Đời sống của con người trên cõi trung giới sau khi chết

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nay chúng ta đề cập đến phần thứ hai của đề tài. Những ai trong chư huynh đã quen thuộc với những kinh sách thời Trung Cổ, đều biết một danh từ rất thông dụng ngày nay, đó là danh từ “Hào quang.” Những nhà luyện kim [8] đã cho chư huynh biết chữ đó và chư huynh cũng thấy nói trong những cuốn sách y học. Paracelse đã dùng chữ này để chỉ cơ thể và bản chất con người. Chữ này được Thông Thiên Học đương thời chấp nhận vì nó miêu tả đúng hơn mọi chữ khác các phần vô hình của thân thể con người có liên quan đến những mối cảm xúc. Ở thời Trung Cổ, chữ này dùng để che đậy một vài ý niệm mà các tác giả không dám nói thẳng ra. Khi chư huynh đọc những cuốn sách của thời đại đó, nếu chư huynh muốn than phiền rằng chúng thật là khó hiểu, thì xin chư huynh hãy nhớ cho rằng tác giả những sách đó có thể bị giam cầm hay là lên giàn hỏa. Họ bắt buộc phải giấu kín những chơn lý dưới một ngôn ngữ có tính cách tượng trưng, nếu nói rõ những chơn lý đó ra thì sẽ nguy hiểm lắm.

Cách một năm hay mười tám tháng, tiếng “hào quang” này được một vị y sĩ ở Luân Ðôn thốt ra tức là Bác sĩ Kilner trong một buổi nhóm họp khoa học. Theo như tôi biết thì đó là lần đầu tiên một nhà thông thái, khi nói đến cơ thể con người có thể chứng minh trước con mắt thịt của con người cái phần vô hình lúc bình thường thì không thấy được, nó chính là hào quang con người vậy. Người ta dựng lên những tấm màn có thể ngăn ánh sáng lại hay để cho ánh sáng lọt vào, tùy theo nhu cầu; người ta dùng hai tấm kính đó có một chất lỏng làm thành một bức màn che trong suốt. Khi nhìn một người thường qua bức màn chắn đó và tùy theo những điều kiện đặc biệt của ánh sáng và bóng tối, Bác sĩ Kilner có thể làm con mắt thịt không kinh nghiệm và không luyện tập thấy được cái phần thô trược nhất gọi là “Hào quang”con người.

Bình thường thì người ta không sao thấy được cái hào quang có màu sắc nó bao quanh con người. Mỗi người trong chư huynh đều có xung quanh mình một bầu chất khí tế nhị, giống như một đám mây, màu sắc của nó thay đổi tùy theo những cảm xúc và tư tưởng của chư huynh. Vị quan sát viên trông thấy sự thay đổi màu sắc đó, nhưng chỉ quan sát viên nào đã phát triển được một thị giác sắc bén hơn là thị giác thường mới nhìn thấy được mà thôi; không cần đến cái cách thức máy móc của Bác sĩ Kilner, y vẫn có thể nhìn thấy cái đám mây bao quanh con người, con thú, cây cỏ và hòn đá. Một phần đám mây này do chất thanh khí làm ra, đó là chất khí của tình cảm, vì những mối cảm xúc, những sự thay đổi trạng thái trong lương tri làm cho chất khí đó rung động. Một khi một mối cảm xúc xuyên qua lương tri chư huynh, chất thanh khí ở trong mình chư huynh và xung quanh chư huynh bỗng nổi lên như sóng gợn ba đào, giống hệt như khi chư huynh lấy một cái dùi mà đánh vào một cái cồng (cái chiêng). Một nhà bác học sẽ nói với chư huynh rằng có một khu vực lớn đầy những làn sóng rung động bao quanh cái cồng (chiêng), những làn sóng rung động đập vào tai chư huynh làm cho chư huynh nghe những tiếng tăm; giữa chư huynh và cái cồng thì không ai trông thấy được những làn sóng rung động đó; tuy nhiên, những làn rung động ấy vẫn có, vì bằng cớ là chúng đã đập vào cái cơ quan thích hợp để thu nhận chúng và phát sinh lại chúng.

Cũng giống như thế, khi chư huynh bị một việc gì làm cho xúc động, thì có một sự đụng chạm trong chất thanh khí này: những làn sóng phát sinh từ trong mình chư huynh tràn lan ra ngoài giống như là một bầu lớn đầy những khí chất đang rung động; tuân theo luật thiên nhiên cũng như tất cả mọi làn rung động, khi chúng đi xa các nguồn phát sinh ra chúng thì chúng càng yếu sức và càng bị tiêu mòn lần lần. Chư huynh hãy nghĩ đến cái chất khí tế nhị mịn màng, vô hình, mà sự cảm xúc làm cho rung động, giống như không khí rung động khi một âm thanh phát sinh từ một cái cồng, từ một cây vĩ cầm hay là một cây dương cầm vậy. Nhưng cái chất thanh khí này không ứng đáp với âm thanh hay ánh sáng, hay điện lực, tôi có thể nói rằng nó chỉ có thể ứng đáp với một làn rung động của sự cảm xúc mà thôi. Đó là cái nét đặc biệt mà Thượng Ðế, vị Kiến trúc sư tối cao, đã ban cho nó, khiến cho sự cảm xúc được liên hệ đến một chất khí đặc biệt, giống hệt như những chất khí khác ứng đáp với âm thanh, với ánh sáng, với điện lực. Chất khí hay vật chất luôn luôn được dùng làm trung gian để di chuyển tinh lực hay khí lực xuyên qua không gian.

Chắc chư huynh cũng không lấy làm lạ lùng khi thấy chỉ một chất khí đặc biệt ứng đáp với những mối cảm xúc trong khi học hỏi về vật lý, chư huynh đã quen thuộc với những đặc tính này rồi. Một tia ánh sáng không làm nẩy sinh trong không khí những làn rung động đập vào lỗ tai, cũng giống như thế, những làn rung động mà chúng ta nhận thấy như những âm thanh không thể phát sinh do những làn sóng dĩ thái mà ta gọi là ánh sáng được. Chư huynh nên nhớ rằng Sir William Crookes một lần kia đã lập ra một bảng kê khai những loại rung động. Ông chia những làn sóng rung động ra từng loại, chúng tự biểu lộ ra, thành ra điện lực, âm thanh hay ánh sáng, sau cùng ông nhận thấy rằng có những làn sóng rung động mà con người chưa biết được, mà chúng ta cũng chưa nhận thức được; có thể sau này chúng được áp dụng trong tương lai, chúng sẽ ứng đáp với một hình thức của mãnh lực khác hay của sinh lực khác, có lẽ chúng sẽ ứng đáp với tư tưởng. Tôi sẽ nói đến tư tưởng trong kỳ họp sau; bây giờ đây tôi nói đến sự biểu lộ đặc biệt của lương tri mà người ta gọi là sự cảm xúc.

Tôi xin chư huynh hãy nhớ lại một điều khác nữa về sự liên quan giữa một sự biến đổi của lương tri gọi là sự cảm xúc và cái chất khí rung động dưới ảnh hưởng của nó. Sự cảm xúc tương ứng với một lối rung động đặc biệt và cái lối rung động này cũng tương ứng với sự cảm xúc. Nếu chất thanh khí rung động, thì ở tự nơi lương tri của chư huynh bỗng nổi lên một sự cảm xúc tương ứng với cái làn rung động đặc biệt đã va chạm vào chư huynh và truyền qua chất thanh khí của cái vía của chư huynh. Ðiều này đã được chứng minh một cách rất hứng thú. Tôi chỉ nói rằng chư huynh có thể tìm học về vấn đề này trong những cuốn sách Pháp nói về những sự thí nghiệm của khoa thôi miên và những trạng thái xuất thần của thuật thôi miên. Trong những cuốn sách đó người ta nói rằng chư huynh có thể khêu gợi một sự cảm xúc và làm phát sinh một cử động tương ứng của một người bị chư huynh thôi miên khi chư huynh truyền sự cảm xúc và sự cử động đó qua trí óc của y. Như thế, nếu chư huynh cầm lấy bàn tay của người bị thôi miên và giựt giựt như là chư huynh đang nổi giận thì y liền tỏ vẻ nổi giận ngay; hay nếu chư huynh làm cho sự tức giận phát sinh, thì những cử chỉ, những dấu hiệu bên ngoài của sự tức giận liền hiện ngay nơi y.

Nếu chư huynh muốn thí nghiệm những điều mà đối với chư huynh có lẽ chúng có vẻ mới lạ, thì chư huynh hãy đọc những cuốn sách trong đó chư huynh có thể tìm thấy những kết quả sự sưu tầm của khoa học liên quan đến đề tài này. Bây giờ, chư huynh có thể thừa nhận như là một giả thiết rằng một cảm xúc làm nẩy sinh một làn rung động trong chất thanh khí và nếu một làn rung động phát sinh trong chất đó thì mối cảm xúc tương ứng liền nẩy sinh ngay khi làn rung động này va chạm vào một con người.

Cần phải nhớ một điểm khác nữa, đó là một phần chất thanh khí của ý chí xuyên qua chất dày đặc của xác thân ta và như vậy trở thành một thành phần của xác thân. Chư huynh hẳn còn nhớ tôi đã định nghĩa xác thân như thế nào, đó chỉ là một dụng cụ của lương tri, một dụng cụ vật chất mà thôi. Thoạt đầu, ta có những chất đặc, những chất lỏng, những chất hơi, những chất dĩ thái, rồi đến cái chất thanh khí của cái Vía nó thấm nhuần tất cả bốn loại đó. Khi chư huynh nhúng một miếng bông đá (éponge) xuống nước, nước liền thấm vào miếng bông đá mà cũng vẫn bao quanh miếng đó. Cũng giống như thế, cả thân thể con người đều thấm nhuần chất thanh khí của cái Vía và một phần lớn chất thanh khí này cũng bao quanh xác thân. Chất thanh khí này thường được gọi là thể Vía, để cho dễ hiểu, từ nay tôi gọi chất này là cái phần Vía của xác thân vì chư huynh còn nhớ rằng tôi đã chia con người ra làm ba phần: Tinh thần, Linh hồn và Xác thân. Mà chất thanh khí của cái Vía thấm nhuần Xác thân còn lan rộng ra ngoài cái thể xác dày đặc hữu hình; một phần của nó làm ra hào quang, tức là đám mây vô hình bao bọc lấy xác thân dày đặc của con người. Khi tách rời khỏi xác thân, cái Vía có một hình dáng giống hệt cái xác thân của nó. Nhưng ngoài trường hợp này nó chỉ là một đám mây thường, thấm nhuần xác thân và len lỏi vào trong hình hài của con người. Chư huynh hãy tưởng tượng đến cái chất thanh khí đó thâm nhập vào mỗi phần của xác thân và lan rộng ra ngoài nữa, và xung quanh nó cũng có một đại dương làm bằng chất thanh khí lúc nào cũng có thể rung động nếu chất thanh khí trong mình của chư huynh rung động

Xác thân và cái Vía khác nhau rất xa. Xác thân là cái thể tiến hóa nhất trong các thể, nó đã tiến hóa trước hết và vì thế nên đã tiến bộ nhiều. Cái Vía chưa tiến hóa bằng xác thân; nhưng chư huynh càng có học thức, càng trau dồi nghệ thuật, tư tưởng và đời sống hằng ngày của chư huynh càng có những xu hướng thanh cao, thì cái Vía càng phát triển nơi chư huynh. Nó đang tiến hóa và sự phát triển của nó được tiếp diễn một cách nhanh chóng, căn cứ vào sự phát triển trí khôn và tư tưởng trong nhân loại.

Ngày nay, cái Vía của những người tiến bộ nhất trong nhân loại thì mở mang rất lớn và tốt đẹp, nhờ nó mà sự phát triển kỳ diệu của thiên tài về sự cảm xúc biểu lộ nơi người nghệ sĩ đã được tăng trưởng. Ðối với tất cả chư huynh, những người sáng suốt và ưa suy nghĩ thì cái Vía cũng đã tiến hóa khá nhiều rồi.

Cần phải hiểu rằng con người tùy theo phong thổ, khí hậu, chủng tộc mà khác nhau rất xa. Chư huynh cũng nên nhớ rằng cái Vía của chư huynh cũng có những giác quan giống như xác thân vậy. Nhiều người nhờ những điều kiện về chủng tộc và khí hậu nên mở mang những giác quan này. Ở Californie, phía Tây Châu Mỹ, hay ở tại một quốc gia ở Trung Mỹ, áp suất của điện lực trong không khí thường cao đến nổi trẻ em chơi đùa bằng cách lấy bàn chân cọ sát vào tấm thảm, và như vậy, thân thể của các em chứa đầy điện, và các em có thể lấy ngón tay mình chạm vào má một em khác và làm cho tia điện xẹt ra ở đầu ngón tay em. Trong những điều kiện này, những giác quan của cái Vía được phát triển mau lẹ lắm. Dọc khắp bờ biển phía Tây Châu Mỹ, chư huynh sẽ thấy có nhiều người (tuy nhiên chưa phải là đa số) đã phát triển thể Vía của họ trên một mức rất cao, họ đã trở nên những người nhạy cảm. Tôi xin nói thêm rằng ở vào trình độ tiến hóa của chúng ta hiện thời, ai ai cũng có thể trong chốc lát, đi đến cái mức nhạy cảm đó bằng cách cho kẻ khác thôi miên mình, điều này làm tê liệt xác thân, nhưng làm cho ta có thể có thần nhãn hay thần nhĩ được. Ðiều này chứng tỏ rằng những giác quan của cái Vía sắp sửa trở nên hoạt động. Ở một người nam hay người nữ tầm thường, tuy đã được tiến hóa đến mức cao đó rồi, nhưng thường những giác quan của cái Vía chỉ biểu lộ ra khi nào chúng bị một cái gì ở ngoại cảnh kích thích. Tuy nhiên trong một vài trường hợp, cái giác quan này cũng hiện ra một cách tự nhiên. Nếu bộ thần kinh của chư huynh bị kích thích quá độ, nếu chư huynh làm việc quá sức, nếu chư huynh bị nóng đến 39 độ, chư huynh có thể có thần nhãn hay thần nhĩ. Khí chư huynh bị nóng (sốt) và chư huynh mê sảng, đó là vì xác thân quá yếu đuối đã để cho cái Vía ngự trị mình trong chốc lát và in xuống khối óc yếu mệt những hiện tượng gì mà cái Vía đã nhìn thấy ở Cõi Trung Giới. Chư huynh thường hay thấy nhiều người cứ mỗi khi đau ốm là có thần nhãn, đó là một thứ thần nhãn nguy hiểm, nếu xác thân không đủ sức khỏe, thì thứ thần nhãn này sẽ phát sinh một sự căng thẳng quá độ khiến cho tinh thần bị suy giảm hay có khi còn làm ra những cơn loạn thần kinh. Có thần nhãn mở ra theo một lối khác, những âm thanh phát sinh ra những màu sắc và có đôi ba người trông thấy màu sắc ấy. Hoàng hậu xứ Lô Mã Ni là bà Carmen Sylva, vừa mới có đăng trên tạp chí “Thế kỷ thứ 19 và những thế kỷ sau đó” một bài miêu tả sự có thần nhãn của chính bà. Mỗi khi bà nghe âm nhạc là bà trông thấy màu sắc, tùy theo giọng nhạc cao thấp, các màu sắc này trở nên sậm và lợt. Tiếng kèn săn bắn phát sinh màu đỏ tươi, âm nhạc có tính cách đạo đức làm cho bầu không khí bị nhuộm màu xanh dương lợt [9]. Chư huynh sẽ tìm thấy rất nhiều chi tiết liên quan đến đề tài này trong những sách báo Thông Thiên Học. Nay, chư huynh hãy xem xét về một cảm xúc mà có lẽ đa số chư huynh đều có, đó là một cảm giác bực bội, băn khoăn ban đêm trong khi chư huynh ở nhà một mình. Một lần đề cập đến ma quỉ, Carlyle nói: ‘‘Tôi không tin ma quỉ, nhưng nếu tôi thức giấc nửa đêm thì tôi sợ nó”. Nhiều người đã có ít nhiều cái cảm giác đó hay một cảm giác tương tự.

Rất nhiều người trong chúng ta ban ngày rất can đảm cũng sẽ hiểu cảm giác này nghĩa là gì. Riêng tôi, tôi nhớ hồi tôi còn là một người hoài nghi và sống một mình ở Luân Ðôn. Tôi ngồi viết đến hai, ba giờ sáng, tới lúc đó tôi phải hết sức cố gắng mới dám tắt đèn đi và leo lên thang lầu trên căn nhà hiu quạnh và lạnh trang. Tôi tự cảm thấy mình bồn chồn băn khoăn bực bội, nhưng lại tự ái, không muốn công nhận điều đó. Nay tôi đã hiểu biết Cõi Trung Giới, tôi không còn sợ hãi điều gì nữa; trước kia tôi không tin cõi đó và tôi đâm ra sợ sệt. Tại sao vậy ?  Trước tôi không hiểu vì lý do nào, mà nay thì tôi biết rồi. Trong những giờ khuya đó, sinh lực bị giảm đi. Tất cả những ông thầy thuốc đều nói với chư huynh rằng, mức độ sinh khí lên cao tột lúc nửa đêm. Khi đau ốm, người ta thường hay chết vào khoảng từ nửa đêm đến hai, ba giờ sáng. Lúc đó sinh khí bị giảm bớt, chất thanh khí thạnh hơn, nó nhận được những cảm giác ở Cõi Trung Giới và truyền chúng qua cho khối óc; thế nên chúng ta lùi bước trước sự huyền bí lạ lùng và phải sợ hãi.

Có lẽ vài ba người trong chư huynh đã từng có tánh linh biết được những sự việc tới. Nếu một người bạn ở xa bị đau ốm, tuy chư huynh không được báo tin, chư huynh cũng sẽ cảm thấy một sự bồn chồn lo lắng cho y. Khi một người bạn từ trần, chư huynh sẽ thấy tâm thần dã dượi đúng vào lúc y tắt hơi. Nếu chư huynh muốn kiểm soát lại những cảm giác đó chư huynh hãy tập ghi nhớ giờ phút trong lúc đó chư huynh bị xúc động không lý do và chư huynh hãy gìn giữ những lời ghi chú để sau này xem lại coi giờ phút đó có đúng với những sự việc liên quan đến một người bà con hay một người bạn mà chư huynh tưởng tới không. Chư huynh tự mình học hỏi mình, chư huynh sẽ hiểu biết được nhiều hơn là đi nghe diễn thuyết. Những buổi diễn thuyết chỉ có tính cách hướng dẫn. Sự hiểu biết là kết quả công phu khảo cứu và quan sát riêng của mình.

Trong vài trường hợp chất thanh khí tự biểu lộ rõ ràng và có thể sờ mó được. Ðiều xảy ra khi một thứ cảm giác làm xúc động trọn cả một đám đông. Một vài thí dụ của trường hợp này là nghệ thuật hùng biện nhắm vào những cảm xúc của con người. Ða số trong chư huynh đã biết tiếng bạn tôi Charles Bradlaugh, một trong những nhà hùng biện danh tiếng ngày nay. Tôi đã nghe ông diễn thuyết về một đề tài xã hội cho những nhân viên của Carlton Club, các vị nghị viện khả kính. Ngồi trước mặt diễn giả, tất cả các thính giả đều vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt chỉ vì họ bị lôi cuốn bởi một cảm xúc bừng dậy trong Vía của họ đang rung động vì ảnh hưởng mãnh liệt của diễn giả. Nhưng tôi hoài nghi rằng tới ngày hôm sau khi nhớ lại buổi diễn thuyết này, họ sẽ phản đối kịch liệt những quan niệm đã đưa ra mà họ tán thành sốt sắng hôm trước. Và trường hợp như thế xảy ra luôn luôn. Thí dụ như trong một vài trường hợp sợ hãi cuồng loạn. Thình lình một tiếng hét vang, vài ba người đâm hoảng hốt. Cái Vía của họ rung động; những làn sóng kinh khủng nổi lên rồi lan ra xa. Chúng truyền nhiễm cái Vía của những người tụ họp gần đó làm cho họ cũng phát sợ. Tới chừng đó thì họ mất hết hồn vía rồi cả thảy đua chạy tán loạn để tránh một hiểm họa tưởng tượng.

Ðối với những cơn loạn thần kinh thì cũng như vậy. Một vị y sĩ sẽ nói rằng nếu trong một phòng bệnh của nhà thương, một bệnh nhân bỗng nổi cơn loạn thần kinh thì người ta phải mang y ngay ra nơi khác để tránh cho những bệnh nhân khác khỏi bị lây. Tại sao vậy ! Vì những cảm xúc đã làm rung động cái Vía của người thứ nhất thì sự rung động này sẽ truyền sang cái Vía của những người khác và như thế thì cơn loạn thần kinh sẽ nhiễm họ.

Chư huynh hãy nhớ lại những kinh nghiệm của mình. Chư huynh gặp một người vui vẻ, sung sướng, chư huynh liền nói. Khi người này bước vào thật giống như một tia sáng mặt trời chiếu rạng. Một người khác đến gần chư huynh, mang theo mình một đám mây u uất, buồn chán. Tất cả chúng ta đều phát buồn và chán nản. Tại sao vậy ! Tất cả những điều này đều có một lý do. Sự vui hay buồn đều hay lây, chúng tăng tiến giống như một mầm bệnh hay một sức khỏe cường tráng. Tất cả những gì khiến cho vật chất rung động thì đều có tính cách hay lây vì những sự rung động của vật chất vẫn được tái diễn và làm nổi dậy những mối cảm xúc tương tự nơi kẻ khác.

Đây là một thí dụ cuối cùng. Chư huynh gặp một người có tánh xấu hay tức giận. Trong trường hợp này, chư huynh có bao giờ để ý thấy rằng mình bị lây, chư huynh cũng tức giận, tuy rằng trước đó chư huynh rất thơ thới và đầy thiện chí hay không?  Những làn rung động của cái Vía của người này đã truyền sang chư huynh và khiến chư huynh tức giận, nổi cáu.

Vì thế cho nên những vị Ðại Giáo Chủ thường khuyên chư huynh lấy ơn mà trả oán, lấy tình thương yêu mà đáp lại lòng thù hận. Nếu một người kia tới chư huynh mà trong lòng rất thù hận chư huynh, và nếu chư huynh cũng rất thù hận y, thì những làn sóng thù hận này vì giống nhau nên trợ sức cho nhau và trở nên mãnh liệt, tàn bạo. Sự tức giận khêu gợi sự tức giận, lòng thù hận mà nẩy sinh lòng thù hận, hai người sẽ cải lộn với nhau và có thể trở thành những kẻ thù địch đời đời. Bởi thế cho nên mỗi vị Đại Giáo Chủ khuyên ta rằng: ‘‘Các con đừng đem cái ác, các con hãy đem cái lành mà đáp lại cái ác”. Ðức Phật đã nói: ‘‘Lấy oán trả oán thì oán không dứt, lấy ơn trả oán thì oán mới tiêu”. Ðức Chúa Ki Tô dạy chư huynh phải chúc phước lành cho những kẻ oán ghét chư huynh. Ấy đó thánh huấn của các vị Ðại Minh Triết, Giáo Chủ nhân loại ban ra vốn có lý do khoa học. Vừa mới đây một người có tánh hoài nghi nói với tôi rằng: ‘‘Tại sao tôi lại phải lấy ơn đáp oán. Như vậy thật là phi lý”. Tôi không bàn cãi với y trên quan điểm đạo đức. Tôi chỉ trình bày cho y thấy cái kết quả cụ thể, khiến cho y chú ý đến những làn rung động của sự tức giận và những làn rung động đối lập phát sinh từ lòng thương yêu; tôi cắt nghĩa cho y rõ vì làm sao những làn sóng thương yêu dập tắt được làn sóng thù hận, tránh được những sự cãi vã và mang lại niềm hòa khí. Lúc đó, y trả lời rằng: ‘‘Ôi, bây giờ bà nói đúng lý, tôi mới hiểu rõ tại sao tôi phải dĩ ơn báo oán”.

Vậy phải nhớ điều này, chư huynh có thể tự ý mình mở mang những cảm tình tốt đẹp, thanh cao và do đó mà giúp đỡ những kẻ khác chiến thắng được những cảm tình xấu xa thấp hèn của họ. Chư huynh có thể trở thành một nguồn ơn huệ làm cho người tức giận nguôi ngoai, người quạu quọ dịu dàng, chư huynh ban rải xung quanh mình sự hài lòng, an phận, nhiều hạnh phúc, nỗi vui mừng bằng cách tuân theo định luật thiên nhiên vững vàng và không bị vi phản. Trước khi chấm dứt đề tài này, tôi phải nói cho chư huynh biết cái trách nhiệm của chư huynh đối với kẻ khác. Không những một mối cảm xúc tốt lành làm nổi dậy nơi chư huynh một làn rung động của thanh khí mà nó còn lan tràn ra xung quanh và cảm đến cái Vía của kẻ khác. Mối cảm xúc xấu xa cũng tác động như vậy. Vậy thì không phải tự chủ ở bề ngoài mà thôi. . . dằn xuống, không ngó, không nhìn một cách giận dữ, không ăn nói quạu quọ, không phát sinh một cử chỉ đe dọa, cũng chưa đủ đâu, chư huynh phải trừ tận gốc rễ cái tánh giận dữ tiềm tàng mặc dù không thấy được. Do những dục vọng, những sự đắm mê của chư huynh, chư huynh nhiễm xã hội và ngay lúc đó chư huynh phải chịu trách nhiệm về cái ảnh hưởng mà chư huynh ban rải ra. Ðiều này phải được xem xét một cách nghiêm nhặt, nhất là trong những giai cấp xã hội có những kẻ phạm tội ác, tánh nết tàn bạo mà người ta thường gặp ở Tây Phương nhiều hơn ở Đông Phương; ở Tây Phương mỗi khi tức giận là người ta hành hung liền. Không bao giờ những người nam và những người nữ trong giai cấp chư huynh lại có những hành động như thế, bởi vì họ tự chủ, họ là những người có giáo dục, họ có phẩm giá xứng đáng và biết tự trọng quá đi. Nhưng trong thâm tâm họ hãy còn chất chứa sự tức giận; cái Vía của họ hãy còn rung động dưới ảnh hưởng của sự tức giận, và những làn rung động này lan tràn trong Cõi Trung Giới, nơi đó chúng gặp nhiều làn rung động khác một loại với nhau. Tất cả những tư tưởng tức giận ở Cõi Trung Giới liền hợp nhau lại thành một lượn sóng lớn, truyền ra xa những cảm xúc dữ tợn; khi lượn sóng này gặp một người kém tiến hóa ở ngay vào cái lúc y bị khiêu khích, tức thì nó kích thích y, khiến y hành động một cách hung bạo hơn là ở những trường hợp khác. Y có thể hành hung giết người và pháp luật trần gian không sao có thể trừng phạt những kẻ phải chịu một phần trách nhiệm về sự hành động của y, nhưng mà họ vẫn được kính trọng quí mến đến khi họ xuống mồ, còn kẻ phạm tội thì bị tù đày đặng đền bù tội lỗi của mình. Nhưng luật trời vẫn phán xét tất cả mọi sự, phán xét tánh tình cũng như phán xét sự hành động; cái định luật tuyệt đối công bằng nó thưởng phạt mỗi người đúng với nhân mà y đã gieo và cấp cho mỗi người cái phần mà y đã dự vào trong tội ác của kẻ sát nhân. Ðịnh luật này biết rõ sức mạnh của một tư tưởng xấu sinh ra vì tánh bơ thờ, nó nhập với một tư tưởng xấu đã có sẵn và chúng làm cho xã hội bị tổn hại chẳng ít.

