợ con hay sao, nên đi chơi một mình như vậy? - Thưa, cậu còn học mà. Sách vở của cậu cả đống trong va ly kia, đi đâu cậu cũng bắt vác theo, nặng hết sức. Cậu ham học lắm, cậu nói đọc sách vui hơn là có vợ. - Con nhà giàu, lại trộng tuổi rồi, mà chưa cưới vợ thiệt là kỳ. Năm nay cậu Sáu được ba mươi chưa? - Trời ơi, đâu mà dữ vậy? Cậu mới hăm lăm tuổi. - Hai mươi lăm tuổi, cưới vợ vừa rồi, còn học nữa làm chi? - Thiếu gì nhà sang trọng muốn gả con cho cậu; tại cậu ham học nên cậu không chịu cưới vợ chớ. - Vợ chồng phải có duyên nợ thì mới hiệp nhau được. Chắc là cậu chưa gặp duyên nợ, nên trời khiến lòng cậu chưa muốn vợ. - Bà nói đó có lẽ phải a, bà Ba. - Dữ quá, đi chơi mà cậu Sáu đem tới hai người theo vác đồ. Ở đây tôi trồng tỉa, tôi kiếm mướn không được ai hết. - Không, bà. Có một mình tôi theo hầu cậu Sáu thôi. Anh Quí đó là người Châu Đốc, ảnh lên Thủ ở làm ăn. Ảnh gặp cậu Sáu ảnh mừng quá, ảnh xin đưa cậu đây rồi ảnh kiếm chỗ làm ăn. Ảnh biết tánh cậu Sáu rộng rãi, ảnh lập công đặng kiếm ít đồng bạc vậy mà. Con Quế nấu cơm, mà nó lóng tai nghe đủ các lời Phú nói với mẹ nó. Chừng cơm cạn, nó bước lên nhà trên hỏi nhỏ mẹ nó coi làm gà hay không. Bà Ba cười và nói lớn: - Không làm gà thì có gì đâu cho cậu Sáu ăn cơm chiều. Cha chả, mà gà đi ăn minh mông, bây giờ làm sao rượt bắt cho được. Phú lật đật can: - Khỏi làm gà, bà Ba à. Trong va ly có đồ ăn. Hồi trưa cậu Sáu có biểu tôi đi mua cá mòi hộp, bánh mì bộn bộn. Tôi cũng có mấy hộp chao nữa. Chiều nay ăn sơ sịa, rồi mai coi có ai đi chợ sẽ gởi mua thịt cá để dành ăn, hoặc tôi đi mua cũng được. Quế chen vô nói: - Khuya nầy có thím Tư Cam đi chợ. - Thím Tư đó ở đâu? Làm ơn chỉ dùm đặng tôi gởi mua đồ. - Khuya thím lại đây mà, lại lấy khoai của má tôi gởi bán. - Vậy thì tiện lắm. Chớ chi nhà có xe máy, mỗi bữa tôi mượn cỡi đi chợ lẹ quá. - Xe máy nghe nói bây giờ mắc lắm, làm sao mà sắm cho nổi. Hồi nãy cậu Sáu đi xe hơi mà. - Ừ, xe hơi của người quen với cậu ở dưới Thủ, đưa dùm cậu lên đây rồi xe về. - Hồi nãy tôi thấy còn đậu ngoài cầu. - Bộ khi sốp-phơ đậu nghỉ máy một chút chớ không phải ở luôn trên nầy đâu. Mặt trời gần lặn, người trai mà Phú kêu bằng cậu Sáu đó trở về, cậu thủng thẳng bước vô sân, về một mình, không có Quí đi theo. Con chó mực đã quen rồi, nên nó nằm mà ngó, không sủa nữa. Cậu Sáu vô cửa, bà Ba hỏi: - Ủa, còn cậu kia đâu? - Quí về rồi, sẵn có xe đậu ở ngoài cầu, nên ảnh theo xe ra Bến Súc. Nãy giờ tôi đi theo đường xe bò mà ra đường Kiểm Lâm coi chơi. Tuy rừng không có cây lớn, nhưng có cảnh thú trù mật thanh tịnh tôi chịu quá. Ở đây buổi sáng và buổi chiều trời mát đi chơi trong rừng chắc nhàn thú nực nồng khỏe khoắn lắm. - Ở rừng thì êm ấm hơn ở chợ. - Bởi vậy tôi thích ở rừng hơn. Cậu Sáu bèn hỏi thăm bề làm ăn cùng cách trồng tỉa ở chốn nầy, cậu hỏi đâu bà Ba trả lời đó Bà cũng như cậu, cả hai đều dùng lời thiệt thà hòa nhã mà nói chuyện, bà than không có vốn đặng mua phân và mướn công nhựt trồng tỉa cho nhiều; cậu khuyên trồng bông với, trồng bố, trồng gai, mới có lợi lớn. Phú hiệp với Quế lo dọn bữa cơm chiều. Phú lấy bánh mì, khui cá mòi, mở hộp chao, còn Quế, thì giở cơm, hâm mắm chưng, luộc rau muống. Đồ dọn lên bàn, bà Ba mời cậu Sáu đi ăn. Cậu nài bà Ba và Quế ăn với cậu cho vui. Bà nhứt định không chịu, ép cậu ăn trước rồi mẹ con bà sẽ ăn với Phú. Cậu Sáu ăn bánh mì, song cũng ăn một chén cơm cho vui lòng chủ nhà, cậu không chê đũa tre chén đá, mà cậu lại khen mắm chưng dịu, rau muống mềm. Thấy trời sẩm, Quế lấy hai thếp đèn mà rót dầu phộng rồi ra bếp mồi lửa đốt liền một thếp, bưng vô để trên bàn đặng sáng cho cậu Sáu ăn cơm. Bà Ba lên ôm trái mít ra sau mà xẻ bao giờ không ai hay. Chừng cậu Sáu ăn cơm rồi bà đem một miếng mít mời cậu tráng miệng, nói mít trồng ở đây cũng ngon như mít đất đỏ. Cậu Sáu cũng ăn vài múi mít cho bà vui. Cậu Sáu ăn rồi thì bà Ba kêu Quế biểu bưng dọn ngoài sân đặng mẹ con ăn với Phú cho sáng. Thằng Khoa lùa hai con bò vô chuồng rồi nó cũng ráp vô ăn cơm với chủ. Cậu Sáu thơ thẩn hứng mát theo mé rẫy. Gió tháng ba hiu hiu mát mẻ; trăng mùng 8 chói sáng giữa trời. Dưới bưng có tiếng bìm bịp kêu, trong rừng có tiếng gà rừng gáy. Tối một lát, cậu Sáu trở vô nhà nói chuyện chơi với bà Ba. Cậu tỏ ý muốn kiếm mua một sở đất ở đây mà lập vườn đặng lâu lâu cậu lên ở chơi. Nghe gà rừng gáy, cậu hỏi ở đây người ta có tìm cách nào đặng bắt thứ gà ấy mà ăn thịt hay không. Bà Ba nói trong nhà có rập, làm siêng giăng rập thì bắt được. Bà lại nói có bẫy để gài thỏ nữa, ngặt ban đêm con Quế không dám vô rừng một mình, nên không rập gà hay gài thỏ được. Cậu Sáu xin ngày mai bà dạy cho cậu đi làm. Con Quế cũng thỏ thẻ thuật lại cho mẹ nghe chuyện ông Ba Lung bị bọn cướp ở Trắc Sùm giựt hết 130 đồng bạc. Nó nói theo lời thím Tư Cam thì từ hôm qua ông Ba Lung cứ ngồi khoanh tay mà khóc, tội nghiệp hết sức, công làm củi mấy tháng trường cực khổ lại bị chúng cướp giựt hết. Bà Ba chắc lưỡi kêu trời tỏ lời oán hận bọn bất lương. Cậu Sáu hỏi rõ đầu đuôi rồi cậu cũng tội nghiệp cho người lương thiện, mãn năm trải nắng dầm mưa tay chai mặt nám mới làm ra tiền, rồi bị bọn gian ác hoặc dùng sức hoặc lập mưu mà cướp giựt. Phú đã sắp đặt rồi, đêm ấy cậu Sáu nằm ngủ ở bộ ván phía trong còn Phú ngủ trên cái chõng phía ngoài, cậu Sáu có nệm có gối, có mền đủ hết. Trời gần sáng. Xa xa nghe tiếng chuông chậm rãi dộng bon bon rồi kế thím Tư Cam vô cửa kêu Quế đặng lấy khoai môn mà đi chợ. Cậu Sáu thức dậy đi ra ngoài. Phú đưa bạc cậy thím Tư mua dùm cá thịt. Bà Ba ra chuồng bò bắt một con gà trống tơ cột chân lại, tính bữa nay làm thịt đặng phân nửa kho mặn, phân nửa nấu canh chua. Quế ra giếng xách nước đổ mấy lu cho đầy hết. Trời sáng lần lần. Quế đội nón tính đi lại đám đậu đặng tiếp vun gốc đậu. Bà Ba kêu dặn: - Chừng nửa buổi con về đặng phụ với má làm gà nấu cơm ăn nghe hôn con. Quế ra tới sân gặp cậu Sáu. Cậu chận lại mà hỏi: - Cô đi đâu sớm vậy? - Tôi đi vun gốc đậu. - Khoan. Để cho tôi hỏi thăm một chút. Hồi hôm cô nói ai bị ăn cướp giựt 130 đồng bạc đó? - Ông Ba Lung. - Ổng ở đâu? Cô có thể dắt dùm tôi lại nhà ổng hôn? Quế dụ dự không đáp được. Thấy bà Ba ở trong nhà bước ra, Quế mới nói: - Ông Ba Lung ở trong kia... Cậu muốn đi thì biểu má tôi dắt cậu đi. Bà Ba tiếp hỏi: - Cậu muốn vô nhà anh Ba Lung làm chi? - Hồi hôm tôi nghe nói ổng nghèo, làm cực khổ đến mấy tháng mới có được 130 đồng bạc lại bị chúng giựt hết. Nghe như vậy tôi thương ổng quá. Tôi muốn cho ổng số bạc ấy đặng ổng hết buồn rầu. Thôi, bà Ba làm ơn đi dùm cho tôi. Để tôi đưa bạc cho bà đi. Cậu Sáu móc bóp lấy ra một trăm ba chục đồng bạc. Mẹ con bà Ba ngó nhau chưng hửng. Bà Ba hỏi: - Cậu cho tới một trăm ba chục đồng lận sao? - Cho không đủ số ổng mất, sợ ổng không hết buồn. - Cậu thương nên cậu làm phước, chớ phải cậu bồi thường hay sao mà cho đủ số mất? - Không hại gì. Ổng già cả, mình nên làm phước. Bà làm ơn đem bạc đưa cho ổng. - Số bạc lớn quá, tôi không dám lãnh. Thôi, để tôi vô kêu ảnh ra đây rồi cậu đưa cho ảnh. - Cũng được. Bà Ba bươn bã đi liền. Quế đi lại đám đậu. Cậu Sáu thủng thẳng đi theo Quế. Quế xới đất mà vun gốc đậu. Cậu Sáu đứng coi, làm cho Quế ái ngại không dám ngước mặt lên. Mặt trời ló mọc. Cậu Sáu kiếm một khúc cây mà xới cát làm với Quế cho vui, Quế nói phải có con dao hoặc cái cuốc làm mới tiện. Cậu Sáu nói để buổi chiều cậu kiếm con dao đem theo mà làm. Thấy từ cử chỉ cho tới lời nói của cậu Sáu đều đoan chánh, Quế lần lần hết ái ngại. Cậu Sáu hỏi: - Đám đậu như vầy chắc là trúng, phải hôn cô Quế ? - Trúng. Đất nầy đậu chịu lắm, năm nào cũng tốt. - Chừng cô nhổ ước được bao nhiêu? - Lối bốn giạ. - Chà, khá quá há? Sao bà Ba không tỉa thêm cho nhiều nữa, bỏ đất trống làm chi kia? - Không có người ta làm nên làm nhiều không được. Đất trống đó hễ mưa rào thì trồng bí. - Còn miếng rừng kế sau đây của cô hay là của chủ khác? - Của má tôi hết, vô tới đường Kiểm Lâm. - Sao không phá rừng mà trồng ? - Để rừng đặng bán củi. Phá rừng cốt gốc tốn công nhiều lắm; phải có tiền nhiều làm mới nổi; bởi vậy má tôi không dám tính tới chuyện đó, để lấy củi mà thôi. - Bán củi không sợ bị ăn cướp như ông Lung hay sao? - Bán ở đây mà sợ giống gì. - Ở đây không có ăn cướp sao? - Không có. - Sao cô chắc không có. Vô trong nầy ở thì êm ái khỏe khoắn thiệt, nhưng mà thấy vắng vẻ tôi sợ quá, hồi hôm tôi ngủ không an giấc. - Hổng có sao đâu cậu. Ở đây người ta thiệt thà, ai cũng lo làm ăn, không chịu gian giảo, bởi vậy ban đêm không cần đóng cửa. Cậu không thấy sao? Nhà nào cũng không có làm cửa. - Nếu bọn cướp nó hay, nó vô đây làm ăn dễ lắm. - Nghèo muốn chết, có vật gì đáng đâu ,nên trộm cướp không thèm. - Tôi tính tối nay đi gài thỏ hoặc rập gà rừng chơi. Không biết ban đêm đi vô rừng có hại gì hôn? - Hổng có sao hết. Ngặt lúc nầy có trăng sợ gài không có. - Có trăng, thỏ gà mới đi ăn chớ. - Cậu muốn đi thì thử coi. - Ngặt tôi không biết cách gài bẫy hay đặt rập thì đi sao được. - Để chiều tôi chỉ cách cho cậu biết. Dễ mà. Quế ngước lên ngó mặt trời rồi nói: - Thôi, để tôi về đặng lo nấu cơm. Cậu Sáu châu mày đáp: - Cô khỏi lo. Tôi có dặn Phú lo cơm nước. - Ảnh có biết gạo mắm để chỗ nào đâu. Lại má tôi có dặn làm gà. - Làm gà hay sao? - Phải. Má tôi có bắt gà cột sẵn rồi. - Ôi! Tôi làm tốn hao cho bà Ba quá! Quế ngó cậu sáu mà cười rất có duyên và nói: - Gà ở nhà nuôi, có tốn hao gì đâu. Quế đi về. Cậu Sáu cũng về theo, Quế ngó vô phía trong và nói: - Má tôi về kìa. Có ông Ba Lung theo ra đó. - Mắt cô thấy xa dữ. À, cô Quế, hồi khuya tôi có nghe tiếng chuông bon bon. Chuông ở đâu vậy? - Chuông trong chùa Kiến An, khuya bữa nào ông Thủ Tạ cũng tụng kinh dộng chuông. - Nghe tiếng chuông sao lòng tôi ngậm ngùi, khó chịu dữ. Để mai cô làm ơn chỉ cho tôi biết coi chùa ở chỗ nào, đặng tôi đi cúng Phật. - Cậu mộ đạo Phật lắm sao? - Đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ, bởi vậy đạo nào tôi cũng kính hết. - Cậu nhơn đức quá, hèn chi cậu tính cho ông Ba Lung tới bạc trăm. Cậu Sáu với Quế vô nhà một chút, thì bà Ba Hạc về tới có ông Ba Lung theo. Bà Ba bước vô nói: - Anh Ba ra đó, cậu Sáu. Thiệt ảnh nói họ giựt của ảnh chẳn một trăm ba. Một người đàn ông, quần áo lèn xèn, tóc bạc hơn phân nửa, miệng ngậm trầu, râu le the, mặt buồn bực song bộ mạnh mẽ lòm khòm vô cửa xá cậu Sáu đương ngồi tại bàn giữa. Cậu Sáu đứng dậy chào và mời ngồi. Ông Ba Lung, vì nghe người ta muốn cứu giúp mình, nên trong lòng kiêng nể, ông nhả trầu quăng ra sân rồi ngồi ghé bên cái chõng. Cậu Sáu nghiêm chỉnh ngó ông hỏi: - Tôi nghe nói ông đi bán củi về dọc đường bị ăn cướp giựt hết tiền bạc phải hôn? Ông mất hết bao nhiêu? - Tôi bán 21 thước củi, bán giá 6 đồng rười. Ông chủ lò chén tính tiền trả cho tôi 136,50 đồng. Ba người bạn chèo ghe mượn mỗi người một đồng. Tôi để cho họ 3 đồng đặng mua gạo mua cá ăn mà về. Tôi lên tới chợ Thủ thì xe hơi chạy rồi. Tôi ăn cơm hết 5 cắc bạc. Còn lại chẳn 130 đồng. Tôi tính đi về bộ, may gặp xe bò quen ở Cỏ Trách chở cao su xuống Phú Văn rồi về xe không. Tôi xin giang mà về cho khỏe chân. Đến nửa chiều, xe đương đi thình lình có ba người ngồi dựa mé đường đứng dậy chân xe. Một người cầm súng hai người cầm cây, biểu tôi với người đánh xe bò có tiền bao nhiêu phải đưa hết. Vì trong lưng có tiền nhiều nên tôi sợ chúng giựt hết nên tôi co giò nhảy xuống lộ và chạy và la làng. Một tên cướp xách cây chạy theo tôi, nó quất tôi một cây trúng cánh tay đau quá, tôi muốn ngã. Nó níu tôi đứng dậy rồi lật lưng lấy hết gói bạc. Bọn nó dữ lắm, nó muốn bắt luôn cặp bò. Người đánh xe bò lạy hết gối nó mới thả cho đi. Đây, cánh tay của tôi tới bữa nay mà còn sưng. - Ông bị giựt bạc tại khúc nào? - Tại chỗ có cây trắc lớn, người ta kêu là Trắc Sùm đó. - Tôi không biết Trắc Sùm hay Trắc sụp nào hết, song nghe ông là người lương thiện mà bị họa, thì tôi thương. Dày công lao khổ lắm mới có đồng tiền, mà có rồi lại bị người ta cướp giựt, nhiều khi buồn rầu mà chết được, chớ phải chơi sao. Ông già cả, thôi để tôi thường đủ số 130 đồng bạc cho ông. Ông đừng buồn rầu nghe hôn. Quân gian giựt của ông; tôi ngay mà tôi thường lại cho ông. Chuyện nghe trái đời thật. Nhưng ở đời nầy chuyện nào cũng trái hết, thì chuyện nầy thành ra hợp, chớ không có trái đâu. Cậu Sáu nói câu sau và nói và cười. Cậu lấy bạc ra đếm 130 đồng mà đưa cho ông Ba Lung. Ông Ba Lung đứng dậy lấy bạc và xá và nói: - Cậu thiệt là người nhơn đức, biết thương kẻ nghèo. Tôi vái phật trời phò hộ cậu luôn luôn, cho cậu giàu sang đặng cứu giúp thiên hạ. Cậu Sáu cười mà đáp: - Cám ơn ông. Cha chả mà một mình tôi thì làm sao cứu giúp cả thiên hạ cho nổi ông? Thôi, ông về nghỉ. Đừng rầu nữa, mà cũng đừng nói chuyện nầy cho ai biết làm chi. Mẹ con bà Ba Hạc đứng chỗ cửa xuống bếp mà nghe câu Sáu nói chuyện với Ba Lung. Chừng bà Ba thấy ông Ba Lung lấy bạc thì bà nói: - Phật trời thương anh lắm nên mới khiến cậu Sáu vô chơi trong nầy đặng cứu anh đó. Chừng về anh phải ghé chùa Kiến An mà lạy Phật. Nầy, về nhà anh ráng cất bạc cho kỹ, đừng để mất nữa, không lẽ bắt cậu Sáu thường hoài. Ông ba Lung cười ngon ngoẻn mà đáp: - Cậu Sáu nhơn đức, nên cậu bố thí, chớ thường giống gì. Quế ngó trân cậu Sáu một hồi, rồi xây lưng đi bắt gà làm thịt, mặt luôn luôn tươi cười. Bữa nay Phú vô bếp phụ với Quế lo nấu cơm. Phú dành làm gà nhưng tới nấu canh chua, thì Quế không chịu để cho Phú, khoe tài nấu canh chua gà ngon nhứt hạng. Buổi chiều ông Ba Lung gánh ra cho cậu Sáu một quày chuối cau, một chục củ khoai sáp, một con gà mái với một con vịt tơ, xin cậu Sáu nhậm lễ tạ ơn của ông. Cậu Sáu muốn trả tiền nhưng ông quyết định không chịu lấy, nói rằng ông đi lễ chớ không phải đem bán. Tuy cậu Sáu dặn ông Ba Lung đừng nói chuyện cậu cứu giúp cho ai biết, song chuyện ấy mẹ con bà Ba Hạc biết, tức nhiên thím Tư Cam cũng biết, rồi người nầy nói chuyền với người nọ, thành thử qua bữa sau cả xứ Đường Long không còn một người nào không biết. Ban đầu người ta khen lòng nhơn từ và cách hảo hớn của cậu, đến chừng người ta hay cậu vô chùa Kiến An đốt nhang niệm Phật, thì người ta lại đổi lời khen ra lời kính phục, kính người trẻ tuổi mà có Phật tâm, phục người sang giàu mà biết thương kẻ bần tiện. Có người trọng cậu thái quá, trọng đến nỗi cho cậu là "Phật tái sanh", rồi truyền ngôn rằng Phật hiện ra nơi chốn Đường Long để cứu nhơn độ thế. Hoặc Quế, hoặc bà Ba Hạc, hoặc thím Tư Cam, hễ có dịp thuật chuyện người ta kính trọng cho cậu Sáu nghe, thì cậu ái ngại hết sức, cậu chắc lưỡi cậu suy nghĩ, rồi cậu trách ông Ba Lung không kín miệng. Tuy cậu Sáu không muốn cho người ta biết cậu, song sự không muốn ấy người ta lại coi như đức tánh của Phật, bởi vậy người ta càng kính phục cậu hơn nữa. Sớm mơi hay là buổi chiều, cậu đi chơi dưới bưng hoặc trên mé rừng, già trẻ gặp cậu thảy đều cung kính chào mừng. Ai có dịp đi chợ cũng ghé hỏi bà Ba coi cậu Sáu có muốn gởi mua thứ gì đặng họ mua dùm cho cậu. Ai có trái cây hoặc khoai củ ngon cũng đem dâng cho cậu ăn chơi, cậu nài trả tiền, không ai chịu lấy. Cả thảy người ta đều kính phục cậu Sáu, Quế ở trong nhà, có lẽ nào nó lại ơ thờ. Quế cũng kính phục cậu lắm, tận tâm lo phụng sự cậu, cậu cần việc gì Quế cũng làm cho cậu vui lòng, bởi vậy có bữa cậu biểu Quế cho cậu theo ra rẫy giặm dây lang, thì nó vui vẻ vâng lời; mà chiều tối cậu biểu nó dắt cậu vô rừng rập gà hay gài thỏ, thì nó cũng chiều ý cậu, không dùng dằng mà cũng không e lệ chút nào hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#quochuy