Tinh thần con người và đời sống thiêng liêng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi đã nói với chư huynh về những thể của con người: Thể Trí, Thể Vía và Xác thân. Hôm nay tôi xin chư huynh theo tôi đến một cảnh giới cao siêu hơn, tinh khiết hơn. Tôi xin chư huynh tiến lên cao hay thâm nhập vào – chư huynh ưa thích dùng từ ngữ nào thì xin tùy ý – những nơi cao cả, những chốn thâm sâu của Lương Tri trong nội tâm, nơi đó chư huynh nhìn nhận được cái Bản Thể Thiêng Liêng của mình, thực hiện được sự cao cả mà chư huynh muốn vượt tới, nơi đó chư huynh sẽ giữ vững vị trí của mình trong tương lai. Xin chư huynh để cho tôi dắt dẫn đến những cảnh giới của Lương Tri nó nâng chư huynh lên cao, vượt khỏi những nỗi lo âu của cõi Trần này và khiến cho chư huynh được yên tĩnh giữa những sự náo động xung quanh mình, sung sướng tuy có những nỗi u buồn bên ngoài, bình thản khi mà những sự tranh đấu và những huyên náo bao vây chư huynh, vui vẻ ở nơi mà thế nhân chỉ trông thấy những lý do để bất mãn và lo sợ. Chư huynh cũng vẫn nhớ rằng người ta nói: Mục đích của các triết lý chơn chánh là diệt trừ được sự đau khổ. Có một miền kia không có sự đau khổ, một vương quốc không có những nỗi lo phiền. Con người có thể sống như một Thực Thể Tinh Thần, y có thể sống nơi Bản Thể mà ta thường một đôi khi gọi là Chơn Ngã, và sống như vậy, y biết được nguồn an lạc vô biên ở giữa những hiện tượng của thời gian. Muốn sống được như thế, y phải vượt lên khỏi những nỗi buồn rầu của cõi Trần này, nhưng y không cần phải rời bỏ cõi Trần là nơi số mệnh đã đặt y vào đó; không cần phải tìm chốn rừng rậm hay động cả non cao để lánh mình, không cần phải xa lánh những nơi phồn hoa đô hội. Y vẫn có thể làm việc ở nơi công cộng, biện hộ ở Tòa án, săn sóc các bệnh nhân ở dưỡng đường, giúp việc trong một tiệm buôn hay là chiếm cái địa vị cao sang của người trị nước. Làm đầy đủ mỗi nhiệm vụ của mình hơn là một thế nhân, không bao giờ lùi bước trước bổn phận nhưng tận dụng những khả năng và sức làm việc của mình mà làm đầy đủ bổn phận, và tuy đang sống nơi thế tục mà vẫn hiểu được Bản Thể Thiêng Liêng của mình, và làm việc không phải để mưu cầu những của cải phù du của Trần gian, nhưng với tư cách là một dụng cụ trong sự hoạt động của Thượng Ðế – đó là tất cả những điều cần thiết để hưởng được sự an lạc và sống một cuộc đời Tinh Thần.

Bây giờ đây Tinh Thần là gì? Vì nếu chúng ta không biết Chơn Ngã hay Tinh Thần là gì, thì chúng ta không sao hiểu nỗi đời sống Tinh Thần là gì vậy. Tinh Thần chính nó là Con Người, là một Ðiểm Linh Quang mà Shri Krishna đã gọi là: “Một phần tử của chúng ta, một Sinh vật”. Chư huynh sẽ hiểu một cách dễ dàng hơn ý nghĩa của Tinh Thần nếu chư huynh suy nghĩ một chốc lát đến cái câu mà ai cũng biết trong kinh Bhagavad Gita: “Đấng ngự trong xác thân”. Chúng ta đã học về những thể rồi; nay chúng ta học đến “Đấng ngự trong xác thân, Con Người.” Con người thiệt thọ ấy là Đức Thượng Đế ẩn tàng trong lớp áo nhục thể. Chư huynh hãy nhớ rằng người ta nói: “Không nên than khóc cho người sống cũng như cho kẻ đã chết” và lý do của sự vượt qua khỏi những nỗi khốn cùng của nhân loại, lý do của sự lãnh đạm này đã được giải nghĩa một cách thanh bai khéo léo và hoàn toàn cho đến đỗi thật là làm một sự liều lĩnh nếu tôi kể những lời đó ra đây, xen lẫn vào những lời hèn mọn của chính tôi. Chư huynh hãy nhớ người ta đã nói về mỗi con người rằng:

“Chơn Thần vô thủy thì vẫn vô chung. Ðấng ngự trong xác thân vốn bất sinh bất diệt. Ngài tồn tại đời đời kiếp kiếp. Khi xác thân bị tiêu hủy, Ngài cũng không chết. Cũng giống như một người liệng bỏ những quần áo hư cũ đi và mặc những y phục khác. Con người ngự trong xác thân liệng bỏ những thể hư hoại để vào ở trong những thể mới khác”.

Rồi lời của Đức Giáo chủ lại vang dội lên:

“Không một sự gì có thể phá hoại được Đấng ngự trong xác thân. Đấng ngự trong xác thân bất khả phân ly, nước lửa không xâm phạm được, không thể hư hoại được, trường tồn bất diệt, đâu đâu cũng có Ngài, bất di bất dịch, cố cựu, ẩn tàng, bất khả tri, bất biến; biết được như thế rồi người ta không nên lo âu cái gì cả”.

Vậy thì tất cả đều được chứa đựng trong cái vỏ của trái hồ đào. Nếu chư huynh chính là chư huynh, Ðấng ngự trong xác thân, nếu trong những thể hữu hoại của mình, chư huynh biết được rằng sự sinh và sự tử đều không ảnh hưởng đến mình, trường tồn bất diệt, vô thủy vô chung, thì tại sao chư huynh lại có lý do để đau khổ than van, vì đã biết rằng mình chia sớt đời sống của Thượng Ðế và cũng trường tồn bất diệt như Ngài.

Sự liên quan giữa Ðấng ngự trong xác thân và những thể mà Ngài khoác lên mình là thế nào? Nếu đối với đôi ba người trong chư huynh, cái ý niệm về đời sống vô tận vô biên có thể làm cho ngạc nhiên, thì xin chư huynh hãy để cho tôi nhắc lại với chư huynh một sự tương tự như thế trong thiên nhiên, nó khiến cho chư huynh hiểu rõ được sự khác biệt giữa Ðấng ngự trong xác thân với xác thân đó. Chư huynh hãy nhớ đến lời tuyên bố của nhà đại bác học người Anh, Thomas Huxley, về thuyết Luân hồi: “Những sự tương tự mà người ta tìm thấy trong thiên nhiên là những bằng cớ rõ rệt của tín ngưỡng này, và không có một sự gì phủ nhận nó được”. Chư huynh hãy lấy sự so sánh một khu rừng rộng rãi và xem xét về đời sống của cái cây nó mọc và phát triển trên mặt đất; trong những xứ ở miền bắc thì cái thí dụ này lại còn rõ rệt hơn là những xứ ở miền nam này. Chư huynh thấy mỗi năm một lần cây trổ những lá non xanh mướt, những lá cây này hút đồ ăn trong không khí và nhờ chất đó biến đổi ra cây mới sống được. Những chất này đều gom góp trong nhựa cây khi lá rụng và khi nhiệm vụ của lá hoàn thành. Nhựa cây chứa đầy những chất bổ mà lá đã gom góp được, liền từ thân cây chảy xuống rễ cây tỏa ra dưới gốc và nằm đó trong một thời gian, mắt con người không trông thấy được. Nhưng Ðông vừa mãn thì Xuân lại sang, tiếng chim hót líu lo, cùng trong một lúc, cảnh vật bừng tỉnh với một đời sống mới; nhựa cây lại đi lên, theo thân cây đến nhánh nhóc. Nhựa lan tràn trong mỗi bộ phận của cây và ban rải sự sống. Những mầm non nở lần, những lá mới lại đơm ra, và một lần nữa, cây lại khoác lên mình cái tấm áo rực rỡ của mùa hè, và lá cây lại tái lập cái công việc tiêu hóa đồ ăn nhờ đó mới sống được. Ðời sống con người cũng giống như thế, Tinh thần giống như cái cây, một mầm mống của Thượng Ðế đem gieo trên miếng đất của đời sống nhân loại. Những chiếc lá cây thì giống như những kiếp sống của con người, tự biểu lộ ra để gom góp chất sống nhờ đó Tinh thần mới hiện ra được. Chúng gom góp chất bổ và chuyển di nó cho đời sống, đời sống này là nhựa cây. Những lá cây rơi xuống và chết đi. Chúng bị chôn vùi dưới đất hay là bị thiêu ra tro mạt, nhưng sự sống là nhựa cây đi lên phía Tinh thần, mang đến cho nó chất bổ dưỡng, đó là kết quả của kinh nghiệm Hồng Trần. Ở trong Tinh thần, chất này biến đổi thành quyền lực, những quan năng khi trở xuống trần đầu thai, Tinh thần ban rải sự sống mới mẻ cũng như cái cây trổ lá vậy. Một lần nữa, Trường đời lại dạy dỗ chúng ta và khiến cho Tinh thần biểu lộ được. Ðó là sự liên quan giữa Tinh thần và các thể Xác, Vía, Trí, đó là sự khác nhau giữa cái Trường tồn vĩnh cữu và cái phù du nhất thời. Và nếu chư huynh so sánh đời sống Hồng Trần với những lá cây, nếu chư huynh tự coi mình như một cái cây không bao giờ chết và chỉ trổ những lá mới trong đời sống của mình, chư huynh sẽ có một hình ảnh tốt đẹp của Chơn Ngã; nhờ những thể mới, Tinh thần tìm kiếm được chất bổ cần thiết để tự phát triển, còn chính Tinh thần thì vẫn hằng có đời đời và bất sanh bất diệt; luôn luôn làm phát sinh, tự những khả năng vô cùng vô tận của nó, những quyền năng cụ thể để chứng tỏ sự tiến hóa của con người.

Theo cách đó, chúng ta nhìn thấy được những sự tiến bộ của đời sống trường tồn thỉnh thoảng bị che đậy dưới tấm màn nhục thể. Chúng ta vừa nói rằng đời sống này là một phần đời sống của Ðức Thượng Ðế. Tôi đã thuật lại những Thánh ngôn, những lời châu ngọc của Shri Krishna khi Ngài nói về cái tính cách thiêng liêng và tuyên bố rằng Chơn Thần Jivatma là một phần của Bản thể Ngài; điều này khiến ta hiểu được những đặc tính của Tinh thần, và nếu ta suy nghĩ chút đỉnh, ta sẽ biết rằng đời sống Tinh thần hiện ra nơi ta cách nào trong khi chúng ta còn chìm đắm trong đời sống vật chất của những cõi Hạ giới. Vì chúng ta biết rằng trong Bản thể của Thượng Ðế có ba đặc tính lớn tự biểu lộ, và nếu con người là một phần tử của Ngài, thì đặc tính đó cũng phải tự biểu lộ, nhưng chúng bị hạn định, còn ở nơi Ngài chúng nó vô biên, chúng đương phát triển nơi ta, còn ở nơi Ngài chúng là hoàn hảo và đầy đủ. Và bởi chúng ta biết rằng một trong những đặc tính của Ðấng Tối Cao là quyền năng, và bởi vì Ngài cai trị các thế giới, cho nên chúng ta nhìn thấy ngay cái phản ảnh của quyền năng của Ngài trong Tinh thần của con người, đó là Ý chí, tuy rằng trong một thời gian nó bị hạn chế rất nhiều và rất kém tiến hóa. Và cũng như ta đã nhìn nhận nơi Thượng Ðế cái Lương Tri hoàn hảo, nó tự biết mình cũng như tất cả những gì có nơi Ngài, vì Ngài là Ðấng Ðộc Nhất vô nhị. Chúng ta cũng nhìn thấy nơi con người cái trạng thái kỳ diệu đó, tức là sự khôn ngoan, sự minh triết, nó chính là sự hiểu biết về Ðấng Duy Nhất, là sự thực hiện Thượng Ðế nơi con người, sự thực hiện Chơn Ngã nơi con người có thể nói được, không phải bằng lời nói suông, mà trong thực thể rằng: “Tôi là Ngài”. Sự minh triết này là sự hiểu biết về Đấng Duy Nhất, và chư huynh hãy nhớ rằng người ta đã viết (trong Thánh kinh) như vầy: “Tất cả những gì ở ngoài Chơn Như đó thì đều là vô minh cả”. Cho nên chúng ta trông thấy cái trạng thái Sáng Tạo nơi Thượng Ðế phản chiếu trong Trí khôn con người, nhờ quyền năng Sáng Tạo đó mà con người có thể ban cho mọi vật một hình dáng mới mẻ. Nhưng dù có thừa nhận ba Ngôi nơi con người, Ý Chí, Minh Triết, Trí Sáng Tạo, người ta có thể tự hỏi rằng làm sao mà chúng ta biết được: đến lúc nào những Ðặc tính Thiêng liêng đó bắt đầu tự biểu lộ nơi đời sống thấp hèn, và không biết chúng ta có thể nhìn nhận sự hiện hữu của Tinh Thần, phân biệt nó với vô số hoạt động của nhục thể không? Sự khác biệt giữa cái gì thiêng liêng và những sự kích thích của dục vọng nó ngự trị loài người là thế nào? Một người theo đuổi thú vui, danh vọng, uy quyền, thế lực chính trị, y hăng hái muốn đoạt cho được việc đó, chúng bao vây y tứ phía trong cõi đời đẹp đẽ này. Tùy theo hoài vọng của y, y chạy từ vật này đến vật khác, nếu thú vui quyến rủ y, y tìm kiếm những nơi nào có nó; nếu y tham vọng được có danh tiếng, thì y làm việc suốt ngày, cố công gắng sức thêm mãi nắm lấy mối cơ hội để tiến thân; y đi từ chỗ này đến chỗ khác cùng khắp mọi nơi, y đến chốn nào mà y tưởng chốn đó có cái gì cần thiết cho mục đích của y, có thể thỏa mãn sự ham muốn của y. Khi mà con người còn bị dục vọng chỉ huy, khi mà còn bị phong trần lôi cuốn thì y hãy còn sống một cuộc đời phàm tục chớ không phải một cuộc đời tinh thần; y chưa nhận thức được cái Chơn Ngã thiệt thọ của mình. Nhưng khi mà dù bị dục vọng tấn công, y vẫn đứng vững, khi y bị những vụ quyến rủ bao vây, y vẫn không lay chuyển, trơ như đá, vững như trồng, khi sự giàu sang ở kề bên mình mà y không màng đến bởi vì sự giàu sang làm cho y tổn thương danh dự, khi y có thể đạt được quyền thế mà phải hi sinh những nguyên tắc đạo đức của mình, khi thú vui quyến rủ y mà xét ra có tổn hại cho kẻ khác, khi y tự xem xét cõi lòng của y và tự nhủ: “Tôi không muốn phạm tội, tôi không muốn tự mình làm nhơ danh, tuy rằng dục vọng đang kích thích tôi và sự quyến rủ đang lôi cuốn tôi”. Lúc đó từ nơi sâu thẳm của Tinh Thần, ý chí con người toàn năng bỗng vươn lên cao và đời sống Tinh thần bắt đầu điều khiển y, vì ý chí không phát sinh tự nơi xác thịt mà phát sinh tự nơi Tinh Thần. Và khi mà con người bắt đầu hiểu được sự sống vẫn duy nhất ở tất cả những người thân mến xung quanh y, khi y hiểu rằng tất cả mọi người đều là những anh em, tình thương yêu bắt đầu liên kết y với họ, y đem tấm lòng thương yêu đứa con ruột của y ban rải cho tất cả những đứa trẻ mồ côi nghèo khổ không người che chở ; khi y đem tấm lòng thương yêu người mẹ ruột đáng tôn kính của y chia sớt cho những người già cả vì y coi những người bô lão như là cha mẹ của y, khi y coi những đứa trẻ như con ruột của y; khi tình thương yêu hòa hợp với sự biết được “Vạn Vật Nhất Thể” và đem ban rải cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, nòi giống, giai cấp, môn phái; thì lúc đó sự Minh Triết biết được Ðấng Duy Nhất bắt đầu cảm hóa con người, và cái tình yêu riêng tư cạn hẹp, rất tuyệt đẹp theo cách thế của nó bỗng biến đổi ra thành Bác ái Thiêng liêng ban rải cho vạn vật. Và khi ở giữa những sự náo động cuồng loạn của Hạ trí, con người lẹ làng nhận ra cái ảnh hưởng cao siêu; khi y nghe tiếng nói của Thượng trí nó bắt đầu điều khiển và sửa đổi Hạ trí để đạt được mục đích nhất định thì lúc đó sự hoạt động sáng tạo của trí khôn khởi sự nắm giữ quyền hành không cho cái Trí chăm chú mãi vào sự nhận xét những hiện tượng. Trong trường hợp này, người ta thấy rõ ràng sự hiện diện của Tinh Thần, và đời sống của Tinh Thần ẩn dưới nhục thể bắt đầu biểu lộ ra.

Và ngay lúc đó người ta nêu câu hỏi này: Ðời sống Tinh Thần là gì? Ðời sống Tinh Thần không bao giờ liên quan tới những đặc tính của cái Vía và của cái Trí, mà người Ấn Ðộ gọi là Siddhis, còn người Tây phương gọi là những phép thần thông. Ðời sống Tinh Thần không phải là thần nhãn, thần nhĩ, nó không bắt buộc những thể Xác, Vía, Trí, phải làm việc trong ba cảnh hạ giới. Ðời sống Tinh Thần không phải là sự hiểu biết sâu rộng về những cõi vô hình, mấy cõi này cũng đầy dẫy những hiện tượng như cõi Trần. Ðời sống Tinh Thần không hề liên quan, liên hệ đến tất cả những điều đó. Tính chất và nét đặc biệt của nó hoàn toàn khác hẳn. Ðời sống Tinh Thần cũng gọi là Ðạo Tâm, là Sự hiểu biết về Ðấng Duy Nhất, và bao hàm một đời sống phù hợp với sự hiểu biết đó.

Có lẽ vài ba người trong chư huynh còn nhớ đến bác sĩ Miller – chư huynh nên kính trọng bác sĩ vì ông là một tín đồ Cơ Ðốc tính tình cao thượng – ông có viết thơ cho những người học trò cũ của ông cách đây vài ba năm, lời lẽ thanh bai mà tôi xin chư huynh nhớ lấy ba chữ đầu. Ông nói: “Ấn Độ Giáo đã hiến dâng cho nhân loại hai món quà rất quí báu: ấy là những lý thuyết về Thượng Ðế tự tại (Thiên lý tự tại) và nhân loại tương liên”. Một tín đồ chơn chánh của một tôn giáo tuyên dương một cách tốt đẹp cái giá trị của một tôn giáo khác với tôn giáo mình, như vậy chứng tỏ ông có tầm mắt rộng rãi, tâm hồn cao thượng, đó luôn luôn là những đặc điểm của người Cơ Đốc Giáo. Tôi nhấn mạnh vào câu: “Đức Thượng Đế tự tại”. Có thể đối với chư huynh, câu này dường như khô khan, lạnh lùng và vô duyên; có cần phải phiên dịch lại nó để chư huynh hiểu được ý nghĩa thiệt của nó không ? Dĩ nhiên câu này có nghĩa là Thượng Ðế ngự trị khắp nơi và trong mọi vật; nhưng như thế cũng chưa đủ. Câu này còn có nghĩa là khi chư huynh đi dọc theo bờ biển, ngắm nhìn những lượn sóng của đại dương bủa vào bờ như sấm dậy. Chư huynh nhận thấy cái quyền năng thiêng liêng, oai nghi của Thượng Ðế biểu hiện trong đó. Chư huynh băng qua một cánh rừng đẹp đẽ, chư huynh thưởng thức cái cảnh âm u, tịch mịch, bốn bề vắng lặng, bóng mát rợp che giữa buổi nắng chang đúng ngọ. Ôi ! chừng đó chư huynh mới biết được cảnh an lạc thiêng liêng; chư huynh mới biết được sự trầm lặng nó biểu lộ Đức Thượng Đế.

Nhờ tất cả những mối cảm giác này mà chư huynh tiếp xúc được với Thượng Ðế và cảm thấy được sự hiện diện của Ngài. Khi chư huynh ở trên những rặng núi Hi mã lạp sơn cao vút, xa xăm, nếu chư huynh xem xét sự bền vững kỳ diệu của chúng, những miền tuyết phủ quanh năm trùng trùng điệp điệp, không đường lối ra vào, trong những rặng núi đó, chư huynh thấy được cái oai hùng và sự vĩnh cữu của Ðức Thượng Ðế, và ở trong băng tuyết chư huynh thấy được sự thanh bạch, thuần khiết của Ngài. Rồi khi chư huynh quan sát những từng trời cao vút, nơi đó các nhà thiên văn chỉ thấy những tinh cầu luân chuyển, khoảng không gian bao la bát ngát kia đã nói cho chư huynh rõ cái Uy linh trầm mặc của Ngài. Không có cái chi trên đầu ta ở mấy từng trời cao rộng, không có cái chi ở dưới chơn ta, trong những hang sâu vực thẳm mà lại không chứng tỏ sự hiện diện của Ngài và không nói rằng: Ngài là Linh hồn của vạn vật. Thế nên chư huynh ngắm xem phong cảnh, chư huynh thấy Đức Thượng Đế xuyên qua y phục của Ngài. Đó mới thật là cái nghĩa của câu Ðức Thượng Ðế ngự trị khắp nơi hay là Thiên lý tự tại, bởi vì có một mình Ngài hiện tồn mà thôi. Nếu chư huynh muốn, chúng ta hãy xem xét ý niệm này cặn kẽ hơn. Nhiều người bài xích Ða thần giáo, nhưng khi người ta hiểu rõ thuyết này thì thấy nó chỉ là sự cố gắng của con người vì bị hạn chế trong sự diễn tả tư tưởng nên phải lấy vô số hình ảnh để cắt nghĩa về Ðức Thượng Ðế giáng trần. Nhờ như vậy ai nấy đều thấy thật là rõ ràng sự biểu lộ của Ðức Thượng Ðế, còn nhà triết học biện luận về vấn đề này một cách mập mờ, khó hiểu. Thật sự, nhân loại đáng thương hại này chỉ hiểu được Ðức Thượng Ðế là khi nào Ngài biến hình, hiện ra trong vô số Thần linh. Nếu chư huynh khôn ngoan chớ không đến đỗi phi lý, chư huynh không để cho khoa học chỉ nhận xét những vẻ bề ngoài mà lại chỉ trích cái sự hiểu biết sâu xa hơn, nó dạy cho chư huynh những điều huyền bí về đời sống của con người và của Thượng Ðế. Nếu chư huynh muốn thì chư huynh cứ học hỏi với khoa học Tây phương, nhưng về phần chư huynh thì chư huynh hãy dạy cho Tây phương biết về đời sống vô biên và sự hiện diện của Thượng Ðế khắp mọi nơi. Nếu chư huynh làm như vậy, thì thật ra thuyết Ða thần của chư huynh sẽ là một điều rất tốt đẹp. Vì khi nhìn thấy người vợ âu yếm cúi xuống với mình, chư huynh sẽ thấy đó là Lakshmi, ánh sáng và Nữ Thần Nội Trợ chiếu sáng ngời qua cặp mắt của người vợ thân yêu; và khi người vợ nhìn người chồng, kẻ đảm đương và trụ cột của gia đình, nàng sẽ thấy chàng là Thượng Ðế Vishnou, Đấng duy trì và bảo tồn Ðời sống của Vũ trụ. Nhìn qua ánh mắt của con cái mình, chư huynh sẽ thấy ánh mắt của Đức Krishna và trò chơi trẻ nít của Ngài với những nữ mục đồng Gopis. Và khi người mẹ cúi xuống chiếc nôi với con, chư huynh sẽ nhìn thấy Ðức Thánh mẫu Durga, Ðức Mẹ thiêng liêng của Vũ trụ chăm nom săn sóc thế giới. Ðúng như vậy, thuyết Ða thần là sự sống của con người đã được Tinh thần hóa; những hình hài không còn làm cho chúng ta bị mù quáng nữa, chúng ta quả quyết nhìn thấy sự sống ở trong những hình hài đó. Sự sống chỉ có một, mà hình hài thì vô số; Sự sống chỉ có một, mà nhãn hiệu thì vô cùng. Trong Thánh kinh há chẳng có câu này: “Kẻ nào thờ phụng tất cả những hình hài, thì chính kẻ đó không thờ phụng Ta (Đức Thượng Đế) hay sao ! Dù không thờ phụng theo tục cổ truyền”. Như thế chư huynh sẽ bắt đầu hiểu rằng Ðời sống Tinh Thần hay là Ðạo Tâm có nghĩa là sự nhận biết được Thượng Ðế ở khắp mọi và ở trong mọi vật.

Nay tôi xin nói qua với chư huynh sự liên quan giữa Ðời sống Tinh Thần hay là Ðạo Tâm và nền thương mãi, nơi công sở, ngoài đường phố, và nếu có thể được, tôi xin giải nghĩa cho chư huynh rõ làm cách nào mỗi người trong chúng ta đều có thể thành một người có tâm đạo nếu chư huynh quả quyết muốn được như vậy. Chúng ta hãy xem xét vô số hoạt động của đời sống Hồng Trần, những đường lối khác nhau để giúp đỡ và duy trì thế gian: nền thương mãi nó liên kết những quốc gia lại với nhau và dự phần vào việc nuôi dưỡng nhân loại luôn luôn sinh sôi nẩy nở; những thương thuyền vượt qua đại dương chở đầy những hàng hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác, những người lái buôn và những thương gia phân phát hàng hóa đó cho tất cả mọi người, khiến cho ai ai cũng có được những thứ cần dùng; trật tự được gìn giữ trong xã hội, những sự cố gắng của những người ngăn cấm không cho kẻ mạnh hiếp kẻ yếu trong những vụ buôn bán; tất cả cái guồng máy luật pháp vĩ đại – ông quan tòa nơi tòa án, vị luật sư nơi pháp đình, viên cảnh sát ở ngoài đường, những ai giúp cho guồng máy xã hội chạy đều, bênh vực kẻ yếu khỏi kẻ mạnh lấn át; đời sống gia đình, căn bản của mọi quốc gia; sự che chở của người cha, tình yêu thương của người mẹ, sự vui vẻ của đứa con, nhiệm vụ của vị lương y không sợ sự truyền nhiễm và liều thân làm giảm bớt sự đau khổ, nhà giải phẫu có bàn tay khéo léo và nhờ kinh nghiệm có thể cứu sống một mạng người trong cơn nguy hiểm; tất cả những ai dạy học và cung hiến cho quốc gia những kẻ nam nhi hùng tráng và những bực anh thư; tất cả những ai làm việc để giữ gìn nhân loại, họ là gì ? nếu không phải là những cán bộ của công việc duy nhất của Thượng Ðế, họ là những bàn tay, những bàn chân, họ là trái tim của Thượng Ðế tác động trong mỗi nghề nghiệp trần gian. Chư huynh còn nhớ câu chuyện cổ tích về bốn giai cấp và nguồn cội của chúng, những người Bà la môn tự miệng của Thượng Ðế mà sinh ra, những vị Kshattryas (Sái đế lị), các vị đế vương và chiến sĩ tự vai Ngài, những người Vaishyas (Tỷ xá) buôn bán tự các ngón tay cái Ngài, còn những người Sudras (Su tra) tôi tớ tự chân Ngài. Nghe câu chuyện lạ lùng đó, chư huynh phát tức cười và nói: “Chuyện này chỉ nên mang ra mà kể cho con nít nghe trong buổi hoàng hôn”. Tuy nhiên có một chơn lý ở trong câu chuyện đó, không những nó chỉ liên quan đến bốn giai cấp ở Ấn Ðộ, mà còn liên quan đến bốn giai cấp lớn của mỗi quốc gia, dù chư huynh có gọi chúng là những giai cấp hay không cũng vậy. Vì những người có học thức dạy dỗ dân chúng, những ai mang kiến thức của mình mà chia xẻ cho người khác, những vị giáo sĩ điều khiển những sự thờ phụng trong các tôn giáo, những giáo sư ban rải sự hiểu biết, đó phải chăng là lời nói của Thượng Ðế thốt ra nơi miệng con người hay sao ! đó há chẳng phải là giai cấp Bà la môn, những nhà thông thái và những vị giáo chủ của nhân loại hay sao ! Còn hạng Kshattryas (Sái đế lị) có những người tiêu biểu là các vị hoàng đế, các vị vương hầu, các tòa nội các, các nghị viện, các quan lại, từ bậc cao cấp nhất xuống tới bậc hạ cấp nhất, từ ngôi cửu ngũ tới hạng tiểu quan lại, há chẳng phải là những cánh tay của quốc gia được ủy nhiệm điều khiển và bảo tồn dân chúng để cho người thợ lương thiện có thể hành nghề mọn của mình mà không sợ bị húng hiếp và thiên hạ hưởng cảnh thanh bình của Ðức Thượng Ðế do Đức Vua ban ra hay sao?  Còn hạng Vaishyas (Tỷ xá), những người thương gia, những người có tài tổ chức các công việc, những ai nắm trong tay mình bí quyết làm cho mọi người được sung sướng, những người há chẳng phải những vị Quốc vương hay sao? Nước nhà há chẳng phải nhờ họ để được an toàn, cường thịnh và giữ vững địa vị mình trên trường quốc tế hay sao? Bây giờ ta hãy nói đến hạng Sudras (Su tra) họ há chẳng phải là nền tảng của xã hội tổ chức cần thiết cho các cơ quan hay sao? Những người thợ thuyền, những người khai thác tài nguyên của xứ sở, những người tôi tớ giúp cho đời sống vật chất của gia đình được dễ dàng, mấy người đó há chẳng phải là những bàn chân của Thượng Ðế, nhờ họ mà công việc mới hoàn thành sao?

Còn người tu sĩ Sanyasi vượt lên trên bốn giai cấp của xã hội, chẳng phải đó là những người thi ân cho đời trong một lãnh vực cao rộng hơn hay sao ? Nếu người Sudras (Su tra) phụng sự cho con người thì người tu sĩ Sanyasi làm tôi cho nhân loại; thế thì đẳng cấp hạ tiện nhất là phản ảnh của bậc cao quí nhất trong nhân loại. Than ôi ! trong cái tôn giáo cao thượng và cổ kính của chư huynh còn có biết bao nhiêu điều mà chư huynh chưa hiểu, còn có biết bao nhiêu điều mà chư huynh cũng chưa từng thấy thoáng qua trong những giấc mộng của mình nữa.

Xin chư huynh để cho tôi nói rõ sự ứng dụng. Thoạt đầu tôi xin nói về một nghề mà dường như thường bị chỉ trích: tôi muốn nói đến ngành Tư pháp. Hôm trước đây, tôi sung sướng được nghe một diễn giả bênh vực những vị cầm cân luật pháp đã bị người ta công kích; diễn giả nói ông biết chắc những vị này chơn chánh – có lẽ chơn chánh còn hơn một số đông đồng loại của họ mà người ta không tìm cách buộc tội. Nếu một vị luật sư là người có một bản tính tinh thần và không có một lý do gì mà ông ta lại không phải là một người như vậy – tôi thường diễn thuyết trước một số đông luật sư thì ông ta sẽ tự coi mình như là hiện thân của sự công bình của Thượng Ðế ở cõi trần này. Không bao giờ ông lại cãi cho một người để y thắng kiện trong sự bất công; ông sẽ tự coi mình là có trách nhiệm trong sự công bình thiêng liêng, ông sẽ rất cẩn thận làm cho sự công bình ấy được thực hiện. Có lẽ chư huynh sẽ hỏi tôi rằng ông không nên bênh vực một kẻ phạm tội ác hay sao? Nên chứ, ông phải bênh vực y vì kẻ phạm tội ác cũng có quyền được hưởng sự công bình, vì tình trạng của y cũng như tình trạng của nguyên cáo phải được xem xét kỹ lưỡng vậy. Một kẻ phạm tội dù có xấu xa độc ác đến đâu, người đại diện cho công lý thiêng liêng cũng phải nêu cái phần phải của nó ra bởi vì luật thiêng liêng đều trả cho mỗi người cái phần của y đáng hưởng. Ông coi chừng để không có một sự gì bị xóa đi, bị bớt đi, để không có một sự gì làm chứng gian dối. Như thế có nghĩa không được làm cho tội trạng nặng thêm lên, như thế có nghĩa là phải trình bày sự việc một cách rất khéo léo và rất nhiều thiện cảm: không được che giấu sự thật, sự công bình sẽ không bị sự gian dối làm cho lem ố. Nếu ông hiểu được sự cao thượng của nhiệm vụ mình, ông sẽ xem thường không thèm dùng đến mưu mô và bất chánh. Sự công bình ở cõi Trần phải phát sinh tự nơi công lý của Thượng Ðế, nó phải bênh vực kẻ yếu đuối và kẻ bị ức hiếp, phải sửa chữa những lỗi lầm của kẻ làm thiệt hại đến đồng loại. Tôi xin hỏi chư huynh, nếu vị luật sư mà hành động như vậy há chẳng phải trọn giới Tư pháp được tiếng khen thanh liêm, trong sạch hay sao ? và chẳng phải đó là một cơ quan cao quí đại diện cho công lý thiêng liêng trên mặt đất hay sao? Như thế những người lương thiện sẽ được sung sướng hơn trước và những người hung dữ, độc ác sẽ bớt ngạo mạn khi ra trước công lý vì đã biết rằng luật pháp vô tư, không có sự bất chánh nào hay là thế lực nào làm cho lay chuyển được nó. Chư huynh cũng xem xét công việc của người thương gia. Y là bàn tay của Thượng Ðế, phân phát khắp thế gian những gì cần thiết cho sự sống của con người. Nếu y quan niệm việc làm của mình theo cách đó thì cái cửa hàng chật hẹp của y sẽ trở nên thanh khiết và cao thượng biết bao. Sự buôn lậu, sự lường gạt, sự giả mạo sẽ không còn nữa. Người ta sẽ không còn ngụy tạo những hàng vải, không còn trộn cát vào đường, không còn bỏ nhánh cây vào trà, không còn gian lận trong việc bán hàng nữa. Nếu được như thế thì cũng như những điều đã nói về pháp luật ở trên đời sống tinh thần sẽ mang hạnh phúc tới.

Xin chư huynh cũng nghĩ về gia đình theo quan điểm đó, nghĩ về người chồng và người vợ. Người chồng tự coi mình như là người chồng thiêng liêng, là Thượng Ðế, và chính Ðức Krishna đã tự gọi mình là: “Ta là Ðức phu quân” – người chồng sẽ hiểu rằng không phải người vợ sinh ra chỉ để cho người chồng được sung sướng và vui vẻ, để làm thỏa mãn thú vui xác thịt của y, để tăng trưởng hạnh phúc của y đâu. Giống như Ðức Vishnou đối với Vũ trụ của Ngài, người chồng đối với người vợ phải là một người bạn, một người che chở, và nâng đỡ cái gánh nặng đang đè lên đôi vai yếu đuối của nàng, ban rải cho nàng một tấm tình thương yêu âu yếm mà người chồng có đặc quyền hiến cho vợ mình. Và người vợ phải nhớ rằng đối với Vishnou nàng là nữ thần Lakshmi, nàng coi chồng như một người gìn giữ và che chở nàng: tình thương yêu của nàng là một sự tự ý hiến dâng, như thế mới quí báu, vì đó không phải là một mối tình bị bắt buộc phải theo quyền một người chồng mà đó là những bông, những trái được hái về để dâng lên cho chàng giống như những bông hoa dâng lên vị Thần mà nàng thờ phụng. Nếu người cha trong gia đình thừa nhận cái lý tưởng thiêng liêng đó trong đời sống của mình thì y sẽ là tượng trưng cho cái chức vị cao thượng nhất của Thượng Ðế, là Ðấng Từ phụ và người Bằng hữu của nhân loại. Ôi, chư huynh sẽ giúp đỡ các con trai và các con gái của chư huynh được biết bao nhiêu nếu chư huynh cố gắng làm được một người cha thiêng liêng. Trong sự buồn rầu, trong cơn nguy khốn, các con của chư huynh sẽ chạy lại với chư huynh chớ không lẫn trốn như chúng thường làm, vì chúng sợ hãi nhiều hơn là yêu mến. Chúng sẽ biết rằng cha chúng là người bạn thân nhất, là người chở che âu yếm nhất; chúng biết rằng chúng có thể tâm sự tất cả với cha và chúng sẽ luôn luôn được tha thứ vì cha chúng cố gắng để tượng trưng cho Ðức Chúa Cha trên Trời. Ai ai cũng có những tật xấu. Trong những lúc yếu đuối của chư huynh, khi chư huynh lầm lỗi, chư huynh cầu xin lượng bao dung của Thượng Ðế; vậy đối với con cái chư huynh, chư huynh cũng phải xót thương chúng và giúp đỡ chúng một cách thích hợp. Như vậy, khi chư huynh già cả, chúng sẽ tận tâm với chư huynh như đối với Ðức Chúa Cha, chúng sẽ nâng đỡ chư huynh, vì xưa kia khi chúng còn trẻ dại chư huynh đã che chở và dìu dắt chúng. Còn về các đứa con gái của chư huynh, chư huynh đừng tưởng rằng chúng không có quyền đòi hỏi chư huynh nếu chư huynh thật muốn sống như Ðức Chúa Cha. Chúng mới lên bảy, lên tám, lên chín tuổi mà chư huynh đã ràng buộc chúng trong những sợi dây trói của một cuộc hôn nhân không sao thay đổi được, trong khi đó chúng không hiểu gì cả, không hiểu rằng sau này chúng sẽ góa chồng sớm và đời chúng bị đen tối, chúng chỉ còn giữ trong lòng kỷ niệm của một người chồng đã chết mà chưa hề ăn ở với chúng. Ôi ! xin chư huynh hãy nghĩ đến những kẻ góa bụa hãy còn trinh tiết ấy, và xin nói cho biết, như vậy những người cha của chúng có làm đầy đủ bổn phận mình, cái bổn phận thiêng liêng không. Một người cha có quyền để cho một đứa con gái đang cần được sự che chở và giữ gìn, đương đầu với những nỗi lo âu và những sự nguy hiểm của sự sanh con đẻ cái không ? Chư huynh là người có những hoài vọng thiêng liêng, chư huynh phải sửa đổi nhiều về quan niệm đó, để cho con trai và con gái của mình khi lớn lên sẽ thành những công dân của một quốc gia xứng đáng được tự trị và được tự do [17] vì người chồng còn con nít và người vợ cũng còn con nít thì không thể là những người công dân xứng đáng của một nước độc lập; suốt đời chúng là những kẻ yếu đuối vì trưởng thành quá sớm. Chư huynh hãy hiểu rõ đời sống thiêng liêng là gì; đó là bổn phận, đó là tình thương yêu, đó là phải làm đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đời sống gia đình và trong xã hội, tự coi mình như những người đại diện của các vị thần minh, dự phần vào cái công nghiệp mà Thượng Đế làm cho vũ trụ của Ngài. Còn phải nhận xét về một quan điểm khác nữa. Chúng ta đều hoài vọng nhiều hay ít về đời sống thiêng liêng. Chúng ta nói đến sự hợp nhất với Thượng Ðế; chúng ta nói chúng ta muốn vượt lên cao mãi trên những nấc thang thanh bạch, thông hiểu và từ ái, và như vậy thì chúng ta rất hữu lý. Nhưng có một điều mà chư huynh không được quên vì nó không cần thiết cho đời sống tinh thần. Sự sống chỉ là một; dù nó tác động nơi kẻ tội lỗi hay nơi một vị Thánh nhân, nơi kẻ nghèo hèn hay nơi một người quí phái; sự sống này có tính cách thiêng liêng, vì nó phát sinh tự Thượng Ðế. Chư huynh muốn được hợp nhất với Ngài, với các nhà Ðại hiền Rishis, với các Chơn Sư hay các vị Thánh, mà chư huynh có sẵn sàng hợp nhất với kẻ kiêu sa dâm dật, với kẻ buôn hương bán phấn và với kẻ cường đồ cướp đảng hay không? Sự sống thiêng liêng cũng có nơi họ vậy. Nét đặc biệt của Ðạo Tâm là gì? Chư huynh tinh khiết và tại sao lại có sự tinh khiết đó? Ấy là để cho chư huynh có thể sống riêng rẽ và được hài lòng vì mình cao thượng hơn kẻ khác hay sao? Ôi ! không phải như thế, chư huynh được tinh khiết là để chư huynh có thể trà trộn với những kẻ nhơ nhớp để tinh khiết họ và dắt dẫn họ đến gần sự thực hiện đời sống thiêng liêng. Chư huynh có học thức, chư huynh không ưa thích kẻ ngu dốt, chư huynh lánh xa kẻ vô học, cộc cằn, thô bỉ. Nhưng nếu chư huynh có học thức, ấy là để cho kẻ ngu dốt, kẻ thấp hèn trụy lạc hưởng nhờ sự hiểu biết của chư huynh, chư huynh được khôn ngoan để dạy họ, để chia sớt cho họ những ánh sáng của đời sống duy nhất nó chỉ là một, ở nơi họ cũng như ở nơi chư huynh. Ðó là một bài khó học thuộc lắm. Luôn luôn chúng ta cầu xin Ðấng Cao Cả cúi xuống để nâng đỡ chúng ta lên cao. Vậy chúng ta có sẵn sàng giơ tay ra nắm kẻ ở dưới mình để nhấc họ lên đến trình độ của chúng ta hay không? Nếu không có điều đó thì không có Ðạo Tâm, không có Tôn giáo chơn chánh; thì đó chỉ là lòng ích kỷ ẩn mình dưới cái lớp mặt nạ của lòng sùng Ðạo và kẻ thấp hèn lại muốn tỏ ra mình là cao thượng. Khi nghĩ đến đời sống Tinh thần, xin chư huynh nhớ rằng nó bao hàm tất cả, không loại ra ngoài một cái chi cả. Nó bao trùm mọi sự, không bài trừ cái nào, nó sẵn sàng chia sớt với mọi người những kho tàng quí báu thiêng liêng của nó, chúng chỉ có giá trị khi được sử dụng để làm cho đời sống nghèo nàn khổ cực của đồng loại được trở nên giàu có sung sướng và rộng rãi hơn.

Có lẽ một tư tưởng được tượng trưng bằng một hình ảnh, sẽ được chư huynh ghi nhớ kỹ càng hơn là những lời nói rất chóng bị lãng quên. Trước khi từ biệt chư huynh, tôi xin nói tư tưởng đó ra. Có lẽ đôi khi chư huynh đứng gần một nhà điêu khắc làm việc giỏi như vài nhà nghệ sĩ đại tài bây giờ. Trong khối đá hoa, y tạc nên một bức tượng để diễn tả ý niệm của mình cho được rõ ràng và linh động trước tâm trí loài người. Nếu chư huynh hỏi han nhà nghệ sĩ đó thì y sẽ nói rằng đối với y đó không phải là khối đá hoa mà y biến đổi thành một pho tượng; chính trong khối đá hoa này một bức tượng đang ẩn mình, mỗi lần đục đẽo y đánh vỡ một mảnh đá hoa, khiến cho hình càng lộ thêm ra, nhờ như vậy lần lần được gần pho tượng hơn. Y làm việc hoài, làm việc mãi, con mắt thiên tài của y nhìn thấy cái hình dáng mà chư huynh và tôi, chúng ta không nhận ra được, cái đục và cái chàng gọt đẽo đá hoa nhưng nó không tạc được tứ chi tuyệt đẹp của pho tượng vì pho tượng này có sẵn trong khối đá. Ðối với chư huynh thì cũng giống như vậy. Tinh Thần thiêng liêng tức là Thượng Ðế vẫn ngự trị trong mỗi người của chư huynh ẩn tàng dưới xác thịt, bị nhốt trong những thể, bị giấu kín đằng sau những sự cảm xúc và trí khôn, cho nên con mắt phàm không nhìn nhận được Ngài. Chư huynh không phải sáng tạo ra cái hình ảnh này. Xưa nay vẫn có nó ở đó. Chư huynh không cần phải xây dựng nó, chư huynh chỉ cần giải phóng nó mà thôi. Thượng Ðế ngự trị nơi chư huynh, Ngài chờ đợi để tự biểu lộ, chư huynh có cái vinh hạnh làm tiêu tan tất cả những gì cản trở sự biểu lộ đó. Chư huynh có một cái đục đó là tư tưởng của mình, còn cái chàng của chư huynh chính là quyền năng của Ý chí. Chư huynh hãy sử dụng Ý chí và tư tưởng mình, hãy xua đuổi những cảm xúc của xác thân và của tâm trí; tất cả những gì không phải là Ngài thì phải tiêu tan đi. Rồi thì một pho tượng thiêng liêng tuyệt đẹp sẽ được tạc trên đời sống hồng trần; vẻ huy hoàng của Thượng Ðế nội tâm sẽ sáng chói, sẽ soi đường và sưởi ấm mọi người với cái ánh sáng rực rỡ của nó. Thượng Ðế giáng phàm để trở thành người sống trên mặt đất, và chư huynh sẽ có cái vinh hạnh giải thoát Ngài để Ngài giúp đỡ nhân loại. Vậy thì trong đời sống hằng ngày, chư huynh hãy là những nhà nghệ sĩ, nhà điêu khắc làm việc trong xưởng đời. Và khi chư huynh từ giả cõi đời này, chư huynh sẽ biết rằng mình là Tinh thần trường tồn vĩnh cửu, chư huynh sẽ không còn lầm mình với những thể bị bỏ lại phía sau. Và như thế chư huynh sẽ đi vào một đời sống rộng rãi hơn, kiếp số của chư huynh sẽ tốt đẹp, tương lai của chư huynh sẽ rực rỡ vì chư huynh sẽ được tự do, chư huynh sẽ là Chơn thần được giải thoát, chư huynh sẽ là Thượng Ðế biểu lộ ra; chư huynh đã đạt được mục đích của nhơn sinh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro