Đôi tình nhân thuở trước của Chung-Nam-Sơn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sau khi mò tay lên tảng đá, lần theo dòng chữ, Quách-Tỉnh ngạc nhiên quay lại nói

với Khưu-xứ-Cơ:

- Chữ này đâu phải khắc, hình như kẻ nào đã lấy tay vạch lên đá!

Khưu-xứ-Cơ vừa cười vừa nói:

- Đệ tử thật tinh ý, nhận không sai. Thực ra việc này ai cũng cho là kỳ quái! Bởi vì

làm thế nào có thể dùng ngón tay mà viết lõm xuống thành chữ được!

Quách-Tỉnh phụ họa:

- Chẳng lẽ trên đời này lại có kẻ thần thánh đến ? Họa chăng chỉ có thánh thần mới

làm nổi.

Khu-xứ-Cơ nói:

- Kẻ viết đó không phải thần thánh mà là một người bằng xương bằng thịt, võ nghệ

tuyệt luân, mưu trí không lường, một trăm năm giang hồ dễ có một người.

Quách-Tỉnh xoắn xuýt hỏi:

- Sư phụ có biết người ấy là ai chăng? Nếu biết xin nói cho đệ tử rõ để đệ tử được đến

bái kiến thì thật vạn hạnh.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Ta cũng chưa hề thấy mặt người ấy lần nào, chỉ nghe nói thế thôi. Vậy cứ ngồi

xuông đây nghe ta kể một câu chuyện để rõ nguyên do.

Quách-Tỉnh vâng lời ngồi xuống tấm đá, ngoảnh nhìn về phía sườn núi chỗ võ điện đã

biến thành một đống than hồng, lòng chàng tự nhiên thấy có cái gì hậm hực lạ lùng.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- ý nghĩa bài thơ này ra sao con có hiểu rõ chăng?

Quách-Tỉnh bây giờ đã đến tuổi trung niên mà Khưu-xứ-Cơ vẫn ăn nói với

Quách-Tỉnh cũng chẳng có gì thay đổi lắm.

Quách-Tỉnh thẫn thờ nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Đoạn đầu bài thơ nói về Trương-Lương giúp Hán diệt Tần, đến lúc thành công

không màn phú quí cũng với Xích-Tùng bỏ đi ẩn thân. Còn đoạn sau nói về đức

Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập môn phái Toàn-Chân, nhưng đoạn nầy con

không rõ lắm.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Con có biết Trùng-Dương tổ sư là người thế nào chăng?

Quách-Tỉnh lấy làm lạ đáp:

- Con chỉ biết Trùng-Dương tổ sư là người sáng lập ra môn phái Toàn-Chân, xưa kia

đã thuyết về kiếm đạo ở núi Hoa-Sơn, võ nghệ giỏi vào bậc nhất trong thiên hạ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đúng vậy! Nhưng con có biết lúc thiếu thời Trùng-Dương tổ sư là người thế nào

chăng?

Quách-Tỉnh lắc đầu:

- Con chưa hiểu rõ điều ấy!

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Trùng-Dương tổ sư không phải lúc sinh ra đã xuất gia tu đạo. Người là một nhà ái

quốc. Thuở thiếu thời tổ sư thấy quân xâm lược phạm đến bờ cõi, lấy làm phẫn nộ,

ngồi đứng không an. Đã bao lần tổ sư khởi nghĩa chống quân Kim, nhưng đã mấy lần

tổ sư bị thua, quân sĩ chết hết. Quân Kim quá mạnh, không làm sao cự nổi, tổ sư phải

nuốt hận xuất gia ẩn nặc mang tên là Hoạt-tử-Nhân, mấy năm liên tiếp ở trong ngôi

mộ dài tại núi này. Và, tổ sư chẳng bao giờ bước ra khỏi mộ một bước để giữ trọn lời

thề là cùng quân Kim chẳng đội trời chung, tuy còn sống, nhưng tổ sư coi như mình

đã chết. Đó là một việc thủ tiết của biệt hiệu Hoạt-tử-Nhân.

Quách-Tỉnh nghe nói cảm động rưng rưng nước mắt, chàng hồi tưởng lại trong ký ức

hình ảnh của Mục-niệm-Tử và Dương-Khang năm xa cãi nhau trong võ điện. Và

cũng ở trong võ điện ấy, Quách-Tỉnh trông thấy một bức ảnh có đề chữ

"Hoạt-tử-Nhân". Chính hình ảnh ấy đã gợi cho Quách-Tỉnh ý muốn xuất gia tầm đạo.

Thì ra vị đạo sĩ trong tranh kia lại là Trùng-Dương tổ sư đó sao!

Khưu-xứ-Cơ kể tiếp:

- Ôi! Đã từ lâu lắm rồi, các thân bằng cố hữu của tổ sư không ngớt đến thăm viếng, và

yêu cầu Tổ sư rời khỏi ngôi mộ kia để ra gánh vác việc đời. Nhưng Tổ sư vẫn không

lay chuyển, chán ngán cho thân thế sự nghiệp mình, chẳng còn muốn ngó tới bạn hữu

thâm tình thuở trước.

Mãi tám năm sau, một địch nhân cũ của Tổ sư đến trước mộ đài chưởi bới Tổ sư ròng

rã bảy đêm ngày. Tổ sư chịu không nổi nên ra khỏi mộ, định đấu với địch nhân một

trận để địch nhân hết đến phá phách. Nhưng lúc Tổ sư ra khỏi mộ thì địch nhân cười

hề hề, xem chừng đắc ý vì đã dùng kế làm cho Tổ sư xuất mộ đài.

Địch nhân nói:

- Thôi thế cũng đủ rồi! Đạo hữu đã ra khỏi mộ tức là tôi đã thắng cuộc, chẳng cần

chiến đấu làm chi! Hẳn đạo hữu không còn trở vào mộ nữa chứ?

Về sau, Tổ sư biết rằng địch nhân vì lòng tốt, tiếc đức hạnh và tài năng của Tổ sư,

muốn tổ sư ra cứu dân giúp nước, không muốn Tổ sư chôn sống cuộc đời trong nắm

mộ, nên đến trêu chọc mà thôi. Và, cũng từ đấy, hai người cứu địch trở thành đôi bạn

ý hiệp tâm đầu, cùng nhau dong ruổi trong chốn giang hồ nghĩa hiệp.

Quách-Tỉnh nghe kể đến đấy lấy làm xúc động, hỏi:

- Thưa sư phụ, vị địch nhân trở thành bạn của Tổ sư có phải là một trong các người:

Đông-Tà, Tây-Độc, Nam-Đế, Bắc-Cái chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Không phải đâu! Nói đến võ nghệ thì người này cao hơn bốn vị tổ sư kia một bực,

nhưng vì người ấy là bực nữ lưu nên không xuất đầu lộ diện, không ai biết đến và

tiếng tăm cũng chẳng có gì.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên nói:

- ồ! Lại thuộc vào phái nữ lưu ? Thật hiếm có vậy.

Khưu-xứ-Cơ tiếp:

- Người ấy rất có thâm tình với tổ sư, muốn theo hầu tổ sư, ước ao sẽ trở thành phu

phụ. Nhưng tổ sư biết ý, thường tỏ với người ấy: "Chưa diệt được hung nô, đâu màng

đến chuyện gia thất". Rồi bề ngoài giả điên giả dại như người chẳng biết gì. Vị nữ lưu

kia lầm tưởng tổ sư khinh mình nên lấy làm tức giận. Thế là đôi bạn từ thù đến thân,

rồi lại từ thân đến thù. Họ hẹn nhau một cuộc tỉ thí tại núi Chung-Nam.

- Oái oăm thế chứ sao? Chỉ vì tổ sư cứ tưởng rằng nàng có lòng yêu tất phải tương

nhượng nhau, chẳng ngờ nàng lại có ý khác. Một lần nàng nói với tổ sư:

- "Đạo hữu coi tôi chẳng ra gì, thế thì đạo hữu phải trở thành đối thủ của tôi".

Thế là tổ sư cứ bị vị nữ lu ấy thách đố mãi, cuối cùng tổ sư phải nhận đấu một trận

nơi núi Chung-Nam.

Hai bên đánh nhau trong ít ngàn hiệp, nhưng tổ sư chẳng bao giờ đánh hết tay, dùng

hết sức.

Thấy thế, vị nữ lưu kia lại càng tức giận mắng:

- Thì ra đạo hữu chẳng thèm để tâm vào việc đấu chiến với tôi, đạo hữu xem tôi là

loại người thế nào đây?

Tổ sư đáp:

- Đấu võ xem ra khó phân thắng bại, thôi thì đấu văn cho dễ biết hơn thua.

Vị nữ lưu cũng bằng lòng nói:

- Thế cũng được. Nếu tôi thua đạo hữu tôi thề suốt đời không gặp mặt đạo hữu nữa,

để trí óc đạo hữu được thảnh thơi.

Tổ sư nói:

- Nếu ngược lại ta bị thua cô nương thì sao?

Vị nữ lưu mỉm cười bảo:

- Nếu đạo hữu thua tôi thì xin nhường lại ngôi mộ đài kia cho tôi ở.

Thật ra ngôi mộ đài Hoạt-tử-Nhân ấy, tổ sư đã gởi gắm không biết bao nhiêu tâm

huyết trong bao nhiêu năm trời, nếu để cho vị nữ lu ấy chiếm đi thì sao an lòng

được, còn nếu thắng nàng để cho nàng phải vĩnh viễn xa lìa tổ sư thì cũng là chuyện

không hay.

Tuy nhiên, hai đàng phải chọn một, tổ sư thấy võ nghệ mình cao hơn nàng một bực,

thôi thì đấu với nàng một phen để nàng lảng đi cho rảnh.

Tổ sư bằng lòng giao đấu thì vị nữ lưu lại hẹn đến hôm sau, nói:

- Hôm nay trời đã tối và cả hai có vẻ mệt nhọc rồi. Vậy để ngày mai sẽ tranh hùng.

Hôm sau đúng hẹn, hai người lại gặp nhau ở đỉnh núi nầy. Trước khi giao đấu, nàng

nói:

- Trước khi quyết định việc ăn thua tôi muốn chúng ta cùng thề đi đã.

Tổ sư hỏi:

- Phải thề làm sao bây giờ?

Nàng nói:

- Thề rằng: nếu đạo hữu thắng tôi, tôi phải tự vận trước mặt đạo hữu, còn nếu tôi

thắng đạo hữu thì đạo hữu phải lìa khỏi mộ đài để tu luyện thành một đạo sĩ hay một

hòa thượng, và phải xây một ngôi đền trên đỉnh núi nầy mà ở, ít ra cũng phải ở đó

trên mười năm.

Tổ sư nghe vị nữ lưu đó nói thế hiểu ý, nói:

- Cô nương kia bảo ta làm đạo sĩ hay hòa thượng cốt buộc ta suốt đời không lấy vợ.

Điều đó ta đã hiểu. Còn việc cô nương bị thua, cô nương tự vận trơức mặt ta là để làm

gì?

Nàng nói:

- Thì để khỏi phải nhìn cái bạc bẽo của cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta đã giao hẹn

nhau thi văn, vậy thì mỗi người chúng ta lấy tay viết vào đá ít dòng chữ, hễ ai viết sâu

nét hơn thì người đó thắng cuộc.

Tổ sư nghe nói ngạc nhiên hỏi lại:

- Lấy ngón tay viết mà có thể in sâu nét chữ vào đá sao?

Nàng cười lớn nói:

- Chứ sao nữa! Ai viết nét chữ sâu hơn thì thắng cuộc.

Tổ sư lắc đầu:

- Ta đâu phải bậc thần tiên mà làm cái chuyện đó được. Cô nương đừng tìm cách đùa

giỡn.

Vị nữ lu nghiêm nghị nói:

- Đâu phải tôi bày chuyện đùa giỡn. Nếu tôi khắc chữ được vào đá bằng ngón tay, đạo

hữu phải chịu thua cuộc chứ?

Tổ sư không tin nàng có thể làm được chuyện đó, nên đáp:

- Nếu cô nương làm được ta chịu thua, bằng cô nương làm không được thì hai bên hòa

nhau không đàng nào thắng.

Lời nói ấy, làm cho vị nữ lưu đó thấy rõ cảm tình của tổ sư đối với nàng. Dẫu không

kết nghĩa với nàng làm phu phụ, song cũng không bạc tình lắm.

Vị nữ lưu mỉm cười, nói:

- Được, tôi làm thần tiên cho đạo hữu xem.

Dứt lời, nàng lấy tay rờ vào tấm lá, rồi tì ngón tay viết mấy hàng chữ, nét chữ ăn sâu

hơn khắc.

Tổ sư trông thấy ngón tay nàng đưa đến đâu là bột đá từ từ rơi đến đó, nét chữ lõm

sâu vào làm cho tổ sư kinh ngạc trố mắt nhìn không biết sao mà nói.

Những dòng chữ nàng viết trên tấm đá đó là đoạn đầu bài thơ mà đồ đệ vừa đọc.

Tổ sư thua cuộc chẳng còn biết nói gì hơn, liền theo lời ước ra khỏi mộ đài, sống một

cuộc đời đạo sĩ, lập nơi núi này một cái đền nhỏ mà thờ, ấy gọi là Trùng-Duơng điện

của tiền nhân vậy.

Quách-Tỉnh nghe kể, thầm phục tài năng của vị nữ lưu kia vô cùng. Chàng đưa tay sờ

soạng các nét chữ trên đá một lần nữa, quả nhiên các nét chữ ấy đúng là vết ngón tay

ghi sâu vào. Chàng nói:

- Công phu luyện tập nhân diện của vị nữ lưu kia thật là siêu việt. Đời nay có người

nào sánh kịp.

Khưu-xứ-Cơ ngẩng đầu lên trời cười lớn.

Quách-Tỉnh ngạc nhiên, trố mắt nhìn không hiểu gì cả.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tài năng ấy lừa được tổ sư, lừa được ta, lừa được đồ đệ, chứ nếu đem nói với

Hoàng-Dung, vợ của đồ đệ thì hẳn vợ của đồ đệ không lấy làm kinh ngạc.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao vợ của đồ đệ lại hiểu được việc nầy. Hẳn trong việc nầy có gì gian ý

chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đúng vậy, việc đó chỉ lừa được những kẻ thực tâm chất phác mà thôi.

Quách-Tỉnh bán tin bán nghi, nói:

- Lấy tay viết được trên đá hẳn kẻ ấy có luyện được phép nhân điện tuyệt đỉnh mới

phải.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tài siêu việt như Đoan-hoàng-gia Nhất-Đăng mà vẫn chưa thế lấy ngón tay viết sâu

vào gỗ, huống hồ trên phiến đá.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Vì đâu sư phụ lại biết việc ấy có gian ý, và gian ý như thế nào?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Tổ sư xuất gia tu đạo một thời gian mà vẫn không sao hiểu được việc đó, nghĩ mãi

không ra. Sau Tổ sư đem nói lại với Hoàng-dược-Sư. Hoàng-dược-Sư ngẫm nghĩ một

lúc rồi nói:

- Việc ấy tôi cũng làm được, nhưng chưa luyện xong. Một tháng nữa tôi sẽ trở lại tiếp

kiến.

Nói xong Hoàng-dược-Sư cười lớn rồi xuống núi.

Qua một tháng, Hoàng-dược-Sư trở lại, cùng với Tổ sư ra coi phiến đá kia, và cũng để

đề tiếp vào đó bài thơ của vị nữ lưu còn bỏ dở.

Thật vậy Hoàng-duợc-Sư sờ sẫm vào tấm đá một lúc rồi viết hai câu:

"Trùng-Dương môn phái Toàn-Chân,

"Trên cao nhìn xuống long vân đợi thời".

Đến đó thì ngừng. Hai câu thơ này tỏ ý tán dương môn phái Toàn-Chân lúc nào cũng

làm việc nghĩa và đợi thời ra giúp nước.

Thấy Tổ sư ngạc nhiên, Hoàng-dược-Sư cười lớn viết tiếp mấy câu cho đến hết bài thơ

có ý ca tụng Tổ sư, người sáng lập ra môn phái ta.

Tổ sư lấy làm lạ, nghĩ rằng Hoàng-dược-Sư võ nghệ thua Tổ sư một bậc, làm sao mà

điện lực lại có thể phát xuất nơi đầu ngón tay mạnh đến thế.

Bất thần Tổ sư lấy ngón tay chỉ vào mặt phiến đá, thì phiến đá lủng sâu vào một lỗ.

Nghe nói đến đây, Quách-Tỉnh ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao có chuyện lạ lùng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Không có gì lạ! Nhưng nếu lúc đó Hoàng-dược-Sư không cắt nghĩa rõ ràng với tổ sư

thì có lẽ đến bây giờ chúng ta cũng không được biết cái bí quyết kỳ diệu đó.

Quách-Tỉnh lấy tay đặt vào cái lỗ bỏng thì thấy vừa vặn một ngón tay ấn xuống.

Chàng cũng bắt chước vận dụng điện lực lấy đầu ngón tay ấn xuống mặt phiến đá,

nhưng phiến đá dọi lên làm cho đầu ngón tay chàng đau nhói, chàng hỏi:

- Cái bí quyết kỳ diệu gì? Chẳng lẽ mặt phiến đá nầy khác hơn các tảng đá khác sao?

Khưu-xứ-cơ nói:

- Không khác gì cả, nó cũng cứng y nhau. Nhưng theo lời Hoàng-dược-Sư thì muốn

viết trên mặt đá tất phải luyện được chất hoá thạch đơn. Chính chất hoá thạch đơn đã

làm cho phiến đá lu kia, trước khi viết họ đưa tay trái lên mân mê mặt đá chính là để

bôi chất hoá thạch đơn vào.

Quách-Tỉnh nghe đến đây chắc lưỡi nhủ thầm:

- Ôi chao! Thế thì nhạc phụ ta quả là người cao kiến.

Lòng Quách-Tỉnh mang mang nhớ đến Hoàng-dược- Sư, không biết hiện giờ ông ta ở

nơi nào.

Khưu-xứ-Cơ không để ý đến cử chỉ nhớ nhung của Quách-Tỉnh nói tiếp:

- Tổ sư ta lúc bắt đầu tu luyện cũng không vì phẫn chí hay vì khổ cực mà chính vì tổ

sư đã đọc sách nhiều hiểu rõ cái cơ diệu huyền trong phép thanh tịnh hư vô. Cho nên

tổ sư đã lập ra Trùng-Dương điện, thu thập đồ đệ làm cho môn phái Toàn-Chân trở

nên vinh dự. Ngày hôm nay chúng ta được thừa hưởng cũng nhờ công khó của tổ sư.

Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ cười lớn nói:

- Nếu không có lời thách thức của vị nữ lu thuở trước chắc gì bây giờ chúng ta có

Trùng-Dương điện, có một số môn đồ di lưu hậu thế.

Quách-Tỉnh gật đầu nói:

- Vị nữ lưu kia tên họ gì, ngày nay ở chốn nào, có còn sống chăng?

Khưu-xứ-Cơ thở dài:

- Ngoài Tổ sư ra không ai biết tên thực của nàng. Tổ sư cũng không cho ai biết người

ấy sống hay chết ra sao. Chẳng biết vì đâu một người võ nghệ dường ấy mà chẳng bao

giờ xuất đầu lộ diện, để người đời biết đến.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chẳng biết hiện nay có người nào thừa hưởng sự nghiệp võ nghệ của vị nữ lưu đó

chăng?

Khưu-xứ-Cơ thở dài đáp:

- Bao nhiêu rắc rối là ở chỗ đó. Vị tiền bối nọ bình sanh không nhận môn đệ, chỉ có

một người con gái nhỏ theo hầu tên là ả-Hoàn. Hai người cùng sống chung với nhau

trong mộ đài hơn mười mấy năm, không một lần ra khỏi cửa. Bao nhiêu điều bí ẩn

huyền diệu trong võ nghệ, ả-Hoàn đều được truyền thụ. Nhưng trong giới võ lâm cũng

không ai biết đến ả-Hoàn. Bởi vì ả-Hoàn chưa bao giờ bước chân vào đường giang hồ

nghĩa hiệp.

ả-Hoàn lại có thâu nhận hai người đệ tử. Người lớn họ Lý, trong giới giang hồ đều gọi

là Lý-mạc-Thu, tên tự là Xích-Luyện Tiên tử.

Quách-Tỉnh nghe nói đến đây reo lên một tiếng:

- A! Thì ra tông tích của Lý-mạc-Thu là thế!

Khưu-xứ-Cơ hỏi:

- Con đã biết nàng con gái ấy rồi sao?

Quách-Tỉnh nói:

- Mấy tháng trước con đã từng đấu với ả ít hiệp ở Giang Nam. Võ nghệ của nàng cũng

thuộc vào bậc khá cao.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Con không đả thương nàng chứ?

Quách-Tỉnh lắc đầu:

- Không! Nhưng con thấy nàng ấy hạ thủ mấy người nhà họ Lục với những ngón đòn

rất độc, hơn cả Mai-siêu-Phong và Đồng-Thi.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- May mà con không đả thương Lý-mạc-Thu, nếu dã phạm đến nàng thì không sao

tránh nổi nguy biến. Nàng còn có một người em nữ đạo-sĩ họ Long...

Quách-Tỉnh nghe đến đây giật mình hỏi:

- Sao? Người con gái họ Long ?

Khu-xứ-Cơ hơi biến sắc hỏi dồn:

- Con đã gặp nàng ấy rồi ? Có chuyện gì nguy hiểm xảy ra chăng?

Quách-Tỉnh thấy Khưu-xứ-Cơ sắc diện thay đổi, vội vàng đáp:

- Con chưa gặp lần nào. Nhưng vừa rồi lúc đăng sơn, các đạo hữu cứ mắng con là dâm

tặc, và cho con thượng sơn vì người con gái họ Long, con chẳng biết ý sao cả.

Khưu-xứ-Cơ thở dài, vừa cười vừa nói:

- Cũng vì thế mà Trùng-Dương cung mới xảy ra tai nạn vừa qua. Nếu không có sự

hiểu lầm như vậy thì Bắc-đẩu trận có thể thắng được bọn giặc kia mà con còn có thể

lên núi sớm hơn.

Khưu-xứ-Cơ thấy Quách-Tỉnh ngẩn người, liền nói:

- Nay là ngày sinh nhật của người con gái họ Long vừa đúng hai mươi tuổi.

Quách-Tỉnh thuận mồm hỏi:

- Kỷ niệm ngày sinh nhật hai mươi tuổi của cô gái nhà họ Long mà có thể gây biến

loạn nơi Trùng-Dương cung đến thế sao?

Tuy nói thế, Quách-Tỉnh hình như để ý nghĩ vào đâu không chú ý đến câu hỏi của

mình.

Khưu-xứ-Cơ cũng không đáp ngay câu hỏi của Quách-Tỉnh, nói trống:

- Người con gái họ Long nầy tên là gì cũng chẳng ai biết thấy, bọn tà thuật kia gọi nó

là Tiểu-long-Nữ thì chúng ta cũng gọi là như vậy thôi.

Quách-Tỉnh như sực nhớ lại cuộc đàm thoại, vội hỏi:

- Lý lịch của cô gái đó thế nào, sư phụ biết rõ chứ?

Khưu-xứ-Cơ gật đầu, chậm rãi nói:

- Cách đây hai mươi năm về trước. Một tối nọ, các đạo sĩ trong Trùng-Dương cung

đều nghe tiếng khóc của một hài nhi giữa cảnh đêm trường tịch mịch của núi rừng.

Hài nhi đó do đâu mà có, nào ai biết được, mọi người đều chạy ra, thì thấy đó là một

đứa bé gái, bọc vào một tấm khăn đặt dưới đất. Các nhà tu hành không tiện việc nuôi

nấng trẻ thơ trong điện đài được, nhưng bỏ rơi đứa bé sơ sinh thì thật là tội nghiệp.

Lòng tư bi là đạo hạnh đầu tiên của việc tu hành, nên ai cũng cố tìm phương kế để

cứu giúp đứa trẻ sơ sinh.

Nhưng trong lúc mọi người chưa tìm ra kế hoạch giải quyết, thì bỗng một thiếu phụ từ

phía sau núi đi lại, tuổi trạc trung tuần, thấy vậy tỏ lời thương xót ngỏ ý muốn rước

đứa bé về nuôi. Mọi người như thoát được cơn lo, trao đứa bé cho thiếu phụ.

Quách-Tỉnh nóng lòng hỏi:

- Người thiếu phụ đó là ai vậy?

Khưu-xứ-Cơ đáp:

- Mãi đến sau này Mã sư huynh và ta nghe nói lại mới đoán được thiếu phụ đó là

ả-Hoàn, người đàn bà tu luyện trong mộ đài Hoạt-tử-Nhân.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao sư phụ đoán được thiếu phụ ấy là ả-Hoàn?

Khu-xứ-Cơ nói:

- ả-Hoàn cũng đã có lần gặp thất tử trong phái Toàn-Chân nhưng chẳng bao giờ

chuyện trò. Vì thế nên ta mới đoán biết. Trùng-Dương điện và mộ đài cách nhau

không xa, gà gáy chó sủa, hai bên đầu nghe rõ tiếng, nhưng vì tiền nhân có rắc rối với

nhau, hai bên không bao giờ lai vãng. Lúc đó bọn ta nghe chuyện cũng biết vậy chứ

không để ý làm gì.

Sau này đệ tử của ả-Hoàn là Lý-mạc-Thu xuất sơn. Lý-mạc-Thu tâm địa độc ác nhưng

võ nghệ cao cường, đã nhiều phen làm những chuyện động trời trong giới giang hồ

nghĩa hiệp. Môn phái Toàn-Chân cũng nhiều lần toan ra tay sửa trị, song vì nể nang vị

đạo hữu trong mộ đài chẳng tiện ra tay.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Thế chúng ta không tìm cách nào để ngăn cản Lý-mạc-Thu trên bước đường tàn ác

sao?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chúng ta đã có nhiều lần gởi thư đến mộ đài, nói rõ hành động của Lý-mạc-Thu, có

ý tố cáo với ả-Hoàn, nhưng bao nhiêu thư đều chẳng được hồi âm. Mà ả-Hoàn cũng

chẳng ngăn cản Lý-mạc-Thu, để Lý-mạc-Thu lộng hành khắp chốn.

Rồi cách đây khoảng mười năm, thấy trong đám sậy có một khuông vải trắng, chúng

ta đoán biết vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời nên sáu sư huynh đệ đến ngoài mộ

tế viếng.

Vừa hành lễ xong, một đứa bé độ mười tuổi, từ trong đám sậy bước ra vái trả lễ và

nói:

- Lúc sư phụ tôi sắp qua đời có ra lệnh cho tôi nói cùng quí đạo trưởng biết: Người

nào tung hoành làm điều ác nghiệt, sư phụ tôi đã có cách kềm chế họ lại, quí đạo

trưởng khỏi phải nhọc lòng.

Nói dứt lời, đứa bé quay gót vào mộ đài. Bọn chúng ta định hỏi thêm cho cặn kẽ,

nhưng đứa bé đã mất dạng.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Sao chúng ta không vào thẳng mộ đài để nói với họ cho rõ ràng lại thư đi thư lại làm

chi?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- ấy chết! Lúc tổ sư qua đời có dặn trong môn phái chúng ta không ai được lẻo hánh

đến mộ đài dù là ngoài cửa. Bởi thế trong phái Toàn-Chân ai cũng phải tuân theo lệnh

ấy.

Quách-Tỉnh nói:

- Lạ thật! Vị đạo trưởng trong mộ đài đã qua đời còn làm sao cản trở được đứa học trò

tinh nghịch như Lý-mạc-Thu mà trăn trối với chúng ta như vậy.

Khưu-xứ-Cơ chậm rãi gật đầu nói:

- Bọn chúng ta cũng nghĩ như vậy. Ai cũng lấy làm lạ rằng người chết còn có cách gì

có thể kềm chế được đệ tử còn sống. Hơn nữa, mọi người thấy đứa nhỏ kia bé bỏng

sống cô độc một mình, không người nương tựa, nên đem lòng thương, muốn đến săn

sóc tiếp tế lương thực, song gởi gì đến đứa bé cũng từ chối không nhận. Có lẽ tính

tình nó ưa sống cô độc như sư phụ của nó.

Ngừng một lúc, Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:

- Từ đó, chúng ta vì bận viện ít khi ở trong võ điện, nên không được nghe tin tức của

đứa bé kia. Và cũng từ đó Lý-mạc-Thu bỗng nhiên vắng hoạt động trong giới giang

hồ.

Mãi đến ba năm trước đây, lúc ta cùng với Vương sư đệ có việc sang Tây-Vực, vào trú

nơi nhà một vị đại nghĩa hiệp, trong khi chuyện trò bỗng nghe một tin kinh dị.

Quách-Tỉnh hỏi dồn:

- Tin gì vậy?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Đó là tin các tà đạo khắp nơi hẹn nhau tập trung đến Chung-Nam sơn để hành sự.

Chúng ta ái ngại nghĩ rằng Chung-Nam sơn là nơi võ điện của phái Toàn-Chân, chúng

tập trung đến đây nếu không ngoài mục đích phá rối đạo giáo chúng ta thì còn làm gì

nữa.

Tuy nhiên, tin ấy chưa căn cứ, chúng ta chưa vội tin. Đến khi cho người đi dò xét, thì

mới biết tin ấy quả xác thực.

Thấy Quách-Tỉnh ngơ ngác, Khưu-xứ-Cơ cười nói tiếp:

- Không phải chúng tập trung nơi Chung-Nam-Sơn để phá rối chúng ta mà để đối phó

với Tiểu-long-Nữ.

Quách-Tỉnh càng ngạc nhiên hơn, nói:

- Tiểu-long-Nữ! Con bé ấy thủa nay chưa ra khỏi mộ đài, nào có thù oán với ai mà họ

đối phó, vậy đối phó vì lẽ gì?

Khưu-xứ-Cơ cười hề hề nói:

- Việc thật rắc rối! Tuy Tiểu-long-Nữ chưa bao giờ cất bước ra khỏi mộ đài, song

Lý-mạc-Thu, đệ tử của ả-Hoàn, một đứa ác tặc đã từng gây sóng gió trong giới giang

hồ gây nên việc ấy.

Quách-Tỉnh nói:

- Thế sao họ không đối phó với Lý-mạc-Thu lại đến đây để đối phó với con bé Tiểu

Long?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nguyên là vì sư phụ Lý-mạc-Thu dạy nàng trong ít năm, thấy tánh nết của nàng

không có đạo hạnh, không thể trở thành thiên nhân được, nên đã dạy nửa chừng rồi

nói dối là đã thành tài và cho hạ sơn.

Lý-mạc-Thu lúc còn vị sư phụ tuy làm những điều ác nhưng vẫn nể sợ, đến lúc sư phụ

hắn qua đời, hắn trở nên bất chấp đạo lý, lấy cớ đi đến phúng điếu sư phụ, đột nhập

vào Hoạt-tử-Nhân mộ đài toan đuổi Tiểu-long-Nữ ra để độc chiếm những bảo vật.

Lý Mạc Thu đã thông thuộc hết mọi nẻo trong mộ đài, thế mà nàng đem hết sức bình

sinh chỉ vượt qua được có hai cửa, đến lần cửa thứ ba, Lý Mạc Thu thấy có mấy chữ

của sư phụ hắn ghi lại. Sư phụ hắn đoán biết ngày Lý Mạc Thu trở lại phá phách, và

ngày Tiểu-long-Nữ xuống núi tìm cha, nên đã di chúc khuyên hai người nếu gặp nhau

trên đường giang hồ nghĩa hiệp phải giữ vẹn tình đồng môn, chớ nên tranh chấp.

Ngoài ra sư phụ hắn còn khuyến cáo hành động Lý Mạc Thu phải làm sao cho hợp

với chánh đạo, để khỏi gặp những hậu quả không tốt.

Nhưng Lý Mạc Thu lòng tham ngùn ngụt không kể đến lời di chúc người trên, không

nghĩ đến chánh đạo, đẩy cánh cửa thứ ba toan xông vào. Nhưng vừa đặt chân qua

ngưỡng cửa thì nàng trúng phải thứ kim độc của sư phụ nàng đã cài sẵn. Nếu không

nhờ Tiểu-long-Nữ cứu chữa thì có lẽ nàng đã chết ngay tại chỗ.

Nàng thấy không thể phá phách được, rút lui ra khỏi mộ, hạ sơn.

Nhưng chẳng lẽ đành chịu thúc thủ hay sao? Lý Mạc Thu là đứa kiêu hãnh không

chịu nhục nổi nàng, lại xông lên mấy lần, nhưng lần nào cũng bị thiệt hại, nhọc nhằn

mà chẳng nên công cán gì.

Lần sau cùng, Lý Mạc Thu toan hạ Tiểu-long-Nữ, chẳng ngờ lúc bấy giờ

Tiểu-long-Nữ tuy mới mười bảy tuổi mà võ nghệ đã vượt hơn nàng rất nhiều. Nếu

không vì tình đồng môn, nàng bị Tiểu-long-Nữ hạ sát như chơi.

Quách-Tỉnh nghe đến đây ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Chuyện này con e các giới giang hồ đã xuyên tạc sự thực.

Khưu-xứ-Cơ nhìn Quách-Tỉnh hỏi:

- Vì sao con lại nghĩ thế?

Quách-Tỉnh thở dài, nói:

- Con đã đấu với Lý-mạc-Thu trong mấy hiệp, Lý-mạc-Thu kẻ võ nghệ phi thường có

nhiều ngón độc đáo, thiên hạ ai nghe đến tên nàng cũng phẳi khủng khiếp, còn

Tiểu-long-Nữ kia một cô gái mới đến tuổi hai mươi làm sao địch nổi với nàng.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Thật ra Lý Mạc Thu đã từng đem võ nghệ gây sóng gió trong giới giang hồ không

phải ít. Song việc nầy Vương-sư-đệ nghe một người bạn trong Cái-Bang kể lại rằng

chính Tiểu-long-Nữ đã thắng Lý Mạc Thu. ấy thế nên Lý Mạc Thu mới căm tức

Tiểu-long-Nữ, rêu rao khắp nơi rằng ngày nầy tháng nầy Tiểu-long-Nữ ở trong

Hoạt-tử-Nhân mộ đài, xuất đầu lộ diện, tỳ thi với thiên hạ anh tài để chọn người tuấn

kiệt.

Quách-Tỉnh nghe đến đấy gật gù nói:

- à ra thế thì đó là một lối trả thù của Lý-mạc-Thu đối với cô gái Tiểu-long-Nữ kia

sao?

Khưu-xứ-Cơ gật đầu nói:

- Đúng vậy, hắn đánh không lại bạn đồng môn nên dùng thủ đoạn mượn tay thiên hạ

đến đánh. Lý-mạc-Thu rêu rao rằng nếu ai thắng nổi Tiểu-long-Nữ thì không những

được Tiểu-long-Nũ chọn làm bạn trăm năm, mà bao nhiêu báu vật trong

Hoạt-tử-Nhân mộ đài sẽ được nàng đem hiến dâng trọn. Thế là những tay háo sắc,

những phường dâm tặc, những bọn tà ma ngoại đạo đua nhau để xô đến đem tài sánh

cùng Tiểu-long-Nữ để mong đoạt lấy nguyện vọng.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Làm sao họ biết được nhan sắc của con bé Tiểu-long-Nữ thế nào mà liều đem tánh

mạng đến để cầu duyên?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Những kẻ háo sắc chẳng hề biết Tiểu-long-Nữ ra sao, nhưng Lý-mạc-Thu tuyên

truyền ầm ĩ rằng sư muội của hắn đẹp hơn hắn nhiều, võ nghệ lại ít ai bì kịp, ngay cả

đến các tiểu thư đài các cũng không ai có thể sánh vơi nhan sắc của nàng.

Quách-Tỉnh mơ màng liên tưởng đến việc cầu hôn của mình, bụng bảo dạ:

- Như thế có lấy gì làm lạ! Người yêu của ta còn đẹp gấp trăm phần.

Thực ra, chỉ vì Quách-Tỉnh sủng ái người yêu của mình nên tưởng Hoàng-Dung lúc

nào cũng là người đẹp nhất thế gian. Cứ theo lẽ công bằng thì về mặt thùy mị

Hoàng-Dung làm sao địch nổi Lý-mạc-Thu.

Khưu-xứ-Cơ nói tiếp:

- Trong đám tà ma ngoại đạo sống đời giang hồ hiệp sĩ rất có nhiều người cảm cái

nhan sắc của Lý-mạc-Thu, nhưng thấy Lý-mạc-Thu đã lớn tuổi, lại tánh tình trở nên

độc ác nên không ai dám động đến. Bây giờ nghe nói nàng có sư muội đẹp hơn, lại

đang thách người tỷ thí để tìm bạn trăm năm, thì ai lại chẳng muốn ứng thí.

Quách-Tỉnh nói:

- à ra vì bọn nầy muốn đến Chung-Nam sơn để cầu thân với con bé Tiểu-long-Nữ, hèn

chi lúc con thượng sơn, quí đạo huynh đã lầm tưởng con là bọn đó và mắng con là

đứa dâm tặc.

Khưu-xứ-Cơ lớn tiếng cười hề hề nói:

- Chính thế mà Trùng-Dương cung mới bị hại như ngày hôm nay.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Nếu bọn chúng đến đây để cho con bé Tiểu-long-Nữ kén duyên thì có oan hệ gì đến

Trùng-Dương cung mà sư phụ ra công cản trở. Điều ấy thực con không biết.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Ta và Vương sư đệ được tin nầy nghĩ bụng rằng: bọn ta và Tiểu-long-Nữ tuy mới

thấy mặt nhau có một lần song là tình lân bang, hơn nữa đời trước tiền nhân đi lại với

nhau rất thân thiết. Vả lại bọn dâm tặc yêu tinh mà dồn đến là dám coi thường

Toàn-Châu môn phái của chúng ta, bọn ta chẳng lẽ chỉ biết ăn no ngồi nhìn chúng

hoành hành ở chốn Chung-Nam sơn này sao. Vì thế chúng ta mới phải truyền lệnh đi

khắp nơi, triệu tập những tay cự phách trong môn phái trước mười hôm tại

Trùng-Dương cung, và một mặt tập dượt Bắc-đẩu đại trận, một mặt đưa tin vào trong

mộ đài để báo tin cho Tiểu-long-Nữ biết trước để đề phòng. Ai ngờ bức thư đưa tới

như liệng đá vào lòng Trùng-Dương. Tiểu-long-Nữ chẳng thèm để ý, và cũng chẳng

thèm phúc đáp:

Quách-Tỉnh nói:

- Hay là nàng không còn ở trong mộ đài nữa chăng?

Khưu-xứ-Cơ lắc đầu nói:

- Không! Mỗi ngày chúng ta vẫn thấy khói từ trong mộ đài tỏa ra, quyện khắp rừng

cây...

Nói đến đây Khưu-xứ-Cơ chỉ tay về phía trước mặt, mắt đăm đăm nhìn:

- Kìa! Con hãy nhìn kìa!

Quách-Tỉnh nhìn theo phía tay chỉ thấy núi rừng trùng điệp, trong khoảng trên mười

dặm, toàn là rừng cây, chẳng biết Hoạt-tử-Nhân mộ đài ở đâu cả.

Khưu-xứ-Cơ lại nói:

- Bọn ta họp nhau thảo luận, quyết định ngăn ngừa kẻ địch, che chở cho

Tiểu-long-Nữ, phái người đi dò tin tức bọn dâm tặc trước đây năm ngày. Tin tức dồn

dập đưa về cho biết có rất nhiều bọn vô đến Chung-Nam sơn đấu võ cầu thân. Có bọn

thấy Trùng-Dương cung ở sát cạnh mộ đài cũng ngán, có bọn lại vì cô thế chẳng dám

bén mảng đến đây. Tuy nhiên, bọn cô thế kia lại được một số ngoại đạo giúp sức, nên

chúng mới thừa cơ hội theo đám ăn tàn tụ họp nơi Phổ-Quang-Tự dưới chân núi, lấy

ám hiệu vỗ tay trên bia đá làm đích.

Quách-Tỉnh gật đầu lẩm bẩm:

- Hèn chi, con vì sơ ý đấm vỡ bia đá làm cho các đạo huynh nghi kỵ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nhất là cái đấm của con lại là cái đấm xuất quần, biểu lộ một tài nghệ tuyệt luân

trong phái giang hồ hiệp khách.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Chẳng hay bọn cầm đầu trong đám phá phách Trùng-Dương cung là ai vậy?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chúng gồm có hai bọn đều thuộc về ngoại đạo. Chúng đều là những bọn đã nổi danh

trong thiên hạ, nhưng ít khi đến miền Trung-Nguyên nầy. Đã hơn mười năm nay, con

ẩn thân trên Đào-hoa đảo nên không biết rõ sự thể. Chàng công tử nọ chính là con vua

Mông-Cổ, cháu Thành-Cát Tư-Hãn. Hắn sống ở miền tây được một vị Quách-hiền nào

đó truyền dạy, cho nên tuy còn nhỏ tuổi mà đã luyện được võ công rất uyên thâm,

mọi người đều gọi hắn là Hoắc-Đô Hoàng-tử.

Quách-Tỉnh nhẩm đi tính lại bốn tiếng "Hoắc-Đô Hoàng-tử", hồi tưởng hình dung và

cử chỉ của hắn, nghĩ mãi không rõ hắn giống ai, chỉ thấy cử chỉ của hắn trang nhã và

đôi mắt người oai vệ.

Khưu-xứ-Cơ hỏi:

- Con ở nơi sa mạc lâu ngày đã từng tiếp xúc với những người trong vương tộc

Mông-Cổ, con có thể nhận được lai lịch của chàng trai đó chăng?

Quách-Tỉnh tha:

- Thành-Cát Tư-Hãn có bốn người con, người con trưởng là Thuật-Xích rất hung tợn,

người con thứ hai là Sắp-hợp-Đài rất cuồng bạo, người thứ ba là Ô-phá-Đài tức là vua

Mông-Cổ bây giờ, tính tình nhân từ, còn người con thứ tư là Phi-Lôi thì có khí phách

hơn người. Nhưng tớng mạo bốn người đó đều không giống Hoắc-Đô Hoàng-tử một

chút nào cả.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chỉ ngại hắn muốn đề cao phẩm giá để cầu hôn mà thôi. Tuy nhiên tài năng của

hắn, bọn ta không thể chối cãi vào đâu được. Đầu năm nay, vừa mới vào miền

Trung-Nguyên, hắn đã ra tay trổ tài đả thương tam hùng miền Giang-Nam, sau về trên

con đường Cam-Lương một mình hắn đã giết chết thất bá miền Giang-Châu, tiếng tăm

của hắn nổi lên như sấm. Bọn ta không ngờ hắn lại nhúng tay vào việc nầy nữa.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Còn người sư Tây-Tạng kia là ai mà cũng tùng hành theo hắn?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Nhà sư ấy tên Đạt-nhĩ-Ba, thuộc về một tông ở Tây-Tạng, làm trưởng giáo. Hắn nổi

tiếng đã từ lâu, kể ra về võ nghệ hắn cũng đóng bực với ta đó. Hắn là một hòa thượng,

mà đương nhiên, đến chốn nầy không phải với ý muốn chiếm đoạt Tiểu-long-Nữ, có

lẽ hắn đến để đoạt các bảo vật trong mộ đài, hoặc giả để phô trương thinh thế. Còn

bọn dâm tặc khác thấy được hai người kia đứng đầu, không còn dám nuôi ý tưởng cầu

hôn nữa, mà chỉ muốn theo đám ăn tàn, gỡ gạc được chút nào hay chút ấy. Do đó có

hơn hàng trăm người đến Chung-Nam-Sơn này. Lẽ ra Bắc-đẩu trận của chúng ta có

thể chận được bọn chúng không cho bước lên khỏi chân núi, hoặc không bắt sống

được số đông bọn chúng cũng chẳng cho chúng đến gần Trùng-Dương cung. Âu cũng

là việc rủi ro nên mới khiến trong môn phái ta hiểu lầm nhau để xẩy ra câu chuyện

đáng tiếc.

Quách-Tỉnh lấy làm ăn năn toan ngỏ lời tạ lỗi với Khưu-xứ-Cơ thì Khưu-xứ-Cơ đã

hiểu ý nói:

- Những điện đài lầu các đều là những vật ngoài thân mình. Ngay cả cái thân xác

mình đây cũng còn chẳng nên lưu luyến quá, huống chi là lầu đài. Con đã tập luyện

đến mức cao điệu lẽ đâu không thấu tiệt đạo lý.

Quách-Tỉnh thưa:

- Sư phụ dạy rất phải. Lòng con chỉ tiếc là tiếc cái công trình Trùng-Dương điện đã

qua bao nhiêu đời góp nhặt, bao gian lao trong giáo phái, nay chỉ vì bọn dâm tặc kia

mà một phút ra tro.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Bởi Bắc đẩu đại trận vây chặt lấy con, nên hai gã kia mới thừa cơ đột nhập vào

Trùng-Dương điện, châm lửa đốt. Xích sư đệ đấu với Hoắc-Đô công-tử chỉ vì khinh

địch trưbớc một kẻ võ nghệ khác thường, tài nghệ chênh lệch nên vô ý bị hắn đánh một

chùy vào ngực. Bọn ta vội lập thế để bảo vệ Xích sư đệ. Người thay Xích sư đệ lại quá

kém nên phép tắc của trận pháp không tinh vi, nếu không có con đến kịp thời can

thiệp thì môn phái Toàn-Chân hôm nay ắt vướng phải một nhục nhã không ít.

Hai thầy trò Quách-Tỉnh vừa nói chuyện đến đấy thì bỗng đàng xa vọng lại một hồi tù

và, tiếng tù và rất nên kích động.

Quách-Tỉnh hồi tưởng lại lúc chàng còn ở trong bãi sa mạc mênh mông cũng đã từng

nghe giọng tù và ấy cuả quân Mông-Cổ.

Người đàn bà trong cổ mộ đài

Thầy trò đang ngớ ngẩn thì một hồi tù và nữa lại nổi lên, tiếng tù và đằng đằng sát

khí, báo hiệu có người đang giao đấu với nhau.

Khưu-xứ-Cơ tỏ vẻ giận dữ, nói:

- Quân gian ác! Quân gian ác!

Rồi ông ta nhìn về phía rừng cây rậm, nói tiếp:

- Quách-Tỉnh con! Bọn gian phi kia đã nguyền mười năm nữa đến trả thù. Lời nguyền

ấy dụng ý trong mười năm sau chúng khỏi bận tâm đương đầu với con, để rảnh tay

phá phách thiên hạ. ở đời lại có những bọn lợi dụng danh dự làm kế tiểu xảo như vậy

sao? Thôi, ta đi đây.

Quách-Tỉnh hỏi:

- Bọn đó là Hoắc-Đô công tử chăng?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Còn ai vào đây nữa! Bọn đó lại đến gây việc giao chiến với Tiểu-long-Nữ rồi.

Vừa nói, Khưu-xứ-Cơ vừa chạy như bay xuống núi. Quách-Tỉnh chạy theo sau.

Hai người vợt qua khỏi chừng một trăm dặm đường thì tiếng tù và nổi bật lên. Trong

tiếng tù và ấy có chen lẩn tiếng lêng kêng, chứng tỏ rằng vị sư Tây-Tạng Đạt-nhĩ-Ba

cũng đã xuất trận.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Hai đứa nầy vốn sanh trong chốn danh gia vũ nghệ mà lại hợp nhau đi hiếp đáp một

thiếu nữ thì không còn biết sỉ nhục là gì.

Quách-Tỉnh theo chân Khưu-xứ-Cơ rảo bước, mỗi lúc một nhanh hơn. Chỉ chốc lát cả

hai đến sau lưng núi. Nhìn qua vách đá. Quách Tỉnh trông thấy núi rừng một màu đen

đặc, phía trên khoảng rừng cây thấp thoáng bóng mười người, đứng sừng sững như

những bóng ma si tình đã vây đánh nơi Trùng-Dương điện trước đây.

Hai người ẩn sau vách đá để xem xét động tĩnh ra sao!

Hoắc-Đô hoàng-tử và nhà sư Tây-Tạng đứng khít nhau, cứ sau mỗi tiếng tù và thổi lên

là họ nối theo những tiếng keng keng cốt sao khiêu khích Tiểu-long-Nữ ra khỏi mộ

đài.

Sau một lúc khích lệ, rừng cây náo động trở lại với trạng thái êm đềm giữa rừng

khuya.

Hoắc-Đô hoàng-tử bỏ chiếc tù và xuống đất, dõng dạc với giọng nói sang sảng:

- Ta là Tiểu vương xứ Mông-Cổ, tên Hoắc-Đô, kính hướng Tiểu-long-Nữ chào mừng.

Cứ mỗi lần nói xong, trong rừng cây có tiếng đờn "tanh tanh" vọng lại chào mừng.

Thấy Tiểu-long-Nữ đánh đờn đáp lễ, Hoắc-Đô hoàng tử mừng rỡ, cất giọng nói tiếp:

- Được nghe thiên hạ đồn về đạo hạnh cô nương, nên ta đến đây xin đem tài tỉ thí để

cầu duyên, xin cô nương vui lòng chỉ giáo cho chút ít tài nghệ.

Lời nói vừa dứt, tiếng đàn bỗng trở nên kích động, bao hàm ý giận dữ như muốn đuổi

khách. Bọn tà ma nào có hiểu gì tâm trạng của kẻ chơi đàn. Hoắc-Đô lại cất giọng

nói:

- Tiểu vương tôi vốn giòng giõi danh gia vong tộc, dung mạo nào có thô kệch gì, ước

mong được cô nương thưa tiếp, tôi tin rằng với tài nghệ của tôi không đến nỗi làm cho

cô nương thẹn mặt.

Giọng đờn bỗng cao vọt lên như có ý trách móc. Cây thiết huyền cầm vốn có âm

thanh thật hòa nhã trong trẻo, thế mà chẳng biết tâm trạng của cô gái ấy ra sao mà lúc

bấy giờ tiếng đàn bỗng trở nên chua chát, khiến những kẻ biết nghe đờn không dám

kiên nhẫn đứng nghe lần thứ hai nữa.

Hoắc-Đô quay sang phía nhà sư Đạt-nhi-Ba, đưa mắt hỏi dò ý kiến. Nhà sư Tây-Tạng

gật đầu, Hoắc-Đô nói:

- Cô nương nhất định không ra, Tiểu vương nầy chỉ còn có cách là dùng võ lực để

thỉnh cầu thôi.

Nói đoạn, hắn vung tay phải lên ra hiệu, tức thì bọn yêu tà ào ào chạy về hướng rừng

cây.

Trong bọn chúng đứa nào cũng nghĩ bụng:

- Bọn Toàn-Chân là môn phái lợi hại trong giới võ lâm mà hai người cầm đầu của

chúng còn chưa sợ, chúng dại gì mà không hứa theo hai đứa nầy để vào mộ đài cướp

bóc.

Nghĩ thế, chúng tranh nhau, mạnh ai nấy chạy vào rừng.

Khưu-xứ-Cơ trông thấy nổi giận lớn tiếng hét:

- Đây là chốn cũ của tổ sư chân nhân ta, chúng bay không được vô lễ phạm đến.

Mọi người nghe giọng nói của Khưu-xứ-Cơ oang oang trong rừng, một giọng nói

hùng hồn như có một mãnh lực chặn đứng mọi hành động phi nghĩa, tất cả đều rờn

rợn nhưng lòng tham của chúng thúc giục chúng không dừng bước.

Khưu-xứ-Cơ quay lại nói với Quách-Tỉnh:

- Quách đồ đệ, chúng ta ra tay kẻo trễ.

Tức thì hai thầy trò Quách-Tỉnh từ sau bức tường đá co chân nhẩy vọt tới. Nhưng

bỗng họ dừng chân lại, vì trước mặt họ, bọn tà sư kia một lũ lố nhố ôm đầu chạy thối

lui, miệng rên rỉ kêu cứu.

Khưu-xứ-Cơ cũng nh Quách-Tỉnh đều đứng ngây người nhìn cuộc rối loạn của

chúng.

Chẳng bao lâu Hoắc-Đô và Đạt-nhi-Ba cũng trồi đầu ra, vẻ mặt hầm hầm kinh sợ

chẳng khác nào vẻ mặt thảm hại khi chúng rút lui ở Trùng-Dương cung.

Khưu-xứ-Cơ và Quách-Tỉnh trong lòng không khỏi ngạc nhiên tự hỏi:

- Chẳng biết Tiểu-long-Nữ đã dùng biện pháp nào mà xua đuổi bọn chúng mau lẹ như

thế?

Hai người chưa tìm được lời giải đáp thì bỗng nghe đằng xa có tiếng kêu vù vù vọng

lại. Dưới ánh trăng màu sữa loãng, một đoàn côn trùng đang bay đến vun vút. Đoàn

côn trùng tỏa ra tứ phía, bâu vào đầu bọn dâm tặc kia mà cắn.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ, hỏi:

- Chẳng biết giống côn trùng ấy thuộc loại gì.

Khưu-xứ-Cơ lắc đầu không đáp, chăm chú nhìn, thấy trong bọn kia có nhiều người

nhảy chồm lên kêu la vì đau đớn quá.

Quách-Tỉnh nói:

- Đúng là loài ong rồi! Nhưng tại sao ong lại có sắc trắng.

Lúc ấy bầy ong lại xúm đến đốt vào đầu bảy tám người nữa. Họ nằm lăn ra, kêu thảm

thiết.

Quách-Tỉnh nghĩ bụng:

- Bị ong đốt mà đau đớn như thế tất loài ong nầy có một thứ nọc độc khác thường

khiến người ta không thể chịu nổi.

Bây giờ, bầy ong đang thắng thế, cất cánh vù vù tiến dần về phía Khưu-xứ-Cơ và

Quách-Tỉnh.

Khu, Quách hai người cũng ái ngại không biết phải đối phó bằng cách nào.

Khưu-xứ-Cơ vận khí dồn xuống đơn điền, rồi búng miệng thổi ra một hơi. Một luồng

gió làm xào xạc rừng cây thổi ngược lại bầy ong.

Bầy ong đang lúc hăng say thẳng hướng, thấy có luồng gió vội dừng cánh.

Khưu-xứ-Cơ búng miệng thổi tiếp một hơi nữa, và Quách-Tỉnh cũng búng miệng thổi

phụ vào. Bầy ong bị gió cản lại quay sang hướng khác. Hai người này áp dụng ngón

võ nghệ vi diệu của phái Toàn-Chân, làm cho bầy ong chống cự không nổi.

Bầy ong lại tỏa ra, tìm bọn Hoắc-Đô, Đạt-Nhĩ-Ba mà cắn. Hơn mời nạn nhân nữa

quằn quại rên la vì nọc độc của bầy ong quái quắc kia. Chúng nói lớn:

- Chúng con biết đã phạm trọng tội, xin Tiểu-long-Nữ cô nương vui lòng cứu sống

cho.

Quách-Tỉnh lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Bọn kia toàn là những đứa đã từng sống trong đời võ sĩ giang hồ, can đảm có thừa,

coi cái chết như không, cớ sao lại rên rỉ thảm thiết trước một bầy ong nhỏ bé như thế

nhỉ?

Bấy giờ từ trong rừng vọng ra tiếng đàn cầm. Trên ngọn cây dâng lên một đám khói

tha thướt, trắng phau. Và một mùi hương phảng phất thơm ngát.

Một lát sau, tiếng bay phần phật của bầy ong mỗi lúc một gần. Khi ngửi thấy hương

hoa, bầy ong nhóm lại bay trở về rừng.

Thì ra Tiểu-long-Nữ đã tung hương hoa để chiêu hồi đàn ong trở về.

Khưu-xứ-Cơ đã từ hai muơi năm trường là kẻ lân bang của Tiểu-long-Nữ thế mà cũng

chẳng biết nàng có thể làm được những chuyện lạ lùng như thế, nên nay đem lòng

cảm phục.

Với một giọng nói hình như thích thú, Khưu-xứ-Cơ quay lại Quách-Tỉnh:

- Nếu chúng ta sớm biết tài nghệ Tiểu-long-Nữ thế nầy thì Trùng-Dương cung của

chúng ta chắc không đến nỗi phải bị tiêu diệt.

Câu nói của Khu-xứ-Cơ tởng chỉ để mình Quách-Tỉnh nghe thấy mà thôi nhưng

hình như trong mộ đài Tiểu-long-Nữ cũng biết được ý tứ của hai người bằng phép

"độc tâm thuật" nên bỗng có tiếng đàn vọng ra, giọng rất dịu dàng tựa hồ như một lời

cảm tạ kẻ tri âm.

Khưu-xứ-Cơ cời hề hề, nói:

- Cô nương bất tất phải dùng đến lễ độ như thế. Bần đạo Khưu-xứ-Cơ này xin cho đệ

tử Quách-Tỉnh thân đến nơi kính chúc cô nương.

Bên trong, đàn cầm vọng ra hai tiếng ''tanh-tanh" để cảm ơn rồi im bặt.

Quách-Tỉnh nghe trong bọn Hoắc-Đô có những tiếng kêu thảm thiết, động lòng nói

với Khưu-xứ-Cơ:

- Bọn họ là những thiên thần tội nghiệp. Xin sư phụ thỉnh cầu với Tiểu-long-Nữ để

cho chúng ta được cứu mạng họ.

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Cứ để tùy ý Long cô nương xử trí, chúng ta chớ nên dự vào. Chúng ta trở về thôi.

Nói xong, hai thầy trò Khưu-xứ-Cơ lui gót, trở về hướng đông.

Dọc đường Quách-Tỉnh đem thân thế Dương-Qua kể lại tỷ mỷ cho Khưu-xứ-Cơ nghe.

Khưu-xứ-Cơ thở dài, nói:

- Dương-Khang, cha của Dương-Qua là một vị anh hùng, lẽ nào chúng ta không

thơng tình đào luyện cho Dơng-Qua trở nen người nối nghiệp. Phần con, con đã có

lòng tốt với Dương-Qua thì cũng nên ráng hơn nữa. Còn ta, ta sẽ tận tâm nuôi dạy để

mai sau nó nên nguời.

Quách-Tỉnh nghe Khưu-xứ-Cơ nói, rất mừng rỡ, tuy dọc đường giữa rừng núi,

Quách-Tỉnh cũng quỳ xuống để tạ ơn:

Khưu-xứ-Cơ lại hỏi:

- Có lần con nói rằng tại Đào-hoa đảo có người đến vẽ trộm địa đồ, và bên trong có

Cái-Bang dính líu việc ấy có nghĩa gì vậy?

Quách-Tỉnh thưa:

- Sư phụ còn nhớ đến đứa học trò bất hiếu là Bành không?

Khưu-xứ-Cơ như nhớ ra, nói:

- à! Ta nhớ rồi! Nó lớn gan lắm! Nhưng không ngờ nó lại dám đến tận đảo Đào-hoa

mà sanh chuyện nhỉ.

Quách-Tỉnh nói:

- Vợ chồng đệ tử đã suy nghĩ rất nhiều, cố tìm hiểu chuyện đó: "Nếu chỉ có Bành thị

thì nhất quyết Bành-thị không dám làm liều, ngặt vì trong việc còn có người đứng sau

ném đá giấu tay.

Khưu-xứ-Cơ cời, nói:

- Hiện nay võ nghệ của Hoàng Dung và lối bố trí trên đảo Đào-hoa, nếu có người toan

đến phá phách thì kẻ ấy nhất định mang thất bại, chẳng làm được trò trống gì. Vậy

con chẳng cần bận tâm đến làm chi!

Quách-Tỉnh gật đầu tỏ vẻ đồng ý rồi bỏ qua việc ấy.

Hai người chuyện trò với nhau một lúc thì về đến Trùng-Dương điện. Bấy giờ trời đã

sáng tỏ, mọi người đang dọn dẹp, tìm gỗ đá chặt cây dựng lên mấy túp lều tạm trú.

Ngôi võ điện nguy nga trước đây bây giờ chỉ còn lại những vết chân tường làm kỷ

niệm.

Khưu-xứ-Cơ triệu tập các đạo sĩ họp mặt, rồi dẫn đạo sĩ râu dài đã chỉ huy trận

Bắc-đẩu giới thiệu với Quách-Tỉnh:

- Người nầy học trò của Vương sư đệ, tên là Triệu-chí-Kính làm tam đại đệ tử, đã tập

luyện rất thuần thục. Ta định giao trách nhiệm giáo dục Dương-Qua cho

Triệu-chí-Kính.

Quách-Tỉnh đã từng giao đấu với Triệu-chí-Kính, nên biết Triệu-chí-Kính võ nghệ đã

điêu luyện, lấy làm mừng, liền gọi Dương-Qua bảo phải làm lễ nhập môn

Triệu-chí-Kính.

Kế đó, Quách-Tỉnh ở lại Chung Nam sơn ít bữa dặn dò Dương-Qua cặn kẽ, rồi từ biệt

mọi người trở về đảo Đào-hoa.

Dùng dằng mãi, Quách-Tỉnh mới xa Chung-Nam sơn mà lòng đầy lưu luyến.

Khưu-xứ-Cơ nhớ lại hồi năm xa, Dương Khang vì võ nghệ siêu quần nên được giao

giữ việc nuôi dưỡng Tôn-xứ-Ưu ở Vương phủ. Sau đó vì hư hỏng ở Trù-Thành nên

mang hại. Do lẽ đó Khưu-xứ-Cơ tự nghĩ rằng: Phàm thầy dạy có nghiêm thì mới tạo

nên được trò giỏi, cha có nghiêm thì mới rèn được đứa con có hiếu. Việc dạy dỗ

Dương-Qua phải rất nghiêm thì mới tránh được vết xe đồ của cha nó.

Ngay lúc ấy, Khưu-xứ-Cơ gọi Dương-Qua vào, nghiêm sắc mặt lớn tiếng ra lệnh cho

nó phải chịu sự khó nhọc, khổ sở bất cứ việc gì cũng phải vâng lời Triệu-chí-Kính.

Dương-Qua vốn đã không muốn ở lại Chung-Nam Sơn. Bây giờ mới vừa thọ giáo đã

bị một trận quở mắng trong lòng lại càng thêm ấm ức. Tuy cố nhẫn nhục nghe, song

nước mắt tràn ra, không ngăn nổi.

Rồi đợi đến lúc Khuu-xứ-Cơ đi khỏi nó oà ra khóc.

Triệu-chí-Kính thấy thế nhỏ nhẹ hỏi:

- Có điều gì thế! Đạo trưởng có điều gì làm cho con không đẹp ý chăng?

Dương-Qua quay đầu lại, thấy Triệu-chí-Kính, sư phụ mình, lấy làm bối rối, chấp tay

thưa:

- Thưa sư phụ, con nghĩ đến chú Quách đảo Đào-hoa, lòng nhớ nhung không cầm

được.

Triệu-chí-Kính thấy Dương-Qua chỉ vì bị Khưu-xứ-Cơ nghiêm khắc nên khóc lóc, giờ

đây nó lại viện cớ nói dối là nhớ Quách-Tỉnh mà khóc. Lời ấy làm cho Triệu-chí-Kính

không bằng lòng, thầm nghĩ: Thằng bé chưa bao nhiêu tuổi mà đã dùng lời lẽ lừa dối!

Vậy ta phải răn dạy thế nào cho nghiêm mới có thể sửa đổi được tính nết của hắn.

Nghĩ như vậy Triệu-chí-Kính hầm hầm nét mặt nạt:

- Đối với bực sư phụ mà ngươi dám dối ?

Thật ra, Dương-Qua chính mắt đã trông thấy các đạo sĩ Toàn-Chân môn phái, người

nào cũng đều bị Quách-Tỉnh đánh tơi bời như lá rụng. Nó lại thấy Khưu-xứ-Cơ và

đồng bọn lại bị Hoắc-Đô dùng yêu tà làm cho thất điên bát đảo phải nhờ vào sức

Quách-Tỉnh mới thoát được cảnh đại bại. Nó cho võ nghệ của các đạo sĩ

Trùng-Dương cung chỉ là bậc tầm thường không đi đến đâu cả. Ngay đối với

Khưu-xứ-Cơ nó chẳng khâm phục, huống hồ Triệu-chí-Kính.

Tuy nhiên, lòng nó cũng có đôi chút thắc mắc: tại sao võ nghệ họ như vậy mà trong

giới giang hồ ai cũng ca tụng môn phái Toàn-Chân, cho môn phái Toàn-Chân là một

môn phái chơn truyền thuộc vào hạng nhất trong thiên hạ.

Phải chăng vì môn đồ đã biếng nhác, tập luyện không đến nơi đến chốn, để cho phái

võ này càng ngày càng đi đến chỗ thất truyền?

Nhưng dù sao, trước mắt nó, với Khưu-xứ-Cơ, Triệu-chí-Kính những kẻ nó đã cho

rằng bất tài thì dẫu nó có thọ giáo cũng chẳng ích gì.

Dương-Qua đã nhồi đi nhồi lại trong óc bao nhiêu ý tưởng như trên. Và cũng chính vì

ý tưởng đó mà sau này lắm chuyện không hay đã xảy đến cho nó.

Dương-Qua thấy sắc mặt sư phụ tỏ ra khó chịu, nghĩ thầm:

- Ta tuy làm lễ thụ giáo, nhận người là thầy thực, song chỉ vì bất đắc dĩ. Dẫu ta có cố

ý vâng lời, gắng công tập luyện một lối võ như ngời rồi ra cũng chỉ làm trò cười cho

thiên hạ.

Nghĩ như thế, nó quay mặt đi, không thèm nói gì đến Triệu-chí-Kính cả.

Triệu-chí-Kính nổi giận, quai mồm ra hét:

- Ta hỏi mi, mi dám to gan không trả lời sao?

Dơng-Qua quay lại nói:

- Su phụ muốn tôi trả lời sao thì tôi trả lời vậy, không cần phải hỏi tôi làm chi.

Triệu-chí-Kính thấy nó vô lễ lòng giận dữ không thể nén được, đưa tay tát vào mặt nó

một cái, trán nó sưng lên một cục bứu rất lớn.

Dương-Qua kêu lên một tiếng, rồi vừa nhón chân khóc vừa chạy vào rừng.

Triệu-chí-Kính đuổi theo kịp, nắm nó lại hỏi:

- Mày chạy đi đâu?

Dương-Qua trừng mắt nói:

- Ông thả tôi ra, tôi không thèm học võ nghệ của ông làm gì.

Triệu-chí-Kính càng giận hơn, quát mắng:

- Đồ vô loại! Mày nói gì thế?

Dương-Qua lúc bấy giờ chẳng cần gì nữa, mắng lại:

- Đạo sĩ hèn hạ! Cứ đánh ta cho chết đi!

Thời xa, bổn phận của học trò đối với thầy được xem là tuyệt đối, tình thầy chẳng

khác gì tình cha con. Trong giới võ lâm cũng thế, sư phụ có quyền xử tử đệ tử, mà đệ

tử chẳng hề dám nói một tiếng. Lúc bấy giờ Dương-Qua dám mở mồm mắng lại

Triệu-chí-Kính là một điều ít trông thấy, một cử chỉ trái nghịch, một hành vi vô đạo.

Do đó, Triệu-chí-Kính mặt tái đi vì giận, khi uất lên đến tuyệt đỉnh, liền đưa tay tát

vào mặt Dương-Qua mấy cái. Dương-Qua né tránh rồi thừa cơ nắm được tay

Triệu-chí-Kính, cắn lấy ngón tay trỏ.

Trước đây Dương-Qua được Âu-Dơng-Phong truyền dạy nội công tuy chưa đến đâu

song cũng có thể sử dụng tạm thời trong các việc lặt vặt. Nó cắn chặt ngón tay

Triệu-chí-Kính, làm cho Triệu-chí-Kính vùng vẫy thế nào cũng không được.

Đau quá, Triệu-chí-Kính hét lớn:

- Muốn sống bỏ ra! Mầy muốn chết sao?

Dương-Qua đã lỡ, không còn biết sợ hãi nữa. Vả lại nó cũng đã đến mức tức quá

không thể nhịn nổi, nên Triệu-chí-Kính càng nói nó lại càng cắn chặt hơn, nhứt là lúc

nó bị Triệu-chí-Kính dùng tay đánh vào đầu vào vai nó.

Triệu-chí-Kính rút tay không ra, bị đau quá cũng không còn e dè gì nữa, dùng tay trái

đánh một chùy thật mạnh vào "Thiên linh cái" của nó, thằng bé bị tê hẳn người đi té

xỉu xuống đất. Nhờ đó Triệu-chí-Kính mới rút tay ra được, thì ngón tay của ông ta đã

đứt thấu xương.

Ngón tay đó, Triệu-chí-Kính có thể dùng kim khâu lại, xức thuốc lành, song, chịu tật,

không cử động lanh lợi được nữa.

Nhìn ngón tay bị thương, Triệu-chí-Kính cơn tức chưa nguôi, dùng chân đá vào mình

Dương-Qua mấy cái cho hả dạ, rồi mới xé áo buộc ngón tay lại.

Nhìn cùng bốn phía, Triệu-chí-Kính không thấy có bóng một người nào, lẩm bẩm:

- May mà không ai thấy, nếu có kẻ biết được thì ta còn gì thể diện.

Triệu-chí-Kính lấy nước rảy vào mặt Dương-Qua cho tỉnh lại. Nhưng thằng bé vừa

tỉnh, nó chồm dậy, xông vào Triệu-chí-Kính toan đánh.

Triệu-chí-Kính trợn tròn đôi mắt, nắm áo trước mặt nó, hét:

- Đồ súc sinh! Mày muốn ta đánh chết sao?

Dương-Qua đôi mắt đỏ ngầu, chưởi lớn:

- Đồ chó má! Mi là đồ đạo sĩ khốn nạn!

Triệu-chí-Kính không còn nhẫn nhục được nữa lấy ngón tay xỉ vào mặt nó một cái.

Như đã đề phòng trước, Dương-Qua tránh khỏi, rồi tiến sát vào đưa tay đánh lại.

Triệu-chí-Kính thoi cho nó mấy cái nữa, làm cho nó xiển niển. Tuy nhiên, thằng bé

vẫn như không biết đau, lì lợm dấn thân vào.

Thật ra, Triệu-chí-Kính chỉ dùng một tay một chân cũng đủ làm cho Dương-Qua thọ

thương song ông ta nghĩ rằng nó là đệ tử mình, nếu đánh nó bị thương tích, lúc trở về

các sư phụ và sư bá hỏi thì biết trả lời làm sao.

Nghĩ thế Triệu-chí-Kính cố tình nhân nhượng.

Nhưng Dương-Qua không biết thế. Cơn giận làm cho nó như điên như dại. Nó lấy hết

sức bình sinh coi như mình đang đứng trước một địch thủ bắt cộng đái thiên, mặc dù

bị đánh té xiển niển, nó vẫn xông đến, không chịu đầu hàng.

Sau một hồi đấm đá liên tiếp, Triệu-chí-Kính thấy mặt mày, mình mẩy Dương Qua

tím bầm, không còn sót chỗ nào, lòng hối hận muốn thôi, không đánh nữa. Song

Dương Qua vẫn một mực nhất định không chịu thôi, buộc lòng Triệu-Chí-Kính phải

dùng tay điểm vào huyệt phía dưới lưng nó, nó mới chịu nằm xoài xuống đất.

ấy thế mà trong lúc nằm xoài dưới đất, đôi mắt nó nộ khí vẫn còn tiết ra ngùn ngụt.

Triệu-chí-Kính nói:

Mày là đứa môn đệ phản nghịch. Mày có chịu sửa lỗi hay không?

Dương-Qua vẫn trợn đôi mắt nhìn Triệu-chí-Kính tỏ vẻ bất phục, mà không nói năng

gì cả.

Triệu-chí-Kính bực bội, bước lại ngồi trên một tảng đá thở hào hển.

Thật ra, Triệu-chí-Kính đấu với một đối thủ võ nghệ cao cường, hơn ba tiếng đồng hồ

liền mà chẳng bao giờ ông ta thở hổn hển như thế. ấy bởi khí tức của ông ta lên quá

cao, làm cho người ông ta mất thăng bằng đó thôi.

Triệu-chí-Kính nhìn đứa học trò mình nằm dài dưới đất, nghĩ đến tánh ngang bướng

của nó, chưa biết nên xử trí thế nào, thì bỗng một hồi chuông từ nơi võ điện vang rền.

Đó là tiếng chuông chiêu tập môn đệ của vị giáo trưởng Mã-Ngọc.

Triệu-chí-Kính nghe tiếng chuông giật mình, quay lại bảo Dương-Qua:

Nếu từ rày trở đi mày còn ngang bướng vô lễ như thế thì ta đánh đến chết không tha.

Nói đoạn, Triệu-chí-Kính lấy ngón tay ấn vào huyệt để giải đau cho Dương-Qua.

Nào ngờ Dương-Qua vừa nhỏm dậy lại xông vào đánh nữa.

Triệu-chí-Kính tức giận, nói:

- Tao không đánh mày nữa sao mày lại làm thế?

Dương-Qua hậm hực nói:

- Từ nay trở đi người còn đánh nữa chăng?

Tiếng chuông giục vang hồi khiến cho Triệu-chí-Kính không còn thì giờ nói nhiều

hơn.

- Mày mà không chừa tật hỗn ẩu, vô lễ thì ta còn đánh mãi, đánh đến chết mới thôi.

Dương-Qua nói:

- Thế càng tốt! Nếu không đánh ta, ta gọi bằng sư phụ, còn nếu cứ đánh mãi, ta chẳng

thèm nhận là sư phụ nữa.

Triệu-chí-Kính cười chua chát, gật đầu nói:

- Trường giáo triệu tập chúng ta về võ điện. Thôi hãy trở về nhận lệnh đã, bữa khác sẽ

hay.

Thấy Dương-Qua áo quần tơi tả, mặt mày tím bầm, sợ có người trông thấy hỏi nó, nó

nói thật thì danh dự làm thầy của Triệu-chí-Kính còn gì, Triệu-chí-Kính lòng lo lắng,

cực chẳng đã phủi lại quần áo và lau mặt cho thằng bé nắm tay nó dắt về võ điện.

Bây giờ nơi điện Trùng-Dương cung đã được cáo đạo sĩ dựng lên mười mấy túp lều

tranh, xây cất trên nền cũ. Triệu-chí-Kính và Dương-Qua về đến nơi thì ai vào phòng

nấy, chỉ còn có Mã-Ngọc Khưu-Xứ-Cơ và Dương-xứ-Nhất hãy còn ngồi ở bên ngoài.

Mã-Ngọc vỗ tay ra hiệu, mọi người đều im bặt. Giọng ông sang sảng nói:

- Trường-Sinh chân nhân sai Thành-Tinh từ Sơn-Tây đến, cho biết bên ấy tình thế rất

nguy ngập, Trường-Xuân và Ngọc-Dương chân nhân đã tới ứng điện, nay yêu cầu ta

và đệ tử đi cứu ứng đây.

Mọi đạo sĩ nhìn nhau tỏ ra rất phẫn uất.

Tiếp theo đó, Khưu-xứ-Cơ đọc danh sách mười đạo sĩ đã được lựa chọn ra đi. Ông ta

nói:

- Các ngươi sửa soạn hành lý để sáng sớm theo ta.

Các đạo sĩ xôn xao bàn tán:

- Lý-mạc-Thu chẳng qua là một nữ nhi, vì sao Trường-Sinh chân nhân và Lưu sư thúc

không địch nổi?

Có người nói:

- Nếu Khưu xứ bá và Vương sư thúc đến đó thì chắc Lý-mạc-Thu phải cúi đầu hàng

phục.

Trong lúc mọi người đang bàn tán thì Khưu-xứ-Cơ bước đến bên Triệu-chí-Kính nói:

- Ta muốn đem ngươi theo ta, nhưng thấy ngươi không thể trễ tràng việc giáo dục

Dương-Qua nên đành phải để ngươi ở lại.

Đoạn ông ta liếc mắt nhìn Dương-Qua, thấy thằng bé mặt tím bầm, ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao thế? Ai đánh cháu thế này?

Triệu-chí-Kính lo sợ nếu Dương-Qua kể ra sự thật ắt Khưu-xứ-Cơ sẽ quở trách, nên

hốt hoảng đưa mắt nhìn Dương-Qua với thái độ trấn an. Nhưng, Dương-Qua làm ngơ

không thèm để ý.

Khưu-xứ-Cơ giận dữ nói:

- Đứa nào đánh cháu thế nầy thật là đốn mạt! Cháu hãy nói rõ cho ta biết.

Câu nói ấy càng làm cho Triệu-chí-Kính bối rối hơn. Song Dương-Qua tỏ vẻ bình thản

nói:

- Không có ai đánh cháu cả. Vì vô ý, cháu bị vấp ngã trong hang núi.

Khưu-xứ-Cơ không tin, hét lớn:

- Đừng nói dối! Làm thế nào lại bị vấp ngã mà bầm mặt mày nhiều chỗ như vậy?

Dương-Qua thưa:

- Vì sư phụ con có dặn lúc nào cũng để tâm đến võ nghệ, do đó con lãng ý nên bị rủi

ro.

Nghe nói thế, Khưu-xứ-Cơ hỏi dồn:

- Rồi sao? Rồi vì đâu bị vấp ngã như thế?

Dương-Qua thưa:

- Thấy sư phụ dạy thế con không muốn phụ lòng sư phụ, luôn luôn nghĩ đến việc học

hành...

Những lời nói khôn ngoan của Dương-Qua khiến Triệu-chí-Kính rất hài lòng, nét mặt

dịu lại.

Dương-Qua kể tiếp:

- Nào ngờ, đột nhiên có một con chó dại đến cắn cháu. Cháu đánh nó, nó vẫn cứ sấn

lại làm dữ, cháu sợ nó cắn trúng nên thoát thân, chạy trốn. Trong lúc vội vàng cháu sơ

ý trượt chân té xuống hang đá. May sao gặp sư phụ và nhờ sư phụ đến lôi cháu dậy.

Khưu-xư-Cơ bán tin bán nghi, đưa mắt nhìn Triệu-chí-Kính có ý hỏi dò hư thực thế

nào.

Triệu-chí-Kính nét mặt hầm hầm, giận dữ nói:

- Mày xấc láo đến mức đó là cùng! Tại sao mày lại dám gọi ta là loài chó dại?

Khưu-xứ-Cơ ngạc nhiên, nhìn Triệu-chí-Kính không hiểu ra sao cả.

Triệu-chí-Kính trong lúc nóng nảy đã lỡ lời trước mặt Khưu-xứ-Cơ còn biết giấu giếm

thế nào nữa. Nếu đồng lõa với Dương-Qua lừa dối Khưu-xứ-Cơ thì cũng khốn, mà nói

thực ra thì cũng chẳng yên.

Triệu-chí-Kính quay sang Khưu-xứ-Cơ thưa:

- Dạ dạ! Đúng là đệ tử có vực nó dậy.

Chẳng biết Khưu-xứ-Cơ có thật tin lời Triệu-chí-Kính không, chỉ thấy ông ta nét mặt

lạnh nhạt rồi nói lảng sang chuyện khác:

- Ta đi rồi, ngươi phải rán sức truyền thụ cho Dương-Qua những huyền công của bản

môn. Cứ mười ngày một lần phải lên trình với Mã sư bá, để Mã sư bá xem xét lại.

Triệu-chí-Kính lòng không vui đối với đứa đồ đệ như Dương-Qua, song Khưu-xứ-Cơ

đã dặn dò không dám nói gì hơn phải cúi đầu vâng lệnh.

Dương-Qua lúc đó thích thú lắm, vì nó đã ám chỉ sư phụ nó là một con chó dại mà sư

phụ nó không dám phản đối. Nó không để ý gì đến lời dặn dò của Khưu-Xứ-Cơ nữa.

Khưu-Xứ-Cơ vừa bước đi được mười bước, lửa giận phừng phừng bốc lên làm cho

Triệu-chí-Kính không còn dằn được nữa, ông ta đưa tay đánh mạnh vào đầu

Dương-Qua một cái. Dương-Qua kêu lớn:

- Khưu tiên sư! Khưu tiên sư!

Khưu-xư-Cơ ngoảnh lại hỏi:

- Cái gì thế?

Tay của Triệu-chí-Kính vẫn còn giơ lên ngay đầu Dương-Qua nên không chối cãi vào

đâu được nữa. Triệu-chí-Kính vừa tức vừa ngượng cúi đầu không nói.

Dương-Qua chạy về phía Khưu-xứ-Cơ, mếu máo khóc và nói:

- Thưa tiên sư, tiên sư đi rồi không ai che chở cháu, chắc là các sư bá, sư thúc sẽ đánh

con đến chết mà thôi.

Khưu-xứ-Cơ nhìn mặt Dương-Qua quát:

- Đừng nói bậy, làm gì có việc như thế!

Tuy bên ngoài Khưu-xứ-Cơ vẻ nghiêm khắc song bên trong nghĩ đến đứa bé thân cô

thế quả, mồ côi cha mẹ, động lòng thương liền gọi Triệu-chí-Kính bảo, ta giao đứa bé

này cho ngươi, nếu lúc ta trở về có gì sơ xuất ta sẽ quả trách ngươi đấy.

Triệu-chí-Kính không biết nói sao chỉ biết cúi đầu nghe dạy.

Ngày hôm ấy, sau bữa cơm chiều, Dương-Qua hăm hở chạy đến một gian nhà tranh,

cửa phòng của Triệu-chí-Kính sư phụ nó.

Vừa bước vào, thấy Triệu-chí-Kính, nó đã vồn vã nói:

- Sư phụ!

Giờ ấy là giờ các đạo sĩ Trùng-Dương điện đang luyện võ công.

Triệu-chí-Kính ngồi xếp bằng trên một tấm ván, đang chú mục nhìn xa xăm, bỗng

thấy thằng bé chạy vào, với dáng điệu ấy, Triệu-chí-Kính suy nghĩ:

- Thằng nhỏ nầy thật ranh mãnh, tinh ma. Ngay bây giờ nó đã bướng bỉnh, hỗn xược,

nếu nó học được thành tài thì nó còn kể ai vào đâu nữa. Dạy nó thật hoài công. Tuy

nhiên, Đạo trưởng đã có lời truyền, nếu ta những tận tâm chỉ dạy thì cũng không

được.

Lòng Triệu-chí-Kính thắc mắc mãi, nghĩ chưa ra lối thoát.

Thấy sư phụ ngồi im lìm, thằng bé chậm rãi bước đến mỉm cười.

Cử chỉ ấy lại gieo vào lòng Triệu-chí-Kính một cái gì chán ghét. Thốt nhiên,

Triệu-chí-Kính nghĩ ra được một giải pháp, bụng bảo dạ:

- Được, ta cứ cho nó học một số ít trăm câu ca về môn huyền công, còn mánh khóe về

võ nghệ ta chỉ dạy đến nửa chừng mà thôi. Như vậy nó không thể nào đến mức điêu

luyện được. Sau nầy đạo trưởng có hỏi đến, ta cứ đổ thừa cho nó là đứa biếng nhác,

không chịu cố gắng học hành.

Nghĩ như thế, nét mặt Triệu-chí-Kính bỗng tươi hẳn lên. Ông ta quay về phía

Dương-Qua nói:

- Qua nhi! Con đã đến đó sao?

Dương-Qua nói:

- Hôm nay có đánh ta nữa chăng?

Cũng vẫn với giọng hỗn láo đó, song Triệu-chí-Kính không thèm giận dữ như trước,

nói:

- Ta truyền võ nghệ cho con nào có đánh đập con làm gì? Từ nay con phải lo học tập

mới được.

Dương-Qua thấy thái độ Triệu-chí-Kính đổi khác, đổi một cách nhanh chóng ngoài sự

ức đoán của nó lên lấy làm lạ, dần dần tiến lại gần, tuy chưa được yên trí lắm.

Triệu-chí-Kính liếc mắt nhìn nó với thái độ ung dung, chẳng tỏ ý gì thù oán nó, nói:

- Môn phái Toàn-Chân của ta luyện tập võ nghệ không giống các môn phái khác. ở

đây chúng ta luyện tập từ trong ra ngoài chứ không phải từ ngoài vào trong. Bây giờ

ta truyền cho con tâm pháp, con phải cố công học cho thuộc lòng.

Dứt lời Triệu-chí-Kính đọc một mớ khẩu quyết về nội công của môn phái Toàn-Chân.

Dương-Qua vốn thông minh hơn người, chỉ học qua là thuộc làu hết. Tuy nhiên, qua

những vết nứt rạng giữa tình sư đệ, qua những trạng thái đổi thay bất ngờ của

Triệu-chí-Kính. Dương-Qua nghĩ rằng: có lẽ Triệu-chí-Kính đã đem những khẩu

quyết giả mạo để dạy nó lấy lệ, làm cho nó mất thời giờ đi chăng?

Nghĩ như vậy, nó giả vờ quên một vài đoạn đến hỏi Triệu-chí-Kính thì Triệu-chí-Kính

cũng nói y như vậy.

Mặc dầu thế, nó vẫn chưa tin cách đó, hai ngày nó lại giả quên và hỏi lại nữa. Nhưng

lần nào Triệu-chí-Kính cũng nói không khác.

Nó tin lời, cho khẩu quyết đó không phải là thứ giả.

Trong khoảng mười ngày, Triệu-chí-Kính không dạy món gì ra khác hơn là khẩu

quyết. Ngoài ra việc tập luyện võ nghệ thì Dương-Qua không hề biết đến một mảy

may nào.

Đúng ngày thứ mười, Triệu-chí-Kính đưa nó đến trình với Mã-Ngọc, và bảo là đã

truyền cho nó bảo môn tâm pháp. Triệu-chí-Kính ra lệnh cho Dương-Qua đọc lại

khẩu quyết cho Mã-Ngọc nghe.

Nó đọc không sót một chữ nào, khiến cho Mã-Ngọc phải tấm tắc khen thầm:

- Thằng bé nầy thông minh đáo để. Sau này ắt nó phải trở thành một tay võ hiệp siêu

quần trong phái Toàn-Chân.

Mã-Ngọc đâu có ngờ quỉ kế của Triệu-chí-Kính!

Mấy tháng trời trôi qua như chớp, thấm thoắt đã đến mùa đông! Dương-Qua bấy giờ

cũng chỉ thuộc làu một mớ khẩu quyết để khi cần đàm luận võ nghệ có thể nói thao

thao bất tuyệt, còn việc thực hành chẳng biết một mảy may. Tài năng và trí tuệ tuyệt

vời của thằng bé cũng đành vô dụng.

Qua mười ngày đầu, Dương-Qua đã cảm thấy được ác ý của Triệu-chí-Kính, sư phụ

nó, nhưng nó như con chim nhốt trong lòng, ai muốn cho ăn gì tùy ý, đâu dám đòi hỏi

gì hơn.

Oán hận của nó mỗi ngày một tăng, cấu kết trong tiềm thức mà không có một ai để ý

giãi bày. Nó nóng lòng đợi Khưu tổ sư về nhưng chờ mãi vẫn chưa thấy.

Hình như, nơi Trùng-Dưuơng điện chẳng phải mình sư phụ nó có ác ý với nó, mà nó có

cảm giác mọi người nơi đó ai cũng ghét nó. Do đó, nó thấy chán ngán truớc cuộc

sống cô đơn, không người tâm sự. Tuy không nói ra mà lòng nó khinh thị tất cả

những ai gọi là môn phái Toàn-Chân.

Về phần Triệu-chí-Kính, ông ta lấy làm đắc ý khi thay Dương-Qua không thi thố nổi

tài năng. Thường khi thấy Dương-Qua chôn vùi trí óc trong mớ khẩu quyết vô dụng

kia. Triệu-chí-Kính tự bảo:

- Mày hỗn láo với sư phụ mày rốt cuộc mày chỉ mang thiệt thòi vào thân!

Trời đông tuyết đổ mỗi lúc một nhiều. Chẳng mấy chốc mùa đông cũng sắp hết.

Theo thông lệ của Tổ sư Trùng-Dương cung truyền lại, hàng năm cứ gần đến đêm trừ

tịch có tổ chức một cuộc so tài trong võ điện mục đích để kiểm điểm lại tài năng từng

người và sự tiến triển của môn phái qua một năm rèn luyện.

Các đạo sĩ thấy ngày so tài gần đến, ai nấy chăm chú tập luyện không lúc nào nghỉ.

Họ mơ đến ngày rằm tháng chạp, cái ngày trăng tròn vành vạnh, đó là cái ngày mọi

người chứng kiến cho công trình học tập của mỗi vị đạo sĩ Trùng-Dương cung.

Lúc đó, môn đệ phái Toàn-Chân phân ra nhiều nhóm, cứ mỗi nhóm nhỏ đấu nhau thì

gọi là cuộc so tài sơ bộ. Kẻ nào thắng ở hiệp sơ bộ mới được vào đấu các hiệp tuyển

chọn.

Mã-Ngọc cùng với các đệ tử lớn nhỏ hợp thành một nhóm, Khưu-xứ-Cơ cùng với đồ

đệ lớn nhỏ họp thành một nhóm, còn nhóm thứ ba là nhóm Đàm-xứ-Thụy.

Tuy Đàm-xứ-Thụy đã qua đời song đệ tử của Đàm-xứ-Thụy toàn là những tay cự

phách. Do đó Mã Ngọc, Khưu-xứ-Cơ tỏ lòng nhớ tiếc một đạo hữu sớm qua đời

thường nhắc nhở môn đệ của Đàm-xứ-Thụy, và dành riêng cho Đàm-xứ-Thụy một

vinh dự.

Mỗi năm đến ngày chánh thức so tài thì môn đệ ba nhóm ấy được họp mặt, tuyển

dụng.

Năm nay Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất v.v... đi chưa về, chỉ còn có Mã-Ngọc,

Xích-đạo-Thông ở nhà, hai người nầy trấn giữ võ điện.

Tuy nhiên, khác mọi năm, năm nay Trùng-Dương cung vừa xảy ra một tai biến nên cá

nhân mỗi người trong môn phái đều cố tâm rèn luyện võ công, cốt làm sao cho tiếng

tăm của môn phái khỏi suy kém, và môn phái chính thống này khỏi mai một.

Thật vậy, đã mười năm nay, các đệ tử cừ khôi trong môn phái đều phiêu lưu tản mác

chỉ còn lại một vài vị tiên sư cầm đầu có bản lĩnh, còn các môn đệ đều chưa mấy

thuần phục.

Đúng vào giờ ngọ ngày hôm ấy cứ theo thứ tự đã định sẵn, Triệu-chí-Kính,

Thôi-chí-Phương tụ tập ở Đông-nam nơi khoảng đất trống cùng nhau kiểm điểm lại

lối tổ chức hàng năm trong vũ điện, và chủ tọa cuộc so tài sơ bộ của lớp đệ tử nhỏ

tuổi gọi là "đệ tử đại đệ tử".

Lớp đệ tử nầy liền biểu diễn quyền thuật, hoặc múa đao, múa kiếm, múa các vũ khí

nhẹ ngắn, hoặc vận dụng nội công tùy theo sở trường mỗi người, và tất cả đều do

Triệu-chí-Kính phê bình để thẩm định hơn thua.

Nhưng "đệ tử đại đệ tử" là gì?

Toàn-Chân môn phái do Vương-trùng-Dương khai sáng gọi là vị tổ sư. Mã-Ngọc cùng

trong bọn bảy đạo sĩ kia là học trò tổ sư nên liệt vào hạng "đệ nhị đại đệ tử". Còn

Dương-Khang, Triệu-chí-Kính, Doãn-chí-Bình v.v đều là học trò của bảy vị kia, nên

gọi là "đệ tam đại đệ tử". Đến lớp nhỏ tuổi như Dương-Qua và đồng bọn đều là học

trò của lớp "đệ tam đại đệ-tử" nên gọi là "đệ tử đại đệ tử".

Dương-Qua nhập vào hạng đệ-tử đại đệ-tử sau cùng nên ngồi ở sau rốt.

Nhìn thấy các tiểu đạo sĩ khác cũng lớp tuổi với mình mà ai nấy quyền thuật đều có

vẻ tinh thục hơn, mỗi người đều chuyên môn một ngón, Dương-Qua thấy bực bội và

oán hận trong lòng.

Triệu-chí-Kính nhìn thấy nét mặt nó có vẻ giận dữ oán hờn thì lại muốn cho nó xuất

trận để các đệ tử khác thấy cái bất tài của nó mà chê cười cho bõ ghét.

Ông ta đợi đến lúc hai tiểu đạo sĩ so tài xong, cất khí giới rồi thét gọi Dương-Qua:

- Dương Qua! Ra đấu đi!

Dương-Qua đứng ngẩn người ra nghĩ bụng:

- Chưa dạy người ta một chút võ nghệ nào mà bảo người ta đấu là đấu cái quái gì chớ?

Trong lúc Dương-Qua đang chần chờ, thì Triệu-chí-Kính lại gọi:

-Dương-Qua! Có nghe ta gọi không! Hãy mau ra đấu trường!

Bị gọi nhiều lần như thúc giục, Dương-Qua không biết làm sao bước tới trước mặt

Triệu-chí-Kính xá dài, và nói:

- Đệ tử là Dương-Qua kính trình diện sư phụ.

Trong Toàn-Chân phải phần đông là những kẻ tu hành, song cũng có một số ít như

Dương-Qua, không thuộc hẳn vào hạng tu hành cho nên lúc chào hỏi, lúc yết kiến có

những cử chỉ khác hơn.

Thấy Dương-Qua bước đến cúi đầu chào, Triệu-chí-Kính chỉ tay vào đấu trường

thách:

- Có tiểu đạo sĩ nào dám đấu với Dương-Qua chăng?

Một tiểu đạo sĩ nghe Triệu-chí-Kính nói, ung dung bước ra đấu trường. Vị tiểu đạo sĩ

này thân hình vạm vỡ, to béo hơn Dương-Qua nhiều.

Dương-Qua chần chờ không dám bước ra. Triệu-chí-Kính vẫy tay nói với Dương-Qua:

- Nó không lớn gì hơn người bao nhiêu đâu, người hãy ra tỉ thí với nó xem nào?

Dương-Qua thưa:

- Đệ tử chưa học được một môn võ thuật đâu dám cùng với đạo huynh tỉ thí.

Triệu-chí-Kính nổi giận hét:

- Ta đã dạy ngươi hơn nửa năm võ nghệ, tại sao ngươi lại nói chưa học một môn nào?

Thế thì nửa năm nay ngươi làm cái trò trống gì?

Dương-Qua không biết trả lời sao đành đứng im cúi đầu xuống.

Triệu-chí-Kính nói:

- Mày lười biếng, ham chơi, chẳng khổ công tập luyện, quyền thuật chẳng ra gì không

dám thi thố với đồng bạn thực là hổ nhục. Ta hỏi mi: Chân tay tiến đều, ngang dọc

múa còn câu dưới là gì?

Dương-Qua đáp:

- "Tay múa lung tung đâu vào đấy".

Triệu-chí-Kính khen:

- Đúng! Vậy ta hỏi mi: "Hai phép sanh khác tùy nghi" còn câu dưới là gì?

Dương-Qua đáp:

- "Né tiến tùy theo thế đối phương".

Triệu-chí-Kính mỉm cười, nói:

- Giỏi lắm! Không sai một chữ. Thế thì mi đem cái biết ấy ra đấu trường mà áp dụng

xem sao.

Dương-Qua sợ sệt nói:

- Đệ tử chẳng hiểu gì về những câu khẩu quyết đó.

Triệu-chí-Kính bề trong tuy thích chí, nhưng bề ngoài làm ra vẻ giận dữ quát mắng:

- Học hành gì mi! Học khẩu quyết rồi thì phải tập luyện! Còn dùng dằng mãi chẳng

chịu ra chiến đấu ?

Các đạo sĩ nghe Dương-Qua đọc khẩu quyết không sai chữ nào thế mà khi ra tỉ thí thì

lại khiếp sợ, nên xúm nhau khích lệ, kẻ bỉm môi, người giục giã với luận điệu gần

như châm biếm.

Bao nhiêu ác cảm hình như đổ dồn vào Dương-Qua.

Nguyên nhân chỉ vì lúc Quách Tỉnh lên núi đã đem sức mình hạ mấy tên cự phách

trong môn phái Toàn-Chân nhục nhã ấy còn ghi trong lòng các đạo sĩ Trùng-Dương

điện. Thế rồi bao nhiêu bực tức đổ dồn vào Dương-Qua, ai trông thấy Dương-Qua

cũng đều nhớ lại cái ngày bại trận xấu hổ đó.

Thật ra, cùng một môn phái, cùng là bạn mà những người có thái độ như thế đâu phải

chính đáng. Âu cũng là thói thường, trong thiên hạ. Mà chốn Trùng Dương cung nào

phải ai cũng tốt đâu.

Dương-Qua thấy mọi người đến thúc giục mình, mỉa mai mình lòng tự ái nổi lên,

không đằng được, nghĩ thầm:

- Bữa nay ta liều chết một phen xem sao!

Nghĩ đoạn, nó xông ra đấu trường múa máy tay chân, đưa thẳng tay lên bổ vào đầu

tiểu đạo sĩ đối thủ.

Tiểu đạo sĩ kia thấy Dương-Qua bộ tịch khác thường, không theo nguyên tắc của môn

phái, không biết tiến thoái theo phép vũ thuật chỉ múa lung tung, lấy làm lạ chưa dám

đụng thế, cứ lùi mãi.

Dương-Qua hăng quá đánh thí thân, tấn công địch thủ đủ mọi mặt mà không cần tự

vệ.

Tiểu đạo sĩ địch thủ lùi hoài bất giác nhận thấy chỗ sơ hở của Dương-Qua, liền dùng

thế "Phong thảo lạc diệp" nghĩa là gió quét lá rụng, đánh vào chân, làm cho

Dương-Qua mất đà ngã sấp xuống đổ máu mũi máu mồm chảy ra một lượt.

Các tiểu đạo sĩ đứng xem thấy Dương-Qua bị thương rộ lên cười một lượt.

Dương-Qua thấy thế càng căm tức hơn, không còn biết đau đớn là gì, chờm dậy chân

đá tay đấm lăn xả vào địch thủ.

Tiểu đạo sĩ địch thủ thấy nó hầm hầm nét mặt, xông đến tấn công như vũ bão, chỉ còn

biết né tránh. Dương-Qua cứ một mặt đánh bừa, không kể gì đến nguyên tắc võ biền

nữa. Hắn cúi đầu lủi vào nắm chân trái của đối thủ vật xuống.

Đối thủ luồn tay mặt qua một bên, cứ hông Dương-Qua đánh thốc tới, dùng theo thế

"Thiên thân đảo huyền" để cứu nguy việc bị địch thủ bẻ cẳng.

Dương-Qua lúc trước một thời gian ở Đào-hoa đảo chẳng luyện tập gì hết, từ ngày tới

Trùng-Dương cung thấm thoắt đã hơn nửa năm cũng chẳng luyện được một miếng võ

nào. Nhưng vì máu hăng của nó xông lên ngùn ngụt, nên nó chưa thấy đau thấm tới.

Địch thủ lấy làm lạ, chẳng biết vì sao nó nhỏ bé như thế kia mà đánh mãi vẫn không

chuyển. Tiểu đạo sĩ định thử, liền vận dụng hết sức mình, thoi vào hông Dương-Qua

một cái đích đáng.

Lần nầy Dương-Qua bị đau điếng cả người. Nhưng lạ thay nó càng đau lại càng hăng

lên. Nó bỏ chân trái của địch thủ ra, rồi lại xông vào nắm lấy chân phải.

Địch thủ bị hắn lao vào quá mạnh, giật mình mất thăng bằng. Nhân đó, hắn bồi vào

một chùy trúng ngay quai hàm, địch thủ phải ngã ngửa ra, nằm sải dưới đất như một

tấm ván.

Nó xông tới! Đạo sĩ địch thủ thừa cơ vận nội công vào mông và hai bàn tay, tung

người đá bật vào ngực Dương-Qua.

Dương-Qua chụp được chân, lật trái một vòng, làm cho đối thủ lăn tròn như chiếc vụ.

Bị đau quá, đạo sĩ đối thủ không còn chịu nổi nữa, đứng dậy nói:

- Dương-Qua! Ta xin cầu hòa!

Ban chấm điểm thấy thế tưởng rằng đối phương đã chịu hòa thì Dương-Qua ngưng

đấu, ngờ đâu nó vẫn cứ xông vào đánh mãi, càng đánh càng hăng, càng đánh càng

dẻo, chỉ vài ba đòn kế tiếp, đạo sĩ đối thủ phải bị vọt máu mũi, nằm sải dưới đất.

Các đạo sĩ đứng xem thấy sợ để Dương-Qua hung hăng quá sẽ gây tai họa, liền bảo

phải thôi đấu.

Mặc kệ, Dương-Qua như một đứa điên dại, cứ đấm đá liên hồi. Đối thủ lùi bao nhiêu

thì Dương-Qua tiến tới bấy nhiêu, cuộc đấu võ trở thành một cuộc đuổi bắt buồn cười.

Dương-Qua từ ngày lưu lại Chung-Nam sơn đến nay đã nửa năm, có lẽ khí uất tích

lũy lâu ngày chỉ chờ đợi có dịp là phát tiết ra. Thì ngày hôm nay chính là dịp để cho

Dương-Qua phát tiết cái uất khí trong người nó vậy.

Do đó càng đánh nó càng hăng, khí uất đã làm cho nó không còn biết đau đớn gì nữa.

Đến cuối cùng, đối thủ của nó chịu không nổi la lên cầu cứu.

Thấy đối thủ cứ chạy mãi, miệng la ôi ối, Dương-Qua hét:

- Đạo sĩ khốn kiếp! Đồ đểu giả! Hèn mạt!

Câu mắng đó chẳng những Dương-Qua mắng đạo sĩ đối thủ của nó mà nó có ý mắng

tất cả các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà nó cho là thù địch với nó.

Các đạo sĩ đứng xem nghe Dương-Qua mắng chưởi bừa bãi, nghĩ thầm:

Thằng bé nầy không được dạy dỗ cẩn thận ắt sau sẽ trở thành một phường phản phúc.

Ai nấy đều nhìn Dương-Qua với thái độ căm tức.

Giữa lúc đó thì Dương-Qua rượt đối thủ của nó, miệng vẫn la chưởi om sòm. Còn đối

thủ của nó như đã mệt sức, kêu lớn:

- Sư phụ ơi! Sư phụ ơi! Cứu con với.

Triệu-chí-Kính thấy thế hét lên:

- Hãy ngừng trận đấu! Dương-Qua!

Mặc cho lời kêu gào của Triệu-chí-Kính, Dương-Qua vẫn đuổi theo đối phương, như

muốn bắt lấy đối phương để giộng đầu xuống đất cho hả giận.

Bây giờ, trong đám đạo sĩ lớn tuổi, có một người quá nóng lòng vùng chạy ra đấu

trường, nắm cổ Duơng-Qua ghì chặt lại.

Vị đạo sĩ này to lớn, mập mập, cử chỉ rất lanh lẹ.

Đạo sĩ ấy đưa tay đấm mạnh vào đầu vào cổ Dương-Qua lia lịa, miệng hét lớn:

- Đồ phản phúc! Đồ nhãi ranh!

Dương-Qua quay đầu lại nhìn thấy vị đạo sĩ đó là Tỉnh-Quang. Nó nhớ lại lúc nó mới

đến Trùng-Dương cung, chính nó đã làm nhục vị đạo sĩ nầy.

Thực vậy, Tỉnh-Quang đã hậm hực thù oán Dương-Qua từ mấy tháng trường, mối thù

ấy cấu kết vào lòng, trong cho có dịp là ra tay. Nay nhân chỗ sơ hở của Dương-Qua,

Tỉnh-Quang dại gì không thừa cơ hội ấy.

Hắn dùng toàn những miếng đòn độc đánh Dương-Qua cho hả dạ.

Về phần Dương-Qua, khi liếc thấy bộ mặt căm hờn của Tỉnh-Quang nó đã có cảm

giác thấy trước việc chẳng lành. Song nó bị Tỉnh-Quang nắm lấy cổ không làm sao

giãy giụa được.

Sau mấy tràng cười gắn, Tỉnh-Quang dùng bàn tay chặt vào gáy của Dương-Qua như

đánh một kẻ thù, và nói:

- Mày không nghe lời các bậc sư phụ, mày là đứa học trò ương ngạnh, bội thầy phản

bạn, trong môn phái ta ai đánh mi cũng được.

Dứt lời Tỉnh-Quang lại tiếp tục đánh nữa.

Trong đám đạo sĩ đứng xem có Thôi-chí-Phương là người chính trực, thấy Dương-Qua

ra tỉ thí mà chẳng hề biết gì vũ công của bản môn, lòng nghi hoặc sự hẹp hòi cùa

Triệu-chí-Kính, lại đoán biết có điều gì tư vị thù hằn, khi thấy Tỉnh Quang dùng

những ngón độc đánh Duơng-Qua mà chẳng ai nói rằng gì cả, liền xông vào, quát:

- Tỉnh-Quang! Tỉnh Quang! Không được đánh nữa.

Tỉnh-Quang nghe tiếng quát của sư thúc Thôi-chí-Phuơng, tuy không bằng lòng, song

cũng đành phải buông Dương-Qua ra, nói:

- Dám thưa sư thúc! Tôi đoán rằng sư thúc chưa rõ tính tình của thằng nhóc xảo quyệt

nầy. Nó cứng cổ lắm, chẳng thèm nghe theo lời chỉ giáo của sư phụ. Nếu cứ dung thứ

nó mãi thì trong môn phái chúng ta chẳng còn qui củ nào nữa.

Thôi-chí-Phương như chẳng nghe lý luận của Tỉnh-Quang, chạy đến trước mặt

Dương-Qua nhìn thấy miệng mũi nó đầy máu, mặt sưng húp, tím bầm, động lòng

thương, ôn tồn hỏi:

- Dương-Qua! Sao sư phụ dạy dỗ mà chẳng ráng tập tành để đến ngày tỉ thí lại đánh

loạn đả như thế? Nguyên tắc võ chẳng rành rẽ.

Dương-Qua lòng hậm hực, phát hiện ra cả tiếng nói, nó đáp:

- Sao tiên sư lại nói thế? Tiên sư không biết rằng sư phụ tôi không hề dạy cho tôi một

chút võ nghệ nào sao?

Thôi-chí-Phương nói:

- Ta đã nghe mi đọc khẩu quyết không sai một chữ, lẽ nào mi lại chưa được tập

luyện?

Lời nói của Thôi-chí-Phương làm cho Dương-Qua nhớ lại lúc nó còn ở Đào-hoa đảo

Hoàng Dung đã dạy cho nó nào Mạnh Tử, Luận-ngữ, nào Đại-học, Trung-Dung, nay

đến Triệu-chí-Kính thì dạy nó khẩu quyết những món chỉ để nhồi sọ nó, thực ra

không đem ra áp dụng trong thực tế được chút nào. Nghĩ như thế nó oán hận và nghi

hoặc cả loài người. Nó tưởng không còn ai thực tâm thương nó nữa.

Và cũng vì nghĩ thế, nó quắc mắt nhìn Thôi-chí-Phương, nói:

- Đấu võ không đấu bằng miệng mà phải đấu bằng tay chân. Sư phụ tôi chỉ dạy tôi

bằng miệng thì làm sao đấu với ai được. Nếu kẻ nào đấu võ bằng miệng thì lối dạy

của sư phụ tôi quyết chẳng thua ai.

Thôi-chí-Phương lòng nghi ngờ chưa tin lời nó là thật, nên muốn thử xem nó có tập

luyện ít nhiều chăng, liền làm ra vẻ giận dữ quát mắng:

- Mi ăn nói hỗn xược với bề trên như thế sao?

Dứt lời, Thôi-chí-Phương dùng tay đánh vút xuống đầu nó.

Miếng đánh ấy nếu kẻ nào không chân truyền tập luyện theo phái Toàn-Chân sẽ phải

ngã gục ngay tức thời. Còn những người đã tập luyện có thể dùng "nhu chế cương, hư

chế thực" mà trừ được.

Nhưng lạ thay! Dương-Qua không hề đỡ mà đầu nó chỉ rung lên một chút, rồi lùi lại

đằng sau mấy buớc chớ không bị ngã.

Thôi-chí-Phương thuộc vào hạng tam đại đệ tử của Toàn-Chân phái, là một trong

những tay cự phách cao thủ, tuy không giỏi bằng Triệu-chí-Kính song cũng đủ sức

dọc ngang trong giới giang hồ.

Thấy mình đánh một đòn nội công mà Dương-Qua chịu nổi, Thôi-chí-Phương lấy làm

ngạc nhiên tự nghĩ:

- Cứ như sức đề kháng này thì ít ra nó cũng phải luyện trên mười năm nội công mới

chịu nổi chứ nó vừa nhập môn trên sáu tháng làm gì có bản lãnh dường ấy? Nhưng

nội công đã khá tại sao lúc giao đấu nó lại đánh loạn đả như thế?

Thôi-chí-Phương thắc mắc mãi vẫn không tìm hiểu nổi. Vì Thôi-chí-Phương có biết

đâu rằng trước kia Mã-Ngọc đem bí thuật của Toàn-Chân truyền lại cho Quách-Tỉnh,

Quách-Tỉnh truyền lại cho Tần-nam-Cầm. Trong mấy năm trời, Dương-Qua đã học

phép nội công của Tần-nam-Cầm cho nên trong lúc giao đấu Dương-Qua không biết

ngón đánh nào hay mà căn bản nội công của nó rất vững chắc, có thể ngang với người

đã từng rèn luyện trong mười năm.

Dương-Qua bị Thôi-chí-Phương giáng cho một đòn như thế càng giận, dẫu ông trời nó

chưa nể huống hồ Thôi-chí-Phương. Nó lao đầu đến, đánh vào bụng Thôi-chí-Phương

một thoi.

Thôi-chí-Phương né sang một bên, và rất đắc ý như đã tìm thấy được trình độ võ công

của Dương-Qua, mỉm cười bảo Tỉnh-Quang:

- Tỉnh Quang! Ra mà đấu với Dương-Qua! Nhưng chớ đánh nó mạnh nghe.

Tỉnh Quang đã hờm sẵn, chỉ còn có lời nói ấy là nhảy ra đánh Dương-Qua lập tức.

Dương-Qua cũng không nhịn, đâm bổ vào Tỉnh-Quang. Nhưng hễ Dương-Qua đâm

vào bên trái thì Tỉnh-Quang dùng tay mặt đánh vào hông, còn Dương-Qua đâm vào

bên phải thì Tỉnh-Quang dùng tay trái thoi vào ngực với thế "Hổ môn thủ".

Với lối đánh độc hiểm của Tỉnh-Quang, nếu Dương-Qua không luyện nội công trong

mười năm tất phải bị hộc máu rồi.

Tuy vậy, mặt Dương-Qua vẫn trắng bạch ra như giấy.

Tỉnh-Quang thấy đánh nó miếng nầy vẫn không chuyển, lấy làm kinh ngạc, liền vận

khí vào bàn tay bồi một quả thôi sơn vào mặt. May thay, đòn nầy Dương-Qua dùng

vai đỡ được, song nó không hiểu một tí gì về quyền thuật nên cứ xông vào một cách

vụng về, mặc tình cho đối phương đánh đá.

ác ý hơn nữa, Tỉnh-Quang dùng tay mặt nhử nó rồi lòn tay trái đánh vào bụng dưới nó

một đòn chí tử, nó đau quá phải gò bụng gò lưng lại mà chịu.

Trong lúc nó cúi lom khom người lại bị Tỉnh-Quang dùng bàn tay chém vào ót nó

mấy cái, làm cho nó xây xẩm mặt mày, lảo đảo muốn ngã. Các đạo sĩ đứng xem thấy

thế rộ lên cười trước tánh liều lĩnh của nó.

Thực ra, mọi người có đâu rằng Dương-Qua vốn giống tánh ông nội hắn là

Dương-Thiết, một con người gan dạ đến chẳng bao giờ chịu đầu hàng trước kẻ địch.

Bây giờ Thôi-chí-Phương hiểu rõ Dương-Qua chẳng được tập luyện võ nghệ gì cả, nên

quay sang bảo Tỉnh-Quang:

- Thôi! Đừng đánh nữa Tỉnh-Quang.

Nhưng Tỉnh-Quang được dịp trả thù, nhất định không thôi, vừa đánh túi bụi, vừa nói:

- Nào, mày đã biết tay tao chưa?

Dương-Qua cất mồm mắng:

- Khốn nạn! Tao nhất định không coi mày là gì!

Tỉnh-Quang tức giận quá, hai tay đánh lia lịa vào sống mũi Dương-Qua làm cho nó

chẳng còn trông thấy trời đất gì nữa, lảo đảo quỵ chân xuống đất.

Khí uất xông lên, trong người nóng nực. Dương-Qua cảm thấy một hơi nóng chạy

khắp mình, tập trung xuống đơn điền, tỏa ra tay chân, ra mồm, rồi cả người nó như có

một mãnh lực nào sai khiến, nó há mồm "ngoạp" một tiếng, hai chân dí vào mặt đất

tung người lên, dùng đầu đâm bổ vào ngực Tỉnh-Quang nhanh như điện chớp.

Thân hỉnh Tỉnh-Quang to lớn thế kia, mà với ngón đòn đó đã làm cho Tỉnh-Quang

tung lên không trung mấy thước, rồi rơi huỵch xuống đất như một tấm phản nằm chết

cứng.

Những đạo sĩ đứng xem nãy giờ thấy Tỉnh-Quang cậy lớn hiếp bé, cậy mạnh hiếp

yếu, giở những ngón đòn độc ác đánh Dương-Qua, tuy không nói ra nhưng lòng cũng

hồi hộp cho tính mệnh Duơng-Qua. Giờ đây bỗng thấy Dương-Qua chỉ đánh một đòn

mà làm cho Tỉnh-Quang bay bổng lên trời, rồi rơi xuống nằm chết cứng, đều lấy làm

lạ chạy đến xem sao.

Thật ra trong lúc bí thế, Dương-Qua đã vô tình dùng thế võ "hàm mô công", thế võ ấy

trước kia nó đã đánh chết một đệ tử của Cái Bang tại đảo Đào-hoa vậy.

Nó nghe các đạo sĩ nhôn nhao lên, lào xào nói:

- Thôi chết mất rồi! Hết thở rồi! Trời ơi! Chúng ta phải lập tức vào thưa với trưởng

giáo tiên sư.

Dương-Qua lúc đó mới biết địch thủ nó đã bị thế "hàm mô công" đến chết, và nó cảm

thấy một tai vạ ghê gớm sắp xảy đến cho nó, nó liền thừa lúc mọi người không chú ý,

co giò ù té bỏ chạy.

Các đạo sĩ đang lao nhao trước cái chết của Tỉnh-Quang, Dương-Qua chạy trốn lúc

nào chẳng ai hay biết gì cả.

Triệu-chí-Kính thấy Tỉnh-Quang thương tích nặng nề, thập tử nhất sanh, không còn

hy vọng sống được, vừa giận vừa thương, gọi tên Dương-Qua mắng lớn:

- Dương-Qua! Mày học ngón võ giết người ở đâu thế?

Võ công của Tỉnh-Quang tuy khá giỏi, song khổ nỗi từ lâu nay chỉ trấn thủ nơi võ

điện, ít kinh nghiệm kiến văn, không biết chống với miếng đòn "hàm mô công" là

miếng đòn rất độc.

Triệu-chí-Kính la hét một hồi chẳng thấy Dương-Qua trả lời đâu cả, xem lại thấy

Dương-Qua đã mất dạng, liền phân công bốn mặt tìm kiếm.

Các đạo sĩ bàn nhau:

- Chung-Nam-sơn chu vi có mấy chục dặm lại là phạm vi thế lực của Trùng-Dương

cung, làm thế nào thằng bé có thể thoát thân dễ dàng.

Trong lúc đó, Dương-Qua hoảng hốt, chẳng cần chọn lựa xem lối nào hạ sơn, cứ việc

cắm đầu chạy một mạch rồi lẩn vào trong rừng rậm để ẩn trốn.

Chạy một lúc, nó nghe đàng sau có tiếng gọi:

- Dương-Qua! Dương-Qua! Mi ở đâu? Muốn sống hãy trình diện lập tức.

Bốn bề đều có người đuổi bắt làm cho Dương-Qua hoảng sợ. Nó chạy mãi vào rừng,

không dám dừng bước.

Bỗng trước mặt có bóng một đạo sĩ chạy đến đón đường, nó vội rẽ sang phía khác, thì

lại có tiếng kêu:

- Nó kìa! bắt lấy nó!

Đạo sĩ ấy vừa nói, vừa nhảy ra đón đường toan thộp lấy nó.

Nhanh như cắt, Dương-Qua cúi đầu khom lưng, vận dụng miếng võ "hàm mô công"

bắn vào đối phương". Đạo sĩ kia, tuy không chết cứng như Tỉnh-Quang song cũng bị

thương văng ra xa hơn bảy thước.

Hai đạo sĩ khác thấy nó đánh hiểm độc quá cũng hết hồn chẳng dám đến gần, chỉ

đứng đằng xa kêu cứu om sòm. Nhờ vận dụng thế "hàm mô công" Dương-Qua đã

thắng được hai đạo sĩ. Nó cảm thấy bớt sợ hãi. Tuy nhiên, chân nó vẫn chạy không

ngừng.

Chạy một hồi, nó thấy đã xa những đạo sĩ kia, nên lấy làm sung sướng.

Bỗng nhiên ở chòm cây trước mặt nó có tiếng sột sạt rồi một người diện mạo phương

phi, hình dung tuấn tú xuất hiện theo sau là Doãn-chí-Bình, đệ tam đại đệ tử của

Khưu-xứ-Cơ, lấy làm lạ, nghĩ thầm:

- Vị đạo trưởng nầy sao lại trở về trong lúc nó tìm đường trốn thoát.

Lòng nó phân vân chưa biết phải đối phó ra sao, thì nhanh như chớp Doãn-chí-Bình

đã nhảy sang một bên, đưa tay thộp vào ngực nó, nói lớn:

- Mày có chạy đi đàng trời mới thoát nổi tay ta.

Dương-Qua phản ứng ngay. Nội công "hàm mô" được vận dụng lên tức thời ở đầu

ngón tay. Doãn-chí-Bình cảm thấy sức điện nội công của nó lợi hại liền siết chặt cổ

tay nó, để ngăn nội công không cho phát xuất và buộc phải thối lui về đơn điền.

Thuật "hàm mô công" tuy là một thuật nội công lợi hại vào bực nhất, song

Dương-Qua thời gian tập luyện chưa được bao nhiêu, vả lại đối với một người như

Doãn-chí-Bình, cao đệ trong môn phái Toàn-Chân, dày công tập luyện và chiến đấu

thì nó làm sao thắng nổi.

Bị ngăn nội công lại, chân nó nhảy chồm chồm lên như một con cóc. Thì ra nội công

không trở về đơn điền mà lại trở dồn xuống dưới chân, phì ra đằng mồm, buộc nó

phải thốt ra những lời chưởi rủa:

- Khốn nạn! Dã man! Tàn ác!

Thốt nhiên, Doãn-chí-Bình buông tay Dương-Qua, bảo:

- Mi muốn trốn thoát hãy hạ sơn đi. Ta đứng đây bảo vệ cho mi.

Nếu mi chần chờ sư phụ mi bắt được thì cái mạng nhỏ nhoi của mi ắt không toàn vẹn.

Doãn-chí-Bình xa kia vốn cùng Dương-Khang, cha của Dương-Qua, tập luyện võ

nghệ, tình đồng môn thực thắm thiết. Nay Doãn-chí-Bình vừa về đến thì được biết câu

chuyện của Dương-Qua, lại nghe nói Triệu-chí-Kính hẹp hòi nghiêm khắc quá mức,

đối với Dương-Qua nhiều ác ý. Bởi vậy khi nhìn thấy mặt mày Dương-Qua sưng húp

và tím bầm, quần áo rách nát, Doãn-chí-Bình cảm thấy thằng bé bị đánh đập quá

nhiều đem lòng thương hại.

Dương-Qua lấy làm lạ đứng ngây người, không hiểu thái độ của Doãn-chí-Bình đối

với mình ra sao cả.

Nhưng ngày vừa qua nó gặp nhiều cơ nhục quá nên chẳng biết tin vào lòng tốt bất cứ

ai. Bởi vậy, tuy Doãn-chí-Bình đã thả nó ra mà nó vẫn nghi ngờ chẳng biết đây có

phải vì lòng tốt hay vì một xảo kế nào để hãm hại nó. Nó chẳng nói chẳng rằng, cắm

đầu chạy một mạch, không quay lại.

Giây phút, nó nghe một nhóm người đàng sau nó đang cãi lộn lao xao.

Tứ chi nó không đến nỗi rã rời mệt mỏi, vì nó đã có công luyện tập nội công hồi nhỏ.

Nó chạy gần đến chân núi, nhảy vượt qua mấy đám sậy, rồi ngẩng mặt lên nhìn thì

lúc đó trời đã bắt đầu tối nhá nhem. Cơ thể nó đã vận dụng sức lực quá nhiều, cho nên

nó thấy cần phải vận dụng hơi thở để lấy lại sức. Nó ngồi trên một tảng đá, ngẩng cổ

lên hút những làn không khí trong lành của miền rừng núi.

Ngồi nghỉ được một lúc, nó cảm thấy đã khỏe khoắn, toan đứng dậy chạy nữa thì

bỗng nhiên trước mặt nó, vị đạo sĩ râu dài, đứng sừng sững tự lúc nào.

Vị đạo sĩ ấy chính là Triệu-chí-Kính, sư phụ của nó.

Triệu-chí-Kính giương to đôi mắt nhìn nó chòng chọc, hơi giận dữ bốc lên ngùn ngụt.

Dương-Qua thốt nhiên kêu to lên một tiếng, rồi cắm đầu vụt chạy.

Triệu-chí-Kính phi thân đuổi theo.

Dương-Qua tay quờ được hòn đá ném lại phía sau, Triệu-chí-Kính tránh được. Hai

thầy trò kẻ trốn người theo bắt, chạy ngoằn ngoèo trong rừng đêm.

Dương-Qua chạy được một lúc thì thấy trước mặt có bức tường đá chắn ngang. Nó

hoảng hồn chưa biết làm sao, thì thấy dưới chân tờng ấy có một con suối. Chẳng

ngần ngại, nó nhảy ùm xuống đấy.

Triệu-chí-Kính thấy nó nhảy xuống suối, biết nó sẽ lội sang bãi cỏ xanh để vào rừng

thông trước mặt trốn thoát nên đi vòng qua bờ suối đến đón ở rừng thông.

Nhưng, trong lúc Triệu-chí-Kính đi vòng bờ suối thì Dương-Qua đã vợt khỏi suối,

chạy vào khu rừng. Triệu-chí-Kính, phải theo dấu đường mòn đuổi theo.

Rừng càng sâu cây cối càng rậm, màn đen phủ dăng như mực.

Bỗng nhiên, Triệu-chí-Kính nhớ lại nơi đó là Hoạt-tử-Nhân mộ đài, chỗ của vị sư tổ

Trùng-Dương võ điện.

Luật lệ của Toàn-Chân môn phái cấm ngặt không, cho đệ tử nào được vào đấy một

bước, nên Triệu-chí-Kính cho rằng Dương-Qua không thể vào đấy dung thân được,

bèn kêu lớn:

- Dương-Qua! Dương-Qua! muốn sống thì ra ngay.

Kêu mấy tiếng vẫn không có người đáp lại, Triệu-chí-Kính bôn bả đuổi theo. Nhưng

vừa tiến vào ít bước thì ông ta thấy một hàng chữ khắc trên bia đá, nhờ có ánh sao,

nên có thể vận nhỡn quang dọc được:

"Người ngoài hãy dừng bước".

ái ngại, Triệu-chí-Kính không dám đi sâu vào cất tiếng kêu:

- Thằng nhãi ranh Dương-Qua! Nếu mày không trở ra mày sẽ chết tươi trong đó

không kịp trối!

Vừa dứt tiếng, Triệu-chí-Kính nghe bên mình có tiếng o! o! o!, tiếng kêu khác

thường. Tiếng đó, trong bóng tối chập chờn hiện ra một đàn ong không đáp xuống

được.

Nhưng loại ong nầy rất linh tính, thấy Triệu-chí-Kính dùng áo che chở tách ra làm hai

bầy, một bầy tấn công phía trước, một bầy tấn công phía sau. Triệu-chí-Kính lại múa

áo vòng quanh thân thể để đón ngừa. Bầy ong lại rẽ làm t tấn công vào bốn mặt.

Triệu-chí-Kính thấy nguy, chỉ còn có cách lấy vạt áo che kín đầu, kín mặt, chạy thối

lui cho nhanh.

Bầy ong vù vù đuổi theo sát Triệu-chí-Kính chạy hướng nào chúng bay theo hướng

đó.

Triệu-chí-Kính thỉnh thoảng phải hé mắt ra để thấy đường chạy. Bỗng hai chú ong

thấy chỗ sơ hở đó, thừa dịp luồn vào, đốt ngay nơi trán. Triệu-chí-Kính không chịu

nổi hét lớn:

- Ôi chao! Ong gì mà đốt đau đến thế. Có lẽ lần này ta sẽ chết mất.

Thật vậy, loài ngọc ong rất độc, chỉ cần chích một mũi mà nạn nhân đủ thấy rêm

khắp người, bất tất phải bị nhiều mũi.

Triệu-chí-Kính đến độ đau không sao chịu nổi, nằm lăn xuống bãi cỏ, vật mình kêu

la.

Bầy ong thấy đã thắng trận kéo nhau bay vào rừng.

Lúc bấy giờ, Dương-Qua cũng không tránh khỏi sự tấn công của bầy ong. Nó bị ngã

gục xuống bãi cỏ bất tỉnh chẳng biết tự lúc nào.

Cho đến khi nó tỉnh dậy thì thấy toàn thân đau nhức, quanh mình nó vẫn còn lảng

vảng mấy con ong trắng. Tuổi nó còn nhỏ, nó vừa trải qua một ngày gian lao khổ cực

nào đấu võ với các đạo sĩ kia nào các đạo sĩ Toàn-Chân rượt bắt, bây giờ nó lại bị ong

độc cắn nữa. Với tấm thân bé bỏng đó, sức đâu chịu nổi. Nó đã đến lúc kiệt quệ, mắt

nó hoa lên không còn trông thấy đường nó, thiếp đi một hồi lâu.

Trong cơn mê, nó cảm thấy một vị thơm thơ ngọt ngào mát mẻ tan dần vào miệng nó,

rồi từ từ chạy xuống cổ họng. Nó sung sướng nuốt vào bụng. Nước ấy chạy đến đâu là

mát rợi đến đấy. Nó mở bừng mắt ra tỉnh dậy thì thấy trước mặt nó một bà lão mặt

mày xấu xí lạ thường.

Bà lão mặt mày xấu xí ấy, tay trái đặt lên trán nó, tay mặt cầm một cái bình nhỏ, trút

lần lần chất nước ngọt kia vào miệng.

Thứ nước thần thánh ấy chính là thứ mật ong ngọc, có tác dụng trừ nọc độc và làm

cho tinh thần người mệt nhọc được sảng khoái rất mau lẹ.

Mật ong kia làm cho Dương-Qua mỗi lúc một tỉnh. Nó biết rằng bà lão mặt mày xấu

xí đó đã cứu sống nó, bà là một ân nhân chứ không phải một địch thủ, toan hãm hại

nó. Lòng nó lâng lâng một niềm thương, để tỏ vẻ tri ân, nó mỉm miệng cười. Bà lão

thấy nó cười tỏ ra là hiểu ý nó.

Nó mở mắt nhìn, thấy nụ cười bà lão làm nhăn nheo cả một khuôn mặt già nua. Vẻ

xấu xí lại càng xấu xí hơn khiến cho ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.

Nhưng đối với Dương-Qua trong phút nầy nó đã chán ghét những khuôn mặt hùng

hồn quắc thước rồi. Nó cho rằng những khuôn mặt quắc thước yên hùng chỉ là những

khuôn mặt chứa đựng cái gì tàn ác hung hăng. Chỉ có khuôn mặt xấu xa mới giữ được

nơi đó những cái hiền từ đáng mến.

Tuy ý nghĩ của nó nông cạn, song hoàn cảnh đã tạo cho nó một ý nghĩ kỳ quái như

thế thì còn biết làm sao? Nó thấy khuôn mặt của bà lão đã làm cho lòng nó ấm áp,

chứ không nh những khuôn mặt của các đạo sĩ Trùng-Dương cung mà lúc nào nó

cũng thấy lạnh nhạt như băng tuyết.

Nó buột miệng se sẽ nói:

- Bà ơi! Bà đừng để sư phụ con đến bắt con nhé!

Bà lão thấy giọng xưng hô thân mật của nó, mừng rỡ hỏi:

- Cháu ơi! Sư phụ cháu là ai thế?

Đã từ lâu, Dương-Qua chưa bao giờ nghe được một câu nói êm đềm thân mật như thế.

Còn nhỏ tuổi, tuy đã trải qua những ngày thực là phiêu lưu vất vả, tâm hồn nó vẫn còn

dễ xúc động trớc những hành vi cao đẹp nhân từ.

Quá cảm kích, Dương-Qua nghẹn ngào không nói nên lời, òa lên khóc nức nở.

Bà lão tay siết chặt lấy nó không một lời an ủi. Bà ta chỉ ngoẹo đầu sang một bên, đôi

mắt long lanh như mặt sóng trùng dương, chứa đựng một tình thương mênh mông

không bờ bến.

Bà lão đợi cho Dơng-Qua khóc một hồi rồi mới cất giọng hỏi:

- Cháu đã bớt đau chưa hở cháu?

Bản tính Dương-Qua ưa ngọt chứ không ưa xẵng. Cũng vì thế mà nó không sao chịu

nổi cảnh hà hiếp, khắc bạc của mọi người. Vả lại, đối với những kẻ hà hiếp khắc bạc,

nó chẳng bao giờ nhỏ ra một giọt nước mắt, mà nó chỉ xúc động trước cái dịu hiền

tình cảm mà thôi.

Bởi vậy, bà lão chỉ nói vài câu đã làm cho nước mắt nó tuông tràn không dứt.

Nó khóc! Khóc mãi không nói ra lời! Tuy nó không nói được mà hai dòng nước mát

nó đã nói lên tất cả.

Bà lão lấy khăn nhẹ nhàng lau nước mắt cho nó, và dùng lời dịu ngọt dỗ dành chẳng

khác gì bà đã dỗ một đứa con.

- Thôi nín đi cháu! Cháu đừng khóc nữa! Chỉ chốc lát cháu sẽ khỏi hẳn.

Dương-Qua chẳng cần biết bà lão nói gì, nó chỉ cần nghe cái giọng dịu hiền kia cũng

đủ làm cho nó khóc ngất rồi.

Bà lão càng nói nó càng khóc, và khóc ngất không thôi.

Bỗng một giọng ngọt ngào và trong như nước suối, từ trong rặng cây vẳng lại:

- Tôn bà! Sao tôn bà lại thân ái với một đứa bé dối trá, khinh nhờn đệ tử của người

khác?

Dương-Qua ngẩng đầu lên nhìn thấy sau rèm cây, một thiếu nữ đẹp tựa tiên sa, nõn nà

trong bộ xiêm y trăng buốt. Một sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn mà trong cõi trần

gian tưởng chưa bao giờ thấy.

Tự nhiên mặt Dương-Qua đỏ bừng lên, nó cúi xuống vì xấu hổ như nhận thấy thiếu nữ

đưa mắt nhìn từ đầu đến chân nó.

Bà lão vừa cười vừa nói:

- Ta chẳng biết làm thế nào cho nó nín, xin cô nương khuyên nhủ nó giùm ta.

Thiếu nữ tiến đến gần nhìn những vết thương của Dương-Qua bị ong đốt, rồi đưa tay

sờ lên trán nó xem nó nhiễm độc đến mức nào.

Lòng bàn tay thiếu nữ vừa chạm vào trán Dương-Qua thì Dương-Qua có cảm giác như

lành lạnh. Nhưng không phải lạnh như băng tuyết, mà cái lạnh êm đềm nhu nhung

gấm.

Nàng nói:

- Không sao đâu! Em nhỏ ạ! Em đã uống chút mật rồi chỉ trong nửa ngày em sẽ bình

phục.

Dương-Qua nhìn chăm chăm vào thiếu nữ, chưa biết thiếu nữ ấy là ai? ở đâu? Tại sao

lại có một sắc đẹp hồn nhiên, nõn nà, trong trẻo đến thế, thì bà lão như đã hiểu ý, nói:

- Vị nầy là chủ nhân chốn nầy, cháu phải lễ phép đối xử với cô nương.

Người thiếu nữ đẹp như hoa, trắng như ngọc kia, chính là Tiểu-long-Nữ, trong mộ đài

Hoạt-tử-Nhân mà khách giang hồ đã từng được nghe danh hiệu. Còn bà lão chính là

người lão bộc của vị tổ sư mộ đài và Trùng-Dương cung vậy.

Từ ngày vị đạo trưởng ở mộ đài tạ thế, hai người nầy vẫn sống chung với nhau trong

mộ đài không rời nửa bước.

Vừa rồi, nghe tiếng ong bay. Tôn bà biết có người xâm nhập địa phận mộ đài, và kẻ

ấy tất bị ong cắn trọng thương nên ra nhìn thử xem sao, bỗng thấy Dương-Qua, một

thằng bé trong tuổi ấu thơ. Tôn bà đem lòng thương hại ra tay cứu độ cho nó.

Tôn bà đã đưa nó vào trong lấy mật cho uống giải độc. Do đó, Dương-Qua mới được

hồi tỉnh mau chóng như vậy.

Theo luật lệ thì người ngoài không được vào mộ đài, đầu là nơi của mộ, tối kỵ nhất là

nam giới. Dương-Qua tuy thuộc vào nam giới song tuổi còn nhỏ, lại bị ong độc cắn bị

thương nặng quá, Tôn bà đánh liều vượt ra ngoài luật lệ đã quy định để mong cứu

sống nó làm phước.

Nếu Tôn bà là một sư phụ xấu nhất ở trần gian thì cũng là một người có lòng tốt nhất,

từ bi nhất trên cõi thế.

Dương-Qua lần lần thấy các vết thương êm dịu và tinh thần trở nên mạnh mẽ vô cùng.

Nó ngồi sụp xuống đất, cúi đầu lạy bà lão và Tiểu-long-Nữ cô nương.

Nó nói:

- Cháu là Dương-Qua kính bái Tôn bà và Long cô nương.

Vẻ hoan hỉ lộ trên nét mặt bà lão. Bà đỡ Dương-Qua dậy nói:

- A! Cháu tên Dương-Qua! Thôi chẳng cần phải lạy nữa!

Bà lão dắt nó vào trong mộ đài.

Tôn bà ẩn cư trong mộ đài đến nay đã hàng mấy mươi năm, chẳng bao giờ tiếp xúc

với người ngoài nay bỗng dưng thấy Dương-Qua một đứa bé khôi ngô, ăn nói lanh lợi,

lâm vào hoàn cảnh tai nạn nên đem lòng thương mến.

Tiểu-long-Nữ lúc nào dáng mặt cũng trầm lặng như mặt nước hồ thu. Nàng ngồi trên

một chiếc tràng kỷ gần đó, chỉ khe khẽ gật đầu khi nhìn nó.

Tôn bà hỏi Dương-Qua:

- Cháu từ đâu đến? Vì sao mà bị nhiễm thương tích? Có kẻ nào ác nghiệt đánh cháu

như thế?

Dứt lời, Tôn bà không chờ Dương-Qua đáp, lấy một cái bánh cho Dương-Qua bảo ăn

cho đỡ đói.

Dương-Qua ăn mấy miếng bánh ngon miệng, đem đầu đuôi câu chuyện mình kể lại

cho hai người trong mộ đài nghe. Nó ăn nói hoạt bát, linh lợi, thỉnh thoảng pha vào câu

chuyện những lời nói tình cảm khiến người nghe phải xúc động không ít.

Tôn bà nghe kể xót xa cho thân thế nó, thỉnh thoảng thở dài chép miệng,

Tiểu-long-Nữ thanh sắc vẫn không lúc nào thay đổi. Nàng vẫn thư thái ngồi nghe cho

đến lúc Dương-Qua kể đến chuyện Lý Mạc Thu, nàng mới đưa mắt nhìn Tôn bà một

chút.

Tôn bà nghe Dương-Qua kể hết câu chuyện. Liền dang tay bế nó vào lòng âu yếm,

nói:

- Ôi thôi! Sao mà số phận của cháu lại khổ cực đến thế.

Tiểu-long-Nữ từ từ đứng dậy nhìn Tôn bà nói:

- Những vết thương của em bé chẳng có gì đáng ngại. Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hãy

đưa cháu ra khỏi mộ đài đi.

Câu nói của nàng làm cho cả hai người đều run lên.

Dương-Qua thổn thức nói:

- Cháu chẳng muốn trở về! Cháu chẳng muốn trở về! Xin cho cháu ở lại đây với bà với

cô nương, dẫu đến chết cháu cũng chẳng rời.

Tôn bà nói:

- Dám thưa cô nương! Nếu để nó trở về Trùng-Dương cung nó sẽ bị cực khổ lắm. Sư

phụ nó chẳng ưa gì nó!

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Tôn bà nên dẫn nó ra ngoài. Còn về đâu, ở đâu tùy ý nó. Tôn bà có thể bảo với sư

phụ nó đừng khe khắt nó nữa.

Tôn bà nói:

- Ôi! Việc bên Trùng-Dương cung chúng ta nào có biết ra sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà lấy cho nó một hũ mật để nó mang theo rồi đem nó ra khỏi chốn nầy.

Lời nói của nàng tuy rất nhẹ nhàng, song có vẻ uy nghiêm làm cho người khác không

dám chống lại.

Tôn bà thở dài, biết rằng Tiểu-long-Nữ đã nói đi nói lại như thế là đã quyết định rồi

dẫu có nói gì nàng cũng chẳng nghe. Hai mắt bà lão nhìn Dương-Qua có vẻ luyến

tiếc.

Dương-Qua động lòng, đứng phắt dậy chắp tay cúi đầu bái hai người và nói:

- Cháu xin tạ ơn Tôn bà và cô nương đã chữa cho cháu khỏi các vết thuơng. Cháu xin

phép Tôn bà và cô nương đặng lên đường.

Tôn bà nhìn Dương-Qua với vẻ mặt rất ái ngại, nói:

- Bây giờ cháu định về đâu?

Dương-Qua lặng người đi một lúc rồi đáp:

- Trời đất vô cùng vô tận... Cháu thấy chỗ nào tốt thì về thôi. Giờ đây cháu chưa thể

nào biết trước được.

Thật ra, Dương-Qua cũng chưa biết rồi đây nó sẽ ra sao? Đi về đâu? ở đâu? Nó phó

mặc tấm thân nó cho hoàn cảnh.

Thấy nét mặt buồn rầu của nó đượm vào hai ánh mắt, Tiểu-long-Nữ nói:

- Em đừng lấy làm lạ khi thấy ta phải giục em rời khỏi chốn này. ấy bởi qui luật nơi

đây nghiêm ngặt, không cho phép người ngoài được vào chớ đừng nói đến chuyện lưu

trú nữa.

Dương-Qua đáp với giọng hồn nhiên:

Em đã từng sống trong hoang lạnh thì nay dẫu có ra đi cũng chẳng sao. Nhưng chẳng

biết đến bao giờ em có thể thấy lại được Cô nương và Tôn bà!

Lời nói tuy bắt chước người lớn, song hàm xúc ít nhiều cái ngây thơ của một đứa bé!

Tôn bà nghe giọng nói ấy vừa buồn cười vừa thương hại, nhìn vào mặt nó thấy đôi

mắt nó rướm lệ, hai giọt nước mắt đang cuộn tròn lăn xuống đôi gò má.

Tôn bà không cầm được lòng thương, lại năn nỉ Tiểu-long-Nữ,

- Thưa cô nương! Thân nó bé bỏng, giữa đêm khuya canh vắng biết đâu mà về. Xin cô

nương cho nó luu lại đến sớm mai.

- Tiểu-long-Nữ đã quyết định điều gì thì đâu có ai năn nỉ cũng coi như chẳng nghe

thấy. Nàng nể lời khe khẽ lắc đầu nói:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà đã quên qui luật mà Tiên sư đã dặn sao?

Tôn bà biết có nói nữa cũng chẳng ích gì, tiến đến gần Dương-Qua nói nhỏ:

- Thôi ta cùng với cháu đi chơi vậy.

Dương-Qua dụi mắt cúi đầu bước ra, nói:

- Thưa bà, cháu chẳng dám phiền bà dẫn cháu ra đi.

Nó vừa ra đến cửa mộ, bỗng có tiếng nói từ ngoài vọng vào:

- Tôi là đệ tử của Toàn-Chân phái Doãn-chí-Bình, phụng mệnh sư phụ tôi đến xin yết

kiến Tiểu-long-Nữ cô nương.

Tiếng nói rõ ràng từ trong rừng gần mộ đài nghe rõ mồn một.

Tôn bà vội lướt tới, nắm chặt tay Dương-Qua nói:

- Có người ở ngoài toan bắt cháu. Cháu đứng yên nơi đấy, đừng ra nữa.

Mặt Dương-Qua bỗng nhợt nhạt, nửa kinh hãi, nửa tức giận, thân thể nó run lên.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Thưa Tôn bà, xin Tôn bà hỏi xem họ muốn yết kiến chúng ta có điều chi.

Tôn bà nghĩ ngợi một lát rồi quay sang nói với Dương-Qua:

- Cháu ở đây, để ta ra ngoài hỏi xem họ muốn yết kiến cô nương có việc gì?

Dương-Qua bẩm tính vốn ngang ngạnh, lúc bấy giờ khí uất lại nổi lên, nó trọn đôi

mắt tròn xoe nhìn ra ngoài nói:

- Thưa Tôn bà, Tôn bà chẳng cần che chở cháu làm chi, việc cháu làm cháu chịu,

cháu đã lỡ tay đánh chết một đạo sĩ ở Trùng-Dương cung, dù cháu có bị họ giết cũng

được.

Nói dứt lời nó nhảy thót ra ngoài.

Bà lão thở dài, nói:

- Thằng bé nầy thực khó bảo. Bọn họ đang ở nơi trung tâm khu vực của mộ đài, nó

làm sao thoát ra khỏi được.

Nói là mộ đài, nhưng kỳ thực đây là một tòa nhà rộng lớn xây ngầm dưới lòng núi.

Xa kia chính Vương-trùng-Dương đã dùng chốn nầy để luyện tập võ nghệ. Lúc đầu,

Vương-trùng-Dương chỉ xây cất sơ sài nhưng cũng đã bố trí nghiêm chỉnh nơi cư trú

của mình, để xứng đáng là nơi trung tâm của một môn phái. Sau đó người bạn cũ của

Vương-trùng-Dương đến ở, lại chỉnh đốn thêm lên, làm cho mộ đài thêm vẻ uy nghi

diễm lệ, nhất là các phòng, các động và những lối ra vào trở nên huyền ảo khác

thường.

Bấy giờ Tôn bà thấy Dương-Qua bướng bỉnh liền nhảy theo, nắm tay dắt đi.

Chỉ một lúc, hai người ra khỏi cửa động, xuyên qua rừng thông đến một miếng đất

trống trước rừng.

Trăng sáng, xuyên qua các cành cây kẽ lá như thếp vàng, dưới ánh trăng, có bóng sáu,

bảy đạo sĩ. Đàng xa lại có bốn đạo nhân đang phục dịch săn sóc cho hai người bị

thương là Tỉnh-Quang và Triệu-chí-Kính.

Mấy đạo nhân trông thấy Dương-Qua liền bàn luận với nhau rồi tiến lên phía trước

mấy bước.

Dương-Qua giật tay ra khỏi bàn tay bà lão, chạy đến đàng trước nói lớn.

- Ta ở chỗ nầy chờ chúng bay đến để giết chết ta đây.

Mấy đạo nhân không ngờ tánh khí Dương-Qua lại có thể cứng cỏi và liều lĩnh đến thế.

Trong đám đạo nhân ấy có một người xông ra, định chộp lấy Dương-Qua ấn đầu đẩy

nó về phía trước.

Dương-Qua điềm tĩnh, cười nhạt, nói:

- Ta đâu thèm trốn tránh mà ngươi lại vội vàng đến thế.

Vị đạo nhân ấy là đệ tử của Triệu-chí-Kính. Vì thế sư phụ nó vì Dương-Qua mà bị

ong đốt trọng thương nên nó nóng lòng muốn bắt Dương-Qua đánh cho chết. Từ thuở

nhỏ, đạo sĩ nầy sống bên Triệu-chí-Kính được Triệu-chí-Kính săn sóc coi như con đẻ

vậy, nay Triệu-chí-Kính bị ong đốt, chết đi sống lại làm sao nó khỏi đau lòng. Nó

hăm hở dùng quyền đánh vào đầu Dương-Qua.

Tôn bà định bụng sẽ đem lời phải trái nói chuyện với các đạo sĩ, song thấy

Dương-Qua bị đạo sĩ kia nắm đầu, đột kích một cách tàn nhẫn, bà lão phút động lòng

thương liền phi thân tới phóng vạt áo đánh vào bọn kia để cứu Dương-Qua. Bọn kia bị

đau tê tái cả người tưởng như một lằn roi sắt đánh vào da thịt, vì thế bọn chúng phải

buông Dương-Qua ra.

Tôn bà tay trái bồng Dương-Qua, tay phải chống vào hông, hiên ngang lui về phía

rừng thông.

Miếng đánh bằng vạt áo để cướp lại người nhanh như điện, khiến cho các đạo sĩ đứng

ngây người, không kịp đề phòng.

Tôn bà đi xa được vài trượng thì ba đạo sĩ tức giận hét lớn:

- Bỏ thằng ấy ra!

Dứt lời, họ hò nhau xông đến. Tôn bà ngãnh đầu lại, cười nhạt nói:

- Các người làm gì thế.

Bấy giờ Doãn-chí-Bình xông đến, nhận ra được bà lão là người đã ở lâu năm trong

Hoạt-tử-Nhân mộ đài, nên chẳng dám khinh thường, sợ mắc tội với tiền nhân liền ra

lệnh cho các đạo sĩ kia:

- Tất cả mọi người đều phải dang ra, không được vô lễ với Tôn bà.

Đoạn Doãn-chí-Bình cúi rạp đầu làm lễ:

- Đệ tử Doãn-chí-Bình xin kính bái bậc tiền bối.

Bà lão hỏi:

- Có chi thế.

Doãn-chí-Bình thưa:

- Có thằng bé kia là đệ tử của Toàn-Chân phái, kính xin tiền bối vui lòng trả lại cho.

Tôn bà quắc mắt nghiêm nghị nói:

- Trước mặt ta, các ngươi dùng những đòn độc ác đánh nó. Nếu ta trao nó cho các

ngươi mang về Trùng-Dương cung thì không biết các ngươi còn đối xử tàn ác với hắn

bằng cách nào nữa. Ta nỡ lòng nào để cho đứa trẻ thơ phải chịu đày đọa oan uổng?

Doãn-chí-Bình nuốt nhục, nói:

- Thằng nhỏ nầy thực ngoan cố chưa từng thấy. Nó lừa thầy dối bạn, không còn biết

lễ nghĩa, trời đất là gì. Chúng tôi răn phạt nó thì nó lại còn ơn ngạnh hơn.

Bà lão vẫn giận dữ, nói:

- Ghê gớm chưa! Nó lừa thầy bạn ? Hay là những bậc làm anh làm cha đã lừa dối

nó? Suốt nửa năm, chẳng dạy nó được một ngón võ nào, thế mà bảo nó phải ra tỉ thí

với những đồ đệ hảo hán trong phái. Nó không muốn đấu mà cứ ép nó phải đấu. Đến

khi đấu tất phải có kẻ hơn nguời thua, sao lại buộc nó vào tội ơn ngạnh? Đối với một

đứa trẻ thơ như thế đó mà mọi người xúm lại đánh nó như đánh một kẻ thù thì còn

mặt mũi nào dám xưng là sư phụ, sư thúc, sư bá của nó ? Bực trên lầm lỗi bao giờ

cũng đắc tội hơn kẻ dưới.

Tôn bà có nét mặt xấu xí, khi máu giận bốc lên, mặt đỏ gay, các bắp thịt nhăn nheo

rung chuyển lại càng làm cho bà lão thô kịch hơn nữa. Các đạo sĩ ai nhìn vào mặt bà

cũng phải rợn người.

Doãn-chí-Bình nghe bà lão nói một hồi, nghĩ bụng:

- Việc đả thương Tỉnh-Quang đâu phải là lỗi của Dương-Qua, chỉ tại những người

đứng xem kích bác.

Nghĩ như vậy, hắn nói:

- Việc phải quấy chúng tôi cần trình với vị đạo trưởng chúng tôi phân xét. Bây giờ xin

kính lão tiền bối giao trả Dương-Qua thôi.

Tôn bà cười nhạt nói:

- Toàn-Chân môn phái từ Vương-trùng Dương trở về sau không có lấy một người

xứng đáng. Bởi thế tuy bọn ta ở gần mà chẳng bao giờ lui tới.

Doãn-chí-Bình nghe nói, bảo thầm:

- Lỗi ấy do mộ đài đâu phải lỗi của bọn ta không lui tới.

Tuy nghĩ thế, Doãn-chí-Bình cũng chẳng muốn biện luận làm gì với bà lão, chỉ muốn

bà lão trả Dương-Qua lại cho xong việc bèn nói xuôi:

- Lão tiền bối là bậc tài cao đức trọng, nếu trong phái Toàn-Chân chúng tôi có điều gì

sơ xuất dám xin lão tiền bối nói với đạo trưởng chúng tôi để răn dạy, và cũng để có

dịp chúng tôi đến tạ tội cùng bậc tiền bối và Long cô nương.

Giữa lúc đó, Dương-Qua đang được Tôn bà bế ngang hông, kề tai nói nhỏ:

- Thưa Tôn bà, lão đạo sĩ nầy quỉ quái lắm, nhiều mưu kế thâm độc lắm, xin Tôn bà

hãy cẩn thận kẻo lầm mưu đó.

Tôn bà thấy thằng bé đối với mình thân thiết chẳng khác tình bà cháu ruột thịt, lấy

làm thích thú, nghĩ bụng:

- Dù chúng có nói đến đâu ta cũng không thể trao trả thằng bé nầy cho chúng hành hạ

được.

Tôn bà nói lớn:

- Ngươi định đem thằng bé nầy về Trùng-Dương-cung để đối phó với nó chớ gì. Trời

ơi! làm bậc sư phụ lại phải đối phó với đệ tử, đối phó với con nít ?

Doãn-chí-Bình nói:

- Đệ tử đây với cha đứa bé xa kia vốn là tình đồng môn. Nay cha nó mất đi, nó là

đứa con côi cút, đệ tử nỡ nào quên tình cha nó mà xử tệ với nó. Xin trưởng lão cứ an

tâm.

Bà lão lại lắc đầu nói:

- Già này vốn chẳng ưa kẻ khác nói nhiều lời.

Nói đoạn Tôn bà bồng Dương-Qua rảo bước vào rừng.

Bấy giờ Triệu-chí-Kính đang bị ong độc cằn, được mọi người cứu chữa gần đấy. Tuy

Triệu-chí-Kính vẫn còn đau đớn khó chịu, tỉnh mỉnh tâm thần. Khi nghe bà lão nói,

Triệu-chí-Kính nghe rõ và không đằng được sự căm tức, liền vùng dậy chạy về hướng

Tôn bà quát lớn:

- Thằng nhỏ kia là đệ tử của ta, muốn đánh muốn mắng chưởi nó là do quyền ta quyết

định. Ai ngăn cản sư phụ không cho trừng phạt đệ tử tất kẻ ấy không biết điều.

Bà lão thấy Triệu-chí-Kính nhảy lồng lộn như đứa mất trí, lại nghe giọng nói hỗn láo

ấy biết hắn là sư phụ của Dương-Qua, và lời Dương-Qua là đúng, nên chẳng thèm

phân lời hơn thiệt, cất tiếng nói:

- Ta chẳng để cho ngươi có quyền, ngươi làm gì ta.

Triệu-chí-Kính đỏ ngầu đôi mắt, quát:

- Đứa bé đó là đệ tử của ta. Bà có can hệ gì đến nó? Bà có quyền gì giữ lấy nó.

Tôn bà giọng run run, đáp:

- Từ trước nó đã không phải là người trong môn phái Toàn Chân. Nó đã tôn

Tiểu-long-Nữ làm sư mẫu, Tiểu-long-Nữ trong mộ đài có quyền định đoạt số phận

của nó, các ngươi không có quyền.

Các đạo sĩ nghe bà lão nói đều nhốn nháo lên.

Bởi vì theo quy tắc trong võ lâm, một đệ tử đã nhận ai làm thầy rồi thì không có

quyền chạy sang thầy khác khi không có sự đồng ý của thầy trước. Trái lẽ đó sẽ bị

ghép vào tội bội nghịch. Ngược lại, các bậc thầy cũng không có quyền nhận đệ tử của

kẻ khác làm đệ tử của mình khi chưa được vị thầy trước yêu cầu. Hơn nữa, một đệ tử

người nầy sang học người khác cũng không được gọi người khác bằng sư phụ. Trong

đời võ chỉ được gọi một người bằng su phụ mà thôi. Ví như Quách-Tỉnh trước kia đã

làm lễ thụ giáo Giang-Nam thất tử, sau đến học Hông-thất-Công, vẫn không được gọi

Hông-thất-Công là sư phụ. Mãi đến Kha-trấn-ác vì có sự dàn xếp chính thức với Thất

tử, thỏa thuận phân công nên mới gọi Kha-trấn-ác là sư phụ.

Tôn bà bị Triệu-chí-Kính vặn hỏi, không biết trả lời làm sao phải nói bừa như thế, bà

không biết rằng nói như thế là trái với quy tắc trong võ lâm. Hơn nữa, bà lão tự thuở

nay có bao giờ giao thiệp với người ngoài đâu mà hiểu biết quy tắc.

Các đạo sĩ trong phái Toàn-Chân nghe bà lão nói, ai cũng tỏ vẻ cấm tức, bởi vì bà đã

công khai phản lại luật lệ của tổ sư.

Triệu-chí-Kính cắn răng cố nhịn đau, thét hỏi Dương-Qua:

- Dương-Qua! Có đúng thế chăng? Có phải mày đã nhìn nhận Tiểu-long-Nữ làm sư

phụ chăng?

Dương-Qua chỉ là một đứa bé, đâu biết trời đất là gì. Nó thấy ai bênh vực cho nó thì

nó hưởng ứng nói theo.

Bởi vậy nó gờm mắt nhìn Triệu-chí-Kính, quát lớn:

- Đạo sĩ khốn kiếp kia! Cả bọn đánh ta, ta còn làm sao nhận là thầy được! Ta đã bái

lạy Tôn bà làm sư mẫu và cả Tiểu-long-Nữ cô nương nữa.

Lửa giận xông lên ngùn ngụt ở họng ở cổ, Triệu-chí-Kính như muốn xé tung lồng

ngực, Triệu-chí-Kính vùng dậy như một con hổ đói, lấy tay xỉa về phía bà lão.

Tôn bà mắng lớn:

- Súc sanh! Ngươi muốn làm gì ta?

Rồi bà lấy tay gạt phắt Triệu-chí-Kính ra.

Triệu-chí-Kính vốn là một tay cự phách trong phái Toàn-Chân so với những người

trong hàng đệ tam đại đệ tử. Bởi vậy mặc dù đang bị thương, Triệu-chí-Kính ra quyền

vẫn còn mãnh liệt lắm.

Sau một đòn chạm nhau, cả hai bên đều lui về một bước để thủ thế.

Tôn bà lườm mắt nhìn Triệu-chí-Kính nói:

- Khá khen mi cũng là tay bản lĩnh, không phải là tầm thường.

Triệu-chí-Kính lại xông vào xỉa một đòn thứ hai nữa. Nhưng ngón đòn này cũng bị

Tôn bà đánh vẹt ra.

Lấy làm uất ức, Triệu-chí-Kính lấy toàn lực tấn công đòn thứ ba nữa.

Lần nầy Tôn bà không gạt, né sang một bên vút vạt áo tung ra, Triệu-chí-Kính nghe

tiếng gió toan tránh sang một bên thì bỗng nhiên đến lúc cái vết độc trong người trở

lại hành hạ làm cho Triệu-chí-Kính đau nhức không chịu nổi, ôm đầu ngồi phịch

xuống đất.

Tôn bà tiến đến đá vào mông Triệu-chí-Kính một đá làm cho Triệu-chí-Kính tung

bổng lên trời như một trái banh, tiếng la ú ớ không dứt.

Thấy vậy các đạo sĩ hô nhau lập bày thế trận Bắc-đẩu để đối phó với Tôn bà.

Tuy Tôn bà không biết đến trận Bắc-đẩu, song chỉ giao đấu vài hiệp, bà lão đã biết

thế trận lợi hại như thế nào rồi. Tay trái bà phải bồng Dương-Qua chỉ còn có một tay

mặt để ứng phó với đối phương mà thôi.

Sau khi đánh tới hiệp thứ mười ba, bà lão đã bị thế trận vây hãm, buộc bà ở trong tình

trạng hiểm nghèo.

Thật ra, nếu đem tài võ nghệ của từng mỗi đạo sĩ ra mà so sánh thì trong bọn còn kém

thua bà lão nhiều. Nhưng nhờ thế trận Bắc-đẩu bảy người hợp sức lại thành một, nên

mãnh lực phi thường, trận thế nhờ đó biến chuyển theo lối liên hoàn làm cho bà lão ở

trong thế "mãnh hổ nan địch quần hồ".

Mỗi ngọn cước Tôn bà công kích đều bị Doãn-chí-Bình chỉ huy trận thế một cách linh

diệu, giải vây một cách dễ dàng.

Còn thế công của Bắc đẩu trận luôn luôn liên tục, không hề gián đoạn. Bởi vậy, chỉ

đánh thêm mười hiệp nữa, là Tôn bà bị hai đạo sĩ khóa được tay phải, mé hông trái lại

bị hai người nữa công kích bằng những đòn bổ thượng.

ở vào thế bắt buộc, Tôn bà phải buông Dương-Qua ra để được rảnh tay ứng chiến.

Nhưng bà vừa buông Dương-Qua thì bỗng nghe một tiếng huýt hai đạo sĩ xông đến

bắt Dương-Qua.

Tôn bà nghĩ bụng:

"Dương-Qua mắng bọn đạo sĩ kia là khốn khiếp thật cũng đúng. Ta không ngờ bọn

chúng lại nhiều thù oán với thằng bé như thế".

Đoạn , bà lão tung vạt áo quất đuổi hai người , mồm ngân lên mấy tiếng o ! o !. Tiếng

ngân lúc đầu nhỏ sau lớn dần .

Doãn-chi-Bình đã rõ được tài nghệ của lão bà nên từ lúc giao đấu đến giờ hết sức

thận trọng . Doãn-chí-Bình thừa hiểu vị tiền bối kia từ xa đến nay cư trú trong

Hoạt-tử-Nhân mộ đài , so với vị tổ sư sáng lập ra môn phái Toàn-Chân thì tài nghệ kể

cũng suýt soát , chỉ vì bà lão già nua vậy thôi .

ấy vậy , muốn thắng bà lão đâu phải chuyện dễ , dẫu rằng với thế Bắc đảu trận.

Lúc nghe tiếng o ! o ! o ! Doãn-chí-Bình tưởng rằng đó là một phép " truyền âm nhiếp

tâm " để điều hoà hơi thở và ổn định tâm thần , phòng bị địch nhân dùng pháp thuật

chế ngự , nào ngờ đâu những âm thanh ấy mỗi phút một lớn dần , rồi gây nên một

biến cố làm cho các đạo sĩ phải kinh hoàng khiếp vía.

Mộ đài Hoạt Tử Nhân

Tiếng ngân o ! o ! o ! của bà lão hoà với tiếng vo vo từ đằng xa vọng lại.

Doãn-chí-Bình thất sắc ra lệnh cho cacù đạo sĩ :

- Toàn thể hãy rút lui lập tức .

Mọi người nghe hiệu lệnh ngẩn người ra , không hiểu tại sao bọn chúng đang thắng

thế , bà già kia chỉ ngân mấy tiếng o ! o ! o ! mà phải rút lui , sợ sệt .

Thì ra , một bầy ong trắng nhấp nhó trong ánh trắng đang tiến đến vun vút . Chỉ phút

chốc , bầy ong đã bủa vây trên đầu các đạo sĩ .

các đạo sĩ đã chính mắt trông thấy Triệu-chí-Kính bị ong cắn đau đớn thế nào rồi nên

lúc thấy bầy ong , ai nấy thất sắc , cắm đầu chạy không dám ngoảnh cổ lại .

Đàn ong trắng cố sức bay nhanh đuổi theo.

Thấy các đạo sĩ không thể nào tránh nổi ong độc đốt , bà lão mỉm cười sung sướng .

Giữa lúc nguy biến đó , bỗng phía trùng-Dương cũng xuất hiện một đạo nhân râu tóc

bạc , hình dung quắc thước , tay cầm một cây đuốc , lửa cháy ngùn khói toả um tùm .

chạy đến nung vào bầy ong đốt , Bầy ong trắng bị khói lửa liền bay tứ tán vào rừng

hết .

bà lão trông thấy ngạc nhiên , cất tiếng hỏi lớn ;

- lão đạo sĩ kia là ai mà dám cả gan phá hoại bầy ong của ta ?

Vị đạo sĩ ấy , sau khi xua đuổi bầy ong , bước đến trước mặt bà lão , vừa cười vừa nói

:

- Bần đạo chính là Xích-đại-Thông , kính chào Tôn bà đó .

Tôn bà xưa nay không tiếp xúc với người trong phái võ lâm song vì ở gần

Trùng-Dương cung nên có nghe danh Xích-đại-Thông là một tay trong bảy cao sư đại

đệ tử của Vương-trùng-Dương , cao thủ trong Toàn-Chân phái .

Thấy Xích-đại-Thông uy dũng như thế , Tôn bà liên tứơng đến Doãn-chí-bình và các

đạo sĩ đồng hạng khác không phải là những tay tầm thừơng .

trong lúc đó , đằng sau Xích-đại-Thông có một đạo sĩ nói lớn :

- Khưu , Vương sư huynh ! Chúng ta có thể dừng chân nơi đây mà không sợ bị ong

đốt nữa đâu .

Xích-đại-Thông quay lại nhìn thì thấy Khưũ-xứ-Cơ cà Vương- xứ-Nhất , hai người này

quần áo còn vương nét bụi đường chưa phai , liền hỏi :

- ủa ! Sư huynh Khưu , vương đã về đến rồi sao . Cuộc du hành có gì lạ không ?

Không đợi Vương xứ Cơ và vương xứ nhất đáp lời , Xích đại Thông quay lại nhìn

Tôn bà thì bấy giờ Tôn Bà đá mất dạng .mọi người chỉ nghe trong phía rừng sâu có

tiếng cười the thé của bà lão .

Doãn chí Bình nói :

- Xích sư thúc ! Chúng ta có đuổi theo chăng ?

Xích đại Thông lắc đầu đáp :

- khôn nên ! Tổ sư chúng ta đã căn dặn không ai được vào rừng . Chúng ta nên trở lại võ

điện hội kiến rồi lo liệu .

Lúc đó Tôn Bà đã bồng Dương Qua trở lại Hoạt tử Nhân mộ đài .

Qua một cơn biến cố , hai bà cháu càng quyến luyến nhau hơn trước . Dương Qua

lòng hồi hộp , không biết Tiểu long Nữ có bằng lòng cho mình lưu trú chăng nên

nét mặt dàu dàu .

- Không sao ! Cháu cứ yên tâm , bà sẽ tìm cách nói thế nào cho cô nương phải chấp

nhận.

kế đó , bà lão dặn Dương Qua ngồi ở phòng ngoài , còn bà vào một mình để bàn bạc

với Tiểu long Nữ .

Một lúc sau , Dương Qua chờ mãi không thấy bà lão ra , lòng nó nghĩ miên man ,

hết chuyện nọ sang chuyện kia , bụng bảo da:

- Thế này chắc là Long cô nương không bằng lòng nhận mình ở lại đây rồi . Nếu để

Tôn bà cứ ép cô nương tức là mình đã làm phiền lòng luôn cả hai người . Như vậy đâu

phải mình báo ân họ .

Nghĩ vậy , dương Qua quyết rời khỏi mộ đài . Nó đứng dậy đi ra .

vừa ra đến cửa thì Tôn Bà đã hơ hãi chạy đến hỏi nó :

- Cháu đi đâu thế ? Phải cháu tìm ta chăng ?

Dương Qua rơm rớm nước mắt nói :

- Thưa Tôn bà , cháu đi đây ! Cháu đã lớn rồi chẳng lẽ cứ làm phiền đến Tôn bà mãi

sao ?

Tôn bà nói :

- Không ! Ta phải đưa cháu đến gửi một nơi nào và phải làm thế nào để họ thành tâm

dạy dỗ cháy mai sau trở nên người.

Nghe Tôn bà nói vậy , Dương Qua biết Tiểu long nữ không muốn cho nó trú tại mộ

đài , lòng nó se thắt , một nỗi buồn vô hạn từ đâu đột nhập vào người nó . Nó cúi đầu

nói :

- Cũng chẳng sao ạ ? Cháu là một đứa bé hư hỏng thì dầu đến đâu cũng chẳng ai ưa

cháu . Dám xin Tôn bà đừng vì tình thương cháu mà phí công .

Lời nói như hờn dỗi ấy đã làm cho lòng bã lão đau đớn .

Bà lão vốn là người nhanh chân nhẹ miệng dễ vui mà cũng dễ cảm động . Sau khi

thuyết phục Tiểu long Nữ mà nang cứ nhất định không cho Dương Qua ở lại , bà lão

đã có ý giận hờn , bây giờ nghe Dương Qua nói , bà lão gắt lên :

- Thôi được , bà cháu ta cùng ra đi . Cháu ở chốn nào ta ở chốn nấy , miễn bà cháu ta

được gần gũi nhau .

Thật ra , tánh tình một bà già có khác . Do cái bất thường ấy mà người đời có câu "

già trẻ đồng nhau " .

Dương Qua mừng rỡ , trố mắt nhìn bà lão tươi cười hỏi :

- Bà thương cháu đến thế sao ? Nếu bà đi theo cháu rồi bỏ cô nương cho ai ?

Bà lão nói :

- Ta nuôi cô nương từ lúc nhỏ đến giờ . Nay cô nương đã lớn rồi , không cần đến bà

cũng được . Còn cháu , cháu quá nhỏ dại , nếu để cháu ra đi một mình tất bị chúng hà

hiếp .

Giọng nói của Tôn bà run lên vì cảm động .

Hai bà cháu dắt nhau ra cửa mộ . Trong lúc bực tức , bà lão không đem theo gì cả .

Bỗng sực nhớ đến Triệu chí Kính bị thương vì nọc độc , bà lão lẩm bẩm :

- Hắn ta là người ác song cũng chưa đáng tội chết . Nếu không đưa một ít mật ong để

cứu hắn thì không thoát khỏi tay tử thần .

bà lão quay vào lấy ra một hũ mật rồi dăt tay Dương Qua tiến bước về Trùng Dương

cung .

Bây giờ , Trùng Dương cung tuy đã sửa sang lại rồi song so với lúc trước thì không

qui mô bằng . Các vách tường , các mái ngói đều kém vẻ uy nghi .

Thấy Tôn bà cứ hướng về phía Trùng Dương cung mà đi , Duơng Qua nắm tay bà nói :

- Thưa Tôn bà , tại sao Tôn bà lại đến đó .

Tôn bà nói :

- Ta đến để cho họ một ít thuốc .

Duơng Qua tin ở lòng tốt của Tôn bà nên khong có ý nghĩ gì , ngoan ngoãn bước theo

.

Chỉ chốc lát , hai bà cháu đến trước một ngôi võ điện , Tôn bà nhảy qua tường nơi

chánh điện mà vào .

Bỗng một hồi chuông rung lên làm chuyển động cả núi rừng , Hồi chuông đó là hồi

chuông báo động .

Tức thì xa gần có tiếng người lao xao , bầu không khí tĩnh mịch trở nên náo loạn .

Tôn bà tuy là người võ nghệ cao cường đảm lược có dư cũng không khỏi rợn người .

Cũng nên biết rằng Toàn Chân môn phái là một môn phái lớn trong võ lâm . Ngày

thường lối canh phòng cẩn mật rồi , những ngày gần đây có nhiều biến cố xảy ra nên

việc canh phòng lại còn thận trọng hơn gấp bội . Bốn bề tamù hướng đều có người

canh gác . Hễ trông thấy một bóng người nào bén mảng là lập tức báo động không

những ở phía trong các đạo sĩ phân công rõ ràng nghênh địch mà phía ngoài một số

đạo sĩ đã bố trí sẵn sàng để bao vây .

Tôn bà thấy sự thế như vậy , lòng bị dao động song vẫn lớn tiếng nói :

- Triệu chí Kính đâu rồi ? Mau ra ngay ! Ta có chuyện nói vơi ngươi .

Trên nóc đại điện có một đạo sĩ tuổi đã trung niên ứng khẩu đáp :

- kính thưa tiền bối ! Chẳng hay đêm khuya tiền bối có điều gì đến đây chỉ giáo .

Bà lão giơ chiếc bình mật ong ra trước mặt nói :

- Đây là thuốc trị nọc độc ong . Hãy cầm lấy mà mang vào cho Triệu chí Kính .

Dứt lời , bà lão ném chiếc bình mật ong đến cho đạo sĩ đó .

Đạo sĩ đưa tay bắt lấy nhưng lòng bán tín bán nghi tự hỏi :

- Lại cho thuốc ? sao bà ta lại tốt như thế nhỉ ?

Rồi sang sảng nói :

- Thưa tiền bối ! Thuốc này là thuốc gì vậy ?

Bà lão nói :

- Hỏi làm chi cho nhiều lời , cứ đem vào cho hắn uống tự nhiên sẽ biết .

Lời nói của Tôn bà khiến cho đạo sĩ kia thêm nghi . Hắn nói :

- Tôi chẳng biêt đây là lòng tốt hay ý độc . Đây là thuốc giải hay thuốc độc .triệu

sư huynh tôi đối với Tôn bà không được xúng ý mấy , lẽ nào có thể nhận được tấm

lòng Bồ tát của Tôn bà ?

Tôn bà vốn tính thẳng , đã đem thuốc giúp người mà bị người ta nghi kỵ lấy làm tức

, không kiềm nổi giận dữ , bỏ Dương Qua nhảy lên phía trước giành lấy bình mật ong

, quay sang bảo Dương QUa :

- Cầm lấy , mở ra !

Dương Qua chẳng hiểu dụng ý của Tôn bà , hể bảo đâu làm đó , nó mở nút bình .

Tôn bà dốc cả bình mật ong vào môm Dương Qua và nói :

- Càng tốt phải không cháu ? Bị người ta nghi ngờ là độc dược thì thôi , mình uống

hết đi có sao ?

Dứt lời , bà cầm tay dương Qua dắt ra phía ngoài tường .

đạo sĩ kia thấy Tôn bà lấy lại bình thuốc cho dương Qua uông biết không phải là

thuốc độc nhưng đã trễ . đạo sĩ lại nghĩ đến bệnh tình của Triệu chí Kính nếu không

có thứ thuốc kia thì khó mà khỏi đưọc , liền phóng đến đón Tôn bà lại , nói :

- Thưa Tôn bà , có gì mà Tôn bà phải giận dữ đến thế ? Tôi buột mồm nói một câu

vô lễ xin Tôn bà miến chấp mà ban cho bình thuốc giải độc kia .

Tôn bà nghe giọng nói cuả đạo sỹ càng thêm chán ghét , cười nhạt nói :

- Ta chỉ có một bình thuốc mà thôi , đâu có nhiều mà cho qã . nếu Triệu chí

Kính có mệnh hệ nào thì là lỗi ở ngươi tất cả đó .

Dứt lời , bà lão dùng mu bàn tay tát vào mặt đạo sĩ một cái mắng :

- Ngươi không biết kính trọng bậc tiền bối ! Ai dạy ngươi những cử chỉ vô lễ thế ?

Cái tát này quá mạnh và quá nhanh , đạo sĩ kia không tránh được , để trúng vào phía

thái dương đau nhói . Đạo sĩ ngã quỵ xuống đất kêu cứu .

Hai đạo sĩ đứng ngoài nghe tiếng kêu thất thanh biến sắc lẩm bẩm :

- Lại gây rắc rối với vị tiền bối rồi .

Đoạn hai người tiến vào , một người bên mặt , một người bên trái tấn công bà lão .

Tôn bà thấy hai người xuất thủ , biết ngay họ dùng thế trận Bắc đẩu vô cùng lợi hại

nên chẳng muốn nghênh chiến , vội cắp Dương Qua nhảy thoát lên tường .

Nhìn về phía chân tường không thấy bóng người , bà lão toan nhảy xuống thì bỗng có

một giọng quát lớn :

- Xuống ngay .

Tiếng hét vừa dứt thì bóng một đạo nhân xuất hiện . Hắn chuyển khí và giơ cả hai

tay ra , trong lúc Tôn Bà còn lơ lửng trên không , nhảy chưa xuống đất , tay mắc cặp

Dương Qua chân không chỗ dựa để đối phó với đòn chưởng ấy .

Tuy vậy Tôn bà vẫn lách người đi tránh được sức mạnh của đối phương .

Khi Tôn bà xuống đến mặt đất thì lại bị sức công của bày đạo sĩ đánh một lượt , bà

lão chỉ còn có cách lui lại để tránh .

Mấy người này dồn cả nội khí ra ép bà lão vào góc tường .các đạo sĩ này thuộc vào

hàng đệ tam đại đệ tử là những tay cự phách , giữ nhiệm vụ đứng phòng thủ bên ngoài

võ điện .

Qua một lúc giao đấu , có lúc tiến , có lúc thoái , bà lão vẫn không nao núng . Các

đạo sĩ sở dĩ dồn vào được tận góc tường là vì bà lão một tay mắc bồng Dương Qua

còn một tay để đối phó . Nếu không , bảy đạo sĩ kia không làm sao địch nổi bà .

Qua mười hiệp đấu , người chỉ huy phòng thủ là Trướng chí Quang được biết đối

phương không thể nào làm gì hơn được , bèn ra lệnh đốt đèn lên để vây hãm bà lão .

Chỉ mười chiéc lồng đèn ánh sáng đủ làm rực rỡ một phía góc tường .

Bây giờ nét mặt xấu xí của bà lão đượm vẻ buồn lành lạnh làm cho ai trông thấy

cũng phải khiếp sợ .

Trương chí Quang ra lệnh cho các đạo sĩ khép chặt vòng vây chỉ giữ bà lão không cho

thoát chứ không tấn công nữa .

Các đạo sĩ được lệnh liền nhảy lùi lại , rút tay về trước ngực để nhận điện lực của

mình quy hồi nội thân , đứng giữ thế thủ .

Tôn bà thấy vậy cười nhạt nói :

- Toàn Chân môn phái vang danh trong thiên hạ , thật chẳng lưu truyền . Mây thanh

niên vây đánh một bà già và một đứa con nít , cử chỉ bắt nạt như thế có anh hùng

chăng ?

Trương chí Quang mặt mày đỏ lên vì hổ thẹn , gượng gạo nói :

- Chúng tôi có nhiệm vụ canh gác nơi võ điện này , bất kỳ kẻ lạ mặt nào đến đều phải

bị giữ lại . Bà đã ngang nhiên vào thì phải cúi đầu mà ra .

Tôn bà cười ha hả nói :

- Thế nào ? Ngươi bảo ta phải cúi đầu mà ra ?

Dứt lời , bà lão xông tới đánh vào mặt Trương chí Quang một chuỳ đau nhói lên .

Trương chí Quang không kịp né tránh cú đánh bất ngờ ấy , vận nội công chịu đựng .

Đợi cho hết đau , Trương chí Quang tiến tới một bước nói :

- Có khó khăn gì đâu mà bà phải giận dữ . Nếu bà làm đúng ba điều kiện này

chung tôi sẽ mở rộng vòng vây cho bà trở về mộ đài .

Bà lão hỏi :

- Ba điều kiện gì vậy ?

Trương chí Quang nói :

- Điều thứ nhất bà phải đưa chai thuốc giải độc để cứu chữa cho Triệu chí Kính . Điều

thứ hai bà phải hoàn trả đứa bé kia cho môn phái Toàn Chân vì nó là đệ tử của môn

phái Toàn Chân , chỉ có những người trong môn phái Toàn Chân mới có quyền định

đoạt số phận của nó . Điều thứ ba là bà đã đương nhiên đột nhập vào Trùng Dương

Cung mà quỳ gối tạ tội .

Tôn bà cất tiếng cười hề hề , nói :

- ta cũng phải về báo cho Tiểu long Nữ cô nương rằng các đạo sĩ Toàn Chân không có

ai lầm lỗi chi cả chỉ có già này lầm lỗi mà thôi . Thôi lại đây , ta xin cúi đầu đền tội

với ngươi .

Dứt lời , bà lão quỳ gối xuống đất làm cho Trương chí Quang không ngờ ngỡ rằng bà

đã nhanä lỗi . Bỗng nhiên từ phía sau lưng Tôn Bà , một mũi tên bắn ra trúng vào hàm

bên trái của Trương chí Quang . Tên bắn nhanh quá sức , Trương chí Quang không

tránh kịp chỉ biết kêu lên một tiếng " ối trời ".

Thứ khí giới bí ấy làm cho mọi người xôn xao , sửng sốt , không ai hiểu ra sao cả .

Thực ra Tôn bà đã để sẵn một chiếc cung trong lưng áo , lúc cúi xuông cánh cung

bị hai vai ấn xuống , dẩy dây cung bất lên , tên chọc qua khỏi lằn vải mà bắn tra . Cái

khó là làm sao xử dụng được hai vai ấn trúng cánh cung không động đến giây cung và

làm sao cúi xuống vừa tầm để nhắm trung kẻ địch . Tôn bà trong bụng muốn bắn vào

cổ họng Trương chí Quang nhưng đã nhắm sai bắn trúng lên quai hàm.

Lúc đó, các đạo sĩ đều cung kiếm một lên lượt. ánh kiếm loang loáng khắp nơi. Tôn

bà dựa vào tường để giữ thế thủ, và mỉm cười đoán biết câu chuyện ngày hôm nay còn

dây dưa rắc rối hơn thế nữa. Bẩm tính của bà lão vốn chẳng bao giờ chùn chân trước

khó khăn, và khuất phục trước uy vũ, cho nên bà lão quay sang nói với Dương-Qua:

- Cháu có sợ chăng?

Dương-Qua lúc đó thấy bọn đạo sĩ tuốt kiếm ra, phủ vây bốn phía, nghĩ thầm:

- Nếu chú Quách-Tỉnh mà gặp trường hợp nầy thì bọn đạo sĩ khốn kiếp kia phải tan

xương nát thịt tức thì. Còn Tôn bà tuổi tác quá già nua, chẳng biết có đối phó với

chúng được không?

Nghe Tôn bà hỏi, Dương-Qua dõng dạc đáp:

- Dám thưa Tôn bà, xin Tôn bà để cho cháu xông ra, dẫu chúng có giết cháu cũng

được, cháu chẳng bao giờ sợ chết.

Tôn bà thấy thằng bé can đảm khác thường, vì mình mà nó liều chết, lòng lại thấy

thương yêu hơn nữa.

Bà lão nói:

- Bà đâu có để cháu chết nơi chốn nầy để chúng hả lòng hả dạ?

Đột nhiên, bà lão quát lớn lên một tiếng, tức thì hai thanh kiếm của đối phương lọt

vào tay bà. Bà lão lại tung mình tới dùng chân đá vào một huyệt ở cổ tay một đạo sĩ

làm cho đạo sĩ ấy bủn rủn phải buông kiếm ra. Nhanh như chớp, bà lão đoạt thanh

kiếm giắt vào mình, rồi lại tung người sang phía khác nắm lấy cổ tay một đạo sĩ nữa.

Tay bà vừa rờ đến thì thanh kiếm của đạo sĩ ấy không còn hiệu lực, phải rời ra khỏi

bàn tay lập tức.

Chỉ loáng mắt, bà lão đã đoạt bốn thanh kiếm của bốn đạo sĩ như chơi.

Các đạo sĩ thấy lối thoát của bà lão vô cùng lợi hại, đều trố mắt nhìn, lấy làm kinh

ngạc.

Tôn bà trao cho Dương-Qua một thanh kiếm và nói:

- Cháu có dám ra tay với những tên đạo sĩ hèn hạ này chăng?

Dương-Qua thưa:

- Thưa Tôn bà, họ là kẻ hèn hạ, cháu dẫu là đứa trẻ thơ vẫn không sợ họ bao giờ.

Nhưng cháu chỉ tiếc thiếu mặt một người...

Bà lão hỏi:

- Người nào? Người ấy là ai?

Dương-Qua nói:

- Người ấy là một kẻ biết sỉ nhục, rõ được lẽ phải trái. Người ấy sẽ chứng kiến cái

uy dũng của phái Toàn-Chân ngày hôm nay ra tài để uy hiếp một bà lão và một trẻ

thơ.

Dương-Qua tuy còn bé song nó lanh lợi lắm. Qua một hồi nghe Tôn bà và

Trương-chí-Quang đối đáp, nó khai thác được chỗ yếu của đối phương. Vì vậy nó đã

đánh một đòn tâm lý vào các đạo sĩ trước mặt nó.

Quả nhiên danh dự của các đạo sĩ bị chạm! Câu nói của nó đã làm cho các đạo sĩ

Trùng-Dương cung nổi lên lòng tự ái. Họ nhìn nhau bàn tán:

- Hay là chúng ta vào trình với sư trưởng quyết định.

Trương-chí-Quang từ lúc bị trúng tên đau buốt, đau mỗi lúc một tăng, lòng lại sợ bà

lão dùng tên độc thì bỏ mạng nên hắn cố bắt sống bà lão cho được để đổi thuốc giải

độc.

Hắn nói:

- Chúng ta cứ bắt sống cho được bà lão trước đã, rồi sẽ trình cùng sư trương cũng

chẳng muộn.

ấy chỉ vì Trương-chí-Quang nghĩ sai lầm mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc.

Hơn nữa, lúc bấy giờ Mã-Ngọc, người điều khiển nơi Trùng-Dương cung lại mắc đi

ra ngoài mười dặm để tu tỉnh, việc trong Trùng-Dương điện giao cho Doãn-chí-Bình

định đoạt. Nếu Mã-Ngọc hay được chuyện ấy hắn đã tìm cách dàn xếp, không dám vô

lễ với Tôn bà.

Tiếc thay! Mã-Ngọc không có ở đây, Trương-chí-Quang vì sợ chết quên các nghĩa

nhân, còn Xích-đại-Thông thì tánh tình nóng nảy, không suy trước tính sau.

Trận Bắc đẩu lần lần thu hẹp lại. Tuy vậy, Tôn bà cũng bị bó tay vì vướng

Dương-Qua. ấy thế mà các đạo sĩ kia không thể tiến quá ba thước sát bà, vì bà đã thủ

một thế rất lợi hại.

Nếu trận đấu đó chính Trương-chí-Quang điều khiển thì thế trận sẽ biến hóa vô

cùng lợi hại. Đằng này Trương-chí-Quang bị thương, lòng nơm nớp lo sợ, vết thương

mỗi lúc một đau, máu cứ rơm rớm chảy mãi, nên Trương-chí-Quang không dám ra

trước trận tiền, chỉ đứng một chỗ hô hoán. Do đó uy thế Thiên cang Bắc đẩu trận bị

sút giảm đi nhiều.

Phần khác, các đạo sĩ đánh mãi không thắng, lòng rất hoang mang.

Bà lão lợi dụng cơ hội ấy, hét lên một tiếng, buông thanh trường kiếm xuống, xông

vào giữa rừng gươm thộp cổ một đạo sĩ ít tuổi lôi ra khỏi vòng vây, và nói:

- Nhãi con khốn kiếp! Bây giờ là lúc chúng bay phải nhường đường cho ta đi.

Thế trận bị rối loạn. Tôn bà toan phi thân nhảy ra ngoài vòng chiến thì đàng sau bỗng

có một người xuất hiện, nắm lấy cổ tay bà lão, làm cho bà lão đau buốt phải buông

đạo sĩ kia ra để tự vệ.

Nhanh như chớp, Tôn bà tấn công vào kẻ mới đến một đá. Người mới đến đưa tay

chận được đòn cước của ba lão rồi đánh trả lại một đòn.

Khí lực hai bên chạm nhau làm cho mỗi người phải dang ra mấy bước. Tôn bà nhìn

đối phương nghĩ thầm:

- Chà! Tay nầy cũng cừ khôi lắm!

Người kia, sau khi lùi lại mấy bước đã vận dụng nội công kịp liền tấn công vào bà lão

một đòn thứ hai. Bà lão đưa hai bàn tay ra trả miếng lại, nhưng lần nầy bà lão phải lùi

thêm hai bước. Đối phơng tiến tới và vận dụng sức lực đánh ngón đòn thứ ba. Ngón

đòn nầy còn nặng hơn gấp mấy lần hai ngón đòn trước. Bà lão bị ép vào chân tường,

tâm thần không còn được thư thái nữa.

Thấy đối phương hung hăng và lợi hại, bà lão liếc nhìn dung mạo thấy đó là một đạo

sĩ tóc bạc râu dài, thân hình quắc thước, chính là đạo sĩ đã dùng đuốc để xua đuổi bầy

ong bạch, tên hắn là Xích-đại-Thông vậy.

Nội công của Xích-đại-Thông rất thâm hậu, nổi tiếng trong phái Toàn-Chân, còn bà

lão tuy võ nghệ cao cường song tuổi tác già nua làm sao địch lại. Nếu Xích-đại-Thông

vận dụng hết nội công thì Tôn bà lùi bước là phải.

Tuy nhiên, Tôn bà bổn tính cương ngạnh, thà chết chứ chẳng khuất phục ai, bà nói

lớn:

- Ta nhất định giữ đứa bé nầy. Nếu ngươi muốn bắt nó lại thì hãy giết ta trước đã.

Xích-đại-Thông biết Tôn bà đối với Tổ sư Vương-trùng-Dương trước kia ân nghĩa thật

sâu xa, nên chẳng dám đem hết sức mình làm cho bà lão bị tổn thương, liền ôn tồn

nói:

- Chúng ta từ mấy chục năm nay là chỗ lân cư, lẽ đâu chỉ vì một đứa bé dại khờ kia

mà để mất hòa khí?

Tôn bà cười nhạt, nói:

- Ta đến đây với tất cả thịnh tình giao hảo nên mang theo thuốc giải độc để cứu

Triệu-chí-Kính. Ngươi hỏi lại tên đệ tử của ngươi ăn nói với ta như thế nào?

Xích-đại-Thông chưa kịp đáp lời thì bà lão đã tung người lên, dùng chân đá vào bụng

dưới Xích-đại-Thông một đòn rất mạnh.

Ngón cước ấy nhanh như điện, lẹ làng đến nỗi chân đá mà kiếm không kịp tung lên.

Ngón đá ấy bà lão đã dày công tu luyện được mệnh danh là ngón "Quần lý thối"

nghĩa là đã ngầm trong mộng.

Ngọn đá trúng vào bụng dưới Xích-đại-Thông đánh nhói một cái. Xích-đại-Thông

hứng chịu, không kịp lùi lại để làm giảm bớt sức mạnh.

Tuy nhiên, là một đệ tử cao thủ của Vương-trùng-Dương, đã nhiều kinh nghiệm giao

đấu với các bậc anh hùng trong thiên hạ, Xích-đại-Thông dù có bị đau cũng đã quen

chịu. Vả lại sức nội công của Xích-đại-Thông rất mực uyên thâm nên không làm cho

hắn giảm mất nhuệ khí.

Cơn nóng giận phừng phừng, Xích-đại-Thông vận hết sức lực mình dồn vào hai tay,

miệng hét lên một tiếng, đánh tạt về phía Tôn bà. Sức gió và áp lực nội công của

Xích-đại-Thông quá mạnh, đẩy bà lão đánh huỵch vào tường.

Tường bị rung chuyển, gạch ngói rơi xuống, và bà lão bị hộc máu ra, té xỉu xuống.

Dương-Qua thấy thế kinh sợ, nhảy tới án ngữ trước mặt Tôn bà, và nói lớn:

- Các người là quân sát nhân! Sao không giết ta lại giết Tôn bà?

Tôn bà mở mắt khe khẽ mỉm cười, nói:

- Cháu ơi! Có lẽ ta phải chết ở chốn nầy chăng?

Dương-Qua đau lòng, hai tay ôm Tôn bà, quay mặt về phía đạo sĩ, quên rằng mình

đang ở trong tình thế hiểm nghèo, nói lớn:

- Hãy giết ta đi! Hãy giết ta nữa đi! Ta quyết chết theo Tôn bà.

Lúc đó Xích-đại-Thông thấy lòng hối hận, tiến bước về phía Tôn bà để xem xét

thương thế Tôn bà ra sao. Nhưng Dương-Qua chắn lối, không để ai động đến Tôn bà

cả.

Xích-đại-Thông hét:

- Dương-Qua, hãy tránh ra để ta xem Tôn bà ra thế nào.

Dương-Qua không tin lòng tử tế của ai cả, hai bàn tay nó cứ ôm chặt lấy Tôn bà.

Nói mãi, Dương-Qua vẫn chẳng nghe lời. Xích-đại-Thông liền gỡ tay nó ra, hất mạnh

nó một cái làm cho nó té sang một bên.

Nó tức giận, hét:

- Đạo sĩ khốn nạn! Ta không bao giờ để chúng bây hãm hại Tôn bà.

Đang lúc Xích-đại-Thông dằng co với Dương-Qua thì đằng sau bỗng nhiên nổi lên

một giọng nói lạnh lùng:

- Bắt nạt bà già trẻ con như thế có đáng một anh hùng chăng?

Giọng nói lạnh như băng tuyết ấy làm cho mọi người kinh ngạc. Xích-đại-Thông quay

đầu lại thì thấy một thiếu nữ nhan sắc diễm ảo đã đứng sững trước điện đài từ bao giờ.

Nàng nõn nà trong bộ xiêm y màu trắng, thần sắc lạ lùng không biết lấy gì để so

sánh. ánh mắt sáng ngời nhưng lạnh lùng của nàng như có mãnh lực trấn áp, chế ngự

mọi người khác.

Bấy giờ, nơi Trùng-Dương cung tiếng chuông báo động cho môn đệ xa gần trong

phạm vi mười dặm phải cẩn mật canh phòng thế mà nàng lọt vài đại điện chẳng một

ai hay biết.

Xích-đại-Thông có cảm giác rờn rợn trước cái uy nghi của thiếu nữ. Ông ta cất tiếng

hỏi:

- Cô nương là ai? Đến đây có điều chi chỉ giáo?

Thiếu nữ không đáp, tiến về phía Tôn bà.

Dương-Qua ngẩng đầu lên trông thấy buồn rầu nói:

- Kính thưa Long cô nương, người đạo sĩ độc ác kia đã đánh chết Tôn bà rồi.

Người thiếu nữ y phục màu trắng đó chính là Tiểu-long-Nữ.

Nàng có ngờ đâu Tôn bà cõng Dương-Qua rời khỏi mộ đài, vào Trùng-Dương cung,

vì thế bách phải giao đấu, đến nỗi bị Xích-đại-Thông đánh trọng thương.

Khi thấy Dương-Qua lấy thân mình che chở cho Tôn bà, Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:

- Thằng bé nầy có bản tính thế nhân, đa tình, đa cảm.

Đến khi thấy Dương-Qua ôm Tôn bà khóc nức nở. Tiểu-long-Nữ nói:

- Việc gì phải thế? Ai lại khỏi chết được?

Tôn bà là người nuôi nấng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé, ơn sâu nghĩa nặng chẳng khác

tình mẹ con, Tiểu-long-Nữ há chẳng biết lẽ ấy sao? Chẳng qua bẩm tính của nàng

trầm tĩnh, lại đã luyện nội công từ ngày thơ ấu. Trong phép luyện nội công thì việc trừ

thất tính: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục là điều cần thiết. Bởi vậy, dầu việc gì đau đớn bi

thương, hờn giận đến đâu nàng cũng vẫn lạnh lùng như băng tuyết. Tình cảm của

nàng có lẽ cũng vì cuộc sống mà khác hơn người thường chăng?

Xích-đại-Thông thoáng thấy Tiểu-long-Nữ hơn buồn một chút rồi vẻ mặt lại thản

nhiên không hề đổi sắc.

Nàng ung dung đưa mắt nhìn các đạo sĩ qua một loạt. Các đạo sĩ gặp phải thái độ lạnh

lùng của nàng, ai nấy đều rợn người như chạm phải băng tuyết, chỉ trừ Xích-đại-Thông

sức nội công đã uyên thâm nên tâm vẫn định.

Tiểu-long-Nữ cúi xuống hỏi bà:

- Tôn bà bị đả thương vào đâu thế?

Tôn bà thở dài nói:

- Cô nương! Từ trước đến nay tôi chẳng hề dám phiền đến cô nương, nay có việc cần

cô nương giúp đỡ, chẳng biết cô nương có vui lòng chăng?

Tiểu-long-Nữ linh cảm rất thông, nghe Tôn bà nói nàng đã đoán biết ý định phần nào,

liền hỏi:

- Tôn bà có điều gì sai bảo con đây?

Tôn bà khẽ gật đầu, lấy tay chỉ vào Dương-Qua.

Rồi bà ngất xỉu đi, không nói nên lời nữa.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà muốn dặn con coi sóc nó phải không?

Tôn bà vận dụng hết tàn lực phều phào nói:

- Cô nương, lo liệu, săn sóc, dạy dỗ cho nó nên người, không thể gởi gắm nó vào tay

ai được.

Tiểu-long-Nữ chần chờ nói:

- Lo liệu cuộc đời cho nó ?

Tôn bà với giọng nói đã hết sinh lực, nhung vẫn cố gắng nhếch mồm, ú ớ:

- Này cô nương! Nếu già nầy chưa chết thì vẫn còn săn sóc cô nương. Lúc còn nhỏ,

già đã chăm nom cô nương từng miếng ăn miếng uông... bây giờ cô nương báo đền

cho già như thế sao?

Tiểu-long-Nữ thở dài, cắn môi nói:

- Được! Con xin tuân lời Tôn bà.

Trên nét mặt xấu xí của Tôn bà hiện lên một nét vui. Bà mỉm cười, mắt nhìn sang

phía Dương-Qua như muốn nói điều gì, nhưng không còn nói được nữa.

Dương-Qua biết ý, ghé sát vào mặt bà lão, khe khẽ thưa:

- Thưba Tôn bà, Tôn bà muốn bảo cháu điều gì?

Bà lão nói trong hơi thở:

- Cháu hãy ghé vào nữa, ghé vào mồm ta...

Dương-Qua ghé tai sát bên mồm. Tôn bà chỉ còn nói được mấy tiếng:

- Cháu cởi áo bông ngoài của ta, áo này...

Tôn bà không còn hơi nữa. Huyết từ trong miệng chảy ồng ộc. Bà thở dốc lên, trợn

mắt rồi nhắm nghiền lại.

Dương-Qua kêu thất thanh:

- Tôn bà! Tôn bà ơi!

Rồi hắn ôm Tôn bà khóc không ngớt.

Người đàn bà xấu xí nhất đời lại có tấm lòng vàng ngọc kia không còn nữa. Bà đã

chết trong lúc bà mang thuốc đến để cứu kẻ địch thật đáng quí hóa cho lòng từ tâm

của bà.

Những tiếng khóc thảm thiết của Dương-Qua thốt ra tự lòng chân thành, thương tiếc

một người đã chết vì nghĩa làm cho các đạo sĩ không khỏi áy náy.

Xích-đại-Thông bước đến bên xác Tôn bà, cúi đầu hành lễ, lẩm bẩm:

- Thưa Tôn bà, tôi lỡ tay đánh Tôn bà đến mạng vong, thật tôi có tội với kẻ tiền bối.

Tuy nhiên đó là chuyện rủi ro, thực tình tôi không cố ý, xin vong linh Tôn bà xét cho.

Tiểu-long-Nữ đứng gần đó, nét mặt vẫn bình thản nh mặt nước hồ thu. Nàng liếc

nhìn Xích-đại-Thông trong lúc ấy Xích-đại-Thông cũng đưa mắt nhìn Tiểu-long-Nữ

để dò xét ý tứ.

Qua một lúc, Tiểu-long-Nữ nhíu đôi mày, trừng mắt nói với Xích-đại-Thông:

- Sao? Nhà nguời không chịu hủy diệt để đền tội còn đợi chừng nào?

Xích-đại-Thông là kẻ võ nghệ cao cường, tâm đạo khá cao, thế mà khi nghe câu nói

đầy vẻ uy phong của Tiểu-long-Nữ cũng phải rởn ốc.

Xích-đại-Thông ú ớ:

- Sao? Sao...?

- Giết người phải đền mạng. Nếu ngươi biết điều tự xử lấy thì ta có thể dung tha cho

tất cả các đạo sĩ ở Trùng-Dương cung nầy.

Xích-đại-Thông đứng lặng người đi một lúc. Trong khi ấy các đạo sĩ kia nhao nhao

lên vì sợ sệt cũng có, vì tức giận cũng có.

Sau phút giận dữ vì chạm lòng tự ái, Xích-đại-Thông trở lại trầm tĩnh, kêu

Tiểu-long-Nữ nói:

- Tiểu cô nương mau lùi bước. Tuy lời nói của cô nương có xúc phạm đến danh dự

của môn phái ta, song cô nương là một cô gái bé bỏng chúng ta không trách móc làm

gì.

Tiểu-long-Nữ không nói gì cả, thong thả lấy ra hai cuộn dây trắng toát như hai vuông

lụa, dùng tay mặt quấn lấy đầu dây.

Các đạo sĩ đứng xung quanh lấy làm lạ, không biết nàng lấy cuộn dây để làm gì, và

tác dụng cuộn dây ấy ra sao.

Tiểu-long-Nữ nhìn Xích-đại-Thông ung dung nói:

- Lão đạo sĩ kia, ngươi đã ham sống sợ chết không chịu tự vẫn thì hãy rút kiếm ra để

ứng chiến.

Xích-đại-Thông rầu rầu nói:

- Bần đạo đây lỡ tay làm bà lão bị tử thương, thực ra không muốn có sự xích mích

như thế. Vậy cô nương liệu bề cõng Dương-Qua ra khỏi điện này thì tốt hơn.

Nói như thế, Xích-đại-Thông nghĩ rằng, Tiểu-long-Nữ còn nhỏ tuổi dẫu võ nghệ cao

cường đến đâu nữa cũng chẳng qua như Tôn bà là cùng. Nay Xích-đại-Thông đã nhân

nhượng lắm rồi.

Nhưng Xích-đại-Thông có ngờ đâu lời nói của hắn chỉ là một cơn gió thoảng, không

lọt vào tai Tiểu-long-Nữ.

Nàng vung tay trái lên một cái thì một dải lụa trắng được phóng ra đụng vào mặt

Xích-đại-Thông; sự xảy đến thực không ngờ được.

Dưới ánh sáng của những cây nến, dải lụa lóng lánh ở ngoài đầu một vật tròn như một

quả cầu bằng kim khí.

Xích-đại-Thông thấy nàng xuất thủ mãnh liệt và nhanh như chớp, êm nh ru, lại sử

dụng một thứ vũ khí quái dị, chưa tìm ra cách nào để ứng phó.

Xích-đại-Thông là người đã lớn tuổi, giàu kinh nghiệm chiến đấu trên bước giang hồ,

nên việc gì dẫu lớn nhỏ cũng đều dè dặt.

Vì vậy, thấy Tiểu-long-Nữ xuất thủ, hắn chỉ né tránh để xem chừng sức lực và tài

nghệ của đối phương.

Dải lụa của Tiểu-long-Nữ có thể tự động sai khiến quả cầu quay tít trên không nhắm

vào đối phương tấn công như vũ bão.

Ba tiếng "tinh! tinh! tinh" ngân dài, quả cầu nhanh như chớp nhảy lên nhảy xuống ba

lần điểm vào ba huyệt đạo: tử bạch, hạ quan và địa thơng không sai một mảy.

Xích-đại-Thông là người đã giàu kinh nghiệm, trông xa thấy rộng, nên khi nghe tiếng

"tinh, tinh, tinh" của quả cầu biết ngay địch thủ dùng ngón độc liền ngả người về phía

sau dùng thế "thiết băn kiều" để tránh. Xích-đại-Thông để cho quả cầu xoay qua khỏi

mũi mình rồi lần lần đa tay đẩy sang một bên.

Ngón "Thiết băn kiều" có nghĩa là tấm cầu bằng sắt. Ngón nầy Xích-đại-Thông đã

dày công rèn luyện mấy mơi năm trời, nhờ sức nội công uyên thâm mới có thể luyện

nổi...

Thật vậy, thế ấy đã cứu nguy cho Xích-đại-Thông trước làn kinh cầu của

Tiểu-long-Nữ.

Sau khi quả kim cầu bị mất hiệu lực, Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Ta dùng quả cầu điểm huyệt đối phương cả trăm lần chưa sai một, thế mà tên đạo sĩ

nầy tự giải cứu được, kể ra hắn cũng thuộc vào bậc nhất trong thiên hạ rồi.

Tuy Xích-đại-Thông vận nội công dùng miếng võ điêu luyện để phản nguy, song

không vì thế mà tránh khỏi ảnh hưởng về điện lực. Sức quả cầu quá mạnh, làm cho

Xích-đại-Thông phải dùng hết sức mình. Mặt ông ta bỗng tái nhợt đi, rồi đờ người ra.

Các đạo sĩ đứng xung quanh tuy không phải là học trò của Xích-đại-Thông, song thấy

Xích-đại-Thông như thế đều nóng lòng nhảy vào tiếp cứu.

Bốn vị đạo sĩ thuộc vào hạng khá, vung trường kiếm xốc vào.

Tiểu-long-Nữ hét:

- Này, hãy chuẩn bị binh khí chống đỡ đi.

Dứt lời, nàng múa hai tay lên, hai dải lụa trắng như hai con rắn uốn khúc trên không.

"Tinh! tinh!" hai tiếng, rồi "Tinh! tinh!" hai tiếng nữa, huyệt "đại uyên" ở cổ tay các

đạo sĩ đều bị quả cầu bằng kim khí điểm vào, bốn thanh trường kiếm rơi xuống đất.

Các đạo sĩ tái mặt kẻ ôm đầu người rút cổ bỏ chạy ra khỏi vòng chiến đấu.

Xích-đại-Thông lúc đầu gặp Tiểu-long-Nữ không ngờ nàng có một sức nội công mãnh

liệt như thế nên thiếu đề phòng. Bây giờ hắn đã lấy lại được uy mãnh, bước đến giật

một thanh trường kiếm trong tay một đạo sĩ gần đây, và nói với Tiểu-long-Nữ:

- Long cô nương tài nghệ đến mức tuyệt luân. Bần đạo không còn dám khinh xuất

trước cô nơng nữa, mong cô nương chỉ giáo cho bần đạo một ngón cao cường hơn.

Tiểu-long-Nữ gật đầu một cái. Tức thì hai tiếng "Tinh! tinh!" phát ra, dải lụa trắng từ

tay trái sang tay phải vút ngang mặt Xích-đại-Thông rồi lại thu về.

Xích-đại-Thông ngả người ra tránh và so tài mình với Tiểu-long-Nữ thấy còn thua

nàng một bực.

Để tỏ lòng tôn kính bậc lớn tuổi hơn mình, Tiểu-long-Nữ nhường cho Xích-đại-Thông

đánh trước ba ngọn.

Xích-đại-Thông vung kiếm tấn công ba hiệp liên tiếp, nhưng Tiểu-long-Nữ như một vị

nữ thần không hề nao núng. Nàng chỉ tung dải lụa kia ra làm vũ khí của

Xích-đại-Thông trở nên yếu hèn vô dụng.

Xích-đại-Thông nghĩ bụng:

- Người con gái nầy có nhiều ngón võ độc đáo, được rèn luyện rất công phu, nếu nàng

được nhiều kinh nghiệm giao đấu nữa thì chắc trong thiên hạ không ai bì kịp.

Nghĩ như vậy, Xích-đại-Thông cố dùng hết cái uyên thâm về kiếm thuật trong phái

Toàn-Chân để đối phó với thuật dùng kim cầu của Tiểu-long-Nữ.

Kiếm pháp phái Toàn-Chân quả thật mãnh liệt, Xích-đại-Thông cố gắng biểu diễn hết

những nét độc đáo trong nghề, mong áp đảo hai quả kim cầu kia.

Các đạo sĩ đứng xung quanh đều nín hơi xem đấu. Dưới ánh đèn lồng, thấp thoáng

bóng một thiếu nữ xiêm y màu trắng uyển chuyển như một cành mai, sắc đẹp như một

nữ thần và một lão đạo sĩ da hồng, râu tóc phất phơ, áo quần màu tro, chít khăn vàng,

đang so tài thử sức mỗi lúc một kịch liệt.

Với mười năm khổ công rèn luyện, Xích-đại-Thông là một tay kiếm lợi hại trong

hạng ba bốn người tài cao của phái Toàn-Chân thế mà khi đem so với Tiểu-long-Nữ

trong ít chục hiệp, người ta thấy đờng kiếm của Xích-đại-Thông mỗi lúc một bối rối

thêm.

Tiểu-long-Nữ thì vận dụng hết tinh lực của hai quả cầu, xử dụng bằng hai dải lụa, uốn

khúc như rồng bay phượng múa, thỉnh thoảng phát ra những tiếng "Tinh! Tinh" làm

cho đối phương phải hồn xiêu phách lạc.

Đánh lâu mà không sao áp đảo được đối phương. Xích-đại-Thông tự hổ thẹn cho tài

nghệ mình, lòng bối rối, khiến cho sức nội công vì thế mà suy giảm. Đường kiếm

bám sát vào dải lụa không cho kim cầu tự do hoạt động, bây giờ chỉ đủ sức ngăn cản

kim cầu không còn áp đảo được sức vùng vẫy của hai dải lụa nữa.

Đánh thêm ít hiệp nữa, sức vùng vẫy của hai dải lụa đã điều khiển hai kim cầu một

cách mạnh mẽ chạm vào lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông nghe lẻng kẻng.

Xích-đại-Thông kinh hãi, liền vận dụng sức nội công uyên thâm của mình mong đánh

đội hai quả kim cầu trở lại. Mũi kiếm được nội công tiếp sức tấn công như vũ bão.

Các đạo sĩ đứng xem hoan hô cổ võ khi thấy Xích-đại-Thông phóng mũi kiếm quấn

vào dải lụa chuyển về phía tay Tiểu-long-Nữ. Nếu Tiểu-long-Nữ không buông dải lụa

tất mũi kiếm đâm lủng tay.

Nào ngờ, Tiểu-long-Nữ mặt lạnh như đồng, chẳng hề đổi sắc dùng tay phải chận

thanh kiếm rồi hãm khí phóng ra. Thanh kiếm bị gãy làm đôi nơi giữa lưỡi.

Thấy thế các đạo sĩ la thất thanh, và kinh ngạc.

Xích-đại-Thông chạy đến tay run run lượm thanh kiếm gãy, mặt tái đi vì hổ thẹn, nghĩ

bụng:

- Công phu ta tập luyện mấy mươi năm trời, nay đánh không lại một đứa con gái nhỏ

thế nầy, còn gì là uy danh nữa.

Đoạn Xích-đại-Thông cất giọng nói với Tiểu-long-Nữ:

- Bần đạo xin khuất phục tài nghệ cô nương. Vậy cô nương có quyền đem Dương-Qua

về dạy dỗ. Chúng tôi xin nhường hắn cho cô nương đó.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Ngươi đánh chết Tôn bà rồi chịu nhường đệ tử và thú nhận cái bất lực của ngươi như

thế là xong chuyện ?

Xích-đại-Thông ngẩng mặt lên trời cười ngạo nghễ nói:

- Nếu biết ta là một đạo sĩ biết trọng danh dự, ngươi chớ quá hồ đồ.

Dứt lời Xích-đại-Thông đưa lưỡi kiếm gãy vào cổ toan quyên sinh.

Ngay lúc đó, bỗng một tiếng "keng" nổi lên làm đội lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông ra,

rơi xuống đất.

Xích-đạo-Thông ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Ai đã dùng thủ đoạn nầy để cản trở ta? Kẻ nào đây nhỉ?

Hắn quay lại nhìn, không thấy bóng người nào cả.

Nghĩ một lúc Xích-đại-Thông lẩm bẩm:

- Chỉ có Khưu-xứ-Cơ mới sử dụng được ngón bí quyết này.

Nghĩ như vậy Xích-đại-Thông nói lớn:

- Thưa sư huynh, đệ tử là kẻ bất tài đã làm nhục cho môn phái xin sư huynh xét lại.

Dứt lời, Xích-đại-Thông lại cúi xuống nhặt thanh kiếm gãy lên.

Bỗng từ ngoài võ điện, một tràng cười nổi lên, tiếp theo giọng nói:

- Sư đệ Xích-đại-Thông ơi! Thua được là chuyện thường. Đây là một dịp thúc đẩy

chúng ta phải tập luyện nhiều hơn nữa. Đã có mười tám người nữa rửa nhục cho sư

đệ.

Rồi theo tiếng nói đó, một đạo sĩ râu tóc bạc phơ, tay cầm trường kiếm nhảy qua bức

tường mà nói.

Đạo sĩ ấy chính là Khưu-xứ-Cơ. Bẩm tính Khưu-xứ-Cơ ít ưa chuyện dài dòng khách

sáo, nên vừa chạm mặt Tiểu-long-Nữ là ông ta vung trường kiếm đâm thẳng tới, và

nói:

- Bần đạo là Trường-Xuân Khưu-xứ-Cơ xin lãnh giáo vài đường với người láng giềng

tài cao.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ngươi chắc thừa hiểu tài năng ta cũng chẳng có gì.

Đoạn nàng đưa tay bắt lấy thanh trường kiếm của Khưu-xứ-Cơ.

Xích-đại-Thông đứng bên ngoài trông thấy kêu thất thanh:

- Sư huynh! Sư huynh! coi chừng.

Nhưng câu nói Xích-đại-Thông đã trễ. Hai người đang vận nội công giành nhau thanh

kiếm.

Một tiếng "rắc" thanh trường kiếm gãy làm đôi. Khưu-xứ-Cơ thất kinh. Còn

Tiểu-long-Nữ lần nầy cảm thấy tay nàng đau buốt và ngực hơi thiếu thở.

Nàng nghĩ thầm:

- Lão nầy hơn Xích-đại-Thông một bực. Ta chưa luyện xong Ngọc nữ tâm kinh chưa

chắc nắm phần thắng được.

Nghĩ như vậy Tiểu-long-Nữ một tay bồng xác Tôn bà một tay ôm Dương-Qua khinh

thân qua khỏi vách tường biến dạng.

Khưu-xứ-Cơ và Xích-đại-Thông đã giao đấu với Tiểu-long-Nữ đoán biết tài vũ công

của nàng cũng chẳng hơn họ bao nhiêu, song với lối khinh thân thần tốc của nàng làm

cho mọi người không ngớt kinh dị. Tài khinh thân ấy không có một ai so sánh nổi.

Xích-đại-Thông nhìn Khưu-xứ-Cơ, nói:

- Thật là quá đỗi! Ôi thôi!

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Xích s đệ, chúng ta uổng công tập luyện mấy mươi năm trường, há chẳng chiêm

nghiệm cuộc thua trận nhục nhã này sao? Nhưng thôi, chuyện nầy chưa vội, bây giờ

một số trong chúng ta phải đi Sơn Tây gấp đã.

Xích-đại-Thông ngạc nhiên hỏi:

- Lại có việc gì gây rối sao? Có ai bị thương đó?

Khưu-xứ-Cơ nói:

- Chuyện nầy kể ra còn dài dòng. Hiện giờ Mã-Ngọc sư huynh đã lên đường rồi.

Chúng ta tiếp tục nối gót.

Năm cỗ quan tài

Đến đây, chúng ta cũng cần biết nguyên nhân nào đã thúc đẩy các đồ đệ của môn

phái Toàn-Chân phải dấn bước giang hồ.

Số là, Xích-Luyện Tiên tử Lý Mạc Thu từ khi đả thương một số người ở miền

Giang-Nam, Hồ-Châu, tự thấy mình kết oán, gây thù sâu sắc, nên chuyển bước sang

đất Sơn Tây. Tại đây, Lý Mạc Thu vẫn không bỏ tánh háo chiến. Nàng đả thương một

số anh hùng hào kiệt ở Tấn Bắc, làm cho các thủ lãnh trong giới giang hồ đều căm

phẫn. Họ kêu gọi các môn phái hợp tác nhau để khử trừ cho được Lý Mạc Thu.

Toàn-Chân là một môn phái có hạng trong thiên hạ, bấy giờ do Mã-Ngọc,

Khưu-xứ-Cơ lãnh đạo. Hai vị nầy thấy Lý Mạc Thu lắm điều tội lỗi, song khổ nỗi

nàng lại ở trong môn đồ của Vương-trùng-Dương vị Tổ sư của họ, nên chẳng biết làm

thế nào hơn là đóng vai trò trung gian hòa giải, tìm cách cho Lý Mạc Thu cải tà quy

chánh.

Bây giờ, Lưu-xứ-Huyền và Tòa-bất-Nhị liên hiệp nhau ở phía Bắc. Lý Mạc Thu chẳng

kể ai vào đâu cả, coi đời bằng khóe mắt, nghe tin họ liên hiệp để chống lại mình, liền

mò đến đánh. Trước sau Lý Mạc Thu đã hạ Lưu và Tôn hai trận liên tiếp.

Sau này Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất, hai tay cao cường trong Toàn-Chân phải đến

ứng chiến. Lý Mạc Thu khôn ngoan tự thấy một mình không thể đánh nổi số đông,

liền dùng lời lẽ ôn tồn làm cho Khưu và Vương bị khích động không thể tham chiến.

Nàng hẹn với Khưu và Vương sẽ tỉ thí với nàng ở một nơi khác.

Ngày thứ nhất, tỉ thí với Tôn-bất-Nhị, Lý Mạc Thu đã dùng kim độc phóng vào huyệt

"thân thợng" của đối phương. Sau đó nàng lại cho người mang thuốc đến giải trừ.

Hành động ấy khiến cho Khưu-Vương hai người không rõ tâm tánh của Lý Mạc Thu

ra sao cả.

Phàm trong nguyên tắc võ lâm, kẻ đã cứu đối thủ không thể coi như kẻ thù được.

ấy vậy các tay thủ lãnh đến hợp tác với Tôn-bất-Nhị thấy vậy đều mỉm cười chua chát

rồi rút lui không tham chiến nữa.

Cũng may, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất tự thấy mình chưa phải là lúc ứng chiến

với Lý Mạc Thu nên mới trở về kịp Trùng-Dương-cung cứu nguy cho

Xích-đại-Thông.

Nhắc lại, Tiểu-long-Nữ lúc ra khỏi Trùng-Dương điện, một tay bồng xác Tôn bà một

tay bồng Dương-Qua, khinh thân thẳng về Hoạt-tử-Nhân mộ đài một mạch.

Nàng đặt xác Tôn bà lên giường nàng ngủ thường ngày, còn nàng thì ở trên ghế

trường kỷ chống tay thẫn thờ suy nghĩ.

Dương-Qua ôm xác Tôn bà khóc sướt mướt không thôi. Một lúc lâu Tiểu-long-Nữ

mới nói:

- Đàng nào Tôn bà cũng đã chết, khóc mãi chẳng ích gì? Bây giờ mi khóc Tôn bà như

thế, ngày mai mi chết có ai khóc cho mi chăng?

Nghe Tiểu-long-Nữ nói những câu lạnh nhạt như vậy, Dương-Qua không hiểu gì cả

buồn rầu hơn, và càng khóc to hơn nữa!

Tiểu-long-Nữ nói:

- Thôi ta đi an táng Tôn bà đây. Mi hãy theo ta.

Nói dứt lời, nàng bước đến bồng xác Tôn bà đi về phía Tây. Dương-Qua lấy vạt áo

chùi nước mắt bước theo.

Đường trong mộ đài tối lờ mờ, ánh sáng bên ngoài rọi vào yếu ớt. Dương-Qua phải

chú mục vào màu trắng của xiêm y Tiểu-long-Nữ để nối gót.

Hai người đi quanh co một lúc thì đến một con đường hầm tối đen như mực. Con

đường hầm đó dẫn đến một cánh cửa bằng đá Tiểu-long-Nữ đưa tay đẩy cánh cửa thì

bên trong lộ ra một căn phòng cũng bằng đá, và tối om. Nàng rút trong bọc ra lấy một

viên đá lửa đập vào một tảng đá. Bùi nhùi nàng đã chuẩn bị sẵn. Lửa bén vào, cháy bùi

nhùi tỏa ánh sáng tạo thành một màu kinh dị.

Tiểu-long-Nữ thắp một ngọn đèn dầu đặt giữa căn phòng.

Nhìn bốn phía Dương-Qua cảm thấy trong người ớn lạnh.

Đó là một căn phòng rộng, trống rỗng, trơ trọi có năm cái quan tài bằng đá.

Nó nín hơi lấy can đảm đưa mắt nhìn về năm cỗ quan tài ấy thì thấy hai cái đã có nắp

đậy kín, còn ba cái nắp đậy hở.

Nó ngơ ngẩn tự hỏi:

- Chẳng biết trong ba cỗ quan nắp hở nầy đã có xác người chết hay chưa.

Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ chiếc quan tài bên trái nói:

- Sư phụ phu nhân an giấc ở chỗ này.

Rồi nàng lại chỉ vào cái quan tài bằng đá thứ hai, nói:

- Còn sư phụ an giấc ngàn thu ở chỗ này đây.

Tiếp đó, nàng lại đưa tay chỉ vào chiếc quan tài thứ ba.

Dương-Qua lòng ngờ ngợ, chẳng biết Tiểu-long-Nữ sẽ bảo ai an giấc trong đó. Nhìn

nắp quan tài chưa đậy, nó chẳng biết có xác chết nào trong đó chưa.

Bỗng nghe Tiểu-long-Nữ nói:

- Tôn bà an giấc trong cỗ quan tài nầy.

Nó đánh thót người nhẹ nhõm và tìm hiểu rằng: "những chiếc quan tài chưa đậy nắp là

chưa có người chết".

Trí tò mò của nó lại nổi dậy, nó nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thưa cô nương, còn hai cỗ quan tài không kia nữa.

Tiểu-long-Nữ thản nhiên đáp:

- Một cái dành cho sư tỉ của ta là Xích-Luyện tiên tử Lý Mạc Thu.

Dương-Qua ngẩn người hỏi:

- Lý cô nương cũng lại về đây an giấc sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư mẫu ta đã dự liệt trước, sư tỉ rồi thế nào cũng phải về.

Dương-Qua lại hỏi:

- Còn một cỗ quan tài nữa?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Cỗ quan tài đó dành cho ta. ở đây còn thiếu một cỗ quan tài nữa chỉ vì sư mẫu ta

không dự liệu được rằng mi sẽ đến đây.

Nghe nói vậy, Dương-Qua giật mình. Tự nhiên bản tính "uý tử cầu sinh" nổi dậy, nó

hoảng hốt đáp:

- Cô nương ơi! Tôi không chết nơi đây đâu! Tôi không muốn chết!

Tiểu-long-Nữ nghiêm nét mặt nói:

- Ta nhớ lời dặn của Tôn bà là sẽ chăm lo săn sóc đến mi trọn đời. Lời hứa ấy ta

chẳng dám sai.

Dương-Qua lạnh toát cả mình, nhất là trước căn phòng âm u với năm cỗ quan tài ấy,

làm cho nó ám ảnh một mối buồn rùng rợn.

Nó nói rối rít:

- Nếu cô nương không bằng lòng để tôi đi thì lúc cô nương chết rồi tôi cũng tìm cách

ra khỏi chốn nầy.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bảo theo lời trăn trối của Tôn bà, ta phải lo liệu cho mi trọn đời, thì có bao

giờ ta để cho mi chết sau ta?

Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao vậy? Cô nương nhiều tuổi hơn tôi mà!

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:

- Chết sống không cần phải ít hay nhiều tuổi. Phỏng sử ta có chết trước mi ta cũng tìm

cách cho mi được chết theo.

Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song tâm cơ đã có nhiều mưu trí. Mặc dù vậy, những

mưu trí có hay đến đâu cũng chỉ là mưu trí của trẻ con.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ nói như vậy, tâm trạng chống đối lại âm thầm nổi đậy trong

đầu óc nó.

Nó nghĩ thầm:

- Tại sao lại buộc ta phải chết, mà phải chết nơi đây? Nhưng cái chết cái sống hãy còn

xa vời, ta có đủ thì giờ để đối phó.

Tiểu-long-Nữ thấy nó thẫn thờ suy nghĩ hiểu ngay tâm trạng của nó, liền bước đến giờ

nắp quan tài, đặt xác Tôn bà vào trong.

Dương-Qua chợt nhớ đến lời trăn trối của Tôn bà: "Mi hãy lấy chiếc áo bông phủ

ngoài của ta. áo này..."

Nó vùng đứng dậy, chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, nói:

- Thưa cô nương! Theo lời trăn trối xin cô nương cho tôi chiếc áo bông ngoài của Tôn

bà.

Tiểu-long-Nữ không muốn cho người bên mình phải buồn phiền, lại thấy Dương-Qua

với Tôn bà quen biết mới trong ngày mà tình quyến luyến đã sâu đậm, nên cởi chiếc

áo bông ngoài của Tôn bà trao cho Dương-Qua.

Dương-Qua cầm lấy chiếc áo khóc nức nở, nghĩ đến lời trăn trối của Tôn bà, mặt mày

nó đau đớn như mất một người thân.

Tiểu-long-Nữ thừa lúc nó gục mặt xuống khóc, lấy tay kéo nắp quan tài đậy kín lại

khít rịt, không khí không còn ra vào được nữa.

Tiểu-long-Nữ sợ Dương-Qua lại khóc nữa, liếc mắt nhìn nó một chút, rồi nhìn lãng

sang chỗ khác nói:

- Thôi! Hãy theo ta ra ngoài.

Dứt lời, nàng lấy vạt áo quạt một cái, ngọn đèn dầu tắt, căn phòng rộng lớn bao la

bỗng trở nên tối đen như mực.

Dương-Qua sợ nàng bỏ rơi nó lại trong căn phòng mộ địa này vội vàng vớ chiếc áo

bông của Tôn bà mà theo luôn Tiểu-long-Nữ bước ra.

Trong mộ đài, ngày cũng như đêm bóng tối đen ngòm.

Vì hai người đã hoạt động hơn nửa ngày, nên ai cũng có cảm giác mệt mỏi.

Tiểu-long-Nữ ra lệnh cho Dương-Qua ngủ ở căn phòng mà bình sinh Tôn bà dùng

làm chỗ nghỉ ngơi.

Dương-Qua từ tấm bé, tuy đã trải qua những lúc quạnh hiu cô độc, đã từng ngủ ở đầu

hè, xó chợ, đã từng ngủ nơi núi rậm, rừng sâu, song đối với mộ đài nầy như cái gì

rùng rợn oai nghiêm làm cho nó muốn rỡn óc. Nó không dám tuân lời của

Tiểu-long-Nữ.

Thấy như nó không để ý đến lời mình, Tiểu-long-Nữ nhìn nó hỏi:

- Mi không nghe ta nói gì sao?

Dương-Qua tha:

- Thưa cô nương, tôi sợ...

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì?

Dương-Qua thở dài đáp:

- Tôi cũng không hiểu nữa... Tôi không dám ngủ một mình.

Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- "Tuổi nó hãy còn nhỏ, nó sợ sệt cũng phải".

Nàng suy nghĩ một lúc rồi thở dài, khẽ nói:

- Được, cứ theo ta vào đây mà ngủ.

Rồi nàng dẫn Dương-Qua vào phòng nàng. Nàng thường có thói quen không thắp đèn,

nhưng nay có Dương-Qua, nàng thắp lên một ngọn đèn dầu nhỏ.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dung mạo mỹ miều, không gì sánh kịp, trong bộ y

phục trắng như tuyết không vướng chút bụi trần, ngỡ rằng khuê phòng nàng hẳn trần

thiết cực kỳ diễm ảo. Nào ngờ lúc bước vào phòng thì thực là thất vọng. Phòng xây

bằng đá trống rỗng, không có gì cả, chẳng khác gì căn phòng có năm cỗ quan tài kia.

Giường nàng là một phiến đá xanh dài có trải thảm bằng cỏ, trên phủ một lần vải thô.

Ngoài mấy thứ ấy ra, căn phòng chẳng còn có gì khác.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Chẳng biết nàng cho mình nghỉ ở đâu nhỉ! Có lẽ nàng bắt mình nằm dưới đất là

phải.

Đang lúc nó phân vân chưa kịp hỏi thì Tiểu-long-Nữ cất tiếng bảo:

- Mi leo lên giường nằm ngủ đi.

Dương-Qua hỏi:

- Thế thì cô nương ngủ ở đâu?

Tiểu-long-Nữ nghiêm nghị nói:

- Ta đã có chỗ khác, mi khỏi phải lo.

Duơng-Qua nói:

- Ngủ trên giường bất tiện, xin cô nương cho tôi ngủ dưới đất cũng được.

Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt nói:

- Ta là bậc sư phụ mi, ta nói gì mi cũng phải nghe. Mi đừng quen thói đánh lại sư phụ

như ở bên Trùng-Dương cung mà mất mạng đó.

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dùng lời gay gắt, vội nói:

- Xin cô nương đừng giận dữ như thế. Tôi chỉ cần vâng theo lời cô nương là được chứ

gì?

Tiểu-long-Nữ thấy giọng nói của Dương-Qua có vẻ không tôn kính mình nên không

vừa ý, nói:

- Mày bướng bỉnh phải không?

Dương-Qua thấy nàng còn ít tuổi lại đẹp đẽ mỹ miều, không có vẻ gì đang bậc sư phụ

mình, nên nó chép miệng một cái, rồi nói:

- Tôi đâu dám chẳng tuân lời...

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua chép miệng, đoán được ý nó, hét:

- Tại sao mi có cử chỉ khinh thường ấy. Mi không phục ta phải không?

Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ làm dữ, không dám nói nữa vội tuột hài, nhảy phóc

lên giường nằm.

Nằm được một lúc, nó cảm thấy lạnh buốt xương, vội chồm dậy, tụt xuống đất la lớn:

- Lạnh quá! Lạnh chết đi thôi!

Tiểu-long-Nữ không nhịn được cười, chạy đến phía sau vách lấy chiếc phất trần chỉ

vào mặt nó:

- Ta bảo mi phải nằm lên đó, và ngủ đi. Nếu còn rên rỉ than lạnh ta đánh cho mười roi

nầy.

Dương-Qua thất kinh, vội leo lên giờng nằm nữa, lần nầy nó cố chịu đựng, nhưng lạ

thay, sức lạnh từ đâu xông vào người nó, làm cho nó tê cứng cả người, hai hàm răng

đánh vào nhau cầm cập.

Tiểu-long-Nữ lấy chiếc áo bông của Tôn bà để vào một nơi khiến Dương-Qua không

rờ tới.

Lạnh quá, nhưng Dương-Qua sợ đánh đòn không dám tuột xuống như lần tưrớc nữa,

ré lên:

- Ôi chao! Cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ mỉm cười hỏi:

- Cái gì thế?

Dương-Qua nói:

- Ôi chao! Chiếc giường nầy như có gì kỳ lạ! Tôi không thể nằm được lâu.

Rồi nhìn thấy nét mặt tươi cười của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cho rằng nàng đã sung

sướng trước cái đau khổ của nó, nó nổi giận nói:

- Tôi không muốn nằm nơi đây nữa đâu. Cô nương cho tôi nằm dưới đất mà thôi.

Tiểu-long-Nữ giơ chiếc phất trần trước mặt nó nói:

- Hãy nằm im và ngủ. Trái lời, mi đừng trách ta độc ác.

Dứt lời, nàng rút hai sợi dây cột vào kẹt đá, leo nằm lên hai sợi dây đó, rồi lấy tay vẫy

một cái, ngọn đèn phụt tắt.

Trong phòng tối mịt, Dương-Qua lấy làm lạ:

"Tại sao nàng lại có thể nằm ngủ lơ lửng trên hai sợi dây như thế nhỉ?" Nó bắt đầu

khâm phục tài nghệ của Tiểu-long-Nữ, và hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương có thể dạy tôi nằm ngủ như thế chăng?

Bản tính con nít dễ giận mà cũng dễ làm thân. Nó vừa có ác cảm với Tiểu-long-Nữ,

bây giờ thấy Tiểu-long-Nữ vui vẻ, nó lại cảm mến ngay.

Tiểu-long-Nữ thấy tánh nết trẻ con của nó cũng tức cười. Nàng nói:

- Dạy mi nằm ngủ như thế nầy để làm gì? Ta còn lắm điều phải chỉ dạy cho mi.

Câu nói ấy làm cho Dương-Qua đoán biết Tiểu-long-Nữ không có ác ý với nó, mà chỉ

muốn dạy dỗ nó thôi. Nó hối hận cất tiếng nói:

- Thưa cô nương! Cô nương có thể cho tôi biết những điều mà cô nương sắp dạy bảo

tôi chăng? Lúc nãy tôi có lỗi với cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta biết rồi! Tự nhiên mi oán ta! Điều đó có gì lạ!

Dương-Qua vội nói:

- Không, không! Tôi đâu dám oán giận cô nương. Lúc nãy tôi cứ tởng cô nương

cũng như sư phụ trước của tôi, cứ hành hạ tôi mà không truyền dạy cho tôi gì cả.

Tiểu-long-Nữ cười lạt nói:

- Mi trách sư phụ trước của mi không dạy dỗ cho nên mi oán hận. Bây giờ ta dạy dỗ

sao mi cũng oán hận?

Dương-Qua nói:

- Chỉ vì cô nương cũng hành hạ tôi, bắt tôi nằm trên chiếc giường giá lạnh này.

Tiểu-long-Nữ nói:

- à ra mi cho thế là ta đã hành hạ mi ? Ta thiết tưởng suốt đời mi nên tìm cái cực nhỏ

như vậy để nên người.

Dương-Qua trố mắt nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Thế thì sống để chịu cực hình sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Các cực hình ấy sẽ đem lại cho mi biết bao điều hay!

Dương-Qua mới hiểu ra, hỏi:

- Thưa cô nương, chiếc giường lạnh nầy có gì bí quyết ?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Những tay võ nghệ cừ khôi trong thiên hạ chưa chắc đã nằm nổi trên chiếc giường

này. Nhưng thôi, việc đó mi sẽ hiểu sau, bây giờ mi phải nhắm mắt ngủ đi, không

được nói nữa.

Trong căn phòng tối om, Dương-Qua chỉ nghe giọng kêu cót két của hai sợi dây mà

Tiểu-long-Nữ dùng làm võng.

Sau câu nói như ra lệnh của nàng, Dương-Qua không dám hỏi nữa, song nó không

làm sao ngủ được. Chốc chốc nó lại xuýt xoa vì lạnh.

Một lúc lâu nó cất tiếng khẽ nói:

- Cô nương ơi! Tôi không chịu nổi sự lạnh nầy nữa.

Không nghe tiếng Tiểu-long-Nữ đáp lại, nó lắng tai nghe thì thấy hơi thở của nàng

đều đều và chậm lại.

Nó đoán chừng Tiểu-long-Nữ đã ngủ, nó nghĩ bụng:

- Cô nương đã an giấc, vậy ta xuống đất một chút cho đỡ lạnh cũng chẳng sao.

Nghĩ vậy nó rón rén tụt xuống giường, không dám thở mạnh.

Nào ngờ nó vừa bước chân xuống đất thì một tiếng đàn cầm vang lên. Tiểu-long-Nữ

từ trên dây nhảy xuống một tay vớ cây phất trần, một tay thộp vào cổ nó, quất mấy

cái vùn vụt nói:

- Mi dám trái lời ta sao! nếu còn lừa dối ta sẽ đánh đến chết.

Nàng đánh đủ mười roi khiến Dương-Qua đau tím ruột.

Nó lồm cồm lên giường nằm trở lại không dám động đậy.

Tiểu-long-Nữ ngỡ là sau trận đòn thế nào Dương-Qua cũng khóc và oán trách nàng.

Nhưng thấy nó nằm im thin thít không hề than thở gì cả. Tiểu-long-Nữ lấy làm lạ gọi

nó hỏi:

- Dương-Qua tại sao mi nằm im thế?

Dương-Qua thỏ thẻ:

- Cô nương bảo sao làm vậy. Cô nương bắt nằm là phải nằm, bảo đánh thì đánh, thế

thì khóc lóc ích gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- A! Thế ra mi nằm im để hờn dỗi ta phải không?

Dương-Qua nói:

- Tôi chẳng bao giờ hờn cô nương. Tôi đã thấy lòng cô nương thương mến tôi rồi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai bảo mi thế?

Dương-Qua nói:

- Cô nương đánh tôi, nhưng thực ra cô nương không đánh mạnh. Như vậy không phải

vì cô nương sợ tôi đau sao.

Thật vậy, Tiểu-long-Nữ đánh Dương-Qua là để bắt nó thi hành theo lệnh mình. Vì vậy

nàng chỉ đánh mạnh hai roi đầu, còn mấy roi sau chỉ đánh cho đủ số.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua ranh mãnh, tìm hiểu được dụng ý của mình, liền hét

lớn:

- Đừng tưởng lầm! Nếu lần sau mi còn trái lệnh ta sẽ đánh đến thối thịt đó.

Dương-Qua thấy lời nói nàng tuy hăm dọa nhưng có âu yếm, lòng hớn hở nói:

- Dù cô nương có đánh đến tan xương nát thịt tôi vẫn vui lòng.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chỉ sợ rồi đây với tánh ương ngạnh, rắn mắt của ngươi, ngày nào cũng bị đòn là

khác.

Dương-Qua nói:

- Tôi chỉ ghét và thù hằn những người đánh tôi với ác ý. Còn như cô nương vì thương

tôi mà đánh, tôi đã không giận mà lại còn sung sướng hơn nữa. Cô nuơng thuộc vào

những người tôi thương.

Tiểu-long-Nữ nghe nó nói, mỉm cười, hỏi:

- Mi thử kể ta nghe ai là người mi ghét? Ai là người mi thương.

Dương-Qua nói:

Những người tôi ghét tôi không thèm nhớ đến làm chi. Còn những người tôi thương

như mẹ tôi thì đã chết mất rồi. Âu-dương-Phong là cha nuôi tôi, rồi đến Quách-Tỉnh

và sau nữa là Tôn bà và cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã làm gì mà mi thương ta?

Dương-Qua nói:

- Vì cô nương đã thương tôi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chưa chắc ta đã thương mi. Chỉ vì Tôn bà dặn ta săn sóc mi thì ta phải làm tròn lời

hứa. Còn việc ta thương mi, mi chớ vọng tưởng.

Câu nói của Tiểu-long-Nữ như một gáo nước lạnh tới vào mình Dương-Qua. Nó

đang lạnh lại cảm thấy còn lạnh hơn. Nó nói như trách móc:

- Thưa cô nương! Chắc tôi có điều gì không tốt nên cô nương ghét tôi.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi tốt hay không, không quan hệ đến ta. Ta chưa hề biết ghét thương ai cả, suốt đời

ta chỉ biết ngôi mộ đài nầy.

Dương-Qua hỏi:

- Thế ra từ lúc nhỏ đến giờ cô nương chẳng hề có một lần du ngoạn sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta chưa hề ra khỏi Chung-Nam sơn nầy.

Dương-Qua vỗ tay lớn tiếng nói:

- Ôi chao! Thế thì uổng lắm! Cô nương không được thưởng thức bao nhiêu cảnh đẹp

bên ngoài.

Tiểu-long-Nữ nói:

- ở ngoài bất quá cũng là rừng núi, trăng thanh, gió mát là cùng. Những cái đẹp đó

nơi đây cũng có.

Dương-Qua nói:

- Nào phải có thế thôi! ở mộ đài tuy đẹp, song nhìn mãi cũng chán mắt. Còn cảnh đẹp

bên ngoài biến ảo không cùng, mỗi nơi có cái đẹp mỗi khác, chẳng bao giờ làm cho

ta chán được.

Rồi ngay lúc đó, Dương-Qua thuật lại cho Tiểu-long-Nữ nghe những chuyện xảy ra

trong cuộc đời nó từ tấm bé, và những cảnh đẹp đó đây, mà vì hoàn cảnh nó đã trải

qua.

Với tài ăn nói của nó, nó thêu dệt nhiều chỗ làm cho câu chuyện trở nên kỳ thú, lạ

lùng.

Đối với Tiểu-long-Nữ, một cô gái từ tấm bé đến giờ chưa bước ra khỏi ngôi mộ, nào

có hiểu đời là gì, nên dầu Dương-Qua có thêu dệt thế nào nàng cũng cho là sự thực.

Nghe Dương-Qua kể một lúc, nàng buông tiếng thở dài.

Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương! Tôi muốn dẫn cô nương đi du ngoạn, cô nương có bằng lòng chăng?

Tiểu-long-Nữ có vẻ giận dữ, mắng:

- Mi đừng nói nhảm! Lời di huấn của tổ sư để lại rằng:

"Phàm người nào đã sống ở Hoạt-tử-Nhân mộ đài thì không được ra khỏi Chung-Nam

sơn nửa bước".

Dương-Qua giật mình hỏi:

- Thế tôi cũng không được ra ngoài nửa bước sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Dĩ nhiên là thế.

Dương-Qua nghe nàng nói như vậy, nghĩ bụng:

- Té ra mình không thích cảnh tù túng ở đảo Đào-hoa, đem thân đến đây để bị giam

hãm thì đời sống còn gì là vui nữa. Chẳng lẽ thân ta sống để chôn vùi trong mộ đài

nầy sao?

Tuy nghĩ thế, song gần Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cũng cảm thấy không còn cô độc

nữa. Dẫu có ở mãi trong mộ đài nó thấy cũng vui.

Trong lúc chuyện trò với Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua quên cả lạnh. Đến khi

Tiểu-long-Nữ không nói chuyện nữa, nó cảm thấy rét buốt tràn trề, liền nói:

- Cô nương có thể tha cho tôi khỏi nằm nơi giường đá nầy chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi có muốn cho các đệ tử môn phái Toàn-Chân tha cho mi đừng đánh mi nữa

chăng?

Dương-Qua nói:

- Họ là những kẻ thù của tôi! Nếu họ giết tôi, tôi cũng không khi nào xin tha cả.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Như vậy sao mi nằm trên giường nầy lại than vãn.

Dương-Qua nói:

- Vì cô nương tốt với tôi! Cô nương không muốn cho tôi phải khổ cho nên tôi mới

than vãn.

Tiểu-long-Nữ từ nhỏ nhờ ơn sư mẫu và Tôn bà nuôi nấng dạy dỗ, đã hai mưbơi năm

trời chỉ biết sống gần hai người cao tuổi ấy mà thôi. Hai người nầy tuy đối với nàng

thực là tốt, nhưng từ buổi nàng lúc còn nhỏ họ đã dụng ý đào luyện nàng thành một

người mất cả thất tình: "hỉ, nộ, ái, ố, dục" để có thể nối dõi rèn luyện môn "Ngọc nữ

tâm kinh" là ngón võ duy nhất và lợi hại nhất của Cổ Mộ đài.

Bởi vì muốn luyện "Ngọc nữ tâm kinh", điều căn bản trước tiên là phải cởi bỏ thất

tình đi đã.

Ngày nay, Dương-Qua tới chốn này, mang vào đây những tình cảm nồng nhiệt của

một thường nhân thật là trái mong muốn của các bậc tiền nhân trong mộ đài vậy.

Tiểu-long-Nữ từ khi thừa tiếp Dương-Qua đã rõ lẽ đó, song vì có lời Tôn bà, không

dám làm khác hơn.

Dương-Qua thấy bề ngoài Tiểu-long-Nữ vẫn với thái độ lạnh lùng song bên trong

không khỏi có tình cảm với nó. Nó nói:

- Ôi chao! Cô nương bắt tôi nằm đây lạnh quá có lẽ tôi không còn chịu nổi nữa.

Thực ra, chiếc giường ấy lạnh lắm, song không đến nỗi làm cho Dương-Qua lồng lộn

lên như thế. Một phần nào nó giả vờ để thử lòng Tiểu-long-Nữ đối với nó.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi đừng than vãn gì cả. Ta sẽ cho mi nghe sự ích lợi của chiếc giuờng nầy.

Dương-Qua nghe nói mừng quýnh hỏi vội:

- Hay lắm! Xin cô nương vui lòng cho tôi biết một chút. Vì đâu nó lại lạ lùng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Lúc nãy ta nói với mi là những khách anh hùng trong thiên hạ vị tất đã hiểu được cái

huyền diệu của chiếc giường nầy. Tổ sư phu nhân ta đã phải mất bảy năm công trình

lao tâm lao lực đến mãi tận miền băng tuyết đào hàng trăm trượng dưới đất sâu mới

lấy được thứ ngọc lạnh nầy đem về luyện nội công. Nằm trên giường ngọc nầy luyện

nội công trong một năm thì hiệu quả bằng mười năm.

Dương-Qua kinh ngạc nói:

- à ra lai lịch chiếc giường nầy là thế? Chiếc giường bằng ngọc mà tôi không biết cứ

ngỡ là đá!

Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lúc đầu mi ngủ trên giường nầy thấy lạnh buốt không chịu nổi, phải vận dụng hết

sức để kháng cự lại sức lạnh đó. Nhưng lâu ngày thành thói quen tự nhiên ngủ được.

Ngay trong giấc ngủ, tự nhiên cơ năng vẫn vận dụng tình lúc để đề kháng. Như vậy là

cơ năng suốt ngày đêm luyện tập không lúc nào nghỉ.

Theo người thường khi luyện nội công chỉ luyện lúc thức mà thôi, đến khi ngủ thì cơ

năng trở lại bình thờng. ấy vậy, họ tập được bao nhiêu thì phải phí đi một ít trong lúc

nghỉ ngơi. Đằng nầy, chúng ta nhờ chiếc giường có thể luyện từ ban đêm, từ trong

giấc ngủ. Suốt ngày đêm cơ năng luôn luôn tiến tới để chiếm đoạt sức đề kháng bên

ngoài. Do đó nội công tiến bộ phi thường.

Dương-Qua vốn thông minh và lanh lợi nghe nàng nói đến đâu là lãnh hội đến đó.

Nó hỏi:

- Nhưng tại sao lại phải nằm trên chiếc giường lạnh buốt nầy?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã bảo rằng muốn luyện nội công tất cơ năng con người phải vượt qua sức uy

hiếp của mãnh lực bên ngoài. Nằm trên giường tức là luyện cho sức nóng chống lại

với lạnh. Lạnh mạnh quá, sức nóng phải thua chạy vào trong trở vào tiềm phục trong

huyệt đạo của nó. Dần dần quen, thân thể người luyện tập hóa thành nước. Tiến hơn

lên bước nữa, nước hoá thành băng tuyết so với sức lạnh của hòn ngọc chỉ mới một

phần mười. Đại phàm tập luyện nội công là phải hàm súc chân hỏa không bao giờ để

nó thoát ra ngoài sào huyệt của nó. Hàn ngọc là một vật chí âm. Lạnh nhiều tức cũng

là hàm dưỡng sức nóng. Sức nóng đã được tập trung đến cực độ thì đến lúc vận dụng

chân hỏa chúng ta sẽ đạt đuợc một sức mạnh phi thường không gì sánh kịp.

Dương-Qua hiểu ra, sung sướng nói:

- Thua cô nương, cô nương đối với tôi thật chí tình. Tôi đã được nằm trên giường nầy

rồi chắc sau nầy không còn phải sợ một ai trong võ lâm nữa. Ngay như Quách, Hoàng

tôi cũng chẳng sợ. Còn như Triệu-chí-Kính với sức nội công ấy chắc tôi sẽ đuổi kịp.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Di huấn của Tổ sư phủ nhận chẳng cho một ai trong mộ đài này có tính hiềm khích.

Muốn tập luyện mi phải bỏ hết thú hắn và ý nghĩ ganh đua mới được.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin vâng lời cô nương. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu vì đâu bọn họ lại khi dễ tôi,

ghen ghét tôi, họ lại dám đánh chết Tôn bà người tôi yêu quí. Cái chết của Tôn bà, cô

nương cũng không cho phép tôi được thù hận họ sao.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ai là người chẳng phải chết? Vì dù Tôn bà chẳng chết vì Xích-đại-Thông thì vài ba

năm nữa cũng phải chết vì duyên cớ khác. Sống thêm ít năm hay chết trước ít năm

nào có nghĩa lý gì. Ta không muốn rằng từ nay trở đi mi còn nói đến chuyện oán hận,

phục thù...

Dương-Qua xem chừng lời nói ấy có lý lắm, song nó vẫn không khỏi thắc mắc trước

hoàn cảnh của nó đã trải qua.

Tiểu-long-Nữ dò hỏi xem cha nuôi của nó là Âu-dương-Phong dạy nội công cho nó

như thế nào.

Nó lần lượt kể lại sự thật tất cả. Tiểu-long-Nữ bảo nó áp dụng nội công của

Âu-dương-Phong truyền dạy, xem có hiệu quả gì chăng.

Nó lấy gân suốt từ đầu đến chân nằm thẳng đờ trên giường đá lạnh buốt. Khí lực

chuyển khắp nơi trong mình nó. Nó thấy khắp người nóng ran. Nó nằm nghiêng một

phía mắt nhắm lại, cố mơ màng để ngủ.

Nhưng nó ngủ được một khoảng ngắn thì khí nóng trong người nó lại tiêu tan đâu

mất. Cả người nó lạnh buốt như cũ.

Nó lại vận gân cốt nữa. Rồi cứ thế, ngủ và thức, nóng và lạnh cứ tiếp diễn mãi suốt

đêm.

Tuy nhiên, đến sáng trong mình nó không chút mệt nhọc. Nó cảm thấy tinh thần

thanh sảng vô cùng.

Tiểu-long-Nữ sờ trán nó, thấy nhiệt độ điều hòa lấy làm lạ tỉ tê hỏi nó.

Nó đem việc áp dụng phương pháp nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy kể lại.

Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:

- Mỗi người có một lối tập luyện và phương pháp nào cũng lợi cả.

Nàng nghiền ngẫm lối nội công của thân mẫu Dương-Qua và lối nội công của

Âu-dương-Phong rồi đem so sánh với lối tập luyện của nàng. Bấy giờ nàng không còn

có ý khinh thường các môn phái khác nữa.

Sáng hôm ấy, hai người dùng cơm xong, Dương-Qua xuống dưới bếp rửa chén, và làm

những việc thay thế Tôn bà.

Khi Dương-Qua trở lại phòng lớn, Tiểu-long-Nữ bảo nó:

- Ta có một điều cần hỏi mi. Vậy mi phải suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời mới được.

Dương-Qua thưa:

- Việc gì xin cô nương cứ dạy.

Tiểu-long-Nữ nói:

Mi muốn nhận ta làm thầy mi chăng? Và suốt đời mi có chịu nghe ta chỉ dạy chăng?

Dương-Qua không ngần ngừ đáp:

- Sao cô nương lại nói thế. Tôi nguyện sống với cô nương, nhờ cô nương, chỉ bảo mà.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi không nhận ta làm thầy mà ta chỉ dạy cho mi sau nầy thế nào mi cũng bỏ

ngôi mộ nầy mà đi.

Dương-Qua nói:

- Tôi xin nhận cô nương làm thầy. Dù cô nương không truyền cho tôi chút võ nghệ

nào tôi vẫn coi cô nương như bậc sư phụ, lúc nào tôi cũng vâng theo lời cô nương

không chút trái ý.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Tại sao ta không truyền võ nghệ cho ngươi mà ngươi vẫn kính ta là thầy?

Dương-Qua nói:

- Thưa cô nương, lòng cô nương đối đãi với tôi như vậy lẽ nào tôi không biết.

Tiểu-long-Nữ tươi hẳn nét mặt, nói:

- Được, ta sẽ xem mi có thành thực với ta chăng? Mi có chịu nghe lời ta chăng? Mi đã

nhận ta làm thầy vậy phải ra đằng sau làm lễ.

Dứt lời nàng bước ra phía phòng sau. Dương-Qua vội vã nối gót theo.

Đó là một căn phòng không trần thiết vật gì cả, ngoài hai bức chân dung treo ở vách

tường.

Vách tường phía Tây treo một bức họa, vẽ hình hai thiếu nữ một người trạc độ hai

mươi lăm tuổi, đang đứng trước gương chải đầu và sửa sang quần áo. Một người trạc

độ mười sáu tuổi một tay đang cầm một cái bồn đứng hầu bên cạnh.

Người thiếu nữ nhiều tuổi lông mi dài đẹp, đôi mắt nh có ẩn sát khí căm hờn.

Dương-Qua nhìn hai bức chân dung không hiểu gì cả.

Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chân dung người thiếu nữ lớn tuổi nói:

- Đây là di ảnh sư tổ phu nhân. Mi phải quỳ xuống ra mắt.

Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Người ấy là sư tổ phu nhân sao? Tại sao lại ít tuổi như thế? Thưa cô nương.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bức di họa đó về lúc sư tổ còn trẻ tuổi.

Dương-Qua nghe Tiểu-long-Nữ nói thế, lòng suy tư lẩm bẩm:

- Lúc còn trẻ... và sẽ già đi...

Nó ngắm bức tranh một hồi, chẳng biết nghĩ sao, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn nó,

đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.

Tiểu-long-Nữ vô tình, không làm sao hiểu được mối cảm xúc của nó, lại chỉ vào bức

chân dung thứ hai, nói:

- Đây là ảnh sư mẫu ta, mi phải quỳ xuống làm lễ.

Dương-Qua sụp lạy, nghĩ thầm:

- Sư tổ, sư mẫu đều ít tuổi cả, và ai cũng có sắc đẹp phi phàm. Chẳng hiểu đến lúc

già, sắc đẹp họ ra sao nhỉ?

Tiểu-long-Nữ đợi Dương-Qua bái kiến xong, mới chỉ sang bức tường phía đông, nơi

có treo một bức ảnh, nói:

- Mi hãy khạc nhổ vào hình đạo nhân này.

Dương-Qua liếc mắt nhìn thấy người đạo sĩ trong tranh dáng điệu cao lớn, lưng giắt

thanh trường kiếm, tay phải đang chỉ về hướng đông bắc, lưng xây ra ngoài nên không

trông rõ mặt.

Nó ngạc nhiên hỏi:

- Người ấy là ai? Vì sao phải khạc nhổ?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Đó là giáo chủ của môn phái Toàn-Chân tên Vương-trùng-Dương. ở đây đã có lệ, hễ

làm lễ trước Tổ sư phu nhân xong rồi thì phải quay sang khạc nhổ vào bức hình đó.

Dương-Qua đã sẵn có thành kiến ghét môn phái Toàn-Chân, nên khi nghe nàng bảo,

không ngần ngừ gì cả, liền khạc nhổ vào bức họa Vương-trùng-Dương một bãi rất lớn.

Đoạn nó hỏi:

- Thưa cô nương. Tổ sư phu nhân có gì oán hận Vương-trùng-Dương sao?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Đúng vậy.

Dương-Qua nói:

- Thế sao không đem bức ảnh của hắn liệng quách ra ngoài rừng còn treo nơi đây làm

gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta cũng chẳng hiểu nữa, chỉ nghe thấy sư mẫu và Tôn bà bảo là những người đàn

ông trong thiên hạ không ai tốt cả.

Nói đến đấy đột nhiên nàng nghiêm sắc mặt, quay nhìn Dương-Qua:

- Mai này lúc lớn lên, nếu mi có những điều xấu xa mi sẽ coi ta có tha thứ cho mi

chăng?

Dương-Qua nói:

- Tuy nhiên cô nương sẽ tha thứ cho tôi.

Câu nói bất ngờ và đột ngột ấy của Dương-Qua làm cho Tiểu-long-Nữ chột dạ. Nàng

vốn có tánh uy hách, muốn cảnh cáo Dương-Qua không ngờ Dương-Qua lại nói thế.

Nàng trừng trừng nhìn Dương-Qua bảo:

- Hãy quỳ xuống lạy sư mẫu của mi đi.

Dương-Qua nói:

Thưa cô nương! Việc quỳ lạy sư mẫu là việc dĩ nhiên rồi, tôi không thể nào từ chối.

Song xin cô nương nhận cho đệ tử này một điều kiện đã.

Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:

- Xưa nay chỉ có bậc sư phụ mới buộc đệ tử điều kiện này điều kiện nọ chứ làm gì có

chuyện môn đồ buộc sư phụ phải theo điều kiện.

Tuy nhiên, nàng vẫn trầm tĩnh muốn tìm hiểu ý muốn của hắn thế nào.

Nàng hỏi:

- Được. Mi muốn gì cứ nói, ta sẽ xét nghĩ cho.

Dương-Qua nói:

- Lòng tôi kính cô nương như sư mẫu. Cô nương dạy bảo tôi cũng nghe, không dám

sai lời. Song cô nương cho phép tôi gọi bằng cô nương, không gọi bằng sư mẫu có

được chăng?

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Như thế nghĩa là thế nào?

Dương-Qua tha:

- Tôi đã có những người từng làm sư phụ tôi. Những người đó đều không tốt đối với

tôi, nên lòng tôi oán hận lắm. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng nguyền rủa sư phụ tôi.

Chẳng lẽ bây giờ tôi gọi cô nương bằng sư mẫu, cũng là bậc sư phụ, thì thế nào cũng

sẽ lẫn lộn giữa người thương và kẻ ghét. Xin cô nương chăm chước cho tôi điều đó.

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua có ý nghĩ ngộ nghĩnh, mỉm cười, hỏi:

- Thế ra mi chỉ kính ta trong lòng thôi sao?

Dương-Qua nói:

- Không phải! Tôi kính cô nương cả trong lòng, ngoài mặt, và suốt đời, song chỉ

không gọi là sư mẫu mà thôi.

Tiểu-long-Nữ vốn còn trẻ tuổi cũng chẳng cần tiếng gọi sư mẫu sớm, nàng gật đầu

nói:

- Được, ta bằng lòng đó

Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:

- Đệ tử Dương-Qua, tôi từ nay trở đi kính bái Tiểu-long-Nữ cô nương làm thầy. Kể từ

đây tôi vĩnh viễn nghe lời cô nương. Nếu cô nương gặp điều gì hiểm nghèo cùng quẫn

tôi sẽ đem cả tính mệnh ra để bảo vệ cô nương. Nếu có người nào làm nhục cô nương

tôi quyết tâm giết hắn.

Thực ra, lúc đó Dương-Qua cũng chưa biết Tiểu-long-Nữ võ nghệ đến bực nào. Nó

chỉ thấy Tiểu-long-Nữ là người trang nhã, kiều mị, khả ái, nên nó đem lòng kính mến,

muốn được con người đẹp nh thế bảo vệ cho mình, và nguyện đem thân để phụng sự

người đẹp mà thôi. Đó cũng là bản tính tự nhiên của những chàng trai đối với phái nữ

lưu vậy.

Lời nói của nó mỗi lúc một khẳng khái hơn, bộc lộ sự thành khẩn, làm cho

Tiểu-long-Nữ không khỏi động tâm.

Dương-Qua vập đầu làm lễ xong, đứng dậy với nét mặt vui mừng hớn hở.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Mi quá nhiều thiện chí đối với ta. Ta chỉ sợ tài nghệ của ta không đủ cho lòng

ngưỡng mộ của ngươi, không chắc đã thắng các vị lão thành trong môn phái

Toàn-Chân và chưa chắc đã thắng nổi Quách-Tỉnh, sư bá của mi.

Dương-Qua nói:

- Những người ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Họ có giỏi họ cũng chẳng truyền dạy cho

tôi được chút nào. Xin cô nương cứ thơng tình truyền dạy cho đệ tử là được.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Dẫu ta có cố gắng truyền dạy cho mi thành tài thì cũng chẳng ích gì, vì suốt đời mi

không đuợc ra khỏi chốn nầy. Và ở nơi mộ đài nầy thực là vô sự.

Dương-Qua hỏi:

- Nếu học hành mà không đem tài năng thi thố với anh hùng thiên hạ thì chẳng uổng

công tập luyện lắm sao?

Tiểu-long-Nữ trầm lặng, mắt mơ màng như nghĩ đến điều gì xa xăm, nàng nói:

- Ta dạy mi để mi trông coi mộ đài, để ta rảnh rang có dịp phải đi xuất du một lần.

Duơng-Qua nghe nói đến việc phải ở trong mộ đài một mình, đâm ra lo sợ, nói như

mơn trớn:

- Này cô nương! Hay là cả tôi lẫn cô nương, hai ta cùng đi nhé.

Tiểu-long-Nữ gườm vào mặt nó, nói:

- Mi đã thề vĩnh viễn nghe theo lời ta, sao mới đó đã trái ý?

Dương-Qua thở dài nói:

- Tôi sợ... lắm!

Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt bảo:

- Là tu mi nam tử, muốn trở thành bậc trơựng phu mà lại sợ thì còn làm nên trò trống

gì. Thế mà mi nói vì ta mi đánh những kẻ toan làm hại...

Câu nói ấy chạm vào lòng tự ái của đứa bé đã quyết tâm. Nó suy nghĩ một lúc rồi hăm

hở bảo:

- Được! Tôi sẽ ở lại một mình. Nhưng thế nào cô nương cũng mau trở về nhé.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng như không mấy để ý đến lời nói của Dương-Qua, nàng nói

trong ngớ ngẩn:

- Chẳng thể định trước được! Còn phải xem có làm được xong công việc khi xuất mộ

đài không đã! Phải bắt...

Nói đến đó, nàng lặng thinh.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- Làm được việc gì? Cô nương định bắt ai?

Tiểu-long-Nữ nhu sực tỉnh, nhìn Dương-Qua không đáp, bỏ ra ngoài.

Nàng đi khỏi, không khí trong phòng trở nên lặng lẽ phi thường. Không một tiếng

động, dù là tiếng động trong không gian.

Dương-Qua phân vân chẳng biết nàng xuất mộ đài để làm gì? Để bắt ai? Chẳng biết

nàng có phải qua Chung-Nam sơn để bắt bọn đạo sĩ Toàn-Chân chăng?

Nó nghĩ quanh quất một hồi rồi ung dung ra khỏi căn phòng lớn, rảo bước về phía

tây. Đi chừng mười lăm bước, nó thấy tối om. Một con đường hầm bằng đá sâu ngòm

chẳng biết ăn thông vào đâu. Nó lần mò theo đường hầm. Bóng tối mỗi lúc mỗi đen

đặc. Nó không còn trông thấy đường nữa, phải đưa tay mò mẫm vào các tường đá để

đi.

Đi mãi không tìm ra ánh sáng, nó thất kinh, quay lưng trở lại, định trở về đại sảnh.

Nhưng tìm mãi không thấy đại-sảnh đâu nữa. Những con đường hầm ngoằn ngoèo cứ

dẫn nó càng đi càng tiến sâu vào bóng tôi.

Thực sự, nó đã lạc đường rồi. Nó la hoảng:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Cứu tôi với!

Nó chỉ nghe tiếng kêu của nó vọng lại đáp lời. Nó hoảng vía băng mình vụt chạy về

phía trước.

Chạy được một lúc, nó cảm thấy chân nó bỗng nhiên nong nóng khác thường, và dưới

đường có bùn. Nó đoán biết nó chẳng còn ở trong mộ đài nữa. Đó là đường mộ đài ăn

thông ra hang núi này.

Nó càng sợ sệt hơn, nghĩ thầm:

- Bây giờ mình đã ra khỏi mộ đài thì làm sao cô nương trông thấy để cứu mình được.

Hơn nữa, nếu cô nương bắt gặp mình bỏ trốn thì còn nguy hiểm hơn nữa.

Sờ thấy một phiến đá, nó bấu tay trèo lên, ngồi thừ ra, mặt lo lắng không ngớt.

Bỗng đàng sau nó có tiếng gọi:

- Dương-Qua! Dương-Qua!

Nghe giọng kêu, nó mừng quýnh nhận ra đó là tiếng kêu của Tiểu-long-Nữ. Nó nhảy

xuống chạy về phía đó, gọi lớn:

- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Tôi ở chốn này.

Tiếng kêu ấy lại im bặt không đáp lại. Bốn bề vẫn lặng ngắt. Nó càng sợ hơn, phân

vân chẳng biết tiếng gọi vừa qua là tiếng gọi của Tiểu-long-Nữ hay của ma quái.

Bỗng nhiên, tai nó đau nhói. Một bàn tay véo vào tai nó. Nó giật mình kinh sợ, quay

lại, thì đó là Tiểu-long-Nữ.

Nó mừng quýnh reo lên:

- Cô nương ơi! Cô nương đến lúc nào mà tôi chẳng biết?

Tiểu-long-Nữ sừng sộ hỏi:

- Mi đến chốn này để làm gì?

Dương-Qua đáp:

- Tôi bị lạc đường.

Tiểu-long-Nữ tu mồm "suỵt" một tiếng rồi đưa tay nắm lấy nó dắt về phía đường hầm.

Trong đường hầm tối nghịt, chằn chịt như màn nhện, thế mà Tiểu-long-Nữ bước đi

thoăn thoắt, lúc rẽ bên này, lúc sang lối nọ nh đi giữa chốn ban ngày.

Dương-Qua khâm phục quá thốt ra miệng:

- ồ! Sao cô nương lại trông thấy nhỉ! Tôi mù mịt chẳng biết đâu là đâu cả.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta từ nhỏ sống trong chốn tối tăm nầy đã quen, chẳng cần đến ánh sáng.

Dương-Qua nói:

- Thế thì tôi có thể quen đi được như cô nương chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Dĩ nhiên, nếu mi là người của cổ mộ đài.

Chỉ chốc lát Tiểu-long-Nữ dắt Dương-Qua về đến đại sảnh.

Dương-Qua vừa mừng vừa sợ, thở dài nói:

- Cô nương ơi! Tôi khâm phục cô nương quá! Nhưng tôi sợ...

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sợ cái gì? Ta đã đến cứu mi dẫn về còn sợ gì nữa?

Dương-Qua nói:

- Không, tôi chẳng sợ những việc đó nữa. Tôi chỉ sợ cô lại cho rằng tôi trốn đi thì

buồn quá.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Nếu mi trốn đi thì ta chẳng còn giữ lời trối trăn của Tôn bà và chẳng biết ta sẽ phải

đối xử với mi thế nào đây?

Dương-Qua thì vẫn còn giữ tính tình của con người thường với đầu đen máu đỏ, còn

Tiểu-long-Nữ thì từ tấm bé luyện nội công đã dứt hẳn được thất tình, nên lúc nào

nàng cũng lạnh nhạt, chẳng chút bợn lòng.

Tâm lý hai người đã không giống nhau thì sự suy tư nào có giống nhau được.

Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương để tôi đi bắt, được chăng?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta đã bắt rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương làm thế nào mà bắt được hắn? Và bắt hắn để làm gì?

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bắt hắn để về luyện tập võ nghệ cho mi. Mi hãy theo ta ra ngoài nầy.

Dương-Qua bước theo Tiểu-long-Nữ, nhưng lòng phân vân tự hỏi:

- Cô phải nàng đã bắt một người trong phái Toàn-Chân chăng?

Nếu nàng bắt một người trong phái Toàn-Chân đem về luyện võ nghệ cho mình thì

còn gì thú vị nữa. Tuy phân vân, song không dám hỏi, Dương-Qua lặng lẽ lẽo đẽo theo chân

Tiểu-long-Nữ

15. Thiên La địa võng: thế nhập môn của phái cổ-mộ

Tiểu-long-Nữ dẫn Duơng-Qua đến một căn phòng nhỏ xây toàn bằng đá. Mở cửa

buớc vào trong thấy phòng vừa chật vừa thấp, phải đi cẩn thận để khỏi va chạm. Nóc

nhà cũng toàn bằng đá. Dương-Qua đi theo, lòng hồi hộp nghĩ chắc phòng này thế

nào cũng có nhốt một tên Đạo sĩ của phái Toàn-Chân. Một chập sau nhìn không thấy

gì hết, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, người Đạo sĩ nhốt chỗ nào rồi?

- Tại sao lại hỏi như vậy, làm gì có Đạo sĩ!

- Thế không phải cô đã bắt Đạo sĩ đem về đây để luyện võ cho tôi sao?

Tiểu-long-Nữ mỉm cười chỉ vào trong và nói:

- Ta nào có bắt Đạo sĩ, mà chỉ tìm thứ này cho ngươi thôi, tý nữa sẽ thấy.

Nói xong, nàng bước thêm vài bước rồi cúi lom khom lấy một cái túi vải đặt tại góc

phòng, hí hoáy mở nút. Bỗng có tiếng vỗ cánh, ba con chim sẻ vụt bay ra.

Dương-Qua vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng chưa dám hỏi, tự nghĩ:

- Chẳng lẽ nào cô nương xuất mộ đài để bắt chim sẻ ?

Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua tìm cách bắt lại ba con chim sẻ ấy cho nàng, nhưng

không được làm chúng bị thương tích lũy rụng lông.

Tưởng dễ ăn, Dương-Qua vội đáp:

- Vâng tôi sẽ bắt được liền!

Nhưng sự thật đâu phải dễ. Chim sẻ vừa nhỏ vừa lanh lẹ, bay nhảy lung tung từ đông

sang tây, từ cao xuống thấp. Dương-Qua chụp mãi mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc

vẫn không chụp đợc con nào, phải đứng thẫn thờ nhìn theo, mặt có vẻ bẽn lẽn.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười bảo nếu không bắt được, nàng sẽ dạy phương pháp. Lúc đầu

nàng dạy lối đứng trên cao nhảy xuống để chụp.

Có tánh thông minh sẵn, Dương-Qua dư hiểu nàng lợi dụng lối bắt chim sẻ để luyện

võ cho mình, nên nó chăm chú nghe và để ý bắt chước làm theo y như lời dạy.

Nói thì dễ, nhưng đưa ra làm thật quả là khó. Tuy nhiên sau khi chỉ bảo kỹ, nàng dặn

thêm phải bền chí và cố gắng tập thành thuộc rồi bỏ đi ra ngoài ngay.

Suốt ngày hôm ấy, Dương-Qua mệt nhoài người không bắt được con nào. Chiều đến

cơm nước xong, Dương-Qua lại lên giường lạnh luyện nội công và ngủ.

Suốt ngày hôm sau và ba bốn hôm nữa vẫn chưa bắt được con nào hết. Nó đổi cách

nhảy, lối rình và chụp nhưng không kết quả, lòng vừa buồn vừa chán nhưng vẫn cố

gắng tiếp tục.

Mãi đến ngày thứ năm nó mới vồ được một con. Nó hân hoan cầm con sẻ đến trình

với Tiểu-long-Nữ, nhưng nàng chỉ lạnh lùng bảo:

- Một con thì được tích sự gì đâu? Phải bắt cho được ba con.

Dương-Qua nghĩ hễ bắt một con rồi thì ba con bắt chẳng khó gì. Nhưng suốt hai ngày

sau vẫn không bắt được con nào nữa.

Thấy ba con sẻ đã đói và mệt nhiều nên Tiểu-long-Nữ đem gạo vào cho chúng ăn rồi

thả bay mất. Đoạn nàng tìm bắt ba con khác vào thả trong phòng cho Dương-Qua tập

nữa.

Mãi đến ngày thứ tám, Dương-Qua mới bắt được cả ba con sẻ. Thấy nó bắt đã thuần

thục, nàng bảo:

- Thôi được rồi! Bây giờ đi theo ta tới Trùng-Dương cung.

Dương-Qua ngạc nhiên quá, vội hỏi:

- Theo cô, đến đó để làm gì?

Nàng không trả lời, chỉ rảo bước đi ra, nó vội vàng chạy theo.

Sau mấy ngày luyện tập trên giường hàn ngọc và bắt sẻ, Dương-Qua thấy đã tiến bộ

nhiều. Bước đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, mạnh và chắc chắn hơn trước.

Đến gần Trùng-Dương-cung, Tiểu-long-Nữ lớn tiếng gọi:

- Triệu-chí-Kính đâu, ra đây mau!

Tiếng nói lanh lảnh vọng đi rất xa và rõ mồn một. Một chập sau cửa

Trùng-Dương-cung mở rộng, có mười đạo sĩ đi ra. Hai người đi đâu dìu

Triệu-chí-Kính đi chầm chậm, bước từng bước một, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, mắt

thâm quầng, da mét xanh, chân run lẩy bẩy.

Vừa trông thấy hai người đến gần các đạo sĩ đã rút kiếm hờm sẵn, nét mặt hầm hầm.

Tiểu-long-Nữ rút bọc lấy một bình nhỏ bằng sứ đưa cho Dương-Qua bảo lớn:

- Mi đưa bình này cho Triệu-chí-Kính, đấy là mật ong trắng, dùng làm thuốc chữa

nọc độc đấy.

Nhìn thấy mặt Triệu-chí-Kính, Dương-Qua cảm thấy oán hận tràn trề, máu nóng xông

lên, chỉ muốn túm lấy đánh cho đã giận. Nhưng không dám làm phật ý cô nương

trước mặt người lạ, nó lẳng lặng tiếp lấy bình mật, nhanh nhẹn đem giao cho

Triệu-chí-Kính.

Tất cả các người của Trùng-Dương-cung đoán chắc Tiểu-long-Nữ đến đánh để phục

hận và trả thù cho Tôn bà, nhưng không ngờ nàng lại đem mật đến để cứu

Triệu-chí-Kính, cho nên ngạc nhiên đứng ngẩn người không biết nói năng làm sao.

Đặt bình mật trước mặt Triệu-chí-Kính xong, Dương-Qua liếc nhìn y với cặp mắt

khinh bỉ rồi lầm lũi chạy trở lại.

Vừa nhìn thấy Dương-Qua, Tỉnh-Quang giận sôi không dằn nổi, ở trong đám đông

bước ra quát lớn:

- Thằng nhắt con, đã đến trước cửa thầy, tại sao còn bỏ chạy?

Nói xong hắn nhảy xổ theo Dương-Qua cố đánh cho được để trả mối thù trước kia bị

Dương-Qua dùng "Hàm mô công" đánh gần chết, may nhờ Mã-Ngọc cứu thoát.

Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:

- Hôm nay ngươi không được ra tay đánh đập đấy nhé!

Dương-Qua đang chạy bỗng nghe tiếng chân phía sau và thoáng một luồng gió lộng

như có bàn tay chộp trên lưng.

Nhờ bao nhiêu ngày luyện công trên giường hàn thạch và tập bắt sẻ là những phương

pháp tối điệu riêng biệt của phái Cổ Mộ đài, Dương-Qua đã thấy tiến bộ nhiều và chủ

động được ý muốn, cử chỉ mình. Nó bình tĩnh ngồi sụp xuống, đưa tay khẽ đẩy một

bên, Tỉnh-Quang đang hăm hở chạy đến, bất ngờ lại bị nó đẩy ngang một cái mất

thăng bằng, té lăng đùng như trời giáng.

Khi lóp ngóp đứng dậy được thì thấy Dương-Qua đã đến bên cạnh Tiểu-long-Nữ rồi.

Tỉnh-Quang tức cành hông, la hét om sòm, toan chạy đến đánh nữa, nhưng bỗng một

đạo sĩ xông đến khóa cánh tay hắn lôi về hàng cũ. Tỉnh-Quang cảm thấy cánh tay tê

buốt, toàn thân cứng đờ không cưỡng nổi, phải riu ríu bước đi và ngó lại thấy đó là sư

thúc Doãn-chí-Bình.

Doãn-chí-Bình mắng thêm mấy câu rồi đuổi hắn ra phía sau đám đông.

Doãn-chí-Bình lễ phép bước tới nói:

- Đa tạ cô nương đã có lòng tốt đem thuốc cho chữa bệnh.

Nói xong cúi đầu làm lễ.

Tiểu-long-Nữ không đáp lễ chỉ nắm tay Dương-Qua bảo:

- Thôi, chúng ta về!

Doãn-chí-Bình nói thêm:

- Dương-Qua là đệ tử của phái Toàn-Chân, cô nương định chiếm bắt nó hay sao?

Nàng lạnh lùng đáp:

- Tôi không thích nhiều lời.

Nói xong nàng kéo Dương-Qua thoăn thoắt trở về Cổ Mộ đài. Tất cả các đạo sĩ chỉ

biết ngẩn người nhìn theo cho đến khi hai người đi khuất vào rặng cây rừng đàng xa.

Về đến Cổ Mộ đài Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Võ công của mi có mòi tiến bộ hơn trước chút ít, nhưng lối đánh tên đạo sĩ mập té

như thế chưa phải cách chút nào.

Dương-Qua lễ phép thưa:

- Thưa cô nương, tên đạo sĩ ấy đã từng đánh tôi bị thương nặng, tiếc rằng cô nương đã

ra lệnh nên hôm nay tôi chưa được cơ hội đánh trả thù cho hả dạ. Nhưng thưa cô

nương, vì sao tôi không được đánh hắn?

Tiểu-long-Nữ bắt đầu đáp:

- Không phải là mi không được đánh hắn, nhng ta thấy võ nghệ mi còn non kém,

chưa muốn cho thi thố trước mặt người. Lối đánh ngã sấp không phải cách. Cần đánh

cho hắn ngã ngửa mới được.

Dương-Qua mừng rỡ hỏi ngay:

- Thưa cô nương, làm sao đánh được như thế, cô nương dạy tôi nhé!

Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua giả làm lão đạo sĩ mập còn mình giả làm Dương-Qua.

Nàng vừa nói chuyện vừa chầm chậm đi tới.

Dương-Qua thích chí tiến tới toan chụp lấy Tiểu-long-Nữ. Nhưng Tiểu-long-Nữ hình

như nhìn thấy phía sau cho nên hễ nó đuổi mau thì nàng bước mau, nó đuổi chậm thì

nàng bước chậm lúc nào khoảng cách giữa hai người cũng độ một thước.

Dương-Qua vừa cười vừa nói lớn:

- Tôi bắt cô nương đây nè

Nói xong nó lạc mình về phía trước, hai tay ôm choàng ngang eo ếch nàng.

Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không tránh né, chờ khi tay Dương-Qua đến gần sát,

nàng dùng vai hất vào hàm nó. Dương-Qua bị một sức mạnh đẩy mạnh về phía sau

loạng choạng mất thăng bằng. Nàng tiếp luôn dùng tay đánh vào hai tay nó để nó

khỏi băm vào lôi nàng ngã theo.

Cả đầu và lưng ngã về sau, hai tay không chống đỡ được. Dương-Qua bị ngã bật

xuống, toàn thân ê ẩm.

Tiểu-long-Nữ cầm tay mặt của nó kéo đứng dậy.

Dương-Qua mừng rỡ nói rối rít:

- Cô nương tài tình quá, lối đánh thật tuyệt diệu.

- Mi cố tập bắt sẻ cho thuần thục, tự nhiên sẽ biết những thế đánh hay ho như vừa rồi.

- Tôi đã tập bắt được rồi cơ mà.

Nàng mỉm cười nói:

- ồ, thế đã ra gì mà gọi là bắt được rồi! Nếu vậy, hóa ra võ thuật của phái ta dễ dàng

quá sao?

Dương-Qua không dám nói nhiều, chỉ đứng lặng yên. Thấy nó im lặng tỏ vẻ phục

thiện, nàng đưa tay bảo:

- Thôi, đi theo ta.

Dương-Qua ngoan ngoãn bước theo. Hai người đi đến một căn phòng đá khác. Phòng

này rộng hơn phòng trước, có nhốt sẵn sáu con chim sẻ. Phòng lớn, sẻ lại nhiều hơn,

bắt được chúng không phải dễ. Nhưng nhờ được Tiểu-long-Nữ chỉ cách bắt có qui củ

và truyền thụ thuật khinh công nên sau chín ngày tập luyện, Dương-Qua đã bắt được

trọn sáu con sẻ.

Cứ như thế tiếp tục, những phòng sau càng rộng hơn, số chim lại tăng thêm nữa, cuối

cùng đến nhà đại sảnh, số chim sẻ tăng đến 81 con.

Ngày bắt sẻ, đêm nằm luyện công trên hàn thạch, sắc diện của Dương-Qua có mòi

hưng vợng thêm, da mặt hồng hào, sức lực tăng tiến rõ rệt. Ba tháng sau nó đã bắt

luôn một lúc cả 81 con sẻ.

Thấy nó tập luyện tiến bộ nhiều, Tiểu-long-Nữ mừng rỡ lắm. Một ngày kia nàng bảo:

- Hôm nay chúng ta xuất mộ tìm bắt nữa.

Suốt ba tháng liền cầm chân trong Mộ đài, nay được đi ra ngoài thật không có gì đáng

mừng hơn nữa, nên Dương-Qua cuống quít vâng dạ luôn mồm.

Tiểu-long-Nữ bảo:

- Có gì mà cuống quít như thế! Lối tập luyện này không thể vội vàng hấp tấp được.

Phải làm thế nào cho cả 81 con sẻ không bay thoát được.

Nói xong nàng bắt cả 81 con nhốt vào một cái túi xách đi ra khỏi Mộ đài.

Lúc này đã bước qua thượng tuần tháng ba, khí trời mát mẻ, cây cối đua nhau đâm

chồi nẩy lộc đầy nhựa sống. Hoa rừng nở khắp nơi, bướm lợn từng đoàn, phơi màu

sắc rực rỡ tưng bừng.

Nhìn cảnh vật ngày cuối xuân, ngửi mùi hoa rừng ngào ngạt, Dương-Qua cảm thấy

cõi lòng rạo rực như một luồng sinh khí mới chạy khắp huyết quản, tâm hồn thơ thới

hân hoan.

Tiểu-long-Nữ tháo dây cột túi vải cho bầy sẻ cất cánh tung bay. Nàng lấy tay gạn

giúp chúng bay ra từng đàn theo thứ lớp khỏi xô đẩy nhau. Vừa được tự do, 81 con sẻ

mặc tình vỗ cánh bay tứ hướng.

Nhưng nàng vận khí chuyển nơi tay, dang rộng hai tay một vòng lưới bủa. Lạ thay, cả

81 con sẻ hình như bị một lực gì bao phủ không thoát đi xa được, chỉ quanh quẩn

quanh nàng chừng non một thước.

Đoạn nàng vung tay xoay múa một hồi, chưởng lực từ ngón tay chuyển đi chia thành

81 luồng điện lực cho 81 con chim, hút chúng lại gần, không con nào chạy thoát.

Nàng túm từng con bỏ vào túi.

Dương-Qua trân trối nhìn, lòng lạ lùng say mê vừa nể vừa kinh ngạc.

Nó muốn hỏi, nhưng bỗng nghĩ bụng "cô nương đã dạy ta luyện công tập võ, ta cần

chú tâm theo dõi để ghi lòng tạc dạ từng cử chỉ, từng điệu bộ để thấm nhuần mà tập

luyện.

Nó chăm chú ngưng thần theo dõi từ lối vận chuyển xuất động nội công từ động tác

một, thật là phân minh rành mạch vô cùng linh động, kỳ diệu.

Nhờ khiếu thông minh thiên phú, nó hiểu rõ rành và ghi nhớ nằm lòng để sau tập lại.

Giữ chúng một chập, nàng thu hồi dưỡng lực, phóng tay cho chúng được tự do như

mở trói, 81 con chim sẻ được tự do vỗ cánh tung trời bay bổng.

Nhưng nàng múa hai vạt áo, gây thành sức gió, hút cả bầy chim sẻ cách rơi xuống đất,

chim kêu chíp chíp rối rít. Mãi một chập sau chúng mới bay trở lại được.

Dương-Qua vô cùng thán phục bản lĩnh cực kỳ siêu việt và lối tập luyện kỳ lạ của

nàng, kéo vạt áo Tiểu-long-Nữ và nói:

- Cô nương, tôi thấy bác Quách-Tỉnh còn kém cô nương xa, vì bác ấy không có lối

luyện công này.

Nàng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt nó ôn tồn nói:

- Lối xuất nội công này gọi là "Thiên la địa võng thế", một bài nhập môn của phía

Cổ-mộ đài của chúng ta đó. Mi cố sức mà luyện tập cho được nhé.

Nàng tuần tự chỉ vẽ cho nó từng cách tập, biết từng đường xuất nhân điện lực tích tụ ở

đơn điền ra ngón tay, cả thảy 10 đường, mỗi đường có một động tác khác nhau.

Sau đó, liên tiếp mười ngày trọn, Dương-Qua lần lượt học hết một bài thế "Thiên la

địa võng".

Tiểu-long-Nữ khi thấy Dương-Qua tập luyện đã thuần thục, nàng đưa ra một con sẻ và

tập cho Dương-Qua biết cách dùng điện lực kìm chế không cho nó bay thoát, nàng

dạy cách điện dụng đúng phép, chuyển ra đầu ngón tay để cho chim không bay,

không nhúc nhích được. Lúc đầu Dương-Qua giữ được một giây, nhưng vì yếu sức, sơ

hở, chim sẻ thừa cơ đã bay mất. Tiểu-long-Nữ dùng phép xuất nội công ra bắt trở lại.

Ngày ngày lần lượt trôi qua, việc tập luyện vẫn được tiếp tục. Dương-Qua luyện nội

công đến lối vận dụng ra ngoài thành chưởng lực, không kể sớm tối, ngày đêm, gió

mưa, nóng rét.

Qua hạ sang xuân, thấm thoắt Dương-Qua đã lớn như thổi. Từ một chú bé nay đã

thành một thiếu niên, thân hình vạm vỡ, tiếng nói sang sảng, gương mặt đẹp thanh tú,

không còn giống ngày nào trong Cổ Mộ đài.

Nhờ sự tập luyện đúng cách, sức khỏe dồi dào, lối đi đứng vững vàng, da đỏ hồng

hào, hơn nữa một phần nhờ thiên tư đĩnh ngộ và Tiểu-long-Nữ tận tình dạy bảo nên

bản lĩnh tăng tiến rất mau.

Cuối thu, dượt tập thuần thục các thế "Thiên la địa võng", chưởng pháp của

Dương-Qua trở nên thâm hậu vững vàng, phát xuất mau lẹ, có thể sử dụng kìm chế

được 81 con chim sẻ, mặc dầu đôi lúc sơ hở vẫn còn để một vài con bay thoát.

Một buổi sáng, Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Đến nay chưởng lực và nội công của mi đã tiến bộ nhiều. So với nhiều người trong

giới võ lâm, chưa chắc mấy ai đối địch nổi. Bây giờ mi hãy tìm tên đạo sĩ mập ngày

nọ khiêu khích hắn đấu một trận xem thử sức lực ra sao.

Nghe nói, Dương-Qua nh cởi mở tấm lòng, tự thấy như lớn hơn trước nhiều. Nó hân

hoan hỏi:

- Thưa cô nương, có phải cô nương muốn tôi đấu với tên Triệu-chí-Kính hay không?

Vốn biết rõ Triệu-chí-Kính là một cao thủ có hạng, thuộc hàng đệ tam đệ tứ của

Toàn-Chân phái, đã từng nổi tiếng trên giang hồ, so với hắn tài nghệ của Dương-Qua

còn thua kém xa, nên nàng lặng yên không trả lời.

Thấy Tiểu-long-Nữ làm thinh không đáp, Dương-Qua biết ý vội hỏi:

- Thưa cô nương, tôi chắc chưa đủ sức đấu với hắn. Thôi tôi cố gắng luyện tập ít năm

nữa chẳng muộn gì. Chừng nào võ nghệ vượt được hắn sẽ tính sau. Thưa cô nương võ

nghệ của phái Cổ Mộ đài tài hơn hẳn bên Toàn-Chân nhiều phải không?

Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn tấm đá gắn trên nóc nhà có khắc chữ và nói:

- Lời nói tiên tri khắc trên đá này cho biết ta và mi có thể tin nhau được. Trước đây ta

có đấu với lão đạo sĩ họ Khưu bên Toàn-Chân thì quả võ nghệ ta còn kém hắn. Nhưng

như thế đâu phải là phái ta thua môn phái Toàn-Chân. Chẳng qua vì ta chưa luyện

được đến chỗ tuyệt diệu của võ thuật Cổ-Mộ đài. Nghe Tiểu-long-Nữ bảo

Khưu-xứ-Cơ hơn nàng; Dương-Qua không được hài lòng vội hỏi tiếp:

- Thưa cô nương chỗ tuyệt diệu ấy là gì cô đã bắt đầu tập chưa và đã đến mức nào

rồi?

- Bây giờ mi đã nhận ta là thầy trước bàn thờ Tổ sư phu nhân thì ta cũng có thể kể cho

mi nghe một ít lai lịch về người. Tổ sư vốn họ Lâm tên gọi Triều-Anh đã nổi danh

trên võ lâm nên cách bảy mươi năm về trước giới giang hồ đã có câu:

Nam Lâm Bắc Vương

Bà lại hơn ông

Nam-Lâm tức là tổ sư phu nhân của ta quê ở Quảng-Tây, Bắc-Vương là

Vương-trùng-Dương quê ở Sơn-Đông.

Trong thời bấy giờ hai vị là người giỏi nhất trong hạng võ nghệ cao cường, khó mà

phân biệt ai hơn ai kém. Sau này vì phải lo khởi nghĩa đánh giặc Kim nên

Vương-trùng-Dương phải gác việc tập luyện để lo việc nước. Trong lúc đó tổ sư phu

nhân vẫn tiếp tục trau dồi bản lĩnh. Như thế đương nhiên phải vượt hẳn

Vương-trùng-Dương một bực, nghĩa là bà đã thắng ông.

Sau này vì thất bại trong việc lớn, Vương-trùng-Dương phẫn chí lui về trong Cổ Mộ

này để trau dồi lại võ nghệ.

Khi ấy tổ sư phu nhân lại xuất bước giang hồ làm việc nghĩa và có dụng ý chờ đợi

Vương-trùng-Dương hạ sơn lần nữa. Một thời gian dài trôi qua hai người không hề

gặp nhau. Sau đó không hiểu vì một lẽ gì bất hòa cả hai đánh cá với nhau và đấu võ.

Vương-trùng-Dương thua nên nhường Cổ-Mộ đài cho phu nhân. Ta sẽ đưa mi đi coi

để thấy các di tích của hai vị tiền bối ấy.

Tất cả các nơi trong Cổ-Mộ đài đều kiến trúc bằng đá. Không hiểu các vị đã dùng

cách nào xây dựng nên.

Ngay sau đó, Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn nhà kiến trúc thật lạ lùng.

Bên ngoài hẹp, bên trong rộng hình như cái thang, phía đông có một khoảnh hình bán

nguyệt và phía tây một khoảnh hình tam giác.

Thấy lạ lùng quá, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, tại đây kiến trúc sao kỳ lạ thế này?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Chính đây là nơi Vương-trùng-Dương dùng để luyện võ. Phía trước hẹp để xuất

chưởng lực tập trung, phía sau rộng để sử dụng quyền thuật, bên khoảnh tròn để sử

dụng bát xà mâu. Dương-Qua chạy tung tăng khắp nơi nhìn kỹ và nhận thấy đây quả

là một cung đài vừa sâu vừa cao. Nhưng Tiểu-long-Nữ đưa tay trở lên trên mà bảo

rằng:

- Nơi đây thể hiện tất cả những cái tinh túy ảo diệu nhất của võ nghệ mà

Vương-trùng-Dương đã ghi chép.

Nhìn theo ngón tay của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua nhận thấy có khắc sâu vào đá

những nét ngòng ngoèo như chữ bùa hay hình chữ cổ tự, chỗ sâu chỗ cạn, nét nào

cũng rõ ràng tinh xảo, diễn tả sự linh động của sự kỳ diệu tinh vi.

Bước qua một bên, Tiểu-long-Nữ khép một cánh cung thì thấy một cánh cửa đá từ từ

mở rộng. Nàng đốt một cây đèn cầy soi đường và nắm tay Dương-Qua dắt vào.

ở đây cũng có một căn phòng nữa bằng phòng bên kia, xây toàn bằng đá, phía trước

rộng, phía Tây tròn và phía Đông hình ba góc.

Nhìn kỹ trên nóc đá, Dương-Qua cũng trông thấy những nét chữ và dấu hiệu khắc sâu

diễn tả những phù chú và có nơi chạm hình người.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chốn này thì chép lại tất cả những linh diệu kỳ ảo của vũ thuật của tổ sư phu nhân.

Xa kia Tổ sư phu nhân chiếm lại tòa Cổ-Mộ của Vương-trùng-Dương không phải vì

tài nghệ mà nhờ xảo kế. Thật ra bản lãnh của người so với Vương-trùng-Dương vẫn

còn thua sút. Nhưng suốt bao nhiêu năm sống ẩn dật tại đây, người đã khổ tâm nghiên

cứu tất cả những tinh diệu đã học phối hợp với võ nghệ của Vương-trùng-Dương rồi

sáng chế ra được một pho võ công hết sức tinh vi. Tất cả nhưng thế độc đáo của người

đều có ghi khắc vào đây để lưu hậu thế.

Nghe nàng kể, Dương-Qua vừa mừng vừa kỳ lạ, nên khi Tiểu-long-Nữ dứt lời nói đã

nói ngay:

- Thưa cô nương, như vậy thật là lạ lùng đáng phục thật. Bọn Khưu-xứ-Cơ,

Xích-đại-Thông và bọn bên phái Toàn-Chân dẫu có tài giỏi bất quá cũng như

Vương-trùng-Dương là cùng. Pho võ công này tổ sư phu nhân đã dùng cả võ thuật của

hai người chế biến thêm ra thì quả đã đều một mức cao diệu hơn rồi. Nếu cô nương

luyện xong các ngón này, chắc chắn sẽ thắng được bọn họ dễ dàng như bỡn.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Đúng đấy, nhưng chỉ tiếc ta không có người phụ giúp.

Dương-Qua đáp ngay:

- Tôi xin lãnh phần ấy.

Tiểu-long-Nữ điềm tĩnh nhìn nó rồi bảo:

- Mi không làm đuợc việc ấy đâu.

Dương-Qua cụt hứng và bẽn lẽn đỏ mặt làm thinh nhìn nơi khác.

Tiểu-long-Nữ giải thích thêm:

- Môn võ thuật nầy Tổ sư phu nhân đặt tên là "Ngọc-Nữ Tâm-Kinh". Luyện môn nầy

cần phải có hai người để hòa hợp công lực và phù trợ lẫn nhau mới có kết quả. Xưa

kia Tổ sư phu nhân đã có dạy cho ta với một người nữa gần đến mức thành công.

Dương-Qua bỗng nghĩ được một cách để chữa thẹn và để tâng bốc Tiểu-long-Nữ:

- Tôi là học trò của cô, chắc có thể luyện với cô được chứ?

Tiểu-long-Nữ trầm ngâm một chập đoạn đáp nho nhỏ:

- Cũng được, để ta thử xem đã. Bây giờ mi cần luyện cho biết tất cả các môn võ công

của môn phái cho thành thuộc để gây của một nền tảng căn bản vững chắc, sau đó

mới học đến các ngón võ Toàn-Chân phái. Khi ta nhận thấy có đủ điều kiện sẽ cho

luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh".

Từ đó trở đi, ngày ngày Tiểu-long-Nữ truyền thụ cho Dương-Qua tất cả các môn

quyền thuật, chưởng thuật, cách sử dụng đủ loại binh khí, ám khí của Cổ Mộ đài.

Một năm trôi qua, nàng tận tình dạy bảo từ lý thuyết đến thực hành. Thời gian tuy

ngắn, nhưng nhờ đêm đêm Dương-Qua luyện nội công trên giường hàn thạch, mức

tiến bộ nhanh chóng lạ thường, hơn nữa vốn nhờ bản chất thông minh lanh lợi, nghe ít

hiểu nhiều, nên bản lãnh cũng có thể ngang với người thường khổ luyện năm bảy

năm.

Võ nghệ của phái Cổ-Mộ đài đã bốn đời truyền thụ, từ người sáng lập cho đến các đệ

tử nối tiếp đều là đàn bà, cho nên bản chất nặng về phụ nữ, mềm yếu linh động, ẻo lả,

tuy đẹp mắt nhưng thiếu tính chất sâu sắc, cường dũng. Dương-Qua bình sinh phù táo,

khinh động nên rất hợp với môn pháp này.

Thời gian qua, Tiểu-long-Nữ ngày càng lớn thêm, càng đẹp, mỹ miều. Nhan sắc nàng

càng lộng lẫy, duyên dáng, từ thân mình tuyệt mỹ do công phu khổ luyện, đến nước

da trắng mịn nh tuyết khuôn mặt sáng rỡ, đôi mắt đen láy, đẹp vô ngần.

Năm ấy, Dương-Qua cũng được 16 tuổi, nó đã thành một thiếu niên đẹp trai, thân

hình cân đối, bề cao đã bằng sư phụ rồi? Tuy nhiên Tiểu-long-Nữ xem nó như con

nít, nên không e ngại gì về vấn đề nam nữ gần nhau.

Hai thầy trò chung sống với nhau, ngày càng thắm thiết. Tiểu-long-Nữ thương mến

tánh ngoan ngoãn, khéo léo và siêng năng của Duơng-Qua. Đối với sư phụ,

Dương-Qua luôn luôn tỏ lòng kính mến, trọng vọng không bao giờ làm trái ý thầy.

Dương-Qua còn khéo léo tìm hiểu tánh ý của thầy để chiều chuộng. Gặp việc gì

Tiểu-long-Nữ không bằng lòng thì dù có muốn hết sức nó cũng không dám nói ra lời,

lắm khi còn tìm lời biện bác bào chữa bênh vực quan niệm của nàng nữa.

Vốn có bản chất lãnh đạm từ ngày tấm bé, Tiểu-long-Nữ lúc nào cũng có vẻ lạnh

lùng, ít khi để ý hay bàn cãi nhiều. Mỗi khi nghe Dương-Qua bàn luận nàng thường

làm thinh. Đã từng quen với tánh ý ấy rồi, nên Dương-Qua không còn nhận thấy nữa,

vì vậy nên trong sự giao thiệp hàng ngày không hề có sự bất mãn hay phiền lòng.

Một ngày kia Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Đến nay mi đã học hết môn võ của phái Cổ Mộ đài, mai đây ta sẽ luyện cho mi các

môn võ của phái Toàn-Chân.

Qua nhiều ngày sau, Tiểu-long-Nữ cứ dựa theo các dấu hiệu chỉ dẫn trên phiến đá để

giảng dạy cho Dương-Qua. Nhưng phù chú văn tự, hình vẽ kỳ lạ đều do

Vương-trùng-Dương dùng mũi kiếm khắc sâu vào đá trên xà nhà.

Lâm triều Anh và Vương-trùng-Dương vốn là hai bạn chí thân đã từng am thạo vũ

thuật bản lãnh của nhau.

Võ thuật của Vương-trùng-Dương đã cao siêu rồi. Lâm-triều-Anh còn dùng nó để

biến chế thêm nữa, cao siêu hơn, và thích hợp với bản chất của phụ nữ hơn.

Triều-Anh tự luyện thật tinh thục, truyền lại cho A-Hoàn. A-Hoàn truyền lại cho

Tiểu-long-Nữ và ngày nay Tiểu-long-Nữ truyền đến Dương-Qua.

Trong mấy ngày đầu, Dương-Qua tập thấy tiến bộ lạ thường, bởi vì nó có căn bản sẵn,

khi nghe nói đã lãnh hội được ngay. Nhưng từ mười ngày sau nó không thấy tiến nữa

mà càng tập càng lùi là khác. Càng luyện nó càng cảm thấy toàn thân rung động, tay

chân hình nh bị giảm bớt năng lực.

Sự thay đổi kỳ lạ đột ngột này làm cho Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên. Nàng suy

nghĩ, cố tìm ra nguyên nhân vì sao có hiện tượng này.

Dương-Qua thì buồn vô cùng nhưng không dám hé môi.

Sau một thời gian suy nghiệm, Tiểu-long-Nữ đã tìm ra nguyên nhân của sự trở ngại

này nên nàng bảo Dương-Qua:

- Thôi đừng buồn phiền làm gì nữa. Ta đã hiểu nguyên nhân này rồi. Bây giờ ta cứ đi

tìm cho được một tên đạo sĩ bên phái Toàn-Chân rồi buộc hắn phải truyền dạy cho mi

những khẩu quyết nhập môn của phái này, như thế là vừa xong chứ có khó gì đâu.

Thôi chúng ta đi ngay bây giờ thì vừa.

Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm cho Dương-Qua bỗng sực nhớ lại những khẩu quyết do

Triệu-chí-Kính đã buộc nó học thuộc lòng:

"Phải sử dụng cân lực dần dần", ở đoạn giữa lại có nói:

"Sức mạnh không phải do đâu đưa đến mà chỉ do tứ nội tại con người phát sanh ra.

"Vận dụng tâm lực mà để tâm rung động, thì chẳng khác nào thu vào tay này mà dùng

tay khác vứt đi, lực lợng tự nhiên xuất mà không biết nữa. Như nước triều chảy, như

sấm rung động, là những điểm thuyết yếu. Như đi thuyền trên sóng, phải chầm chậm

vậy.

Thêm đoạn sau có nói:

"Phép luyện căn cứ ở quẻ Dịch. Dịch là biến động, thay đổi mãi mãi. Thay đổi có thể

dùng sang lực bên trong phù trợ bên ngoài cho nên gân có thể cứng rắn như sắt vậy".

Tiểu-long-Nữ nghiêng tai chú ý nghe đọc, suy nghĩ một chập và nói:

- Thôi được rồi! Trước kia tiên sư có dạy ta tập luyện được nửa chừng rồi bỏ dở,

nguyên nhân cũng vì thiếu căn bản nhập môn. Khi học đến đoạn giữa của môn phái

Toàn-Chân bỗng dừng lại không tiến được nữa. Rất tiếc lúc đó phu nhân đã qua đời

nhưng không thể hỏi han tập thêm tới nơi tới chốn. Phàm không học được từ đầu khẩu

quyết chân truyền của một môn phái không làm sao đoạt được đến mức thành công

mỹ mãn. Tiên sư vốn giàu lòng tự ái, người nhất định bác bỏ ý kiến của ta muốn yêu

cầu cho qua bên Trùng-Dương cung học các khẩu quyết nhập môn của phái này.

Ngày nay mi học cũng khá nhiều nhưng vẫn chưa đầy đủ để luyện tập.

Dương-Qua cố nhớ lại hết tất cả khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã truyền dạy và đọc

cho nàng nghe thêm. Những khẩu quyết này nó học như vẹt chứ chưa bao giờ được

thực hành luyện tập.

Nhưng đối với Tiểu-long-Nữ nhờ có bản lãnh, nên sau một hồi suy nghĩ nàng đã quán

thông được ý lý, phối hợp đối chiếu với lý thuyết đã được Tần-nam-Cầm đã dạy, tức

cũng là pháp huyền môn mà Mã-Ngọc đã chân truyền cho người khác.

Nghiên cứu hai sự hiểu biết này trong vòng mấy tháng, Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua

đã thấu triệt được tất cả những gì do Vương-trùng-Dương đã ghi khắc trên nền đá kia.

Một ngày kia, sau khi hai người đang tập luyện kiếm thuật trong căn nhà đá,

Tiểu-long-Nữ bỗng dừng kiếm, buồn rầu nói với Dương-Qua:

- Mấy lúc này ta mắc phải một khuyết điểm lớn là tự phụ, xem thường võ thuật của

phái Toàn-Chân. Ngày nay phái này đã nổi danh đệ nhất thiên hạ, lại một chân truyền

chính cống, đáng kể là đệ nhất võ lâm. Thật ra bấy giờ ta mới nhận thấy võ thuật

Toàn-Chân thật kỳ ảo, biến hóa vô cùng, càng luyện càng thấy tinh vi huyền diệu.

Mặc dầu ta đã tìm hiểu được các căn bệnh kỳ yếu, nhưng về mặt tập luyện thực hành

làm sao cho tay chân theo kịp sự hiểu biết của óc não, hễ tâm động thì tay cứng, sức

lực tự nhiên phát ra, chẳng biết còn phải bao nhiêu năm tháng nữa mới thành công

được.

Vốn còn non như con nghé đâu biết sợ oai cọp, Dương-Qua đáp:

- Thưa cô nương, võ thuật Toàn-Chân tuy cao siêu, nhưng Tổ sư phu nhân đã nghiên

cứu kỹ, biến chế hết những cái tinh túy, tìm cách khắc chế nó rồi, ta chỉ theo đó mà

luyện tập cũng như bước theo một kẻ dẫn đường, chắc chắn một thời gian ngắn cũng

đoạt kết quả mong muốn. Như thế dù võ thuật Toàn-Chân có cao cũng không vượt

nổi võ thuật của Tổ sư ta.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Kể từ ngày mai ta cần luyện lại "Ngọc-nữ Tâm-kunh" đi thôi.

Ngày hôm sau, hai người đưa nhau đến gian phòng đá thứ hai, theo các dấu hiệu phù

chú ghi khắc sẵn để tự luyện.

Môn pháp này có phần dễ dàng hơn pháp môn Toàn-Chân phái nhiều. Sở dĩ trước kia

Lâm-triều-Anh sáng chế môn nầy để khắc phục võ thuật Toàn-Chân của

Vương-trùng-Dương, căn cứ vào pháp môn của mình, biến đổi thêm phần tinh diệu

nữa, cho nên cả hai có căn bản hiểu rõ võ thuật của đôi bên rồi, nên học rất dễ.

Sau một thời gian học hết các khẩu quyết, thực hành xong "Ngọc-nữ Tâm-kinh" pháp

môn đến mức có thể sử dụng phát huy ngoại công được rồi, hai người cùng nhau đấu

dượt. Có khi Dương-Qua dùng kiếm pháp Toàn-Chân đấu với Tiểu-long-Nữ sử dụng

Ngọc-nữ kiếm pháp. Cũng có khi Tiểu-long-Nữ dùng kiếm pháp Toàn-Chân khắc chế

Ngọc-nữ kiếm pháp do Dương-Qua sử dụng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào

Ngọc-nữ kiếm pháp vẫn thấy trội hơn và có thể khắc phục rất hiệu quả từng thế một

của võ thuật Toàn-Chân phái, mặc dầu được người sử dụng linh hoạt tài tình đến đâu

cũng vậy. Ngoại công tập xong, tiếp đến luyện nội công. Môn nội công của

Toàn-Chân cũng đã huyền diệu không lường. Muốn sáng chế ra một môn khác biệt

nữa đâu phải chuyện dễ. Tuy nhiên với một ý chí mạnh mẽ muốn tiến bộ vượt bực

hơn người, Lâm-triều-Anh đã vận dụng tất cả học lực, kinh nghiệm sẵn có, đồng thời

sử dụng lối luyện công trên giường hàn thạch, nên đã khai ra một môn mới riêng biệt.

Phép luyện công trên giường hàn thạch của bà tuy rất khó nhọc đòi hỏi cả một sự

quyết tâm, chịu đựng kiên trì, nhưng lúc đã có theo học được thì mức tiến bộ thực phi

thường. Khổ luyện trong một thời gian, nhng kết quả vượt hẳn bên Toàn-Chân phái.

Sau khi nhìn một đoạn chữ khắc trên nóc nhà, Tiểu-long-Nữ bỗng thở dài rồi lặng

thinh chỉ lắc đầu không nói gì nữa. Liên tiếp mấy ngày sau nàng cũng chỉ giữ một

thái độ yên lặng và sau cùng vẫn lắc đầu rồi thở dài mấy cái.

Dương-Qua e ngại hỏi:

- Thưa cô nương, đoạn này khó tập lắm sao?

Tiểu-long-Nữ nhìn Dương-Qua một chập rồi điềm nhiên nói:

- Trước kia nghe sư phụ dạy ta phép "Ngọc-nữ Tâm-kinh" này phải có hai người cùng

luyện tập một lúc. Ta những tưởng có thể cùng tập với mi nhưng đến nay mới biết

không thể được.

Dương-Qua hết sức kinh ngạc vội hỏi:

- Tại sao vậy hở cô nương?

Tiểu-long-Nữ ngập ngừng một chập rồi nói:

- Nếu mi là gái thì mới được.

Dương-Qua ngẩn ngơ một chập rồi hỏi liến thoắng:

- Sao lại có việc phân biệt nam và nữ như thế? Hễ có đủ sức lực và có ý chí thì trai

hay gái cũng có thể tập luyện được chứ.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu không đáp, một chập sau mới nói:

- Không thể khác giống được. Mi cứ nhìn trên những nóc nhà thì tức khắc hiểu.

Dương-Qua nhìn theo tay nàng chỉ, thấy trên mặt đá có những hình người khắc bằng

mũi kiếm, cả thảy chừng mười người, mỗi người một kiểu, toàn là đàn bà lõa thể

không mặc y phục. Bấy giờ Dơng-Qua mới hiểu:

- Thưa cô trong lúc luyện nội công "Ngọc nữ Tâm kinh" không thể mặc y phục phải

không?

Tiểu-long-Nữ đáp đúng như thế và lời ghi chú cũng có dạy rõ như sau:

''Khi luyện nội công sức nóng trong người bốc ra cần phải để cho nó tản thoát hết đi.

Vì vậy lúc tập phải tìm nơi khoáng đãng, không có người và không mặc quần áo. Nếu

không, nhiệt khí uất tích sẽ nhiễm vào trong, nếu ít thì lâm trọng bệnh, nếu nhiều thì

có thể chết".

Dương-Qua thản nhiên nói:

- Như thế thì ta không mặc quần áo tập luyện chứ sao. Tiểu-long-Nữ mắc cỡ đỏ mặt,

nói:

- Khi tập luyện phải truyền khí lực cho nhau, ta với mi nam nữ cách biệt, nếu không

mặc quần áo ở trước mặt nhau thì còn ra thể thống gì nữa.

Phàm trai mười sáu gái mười ba là đến tuổi dậy thì, cần phải giữ gìn khi tiếp xúc giao

thiệp. Dương-Qua đã mười sáu tuổi rồi nhưng bản chất hồn nhiên, nó chưa hề biết gì

về tình ái và chua để ý đến vấn đề nam nữ. Thấy sư phụ nó đẹp đẽ tuyệt vời nó càng

thấy vui mừng thích thú. Nó cũng nhận nếu nữ sư phụ và nó cùng lõa thể trong lúc tập

luyện thì có sự bất tiện, nhưng vì lẽ cũng không hề để ý và chưa biết giải thích ra sao.

Về phần Tiểu-long-Nữ tuy đã hai mươi hai tuổi đầu nhưng từ bé đến giờ sống trong

Cổ Mộ đài, cuộc đời riêng biệt không hề tiếp xúc với người ngoài nên đối với

Dương-Qua càng ngây ngô hơn nữa. Ngoài ra vì cần phải tu tâm khổ luyện nên vấn đề

tình dục và nam nữ càng không hề có một ý thức gì. Hai thầy trò tuy là nam nữ thanh

niên chung sống với nhau tại chốn hoang vu vắng vẻ, sớm hôm gặp gỡ nhưng rất tự

nhiên và lúc nào cũng đối xử với nhau không hề có ý thức gì vượt ngoài vòng lễ nghi.

Hôm nay khi đề cập tới việc lõa thân để tập luyện nội công, họ cảm thấy có điều gì

chướng và khó chịu. Nhưng chỉ có thể thôi chớ không hề có ý nghĩ gì khác.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Ta cần phải đào luyện môn nội công tinh thục hơn nữa. Nếu luyện thành thục cũng

đủ sức đánh bại những tay cự phách nhất của phái Toàn-Chân. Vì vậy tưởng không

cần luyện môn nội công này nữa.

Biết sư phụ không muốn tiếp tục luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh" nữa, nên Dương-Qua

cũng thuận theo không hề đòi hỏi.

Một ngày kia sau khi tập luyện xong, Dương-Qua xuất Mộ săn bắn ít thú rừng về làm

lương thực. Vừa bắn được một con nai rồi nó bỗng gặp một con thỏ lông đỏ, đầu đen,

rất tinh khôn và nhảy mau lẹ. Lúc bấy giờ thuật khinh thân đã tiến một bực nhưng vẫn

chưa lanh bằng thỏ. Nhưng vì tuổi trẻ nhiền anh hùng tính, Dương-Qua tự nhiên nảy ý

nghĩ muốn đuổi bắt thỏ cho kỳ được, không dùng đến ám khí để sát hại. Nghĩ xong,

nó vận dụng khinh thân đuổi thỏ chạy khắp rừng cố làm cho đuối sức rồi sẽ bắt. Cuộc

đuổi bắt tiếp tục thỏ trước người sau, càng lâu càng đi xa. Khi đến gần chóp núi, con

thỏ chạy ngoặc vào một cái miếu mọc đầy hoa hồng, rồi biệt tích tìm không ra.

Dương-Qua chắc lưỡi thầm tiếc con thỏ đẹp đã uổng công trình quần đuổi nửa ngày

ngày để sẩy mất.

Dương-Qua đứng ngẩn ngơ nhớ nhung chú thỏ và đưa mắt nhìn thấy cái miếu bề dài

độ mười trượng, mùi hương bay lên ngào ngạt khắp xung quanh hoa hồng mọc bao

phủ từng lớp, hết lớp này đến lớp khác, những cánh hoa vừa thơm vừa đẹp, mơn mởn

nằm trên thảm lá xanh tuơi, chẳng khác nào một nhà kết hoa, càng trông càng tuyệt

vời.

Dương-Qua thích quá lại gần quan sát, đưa tay ngắt một mớ hoa hồng, định mang về

tặng Tiểu-long-Nữ.

Nhưng khi về khoe với Tiểu-long-Nữ, nàng thản nhiên bảo:

- Ta không ưa hoa, mi giữ lấy mà chơi.

Dương-Qua tiu nghỉu một chập nhưng bỗng sực nhớ một điều, vội nói:

- Tôi không có chủ định hái hoa về cho cô nương, nhưng muốn điềm chỉ cho một chỗ

rất thích hợp để luyện nội công Ngọc-nữ Tâm-kinh. Nơi miếu này hoàn toàn hoang vu

vắng vẻ, hoa hồng bao phủ tứ bề, ở cách nhau vài thước không trông thấy. Dù phải lõa

thể theo điều kiện bắt buộc cũng tiện không ai trông thấy. Khi nàng luyện tập tôi sẽ ở

đàng cuối miếu canh phòng cho nàng, cũng như nàng sẽ coi chừng hộ khi tôi luyện

tập.

Phàm phép luyện nội công lúc nào cũng phải lặng lòng không gợn một chút lo nghĩ

xao xuyến, tâm tư hết sức bình thản để dốc vào sự tập nội tâm, gạt bỏ tất cả những gì

thuộc ngoại cảnh, không được để ý đến điều mắt thấy tai nghe.

Khi đang tập luyện, nếu có ai phá rối, hay địch tấn công thì hết sức nguy hiểm, đã

làm hỏng mất cả phép nội công mà còn có thể mất mạng như chơi. Vì vậy lúc tập cần

có người canh giữ, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.

Xa kia Hoàng-Dung tập nội công bị tả công khí xâm nhập, Quách-Tỉnh đứng canh

phòng, trời đang mưa lớn, mẹ của Dương-Qua là Tần-nam-Cầm, lúc còn là gái tân

phải cắm dù che mưa, không dám đưa vào nhà dụt vì tránh giật mình trong lúc tham

thiền nhập định dễ gây nguy hại đến mạng sống của nàng.

Lúc tham thiền nhập định luyện công chẳng những phải có bản lĩnh cao mà còn phải

có chí cương quyết giữ được tâm thần khỏi rung động và kỵ nhất là những sự náo

động bất ngờ có thể xảy đến. Vì vậy nên yếu tố vắng vẻ của nơi luyện tập và cần

ngời canh giữ cần thiết lắm.

Nghe Dương-Qua nói đến miếu nầy, Tiểu-long-Nữ nhận thấy có lẽ được, muốn quan

sát lại.

Nàng liền xuất Mộ Đài, phi thân lên ngọn cây cao nhất đưa mắt nhìn vào hướng ấy,

trông thấy tòa cổ miếu nằm khuất trong rặng hoa hồng tứ bề vắng lặng, tĩnh mịch,

ngoài tiếng suối reo, gió thổi, chim kêu, không thấy một điều gì có thể làm xao động,

thật là một nơi hết sức thuận lợi cho công cuộc luyện công.

Nàng nói với Dương-Qua:

- Ta rất đồng ý với mi. Vậy chiều nay, chúng ta cùng tới đó để luyện tập.

Nàng đã học thuộc lòng từ lâu tất cả khẩu quyết "Ngọc-nữ âm-kinh" nay đọc mấy câu

cho Dương-Qua nhớ.

Vào khoảng canh hai, hai thầy trò đưa nhau đến miếu ấy tìm chỗ sân bằng phẳng kín

đáo nhất để tập. Rừng khuya lặng lẽ, mọi vật lắng trong màn sương, cả tòa miếu chìm

trong rặng hoa hồng mùi thơm ngào ngạt. Cả hai người ngồi cách nhau một đoạn, có

thể nói chuyện được, nhưng không nhìn thấy nhau, cởi hết y phục để bắt đầu luyện

tập.

Dương-Qua cố ý đánh dấu hướng ngồi của sư phụ đề phòng lúc bất trắc có thể vận nội

công hỗ trợ lẫn nhau. Họ ngồi cách nhau độ hơn một sải tay.

Kể từ hôm ấy trở đi, cứ đêm đêm họ đa nhau vào đấy tập luyện, ban ngày về Cổ-Mộ

để nghỉ sức dưỡng thân.

Lúc bấy giờ đang giữa mùa hè, khí hậu oi bức, nên tập về đêm mát mẻ dễ chịu hơn.

Thời gian thấm thoát đã hơn hai tháng, Tiểu-long-Nữ đã luyện đến phần thứ bảy của

chín đoạn phép Ngọc-nữ tâm-kinh.

Trong quy tài tập luyện số lẻ là "âm tiến", số chẵn là "dương thoái". Khi đó

Dương-Qua cũng luyện đến phần thứ sáu.

Tối hôm ấy trời mát trăng song, giữa miếu hồng, hai người đang ngồi luyện tập, nhiệt

khí trong người bốc ra ngùn ngụt, hòa lẫn mùi hoa thơm ngào ngạt. Trăng sáng vằng

vặt vừa đứng đỉnh đầu, hai người sắp hoàn thành đoạn 6 và đoạn 7 của Ngọc-nữ

tâm-kinh, thì bỗng đàng xa có tiếng chân bước dồn dập khua lá động xào xạt hướng

về miếu hồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện lớn tiếng, làm náo động cả cảnh rừng

đêm lặng lẽ. Họ vừa nói vừa đi, bước chân càng lúc càng gần.

Khi ấy Dưbơng-Qua sắp hoàn thành đoạn chót của buổi tập, còn Tiểu-long-Nữ mới

bước qua giai đoạn vận khí vào, tức là phần quan trọng nhất. Nàng đang tập trung hết

tư tưởng vào việc tập luyện nên không nghe biết sự gì bên ngoài nữa.

Khi nghe có tiếng nói, Dương-Qua thất kinh vội vàng xả hết trọc khí ở đan điền thật

hết để hoàn tất buổi tập, thì tiếng chân bước càng gần thêm, giọng người nói nghe rõ

mồn một.

Dương-Qua lắng nghe đó là Triệu-chí-Kính và Doãn-chí-Bình đang cãi cọ lẫn nhau.

Triệu-chí-Kính nói:

- Thôi sư đệ chối cãi làm chi nữa, để ta trình lại Khưu-sư-bá xét định.

Doãn-chí-Bình giận dữ đáp:

- Anh cứ buộc tôi làm gì. Tôi thừa hiểu rồi, trong hàng ngũ các đệ tam đại, đệ tứ đại

sau này, anh tưởng tôi không thể đoạt được hàng trưởng giáo chăng?

Triệu-chí-Kính cười mãi nói:

- Anh không giữ được quy tài, phạm giới cấm thì làm sao có đủ tư cách để thành

ngời đứng đắn của các đại đệ tử nhóm này được.

- Tôi đã làm gì mà gọi là phạm giới cấm?

Triệu-chí-Kính nổi nóng quát lớn:

- Thôi đừng già mồm ngụy biện nữa. Ngươi há biết hết bổn giới trong luật của môn

phái rồi sao? Ngươi đã phạm vào luật giới dâm nghe chưa?

Dương-Qua núp trong đám hoa hồng, vội ngẩng đầu lên dòm thấy hai người đang

ngồi đối diện nhau. Dưới ánh trăng, sắc mặt của Doãn-chí-Bình tái mét, mắt trợn

ngược, môi run run, hình như không kìm chế được nỗi bực tức.

Hắn cố dằn lòng hỏi tiếp:

- Ta phạm giới dâm chỗ nào?

Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi kiếm.

Triệu-chí-Kính liếc qua một cái và nói tiếp:

-Từ ngày gặp Tiểu-long-Nữ cô nương bên Hoạt-tử-Nhân Mộ-Đài, thì anh đã xiêu hồn

thất phách, không lúc nào là không mơ tưởng đến hình bóng người đẹp. Đứng đâu

cũng mơ tưởng được ôm ấp nàng vào lòng, nói với nàng những câu tình tứ nồng nàn.

Như thế anh gọi là xứng đáng một kẻ chân tu, làm sao đủ tư cách điều khiển cả một

hàng đại đệ tử được?

Đối với kẻ tu hành, hành động ấy không phải phạm giới dâm sao?

Dương-Qua lúc nào cũng tôn sùng sư phụ xem như một đấng thiêng liêng. Khi nghe

Triệu-chí-Kính nói những lời ấy thì bực tức vô cùng. Tuy chưa hiểu rõ ý của các danh

từ, nhưng suy nghiệm cũng đoán biết đó là những lời không chính đáng.

Vừa lúc đó nghe Doãn-chí-Bình dằn giọng hỏi lại:

- Thôi đừng ăn nói hồ đồ nữa? Anh có bằng chứng gì để nhận xét và quả quyết được

như thế?

Triệu-chí-Kính cười nhạt nói:

- Tôi làm sao nhìn thấy lòng anh được. Sở dĩ tôi quả quyết như vậy là gì những bằng

cớ. Khi mơ tưởng đến Tiểu-long-Nữ, anh đã viết tên nàng trên giấy, trong lúc ngủ mê

anh đã gọi tên nàng. Đây có phải bút tích của anh không?

Nói xong hắn thò tay vào túi rút ra một mảnh giấy đưa trước mặt Doãn-chí-Bình vừa

nói tiếp:

- Tôi sẽ trình giấy nầy lên Khưu-sư thúc, người phụ trách dạy dỗ anh và đồng thời

cũng trình lên Mã-Ngọc su bá để hai vị nhận xét việc làm của anh.

Không chị nổi nữa, Doãn-chí-Bình rút kiếm đâm vào người Triệu-chí-Kính.

Triệu-chí-Kính nghiêng người tránh khỏi đường kiếm, rồi cười ha hả:

- Anh tưởng anh giết tôi để phi tang, vì tôi không còn sống để phát giác tội lỗi của

anh phải không? Đâu có dễ dàng như vậy.

Nói xong hắn bỏ mảnh giấy vào túi, lùi ra sau hai bước tránh luôn hai đường kiếm của

Doãn-chí-Bình vừa phóng ra như gió.

Qua đường kiếm thứ tư, Triệu-chí-Kính cũng vung kiếm đấu lại. Dưới ánh trăng sáng

như ban ngày, hai làn kiếm loang loáng, nhấp nháy như sao sa. Hai đạo hữu của

Toàn-Chân phải kịch chiến cùng nhau trên sân hồng hoa miếu.

Vốn là hai cự phách của phái Toàn-Chân, thuộc hàng đệ tam đại đệ tử, một người

đứng đầu nhóm đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, một người đứng đầu nhóm đệ tử của

Vương-xứ-Nhất, cho nên cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt.

Doãn-chí-Bình nghiến răng, mím môi đưa toàn lực đổ vào làn kiếm, liều chết chiến

đấu. Triệu-chí-Kính bất đắc dĩ mới ra tay tự vệ, nhưng thỉnh thoảng thốt ra những lời

khiêu khích chọc giận, làm Doãn-chí-Bình mất bình tĩnh, do đó đường kiếm bị giảm

bớt phần hiệu lực.

Núp trong bụi hoa hồng, Dương-Qua chú mục theo dõi, hai tay cự phách của phái võ

Toàn-Chân quyết đấu, từ bước tiến, thoái, đến các thế né, đỡ, đường kiếm biến hóa

phi thường, ảo điệu vô cùng tận. Tuy không được thâm hậu, nhưng nó nhận thấy sự

chỉ dạy của Tiểu-long-Nữ rất đúng phép.

Cả hai người quay cuồng xoắn với nhau giữa làn kiếm lấp lánh không ngừng.

Doãn-chí-Bình càng tăng gia sức tấn công, còn Triệu-chí-Kính vẫn bình thản né đỡ và

một chập sau cười nhạt nói rằng:

- Chúng ta đã hiểu nhau quá nhiều, các thế võ cùng giống nhau, đầu dánh nhau suốt

đêm cũng không ích gì đâu. Anh nên bỏ ý định hạ sát tôi thì hơn.

Nói xong hắn cười ha hả. Doãn-chí-Bình càng bực tức gia tăng sức tấn công. Nhưng

ngọn nào cũng bị hắn chặn được hoặc tránh né rất dễ dàng.

Hai ngưbời càng đấu càng xê dịch đến gần phía Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua thất kinh

hét lớn:

- Coi chừng! Hai tên đạo sĩ kia, nếu bây đến gần làm kinh động đến cô nương ta, sẽ

mất mạng ngay, nghe chưa!

16. Ngọc-nữ Tâm-kinh

Nhưng bỗng thình lình Triệu-chí-Kính phản công xông đến đánh luôn ba ngón liên

tiếp mạnh như vũ bão, buộc Doãn-chí-Bình phải thối lui trở về võ điện.

17. Khi đoạn long thạch đã rơi

Dương-Qua đã biết rõ đường đi nước bước trong Cổ-Mộ, cần phải tránh những cạm

bẫy nguy hiểm khắp nơi mới bảo toàn tánh mạng. Tuy nhiên hắn vẫn giả vờ không hề

hay biết bảo sao làm vậy, dùng rìu chặt bậy lung tung theo lời của Hồng-lăng-Ba.

Còn độ hơn một dặm nữa đến Cổ-Mộ dài, bỗng Dương-Qua sực nhớ đến

Tiểu-long-Nữ hiện giờ chẳng rõ ra sao. Lòng nó xót xa băn khoăn nóng nảy muốn tìm

cách trở về gặp sư phụ ngay, dầu phải hiểm nguy đến sanh mạng cũng không cần.

Nghĩ thế, hắn làm bộ mệt lả, đi chậm lại, nhường Hồng-lăng-Ba đi trước, thỉnh thoảng

hắn lại ngồi xuống không đi nữa, khiến nàng phải quay lại dắt đi vì ngại đêm tối hắn

lạc mất.

- Mau lên thằng ngốc ơi. Bộ tướng vật trâu cũng ngã mà làm như người biết gân rồi.

Sao mà tệ quá vậy? Hãy đi mau lên xem nào.

Dương-Qua chẳng thèm nói gì, ngồi bẹp xuống bên đường, một chập sau lắc đầu nói:

- Thôi, tôi chịu rồi! Không dám đi tới nữa đâu, sợ ma lắm.

Hồng-lăng-Ba đang nóng lòng tìm đường vào Cổ-Mộ, thấy chú khùng trở chứng nói

bạt mạng e ngại nó bỏ đi thật, còn một mình bơ vơ biết đâu mà mò, cho nên nàng lật

đật đến cạnh nó ôn tồn hỏi:

- Sao, mày sợ thứ gì? Ma à?

- Dạ tôi sợ ma lắm cô ơi.

- Ma ở đâu, mày đã gặp bao giờ chưa?

Dương-Qua mở mắt tròn xoe nhìn một chập đoán chừng đạo cô tức lời hắn, mới chậm

rãi nói:

- Thưa cô, có một lần tôi lùa dê vào đây, đi lạc đường vào ngôi mộ...

Hồng-lăng-Ba mừng lắm vội hỏi:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi vào không?

Dương-Qua giả bộ không nghe, nên tiếp tục kể:

- Tôi mệt quá nằm dựa bên mộ, ngủ thiếp một chập, khi chợt tỉnh thấy trời đã tối mò,

tư bề vắng vẻ, bỗng có tiếng gà trong xóm xa vọng đến, chắc vào khoảng canh ba...

Đạo cô nóng ruột hỏi thêm, ngắt lời nói:

- Thế bây giờ em còn nhớ đường đi chứ?

Dơng-Qua tin chắc nàng hết nghi ngờ về tánh sợ ma của mình nên hỏi thêm một câu:

- Thế tiên cô có sợ ma không?

Nàng cười đáp:

- Ta không bao giờ sợ ma. Ma lại phải sợ ta là khác nữa.

Hắn giả bộ ngớ ngẩn, ngạc nhiên và hỏi tiếp:

- Tại sao cô không sợ ma. Cô có phép sao?

Nàng vung thanh kiếm lên một vòng và nói:

- Ta đã có thanh kiếm này, ma cũng phải sợ. Gặp nó ta chỉ cho một nhát đứt hai.

Dương-Qua làm ra bộ tin tưởng, gật đầu nói:

- Thế thì được rồi. Nhưng tôi chỉ sợ cô nương nói dối.

Nàng trợn mắt, nạt:

- Đừng nói bậy, đã là đạo cô ta không hề nói dối bao giờ.

Dương-Qua cãi lại:

- Cô nương chẳng biết đó chứ. Trên đời hiếm gì đạo cô nói dối như cuội, ví dụ nh...

Đang nóng lòng vào Cổ-Mộ, thấy nó cứ lè nhè kể lể, Hồng-lăng-Ba bực tức nạt lớn:

- Thằng khùng, đừng nói bá láp. Mày láo và hỗn xược lắm đấy. Ta nói dối mày để

làm gì mới được chứ?

Dương-Qua vẫn cúi đầu nhìn xuống đất nói thêm:

- Xin cô cứ nghe tôi kể tiếp. Khi tôi chợt tỉnh giấc, bỗng thấy một con ma mặc toàn

áo trắng bay lả lớt trên bụi cây, giống như đạo cô, chập chờn khi ẩn khi hiện khi xa

khi gần, tôi sợ quá vội vùng lên chạy trốn thì...

Hồng-lăng-Ba mừng quá, nàng tin rằng chú bé này đã vô tình khám phá được ngôi cổ

mộ, nơi trú ẩn của Tiểu-long-Nữ và bóng trắng lả lướt ấy nhất định là Tiểu-long-Nữ

rồi.

Nàng giục nó đi mau. Dương-Qua vẫn tiếp tục nói:

- Để tôi kể tiếp cho xong đã, cô cần hiểu rõ oai lực của con ma này, rồi mới giết được

nó chứ.

Nàng gật đầu bảo:

- ừ, thì cứ kể đi.

Nó vừa kể chậm chậm vừa suy nghĩ:

"Nàng nầy tuy lớn tuổi hơn mình, nhưng so bề sức vóc chưa chắc ta kém nàng. Mình

cố tìm cách lung lạc nàng để sau còn tiện bề thao túng chứ".

Nghĩ xong, hắn tiếp tục kể:

- Trời ơi! Tôi khiếp sợ quá cắm đầu chạy bạt mạng, không kể trời đất, đến nỗi nhào

vào một tảng đá bên đường, vỡ trán chảy máu ướt mặt, mãi đến ngày nay vẫn còn một

cái sẹo lớn đây này, cô sờ xem thì biết.

Vừa nói xong, hắn nắm lấy tay của Hồng-lăng-Ba kéo về phía mình.

Từ lúc theo Lý-mạc-Thu học võ nghệ, Hồng-lăng-Ba đã từng đi phiêu bạt giang hồ,

chạm trán biết bao nhiêu đối thủ hung ác, nhưng đến nay nàng vẫn còn là một thiếu

nữ đang tân, tình xuân phơi phới, chưa nếm mùi đời, chưa bao giờ đụng chạm với

nam nhi. Những khi phải đối phó với kẻ thù hay ác thú, từng đứng trước tử thần, nàng

chưa hề thấy lòng xao xuyến hay sợ hãi. Hiện nay, vừa chạm bàn tay của một người

con trai, Hồng-lăng-Ba cảm thấy bủn rủn cả người, một luồng nhiệt khí rần rật, đôi

má đỏ bừng và mất cả sự bình tĩnh. Tim nàng đập từng hồi rối loạn, hơi thở dường

như đứt quãng, muốn rụt tay lại, nhưng không tự chủ được, để phó cho Dương-Qua

mặc ý lôi kéo.

Sử đụng chạm bất ngờ này đã làm mờ cả lý trí, tựa hồ như mới nhắp phải ly rượu

nóng hay hút một điếu thuộc phiện.

Dương-Qua dùng hai tay ấp chặp bàn tay của Hồng-lăng-Ba đưa qua đưa lại trên trán

mình và nói:

- Đấy, cô xem, cái sẹo to chưa?

Nàng khẽ bảo:

- Thôi, em đưa ta đi chứ.

Hắn vẫn không thả tay nàng, đứng dậy kéo nàng đi sát bên mình, dò dẫm trong đêm

tối, và cứ xoa mãi để chỉ vết sẹo vô hình. Bất giác Hồng-lăng-Ba cười ngặt nghẽo,

miệng reo lên:

- Thằng ranh con, thằng ranh con.

Một lúc sau chẳng rõ có sờ thấy cái sẹo hay không, nhưng dần dần chợt trở lại thực tế

với một cảm giác mới đối với Dương-Qua, khẽ bảo nó:

- Thôi, em đưa ta đi nhé.

Dương-Qua không đáp lời, vẫn lặng thinh siết chặt bàn tay ấm áp của đạo cô, dìu

nàng đi trong tối yên lặng đến rợn người.

Nó bỗng nhớ lại ngày nào trong Cổ-Mộ đài đã từng cùng sư phụ Tiểu-long-Nữ dắt tay

cùng đi và trò chuyện, nhưng sự đụng chạm hai lần hoàn toàn khác nhau. Bàn tay của

Tiểu-long-Nữ mát lạnh như băng, bàn tay của Hồng-lăng-Ba thấy ấm áp và nắm lấy

như chạm phải luồng điện, người cảm thấy âm ỉ như lên cơn sốt.

Mặc dù lương tri phân tách được hai cảm xúc này, nhưng Dương-Qua vẫn không quên

chủ đích của mình dự định. Vừa đi tới nó vừa lấy bàn tay ấm áp của đạo cô, vừa siết

mạnh, vừa xoe nhè nhẹ như muốn gây lại cảm giác đặc biệt vừa có lúc ban đầu.

Giá là một thanh niên nào khác, kéo dài sự đụng chạm này thì Hồng-lăng-Ba đã nổi

nóng, rút kiếm kết liễu ngay tính mạng, nhưng đối với Dương-Qua trong lúc hình như

có một cảm xúc đặc biệt khác thường đã gây được sự rung cảm, thích thú, nên nàng

chỉ để yên, mỉm cười, không rụt tay lại.

Nàng tự nghĩ:

- Có lẽ người thiếu niên này không phải khùng điên hay rồ dại như mình đã tưởng.

Rồi nàng cứ để yên trong tâm trạng ấy, lòng lâng lâng suy nghĩ như muốn kéo dài

thời gian nhấp ly rượu men tình, chẳng để ý gì đến sự vật chung quanh, mặc cho

Dương-Qua tự ý dìu đi trên con đường vào Cổ-Mộ. Dương-Qua muốn dùng ảnh hưởng

xúc động sinh lý để khiến nàng không quan tâm đến những bí mật của Cô-Mộ đài.

Khi đến Cổ-Mộ rồi, Dương-Qua mới thả tay nàng ra, ngồi bẹp xuống đất thở hổn hển

như quá nhọc mệt. Lúc bấy giờ Hồng-lăng-Ba mới trở lại trạng thái bình thường.

Nàng tưởng nó quá khổ nhọc vì đoạn đường dài đã qua, nên ân cần hỏi:

- Em mệt lắm sao?

Dương-Qua đáp:

- Tôi không mệt bao nhiêu, nhưng...

- Nhưng... tôi sợ ma lắm.

Nói xong nó bỗng ôm choàng lấy thân hình đạo cô, làm cho nàng bủn rủn cả tay

chân. Nhưng hắn lại buông ra ngay và nói:

- ồ, chưa vào đến mộ mà cô đã sợ phát run cả người rồi! Như thế làm sao chống cự

được với ma. Thôi, tôi chả dám tin mà theo cô nữa đâu. Thôi để tôi về cho rồi. Theo

cô, cô sẽ để ma hút hồn tôi.

Phần e thẹn vì bị Dương-Qua bắt gặp cảm giác run cảm của mình, phần bực tức vì gán

tiếng sợ ma, nên Hồng-lăng-Ba nổi nóng rút thanh kiếm ra hét:

- Ranh con, đừng nói bậy, hãy xem đây này.

Nói xong, nàng múa kiếm một vòng tiếng xé gió vun vút, để trấn tĩnh tinh thần

Dương-Qua và để che đậy nhược điểm của mình.

Thấy đã đánh lạc hướng được đạo cô. Dương-Qua đứng dậy nói:

- Vâng, xin cô cứ theo tôi.

Nói xong, nó nắm tay nàng trèo lên cổng đá, hí hoáy một chốc làm cửa đá mở toang,

rồi kéo nàng chạy bừa vào phía trong. Lúc bấy giờ nó không đi nữa mà chạy bừa.

Hồng-lăng-Ba không còn nhận định được phương hướng nào nữa, cứ bước càn theo

Dương-Qua, quanh co, khúc khuỷu, khi qua trái, lúc quẹo mặt, hết biết đâu là đâu.

Nhớ lại trước kia có lần sư phụ Lý-mạc-Thu có kể cho biết đường Cổ-Mộ đài rất bí

hiểm, sa cơ một tý mất mạng ngay. Thế mà kỳ này thằng ngốc kéo mình chạy bay

vẫn không đụng chạm hề hấn gì hết. Rồi nàng tự nghĩ:

- Hay sư phụ ngại mình mò về đây để tìm pho "ngọc-nữ tâm-kinh" nên bịa ra như vậy

gạt mình chăng?

Một chập sao cả hai đã đến trung tâm Mộ-đài, trớc bức tường đá, ngăn che phòng

Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua lại gần khẽ gõ cộp cộp mấy tiếng vào vách đá theo đúng mật hiệu giữa

hai thầy trò. Chờ một khắc, không thấy trả lời, tứ bề vẫn yên lặng, tấm cửa không di

chuyển, nó kinh hãi rụng rời, mồ hôi tuôn ớt áo, đinh ninh Tiểu-long-Nữ đã nguy

đến tánh mạng rồi chăng?

Tuy vậy, nó vẫn còn giữ bề ngoài thản nhiên, lẩm bẩm nói:

- Lúc trước tôi thấy bóng ma từ nơi này đi ra. Có lẽ bây giờ nó sợ oai của cô nên biến

mất không dám xuất lộ chăng?

Hồng-lăng-Ba an ủi:

- Không phải ma đâu, đó là người, và chính là sư thúc của ta đấy. Cứ tông cửa mà vào

đi.

Dương-Qua làm bộ mừng rỡ nói:

- Nếu quả là người thì tôi không sợ nữa.

Rồi nó gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương ơi!

Bỗng có tiếng nói nho nhỏ từ trong vọng ra:

- Cứ đẩy cửa mà vào.

Cánh cửa đá vừa nhích ra, Hồng-lăng-Ba đã lanh chân phóng vào truớc, đánh lửa thắp

nến.

ánh đèn vừa lòe lên, nhìn thấy thân hình một thiếu nữ toàn thân mặc đồ trắng, nằm im

lìm trên phản đá, đôi mắt nhắm thiêm thiếp nửa tỉnh nửa mê.

Hồng-lăng-Ba đặt kiếm xuống đất, lớn tiếng thưa:

- Đệ tử Hồng-lăng-Ba xin yết kiến sư thúc.

Dương-Qua không ngờ sự việc xảy ra như vậy. Nó đinh ninh bước vào trước, tìm cách

đem sư phụ đi nơi khác, rồi thừa đêm tối lẩn tránh, sau sẽ liệu định. Không dè

Hồng-lăng-Ba bám sát bên mình và xông vào trước. Bây giờ đã lỡ, biết xử sự làm sao

cho ổn. Nhìn sư phụ nằm mê man trên giường, không biết sống chết ra sao, nay lại bị

tên đạo cô này khuấy rầy nữa, thật là nan giải. Rồi không biết tính sao, Dương-Qua

chỉ bụm mặt khóc thảm thiết.

Hồng-lăng-Ba quay lại nhìn nó:

- Mày làm gì lạ thế? ranh con.

- Tôi sợ lắm.

Bỗng một giọng yếu ớt trả lời nó:

- Ta đã thành ma đâu mà mi sợ.

Hồng-lăng-Ba nhìn lại thấy quả là một trang tuyệt sắc giai nhân. Mấy lúc này nàng tự

hào mình có nhan sắc kiều diễm, nhạn sa cá lặn, trên gầm trời chưa dễ có mấy ai, thế

mà ngày nay nàng phải ngẩn ngời trớc dung nhan tuyệt trần của Tiểu-long-Nữ. Chả

biết nói gì hơn là lặng yên để chiêm ngưỡng, càng nhìn càng đẹp, càng ngắm càng

đắm say. Quả thật danh bất h truyền, hảo hán bốn phương đã tranh nhau tỉ thí để hi

vọng chiếm nàng, tưởng không phải điều quá đáng.

Thấy đạo cô lặng người nhìn mình như ngây nh dại, Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là ai, muốn gì?

Hồng-lăng-Ba chấp tay tha:

- Kính bẩm su thúc, đệ tử Hồng-lăng-Ba xin bái kiến su thúc.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Ngươi là đệ tử của Lý-mạc-Thu à! Sư phụ ngươi đâu rồi?

Hồng-lăng-Ba thưa:

- Sư phụ đệ tử sai đệ tử đến đây trước để vấn an sư thúc. Su phụ đệ tử sẽ xin tới sau.

Tiểu-long-Nữ đưa bàn tay trắng bạch như giấy, khoát nhẹ mấy cái bảo:

- Thôi, ngươi hãy đi đi, ở đây là chỗ tôn nghiêm, hãy dang ra đừng đến nữa và bảo sư

phụ ngươi cũng không nên bước chân vào nữa.

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn kỹ, thấy sắc mặt Tiểu-long-Nữ nhợt nhạt như không có

sinh khí, hơi thở hổn hển từng hồi, chắc nàng đang bị nội thương, không có sức lực

bao nhiêu, nên trong lòng không ngại, nàng chẳng quan tâm đến câu nói của

Tiểu-long-Nữ và hỏi tiếp:

- Còn Tôn bà đâu rồi?

- Đã chết hai năm nay rồi, thôi ngươi mau rời khỏi chốn này.

Hồng-lăng-Ba thầm nghĩ, đây là dịp may hiếm có, nếu không thừa lúc nầy chiếm

Cổ-Mộ đài thì biết chừng nào mới có dịp tốt hơn.

Nhìn thấy trạng thái sức khỏe của Tiểu-long-Nữ, nàng e sư thúc chết gấp, biết hỏi ai

tìm ra "Ngọc-nữ tâm-kinh", nên vội hỏi:

- Thưa sư thúc, đệ tử nhận lệnh sư phụ đến đây xin sư thúc cho mượn bộ "Ngọc-nữ

tâm-kinh", Đệ tử sẽ nhận trách nhiệm chữa lành vết thương cho sư thúc.

Tiểu-long-Nữ được tu luyện từ tấm bé, gạt bỏ được cả thất tình lục đục, trong lòng khi

nào cũng có những tư tưởng thanh cao thoát trần. Nay vừa nghe đạo cô, thốt những lời

trái tai quá đáng bỗng nổi cơn tức, uất khí tràn lên đùng đùng không chế ngự nổi,

trắng đôi mắt ngất lịm trên giường.

Hồng-lặng-Ba vội điểm vào nhân trung huyệt nàng mới tỉnh lại nhưng vẫn còn tức

giận quát lớn:

- Thầy trò bay lúc nào cũng nuôi một ý tưởng xằng bậy. Mày hãy gọi sư phụ đến đây

gặp ta, có chuyện cần nói.

Bỗng Hồng-lăng-Ba cười nhạt, không nói năng gì, suy nghĩ một chập, rút ra một dãy

gấm, lấy hai mũi ngân châm giơ lên sáng lóng lánh rồi nói:

- Chắc sư thúc cũng thừa rõ sự lợi hại của độc trâm này? Nếu giờ phút này sư thúc

còn tiếc rẻ bộ kinh, thì đừng trách đệ tử sao nhẫn tâm vô lễ.

Trước kia bản thân mình đã từng nếm mùi độc trâm này của Lý-mạc-Thu, ngày nay

vừa nhìn thấy, Dương-Qua đã rùng mình lo sợ cho số phận của Tiểu-long-Nữ.

Cố nhiên Tiểu-long-Nữ cũng biết rõ trâm này quá sức độc, chỉ bị châm một tý vào da,

sức độc cũng có thể khiến cho kẻ xấu số trở thành bán sanh bán tử, toàn thân sẽ bị

xốn xang như muôn ngàn mũi kim chích trong huyết quản. Độc này có phần ác nghiệt

ghê gớm hơn nọc ong trắng nữa. Nhưng Tiểu-long-Nữ chỉ điềm nhiên nhìn

Hồng-lăng-Ba không nói một tiếng.

Hồng-lăng-Ba cầm trâm từ từ bước đến sát cạnh giường của Tiểu-long-Nữ.

Dương-Qua thấy tình thế quá cấp bách, vùng kêu thất thanh:

- Cô ơi có ma, có ma, tôi sợ quá!

Vừa la, nó vừa nhoài người ôm choàng lấy Hồng-lăng-Ba và lanh tay điểm luôn vào

hai yếu huyệt "kiên trì" và "tiểu yêu" khiến nàng bủn rủn tay chân, ngã gục xuống đất

như một cái xác không hồn.

Dương-Qua chưa chắc ý, còn sợ nàng tự giải được, nên tiến tới điểm luôn vào huyệt

"cù cốt", xong đâu đấy hắn mới thở một hơi thoát nạn và chắp tay thưa cùng

Tiểu-long-Nữ:

- Thưa cô nương, đạo cô này đã vô lễ làm điều phạm thượng xin cô nương cho phép

tôi dùng độc trâm này để kết liễu tánh mạng nó cho rồi.

Vừa thưa xong, hắn cúi xuống nhặt mũi độc trâm lên.

Tuy bị điểm vào các yếu huyệt, toàn thân không cử động đuợc, nhưng Hồng-lăng-Ba

vẫn còn tỉnh táo, nghe và hiểu mọi việc. Nàng hoảng sợ muốn quỳ lạy van xin tha tội,

nhưng khổ nỗi toàn thân bất động, môi nói chẳng nên lời, chỉ còn cặp mắt nhìn với vẻ

van lơn muôn phần bi thiết. Mặt hoa trước kia kiêu hãnh bao nhiêu, bây giờ càng ủ

dột bấy nhiêu.

Dương-Qua đắc ý cười lớn.

Tiểu-long-Nữ khễ bảo:

- Hãy ra đóng kín cửa ngõ lại đã, cần phải đề phòng sư tỷ ta đến cứu hắn đấy.

Dương-Qua vâng lời, vừa quay mặt ra nhìn thấy một bóng người đạo cô đứng sững tại

cửa từ khi nào rồi. Nhìn qua ánh nến bập bùng, hắn nhận thấy chính con người năm

xưa đã từng bị hắn xúi chim hồng mổ thủng mắt. Quả thật đạo cô là Xích-Luyện tiên

tử Lý-mạc-Thu.

Nguyên trước đây Lý-mạc-Thu đã hiểu ý định của Hồng-lăng-Ba lúc nào cũng muốn

tìm cách xâm nhập Cổ-Mộ đài để chiếm đoạt "Ngọc-nữ Tâm-kinh", nên luôn luôn để

ý theo dõi. Tuy là phái học trò đi sát hại thù nhân tận Trường-an, nhưng Lý-mạc-Thu

có dụng tâm để theo dõi xem hắn có dở ý định này ra không hòng đối phó, tránh hậu

họa về sau. Vì lẽ ấy nên Lý-mạc-Thu luôn luôn bí mật bám sát Hồng-lăng-Ba như

bóng với hình. Khi thấy Hồng-lăng-Ba hướng về Cổ-Mộ đài, thì nàng đã biết rõ sự

việc, nhất là khi đã gặp Dương-Qua, rồi cùng hắn xuyên qua các nẻo đột nhập Cổ-Mộ

đài, thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Khi mới gặp, nàng không để ý đến Dương-Qua, nhưng sau khi nhìn kỹ mới thấy đây

là đứa trẻ năm xưa, ngày nay đã trở thành một thiếu niên mặt mày đĩnh ngộ tuấn tú.

Nhớ lại cái hận bị hư một mắt, Lý-mạc-Thu đùng đùng nổi giận, bao nhiêu căm hờn

dồn lên nhỡn tuyền, và sắc diện nàng trở nên vô cùng hiểm ác.

Vừa trông thấy Lý-mạc-Thu, Tiểu-long-Nữ cố chống tay từ từ ngồi dậy nói:

- Xin chào sư tỷ...

Vừa chào dứt lời, máu tươi trào ra miệng, nàng ngã vật xuống.

Lý-mạc-Thu không đáp, hầm hầm chỉ tay vào Dương-Qua hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Thằng này là ai? Theo huấn luyện của tiên sư, nơi này không bao giờ chứa chấp đàn

ông, cớ sao hắn vào được và cô đem hắn vào để làm gì?

Tiểu-long-Nữ không trả lời, chỉ ho một tràng dài và máu tiếp tục trào ra miệng.

Dương-Qua vội vàng chạy lại đỡ nàng ngồi dậy cho máu bớt ra và tiếp lời với

Lý-mạc-Thu:

- Tôi là đồ đệ của cô nương chứ có gì mà hỏi?

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- à, thế ra mi không phải ngốc tử họ Sồ sao? Thật khéo ngụy trang, khéo che đậy nhỉ?

Vừa dứt lời, Lý-mạc-Thu rút cây phất trần đánh luôn ba cái liên tiếp. Nói là ba cái,

nhưng vì bản lãnh của nàng quá cao siêu, ba cái đánh tung ra liên tiếp, nhanh như

chớp giật, không thể phân biệt là bao nhiêu. Với tài nghệ tuyệt luân trong việc sử

dụng phất trần ba cái đánh này có thể hạ sát trong nháy mắt nhiều cao thủ trong võ

lâm, và từ trước đến nay chưa mấy ai tránh nổi.

Nhưng Dương-Qua mặc dầu chưa học được đến mức siêu việt như Lý-mạc-Thu,

nhưng hắn đã học và đoán biết trước được thế "Tâm yểu đầu lâm" này, nên tránh né

được dễ dàng.

Lý-mạc-Thu quá ngạc nhiên, vội định thần nhìn lại xem có phải là thằng bé ngày xưa

chăng. Nàng không thể tin được rằng trong một khoảng thời gian quá ngắn, mà nó đã

luyện tập bản lãnh khá cao cường, và nhìn trong lối tránh né có quy củ, rõ ràng hắn

đã trở thành một đệ tử tinh thông của phái Cổ-Mộ rồi.

Suy nghĩ, rồi nàng dừng tay nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sư muội nuôi thằng bé con này để làm gì thế?

Tiểu-long-Nữ không dám đáp lớn, e động ngực máu sẽ trào ra nữa, nàng chỉ nhìn

Dương-Qua khẽ bảo:

- Qua nhi! ngươi hãy làm lễ ra mắt sư bá mi đi.

Dương-Qua trố mắt nhìn Lý-mạc-Thu và hỏi lại:

- Hắn là sư bá tôi đấy à?

Tiểu-long-Nữ bảo nho nhỏ:

- Mi lại gần ta bảo cái này.

Dương-Qua vâng lời đến bên cạnh giường, kề tai xuống gần miệng nàng.

Tiểu-long-Nữ nói nho nhỏ vừa đủ nó nghe:

- Phía bên trái chiếc giường đá có một phiến đá nhỏ đó là chốt để điều khiển máy

móc. Mi lên giường làm lễ ra mắt sư bá, rồi thừa cơ xoay cái nút ấy, thì tự nhiên cả

cái giường này sẽ tuột xuống hầm sau. Như thế chúng ta sẽ thoát nạn, rồi sau hay.

Lý-mạc-Thu đoán Tiểu-long-Nữ đang trối trăn điều gì, nhưng nàng ỷ y một người

đang hấp hối không còn bao nhiêu khí lực, một người là con nít chưa có bản lĩnh, nên

khinh thường không thèm đề phòng hay ngăn cản.

Dương-Qua nghe nói mừng quá, lật đật trèo lên giường, quỳ xuống, hai tay chắp lạy

Lý-mạc-Thu, miệng nói:

- Đệ tử xin chào sư bá.

Vừa nói, hắn vừa lẹ tay đẩy mạnh vào nút đá.

Cả chiếc giường đá từ từ vụt xuống sâu, đồng thời một phiến đá thật to từ trên cao rơi

ầm xuống, ngăn cách chỗ thầy trò Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ.

Trong khi chiếc giường bị tuột xuống, Tiểu-long-Nữ bị ngột hơi máu ra lênh láng,

Dương-Qua cũng vì vô ý để tay chạm phải phiến đá, rách một đường, máu tuôn rất

nhiều.

Khi máy ngưng chuyển động, Dương-Qua có cảm giác như chiếc giường rơi vào một

phòng kín, bày trí đàng hoàng. Hắn vội bước xuống giường lấy đá quẹt lửa thắp nến

soi tìm gặp Tiểu-long-Nữ nằm yên bất động, máu trào ướt cả người và cánh tay của

hắn cũng đầy máu đỏ.

Không nghĩ gì đến bản thân mình, Dương-Qua chỉ sợ cho sư phụ, lật đật chạy đến hỏi

nho nhỏ:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người ra sao?

Trên nét mặt trắng bạch như sáp, nở một nụ cười hy vọng, Tiểu-long-Nữ nói khẽ:

- Thế là ta thoát khỏi tay độc thủ của chúng nó rồi.

Tuy nàng nói được nhưng Dương-Qua nhìn thấy máu vẫn rớm chảy bên mép, nên lo

lắng vội nói:

- Thưa cô nương, nên nằm định tâm dưỡng bệnh, không nên khinh động, để máu ra

mãi e nguy đến tánh mạng.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói:

- Ta cảm thấy mệt quá rồi, không còn sức lực để vận nội công chữa bệnh nữa. Nhưng

nếu cả chúng ta đều mạnh khỏe, cũng chưa chắc chống cự nổi với thầy trò

Lý-mạc-Thu đâu.

Dương-Qua nghe nói vừa buồn rầu, vừa chán nản, lòng nghi vớ vẩn bâng khuâng.

Tiểu-long-Nữ hỏi thêm:

- Mi xem chừng bệnh ta ra sao?

Dương-Qua nói:

- Cô nương để tôi thử truyền máu cho, may ra cứu vãn được.

Nói xong, nó xăn tay áo lên, lấy vạt áo lau thật sạch. Đoạn dùng dao trích một vết vào

cổ tay của Tiểu-long-Nữ và áp hai vết thương vào nhau. Nhưng máu của hắn vẫn chảy

ra ngoài lênh láng.

Tiểu-long-Nữ thở dài nói:

- Tiếc mi chỉ đủ sức vận động máu chạy trong cơ thể mi, chứ làm sao cung cấp cho

một cơ thể khác nữa được. Thôi đừng tiếp tục vô ích, chỉ làm mất nhiều máu, có hại

cho sức khỏe của mi mà thôi.

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ một chập bỗng reo lớn:

- Tôi nhớ rồi, bây giờ tôi làm được rồi!

Nó bỗng nhớ lại bài học của nghĩa phụ Âu-dương-Phong đã dạy khi truyền cho nó lối

tập đi ngược thân. Nghĩa phụ nó có giảng rằng:

- Người đời cho lối đi ngược người của ta không đúng quy tắc vũ lâm, nên ít ai dùng

đến. Nhưng biết đâu đúng, biết đâu sai? Miễn đi được đến mục đích mong muốn, đâu

có cần đến phương pháp hay hoặc dở, phàm khi ta chồng ngược người để đi thì khí

huyết lu hành mãnh liệt gấp năm mười lần lúc bình thường.

Nghĩ xong, Dương-Qua quả quyết làm ngay. Hắn đảo ngược thân hình, lấy đầu làm

điểm tựa, chân đứng thẳng lên trời, một tay nắm lấy cổ tay Tiểu-long-Nữ áp chặt vào

vết thương của mình. Hắn hô hấp mạnh, vận dụng công lực giúp máu chạy mạnh. Bốn

mắt hồi hộp nhìn nhau, chờ đợi kết quả. Bỗng đôi bên cảm thấy huyết quản hòa hợp,

đôi tim cùng theo một nhịp, má Tiểu-long-Nữ đượm sinh khí, ửng đỏ dần dần, nước

da lúc đầu trắng như sáp, đã qua màu san hô, đôi môi bớt tái, mắt sáng dần.

Dương-Qua quên cả mệt nhọc, lòng mừng hớn hở. Hắn sung sướng quá hỏi nho nhỏ:

- Sao, cô nương thấy có khỏe được tí nào không?

Tiểu-long-Nữ mỉm cười gật đầu không đáp.

Trên phiến đá, đĩa dầu đã cạn, ngọn đèn lụn dần rồi tắt ngấm, căn phòng đã lặng

chìm trong âm u yên lặng. Cả hai nín thở nghe tim cùng đập. Tiểu-long-Nữ đã luyện

từ tấm bé đến mức diệt được lục dục thất tình, có đủ sức chống trả với niềm mừng vui

cảm động của giờ phút này chăng?

Phần Dương-Qua, hắn không mong gì hơn lo cứu mạng sư phụ. Khi nhìn thấy kết

quả, hắn mừng quá, lặng thinh không dám nói thêm gì nữa.

Bỗng Tiểu-long-Nữ bảo lớn:

- Thôi, chúng ta qua phòng Tôn Bà, ta có chuyện cần bàn cùng mi.

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương không thấy mệt sao?

Nàng lắc đầu:

- Khá lắm rồi, không sao đâu.

Nói xong nàng đến cạnh tấm vách xoay một nút nhỏ, bỗng tấm vách từ từ nứt ra, chừa

một cửa nhỏ, trước mắt có một đường dài thăm thẳm từ trước đến nay Dương-Qua

không hề hay biết.

Tiểu-long-Nữ đưa tay dắt nó ra, cùng bước trên con đường ấy, không mấy chốc đã

đến phòng Tôn Bà.

Vào phòng, Tiểu-long-Nữ đốt đèn, thu nhặt tất cả quần áo, của Dương-Qua bỏ vào

một túi nhỏ; nhét thêm vào hai tấm lụa dệt vàng của nàng.

Dương-Qua chẳng hiểu thế nào, vội hỏi:

- Cô nương làm gì vậy?

Nàng vẫn lặng thinh không nói, đi lấy hai bình ngọc phong tương (chất tinh túy của

mật ong trắng) bỏ luôn vào túi.

Dương-Qua kinh ngạc quá hỏi:

- Sao, cô nương muốn rời khỏi nơi này sao?

Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và đáp:

- Mi quả thật có lòng tốt đối với ta, ta rất hài lòng và có lời khen mi, vậy mi có thể rời

ngôi mộ này để tìm nơi khác dung thân.

Dương-Qua giật mình, hỏi:

- ủa, còn cô nương ở lại sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta đã phát thệ chung thân vĩnh viễn nơi đây. Sống ở Cổ-Mộ thác ở Cổ-Mộ, không hề

đi nơi khác.

Thấy Tiểu-long-Nữ nói với vẻ mặt trang trọng nghiêm chỉnh, Dương-Qua đoán nàng

đã quyết định một điều quan hệ, nên chẳng dám nói suy nghĩ một chập, nó chậm rãi

đáp:

- Nếu cô nương không rời Cổ-Mộ, thì tôi cũng nguyện ở lại bên cạnh cô nương, ngõ

hầu giúp đỡ cô nương được phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Hiện nay thầy trò Lý-mạc-Thu muốn dùng võ lực bức sách ta chiếm đoạt "Ngọc-nữ

tâm-kinh". So võ nghệ thì ta còn thua sút không thể dấu để bảo vệ kinh được. Chắc mi

cũng nhận thấy chứ?

Dương-Qua đáp:

- Thưa vâng.

Tiểu-long-Nữ nói tiếp:

- Lương thực hiện nay chỉ còn chi dùng nhiều lắm là vài mươi hôm? Nếu kể cả mật

ong trắng nữa cũng chỉ cầm thực thêm mười hôm nữa là cùng. Sau đó mình biết giải

quyết làm sao?

Dương-Qua cúi đầu suy nghĩ rồi nói:

- Vậy chúng mình cứ xông ra đánh bừa để mở đường trốn đi. Tuy không thắng được

họ, chứ cũng có thể thoát thân chứ.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Không thể tính liều nh thế được, Lý-mạc-Thu sư bá là tay võ nghệ cao cường,

nhiều mưu lắm kế, khó lòng mà trốn thoát, nếu chạy ra khỏi nơi đây, y cũng có thể

đuổi theo để bắt lại, chừng đó phải mất mạng cả hai không?

Dương-Qua lại hỏi thêm:

- Như thế một mình tôi làm sao chạy thoát được?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta sẽ đấu sức một với Lý-mạc-Thu, dẫn y đi sâu vào Mộ đài, để mi thừa cơ tẩu

thoát.

Dương-Qua còn đang do dự, nàng nói tiếp:

- Khi ra khỏi cửa mộ, hãy nhìn bên tay trái, phía dưới chân cửa có một tảng đá lớn

nằm án ngữ. Mi dùng nội lực đẩy mạnh tảng đá ấy qua một bên, tự nhiên sẽ làm mất

thăng bằng, khiến một tảng đá nặng hàng vạn cân ở trên cửa sẽ lăn xuống cắt đứt

đường ra vào Cổ-Mộ.

Những ai ở bên trong sẽ vĩnh viễn không lối thoát ra ngoài nữa.

Dương-Qua hỏi:

- Ngoài cửa này ra, cô nương có biết lối liên lạc nào bí mật khác chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Không có lối thoát nào nữa. Ngày xưa khi xây dựng Cổ-Mộ đài,

Vương-trùng-Dương đã tiên liệu kẻ thù không đội trời chung của mình là Kim-Chúa.

Thế nào cũng tìm cách đến vây đánh. Nếu gặp quân địch quá đông, không kháng cự

nổi, người sẽ dùng cơ quan bí mật này để bế tắc lối ra vào và tuẫn tiết trong Cổ-Mộ,

đó là ý bất khuất của người.

Nhưng suốt mười năm liền, mặc dầu Kim-Chúa nhiều lần sai quân đến bắt, cả thảy

đều bị Vương-trùng-Dương phá tan hoặc bắt nhốt trong các phòng đó.

Thời gian sau, Kim-Chúa chết, người kế vị không lưu ý đến việc này, nên không bao

giờ phái quân đến nữa, thành thử tảng đá vạn cân vẫn còn mãi không được sử dụng

tới.

Khi giao Hoạt-tử-Nhân Mộ-đài lại cho Lâm-triều-Anh tổ sư, Vương-trùng-Dương có

kể chi tiết cho Bà nghe, do đó sư bà mới biết và truyền lại.

Dương-Qua liền thức nói qua dòng lệ:

- Thưa cô nương, dù sống hay chết, tôi muốn ở mãi bên cạnh cô nương mà thôi.

Tiểu-long-Nữ an ủi:

- Theo ta làm gì nữa, có ích lợi chi đâu. Mi đã từng kể cho ta nghe bên kia có lắm cái

đẹp, thú, kỳ lạ, hãy ra mà tận hưởng lấy. Ta đã truyền cho ngươi "ngọc-nữ tâm-kinh"

cứ theo đó mà đào luyện thêm, chắc chắn sẽ khuất phục hết các cao thủ của

Toàn-Chân phái, như thế chẳng thích hơn sao? Đã oai phong, sung sướng, được ngươi

nể sợ, hưởng hết thú vui trên đời không hơn ở lại chết trong chốn này?

Dương-Qua nước mắt ràn rụa, khóc tức tưởi, tiến tới níu lấy vai áo Tiểu-long-Nữ, vừa

khóc, vừa van lơn:

- Cô nương, trên đời này chỉ có cô nương là người thương yêu tôi, đối xử rất tốt cùng

tôi mà thôi. Nếu không còn cô nương thì vạn sự trên đời này có nghĩa lý gì nữa đâu.

Tiểu-long-Nữ được luyện tập từ bé, dẹp bỏ được mọi tình dục, cảm xúc, lòng như

nguội lạnh, nhưbng trước tấm lòng chí thiết, chí tình của người đệ tử trung thành, nàng

cũng cảm thấy con tim xao xuyến, hai giòng lệ từ từ lăn trên má. Khi cảm thấy lành

lạnh trên mặt, Tiểu-long-Nữ thất kinh nhớ lại lời dặn của sư phụ trước giờ lâm chung:

- Mức kết quả của công phu luyện tập tựu trung nhờ vào sự thành công trong việc

đoạn tình, tuyệt dục, không để ngoại cảnh chi phối lòng mình. Nếu còn để bị mềm

yếu vì cảm tình, thì chẳng những bao nhiêu công phu sẽ tiêu tan mà còn có hại đến

mạng sống là khác. Con phải ráng khắc cốt ghi tâm lời này, nhớ cho kỹ, con nhé!

Nhớ đến đây, Tiểu-long-Nữ nh người chợt tỉnh, vội vàng vận dụng nghị lực xua đuổi

hết cảm giác vừa rồi và vung tay đánh mạnh một quyền vào người Dương-Qua,

nghiêm nghị bảo:

- Mi phải tuyệt đối tuân theo lời ta bảo, nhất thiết không được sai. Tại sao mi dám

cưỡng lại lệnh thầy trong lúc này hử?

Dương-Qua bỗng thấy sư phụ trở nên nghiêm khắc lạnh lùng quá, chẳng dám nói nữa,

chỉ cúi đầu lặng yên, lòng nó xao xuyến bồi hồi khôn tả.

Tiểu-long-Nữ trao thêm đôi giải lụa trắng, cột chặt túi vào lưng nó như người ta thắt

yên ngựa, tay phải tuốt kiếm, tay trái dắt nó đi lại dần dần một bức tường, nghiêm

nghị bảo:

- Khi được lệnh xuất môn, mi phải tuyệt đối thi hành ngay, lúc ra đến cửa phải xô

tảng đá để vận động cơ quan đóng kín Cổ-Mộ đài như đã dặn. Lý-mạc-Thu sư bá

muôn phần hiểm ác, nếu mi chậm trễ làm hỏng kế hoạch của ta thì nguy hiểm lắm,

nghe chưa?

Dương-Qua miễn cưỡng cúi đầu vâng dạ, ruột rối như tơ. Tiểu-long-Nữ dặn thêm:

- Nếu mi không làm theo lời ta bảo, mai sau ta chết cũng còn oán hận mi đời đời.

Nói xong nàng nắm tay Dương-Qua dắt ra khỏi mộ. Biết bao nhiêu lần thầy trò đã

nắm tay nhau, nhưng trong những lần trước, mỗi lần nắm tay Tiểu-long-Nữ thấy lạnh

như băng tuyết, trái lại lần này nó cảm thấy bàn tay Tiểu-long-Nữ siết chặt tay nó và

hình như có một luồng nhiệt khí chuyển qua người, sưởi ấm cả cõi lòng và nó thấy

toàn thân như rung chuyển. Bỗng chốc nó thấy nhiệt độ trong người thay đổi bất

thường, lúc ấm, lúc lạnh, chẳng hiểu vì sao?

Hai người cùng bước đến trước một tảng đá rồi dừng lại. Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:

- Thầy trò Lý-mạc-Thu đang đứng phía sau kia, ta sẽ khiêu chiến cùng Lý-mạc-Thu

và dụ nó đi xa dần, mi chắc phải đấu cùng Hồng-lăng-Ba, nên sử dụng

Ngọc-phong-sa để chống cự với nó nhé.

Ngọc-phong-sa là một vũ khí hết sức đặc biệt, vô cùng lợi hại của phái Cổ-Mộ.

Lâm-triều-Anh sở dĩ nổi tiếng là nhờ hai môn khí giới kỳ lạ: Băng-phách-ngân và

Ngọc-phong-sa.

Ngọc-phong-sa là một loại kim tiêu hình lục giác đã được tôi luyện bằng nọc độc của

giống ong trắng, nó tuy bé nhỏ nhưng nhờ nặng, nên có thể phóng đi rất xa và mạnh.

Tầm tấn công của nó rất bao la. Tuy nhiên vì chất độc của nó rất lợi hại nên

Lâm-triều-Anh chỉ sử dụng trong những trường hợp đặc biệt cần thiết mà thôi. Khi đã

cao siêu, bản lĩnh đã đạt đến mức thượng thăng, bà không mấy khi sử dụng đến nữa vì

xem nó nhu là loại ám khí.

Sở dĩ biết đuợc bản chất, Lý-mạc-Thu ác độc, nên sư phụ Tiểu-long-Nữ chỉ dạy nàng

Băng-phách-ngân châm, mà không truyền thụ Ngọc-phong-sa.

Trong lúc tâm thần rối loạn, ý chí bất định, Dương-Qua nghe lời dặn như gió thoảng

qua, tự nhiên gật đầu vâng dạ, chưa nghĩ đến việc thi hành sẽ ra sao.

Dặn vừa dứt lời Tiểu-long-Nữ vận dụng thần khí, nạt lớn một tiếng, dơ chân đạp tảng

đá văng đi nơi khác, rồi vung tay vung hai giải lụa trắng đột nhiên tấn công thầy trò

Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu đang vận công khai giải yếu huyệt cho Hồng-lăng-Ba vừa

xong, căn dặn cách thức đề phòng và đưa mắt quan sát địa thế dự định dùng lực phá

cửa đi ra. Không ngờ Tiểu-long-Nữ xuyên qua ngõ kín tấn công bất thình lình, khiến

nàng vội vã múa phất trần thống trả mãnh liệt. Giải lụa bạch và phất trần là những vũ

khí mềm dịu nhu chuyển, múa tít lên, quyện chặt lẫn nhau trông rất đẹp mắt. Mới

nhìn vào thì thấy nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng cả hai đối thủ đã phí vào đó biết bao

nhiêu công phu nội lực.

Càng nhìn thấy sự mềm dịu thướt tha và lợi hại của giải lụa bao nhiêu, Lý-mạc-Thu

càng nghĩ càng căm giận sư phụ đã bất công vì thành kiến đối với mình, không truyền

thụ cho những thế võ độc đáo huyền ảo như vậy.

Riêng Hồng-lăng-Ba, từ xưa đến nay vẫn tự kiêu tự đại, trên đời, ngoài sư phụ chẳng

biết nể vì ai, nay bị Dương-Qua dùng kế giả điên, giả dại, gạt gẫm, điểm huyệt, nên

trong lòng hậm hực vô cùng.

Vừa thấy hắn nàng gầm lên một tiếng, vung kiếm chém liền, nàng vừa xông tới vừa

nghiến răng bảo:

- à thằng oắt con ranh mãnh, phen nầy cho mi nếm tài ta.

Nàng vung kiếm, tận lực chém xả vào mình Dương-Qua không chút nhân nhượng.

Duơng-Qua cũng muốn diễu cợt thêm mấy câu chọc giận, nhưng nhận thấy

Hồng-lăng-Ba quá hung hăng, cố tình hạ sát mình, hơn nữa vì cõi lòng đang đau xót

sắp phải xa lìa sưb phụ thân yêu, nên nó chẳng còn bụng dạ nào tấn công, chỉ tránh né

cầm chừng mà thôi.

Thấy vậy Hồng-lăng-Ba, tưởng hắn không có tài nghệ bao nhiêu, thầm nghĩ vì mình

sơ ý để bị điểm nhằm yếu huyệt đến nỗi bủn rủn cả người nên lòng càng bực tức và ân

hận.

Phía Lý-mạc-Thu và Tiểu-long-Nữ làn lụa bạch và bóng phất trần xoắn lại nhau, phút

chốc đã trên mười hiệp bắt phân thắng bại.

Đột nhiên Lý-mạc-Thu hét lớn:

- Sư muội hãy mở mắt xem bản lĩnh của ta này.

Nói rồi nàng chuyển thế bất ngờ đảo ngược cây phất trần chặt mạnh giải lụa bạch đứt

làm đôi, kể ra dùng một cây phất trần mà cắt đứt được nhung lụa, quả khí lực thần

công của nàng đã thuộc hạng siêu đẳng mới làm nổi.

Nhưng Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không chút bấn loạn và trả lời:

- Khá đấy sư tỳ cũng còn xứng đáng một đệ tử hữu hạn của phái Cổ-Mộ đài..

Nói xong, nàng dùng hai tay múa tít nhung lụa còn lại, một đầu cuốn chặt vào cán,

một đầu bao quyện đầu phất trần, rồi chuyển lực xoay ngược một vòng, hai nhung lụa

đã bứt gãy cây phất trần làm hai khúc.

Sự phản ứng quá mãnh liệt và bất ngờ, Lý-mạc-Thu không kịp giữ vũ khí, phải buông

tay cho hai đoạn phất trần rơi xuống đất, rồi múa chưởng xông vào tấn công luôn.

Tất cả sự bực tức tập trung vào hai cánh tay chưởng lực tỏa ra hết sức mãnh liệt , chấn

động cả không khi như một luông cuồng phong . Tiểu Long Nữ tự lưọng sức mình

không thể thắng được nên múa giải lụa chóng đối cầm chừng và thối lui dần vào phía

trong.

Lý mạc Thu thấy vậy bụng mừng thầm , nàng đâu có biết sự rút lui này đã có dự

định tính toán từ trước .

Dần dần Tiểu Long Nữ lùi sát vách tường , hai chân dậm vào một phiến đá để làm

điềm tựa , đưa mắt nhìn đằng xa , thấy Dương Qua đang uể oải đánh cầm chừng với

hồng Lăng Ba , nàng gọi lớn :

- Qua nhi , hãy đi cho mau .

Vừa quát , nàng tuing chân đạp mạnh vào phiến đá , tức thì vách đá tự nứt ra một

đường vừa một người chui lọt .

Tiểu Long Nữ gia tăng nội lực quyết tâm cầm chân Lý mạc Thu để Dương Qua có đủ

thời giờ chạy thoat nhng thấy nó vẫn uể oải đấu cầm chừng với Hồng lăng Ba , nàng

giận quá thét lên :

- Qua nhi , người không tuân lệnh ta sao .

tiếng thét vang lên như xé màn không khí âm u của Cổ Mộ đài , dư âm vong lại trong

mấy từng vách đá .

vì quá bịn rịn nên Dương Qua không muốn đi ngay , đưa mắt nhìn sư phụ lần chót ,

cõi lòng tan nát , tâm tư giao động , đường kiếm bấn loạn suýt chốc nữa đã bị Hồng

Lăng Ba thích vào hông .

Hắn vộ vàng tập trung ý chí chống đỡ , nhìn thấy Tiểu Long Nữ đang bậm môi đánh

cầm chân Lý mạc Thu nên miễn cưỡng lui dần vào ngách đá .

Tiểu Long Nữ đưa mắt nhìn theo , cảm thấy thần trí nhẹ nhàng phơi phới , dường như

chính nàng thoát nạn . Khi bóng Dương Qua vừa qua khỏi khe đá , nàng cảm động

quá thở phảo một cái . Tâm tư xúc động , nội lực suy giảm bất ngờ , quyền thế rối

loạn . Trông thấy , Lý mạc Thu rất ngạc nhiên tuy nhiên nàng không bỏ qua cơ hội

gia tăng tấn công tới tấp và điểm trúng huyệt " hồi tông " khiến Tiểu long Nữ loạng

choạng ngã lăn ra đất , miệng trào máu tươi . Nhìn thấy sư phụ lâm nguy , Dương

Qua không còn kể gì nữa , vôị thét lớn:

- Không được hại sư phụ ta , không được hại cô nương ta.

Hắn bất chấp hiểm nguy , tung mình phóng thẳng vào giữa hai người , ôm choàng lấy

Lý mạc Thu .

Đang thắng thế bỗng bị Dương Qua ôm chầm lấy mình , bất chấp luật lệ nguyên tài

võ công , Lý mạc Thu cảm thấy nàng bàng hoàng , cả người toàn thân rung động bởi

một cảm giác kỳ lạ.

Dương Qua ranh mãnh siết chặt vào nửa thân người và cọ xát vào vật sinh lý của Lý

mạc Thu . Nàng đỏ bừng đôi má , không biết cách nào đối phó cũng như trước kia

cũng gặp trường hợp này , nàng đã để tâm trí xao xuyến đến nỗi bị chim hồng tấn

công phá huỷ một mắt . Suốt bao nhiêu nắm lưu lạc giang hồ , Lý mạc Thu chưa có

dịp nào bị kích thích đồng tình , lần này sự đụng chạm với Dương Qua cũng mình lần

trước ở Giang Nam , nàng cảm thấy một cảm giác vừa mới lạ vừa thích thú , không

còn tự chủ được nữa .

Sự thay đổi đột ngột này là một dịp hiếm có để Tiểu Long Nữ giải nguy. Nàng tung

người ngồi dậy , nhìn thấy Lý mạc Thu bị Dương Qua ôm choàng cả thân hình mà

không phản ứng chống cự thì ngạc nhiên. Bỗng Hồng lăng Ba vung kiếm chém mạnh

vào người Dương Qua và Lý mạc Thu khiến cả hai người lăn long lóc ra xa tránh khỏi

luồng kiếm của Hồng Lăng Ba. Hồng lăng Ba chém hụt mất trớn té nhủi về phía bên

kia.

Tiểu Long Nữ hét lớn:

- Dương Qua , chạy mau , chạy mau !

Dương-Qua vẫn không rời thân hình Lý-mạc-Thu, miệng đáp:

- Cô nương thoát đi. Tôi đã ôm chặt được sư bá rồi, cô nương thừa dịp thoát thân thì

hơn.

Lý-mạc-Thu bỗng chợt tỉnh trí, nhận định tình hình quá nguy hiểm, thấy mình đang ở

vào thế bị địch tấn công hai phía, cần phải vận công đối phó thoát khỏi đôi tay của

Dương-Qua. Nhưng lạ quá, thân rạo rực, mềm nhũn, như mất cả sinh lực giữa hai

cánh tay của chàng thanh niên này, không còn đủ sức điều khiển cử động của mình

nữa.

Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên vì một người bản lĩnh cao cương như sưb tỷ, tại sao

lại bất lực trước Dương-Qua?

Nàng đang suy nghĩ bỗng thấy Hồng-lăng-Ba múa kiếm tấn công Dương-Qua theo

một thế khác. Nàng nổi nóng tự nghĩ:

- Con ranh này quả vô lễ, phải cho hắn nếm thử một đòn mới được.

Nói xong, nàng tung quyền lanh như chớp đánh vào hai cổ tay của Hồng-lăng-Ba,

khiến hai lưỡi kiếm chạm mạnh vào nhau rang rảng, lửa xẹt tứ tung. Hồng-lăng-Ba

cảm thấy hai tay tê liệt, vội vàng thối lui năm bước.

Làn lửa xẹt rọi sáng trong chốc lát, Lý-mạc-Thu đang nằm gọn trong lòng

Dương-Qua bỗng thấy đôi mắt Tiểu-long-Nữ quắc lên một cách dị thường nhìn mình.

Nàng cảm thấy e thẹn vì cái nhìn nghi ngờ xoi bới ấy, nên vội dùng cùi chỏ thúc

mạnh vào hông Dương-Qua thét lớn:

- Thằng ranh con tiểu tử, muốn chết hay sao?

Nói xong, nàng phi thân tung mình đứng lên và tấn công ngay vào Tiểu-long-Nữ.

Tự thấy mình chưa hết bệnh, không đủ sức cự đương với người sư tỷ đang hằn học vì

căm hờn. Tiểu-long-Nữ thét lớn vào mặt Dương-Qua:

- Qua nhin, mi nhất định không tuân lệnh ta phải không?

Dương-Qua khẩn khoản đáp:

- Thưa cô nương, lúc nào tôi cũng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cô nương. Nhưng

lần này xin cô nương cho phép tôi trái lệnh vì tôi tha thiết muốn cùng sống chết bên

cạnh cô nương mà thôi.

Nghe qua những lời nói quá chí thiết, Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng rung động bồi

hồi, rồi chẳng kể đến chưởng lực như vũ bão của Lý-mạc-Thu đang ào ạt tấn công

mình, phóng tới như điện xẹt đưa tay ôm ngay mình Dương-Qua rồi phi thân chạy

mất.

Lý-mạc-Thu tung mình đuổi theo, miệng gọi:

- Đừng chạy, hãy dừng lại ngay.

Tiểu-long-Nữ quay mình phóng lại một mũi Ngọc-phong-sa, Lý-mạc-Thu thấy một

lằn xẹt đều có thoảng mùi mật ong thơm phức thì thất kinh. Tuy chưa biết loại vũ khí

này, nhng trước đây có nghe sư phụ thường nói Ngọc-phong-sa mỗi lúc bay đi có

thoát ra mùi mật ong thoáng ngửi mùi này nàng đã đoán ra sư muội dùng loại vũ khí

lợi hại đó để đối phó, cho nên nàng vội vàng nhảy xuống để tránh, rồi kéo luôn

Hồng-lăng-Ba phóng mình về phía sau chạy trốn.

Tức thì xung quanh có tiếng chuyển động ầm ầm, rung động cả một vùng,

Tiểu-long-Nữ đã vận chuyển máy móc trong Mộ-Đài, di chuyển những tảng đá cực kỳ

to lớn để che chỗ ẩn nấp.

Hai người cùng theo một đường bí mật đó ra khỏi mộ đài. Dương-Qua sung sướng

quá, chạy lăng xăng theo Tiểu-long-Nữ và thưa với Tiểu-long-Nữ:

- Xin cô nương cho phép tôi vận chuyển khối đá khổng lồ môn Cổ-Mộ để chôn sống

thầy trò nữ đạo cô này cho rồi.

Vừa nói xong, hắn loay hoay tìm chốt, nhưng Tiểu-long-Nữ khoác tay bảo:

- Khoan, hãy chờ ta vào trong trước đã.

Dương-Qua kinh hãi trố mắt nhìn nàng, ấp úng hỏi:

- Cô nương bảo sao?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên giải thích:

- Khi sư phụ truyền ngôi mộ này cho ta, người đã căn dặn sống chết phải vĩnh viễn ở

đây không bao giờ được bỏ đi hay truyền lại cho người khác.

Dương-Qua nói:

- Nhưng ta đã lấp ngõ rồi. Họ ở trong ấy sẽ chết nay mai có gì đáng quan tâm đâu mà

cô nương e ngại.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Ta phải trở vào, sống chết ở trong mộ theo lời của sư phụ, không phải như mi được.

Nói rồi nàng buồn rầu nhìn ngay mặt Dương-Qua.

Dương-Qua đau đớn nắm hai tay sư phụ chậm rãi tha thiết nói:

- Thưa cô nương, lời nói của cô nương quả chí lý.

Nói rồi nó buồn rầu nhìn nàng mãi. Tay trong tay, nàng cảm thấy sóng lòng dào dạt,

cố nén sự rung cảm của con tim trong giây phút trước giờ biệt ly.

Nhưng nàng bỗng cố gắng nén ngăn tình cảm, rút vội tay ra, chạy vụt vào Cổ-Mộ và

hét lớn:

- Mi hãy hạ đá lấp kín lối vào! Mau lên, hạ gấp đi, đừng do dự nữa.

18. Bí mật của Thạch Thất một lối thoát thân

Dương-Qua bàng hoàng đứng yên như tượng đá. Hắn hít một hơi dài, cố thu hết nghị

lực để hành động. Mùi hoa rừng ngào ngạt thong qua mũi làm Dương-Qua ngây ngất.

Hắn đưa mắt nhìn trời, thấy những vì sao nhấp nháy, lẩm bẩm:

- Lần chót mình nhìn sao tại nơi đây.

Rồi hắn quả quyết chạy qua phía trái, đến chân tấm bia đá trước cửa Mộ, đưa tay sờ

soạng tìm chốt đá tròn. Tìm thấy rồi, hắn vận dụng nội lực đưa tay đẩy mạnh làm bật

tung chốt ấy ra. Tức thì một luồng cát nhỏ từ lỗ ấy phụt ra như vòi nước. Bên trên

tảng đá vạn cân bắt đầu chuyển động.

Ngày xa, lúc kiến thiết cửa Mộ Đài, Vương-trùng-Dương đã vận dụng nội lực, phi

thường, đưa tảng đá nặng bằng sức hàng mấy trăm người lên bệ cao, ăn liền bên trong

bằng một lỗ hổng có chứa đầy cát nhỏ, dùng chốt đá bịt lại, khi chốt đá bật ra, cát

trong tảng đá sẽ mất thăng bằng rơi xuống án ngữ lối ra vào Cổ Mộ.

Vì sức ép của tảng đá quá nặng, đẩy cát trào ra mạnh quá, sức chuyển động ầm ầm.

Nghe từng đá chuyển, Tiểu-long-Nữ biết giờ phút chia ly đã đến, nàng đưa mắt đầy lệ

nhìn theo bóng dáng đứa học trò thân yêu, con tim chan chứa tình cảm thấm thía dạt

dào.

Nhưng bỗng dưng nàng thét lên một tiếng vì ngạc nhiên và kinh khủng!

Khi tảng cự thạch rơi xuống gần đến mặt đất, thình lình Dương-Qua phi thân phóng

qua khe hở như một bóng mờ. Chỉ chậm một tý là thân hình hắn bị sức đá đè ép nát

như cám.

Vừa thoát khỏi tảng đá, Dưng-Qua vội thưa:

- Thưa cô nương, chắc bây giờ Cô nương không còn nỡ đuổi xua tôi đi nữa.

Tiểu-long-Nữ bồi hồi cảm động, đứng lặng yên một chập rồi nói:

- Thôi, định mệnh đã khiến thì càng hay. Chúng ta chung chết nơi đây vậy.

Nói xong, nàng nắm tay Dương-Qua đi vào phía trong.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đang loay hoay tìm lối thoát trong nội thất

nhưng chưa có. Bỗng nghe tiếng nói của Tiểu-long-Nữ, nàng mừng quá vội nhìn ra thì

Tiểu-long-Nữ đã đến trước mặt điềm nhiên nói:

- Sư tỳ hãy theo tôi vào đây.

Lý-mạc-Thu nghe nói, nghĩ thầm:

- Không biết hắn đưa mình đi đâu đây. Tại nơi này đầy dãy các máy móc và cạm bẫy,

vô ý mộ chút là mất mạng ngay. Nếu hắn cố hại mình làm sao tránh nổi.

Tiểu-long-Nữ không chờ Lý-mạc-Thu trả lời đã nói tiếp:

- Tôi sẽ đưa sư tỷ vào bái kiến linh cữu sư phụ. Dẫu sư tỷ không muốn cũng không

thể được.

Lý-mạc-Thu nói:

- Thôi, người đừng hòng đem sư phụ ra để dọa nạt hay gạt gẫm ta nữa.

Tiểu-long-Nữ không đáp, chỉ mỉm cười rồi lẳng lặng đi trước dẫn đường.

Thấy thái độ của Tiểu-long-Nữ nghiêm trang, lời lẽ đứng đắn không thể không nghe,

nên thầy trò Lý-mạc-Thu phi lặng lẽ bước theo nhng trong lòng vẫn lo âu, luôn luôn

chú ý đề phòng.

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên dắt Dương-Qua đi trước hình như không mảy may lo ngại

có thể bị thày trò Lý-mạc-Thu tấn công thình lình vào sau lưng.

Một chập sau mọi người đã đến phòng đá, nơi quàng linh cửu các bậc tiền bối.

Lý-mạc-Thu vốn một lòng kính mến sư phu. Nhưng từ trước đến nay chưa bao giờ

nàng được phép đặt chân đến căn nhà táng này, nay được Tiểu-long-Nữ đưa đến, bỗng

nàng có ý nghĩ căm hờn oán trách sư phụ đã xem thường mình và trọng tin

Tiểu-long-Nữ.

Nàng hằm hằm nói lớn:

- Tình thầy trò giữa ta và sư phụ đã cắt đứt từ lâu. Ngày nay ngươi còn muốn đưa ta

đến đây để làm gì nữa?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Sư tỷ, tại đây còn hai chiếc quan tài do sư phụ dành lại cho tôi và sư tỷ. Vậy tùy ý

sư tỷ lựa chọn một cái.

Rồi nàng đưa tay chỉ vào hai chiếc quan tài đặt vào cuối phòng.

Lý-mạc-Thu nổi nóng nạt lớn:

- Tiện tỳ quá lớn gan dám đùa cợt cùng ta lúc này?

Vừa nói, nàng tung ra một chưởng lực vào người Tiểu-long-Nữ nhưng vì trong phòng

tối, mắt nàng lại chột, trong lúc nóng nảy bộp chộp, chưởng nàng đã đi trật mục tiêu.

Tiểu-long-Nữ vẫn bình tĩnh nói:

- Sư tỳ đừng nóng nảy lúc này vô ích.

Lý-mạc-Thu trợn mắt hỏi:

- Vì sao?

Nàng mỉm cười đáp:

- Vì lối ra vào của Cổ Mộ đã bị đoạn Long-thạch án ngữ mất rồi, chúng ta vĩnh viễn

bị nhốt nơi đây không còn lối thoát.

Lý-mạc-Thu điếng hồn, mặt mày tái mét, tất cả sự giẫn dự tiêu tan, nhường chỗ cho

nỗi lo âu sợ sệt.

Tuy chưa hiểu rõ hết các cơ cấu trong Cổ Mộ đài, nhưng Lý-mạc-Thu cũng hiểu rõ

được phần nào về đoạn Long-thạch.

Khi đã dùng đoạn Long-thạch thật đã gặp phi bước đường cùng. Nàng suy nghĩ không

hiểu tại sao đã có Ngọc-phong-sa trong tay mà Tiểu-long-Nữ còn dùng đến biện pháp

tuyệt vọng này di chuyển đoạn Long-thạch bế tắc Cổ Mộ đài mà chôn sống cả bốn

mạng nơi đây?

Nàng ngước mặt hỏi gằn Tiểu-long-Nữ:

- Thế Sư muội còn biết có lối nào khác nữa không?

Tiểu-long-Nữ bình thản đáp:

- Hết rồi! Sư tỷ cũng thừa hiểu một khi đoạn Long-thạch đã rơi, Mộ Đài với thế giới

bên ngoài đã vĩnh viễn biến thành hai vũ trụ riêng biệt.

Quá thất vọng, Lý-mạc-Thu túm lấy áo Tiểu-long-Nữ quát lớn:

- Ngươi đã nói láo để lừa dối ta!

Trước vẻ hốt hong của người sư tỷ đã cao niên vẫn còn thiết tha với câu tham sanh úy

tử, Tiểu-long-Nữ vẫn điềm tĩnh làm thinh không trả lời.

Trông thấy thái độ của nàng như thế, Lý-mạc-Thu càng bấn loạn và tâm thần vì thấu

hiểu Tiểu-long-Nữ đã nói thật.

Quá tuyệt vọng nàng mím môi nói:

- Như thế, thày trò ngươi phải chết trước.

Nói xong nàng vận dụng nội công vào bàn tay phóng một chưởng vào người

Tiểu-long-Nữ mạnh như sấm sét.

Dương-Qua lập tức phi thân xông vào, xô sư phụ lệch qua một bên thoát khỏi chưởng

lực của Lý-mạc-Thu, miệng thét lớn:

- Không được hạ sát cô nương tôi, hãy giết tôi trước đã.

Nói xong, hắn đứng chắn giữa hai người, tay buông thẳng sau lưng, ngực ưỡn ra trước

đầy vẻ kiêu hùng, mắt hiên ngang nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu như chờ đợi cái

chết không chút sợ sệt.

Lý-mạc-Thu ngừng tay cười nhạt:

- à, thằng oắt con, mày hết lòng bảo vệ cô nương mày đến thế sao? Nếu mày thật tâm

muôn chết thay cô nương mày thì hãy nói lớn lên cho ta nghe nào?

Nàng vừa nói vừa xòe bàn tay đã nổi danh Xích luyện thần chưởng, mắt mở lớn nhìn

sững vào Dương-Qua như thúc giục trả lời gấp.

Dương-Qua vẫn bình tĩnh tĩnh đáp:

- Ta quyết thế, ngươi cứ giết đi.

Lý-mạc-Thu thấy chồn tay trước thái độ quá kiêu hùng của Dương-Qua liền dừng tay

lại, rồi đưa mắt nhìn thấy thanh trường kiếm còn cài bên lưng, liền túm lấy hắn nạt

lớn:

- Ta cho mi biết, ta chẳng cần giết cả hai, mà chỉ giết một đứa thôi. Vậy tùy ý mi

muốn ta giết mi hay Tiểu-long-Nữ, cứ lựa chọn đi, và trả lời gấp.

Dương-Qua chẳng thèm trả lời, đôi mắt đăm đắm nhìn về phía Tiểu-long-Nữ đầy vẻ

luyến ái hình như bất chấp cả lời dọa nạt của con người đa sát Xích-luyện tiên-tử.

Trước mối tình thâm nghĩa trọng, gắn bó như keo sơn, dù kiếm sắt hay thần chưởng

cũng không nghĩa lý gì nữa.

Lý-mạc-Thu vứt kiếm xuống đất thở dài chép miệng nói:

- Sư muôi, đến nay sư muội đã được giải lời phát thệ ngày xưa trớc sư phụ, giờ phút

này sư muội có quyền tự ý thoát ly khỏi Mộ-Đài này.

Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua ngơ ngác nhìn nhau chẳng hiểu nàng muốn nói gì.

Nguyên trước kia Lâm-triều-Anh hãm mình trong ngôi Cổ-Mộ này là vì giữa nàng và

Vương-trùng-Dương có một mối tình ngang trái. Nàng đã đem lòng yêu mến con

người thanh niên tài ba kia với một mối tình tuyệt vọng mà không bao giờ gột rửa

được. Vì vậy nên nàng đã định ra một quy tắc bất khả di dịch cho tất cả nữ đệ tử nào

đã khoác áo sư môn trú ngụ tại Cổ-Mộ đài, phải chung thân không được rời khỏi

Chung-Nam sơn, chỉ trừ một trường hợp nếu có một chàng trai nào tình nguyện chết

thay cho mình, thì lời nguyện này mới giải được.

Sở dĩ Lâm-triều-Anh đặt thêm ngoại lệ này vì nàng nghĩ trong giới mày râu, nhất định

không có một kẻ nào thật tình chung thủy đến nỗi tình nguyện thế mạng cho người

mình yêu. Như thế dẫu có đặt lệ nhưng chắc không thể nào xảy ra đuợc.

Chính bản thân của Lý-mạc-Thu không dám phát lệ vì nàng cũng không thể tin được

bọn nam nhi, và trong đời tình ái của nàng vẫn còn một vết đen ghi sâu trong tâm

khảm mà lúc nào nàng cũng muốn lấy máu để gột rửa cho xong.

Ngày nay chính tai Lý-mạc-Thu đã nghe Dơng-Qua tự nguyện chết thay cho

Tiểu-long-Nữ, nàng cũng hết sức ngạc nhiên, và bồi hồi cảm kích. Tuy nhiên những

lời này không khỏi ghi vào lòng nàng một sự xót xa thấm thía lúc nghĩ đến số phận

hẩm hiu giữa mình và Lục-triển-Nguyên.

Nàng chép miệng nói:

- Sư muội, quả em là con người tốt phước!

Nói xong, nàng như điên cuồng không còn suy nghĩ gì nữa thích mạnh mũi kiếm vào

cổ Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ vội vung tay phóng ngay một ngọn Ngọc-phong-sa để cứu nguy cho đệ

tử. Lưỡi gơm bị Ngọc-phong-sa chạm vào đánh xoảng một tiếng lớn, rơi ngay xuống

đất.

Lý-mạc-Thu vội nằm xoài ra để tránh ám khí. Tiểu-long-Nữ đưa tay kéo Dương-Qua

phi thân phóng về phía trước và ngoái đầu lại nói:

- Sư tỷ, lời thệ của tôi có thể giải được hay không giờ phút này không còn nghĩa lý gì

nữa đâu. Đoạn Long-thạch đã bế kín Mộ-Đài, trước sau gì cả bốn người chúng ta đều

phải chết cả. Để khỏi làm bận lòng nhau, chúng ta tìm mỗi người một nơi riêng chết

cho yên thân tốt hơn.

Nói xong nàng đưa tay bấm vào một chiếc nút bí mật, một tảng đá trên cao rơi đánh

sầm xuống, ngăn cách mỗi cặp một nơi.

Trải qua những giây phút quá mệt nhọc về thể xác và bấn loạn về tinh thần,

Tiểu-long-Nữ cảm thấy tứ chi rũ rượi đi hết nổi. Dương-Qua phải dìu nàng đi chầm

chậm đến phòng Tôn-Bà để dưỡng sức. Đặt nàng nằm trên giường, rồi Dương-Qua

tìm hai cái ly rót đầy mật ong trắng, nâng đầu sư phụ để nàng uống một ly, còn một

ly tự mình uống cạn.

Tiểu-long-Nữ cảm thấy thần trí mênh mang như trải qua cơn ác mộng, nàng nhìn

Dương-Qua chậm rãi hỏi:

- Qua nhi, tại sao mi nhất tâm ở lại cùng chết theo ta?

Dương-Qua chắp tay lễ phép đáp:

- Thưa cô nương, trong đời tôi chỉ còn một mình cô nương là người chăm nom tôi, đối

xử rất tốt với tôi, nên tôi không ngần ngại gì để chết thay cô nương.

Tiểu-long-Nữ gật đầu hỏi thêm:

- Mi nghĩ cũng phải. Tuy nhiên ở chốn đây rồi ai cũng phải chết, chỉ khác là kẻ trước

người sau mà thôi. Thiết tưởng không cần phải tìm để giết nhau làm gì vô ích.

Dương-Qua hỏi:

- Tại sao chúng ta không thể tìm một lối nào để thoát ra ngoài Cổ Mộ được hay sao?

Tiểu-long-Nữ buồn rầu đáp:

- Cổ Mộ đài kiến trúc vô cùng kỳ diệu. Khi đoạn Long-thạch đã rơi, mối liên lạc với

thế giới bên ngoài đã chấm dứt. Ta đã bảo như thế, mi đừng nghĩ đến việc thoát thân

vô ích.

Dương-Qua lặng thinh thở dài.

Tiểu-long-Nữ hỏi ngay:

- Bây giờ mi nghĩ lại và hối hận việc đã làm phải không?

- Thưa cô nương, được ở bên cạnh cô nương tôi không còn thiết đến việc gì nữa. Với

cô nương, chắc chắn trên thế gian này không còn một thứ gì còn có thể cám dỗ tôi

được nữa.

Nghe Dương-Qua thốt ra lời chót, Tiểu-long-Nữ bỗng thấy cõi lòng thơ thới hân hoan

như nhấp phải ly rượu nồng. Một luồng khí nóng từ từ bốc lên làm ửng hồng đôi má.

Nàng nhìn nó và hỏi thêm:

- Nhưng tại sao mi thở dài?

Dương-Qua đáp:

- Thiết nghĩ giá cả hai chúng mình đều hạ sơn, với cô nương bên cạnh, tôi sẽ đưa đi

khắp những nơi sơn thủy hữu tình, nếm những cái đẹp thiên nhiên của tạo hóa, chẳng

thú vị lắm sao? Với bản lãnh của cô nương, trên đời này dễ mấy ai dám hà hiếp hay

khinh rẻ mình được.

Từ bé đến lớn chỉ sống trong Cổ-Mộ đài, chưa hề hiểu biết mảy may bên ngoài, ngày

nay nghe Dương-Qua kể, như thế, Tiểu-long-Nữ cũng suy nghĩ cảm thấy lòng hiếu kỳ

rạo rực, muốn được dạo xem cho biết một phen.

Nghĩ đến đây, bất giác nàng cảm thấy trong huyết quản máu nóng chạy rần rật, tim

đập mạnh, lòng nôn nao không hề kìm giữ được sự bình thản như ngày xa. Nàng

đoán đó là một hiện tượng suy yếu của tinh thần và cơ thể và nàng bỗng quên mất

rằng trong cơ thể mình hiện nay đã chứa đựng một phần lớn nhiệt huyết của

Dương-Qua. Hai chất máu, hai bản tính hàn nhiệt khác nhau, há dễ trong phút chốc

có thể hòa hợp được dễ dàng không gây phản ứng cho cơ thể được!

Nàng vội lại nằm trên giường, tập trung ý chí, vận dụng nội công để điều hành sinh

lực, nhưng vẫn không hiệu quả. Nhiệt độ trong người nàng bỗng tăng giảm bất

thường, hơi thở không được tự nhiên nữa. Nàng bỏ giường đứng dậy đi qua lại nhiều

bận trong phòng, nhưng vẫn cha thấy lại sự yên tịnh.

Nhìn thấy sắc diện thay đổi của sư phụ, Dương-Qua hỏi:

- Thưa cô nương, cô nương thấy trong người có gì khó chịu hay sao?

Tiểu-long-Nữ không đáp, nhìn hắn một chập và khẽ bảo:

- Mi hãy lại gần đây.

Dương-Qua đoán tưởng sư phụ muốn nhờ mình xem thử nhiệt độ nên vội đến bên

cạnh giường. Tiểu-long-Nữ nắm chặt tay nó áp vào má mình.

Dương-Qua ngạc nhiên vội hỏi:

- Sao cô nương nóng như thế này? Cô nương bị sốt chăng?

Tiểu-long-Nữ cười đáp:

- Không hề chi đâu, mi đừng lo. Và nàng hỏi tiếp:

- Dương-Qua, hỏi thật nhé! Mi thật lòng thương ta không?

Dương-Qua nhìn nàng thành thật đáp:

- Cô nương xem, trên đời tôi, ngoài cô nương ra còn có ai là người thân yêu nữa, tôi

không thương cô nương thì còn thương ai chứ.

Nàng hỏi tiếp:

- Nếu sau này có một người con gái khác cũng tỏ lòng thương mi, thì mi có thương

người ta không?

Dương-Qua ngây thơ đáp:

- Ai đối xử thành thật tốt với mình, thì mình cũng phải tốt với họ chứ.

Tiểu-long-Nữ biến sắc, mặt lợt lạt, buông tay Dương-Qua, rồi mới run run nói xẵng:

- Nếu mi còn thương một người con gái khác thì đừng nói đến chuyện thương ta nữa,

nghe chưa?

Dương-Qua ngạc nhiên, nhưng bỗng hắn bật cười nói:

- Cô nương không nhớ chỉ còn vài hôm nữa cả hai ta đều chết cả, như thế còn có gái

nào có thể lọt vào chốn này nữa mà hòng suy nghĩ cho bận tâm?

Câu nói đó đã đưa Tiểu-long-Nữ trở về với thực tế. Nhìn thấy vẻ mặt thành thực ngây

thơ của Dương-Qua, nàng cũng bật cười rồi vui vẻ nói:

- ừ nhỉ, ta chỉ mơ sảng, nghĩ bậy và ăn nói hồ đồ quá! Nhưng sở dĩ ta hỏi như thế là vì

lòng ta muốn chính miệng mi thốt ra lời thề mà thôi.

Dương-Qua ngơ ngác hỏi:

- Thưa cô nương, thề như thế nào?

Tiểu-long-Nữ bình sanh chất phác, nghĩ sao nói vậy, không có tánh e thẹn như phụ nữ

khác, dẫu là chuyện tình cảm của lòng mình. Nàng đáp:

- Ta muốn mi thề suốt đời chỉ thương một mình ta, ngoài ra không thương một người

đàn bà nào khác nữa. Nếu làm trái lời thề sẽ mất mạng ngay.

Dương-Qua ngoan ngoãn quỳ xuống chắp tay trịnh trọng thề:

- Đệ tử Dương-Qua xin thề suốt đời một dạ mến yêu cô nương. Nếu sau này tôi thay

đổi, chẳng những cô nương sẽ tự tay giết tôi mà khi nhìn thấy mặt cô nương tôi cũng

phải tự kết liễu mạng mình không chút ân hận.

Nghe lời thề như cởi mở tấm lòng, Tiểu-long-Nữ thấy tâm hồn hân hoan thơ thới vui

vẻ nói:

- Mi thật quả hết lòng cùng ta. Lời thề của mi đã khiến ta hết sức vui mừng được

người tri kỷ.

Nói rồi nàng nắm chặt tay Dương-Qua. Lần này bàn tay nàng không giá lạnh như

trước. Dương-Qua cảm thấy một nguồn nhiệt khí ấm áp từ người Tiểu-long-Nữ dồn

vào mình. Nó chỉ đứng lặng yên, sung sướng.

Tiểu-long-Nữ bảo nhỏ nó:

- Ta thật không phải với mi, ta đã nghi ngờ và có những cử chỉ thiếu đứng đắn đối với

mi. Thôi đừng buồn nhé.

Dương-Qua lật đật cãi lại:

- ồ, cô nương, sao lại nói thế? Cô nương đối với tôi hết sức tử tế. Trên đời này chỉ có

cô nương là người mến thương tôi mà thôi, không bao giờ tôi có ý gì hờn giận cô

nương đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Trước đây ta có nhiều lần không tốt với mi. Chính ta đã phản đối không cho Tôn-Bà

nuôi mi và ra lệnh đuổi mi ra khỏi Cổ-Mộ đài. Nếu ta tử tế với mi, không đến nỗi

Tôn-Bà phải bỏ mạng.

Nói đến đây nàng cảm thấy tâm tư xúc động, sụt sùi nhỏ lệ. Niềm hối hận lẫn tình

cảm dạt dào xâm chiếm lòng nàng, bất giác khiến Tiểu-long-Nữ ôm mặt khóc nức nở

như một đứa trẻ ngây thơ, vừa khóc vừa cảm thấy mừng vui lẫn lộn. Đây là trường

hợp chưa bao giờ xảy ra trong đời Tiểu-long-Nữ. Nàng đã được đào luyện từ tấm bé,

khắc khổ chống lại với mọi tình cảm, buồn vui, đã trở nên hững hờ lạnh lùng trước

mọi việc, không ngờ lúc này, nguồn rung cảm đã thắng, khiến nàng trở nên mềm yếu

cũng như trăm ngàn nhi nữ khác.

Dương-Qua nhìn nàng khóc nức nở, bỗng ngạc nhiên vừa sợ sệt, vội gọi:

- ủa, cô nương, cô nương.

Vừa lúc ấy có tiếng đá rung động và cả tấm tường bên cạnh bị đổ nhào xuống, hai

thày trò Lý-mạc-Thu hiện sừng sững trước mặt .

Nguyên sau khi bị tấm đá ngăn cách và giam hãm trong Cổ-Mộ đài, Lý-mạc-Thu cảm

thấy đời mình sắp kết liễu vì đoạn Long-thạch đã rơi. Nhưng trước giờ chết, một ý chí

ham sống bỗng vùng lên mãnh liệt nàng cố sức tìm lối thoát thân, mặc dầu nàng thừa

rõ nơi đây tàng trữ đầy máy móc bí hiểm giết người như chơi.

Sau khi lồng lộng đi tìm khắp nơi không ra cơ cấu vận động máy móc, tìm chỗ ra, cả

hai thầy trò cùng hợp lực thí triển nội ngoại thần công xô ngã được tấm đá án ngữ

trước cửa.

Dương-Qua thất kinh nhúm mình phóng ra đứng chận ngay trước mặt Lý-mạc-Thu vì

sợ nàng ám hại sư phụ. Nó thét lớn:

- Ngươi còn muốn gì nữa chứ?

Lý-mạc-Thu đáp:

- Ta có câu chuyện muốn nói cùng sư phụ mi.

Dương-Qua lắc đầu nói:

- Làm sao có thể tin nổi bụng dạ lật lường của ngươi được?

Lý-mạc-Thu nhìn nó, lắc đầu, chậm rãi nói:

- Thật ra ít có một nam tử như mi.

Nghe câu ấy, Tiểu-long-Nữ bước lại gần hỏi:

- Thế nào? Sư tỷ nói sao? Sư tỷ cho hắn tốt hay xấu?

Lý-mạc-Thu đáp:

Sư muội sinh trưởng nơi đây, từ bé đến lớn chưa hề rời khỏi nơi đây, nên chưa hiểu rõ

bọn nam tử trên đời toàn là hạng dối trá lừa bịp, luôn luôn tìm cách phụ bạc mà thôi.

Quả sư muội rất tốt số nên đã gặp một người như Dương-Qua, thật là tình thâm nghĩa

trọng. Trên gầm trời dễ đâu tìm được người thứ hai như hắn.

Sở dĩ vì bị Lục-triển-Nguyễn phụ bạc, Lý-mạc-Thu đâm ra chán đời, ngờ vực tình yêu

của mọi người rồi vì thành kiến ấy, nàng đã cho rằng tất cả đàn ông đều phụ bạc, mà

nhận xét quá khắt khe, thật ra đàn ông có tình cảm như Dương-Qua đâu là khó kiếm.

Tiểu-long-Nữ nghe nói như uống được ly rượu nồng, cảm thấy hân hoan vô tả, nàng

vui vẻ nói:

- Kể ra nếu có một người bạn trai hết dạ yêu thương mình thì cuộc đời đáng sống lắm

chứ.

Lý-mạc-Thu bỗng nghiêm nghị hỏi:

- Này sư muội, ta hỏi thật, tuy hơi đường đột, nhưng sư muội đừng giấu nhé! Sư muội

có dự định lấy hắn làm chồng không?

Tiểu-long-Nữ điềm nhiên nói:

- Không đâu! Nó là đệ tử của tôi, nó hết dạ mến thương tôi, còn tôi đối với nó ra sao,

chưa rõ lắm.

Lý-mạc-Thu cười gằn nói:

- Ta không tin được, lửa gần rơm thế nào lâu ngày không cháy được. Vừa nói nàng

chợt đưa tay xé toạt chiếc xiêm của Tiểu-long-Nữ. Bất ngờ không né kịp,

Tiểu-long-Nữ bị xé rách một mảnh lụa, lộ cánh tay trắng như tuyết, trên ấy có một

dấu son đỏ hồng. Vết điểm thủ cung sa đã nói ra sự thật, chứng minh và bào chữa

hùng hồn nhất cho Tiểu-long-Nữ. Bất kỳ trường hợp nào, khi người con gái bị thất

trinh thì vết son này tan mất ngay.

Nhìn vết thủ cung sa đỏ ửng trên làn da trắng, Lý-mạc-Thu vừa ngạc nhiên vừa thán

phục. Nàng không ngờ Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được lòng trinh trắng mặc dầu sống

chung với một chàng thanh niên tuấn tú hết dạ yêu mình trong cảnh thâm u hiu quạnh

của Cổ-Mộ đài.

Quả là một chuyện phi thường mà nàng không ngờ có thể được.

Lý-mạc-Thu chỉ biết thở dài và nín thinh.

Tiểu-long-Nữ đâu đoán được thâm ý của người sư tỷ, nàng ngây thơ hỏi:

- Sao, sư tỳ muốn nói điều gì với tôi.

Trước đây Lý-mạc-Thu dự định tìm bắt quả tang sự tư tình giữa Dương-Qua và

Tiểu-long-Nữ để vạch mặt chỉ tên, mắng chửi một trận là gái trắc nết dẫn trai vào

Cổ-Mộ làm điều ô uế, loạn luân để rồi tìm lý lẽ trục xuất ra khốn này. Nhưng khi

nhìn thấy chứng cớ lòng trinh trắng của người sư muội, Lý-mạc-Thu ngẩn người và

lúng túng chẳng biết nói năng làm sao.

Khi nghe Tiểu-long-Nữ hỏi, nàng vội tìm lời nói quanh:

- Ta dự định hỏi sư muội để ta cùng theo sư muội.

Tiểu-long-Nữ đâu có lạ gì tánh tự kiêu tự đại của Lý-mạc-Thu nữa. Ngày nay tự nhiên

thấy nàng hạ mình xin một chuyện như vậy làm sao tin được.

Nàng đáp:

- Giữa hai ta ai lo phận nấy. Sư tỷ cứ liệu lấy công việc của mình cho xong, phần tôi,

tôi không cần thiết điều gì nữa.

Lý-mạc-Thu mỉm cười, mỉa mai:

- Ta thừa hiểu ý sư muội lắm! Phải, người đời nói thế mà đúng, tìm của thì dễ, tìm

bạn mới khó. Ngày nay sư muội đã có chàng bên cạnh, còn thiếu thốn đòi hỏi gì nữa

đâu?

Tiểu-long-Nữ vốn thật thà, chưa hiểu thâm ý mỉa mai của Lý-mạc-Thu, trả lời:

- Vâng, tôi hiểu rõ và chắc chắn điều đó. Hắn luôn luôn ở cạnh tôi và suốt đời không

bao giờ xa tôi nữa.

Lý-mạc-Thu lại tiếp lời chua chát hơn:

- ồ, cả cặp cứ đưa nhau xuống núi, vui thú giang hồ, rầy đây mai đó, thì có gì hạnh

phúc cho bằng.

Tiểu-long-Nữ tình thật trả lời:

- Vâng, nhưng ngay bây giờ chưa được.

Lý-mạc-Thu ngang nhiên hỏi:

- Vì sao vậy?

Tiểu-long-Nữ cời đáp:

- Sư tỷ há không nhớ đoạn Long-thạch đã rơi rồi sao? Một khi Cổ-Mộ đã bị cắt đứt lối

ra vào, dù sư phụ tái sanh cũng đành khoanh tay, không tài nào ra ngoài được nữa.

Lý-mạc-Thu thất vọng đứng lặng yên. Thì ra thâm tâm của nàng cố đem những ảo

ảnh hạnh phúc bên ngoài câu Tiểu-long-Nữ, may ra nàng ham thích có bộc lộ ra lối

thoát thân tìm đường sinh lộ. Nhưng khi nghe Tiểu-long-Nữ thành thật trả lời, nàng

cảm thấy như một gáo nước lạnh dội trên đầu, càng nghĩ càng căm hờn không thể dằn

được.

Thình lình Lý-mạc-Thu vung đôi xích huyền thần chưởng đánh vãi vào đầu

Tiểu-long-Nữ cho hả giận.

Dương-Qua từ nãy giờ vẫn chú tâm theo dõi sự đối đáp giữa hai người. Nhìn thấy cặp

mắt Lý-mạc-Thu trợn trừng như tóe hào quang, mặt đầy sát khí, hắn đã đoán trước thế

nào sư bá cũng hạ độc thủ nên hết sức đề phòng cho sư phụ.

Khi vừa thấy Lý-mạc-Thu chuyển động song chưởng, Dương-Qua vội vàng thu mình

ngồi xổm xuống, tập trung gân lực theo đúng thế võ "Hàm mô công" của

Âu-dương-Phong đã truyền thụ, miệng kêu "cum, cum, cum", tung chưởng lực dội

ngay vào mình Lý-mạc-Thu đánh bật nàng dội lên cao và rơi xuống đất.

Vì thiếu đề phòng, bị phải thế võ bất ngờ độc ác, Lý-mạc-Thu cảm thấy toàn thân

rung động, ngực tức, đầu óc hoang mang. Vừa lồm cồm đứng dậy, nàng tung thẳng

xích luyện thần chưởng nhắm vào người Dương-Qua để kết liễu sang mạng thằng oắt

con đáng ghét ấy.

Nếu đòn này trúng phải thì thân hình Dương-Qua phải dập nát không sống nổi.

Nhưng đúng vừa lúc ấy, Lý-mạc-Thu cảm thấy một luồng kinh lực đột nhập vào nội

tạng, toàn thân bủn rủn, đầu óc choáng váng, hai tai ù ù như nghe sấm động. Thì ra

nàng đã bị Tiểu-long-Nữ lần đầu tiên vận dụng ngón kỳ diệu trong "Ngọc-nữ

tâm-kinh" đột kích.

Tiểu-long-Nữ nhìn thấy sư tỷ xửng vửng, mặt mày ngơ ngác như kẻ mất hồn, bỗng

cười lớn và nói:

- Bây giờ sư tỷ chắc đã hiểu rõ uy lực của "ngọc-nữ tâm-kinh" rồi chứ? ít ra võ thuật

này cũng phải có điểm khác đời phải không sư tỷ?

Nghe nói đến Ngọc-nữ tâm-kinh, Lý-mạc-Thu bàng hoàng cả ngưười, vội đưa tay rờ

lên màng tai thấy không còn đau nhức nữa. Toàn thân mỏi mệt như thế nào và đánh

trúng nơi đâu, suy nghĩ mãi chẳng biết tư thế của ngọc-nữ tâm-kinh xuất phát ra sao

nữa.

Nàng ngẩn người, tái mặt, nhìn trân trân bất động, trong lúc đó Tiểu-long-Nữ ung

dung cầm tay Dương-Qua dắt qua phòng bên.

Lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu mới định thần, lau mồ hôi trán và lẩm bẩm:

- Cũng may con bé bị giao động tinh thần, nội lực phân tán bớt, chứ nếu nó sung sức

như lúc bình thờng thì ta dễ mất mạng như chơi.

Dương-Qua bước theo sư phụ, nghĩ đến ngón đòn Tiểu-long-Nữ vừa khắc phục

Lý-mạc-Thu, hắn rất khoái chí, vừa cười vừa hỏi:

- Thưa cô nương, ngón đòn vừa rồi tài tình quá! Có lẽ chưa một võ thuật nào vượt nổi

"Ngọc-nữ tâm-kinh" phải không cô nương?

Nhưng hắn vừa nói dứt câu bỗng thấy Tiểu-long-Nữ toàn thân run rẩy như bị trúng

gió, đứng không vững, ngã xỉu xuống, hắn vội vàng đưa tay đỡ và dìu nàng để nằm

trên tảng đá, miệng la khan:

- Cô nương, cô nương ơi, cô nương làm sao thế?

Hai hàm răng Tiểu-long-Nữ đập vào nhau bồm bộp, nàng cố gắng trả lời:

- Lạnh??? lạnh lắm.

Trước kia trong lúc Tiểu-long-Nữ đang luyện ngọc-nữ tâm-kinh tại miếu hoa hồng,

Tiểu-long-Nữ bị 2 đạo sĩ thình lình phá rối, buổi học dang dở, khi lực chạy ngược

suýt tý nữa mất mạng. Nàng tự cứu chữa chưa lành thì tiếp đến bao nhiêu chuyện bất

ngờ đưa đến dồn dập, nội lực càng suy giảm, tinh thần giao động mãnh liệt vì những

hiện tượng xúc động tâm tình. Vừa rồi vì phải giải nguy cho đệ tử, Tiểu-long-Nữ quên

mình đang trương bệnh, vận dụng quá sức để xuất một tư thế trong Ngọc-nữ tâm-kinh

tấn công Lý-mạc-Thu. Nên lúc bấy giờ cơ thể bị suy nhược, nhiệt khí tiêu tan, toàn

thân như bị giá lạnh hoàn toàn.

Nhìn Tiểu-long-Nữ run rẩy nằm co quắp trên tảng đá, hai hàm răng đánh vào nhau

lộp bộp mãi, Dương-Qua kinh hãi quá khóc rống lên và gọi lớn:

- Cô nương ơi, cô nương, biết làm sao bây giờ hở cô nương?

Nhìn thấy sư phụ mến yêu bị lạnh quá sức, hắn cảm thấy như thân mình cũng bị lạnh

lây. Loay hoay một chập hắn bỗng nhớ đến chiếc áo lông của Tôn Bà tặng cho khi

gần lâm chung, vội vàng cởi áo ngoài ra, lấy áo đắp choàng trên ngực Tiểu-long-Nữ.

Nhờ sức ấm của chiếc áo, mặt nàng có vẻ hồng hào được đôi tý. Nhưng chỉ trong giây

phút, hắn chưa kịp mừng, bỗng cơn lạnh nổi trở lại, hai hàm răng càng rung nhiều

hơn nữa.

Sợ quá, Dương-Qua vội ôm choàng lấy Tiểu-long-Nữ, dùng nhiệt độ của mình để sưởi

cho nàng. Hắn cố vận dụng nội công mãnh liệt truyền nội lực vào người cô nương để

chống với sức lạnh.

Phương pháp này cũng giúp cho Tiểu-long-Nữ thấy dễ chịu đôi chút, nhưng không

phải là phương pháp cứu vãn được tình thế. Đối với một người đã bao năm khổ công

vận dụng công lực chống với sức lạnh băng giá của giuờng hàn thạch, thì nhiệt độ của

Dương-Qua chuyển vào có nghĩa lý gì đâu.

Tiểu-long-Nữ cố gắng nói qua giọng rên:

- Mi hãy buông ta ra.

Hắn càng cuống quít, cố siết chặt toàn thân nàng như để trút tất cả nhiệt khí trong

người cứu vãn sức khỏe cho sư phụ thân yêu.

Hắn vừa ôm vừa thổn thức nói:

- Cô nương để mặc tôi, tôi ôm thật chặt để cô nương bớt lạnh, bây giờ cô nương thấy

có đỡ được phần nào chưa?

Nàng vẫn lắc đầu, nghiến răng, mím môi, chống đối với sức lạnh ngày càng thêm.

Một chập sau hắn cảm thấy bất lực, thả nàng ra, nhìn nàng chẳng biết làm cách nào

hơn.

Bỗng Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chiếc áo lông cừu của Tôn bà, hắn vội vàng cầm

chiếc áo trong tay, xoay qua trở lại, chẳng biết phải làm sao. Bấy giờ hắn mới thấy

bực tức vì Tôn Bà chết quá gấp không kịp trối trăn về công dụng của áo này.

Lúc bấy giờ đến khi cô nương hắn dự định chỉ bảo cho hắn, thì nàng lại bị cứng

miệng nói chẳng ra lời. Làm sao mà hiểu đây. Hắn vừa giận vừa lo, loay hoay một

chập định đốt chiếc áo để sởi ấm hơn. Nhưng khi để kề gần ngọn đèn, bỗng nhìn

thấy có lộ ra mấy hàng chữ, hắn vội vàng vạch ra nhìn kỹ thấy có 16 chữ:

"Trùng-Dương tiên sư

Công truyền hậu thế

Quan kỳ họa tương

Cứu kỳ thứ chỉ".

nghĩa là: (hãy nhìn kỹ trên chỉ tay của bức họa, sẽ tìm thấy công tích của

Vương-trùng-Dương lưu lại hậu thế).

Vừa nhìn thấy mấy hàng chữ, Dương-Qua mừng rỡ như người chết trôi vừa vớ phải

tấm ván, nó vội vàng xốc Tiểu-long-Nữ bồng đi về phía nhà mồ. Tiểu-long-Nữ ngơ

ngác nhìn nó chả hiểu gì hết.

Hắn bảo nho nhỏ:

- Tôi đưa công nương đến xem lại di ảnh của Vương-trùng-Dương.

Tiểu-long-Nữ nghe xong, vẫn ngơ ngác như chẳng hiểu gì hơn. Chân bước dồn, đầu

óc Dương-Qua vừa lo âu, vừa e ngại gặp phải Lý-mạc-Thu thì nguy hiểm lắm. Khi

đến đại sảnh, hắn đưa chân đẩy cánh cửa nhìn vào thấy tối om. Dương-Qua mò mẫm

ẵm nàng đi vào, đặt yên trên giường, rồi tìm đá đánh lửa mồi đèn.

Qua ánh sáng mập mờ trong đá âm u vắng lạnh, bỗng năm chiếc quan tài song song

một hàng, khi ẩn khi hiện như ma trơi. Xung quanh không có bóng dáng một người

nào, Dương-Qua chạy đến chân tường nhìn kỹ vào di ảnh Vương-trùng-Dương.

Nhớ lại ngày nào được Tiểu-long-Nữ đưa vào đây làm lễ nhập môn và bát sư, hắn có

nhìn vào bức ảnh của bậc tiền bối quá cố một lần, nhưng bây giờ quan sát kỹ vẫn

không có gì thay đổi hết.

Hắn ngạc nhiên khi trông thấy bàn tay vẽ úp trên bức họa, và các hàng chữ trên áo

Tôn-Bà bảo phải nhìn kỹ trên chỉ tay.

Bàn tay úp thì làm sao thấy được chỉ. Hắn lẩm bẩm tự hỏi mãi không đáp được. Xoay

lại phía sau, hắn thấy Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn hình như muốn biết kết quả.

Dương-Qua trở lại đỡ nàng đến gần bức di ảnh và bảo:

- Cô nương thử nhìn xem có nhìn được gì không? Tôi chẳng thấy gì cả.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói khẽ:

- Mắt ta hoa cả, không thấy gì hết.

Dương-Qua đặt nàng nằm xuống rồi đứng nhón chân hạ bức ảnh đến gần đầu nàng,

bưng đèn kê sát soi sáng cho nàng nhìn rõ.

Nàng lắc đầu nói:

- Vô ích.

Dương-Qua giận quá đặt bức ảnh trên bàn đá và dằn mạnh thếp đèn lên trên. Vì đặt

mạnh tay làm sáp vung tung tóe rơi trên mu bàn tay của Vương-trùng-Dương. Sáp

thấm vào lụa làm hiện ra những nét vẽ khác thường. Dương-Qua ngạc nhiên quá vội

tiến tới nhìn kỹ hơn. Hắn có cảm giác những nét vẽ tượng hình những chữ Hán có

nhiều chữ nhỏ chi chít, mắt thường không nhận định rõ.

Nóng lòng vì tình trạng nguy ngập gần đất xa trời của sư phụ hắn cố định thần quan

sát thêm, nhưng cuối cùng cũng chỉ đọc được vài ba chữ nhất nhì, tiểu đại mà thôi.

Bỗng hắn quên phứt rằng Cô nương mình đang thập tử nhất sinh, kêu lớn:

- Cô nương ơi, xem đây nè. Lạ quá! Lạ quá!

Tiểu-long-Nữ cũng quên mất tình trạng sức khỏe của mình, cố chồm dậy nhìn sát vào

bức họa. Một nụ cười hy vọng thoáng nở trên làn môi tái mét vì lạnh.

Đôi mắt nàng mở to tràn trề hy vọng.

Dương-Qua nóng ruột hỏi:

- Họ ghi chú những gì thưa cô nương?

Tiểu-long-Nữ chầm chậm trả lời qua hơi thở yếu ớt:

- Ngày trước, khi nữ Sư phụ mệnh chung, Vương-trùng-Dương có trở lại đây một

lần...

Dương-Qua vội cắt lời:

- Ông trở lại làm gì vậy Cô nương?

- Lần này ông ta trở lại để thân điếu người yêu. Khi tiên sư vào đến ngôi nhà này nhìn

thấy bộ Ngọc-nữ tâm-kinh do nữ Sư phụ trang trọng đặt trên bàn thờ thì người có bảo:

- Ngọc-nữ tâm-kinh tuy kỳ diệu thật, nhưng nếu vũ thuật của Toàn-Chân phái được

luyện tập đến mức thượng thừa thì có thể khắc chế được Ngọc-nữ tâm-kinh như

không.

Dương-Qua ngạc nhiên hứ một tiếng lớn và hỏi thêm:

- Ông ta có giải thích thêm lý do vì sao không?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Người có truyền rằng, có một căn phòng đá khác đã ghi tạc tất cả bí quyết chống lại

Ngọc-nữ tâm-kinh. Sau này kẻ nào có phần phước lắm mới tìm được và hấp thụ được

tinh hoa của nền vũ thuật vô cùng kỳ diệu này.

Dương-Qua nóng ruột quá hỏi tiếp:

- Vậy đã có ai tìm ra chưa Cô nương? Chúng ta có thể đi tìm ngay bây giờ được

chăng?

Tiểu-long-Nữ lắc đầu đáp:

- Ta ở đây từ lúc bé nhưng chưa bao giờ được biết hay trông thấy phòng này.

Nói xong nàng chăm chú nhìn lại bức họa một lần nữa và lẩm bẩm:

- Lạ quá, thật lạ!... Khó mà tin được.

Dương-Qua cũng tiếp lời ngay:

- Chính tôi cũng không thể tin có một võ công nào cao siêu hơn Ngọc-nữ tâm-kinh.

Tiểu-long-Nữ cãi lại ngay:

- Không phải ta cố ý nói thế đâu. Ta muốn chỉ sự lạ lùng và khó tin về căn phòng này

mà thôi.

Dương-Qua làm thinh và Tiểu-long-Nữ cũng lặng yên suy nghĩ. Một lúc sau

Dương-Qua có vẻ sốt ruột hỏi thúc:

- Vậy chúng ta thử tìm xem, có mất công là bao đâu?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nếu không biết cách thì có tìm cũng vô ích.

Nói xong nàng kéo Dương-Qua lại bên cạnh mấy chiếc quan tài.

Và chỉ vào hai chiếc quan tài bỏ trống, nàng bảo:

- Trong thực tế hiện nay trong Cổ Mộ chỉ có hai chiếc quan tài mà chúng ta những

bốn mạng. Như thế hai chiếc quan tài làm sao chứa hết bốn kẻ sắp lìa đời?

Dương-Qua buồn rầu đáp:

- Nếu Cô nương bằng lòng, chúng ta cùng chung một quan tài còn chiếc kia dành cho

thầy trò Lý-mạc-Thu chứ sao?

Lời nói chân thành của Dương-Qua tuy không chứa đựng một hậu ý gì nhưng khiến

cho Tiểu-long-Nữ cảm thấy lòng xao xuyến và nóng bừng cả mặt.

Lặng đi một lúc, nàng nói:

- Nếu chúng ta chết sau thì được lắm. Rủi bọn mình chết trước thì chắc gì chúng nó

để yên cho thân xác mình được nằm đây, hay lại đem vứt nơi nào khác?

Dương-Qua cảm thấy máu nóng bừng dậy trong lòng hùng hổ nói:

- Vậy Cô nương cho phép tôi tìm thầy trò nó hạ sát đi cho rồi.

Tiểu-long-Nữ tức cười bảo:

- Sao mi lẩn thẩn thế? Ngay tài nghệ của ta còn chưa địch nổi sư tỷ thì bản lãnh mi

làm sao chống nổi với họ được?

Tuy nhận thấy nàng nói đúng nhưng Dương-Qua vẫn nói gượng:

- Hay bây giờ chúng ta tìm cho ra pho vũ công thượng thừa của Vương-trùng-Dương,

cố tâm trau dồi cho cao siêu thì sẽ đủ sức hạ chúng ngay chứ gì.

Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:

- Luyện tập vũ nghệ đâu phải một vài ngày là xong. ít nhất cũng phải một năm hay

sáu tháng. Lương thực nơi đây không còn được mấy ngày, thử hỏi làm sao sống để tập

luyện.

Nhưng nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác và tuyệt vọng của Dương-Qua nàng nói thêm:

- Tiên sư có đi ngôn rằng cửa phòng này dính liền với quan tài nữ sư phụ. Không biết

có cách nào để vào đó được và đây có phải là sự thật hay là quỷ kế của người.

Dương-Qua trố mắt hỏi:

- Vì sao lại là quỷ kế?

- Ta chỉ dự đoán như vậy thôi. Cũng có thể đây là phòng riêng của nữ sư phụ. Ngày

xa nữ sư phụ tính ý bất thường, có lúc tức giận người bỏ về phòng đóng chặt cửa, gọi

không nghe, vào không được. Một khi cửa đã đóng, đứng ngoài tìm không thấy cửa

nữa.

Khi nữ sư phụ đã tịch rồi, Vương-trùng-Dương có lẻn vào Cổ Mộ đài, viện lẽ là để

viếng thăm nhưng biết đâu với mục đích dò xét. Khi hỏi lại thì được biết cửa phòng đã

liền với quan tài rồi. Biết đâu người đã đột nhập vào và đã ghi lại pho võ công kỳ diệu

nơi đó chăng? Có lẽ cũng do đó mà tiên sư đã lưu lại di ngôn này cho hậu thế. Thật

là huyền bí khó tin quá. Lẽ nào Vương-trùng-Dương lại đi lừa gạt chúng ta, và người

cũng không muốn lừa gạt kẻ khác làm gì.

Dương-Qua nói:

- Đó cũng chỉ là giả thuyết. Điều thực tế nhất là phải tìm cho ra phòng này rồi mới tới

việc hạ sát thầy trò Lý-mạc-Thu.

Suy nghĩ thêm một chặp, Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Hay chả có gì trong ấy chăng?

Dương-Qua hỏi:

- Cô nương muốn nói trong phòng ấy sẽ không có gì chăng?

Nàng lắc đầu đáp:

- Ta không nói thế. Thôi thì mi cứ cạy nắp áo quan xem sao.

Dương-Qua mừng rỡ tiến đến sát chiếc quan tài của Lâm-triều-Anh. Chàng ta vận

dụng nội công để lật chiếc nắp hòm đá, nhưng cẩn thận nín thở để tránh mùi hôi thối

sẽ phát ra từ đáy hòm.

Thật lạ thay, nắp hòm vừa hở lên thì một mùi hơng thơm ngát tỏa khắp gian phòng.

Dơng-Qua đang vận nội công, lại nín thở đề phòng nên chẳng hay biết gì. Bỗng nó

la lên kinh ngạc:

- Cô nơng! Không có gì trong hết!

Tiểu-long-Nữ tiến đến nhìn vào trong, chỉ có hai bình thủy có đựng một chất cao

trong trong. Có lẽ mùi hơng tỏa ra từ đây.

Tiểu-long-Nữ lẩm bẩm:

- Lạ quá! lẽ nào đây là di thể của Sư phụ? Vương-trùng-Dương lừa phỉnh ta chăng?

Dương-Qua nói:

- Phải đấy Cô nương. Ông ta dối mình làm gì? Chính đây là cửa vào phòng đá. Ta đi

vào đi!

Nói xong nó chúi đầu vào hòm lấy tay mò ở đáy hòm rồi kêu lên:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Đây là ngách vào.

Tiểu-long-Nữ nghe nói biết ngay đó là lối vào.

Dương-Qua hì hục nạy ngách đá không nhúc nhích. Nó vận khí nội công, mồ hôi nhễ

nhại nhưng, không hiệu quả. Tiểu-long-Nữ để nó hì hục một hồi rồi nói:

- Mi có tài thánh, sức thần cũng không mở được đâu.

Dương-Qua dừng tay hỏi:

- Thế thì cô nương giúp tôi một tay.

Tiểu-long-Nữ khẽ bảo:

- Trong Mộ đài nầy, cơ cấu vào ra đều được bố trí bằng máy móc. Mi đem sức lực vũ

phu của mi thử thách với trí xảo của máy móc được thì ta cũng phục mi đấy. Mi muốn

mở ngách vào thì chuyển nhẹ sang phía tả, rồi dở mạnh lên.

Dương-Qua y theo lời, tự nhiên ngách đá để lộ giữa hòm một lối vào đen ngòm.

Hắn mừng rỡ la lên:

- Đúng rồi cô nương! Thôi chúng ta chui vào đi.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Mi đừng hấp tấp, hãy chờ một chốc để cho xú khí thoát hết đã.

Dương-Qua vâng lời ngồi cạnh chiếc hòm chờ. Nhưng lòng không yên, chốc lát lại

hỏi:

- Bây giờ ta vào được chưa Cô nương?

Tiểu-long-Nữ bảo:

- Ta lấy làm lạ, sao mi có tính hấp tấp như vậy lại có thể cùng sống với ta mấy năm

nay!

Dứt lời, nàng thủng thẳng tay cầm chiếc đèn bước vào hòm soi vào lỗ ngách đá. Thấy

Tiểu-long-Nữ cầm thẳng đèn đưa lên trước mặt. Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:

- Cô nương làm phép gì lạ thế?

Tiểu-long-Nữ phì cười bảo:

- Mi tự phụ rành rẽ việc đời lắm thế mi không biết ở một nơi thiếu dưỡng khí thì lửa

không đỏ được sao? Gian phòng đá nầy lâu ngày chứa đầy xú khí. Ta phải dùng ngọn

đèn này đi tiên phong nếu nó tắt là báo hiệu thiếu dưỡng khí thì mình phải lui ngay

không thì chết hết. Mi đã hiểu chưa?

Dương-Qua vừa nghe vừa lặng lẽ bước theo chân Tiểu-long-Nữ.

19. Trùng-Dương Di Thiên: Cửu âm chơn kinh

Dương-Qua lòng vừa thư thái được một chút thì mệt mỏi từ đâu đã tràn về. Nó mơ mơ

màng màng rồi cũng ngủ thiếp đi.

Một lúc sau, nó cảm thấy đau nhói ở sau lng nơi huyệt "tiếu yêu" nó giật mình tỉnh

dậy và có ý định vùng lên chống đỡ lại, nhưng đã có một bàn tay nắm chặt lấy cổ nó

khiến không còn cựa quậy được.

Nó khe khẽ nghiêng đầu liếc mắt nhìn thì thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đang mỉm cười

đứng bên cạnh.

Lúc đó Tiểu-long-Nữ cũng bị điểm huyệt mất rồi.

Nguyên do chỉ vì Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ cả hai đều chưa có kinh nghiệm giang

hồ nghĩa hiệp, và khinh địch nên đã sơ ý không đóng kín căn phòng bằng đá.

Bởi vậy Lý-mạc-Thu mới biết được phòng ngầm này, và đột nhập vào, hành động theo

ý muốn.

Lý-mạc-Thu cười nhạt bảo:

- Khá thiệt! Chỗ này là một căn phòng để nghỉ ngơi tốt nhỉ! Hai đứa nhỏ này đã lẻn

vào đây để hưởng hạnh phúc với nhau đây. Sư muội! Bây giờ cô còn chối cãi vào đâu.

Đã biết thân biết phận liệu bề mà nói đi, hay là vẫn cố giữ kín. Nếu có bề nào thì

đừng trách ta.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Tôi biết hết cả rồi. Tôi nhứt định không bao giờ nói cho chị biết.

Lý-mạc-Thu biết Tiểu-long-Nữ vốn là một người cương nghị không mấy ai bì kịp, lúc

sinh tiền sư phụ phải nhượng nàng ba lần rồi tiến tới cương quyết, đối phó gấp chín

lần, cũng chẳng hề lay chuyển được. Nhưng nay, trước công việc quan trọng đến sinh

mệnh của mình, chẳng lẽ lại không dùng hết mọi áp lực để bức sách nàng làm theo ý

muốn. Nghĩ vậy, Lý-mạc-Thu rút ra hai cái ngân châm vứt xuống đất, tiếng kêu tinh

tinh!

Nàng nói:

- Ta đếm từ một đến mười, nếu cô không nói thật, ta sẽ cho cô nếm mùi vị hai cây

ngân châm này.

Tiểu-long-Nữ mắt nhắm nghiền lại, như chẳng thèm để ý gì đến lời Lý-mạc-Thu.

Lý-mạc-Thu đếm một... hai... ba... bốn

Dương-Qua nói lớn:

- Nếu cô nương tôi mà biết được lối ra thì việc tôi và cô nương tôi lại ở đây làm gì?

Lý-mạc-thu cười nhạt nói:

- Ta biết rằng thế nào căn phòng này cũng có ngả bí mật thoát ra ngoài được. Sở dĩ

các người còn ở lại đây là để nghỉ ngơi lấy lại tinh thần sức lực, để rồi lại đi nữa chớ

gì?

Nói xong nàng lại đếm năm... sáu... bảy... tám... chín...

- Sư muội! đếm chín rồi, cô có nói hay không?

Lúc bấy giờ, một luồng gió lạnh đột nhiên tạt vào ngọn nến trên tay Hồng-lăng-Ba,

làm phụt tắt.

Tiểu-long-Nữ cười gằn một tiếng rồi nói:

- Tôi đã ngủ nghê được chút nào đâu, vừa mới vào đây được một lát.

Lý-mạc-Thu cố làm ra vẻ bình tĩnh nói:

- Thôi! Thế thì được!... Ta đã đếm đủ đến mười rồi, cô đừng có trách tôi nghe! Độc

tính của ngân châm này là bí thuật của môn phái ta do sư phụ phu nhân truyền cho ta,

vì cô ngoan cố nay ta phải tặng cô để cô được biết ý vị nó ra sao.

Nói đoạn, cô ta cúi xuống lấy đầu ngân châm chà lên huyệt "Tướng đài" của

Dương-Qua.

Tiểu-long-Nữ bị chà lên huyệt "Huyền Cơ" nơi trước ngực.

Tiểu-long-Nữ vốn là người gan dạ và điềm tĩnh dị thường, cũng phải oằn oại vì chất

độc của ngân châm, đã theo huyệt dạo xâm nhập vào toàn thân. Từ da thịt đến xương

tủy và các cơ thể lúc bấy giờ như ngàn vạn con kiến rần rần cắn ở khắp nơi. Thực là

chưa có một hình phạt nào trong thiên hạ có thể làm cho người đau đớn kỳ lạ đến thế

được. Đó là một thứ độc dược độc đáo của bản môn, dĩ nhiên ngay trong bản môn đã

phải có thứ thuốc giải độc, nhưng khốn nỗi cả hai người đều đã bị điểm huyệt, không

còn cử động được nữa, nên vô phương cứu giải.

Lý-mạc-Thu vốn ác độc, tàn nhẫn, nên thản nhiên ngồi ở dưới đất, đợi coi những biến

chuyển phát hiện từ hai người xem độc dược đã thấm vào nội tạng chưa. Cô ta vẫn

phân vân chẳng biết Tiểu-long-Nữ có chịu tiết lộ những bí mật trong mộ đài không.

Chỉ trong chốc lát là huyết mạch Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã chạy khẩn cấp,

người đã phát nóng. Cô ta biết độc dược đã thấm vào nội tạng thì không còn nói đến

việc cứu giải được nữa.

Dương-Qua khe khẽ nói:

- Thưa cô nương, hay là cô đem những bí mật của Mộ đài nói đi thôi. Hai người này

chẳng ngần ngại gì mà không dùng đủ mọi ngón độc để hại ta đó.

Tiểu-long-Nữ cũng khe khẽ nói:

- Chính thế. Họ là tay ác độc nhất đời.

Thoáng nghĩ tới những đường bí mật ra khỏi mộ đài, nàng ngẩn đầu nhìn lên trên nóc

nhà chỗ có ghi các hình đố.

Năm xưa, Vương-trùng-Dương đã thề không trở lại mộ đài. Ông tiên tri

Lâm-triều-Anh thế nào rồi cũng qua đời trong Mộ đài.

Đối với người đã say mê đắm đuối vì yêu mình, ông không khỏi thấy bâng khuâng

thương nhớ dù rằng bà thi ân với ông khá nhiều mà cũng kết oán với ông chẳng ít.

Nghĩ và cảm như thế ông bỏ lời thề xa, đã dấn bước theo mật đạo nhập Mộ đài, lén

cho á Hoàn là đệ tử của bà hay đường lối xuất mộ và đồng thời nhìn lại di thể của

người bạn thân thiết trước kia đã cùng mình rong ruổi cuộc đời giang hồ nghĩa hiệp.

Ông đau khổ vô cùng, nức nở khóc; khi đi một lượt khắp ngôi Mộ đài mà xưa kia ông

đã mất bao nhiêu công trình, sau bao nhiêu năm tháng xây dựng nên. Thấy bà

Lâm-triều-Anh đã vẽ hình mình ra trên mặt một bức tường, rồi lại thấy trên đỉnh hai

căn phòng bà đã đi khắc võ thuật. "Ngọc-nữ tâm-kinh", thực là tinh vi ảo diệu, mỗi

ngón đều để chế khắc mỗi ngón của Toàn-Chân võ thuật, mặt ông tự nhiên xậm lại và

lập tức ông rút lui ra khỏi chốn Mộ đài.

Ông một thân lủi thủi vào chốn núi sâu, kết lập một thảo lư.

Ba năm liền không rời bước khỏi núi, để nghiên cứu cho tinh tường võ thuật "Ngọc-nữ

tâm-kinh" tìm ra những ngọn để phá lại, tuy cũng đã thành hẳn một võ thuật có hệ

thống uẩn súc, lòng ông bực bội đối với trí tuệ thông minh dị thường của bà Lâm triều

Anh, đành phải chịu thua và bỏ không nghiên cứu thêm nữa.

Sau 10 năm, nhân cơ luận hội kiếm ở núi Hoa Sơn có đoạt được bộ "Cửu âm chân

kinh" là một sách hiếm có, kỳ lạ về vô học, ông thề chẳng luyện tập theo kinh sách

này. Nhưng để thỏa mãn tính háo kỳ, ông lại đọc qua ít lần.

Võ nghệ của Vương-trùng-Dương thời ấy đã là đệ nhứt trong thiên hạ. Vì thế, chỉ đọc

qua những thiên trong Cửu âm chân kinh là ông đã quán thông được hết những tình

tiết bí ảo trong đó sau 10 ngày suy ngẫm.

Bỗng nhiên quán thông, ông sung sướng ngẩng mặt lên trời cười hả hê một hồi, rồi trở

lại Mộ đài, tìm đến căn phòng bằng đá bí ẩn nhứt, khắc lên nóc nhà những yếu chỉ

của Cửu âm chân kinh mỗi ngón đều phá được võ thuật Ngọc-Nữ tâm kinh của bà

Lâm-triều-Anh. Ông lại còn ghi mấy câu ở dưới ngón tay trong bức hình của ông với

ngụ ý muốn cho hậu sinh, nếu ai có duyên lành sẽ biết được rằng võ thuật của

Toàn-Chân phái không phải hoàn toàn bị võ thuật Ngọc nữ tâm kinh chế khắc được

hết cả, và vị tổ sư sáng lập ra Toàn chân môn phái đã sáng tạo ra được võ pháp lại rồi.

Lúc rời khỏi mộ đài ông có ghi lại trên một phiến đá trên núi Chung-Nam những lời

ai điếu của ông với bà Lâm-triều-Anh, hiện còn để lại bút tích.

Lúc đó ông hồi tưởng lại những lời ông đã ghi chú ở bức họa hình ông tại cổ mộ đài,

thấy rằng lời lẽ ẩn ý khó hiểu e rằng hậu nhân thuộc cổ mộ môn phái vị tất đã có

người lãnh hội nổi. Nhưng nếu nói rõ ra thì chẳng hóa ra là làm tiết lộ cho đời biết

môn đệ nhứt kỳ thư trong thiên hạ sao?

Trong lúc ông đương phân vân như thế, có một phu nhân nước mắt chảy ròng, nức nở

khóc, đến trước ông, dáng điệu rất sầu thảm. Ông hỏi thì được biết ngời ấy là họ

Tôn, xa kia đã cùng với bà Lâm-triều-Anh là đôi bạn cùng phiêu bạt giang hồ đã

từng cứu giúp nhau. Phu nhân họ Tôn được biết bà Lâm-triều-Anh đã qua đời nên

thượng sơn đến cầu xin cho được làm lễ ai điếu tại Mộ đài để giữ trọn tình bằng hữu.

Vương-trùng-Dương thấy phu nhân kia nếu quá động, bèn chỉ cho đường đi nước

bước khả dĩ vào được mộ đài.

- Ta có mười sáu chữ truyền cho, phải nhớ kỹ lấy và chẳng được tiết lộ cho ai hay.

Đến giờ lâm chung chỉ được trao lại cho người chủ nhân mới của mộ đài thôi.

Phu nhân kia cúi đầu tạ lễ, rồi lẩm nhẩm đọc thật kỹ ghi khắc vào lòng. Bà theo

đường đi nước bước vào mộ đài để làm lễ ai điếu. Rồi vì cảm nghĩa ả Hoàn bà ta mà ở

lại luôn trong Mộ Phu nhân đó chính là Tôn bà vậy.

Tôn bà đem mười sáu chữ kia viết vào một miếng vải trắng khâu vào trong chiếc áo

bông mà lúc lâm chung đã trao lại cho Dương-Qua, mười sáu chữ ấy là: mười sáu chữ

mà Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ đã đọc được khi xét chiếc áo lông cừu.

Tôn bà không phải là người thông minh cho lắm nên không hiểu được dụng ý nói đến

những điều bí ẩn chứa trong căn phòng bằng đá kia.

Vương-Trùng-Dương và Lâm-triều-Anh đều là hai bực kỳ tài vang danh một thời đã

để lại cho đời những ngón tuyệt diệu. Đáng tiếc thay tình vừa chớm nở, thì vì truyện

tranh luận võ nghệ mà đôi bạn trở nên nghịch với nhau. Nếu hai bên hợp tác được thì

sự nghiệp để lại cho đời sau còn đẹp đẽ hơn nhiều.

Vì nghịch nhau như thế nên về sau người thì phải xuất gia mặc áo vàng làm một kẻ tu

hành, người thì ôm uất hận cho đến lúc chết tại chốn Mộ đài.

Từ chỗ yêu thương đã trở thành thù nghịch.

Dẫu đã xa nhau nhưng còn vương vấn tơ lòng.

Ôi chữ tình càng gỡ càng vương. Thương nhau nhiều, ghét nhau lắm, càng oán nhau

thì tơ lòng càng buộc chặt. Tâm trạng đôi tri kỷ cứ mãi mãi như thế cho đến ngày

cùng đem thân chôn chặt xuống tuyền đài.

Lâm-triều-Anh thì sáng lập ra "Ngọc-nữ tâm-kinh" để chế khắc Toàn Chân võ thuật.

Vương-trùng-Dương cũng chẳng chịu thua, lấy Cửu âm chân kinh chống lại.

Vương-trùng-Dương tự thấy mình phải thua kém bà một bực, nên từ đó ông càng

khiêm nhường, thường nhủ các đệ tử phải khắc kỷ hư tâm, sống âm thầm chẳng nên

xuất đầu lộ diện.

Tiểu-long-Nữ mới nhìn qua đã biết đuợc lối thoát bí mật của Mộ đài, khổ nỗi đã bị

điểm huyệt nên có biết cũng chẳng làm gì được nữa. Nàng hối hận sao lại mải mê

truyện trò với Dương-Qua, mà chẳng sớm tìm lối thoát bí mật kia ra khỏi Mộ đài.

Toàn thân nàng nhiệt độ mỗi lúc một tăng. Liếc mắt nhìn lên đồ hình trên nóc nhà,

nàng thở dài. Đưa mắt về phía bên mặt nàng đọc thấy mấy câu về "Cửu âm chân kinh"

bỗng nhiên nhìn thấy 4 chữ "giải huyệt bí huyết", mắt nàng đột nhiên sáng ngời lên.

Nàng lạnh lùng vừa đọc vừa suy ngẫm, bỗng nhiên nàng tỏ ra vui mừng vô hạn. Nếu

người không tự kềm chế được thì có lẽ nàng đã thốt nên những tiếng reo mừng.

Đại khái thì bí quyết ấy nói về những nguyên lý khi luyện nội công làm cho hỏa khí

tụ đan điền, các đường huyệt đạo đều ngưng lưu thông vì đã dồn vào tới đó. Còn đối

với người đã từng tập luyện tới "Cửu âm chân kinh" các kinh lạc đều luân lưu điều

hòa, thông hoạt từ trên xuống dưới từ dưới lên trên, nhứt định không thể bị ai điểm

huyệt được.

Cứ lý ấy mà suy ra, huấn giáo này đã là bùa cứu mạng cho Tiểu-long-Nữ trong lúc

khốn đốn này.

Nàng suy đi nghĩ lại, thấy dầu mình có khai thông được huyệt đạo cũng chẳng ích gì

vì làm sao mà địch nổi sư tỷ Lý-mạc-Thu. Nàng lại đọc kỹ đoạn kinh văn ghi trên nóc

nhà, có đoạn chỉ giáo cho phương thế, nếu biết và sử dụng được, thì hễ xuất thủ là có

thể chế ngự được các ngón của Lý-mạc-Thu. Huấn giáo chỉ từ đầu xuống chân, từ

chân lên đầu, cả thảy hai đoạn, công phu luyện tập thực là dễ dàng, nhưng cũng phải

10 ngày mới thành thuộc được.

Lòng nàng miên man suy nghĩ, ngoảnh nhìn về phía Dương-Qua thấy hắn đang rét

run lên bần bật. Có lẽ giờ này chất độc của ngân châm đang thấm vào mãnh liệt.

Những lúc nguy cấp thường là những lúc phát sinh tâm trí sáng suốt. Chính giữa lúc

khốn này nàng đã âm thầm học đến nhập tâm hai đoạn "giải huyệt bí quyết" và "bế

khí bí quyết" của Cửu âm chân kinh.

Nàng ghé mồm vào tai Dương-Qua nói rất nhỏ cho nó biết.

Dương-Qua vốn dĩ là người thông minh, lanh lợi nên nói sơ là nó đã hiểu hết.

Tiểu-long-Nữ vẫn khe khẽ nhấn mạnh:

- Trước hết phải làm cho thông huyệt đạo.

Dương-Qua khẽ gật đầu.

Lúc bấy giờ căn phòng bằng đá tối đen như mực, hai thầy trò Lý-mạc-Thu ở lại đó để

đợi hai nguời bị độc được hành hạ cơ thể rang chín người đi, rồi phải nói ra tất cả

những điều bí ẩn chứa đựng trong Cổ mộ đài, nào có ngờ đâu họ đang âm thầm tìm

cách giải nguy và đối phó lại.

Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua cứ theo y như lời chỉ dạy của Vương-trùng-Dương để

giải huyệt bí quyết.

Hai người đã có sẵn cái vốn về nội công kha khá chỉ còn việc theo lời dạy về cách vận

khí khác thường, là trong giây lát đã làm thông hoạt được huyệt đạo.

Nàng nhè nhẹ thò tay lấy ở bọc ra hai viên "giải độc linh đơn" khẽ chuyền một viên

đưa vào mồm Dương-Qua còn một viên thì nuốt đi.

Nàng cử động rất là nhẹ nhàng khoan thai. Lý-mạc-Thu chẳng biết có pháp thuật gì

mà tự nhiên nhận thấy, vừa hai người trở lại bình thường chạy xô lại vừa quát:

- Chúng bây làm trò gì thế!

Tiểu-long-Nữ xuất chưởng, nhè nhẹ vỗ vào đầu Lý-mạc-Thu. Đó là một ngón đã vận

dụng điện lực của võ thuật Ngọc-nữ tâm-kinh, một ngón võ thượng thặng.

Lý-mạc-Thu hết sức kinh sợ vì việc xảy đến quá bất ngờ nên phải vội vàng nhảy lại

phía sau để cho áp lực giảm sút phần nào.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Chúng tôi muốn ra khỏi đây! Sư tỷ thế nào! Có ra hay ở?

Lý-mạc-Thu vẫn tự phụ là người võ nghệ cũng như tài sắc vô địch trong giang hồ, nay

lại bị một người vô danh tiểu tốt, đàn em, dở chưởng lực ra đối địch lại, thì lấy làm

uất giận lắm. Tuy thế cô ta chẳng dám giở giọng tự cao tự đại, sợ phật ý, nàng không

dẫn ra khỏi căn phòng nầy thì sẽ bị đánh chết ngộp ở chốn này sao.

Cô ta nghĩ bụng: mình võ nghệ ăn hẳn sư muội, cứ làm thế nào cho nó dẫn mình ra

khỏi, lúc đó hãy sửa trị cũng chẳng muộn gì. Nó cũng có ít ngọn hiểm độc lạ thường,

nhưng những ngọn ấy cũng chẳng ăn thua gì. Nghĩ vậy cô ta cố nén giận, cười khẽ

nói:

- Cô tiến bộ lắm rồi đó, ta phục cô gấp bội. Thôi, bây giờ dẫn chị đi ra, nghe cô!

Dương-Qua rất tinh khôn, muốn nhân dịp ấy làm lạc hai thầy trò Lý-mạc-Thu mỗi

người đi mỗi ngả. Nó cũng tươi cười nói:

- Làm sao mà dẫn cả hai người cùng ra một lúc được. Cô nương tôi chỉ dẫn được từng

người một, đem người này ra rồi lại trở vào đón người kia.

Lý-mạc-Thu cũng tinh ý mắng át:

- Thôi mày! Hẳn tạm im cái mồm đi!

Tiểu-long-Nữ chưa thông cảm được tinh ý của Dương-Qua.

Tuy vậy nàng vẫn chiều theo ý nó đáp lại Lý-mạc-Thu:

- Chỉ dẫn một người một thôi. Hai người, cùng đi một lúc thì không được.

Dương-Qua cười ra vẻ cởi mở thú vị lắm, nói:

- Thưa sư bá, sư bá cho sư tỉ tôi theo chúng tôi ra trước có được không ạ!

Lý-mạc-Thu nuốt giận chẳng thèm đáp nửa lời. Dương-Qua lại tiếp:

- Thôi sư bá đã bằng lòng rồi, chúng ta cùng đi cho sớm. Cô nương đi trước dẫn

đường tiếp đến là tôi và sau đó ai muốn nối chân theo cũng được.

Bấy giờ Tiểu-long-Nữ đã lãnh hội được ý Dơng-Qua, chỉ mỉm cười không nói gì cả,

nắm tay Dương-Qua bước dần ra khỏi thạch thất. Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba tuy

không nói gì với nhau nhưng cả hai đều ái ngại chỉ sợ bất thình lình thầy trò

Dương-Qua vận chuyênr máy móc đổ sập một cửa đá ngăn cách chia ly mỗi người

một nơi thì nguy to. Cho nên cả hai đều sát cánh nhau đứng song song tại cửa, lăm le

chen chân bước đi trước.

Thấy thái độ của học trò như thế, Lý-mạc-Thu nổi nóng quát lớn:

- Nghiệt súc, mi toan chen lấn cùng ta chăng?

Nói xong, nàng đưa tay trái nắm chóp đầu Hồng-Lăng-Ba.

Hồng-Lăng-Ba vốn biết sư phụ mình hễ đã ra tay thì vô cùng hiểm độc cho nên vội lùi

ra sau một bước, lòng vừa lo sợ vừa bực tức không dám nói một lời.

Lý-mạc-Thu nối gót liền theo sau Dương-Qua không rời gang tấc. Phía trước

Tiểu-long-Nữ thoăn thoắt bước đi quanh qua quẹo lại và mỗi lúc lại đi vào con đường

thấp hơn. Một chặp sau nàng cảm thấy dưới chân ẩm ớt, biết rằng đã ra khỏi Cổ-mộ

Đài, thoạt trông phía trước có nhiều ngã ba đường. Bất thình lình đường đi tuột xuống

thật sâu thăm thẳm. Cả bốn đều là những tay võ công thượng thặng dày công tập

luyện nội công, quen với biến chuyển bất ngờ ứng phó vô cùng lanh lợi, chứ nếu là

tay tầm thường thì có lẽ đã sa chân lăn xuống vực sâu rồi.

Vừa đi Lý-mạc-Thu vừa ngẫm nghĩ:

- Núi Chung-Nam Sơn nào có cao gì cho lắm mà ta cứ quanh mãi trong lòng núi như

thế này, không biết bây giờ đang đứng đâu.

Một chặp sau lối đi bằng phẳng dần và ngập cả nước. Càng đi nước càng lên cao dần,

không mấy chốc đã cao quá gối. Sau đó nước lên tới hông, tới bụng, quá ngực rồi dần

dần lên cổ họng.

Tiểu-Long quay lại khẽ hỏi Dương-Qua:

- Mi đã nhớ kỹ bí quyết bế khí rồi chứ?

Dương-Qua không trả lời sợ họ nghe thấy, chỉ lặng lẽ gật đầu mấy cái ngụ ý đã thuộc

kỹ rồi.

Tiểu-long-Nữ dặn nhỏ thêm Dương-Qua đừng trò chuyện dưới nước và chờ nàng lấy

hơi một lúc rồi từ từ đi tới.

Dương-Qua vừa bước theo vừa khẽ đáp:

- Cô nương khỏi bận trí về tôi, cứ yên tâm mà đi.

Tiểu-long-Nữ gật đầu xăm xúi bước mau hơn. Nước đã lên quá cổ, mọi người phải

ngậm miệng để khỏi sặc.

Lý-mạc-Thu run sợ khẽ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Sư muội biết bơi đấy sao?

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Từ bé đến lớn, tôi sống trong Cổ mộ đài chưa bước chân đi xa, làm sao mà biết bơi

được?

Nghe nói thế Lý-mạc-Thu cũng hơi vững bụng, yên tâm bước theo. Thình lình gặp

chỗ sâu bất ngờ, nàng giật mình sụt chân xuống, hoảng hốt hả miệng uống một ngụm

nước và đi chậm một chút. Trong khi ấy Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua vẫn điềm nhiên

bước tới, giữ đúng bí quyết kềm hơi định khí. Lý-mạc-Thu cảm thấy run sợ vô cùng

nhưng vì đã trót lỡ nên cũng đành nhắm mắt đưa chân.

Bỗng hình như có người ghì lại phía sau. Nhìn lại thì Lý-mạc-Thu thấy Hồng-lăng-Ba

đã ghì chặt áo mình. Nàng cố sức gỡ ra, nhưng cứ nhùng nhằng mà không thoát khỏi.

Phàm người ta khi gặp sự nguy hiểm đe dọa, thì ý chí tự vệ nổi lên, ai cũng cố liều

chết bám lấy cái sống. Giòng nước mỗi lúc càng chảy lạnh, sức mạnh ồ ạt, tiếng reo

như thác lũ. Hồng-lăng-Ba và Lý-mạc-Thu bị nước cuốn đi trôi nổi bập bềnh.

Lúc thường bình tĩnh bao nhiêu thì bây giờ càng cuống cuồng lên bấy nhiêu.

Lý-mạc-Thu giẫy dụa, quơ quàng bậy bạ, đụng gì chộp nấy, gặp cái gì cũng níu lại.

Đột nhiên nàng nắm được một vật mềm mềm vội túm chặt lấy, nhìn lại là chớp vai

của Dương-Qua.

Trong lúc đang nắm tay Tiểu-long-Nữ bình tĩnh nín hơi bước tới, Dương-Qua bị chộp

bả vai bỗng giật mình cố gỡ ra nhưng Lý-mạc-Thu lại níu chặt thêm. Ngại cử động

mạnh hô hấp không đều, nước có thể vào miệng mũi được nên Dương-Qua cố gắng

đi, mặc kệ nàng bám bên vai.

Bốn người nối tay kéo nhau bước tới mặc tình cho nước cuốn sống nhồi.

Độ nửa giờ sau vì nín thở quá lâu cả hai thầy trò Lý-mạc-Thu cảm thấy ngộp hơi,

không chịu nổi nữa. Nhưng may sao nước bỗng chảy chậm và cạn dần xuống tới cổ.

Đi thêm một lúc nữa nhìn trước mặt thấy ánh sáng do một cửa động từ từ chiếu lại.

Cố gắng bước tới cửa động cả hai cảm thấy mệt lả, vội ngồi trên tảng đá vận khí trục

bớt số nước uống lỡ vào bụng và ngồi thở hào hễn.

Tiểu-long-Nữ dùng ngón độc của Lý-mạc-Thu đã hại mình trước kia, lẳng lặng đưa

tay điểm vào yếu huyệt của hai thầy trò khiến cả hai mềm nhũn rồi đem đặt trên một

tấm đá tròn, để nằm ễnh bụng lên cho nước từ từ thoát bớt ra ngoài.

Một chặp sau thầy trò Lý-mạc-Thu từ từ tỉnh lại hé mắt nhìn thấy ánh sáng chiếu vào

mặt đoán chắc đã ra khỏi Cổ mộ đài, chưa rõ Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã tỉnh

trước chưa, e rằng họ có thể dùng vũ lực phục thù thì nguy hiểm lắm. Sau khi bị ngâm

nước lâu, cả hai đều cảm thấy lạnh run, hai hàm răng đánh cồm cộp. Tuy nằm yên

nhưng cả hai cảm thấy chân tay rũ liệt và bắp thịt hầu như muốn tan rã đi hết.

Lúc nãy Tiểu-long-Nữ đã vận nội công điểm huyệt, nếu không cao thủ biết rõ lối giải

của Vương-trùng-Dương thì ít nhất cũng cần qua bốn mươi chín ngày mới tự giải

quyết được.

Tiểu-long-Nữ hỏi Lý-mạc-Thu:

- Trước khi chia tay, sư tỷ có cần dùng gì thì cứ bảo.

Lý-mạc-Thu tuy bị điểm huyệt nhưng trí khôn vẫn còn sáng suốt, nghe hiểu được mọi

việc, nhưng nàng chỉ nhìn Tiểu-long-Nữ với cặp mắt vừa vui mừng vừa bực tức.

Hỏi xong Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ xoay mặt kẻ trước người sau bước ra đi.

Đưa mắt nhìn chung quanh mình. Dương-Qua thấy tư bề cây cối tươi xanh, lá phủ mát

rợi, ánh sáng chiếu lập lòe trong lòng cảm thấy nôn nao dâng lên một niềm thú vị.

Dương-Qua vui vẻ hỏi Tiểu-long-Nữ:

- Cảnh đẹp quá Cô nương nhỉ?

Tiểu-long-Nữ chỉ nhìn nó rồi mỉm cười không đáp.

Hồi tưởng lại cảnh tượng vừa trải qua cả hai cùng cảm thấy chùng mình ngao ngán,

nhưng giờ đây đứng trước cảnh trời mây bao la thì lòng càng thêm hân hoan rào rạt.

Một lúc sau cả hai thấy mỏi mệt nằm dưới gốc cây, gió mát thổi hiu hiu, ngủ thiếp đi

một giấc thật ngon lành.

Nơi đây là một cửa động ở tại chân núi Chung-Nam-Sơn, tứ bề hoang vu tịch mịch,

cây cối um tùm ít người lai vãng. Qua một lúc hai người chợt tỉnh dậy, bấy giờ chất

độc của ngân châm đã tiêu hết không còn lạnh buốt như trước nữa, trong người cũng

hết nhức mỏi, chân tay được thu thới nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái.

Dương-Qua ngỏ ý muốn đi du ngoạn để nếm mùi siêu thoát của cảnh rừng nội mây

ngàn bù lại những giờ phút gian nguy dưới vuốt tử thần. Nhưng Tiểu-long-Nữ từ tấm

bé nào biết được cái thú đó cho nên lòng nàng không hề nghĩ đến. Nàng tỏ ý không

bằng lòng và khuyên Dương-Qua để thì giờ tập luyện võ công, nhất là thuật "Ngọc nữ

tâm kinh" trong thời gian bị bỏ dở.

Đối với Dương-Qua thì ý kiến nào của thầy cũng là chí lý nên hắn vui vẻ tán thành

ngay. Hai người đưa nhau vào rừng sâu, tìm nơi cảnh đẹp vừa mát mẻ vừa hoang

vắng, cùng nhau đắp nền, cắt tranh chặt cây dựng nên một túp lều để ban ngày nghỉ

ngơi. Và đêm đêm cả hai đưa nhau vào rừng sâu tìm nơi thật hoang vắng, cây cối rậm

rạp rồi mỗi người một bụi xung quanh che kín, trút cả y phục, lõa thể để rèn luyện nội

công "ngọc nữ tâm kinh".

Ba tháng trời lặng lẽ và êm đềm trôi qua. Tiểu-long-Nữ rèn luyện đã tinh thục. Một

thời gian sau nữa Dương-Qua cũng theo kịp. Lúc bấy giờ hai người cùng nhau luyện

võ bằng cách đấu với nhau. Tất cả các môn đều được Tiểu-long-Nữ tận tình chỉ dạy,

chẳng mấy lúc mà Dương-Qua tập luyện lão thông.

Trong những phút nhàn rỗi Dương-Qua đem những chuyện nhân thế ra bàn luận.

Từ tấm bé Tiểu-long-Nữ đã sống một cuộc đời hư tâm tòng đạo không mảy may

vướng nghiệp hồng trần, lòng lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thoát. Nàng thấy

Dương-Qua thường đưa những câu chuyện bên ngoài ra nói, biết nó khó sống mãi

trong cảnh rừng núi hoang vu cô tịch như thế nầy, cho nên có lúc nàng tìm cách hỏi

để dò ý:

- Dương-Qua, đến nay chúng ta luyện tập đã tiến bộ nhiều. Mi so sánh xem giữa ta và

bác Quách-Tỉnh gái tài nghệ ai hơn ai kém.

- Cả hai đều giỏi cả, nhưng so với cô nương chắc cũng không hơn nổi đâu.

Tiểu-long-Nữ nói:

- Bác Quách-Tỉnh đem hết võ công truyền lại cho vợ ngoài ra còn truyền cho hai anh

em họ Vũ nữa. Nếu ngày sau gặp nhau, chắc thế nào chúng ta cũng bị mang nhục vì

thảm hại.

Nghe nói Dương-Qua như tức nghẹn lời. Một lát hắn trợn mắt đưa tay quả quyết nói:

- Thưa Cô nương, nếu họ làm nhục ta thì tôi nhất định không bao giờ để họ ở yên đâu.

Nàng lạnh lùng nói:

- Sức mi làm sao địch nổi họ. Thôi đừng suy nghĩ làm gì cho bận tâm.

Dương-Qua vẫn cãi:

- Nhưng họ làm thương tổn danh dự tôi thì không thể nào làm thinh được.

Tiểu-long-Nữ lắc đầu nói tiếp:

- Sức ta nhắm không địch nổi bác Quách-Tỉnh gái đâu.

Dương-Qua lẩm bẩm:

- Phần tôi thì nhất định không thế nào so tài được với Bác Quách-Tỉnh trai rồi. Ngay

như bộ hạ của bác cũng toàn là cao thủ cả!

Tiểu-long-Nữ lặng nhìn nó một chập và nghĩ thầm:

- Bao năm qua sống bên cạnh mình, Dương-Qua đã chịu ảnh hưởng, bản tính lạnh

lùng của mình và cuộc sống thanh đạm trong Cổ mộ đài quá nhiều nên tánh nông nổi

của nó ngày nay cũng giảm bớt nhiều lắm.

Thật ra bản chất nóng nảy của Dương-Qua vẫn chưa thay đổi chút nào. Sở dĩ bây giờ

nó đã lớn tuổi, có chút ít kinh nghiệm và óc suy nghĩ, cho nên nó thốt ra câu ấy vì

nhận thấy trước kia Quách-Tỉnh trai đã tận tình chăm sóc và thương yêu nó. Bản chất

của nó lúc nào cũng muốn dĩ ân, trả ân, dĩ oán, trả oán, ân oán phân minh để giữ lẽ

công bằng, trọn tình nghĩa mà thôi.

Tiểu-long-Nữ hỏi tiếp:

- Nhưng nếu sức họ không địch nổi mi thì mi tính sao?

Dương-Qua đáp:

- Thưa cô nương, giữa họ và chúng ta không thù không oán vì dầu tài nghệ tôi có trội

hơn mà họ không khiêu khích thách đấu thì khi nào tôi tự nhiên xuất thủ được.

Tiểu-long-Nữ gật đầu từ từ nói:

- Phải, giữa mi và họ không oán không thù, mi cư xử như vậy thật là phải lắm. Nhưng

giữa nhóm người trên Đào Hoa Đảo và ta, tuy không mảy may liên hệ, nhưng gặp

nhau chưa chắc họ chịu để yên đâu.

Nghe nói Dương-Qua giật mình vội hỏi:

- Sao giữa gia đình đó và cô nương có kết thân thù oán hay sao. Họ có ý khinh miệt

cô nương từ lúc nào. Xin cô nương nói rõ cho nghe.

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:

- Giữa họ và ta không hề quen biết. Nhưng giữa Quách-Tỉnh và phái Toàn-Chân có

cựu tình sâu sắc. Ta đã ra tay cùng các đạo sĩ Toàn-Chân, như thế lẽ nào Quách-Tỉnh

không tìm cách rữa hận, không bao giờ để ta yên thân.

Dương-Qua giật mình nhưng bặm môi nói lớn:

- Cô nương đừng lo, mặc dầu họ tài giỏi đến đâu, nhưng nếu một khi họ dám động

đến cô nương thì Dương-Qua này dầu phải đổi mạng cũng liều sống chết với họ một

trận.

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Nhưng tức thay bọn ta chưa đủ tài đủ sức để cự đương cùng họ!

Vốn có khiếu thông minh lanh lợi tuyệt vời, nên Dương-Qua thoáng nghe đã hiểu

ngay ý muốn của sư phụ nên nó mỉm cười nói:

- Thưa Cô nương, hiện nay bọn ta còn yếu sức, nhưng nếu chịu khó luyện tập hết điều

di huấn của Vương-trùng-Dương thì chắc chắn bọn Đào Hoa Đảo không đủ sức chống

lại ta.

Tiểu-long-Nữ mừng rỡ, mắt nhìn nó cười tươi như hoa và nói lớn:

- ồ, nếu được vậy thì họ có ba đầu sáu tay cũng khó cự được với ta, phải không?

Thầy trò đắc ý cười vang, lòng hân hoan sung sướng đầy tự tin và hy vọng.

Chỉ mấy lời ấy mà Dương-Qua quyết tâm tiếp tục cuộc sống cùng Tiểu-long-Nữ tại

chốn thâm sơn cùng cốc nầy đến hơn một năm sau nữa.

Trong khi bị điên đảo tại thạch thất trong Cổ mộ đài, Tiểu-long-Nữ đã chú ý xem và

học thuộc lòng tất cả các dấu hiệu bí quyết của Cửu âm chân kinh. Nhờ lòng lúc nào

cũng thanh thoáng sáng suốt không mảy may bận rộn vì ngoại cảnh, thêm óc thông

minh tuyệt vời và lòng kiên nhẫn vô kể nên Tiểu-long-Nữ đã chú ý là thông hiểu

ngay. Chẳng phải như mẫu thân của Hoàng-Dung trước kia, tuy thông minh nhưng chỉ

đọc để mà nhớ, không suy nghiệm thấu đáo và không giữ được lòng yên tịnh cho nên

dù học thuộc lòng vẫn không bổ ích và lúc chết đi chỉ mang theo một mớ lý thuyết,

chưa rõ được kỳ diệu tinh xảo của Cửu-âm chân-kinh.

Một năm trôi qua, cả hai đã luyện được nội ngoại thần công tinh diệu, bản lãnh tiến

thêm một mức khá dài.

Họ bẻ những cành cây non mềm mại song đấu với nhau. Họ luyện chuyển nội lực vào

các cành cây mềm yếu với mục đích trau dồi nội công thành thục, dầu gươm cứng dao

bén đâm vào cũng chẳng nghĩa lý gì.

Nhưng một hôm nọ, sau khi tập luyện xong, Tiểu-long-Nữ có vẻ âu sầu dã dượi khác

thường. Sắc mặt nàng luôn luôn đăm chiêu suy nghĩ không nói chẳng cười.

Dương-Qua lo lắng tìm cách khơi chuyện để nàng tiêu sầu giải muộn nhưng vẫn

không kết quả. Nét mặt nàng lạnh lùng và ảm đạm làm sao.

Dương-Qua tự biết đến nay đã luyện tập chu đáo tất cả những bí quyết của pho Cửu

âm chân kinh rồi, nhưng muốn đạt được mức tinh diệu của pho võ công nầy thì dầu

tốn hao hàng trăm năm công phu chưa chắc đã tới chốn. Nhưng với căn bản sẵn có,

nếu muốn tiếp tục trau dồi thì bản lĩnh sẽ tiến bộ đến chỗ siêu việt lên mãi.

Ngày nay đối với Tiểu-long-Nữ, nó tự thấy không còn lý do gì phải tiếp tục chung

sống cùng nơi chốn nầy nữa. Như thế thì sau khi nó hạ sơn, còn một mình nàng thui

thủi nơi chốn hoang vu nầy, làm sao nàng không buồn rầu đau đớn.

Nghĩ đến đó nó thấy tâm tư rung cảm, vội đến gần nàng thỏ thẻ hỏi:

- Thưa cô nương, nếu tôi không muốn hạ sơn và tình nguyện cùng cô nương sống mãi

nơi đây cho đến mãn đời, chẳng hay cô nương có bằng lòng không?

Mặt đang buồn rầu, Tiểu-long-Nữ vụt sáng lên, hớn hở nói ngay:

- Nếu được vậy, còn gì sung sớng cho bằng!

Vừa nói xong nàng bỗng nín ngay và giữ yên lặng. Trong lúc quá vui mừng nàng

không kiềm chế được lòng mình đã bộc lộ tâm tư, nghĩ lại thấy ngượng nên không nói

thêm được gì nữa.

Riêng phần Dương-Qua, tuy thương thầy nói nh thế nhưng lòng lại nghĩ khác. Bây

giờ lỡ đã nói ra khó nổi thu lại. Nhưng nó đinh ninh sẽ tìm cách đính chánh hoặc sửa

đổi chút ít. Vì vậy mà lúc nào nó cũng suy tư và chiều đó không ăn cơm, cũng chẳng

nói năng gì thêm. Tối đến nó lủi thủi vào một góc lều tranh nằm khoanh rồi ngủ thiếp

đi lúc nào không biết.

Túp lều tranh được xây dưới gốc cây tùng lớn để nhờ bóng mát và núp gió. Từ trân

các cành tùng, nhưng bó giây leo chằng chịt lòng thòng, thêm những giây hoa rừng đủ

màu sắc rực rỡ bó lòng từng tua ngũ sắc bao phủ xung quanh trông như một chùm

hoa. Ngoài ra Dương-Qua đi tìm các loại hoa cúc hoa hồng trồng xung quanh hè, nay

đã cao lớn trổ bông rực rỡ vừa đẹp mắt vừa thơm ngào ngạt. Nhưng tất cả bông hoa

tươi thắm đều dành trang trí cho phòng của Tiểu-long-Nữ, còn riêng phía bên mình

thì để trống trơn.

Tuy nhiên ở bên trong, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ sạch sẽ và đơn giản vô cùng.

Thấy cô nương không được vui vẻ lắm nên Dương-Qua cảm thấy rầu rầu chậm bước

đi qua đi lại trước cửa lều suy ngẫm mãi rồi nhìn trăng lên thật cao khỏi núi mới vào

ngủ lại.

Ngủ luôn một hơi đến nửa đêm nó đang mơ màng bỗng nghe tiếng khiêu khích và

bước chân vang động gần đâu đấy, hình như có người đang đấu với nhau.

Nó bỗng giật mình choàng dậy, lắng tai nghe, quả là có ạt hòa với những đòn quyền

liên hồi không ngớt. Nó vội vã chạy qua phòng Tiểu-long-Nữ khẽ gọi:

- Cô nương, cô nương ơi, cô có nghe gì không?

Lúc bấy giờ không có tiếng đáp lại mà tiếng động và chưởng lực càng gia tăng thêm

nhiều. Ngày thường Tiểu-long-Nữ vốn tỉnh ngủ, nếu gọi như thế là tỉnh dậy ngay

nhưng chẳng hiểu vì sao lần này gọi mãi không thấy trả lời. Gọi thêm mấy tiếng nữa

không được, Dương-Qua tống cửa bước vào chỉ thấy giường không mà nàng đi đâu

mất.

Dương-Qua hối hả vội vàng phi thân phóng về phía có tiếng động. Chạy hơn mười

trượng vẫn chưa thấy người, chỉ nghe tiếng gió của chưởng lực phát ra. Hắn nhận ra

luồng chưởng yếu hơn là của Tiểu-long-Nữ, còn luồng chưởng của địch thủ thì có vẻ

hùng hậu và mạnh mẽ hơn nhiều.

Nóng ruột quá, Dương-Qua tăng thêm tốc lực, tung người phi mau như gió cuốn.

20. Một sự hiểu lầm ngàn trùng cách biệt

So với mấy năm về trước, thuật khinh công của Dương-Qua đã tăng tiến phi thường.

Chẳng bao lâu đã vượt qua hết một thung lũng, thoáng nhìn đàng xa, dưới bóng trăng

rõ ràng bóng trắng dịu dàng uyển chuyển của Tiểu-long-Nữ đang lẹ làng đấu với một

người lạ mặt chẳng rõ là ai, từ đâu đến. Nghệ thuật của nàng có vẻ kỳ ảo nhẹ nhàng

như vờn hoa, nhưng nội lực thì còn kém sút nhiều người lạ mặt. Đối phương tung

những đường quyền cước hùng hậu, chắc nịch, chưởng lực cao cường như muốn áp

đảo nàng.

Dương-Qua kinh hãi phi thân đến gần, miệng la lớn:

- Cô nương, đã có tôi đến đây.

Đến cạnh hai người nó định thần nhìn kỹ tướng mạo người kia, bên má đầy lông mọc

lởm chởm, da nhăn, sắc diện kỳ quái, rõ ràng là Âu-dương-Phong, cha nuôi của nó từ

thuở nào. Âu-dương-Phong đứng nghiêm một chỗ vững như bàn thạch, hùng dũng như

trái núi, chưởng lực tung ra cực kỳ mãnh liệt. Tiểu-long-Nữ luôn luôn uốn mình né

vòng quanh không dám công nhiên đối chiến.

Dương-Qua vội la lớn:

- Xin ngừng tay lại, cùng là người trong nhà cả đấy mà!

Tiểu-long-Nữ ngạc nhiên tự nghĩ:

- Lão già quái gở mặt đầy lông như thế nầy sao gọi là người nhà được nhỉ?

Tâm trí bất thường bị lũng đoạn, nàng phát chưởng lực không đều nữa.

Âu-dương-Phong thừa dịp hạ tay trái xuống bụng tung ra một chưởng mạnh vô song.

Một luồng gió tạt ngang qua mặt nàng. Dương-Qua phi thân lại gần, thoáng qua

chưởng lực thấy rõ sức sư phụ còn kém thua nghĩa phụ xa lắm, nếu để trận đấu kéo

dài Tiểu-long-Nữ thế nào cũng bị nội thương nặng.

Lập tức nó chuyển nội lực ra đầu 5 ngón tay, xuất chưởng quét nhẹ qua bụng dưới của

Âu-dương-Phong, đúng theo ngón "Thủ huy ngủ huyền" vừa học được trong Cửu âm

chân kinh. Mặc dầu nó luyện chưa thuần thục lắm nhưng vì sử dụng đúng quy tắc cho

nên ảnh hưởng vô biên. Tác dụng của chưởng lực đã làm cho Âu-dương-Phong mệt

nhoài như muốn rã rời tay chân.

Tiểu-long-Nữ thấy thế địch suy yếu, do thế công chớp nhoáng của Dương-Qua, liền

tức thời khỏi thế công mạnh hơn. Chỉ nháy mắt Âu-dương-Phong xuất phát chưởng

lực yếu ớt, toàn thân như không còn đủ sức đề phòng vệ chưởng lực của đối phương,

như người bị trọng thương.

Dương-Qua lấy tay bắt lấy tay sư phụ ngăn không cho chưởng lực phát xuất nữa, nó

đứng giữa hai người, cười và nói:

- Xin hai vị đình chiến, hai vị đều là thân thích với tôi cả.

Âu-dương-Phong chưa nhận ra nó, chỉ thấy võ nghệ của nó cao cường lạ lùng, không

dám coi thường. Tuy vậy ông giận dữ nói:

- Mày là ai? Sao lại bảo là người thân thích?

Dương-Qua đã biết ông ta nhiều khi phát khùng, hoặc có thể ông ta quên chăng, nên

nói lớn:

- Nghĩa phụ ơi! con đây! con của cha đây mà!

Mấy tiếng ấy có tác dụng khích động tình cảm làm Âu-dương-Phong ngơ ngác, lấy

tay nắm tay nó dắt ra chỗ có ánh trăng để nhận diện. Ông đã nhận ra được đứa con

nuôi mà từ bấy lâu nay ông đã mất công tìm kiếm khắp nơi chưa thấy. Bây giờ nó cao

lớn hơn, võ nghệ giỏi giang hơn, vì thế mà lúc đầu ông không nhận ra được.

Âu-dương-Phong thấy tình cảm Dương-Qua đối với mình chẳng hề mảy may dời đổi

liền ôm lấy nó nức nở nói:

- Con ơi! Ta khổ công biết bao mới tìm được con.

Rồi hai người ngồi ôm lấy nhau mà khóc.

Tiểu-long-Nữ từ tấm bé đến nay được đào luyện thành ra con người lạnh nhạt với hết

mọi sự đời, thấy tính tình Dương-Qua, cho rằng trên đời này chỉ có nó là nhiệt tâm

như lửa, nay lại thấy cả Âu-dương-Phong cũng thế nốt. Nàng rùng mình khi nghĩ đến

truyện hạ sơn, lẳng lặng ngồi yên ở cạnh đó, sầu tư mặc tưởng.

Năm xa, Âu-dương-Phong cùng với Dương-Qua chia tay tại Giang-Nam nơi đàn

miếu Lăng-hồ-Chấn, để đi đến Đại Chung cho Kha-trấn-ác một bài học mà rồi chẳng

nên trò trống gì. Ông tìm vận phép nội công thần diệu để sửa trị nội thương, 7 ngày 7

đêm thì vết thương bình phục. Nhưng toàn thân bị Kha-trấn-ác đánh nhừ tử nên khó

mà lấy lại sức được y như cũ. Ông khai một hồi chuông rồi đến dưỡng bệnh tại một lữ

điếm trong 20 ngày, được bình phục như cũ. Ông lại lên đường. Trước khi đi ông dặn

Dương-Qua bất cứ sự thế có đổi theo thế nào cũng phải báo cho ông biết nơi cư trú

của nó.

Một tháng sau, tấm thân nhỏ bé của nó giữa trời rộng đất dài, chẳng còn biết tung tích

ở đâu để mà nhắn tin nữa. Sau Âu-dương-Phong, dò la thì được biết nó đã ở

Đào-hoa-Đảo. Ông bẩm tính là người cương nghị, coi mọi việc khó khăn ở đời như

không, bèn kiếm một con thuyền nhỏ, bơi ra Đào-hoa-Đảo, chọn lúc đêm tối mới dám

ghé bến tại một nơi núi rừng ra đến biển. Ông cũng thừa hiểu, tại đảo Đào-Hoa

Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung không có thù nghịch gì với ông, nhưng chỉ ngán một

mình Hoàng-dược-Sư thôi (ông không hay tin Hoàng-dược-Sư đã rời Đào-Hoa-Đảo).

Tuy đảm lược của ông càng lớn tuổi càng to, song một người địch sao nổi được cả ba

tay cao thủ. Bởi vậy ban ngày ông ẩn nấp ở một chỗ hoang tịch trong đảo. Ban đêm

ông mới lần mò đi khắp đó đây để tìm Dương-Qua.

Cứ như thế, đã hai năm trời, ban ngày ông không ra khỏi động một bước, thực là vạn

phần thận trọng. Vì thế không ai biết rõ được tung tích ông. Một buổi tối kia, lén

nghe thấy anh em Vũ tu Văn chuyện trò với nhau, ông biết được Quách-Tỉnh đã mang

Dương-Qua đi gởi sang Toàn-chân môn phái học tập võ nghệ. Âu-Dương-Phong nghe

tin mừng rỡ khôn xiết, lập tức chèo thuyền lớn rời đảo Đào Hoa, hướng về phía

Trùng-Dương-Cung để dò la tin tức. Đến nơi, ông không hay biết gì về những chuyện

náo loạn đã xảy ra giữa Dương-Qua và Toàn Chân phái. Việc đó đã làm cho môn phái

này bị mang tiếng, nên trên giáo phái không ai hé môi nói lấy nửa lời. Lúc thì

Dương-Qua tiến nhập Hoạt-tử-Nhân mộ đài. Âu-dương-Phong đã dùng thiên phương

bách kế để dò la mà tuyệt vô âm tín.

Trong khoảng mấy năm trời, ông đã lê gót vòng quanh dãy núi Chung-nam-Sơn

không biết mấy vòng, vượt qua hàng trăm dặm đường mà đành thở dài và bặt tăm

chim cá. Nào có ngờ đâu lúc giờ chính là lúc Dương-Qua đang ở sâu dưới đất, nơi mộ

đài để luyện tập võ nghệ. Buổi tối hôm ấy, may thay trời xui đất khiến

Âu-dương-Phong đi ngang qua bên hông một hang núi, bỗng thấy xiêm y trắng của

một thiếu nữ, ngồi bó gối dưới ánh trăng mà thở dài. Ông liền tiến lại, như điên như

dại hỏi nàng rằng:

- Này! Con ta nó ở chốn nào? Cô có biết hay không?

Tiểu-long-Nữ đang lúc lòng rầu rĩ, thấy gã điên dại kia, chỉ liếc nhìn một cái rồi quay

lưng đi như không thèm đếm xỉa đến cho thêm bận.

Âu-dương-Phong xông về phía trước nắm lấy vai nàng, quát rằng:

- Con ta đâu nào?

Tiểu-long-Nữ qua cái nắm vai, biết rằng lão này công lực mạnh mẽ phi thường, võ

nghệ cao cường như chưa từng thấy, những tay cao thủ bên Toàn Chân phái còn thua

xa. Nàng không khỏi không kinh sợ. Sau nàng lấy tay dùng miếng gỡ ra được.

Âu-dương-Phong từ trước tới nay phàm đã xử dụng ngón nắm giữ này khó có đối thủ

gỡ được, nay lại bị miếng gỡ thực là nhẹ nhàng êm ái của nàng nên chẳng cần biết

nàng là ai vội nắm tay trái nàng. Thực chẳng có nguyên do gì to tát cho cam, hai

người bỗng dưng chiến đấu với nhau.

Dương-Qua Âu-dương-Phong mấy năm chẳng gặp nhau nào ngờ đâu có ngày gặp gỡ

này. Âu-dương-Phong thần trí nửa tỉnh nửa ngờ, như mở mắt còn ngờ chiêm bao.

Những chuyện quá khứ dường nh đã chìm đi trong lòng ông, không còn nhớ rõ nữa.

Nghe lời Dương-Qua thuật lại truyện xa xưa, ông cũng chỉ mang máng là thế. Chỉ biết

là mấy năm trời nay nó học võ nghệ Tiểu-long-Nữ. Ông đã cao niên, mà tâm tính

chẳng khác nào đứa trẻ thơ. Ông nói:

- Cô ta võ nghệ sao bằng ta được, tại sao con lại theo học cô ta làm gì, thôi để rồi ta

dạy cho con.

Tiểu-long-Nữ nghe rõ câu nói của ông, nàng vốn tính lãnh đạm đã quen nên, chỉ mỉm

cười, đứng tránh ra một bên.

Dương-Qua cảm thấy dưỡng phụ mình chẳng có ý tứ chút nào, nói lái đi:

- Thưa cha! Sư phụ đối với con rất tốt.

Âu-dương-Phong bỗng nhiên đố kỵ, nói lớn:

- ừ! cô ta tốt, còn ta không tốt sao?

Dương-Qua cười mơn nói:

- Cha tốt lắm chớ! Trên đời nầy chỉ có cha và sư phụ là tốt thôi.

Âu-dương-Phong ăn nói nhiều khi lẩm cẩm, nhưng Dương-Qua thầm biết rằng, qua

mấy năm đi tìm nó, ông đã trải qua thiên nan vạn khổ, thất vọng nên sinh lẩm cẩm

vậy.

Ông nắm chặt lấy tay nó hu hu khóc như một người khùng. Khóc miết một hồi, ông

nói:

- Võ nghệ con học được chẳng phải là tầm thường, rất tiếc là còn thiếu mất hai đại kỳ

công trên thế gian này.

Dương-Qua ngẩn người ra hỏi lại:

- Thế là những cái gì đó, cha?

Âu-dương-Phong chau mày trợn mắt, nói lớn:

- Cái người dạy võ con mà không cho con biết hai đại kỳ công ấy thì dại gì bái họ là

sư phụ, họ còn được đáng mặt gì?

Dương-Qua thấy ông chợt vui, chợt giận, trong lòng không hề phiền trách mà lại còn

sinh ra lo buồn. Nó nghĩ thầm:

- Cha ta bệnh hoạn đã xâm nhập, chẳng còn biết đến bao giờ mới khỏi được.

Âu-dương-Phong lớn tiếng cười khà khà:

- Thôi, để cha dạy hai đại kỳ công ấy. Một là Hàm-mô-công, hai là Cửu-âm

chân-kinh. Lúc con còn nhỏ, ta đã dạy con những ngón nhập môn, bây giờ con thử

biểu diễn lại cha coi chơi xem sao.

Dương-Qua từ khi nhập mộ đài đến nay cũng đã lâu rồi, không hề luyện lại võ thuật

kỳ quái kia. Nay nghe thấy Âu-dương-Phong nhắc tới, nó vui vẻ diễn lại. Hồi nó ở

Đào-Hoa Đảo thì đã luyện thuần thục rồi. Ngày nay thêm vào với sức nội công mới

luyện được thâm hậu hơn, chẳng khác nào hổ thêm vây cánh, giàn hoa có thêm viền

gấm.

Âu-dơng-Phong nhìn thấy thế, mừng rỡ lắm:

- Kỳ diệu! kỳ diệu đa! ta dốc hết những ngón điệu dụng của ta ra để truyền cho con,

nghe!

Rồi ông lấy ngón tay vẻ xuống đất những hình đồ, nói thao thao bất tuyệt, như không

bao giờ dứt, chẳng cần biết Dương-Qua có kịp nghe, kịp nhớ không?

Dương-Qua nghe ông nói được ít câu, lòng đã thấy kinh sợ, thấy mỗi câu mỗi tiếng

nói của ông là bao hàm diệu nghĩa vô cùng. Nhưng làm sao mà nghe đến đâu nhớ hết

ngay đến đó được. Tuy nhiên nhờ trí thông minh đặc biệt nó cũng ghi nhớ được ít

nhiều.

Âu-dương-Phong nói được một hồi, bỗng nhiên vỗ tay nói:

- Chết cha! A! Không được! Không thể nói để cho ả kia nghe trộm được.

Đoạn ông vòng qua gốc cây hoa, tiến đến gần phía Tiểu-long-Nữ, nói:

- Này, cô ả! Tôi đang truyền cho con tôi võ thuật cô đừng có nghe lén, nghe!

Tiểu-long-Nữ đáp:

- Võ thuật của ông đã có gì là kỳ diệu, ai nghe lén làm chi cho tốn công.

Âu-dương-Phong nghiêng đầu tiếp:

- Thế thì cô nên tránh xa nữa, có hơn không.

Tiểu-long-Nữ tựa người vào gốc một cây cười nhạt nói:

- Ta nghe làm chi những cái lầm lỡ sơ sót của ông, ta muốn đi muốn ở, tùy ý ta...!

Âu-dương-Phong đùng đùng nổi giận, râu tóc lông mày dựng ngược cả lên trông gớm

chiếc, đưa tay ra toan đánh thẳng về phía má Tiểu-long-Nữ. Nàng cứ như không trông

thấy, để ý mà vẫn cứ như không để ý tới. Còn cách mặt Tiểu-long-Nữ chừng một gang

tay, ông lại rút tay lại khi thoáng nghĩ tới nàng là sư phụ của con mình, đánh nàng bị

thương ở mày ở mặt thì còn ra sao. Vả lại dường nh từ nãy đến giờ nàng có điều gì

không vừa ý thì phải. Ông nói:

- Thôi cũng được! Cha con ta đi xa, thử xem cô có nghe lén không đã.

Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:

- Người nầy võ nghệ tuy cao, nhưng thực là cực kỳ vô lại. Khi nghe thấy ông nói nàng

quay mặt đi không đáp lời.

Bỗng nhiên nàng thấy hơi nhoi nhói ở phía sau lưng. Chính Âu-dương-Phong trong

lúc chộp vai nàng đã lấy ngón tay điểm huyệt bối tâm phía sau lưng rất lanh lẹn,

khiến nàng không ngờ được để liệu bề vận khí đề phòng. Đến khi mình biết rằng đã bị

đòn điểm huyệt thì phía trên người chuyển động đã thấy ngượng. Âu-dương-Phong

nhận thấy thế lại đến bồi thêm cho một ngón điểm vào giữa lưng nàng. Rồi cười khà

khà ông nói:

Đừng buồn nghe! cô ả! ráng đợi ta truyền cho con ta ít ngón võ thuật, rồi ta sẽ lại

ngay để giải huyệt cho.

Rồi ông lại cười khà khà mà đi.

Dương-Qua lẩm nhẩm cho nhớ những điều mà cha nuôi nó đã dạy về Ham mô công

và Cửu âm chân kinh. Nó thấy không giống với Trùng Dương di thiên khắc trên nóc

gian nhà đá trong cổ mộ đài, có nhiều chỗ lại còn khác hẳn, có khi phản lại nữa. Nó

mãi nghĩ tới nghĩ lui, nên không hay, biết gì việc sư phụ nó bị điểm huyệt.

Âu-dương-Phong trở lại đến gần bên nó, dắt tay nó đi và bảo:

- Cha con ta đi tới đằng kia, đừng để cho sư phụ con nghe thấy.

Dương-Qua thừa biết tính Tiểu-long-Nữ vốn a cô tịch, chẳng bao giờ thèm nghe

trộm làm chi. Giả thử có nói ngay trước mặt nàng, có khi nàng cũng chẳng thèm nghe

tới.

Thấy cha nuôi nó tính tình thất thường, thôi thì nó cũng chiều cho xong chuyện, khỏi

phải tranh biện làm chi cho mất công. Nghĩ vậy Dương-Qua theo cha đi đến chỗ khác.

Tiểu-long-Nữ nằm mềm rủ ra ở trên đất, vừa buồn, vừa vui nghĩ đến võ nghệ của

mình luyện tập kể cũng đã tình thâm nhưng chỉ vì ít có kinh nghiệm chiến đấu với

địch nhân, nên đã bị Lý-mạc-Thu điểm huyệt trộm, rồi còn bị lão râu xồm quái đản

kia đánh lén. Nàng bèn vận dụng Cửu-âm thần công, tự giải lấy huyệt đạo. Nàng lấy

hơi dồn xuống huyệt đạo để công phá mấy lần liên tiếp, nhưng không thấy huyệt đạo

chuyển động chút nào, lại còn thấy mỗi lần dồn hơi xuống lại còn đau hơn lên. Lòng

nàng không khỏi lo ngại.

ấy là bởi thủ pháp của Âu-dương-Phong nghịch hành với Cửu âm chân kinh, nàng lại

dùng thường pháp để thông huyệt đạo, nên càng thông càng tắc thêm. Thử mấy lần,

nàng thấy chỗ huyệt bị điểm đau hơn lên, không còn dám thử nữa.

Nàng nghĩ bụng: Thôi đành đợi lão kia truyền võ nghệ cho con xong xuôi, đương

nhiên sẽ đến giải. Vứt bỏ mọi sự ngoài, lòng không còn bận đến việc gì nữa, nàng

ngẩng đầu ngắm trăng sao trên trời, đem hòa hồn vào đấy, rồi ngủ thiếp đi lúc nào

không biết.

Một lúc lâu, mắt nàng có một vật gì che không còn trông thấy gì nữa. Đối với nàng

thì giữa đêm tối cũng trông thấy các vật chẳng khác gì ban ngày. Thì ra có người lấy

vải buộc che kín mất mắt. Tiểu-long-Nữ, trong lúc đang lo ngại thì bỗng có người đến

xốc rồi vác nàng trên hai vai. Lúc đầu người ấy phải xốc mạnh, nàng nằm trên vai họ

một lát, người kia lại phải xốc nữa. Tiểu-long-Nữ chưa hết lo ngại, toan há mồm để la

lên, nhưng lại thấy mồm mình gần mồm người kia, và trán nàng gần sát với mặt họ.

Thoạt đầu nàng cứ tưởng đó chính là Âu-dương-Phong toan giở trò cường bạo, nhưng

sau cảm thấy má người này có vẻ trơn tru, còn Âu-dương-Phong đầu mặt râu ria lông

lá tất phải rậm rạp. Cảm thấy như thế, không những nàng khoan khoái, hết kinh sợ mà

còn thấy tình dục từ đâu tràn tới, nàng nghĩ thầm phải chăng đấy là Dương-Qua muốn

giỡn với nàng chăng? Nàng nghĩ bụng: Thực là oan trái! Nhưng vì thân thể bị điểm

huyệt không còn cử động được, lòng nàng vừa sợ vừa xấu hổ.

Về phía Âu-dương-Phong vui mừng vô hạn khi thấy Dương-Qua thông minh kỳ lạ,

những khẩu quyết truyền thụ cho nó, chỉ giảng qua loa, là nó đã lãnh hội được ngay.

Bởi thế, càng nói ông càng thấy hào hứng, nói một hơi cho đến sáng rõ, nói cho đến

hết hai đại kỳ công.

Dương-Qua đã thầm nhớ hết cả, bèn phát biểu ý kiến:

- Thưa cha! con đã học qua Cửu âm chân kinh rồi, đem so với lời cha dạy thấy khác

nhau xa.

Âu-dương-Phong đáp:

- Nói láo! ngoài điều ta dạy, còn cái trò gì gọi là cửu âm chân kinh nữa.

Dương-Qua nói:

- Tỷ như thuật luyện gân luyện cốt, bảo rằng tam bộ là khí huyết nghịch hành, sung

thiên tru huyệt. Sư phụ thì lại dạy rằng: ý thủ đơn điền, thông chương môn huyệt.

Âu-dương-Phong lắc đầu lia lịa:

- Không phải, không phải! Trông ta làm thư coi đây.

Nói xong Âu-dương-Phong vận dụng mấy đường về "Cửu âm chân kinh" làm cho

Dương-Qua nhìn mà mắt hoa lên.

Dương-Qua lẩm bẩm: "Không biết thầy ta dạy phải, hay cha nuôi ta dạy đúng. Phép

luyện "Cửu âm chân kinh" của Quách-Tỉnh ta cũng đã được coi mà không giống thế

này.

Đơng mãi mê ngắm nhìn dưỡng phụ vận dụng võ thuật, Dương-Qua thấy

Âu-dương-Phong xửng lại, hai mắt đờ ra, trông thực gớm ghiếc.

- Cha ơi cha! cha ơi!

Dương-Qua gọi lên mấy tiếng mà không thấy Âu-dương-Phong nói năng hay nhúc

nhích. Dương-Qua kêu lên:

- Bệnh phong ma của cha nuôi tôi lại tái phát rồi đây!

Đang kinh dị như vậy, Dương-Qua thoáng thấy có một bóng đen lướt qua dưới hàng

cây trước mặt. Tinh mắt nhìn theo rõ là người đó mặc áo Hạnh hoàng chính là một

đạo sĩ.

Dương-Qua nghĩ thầm: "ở nơi âm u rừng núi này làm gì có người đến, xem dáng điệu

vội vàng lén lút của bóng đen chắc là quân bất lương định giở ngón gì bất hảo đây".

Nghi ngờ như vậy, Dương-Qua đuổi theo

Thuật phi hành của bóng đen cũng không được tuyệt diệu cho lắm, nên không mấy

chốc Dương-Qua đuổi kịp nhìn đằng sau cũng nhận ra đó là một đạo sĩ vội hét:

- Ai kia, ai chạy kia đến đây làm gì mà lén lút như vậy. Đứng lại đấy đã.

Mặc cho Dương-Qua gọi giật giọng, đạo sĩ vẫn dùng khinh công chạy như tên bay.

Dương-Qua cũng dùng khinh công lao mình lẹ như chớp vượt lên chặn đầu.

Khi ngoảnh lại nhìn thì ra chẳng phải ai xa lạ. Đó là đạo sĩ Doãn-chí-Bình một tay đệ

tử của Toàn-Chân giáo phái.

Doãn-chí-Bình bị chặn lối, lúng túng hốt hoảng, vừa thẹn thùng vừa sợ sệt nên nói

không ra hơi.

Dương-Qua ôn tồn hỏi:

- Đạo sĩ có việc chi mà hoảng hốt như vậy! Trước đây tôi được đạo sĩ tha không đuổi

ở Trùng-dương cung. Nay không có việc gì thì cứ thong thả mà về can chi lại trốn

tránh như thế.

Dương-Qua không đuổi theo nữa, bỏ trở về chốn cũ.

Vừa về đến nơi thì một hiện tượng kỳ lạ đã xảy ra; dưới giàn hoa trong rừng rậm thấy

hai chân Tiểu-long-Nữ thò ra, một chân co một chân duỗi, mà người thì hình như ngủ

say mê mệt.

Dương-Qua chạy lại kêu:

- Cô nương, cô nương!

Không thấy Tiểu-long-Nữ trả lời.

Dương-Qua thầm nghĩ:

- Tên đạo sĩ nầy chẳng biết vì đâu lại có ý thầm lén sợ sệt. Hay nó đã hại ngầm cô

nương ta chăng?

Gọi mãi mấy bận mà không một lời đáp lại .

Dương Qua lo quá , vội vẹt hoa banh lá ra tìm thử thấy Tiểu long Nữ nằm lồ lộ trên

một tấm vải màu xanh . Mặt nàng cũng có một băng xanh bịp kín đôi mắt , toàn thân

cứng đờ không cử động .

Dương Qua lật đật đến mở băng vải ra nhìn thấy Tiểu long Nữ mắt trông lờ đờ như

không còn tinh thần , môi má lợt lạt , hình như mới trải qua một cơn giận dữ , như

vừa phẫn nộ , vừa thẹn thùng xấu hổ quá mức .

Nhìn qua đôi mắt lim dim của nàng , Dương Qua khẽ hỏi :

- Ai đã bịt mắt cô nương như thế này ?

Tiểu long Nữ lặng thinh , mắt đăm đăm nhìn chàng , như oán hờn như giận dữ . Toàn

thân nàng mềm lả như cành liễu rủ , không thể cử động được , có lẽ bị kẻ nào điểm

huyệt rồi .

Dương Qua lanh trí đoán ra nguyên nhân nên vội vàng đem phương pháp giải huyệt

của Âu Dương Phong đã dạy để giải huyệt đạo cho nàng . Tiểu long Nữ lần dần phục

hồi sức lực , cử động được tay chân , từ từ gượng dậy nhưng mệt quá dựa vào lưng

Dương Qua . áp lưng vào ngực Dương Qua , nàng cảm thấy một luồng sinh khí ấm áp

như sưởi toàn thân với nhiều cảm giác đê mê kỳ lạ .

Nàng thấy rùng mình khi được Dương Qua choàng tay ôm chặt lại dịu dàng hỏi :

- Có phải dưỡng phụ tôi đã điểm huyệt cô nuơng , bịt mắt lại để thi hành thủ đoạn đê

hèn phải không ?

Tiểu long Nữ thấy cơn tức chận họng , toàn thân run rẩy , rùng mình mấy cái rồi đáp :

- Mi đã làm xằng còn kiếm cớ đổ cho người khác , thật không biết xấu hổ .

Thấy nàng có thái độ hoàn toàn khác biệt so với thường ngày , Dương Qua hết sức

ngạc nhiên , vừa lo âu vừa đau đớn , chẳng biết đáp sao chỉ ấp úng :

- ủa , tôi ... tôi đã làm gì mà ... mà cô nương lại mắng ... như thế

Tiểu long Nữ càng tức giận hơn , quát lớn :

- Thôi , bây giờ mi cũng gọi ta bằng cô nương nữa sao ?

Dương Qua càng lạnh lùng thêm , vội nói :

- Nếu không gọi là cô nương thì xưng hô cách nào cho vừa ý ? Thôi gọi sư phụ được

không ?

Tiểu long Nữ cười lạt rồi bĩu môi nói :

- Đã lỡ làm bậy thì có gan nhận , việc gì còn phải giả vờ gọi cô nương với sư phụ nữa

, không ngượng sao ?

Dương Qua càng kinh dị quá sức , há hốc mồm phân trần thêm :

- Cô nương dạy điều chi , tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì hết .

Tiểu long Nữ giận quá tái mặt . Trong lúc quá bực tức , nàng đưa tay vén cả xiêm y ,

phơi bày trước mắt ngẩn ngơ của Dương Qua , như đoá hải đường vừa bị bướm ong

vùi dập còn ướt dẫm sương mai , ẩn hiện giữa làn da nõn nà trắng như ngà , trong như

ngọc .

Nàng lật cườm tay thấy chấm hồng điểm " thủ cung sa " đã bay mất , để chứng minh

vừa trải qua một cơn dập liễu vùi hoa mà ai là thủ phạm ?

Nàng buồn buồn nhìn Dương Qua bào :

- Mi thấy chưa ? Còn chối cãi gì nữa không ? Đã lỡ lầm thì cứ nhận lỗi , che đậy

quanh co nữa làm chi ?

Dương Qua bàng hoàng ngơ ngác trố mắt nhìn nàng ấp úng nói :

- Tôi hoàn toàn chẳng hiểu cô nương muốn dạy gì ?

Tiểu long Nữ giận quá , trợn mắt nhìn chàng , nghiêm giọng bảo :

- Từ nay mi đừng gọi ta là cô nương nữa . Nghe chưa !

Nàng đưa mắt nhìn theo sự thay đổi trên nét mặt ngơ ngẩn của Dương Qua , vừa e

ngại , vừa sượng sùng nên chưa dám mạnh dạn lộ liễu thật lòng mình với những điều

thầm kín còn ấp ủ , chỉ nói nho nhỏ với giọng run run :

- Theo tục lệ muôn đời của phái Cổ Mộ , chỉ xử nữ truyền lại cho xử nữ mà thôi .

Nhưng vừa rồi , chính nơi đây chỉ còn có hai ta , nếu trừ mi ra thì không còn có kẻ

nào khác đã mân mê từ vai xuống bụng và ... và ... đã xâm phạm đến cái thầm kín của

đời ta ...

Dương Qua ngơ ngác hỏi :

- Nãy giờ , tôi đây có làm gì đụng chạm đến cô nương mà nói như vậy nhỉ ?

Tiểu-long-Nữ đỏ mặt nói:

- Sao cứ gọi cô nương mãi thế! Gọi cách khác xem nào!

Rồi nàng nói tiếp:

- Trước đây đã nguyện suốt đời ở trong Cổ-mộ, nhưng bây giờ ta đã đổi ý. Bất kỳ

Dương-Qua đi đâu ta sẽ cùng theo như hình với bóng.

Dương-Qua hớn hở nói:

- ồ, nếu được như lời cô nương nói, thật quý hóa vô cùng.

Tiểu-long-Nữ tủi quá nói rằng:

- Dương-Qua, mi chẳng có chút chân tình nào cùng ta cả. Sao cứ gọi cô nương mãi

như vậy được.

Dương-Qua ngẩn người làm thinh không biết nói gì cho ra lẽ.

Thấy chàng không trả lời, nàng đau đớn quá, ngập ngừng hỏi qua giọng nói run run vì

cảm động:

- Dương-Qua mi thấy ta là người như thế nào?

Dương-Qua thật tình đáp ngay:

- Cô là sư phụ, đã thương yêu truyền dạy võ nghệ cho tôi, nên tôi nguyện suốt đời tôn

thờ, kính mến, yếu quý cô hơn tất cả mọi người trên trần thế.

Tiểu-long-Nữ chịu không được nên hỏi thẳng:

- Thế chàng có thể xem ta như một người vợ được không?

Câu hỏi quá đột ngột mà xa nay Dương-Qua chưa bao giờ dám nghĩ đến, đã khiến

cho chàng cuống quít, phân vân chẳng biết nói sao, cứ ấp a ấp úng mãi rồi nói nhỏ:

- Tôi đâu dám. Cô là sư phụ đáng yêu, đáng quý của tôi. Lúc nào tôi vẫn xem cô là

bậc trên trước.

Tiểu-long-Nữ bàng hoàng cả người, uất quá, toàn thân run lên bần bật, hé miệng, trợn

mắt rồi hộc luôn mấy búng máu tươi.

Dương-Qua sợ quá, chân tay cuống cuồng chẳng biết làm sao hơn chỉ gọi lớn:

- Trời ơi, Cô nương! Sao vậy cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua vẫn xưng hô như vậy, lòng tràn trề oán khí, trợn trừng

đôi mắt nhìn rồi đưa tay đập vào thiêu linh cái hắn rất mạnh.

Thấy Dương-Qua cứ ngó mình trân trối, nàng thấy nỗi buồn tiêu tan và nhường chỗ

cho cả một niềm tủi hận tiếc thương rồi thở dài than thở:

- Thế là hết! Từ nay đừng nghĩ đến sự gặp nhau nữa nhé! Vĩnh biệt.

Dứt lời, nàng khoát áo vào mình phi thân xuống núi.

Dương-Qua vội gọi thật lớn:

- Cô nương bỏ tôi sao? Đi đâu xin cho tôi được theo cùng, cô nương ơi!

Tiểu-long-Nữ nhìn lại trầm giọng quát:

- Nếu mi còn tìm ta nữa sẽ mất mạng ngay.

Dương-Qua thấy nàng tỏ lời quá quyết liệt, lo sợ quá, nhưng chẳng dám nói lại lời

nào. Nhìn tà áo phất phơ loang loáng như cánh bướm lìa rừng, nhỏ dần và khuất dạng

sau mấy rặng cây xanh, Dương-Qua đau đớn quá, ngồi xệp xuống đất bụm mặt khóc

ròng.

Khóc đã rồi, Dương-Qua ngồi suy nghiệm, tư vấn lương tâm thấy chưa làm một điều

gì thất lễ hay không hài lòng sư phụ. Không hiểu vì sao bỗng dưng nàng lại có sự thay

đổi tánh tình một cách đột ngột và vô lý. Từ chỗ thương yêu quyến luyến, lời lẽ êm

dịu lại trở thành oán hờn như uất ức hằn học mình. Chàng nghĩ bụng:

- Vì sao nàng nhận là vợ mình? Vì sao lại không bằng lòng gọi cô nương? Thật quả

khó hiểu, ly kỳ. Chắc cũng có một duyên cớ nào nhưng nàng chưa nói thật. Chỉ trong

nửa ngày mà hình như xảy ra một cơn bão tố trong tâm hồn nàng và cả một sự xáo

trộn phũ phàng cho sự sống chung của hai đứa. Biết đâu do dưỡng phụ mình gây nên

việc này.

Dương-Qua quả quyết đi tới Âu-dương-Phong để hỏi cho ra sự việc. Chạy đến chỗ cũ

thấy ông đang đứng trầm ngâm bất động, mắt trừng nhìn mãi chỗ hư vô không hề

chớp. Chẳng cần quan điểm đến thái độ lạ kỳ ấy, nó hỏi lớn:

- Cha đã có làm gì động đến sư phụ con chăng?

Âu-dương-Phong nói:

- Cửu âm chân kinh, cửu âm chân kinh!

Thấy ông không đáp lại lời mình, hỏi nữa:

- Tại sao cha đi điểm huyệt sư phụ con, để người phát điên, rối loạn tinh thần lên như

vậy hở cha?

Âu-dương-Phong vẫn nói bâng quơ:

- Nói tóm lại hễ "nghịch xung thiên trụ" thì tất nhiên phải thuận thông huyệt "khiên

tĩnh" hay sao?

Thấy ông cứ vơ vơ vẩn vẩn như người mất trí, chẳng ăn nhập vào đâu hết, Dương-Qua

càng hỏi gắt:

- Cha có nghe con hỏi không? Con muốn rõ cha đã làm gì đến sư phụ con, cha trả lời

đi, tại sao cứ nói những chuyện gì đâu nghe lạ lùng như vậy?

Ông quắc mắt hỏi lại:

- ủa, sư phụ con là đứa nào? Ta là ai? Âu-dương-Phong là ai nhỉ?

Thấy ông đã trở lại cái tánh khùng khùng mất trí, nhưng chàng cũng không nản chí,

tuy lo sợ nhưng kiên tâm hỏi thêm:

- Trời ơi, cha tôi lại mất trí loạn thần rồi! Thôi cha hãy tìm chỗ nghỉ ngơi hay vào

miếu ca hát cho đỡ buồn đi cha!

Âu-dương-Phong ngơ ngác không đáp. Thình lình xoay mình cậm đầu xuống đất,

chân ngược lên trời, chống hai tay đi vùn vụt về phía chân núi tận đằng xa, miệng

thét:

- A ha, Âu-dương-Phong, mi trốn đâu rồi! Ta là ai đây?

Thế rồi toàn thân ông rung chuyển, thân hình cứ đảo ngược, di chuyển mãi không

ngừng.

Dương-Qua vội chạy theo đón lại, nhưng bị ông cho một đá vào bụng dội ngược ra

sau, loạng choạng đứng không vững phải té nằm dài. Nhưng chàng vội tung mình

đứng dậy đuổi theo. Mới cách nhau có vài chục bước mà ông lao người đi mau quá

không bao lâu đã mất dạng. Dương-Qua đứng lại, đưa mắt nhìn quanh. Tư bề núi rừng

vắng lặng, thầm kín thâm u mà trong lòng chàng trống trải cô đơn cũng đang nổi cơn

sóng gió.

Chợt nhớ lại, chàng gọi rối rít:

- Cô nương ơi, cha ơi! Trời ơi!

Nó nói vọng ra xa, dội thêm trong rừng thắm, chẳng có ai đáp lại. Chàng cứ gọi mãi,

gọi một cách thiết tha, tuyệt vọng, như tiếng từ-qui gọi bạn.

Rừng vẫn thâm u, gió không ngừng thổi. Đâu đây vừa nổi lên mấy tiếng chim reo ríu

rít.

Bao năm qua, chung sống cùng Tiểu-long-Nữ, chưa bao giờ xa nhau nửa phút, tình

thân mật yêu thương nhau thật chí thiết. Ngày nay bất ngờ nàng dứt áo ra đi khiến

Dương-Qua thấy cõi lòng như tan nát, gan ruột tơi bời.

Giữa cảnh rừng núi thâm u, hai người hủ hỉ sống cùng nhau, hôm nay đột nhiên chỉ

còn một thân một bóng, rồi sống làm sao đây?

Có một nỗi buồn thấm thía, một niềm chua cay xâm chiếm tâm hồn, càng nghĩ càng

xót xa.

Bình sinh vốn người nhiều tình cảm nay phải chịu đựng cảnh này: Dương-Qua đau

đớn quá muốn đập đầu lên đá chết đi cho mát thân rảnh trí, nhưng một chập sau,

chàng hy vọng muốn tiếp tục sống, sống cho đến khi gặp lại nàng.

Chàng suy nghĩ:

- Cô nương đột nhiên giận ta vứt áo ra đi không ngó lại. Nhưng biết đâu một ngày nào

nàng sẽ quay về tìm mình. Tình thầy trò khăn khít bao năm rồi, há dễ vì một phút

giận hờn không căn cứ mà nỡ lòng cắt đứt mãi sao?

Trong chuyện này chính dưỡng phụ mình đã làm điều bất nhã chứ mình đã có gì thất

lễ đâu. Thế nào với thời gian, sự thật không thể nào nàng lánh xa mình vĩnh viễn

được.

Một chiều ảm đạm, Dương-Qua chợt thức giấc tỉnh dậy. Tư bề vắng lặng quạnh hiu,

ngoài tiếng gió rừng rào rạt, trùng dế tỉ tê nh điệu nhạc buồn, chàng có cảm giác như

Tiểu-long-Nữ đã về và lẩn quẩn đâu đây nên vùng gọi lớn.

- Cô ơi, cô nương ơi!

Tuy mình chạy ngang tìm dọc, nhưng bóng nàng đâu có thấy!

Có những đêm thao thức hoài không ngủ được, chàng chạy thẳng trên núi cao, phóng

tầm mắt tìm bốn phương cố tìm hình ảnh của nàng đã mất. Nhưng trời cao đất rộng,

rừng núi bao la, mây ngàn, sương lạnh che phủ khắp nơi, bóng hồng đâu thấy, ngẩn

ngơ một chặp chỉ còn lại một bóng mình với cõi lòng giá lạnh.

Bao nhiêu ý nghĩ lại quay cuồng, niềm nhớ nhung tràn ngập không thể nào kềm hãm

nổi. Chàng tự nghĩ:

- Nếu nàng chẳng về thì ta đi tìm nàng vậy. Dầu nơi góc bể chân trời ta cũng phải tìm

cho được. Vì dầu gặp nhau, nàng chưa hết giận có ra tay đánh, giết cũng cam lòng.

Sống mãi nơi đây rồi cũng chết mòn vì thương nhớ.

Đã nhất định, Dương-Qua thu xếp một ít quần áo và đồ dùng của Tiểu-long-Nữ còn

lu lại bỏ vào một túi nhỏ mang vào vai, bon bon chạy xuống núi.

Trên đường đi, bất kỳ gặp ai chàng cũng hỏi thăm có thấy một nữ lang mặt mày xinh

đẹp, mặc quần áo trắng có qua lối này không? Nhưng ai ai cũng ngơ ngẩn, lắc đầu

bảo không gặp. Hỏi hoài nhưng không người nào biết, chàng thấy sốt ruột và buồn

không thể nào tả. Sau cùng hết còn giữ lễ độ và để cau có nóng tính.

Có kẻ thấy chàng là một thanh niên tuấn tú, đi tìm hỏi một nữ lang xinh đẹp như trên

thì có bụng nghi ngờ đoán chắc giữa hai người cũng có điều gì liên hệ ám muội chi

đây nên chất vấn lại.

Chàng nổi nóng đáp:

- Ta hỏi thì nói, thấy thì chỉ, không thấy thì thôi, tại sao tò mò hỏi lôi thôi, như vậy.

Người kia bị gắt đang muốn cãi lại. Vừa lúc ấy một ông lão vừa tới vội đưa tay nắm

áo người nọ kéo đi không che cãi lẫy. Ông bảo Dương-Qua vừa đưa tay trỏ về hướng

đông:

- Lão có thấy từ chiều qua, một nữ lang vô cùng xinh đẹp, hình dáng mảnh mai, so

với chú em vô cùng xứng cặp. Nàng đi mau về hướng ấy.

Duơng-Qua mừng lắm, chắp tay cúi đầu bái tạ lão trượng rồi thoăn thoắt đuổi theo về

hướng đó.

Chàng vừa bước đi thì hai người bỗng nói xầm xì rồi phá lên cười sằng sặc. Thì ra họ

thấy chàng vô lễ đã chỉ bậy chàng cho bõ ghét.

Nhưng chàng vô tình đâu có biết. Chân cứ bước đón, lòng hân hoan tràn trề hy vọng,

cắm đầu cắm cổ đi hoài. Một chập sau đến một ngã ba, chàng phân vân chẳng biết

nên chọn con đường nào cho đúng, dừng chân lại suy nghĩ:

- Cô nương ta tánh a cảnh thâm u tịch mịch, chắc tìm một nơi hoang vắng ít người.

Vậy nên chọn con đường nhỏ có lẽ đúng.

Chàng trở qua con đường ghồ ghề, đi mãi. Nhưng qua một khúc quanh co con đường

bỗng rộng ra dần rồi đến một đại lộ nữa, chàng chẳng do dự cứ lặng lẽ đi hoài.

Đi suốt một ngày rỡi không có một hột cơm vào bụng chàng thấy đói quá.

Trời đã xế qua ruột cồn cào chịu không xuể, chàng đưa mắt nhìn đằng trước thấy có

một thị trấn đông đảo, nhà cửa san sát nói lô nhô như bát úp, vội rảo bước đi tới, vào

một quán cơm gọi một bữa cơm xoàng.

Người tiểu nhi dọn lên một bữa ăn thông thờng. Cầm đũa vừa ăn vài miếng,

Dương-Qua ngậm ngùi không nuốt nổi, nghẹn ngào suy nghĩ:

- Ta phải đi theo thật gấp mới mong gặp được cô nương. Dầu tối hay sáng cũng phải

đi gấp, ăn uống rềnh rang như thế này làm sao theo kịp được. Nếu lỡ dịp này, biết đời

nào gặp nàng nữa.

Nghĩ đến đây chàng bỏ đũa.

Tiểu nhi thấy vậy chạy lại dồn dã hỏi:

- Chắc cơm rang thanh đạm cậu ăn không ngon, nếu cậu cần để em dọn nhiều món

khác cho vừa bụng nhé. Tiệm này món nào cũng có.

Dương-Qua khoát thay lắc đầu đáp:

- Ta đâu có thiết đến món ăn ngon dở. Ta cần hỏi nhà ngươi có thấy một nữ lang áo

trắng thật đẹp đã đi ngang qua đây không?

Tiểu nhi suy nghĩ một lát hỏi lại:

- à, à, có một nữ lang đẹp, áo quần trắng! Có lẽ nàng để tang phải không?

Dương-Qua thấy hắn hỏi vẩn vơ hơi khó chịu, nhưng cũng kiên nhẫn hỏi thêm:

- Nếu có, nàng đi về hướng nào? Ngươi có thấy không?

Tiểu nhi đáp:

- Có ạ, tôi có thấy người con gái đẹp, nhưng chẳng nhớ mặc áo gì.

Dương-Qua mừng quá hỏi gấp:

- Nàng đi hướng nào, nói mau!

Tiểu nhi ấp úng nói:

- Dạ có, nàng đi đã nửa ngày rồi. Nhưng... nhưng, nàng chẳng đẹp đâu.

Rồi hắn hạ giọng nói nhỏ:

- Tôi... à quên. Cậu cứ đi theo ngay, may ra gặp.

Dương-Qua bực mình nhưng thấy hắn nói vậy cũng có chút hy vọng:

- Đi theo rồi, biết nàng nơi đâu mà tìm cho ra?

Thấy giọng chàng run run vì cảm động, tiểu nhị lại hỏi:

- à quên, cậu biết nàng ấy có thạo võ nghệ không?

Dương-Qua đáp:

- Cô ấy biết võ chứ.

Tiểu Nhị nói:

- Thế thì cậu đừng tìm cô ấy nữa, nguy hiểm lắm cậu ạ.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, tại sao lại nguy hiểm?

Tiểu Nhị lại hỏi nữa:

- Vậy giữa hai người liên hệ quen biết cùng nhau như thế nào?

Dương-Qua thấy hắn cứ hỏi lằng nhằng mãi đã bực mình, nhưng cũng cố kiên tâm

đáp:

- Cô ấy là chị tôi. Tôi cần tìm gặp cô ấy gấp.

Thấy chàng đáp như vậy hắn bỗng đổi sắc mặt, lắc đầu, đáp:

- Không, không phải đâu. Tôi biết rồi mà.

Dương-Qua nổi nóng không dằn được nữa, đứng phắt dậy, thộp ngực hắn đưa lên

hỏng đất quát lớn:

- Vì sao mày vớ vẩn quanh co mãi như vậy? Có nói thật không.

Tên Tiểu-Nhị sợ quá vội đáp rối rít:

- Dạ có, xin cậu đừng nóng.

Dương-Qua nắm áo hắn hỏi:

- Có như thế nào, phải nói rõ.

Tiểu-Nhị van nài:

- Xin cậu buông tôi ra. Tôi sợ quá nghẹn lời nói chẳng được.

Dương-Qua thấy nếu cứ dùng võ lực hắn hoảng hốt nói năng bậy bạ chẳng ích gì nên

buông tay ra.

Tiểu Nhị đa tay vuốt ngực, tằng hắng một tiếng, xoa tay nói:

- Sở dĩ tôi nói như vậy vì nàng có vẻ ít tuổi hơn mà gọi bằng chị không phải. Nhưng

có một sự đáng để ý là nàng cũng nóng nảy như cậu. Mới bất hài một chút đã giở võ

ra liền.

Dương-Qua mừng rỡ hỏi:

- Nàng giở võ với mi nh thế nào?

Tiểu-nhị le lưỡi đáp:

- Nàng không giở võ với tôi nhng với nhiều người khác. Xem bộ mảnh mai như vậy

mà mới trổ nghề đã làm người ta bị thương liền. Cậu cứ nhìn đây thì rõ.

Rồi hắn đưa tay chỉ góc bàn bên cạnh thấy có vết dao kiếm chém phải.

Dương-Qua hỏi thêm:

- Rồi sao nữa.

Tên Tiểu-nhị có vẻ tự đắc nói:

- Thật đáng sợ! Cô ấy mà dữ như beo. Đã vậy mà còn xẻo luôn tai của người đạo nhân

nữa chứ.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, đạo nhân nào người ra sao?

Tiểu-nhị ấp úng:

- Lão ấy...

Tiểu-nhị bỗng tái mặt, ngó quanh quất rồi quay mình chạy mất.

Dương-Qua bực mình ngồi suy nghĩ rồi cầm đũa ăn lại. Chàng ăn gấp, và đưa mắt

nhìn phía bàn bên vừa thấy hai đạo sĩ trẻ trạc độ 26, 27 tuổi cùng nhau bước vào tiệm.

Dương-Qua nhìn họ ngồi bên cạnh, quần áo sạch sẽ, một người dáng điệu thanh tao,

có đôi mày xếch, bén như lưỡi kiếm. Cả hai đòi rượu và rau.

Tiểu-nhị đon đả đến hầu tiếp. Tiểu-nhị nhìn Dương-Qua rồi ra dấu ngụ ý bảo không

nên ngó vì hai người này không phải thuộc hạng tốt đâu.

Nhưng chàng vẫn lờ đi, chẳng thèm quan tâm đến, rồi cúi xuống ăn lại và lắng tai

nghe chúng nói chuyện, may ra được tin tức của cô nương mình chăng.

Suốt mấy ngày đường cha được tắm rửa, áo quần Dương-Qua đóng đầy cát bụi, mặt

mày lem luốc bẩn thỉu cho nên bọn kia chẳng thèm để ý. Họ bô bô nói chuyện dường

như nơi đây chẳng có người nào lạ nữa.

Chàng cố ăn thật chậm lâu hết để có dịp nghe ngóng thêm. Ăn cơm xong chàng lấy

bát múc nước uống, cứ ngồi nhấm từng ngụm nhỏ, trệu đi trệu lại như ăn cơm.

Người đạo sĩ mày xếch lên tiếng trước:

- Này Bì đệ, em bảo Hàn Trại chủ và Trần lão đã nhất định đến trong buổi chiều này

phải chăng?

Người kia hả miệng lập bập mãi một chập lâu mới nói được thành tiếng:

- Họ là đôi bạn tri-kỷ, đối với Triệu sư-thúc của mình thêm tình khắn khít, thề sống

chết có nhau, cho nên đã hẹn tất nhiên phải giữ đúng chứ.

Nghe ba chữ "Triệu sư-thúc" Dương-Qua thấy chột dạ, không phải vụ này có đúng là

Triệu-chí-Kính, sư phụ của mình xưa kia không. Nếu hai tên này là đệ tử ở

Trùng-Dương cung tất nhiên sẽ nhận diện mình được ngay. Nhưng nhìn kỹ thì hai

người này hoàn toàn xa lạ, chưa gặp bao giờ.

Đạo sĩ mắt xếch nói:

- Họ đuổi kịp bọn mình không.

Gã kia đáp:

- Cơ sư-huynh hay lo sợ viễn vông vô ích quá. Nàng là đàn bà, tài nữ đã bao nhiêu hơi

mà sợ lắm vậy?

Đạo sĩ họ Cơ vội nói:

- Thôi, uống rượu đã, đừng bàn đến chuyện này nữa.

Uống xong họ gọi Tiểu-nhị bảo dọn một căn phòng trên lầu để nghĩ nữa.

Nghe qua câu chuyện của hai đạo sĩ, Dương-Qua đoán bọn họ đã từng nhúng tay vào

cuộc đánh nhau với Tiểu-long-Nữ. Biết đâu nàng đã gặp Triệu-chí-Kính. Hắn nhờ hai

người họ Trần và họ Hàn nào đó giúp sức chiến đấu đây chăng. Thế nào hai tên nầy

cũng hùa theo Triệu-sư-thúc của chúng để đánh cô nương mình rồi. Vì vậy nên càng

nhìn thấy chàng càng ghét cay đắng, muốn đứng lên gây chuyện cho chúng một mẻ

nên thân nhưng suy nghĩ lại cố dằn tâm lặng tiếng.

Chờ hai đạo sĩ vào phòng, Dương-Qua bảo Tiểu-Nhị sắp đặt một phòng kế bên để ở

và nghe ngóng.

Sắp đặt dầu đèn xong xuôi, Tiểu-Nhị rỉ tai chàng dặn nhỏ:

- Cậu đề phòng đấy nhé. Chị cậu đã xẻo tay một đứa rồi.

Thế nào bọn chúng cũng tìm cách báo thù không tha.

Dương-Qua ngạc nhiên nói:

- Chị ta hiền lành ít oi lắm, cớ sao lại cắt tai bọn họ, thật khó tin lắm?

Tiểu-Nhị đáp:

- Chị cậu có lẽ hiền với riêng cậu chớ đâu có hiền với người khác. Khi nàng vào quán

ăn cơm, chỉ nhìn thấy tên đạo-sĩ trân trối nhìn mình, nàng đã nổi nóng tuốt kiếm ra

gây sự.

Hắn nói mãi, từ chuyện này sang chuyện nọ, nhng lúc ấy phòng bên tắt đèn tối om.

Chàng khoát tay ra lệnh bảo hắn đừng nói nữa và nghĩ bụng:

- Có lẽ bọn này đã mê mệt sắc đẹp của nàng nên nhìn trân trối đến nỗi bị nàng trị cho

một mẻ.

Chờ Tiểu-Nhị ra khỏi phòng, Dương-Qua tắt đèn, quyết thức suốt đêm nay để nhập

định theo bí quyết của Âu-dương-Phong đã dạy và lắng nghe những điều bàn tán ở

phòng bên cạnh.

Thời gian lặng lẽ qua, đêm vắng lặng càng khuya càng u tịch. Thình lình có tiếng

chân người lao vút lên bờ tường rồi cửa sổ phòng bên vụt mở. Đạo-sĩ họ Cơ lên tiếng

hỏi nhỏ:

- Trần, Hàn tiên-sinh đó phải không?

Có tiếng đáp lại:

- Vâng.

Cơ-đạo-nhân nói:

- Xin mời vào trong.

Đèn sáng lên, cửa phòng mở tung. Dương-Qua định thần chú ý theo dõi câu chuyện

giữa bốn người lạ mặt.

Thoạt tiên Cơâ đạo sĩ nói:

- Hai đệ tử là Cơ-Thanh-Hư và Bì-Thanh-Huyền, hân hạnh yết kiến Hàn trại chủ và

Trần-Lão quyền sư nơi đây.

Dương-Qua suy nghĩ:

- Theo lời hai người này thì họ tuy không phải đệ tử Trùng-dương-Cung mà ta đã từng

gặp, tuy nhiên nếu có lót chữ "Thanh thì cũng là người trong giáo phái Toàn-chân chứ

không xa lạ.

Cô đạo sĩ giọng khàn khàn đáp:

- Hôm nay chúng ta đến tiếp viện cho Triệu Sư-thúc các anh đây. Chúng ta phải cấp

tốc đi mau mới kịp tới vào giờ này. Bọn ấy hung tợn lắm sao?

Cơ-Thanh-Hư chậm rãi đáp:

- Nói ra thêm tủi nhục, tiện môn có hai đệ-tử cùng bị thương vì hắn cả.

Người có giọng khàn khàn nói:

- Con bé này có võ công quá sức lợi hại.

Cơ-Thanh-Hư tiếp lời:

- Theo Triệu Sư-thúc nói thì hắn là đệ tử của Cổ-Mộ phái, nên tuy tuổi trẻ nhưng bản

lĩnh rất cao cường không nên xem thường mà nguy lắm đấy

Nhờ vậy mà hai người xa dần chỗ ngồi của Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua đang mừng rỡ

thì kế đó Doãn-chí-Bình thay đổi chiến thuật, chuyển kiếm sang tay trái, vận dụng

chưởng lực ra tay phải, tung ra một luồng nhân điện hết sức mãnh liệt.

Triệu-chí-Kính vừa đánh vừa cười:

- Dẫu anh xử dụng ba tay cũng chẳng làm gì tôi được đâu.

Nói xong y cũng vận dụng chưởng lực ra tay trái nghênh chiến tức thì.

Cả hai vừa sử dụng kiếm pháp, vừa sử dụng nhân điện phổ thành nhân điện tấn công

dồn dập, miếng đánh, miếng đỡ càng lúc càng thêm gay cấn.

Trong lúc ấy Tiểu-long-Nữ vẫn tập trung tư tưởng vào việc luyện công, chẳng hề để ý

hay biết gì về ngoại cảnh.

Dương-Qua thì thấp thỏm theo dõi, lòng hồi hộp sợ hãi khi thấy hai người đến gần sư

phụ, và vui mừng khi họ ra xa.

Sau một chập Doãn-chí-Bình quát to lên một tiếng vận dụng đủ mười hai thành công

lực, tung ra một ngọn độc hiểm để kìm chế đối phương. Vì sự tấn công đột ngột và

dũng mãnh, Triệu-chí-Kính cảm thấy lâm vào thế hạ phong, tay chân luống cuống

không phối hợp được chưởng lực, bắt đầu e ngại và cảm thấy đối thủ quyết tâm hạ sát

mình, vì lẽ mình hiểu thấu mối tình thầm lặng bất chính của y đối với người đẹp.

Trước kia hai người đã không ưa gì nhau. Nay do việc này đã gây thêm xa cách thù

hận đến nỗi nảy sanh ý nghĩ sát hại lẫn nhau không nương tay.

Đấu thêm mấy hiệp nữa, Doãn-chí-Bình mím môi, tay trái phóng thẳng thanh kiếm,

tay phải tung ra một chưởng đồng thời đá liên tiếp ba ngọn cước theo "Liên hoàn thế"

một ngón tuyệt diệu bí truyền của phái Toàn-Chân vào hạ bộ đối thủ.

Triệu-chí-Kính vung kiếm một vòng che đỡ đồng thời nghiêng mình một bên để tránh

chưởng lực và cước ác nghiệt. Nhưng vì ánh kiếm của Doãn-chí-Bình phóng quá mạnh

toàn thân tung lên cao gần một truợng. Nếu người khác thì ngọn quyền này phối hợp

với chưởng lực của hai tay Doãn-chí-Bình tận lực phóng ra, có thể gãy xương dập

ngực ngay. Nhưng Triệu-chí-Kính nhờ khổ công đào luyện, nên mặc dầu bị đánh tung

lên bất ngờ vẫn giữ được bình tĩnh và uốn mình nương theo đà bay lên, lộn luôn một

vòng, hạ chân xuống đất một cách nhẹ nhàng.

Dương-Qua hồi hộp nhìn theo thấy chỗ hắn rơi đúng là nơi Tiểu-long-Nữ đang luyện

công, nếu không trúng ngay đầu nàng thì cũng rơi ngay vào bụi hoa hồng bên cạnh.

Lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ đang lõa thể, vì ánh trăng không chiếu vào chỗ ấy, nên

người vô ý không nhìn thấy nàng.

Dương-Qua thất kinh vội vàng vận dụng chưởng lực vào hai tay theo thế "Sư-tử hí

cầu" đẩy mạnh vào lưng Triệu-chí-Kính. Tiếp đến y phi thân nhảy đến, dùng sức xô

người hắn bay bổng về phía trước vài trượng.

Tuy vậy, một nửa thân hình trắng như tuyết của Tiểu-long-Nữ đã hiện ra lồ lộ dưới

ánh trăng.

Thân hình Triệu-chí-Kính rơi xuống rất mạnh, làm gẫy mấy nhánh cây răng rắc,

khiến Tiểu-long-Nữ giật mình, toàn thân rung động mồ hôi toát như tắm. Tất cả khí

lực đang vận dụng nửa chừng bỗng thối lui dồn hết xuống dưới bụng, khiến nàng tức

thở chịu không nổi té xỉu ngất đi.

Doãn-chí-Bình vừa thấy Dương-Qua đột nhiên xuất hiện chưa hết ngỡ ngàng, bỗng

nhìn rõ ràng thân hình người ngọc mà mình hằng mơ tưởng, lồ lộ dưới trăng trong

đám hoa hồng, thật hết sức kinh ngạc, ngỡ là chiêm bao. Hắn chỉ biết trợn mắt, há

miệng đứng nhìn, không nói năng gì hết.

Triệu-chí-Kính đã lăn mình một vòng đứng dậy được. Là người có bản lĩnh, sự té ngã

như thế đâu có nghĩa lý gì và mặc dầu bị té hắn vẫn giữ đủ sức bình tĩnh nhận định

tình hình xung quanh và nhìn thấy rõ ràng Tiểu-long-Nữ.

Hắn reo to lên:

- ồ, bọn này đã rủ nhau lén lút tới nơi này làm điều bất chính đây mà.

Dương-Qua nghe nói nộ khí xung thiên trợn mắt quát lớn:

- Hai tên đạo sĩ khốn kiếp này, khôn hồn nên mau mau rút lui khỏi nơi đây, trở về chỗ

võ điện của bây.

Vừa thét, y vừa cởi áo đưa cho Tiểu-long-Nữ bảo nàng mặc vào. Nhưng chờ một chập

không thấy sư phụ đáp lời hay cử động gì, y chột dạ quay đầu lại nhìn, nhận thấy

nàng đã ngất xỉu nằm im trên mặt đất.

Dương-Qua bỗng nhớ đến lời Tiểu-long-Nữ dặn:

"Trong khi luyện nội công phải đề phòng xung quanh, dẫu một bóng thỏ chạy qua

cũng có thể gây thành đại họa". Triệu-chí-Kính đã rơi mạnh bên cạnh nàng, thế nào

cũng khiến nàng giựt mình và tai hại này quả thật không thể nhỏ.

Vừa nghĩ đến đó, hắn vội vã chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, cởi luôn chiếc áo lót của

mình quàng cho nàng và đưa tay lên rờ trên trán thấy mồ hôi đầm đìa, lạnh ngắt. Hắn

lật đật quơ luôn cái áo đắp kín người nàng, nắm vai nàng lay mạnh và hỏi:

- Cô nương ơi sao thế cô nương?

Tiểu-long-Nữ chỉ ú ớ nho nhỏ không nói nên lời.

Dương-Qua nói thêm:

- Bây giờ tôi cần đưa cô nương về tịnh dưỡng cho bình phục rồi trở lại đây đánh chết

hai tên đạo sĩ khốn kiếp này mới được.

Tiểu-long-Nữ không trả lời, toàn thân mềm lả trong tay Dương-Qua. Dương-Qua vội

ôm sư phụ vào lòng chạy vụt qua trước mặt hai đạo sĩ. Doãn-chí-Bình ngẩn ngơ đứng

ngó không thốt nên lời, còn Triệu-chí-Kính cười ha hả nói lớn:

- Này sư đệ, ý trung nhân của sư đệ đã lõa thể ra chốn này cùng chàng thanh niên đẹp

trai này, sao sư đệ không giết ngay tình địch có hơn là cố tâm đi giết hại ta.

Doãn-chí-Bình vẫn ngẩn ngơ không nói nên lời. Nhưng Dương-Qua nghe nói tức giận

vô cùng, vội đặt Tiểu-long-Nữ dựa vào một gốc cây, lấy quần áo của nàng lót sau

lưng cho êm, đưa tay bẻ một cành cây làm khí giới, rồi tung mình nhảy đến trước mặt

Triệu-chí-Kính quát lớn:

- Tên đạo sĩ khốn nạn hãy câm mồm đừng nói hồ đồ bậy bạ.

Sau hai năm trời xa cách, Dương-Qua đã lớn nhiều, từ một đứa con nít, ngày nay nó

đã trở thành một thanh niên tuấn tú, lúc đầu Triệu-chí-Kính nhìn không ra, nhng sau

khi nghe tiếng nói quen quen, y định thần xem lại, biết là Dơng-Qua, học trò cũ của

mình lúc trớc. Bị xô té nhào lại bị chửi mắng, Triệu-chí-Kính quá tức quát lớn:

- Dương-Qua, mày là đứa súc sinh!

Dương-Qua nạt lại:

- Chính mi mới là đồ súc sinh chứ ai. Mi mắng ta bao nhiêu cũng được, sao cả gan

dám nói xấu cô nương ta?

Triệu-chí-Kính cười gằn nói:

- Ta nghe truyền rằng phái Cổ Mộ đài chỉ kết nạp đồ đệ phụ nữ, đâu ngờ ngày nay lại

xảy ra sự tình tệ như thế này. Một nàng mệnh danh là Ngọc-tuyết Bàng-thanh, trưởng

môn phái lại đi phá lệ, kết nạp và truyền nghề cho một thanh niên tuấn tú, rồi những

đêm trăng tỏ lại đưa nhau vào chốn thâm u vắng vẻ, chiếu đất màn trời, để làm điều

tồi bại, thật đáng kính thầy. Các ngươi tưởng đấu nhẹm được mãi sao?

Dương-Qua nghe nói đang suy nghĩ định đối đáp, vì thật ra hắn chưa hiểu hết ý nghĩa

lời nói của Triệu-chí-Kính. Khi ấy Tiểu-long-Nữ vừa chợt tỉnh nghe câu nói ấy tức

giận tràn hông. Khí uất cuồn cuộn dâng lên nàng cố tâm đè nén xuống, giằn co một

chập, không thể nào chịu đựng nổi nữa, vì đã bị nội thương nặng, không còn đủ hơi

sức kìm hãm, nàng chỉ thốt lên được một câu:

- Mi ăn nói quá hồ đồ, chúng ta đâu có...

Rồi máu tươi hộc ra cuồn cuộn, nàng tắt lời không nói được nữa.

Doãn-chí-Bình thất sắc chẳng biết nói gì, bước dần đến và hỏi Dương-Qua.

- Vậy ngươi đến chốn nầy làm gì?

Đã có định kiến sẵn là Doãn-chí-Bình muốn đến gần để ám hại sư phụ, nên

Dương-Qua không thèm trả lời, vung tay đánh ra một quyền ngay mặt Doãn-chí-Bình

thật mạnh. Doãn-chí-Bình khom người tránh được và đáp ngay bằng một đường móc

trái bằng tay phải. Dương-Qua đã học thuộc lại các thế võ của phái Toàn-Chân, thêm

am thạo hết những phương pháp để khắc chế cho nên tránh đỡ quá dễ dàng. Vì vậy

hắn vung hai tay lanh như chày máy, vừa đỡ vừa thoi liền mấy thế, tấn công tới tấp,

khiến Doãn-chí-Bình phải né tránh và thối lui xa dần chỗ Tiểu-long-Nữ.

Kể về mức luyện tập và võ thuật thì Dương-Qua còn kém thua Doãn-chí-Bình. Nhưng

nhờ các môn khắc chế do Lâm triều Anh đã tìm trước để đối phó với các môn võ

Toàn-Chân phái, cho nên việc chống đỡ dễ dàng, và ngoài ra, Dương-Qua cũng nhờ

đó, có đủ sức để ứng phó với bất cứ một đệ tử nào của bên Trùng-Dương cung.

Vốn trước kia Lâm triều Anh nghiên cứu, sáng chế ra những thế võ này, bà chỉ âm

thầm truyền lại cho đệ tử, luôn mấy đời các đệ tử cũng chỉ luyện tập, trau dồi thêm

chứ chưa hề ra thi thố hay tranh đấu cùng ai, cho nên tác dụng chưa rõ ra sao, và cũng

chưa kẻ nào biết tới.

Ngày nay bất ngờ Dương-Qua đem ra áp dụng, khắc chế được tất cả các thế tấn công

của Doãn-chí-Bình một cách rất lợi hại. Tuy chưa đến nỗi ngã gục hay thua chạy dài,

nhưng Doãn-chí-Bình rất kinh ngạc thấy tài nghệ của Dương-Qua hết sức tính điệu và

dần dần y lâm vào thế hạ phong, phải đi thụt lui đến cạnh chỗ Triệu-chí-Kính đang

đứng.

Dương-Qua để ý đứng thở một chập, day qua Tiểu-long-Nữ nói:

- Thưa cô nương an tâm, cô nương cho phép tôi mang cô nương về lo chạy chữa xong

sẽ trở lại đánh bọn này một trận để trả thù cho cô nương.

Nàng cố gắng nói qua hơi thở:

- Không, không cần, mi cứ đánh chúng nó một trận ngay bây giờ. Ta không chịu nổi

để chúng nó... hỗn láo... nói xấu nh thế được.

Dương-Qua đáp:

- Xin tuân lệnh cô nương.

Nói rồi, hắn đưa tay bẻ một cành cây gần đó rồi phóng thẳng một đường vào ngay

ngực Triệu-chí-Kính. Triệu-chí-Kính vung kiếm ra gạt mạnh. Lưỡi kiếm chẻ trúng

đầu nhánh cây làm tróc mấy miếng dăm văng mạnh vào bàn tay hắn, làm toạc hai ba

đường rướm máu, khiến hẳn phải thối lui ôm tay xuýt xoa một chập.

Tức thời Dương-Qua vận dụng chưởng lực vào bàn tay, đánh mạnh vào phía má bên

trái của Triệu-chí-Kính.

Nhờ sự luyện tập bền chí trên giường hàn thạch, mức nội công của Dương-Qua đã hết

sức thâm hậu, nên chưởng lực tung ra quá mạnh, kìm chế đối phương không nhúc

nhích nổi. Biết không thể nào tránh kịp, Triệu-chí-Kính đành nghiến răng, vận sức

vào đầu chịu trận. Nếu cần phải đối phó với chưởng lực này, Triệu-chí-Kính không đủ

gân sức để giữ lấy thanh trường kiếm nữa.

Nhờ già công tập luyện có đủ nghị lực để nhận định tình hình, nên Triệu-chí-Kính

đành vứt bỏ thanh kiếm, cúi đầu xuống sát đất để tránh lằn chưởng của Dương-Qua,

một tay đưa ra để dò xét chiều hướng của chưởng lực đối phương, rồi lăn vòng qua

một cái lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm và tung mình đứng dậy chuẩn bị tấn công lại.

Trong khi nghiên cứu võ học của phái Toàn-Chân, Lâm-triều-Anh đã gia tâm phân

tách từng thế võ, tiên đoán đuợc mọi sự biến chuyển để định cách ứng phó, chế phục

hết sức xảo điệu, cho nên bất kỳ thế võ nào của Toàn-Chân phải có cao siêu đến đâu

cũng có sẵn một thế khác để đối phó.

Triệu-chí-Kính đâu có ngờ như vậy, cho nên trong bụng đinh ninh rằng thế độc đáo

vừa rồi có thể chuyển bại thành thắng như chơi. Nhưng Dương-Qua đã nắm lòng từng

thế đi nước bước của đối phương rồi, nên chỉ nhìn qua mỗi một động tác nhỏ đã đoán

trước được thế võ đó và tấn công được ngay.

Sau khi dò biết chiều hướng xuất phát chưởng lực của Dương-Qua, Triệu-chí-Kính đột

nhiên nắm lấy tay đối phương rút mạnh để chận đứng luồng nhân diệt xuất phát.

Nhưng Dương-Qua đã tiên đoán được, xông đến lẹ như chớp tay trái chặn lấy tay cầm

kiếm của Triệu-chí-Kính, hắn hoảng sợ vội rút tay về, nhưng đã muộn. Dương-Qua

đoạt lấy thanh kiếm, dí vào ngực và hét lớn:

- Mi đã tận số rồi!

Triệu-chí-Kính hoảng hốt nhảy lùi lại một bước, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tung

chân trái đá quẹt ngang một ngọn. Bị ngọn cước ấy, Triệu-chí-Kính mất đà bật ngửa

trên cỏ. Dương-Qua vung kiếm chỉ thẳng vào bụng hắn muốn đâm sâu một nhát cho

rồi đời bỗng nhiên có một luồng gió mát thổi lộng tới, đồng thời có tiếng thét lớn:

- Mi cả gan hạ sát sư phụ à?

Dương-Qua vội thu kiếm, hoành thân chém một vòng ra phía sau, vừa kịp chận đứng

ngọn kiếm giải vây của Doãn-chí-Bình. Trong bụng Dương-Qua thầm khen phục

Doãn-chí-Bình đã tiếp cứu kịp thời.

Nhưng khi hai luồng kiếm vừa chạm nhau, Dương-Qua cảm thấy hổ khẩu tê rần như

chạm phải một luồng nhân điện và toàn thân cũng bị rung động, không thể điều khiển

cánh tay theo ý muốn nữa, vội vàng định thần vận nội công lấy lại thế quân bình. Tuy

nhiên nội công của Doãn-chí-Bình có phần thâm hậu hơn một bực, cho nên sau mấy

đường kiếm, Dương-Qua có vẻ lúng túng lối đánh rời rạc dần.

Doãn-chí-Bình càng phấn khởi tấn công tới tấp để hạ sát ngay đối thủ. Chẳng ngờ đấy

chỉ là đụng ý nghi binh của Dương-Qua để gây tinh thần tự kiêu tự đại của

Doãn-chí-Bình.

Sau vài hiệp thình lình Dương-Qua vứt kiếm, tung cả song chưởng đập mạnh vào ngực

rồi lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm, phổ hết điện lực vào tấn công luôn. Bất ngờ bị

tấn công cả hai thế Doãn-chí-Bình thất kinh, mồ hôi xuất đầm mình, vội vàng tập

trung hết công lực để đối phó với thế võ cực kỳ hiểm hóc này. Nhưng vì hai luồng

chưởng lực quá mạnh, Doãn-chí-Bình phải lật đật buông kiếm chốp hai chưởng trước

mặt để đón đỡ chưởng lực đối phương.

Nhưng khi vừa chạm vào tay Dương-Qua, y cảm thấy một luồng điện nóng rần rật

chuyển vào thân hình, khiến cánh tay tê tái và toàn thân rung động. Cũng may là sức

đào luyện của Dương-Qua chưa đến mức thâm hậu, khiến y cũng phải bại người ngã

quay ra liền lúc đó. Doãn-chí-Bình run lẩy bẩy và cảm thấy hình như có một mũi dùi

xuyên vào ngực, chạy khắp nội tạng đau nhức chịu không nổi, muốn tắt thở, y vội

vàng rút tay lại ấp lên ngực, hít mạnh vào một hơi vận dụng nội lực để chống lại cơn

đau nhức.

Dương-Qua đưa tay chụp lấy luôn thanh kiếm của Doãn-chí-Bình rồi hai tay múa tít

lên xông vào tấn công cả hai người. Hai đại đệ tử của phái Toàn-Chân bị một thiếu

niên bất ngờ xung xích mãnh liệt không kịp xoay trở, tay chân cuống cuồng suýt nữa

bỏ mạng. Mỉa mai hơn nữa thiếu niên nầy trước kia đây một thời gian ngắn, là đệ tử

của họ! Cả hai mệt thở hổn hển, tay run, mồ hôi nhễ nhại, cử động hết muốn nổi. Bấy

giờ mỗi người đều cuống cuồng không còn dám tự phụ khinh thường như lúc đầu nữa.

Hai người cùng hiệp sức bồi dưỡng cho nhau, phối hợp quyền lực thủ thế, không dám

nghĩ đến tấn công nữa.

Dương-Qua tuy có binh khí trong tay, đang thẳng thế, nhưng hai người biết chéo phối

hợp lối liên hoàn để ứng phó, nên hắn cũng chưa dễ gì hạ sát được.

Kiếm pháp của Cổ-Mộ đài tuy khắc chế được kiếm pháp của Toàn-Chân phái, nhưng

nhờ hai người có công phu võ thuật già dặn, tập luyện nhiều năm hơn, sự phối hợp

giao đấu được chặt chẽ cho nên tuy Dương-Qua thắng thế mà vẫn không thể nào hạ

thủ được.

Nhờ sức nội công thâm hậu, Triệu-chí-Kính vươn lên dần dần chống cự hữu hiệu

những đường kiếm của Dương-Qua. Riêng Doãn-Chí-Bình sau một hồi định tâm giữ

được bình tĩnh chỉ chú ý đối phó.

Hai cao thủ đem hết tài nghệ được bí truyền để đánh một thiếu niên miệng còn hơi

sữa, dầu may ra thắng được cũng chẳng được có giá trị gì, huống chi hiện tại phần

thua đã nghiêng về mình quá rõ rệt. Phần nữa, Doãn-chí-Bình luôn luôn lo âu băn

khoăn chẳng rõ Tiểu-long-Nữ ra sao nên gọi lớn:

- Bớ Dương-Qua, sao ngươi không lo săn sóc đến sức khỏe của cô nương lại cứ cố

tình tranh đấu mãi với chúng ta hay sao?

Dương-Qua vẫn không ngừng tấn công và đáp lớn:

- Ta đã nhận lệnh cô nương phải hạ sát hết hai đứa bay, rồi sẽ hay.

Doãn-chí-Bình cười lớn:

- Mi tưởng dễ hạ thủ anh em ta đấy à! Mi lầm rồi. Thôi hãy thu xếp đưa cô nương về

mà điều trị cho mạnh đã. Mi nên thưa với cô nương nên bỏ qua đi cho, vì bất ngờ để

xảy ra câu chuyện hôm nay, ta hết sức ân hận và cũng không ngờ đến. Nếu cô nương

cố chấp ta nguyện xin lấy sanh mạng mà tạ lỗi cùng nàng. Miễn cô nương, ban cho

một lời nói, nếu cần, ta có thể tự vẫn không chút ngần ngại để nàng được vui lòng.

Mi không tin lòng ta . Đây nầy, một việc làm đầu tiên của ta sẽ giúp cho mi và nhất

là cô nương hiểu rõ.

Nói xong, Doãn-chí-Bình tập trung ý chí, mắt sáng ngời, hai tay chắp lại, vận dụng

nhân điện, như chớp xông vào cướp thanh kiếm rồi múa lên một vòng chặt đứt một

lòng ngón tay trỏ và ngón tay vô danh của mình rơi xuống đất.

Hành động ấy diễn ra quá đột ngột ngoài sự dự đoán và óc tưởng tượng của

Dương-Qua. Nó bàng hoàng suy nghĩ và nhận thấy những lời nói trước kia của

Doãn-chí-Bình quá thành thật không có một ẩn ý gì khác.

Nhưng nó nghĩ thêm:

- Ta chưa đủ sức hạ thủ một lần cả hai đứa thì ngay bây giờ cứ tập trung mũi dùi vào

tên đạo sĩ đáng ghét kia trước đã. Còn đầu óc của Doãn-chí-Bình có thật tình hay

không, rồi hạ hồi phân giải.

Bỗng Doãn-chí-Bình nói tiếp với một giọng ân cần chí thiết:

- Ngay cả mạng sống của ta, nếu cô nương thấy cần, chỉ ban một lời, ta cũng không

hề luyến tiếc.

Dương-Qua đáp lại nho nhỏ:

- Ta hiểu, thôi rồi hãy hay!

Nói xong, hắn múa tít thanh kiếm tiến về phía Triệu-chí-Kính.

Thình lình bị tấn công mãnh liệt, Triệu-chí-Kính đang ở tư thế phù trợ chiến đấu qua

thế phải chịu đựng một mình tất cả sự tấn công của đối thủ, nên bất thần không phản

ứng kịp. Hắn giật mình thì vừa lúc ấy mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng dưới. Thật

không hổ thẹn đại đệ tử một danh môn chánh phái đã trên hai mươi năm khổ luyện.

Khi mũi kiếm Dương-Qua chọc qua lằn áo rạch một đường dài, tự nhiên

Triệu-chí-Kính nhanh như điẹn chớp, thóp bụng, cong mình lại như con tôm, bước lùi

ra sau một tí, tung một ngọn cước đá mạnh vào cổ tay của Dương-Qua làm văng thanh

kiếm lên cao như sao xẹt, chuyển bại thành thắng.

Bị rơi kiếm bất ngờ, Dương-Qua chuyển lực xòe bàn tay chặt mạnh vào đầu gối của

địch, trúng nhằm huyệt đạo, Triệu-chí-Kính cảm thấy tê rần cả người, đầu gối run lẩy

bẩy, rồi không gượng nổi té nhào xuống cỏ không cử động.

Dương-Qua nhặt thanh kiếm dí vào cổ Triệu-chí-Kính hét lớn:

- Trước kia ngươi xưng sư phụ ta để dày vò đầy đọa ta. Ngày nay ngươi không phải sư

phụ ta nữa. Ta sẽ cho lưỡi kiếm này xuyên qua cổ để kết liễu đời người cho rồi.

Nói rồi Dương-Qua ấn mạnh một tý, làn thép cửa rách một lớp da cổ, máu đỏ chảy

một đường dài.

Triệu-chí-Kính vừa đau đớn, vừa uất ức, nét mặt tái mét lại càng tái thêm. Mặc dầu đã

kề bên cái chết, nhưng sự phẫn nộ làm y không biết sợ hãi, trừng mắt nhìn

Dương-Qua nói lớn:

- Súc sinh, ngươi cứ giết ta đi! Đồ hèn hạ, đồ phản thầy!

Dương-Qua nổi nóng, mím môi định nhấn mạnh một cái để kết liễu tánh mạng hắn,

nhưng Tiểu-long-Nữ đã gọi giật lại:

- Dương-Qua, không nên giết sư phụ. Ngươi buộc hắn thề giữ kín việc nầy thì tha

mạng hắn cũng được.

Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm Dương-Qua chợt tỉnh nghĩ lại và tuyệt đối tuân theo.

Hắn nhìn Triệu-chí-Kính nói:

- Cô nương ta đã dạy, mi nghe chưa. Nếu muốn sống phải thề đi.

Tuy bản chất khẳng khái, tiết tháo, lúc nóng giận càng ơn gàn hơn. Hơn nữa, trước

một sự mất còn của sanh mạng mình, Triệu-chí-Kính không biết làm sao hơn, đành

nói nhỏ:

- ừ ta thề như vậy đó!

Dương-Qua quát lớn:

- Đâu có nói suông như vậy được. Người cần có sự cam kết nghiêm chỉnh để giữ lấy

lời thề mới được.

Triệu-chí-Kính ngoan ngoãn long trọng thề:

- Câu chuyện hôm nay đã xảy ra giữa bốn người được chứng kiến, tôi lấy danh dự thề

không bao giờ thổ lộ cho người thứ năm nữa, nếu tôi không giữ được lời hứa thề danh

dự tiêu tan không xứng đáng người của môn phái, người đời sẽ khinh miệt tôi, trong

võ lâm sẽ xem tôi như cỏ rác, sau này sẽ chết đường chết chợ, chết một cách khổ sở

không toàn thây.

Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ vốn người chất phác, nghe hắn thề độc như vậy là tin

ngay. Dương-Qua thu kiếm, quay qua phía Tiểu-long-Nữ chăm sóc cho sư phụ. Đối

với Doãn-chí-Bình thì những lời thề ấy có nhiều ẩn ý khác, huống chi bản chất của

Triệu-chí-Kính như thế nào y cũng hiểu quá rồi. Doãn-chí-Bình đang bâng khuâng

chưa biết nói những gì, kế thấy Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ phi thân phóng trước

mặt, thẳng hướng về phía Cổ-Mộ đài, y càng thêm bàng hoàng, tâm thần bấn loạn như

trải qua một cơn bão lòng mãnh liệt. Y âm thầm nhìn lại hai ngón tay bị chặt đứt,

máu tươi còn rỉ rả chảy, sự đau đớn của thể chất và nỗi xót xa của tâm hồn chưa biết

bên nào nặng hơn.

Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ chạy về đến Cổ-Mộ đài, đặt nàng trên giường hàn

thạch.

Tiểu-long-Nữ ngó lên nhìn hắn và nói nho nhỏ:

- Ta yếu quá đâu đủ sức chống lại sức lạnh của giường này, Dương-Qua chợt nhớ lại,

vội bồng nàng lên chạy qua đặt trên giường của Tôn bà.

Tiểu-long-Nữ nằm im, thở nhè nhẹ, thân hình mềm nhũn như không còn hơi sức, da

mặt trắng bạch, mồ hôi rịn ướt trán, đôi mắt nhắm nghiền. Dương-Qua lau mồ hôi cho

nàng. Bỗng Tiểu-long-Nữ mở mắt, kêu lên một tiếng và hộc luôn mấy búng máu tươi.

Dương-Qua chưa kịp mặc áo và vì đang cúi xuống nhìn nàng, nên bị máu phun đầy cả

ngực.

Nàng nhắm mắt, mím môi cố vận khí lực đè nén cơn tức, nhưng càng vận dụng bao

nhiêu, máu càng trào thêm bấy nhiêu.

Dương-Qua cuống cuồng lấy tay bịt mồm nàng cho máu bớt chảy và cuối cùng không

biết làm gì hơn nữa, chỉ ôm mặt khóc lớn.

Nghe tiếng khóc, Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và cười nhạt:

- Ta chỉ muốn máu trào cho hết mà không được.

Dương-Qua bệu bạo nói:

- Không nên đâu, cô nương đừng nghĩ và đừng làm như thế. Cô chưa thể chết được

đâu.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Mi sợ chết không?

Dương-Qua hết biết đáp ra sao, chỉ ấp úng:

- Thưa... tôi... tôi đấy à... Thưa cô nương, tôi...

Nhưng Tiểu-long-Nữ đã cất lời:

- Trước khi ta chết, ta phải giết ngươi đã.

Trước đây hai năm, Tiểu-long-Nữ đã nói câu này một lần. Không ngờ bây giờ nàng

nhắc lại. Dương-Qua không biết đáp thế nào chỉ nhìn nàng ngơ ngác.

Thấy dáng điệu của nó như vậy, Tiểu-long-Nữ nói thêm:

- Ta phải giết mi, nếu không ta về âm phủ gặp Tôn bà ta biết nói năng làm sao? Ta đã

hứa cùng Tôn bà dạy dỗ, chăm nom, săn sóc mi, nếu ta chết đi, bỏ ngươi một mình

bơ vơ, lấy ai là người giúp đỡ. Ta không nỡ để ngươi một thân một bóng quạnh hiu

không người thơng yêu chăm sóc. Chừng ấy cuộc đời mi sẽ ra sao? Ta chết cũng

không yên tâm được.

Dương-Qua bối rối, chưa biết đối đáp làm sao, chỉ đứng lặng thinh sụt sùi.

Nói xong, nàng lại mửa thêm mấy búng máu tươi, lịm dần và nằm yên bất tỉnh.

Bỗng linh tính nhắc hắn một điều. Dương-Qua chạy đi lấy bình mật ong trắng, dùng

thìa múc đổ vào miệng Tiểu-long-Nữ. Mật ong trắng có đủ sức bồi dưỡng sinh khí,

chữa các chứng nội thương nhiễm độc rất hiệu quả. Sau một chập, nàng thở đều, có vẻ

khỏe hơn trước và nằm yên như ngủ say. Máu cũng ngừng chảy.

Dương-Qua cảm thấy yên chí. Nhưng bây giờ hắn đã thấm mệt tay chân mỏi rã rời,

đầu hoa mắt quáng, bèn ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào giường, ôm chân nàng ngủ

thiếp lúc nào không biết.

Một chập sau, Dương-Qua cảm thấy một cái gì lành lạnh nơi cổ, vội mở mắt nhìn.

Tuy sống nhiều năm nơi Cô-Mộ đài, luyện tập công phu khá dày, nhưng Dương-Qua

chưa đoạt được mức nhìn xuyên qua màn tối như sư phụ, cho nên mỗi đêm phải thắp

nến các phòng.

Hôm nay vì có việc bận rộn bất ngờ, hắn quên thắp nến, tuy nhiên trong ánh đêm mờ

mờ, hắn vẫn trông thấy Tiểu-long-Nữ điềm nhiên ngồi bên cạnh giường, tay cầm

trường kiếm dí vào cổ mình.

Hắn hết sức ngạc nhiên và sợ hãi vội hỏi:

- Cô nương, cô nương làm gì vậy?

Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:

- Ta tự thấy bịnh tình không thuyên giảm nổi. Thôi chúng ta cùng nhau đi gặp Tôn bà

vậy nhé.

Hoảng quá, hắn chẳng biết nói sao, chỉ lẳng lặng trố mắt nhìn nàng.

Tiểu-long-Nữ hỏi:

- Sao mi sợ lắm phải không? Có gì mà sợ! Chỉ một nhát kiếm là xong, có gì đau đớn

đâu mà ngại chứ.

Dương-Qua thoáng nhìn thấy ánh mắt nàng bỗng nhiên sáng ngời, và tay vẫn lăm lăm

cầm thanh kiếm nên đoán chắc nàng đã quyết định hạ sát mình rồi.

Tâm linh tự vệ và bản chất ham sống tự nhiên đến, hắn bỗng nghĩ đến cách đối phó

thoát khỏi luồng kiếm thép. Thình lình hắn tung mình phóng lùi ra sau một bước, rồi

tung cước đá vào tay kiếm Tiểu-long-Nữ. Thanh trường kiếm rơi xuống đất.

Tuy bị thương khá nặng, nhưng nhờ bản lãnh cao siêu, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được

bình tĩnh chuyển thể kịp thời, phản ứng lẹ như chớp, vừa bị đá rơi kiếm, nàng tung

mình vươn tay phải thu hồi lại được ngay và loang một vòng kề sát cổ Dương-Qua.

Dương-Qua vận dụng hết tâm trí chống đỡ. Nó xoay đủ thế để tránh né, nhưng hình

như nàng đã tiên liệu tất cả các thế võ ấy nên thanh trường kiếm loang loáng bao

quanh thân hình hắn.

Tránh né không được, Dương-Qua vận dụng những thế tấn công hạ bộ, nhưng ngón

nào cũng bị Tiểu-long-Nữ đón trước, hóa giải quá dễ dàng. Thanh trường kiếm lấp

loáng xoay chiều đổi hướng bao quanh mình Dương-Qua như hình với bóng, không

khi nào cách xa quá ba tấc.

Dương-Qua tháo mồ hôi hột, vừa kinh hãi vừa lo âu thầm:

- Lần nầy chắc không thoát khỏi tử thần, thôi đành để cho sư phụ định đoạt tánh

mạng, về âm ty gặp Tôn bà chứ sao. Nhưng phúc chí tâm linh làm nó chợt nhớ:

- Sư phụ đang bị nội thương nặng, chắc không đủ sức vận dụng thế lực, chi bằng ta

dùng nhân điện để ứng phó có lẽ hơn.

Tiểu-long-Nữ cũng nhận thấy nhược điểm của mình trong lúc nầy, nên vừa nghiêng

mình lách sang một bên để luồng chưởng lực của hắn phớt mạnh qua, nàng gọi nhỏ:

- Dương-Qua, đừng vận khí nữa.

Nói xong, nàng tung trường kiếm lên trời, lưỡi kiếm lộn mấy vòng rơi xuống, nàng

đổi tay hứng lấy rồi theo một thế "phân hoa phất liễu", thoáng đấy đã kề vào cổ hắn

ngay.

Tiểu-long-Nữ nghiêng mình thêm phía trước vài tấc, định xiên mũi kiếm qua cổ họng

Dương-Qua, nhưng bỗng nhiên nàng cảm thấy mất cả sinh lực, toàn thân bủn rủn, tứ

chi mệt rũ rượi, buông thanh kiếm rơi xuống đất nghe "xẻng" rất lớn.

Dương-Qua tưởng mình đã đến giờ về cõi chết, nhắm mắt đợi, bất ngờ hắn thấy

Tiểu-long-Nữ ngưng lại, lảo đảo buông kiếm ngã xỉu ra đất. Như cái máy, hắn cúi

xuống lượm tham trờng kiếm, cắm đầu chạy thẳng ra cửa, tìm lối thoát thân.

Thoát khỏi nơi đen tối của tử thần, Dương-Qua tung mình phóng đại ra cửa, mắt bị

chói lòa bởi ánh sáng của vừng thái dương tỏa qua cành cây khe lá. Gió thổi lộng mát

dịu cả lòng, như được thấm nhuần một nguồn sanh khí mới. Ngàn cây đầy tiếng chim

kêu ríu rít vọng đến bên tai, Dương-Qua có cảm giác như được nghe một điệu nhạc

hồi sinh và bồi hồi xua đuổi ám ảnh của khung cảnh ảm đạm chết chóc trong Cổ-Mộ

đài mà nó vừa thoát khỏi.

Một chập sau nó hoàn hồn định thần dừng chân lại nghỉ. Nhưng chợt nghĩ sợ

Tiểu-long-Nữ dùng khinh công đuổi theo nữa, nên nó lại cuống cuồng băng mình cắm

đầu chạy nữa. Tuy thời gian tập luyện chưa bao lâu nhưng sức phi hành của

Dương-Qua cũng đủ lướt nhanh như gió và trên giang hồ chưa mấy tay đã theo kịp.

Băng không biết bao nhiêu dặm trường đường núi, lúc tạm dừng chân thì mặt trời đã

đúng ngọ. ánh nắng gay gắt làm cho Dương-Qua cảm thấy cổ nóng như bỏng vì khát

nước. Nhìn lại sau lưng không thấy bóng Tiểu-long-Nữ đuổi theo, lúc bấy giờ hắn

mới yên tâm ngồi lại trên tảng đá để nghỉ.

Từ đêm đến giờ trong bụng không có một thức ăn nào, nên Dương-Qua thấy đói và

xót xa như bị cào xé. Muốn đi tìm quá trong làng gần đấy mua thức gì ăn đỡ dạ,

nhưng sực nhớ lại trong túi không có một đồng, nên Dương-Qua thở dài suy nghĩ.

Tấm thân lưu lạc từ thuở bé, không mẹ không cha, bao lần trôi nổi cam go, chịu cực

nhiều nỗi đắng cay ê chề, nên đã quen rồi, dù có phải nhịn đói vài hôm hay nằm rừng

ngủ bụi, đối với Dương-Qua cũng là việc quá thông thường. Vốn bản chất lanh lẹ tháo

vát, nên sau khi nghỉ xả hơi vài khắc, hắn tìm suối vốc nước uống, rồi phi thân lên

một cây ý-dĩ gần nhất, cành sum sê cả trái. Bứt một mớ trái vừa sồn sồn chưa được

chín mang xuống đem lại gành đá, bẻ củi khô, nhúm lửa nấu chín để ăn đỡ dạ.

Bỗng có tiếng động và từ đàng xa có bóng người lướt đến gần Dương-Qua chỉ liếc mắt

nhìn lại, rồi giả bộ không trông thấy, y lẳng lặng vừa đun lửa vừa theo dõi, người này

là một đạo cô, mặc áo vàng, nét mặt sáng rỡ, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát thật mau

và uyển chuyển, sau lưng gài một trường kiếm bao sơn màu máu trên nền áo vàng bay

phât phới. Nàng lướt đi mau, tiếng gió lộng vào bao kiếm, bật thành tiếng vi vu như

sáo diều. Dáng điệu nàng di chuyển quả là con người sành võ nghệ.

Dương-Qua nghĩ có lẽ người này thuộc phải Trùng-Dương, cũng đang đi giang hồ,

nên chẳng muốn làm quen hay hỏi han làm gì cho bận trí. Vì vậy nên hắn vẫn lui cui

chụm lửa như không trông thấy nàg.

Đạo cô tiên đến trước mặt Dương-Qua dừng lại hỏi:

- Ông bạn ơi, xin vui lòng, chỉ hộ đường lên núi phải theo ngõ nào cho đúng?

Dương-Qua ngạc nhiên tự hỏi:

- ủa, nếu nàng này là đệ tử của phái Toàn-Chân sao lại không biết đường vậy à? Chắc

có gì bí ẩn đây chăng.

Tuy nghĩ thế, nhưng hắn cũng chẳng muốn hỏi lại, chỉ điềm nhiên đưa tay chỉ ra phía

trước nói bâng quơ:

- Theo ngõ đó thì đúng.

Nhìn thấy thiếu niên này ăn mặc lam lũ, lui cui nấu ăn, Đạo cô đoán có lẽ là một

nông dân hay tiều phu của vùng này. Nàng tự thấy mình ăn mặc sang trọng, mặt mày

đẹp đẽ mỹ miều, từ trước đến nay hỏi đến ai cũng được người ta vui vẻ đón mời cực

kỳ vồn vã, thế mà người này lại có vẻ thờ ơ lạnh nhạt, hay là hắn chưa nhìn thấy mình

chăng?

Đứng lặng một chập, nàng thấy Dương-Qua vẫn giữ thái độ bình thản, khinh khỉnh

hình như không hề đoái hoài tới mình, nên bực tức bước lại gần nói gắt:

- Này anh bạn kia ơi, hãy đứng dậy, ta có chuyện muốn hỏi đây.

Đã có thành kiến với các đạo sĩ phái Toàn-Chân, nên Dương-Qua cũng bực mình, giả

ngờ làm thinh không đáp lại.

Nàng nổi nóng nói lớn:

- Ê, thằng oắt kia, không nghe cô nương nói đấy à?

Dương-Qua đáp:

- Có chứ, nhưng chẳng qua không muốn đứng dậy đó thôi.

Nàng nghe nói vậy, bụng nghĩ có lẽ nó chưa nhìn thấy mình, nên kiên nhẫn nói ngọt:

- Ông bạn hãy nhìn tôi một tí xem nào.

Giọng nói lần này êm dịu làm sao, nghe như rót vào tai, vừa ấm vừa thanh tao.

Dương-Qua cảm thấy lòng xao xuyến vì suy nghĩ:

- Lạ thật, người con gái này là ai, mà giọng nói vừa ngọt vừa êm như vậy nhỉ?

Rồi hắn ngẩng đầu nhìn lên:

- Thấy nàng đạo cô quả đẹp đáo để. Nước da trắng và hồng hồng, cặp mắt đen láy

sáng như sao, mũi dọc dừa, làn môi cắn chỉ đỏ mọng dễ thương làm sao!

Một thiếu nữ xinh tươi mỹ miều khả ái như thế này, chắc không có ác ý gì. Tuy nghĩ

thế, Dương-Qua vẫn làm thinh, rồi cúi xuống nhóm lửa như cũ.

Đạo cô thấy người này đã nhìn mình rồi, mà lòng không mảy may xúc động, có lẽ y

là con người nông dân sơn dã mộc mạc, suốt đời chỉ lam lũ, cha biết mùi đời, chưa

có cảm giác rạo rực trước gái đẹp chăng. Nếu quả vậy thì hắn thực thà, mình cũng nên

tìm cách lôi kéo thu phục được hắn có lẽ hơn. Đoán như thế nàng bỗng thấy đắc ý rồi

mỉm cười hỏi thêm:

- Ông bạn làm gì thế, có thích món này không, tôi xin tặng cho đây.

Vừa nói, nàng vừa thò tay vào túi lấy ra hai thoi bạc sáng loáng, ném ngay trước mặt

Dương-Qua.

Dương-Qua vốn ranh mãnh lanh lẹ lạ thường. Tuy không cố tâm chọc giận nàng này

làm gì, nhưng vì thấy trong lối ăn nói đối xử của nàng có vẻ kẻ cả hách dịch, cho nên

nó càng giả bộ ngây ngô, nhìn sững hai thoi bạc e dè hỏi:

- Vật này là thứ gì mà sáng trắng lóng lánh, trông cũng khá đẹp đây nhỉ?

Đạo cô bỗng bật cười rồi nói:

- Bạc đấy! Dùng thứ này để mua gạo, mua thức ăn ngon, sắm được quần áo đẹp.

Dương-Qua giả bộ ngớ ngẩn hỏi thêm:

- Thế ra cô cho tôi đấy ?

- Chứ sao nưa? Nếu không cho thì ta ném ra đây làm gì? à, mà ông bạn tên là gì nhỉ?

- Tôi họ Sồ, tên Ngốc-Tử. Cô không biết sao? Còn cô tên gì nhỉ?

Nàng mỉm cười đáp:

- Hỏi tên ta làm gì? Cứ gọi à tiên cô cũng được à, má của cậu làm gì nhỉ?

Dương-Qua nói:

- Má tôi đang kiếm củi ở trên núi kia kìa.

Nàng hỏi tiếp:

- Ta muốn lên núi này lắm, nhưng ăn mặc như thế này bất tiện. Vậy cậu làm ơn dẫn

tôi đến gặp má, nhớ đổi hộ bộ quần áo khác có được không?

Dương-Qua giả bộ sửng sốt đáp:

- ý! Không được đâu. Cô ăn cắp áo quần mà tôi đánh chết. Nàng cười khì khì nói:

- Ta mua trả tiền chứ ăn cắp đâu mà ngại!

Nói xong, nàng lấy thêm một thoi bạc nữa vung đến cho Dương-Qua.

Hắn đưa tay ra bắt, nhưng giả bộ hụt để cho thoi bạc chạm vào vai rơi xuống đất, rồi

dùng chân đạp lên, loay hoay trượt té, nhủi về phía trước, rồi rảo bước chạy về phía

đạo cô vừa chạy vừa la:

- Tại sao cô lại đánh tôi? Xô tôi. Tôi sẽ mách má tôi đánh lại cho mà xem.

Nói rồi nó ù té chạy.

Thấy bộ điên điên khùng khùng của nó, đạo cô cũng phát tức cười, vội tung một

mảnh lụa trắng đến phía trước, quấn vào chân nó kéo lại.

Thấy lối tung lụa này, Dương-Qua rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:

- ủa, đây là thế võ Cổ-Mộ đài, chứ đâu phải là người của Toàn-Chân phái. Vậy nàng

này là ai? Mấy lúc nay chưa hề nghe cô nương nói đến.

Nghĩ thế nó giả bộ loạng choạng vấp ngã nhoài ra, rồi lồm cồm đứng dậy. Như một

người hoàn toàn không biết gì là võ nghệ. Nó cố dẫy dụa. Nhưng chân vẫn lúng túng

mắc vào giải lụa, để nàng khỏi dùng thế võ khác, lòng nó phân vân suy nghĩ mãi

không hiểu nàng là ai, lên núi để làm gì? Hay để tìm cách ám hại cô nương mình

chăng?

Nghĩ đến đây, Dương-Qua liên tường đến Tiểu-long-Nữ trong giờ phút này chẳng

hiểu sức khỏe ra sao, hay là... đã?... bề gì rồi.

Rồi một mối lo ngại sâu sắc bỗng xâm chiếm tâm hồn nó. Quên tất cả mọi sự hiểm

nghèo, Dương-Qua chỉ còn e ngại sợ Tiểu-long-Nữ đã bị nội thương mà chết rồi

chăng?

Lo lắng quá, nó chỉ muốn trở lại gặp nàng, săn sóc cho nàng, mặc dầu nàng có bắt nó

để giết đi, nó cũng cứ an tâm. Đang mãi hoang mang suy nghĩ, bỗng đạo cô bước đến

gần, nhìn kỹ vào mặt nó. Tuy thấy mặt mày lem luốc, quần áo bẩn thỉu, nhưng vẫn có

những nét rất khôi ngô tuấn tú, nàng nghĩ thầm:

- ồ, chú bé này đẹp quá, rất tiếc vì lam lũ đói khổ, nên thân hình tiều tụy thôi. Nếu

được ăn no mặc đẹp, thanh niên thế gian chua mấy ai qua khỏi hắn nổi.

Thấy Dương-Qua nhảy múa lung tung, la réo ầm ĩ, mặt mày mếu máo, nàng bỗng tức

cười, đa tay tuốt gươm đánh soẹt một cái chỉ vào mặt hắn hỏi lớn:

- Gã kia, nhà ngươi muốn chết hay sống?

Nhìn thấy nàng xuất thủ theo thế "Cầm bút điểm tự" đúng là một tử thế của phái võ

Cổ-Mộ. Dương-Qua không còn nghi ngờ gì nữa, lòng đinh ninh nhất định nàng này

phải là môn đồ của Lý-mạc-Thu sư bá, nhưng chưa rõ tên họ là gì, và không biết nàng

lên núi làm gì, hay muốn tìm cô nương mình để sinh sự chi đây.

Thấy nàng xuất thủ gọn gàng lanh lẹ quá, Dương-Qua đoán bản lĩnh vượt cao hơn

mình nhiều, nên tự nghĩ:

- Đối với hạng nầy, ta nên dùng mưu để đối phó, hơn là dùng lực.

Nghĩ thế, hắn bỗng thối lui mấy bước làm ra vẻ kinh sợ lắm, rối rít nói:

- Tôi sợ lắm, xin cô nương đừng giết, rồi khiến gì tôi cũng nghe.

Đạo cô cười gằn rồi nói:

- Nếu ngươi trái ý ta, thì một nhát kiếm cũng đủ đưa hồn mi chầu diêm chúa đấy nhé!

Dương-Qua càng làm ra vẻ ngớ ngẩn sợ sệt, lật đật đáp:

- Dạ! dạ, xin nghe, xin nghe. Đạo cô loang kiếm thành một đường tròn, quả là oai

nghi uyển chuyển; rồi tra kiếm vào vỏ. Dương-Qua trố mắt nhìn, há hốc mồm một

chập, rồi dạ, dạ luôn quả là một thằng khùng chính cống.

Đạo cô nghĩ thầm:

- Thằng này điên điên khùng khùng, nhưng có vẻ dễ thương. Mình muốn dạy nó học

võ, chẳng biết nó có học được không? Bộ tịch nó thật điên hay giả ngộ, chờ một chập

sẽ rõ ngay. Trông nó có vẻ cục mịch nặng nề như chàng nhà quê chúa!

Nàng chỉ vào mặt nó bảo:

- Hãy đi vào xóm tìm cho ta một cái rìu để cần dùng, mau lên.

Dương-Qua vội vàng vâng dạ, rồi hấp tấp chạy, tập tễnh như người chưa biết tí võ

nghệ nào, thỉnh thoảng quay đầu ngó lại xem chừng.

Nàng quát thêm:

- Mau đi, phải cẩn thận đấy.

- Dạ! dạ, dạ.

Dương-Qua làm ra bộ ngờ nghệch chăm chú bước vào nhà một tiều phu ở bên đuờng.

Qua khỏi cổng nó nhìn thấy tứ bề hiu quạnh không có bóng người, nên đoán chắc chủ

nhà đã đi vào rừng đốn củi.

Lẻn ra sau bếp, Duơng-Qua nhìn lên vách thấy có treo một cái rìu nhỏ, vội lấy xuống,

vác lên vai rồi khập khễnh trở lại trao cho đạo cô.

Tuy giả bộ đóng kịch đánh lừa đạo cô, nhưng trong lòng Dương-Qua luôn luôn suy

nghĩ, băn khoăn lo lắng đến bệnh tình Tiểu-long-Nữ, không biết hiện nay ra sao.

Quá lo đến sư phụ, nét mặt nó không che đậy được nỗi buồn man mác.

Đạo cô nhìn thấy nên ôn tồn hỏi:

- Ngươi có điều gì lo nghĩ mà có vẻ đăm chiêu buồn bực như người đa đám ma vậy?

Hãy cười lên một tí xem nào?

Dương-Qua bỗng cười lên khành khạch một tràng dài, không trả lời.

Đạo cô cau đôi mày liếc nhìn nó bảo:

- Bây giờ ngươi theo ta cùng lên núi nghe chưa.

Dương-Qua lắc đầu đây đẩy đáp:

- Không đâu, tôi phải về với má tôi để ăn cơm chứ, không về má tôi đánh đòn đau lắm

cô ơi!

Đạo cô xách tai nó quát lớn:

- Mày trái lệnh, tao giết chết ngay tức khắc.

Nói xong, nàng tuốt kiếm hoa lên trước mặt nó mấy vòng.

Dương-Qua cuống cuồng thụt lùi ra sau kêu la ầm ĩ như heo ròng:

- Tha tôi đi, bỏ tôi ra, ối trời ơi!

Thấy thiếu niên quả ngu ngốc ngờ nghệch nhưng nếu dùng được thì hay lắm, nên đạo

cô nắm vạt áo nó kéo đi và dịu dàng bảo:

- Hãy theo ta.

Nói xong, nàng phăng phăng bước đi lên núi.

Với một người võ nghệ cao siêu, dẫu bước đi thường cũng mau lẹ thoăn thoắt. Vì đã

giả bộ như người thường không biết tí võ nghệ, cho nên Dương-Qua cố ý tập tễnh

bước theo, vừa đi vừa chạy thỉnh thoảng ngã quay ra đất hoặc đứng lùi lại sau một

quãng sau suýt soa.

Cứ đi một chập Dương-Qua lại ngồi xệt xuống nắn bóp ống chân, thở hổn hển, khiến

đạo cô phải đứng lại chờ, hoặc lớn tiếng thúc giục.

Quạu quá nàng nắm lấy tay Dương-Qua kéo xển đi tới. Dương-Qua vội vã bước theo,

chân nam đá chân siêu, thỉnh thoảng giả bộ vấp nhào tới ôm choàn lấy chân của đạo

cô, làm cô ta giật mình trợn mắt mắng lớn:

- Thằng ranh, mi làm gì thế? Bộ muốn chết sao?

Dương-Qua chỉ thở hổn hển, mắt ngó láo liên hình như quá mỏi mệt:

Nhìn bóng tà đã xế qua, nếu trì hoãn sẽ tối mất, nên đạo cô không e dè đa tay quàng

ngang hông Dương-Qua dùng thuật phi hành vùn vụt đi lên núi. Nàng khinh thân quá

mau, không mấy chốc đã vượt qua trên mười dặm đường.

Lần đầu tiên được người đàn bà ôm choàng ngang người, Dương-Qua cảm thấy lòng

rung động một cảm giác là lạ, thích thú, dễ chịu làm sao. Da thịt của nàng vừa mềm,

vừa êm, vừa ấm, nó mong cứ như thế này mãi, nên vui lòng nằm yên không cưỡng lại!

Phi thân đi được một đoạn đường dài. Đạo cô liếc mắt nhìn thấy vẻ mặt Dương-Qua

ngơ ngác, đôi mắt mở rộng nhìn mình có vẻ khâm phục lắm, nên nàng thấy hài lòng

lắm.

Chạy thêm một chặp nàng đặt nó trên cỏ và hỏi:

- Mi thấy ra sao! Có sướng không?

Dương-Qua bỗng sa sầm nhăn nhó rồi đưa tay nắm cổ chân kêu lớn:

- ối chao, đau quá! Cô nương ném tôi mạnh quá làm tôi suýt gãy xương chân đây rồi.

Nàng không giận mà trái lại thấy sung sướng nên lườm nó một cái và bảo:

- Mày lại lên cơn rồi, hèn chi gọi là thằng khũng cũng phải.

Dương-Qua liến thoắng hỏi ngay:

- ủa, người ta gọi tôi là thằng khùng ? Còn tiên cô họ là gì nhỉ?

- Thì cứ gọi là tiên cô được rồi, cần gì hỏi đến họ nữa, có ích chi đâu.

Thật ra nàng họ Hồng, tên Lăng-Ba, vốn là đại đệ tử của Xích-Luyện Tiên tử

Lý-mạc-Thu. Xưa kia, Hồng-lăng-Ba có thừa lệnh thày đến hạ sát toàn gia

Lục-lập-Đỉnh, sau bị đuổi bắt phải tìm đường trồn tránh.

Dương-Qua thấy nàng tìm cách nói lảng, biết chưa thể tìm hiểu tông tích được, nên

chờ cơ hội khác không dám hỏi nữa.

Đạo cô đến ngồi trên một phiến đá, lấy gương ra rồi dùng lược chải lại làn tóc mây

cho thêm óng ả. Dương-Qua lén nhìn thấy nét mặt nàng khá đẹp, da trắng, tóc đen,

đôi mày thanh, miệng tươi thắm. Tuy nhiên nếu so sánh với bác Hoàng-Dung, ở

Đào-Hoa đảo vẫn có hơn. Nhưng so với Tiểu-long-Nữ, sư phụ mình thì còn thua xa.

Thật ra giữa Hoàng-Dung và Tiểu-long-Nữ, chưa chắc ai hơn ai, nhưng vì

Tiểu-long-Nữ còn trẻ hơn, huống chi đối với Dương-Qua, nàng là người mà hắn cảm

phục nhất cho nên đối với hắn, Tiểu-long-Nữ là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.

Hồng-lăng-Ba liếc nó một cái và hỏi:

- Mi làm gì mà nhìn ta kỹ thế?

Dương-Qua làm bộ ngớ ngẩn đáp:

- Tôi muốn nhìn là cứ nhìn, có phải tại sao đâu? Nếu cô nương không thích thì tôi

khỏi nhìn nữa chứ sao!

Nàng nghe đáp ngồ ngộ, cười xòa và hỏi thêm:

- Mi thấy ta có đẹp không?

Vừa hỏi nàng lấy lược vuốt thêm làn tóc rủ trên trán.

Dương-Qua gật đầu lẩm bẩm:

- Đẹp, đẹp lắm.

Nàng thích chí hỏi thêm:

- Đẹp như thế nào mới được chứ.

Hắn bỗng lắc đầu, chiếp lưỡi nói:

- Tiếc không được trắng lắm.

Mấy lúc này Hồng-lăng-Ba tự hào mình có làn da mịn trắng nhất đời, nay bỗng bị

chê, lòng vừa ngạc nhiên vừa bực tức, hỏi gắt hơi lớn tiếng:

- Mi muốn chết sao mà nói bậy. Mi dám bảo ta không đưuợc trắng à?

Dương-Qua lắc đầu, phùng má nói:

- Không được trắng lắm.

Nàng tức mình đứng dậy hỏi:

- Thế mày chỉ kẻ nào trắng hơn tao nào?

Dương-Qua điềm nhiên đáp:

- Tôi cũng không còn nhớ ai trắng hơn cô nữa.

Nàng không chịu được hỏi lớn:

- Ai nào? Cố nhớ lại xem thử? Có phải chị của mày không? Hay là bố của mày, hở

thằng khùng.

Làm bộ suy nghĩ một chập rồi Dơng-Qua ấm ớ nói:

- Không phải, không đúng. Cô không trắng bằng con dê bạch của tôi. Lông nó trắng

như tuyết cơ.

Nghe nói, Hồng-lăng-Ba bỗng cười rũ rượi hết bực mình.

- Quả là đồ khùng, ai đời đem ví da người với lông dê. Nói xong nàng có vẻ hài lòng

đến ôm choàng hắn băng lên núi lần nữa. Gần đến quãng đường rộng lên

Trùng-Dương Cung, Hồng-lăng-Ba quẹo sang tay phải qua phía tây đi về phía Cổ-Mộ

đài.

Dương-Qua theo dõi hành trình của nàng bỗng giật mình tự nghĩ:

- Cô này đến đây với dụng ý gì? Có muốn gây sự hay tìm cách hãm hại sư phụ ta

chăng?

Đi thêm một khúc đường dài nữa, tới mấy chỗ rẽ, Hồng-lăng-Ba thò tay vào bọc rút ra

một bản đồ, ngừng chân một chập để xem và quan sát lối đi.

Dương-Qua muốn tìm cách cản trở, và chỉ về phía rừng trước mặt vừa nói nho nhỏ ra

vẻ sợ sệt:

- Thôi cô ơi, đừng vào khu rừng đó nữa, ma nhiều lắm, tôi chả dám theo đâu.

Nàng trợn mắt hỏi:

- Tại sao mi biết?

- Trong rừng này có một ngôi mộ bí mật to lớn, có đầy cả hồ ly ma quỉ. Tôi nghe

người ta nói như thế và không ai dám đến chỗ này bao giờ.

Hồng-lăng-Ba nghe nói lòng mừng khấp khởi. Nếu như thế thì đúng là Hoạt-tử

Mộ-đài đây rồi.

Nàng vốn là học trò số một của Lý-mạc-Thu, được sư phụ chân truyền võ nghệ đã vào

bậc khá. Mấy lúc sau này theo Lý-mạc-Thu đi đánh bại được nhiều anh hùng trên

giang hồ, nên nàng đã tự cao cho mình là người nhiều bản lãnh.

Thỉnh thoảng nàng được sư phụ kể cho biết nơi xuất phát nền võ thuật của môn phái

và chính nơi Cổ-Mộ-đài là trung tâm đào luyện nên những bí quyết cao siêu của một

môn võ kỳ diệu bậc nhất trên thiên hạ là "Ngọc-nữ tâm-kinh". Môn nầy chưa mấy ai

học được và nếu học được, đủ sức đối phó tất cả cao thủ trên võ lâm.

Lý-mạc-Thu chưa được chân truyền môn võ thuật này, lòng vẫn ấm ức, nên sau khi

được biết sư phụ tạ thế, cố đột nhập về Mộ đài một lần quyết đoạt cho kỳ được pho

"Ngọc nữ tâm kinh" nhưng không thi hành được thủ đoạn phải bỏ chạy. Vì tự cao tự

đại nàng nói thật cho học trò nghe mà chỉ cho biết lý do là hiện nay Mộ ấy đã giao lại

cho một sư muội là Tiểu-long-Nữ. Nàng và Tiểu-long-Nữ có nhiều điểm không hợp ý

nhau nên nàng không muốn quay về nơi ấy nữa.

Thấy sư phụ nói thế, nhiều khi Hồng-lăng-Ba khuyên Lý-mạc-Thu dùng võ lực chiếm

Cổ-Mộ đài để đoạt pho sách quý. Lý-mạc-Thu đâu phải không có ý nghĩ đó, nhưng

ngặt vì đường đi trong Cổ-Mộ đài muôn phần bí hiểm, thêm lắm cơ quan máy móc kỳ

diệu chết người nên không đủ sức thực hiện được. Tuy nhiên nàng chỉ mỉm cười

không nói ra sự thật.

Hồng-lăng-Ba thấy sư phụ hình nh không còn nghĩ đến việc ấy nữa, nên nàng định

thâm tìm dịp nhập Cổ-Mộ đài một chuyến.

Nhiều lúc nàng dò hỏi sư phụ lối ra vào nơi Cổ-Mộ đài, lấy bút ghi thành bản đồ để

sau này sử dụng. Thừa dịp đìợc sư phụ phái đi Trường-Tống diệt gia đình một địch

thủ, sau khi làm xong công việc, nàng tự ý đi luôn đến núi Chung-Nam, tình cờ lại

gặp Dương-Qua.

Chỉ được nghe Lý-mạc-Thu nói là ngôi mộ ở giữa khu rừng rậm âm u, cỏ cây bao phủ

tứ bề, chứ nàng cũng chưa hình dung được thế nào cho rõ rệt. Ngoài ra Lý-mạc-Thu

cho biết trong mộ khác hẳn bên ngoài và có những đường lối giao thông liên lạc hết

sức bí hiểm.

Hồng-lăng-Ba sai Dương-Qua dùng sứ chặt cây phát bụi hai bên để nhìn thấy đường

vào Cổ-Mộ đài.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction