CHƯƠNG 55,56,57

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  CHƯƠNG 55

Cuối tháng sáu 1955, một vài ngày sau khi tôi thay mặt của lãnh tụ phát biểu kêu gọi các bác sĩ giỏi đi xuống làng, Mao gọi tôi.

- Đấu tranh giai cấp ở nông thôn trở nên gay gắt - ông nói- Chiến dịch bốn sạch sẽ thổi bùng đám cháy rừng đấy. Nhưng tất cả nhóm Một hãy còn ở đây. Điều này không tốt. Cần giúp đỡ nông thôn.!

Mao muốn Uông Đông Hưng chỉ huy một đội của nhóm Một tham gia chiến dịch cải tạo xã hội chủ nghĩa ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Thủ trưởng của Uông, bộ trưởng công an Tạ Phú Trị đứng đầu độ đã lên đường.

Bây giờ đến lượt chúng tôi.

Chúng tôi nhận chỉ thị của Chủ tịch như một hình phạt. Cái mà chúng tôi làm như thế làm Chủ tịch không hài lòng? - Uông Đông Hưng cười khảy, khi tôi mang tin tức này cho ông. Điền Gia Anh và tôi đã tin rằng chúng tôi sẽ không trở lại. Việc phục hồi bộ máy xảy ra đơn giản - gửi người xuống vùng hẻo lánh để sửa chữa, sau đó bổ nhiệm việc khác. Chính Diệp Tử Long và Lý ẩm Kiều đã phải rời bỏ cương vị công tác từ mùa đông 1960. Chúng tôi sợ rằng số phân tương tự dành cho chúng tôi.

Mao muốn gần như toàn bộ nhóm Một ra đi. Chỉ giữ lại Thư ký Hứa Diệp Phụ và trực nhật Chu Phúc Minh. Giang Thanh cũng không phải đi. Bệnh tật của bà trước tương lai của những khó khăn đột nhiên tái phát.

Điền Gia Anh thấy trong sự ra đi của chúng tôi có một cái gì đấy tích cực. Tình hình chính trị ở Bắc Kinh căng thẳng hơn. Không ai trong chúng tôi biết cái gì có thể xảy ra ngày mai, nhưng tất cả sợ rằng chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi chúng tôi. ít nhất, việc trở lại nhóm Một là khá xa.

Dù vậy chúng tôi không vui vì chuyến công tác này, do Uông Đông Hưng chỉ huy, đang lo cuống chân.

Mao thúc chúng tôi và Uông cuối cùng quyết định chúng tôi sẽ đến vùng Điền Sơn, quê ông.

Tôi không an tâm rằng ai sẽ thay chỗ tôi khi tôi ra đi. Tôi muốn trong thời gian ấy chăm sóc Mao là Hoàng Thụ Trạch, một trong số thứ trưởng Bộ y tế.

Nhưng Mao vẫn cằn nhằn về hệ thống y tế, tính để bụng của các đồng nghiệp của mình. Mao khẳng định, nói chung, sẽ làm việc không cần bác sĩ.

- Sức khoẻ tôi tốt hơn rồi - Mao khẳng định - Tôi không cần bất kỳ sự chăm sóc sức khoẻ nào cả. Tôi không giống lũ quan lại, những người cứ mỗi giờ lại đo huyết áp và mạch đập. Tôi không muốn phục dịch sức khoẻ của mình. Tôi không cần Hoàng Thụ Trạch. Chỉ cần các y tá là đủ. Nhưng không phải từ bệnh viện Bắc Kinh.

Ngô Từ Tuấn đi cùng chúng tôi. Mao muốn thay thế chỗ cô là một y tá mới từ quân y viện.

Bộ Thụy Thành, phó giám đốc quân y viện này, được tâng bốc khi Mao đòi một cô y tá. Sự thật, chỗ chúng tôi không có y tá lành nghề - Bộ Thụy Thành nhấn mạnh, khi tôi đồng ý việc này. Chả lẽ ông ta đúng. Thậm chí bản thân Bộ Thụy Thành không có bằng bác sĩ. Ông ta là bào chế viên ở Hồng quân.

Bộ Thụy Thành yêu cầu chúng tôi chọn một y tá cần thiết trong hai cô, có kinh nghiệm phục vụ tướng lĩnh cao cấp. Cả hai đều giống nhau - một cô trầm tính và thẹn thùng, cô kia nhẹ nhàng trong ăn giao tiếp và phúc hậu.

Chúng tôi cho Mao xem ảnh họ và yêu cầu ông quyết ai trong số họ đến với ông. Ông chọn cô gái ăn nói nhẹ nhàng Lưu Thảo Dương. Cô ta trông dễ coi - Chủ tịch nói.

Đội công tác của chúng tôi xuống nông thôn vào đầu tháng sáu. Trước khi chúng tôi tới Điền Sơn, ở đó có hơn một trăm người. Bổ xung vào các nhân viên cục bảo vệ trung ương, đơn vị quân đồn trú, và quân pháo binh, đảng bộ tỉnh Giang Tây cũng gửi đại diện của mình.

Cả Lý Nạp, con gái Mao cũng đi, có người đi kèm hoặc là bảo vệ hoặc là cần vụ.

Quan hệ của tôi với Lý Nạp căng thẳng từ Hội nghị 7000 cán bộ, khi người ta gọi tôi về Bắc Kinh để tôi khám cho cô bé. Lý Nạp học ở khoa sử, đại học tổng hợp. Tôi tới, tin là thấy con gái Mao bị bệnh cảm nặng. Chính Lý Bình, hiệu phó và là bí thư đảng của trường thông báo cho tôi điều này. Ông ta và bí thư đảng ủy khoa, khi gặp tôi, tỏ vẻ lo âu. Họ là những người cực kỳ lịch sự, luôn mồm xin lỗi là không mời tôi sớm hơn. Chính họ cũng vừa mới biết về bệnh tật của con gái Chủ tịch. Lý Nạp vẫn đang giận dữ. Cô ta giận dữ là tôi đến hơi lâu, kêu thét là không ai chăm sóc cô ta và không ai để ý xem cô ta sống hay chết.

Tôi có cảm giác rằng miệng cô ta không bao giờ đóng cả.

Cuối cùng tôi không nhịn được.

- Cô hai mươi mốt tuổi rồi đấy - Tôi cao giọng - Cô không phải trẻ con. Cô ốm và lãnh đạo đại học tổng hợp tới thăm cô. Cô còn muốn gì nữa? ở đây đào tạo hơn 10 nghìn sinh viên. Nếu tất cả họ họ đều làm như cô, thử hỏi liệu lãnh đạo cả cô có thể điều khiển trường đại học tổng hợp được không?

Ngòi lửa của tôi làm cô giận hơn. Cô hờn dỗi như một đứa trẻ lên ba. Lý Nạp vẫn không nguôi chửi bới tới khi tôi đẩy cô vào trong xe chở thẳng đến bệnh viện. Trên đường Lý Nạp tiếp tục la thét và cấu xé, dường như muốn nhảy ra khỏi xe.

Cảnh sát đã hai lần dừng xe sợ rằng ở đây có một cái gì đó không phải thế.

Về sau, khi nghe tôi nói lại, Mao tức giận

- Bệnh viện Bắc Kinh dành cho cán bộ cấp cao - Mao nhắc - Sao lại chữa Lý Nạp?

Tôi giải thích rằng bệnh viện thường không nhận bệnh nhân bị cảm. Còn việc đưa cô ta vào Trung Nam Hải tôi e rằng rằng cô ta có thể làm lây bệnh. Người ta nhận Lý Nạp vào bệnh viện vì rằng cô là con gái Chủ tịch.

Mao không muốn con cái ông có đặc quyền, và nói với tôi điều này. Sau đó ông hỏi Lý Nạp, Lý Mẫn và Mao Viên Tân nuôi ở đâu, đến Trung Nam Hải khi nào.

Tôi nói rằng họ ăn ở nhà ăn của ông, bếp trưởng của Chủ tịch lo nấu cho cả họ nữa.

Mao không hài lòng. Bảo Uông Đông Hưng từ nay trở đi không cho phép chúng ăn ở bếp của tôi. Chúng phải ăn ở nhà ăn tập thể.

Dù rằng đây là lệnh của Mao, các đứa con và cháu ông nghĩ là tôi xúi bẩy.

Cả Giang Thanh cũng cáu tôi. Bà nói rằng tôi đối xử với con gái bà một cách thô bạo, vì tôi mà con bé mất đặc quyền.

Giang Thanh đòi Mao thải tôi. Mao không nghe, nhưng mâu thuẫn về việc này chưa chấm dứt. Khi Mao đề nghị tôi cư xử tốt hơn với Giang Thanh và Lý Nạp, tôi trả lời rằng Lý Nạp - bị động kinh và người thường cũng không thể làm cô hài lòng. Từ sáng đến tối Lý Nạp khác hẳn vói Lý Mẫn mềm tính và có giáo dục.

Mao không thích lời tôi, dù rằng ông, tất nhiên, biết đó là sự thật trần trụi.

Giờ đây, chắc lẽ muốn chứng tỏ rằng con cái của mình không có tí chút đặc quyền nào cả mà ông đưa Lý Nạp về nông thôn cùng chúng tôi.

Ngay từ lúc bắt đầu, đoàn chúng tôi ở Giang Tây tỏ ra sai lầm. Việc gửi các người cao cấp hưởng đặc quyền Bắc Kinh ra hiện trường để tiến hành chiến dịch chống sự tha hoá và cổ vũ đấu tranh giai cấp, là điều ngớ ngẩn. Chúng tôi đi hàng nghìn dặm bằng tàu hỏa và ô tô bằng tiền của chính phủ. Chúng tôi sống trong nhà khách, chính phủ trả tiền, và ăn thực phẩm do người khác trả tiền. Nói khác đi, con đường của chúng tôi về nông thôn và công việc ở đó tốn không phải ít tiền. Và như thế không những chỉ với nhóm chúng tôi.

Việc đưa hàng trăm nghìn người thành phố xuống những nơi hẻo lánh không tính đến sự tốn kém cho nhà nước, làm thế đến mèo cũng phải khóc. ở Điền Sơn chúng tôi chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm nhận một làng. Sau thất bại đại nhảy vọt công xã nhân dân đã tan rã thành những đội sản xuất - mỗi làng có một đội. Đội lại lần lượt bao gồm các tổ sản xuất.. Vương Nhiệm Trọng, phó giám đốc cục bảo vệ trung ương, và tôi phụ trách nhóm đến làng Thạch Tư.

Hợp nhất với chúng tôi là hai cơ quan địa phương - nhân viên công an và bí thư đảng vùng Điền Sơn. Tôi rất thích cả hai. Họ không phàn nàn khó khăn mà chúng tôi đang bơi và chúng tôi cư xử với nhau rất thân hữu.

Nông dân làng Thạch Tư nghèo và lạc hậu đến mức tôi không hình dung được. Tôi quay về Trung quốc 16 năm trước đây, mười một năm làm việc với Mao. Công việc của tôi tạo cho tôi điều kiện biết tất cả các tin tức bí mật. Tôi biết về sự thiếu thực phẩm và nạn đói, do đại nhảy vọt gây ra. Tôi biết rằng làng rất nghèo. Nhưng những người nông dân này còn nghèo dưới mức nghèo. Họ ăn mặc quần áo bằng vỏ cây đã sờn. Thức ăn của họ là gạo chưa sát vỏ không thể ăn được và cuộng rau cằn cỗi chứa đầy cát.

Nông dân sống trong những nhà mái ngói chẳng có giường chiếu gì cả; con đường duy nhất là một lối hẻm, sau khi mưa thì biến thành vũng bùn.

Làng Thạch Tư không có trường, và tôi không nhìn thấy báo, tạp chí hoặc là một quyển sách ở đó. Phần đông những người lớn tuổi là thất học, số phận này cũng truyền cho những đứa trẻ của họ. Trường học gần nhất cách đó vài dặm, và chỉ có một số ít trẻ con nhận được vào dù rằng chỉ là sơ học.

Tổ chúng tôi 4 sạch quyết định chiếu một bộ phim của những năm sáu mươi.

Chúng tôi đặt máy chiếu trên phố để thu hút nhiều người, đồng thời một số từ xa kéo tới được xem. Số đông trong số họ đây là lần đầu tiên trong đời được xem phim.

So với nông dân chúng tôi xem ra giàu hơn. Để giảm bởi sự ngăn cách, chúng tôi đổi quần áo thành phố lấy những quần vải bông và xà cạp do quân nhu cấp cho. Và những người dân thôn quê ghen tỵ với quân phục chúng tôi đang mặc: nó không có miếng vá.

Khi tôi nói chuyện với một ông già, mặc một chiếc áo da chưa thuộc. Ông vuốt ve chiếc áo khoác của tôi và nói:

Đây này, nếu như tôi có chiếc áo khoác như thế này, khi ấy tôi biết chính xác rằng chủ nghĩa cộng sản đã đến nước ta.

Chúng tôi đã là nguồn tò mò không dứt đối với dân làng. Đặc biệt Vương Nhiệm Trọng làm họ ngạc nhiên. Nông dân trong làng ốm đói, và mỗi lần, khi Vương to béo xuất hiện trên phố, thì người lớn vây quanh ông và hỏi xem ông ăn gì mà béo đến vậy, còn trẻ con thì rồng rắn chạy theo ông dường như ông là người từ hành tinh khác.

Những người dân thôn dã không biết nổi tên ông, Họ gọi ông là Đà Phật - một người rất béo.

Theo cắt đặt của Mao, chúng tôi phải sống, tồn tại, ngủ và làm việc cùng với nông dân. Nhưng dân làng lại quá nghèo đén mức không thể nhận khách lạ được. Họ thể hiện lòng hiếu khách khách đúng bằng khả năng cho phép họ. Họ xếp cho chúng tôi ở trong một hà kho tồi tàn.

Chúng tôi bằng cách nào đấy trang bị những chiếc chõng bằng gỗ, thay cho đệm, chúng tôi khâu mền chăn, vải vụn và nhồi cỏ vào bên trong. Chúng tôi tổ chức bếp ăn riêng, và vì đã đến để gột bỏ khỏi đặc quyền và sống như quần chúng lao động sống, ăn những thứ mà nông dân ăn, nghĩa là gạo chưa gĩa.

Trong tổ tôi có 12 gia đình. Họ cày cấy gần 50 mẫu (Trung quốc) đất Ngoài ra, mỗi gia đình được chia mảnh đất rau xanh để trồng rau cho gia đình dùng. Không có ô tô, không có gia súc cày kéo, thiếu cả dụng cụ đơn giản nhất cho nghề nông. Chúng tôi lao động trên cách đồng sử dụng tay, vai và chân.....

Công việc chán ngắt và mệt nhọc. Đất đai ít và phương pháp canh tác thô sơ không cho phép họ thu hoạch nhiều nông phẩm. Sau khi trả thuế cho nhà nước, người nông dân hầu như chẳng còn gì trong tay.

Đâu đó ở thế giới khác không học và kỹ thuật phát triển làm giảm nhẹ sức lao động của con người, tăng thu hoạch. Nhưng ở đây, trong ao tù Giang Tây, nông nghiệp Trung quốc đã không thay đổi trong suốt hàng nghìn năm. Nói chuyện về đại nhảy vọt chỉ gây ra sự ghê tởm.

Đầu óc tôi rối tung lên, vì sao Trung quốc không thể hiện năng lực và trí tuệ của mình để làm ra những máy móc nông nghiệp tiết kiệm sức lao động để đưa nông dân thoát ra khỏi cảnh bần cùng, lạc hậu và đói nghèo. Khi tôi thú nhận với Uông Đông Hưng rằng tôi không thể hiểu vì sao 16 năm sau cách mạng nông dân vẫn nghèo như thế, ông nói rằng ở chỗ khác người ta còn sống lại tồi hơn thế này.

Trong điều kiện nghèo nàn này, hoạt động của chúng tôi phải là cổ vũ cuộc đấu tranh giai cấp. Chiến dịch 4 sạch đòi hỏi chúng tôi theo dõi và xác định những yếu tố tham nhũng của cán bộ và những người lãnh đạo noong nghiệp, dường như làng này từng có lúc giàu có, dường như đây là sự tham nhũng, mà không phải là chính sách đại nhảy vọt dẫn đến tai hoạ ba năm thắt lưng buộc bụng. Xác định được rằng những người lãnh đạo tham lam độc ác chỉ làm cái gì để họ giàu thêm: lấy đi ngũ cốc mà nông dân làm ra, sử dụng tài sản công hữu vào những nhu cầu cá nhân và tất cả lừa dối người nông dân cùng đinh.

Dĩ nhiên, sự thối nát vẫn tồn tại. Nhưng tìm nó trong đội nghèo đói này là điều ngu xuẩn. Không ai trong chúng ta là những người xét lại. Vâng, chúng tôi không thể đọc sách. Chúng không hề có. Người nông dân, đảm nhận công việc kế toán lại là thất học và không biết tiến hành hạch toán như thế nào. Có lẽ họ chẳng cần điều này. Những người nghèo tăm tối, họ sống và làm việc có lòng tin, và họ biết rõ lẫn nhau. Họ biết cái gì mỗi người có, cái gì mỗi người được hưởng và đội làm cái gì.

Đội trưởng không thể kiếm lợi từ tham nhũng, thậm chí nếu anh ta muốn. Làm điều này chỉ có các quan chức cao cấp - công xã, khu, và tỉnh. Chính họ thu hoa quả trong điều kiện họ tạo ra, nhận hối lộ, kiếm lợi. Họ, xét theo bản chất, có quyền lực vô biên - đặt ra mức thuế cho nông dân, bắt nông dân phải làm cái gì mà họ cho rằng cho rằng có lợi cho bản thân họ. Quyền lực và sự vô trách nhiệm làm hư hỏng họ.

Đấu tranh giai cấp, theo Mao, vẫn còn tiếp tục, là cuộc chiến đấu giữa địa chủ và nông dân nghèo và giữa phong kiến và chủ nghĩa xã hội, giữa tư sản và giai cấp công nhân là thảm khốc. Trong thời gian cải cách ruộng đất, ngay sau khi những người cộng sản nắm quyền lực, ở nông thôn tất cả dân làng đều được đeo mác giai cấp. Ai, người ta gọi là địa chủ và phú nông, đều bị mất tất cả sở hữu tư nhân của mình. Và những người trong gia đình, như được giải thích, cần phải cải tạo bằng lao động nặng nhọc. Theo chu kỳ, đặc biệt là những ngày lễ lớn, họ tập trung địa chủ và phú nông ít nhiều giàu có thành từng nhóm, lãnh đạo địa phương lên lớp cho họ về những tội ác trong quá khứ. Cứ mỗi lần, khi trong làng xảy ra một cái gì đó không hay - chẳng hạn xuất hiện bệnh lở móng gia súc, thì nghiễm nhiên các địa chủ cũ và phú nông lại bị nghi ngờ. Người ta thẩm vấn họ với sự thích thú và luôn luôn theo dõi họ.

Một người nông dân chăm chỉ lao động trong làng, người làm việc từ bảnh mắt đến tối mịt bị dán cái nhãn con địa chủ, được chỉ định một mảnh đất cằn cỗi nhất. Ông không bao giờ mở miệng kêu ca. Nhưng nghịch lý ở chỗ: thực tế ông không phải con trai của địa chủ. Ông được sinh ra trong một gia đình nghèo trong làng, và người cha nghèo khó của ông, để cứu con mình khỏi chết đói, cho nó làm con nuôi của địa chủ. Và thế là giờ đây người ta bắt ông làm việc như phu phen, tước hết mọi quyền lợi. Ông phải chịu sắp đặt của dân quân. Trong cái làng nghèo này thì ông là người nghèo nhất. Thậm chí đến thóc người ta cũng chia cho ông ít hơn người khác. Ông mặc chiếc áo bao tải mà người ta đã quẳng đi.

Cha đẻ của một người được gọi là địa chủ lại chưa bao giờ có ruộng đất. Nhưng cụ nội của ông thì có một mẩu ruộng.

Cái mác con địa chủ mang tính thừa kế, cha truyền con nối, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đó là sự tra tấn, một con người không thể chạy thoát được.

Cách thức quy kết con cái do những việc làm của người cha, quan điểm coi những người gốc gác giàu có như kẻ phạm tội là khắt khe và bất công. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc phải thay đổi tình thế của những con người bị đày đoạ này. Nhưng người ta phớt lờ quan điển của tôi, thậm chí còn cảnh cáo tôi về những hậu quả chính trị có thể xảy ra, nếu sự cảm thông của tôi trở nên công khai như nói ở trên.

Trong làng người ta biết tôi là bác sĩ Mao, nhưng điều này không che chở cho tôi Anh nghĩ, nếu anh chữa chạy cho Chủ tịch, thì anh có thể nói những điều tốt cho con địa chủ được không? - Một trong những dân làng nhắc nhở tôi - Nhưng nếu người nào đó trong số chúng tôi thông báo cuộc nói chuyện của anh cho chính phủ, thì anh có thể dính vào rắc rối nhiều hơn đấy. Cuộc đấu tranh giai cấp theo kiểu Mao là thế đấy. Mao dậy rằng đấu tranh giai cấp sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể kéo dài 50 hoặc 100 năm. Cuộc đấu tranh cha truyền con nối của nó không dừng lại ở thế hệ đầu con cái địa chủ, nhưng tiếp tục ở đời cháu, đời chắt - đến khi đạt được chủ nghĩa cộng sản. Năm 1956 khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, con cái của các vị lãnh đạo cao cấp hớn hở giơ cao khẩu hiệu: Trứng rồng nở ra rồng; trứng phượng hoàng nở ra phượng hoàng, chuột cống sinh ra chuột cống. Như vậy, họ đã mặc nhiên biến thành những con rồng và phượng hoàng thần thánh trong huyền thoại Trung quốc. Con cái địa chủ và phú nông, tự họ, biến thành chuột cống.

Tôi và các thành viên khác của nhóm tôi bất lực để thay đổi bất kỳ điều gì.

Sự nghèo khổ cùng cực đang làm hại nông thon Trung quốc, sự bất công của cuộc đấu tranh giai cấp mà Mao đang vẽ ra, những cái mà tôi là người chứng kiến, sự yếu ớt của tôi đè nặng lên tâm khảm tôi. Tôi cảm thấy rằng sau 16 năm cách mạng, Trung quốc nói chung không tiến một bước nào lên phía trước nói chung. Cuộc sống cùng cực, chính phu tàn bạo dẫn đến thất vọng. Có thể là, dưới thời Quốc dân đảng cuộc sống cũng là tồi tệ và, nhưng công việc nặng nhọc luôn luôn được đèn bù. Những người nghèo nhưng có năng lực tìm được khả năng vươn lên đỉnh cao nhất. Tư thế kinh tế và xã hội của con người không trở thành hòn đá, treo ở mạng sườn ở thế hệ. Luôn luôn có lòng tin những điều tốt hơn.

Khi tham gia và chiến dịch cải tạo, tôi cũng học được một số thứ. Nhưng đó không phải là bài học, mà theo ý muốn của Mao tôi phải thu được. Sự căm giận của tôi tăng lên, sự bất mãn của tôi đối với đảng cộng sản đã lắng sâu. Trong thời gian mà cán bộ cao cấp của đảng ăn, uống, sống trong xa hoa, người nông dân vẫn phải cắn răng để tồn tại. Họ càng ngày càng nghèo hơn, bất hạnh hơn cái mà tôi có thể hình dung. Đảng cộng sản dã làm được điều gì tốt cho họ nào? ở đâu có sự biến đổi lớn mà cuộc cách mạng của Mao đã hứa?

Đội của tôi đã đến đây để làm xấu thêm cuộc đấu tranh giai cấp. Để làm gì, để ích gì?

Chúng tôi sẽ rời làng, nông dân ở lại thậm chí sẽ nghèo hơn, ngân khố quốc gia bị bòn rút thậm chí nhiều hơn...

Sự bất mãn của tôi với chính sách của Mao tăng lên, nhưng tôi vẫn phải im lặng.

  Phần IV: Từ Năm 1965 Đến 1976

Chương 56


Sau ba tháng ở Tiên Sơn, đầu tháng 11 năm 1965 Uông Đông Hưng bị triệu về Bắc Kinh để dự một cuộc họp khẩn cấp. Hẳn cuộc họp này liên quan đến một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng chúng tôi ở trong làng, bị tách rời với thế giới bên ngoài, nên chẳng hay biết chuyện gì đã xảy ra ở bên ngoài. Uông Đông Hưng cho rằng, chỉ vài ngày sau ông sẽ trở lại. Hàng tuần trôi qua. Mùa đông kéo tới cùng với cái lạnh và những cơn mưa ảm đạm. Công việc ngoài đồng cũng ngưng lại. Tôi bất đầu tỏ ra chán nản, lo lắng và cảm thấy mình ở không đúng chỗ. Uông Đông Hưng mãi vẫn chưa về. Rốt cuộc. cuối tháng l2 ông ta cũng xuất hiện. Ông chọc tôi: Chắc đồng chí không nghĩ tôi lại đi lâu như vậy phải không? Nhưng bỗng nhiên ông tỏ vẻ nghiêm trọng: Có chuyện đã xảy ra. Uông Đông Hưng đã không về Bắc Kinh. Ông đến gặp Mao ở Hàng Châu. Nhiều cán bộ cao cấp - Bí thư thành ủy Bắc Kinh Bành Chân, Tổng tham mưu trưởng La Thụy Khanh, chánh Văn phòng đảng Dương Thượng Côn và Chủ nhiệm ủy ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất - đang vướng vào những rấc rối về chính trị. Đảng triệu tập những phiên họp kín để giải quyết từng trường họp một. Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa thực hiện những biện pháp cụ thể. Trong những trường hợp đó, đã có một trường hợp được quyết định. Dương Thượng Côn kẻ đầu tiên đã trêu tức Mao trong vụ Những lá cờ đen và là người chịu trách nhiệm trong việc gắn hệ thống nghe trộm trên đoàn tàu của Mao, bị cách chức. Uông Đông Hưng được bổ nhiệm làm người kế nhiệm ông ta. Uông vẫn đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Văn phòng của các lực lượng an ninh, nhưng rời ghế thứ trưởng Bộ công an. Với tư cách là Chủ nhiệm Tổng văn phòng, ông có ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Uông kể: Tôi cho rằng, tôi không phù hợp với chức vụ này và tôi đã đề cử Trần Bá Đạt, nhưng Chủ tịch từ chối. Khi tôi đề nghị Hồ Kiều Mục làm Chủ nhiệm Tổng văn phòng, còn tôi sẽ làm phó cho ông ta thì Mao nói Hồ Kiều Mục thuộc loại người quá nhỏ mọn. nên không thích hợp với công việc hành chính. Chủ tịch cứ nhất quyết đề nghị tôi phải đảm nhận chức vụ này.

Dĩ nhiên, tôi lập tức suy luận, những biến đổi chính trị này sẽ ảnh hưởng đến tôi ra sao. La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn là những người đã đề nghị cho tôi được làm bác sĩ riêng của Mao. Nếu cuộc thanh trừng này lan xuống cấp dưới tôi cũng sẽ bị vạ lây. Thế nhưng người thực sự bênh vực tôi là Uông Đông Hưng lại được thăng chức. Có lẽ nhờ vậy mà tôi thoát hiểm, nhưng tôi có cảm giác không được tốt lành cho lắm.

Uông Đông Hưng đã nhìn thấu tình hình, ông quay lại Giang Tây không chỉ để hoàn tất chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng tôi, mà còn để tránh né những cuộc phân tranh quyền lực chính trị, ông muốn ngồi ngoài quan sát trận đấu này cho đến khi tất cả các vấn đề chưa được giải đáp đều trở nên rõ rằng. Chúng tôi cũng nên ở lại Giang Tây, vì các cuộc thanh trừng cũng chẳng chừa cấp dưới. ở nông thôn, chúng tôi sẽ an toàn hơn.

Tôi ngày càng cảm thấy khó chịu. Mặc dù tôi luôn luôn không muốn dmh đến chính trị. nhưng tôi thấy tôi cần phải biết được những biến động chính trị đang diễn ra. Tôi vẫn đang ở nơi yên ổn. nhưng tôi phải biết rõ hơn những gì đang diễn ra ở trung tâm quyền lực. Mao đang nghĩ gì và ông đang có những kế hoạch gì. Việc bốn cán bộ lãnh đạo của đảng bị công kích chẳng làm tôi ngạc nhiên. Sau vụ đặt máy nghe trộm, Mao không còn tin Dương Thượng Côn nữa. Mặc dù, thực ra là lỗi của giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng - những người như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, nhưng bao giờ cũng vậy, trước tiên Mao tấn công các cán bộ trung cấp.

Đã từ lâu, Bành Chân không được Mao tin tưởng. Năm trước, Mao kể cho tôi nghe rằng, Khang Sinh nghi ngờ bí thư thành ủy Bắc Kinh là một kẻ chống Mao. Theo nhận biết của tôi, Bành Chân lúc nào cũng tỏ ra trung thành với Mao. Chẳng hạn, bao giờ ông ta cũng hỏi qua tôi về tình hình sức khỏe của Mao. Khang Sinh quả quyết rằng Bành Chân đã phê phán chính sách Ba ngọn cờ hồng của Mao và yêu cầu xét lại tính cách mạng của chính sách này.

Việc Lục Đỉnh Nhất gặp rắc rối về chính trị cũng không làm tôi sửng sốt. Với tư cách là Chủ nhiệm phân ban tuyên truyền. Lục Đỉnh Nhất chịu trách nhiệm về lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Bởi vì Giang Thanh và Kha Thanh Thế tuyên truyền cho trường phải lãng mạn cách mạng và Mao lại ủng hộ họ, nên vấn đề của Lục Đỉnh Nhất hầu như không thể tránh được.

Tôi biết rất rõ La Thụy Khanh. Từ khi tôi đảm nhận nhiệm vụ làm bác sĩ cho Mao, tôi cộng tác chặt chẽ với ông ta. Đối với La Thụy Khanh, vấn đề an ninh của Mao bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và đúng ra, chưa bao giờ ông bất trung với Mao. Nhưng ông có nhiều quan điểm khác với Lâm Bưu và vì thế khác luôn cả với Mao.

Kể từ cuộc tập trận quy mô lớn gần khu lăng nhà Minh vào tháng 6 năm 1964. Tôi mới biết La Thụy Khanh gặp rắc rối. Cuộc tập trận với sự tham gia của binh lính vùng Bắc Kinh và Tế Nam do La Thụy Khanh, Dương Vĩnh và Dương Đắc Chí cùng chỉ đạo. Lâm Bưu được mời đến với tư cách là quan sát viên, nhưng ông ta từ chối, không tham dự, ông không quan tâm đến những cuộc diễn tập quân sự.

Đối với Mao, khi ông đã chứng kiến vài buổi tập trận. thì cuộc tập trận này lại chứng minh hùng hồn cho cái thuyết của Lâm Bưu rằng con người và lý tưởng còn quan trọng hơn cả khí. Một nhóm chiến sĩ không một tấc sắt trong tay chiếm được cả một tòa nhà năm tầng đã làm Mao rất cảm kích. Cuộc tập trận đã khiến ông nhìn nhận rằng chính nước Trung hoa lạc hậu và kém phát triển sẽ có thể chiến thắng được kẻ thù mạnh nhất được trang bị tối tân nhất. kể cả kẻ thù hùng mạnh ở phương Bắc. Mao nói với La Thụy Khanh: Liên-xô là một người khổng lồ, nhưng không phải là không có điểm yếu. Chừng nào chúng ta biết cách chống người khổng lồ, chừng đó chúng ta không có gì phải sợ. Nhưng Mao cũng biết rằng, La Thụy Khanh khăng khăng đòi hiện đại hóa quân đội Trung quốc và bác bỏ thuyết của Lâm Bưu. Có lần Mao nói đùa: Đối với La Thụy Khanh, quần áo mà đồng chí ấy đang mặc trên người cũng chẳng có giá trị.

Tôi được biết thêm về chuyện phiền toái của La Thụy Khanh qua tài liệu của hải quân mà ủy ban quân sự đã chuyển cho Mao và bây giờ được Uông Đông Hưng mang từ Hàng Châu về. Vợ Lâm Bưu là Diệp Quần đã công kích La Thụy Khanh. Tháng 11 năm 1965, trước khi Uông Đông Hưng được triệu về ít lâu, bà ta bay đến Hàng Châu để phàn nàn với Mao rằng La Thụy Khanh cưỡng lại khẩu hiệu Hãy nhường bánh lái cho chính trị của chồng bà. Mao đứng về phía Diệp Quần. Ông đã ghi trong tài liệu mà Uông Đông Hưng đưa cho tôi xem: Kẻ nào không muốn nhường bánh lái cho chính trị và chỉ biết nói mồm, nói được mà không làm được, kẻ đó đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta phải cảnh giác trước thái độ này.

Chính ủy không quân Vũ Từ Tuấn đã liên kết với Diệp Quần chống lại La Thụy Khanh và quả quyết rằng ngay từ đầu La Thụy Khanh đã phản đối việc bổ nhiệm Lâm Bưu làm người thay thế Bành Đức Hoài và bây giờ lại đòi Lâm Bưu từ chức. Khi Lâm Bưu ốm và không thể thường xuyên gặp La Thụy Khanh như quy định. La Thụy Khanh nói rằng: Nếu đồng chí ấy hay ốm như vậy, thì làm sao đảm đương được việc gì? Nên có một người khác đảm nhận công việc của đồng chí ấy.

La Thụy Khanh bực tức về những nổ lực chính trị của Diệp Quần và đã khuyên bà ta nên quan tâm nhiều hơn đến ông chồng mắc bệnh kinh niên của bà. La cho rằng, nếu sức khỏe của Lâm Bưu tốt hơn thì ông ta có thể chuyên tâm hơn vào những công việc quan trọng của bộ ông. Vũ Phát Tiên khẳng định, thực ra La Thụy Khanh tìm cách để Lâm Bưu từ chức. Do đó La Thụy Khanh đã qua Lưu Nha Lâu, tổng tư lệnh không quân, tác động đến Diệp Quần để bà thuyết phục chồng từ chức. Hình như La Thụy Khanh còn nói: Ai cũng đến lúc phải rút khỏi chính trường, cả Lâm Bưu cũng vậy. Chính La Thụy Khanh muốn đoạt cái ghế trong ủy ban quân sự của Lâm Bưu.

Diệp Quần và Vũ Phát Tiên không chấp nhận đề nghị của La Thụy Khanh, còn Mao lại đứng về phía hai người này. Giữa tháng 12. La Thụy Khanh bị tước hết tất cả những chức vụ quan trọng trong quân đội. Đối với tôi việc La Thụy Khanh bị hạ bệ báo hiệu một điều chẳng lành. Qua Uông Đông Hưng, tôi nhận thấy Chu Ân Lai, người đứng ra bênh vực La Thụy Khanh trong vụ này và bất đồng với Lâm Bưu, cũng tỏ ra lo lắng. Thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu Uông Đông Hưng phải khẩn cấp trở về Bắc Kmh. Từ năm 1964. Chu Ân Lai đã phàn nàn với Uông Đông Hưng về tình hình thiếu nhân sự có khả năng điều hành công việc hành chính ở cấp cao nhất của chính phủ. Bành Chân lo về công việc hành chính của đảng, La Thụy Khanh đảm nhiệm công việc hành chính của quân đội, còn Chu Ân Lai lo về chính phủ. Bây giờ, vì Bành Chân và La Thụy Khanh đều bị công kích, nên Chu ân Lại lo ngại việc ổn định tình hình ở Bác Kinh sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Ông giục Uông Đông Hưng phải nhận chức vụ mới của Uông càng sớm càng tốt. Nhưng Uông đã cố tình ở lại Giang Tây cùng với các nhân viên nhóm Một đến tháng 4 năm 1966.

Tôi cảm thấy vui, bởi trong hoàn cảnh này, ai có thể biết trước cái gì sẽ chờ tôi khi tôi trở về Bắc Kinh? Chẳng bao lâu, tôi cũng biết. Sau khi Uông Đông Hưng quay lại được ít hôm - tôi vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt được hết những biến động chính trị - thì tôi bị Mao gọi về. Lúc đó là đầu năm 1966 và các nhân viên nhóm Một muốn thoải mái một chút trong những ngày này. Buổi sáng, tôi và y tá trưởng Ngô Từ Tuấn vật lộn với mưa rào và bùn lầy để tới làng Uông Đông Hưng đang ở. Chỉ những người thành thị chúng tôi mới tổ chức đón năm mới theo dương lịch, vì nông dân trong làng vẫn cứ theo âm lịch. Đối với họ, dương lịch không có ý nghĩa gì.

Uông Đông Hưng chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị thứ bánh cổ truyền mà người ta hay làm vào dịp tết. Một số người chúng tôi băm thịt và trộn nhân bánh, số khác nhào bột hoặc nặn bánh. Khi chúng tôi làm gần xong, bỗng nhiên một nhân viên an ninh của huyện Thang Nghiên xộc vào phòng. Anh ta thở hổn hển và mồ hội vã ra như tắm. Có người nào đó nói đùa: Làm gì mà nhắng lên thế. Đủ bánh mà.

Anh ta kéo tôi, Uông Đông Hưng và Vũ Tù Tuấn ra một bên và nói: Tôi cố gọi điện cho các đồng chí suốt hai tiếng đồng hồ liền mà không được.

Lúc ba giờ sáng anh ta nhận được một cú điện thoại của đảng ủy tỉnh Giang Tây. Chủ tịch bị ốm, ông đang ở Nam Xương, thủ phủ của tỉnh. Y tá Ngô Từ Tuấn và tôi phải lập tức đến chỗ ông.

Đi bằng xe Jeep cũng phải mất li hoặc 12 tiếng mới tới nơi. Chúng tôi phải lập tức khởi hành. Tôi muốn quay lại Thạch Tư để gói ghém một ít đồ, nhưng Uông Đông Hưng đã cấm tôi, vì chuyến đi phải được giữ bí mật. Uông Đông Hưng quyết định đi theo chúng tôi. Ông muốn biết bệnh tình của Mao nghiêm trọng đến mức nào và cũng muốn tranh thủ xem ở Bắc Kmh có chuyện gì mới không. Nếu không phải Chủ tịch ốm nặng, ông ta sẽ lập tức trở về làng.

Chúng tôi đi xe trên con đường đất không rải nhựa dưới trời mưa tầm tã. Bùn bắn cả lên kính, đến nỗi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi nghỉ một chút ở nhà khách Thang Nghiên, rồi lại tiếp tục đi với tốc độ như sên bò. Đến khi xe chúng tôi ra đến một con đường trải đá răm, chúng tôi mới đi nhanh hơn. Nửa đêm, chúng tôi tới Nam Xương.

Đầu tiên chúng tôi gặp Phương Chí Xuân, chủ tịch hội đồng nhân dân tỉnh Giang Tây và một vài cán bộ đảng khác của tmh. Phương nói: Chủ tịch đã ở đây từ hai tuần nay và trước đây hai ngày thì ông trở bệnh.

Chúng tôi được dẫn tới nhà khách Bân Giang, nơi Mao và đoàn tùy tùng của ông đang trú ở đó. Thuộc hạ của Uông Đông Hưng là Trương Diêu Tự, viên chỉ huy của quân đoàn trung ương đang ở đó, cũng như Hứa Diệp Phụ, tay thư ký xảo quyệt đã đẩy được Lâm Khắc đi để chiếm chỗ. Một người phụ trách an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu chịu trách nhiệm bảo vệ Mao, và một người phục vụ mới. Chu Phúc Minh, chịu trách nhiệm lo những nhu cầu cá nhân cho Mao. Một số tì nữ của Mao cũng có mặt trong nhà khách. Trong số họ có một cô y tá, hai cô thư ký riêng và cô phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Mao là Trương Ngọc Phượng. Mao đem theo ba đầu bếp và một tá vệ sĩ. Nhưng chẳng có ai trong số những người thuộc ban cũ, nên bầu không khí khác hẳn và tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy.

Người duy nhất ở đây mà tôi quen là Chu Phúc Minh, người phục vụ mới của Mao, một anh thanh niên quê ở Hàng Châu, người mà trước đây đã vài lần cắt tóc cho Mao trước khi anh ta được vào nhóm Một (anh chàng Vương râu xồm đã về nghỉ hưu với khoản tiền hưu hậu hĩnh).

Từ Chu Phúc Minh tôi được biết những gì đã xảy ra. Ngày 26 tháng 12 Mao tổ chức sinh nhật lần thứ 72 của ông. Buổi chiều, ông uống chút rượu vang và sau đó cùng một số phụ nữ ra bờ sông Càn để đi dạo. Lúc đó trời nóng. nên mặc dù có gió mà Mao vẫn phanh cúc áo ngực ra. Buổi tối Chủ tịch ho và sốt. Ông không cho các bác sĩ ở Nam Xương khám bệnh, mà muốn tự dưỡng bệnh. Khi tình trạng của ông ngày càng xấu đi, ông vẫn từ chối mọi sự chăm sóc y tế, làm giới lãnh đạo đảng ở Giang Tây lo ngại. Cuối cùng, Mao phải cho gọi tôi và y tá Vũ tới.

Khi tôi bước vào phòng, ông đang nằm trên giường, mặt ông đỏ lựng. hơi thở nặng nhọc và ông ho liên tục. Ông nói: Tôi bị như vậy từ vài ngày nay rồi. Tôi tưởng rằng tôi sẽ tự khỏi nhưng không được. Vì vậy mà đồng chí phải tới

Trước sau thì tôi cũng là bác sĩ duy nhất được Mao tin tưởng. Ông bị sốt tới 40 độ và cơn cảm lạnh đã làm ông bị viêm khí quản. Tôi cho ông dùng kháng sinh để hạ sốt và ông chịu uống ngay. 5 giờ sáng, tôi và y tá Vũ trở về nhà khách ở Nam Xương, nơi Uông Đông Hưng và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Giang Tây đang chờ chúng tôi. Nếu ngày hôm sau tình hình sức khỏe của Mao tốt hơn, thì ba chúng tôi sẽ trở lại nông thôn. Ngày hôm sau, tôi và Uông Đông Hưng cùng đến chỗ Mao. Thuốc kháng sinh đã có tác dụng, cơn sốt đã hạ. Nhưng Mao vẫn ho. Ông yêu cầu chúng tôi tiếp tục điều trị cho ông thêm vài ngày nữa. Uông Đông Hưng phải quay về nông thôn. nhưng tôi và y tá Vũ phải ở lại.

Uông bối rối. Mao đã điều chúng tôi về nông thôn để chúng tôi làm quen với khổ cực và tham gia vào chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa, rồi báo cáo lại cho ông về công việc của chúng tôi. Vậy mà bây giờ Mao chẳng hỏi han gì đến công việc của chúng tôi. Uông tự hỏi không biết Mao đang nghĩ gì nữa. Ngay tối hôm đó, Uông Đông Hưng trở về nông thôn mà chẳng được một câu trả lời.

Việc tiếp xúc với Mao ngày càng trử nên khó khăn hơn. bởi vì những cô tì nữ thay phiên nhau vây quanh Chủ tịch. Lúc nào cũng có một cô trong số họ túc trực bên ông. Chu Phúc Minh rất ít khi bước vào phòng Mao. Anh ta chỉ lấy thức ăn hay trà cho ông từ dưới bếp lên, còn việc phục vụ ông được một trong những cô nhân tình đảm nhiệm. Vì tôi biết, những cô gái này có quan hệ sâu kín với Mao và vì tôi không muốn xen vào những chuyện riêng tư của ông, nên tôi rất ý tứ trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông. Tình trạng của ông trở nên đáng lo ngại. Tuy nhờ thuốc kháng sinh, sau vài ngày bệnh ho và viêm khí quản ở ông đã giảm, nhưng trong quá trình điều trị, tôi nhận thấy Mao uống thuốc ngủ nhiều một cách bất thường - gấp mười lần liều lượng thông thường. Thực ra, liều lượng mà Mao đang uống đủ để giết chết một người. Mặc dù với thời gian dùng thuốc an thần hết năm này qua năm khác, cơ thể Mao đã có một khả năng đáng kể chống lại tác dụng của thuốc an thần, nhưng tôi không thể xác định được giới hạn giữa khả năng đề kháng đó và liều lượng dẫn tới tử vong ở Mao. Chừng nào tôi vẫn còn ở nông thôn, chừng đó người ta không thể đổ lỗi cho tôi, nếu Mao dùng thuốc ngủ quá liều lượng. Nhưng ở Nam Xương, nơi tôi trực tiếp theo dõi tình trạng sức khỏe của ông, tôi là người hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất cứ chuyện gì xảy ra.

Việc dùng thuốc tăng liều của Mao có quan hệ với tình hình chính trị căng thẳng. Một số nhân viên ở đây cho tôi hay từ khi vợ Lâm Bưu là Diệp Quần đến gặp Mao hồi tháng 11 năm 1965 và báo cáo lại thái độ bất tuân lệnh của La Thụy Khanh đối với chồng bà ta, liều thuốc Mao dùng cứ tăng dần. Ngày 8 tháng 12, trong một cuộc họp mở rộng của ủy ban thường vụ của Bộ Chính trị ở Thượng Hải. Mao đã cách chức Tổng tham mưu trưởng của La Thụy Khanh và bổ nhiệm người phó của La là tướng Dương Thành Vũ lên thay. Kỳ họp kéo dài một tuần và Mao căng thẳng đến độ không ngủ được, ông uống thuốc liên tục hơn, thậm chí khi không muốn ngủ ông vẫn uống thuốc. Tôi phải giải thoát cho ông khỏi cơn nghiện này.

Sau khi tôi về đây được một tuần, tôi đến chỗ ông vào lúc nửa đêm. Mao đang nằm trên giường và đọc lịch sử đời hậu Hán (25 đến 20 sau công nguyên). Để chuẩn bị cho một trận đánh trên chính trường, ông thích đọc những tác phẩm lịch sử hơn là những tác phẩm của Mác. Ông nói: Lần này hình như đồng chí đã có thần được. Tôi lại khỏe lại rồi. Tôi đáp: Đó là loại thuốc rất bình thường nhưng đã có tác dụng.

Ông đưa tôi xem một bài báo và hỏi tôi có muốn đọc không. Thực ra tôi tới để nói về việc ông dùng thuốc ngủ chứ không phải để tranh luận về chính trị. Tôi đọc được hàng tít: Dẫn giải về vở kịch lịch sử Hải Thụy bãi quan. Bài báo này là một trong số bài báo ít ỏi mà tôi đã đọc qua ở Thạch Từ xa xôi và cách trở với thế giới bên ngoài. Bài này của nhà lý luận Diêu Văn Nguyên ở Thượng Hải và được đăng trên tờ Văn hối báo của Thượng Hải ngày 10 tháng 11 năm 1965. Bài này đã đả kích một vở kịch của phó thị trưởng Bắc Kinh là Ngô Hàm. Vở kịch đó ca ngợi Hải Thụy, một quan trong triều đời nhà Minh người mà Mao thường lấy làm tấm gương sáng ngời để cán bộ đảng nơi theo. Bài bình luận này làm tôi phải suy nghĩ. Chính Mao đã quảng bá cho các vở kịch truyền thống về nhân vật Hải Thụy. Ngô Hàm, tác giả của vở kịch, không chỉ là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, ngoài ra ở Bắc Kinh ông còn là giáo sư đại học và là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sủ đời nhà Minh. Sự quan tâm của Mao về thời kỳ lịch sử này đã làm nảy sinh mối quan hệ của ông với Ngô Hàm từ nhiều năm nay. Từ khi Mao khuyên tôi nên nghiên cứu sâu hơn nữa về lịch sử Trung quốc, thỉnh thoảng tôi có dự những cuộc nói chuyện của Mao và Ngô Hàm.

Bây giờ Mao lại muốn nói chuyện với tôi về vở kịch của Ngô Hàm. Ông tán thành những lời phê bình của Diêu Văn Nguyên dựa theo ý của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều. ý của bài phê bình này đi ngược lại dòng thời gian về hội nghị của 7000 cán bộ hồi tháng 1 năm 1962. Khi đó Mao đã phải tự phê bình. Việc cách chức Bành Đức Hoài khi đó là một đề tài hay được nhắc tới, vì nhiều người cho là không công bằng. Người ta bắt đầu so sánh giữa việc vua Gia Kính cách chức và tống giam Hải Thụy với việc Mao cách chức Bành Đức Hoài. Cả Bành Đức Hoài và Hải Thụy đều là những quan chức trung trực. họ đã phục vụ đất nước và người đứng đầu quốc gia một cách trung thành. Họ đã chỉ cho người đứng đầu quốc gia những sai lầm không phải với dụng ý trách móc, mà để quốc gia có một chính quyền tốt hơn, qua đó tiếng thơm của người đứng đầu quốc gia được nhân lên gấp bội. Bành Đức Hoài được xem là một Hải Thụy thời nay. Cả Mao và ông vua nọ có cùng một điểm giống nhau: không ai chịu để người ta phê phán.

Tính đa nghi của Giang Thanh, vai trò chính trị mới và mối quan tâm đối với văn hóa và nghệ thuật của bà đã khiến bà luôn luôn để ý đến những nhà soạn kịch mà bà cho là không trung thành với chồng bà. Có lẽ, bà chỉ nghi Ngô Hàm là bất trung, khi bà xem vở kịch Hải Thụy bãi quan của ông.

Tuy nhiên, thị trưởng thành phố Bắc Kinh Bành Chân, Trưởng ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất và Phó trưởng ban tuyên truyền là Chu Dương đã từ chối đề nghị của Giang Thanh là phát động một chiến dịch chỉ trích vở kịch này, Ngô Hàm là bạn và là đồng chí của họ, là một trí thức đáng kính và là một người được coi là trung thành với Mao. Giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy chẳng có cớ gì phải nghe theo Giang Thanh. Đã đành bà là vợ của Mao, nhưng bà chẳng có một chức vụ chính thức nào. Giới lãnh đạo chính trị cao cấp đánh giá bà rất thấp. Các nữ diễn viên ở Trung quốc ngày càng bị đánh giá thấp, và một nữ diễn viên muốn thỏa mãn những tham vọng chính trị của mình bằng cách kết hôn với người lãnh đạo đất nước đã làm cho người ta đặc biệt không ưa.

Mao cần Giang Thanh trong bước ngoặt trên con đường danh vọng của ông. Thậm chí tham vọng chính trị của bà lại có lợi cho ông. Khi bí thư thành ủy Thượng Hải là Kha Thanh Thế đột ngột qua đời hồi tháng 4 năm 1965. cái ghế của ông ta đã được Trưởng ban tuyên truyền của Thượng Hải là Trương Xuân Kiều đảm nhiệm. Cũng như Kha Thanh Thế. Trương Xuân Kiều là người nhất nhất tuân theo mọi chỉ thị của Mao. Trương Xuân Kiều đã bố trí cho thân hữu của ông ta là Diêu Văn Nguyên, chủ nhiệm tờ Giải Phóng, trực tiếp cộng tác với Giang Thanh.

Khi bài phê bình này sắp được phổ biến trên tờ Văn hối báo. Mao mới được biết nội dung của nó. Bài đả kích nhằm tạo ra một chiến dịch chống Ngô Hàm và những đồng đảng còn lại của Bành Đức Hoài. Các tờ báo và tạp chí khác phải hưởng ứng phê bình. Nhưng giới truyền thông ở Bắc Kinh lờ bài đả kích của Diêu Văn Nguyên đi. Mao nói: Mãi 19 ngày sau, kể từ ngày bài này được đăng trên tờ Văn hối và mãi cho tới khi tôi can thiệp, các báo chí ở Bắc Kinh mới tham gia. Đồng chí thấy họ cứng đầu ghê gớm không?

Tôi bối rối, vì tôi vẫn không làm sao hiểu nổi tại sao Hải Thụy và Ngô Hàm lại bị phê phán. Dĩ nhiên tôi không thể hiểu được rằng, bài báo của Diêu Văn Nguyên là tiếng súng mở đầu cho một cuộc Đại cách mạng Văn hóa vô sản của Mao. Tôi cũng không hiểu, theo lời Mao, ai là kẻ cứng đầu ghê gớm. Mãi đến khi cuộc Cách mang Văn hóa bắt đầu, tôi mới biết rằng ông nói về Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và những đồng chí thân thiết nhất của ông trong ban lãnh đạo. Tôi hứa với Mao sẽ đọc bài báo của Diêu Văn Nguyên thêm một lần nữa. Mao đưa bài báo cho tôi rồi nói: Phải đấy, đồng chí hãy đọc qua một lượt nữa đi. Sau đó đồng chí hãy cho tôi biết ý kiến của đồng chí. Tôi tìm cách lái câu chuyện sang đề tài sức khỏe của ông. Còn một vấn đề là liều lượng dùng thuốc ngủ của Chủ tịch. Chủ tịch đang dùng một liều lượng gấp 10 lần lìêu lượng thông thường. Mao hỏi lại:

- Nhiều đến thế sao?

- Đúng vậy. Tôi đã đọc y bạ của Chủ tịch. Với liều lượng thuốc ngủ như vậy có thể làm tổn hại đến sức khỏe của Chủ tịch.

- Theo đồng chí, chúng ta phải làm sao bây giờ?

- Tôi nghĩ rằng chúng ta phải giảm liều lượng này càng sớm càng tốt.

Tôi đề nghị dùng hỗn hợp của đường nho với thuốc an thần nhồi vào những vỏ thuốc con nhộng được chế từ đường nho để làm một loại thuốc tương dương với lượng thuốc ngủ thích hợp. Mao chấp thuận. Nhưng ông còn cảm thâv một cái gì khác lạ.

- Có cái gì đó không bình thường ở nhà khách này. Nó như bị người ta xả khí độc. Tôi không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Đồng chí hãy nói với Trương Diêu Tự, anh ta phải chuẩn bị đi. Chúng ta sẽ lên đường đi Vũ Hán.

Nỗi sợ hãi bị đầu độc của Mao xét bề ngoài cũng không phải hoàn toàn vô lý. Có một lần ngủ trong một biệt thự của Mao, tôi cũng không thể nào ngủ nổ. Không hẳn chỉ vì nó quá rộng rãi và xa hoa, mà vì có một thứ mùi gì đó rất lạ. Một người bạn tôi cũng phát hiện ra một thứ mùi rất đặc biệt, khi ông đến ở một nhà nghỉ của Mao. Đa số các nhà nghỉ của Mao đều nằm ở những địa điểm nóng, ẩm ở miền Nam Trung quốc và Mao thường nhiều năm mới tới ở một lần. Trong thời gian đó, chúng như những căn nhà hoang không ai ở. Tôi chỉ có thể phỏng đoán rằng, qua nhiều năm như vậy những ngôi nhà bị ẩm mốc. Nhiều người đã chứng mmh rằng những người nông dân hầu như quanh năm suốt tháng lao động ngoài trời và cư trú trong những ngôi nhà đơn sơ thường không thể ở nổi trong những ngôi nhà kiểu mới ngày nay và họ sợ bầu không khí ngột ngạt.

Nỗi ám ảnh vô cớ mà tôi đầu tiên phát hiện ở Mao hồi năm 1958 ở Thành Đô, khi ông tưởng nước ở trong bể bơi bị đầu độc, bây giờ lại gia tăng. Nhưng thứ độc thực sự chính là những mưu toan chính trị trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi phải làm việc thận trọng. Trước hết, tôi truyền lệnh của Mao cho Trương Diêu Tự. Sau đó qua đường đây đảm bảo không bị nghe trộm, tôi gọi điện cho Thạch Thụ Hán ở bộ y tế để báo cáo với ông về căn bệnh vừa rồi của Mao và chúng tôi nên giải quyết vấn đề dùng thuốc ngủ của Mao như thế nào. Những viên thuốc nói trên phải được điều chế ngay trong bệnh viện Bắc Kinh.

Thạch Thụ Hán lo lắng. Ông sợ rằng cơn sốt của Mao có thể là một bệnh gì đó nghiêm trọng hơn viêm khí quản - có lẽ là viêm phổi. Ông ta muốn bàn bạc với Chu Ân Lai và cử một đội chuyên viên tới khám bệnh cho Chủ tịch. Nhưng tôi chắc rằng, cơ thể của Mao đã bình phục trở lại.

Điều mà tôi không yên tâm là vấn đề nghiện thuốc (ngủ) và nỗi sợ bị đầu độc ở ông. Đâu đâu ông cũng nhìn thấy bọn cùng một giuộc. Nếu các chuyên viên y tế tới để khám bệnh cho ông, biết đâu ông sẽ nghĩ, tôi đã nói dối ông về bệnh tình của ông hoặc tôi muốn trốn tránh trách nhiệm hay muốn cài gián điệp vào chỗ ông. Tôi đã thuyết phục Thạch Thụ Hán, tốt hơn là không nên làm gì nữa.

Chương 57


Đêm đó, đoàn tàu của Mao đưa chúng tôi rời thành phố đi về hướng Vũ Hán và trưa ngày hôm sau, chúng tôi có mặt ở Vũ Hán. Những viên thuốc ngủ mới cùng với tập tài liệu hàng ngày của đảng đã được gủi từ Bắc Kinh đến văn phòng thư ký riêng của Mao. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi cùng các nhân viên khác - những người phục vụ, những thư ký và các thiếu nữ của Mao - đều ở trong khách sạn. Bầu không khí trong nội bộ các nhân viên thân cận của Mao đã thay đổi. Uông Đông Hưng luôn tìm cách nắm được những ý nghĩ và hành động của Mao càng nhiều càng tốt, ngược lại, Trương Diêu Tự lại không muốn can thiệp vào. Căn cứ vào những căng thẳng cao độ của tình hình chính trị hiện nay, ông cố gắng giữ khoảng cách với Mao để tự vệ. Ông không cho phép tôi thông báo cho ông biết tình hình sức khỏe hàng ngày của Mao, vì ông chỉ chịu trách nhiệm đối với sự an toàn của Mao. Nếu ông được báo cáo đều đặn về tình hình sức khỏe của Mao, người ta có thể sẽ quy trách nhiệm cho ông nếu có chuyện chẳng lành xảy ra.

Khắc Kỳ Hữu, trưởng ban an ninh, thì ngược lại. Ông ra sức tìm hiểu tất cả mọi chuyện về Chủ tịch để được gần Mao hơn. Ông moi tin từ những nhân tình của Mao và gây khó khăn cho chúng tôi trong việc gặp với Mao. Tôi và y tá Ngô Tự Tuấn thường phải báo cáo ông rồi mới được vào thăm bệnh cho Mao. Tôi rất ghét thái độ kiêu căng và phiền phức của ông ta. Tôi theo dõi cuộc thử nghiệm những viên thuốc ngủ đối với Mao và phương pháp này tỏ ra có hiệu quả. Trong vòng năm ngày, liều lượng thuốc ngủ khủng khiếp mà Mao dùng đã giảm xuống mức bình thường như trước kia. Tôi chẳng cần phải ở đây lâu hơn nữa. Đã đến lúc tôi và y tá Ngô Tự Tuấn trở về Thạch Tư. Bầu không khí ở nhóm Một quá căng thẳng, vả lại chúng tôi vẫn chưa hoàn tất công việc của chiến dịch Bốn trước.

Thế nhưng Trương Diêu Tự muốn chúng tôi ở lại. Ông vẫn lo ngại về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch và sợ trách nhiệm mà ông sẽ phải gánh vác khi có chuyện rắc rối xảy ra. Ông cũng không chịu đựng nổi Khắc Kỳ Hữu. Chừng nào tôi và y tá Ngô Tự Tuấn vẫn còn có mặt ở đây, chừng đó ông văn được biết về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch mà không phải chịu một trách nhiệm nào. Mặt khác, chúng tôi như cái lá chắn để chống lại sự kiêu căng của Khắc Kỳ Hữu.

Nhưng chúng tôi vẫn phải đi. Tôi đến gặp Mao và nói với ông rằng, liều luợng thuốc ngủ cũng như tình trạng sức khỏe của ông đã ổn, tôi và y tá Ngô Tự Tuấn phải tiếp tục chiến dịch Bốn trước. Tôi nói: Nếu Chủ tịch cần, chúng tôi sẽ đến ngay lập tức. Nhưng Mao cũng không muốn cho tôi đi. Ông nói: Chiến dịch đó không quan trọng nữa. Bây giờ đang có những việc khác. Đồng chí nên ở lại đây. Có lẽ tôi sắp cần đến đồng chí rồi.

Tôi phát hoảng. Chiến dịch Bốn trước là một trong những chiến dịch vĩ đại nhất kể từ Cải cách ruộng đất. Người ta đã cử hàng trăm nghìn cán bộ từ các thành phố về nông thôn. Thế mà bây giờ phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa không còn quan trọng. Chính vì vậy mà Mao chẳng buồn nói chuyện với Uông Đông Hưng về chiến dịch này nữa. Nhưng tôi vẫn như người mò mẫm trong bóng tối của những kế hoạch mới, quan trọng của Mao. Tôi do dự. Mao muốn tôi ở lại vì ông tin tưởng vào trình độ y khoa của tôi. Ông sẽ bảo vệ và che chở cho tôi nếu tôi chỉ giới hạn công việc của mình với tư cách là một người thầy thuốc của ông. Thế nhưng bầu không khí bao quanh ông thật là ngột ngạt đối với tôi. Và Khắc Kỳ Hữu là một kẻ tham quyền lực, một kẻ thích gây rắc rối cho người khác. Tôi suy nghĩ lung lắm và cân nhắc lợi hại. Cuối cùng tôi quyết định biện pháp an toàn hơn là quay lại nông thôn, mặc dù cuộc sống ở đó khổ cực. Tôi đòi về Thạch Tư. Tôi nói:

- Ngô Tự Tuấn và tôi chẳng có gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Như thế thật là bất tiện cho chúng tôi. Vì vậy mà chúng tôi phải quay trở lại nông thôn.

Mao đáp:

- Không sao. Tôi chỉ cần nói Trương Diêu Tự gửi quần áo từ Bắc Kinh đến cho chúng ta là được.

Sau đó Mao cho chúng tôi hay, liệu chúng tôi có phải về nông thôn nữa hay không. Tại sao trong cuộc đời của mình, tôi thường không được tự lựa chọn. Thế là tôi phải ở lại. Có cái gì đó khá đặc biệt diễn ra ở Trung Nam Hải. Mao lui về phòng của ông và được các cô nhân tình vây quanh săn sóc. Bên ngoài, Khắc Kỳ Hữu mới dựng lên một hàng rào xung quanh phòng Mao, không cho một ai vào. Tôi ở phòng trực và chỉ vào thăm Mao khi ông cho người gọi. ở vòng ngoài, tôi chờ đợi điều gì sẽ xảy ra.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro