Đọc và suy ngẫm

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đọc và suy ngẫm

Sưu tầm: Đức Thi

Anh có giúp tôi?

Vào năm 1989 tại Armenia có một trận động đất lớn 8,2 độ Richter đã san bằng toàn bộ đất nước và giết hại hơn ba mươi ngàn người trong vòng chưa đầy bốn phút.

Giữa khung cảnh hỗn loạn đó, một người cha chạy vội đến trường học mà con ông đang theo học. Tòa nhà trước kia là trường học nay chỉ còn là đống gạch vụn đổ nát.

Sau cơn sốc, ông nhớ lại lời hứa với con mình rằng "Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cha sẽ luôn ở bên con!" Và nước mắt ông lại trào ra. Bây giờ mà nhìn vào đống đổ nát mà trước kia là trường học thì không còn hy vọng. Nhưng trong đầu ông luôn nhớ lại lời hứa của mình với cậu con trai.

Sau đó ông cố nhớ lại cửa hành lang mà ông vẫn đưa đứa con đi học qua mỗi ngày. Ông nhớ lại rằng phòng học của con trai mình ở phía đằng sau bên tay phải của trường. Ông vội chạy đến đó và bắt đầu đào bới giữa đống gạch vỡ.

Những người cha, người mẹ khác cũng chạy đến đó và từ khắp nơi vang lên những tiếng kêu than "Ôi, con trai tôi!", "Ôi, con gái tôi!". Một số người khác với lòng tốt cố kéo ông ra khỏi đống đổ nát và nói đi nói lại:

"Đã muộn quá rồi!"

"Bọn nhỏ đã chết rồi!"

"Ông không còn giúp được gì cho chúng nữa đâu!"

"Ông hãy về đi!"

"Ông đi đi, không còn làm được gì nữa đâu!"

"Ông chỉ làm cho mọi việc khó khăn thêm thôi!"

Với mỗi người, ông chỉ đặt một câu hỏi "Anh có giúp tôi không?" Và sau đó với từng miếng gạch, ông lại tiếp tục đào bới tìm đứa con mình. Đến đó có cả chỉ huy cứu hỏa và ông này cũng cố sức khuyên ông ra khỏi đống đổ nát "Xung quanh đây đều đang cháy và các toà nhà đang sụp đổ. Ông đang ở trong vòng nguy hiểm. Chúng tôi sẽ lo cho mọi việc. Ông hãy về nhà!" Người đàn ông chỉ hỏi lại "Ông có giúp tôi không?"

Sau đó là những người cảnh sát và họ cũng cố thuyết phục ông ta "Ông đang xúc động. Đã xong hết rồi. Ông đang gây nguy hiểm cho cả những người còn lại. Ông về đi. Chúng tôi sẽ lo cho mọi việc!" Và với cả họ ông cũng chỉ hỏi "Các anh có giúp tôi không?" Nhưng không ai giúp ông cả. Ông tiếp tục chịu đựng một mình, vì ông phải tự mình tìm ra câu trả lời cho điều day dứt ông: Con trai tôi còn sống hay đã chết?

Ông đào tiếp... 12 giờ... 24 giờ... ,sau đó ông lật ngửa một mảng tường lớn và chợt nghe tiếng con trai ông. Ông kêu lớn tên con "Armand!" Ông nghe "Cha ơi?! Con đây, cha! Con nói với các bạn đừng sợ vì nếu cha còn sống cha sẽ cứu con và khi cha cứu con thì các bạn cũng sẽ được cứu. Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không? Và cha đã làm được, cha ơi!!"

"Có chuyện gì xảy ra vậy? Ở đó ra sao rồi?" Người cha hỏi.

"Tụi con còn lại 14 trên tổng số 33, cha ạ. Tụi con sợ lắm. Đói, khát... Nhưng bây giờ tụi con đã có cha ở đây. Khi tòa nhà đổ, ở đây tạo ra một khoảng không nhỏ và thế là tụi con còn sống."

"Ra đây đi con!"

"Khoan đã cha! Để các bạn ra trước, con biết rằng cha không bỏ con. Có chuyện gì xảy ra con biết là cha chắc chắn sẽ không bỏ rơi con!"

Ba chúc con đủ

Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại mất nhiều thời gian của cuộc đời mình ở các sân bay đến thế .Tôi vừa thích lại vừa ghét việc đó!?!! Tôi thích được ngắm nhiều người. Nhưng đó cũng là lý do tôi ghét :phải nhìn mọi người "chào" và "tạm biệt". Nó làm tôi xúc đông đến phát mệt.

Cho nên, mỗi khi gặp 1 thử thách trong cuộc sống, tôi vẫn thường ra sân bay thành phố nhìn mọi người "tạm biệt". Để tôi thấy rằng mình vẫn hạnh phúc khi không phải nói lời chia tay với những người thân yêu của mình. Nhìn mọi người cố níu kéo nhau, khóc... tôi cảm thấy mình còn rất nhiều điều quý giá khác. Những gia đình, những người yêu nhau cuối cùng cũng phải xa cách, nhìn họ sải rộng cánh tay để nắm tay nhau, cho đến khi chỉ còn 2 đầu ngón tay của 2 người chạm vào nhau... đó là những hình ảnh mãi mãi nằm trong tâm trí tôi.

Và tôi cũng học được nhiều điều từ những giây phút "tạm biệt " đấy.

Có 1 lần, tôi nghe loáng thoáng tiếng 2 cha con đang bên nhau trong những phút giây cuối cùng. Họ ôm nhau và người cha nói: "Ba yêu con, ba chúc con đủ". Rồi cô gái đáp lại: "Con cũng yêu ba rất nhiều và chúc ba đủ".

Và cô gái quay đi, tôi thấy người cha cứ đứng nhìn theo, thấy ông ấy muốn và cần khóc. Tôi lại gần, nhưng lại không muốn xen vào giây phút riêng tư của ông ấy nên không nói gì. Bỗng ông quay lại chào tôi và:

- Đã bao giờ anh nói lời tạm biệt với 1 người, và biết rằng mãi mãi không gặp nữa?

- Xin ông cho tôi hỏi, có phải ông vừa vĩnh biệt với con gái ông? Tại sao vậy?

-Tôi già rồi, mà con tôi sống cách tôi đến nửa vòng trái đất - Người cha nói - Thực tế, tôi biết lần sau con tôi quay về đây nhưng lúc đó có thể tôi đã mất.

- Khi tạm biệt con gái ông, tôi nghe ông nói: "Ba chúc con đủ". Tôi có thể biết điều đó có ý nghĩa gì không?

Người cha già mỉm cười:

- Đó là lời chúc gia truyền của gia đình tôi, đã qua nhiều thế hệ rồi - Nói đoạn ông dừng lại, ngước nhìn lên cao như thể cố nhớ lại từng chi tiết, và ông cười tươi hơn - Khi tôi nói: "Ba chúc con đủ", tôi muốn chúc con gái tôi có cuộc sống đủ những điều tốt đẹp và duy trì được nó.

Rồi ông lẩm nhẩm đọc:

"Ba chúc con đủ ánh sáng mặt trời để giữ cho tâm hồn con trong sáng. Ba chúc con đủ hạnh phúc để giữ cho tinh thần con luôn sống. Ba chúc con đủ những nỗi đau để biết yêu quý cả những niềm vui nhỏ nhất. Ba chúc con đủ những gì con muốn để con hài lòng. Ba chúc con đủ mất mát để con yêu quý những gì con có. Và ba chúc con đủ lời chào để có thể vượt qua được lời "tạm biệt" cuối cùng.

Ông khóc và quay lưng bưóc đi.

Tôi nói với theo "Thưa ông, tôi chúc ông đủ"

Và các bạn, khi các bạn đã đọc xong mẩu chuyện này, tôi cũng chúc các bạn như vậy. Chúc chúng ta đủ.

Bãi đậu xe ngày Tết

Lần đầu tiên trong bao nhiêu cái Tết, tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm vì năm nay đã chuẩn bị mọi thứ xong trước đến 3 tuần. Đỡ phải đâm bổ vào các cửa hàng đông đúc để tranh nhau những món đồ giảm giá. Vui hơn cả là ở cửa hàng chỗ tôi làm thêm ngoài giờ học, họ còn phát cho 50 đôla tiền thưởng. Tôi quyết định sẽ mua một thứ gì đó cho riêng mình. Thế là tôi đến siêu thị.

Trời rét. Tuyết rơi rất dày. Bãi đậu xe đông nghẹt từ đầu đến cuối nên tôi phải đi đến hai vòng mới tìm được một chỗ.

Đỗ xe xong, tôi chợt nhận thấy một người đàn ông chống nạng đang cố ra khỏi xe ôtô. Ông ta đậu xe ở khu dành cho người tàn tật. Tôi cũng thấy một cảnh sát giao thông đang tiến gần đến ông ta.

Viên cảnh sát nói với người đàn ông chống nạng rằng ông ta không thể đậu xe trong khu vực này vì xe ông ta không gắn thẻ đặc biệt dành cho những người tàn tật. Người đàn ông thì cố gắng giải thích rằng mình mới đậu xe trong khu này lần đầu tiên và ông ta không thể chống nạng đi trên tuyết trơn...

Viên cảnh sát có vẻ bực:

- Cũng được thôi, ông đậu xe ở đây được thì ông có thể đi nộp phạt được! 75 đôla!

Nói rồi, anh ta rút tập giấp phạt trong túi ra. Người đàn ông chống nạng vội khẩn khoản:

- Tôi sẽ lái xe ra chỗ khác...

- Không, tôi đã cho ông cơ hội, còn bây giờ thì không - Viên cảnh sát nghiêm khắc.

Người đàn ông tiếp tục năn nỉ rằng ông ta không đủ tiền nộp phạt. Trong túi ông chỉ có đúng 50 đôla để mua một món quà năm mới cho con trai mình. Viên cảnh sát nhún vai, đưa chiếc thẻ phạt cho người đàn ông:

- Thế à? Kiếm thêm 25 đôla nữa là đủ trả tiền phạt! Chúc mừng năm mới!

Nói xong, anh ta bỏ đi, để người đàn ông đứng cạnh chiếc xe, tay cầm tờ biên lai phạt 75 đôla, trông rất khổ sở. Tôi nghĩ đến tờ 50 đôla trong túi áo và biết ngay mình nên làm gì.

Tôi đập vào vai ông:

- Tôi xin lỗi đã nghe hết mọi chuyện. Anh cảnh sát kia thật là...

Và tôi đưa cho người đàn ông 50 đôla của mình. Người đàn ông lắc đầu quầy quậy:

- Không không, tôi làm sao nhận được! Thật là không phải chút nào!

- Anh cứ nhận đi - Tôi dúi tờ tiền vào tay anh ta - Có lần tôi đã đậu xe trong khu vực dành riêng cho người tàn tật chỉ vì ngại vào bãi đậu xe bình thường quá đông đúc. Lần đó không ai để ý mà phạt tôi mặc dù tôi đáng bị như thế. Anh cứ cầm lấn tiền và mua một món quà cho cậu bé ở nhà!

Một khoảnh khắc im lặng. Người đàn ông nhìn tờ 50 đôla rồi nhìn tôi. Mắt đỏ hoe, người đàn ông bắt tay tôi và thế là tôi đã nhận được lời chúc năm mới chân thành nhất.

Bức tranh đẹp nhất

Một họa sĩ suốt đời mơ ước một bức tranh ĐẸP NHẤT TRẦN GIAN. Ông đến hỏi vị giáo sư để biết điều gì đẹp nhất. Vị giáo sư trả lời: "Tôi nghĩ điều đẹp nhất trần gian là NIỀM TIN, vì niềm tin nâng cao giá trị con người."

Người họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái và được trả lời: "TÌNH YÊU" là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ đang than khóc, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao quý, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu"

Cuối cùng, người họa sĩ gặp một người lính mới trở về từ mặt trận, khi được hỏi, người lính trả lời: "HÒA BÌNH là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp."

Khi trở về nhà, người họa sĩ nhận ra NIỀM TIN trong ánh mắt các con, TÌNH YÊU trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó khiến tâm hồn ông ngập tràn HẠNH PHÚC và BÌNH AN. Bây giờ thì ông đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi tác phẩm của mình hoàn thành, người họa sĩ đặt tên cho bức tranh của mình là: "GIA ĐÌNH"

Thật vậy, gia đình là nơi đầy ấp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu, là ánh sáng của đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thủy. Gia đình là ngôi thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học những điều hay lẽ phải, niềm tin và lý tưởng sống.

- Đó là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ

- Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng trở thành mỹ vị

- Đó là nơi tiền bạc không quí bằng tình yêu

- Đó là nơi ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui và hạnh phúc.

Búp bê khoai tây

Năm đó, chúng tôi sống trong một ngôi nhà cũ kỹ và sơ sài. Tôi có hai anh trai, hai em gái và một em trai. Trước Tết, cả ba chị em gái chúng tôi đã quấy mẹ hàng tuần, xin được mua quà là búp bê. Sáng mùng một Tết, ba chị em gái chạy vào phòng mẹ rất sớm:

- Chúc mừng năm mới! - Mẹ nói nhẹ nhàng để tránh đứa em bé đang ngủ phải tỉnh dậy.

- Chúc mừng năm mới! - Chúng tôi trèo lên giường mẹ.

Mẹ bảo:

- Mẹ biết các con thích búp bê, và mẹ không có loại búp bê các con thích, nhưng mẹ làm cho các con mấy con búp bê đây.

Chúng tôi nín thở ngồi nhìn mẹ xuống giường, đi ra phía tủ và lấy một cái hộp. Mẹ lôi mấy thứ gì đó từ trong hộp ra. Lúc đầu, tôi không thể nhận ra nó là cái gì, trừ việc nó mặc một cái váy kẻ đỏ và trắng, lại đội mũ nữa. Mặt nó màu nâu, mắt là hai cái khuy và cái miệng cười được vẽ bằng mực viết.

Hai đứa em tôi im lặng khi tôi kéo váy của con búp bê lên và phát hiện ra nó toàn là khoai tây. Tất nhiên, nó khá xấu, nhưng tôi biết mẹ đã phải cố gắng đến đâu để làm nó. Tôi không thật sự yêu búp bê đó lắm, nhưng tôi thấy rất yêu mẹ.

Hai đứa em tôi vẫn còn nhỏ, chỉ 3 và 5 tuổi, thì cứ ngạc nhiên. Một đứa chạm tay vào mắt con búp bê, thế là cái mắt đã rơi ra. Chúng thi nhau hỏi:

- Nó là cái gì thế mẹ?

- Làm sao mẹ đính khuy thành mắt nó được?

- ......

- Mẹ xin lỗi - Mẹ bắt đầu khóc và cố đính cái khuy lại chỗ cũ.

- Ơ mẹ không thích nó à?- Em gái bé của tôi hỏi.

Mẹ lau nước mắt và nói:

- Giá như chúng là búp bê thật...

Chúng tôi ôm mấy con búp bê ấy về phòng và đặt chúng lên giường. Nhưng không may, chưa kịp hết Tết thì bọn búp bê khoai tây ấy đã có vấn đề.

- Mẹ ơi! Có cái gì đó mọc lên ở mặt con búp bê của con. .

- Mẹ ơi! Con búp bê của con kinh khủng lắm...

Các em tôi thi nhau kêu vào cùng một buổi sáng.

Mẹ bảo búp bê chết rồi và chúng tôi cần phải chôn búp bê ở ngoài vườn. Chúng tôi chôn những con búp bê xấu xí ấy, mặc dù tay chúng tôi cứng đờ vì lạnh khi chúng tôi đào đất bằng cái thìa. Tôi đào bới qua loa và vùi mấy củ khoai tây xuống, trong khi hai đứa em tôi thì lại:

- Tại sao chị không hát và cầu nguyện?

- Không chúng chỉ là mấy củ khoai tây thôi - tôi đáp giận dữ và co ro trong cái áo lạnh mỏng dính - Mà chị thì lạnh cóng cả rồi.

- Bọn em sẽ mách mẹ - Chúng gào lên.

Tôi không biết chúng có mách mẹ không, nhưng nếu chúng có mách thì tôi cũng không thấy mẹ nói điều đó với tôi bao giờ.

Vài tháng sau, mẹ tôi mất vì bệnh. Tôi và các em bị gửi đến trại trẻ mồ côi. Tại đó, hai năm sau, tôi nhận được món quà Tết là một con búp bê tóc vàng, môi hồng với bộ váy đẹp nhất mà tôi từng thấy một con búp bê mặc. Tôi cố hết sức để yêu nó nhưng tôi không thể. Tôi biết đó là loại búp bê mẹ sẽ mua cho chúng tôi nếu ngày đó mẹ có tiền. Nhưng tôi cảm ơn Chúa vì ngày đó mẹ đã không có. Bởi vì, nếu mẹ không làm những con búp bê khoai tây, có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ biết mẹ yêu chúng tôi đến mức nào...

Cà phê muối

Chàng trai gặp cô gái ở một buổi tiệc. Cô rất xinh đẹp, quyến rũ và đến hơn nửa số người trong buổi tiệc đều để ý đến cô. Trong khi chàng trai chỉ là một người rất bình thường, không ai buồn nhìn tới. Cuối cùng, khi buổi tiệc gần kết thúc, chàng trai ngượng ngập mời cô gái uống cà phê với mình. Cô gái rất ngạc nhiên, nhưng vì lời mời quá lịch sự nên cô đồng ý.

Họ ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong góc phòng tiệc, nhưng chàng trai quá lo lắng, mãi không nói được lời nào, làm cho cô gái cũng cảm thấy bất tiện. Bỗng nhiên, chàng trai gọi người phục vụ:

- Xin cho tôi ít muối để tôi cho vào cà phê!

Mọi người đứng xung quanh đều hết sức ngạc nhiên và nhìn chăm chăm vào chàng trai. Chàng trai đỏ mặt nhưng vẫn múc một thìa muối cho vào cốc cà phê và uống.

Cô gái tò mò:

- Sao anh có sở thích kỳ quặc thế?

- Khi tôi còn nhỏ, tôi sống gần biển - Chàng trai giải thích - Khi chơi ở biển, tôi có thể cảm thấy vị mặn của nước, giống như cà phê cho muối vào vậy! Nên bây giờ, mỗi khi tôi uống cà phê với muối, tôi lại nhớ tới tuổi thơ và quê hương của mình.

Cô gái thực sự cảm động. Một người đàn ông yêu nơi mình sinh ra thì chắc chắn sẽ yêu gia đình và có trách nhiệm với gia đình của mình. Nên cô gái bắt đầu nói chuyện cởi mở hơn, về nơi cô sinh ra, về gia đình... Trước khi ra về, họ hẹn nhau một buổi gặp tiếp theo...

Qua những lần gặp gỡ, cô gái thấy chàng trai quả là một người lý tưởng: rất tốt bụng, biết quan tâm... Và cô đã tìm được người đàn ông của mình nhờ cốc cà phê muối.

Câu chuyện đến đây vẫn là có hậu vì "công chúa" đã tìm được "hoàng tử", và họ cưới nhau, sống hạnh phúc.

Mỗi buổi sáng, cô gái đều pha cho chàng trai - nay đã là chồng cô - một cốc cà phê với một thìa muối. Và cô biết rằng chồng cô rất thích như vậy. Suốt 50 năm kể từ ngày họ cưới nhau, bao giờ người chồng cũng uống cốc cà phê muối và cảm ơn vợ đã pha cho mình cốc cà phê ngon đến thế.

Sau 50 năm, người chồng bị bệnh và qua đời, để lại cho người vợ một bức thư:

"Gửi vợ của anh,

Xin em tha thứ cho lời nói dối suốt cả cuộc đời của anh. Đó là lời nói dối duy nhất - về cốc cà phê muối. Em có nhớ lần đầu tiên anh mời em uống cà phê không? Lúc đó, anh đã quá lo lắng, anh định hỏi xin ít đường nhưng anh lại nói nhầm thành muối. Anh cũng quá lúng túng nên không thể thay đổi được đành phải tiếp tục lấy muối cho vào cốc cà phê và bịa ra câu chuyện về tuổi thơ ở gần biển để được nói chuyện với em. Anh đã định nói thật với em rất nhiều lần nhưng rồi anh sợ em sẽ không tha thứ cho anh. Và anh đã tự hứa với mình sẽkhông bao giờ mói dối em một lời nào nữa, để chuộc lại lời nói dối ban đầu.

Bây giờ anh đã đi thật xa rồi, nên anh sẽ nói sự thật với em. Anh không thích và phê muối, nhưng mỗi sáng được uống cốc cà phê muối từ ngày cưới em, anh chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc vì mình đã phải uống cả. Nếu anh có thể làm lại từ đầu, anh vẫn sẽ làm như thế để có được em, và anh sẽ uống cà phê muối cả cuộc đời".

Khi người vợ đọc xong lá thư cũng là khi lá thư trong tay bà ướt đẫm nước mắt.

Nếu bạn hỏi người vợ rầng: "Cà phê muối có vị thế nào?", chắc chắn bà sẽ trả lời: "Ngọt lắm".

Cái ghế ngã

Cái ghế ngã. Một người say loạng choạng đứng lên đã xô nó ngã. Nó lộn một số vòng. Ban đầu chổng bốn chân lên trời. Sau thì chĩa bốn chân ra đường. Nó thôi nằm ngửa. Mà nằm nghiêng.

Người xô nó ngã không đỡ nó dậy. Nó nằm im. Một người lớn đi qua. Mặc kệ. Hai người lớn đi qua. Mặc kệ. Rồi có một cô bé đi ăn sáng bước vào quán. Cô kéo chiếc ghế dậy và ngồi lên. Cái ghế cảm thấy đỡ tủi nhục. Với đầu óc của một chiếc ghế, nó kết luận: Đa số người lớn là kẻ xấu. Chỉ có trẻ em là còn tốt.

Thực tế là thế này: Cô bé vào hàng ăn, hết ghế. Còn duy nhất một chiếc ghế nằm đó. Và cô dựng nó dậy. Không biết nếu không hết ghế cô bé có dựng nó lên không.

Chuyện thật là tủn mủn. Chẳng có gì đáng kể. Chỉ có chiếc ghế. Nó đã ngã, đã được dựng lên vì lòng trắc ẩn hay một mục đích nào đó. Nhưng nó đã có một cái kết luận không lấy gì làm hay ho. Rất có thể một ngày kia, nó sụp xuống. Và người ngồi lên nó sẽ chịu một hậu quả nào đó từ mối hồ nghi của nó. Có thể là một cú ngã bình thường, có thể là một án mạng.

Con người không đề phòng chiếc ghế sau khi đã xô nó ngã và thờ ơ với nó. Họ sẽ coi tai họa là chuyện ngẫu nhiên. Chỉ có chiếc ghế mới biết, cũng như cô bé kia mới biết, mình hành động do vô tình hay bởi một tâm thức bị/được ám ảnh bởi hận thù/tình yêu thương.

Câu chuyện bát mì

Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì".Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.

o O o

Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon ! Cám ơn !" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị ! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là "200đ/bát mì" và thay vào đó giá của năm ngoái "150đ/bát mì". Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ". Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đêu đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi...hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì"

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: "Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?" Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn". Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên ! Chúc hạnh phúc ! Cám ơn !"

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:

- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn... Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

-Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao ? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.

o O o

Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng : chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt ,nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng : "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt." Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.

Câu chuyện cho những ai đã là vợ chồng

Chồng chị là một kỹ sư giỏi, chị yêu anh vì sự vững chãi, chín chắn của anh, chị yêu cái cảm giác ấm áp mà chị có mỗi khi chị tựa đầu vào vai anh. Và sau 3 năm tìm hiểu, anh chị đã đi đến hôn nhân.

Nhưng đến hôm nay, sau hai năm là vợ chồng, chị bỗng thấy mệt mỏi với những cảm giác mà chị phải trải qua khi chung sống với anh.Những lý do khiến chị yêu anh trước đây, bỗng biến thành những lý do tạo nên sự đổi thay trong chị.

Chị là một phụ nữ nhạy cảm, và rất dễ bị thương tổn trong tình yêu, chị luôn khao khát những khoảnh khắc lãng mạn, giống như là bé gái nhỏ thèm khát kẹo ngọt. Nhưng anh lại trái ngược với chị, anh không có sự nhạy cảm, và hoàn toàn không quan tâm đến những khoảnh khắc lãng mạn trong cuộc sống vợ chồng, điều này đã làm cho chị càng chán nản hơn.

Và chuyện gì đến phải đến, một hôm chị quyết định cho anh biết rằng chị muốn ly dị, rằng chị không thể chung sống với anh thêm một giờ phút nào nữa. Rất bất ngờ khi nghe chị yêu cầu như thế, anh chỉ biết hỏi

- Tại sao?

- Em cảm thấy mệt mỏi, không có lý do nào cho mọi thứ trên thế gian này! - chị trả lời.

Anh không nói gì thêm nữa, nhưng suốt đêm đó, anh không ngủ, và chìm sâu vào những ưu tư, khắc khoải với ánh sáng lập lòe của điếu thuốc gắn trên môi. Sự im lặng của anh càng làm cho cái cảm giác thất vọng trong chị tăng lên, đấy là một người đàn ông không thể biểu lộ gì ngay cả đến lúc gặp tình huống khó khăn như lúc này, còn gì nữa để mà chị hy vọng ở anh?Cuối cùng rồi anh cũng lên tiếng, anh hỏi chị :"Anh có thể làm gì để thay đổi ý định của em?".

Ai đó đã nói đúng: "Rất khó khăn để thay đổi tính cánh của một con người", và chị nghĩ rằng chị không thể nào thay đổi cách sống của anh. Nhìn sâu vào mắt anh, chị chậm rãi trả lời: "Đây chính là câu hỏi, nếu câu trả lời của anh có thể thuyết phục em, em sẽ thay đổi ý định ly dị. Nếu em nói, em muốn bông hoa ở phía bên kia vách núi, và cả hai chúng ta đều biết rằng khi anh cố hái bông hoa đó cho em thì anh sẽ chết, anh có vẫn cố làm cho em hài lòng chứ?".

Anh đáp "Ngày mai anh sẽ trả lời câu hỏi cho em...". Những hy vọng của chị hoàn toàn bị chìm xuống khi nghe câu trả lời của anh.

Sáng hôm sau, chị tỉnh giấc và nhận ra anh đã đi rồi. Chị nhìn thấy một mảnh giấy với dòng chữ ngoệch ngoạc của anh, được dằn dưới ly sữa, trên chiếc bàn ăn gần cửa.... và chị bắt đầu đọc.

"Em yêu, Anh sẽ không thể nào hái bông hoa đó cho em, nhưng hãy cho anh giải thích những lý do mà anh không thể".

Ngay những dòng đầu đã làm tan nát trái tim chị, chị tiếp tục đọc.

"... Khi em sử dụng máy vi tính, anh luôn sắp xếp phần mềm cho em dễ sử dụng, và khi em kêu lên trước màn hình khi có sự cố, anh luôn chuẩn bị những ngón tay để có thể giúp em phục hồi lại những chương trình. Em thường bỏ quên chìa khóa cửa, nên anh luôn chuẩn bị đôi chân để sẵn sàng chạy về mở cửa cho em. Em rất thích đi du lịch, nhưng lại thường hay bị lạc đường trong những thành phố xa lạ, nên anh phải chuẩn bị đôi mắt của mình để chỉ đường về cho em. Em thường đau bụng trong mỗi lần gần đến tháng, nên anh luôn chuẩn bị lòng bàn tay mình để sẵn sàng xoa bụng cho em để em dịu cơn đau.Khi thấy em luôn thích ở nhà, anh lo rằng em sẽ có thể bị mắc bệnh tự kỷ, vì thế anh phải luôn pha trò và chuẩn bị những câu chuyện vui để em quên đi nỗi buồn chán. Khi em luôn chăm chú vào màn hình vi tính, anh sợ như vậy có hại cho đôi mắt của em, nên anh phải để dành đôi mắt của anh để khi chúng ta già, anh sẽ có thể giúp cắt móng tay, và nhổ những sợi tóc bạc cho em. Anh có thể nắm bàn tay em đi tản bộ trên bãi biển, để em thưởng thức cảnh mặt trời mọc và bãi cát xinh đẹp... và anh sẽ cho em biết rằng màu sắc của những bông hoa cũng rực rỡ như gương mặt tươi tắn của em... Vì vậy, em yêu, trừ phi em chắc chắn rằng có ai đó yêu em hơn anh đã yêu em... nên bây giờ anh không thể hái bông hoa đó cho em, và chết.../."

Nước mắt của chị không ngừng rơi trên trang giấy, làm nhạt nhòa những dòng chữ của anh... Chị đọc tiếp:

"...Bây giờ, nếu em cảm thấy hài lòng thì hãy mở cửa ra, vì anh đang đứng đó với bánh mì và sữa tươi cho buổi sáng của em, những món ăn mà em thích...".

Chị lao đến cửa và mở bung nó ra, trông thấy anh với gương mặt lo lắng, chị nắm chặt tay anh, cùng với ổ bánh mì và chai sữa, bây giờ chị biết chắc rằng không ai yêu chị như anh đã yêu chị, và chị quyết định quên đi bông hoa ở bên kia vách núi... đó là cuộc sống và tình yêu.

Khi được sống trong sự đầy đủ, dư thừa của tình yêu, thì cái cảm giác sôi nổi trong tình yêu thường bị khô héo đi, và người ta không còn có thể nhận thức được đâu là tình yêu chân thật và đâu là tình yêu giả dối, giữa cảm giác bình yên và buồn chán đó.

Chạy đi, Patti, chạy đi

Ngay từ nhỏ, Patti Wilson đã được bác sĩ bảo rằng cô bị bệnh động kinh (epileptic). Cha của cô, Jim Wilson, là người thường xuyên tập luyện chạy bộ vào buổi sáng. Một ngày kia cô nói với cha cô "Cha ơi, con rất muốn chạy với cha hàng ngày, nhưng con sợ con sẽ bị lên cơn." Cha cô nói với cô "Nếu con bị thì cha đã biết cần phải làm gì rồi nên đừng sợ, chúng ta cùng bắt đầu chạy."

Rồi họ chạy mỗi ngày. Thật là điều kỳ diệu đối với họ làø cô bé đã không bị lên cơn lần nào. Sau vài tuần, cô nói với cha "Cha ơi, con thật sự muốn phá kỷ lục thế giới quãng đường chạy dài nhất của nữ." Cha cô tìm trong cuốn sách các kỷ lục thế giới Guiness và thấy rằng khoảng cách lớn nhất mà có người phụ nữ đã từng chạy là 80 dặm. Lúc đó Patti mới vào năm đầu tiên ở trung học, cô tuyên bố "Con sẽ chạy từ quận Cam (Orange County) tới San Francisco." (Khoảng cách 400 dặm.) "Ðến năm thứ hai, con sẽ chạy tới Portland, Oregon." (Khoảng hơn 1500 dặm.) "Tới năm thứ 3, con sẽ chạy tới St. Louis." (Khoảng 2000 dặm.) "Tới năm cuối, con sẽ chạy tới Nhà Trắng." (Khoảng hơn 3000 dặm đường.)

Patti đầy nghị lực cũng như say mê hăng hái, cô chỉ coi bệnh của mình như là một điều "bất tiện". Cô không tập trung vào cái cô mất đi mà tập trung vào điều mà cô đang còn có.

Vào năm đó cô hoàn thành cuộc chạy đến San Francisco với chiếc áo thun ghi dòng chữ "I Love Epileptics." Cha của cô chạy bên cạnh cô trên suốt quãng đường, và mẹ cô, một nữ y tá, thì lái xe theo để đề phòng mọi trường hợp có thể xảy ra.

Vào năm thứ hai, các bạn học của Patti đã ủng hộ cô. Họ dựng lên một áp phích quảng cáo khổng lồ ghi "Chạy đi, Patti, chạy đi!" (Run, Patti, Run! - và sau đó đã trở thành khẩu hiệu của cô cũng như tựa đề cuốn sách sau này cô viết.) Trên đường thực hiện cuộc chạy đường dài mà đích đến là Portland, cô đã bị nứt gãy xương ở chân. Bác sĩ nói với cô rằng cô phải dừng không thể được chạy nữa. Ông nói "Tôi phải cố định khớp mắt cá của cháu để cháu không bị tật vĩnh viễn." "Bác sĩ, bác không hiểu rồi," cô nói "đây không phải là ý nghĩ bất chợt của cháu, nó thật sự là tấm lòng của cháu! Cháu không làm điều này vì bản thân cháu, cháu làm vậy để phá bung những xiềng xích trong suy nghĩ của nhiều người khác. Có cách nào để cháu vẫn có thể chạy tiếp được không hả bác?" Bác sĩ cho cô một lựa chọn. Ông chỉ băng bó lại thay vì bó bột cố định nó. Ông cảnh cáo cô rằng nó sẽ rất đau, sẽ bị sưng tấy lên. Cô nói với bác sĩ hãy băng chặt lại cho cô.

Cô hoàn thành cuộc chạy đến Portland với Thống đốc bang cùng chạy chung trên dặm đường cuối cùng. Bạn cũng có thể đã thấy những tờ báo với tiêu đề "Người Vận Ðộng Viên Chạy Siêu Ðẳng, Patti Wilson, Ðã Hoàn Thành Cuộc Marathon Cho Người Bị Bệnh Ðộng Kinh Vào Sinh Nhật Thứ 17 Của Cô."

Sau bốn tháng chạy gần liên tục từ bờ Tây sang bờ Ðông, Patti đã tới Washington và bắt tay Tổng thống Hoa Kỳ. Cô nói với ông "Cháu muốn mọi người biết rằng người bị động kinh chỉ là những con người bình thường với cuộc sống bình thường."

Tôi kể về câu chuyện này một lần trong một buổi hội thảo của tôi cách đây không lâu, và sau đó một người đàn ông cao lớn đến gặp tôi. Ông đưa bàn tay khổng lồ cho tôi bắt và nói "Mark, tôi tên là Jim Wilson. Anh vừa kể về con gái tôi, Patti." Ông kể rằng nhờ vào sự cố gắng không ngừng của cô bé, kết quả là đã kêu gọi đóng góp để mở được 19 trung tâm chữa bệnh động kinh trị giá nhiều triệu đô la.

Patti Wilson cần thật ít để có thể làm được được thật nhiều như vậy. Còn bạn thì sao? Bạn có thể làm gì để vượt lên chính bản thân mình trong khi có đầy đủ sức khỏe?

Chỉ phải tiến từng cây số một thôi!

Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi... bị một cơn sợ ghê gớm. Anh bạn học Walter Port và tôi cùng nhau xông vào một cuộc mạo hiểm kỳ thú nhưng cũng thực là ngu xuẩn, chúng tôi muốn tỏ rằng có thể chèo một chiếc xuồng nhẹ từ Minneapolis tới chi điếm bán da lông của hãng York trên vịnh Hudson. Chúng tôi đã chèo tới được Norway House ở phía cực bắc hồ Winnipeg. Từ đó còn phải chèo một quãng dài 25 cây số nữa qua một miền hoang vu chỉ gặp được mỗi thị trấn nhỏ ở dọc đường. Những bản đồ chúng tôi mang theo đều sơ sài quá mà hôm đó là ngày mùng một tháng chín!... Sông và hồ sắp đóng băng.

Nhân viên cảnh sát Canada do dự không muốn cho chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và sau cùng miễn cưỡng cho phép chúng tôi. Cả đêm trước ngày khởi hành chúng tôi thao thức, nghĩ tới những nỗi gian nan dọc đường, nửa sợ mà nửa tự ái. Nếu bị chìm xuồng hoặc bị mắc kẹt vì nước đóng băng thì không hy vọng gì thoát chết được. Mà nếu bỏ nửa chừng, thì còn mặt mũi nào trông thấy gia đình và bạn bè nữa?

Tòa soạn nhật báo ở Minneapolis tường thuật từng giai đoạn cuộc hành trình của chúng tôi, chủ ý để nêu tên tôi trong bước đầu vào nghề viết văn, sẽ khinh bỉ chúng tôi ra sao? Và chính Walter và tôi sẽ có thái độ ra sao khi làm cho mọi người thất vọng như vậy?

Lúc khởi hành, một thợ săn Đan Mạch lực lưỡng lại chúc chúng tôi "thượng lộ bình an". ông ta siết chặt tay chúng tôi, bảo:

- Các cậu chỉ nên nghĩ tới cây số trước mặt thôi, đừng bận tâm tới những cây số ở xa hơn nữa nhé. Như vậy thì sẽ tới đích được.

Tôi chưa bao giờ nhận được một lời khuyên chí lý như lời khuyên dó.

Biết bao lần, ban đêm, tôi trằn trọc, lăn qua lộn lại trong cái "sắc" lạnh buốt, lo lắng về quãng đường dài dằng đặc phải vượt qua, mà nhớ lại lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó ! Trong bao nhiêu ngày chèo chống lặn lội, khiêng xuồng và đồ đạc, chúng tôi đã có nhiều dịp ngẫm nghĩ về lời khuyên đó. Tinh thần chúng tôi thấm nhuần lời khuyên đó. Chúng tôi chỉ nghĩ tới cái thác ở phía trước, tới chỗ cắm trại ở phía trước, tới cây số ở phía trước thôi.

Sau cùng, một đêm tối như mực, chúng tôi đã vượt được cây số cuối cùng. Bẩn thỉu, mặt mày hốc hác, quần áo rách tươm, lương thực gần hết nhẵn, chiếc xuồng hư nát tệ hại, chúng tôi lết lên bờ, trong luồng ánh sáng vàng vọt từ chi điếm hãng York chiếu ra.

Từ hồi đó, tôi có nhiều dịp nhận thấy lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó rất đúng: chỉ phải tiến một cây số thôi.

Chẳng hạn, mười ba năm sau, trong Thế chiến thứ nhì, tôi với vài anh bạn ngồi trong chiếc phi cơ chuyên chở của nhà binh. Chúng tôi đương bay trên khu rừng gần biên giới Ấn Độ - Miến Điện thì máy hư chúng tôi phải nhảy dù xuống. Nếu có một đoàn cấp cứu nào được phái đi thì cũng mất mấy tuần mới tới được chỗ chúng tôi hạ xuống. Vì vậy chúng tôi không thể đợi được, đành cực khổ len lỏi lần lần về phía biên giới ấn, vượt quãng đường hai trăm hai mươi lăm cây số, qua một miền núi non hiểm trở, dưới ánh nắng cháy da và những trận mưa tầm tã.

Chúng tôi vừa mới khởi hành thì chẳng may chân tôi bị thương vì chiếc đinh trong giày; buổi tối đó, hai bàn chân tôi phồng lên, rớm máu. Khập khiễng như vậy thì làm sao vượt được trên hai trăm cây số! Mà các bạn tôi có anh tình trạng thê thảm hơn tôi nữa, làm sao đi được cho tới hết đường, nhưng ít gì cũng có thể khập khiễng lết tới đỉnh đồi phía trước, tới làng xóm phía trước tìm một căn nhà xin tá túc, và chúng tôi chỉ mong được bấy nhiêu thôi.

Óc tưởng tượng là con dao hai lưỡi: nhờ nó mà có những công trình lớn lao, nhưng cũng vì nó mà sự can đảm của ta nhụt đi, không thực hiện được những công trình đó. Tôi vốn nhút nhát và đôi khi tự biện hộ cho tôi rằng tại tôi có óc tưởng tượng mạnh, dễ thấy những nguy hiểm sẽ xảy ra, nên không được bạo gan. Cho nên đã nhiều lần rồi, khi gặp những nỗi gian nan về thể chất hoặc những đau khổ về tinh thần tôi phải nhớ lại quy tắc: "cây số ở trước mặt " rất hữu ích đó. Ngày tôi bỏ một chỗ làm được trả lương đều đều để bắt dầu viết một cuốn sách dài hai trăm năm chục ngàn tiếng, tôi rán không để cho công trình lớn lao đó thôi miên tôi, không vậy chắc chắn tôi đã phải bỏ dở một tác phẩm làm cho tôi vinh hạnh nhất trong nghề cầm bút của tôi. Tôi rán nghĩ tới đoạn sau thôi, không nghĩ tới trang sau nữa, lại càng không nghĩ tới chương sau nữa. Thành thử trong sáu tháng tôi chỉ viết từng đoạn một. Và tôi phải thú thực rằng, tác phẩm đó "tự nó thành hình".

Mới mấy chục năm trước đây, tôi nhận mỗi ngày phát thanh một bài cho một đài nọ. Tới hôm nay những bài tôi đã phát thanh đạt tới con số hai ngàn. Nếu hồi đầu người ta bảo tôi khởi ký hợp đồng cung cấp cho người ta hai ngàn bài thì chắc chắn là tôi đã thụt lùi, không dám nhận công việc lớn lao đó. Nhưng người ta chỉ đòi tôi mỗi ngày một bài thôi và tôi cũng chỉ soạn mỗi ngày một bài thôi.

Đức kiên nhẫn có thể thay đức can đảm được và theo tôi không có hình thức kiên nhẫn nào bằng hình thức mà người thợ săn Đan Mạch đã khuyên chúng tôi nhớ kỹ rằng chỉ phải tiến từng cây số một thôi.

Chiếc băng gạc cho trái tim vỡ

- Mẹ, mẹ đang làm gì thế? - Cô bé Susie chỉ mới 6 tuổi hỏi mẹ.

- Mẹ đang nấu món thịt hầm cho cô Smith hàng xóm.

- Vì sao ạ? - Susie thắc mắc.

- Vì cô Smith đang rất buồn con ạ. Con gái cô ấy vừa qua đời và trái tim cô ấy đang tan nát. Chúng ta sẽ chăm sóc cô ấy một thời gian. - bà mẹ dịu dàng trả lời.

- Tại sao lại thế hả mẹ? - Susie vẫn chưa hiểu

- Thế này nhé con yêu, khi một người rất buồn, họ sẽ không thể làm tốt ngay cả những việc rất nhỏ như nấu bữa tối hay một số việc vặt khác. Vì chúng ta cùng sống trong một khu phố và cô Smith là hàng xóm của gia đình mình, chúng ta cần phải giúp đỡ cô ấy. Cô Smith sẽ không bao giờ còn có thể nói chuyện, ôm hôn con gái cô ấy hoặc làm bất cứ điều gì thú vị mà mẹ và con có thể làm cùng nhau. Con là một cô bé thông minh, Susie. Có thể con sẽ nghĩ ra cách nào đó để giúp đỡ cô ấy.

Susie suy nghĩ rất nhiêm túc về những điều mẹ nói và cố gắng tìm cách góp phần giúp đỡ cô Smith. Vài phút sau, Susie đã ở trước cửa nhà cô Smith. rụt rè bấm chuông. Mất một lúc lâu cô Smith mới ra mở cửa: "Chào Susie, cháu cần gì?". Susie cảm thấy giọng cô Smith rất nhỏ, khuôn mặt cô trông rất buồn rầu, như thể cô vừa khóc vì mắt cô hãy còn đỏ mọng nước.

"Mẹ cháu nói con gái của cô vừa qua đời và cô đang rất buồn vì tim cô bị thương - Susie e dè xoè tay ra. Trong lòng bàn tay của cô bé là một chiếc băng gạc cá nhân- Cái này để băng cho trái tim cô ạ". Như để chắc chắn Susie nói thêm: "Cháu đã dùng vài lần và nó rất tốt". Cô Smith há miệng kinh ngạc, cố gắng không bật khóc. Cô xúc động quỳ xuống ôm chặt Susie, nghẹn ngào qua làn nước mắt: "Cám ơn, cháu yêu quý, nó sẽ giúp cô rất nhiều".

Chiếc đàn Piano màu gụ đỏ

Khi tôi 20 tuổi, tôi bán hàng thuê cho một hiệu đàn piano ở St. Louis. Một lần, chúng tôi lại nhận được một "đơn đặt hàng" là một bưu thiếp từ vùng Đông Nam Missouri. Trên bưu thiếp đó có viết "Xin hãy mang một chiếc đàn piano màu gụ đỏ tới cho cháu tôi. Tôi sẽ trả góp 10 đôla mỗi tháng bằng tiền bán trứng gà". Qua nét chữ có thể đoán đó được người viết là một bà cụ. Bà ấy viết câu đó lặp đi lặp lại kín mít tấm bưu thiếp, viết cả ra những diềm giấy còn thừa ở mặt trước cho đến khi chỉ còn ra một khung nhỏ ghi địa chỉ.

Tất nhiên công ty chúng tôi không thể bán piano trả góp 10 đô mỗi tháng. Nên chúng tôi lờ tờ bưu thiếp đi.

Tuy nhiên, đến một ngày, ở vùng Đông Nam Missouri đó có thêm vài người đặt mua đàn piano và chúng tôi phải chở đàn đến đó. Vì tò mò, tôi muốn đến địa chỉ của bà cụ xem sao. Gần như giống hệt những gì tôi tưởng tượng: bà cụ sống trong một túp lều lụp xụp cạnh cánh đồng.

Sàn căn lều rất bẩn. Gà thỉ chạy lung tung: không xe, không điện thoại, không nghề nghiệp. Chẳng có gì cả trừ một mái nhà, và đó cũng không phải là một cái mái tốt. Cháu gái của bá cụ khoảng 10 tuổi, đi chân đất và mặc váy vá.

Tôi giải thích cho bà cụ rằng chúng tôi rất buồn vì không giúp được bà cụ. Nhưng dường như những gì tôi giải thích chẳng có hiệu quả. Cứ 6 tuần một lần, chúng tôi lại nhận được một cái bưu thiếp y như nhau. Cần có một cái đàn piano màu gụ đỏ, và thề thốt rằng bà sẽ trả 10 đôla/tháng. Khoảng hai năm sau, tôi mở được một công ty giao bán piano của riêng mình, và đôi khi tôi đăng quảng cáo trên báo địa phương Missouri. Tôi bắt đầu nhận được những bưu thiếp như từng nhận ở công ty cũ. Trong hàng tháng trời, tôi cũng lờ những tờ bưu thiếp đó đi, vì tôi biết làm gì cơ chứ?

Nhưng rồi, một hôm ở công ty tôi có nhập vể một số đàn piano kiểu mới, trong đó có một chiếc đàn màu gụ đỏ. Dù biết mình có thể gây thua thiệt cho công ty, tôi vẫn quyết định đưa chiếc đàn lên xe ô tô chở tới nhà bà cụ và nói rằng nếu bà trả 10đôla/tháng thì bà sẽ phải trả 52 lần. Tôi đặt piano vào nơi ít có khả năng bị dột nhất. Tôi cũng dặn bà và cháu bé giữ cho bọn gà đừng nhảy lên đàn piano. Rồi tôi lên xe về công ty đinh ninh rằng thế là coi như mình đã cho không một cây đàn.

Nhưng cứ 10 đôla được gửi đến cho tôi rất đều đặn mỗi tháng. Cả 52 tháng. Đôi khi không chỉ là tiền giấy mà là những đồng xu được dùng băng dính đính vào bưu thiếp.

Nhận đủ tiền tôi không có liên lạc gì với bà cụ nữa trong suốt 20 năm. Cho đến một ngày khi đi công tác ở Memphis, tôi ghé vào một nhà hàng để dùng bữa. Ở đó, tôi được nghe thấy tiếng đàn piano hay nhất mà tôi từng được nghe. Và do một cô gái rất xinh đẹp đang chơi.

Tôi lại gần cô ấy và đứng nghe nhạc. Khi chơi xong bản nhạc, chúng tôi nói chuyện với nhau, và thật như một điều kì diệu, đó chính là cô bé mặc váy vá trong căn lều nhỏ 20 năm trước.

Cô gái kể từ khi được bà đã đặt mua cho chiếc đàn piano màu gụ đỏ, cô đã giành được nhiều giải thưởng âm nhạc ở trường và địa phương. Bây giờ cô đã có gia đình còn bà cô đã mất.

Tôi hỏi cô có biết chiếc đàn piano màu gụ đỏ có ý nghĩa như thế nào không. Cô gái nói hồi đó cô còn quá nhỏ, chỉ biết có một chiếc đàn mà không hiểu gì nhiều. Nhưng tôi thì hiểu.

Cuối cùng, tôi bảo cô:

- Tôi rất mừng được gặp lại cô, còn bây giờ tôi phải đi về.

Và tôi thực sự phải đi về, vì bạn biết đấy, đàn ông không bao giờ muốn bị nhìn thấy mình khóc ở nơi công cộng.

Chiếc dao gọt

Tôi tìm thấy một chiếc dao dưới tủ lạnh trong lúc người đàn bà tôi yêu và tôi đang lau chùi nhà cửa. Đó là một chiếc dao gọt nhỏ mà chúng tôi đã để lạc mất trước đây nhiều năm và đã quên hẳn. Tôi khoe chiếc dao với người đàn bà tôi yêu và nàng nói "Ồ. Anh nhặt đó ở đâu ra vậy?" Sau khi tôi kể cho nàng nghe, nàng đặt chiếc dao lên bàn rồi bước vào căn phòng kế bên và tiếp tục lau chùi. Trong lúc tôi rửa sàn nhà bếp, tôi nhớ lại những điều đã xảy ra cách đây bốn năm là lý do tại sao chiếc dao lại nằm dưới tủ lạnh.

Lúc ấy chúng tôi đã ăn xong bữa tối thịnh soạn và đã uống nhiều ly rượu vang. Chúng tôi tắt tất cả đèn, cởi quần áo, và bước vào giường. Chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm tình, nhưng điều gì đó đã xảy ra và chúng tôi cãi nhau lúc đang làm tình. Chúng tôi chưa bao giờ trải qua một việc như thế. Cả hai chúng tôi đều cực kỳ giận dữ. Tôi nói vài câu rất tồi tệ với người đàn bà tôi yêu. Nàng đạp vào tôi ngay trên giường và tôi rời khỏi giường, bước ra nhà bếp. Tôi mò mẫm tìm cái ghế và ngồi xuống. Tôi muốn đặt hai cánh tay lên bàn rồi ngả đầu lên hai cánh tay, nhưng tôi chạm phải những bát đĩa dơ trên bàn và chúng làm vướng tay tôi. Tôi tức điên lên. Tôi xua mọi thứ trên bàn xuống sàn nhà. Tiếng ồn nghe rất tuyệt diệu, nhưng rồi căn phòng lại im phăng phắc và đột nhiên tôi cảm thấy buồn. Tôi nghĩ tôi đã phá huỷ hết mọi sự. Tôi bắt đầu khóc. Người đàn bà tôi yêu bước vào nhà bếp và hỏi tôi có bị gì không. Tôi nói, "Không sao cả." Nàng bật đèn lên và chúng tôi cùng nhìn xuống sàn nhà bếp. Chẳng có mấy thứ bị vỡ, nhưng sàn nhà trông hết sức nhớp nhúa lộn xộn. Cả hai chúng tôi bật cười rồi chúng tôi trở vào giường và làm tình. Sáng hôm sau chúng tôi chùi rửa mớ nhớp nhúa lộn xộn ấy, nhưng hiển nhiên là chúng tôi không để ý đến chiếc dao.

Tôi định hỏi người đàn bà tôi yêu xem nàng có còn nhớ chuyện ấy không thì nàng từ phòng kế bên bước vào, rồi không nói một lời, nhặt chiếc dao trên bàn và nhét nó trở lại bên dưới tủ lạnh.

Chuyện Bụt.....

Ngày xửa, ngày xưa... có một chú bé mồ côi cha mẹ. Ban ngày chú phải vào rừng đốn củi mang ra chợ đổi gạo. Đêm xuống thì cặm cụi bên chiếc máy tính second-hand, dùi mài kinh sử, chờ đến khoa thi. Chiếc máy tính này dù hư lên, hư xuống nhưng là di sản cha mẹ để lại nên chú quý lắm. Ngặt nỗi chú không có máy in. Mỗi khi cần in tài liệu, chú phải chép file vào đĩa mềm rồi mang ra kinh thành thuê dịch vụ in giùm, vừa tốn kém, vừa mất thì giờ, chưa kể phải bỏ dở chuyện kiếm củi đổi gạo.

Một hôm, dù đang cần in gấp tài liệu để học thi, nhưng vì nhà hết gạo, chú đành vác búa vào rừng đốn củi. Vừa đốn, vừa nghĩ tới hoàn cảnh của mình, tủi thân, chú bật khóc... Thế rồi một ông lão hiền lành hiện ra, ân cần thăm hỏi:

- Vì sao con khóc?

- Con buồn vì nghèo túng, thiếu thốn đủ thứ. Chỉ một chiếc máy in mà dành dụm mãi cũng không sắm được. Người ta đã đại hạ giá, nhưng vẫn còn gần một trăm đô một cái, con mua không nổi...

- Đừng buồn, ta sẽ giúp. Con sẽ có máy in, thậm chí là máy in màu. Hãy nhắm mắt lại... Được rồi, bây giờ hãy mở mắt ra!

... Và chú bé thấy bên cạnh mình là một chiếc máy in phun màu. Ngẫm nghĩ một lúc, chú hỏi ông lão nhân hậu:

- Ông tốt quá. Ông có phải là bụt không?

- Tất nhiên! Hãy mang máy in về mà dùng nhưng đây không phải quà tặng. Ta chỉ bán máy in với giá rẻ, 50 đô. Con cũng không cần phải trả tiền liền. Mỗi ngày con chỉ cần góp cho ta một ít củi để trừ tiền mua máy. Con thấy sao?

- Dạ, con đồng ý. Cám ơn bụt.

...

Từ đó, chú bé tiều phu có một chiếc máy in để dùng, chú vui lắm dù phải làm lụng vất vả hơn để có thêm củi giao cho bụt. Vì giá máy in chẳng đáng là bao nên chỉ sau một thời gian ngắn, chú đã trả xong nợ. Thế rồi vừa lúc ấy, máy in hết mực! Giữa lúc chú bé tiều phu rầu rĩ thì bụt lại hiện ra. Ông hỏi:

- Sao con lại buồn?

- Thưa bụt, máy con hết mực.

- Đừng lo, mực đây...

Bụt đưa ra một hộp mực màu. Nhận mực, chú bé rụt rè hỏi thăm:

- Thưa bụt, hộp mực bao nhiêu tiền ạ?

- Chỉ có... 30 đô. Con không cần trả liền mà góp củi trả dần cũng được.

Lần này, chú bé không vui nữa vì giá hộp mực tới 30 đô, trong khi giá máy in chỉ 50 đô. Tuy giá mực quá mắc nhưng chú không thể không mua vì muốn in không thể không có mực. Chú tự nhủ: Dù sao thì cũng đỡ, vì không phải trả tiền liền...

Được ít lâu, máy in lại hết mực, bụt lại hiện ra và chú bé lại góp củi trừ nợ. Sau này do in giấy thường, văn bản không đẹp nên chú phải mua trả góp cả giấy in. Mãi rồi cũng tới lúc chú bé tiều phu công thành, danh toại. Ngày chú vinh quy, bái tổ, bụt hiện ra chúc mừng. Chú lễ phép tâm sự:

- Cám ơn sự giúp đỡ của bụt, nhưng thưa thiệt với bụt là con vẫn ấm ức vì đã tốn quá nhiều tiền cho mực, giấy...

Bụt mỉm cười trả lời:

- Nếu không như thế thì làm sao con có máy in? Ngoài nghề làm... bụt, ta còn là một đại lý cho nhà sản xuất máy in và mực in. Nhờ con mà ta có thêm một khách hàng...

Các bạn thân mến, câu chuyện cổ tích đến đây là hết... Bài học mà chúng ta rút ra từ câu chuyện này là:

- Nhìn chung bụt là tốt, nhưng ngoài việc tốt với chúng ta, bụt còn phải tốt với chính bụt nữa.

- Khi quyết định đầu tư, có nhiều phương án để lựa chọn. Có phương án ít tiền, nhưng chỉ tốn một lần. Có phương án tốn ít tiền, nhưng phải chi nhiều lần. Do vậy cần phải tính thật kỹ về giá thành tổng thể (TCO: Total Cost Ownership) để chọn phương án thích hợp nhất với mình.

CHÚNG TÔI LÀ NHỮNG THẰNG NGU

Vào ngày đầu tiên tôi đi dạy, tất cả các giờ học đều trôi chảy. Cho đến giờ thứ bảy, giờ cuối cùng trong ngày.

Khi tôi bước tới lớp, tôi nghe thấy tiếng bàn ghế gãy. Trong một góc phòng tôi thấy một học sinh đang đè một đứa khác xuống sàn nhà.

"Nghe này, thằng ngu kia!" đứa nằm dưới hét lên. "Tao cóc thèm để ý đến con em gái của mày đâu!"

"Mày đừng có đụng vào nó, mày nghe tao chứ?" đứa ở trên hăm dọa.

Tôi yêu cầu chúng không đánh nhau nữa. Bất ngờ cả 14 cặp mắt nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi biết trông tôi không có vẻ gì là thuyết phục cho lắm. Cả hai tên gườm gườm nhìn nhau và nhìn tôi rồi đi từ từ về chỗ ngồi. Vào lúc đó, giáo viên phòng bên cạnh ló đầu vào phòng, hét bọn học trò của tôi ngồi vào chỗ, im lặng và nghe lời tôi. Tôi cảm thấy mình thật bất lực.

Tôi cố gắng dạy theo giáo trình đã soạn nhưng chỉ gặp những khuôn mặt gườm gườm cảnh giác đề phòng. Khi hết giờ, tôi giữ cậu học trò đã gây ra vụ đánh nhau. Cậu ta tên là Mark. "Thưa cô, không nên phí thời gian với tụi em," cậu ta nói. "Tụi em là những thằng ngu." Và Mark rời khỏi phòng.

Lặng người đi, tôi rơi mình xuống ghế và bắt đầu suy nghĩ xem tôi có nên trở thành giáo viên hay không. Có lẽ cách giải quyết tốt nhất là nên từ bỏ? Tôi tự nhủ sẽ cố một năm rồi sau khi tôi lập gia đình vào mùa hè tới tôi sẽ làm điều gì đó có ích hơn.

"Tụi nó quậy cô phải không?" Đó là người giáo viên đã vào lớp tôi lúc nãy. Tôi gật đầu.

"Đừng có suy nghĩ nữa," anh ta nói. "Tôi dạy chúng trong những lớp phụ đạo vào mùa hè, và hầu như chắc chắn tụi nó sẽ không tốt nghiệp nổi. Đừng có phí thời gian với bọn này."

"Ý anh là sao?"

"Chúng sống trong những túp lều ngoài đồng. Chúng là những lao động nay đây mai đó. Chúng chỉ đến trường khi chúng thích thôi. Đứa trẻ thứ hai đã quấy rối em gái của Mark khi chúng đi hái đậu chung. Tôi đã phải la chúng vào bữa trưa. Cứ phải giữ chúng im lặng và làm việc. Nếu chúng gây ra điều gì, cứ kêu tôi."

Khi tôi lấy đồ ra về. Tôi không thể nào quên được hình ảnh khuôn mặt của Mark khi cậu ta nói "Chúng em là những thằng ngu." Thằng ngu. Từ này cứ vang lên trong đầu tôi. Tôi quyết định tôi phải làm điều gì đó thật mạnh mẽ.

Vào buổi chiều hôm sau tôi bảo với người đồng nghiệp của tôi đừng vào lớp tôi nữa. Tôi cần điều khiển những đứa trẻ này theo cách của tôi. Tôi quay lại lớp và nhìn vào mắt từng học sinh. Rồi tôi bước tới bảng và viết ECINAJ.

"Đó là tên của tôi," tôi nói. "Các em có thể nói cho tôi biết đó là gì không?"

Bọn trẻ nói rằng tên của tôi "kỳ cục" và chúng chưa bao giờ thấy một cái tên như vậy. Tôi lại bước tới bảng và viết chữ JANICE. Nhiều đứa nhỏ bật kêu lên và chúng nhìn tôi vui vẻ.

"Các em nói đúng, tên của tôi là Janice," tôi nói. "Tôi bị thiểu năng đọc, nghĩa là chứng đọc khó. Khi tôi bắt đầu đi học, tôi không thể viết tên của tôi chính xác. Tôi không thể đọc chữ và các con số thì bay mất tiêu khỏi đầu tôi. Tôi bị đặt biệt danh "Đứa ngu". Đúng vậy đó - Tôi đã từng là một "đứa ngu". Bây giờ tôi vẫn còn cảm giác được những âm thanh khủng khiếp đó và sự xấu hổ của mình."

"Vậy sao cô thành giáo viên được?" một đứa trẻ hỏi.

"Vì tôi ghét những biệt hiệu đó và tôi không ngu si và tôi rất ham học. Lớp học của chúng ta cũng vậy. Nếu các bạn thích biệt danh "thằng ngu", các bạn không cần ở đây. Hãy đổi qua lớp khác. Không có ai ngu ở trong lớp này."

"Tôi sẽ không dễ dàng với các em," tôi tiếp tục. "Chúng ta sẽ làm việc và làm cho tới khi các em nắm bắt được. Các em sẽ tốt nghiệp và tôi hy vọng một số em sẽ vào được đại học. Đó không phải là chuyện tếu - đó là một lời hứa. Tôi sẽ không muốn nghe từ "ngu" một lần nào nữa. Các em có hiểu không?"

Bọn trẻ dường như ngồi nghiêm chỉnh hơn.

Chúng tôi làm việc rất chăm chỉ và tôi bắt đầu thực hiện được một phần lời hứa. Đặc biệt Mark là một đứa trẻ rất thông minh. Tôi đã nghe cậu ta nói với một đứa khác "Cuốn sách này rất hay. Chúng tớ không đọc sách trẻ con ở đây." Cậu đang cầm cuốn sách "To Kill a Mockingbird".

Tháng ngày trôi qua, và sự tiến bộ thật tuyệt vời. Một ngày kia Mark nói với tôi "Mọi người vẫn nghĩ chúng em ngu vì chúng em hay nói sai ngữ pháp." Đó là thời điểm tôi chờ đợi. Từ lúc đó chúng tôi học chuyên sâu về ngữ pháp, bởi vì bọn trẻ muốn thế.

Tôi thật sự tiếc nuối khi thấy tháng Sáu tới, bọn trẻ đang muốn học thật nhiều. Tất cả học trò đều biết tôi sẽ lập gia đình và dời đi xa. Tôi thấy rõ bọn trẻ xúc động mỗi khi tôi nhắc đến điều đó. Tôi vui vì thấy chúng yêu mến tôi nhưng lại sợ rằng chúng sẽ buồn giận khi tôi ra đi.

Vào ngày cuối cùng của năm học, khi tôi đến trường, thầy giám thị gọi tôi khi tôi vừa bước vào cổng trường. "Xin cô vui lòng đi theo tôi," ông nói một cách nghiêm khắc. "Có chuyện trong phòng học của lớp cô." Ông thẳng bước đi về hướng lớp học. Điều gì đây? Tôi lo lắng.

Thật tuyệt vời! Bọn trẻ đã lấy sơn phun lên từng góc tường những bông hoa, từng bó hoa trên bàn mỗi đứa và một bó hoa lớn trên bàn tôi. Bọn trẻ làm thế nào mà được nhỉ? Tôi suy nghĩ. Hầu hết bọn chúng đều rất nghèo đến mức phải xin trường trợ cấp cho quần áo ấm và thức ăn.

Tôi bật khóc, và bọn trẻ khóc theo tôi.

Sau đó tôi mới được biết bằng cách nào bọn chúng làm được như vậy. Mark làm thêm trong một tiệm bán hoa vào cuối tuần đã thấy rất nhiều phiếu đặt hàng của các lớp khác. Cậu ta đã kể lại cho bạn bè nghe. Quá kiêu hãnh để có thể chấp nhận bị coi là "nghèo", Mark đã hỏi người chủ tiệm xin những bông hoa dư còn lại. Rồi cậu đến nghĩa trang kể về một giáo viên đang chuẩn bị đi xa. Người ta đã giữ lại cho cậu những giỏ hoa.

Đó không phải là điều cuối cùng bọn trẻ làm cho tôi. Hai năm sau, cả 14 học sinh đã tốt nghiệp, và 6 đứa đã đạt học bổng vào đại học.

Hai mươi tám năm sau, tôi đang dạy ại một trường rất nổi tiếng không xa nơi trường cũ. Tôi được biết Mark đã lập gia đình với người cậu yêu từ đại học và trở thành một nhà kinh doanh tài giỏi. Và thật bất ngờ, ba năm trước đứa con trai của Mark đã lại học trong lớp tôi dạy.

Đôi lần tôi bật cười khi nhớ lại ngày đầu tiên đi dạy. Nghĩ đến việc tôi muốn bỏ nghề để làm điều gì đó tốt hơn!

Chuyện người thương binh

Ðây là một câu chuyện thật đau lòng xẩy ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Chuyện kể về một người lính trẻ Hoa Kỳ trở về nhà sau khi tham chiến tại Việt Nam. Từ thành phố San Francisco người lính trẻ gọi điện thoại về nhà cha mẹ. "Cha mẹ ơi, con đang trở về nhà, nhưng con có một điều xin cha mẹ. Con có đem theo một người bạn thân."

"Ðược", cha mẹ người lính trẻ trả lời bên kia đầu giây điện thoại, "Cha mẹ thích nó đi cùng con về đây và muốn được gặp nó."

"Nhưng có một điều con muốn thưa với cha mẹ," người con nói tiếp, "bạn con bị thương tích trầm trọng trong lúc giao chiến. Nó dẫm phải mìn, mất một cánh tay và một chân. Nó không có nơi nào để ở, và con muốn nó về ở chung với gia đình ta."

"Con ơi! cha mẹ rất tiếc khi nghe điều đó. Chúng ta có thể giúp nó tìm một nơi nào đó cho nó ở."

"Không, con muốn nó về ở với con, với gia đình ta."

"Con," người cha nói, con không biết con đang nói cái gì. Một người tàn tật sống với gia đình chúng ta, sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình. Chúng ta có một đời sống riêng, và chúng ta không thể để việc đó ảnh hưởng đến đời sống chúng ta. Cha mẹ nghĩ rằng con nên về nhà và quên đi người bạn này. Bạn của con sẽ có thể tự tìm cuộc sống cho chính nó."

Nghe đến đây người con chết lặng người, không thể nào nói thêm được điều gì nữa và cúp máy điện thoại. Người cha không còn nghe thấy gì nữa.

Vài ngày sau đó, cha mẹ người lính trẻ nhận được điện thoại từ sở cảnh sát San Francisco báo tin người con của họ đã chết sau khi rơi từ trên lầu một cao ốc. Cảnh sát tin là nạn nhân đã tự tử. Cha mẹ người con đau khổ đáp máy bay đến San Fransisco, vào thẳng nhà quàng thành phố nhận diện xác con. Họ xác nhận nạn nhân chính là đứa con trai yêu quý của họ, mà họ mới nói chuyện với nó vài ngày trước đây. Nhưng đau đớn thay, họ đã khám phá ra một điều mà họ đã không biết, đứa con trai của họ chỉ có một chân và một cánh tay!!

CON GÁI, CON TRAI VÀ CON NGỰA TRẮNG

Có một chàng trai tên Roger quen một cô gái tên Elaine. Chàng trai mời cô gái đi xem phim, cô đồng ý, và họ cùng đi rất vui vẻ. Rồi một lần chàng trai mời cô gái đi ăn tối, và một lần nữa họ lại cùng đi rất vui vẻ. Họ gặp nhau khá thường xuyên, và chẵng bao lâu sau thì họ luôn đi cùng nhau.

Thế rồi một buổi tối, khi Roger lái xe chở Elaine về nhà, một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu Elaine. Và, ko suy nghĩ lâu lắm, cô nói: "Anh có nhận ra rằng, đến tối nay thì chúng ta đã quen nhau được đúng sáu tháng ko?"

Sự im lặng kéo dài trong xe ô tô.

Ðối với Elaine, sự im lặng quả là đáng sợ. Cô nghĩ: "Trời, có lẽ mình nói thế làm phiền anh ấy.Có thể anh ấy đang sợ ràng buộc; anh ấy nghĩ mình đang cố trói buộc anh ấy, mà anh ấy ko muốn thế".

Roger nghĩ: "Trời, sáu tháng!".

Elaine nghĩ: "Nhưng bản thân mình cũng ko biết là mình nói thế để làm gì. Mình đang muốn tự do cơ mà. Như thế này chẳng tốt hay sao?Mình đã biết rõ anh ấy đâu nào?!".

Roger nghĩ: "Thế tức là... xem nào... Mình quen cô ấy từ tháng hai, đó chính là khi mình mới mua cái ôtô này. Thế tức là... để mình xem công -tơ-mét cái đã... Chà!Mình đã quá hạn để đi thay dầu rồi!"

Elaine nghĩ: "Anh ấy đang buồn kìa!Mình thấy rõ mà! Hay là mình sai? Có thể anh ấy tế nhị và hơi nhút nhát? Ðúng rồi! Ðó là lý do anh ấy ngại nói ra những lời hoa mỹ chăng?! Chắc anh ấy sợ mình từ chối!".

Roger nghĩ: "Và mình cũng phải bảo bọn họ xem xét lại bộ truyền lực của xe nữa! Mình chẳng thèm quan tâm những kẻ ngốc nghếch ở chỗ bán xe nói gì. Thế nào họ cũng đổ tại thời tiết lạnh cho mà xem. Thời tiết lạnh cái gì chứ?Thế mà mình đã trả cho những kẻ ăn cướp ấy cả nghìn dollar!"

Elaine nghĩ: "Anh ấy đang giận.Mình ko trách anh ấy. Nếu là anh ấy thì mình cũng giận ấy chứ!Lỗi tại mình,tự nhiên làm anh ấy khó xử!"

Roger nghĩ: "Thế nào họ cũng nói là chỉ bảo hành ba tháng thôi cho mà xem! Ðồ đáng ghét!"

Elaine nghĩ: "Có thể mình cứ hay lý tưởng hóa, cứ chờ một chàng hoàng tử cưỡi trên con ngựa trắng cơ, trong khi mình lại quen biết một người hoàn hảo như anh ấy, người mà mình thực sự tin tưởng đợc. Chắc anh ấy đang lúng túng vì một kẻ cứ tự đề cao, một con bé học trung học mà còn hay mơ mộng viển vông như mình!

Roger nghĩ: "Bảo hành à?Bọn họ cần bảo hành chứ gì?Rồi mình sẽ nói cho họ biết thế nào là bảo hành!"

- Roger! - Bỗng Elaine nói to.

- Gì cơ? - Roger giật mình.

- Anh đừng tự hành hạ mình nữa! - Elaine nói,bắt đầu rơm rớm nớc mắt - Có lẽ em ko nên... Trời ơi, em cảm thấy... (Elaine khóc òa lên)

- Gì cơ? - Roger ngạc nhiên.

- Em thật ngốc - Elaine sụt sịt - Em muốn nói là, em biết ko có chàng hoàng tử nào, cũng ko có con ngựa trắng nào...

- Ko có ngựa? - Roger ngạc nhiên.

- Anh nghĩ em thật ngu ngốc, đúng ko? - Elaine hỏi.

- Ko! - Roger đáp, rất hãnh diện vì cuối cùng cũng có cơ hội tìm được câu trả lời đúng.

- Chỉ là vì... em... cần có thời gian... -Elaine vẫn sụt sịt.

Roger ngừng lại trong mời lăm giây, cố nghĩ thật nhanh để tìm một câu trả lời "an toàn" cho Elaine khỏi khóc. Cuối cùng, Roger tìm đợc một câu trả lời mà anh ta nghĩ hợp lý.

- Ðúng! - Roger nói.

Elaine cực kì xúc động kêu lên:

- Ôi, Roger, anh thực sự cảm thấy thế nào?

- Như thế nào? - Roger hỏi.

- Về thời gian ấy!

- Ơ, đúng!

Elaine nhìn thẳng vào Roger, làm Roger cực kì lo lắng về việc Elaine sẽ nói gì tiếp nữa, đặc biệt là nếu như chuyện đó có liên quan đến con ngựa trắng. Cuối cùng, Elaine nói:

- Cảm ơn Roger!

- Ơ, cảm ơn! - Roger cũng nói.

Roger chở Elaine về nhà cô. Elaine rất xúc động và khóc suốt.

Còn khi Roger về nhà mình, anh ta đi tìm một miếng bánh mì, bật tivi, và ngay lập tức chìm đắm vào trận bóng giữa hai câu lạc bộ Anh mà anh ta chưa hề biết tên. Roger cũng nhận thấy có chuyện gì hơi to lớn vừa xảy ra, nhưng anh ta lại ko chắc chắn là chuyện gì, nên anh ta nghĩ tốt hơn hết là chẳng cần nghĩ về nó nữa.

Hôm sau, Elaine gọi điện cho cô bạn thân nhất. Họ nói về tình trạng của Elaine trong suốt sáu tiếng, phân tích từng chi tiết, từng từ, từng biểu hiện một. Họ nói về đề tài đó trong nhiều ngày, có thể là nhiều tuần, nhưng vẫn chẳng bao giờ rút ra một kết luận nào cả, mà cũng chẳng thấy nhàm chán gì hết!

Trong khi đó, Roger, một lần đang chơi bóng đá với một anh bạn, là ngời đã giới thiệu Elaine cho Roger, đã dừng lại và hỏi anh bạn kia:

- Này có phải Elaine đã từng có một con ngựa trắng ko?

Và đó là sự khác nhau giữa con trai và con gái! Con trai là những kẻ cực kì đơn giản!

Điều đó rồi cũng qua đi

Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cần thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó".

Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?".

Nhà vua đáp: "Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.

Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: "Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?". Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.

Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. "Nào, ông bạn của ta - vua Salomon hỏi - ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?". Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.

Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: "Nó đây, thưa đức vua". Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua đi".

Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát bụi...

Điều tôi muốn biết

Tôi không quan tâm bạn mưu sinh thế nào mà chỉ muốn biết bạn khao khát điều gì và có dám mơ ước đạt được điều mình đang khao khát không?

Tôi không quan tâm bạn bao nhiêu tuổi mà chỉ muốn biết bạn có dám như một kẻ ngốc liều mình vì tình yêu, vì những ước mơ và vì một chuyến phiêu lưu để được tồn tại trong cuộc đời này không?

Tôi không cần biết điều gì mới phù hợp với ước mơ của bạn mà chỉ muốn biết bạn đã dám đối mặt với nỗi đau bị cuộc đời dối trá hay lại khép chặt lòng mình vì e sợ lại một nỗi đau khác?

Tôi muốn biết bạn có dám ngồi lại với nỗi đau của tôi hay của chính bạn; có dám khiêu vũ thật điên cuồng để sự say mê tràn ngập đến tận đầu ngón tay và ngón chân của mình mà không cần phải e dè giữ ý, phải thực tế hay phải luôn nhớ đến những giới hạn của con người?

Tôi không quan tâm câu chuyện bạn kể có thật hay không mà chỉ muốn biết bạn có dám làm thất vọng người khác để thành thật với bản thân mình? Liệu bạn có thể chịu đựng bị kết tội phản bội mà vẫn không phản bội lại chính nhân cách của mình? Liệu bạn sẽ trung thực và vì thế sẽ đáng được tin cậy chứ?

Tôi muốn biết liệu bạn có nhận ra vẻ đẹp dù cho hằng ngày nó chẳng hề xinh đẹp, và liệu bạn có thể quyết định cuộc đời mình mà không cần sự hiện diện của Chúa?

Tôi muốn biết liệu bạn sẽ chịu đựng được thất bại của lẫn bạn và tôi, đứng bên bờ hồ mà hét vang đến tận trời cao là "có"?

Tôi muốn biết liệu bạn có thể thức dậy dù sau đêm dài đau khổ, thất vọng, kiệt sức và rã rời mà làm những gì phải làm cho các con của bạn không?

Tôi không quan tâm bạn là ai hay làm sao đến được đây. Tôi chỉ muốn biết liệu bạn có thể sát cánh cùng tôi trong lửa đỏ và sẽ không chùn bước thoái lui?

Tôi không quan tâm bạn đã học ở đâu, những gì và của ai. Tôi chỉ muốn biết liệu bạn có thể một mình đối diện với bản thân chân thật như người bạn bạn có bên mình trong những giây phút đơn độc?

Điều ước đêm Giáng Sinh

Khi bé Ami Hagadom vòng qua góc phòng họp bên cạnh lớp học, cô bé ko để ý nên va phải 1 cậu bé học lớp 5 đi ngược lại.

Cậu này hét vào mặt cô bé : "Đi đứng thế hả, đồ dị hợm", sau đó với ánh mắt giễu cợt, cậu ta nhấc chân phải lên và bắt chước dáng đi cà nhắc của Amy.

Bị xúc phạm, nhưng cố hết sức, Amy tự nhủ "kệ xác hắn" và lầm lũi bước về lớp học. Thế nhưng khi đi học về, Amy cứ nghĩ mãi về hành động của đứa bé kia, và cậu ta ko phải là đứa duy nhất. Kể từ lúc học lớp 3, Amy đã phải chịu đựng những lời giễu cợt của các bạn về cách phát âm và cái chân cà nhắc của mình. Amy cảm thấy tủi thân, trong phòng học đầy bạn bè, nhưng cô bé lúc nào cũng thấy mình đơn độc.

Bữa ăn tối hôm đó, Amy chẳng nói 1 lời nào. Mẹ cô bé đoán ngay là đã có gì ko hay xảy ra. Để giúp bé vui hơn, bà thông báo : "Amy này, có 1 cuộc thi về điều ước Đêm Giáng sinh. Hãy viết thư cho ông già Noel và con có cơ hội đạt giải thưởng. Mẹ nghĩ cô bé tóc vàng đang ngồi trên bàn ăn có thể tham gia đấy."

Amy cười khúc khích, cuộc thi có vẻ thú vị. Amy bắt đầu miên man suy nghĩ về điều ước của mình.

Chợt cô bé mỉm cười, biết mình phải ước gì. Lấy giấy và bút chì, cô bé bắt đầu viết về điều ước của mình bằng câu "Kính gửi ông già Noel".

Cả nhà bắt đầu đoán già đoán non Amy sẽ ước gì, chị Amy - Jamine và mẹ cô đoán Amy sẽ ước con búp bê có 3 chân, bố Amy lại đoán là 1 cuốn sách hình. Còn Amy thì vẫn giữ bí mật. Đây là bức thư Amy gửi ông già Noel.

"Kính gửi ông già Noel,

Cháu tên là Amy. Năm nay cháu 9 tuổi. Cháu có chuyện khó xử ở trường. Ông có thể giúp cháu ko ? Các bạn luôn chế giễu cách cháu phát âm và cái chân cà nhắc của cháu. Cháu bị bệnh liệt não. Cháu chỉ ước 1 ngày ko bị cười nhạo...

Thương yêu ông

Cháu Amy"

Hôm ấy tại đài phát thanh WJTL ở Fort Wayne, bang Indiana, rất nhiều thư từ khắp nơi đổ về tham gia cuộc thi "Điều ước đêm Giáng sinh. Nhân viên đài đôi khi phải bật cười vì những món quà khác nhau mà các cô bé, cậu bé mong ước.

Đến lá thư của Amy, giám đốc Lee Tobin đọc đi đọc lại mãi. Ông biết liệt não là 1 căn bệnh rối loạn cơ, mà bạn bè của Amy chắc chẳng thể nào hiểu được. Ông cho rằng, cần phải cho mọi người ở Fort Wayne nghe về câu chuyện đặc biệt của cô bé học lớp 3 và điều ước khác thường của cô. Ông nhấc máy gọi 1 tờ báo địa phương đến.

Ngày hơm sau, hình Amy và lá thư cô bé gửi ông già Noel xuất hiện trên trang nhất của tờ News Sentinel. Câu chuyện nhanh chóng lan nhanh. Trên cả nước, báo chí, đài phát thanh và truyền hình đều tường thuật về câu chuyện của cô bé ở Fort Wayne, Indiana, cô bé chỉ mong 1 món quà đơn giản nhưng đầy ý nghĩa của đêm Giáng Sinh - 1 ngày ko bị cười nhạo.

Hôm ấy như thường lệ bưu tá lại đến nhà Hagadorn. Rất nhiều thư được gửi cho Amy, cả trẻ em và người lớn trên khắp nước Mỹ. Đó là nhưng thiệp mừng hoặc những lời động viên khích lệ.

Suốt mùa Giáng sinh, hơn 2 ngàn người trên khắp thế giới đã gửi đến cho Amy những lá thư thân ái và động viên. Cả nhà Amy đọc từng lá thư một. Một số viết rằng họ cũng bị tật và bị chế giễu khi còn nhỏ. Mỗi lá thư là 1 lời nhắn gửi đặc biệt. Thông qua những lá thư và thiệp của mọi người, Amy phát hiện ra 1 thế giới toàn những bạn bè thực sự quan tâm và lo lắng cho nhau. Cô bé nhận ra rằng, ko còn bất cứ lời chế giễu nào có thể làm cho cô cảm thấy bị bỏ rơi.

Nhiều người đã cảm ơn Amy đã dám mạnh dạn bày tỏ mong ước của mình. Những người khác động viên Amy bỏ ngoài tai những lời chế nhạo và phả luôn luôn ngẩng cao đầu. Lynn - 1 cô bé học lớp 6 ở Texas, đã gửi cho Amy : "Mình muốn làm bạn của cậu và nếu cậu muốn thăm mình, chúng ta có thể chơi đùa với nhau. Ko ai có thể cười cợt chúng ta, và dù họ có làm như thế, chúng mình cũng chẳng thèm nghe."

Amy đã có 1 điều ước thật đặc biệt ko bị giễu cợt ở trường tiểu học South Wayne. Hơn thế, tất cả mọi người ở trường được thêm 1 bài học. Cả thầy và trò cùng nói chuyện với nhau về việc chế nhạo đã làm cho người khác cảm thấy bị tổn thương như thế nào.

Năm đó, thị trưởng Fort Wayne chính thức tuyên bố ngày 21/12 là ngày Amy Jo Hagadorn trên khắp thành phố. Thị trưởng giải thích rằng, bằng cách dám đưa ra 1 điều ước đơn giản như thế, Amy đã dạy cho mọi người 1 bài học.

Thị trưởng phát biểu rằng "Mọi người đều mong muốn và xứng đáng được người khác đối xử tôn trọng, thân ái và quý mến".

ĐÔI LÚC CHA QUÊN

Con trai của cha,

Cách đây vài phút, cha đang ngồi đọc báo, chợt nhớ và nghĩ lại cách đối xử của cha với con hôm nay. Cha rất hối hận và không còn tâm trí để đọc báo nữa. Dù biết là con đang ngủ, nhưng sự cắn rứt, cảm giác bất an của một người có tội. Cha phải lẻn vào phòng, đến bên giường con để nói với con những lời thú tội này cha mới yên tâm. Nhìn con đang nằm, một bàn tay nhỏ nhắn đang nắm lại, để kề dưới má, những lọn tóc vàng ướt dính sát vào vầng trán đẩm mồ hôi. Cha đang rất ân hận, khi ôn lại cách đối xử của cha, với con hôm nay .

Buổi sáng, lúc con đang mặc quần áo chuẩn bị đi học, cha đã giận dữ, đã la rầy con chỉ vì con rửa mặt không sạch, đã mắng con chỉ vì con chưa đánh bóng đôi giày, rồi cha nghiêm khắc dạy bài học ngăn nắp khi con không sắp xếp đồ đạc gọn gàng và để rơi rớt lung tung trên sàn nhà. Lúc đang ăn điểm tâm, thì cha lại không để yên cho con ăn, mà phải tìm kiếm khuyết điểm của con, bắt con nghe thêm những lời phê bình khác như: Con làm rơi vãi thức ăn, con ăn uống hấp tấp quá, con đặt cùi chỏ lên mặt bàn, con phết quá nhiều bơ lên bánh mì... Khi cha rời nhà đi làm, mặc dù đang chơi, con cũng đã nhớ quay lại, vẫy tay chào ba và nói: "Ba đi làm vui!". Thay vì lời cám ơn, hay chúc con vui vẻ lại, thì cha đã cau mày và mắng con: "Đi đứng cho đàng hoàng, giữ cái vai cho ngay thẳng!".

Đến chiều, cảnh cha "la rầy" con tiếp tục tái diễn.

Khi đi làm về, cha thấy con quỳ gối chơi bắn bi với bạn, bên lề đường, vớ con bị rách, lũng lỗ. Cha đã làm con xấu hổ trước mặt bạn bè, bằng cách, từ đó về đến nhà, cha bắt con đi trước, cha đi sau canh chừng. Và cha tiếp tục dạy con thêm bài học về giá trị của tiền bạc: " Đồ đạc, giày vớ tốn tiền và mắc mỏ. Nếu chính con bỏ tiền ra mua, con sẽ biết cẩn thận hơn!." Nghĩ lại, cha cảm thấy xấu hổ. Cha thật không xứng đáng là người cha !

Buổi tối, con có nhớ không? Khi cha đang xem báo trong phòng đọc sách, con đã đứng ở cửa phòng è dè, lưỡng lự với cặp mắt đầy lo âu. Thay vì đến ôm con vào lòng để dỗ dành, an ủi thì cha lại làm như bực dọc vì bị quấy rầy. Cha vẫn tiếp tục xem báo và hỏi con một cách cộc lốc:"Cái gì nữa đây?" Con không trả lời chi cả, chỉ chạy nhanh đến ôm cổ cha, siết chặt bằng thứ tình yêu cha con mà Thượng Đế đã ươm mầm và nở hoa trong tim con, mà sự thờ ơ và vô tình của cha cũng không thể làm héo úa. Cha đã im lặng, lắng nghe tiếng bước chân của con trên từng bậc thang và xa dần.

Tờ báo vuột khỏi tay cha một cách vô thức, một cảm giác rất là khó chịu cho cha khi chợt nhận ra những thói quen của cha như: Chỉ nhìn thấy khuyết điểm của con, để la rầy, để phê bình...thay vì những lời khen thưởng, vỗ về, an ủi, chỉ dạy thân mật... mà một đứa bé, ở lứa tuổi của con rất cần để có một tuổi thơ trọn vẹn, để sống như một đứa bé. Con trai cưng, cha thương con nhiều lắm, nhưng cha đã vụng về và sai sót trong cách xử sự, biểu hiện tình thương của cha cho con. Cha đã dùng chuẩn mực của một người trưởng thành để đối xử với con - một đứa trẻ thơ.

Cha đã nhìn thấy, trong con, sự kết hợp diệu kỳ của những gì tốt đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng cho loài người. Trái tim bé bỏng của con, với cha, nó đã lớn như ánh mặt trời lúc bình minh soi sáng vạn vật. Dù cha đã thờ ơ và vô tình, nhưng phần con thì con vẫn thấy cần thiết phải chạy đến hôn cha:"Chúc ngủ ngon". Nụ hôn "chúc ngủ ngon" của con đã chứng tỏ tất cả. Đêm nay, với cha, không có gì quan trọng hơn so với con trai của cha. Trong bóng tối, cha đã quỳ bên giường con và sám hối. Cha rất hổ thẹn !

Đây là sự chuộc tội một cách yếu ớt, không thực tế của cha. Cha biết, con không thể hiểu đâu, nếu cha nói những điều này trong lúc con đang thức. Nhưng ngày mai, cha sẽ là một người cha thực sự và đúng nghĩa. Cha sẽ là bạn của con, chia xẻ mọi việc với con, buồn khi con buồn, vui khi con vui và cười khi con cười. Nếu con lỡ có làm việc gì sai, cha sẽ không nóng giận nữa. Cha sẽ luôn luôn tự nhắc cha:"Con chỉ là một đứa trẻ thơ!".

Tha thứ cho cha con nhé! Cha đã quên con chỉ là một đứa bé, cha đã đối xử khắt khe với con như một người lớn. Nhìn con trong lúc này, đang nằm co một cách mệt mỏi trên giường. Cha đã nhận ra, con trai của cha vẫn chỉ là một đứa bé. Như mới hôm nào đây, con vẫn còn nằm trong vòng tay chăm sóc, bồng ẩm, nâng niu... của mẹ con. Cha đã đòi hỏi ở con quá nhiều! Thiệt là quá nhiều!

Đưa những con sao biển về nhà

Một sớm tinh mơ, khi mặt biển còn mù sương, tôi bắt đầu chạy thể dục với chiếc walkman đeo bên hông. Ở phía xa, tôi thấy một cậu bé có vẻ bận rộn. Cậu chạy lăng xăng, cúi nhặt những vật gì đó rồi quăng nó xuống biển. Nếu đó là trò chơi thi ném đá thì tôi có thể trổ tài cùng cậu bé. Ngày nhỏ, tôi cũng thường hay chơi trò này. Nhưng khi nghe thấy tiếng cậu hét: "Về nhà ngay nhé! Bố mẹ mày đang đợi đấy!"

Có thể bạn không tin, như chính tôi lúc ấy, như những "viên đá" đó thì ra là những con sao biển bị mắc cạn trên bãi. Và vị cứu tinh nhỏ này đang cố gắng đưa chúng trở lại bãi biển, chạy đua với Mặt trời mà chỉ vài giờ nữa thôi sẽ trở nên gay gắt và không tài nào chịu đựng nổi.

Nhưng những cố gắng của cậu bé rồi sẽ chỉ là công cốc thôi. Làm sao có thể đưa hàng ngàn con sao biển về "nhà" của chúng được? Tôi gọi to: " Này nhóc, làm thế làm gì? Làm sao em cứu được tất cả những con sao biển?"

Cậu bé lại cúi xuống, nhặt một con sao biển và hét trả lời: "Nhưng em có thể cứu được con này mà. Nó sẽ được về nhà!" Cậu bé vung tay quăng con vật bé nhỏ xuống biển. Rồi lại lặp tức cúi xuống với một con khác...

Rõ ràng cậu bé không quan tâm đến việc có vô số những con sao biển trên cát. Cậu chỉ nhìn thấy những sự sống mà cậu đang nắm trong tay. Cái mà cậu bé nhìn thấy, dù chỉ là một con số nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa. Còn tôi, tôi nhìn thấy một con số quá khổng lồ đó là vô vọng.

Thế là tôi cúi xuống nhặt một con sao biển lên và đưa nó về nhà.

Đừng chần chừ

Trong một lớp học dành cho người lớn mà tôi phụ trách, mới đây, tôi đã làm một việc mà thật "khó lòng tha thứ". Đó là bài tập về nhà mà tôi ra cho lớp, bài tập như sau: "Nội trong tuần tới, hãy đến gặp một người mà bạn yêu thương và bày tỏ tình cảm của mình với người đó. Đó phải là người mà đã lâu lắm rồi hoặc từ trước tới nay bạn chưa bao giờ thổ lộ điều đó với họ".

Nghe ra thì đó chẳng phải là một bài làm khó khăn gì mấy, nhưng nghĩ lại thì chuyện đó quả là quá khó đối với một số người vì hầu hết những người đàn ông trong lớp tôi đều đã bước qua cái tuổi ba mươi lăm và thế hệ của họ đưsợc nuôi dạy rằng bày tỏ tình cảm hay khóc lóc thì không đáng mặt đàn ông tí nào.

Đến buổi học sau, tôi hỏi cả lớp xem có ai muốn chia sẻ câu chuyện sau khi họ thổ lộ tình cảm với một người thân của mình hay không. Và như thường lệ, tôi chờ đợi cánh tay của một phụ nữ, nhưng lạ thay hôm nay lại là một người đàn ông xung phong phát biểu. Anh ấy có vẻ xúc động, giọng nói hơi run run.

Anh ta đứng dậy và nói: "Dennis, tuần rồi tôi đã thực sự rất giận thầy khi thầy cho chúng tôi bài tập về nhà này. Tôi không nghĩ là mình có một ai để bày tỏ tình cảm, hơn nữa, thầy là ai mà dám bảo chúng tôi phải làm những việc hoàn toàn riêng tư như thế. Thế nhưng, trên đường lái xe về nhà, lương tâm tôi mách bảo rằng tôi cần nói những lời đó với một người. Cách đây năm năm, giữa tôi và cha tôi xảy ra sự mâu thuẫn gay gắt mà không có cách nào giải quyết. Chúng tôi tránh gặp mặt nhau tối đa, ngoại trừ những lần họp mặt gia đình hay lễ lộc. Mà dẫu có gặp thì cũng hiếm khi nào nói chuyện với nhau. Vì vậy, tôi nghĩ, người mà mình sẽ bày tỏ tình cảm chính là cha tôi.

"Kỳ lạ thay, dường như quyết định đó đã giúp tôi trút đi gánh nặng trong lòng bấy lâu nay".

"Vừa về đến nhà, tôi vội vã chạy đi tìm vợ để nói cho cô ấy biết dự định của mình. Nghe xong, cô ấy ôm chầm lấy tôi và lần đầu tiên kể từ ngày lấy nhau, vợ tôi mới nhìn thấy tôi khóc. Chúng tôi đã thức quá nửa đêm uống cà phê và tâm sự với nhau mọi chuyện. Điều đó quả thật là tuyệt diệu!"

"Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm, hay đúng ra là tôi cảm thấy quá sảng khoái đến mức không thể chợp mắt. Đến 9 giờ, tôi gọi điện cho cha. Ông nhấc máy, tôi nói: "Cha, sau giờ làm con đến nhé? Con có chuyện cần nói!" "Lại chuyện gì nữa đây?", ông trả lời bằng một giọng gắt gỏng. Tôi bảo rằng ông hãy cố chờ đến lúc gặp nhau và ông đã đồng ý".

"5: 30, tôi bấm chuông cửa nhà cha mẹ, cầu cho người mở cửa sẽ là cha vì nếu mẹ ra tôi sẽ lóng ngóng và sẽ nói luôn với mẹ thay vì phải nói với cha tôi. May thay, cha tôi đã xuất hiện trước ngưỡng cửa".

'Con không làm mất thời gian của cha đâu', tôi bước một chân vào cửa và nói: 'Cha à, con đến chỉ để nói rằng con rất yêu cha".

"Dường như có một sự biến đổi diễn ra trong ông. Trước mắt tôi, gương mặt cha dịu lại, các nếp nhăn dường như biến mất và ông bắt đầu khóc. Ông bước đến, ôm chầm lấy tôi và nói: 'Cha cũng yêu con, con trai ạ! Chỉ là từ trước đến giờ cha không thể nói ra'.

"Đó quả là một khoảnh khắc quý giá mà tôi không bao giờ muốn mất đi. Đã từ lâu rồi, tôi chưa có một cảm giác tuyệt diệu đến thế".

"Nhưng đó chưa phải là điều mà tôi muốn nói. Hai ngày sau chuyến viếng thăm đó, cha tôi bị một cơn đau tim phải nhập viện và hiện nay đã rơi vào tình trạng hôn mê. Tôi không biết liệu ông có thể qua khỏi hay không".

"Điều mà tôi muốn nói với tất cả các bạn ở đây là: Đừng chần chừ đối với những việc mà bản thân mình biết mình phải làm. Nếu tôi không kịp nói với cha những lời đó - có lẽ tôi sẽ không còn cơ hội thứ hai".

Gai của hoa hồng

"Ông đúng là ông già khó chịu!", Becky nói với ông già khi cô đi ra khỏi phòng bệnh của ông ta ở bệnh viện nhân đạo, nơi mà cô đã làm việc hơn một năm nay.

Bệnh nhân mới này ở đây được khoảng hai tuần và ông ta làm cho cuộc sống của tất cả các y tá trở thành địa ngục. Ông ta chửi rủa, quát, đá tất cả những ai lại gần ông ta. Đó là còn chưa kể việc ông ta cố tình đổ thừa ăn ra giường để y tá phải đến dọn, và để ông ta có thể nguyền rủa thêm. Becky không nghĩ là ông ta có người thân vì chẳng có ai đến thăm ông, ít nhất là trong khoảng thời gian cô phải chăm sóc ông ta.

Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ chức phụ nữ đến thăm. Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân già kia.

Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu:

- Sao cô lại làm thế?

- Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? - Becky đáp - Ông đã phá vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh hoa một, kể từ khi ông đến đây.

Rồi Becky đi ra.

Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng dính một cách vụng về.

Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy, có ghi: "Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ có một người thân."

Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ tới ông ấy.

Gánh xiếc

Có lần khi tôi còn là một thiếu niên, cha tôi và tôi đứng xếp hàng để mua vé vào xem xiếc. Cuối cùng chỉ còn một gia đình đứng sắp hàng giữa chúng tôi và quầy bán vé. Gia đình này đã gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc. Gia đình đó có 8 đứa con, tất cả có lẽ đều dưới 12 tuổi. ta có thể nói là họ không có nhiều tiền. Quần áo của họ không phải thuộc loại đắt tiền, nhưng sạch sẽ. Bọn trẻ ngoan ngoãn, tất cả đều đứng xếp hàng phía sau bố mẹ chúng, từng hai đứa một, nắm tay nhau. Chúng nói một cách liếng thoắng về các chú hề, những con voi và những tiết mục khác mà chúng sẽ xem đêm đó. Người ta có thể có cảm giác là trước đó chúng chưa được đi xem xiếc bao giờ. Việc được đi xem xiếc có vẻ như là một nét nổi bật nhất trong cuộc đời trẻ thơ của chúng.

Người cha và người mẹ đứng ở đằng đầu lũ trẻ này trông hết sức hãnh diện. Người mẹ nắm tay chồng mình, ngước nhìn ông như muốn nói:"Anh là hiệp sĩ của em trong bộ áo giáp sáng loáng". Ông ấy mỉm cười và ấm lòng với niềm tự hào, ông nhìn bà như muốn trả lời:"Em đã nói đúng".

Cô bán vé hỏi người cha muốn mua bao nhiêu vé. Ông hãnh diện trả lời:"Làm ơn bán cho tôi 8 vé trẻ em và 2 vé người lớn để tôi có thể đem cả gia đìnhvào xem xiếc".

Cô bán vé nói giá tiền.

Bà vợ rút bàn tay của mình ra khỏi bàn tay ông, đầu bà cuối xuống, môi người đàn ông này bắt đầu run run. Người cha nghiêng người hơi sát hơn vào quầy bán vé một chút và hỏi:"Cô nói bao nhiêu tiền?".

Cô bán vé nhắc lại giá tiền.

Người đàn ông này không có đủ tiền.

Ông phải quay lại để nói với 8 đứa con ông rằng ông không có đủ tiền để đưa chúng vào xem xiếc chăng?

Nhìn thấy việc đang diễn ra, cha tôi đút tay vào túi quần của ông rút ra một tờ 20 đola và đánh rơi tờ giấy bạc xuống đất. (Chúng tôi thật sự chẳng giàu có gì!)Cha tôi cúi xuống, nhặt tờ giấy bạc lên, vỗ vào vai người đàn ông và nói:"Xin lỗi ông, tờ giấy bạc này ở túi ông rơi ra."

Người đàn ông biết việc gì đang xảy ra. Ông ấy không xin của bố thí nhưng chắc chắn là trân trọng sự giúp đỡ này trong một tình huống tuyệt vọng, đau lòng và bối rối. Ông ấy nhìn thẳng vào mắt cha tôi, nắm lấy tay cha tôi trong cả hai bàn tay của ông ấy, siết chặt vào tờ 20 đola và môi ông run run cùng với lệ tuôn trào trên má, ông ấy nói:"cảm ơn, cảm ơn ông. Số tiền này thực sự rất có ý nghĩa đối với tôi và gia đình tôi"

Cha tôi cùng với tôi trở ra xe và lái xe về nhà. Đêm đó chúng tôi không vào xem xiếc, nhưng không phải chúng tôi không vào xem vì không có tiền.

Giá trị

Một nhà hùng biện nổi tiếng đã mỡ đầu buổi diễn thuyết của mình bằng cách giơ tờ 20 đôla lên và hỏi hơn 200 người tham dự rằng: "Ai muốn có tờ 20 đôla này?". Rất nhiều cánh tay giơ lên.

Ông nói "Tôi sẽ đưa tờ 20 đôla này cho một người trong số các bạn nhưng đầu tiên hãy để tôi làm điều này đã...". Ông bắt đầu vò nát tờ 20 đôla và sau đó lại hỏi: "Ai vẫn muốn tờ tiền này?". Vẫn có những cánh tay xung phong.

"Được... Vậy nếu tôi làm thế này thì sao?". Ông ném tờ 20 đôla xuống sàn, dùng giầy dẫm mạnh lên. Sau đó, ông nhặt nó lên. Bây giờ tờ 20 đôla đã nhàu nát và bẩn thỉu. "Nào, giờ thì còn ai muốn nó nữa không?", ông hỏi, vẫn có nhiều cánh tay giơ lên, chỉ giảm đi chút xíu so với ban đầu.

"Các bạn thân mến, các bạn vừa được học một bài học về giá trị. Dù tôi có làm gì với đồng tiền này thì các bạn vẫn cần nó vì giá trị của nó vẫn không hề giảm sút. Nó vẫn có giá là 20 đôla.

"Khỏe mạnh hay ốm yếu, thành công hay thất bại, đối với bạn bè, người thân, những người yêu mến bạn, bạn vẫn thật cần thiết. Giá trị của bạn là ở chính con người bạn. Bạn thật đặc biệt. Hãy luôn nhắc mình nhớ điều đó. Đừng ngồi đếm những nỗi buồn mà hãy thử đếm xem bao nhiêu lần bạn được hạnh phúc.

"Chúng ta có thể bị đánh gục, bị vò xé, bị giày xéo trong bùn đen bởi những quyết định sai lầm, những tình huống "đen đủi" bất chợt hiện ra cản con đường khiến chúng ta cảm thấy dường như mình chẳng còn giá trị. Nhưng dù điều gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra, bạn hãy luôn nhớ rằng bản thân bạn thật đáng quý và giá trị ấy sẽ không bao giờ mất đi". Và hãy giữ cho những giá trị đừng bao giờ mất đi, bạn nhé.

Giá trị của những câu hỏi

"Bọn chúng chẳng cần lý do gì cả. Chúng đến nhà anh chỉ vì anh là người gốc Do thái. Quân Đức Quốc xã xông vào nhà, lôi anh và cả gia đình anh đi. Ngay sau đó chúng lùa họ như bày gia súc và tống lên xe lửa rồi chở thẳng đến trại tập trung... chúng đã giết chết họ và chỉ mình anh còn sống.

Làm sao mà anh có thể sống nổi trước cảnh tượng hãi hùng phải nhìn thấy con mình nơi bộ quần áo của một đứa trẻ khác vì bây giờ con anh đã chết sau một cơn mưa đạn?

Thế nhưng anh vẫn phải sống.

Một hôm anh nhìn cơn ác mộng chung quanh mình và phải đối diện với một sự thật hiển nhiên : nếu anh còn ở đây thêm một ngày chắc chắn anh sẽ chết. Anh có một quyết định là phải thoát khỏi đây ngay lập tức! Anh không biết cách nào, anh chỉ biết mình phải trốn. Hàng tuần liền anh hỏi các bạn tù, "Làm sao chúng ta có thể thoát được nơi kinh hoàng này?". Anh hầu như luôn nhận được cùng một câu trả lời: "Đừng dại dột", họ trả lời "Không thể nào thoát nổi! Hỏi như vậy dằn vặt tâm trí anh mà thôi. Cứ chịu khó làm việc và cầu nguyện cho mình được sống sót". Nhưng anh không chấp nhận điều này - anh nhất định sẽ không chấp nhận như thế. Anh bị ám ảnh vì truyện trốn thoát và cho dù những câu hỏi của anh không có nghĩa gì, anh vẫn luôn luôn hỏi đi hỏi lại, "Làm sao tôi có thể trốn thoát? Phải có cách nào đó. Làm thế nào tôi có thể trốn thoát khỏi nơi này mà vẫn khoẻ, vẫn sống, ngay hôm nay?"

Có lời nói rằng bạn cứ xin thì sẽ được. Và không hiểu vì sao hôm ấy anh đã nhận được câu trả lời. Có thể vì anh hỏi quá sức mãnh liệt, có thể là vì anh đã ý thức rõ "bây giờ chính là thời điểm". Cũng có thể là vì anh liên tục tập trung vào một tiêu điểm là câu trả lời cho câu hỏi của mình. Bất luận lý do gì, sức mạnh vĩ đại của tâm trí và tinh thần đã thức tỉnh nơi người đàn ông này. Câu trả lời đã đến với anh từ một nguồn gốc lạ thường: mùi lợm giọng của xác người đã thối rữa. Ở đó chỉ cách vài bước cách chỗ anh lao động, anh thấy một đống xác người đã bị xúc lên thùng xe tải - đàn ông, đàn bà, trẻ em, tất cả đã bị hít khí ngạt. Những chiếc răng vàng của họ đã bị gỡ ra, mọi đồ trang sức quí báu mà họ có, thậm trí quần áo họ mang trên người, đều bị lột sạch. Lúc đó thay vì hỏi, "Làm sao quân Đức quốc xã có thể ghê tởm, mất nhân tính đến thế? Làm sao Thượng đế có thể làm một điều tàn ác đến thế? Tại sao thượng đế lại để truyện này xảy đến với tôi?" Stanislavsky Lech đã hỏi một câu hoàn toàn khác. Anh hỏi "Làm cách nào tôi có thể sử dụng điều này để trốn thoát?" Và ngay lập tức anh đã có câu trả lời.

Hoàng hôn đang sửa soạn kết thúc một ngày lao động, Lech chạy lại nấp sau chiếc xe tải. Chỉ trong nháy mắt anh đã lột bỏ hết quần áo và lẻn mình trần truồng vào đống xác chết mà không ai để ý. Anh giả bộ như đã chết, không một chút cử động cựa quật dù có lúc anh gần ngộp thở vì một số xác chết khác tiếp tục được đè lên người anh.

Mùi hôi thối của thịt người rữa, những cái xác chết cứng đơ bao bọc anh tứ phía. Anh chờ đợi và chờ đợi, hi vọng không một ai để ý đến một người vẫn còn sống giữa đám xác chết này và hi vọng sớm muộn chiếc xe tải cũng sẽ chạy đi.

Cuối cùng, anh nghe tiếng động cơ xe tải nổ. Anh cảm thấy chiếc xe rung lên. Và đúng lúc ấy anh cảm nghiệm được mối hy vọng của mình khi đang nằm im giữa đống xác chết. Rốt cuộc anh thấy xe dừng lại và rồi nó chút toàn bộ những thây ma xuống một chiếc hố rộng mênh mông bên ngoài trại. Lech cứ ở yên đó hàng giờ cho tới khi màn đêm buông xuống. Sau cùng anh ta cảm thấy chắc chắn không có ai ở đó, anh rúc ra khỏi núi thây người và chạy trần truồng suốt 25 dặm cho tới khi tìm được tự do.

Giữa Stanislavsky Lech và biết bao nhiêu người phải bỏ mạng ở trại tập trung, khác biệt ở chỗ nào? Tất nhiên có nhiều yếu tố nhưng một sự khác biệt quyết định chính là anh đã đặt một câu hỏi khác với những người kia. Anh đã hỏi một cách dai dẳng, hỏi và mong chờ có câu trả lời và trong tâm trí anh đã nảy sinh một giải pháp cứu sống anh. Những câu hỏi anh tự đặt ra hôm ấy ở Krakow đã khiến anh làm những quyết định chớp nhoáng ảnh hưởng trực tiếp tới số phận của anh. Nhưng trước khi anh nhận được câu trả lời, trước khi anh làm quyết định và trước khi có những hành động ấy, anh đã phải hỏi mình những câu hỏi đúng.

Tôi muốn nói cho bạn điều này, người ta khác nhau là ở sự khác biệt trong những câu hỏi mà người ta nêu ra một cách nhất quán. Khi người ta chán nản, lý do thường là vì họ cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi tiêu cực như, "Có ích gì? Cố gắng làm gì, rốt cuộc cũng chẳng thay đổi được gì. Trời sao lại là tôi cơ chứ?".

Nếu bạn hỏi một câu hỏi khủng khiếp, bạn sẽ nhận được câu trả lời khủng khiếp. Bộ não của bạn luôn sẵn sàng phục vụ bạn, nên bất kỳ bạn đưa ra một câu hỏi nào, nó chắc chắn sẽ có một câu trả lời.

Vì thế nếu bạn hỏi, "Tại sao tôi không bao giờ thành công?" nó sẽ cho bạn câu trả lời đại khái như sau : "Vì bạn ngốc nghếch lắm", hay vì bạn không đáng để làm điều gì đến nơi đến chốn".

Tôi cho bạn một ví dụ về những câu hỏi thông minh, đó là truyện về anh bạn W. Mitchell yêu quí của tôi. Bạn nghĩ làm sao anh ta có thể sống nổi với hai phần ba thân thể đã bị cháy mà vẫn còn cảm thấy yêu đời?... Sau vụ tai nạn máy bay, khi nằm trong bệnh viện và bị liệt từ chân trở xuống, anh đã gặp một phụ nữ thật hấp dẫn, một y tá tên là Annie. Mặt anh đã cháy đen hoàn toàn, thân thể liệt từ hông trở xuống, thế mà anh đã có cam đảm hỏi: "Tôi có cách nào làm quen với cô ấy không?". Các bạn anh trả lời, "Mày điên rồi, mày đang tự lừa dối mình". Nhưng một năm rưỡi sau, anh và Annie đã thân quen nhau và nay hai người đã trở thành vợ chồng. Đó là kết quả của những câu hỏi mãnh liệt: chúng đem lại cho chúng ta một nguồn năng lực không gì có thể thay thế: những câu trả lời và những giải pháp!"

"Điều quan trọng là đừng bao giờ ngưng đặt câu hỏi. Sự tò mò có tính hiện hữu của nó. Ta không thể nào không kinh ngạc khi chiêm ngắm những bí nhiệm của sự vĩnh cửu, của sự sống, của cơ cấu lạ lùng của ta thực tại. Chỉ cần người ta lãnh hội một chút bí nhiệm này mỗi ngày thôi đã đủ. Đừng bao giờ để mất sự tò mò lành thánh".- Albert Einstein

Giá trị thật của cuộc sống

Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến một vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo. "Ðây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình" - người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.

Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống ở đây, họ trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:

- Chuyến đi như thế nào hả con?

- Thật tuyệt vời bố ạ!

- Con đã thấy những người nghèo sống như thế nào rồi đấy!

- Ồ vâng.

- Thế con đã rút ra được điều gì từ chuyến đi này?

Ðứa bé không ngần ngại trả lời:

- Con thấy chúng ta có một con chó, họ có bốn. Nhà mình có một hồ bơi, họ lại có một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào vườn, họ lại có những ngôi sao lấp lánh vào đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, họ thì có cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, và họ có những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải mua thực phẩm còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở cho nhau.

Ðến đây người cha không nói gì cả.

- Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi.

Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những thứ quá tầm tay. Cũng có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác. Ðiều đó phụ thuộc vào cách nhìn, đánh giá và hoàn cảnh mỗi người. Xin đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì bạn chưa có mà bỏ quên điều bạn đang có, dù là chúng rất nhỏ nhoi.

Giấc mơ

Đó là một cuộc chạy đua tại địa phương - cuộc đua mà chúng tôi đã phải tập luyện gian khổ để được tham dự. Vết thương mới nhất ở chân của tôi vẫn chưa kịp lành. Thật sự tôi đã phải tự đấu tranh xem tôi có nên tham gia cuộc đua không. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng đang chuẩn bị tham dự vòng chạy 3,200m.

"Chuẩn bị... sẵn sàng..." Tiếng súng lệnh vang lên và chúng tôi xuất phát. Những đứa con gái khác đều chạy trước tôi. Tôi nhận ra rằng tôi đang cà nhắc một cách đáng xấu hổ ở đằng sau mọi người và tôi càng ngày càng xa ở sau.

Người chạy đầu tiên đã về đích trước tôi đến hai vòng chạy. "Hoan hô!" Đám đông hét lớn. Đó là tiếng hoan hô lớn nhất mà tôi từng nghe ở một cuộc đua.

"Có lẽ mình nên bỏ cuộc," tôi thầm nghĩ khi tôi cà nhắc tiếp. "Những người kia không muốn chờ để mình chạy tới đích." Nhưng cuối cùng thì tôi cũng quyết định chạy tiếp. Hai vòng chạy cuối cùng tôi đã chạy trong đau đớn. Tôi quyết định không tham gia chạy vào năm tới. Thật không đáng, dù cho chân của tôi có khỏi hay không. Tôi cũng không thể thắng nổi cái cô bé đã thắng tôi đến hai lần.

Khi tới đích, tôi nghe tiếng hoan hô - cũng lớn như lần trước khi cô bé kia tới đích. "Có gì vậy?" Tôi tự hỏi. Tôi quay lại nhìn và thấy bọn con trai đang chuẩn bị vào vòng chạy. "Đúng rồi, họ đang hoan hô mấy đứa con trai."

Tôi đang chạy thẳng vào nhà tắm thì có một cô gái đâm sầm vào tôi. "Oa, bạn thiệt là có lòng dũng cảm!" cô gái đó nói với tôi.

Tôi nghĩ thầm "Lòng dũng cảm? Cô này chắc nhầm mình với ai rồi. Tôi thua mà!"

"Nếu tôi thì đã không thể chạy nổi hai dặm như bạn vừa làm. Tôi chắc sẽ bỏ cuộc ngay từ vòng đầu tiên. Chân bạn có sao không? Chúng tôi đã hoan hô cổ vũ bạn đó. Bạn có nghe không?"

Tôi không thể tin nổi. Một người lạ hoắc lại hoan hô tôi - không phải vì cô ấy muốn tôi thắng, mà vì cô ấy muốn tôi tiếp tục mà không bỏ cuộc. Tôi lại lấy lại được niềm hy vọng. Tôi quyết định sẽ tham gia kỳ thi đấu năm tới. Một cô gái đã lấy lại cho tôi ước mơ của mình.

Vào hôm đó tôi học được hai điều:

- Thứ nhất, một chút thân ái và tin tưởng vào người khác có thể làm thay đổi người đó rất nhiều.

- Thứ hai, sức mạnh và dũng khí không phải luôn được đo bằng những huy chương và những chiến thắng. Chúng được đo bằng những vật lộn mà chúng ta vượt qua được. Những người mạnh nhất không phải lúc nào cũng là những người thắng cuộc mà là những người không bỏ cuộc khi họ đã thua.

Tôi chỉ có một ước mơ vào ngày đó - có lẽ là khi cuối cấp - tôi có thể thắng cuộc đua này với tiếng hoan hô vang dội như khi tôi được hoan hô ngày hôm nay

Hạnh phúc vô biên

Trong một căn phòng ở bệnh viện có hai người đàn ông lớn tuổi đang bị bệnh rất nặng. Một trong số hai người được phép ngồi dậy một giờ mỗi buổi chiều.

Trong phòng chỉ có mỗi một cửa sổ nhìn ra bên ngoài lại nằm cạnh giường người đàn ông này. Người thứ hai bị buộc phải nằm bất động trên giường mà không được đi lại hay ngồi dậy. Hai người đàn ông nói chuyện với nhau rất nhiều. Họ kể cho nhau nghe về vợ con, gia đình, công việc, về cuộc sống của họ trong quân ngũ và cả về nơi họ đã đi nghỉ mát.

Vào mỗi buổi chiều khi người đàn ông có giường bên cạnh cửa sổ ngồi dậy, ông ta kể cho người bạn cùng phòng của mình nghe về những điều ông thấy bên ngoài cánh cửa. Người thứ hai dần dần chỉ sống bằng những khoảng một tiếng, khi mà cuộc sống buồn chán của ông được làm tươi sáng và sinh động hơn bởi những hoạt động và màu sắc từ thế giới bên ngoài cửa sổ. Khung cửa nhìn ra một công viên với một hồ nước rất đẹp. Vịt trời và thiên nga bơi lội trên mặt nước trong khi những đứa trẻ thả những con thuyền nhỏ của chúng bên bờ hồ. Những cặp tình nhân đi dạo tay trong tay giữa rừng hoa muôn màu.

Người đàn ông bên cửa sổ mô tả những cảnh này chi tiết đến mức người thứ hai có thể nhắm mắt lại và tưởng tượng ra toàn bộ khung cảnh. Có ngày người ngồi bên cửa sổ kể về một cuộc diễu hành đi ngang qua. Dù lúc đó người thứ hai không nghe thấy tiếng nhạc, ông ta vẫn có thể tưởng tượng được qua những mô tả của người thứ nhất. Ngày lại ngày trôi qua như vậy.

Một buổi sáng, khi y tá đến thăm, người đàn ông bên cửa sổ đã qua đời trong đêm. Ai cũng rất đau buồn vì chuyện này. Sau khi mọi việc đã qua, người thứ hai hỏi xin được chuyển đến bên cửa sổ. Cô y tá chuyển người này và sau đó rời khỏi phòng.

Chậm rãi và đau đớn, người đàn ông cố nhấc mình lên để nhìn ra ngoài cửa sổ lần đầu tiên. Cuối cùng, ông cũng có thể tự mình nhìn ra ngoài. Ông cố gắng xoay người nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài là một bức tường rất cao che hết tầm nhìn. Người đàn ông vô cùng ngạc nhiên. Ông hỏi cô y tá tại sao mà người bạn cùng phòng vừa mới qua đời có thể kể về những điều kỳ diệu như vậy, hệt như ông ta đang nhìn thấy thật. Cô y tá suy nghĩ một chút rồi trả lời. "Có lẽ ông ta muốn khích lệ ông đó," cô y tá nói.

Hạnh phúc thay, khi có thể làm cho người khác hạnh phúc, bất kể chúng ta đang ở trong tình cảnh nào. Chia buồn làm giảm nỗi đau, nhưng chung vui lại làm tăng niềm hạnh phúc. Nếu bạn muốn cảm thấy mình giàu có, hãy tính tất cả những điều bạn đang có mà tiền bạc không thể mua được.

Tác giả của câu chuyện này không rõ là ai, nhưng nó đem lại hạnh phúc và may mắn cho những ai đọc nó. Đây là một lá thư, nhưng đừng giữ lại lá thư này, cũng đừng gửi tiền cho ai cả. Hãy gửi lá thư này cho những người bạn của bạn mà bạn ước muốn đem lại may mắn cho họ. Bạn sẽ thấy rằng những điều tốt đẹp sẽ đến với bạn trong thời gian gần nhất!

Hãy nhớ rằng, khi bạn bắt đầu tin tưởng, bạn đã bắt đầu thực hiện ước mơ của mình... và một ngày kia, khi mà bạn ít ngờ tới nhất, ước mơ của bạn sẽ thành sự thật!! Đừng bao giờ mất niềm tin nơi bản thân mình và những ước mơ của bạn bởi vì có thể một điều gì đó tốt đẹp sẽ xảy ra với chính bạn!!!

Chúc bạn may mắn!!!

Câu chuyện thật hay và thật cảm động .

Trong cuộc sống, đem được niềm vui tới cho mọi người cũng chính là đem niềm vui tới cho chính mình, cái triết lý đơn giản này mong rằng ai cũng hiểu .Nếu được như vậy thì trái đất này tràn đầy hạnh phúc và niềm vui

Qua cửa sổ bức tường lạnh lùng và câm lặng

Nhưng với ta là cả một thế giới muôn màu

Có hương có hoa có bầu trời xanh biếc

Mặt hồ xa liễu rủ bóng thiên nga

Bạn đi rồi ! ta nhìn qua khung cửa

Chợt bàng hoàng ! lòng bạn xiết bao la

Bạn đã xa nhưng bao lời bạn kể

Đẹp như đời, lấp lánh ánh sao sa .

Hay Dở Tự Ở Mình

Khổng Tử đang dạy học trò, bỗng thấy người hơi oải, liền đứng dậy bước ra hòn non bộ. Ngó vào nơi xa vắng, mà tự nhủ lấy thân:

- Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa. Uống rượu mà gặp được người hiểu mình, thì dẫu nốc cả ngàn chung, cũng chẳng ăn thua gì hết cả. Còn trò chuyện mà gặp người tầm phào ba láp, thì dẫu nói nửa câu, cũng giống như chưa nói gì đó vậy. Ta, bởi mang tiếng là hiền sĩ. Chuyên nói chuyện nghĩa nhân, nên... thiên bôi thiểu chưa bao giờ có đặng. Thiệt là đáng tiếc!

Rồi đang lúc thả hồn theo đầu mây ngọn cỏ. Chợt nghe tiếng rào rào chan chát tận bên tai:

- Lễ to, lộc nhiều. Thầy đã có học trò khắp hang cùng ngõ hẻm. Sao lại chẳng vui?

Khổng Tử giật mình quay lại, thấy Mạnh Tử đang khoanh tay đứng lặng gần bên, bèn nhỏ giọng nói rằng:

- Ta lỡ mang tiếng dạy Đạo Thánh Hiền, nên suốt tuổi thanh xuân chưa một lần nhậu mút chỉ cần câu, đâm dâng niềm tiếc nuối. Ta lại buồn lòng trộm nghĩ: Đời người như giấc mộng. Thoáng một cái đã tóc bạc tùm lum - mà chẳng chịu vui chơi - thì hối hận mang mang e khó lòng tránh đặng!

Mạnh Tử chau mày lại mà suy nghĩ, rồi cẩn trọng thưa:

- Mới lúc nãy trời đang tốt đẹp. Giờ đã âm u. Thời tiết thay đổi bất thường. Thật chẳng khác đời người khi đen khi sáng. Lúc lạnh lẽo co ro. Lúc ấm áp tâm can như bên nồi bánh chưng vậy. Nay thầy đã hiểu được tình tri kỷ, mà muốn chuyện... dzô dzô, thì cõi nhân sinh ắt mừng vui lắm lắm!

Khổng Tử dịu nét mặt lại. Hít một hơi sâu, rồi khoan khoái nói:

- Tâm bệnh ta ngươi đã rõ. Ước vọng ta ngươi đã hay. Chờ chi không tính?

Mạnh Tử bỗng nở một nụ cười thật tươi. Ngước mặt lên trời. Tha thiết nói:

- Xin Hoàng Thiên phù hộ. Cho việc lớn hóa nhỏ. Việc nhỏ hóa không, để nhậu nhẹt vui chơi đừng đụng chạm đến bàn dân bá tánh!

Khổng Tử nghe vậy, phớn phở cả mặt mày. Cất tiếng đáp:

- Gặp bất cứ việc gì, mà biết thu dọn vén gom, thì dẫu đã thác đi vẫn còn là quân tử!

Mạnh Tử liền nhìn thẳng vào mắt của thầy. Chợt thấy cả một trời mơ ước, bèn động mối quan hoài mà tự nhủ lấy thân:

- Thầy tới tuổi da mồi tóc bạc, mà vẫn sợ tiếng đời dị nghị khen chê, thì chẳng trách cõi nhân sinh... nổ tùm lum tứ tán.

Đoạn, trìu mến nhìn thầy. Chậm rãi thưa:

- Nước Quắc đất rộng người thưa, lại cầu hiền như khát nước, là một điều hay. Rượu nước Quắc dẫu độ hơi cao, nhưng cái hậu như... trời bay mây cuốn, là hai điều hay. Đất Quắc gần rừng hơn biển, nên gánh chịu cái âm, thành thử quý mến nam nhi hổng biết bao nhiêu mà nói, là ba điều hay. Học trò theo thầy mài dùi kinh sử. Chưa thấm chuyện yêu đương. Nếu qua kia kết nối tình giai ngẫu, thì trước là có hương khói dành tặng tổ tiên. Sau tiết kiệm được kim ngân vì bên ấy người ta lo hết cả, là bốn điều hay. Theo thầy, vừa đặng chữ Thánh Hiền. Vừa được hiền thê, thì công đức ấy tính trăm năm cũng khó lòng so sánh đặng, là năm điều hay. Với năm điều hay ấy, thì chữ lợi danh đã bày ra trước mắt. Sao lại bỏ đi?

Khổng Tử bèn chớp mắt mấy cái, rồi bảo dạ rằng:

- Điều quan trọng nhất của đời người, là biết chụp cơ hội. Không để nó chạy đi. Chớ có là quân tử tiểu nhân cũng chẳng nhằm chi hết cả!

Rồi gật đầu ưng thuận. Quyết chẳng đắn đo gì nữa cả. Qua ngày mai, Mạnh Tử thay thầy công bố chuyến du hành qua đất Quắc. Chợt thấy Bật Tử Tiện đứng ào lên ghế. Vội vã thưa:

- Đi sang đất Quắc để xiển dương Đạo Thánh Hiền, mà thiếu hụt kim ngân, thì dẫu chơi hết sức cũng đến ngày... đứt chến!

Mạnh Tử nghiêm mặt lại. Chắc nịch đáp rằng:

- Mỗi người ủng hộ cho thầy một con gà, một giạ lúa, thì có đi đến sang năm, cũng chẳng bao giờ đói cả!

Ngày nọ. Thầy trò Khổng Tử đi đến biên thùy của đất Quắc, mới dừng chân hạ trại. Nam phụ lão trừ... ấu của đất Quắc, mừng hơn bắt được vàng, bèn hè nhau ngã heo bò ra mà đãi. Rượu thịt no say, khiến Khổng Tử cảm thấy thảnh thơi trong cõi đời ô trọc. Lúc ấy, có Điền Phương là võ quan cai quản địa hạt đó, mới nhân lúc Khổng Tử vừa mới... khà xong. Kính cẩn hỏi rằng:

- Thầy hiểu nhiều biết rộng, xin phân giải dùm con. Làm vua. Dễ hay là khó?

Khổng Tử liền với tay ực cho một phát. Khẳng khái đáp:

- Làm vua một quốc gia, nếu gặp hạng bất nhân, thì không thể nào nói phải trái với họ được. Quốc gia suy yếu. Ngoại biến đến nơi, họ vẫn cho là yên. Thiên tai loạn lạc khắp nơi, họ không cho là hại. Thậm chí con đường diệt vong đang bày ra trước mắt, họ vẫn cứ vui chơi, mà chẳng nghĩ đến bá tánh đang tàn trong nước mắt. Còn gặp phải hạng người nhu nhược, thì trước là sợ ngoại bang. Sau o đám nịnh thần đang ngày đêm bâu xé. Còn như gặp phải người nhân hậu, biết nghĩ đến bàn dân lê thứ, thì... mệnh yểu mạng vong. Chẳng có ngon cơm gì hết cả!

Rồi yên lòng mà nhậu. Điền Phương thấy vậy, mới về lại chốn quan nha. Gọi thuộc quyền đến, mà nói rằng:

- Đất ta rừng vàng biển bạc, mà mấy năm liền không đủ thuế để nộp cho triều đình. Là cớ làm sao?

Thuộc quyền nhao nhao đáp:

- Nhân lực không đủ. Mần răng mà khai thác?

Lúc ấy, Điền Phương mới cười mĩm chi một phát. Hớn hở nói:

- Ta quan sát mấy ngày, thấy học trò của Khổng Phu Tử chẳng ma nào đeo nhẫn. Ắt còn sự... trinh nguyên. Sao không tính cho ngày sau sung túc?

Thuộc quyền sáng rỡ cả mặt mày. Khoan khoái đáp:

- Vậy ta phải làm sao?

Điền Phương liền dõi mắt vào cõi mông lung, như cố thấy một bình minh tươi sáng. Quyết liệt nói rằng:

- Hãy hạ lệnh cho tất cả con gái chưa chồng. Tập dịu ngọt khoan thai, thì dân số sẽ tăng liền trong năm tới!

Rồi một hôm, Khổng Tử đang uống rượu cần. Chợt có đứa trẻ ngồi ở lưng trâu tà tà qua trước ngõ. Mở miệng hát vang:

- Thương lang chi thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương lang chi thủy trạc hề, khả dĩ trạc ngã túc. Còn thương lang chi thủy nửa trạc nửa thanh, thì... túc túc anh anh cái gì cũng đặng.

Khổng Tử bỗng biến đổi sắc mặt. Hớt hãi nói:

- Chân lý cuộc đời. Sao thằng này lại biết?

Rồi nghệch mặt ra mà suy nghĩ. Lúc ấy, có Mạnh tử đang hầu rượu gần bên, bất chợt thấy da mặt của thầy đang chuyển dần qua tái. Sợ hãi nói rằng:

- Lời của đứa trẻ chăn trâu. Hà cớ chi thầy phải ưu tư nhiều đến thế?

Khổng Tử như còn ở trong mơ, nên chẳng buồn đáp lại. Đã vậy còn thì thào tự nhủ lấy thân:

- Nước sông Thương lang nếu mà trong, thì ta dùng để giặt giải mũ. Nước sông Thương lang nếu mà đục, thì ta dùng để rửa chân. Còn nước sông Thương lang nửa đục nửa trong, thì giặt mũ rửa chân cái gì chơi cũng được...

Rồi miệng hít hà. Đầu gật năm ba cái, khiến Mạnh Tử chẳng hiểu đặng mô tê. Dọt miệng nói rằng:

- Chỉ một lời nói, mà khiến thầy phải dừng ngay... cơn nhậu. Là cớ làm sao?

Khổng Tử thở liền ra mấy cái. Thận trọng đáp:

- Nước trong người ta mới giặt giải mũ. Nước đục chỉ để rửa chân. Đều do nước tự mình mà làm ra cả.

Đoạn, ngừng một chút để tâm hồn lắng xuống, mới từ từ nói tiếp:

- Còn nước nửa đục nửa trong, thì ai làm gì cũng được. Ta nghĩ. Chân lý cuộc đời nó nằm ngay đó. Ở chỗ đục trộn trong. Chớ không thể tách đục trong ra hai phần khác đặng...

Tử Tiện vừa bưng dĩa mồi vô. Nghe vậy, buột miệng nói:

- Thầy có thể giải thích phần nào cho rõ thấu được chăng?

Khổng Tử sửa tướng lại. Một tay gắp mồi. Tay cụng ly. Thong thả đáp:

- Việc thiên hạ yêu thương ghen ghét. Xét cho cùng, đều do tự mình mà ra cả. Người ta tất tự khinh mình trước, rồi người ngoài mới khinh sau. Mình tự hủy nhà mình trước, rồi người ngoài mới hủy sau. Thế nhưng khi họa đã xảy ra, thì trước là đổ cho trời. Sau quy tội cho người. Chớ không tỉnh trí để hiểu được - mọi tai họa gây ra đều do ở mình hết cả - Có thân không biết tu. Có nhà không biết ở. Có vợ không biết... hầu, thì lúc mọi chuyện tanh banh. Tưởng có... đậu hủ quanh năm cũng chẳng ăn nhằm gì hết vậy!

Tối ấy, Khổng Tử không tài nào ngủ được, bèn loanh quanh ngoài vườn. Chợt thấy Tử Tiện đang ngồi bên gốc táo, liền dịu giọng hỏi han:

- Con sương sương từ chiều tới giờ, mà lại ra đây ngồi im trong bóng tối, là cớ làm sao?

Tử Tiện bùi ngùi đáp:

- Trái ngon nhờ cây, Cây tốt nhờ đất. Đất tốt nhờ mưa thuận gió hòa. Có phải vậy chăng?

Khổng Tử gật gù đáp:

- Đúng!

Tử Tiện lại nói:

- Một đứa trẻ chăn trâu, mà biết nói lời nghĩa khí, làm động đến lòng thầy, thì phải liệt vào hàng quý hiếm. Có phải vậy chăng?

Khổng Tử xúc động, đáp:

- Đúng! Ta nay da mồi tóc bạc, nhưng để lời một đứa trẻ đụng đặng trái tim, thì xưa nay chưa từng xảy ra vậy!

Tử Tiện lại nói:

- Đành rằng nhân chi sơ tính bản thiện, nhưng nếu cha mẹ không nuôi dưỡng cái Thiện ấy. Phỏng con mình có hiểu đặng vậy chăng?

Khổng Tử bỗng nghe lòng dâng lên một niềm nôn nao khó tả, bèn kéo vạt áo, lôi ra một xị nếp than. Tha thiết nói:

- Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Ta chỉ có bấy nhiêu, thì cũng cứ... cưa hai cho tới bờ tới bến.

Tử Tiện gật đầu vâng dạ. Được đâu vài tuần, lại rộn ràng nói tiếp:

- Con gái đất Quắc đối với con còn biết dạy như vầy. Huống hồ với chồng. Sao dại dột bỏ đi?

Khổng Tử buồn buồn đáp:

- Số tám đối với đàn ông không tốt. Ta đã bảy bà. Lẽ nào dzớt nữa mà coi đặng hay sao?

Tử Tiện lắc đầu nói:

- Bỏ bớt thành kiến, thì chuyện khó thành dễ. Chuyện dễ thành... trơn. Chuyện chẳng có chi cũng biến thành ấm mặn. Sao thầy lại chấp nhất với lời đàm tiếu - mà bỏ phí tuổi xuân - thì ở mai sau muốn dzô cũng không còn dzô đặng. Chẳng tiếc lắm ư?

Kẻ ruồng bỏ

Năm 1979, một tháng trước khi chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép sinh một con được ban hành, vợ của phó chủ tịch ủy ban tài chính đã sinh một đứa con gái mắc bệnh thiểu năng, con bé tên Miêu Miêu.

Bảy năm sau đó, khi người vợ sinh đứa con gái thứ hai, một đứa trẻ hoàn toàn bình thường, người ta thường thấy phó ban đưa Miêu Miêu xuống phố, ánh mắt bao giờ cũng có vẻ lén lút. Khuôn mặt của ông nhàu nhò, hai bên má hóp lại, tất cả toát lên một nỗi thất vọng chán chường. Nét mặt của Miêu Miêu hầu như vô cảm, chỉ hơi ngơ ngác một chút. Người trong thị trấn để ý thấy hình như hai cha con họ lúc nào cũng có vẻ như đang trên đường đến một nơi nào đó.

Phó ban vốn là người có nhóm máu A, lại sinh năm thỏ, thế nên tính cách của ông vừa ngang ngạnh, vừa khép kín. Hồi ông hai mươi tuổi, có một mụ già mặt mũi nhăn nheo ở cửa hàng gạo đã xem chỉ tay cho ông và bảo rằng ông không thể nào có con trai được. Thế nhưng mụ đã không nói cho biết đứa con gái đầu lòng của ông sẽ là một đứa bé mắc bệnh thiếu năng hay là nhà nước sẽ quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một con mà thôi. Nếu lúc đó biết tương lai là thế này thì ông đã bảo vợ đi nạo ngay từ lúc cô ta biết mình có thai.

Sau khi đứa con gái thứ hai của ông chào đời, cả tuần ông giam mình trong phòng và uống hết bốn chai rượu. Thế rồi sau đó, ông cạo râu, ăn mặc tử tế đến gặp một lão què có tên là Tăng để xem bói lại lần nữa. Ông trả cho lão Tăng sáu tệ và nghe lão phán: vào năm bốn mươi tám tuổi, ông sẽ được thăng chức lên một cấp cao hơn; năm bốn chín tuổi, ông sẽ gặp một cái hạn nhưng nếu ông thắt một sợi dây màu đỏ quanh lưng thì có thể sẽ tai qua nạn khỏi; năm năm mươi tuổi, có một vị khách từ tây nam tới và sẽ đem đến cho ông vận may (phó ban nghĩ mãi trong số họ hàng và bạn bè xem có ai sống ở miền nam không, cuối cùng mới nhớ ra mình có một ông chú từng làm tướng của Quốc dân đảng, hiện đang sống với lực lượng phiến loạn ở Miến Điện mặc dù đã ba mươi năm rồi gia đình ông chẳng biết tin tức gì về ông chú này); vào năm ông năm mươi bảy tuổi, mẹ ông sẽ qua đời, và vợ ông mất vì bệnh phổi; năm sáu mươi tuổi, ông sẽ gặp một goá phụ trẻ cũng có nhóm máu A, sinh vào năm Trâu, cô này sẽ lấy ông và sinh cho ông đứa con gái thứ ba. Năm sáu mươi ba tuổi, ông sẽ chết. Ông hỏi lão Tăng xem có cách nào giúp ông sống thêm vài năm nữa -- chỉ hai năm thôi cũng được -- nhưng lão thầy bói bảo không thể nào làm thay đổi số phận được.

Thực ra thì phó ban lo cho chuyện mình không có con trai để nối dõi tông đường hơn là chuyện tuổi thọ ngắn ngủi. Ông gạt ra một bên ý nghĩ về người goá phụ trẻ nọ và tập trung suy nghĩ tìm cách làm thế nào để sinh được một cậu quý tử. Vì nhiễm sắc thể của Miêu Miêu bất thường khiến con bé vừa có vấn đề về thần kinh lại vừa tật nguyền nên đơn vị của vợ ông dành cho chị một ngoại lệ, cho phép chị được sinh hai con nhưng không bao giờ họ đồng ý để chị sinh thêm đứa thứ ba. Quả thật, ngay sau khi chị sinh đứa con gái thứ hai, một người của uỷ ban kế hoạch hoá gia đình đã đến đặt vòng cho chị. Trường hợp duy nhất khiến chị có thể kiếm cớ mang thai lần nữa đó là nếu như xảy ra chuyện một trong hai đứa con của chị bỗng nhiên biến mất. Với tình hình như bây giờ, phó ban nghĩ, hy vọng duy nhất của ông là tống khứ được con bé Miêu Miêu này.

Vì thế mà phó ban lao vào cuộc chiến với số phận. Khi đứa con gái thứ hai của ông mới được hai tuần tuổi, ông liền bế Miêu Miêu ra một công viên định bỏ rơi nó ở đó. Trước khi ông đi, vợ của ông cũng sụt sùi nước mắt nhưng chẳng biết làm gì hơn. Buổi tối, ông về nhà, trên tay vẫn bế Miêu Miêu. Ông kể với vợ là ông đã đặt con bé trên một cái ghế băng suốt cả buổi chiều và đứng ở xa quan sát nhưng chẳng có ai đến đem con bé đi cả. Sau ba lần cố gắng bỏ rơi con bé mà không thành, ông quyết định nghỉ việc một ngày, hy vọng giải quyết xong xuôi chuyện này.

Miêu Miêu có một cái đầu bẹt, lơ thơ một nhúm tóc tơ, trán dô và nhăn nheo, hai con mắt như con nòng nọc ăn sâu vào những hốc mắt nông choèn, mũi tẹt mà lỗ mũi lại lớn, mỗi lần lấy hơi thở, cánh mũi lại xoè ra. Cái miệng của nó không bao giờ ngậm lại được khiến nước dãi và thức ăn luôn trào ra rơi xuống cằm, bết lại quanh những nếp nhăn trên cái cổ vốn to của nó. Nó có sống thì cũng chỉ đem lại khổ sở cho ông mà thôi.

Suốt bảy năm qua, con bé cũng nhận biết được một vài điều. Nó biết gào lên khi muốn đi tiểu tiện, và biết nghe lời khi bảo nó ăn hay uống thuốc. Sau vài lần cha nó cố tìm cách bỏ rơi nó, con bé cũng biết sợ mỗi khi bị đưa ra khỏi căn phòng tối om trong nhà đi ra ngoài trời. Hễ khi nào cha nó bế nó, đem nó đến một nơi mà ở đó có thể thấy được bầu trời rộng mở trên cao là tóc con bé lại dựng ngược lên, nó bặm miệng thật chặt đến độ khó có thể cậy ra được. Con bé đã từng ở lại một mình trong rừng suốt cả ngày nghỉ cuối tuần, nằm lại một đêm trên một cái ghế đá, sáu ngày tại một đồn công an ở một vùng quê, bốn mươi tám giờ trên một chuyến tàu đến thành phố. Lúc những chuyện không hay này bắt đầu xảy ra, con bé bao giờ cũng thấy bỗng nhiên cha nó biến đi đâu mất và nó chỉ còn lại một mình. Nhưng cuối cùng thì con bé luôn được thoát nạn và an toàn trở về căn phòng tối om đầy mùi bùn và bắp cải thối.

Phó ban không biết đến khi nào việc bỏ rơi con bé Miêu Miêu này mới thành nhưng ông quyết định tiếp tục đương đầu với số mệnh. Vì đứa con trai tương lai, vì mục đích để lần thụ thai tới của vợ ông thành công, phó ban tiếp tục theo đuổi kế hoạch của mình. Ông tự nhủ lý do duy nhất khiến ông bây giờ phải chăm sóc tử tế cho Miêu Miêu là nhằm chuẩn bị cho một cơ hội để ông có thể rũ bỏ nó. Còn đối với Miêu Miêu, mỗi một chuyến đi ra thế giới bên ngoài là một cơ hội để nó chứng tỏ cái sức sống bền bỉ của mình.

Phó ban vào Đảng năm 1958. Thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông gia nhập một phe chính trị không đồng tình với những chỉ thị cải cách của Mao chủ tịch và bị hất cẳng bởi phe đối thủ. May mắn là ông lại kết hôn với một người thuộc phe thắng thế, do vậy mà thoát khỏi việc bị đấu tố. Ông làm tình với vợ trong căn buồng tối tăm của họ trong khu nhà dành cho công nhân ở, khi đó, ngoài trời, đạn bay vèo vèo. Cả hai người hầu như chẳng có kinh nghiệm gì trong chuyện tình dục, ngoài một ít điều họ biết được qua những câu chuyện tục tĩu, vì thế mãi đến năm thứ tư kể từ ngày họ kết hôn, vợ ông mới mang thai. Bác sĩ bảo khuyết tật của đứa trẻ là hậu quả từ việc họ đã quá đà trong chuyện chăn gối hồi vợ ông mang thai.

Sáu tháng theo đuổi kế hoạch của mình, phó ban vẫn không sao tìm được cách để rũ bỏ Miêu Miêu. Ông dồn nhiều sức lực hơn vào kế hoạch này và bắt đầu xao lãng công việc của mình. Lão thầy bói đã bảo rằng ông chỉ có thể rũ bỏ được đứa con gái của mình khi nào ông chắc chắn có một người tử tế nào đó nhận nuôi nó. Ông sẽ không thể nào bỏ rơi nó được nếu còn băn khoăn nghĩ đến có chuyện nào rủi ro khiến con bé có thể bị hại hay phải chết đói. Chuyện này không thành hẳn là có mối liên hệ với con giáp mà ông cầm tinh. Ông tin là nếu sinh năm Dần hay năm Dậu thì bây giờ ông đã có thể ẵm một thằng cu trên tay rồi.

Thường thì ông hay đem Miêu Miêu ra vùng ngoại ô, hy vọng có thể vứt nó lại ngoài cánh đồng. Ông đặt con bé xuống bên cạnh một mô đất rồi nấp sau một bụi rậm quan sát. Thi thoảng có một người qua đường dừng lại chỗ con bé, đá đá vào ống chân nó để xem nó còn sống hay không. Thế rồi họ nhìn xung quanh và khi chắc chắn rằng không ai nhìn thấy mình, họ lần lần sờ sờ con bé. Nếu tìm thấy cái phong bì có nhét tiền mà phó ban đã gài vào trong túi áo của con bé thì họ sẽ rút nó ra và xoáy luôn số tiền ấy. Một vài kẻ thậm chí còn định lột cả áo quần của con bé nữa. Hễ thấy cảnh này là ông lại xổ ra đuổi theo tên trộm, giật lại mớ quần áo và tiền từ tay hắn. Rồi ông lại bế Miêu Miêu lên, đem nó đến một cánh đồng khác. Khi mặt trời bắt đầu ngả bóng và nếu như vẫn không có ai nhặt con bé đi thì ông đành lê chân đến chỗ con bé, trong cảm giác mệt mỏi vì đói, ông bế con bé lên mang về nhà.

Một ngày nọ, phó ban đọc được một bài báo nói về một trại trẻ mồ côi ở thị trấn bên. Trại trẻ có những phòng ngủ sạch sẽ và sáng sủa, bài báo tả như vậy, ngoài sân còn có cả một chiếc xích đu. Khách nước ngoài từ sáu nước đã đến thăm trại trẻ và chụp ảnh với những đứa trẻ với khuôn mặt rất vui tươi ở đó. Tim ông đập mạnh khi đọc mẩu tin này: "Tuyệt vời!" ông thầm nói. "Đấy là cái mà Đảng đã cho ta! Một trại trẻ mồ côi do nhà nước quản lý -- cuối cùng thì Miêu Miêu cũng có được một nơi để đến!"

Ngày hôm sau ông nghỉ việc và đến thành phố đó cùng với Miêu Miêu. Khi đến trước cổng trại trẻ, ông ngừng lại một lát và lẩm nhẩm lại những gì định nói. Ông thầm thì với Miêu Miêu, bảo nó không được để lộ ra ông là cha nó -- một sự cẩn trọng không cần thiết, vì ông biết rõ là con bé không thể thốt lên được một lời. "Mẹ mày giờ phải trông em" ông bảo với nó. "Mẹ mày không có thời giờ để chăm sóc mày. Ở đây mày sẽ hạnh phúc. Ngày nào người ta cũng cho mày ăn mì, và cả kẹo nữa. Thậm chí người ta còn dạy cả tiếng Anh cho mày. Mày sẽ sung sướng hơn ở nhà nhiều." Ông lau dãi cho con bé, bế nó qua cổng của trại trẻ và gõ cửa.

Giám đốc trại trẻ mở cửa. Đó là một phụ nữ có gương mặt nghiêm nghị, ít hơn vợ ông chừng vài tuổi. Phó ban đặt Miêu Miêu lên bàn tiếp khách và quả quyết rằng ông đã nhặt được con bé ngoài phố. "Tôi đã hỏi xem nó là con ai nhưng không ai biết cả", ông bảo bà giám đốc, mặt tỏ vẻ bình thản như không. "Một người bán dạo nói với tôi nó có thể là một đứa trẻ mồ côi và tôi nên đem nó đến chỗ của đồng chí."

Bà giám đốc săm soi nhìn vào mắt Miêu Miêu. "Đồng chí bảo là mình đã nhặt được nó ngoài phố ư?" bà hỏi. "Chúng tôi không thể chắc chắn đây là một đứa trẻ mồ côi được. Có thể là nó bị lạc, hay bị cha mẹ nó bỏ rơi. Thật ra ông nên đem nó đến đồn công an."

Phó ban bắt đầu toát mồ hôi. "Tôi chỉ muốn làm việc tốt mà thôi", ông nói. "Tôi không biết đường sá ở thị trấn này như thế nào. Tôi chỉ ở lại đây trong ngày hôm nay. Và hơn nữa, tôi lại còn phải bắt kịp một chuyến tàu". Ông rút ra một tấm vé tàu, huơ huơ nó lên. Bà giám đốc thở dài và miễn cưỡng đồng ý sẽ tự mình dẫn con bé đến đồn công an.

Phó ban trở lại nhà ga. Trong lúc đợi tàu, hân hoan vì cuối cùng cũng đã thực hiện được ý định của mình, ông chạy đến quán ăn ở cuối sân ga và tự thưởng cho mình một đĩa tai lợn và hai cốc rượu ấm.

Ngày hôm sau, ông ngồi ở bàn làm việc nhìn ra cửa sổ, nghĩ xem phải viết bức thư thông báo việc Miêu Miêu mất tích như thế nào, sau đó là lá đơn mà ông và vợ phải thảo để xin phép sinh thêm đứa nữa. Đúng lúc ông đang mơ màng nghĩ đến hình ảnh cậu con quý tử tương lai của mình đang bú ti mẹ như thế nào thì chuông điện thoại reo. Ông trưởng đồn công an ở thị trấn bên gọi ông đến để đem Miêu Miêu về.

Sáng hôm sau nữa, ông lại nghỉ làm, điều này làm lãnh đạo đơn vị hết sức ngạc nhiên, bởi vì như thế nghĩa là ông đã vắng mặt trong buổi họp chi bộ hàng tuần, để đến đón Miêu Miêu về. Phó ban băn khoăn không biết vì sao công an lại có thể lần ra ông được. "Tai mắt đám đông chuyện gì cũng có thể biết được," ông lầm bầm. Ông nhận ra để tống khứ được con bé Miêu Miêu này có lẽ ông phải đến một nơi xa hơn.

Vào ngày sinh nhật lần thứ tám của Miêu Miêu, phó ban cho con gái một tấm vải nhựa để che mưa. Sau bữa mì xào làm nhân sinh nhật của con bé, ông lại chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới của hai cha con. Đầu tiên, ông mặc một chiếc áo khoác không thấm nước và đi một đôi ủng mới. Rồi ông nhét một viên thuốc ngủ vào miệng Miêu Miêu. Ông không nỡ bỏ rơi con bé lúc nó còn đang thức, làm như thế, ông sẽ không phải nghe thấy nó nấc nghẹn hay chứng kiến cảnh nó khóc gào giữa một bầy sói.

Mặc dù ban đầu vợ ông đã phản đối kế hoạch này của ông nhưng dần dần ông đã thuyết phục được vợ, và bây giờ vợ ông còn ủng hộ ông hết lòng. Trước lúc ông đi, bao giờ vợ ông cũng chuẩn bị cho ông một bi đông trà nóng và một hộp thịt bò khô nhét vào trong ba lô. Sự quyết đoán và mạnh mẽ của ông khiến bà thấy kính nể. Bà ngỡ ngàng trước vẻ đưòng hoàng của ông trong bộ đồ mới này. Ước muốn duy nhất của bà là làm sao để chồng mình vui vẻ và sinh được cho ông đứa con trai mà ông đã mong đợi từ lâu. Một tháng trước đó, chính bà đã trả tiền cho một mụ già nhờ giàn xếp để bán Miêu Miêu cho một cặp vợ chồng vô sinh, nhưng ngay khi biết con bé mắc bệnh thiểu năng thì cặp vợ chồng này đã đem nó trả lại và đòi hoàn tiền. Sau thất bại này, bà vợ đã nghĩ đến việc phá rào, cố tìm cách để sinh đứa thứ ba. Bà nghe nói có một bệnh viện tư ở một vùng nông thôn có thể tháo vòng với giá 30 tệ. Nhưng khi nhìn thầy tờ áp phích dán trên cửa hàng gạo: "Một con là quá nhiều: đủ để khổ cả đời", bà không còn can đảm nữa.

Thế đó, Miêu Miêu vẫn không chịu biến mất. Nó phải chịu hết tai nạn này đến tai nạn khác nhưng bao giờ cũng thoát nạn an toàn. Trước khi lẫm chẫm bước đi, nó đã sống sót sau một vụ hai xe ô tô tông nhau và một cú ngã từ cửa sổ tầng ba rơi xuống. Không đêm nào là nó không lăn từ trên giường xuống sàn nhà bê tông nhưng chẳng bị hề hấn nghiêm trọng gì bao giờ.

Một hôm, phó ban để con bé lại trên một lối đi vắng vẻ bên một con kênh. Sau khi đặt con bé lại ở đó vài phút, một cái máy kéo không biết từ đâu lăn qua chỗ con bé. Bánh xe sượt qua đầu nó và làm bùn bắn tung toé lên mặt con bé. Khi phó ban chạy tới, ông thấy con bé vẫn bình an vô sự. Lốp xe đã lăn qua hai bên thân mình của con bé. Hàng xóm nghe câu chuyện này bảo rằng chỉ có những đứa bé được thần linh phù hộ mới không bị việc gì khi gặp một tai nạn như vậy, và họ đoán rằng con bé sẽ đem lại may mắn và tài lộc cho gia đình này. Bởi lẽ đó suốt cả một tháng phó ban không nghĩ đến chuyện tìm cách bỏ rơi Miêu Miêu nữa và đợi vận may đến.

Nhưng không có gì thay đổi cả, một lần nữa phó ban lại tin rằng cái hậu vận mà lão thày bói Tăng tiên đoán cho ông là chắc như đinh đóng cột. Đầu óc ông bị ám ảnh nặng nề bởi chuyện nhà mình nguy cơ tuyệt tự. Ông biết rằng nếu vợ ông vượt quá chỉ tiêu sinh hai con thì ông sẽ đánh mất tất cả những gì mình đã cật lực mới có được: công việc ở cơ quan nhà nước, thẻ Đảng viên, nhà cửa, lương bổng.

Vài tháng sau ngày sinh nhật lần thứ bốn mươi tám của mình, ông được đề bạt làm trưởng ban tài chính, đúng như những gì mà lão Zeng đã đoán trước. Nếu những lời phán khác của lão Zeng cũng đúng cả thì năm sau một tai hoạ sẽ đổ ập xuống đầu ông. Nếu không qua được cái nạn này thì gia đình ông sẽ vĩnh viễn tuyệt tự. Bây giờ chỉ có một sự lựa chọn duy nhất, ông quyết định, là từ bỏ vị trí mới của mình và tập trung tất cả thời giờ vào chuyện tìm cách để bỏ rơi Miêu Miêu.

Điều rắc rối là cứ mỗi lần định rũ bỏ Miêu Miêu là ông lại thấy mình gắn bó với con bé sâu sắc hơn. Ông bắt đầu thấy hứng thú những chuyến đi cùng nó về nông thôn. Hầu như cả đời chỉ quanh quẩn bên bàn giấy, bây giờ ông thấy thật tuyệt vời khi cảm nhận được gió lùa trên mái tóc và nắng hắt trên da mặt. Ông thấy thích thú khi khoác trên mình bộ đồ đi cắm trại và được ngủ ở ngoài trời. Những chuyến đi cùng Miêu Miêu làm ông nhận thức sâu sắc hơn về đời mình và theo một nghĩa nào đó, ông biết ơn con bé.

Nhiều năm qua, ông đã hy vọng Miêu Miêu sẽ hợp tác với kế hoạch của ông và sẽ lặng lẽ biến mất khỏi cuộc đời ông. Nhưng khi cái hy vọng này cứ dần dần tiêu tan thì con bé lại trở thành người duy nhất an ủi ông và cảm thông với ông -- nó là người bạn thân thiết nhất của ông. Cho dù ông có đặt nó vào những chỗ nguy hiểm thì con bé vẫn là người duy nhất trên thế gian này có thể tha thứ cho ông. Ông bắt đầu dốc lòng tâm sự với nó, kể cho nó nghe những vấn đề của ông với vợ mình, những mối quan tâm của ông về tình hình thế giới, nỗi đau lòng của ông vì tất cả những gì ông đã gây cho nó. Biết là con bé chẳng thể nói gì để đáp lời, ông cảm thấy có thể thoải mái nói tục ngay trước mặt nó.

Khi nhận ra những cố gắng của mình là vô ích, dần dần ông không thể tự chủ trong suy nghĩ được nữa. Mỗi lần cố gắng ruồng bỏ Miêu Miêu ông lại cảm thấy cứ như thể thật sự là ông đang ruồng bỏ chính mình và thấy rõ cái tương lai đã được định đoạt của mình. Đôi khi ông cảm thấy chính Miêu Miêu đã kéo ông ra khỏi thị trấn, chứ không phải là ngược lại. Cả nó nữa, nó cũng đã học được nhiều từ những chuyến đi này. Mỗi lần nằm ngả lưng giữa một cánh đồng vắng không, gào khóc trong vòng tay của một kẻ xa lạ, hay những lúc nhìn thấy khuôn mặt đau khổ của cha mình, những hiểu biết của nó về thế giới này được rộng mở.

Một buổi tối, bên rìa một ngôi làng xa xôi, khi ngài trưởng ban đã từ nhiệm nằm ngả xuống mặt đất bởi kiệt sức, ông có cảm giác như nghe thấy Miêu Miêu nói với mình: "Hơn hai năm qua, con đã phải chấp nhận vai trò của một đứa trẻ bị ruồng bỏ. Con đã tìm được chính mình, và chính từ những cuộc vật lộn để rũ bỏ con, cha đã học được đôi điều về cuộc sống. Một người cha có thể đánh lừa một đứa con mắc bệnh thiểu năng nhưng một đứa con mắc bệnh thiểu năng cũng có thể đánh lừa được cha mình. Con đã tạo cho cuộc sống của cha một khuôn thức, một nhịp điệu. Con đã dạy cho cha những gì thuộc về chính bản thân cha mà cha thấy có lẽ nếu không biết thì hơn. Cha phải hiểu nhiệm vụ này của cha cuối cùng sẽ huỷ diệt chính cha. Trong cái thế giới điên đảo này, chỉ có một đứa trẻ mắc bệnh thiểu năng mới có thể tìm thấy hạnh phúc. Con chẳng chia sẻ bất cứ lỗi lầm hay trách nhiệm nào của cha. Con chẳng bận tâm bất cứ điều gì về quá khứ hay tương lai, hay chuyện liệu tinh trùng của cha có phối được với một tế bào trứng của ai đó không. Thậm chí con còn không chắc chắn là mình có tồn tại trên đời này hay không nữa. Nếu cha cũng mắc bệnh thiểu năng như con, cha sẽ hiểu những gì con nói. Con ước là cha sẽ từ bỏ cái nhiệm vụ vô ích này của mình. Cha đã tận lực cho mọi người rồi. Cha đã không làm cả con và cha thất vọng. Cha chẳng còn gì nữa để làm đâu." Khi con bé nói, nước mắt và nước dãi của nó chảy long tong xuống ngực cha mình. Lúc này, ông đang ngủ, đầu ông tựa vào một bức tường gạch nung. Phía trên ông có một khẩu hiệu: "Thêm mười ngôi mộ còn tốt hơn một cái nôi!".

Chiều hôm đó, sau khi ngài trưởng ban đã từ nhiệm bỏ rơi Miêu Miêu một lần nữa không thành, một người nông dân trong làng nói với ông rằng không có ai ở đây cần con bé này cả. Ông ta bảo: "Ban kế hoạch hoá gia đình đã kiểm tra chúng tôi rồi. Người nào cũng chỉ muốn có con trai để giúp đỡ việc đồng áng. Không ai muốn một đứa con gái cả, một đứa con gái khuyết tật thì lại càng không. Tốt nhất là ông đêm thả nó trôi sông. Ở làng này, nếu sinh một đứa bé không hợp pháp, các bác sĩ sẽ tiêm một liều nước muối vào đầu đứa trẻ ngay khi nó vừa được sinh ra, chỉ mười phút sau nó sẽ chết."

Khi đời sống người ta thay đổi theo sự phát triển kinh tế của đất nước, người ta ít chú ý hơn đến ông trưởng ban đã mất cả đời để vứt bỏ đứa con gái đầu lòng của mình và rồi lại đem nó về cưu mang. Nhưng người nào cũng biết ông là ai.

Cứ để ý là họ lại bắt gặp hình ảnh một người đàn ông cổ áo và ống tay áo là lượt (chỉ nhìn thoáng qua họ cũng biết trước kia ông đã từng là viên chức nhà nước) đi ngang qua bảo tàng của thị trấn một cách vội vã, bế trên tay một đứa trẻ tật nguyền. Ông băng qua cầu vượt dành cho người đi bộ và đi về phía vùng ngoại ô mới, ông không nhằm hướng đi về phía công viên bên bờ sông mà về phía những cánh đồng ở ngoài xa .

Đến khi ông trưởng ban cận kế sáu mươi tuổi, sức lực của ông đã sa sút nhiều, ông không thể đem con gái mình đến những cánh đồng được nữa. Thay vào đó, ông đặt con bé ở chỗ gần cửa hàng gạo, đầu nó nghếch về phía tây nam. Rồi ông ngồi nấp sau một bụi cây cách đó mười mét, sợi dây lưng màu đỏ của ông cứ lòng tha lòng thòng trên mặt đất. Khách qua đường để ý rằng khi ông ngồi nấp sau bụi cây như thế những nếp nhăn trên mặt ông dường như biến mất. Ông cứ ngồi đợi hàng giờ liền, kiên nhẫn như một người đi câu bên hồ vậy. Nhưng ngay khi có kẻ nào đi qua và sờ vào "cái của để rơi" của ông là ông dựng người lên, nhảy bổ tới và bế xốc Miêu Miêu lên. Trong thị trấn này ông trở thành người bảo vệ duy nhất của đứa con tật nguyền.

Mẹ lạnh lắm phải không?

Vào một đem Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.

Đơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đưa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy.Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà mẹ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm.Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.

Bà đem đưa bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo . Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!". Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: "Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?" Và cậu bé oà khóc.

Món quà Giáng sinh

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.

Cô sẽ không thể làm gì hơn,chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên,cô rất hạnh phúc khi ôm "Jim", James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.

Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

"Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo: "hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi"

Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.

"Hai mươi đồng" bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

"Hãy cắt nhanh đi! Và đưa tiền cho tôi" Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: "Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!" Cô tự nhủ "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"

"Em đã cắt mất tóc rồi à?" Jim hỏi

"Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!" Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

"Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?"

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy."

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc,những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi, Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

"Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này."

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu"

Đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau.

Một câu chuyện cảm động

Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".

Chẳng những thế, cô thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém). Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được. Cô giáo chủ nhiệm lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp". Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa". Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.

Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em". Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em". Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời". Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.

Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể. Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất. Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ". Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu: "Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chưa từng biết dạy học cho tới khi cô được gặp em".

Một Chuyện Tình

Câu chuyện xãy ra ở một bệnh viện nhỏ ở vùng quê hẻo lánh.

Ở khoa hóa trị có một phụ nữ trẻ đang ở giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư. Tuy luôn bị những cơn đau hành hạ nhưng chưa bao giờ người phụ nữ ấy quên trao cho cho chúng tôi một nụ cười biết ơn sau những lần điều trị. Những khi chồng cô tới thăm, mắt cô rạng ngời hạnh phúc. Đó là một người đàn ông đẹp trai, lịch thiệp và cũng thân thiện như vợ mình. Tôi rất ngưỡng mộ chuyện tình của họ. Hằng ngày anh mang đến cho cô những bó hoa tươi thắm cùng nụ cười rạng rỡ, anh đến bên giường nắm lấy tay cô và trò chuyện cùng cô. Những lúc quá đau đớn, cô khóc và trở nên cáu ghắt, anh ôm chặt cô vào lòng, an ủi động viên cho vợ mình cho đến khi cơn đau dịu đi. Anh luôn bên cô mỗi khi cô cần, anh giúp cô uống từng ngụm nước và không quên vuốt nhẹ đôi chân mày của cô. Mỗi đêm, trước khi ra về anh luôn đóng cửa để hai người có những giây phút bên nhau. Khi anh đi, chúng tôi thấy cô ấy đã say ngủ mà trên môi vẫn phảng phất nét cười.

Nhưng đêm ấy mọi chuyện đã thay đổi. Khi nhìn vào bảng theo dõi, kết quả cho thấy người vợ trẻ ấy sẽ không qua khỏi đêm nay. Mặc dù rất buồn nhưng tôi biết đó là cách tốt nhất cho cô ấy, từ nay cô sẽ không chịu những cơn đau thêm nữa.

Để bảng theo dõi trên bàn, tôi muốn đến phòng bệnh. Khi tôi bước vào phòng, cô mở mắt nhìn tôi hé môi cười một cách yếu ớt, nhưng hơi thở của cô nghe thất khó nhọc. Chồng cô ngồi bên cô mỉm cười nói: "Cho đến bây giờ món quà tuyệt vời nhất tôi dành cho cô ấy chính là tình yêu của tôi".

Và tôi đã khóc khi nghe điều đó, tôi nói nếu họ cần bất cứ điều gì thì đừng ngại. Đêm ấy cô đã ra đi trong vòng tay người chồng yêu dấu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc cố an ủi và chia sẻ nỗi đau này cùng chồng cô. Với khuôn mặt đẫm nước mắt, anh nghẹn ngào: "Xin hãy cho tôi ở bên cô ấy thêm một lúc".

Bước ra khỏi phòng, đứng ở hành lang lau những giọt nước mắt, nhớ nụ cười, nhớ ánh mắt, nhớ những cái ôm ghì chặt mà cô ấy dành cho chúng tôi... Tôi nhớ tất cả về cô ấy như một người bạn thân thiết, tôi cũng phần nào có thể cảm nhận được nỗi đau mà chồng cô đang chịu đựng. Bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra một giọng hát trầm ấm mà tôi chưa từng được nghe. Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều bị cuốn hút bởi giọng hát của anh khi anh cất lời bài Beautiful brown eyes.

Rồi giai điệu khúc ca nhỏ dần, anh mở cửa gọi tôi đến, anh nhìn sâu vào mắt tôi, ôm chầm lấy tôi rồi nói: " Tôi đã hát bài này mỗi đêm cho cô ấy nghe kể từ ngày chúng tôi quen nhau. Mọi ngày tôi vẫn thường cố giữ cho giọng mình thật nhỏ để khỏi làm phiền bệnh nhân khác. Và tôi chắc rằng đêm nay trên thiên đường cô ấy cũng vẫn nghe tôi hát. Tôi xin lỗi đã quấy rầy mọi người. Tôi chỉ không biết sống ra sao khi thiếu vắng cô ấy, nhưng mỗi đêm tôi vẫn tiếp tục hát cho cô ấy. Chị có nghĩ rằng cô ấy nghe thấy tiếng tôi không? ".

Tôi khẽ gật đầu mà nước mắt vẫn tuôn. Anh ôm tôi một lần nữa, hôn lên má tôi và cảm ơn tôi cùng tất cả mọi người. Đoạn anh quay bước, cúi đầu khẽ húyt sáo giai điệu thân quen.

Khi anh bước đi, tôi nhìn theo, thầm cầu nguyện cho cô ấy, cho anh và cho tôi một ngày nào đó cũng tìm được một tình yêu như thế.

Một cuộc đua tài

Năm 20 tuổi, tôi là một nữ điều dưỡng đang thực tập tại một bệnh viện nhi. So với viện tim hoặc bệnh viện đa khoa, công việc ở bệnh viện nhi đối với tôi có vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con. Chắc chắn tôi sẽ vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp...

Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám thính công trường xây dựng cạnh nhà, và bị té gãy tay. Cánh tay gãy của cậu bị nhiễm trùng, buộc phải cưa bỏ. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẫu của cậu bé.

Khi sức khỏe của cậu bé dần dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra sự mất mát của mình... Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ sinh cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện. Cháu phải học cách tự phục vụ...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì được với một tay?" . Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp. Cuối cùng tôi bảo: "Dù sao cháu vẫn còn tay phải". "Nhưng cháu thuận tay trái " - Cậu bé kêu lên đầy thất vọng...

Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải ...

Sáng hôm sau, tôi trở lại với một cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay trái, còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng của cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm việc gì bằng tay trái, cháu phải làm theo bằng tay phải. Nào, cháu muốn bắt đầu bằng việc gì ?". Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé càu nhàu: "Cháu mới ngủ dậy, cháu cần đánh răng". Tôi xoay xở mở nắp ống kem, đặt bàn chảy lên bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chảy đang ngả nghiêng... Sau gần 10 phút nỗ lực với kem vung vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn tất được công việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn..." - cậu bé tuyên bố. Và khi nhanh hơn thật, cậu mỉm cười chiến thắng...

Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hàng ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ kên bánh mì, cột dây giày,... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là 2 vận động viên đang ra sức đua tài...

Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời bệnh viện, tự tin đối mặt với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm được nước mắt...

Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy. Cuộc đời tôi đã bao phen chìm nổi. Mỗi lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm, giấu tay phải ra sau, lấy kem và đánh răng bằng tay trái...

Nếu lần đầu tiên bạn nhìn thấy ánh sáng là năm bạn 16 tuổi

Có lần tôi cùng CLB Tình nguyện Trẻ đến thăm 1 nhóm bạn khiếm thị. Rồi rất tình cờ tôi nghe thấy có 2 bạn gái đang trò chuyện cùng nhau ngoài hành lang: "Nếu ấy có thể nhìn thấy được trong vòng 24 giờ, ấy sẽ chọn được nhìn thấy những gì?"

Khi trở về nhà, câu chuyện của 2 bạn ấy khiến tôi suy nghĩ mất mấy ngày, rồi quyết định viết câu trả lời của mình ra giấy. Tôi chia tờ giấy của mình ra 2 cột. Cột 1 là những gì tôi chọn để được nhìn thấy. Cột 2 là lượng thời gian tôi sẽ dành ra để nhìn thứ đó.

Và phải nhớ, chỉ có 24 giờ để nhìn được thôi, khi mà trước đó tôi là 1 kẻ chưa bao giờ được nhìn thấy ánh sáng.

Danh sách của tôi tăng lên nhanh chóng. Có quá nhiều thứ tôi muốn nhìn thấy, toàn những kì quan của thế giới hiện đại: máy bay, phi thuyền, TV, sách, các công trình kiến trúc, máy vi tính, quần áo... Tôi lọc lại, viết lại, đổi lượng thời gian. Và trong vòng vài tháng, cứ xem đi xem lại, tôi đã đổi lại danh sách nhiều lần.

Đến bây giờ, danh sách của tôi không còn là những kì quan của thế giới hiện đại nữa, mà là những kì quan của thiên nhiên: Mặt trời, cây cỏ, mưa, hoa, chó, mèo...

Rồi tôi bắt đầu thêm vào đó rất nhiều thời gian cho gia đình, bạn bè và những anh chàng mà tôi thầm ngưỡng mộ.

Và khi tôi ngồi ở bậc cửa, nhìn 1 con ốc sên bò trên cỏ, nhìn thấy ánh nắng, nhìn thấy cậu bạn mà tôi thầm thích phóng xe ngang qua và toét miệng giơ tay chào... tôi bỗng thấy mình nghẹt thở vì hạnh phúc. Tôi đã may mắn biết bao khi không bao giờ phải ước rằng mình sẽ có 24 giờ để nhìn ngắm cuộc sống này.

Tôi và bạn, chúng ta có 1 lượng thời gian nhiều hơn 24 giờ gấp nghìn lần. Xin đừng thấy quá nhiều mà lãng phí nó. Hãy cầm 1 chiếc bút và 1 tờ giấy để bắt đầu danh sách của mình. Từng phút cứ trôi qua, và bạn có thể không nghe thấy tiếng thời gian đang bước. Nhưng tôi hy vọng bạn đừng bao giờ quên trân trọng cuộc sống này.

Bởi bạn biết không, nếu bạn chỉ có 24 giờ để nhìn thấy...

Nếu và thì...

Nếu bầu trời có vẻ như bao phủ đầy mây xám mà bạn lại đi ra ngoài khi trời mưa...

Nếu bạn đang mong nhìn thấy một chiếc cầu vồng rạng rỡ nhưng màu sắc của nó lại mang đến cho bạn nỗi buồn...

Nếu quả đất vẫn tiếp tục quay mà bạn phải đi đến kết thúc...

Nếu bạn đang tìm kiếm ánh sáng mặt trời mà tất cả những gì bạn nhìn thấy là bóng đêm tối mịt...

Nếu tất cả xung quanh bạn là những niềm vui mà riêng với bạn chỉ là nỗi buồn...

Nếu bạn đang quá sức mệt mỏi mà cuộc sống lại tiếp tục quật ngã bạn...

Nếu bạn khóc...

Thì bạn hãy nghĩ những giọt nước mắt của bạn rơi xuống đất đã làm nên điều kỳ diệu: vẻ đẹp của những bông hoa như sự dịu dàng trên tay bạn.

Thì bạn hãy cảm nhận không khí xung quanh bạn đang sực nức mùi cỏ mới cắt.

Thì bạn hãy cười đùa với những đứa trẻ và nhận lấy sự ngây thơ từ chúng khi chúng cười đùa.

Thì hãy tưởng tượng mình đang bay cùng một cô bướm xinh xinh trong một khu rừng đầy màu sắc.

Thì bạn hãy lắng nghe tiếng thì thầm của đại dương và bạn để làn da của mình được mơn man bởi làn gió ấm áp của mùa hạ.

Thì bạn hãy nếm một viên kẹo và cảm nhận vị ngọt ngào của những kỷ niệm thời thơ ấu đang dịu ngọt trên đầu lưỡi bạn.

Thì bạn hãy lắng nghe giai điệu trong trẻo của những chú chim hót đón chào một ngày mới.

Thì bạn hãy nhớ những nỗi dịu dàng quá đỗi mà bạn nhận được từ nụ hôn êm đềm của mẹ khi ôm chặt bạn vào lòng và thủ thỉ những lời yêu thương vô bờ. ...

Hãy cố gắng tìm kiếm những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy trông lên những đám mây ngũ sắc trên đầu chứ đừng nhìn đất đen dưới vệ đường.

Cuộc sống không ban ơn cho ta mà chính ta sẽ ban tặng cho cuộc sống những món quà từ những hành động và suy nghĩ tích cực của mình.

Hãy bắt đầu ngày hôm nay từ ngay giây phút này.

Bởi vì cuộc sống đã là một niềm vui, một món quà vĩ đại nhất mà tạo hóa ban tặng cho bạn.

Ngôn ngữ tình yêu

Hai người yêu nhau nhưng gặp sự phản đối mạnh mẽ từ phía gia đình nhà cô gái. Họ cho rằng chàng trai không xứng đáng với địa vị của gia đình cô và họ sẽ không tha thứ cho cô nếu tiếp tục có quan hệ với anh ta.

Mặc dù cô gái rất yêu chàng trai, nhưng khi hai người gặp nhau cô luôn hỏi: "Anh có yêu em nhiêu không?". Cô hay bực bội do chàng trai không trả lời như ý cô mong muốn. Và áp lực của gia đình khiến hai người bất hòa. Cô thường trút giận lên chàng trai.

Về phía mình, chàng trai luôn chịu đựng trong im lặng. Sau một năm anh tốt nghiệp và quyết định đi du học. Trước khi ra đi, anh đã cầu hôn: "Anh biểu lộ tình cảm của mình bằng lời nói không giỏi nhưng tất cả những gì mà anh biết là anh yêu em. Về phía gia đình, anh sẽ cố gắng hết sức thuyết phục gia đình em đồng ý. Em thuận ý làm vợ anh chứ?".

Cô gái ưng thuận và với sự quyết tâm của chàng trai, cuối cùng gia đình cô gái cũng nhượng bộ và đồng ý cho họ kết hôn với nhau. Trước khi chàng trai đi học, hai người làm lễ đính hôn. Cô gái tham gia công tác xã hội trong khi anh tiếp tục học ở nước ngoài. Họ bày tỏ tình cảm của mình qua những lá thư và điện thoại. Tuy có khó khăn nhưng họ vẫn luôn nghĩ về nhau.

Một ngày nọ, cô gái bị tai nạn giao thông trên đường đi làm. Khi tỉnh dậy, cô thấy cha mẹ mình bên cạnh giường. Cô cảm nhận được tình trạng tồi tệ của mình. Nhìn thấy mẹ khóc, cô muốn làm cho mẹ yên lòng nhưng những gì cô có thể thốt ra chỉ là tiếng thở dài. Cô đã mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não của cô và khiến cô không thể nói được nữa. Cô suy sụp mặc dù cha mẹ cô động viên rất nhiều. Trong suốt thời gian ở bệnh viện cô chỉ biết khóc trong thầm lặng.

Xuất viện về nhà, tình trạng của cô cũng chẳng thay đổi gì. Mỗi khi có tiếng điện thoại reo, cô có cảm giác như từng nhát dao đâm vào tim. Cô không muốn cho anh biết và càng không muốn trở thành gánh nặng của anh. Cô viết cho anh một lá thư nói rằng cô không còn đủ kiên nhẫn đợi chờ anh nữa. Cô gửi lại anh chiêc nhẫn đính hôn. Chàng trai gửi hàng ngàn lá thư và gọi biết bao cuộc điện thoại nhưng cô không trả lời và chỉ khóc.

Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà, hy vọng rằng cô sẽ thật sự quên những gì đã xảy ra để có thể sống yên ổn.

Cô gái học ngôn ngữ cử chỉ và bắt đầu một cuộc sống mới. Mỗi ngày cô tự nhủ mình hãy quên anh đi. Nhưng một hôm bạn của cô đến và cho hay anh đã trở về. Cô van xin người bạn đừng cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Từ đó cô không còn nhận được tin tức gì của anh.

Một năm trôi qua. Người bạn của cô đến thăm và trao cho cô thiệp mời dự lễ kết hôn của anh. Trái tim cô gái tan vỡ. Khi mở thiệp cưới cô thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước lên, cô thấy anh đang đứng trước mặt.

Chàng trai dùng cử chỉ nói với cô gái: "Một năm qua anh đã dành thời gian học ngôn ngữ này, chỉ để em hiểu rằng anh không quên lời ước hẹn của chúng ta. Hãy cho anh có cơ hội nói với em rằng anh yêu em".

Anh lồng chiếc nhẫn vào tay cô gái. Cuối cùng mụ cười đã trở lại trên môi cô gái.

Những hòn đá cuội

Trong một buổi nói chuyện với một nhóm các doanh nhân, một chuyên gia trình bày về cách sử dụng thời gian có hiệu quả. Đứng trước những người khá thành đạt trong cuộc sống, ông mỉm cười: "Sau đây là một câu hỏi trắc nghiệm". Ông ta lấy từ gầm bàn một cái lọ rộng miệng cỡ 4 lít và một túi chứa những hòn đá cuội to bằng nắm tay. Ông lần lượt đặt từng hòn đá vào lọ cho đến khi không thể bỏ vào được nữa. "Cái lọ có đầy chưa?" - ông hỏi.

"Đầy rồi" - mọi người đáp. "Thật không?" - ông lấy từ gầm bàn ra một túi sỏi nhỏ đổ từ từ vào lọ và lắc cho các hòn sỏi chen vào tất cả các khoảng trống giữa các hòn đá cuội. Ông nhoẻn miệng cười và hỏi: "Cái lọ đầy chưa?".

Lần này thì mọi người dường như bắt kịp ông. Ai đó trả lời: "Chắc là chưa".

"Tốt!" - ông nói và lấy ra một túi cát đổ vào lọ và cát chen đầy vào các khoảng trống giữa những hòn đá cuội và hòn sỏi. Một lần nữa, ông hỏi: "Cái lọ đầy chưa ?".

"Chưa" - mọi người nhao nhao. "Tốt" - ông lặp lại và vớ lấy bình nước đổ vào lọ cho đến khi nước ngập đến miệng lọ. Ông ngước nhìn mọi người và hỏi: "Minh họa này nói lên điều gì?".

Một nhà kinh doanh nhanh nhảu đáp: "Vấn đề là cho dù kế hoạch làm việc của bạn có sít sao thế nào đi nữa, nếu cố gắng bạn luôn có thể làm thêm nhiều việc nữa!"

"Có thể" - ông đáp - Nhưng đó không phải là vấn đề. Điều mà minh họa vừa rồi nói lên là bạn không đặt những hòn đá cuội vào lọ trước, bạn sẽ không bao giờ có thể nhét chúng vào được".

Cái gì là những "hòn đá cuội" trong cuộc sống của bạn? Có thể là một dự án, một hoài bão mà bạn muốn thực hiện, thời gian với những người mà bạn thương yêu, học vấn của bạn, sức khỏe của bạn... Nhưng nhớ đặt những "hòn đá cuội" đó vào lọ trước hoặc bạn sẽ không bao giờ nhét chúng vào được. Chúng ta luôn cố gắng làm thật nhiều việc trong khoảng thời gian giới hạn của mình. Nhưng điều quan trọng là những việc mà bạn đang làm có thật sự có ý nghĩa.

Thế thì tối nay hay sáng mai khi bạn suy ngẫm về câu chuyện này, hãy tự hỏi chính bản thân mình rằng điều gì là những "hòn đá cuội" trong cuộc sống của chính bạn và hãy đặt chúng vào trong lọ trước.

Nó là bạn cháu

Tôi nghe câu chuyện này ở Việt Nam và người ta bảo đó là sự thật. Tôi không biết điều đó có thật hay không nhưng tôi biết có nhiều điều kì lạ hơn như thế đã xảy ra ở đất nước này.

Cho dù đã được định trước, những khối bêtông vẫn rơi xuống trại trẻ mồ côi trong một ngôi làng nhỏ. Một, hai đứa trẻ chết ngay lập tức. Rất nhiều em khác bị thương, trong đó có một bé gái khoảng tám tuổi.

Dân làng liên lạc với quân đội Hoa Kỳ yêu cầu giúp đỡ về mặt y tế. Cuối cùng, một bác sĩ và một y tá người Mỹ mang dụng cụ đến. Họ nói rằng bé gái bị thương rất nặng, nếu không xử lí kịp thời nó sẽ chết vì mất máu.

Phải truyền máu ngay, một cuộc thử nghiệm nhanh cho thấy không ai trong số hai người Mỹ có cùng nhóm máu đó, nhưng đại đa số các đứa trẻ trong trại trẻ mô côi lại có.

Người bác sĩ biết vài tiếng Việt lơ lớ, còn cô y tá thì biết chút tiếng Pháp lõm bõm. Họ kết hợp với nhau và dùng điệu bộ, cử chỉ để giải thích cho bọn trẻ đang sợ hãi rằng nếu không kịp thời truyền máu cho bé gái thì chắc chắn nó sẽ chết. Vì vậy họ hỏi có em nào tình nguyện cho máu không.

Ðáp lại lời yêu cầu là sự im lặng cùng với những đôi mắt mở to. Một vài giây trôi qua, một cánh tay chậm chạp, run rẩy giơ lên, hạ xuống, rồi lại giơ lên.

"Ồ, cảm ơn, cháu tên là gì?" - cô y tá hỏi bằng tiếng Pháp.

"Hân ạ!" - cậu bé trả lời.

Họ nhanh chóng đặt Hân lên cáng, xoa cồn lên cách tay và cho kim vào tĩnh mạch. Hân nằm im không nói một lời nào.

Một lát sau, cậu bé nấc lên nhưng lại nhanh chóng lấy cánh tay còn lại che mặt. Người bác sĩ hỏi: "Có đau lắm không Hân?". Hân lắc đầu nhưng chỉ vài giây sau lại có vài tiếng nấc. Một lần nữa cậu bé cố chứng tỏ là mình không khóc. Bác sĩ hỏi kim có làm cho cậu đau không, nhưng cậu bé lại lắc đầu.

Bây giờ thì những tiếng nấc cách quãng nhường chỗ cho tiếng khóc thầm, đều đều. Mắt nhắm nghiền lại, cậu bé đặt nguyên cả nắm tay vào miệng để ngăn không cho những tiếng nấc thoát ra.

Các nhân viên y tế tỏ ra lo lắng. Rõ ràng là có điều gì không ổn rồi. Vừa lúc đó có một y tá người Việt đến. Thấy rõ vẻ căng thẳng trên gương mặt cậu bé, chị nhanh chóng nói chuyện với nó, nghe nó hỏi và trả lời bằng một giọng hết sức dịu dàng.

Sau một lúc, cậu bé ngừng khóc và nhìn chị y tá bằng ánh mắt hoài nghi. Chị y tá gật đầu. Cậu ta nhanh chóng trở nên nhẹ nhõm.

Chị y tá khẽ giải thích với những người Mỹ: "Cậu bé cứ nghĩ là mình sắp chết. Nó hiểu nhầm. Nó nghĩ các vị bảo nó cho hết máu để cứu sống cô bé kia".

"Thế tại sao nó lại tự nguyện cho máu?" - người y tá lục quân hỏi.

Chị y tá người Việt hỏi lại cậu bé và nhận được câu trả lời hết sức đơn giản: "Vì nó là bạn cháu ".

Phần quan trọng nhất

Khi buồn đau, mỗi người đều cần có đôi bờ vai của ai đó để dựa vào và khóc. Đôi vai là nơi mỗi người có thể chia sẻ buồn vui, đau khổ với những người thân yêu nhất.

"Phần quan trọng nhất trong cơ thể của mỗi chúng ta là gì?". Đó là câu hỏi mà mẹ đã hỏi tôi lâu lắm rồi, và cũng đã nhiều lần lắm tôi chưa tìm được một lời giải thích xác đáng để thuyết phục được mẹ.

Khi còn bé, tôi cho rằng đôi tai là quan trọng nhất vì chúng thật sự cần thiết để tôi lắng nghe tiếng giảng bài của thầy giáo và những âm thanh chung quanh mình.

- Không phải như thế, con yêu - mẹ nói - Rất nhiều người mất thính lực vẫn sống và làm việc được đó thôi.

Vài năm sau đó tôi cho rằng đôi mắt là câu trả lời hoàn hảo nhất, nhưng mẹ vẫn không đồng ý bởi, theo mẹ, nhiều người khiếm thị vẫn thành công trong học tập và công việc.

Thời gian trôi qua, tôi đã bắt đầu trưởng thành nhưng lời giải đáp cho câu đố của mẹ vẫn còn để ngỏ.

Năm ngoái, ông nội tôi qua đời. Tất cả mọi người đều đau buồn và ai cũng khóc. Thậm chí bố tôi cũng khóc, và đó là lần thứ hai tôi nhìn thấy bố khóc. Trong ngày đưa tang ông, mẹ đến bên tôi và nói: "Con đã biết phần nào là quan trọng nhất hay chưa?". Tôi thật sự bất ngờ khi mẹ hỏi vào lúc này, mặc dù tôi biết câu hỏi đầy ý nghĩa này của mẹ vẫn chưa được tôi giải đáp.

Mẹ nhìn khuôn mặt bối rối của tôi: "Câu hỏi này rất quan trọng. Nó cho con biết rằng con vẫn đang tồn tại trong cuộc đời này. Mỗi câu trả lời trước kia của con đều không làm hài lòng được mẹ nhưng hôm nay mẹ muốn con ghi nhớ bài học này".

Mẹ nói trong nước mắt: "Đó là đôi vai". Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, mẹ tiếp tục: "Khi một người bạn hay một người yêu quý nào đó của con đau buồn, họ cần một điểm tựa để dựa đầu vào đó và khóc. Và đôi vai của con sẽ giúp được họ. Mỗi người đều cần có một bờ vai của ai đó để khóc một vài lần trong cuộc đời. Mẹ chỉ hy vọng chung quanh con có đủ tình thương yêu và những bờ vai ấm áp để con có thể dựa vào mỗi khi con cảm thấy cần thiết. Điều quý giá nhất trong mỗi chúng ta không phải là chỉ nghĩ riêng cho bản thân chúng ta, mà là một sự cảm thông với những nỗi buồn của những người chung quanh ta. Mọi người có thể quên những gì con nói..., quên những gì con làm..., nhưng mọi người sẽ không bao giờ quên được bờ vai của con đã từng gánh đỡ những đau khổ và mất mát của họ".

Quy luật hạt giống

Bạn hãy thử nhìn cây táo trong vườn. Chắc phải có đến 500 quả táo ở trên đó. Và nếu tính cả vườn táo thì số hạt phải hơn gấp nhiều lần thế nữa. Hạt táo là công cụ để mở rộng và tiếp diễn sự tồn tại cho loài táo. Chúng ta có thể sẽ thắc mắc tại sao lại cần phải có nhiều hạt đến thế?

Bởi tự nhiên biết rằng không phải tất cả các hạt táo đều thành mầm và không phải tất cả đều lớn lên thành cây. Bởi chúng còn chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với kẻ thù và rất nhiều khó khăn nữa.

Tự nhiên là thế và con người cũng không khác gì nhiều. Nếu thật sự muốn làm 1 điều gì có ý nghĩa bạn phải thử rất nhiều lần, thậm chí phải vượt qua thất bại thì mới đạt được thành công.

Điều này có nghĩa là:

- Bạn phải tham dự 10, 20 cuộc phỏng vấn may ra mới có được công việc tàm tạm. Hãy kiên nhẫn chờ đợi và đừng bỏ lỡ cơ hội dù là nhỏ nhất.

- Một ông chủ giỏi là người biết tập hợp một đội ngũ những nhân viên giỏi ở xung quanh mình. Thế nên, kể cả khi là một ông chủ thành đạt bạn cũng sẽ phải toát mồ hôi sàng lọc hàng trăm người giỏi để tuyển được 1 ứng viên xuất sắc.

- Trong kinh doanh chẳng hạn, bạn sẽ phải đàm phán với 50 người để bán được 1 căn nhà, gọi 30 cuộc điện thoại để mua được 1 chiếc ô tô vừa ý, phải viết hàng tá thư cảm ơn về 1 ý tưởng kinh doanh độc đáo... Hãy kiên nhẫn vì đó mới là những công việc đáng tự hào.

Khi hiểu được "Qui luật của hạt giống", chúng ta sẽ không cảm thấy thất vọng, bế tắc khi phải đối mặt với những thất bại. Hãy học cách kiên nhẫn và chai lì với những thất bại trên đường dài tìm kiếm những thành công.

Những người thành đạt thường phải trải qua rất nhiều thất bại. Nhưng vấn đề là họ đã bỏ công sức gieo trồng để có nhiều hạt hơn những người bình thường.

Sự tích tiền bối

Các bậc tiền bối khá quan tâm đến giống nòi. Điều này cứ giả vờ coi là hiển nhiên. Họ đưa ra những bài giảng và người đời sau sẽ học. Một trong số đó là: hãy đặt các tiền bối lên bàn thờ.

Các bậc tiền bối về sau nhận ra việc ăn bám vào cái bóng của loài tiền bối mình đã khiến thế hệ kế tiếp tự thiến khả năng độc lập suy nghĩ và phủ định cái cũ. Trải qua thảm hoạ trì trệ, họ lập tức đưa ra một bài giảng mới: hãy đào mồ chôn các tiền bối.

Thế hệ sau tiếp thu rất nhanh. Và cái tư tưởng tiến bộ ấy bị chôn đầu tiên.

Kể lại sự tích hải âu đã đọc từ rất lâu theo trí nhớ cầu bâu:

Ông con chuyên làm trái ý ông cha. Bắt bài, đến lúc sắp chết, ông cha muốn được chôn trên núi nhưng bảo ông con hãy quẳng xuống biển. Cha chết, ông con bỗng hối hận, muốn lần đầu tiên thực hiện đúng yêu cầu của cha. Thế là...

Về sau, hiểu ra, ông con chết biến thành hải âu suốt ngày bay trên biển tìm cha.

Ngắm hải âu bay cũng đẹp dù thịt nó tanh và hình như cũng là loại chim ăn xác thối.

Hải âu là ẩu hai. Ông con ẩu hai lần. Một lần là cái gì cũng hoài nghi. Lần kia là vội vã bỏ hoài nghi đi.

Các bậc tiền bối cảm thấy hãi lớp trẻ. Họ vốn ẩu. Điều này các bậc tiền bối khi nhìn lại mình, rõ hơn ai hết. Vậy phải làm sao? Điều này chắc phải hỏi các hậu bối. Họ quá ít được hỏi.

Thế nên họ chưa sinh ra.

Tha thứ mãi mãi

Lisa ngồi trên sàn với chiếc hộp trước mặt. Cái hộp cũ kĩ đựng 1 tờ giấy kẻ ô vuông. Và đây là câu chuyện đằng sau những ô vuông...

- Các con phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần? - Cô giáo trường Chủ Nhật đọc to luôn câu trả lời cho cả lớp nghe: "70 nhân 7 lần!"

Lisa kéo tay Brent - em trai cô:

- Thế là bao nhiêu lần?

Brent viết số 490 lên góc vở Lisa. Brent nhỏ bé, vai hẹp, tay ngắn, đeo cặp kính quá khổ và tóc rồi bù. Nhưng năng khiếu âm nhạc của cậu làm bạn bè ai cũng phục. Câụ học pianô từ năm lên 4, kèn darinet năm lên 7 và giờ đây cậu đang chinh phục cây đèn Oboa. Lisa chỉ giỏi hơn em trai mình mỗi 1 thứ: bóng rổ, 2 chị em thường chơi bóng rổ sau giờ học. Brent thấp bé lại yếu, nhưng nó không nỡ từ chối vì đó là thú vui duy nhất của Lisa giữa những bảng điểm chỉ toàn yếu với kém của cô.

Sau giờ học, 2 chị em lại chạy ra sàn bóng rổ. Khi Lisa tấn công, Brent bị khuỷu tay Lisa huých vào cằm. Lisa dễ dàng ghi điểm. Cô hả hê với bàn thắng cho đến khi nhìn thấy Brent ôm cằm.

- Em ổn cả chứ? Chị lỡ tay thôi mà!

- Không sao, em tha lỗi cho chị - Cậu bé cười - Phải tha thú 490 lần và lần này là 1, vậy chỉ còn 489 lần nữa thôi nhé!

Lisa cười. Nếu nhớ đến những gì Lisa đã làm với Brent thì hẳn 490 lần đã hết từ lâu lắm.

Hôm sau, 2 chị em chơi bắn tàu trên giấy. Sợ thua, Lisa nhìn trộm giấy của Brent và dễ dàng "chiến thắng".

- Chị ăn gian! - Brent nhìn Lisa nghi ngờ.

Lisa đỏ mặt:

- Chị xin lỗi!

- Được rồi, em tha lỗi - Brent cười khẽ - Thế là chỉ còn 488 lần thôi, phải không?

Sự độ lượng của Brent làm Lisa cảm động. Tối đó, Lisa kẻ 1 biểu đồ với 490 hình vuông:

- Chúng ta dùng cái này để theo dõi những lần chị sai và em tha lỗi. Mỗi lần như vậy, chị sẽ gạch chéo 1 ô - Miệng nói, tay Lisa đánh dấu 2 ô. Rồi cô bé dán tờ biểu đồ lên tường.

Lisa có rất nhiều cơ hội đánh dấu vào biểu đồ. Mỗi khi nhận ra mình sai, Lisa xin lỗi rất chân thành. Và cứ thế... Ô thứ 211: Lisa giấu sách Tiếng Anh của Brent và cậu bé bị điểm 0. Ô thứ 394: Lisa làm mất chìa khoá phòng Brent... Ô thứ 417: Lisa dùng thuốc tẩy quá nhiều làm hỏng áo Brent... Ô thứ 489: Lisa mượn xe đạp của Brent và đâm vào gốc cây. Ô 490: Lisa làm vỡ chiếc cốc hình quả dưa mà Brent rất thích.

- Thế là hết - Lisa tuyên bố - Chị sẽ không có lỗi gì với em nữa đâu.

Brent chỉ cười :"Phải, phải"

Nhưng rồi vẫn có lần thứ 491. Lúc đó Brent là sinh viên trường nhạc và cậu được cử đi biểu diễn tại đại nhạc hội New York. Một niềm mơ ước thành hiện thực.

Người ta gọi điện đến thông báo lịch biểu diễn nhưng Brent không có nhà, Lisa nghe điện :" Hai giờ chiều ngày mùng 10 nhé!" Lisa nghĩ mình có thể nhớ được nên cô đã không ghi lại.

- Brent này, khi nào con biểu diễn? - Mẹ hỏi.

- Con không biết, họ chưa gọi điện báo ạ! Brent trả lời.

Lisa lặng người, mãi mới lắp bắp:

- Ôi!... Hôm nay ngày mấy rồi ạ?

- 12, có chuyện gì thế?

Lisa, bưng mặt khóc nức lên:

- Biểu diễn... 2 giờ... mùng 10... người ta gọi điện... tuần trước...

Brent ngồi yên, vẻ mặt nghi ngờ, không dám tin vào nhữnng gì Lisa nói.

- Có nghĩa là... buổi biểu diễn đã qua rồi??? - Brent hỏi.

Lisa gật đầu. Brent ra khỏi phòng, không nói thêm lời nào. Lisa về phòng, ngậm ngùi khóc. Cô đã huỷ hoại giấc mơ của em cô, làm cả gia đình thất vọng. Rồi cô thu xếp đồ đạc, lén bỏ nhà đi ngay đêm hôm đó, để lại 1 mảnh giấy dặn mọi người yên tâm.

Lisa đến Boston và thuê nhà sống ở ngay đó. Cha mẹ nhiều lần viết thư khuyên nhủ nhưng Lisa khong trả lời: "Mình đã làm hại Brent, mình sẽ không bao giờ về nữa". Đó là ý nghĩ trẻ con của cô gái 19 tuổi.

Rất lâu sau, có lần gặp lại người láng giềng cũ: bà Nelson.

- Tôi rất tiếc về chuyện của Brent... - Bà ta mở lời.

Lisa ngạc nhiên:

- Sao ạ?

Bà Nelson nhanh chóng hiểu rằng Lisa không biết gì. Bà kể cho cô nghe tất cả: xe chạy với tốc độ quá cao, Brent đi cấp cứu, các bác sĩ tận tâm nhưng Brent không qua khỏi. Ngay trưa hôm đó, Lisa quay về nhà.

Cô ngồi lặng yên trước chiếc hộp. Cô không thấy tờ biểu đồ ngày xưa kín đặc các gạch chéo mà lại có 1 tờ giấy lớn:

"Lisa yêu quý,

Em không muốn đếm những lần mình tha thứ, nhưng chị lại cứ muốn làm điều đó. Nếu chị muốn tiếp tục đếm, hãy dùng tấm bản đồ mới em làm cho chị.

Yêu thương,

Brent"

Mặt sau là 1 tờ biểu đồ giống như Lisa đã làm hồi bé, với rất nhiều ô vuông. Nhưng chỉ có 1 ô vuông đầu tiên có đánh dấu và bên cạnh là dòng chú thích bằng bút đỏ: "Lần thứ 491: Tha thứ, mãi mãi!"

Thiên sứ của tình yêu

Bình bị bệnh rất nặng, mấy bác sỹ khám, nói chỉ còn sống hai tháng nữa. Bình rất đau khổ, rất đau lòng, anh không thể bỏ được người vợ đẹp như hoa như ngọc - Tú Na, lại còn hai đứa con trai nhỏ dại. Anh không thể bỏ đi như thế, không phải cho mình mà là cho họ.

Qua mấy tuần, cuối cùng anh cũng gặp được vị bác sỹ danh tiếng. Bình được ông chữa, thần kỳ đã khỏi được ác bệnh, ba tháng sau thì lại như xưa. Một năm sau anh lại đảm nhận cương vị công tác của mình như người thường. Cả nhà tràn ngập trong niềm vui hạnh phúc chưa từng có.

Bỗng một hôm Tú Na ngần ngừ nói với Bình: "Em chợt thấy không thể yêu anh được nữa, chúng mình hãy chia tay nhé. Em vốn định nói với anh từ trước, nhưng thấy anh còn bệnh... ".

Bình không còn tin vào tai mình: "Hay là em sợ bệnh của anh sẽ làm lây em, nhưng ngày đó quả là rất đáng ngại, rất đáng sợ, nhưng bệnh của anh nay đã khỏi hẳn rồi, em sao lại phải lo lắng thế?".

Tú Na lạnh nhạt trả lời: "Anh không biết đáy, mười năm nay tôi chưa từng yêu anh, trong lòng tôi duy chỉ có một người, đó là mối tình đầu của tôi".

Bình gục đầu, mặt trắng bệch đau khổ nói: "Sớm biết có ngày hôm nay, anh thà chết luôn từ ngày ấy, sẽ chẳng bao giờ phải nghe câu nói này. Anh đã vì em mà phải sống, thế mà em lại chưa từng yêu tôi, trời ở đâu đây?".

Sau khi Bình và Tú Na chia tay, cuộc sống của hai đứa trẻ rất khốn khổ. Từ đó anh cũng không gặp lại Tú Na, cũng không can thiệp vào cuộc sống mĩ nãm hạnh phúc của cô, vì trong sâu thẳm anh cũn rất yêu cô.

Lại một năm qua đi, một hôm Bình gặp một cô gái trẻ xinh đẹp - Tiểu Thiến. Tiểu Thiến không chỉ thông minh, xinh đẹp mà cũng rất nhiệt tình độ lượng. Sau khi hai người biết nhau, - Tiểu Thiến thường tới nhà tất bật giúp anh lo lắng việc trong nhà, hai người rất tâm đầu ý hợp. Không lâu sau, Tiểu Thiến chủ động đề nghị kết hôn. Bình do dự không quyết, trong lòng anh chỉ có Tú Na, mặc dù cô đã vứt bỏ anh.

Cuối cùng anh không phản đối đề nghị của Tiểu Thiến, cùng cô tới giáo đường làm hôn lễ.

Một hôm sau hai năm, Bình bỗng gặp một anh bạn lâu chưa thấy mặt. Anh bạn vô cùng nhiệt tình mời Bình đi uống cà phê ở gần đó, hai người nói chuyện phiếm rất lâu, chợt nói đén Tú Na: " Tú Na thực ra không phải giới nữ nhi, tôi rất kính trọng cô ấy". Bình đầy nghi hoặc, mơ mơ hồ hồ hỏi: "Anh nói sao cơ?".

"Sao cơ? Sao anh cứ như người trong trống vậy?" - Anh bạn học kinh ngạc hỏi, "Trước khi anh bị bệnh Tú Na đã bị u dạ dày giai đoạn cuối, cần phải chữa trị gấp, nhưng cô ấy bỏ điều trị để lấy tiền cứu anh. Lúc cô ấy lâm chung, cô lại dùng trái tim của mình để cứu một cô gái bị phù tim nặng. Sau khi cô gái đó bình phục, vì báo đáp ơn cứu mạng, thề sẽ nuôi dưỡng hai đứa trẻ của cô ấy. Anh không cảm thấy Tiểu Thiến rất bất ngờ sao"".

"Tú Na chết rồi sao? Không, không thể..." Bình đau dớn không muốn sống, khóc lớn. "Nhưng ai nói với nah vậy?".

Người bạn học thở dài đau khổ: "Tiểu Thiến vốn là của tôi...".

Thông Điệp

Trên đường đến phòng làm việc của sếp, trong tay là lá đơn xin thôi việc mà tôi vừa đánh xong tối hôm trước, tôi tự hỏi bản thân: "Mình đã hoàn toàn mất trí rồi sao?"

Không, hoàn toàn không? Một phần con người trong tôi lên tiếng. Hãy nhớ lại xem điều gì đã xảy ra cách đây vài tháng.

Đúng vậy, tôi vẫn còn nhớ như in tất cả mọi chuyện.

Tôi đã làm việc cho công ty hơn mười năm, sư cống hiến và khoảng thời gian dài làm việc của tôi cuối cùng rồi cũng mang đến cho bản thân tôi một thành quả xứng đáng khi được thăng chức lên làm quản lý cấp cao trong khi tuổi đời còn rất trẻ. Tôi có hàng tá trách nhiệm, những thời hạn phải hoàn thành xong công việc và cả những khủng hoảng ngày nào cũng có. Cứ mỗi tuần trôi qua, những chồng giấy tờ trên bàn làm việc của tôi ngày càng cao thêm, rồi những cuộc điện thoại, fax và thư điện tử đã chiếm trọn cuộc sống của tôi. Tôi rất tự hào về công việc của mình, thậm chí còn gửi cả danh thiếp về nhà để bố mẹ có thể thấy chức vụ mà tôi đang đảm trách được in ngay bên dưới tên của tôi.

Suốt ngày tôi chỉ biết vùi đầu vào công việc nên dần dần các mối quan hệ bạn bè cũng ngày càng đi vào quên lãng. Với tôi, công việc là cuộc sống và tôi cống hiến hết thời gian và sức lực của mình để làm việc. Tôi uống cà phê suốt ngày, để rồi khi đêm đến phải nhờ đến những viên thuốc an thần giúp mình chợp mắt. Trong ví tôi lúc nào cũng có năm loại thuốc trị nhức đầu và hàng chục loại thuốc chống đau dạ dày để sử dụng mỗi khi làm việc quá sức mình. Tôi còn để một tập giấy và một cây bút ngay cạnh giường ngủ để có thể ghi chép những lúc quá lo nghĩ đến công việc khiến tôi không ngủ được, cũng chính vì thế mà tôi đã lâm bệnh nặng.

Cuối cùng, cơ thể tôi cũng phải lên tiếng: "Không làm việc gì nữa hết!". Tôi đã xin nghỉ phép ba ngày và dự định đến Florida để tận hưởng cảm giác yên bình của ánh mặt trời, của đại dương và bãi biển. Thế nhưng, vào buổi sáng ngày tôi chuẩn bị lên đường, tôi không thể nào nhấc mình ra khỏi giường được nữa. Toàn thân tôi hầu như tê cứng. Tôi không còn một chút sức lực nào. Tôi ngủ suốt cả ngày hôm đó, thức dậy chỉ để ăn, rồi lại nằm liệt trên giường. Ngày kế tiếp, mọi việc cũng diễn ra tương tự, tôi cố khích lệ cơ thể mình bằng cách tưởng tượng trong đầu những hình ảnh sống động tuyệt vời trong kỳ nghỉ của mình, thế nhưng cơ thể tôi vẫn bảo rằng: "Cảm ơn nhưng không cần đâu, tôi muốn được ở đây - chỗ mà tôi nên ở".

Đến ngày thứ ba, tôi thực sự sợ hãi. Sau bốn mươi tám tiếng ngủ triền miên, tôi vẫn kiệt sức và không muốn cử động, vì thế tôi đã gọi bác sĩ và xin được một cuộc hẹn khám bệnh.

Tôi nằm trên bàn khám bệnh trong lúc chờ kết quả xét nghiệm máu. Tôi thoáng thấy mình trong một tấm gương và thật sự bị sốc - một phụ nữ già nua đang chằm chằm nhìn tôi. Tôi tự hỏi: "Bà là ai?", mà không nhận được câu trả lời nào. Rồi bác sĩ quay trở lại, cho biết tôi là một bệnh nhân khỏe nhất mà ông từng gặp từ trước tới giờ, ông nói: "Cô chỉ bị chứng căng thẳng thái quá" và đã kê cho tôi một toa thuốc.

Tôi hỏi: "Tôi phải uống thuốc gì, thưa bác sĩ?", rồi đọc dòng chữ viết nghệch ngoạc trên toa thuốc: "Hãy tìm một công việc khác".

Kể từ hôm đó, tôi tự hứa với chính bản thân mình: "Tôi sẽ vạch ra thời gian làm việc cụ thể mỗi ngày, khi đồng hồ điểm 5 giờ chiều, tôi sẽ ra về, cho dù có bất cứ việc gì đi nữa".

Ngày đầu tiên trở lại với công việc, tôi buộc bản thân mình phải tuân theo lịch làm việc mới và thật sự rất bất ngờ khi thấy mọi việc đều tiến triển tốt đẹp. Quả là một điều ngạc nhiên thú vị!

Tôi bắt đầu đi dạo với mấy con chó cưng của tôi như lúc trước, cố bù đắp lại khoảng thời gian tôi không ngó ngàng gì đến chúng. Lôi quyển nhật ký của mình ra, phủi sạch từng lớp bụi bám bên ngoài, tôi bắt đầu viết. Thoạt đầu, tôi vẫn chưa nghĩ được sẽ viết gì, nhưng rồi sau đó, những câu chữ cứ tuôn ra ào ạt khi nội tâm tôi được phép lên tiếng. Suốt ba tháng liền, giọng nói ấy cứ lặp đi lặp lại mỗi một câu: "Hãy nghỉ việc đi!".

Tôi bắt đầu đi làm từ khi tôi mới mười bảy tuổi, lúc đầu chỉ là công việc bán thời gian để kiếm thêm thu nhập trang trải cho việc học ở trường, rồi sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã có ngay một công việc chính thức. Tôi luôn cảm thấy như có một con người khác đằng sau tất cả những bằng cấp và địa vị của tôi luôn khao khát được giải thoát. Vì thế mà, dù chẳng có một kế hoạch nào cho tương lai, tôi vẫn nộp đơn xin nghỉ việc theo đúng thủ tục là báo trước ba mươi ngày, để rồi suốt một tháng sau đó tôi đã trải qua những ngày dằn vặt, hối tiếc, tâm trạng rối bời. Điều khiến tôi bị sốc thật sự đó chính là mình là người dễ dàng bị thay thế. Chỉ sau hai tuần thông báo nghỉ việc, công ty đã tìm được người lấp vào vị trí của tôi. Ngày cuối cùng làm việc, tôi nhìn mình trong chiếc gương trong nhà vệ sinh và tự hỏi: "Mình là ai?".

Sự im lặng thật là đáng sợ.

Bỗng chốc, tôi trở thành một kẻ không việc làm, tôi hoàn toàn không biết mình nên đặt niềm tin vào đâu và tôi thật sự hoảng sợ. Nhưng cũng có một điều rất lạ, trong tôi như thể còn có một niềm tin tưởng nào đó khiến tôi phấn chấn hẳn lên, nó như mách bảo tôi rằng: "Đừng sợ hãi, rồi mọi việc đâu sẽ vào đó cả thôi, điều quan trọng là hãy tin ở chính bản thân mình". Tôi ôm ấp niềm tin đó như đứa trẻ thơ bấu víu vào bàn tay của mẹ.

Cuối cùng, tôi cũng cảm thấy thoải mái để bắt tay vào cuộc hành trình tìm kiếm cái tôi của mình. Ít lâu sau, tôi chợt nhận ra rằng tôi thực sự chưa bao giờ quên mình là ai, chỉ là cố trốn tránh bản thân mình bằng cách vùi đầu vào công việc, chỉ có công việc và công việc mà thôi. Khi đi dạo thật lâu trong rừng, tôi đã tìm lại được con người thật của mình. Tôi lắng nghe tiếng nói trong lòng mình, tôi ngủ khi nào cảm thấy mệt và ăn khi nào cảm thấy đói. Tôi tìm cách liên lạc lại với tất cả bạn bè, đọc thật nhiều sách và ghi lại tất cả những gì đã xảy ra vào quyển nhật ký của mình.

Và lòng tin không khiến tôi phải thất vọng. Hai tháng sau, một người bạn giới thiệu cho tôi một công việc ít áp lực hơn và hẹn giúp tôi một cuộc phỏng vấn. Tôi có được một công việc mới, dù tiền lương chẳng nhiều nhặn gì, nhưng tôi không hề mảy may hối tiếc.

Tám tuần nghỉ ngơi đó đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi và dạy cho tôi biết rằng, cuộc sống mà mất đi sự cân bằng thì không đáng để sống - thậm chí là không thể sống được. Tôi cảm thấy biết ơn chính cơ thể mình vì nó đã gởi cho tôi một thông điệp rõ ràng đến vậy.

Tôi đã hoàn toàn bình phục trở lại và sẽ chẳng bao giờ quên được những gì đã xảy ra cho mình. Cuối cùng rồi tôi cũng học được cách định rõ bản thân mình từ trong ra ngoài, hơn là từ ngoài vào trong.

Tình thương không lời

Cha tôi dường như không biết thể hiện tình yêu thương của mình. Cả gia đình tôi sống vui vẻ và thoải mái, tất cả cũng là nhờ mẹ tôi. Hàng ngày cha cứ sáng sớm đi làm, chiều tối về nhà. Thế nhưng sau khi nghe mẹ tôi kể về những tội mà chúng tôi phạm phải trong ngày thì cha lại không ngớt lời rầy la chúng tôi.

Có lần tôi ăn trộm một cây kẹo ở cửa tiệm nhỏ đầu phố. Cha biết chuyện và nhất định bắt tôi đem trả. Không những thế cha còn bắt tôi đến quét dọn cửa tiệm để chuộc lại lỗi lầm. Lần ấy duy chỉ có mẹ hiểu bởi dù sao tôi cũng chỉ là đứa trẻ mà thôi.

Tôi chơi bóng sơ ý bị gãy chân. Trên đường đến bệnh viện, người ôm tôi vào lòng là mẹ. Cha dừng xe hơi của ông trước cửa phòng cấp cứu, nhưng người bảo vệ yêu cầu ông đậu xe nơi khác vì chỗ đó chỉ dành cho những xe cấp cứu đỗ mà thôi. Cha nghe xong liền nổi giận: "Thế ông tưởng xe của chúng tôi là xe gì? Xe du lịch chắc?".

Trong những buổi tiệc mừng sinh nhật của tôi, cha chẳng giống một người cha chung vui với tôi chút nào. Cha chỉ mải lo thổi bong bóng, bày bàn tiệc hoặc làm những việc phục vụ vặt vãnh. Vẫn là mẹ cắm nến lên bánh kem và đưa đến cho tôi thổi.

Xem những album ảnh, bạn bè thường hỏi: "Cha bạn ở đâu vậy?". Chỉ có trời mới hiểu nổi, vì lúc nào cha cũng là người cầm máy chụp hình. Còn mẹ và tôi thì luôn cười tươi như hoa và ảnh chụp dĩ nhiên là vô số.

Tôi còn nhớ có lần mẹ nhờ cha dạy cho tôi tập đi xe đạp. Tôi xin cha khoan hãy buông tay ra, nhưng cha nói đã đến lúc cha không nên vịn xe cho tôi nữa. Và thế là cha buông tay. Tôi té xuống đất, mẹ vội chạy lại đỡ tôi dậy, còn cha thì khoát tay ra hiệu mẹ tránh ra. Lúc đó tôi rất giận, và nhất định phải chứng tỏ cho cha thấy tôi cũng không cần sự giúp đỡ. Nghĩ vậy tôi lập tức gắng leo lại lên xe và chạy một mình cho cha xem. Lúc ấy cha chỉ đứng yên và nở một nụ cười.

Tôi vào đại học, tất cả thư từ đều do mẹ viết cho tôi. Cha chỉ gửi tiền ăn học và duy nhất một bức thư ngắn trong vòng bốn năm trời, nội dung chỉ vẻn vẹn vài dòng về chuyện tôi rời khỏi nhà đi học xa nên chẳng còn ai đá bóng trên thảm cỏ trước nhà nữa khiến thảm cỏ của cha ngày một tươi tốt.

Mỗi lần tôi gọi điện về nhà, cha dường như đều rất muốn trò chuyện với tôi nhưng cuối cùng ông lại nói: "Cha gọi mẹ lại nghe điện nhé!".

Thế rồi tôi cũng kết hôn, lại vẫn là mẹ khóc. Cha chỉ sụt sịt mũi vài cái rồi bước ngay ra khỏi phòng.

Từ bé đến lớn, cha chỉ thường nói với tôi những điều như: Con đi đâu đấy?, Mấy giờ về?, Xe còn đủ xăng không?, Không, không được đi...

Cha hoàn toàn không biết thể hiện tình yêu thương của mình. Trừ phi... Trừ phi... Phải chăng cha đã thể hiện rất nhiều nhưng tôi lại vô tình không cảm nhận được tình thương yêu bao la đó?

Tình yêu

Đã một năm kể từ khi Susan bị mù vì một chẩn đoán sai của bác sĩ, cô đột ngột bị ném vào thế giới của bóng tối, tức giận, tuyệt vọng và mặc cảm. Và tất cả những gì đủ để cô còn bám víu vào cuộc sống là vì bạn trai cô - Mark.

Mark là một sĩ quan quân đội. Anh rất yêu Susan, đã nhìn thấy cô tuyệt vọng đến mức nào, anh quyết định giúp Susan lấy lại được sức mạnh và tự lập.

Đầu tiên, anh tìm cho cô một công việc dành cho người khiếm thị. Nhưng làm sao cô đến chỗ làm việc được đây? Mark đề nghị đưa cô đến chỗ làm hằng ngày, dù hai người ở hai đầu thành phố. Tuy nhiên sau đó, Mark nhận ra rằng đó không phải là giải pháp. Susan sẽ phải tự mình đi xe buýt, tự đến chỗ làm - đó mới là cách đúng. Nhưng Susan rất nhạy cảm, cô ấy sẽ phản ứng thế nào?

Đúng như với Mark nghĩ, Susan hết sức hốt hoảng khi nghe tới việc mình phải tự đi xe buýt. "Em bị mù" mà"- Cô phản ứng bằng giọng cay đắng - "Làm sao em biết em sẽ đi đến đâu? Anh bỏ rơi em phải không?"

Mark rất đau lòng khi nghe những lời đó, nhưng anh biết phải làm gì. Anh hứa sẽ cùng cô đi xe buýt mỗi sáng và mỗi chiều, bao lâu cũng được, cho đến bao giờ cô quen với việc đi xe buýt.

Trong hai tuần liền, Mark trong bộ đồng phục quân đội, đi theo Susan đến nơi làm việc. Anh dạy cô làm sao để sử dụng các giác quan khác, nhất là thính giác, để biết mình đang ở đâu và làm sao để quen với môi trường mới. Anh cũng giúp cô làm quen với những người lái xe buýt, nhờ họ để mắt đến cô, giữ cho cô một chỗ ngồi hằng ngày...

Cuối cùng, Susan nói cô có thể tự đi được.

Sáng thứ hai, lần đầu tiên, họ đi theo hai hướng khác nhau.

Thứ ba, thứ tư, thứ năm... Mỗi ngày Susan đều tự đi xe buýt đến chỗ làm và đón xe buýt đi về. Susan cảm thất rất vui vì cô vẫn tự mình làm được mọi việc.

Thứ hai của 5 tuần sau đó, Susan đón xe buýt đi làm như mọi khi. Khi cô đang đóng tiền mua vé tháng cho người lái xe, bỗng anh lái xe nói: "Tôi thật ghen tỵ với cô đấy nhé!".

Susan không biết có phải anh ta nói với mình không. Nhưng nói cho cùng, có ai mà lại đi ghen với một cô gái mù đang đấu tranh để mà sống chứ? Cô hỏi:

- Sao anh lại ghen với tôi được?

- Vì cô được quan tâm và bảo vệ. Cô quả là hạnh phúc!

- Tôi được bao vệ? Anh nói thế tức là sao?

- Suốt mấy tuần qua, sáng nào tôi cũng thấy một chàng trai mặc đồng phục quân đội lái xe theo, rồi đứng bên kia đường nhìn cô xuống xe. Anh ta nhìn theo đến khi cô đi qua đường an toàn, đi vào nơi cô làm việc và vẫy tay chào cô rồi mới lái xe đi. Cô quả là một người may mắn!

Susan khóc. Vì cô không nhìn thấy Mark nhưng cô cảm thấy Mark ở bên cạnh. Cô là người may mắn vì cô đã nhận được một món quà mà cô không cần phải nhìn thấy tận mắt để tin: món quà của tình yêu có thể mang ánh sáng đến những nơi nhiều bóng tối nhất.

Tình yêu đích thực không bao giờ gục ngã.

Tôi đã bắt đầu biết... nói dối

Thủa nhỏ, tôi được dậy rằng phải sống trung thực, không dối trá với bản thân mình và tất cả mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người. Khi đó, tôi chưa hiểu thực sự thế nào là trung thực, thế nào là dối trá mà chỉ biết rằng những hành động nào của tôi làm vừa lòng người lớn, được khen là ngoan ngoãn thì đấy là những hành động trung thực. Nhưng đến một hôm, tôi đã biết sự thật trong những lời khen ấy. Tôi bắt đầu biết nói dối - những lời nói dối chân thành nhất của đời mình.

Tôi có người bạn quanh năm lênh đênh trên con tầu nhỏ, đã cũ, đi câu mực, đánh cá trên biển, vài tháng mới trở lại đất liền vài ngày. Một lần, anh đi biển và thời tiết thay đổi đột ngột khiến biển động dữ dội. Nhà anh chỉ còn một người mẹ già ốm yếu. Vì quá lo lắng cho con trai, bệnh tim tái phát khiến bà phải vào viện trong tình trạng hôn mê. Khi đó, gió bão gào thét dữ dội. Các bác sĩ chuẩn đoán và quyết định phải mổ ngay nhưng họ không thể tiến hành trong khi bà mẹ lâm vào tình trạng hôn mê, suy kiệt tinh thần hoàn toàn.

Trong những đoạn tỉnh táo ngắn ngủi, bà chỉ thều thào hỏi là bão đã tan chưa, con trai bà đã về chưa. Khi đó có một người làng lên cho biết rằng đã tìm thấy những mảnh... vỡ của con tầu nhà bà dạt vào bờ biển. Bà hỏi các bác sĩ, không ai trả lời bà. Tôi đứng ở đó và thật rồ dại khi trung thực kể cho bà nghe rằng con bão còn khủng khiếp lắm, kéo dài vài ngày nữa mới thôi, con tầu đã bị vỡ, sóng xô vài mảnh vào bờ, con trai bà (bạn thân của tôi) không biết số phận đang đẩy đưa thế nào?

Các bác sĩ không kịp cản tôi nói. Câu chuyện tôi vừa kể đã đánh gục những sức lực yếu ớt cuối cùng của bà. Bà nấc nhẹ và thiếp đi. Bác sĩ bó tay. Tôi tình cờ phạm phải một tội ghê gớm mà suốt đời tôi không tha thứ nổi cho mình. Sau khi bão tan, người bạn tôi sống sót trở về do được một chiếc tầu khác cứu. Anh không trách tôi mà chỉ gục bên mộ mẹ khóc nức nở. Sự "trung thực" ngu ngốc đã vô tình khiến tôi phạm phải một sai lầm khủng khiếp như vậy.

Trong truyện ngắn nổi danh "Chiếc lá cuối cùng" của O. Henrry, một bệnh nhân tin chắc mình sẽ chết. Cô đếm từng chiếc lá rụng của tán cây ngoài cửa sổ và tin rằng đó là chiếc "đồng hồ" số phận của cô. Khi chiếc lá cuối cùng rơi xuống, cô sẽ chết. Nhưng chiếc lá cuối cùng không bao giờ rụng xuống. Cô gái bình phục, sống khoẻ mạnh và không biết rằng, chiếc lá cuối cùng đó chỉ là một chiếc lá "giả" do một hoạ sĩ muốn cứu cô vẽ lên vòm cây trơ trụi.

Như vậy sự thật không phải được nhìn thấy bằng mắt, được cảm nhận bằng tri thức... Nếu như tôi không kể về cơn bão tôi thấy, mảnh ván tầu vỡ tôi được nghe thì có lẽ người mẹ ốm yếu ấy không chết. Nếu như không có chiếc lá "giả" kia thì cô gái sẽ chết vì bệnh tật và vì tuỵêt vọng. Sự thật trong đời sống con người phải đồng nghĩa với tình yêu nữa. Chỉ có điều gì cứu giúp con người, làm cho con người mạnh mẽ lên, hướng con người về ánh sáng... điều đó mới gọi là sự thật.

Còn tất cả những hành động nào, lời nói nào cho dù đúng với mắt mình nhìn thấy, tai mình nghe thấy, tri thức của mình hiểu thấy nhưng chúng là khiến cho người khác, hoặc cho chính mình lâm vào cảnh tuyệt vọng hơn, mất đi niềm tin cuộc sống, mất đi sức mạnh tinh thần dẫn đến việc huỷ hoại đời sống... thì đều không phải sự trung thực. Nếu chúng là sự thật, đó là sự thật của Quỷ tàn nhẫn không biết yêu thương con người.!

Trong cuộc sống của chúng ta, giữa sự thật của Tình yêu và sự thật của Quỷ luôn luôn xáo trộn, mập mờ. Một lời nói dối trong "tình yêu" có thể cứu người và một lời nói thật phũ phàng có thể giết người. Tất nhiên chúng ta sẽ chọn để nói lời nói dối chân chính. Tuy vậy để phân biệt rõ ràng khoảng cách giữa những lời nói này cũng là một điều khó khăn và tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh đặc biệt. Bạn có biết nói dối thế nào để lời nói dối ấy là lời nói dối chân thành, chứa đầy tình yêu con người không?

Đơn giản thôi. Bạn hãy giữ lấy một trái tim tha thiết với cuộc đời và đồng loại.

Tôi không thể

Hôm nay, lớp học của cô giáo Donna có một sự kiện khác thường, học sinh đang làm gì đó rất phấn khích lắm. Donna dạy môn Nghệ thuật Ngôn Ngữ, giúp cho học sinh cảm thấy mạnh mẽ hơn, yêu quý và có trách nhiệm với bản thân hơn. Công việc của tôi hôm ấy là quan sát xem lớp học này có hiệu quả thế nào. Vậy nên tôi chọn một ghế trống và ngồi xuống cuối lớp. Tất cả học sinh đều đang viết vào một tờ giấy trắng.

Cô bé ngồi cạnh tôi đang viết đầy những câu "Tôi không thể": "Tôi không thể làm cho bạn Debbie quý em", "Tôi không thể nhân chia ba con số"... Tờ giấy đã đầy một nửa mà có chưa có vẻ ngừng lại. Cô bé viết làm có vẻ kiên quyết, dứt khoát lắm. Tôi liền đứng dậy đi xem những cô cậu học sinh khác viết những thứ mà họ không thể làm. Một cậu học sinh gầy gò thì viết: "Tôi không thể chạy nhanh trong giờ thể dục". Một cô bé mập mạp thì viết: "Tôi không thể ăn sôcôla". Đến lúc này tôi đã khá tò mò đi lại phía Donna. Cô ấy cũng có vẻ đang bận rộn: "Mình không thể gọi mẹ của Jonh đến họp phụ huynh. mình không thể bảo em Alan dùng lời nói thay cho nắm đấm..." - đó là những gì mà Donna đang viết.

"Xong rồi, kết thúc thôi các em!". Các học sinh đều gập giấy lại, mang ra bàn cô giáo, bỏ vào một cái hộp gỗ. Donna cũng bỏ giấy của cô vào đó. Đậy nắp hộp lại, Donna ôm hộp ra cửa, theo sau là tất cả học sinh và tôi. Ra đến vườn, cô lấy xẻng đã xếp sẵn ngoài đó phát cho mọi người. Họ bắt đầu đào.

Mười phút sau, cái hố khá sâu, họ đặt cái hộp "Tôi không thể" xuống và nhanh chóng lấp lại. Ba mươi mốt học sinh lớp 10 đứng xung quanh:

"Nào các em, nắm tay nhau và cúi đầu!" .Học sinh đứng vòng quanh "ngôi mộ": "Hôm nay chúng ta ở đây để tưởng niệm "Tôi không thể". Khi "Tôi không thể" còn sống, tên của anh ta được nói ở khắp mọi nơi. Nay chung ta mong "Tôi không thể" tìm được yên bình ở nơi này. Thay vào đó là các anh chị em của anh ta là "Tôi có thể", "Tôi sẽ"... các em đồng ý không?"

Tôi biết là các em học sinh sẽ không bao giờ quên ngày hôm ấy. Rồi cô Donna dẫn các em vào lớp. Họ "ăn mừng" sự ra đi của "Tôi không thể" bằng bánh quy, bỏng ngô va nước quả. Như một phần của buổi lễ, cô Donna viết lên góc bảng: "Tôi không thể" và ngày tháng "hi sinh" của nó.

Tôi không phải là học sinh của Donna, thực ra cô ấy đã từng là học sinh của tôi. Nhưng hôm ấy tôi đã học được ở Donna nhiều điều. Cho đến giờ, tôi vẫn còn nhớ 31 học sinh lớp 10 cùng cô giáo nắm tay, cúi đầu tưởng niệm... "Tôi không thể".

Trái tim hoàn hảo

Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: "Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!". Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói:

- Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt.

- Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè... Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.

Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh...

Và tôi đã bật khóc

Tôi đã không bật khóc khi được biết con tôi là một đứa trẻ bị bệnh tâm thần. Tôi vẫn ngồi im và không nói gì khi vợ chồng tôi được thông báo rằng Kristi đứa con hai tuổi của chúng tôi - đúng như chúng tôi đã nghi ngờ - thật sự bị chậm phát triển trí não.

"Cứ khóc đi," bác sỹ khuyên tôi thân ái. "Nó giúp tránh được các khủng hoảng về tâm lý."

Những khủng hoảng tâm lý không xảy ra, tôi không thể khóc trong những ngày tháng tiếp theo. Chúng tôi đăng ký cho con vào trường mẫu giáo khi cháu được bẩy tuổi.

Thật dễ bật khóc khi tôi để con mình ở lại trong căn phòng toàn những đứa trẻ năm tuổi đầy tự tin, háo hức, nhanh nhẹn. Kristi đã chơi một mình ở nhà rất nhiều giờ, nhưng vào bữa đó, khi cháu là đứa khác biệt hẳn giữa hai mươi đứa trẻ khác, có lẽ lúc đó là lúc cháu nó cảm thấy cô đơn nhất.

Mặc dù vậy, những điều tốt đẹp hơn cũng dần dần tới với Kristi và những bạn cùng lớp của cháu. Khi khoe về mình, những đứa bạn của Kristi cũng cố gắng khen thêm: "Hôm nay Kristi đã đọc tất cả các chữ chính xác." Không đứa trẻ nào nói thêm rằng những chữ mà Kristi phải đọc dễ hơn nhiều so với các bạn khác.

Trong năm thứ hai ở trường, cháu nó gặp một trường hợp rất khó khăn. Một cuộc thi lớn cho học sinh về năng khiếu âm nhạc và thể thao. Kristi lại rất kém về âm nhạc và khả năng vận động. Vợ chồng chúng tôi cũng rất sợ khi nghĩ đến ngày đó.

Hôm đó, Kristi tính giả bộ bệnh. Tôi cũng muốn liều để cho cháu ở nhà. Tại sao phải để cho Kristi thua trong một phòng thể thao ngập những phụ huynh, học sinh và thầy cô giáo? Cách giải quyết đơn giản nhất là để cháu ở nhà. Chắc chắn rằng vắng mặt trong một chương trình như vậy cũng không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng lương tâm tôi không cho phép tôi đầu hàng dễ dàng như vậy. Và cuối cùng thì tôi phải đẩy Kristi - lúc đó đã tái nhợt và rất miễn cưỡng - lên xe học sinh và chính tôi lại giả bộ bệnh.

Nhưng một khi tôi đã ép con gái mình tới trường, thì tôi cũng phải ép mình tới tham gia chương trình. Dường như thời gian kéo dài tới vô tận khi chưa tới nhóm của Kristi trình diễn. Cuối cùng thì chúng cũng tới lượt, khi đó tôi biết Kristi rất lo sợ. Lớp của cháu được chia thành từng nhóm. Với những động tác ì ạch, chậm và lóng ngóng, chắc chắn cháu sẽ làm đội kém điểm.

Cuộc thi đấu lại diễn ra rất suôn sẻ một cách đáng ngạc nhiên, cho đến khi cuộc thi chạy trong bao tải. Mỗi đứa trẻ phải nhảy vào trong bao từ tư thế đứng, ôm bao nhảy đến đích, quay vòng lại nơi xuất phát và nhảy ra khỏi bao.

Tôi thấy Kristi đứng gần cuối hàng và trông có vẻ hoảng loạn.

Nhưng khi gần tới lượt Kristi, có một thay đổi trong đội của cháu. Cậu con trai cao nhất trong đội đứng ra sau Kristi và đặt hai tay lên eo của cháu. Hai đứa con trai khác đứng lệch ra phía trước của cháu. Khi đứa trẻ trước Kristi nhảy ra khỏi bao, hai đứa con trai đằng trước giữ bao trong khi đứa con trai đằng sau nhấc Kristi lên và đặt cháu chính xác vào trong bao. Đứa con gái đứng đằng trước Kristi giữ tay cháu và giúp cháu giữ thằng bằng. Cuối cùng cháu cũng bắt đầu nhảy, mỉm cười và tự hào.

Giữa tiếng hoan hô cổ vũ của các giáo viên, học sinh và phụ huynh, tôi đã cảm ơn trời vì những con người tốt bụng kia có mặt trong cuộc đời đã giúp cho đứa con gái khuyết tật của tôi có thể cảm thấy mình như là một con người thật sự.

Và tôi đã bật khóc.

Vai diễn cuối cùng

Có một người diễn viên già đã về hưu và sống độc thân. Mùa hạ năm ấy ông tìm về một làng vắng vẻ ở vùng núi, sống với gia đình người em ông là giáo viên cấp 1 trường làng.

Mỗi buổi chiều ông thường ra chơi nơi bãi cỏ vắng lặng ngoài thung lũng. ở đây, chiều nào ông cũng thấy một chú bé ra ngồi đợi đoàn tàu chạy qua thung lũng, trước khi rẽ vào những vách đá đến phía ga trên.

Chú bé hồi hộp đợi. Đoàn tàu phủ đây bụi đường với những toa đông đúc hành khách như một thế giới khác lạ ầm ầm lướt qua thung lũng. Chú bé vụt đứng dậy háo hức đưa tay vẫy chỉ mong có một hành khách nào đó vẫy lại chú. Nhưng hành khách - mệt mỏi vì suốt một ngày trên đường- chẳng ai để ý vẫy lại chú bé không quen biết.

Hôm sau, rồi hôm sau, hôm sau nữa, hôm nào ông già cũng thấy chú bé ra vẫy và vẫn không một hành khách nào vẫy lại. Nhìn nét mặt thất vọng của chú bé, tim người diễn viên già như thắt lại. Ông nghĩ: "Không gì đau lòng bằng việc thấy một em bé thất vọng, đừng để trẻ con mất lòng tin ở đời sống, ở con người."

Hôm sau, người em thấy ông anh giở chiếc vali hoá trang của ông ra. Ông dán lên mép một bộ râu giả, đeo kính, mượn ở đâu một chiếc áo veston cũ, mặc vào rồi chống gậy đi. Ông đi nhờ chuyến xe ngựa của trạm lên tàu đi ngược lên ga trên. Ngồi sát cửa sổ toa tàu ông thầm nghĩ: " Đây là vai kịch cuối cùng của mình, cũng như nhiều lần nhà hát thường phân cho mình, một vai phụ, một vai rất bình thường, một hành khách giữa bao hành khách đi tàu..."

Qua cái thung lũng có chú bé đang đứng vẫy, người diễn viên già nhoài người ra, cười, đưa tay vẫy lại chú bé. Ông thấy chú bé mừng cuống quít, nhẩy cẫng lên, đưa cả hai tay vẫy mãi.

Con tàu đi xa người diễn viên già trào nước mắt cảm động hơn bất cứ một đêm huy hoàng nào ở nhà hát. Đây là vai kịch cuối cùng của ông, một vai phụ, một vai không có lời, một vai không đáng kể nhưng đã làm cho chú bé kia vui sướng, đã đáp lại tâm hồn chú bé và chú sẽ không mất lòng tin ở cuộc đời.

Xin thầy hãy dạy cho con tôi

(Trích thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học)

Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ có một con người chính trực; cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ có một nhà lãnh đạo tận tâm. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với năm đôla nhặt được trên hè phố...

Xin thầy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng.

Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ.

Xin dạy cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại là những kẻ dễ bị đánh bại nhất...

Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách... nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.

Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm...

Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hoà nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo thời thế.

Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người những cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp...

Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã, xin hãy dạy cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.

Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yểm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.

Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình...

Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông đang gào thét... và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng...

Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên được những thanh sắt cứng rắn.

Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt tối vào bản thân, bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhận loại.

Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy. Nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình, nếu được vậy, con trai tôi quả thật là một cậu bé hạnh phúc và may mắn.

Đánh Nhau Bằng Gậy

Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha.

Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.

Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau.

Mỗi người cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình.

Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì nguy hiểm sắp xảy đến.

Người ta không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.---

Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: "Đấu tranh bảo tồn sinh mạng".

Sinh viên khác: bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh. Sinh viên khác nữa lại phân tích: bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy.---

Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa.

Cả lớp im ăng ắng.

Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: "Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết".---

Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: "Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ.

Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ: họ cắn xé nhau.

Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh... thì con người lại dành giật chém giết lẫn nhau.

Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh.

Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.

Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này".

Dĩ Hòa Vi Quý - Nên Chăng?

Một người Việt Nam lớn lên vẫn không quen với rất nhiều lời răn dạy về cách sống, cách cư xử ở đời...

Thôi thì chịu chín bỏ làm mười, một sự nhịn chín sự lành, thôi thì đóng cửa bảo nhau, thôi thì dĩ hoà vi quý...

Tất thảy đều mang một tấm lòng khoan nhượng.

Nhưng những tính tốt ấy có phải lúc nào cũng là một cách sống tích cực?

Nếu nhìn vấn đề ở góc độ lịch sử, những cái đang trở thành nhược điểm của người Việt Nam hiện nay chủ yếu được hình thành trong thế kỷ 20.

Một thế kỷ đầy biến động, chúng ta kế thừa một thứ chủ nghĩa phong kiến để chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc, và quy luật chiến tranh đè bẹp, lấn át mọi quy luật kinh tế xã hội. Ở miền Bắc hình thành cơ chế bao cấp . Nhưng bao cấp, nhất là bao cấp kéo dài sau năm 1975 lại làm nảy sinh hai đứa con tệ hại là thói đạo đức giả và thói vô trách nhiệm.

Báo "Ong đất" của Bungari nhìn lại thời kỳ này của chính họ, đã tổng kết nên 6 nghịch lý mà ta có thể tham khảo :

- Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc.

- Ai cũng không làm việc nhưng ai cũng có lương.

- Ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống.

- Ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống.

- Ai cũng sống nhưng không ai hài lòng.

- Ai cũng không hài lòng nhưng ai cũng giơ tay "đồng ý".

Bây giờ cơ chế thị trường lại sinh ra hai đứa con là nóng ruột kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ.

Mọi nhược điểm chỉ phát huy tác dụng trong môi trường của bốn thói xấu này.

Một câu nhịn, tốt quá. Nhưng nếu tôi vô trách nhiệm, đó là sự biện hộ cho thói vô trách nhiệm của tôi.

Miệng Tiếng Thị Phi

Trong một buổi nhàn hạ, vua Đường Thái Tông hỏi chuyện với vị quan cận thần là Hứa Kính Tôn rằng:

- Trẫm thấy khanh phẩm cách cũng không phải là phường sơ bạc. Sao lại có nhiều tiếng thị phi chê ghét như thế?

Hứa Kính Tôn trả lời:

- Tâu bệ hạ. Mưa mùa Xuân tầm tả như dầu, người nông phu mừng cho ruộng đất được thấm nhuần, kẻ bộ hành lại ghét vì đường đi trơn trợt. Trăng mùa thu sáng vằng vặc như gương treo trên bầu trời đêm, hàng thi nhân vui mừng gặp dịp thưởng du ngâm vịnh, nhưng bọn đạo chích lại ghét vì ánh trăng quá sáng tỏ. Trời đất kia vốn vô tư không thiên vị, mà cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian trách hận ghét thương. Còn hạ thần cũng đâu phải một người vẹn toàn thì làm sao tránh khỏi tiếng chê bai chỉ trích. Cho nên ngu thần trộm nghĩ. Đối với tiếng thị phi trong thế gian nên bình tâm suy xét, đừng nên vội tin nghe. Vua tin nghe lời thị phi thì quan thần bị hại. Cha mẹ tin nghe lời thị phi thì con cái bị ruồng bỏ. Vợ chồng tin nghe lời thị phi thì gia đình ly tán. Tiếng thị phi của thế gian nọc độc còn hơn rắn rết, bén hơn gươm đao, giết người không thấy máu.

Nói Câu "Xin Lỗi" Có Dễ Không?

"Cho mình xin lỗi" - thật là dễ dàng để viết câu này xuống giấy. Nhưng khi phải thốt ra với một ai đấy, ta thường cảm thấy "nghẹn nghẹn" trong cổ họng, như danh ca Elton John đã từng nói: "Xin lỗi dường như là từ khó nói nhất".

Xin lỗi là sự công nhận chúng ta đã làm một điều sai trái - dù đấy là một lời bình phẩm vô tình, một hành động nông nổi hay một cử chỉ không đẹp. Bằng lời xin lỗi, chúng ta muốn đưa ra thông điệp như sau: "Mình cảm thấy vô cùng ân hận và dày vò vì việc mình đã làm. Mong bạn hãy tha thứ cho mình!". Cũng chính vì điều này mà khi xin lỗi, chúng ta thường cảm thấy bản thân quá... "nhỏ nhoi", thấp bé", rằng xin lỗi là dấu hiệu của sự yếu đuối, của sự mất quyền lực và để cho nguời khác "nắm đầu".

Tuy nhiên, một thực tế cho thấy là "nhân vô thập toàn", không có ai trên cuộc đời này dám vỗ ngực tự hào là mình hoàn hảo cả. Cho nên, việc bạn sẵn lòng nhận lỗi lầm, đối diện thẳng thắn với nó và hành động để đưa mọi việc vào trật tự tốt đẹp như cũ, cho thấy nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao và cá tính tuyệt vời của bạn. Bạn bè (người thân, đồng nghiệp, cha mẹ v.v...) sẽ không đánh giá thấp những nỗ lực của bạn. Ngược lại, họ sẽ đánh giá bạn cao hơn, mở rộng lòng hơn cho sự tha thứ và bỏ lại đàng sau quá khứ những niềm đau, nỗi buồn.

* Nên xin lỗi vào lúc nào?

Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, câu xin lỗi cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt, để chứng tỏ sự thiện chí của bạn. Nếu cứ chần chừ biện hộ cho rằng bạn không cần xin lỗi vì chẳng có lỗi chi cả, hoặc bạn sẽ xin lỗi với một số điều kiện từ đối tượng, thì e rằng bạn đang làm vấn đề rắc rối thêm. Hãy nhớ lại những chi tiết sau đây để bạn hiểu rõ sự cần thiết và khẩn cấp của một lời xin lỗi:

- Bạn đã phát biểu một câu nói gì đấy không được duyên dáng, êm tai cho lắm và bạn đã nhìn thấy nét đau đớn ngạc nhiên trên khuôn mặt người ấy? Như vậy là bạn đã làm tổn thương bạn mình không ít!

- Ðã có ai la hét, gằn giọng, hạ bệ bạn bằng những ngôn từ không trau chuốt chưa? Hẳn bạn sẽ không ưa thích gì, thậm chí bực bội nữa là khác. Vậy mà bạn đã làm điều ấy cho người thân yêu của mình, thật đáng trách biết bao!

Một số người có tâm hồn nhạy cảm hơn những người khác. Ðiều mà bạn cho là nhỏ nhoi lại có sự tác động rất lớn đến cuộc sống của họ. Hoặc khi đôi bên tranh cãi nhau, ai cũng cố đưa ra những lời nói "nặng ký" nhất để dành chiến thắng, và bạn nghĩ rằng "kẻ kia" phải hạ mình xin lỗi bạn mới đúng.

Vấn đề cần bàn ở đây không phải là việc bạn có chủ ý làm người khác tổn thuơng, thất vọng, đau đớn hay không, mà là việc bạn đã gây ra "tội ác" ấy, dù bạn thật sự "vô tội".

Bằng bất cứ gịá nào, bạn hãy xin lỗi và nói cho người ấy hiểu, rằng bạn không cố ý làm một việc xấu như vậy. Xin lỗi sớm trong trường hợp này chứng tỏ bạn rất dũng cảm và nhanh nhạy, còn hơn là khi bị "dồn đến mức đường cùng" rồi mới tỏ thái độ ân hận muộn màng, thì lời xin lỗi sẽ không còn giá trị lớn nữa.

* Phải tự hoàn thiện bản thân

Biết xin lỗi là nét sống lành mạnh của một con nguời có lòng tự trọng và biết chia sẻ với cảm xúc của những người khác. Tuy nhiên, việc lạm dụng từ "xin lỗi" quá thường xuyên sẽ bớt đi nét đẹp vốn có của nó. Nếu bạn xin lỗi mà cứ tiếp tục phạm sai lầm tuơng tự, người khác sẽ nghi ngờ mức độ thành thật của bạn. Hãy cho từ "xin lỗi" một tác động lớn hơn và kỳ diệu hơn, khi sự tự hoàn thiện bản thân chứng tỏ bạn đã để tâm và trí để cải thiện mối quan hệ theo chiều hướng tốt đẹp.

* Nói câu xin lỗi như thế nào?

Nói câu xin lỗi là một bước quan trọng để sửa chữa lại những lỗi lầm, thiệt hại mà bạn đã gây ra thông qua hành động "trêu ngươi" vừa rồi. Thế nhưng, phụ thuộc vào mức độ thiện chí của bạn, bạn vẫn có cách hay nhất để xây dựng lại niềm tin và những cảm xúc tốt đẹp giữa đôi bên.

- Không nên xin lỗi qua email, điện thoại, nếu như bạn có điều kiện gặp trực tiếp

- Hãy nói câu xin lỗi bằng ánh mắt chân thành, cử chỉ thân ái, từ tốn.

- Không nên biện luận dài dòng để "chạy tội", mà hãy nhìn thẳng vào vấn đề và nhận lãnh trách nhiệm về phía mình.

- Thể hiện một cử chỉ đặc biệt của lòng tốt khác hẳn ngày thường, để tạo ra sự khác lạ đáng lưu ý trong cung cách ứng xử.

-Nếu có thể thì nên tặng hoa kèm với lời xin lỗi, bạn sẽ thấy cực kỳ "ép-phê".

- Sau khi đã xin lỗi xong, bạn cần phải biết tha thứ cho bản thân mình trước, bởi vì bạn đã công nhận sai lầm và cố gắng để sống tốt hơn. Hãy rút kinh nghiệm để trở thành một con người mới mẻ hơn, tích cực hơn, khôn ngoan hơn. Nếu không, bạn sẽ phải hối tiếc và lại phải xin lỗi 1001 lần nữa!

Bài Học Về Cách Chấp Nhận

Ở một ngôi trường tiểu học nọ có tổ chức một buổi văn nghệ do chính các học sinh trong trường biểu diễn. Họ tổ chức hẳn một cuộc thi giữa các lớp để tuyển diễn viên cho các vai diễn trong vở kịch của trường, những đứa trẻ rất hăng hái tham gia.

Cậu bé hàng xóm của tôi cũng là một trong số những đứa trẻ đó. Mẹ cậu nói với tôi rằng cậu đã rất nghiêm túc chuẩn bị cho cuộc thi này. Cậu đã đứng hàng giờ trước gương để tập luyện chỉ với mong muốn có một vai diễn phụ trong vở kịch. Hơn ai hết mẹ cậu biết rằng cậu không có khiếu đóng kịch nhưng bà vẫn ủng hộ hết lòng cho nỗ lực của đứa con trai bé nhỏ.

Ngày diễn ra cuộc tuyển chọn tôi đã cùng mẹ cậu bé đến trường đón cậu tan học.

Vừa thấy chúng tôi, cậu bé vội chạy đến ngay, đôi mắt sáng long lanh ngập tràn vui sướng và hãnh diện :

_Mẹ ơi, mẹ thử đoán xem nào?

Và như không thể chờ được, cậu bé la toáng lên bằng giọng nói hổn hển và xúc động :

_Con được cô chọn là người vỗ tay và reo hò, mẹ ạ!

(Sự ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu của cậu bé khiến tôi vô cùng bất ngờ, tôi cứ tưởng nó sẽ tức tối hay buồn rầu..., nhưng đổi lại như các bạn thấy đấy...hãy thử nghĩ xem liệu chúng ta có được như cậu bé trong tình huống như thế, liệu chúng ta có thể chấp nhận chỉ là người vỗ tay và reo hò???

Với một sự nỗ lực nhất định, đôi lúc kết quả lại không được như ta mong muốn, đó là thực tế, vì sự mong đợi đôi khi vượt quá khả năng bản thân mình, vấn đề là ta có chấp nhận nó như một thực tế và bằng lòng với những gì mình có hay không mà thôi...)

Bầy Chuột Bàn Chuyện "Tránh Mèo"

Nó có uy đến nỗi không cần vồ, chỉ cần trừng mắt một cái thì chú chuột xấu số kia phải chết cứng. Mèo ta có tính kiên nhẫn là phục kích chuột, và có tài đánh hơi, khiến cho bầy chuột ngày đêm lo sợ.

Một hôm, tình thế khẩn cấp, Chuột chú ra lệnh tập họp một dòng họ nhà chuột lại để bàn việc .

Thần dân nhà Chuột có mặt đầy đủ. Chuột chúa nói:

- Con mèo độc ác kia quả là một Sát tinh đối với chúng tạ Nó sát hại con cháu ta không biết bao nhiêu mạng. Các ngươi có kế hoạch gì để bảo tồn nòi giống ta không.

Bầy chuột đưa mắt nhìn nhau run sợ. Bỗng có chú chuột nhắt đưa ý kiến:

- Không gì bằng chúng ta bỏ nơi này đi đến nơi khác lập nghiệp!

Chuột chúa lắc đầu:

- Không dễ đâu! Dẫu gì cũng là quê hương của ta. Vả lại nơi khác chưa chắc đã không có mèo. Hơn nữa, nơi kia thức ăn có dồi dào không? Thổ ngơi có thích hợp không?

Nghe Chuột Chúa nói thế, ai nấy đều lặng thinh. Bỗng mụ chuột già nói:

- Cổ nhân có câu: "Một cọp khó cự bầy chồn". Mấy bác Chuột Cống, Chuột Chù bự con cần phải liên kết với nhau phục kích, bất ngờ tấn công mèo, đánh cho nó một trận chắc chắn loài độc ác đó không dám bén mảng đến nữa.

Chuột chúa nói:

- Mèo đánh hơi tài lắm, không phục kích nó được đâu! Vả lại một cái nhảy cao của nó cao tới trời, dẫu chúng ta có ngàn chuột cũng không làm gì được mèo!

Bấy giờ có một chú chuột tham mưu dõng dạc nói:

- Không cần phục kích, cũng không cần đi xa, tôi có một diệu kế. Hãy lấy chuông đeo vào cổ mèo. Khi ta nghe tiếng chuông là biết sát tinh đến, ta chui vào hang là xong!

Bầy chuột nghe nói cả mừng, nắm tay nhau nhảy nhót.

Hồi lâu chuột chúa gật đầu nói:

- Kế hay! Nhưng ai dám đeo chuông vào cổ mèo.

Bầy chuột nhìn nhau run sợ, không ai lên tiếng. Chuột chúa thở dài nói:

- Nói thì dễ, thực hành thì mới là khó!

Hạnh Phúc Trong Sự Chân Thành

Tất cả mọi người đều chuộng sự thật, người ta thà chấp nhận một sự thật xấu xí còn hơn một sự dối trá tốt đẹp... Có thể nói ở đâu không có sự chân thành thì ở đó không có hạnh phúc đích thực.

Một cô gái dù xinh đẹp, sang trọng nhưng sẽ chẳng có giá trị gì và chẳng mang lại niềm vui cho ai khi cô ta luôn dối trá.

* Người chân thành luôn giữ được sự thanh thản trong tâm hồn. Không sợ gặp phải tai nạn, vì dối trá sẽ sợ bị "dấu đầu lòi đuôi" còn chân thành chỉ có một chân dung, không phải sợ bị phát hiện.

* Người chân thành bao giờ cũng được người khác tin cậy, yêu mến. Lời nói chân thành có sức thuyết phục rất cao. Một lời tỏ tình chân thành dù vụng về vẫn khiến trái tim đối tượng rung động còn hơn ngàn lời mật ngọt nhưng dối trá.

* Khi bạn đánh mất nhiều thứ như tiền bạc, công việc nhưng nếu được tin cậy thì bạn vẫn còn nhiều cơ hội để vươn lên. Ngày nay những nhà tuyển dụng ở các công ty rất quan tâm đến phẩm chất này. Có những nhân viên tuy thiếu hụt một số kỹ năng mà nhà tuyển dụng yêu cầu nhưng cô dám nói lên sự thật ấy họ vẫn nhận vào làm và đào tạo sau.

* Danh ngôn có câu "Chân thành, đó là sự khôn ngoan cao cấp nhất".

Nhiều người cho rằng khôn ngoan khi dối gạt được người khác, thật ra họ chỉ khiến người ta tin trong khoảnh khắc còn người chân thành mới chiếm được lòng tin ở người khác lâu dài.

* Nhà văn Sê-khốp đã viết "Dối trá là xúc phạm người nghe và tiện hóa người nói" cho nên không nói dối khi không cần thiết. Nói dối làm mắt bạn tối lại, tim đập nhanh hơn và cử chỉ trở nên lúng túng, dáng vẻ đẩy đưa, với những kẻ tinh đời thì họ nhận ra ngay.

* Được sống bên những người chân thành cuộc sống bao giờ cũng dễ chịu, hạnh phúc, trong một không khí tràn đầy tin tưởng, không phải đối phó, đóng kịch, được bộc lộ con người thật của mình.

Nhìn vào mắt một người chân thành giống như soi mình vào một cái hồ nước trong trẻo, ta thấy được chiều sâu thật sự của nó và thấy được bóng dáng của chính ta .

Những Dấu Chấm Câu

Có một người chẳng may đánh mất dấu phẩy. Anh ta trở nên sợ những câu phức tạp và chỉ tìm những câu đơn giản. Đằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩ đơn giản.

Sau đó, không may, anh ta lại làm mất dấu chấm than. Anh bắt đầu nói khe khẽ, đều đều, không ngữ điệu. Anh không cảm thán, không xuýt xoa. Không gì có thể làm anh ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả. Đằng sau đó là sự thờ ơ đối với mọi chuyện.

Kế đó, anh ta đánh mất dấu chấm hỏi và chẳng bao giờ hỏi ai điều gì nữa. Mọi sự kiện xảy ra ở đâu, dù trong vũ trụ hay trên mặt đất hay ngay trong nhà mình mà anh ta không biết, anh ta đánh mất khả năng học hỏi. Đằng sau đó là sự thiếu quan tâm với mọi điều.

Một vài tháng sau, anh ta đánh mất dấu hai chấm. Từ đó anh ta không liệt kê được, không còn giải thích được hành vi của mình nữa. Anh ta đổ lỗi cho tất cả, trừ chính mình.

Cứ mất dần các dấu, cuối cùng anh ta chỉ còn lại dấu ngoặc kép mà thôi. Anh ta không phát biểu được một ý kiến nào của riêng mình nữa, lúc nào cũng chỉ trích dẫn lời của người khác. Thế là anh ta hoàn toàn quên mất cách tư duy.

Cứ như vậy, anh ta đi đến dấu chấm hết.

Thiếu những dấu chấm câu trong một bài văn, có thể bạn chỉ bị điểm thấp vì bài văn của bạn mất ý nghĩa, nhưng mất những dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai chấm điểm nhưng cuộc đời bạn cũng mất ý nghĩa như vậy.

Mong bạn hãy giữ gìn những dấu chấm câu của mình, bạn nhé!

Giận Dữ, Kềm Chế Hay Bộc Lộ?

Giận dữ khiến ta sẵn sàng làm một điều gì đó cho hả cơn bực tức!

* Khi cơn giận dấy lên ở não, nó đẩy cao huyết áp và nhịp tim, rút máu khỏi tứ chi, đặt cơ thể vào tình trạng sẵn sàng sợ hãi hay chiến đấu?

Có thể chúng ta sẽ chửi mắng xối xả, gây thiệt hại nặng nề cho kẻ khác khi bị chọc giận. Nhưng một phản ứng bằng lời nói hay hành động không phải là điều không thể nào tránh được.

* Tất cả chúng ta đều phản ứng giống nhau trước những thái độ vô tâm và thiếu tôn trọng: NỔI GIẬN . Nhưng cách chúng ta biểu lộ cơn thịnh nộ lại hoàn toàn mang tính cách cá nhân. Sự phân biệt giữa cảm xúc và hành động rất quan trọng. Vì trong khi không thể khống chế nỗi xúc động , theo lý thuyết, ta có thể kiểm soát được hành vi của mình. Trong một số trường hợp, thì sự giận dữ rất cần thiết và có ích.

Nó lập ra những giới hạn để bảo vệ mình. Thí dụ, khi có người xâm phạm sự riêng tư của bạn, thì sự tức giận giúp bạn giữ kẻ đó ở một khoảng cách thích hợp. Nó cũng là một phản ứng hữu ích để phục hồi sau một sự lăng nhục về thể lý, tình dục hay cảm xúc.

Khi nhận ra mình không phải là một kẻ vô gía trị như mình tưởng , thì cơn thịnh nộ giúp người bị tổn thương hất tung mối nhục nhã kia và ném nó lên đầu kẻ đã xúc phạm mình. Đó là bước phục hồi đầu tiên .

Nhưng có lẽ tới 95% những cơn tam bành thường không có mục đích và có hại nhiều hơn là có lợi. Dù mỗi người chúng ta mích lòng theo nhiều cách khác nhau thì về cơ bản thường có 4 loại phản ứng sau:

* Bạn có thể :

1-Thừa nhận cảm xúc của bạn, và tự mình đương đầu với nó.

Giữ chặt lưỡi và đếm từ 1 tới 10 vẫn là biện pháp hữu hiệu để khỏi bùng nổ.

2-Trấn áp cảm xúc của bạn , không công nhận rằng mình đang tức giận. Và có thể sau nhiều năm kềm chế, bạn sẽ phải trả giá bằng những rối loạn tâm lý hay thể lý: loét bao tử, bệnh tim mạch, ung thư ...

3- Lợi dụng cơn giận để huy động mọi khả năng, hầu phản ứng một cách khôn khéo và xây dựng.

4- Bộc lộ, bất kể hậu quả. Đa số người trưởng thành không muốn biểu lộ cơn tức giận, vì chúng ta không những sẽ mất tự chủ - điều tự nó rất nguy hiểm - mà còn có thể làm tổn thương người khác bằng lời nói hoặc hành động. Đôi khi sự bộc lộ chỉ làm ta lúng túng. Nhưng thường nó dẫn tới những thương tổn về mặt tình cảm hoặc thể xác.

* Trút cơn giận lên người khác không bao giờ là một giải pháp hữu hiệu cho vấn đề, mà trái lại thường làm cho vấn đề thêm tệ hại ra nữa! Có một số người bộc lộ cơn giận không phải để đả thương mà để trấn áp kẻ khác. Thật vậy, nếu họ không thể thắng trong một cuộc tranh luận bằng lý lẽ hay thuyết phục, họ sẽ nổi khùng lên và dùng cơn thịnh nộ để khuất phục đối thủ.

Không ai muốn trở thành mục tiêu cho cơn giận dữ, nhất là của những người mình quan tâm.

Do đó chúng ta sẽ lảng tránh cái trách nhiệm đáng sợ đó, nhịn đi cho xong !

Phương pháp tốt nhất là nên bước vào phòng tắm, xả nước lên người. Làm thế hóa ra rất là dễ chịu, không can dự vào cuộc tranh chấp dễ gây tổn hại cho sức khoẻ. Nhiều nhà tâm lý đồng ý rằng TRÚT CƠN THỊNH NỘ LÊN KẺ BẠN ĐANG TỨC TỐI LÀ THIẾU KHÔN NGOAN.

Vì sao? Vì hai lẽ: Thứ nhất bạn không thể khống chế được ai, dù bạn có thể trấn áp người đó bằng sự giận dữ, thì bạn chỉ có thể kiểm soát được thái độ của họ đối với bạn, chứ không thể điều khiển được ý nghĩ của họ về bạn . Thứ hai, nếu bạn nói cho người bạn đang căm giận biết cảm xúc của bạn, thì đến lượt người đó có thể cũng sẽ nổi khùng lên, và quan hệ có thể đổ vỡ vô phương hàn gắn! Rốt cuộc, chính bạn lại là người thấy cay cú, tức giận hơn.

Nếu tính khí bạn nóng nảy như hỏa diệm sơn thường xuyên sôi sục, thì hãy ráng canh chừng nó. Hãy lưu ý những dấu hiệu báo trước. Chẳng hạn như tay chân bạn sẽ lạnh toát, hay dạ dày sẽ co thắt trước khi bạn bùng nổ!

Quan trọng hơn nữa , bạn phải tự nguyện chặn đứng nó kịp lúc. Thay đổi cách suy nghĩ của bạn, thay đổi phương pháp giải quyết vấn đề. Khi nhận thức rằng sự giận dữ bắt bạn phải trả một giá rất đắt về tinh thần lẫn vật chất, rằng nó có thể phá huỷ nghề nghiệp và những quan hệ xã hội thì việc thay đổi của bạn sẽ bớt khó khăn hơn.

Tóm lại, phải cảnh giác với cảm xúc nội tâm, phải biết rõ khi mình sắp sửa "khùng" lên, phải chú ý tới những tín hiệu của người khác, phải kiên trì luyện tập là những gì bạn có thể làm để giúp mình vượt qua .

NGHE

Tạo hóa cho con người có hai tai mà một miệng, là có ý dạy cho chúng ta nên biết nghe nhiều mà nói ít.

- Zénon.

Người nói là vãi ra, kẻ nghe là nhặt lấy.

- Plutarque.

Lời nói như một mũi tên đã buông, đã lọt vào tai ai không thể rút ra được.

- Lục Tài Tử.

Miệng ngậm thì tai mở.

- Tục ngữ Anh.

Người ta hối hận vì đã thốt ra lời, chứ không phải vì lặng nghe.

- Simonide d Amortgos.

Lúc đáng nói thì mới nói, người nghe không chán.

- Luận ngữ.

Nghe là bản năng hằng hữu của mọi sinh vật. Ngay trong cỏ cây cũng có khuynh hướng vươn lên đến tiếng động và ánh sáng. Chức năng "nghe" của con người còn cao thâm hơn nhiều.

Đối với con người, sự nghe đến trước tiếng nói. Đối với trẻ sơ sinh mà mất đi sự nghe, thì trẻ không bao giờ nói được. Nên có thể nói, nghe là bậc thầy của nói.

Các nhà tâm lý học phân tách cho thấy, tuyệt đại đa số nhân loại thích nói hơn là thích nghe. Sở dĩ như vậy là vì họ muốn chứng tỏ họ là nhân vật quan trọng, họ muốn phô cái hiểu biết của họ cho người ta khâm phục; nếu không thì họ muốn khoe của cải hay quyền lực gì đó. Nói tóm lại, đó là chứng bệnh về "chấp ngã", đề cao cái "ta" của mình lên.

Nếu ta dứt ngang lời nói của họ trong lúc cao hứng thật là nguy hiểm và rồ dại. Người lịch sự không nên làm như vậy.

Trước nhất chúng ta phải hiểu rằng "nghe tức là học".

R. W. Emerson nói: "Bất kỳ người nào cũng có một điểm gì đó hơn mình, nên ta có thể học ở họ được. A. de Vigny cũng nói như vậy.

Cách đây hăm lăm thế kỷ, Liệt Tử đã nói: "Lời nói của một kẻ cuồng, thánh nhân còn nhìn được thay" (cuồng phu chi ngôn thánh nhân trạch yêu).

Nghe người đối diện nói chúng ta có được mấy điều lợi :

- Ta học khôn ở họ một điều gì.

- Chân thành nghe họ nói tức giúp cho họ một niềm vui.

- Giúp cho ai được điều gì chúng ta cảm thấy có một niềm sung sướng.

- Và tuyệt hảo nhất là chúng ta đã gây được mối thiện cảm đối với họ.

Đời này có gì quan trọng hơn thiện cảm?

Người ta hy sinh cho nhau, giúp đỡ nhau là nhờ ở thiện cảm đó.

Sách vở kể lại một giai thoại khá thú vị. Năm 1773, Nữ Hoàng Nga Catherine II mời Diderot (nhà văn, khoa học cùng với Rond d Alembert viết bộ Bách Khoa Toàn Thư Encyclopédie) qua Nga diễn thuyết. Nữ Hoàng hội đàm với Diderot, bà lắng tai nghe Diderot nói một cách say mê. Sự chăm chú của bà khiến Diderot càng cao hứng - những lúc như vậy ông chồm tới vỗ đùi bà "đét, đét".

Sau buổi nói chuyện đó, cặp đùi nõn nà của bà trở nên bầm tím!

Năm sau, Nữ Hoàng lại mới Diderot qua Nga lần nữa. Bà vẫn ngồi chịu trận như lần sơ kiến mà không hề than phiền. Bà viết thư cho một người bạn nói: "Vị thiên tài ấy thật là lạ lùng! Mỗi khi nói chuyện, ông ấy cứ vỗ vào đùi tôi sưng tím cả lên, nhưng lúc ấy tôi không hề biết đau".

Địa vị một hoàng đế nghiêm cấm, say mê nghe nhà văn nói chuyện như vậy, huống gì chúng ta.

Thà ngay từ đầu chúng ta đã không có chuyện ngồi lại với nhau thì thôi.

Biết cách nghe và gợi ý cho người ta nói là nghệ thuật thu phục nhân tâm càng được nhiều người yêu mến, ta càng thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa, nhất là tránh được sự khổ tâm vì cách đối phó.

Bậc thánh như đức Khổng Tử còn phải thốt: "Chín mươi chín người thương vẫn chưa đủ, một người ghét đã là nhiều".

Bớt lời để nghe nhiều, đó là những người có đức độ.

Thiện chí và thiện cảm được nảy sinh từ đó. Người tây phương nói: "Sự "thấy" lên đường đã mười năm, sự "nghe" nửa buổi đường đã theo kịp".

Tin tức góp nhặt từ bốn phương là ở nghe chứ không phải thấy.

NEWS (tin tức) = N: North (Bắc); E: East (Đông); W: West (Tây); S: South (Nam)

Câu chuyện Bá nha, Tử Kỳ cũng nói về cái nghe đó.

Ngày xưa có một người chơi đàn đã đến mức tuyệt kỹ, đó là Bá Nha.

Bá Nha may mắn kết bạn với một người rất giỏi về nghe đàn, đó là Chung Tử Kỳ. Qua tiếng đàn, Tử Kỳ hiểu ý Bá Nha trong lúc đó.

Về sau Tử Kỳ qua đời, Bá Nha liền đập dàn, không hề gảy nữa, cho rằng thiên hạ không còn ai là chỗ tri âm (biết nghe tiếng đàn).

Cứ cho rằng đây là huyền thoại, nhưng huyền thoại ấy dùng để nói lên điều gì? Đó là giá trị của sự nghe hay lắng nghe.

Thuần Vu Khôn là người nước Tề, nghe rộng nhớ nhiều, ông rất giỏi về việc du thuyết. Nhờ im lặng nhìn và lắng nghe mà đoán biết được ý của người đối diện. Ông vào gặp Lương Huệ Vương hai lần, chỉ nghe nhà vua nói mà không phát biểu gì cả. Cuối cùng nhà vua trách: "Quả nhân không đáng nói chuyện với khanh sao?" Bấy giờ Thuần Vu Không nói: "Lần trước tôi yết kiến nhà vua, nhà vua tuy đang bàn việc nước, nhưng óc lại nghĩ đếnchuyện cưỡi ngựa dong ruổi. Lần sau tôi gặp nhà vua, nhà vua vẫn nói chuyện, nhưng óc lại nghĩ đến thanh âm. Vì thế tôi không dám nói gì cả". Nhà vua cả sợ nói: " Ôi, Thuần Vu tiên sinh thật là thánh nhân vậy! Lần trước có người cho tôi một con ngựa hay, ta chưa kịp xem nhó thì phải bận tiếp tiên sinh. Lần này người ta cho một con hát rất hay, chưa kịp thử cũng bận tiếp tiên sinh. Lúc ấy quả nhân thật đang nghĩ về những thứ đó".

Sự lắng nghe mang đến thành công to lớn, làm phát triển thêm những đức tánh tốt trong mọi lãnh vực. Trong quyển Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentale), Claude Bernard nói: "Hãy lắng nghe thiên nhiên đọc cho viết". Một tác giả nổi tiếng trước nhất phải biết nghe "tiếng lòng" của mình và nghe được tiếng lòng của than nhân. Cổ nhân có câu: "Xưa nay thánh hiền đều tịch mịch" (Cổ lai tánh hiền giai tịch mịch). Không phải thánh hiền tịch mịch đâu, các vị ấy đang nghe đó! Sức nghe của họ rất sâu xa. ta thấy đó, lòng không thành thì sức nghe chưa tới.

Ở đây chúng ta không dám mong cầu có một sức nghe cao diệu như thế, chỉ muốn xin bớt nói để chú ý lắng nghe. Bạn chỉ cần nhịn năm phút thôi, chi năm phút thôi mà! Bạn nhịn nói trong năm phút là bạn toàn thắng.

Bạn có thể không tin? Nhưng hãy thực hành mới thấy cái diệu dụng của nó.

Các điều đáng nhớ:

- Không nên ngắt lời trong lúc người đang nói.

- Nghe là học khôn ở người nói.

- Biết nghe là giúp cho người nói chuyện một niềm vui.

- Biết cách nghe và gợi ý cho người ta nói là một nghệ thuật thu phục nhân tâm.

- Có lý nào người ta chỉ nghe mà không nói?

NÓI

Lời nói là y phục của tư tưởng.

- Rivarol.

Tiếng nói là hình ảnh của tánh tình.

- Disraeli.

Tiếng nói là bông hoa của sắc đẹp.

-Lénon d Elée.

Lời nói là gương mặt của tinh thần.

- Sénèque.

Lời nói là hơi thở của tâm hồn.

- Pythagore

Người hạnh kiểm, cái miệng nơi tim, kẻ mất nết thì tim nơi miệng.

- A. Wydeville.

Lời nói là bộ mặt thứ hai.

- G. Bauer.

Câu nói là tiếng của trái tim.

- Châu Hy.

Ý kiến con người giống như cái đinh, càng đóng càng khuất dần. Vậy chớ bao giờ tranh cãi.

- A. Dumas (père).

Nói ngọt lọt tới xương. Ngọt mật chết ruồi.

- Tục ngữ.

Lời nói phải làm đã khát hơn nước mát.

- G. Herbert.

Ngàn vàng dễ kiếm, lời tốt khó tìm.

- Tử Du

Nói nhiều không phải là trí thức.

- Thalès.

Muốn điều khiển phải biết người; muốn biết người phải nghe người nói.

- Detoef.

Nói nhiều lỗi nhiều.

- Trung Hoa.

Hãy dùng lời nói như tiền bạc.

- Lichtenberg

Lời nói thật là lối xã giao tốt nhất, vì nó không hại người kia.

- Tourguenev.

Ngôn ngữ là phương tiện để diễn đạt ý nghĩ của mỗi người. Không người nào không dùng nó hàng ngày cả. Người câm không nói được thì dùng cử chỉ để thay cho lời nói. Nếu xét một cách thận trọng sẽ thấy ngôn ngữ là cái phát minh lớn nhất và sớm nhất của loài người. Về khoản này, ngôn ngữ được coi là thứ tài sản riêng của mỗi người. Người ta dùng nó trong việc giao tiếp cẩn thận không kém gì trong việc sử dụng tiền bạc (Lichtenberg). Có hiểu như vậy mới thấy, ai biết tiết kiệm tiền bạc là biết tiết kiệm lời nói.

Thế nhưng trên đời này vô số người vung vãi tiền bạc và lời nói một cách thả cửa! Dù sao đó cũng là cái quyền của họ.

Thái độ của chúng ta sẽ như thế nào khi gặp những người ham nói đó?

Như những bài trước đã nói, đa ngôn ngữ cũng là một trong những bản tính tự nhiên của con người. Đó là bản tính thô sơ chưa rèn luyện kỹ, nên còn nhiều tính háo thắng. Đối diện với họ, chỉ cần bình tĩnh một chút ta sẽ thu nhiều kết quả. Có nghĩa là chúng ta quay lại vấn đề "Nghe" và "Nhìn" như đã trình bày ở đây.

Đặt trường hợp chúng ta là người đang nói chuyện, tức là giao thiệp một cách thông thường, chứ không phải nói trước công chúng (vì đó là thuật hùng biện khác nữa).

Sau đây là vài nguyên tắc cơ bản và rất đơn giản:

Không nên tỏ ra mình là kẻ hiểu biết nhiều hơn tất cả mọi người. Nếu bạn thích trình bày một vấn đề gì đó mà không có sự yêu cầu của kẻ khác, thì đối với người nghe sẽ không bổ ích gì cho họ, như vậy có phải nhàm chán cho đôi bên không? Giữa lúc đó mà bạn cứ thao thao bất tuyệt, thì còn tệ hơn người hùng biện trước một bụi cây. Bởi vì trong số người nghe sẽ có người ghét bạn. Bạn tuy biết vậy nhưng cứ nghĩ rằng: "Ta giúp cho họ ý này biết đâu sau này họ sẽ có lợi". Không được! Sẽ không ai tin điều đó, vì bạn không phải là nhà tiên tri. Không chừng đó là cái vạ nữa là khác.

Chắc bạn không quên một chuyện khá đau lòng đã xảy ra.

Cách đây hơn trăm năm, ông Bùi Hữu Nghĩa đang làm Tri huyện ở Trà Vinh, dưới quyền Bố chánh Truyện. Bố chánh ăn của đút lót của bọn Hoa kiều, để cho bọn đó chiếm Láng Thế. Láng Thế là vùng đất đặc ân của triều đình miễn thuế cho dân ở đây. Nguyên trước đây Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) bị quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn vương đã chạy qua vùng này được dân địa phương giúp đỡ, nên sau mới được ân huệ đó.

Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa nổi tiếng là thanh liêm, liền tập hợp dân vùng Láng Thế lại nói: "Nếu ai lớn hơn vua phê giấy tờ bán rạch Láng Thé cho người Hoa kiều thì các ngươi đành xuôi tay. Còn nếu ai nhỏ hơn vua mà ra lệnh ấy, các ngươi chặt đầu nó cũng không sao!"

Bọn Hoa kiều vẫn cậy thế làm ngang, bị dân Láng Thế giết đi mấy mạng.

Thế là Tổng đốc và Bố chánh làm lệnh gởi ra triều đình Huế và Bùi Hữu Nghĩa bị kết tội tử hình.

Một vị quan thanh liêm toàn quốc ai cũng biết tiếng, vì tấm lòng tốt mà phẩn uất nên có những lời tâm huyết và thiết thực như thế, kết qua bị kết tội tử hình. Cũng may cho ông Nghĩa, án ấy đã bất thành.

Tóm lại, khi cần phải nói (mặc dù không có ai đề nghị) bạn nên nói vài câu tóm gọn là đủ, bởi vì không nói cũng không thiệt hại gì cho ai kia mà.

Lời nói phải dịu dàng, cử chỉ khiêm tốn. Giọng nói của mỗi người biểu lộ ý nghĩ thầm kín bên trong. Thông thường lúc giận thì giọng nói có vẻ hằn học, gắt gỏng. Vì một nguyên cớ gì đó mà chúng ta cần nói chuyện trước tiên là giữ thái độ ôn hòa, dù lúc ấy có sự trái lòng ghê gớm, nhưng hãy cố nhẫn.

Cổ nhân nói: "Nhẫn là đại dũng". Chiết tự chữ nhẫn, kẻ cầm đao muốn chém người khác mà dằn lại được, đó là nhẫn. Huống chi lời nói dịu dàng bao giờ cũng làm mềm lòng người khác hơn là sự phẫn nộ. Một bằng chứng hùng hồn của loài người bao giờ con cũng thương mẹ hơn cha, vì mẹ bao giờ cũng có nét êm ái dịu dàng.

Một thế kỷ trước đây một nhà thơ tài hoa là ông Cao Bá Quát, tánh tình bất khuất, thường có ý khinh thị những người quyền chức mà bất tài, dẫu vua chúa, ông cũng khinh ra mặt. Ông Cao Bá Quát chứng kiến hai vị quan triều ấu đả với nhau, vua Tự Đức đòi ông vào khai rõ sự việc. Ông Cao Bá Quát miệng thuật, tay chỉ chỏ:

- Bên này nói chó (tay chỉ về mình).

Bên kia nói chó (tay chỉ vào nhà vua).

Hai bên đều chó (tay chỉ cả mình lẫn vua).

Họ túm lấy họ (ra bộ).

Thần thấy thế nguy, thần chạy!...

Vua Tự Đức biết Cao Bá Quát chơi xỏ mình nhưng không thể bắt bẻ gì được. Những chi tiết nhỏ nhặt tuy không thấy đâu, nhưng tích tụ lâu ngày cũng đủ thành một án tử hình!

Cho nên khiêm tốn nhã nhặn không phải là sự hèn hạ mà ngược lại.

Nhà thơ Nga, Maiakovski cũng vì sự không tế nhị, ưa khích bác thiên hạ, cuối cùng tự mình bỏ rơi mình. Những năm tiền cách mạng 17, nếu ai công kích chủ nghĩa xã hội thì ông vu cho người đó là ăn cắp, dù đối tượng là một phụ nữ, là một nông dân. Lúc nào ông cũng cho ông là hơn người. Một hôm có một người phê bình thơ ông, nói: "Thơ ngài mang nhiều chất thời sự quá nên khó để đời".

Maiakovski đốp liền: "Anh hãy cố sống đến ngàn năm, chúng ta lúc đó sẽ thảo luận".

Một lần khác, có người chất vấn: "Maiakovski! Ông cho chúng tôi là một lũ ngu sao?"

Maiakovski nói: "Tại sao lại lũ? Trước mặt tôi chỉ có một đứa thôi".

Có một người bất bình về thái độ của Maiakovski nên kêu ông ta nói: "Anh Maiakovski! Napoléon nói rằng từ cái vĩ đại đến cái lố bịch cách nhau chỉ một bước!"

Maiakovski ướm đo giữa khoảng cách từ người ấy đến mình rồi nói: "Đúng! Từ cái vĩ đại (lấy tay chỉ về mình) đến cái lố bịch (chỉ về người kia) chỉ một bước thôi!".

Trong y học người ta chứng minh, người có tánh khí hòa nhã bao giờ cũng thọ hơn người nóng nảy. Đức tánh nhã nhặn khiêm tốn có lợi đủ mọi điều.

Tránh sự cãi vã. Cãi vã khác với tranh luận. Cãi vã mang tính chất cục bộ, lố bịch, mạnh ai nấy nói không có kẻ nghe, luôn dành phần phải cho mình nhiều khi bất công trong ngôn ngữ. Có lẽ ai cũng chứng kiến một lần cãi vã vô ích.

Cứ nhường cho họ thắng, ta không thiệt thòi gì cả.

Nếu lý của bạn càng đúng, bạn càng nên nhịn. Sau này người kia nhận ra cái sai của họ, thì lúc đó bạn càng thấy mình có giá trị hơn.

Tranh luận là một sự "cãi vã" có "trí thức".

Cả hai đối thoại trong một tinh thần hiểu biết.

Tuy vậy, nhiều nhà tâm lý học phương Tây cho rằng không nên tranh luận.

Dale Carnegie trong quyển "How to win friends influence people" có nói một câu đại khái, câu "Mỗi chúng ta đều có một vị thần nắm vận mệnh" là câu của Shakespeare (trong Hamlet), thế mà một người nào đó nói câu đó trong Thánh kinh. Thế là hai bên cãi nhau. Sau này Dale Carnegie lấy làm ân hận, tại sao lại phải tranh luận? Theo ông, họ nói sao mặc họ, không nên đính chánh!

Xuyên qua câu chuyện đó, chúng ta có ý kiến thế nào?

Dale Carnegie là nhà tâm lý lỗi lạc của thế kỷ này, nhận xét sau cùng của ông có tánh cách thực dụng hơn, vì có chút máu Ăng lê.

Đối với người Đông phương thì khác.

Cách đây mấy năm, trong buổi tiệc họp mặt bạn bè, một nhà thơ cao hứng đọc:

Cuộc phù sinh có bao lăm,

Nỡ đem ngày bạc mà lầm tuổi xanh.

Và ông ta tuyên bố đó là hai câu trong Kiều. Nhưng ông thi sĩ ấy lầm! Một anh bạn ngồi bên cạnh khều ông, nói nhỏ: "Anh dường như nhầm ấy. Hai câu đó trong Nhị Độ Mai". Nhà thơ nhún vai nói lại: "Vậy là anh nhầm đến bình phương". Anh bạn lặng thinh không nói nữa.

Cuối bữa tiệc anh gặp riêng nhà thơ, nhỏ nhẹ nói: "Thưa anh, không phải tôi vô lễ dám sửa sai anh. Tôi biết anh là nhà thơ nổi tiếng lại có tánh lãng đãng.

Trong đám anh em có mặt ở đây, ít ra cũng có vài người biết anh nhầm, nhưng họ ngại mếch lòng nêu không chịu góp ý".

Qua mấy ngày sau hai người đó lại gặp nhau, nhà thơ xuýt xoa cám ơn ông bạn rối rít. Ông nói: "Quả hai câu đó trong Nhị Độ Mai, nếu anh không chỉ giáo, tôi lại tiếp tục làm trò cười cho thiên hạ".

Ta biết đó! Nếu Dale Carnegie thì ông không điên gì nhúng môi để đính chánh việc này, cứ sẵn sàng cho là đúng, trước để lấy lòng, sau dễ kiếm việc làm. Nhưng với chúng ta, tất nhiên theo tinh thần Á Đông, với lòng vô vụ lợi, ta góp ý một cách tế nhị kín đáo, tránh giọng lên lớp hay giọng kẻ cả, và đó là lòng thành thật đối đãi nhau. Nếu đối tượng thẳng thừng khước từ, thì ta đành nhận lỗi và làm thinh vậy. Chưa có gì thật hơn bằng "quả đất tròn", thế mà Galilée đành "rằng vuông thì cũng vâng lời rằng vuông".

Trong khi nói phải biết mình nói gì. Vấn đề này mới nghe tưởng như nghịch lý. Thật ra việc đó rất thường xảy đến cho những người nói nhiều. Họ nói một hồi đi xa trọng tâm vấn đề, cũng bởi họ tìm nhiều câu chuyện để minh họa, và khi giật mình lại thì quên mất "thuở ban đầu".

Cổ nhân thường nhắc chừng "Hãy tự nghe mình trong khi nói", có ý khuyên ta nên kiểm soát trong lúc mình đang nói. Muốn làm được điều đó, ta phải nói chậm và nói ít.

"Nên đề phòng lúc sướng miệng" (Uông Thụ Chi), câu nói đơn giản đó không phải chỉ cho việc nói mà thôi, mà còn chỉ cho việc ăn uống nữa (Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng ngôn xuất). Ai biết nghe được những lời mình đang nói, mới đáng là người biết nói. Hiểu được lời người khác nói mới gọi là người biết nghe.

Thậm chí người ta còn nghe được lời của người câm nói.

Có lần nhà bác học lỗi lạc A. Einstein nói với nhà kịch câm Chaplin Charlot: "Ngài! Tôi nói rất nhiều mà thiên hạ không nghe được, ngài không nói lời nào mà thiên hạ nghe đến khóc được". Cho nên không phải nói nhiều người ta mới hiểu đâu.

Câu nói không rắc rối, trong sáng và chân thành, nên tranh thái độ châm biếm, cợt nhã, được như vậy bạn đã thành công hơn một nửa trong việc thuyết phục.

Chúng ta để ý những câu tục ngữ mà ta thường gặp "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe". Không ai sợ bạn hay trọng bạn về những lời đao to búa lớn cả. Thậm chí trong việc dùng mưu trí, lời nói đơn giản người ta càng dễ tin. Một chuyện trong sách xưa kể:

Tôn Tẫn và Bàng Quyên cùng học thầy Quỉ Cốc. Tiên sinh muốn biết đức hạnh và mưu trí của học trò mình, liền bắc ghế ngồi trước cửa rồi nói:

- Trò nào mời ta ra được ngoài cửa, trò ấy sau này có khả năng làm đến Tướng quốc.

Bàng Quyên xin mời trước, Quyên nói:

- Bạch Tổ sư! Bên ngoài kia có rồng chầu phượng múa đẹp lắm!

Tiên sinh mỉm cười:

- Hôm nay là hung nhật (ngày xấu), không có việc đó!

Quyên nói:

- Có Bạch Hạc đồng tử đến mời thầy đi đánh cờ.

Tiên sinh nói:

- Bạch Hạc đồng tử đã mời ta hôm qua rồi.

Quyên lại nói:

- Mời hoài thầy không ra, tôi phải nổi lửa đốt động, xem thầy có chịu ra không.

Mấy câu đó chứng tỏ rằng Bàng Quyên có tâm địa bất nhân lại còn ngoa ngôn và khinh người.

Đến lượt Tôn Tẫn mời tiên sinh. Tôn Tẫn quỳ xuống nói:

- Bạch Tổ sư! Đệ tử không có tài mời Tổ sư từ trong ra ngoài được. Nhưng nếu Tổ sư ở ngoài động, đệ tử sẽ mời được Tổ sư vào trong.

Tiên sinh nghe nói lấy làm lạ, liền sai đem ghế ra ngoài để Tôn Tẫn mời vào. Khi tiên sinh an vị, Tôn Tẫn vỗ tay reo:

- Đệ tử mời được thầy ra ngoài động rồi.

Tiên sinh phục Tôn Tẫn là cao kiến.

Về sau Tôn Tẫn cầm quân nước Tề, bách chiến bách thắng.

Lời nói đánh giá được con người. Nói càng khiêm tốn càng được việc. Có hai người xin việc làm vào buổi tối để kiếm tiền thêm. Một người là sinh viên trường Luật, còn một người nữa thường nhật không có việc làm.

Ông chủ nhà hàng gọi một trong hai người đến hỏi:

- Lâu nay cháu làm nghề gì?

- Cháu là sinh viên trường Luật.

- Cháu học năm thứ mấy?

- Năm cuối của bậc đại học.

Ông chủ tán thưởng:

- Vậy là cháu có tương lai lắm. Làm nghề chạy bàn đêm đâu kiếm được bao nhiêu tiền? Sao cháu không viết báo?

Cậu sinh viên trả lời:

- Cháu có viết nhưng người ta không đăng. Đời bây giờ không quen khó mà đăng cho lọt.

Ông chủ cười nhẹ nói:

- Không phải vậy đâu cháu ạ. Điều cháu nói đó có thể có nhưng hiếm lắm. Ai cũng muốn báo mình bán chạy tất nhiên báo phải chọn đăng những bài hay. Ví dụ ở đây, đâu cần phải quen lớn, chỉ cần người thành thật, lễ phép, nhanh nhẹn.

Vừa lúc ấy ở trong phòng có một cô gái chạy ra, hơi ngạc nhiên chào anh sinh viên:

- Ủa, chào anh Dũng! Sao anh lại đến đây? Bộ uống la de hả?

Cô quay sang giới thiệu với ông chủ:

- Ba! Anh Dũng là bạn cùng một lớp với con...!

Lúc ấy Dũng ngượng nghịu, nói xã giao vài câu rồi ra về.

Bạn có biết sao không? Là vì con gái của ông chủ đang học năm thứ hai trường Luật.

Không nói các bạn cũng biết, người thứ hai kia xin được việc làm.

Qua việc này, nói năng càng khiêm tốn thì phẩm hạnh càng cao.

Người xưa nói: "Năng lực của mình được mười, thì nên bớt lại vài phần". Trong việc chạy bàn cần gì phải khoe trí thức?

Ở những nơi cần chữ nghĩa, bằng cấp to cũng nên nói thực trình độ của mình, còn những nơi không cần, tốt hơn hết không nên khoe chữ, có khi bị hố!

Mấy nét chính nên nhớ:

- Tiết kiệm lời nói như tiết kiệm tiền bạc.

- Không nên tỏ mình biết nhiều hơn người.

- Nếu không nói mà không gây thiệt hại cho ai, thì đừng nói hay hơn.

- Lời nói nên ngắn gọn, trong sáng, không nên châm biếm.

- Lời nói dịu dàng dễ chinh phục hơn sự phẫn nộ.

- Không nên có những lời quá sức mình.

- Nên tránh cãi vã, đôi chối.

- Đừng ham nói nhiều mà lạc đề.

NÉT NHÌN

Đôi mắt chứa đựng cả tinh thần, tâm hồn và thể xác.

- J. Joubert.

Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn.

- Pháp.

Nhìn một lần để thấy đẹp, nhưng muốn thấy đúng phải nhìn đến lần thứ hai.

- H. F. Amlet.

Đối với người minh mẩn, cặp mắt là một thứ ngôn ngữ.

- P. Syrus

Người Trung Hoa nói: "Trong cái nhìn có cái nghe" (Mục trung hữu thính, mục trung hữu nhĩ) tưởng có lý lắm vậy.

Một vị thầy giáo giảng bài cho học sinh, hôm nào mà các trò giữ im lặng, những ánh mắt đen lay láy, thiết tha chăm chú theo dõi từng lời của thầy, tưởng chừng như uống, như nuốt những lời đó, thì thầy giảng rất hay.

Ta nghe một người nói chuyện, nhất là người ấy thích nói chuyện, tuy ta giữ im lặng nghe, nhưng ánh mắt có vẻ lơ đãng, thì người nói không còn cao hứng nữa.

Ánh mắt chăm chú thì sức nghe mới hội tụ. Nghe giả là một sự thiếu thành thật.

Người đang nói về "đề phòng hỏa hoạn", người nghe lại nghĩ đến "sắp đến giờ coi bóng đá", tự nhiên ánh mắt khác đi.

Sự chú tâm với người đối diện mới là cần thiết.

Trong kinh Phật có ghi một chuyện gần như ngụ ngôn như thế này: "Một pháp sư đang tụng kinh phát chẩn cho cô hồn. Cô hồn đã về đông đủ. Pháp sư vẫn tụng đúng lời kinh, nhưng lúc đó pháp sư chợt nhớ đến chiếc chìa khóa ở đâu không rõ. Thế là cô hồn nuốt toàn chìa khóa không thôi!"

Cho nên nghe, nhìn với sự chú tâm phải gắn bó với nhau một cách nhất quán.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng có một vài lần "buổi hôm ấy mình nói chuyện rất hay". Nếu bạn hình dung lại buổi nói chuyện có duyên đó là do người nghe có cặp mắt say sưa, thán phục, chăm chú.

Nên có thể nói, qua cách nhìn người ta có thể đánh giá được tâm hồn của bạn, ít ra cũng trong thời điểm đó.

Người ta thường diễn tả "đôi mắt đẹp" là đôi mắt trong sáng, hay đôi mắt xanh với phần phụ là hàng lông mi dài, hoặc dài và cong vút, mày liễu, mày tằm mắt phụng... rất nhiều mỹ từ cực tả trong việc này.

Quả tình nếu bạn có cặp mắt đó thì cũng đáng mừng. Nhưng nếu một người bình thường với đôi mắt bình thường biết chăm chú nghe người khác nói, tự khắc đôi mắt bình thường kia sẽ đẹp hẳn lên, đẹp hơn "đôi mắt đẹp" kia nhiều lắm.

Ngày nay thuật hóa trang về "đôi mắt đẹp" đến chỗ tinh vi, gần như thật, nhưng trong mắt họ bật lên nét kiêu hãnh trong lúc nói chuyện với nhau, thì cuộc nói chuyện sẽ không đem lại kết quả gì.

Nét nhìn cũng biểu lộ được tính thông minh nhiều khi có hiệu quả hơn lời nói. Nhìn một cách chăm chú có sức thuyết phục không khác gì thuật thôi miên (Hypnotism). Bạn hãy vui vẻ mà thực hành sẽ thấy nhiều kết quả bất ngờ khiến bạn có nhiều hứng thú không khác gì đọc một tác phẩm hay.

Như trên đã giới thiệu, khi ta nghe và nhìn một cách chăm chú ta sẽ được những kết quả bất ngờ. Những lời nói hay khiến ta mau thuộc và nhớ dai, người nói chuyện với ta dù là lần đầu, ta cũng khó quên tên, quên mặt họ. Việc gọi đúng tên một người trong trường hợp sơ ngộ khiến cho người khách cảm thấy sung sướng.

Không gì bứt rứt bằng có một người gọi được tên mình trong khi mình không phải là một danh nhân, và người kia không phải là kẻ vô lại, thế mà mình quên bẵng đi tên của người ấy. Trường hợp này rất nhiều. Nếu gặp trường hợp như vậy, ta phải xử trí cách sao cho người kia khỏi buồn? Không gì hiệu nghiệm hơn là lòng thành thật.

Ví dụ ta thử nói:

- Thưa anh! Dường như chúng ta được gặp nhau ở đâu một lần rồi chứ?

- Đúng vậy! Hôm ấy tôi được tiếp chuyện anh ở trong một tiệm sách.

Nếu bạn vẫn chưa nhớ được tên thì nên nói:

- Thật là tôi quả có lỗi! Có lẽ lúc đó vì quá bối rối hay bận rộn mà quên mất đi tên anh. Xin anh tha cho cái bệnh lãng đãng của tôi một lần. Nếu có dịp gặp lại, tôi sẽ gọi đúng tên anh.

Nếu thành thật và cạn lời như thế, chắc chắn người ta không nỡ trách.

Sự chú ý nghe và có nét nhìn chăm chú, nếu bạn là sinh viên, học sinh, chắc chắn bạn rất mau thuộc bài. Nếu bạn là chủ cửa hàng, thì hàng hóa của bạn ngày càng dồi dào và tinh xảo thêm.

Tóm lại, một người biết nghe, biết nhìn tự khắc rút được nhiều ý kiến hay, và người đối diện với bạn càng có nhiều thiện cảm về bạn.

Có lẽ bạn cũng từng biết, một em bé chưa biết nói, nhưng ánh mắt của bé nói được rất nhiều đến nỗi khi bạn đi xa cũng sẽ nhớ tha thiết. Bởi đâu? Bởi vì ngôn ngữ của bé là tất cả mọi cử động, mà cử động quan trọng nhất của đứa bé là ánh mắt.

Qua nét nhìn, ta nhớ mấy điểm chính:

- Sự chú tâm với người đối diện là vấn đề cần thiết.

- Qua cách nhìn, người ta có thể đánh giá được tâm hồn bạn.

- Nét nhìn biểu lộ được tính thông minh nhiều khi có hiệu quả hơn lời nói.

NỤ CƯỜI

Cười là đặc tính của loài người.

- Rabelais.

Biết cười và chọc cười là hai đặc tính của loài người.

- H. Bergson.

Khả năng cười tươi là sự chứng minh cho một tâm hồn tuyệt hảo. Nên dè dặt với những kẻ tránh cười, với những kẻ thiếu cởi mở.

- J. Cocteau.

Ngày nào không cười, ngày ấy đã bị phung phí.

- Chamfort.

Những kẻ nghèo khó thỉnh thoảng được cười tươi, quí như mùa đông thỉnh thoảng có mặt trời soi chiếu.

- A. Dumas.

Thấy miệng cười mà mắt không cười thì chớ tin.

- A. d Houdetot.

Bạn cười, thiên hạ cùng cười vui với bạn, bạn khóc thì chỉ khóc một mình.

- Yiddish (Tục ngữ Anh, Ấn).

Hài hước là sự sung sướng của kinh nghiệm.

- Ch. Charlot.

Cười có nhiều thái độ. Điều muốn nói ở đây là nụ cười quan tâm, phải có tấm lòng ôn hòa độ lượng thì nụ cười mới duyên dáng được.

Người ta thường nói: "Người có nụ cười tươi, chẳng khác nào có đóa hoa gắn trên môi". Biết cách cười cũng là một nghệ thuật.

Hồi đầu thế kỷ này, nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh có viết bài "Gì Cũng Cười", trong đó ông có phế phán những cái cười vô ý thức. Bài viết đó có phần khắt khe: "An Nam ta có một thói lạ, gì cũng cười... Hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang". Xét cho cùng, đất nước ta kinh qua không biết bao nhiêu nỗi đau đớn, mà vẫn còn tồn tại đến hôm nay, đó cũng là nhờ ở "đất lề quê thói". Và nụ cười có sức truyền cảm bí mật, có sức đoàn kết ngấm ngầm, có một nỗi thiết tha và độ lượng, khó nói đến cùng.

Trong bài thơ "Ngồi tù Quảng Đông" có câu: "Mở miệng cười tan cuộc oán thù".

Cụ Phan Bội Châu đã tỏ ra là bậc đại nhân quân tử. Một tâm hồn độ lượng, khiến nụ cười phải rộn rã như tiếng pháo đầu xuân đuổi xua những hắc ám và u khí.

Nụ cười và tiếng nói đều hiện trên môi, nhưng cử động của đôi môi rất khác nhau cho mỗi trường hợp. Nụ cười lắm khi không có tiếng, nhưng đối tượng thấy mát rượi hay ấm áp còn tùy vào hoàn cảnh lúc đó.

Nụ cười có khi biến đổi một cảnh ngộ hiểm nghèo thành bình yên. Trong một chuyến tàu đêm từ Phú Quốc về Rạch Giá, hôm ấy nhằm lúc biển động rất mạnh. Sóng và gió mỗi lúc mỗi mạnh, thỉnh thoảng có vài đợt sóng phủ qua boong tàu, tàu chao đảo, hành khách nhốn nháo, viên tài công không hiểu sao cũng mất bình tĩnh, biển tối đen. Đèn chiếu trên tàu không hiểu sao cũng tắt ngấm, chỉ còn một chút ánh sáng yếu ớt của chiếc hải bàn phát ra.

Bỗng một nữ hành khách nói:

- Bác tài cứ bình tĩnh! Mỗi lần trời bão là mấy chú hải âu thích lắm, vì nó có dịp đọ sức với gió. Tôi xin ra ngoài trấn an mấy người kia.

Lúc đó anh thợ máy làm sáng lại mấy ngọn đèn. Thiếu nữ đi một hồi trở lại nói:

- Bác tài giỏi quá, tàu mình sắp đến Hòn Tre rồi.

Sóng gió ầm ầm như vậy, ai nấy đều xanh mặt, nhiều người đọc kinh cầu, riêng nữ khách ấy vẫn giữ trên môi một nụ cười an lạc, khiến bác tài thêm phấn khởi tự tin. Vào tới bờ trời vừa sáng.

Viên tài công nói với nữ hành khách gan dạ đó:

- Bão này rất lớn, các em báo không chính xác nên mới "dương" vậy đó. Cám ơn cô đã giúp sức cho chúng tôi. Anh ta cao hứng đọc hai câu thơ cũng khá hợp:

Dù đời ta còn đôi cánh lá,

Xin vì người trổ hết mùa bông!

Trong sự xã giao một cách tự nhiên, thì nụ cười cũng phải tự nhiên để khỏi mất tính ban đầu của nó. Người ta nói: "Chỉ có con người mới có nụ cười".

Trên vấn đề thân thiện, nụ cười rất có ý nghĩa theo từng thời kỳ (hay giai đoạn): nụ cười cảm thông, nụ cười khích lệ, nụ cười tán đồng... và cũng nên tránh những nụ cười có ý nghĩa tương phản: cười mỉa mai, cười châm biếm, cười mát, cười gượng...

Dễ hiểu, người đang đối diện với ta không phải là kẻ đối đầu, không phải là kẻ thù. Giả như bạn là người đi xin việc làm, đang nghe ông giám đốc nói chuyện, nếu thỉnh thoảng thì cứ nở một nụ cười tự nhiên, còn không cười được cũng phải cố gắng giữ nét mặt hòa hoãn, tránh cái cười gượng, cười nịnh.

Đối diện với người bạn gái, nếu cô bạn quá nghiêm trang, thì bạn không nên "nghiêm trang hơn", vì như vậy dễ trở thành một không khí cục bộ nặng nề, bạn phải tinh ý, tìm một vài câu nói hay cử chỉ vui nhộn, khôi hài tất cả đều cởi mở để không khí đó còn được sống động.

Nếu cô bạn quá náo nhiệt, sôi nổi, còn bạn thì trầm lặng, dĩ nhiên bạn không thích cái quá trớn ấy phải làm sao?

Bạn khoan lên tiếng phản đối, cũng đừng nhíu mày nhăn mặt, cố gắng giữ một thái độ thản nhiên. Vì nếu người đối diện là một bạn mới, chắc chắn nàng không sôi nổi quá đáng. Nếu nàng là bạn cũ thì bạn đâu có lạ gì tánh nết của nàng?

Cả hai trường hợp trên bạn có cùng một cách xử sự để lấy lại sự quân bình cho không khí lúc đó; nụ cười đằm thắm và ôn hòa!

Không ngày nào ta không thấy nụ cười của người chung quanh, nhưng nụ cười hồn nhiên, nhẹ nhàng chỉ có được ở những con người nhân hậu vô tư, nên tránh những tiếng cười "hô hô", vì nó biểu lộ tánh tự mãn, đắc thắng. Nụ cười ấy dành riêng cho các vị tướng quân thời cổ, hoặc dành cho những buổi tiệc của đám cường hào, hải tặc...

Bạn có thể khó tính, nhưng đừng tưởng kẻ khó tính không có nụ cười dễ dãi.

Cần một nụ cười đó không khó đâu. Trước nhất bạn nên tạo một nụ cười trong gia đình. Mỗi buổi sáng trước khi bước xuống giường, bạn chịu khó suy nghĩ một câu nói đùa (dù lúc đó gia đình không có tiền ăn điểm tâm) cho người thân như vợ con, hoặc cha mẹ, hoặc anh chị em. Làm hiền làm lành với người thân đâu có gì xấu hổ? Tại bạn chưa quen đó thôi. Không riêng gì người phương Tây có câu chúc vào mỗi buổi sáng, mà từ ngàn xưa người Đông phương cũng có phong tục đó. Câu "Thần tĩnh mộ khan" (sớm thăm, tối viếng) không hẳn chỉ bổn phận con cái đối với cha mẹ, anh chị em trong gia đình cũng thăm hỏi được vậy. Đây, chúng ta tập lấy những nụ cười trong sáng, thư thái, hỷ xả.

Nếu bạn hỏi: "Sao các nhà sư ít cười họ lại nhiều tín đồ". Đó là một trường hợp khác. Đạo hạnh của những vị ấy trang nghiêm. Họ không cười ra tiếng, nhưng họ cười qua ánh mắt, qua thần thái, qua tấm lòng hoan hỷ. Sự ung dung và độ lượng là nụ cười của họ.

Vui tính là một cách cười. Khôi hài là cách làm cho người khác vui và cười. Trong tuồng cải lương hay hát bộ cũng có vai mấy anh hề. Vai trò của họ không liên hệ gì với tuồng, nhưng rất quan trọng đối với thính giả. Một nụ cười tươi nhiều khi đáng giá tỷ tiền. Đọc truyện cổ Trung Quốc, chúng ta không quên nụ cười của Bao Tự. Và những câu: "Nhất tiếu thiên kim", "Nhất tiếu khuynh thành"... Không phải nụ cười của người đẹp mới giá trị.

Lại có một chuyện khó quên. Hồi ấy bạn tôi tham dự giải vô địch quyền tự do hạng nặng. Bạn tôi sở trường về môn Aikido. - Aikido mà đi đấu với Vovinam, Thái cực đạo, Thiếu lâm... cầm bằng "bầm dập như chơi".

Buổi tối hôm ấy bạn tôi bị đối thủ đánh tơi bời. Đến hiệp thứ tư mắt bạn sưng lên. Hồi lúc bắt đầu lên đài, tôi cố chen ngồi phía trước mục đích là cho bạn thấy sự có mặt của mình để cổ động tinh thần, nhưng có lẽ bạn tôi ngay từ đầu không thấy tôi. Khi lần "cho nước" thứ tư, bạn tôi thảm hại quá, tôi đứng gần đó, bạn tôi thấy kịp, tôi cười thật "ngon lành" vừa gật đầu vừa đưa ngón cái lên.

Hai đứa thân với nhau, nghề nghiệp cũng suýt soát, qua nụ cười "tin tưởng" ấy, bạn tôi như linh hoạt hẳn lên. "Một sức mạnh rất bí mật và một tuyệt chiêu bất ngờ", đối thủ của bạn tôi bị đo ván, sau chín tiếng đếm! Đó lời của bạn nói.

Nụ cười trong lúc này chẳng khác gì liều thuốc kích thích.

Đừng nói chi con người, kể cả loài vật cũng vậy.

Nhà bác hai Ngữ thường gầy giống gà chọi, một dạo có một trứng gà sanh đôi. Cả hai cùng lớn theo thời gian, đặt tên chúng là Ô anh, Ô em. Bác Ngữ săn sóc chúng rất cẩn thận. Nếu so sức đấu thì Ô em đá chính xác và thế thần hơn Ô anh; Ô anh lấn xác và lấn sức hơn Ô em. So với gà trường, anh em Ô nhỏ xác hơn chúng. Tuy vậy hai anh em Ô chưa hề bại, mỗi con đã từng ăn hai ba độ đáng giá.

Có một điều ít người chơi gà để ý, bác Ngữ ôm gà đi đá, không bao giờ ôm chặt một con. Vì vậy mà khi anh hoặc em vào vòng chiến, con còn lại đứng ngoài vòng nhảy nhót cổ động. Có người mở trường gà ở quận khác nghe tiếng liền mang gà đến thách bác hai đấu. Cuộc đấu này cáp độ rất lớn. Ô em ra trận, Ô em lớn chỉ bằng 8/10 so với đối thủ! Đến hiệp thứ sáu, Ô em chịu đòn như hết nổi, Ô anh ở ngoài muốn tung cánh nhảy vào. Bất ngờ nó gáy lên một tiếng thật oai vệ, Ô em như được hồi sinh! Ô em trổ đòn đá dồn dập vài tuyệt chiêu nữa. Đối phương nằm gục xuống! Trận đó Ô em thắng. Ô em về đến nhà thì chết.

Sau năm ngày Ô anh buồn bã chết theo. Từ đó bác hai Ngữ không nuôi gà chọi nữa.

Nụ cười đẹp là giúp người một niềm vui, giúp mình một thiện cảm ở người. Nụ cười vốn dĩ hồn nhiên và vô vụ lợi. Dẫu có người hiểu mình qua nụ cười, mời mình hợp tác làm ăn và dĩ nhiên nếu bạn thích thì cứ làm ăn chân chánh với họ. Có nhiều bản trẻ đẹp trai, học khá, lại có nụ cười rất có duyên. Với sức hấp dẫn bên ngoài ấy, nếu như không có chút đạo đức dễ biến mình là... kẻ bạc tình nước Sở!

Dù sau ta cũng nên ghi nhớ mấy điều:

- Nụ cười có thể biến đổi một cảnh ngộ hiểm nghèo thành bình yên.

- Để tập có một nụ cười hồn hậu, cần làm việc với nó ngay ở những người thân.

- Nụ cười một thoáng gây sự cảm mến lâu dài.

- Chỉ có loài người mới có nụ cười. Đừng đánh mất nó!

- Để phụ họa với nụ cười cho hữu hiệu, chúng ta nên có tinh thần hoạt kê.

Sự Bình Yên

Một vị vua treo giải thưởng cho họa sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công .

Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một .

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả .

Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh .

Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng .

Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi , nhưng ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá . Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp . Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa .

Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào .

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn , ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá . Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ . Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ , con chim mẹ an nhiên đậu trên tổ của mình ...

- " Bình yên thật sự." - Ta chấm bức tranh này !

Nhà vua công bố .

Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc.

Bình yên có nghĩa ngay chính khi ta đang trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim.

Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên .

Giá Trị Của Việc Lắng Nghe

Vào một đêm giáng sinh, một người đàn ông Mỹ đáp chuyến bay trễ nhất về đoàn tụ với gia đình. Người đàn ông này đang mường tượng cảnh đoàn viên vui vẻ thì bỗng nhiên máy bay chao đảo liên hồi.

Phi công trưởng thông báo với hành khách rằng máy bay bay vào vùng thời tiết xấu và trúng phải một cơn bão lớn, có thể rơi bất cứ lúc nào. Cô tiếp viên mặt trắng bệch ra, giọng run run thông báo hành khách hãy viết di chúc cho vào một chiếc hộp đặc biệt. Nhưng may mắn thay, ngay vào thời khắc nguy hiểm này, với sự bình tĩnh và kinh nghiệm của phi hành đoàn, máy bay đã hạ cánh an toàn.

Về đến nhà, người đàn ông Mỹ này không ngừng kể cho mọi người nghe về tai nạn và may mắn thoát chết. Thế nhưng, hình như không ai quan tâm lắm!

Ngay cả vợ và con cũng bận tâm hưởng thụ không khí đêm Giáng sinh.

Trong thoáng chốc anh phát hiện chẳng ai chú ý lời mình nói.

Cái câu chuyện thoát chết trong gang tấc của anh và thái độ lạnh nhạt của vợ anh, của mọi người sao cách xa thế!

Trong khi vợ chuẩn bị bánh kem thì người đàn ông lên gác và đã tự thắt cổ, để kết thúc sinh mạng quý báu vừa thoát chết trong chuyến bay.

Mọi người trong chúng ta trong lúc buồn, sau lúc vui đều có chung một khát vọng: Được tâm sự và được ai đó lắng nghe mình, thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ.

Vâng, nếu như người vợ biết cách lắng nghe thì sẽ không có một kết cục bi thương như thế!

Thực ra, "học" được cách lắng nghe không chỉ biểu hiện sự quan tâm thương ái mà còn là "chất dầu" bôi trơn mối quan hệ đôi bên.

Nghệ Thuật Lắng Nghe Chỉ Trích

Việc đầu tiên hãy xét xem là lời chỉ trích có giá trị không ?

Không phải ai cũng chỉ trích bạn được, và không phải cái gì trên đời này đều có thể bị chỉ trích .

Nếu người tấn công là thầy bạn thì tốt nhất phải lắng nghe cái đã .

Lại nữa phải quan sát thái độ, gương mặt của người chỉ trích mình.

Nếu họ lộ vẻ xúc động, bối rối ... thì chính họ -- chứ không phải bạn -- đã có vấn đề.

Đừng quên những gì bạn không nói để trả lời đôi lúc quan trọng ngang hàng với những gì bạn đã nói.

Cuộc sống hàng ngày với biết bao biến động bất ngờ, có những niềm vui lẫn nỗi buồn khôn tả. Và chắc chắn không một ai là không mắc phải những khuyết điểm, những sai lầm to, nhỏ khác nhau. Khi bạn mắc phải khuyết điểm nào đó thì sự phê bình góp ý của mọi người đối với bạn là điều tất nhiên.

Nếu là người hiểu biết khôn ngoan, bình tĩnh và sáng suốt thì sẽ nhận ra rằng : Những lời phê bình thẳng thắn, trung thực chính là những lời nói vàng ngọc khiến cho mình ngày càng hoàn thiện hơn. Còn với những người có tính tự ái, bảo thủ cao và luôn tự mãn thì họ sẽ có những phản ứng không hay khiến cho mọi người ngại ngần, xa lánh họ. Và lẽ dĩ nhiên họ đánh mất lòng yêu mến và quý trọng của mọi người.

Vì vậy , khi phải đối mặt với những lời phê bình của người khác thì phải làm sao để ta không làm tổn hại đến nhân cách và nét dịu dàng đáng yêu vốn có hàng ngày của mình ?

Sau đây là vài lời khuyên về nghệ thuật lắng nghe chỉ trích :

*-Cố gắng mở lời sao cho người phê bình chịu ngồi xuống trò chuyện với mình , như thế sẽ làm dịu bầu không khí đang căng thẳng giữa hai người. Nếu điều kiện cho phép , bạn có thể rót mời họ uống một ly nước mát để giảm đi sự căng thẳng , nóng giận ; đồng thời cũng làm cho bản thân mình bớt nóng vội. Điều cần nhớ là hãy khoanh vùng phạm vi bị chỉ trích cho đúng.

*-Đừng biểu hiện ra sự buồn chán hay bất mãn dữ dội , cũng không nên giận dữ phản công trở lại hay bỏ đi trước những lời phê bình gay gắt. Nếu làm như vậy , vô tình bạn đã chứng tỏ mình là người không độ lượng.

*- Không nên bày tỏ thái độ đúng, sai , cảm ơn hay xin lỗi.... khi mà người phê bình mình chưa trình bày hết câu chuyện. Cần phải chú ý lắng nghe và phân tích một cách khách quan rồi mới đưa ra lời xin lỗi hay phản bác.

*- Không nên ngắt lời người phê bình mà ngược lại nên khuyến khích họ nói ra cho hết ý, hết lời. Như th , người phê bình thấy mình được tôn trọng và họ sẽ có những lời nói xác đáng, thận trọng hơn.

*- Không nên tranh luận kịch liệt với người phê bình mình mà ở nơi họ đang có tâm trạng phẫn kích. Điều này chẳng khác nào " đổ thêm dầu vào lửa ".

*- Đừng dùng những hình thức đồng ý không chân thật, mà hãy nêu lên ý kiến của đối tượng để chứng tỏ bạn là người biết lắng nghe, chân thành và cầu hòa. Làm như thế, bạn sẽ chiếm được nguồn tình cảm độ lượng và tha thứ của mọi người, cho dù bạn đang có khuyết điểm đáng chê trách.

Hãy bình tĩnh và lắng nghe.

Hãy kềm chế mọi xúc động và cố gắng nghe người đang phê bình bạn đang nói cái gì ?

Nếu cần, bạn hãy đặt câu hỏi để hiểu cho rõ hơn, gợi ý người phê bình bạn giúp bạn sửa chữa sai lầm bằng cách nào ?

Vì người phê bình có thiện ý bao giờ cũng có kèm theo " thuốc chữa " cho bạn .

Hãy hỏi : " Thế ông ( bà ) muốn tôi phải làm gì bây giờ ?

Một trong những luật lệ chủ yếu của nghệ thuật chỉ trích người khác là đừng bao giờ làm chuyện này trước đám đông .

Hãy để cho người bị chỉ trích nêu ý kiến và hãy lắng nghe ý kiến của họ.

Không nên chỉ trích ai dài quá 3, 4 câu và nên bắt đầu cho nhẹ nhàng, đừng có dội bão lửa lên đầu họ ngay lập tức .

Hãy phê bình trong vòng kín đáo, hãy cho người bị chỉ trích có cơ hội không bị mất mặt và chỉ nên chỉ trích khi nào sự chỉ trích chấm dứt trong một bầu không khí thân thiện.

Không nên để sự bực bội hay oán hờn tồn đọng sau khi bị chỉ trích xong .

Nhiều người phải lấy hết can đảm mới dám lên tiếng phê bình người khác. Cho nên họ hướng sự chỉ trích một cách hùng hồn vào sự kết án và quên đi nhiệm vụ ban đầu là phê bình nho nhỏ về một khuyết điểm nào đó .

Tế nhị là gì ?

Vì sao ta phải tế nhị ?

Đó quả là một vấn đề phức tạp và hết sức ....tế nhị .

Có người lại bảo : Thanh niên thì ít tế nhị . Phải chăng đức tính tế nhị chỉ dành cho những người từng trải trên trường đời . Thực ra không phải như vậy . Tế nhị thuộc về đạo đức , một nhân cách con người .

Tính e dè là một tình cảm bình thường của con người, là chất liệu tạo thành tính tế nhị .

Đó là về mặt nội dung, còn về hình thức thì đó là tiếng nói và lý trí của lòng tốt con người .

Những con người tự cao tự đại thì không có nhiều chất tế nhị, vì ở nơi họ không có sự tương quan giữa khả năng và quyền lợi của mình với khả năng và quyền lợi của người khác.

''Điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình đừng làm cho người ta'' được xem là tiêu chuẩn để làm thước đo tính tế nhị .

Bởi vì trước khi mình định làm một việc gì đó, không những cần xem xét nó có chính đáng hay không? Có hợp đạo lý làm người hay không ? Mà còn cần phải xét xem những người chung quanh mình cảm nhận được hành động đó như thế nào ?

Hãy thử đặt mình vào địa vị đối tượng hành động của mình để biết cảm giác của họ sẽ ra sao ?

Người biết cách cư xử tế nhị sẽ mang lại sự hòa thuận vui vẻ với mọi người ở chung quanh.

Thí dụ như là :

+ Khi xảy ra xích mích hay xung đột , bạn nên nhận lỗi về phần mình.

Hãy nhớ câu ngạn ngữ : " Một bước lùi bằng mười bước tiến " .

+ Hãy kìm nén sự nóng giận của mình và dùng những lời lẽ thật tế nhị thuyết phục người khác nhận ra lỗi của mình .

+ Trước hết , hãy tự trách bản thân mình vì bạn không phải là người hoàn hảo. Như người xưa đã dạy : " Tiên trách kỷ , hậu trách nhân " .

+ Luôn luôn giữ thể diện cho đối phương của mình , bởi vì chỉ khi bạn tôn trọng người khác thì bạn mới được họ tôn trọng lại .

+ Nên nhìn nhận một cách khách quan những phần phải của họ để tự rút ra cho mình những bài học về đối nhân xử thế .

+ Cố gắng tìm cách xoa dịu sự nóng nảy của họ cũng như bản thân mình bằng nụ cười tươi như hoa hay là nói lên những câu dí dỏm hài hước để cả hai cùng biết thông cảm nhau hơn .

+ Hãy bình tĩnh trước mọi tình huống. Đừng vì một chút tự ái nông nổi của mình mà xúc phạm người khác .

+ Luôn tỏ ra thật nhã nhặn. Chính thái độ ôn hoà của bạn sẽ dễ dàng thuyết phục được những người xung quanh ta.

Sự lễ độ là một trong những nét chủ yếu của văn hoá ở một con người .

Sự lễ độ cùng với cách cư xử tế nhị và những cử chỉ tao nhã sẽ tạo thành cho bạn một phong cách lịch sự khiến cho mọi người chung quanh vô cùng quý mến và nể phục bạn .

Nếu bạn nhường chỗ cho một phụ nữ hay người già trên xe bus bằng một cử chỉ lộ liễu , phô trương ...thì tất nhiên trong thái độ cư xử của bạn không có tính tế nhị , và như vậy cũng chưa phải là lịch sự .

Phép lịch sự cần cả sự lặng lẽ ---đó là điều cần nhớ ---

Tế nhị là ý thức về mức độ trong tất cả mọi lãnh vực chứ không chỉ trong cử chỉ xã giao . Thật vậy, không có gì bực mình hơn là một người nào đó mà ta không ưa lại cứ vỗ vai, vỗ lưng ta ... rồi buông ra những tiếng mày , tao suồng xã mỗi lần gặp mặt.

Ngay cả giữa những người bạn thân với nhau, thì một sự " hồn nhiên " quá đáng cũng có hại nhiều hơn là có lợi .

Tế nhị không bao giờ là sự giả dối, thủ đoạn , những cái mà người ta khinh ghét nhất.

Giữa tế nhị với sự khôn vặt, giả dối có một lằn ranh nhất định.

Tính tế nhị đi liền với sự chân thành và lòng tôn trọng người khác .

Người tế nhị cũng là người khiêm tốn. Không kín đáo đến mức khó hiểu, biết im lặng khi cần thiết. Không xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác, cũng không tò mò thóc mách, không chế giễu người khác trước mặt cũng như sau lưng -- ngược lại -- Tế nhị cũng không phải bày tỏ lòng quan tâm quá mức cần thiết .

Có những cái vặt vãnh mà ta đừng nên xem thường, như không nên tự tiện lục túi, đọc trộm nhật ký và lưu bút, thư riêng v.v..

Nhưng tuyệt nhiên tế nhị không đối lập với tính nguyên tắc, không đối lập với lòng can đảm đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, đặc biệt là đối với những vấn đề lập trường, quan điểm sống, quan điểm đạo đức.

Cần phải biết phản ứng đúng lúc đối với những điều xúc phạm con người --- vì đó cũng là một sự tế nhị với yêu cầu cao nhất --- Chúng ta cần có sự tế nhị mang tính nguyên tắc chứ không cần sự tế nhị bao che, giản đơn.

Con người tế nhị bao giờ cũng mang vẻ đẹp của lòng nhân hậu, tinh thần cao thượng và sự hiểu biết giàu có trong đời sống .

Điều hoàn mỹ nhất

Ngày xưa, có một vị đại sư muốn chọn một đệ tử làm người nối dõi.

Một hôm, ông bảo hai đệ tử rằng: "Các con hãy ra ngoài và chọn về đây cho ta một chiếc lá đẹp nhất, hoàn mỹ nhất."

Hai đệ tử vâng lời thầy đi tìm lá.

Thoáng chốc, người anh quay về và trình cho đại sư một chiếc lá không được đẹp lắm:

"Thưa thầy, tuy chiếc lá này không phải là hoàn mỹ nhất nhưng nó là chiếc lá hoàn mỹ nhất mà con thấy".

Người em đi cả ngày trời và quay về với hai bàn tay trắng, người em nói với vị đại sư:

"Thưa thầy, con đã tìm và thấy rất nhiều lá đẹp, nhưng con không thể nào chọn được chiếc lá hoàn mỹ nhất."

Cuối cùng, vị đại sư đã chọn người anh.

"Tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất", chúng ta vẫn cứ luôn nghĩ đến việc "hoàn mỹ nhất" nhưng nếu bạn cứ một mực đi tìm mà không nhìn vào thực tế, không so sánh với thực tế thì bạn cứ phải vất vả để rồi... trắng tay. Cho đến một ngày nào đó, bạn mới phát hiện rằng: Chỉ vì mãi đi tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất mà bạn đã bỏ qua biết bao cơ hội lớn một cách đáng tiếc!

Hơn nữa, thứ hoàn mỹ nhất của con người cuối cùng có được bao nhiêu?

Trên đời này đã xảy ra không ít chuyện đáng tiếc, đó cũng do một số người xa rời thực tế đi tìm "chiếc lá hoàn mỹ nhất", coi thường cuộc sống đạm bạc. Nhưng chính trong cuộc sống đạm bạc, vô vị đó mới chất chứa những điều kỳ diệu và to lớn.

Điều quan trọng là thái độ của bạn như thế nào khi đối diện với nó. Trong cuộc sống chúng ta, không nhất thiết cứ phải theo đuổi những thứ hoàn mỹ mà chỉ cần bình tâm lại, từng bước từng bước tìm thấy chiếc lá mà bạn cho rằng là hoàn mỹ nhất...

Giá trị cuộc sống

Đứa bé trai đến gần một ông già có bề ngoài rất thông thái.

Ngước nhìn ông, cậu bé nói:

"Cháu biết ông là một người rất sáng suốt, uyên thâm. Ông có thể cho cháu biết về bí ẩn của cuộc sống?"

Ông già nhìn đứa bé đáp:

"Suốt đời mình ông đã suy ngẫm rất nhiều về điều này và có thể nói ngắn gọn chỉ trong bốn câu:

- Đầu tiên là suy nghĩ . Hãy nghĩ về những giá trị mà con sống vì chúng.

- Thứ hai là tự tin. Hãy tin tưởng bản thân bằng cách dựa vào những giá trị con nghĩ rằng vì chúng mà con sẽ sống.

-Thứ ba là ước mơ . Mơ ước những gì có thể thành hiện thực dựa vào sự tự tin và những giá trị mà ta sẽ theo đuổi trong cuộc sống.

- Và cuối cùng là dám làm. Hãy dám thực hiện để biến ước mơ thành sự thật bằng chính niềm tin và giá trị của chúng ta".

Ông già đó chính là hoạ sĩ Walt Disney - Người bạn của trẻ em của thế giới.

Chuyện hai hạt lúa

Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy.

Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:

" Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ."

Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.

Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất.

Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.

Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì - nó chết dần chết mòn.

Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới...

Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ - đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai.

Tôi hy vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này...

Mỗi chúng ta là một bản chính

Đã bao giờ bạn nghĩ mình thật quá mờ nhạt trong con mắt mọi người xung quanh hay thậm chí ông trời thật quá bất công khi chẳng ban cho bạn một gương mặt xinh đẹp dù chỉ một tí.

Nếu thế hãy cùng tôi đọc câu chuyện dưới đây để cùng tôi phát hiện ra vẻ đẹp bí ẩn của bạn.

Nơi hoang mạc kia có một gia đình xương rồng nọ gồm xương rồng bố mẹ và một cô "xương rồng bé nhỏ " rất đáng yêu. Một hôm đang tắm táp cho bộ gai của mình dưới ánh nắng rực rỡ bỗng một cơn gió bay qua và dừng lại chỗ "xương rồng nhỏ".

- Chào xương rồng!

- Chào gió! Chị vừa đi đâu về thế?

- Ta vừa thổi qua một thảo nguyên nơi phương Bắc xa xôi. Nơi ấy có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ. Những bông hồng lộng lẫy vớí bộ cánh đỏ rực thơm dịu nhẹ, những đóa hoa cúc mảnh mai và ngây thơ như những cô bé mới lớn, cả những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi lá to như cái quạt. Thôi ta đi đây, còn rất nhiều thứ ta muốn ngắm nhìn!

Thế rồi làn gió bay đi để lại sau lưng xương rồng nhỏ đang trầm ngâm suy nghĩ:

- Ôi ta ước gì mình cũng trở nên xinh đẹp như những bông hoa kia. Mình cũng là cây nhưng nhìn xem những gì mình có chỉ là một thân hình mọng nước và những cái gai xấu xí.

Rồi cô bé cứ rầu rĩ mãi và ngày càng gầy đi khiến cho bố mẹ xương rồng vô cùng lo lắng.

Thấy thế Mặt Trời liền xuống hỏi:

- Này xương rồng nhỏ ! Sao con lại buồn như thế?

Cô bé kể chuyện của mình cho Mặt Trời nghe và cầu xin:

- Ông ơi cháu hãy giúp cháu có được sắc đẹp như những loài hoa kia, cháu không thích mình xấu xí như thế này.

- Nhưng cháu sẽ phải trả giá rất đắt đấy bởi ta biết chúng không hợp với cháu ở nơi sa mạc này đâu.

Nhưng xương rồng cứ một mực cầu xin. Thế là Mặt Trời phải đồng ý.

Một ánh sáng chói lọi loé lên khiến thân hình xương rồng bé lại như hoa cúc, những cái gai biến mất thay vào đó là những chiếc lá to như lá cổ thụ ,trên ngọn mọc ra một bông hoa đỏ rực như hoa hồng. Xương rồng nhỏ sung sướng cảm ơn ông Mặt Trời , vẫy những cành lá mới của mình.

Từ đó cô bé trở thành sinh vật rực rỡ nhất trong sa mạc khiến những cơn gió bay ngang phải dừng lại để ngắm nhìn.

Nhưng rồi ngày qua ngày những cánh hoa xinh đẹp bắt đầu héo úa, những chiếc lá vàng vọt đi, thân cây bé nhỏ rũ xuống. Dưới cái nắng thiêu đốt của sa mạc khiến cô bé thấy khát cháy. Cô bé nhận ra sự sống đang cạn dần.

Với những hơi thở cuối cùng cô bé thì thào gọi ông Mặt Trời. Ông Mặt Trời đỏ gay gắt hiện ra:

- Giờ thì cháu đã nhận ra sai lầm của mình chưa nào.Tạo hóa đã ban cho cháu một hình hài giúp cháu có thể sinh tồn và đây là cái giá mà cháu phải trả khi trái lại tạo hóa.

Khi Mặt Trời vừa dứt lời cũng là lúc cô bé trút hơi thở cuối cùng trong nỗi ân hận muộn màng...

Thật ra Xương rồng bé nhỏ không hề xấu xí như cô bé nghĩ, thậm chí cô còn có những vẻ đẹp riêng mà không một sinh vật nào có được. Đó là sức sống bền bỉ nơi hoang mạc nóng bỏng kia. Vẻ đẹp ấy không bộc lộ ra ngoài mà ẩn sâu bên trong cô bé.

Vậy còn chúng ta? Cũng thế thôi. Có lẽ bạn không xinh đẹp hay quá thông minh nhưng mọi người có thể yêu quí bạn bởi cách bạn sống và tin hay dù chỉ là một nụ cười của bạn mà thôi.

Đừng bao giờ quên mỗi chúng ta là một bản chính chứ không phải một bản sao của ai cả.

Vứt bỏ sự nghi hoặc, hãy tin tưởng mọi người

Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được hai triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát. Nhưng viên cảnh sát lại nói với anh bằng một giọng mỉa mai : "Anh đừng có tới đây để lôi kéo chúng tôi, anh tưởng rằng có thể dùng tiền để lừa bịp, hối lộ chúng tôi được sao, anh tưởng rằng có thể dùng tiền để mua được sự ân xá sao, các anh cũng thuộc loại người không chân thực rồi".

Người phạm nhân này nghe xong cảm thấy vô cùng thất vọng và nghĩ rằng trên thế gian này không còn ai tin tưởng anh ta nữa. Buổi tối, anh ta quyết định vượt ngục. Anh ta đã lấy trộm tiền của mọi người để chuẩn bị cho cuộc trốn chạy. Khi anh ta lấy đủ số tiền rồi, liền lấm lét lên tàu hoả, trên tàu khách rất đông, đã chật cứng không còn chỗ ngồi, anh ta phải đứng ngay bên cạnh chiếc toilet trên tàu.

Lúc đó bỗng nhiên xuất hiện một cô gái xinh đẹp đi vào toilet, nhưng cô chợt phát hiện ra cái khuy cửa đã bị hỏng, cô gái liền nhẹ nhàng bước ra nói với anh ta: "Thưa anh, anh có thể giữ cửa giúp tôi được không ?"

Anh ta sững người một lúc, nhìn cô gái với ánh mắt dịu dàng và thuần khiết, anh ta khẽ gật đầu. Cô gái đỏ mặt bước vào bên trong toilet còn anh ta lúc này trông giống như một người vệ sĩ trung thành, nghiêm nghị giữ cái cánh cửa phòng toilet.

Và trong cái thời khắc ngắn ngủi ấy, anh ta đột nhiên thay đổi ý định, khi tàu dừng lại anh ta rời khỏi đó và đến đồn cảnh sát tự thú...

Lòng tin cũng chính là bàn đạp thực tế, có người nói rằng : "Tin tưởng người khác thật là nguy hiểm, bạn có thể phải chịu sự lừa gạt của họ" chúng ta giả sử là thiên hạ luôn luôn tồn tại sự lừa dối, như vậy thì câu nói đó đúng là có lý, lòng tin không nên xuất phát từ trong ảo giác.

Bạn biết rõ với người thích nói nhiều thì không nên đem bí mật của mình mà kể cho họ nghe. Thế giới không hẳn là một chiếc sân vận động an toàn mà người ở trên đó không phải ai ai cũng có thiện ý, chúng ta buộc phải đối mặt với sự thật này.

Lòng tin chân chính, không phải là sự cả tin.

Không tin tưởng người khác, thì không thể thành nghiệp lớn, cũng không thể trở thành vĩ nhân.

Xin hãy ghi nhớ câu nói này : "Bạn tin tưởng người khác, thì họ mới tin tưởng bạn, trung thực với bạn. Hãy lấy phong độ của một vĩ nhân đối với người khác, họ mới có thể biểu hiện ra cái phong độ vĩ nhân mà họ có với bạn".

Hành động và ý định

Mùa đông năm 1990, tôi được mời lên thủ đô để xuất hiện trong một show nói chuyện trên truyền hình. Vào cuối ngày trước ngày thu hình, khi đang chạy xe về khách sạn tôi đã trông thấy một điều...

Nằm ngay tại vỉa hè trên lớp tuyết dầy lạnh cóng là một người đàn ông đang ngủ chỉ với một tấm giấy carton đắp trên người. Tôi thật sự xúc động khi nhìn thấy đôi chân trần của ông ta, không giầy lẫn vớ.

Lúc đó, tôi đã nghĩ mình nên dừng xe và xuống giúp ông ta nhưng vẫn không chắc lắm về điều mình sắp làm. Thế rồi, đèn giao thông bật tín hiệu xanh, cuộc sống dường như đòi hỏi tôi phải chuyển động. Và tôi đã nhấn ga. Trở về khách sạn, tôi nhanh chóng quên đi người đàn ông bên vệ đường.

Ngày hôm sau, khi đang dùng cà phê chờ đến lượt trong sảnh lớn. Tất cả những nhân vật quan trọng đều rời khỏi sảnh, chỉ còn tôi và người lao công ở lại.

Tôi đã nhìn thấy anh ta lặng lẽ làm công việc hằng ngày của mình trong những ngày tôi ở đó. Anh ta không bao giờ nói gì khác ngoại trừ "Chào buổi sáng" hay "Tôi có thể giúp gì cho ông không, thưa ông?". Anh ta luôn tươi cười với tất cả mọi người. Bắt chuyện với anh ta, tôi đã hỏi anh ta hôm nay anh ta cảm thấy như thế nào. Anh ta trả lời tôi rằng anh vừa mới đạp xe một vòng dưới trời tuyết và lấy làm buồn cho chính mình... cho đến khi anh trông thấy một người đàn ông nằm ngủ ngay góc đường chỉ với một tấm carton làm chăn và chân không giầy. Tôi cảm thấy như tắc nghẹn nơi cổ họng khi nghe anh ta thuật lại anh đã vòng xe nhiều lần như thế nào để mua cho người đàn ông khốn khổ kia một đôi giầy và một đôi vớ.

Trong khi nghe câu chuyện của người lao công, tôi chợt nhớ lại hình ảnh một bức poster quen thuộc. Bức poster vẽ hình một đứa bé tay cầm một bông hoa đang cố nhón chân đưa bông hoa cho một người lớn kèm lời chú thích: "Một hành động nhỏ vẫn có ý nghĩa hơn những ý định dù là cao cả".

Tôi đã đứng đó và thầm ước gì mình chính là người đã mua giầy và vớ cho người đàn ông bên vệ đường, khi người ta gọi tôi vào phòng thu hình.

Khi buổi thu hình kết thúc, tôi đã đi lại con đường ấy để tìm người đàn ông nghèo khổ nhưng ông ấy đã đi khỏi...

Chọn lựa

Cuộc sống có vô vàn chọn lựa, nhưng lại không đủ thông tin để ta chọn được con đường tốt nhất. Và một khi đã chọn lựa, ta thường không có cơ hội để quay lại. Cũng giống khi phải đứng giữa những ngã rẽ, chúng ta buộc phải chọn một, và cầu mong cho con đường đó gặp nhiều điều toại ý, nếu không chúng ta sẽ hối hận. Hối hận vì chọn lựa của mình, hối hận vì không thể biết những chọn lựa khác ra sao, và chúng ta sẽ tiếp tục đi trong sự hối hận đó hoặc quay trở lại.

Dù là đi tiếp hay quay lại, chúng ta lại tiếp tục cái vòng luẩn quẩn của sự hối hận và tiếc nuối. Năng lượng của chúng ta, cuộc sống của chúng ta sẽ dần dà hao mòn mà không được gì cả. Những gì trên con đường chúng ta đang đi sẽ không được chú ý đến, những con người chúng ta gặp sẽ không được nhớ lâu, những giá trị chúng ta có sẽ không được trân trọng, bởi vì chúng ta đang mải mê trong một niềm tiếc nuối, day dứt vì cái điều không thể biết được.

Cuộc sống vẫn sẽ luôn bày ra những chọn lựa, nhưng bạn ơi, chọn lựa làm hạn chế tư tưởng, cân nhắc làm hao mòn tinh thần. Hãy đi như chỉ có một con đường để đi, hãy chọn như chỉ có một lựa chọn, và khi đã chọn xong hãy loại những chọn lựa khác khỏi tư tưởng, để mà tập trung vào một con đường duy nhất, để mà tận hưởng và khám phá cái chọn lựa duy nhất, cũng như để mà sống cái cuộc sống duy nhất của bạn !

Suy nghĩ tích cực

Mỗi khoảnh khắc, chúng ta đều có cơ hội lựa chọn việc mình sẽ hướng đến. Bạn nói những gì, làm những gì, cảm thấy những gì - tất cả đều có nguồn gốc từ trong tâm trí bạn, chúng ta bắt đầu bằng một ý nghĩ.

Những suy nghĩ của chúng ta cũng như những hạt giống, mỗi suy nghĩ tạo hoa và quả riêng. Những suy nghĩ có thể tạo nên một điều gì đó, có thể hủy hoại, có thể mang yêu thương, căm ghét, hạnh phúc hay phiền não.

Bạn không thể kiểm soát người khác hay ngoại cảnh nhưng bạn hoàn toàn có thể học cách phản ứng của mình. Khi chúng ta hiểu và học cách kiểm soát những ý nghĩ của chúng ta thì chúng ta sẽ có một sự bình an "lớn hơn" của tâm hồn, một hạnh phúc và sự ổn định lớn hơn.

Người ta đã tính toán, mỗi chúng ta có khoảng 30.000- 50.000 ý nghĩ mỗi ngày, trong đó có bốn loại suy nghĩ chính: tích cực, tiêu cực, cần thiết và lãng phí.

Trái với suy nghĩ tiêu cực, suy nghĩ tích cực mang lại lợi ích cho chính bản thân chúng ta và người khác, nó dạy chúng ta cách hành động thay vì phản ứng; nó "hướng dẫn" cuộc đời ta thay vì để cho hành vi của người khác và của hoàn cảnh hướng dẫn tinh thần của ta. Suy nghĩ cần thiết nhắm đến những dự án, kế hoạch trong tương lai; còn suy nghĩ lãng phí là loại suy nghĩ tiếc nuối về quá khứ hoặc thuộc về ngoại cảnh, ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.

Tuy nhiên, trong bốn loại suy nghĩ chính này của mỗi người lại có rất ít suy nghĩ tích cực. Theo một cuộc khảo sát tại Anh, những người được khảo sát họ biết họ đã dành khoảng 80% thời gian của mình để nghĩ và nói những điều không kiểm soát được như: nghĩ về quá khứ, lo lắng về tương lai, thời tiết và rất hay nghĩ về người khác đang làm hay không làm gì. Điều gì sẽ xảy ra khi bạn cứ mãi lặp lại những suy nghĩ về những điều mình không kiểm soát được? Những người được khảo sát trả lời rằng khi họ tập trung vào những điều mình không thể kiểm soát được, họ cảm thấy : căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, buồn rầu và giận dữ.

Trong một lần hướng dẫn về tư duy tích cực cho một nhóm nữ phạm nhân tại một nhà tù ở New Zealand, một ngày nọ, có một phạm nhân nói với tôi rằng: "Đối với cô thì thật dễ dàng khi nói về sự tích cực sau giờ học vì sau giờ học này cô có thể lên xe và trở về nhà, còn chúng tôi thì phải ở lại đây!".

Tôi đã trả lời rằng, tôi cũng đã làm việc với nhiều người được tự do về thể chất nhưng lại là người mất tự do về tâm trí. Họ bị điều khiển bởi suy nghĩ của một người khác, họ bị dằn vặt bởi sự hối tiếc về qúa khứ, nỗi lo cho tương lai và cả những điều vượt khỏi sự kiểm soát của họ. Nhiều người trong số họ rất giàu và rất tự do về thể chất nhưng tâm trí họ lại tràn ngập sự lo lắng đền độ họ không thể hưởng thụ những gì mà mình có. Tôi đã gợi ý những nữ phạm nhân này là trong thời gian mà họ không thể thoát khỏi nhà giam về mặt thể chất, thay vì phản ứng lại những gì mình không kiểm soát được, họ hãy tập trung vào những gì mà mình kiểm soát được.

Một số đã bắt đầu thực hiện và họ đã thay đổi thái độ của mình với các cai ngục và bạn tù. Một vài tuần sau đó, các vị quản ngục đã nhận thấy bầu không khí của trại thay đổi hẳn và các nữ phạm nhân đã trở nên tích cực và hòa nhã hơn nhiều. Rõ ràng là khi chúng ta học được cách biết tập trung vào những gì mà mình có thể kiểm soát được và những gì có thể thực hiện được, chúng ta sẽ bớt căng thẳng hơn, bình tĩnh hơn, niềm hạnh phúc và phẩm chất cuộc sống sẽ tăng lên

Chiếc túi màu nâu

Sáng nào, trước khi cha đi làm, bé Molly cũng có "nhiệm vụ" đưa cho cha chiếc túi đựng bữa ăn trưa. Nhưng một buổi sáng, ngoài chiếc túi thức ăn, Molly còn đưa thêm cho cha một chiếc túi giấy màu nâu. Cái túi đã rách, và được chắp vá bởi băng dính cùng những chiếc kim gút.

- Cái gì trong cái túi này thế? - Cha của Molly hỏi.

- Bố cứ cầm đi - Molly cười hớn hở.

Không muốn mất thời gian, ông Fulghum - cha của Molly đem theo cả hai cái túi đến sở làm. Sau mấy tiếng đồng hồ làm việc, ông ăn trưa và mở chiếc túi của Molly. Trong đó có ba viên sỏi, một con khủng long gãy đuôi và hai cái giấy gói kẹo.

Ăn trưa xong, ông Fulghum bỏ những đồ ăn thừa và cả những thứ lặt vặt của Molly vào thùng rác. "Con bé toàn giữ những thứ bỏ đi !" - Ông lắc đầu lẩm bẩm.

Tối hôm đó, Molly chạy lẽo đẽo theo cha và hỏi:

- Túi của con đâu, cha ?

- Túi nào ?

- Túi con đưa cha sáng nay ấy !

- Cha để ở quên ở sở rồi !

- Con quên không bỏ thiệp vào - Molly ríu rít - Trong túi là những thứ con thích nhất đấy, con nghĩ cha cũng thích chơi với chúng khi cha làm việc mệt quá ! Cha không làm mất cái túi đấy chứ, cha ?

- Tất nhiên là không - Ông Fulghum cố nói dối - Cha chỉ quên không mang nó về thôi. Mai cha sẽ lấy về !

Molly mừng rỡ đưa "tấm thiệp" cho cha - đó chỉ là một mảnh giấy gập làm tư, và trong mảnh giấy có ghi "I love you, Daddy".

Chờ lúc Molly đi ngủ, ông Fulghum vội vã quay trở lại sở làm. Ông sợ người lao công dọn những thùng rác, và ông sẽ không lấy lại được kho báu của Molly.

Ông Fulghum dốc cả thùng rác ra sàn. Ông nhặt con khủng long gãy đuôi lên, đem rửa sạch chỗ dính thức ăn thừa. Cả ba viên sỏi, hai cái giấy gói kẹo, ông cẩn thận bỏ vào chiếc túi giấy màu nâu, dù túi đã bị rách thêm một ít.

Sáng hôm sau, ông Fulghum bảo Molly kể cho ông nghe về những thứ trong chiếc túi. Mất khá nhiều thời gian, vì mỗi thứ đều có những câu chuyện riêng, giống như những bạn của Molly vậy. Như hai cái giấy gói kẹo chính là từ những chiếc gói kẹo sôcôla mà ông mua cho Molly, con khủng long gãy đuôi là quà của cậu bạn hàng xóm tặng Molly hôm sinh nhật..

Tối hôm đó, Molly lại ôm con khủng long gãy đuôi đi ngủ, cùng một với nụ cười.

Sơ sót hoàn hảo

Ông ngoại tôi là thợ mộc. Trong đợt trường tôi quyên góp cho trẻ em mồ côi Trung Quốc, ông đóng các thùng gỗ đựng quần áo chuyển đi. Ông rất hứng thú với công việc này vì tính ông tôi rất thương người.

Nhưng không may, khi vềnhà, ông không tìm thấy kính của ông đâu. Suy nghĩ mãi, cuối cùng ông cũng nhận ra điều gì đã xảy ra cho cặp kính của mình. Khi ông đóng thùng, chắc cặp kính đã tuột ra khỏi túi áo và rơi vào bên trong một trong những chiếc thùng - giờ đây đã được niêm phong.

Thế là chiếc kính mới của ông ngoại lên đường sang Trung Quốc ! Ông bực lắm vì ông đã mua cặp kính đó với giá 20 đôla, trong khi gia đình thì nghèo và ông có đến 6 đứa con nhỏ. "Trời đất ơi ! Mình đã bỏ công ra làm giúp người khác. Vậy mà cuối cùng lại thế này đây, chẳng ai giúp được mình ! Ôi - ông nhủ thầm.

Vài tháng sau, ông hiệu trưởng trường trẻ mồ côi ở Trung Quốc - nơi nhận quà quyên góp - được đến thăm trường tôi. Ông hết lời cảm ơn chúng tôi vì quần áo cho trẻ mồ côi. Rồi ông cũng phát biểu:

- Tôi cũng hết sức cảm ơn các bạn vì cặp kính các bạn gửi cho tôi lần trước. Vừa trước đó, chiếc kính cũ của tôi bị vỡ và tôi rất tuyệt vọng vì không thay được tròng kính, do hàng hóa khan hiếm ở đất nước nước tôi vào thời điểm đó. Tôi không nhìn rõ được và thường xuyên nhức đầu. Thế rồi các thùng quần áo các bạn gửi đến và khi mở ra, chúng tôi thấy cặp kính.

Mọi người chăm chú lắng nghe. Ông hiệu trưởng nói tiếp :

- Các bạn ạ, khi tôi thử đeo kính vào, thật may mắn, tôi nhìn mọi vật đều rõ ràng ra, như thể nó được làm riêng cho tôi vậy. Tôi rất biết ơn các bạn về cặp kính.

Mọi người đều vui vì chuyện cặp kính dù ai cũng bối rối : cặp kính không nằm trong danh sách nhưng món quà được gửi đi Trung Quốc. Mọi người nghĩ rằng ông hiệu trưởng đã nhầm và cặp kính đó là một nhà thờ khác gửi.

Lúc đó, tôi thấy ông ngoại ngồi ở băng ghế sau cùng, kín đáo lau nước mắt.

Ông, một người thợ mộc bình thường, đã nhận ra rằng Tạo Hóa đã cậy nhờ ông một việc đặc biệt, theo một cách đặc biệt nhất.

Có những sự việc chúng ta tưởng như không may xảy ra, nhưng cũng có thể nó được sắp đặt để xảy ra như vậy - sắp đặt một cách có ý nghĩa.

Khoảnh khắc và cuộc sống

Đôi khi có một số người lướt qua cuộc đời bạn và ngay tức khắc bạn nhận ra rằng sự có mặt của họ ý nghĩa như thế nào. Họ đã dạy bạn những bài học, đã giúp bạn nhận ra giá trị của chính mình hoặc trở thành con người mà bạn từng mơ ước. Có lẽ bạn sẽ không biết được những con người này từ đâu đến ( bạn cùng phòng, người hàng xóm, vị giáo sư, người bạn mất liên lạc từ lâu hay thậm chí là một người hoàn toàn xa lạ ). Nhưng khi bạn thờ ơ với họ, hãy nhớ rằng trong từng khoảnh khắc họ sẽ ảnh hưởng rất sâu sắc đến cuộc đời bạn.

Ban đầu sự việc xảy ra trông có vẻ kinh khủng, đau khổ và bất công, nhưng khi lấy tấm gương của cuộc đời ra để đối chiếu, bạn sẽ hiểu được là nếu không có những giây phút ấy để bạn vượt qua mọi khó khăn thì bạn khó có thể thấy được tài năng, sức mạnh, ý chí và tấm lòng của bạn. Mọi việc đều diễn ra có chủ đích mà không có gì gọi là tình cờ hay may rủi cả. Bệnh tật, tổn thương trong tình yêu, giây phút tuyệt vời nhất của cuộc sống bị đánh cắp hoặc mọi thứ ngu ngốc khác đã xảy đến với bạn, hãy nhớ rằng đó là bài học quý giá. Nếu không có nó cuộc đời này chỉ là một lối đi thẳng tắp, một con đường mà không hề có đích đến cũng như bạn sống từng ngày mà không hề ước mơ. Thật sự con đường đó rất an toàn và dễ chịu, nhưng sẽ rất nhàm chán và vô nghĩa.

Những người bạn gặp sẽ ảnh hưởng đến đến cuộc đời bạn. Thành công hay thất bại, thậm chí là những kinh nghiệm tồi tệ nhất cũng chính là bài học đáng giá nhất, sẽ giúp bạn nhận ra được giá trị của chính mình. Nếu có ai đó làm tổn thương bạn, phản bội bạn hay lợi dụng tấm lòng của bạn, hãy tha thứ cho họ bởi vì chính họ đã giúp bạn nhận ra được ý nhĩa của sự chân thật và hơn nữa, bạn biết rộng mở tấm lòng với ai đó. Nhưng nếu có ai thương yêu bạn chân thành, hãy yêu thương họ một cách vô điều kiện, không chỉ đơn thuần là họ đã yêu bạn mà họ đang dạy bạn cách để yêu .

Hãy trân trọng khoảnh khắc và hãy ghi nhớ từng khoảnh khắc những cái mà sau này bạn không còn có cơ hội để trải qua nữa. Tiếp xúc với những người mà bạn chưa từng nói chuyện, và biết lắng nghe. Hãy để trái tim biết yêu thương người khác. Bầu trời cao vời vợi vì thế hãy ngẩng đầu nhìn lên, tự tin vào bản thân. Hãy lắng nghe nhịp đập của trái tim mình :"Bạn là một cá nhân tuyệt vời. Tự tin lên và trân trọng bản thân bạn, vì nếu bạn không tin bạn thì ai sẽ làm điều ấy?"

Hãy sở hữu cuộc sống của bạn và đừng bao giờ hối tiếc về lối sống ấy. Nếu bạn thương yêu ai đó thì hãy nói cho họ biết, dù rằng sẽ bị từ chối nhưng nó có thể làm cho một trái tim tan nát có thể đập trở lại.

Một bức tranh đẹp

Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. ÿể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian.

Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ . Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình . Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng. Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.

Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ . Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy. Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay ngươi đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người hoạ sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: "Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh vẽ tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình".

Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ducthi