Ðối với những hành động anh hùng hào kiệt thì cũng giống như vậy; thí dụ khi một người kia xông vào một cái nhà đang cháy phừng phừng hay nhảy xuống một con sông nước chảy cuồn cuộn, không nghĩ tới sự nguy hiểm đang chờ đợi mình, mà chỉ nghĩ đến đứa trẻ cần phải cứu sống mà thôi; có thể người đó thật ra không có gì là khí phách anh hùng cả, mà thình lình y hành động được như thế là nhờ luồng tư tưởng dũng cảm ở chung quanh y kích thích y. Luồng tư tưởng dũng cảm này là sự kết hợp của sự can đảm của y sĩ tận tâm điều trị một chứng bệnh hiểm nghèo, sự can đảm của người nữ y tá săn sóc đứa trẻ thoi thóp vì bệnh yết hầu, sự can đảm của bà mẹ cúi xuống với đứa con đau ốm, sự can đảm của cá nhân và của đoàn thể. Sự can đảm của một thường dân chất phác chỉ biết làm đầy đủ cái nhiệm vụ của mình và họ quên mất cái đức tính cao thượng của họ. Nhưng mà những tư tưởng quả cảm của họ lan tràn trong không khi xung quanh; những tư tưởng sống ở đó và di chuyển, khi con người can đảm nhưng không phải là người anh hùng, xông pha vào nước lửa thì những tư tưởng cao thượng đó có dịp dùng anh này để biểu lộ ra bằng những hành vi phi thường và theo luật trời định đoạt, phần thưởng cho những đức hạnh vẫn phân phát cho những ai đã sinh ra và đã chia sớt tình cảm cao thượng đó. Như thế chúng ta hiểu được sự liên lạc giữa tất cả chúng sanh và luôn luôn người này ảnh hưởng tới người kia xuyên qua Cõi Trung Giới, tức là cái Ðại dương thanh khí bao phủ chúng ta.

NAY CHÚNG TA HÃY NÓI VỀ GIẤC NGỦ.

Khi chư huynh ngủ thì sự gì xảy ra: Cái Vía của chư huynh cùng những thể khác thanh bai tế nhị hơn liền rời bỏ xác thân dày đặc. Chư huynh sẽ nói: ‘‘Ðó là quan niệm những kẻ mọi rợ dã man, những kẻ tin thuyết Linh hồn, thuyết Tâm linh”. Trong khi nhận xét những tư tưởng của kẻ mọi rợ dã man, chư huynh đừng quá kiêu căng. Những kẻ này phần đông là con cháu bạc nhược, biến chứng của những quốc gia hùng cường thuở xưa, và họ hãy còn gìn giữ đôi ba tín ngưỡng truyền thống của mình. Những sự khảo cứu kim thời càng ngày càng có xu hướng chứng minh rằng kẻ mọi rợ dã man không phải là con người ấu trĩ như người ta thường tưởng; thật ra y là ông bô lão sống lại nơi thời kỳ lú lẫn, hoang dại. Trong những dân tộc dã man, đôi ba tập tục hãy còn sót lại chứng tỏ, như Frederich Myers đã nói rằng ông thông hiểu về Tiềm thức mà chính khoa tâm lý học hiện kim của chúng ta bây giờ vừa mới khám phá được sự hiểu biết về Tiềm thức mà thôi. Viện cớ rằng một ý niệm phát sinh từ nơi dân tộc còn dã man nên loại đi thì đó không phải là một lập luận vững chắc, có giá trị đâu. Một kẻ dã man có khi đúng với thực tế và vì y sống gần thiên nhiên hơn nên y biết được đôi ba điều mà chư huynh không biết. Vậy tôi xin chư huynh chỉ công nhận như là giả thuyết cái quan niệm rằng khi chư huynh ngủ ban đêm, chư huynh sống trong cái phần thanh bai tế nhị nhất của bản thể .mình và để lại trên giường xác thân, nó là cái phần vật chất hữu hình nặng nề nhất. Chúng ta thường có những giấc chiêm bao; chư huynh phải nghiên cứu kỹ càng về điều đó. Những giấc chiêm bao là cái gì vậy: Chúng nó có ba loại tất cả. Chư huynh có thể tìm những tài liệu trong cuốn sách Triết Lý Thần bí của Du Prel [10], đó là một tác phẩm giáo khoa về đề tài đặc biệt này. Nơi đây chư huynh sẽ tìm thấy một sự nghiên cứu về những giấc mộng đầy cảm hứng và rất minh bạch. Vài ba giấc mộng không có nghĩa lý gì hết, những giấc mơ đứt quảng, những mảnh ký ức về những gì đã xảy ra ban ngày, ngày hôm trước, tuần lễ trước hay tháng trước, những mảnh rời rạc, giống như những mảnh gạch bông được chấp nối lại, phi lý, không đầu đuôi, đa số chúng thường phát sinh do một mạch máu trong óc bị đè ép, do máu chảy quá mạnh hay do một tĩnh mạch nhỏ bị ngưng lại vì sự tiêu hóa không điều hòa. Chư huynh có thể dẹp qua một bên những giấc chiêm bao thuộc về loại đó, chúng không có nghĩa lý gì cả.

Rồi đến những giấc chiêm bao vẫn còn có tính cách hồng trần, nhưng đã thuộc về cái phách của xác thân. Người ta đã thí nghiệm rất nhiều về những giấc chiêm bao phát sinh từ một sự đụng chạm. Trong cuốn sách vừa nói trên, chư huynh sẽ thấy nhiều thí dụ về loại đó. Tôi chỉ xin đưa ra một thí dụ thôi, thật là kinh khủng. Người ta rờ vào gáy một người đang ngủ – y thức dậy nói: ‘‘Tôi trải qua một giấc chiêm bao thật hãi hùng. Tôi chiêm bao thấy tôi giết một người, vì vậy tôi bị bắt giải ra tòa xét xử và kết án, tôi bị giam trong khám rồi người ta đưa tôi ra trước máy chém. Ðến lúc lưỡi dao chạm vào tôi thì tôi thức giấc.” Chỉ bị rờ vào cổ mà y có một giấc chiêm bao bi thảm đến thế; tất cả đều xảy ra một cách rất nhanh chóng không đầy một phút trong một thời gian ngắn ngủi như vậy mà cái giấc mộng dài kia đã có đủ thời giờ để diễn ra. Người ta tìm thấy nhiều giấc chiêm bao như thế trong khi kiên nhẫn khảo cứu về bản tính những giấc mộng, những sự nghiên cứu này đưa ra một kết luận thuộc về tâm lý: ngoài xác thân, tư tưởng tác động trên một thứ vật chất mịn màng thanh bai hơn là chất của nó dùng trong xác thân; điều này cắt nghĩa tại sao những trạng thái lương tri lại nối tiếp nhau một cách nhanh chóng như thế; điều này không thể nào xảy ra được trong khối óc cũng trong một thời gian ngắn như thế. Những giấc chiêm bao này không có ý nghĩa gì nhiều, một sự tiếp xúc ngoại cảnh đã phát sinh ra chúng, sự tiếp xúc này khống cần phải có tính cách vật chất; một tư tưởng đi xuyên qua cái trí có thể làm cho giấc mộng ngưng lại.

Còn có một loại mộng nữa. Ðó là những kinh nghiệm thiệt thọ của con người ở ngoài khối óc xác thịt của y, những kinh nghiệm của con người trong cái Vía và sống trong Cõi Trung Giới. Những giấc mộng này có giá trị của chúng; khi chư huynh thức giấc, những giấc mộng này có vẻ linh động lắm. Nhờ chúng chư huynh có thể có được một sự hiểu biết, mà khi thức dậy chư huynh không có. Trong cuốn sách: ‘‘Cá tánh của con người” của Frederick Myers [11] chư huynh sẽ thấy vài giấc mộng của loại này. Tác giả đã thu thập được trong giấc ngủ những hiểu biết mà trong khi thức dậy thì người ta không có. Chư huynh hãy thử tự mình thí nghiệm mà coi. Nếu chư huynh thích những bài toán đố về số học hay chư huynh đang tìm lời giải đáp cho một vấn đề khác, chư huynh hãy ghi vào trí mình khi đi ngủ rồi chư huynh đừng suy nghĩ về nó nữa, vì làm như vậy chư huynh sẽ thức mãi, nhưng mà chư huynh hãy coi cái trí mình như một cái hộp. Chư huynh hãy đặt vấn đề trong cái hộp và đừng lo đến nó nữa. Thường thường, buổi sáng ra chư huynh tìm được câu giải đáp. Có một dạo tôi thích tìm cách giải đáp những bài toán đố khó về số học. Buổi chiều tôi nghĩ đến một câu hỏi mà tôi chưa tìm được lời giải đáp, và tôi áp dụng cái phương pháp vừa nói trên kia. Buổi sáng, lời giải đáp hiện ra trong trí tôi và tôi lấy bút ghi lấy nó trước khi thật tỉnh giấc. Một khi trở lại nhập xác thì khó mà ghi ấn tượng vào khối óc. Nếu chư huynh muốn làm những thí nghiệm đó thì hãy để một cái bút chì và một miếng giấy bên cạnh mình và hãy lấy viết biên liền giải đáp đã tìm được trước khi thức tỉnh hẳn. Robert Louis Stevenson nói rằng một hồn ma quen với ông trong lúc ban đêm đã cho ông cái ý kiến để viết cuốn sách nhan đề: ‘‘Bác sĩ Jekill và ông Hyde”. Mozart, nhà nhạc sĩ đại tài cũng nói rằng ban đêm trong lúc ông ngủ ông nghe được những bản nhạc tuyệt diệu thâm trầm; khi vừa tỉnh giấc bèn chép lại từng nốt những bản nhạc đó. Nhà đại thi sĩ Tennyson cũng có một kinh nghiệm giống như thế. Khi lặp đi lặp lại mãi tên của mình, ông tự thôi miên và đi vào một trạng thái không sao miêu tả được. Ông thấy mọi việc đều rõ ràng sáng suốt, ông biết không làm gì có sự chết, ông thấy rằng chỉ khi nào mất hết phàm ngã đi thì mới thật là sống được một cuộc đời thiệt thọ. Nhưng Tennyson là một bực thiên tài thì những hiện tượng ấy hiện ra một cách dễ dàng hơn là một người thường.

Chư huynh cũng có thể thử làm một thí nghiệm khác nữa. Thí dụ chư huynh biết một người đang đau khổ hay mắc một tật xấu. Nhưng chư huynh ở xa và không thể đến giúp bạn được. Chư huynh hãy nghĩ đến y khi đang ngủ, chư huynh hãy nghĩ rằng chư huynh muốn ở gần y để an ủi y. Khi chư huynh vừa ngủ thiếp đi tư tưởng của chư huynh đến gần y và chư huynh có thể làm dịu nỗi đau khổ của y. Nhiều tật xấu đã được tiêu diệt theo lối đó. Tật nghiện rượu đã được chữa theo phương pháp đó. Trong khi ngủ con người thu nhận những cảm tưởng một cách dễ dàng hơn, chư huynh có thể lại gần y trong cái Vía và trình bày với y những lý lẽ, chúng sẽ khiến y ngừng lại không làm việc quấy, khi y tỉnh giấc. Trên Cõi Trung Giới những tư tưởng này ghi vào trí y, và khi thức dậy y ngở là y đã suy nghĩ như thế. Vậy chư huynh có thể giúp đỡ bạn bè theo cách đó, mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được điều này và không cần phải luyện tập một cách đặc biệt.

Ðối với những người thân mến của chư huynh đã quá cố, vì sự tự biết đã chia ly, phân cách, thì cũng vậy. Thỉnh thoảng, chư huynh chiêm bao thấy họ. Thật ra đó không phải là một giấc mơ hay là sự tưởng tượng; chư huynh đã đích thực được xum họp với họ trong cảnh giới mà chư huynh đã vô khi xác thân chư huynh đã ngủ. Chư huynh hãy nghĩ đến những người thân mến, chư huynh hãy nhớ tới những kỷ niệm của họ; trong khi ngủ, chư huynh sẽ được xum họp với họ một cách tỉnh táo. Và chỉ khi nào chư huynh thức giấc, người đời gọi sự thức giấc này là sự sống của một cuộc đời có ý thức, nhưng đối với những cảnh giới cao siêu thức giấc này chỉ là một giấc ngủ mà thôi và đối với họ, chính là chư huynh như đã biến đi mất, đã ngủ đi vì chư huynh không còn cảm thấy sự tiếp xúc với họ hay sự hiện diện của họ. Theo lối đó, chư huynh có thể giúp đỡ họ nhiều. Khi tự phát triển, chư huynh sẽ “tỉnh giấc” trên Cõi Trung Giới. Như thế có nghĩa là những giác quan thuộc về Vía của chư huynh được hướng ra ngoại cảnh. Chư huynh sẽ trông thấy, cảm thấy, chư huynh nghe được, chư huynh hiểu biết và có thể hành động, nói năng một cách tự do như ở Cõi Trần. Tôi xin nói rằng còn tự do hơn là ở đây nữa. Và khi một tai họa lớn lao xảy ra, một trận động đất, một vụ đắm tàu hay một cuộc chiến tranh tai hại như trận chiến tranh hiện tại ở phía Đông Âu Châu [12]. Nếu chư huynh muốn, chư huynh có thể cứu vớt những kẻ đáng thương bị chết bất đắc kỳ tử, họ bỏ xác một cách đột ngột trong khi đang hăng hái chiến đấu, đang lúc tức giận, đang lúc rung rẩy, không biết hiện giờ mình đang ở đâu và có việc gì đang xảy ra với mình đây. Chư huynh có thể đi đến với họ, giống như những vị Thiên Thần bác ái để dỗ dành, an ủi, khuyên nhủ, khi chư huynh đã học được cách trở nên tỉnh táo trên những cảnh giới cao siêu, và khi nào chư huynh đạt được tâm thức đó, chư huynh sẽ không còn sợ chết vì cái cảnh giới mỗi đêm chúng ta đi vào thì cũng sẽ là cái cảnh giới của chúng ta vào ở sau khi chúng ta chết. Một vài tín đồ Gia Tô Giáo gọi đó là Cõi Trung Gian ở khoảng giữa Cõi Hồng Trần này và Thiên Ðường. Người Ấn Ðộ gọi nó là Kamaloka, Cõi Dục Giới, cảnh giới của dục vọng và của cảm xúc. Thật vậy, đó là thế giới của sự xúc động. Khi chết đi, chư huynh dẹp bỏ xác thân lại một bên giống như mỗi đêm chư huynh đi ngủ và chư huynh bước vào Cõi Trung Giới quen thuộc, còn xưa kia thì chư huynh đã sống trong xác thân. Khi chư huynh tỉnh dậy trong cái cảnh giới mới mẻ đó, sau giấc ngủ mà người đời gọi là chết, chư huynh sẽ thấy mình giống y như chư huynh hãy còn ở Cõi Hồng Trần. Chư huynh vẫn cảm xúc, vẫn tư tưởng, vẫn hiểu biết như xưa. Chư huynh không hề thay đổi, nhưng mà hoàn cảnh của chư huynh ở đây tùy thuộc cái đời sống của chư huynh ở Cõi Trần. Vì vậy cần biết cái điều gì nó chờ đợi chúng ta sau khi chết. Ðối với tín đồ Cơ Ðốc Giáo đã tin chắc từ xưa có một hỏa ngục để hành hạ tội nhân đời đời thì sự chết là một sự đáng sợ, dù là đối với những người lương thiện nhất cũng vậy. Có những người hữu lý hơn, họ thấy họ là những người không đức hạnh hoàn toàn để được vào Cõi Thọ mà họ cũng không độc ác đến nỗi phải chịu đựng những hình phạt trong một hỏa ngục đời đời, thế nên họ không lo lắng gì cả và nói: ‘‘Hãy đợi bao giờ chết sẽ hay”. Như vậy, đối với họ là ổn thỏa lắm rồi, nhưng đó không phải là phương pháp hay nhất để bước vào một thế giới xa lạ.

Những người Công Giáo La Mã gọi Cõi Trung Giới này là “Hỏa ngục luyện tội” (Le Purgatoire). Miễn là chư huynh đừng phạm những trọng tội thì khi chết, Giáo Hội sẽ có thể sắp đặt mọi sự và nếu Giáo Hội có bất lực đi nữa thì cũng hãy còn những ơn phước lớn lao ngoại lệ của Ðức Thượng Ðế ban xuống để cứu rỗi linh hồn khỏi vòng đau khổ vô hạn. Tuy nhiên, trái lại với sự dự đoán của Giáo Hội, Hỏa ngục luyện tội không thích hợp với tất cả những ai chưa phải là bậc thánh. Ðó là chỗ ở của những kẻ đã sống trong tội lỗi rõ ràng và thô tục, nhất là kẻ ham ăn, hốc uống, những kẻ say sưa và những kẻ trụy lạc, dâm đảng. Ba trọng tội này thuộc về xác thân khiến cho con người đau khổ vô cùng sau khi chết. Không phải Ðức Chúa Trời nổi giận nên phạt họ, vì Ngài là Từ Bi Bác Ái, cũng không phải là Ngài trả thù ta, vì Ngài là Đấng Cha lành của chúng ta. Những dục vọng đó phát sinh từ cái Vía lôi cuốn con người. Qua Cõi Trung Giới tất cả những sự thèm muốn đó vẫn hãy còn mãnh liệt trong khi xác thân là cái dụng cụ giúp cho chúng được thỏa mãn đã bị bàn tay giá lạnh của Tử Thần tiêu diệt rồi. Ðó chính là cái hỏa ngục thiệt thọ vậy, đó là khi kẻ say sưa thèm rượu mà không được uống, khi kẻ ham ăn thèm những món ăn ngon lành mà không có, khi kẻ dâm đảng thèm thú vui xác thịt mà không được thích ý. Những mối dục vọng nồng nhiệt này, mãnh liệt hơn những sự thèm muốn hồng trần, không còn được thỏa mãn nữa. Vì không thể tiếp xúc với cái gì mà họ thèm thuồng, những dục vọng của họ thiêu đốt họ như một ngọn lửa tàn phá cho tới khi nào chúng bị tiêu tan đi lần lần, vì không còn đồ dẫn hỏa nữa. Nếu chư huynh để cho dục vọng của mình tăng trưởng và nếu chư huynh chết một cách thình lình, thì Cõi Dục Vọng sẽ dành cho chư huynh những nỗi đau đớn ghê gớm, vì theo như định luật, chư huynh đã gieo nhân nào thì chư huynh sẽ gặt quả nấy. Chính chư huynh là kẻ đao phủ tự xử tội mình và chỉ vì điên khùng nên chư huynh mới tự làm cho mình khổ sở sau khi chết.

Nhưng có biết bao nhiêu người đã chết rồi mà không đau khổ; tuy nhiên, họ cũng không sung sướng; họ buồn nản lạ lùng. Vì rằng khi còn sống họ chỉ chú ý đến những sự việc nhỏ nhặt vô nghĩa, vô lý. Nếu chư huynh thích những cuộc giải trí phù phiếm, nếu chư huynh không thích những công việc trí thức, nếu chư huynh không nghĩ đến mỹ thuật, văn chương, không tưởng đến những cái gì kích thích những cảm tình cao thượng, nếu chư huynh thích cờ bạc, những cuộc đánh cá; nếu chư huynh chỉ đi nhà thờ để nhìn ngắm những cái áo hợp thời trang nhất, thì tôi phải nói rõ rằng sau khi chư huynh chết, chư huynh sẽ không sung sướng lắm đâu, và như vậy trong một thời gian khá lâu. Lúc đó chư huynh sẽ không thích một điều gì, vì ở Cõi Trung Giới, chư huynh không thể làm thỏa mãn những ý muốn phù phiếm của mình, không phải trông nom nhà cửa, không phải làm những công việc lặt vặt, chúng choán hết đời sống của chư huynh xưa kia. Có lẽ chư huynh sẽ nói rằng: “Tôi buộc phải làm những công việc nội trợ nặng nhọc hay làm đầy đủ những nhiệm vụ của nghề nghiệp. Phải chăng bà muốn nói rằng ở bên kia cửa tử, tôi sẽ vì vậy mà vô cùng chán nản tuy không bị đau khổ”. Có một phương pháp để chư huynh tránh được sự buồn não nề. Chư huynh hãy làm cái công việc tầm thường mà chư huynh bắt buộc phải làm, coi nó như một phần tử cố hữu của sự hoạt động của Thượng Ðế, như là một cách dự phần có ý thức vào công nghiệp của Ngài trong thế gian này và nhờ như vậy xã hội mới được tồn tại. Nếu chư huynh coi theo cách đó cái công việc của người lái buôn nhờ y ta mới có được những y thực; cái công việc của nhà luật gia làm cho sáng tỏ sự công bình của Thượng Ðế, cái công việc của ông quan tòa áp dụng thiên luật để làm những điều hữu ích cho loài người; cái công việc của thầy thuốc tượng trưng cho cái uy quyền thiêng liêng của Trời mà nâng đỡ con người, của người mẹ chăm nom, thương mến con giống như Ðức Mẹ thiêng liêng, Ðức Thánh Mẫu nuôi dưỡng thế gian và nhờ vậy nhân loại mới sống và khỏe mạnh, cái công việc của nhà lập pháp lấy tư tưởng mà diễn tả luật Trời, nếu chư huynh luôn luôn liên kết những công việc hàng ngày của mình với những công việc Ðại đồng thiêng liêng, thì lúc đó chư huynh sẽ vượt khỏi giới hạn của bổn phận tầm thường: vượt khỏi những chi tiết nhỏ nhen của đời sống Hồng Trần, chư huynh sẽ đi vào trong sự vinh quang của công việc Thiêng Liêng, công nghiệp của Thượng Ðế toàn năng trong vũ trụ của Ngài. Những lý thuyết này không phải là mới mẻ đâu. Chư huynh hãy nhớ rằng Georges Herbert đã dạy thuyết này khi nói về một người tớ gái đang quét dọn một căn phòng: “Người tớ gái, trong cái tinh thần đó, đã làm cho mọi việc đều trở nên thiêng liêng. Cô quét một căn phòng để tuân theo thiên luật và làm cho công việc này trở nên cao thượng”. Còn có trường hợp này nữa: chư huynh hãy nghĩ đến cái hạng người đi hốt rác quét đường mương, quét cống, họ thường bị khinh bỉ, ghê gớm, họ chịu nhục nhã, họ dơ dáy, chư huynh không muốn tiếp xúc với họ. Nhưng chính nhờ cái công việc bẩn thỉu của họ mà chúng ta mới được sạch sẽ, nhờ họ chịu khổ sở nên ta mới được khỏe mạnh, nhờ họ phải đê hèn nên chúng ta mới được thanh cao lịch sự giống như những cánh hoa sen từ đống bùn mọc lên, những xu hướng thanh nhã của chúng ta phát triển được là nhờ cái công việc làm dơ dáy của họ rất cần thiết cho xã hội. Chư huynh hãy nói với họ rằng chính họ đã cộng tác với thiên nhiên. Chư huynh hãy dạy bảo họ, hãy mở mang trí khôn của họ, hãy làm cho họ tin chắc rằng công việc của họ là một phần của cái công việc cao thượng của thiên nhiên. Chư huynh hãy cố gắng làm cho họ hiểu rằng từ nơi sình lầy, thiên nhiên khiến cho một đóa hoa mọc lên. Thiên nhiên xóa bỏ sự ô uế và biến đổi nó thành ra mùi thơm dịu dàng. Nếu chư huynh làm cho họ hiểu rõ những chân lý này và một mặt khác nếu chư huynh cũng hiểu được rằng ta phải kính trọng họ chứ không nên khinh bỉ họ, thì lúc đó chư huynh đã học được điều bí mật cao cả của đời sống tinh thần. Chư huynh sẽ biết rằng Thượng Ðế là người thợ duy nhất, và vì vậy cho nên mọi công việc đều đáng tôn kính, phải được người ta kính trọng. Chư huynh hãy suy ngẫm về những tư tưởng này, khi chư huynh thấu triệt chúng, chư huynh sẽ hiểu đời sống một cách tường tận hơn. Tất cả những ai không có những tật xấu tệ hại về xác thân, tất cả những ai không có những khuynh hướng và những cảm tình thô bỉ thì đều có một đời sống hạnh phúc và hưởng lạc thú nồng nàn ở Cõi Trung Giới bên kia cửa tử, họ cũng có thể giúp ích cho con người nhiều hơn là khi họ còn sống. Tôi đã nói sơ lược qua về đề tài rất phức tạp và đã tìm cách bổ khuyết những chỗ thiếu sót bằng cách kể tên vài ba cuốn sách có thể mang đến cho chư huynh những điều chỉ dẫn rộng rãi hơn. Ðể kết thúc cái phần thứ hai này trong sự nghiên cứu của chúng ta, tôi chỉ có thể khuyên chư huynh: hãy tăng gia những kiến thức của mình; hãy hiểu rằng định luật điều khiển thế gian và những mối cảm xúc của chư huynh cũng như sự luân chuyển của vũ trụ đều bị định luật kiểm soát. Nếu chư huynh học cách điều khiển, dìu dắt những cảm tình của mình, bắt chúng phải tùng phục mình, nếu chư huynh không để cho chúng lôi cuốn mình đi, thì sự thông hiểu về định luật sẽ làm cho đời sống của chư huynh yên tĩnh và bền vững hơn. Chư huynh sẽ hiểu rằng ở đây sự học hỏi về đề tài này rất ngắn ngủi, lẽ dĩ nhiên nó rất nông cạn, nhưng nó đáng cho chư huynh nghiên cứu thêm theo phương hướng mà trí thông minh của chư huynh chỉ dẫn. Hôm nay tôi chỉ đưa ra cho chư huynh một lời chỉ dẫn giản dị nó có thể dẫn dắt chư huynh đến con đường của sự hiểu biết và của đạo hạnh, nó sẽ làm cho đời sống của chư huynh được sáng sủa rực rỡ và đến lúc chư huynh lâm chung, trong lòng chư huynh vẫn an tĩnh.

Các sinh viên có thể đọc những cuốn sách này: “Cõi Trung Giới (Le Plan Astral) và Thần nhãn (La clairvoyance)” cùng những trang nói về Trung Giới trong cuốn “Minh Triết Cổ Kính” (Sagesse antique) “Những định luật căn bản của Thông Thiên Học” (Lois fondamentales de la Théosophie). Họ có thể học những kinh nghiệm về thôi miên trong cuốn sách của Binet và Féré nói về vấn đề này, và cuốn “Chứng loạn thần kinh nặng nề” của Charcot.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro