Dong Chau Liet Quoc 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 36 : Tấn Hoài công trốn sang Cao LươngTần Mục công phù lập Trùng Nhĩ

HỒ Mao và HỒ Yển theo công tử Trùng Nhĩ Ở nước Tần, nghe tin phụ thân là HỒ Đột bị Tấn Hoài công giết, liền vật mình than khóc.

Triệu Thôi nói :

Người đã chết rồi, không thể sống lại được, dẫu thương cũng vô ích, chỉ bằng ta vào yết kiến công tử để bàn về việc phục quốc.

HỒ Mao và HỒ Yển gạt nước mắt, cùng với Tnệu Thôi vào yết kiến Trùng Nhĩ, đem việc HỒ Đột bị hại nói với Trùng Nhĩ Trùng Nhĩ bảo HỒ Mao và HỒ Yển rằng :

- Hai ngươi chớ có lo phiền, chờ khi ta về nước, sẽ báo thù cho hai ngươi.

Nói xong, liền đem việc nước Tấn vào nói với Tần Mục công.

Mục công nói :

- ấy là cơ hội trời muốn cho công tử trở về nước Tấn đó, công tử chớ nên bỏ hoài ? Tôi xin hết lòng giúp công tử.

Triệu Thôỉ đỡ lời Trùng Nhĩ mà nói với Mục công rằng :

Nhà vua có lòng giúp thì xin giúp ngay cho, nếu để cho thế tử Ngữ (Tấn Hoài công) đã cải nguyên cáo miếu rồi, thì cái phần vua tôi đã định, cũng hơi khó một chút.

Tần Mục công khen phải, Trùng Nhĩ cáo từ về công quán. Bỗng nghe báo có người nước Tấn xin vào yết kiến để nói việc cơ mật. Trùng Nhĩ cho vào, hỏi họ tên là gì ? Người ấy sụp lạy mà nói rằng :

- Tôi là con quan đại phu nước Tấn là Loan Chi, tên gọi là Loan Thuẫn. Cha tôi thấy tân quân (Tấn Hoài công) bây giờ tính đa nghi mà lại tàn nhẫn, hay chém giết lắm, dân trong nước đều có lòng oán, vậy mới sai tôi sang đây báo tin cho công tử biết ; nếu công tử đem quân về đánh thì cha tôi xin làm nội ứng.

Trùng Nhĩ mừng lắm, đính ước với Loan Thuẫn, hẹn đến đầu năm sau thì về. Loan Thuẫn cáo từ trở về nước Tấn. Trùng Nhĩ khấn trời, rồi đem cỏ thi ra bói ; bói được hào lục quẻ "thái ", liền gọi HỒ Yển vào đoán. Hồ Yển nói :

Quẻ này là một quẻ thượng cát, công tử về nước chẳng những được nối ngôi, lại có cơ làm bá chủ chư hầu nữa.

Trùng Nhĩ đem chuyện Loan Thuẫn bảo cho HỒ Yển biết. HỒ Yển nói :

- Sáng mai công tử nên vào nói với vua Tần mượn quân về nước, chớ chậm trễ nữa.

Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ vào yết kiến Tần Mục công. Mục công không đợi Trùng Nhĩ phải nói, liền bảo Trùng Nhĩ rằng :

Tôi đã biết công tử đang nóng lòng phục quốc, để tôi xin thân hành đem quân đưa công tử về.

Trùng Nhĩ tạ ơn lui ra. Phi Báo nghe tin Tần Mục công sắp đem quân đưa Trùng Nhĩ về nước, mới xin làm tiên phong. Mục công thuận cho. Tháng chạp năm ấy, Mục công bày một tiệc rượu Ở Cửu Long sơn để thết đãi Trùng Nhĩ và bọn Triệu Thôi, tặng cho mỗi người một đôi bạch bích, rồi cử đại binh đưa Trùng Nhĩ về nước Tấn.

Thế tử Doanh nước Tần cũng có lòng kính mến Trùng Nhĩ lắm, đi tiễn chân đến sông Vị Dương, mới từ biệt trở về. Đại binh nước Tần kéo đến bờ sông Hoàng Hà, Tần Mục công truyền bày tiệc cùng với Trùng Nhĩ uống rượu ; rồi ân cần dặn Trùng NhI rằng :

- Khi công tử về nước, xin chớ quên vợ chồng tôl.

Nói xong, liền chia một nửa quân, sai công tử Chí và Phi Báo đưa Trùng Nhĩ sang sông Hoàng Hà còn mình thì đóng quân Ở Hà Tây để chờ tin.

Bấy giờ Hồ Thúc là người theo hầu Trùng Nhĩ, từ khi đi trốn đến giờ, vẫn chuyên giữ việc hành lý, vì đã trải nhiều phen khổ sở, đói khát Ở nước Tào, nước Vệ, nẽn tính rất căn cơ. HỒ Thúc bèn thu thập bao nhiêu chiếu nát, màn rách đều xếp xuống thuyền cả ; đến những đồ cơm rượu còn thừa, HỒ Thúc cũng vẫn coi như của quý, đem cả xuống thuyễn. Trùng Nhĩ trông thấy, bật cười mà bảo rằng :

Ngày nay ta sắp về làm vua nước Tấn, thiếu gì đồ châu báu, còn dùng chi đến những vật hư nát ấy !

Nói xong, liền sai người đem quẳng bỏ ở trên bờ sông, không để một thứ gì lại. HỒ Yển bèn thở dài mà than rằng :

- Công tử chưa được phú quý mà đã quên lúc bần tiện, mai sau có mới nới cũ, coi lũ chúng ta khác nào những vật hư nát ấy, chẳng cũng uổng cái công chúng ta khó nhọc trong mười chín năm trời ru !

Chi bằng ta nhân lúc công tử chưa qua sông này mà bỏ đi, họa may ngày khác công tử còn có lòng nghĩ đến !

HỖ Yển bèn đem một đôi ngọc bích trắng của Tần Mục công tặng khi trước, quỳ dâng Trùng Nhĩ mà nói rằng :

- Nay công tử qua sông Hoàng Hà này tức là đã đến địa giới nước Tấn, trong thì có bầy tôi nước Tấn, ngoài thì có các tướng nước Tần giúp đỡ, ngôi vua nước Tấn chãc hẳn phải về tay công tử, dẫu có tôi đi theo, cũng không ích gì. Tôi xin Ở lại nước Tần để làm một người ngoại thần của công tử.

Trùng Nhĩ giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

Ta đang muốn cùng các ngươi cùng hưởng phú quý, sao nhà ngươi lại nói như vậy ?

HỖ Yển nói :

- Tôi tự xét mình có ba tội, nên không dám theo.

Trùng Nhĩ hỏi :

- Ba tội là những tội gì ?

HỚ Yển nói :

- Tôi theo giúp công tử mà để cho công tử phải khốn Ở đất Ngũ Lộc, thế là một tội ; để cho công tử bị vua Tào và vua Vệ khinh bỉ, thế là hai tội ; khi Ở nước Tề, dám nhân lúc công tử say rượu mà đem công tử đi để cho công tử phải tức giận, thế là ba tội. Ngày trước công tử còn Ở nước ngoài, nên tôi không dám từ chối, nay công tứ đã về đến đây xin công tử cho tôi được Ở lại nước Tần, vì tôi theo hầu trong bấy

nhiêu năm, sức vóc đã suy yếu lắm rồi, khác nào như những đồ chiếu nát, màn rách, không thể dùng được nữa ?

Trùng Nhĩ ứa nước mắt mà nói rằng :

Nhà ngươi trách ta, thế là phải lắm, ta xin chịu lỗi ?

Nói xong, liền sai HỒ Thúc thu nhặt lấy tất cả những vật đã bỏ đi trước. Trùng Nhĩ lại ngảnh mặt xuống sông Hoàng Hà mà thề rằng :

- Nếu ta về nước mà quên công ơn các ngươi, không cùng hưởng phú quý thì xin trời tru đất diệt

Thề xong, lại cầm một viên bạch bích ném xuống sông Hoàng Hà mà nói rằng :

Xin có thần Hà Bá chứng minh cho !

Bấy giờ Giới Tử Thôi ngồi Ở chiếc thuyền bên cạnh, nghe thấy Trùng Nhĩ thề với HỒ Yển, liền cười mà nói rằng :

Công tử về được nước, chẳng qua là tự ý trời, HỒ Yển lại toan nhận lâý làm công mình hay sao ? Nay ta phải Ở cùng triều với những người tham phú quý như thế, ta cũng xấu hổ lắm !

Từ bấy giờ Giới Tử Thôi có ý muốn đi ẩn.

Trùng Nhĩ qua sông Hoàng Hà, đi đến đất Lịnh Hồ, quan trấn thủ Ở đất Lịnh HỒ là Đặng Hồn đem quân ra chống giữ bị Phi Báo chém chết. Các quan trấn thủ khác đều xin hàng cả. Tấn Hoài công nghe báo, giật mình kinh sợ, sai Lã Di Xanh làm chánh tướng, Khước Nhuế làm phó tướng, đem quân ra đóng Ở đất Lư Liễu, để chống cự

với quân nước Tần. Công tử Chí nước Tần liền viết một bức thư thay lời Tần Mục công, rồi sai người đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế

Trong thư đại lược nói rằng :

Vua Tần tôi làm ơn cho nước Tấn nhiều lắm, mà cha con vua Tấn bây giờ lại đem lòng phụ ơn, coi nước Tần tôi như cừu địch ; công tử Trùng Nhĩ là người hiền, dân nước Tấn đều quy phục cả, ấy là lòng trời muốn cho làm vua nước Tấn đó. Nay tôi cử đại binh đóng Ở trên sông Hoàng Hà, sai công tử Chi đưa Trùng Nhĩ về làm vua, nếu nhà ngươi biết nhân dịp này mà làm nội ứng thì sẽ tránh khỏi tai vạ về sau?

Lã Di Xanh và Khước Nhuế xem xong bức thư, ngẩn người ra một lúc, không biết nói thế nào được. Muốn chống cự lại thì sợ quân nước Tần thế mạnh không thể địch nổi ; muốn làm nội ứng để đón Trùng Nhĩ về làm vua thì lại sợ Trùng Nhĩ nhớ thù cũ mà giết mình để đền mạng cho Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ chăng, bởi vậy cứ ngần

ngại mãi. Sau mới nghĩ được một kế, liền viết thư trả lời công tử Chí.

Trong thư đại lược nói rằng :

Chúng tôi nay tự xét rằng đối với công tử là người có tội, vậy nên không dám bãi binh, nhưng bổn tâm chúng tôi thật vốn muốn tôn phù công tử, nếu chúng tôi được cùng với các quan theo hầu công tử ngày nay cùng thề rằng sau này quyết không làm hại lẫn nhau, bấy giờ chúng tôi sẽ xin vâng mệnh".

Công tử Chí đọc bức thư trả lời, biết là Lã Di Xanh và Khước Nhuế bèn sai người đón vào, hai người bày tỏ tâm sự cho công tử Chí biết, và nói rằng :

Chúng tôi vẫn muốn làm nội ứng, nhưng sợ công tử Trùng Nhĩ không có lòng bao dung cho, vậy phải xin ăn thề.

Công tử Chí nói :

Nếu ông tạm lui quân về phái tây bắc, thì tôi sẽ nói lại với công tử Trùng Nhĩ mà cho ông được ăn thề.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế vâng lời, liền rút quân về đóng Ở đất Châu Thành. Công tử Chí đem lời Lã Di Xanh và Khước Nhuế nói với công tử Trùng Nhĩ. Công tử Trùng Nhĩ sai HỒ Yển và công tử Chí đến đất Châu Thành hỘi thề với Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Thề xong, Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người theo HỒ Yển đi nghênh tiếp Trùng Nhĩ đến đất Châu Thành.

Tấn Hoài công chờ mãi, không thấy tin tức Lã Di Xanh và Khước Nhuế, mới sai Bột Đề đi đốc chiến. Bột Đề đi đến nửa đường, nghe tin Lãâ Di Xanh và Khước Nhuế rút quân về đất Châu Thành cùng với HỖ Yển và công tử Chí giảng hòa, định đón Trùng Nhĩ về làm vua, thì vội vàng về báo tin cho Tấn Hoài công biết. Tấn Hoài công giật mình kinh sợ, liền triệu các quan triều thần vào để thương nghị. Các quan triều thần xưa nay vẫn mến phục Trùng Nhĩ ; lại thấy Tấn Hoài công chỉ tín dùng Lã Di Xanh và Khước Nhuế nên cũng có ý chán. Nay thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế đã làm phản rồi, họ mới bảo nhau người thì cáo ốm, người thì cáo bận việc nhà không vào dự hội. Tấn Hoài công thở dài mà than rằng :

Chẳng ngờ chỉ vì ta bỏ trốn về để mếch lòng nước Tần, mà đến nỗi thế này ?

Bột Đề nói :

- Nay các quan tnều thần cùng tư ước với nhau để đón vua mới, thế thì chúa công phải tránh đi mới được. Tôi xin theo hầu chúa công mà trốn sang đất Cao Lương.

Tấn Hoài công nghe lời, cùng với Bột Đề đi trốn. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người đón công tử Trùng Nhĩ về rồi sụp lạy xin lỗi.

Trùng Nhĩ lấy lời ngọt ngào phủ dụ. Bọn Triệu Thôi cũng cùng với Lã Di xanh và Khước Nhuế bày tỏ tâm phúc, không nghi ky điều gì cả.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế yên lòng, mời công tử Trùng Nhĩ vào đất Khúc ốc. Các quan triều thần rủ nhau đến đất Khúc ốc để nghênh tiếp rồi rước Trùng Nhĩ về kinh thành. Công tử Trùng Nhĩ lên nối ngôi, tức là Tấn Văn công.

Tấn Văn công từ năm bốn mươi ba tuổi trốn sang nước Địch, năm năm mươi nhăm tuổi sang Ở nước Tề, năm sáu mươi mốt tuổi sang Ở nước Tần, đến bây giờ phục quốc lên làm vua thì đã sáu mươi hai tuổi. Tấn Văn công khi đã lên làm vua rồi, bèn mật sai người sang đất Cao Lương để giết Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lên làm vua từ tháng chín năm trước đến tháng hai năm sau thì bị giết, tất cả mới được có sáu tháng. Bột Đề thấy Tấn Hoài công bị giết, lại trốn về nước Tấn.

Tấn Văn công bày tiệc để thết đãi quan tướng nước Tần là công tử Chí, và khao thưởng quân sĩ. Phi Báo sụp lạy Tấn Văn công, xin phép cải táng cho cha là Phi Trịnh Phủ. Tấn Văn công thuận cho, rồi muốn giữ Phi Báo Ở lại tnều để dùng, nhưng Phi Báo chối từ nói rằng :

Tôi đã trót sang làm quan với Tần thì không dám bỏ mà về với chúa công.

Phi Báo cáo từ Tấn Văn công, rồỉ cùng với công tử Chí trở về đất Hà Tây, báo tin cho Tần Mục công biết, Tần Mục công liền rút quân về nước.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế dẫu sợ thế nước Tần, phải đón Trùng Nhl về nối ngôi, nhưng trong lòng vẫn nghi ky, lại xấu hổ với bọn Tnệu Thôi, mới bàn nhau làm phản, cùng nhau lập mưu đốt cung để giết Trùng Nhĩ, rồi lập một vị công tử khác ; ngặt vì khắp trong triều bây giờ không biết mưu với ai được, chỉ có Bột Đề là một kẻ cừu

địch với Tấn Văn công khi trước là có thể cùng bàn được thôi, liền sai người đi gọi Bột Đề.

Bột Đề thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người gọi, vội vàng đến ngay. Lã Di Xanh và Khước Nhuế đem việc đốt cung nói với Bột Đề, Bột Đề bằng lòng và nhận lời, nhưng trong lòng không cho làm phải. nghĩ thầm một mình rằng :

- Ngày trước ta phụng mệnh Tấn Hiến công và Tấn Huệ công đi giết Trùng Nhĩ, chẳng qua là lúc bấy giờ ta chỉ biết một lòng vì chủ mà thôi. Nay Tấn Hoài công đã chết rồi, Trùng Nhĩ lên nối ngôi, nước Tấn mới được yên ổn ; nếu ta lại làm những việc đại nghịch bất đạo ấy thì chẳllg những rằng chưa chắc ta đã làm gì nổi Trùng Nhĩ là người có trời giúp, mà giả sử ta có giết được Trùng Nhĩ nữa thì các người

theo hầu Trùng Nhĩ cũng vị tất đã để cho ta yên, chi bằng ta đem cáo giác việc này ra, thì lại là một con đường tiến thân cho ta được đây.

Bột Đề lại nghĩ thầm :

Mình là người có tội, vào gọi cửa cung sao được !

Bột Đề nghĩ vậy rồi đêm hôm ấy đến yết kiến HỒ Yển. HỒ Yển trông thấy Bột Đề, giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

- Nhà ngươi đối với chúa công ta là người có tội to lắm, sao không tìm đường trốn tránh cho xa, mà lại đang đêm tới đây để làm gì ?

Bột Đề nói :

Tôi đến đây là có ý muốn xin vào yết kiến chúa công nhờ quốc cữu tiến dẫn cho.

Hồ Yển nói :

Nhà ngươi vào yết kiến chúa công thì thật là dẫn thân vào chỗ chết !

Bột Đề nói :

Tôi có một việc cơ mật, muốn vào tâu với chúa công để cứu lấy tính mệnh người trong nước.

HỖ Yển liền đưa Bột Đề đến cửa cung, rồi gọi cửa vào trước, đem việc Bột Đề xin vào yết kiến nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công nól :

- Bột Đề còn có việc gì mà bảo là cứu được tính mệnh người trong nước, chẳng qua là hắn ta sợ để nhờ quốc cữu tiến dẫn đó mà thôi

HỒ Yển nói :

Chúa công nay mới lên nối ngôi, cũng nên bỏ điều hiềm khích cũ mà cầu lời nói thẳng mới phải, xin chúa công cứ cho vào.

Tấn Văn công có ý ngần ngừ, liền bảo nội thị truyền mắng Bột Đề rằng :

- Ngày trước nhà ngươi chém đứt vạt áo của ta, cái áo ấy hãy còn đó, ta trông thấy lúc nào vẫn còn rùng mình ; Sau nhà ngươi lại phụng mệnh Huệ công sang nước Địch để giết ta, may mà lòng trời giúp ta, nhà ngươi không thể giết nổi. Nay ta về nước, nhà ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa ! Thôi thì nhà ngươi nên tìm đường

trốn tránh cho xa, kẻo ta bắt mà trị tội đó.

Bột Đề cười khanh khách mà đáp rằng :

Chúa công Ở nước ngoài lưu lạc trong mười chín năm trời mà còn chưa hiểu thấu được thế sự hay sao ! Hiến công ngày xưa là thân phụ của chúa công, mà Huệ công cũng là thân đệ của chúa công đó, thế mà cha muốn giết con, em muốn giết anh, huống chi là Bột Đề này. Bột Đề này là một đứa tiểu thần, bấy giờ chỉ biết có Hiến công và Huệ công mà thôi, nào đã biết chúa công là ai. Ngày xưa Quản Di Ngô vì Công tử Củ mà bắn trúng vao vòng đai của Tề Hoàn công. thế mà tề hoàn công còn dùng Quản Di Ngô để nêu được nghiệp bá ; nếu Tề Hoàn công cũng nghĩ như bụng chúa công ngày nay thì dễ thường phảl báo cái thù bắn trúng vòng đai, mà bở sự nghiệp bá chủ hay sao ? Nay chúa công không cho tôi vào yết kiến, tôi cũng chẳng tổn hại gì, chỉ e tôi đã đi rồi thì cái tai vạ của chúa công cũng sắp đến nơi đấy !

Nội thị vào nói lại với Tấn Văn công. HỒ Yển nói :

- Bột Đề tới đây, tất có biết được chuyện gì mà muốn nói, xin chúa công cứ cho vào.

Tấn Văn công bèn cho triệu Bột Đề vào. Bột Đề vào đến trong cung, không xin lỗi những việc trước, chỉ sụp lạy hai lạy, rồi nói :

- Tôi xin chúc mừng chúa công !

Tấn Văn công nói :

Ta lên nối ngôi đã lâu, bây giờ nhà ngươi mới đến chúc mừng, chẳng cũng chậm lắm ru ?

Bột Đề nói :

- Chúa công lên nối ngôi, cũng chưa đủ chúc mừng, nay gặp Bột Đề này mới giữ vững được ngôi ấy, vậy tôi xin chúc mừng chúa công.

Tấn Văn công lấy làm lạ, đuổi hết người xung quanh đi rồi hỏi Bột Đề. Bột Đề bèn đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế mưu làm phản kể lại một lượt, rồi nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúa công nên tức khắc cùng với quốc cữu (Hồ Yển) trốn sang nước Tần, rồi đem quân Tần về thì mới có thể dẹp yên được cái loạn này. Tôi xin Ở nhà để làm nội ứng mà giết Lã Di Xanh và Khước Nhuế.

HỒ Yển nói :

Việc đã cấp bách, tôi xin theo chúa công đi, còn công việc trong nước, đã có Triệu Thôi lo liệu.

Tấn Văn công lại dặn Bột Đề rằng :

- Nhà ngươi nên cố sức, sau này ta sẽ trọng thưởng.

Bột Đề cáo từ lui ra. Tấn Văn công cùng với HỒ Yển bàn định, gọi mấy người nội thị tâm phúc vào, dặn báo các công việc, và cấm không được tiết lộ ra cho ai biết. Canh năm đêm hôm ấy, Tấn Văn công giả cách cảm hàn đau bụng, sai một nội thị nhỏ cầm đèn đưa ra nhà xí, rồi theo cửa sau, cùng với HỒ Yển lẽn xe trốn sang nước Tần.

Sáng hôm sau, trong cung có tin truyền ra là Tấn Văn công ốm mệt, các quan bèn kéo đến hỏi thăm, nhưng đều không được vào. Người nội thị canh cửa nói :

- Đêm hôm qua chúa công bị cảm hàn, có truyền cho chúng tôi nói với các quan biết rằng mấy hôm nữa sẽ ra tiếp kiến.

Các quan đều tưởng là Tấn Văn công ốm thật. Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe nói Tấn Văn công có bệnh, trong lòng mừng thầm mà nói rằng :

Thế mới thật trời giúp cho ta giết Trùng Nhĩ ?

Tấn Văn công cùng với HỒ Yển đi đến địa giới nước Tần, sai người đưa mật thư sang cho Tần Mục công, ước đến hội nhau Ở đất Vương Thành. Tần Mục công nghe nói Tấn Văn công giả dạng thường dân trốn sang nước Tần, biết là nước Tấn có biến loạn, mới giả cách đi săn, rồi đến đất Vương Thành hội nhau với Tấn Văn công. Tấn Văn công đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế âm mưu làm phản nói cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công cười mà nói rằng :

- Ý trời đã định, Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm gì nổi ! Tôi chắc rằng bọn Tnệu Thôi Ở nhà tất dẹp tan đám giặc ấy, nhà vua chớ ngại !

Nói xong, liến sai công tôn Chi đem quân ra đóng Ở cửa sông Hoàng Hà để nghe ngóng tin tức. Tấn Văn công hãy Ở tạm đất Vương Thành

Bột Đề sợ Lã Di Xanh và Khước Nhuế có ý nghi, mới giả cách đến nhà Khước Nhuế để bàn định mưu kế, rồi cùng với Lã Di Xanh vào đốt cung và chực giết Trùng Nhĩ, nhưng không thấy Trùng Nhĩ đâu cả mới sợ hãi đem nhau đi trốn. Bọn Triệu Thôi tưởng là trong cung phát hỏa vội vàng đem quân vào cứu, măi đến sáng rõ mới biết là

Lă Di Xanh và Khước Nhuế làm phản ; mọi người lại tìm không thấy Tấn Văn công, nên đều giật mình kinh sợ, sau hỏi bọn nội thị mới biết là Tấn Văn công đã đi đâu mất từ mấy hôm trước rồi. Triệu Thôi nói :

- việc này hỏi đến HỒ quốc cữu thì mới biết rõ được.

HỒ Mao nói :

- Em tôi là HỒ Yển, vào cung từ mấy hôm trước mà đến nay cũng chưa thấy về, tôi chắc hắn đi theo chúa công đó ? Ý chừng chúa công biết cái mưu của Lã Di Xanh và Khước Nhuế, nên mới phòng bị trước như vậy. Nay chúng ta chỉ nên sửa sang lại các nơi cung điện, để đợi chúa công về.

Ngụy Thù nói :

- Bọn phản nghịch định đốt cung mà giết chúa công, tội thật đáng chết, nay dẫu chúng chạy trốn, chắc cũng chưa xa, để tôi xin đem quân đi đuổi bắt.

Triệu Thôi nói :

- Hai đứa phản nghịch ấy dẫu trốn đi, chẳng bao lâu rồi cũng bắt được, nay chúa công đi vắng, ta không nên động binh.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe tin Tấn Văn công chưa chết, sợ các quan đại phu cử binh đuổi theo, mới định trốn sang nước ngoài, nhưng chưa biết đến nước nào cho tiện. Bột Đề lại đánh lừa rằng :

Vua nước Tấn lập hay là bỏ, đều tự ý nước Tần cả, vả chăng hai ngài cùng với vua Tần cũng có quen biết từ trước, nay hai ngài cứ sang đầu với vua Tần, nói dối là trong cung thất hỏa, Trùng Nhĩ đã chết cháy rồi, và xin đón công tử Ung vễ làm vua. Khi công tử Ung đã về nối ngôi thì Trùng Nhĩ dẫu sống cũng khó lòng mà tranh lại nổi.

Lã Di Xanh nói :

- Vua Tần khi trước đã cùng ta hội thề Ở đất Vương Thành, nay ta nên sang đầu, nhưng chẳng biết vua Tần có lòng dung nạp hay không ?

Bạt Đề nói :

Để tôi sang trước nói xem thế nào, nếu vua Tần không nghe, bấy giờ ta sẽ liệu kế.

Bột Đề đi đến cửa sông Hoàng Hà, nghe tin công tôn Chi đóng quân Ở bên kia sông, liền đem sự tình đầu đuổi kể lại cho công tôn Chi biết :

Công tôn Chi nói :

- Bọn phản nghịch đã sang xin hàng như vậy ta nên dụ mà giết Nói xong, liền viết một bức thư giao Bột Đề cầm đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Trong thư đại lược nói rằng :

Khi Trùng Nhĩ vê nước. có nói với chúa công tôi xin nộp đất, vậy nên chúa công tôi sai đóng quân Ở đây đế đợi cắm địa giới, sợ lại như Tấn Hiếu công ngày trước ; nay nghe tin Trùng Nhĩ bị chết cháy, mà hai ngài lợi có ý muốn đón công tử Ung, chúa công tôi cũng bằng lòng lắm, xin hai ngài nên mau mau sang ngay đế cùng bàn định".

Lã Di Xanh và Khước Nhuế tiếp được thư, vui mừng đi ngay.

Khi đến đất Hà Tây, công tôn Chi ra nghênh tiếp, rồi bày tiệc để thết đãi Lã Di Xanh và Khước Nhuế vững dạ không nghi ngại gì cả. Công tôn Chi sai người phi báo cho Tần Mục công, để Tần Mục công đến Ở Vương Thành trước. Lã Di xanh và Khước Nhuế chơi bời ba ngày, rồi nói với công tôn Chi xin vào yết kiến Tần Mục công. Công tôn Chi nói :

Chúa công tôi hiện đang Ở đất Vương Thành, mời hai ngài qua đấy để cùng hội một thể ; còn quân sĩ xin cho đóng lại đây, chờ khi hai ngài trở về, bấy giờ sẽ kéo sang nước Tấn. Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe lời, theo công tôn Chi sang đất Vương Thành ; khi đến đất Vương Thành, Bột Đề cùng công tôn Chi vào thành trước, yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công sai Phi Báo ra đón Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi bảo Tấn Văn công nấp sẵn Ở phía sau bức bình phong. Lã Di Xanh và Khước Nhuế vào yết kiến Tần Mục công, nói với Tần Mục công xin lập công tử Ung.

Tần Mục công nói :

Công tử Ung hiện đã Ở đây rồi.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế đồng thanh nói rằng :

- Nếu vậy xin cho chúng tôi được yết kiến vua mới.

Tần Mục công gọi :

- Vua mới đâu, xin mời ra đây ?

Bỗng thấy phía sau bình phong có mợt vị quý nhân từ từ bước ra. Lã Di Xanh và Khước Nhuế ngẩng mặt lên nhìn xem ai thì là Tấn Văn công Trùng Nhĩ. Lã Di Xanh và Khước Nhuế giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào cả, sụp lạy xin lỗi. Tần Mục công mời Tấn Văn công cùng ngồi. Tấn Văn công mắng Lã Di Xanh và Khước Nhuế

rằng :

- Mấy đứa nghịch tặc kia, ta có xử tệ gì với chúng mày mà chúng mày làm phản, nếu không có Bột Đề cáo giác cho ta biết mà tránh đi, thì ngày nay ta đã ra tro rồi !

Bấy giờ Lã Di Xanh và Khước Nhuế mới biết là Bột Đề làm phản mình, liền nói với Tấn Văn công rằng :

Bột Đề đã cùng với chúng tôi ăn thề, xin chúa công chớ tha tội cho y.

Tấn Văn công cười mà nói rằng :

- Nếu Bột Đề không cùng với ngươi ăn thề thì sao biết hết được âm mưu của các ngươi như vậy !

Nói xong, liền truyền cho võ sĩ đem Lã Di Xanh và Khước Nhuế ra chém, lại sai Bột Đề đi giám sát. Được một lúc, vũ sĩ đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế nộp Ở dưới thềm. Tấn Văn công sai Bột Đề đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến đất Hà Tây để phủ dụ quân sĩ lại báo tin về cho người trong nước biết. Triệu Thôi cùng các quan

đại phu vội vàng đem xa giá đi đón tiếp Tấn Văn công.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 37 : Giới Tử Thôi cõng mẹ đi ẩncông tử Đái tham sắc làm càn

Tấn Văn công đã giết được Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi, đứng dậy tạ ơn Tần Mục công, và xin lấy lễ phu nhân đón nàng Hoài Doanh về nước. Tần Mục công nói :

Tiện nữ khi trước đã thất thân với công tử Ngữ rồi, có đâu lại dám đương cái lễ tôn quý ấy ?

Tấn Văn công nói :

Nước tôi cùng quý quốc giao hiếu đã mấy đời nay, nếu không dùng lễ pbu nhân thì sao làm chủ được việc tôn tự, xin nhà vua chớ nên từ chối .

Tần Mục công mừng lắm, liền cho Tấn Văn công làm lễ đón Hoài Doanh về nước. Khi về đến nước Tấn, Tấn Văn công lập Hoài Doanh làm phu nhân. Tấn Văn công nghĩ đến việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm phản, có lòng tức giận, muốn giết hết vây cánh của hai người. Triệu Thôi can rằng :

Huệ công và Hoài công ngày xưa vì nghiêm khắc quá mà bị người ta oán, nay chúa công phải khoan dung mới được.

Tấn Văn công nghe lời, hạ lệnh đại xá cho bọn vây cánh Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Bọn này dẫu thấy Tấn Văn công đã đại xá cho nhưng trong lòng không được yên, thường phao ra những tin đồn nhảm. Tấn Văn công thấy vậy, vẫn có ý lo.

Một hôm, mới mờ mờ sáng, có kẻ tiểu lại là Đầu Tu xin vào yết kiến. Tấn Văn công đang xõa tóc gội đầu, nghe báo có Đầu Tu đến, nổi giận nói rằng :

Người ấy khi trước lấy trộm tiền bạc của ta, khiến cho ta thiếu thốn phải ăn xin Ở nước Tào và nước Vệ, bây giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa ?

Nói xong, liến sai nội thị đuổi ra. Đầu Tu nói :

- CÓ phải chúa công đang gội đầu đó không ?

Nội thị giật mình kinh sợ, nói :

- Tại sao nhà ngươi lại biết ?

Đầu Tu nói :

- Người ta lúc gội đầu thì cúi đầu cong mình, vì vậy quả tim phải úp xuống ; mà quả tim đã lộn ngược như thế thì lời nói ra tất cũng điên đảo, bời thế mà không cho ta vào yết kiến. Ngày trước chúa công dung thứ cho Bột Đề, mà thoát được cái nạn Lã Di Xanh và Khước Nhuế, bây giờ lại không dung thứ Đầu Tu này được hay sao !

Đầu Tu đến đây tất là có kế sách giữ yên được nước Tấn, nếu chúa công không cho vào yết kiến thì Đầu Tu từ đây sẽ xin trốn đi !

Nội thị vội vàng vào tâu với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói :

- ĐÓ là điều lỗi của ta !

Nói xong, liền đội mũ mặc áo chỉnh tề, rồi cho Đầu Tu vào yết kiến. Đầu Tu vào, sụp lạy xin lỗi, rồi nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công có biết bọn vây cánh của Lã Di Xanh và Khước Nhuế bao nhiêu người không ?

Tấn Văn công cau mày đáp rằng :

- Nhiều lắm !

Đầu Tu nói : .

- Bọn ấy tự nghĩ mình tội to, dẫu chúa công đã có lệnh đại xá rồi, nhưng vẫn đem lòng nghi ngại, chúa công nên nghĩ cách nào khiến chúng được yên tâm.

Tấn Văn công nói :

- Muốn chúng yên tâm thì dùng cách gì được ?

Đầu Tu nói :

- Ngày trước tôi lấy trộm tiền bạc của chúa công, khiến chúa công bị cơ khổ ; tội của tôi, người trong nước ai cũng biết cả, nay chúa công đi chơi, nên dùng tôi làm một người đánh xe, để người trong nước đều trông thấy biết là chúa công không nghĩ đếu điều thù oán cũ. Như vậy còn ai đem lòng nghi ngại nữa !

Tấn Văn công khen phải, rồi mượn cớ đi ra tuần thành, dùng Đầu Tu làm người đánh xe. Những vây cánh của Lã Di Xanh và Khước Nhuế trông thấy, đều thì thào bảo nhau :

Đầu Tu ngày trước lấy tiền bạc của chúa công, mà nay chúa công còn dung thứ, huống chi là người khác !

Từ bấy giờ không còn những tin đồn nhảm nữa. Tấn Văn công từ khi còn làm công tử, đã lấy hai vợ : người vợ thứ nhất là Từ Doanh, chết đi ; người thứ hai là Bức Cật, sinh được một trai tên là Hoan, và một gái tên là Bá Cơ, sau Bức Cật chết Ở đất Bồ. Lúc Tấn Văn công đi trốn, hai con là Hoan và Bá CƠ đều bỏ Ở đất BỒ cả ; bấy giờ Đầu Tu lại nhận lấy mà gửi nhà Toại thị (người đất Bồ) nuôi hộ. Một hôm, Đầu

Tu đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công giật mình mà hỏi rằng :

- Ta tưởng hai đứa bé đã chết trong loạn lạc từ lâu rồi ! Sao đến bây giờ nhà ngươi mới nói ?

Đầu Tu nói :

- Chúa công chu du các nước, đến đâu lấy vợ Ở đấy, sinh hạ cũng được nhiều con ; công tử Hoan dẫu còn sống, nào biết chúa công có còn thương đến hay không ? Bởi vậy tôi chưa dám nói vội.

Tấn Văn công nói :

- Nếu nhà ngươi không nói thì thành ra ta mang tiếng là người bất từ.

Nói xong, liền sai Đầu Tu đến đất Bồ, trọng thưởng cho Toại thị, rồi đón công tử Hoan và Bá CƠ về, để cho nàng Hoài Doanh nhận làm con. Lại lập công tử Hoan làm thế tử và đem Bá CƠ gả cho Triệu Thôi, gọi là Tnệu Cơ.

Vua nước Địch nghe tin Tấn Văn công đã về nối ngôi, sai sứ đến chúc mừng, và đưa nàng Quý Ngỗi vế nước Tấn. Tấn Văn công hỏi Quý Ngỗi đã bao nhiêu tuổi. Quý Ngỗi nói :

Cách biệt trong tám năm nay, bây giờ thiếp đă ba mươi hai tuổi rồi !

Tấn Văn công nói bỡn rằng :

Còn may mà xa cách chưa đếu hai mươi nhăm năm.

Tề Hiếu công cũng sai người đưa nàng Khương thị về nước Tấn.

Tấn Văn công tạ ơn Khương thị. Khương thị nói :

Thiếp không phải là không muốn cảnh vợ chồng sum họp, nhưng sở dĩ bấy giờ thiếp muốn cho chúa công ra đi, chính là mong có ngày hôm nay đó.

Tấn Văn công đem những điều đức hạnh của Quý Ngỗi và Khương thị thuật lại cho Hoài Doanh nghe. Hoài Doanh cũng ngợi khen mãi, rồi xin nhường lại ngôi phu nhân. Bấy giờ Tấn Văn công định lại ngôi bậc Ở trong cung : đặt Khương thị làm phu nhân ; thứ hai đến Quý Ngỗi ; thứ ba mới đến Hoài Doanh. Triệu CƠ (tức là nàng Bá Cơ, con gái Tấn Văn công) nghe tin Quý Ngỗi về, cũng khuyên chồng là Triệu Thôi cho người đi đón mẹ con nàng Thúc Ngỗi. Triệu Thôỉ từ chối nói : .

Chúa công đã gả nàng cho ta, có đâu tôi còn dám nghĩ đến vợ con Ở nước Địch.

Triệu CƠ nói :

- Câu nói bạc đức ấy, thìếp không muốn nghe đâu ! Thiếp dẫu là con chúa công thật, nhưng Thúc Ngỗi lấy trước, và đã có con, lẽ nào phu quân lại yêu mới bỏ cũ cho đành ?

Triệu Thôi ngoài miệng dẫu bảo nghe lời nhưng trong lòng cũng chưa nhất quyết. Triệu CƠ liền vào cung, tâu với Tấn Văn công rằng :

Xin phụ thân bảo Triệu tướng quân đón nảng Thúc Ngỗi về, kẻo để cho con mang tiếng là người bất hiền.

Tấn Văn công sai người sang nước Địch đón mẹ con Thúc Ngỗi về. Triệu CƠ xin nhường Thúc Ngỗi làm vợ cả. Triệu Thôi nhất định không nghe. Tnệu CƠ nói :

- Người ta hơn tuổi mà lấy trước, thiếp ít tuổi mà lại lấy sau. Và thiếp nghe nói con nàng tên là Thuẫn, năm nay đã trưởng thành mà lại có tài vậy thiếp nên nhường là phải ; nếu phu quân không nghe thì thiếp xin về cung.

Triệu Thôi bất đắc dĩ lại đem lời nói của Triệu CƠ tâu với Tấn Vãn công. Tấn Văn công nói :

- Con gái ta biết nhường như thế là phải ?

Nói xong, liền truyền gọi mẹ con Thúc Ngỗi vào triều, rồi cho Thúc Ngỗi làm vợ cả Triệu Thôi. Thúc Ngỗi cũng cố ý xin từ chối. Tấn Văn công giảng giải mãi, nói đó là ý muốn của Tnệu Cơ, Thúc Ngỗi mới chịu nhận. Bấy giờ Triệu Thuẫn mới mười bảy tuổi, mà học hành thông thái, lại giỏi nghề cưỡi ngựa bắn cung. Triệu Thôi lấy làm yêu

lắm. Sau Triệu CƠ cũng sinh được ba con là Triệu Đồng, Triệu Quát và Triệu Anh, nhưng tài giỏi đều không bằng Triệu Thuẫn.

Tấn Văn công ban thưởng cho những người có công phục quốc, chia ra làm ba hạng : một là những người tòng vong ; hai là những người tống khoản ; ba là những người nghênh hàng . Trong ba hạng ấy lại tùy theo người nào có công khó nhọc nhiều hay ít mà chia hơn kém : những người tòng vong thì Triệu Thôi và HỒ Yển đứng

đầu ; những người tống khoản thì Loạn Chi và Khước Tần đứng đầu ; những người nghênh hàng thì Khước BỘ Dương và Hàn Giản đứng đầu

Tấn Văn công lại đem năm đôi ngọc bích ban cho HỒ Yển, để đền lại viên ngọc bích ném xuống sông Hoàng Hà khi trước. Lại nghĩ đến HỒ Đột bị chết oan, truyến lập miếu Ở núi Mã Yên để thờ, đổi tên núi ấy là núi HỒ Đột. Tấn Văn công ban thưởng công thần xong, lại ra một tờ chiếu treo Ở cửa thành nói rằng : "Nếu người nào có công lao mà chưa được dự thưởng thì cho phép cứ tự nói ra".

HỒ Thúc nói với Tấn Văn công rằng :

Tôi theo chúa công, từ khi còn Ở đất Bồ, cho đếu khi chu du khắp các nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ Ở bên cạnh, nay chúa công thưởng công cho những người tông vong mà khồng nhớ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì ?

Tấn Văn công nói :

- Trong bọn tòng vong : người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên bảo ta thì là công đầu ; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế thì là công thứ hai ; người nào xông pha mũi tên hòn đạn để giữ gìn cho ta thì là công thứ ba ; còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại Ở dưới nữa. Vậy nên ta thướng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đếu lần nhà ngươi.

HỒ Thúc thẹn mà lui ra. Tấn Văn công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả các tôi tớ hầu hạ, ai cũng lấy làm bằng lòng. Chi có Ngụy Thù và Điên Hiệt cậy mình vũ dũng, thấy Triệu Thôi và HỒ Yển đều là văn thần, chỉ biết làm việc tư lệnh văn thư mà lại được trọng thưởng hơn mình, có ý không phục, thường vẫn

kêu ca oán giận. Tấn Văn công nể hai người có công lao, vậy nên không nói đến.

Giới Tử Thôi cũng là một người trong bọn tòng vong, nhưng tinh khí điềm đạm, từ khi mới về đến sông Hoàng Hà, thấy HỒ Yển có ý khoe công, đã lấy làm khinh bỉ, không muốn Ở lẫn với bọn ấy ; đến lúc Tấn Văn công lên nối ngôi, Giới Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần đầu, rồi cáo ốm về nhà, yẽn phận nghèo khổ, vẫn đi khâu giày thuê để lấy tiền nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn công ban thưởng công thần, không thấy Giới Tử Thôi, cũng quên đi mất, không hỏi đến.

Người láng giềng của Giới Tử Thôi là Giải Trương, thấy Giới Tử Thôi không được thưởng, có ý không bằng lòng ; lại thấy trên cửa thành có yết một tờ chiếu nói : "Nếu người nào có công lao mà chưa được dự thưởng thì cho phép cứ tự nói ra" bèn vội vàng gọi cửa, báo tin cho Giới Tử Thôi biết. Giới Tử Thôi chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Bà mẹ Ở dưới bếp nghe tiếng, bảo Giới Tử Thôi rằng :

Mày khó nhọc trong mười chín năm trời, đã từng cắt thịt đùi để dâng chúa công, sao bây giờ mày không nói ra mà lĩnh thưởng, họa may được một vài chung thóc, chẳng côn hơn đi khâu giày thuê hay sao !

Giới Tử Thôi nói :

- Các con Hiến công, cả thẩy chín người, chỉ có chúa công là hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho chúa công. Các người theo hầu, không biết ý trời, dám tự nhận là công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chảng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn ?

Bà mẹ nói :

Mày dẫu không muốn làm quan, cũng nên vào yết kiến một lần, để khỏi uổng cái công lao cắt thịt đùi ngày trước.

Giới Tử Thôi nói :

- Con đã không muốn làm quan thì còn vào yết kiến làm gì !

Bà mẹ nói :

- Con làm được một người liêm sỉ, có lẽ nào ta lại không làm được bà mẹ người liêm sỉ hay sao ! Vậy thì mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên Ở chỗ này.

Glới Tử Thôi mừng lắm, nói :

Con vẫn yêu chỗ Miên Thượng là một nơi núi cao hang sâu, nay con xin đem mẹ đến Ở đấy.

Nói xong, liền cõng bà mẹ đến đất Miên Thượng, làm nhả trong hang mà ở. Láng giềng hàng xóm không ai biết là Giới Tử Thôi đi đâu cả, chỉ một mình Giải Trương biết mà thôi. Giải Trương bèn viết một bức thư, đang đêm đem đến treo Ở cửa triều. Sáng hôm sau, có một cận thần bắt được, đem vào dâng Tấn Văn công. Tấn Văn công mở ra đọc Trong thư nói :

CÓ một con rồng. khi còn hoạn nạn cô thế, đàn rắn đi theo, chu du thiên hạ. Rồng không có ăn. một rắn cắt đùi. nay rồng trở về đã được yên sở. Đàn rắn theo vào, đều sung sướng cả, chỉ có một con, chẳng ai hỏi đến !"

Tấn Văn công đọc xong, giật mình nói rằng :

Đây là Giới Tử thôi oán giận ta đó ? Khi trước ta qua nước Vệ không có ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng ta, nay ta ban thưởng công thần mà quên mất Giới Tử Thôi, ấy là một điều lỗi của ta vậy.

Bèn sai người đi triệu Giới Tử Thôi. Khi người ấy đến nơi thì thấy Giới Tử thôi đã đi mất rồi. Tấn Văn công truyền bắt những người láng giềng, để hỏi xem Giới Tử thôi đi đâu ; ai biết chỉ dẫn thì thưởng cho làm quan. Giải Trương bèn tâu với Tấn Văn Công rằng :

- Bức thư ấy không phải là của Giới Tử Thôi, chính là của tôi làm thay đó ! Giới Tử Thôi không muốn cầu thưởng, đă cõng mẹ vào ẩn Ở trong hang núi ở đất Miêu Thượng, vậy nên tôi viết bức thư ấy để nhắc chúa công nhớ đến Giới Tử Thôi đó.

Tấn Văn công nói :

- Nếu không có bức thư ấy thì có lẽ ta quên mất cái công của Giới Tử Thôi.

Nói xong, liền cho Giải Trương lảm chức hạ đại phu ; lại bắt Giải Trương đưa đường cho mình vảo Miên Thượng để tìm Giới Tử Thôi Khi vào đến nơi thì chỉ thấy núi xanh rừng rậm, nước chảy mây bay, tiếng chim chiu chít, vách đá dội vang, mả chẳng thấy tông tích Giới Tử Thôi đâu cả. Quân sĩ tìm được mấy người làm ruộng gần đấy

Tấn Văn công gọi đến trước mặt mà hỏi.

Người làm ruộng nói :

- Mấy hôm trước, chúng tôi có trông thấy một người cõng một bà cụ già ngồi nghỉ Ở núi này, vốc nước suối cho bà cụ uống ; xong lại cõng bà cụ trèo lên trên núi, rồi sau không biết đi đâu !

Tấn Văn công truyền đỗ xe Ở dưới chân núi, sai người đi tìm kiếm các nơi. Trong mấy ngày trời, chẳng thấy Giới Tử Thôi đâu cả.

Tấn Văn công có sắc giận trên mặt, bảo Giải Trương rằng :

- Sao Giới Tử Thôi giận ta đến thế ? Ta nghe nói Tử Thôi là người chí hiếu, nếu ta đốt khu rừng này đi thì y tất phải cõng mẹ chạy ra.

Ngụy Thù nói :

- Trong bọn tòng vong, nhiều người có công lao, há phải một mình Giới Tử Thôi đâu ! Nay Giới Tử Thôi cố tình đi ẩn, khiến chúa công phải khó nhọc, đợi khi nào hắn tránh lửa mà chạy ra đây, tôi sẽ làm cho hắn phải xấu hổ.

Nói xong, truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cả mấy phía rừng. Lửa to gió mạnh, khu rừng cháy lan đến mấy dặm, trong ba ngày mới tắt ; nhưng Giới Tử Thôi nhất định không ra, hai mẹ con ôm nhau, chết Ở dưới gốc cây liễu. Quan sĩ tìm được đống xương, Tấn Văn công trông thấy thì động lòng mà ứa nước mắt, bèn truyền cho quân sĩ đem chôn Ở chân núi, rỗi lập miếu thờ, bao nhiêu ruộng xung quanh núi đều để làm tự điền cả, đổi tên núi gọi là Giới Sơn. Ngày hôm đất rừng, đang là tiết thanh minh mồng ba tháng ba. Sau người trong nước nhớ đến Giới Tử Thôi chết cháy, nên đến ngày hôm ấy không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn lương khô để ăn, gọi là tiết hàn thực" nghĩa là ngày hôm ấy cấm lửa, chi ăn đồ nguội. Tiết hàn thực, nhà nào cũng cắm cành liễu Ở ngoài cửa, để chiêu hồn Giới Tử Thôi, cũng có nhà lảm cỗ và đốt giấy để cúng tế.

Tấn Văn công đã ban thưởng cho công thần rồi, lại chinh đốn các việc chính trị trong nước, thu dùng những người có đức có tài, cứu giúp những người nghèo khổ, từ bấy giờ trong nước mỗi ngày một cường thịnh Chu Tương vương sai quan thái tế là Chu công Khổng và quan nội sứ là Thúc Hưng đến gia phong, Tấn Văn công tiếp đãi một

cách long trọng khác thường. Thúc Hưng về tâu với Chu Tương vương rằng :

Tấn hầu tất làm bá chủ các nước chư hầu, ta phải thân thiện với Tấn mới được.

Từ đó Chu Tương vương sơ với nước Tề mà thân với nước Tấn.

Bấy giờ Trịnh Văn công cậy thế nước SỞ để hà hiếp các nước yếu, thấy vua nước Hoạt thần phục nước Vệ mà không thần phục nước Trịnh, liẻn đem quân đi đánh nước Hoạt. Vua nước Hoạt sợ hãi, phải xin giảng hòa. Nước Trịnh mới rút quân về. Khi nước Tnnh đã rút quân về rồi, vua nước Hoạt trở lại thần phục nước Vệ như trước, nhất định không theo Trịnh. Trịnh Văn công giận lắm, sai công tử Sĩ Tiết làm chánh tướng, ĐỖ Dũ Di làm phó tướng, lại cử đại binh sang đánh nước Hoạt.

Vệ Văn công bấy giờ đang thân mật với thiên tử nhà Chu liễn đem việc Trịnh Văn công đánh nước Hoạt vào tâu với Chu Tương vương. Chu Tương vương sai quan đại phu là Du Ty Bá đến nước Trịnh mà giảng giải hộ cho nước Hoạt.

Trinh Văn công nổi giận, nói :

Trịnh và Vệ có khác gì nhau, sao thiên tử nhà Chu lại trọng nước Vệ mà khinh nước Trịnh thế !

Trịnh văn công liền bất Du Ty Bá giam lại một chỗ, để đợi khi đách tan nước Hoạt rồi, bấy giờ sẽ tha. Du Ty Bá bị bắt, những người theo hầu trốn về báo tin cho Chu Tương vương biết. Chu Tương vương nổi giận mắng rằng :

- Trịnh hầu khinh trẫm quá lắm, trẫm tất phải báo thù. Nói xong liền hỏi các quan trong triều rằng :

- CÓ ai dám vì trẫm mà đến hỏi tội Trịnh hầu hay không ?

Hai quan đại phu là Đồi Thúc và Đào Tử nói với Tương vương rằng :

- Nước Trịnh từ khi đánh được tiên vương ta ngày xưa càng không sợ hãi gì cả, nay lại cậy thế nước Sở, dám bắt cả sứ thần của thiên tử. Nay ta đem binh hỏi tội, chưa chắc thắng nổi. Tôi thiết tưởng nên mượn quân nước Địch thì mới đánh được Trịnh.

Quan đại phu là Phú Thần can rằng :

- Không nên ! Trịnh hầu dẫu vô đạo, nhưng là nước thân thuộc với ta, tổ tiên ngày xưa cũng có công với nhà Chu ta nhiều lắm ; còn nước Địch là một nước rợ mọi không thân thuộc gì, ta quyết không nên mượn quân nước Địch.

Đồi Thúc và Đào Từ nói :

- Vua Vũ vương ta ngày xưa đi đánh nhà Thương, các nước rợ mọi đều đến giúp cả, cứ gì phải nước cùng họ mới được

Tương vương khen phải, rồi sai Đồi Thúc và Đào Tử sang bảo vua nước Địch cử binh đi đánh Trịnh. Vua nước địch vâng mệnh, rồi giả cách đi săn, lẻn vào địa giới nước Trịnh, chiếm cứ lấy đất lịch Thành, rồi sai sứ theo Đồi Thúc và Đào Tử sang nhà Chu để báo tin thắng trận. Tương vương nói :

: Nước địch có công với trẫm, nay nhân hoàng hậu mới mất, trẫm muốn lấy con gái nước Địch, các ngươi nghĩ thế nào ?

Đồi Thúc và Đào Tử nói :

Tôi nghe nói người nước Địch có câu hát rằng : "Thúc Ngỗi trước và Thúc Ngỗi sau, nhan sắc rực rỡ như ngọc châu ý nói nước Địch có hai người con gái đều tên gọi Thúc Ngỗi, mà nhan sắc đều tuyệt vời cả Thúc Ngỗi trước là con gái nước Cao Như, đâ gả cho vua nước Tấn rồi ; còn Thúc Ngỗi sau là con gái vua nước Địch, hiện nay

vẫn chưa lấy chồng, xin nhà vua cho sang hỏi.

Tương vương mừng lắm, lại sai Đồi Thúc và Đào Tử sang nước Địch hỏi Thúc Ngỗi. Vua nước Địch sai người đưa Thúc Ngỗi đến. Chu Tương vương muốn lập làm hoàng hậu. Phú Thần lại can rằng :

Nước Địch có công thì nhà vua nên ban thưởng, chứ lập con gái nước Địch làm hoàng hậu thì còn ra thể thống nào nữa ! Tôi e rằng nước Địch tất có lòng dòm dỏ.

Tương vương không nghe, liền lập Thúc Ngỗi làm hoàng hậu.

Ngỗi hậu (tức là Thúc Ngỗi) có nhan sắc, nhưng không có đức hạnh, khi Ở Địch vẫn thích nghề cưỡi ngựa bắn cung, thường theo vua nước Địch đi săn, ngày nào cũng cùng với các tướng sĩ dong chơi, không câu nệ gì ; nay làm hoàng hậu nhà Chu, Ngỗi hậu cả ngày Ở trong cung, không được đi đến đâu, lấy làm khó chịu, một hôm nói với Tương vương rằng :

Thiếp từ thuở bé vẫn tập nghề cưỡi ngựa bắn cung, thân phụ thiếp cũng không cấm đoán gì cả, nay thiếp Ở trong cung, lâu ngày không đi đến đâu, sinh ra đau ốm. Sao thiên tữ không đi săn, để thiếp theo hầu.

Tương vương đang yêu Ngỗi hậu, nàng nói gì cũng nghe lời, liền sai quan thái sử chọn ngày để đi săn Ở núi Bấc Khâu. Tương vương muốn cho Ngỗi hậu được vui lòng, mới hạ lệnh treo giải thưởng cho những người săn đưọc nhiều cầm thú.

Các vương tử, vương tôn nghe lệnh, đều đua nhau đi đuổi bắn các giống cầm thú để lĩnh thưởng. Trong bọn lĩnh thưởng có một người giỏi bắn, săn được nhiều hơn cả là vương tử Đái.

Vương tử Đái mặt mũi khôi ngô, hình dong tuấn tú, trông rõ là một bậc quý nhân, tức là thứ đệ của Chu Tương vương, ngườ trong nước đều gọi là Thái thúc. Năm trước vương tử Đái đã lập mưu muốn tranh ngôi, nhưng không làm xong ; lại đi triệu quân Sơn Nhung về đánh nhà Chu, đến lúc việc tiết lộ ra, sợ tội trốn sang nước Tề. Sau bà

Huệ hậu hai ba. lần nói với Tương vương, xin tha tội cho. Phú Thần cũng khuyên tương vương nên lấy lòng nhân từ mà xử với anh em.

Bời vậy tương vương bất đắc dĩ lại cho triệu Đái về. Bấy giờ trong bọn đi săn, vương tử Đái được lĩnh phần thưởng thứ nhất, Ngỗi hậu trông thấy, đem lòng yêu dấu, lại nói với Tương vương rằng :

Hôm nay trời hãy còn sớm, xin thìên tử cho thiếp đi săn bắn chơi một lúc, để cho gân cốt được khỏe mạnh.

Chu Tương vương nghe lời, liền truyền cho quân sĩ sửa soạn các đồ săn bắn để Ngỗi hậu đi săn. Ngỗi hậu cởi áo gấm dài ra, để lộ một cái áo cánh ngắn đã mặc sẵn, rồi khoác thêm một áo giáp nhẹ, mình đeo túi tên, tay cầm súng đỏ, trông thật xinh đẹp. Tương vương trông thấy cũng phải thích ý mà tủm tỉm cười. Quân sĩ sắp xe để Ngỗi hậu đi Ngỗi hậu nói với tương vương rằng :

- Đi xe không tiện bằng cưỡi ngựa, các thị nữ Ở nước Địch theo hầu thiếp sang đây, đều biết cưỡi ngựa cả, xin thiên tử cho thiếp cưỡi ngựa một phen. .

Tương vương truyền chọn các con ngựa tốt đem đến cho Ngỗi hậu và các thị nữ cưỡi. Ngỗi hậu sắp sửa lên ngựa, Tương vương lại ngăn lại mà bảo rằng :

Khoan đã ! Để trẫm chọn xem trong các vương tử có người nào cưỡi ngựa giỏi, cho đi theo hộ vệ hoàng hậu.

Vương tử Đái xin đi. Các thị nữ đều cưỡi ngựa xúm xít chung quanh Ngỗi hậu đi một bọn trước, còn vương tử Đái cưỡi ngựa theo sau.

Đi được một quãng, vương tử Đái giục ngựa lên trước, theo kịp Ngỗi hậu, rồi hai người cùng thi tài phóng ngựa vòng qua sườn núi. Khi hai người đi đều nhau, Ngỗi hậu dừng cương lại mà khen vương tử Đái rằng :

Vương tử thật là một bậc kỳ tài ! Thiếp nghe tiếng đã lâu, bây giờ mới đưọc giáp mặt.

Vương tử Đái ngồi trên mình ngựa cũng cúi đầu mà đáp lại rằng :

Tôi cũng mới học cưỡi ngựa, còn kém hoàng hậu muôn phần !

Ngỗi hậu nói :

Sáng mai vương tử nên vào cung bà Huệ hậu, để vấn an, rồi thiếp sẽ nói chuyện.

Nói chưa dứt lời thì bọn thị nữ đã cưỡi ngựa đến, Ngỗi hậu liếc mắt đưa tình nhìn vương tử Đái. Vương tử Đái se sẽ gật đầu, rồi quay ngựa lùi lại. Vừa lúc bấy giờ Ở chân núi có một đàn hươu nai chạy ra.

Vương tử Đái bắn luôn hai phát, được một hươu, một nai. Ngỗi hậu cũng bắn trúng một hươu. Mọi người đều vỗ tay reo mừng.

Ngỗi hậu quay ngựa trở về. Tương vương ra đón. Ngỗi hậu đem con hươu dâng nộp tương vương. Vương tử Đái cũng dâng nộp một hươu và một nai. Tương vương bằng lòng, thu quân trở về, rồi ban yến cho các quan triều thần, rất là vui vẻ.

Ngày hôm sau, Vương tử Đái vào cung Huệ hậu, giả cách vấn an, đã trông thấy Ngỗi hậu Ở đấy rồi. Ngỗi hậu đem tiền bạc đút lót tất cả các cung nhân, cấm không được nói hở cho ai biết, rồi ngay hôm đó cùng với vương tử Đái tư thông Ở trong .một phòng riêng. Hai bên cùng nhau quyến luyến, khi từ giã ra về, Ngỗi hậu lại dặn vương tử Đái rằng :

- Thỉnh thoảng vương tử vào cung thăm thiếp nhé !

Vương tử Đái nói :

Tôi chỉ sợ thiên tử sinh nghi thì làm thế nào ?

Ngỗi hậu nói :

- Thiếp có thể che chở được, vương tử chớ ngại.

Các cung nhân đều biết chuyện cả, chỉ vì vương tử Đái là con yêu của Huệ hậu và việc này cũng quan hệ đếu thể thống, vậy nên không ai dám nói ra. Huệ hậu cũng biết vậy, lại dặn các cung nhân không được nói. Các cung nhân được nhiều tiền thưởng đều có ý che chở cho vương tử Đái, bởi vậy vương tử Đái ngày nào cũng Ở trong cung, suốt đêm đến sáng, mà Tương vương vẫn không biết gì cả.

Trong bọn cung nữ có một người tên gọi Tiểu Đông, nhan sắc cũng khá, mà lại hiểu âm luật. Một hôm, vương tử Đái đang cùng với Ngỗi hậu uống rượu, sai Tiểu Đông thổi ống ngọc tiêu, vương tử Đái lại theo nhịp mà hát ; đến lúc vương tử Đái rượu say, có ý lả lơi, giơ tay nắm lấy áo Tiểu Đông để trêu ghẹo. Tiểu Đông sợ hãi, cời áo bỏ chạy.

Vương tử Đái giận lắm, rút gươm đuổi theo, toan giết Tiểu Đông. Tiểu Đông vội vàng chạy đến cung Tương vương, kể hết những chuyện vương tử Đái tư thông với Ngỗi hậu. Tương vương tức khắc cầm thanh bảo kiếm để đi giết vương tử Đái.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 38 : Chu tương vương tránh sang nước khácTấn Văn công thu phục lòng dân

Nhưng nhà vua bỗng nghĩ:

- vương tử Đái là con yêu của thái hậu (tức là Huệ hậu) nếu ta giết đi người ngoài không biết, tất cho ta là người bất hiếu. Và vương tử Đái vũ nghệ giỏi lắm, vị tất ta đã giết nổi, chi bằng hãy chịu nhịn đợi đến sáng mai, xét được sự thực, bấy giờ sẽ trị tội Ngỗi hậu, tự khắc vương tử Đái xấu hổ mà phải trốn đi nước khác.

Tương vương thở dài một tiếng rồi ném thanh bảo kiếm xuống đất lại trở về cung, sai nội thị đi dò thám xem tình hình vương tử Đái ra sao. Nội thị về bảo rằng :

Vương tử Đái biết Tiểu Đông vào báo với thìên tử, vậy đã tức khắc trốn đi rồi.

Tương vương nói :

- Ra vào cửa cung, không có bẩm mệnh, đó cũng là tại trẫm không phòng bị từ trước.

Sáng hôm sau, Tương vương truyền bắt các thị nữ trong cung ra để tra hỏi thì người nào cũng chối cả. Sau gọi Tiểu Đông ra đối chứng, bấy giờ các thì nữ mới thú nhận, đem tình hình trước sau nói hết với Tương vương. Tương vương truyền bắt Ngỗi hậu giam vào lãnh cung, khóa chặt cửa lại, chỉ cho khoét một lỗ thủng để đưa cơm nước mà thôi Vương tử Đái sợ tội, trốn sang nước Địch. Huệ hậu lo phiền, từ bấy giờ cũng thành bệnh ốm. Đồi Thúc và. Đào Tử nghe thấy Ngỗi hậu bị truất, giật mình kinh sợ mà nói rằng :

Ngày trước hai ta phụng mệnh thiên tử sang mượn quân nước Địch để đánh nước Trịnh, sau hai ta lại phụng mệnh thiên tử sang xin cưới Ngỗi hậu, nay Ngỗi hậu bị truất, tất nhiên vua Địch có ý căm tức. Vả vương tử Đái trốn sang nước Địch, tất nhiên cũng kiếm chuyện để xui giục vua Địch, một mai vua Địch đem quân sang hỏi tội

thì hai ta biết nói làm sao ?

Hai người tức khắc đánh xe đi theo vương tử Đái, để bày mưu lập kế sang nói với vua nước Địch. Khi đi đến nước Địch, Đồi Thúc và Đảo Tử vào trước nói với vua nước Địch rằng :

- Ngày trước nước tôi vì vương tử Đái mà sang thình hôn, thiên tử nghe nói Thúc Ngỗi là người đẹp mới chiếm lấy rồi lập làm hoàng hậu. Nhân một hôm Thúc Ngỗi đến thăm thái hậu (tức là Huệ hậu) gặp vương tử Đái, vương tử Đái bèn nói lại chuyện cũ, bị lũ cung nhân đặt điều gièm pha với thiên tử, thiên tử chẳng nghĩ đến cái công khó nhọc quý quốc đánh Trịnh khi trước mà đem hoàng hậu giam vào lãnh cung, rồi đuổi vương tử Đái đi, như thế thật là một người phụ bạc. Xin quý quốc đem quân sang đánh, mà lập vương tử Đái lên làm

vua để cứu lấy hoàng hậu.

Vua nước địch tin lời, liền hỏi :

-Vươngtử đái bâygiờ ở đâu?

Đồi Thúc và Đào Tử nói : .

- Hiện nay đang Ở ngoài cõi.

Vua nước Địch sai đón vào, rồi cho quan đại tướng là Xích Đinh cùng với Đồi Thúc và Đào Tử đem quân giúp vương tử Đái về đánh nhà Chu. Chu Tương vương nghe tin quân nước Địch đến đánh, sai quan đại phu là Đàm Bá đem việc vương tử Đái làm loạn nói với Xích Đinh Xích Đinh chém chết Đàm Bá, rời thần đường tiến sang nhà

Chu.

Chu Tương vương nổi giận, sai quan khanh sĩ là Nguyên Bá Quán làm chánh tướng, Mao Vệ làm phó tướng đem lên ra đối địch.

Nguyên Bá Quán biết quân nước địch mạnh hơn, không thể đánh nổi, mới bày cho quân sĩ lập kế cố thủ, không ra nghênh chiến. Xích Đinh giận lắm, liền lập kế làm một cái chòi cao Ở Thủy Vân sơn, trên cắm cờ hiệu thiên tử, cho một người ăn mặc giả làm vương tử Đái, Ngỗi uống rượu Ở trên chòi, và bắt các thị nữ múa hát LẠI sai đồi

Thúc và Đào Tử, mỗi người đem một nghìn quân phục sẵn Ở sườn núi, đợi khi quân nhà Chu đến thì nghe hiệu súng nổ đổ ra mà đánh. Lại sai con lả Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến cửa dinh Nguyên Bá Quán khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy để dụ đến Thúy Vân sơn.

Khi Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến khiêu chiến, Nguyên Bá Quán thấy quân ít, toan đổ ra đánh, Mao Vệ can rằng :

= Nước địch hay gian dối lắm, ta nên cẩn thận, chớ ra đánh vội, hãy đợi cho khi nào quân giặc mỏi mệt, bấy giờ sẽ đánh.

Trưa hôm ấy, quân Địch giả cách mỏi mệt, xuống ngựa Ngỗi la liệt Ở dưới đất, cũng có kẻ lại nằm nhoài ra nữa, vừa nằm vừa xỉ mắng Nguyên BÁ Quán là người hèn nhát. Nguyên BÁé Quán tức giận, đem quân ra cùng với Xích Phong Tử giao chiến. Đánh chưa được mười hợp, Xích Phong Tử giả cách thua chạy. Nguyên Bá Quán đuổi theo.

Khi đến gần Thúy Vân sơn, Nguyên Bá Quán trông thấy vương tử Đái đang uống rượu Ở trên chòi, xung quanh có kéo cờ cắm tàn rất là rực rỡ, liền nổi giận mắng rằng :

-đứa nghịch tặc kia tất chết về tay ta! . .

Nói xong, tức khắc xông lên để đánh. Bỗng nghe tiếng súng nổ, quân giặc Ở hai bên sườn núi đổ ra : phía tả có Đồi Thúc, phía hữu có Đào Tử, cùng đánh áp lại. Nguyên Bá Quán biết là trúng kế, vội vàng cởi áo bào ra, rồi lẩn vào trong đám loạn quân chạy trốn. Trong đám loạn quân có người hỏi Nguyên Bá Quán rằng : .

Tướng quân ơi ?.Chạy đi đườngnào bây giờ?

Đồi Thúc nghe tiếng, biết là có Nguyên Bá Quán Ở đây, vội vàng cố sức đuổi theo, bắt được hơn ba mươi người, Nguyên Bá Quán cũng bị bắt. Mao Vệ nghe tin Nguyên BAé Quán thua trận, tức khắc cho người về phi báo với chu tương Vương để Xin thêm quân tiếp viện . đồi Thúc đem Nguyên Bá Quán vệ nộp vương tử Đái. Vương tử Đái truyền giam lại một chỗ, Đôi Thúc nói : .

- Nay Nguyên BÁ Quán đã bị bắt, Mao Vệ tất sợ mất vía, nếu đêm nay ta dùng kế hoả công đem quân tiến đánh thì thế nào cũng bắt được Mao Vệ. .

Vương tử Đái khen phải, rồi nói với Xích Đinh. Đêm ấy Xích Đinh đem quân đến đốt phá dinh Mao Vệ. Đồi Thúc và Đáo Tử cũng đem quân xông vào. Mao Vệ biết sức không địch nổi, vội vàng mở cửa sau chạy trên. Đi được một quãng, lại gặp quân vương tử đái. Vương tử đái quát to lên rằng :

- Mao Vệ ! Mày chạy đường nào cho thoát ?

Nói xong liền cầm giáo đâm chết Mao Vệ. Quân nước Địch toàn thắng rồi vây kín kinh thành nhà Chu. Chu Tương vương nghe tin Nguyên Bá Quán và Mao Vệ bi bắt, bảo Phú Thần rằng :

- Cũng bởi trẫm không nghe lời nhà ngươi, mà nên nỗi này !

Phú Thần nói :

- Nay quân địch khí thế hung tợn lắm, xin thiên tử hãy tạm tránh đi, chắc thế nào chư hầu cũng có kẻ vì công nghĩa mà đem quân ảo trừ quân giặc.

Chu công Khổng nói :

Tôi thiết tưởng đem hết quân sĩ ra, còn có thể cố đánh một trận nữa, can gì phải bỏ mà đi.

Thiệu Công Quá nói :

Như tôi thiển nghĩ việc này là bởi Ngỗi hậu gây nên, xin thiên tử trị tội mà giết đi, rồi cố thủ để đợi quân chư hầu đến, thế là vẹn toàn.

Tương vương thở dài mà than rằng :

Vì trẫm bất minh, để gây nên tai vạ ! Nay thái hậu (tức là Huệ hậu) đang ốm nặng, trẫm hãy tạm tránh đi để cho yên việc, rồi tùy ý chư hầu.

Tương vương lại báo Chu Công Không và Thiệu Công Quá rằng :

- Vương tử Đái đem quân về đây là chỉ vì Ngỗi hậu mà thôi, nhưng nếu vương tử Đái chiếm lấy Ngỗi hậu, tất sợ người trong nước chê cười, chắc không dám ở chốn kinh thành, thế thì trẫm cũng sẽ lại về được, hai ngươi cứ vững dạ.

Chu Công Không và Thiệu Công Quá sụp láy xin vâng mệnh, Tương vương hỏi Phú Thần rằng :

Địa giới nhà Chu ta, chỉ tiếp giáp ba nước là Trịnh, Vệ và Trần, nay trẫm nên sang nước nào ?

Phú Thần nói :

Vệ và Trần đều là nước yếu cả, chi bằng ta sang nước Trịnh là hơn.

Tương vương nói :

Ngày trước trẫm đã mượn quân nước địch sang đánh nước Trịnh, chẳng lẽ Trịnh lại không oán trẫm hay sao ?

Phú Thần nói :

Tôi khuyên nhà vua sang nước Trịnh, chính vì việc ấy đó ! vì rằng tiên tổ nước Trịnh vẫn có công với nhà Chu ta, thì con cháu tất cũng không quên nhà chu ta được, mới rồi, nhà vua mượn quân nước Địch sang đánh nước Trịnh, nước Trịnh dẫu có ý không bằng lòng, nhưng vẫn ngày đêm mong cho nước Địch làm phản nhà Chu, để tỏ mình là một nước không trái đạo với thiên tử. Bây giờ nhà vua sang Trịnh thì Trịnh tất vui lòng mà nghênh tiếp, còn oán nỗi gì !

Tương vương mới quyết định trốn sang nước Trịnh. Phú Thần lại nói :

Nay nhà vua trốn đi, giả sử quân Địch cố sức đuổi theo .thì biết làm thế nào, để tôi xin đem hết bà con thân thuộc ra mà ngăn cản quân Địch mới được.

Phú Thần gọi hết con em họ hàng được vài trăm người, đem ra đánh nhau với quân Địch. Tương vương cùng với bọn Gián Sư Phủ và Tạ Yên Phủ hơn rnười người, thẳng đường trốn sang nước Trịnh. Phú Thần đánh nhau với Xích Đinh, giết được quân nước Địch nhiều lắm.

Phú cũng bị trọng thương, lại gặp Đồi Thúc và Đào Tử đến. Đổi Thúc vả Đào Tử bảo Phú Thần rằng :

Trước kia nhà ngươi lấy lời nói trung mà can thiên tử, điều ấy thiên hạ đều biết cả, vậy thì ngày nay nhà ngươi cũng không cần phải chết để tỏ lòng trung của mình nữa.

Phú Thần nói :

Ngày trước ta can, mà thiên tử không nghe, nên đến nỗi như thế này ! Nếu bây giờ ta không cố sức chết mà đánh thì thiên tử tất cho ta là không thực lòng.

Nói xong, lại cố đánh một phen, sức kiệt mà chết tại trận. Con em họ hàng cũng chết hơn ba trăm người. Phú Thần chết rồi, quân nước Địch mới biết là Chu Tương vương đã mở cửa thành đi trốn. Khi quân nước Địch tới nơi thì cửa thành bị đóng. Vương tử Đái truyền giải Nguyên Bá Quán đến, bắt gọi mở cửa thành. Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá đứng ở trên mặt thành bảo vương tử Đái rằng :

Chúng tôi vẫn muốn mở cửa thành ra đón, sợ quân nước Địch tiến vào cướp phá, vậy nên không dám.

Vương tử Đái nói với Xích Đinh, xin cho quân nước Địch đóng ở ngoài thành, rồi sau sẽ đem tiền bạc ở trong kho ra để khao thưởng.

Xích Đinh thuận cho. Vương tử Đái tiến vào kinh thành, trước hết đến ngay lãnh cung. thả Ngỗi hậu ra, rồi sau vào yết kiến Huệ hậu, Huệ hậu đang ốm, trông thấy vương tử Đái, mừng quá cười sặc lên mà chết. Vương tử Đái không làm ma vội, còn vào cung để tự tình với Ngỗi hậu ; lại đi tìm Tiểu Đông để giết. Tiểu Đông sợ tội, đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi !

Ngày hôm sau, vương tử Đái mạo xưng có di mệnh của Huệ hậu, lên ngôi thiên tử, và lập Ngỗi hậu làm hoàng hậu ; lại đem tiền bạc trong kho ra khao thưởng cho quân nước Địch, rồi cất tang Huệ hậu. Người nhà Chu nhân chuyện này có đặt thành một bài hát để chế nhạo vương tử Đái. Đái nghe thấy bài hát, biết là lòng dân không

phục, sợ sinh biến loạn, mới đem Ngỗi hậu dời sang ở đất ôn ấp, rỗi sửa sang cung thất để ngày đêm cùng với Ngỗi hậu vui chơi ; còn bao nhiêu việc chính trị, giao cho Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá tất cả Vương tử Đái tiếng là làm thiên tử, nhưng không cùng với thần dân tiếp kiến bao giờ. Nguyên Bá Quán thừa cơ trốn về Nguyên

thành. Chu Tương vương đi đến Dĩ Thành, ở đấy nhiều trúc mà không có nhà công quán, người ta gọi là Trúc Xuyên. Tương vương hỏi thăm, biết là đã đến địa giới nước Trịnh, mới vào ngủ nhờ trong cái nhà tranh của một kẻ nông phu là Phong thị. Phong thị hỏi :

- chẳng hay ngài là quan chức gì ?

Tương vương nói :

- Trẫm là thiên tử nhà Chu, vì trong nước có giặc, nên phải tránh nạn đến đây.

Phong thị giật mình kinh sợ, sụp lạy xin lỗi mà rằng :

- Em hai tôi đêm qua nằm mộng thấy ánh mặt trời đã chiếu vào trong nhà, quả nhiên hôm nay có quý nhân đến !

Nói xong, liền sai người em đi giết gà thổi xôi để dâng lên vua.

Tương vương không biết đấy là em Phong thị, mới hỏi :

- Người ấy là ai thế?

Phong thị nói :

Đấy là người em khác mẹ với tôi vẫn cùng ở đây với tôi, để phụng dưỡng mẹ già.

Tương vương thở dài mà than rằng :

Anh em nhà ngươi là nhà làm ruộng mà cùng nhau hòa thuận được như thế ? Trẫm làm thiên tử mà lại bị người em cùng mẹ cư xử chẳng ra gì ; trẫm không bằng kẻ nông phu nhiều lắm

Tương vương nói xong, buồn lòng mà ứa nước mắt. Quan đại phu là Tả Yên Phủ nói :

- Ngày xưa Chu công là bậc đại thánh mà trong anh em cũng còn bất hòa với nhau, vậy xin nhà vua chớ thương tâm, nên mau mau truyền hịch đi bảo các nước chư hầu biết.

Tương vương bèn viết thư, sai người đi bảo với các nước : Tề, Tắng, Trần, Trịnh và Vệ. Trong thư đại lược nói rằng :

Trẫm nay không có đức, để đến nỗi em ruột là vương tử Đái nổi loạn, phải tránh sang đất Dĩ Thành thuộc thuộc Trịnh. vậy xin bố cáo cho các nuớc được biết?

Giản Sư Phủ nói :

- Các nước ngày nay, chỉ có Tần và Tấn là muốn làm bá chủ ; nước Tần có bọn Kiến Thúc và Bách Lý Hề ; nước Tấn có bọn Triệu Thôi và HỒ Yển, bọn này tất biết khuyên vua nước mình làm những việc công nghĩa, còn các nước khác thì không trông cậy gì được !

Tương vương liền sai Giản Sư Phủ sang bảo nước Tấn, và Tả Yên Phủ sang báo nước Tần. Trịnh Văn công nghe tin Chu Tương vương tránh sang Dĩ Thành, cười mà nói rằng :

Ngày nay thiên tử mới biết nước Địch không bằng nước Trịnh.

Nói xong, tức khắc sai người sang Dĩ Thành dựng nhà công quán để rước Chu Tương vương vào ở rồi vào yết kiến vấn an Chu Tương vương. Bao nhiêu phẩm vật khí dụng, cần dùng cho nhà vua, nước Trịnh đều cung cấp đầy đủ cả. Chu Tương vương trông thấy Trịnh Văn công, có ý thẹn. Các nước LỖ vả Tống cũng đều sai sứ đến

vấn an và dâng các vật phẩm ; chỉ có Vệ Văn công không đến.

Quan đại phu nước LỖ là Tang Văn Trọng nghe nói Vệ Văn công không đến, bèn thở dài mà than rằng :

Vua nước Vệ sắp đến ngày chết. Chư hầu phải biết có thiên tử, cũng như cây phải có gốc, nước phải có nguồn ; cây không gốc tất héo, nước không nguồn tất khô, tài nào mà không chết !

Đến năm sau, Vệ Văn công chết, thế tử Thịnh lên nối ngôi, tức là Vệ Thành công, quả đúng như lời nói của Tang Văn Trọng.

Giản Sư Phủ phụng mệnh Chu Tương vương sang bảo Tấn Văn công, Tấn Văn công hỏi HỒ Yển. HỒ Yển nói :

- Tề Hoàn công ngày xưa, làm nên được sự nghiệp bá chủ, là vì biết giúp thiên tử nhà Chu ; nay thiên tử nhà Chu có nạn, nếu nước Tấn ta không giúp thì nước Tần tất giúp. Nước Tần đã giúp thì sự nghiệp bá chủ về tay nước Tần mất !

Tấn Văn công sai Quách Yển bói một quẻ. Quách Yển bói được quẻ tốt, Tấn Văn công liền cử đại binh đi gúp thiên tử nhà Chu. Khi Tấn Văn công sắp đi, lại nghe tin Tần Mục công cũng đã cử đại binh đi giúp nhà Chu, hiện đang đóng quân Ơû trên sông Hoàng Hà. Hồ Yển nói :

- Vua nước Tần vẫn có chí muốn giúp thiên tử nhà Chu, nay còn đóng quân Ơû trên sông Hoàng Hà là chỉ vì chưa có lối nào mà đi qua các nước Đông Di được. Bây giờ chúa công nên sai người sang bảo các nước Đông Di để xin mượn đường rồi lại sai người sang bảo vua nước Tần rằng nước Tấn ta đây cử đại binh đi rồi, thế thì quân nước Tần tất phải rút về.

Tấn Văn công khen phải, một mặt sai HỒ Xạ CÔ đem vàng bạc sang lễ các nước Đông Di để xin mượn đường ; còn một mặt sai Tư Thần đến trên sông Hoàng Hà nói với Tần Mục công. Tư Thần phụng mệnh Tấn Văn công vào nói với Tần Mục công rằng :

- Thiên tử tránh nạn Ơû ngoài, quý quốc lấy làm lo thì chúa công tôi cũng lấy làm lo. Hiện nay chúa công tôi đã xin cử đại binh để thay quý quốc vào giúp thiên tử, không dám phiền đến quý quốc phải đi xa xôi khó nhọc làm gì ?

Tần Mục công nói :

Ta sợ rằng Tấn hầu mới lập, chưa đủ quân để giúp thiên tử, vậy phải vội vàng đến đây, nay Tấn hầu đã cử đại binh đi giúp thiên tử thì ta đây chỉ việc Ngỗi yên mà chờ đợi tin mừng.

Kiền Thúc và Bách Lý Hề đều nói :

- Việc này là một việc đại nghĩa, vua nước Tấn sợ chúa công chia mất cái danh dự ấy, nên sai người đến nói để làm ngăn trở quân ta, chi bằng ta cứ tiến binh cùng với nước Tấn cùng giúp thiên tử Tần Mục công nói :

- Ta cũng biết việc này là một việc hay, nhưng quân ta không tiện đường đi, chỉ ngại rằng các nước Đông Di đem lòng ngăn trở. Nay Tấn hầu mới lên ngôi, nếu không có công trạng gì thì sao giữ yên được nước ; thôi thì ta nhường cho Tấn hầu.

Nói xong, liền sai công tử Chí theo Tả Yên Phủ đến Dĩ Thành để thăm Chu Tương vương, rồi lại rút quân về nước Tần. Tư Thần đem tin Tần Mục công lui quân về báo với Tấn Văn cồng. Tấn Văn công truyền tiến binh đến đất Dương Phàn. Quan trấn thủ Ơû đất Dương Phàn ra ngoài cõi nghênh tiếp. Tấn Văn công sai bọn Khước Tần đem quân vây đất ôn ấp ; lại sai bọn Triệu Thôi sang Dĩ Thành đón Chu Tương vương trở về kinh thành. Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá mở cửa thành đón Tương vương vào.

Người đất ôn ấp nghe tin Chu Tương vương đã trở về kinh thành, liền họp nhau lại giết chết Đồi Thúc và Đào Tử, rồi mở toang cửa thành để đón quân nước Tấn vào. Vương tử Đái vội vàng đem Ngỗi hậu lên xe, tìm đường trốn sang nước Địch, nhưng quân sĩ đóng cửa lại, không cho ra. Vương tử Đái rút gươm chém chết mấy người.

Ngụy Thù vừa đi đến, quát to lên rằng :

- Thằng nghịch tặc kia, mày định chạy đi đằng nào ?

Vương tử Đái nói :

- Nhà ngươi tha cho ta trốn, ngày khác ta xin đến ơn.

Ngụy Thù nói :

Hỏi thiên tử có tha cho nhà ngươi, thì ta sẽ nới tay ?

Vương tử Đái nổi giận, rút gươm ra đâm. Ngụy Thù liền nhảy ngay lên xe, chém chết vương tử Đái. Quân sĩ bắt được Ngỗi hậu, đem đến nộp Ngụy Thù. Ngụy Thù nói :

- NÓ là một đứa dâm phụ, còn để làm gì !

Nói xong, truyền cho quân sĩ bốn phía cùng giương cung một lúc mà bắn chết Ngồi hậu. Ngụy Thù đem hai cái xác vương tử Đái và Ngồi hậu đến nộp Khước Tần. Khước Tần nói :

- Sao ông bắt được, lại không đóng cũi đem nộp, để thiên tử trị tội ?

Ngụy Thù nói :

Thiên tử tránh cái tiếng giết em, vậy mới mượn tay nước Tấn ta, thế thì ta giết ngay đi là hay lắm.

Khước Tần truyền đem chôn hai cái xác ấy, rồi sai người đến đất Dương Phàn để báo tin cho Tấn Văn công biết. Tấn Văn công nghe tin vương tử Đái và Ngồi hậu đã bị giết rồi, liền vào kinh thành yết kiến Chu Tương vương để báo tin thắng trận. Chu Tương vương bày tiệc thết đãi, lại đem vàng lụa ra tạ ơn. Tấn Văn công sụp lạy mà nói rằng :

- Trùng Nhĩ này không dám nhận vàng lụa, chỉ xin nhà vua gia ơn cho lúc chết được an táng theo lễ toại đạo thì Trùng Nhĩ này lấy làm đội ơn vô cùng.

Chu Tương vương nói :

Tiên vương ngày xưa đặt ra lễ phân biệt trên dưới, chỉ quan hệ Ơû những lúc sinh tử ấy, trẫm không dám vì ơn riêng mà bỏ phép công ; nay thúc phụ có công lớn, trẫm không dám quên, trẫm xin đem đất ôn, đất Nguyên, đất Dương Phàn và đất Toàn Mao để gia phong cho thúc phụ.

Tấn Văn công cáo từ lui ra. Dân nhà Chu già trẻ lớn bé kéo nhau đi xem mặt Tấn Văn công, đứng chật ních cả đường cái, đều thì thào bảo nhau rằng :

- Ngày nay lại thấy có Tề Hoàn công ?

Tấn Văn công sai Ngụy Thù đến nhận địa giới đất Dương Phàn, sai Điên Thiệt đến nhận địa giới đất Toàn Mao, sai Loan Chi đến nhận địa giới đất ôn, còn đất Nguyên thi Văn công thân hành đến để nhận.

Bởi vì đất Nguyên là phong ấp của Nguyên Bá Quán ; Nguyên Bá Quán vì cớ đánh giặc bị thua, nên vua nhà Chu đòi lại mà thưởng cho Tấn Văn công, Tấn Văn công sợ Nguyên Bá Quán không chịu, vậy phải thân hành đem quân đến. điên Thiệt đến Toàn Mao, Loan Chi đến đất ôn. Quan trấn thủ Ơû đất Toàn Mao và đất ôn đều mở cửa

thành ra nghênh tiếp. Còn Ngụy Thù đến đất Dương Phàn thì quan trấn thủ Ơû đấy là Xương Cát bảo những người dưới rằng :

Nhà Chu còn được bao nhiêu đất mà gia phong cho nước Tấn nhiều như vậy ta với Tấn hầu cùng là bề tôi nhà Chu, sao ta chịu phục ?

Nói xong, liền đem quân lên mặt thành để chống giữ. Ngụy Thù giận lắm, vây kín cả bốn mặt thành, rồi hạ lệnh rằng :

- Nếu không chịu hàng thì giết sạch cả !

Xương Cát đứng trên mặt thành trả lời rằng :

Đất Dương Phàn này là chỗ kinh kỳ, dân trong thành phần nhiều là họ hàng thân thích của thiên tử nhà Chu. Quý quốc cũng là bề tôi nhà Chu, sao lại tàn nhẫn đến thế ?

Ngụy Thù nghe lời, trong lòng cảm động, sai người báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công bèn viết một bức thư đưa cho Xương Cát.

Trong thư đại lược nói rằng :

"Đất này là của thiên tử gia phong cho, nên tôi không dám trái mệnh, nếu tướng quân nghĩ đến họ hàng thân thích cửa thiên tử mà muốn đem dân đi nên khác thì tôi cũng xin tùy ý tướng quân ?

Tấn Văn công lại sai người đến bảo Ngụy Thù hãy hoãn binh, không nên đánh vội. Xương Cát tiếp được thư, liền truyền cho dân trong thành rằng :

- Ai muốn về nhà Chu thì đi, ai muốn theo nước Tấn thì ở.

Dân trong thành xin đi đến quá nửa. Xương Cát dời số dân ấy đến đất Chi Thôn. Ngụy Thù vào nhận lấy địa giới đất Dương Phàn.

Tấn Văn công và Triệu Thôi đem quân đến đất Nguyên, Nguyên Bá Quán nói dối những người dưới rằng :

- Quân nước Tấn vây đất Dương Phàn, đem dân ở đây giết sạch Dân đất Nguyên sơ hãi, quyết chí chống lại quân nước Tấn.

Quân nước Tấn bổ vây, Triệu Thôi bảo Tấn Văn công rằng :

- Dân không phục nước Tấn ta là vì nước Tấn ta chưa có điều gì tín nghĩa cả ; nay chúa công nên giữ lấy tín nghĩa thì không đợi phải đánh mà tự khắc dân phục.

Tấn Văn công nói :

Muốn giữ tín nghĩa thì phải làm thế nào ?

Triệu Thôi nói

- Xin chúa công hạ lệnh cho quân sĩ, mỗi người phải giữ lương ăn trong ba ngày, nếu ba ngày không hạ được thành Nguyên thì giải vây về nước.

Tấn Văn công theo lời. Đến ngày thứ ba quân sĩ bảo rằng :

Còn ngày hôm nay nữa thì hết lương ăn.

Tấn Văn công chẳng nói gì cả. Đến đêm hôm ấy, dân Nguyên trèo qua thành ra nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúng tôi đã hỏi tin, biết là dân Dương Phàn không bị giết bao giờ ; vậy đến ngày mai, chúng tôi xin mở thành để đón chúa công.

Tấn Văn công nói :

- Hôm trước ta đây có hẹn trong ba ngày, nếu không đánh được đất Nguyên thì tức khắc giải vây rút về ; hôm nay đã là ba ngày rồi thì sáng mai thế nào ta cũng rút quân.

Quân sĩ đều can rằng :

Dân đất Nguyên đã định đến ngày mai mở cửa thảnh để đón chúa công vào thì chúa công nên tạm lưu lại một ngày nữa, dẫu có hết lương xin cho người sang Dương Phàn lấy, cũng chẳng xa gì !

Văn công nói :

- Tín nghĩa là một điều quý, ta đã hạ lệnh, hạn trong ba ngày, ai lại không biết, nếu nay lại tạm lưu một ngày nữa thì là người thất tín, dẫu có được đất Nguyên, cũng không ích gì !

Sáng sớm hôm sau, Tấn Văn công liền truyền giải vây rút quân về nước.

Dân đất Nguyên bảo nhau rằng :

- Tân hầu không thất tín thật là một ông vua có đức. Và những người dòng dây trèo xuống thành để đi theo vua Tấn cứ liên tiếp nối nhau mãi không hết. Nguyên Bá Quán không thể nào ngăn cấm được nữa, cũng phải mở cửa thành xin hàng. Quân nước Tấn đi đã được ba mươi dặm, dân đất Nguyên theo kịp ; Nguyên Bá Quán cũng viết thư đến xin hàng. Tấn Văn công truyền đóng quân lại một chỗ, rồi một mình đi xe vào thẳng trong thành. Dân trong thành thấy Tấn Văn công đều vui mừng nhảy múa. Tấn Văn công đãi Nguyên Bá Quán theo lễ khanh sĩ, cho Ơû đất Hà Bắc, lại sai Triệu Thôi làm quan trấn thủ Ơû đất Nguyên, kiêm lĩnh đất Dương Phàn và Khước Tần làm trấn thủ Ơû đất ôn, kiêm lĩnh đất Toàn Mao. Tấn Văn công từ khi cử đại binh đi giúp thiên tử nhà Chu, và giữ tín nghĩa với dân đất Nguyên, mới có cớ làm được bá chủ.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 39 : Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ HuệNgụy Thù đốt nhà Hỉ Phụ Cơ

Tề Hiếu công bấy giờ đang có ý muốn làm bá chủ, vẫn định dùng binh lực mà khôi phục lại sự nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước, mới họp các quan đại phu lại mà hỏi rằng :

- Đang đời tiên quân ta là Hoàn công ngày xưa, năm nảo cũng đánh đông dẹp bắc ; nay ta cứ ngồi yên một chỗ, khác nào như người nằm trong vỏ ốc, không biết bên ngoài có việc chi cả, ta lấy làm xấu hổ. lắm ! Ta còn nhớ năm trước vua nước LỖ định giúp VÔ Khuy mà chống cự với ta, ta chưa báo được cái thù ấy, nay nước LỖ phía bắc kết giao với Vệ, phía nam kết giao với Sở, giả sử đem quân sang đánh ta thì ta lấy gì định lại cho nổi ? Bây giờ nước LỖ đang gặp năm mất mùa, ta muốn thừa cơ mà đánh trước đi, các ngươi nghĩ thế nào ?

Quan trường khanh là Cao HỔ nói :

Nước LỖ đang có nhiều nước giúp, ta đánh vị tất đã nổi.

Tề Hiếu công nói :

- Ta hãy thử sang đánh để xem chư hầu có đồng lòng với nước LỖ hay không ?

Tề Hiếu công liền cử binh sang xâm phạm phía bắc nước Lỗ, quân sĩ phi báo với LỖ Hi công. Quan đại phu là Tang Tôn Thần nói với LỖ Hi công rằng :

- Quân Tề sang đánh ta là có ý muốn báo thù, ta vị tất đã chống lại nổi, xin chúa công sai sứ ra từ tạ là hơn.

LỖ Hi công nói :

- Biết ai là người khéo ứng đối mà sai đi bây giờ ?

Tang Tôn Thần nói :

- Tôi xin cử một người là con quan tư không VÔ Hại đời trước, tên gọi Triển Hoạch, tên tự là Tử Cầm, làm quan sĩ sư, được phong Ơû Liễu Hạ, người ấy văn nhã ôn hòa, biết nhiều nghĩa lý, chỉ vì làm quan không hợp thói đời, nên mới từ chức bỏ về, nếu sai người ấy làm sứ thần ra nói với vua Tề thì vua Tề tất phải kính trọng.

LỖ Ki công nói :

- Ta cũng có nghe tiếng người ấy, chẳng hay bây giờ Ơû đâu ?

Tang Tôn Thần nói :

Hiện nay vẫn Ơû Liễu Hạ.

LỖ Hi công sai người đến triệu Triển- Hoạch. Triển Hoạch cáo ốm không đi được. Tang Tôn Thần nói :

- Triển Hoạch có người em tên gọi Triển Hỉ, dẫu quan chức còn nhỏ nhưng cũng có tài ứng đối nay sai Triển Hỉ đến nhà Triển Hoạch mà hỏi xem nên dùng cách nào để ứng đối với vua nước Tề.

LỖ hi công nghe lời. Triển Hỉ đến Liễu Hạ, vào yết kiến Triển Hoạch, thuật lại chủ ý của LỖ Hi công. Triển Hoạch nói :

Vua Tề đem quân sang đánh ta là có ý muốn nối sự nghiệp Tề Hoàn công ngày trước, nhưng không biết rằng muốn làm bá chủ thì trước hết phải đón phù thiên tử nhà Chu ; nay ta đem di mệnh của tiên vương ngày xưa mà trách vua Tề thi thiếu gì cách nói.

Triển Hỉ về nói với LỖ Hi công rằng :

Tôi đã hỏi được cách để ứng đối với vua Tề rồi.

LỖ Hi công đã sắp sẵn lễ vật để sai Triển Hỉ đi thương thuyết với Tề. Triển Hỉ đi đến phía nam sông Vấn, gặp tiền đội quân nước Tề, bèn xin với tướng tiên phong là Thôi Yến, đến yết kiến Tề Hiếu công. Thôi Yến đưa Triển Hỉ nói với Tề Hiếu công rằng :

- Chúa công tôi nghe tin xa giá nhà vua sắp sang qua địa giới nước tôi, vậy sai tôi đưa lễ vật sang kính biếu tướng sĩ nhà vua.

Tề Hiếu công nói :

- Người nước LỖ nghe tin ta đem quân sang đánh, có sợ hãi hay không ?

Triển Hỉ cười mà đáp rằng :

- Bọn tiểu nhân thì cũng có người sự hãi, chứ những người quân tử thì không ai sợ hãi chút nào cả.

Tề Hiếu công nói :

- Nước nhà ngươi, quan văn thì không có ai trí mưu như Thi Bá ; quan vũ thì không có ai vũ dũng như Tào Quệ ; vả nước nhà ngươi đang gặp năm mất mùa, ngoài đồng không có cây cỏ nào được xanh tốt, thế thì còn cậy vào đâu mà chẳng sợ hãi ?

Triển Hỉ nói :

Nước tôi không chắc cậy vào điều gì cả, chỉ chắc cậy vào di mệnh của tiên vương mà thôi ; tiên vương nhà Chu ngày xưa phong Thái công Ơû nước Tề, phong tiên quân tôi là Bá Cầm ở nước Lỗ, khiến hai nước cắt máu mà thề với nhau rằng : "Con cháu sau đời đời cùng giúp nhà Chu, chớ có làm hại lẫn nhau ? Lời thề ấy còn giao cho quan thái sử cất đi. Tề Hoàn công làm nên bá chủ, cũng vì biết hội chư hầu Ơû đất Kha để cùng nhau giúp thiên tử ; nay nhà vua lên ngôi đã được chín năm, người nước tôi vẫn mong nhà vua lại sửa sang bá nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước. Bằng nay bỏ di mệnh của tiên vương, trái lời thề của Thái công, để đến nỗi không giữ được bá nghiệp của Tề Hoàn công thuở xưa thì tôi dám chắc rằng nhà vua tất không như thế.

Bời vậy mà nước tôi không lấy gì làm sợ hãi.

Tề Hiếu công nói :

Nhà ngươi về nói với LỖ hầu, ta xin cùng với nước LỖ giao hảo, không dùng binh nữa.

Nói xong, liền rút quân về. Triển Hỉ về nói với LỖ Hi công. Tang Tôn Thần nói :

- Quân Tề dẫu lui, nhưng có ý khinh ta, tôi xin cùng với Trọng Toại mượn quân nước Sở để đánh nước Tề.

LỖ Hi công lấy làm phải, liền sai Trọng Toại làm chánh. Tang Tôn Thần làm phó, đi sứ nước Sở. Tang Tôn Thần có quen nhau với tướng nước Sở là Thành Đắc Thần, mới nhờ Thành đắc Thần nói với Sở Thành vương rằng :

- Nước Tề bội ước Ơû đất Lộc Thượng, nước Tống giao chiến Ơû sông Hoàng Thủy, đều lả cừu địch với nước Sở cả ; nếu đại vương muốn đem quân hỏi tội hai nước ấy thì nước tôi xin đem quân làm tiên phong.

Sở Thành vương mừng lắm, liễn sai Thành Đắc Thần làm chánh tướng, Thúc Hầu làm phó tướng, đem quân sang đánh Tề, chiếm lấy đất Dương Cực, lấy đất ấy mà phong cho con Tề Hoàn công là công tử Ung và sai Thúc Hầu đóng đồn Ơû đấy để làm thanh viện cho nước Lỗ. Thành Đắc Thần thắng trận, thu quân về triều. Quan lệnh

doãn là Tử Văn, bấy giờ tuổi đã già rồi, xin nhường quyền chính lại cho Thành Đắc Thần. Sở Thành vương nói :

- Ta giận nước Tống, hơn giận nước Tề ; Thành Đắc Thần đã vì ta đánh nước Tề rồi, nhà ngươi nên vì ta đánh nước Tống, để báo thù cho nước Trịnh, sau khi đánh được Tống rồi, bấy giờ nhà ngươi sẽ từ chức. -

Tử Văn nói :

- Tài trí tôi kém Thành Đắc Thần xa lắm, xin đại vương cho Thành Đắc Thần thay tôi, tất có thể giúp đại vương đánh Tống được.

Sở Thành vương nói :

- Nước Tống đang thần phục nước Tấn, nay ta đánh Tống thì nước Tấn tất cứu, nếu không phải tay nhà ngươi thì sao địch nổi Tấn và Tống được, nhà ngươi nên vì ta mà giúp việc ấy.

Nói xong, liền sai Tử Văn ra duyệt binh Ơû đất Khuê (đất nước Sở) để tuyên thị quân pháp. Tử Văn muốn làm tỏ tài trí của Thành Đắc Thần, nên hôm duyệt binh, chỉ làm qua loa xong việc mà thôi, cả buổi sáng chẳng phạt một người nào. Sở Thành vương nói :

- Nhà ngươi ra duyệt binh mà không phạt một người nào thì sao cho có uy được ?

Tử Văn nói :

- Tôi ngày nay đã già yếu lắm rồi, nếu đại vương muốn lập uy thì tất phải dùng Thành Đắc Thần mới được.

Sở Thành vương liền sai Thành Đắc Thần ra duyệt binh Ơû đất Vi (đất nước Sở). Thành Đắc Thần ra duyệt binh, hiệu lệnh rất nghiêm, kẻ nào trái phép, đều trị tội cả. Trong một ngày hôm ấy, bảy người bị đánh và ba người bị xâu tai. Sở Thành vương mừng lắm, nói :

Thành Đắc Thần thật là có tài làm tướng.

Tử Văn lại xin nhường quyền chính cho Thành Đắc Thần. Sở Thành vương nghe lời, liền cho Thành đắc Thần làm lệnh doãn, kiêm giữ chức nguyên soái. Các quan triều thần đều đến nhà Tử Văn để chúc mừng về việc tiến cử Thành Đắc Thần, chỉ có quan đại phu là Vi Lã Thần nhân ốm không đến. Tử Văn bày tiệc để thết đãi. Khi việc đã được nửa chừng, có người vào báo với Tử Văn rằng :

- CÓ một cậu bé con Ơû ngoài cửa xin vào yết kiến.

Tử Văn cho vào. Cậu bé khi vào đến nơi, chắp tay cúi đầu để chào rồi đi đến chỗ cuối chiếu mà ngồi. Trong khi ngồi ăn thì cậu bé có ý không coi ai ra gì. Người ta nhìn kỹ mới biết là con trai Vi Lã Thần, tên gọi Vi Giả, mới mười ba tuổi. Tử Văn lấy làm lạ, hỏi rằng :

Ta tiến cử cho nước được một đại tướng, các quan triều thần đều chúc mừng cả, sao nhà ngươi lại không chúc mừng ?

Vi Giả nói :

Các ngài cho là một việc nên mừng, tôi thiết tưởng là một việc nên lo !

Tử văn nổi giận mà hỏi rằng :

- Tại sao nhà ngươi lại bảo là một việc nên lo ?

Vi Giả nói :

Thành Đắc Thần là một người vũ dũng mà không có tài quyết đoán, chỉ có thể dùng trong việc chiến tranh mà thôi, chứ giao cả quyền chính cho thì tất có ngày sinh hại. Tục ngữ có câu rằng : "Cứng quá thì gãy" tức là Thành Đắc Thần ngày nay đó ? Ngài tiến cử một người có thể làm hỏng việc nước, còn mừng nỗi gì ! Nếu sau nầy người

đó không làm hỏng việc nước thì bấy giờ tôi sẽ mừng, cũng chưa lấy gì làm muộn kia mà ?

Các quan đều nói rằng :

Đứa bé con ấy nói càn, chả nên nghe làm gì !

Vi Giả cười rầm lên mà lui ra. Các quan triều thần đều tan về cả Ngày hôm sau, Sở Thành vương cho Thành Đắc Thần làm thống tướng, cử đại binh cùng với quân Trần, Sái, Trịnh và Hứa cùng sang đánh Tống, vây đất Mân ấp. Tống Thành công sai quan tư mã là công tôn CỐ sang cáo cấp với Tấn Văn công. Tấn Văn công họp các quan

triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn nói :

- Hiện nay nước Sở hoành hành thiên hạ là nước mạnh hơn cả. Sở lại có ơn riêng với chúa công. Nay nước Sở đánh Tề và Tống, sinh sự Ơû trung nguyên, ấy là lòng trời xui khiến để chúa công nêu được cái danh tiếng là cứu kẻ hên yếu ; sự nghiệp bá chủ, cũng bởi Ơû một việc này !

Tấn Văn công nói :

- Ta muốn cứu nước Tề và nước Tống thì nên làm thế nào ?

HỒ Yến nói :

- Nay Sở đang kết thân với Tào và Vệ, mà hai .nước ấy lại đều là cừu địch với chúa công ; nếu chúa công đem quân đi đánh Tào và Vệ thì tất Sở phải sang cứu, mà không quấy nhiễu nước Tề và nước Tống được nữa.

Tấn Văn công khen phải, liền đem mưu ấy bảo công tôn CỐ về nói trước với Tống Thành công, để Tống thành công cứ vững lòng mà chống giữ với quân Sở. Công tôn cố Vâng mệnh trở về Tống. Tấn Văn công lo ít quân, bàn với Triệu Thôi.

Triệu Thôi nói :

- Vua Vũ công ta ngày xưa Ơû đất Khúc ốc, mới có một đạo quân, đến đời Hiến công thêm lên hai đạo, mà mở rộng bờ cõi kể hàng nghìn dặm, huống chi nước Tấn ta ngày nay, đã có ba đạo quân ; ngặt vì một điều dân chưa biết lễ nghĩa, khó hợp mà dễ tan, nay chúa công nên duyệt binh, để khiến cho dân biết thân yêu người trên, mới có thể dùng quân đi đánh các nước được.

Tấn Văn công nói :

Đã có ba đạo quân thì cần phải có một quan nguyên soái, bây giờ biết dùng ai cho được ?

Triệu Thôi nói :

Người làm tướng, có vũ dũng chẳng bằng có trí mưu, có trí mưu không bằng có học thức. Nay chúa công muốn tìm người có vũ dũng và trí mưu thì chẳng thiếu gì, nếu muốn tìm người có học thức thì tôi chỉ biết có một mình Khước Cốc mà thôi. Khước Cốc năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, mà vẫn còn chăm học lắm. Đã chăm học tất

biết trọng nghĩa ; đã trọng nghĩa tất biết thương dân ; biết thương dân thì mới có thể làm đại tướng mà đem quân đi đánh giặc được.

Tấn Văn công khen phải, liền sai người triệu Khước Cốc, phong cho làm nguyên soái. Khước Cốc chối từ không nhận. Tấn Văn công nói :

- Ta đã biết tài của nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

Tấn Văn công cố ép mãi, Khước Cốc mời chịu nhận. Tấn Văn công sai chọn ngày ra duyệt binh Ơû đất Bị Lư, chia quân làm ba đạo :

trung quân, thượng quân và hạ quân, sai Khước Cốc làm chánh tướng Ơû đạo trung quân, mà lấy Khước Tần làm phó tướng, lại sai HỒ Yển làm chánh tướng Ơû đạo thượng quân. HỒ Yến chối từ mà nói rằng :

- CÓ anh tôi là HỒ Mao ở đấy, khi nào tôi là em, lại dám Ơû trên Tấn Văn công liền cho HỒ Mao làm chánh tướng Ơû đạo thượng quân, mà lấy HỒ Yến làm phó tướng. Lại sai Triệu Thôi làm chánh tướng Ơû đạo hạ quân. Triệu Thôi cũng từ chối. Tấn Văn công liền cho Loan Chi lâm chánh tướng Ơû hạ quân, mà lấy Tiên Chẩn làm phó tướng. Khước Cốc trèo lên tướng đài để tuyên bá hiệu lệnh, các tướng

đều tin phục cả. Bỗng có một trận gió to, làm gây lá cờ đại tướng. Các tướng đều giật mình kinh sợ. Khước Cốc bảo các tướng rằng :

- Gây lá cờ soái là cái triệu ứng vào chủ tướng, vậy ta chẳng được cùng với các người đồng sự bao lâu nữa, nhưng chúa công ta tất làm nên được bá nghiệp.

Các tướng đều hỏi tại sao. Khước Cốc chỉ cười mà không trả lời.

Đầu năm sau, Tấn Văn công bàn mưu với Khước Cốc để định đi đánh Tào và Vệ. Khước cốc nói :

- Tôi đã bàn định với Tiên Chẩn rồi ; nếu ta chia ra để đánh Tào và Vệ thì không địch nổi với quân Sở được. Nay ta nên mượn đường nước Vệ để sang đánh Tào, tất nhiên nước Vệ không nghe, vì nước Vệ đang giao hiếu với nước Tào, khi ấy ta sẽ đem quân qua sông Hoàng Hà, lẻn sang đánh nước Vệ. Đánh nước Vệ rồi, ta sẽ thừa thế mà kéo

sang nước Tào ; vua nước Tào vốn không được lòng dân, lại thấy nước Vệ thua mà sợ uy ta, thì tất ta phá vỡ được Tào.

Tấn Văn công mừng lắm, nói :

- Nhà ngươi thật là một tướng quân có học thức !

Tấn Văn công sai người sang mượn đường nước Vệ để đi đánh nước Tào. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền nói với Vệ Thành công rằng :

- Khi trước vua Tấn còn đi trốn, có qua nước ta, bấy giờ tiên quân ta không nghênh tiếp ; nay sai người sang mượn đường để đánh Tào, nếu chúa công không nghe thì nước Tấn tất đánh nước Vệ ta trước

Vệ Thành công nói :

Ta cùng với Tào cùng thần phục Sở, nếu ta để cho Tấn mượn đường đánh Tào thì e rằng chưa được lòng Tấn mà đã mua oán với Sở. Nước Tấn giận thì ta còn trông cậy có nước Sở, chứ nước Sở giận thì ta biết trông cậy vào đâu ?

Vệ Thành công không cho nước Tấn mượn đường. Sứ nước Tấn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói :

- Quả nhiên như lời bàn của quan nguyên soái. Tấn Văn công bèn đem quân ra sông Hoàng Hà, kéo thẳng đến đất Ngũ Lộc (đất nước Vệ). Tấn Văn công nói :

- Chỗ này là chỗ ngày trước Giới Tử Thôi cắt thịt đùi cho ta ăn đây ?

Nói xong mủi lòng mà ứa nước mắt. Các tướng đều cảm động và than thở. Ngụy Thù nói :

Chúng ta nên đánh lấy thành này ấp kia để rửa cái sỉ nhục năm xưa cho nhà vua, cần gì mà phải thở than ?

Tiền Chẩn nói với Tấn Văn công rằng :

Ngụy Thù nói phải lắm ! Xin chúa công cho tôi đem quân đi đánh thành Ngũ Lộc.

Ngụy Thù nói với Tiên Chẩn rằng :

- Để tôi giúp ông một tay.

Hai người lẽn xe ra đi.

Tiên Chẩn sai quân sĩ đem cờ đỏ cắm hết mọi nơi cao Ơû trong rừng núi. Ngụy Thù nói :

- Tôi thiết tưởng binh pháp nên phải bí mật mới được. Nay lại cắm cờ như vậy, khiến quân giặc biết trước mà phòng bị, chẳng hay là chú ý thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

Nước Vệ vốn thần phục nước Tề, bây giờ đổi ý mà theo nước Sở, người trong nước vẫn không thuận, chỉ sợ Trung quốc ta đem quân đến đánh ; nay chúa công ta muốn nối sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa thì phải thị uy trước mới được.

Dân thành Ngũ Lộc trông thấy cờ nước Tấn cắm khắp mọi nơi, chẳng biết quân Tấn nhiều hay ít, đều hoảng hốt trốn chạy cả, quan trấn thủ cũng không tài nào cấm nổi. Khi Tiên Chẩn kéo quân đến, không có ai chống giữ, liền chiếm ngay được thành Ngũ Lộc, rồi sai người báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công mừng lắm, bảo HỒ Yển rằng :

- Ngày xưa quốc cữu thấy đứa nông phu cho ta viên đất, bảo là cái triệu được đất, câu nói ấy đến bây giờ mới nghiệm !

Nói xong, liền cho một viên lão tướng là Khước BỘ Dương làm quan trấn thủ Ơû thành Ngu Lộc ; còn đại binh thì tiến lên đóng đất Vu Địa (đất nước Vệ). Quan nguyên soái là Khước Cốc bỗng nhiên bị ốm.

Tấn Văn công thân hành đến thăm. Khước Cốc nói :

- Tôi cảm ân tri ngộ của chúa công, vẫn định cố công ra sức để báo đền, nhưng mệnh trời có hạn, đã ứng vào cái triệu gẫy cờ ngày trước, vậy tôi xin có một lời để hiến chúa công.

Tấn Văn công nói :

- Khanh muốn nói câu gì, ta cũng xin vâng lời.

Khước Cốc nói :

Nay chúa công đánh Tào và Vệ, chẳng qua cũng là muốn kiềm chế nước Sở, nhưng muốn kiềm chế nước Sở thì tất phải kết liên với nước Tề và nước Tần. Nước Tề đang ghét Sở tất muốn kết liên với ta ; nếu nhà vua sai sứ sang nước Tề thì chắc là Tề hầu sẽ đem quân đến, như thế thì Tào và Vệ sợ mà phải xin hòa, bấy giờ ta sẽ dụ được nước Tần, ấy là cái kế sách hay nhất để kiềm chế nước Sở đó !

Tấn Văn công khen phải, liền sai sứ sang giao hiếu với Tề, xin hai nước cùng kết liên với nhau để chống Sở. Bấy giờ Tề Hiến công đã mất rồi, người trong nước lập em là Phan lên nối ngôi, tức là Tề Chiêu công Tề Chiêu công mới lên nối ngôi, vì cớ nước Sở chiếm lấy đất Cốc, chính đang muốn kết liên với Tấn để chống với Sở, mới thân hành sang Vu Địa hội với Tấn Văn công. Vệ Thành công thấy quân nước Tấn chiếm được đất Ngư Lộc, vội vàng sai Ninh Du (con Ninh Tốc) đến nói với Tấn Văn công xin giảng hòa. Tấn Văn công nói :

- Nước Vệ đã không cho ta mượn đường, nay sợ mà xin giảng hòa thì không là thực lòng, phen này ta quyết đem quân vào phá tan đất Sở Khâu ? (kinh thành nước Vệ).

Ninh Du về nói với Vệ Thành công. Bấy giờ trong thành Sở Khâu thường vẫn huyên truyền là quân Tấn sắp đến, một buổi chiều năm lần kinh sợ, Ninh Du bảo Vệ Thành công rằng :

Nước Tấn đang tức giận ta lắm, mà người nước ta lại sợ hãi, xin chúa công hãy tạm tránh đi ; nước Tấn biết chúa công đã đi, tất không đến đánh đất Sở Khâu nữa bấy giờ ta sẽ xin giảng hòa với Tấn để yên nước nhà.

Vệ Thành công thở dài mà than rằng :

Tiên quân ta không may mà đã thất lễ với Tấn hầu ; nay ta lại không minh, không cho nước Tấn mượn đường, đến nỗi di hại cho người trong nước, ta cũng chằng còn mặt mũi nào mả Ơû đây được nữa !

Vệ Thành công sai quan đại phu là Nguyên Huyền cùng với em là Thúc Vũ giữ lấy quyền chính trong nước, còn mình thì tránh ra Ơû đất Tương Ngưu ; một mặt lại sai quan đại phu là Tôn Viêm sang cầu cứu nước Sở.

Quan nguyên soái nước Tấn là Khước Cốc đau nặng rồi mất.

Tấn Văn công thương xót vô cùng, sai người đưa linh cữu về nước Tấn để an táng, rồi cho Tiên Chẩn thăng chức nguyên soái, vì có cái công lấy được thành Ngư Lộc ; lại cho Tư Thần thay Tiên Chẩn làm phó tướng đạo hạ quân. Tấn Văn công muốn diệt nước Vệ, Tiên Chẩn can rằng :

- Tề và Tống bị nước Sở ức chế, nên ta mới đem quân đi cứu, nay chưa cứu được Tề và Tống mà đã diệt nước Vệ, thế thì không phải là cái đạo bá chủ cứu giúp những nước hèn yếu ; huống chi vua Vệ đà trốn đi nơi khác rồi, chi bằng ta đem quân sang vây nước Tào.

Tấn Văn công nghe lời, đem quân sang vây nước Tào, Tào Cung công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Quan đại phu là Hi Phụ Cơ nói :

- Vua nước Tấn đem quân tới đây là báo cái thù ngày xưa chúa công khinh bỉ, đến tận nơi mà xem xương sườn, tất trong lòng tức giận lắm, ta không thể lấy sức mà địch nổi. Dám xin chúa công cho phép tôi đi sứ để giảng hòa với Tấn, mà cứu cho dân trong nước khỏi khổ sở.

Tào Cung công nói :

Tấn đã không cho Vệ giảng hòa, khi nào lại cho ta giảng hòa ?

Quan đại phu là Vu Lang nói với Tào Cung công rằng :

- Tôi nghe khi trước vua Tấn qua nước ta, Hi Phụ Cơ có mời về nhà để thết đãi, nay lại xin đi sứ để giảng hòa, tất là có ý muốn bán nước, xin chúa công chớ nghe. Chúa công nên chém Hi Phụ Cơ trước, rồi tôi sẽ có mưu kế lui được quân Tấn.

Tào Cung công nói :

- Hi Phụ Cơ bàn việc nước mà bất trung, đáng lẽ phải chịu tội chết, nhưng ta nghĩ hắn là một thế thần, vậy hãy dung thứ cho mà cách chức đuổi về.

Hi Phụ Cơ lạy tạ về nhà, từ bấy giờ đóng cửa không đi đến đâu cả . Tào Cung công hỏi Vu Lang rằng :

- Bây giờ nhà ngươi có mưu kế gì lùi được quân Tấn không ?

Vu Lang nói :

Vua nước Tấn vừa thắng một trận, tất là kiêu căng, tôi xin làm một tờ mật thư ước với vua Tấn rằng đêm hôm nay sẽ mở cửa thành ra hàng, rồi phục binh sẵn chờ khi vua Tấn vào thì sập cửa thành xuống, rồi phục binh xúm lại mà bắn, không lo quân Tấn không tan tành ư !

Tào Cung công theo kế ấy, Vu Lang đưa thư cho Tấn Văn công xin làm nội ứng. Tấn Văn công tiếp được thư, toan tiến quân vào thành nước Tào. Tiên Chẩn nói :

Nước Tào cũng chưa thiệt hại gì mấy mà đã xin hàng, chắc đâu không phải là dối, để tôi xin thử xem.

Nói xong, liền chọn một người mặt đẹp râu dài, đội mũ mặc áo giả làm vua Tấn để tiến vào thành nước Tào. Bột Đề tình nguyện làm người đánh xe. Đêm hôm ấy, trên mặt thành Tào đều cắm cờ hàng, cửa thành lại mở toang ; quân Tấn chưa vào được một nửa, bỗng thấy cửa thành đóng sập lại, tên Ơû bốn phía bắn ra như mưa, Bột Đề và hơn hai trăm người đều chết sạch cả. Tấn Văn công năm trước đi qua nước Tào cũng nhiều kẻ biết mặt, nhưng trong lúc đang rối tinh, chẳng ai phân biệt được thật hay là giả, vẫn tưởng là Tấn Văn công chết rồi, mãi đến sáng rõ, mới biết là Tấn Văn công giả. Quân Tấn còn nhiều người chưa vào cửa thành, trốn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận, thúc quân đánh thật gấp. Vu Lang lại hiến kế với Tào

Cung công rằng :

Chúa công nên đem những quân Tấn ta bắn chết vừa rồi, căng xác lên trên mặt thành khiến cho quân Tấn trông thấy phải khiếp sợ, sinh lòng chán nản, ta cố kéo dài được mấy ngày nữa thì nước Sở tất đem quân đến cứu.

Tào Cung công nghe lời, Quân Tấn trông thấy trên mặt thành nước Tào có căng xác người Tấn, đều đem lòng căm tức. Tấn Văn công bảo Tiên Chẩn rằng :

- Giả sử quân ta thấy vậy mà sinh biếng thì biết làm thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

- Phần mộ nước Tào, nay đều chôn Ơû ngoài phía cửa tây cả, ta nên chia lấy một nửa quân, đến đóng Ơû đấy, giả cách sắp sửa khai quật những phần mộ ấy, để làm cho dân trong thành phải sợ, sợ thì tất loạn, bấy giờ ta sẽ thừa cơ tiến đánh.

Tấn Văn công khen phải, truyền cho quân sĩ nói phao lên rằng sắp sửa khai quật phần mộ của người nước Tào. Rồi sai HỒ Mao và HỒ Yển đem quân đến đóng Ơû ngoài cửa tây, sắp sẵn thuổng cuốc để đợi đến giờ ngọ hôm sau thì đào. Quân nước Tào nghe tin ấy, đều sợ hãi rối rít cả lên. Tào Cung công sai người trèo lên mặt thành nói với quân Tấn xin tha cho, đừng khai quật phần mộ, lần này tình nguyện

thật bụng đầu hàng. Tiên Chẩn cũng sai người trả lời rằng :

- Nước ngươi đánh lừa để giết quân ta, lại căng xác Ơû trên mặt thành, vậy nên quân ta tức giận, nhất định khai quật phần mộ nước ngươi để báo thù ; bây giờ nước ngươi nên đem xác quân ta khâm liệm tử tế mà đưa giả, thì ta sẽ rút quân trở về.

Người nước Tào trả lời rằng :

- Đã như vậy thì xin khoan hạn cho trong ba ngày !

Tiên Chẩn nói :

Nếu trong ba ngày mà không đem giả, ta sẽ làm nhục đến tổ tiên nhà các ngươi

Tào Cung công quả nhiên đem những xác quân Tấn Ơû trên mặt thành xuống, khâm liệm tử tế để rồi xe ra trả quân Tấn. Tiên Chẩn mật sai HỒ Mao, HỒ Yến, Loan Chi và Tư Thần chia làm bốn đạo quân để mai phục sẵn, đợi khi nào người nước Tào mờ cửa thành đưa những thi thể quân Tấn ra, bấy giờ sẽ tiến vào mà đánh. Đến ngày thứ tư Tiên Chẩn sai người đứng dưới chân thành quát to lên rằng :

Ngày hôm nay có trao trả thi thể quân ta hay không ?

Người nước Tào Ơû trên mặt thành trả lời rằng :

Xin quí quốc lui quân ra ngoài năm dặm, nước tôi sẽ giao trả. Tiên Chẩn nói với Tấn Văn công, xin lui quân ra ngoài năm dặm. Khi người nước Tào đang xe những thi thể quân Tấn ra thì các đạo phục binh của quân Tấn thừa cơ tiến vào. Tào Cung công đang đứng trên mặt thành. Ngụy Thù đứng trên xe nhảy một cái lên đến thành xỉa vào giữa bụng rồi đem trói lại. Vu Lang trèo qua thành trốn chạy, lại bị Điên Thiệt chém chết. Tấn Văn công cùng các tướng vào thành lên ngồi Ơû trên nhà lầu. Ngụy Thù giải Tào Cung công đến nộp, Điên Thiệt thì dâng trình thủ cấp Vu Lang. Tấn Văn công truyền đem sĩ tịch của nước Tào ra xem, thấy những người làm quan đến chức đại phu kể hàng ba trăm người đều chiếu họ tên bắt hết cả, không sót một người nào nhưng không thấy tên Hi Phụ Cơ. CÓ người nói với Tấn Văn công rằng :

Hi Phụ Cơ vì có khuyên vua Tào giảng hòa với Tấn, đã bị vua Tào cách chức rồi !

Tấn Văn công kể tội Tào Cung công rằng :

- Cả nước người có một người bề tôi hiền mà ngươi không biết dùng, chỉ dùng một lũ tiểu nhân, tài nào mà không mất nước.

NÓI xong, liền sai đem giam lại một chỗ để chờ khi đánh được Sở rồi, sau sẽ phân xử ; còn ba trăm người đang có quyền thế bấy giờ đều bị giết cả, lại tịch thu gia tài họ đem thưởng cho quân sĩ.

Tấn Văn công lại hạ lệnh cho quân si, không cho ai được xâm phạm đến nhà Hỉ Phụ Cơ và xung quanh một xóm Hi Phụ Cơ ở, rồi chia quân làm hai đạo ; một đạo đóng Ơû trong thành nước Tào, còn một đạo theo Tấn Văn công trở về đại dinh.

Ngụy Thù và Điên Thiệt vẫn cậy nhiều công trạng, hay có ý kiêu ngạo, nay thấy Tấn Văn công trọng đãi Hi Phụ Cơ như vậy, Ngụy Thù tức giận mà bảo Điên Thiệt rằng :

- Chúng ta đi theo chúa công đánh nước Tào, bắt vua chém tướng, biết bao nhiêu là công trạng, mà không thấy chúa công nói gì đến ; Hi Phụ Cơ chẳng qua chỉ thết đãi được một bữa cơm, ân huệ đáng là bao nhiêu, mà chúa công trọng đại quá, thật là không được công bằng.

Điên Thiệt nói :

Người ấy nếu chịu làm quan thì tất chúa công ta trọng dụng, khi ấy bọn ta sẽ bị hắn đè nén, chi bằng ta cho một mớ lửa vào nhà hắn, cho hắn chết đi để khỏi di hại về sau ; dẫu chúa công có biết đi nữa, cũng chẳng giết chúng ta được mà sợ.

Ngụy Thù lấy làm phải, rồi hai người cùng nhau uống rượu.

Đêm hôm ấy họ đem quân đến vây nhà Hi Phụ Cơ phóng hỏa đốt nhà, lửa cháy ngất trời. Ngụy Thù đang say rượu, cậy có sức khỏe, trèo lên trên cái chòi cửa, chạy đi chạy lại để dò tìm Hi Phụ Cơ mà giết đi. Ai ngờ mấy cái cột chòi Ơû phía dưới đã bị lửa cháy, gãy mà đổ ra, Ngụy Thù Ơû trên chòi ngã lăn xuống đất, cái cột cháy ấy đè ngay lên ngực. Ngụy Thù hộc máu miệng ra, vội vàng trèo qua nóc nhà để chạy, suýt nữa thì chết cháy. Ra đến ngoài Ngụy Thù đau quá, chỉ nằm bẹp xuống đất, không thể đi được. Điên Thiệt trông thấy liền cởi áo đắp cho, rồi vực lên xe đem về. HỒ Yến và Tư Thần Ơû trong thành trông thấy ngọn lửa tưởng có binh biến, vội vàng dẫn quân đến, thấy nhà Hi Phụ Cơ cháy liền truyền quân sĩ cứu chữa, thì nhà đã cháy gần hết rồi. Hi Phụ Cơ đem mấy người nhà đi chữa cháy, bị khói xông vào mắt, ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm một đứa con mới lên năm tuổi, tên là Hi Lộc chạy ra sau vườn, đứng nép Ơû dưới ao, mới được thoát nạn. Còn mấy tên người nhà đều bị chết cháy cả.

xung quanh một vùng gần đấy, cả thảy cháy đến hơn ba chục nóc nhà. HỒ Yển và Tư Thần dò xét, biết là Ngụy Thù và Điên Thiệt phóng hỏa, giật mình kinh sợ, vội vàng sai người đến đại dinh để báo với Tấn Văn công. Đại dinh đóng xa năm dặm, đêm thấy ngọn lửa, chưa hiểu là chuyện gì. Sáng hôm sau, Tấn Văn công tiếp được thư của HỒ Yến và Tư Thần mới biết rõ đầu đuôi, liền thân hành đến để thăm Hi Phụ

Cơ . Hi Phụ Cơ giương mắt nhìn Tấn Văn công, rồi dần dần nhắm mắt lại mà chết. Tấn Văn công thương xót vô cùng. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm Hi Lộc sụp lạy Ơû dưới đất, vừa lạy vừa khóc. Tấn Văn công cũng ứa nước mắt mà bảo rằng :

Hiền tẩu chớ lo phiền, đã có tôi trông nom cho, không ngại gì cả.

Nói xong, tức khắc phong cho Hi Lộc ngay còn Ơû trên tay mẹ làm chức đại phu ; lại chu cấp cho vàng lụa nhiều lắm, để tống táng Hi Phụ Cơ, rồi đem vợ con Hi Phụ Cơ sang Ơû nước Tấn, chờ khi vua Tào quy thuận rồi, bấy giờ sẽ cho về. Sau Hi Lộc làm quan đại phu Ơû nước Tào. Tấn Văn công muốn chém Ngụy Thù và Điên Thiệt. Triệu

Thôi nói :

Hai người ấy ngày xưa đi tòng vong, khó nhọc trong mười chín năm trời, mới đây lại có công trạng lớn, chúa công nên dung thứ cho.

Tấn Văn công nổi giận mả nói rằng :

Ta sở dĩ thủ tín với dân được nhờ có pháp luật. Bề tôi không theo pháp luật thì sao gọi là bề tôi ? Vua không thi hành pháp luật với bề tôi được thì sao gọi là vua ? Vua chẳng ra vua, bề tôi chẳng ra bề tôi thì sao giữ được nước ? Các quan đại phu có công với ta thì nhiều lắm, nếu đều làm trái pháp luật cả thì từ nay trở đi, ta còn thi

hành pháp luật gì được nữa !

Triệu Thôi nói :

Chúa công nói phải lắm ? Nhưng Ngụy Thù là người vũ dũng, các tướng không ai bằng, giết cũng đáng tiếc ; xin chúa công giết một mình Điên Thiệt, cũng đủ làm gương cho kẻ khác, cần gì mà phải giết cả Ngụy Thù.

Tấn Văn công nói :

- Ta nghe Ngụy Thù bi thương Ơû ngực không dậy được, chẳng bao lâu cũng chết, còn tiếc gì mà chẳng trị tội để giữ cho pháp luật được nghiêm minh.

Triệu Thôi nói :

Tôi xin phụng mệnh đến hỏi xem nếu bệnh Ngụy Thù quả đã nguy thì chúa công hãy trị tội, nhược bằng còn mạnh thì nên lưu một viên hổ tướng ấy để dùng về sau.

Tấn Văn công gật đầu, liền sai Tuân Lâm Phủ đi đòi Điên Thiệt, và sai Triệu Thôi đến thăm bệnh Ngụy Thù.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 40 : Tiên Chẩn lập kế lừa Đắc ThầnTấn, Sở giao binh tại Thành Bộc

Triệu Thôi phụng mệnh Tấn Văn công đến thăm bệnh Ngụy Thù Bấy giờ Ngụy Thù còn vết thương nặng ở ngực, vẫn nằm trên giường, chưa trở dậy được, nghe báo có quan đến thăm, liền hỏi người nhà rằng :

- Cả thảy có mấy người đến ?

Người nhà nói :

- Chỉ có một mình quan tư mã là Triệu Thôi.

Ngụy Thù nói :

- Hắn định đến dò xem ta có sống được hay không, nếu bệnh không sống được thì tất đem ta ra để trị tội đây.

Nói xong, liền sai người nhà lấy lụa bó kín ngực lại, để ra tiếp kiến Triệu Thôi. Người nhà nói - Tướng quân đau nặng lắng, không nên cử động vội.

Ngụy Thù quát to nên rằng :

Bệnh ta không đến nỗi chết, các người chớ nói càn !

Nói xong, liền đứng dậy, mũ áo chỉnh tề, ra tiếp kiến Triệu Thôi Triệu Thôi hỏi:

Nghe nói tướng quân bị thương nặng lắm, chúa công có sai tôi đến hỏi thăm.

Ngụy Thù nói :

- Bởi có quân mệnh, nên tôi phải miễn cưỡng ra đây. Tôi cũng tự biết tội mình là đáng chết, nhưng may mà chúa công ân xá cho thì cái thân sống thừa này xin hết sức để báo đáp.

Ngụy Thù lại nhảy lên mấy lần, để tồ cho Triệu Thôi biết là sức mình còn mạnh.

Triệu Thôi nói :

- Tướng quân cứ yên lòng mà chăm thuốc men cho chóng khỏi, rồi tôi xin tâu lại với chúa công.

Triệu Thôi về tâu với Tấn Văn công rằng :

- Ngụy Thù dẫu bị thương, nhưng gân sức còn mạnh lắm. Vả lại vẫn biết giữ phép làm tôi. nếu chúa công tha cho y thì sau này tất cũng dùng được việc.

Tấn Văn công nói :

- Nếu tha mà không trái với pháp luật thì ta có muốn giết làm gì !

Được một lúc, Tuân Lâm Phủ đưa Điên Thiệt đến, Tấn Văn công mắng rằng :

- Vì cớ gì nhà ngươi dám đốt nhà Hi Phụ Cơ ? .

Điên Thiệt nói :

-Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng chúa công mà cũng bị chết cháy, huống chi là Hi Phụ Cơ chi dâng có một bữa cơm ! Tôi đốt nhà Hi Phụ Cơ như vậy, là muốn cho Hi Phụ Cơ được phối hưởng ở đền thờ Giới Tử Thôi đó thôi !

Tấn Văn công nổi giận, nói :

Giới Tử Thôi chết cháy, có phải là lỗi tại ta đâu .

Nói xong, bèn ngảnh lại hỏi Triệu Thôi rằng :

Điên Thiệt dám làm việc trái phép đốt nhà Hi Phụ Cơ, thì nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

- Cứ theo pháp luật thì đáng tội chết.

Tấn Văn công truyền đem Điên Thiệt ra chém, để làm lễ tế Hỉ Phụ Cơ, rồi bêu đầu ở cửa bắc, yết thị rằng :

, Từ nay ai làm trái phép thì nom vào đây !"

Tấn Văn công lại hỏi Triệu Thôi rằng :

- Ngụy Thù cùng đi với Điên Thiệt mà không biết can ngăn nay nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

- Nên cách chức Ngụy Thù, vả bắt phải lập công chuộc tội.

Tấn Văn công bèn cách chức Ngụy Thù, cho Chu Chi Kiều thay vào.

Các tướng sĩ thấy vậy, đều bảo nhau rằng :

- Ngụy Thù và Điên Hiện có công tòng vong khó nhọc trong mười chín năm trời, nay làm trái phép mà cũng người thì bị giết, người thì bị cách chức, huống chi là kẻ khác ? Thế mới thật là phép nước không riêng ai cả, chúng ta nên cẩn thận mới được !

Lại nói chuyện Sở Thành vương đi đánh Tống, chiếm được đất Mân ấp, đang đem quân vây đất Hoài Dương, định làm cho nước Tống khốn quẫn phải xin hàng, bỗng nghe báo có sử thần nước Vệ là Tôn Viêm đến cáo cấp. Sở Thành vương triệu vào hỏi, Tôn Viêm báo cho Sở Thành vương biết chuyện nước Tấn đã chiếm mất đất Ngũ Lộc, vua nước Vệ phải chạy ra ở đất Tương Ngưu, và nếu nước Sở không đem quân đến cứu thì thảnh Sở Khau cũng khó lòng mà giữ nổi. Sở Thành vương liền chia quân ra làm hai đạo, cho Thành Đắc Thần cùng các vua chư hầu ở lại vây Tống, còn mình thì đem quân đi cứu Vệ Các vua chư hầu cũng đều lo trong nước có biến, cáo từ về cả, mỗi người cho một viên đại tướng ở lại : tướng nước Trần là Viên Tuyển, tướng nước Sái là công tử An, tướng nước Trịnh là Thạch Quỳ, tướng nước Hứa là Bách Trù, đều phải theo lệnh tướng nước Sở là Thành Đắc Thần cả.

Sở Thành vương đi đến nửa đường, nghe tin quân Tấn đã kéo sang đánh Tào, toan sang cứu Tào thì lại nghe tin quân Tấn đã phá vỡ nước Tào, vua Tào đã bị bắt rồi. Sở Thành vương giật mình sợ hãi mà nói rằng :

- Nước Tấn dùng quân sao mà thần tốc như vậy ?

Sở Thành vương liền đóng quân lại ở Thân Thành, sai người sang đất Cốc gọi công tử Ung và Dịch Nha về, rồi đem đất Cốc giao trả nước Tề, mà cùng với Tề giảng hòa ; lại sai người sang Tống, rút quân của Thành đắc Thần về, và báo Thành Đắc Thần rằng :

- Vua nước Tấn lưu lạc ở các nước ngoài mười chín năm trời, nay tuổi ngoại sáu mươi mới về làm vua nước Tấn, từng trải gian hiểm, am hiểu tình dân, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để làm cho nước Tấn được cường thịnh, ta khó lòng mà địch nổi, chi bằng ta hãy chịu nhường.

Thành Đắc Thần cậy tài, nghe Sở Thành vương nói lấy làm căm tức bảo các tướng chư hầu rằng :

- Quân ta chẳng bao lâu nữa thì phá vỡ kinh thành nước Tống, can gì mà bỏ !

Đấu Việt Tiêu cũng cho là phải. Thành Đắc Thần sai Đấu Việt Tiêu đến nói với Sở Thành vương rằng :

- Xin chờ lại ít lâu để phá vỡ nước Tống, bấy giờ sẽ rút quân trở về nhược bằng có gặp quân Tấn thì xin cố hết sức để thắng ; nếu đánh không được xin chịu tội chết.

Sở Thành vương sai người gọi Tử Văn đến mả hỏi rằng :

- Ta cho người triệu Thành Đắc Thần về, mà Thành Đắc Thần cố ý xin đánh, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Tử Văn nói :

- Nước Tấn đem quân cứu Tống là muốn làm bá chủ, nhưng Tấn làm bá chủ thì nước Sở không lợi. Nay chỉ có Sở là đối địch nổi với Tấn, nếu Sở nhường Tấn thì Tấn là bá chủ. Vả Tào và Vệ xưa nay vẫn giao hiếu với ta, thấy ta nhường Tấn, thì rồi tất cũng theo Tấn. Bây giờ chúa công hãy cho Thành Đắc Thần đóng quân ở đấy để khiến Tào và Vệ đều được vững lòng, chẳng cũng nên lắm ru ! Nhưng chúa công

nên dặn Thành Đắc Thần phải cẩn thận, chớ nên khinh thường mà đánh nhau với Tấn ; nếu bất đắc dĩ thì cùng Tấn giảng hòa để chia nhau nam bắc, còn không đến nỗi mất thể diện.

Sở Thảnh vương theo lời, dặn Đấu Việt Tiêu về bảo Thành Đắc Thần rằng :

- Chớ có khinh thường mả đánh nhau với Tấn, nếu có thể giảng hòa thì nên giảng hòa.

Thành Đắc Thần được Đấu Việt Tiêu truyền lại lời dặn, mừng thầm Sở Thành vương không bắt rút quân ngay, liền ngày đêm đánh Tống rất gấp. Tống Thành công lúc trước thấy công tôn CỐ về nói rằng vua Tấn sắp đem quân đi đánh Tào và Vệ để giải vây cho Tống, liền cố sức chống giữ Sau thấy Thành Đắc Thần đánh gấp lắm, cũng có ý lo sợ Quan đại phu là Môn Dân Ban nói với Trung Thành công rằng :

Vua Tấn chỉ biết đem quân đi đánh Tào và Vệ để cứu Tống, mà không biết rằng quân Sở vẫn đánh Tống gấp như thế này. Tôi xin liều chết trèo qua thành ra mà đến nói với vua Tấn.

Tống Thành công nói :

- Mình cầu người ta đến hai lần, mà chi nói miệng không thì sao cho phải !

Nói xong cho người kê biên những đỗ bảo ngọc trong kho, làm thành sổ sách để đem dâng Tấn Văn công, hẹn khi nào lui được quân Sở rồi thì chiếu theo sổ sách mà đệ nạp. Môn Doãn Ban xin cho một người nữa đi theo. Thành công cho Hoa Tú Lão cùng đi. Hai người từ biệt Tống hầu, rồi trèo qua thành lên ra, tìm đến đại dinh Tấn Văn

công Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão vào yết kiến Tấn Văn công, khóc mà nói rằng :

công tôi sai chúng tôi đem nộp quyển sổ có biên những lễ vật nhỏ mọn này đề dâng quý quốc, xin quý quốc thương tình mà đến cứu cho.

Tấn Văn công bảo Tiên Chẩn rằng :

- Việc nước Tống gấp lắm, nếu không đi cứu thì còn chi là Tống, mà nếu đi cứu thì tất phải đánh nhau với Sở. Ngày trước Khước Cực đã bàn với ta rằng : "Tất phải hợp sức với Tề và Tần thì mới kiềm chế nổi Sở. Nay Sở giảng hòa với Tề, trả lại đất Cốc cho Tề, còn Tần thì lại không có hiềm khích gì với Sở cả, ta biết làm thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

- Tôi có một kế, khiến cho Tề và Tần tự khắc phải đem quân đánh Sở

Tấn Văn công mừng lắm, hỏi :

- Nhà ngươi có kế gì mà thần diệu như vậy ?

Tiên Chẩn nói :

- Nước Tống lễ ta, kể cũng là hậu, nhưng ta nhận lễ rồi mới đi cứu thì sao gọi là nghĩa ? Chi bằng ta từ chối đi và bảo Tống đem những đồ lễ vật ấy mà chia biếu Tề và Tần, để Tế và Tần nói hộ với nước Sở. Khi Tề và Tần sai sứ đến nói với Sở mả Sở không theo, bấy giờ tất nhiên Tề và Tần phải sinh lòng hiềm khích với Sở.

Tấn Văn công nói :

Giả sử Tề và Tần nói mà Sở nghe thì tất Tề và Tần phải bắt Tống thần phục Sở, ta còn ích gì ?

Tiên Chẩn nói :

- Tôi lại có một kế, khiến cho Sở không theo lời Tề và Tần được.

Tấn Văn công nói :

- Kế gì ?

Tiên Chẩn nói : .

- Sở yêu Tào và Vệ mà ghét Tống. Nay ta đã đuổi vua nước Vệ, bắt vua nước Tào thì đất đai hai nước ấy đều ở trong tay ta. Mà hai nước ấy lại tiếp giáp với Tống, vậy nếu ta đem đất đai hai nước ấy mà cho Tống thì Sở lại càng ghét Tống lắm ; Tề và Tần nói hộ, chắc Sở Cũng không nghe nào ! Khi bấy giờ Tề và Tần thương Tống mà giận Sở, tài nào không phải kết liên với nước Tấn ta.

Tấn Văn công vỗ tay khen phải, rồi bảo Môn Doãn Ban kê biên các thứ bảo ngọc, làm thành hai quyển sổ để đem biếu Tề và Tần, sai Môn Doãn Ban đi sứ Tần, Hoa Tú Lão đi sứ Tề, lại dặn hai người cách thương thuyết với Tần và Tề sao cho khẩn thiết.

Hoa Tú Lão đến nước Tề, nói với Tề Chiêu công rằng :

- Tấn và Sở nay đang kình địch với nhau, cái nạn binh đao ấy tất phải nhờ quý quốc mới phân giải được. Nếu quý quốc có lòng giúp cho nước tôi giữ gìn được xã tắc thì là không những không dám tiếc các thứ bảo ngọc của tiên triều mà từ nay trở đi, xin mỗi năm một lần cống hiến, không bao giờ dám thôi.

Tề Chiêu công hỏi rằng :

Hiện bây giờ vua Sở đóng ở đâu ?

Hoa Tú Lão nói :

- Vua Sở cúng muốn giải vây cho nước tôi, đã rút quân về đóng ở Thân thành rồi, chỉ vì quan lệnh Doãn nước Sở là Thành đắc Thần mới lên cầm quyền chính, muốn lập công mà không chịu rút quân.

Tề Chiêu công nói :

- Vua Sở ngày trước lấy đất Cốc của ta, nay lại giao trả mà cùng ta giảng hòa, vậy thì vua Sở cũng không có ý tham muốn ; còn Thành Đắc Thần không chịu rút quân, để ta sai sứ đến nói giúp cho.

Tề Chiêu công liền sai Thôi Yến sang nước Tống để nói với Thành Đắc Thần.

Môn Dân Ban đến nước Tần, công nói với Tần Mục công như lời Hoa Tú Lão. Tần Mục công công sai công tử Chí đến nói với Thành đắc Thần.

Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão lại trở về đại dinh Tấn Văn công.

Tấn Văn công bảo Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão rằng :

- Ta đã diệt được nước Tào và nước Vệ, bao nhiêu những ruộng đất tiếp giáp nước Tấn, ta xin để biếu nước Tống.

Nói xong, liền sai Hồ Yến đưa Môn Doãn Ban đi nhận lấy ruộng ở đất nước Vệ, và Tư Thần đưa Hoa Tú Lão đi nhận lấy ruộng ở đất nước Tào. Các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ đều bị đuổi cả. Thôi Yến (sứ nước Tề) và công tử Chí (sứ nước Tần) đang thương thuyết với Thành Đắc Thần xin cho nước Tống được giảng hòa, bỗng thấy các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ kéo nhau đến nói với Thành Đắc thần rằng :

Quan đại phu nước Tống là Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão cậy thế nước Tấn đem quân sang chiếm lấy ruộng đất của nước chúng tôi.

Thành Đắc Thần nổi giận, bảo Thôi Yến và công tử Chí rằng :

- Người nước Tống ức hiếp nước Tào và nước Vệ như vậy, sao các ngài lại xin cho nước Tống giảng hòa, việc ấy tôi không dám vâng mệnh.

Thôi Yến và công tử Chí chán quá, tức khắc cáo lui về. Tấn Văn công nghe tin Thành Đắc Thần không theo lời Thôi Yến và công tử Chí, liền sai người đón đường mời Thôi Yến và công tử Chí về chốn đại dinh rồi bày tiệc để thết đãi mà phân trần rằng :

- Thành Đắc Thần kiêu ngạo vô lễ, nay sắp sửa giao chiến với nước Tấn tôi, xin hai quý quốc đem quân đến giúp cho.

Thôi Yến và công tử Chí nhận lời, rồi cáo từ về nước. Thành Đắc Thần họp các tướng sĩ lại mà thề rằng :

- Nếu ta không lấy lại được nước Tào và nước Vệ thì dẫu chết cũng không chịu lui quân.

Tướng nước Sở là Uyển Xuân nói với Thành Đắc Thần rằng :

- Tôi có một kế khiến không phái đánh mà tự khắc lấy lại được nước Tào và nước Vệ.

Thành Đắc Thần hỏi :

- Nhà ngươi có kế gì ?

Uyển Xuân nói :

Nước Tấn đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, đều là vì nước Tống cả ;

nay nguyên soái nên sai sứ đến nói với vua Tấn xin giảng hòa : hễ nước Tấn trả lại đất nước Tào và nước Vệ thì ta cũng giải vây cho nước Tống. Hai bên cùng rút quân trở về, chẳng cũng hay lắm ru !

Thành Đắc Thần nói :

- Giả sử nước Tấn không nghe thì làm thế nào ?

Uyển Xuân nói :

- Nguyên soái nên bảo rõ cho người nước Tống biết ràng ta sắp thương thuyết để giảng hòa với Tấn mà giải vây cho Tống, vì nước Tống đang mong được giải vây, khác nào như một kẻ bị treo ngược mà mong người đến cởi ; nếu vua Tấn không nghe lời thì chẳng những hai nước Tào và Vệ oán Tấn, mà Tống cũng oán Tấn nữa. Bấy giờ ta họp ba nước oán Tấn mà đánh Tấn thì ta tất phải được.

Thành Đắc Thần nói :

Nay ai là người dám sang thương thuyết với quân Tấn ?

Uyển Xuân nói :

- Nếu nguyên soái sai tôi thì tôi xin vâng mệnh.

Thành Đắc Thần liền hoãn binh không đánh Tống vội, rồi sai Uyển Xuân sang thương thuyết với Tấn Văn công. Uyển Xuân đến đại dinh quân Tấn, vào nói với Tấn Văn công rằng :

Kẻ ngoại thần của nhà vua lâu Thành Đắc Thần có lời kính tỏ với nhà vua rằng : Tào và Vệ đối với nước Sở tôi, khác nào như Tống đối với quý quốc Nếu quý quốc trả lại đất cho Tào và Vệ thì nước tôi cũng xin giải vây cho Tống, hai bên cùng giảng hòa với nhau để dân chúng khỏi phải lầm than khổ sở.

Uyển Xuân nói chưa dứt lời thì HỒ Yến đứng ở bên cạnh, hầm hầm giận mà mắng rằng :

- Thành Đắc Thần nói vô lý quá ? Định bỏ một nước Tống chưa lấy được mà đòi hai nước (Tào và Vệ) của tấn đã lấy được rồi, thì sao cho phải !

Tiên Chẩn vội vàng giẫm vào chân HỒ Yến để làm hiệu, và nói với Uyển Xuân rằng :

- Kể ra thì tội nước Tào và nước Vệ cộng không đến nỗi đáng phải tuyệt diệt, chúa công tôi vẫn muốn bảo toàn cho. Xin hãy tạm nghi lại ở hậu dinh, để chúa công tôi thương nghị xem nên thế nào cho phải.

Loan Chi liền đưa Uyển Xuân vào nghỉ ở hậu dinh. HỒ Yến hỏi Tiên Chẩn rằng :

Nguyên soái định nghe lời Uyển Xuân hay sao ?

Tiên Chẩn nói :

- Lời xin của Uyển Xuân không nên nghe mà cũng không nên không nghe.

HỒ Yến nói :

Tại sao thế ?

Tiên Chẩn nói :

- Uyển Xuân đến đây là bởi mưu kế của Thành Đắc Thần, muốn mua ơn với Tống mà đổ oán cho nước Tấn ta đó. Ta không nghe thì Tào, Vệ và Tống đều oán ta cả, mà ta nghe thì nước Sở được ơn, chi bằng ta giảng hòa riêng với Tào và Vệ, để chia rẽ cánh ấy ra lại bắt giam Uyển Xuân, làm cho Thành Đắc Thần phải tức giận mà đem

quân sang đánh ta, tự khắc giải vây được cho nước Tống. Nếu không dùng kế ấy thì tôi e rằng Thành Đắc Thần giảng hòa riêng với Tống, tất nhiên Tống lại về bè với Sở mà bỏ ta.

Tấn Văn công nói với Tiên Chẩn rằng :

- Nguyên soái nghĩ phải lắm ! Nhưng ngày trước ta có chịu ơn vua Sở, mà nay lại bắt giam sứ thần nước Sở thì còn ra thế nào ?

Loan Chi nói :

- Sở ăn cướp nước nhỏ, khinh rẻ nước lớn, đó là một điều sỉ nhục cho trung nguyên. Nay chúa công không muốn làm bá chủ thì thôi, nếu muốn làm bá chủ thì đó cũng là điều sỉ nhục của chúa công. Việc gì mà phải băn khoăn vì một cái ơn riêng nhỏ mọn !

Tấn Văn công khen phải, liền sai Loan Chi bắt giam Uyển Xuân ở đất Ngũ Lộc, giao cho quan trấn thủ ở đấy là Khước BỘ Dương phải coi giữ cẩn thận. Còn bao nhiêu những người theo hầu Uyển Xuân đều đuổi về cả, để chúng truyền lại cho Thành Đắc Thần biết rằng : Uyển Xuân vô lễ đã bị nước Tấn bắt giam rồi, đợi khi nào bắt được lệnh doãn, sẽ giết một thể.

Các người theo hầu Uyển Xuân đều len lét cúi đầu chạy về. Tấn Văn công bắt giam Uyển Xuân rồi, lại sai người bảo Tào Cung công rằng :

- Chúa công tôi không phải là vì một điếu hiềm nhỏ ngày xưa mà bẻ lỗi nhà vua đâu, chẳng qua chỉ vì nhà vua thần phục nước Sở đó mà thôi. Nay nhà vua sai người đưa thư sang tuyệt giao với Sở thì chúa công tôi tức khắc trả lại nước Tào cho nhà vua.

Tào Cung công nóng lòng được tha, liền viết ngay một bức thư đưa sang cho Thành Đắc Thần. Thư rằng :

-Tôi sợ rằng xã tắc nước tôi sụp đổ. nhân dân khó tránh cái nạn chết chóc cho nên bất đắc dĩ phải thần phục nước Tấn, mà không thể phụng sự quý quốc được nữa ; nếu quý quốc trừ được nước Tấn, để gia yên cho nước tôi, thì có đâu nước tôi lại dám hai lòng .

Tấn Văn công lại sai người đến đất Tương Ngưu, hứa với Vệ Thành công nếu tuyệt giao với Sở thì trả lại nước Vệ cho. Vệ Thành công mừng lắm. Quan đại phu nước Vệ là Ninh Du can rằng :

ĐÓ là cái kế phản gián của nước Tấn, chúa công chớ nên theo.

Vệ Thành công không nghe lời Ninh Du, liền đưa thư cho Thành Đắc Thần, đại ý chừng nói như Tào Cung công. Thành Đắc Thần nghe tin Uyển Xuân bị bắt, thì gào thét mắng chửi ầm ý lên, nói rằng :

- Trùng Nhĩ ? Mảy là một thằng lão tặc, trời đánh không chết !

Khi trước trốn sang nước ta, khác nào như con cá nằm trên mặt thớt, nay về làm vua, lại dám bắt giam sứ thần nước ta, để phen này ta thân hành đến nói rõ cho mày biết.

Thành Đắc Thần đang hầm hầm nổi giận, bỗng có quân báo rằng :

Nước Tào và nước Vệ có thư đệ trình nguyên soái.

Thành Đắc Thần nghĩ thầm rằng :

Tào và Vệ đang lúc khốn khổ này, còn có việc gì mà đưa thư cho ta nữa ; hay là có do thám được tình hình nước Tấn mà định bảo riêng ta điều gì chăng, ấy là trời giúp cho ta được thành công đó.

Nói xong, mở thư ra xem, mới biết là thư Tào và Vệ tuyệt giao với Sở lại càng căm tức vô cùng, bèn quát to lên rằng :

- Hai bức thư này chính là đứa lão tặc kia bắt người ta phải viết đây ! Thằng lão tặc ! Thằng lão tặc ! Bây giờ, không phải là mày thì là ta, nhất định trong hai người phải có một người chết !

Đấu Việt Tiêu nói : .

Đại vương đã có dặn nguyên soái không nên đánh nhau với Tấn, nếu nguyên soái muốn đánh, phải tâu với đại vương mới được.

Vả Tề và Tần căm tức nguyên soái không nghe lời giải vây cho Tống, tất nhiên ngày nay đem quân giúp Tấn, vậy thì nước ta dẫu có Trần, Sái, Trịnh và Hứa giúp vào, nhưng địch lại với Tề và Tần sao nổi ?

Nguyên soái nên tâu với đại vương, xin thêm quân rồi sẽ đi đánh.

Thành Đắc Thần nói :

Nhà ngươi đi hộ ta, nên phải nhanh chóng mới được !

Đấu Việt Tiêu phụng mệnh Thành Đắc Thần đến đất Thân ấp nói với Sở thành vương xin thêm quân. Sở Thành vương nổi giận, nói :

- Ta đã dặn rằng chớ nên khinh thường đánh nhau với Tấn, nay Thành Đắc Thần lại cố xin ra đánh, phỏng có chắc được hay không ?

Đấu Việt Tiêu nói :

- Thành Đắc Thần đã có nói : nếu đánh không được, xin chịu tội chết.

Sở Thành vương vẫn không bằng lòng, chỉ sai Đấu Nghi Thân đem bốn nghìn quân giúp Thành Đắc Thần mà thôi.

Con Thành Đắc Thần là Thành Đại Tâm cũng xin đem quân đi đánh, Sở Thành vương thuận cho. Đấu Nghi Thân cùng với Đấu Việt Tiêu đem quân đến nước Tống. Thành đắc Thần trông thấy quân ít, lại càng tức giận nói rằng :

Dẫu không thêm quân, ta lại không thắng Tấn được à ?

Nói xong, họp quân bốn nước chư hầu cùng đi đánh Tấn. Tấn Văn công họp các tướng lại để thương nghị. Tiên Chẩn nói :

Nước Sở từ khi đánh Tề vây Tống đến nay, quân sĩ đều đã mỏi mệt cả, ta nên đem quân đánh ngay, chớ để mất cơ hội ấy.

HỒ Yến nói :

- Ngày trước chúa công ở trước mặt vua Sở, đâu có hẹn một câu rằng : "Ngày khác gặp nhau ở trung Nguyên thì xin tránh quân Sở ba xá" nếu nay đem quân ra đánh, chẳng hóa ra thất tín với Sở lắm ru !

Các tướng nghe lời HỒ Yến đều không bằng lòng mà nói rằng :

- Chúa công ta là vua một nước, mà phải rút quân tránh một viên tướng nước Sở thì nhục biết dường nào ! Không nên ! Không nên !

HỒ Yến nói :

Cái ơn của vua nước Sở, ta không nên quên, nay ta rút quân tránh đi, thế nghĩa là tránh nước Sở, chứ không phải tránh Thành Đắc Thần.

Các tướng lại nói :

Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì làm thế nào ?

HỒ Yến nói :

- Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì trái tại quân Sở, bấy giờ ta sẽ đánh.

Tấn Văn công nói :

- HỒ Yến nói phải lắm ?

Tấn Văn công truyền lui quân ra ngoài ba xá, đóng ở đất Thành Lộc. Tề Hiếu công sai người con Quyết Ý Trọng là Quắc Quy Phủ làm chánh tướng ; Thôi Yến làm phó tướng ; Tần Mục công cũng sai người con thứ là công tử Mẫn làm chánh tướng, Kiến Bính làm phó tướng, cùng đem quân sang đất Thành Bộc để giúp Tấn đánh Sở. Tống

Thành công thấy quân Sở giải vây rồi, cũng sai quan tư mã là công tôn Cố sang tạ ơn Tấn Văn công và giúp việc đánh Sở.

Quân Sở thấy quân Tấn lui ra ngoài ba xá, đều có ý mừng rỡ.

Đấu Bột nói :

- Vua Tấn đã chịu rút quân tránh chúng ta thì cũng vẻ vang cho ta lắm rồi, chi bằng ta nhân thế mà thu quân về, dẫu không công cũng được khỏi tội Thành Đắc Thần nói :

- Ta đã xin thêm quân, nếu không đánh một trận, còn ra thế nào ! Nay quân Tấn lui về là có ý nhát sợ, ta nên mau mau đuổi theo mới được.

Các tướng nước Tấn nói với Tiên Chẩn rằng :

- Quân Sở ngắm xem địa thế để lập đồn trại, lả có ý muốn thủ hiểm, ta nên đem quân đánh ngay.

Tiên Chẩn nói :

- Thành Đắc Thần đến đây là muốn cùng quân ta giao chiến, chứ không phải muốn thủ hiểm đâu.

Tấn Văn công cũng có ý nghi ngờ, không muốn đánh nhau với Sở

HỒ Yến nói ?

Sự thế ngày nay, ta đánh Sở mà thắng thì làm được bá chủ chư hầu. Nếu đánh không thắng thì ta rút quân về mà giữ thế thủ, nước Sở cũng chẳng làm gì ta nổi.

Tấn Văn công cũng chưa kiên quyết, đêm hôm ấy nằm mộng thấy hình như trong khi mình còn đi trốn, đang ở nước Sở, cùng với vua nước Sở đùa bỡn đánh tay nhau, nhưng yếu sức bị thua, ngã ngửa xuống dưới đất ; vua Sở nằm đè lên trên mình, đánh vào đầu chảy cả óc rồi hút lấy óc, đến lúc tỉnh dậy, lấy làm sợ lắm. Bấy giờ HỒ Yến cùng ngủ ở trong màn, Tấn Văn công gọi dậy, kể chuyện cho nghe và bảo rằng :

- Cứ như cái mộng này thì ta đánh Sở không được, ta bị Sở hút lấy óc, chắc là điềm xấu.

HỒ Yến nghe nói, liền chúc mừng rằng :

ĐÓ là cái điềm rất tốt ! Chúa công tất đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nói :

- Sao lại bảo là rất tốt ?

HỒ Yến nói :

- Chúa công nằm ngửa thì được ánh sáng mặt trời chiếu vào ; vua Sở nằm trên mình, nghĩa là phục xuống đất mà chịu tội. óc là một vật mềm nhũn, vua Sở hút óc chúa công, nghĩa là phải mềm nhũn mà thần phục chúa công đó, xem thế thì tất chúa công đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nghe nói, không nghi ngờ gì nữa. Trời vừa sáng,

quân lại vào báo rằng nước Sở cho người đến hạ chiến thư. Tấn Văn công mở xem. Thư rằng :

Quân Sở tôi muốn cùng với quân Tấn làm trò, xin nhà vua ở trên xe mà xem. Thành Đắc Thần nay cũng được ghé mắt một chút

HỒ Yến nói :

- Chinh chiến là một việc quan hệ mà dám nói là làm trò, kẻ kia không cẩn trọng như vậy thì tài nào mà khỏi thua.

Tấn Văn công sai Loan Chi viết thư đáp lại. Thư rằng :

Tôi còn nhớ ơn vua nước Sở, bởi vậy phải rút quân lui ba xá, không dám cùng với nguyên soái đối địch ; nay nguyên soái muốn xem quân hai bên, có đâu tôi lại không vâng lời. Sáng ngày mai xin ra tiếp kiến.

Sứ nước Sở về rồi, Tiên Chẩn điểm duyệt quân sĩ cả thảy hơn năm vạn người, ấy là chưa kể đến quân Tề và quân Tần đến giúp. Tấn Văn công trèo lên gò cao đứng xem trông thấy quân sĩ tiến thoái rất có thứ tự bằng lòng mà khen rằng :

ĐÓ là theo phép của Khước Cốc ngày xưa. Như thế có thể đối địch với quân Sở được.

Nói xong, liền sai đốn cây ở trên rừng xuống để làm các thứ chiến cụ. Tiên Chẩn truyền lệnh cho các hàng tướng sĩ : HỒ Mao và HỒ Yến đem toán thượng quân, cùng với phó tướng nước Tần là Kiến Bính tiến vào tả đội quân Sở, giao chiến với Đấu Nghi Thân ; Loan Chi và Tư Thần đem toán hạ quân, cùng với phó tướng nước Tề là Thôi Yến, tiến vào hữu đội quân Sở, giao chiến với Đấu Bột. Tiên Chẩn đã dặn bảo các tướng đủ các mưu kế ; còn mình thì cùng với Khước Tần và Kỳ Mãn đem toán trung quân để đối địch với Thành Đắc Thần. Tiên Chẩn lại sai Thân Lâm Phủ và Sĩ Hội, mỗi người đem năm nghìn quân, chia làm hai cánh để phòng khi tiếp ứng ; lại sai Quốc Quý Phủ (chánh tướng nước Tề) và công tử Mẫu (chánh tướng nước Tấn) đem quân đi phục sẵn ở phía sau quân Sở, để đợi khi quân Sở thua chạy thì xông vào mà chiếm cứ lấy đồn trại. Bấy giờ Ngụy Thù đã khỏi vết thương ở ngực rồi, tình nguyện xin làm tiên phong.

Tiên Chẩn nói :

Tôi đã sẵn có ý định nhờ lão tướng quân một việc : Từ đây đi về phía nam, đến đất Không Tang, là chỗ tiếp giáp với nước Sở, lão tướng quân nên đem quân phục sẵn ở đấy, đợi khi quân Sở thua chạy trở về thì đổ ra mà bắt.

Ngụy Thù mừng rỡ, vâng mệnh đi ngay. Bọn Triệu Thôi cùng với các quan văn vũ theo Tấn Vãn công lên đứng ở trên núi để xem trận. Tấn Văn công lại sai Chu Chi Kiểu sửa soạn thuyền bè sẵn Ở sông Nam Hà để đợi khi lấy được các xe lương thực của nước Sở thì vận tải đem về.

Sáng sớm hôm sau, quân Tấn cùng với quân Sở đều bày trận ở dưới chân núi Hữu Sản. Loan Chi nghe tin hữu đội nước Sở dùng quân Trần và quân Sái làm tiên phong, thì mừng thầm mà nói :

- Khi trước nguyên soái đã mật bảo ta rằng quân Trần và quân Sái nhút nhát mà dễ loạn ; ta đánh tan quân .Trần và quân Sái thì tự khắc hữu đội nước Sở phải thua.

Loan Chi sai Kiến Bính ra đánh. Viên Tuyển nước Trần và công tử An nước Sái tranh nhau lập công, xin với Đấu Bột để ra nghênh chiến. Chưa kịp nghênh chiến thì bỗng thấy quân Tấn kéo lui, Viên Tuyển và công tử An giục quân đuổi theo. Đuổi được một quãng, nghe có pháo nổ, quân mai phục của Tư Thần đổ ra đón đánh. Ngựa kéo xe của quân Tư Thần đều đội lốt da hổ cả. Ngựa nước Sở trông thấy, ngỡ là hổ thật, sợ hãi lồng chạy, xông cả vào hữu đội quân Sở, không gì có thể kìm hãm được nữa, thành ra quân Sở bị chết hại không biết bao nhiêu mà kể.

Loan Chi liền sai quân sĩ, giả làm quân Trần, cầm cờ hiệu nước Trần và nước Sái chạy đến phi báo với Thành Đắc Thần, nói hữu đội quân Sở đã thắng trận rồi, nên mu mau tiến binh, để đuổi quân Tấn. Thành Đắc Thần đứng trên xe trông thấy quân Tấn chạy toán loạn, cát bụi bay mù cả trời, không biết đó là kế của quân Tấn, mừng mà nói rằng :

Toán hạ quân của Tấn đã thua thật rồi !

Thành đắc Thần bèn truyền lệnh cho tả đội tiến binh. Đấu Nghi Thân trông thấy lá cờ đại của quân Tấn bay phấp phới, liền xông lại đánh HỖ Yến đem quân ra nghênh chiến. Đánh được mấy hợp, bỗng thấy đằng sau quân Tấn đại loạn, HỒ Yến vội vàng bỏ chạy ; lá cờ đại cũng thấy rút lui về phía sau. Đấu Nghi Thân ngỡ là quân Tấn tan vỡ, vội vàng giục tướng nước Trịnh và tướng nước Hứa, cùng nhau đuổi theo. Đuổi được một quãng, bỗng nghe tiếng trống vang lừng, Tiên Chẩn và Khước Tần đem quân đổ ra đánh chặn ngang, cắt đứt quân Sở ra làm hai đoạn. HỒ Mao, HỒ Yến đang chạy, cũng quay lại, hai bên đánh thốc vào. Quân Trịnh và quân Hứa sợ hãi bỏ chạy, Đấu Nghi Thân không sao cản lại được nữa, lại gặp tướng nước Tề là Thôi Yến đem quân đến đánh, Đấu Nghi Thân bỏ cả khí giới, lẩn mình trong đám bộ binh trườn vào trong núi mà trốn.

Nguyên toán hạ quân của nước Tấn giả cách thua chạy, cát bụi mù trời, là vì Loan Chi đâ cho đốn các cây ở trên núi buộc vào sau xe mà kéo lê đi, HỒ Mao lại sai cho dựng cột cờ đại lên xe rồi kéo mà chạy, cố làm ra vẻ loạn quân, đó đều là mưu Tiên Chẩn đã định sẵn từ trước để lừa quân Sở. Thành Đắc Thần chưa biết là trúng kế, vẫn tưởng tả đội và hữu đội đều thắng trận cả, lại sai con trai là Thành Đại Tâm đem quân ra tiếp chiến. Kỳ Man khi trước vâng mệnh Tiên Chẩn, chỉ giữ vững trận thế, không chịu đem quân ra đánh, bấy giờ thấy quân Sở nổi trống ra trận, Kỳ Man không thể nhịn được, sai người đi dò xem tướng nước Sở là ai. Quân sĩ về báo rằng :

- Tướng nước Sở mới mười lăm tuổi.

Kỳ Man nói :

Một đứa trẻ con như vậy còn có võ nghệ gì ! Ta quyết đem quân bắt sống.

Nói xong, tức khắc truyền nổi trống đem quân trận, cùng với Thành Đại Tâm giao chiến, đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân được thua. Đấu Việt Tiêu trông thấy Thành Đại Tâm đánh mãi không được, liền đứng ở trên xe, giương cung bắn một phát tên, trúng ngay vào dải mũ Kỳ Man. Kỳ Man giật mình kinh sợ, vội vàng lui về,

nhưng e náo động đại quân, phải vòng quanh ra phía sau trận mà trốn chạy. Đấu Việt Tiêu quát to lên rằng :

Viên tướng thua chạy ấy không cần đuổi làm chi, phải mau mau đánh vào trong quân để bắt lấy nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn !

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 41 : Thành Đắc Thần rút gươm tự tửTấn Văn công phụng mệnh. đăng đàn

Tướng nước Sở là Đấu Việt Tiêu cùng với Thành Đại Tâm không đuổi theo Kỳ Man, liền tiến binh xông vào đại quân nước Tấn.

Bỗng có hai toán quân Tấn đến tiếp ứng : Tuân Lâm Phủ đón đánh Đấu Việt Tiêu, Tiên Miệt đón đánh Thành Đại Tâm. Thành đắc Thần cầm cờ vẫy quân tiến vào, hăng hái mà reo rầm lên, nói :

Ngày nay quyết không để cho quân Tấn còn một mống nào sống sót !

Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Tiên Chẩn kéo đại binh đến, bấy giờ Thành Đắc Thần mới biết là tả đội vả hữu đội quân Sờ đã tan vỡ cả rồi, toan thu quân trở lại, nhưng không kịp nữa, bị quân Tấn vây kín cả xung quanh. Thành Đại Tâm ra sức phá vỡ vòng vây, Thành Đại Tâm không thấy Đấu Việt Tiêu đâu cả, lại quay vào tìm ; chẳng

ngờ Đấu Việt Tiêu đang xung đột ở trong đám quân Tấn để tìm cứu cha con Thành Đắc Thần, khi gặp được Thành Đại Tâm, mới biết là Thành Đắc Thần đã ra khỏi, liền cùng phá vòng vây chạy trốn.

Tấn Văn công đứng ở trên núi, thấy quân Tấn đã toàn thắng, sai người bảo Tiên Chẩn hạ lệnh cho quân sĩ chỉ đuổi quân Sở ra khỏi địa giới nước Tống và nước Vệ là được, không nên đuổi nữa, và cũng không được giết hại nhiều người, để đến nỗi tổn thương tình hòa hiếu hai nước và phụ ơn vua nước Sở ngày trước. Tiên Chẩn truyền thu quân về, không đuổi theo quân Sở nữa ; còn Kỳ Man khi trước dám trái lệnh ra đánh cũng truyền bắt giam để trị tội.

Trần, Sái, Trịnh và Hứa thấy hao binh tổn tướng nhiều lắm đều bỏ trốn về nước cả. Thành Đắc Thần cùng với Thành Đại Tâm và Đấu Việt Tiêu ra khỏi vòng vây, đem nhau về bản trại. Bỗng gặp quân sĩ bảo rằng :

- Đồn trại của ta, đã trông thấy cờ hiệu Tề và Tấn cắm đặc cả rồi !

Nguyên Quốc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tấn) nhân khi quân Sở bị vây, vào chiếm cứ lấy đồn trại của quân Sở, bao nhiêu lương thực thu hết cả. Thành Đắc Thần không dám đi qua, phải quặt ra đằng sau núi,men theo sông Như Thủy mà đi Đấu Nghi Thân và Đấu Bột cũng đem tàn quân chạy theo. Đi đến đất Không Tang, bỗng nghe mấy tiếng pháo nổ, có một toán quân chặn ngang đường, trên lá cờ tướng đề một chữ "Ngụy".

Nguyên xưa Ngụy Thù khi ở nước Sở, đã từng một mình đánh nổi con mạc thú, người nước Sở ai cũng phục là thần dũng, bấy giờ quân Sở trông thấy Ngụy Thù đều kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả.

Đấu Việt Tiêu bảo Thành Đại Tâm phò tá lấy nguyên soái là Thành Đắc Thần, rồi một mình cố sức, xông lại đánh nhau với Ngụy Thù.

Đấu Nghi Thân và Đấu Bột bất đắc dĩ cũng phải xông vào đánh giúp. Ba tướng nước Sở cùng nhau đánh với Ngụy Thù mà không địch nổi.

Bỗng có một người phi ngựa ở phía bắc đi đến, quát to lên mà bảo Ngụy Thù rằng :

- Nguyên soái vâng mệnh chúa công truyền phải bãi chiến, tha cho các tướng bên Sở được sống mà về nước, để báo lại cái ơn vua Sở biết trọng đãi ta trong khi còn đi trốn ?

Ngụy Thù nghe lệnh, liền dừng tay không đánh nữa, lại bảo quân sĩ đứng tránh ra hai bên, để cho các tướng nước Sở chạy được thoát. Bọn Thành Đắc Thần cắm đầu đi thẳng. Đi đến đất Liên Cốc, Thành Đắc Thần điểm duyệt tướng sĩ thấy chết hại rất nhiều, thì than van khóc lóc mà nói rằng :

- Ta muốn lảm cho nổi uy danh nước Sở, chẳng ngờ lại mắc phải mưu nước Tấn, đến nỗi thua quân, thật là tội đáng chết lắm !

Nói xong, liền cùng với Đấu Nghi Thân và Đấu Bột đều ở lại đất Liên Cốc, mà sai con là Thành Đại Tâm đến Thân Thành yết kiến Sở Thành vương để xin chịu tội chết. Sở Thành vương nổi giận mà mắng rằng :

- Cha mày khi trước đã có nói : "Nếu không đánh được quân Tấn thì xin chịu tội chết", nay còn kêu ca gì nữa ?

Thành Đại Tâm sụp lạy mà nói rằng :

- Cha tôi biết tội đã nhiều, toan liều mình tự tử, nhưng tôi cố ngăn lại, muốn để đại vương trị tội, khiến cho phép nước được nghiêm minh.

Sở Thành vương nói :

- Phép nước Sở xưa nay, ai đánh giặc bị thua, cũng phải chết cả, các tướng nên liệu mà tự xử, chớ để làm bẩn lưỡi gươm của ta.

Thành Đại Tâm thấy Sở Thành vương không có ý thương xót, thì khóc lóc mà lui ra, trở về báo cho Thành Đắc Thần biết. Thành Đắc Thần than rằng :

- Giả sử vua Sở có tha cho ta, thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy phụ lão ở đất Thân và đất Tức nữa ?

Nói xong, liền ngảnh mặt về phía bắc lạy hai lạy, rồi tuốt gươm ra tự vẫn mà chết.

Vi Giả nghe tin Thành đắc Thần bị thua, hỏi cha là Vi Lô Thần rằng :

- Nghe nói quan lệnh doãn bị thua, chẳng hay có thực hay không ?

Vi Lã Thần nói :

- Thực đấy ?

vi Giả nói :

- Chẳng hay đại vương xử trí ra thế nào ?

Vi Lã Thần nói :

Thành Đắc Thần và các tướng đều xin chịu tội chết, đại vương chẳng động lòng thương.

Vi Giả nói :

- Thành Đắc Thần là người ngang ngạnh mà kiêu ngạo, không thể nắm quyền hành một mình được, nhưng nếu được một người trí mưu giúp vào, thì có thể lập công. Nay dẫu bị thua nhưng ngày khác báo thù được nước Tấn, tất là Thành Đắc Thần, phụ thân nên can đại vương để mà giữ người ấy lại.

Vi Lã Thần nói :

- Nay đại vương đang tức giận, nói cũng vô ích.

Vi Giả nói :

- Phụ thân không nhớ lời nói của người thầy đồng ở Phạm ấp tên là Quật Tự hay sao ?

Vi Lã Thần nói :

Con thử thuật lại cho cha nghe.

Vi Giả nói :

Quật Tự là người tài xem tướng lắm. Lúc đại vương ta còn làm thái tử, Quật Tự có nói : "- Đại vương cùng với Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, ba người này sau đều bất đắc kỳ tử. Đại vương nhớ lời ấy, khi lên làm vua, ban cho Thần Đắc Thành và Đấu Nghi Thân mỗi người một cái miễn tử bài, cất để làm cho lời nói của Quật Tự

không ứng nghiệm được nữa. Vì đại vương đang khi tức giận, nên không nhớ ra, nếu phụ thân nhắc đến thì thế nào đại vương cũng tha tội cho hai người ấy.

Vỉ Lã Thần tức khắc vào tâu với Sở Thành vương rằng :

Thành Đắc Thần tội dẫu đáng chết, nhưng khi trước đây được đại vương ban cho một cái miễn tử bài, vì vậy, tôi thiết tưởng đại vương cũng nên xá tội cho y.

Sở Thành vương ngạc nhiên mà rằng :

- Phải chăng là câu chuyện của Quật Tự ngày trước ? Nếu nhà ngươi không nhắc, thì ta quên hẳn đi mất !

Sở Thành vương sai quan đại phu là Phan Uổng cùng với Thành Đại Tâm tức khắc truyền mệnh cho các tướng đều khỏi tội chết Khi Phan Uổng và Thành Đại Tâm đi đến Liên Các thì Thành Đắc Thần chết đâm nửa ngày rồi. Đấu Nghi Thân đã thắt cổ treo lên xà nhà, nhưng thân thể to lớn, đứt dây rơi xuống lại vừa gặp có lệnh miễn tử đến, thành ra khỏi chết. Đấu Bột thì còn có ý chờ chôn cất xong Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, rồi mới tự tử, bởi vậy cũng khỏi chết. Thành Đại Tâm ở lại Liên Cốc để khâm liệm cho cha, còn bọn Đấu Nghi Thân, Đấu Bột và Đấu Việt Tiêu thì theo Phan Uổng về Thân Thành vào lạy tạ Sở Thành vương. Sở Thành vương thấy nói

Thành Đắc Thần đã tự tử rồi, thì thương xót vô cùng, rồi truyền thu quân trở về kinh đô nước Sở, cho Vi Lã Thần lên làm lệnh doãn, truất Đấu Nghi Thân ra trấn thủ Thương ấp, và Đấu Bột ra trấn thủ ở Tương thành.

Sở Thành vương lại nghĩ thương Thành Đắc Thần, cho con là Thành Đại Tâm và Thành Gia đều làm quan đại phu. Quan nguyên lệnh doãn nước Sở là Tử Văn, bấy giờ đã trí sĩ về ở nhà, nghe tin Thành Đắc Thần bị thua, thở dài mà than rằng :

Quả như lời nói của Vi Giả ngày trước ! Kiến thức của ta, lại không bằng một đứa trẻ con, chẳng cũng xấu hổ lắm ru !

Nói xong, hộc máu mấy thăng, nằm gục xuống giường không dậy được nữa, rồi gọi con là Đấu Ban đến mà dặn rằng :

Cha gần đến lúc chết, dặn lại con một câu này : chú con là Đấu Việt Tiêu, từ khi mới sinh ra, đã có hình dáng như con hùm con gấu, tiếng kêu như giống sài lang, đó là cái tướng diệt tộc ; bấy giờ ta đây nói với ông mày không nên nuôi, ông mày không nghe. Nay Vỉ Lã Thần chắc là không thọ, Đấu Bột và Đấu Nghi Thân cũng khó lòng

mà được toàn tính mệnh, sau này làm lệnh doãn nước Sở, không phải là mày thì tất là Việt Tiêu, Việt Tiêu là người tàn ác, được cầm quyền hành, tất sinh lòng phản nghịch, dòng dõi họ Đấu ta không khéo thì đến nỗi tuyệt tự. Khi ta đã chết rồi, nếu Việt Tiêu lên làm lệnh doãn thì mày nên trốn đi, kẻo mắc phải tai vạ đấy !

Đấu Ban sụp lạy xin vâng lời dạy. Tử Văn nói xong thì chết.

Chẳng được bao lâu, Vi Lã Thần cũng chết. Sở Thành vương nghĩ đến cái công Tử Văn bèn cho Đấu Ban lên làm lệnh doãn, lại đem Đấu Việt Tiêu làm quan tư mã và Vi Giả làm quan công chính.

Tấn Văn công từ khi đánh được Thành Đắc Thần, tiến quân vào đóng ở trong đồn trại quân Sở. Quân Sở bỏ lại lương thực nhiều lắm, quân Tấn lấy ra để ăn, lại nói đùa với nhau rằng :

- Thế này mới thật là người nước Sở mời ta đến ở, lại thết đãi ta đấy !

Các tướng nước Tề và nước Tần đều vào chúc mừng Tấn Văn công Tấn Văn công từ tạ không dám nhận lời chúc mừng mà nét mặt lại sắc buồn rầu. Các tướng nói :

- Nhà vua đánh được giặc mà sao lại có ý không vui ?

Tấn Văn công nói :

- Thành Đắc Thần vốn là người không chịu thua ai, ta dẫu thắng trận, phỏng đã chắc gì, bởi vậy ta có ý lo sợ.

Bọn Quắc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tần) đều cáo từ xin về. Tấn Văn công đem một nửa những đồ lấy được của nước Sở, đưa tặng nước Tề và nước Tần. Tướng nước Tắng là công tôn CỐ cũng cáo từ về nước. Tiên Chẩn cho áp giải Kỳ Man đến trước mặt Tấn Văn công rồi kể tội trái lệnh, gây mối nguy hại cho ba quân.

Tấn Văn công nói :

- Nhà ngươi trái lệnh nguyên soái như thế, nếu không có thượng quân và hạ quân đã đánh được quân Sở từ trước thì còn chống lại sao nổi ?

Tấn Văn công sai quan tư mã là Triệu Thôi định tội rồi chém đầu Kỳ Man để hiệu lệnh cho các quân sĩ :

- Từ nay trở đi, ai dám trái lệnh quan nguyên soái thì trông gương vào đãy !"

Quân sĩ thấy vậy, càng biết sợ uy. Tấn Văn công đóng ở Hữu Sẵn ba ngày, rồi thu quân về nước. Đi đến sông Nam Hà quân sĩ báo rằng :

Dưới sông chưa thấy sửa soạn thuyền bè gì cả.

Tấn Văn công sai người triệu Chu Chi Kiều vốn là tướng nước Quắc, khi trước đầu hàng, về làm tôi nước Tấn. Đến lúc Tấn Văn công đánh Sở, Chu Chi Kiều theo đi, vẫn có ý muốn lập công ; nhưng Tấn Văn công lại sai đi sửa soạn thuyền bè chực sẵn ở sông Nam Hà, để đợi đánh xong quân Sở thì về đấy. Bởi vậy Chu Chi Kiều không bằng

lòng, nhân lại vừa tiếp được tin vợ ở nhà ốm nặng, Chu Chi Kiều bèn nghĩ rằng quân Tấn đánh nhau với Sở, tất còn lâu ngày, liền lẻn về thăm vợ, ai ngờ mới được sáu ngày Tấn Văn công đã đánh xong quân Sở thu quân trở về rồi.

Tấn Văn công không thấy Chu Chi Kiều, tức thì nổi giận, sai quân đi bắt thuyền của dân. Tiên Chẩn nói :

- Dân ở xứ Nam Hà này, nghe tin ta đánh được quân Sở, ai không sợ hãi, nếu ta sai quân sĩ đi bắt thuyền, tất nhiên họ bỏ mà trốn cả, chi bằng ta hạ lệnh thuê thuyền là tiện hơn cả.

Tấn Văn công khen phải, rồi sai quân sĩ đi thuê thuyền. Được một lúc, thuyền đâu kéo đến, không biết bao nhiêu mà kể để đưa đại binh qua sông. Tấn Văn công bảo Triệu Thôi rằng :

- Ta đã báo thù được nước Tào và nước Vệ rồi, chỉ còn nước Trịnh là chưa báo được, nên nghĩ thế nào ?

Triệu Thồi nói :

- Chúa công kéo quân qua nước Trịnh thì tự khắc nước Trịnh phải xin thần phục.

Tấn Vãn công nghe lời. Đi trong mấy ngày nữa, bỗng gặp một đoàn xe ngựa, rước một vị quý nhân từ phía đông kéo đến. Tướng đi tiền đội của quân Tấn là Loan Chi ngăn lại mà hỏi rằng :

Quân nào ?

vị quý nhân ấy đáp rằng :

Ta đây là vương tử Hồ, làm quan khanh sĩ nhà Chu, Thiên tử nhà Chu nghe tin vua Tấn đánh được quân Sở, để giữ yên Trung quốc, muốn thân hành đến khao thưởng quân sĩ, vậy có sai ta đi báo trước cho biết.

Loan Chi tức khắc đưa vương tử HỔ lại yết kiến Tấn Văn công.

Tấn Văn công hỏi các tướng rằng :

- Nay thiên tử muốn thân hành đến để khao thường quân ta, vậy ở nơi đường sá lễ nghi nên thế nào ?

Triệu Thôi nói :

- Từ đây sang Hành Ung cũng gần, ở đấy có một nơi gọi là Tiễn Thổ đất phẳng mà rộng, ta nên nhật dạ khởi công để dựng lên hành cung nhà vua ở đấy rồi chúa công đem các vua chư hầu đi đón thiên tử đến ngự tại đấy, để cùng nhau làm lễ triều kiến, cho khỏi trái đạo vua tôi.

Tấn Văn công liền hẹn với vương tử Hổ, định đến ngày mồng một tháng năm thì đón thiên tử sang đất Tiễn Thổ. Vương tử HỔ cáo từ trở về . Đại binh nước Tấn thẳng đường keo sang Hành Ung. Đi được một quãng lại gặp một đoàn xe ngựa đi đầu là sứ thần nước Trịnh, tên là Tử Nhân Cửu. Nguyên Trịnh Văn công sợ quân Tấn đến hỏi tội, mới sai Tử Nhân Cửu đi xin giảng hòa. Tấn Văn công nổi giận, nói :

- Nước Trịnh nghe tin quân Sở thua, rồi mới chịu xin giảng hòa thì không phải là thực lòng, chờ khi ta nếu kiến thiên tử xong, bấy giờ sẽ đem quân đến tận dưới thành để nói chuyện.

Triệu Thôi nói :

- Từ khi ta cử binh đến nay, đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, lại phá được quân Sở, uy danh đã lừng lẫy lắm rồi nếu lại còn đánh nước Trịnh nữa, thì quân sĩ mệt nhọc quá, xin chúa công cứ cho giảng hòa, nếu nước Trịnh còn có lòng khác thì ta nghỉ quân mấy tháng, rồi sẽ sang đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm.

Tấn Văn công bèn cho nước Trịnh giảng hòa Đại binh kéo đến Hành Ung. Một mặt Văn công sai HỖ Mao và hồ Yến đem quân bản bộ đến đất Tiễn Thổ để dựng hành cung, một mặt sai Loan Chi vào kinh thành nước Trịnh để cùng với Trịnh Văn công hội thề Trịnh Văn công lại thân hành đến Hành Ung để tạ ơn Tấn Văn công đã cho giảng hòa. Tấn Văn công cùng với Trịnh Văn công nói chuyện rất là vui vẻ Trong khi nói chuyện, Tấn Văn công khen Thành Đắc Thần nước Sở là người vũ dũng. Trịnh Văn công nói :

Thành Đắc Thần nay đã tự tử ở đất Liên Cốc rồi !

Tấn Văn công. thở dài thương tiếc. Khi Trịnh Văn công lui ra rồi, Tấn Văn công nói riêng với các tướng rằng :

Ngày nay ta được nước Trịnh thần phục, cũng chẳng lấy gì làm mừng, chi mừng rằng nước Sở đã mất Thành Đắc Thần mà thôi.

Thành đắc Thần đã chết rồi, thì những người khác, ta chẳng lo ngại gì nữa, các người có thể nằm yên được !

HỒ Mao và HỖ Yến ra sức hơn một tháng trời, mới dựng xong vương cung, Tấn Văn công truyền hịch đi các nước chư hầu, hẹn đến mồng một tháng năm phải có đủ mặt ở đất Tiễn Thổ. Lúc bấy giờ, Trung Thành công (Vương thần) Tề Chiêu công (Phan) là những nước giao hiếu từ trước, Trịnh Văn công (Tiệp) là một nước mới quy phụ là

những nước đầu tiên đến dự hội. Còn như LỖ Hi công (Thân) Trần Mục công (Khoản), Sái Trang công (Giáp Ngọ) đều là về cánh nước Sở, nhưng sợ uy nước Tấn, cũng phải đến dự hội. Châu và Cử là nước nhỏ, chẳng kể làm chi, chỉ có Hứa Hi công (Nghiệp) thần phục nước Sở đã lâu không muốn theo Tấn ; Tần Mục công (Nhâm Hiếu) dẫu có giao hiếu với Tấn, nhưng xưa nay chưa dự hội với trung quốc bao giờ, vậy cũng ngần ngại không đến. Vệ Thành công (Trịnh), trước tránh ra Tương Ngưu , Tào Cung công (Tượng) hiện còn giam ở Ngũ Lộc, Tấn Văn công đã hẹn trả lại nước cho, nhưng chưa nói rõ, bởi vậy cũng không được dự hội. Vệ Thành công nghe Tấn Văn công sắp họp chư hầu, bèn bảo Ninh Du rằng :

Vua Tấn hội chư hầu mà không nói gì đến nước Vệ ta, thế thì nước Tấn còn căm tức ta lắm, có lẽ ta phải trốn đi nước khác.

Ninh Du nói :

- Nay chúa công chỉ nghĩ một đường trốn đi mà thôi thì sau này ai là người giúp cho chúa công được trở về nước, chi bằng chúa công nhường ngôi cho Thúc Vũ, lại sai Nguyên Huyến đưa Thúc Vũ đến Tiễn Thổ để xin dự hội. Nếu lòng trời còn tựa nước Vệ mà Thúc Vũ được dự hội thì Thúc Vũ được giữ ngôi nước Vệ, cũng như chúa công

giữ ngôi chứ sao. Huống chi Thúc Vũ vốn là người hiếu hữu, tất chẳng nỡ mà trả lại ngôi cho chúa công.

Vệ Thành công dẫu trong lòng không muốn, nhưng đã đến nước ấy cũng không làm thế nào được, liền sai Tôn Viêm phụng mệnh nhường ngôi cho Thúc Vũ, theo như lời của Ninh Du. Tôn Viêm phụng mệnh đi sang Sở Khâu để nói với Thúc Vũ, Vệ Thành công lại hỏi Ninh Du rằng :

Nay ta nên trốn sang nước nào ?

Ninh Du còn ngần ngừ chưa trả lời. Vệ Thành công nói :

- CÓ nên sang nước Sở không ?

Ninh Du nói :

- Nước Sở nay đang là một nước cừu địch với nước Tấn. Và khi trước ta đây đưa thư tuyệt giao với Sở, bây giờ còn sang làm gì, chi bằng ta sang nước Trần. Nước Trần sắp sửa thần phục nước Tấn, ta lại có thể nhờ nước Trần mà giao thiệp với nước Tấn được.

Vệ Thành công nói :

Đưa thư tuyệt giao, không phải tự ý ta, điều ấy hẳn nước Sở cũng biết. Vả nước Tấn và nước Sở sau này đối đãi với nhau như thế nào cũng chưa biết được, Thúc Vũ theo Tấn mà ta theo Sở thì có phải lại giữ được cả hai bên không ?

Vệ Thành công bèn đi sang Sở. Những người nước Sở ở biên giới trông thấy Vệ Thành công, đều đuổi theo mà mắng nhiếc. Vệ Thành công bất đắc dĩ lại phải quay sang nước Trần, và phục Ninh Du là người cao kiến.

Tôn Viêm phụng mệnh Vệ Thành công đến báo Thúc Vũ. Thúc Vũ nói :

- Tôi xin quyền giữ lấy nước mà thôi, dẫu chúa công nhường ngôi, lẽ đâu tôi dám nhận. .

Nói xong, liền cùng với Nguyên Huyền đến đất Tiễn Thổ để hội với các nước chư hầu, rồi lại sai Tôn Viêm về nói lại cho Vệ Thành công biết rằng khi sang đến Tiễn Thổ thì thế nào cũng vì Vệ Thành công mà xin Tấn phục quốc cho. Nguyên Huyền nói :

- Chúa công ta rất đa nghi, ta không sai con theo sang thì sao cho chúa công tin được ?

Nguyên Huyền liền sai con là Nguyên Dốc đi theo Tôn Viêm.

Công tử Chuyên Khuyển bảo riêng với Nguyên Huyền rằng :

- Chúa công chắc hẳn không trở về được, sao nhà ngươi không đem việc chúa công nhường ngôi mà công bố cho người trong nước biết rồi tôn lập Thúc Vũ lên làm vua, nhà ngươi làm tướng ? Tất nhiên vua Tấn cũng bằng lòng, bấy giờ nhà ngươi nhờ uy nước Tấn thì sẽ cùng Thúc Vũ cùng cầm quyền chính nước Vệ chả hơn ư ?

Nguyên Huyền nói :

Thúc Vũ còn có lòng với anh, nữa là ta lại dám quên vua hay sao ? Ta đi chuyến này, quyết nói với vua nước Tấn để xin trả lại nước cho chúa công.

Công tử Chuyên Khuyển nín lặng lui ra, nhưng lại sợ khi Vệ Thành công đã phục quốc rồi mà Nguyên Huyền tiết lộ lời nói của mình ra thì tất Vệ Thành công bắt tội, mới lập kế lẻn sang nước Trần, mật báo với Vệ Thành công, lại nói dối là Nguyên Huyền đã lập Thúc Vũ lên làm vua, và nhờ uy nước Tấn bảo hộ. Vệ Thành công tin là chuyện thực, liền bảo Tôn Viêm. Tôn Viêm nói :

- Việc ấy tôi không được biết. Nay Nguyên Dốc hiện đang ở đây, cha hắn có mưu gì thì hắn tất biết, sao chúa công không gọi mà hỏi xem ?

Vệ Thành công lại hỏi Nguyên Dốc. Nguyên Dốc nói :

Việc ấy chắc hẳn không có.

Ninh Du cũng nói rằng :

- Nếu Nguyên Huyền có lòng bất trung thì sao lại chịu sai con đến ở đây, xin chúa công chớ nghi ngờ.

Công tử Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

Nguyên Huyến lập mưu làm phản chúa công kể đã lâu ngày, nay cho con sang ở đây, chính là muốn dò xem tình hình chúa công ra sao để phòng bị. Nếu Nguyên Huyền định xin với vua Tấn trả lại nước cho chúa công thì tất Thúc Vũ không dám dự hội, nhược bằng Thúc Vũ dám công nhiên dự hội thề thật là chí định chiếm ngôi, chúa công nên xét kỹ.

Vệ Thành công mật sai người sang đất Tiễn Thổ để dò xemn tình hình Thúc Vũ ra làm sao.

Xa giá Chu Tương vương ngự sang Tiễn Thổ. Tấn Văn công đem chư hầu ra đón Ở ngoài ba mươi dặm rồi rước về chốn vương cung.

Chư hầu làm lễ triều kiến xong, Tấn Văn công đem các phẩm vật lấy được của nước Sở ra dâng nộp. Chu Tương vương bằng lòng, nói :

- Từ khi Tề Hoàn công tạ thế rồi, nước Sở lại cậy sức mạnh, xâm phạm các nước Trung quốc, nay được thúc phụ đem quân đánh Sở để giữ yên nhà Chu ta, điều đó chẳng những một mình ta đội ơn, dẫu tiên vương nhà Chu ta thủa xưa cũng đội ơn nhiều lắm.

Ngày hôm sau, Chu Tương vương sách phong Tấn Văn công làm phương bá. Tấn Văn công lập một cái đàn ở bên cạnh vương cung, để hội thề với chư hầu. Đến hôm khai hội, Tấn Văn công lên đàn trước chư hầu lục tục theo sau. Nguyên Huyền hôm trước đưa thúc Vũ vào yết kiến Tấn Văn công, hôm ấy Thúc Vũ quyền nhận nghi vua nước Vệ, cũng được đứng phụ ở cuối tờ ước thư.

Vương tử HỔ tuyên đọc lời thế rằng :

Phàm các nước đồng minh ta, nên cùng một lòng giữ nhà Chu, chớ tàn hại lẫn nhau, kễ nào trái lời thề thì quỷ thần tru diệt .

Các vua chư hầu đồng thanh nói :

- Xin phụng mệnh !

Thề xong Tấn Văn công muốn đem Thúc Vũ vào tiểu kiến Chu Tương vương và lập làm vua nước Vệ để thay Vệ Thành công. Thúc vũ ứa nước mắt mà từ chối với Tấn Văn công rằng :

Ngày xưa Tề Hoàn công hội chư hầu ở đất Ninh Mặc, thế tử Hoa nước Trịnh là con mà làm phản cha, Tề Hoàn công còn đem lời trách mắng ; nay chúa công đang noi theo sự nghiệp của Tề Hoàn công thủa trước, mà lại muốn cho Thúc Vũ này là em mà làm phản anh hay sao ? Nếu chúa công có lòng thương đến tôi thì xin trả ngôi

vua nước Vệ cho anh tôi, anh tôi sẽ dốc một lòng thần phục quý quốc.

Nguyên Huyền cũng sụp lạy mà xin cho Vệ Thành công. Tấn Văn công thấy vậy, mới gật đầu thuận cho.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 42 : Tương vương thiết triều ở Hà DươngNguyên Huyền khiếu oan cho Thúc Vũ

Chu Tương vương thân hành đến Tiễn Thổ úy lạo Tấn Văn công, rồi lại trở về nhà Chu. Các vua chư hầu cũng cáo từ về nước cả.

Vệ Thành công từ khi nghe lời Chuyên Khuyển nói, có ý nghi ngờ, mới sai người đến đất Tiễn Thổ để dò xem tình hình Thúc Vũ ra sao. Bấy giờ thấy Nguyên Huyền đưa Thúc Vũ vào dự hội với các vua chư hầu, chưa kịp xét kỹ vội vàng về phi báo cho Vệ Thành công biết. Vệ Thành công nổi giận nói :

- Nếu vậy thì Thúc Vũ tự lập làm vua nước Vệ rồi. Nguyên Huyền là đứa phản tặc, tham cầu phú quý, phù lập Thúc Vũ lên làm vua ; lại sai con đến ở đây để dò xét tình hình ta, khi nào ta lại dung tha cho cha con nó.

Con Nguyên Huyến là Nguyên Dốc toan tìm lời phân giải. Vệ Thành công chém một nhát, Nguyên Dốc chết ngay. Những người theo hầu Nguyên Dốc vội vàng trốn về báo tin cho Nguyên Huyền biết. Nguyên Huyền nói :

- Con ta sống chết chẳng qua cũng là tại số, chúa công dẫu phụ lòng Nguyên Huyền này, nhưng Nguyên Huyền này có đâu dám phụ lòng Thúc Vũ !

Tư mã Man bảo Nguyên Huyến rằng :

- Chúa công đã có lòng nghi thì nhà người há chẳng nên từ chức bỏ về, để tỏ lòng tnmg thành của mình ru !

Nguyên Huyền thở dài mà than rằng :

Nếu tôi từ chức .bỏ về thì ai cùng Thúc Vũ giữ nước này ? Con ta bị giết là một việc riêng, lẽ nào ta vì một việc riêng mà không nghĩ đến nước hay sao ?

Nói xong, liền bảo Thúc Vũ viết thư xin Tấn Văn công trả lại ngôi vua cho Vệ Thành công.

Tấn Văn công sau khi đã phụng mệnh thiên tử lên làm bá chủ, liền thu quân về nước. Dân nước Tấn, già trẻ lớn bé tranh nhau đi đón, tưng bừng nô nức. Tấn Văn công về đến triều, bàn việc ban thưởng các công thần, lấy HỒ Yến làm công đầu, thứ nhì Tiên Chẩn.

Các tướng đều nói rằng :

- Trận Thành Bộc, ta phá được quân Sở, đều nhờ công Tiên Chẩn cả, nay lại lấy HỖ Yến làm công đầu là cớ làm sao ?

Tấn Văn công nói :

- Về việc Thành Bộc, Tiên Chẩn bảo ta rằng : "Nên đánh ngay quân Sở, chớ có bỏ mất dịp hay" mà HỒ Yến bảo ta rằng : "Nên lui tránh quân Sở, chớ bỏ mất điều tín nghĩa" Đánh được quân giặc, chẳng qua là cái công một thời ; giữ được điều tín nghĩa, mới thật là cái lợi muôn đời, thế thì HỒ Yến ở trên Tiên Chẩn là phải.

Các tướng đều tâm phục cả. HỔ Yến lại tâu rằng :

Tuân Tức ngày xưa chết vì cái nạn Hề Tề và Trác Tử, thật là một kẻ trung thần đáng nêu gương, xin chúa công bổ dụng con cháu, để khích lệ các bề tôi khác.

Tấn Văn công nghe lời, liền triệu con trai Tuân Tức là Tuân Lâm Phủ, bổ làm chức quan đại phu. Chu Chi Kiều đang ở nhà với vợ con, nghe tin Tấn Văn công sắp đến, vội vàng đón đường để yết kiến.

Tấn Văn công truyền giam lại một chỗ. Khi ban thưởng công thần xong, Tân Văn công liền sai quan tư mã là Triệu Thôi nghị tội Chu Chi Kiều. Chu Chi Kiều kêu van vì cớ vợ ốm. Tấn Văn công nói :

- Kẻ bề tôi đã hết lòng thờ vua thì dẫu thân mình cũng chẳng dám tiếc, huống chi là vợ con !

Nói xong, truyền đem ra chém.

Tấn Văn công từ khi đem quân đi đánh Sở, lần thứ nhất chém Điên Thiệt, lần thứ hai chém Kỳ Man, đến bây giờ lại chém Chu Chi Kiều, ba người ấy đều là bậc danh tướng mà làm việc trái phép cả, bởi vậy các tướng sĩ ai cũng sợ uy theo lệnh. Một hôm, Tấn Văn công ngự triều đang cùng với HỐ Yến bàn việc nước Tào và nước Vệ, bỗng tiếp được thư của nước Vệ gửi đến, Tấn Văn công nói :

- ĐÓ tất là thư của Thúc Vũ xin hộ cho anh.

Nói đoạn mở thư ra xem. Thư rằng :

Chúa công không nỡ diệt nước Vệ và đã hứa lời tha cho vua nước Vệ tôi. Người nước Vệ tôi ai cũng nghển cố trông chở việc làm cao nghĩa của chúa công. Vậy xin chúa công sớm liệu cho

Trần Mục công cũng sai sứ đến nước Tấn, xin lỗi hộ cho Vệ Thành công. Tấn Văn công viết thư hồi đáp, thuận cho Vệ Thành công về nước ; lại hạ lệnh cho Khước BỘ Dương chớ đem quân ngăn trở.

Thúc Vũ được tin Tấn Văn công tha cho Vệ Thành công về nước, vội vàng sai người sang nước Trần để đón Vệ Thành công. Trần Mục công cũng sai người khuyên Vệ Thành công về nước. Công tử Chuyên Khuyển bảo Vệ Thành công rằng :

- Thúc Vũ làm vua nước Vệ đã lâu, được người trong nước ai cũng quy phụ, và nước ngoài giao hảo, nay dẫu cho người sang đón, chúa công cũng chớ nên tin vội.

Vệ Thành công nói :

- Ta cũng lấy làm lo lắm !

Nói xong, liền sai Ninh Du đến Sở Khâu trước để dò xét tình hình. Ninh Du đến Sở Khâu, vừa gặp lúc Thúc Vũ đang bàn việc ở trong triều. Ninh Du vào triều, thấy Thúc Vũ không đặt chỗ ngồi ở chính giữa điện mà chỉ ngồi ở trái đông, lại trở mặt về hướng tây.

Thúc vũ trông thấy Ninh Du, vội vàng chạy ra đón vào, tiếp đãi rất lễ phép. Ninh Du giả cách hỏi rằng :

- Ngài đã quyền ngự ngôi vua, mà lại ngồi ở bên trái thì sao cho trọng thể thống ?

Thúc Vũ nói :

- Ngôi chính ở giữa là chỗ anh tôi ngự xưa nay, tôi ngồi Ở gian bên cạnh, cũng còn có ý sợ hãi, khi nào lại dám ngự ở gian giữa.

Ninh Du nói :

- Bây. giờ tôi mới biết rõ lòng ngài ?

Thúc Vũ nói :

Tôi vẫn ngày đêm mong nhớ anh tôi lắm, đại phu nên khuyên anh tôi mau mau về triều, để cho tôi được yên lòng. .

Ninh Du mới đính ước, hẹn đến ngày mùng một tháng sáu thì đưa. Vệ Thành công về nước. Ninh Du cáo từ lui ra, và nghe ngóng ý kiến của mọi người thì thấy nói các quan trong triều đều xúm nhau bàn luận, chỉ sợ vua cũ lại về thì tất nhiên trị tội những kẻ ở nhà , bởi vậy ai cũng lấy làm lo ngại. Ninh Du bèn nói với các quan rằng :

- Tôi phụng mệnh vua cũ đến đây để truyền . bảo cho các quan biết rằng khi vua cũ về nước, quyết không bắt tội ai cả ; nếu cắc quan không tin thì tôi xin cùng với các quan cùng thề.

Các quan đều nói :

Nếu cùng thề với nhau thì còn nghi ngại gì nữa !

Ninh Du liền cùng với các quan thề. Cắc quan đều bằng lòng cả.

Thúc Vũ lại sai quan đại phu là Trường lương chuyên giữ quốc môn, và dặn rằng phàm những người của Vệ Thành công thì bất cứ lúc nào, cũng mở cửa cho vào ngay. Ninh Du về nói với Vệ Thành công rằng :

Thúc Vũ thật lòng đợi chúa công về. chứ không có ý làm phản.

Vệ Thành công cũng có lòng tin. Khốn nỗi Chuyên Khuyển khi trước đây đem lời gièm pha Thúc Vũ, sợ khi lộ việc ra thì bi tội, nên lại nói với Vệ Thành công rằng :

- Tôi chỉ e Thúc Vũ cùngvới Ninh Du ước định nhau để làm hại chúa công, chi bằng chúa công cứ nhân lúc bất ngờ, về trước ngày hẹn thì mới có thể vẹn toàn được.

Vệ Thành công theo lời, truyền sắp sửa xa giá để về nước Vệ. Chuyên Khuyển xin làm tiến khu. Vệ Thành công cho đi. Ninh Du nói :

- Tôi đã hẹn ngày với người trong nước rồi, nay chúa công về trước ngày hẹn thì người trong nước tất có lòng nghi hoặc.

Chuyên Khuyển quát to lên rằng :

- Ninh Du không muốn cho chúa công chóng về là chủ ý thế nào ?

Ninh Du không dám can ngăn nữa, chỉ xin với Vệ Thành công cho đi trước để hiểu dụ người trong nước, khiến mọi người được yên lòng Vệ Thành công nói :

- Nhà ngươi hiểu dụ cho người trong nước biết rằng nay ta vội về là có lòng nhớ nước, chứ không vì cớ gì khác.

Ninh Du đi rồi, Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

Ninh Du xin về trước, cũng đáng nghi lắm, chúa công phải đi mau mới được.

Vệ Thành công truyền cho quân sĩ đi mau. Ninh Du về đến quốc môn, Trường Dương hỏi biết là người của Vệ Thành công tức khắc mở cửa cho vào. Ninh Du nói :

Chúa công sắp về đến nơi ?

Trường Dương nói :

- Sao chưa đến hẹn mà chúa công đã về ngay như vậy ? Nhà ngươi vào thành báo tin cho Thúc Vũ biết, để tôi đi đón chúa công.

Ninh Du vừa mới quay mình đi khỏi thì Chuyên Khuyển đã đến nơi rồi. Chuyên Khuyển nói :

Chúa công đang đi sau

Trường Dương vội vàng đem quân đi đón. Chuyên Khuyển tiến thẳng vào trong thành. Bấy giờ Thúc Vũ đang đốc thúc quân sĩ quét dọn cung thất, rồi ngồi gội đầu ở giữa sân, thấy Ninh Du vào báo tin vệ Thành công về, nửa sợ nửa mừng, vừa toan hỏi vì cớ gì mà về trước ngày hẹn, thì lại nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, tưởng là Vệ Thành công đã về, tóc còn chưa ráo, vội vàng lấy tay vén lên, chạy ra đón,

chẳng ngờ lại là Chuyên Khuyển. Chuyên Khuyển sợ để Thúc Vũ sống thì sau này anh em hỏi nhau, lại tỏ rõ tội mình ra, liền giương cung bắn một phát, trúng ngay vào bụng Thúc Vũ. Thúc Vũ ngã gục xuống.

Ninh Du vợi vàng chạy lại để cứu thì đã không kịp rồi.

Nguyên Huyền nghe tin Thúc Vũ bị giết, thì giật mình kinh sợ và chửi rằng :

- Đứa hôn quân vô đạo ! Mày giết oan một người vô tội, trời nào có dung mày, phen này ta quyết sang kêu với vua Tấn, thử xem mày có ngồi yên được hay không ?

Nguyên Huyền lăn khóc một lúc, rồi bỏ trốn sang nước Tấn. Vệ Thành công về đến quốc môn, Trùng Dương đón. Vệ Thành công hỏi chuyện. Trường Dương nói :

Thúc Vũ có dặn tôi rằng chúa công muốn về lúc nào cũng cứ để cho vào, không được ngăn trở.

Vệ Thành công thở dài mà than rằng :

- Em ta quả không có ý gì khác cả.

Khi vào đến trong thành, trông thấy Ninh Du nước mắt dàn dụa chạy lại nói rằng :

Thúc Vũ đang gội đầu, nghe tin chúa công về, vội vàng mừng rỡ lấy tay vén tóc, chạy ra để đón, ai ngờ Chuyên Khuyển bắn chết, khiến cho tôi thất tín với người trong nước, xin chúa công xét cho.

Vệ Thành công hổ thẹn đáp rằng :

Ta đã biết Thúc Vũ oan rồi.

Nói xong, liền tiến thẳng vào trong cung. Các quan nghe tin lục tục ra đón, kẻ trước người sau, không được đều nhau. Ninh Du đưa Vệ Thành công đến xem thi thể Thúc Vũ : hai mắt Thúc Vũ còn mở trừng trừng như người sống vậy. Vệ Thành công ôm đầu Thúc Vú để kê lên trên đùi, rồi khóc òa lên rằng :

- Em ơi ? Vì em mà anh được về, nay vì anh mà em phải chết, đau lòng anh lắm ! .

Bỗng hai mắt Thúc Vũ sáng quắc lên, rồi dần dần nhắm lại.

Ninh Du nói :

Không giết Chuyên Khuyển thì sao cho thỏa linh hồn Thúc Vũ

Vệ Thành công tức khắc sai người bắt Chuyên Khuyển. Bấy giờ Chuyên Khuyển toan đi trốn, nhưng bị Ninh Du sai người bắt ngay được đem về nộp Vệ Thành công. Chuyên Khuyển nói rằng :

- Tôi giết Thúc Vũ cũng là vì chúa công !

Vệ Thành công nổi giận, nói :

- Mày cố tình gièm pha em ta, lại tự tiện giết người vô tội, nay còn toan đổ lỗi cho ta hay sao !

Nói xong, truyền đem ra chém, lại truyền lấy lễ quốc quân hậu táng cho Thúc Vũ. Người nước Vệ khi trước nghe tin Thúc Vũ bị giết, đều huyên náo cả lên, nay thấy Vệ Thành công chém Chuyên Khuyển và hậu táng cho Thúc Vũ, trong nước mới được yên ổn.

Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, sụp lạy ở dưới đất thuận lại câu chuyện Vệ Thành công nghi ngờ Thúc Vũ mà sai Chuyên Khuyển bắn chết Thúc Vũ, Nguyên Huyền vừa nói vừa khóc. Tấn Văn công động lòng thương xót, đem lời an ủi Nguyên Huyền, mời ra nghỉ ở nhà công

quán rồi họp triều thần lại để thương nghị. Tấn Văn công hỏi các quan rằng :

Ta nhờ sức các ngươi, đánh một trận mà thắng quân Sở, lại phụng mệnh thiên tử, hội chư hầu ở đất Tiễn Thổ, sát nghiệp bá chủ chẳng kém gì Tề Hoàn công thủa xưa, nhưng nước Tần không dự hội, nước Hứa không vào triều, nước Trịnh dẫu hội thề mà vẫn có lòng nghi hoặc, nay vua Vệ về nước mà dám tự tiện giết em là một người đã dự hội với ta, nếu ta không đem quân đi đánh thì sao cho thu phục được chư hầu, vậy chúng ta phải định kế như thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

Nước nào làm điều trái phép thì bá chủ có quyền đem quân hỏi tội. Tôi xin sẵn sàng binh mã để chờ lệnh.

HỒ Yến nói :

Làm bá chủ muốn thu phục được chư hầu, tất phải nhờ uy linh của thiên tử, nay thiên tử đã thân hành đến khao thưởng chúa công, mà chúa công thì chưa vào triều kiến thiên tử, vậy thì lấy gì cho người ta phục, chi bằng chúa công hiệu triệu chư hầu vào triều kiến thiên tử, nước nào không đến thì ta sẽ kể tội tiết mạn thiên tử mà đem quân đi đánh.

Triệu Thôi nói :

- Tử Phạm (tên tự HỖ Yến) nói phải lắm ! Nhưng tôi e rằng việc vào triều kiến thiên tử khó lòng mà làm xong sớm được

Tấn Văn công nói :

-Tại sao mà khó lòng?

Triệu Thôi nói :

- Chư hầu đã lâu nay không vào triều kiến thiên tử, bây giờ chúa công đem quân vào chốn kinh sư thì tất thiên tử có lòng nghi ngại mà kiếm cách để từ tạ, chi bằng ta đại hội chư hầu ở đất ôn ấp rồi mời thiên tử đến đấy để ta được triều kiến thì tiện được nhiều điều lắm : một là vua tôi không ngờ vực nhau ; hai là chư hầu không phải

đi xa khó nhọc ; ba là ở đấy đã sẵn có cung thất của vương tử Đái làm ngày trước, không phải tốn công xây dựng nữa.

Tấn Văn công nói :

Làm thế nào mà đem được thiên tử đến đấy ?

Triệu Thôi nói :

- Nay thiên tử đang muốn làm thân với nước Tấn ta, xin chúa công cho tôi vào sứ nhà Chu mà nói về việc ấy.

Tấn Văn cồng bằng lòng, liền sai Triệu Thôi vào nhà Chu liệu.

Thôi tâu với Chu Tương vương rằng .

Chúa công tôi cảm cái ơn thiên tử thân hành khao thưởng và phong chức phương bá, cho nên muốn đem chư hầu đến kinh sư để làm lễ triều kiến, vậy cúi xin thiên tử soi xét

chu Tương vương nín lặng, truyền cho Triệu Thôi hãy ra nghỉ ở công quán, và gọi vương tử HỔ vào để thương nghị. Chu Tương vương bảo vương tử HỔ rằng :

Tấn hầu xin đem quân đến kinh sư để làm lễ triều kiến, sự thể rất là bất trắc, trẫm muốn từ chối thì nên làm thế nào ?

Vương tử HỔ nói :

Xin nhà vua cho tôi được phép đến tiếp kiến sứ thần nước Tấn, để dò xét tình ý, nếu từ chối được thì tôi sẽ kiếm lời mà từ chối.

Vương tử HỔ đến tiếp kiến Triệu Thôi. Triệu Thôi nói đến việc Tấn Văn công xin vào triều. Vương tử HỔ nói :

Tấn hầu muốn xuất lĩnh các nước để vào triều kiến thiên tử, đó là một việc rất hay, chỉ ngặt một điều là các nước họp mặt ở kinh sư thì ngựa xe, lính tráng, ra vào tấp nập, dân nhà Chu lạ mắt, đem lòng nghi ky mà sinh ra điều nọ tiếng kia, lại tránh ra phụ lòng Tấn hầu, cho nên tôi nghĩ rằng việc này nên thôi đi là hơn.

Triệu Thôi nói :

- Chúa công tôi thực lòng nhớ mến thiên tử, ngày tôi ra đi, đã truyền hịch các nước, ước định họp nhau cả ở ôn ấp ; nếu nay thôi đi thì chẳng hóa ra chuyện đùa bỡn hay sao ?

Vương tử HỔ nói :

Vậy thì nên làm thế nào ?

Triệu Thôi nói :

Tôi nghĩ có một kế, nhưng không dám nói ra.

Vương tử HỔ nói :

Ngài có kế gì hay, tôi xin theo ý.

Triệu Thôi nói :

Đời xưa thiên tử có lễ đi tuần thú, để xem tục dân. Nay thiên tử mượn tiếng đi tuần thú, ngự ra đất Hà Dương (tức là ôn ấp) nhân đó chúa công tôi đem chư hầu đến làm lễ triều kiến, như thế thì giữ được cái thể tôn nghiêm của thiên tử mà khỏi phụ tấm lòng thành của chúa công tôi. Tôi nghĩ như vậy, không biết nên chăng ?

Vương tử HỔ nói :

Ngài bàn kế ấy thật là tiện cả đôi đường, để tôi xin tâu lại với thiên tử.

Vương tử HỔ vào triều, đem lời nói của Triệu Thôi tâu lại với Chu Tương vương. Chu Tương vương mừng lắm, hẹn đến ngày 1 tháng mười thì ngự Hà Dương. Triệu Thôi về nói lại với Tấn Văn công Tấn Văn công bá cáo cho chư hầu biết. Đến hôm ấy, Tề Chiêu công (Phan), Tống Thành công (Vương Thần), Lỗ Hi công (Thân), Sái Trang công (Giáp Ngọ), Tần Mục công (Nhâm Hiếu), và Trịnh Văn cõng (Tiệp) đều lục tục đến cả. Tần Mục công nói với Tấn Văn công rằng :

Ngày trước quý quốc chư hầu Ở Tiễn Thổ, nước tôi còn ngại đường xa đến chậm nên không dự hội. Ngày nay nước tôi xin đi theo phía sau chư hầu.

Tấn Văn công nhận lời. Bấy giờ Trần Mục công (Khoản) mới mất, con là Sóc mới lên nối ngôi, tức là Trần Cung công. Trần Cung công sợ, uy nước Tấn, cũng để tang mà đến dự hội. Các nước nhỏ như nước Châu và nước Cử đều cũng đến dự hội cả. Vệ Thành công tự biết mình có tội, đã toan không đi, Ninh Du can rằng :

Nếu ta không đi thì lại càng thêm tội, tất nhiên nước Tấn đem quân đến đánh.

Vệ Thành công bất đắc dĩ phải đi. Ninh Du, Hàm Trang Tử và Si Vinh ba người cùng đi theo. Khi Vệ Thành công đi đến ôn ấp, thì Tấn Văn công không cho vào yết kiến, lại phái một toán quân bắt mà giam lại. Các nước họp tại ôn ấp, cả thảy có mười nước là :

1 Tấn 6. Tần

2. Tễ 7. Trinh

3. Tống 8. Trần

4. LỖ 9. Châu

5. Sái 10. Cử

Chỉ có nước Hứa là một mực thủ hiểm, không chịu theo lệnh Tấn Văn công. Đúng ngày 1 tháng mười thì Chu Tương vương ngự đến. Tấn Văn công đem chư hầu đi đón, rỗi làm lễ triều kiến, mũ áo cân đai, trông rất nghiêm chỉnh. Khi triều kiến xong, Tấn Văn công đem sự tình Thúc Vũ nước Vệ bị oan tâu với Chu Tương vương, và xin sai vương tử HỔ cùng xử cái án ấy. Chu Tương vương thuận cho, rồi sai người gọi Vệ Thành công. Vệ Thành công mặc áo tù mà đến. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền cũng đến. Vương tử HỔ nói với Tấn Văn công rằng :

- Chẳng lẽ hai vua tôi lại đối tụng nhau, xin cho người khác vào thay .

Nói xong, truyền cho Vệ Thành công lui xuống nhà dưới. Ninh Du theo liền bên cạnh Vệ Thành công không rời một bước. hàm Trang tử thay Vệ Thành công vào đối tụng với Nguyên Huyền. Sĩ Vinh được quyền làm trị ngục quan để đối chứng việc ấy, Nguyên Huyền miệng nói trơn như nước chảy, kể hết đầu đuôi từ khi Vệ Thành công trốn ở đất Tương Ngưu, dặn lại Thúc Vũ giữ nước như thế nào, về sau vì thế nào mà giết chết Nguyên Dốc và Thúc Vũ. Hàm Trang Tử nói :

ĐÓ là tại Chuyên Khuyển đem lời gièm pha, khiến chúa công lầm nghe, không can dự gì đến chúa công cả.

Nguyên Huyền nói :

- Chuyên Khuyển lúc trước có nói với tôi xin lập Thúc Vũ, nếu tôi nghe lời thì khi nào chúa công lại được trờ về ; chỉ vì tôi nghĩ đến cái lòng yêu anh của Thúc Vũ. mà cự tuyệt Chuyên Khuyển. Ai ngờ Chuyên Khuyển lập kế báo thù, nhưng nếu chúa công không có lòng nghi kỵ Thúc Vũ thì Chuyên Khuyển gièm pha thế nào nổi ? Tôi sai con tôi là Nguyên Dốc theo hầu chúa công, để tỏ bày tâm tích, ấy chính là do lòng tốt của tôi, thế mà tự chiên vô cớ, con tôi không có tội gì, chúa công cũng giết đi ; cứ suy việc giết con tôi là Nguyên Dốc thì cũng đủ biết chúa công có ý định giết Thúc Vũ rồi.

Sĩ Vinh bẻ lại rằng :

- Nhà ngươi vì việc con mình bị giết mà đem lòng thú oán, chứ không phải vì Thúc Vũ

Nguyên Huyền nói :

- Tôi vẫn thường nói : giết con là oán riêng, giữ nước là việc lớn, có đâu tôi dám vì oán riêng mà bỏ việc lớn. Ngày trước Thúc Vũ dâng thư xin với vua Tấn phục quốc cho anh thì bức thư ấy chính tay tôi làm, nếu tôi đem lòng thù oán, khi nào tôi chịu như thế. Việc giết Nguyên Dốc, trước tôi cũng cho là một sự nghe lầm, tất có ngày phải hối mà nghĩ lại, ngờ đâu lại đi lụy đến Thúc Vũ ngày nay !

Sĩ Vinh nói :

Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, chúa công ta cũng đã xét tình rồi. Chẳng may bị Chuyên Khuyển giết, đó không phải là tự ý chúa công

Nguyên Huyền nói :

- Chúa công đã biết Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, và những lời Chuyên Khuyển nói toàn là bịa đặt cả, thì sao không trị tội Chuyên Khuyển, mà lại nghe lời hắn ; trước thì hẹn đem quân về nước, mà khi về nước lại cho hắn làm tiền khu, rõ ràng là muốn mượn tay Chuyên Khuyển để giết Thúc Vũ, sao lại bảo rằng không biết ?

Hàm Trang Tử cúi đầu, không cãi được một câu nào. Sĩ Vinh lại bẻ Nguyên Huyền rằng :

Thúc Vũ dẫu bi oan khổ, nhưng Thúc Vũ là bề tôi, chúa công là vua, xưa nay bề tôi bị vua giết oan, biết bao nhiêu mà kể cho xiết !

Và chúa công đã giết Chuyên Khuyển, và làm lễ hậu táng cho Thúc Vũ thế là thưởng phạt phân minh lắm rồi, còn tội gì nữa !

Nguyên Huyền nói :

Ngày xưa, Kiệt giết oan Long Bàng, thì vua Thang cử binh đánh Kiệt ; Trụ giết oan Tỉ Can, thì Vũ vương cử binh đánh Trụ: Vua Thang và Vũ vương đều là bề tôi của Kiệt, Trụ cả, thế mà mắt trông thấy người trung lương. bị oan khổ, cũng phải cử binh để giết kẻ hung tàn. Huống chi Thúc Vũ cùng với chúa công là tình anh em, Thúc Vũ

lại có công giữ nước, không phải như Long Bàng và Tỉ Can mà thôi ; mà chúa công chẳng qua là chư hầu, còn ở dưới quyền thiên tử và phương bá, chưa phải là thiên tử như Kiệt và Trụ, sao lại cho là vô tội được?

Sĩ Vinh nghẹn lời, không cãi sao được nữa, lại nói lảng rằng :

- Chúa công dẫu trái nữa, nhưng nhà ngươi là bề tôi, nếu đã một lòng tận trung với chúa công thì sao khi chúa công về nước nhà ngươi không ra triều kiến mà lại bỏ trốn, là nghĩa thế nào ?

Nguyên Huyền nói :

- Tôi cùng Thúc Vũ giữ nước, thật là vâng mệnh chúa công. Chúa công đã không bao dung được Thúc Vũ, thì khi nào lại có lòng bao dung tôi ? Tôi trốn đi, không phải là sợ chết tham sống mà chỉ muốn bày tỏ cái oan khổ này cho Thúc vũ

Tấn Văn công nghe nói, ngảnh lại bảo vương tử HỔ rằng :

- Xem Sĩ Vinh và Nguyên Huyền qua lại bấy nhiêu lời thì rõ Nguyên Huyền là người thẳng thắn. Vua nước Vệ là bề tôi của thiên tử, tôi không dám trị tội, nay hãy xin trị tội những kẻ về bè cánh với vua nước Vệ.

Nói xong, liền sai đem chém tất cả những kẻ vây cánh của Vệ Thành công Vương tử HỔ nói :

- Tôi nghe nói Ninh Du là một quan đại phu có đức ở nước Vệ, mà trong việc này Ninh Du cũng hết lời khuyên bảo, nhưng vua nước Vệ không nghe. Vả việc này không can dự gì đến Ninh Du, vậy không nên bắt y chịu tội. Còn Sĩ Vinh được quyền chức tội ngục, mà xét đoán không minh thì nên trị tội trước nhất, Hàm Trang Tử biết là trái lẽ, không cãi câu nào, cũng nên giảm tội cho.

Tấn Văn công theo lời, truyền chém đầu SĨ Vinh, chặt chân Hàm Trang Tử, còn Ninh Du thì tha không hỏi đến. Tấn Văn công cùng vương tử HỔ đem những lời nói của bên nguyên và bên bị vào tâu với Chu Tương vương và xin trị tội Vệ Thành công. Chu Tương vương nói :

- Thúc phụ xử đoán thật là công minh, nhưng trẫm e rằng vì bề tôi mà giết vua thì sao cho phải đạo. Trẫm nói vậy thật không có tư tình gì với vua Vệ đâu !

Tấn Văn công sợ hãi, sụp lạy mà xin lỗi rằng :

Kẻ hạ thần không nghĩ đến điều ấy thiên tử đã dạy như vậy thì nên giải vua Vệ về kinh sư để tùy lượng trên xử đoán.

Tấn Văn công truyền cho quân sĩ giữ Vệ Thành công để giải về kinh sư ; lại một mặt cho Nguyên Huyền trở về nước Vệ mà lập vua khác Nguyên Huyền về đến nước Vệ, cùng các quan triều thần thương nghị nói dối là Vệ Thành công đã bị tội chết rồi, nay phụng mệnh thiên tử về lập vua khác. Các quan triều thần đều cử em ruột Thúc Vũ là công tử Thích, tên tự là Tử Hà. Công tử Thích vốn là người nhân hậu. Nguyên Huyền nói :

Lập công tử Thích là phải lắm, anh chết thì em nối.

Nói xong, liền tôn công thử Thích lên nối ngôi, Nguyên Huyền làm tể tướng. Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 43 : Ninh Du lập kế cứu vua VệChúc Vũ thương thuyết lui quân Tần .

Chu Tương vương nhận lễ tiễu kiến xong thì lên đường trở về Lạc Dương. Chư hầu tiễn đưa Tương vương ra đến ngoài cõi Hà Dương. Tiên Miệt lĩnh mệnh chư hầu giải Vệ Thành công về kinh sư.

Bấy giờ Vệ Thành công có bệnh đau, Tấn Văn công sai thầy thuốc là Y Diễn đi theo, mượn tiếng chữa bệnh cho Vệ Thành công, kỳ thực là để đánh thuốc độc cho Vệ Thành công chết đi. Lại bắt Y Diễn phải làm xong việc, nếu không sẽ phải tội chết. Tấn Văn công lại dặn riêng Tiên Miệt phải cùng với Y Diễn lưu ý về việc ấy. Chu Tương vương về rồi, Tấn Văn công bảo các vua chư hầu rằng :

Tôi phụng mệnh thiên tử, được giữ quyền chinh phạt. Nay người nước Hứa một lòng theo Sở, không thần phục nhà Chu ; thiên tử ngự ra đất này, chư hầu đều phải đến triều kiến cả, thế mà nước Hứa ở gần đây, lại làm ra như không nghe thấy gì cả, khinh nhờn đến thế là cùng, vậy tôi xin cùng với các vua chư hầu đến hỏi tội nước Hứa.

Các vua chư hầu đều xin vâng mệnh. Tấn Văn công cùng với tám nước chư hầu là : Tề, Tống, Lỗ, Sái, Trần, Tần, Cử và Châu đem quân tiến sang nước Hứa. Chỉ có Trịnh Văn công nguyên có thân tình với nước Sở, mà vì sợ uy nước Tấn, cho nên trước đây phải đến dự hội, nhưng nay thấy Tấn Văn công đối đãi với Tào và Vệ một cách thái quá thì có ý không bằng lòng, nghĩ thầm rằng :

Khi vua Tấn còn đi trốn, nước ta đây thất lễ với hắn, chắc hắn cũng không quên được cái thù ấy, xem như hắn đối đãi với vua Tào và vua Vệ thì biết. Chi bằng ta cứ tư thông với sở, phòng khi hoạn nạn, ta có chỗ mà lui chân.

Quan thượng thư nước Trịnh là Thúc Thiêm thấy Trịnh Văn công trù trừ, có ý muốn phản bội nước Tấn, thì can rằng :

- Vua Tấn đã cho ta giảng hòa, đó là một điều may cho ta, chúa công chớ nên nước đôi, nếu nước đôi thi tất có tai vạ.

Trịnh Văn công không nghe, cho người phao tin rằng trong nước có bệnh dịch, rồi lấy cớ là phải về làm lễ kỳ an mà cáo tứ Tấn Văn công để về trước ; lại sai người sang báo tin với Sở rằng :

- Vua Tấn ghét nước Hứa thần phục quý quốc, sắp đem quân chư hầu đến đánh ; nước tôi sợ uy quý quốc, không dám đem quân đi theo Các nước, xin nói để quý quốc biết.

Ngườỉ nước Hứa nghe tin các nước đến đánh, cũng sai người cáo cấp với Sở Thành vương. Sở Thành vương nói :

- Quân ta mới thua, không nên sinh sự với Tấn vội, đợi khi nào nước Tấn chán việc chinh chiến, bấy giờ ta sẽ cùng Tấn Giảng hòa.

Thế là Sở không đem quân cứu Hứa. Chư hầu đem quân vây chặt đất Dĩnh Dương (kinh thành nước Hứa). Bấy giờ Tào Cung công vẫn bị giam ở trong thành Nghi Lộc, chờ mới không thấy lệnh tha của Tấn Văn công, muốn tìm một người có tài ăn nói để sang kêu với Tấn Văn công. CÓ một viên quan nhỏ là Hầu Nhu xin đi, và xin mang theo nhiều lễ vật quý giá: Tào Cung công cho đi.

Hầu Nhu nghe tin các nước họp Ở nước Hứa, mới đi tắt đến đất Dĩnh Dương, xin vào yết kiến Tấn Văn công. Lúc bấy giờ Tấn Văn công nhân khi hành quân nhọc mệt, bị bệnh cảm hàn, đêm nằm mộng thấy một con ma đội mũ mặc áo; kêu với Tấn Văn công xin cho bữa ăn. Tấn Văn công quát to lên một tiếng thì con ma ấy lui ra. Từ đó

bệnh Tấn Văn công mỗi ngày một nặng, chỉ nằm mà không dậy được, định triệu quan thãi bốc là Quách Yến vào để bói một quẻ. Hầu Nhu biết vậy, mới đem một xe vàng lụa đưa cho Quách Yến, và kể hết sự tình nhờ Quách Yến mượn lời quỷ thần mà xin hộ cho Tào. Quách Yến nhận lời, khi vào yết kiến Tấn Văn công, bói được quẻ "thiên

trạch. Tấn Văn công hỏi :

Quẻ này tốt xấu thếnào ?

Quách Yến nói :

- Cứ như quẻ này thì tất có những vị quỷ thần không ai cúng tế, mà đến kêu với chúa công xin tha tội cho.

Tấn Văn công nói :

- Việc cúng tế quỷ thần, ta không ngăn cấm bao giờ. Vả quỷ thần còn có tội gì mà phải xin tha ?

Quách Yến nói : .

- Cứ như tôi thiển nghĩ thì hoặc giả là nước Tào chăng ? Chúa công đã ngỏ lời phục hưng nước Tào và nước Vệ, nay nước Vệ đã được phục quốc rồi, mà nước Tào chưa được phục quốc, vậy nên nên tổ nước Tào báo mộng mà kêu với chúa công đấy.

Tấn Văn công nghe nói, bỗng thấy trong người khoan khoái bệnh nhẹ đi đến nửa. bèn sai người đi Ngũ Lộc truyền lệnh cho TÀo Cung công được trở về nước Tào, và những ruộng đất của nước TÀo đã đem cho nước Tống, đều trả lại cả. Tào Cung công mừng rỡ khôn xiết. lập tức đến thẳng đất Dĩnh Dương để tạ ơn Tấn Văn công, rồi cùng với các nước chư hầu vây nước Hứa. Tấn Văn công dần dần khỏi bệnh.

Hứa Hi công thấy nước Sở không đem quân đến cứu, mới mở cửa thánh xin hàng. Tấn Văn công cùng các vua chư hầu đều rút quân về nước.

Trong khi từ biệt, Tần Mục công ước với Tấn Văn công rằng :

- Ngày sau có việc chiến tranh gì thì Tấn Tần hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau.

Tấn Văn công về đến nửa đường, nghe tin Trịnh Văn công sai sứ tư thông với Sở tức thì nồi giận, toan đem quân đi đánh. Triệu Thôi can rằng :

- Chúa công nhọc mệt mới khỏi, vả quân các nước chư hầu đều rút về cả, chi bằng ta hãy nghỉ yên trong một năm, rồi sẽ liệu kế đánh Trịnh sau.

Tấn Vân công truyền rút quân về.

Chu Tương vương về đến kinh sư, truyền cho quan thái tuế nghị tội Vệ Thành công, rồi giam vào tù thất. Chu Tương vương muốn bảo toàn cho Vệ Thành công, chỉ vì sợ trái ý Tấn Văn công, mới phải giam lại một chỗ, nhưng kỳ thực thì vẫn có lòng khoản đãi. Ninh Du lúc nào cũng theo liền Vệ Thành công, chẳng rời một bước. Phàm các thức ăn uống, Ninh Du đều nếm trước tất cả, rồi mới dâng lên Vệ Thành công Tiên Miệt đã nhiều lần giục Y Diễn đầu độc Vệ Thành công, nhưng Ninh Du phòng bị rất cẩn thận, nên Y Diễn không làm gì nổi.

Bắt đắc dĩ Y Diễn phải đem thực tình nói với Ninh Du rằng :

- Vua Tấn là người quyết đoán, có tội tất giết, có oán tất báo ; tôi đến đây là phụng mệnh vua Tấn đầu độc vua Vệ, mà làm không được thì tính mệnh tôi cũng khó lòng bảo toàn, vậy thì nhà ngươi nên làm ngơ, để cho tôi khỏi chết.

Ninh Du ghé tai bảo thầm Y Diễn rằng :

- Nhà ngươi đã nói hết chân tình với ta thì ta cũng xin bàn mưu hộ nhà ngươi. Vua Tấn nay đã già rồi, hay tin việc ma quỷ, mới rồi vua Tào được tha, cũng chỉ vì một câu nói của người thầy bói ; nay nhà ngươi hãy cho thuốc độc nhẹ liều đi, để dâng chúa công ta, rồi giả thác về việc quỷ thần thì vua Tấn không trị tội.

Y Diễn hiểu ý lui ra. Ninh Du giả cách phụng mệnh Vệ Thành công đến xin rượu thuốc của Y Diễn về để chữa bệnh, rồi nhân tiện đưa cho Y Diễn một hòm bảo ngọc. Y Diễn bảo Tiên Miệt rằng :

Vua Vệ đã đến ngày tận số ?

Nói xong, liền hòa thuốc độc vào bình rượu để đem dâng Vệ Thành công nhưng cho liều lượng rất nhẹ, lại pha thêm những thứ thuốc khác để cho lẫn sắc đi. Ninh Du xin nếm trước. Y Diễn giả cách không cho, rồi đổ vào miệng, cố ép phải uống ngay. Vệ Thành công mới uống được mấy hớp thì Y Diễn trợn mắt, ngã lăn xuống giữa sân,

miệng hộc máu tươi ra, bất tỉnh nhân sự. Bình rượu rơi vỡ, thuốc độc lênh láng cả dưới đất. Ninh Du giả cách giật mình kinh ngạc, sai người vực Y Diễn dậy. Hồi lâu Y Diễn mới tỉnh lại. Ninh Du hỏi :

- Tại sao vậy ?

Y Diễn nói :

Lúc tôi đang đổ rượu thuốc, bỗng thấy một vị thần nhân mình cao hơn một trượng, đầu to như cái hộc, ở trên trời xuống, bước vào trong nhà, tự xưng là Đường Thúc (tiên tổ nước Tấn) đến cứu vua Vệ, rồi cầm cái dùi đồng đập vỡ bình rượu thuốc, làm cho tôi chẳng còn hồn vía nào nữa !

Vệ Thành công cũng nói mình thấy thần xuống như lời Y Diễn.

Ninh Du giả cách nổi giận nói :

Thế ra mày dùng thuốc độc để hại chúa công ta, nếu không được thần nhân đến cứu thì còn gì nữa ! Ta cùng với mày, quyết không cùng sống.

Nói xong, liền xông lại đánh Y Diễn. Các người xung quanh đều khuyên can Ninh Du. Tiên Miệt nghe tin, cũng vội vàng chạy đến, bảo Ninh Du rằng :

Vua Vệ đã được thần nhân giúp, tất nhiên hưởng lộc còn lâu dài, để tôi sẽ nói lại với chúa công.

Vệ Thành công dẫu có uống phải thuốc độc, nhưng thuốc làm rất nhẹ, bởi vậy chỉ ốm qua loa rồi lại khỏi ngay. Tiên Miệt cùng với Y Diễn về nước Tấn, đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công tin là chuyện thực, liền tha Y Diễn mà không trị tội. Lỗ Hi công nguyên là thân thuộc với Vệ, nghe tin Y Diễn dâng thuốc độc mà Vệ

Thành công không chết, Tấn Văn công lại không trị tội Y Diễn, mới hỏi Tang Tôn Thần rằng :

- Vua Vệ có thể về nước được không ?

Tang Tôn Thần nói :

- Về được

Lỗ Hi công nói :

Tại sao mà biết ?

Tang Tôn Thần nói :

Vua Tấn trị tội vua Vệ, không dùng hành pháp mà lại sai Y Diễn đánh thuốc độc. Y Diễn làm không xong việc mà vua Tấn không dám giết Y Diễn, thế là vẫn sợ cái tiếng giết vua Vệ. Vua Vệ đã không chết lần này thì lẽ nào lại chết già đời ở đất nhà Chu được ! Nay chúa công làm ơn xin vua Tấn tha cho vua Vệ thì khi vua Vệ được về nước rồi, tất càng thêm thân tình với nước LỖ ta. Các nước chư hầu, ai mà không phải phục cái cao nghĩa ấy.

LỖ Hi công bằng lòng, liền sai Tang Tồn Thần đem mười đôi bạch bích vào dâng Chu Tương vương để xin hộ cho vua Vệ. Chu Tương vương nói :

- Việc ấy là tự ý Tấn hầu, nếu Tấn hầu bằng lòng thì trẫm có ghét gì Vệ hầu.

Tang Tôn Thần nói :

- Chúa công tôi cũng muốn sai tôi sang nói với Tấn hầu, nhưng nếu không bẩm mệnh thiên tử trước thì tôi không dám đi.

Chu Tương vương nhận ngọc bạch bích, tỏ là có ý thuận cho.

Tang Tôn Thần lại sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, cũng dâng mười đôi bạch Mạch và nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công tôi với Vệ hầu là tình thân thuộc, Vệ hầu có tội thì chúa công tôi không được yến lòng. Nay nhà vua đã tha tội cho Tào hầu, vậy chúa công tồi cũng xin đem lễ mọn này mà chuộc tội cho Vệ

Tấn Văn công nói :

Vệ hầu hiện nay ở kinh sư nhà Chu, việc này phải bẩm mệnh thiên tử, chứ ta không dám tự chuyên

Tang Tồn Thần nồi:

Nhà vua thay quyền thiên tử để ra hiệu lệnh cho chư hầu nếu nhà vua bằng lòng tha tội cho Vệ hầu thì CÓ khác gì mệnh lệnh của thiên tử .

Tiên Miệt nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúa cồng vì nước Lỗ mà tha cho vua Vệ thì hai nước Lỗ, Vệ cùng thần phục chúa công, còn gì hay hơn nữa.

Tấn Văn công thuận cho, liền sai Tiên Miệt cùng với Tang Tôn Thần sang tâu với Chu Tương vương, rồi tha cho Vệ Thành công về . Bấy giờ Nguyên Huyền đã lập công tử Hà lên làm vua nước Vệ; sửa sang thành quách, canh giữ rất nghiêm mật. Vệ Thành công sợ khi mình về nước, tất nhiên Nguyên Huyền không cho vào, mới bàn mưu với Ninh Du.

Ninh Du nói :

Tôi nghe Chu Chuyên, Dã Cận khi trước có công phù lập công tử Hà, mà xin làm quan khanh không được, bởi vậy trong lòng oán giận, nay ta nên kết giao với hai người ấy để làm nội ứng. Tôi có quen thân với một người, tên gọi Không Đạt ; người ấy có tài kinh luân, cũng có quen biết Chu Chuyên và Dã Cận, bây giờ nếu bảo Không Đạt

vâng mệnh chúa công hẹn cho Chu Chuyên và Dã Cận làm chức công khanh, để sai hai người ấy giết Nguyên Huyền, thì chẳng còn sợ ai nữa !

Vệ Thành công nói :

Nhà ngươi vì ta mà mưu việc ấy, nếu thành việc, ta có tiếc gì một chức công khanh.

Ninh Du liền sai người tâm phúc phao tin là Vệ thành công đã được tha tội, nhưng không mặt mũi nào mà về nước, vì vậy sắp sửa đi tránh nữa ở nước Sở ; rồi đem tờ thủ thư của Vệ Thành công đưa cho Không Đạt để làm tin và bảo Khổng Đạt mạt kết với Chu Chuyên và Dã Cận. Chu Chuyên và Dã Cận bàn nhau rằng :

- Nguyên Huyền đêm nào cũng đi tuần ở trên mặt thành nếu ta phục binh mà giết chết đi, rồi kéo vào trong cung, giết nốt công tử Hà, rồi đón chúa công, như thế tức là hai ta có công to lắm !

Nói xong, hai người đều cho quân phục sẵn để đến đêm thì khởi sự Đêm hôm ấy Nguyên Huyền đi tuần tới cửa đông, trông thấy Chu Chuyên và Dã Cận đi đến, bèn giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

- Hai ngài đến đây có việc gì ?

Chu Chuyên nói :

Tôi nghe người ngoài đồn rằng vua cũ ta đã về nước, sắp sửa tới đây, đại phu lại không biết hay sao ?

Nguyên Huyến ngạc nhiên mà nói rằng :

-Tin đồn ấy từ đâu lại? .

Dã Cận nói :

Tôi nghe Ninh Du có cho người vào thành, ước với các quan triều thần đi đón, đại phu tính thế nào ?

Nguyên Huyến nói :

- ĐÓ là lời nói bậy, ta chớ nên tin. Và ngôi vua đã nhất định rồi, lẽ nào lại còn đón vua cũ ?

Chu Chuyên nói :

- Đại phu tay cầm quyền nước, nên phải trông xa muôn dặm, việc lớn như thế mà không biết người ta còn dùng ngài làm gì

Dã Cận bèn nắm lấy hai tay Nguyên Huyền. Nguyên Huyến vùng vằng chống cự lại. Chu Chuyên cầm dao, quát to một tiếng, chém vào đầu Nguyên Huyền. Phục binh bốn mặt đổ đến. Những quân sĩ đi theo Nguyên Huyền đều bỏ chạy tán loạn. Chu Chuyên và Dã Cận đem quân đi diễu ở ngoài đường, reo rầm lên rằng :

- Vua Vệ đã đem quân Tề và quân Sở về, đóng tại ngoài thành rồi ! Nhân dân trong nước, đâu ở yên đấy, không được náo động.

Bấy giờ dân trong thành nhà nhà đều đóng cửa thật chặt, không ai dám ra ; các quan triều thần cũng nửa tin nửa ngờ, chưa hiểu sự thể ra sao cả, chỉ khoanh tay ngồi yên, để nghe ngóng tin tức.

Chu Chuyên và Dã Cận kéo vào trong cung. Tử Thích (tức là Tử Hà) đang cùng với em là Tử Nghi uống rượu. Tử Nghi nghe nói mặt ngoài có biến, liền rút gươm cầm ta đi ra cửa cung, bị Chu Chuyên. giết chết. Chu Chuyên lại vào tìm cồng tử Thích, nhưng không thấy đâu cả. Bấy giờ trong cung náo động cả lên ; đến sáng, mới biết công tử Thích đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi. Chu Chuyên và Dã Cận đem thủ thư của Vệ Thành công tuyên yết ở chốn triều đường, rồi cùng các quan đi đón Vệ Thành công về nước, chọn ngày vào tế ở nhà Thái miếu. Vệ Thành công theo lời ước cũ phong Chu Chuyên và Dã Cận làm chức thượng khanh cho vào làm bồi tế. Đầu trống canh năm ngày hôm ấy, Chu Chuyên mũ áo lên xe vào tế, vừa vào đến cửa miếu, tự nhiên hai mắt trợn ngược, rồi quát to lên rằng :

- Chu Chuyên ! Mày là đồ chó má, tham chức công khanh mà hại ta ? Cha con ta một lòng vì nước, nay phải ngậm oan ở dưới suối vàng để cho mày được mũ áo xênh xang, mày sướng nhỉ ? Ta chỉ bắt mày đe~m đến nộp Thúc Vũ và công tử Thích, xem mày nói ra làm sao ? Ta chính là quan đại phu Nguyên Huyền đây ?

Nói xong, hộc máu mồm ra, mà chết tươi ở trong xe. Dã Cận đến sau trông thấy, giật mình kinh sợ, vội vàng cởi bỏ mũ áo ra, giả cách bị bệnh cảm hàn mà trở về. Vệ Thành công đến nhà Thái miếu, phải cho Ninh Du cùng Khổng Đạt vào bổi tế thay Chu Chuyên và Dã Cận: Khi Vệ Thành công về triều thì đã tiếp được thư của Dã Cận xin từ chức. Vệ thành công thấy Chu Chuyên chết lạ như vậy, nên cũng không ép Dã Cận nữa, liền cho từ chức. Chưa được một tháng thì Dã Cận cũng ốm mà chết. Vệ Thành công nghĩ Ninh Du có công bảo giá toan dùng làm thượng khanh. Ninh Du nhường cho Khổng Đạt. Vệ Thảnh công liền cho Khổng Đạt lảm thượng khanh, Ninh Du làm á khanh. Khổng Đạt bàn mưu với Vệ Thành công, đem việc công tử Thích chết, đổ lỗi cho Chu Chuyên và Dã Cận, rồi sai sứ đến tạ ơn Tấn Văn công. Nước Tấn cũng xếp việc ấy lại, không hỏi đến nữa.

Nước Tấn nghỉ quân đã được hơn một năm, Tấn Văn công họp các quan triều thần lại mà hỏi rằng :

- Người nước Trịnh ngày trước vô lễ mà ta chưa báo thù được, nay nước Trịnh lại bỏ ta mà theo sở, ta muốn họp chư hầu để cùng đi hỏi tội nước Trịnh, các ngươi nghĩ thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

Các nước đã động binh nhiều lần, nay vì cớ nước Trịnh mà lại hiệu triệu chư hầu một lần nữa, thì không phái là cách giữ yên Trung quốc Huống chi nước ta quân hùng tướng mạnh, cần gì phải mượn đến quân chư hầu.

Tấn Văn công nói :

Khi trước vua Tấn từ biệt ta có ước với ta rằng : sau này hai nước có việc chiến tranh, tất phải giúp đỡ lẫn nhau.

Tiên Chẩn nói :

- Nước Trịnh ở một nơi trọng yếu ở trung quốc, bởi vậy Tề Hoàn công ngày xưa, muốn làm bá chủ, tất phải tranh lấy nước trịnh ; nay ta ước với nước Tần cùng đánh thì Tần tất tranh mất, chi bằng ta chi dùng quân nước nhà mà thôi.

Tấn Văn công nói :

Đất nước Trịnh tiếp giáp với địa giới nước Tấn ta mà xa nước Tần thì nước Tần còn lợi về nỗi gì !

Nói xong, liền sai người sang ước với nước Tần, hẹn đến thượng tuần tháng chín thì gặp nhau ở nước Trịnh. Khi Tấn Văn công cử binh đi đánh Trịnh, có cho công tử Lan đi theo. Công tử Lan nguyên là thứ đệ của Trịnh Văn công, năm trước trên sang nước Tấn, làm quan đại phu ; đến lúc Tấn Văn công lên ngôi, công tử Lan hầu hạ tay chân, một lòng trung cẩn, bởi vậy Tấn Văn công có lòng yêu Lần này cho công tử lan đi theo, là muốn dùng công tử Lan làm hướng đạo. Công tử Lan chối từ, nói :

- Người quân tử dẫu ở nước ngoài cũng không dám quên nước cũ của cha mẹ mình. Nay chúa công sang đánh nước Trịnh, tôi không dám dự biết việc ấy.

Tấn Văn công khen rằng :

Nhà ngươi thật là một người không bội phản !

Nói xong, liền lưu công tử Lan ở Đông đô, từ bấy giờ có ý nâng đỡ cho công tử Lan lên làm vua nước Trịnh. quân Tấn đã vào địa giới nước Trịnh, thì Tần Mục công cũng đem quân đến, hai bên hợp quân đánh phá các đồn ải và thẳng tiến đến sông Khúc Vị. Quân Tấn đóng ở đất Hàm Lăng, về phía tây thành nước Trịnh. Quân Tần đóng

ở đất Dĩ Nam, về phía đông thành nước Trịnh. Quân Tấn và quân Tần ngày đêm vây kín bốn mặt. Trịnh Văn công sợ hãi, không biết làm thế nào. Đại phu là Thúc Thiêm nói với Trịnh Văn công rằng :

- Tần Tấn hợp sức nhau thì thế mạnh lắm, ta không thể chống nổi, những nếu được một người có tài biện bác nói với vua Tần, khiến cho nước Tần lui quân, thì nước Tấn thế cô, ta chẳng sợ gì nữa !

Trịnh Văn công nói :

- Ai có thể ra nói với vua Tần được ?

Thúc Thiêm nói :

Dật Chi HỖ có thể dùng được.

Trịnh Văn công liền sai Dật Chi Hồ. Dật Chi HỒ nói :

Việc ấy tôi không thể đương nổi, tôi xin cử một người để thay tôi. Người ấy có tài ứng đối, lôi cuốn người ta như dòng sông, nhưng nay đã già rồi, nếu chúa công phong chức cho, khiến ra nói với vua Tần, thì chắc là vua Tần phải nghe.

Trịnh Văn công hỏi :

Người nào vậy ?

Dật Chi HỒ nói :

Người ấy ở đất Khảo Thành, tên gọi Chúc Vũ, năm nay đã ngoại bảy mươi tuổi, ba đời vẫn làm chức ngự chính, xin chúa công trọng đãi mà sai đi thì tất được việc.

Trịnh Văn công liền triệu Chúc Vũ vào triều. Khi Chúc Vũ vào, thì tóc bạc, lưng còng, chân đi lẩy bẩy, các quan trông thấy, ai cũng phải cười thầm. Chúc Vũ sụp lạy Trịnh Văn công mà nói rằng :

Chẳng hay chúa công triệu lão thần có việc gì ?

Trịnh Văn cồng nói :

- Dật Chi HỒ nói nhà ngươi có tài biện bác hơn người, ta muốn phiền nhà ngươi ra nói với vua Tần ; nếu vua Tần chịu lui quân thì ta sẽ trọng dụng nhà ngươi.

Chúc Vũ sụp lạy hai lạy mà chối từ rằng :

- Tôi sức hèn tài mọn, đang lúc trai trẻ còn chẳng làm nên việc gì nay đã già yếu, gân sức mỏi mệt, động cất tiếng nói thì lại ho hen, vậy tôi nói với vua Tần sao được ?

Trịnh Văn công nói :

- Để cho nhà ngươi già mà không được dùng, ấy là cái lỗi của ta đó ? Nay ta phong cho nhà ngươi làm chức á khanh. nhà ngươi cố đi giúp ta.

Dật Chi HỒ đứng bên cạnh, lại nói thêm vào rằng :

- Đại trượng phu già mà không đắc dụng, chẳng qua cũng là số mệnh. Nay chúa công đã biết đến tiên sinh mà dùng, tiên sinh cbớ lên từ chối.

Chúc Vũ mới nhận lời. Bấy giờ quân Tần và quân Tấn vây trịnh gấp lắm ; đêm hôm ấy, Chúc Vũ sai kẻ tráng sĩ dòng dây trên thành xuống cửa đông, rồi đi thẳng đến dinh quân Tần. Quân Tần

không cho vào. Chúc Vũ đứng ngoài cửa dinh khóc rầm lên. Quân Tần bắt đem vào nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi :

- Nhà ngươi là người ở đâu ?

Chúc Vũ nói : .

- Lão thần là quan đại phu nước Trịnh, tên gọi Chúc Vũ.

Tần Mục công nói :

-Vì việc gì mà nhà ngươi khóc?

Chúc Vũ nói :

Tôi khóc là vì nước Trịnh sắp mất. .

Tần Mục công nói : .

Nước Trịnh sắp mất, sao nhà ngươi lại đến khóc ở cửa dinh ta ?

Chúc Vũ nói : .

Lão thần khóc nước Trịnh, và khóc Cả nước Tần nhân thể . Nước Trịnh mất chẳng đáng tiếc, chỉ đáng tiếc cho nước Tần !

Tần Mục công nổi giận mà mắng rằng :

Nước ta có điều gì đáng tiếc ? Nhà ngươi nói không hợp lý thì ta chém đầu đó.

Chúc Vũ nét mặt không sợ hãi gì cả, ung dung đáp rằng :

Tần Tấn hợp sức mà đánh Trịnh thì Trịnh tất phải mất, không đợi nói nữa ! Trịnh mất mà có ích được cho Tần, thì kẻ hạ thần côn dám nói gì, nhưng chẳng những không ích mà lại còn có hại thì sao nhà vua lại chịu nhọc quân tốn của, để giúp việc cho người khác nhưvậy?

Tần Mục công nói :

- Chẳng những không ích mà lại có hại là nghĩa thế nào ?

Chúc Vũ nói :

- Nước Trịnh ở phía đông nước Tấn, nước Tần ở phía tây nước Tấn, đông tây cách nhau, kể hàng nghìn dặm. Nước Tần có thể vượt qua nước Tấn, nước Chu mà chiếm được nước Trịnh hay không ? Nước Trịnh mất thì địa giới nước Trịnh thuộc về nước Tấn, chứ nước Tần có được gì ? Tần Tấn giáp giới với nhau, thế lực vẫn ngang nhau, nếu nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh thì nước Tần tất mỗi ngày một suy yếu Mở đất cho người ta mà làm cho nước mình suy yếu đi, tôi thiết tưởng bậc trí giả có đâu lại làm như thế ! Vả Tấn Huệ công ngày xưa hẹn biếu nhà vua năm thành, khi đã về nước rồi thì lại bội ước, điều đó nhà vua cũng đã biết ; nhà vua làm ơn cho Tấn đã mấy đời, mà có thấy Tấn giả ơn chút nào không ? Vua Tấn từ khi về nước,

luyện binh tuyển tướng, chỉ chăm về việc đi chiếm đất nước ngoài, ngày nay mở đất ở phía đông, đã làm mất nước Trịnh rồi, ngày khác muốn mở đất ở phía tây thì cái tai vạ ấy tất phải đến nước Tần chịu.

Chúa công lại không rõ việc nước Ngu và nước Quắc ngày xưa hay sao ? Nước Tấn mượn đường nước Ngu để diệt nước Quắc khi đã diệt được Quắc rồi thì lại quay về mà đánh Ngu. Vua Ngu dại dột mà giúp Tấn, đến nỗi mất nước, điều ấy không có gì là đáng tin cậy, mà nước Tấn lập kế để dáng chúa công, thì cái kế ấy lại khó mà lường được ? Chúa công là bậc trí giả mà mắc mưu Tấn như thế, cho nên tôi bảo là không những vô ích mà còn có hại, và sở dĩ tôi khóc ở đây cũng là vì thế

Tần Mục công lắng nghe hồi lâu, đổi hẳn sắc mặt, chốc chốc lại gật đầu rồi nói rằng :

-đại phu nói phải lắm!

Bách Lý Hề nói với Tần Mục công rằng :

- Chúc Vũ là một biện sĩ, chỉ muốn cho ta bất hòa với Tấn . đó thôi chúa công chớ nên nghe

Chúc Vũ nói :

- Nếu chúa công giải vây cho nước tôi thì nước tôi xin lập điều ước, bỏ Sở để hàng Tần ; khi nào nước Tần có việc ở phía đông thì nước tôi xin cung cấp vật dụng như là một phủ ngoài của nước Tần vậy

Tần Mục công bằng lòng lắm, liền cùng với Chúc Vũ lập điều ước lại sai Kỷ Tử, Phùng Tôn và Dương Tôn ba tướng đóng quân lại, để giữ hộ cho nước Trịnh, rồi không cáo từ với vua Tấn mà bí mật rút quân về. CÓ quân thám tử báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận. HỒ Yến ở bên cạnh, nói với Tấn Văn công, xin đem quân đuổi theo để đánh quân Tần.

Đông Châu Liệt Quốc - hồi 44 : Thúc Thiêm lâm hình cãi vua TấnHuyền Cao giả mệnh khao quân Tần

Tần Mục công giảng hòa riêng với nước Trịnh, kết lập điều ước, rồi rút quân về. Tấn Văn công nổi giận. HỖ Yến nói rằng :

Quân Tần dẫu đi, nhưng cũng chưa xa, tôi xin đem quân đi đuổi đánh Quân Tần đã có lòng về thì tất không có chí muốn đánh, tôi chắc rằng chỉ một trận là đủ phá được quân Tần ; ta đã phá được quân Tần thì quân Trịnh sẽ mất vía, không đợi đánh mà tự khắc phải hàng.

Tấn Văn công nói :

- Không nên ! Ngày xưa ta nhờ sức vua Tần mà được phục quốc, nếu không có vua Tần thì sao ta được thế này ? Thành đắc Thần vồ lễ với ta, mà ta còn lui quân ba xá để trả ơn nước Sở, huống chi là vua Tần ! Vả không có quân Tần, ta cũng vây nổi nước Trịnh, chứ có lo gì !

Nói xong, liền chia quân mấy mặt, cứ việc vây thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lại bảo Chúc Vũ rằng :

Tần chịu lui quân là nhờ sức nhà ngươi, nhưng quân Tấn chưa lui thì biết làm thế nào ?

Chúc Vũ nói :

Tôi nghe nói vua Tấn yêu công tử Lan lắm, nay ta sai người đón công tử Lan về mà giáng hòa thì tất thế nào vua Tấn cũng thuận cho

Trịnh Văn công nói :

- việc này lại phải nhờ đến lão đại phu đi giúp cho mới được.

Thạch Thân Phủ nói với Trịnh Văn công rằng :

- Chúc Vũ nhọc lắm rồi, để tôi xin đi thay.

Nói xong, liền đem lễ vật đến dinh Tấn Văn công, xin vào yết kiến. Tấn Văn công cho vào. Thạch Thân Phủ sụp lạy dâng lễ vật nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công tôi vì cớ ở gần nước Sở, vậy nên không dám ra mặt chống cự với Sở, nhưng kỳ thực vẫn thần phục nhà vua. Nay. nhà vua đem quân đến đánh, chúa công tôi biết tội đã nhiều, sai tôi đem những bảo vật của cha ông để lại đến dâng nhà vua để tạ tội. Chúa công tôi có người em là công tử Lan, lâu nay được hầu hạ nhà vua, xin nhà vua vì tình công tử Lan mà cho nước tôi được giáng hòa ; xin nhà vua cho công tử Lan về giám sát quyền chính nước Trịnh, công Tử Lan ngày ngày có mặt, nước tôi đâu dám đổi lòng.

Tấn Văn cồng nói :

Nước ngươi lập kế khiến cho Tần lui quân là có ý khinh ta một mình không hạ nổi nước Trịnh ; nay lại xin giảng hòa, chẳng qua là muốn dùng kế hoãn binh để đợi quân Sở đến cứu viện đó thôi. Nay muốn cho ta lui quân thì tất phải theo ta hai điều.

Thạch Thân Phủ nới :

- Hai điều ấy là gì, xin nhà vua dạy cho.

Tấn Văn công nói :

- Một là phải lập công tử Lan làm thế tử ; hai là phải đem Thúc Thiêm sang nộp ta, có như thế mới tỏ rõ tấm lòng thành thực của Trịnh hầu được.

Thạch Thân Phủ về nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công nói :

Ta chưa có con trai, mà công tử Lan thì ngày xưa có ứng vào mộng triệu, nay lập làm thế tử cũng có thể được ; còn Thúc Thiêm là bề tôi tay chân của ta, ta bỏ đi thế nào cho đành !

Thúc Thiêm nói :

- Vua Tấn đòi nộp tôi, nếu tôi không sang thì không chịu lui quân, vậy thì có đâu tôi dám sự chết mà để nỗi lo cho chúa công. Xin chúa công cứ cho tôi đi.

Trịnh Văn công nói :

Ta không muốn để cho nhà ngươi đi, vì nhà ngươi đi thì tất phải chết !

Thúc Thiêm nói :

- Chúa công không nỡ để cho tôi chết, mà nỡ để cho trăm họ phải chịu lầm than khổ sở hay sao ? BỎ một mạng tôi mà cứu được trăm họ, chúa công tiếc gì !

Trịnh Văn công ứa nước mắt cho đi. Thạch Thân Phủ đưa Thúc Thiêm sang nộp Tấn Văn công, và xin đón công tử Lan về để lập làm thế tử. Tấn Văn công bằng lòng, bảo Thạch Thân Phú hãy đợi ở trong dinh, rồi sai HỒ Yến đến Đông ĐÔ triệu công tử Lan.

Khi Tấn Văn công trông thấy Thúc Thiêm thì quát to lên mà mắng rằng :

Nhà ngươi cầm quyền chính nước Trịnh mà để cho vua Trịnh thất lễ với ta, đó là một tội ; nước Trịnh đã dự hội với ta, mà sau lại bội ước, đó là hai tội !

Nói xong, liền sai quân sĩ đem vạc ra, sắp sửa để nấu Thúc Thiêm. Thúc Thiêm vẫn cứ nghiễm nhiên, không sợ hái gì cả, chắp tay mà nói với Tấn Văn công rằng :

Tôi đành phận chết, nhưng xin nhà vua hãy cho tôi nói hết lời.

Tấn Văn công nói :

- Nhà ngươi nói điều gì ?

Thúc Thiêm nói :

Khi trước nhà vua qua nước tôi, tôi có nói với chúa công tôi rằng : nhà vua là người hiền minh, mà các người đi theo hầu lại toàn là những bậc tài giỏi cả, vậy thì khi về nước tất làm bá chủ ; đến khi nhà vua hội chư hầu ở đất ôn ấp, tôi lại khuyên chúa công tôi một lòng thờ Tấn, chớ có bội ước, nhưng trời làm hại nước tôi, khiến cho lời

nói của tôi không được dùng. Nay nhà vua đòi bắt tôi, chúa công tôi cũng thương là vô tội, toan không cho đi ; tôi xin liều một mình tôi để cứu cho trăm họ. Phàm người ta, việc gì cũng liệu trước được, thế là trí ; một lòng giúp nước, thế là trung ; không tránh hoạn nạn, thế là dũng ; liều mình để cứu trăm họ, thế là nhân. CÓ người bề tôi đủ cả nhân, trí, trung, dũng như thế thì cố nhiên theo pháp luật nước Tấn phải đem bỏ vào vạc mà nấu !

Nói xong, tay nắm tai vạc mà kêu to lên rằng :

- Từ nay trở đi, những người làm bề tôi, nên lấy Thúc Thiêm này làm răn ?

Tấn Văn công hoảng hốt, liền thuyền tha ngay Thúc Thiêm rồi nói với Thúc Thiêm rằng :

- Ta thử nhà ngươi đó thôi ! Nhà ngươi thật là một người giỏi !

Từ đó Thúc Thiêm được kính trọng và hậu đãi khác thường.

được mấy ngày thì công tử Lan ở Đông ĐÔ đến. Tấn Văn công báo cho biết sự thể nước Trịnh đón về, lại bảo Thúc Thiêm và bọn Thạch Thân Phủ lấy lễ thế tử mà yết kiến công tử Lan, rồi rước vào trong thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lập công tử Lan làm thế tử. Bấy giờ Tấn Văn công mới rút quân về nước. Năm ấy, Ngụy Thù say rượu, ngã xe gãy tay, bệnh cũ lại phát, rồi hộc máu ra mà chết. Tấn Văn công cho

con Ngụy Thù là Ngụy Khỏa được nối quan tước. Chưa được bao lâu, HỒ Mao và HỖ Yến cũng đều ốm chết cả. Văn công thương xót vô cùng khóc mà rằng :

- Ta được thoát hoạn nạn mà có ngày nay là sức của hai quốc cữu, chẳng ngờ hai quốc cữu lại bỏ ta mà đi, khiến cho ta như người mất cánh tay phải, thương ôi !

Tư Thần nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúa công tiếc tài hai vị HỒ quốc cữu, tôi xin cử một người khác cũng có tài làm khanh tướng được.

Tấn Văn công nói :

- Nhà ngươi định cử ai ?

Tư Thần nói :

- Ngày trước tôi đi sứ qua đổng Ký Giã, thấy một người đang cày ruộng ; người vợ đem cơm đến bờ ruộng, hai tay bưng đưa cho chồng, chồng cũng kính trọng mà đỡ lấy. Lúc người chồng ăn thì người vợ đứng hầu ở bên cạch, chỉ hai vợ chồng với nhau, mà còn kính trọng nhau như khách lạ, huống chi là khi đối với người khác. Tôi nghe nói người biết giữ lễ phép là người có đức hạnh, nên tôi đến hỏi họ tên thì ra đó là con trai của Khước Nhuế, tên gọi Khước Khuyết. Nếu nước Tấn ta dùng được người ấy thì cũng chẳng kém gì HỒ quốc cữu.

Tấn Văn công nói :

Cha có tội, chẳng lẽ lại dùng con ư ?

Tư Thần nói :

- Nghiêu, Thuấn là thánh nhân mà có con là Đan Chu và Thương Quân là người bất đức ; Cổn là người ác mà có con là vua Vũ là bậc thánh nhân, thế mới biết thiện ác không phải là cha truyền con nối. Sao chúa công lại nghĩ đến điều ác của cha mà bỏ cái tài hữu dụng của con ?

Tấn Văn công khen phải mà bảo rằng :

- Nhà ngươi triệu Khước Khuyết đến đây cho ta.

. Tư Thần nói :

Nguyên tôi sợ người ấy trốn sang nước khác thì người ta dùng mất, vậy đã mời về ở tại nhà tôi. Xin chúa công sai sứ đến triệu, mới phải đạo cầu hiền.

Tấn Văn công theo lời sai nội thị đem áo bào mũ giải đi mời Khước Khuyết. Khước Khuyết sụp lạy mà từ chối rằng :

Tôi là một kẻ nông phu Ởø Ký Giã, chúa công nghĩ đến tội cha tôi mà khoan dung cho cũng đã đội ơn lắm rồi, đâu còn dám lạm dự quan tước.

NỘI thị về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công hai ba lần sai nội thị khuyên mời, Khước Khuyết mới đội mũ mặc áo vào triều.

Khước Khuyết mình dài chín thước, mũi cao mặt to, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông. Tấn Văn công trông thấy mừng lắm, liền cho Tư Thần làm chánh tướng ở đạo hạ quân, mà lấy Khước Khuyết làm phó tướng Nước Tấn lại mới lập ra hai đạo quân là : tân thượng quân và tân hạ quân. Tân Thượng quân thì cho Triệu Thôi làm chánh tướng, mà lấy Cơ Trịnh làm phó tướng. Tân hạ quân thì cho Tư Anh (Con Tư Thần) làm chánh tướng, mà lấy Tiên ĐÔ làm phó tướng.

Sở Thành vương nghe tin nước Tấn sửa sang quân chính có ý sợ hãi, mới sai quan đại phu là Đấu Chương xin giảng hòa. Tấn Văn công nghĩ đến ơn cũ, cũng bằng lòng, sai quan đại phu là Dương Xử Phủ sang ăn thề với nước Sở.

Trịnh Văn công mất năm 24 đời Chu Tương vương. Triều thần tôn công tử Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công, quả ứng vào cái triệu nằm mộng thấy cành hoa lan ngày trước. Mùa đồng năm ấy, Tấn Văn công ốm nặng, gọi bọn Triệu Thôi, Tiên Chẩn, HỒ Xạ CÔ và Dương Xử Phủ vào nghe di mệnh , để sau phù tá thế tử hoan nối được

nghiệp bá. Lại sợ các vị công tử khác có lòng tranh cạnh, mới cho công tử Ung (con nàng ĐỖ Kỳ) sang làm quan ở nước Tần ; công tử Lạc (con nàng Doanh Thần) sang làm quan ở nước trần ; còn người con bé là Hắc điền thì cho sang làm quan ở nhà Chu, để cầu thân với thiên tử.

Tấn Văn công mất, ở ngôi được tám năm, thọ 68 tuổi. Thế tử Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương Công Tấn Tương công rước linh cữu Tấn Văn công đưa ra quàn ở đất Khúc ốc. Khi ra khỏi cửa thành, tự nhiên trong linh cữu có tiếng kêu to như tiếng trâu rống, mà linh cữu thì nặng lắm, xe không đi được. Triều thần từ lớn đến nhỏ ai cũng sợ hãi.

Quan thái bốc là Quách Yển bói một quẻ, rồi đoán trong quẻ bói rằng :

Trong mấy ngày qua thì có giặc tự tây phương đến, nhưng quân ta đánh được, bởi vậy tiên quân báo trước cho chúng ta biết.

Triều thần lạy tạ ở trước linh cữu. Bấy giờ linh cữu lại đi được như thường Tiên Chẩn nói : "Tây phương tức là nước Tần", liền sai người đi do thám tin nước Tần.

Lại nói chuyện ba tướng nước Tần là Kỷ TỬ, Phùng Tôn và Dương Tồn đóng quân để phòng ngự cho nước Trịnh, thấy nước tấn đưa công tử lan về lập làm thế tử và giải vây cho nước trịnh thì lấy làm tức giận nói:

Chúng ta đóng quân ở đây để giúp nước trịnh đối phó với nước tấn, ai ngờ trịnh lại đầu hàng nước tấn, vậy công chúng ta thật uổng .

Nói xong, liền sai người mật báo với Tần Mục công. Tần Mục công trong lòng cũng có ý giận, nhưng nể Tấn Văn công, không dám nói ra, đến lúc công tử Lan lên làm vua nước Trịnh, tiếp đãi bọn Kỷ Tử cũng không ra gì. Kỷ Tử mới cùng với Phùng Tôn và Dương Tôn thương nghị rằng: .

- Chúng ta đóng đồn ở đây, không biết bao giờ cho xong việc, chi bằng ta mật tâu với chúa công đem quan sang đây để đánh úp nước Trịnh thì chúng ta kiếm được lợi to mà về.

Trong khi ba người đang thương nghị với nhau, thì lại nghe tin Tấn Văn công mất. Kỷ Tử liền chấp tay lên trán mà nói :

đó là lòng trời muốn giúp cho chúng ta được thành công đó ?

Kỷ Tử sai người tâm phúc về mật tâu với Tần Mục công rằng :

Nước Trịnh giao cho chúng tôi giữ mặt Bắc môn, nếu chúa công cho một đạo quân lẻn sang đánh Trịnh, thì đã có chúng tôi làm nội ứng, vậy tất phá vỡ được. Nước Tấn đang có tang, tất không sang cứu nước trịnh và vua Trịnh cũng mới lên nối ngôi, việc phòng thủ chưa được cẩn thận lắm, chúa công chớ nên bỏ mất cơ hội này.

Tần Mục công tiếp được mật thư liền cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề thương nghị. Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh mà can rằng :

- Nước Tần ta xa cách Trịnh, kể hàng nghìn dặm, không thể chiếm cứ lấy nước Trịnh được, chẳng qua chỉ lấy được của cải đem về mà thôi. Ta đem quân đi nghìn dặm, tài nào mà che được tai mắt thiên hạ, nếu kẻ kia biết mà phòng thủ trước, có phải là ta uổng công khó nhọc không ? Vả mới đây mình đem quân sang để giữ hộ nước cho

người ta mà nay lại đánh, sao gọi là tín được ? Nhân lúc người ta có tang mà đánh, sao gọi là nhân được ? Việc này nếu thành thì cái lợi cũng nhỏ thôi mà nếu không thành thì cái bại lớn lầm, thế sao gọi là trí được ? Mất cả ba điều ấy, thì chúng tôi không thấy việc này nên làm ở chỗ nào đây.

Tần Mục công phật ý đáp rằng :

- Ta đây, ba lần lập vua cho nước Tấn, hai lần dẹp loạn cho nước Tấn, uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Chỉ vì vua Tấn đánh được quân sở ở Thành Bộc, vậy nên ta nhường cho Tấn làm bá chủ, nay vua Tấn tạ thế rồi, thiên hạ chẳng còn ai địch nổi ta. Nước Trịnh theo Tấn chẳng qua như con chim tựa người, có lúc cũng phải bay đi, chi bằng ta nhãn cơ hội này sang diệt nước Trịnh, rồi đổi cho Tấn mà lấy đất Hà Đông thì Tấn tất phải nghe, sao lại bảo rằng không lợi ?

Kiến Thúc lại nói :

Sao chúa công không sai người sang viếng tang nước Tấn, nhân tiện mà viếng tang nước Trịnh để dò xem tình hình nước Trịnh có nên đánh hay không ? Chớ nên nghe lời bọn Kỷ Tử vội.

Tần Mục công nói : .

Nếu đợi đi viếng tang, rồi mới đem quân sang đánh thì những đi cùng về đã gần một năm, cái đạo dùng binh phải như sét đánh ngang trời, không kịp bưng tai mới được. Nay nhà ngươi già lẫn rỗi không hiểu điều ấy !

Nói xong, liền sai người mật báo cho bọn Kỷ Tử biết trước rằng đến thượng tuần tháng hai thì đem quân tới Bắc môn để đánh Trịnh, rồi tức khắc cho mạnh Minh (con Bách Lý Hề) làm chánh tướng, Tây Khất Thuật và Kiến Bính (con Kiến Thúc) làm phó tướng đem hơn hai nghìn quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khi Mạnh Minh

và Kiến Bính đem quân đi, Bách Lý Hề cùng với Kiến Thúc ra tiễn, khóc mà bảo rằng :

Than ôi ? Ta trông thấy con đi, mà không được trông thấy con về ?

Tần Mục công giận lắm, sai người trách Bách Lý Hề và Kiến Thúc rằng :

Sao nhà ngươi lại dám khóc quân ta, muốn làm cho quân ta ngã lòng hay sao ?

Bách Lý Hề và Kiến Thúc nói :

Chúng tôi có dám khóc quân sĩ đâu, chỉ khóc riêng con chúng tôi mà thôi.

Kiến Bính thấy cha khóc, toan từ chối không đi. Kiến Thúc nói :

Cha con ta ăn lộc nước Tần bấy lâu, nay con chết để báo ơn nước Tần cũng là phải đạo !

Nói xong, liền đưa cho Kiến Bính một bức thư, niêm phong rất kỹ, lại dặn một câu rằng :

Con cứ theo lời dặn trong thư này ?

Kiến Bính vâng lời rồi đi, nhưng trong lòng vừa nghi hoặc, vừa buồn rầu, chỉ có Mạnh Minh cậy tài vũ dũng, chắc là thế nào cũng thành công không cần nghĩ ngợi. Khi đại binh đã đi rồi, Kiến Thúc cáo ốm không vào triều và xin từ chức. Tần Mục công cố ép mãi, Kiến Thúc cáo là ốm nặng, rồi xin về ở diệt Thôn. Bách Lý Hề đến nhà hỏi thăm, bảo Kiến Thúc rằng :

Tôi không phải là không biết cơ mà từ chức đâu, sở dĩ còn ở lại đây là còn mong có ngày được trông thấy mặt con tôi. CÓ điều gì xin Ngô huynh chi bảo cho.

Kiến Thúc nói :

- Quân Tần ta đi chuyến này tất thua, hiền đệ nên mật báo công tôn Chi sắp thuyền bè ở sông Hoàng Hà, may ra các tướng thoát được thì đón về. Nhớ kỹ, nhớ kỹ !

Tần Mục công nghe nói Kiến Thúc quyết chí xin về làm ruộng, thì ban cho vàng đỏ hai mươi cân, lụa hoa một trăm tấm. Các quan đều đi tiễn ra đến ngoài cửa quan mới về. Bách Lý Hề cầm tay công tôn Chi, đem lời nói của Kiến Thúc thuật lại cho nghe, và dặn công tôn Chi rằng :

- Việc này, Kiến tiên sinh không ủy thác ai mà ủy thác tướng quân, là biết tướng quân trung dũng, hết lòng lo việc nước, vậy tướng quân nên lưu ý, chớ tiết lộ cho ai biết.

Công tôn Chi nói :

- Xin vâng lời.

Nói xong liền sắp sẵn thuyền bè ở bên sông Hoàng Hà.

Mạnh Minh thấy Kiến Thúc đưa cho Kiến Bính một phong mật thư thì nghi là trong thư tất có kỳ kế để phá quân Trịnh, đêm hôm ấy đến dinh Kiến Bính xin cho xem. Kiến Bính mở thư ra đọc. Trong thư có mấy hàng chữ như sau : "Chuyến đi này, không lo gì quân Trịnh, chi lo quân Tấn mà thôi. Chỗ Hào Sơn địa thế hiểm lắm, con nên cẩn

thận. Không khéo thì ta phải nhặt xương con ở chỗ ấy đó

Mạnh Minh trông thấy, liền đứng dậy đi ra rất nhanh, vừa đi vừa nói :

- Thôi thôi ! Điềm chẳng lành . Điềm chẳng lành !

Kiến Bính cũng cho là vị tất đã như thế. Quân Tần khởi hành từ tháng chạp năm trước, đến tháng giêng năm sau qua cửa Bắc nhà Chu. Mạnh Minh nói :

- Đây là chỗ thiên tử ở, ta nên kính nể mới phải !

Nói xong, truyền cho các tướng đều hạ mũ trụ, xuống xe đi đất.

Tướng tiên phong quân Tần là Bao Man Tử, vốn người có tài vũ dũng, khi đi khỏi Bắc Môn rồi, lại lên xe phóng ngựa như bay. Mạnh Minh khen rằng :

- Giả sừ ai cũng như Bao Man Tử thì việc gì chẳng làm xong !

Các tướng sĩ nghe nói, đều nhao nhao bảo nhau rằng :

Sao chúng ta lại chịu kém Bao Man Tử ! .

Bấy giờ các tướng sĩ đều ganh đua nhau đi trước, quân kéo mau quá như gió cuốn, như chớp nhoáng, thoáng một nhát đã không thấy đâu .nữa. Chu Tương Vương sai vương tử HỔ và vương tôn Mân xem quân Tần. Vương tử HỔ tâu với Chu Tương Vương rằng :

- Quân Tần vũ dũng như thế, còn nước nào địch nổi ?

Bấy giờ vương tồn Mãn tuổi hây còn nhỏ , nghe vương tử HỔ nói

chỉ mỉm cười mà không nói gì. Chu Tương Vương hỏi :

Cậu bé con kia, nghĩ gì thế ?

Vương tôn Mân nói :

Theo lễ, thì các nước đem quân qua chỗ thiên tử ở, tất phải cuốn áo giáp và bỏ binh khí lại rồi đi cho mau, bây giờ quân Tần chỉ hạ mũ trụ mà thôi, thế là không biết giữ lễ ! Quân đã không biết giữ lễ tài nào khỏi rối loạn ; chuyến đi này tôi chắc là quân Tân phải thua !

Nước Trịnh có một người lái buôn, tên gọi Huyền Cao, vẫn làm nghề buôn trâu. từ khi vương tử Đái nhả Chu thích chơi trâu, các lái trâu ở nước Trịnh và nước Vệ đem trâu đến bán, được lãi to lắm, bởi vậy Huyền Cao còn giữ nghề ấy. Huyền Cao dẫu là người lái buôn, nhưng Vẫn có lòng trung quân ái quốc, chỉ vì không gặp người tiến

dẫn, thành ra chẳng ai biết đến. Bấy giờ Huyền Cao buôn được mấy trăm con trâu béo, định đem sang nhà Chu để bán. Khi đi đến gần bến Lê Dương, gặp một người bạn cũ tên là Kiến Tha mới ở nước Tần về. Huyền Cao hỏi :

Nước Tần độ này có chuyện gì lạ không ?

Kiến Tha nói :

- Trong hồi tháng chạp mới rồi, nước Tần có sai ba tướng đem quân đi, hình như muốn đánh úp nước Trịnh, không bao lâu nữa quân Tần sẽ sang đến nơi.

Huyền Cao giật mình mà nói rằng :

- Nước cha mẹ của ta, nay có cái tai nạn ấy, ta không nghe được thì thôi, nếu nghe được mà không cứu thì một mai nước mất, ta còn mặt mũi nào mà trở về nữa !

Huyền Cao nghĩ ra một kế, bèn từ biệt Kiến Tha, rồi một mặt sai người phi báo cho nước Trịnh biết mà phòng bị ; lại một mặt chọn hai mươi con trâu béo để sửa soạn làm lễ khao quân. Huyền Cao ngồi một cái xe nhỏ đi đón quân Tần.

Đi đến đất Diên Tân nước Hoạt, gặp tiền đội quân Tần, Huyền Cao đón ngang dọc đường mà nói với quân Tần rằng :

- Tôi là sứ thần nước Trịnh xin yết kiến quan nguyên soái.

Quân tiền đội báo với Mạnh Minh, Mạnh Minh giật mình, nghĩ rằng :

Tại sao nước Trịnh biết có quân ta đến mà sai sứ thần đón ? âu là ta hãy tiếp kiến, để xem thế nào.

Mạnh Minh nói xong, liền tiếp huyền Cao. Huyền Cao làm như phụng mệnh vua Trịnh nói với Mạnh Minh rằng :

Chúa công tôi nghe tin ba vị tướng quân, sắp sửa đem quân đi qua nước tôi, vậy có sai tôi dâng lễ mọn này, để khao các hàng quân sĩ. Nước tôi tiếp giáp các nước lớn, thường hay có việc can thiệp, nhờ có quân quý quốc đóng đồn để giữ hộ cho, nhưng nước tôi vẫn lo sợ rằng lỡ khi có sự bất trắc, lại nên tội với thượng quốc, bởi vậy phải hết sức ngày đêm phòng giữ, không dám trễ nải, xin ba vị tướng quân xét cho .

Mạnh Minh nói :

- Vua Trịnh sai nhà người khao quân, sao không có quốc thư ?

Huyền Cao nói :

- Chúa công tôi nghe tin các vị tướng quân khởi hành từ tháng chạp, mà quân đi gấp lắm, sợ đợi sửa quốc thư thì không kịp nghênh tiếp bời vậy chỉ truyền miệng cho tôi ra đây, xin các vị tướng quân lượng thứ cho.

Mạnh Minh ghé tai Huyền Cao mả bảo nhỏ rằng :

- Chúa công tôi sai chúng tôi đem quân đi đây là định đánh nước Hoạt, không phải có ý đến nước Trịnh đâu !

Nói xong, truyền đóng quân lại ở đất Diên Tân. Huyền Cao tạ ơn lui ra. Tây Khất Thuật và Kiến Bính hỏi Mạnh Minh rằng :

- Tướng quân đóng quân lại đây, là có ý gì ?.

Mạnh Minh nói :

- Quân ta đi xa hai nghìn dặm, chỉ có nhân lúc nước Trịnh bất ngờ để tiến đánh, nay người nước trịnh đã biết mà phòng bị trước, ta đánh cũng chẳng được nào. Vả ta muốn vây nước Trịnh thì lại không có quân tiếp ứng, chi bằng tiện đây ta đánh úp nước Hoạt, để khỏi mang tiếng là đem quân đi mà không được việc gì.

Đêm hôm ấy, ba tướng nước Tần chia quân làm ba mặt lẻn vào đánh lấy thành nước Hoạt. Vua nước Hoạt bỏ chạy sang nước Địch.

Quân Tần bắt lấy hết sạch châu báu ngọc lụa của nước Hoạt. Nước Hoạt bị tàn phá, và sau đó lại bị nước Vệ kiêm tính mất.

Trịnh Mục công tiếp được mật báo của Huyền Cao, chưa lấy gì làm tin lắm, tức thì sai người dò thám bọn Kỷ Tử, xem tình hình thế nào. Bấy giờ đã thượng tuần tháng hai, bọn Kỷ Tử đang sửa soạn xe cộ và khí giới chỉ đợi quân Tần đến nơi thì trong ngoài hợp sức mà đánh Quân sĩ về báo Trịnh Mục công. Trịnh Mục công sợ hãi, liền sai lão đại phu là Chúc Vũ đến yết kiến bọn Kỷ Tử, đưa biếu mỗi người một tấm lụa mà bảo rằng :

- Các ngài đóng quân ở nước tôi, nước tôi vì việc khoản đãi mà hươu nai ở chốn Nguyên Phố đã hết sạch cả, nay nghe tin các ngài đang sửa soạn quân mã, tất là muốn thu quân về nước. Hiện nay Mạnh Minh cùng các tướng đã tiến quân đến nước Hoạt, sao các ngài không đi theo ? .

Kỷ Tử giật mình, thầm trong lòng rằng :

Mưu kế của ta đã tiết lộ ra rồi, quân đến mà vô công thì ta là hữu tội, chẳng những không ở yên được nước Trịnh, mà muốn về nước Tần cũng không được nữa. .

Kỷ Tử xin lỗi với Chúc Vũ, rỗi bỏ trốn sang nước Tề. Phùng Tôn và Dương Tôn cũng sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống. Quân lưu thú không có chủ tướng họp nhau toan nổi loạn. Trinh Mục công sai Dật Chi HỖ đem lương thực cấp phát cho quân Tần để về nước ; rồi ghi công Huyền Cao, cử cho làm chức quận úy: Từ đó nước Trịnh được yên

ổn. .

Tấn Tương công đang thủ tang ở đất Khúc ốc, nghe tin nước Tần sai Mạnh Minh thống lĩnh đại binh đi về phía đông, không biết là đi đâu liền họp triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn đã cho người đi dò thám, biết rõ mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, tức khắc vào yết kiến Tấn Tương công.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 45 : MẠNH MINH CẬY TÀI BỊ TẤN VÂYTIÊN CHẨN CỞI GIÁP CHO ÐỊCH BẮN

Nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn đã biết rõ mưu quân Tần định đánh úp nước Trịnh,mới vào nói với Tấn Tướng công rằng:

-Vua Tần không nghe lời Kiến Thúc và Bách Lý Hề, đem quân đi kế hàng nghìn dặm, định lẻn đánh nước người ta,chính ứng vào cái lời của quan thái bốc là Quách Yến nói có giặc ở tây phương đến,ta nên mau mau đón đường mà đánh,chớ bỏ mất cơ hội nầy !

Loan Chi nói:

-Vua Tần có ơn với tiên quân ta ngày xưa to lắm,nay ta chưa đền ơn mà đã chực đón đánh thì đối với tiên quân,sao cho phải đạo?

Tiên Chẩn nói:

-Nay ta đánh Tần,chính là theo được cái chí tiên quân đó ! Tiên quân tạ thế đi,các nước đến viếng tang cả,chỉ có Tần không đến viếng tang,thế là nước Tần vô lễ với ta,còn ân nghĩa gì ! Vã nước Tần đã có giao ước với ta rằng:hai nước có việc binh thì đồng lòng giúp nhau,thế mà khi vây Trịnh,nước Tần bội ước rút quân, đủ biết tình nghĩa nước Tần như thế nào.Người ta đã không thủ tính thì tội gì mình phải nhớ ơn?

Loan Chi nói:

-Quân Tần chưa xâm phạm gì nước ta,mà ta đón đánh thì chẳng cũng quá lắm ư !

Tiên Chẩn nói:

-Ngày trước nước Tần giúp tiên quân ta,không phải yêu gì nước Tấn,chẳng qua là vì tư lợi.Khi tiên quân ta lên làm bá chủ,nước Tần dẫu ngoài mặt phải theo,nhưng trong lòng vẫn ghen ghét,nay nhân lúc ta có tang mà đem quân sang đánh Trịnh,thế là có ý khinh ta không dám cứu Trịnh,tất cũng có ngày lên đánh nước at.Tục ngữ có câu rằng: "Một ngày tha giặc, để họa mấy đời!"Nếu ta không đánh Tần thì sao tự lập được?

Triệu Thôi nói:

-Nước Tần dẫu nên đánh,nhưng chúa công đang lúc có tang mà gây việc chiến tranh,tôi sợ không hợp lẽ.

Tiên Chẩn nói:

-Ðể tang là cốt giữ cho trọn đạo hiếu,mà đánh giặc là để giữ yên nước nhà;còn điều gì hiểu hơn nữa ! Nếu các ngài cho là không nên thì tôi xin đi một mình.

Bọn Tư Thần đều tán thành lời nói của Tiên Chẩn.Tấn Tướng công nói:

-Nguyên soái liệu xem quân Tần đi đánh Trịnh, độ bao giờ trở về?Khi về thì đi theo đường nào?

Tiên Chẩn tính đốt ngón tay,rồi đáp lại rằng:

-Ði xa mà không có tiếp ứng,không thể đi lâu được,kể cả đi lẫn về hơn bốn tháng thì đầu mùa hạ thế nào cũng đi qua Thăng Trì.Thăng Trì là chỗ giáp nước Tần và nước Tấn,phía tây có hai dãy núi Hào Sơn,từ Ðông Hào đến Tây Hào cách nhau ba mươi nhăm dặm.Chỗ ấy hiểm lắm,cây cối rậm rạp, đá núi lởm chởm,nhiều nơi xe không đi được,phải tháo ngựa ra.Nếu ta phục một đạo binh ở đấy rồi đổ ra mà đánh thì bắt sống được hết quân Tần

Tấn Tướng công nói:

-Việc đó ta ủy thác cho quan nguyên soái.

Tiên chẩn sai con là Tiên Thả Cư cùng với Ðỗ Kích đem năm nghìn quân phục ở phía tả núi Hào Sơn,sai con Tư Thần là Tư Anh cùng với HỒ Cúc Cư đem năm nghìn quân phục ở phía hữu núi Hào Sơn, đợi khi quân Tần đến thì đổ ra mà đánh.Lại sai con Hồ Xạ Cô cùng với Hàn Tử Dư đem năm nghìn quân phục ở phía tây núi Hào Sơn,rồi đẵn gỗ lấp ngang đường, để cho quân Tần không đi được,sai con Lương Do Mỹ là Lương Hoằng cùng với Lai Câu đem nghìn quân phục ở phía đông Hào Sơn, đợi khi quân Tần qua đó thí đem quân ra mà đuổi.Tiên Chẩn cùng với bọn Triệu Thôi và các tướng theo Tấn Tướng công đem quân đóng ở ngoài Hào Sơn hai mươi dặm để tiếp ứng.

Quân Tần diệt được nước Hoạt,về gần đến Hào Sơn,Kiển Binh nói với Mạnh Minh rằng:

-Hào Sơn hiểm lắm,khi trước phụ thân tôi đã có lời dặn nguyên soái nên cẩn thận mới được.

Mạnh Minh nói:

-Ta đem quân đi nghìn dặm,còn chẳng sợ hải gì,huống chi đi khỏi Hào Sơn tức là địa giới nước nhà,còn ngại gì nữa !

Tây Khất Thuật nói:

-Nguyên soái cũng nên phòng xa,sợ khi quân Tấn có mai phục, đỗ ra đánh thì ta chống lại sao nổi?

Mạnh Minh nói:

-Tướng quân sợ nước Tần như thế,tôi xin đi trước,nếu có quân mai phục, để mặc tôi đối địch.

Mạnh Minh sai Bao Man Tử đi tiên phong,rồi đến nhị đội là Mạnh Minh,tam đội là Tây Khất Thuật,tứ đội là Kiển Binh,mỗi toán quân cách nhau đến một hai dặm.Bao Man Tử tay cầm phương thiên họa kích nặng tám mươi cân sắt,tự đắc cho là thiên hạ không ai địch nổi.Khi đi đến phía đông Hào Sơn,bỗng có một viên đại tướng đem quân ra đón đường hỏi rằng:

-Nhà ngươi có phải là đại tướng nước Tần,tên gọi Mạnh Minh đó không? Chúng ta chờ đợi đã lâu lắm rồi !

Bao Man Tử nói:

-Nhà ngươi họ tên là gì,nên nói trước cho ta biết?

Viên đại tướng ấy đáp:

-Ta đây đại tướng nước Tấn tên gọi Lai Câu !

Bao Man Tử nói:

-Nước mày có Loan Chi và Ngụy Thù đến,họa chăng đối địch với ta được mấu hợp,mày là đứa vô danh tiểu tốt,biết điều thì tránh ra một bên để quân ta đi,kẻo ta cho một ngọn kích này thì khôn toàn được tính mệnh!

Lai Câu giận lắm,xông lại đánh Bao Man Tử.Bao Man Tử cầm kích đánh vào cái ngáng ở trên xe Lai Câu,gãy làm hai đoạn.Lai Câu thấy Bao Man Tử sức mạnh như vậy thì bất giác khen rằng:

-Ta vẫn nghe tiếng Mạnh Minh,thật cũng không sai.

Bao Man Tử bật cười mà rằng:

-Ta là một viên tiểu tướng,tên gọi là Bao Man Tử !Nguyên soái ta khi nào lại thèm giao chiến với lũ chuột !Chúng bây nên mau mau tránh đi,kẻo nguyên soái ta tới đây thì không còn mống nào sống sót !

Lai Câu nghĩ thầm:

-Tiểu tướng nước Tần mà còn giỏi như thế,huống chi là Mạnh Minh,không biết giỏi đến đâu!

Lai Câu liền quát to lên mà bảo Bao Man Tử rằng:

-Ta tránh cho nhà người đi,nhà ngươi chớ nên xâm phạm đến quân ta.

Nói xong,lại thu quân đứng dẹp một bên,nhường cho Bao Man Tử đi.Bao Man Tử tức khắc sai quân truyền báo với chủ soái là Mạnh Minh rằng:

-Nước Tấn có một toán quân mai phục, đã bị tôi đánh tan rồi,xin nguyên soái mau mau tiến binh.Lai Câu thu quân về yết kiến Lương Hoằng,khen Bao Man Tử là người tài giỏi.Lương Hoằng cười mà nói rằng:

-Dẫ cá mập thuồng luồng mà đã chui vào lưới sắt,cũng chẳng cựa quậy được nữa!Chúng ta nên tránh một bên cho quân Tần đi qua hết,rồi sẽ đuổi đánh thì chắc được toàn thắng!

Bọn Mạnh Minh kéo quân qua phía đông Hào Sơn. Ði được mấy dặm thì thấy núi đá cheo leo,cây rừng rậm rạp, đường lối rất hiểm trở,xe ngựa không tài nào đi được,nhưng thấy quân tiền đội của Bao Man Tử đi đã xa rồi,Mạnh Minh mới bảo các tướng rằng:

-Bao Man Tử đi đã xa như vậy thì chắc là không còn có quân mai phục nữa!

Nói xong ,truyền cho quân sĩ bỏ mũ trụ áo giáp ra,rồi dắt ngựa mà đi đất,không có hàng ngũ nào cả. Ði được một quãng,bỗng nghe báo ở mặt sau có quân Tấn đuổi theo.Mạnh Minh nói:

-Ta đi khó khăn thế này thì chúng ta đi cũng chẳng dễ nào! Ta chỉ sợ có quân ngăn trở,chớ không sợ có quân đuổi theo.

Mạnh Minh truyền cho các đội quân đều mau mau kéo trước,còn mình thì đi sau, để đối địch với quân Tấn.Lại đi khỏi mấy ngọn núi nữa,bổng nghe báo có nhiều cây gỗ bỏ chặng ngang đường ,quân không đi được.Mạnh Minh nói:

-Nếu vậy thì tất có quân mai phục!

Mạng Minh trèo lên ngọn núi đứng nom,trông thấy ở khe núi có cắm một ngọn cờ đỏ cao hơn ba trượng,trên lá cờ đề một chữ "Tấn",còn dưới thì có nhiếu cây gỗ bỏ ngang lấp cả lối đi.Mạnh Minh nói:

-Ðây là kế nghi binh của quân Tấn đó!

Nói xong,truyền cho quân sĩ nhổ lá cờ đỏ,rồi xúm nhau xô gỗ ra để lấy đường đi.Ai ngờ lá cờ đỏ ấy là ký hiệu của quân Tấn,quân Tấn thấy mất là cờ đỏ,biết là quân Tần đã đến,tức khắc bốn mặt đổ ra đón đánh.Kiển Binh truyền cho quân sĩ đứng lại để đối địch,bỗng thấy ở trên ngọn núi có một vị tướng quân,tức là Hồ Xạ Cô,quát to lên rằng:

-Tướng tiên phong của nhà ngươi là Bao Man Tử, đã bị bắt trói ở đây rồi,nhà ngươi nên mau mau đầu hàng đi thì mới bảo toàn được tính mệnh!

Nguyên Bao Man Tử cậy có sức khỏe;xung đột đi trước,bỗng sa xuống một cái hầm sâu,quân Tấn thả câu liêm xuống móc lên,rồi trói lại đưa lên từ xa.Kiển Binh sợ lắm,sai người truyền báo cho Tây Khất Thuật và Mạnh Minh biết.Mạnh Minh thấy chỗ ấy chỉ rộng chừng một thước,mà một bên thì núi đá chênh vênh,một bên thì hố sâu muôn trượng, đại binh không thể co duỗi được,thì nghĩ ra một kế,mới truyền cho đại binh lui về phía đông Hào Sơn để cùng với quân Tấn quyết chiến.Quân Tấn vừa lui lại một quãng thì bỗng thấy một viên đại tướng là Lương Hoằng,và một viên phó tướng là Lai Câu đem năm nghìn quân Tấn đổ ra đón đánh.Mạnh Minh kinh hãi,truyền cho quân sĩ theo hai phía trèo núi vượt khe để tìm lối đi,bổng thấy ở đầu núi phía tả,chiêng trống rầm rĩ,có một viên đại tướng quát to lên rằng:

-Ta đây là đại tướng nước Tấn,tên gọi Tiên Thả Cư,Mạnh Minh nên mau mau đầu hàng đi !

Mạnh Minh trông sang đầu núi phía hữu,lại thấy hiện cờ của một viên đại tướng nước Tấn tên là Tư Anh.

Quân Tần chạy trốn tán loạn,kẻ trèo núi,người vượt khe, đều bị quân Tấn chém giết hoặc bắt sống.Mạnh Minh tức giận,lại cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Binh đánh thốc lên phía trước.Ai ngờ trong đống cây gỗ ngổn ngang dọc đường, đều có lưu hoàng diêm tiêu là vật dẫn hỏa,bị tướng nước T-án là Hàn Tử Dư châm lửa đốt lên,tàn bay đỏ rực,khói tỏa mù trời.Phía sau lại có quân Lương Hoằng tiến đến,thành ra bên phải bên trái,phía trước phía sau, đều có quân Tấn cả,quân Tần không còn có đường nào mà chạy thoát được.Mạnh Minh bảo Kiển Binh rằng:

-Kiển tiên sinh (trỏ Kiển Thúc)thật là thần toán ! Ngày nay chúng ta đành chết ở đây mà thôi ! Tướng quân nên cùng với Tây Khất Thuật thay hình đổi dạng,tìm đường trốn đi,họa may có người nào thoát vế nước được,tâu với chúa công ta, để ngày khác đem quân sang đánh báo thù thì ta dẫu chết xuống suối vàng,cũng được thỏa dạ.

Tây Khất Thuật và Kiển Binh khóc mà rằng:

-Chúng ta sống chết có nhau,lòng nào mà bỏ nhau !

Tây Khất Thuật và Kiển Binh nói chưa dứt thì quân sĩ chạy trốn đã gần hết,xe cộ khí giới bỏ lại ngổn ngang chồng đống trên đường.

Mạnh Minh và các tướng không còn kế gì đành ngồi ở khe núi chờ chịu trói.Quân Tấn bốn mặt vây kín,tất cả tướng sĩ nước Tần đều bó tay chịu tù.Tiên Thả Cư và chư tướng hội họp ở dưới núi Ðông Hào, đem ba tướng nước Tần và Bao Man Tử,bỏ vào tù xa cùng với quân sĩ,xe ngựa và bao nhiêu trai gái ngọc lụa của nước Hoạt,giải về đại dinh Tấn tướng công.Quân Tấn vui mừng,hò reo vang động.Tấn Tướng công hỏi tên họ ba tướng và hỏi Bao Man Tử là ai.Lương Hoằng nói:

-Viên ấy dẫu là tiểu tướng,nhưng có tài vũ dũng hơn người,khi trước Lai Câu ra đối địch với hắn, đã bị thua một trận,nếu hắn không sa xuống hầm sâu thì cũng khó lòng mà bắt được.

Tướng công kinh ngạc nói:

-Hắn vũ dũng như thế, để hắn tất có ngày sinh biến !

Rồi gọi Lai Câu đến trước mặt bảo rằng:

-Ngày trước nhà ngươi bị hắn đánh thua,nay ta cho phép nhà ngươi được chém đầu hắn ở trước mặt ta, để nhà ngươi thỏa dạ.

Lai Câu vâng mệnh, đem Bao Man Tử trói vào cái cột ở giữa sân,rồi tay cầm thanh đao,toan bổ vào đầu Bao Man Tử.Bao Man Tử thét lên rằng:

-Mày đã bị ta đánh thua,sao dám phạm đến ta !

Tiếng thét của Bao Man Tử,khác nào một tiếng thét ở lưng chừng trời,làm cho cửa nhà chuyển động cả.Trong khi Bao Man Tử miệng thét mà hai tay vùng vằng,bao nhiêu dây trói đứt sạch cả.Lai Câu giựt mình kinh sợ,tay chân rụng rời, đánh rơi thanh đao xuống đất.Bao Man Tử tức khắc cướp lấy đao,bỗng một viên tiểu tướng tên gọi Lang Ðàm, đứng gần đấy trông thấy,vội vàng cầm đao xông vào chém Bao Man Tử ngã xuống rồi cắt đầu đem nộp ở trước mặt Tấn Tướng công.Tấn Tướng công mừng lắm nói:

-Vũ dũng của Lai Câu,lại không bằng một viên tiểu tướng !

Nói xong,liền cách chức Lai Câu không dùng nữa,cho Lang Ðàm làm chức xa hữu.Lang Ðàm tạ ơn lui ra,nghĩ rằng tài năng của mình đã được nhà vua biết,bèn không đến yết kiến quan nguyên soái là Tiên Chẩn.Tiên Chẩn có ý không bằng lòng.

Ngày hôm sau,Tướng công cùng các tướng nổ bài nhạc "Khải Hoàn"mà trở về.Vì linh cữu của Văn công còn quàn ở Khúc Ốc,cho nên đại binh ghé vào đấy để dâng chiến công trước linh cữu,rồi chôn cất một thể.Ba tướng nước Tần cũng được đưa về Khúc Ốc để làm lễ dâng tù lên Thái miếu,chờ đến khi trở về Giáng đô đem hành hình.Văn công phu nhân là Doanh thị (con gái nước Tần)cũng đến hội tang ở Khúc Ốc.Phu nhân đã biết tin ba tướng bị bắt rồi nhưng cố ý hỏi Tấn Tướng công rằng:

-Ta nghe nói quân Tấn thắng trận,bọn Mạnh Minh đều bị bắt cả, đó là cái phúc lớn của nước nhà,chẳng hay đã đem bọn ấy ra hành hình chưa?

Tướng công nói:

-Chưa !

Phu nhân nói:

-Tấn Tần hai nước đã mấy đời làm thân gia với nhau,thế mà bọn Mạnh Minh muốn lập công,gây việc binh đao, để làm cho hai nước đổi ân thành oán.Ta chắc rằng vua Tần cũng giận bọn ấy lắm.Bây giờ ta giết thì cũng vô ích thôi,không bằng thả cho chúng về để vua Tần tự tay giết lấy,như thế thì gỡ được mối thù oán của hai nước,chẳng cũng hay lắm sao?

Tấn Tướng công nói:

-Bọn Mạnh Minh rất đác dụng ở Tần,nay ta tha cho về,có hại cho Tấn.

Phu nhân nói:

-"Kẻ nào thua giặc thì chịu tử hình", đó là phép nước,bởi vậy khi quân sở thua trận,thì Thành Ðắc Thần bị xử tử;Thế thì há nước Tần lại không có quân Pháp hay sao?Và Tấn Huệ công ngày xưa bị vua Tần bắt,vua Tần biết trọng đãi,lại tha cho về,Tần đã có ơn với ta như thế,bây giờ chỉ có mấy viên bại tướng mà ta cứ muốn giết đi cho được,chẳng hoá ta bạc tình lắm sao?

Tấn Tướng công nghe nói đến việc vua Tần tha cho Tấn Huệ công ngày trước,thì trong lòng cảm động,tức khắc truyền tha cho bọn Mạnh Minh về nước.Bọn Mạnh Minh được tha,chẳng vào lạy tạ nữa,cứ việc cắm đầu trốn đi.Tiên Chẩn đang ngồi ăn cơm ở nhà,nghe tin Tấn Tướng công tha bọn Mạnh Minh,vội vàng nhả miếng cơm ra mà vào yết kiến Tấn Tướng công,nét mặt hầm hầm tức giận,hỏi Tướng công rằng:

-Bọn tù nhân nước Tần đâu cả?

Tấn Tướng công nói:

-Mẫu phu nhân xin tha cho về nước để mặc vua Tần giết đi,ta đã theo lời mà tha cho họ về rồi !

Tiên Chẩn nổi giận nhổ vào mặt Tấn Tướng công mà mắng rằng:

-Úi chà ! Thật rõ là con nít chẳng biết gì Vũ sĩ trăm nghìn gian khổ,mới bắt được bọn tù ấy,nay vì nửa câu nói của người đàn bà ma hỏng hết! Thế mới thật thả hổ về rừng,tất có ngày hối không kịp nữa !

Tấn Tướng công bây giờ mới nghĩ ra,lấy áo chùi mặt mà xin lỗi Tiên Chẩn rằng:

-Ðiều ấy tôi xin chịu lỗi !

Rồi ngảnh lại hỏi các tướng rằng:

-Có ai dám đuổi tướng nước Tần hay không?

Dương Xử Phủ xin đi.Tiên Chẩn bảo Dương Xử Phủ rằng:

-Tướng quân dùng lời nói khéo mà lừa bắt họ lại được thì thật là công to lắm!

Dương Xử Phủ tức khắc lên ngựa truy phong,cầm dao đi đuổi theo bọn Mạnh Minh.Bọn Mạnh Minh từ khi được tha trón đi,vừa đi vừa bàn nhau rằng:

-Chúng ta có qua khỏi sông Hoàng Hà,mới chắc được sống,nếu không thì còn sợ vua Tấn hối lại mà đuổi theo,khó lòng đã thoát nạn.

Khi đi đến bến sông Hoàng Hà,chẳng có một chiếc thuyền nào cả,bọn Mạnh Minh thở dài than rằng:

-Thế này thì thật là trời hại chúng ta!

Bỗng thấy một ông lão đánh cá chèo chiếc thuyền nhỏ ở phía tây đi đến, đang ngâm nga rằng:

"Con vượn kia được thoát cũi

Con chim kia được sổ lồng !

Nay đã gặp ta ở đây,dẫu thua cũng là thành "công" !

Mạnh Minh nghe câu hát ,lấy làm lạ,liền gọi mà bảo rằng:

-Ông lão đánh cá kia ôi ! Cho chúng tôi sang với.

Ông lão đánh cá nói:

-Lão chỉ chở người Tần ,chứ không chở người Tấn !

Mạnh Minh nói:

-Chúng tôi là người Tần đây ! Mau mau cho chúng tôi sang .

Ông lão đánh cá nói:

-Nhà ngươi có phải là người thua trận ở Hào Sơn đấy không?

Mạnh Minh nói:

-Phải !

Ông lão đánh cá nói:

-Ta phụng mệnh của công tôn tướng quân,cắm thuyền ở đây để đón các ngài đã lâu lắm ! chiếc thuyền này nhỏ không thể chở được,tướng quân nên men bờ sông đi độ nửa dặm nửa dặm nữa, đã có thuyền lớn đợi ở đó.

Ông lão đánh cá ấy nói xong,lại chèo thuyền đi về phía tây.Thuyền đi như bay.Bọn Mạnh Minh men sông đi về phía tây,chưa được nữa dặm,quả nhiên thấy mấy chiếc thuyền lớn đậu ở dưới sông,cách bờ một quãng ngắn. Ông lão đánh cá đã đứng ở đấy để mời bọn Mạnh Minh xuống thuyền.Chưa kịp mở lái thì trông lên trên bờ,thấy có một vị tướng quân ruổi xe đi đến,tức là Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ gọi to lên rằng:

-Các tướng nước Tần kia,hãy thư thả một chút!

Bọn Mạnh Minh nghe tiếng, đều giật mình kinh sợ.Dương Xử Phủ trông thấy bọn Mạnh Minh đã xuống thuyền rồi,liền nghĩ ngay một kế:giả cách phụng mệnh Tấn Tướng công, đem một con ngựa đến ban cho Mạnh Minh,rồi nói với Mạnh Minh rằng:

-Tôi phụng mệnh chúa công tôi đem con ngựa hay này đến tặng tướng quân để tỏ lòng kính mến,xin tướng quân nhận cho.

Dương Xử Phủ định lừa cho Mạnh Minh lên bờ nhận ngựa thì thừa cơ mà bắt lấy,nhưng Mạnh Minh không chịu lên,chỉ đứng trên mũi thuyền cúi đầu bái tạ và nói rằng:

Chúng tôi đội ơn nhà vua không giết,cũng đã cảm tạ lắm rồi,nay lại còn cho ngựa,chúng tôi không dám nhận.Chuyến này chúng tôi về nếu không bị chúa công chúng tôi tra lục,thì sau ba năm nữa,chúng tôi lại xin sang tạ ơn nhà vua.

Dương Xử Phủ vừa toan đáp thì lại thấy thủy thủ đã bẻ lái chèo thuyền ra giữa dòng rồi vùn vụt đi thẳng.Dương Xử Phủ ngao ngán trở về, đem lời nói của Mạnh Minh tâu lại với Tấn Tướng công.Tiên Chẩn tức giận mà nói rằng:

-Hắn nói sau ba năm nữa sẽ sang tạ ơn là nói sau ba năm nữa sẽ sang báo thù đó,chi bằng ta nhân dịp hắn mới thua, đem quân đánh trước đi là hơn.

Tấn Tướng công lấy làm phải,mới bàn định việc cử binh đi đánh Tần.Tần Mục công nghe tin bọn Mạnh Minh bị nước Tấn bắt,vừa buồn vừa giận,bỏ ăn bỏ ngủ,sau mấy ngày nữa,lại nghe tin bọn mạnh Minh được tha về,nỗi mừng tỏ rõ trên mặt.Các quan đều nói:

-Bọn Mạnh Minh làm nhục nước,nên bắt tội chết.Ngày trước vua Sở giết Thành Ðắc Thần để cho quân sĩ phải khiếp sợ,nay chúa công cũng nên theo phép ấy.

Tần Mục công nói:

-Ta không nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc, để di lụy dến bọn Mạnh Minh,thế là lỗi tại ta đó!

Nói xong,liền thân hành ra đón ngoài cõi,rồi lại dùng Mạnh Minh làm chủ tướng ,càng có ý trọng đãi lắm.Bách Lý Hề nói:

-Cha con tôi ngày nay lại được gặp nhau,thật là một sự bất ngờ !

Bách Lý Hề cáo lão về hưu.Tần Mục công dùng Do Dư và Công Tôn Chi làm tả,hữu thứ trưởng, để thay Kiển Thúc và Bách Lý Hề.

Tấn Tướng công đang bàn việc đánh Tần,bỗng nghe báo có vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem quân đến đánh, đã tiến vào đất Cơ Thành,Tấn Tướng công giật mình kinh sợ,nói:

-Ta với nước Ðịch,không có hiềm khích gì với nhau,mà sao vua Ðịch lại đem quân sang xâm phạm bờ cõi ta?

Tiên Chẩn nói:

-Tiên quân ta ngày xưa trốn sang ở nước Ðịch,vua nước Ðịch đem hai người con gái là Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi,gả cho tiên quân ta và Triệu Thôi,trong mười mấy năm trời,vẫn một lòng trọng đãi.Khi tiên quân ta về nước,vua nước Ðịch có sang mừng,lại đưa Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi về nước ta,thế mà tiên quân ta không hề có sai sứ sang tạ ơn lần nào cả,bởi vậy vua Ðịch cùng giận,nhưng nể mà không nói,nay con là Bạch Bộ Hồ lên nối ngôi,cậy có sức mạnh,mới đem quân sang đánh ta.

Tấn Tướng công nói:

-Tiên quân ta ngày xưa lo công việc bá chủ,không kịp nghĩ đến ơn riêng,nay vua địch lại nhân đất nước ta có tang mà đem quân đánh,thế tức là một nước cừu địch với ta,vậy nguyên soái nên vì ta mà đem quân ra đối địch.

Tiên Chẩn sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

-Trước kia,khi tôi nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về,tôi đã quá nóng nảy,nhổ vào mặt chúa công,thật có gì vô lễ hơn nữa.Con người vô lễ thì không làm tướng được,vì vậy dám xin chúa công bãi chức nguyên soái của tôi mà chọn người khác xứng đáng hơn.

Tấn Tướng công nói:

-Nguyên soái vì việc nước mà tức giận, đó là bởi lòng trung thành khích động,ta lại không rõ hay sao ! Nay ta muốn chống lại với quân nước Ðịch,trừ phi nguyên soái thì không ai đương nổi,nguyên soái chớ nên từ chối.

Tiên Chẩn bất đắc dĩ phải vâng mệnh.Khi ở trong triều ra,Tiên Chẩn thở dài mà than rằng:

-Ta vốn muốn chết với quân Tần,ai ngờ lại thành ra chết với quân Ðịch !

Các quan triều thần không ai hiểu ý ra làm sao cả.Tấn Tướng công thu quân trở về Giáng Ðô.Tiên Chẩn trèo lên tướng đài, điểm duyệt quân sĩ,rồi hỏi các tướng rằng :

-Ai là người dám lãnh chức tiên phong?

Bỗng có một người ngang nhiên bước ra mà nói rằng :

-Tôi xin đi !

Tiên Chẩn nhìn xem ai thì tức là Lang Ðàm,hiện mới lĩnh chức xa hữu.Nguyên trước Lang Ðàm mới lĩnh chức không chịu vào yết kiến Tiên Chẩn,bởi thế Tiên Chẩn có ý không bằng lòng,ngày nay lại thấy Lang Ðàm xin đi tiên phong,thì lại càng ghét,mắng rằng:

-Mày là một tên tiểu tốt,chém chết một thằng giặc mà được trọng dụng,thế mà nay đã kiêu ngạo tự đắc,dám khinh bọn tướng sĩ ta không có ai là người tài giỏi hay sao !

Lang đàm nói:

-Tiểu tướng tình nguyện ra sức giúp nước,sao nguyên soái lại ngăn trở như vậy?

-Ở đây không thiếu gì người ra sức,mày có tài trí gì mà dám vượt qua chủ tướng?

Tiên Chẩn liền thét đuổi Lang Ðàm,không dùng mà cho Hồ Cúc Cư vào thay,vì có cái công giáp chiến ở Hào Sơn khi trước.Lang đàm cúi đầu thở dài,lui ra,bỗng gặp người bạn là Tiên Bá ở ngoài đường.Tiên Bá hỏi rằng:

-Tôi nghe quan nguyên soái đang tuyển tướng để đi đánh giặc,sao nhà ngươi lại lửng thửng đi đâu đấy?

Lang Ðàm nói:

-Tôi đã tình nguyện đi tiên phong , để ra sức giúp nước ai ngờ lại gặp phải lúc nguyên soái nổi giận,mắng tôi là tài trí gì mà dám vượt qua các tướng,hiện nay đã cách chức tôi,không dùng nữa rồi.

Tiên Bá nổi giận,nói:

-Tiên Chẩn ghen ghét tài năng như thế, âu là ta cùng nhau vào giết chết nó đi,cho hả cái lòng bất bình của chúng ta.Dâũ có chết nữa cũng được thỏa lòng.

Lang Ðàm nói :

-Không nên ! Không nên ! Ðại trượng phu chết phải có danh nghĩa.Chết mà không có danh nghĩa thì không gọi là vũ dũng được !Chúa công biết ta là người vũ dũng mà dùng ta làm chức xa hữu,nay Tiên Chẩn cách chức ta đi,nếu ta làm điều bất nghĩa mà chết thì thành ra Tiên Chẩn được tiêng là cách chức một người bất nghĩa,vậy nên thư thả mà đợi dịp.

Tiên Bá thở dài mà than rằng :

-Nhà ngươi thật là cao kiến,ta không bằng được.

Nói xong,cùng nhau trở về.

Tiên Chẩn dùng con là Tiên Thả Cư làm tiên phong,rồi xuất quân.Quân Tấn và quân Ðịch gặp nhau ở Cơ Thành,hai bên đều hạ trại.Tiên Chẩn hợp các tướng lại mà bảo rằng:

-Ở Cơ Thành này có một cái thung lũng rộng,chỗ ấy có thể đánh bằng xe trận,mà hai bên cây cối rậm rạp,có thể phục binh được.Loan Thuẫn và Khước Nhuế nên đem hai đạo quân phục ở chỗ ấy, đợi khi nào Tiên Thả Cư giao chiến với quân Ðịch,giả cách thua chạy vài thung lũng,bấy giờ đổ ra mà đánh thì chắc là bắt được vua Ðịch;còn Hồ Tần và Hồ Cúc Cư đem hai đạo quân đi tiếp ứng, để phòng khi quân Ðịch đến cứu.

Ngày hôm sau,vua Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem hơn trăm quân kỵ mã đến đánh.Tiên Thả Cư ra nghênh chiến được mấy hợp,giả cách thua chạy.Bạch Bộ Hồ không biết là mưu kế,ra sức đuổi theo,bị Tiên Thả Cư dụ vào trong thung lũng.Phục binh ở hai bên đổ ra đón đánh.Bạch Bộ Hồ tả xung hữu đột,hơn trăm kỵ binh chết đã gần hết.Quân Tấn cũng tổn hại rất nhiều. Ðược một lúc Bạch Bộ Hồ phá tan mấy vòng quân Tấn mà không ai địch nổi.Khi ra gần đến cửa hang,gặp đại tướng Tấn là Khước Khuyết giương cung bắn trúng vào mặt.Bạch Bộ Hồ ngã ngựa,chết ngay.Khướt Khuyết nhận mặt,biết là vua Ðịch,liền cắt lấy đầu để đem về nộp Tiên Chẩn.Tiên Chẩn nghe tin Bạch Bộ Hồ bị bắt,ngữa mặt lên trời mà reo mừng:

-May cho vua Tấn ta lắm ! May cho vua Tấn ta lắm !

Ðoạn lấy giấy bút viết một tờ biểu đề ở trên thư án,không nói cho các tướng biết,rồi cùng với mấy người tâm phúc tức khắc xông vào trận địa quân Ðịch.Em Bạch Bộ Hồ là Bạch Ðôn,chưa biết là Bạch Bộ Hồ đã chết,toan đem quân đi tiếp ứng,bỗng thấy đại tướng Tiên Chẩn cưỡi binh xa sừng sực xông đến,Bạch Ðôn vội vàng ra nghênh chiến.Tiên Chẩn cầm ngang ngọn giáo,trợn mắt thét to một tiếng,mí mắt rách hết cả,máu chảy dòng xuống mặt.Bạch Ðôn kinh sợ,lui lại mấy mươi bước,nhưng trông thấy Tiên Chẩn không có quân theo,liền truyền cho quân Ðịch xúm quanh lại,giương cung ra bắn.Tiên Chẩn hăng hái ra sức,giết chết ba người đầu mục,và hơn hai chục quân sĩ,mà khắp mình không bị phải mũi tên nào cả,bởi quân Ðịch thấy Tiên Chẩn là người vũ dũng,thảy đều kinh hồn khiếp đảm,thành ra run tay,bán chẳng trúng được phát nào.Vả Tiên Chẩn mình mặc mấy lần áo giáp,dẫu tên trúng cũng không trúng,mới thở dài than rằng:

-Ta không giết giặc thì không tỏ được cái tài vũ dũng của ta,nay quân giặc đã biết ta là người vũ dũng,còn giết lắm làm gì ! Thôi thì ta đánh chết ở đây cho rồi !

Tiên Chẩn nói xong,liền cởi áo giáp ra để cho quân Ðịch bắn.Quân Ðịch bắn một lúc,mũi tên cắm vào mình Tiên Chẩn như lông nhím.Tiên Chẩn chết rồi mà người vẫn đứng trơ trơ,không hề chuyển động.Bạch Ðôn toan chém lấy đầu,nhưng thấy Tiên Chẩn vẫn trợn mắt vểnh râu như người còn sống,nghĩ lại khiếp sợ,không dám vào chém.Trong đám quân Ðịch,có người nhận được mặt,nói với Bạch Ðôn rằng:

-Người ấy là nguyên soái nước Tấn,tên gọi Tiên Chẩn.

Bạch Ðôn liền cùng với các quân sĩ sụp lạy,rồi bảo nhau rằng:

-Ngài thật là một bậc thần nhân !

Nói xong,lại quỳ trước mặt Tiên Chẩn mà khấn rằng:

-Thần có cho chúng tôi đem về nước Ðịchđể thờ cúng thì xin ngã xuống.

Tiên Chẩn vẫn đứng yên như trước.Bạch Ðôn lại khấn rằng:

-Hay là thần muốn về nước Tấn thì chúng tôi xin đưa về.

Khấn xong,tự nhiên Tiên Chẩn ngã xuống.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 46 : THƯỢNG THẦN GIẾT CHA Ở TRONG CUNGQUÂN TẦN CHẾT TRẬN ÐƯỢC CÚNG TẾ

Vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ bị giết rồi,quân sĩ trốn về báo với Bạch Ðôn.Bạch Ðôn khóc rằng:

-Khi trước ta đã nói là nước Tần có trời giúp,không dễ đánh nổi,mà anh ta không nghe lời, để đến nổi bị hại !

Bạch Ðôn sai người sang nói với quân Tấn,xin đem thi thể Tiên Chẩn đổi lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.

Lại nói chuyện Khước Khuyết chém được thủ cấp Bạch Bộ hồ,cùng với các tướng đem về nộp Trung quân nguyên soái,nhưng không thấy Tiên Chẩn đâu cả,liền hỏi các quân sĩ,quân sĩ đều nói:

-Nguyên soái vừa đi khỏi,có truyền cho chúng tôi phải canh giữ cẩn mật,không biết ngài đi đâu !

Tiên Thả Cư nghe nói,có ý nghi ngờ,bỗng thấy trên án thư có một tờ biểu,vội vàng lấy xem.Tờ biểu nói như sau:

-"Trung quân đại phu là Tiên Chẩn có lời tâu lên chúa công:Tôi đây là kẻ bề tôi mà đã vô lễ với vua,chúa công đã không trị tội,lại dùng cho làm nguyên soái.Ngày nay thắng trận,tất sao chúa công cũng ban thưởng,nếu tôi về mà chịu thưởng thì thành ra kẻ vô lễ cũng được quận công còn lấy gì làm phép cho kẻ khác.Vậy tôi xin liều thân xông vào quân Ðịch, để mượn tay quân Ðịch thay cho sự trừng phạt của nhà vua ! Con tôi là Tiên Thả Cư có tướng tài,có thể thay tôi được. Ðứng trước cái chết tôi mạo muội dâng thư"

Tiên Thả Cư nói:

-Như vậy thì thân phụ tôi xông vàp quân Ðịch mà chết mất rồi !

Nói xong,khóc òa lên một hồi,rồi toan xông vào quân Ðịch để tìm Tiên Chẩn.Các tướng xúm lại can ngăn,xxin hãy sai người đi dọ thám trước xem nguy-en soái sống chết thế nào,rồi sẽ tiến binh.Bỗng có quân báo em vua Ðịch là Bạch Ðôn sai người đến xin đổi thi thể Tiên Chẩn lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.Tiên Thả Cư nghe tin cha chết,liền vật mình lăn khóc,rồi hẹn với quân Ðịch đến ngày hôm sau thì đem hai thi thể đổi lẩn cho nhau.Sứ nước Ðịch cao từ lui về.Tiên Thả Cư lại bảo các tướng rằng:

-Quân Ðịch hay gian dối lắm,ngày mai ta cũng nên phòng bị mới được !

Nói xong,truyền cho các tướng đều phục quân sẵn để phòng khi có việc giao chiến.Ngày hôm sau,Thiên Thả Cư mặc tang phục,ra nơi trận tiền để nhận thi thể Tiên Chẩn.Bạch Ðôn sợ vong hồn Tiên Chẩn thiêng,mới nhổ hết những mũi tên ở mình Tiên Chẩn ra, đem nước trầm hương tắm rửalại phủ thêm cái áo cẩm bào, đạt lên trên xe,trông như người còn sống,rồi đưa ra trận tiền,giao trả Tiên Thả Cư.Quân Tấn cũng đem thủ cấp Bạch Bộ Hồ giao trả cho quân Ðịch.Bạch Ðôn trông thấy quân Tấn chỉ gaio trả có thủ cấp Bạch Bộ Hồ thôi,không được đủ thân thể,liền không bằng lòng mà nói rằng:

-Nước Tấn thật hay lừa người ! Sao không giao đủ thân thể?

Tiên Thả Cư sai người truyền bảo Bạch Ðôn rằng:

-Có muốn lấy đủ thân thể thì nhà ngươi phải vào thung lũng mà tìm ờ trong đống xác người chết ấy.

Bạch Ðôn giận lắm,cầm cáo khai sơn đại phủ,vẫy quân xông vào đánh.Tướng nước Tấn là Hồ Xạ Cô đem quân ra đối địch.Hai bên vừa giao chiến được mấy hợp thì phía tả có Khước Khuyết,phía hữu có Loan Tần đổ ra đón đánh.Bạch Ðôn thấy quân Tấn đông quá,vội vàng quay ngựa bỏ chạy.Quân Tấn tranh nhau đuổi theo Bạch Ðôn.Khi đuổi gần đến nơi,Bạch Ðôn trông thấy,liền hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

-Ta trông tướng quân quen mặt lắm,có phải Hồ Xạ Cô đó không?

Hồ Xạ Cô nói:

-Phải !

Bạch Ðôn nói:

-Vậy tôi xin có lời chào tướng quân ! Cha con tướng quân khi trước ở nước tôi mười hai năm trời,nước tôi có điều gì bạc đãi đâu,ngày nay tướng quân nên nghĩ lại một chút,tôi chính là em ruột Bạch Bộ Hồ,tên gọi Bạch Ðôn đây.

Hồ Xạ Cô thấy Bạch Ðôn nhắc lại chuyện cũ,không nỡ giết chết,liền đáp lại rằng:

-Thôi thì ta khoang tha cho nhà ngươi,nhà ngươi nên mau mau thu quân về ngay,chớ ở đây nữa !

Hồ Xạ Cô quay ngựa trở lại. Ðêm hôm ấy,Bạch Ðôn rút hết quân kéo về nước Ðịch.Bạch Bộ Hồ không có con trai,Bạch Ðôn phát tang,rồi lên nối ngôi làm vua nước Ðịch.Quân Tấn thắng trận rồi các tướng về yết kiến Tấn Tướng công và đệ trình tờ di biểu của Tiên Chẩn.Tướng công thương xót vô cùng,truyền đem thi thể Tiên Chẩn ra xem,trông thấy hai mắt vẫn mỡ trừng trừng như lúc còn sống,vội vàng ôm lấy thi thể mà khóc rằng:

-Tướng quân vì việc nước mà chết ! Sống khôn chết thiêng ! Xem mấy lời di biểu nầy thì đủ biết tướng quân là người trung nghĩa.

Tấn Tướng công nói xong,sụp lạy ở trước linh cữu Tiên Chẩn,phong cho Tiên Thả Cư làm nguyên soái.Bấy giờ hai mắt Tiên Chẩn mới nhắm lại.Về sau,người nước Tấn có lập đền thờ Tiên Chẩn ở đất Cơ Thành.

Tấn Tướng công lại khen Khước Khuyết có công giết dược Bạch Bộ Hồ,phong cho đất Ký Ấp mà bảo rằng:

-Nhà ngươi biết đền bồi cáo lỗi của thân phụ nhà ngươi ngày xưa,vậy nên ta trả lại cho đất Ký Ấp là đất ăn lộc của thân phụ nhà ngươi trước.

Tấn Tướng công lại bảo Tư Thần rằng:

-Nhà ngươi có công tiến cử Khước Khuyết,nếu không có nhà ngươi thì sao ta biết Khước Khuyết mà dùng.

Tấn Tướng công bèn đem đất Tiêu Mao thưởng cho Tư Thần.

Nước Hứa và nước Sái từ khi Tấn Văn Công mất đi,lại thần phục nước Sở.Tấn Tướng công cho Dương Xử Phủ làm đại tướng, đem quân sang đánh nước Hứa và nước Sái.Sở Thành Vương sai Ðấu Bột và Thành Ðại Tâm đem quân đi cứu. Ði đến bến sông Chi Thủy,trông thấy quân Tấn ở bờ bên kia,liền truyz-én cho quân sĩ đóng lại ở bờ sông nên nầy.Hai bên chỉ cách nhau một dòng nước chảy.Quân Tấn bị quân Sở ngăn trở,không qua sông được, đã hơn hai tháng,thành ra hết cả lương ăn.Dương Xử Phủ định rút quân về,nhưng sợ người nước Sở đuổi theo,lại e rằng người ta cười mình chịu kém quân Sở,mới lập kế sai sứ sang nói với tướng nước Sở là Ðấu Bột rằng:

-"Ðã đến thì không sợ, đã sợ thì không đến",tướng quân muốn đánh nhau với quân Tấn tôi thì quân Tấn tôi xin rút quân lùi lại một xá, để nhường cho tướng quân qua sông mà bày trận,rồi ta sẽ cùng nhau giao chiến,nếu tướng quân không muốn qua sông thì tướng quân cũng lùi lại một xá, để nhường cho quân T-án tôi qua sông mà bày trận và xin định ngày giao chiến.Bằng nay không lui thì hai bên cùng nhọc công tốn của,phỏng có ích gì ! Xin tướng quân nghĩ lại.

Ðấu Bột nổi giận nói :

-Nước Tấn khinh ta không dám qua sông sao !

Nói xong,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Thành Ðại Tâm vội vàng ngăn lại mà nói rằng:

-Người nước Tấn xin rút quân lùi lại một xá là nói dối để dụ quân ta sang đó mà thôi,ngài chớ nên tin vội.Nếu quân ta sang được một nữa,tất quân Tấn đánh ngay,bấy giờ ta tiến cũng dở mà thoái cũng dở,chi bằng ta hãy rút quân,nhường cho quân Tấn sang trước.

Ðấu Bột khen phải,rồi truyền quân sĩ lùi ra ba mươi dặm (tức là một xá) để nhường cho quân Tấn sang sông.Sứ nước Tấn về nói với Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ đôn đốc trong quân rằng:

-Tướng nước Sở là Ðấu Bột sợ thế quân ta,hiện đã rút quân trốn đi rồi.

Quân sĩ tưởng thực, đem chuyện ấy truyền cho nhau.Dương Xử Phủ lại nói:

-Quân Sở đã trốn đi rồi thì ta còn qua sông làm gì nữa ! Bây giờ ngày hết tết đến,tiết trời lại rét, âu là hãy thu quân về nghĩ,rồi sau sẽ liệu.

Dương Xử Phủ bèn thu quân về nước. Ðấu Bột chờ đã hai ngày không thấy quân Tấn qua sông,sai người đi dò thám thì ra quân T-án rút về đã xa rồi,mới cũng truyền lệnh thu quân về nước.

Lại nói chuyện Sở Thành Vương có người con trưởng tên là Thương Thần,khi trước Sở Thành Vương muốn lập làm thái tử hỏi ý kiến Ðấu Bột. Ðấu Bột nói:

-Nước Sở ta mấy đời nay vẫn lập con thứ,không lập con trưởng,và tôi xem tướng mạo Thương Thần,mắt như mắt cú,tiếng như tiếng heo;là người có tính tàn nhẫn,ngày nay đại vương yêu mà lập nên,ngày khác lại ghét mà trút đi,tất hằn nổi loạn.

Sở Thành Vương không nghe,liền lập Thương Thần làm thái tử và cho Phan Sùng làm chức thái phó.Thương Thần nghe nói Ðấu Bột không muốn lập mình làm thái tử,có ý căm tức, đến lúc Ðấu Bột đem quân về,Thương Thần mới đem lời dèm pha với Sở Thành Vương rằng:

-Ðấu Bột ăn lễ của Dương Xử Phủ,vậy nên mới rút quân về.

Sở Thành Vương tin lời,khi Ðấu Bột về,không cho vào yết kiến,lại sai người đưa cho một thanh kiếm đâm cổ mà chết.Thành Ðại Tâm vào yết kiến Sở Thành Vương,sụp lạy kêu khóc,thuật lại cái cớ Ðấu Bột rút quân về,hkông phải ăn lễ của Dương Xử Phủ,nếu bắt tôi về việc rút quân thì Thành Ðại Tâm cũng xin chịu tội.Sở Thành Vương nói:

-Nhà ngươi nói mà chi nữa ! Ta cũng lầy việc ấy làm hối hận.

Sở Thành Vương từ bấy giờ có ý nghi thái tử Thương Thần,sau Sở Thành Vương lại yêu người con thứ tên là Chức;muốn bỏ Thương Thần mà lập Chức làm thái tử,nhưng lại sợ Thương Thần nổi loạn,mới định tìm cớ để giết đi.Có người cũng nhận nghe được tin ấy,nói với Thương Thần.Thương Thần còn ngần ngừ chưa cho điều ấy làm thực,thuật chuyện lại cho quan thái phó là Phan Sùng nghe.Phan Sùng nói:

-Tôi xin hiến một kế,có thể dò xét được điều ấy thực hay là giả.

Thương Thần hỏi:

-Kế gì?

Phan Sùng nói:

-Em gái đại vương ta,lấy chồng ở nước Giang,gọi là nàng Giang Vu,nay về thăm dại vương ta, ở chơi trong cung lâu ngày,tất biết rõ điều ấy.Thái tử nên bày một tiệc rượu,mời Giang Vu đến ăn tiệc,rồi trong khi ăn tiệc,cố ý làm ra bộ khinh bỉ, để khiến cho Giang Vu phải tức giận.Giang Vu đã túc giận,tất thế nào cũng nói lộ điều ấy ra.

Thương Thần nghe lời,bày tiệc rượu để mời Giang Vu.Lúc Giang Vu mới đến thì Thương Thần tiếp đãi rất lễ phép,khi uống rượu tới nữa chừng,dần dần làm ra bộ khinh bỉ,sai người nhà bếp đưa món ăn mà không thèm đứng dậy mời,lại cố ý ngảnh mặt nói chuyện riêng với mấy đứa thị nữ hầu rượu.Giang Vu hai lần hỏi chuyện Thương Thần đều không trả lời.Giang Vu giận lắm, đạp bàn đứng dậy mà xỉ mắng Thượng Thần rằng:

-Mày tệ quá như thế,thảo nào mà đại vương định giết mày để lập công tử Chức.

Thương Thần giả cách xin lỗi.Giang Vu không thèm nhìn mặt,lên xe đi ngay,vừa đi vừa mắng Thương Thần thậm tệ.Ngay đêm hôm ấy,Thương Thần đến bảo Phan Sùng,và hỏi kế để thóat nạn,Phan Sùng nói:

-Thái Tử có thể cúi đầu mà thần phục công tử Chức được không?

Thương Thần nói:

-Ta là con trưởng mà phải thần phục con thứ thì chịu đựng thế nào được?

Phan Sùng nói:

-Nếu không chịu thần phục người ta thì chi bằng trốn sang nước khác.

Thương Thần nói:

-Trốn cũng vô ích,chỉ thêm nhục thôi !

Phan Sùng nói:

-Ngoài hai cách ấy ra thì chẳng còn cách gì nữa !

Thương Thần lại cố ý hỏi mãi.Phan Sùng nói:

-Có một kế nầy rất thần diệu,nhưng chỉ sợ thái tử không nỡ làm.

Thương Thần nói:

-Trong lúc đang nguy cấp này lại còn điều gì là điều không nỡ !

Phan Sùng ghé tai mà bảo rằng:

-Chỉ làm đại sự thì mới có thể đổi họa làm phúc được.

Thương Thần nói:

-Việc đó ta làm được !

Nói xong,liền tụ tập quân sĩ, đến nữa đêm vào vây cung Sở Thành Vương.Phan Sùng tay cầm thanh kiếm,cùng với mấy người lực sĩ đi thẳng đến trước mặt Sở Thành Vương.Các nội thị sợ hải,, đều bỏ chạy tán loạn cả.Thành Vương hỏi:

-Nhà ngươi vào đây có việc gì?

Phan Sùng nói:

-Ðại Vương làm vua đã bốn mươi sáu năm rồi,cũng nên thôi đi ! Nay người trong nước đều mong có vua mới,xin đại vương truyền ngôi lại cho thái tử.

Thành Vương kinh sợ mà nói rằng:

-Ta bằng lòng nhường ngôi lại cho,nhưng chẳng biết các người có để ta sống hay không?

Phan Sùng nói:

-Vua nọ chết đi thì vua kia mới lập lên,có lẽ nào một nước hai vua bao giờ ! Sao đại vương đã già mà còn chưa hiểu việc đời?

Thành Vương nói:

-Ta vừa mới sai nhà bếp nấu món chân gấu, đợi chín cho ta ăn một miếng thì dẫu chết ta cũng cam lòng

Phan Sùng quát to lên rằng:

-Món chân gấu thì còn lâu mới chín được,hay là đại vương định dùng dằng đợi người đến cứu đó chăng?Xin đại vương tự liệu đi,chớ để tôi phải động thủ.

Phan Sùng cởi dây lưng ném trước mặt Thành Vương.Thành Vương ngửa mặt lên trời mà kêu rằng:

-Ôi Ðấu Bột ! Ôi Ðấu Bột ! Ta không nghe lời nói của trung thần, đến nổi phải tai vạ,còn nói gì nữa !

Nói xong,liền cầm lấy giây lưng mà buộc vào cổ.Phan Sùng sai mấy người đứng hai bên nắm đầu guây mà kéo, được một lúc thì Thành Vương tắt hơi.Giang Vu nghe tin,thở dài mà than rằng:

-Thôi ! Chính ta làm hại anh ta rồi đó !

Giang Vu cũng thắt cổ tự tử.Thương Thần đã giết xong Thành Vương,nói dối là Sở Thành Vương bị cảm mà chết,sai người báo tang cho chư hầu biết,rồi lên nối ngôi,tức là Sở Mục Vương;Sở Mục Vương gia phong cho Phan Sùng làm chức thái sư,và giao binh quyền cho, để coi giữ vương cung.Quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Ban cùng các quan đều biết là Sở Thành Vương bị giết mà không dám nói. Ðấu Nghi Thân nghe tin SởThành Vương bị giết,liền cùng với quan đại phu là Trọng Quy bàn mưu để giết Sở Mục Vương,chẳng ngờ việc tiết lộ,Mục vương truyền cho quan tư mã là Ðấu Việt Tiêu bắt Ðấu Nghi Thân và Trọng Quy mà giết đi.Ngày trước có người thầy đồng tên là Duật Tự đã nói: "Sở Thành Vương cùng với Thành Ðắc Thần và Ðấu Nghi Thân,ba người đều bất đắc kỳ tử" đến bây giờ quả nhiên ứng nghiệm. Ðấu Việt Tiêu có ý muốn làm lệnh doãn mới nói với Sở Mục Vương rằng:

-Tôi thấy Ðấu Ban nói chuyện với người ta,thường phàn nàn về nỗi cha con nhà hắn chịu ơn tiên vương nhiều lắm;mà không giúp nên được cái chí lớn của tiên vương ngày xưa thì lấy làm xấu hổ.Hắn muốn lập công tử Chức lên làm vua,mới rồi Ðấu Nghi Thân làm phản là mưu tự Ðấu Ban,nay Ðấu Nghi Thân đã bị giết rồ, Ðấu Ban có ý lo sợ,tôi e rằng hắnlại bày mưu khác, đại vương nên phải phòng bị mới được.

Sở Mục công đem lòng nghi Ðấu Ban,mới triệu Ðấu Ban vào,sai đi giết công tử Chức. Ðấu Ban chối từ không chịu đi,Mục vương nổi giận,nói:

-Nhà ngươi muốn giúp nên cái chí lớn của tiên vương ngày xưa có phải không?

Mục vương liền cầm cái dùi đồng đánh chết Ðấu Ban.Công tử Chức sợ hải, định chạy sang nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu đuổi theo đến ngoài cõi,giết chết công tử Chức.Sở Mục Vương cho Thành Ðại Tâm làm lệnh doãn,chưa được bao lâu thì Thành Ðại Tâm chết,Mục Vương liền cho Ðấu Việt Tiêu làm lệnh doãn,và nhớ đến công tử Văn ngày xưa,mới cho Ðấu Khắc Hoàng (con Ðấu Ban,cháu Tử Văn)làm quan châm doãn.

Tấn Tướng công nghe tin Sở Thành vương chết,bão Triệu Thuẫn rằng:

-Thế là lòng trời đã chán nước Sở rồi !

Triệu Thuẫn nói:

-Vua nước Sở trước là dẫu là bạo ngược,nhưng còn có thể đem điều lễ nghĩa mà giáo hoá được,Thương Thần là đứa Vô phụ,cha còn không tha huống là người khác ! Tôi e rằng cái vạ chư hầu chưa thật là hết !

Mấy năm sau,quả nhiên Sở Mục vương đem quân đi đánh các nước, đúng như lời nói của Triệu Thuẫn.

Tướng nước Tần là Mạnh Minh nói với Tần Mục công xin đem quân đánh Tấn, để báo thù trận thua ở Hào Sơn khi trước.Tần Mục công khen mà cho đi.Mạnh Minh liền cùng với Kiển Binh và Tây Khất Thuật đem quân đi đánh Tấn.Tấn tướng công vẫn lo nước Tần đem quân sang báo thù,ngày nào cũng sai người đi dò thám,khi được tin mạnh Minh lại sắp sang đánh,mới cười mà bảo rằng:

-Nước Tần nay đã sắp sang tạ ơn ta đó !

Tấn Tướng công bèn cho Tiên Thả Cư làm chánh tướng,Triệu Thôi làm phó tướng,Hồ Cúc Cư làm chức xa hữu, để đợi quân Tần sang đến nơi thì đánh.Khi đại binh sắp khởi hành,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư xin đi theo.Tiên Thả Cư cho đi.Bấy giờ bọn Mạnh Minh chưa sang đến nơi,Tiên Thả Cư bảo các tướng rằng:

-Ðợi quân Tần đến mới đánh,chi bằng ta kéo sang mà đánh quân Tần.

Tiên Thả Cư nói xong,liền kéo quân sang đất Bành Nha (đất nước Tần) để đón quân Tần.Khi quân Tần đến nơi,hai bên đã bày thành trận thế,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư rằng:

-Tiên nguyên soái ngày xưa chê tôi là người vô dũng,vậy nên truất bỏ không dùng,ngày nay tướng quân hãy thử cho tôi ra trận,tôi không dám cầu công,chỉ mong rửa được cái điều xấu hổ trước mà thôi.

Tiên Thả Cư bằng lòng.

Lang Ðàm cùng với bạn là Tiên Bá đem hơn một trăm người xông thẳng vào trong đám quân Tần.Bọn Lang Ðàm đi đến đâu thì quân Tần tan rã đến đấy,Tiên Bá bị Kiển Binh giết chết.Tiên Thả Cư đứng ở trên xe,trông thấy quân Tần rối loạn,mới giục quân tiến vào.Bọn Mạnh Minh không thể chống lại được,tức thì bỏ chạy.Tiên Thả Cư tìm cứu Lang Ðàm ra thì thân thể Lang Ðàm chỗ nào cũng bị thương cả, được hơn một ngày thì chết.Quân Tấn đã được thắng trận kéo nhau trở về.Tiên Thả Cư tâu với Tấn Tướng công rằng:

-Ngày nay thắng trận là nhờ sức của Lang Ðàm chứ không dự gì đến tôi.

Tấn Tướng công truyền theo lễ quân thượng đại phu mà an táng Lang Ðàm ở Tây Quách,bắt các quan triều thần phải đi đưa cả.

Mạnh Minh thua trận,chạy về nước Tần,tự nghĩ mình lần này tất phải tội chết,ai ngờ Tần Mục công chẳng trách giận gì cả,lại sai người ra đón,và vẫn giao quyền chính cho như trước.Mạnh Minh tự nghĩ xấu hổ vô cùng,mới dốc một lòng sửa sang quyền chính,lại đem hết những của riêng ra để tư cấp cho những nhà có người chết trận để đánh báo thù nước Tấn.Cuối năm ấy,Tấn Tướng công lại sai Tiên Thả Cư liên hợp với quan đại phu nước Tống là công tử Thành,quan đại phu nước Trần là Viên Tuyển,quan đại phu nước Trịnh là công tử Quý Sinh,cung đem quân sang đánh Tần,chiếm lấy đất Giang và đất Bành Nha,rồi rút quân về,lại nói giỡn một câu rằng:

-Mới rồi,nước Tần sang tạ ơn ta thì ngày nay ta đáp lại đó !

Mạnh Minh không đem quân đi đánh quân Tấn,chỉ vì chưa gặp thời đó thôi.

Ðến thắng năm năm sau,Mạnh Minh luyện tập quân sĩ đều đã tinh nhuệ cả rồi,mới xin Tần Mục công thân hành đi đánh,lại nói với Tần Mục công rằng:

-Nếu lần này tôi không báo thù được nước Tấn thì quyết không sống mà về làm gì !

Tần Mục công nói:

-Quân ta đã ba lần bị quân Tấn đánh thua rồi ! Nếu lần này lại thua thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về nước nữa !

Tần Mục công nói xong,liền chọn ngày cử đại binh đi đánh Tấn,phàm các quân sĩ phải đi tòng chinh, đều tư cấp cho người nhà rất hậu.Các quân sĩ thấy vậy, đều hăng hái xin hết sức.Khi đại binh đã qua sông Hoàng Hà,Mạnh Minh truyền đem bao nhiêu thuyền bè đốt hết sạch cả.Tần Mục cônglấy làm lạ hỏi rằng:Tại sao nguyên soái lại đốt hết cả thuyền bè như vậy?

Mạnh Minh nói:

-Quân có khí thế mới đánh được giặc ! Quân ta thua luôn mãi,khí thế đã mất hết cả rồi,nay tôi đốt thuyền bè đi là tỏ cho quân ta biết rằng: Chỉ có tiến chứ không có thoái,khiến cho khí thế quân ta được thêm hăng hái,nếu quân ta đã thắng trận rồi,thì lo gì không có thuyền bè trở về.

Tần Mục công khen phải.Mạnh Minh kéo quân đi tiên phong,xông vào đánh lấy thành Vương Quan.Quân nước Tấn phi báo Tấn Tướng công.Tấn Tướng công hợp triều thần lại để thương nghị.Triệu Thôi nói:

Nước Tần căm tức ta nhiều lần,lần nay vua Tần thân hành cử đại binh sang,cố chết mà đánh ta,ta không thể địch nổi,chi bằng ta hãy tạm tránh,khiến cho quân Tần thỏa lòng, để dập tắt mối oán thù hai nước.

Tiên Thả Cư cũng nói với Tấn Tướng công rằng:

-Vua Tần lấy việc ngày trước thua ta làm xấu hổ,mà các tướng nước Tần cũng đều hăng hái,nếu không thắng được ta thì thế tất không thôi.Tướng công nên nghe lời Tử Dư.

Tấn Tướng công truyền cho quân sĩ các nơi, đều một mực cố thủ,không được giao chiến với quân Tần,Do Dư bảo Tần Mục công rằng:

-Quân Tấn sợ ta rồi ! Ta nên nhân dịp này đem quân đến dãy núi Hào Sơn,thu nhặt lấy hài cốt của quân sĩ ta ngày trước để mai táng,cho khỏi điều hổ thẹn.

Tần Mục công theo lời,kéo quân thẳng tới Hào Sơn,quân Tấn không thấy có một người nào dám ra ngăn trở cả.Tần Mục công sai người thu nhặt lấy hài cốt quân Tấn chết trận khi trước, đem mai táng ở một nơi,rồi giết trâu bò đế cúng tế.Tần Mục công mặc tang phục đứng rót rượu để làm lễ,lại ứa nước mắt rồi khóc òa lên.Mạnh Minh và các tướng đều sụp lạy mà khóc cả.Quân sĩ trọng thấy ai cũng chảy nước mắt.Dân ở đất Giang và đất Bành Nha nghe tin Tần Mục công thắng được quân Tấn,liền cùng nhau tụ hợp, đuổi các quan trấn thủ nước Tấn đi,rồi lại theo về nước Tần.

Tần Mục công thu quân về nước ban thưởng cho Mạnh Minh,Kiển Binh và Tây Khất Thuật.

Vua Tây Nhung là Xích Ban,khi trước thấy quân Tần hai ba lần bị thua,có ý khinh nước Tần hèn yếu, định làm phản nước Tần. Ðến lúc Tần Mục công thắng được quân Tấn,thu quân trở về,toan sẽ sang đánh Tây Nhung.Do Dư mới nói với Tần Mục công ,xin truyền hịch cho Tây Nhung bắt phải triều cống,nếu không chịu triều cống,bấy giờ sẽ đánh.

Xích Ban nghe tin Mạnh Minh nước Tần thắng được quân Tấn, đang có lòng lo sợ,thấy có tờ hịch thì vội vàng rủ nhau hai mươi nước nhỏ ở phía Tây cùng vào triều cống nước Tần,tôn Tần Mục công làm bá chủ tất cả các nước ở Tây Phương.Uy danh Tần Mục công đồn đến chốn kinh sư nhà Chu.Chu Tương vương bảo Doãn Vũ công rằng:

-Ngày xưa Trùng Nhĩ (tức là Tống Văn công)nước Tấn đại hội chư hầu,trẫm sách phong cho làm bá chủ,nay Nhâm Hiếu (tức là Tần Mục công ) nước Tấn cường thịnh,chẳng kém gì nước Tần,trẫm cũng muốn sách phong cho,nhà ngươi nghĩ thế nào?

Doãn Vũ công nói:

-Nước Tần dẫu cường thịnh,nhưng chưa có công trạng gì với nhà Chu ta,nay lại có ý bất hòa với Tấn,mà Tấn hầu ngày nay, đang nối được nghiệp cha.Nếu ta sách phong cho Tần thì mếch lòng Tấn,chi bằng ta sai sứ ban thưởng cho Tần,thế thì Tấn biết ơn ta,mà Tấn cũng chẳng oán gì ta được.

Chu Tương vương theo lời.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 47 : LỘNG NGỌC CƯỠI PHƯỢNG THEO TIÊU SỬTRIỆU THUẪN BỘI TẦN LẬP DI CAO

Tần Mục công đã làm bá chủ các nước ở Tây phương. Chu Tương vương sai Doãn Vũ công đem một cái trống đồng ban thưởng cho Tần Mục công. Tần Mục công viện lẽ tuổi già, không vào triều được, sai công tông Chỉ sang nhà Chu để tạ ơn. Năm ấy Do Dư ốm chết, Mục công thương tiếc vô cùng, liền cho Mạnh Minh thay Do Dư làm chức hữu thứ trưởng. Công tôn Chỉ khi ở nhà Chu về, biết ý Mục công có một người con gái bé;lúc mới sinh, gặp có kẻ đem dâng viên ngọc phác, Tần Mục công sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm. Ðến lúc con gái Mục công đầy tuổi tôi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.

Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại thêm tính trời thông minh, tài thổi ống sinh lắm, không học ai cả, mà thành âm điệu. Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng. Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là Phượng lâu, trước lầu có xây một cái đài. Năm Lộng Ngọc đã mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kéo rễ cho nàng, Lộng Ngọc tự thề với mình rằng:

-Người nào có tài thổi sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lầy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết.

Mục công sai người đi tìm, chẳng được một người nào vứa ý. Một hôm Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi cái ống sinh bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không hkỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, có ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt. Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nữa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sinh để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mỡ rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:

-Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy !

Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vác bên mình, cởi ống ngọc tiêu, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.

Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần, hỏi rằng:

-Khúc này là khúc ở đâu?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

-Ấy là khúc "Họa Sơn Ngâm" đó!

Lộng Ngọc lại hỏi:

-Khúc này có học đưọc không?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

-Khi ra đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được.

Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt , cầm lấy tay của LỘng Ngọc;Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

-Hôm rầm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi nầy, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu. Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thướng , mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:

-Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?

Mạnh Minh nói:

-Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công tôi sai đến đón!

Tiêu Sử nói:

-Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết âm nhạc đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh.

Mạnh Minh nói:

-Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công.

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng:

-Chùng tôi ở thão dã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho.

Mục công thấy Tiêu Sử hìng dung thanh tú, không phải là ngưòi thướng, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng:

-Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất cũng tài thổi cả ống sinh nữa !

Tiêu Sử nói:

-Tôi chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi ống sinh.

Mục công nói:

-Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nếu chỉ biết thổi ống tiêu thì không sánh đôi với con ta được !

Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục công rằng:

-Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã atéi thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài.

Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu. Tiêu Sử mới thổ một khúcthì thấy có gió mát hây hây;thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổn gtước bay về, và các giống chim kêu ríu rít;một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục công rất bằng lòng. Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng:

-Người ấy thật đánh làm chồng ta !

Mục công lại hỏi Tiêu Sử rằng:

--Nhà ngươi biết ống sinh và ống tiêu làm ra từ đời nào không?

Mục công nói:

-Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe.

Tiêu Sử nói:

-Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu:Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu. Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm ! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa.

Mục công lại hỏi:

-Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?

Tiêu Sử nói:

-Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc "Tiêu Thiều" mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác !

Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

-Ta có một người con gái, tên gọi LỘng Ngọc, cũng có biết âm nhạc , không muốn gã cho phường ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên.

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

-Tôi vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý !

Mục công nói:

-Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm. Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rầm tháng tắm, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ.

Tiêu Sử lạy tạ. Mục công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:

-Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn.

T-àn Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chínhcả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau ước được nữa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

-Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi.

Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng:

-Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng !

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng NGọc cỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục công. Mục công thở dài mà than rằng:

-Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua nữa !

Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, côn gtôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục công đều cho làm quan đại phu. Một hôm Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón, Mục công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cãm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục công đắc đạo thành tiên.

Nguyên trước Mục công lấy con gái Tấn HIếu công sinh thế tử Oánh, đến bấy giờ thế tử Oánh lên nối ngôi, tức là Tần Khang công. Tần Khang công an táng Mục công theo tục nước Tần, dùng một trăm bảy mươi bảy người đem chôn sống. Trong số người bị chôn theo ấy có cả ba con Tử Xa Thị, người trong nước ai cũng thương tiếc.

Lại nói chuyệnTấn Tướng công lập con là Di Cao làm thế tử, cho thứ đệ là công tử Lạc sang làm quan ở nước Trần. Bấy giờ Triệu Thôi, Loan Chi, Tiêu Thả Cư và Tư Thần đều dần dần chết cả. Năm sau Tấn Tướng công ra duyệt binh ở đất Di (đất nước Tấn), rồi muốn bổ dụng Si Cốc và Lương Ích Nhĩ làm tướng ở đạo trung quân, Cơ Trịnh Phủ và Tiên Ðô (con Tiên Chẩn) làm tướng ở đạo thuợng quân. Con Tiên Thả Cư là Tiên Khắc nói với Tướng công rằng:

-Họ Hồ và họ Triệu có công to với nước Tấn, chúa công chớ nên bỏ con cháu của hai họ ấy mà không dùng. Nay Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều chưa có chiến công, đã cho làm ngay đại tướng, sao cho người ta phục?

Tướng công theo lời mới cho Hồ Xạ Cô làm trung quân nguyên soái, mà lấy Triệu Thuẫn làm phó tướng, cho Cơ Trịnh Phủ làm thượng quân nguyên soái;mà lấy Tuân Lâm Phủ làm phó tướng, cho Tiên Miệt làm hạ quân nguyên soái, mà lấy tiên đô làm phó tướng. Hồ Xạ Cô trèo lên tướng đài, tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì cả. Quan tư mã là Du Biền can rằng:

-Tôi nghe trong quân phải có nhân hoà, nay các tướng đều là những bậc lão luyện thế thầ, nguyên soái chớ nên coi khinh. Ngày xưa Thành Ðắc Thần chỉ vì kiêu ngạo mà phải thua nước Tấn, nguyên soái nên lấy làm răn.

Hồ Xạ Cô nổi giận, quát to lên ràng:

-Nay ta đang tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, kẻ thất phu kia sao dám nói càn !

Nói xong, truyền nọc Du Biền đánh một trăm roi. Các tướng sĩ trông thấy, đều có ý không phục. Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nghe nói Tiên Khắc nói với Tấn Tương công không nên dúng mình nên đem lòng oán giận. Tiên Ðô không đưọc giữ chức thượng quân nguyên soái, cũng có ý oán giận Tiên Khắc. Bấy giờ Dương Xử Phủ đang sang sứ nước Vệ, không dự biết việc ấy, đến lúc về nước, nghe tin HỒ Xạ Cô được làm nguyên soái, liền mật tâu với Tấn Tương crằng:

-Hồ Xạ Cô là người cương cường mà hiếu thắng, không được lòng dân, không thể làm đại tướng, chỉ có con Triệu Thôi là Triệu Thuẫn, rất có đức độ, mà lại có tài, chúa công muốn chọn nguyên soái thì nên dùng Triệu Thuẫn.

Tấn Tướng công theo lời, liền ra duyệt binh ở đất Ðồng. Hồ Xạ Cô chưa biết ý Tấn Tướng công muốn dùng người khác, vẫn nghiễm nhiên tự nhận làm trung quân nguyên soái. Tấn Tướng công gọi Hồ Xạ Cô mà bảo rằng:

-Ngày trước ta cho nhà ngươi làm nguyên soái, nay ta muốn để cho Triệu Thuẫn chức ấy, mà cho nhà ngươi làm phó tướng giúp Triệu Thuẫn.

Hồ Xạ Cô không dám nói gì, vâng dạ mà lui xuống. Tấn Tướng công liền cho Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, mà lấy Hồ Xạ Cô làm tướng, còn thượng quân và hạ quân vẫn dể yên như cũ?Triệu Thuẫn từ khi cầm quyền chính trong nước, chỉnh đốn pháp lệnh, người trong nước ai cũng kính phục. Có người bảo Dương Xử Phủ rằng:

-Ngài dám nói thẳng mà không kiêng nể ai, thật là một lòng vì nước, nhưng ngài không sợ người ta thù oán hay sao?

Dương Xử Phủ nói:

-Nếu có lợi cho nước thì ta chẳng sợ gì thù oán !

Ngày hôm sau, Hồ Xạ Cô vào yết kiến Tấn Tướng công, nhân lúc vắng vẻ mới hỏi Tấn Tướng công rằng:

-Chúa công nghĩ dến công lao của tiên nhân tôi ngày xưa mà cho tôi làm nguyên soái, nay lại đổi cho ngưòi khác, chẳng hay tôi có tội gì, xin chúa công chỉ bảo cho biết. Hay là vì cái công lao của tiên nhân tôi là Hồ Yến không bằng cái công lao của Triệu Thôi chăng?

Tấn Tướng công nói:

-Không phải có gì khác đâu ! Chỉ vì Dương Xử Phủ nói với ta rằng nhà ngươi không mấy người phục, khó làm được đại tướng , nên ta mới dùng người khác.

Hồ Xạ Cô nín lặng lui ra. Ðến tháng ba năm sau, Tấn Tướng công ốm nạng, khi sắp chết, triệu quan thái phó là Dương Xử Phủvà quan thượng khanh là Triệu Thuẫn với nhiều vị triều thần đến cạnh giường nằm mà dặn rằng:

-Ta đây nối theo nghiệp cha, , đánh đông dẹp bắc, chưa hề chịu kém ai, ngày nay chẳng may cùng với các người từ biệt, thế tử Di Cao tuổi hãy còn nhỏ, các khanh nên hết lòng giúp thế tử mà giao hiếu với các nước láng giềng, để giữ lấy sự nghiệp bá chủ.

Các quan đều sụp lạy xin vâng mệnh. Tấn Tướng công mất. Ngày hôm sau, triều thần định tôn thế tử Di Cao lên nối ngôi. Triệu Thuẫn nói:

-Nước ta ngày nay gặp lúc lắm việc, phải đối địch với nước Tần và nước Ðịch, không nên lập vua nhỏ, nay có công tử Ung, hiện đang làm quan ở nước Tần, ta nên đ&on về làm vua.

Các quan không ai dám nói gì. Hồ Xạ Cô nói:

-Chi bằng ta lập công tử Lạc ! Côn tử Lạc nay đang làm quan ở nước Trần, mà nước Trần lại thân với nước ta, không như nước Tần là một nước cừu địch, từ nước ta sang nước trần, chỉ sáng đi thì chiều đến nơi mà thôi.

Triệu Thuẫn nói:

-Không được ! Trần là một nước nhỏ mà ở xa, Tần là nước lớn mà ở gần. Ta sang nước Trần đón vua, cũng khônh thêm được tình thân ái, mà sang nước Tần đón vuathì lại bỏ được cái điều thù oán năm xưa và còn thêm vây cánh cho ta nữa. Như thế thì tất phải đón công tử Ung mới được!

Các quan đều nín lặng cả;Triệu Thuẫn liền sai Tiên Miệt làm chánh sứ, Sĩ Hội làm phó sứ;sang nước Tần báo tang, và đón công tử Ung về làm vua. Lúc Tiên Miệt sắp đi, Tuân Lâm Phủ ngăn lại mà bảo rằng:

-Phu nhân và thế tử đều ở đây cả, mà lại sang nước khác để đón vua, tôi e rằng nếu việc không thành thì tất có biến, sao nhà ngươi không cáo ốm mà từ chối đi?

Tiên Miệt nói:

-Quyền chính ở tay Triệu Thuẫn, sao lại có biến được !

Tuân Lâm Phủ nói riêng với người khác rằng:

-Ta cùng với Tiên Miệt là bạn đồng liêu với nhau, nên ta mới thực lòng mà bảo, nhưng hắn không nghe, ta e hắn khó lòng đã về được !

Hồ Xạ Cô thấy Triệu Thuẫn không theo ý mình, trong lòng tức giận mà nói rằng:

-Họ Hồ và họ Triệu, có kém gì nhau ! Ta quyết phen nầy có họ Triệu thì không họ Hồ!

Hồ Xạ Cô bèn mật người sang nước Tần đón công tử Lạc về, để tranh lấy ngôi vua. Có người báo tin với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn sai công tôn Chử Cữu đem hơn một trăm người phục sẳn ở dọc đường, đón công tử Lạc mà giết đi. Hồ Xạ Cô thấy thế càng tức giận mà nói rằng:

-Làm cho Triệu Thuẫn được cầm quyền chính là bởi Dương Xử Phủ, nay có các nước đến hộ tang, Dương Xử Phủ ra ngủ ở ngoài thành để tiếp đón, nếu ta sai người ra đâm chết hắn thật dễ như chơi ! Và Triệu Thuẫn đã giết chết công tử Lạc thì ta giết Dương Xử Phủ chứ sao !

Hồ Xạ Cô bèn bàn mưu với em ruột là HỒ Cúc Cư. Hồ Cúc Cư nói:

-Việc ấy tôi có thể làm được !

Hồ Cúc Cư liền cùng với người nhà giả hìng làm kẻ trộm, nửađêm trèo tường vào chỗ Dương Xử Phủ ở. Dương Xử Phủ đang ngồi xxem sách ở bên cây nến, Hồ cúc Cư xông đến mà đánh, trúng vào vai Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ giật mình bỏ chạy. Hồ Cúc Cư đuổi theo giết chết, rồi cắt đầu đem về. Người nhà Dương Xử Phủ có kẻ nhận được mặt Hồ Cúc Cư, chạy vào báo với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫngiả cách không tin mà mắng rằng:

-Dương thái phó bị kẻ trộm giết chết, sao nhà ngươi dám vu oan cho Hồ Cúc Cư?

Triệu Thuẫn bèn sai người khâm liệm cho Dương Xử Phủ. Ðến tháng mười năm ấy, làm lễ an táng Tấn Tướng công ở đất Khúc Ốc. Tương phu nhân là Mục Doanh và thế tử Di Cao cũng đi đưa đám. Mục Doanh bảo Triệu Thuẫn rằng:

-Tiên quân có tội gì, thế tử có tội gì, mà ngài nỡ bỏ thế tử, để đi đón vua ở nước khác?

Triệu Thuẫn nói:

-Ðó là việc quan trọng của nước nhà, không phải ý riêng của một mình tôi !

Khi đã làm xong lễ an táng Tương công rồi, lúc rước thần chủ vào nhà miếu, Triệu Thuẫn đứng ở trong miếu, bảo các quan đại phu rằng:

-Tiên quân ngày xưa, chỉ vì biết dùng pháp luật mà làm bá chủ được chư hầu, nay linh cữu hãy còn để đấy, mà Hồ Cúc Cư dám tự tiện giết chết quan thái phó;khiến cho triều thần ai cũng lo sợ, tội ấy không thể tha được !

Triệu Thuẫn bèn cho bắt Hồ Cúc Cư giao cho quan tư khấu kết án mà chém đi. Triệu Thuẫn lại sai người đến khám nhà Hồ Cúc Cư, tìm thấy đầu Dương Xử Phủ, rồi đem chấp vào thi thể Dương Xử Phủ để an táng. HỒ Xạ Cô sợ Triệu Thuẫn biết cái mưu ấy tự mình bày ra, nhân lúc đêm hôm trốn sang nước Ðịch, vào đầu với vua nước Ðịch là Bạch Ðôn. Bấy giờ nước Ðịch có người tên gọi Kiều Như, mình dài một trượng năm thước, bởi vậy mới gọi là Trường Ðịch. Trường Ðịch có sức khỏe, mang nổi nghìn cân, đầu rắn như đồng trán cứng như sắt, cầm gạch ngói mà đập vào, cũng không thể xây xát được. Bạch Ðôn dùng làm tướng, sai đi đánh nước Lỗ?Lỗ Văn công sai Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đối địch. Bấy giờ đang tiết mùa đông, sương mù nhiều lắm, quan đại phu là Phú Phủ Chung Sanh biết rằng trời sắp mưa tuyết, mới bảo Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

-Kiều Như là người vũ dũng lạ thường, không lấy sức khỏe mà địch nổi, phải dùng mưu kế mới đánh được.

Nói xong, liền sai người đào hố ở các nơi hiểm yếu, rồi đem đất và cỏ phủ kín trên mặt. Ðêm hôm ấy quả nhiên trời mưa tuyết to lắm, mặt đất phủ đầy những tuyết, không biết chỗ nhận là hầm hố cả. Phú Phủ Chung Sanh đem một toán quân đến cướp phá đồn trại của Kiều Như. Kiều Như đem quân ra đánh. Phú Phủ Chung Sanh giả cách thua chạy. Kiều Như vội vàng đuổi theo. Phú Phủ Chung Sanhdã có ý đi tránh những nơi có đào hầm có hố còn Kiều Như vô tình ngã lăn xuống hố. Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đuổi đánh;Phú Phủ Chung Sanh cầm giáo đâm suốt qua cổ họng Kiều Như, Kiều Như chết, Phú Phủ Chung Sanh đem xác để lên một cái xe lớn rồi kéo đi, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Năm ấy Thúc Tôn Ðắc Thần nhân sinh được đứa con trai trưởng, mới đặt tên là Thúc Tôn Kiều Như, để kỷ niệm trận tháng ấy. Từ bấy giờ nước Lỗ, nước Tề và nước Vệ cùng hợp nhau dể đánh nước Ðịch. Hồ Xạ Cô lại chạy sang Xích Ðịch nương tựa vào quan đại phu nước Xích Ðịch là Phong Thư.

Triệu Thuẫn nói:

-Hồ Xạ Cô có công với tiên quân ta nhiều lắm, ta giết Hồ Cúc Cư là muốn cho Hồ Xạ Cô yên lòng, ai ngờ hắn lại sợ tội bỏ trốn, nay ta nỡ lòng nào mà khiến cho hắn phải bơ vơ một mình ở nơi đất khách !

Nói xong, liền sai Du Biền đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch giao trả cho Hồ Xạ Cô. Khi Du Biền vừa sắp sửa khởi hành, thì người nhà Du Biền nói vói Du Biền rằng:

-Ngày trước ngài đã bị Hồ Xạ Cô làm sĩ nhục một lần, cái thù ấy cũng nên báo lại, nay quan nguyên soái sai người đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch, đó là trời cho ta cái dịp để báo thù ! Ta nên giết cả đi.

Du Biền gạt đi mà bảo rằng:

-Không nên ! Không nên ! Nguyên soái đem việc ấy giao cho ta là có lòng tin cậy ta. Nguyên soái muốn giao trả người ta, mà ta lại giết đi thì tất nguyên soái giận ta lắm. Nếu ta nhân lúc người ta nguy cấp mà làm hại thì không phải là nhân, làm một việc mà để cho người ta giận thì không phải là trí.

Du Biền liền mời vợ con HỒ Xạ Cô lên xe đưa đi, còn bao nhiêu gia tài của Hồ Xạ Cô, đều biên vào trong một quyển sổ, mà đem sang trả tận nơi, không để mất tí gì cả. HỒ Xạ Cô thấy vậy, thở dài mà than rằng:

-Du Biền là người có hiền đức mà ta không biết ! nay ta phải chạy trốn thế nầy, cũng là đáng lắm !

Triệu Thuẫn từ bấy giờ kính trọng Du Biền, có ý muốn trọng dụng. Tiên Miệt và Sĩ Hội sang đến nước Tần, xin đón côngtử Ung về làm vua. Tần Khang công mừng mà nói rằng:

-Tiên quân ta ngày xưa hai lần lập vua cho nước Tấn nay ta lại lập côn gtử Ung, như vậy thì các vua nước Tấn đều tự tay nước Tần ta lập cả.

Tần Khang công sai Kiển Bính đem quân đưa công tử Ung về nước Tấn. Phu nhân Mục Doanh từ khi đưa đám Tấn Tướng công xong rồi, ngày nào cũng cứ mờ mờ sáng đã ẵm thế tử Di Cao vào chốn triều đường ngồi khóc và bảo các quan đại phu rằng:

-Con trưởng của tiên quân đây, sao các ngài lại bỏ đi?

Lúc đã tan buổi triều, lại đi xe đến nhà Triệu Thuẫn, nói với Triệu Thuẫn rằng:

-Khi quân sắp mất, có đem đứa bé này ủy thác cho ngài, nay tiên quân dẫu khuất mặt đi rồi, nhưng lời nói ấy bên tai ta hãy còn văng vẳng, nếu ngài lập ngưòi khác thì định để đứa bé này vào chỗ nào? Thôi thì mẹ con tôi cũng liều một thác cho rồi !

Nói xong, lại vật mình lăn khóc. Người trong nước nghe nói, ai cũng có lòng thương xót mà đổ lỗi cho Triệu Thuẫn. Các quan đại phu cũng lấy việc đi đón công tử Ung làm thất sách. Triệu Thuẫn lo lắm, bàn mưu với Khước Khuyết rằng:

-Tiên Miệt đã sang nước Tần đón công tử Ung rồi, có lẽ nàota lại lập thế tử Di Cao được.

Khước Khuyết nói:

-Ngày nay bỏ thế tử Di Cao mà lập công tử Ung, ngày khắc thế tử Di Cao lớn lên, tất lại sinh biến, chi bằng ta kiếp sai người sang nước Tấn để gọi Tiên Miệt về.

Triệu Thuẫn nói:

-Ta lập vua đã rồi sẽ sai sứ đi !

Triệu Thuẫn bèn hợp các quan triều thần, lập thế tử Di Cao lên nối ngôi, tức là Tấn Linh công. Bấy giờ Tấn Linh công còn bé, mới lên bảy tuổi. Các quan triều thần vừa lạy mừng xong thì bỗng nghe có báo đại binh nước Tần hiện đã đưa công tử Ung về đến sôngHoàng Hà rồi. Các quan đại phu nói:

-Nay ta thất tính với nước Tần, biết nói lại làm sao cho được !

Triệu Thuẫn nói :

-Nếu ta lập công tử Ung thì Tần là nước thân tình với ta, nay ta không chịu lập thì Tần lại thành ra một nước cừu địch, chi bằng ta cứ đem quân ra đánh.

Triệu Thuẫn sai quan thượng quân nguyên soái là Cơ Trịnh Phủ ở nhà để phù tá Tấn Linh công, còn mình thì đem quân đi đối địch với quân Tần. Quân Tần đến đất Linh Hồi, nghe báo phía trước có quân Tấn, vẫn tưởng là đến đón công tử Ung, vậy nên không phòng bị gì cả. Tiên Miệt đi trước đến chỗ quân Tấn đóng, vào yết kiến Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói cho biết là đã lập thế tử Di Cao rồi. Tiên Miệt trừng mắt lên mà bảo rằng:

-Tự ai bàn mưu đi đón công tử Ung, mà nay lại lập thế tử Di Cao?

Nói xong, liền đứn ngay dậy, quay mình đi ra, lại gặp Tuân Lâm Phủ, Tiên Miệt bảo Tuân Lâm Phủ rằng :

-Tiếc thay, ta hkông nghe lời nhà ngươi trước, để đến nỗi thế này !

Tuân Lâm Phủ can rằng:

-Ngài là bề tôi nước Tấn, bỏ nước Tấn sao được !

Tiên Miệt nói:

-Ta đã phụng mệnh sang nước Tần để đón công tử Ung thì công tử Ung tức là vua ta, mà nước Tần tức là một nước phù tá cho vua ta, nay ta chịu trái lời nói trước mà cu lấy sự phú quý ở chốn cố hương hay sao !

Tiên Miệt nói xong, đi thẳng sang trại quân Tần?Triệu Thuẫn nói:

-Tiên Miệt đã không chịu theo Tấn thì ngày mai quân Tấn tất tiến sang đánh ta, chi bằng đêm hôm nay nhân lúc quân Tần bất ngờ, ta sang đánh ngay thì có thể thang được.

Nói xong, truyền cho quân sĩ sữa soạn binh mã để đêm hôm ấy sang đánh quân Tần, thì vừa canh ba, quân Tần đang ngủ, hoảng hốt vùng dậy, bỏ chạy tán loạn cả. Quân Tấn đuổi mãi tận đất Hoa Thủ (giáp giới Tấn và Tần ), Kiển Bính liều chết mới chạy thoát được, còn công tử Ung thì chết ở trong đám loạn quân, Tiên Miệt than rằng :

-Triệu Thuẫn bội ước với ta, nhưng ta không nên bội ước với Tần !

Nói xong, liền chạy sang nước Tần. Sĩ Hội cũng than rằng:

-Ta cùng với Tiên Miệt cùng đi sứ, nay Tiên Miệt đã trốn sang nước Tần, ta cũng không nên trở về nước Tấn một mình nữa !

Nói xong, cũng theo Tiên Miệt trốn sang nước Tần, Tần Khang công đều cho làm quan đại phu. Tuân Lâm Phủ nói với Triệu Thuẫn rằng:

-Ngày xưa Hồ Xạ Cô chạy sang nước Ðịch, ngài nghĩ tình đồng liêu, sai người đưa vợ con đi theo, nay Tiên Miệt và Sĩ Hội cùng tôi, cũng là đồng liêu với nhau, tôi xin bắt chước lối cũ.

Triệu Thuẫn nói:

-Nhà ngươi trọng nghĩa như vậy, chính hợp với ta.

Triệu Thuẫn bèn sai người gia quyến và tài sản của Tiên Miệt cùng Sĩ Hội đưa sang nước Tần.

Việc đánh nhau mới rồi, các tướng nước Tần đều có công thắng trận cả;chỉ có Khoái Ðắc, bộ tướng của Tiên khắc (trung quân phó nguyên soái )cứ thẳng đường đuổi theo mãi, bị quân Tần đánh thua . Tiên Khắc đã toan theo quân luật đem Khoái Khắc ra chém. Các tướng đều xin hộ Khoái Khắc. Tiên Khắc nói với Triệu Thuẫn, rồi truất bỏ lộc điền của Khoái Khắc. Khoái Khắc đem lòng căm tức.

Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ vốn chơi thân với nhau, từ khi Triệu Thuẫn lên làm trung quân nguyên soái, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều mất hết quyền thế, mới cùng với Cơ Trịnh Phủ cùng oán giận Triệu Thuẫn. Bấy giờ Triệu Thuẫn đem quân đi đánh quân Tần, Cơ Trịnh Phủ cùng Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ hợp nhau mà thương nghị rằng:

-Triệu Thuẫn chuyên quyền, tự ý bỏ người nọ lập người kia, nay đại binh nước Tần đưa công tử Ung về, Triệu Thuẫn đang đem quân ra đánh, chi bằng nhằm lúc hai bên còn giữ nhau, chúng ta nổi dậy đánh Triệu Thuẫn, bỏ Di Cao đi mà đón công tử Ung về, như vậy thì quyền chính nước Tấn sẽ ở trong tay chúng ta cả.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 48 : Năm tướng bàn nhau làm loạn TấnThọ Dư lập kế đánh lừa Tần

Cơ Trịnh Phủ cùng với Sĩ Cốc và Lôi Ích Nhĩ,ba người bàn nhau,chỉ đợi quân Tần thắng trận thì thừa cơ nổi loạn,mà tranh lấy quyền chính của Triệu Thuẫn,chẳng ngờ Triệu Thuẫn phá tan được quân Tần,thì ba người lại càng căm tức.Bấy giờ Tiên Ðô làm tướng ở đạo hạ quân,thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang nước Tấn,cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn.Khoái Ðắc bị Tiên Khắc truất mất lộc điền, đem lòng oán giận,mới bàn mưu với Sĩ Cốc,Sĩ Cốc:

-Tiên Khắc cậy thế Triệu Thuẫn,làm nhiều điều ngang ngược,nếu được một người can đảm,giết chết Tiên Khắc đi thì Triệu Thuẫn thế cô không làm gì được nữa,nhưng việc này trừ phi Tiên Ðô ra thì không ai dám làm nổi.

Khoái Ðắc nói với Sĩ Cố rằng:

-Tiên Ðô thấy chủ tướng là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa,phải trốn qua Tần,cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn đấy.

Sĩ Cốc nói:

-Nếu vậy thì khó gì mà không giết được Tiên Khắc.

Nói xong,liền ghé vào tai Khoái Ðắc mà bảo thầm mưu kế giết Tiên Khắc.Khoái Ðắc mừng lắm,nói:

-Ðể ta sẽ nói với Tiên Ðô!

Nói xong,tức khắc đến yết kiến Tiên Ðô.Tiên Ðô nói với Khoái Khắc rằng:

-Triệu Thuẫn bội ước với Tiên Miệt,lại lén đánh quân Tần,chẳng có tín nghĩa chút nào cả,ta cũng khó lòng mà ở với hắn được !

Khoái đắc đem lời Sĩ Cốc nói với Tiên Ðô.Tiên Ðô nói :

-Nếu vậy thì là phúc cho nước Tần lắm !

Bấy giờ hết mùa đông,sang mùa xuân,Tiên Khắc đi ra Cơ Thành để bái yết miếu tổ là Tiên Chẩn.Tiên Ðô sai người phục ở ngoài Cơ Thành,khi Tiên Khắc đi đến nơi thì đổ ra giết chết.Những người theo hầu Tiên Khắc thấy vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Thuẫn nghe tin Tiên Khắc bị giết,tức thì nổi giận,truyền cho quân tư khấu phải lùng để bắt quân gian,hạn trong nam ngày phải bắt cho bằng được.Bọn Tiên Ðô luống cuống,cùng với Khoái Ðắc bàn mưu với nhau,rồi xui giục Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ khởi sự gấp.Lương Ích Nhĩ lúc rượu say,nói lộ chuyện cho Lương Hoàng biết.Lương Hoàng kinh sợ mà nói rằng:

-Nếu vậy thì chết cả họ,chứ chẳng chơi đâu !

Lương Hoàng tức thì mật báo cho Du Biền.Du Biền bèn vào n&oi với Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn tức khắc truyền cho quân sĩ phải sẳn sàng đợi lệnh.

Tiên Ðô thấy vậy,vội vàng sang nhà Sĩ Cốc,giục kíp khởi sự.Cơ Trịnh Phủ muốn đợi đến ngày thượng nguyên,nhân khi Tấn Linh công mở tiệc tứ bố thì thừa cơ nổi loạn,bởi vậy cứ phân vân,chưa quyết định.Triệu Thuẫn sai Du Biền đến vây nhà Tiên Ðô,bắt Tiên Ðô đem bỏ ngục.Lương Ích Nhĩ và Khoái Ðắc trong khi bối rối,toan cùng Cơ Trịnh Phủ nổi loạn.Triệu Phuẫn bèn sai đem việc Tiên Ðô muốn nổi loạn đến báo với Cơ Trịnh Phủ và mời Cơ Trịnh Phủ vào Triều để bàn việc.Cơ Trịnh Phủ nói:

-Triệu Thuẫn sai người mời ta đến bàn việc,thế là vẫn không có ý nghi ta !

Cơ Trịnh Phủ thản nhiên đến ngay.Nguyên Triệu Thuẫn thấy Cơ Trịnh Phủ đang làm thượng quân nguyên soái,sợ hắn hợp quân nổi loạn,nên mới giả cách đem người đến triệu.Cơ Trịnh Phủ không biết kế,vội vàng đi thẳng vào triều.Triệu Thuẫn giữ ở trong triều để bàn việc Tiên Ðô,rồi mật sai Tuân Lâm Phủ,Khước Khuyết và Long Thuẫn đem quân bắt Sĩ Cốc,Lương Ích Nhĩ và Khoái Ðắc cùng bỏ ngục cả.Bọn Tuân Lâm Phủ về đến trong triều,trông thấy Cơ Trịnh Phủ liền quát to lên rằng:

-Cơ Trịnh Phủ cùng là một người trong đám khởi loạn,mà làm sao không bắt bỏ ngục,

Cơ Trịnh Phủ nói:

-Lúc trước các ông đem quân đi vắng cả,tôi còn không noẩi loạn,huống cho ngày nay các ngài đã thắng quân Tần rồi,tôi lại sinh sự để muốn cầu lấy cái chết hay sao!

Triệu Thuẫn nói:

-Nhà ngươi còn dùng dằng mà chưa nổi loạn,là có ý đợi Tiên Ðô và Khoái Khắc đó thôi.Ta đã dò biết hết sự tình,còn cãi gì được nữa !

Cơ Trịnh Phủ cúi đầu chịu vào ngục.triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công,xin đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém,cả thảy năm người (Cơ Trịnh Phủ,Sĩ Cốc,Lương Ích Nhĩ,Khoái Ðắc và Tiên Ðô ).Linh công hãy còn ít tuổi,chỉ vâng dạ mà thôi.Khi Linh công đã vào cung,Tương phu nhân nghe tin bọn Cơ Trịnh Phủ bị bắt,mới hỏi Linh công rằng:

-Tướng xử trí việc ấy thế nào ?

Linh công nói:

-Tưog quốc xin trị tội mà đem chém tất cả.

Phu nhân nói:

-Bọn Cơ Trịnh Phủ nổi loạn,là vì tranh quyền lẫn nhau,chứ không can dự gì đến thoán nghịch.Và việc mưu giết Tiên Khắc,chẳng qua chỉ một vài người chủ mưu mà thôi,xử tội phải có thủ phạm tùng phạm,lẽ nào lại tru lục như nhau.Gần đây các bậc lão thành kế tiếp mà chết,thành ra nhân tài rất hiếm.Nay một lúc giết năm đại thần thì triều đình trống trải,không đáng lo lắm sao?

Ngày hôm sau,Linh công đem lời nói của Tương phu nhân,,thuật lại cho Triệu Thuẫn nghe.Triệu Thuẫn nói:

-Bọn hắn nổi loạn,nếu không giết đi thì lấy gì làm gương cho kẻ khác !

Nói xong,truyền đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém,lại cho con Tiên Khắc là Tiên Cốc làm quan đại phu.Người nước Tấn thấy Triệu Thuẫn nghiêm khắc như vậy ai cũng sợ hãi,Hồ Xạ Cô ở nước Xích Ðịch nghe thấy việc ấy,cũng giật mình mà nói rằng:

-May thay cho ta được khỏi chết !

Một hôm quan đại phu Xích Ðịch là Phong Thư hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

-Triệu Thuẫn với Triệu Thôi,hai người ấy ai hơn?

Hồ Xạ Cô nói:

-Triệu Thôi khác nào như mặt trời mùa đônh,Triệu Thuẫn khác nào như mặt trời mùa hạ.Mặt trời mùa đông ấm áp thì ai cũng yêu,mặt trời mùa hạ nóng dữ thi ai cũng sợ !

Phong Thư cười mà bảo rằng:

-Nhà ngươi làm tướng đã lâu năm,có nhiều công trạng mà cũng sợ Triệu Thuẫn à !

Lại nói chuyện Sở Mục vương từ khi cướp ngôi lên làm vua,cũng có chí lớn muốn làm bá chủ trung nguyên,nghe Tấn Linh công mới lập,Triệu Thuẫn chuyên quyền,các quan đại phu giết lẫn nhau,thì muốn đem quân sang đánh Trịnh,liền hơp( triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Phan Sơn nói:

-Vua Tấn tuổi hãy còn nhỏ,các bề tôi chỉ tranh quyền lẫn nhau,còn nghĩ gì đến chư hầu,nay ta thừa cơ đem quân sang đánh lấy các nước ở phía bắc thì còn ai đương nổi !

Sở Mục công bằng lòng,liền sai Ðấu Việt Tiêu làm chánh tướng,Vĩ Giả làm phó tướng, đem quân đi đánh Trịnh,còn mình thì đóng đại binh ở đất Lang Uyên để tiếp ứng,lại sai công tử Tiên làm chánh tướng,công tử Phiệt làm phó tướng, đem quân đi đánh Trần.Trịnh Mục công nghe tin quân Sở đến đánh,vội vàng sai công tử Kiên,công tử Mang và Lạc Nhĩ,ba người đem quân ra ngoài cõi để chống cự với quân Sở,lại dặn phải giữ thế thủ,chớ nên giao chiến,rồi cho người sang cáo cấp với nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu ngày nào cũng đem quân đến khiêu chiến.Quân Trịnh nhất định không ra.Vĩ Giả mật nói với Ðấu Việt Tiêu rằng:

-Từ trận Thành Bộc đến giờ,quân Sở ta đã lâu không kéo sang nước Trịnh,người nước Trịnh chắc đợi có quân nước Tấn đến cứu,vậy mới cố giữ thế thủ mà không giao chiến với ta.Nay ta nên nhân lúc quân Tấn chưa đến,dụ ra mà đánh thì có thể báo được cái thù năm xưa,nếu để lâu ngày,các nước đem quân đến cứu thì e rằng lại giống như việc Thành Ðắc Thần ngày trước,biết làm thế nào !

Ðấu Việt Tiêu nói:

-Nay muốn dụ quân Trịnh ra thì làm thế nào?

Vĩ Giả ghé tai mà bảo mưu kế. Ðấu Vuệt Tiêu nghe lời,liền giả cách nói lương thực sắp hết,truyền cho các quân sĩ đi ăn cướp ở các thôn xóm,còn mình thì ngày nào cũng ngồi ở trong màn uống rượu nghe hát đến nữa đêm mới thôi.Có người đến đất Lang Uyên báo tin cho Sở Mục vương biết.Sở Mục vương nghi lé Ðấu Việt Tiêu có lòng khinh giặc, đã toan đem quân đến đễ đốc chiến.Phạm Sơn nói với Sở Mục vương rằng:

-Vĩ Giả là người có trí,tất là mưu kế chi đây.Tôi chắc chỉ trong mấy ngày nữa,phải có tin thắng trận đưa về.

Bọn công tử Kiên(tướng nước Trịnh )thấy quân Sở không đến khiêu chiến nữa,trong lòng nghi hoặc,mới sai người đi dọ thám xem tình hình quân Sở ra sao.Quân thám tử về báo rằng:

-Quân Sở ngày nào cũng kéo nhau đi cướp phá các thôn xóm,còn Ðấu Việt thì chỉ suốt ngày nghe hát và uống rượu,khi rượu say,lại xỉ mắng người nước Trịnh ta là hèn mạt không làm gì được!

Công tử Kiên mừng mà nói rằng:

-Quân Sở đi cướp phà thôn xóm thì trong đồn trại tất bỏ không,mà nguyên soái nước Sở ngày nào cũng nghe hát uống rượu thì trông gì đến việc quan nữa ! Ðêm hôm nay ta đem quân sang cướp phá đồn trại quân Sở,có thể toàn thắng được.

Công tử Mang và Lạc Nhĩ đều lấy làm phải. Ðêm hôm ấy,ba người cùng đem quân lẻn đến dinh quân Sở, đứng xa trông thấy đèn đuốc sáng rực,lại nghe có tiếng hát véo von.Công tử Kiên nói:

-Ðấu Việt Tiêu sắp đến ngày tận số !

Rồi tức thì vẫy quân xông vào.Quân Sở không chống cự gì cả.Công tử Kiên tiến vào tận trong trại,mấy người nhạc công bỏ chạy tán loạn,chỉ có Ðấu Việt Tiêu vẫn thấy ngồi trơ,không động đậy chút nào.Công tử Kiên đến gần nhìn kỹ xem sao thì hóa ra một người bằng cỏ kết lại,chứ không phải Ðấu Việt Tiêu thật,bấy giờ mới biết là trúng kế,giật mình kinh sợ,toan quay trở ra.Bỗng thấy ở phía sau trại pháo vang rầm,một viên đại tướng kéo quân ra đuồi đánh,quát to:

-Ta là Ðấu Việt Tiêu đây !

Công tử Kiên vội vàng cùng với công tử Mang và Lạc Nhĩ tìm đường trốn chạy.Chạy chưa được một dặm,lại nghe có tiếng súng nổ.Vĩ Giả đem một toán quân chấn ngang giữa đường .Phía trước có Vĩ Giả,phía sau có Ðấu Việt Tiêu,hai phía cùng đánh ập lại.Quân Trịnh thua to.Công tử Mang và Lạc Nhĩ bắt.Công tử Kiên chạy lại để cứu,cũng bị quân Sở bắt nốt.Trịnh Mục công kinh sợ,báo các bề tôi rằng:

-Ba tướng nước ta đều bị bắt cả,mà vẫn chưa thấy quân Tấn đến cứu,biết làm thế nào?

Các quan triều thần nói:

-Thế quân Sở mạnh lắm ! nếu ta không xin hàng thì chẳng bao lâu quân ta sẽ bị quân Sở phá vỡ,dẫu nước Tấn cũng không thể phá nổi.

Trịnh Mục công liền sai công tử Phong (con Trịnh Mục công ) đem các đồ lễ vật đến dinh quân Sở để xin giảng hòa. Ðấu Việt Tiêu sai người tâu với Sở Mục vương.Sở Mục vương thuận cho,truyền tha công tử Kiên,công tử Mang và Lạc Nhĩ,rồi lại thu quân trở về nước Sở.Bấy giờ công tử Tiên (tướng nước Sở ) đem quân đi đánh Trần bị thua,quan phó tướng là công tử Phiệt bị quân nước Trần bắt.Côn tử Tiên mới đón đường tâu với Sở Mục công xxin thêm quân để đi đánh báo thù.Sở Mục công giận lắm,toan kéo quân sang nước Trần.Bỗng thấy nước Trần sai sứ đem công tử Phiệt sang xin giảng hoà.Sở Mục vương mở thư ra xem, đại lược nói rằng:

-Nước tôi nhỏ mọn,chưa từng được giao tiếp với thượng quốc,nay thượng quốc hành quân sang nước tôi,bọn ở biên giới không biết gì,có thất lễ với công tử Phiệt,tôi lấy làm lo sợ lắm,vậy phải sai sứ đem ngựa sang tạ tội.Từ nay trở đi,nước tôi một lòng thần phục,vậy xin thượng quốc dung thứ cho.

Mục vương cười rằng:

-Nước Trần sợ ta hỏi tội mà xin qui phục,cũng là kiến cơ đó !

Nói xong,thuận cho nước Trần được giảng hoà.Mục vương lại truyền hịch cho vua Trịnh,vua Trần,và vua Sái hẹn đến tháng mười năm ấy thì hội nhau ở đất Quyết Lạc (đất nước Tống ).

Lại nói chuyện Triệu Thuẫn nước Tấn thấy người nước Trịnh đến cáo cấp liền hợp quân bốn nước,Tống ,lỗ,Vệ và Hứa để cùng sang cứu nước Trịnh.Chưa sang đến nơi, đã nghe tin nước Trần cũng theo Sở.Quan đại phu nước Tống là Hoa Ngẫu cùng quan đại phu nước Lỗ là công tử Toại đến nói với Triệu Thuẫn xin đem quân sang đánh Trần và Trịnh.Triệu Thuẫn nói:

-Chỉ vì ta không đến cứu nhanh, để đến nổi hai nước phải theo Sở,chớ hai nước ấy có tội lỗi gì ! Chi bằng ta rút quân về mà sửa sang chính sự trong nước còn hơn !

Nói xong liền rút quân về.Cuối mùa thu năm ấy,vua Trần (Sóc ) và vua Trịnh ( Lan) đều đến cả ở Tức Ðịa để đón Sở Mục vương.Mục vương hỏi:

-Khi trước tôi có hẹn đến hội ở Quyết Lạc,sao hai vua lại còn ở đây?

Vua Trần và vua Trịnh đồng thanh đáp:

-Chúng tôi sợ đến chậm thì có lỗi,vậy phải hợp ở đây để đón đại vương,rồi cùng đi một thể.

Sở Mục vương bằng lòng.Bỗng nghe báo vua Sái (Giáp Ngọ) đã đến ở đất Quyết Lạc rồi.Sở Mục vương liền cùng với vua Trần và vua Trịnh đi gấp đến đất Quyết Lạc.Khi Sở Mục vương đến,vua Sái ra đón,dùng lễ thần hạ,sụp lạy hai lạy.Vua Trần và vua Trịnh giật mình,nói riêng với nhau rằng:

-Vua Sái chịu nhún mình quá như vậy,thì vua Sở tất cho chúng ta là quá vô lễ !

Vua Trần và vua Trịnh mới cùng nhau nói với Sở Mục vương rằng:

-Ðại vương thân hành đến đây mà vua Tống không đến nghênh tiếp,xin đại vương cho đem quân đi đánh.

Mục vương cười mà rằng:

-Tôi đem quân tới đây,chính là muốn đánh nước Tống đó.Bấy gìờ Tống thành công đã mất rồi,con là Chủ Cữu (tức là Tống Chiêu Công )lên nối ngôi mới được ba năm,hay tin dùng bọn tiểu nhân,mà ruồng bỏ người trông công tộc,bởi vậy người trong công tộc nổi loạn,giết quan tư mã là công tử Ngang.Quan tư thành là Ðãng Y Chư bỏ chạy sang nước Lỗ,nhờ có quan tư khấu là Hoa Ngự Sự hết sức điều đình để triệu Ðãng Y Chư về,nước Tống mới được yên ổn.Hoa Ngự Sự nghe tin Sở Mục công hội chư hầu ở đất Quyết Lạc có ý muốn dòm ngó nước Tống,mới nói với Tống Chiêu công ràng:

-Nước nhỏ mà không chịu thần phục nước lớn thì sao giữ được,nay nước Trần và nước Trịnh đều theo Sở cả,chúa công cũng nên thân hành đến mà nghênh tiếp vua Sở,nếu chờ khi vua Sở đem quân đến đánh,rồi mới xin giảng hoà thì sao cho kịp !

Tống Chiêu công lấy làm phải,mới thân hành đến đất Quyết Lạc để nghenh tiếp Sở Mục vương,và mời Sở Mục vương đi sắn bắn ở rừng Mạnh Chư.Sở Mục vương bằng lòng.Tống Chiêu công cùng với các chư hầu theo Sở Mục vương đi săn.Sở Mục vương truyền lệnh cho các chư hầu đi săn,trong xe đều phải đem theo một cái mồi lửa,phòng khi lấy lửa. Ðến lúc đi săn,Sở Mục vương ngảnh lại hỏi Tống Chiêu công lấy cái mồi lửa toan hun đốt đàn cáo.Tống Chiêu công không đem mồi lửa đi theo.Quan tư mã nước Sở là Thân Vô Úy nói với Sở Mục vương rằng:

-Vua Tống trái lệnh như vậy,nếu đại vương không trị tội thì cũng nên đánh người theo hầu vua Tống để giữ phép.

Nói xong,liền thét nọc người dong xe của Tống Chiêu công đánh ba trăm roi,dể làm gương cho chư hầu.Tống Chiêu công hổ thẹn khôn xiết.Bấy giờ nước Sở cường thịnh,sai Ðấu Việt Tiêu sang sứ nước Tề và nước Lỗ,nghiễm nhiên tự coi là bá chủ Trung nguyên.Nước Tấn biết vậy mà cũng không kiềm chế nổi.

Năm thứ tư đời Chu Khoảnh vương,Tần Khang công hợp các quan triều thần lại thương nghị rằng:

-Ta nghĩ đến việc Linh Hồ mà căm tức nước Tấn, đến nay đã năm năm trời,bây giờ Triệu Thuẫn nước Tấn chuyên quyền,giết hại các quan đại thần,không biết sửa sang chánh sự.Trần,Sái,Trịnh,Tống đều bỏ Tống theo Sở cả,mà Tấn cũng không làm gì nổi,xem thế đủ biết Tấn đã suy nhược lắm rồi,nay ta không đánh Tấn ,còn đọi đến bao giờ !

Các quan đại phu đều nói:

-Chúa công muốn đánh Tấn,chúng tôi xin hết sức.

Tần Khang công liền giao quốc chính cho Mạnh Minh,rồi sai Tây Khất Thuật làm chánh tướng,Kiển Binh làm phó tướng,Sĩ Hội làm tham mưu, đem quân sang nước Tấn đánh lấy đất Cơ Mã.Triệu Thuẫn nghe báo,tức khắc muốn đem quân ra đối địch.Bấy giờ Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái,cho Tuân Lâm Phủ làm trung quân phó nguyên soái,thay chân Tiên Khắc,dùng Ðế Di Minh làm chức xa hữu,lại cho Khước Khuyết làm thượng quân nguyên soái,thay chân Cơ Trịnh Phủ.Triệu Thuẫn có người em họ têngọi Triệu Xuyên,là con rễ Tấn Tướng công,xin làm thượng quân phó nguyên soái,Triệu Thuẫn bảo Triệu Xuyên rằng:

-Nhà ngươi tuổi trẻ,chưa có lịch duyệt,không nên làm vội.

Nói xong liền cho Du Biền làm thượng quân phó nguyên soái,lại dùng Loan Thuẫn làm hạ quân phó nguyên soái,thay chân Tiên miệt,dùng con Tư Thân là Tư Giáp làm hạ quân phó nguyên soái,thay chân Tiên Ðô.Triệu Xuyên lại xin đem thân thuộc của mình phụ theo với đạo thương quân để lập công trạng.Triệu Thuẫn thuận cho.Con Hàn Tử Dư tên gọi Hàn Quyết,có hiến đức mà lại có tài năng,từ lúc bé vẫn ở nhà Triệu Thuẫn.Bấy giờ khuyết chức tư mã,Triệu Thuẫn liền tiến cử lên Tấn Linh công,mà dùng tư mã. Ðại binh từ Giáng Ðô kéo ra,rất là chỉnh tề,uy nghiêm ! Ði chưa được mười dặm,bỗng thấy có một người rẽ hàng quân mà quay xe trở lại.Quan tư mã là Hàn Quyết hỏi.Người dong xe ấy nói:

-Triệu Tướng quốc bỏ quên các đồ uống rượu,vậy có sai tôi trở lại lấy.

Hàn Quyết nổi giận nói :

-Ðại binh đang đi ma sao nhà ngươi dám rẽ hàng quân trở lại,tất phải đem chém mới được !

Người dong xe ấy khóc mà kêu rằng:

-Việc này là do lệnh quan Tướng quốc.

Hàn Quyết nói:

-Ta làm chức tư mã,chỉ biết quân pháp,chứ không biết quan tướng quốc nào cả!

Nói xong,truyền chém người dong xe của ngài,thật là một kẻ phụ ơn,xin chớ nên dùng làm gì !

Triệu Thuẫn cười,rồi sai người đi triệu Hàn Quyết.Hàn Quyết đến,Triệu Thuẫn đang ngồi đúng dậy,tỏ ý kính trọng mà bảo rằng:

-Nhà ngươi biết giữ phép như vậy,thật không uổng công ta tiến dẫn ! Nhà ngươi nên gắng thêm nữa !

Hàn Quyết lạy tạ rồi lui ra.Triệu Thuẫn lại bảo các tướng rằng:

-Sau ngày Hàn Quyết tất được cầm quyền chính nước Tấn ! Họ Hàn đã sắp đến ngày hưng thịnh !

Quân Tấn đóng đồn ở đất Hà Khúc.Du Biền hiến kế rằng :

-Quân Tấn dương uy sức nhuệ trong mấy năm trời,mới sang đánh ta thì không địch nổi,ta nên cố thủ mà không nên ra đánh,lâu ngày tự khắc quân Tấn phải lui.Khi quân Tần đã lui,bấy giờ ta sẽ đuổi thì tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn theo lời.Tần Khang công thấy quân Tấn không đánh,mới hổi kế Si Hội.Sĩ Hội nói :

-Triệu Thuẫn mới dùng một người tên gọi Du Biền.Người ấy nhiều mưu trí lắm ! Nay quân Tấn không ra đánh là theo mưu của Du Biền,muốn lém cho quân ta lâu ngày mỏi mệt.Tôi nghe Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công thuở trước,có nói với Triệu Thuẫn không cho,lại dùng Du Biền,Triệu Xuyên không bằng lòng,bởi vậy xin đem thân thuộc đi theo đạo thượng quân,thì tất Triệu Xuyên cậy sức mạnh,vội vàng ra nghênh chiến.Chỉ dùng kế ấy mới đánh nổi được quân Tấn.

Tần Khang công theo lời,liền sai Kiển Binh đến đánh đạo thượng quân.Khước Khuyết và Du Biền đều cố thủ không ra.Triệu Xuyên nghe tin quân Tần đến,tức khắc đem thân thuộc của mình ra nghênh chiến.Kiển Binh quay xe bỏ chạy.Xe chạy rất nhanh.Triệu Xuyên đuổi theo đến hơn mười dặm mà không kịp,phải trở về.Triệu Xuyên thấy bọn Du Biền không đem quân tiếp ứng,mới gọi các tướng sĩ mà mắng rằng:

-Ta đem quân đi tới đây là cốt để đánh giặc,nay giặc đến mà ra đánh,vậy thì đạo thượng quân này đều là đàn bà cả hay sao !

Các tướng sĩ nói:

-Nguyên soái đã định sẳn mưu kế để phá quân giặc,chúng tôi không dám trái lệnh.

Triệu Xuyên lại mắng rằng:

-Lũ chuột ấy lại còn có mưu kế gì ! Chẳng qua là sợ chết mà thôi,Ai sợ quân Tần,chứ ta đây quyết không sợ.Ta quyết đem quân ra đánh một trận để khỏi thẹn với quân Tần.

Triệu Xuyên lại tiến quân ra đánh,vừa đi vừa reo to lên rằng:

-Ai có can đảm thì đi theo ta !

Các tướng sĩ không ai theo cả.Chỉ có quan hạ quân phó nguyên soái là tư giáp khen rằng:

-Người ấy thật là anh hùng,ta nên giúp mới phải !

Thượng quân nguyên soái là Khước Khuyết vội vàng sai người đem việc ấy báo cho Triệu Thuẫn biết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ mà nói rằng:

-Thằng điên ấy đem quân đi một mình,tất bị quân Tần bắt,ta phải cứu mới được !

Nói xong,liền truyền cho các quân cùng ra, đế giao chiến với quân Tần.

Lại nói chuyện Triệu Xuyên tiến sang quân Tần,cùng với Kiển Binh giao chiến. Ðánh được hơn ba mươi hợp,hai bên đang xung đột,thì Tây Khất Thuật vừa toan xông đến để đánh giúp Kiển Binh,bỗng thấy đại binh Tấn kéo ra,nên không dám đánh nữa,lại nổi hiệu thu quân trở về..Triệu Thuẫn thấy vậy cũng thu quân về.

Triệu Xuyên về đến dinh quân Tấn,hỏi Triệu Thuẫn rằng:

-Tôi định dốc lực ra phá vỡ quân Tần, để rửa thẹn cho các tướng,sao ngài lại nổi hiệu thu quân?

Triệu Thuẫn nói:

-Tần là một nước lớn,không nên khinh địch,phải dùng kế mới được.

Triệu Xuyên nói:

-Dùng kế ! Dùng kế ! Nghĩ mà chán quá !

Nói chưa dứt lời thì có người vào báo có sứ nước Tần đưa chiến thư đến.Triệu Thuẫn sai Du Biền ra tiếp kiến.Sứ nước Tần đưa bức thư cho Du Biền.Du Biền đệ trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,thư rằng:

"Các chiến sĩ của hai nước chúng ta, đều chưa thiếu ai cả,xin đến ngày mai quyết một trận được thua".

Triệu Thuẫn nhận lời,sứ nước Tần về rồi,Du Biền bảo Triệu Thuẫn rằng:

-Tôi thấy sứ nước Tần ngoài miệng dẫu nói xin khai chiến,nhưng trông mắt ngơ ngác nhìn quanh có ý sợ hãi ta lắm.Tôi chắc đêm hôm nay quân Tần tất bỏ trốn ,xin nguyên soái sai một toán quân ra phục sẳn ở bên Hoàng Hà,chờ khi quân Tần qua sông sẽ đổ ra đánh,tôi chắc là quân ta tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn khen phải,toan sai quân đi mai phục.Tư Giáp nghe thấy mưu ấy,liền nói với Triệu Xuyên.Triệu Xuyên liền với Tư Giáp kéo nhau đến cửa dinh quân Tấn mà reo ầm lên rằng:

-Các quân sĩ,hãy nghe ta nói một câu:nước Tấn ta dùng binh hùng tướng dũng,có kém gì nước Tần ,nay nước Tần đưa chiến thư,ta đã nhận lời rồi,mà lại còn đem quân mai phục, để làm kế đánh trộm thì sao gọi là trượng phu được !

Triệu Thuẫn nghe nói,liền gọi Triệu Xuyên và Tư Giáp đến mà bảo rằng:

-Ta có ý đâu ! Các người chớ làm cho quân sĩ náo động !

Thám tử của nước Tần đem chuyện ấy về báo với Tần Khang công. Ðêm hôm ấy,quân Tần bỏ trốn,rút về mạt Hà Ấp,qua ải Ðào Lâm mà về nước Tần.Triệu Thuẫn cũng thu quân trở về,rồi trị tội những kẻ làm tiết lộ quân tình.Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công,lại là em họ Triệu Thuẫn, được tha tội,còn Tư Giáp thì phải cách bỏ quan tước, đuổi sang ở nước Vệ.Triệu Thuẫn nói :

-Ta không nên quên công của Tư Thần ngày xưa !

Nói xong,lại cho con Tư Giáp là Tư Khắc làm hạ quân phó nguyên soái.

Triệu Thuẫn sợ quân Tần lại đến,mới sai quan đại phu là Thiêm Gia ra ở Hà Ấp để trấn thủ Ải Ðào Lâm.Du Biền nói với Triệu Thuẫn rằng:

-Trận vừa rồi,bày mưu kế cho nước Tần là bởi Sĩ Hội,nếu người ấy còn ở nước Tần thì chúng ta cũng khó lòng mà ngồi yên được.

Triệu Thuẫn lấy làm phải,hợp các quan đại phu lại để thương nghị.Triệu Thuẫn hỏi rằng:

-Nay Hồ Xạ Cô ở nước Xích Ðịch,Sĩ Hội ở nước Tần,hai người đều lập mưu để hại nước Tấn ta,các quan nghĩ thế nào?

Tuân Lâm Phủ nói:

-Công lao của họ Hồ ngày xưa,ta cũng nên nhớ,nay xin triệu Hồ Xạ Cô về mà phục chức cho y.

Khước Khuyết nói:

-Hồ Xạ Cô nhiều công lao,nhưng có cái tội giết quan đại thần,nếu ta phục chức cho thì lấy gì làm gương cho kẻ khác,chi bằng ta triệu Sĩ Hội.Sĩ Hội là người nhu thuận mà nhiều mưu trí,dẫu có trốn sang nước Tần,nhưng không phải là có tội.Xích Ðịch xa mà nước Tần gần,ta muốn trừ cái hại nước Tần thì nên triệu Sĩ Hội về.

Triệu Thuẫn nói:

-Nước Tần đang trọng dụng Sĩ Hội,ta triệu thì tất nước Tần không cho về,biết làm thế nào?

Du Biền nói:

-Tôi có nghe một người tên gọi Thọ Dư,tức là cháu Ngụy Thù,hiện nay ăn lộc ở Ngụy Ấp.Người ấy khéo bày mưu kế,muốn triệu Sĩ Hội về,chi giao cho người ấy là được việc !

Nói xong,lại ghé vào tai Triệu Thuẫn mà bảo mưu kế.Triệu Thuẫn mừng lắm nói:

-Nhà ngươi đến gọi người ấy cho ta.

Chiều hôm ấy Du Biền đến nhà Thọ Dư,Thọ Dư mời vào.Du Biền xin vào phòng kín để nói chuyện,rồi đem mưu kế định triệu Sĩ Hội bảo với Thọ Dư.Thọ Dư nhận lời.Du Biền về nói với Triệu Thuẫn.Ngày hôm sau,Triệu Thuẫn vào tâu với Tấn Linh công rằng:

-Người nước Tần thường hay xâm nhiễu nước Tấn ta,ta nên bắt các quan ấp tể ở Hà Ðông phải mộ quân ra trấn thủ bến sông Hoàng Hà,lại bắt cả những người có ăn lộc,cũng phải đi đốc biện về việc ấy ,nếu sai suyển thì tức khắc trị tội.

Nói xong,truyền gọi Thọ Dư,bắt phải hết sức mà đốc biện việc ấy.Thọ Dư nói với Triệu Thuẫn rằng :

-Chúa công nghĩ đến tiền nhân tôi thuở xưa mà cho tôi được ăn lộc ở Ngụy Ấp,nhưng tôi chưa hề có quen việc quân lữ bao giờ.HUống chi sông Hoàng Hà dài hơ, một trăm dặm,chỗ nào quân giặc cũng có thể sang đò dược,dẫu đem quân ra trấn thủ,chẳng qua cũng vô ích mà thôi.

Triệu Thuẫn nổi giận,nói:

-Sao nhà ngươi lại dám trái lệnh ta ! Hạn cho nhà ngươi trong ba ngày,phải đem quân tịch đến trình,nếu chưa làm xong thì sẽ chiếu quân pháp mà trị tội.

Thọ Dư than thở mà lui ra,khi về đến nhà,có vẻ buồn bả.Vợ con thấy vậy,xúm lại hỏi.Thọ Dư nói:

-Triệu Thuẫn ác nghiệt quá,bắt ta đem quân ra giữ các cửa sông Hoàng Hà thì biết bao giờ cho xong việc ! Các người nên thu thập gia tư,cùng ta trốn sang Tần theo Sĩ Hội là hơn cả.

Nói xong,truyền cho người nhà sắp sửa xe ngựa. Ðêm hôm ấy Thọ Dư uống một bữa rượu thật say,rồi nhân cớ món ăn làm không được sạch,Thọ Dư lại đánh người làm bếp hơn một trăm roi, đánh xong,vẫn còn hầm hầm tức giận đe giết người nhà bếp.

Người nhà bếp tức khắc đem việc Thọ Dư có ý định phản Tấn theo Tần báo Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn sai Hàn Quyết đem quân đến bắt.Hàn Quyết để Thọ Dư chạy thoát,chỉ bắt vợ co đem bỏ ngục.Thọ Dư đi suốt mấy đêm sang đến nước Tần,vào yết kiến Tần Khang công,kể tội Triệu Thuẫn ác nghiệt,bắt giam vợ con mình,chỉ có một mình trốn thoát sang xin đầu hàng nước Tần.Tần Khang công hỏi Sĩ Hội xem việc ấy thực hay giả?

Sĩ Hội nói:

-Người nước Tấn hay gian dối lắm,ta chớ nên tin.Nếu Thọ Dưthực lòng đầu hàng,thì có đem được vật gì sang dân nước Tần ta mới phải.Thọ Dư thò vào trong tay áo,rút ra một quyển sổ,biên những thổ địa nhân dân tại Ngụy ấp, đem dân Tần Khang công mà nói rằng:

-Nếu chúa công thu dụng tôi thì tôi xin đem Ngụy ấp mà dân nộp cho chúa công.

Tần Khang công lại hỏi Sĩ Hội rằng:

-Có nên nghe lời Thọ Dư không?

Thọ Dư đua mắt cho Sĩ Hội và sẽ giẫm vào chân Sĩ Hội.Sĩ Hội dẫu ở nước Tần,nhưng lòng vẫn nhớ nước Tấn khi thấy Thọ Dư ra hiệu,mới nói với Tần Khang công rằng:

-Nước Tần ta khi trước bỏ năm thành ở đất Hà Ðông mà không lấy,là vì có tình thân gia với Tấn.Bây giờ Tấn đánh nhau với ta luôn mấy năm nay,thì ta còn vì lẽ gì mà không chiếm lấy năm thành ở đất Hà Ðông nữa.Và năm thành ở đất Hà Ðông thì Ngụy ấp là lớn hơn cả,nếu ta chiếm được Ngụy ấp rồi nhân đấy mà lấy luôn cả năm thành ,còn gì hơn nữa ! Tôi chỉ e rằng quân trấn thủ ở Ngụy ấp,sợ uy người nước Tấn,không dám về với nước ta mà thôi.

Thọ Dư nói:

-Quan trấn thủ ở Ngụy ấp dẫu là bề tôi nước Tấn,nhưng vẫn chịu ơn họ Ngụy tôi,nếu chúa công đem một toán quân đóng đồn ở Hà Tây để làm thanh viện,thì tôi có thể dụ cho họ phải theo.

Tần Khang công ngảnh lại bảo Sĩ Hội rằng:

-Nhà ngươi đã am hiểu việc nước Tấn,nên cùng đi với ta.

Tần Khang công cho Tây Khuất Thuật làm chánh tướng.Sĩ Hội làm phó tướng,và thân hành sang đóng đồn ở Hà Tây.

Quân thám tử nước Tần về báo rằng:

-Phía trước có một toán quân Tấn đóng đồn,không biết là ý tứ gì.

Thọ Dư nói:

-Ðó tất là người Ngụy ấp,nghe tin quân Tần kéo đến mà phòng bị sẵn đấy ! Ðó là vì chúng ta chưa biết có tôi ở bên này.Nay được một người nào am hiểu việc nước Tấn,cho cùng sang trước với tôi, đem sự họa phúc mà dụ bảo chúng thì chúng tất phải theo.

Tần Khang công sai Sĩ Hội đi với Thọ Dư.Sĩ Hội sụp lạy mà nói rằng:

-Người nước Tấn tàn ác như hổ lang,không thể lường được.Chuyến này tôi phụng mệnh sang dụ bảo mà chúng chịu theo thì một sự may cho nước Tần,vạn nhất chúng không theo mà bắt tôi ở bên ấy,tôi e rằng chúa công lại cho tôi là người không làm nổi việc mà trị tội vợ con tôi.Như vậy có phải là không ích gì cho chúa công,mà vợ con tôi cũng phải chịu oan khổ,hối sao cho kịp !

Tần Khang công bèn bảo Sĩ Hội rằng:

-Nhà ngươi cứ nên hết lòng vì ta mà đi,lấy được Ngụy ấp thì ta sẽ hậu thưởng,nếu người nước T-án có bắt giữ nhà ngươi ỡ bên ấy,ta xin sai người đem vợ con sang trả, để tỏ tấm lòng yêu mến bấy lâu.

Nói xong lại trỏ sông Hoàng Hà mà thề với Sĩ Hội.

Quan đại phu nước Tần Nhiễu Triều can Tần Khang công rằng:

-Sĩ Hội là một mưu thần của nước Tấn, đi chuyến này khác nào như con cá lớn được xuống vực sâu,khi nào còn trở lại nữa.Sao chúa công lại quá nghe lời Thọ Dư mà giúp cho địch thêm một mưu thần như thế?

Tần Khang công nói:

-Việc này ta tự gánh lấy,nhà ngươi chớ có lo ngại.

Sĩ Hội và Thọ Dư từ biệt Tần Khang công rồi đi.Nhiễu Triều ra tiễn, đem một cái roi da tặng Sĩ Hội mà bảo rằng:

-Nhà ngươi chớ khinh nước Tần ta không có trí sĩ,chỉ tiếc chúa công không nghe lời ta mà thôi ! Nhà ngươi cầm cái roi này đánh ngựa mà về cho mau,nếu chậm thì chắc có tai vạ.

Sĩ Hội lạy tạ,rồi giục ngựa đi mau.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 49 : CÔNG TỬ BÃO PHÓNG TIỀN MUA NƯỚCTỀ Ý CÔNG THAM SẮC HẠI THÂN

Sĩ Hồi cùng Thọ Dư qua sông Hoàng Hà, đi về phía đông. Ði chưa được nữa dặm,thấy một viên tướng trẻ tuổi đem môt toán quân đến đón.Viên tướng ấy ngồi trên xe,cúi đầu chào Sĩ Hội.Sĩ Hội lại gần nhìn xem ai thì tức là Triệu Sóc (con Triệu Thuẫn).Sĩ Hội hỏi Triệu Sóc rằng:

-Nhà ngươi đem quân tới đây là có ý gì?

Triệu Sóc nói:

-Tôi phụng mệnh cha tôi,tới đây để đón ngài về triều,mặt sau sắp có đại binh kéo đến.

Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe có tiếng pháo nổ,quân Tấn kéo đến đông như nước chảy, đem Sĩ Hội và Thọ Dư về triều.Thám tử nước Tần về báo,Tần Khang công nổi giận,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Lại nghe báo bên kia sông có Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết đem đại binh nước Tấn kéo đến,Tây Khất Thuật bèn nói với Tần Khang công rằng:

-Ðại binh nước Tấn đã đến tiếp ứng như thế,tất không để cho quân ta sang sông,chi bằng ta hãy rút về.

Nói xong,liền rút quân về.Bọn Tuân Lâm Phủ thấy quân Tần rút về,cũng đem quân trở về nước Tấn.Sĩ Hội trốn sang nước Tần đã ba năm trời,ngày nay lại về nước Tấn,ngẫm nghĩ trong lòng,xiết bao cảm khái,vào yết kiến Tấn Linh công,sụp lạy tạ tội.Tấn Linh công nói:

-Nhà ngươi có tội gì đâu !

Tấn Linh công cho Sĩ Hội làm quan đại phu.Triệu Thuẫn tâu với Linh công thưởng cho Thọ Dư mười cổ xe, để đền công khổ nhọc đi triệu được Sĩ Hội.Tần Khang công sai người đua vợ con Sĩ Hội về trả nước Tấn và bảo Sĩ Hội rằng:

-Ta không lỡ trái lời thề ở sông Hoàng Hà đâu !

Sĩ Hội cảm cái ân nghĩa của Tần Khang công,cũng viết thư cảm tạ,và khuyên Tần Khang công nên nghĩ việc binh, để nuôi sức dân,mà giữ yên bốn cõi.Tần Khang công nghe lời,từ bấy giờ Tần Tấn hai nước không gây việc chiến tranh, được đến vài ba mươi năm.

Chu Khoảnh vương lên ngôi được sáu năm thì băng hà.Thái tử Ban lên nối ngôi,tức là Chu Khuôn vương.Sở Mục vương mất.Thế tử Lữ lên nối ngôi,tức là Sở Trang vương.Triệu Thuẫn thấy nước Sở mới có tang,muốn nhân cơ hội ấy khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của nước Tấn trước,liền đại hội chư hầu ở đất Tân Thành.Tống Chiêu công,Lỗ Thành công,Trần Linh công,Vệ Thành công,Trịnh Mục công và Hứa Chiêu công đều đến dự hội.Tống Chiêu công,Trần Linh công và Trịnh Mục công đều bày tỏ sự tình ngày trước,nói phải theo Sở chỉ là việc bất đắc dĩ.

Triệu Thuẫn cũng lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ.Chư hầu lại thần phục nước Tấn cả,chỉ có nước Sái vẫn theo Sở như cũ,không đến dự hội.Triệu Thuẫn sai Khước Khuyết đem quân đi đánh nước Sái.Nước Sái xin giảng hoà.Khước Khuyết mới thu quân về nước.Tề Chiêu công vẫn định đến dự hội,nhưng phát bệnh nặng chưa kịp đến đã mất,con là thế tử Xá lên nối ngôi.Mẹ thế tử Xá là con gái nước Lỗ,tên gọi Thúc Cơ,tức là nàng Chiêu Cơ.Nàng Chiêu Cơ dẫu là Tề Chiêu công phu nhân,nhưng không được yêu chuộng mà con là Thế tử Xá,thì tài học lại tầm thường,cũng không được người trong nước kính trọng.Công tử Thương Nhân là con nàng Mật Cơ (thiếp của Tề Hoàn công) vốn có chí cướp ngôi,chỉ vì được Chiêu công hậu đãi,nên không nỡ làm vội,vẫn định chờ Chiêu công mất rồi mới khởi sự.Mấy năm sau,Chiêu công triệu công tử Nguyên ở nước Vệ về,giao quốc chính cho.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên là người giỏi,vẫn có lòng ghen ghét,lại muốn mua chuộc lòng dân,mới đem hết gia tài,cấp phát cho những kẻ nghèo khổ,bởi vậy dân trong nước ai cũng phục. Ðến lúc thế tử Xá được lên nối ngôi,bỗng gặp có sao chổi xuất hiện,công tử Thương Nhân mới sai người bói xem tốt xấu thế nào.Người thầy bói nói:

-Ðó là cái triệu nước Tống nước Tề và nước Tấn có loạn,mà vua ba nước đều bị giết cả.

Công tử Thương Nhân nói:

-Nếu vậy thì làm loạn ở Tề,chắc là tay ta!

Nói xong,liền sai kẻ tử sĩ vào đâm chết thế tử Xá.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên hơn tuổi mình,mới nói dối công tử Nguyên rằng:

-Thế tử Xá không đáng làm vua,tôi làm việc nầy là vì anh đó !

Công tử Nguyên giật mình kinh sợ và nói rằng:

-Ta vẫn biết nhà ngươi muốn làm vua đã lâu,sao bây giờ lại trút cho ta.Ta thờ nhà ngươi thi được,chớ nhà ngươi không thể thờ ta được,ta chỉ mong nhà ngươi làm vua bao dung cho ta được trọn đời làm một kẻ thường dân ở nước Tề nầy,thế là mãn nguyện !

Công tử Thương nhân lên nối ngôi,tức là Tề Ý công.Công tử Nguyên ghét Tề Ý công làm những việc tàn nhẫn,mới cáo ốm về nhà, đóng cửa không đi đến đâu cả,cũng không vào triều nữa.Chiêu Cơ thương con chết oan,ngày đêm kêu khóc.Tề Ý công thấy vậy bắt giam vào một nơi,lại cho ăn uống rất kham khổ.Chiêu Cơ đút tiền cho các cung nhân để đưa tin sang cho Lỗ Văn công biết.Lỗ Văn công sợ thế nước Tề mạnh,sai người sang nói với Chu Khuông vương,muốn nhờ uy Chu Khuông vương,xin Tề ý công tha cho Chiêu Cơ,Chu Khuông vương sai Ðan Bá sang nước Tề,bảo Tề Ý công rằng:

-Ðã giết con thì thôi,còn giam mẹ làm gì ! Sao không tha cho người ta về nước Lỗ, để tỏ lòng quảng đại của nước Tề?

Tề Ý công vẫn muốn giấu việc giết thế tử Xá,bấy giờ nghe lời Ðan Bá ,mặt đỏ bừng lên,không nói gì cả. Ðan Bá về nhà công quán.Tề Ý công truyền đem Chiêu Cơ sang cung khác,rồi sai người nói lừa Ðan Bá rằng:

-Chúa công toi đối với quốc mẫu (tức là Chiêu Cơ ),chưa hề dám khinh,huống chi lại có lệnh thei-n tử,kẻ nào mà không tuân theo?Sao cương sứ không vào yết kiến quốc mẫu, để tỏ tấm lòng quyền cố của thiên tử.

Ðan Bá tưởng thực,vội vàng vào cung yết kiến Chiêu Cơ.Chiêu Cơ ứa nước mắt,kể những nông nổ oan khổ. Ðan Bá chưa kịp trả lời bỗng Tề Ý công ở đâu sực đến,quát to lên rằng:

-Ðan Bá sao dám tự tiện vào cung tư thông với quốc mẫu, định làm việc bậy bạ hay sao? Ta quyết đem việc nầy tâu với thiên tử.

Nói xong,truyền đem Ðan Bá và nàng Chiêu Cơ mỗi người giam vào một nơi;lại căm tức Lỗ Văn công dám mượn uy lệnh thiên tử mà áp chế nước mình,mới đem quân đi đánh Lỗ.Lỗ Văn công sai quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ (con công tử Hữu)sang cáo cấp với nước Tấn.Triệu Thuẫn vâng lệnh Tấn Linh công hội các nước Tống,Vệ,Sái,Trần,Trịnh,Tào;và Hứa ở đất Hỗ, để bàn việc đánh Tề.Tề Ý công bèn sai người sang lễ nước Tấn,tha Ðan Bá về nhà Chu,lại cho nàng Chiêu Cơ về Lỗ.Các nước đều rút quân về cả.Lỗ Văn công nghe tin nước Tấn không sang đánh Tề,cũng sai công tử Toại sang nước Tề để xin giảng hoà.

Lại nói chuyện Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ,tức là chị của Chu Tương vương,thân mẫu của Tống Thành công (Vương Thần )và tổ mẫu của Tống Chiêu công (Chử Cữu ).Tống Chiêu công tử khi còn làm thế tử,vẫn cùng với công tử An,công tử Khổng Thúc và công tôn Chung Ly đi săn bắn, đến khi lên ngôi làm vua,việc gì cũng nghe lời ba người ấy,bỏ hết cả chính sự,chỉ hằng ngày rủ nhau đi săn bắn để mua vui.Quan tư mã Lạc biết cơ nước Tống tất loạn,mới nhường quan chức cho công tử An.Quan tư thành là công tôn Thọ cũng sợ tai vạ,xin cáo lão về hưu.Tống Chiêu công lại dùng người con công tôn Thọ là Ðăng Y Chư làm quan tư thành?Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ đã già mà còn đa dâm.Tống Chiêu công có người con thứ đệ tên gọi công tử Bão uống rượu thật say,rồi ép công tử Bão thông dâm với mình và hứa sẽ lập làm vua.Từ đó Vương Cơ muốn bỏ Tống Chiêu công mà lập công tử Bắc.Tống Chiêu công sợ các chi họ về Mục công và Tương công mạnh thế lắm,mới bàn mưu với công tử Ngang để đuổi những người ở trong hai chi ấy ra nước ngoài.

Vương Cơ biết mưu,tức khắc mật báo cho hai chi ấy biết.Hai chi ấy nổi loạn,vay bắt công tử Ngang và công tử Chung Ly ở chỗ triều môn mà giết đi.Quan tư thành là Ðăng Y Chư sợ hãi trốn sang nước Lỗ.Công tử Bão vốn được lòng các quan lục khanh,bấy giờ liên kết với bọn ấy và hai chi hộ,không hỏi đến tội giết chết công tửNgang và công tôn Chung Ly,lại sai người sang nước Lỗ triệu Ðăng Y Chư về mà phục chức cho.Công tử Bão nghe nói công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công ) ở nước Tề,phóng tiền tài để mua lòng người,mà cướp được ngôi vua,thì cũng bắt chước đem hết gia tài chu cấp cho những kẻ nghèo khổ.Năm thứ bảy đời Tống Chiêu công,nước Tống mất mùa,công tử Bão đem thóc gạo phát cho dân đói,lại kính kẻ già,tôn người hiền,phàm những người nào từ bảy mươi tuổi trở lên,cứ mỗi tháng lại sai người biếu thóc lụa và các thứ thực phẩm,mà cấp lương cho,các quan công,khanh, đại phu thì tháng nào công tử Bão cũng có đồ biếu,trong họ tôn thất,bất cứ thân sơ,hễ hơi có việc gì,cũng đem tiền bạc đến tư giúp. Ðến năm thứ tám đời Tống Chiêu công,nước Tống lại mất mùa to,côn tử Bão hết cả tiền của.Vương Cơ lại đem của riêng ở trong cung ra mà đưa cho công tử Bão.Bở i vậy cả nước ai cũng khen ngợi công tử Bão là người nhân đức,mà muốn cho công tử Bão lên làm vua.Công tử Bão biết là người trong nước ai cũng bằng lòng với mình mới bàn mưu với Vương Cơ để định giết Tống Chiêu công.Vương Cơ nói:

-Nghe nói Chữ Cữu (tên Tống Chieu công ) sắp đi săn ở đất Mạnh Chư.Hôm ấy ta dặn công tử (em cùng mẹ với công tử Bão ) đóng cửa thành lại,rồi nhà ngươi đem người đi giết Chữ Cữu thì chắc phải xong việc.Công tử Bão theo lời.Quan tư thành là Ðăng Y Chư vốn là người hiền,xưa nay công tử Bão vẫn kính trọng,bấy giờ nghe biết mưu của công tử Bão,liền nói với Tống Chiêu công rằng:

-Chúa công chớ nên đi săn,nếu đi thì tất không trở về được.

Tống Chiêu công nói:

-Nếu có kẻ nào định nổi loạn thì dẫu ta ở nhà,cũng chẳng tránh được nào !

Nói xong,liền sai quan hữu sự là Hoa Nguyên và quan tả sư là công tôn Hữu ở nhà để giữ nước,còn mình thì chuyên chở các thứ bảo ngọc trong kho,thẳng đường tiến ra Mạnh Chư.Tống Chiêu công mới ra khỏi cửa thành thì Vương Cơ sai người triệu Hoa Nguyên và công tôn Hữu vào mà giữ ở trong cung,rồi sai công tử Tu đóng chặt cửa thành lại.Công tử Bão bảo quan tư mã Hoa Ngẫu tuyên cáo với quân sĩ rằng:

-Ta phụng mệnh Vương Cơ tôn lập công tử Bão lên làm vua,trừ bỏ hôn quân vô đạo đi,các người nghĩ thế nào?

Quân sĩ đều reo ầm lên

-Xinn vâng mệnh !

Người nước Tống nghe nói,ai cũng thuận cả.Hoa Ngẫu đem quân đi đuổi theo Chiêu công.Tống Chiêu công đi đến nữa đường,nghe tin có biến, Ðăng Y Chư khuyên Chiêu công chạy sang nước khác.Tống Chiêu công nói:

-Tr-en từ tổ mẫu (trỏ Vương Cơ )dưới đến người trong nước,ai cũng là cừu địch với ta,huống chi là các nước láng giềng ai còn chịu giúp ta nữa.Ta chết ở nước khác,chẳng thà chết ở nước nhà còn hơn !

Nói xong,truyền đóng quân lại,rồi nấu cơm ăn, để cho các người theo hắn đều được ăn no cả. Ăn xong,Chiêu công bảo các người theo hầu rằng :

-Việc nầy là lỗi tại ta,chứ các người có dự gì đến ! các người theo hầu ta trong mấy năm,ta chưa có gì đền công,nay có các đồ bảo ngọc ở đây,ta chia tặng cho các người.Các người nên trốn đi,kẻo mà chết oan !

Các người theo hầu đều khóc mà nói rằng:

-Xin chúa công cứ đi,nếu có quan đuổi theo,chúng tôi sẽ hết sức cố đánh.

Chiêu công nói:

-Chỉ chết uổng mà thôi,không được ích gì.Các người chớ quyến luyến ta nữa !

Ðược một lúc quân Hoa Ngẫu kéo đến,vây kín Tống Chiêu công,rồi tuyên cáo với quân sĩ rằng:

-Ta phụng mệnh Vương Cơ,chỉ giết một mình đứa hôn quân vô đạo mà thôi,không hại gì đến các người cả.Chiêu công vội vàng xua đuổi những người theo hầu đi.Các người theo hầu tan chạy đến quá nữa,chỉ còn Ðăng Y Chư vẫn chống gươm đứng bên cạnh Chiêu công.Hoa Ngẫu lại tuyên bố mệnh lệnh của Vương Cơ triệu Ðăng Y Chư về. Ðăng Y Chư thở dài mà rằng:

-Làm bề tôi mà lúc hoạn nạn lại bỏ vua thì sống làm gì cho nhục,chẳng thà chết đi còn hơn !

Hoa Ngẫu cầm giáo,xông vào giết Tống Chiêu công. Ðăng Y Chư lấy mình che cho Chiêu công,rồi cầm gươm đánh nhau với Hoa Ngẫu.Quân Hoa Ngẫu xúm lại,giết Ðăng Y Chư trước,giết Tống Chiêu công sau.Các người theo hầu Tống Chiêu công,ai không trốn đi cũng bị giết cả.Hoa Ngẫu đem quân về báo với Vương Cơ.Bọn Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu cùng với các quan trong triều đều tán tụng công tử Bão là người nhân đức ,nên lập làm vua.Vương Cơ truyền lập công tử Bão lên nối ngôi,tức là Tống Văn công.Hoa Ngẫu vừa triệu hạ xong,về nhà đau bụng chết ngay lập tức.Tống Văn công khen Ðăng Y Chư là người trung thần,mới dùng người em là Ðăng Huỷ làm quan tư mã, để thay cho Hoa Ngẫu.Tống Văn công lại cho người em cng mẹ là công tử Tu làm quan tư thành, để thay cho Ðăng Y Chư.Triệu Thuẫn nghe tin giết Tống có loạn giết vua,liền sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng,hội quân nước Vệ,nước Trần và nước Trịnh để sang đánh Tống.Quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên đến nói với quân Tấn,kể hết những sự tình người trong nước muốn lập công tử Bão,lại đưa mấy xe vàng lụa làm lễ khao quân,va xin giảng hoà với Tấn.Tuân Lam Phủ toan nhận.Trịnh Mục công nói:

-Chúng tôi dựng cờ dóng trống để theo tướng quân sang đánh Tống là muốn trừ những đứa loạn lạc,tướng quân lại cho nước Tống giảng hòa thì những đứa loạn tặc cìn sợ gì nữa!

Tuân Lâm Phủ nói:

-Tề và Tống có khác gì nhau,ta đã khoan dung cho Tề,có lẽ nào lại nghiêm khắc với Tống ! Và người nước Tống đều muốn như vậy,ta nhân đó mà an định nước Tống chẳng là hay lắm sao ?

Nói xong,liền cho nước Tống được giảng hoà.Trịnh Mục công lui ra mà nói rằng:

-Nước Tấn không nghĩ gì đến công nghĩa,chỉ tham lễ vật mà thôi thì làm bá chủ thế nào được ! Nay vua Sở mới lập,chẳng bao lâu tất cũng gây việc chiến tranh,chi bằng ta bỏ Tấn theo Sở, để giữ yên lấy nước nhà là hơn.

Trịnh Mục công liền sai sứ sang giao hảo với nước Sở.Nước Tấn biết vậy mà không làm gì được.Tề Ý công (Thương Nhân)là người ngang ngược,từ khi cha là Tề hoàn công hãy còn, đã có một lần cùng với quan đại phu là Bính Nguyên tranh nhau ruộng đất.Tề Hoàn công giao cho Quản Di Ngô xử đoán việc ấy.Quản Di Ngô mới xử cho Bính Nguyên được nhận ruộng đất ấy.Công tử Thương Nhân tức lắm, đến lúc giết thế tử Xá mà lên làm vua,liền chiếm lấy những ruộng đất của Bính Nguyên,cũng tước bỏ phong ấp của họ Quản,họ Quản sợ tội,trốn sang nước Sở,con cháu làm quan ở nước Sở.Tề Ý công vẫn còn căm tức Bính Nguyên,bấy giờ Bính Nguyên đã cgết rồi,Tề Ý công khi đi săn qua mộ Bính Nguyên,sai quân sĩ khai quật lên mà chặt bỏ chân đi.

Con Bính Nguyên là Bính Súc lúc ấy đang đi theo hầu ở bên cạnh Tề Ý CÔNG.Tề Ý công bèn hỏi Bính Súc rằng:

-Cứ như tôi thân phụ nhà ngươi thì phỏng có đáng chặt chân không?Chắc nhà ngươi oán ta lắm hẳn?

Bính Súc đáp rằng:

-Cha tôi lúc sống được khỏi tội chết, đã là may lắm rồi,huống chi bây giờ chỉ còn một nắm xương không,có đâu tôi dám oán giận.

Tề Ý công bằng lòng mà khen rằng:

-Thế mới thật con chữa được lổi cho cha !

Tề Ý công lại đem những ruộng đất chiếm lấy khi trước trả lại cho Bính Súc.Bính Súc xin chôn lại hài cốt của cha mình.Tề Ý công thuận cho.Tề Ý công lại mua gái đẹp trong nước,ngày nào cũng dâm đãng vui chơi.Lại nghe nóiquan đại phu là Diêm Chức có người vợ rất đẹp,nhân dịp tết nguyên đán Tề Ý công mới ra lệnh cho các vợ quan đại phu đều phải vào triều ở trong nội cung.Vợ Diêm Chức cũng vâng lệnh vào triều.Tề Ý công trông thấy bằng lòng,liền giữ lại không cho về,rồi sai người ến bảo Diêm Chức rằng:

-Phu nhân ở trong nội cung muốn kết bạn với vợ ngươi,vậy ngươi nên tìm vợ khác.

Diêm Chức tức giận lắm không nói ra.

Phía cửa tây nước Tề có cái ao,tên gọi Thân Trì,nước ao trong sạch,có thể tắm được.Bên ao có nhiều khóm trúc rườm rà.Bấy giờ đang tháng năm mùa hạ,Tề ý công ịnh ra Thân Trì để nghĩ mát,mới cho Bính TRúc và Diêm Chức đi hầu.Quan hữu sư là Hoa Nguyên nói riêng với Tề Ý công rằng:

-Chúa công chặt chân cha Bính Súc và cướp vợ Diêm Chức,hai người ấy biết đâu không căm giận chúa công.Các quan nước Tề thiếu gì người,sao chúa công lại hay thân cận hai người ấy?

Tề công nói:

-Hai người ấy chưa hề oán giận ta bao giờ,nhà ngươi chớ nghi ngại !

Nói xong,liền ngự xe ra chơi Thân Trì,uống rượu rất vui.Tề Ý công rượu say,thấy nóng bức quá,mới sai lấy một cái giường gấm kê ở trong bụi trúc để nằm cho mát.Bính Súc và Diêm Chức cùng tắm ở dưới ao.Bính Súc oán giận Tề Ý công lắm,vẫn muốn giết đi để báo thù cho cha,nhưng chưa được ai đồng lòng với mình.Thấy Diêm Chức cũng có cái thù mất vợ,muốn cùng bàn với Diêm Chức nhưng thấy khó nói quá,nhưng khi cùng tắm ở dưới ao,bèn nghĩ ngay một kế,cầm cái dóng trúc đánh vào đầu Diêm Chức.Diêm Chức nổi giận mà mắng rằng:

-Sao nhà ngươi dám khinh ta như vậy?

Bính Súc tủm tỉm cười mà bảo rằng:

-Người ta cườp vợ nhà ngươi mà nhà ngươi còn khp-ng giận,ta đánh một cái đã hề gì !

Diêm Chức nói:

-Mất vợ dẫu là một điều xấu hổ cho ta,nhưng so với việc cha phải chặt chân thì đằng nào nhục hơn? Nhà ngươi chẳng thiết gì đến cha,mà lại trách ta không biết nghĩ đến vợ,sao ngu tối thế?

Bính Súc nói:

-Ta có mấy lời tâm phúc,vẫn muốn bàn với nhà ngươi mà không dám nói,chỉ sợ nhà ngươi quên mất thù xưathì dẫu ta có nói ,cũng không ích gì.

Diêm Chức nói:

-Bụng người ta ai cũng vậy,bao giờ quên được,chỉ vì sức không làm nổi.

Bính Súc nói:

-Nay kẻ thù đang say rượu,nằm ngủ ở trong bụi trúc,mà theo hầu đây thì chỉ có hai ta mà thôi, ấy là trời cho ta cái dịp để báo thù,ta chớ nên bỏ hoài.

Diêm Chức nói:

-Nhà ngươi dám làm đại sự,ta xin giúp một tay.

Hai người cùng lau mình mặc áo,rủ nhau vào trong bụi trúc,trông thấy Tề ý công đang nằm ngủ say,tiếng ngáy như sấm,lại có mấy tên nội thị đứng bên cạnh.

Bính Súc bảo các nội thị rằng:

-Lúc chúa công tỉnh rượu,tất thế nào cũng khát nước,các ngươi nên phải sắp sẳn mới được.

Các nội thị đều đi sửa soạn nước uống.Diêm Chức bèn nắm lấy tay Tề Ý công,Bính Sức thì bóp cổ,rồi rút gươm cắt lấy đầu.Hai người khiêng thi thể Tề Ý công giấu vào trong bụi trúc,rồi đem đầu ném xuống dưới ao.Khi nội thị đem nước uống đến,Bính Súc bảo rằng:

-Thương Nhân giết vua mà cướp ngôi,nay ta trừ bỏ đi rồi,có công tử Nguyên là người hiền,nên lập làm vua.

Các nội thị vâng dạ,không ai dám nói câu gì.Bính Súc cùng với Diêm Chức tiến vào trong thành,lại bày tiệc uống rượunmừng rỡ với nhau.Có người báo với hai quan thượng klà Cao Khuynh (con Cao Hổ )và Quốc Quy Phủ (con Quốc Ý Trọng ).Cao Khuynh nói:

-Bọn Bính Súc làm càn như vậy,ta nên kể tội mà bắt giết đi, để làm gương cho kẻ khác.

Quốc Quy Phủ nói:

-Một đứa giết vua,ta đã không trừ nổi,mà người ta trừ được thì sao gọi là tội.

Bính Súc cùng Diêm Chức uống rượu xong,sai lấy một cổ xe lớn,xếp của cải lên,rồi đem vợ con ra cửa nam.Người nhà khuyên Bính Súc nên đi mau.Bính Súc nói:

-Thương Nhân vô đạo,người trong nước nghe tin chết,ai cũng lấy làm may,ta còn sợ gì nữa !

Nói xong cứ việc thủng thỉnh mà đi sang nước Sở.Cao Khuynh và Quốc Duy Phủ hợp các quan trong triều lại để thương nghị,rồi lập cô,g tử Nguyên lên làm vua,tức là Tề Huệ công.

Lại nói chuyện Lỗ Văn công,tên là Hưng,là con nàng Thanh Khương (con gái Tề Hoà công).Lỗ Văn công lấy con gái Tề Chiêu công là Khương thị làm phu nhân,sinh đươc( hai con là Ác và Thị,lại lấy con gái nước Tần là Kinh Doanh làm thiếp,cũng sinh dược hai con là:Tiếp và Thúc Miện.Trong bốn người con ấy Tiếp là lớn tuổi hơn cả,mà Ác lại là con bà đích phu nhân,bởi vậy mới lập Ác làm thế tử.Bấy giờ quyền chính nước Lỗ, đều ở tay Tam Hoàn cả.

1.Mạnh Tôn thị là công tôn Ngao,sinh con là Cốc và Nạn.

2.Thúc Tôn thị là công tôn Tư,sinh con là Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Ðắc Thần.Lỗ Văn công dùng Thúc Trọng Bành Sinh làm chức thái phó để dạy thế tử Ác.

3.Qúy Tôn thị là Quý Vô dật(con Quý Hữu),sinh con là Quý Tôn Hàn Phủ,tức là Quý Văn Tử.

Lỗ Trang công có ngươi con thứ là công tử Toại,tức là Trọng Toại,nhân vì công tôn Ngao đắc tội với Trọng Toại chết ở nước ngoài,bởi vậy Mạnh Tôn thị (tức là công tôn Ngao)mất quyền hành nước Lỗ đều về tay Trọng Thị (tức là Trọng Toại ),cùng với Thúc Tôn thị và Quý Tôn thị.

Lại nói chuyện công tôn Ngao vì cớ gì mà đắc tội?Nguyên công tôn Ngao lấy con gái nước Cử là Ðái Kỷ (sinh con là Cốc )và Thanh Kỷ (sinh con là Nạn ). Ðến lúc Ðái Kỷ chết,công tôn Ngao lại muốn lấy con gái nước Cử là Dĩ Thị,người nước Cử từ chối rằng:

-Còn nàng Thanh Kỷ đó,nên cho làm kế thất.

Công tôn Ngao nói:

-Em tôi là Trọng Toại,chưa có vợ,xin cưới Dĩ Thị cho em tôi.

Người nước Cử bằng lòng cho. Ðến năm thứ bảy đời Lỗ Văn công,công tôn Ngao phụng mệnh sang sứ nước Cử nhân tiện xin đón Dĩ thị về cho Trọng Toại.Khi Dĩ thị về đến đất Yên Lăng(đất nước Cử ),công tôn Ngao đứng trên mặt th&énh,trông thấy Dĩ thị có nhan sắc, đêm hôm ấy cùng Dĩ thị ép duyên,rồi đưa về nhà.Trọng Toại thấy công tôn Ngao chiếm mất vợ mình,căm tức vô cùng,mới vào nói với Lỗ Văn công,xin đem quân đến đánh.Thúc Trọng Bành Sinh can rằng:

-Không nên,nếu vậy thì sinh biến loạn mất!

Lỗ Văn công cho triệu công tôn Ngao đến,bắt phải đem Dĩ thị trả lại cho nước Cử, để cho Trọng Toại khỏi giận.Công tôn Ngao và Trọng Toại lại hoà nhau như cũ.Công tôn Ngao vẫn có lòng nhớ Dĩ thị,năm sau phụng mệnh sang viếng tang Chu Tương vương,nhưng không sang nhà Chu mà đem tiền của trốn sang nước Cử,cùng với Dĩ thị đoàn tụ.Lỗ Văn công cũng không hỏi đếnviệc ấy nữa,cho con côn gtôn Ngao là Cốc nối dòng Mạnh Tôn thị.Sau công tôn Ngao nhớ nước Lỗ muốn về,sai người nói với con là Mạnh Tôn Cốc.Mạnh Tôn Cốc liền xin với chú là Trọng Toại.

Trọng Toại bảo Mạnh Tôn Cốc rằng:

-Nếu cha mày muốn về thì phải theo ta ba điều;không được vào triều,không được dự quốc chính,không được đem Dĩ thị về.

Mạnh Tôn Cốc sai người sang nói với công tôn Ngao.Công tôn Ngao muốn về lắm, đành phải theo lời.Công tôn Ngao về Lỗ trong tám năm,quả nhiên chỉ đóng cửa,không đi đến đâu cả bỗng một hôm lại đem hết tiền của trốn sang nước Cử.Mạnh Tôn Cốc nghĩ ngợi nhớ cha, được hơn một năm thì chết.Con là Trọng Tôn Miệt(tức là Mạnh Hiến Tử)hãy còn nhỏ,Lỗ Văn công liền cho Mạnh Tô Nạn nối làm quan khanh.Chưa được bao lâu,Dĩ thị chết,công tôn Ngao lại muốn về nước Lỗ,mới đem hết gia tài lễ đút,Lễ Văn công và Trọng Toại,mà sai con là Mạnh Tôn Nạn đứng xin lỗi cho cha.Lỗ Văn công thuận cho.

Khi công tôn Ngao trở về đến nước Tề thì ốm không đi được nữa,rồi chết ở đất Ðường Phụ.Mạnh Tôn Nạn xin đem thi thể công tôn Ngao về chôn ở nước Lỗ.Mạnh Tôn Nạn là con người có tội,không được dự quyền chính.Quý Tôn Hàng Phủ giữ mực kính nhường đối với Trọng Toại,Bành Sinh và Ðắc Thần cả ba đều thuộc về hàng chú,việc gì cũng phải đến hỏi.Bành Sinh tính nết hiền hậu,làm chức thái phó mà đắc Yhần thì chuyên giữ binh quyền,thế là chỉ có Trọng Toại và Ðắc Thần giữ quyền chính nước Lỗ.Nàng Kinh Doanh cậy thế Lỗ Văn công yêu,giận rằng con mình không được làm thế tử,mới đem tiền của lễ đút Trọng Toại nhờ binh vực cho con là công tử Oa.Trọng Toại nghĩ thầm:

-Thúc Trọng Bàng Sinh là quan thái phó của thế tử Ác,thì tất không chịu đồng mưu với mình,mà Thúc Tôn Ðắc Thần,tính tham ăn lễ,có thể lấy lợi mà dụ được.

Liền đem lễ vật của Kinh Doanh cho,chia biếu Thúc Tôn Ðắc Thần mà bảo rằng:

-Ðây là những lễ vật của Kinh Doanh nhờ ta đưa biếu nhà ngươi.

Trọng Toại lại bảo công tử Tiếp thỉnh thoảng đến thăm Thúc Tôn Ðắc Thần để tỏ lòng kính mến,bởi vậy Thúc Tôn Ðắc Thần cũng có lòng yêu . Ðến năm Lỗ Văn công mất,thế tử Ác làm chủ tang,lên nối ngôi,các nước đều sai sứ đến thăm viếng.Bấy giờ Tề Huệ công(tức công tử Nguyên)mới lên nối ngôi,muốn biến cải những chính lệnh bạo ngược của Tề Ý công (tức là công tử Thương Nhân)khi trước,cũng sai sứ đến viếng tang Lỗ Văn công.Trọng Toại bảo Ðắc Thần rằng:

-Tề Lỗ thuở xưa vẫn giao hiếu với nhau,chỉ vì Tề HIếu công gây nên thù oán,kéo dài cho đến Tề Ý công nay công tử Nguyên mới lên nối ngôi,ta chưa sai người sang mừng,mà đã đến viếng tang nước ta,là có ý muốn thân thiện với ta,ta nên sai sứ sang tạ,và nhân cơ hội này giao kết với Tề để làm vây cánh cho công tử Oa.

Hai người bên cùng sang sứ nước Tề.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 50 : TRỌNG TOẠI TÔN LẬP OA CÔNG TỬTRIỆU THUẪN KHUYÊN CAN TẤN LINH CÔNG

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần sang nước Tề để mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viến tang.Tề Huệ công mời ăn tiệc,nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

-Chảng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác?Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng cái chữ xấu xí ấy?

Trọng Toại nói:

-Tiên sinh tôi lúc mới sinh thế tử Ác,có sai quan thái sứ bói xem tốt xấu thế nào,quan thái sứ bảo rằng cứ theo số tất phải chịu ác tử không được hưởng lộc,vậy nên tiên quân tôi mới đem chữ "Ác" đặt tên để trấn yểm đi.Chỉ vì Ác là con đích mà phải lập làm thế tử chứ tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu,tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là công tử Oa.Công tử Oa tính nết hiền hậu,biết kính trọng các quan đại thần,người trong nước ai cũng muốn tôn làm vua.

Tề Huệ công nói:

-Ðời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi,huống chi lại là con yêu.

Thúc Tôn Ðắc Thần nói:

-Nước LỖ tôi vẫn quen lệ lập đích tử,khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi,bởi vậy tiên quân tôi bỏ công tử Oa mà lập công tử Ác,người trong nước chẳng ai thuận cả.Nếu quý quốc có lòng vì nước tôi đối lập vua hiền thì công tử Oa xin cùng với quý quốc kết làm hôn nhân,rồi dốc một lòng mà thần phục quý qốc.

Tề Huệ công rất bằng lòng mà nói rằng:

-Nếu đại phu giúp ở bên trong thì tôi đây cũng xin tuân mệnh.

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần quệt máu ăn thề và lập tờ hôn ước.Tề Huệ công thuận cho.Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ,bảo Quý Tôn Hàng Phủ rằng:

-Ngày nay sự nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi,nước TỀ sắp lại cường thịnh.Nước Tề muốn đem đích nữ gã cho công tử Oa,như vậy thì nước ta lại càng thêm vây cánh.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

-Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu,vua Tề có con gái,sao không gả cho chúa công mà lại gả cho công tử Oa?

Trọng Toại nói:

-Vua Tề nghe nói công tử Oa là người hiền,muốn kết thân với công tử Oa,nhận làm rễ,còn như bà phu nhân Khương thị là con Tề Chiêu công mà các con Tề Hoàn công thì coi nhau như cừu địch,vậy nên bốn đời vua Tề đều là em lên thay anh,người ta đã chẳng nghĩ gì đến anh, đâu lại còn nghĩ gì đến cháu.

Quý Tôn Hàng Phủ nín lặng,khi ra về thở dài mà than rằng:

-Ðông Môn thị đã có ý khác rồi !

Nói xong,liền mật báo với Thúc Trọng Bành Sinh,Thúc Trọng Bành Sinh nói:

-Ngôi vua đã định rồi,ai còn dám có ý khác !

Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến nữa.Trọng oại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa,sai người báo là ngựa mới đẻ con đẹp lắm.Kính Doanh báo công tử Oa cùng với vua Lỗ (tức là công tử Ác) và công tử Thị thân hành ra chuồng ngựa để xem.Bọn dũng sĩ đổ ra,cầm côn gỗ đánh chết vua LỖ lại giết chết cả công tử Thị nữa.Trọng Toại nói:

-Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành Sinh hãy còn,nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc.

Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung.Gia Thần là Công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết chuyện TRọng Toại mật giao với người trong cung mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng :

-Thái phó chớ vào,vào thì tất chết.

Thúc Trọng Bành Sinh nói:

-Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng!

Công Nhiễm Vụ Nhân nói:

-Nếu vua triệu thật quan thái phó không chết,chỉ e rằng không phải vua triệu thì ngài sẽ chết uổng mà thôi.

Thúc Trọng Bành Sinh không nghe.Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc.Thúc Trọng Bành Sinh dứt vạt áo,rồi đi thẳng vào cung, đến nơi không thấy vua Lỗ đâu cả,mới hỏi các nội thị.Các nội thị nói:

-Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ.

Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa.Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh,rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa.Rồi Kính Doanh sai người bảo Khương thị rằng:

-Chúa công cùng công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi.

Khương thị khóa òa,rồi đi ra chuồng ngựa để xem.Khi Khương thị đến chuồng ngựa thì thi thể vua Lỗ và công tử Thị đã được đưa ra ngoài cung môn.Quý Tôn Hàng Phủ nghe tin,biết ngay là do mưu kế của Trọng Toại,không dám nói ra,lại bảo riêng TRọng Toại rằng:

-Nhà ngươi hiểm độc quá,ta nghĩ không đang tâm!

Trọng Toại nói:

-Ðấy là mưu của Kính Doanh,chứ ta có dự đâu đến.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

-Giả sử nước Tấn đem quâ, đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào?

Trọng Toại nói:

-Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết,người ta giết ua lớn mà chẳng ai hỏi tội,huống chi ta giết chết hai đứa trẻ con ấy,có lo ngại gì !

Quý Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nổi khàn cả tiếng.Trọng Toại nói:

-Quan đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước,sao lại bắt chước thói đàn bà !

Quý Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa.Thúc Tôn Ðắc Thần đến,hỏi anh mình là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu.

Trọng Toái chối là không biết,Thúc Tôn Ðắc Thần cười mà rằng:

-Anh ta chết đi làm người trung thần, đó là cái chí của anh ta,can gì mà phải giấu.

Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Ðắc Thần và bảo với các quan rằng:

-Công việc ngày nay,cần phải lập vua trước đã.Công tử Oa là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử,nên lập lên làm vua.

Các quan đều vân dạ xin theo,rồi cùng tôn lập công tử Oa lên làm vua,tức là Lỗ Tuyên công.Thúc Tôn Ðắc Thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra làm lễ an táng.Khương thị nghe tin hai con bị giết,Trọng Toại lập công tử Oa lên làm vua,vật mình lăn khóc,chết đi sống lại mấy lượt.Trọng Toại lại nịnh hót Lỗ Tuyên công,viện lẽ "mẫu dỉ tử qui"mà xin tôn Kính Doanh lên làm quốc mẫu.Khương thị buồn rầu,ngày đêm khóc lóc,sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp trở về nước Tề;Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng:

-Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra,nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu,bao giờ chúa công cũng kính trọng,can gì phu nhân phải về Tề?

Khương thị mắng rằng:

-Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì mày;mà mày lại làm những việc tàn ác như vậy?Bây giờ lại còn định nói lừa ta,quỷ thần biết,tất chẳng dung tha cái tội ấy !

Khương thị không vào yết kiến Kính Doanh nữa,tức khắc lên xe đi ngay.Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn,Khương thị lại khóc to lên mà kêu rằng:

-Trời đất ơi ! Trời đất ơi ! Hai con nhỏ của tôi có tội gì,mà thằng giăc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích lập con thứ?Nay tôi từ biệt nước Lỗ,không bao giờ trở về nữa !

Người trong nước nghe nói,ai cũng động lòng thương xót,có kẻ chảy nước mắt.Ngày hôm ấy ở nước Lỗ nhiều chợ phải tan,bởi vậy người ta mới gọi khương htị là bà Ai Khương,lại vì Khương thị trở về nước Tề,nên cũng gọi là bà Xuất Khương.Xuất Khương về đến nước Tề,cùng với Chiêu công phu nhân,mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ kể lể với nhau,rồi hai mẹ con cùng khóc lóc.Tề Huệ công thấy vậy,không muốn nghe,mới sai người làm riêng một cái cung để hai mẹ con ở.

Lại nói chuyện em cùng mẹ của Lỗ Tuyên công là Thúc Miện,vốn người trung trực,thấy anh mình nhờ sức Trọng Toại,giết em mà lên làm vua,trong lòng khinh bỉ,mới không vào chúc mừng.Lỗ Tuyên sai người triệu Thúc Miện,muốn dùng làm quan to.Thúc Miện từ chối,không làm.Có người bạn THúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan,Thúc Miện nói:

-Không phải là tôi có ghét gì phú quý,nhưng trông thấy anh tôi thì lại nhớ đến các em,vậy nên tôi không đành lòng.

Người bạn nói:

-Công tử đã cho anh là bất nghĩa thì sau không bỏ mà sang nước khác?

Thúc Miện nói:

-Anh tôi chưa hề tuyệt tình với tôi,sao tôi nỡ tuyệt tình trước.

Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng Thúc Miện.Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng:

-Tôi đây cũng không đến nổi đói rét,có đâu lại còn dám tham !

Sứ giả hai ba lần nói mãi.Thúc Miện bảo rằng:

-Khi nào tôi có thiếu dùng,tôi sẽ xin đến lấy,chứ bây giờ thì quyết không dám nhận.

Người bạn nói:

-Công tử không chịu làm quan,cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi,nay trong nhà túng tiêu,chúa công có tặng gì thì xin cứ nhận,việc gì mà từ chối ! Dẫu công tử nhận,cũng không ai dám bảo là tham.

THúc Miện chỉ cười,chẳng nói một lời nào cả.Người bạn thở dài mà lui ra.Sứ giả về nói với Lỗ Tuyên công.Lỗ Tuyên công nói:

-Em ta vốn nghèo,không biết lấy gì mà tiêu cho đủ.

Lỗ Tuyên công bèn sai người đương đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì,thì thấy Thúc Miện đang thắp đèn ngồi khâu giầy, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn.Lỗ Tuyên công than rằng :

-Em ta muốn học Bá Di,Thúc Tề thuở xưa,hái rau vi ở núi Thú Dương mà ăn hay sao ! Thôi thì ta cũng tùy ý.

Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh,mà cũng không nhắc đến lỗi của anh bao giờ.Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện có nghĩa khí. Ðến đời Lỗ Thành công lại dùng con THúc Miện là công tôn Anh Tề làm quan đại phu.Từ đó,ngoài họ Thúc Tôn thị,lại thêm có Thúc thị,Thúc Lão,Thúc Cung,Thúc Chiết,Thúc Ương,và Thúc Nghệ, đều là con cháu Thúc Miện cả.TRọng Toại nhân tết nguyên đán,tâu với Lỗ Tuyênc công rằng:

-Nay chúa công chưa có nội chủ ở trong cung.Trước đây tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư,việc ấy chúa công chớ nên để chậm.

Tuyên công nói:

-Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề?

Trọng Toại nói:

-Việc này tự tôi bày ra,xin chúa công cho tôi đi.Lỗ Tuyên công liền sai TRọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn.Tháng hai năm ấy, đón con gái nước TỀ là Khương thị về lập làm phu nhân.Trọng Toại lại mật tâu với Tuyên công rằng:

-Chuá công mới lên ngôi,tất phải một phen dự hội với chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được.Chuá công nên khấn lễ vua Tề, để vua Tề cho chúa công dự hội.

Tuyên công khen phải,liền sai Quý Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn,và nói với vua Tề rằng:

-Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi nhưng trong lòng vẫn lo sợ không được liệt vào hàng chư hầu, để đến nổi nhà vua phải hổ thẹn.Nếu nhà vua nghĩ tình mà cho tướng công tôi được đến hội với nhà vua,thì chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà dâng lên nhà vua để tạ ơn.

Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng năm năm ấy sẽ cùng Lỗ Tuyên công ội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề ). Ðến hôm ấy,Lỗ Tuyên công đến trước,Tề Huệ công đến sau,hai bên làm lễ tưởng kiến.TRọng Toại bưng nhưng sổ biên ruộng đất ở Tề Tây, đưa nộp Tề Huệ công.Tề Huệ công nhận ngay.Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về.Trọng Toại nói:

-Ngày nay ta mới có thể nằm yên được !

Từ bấy giờ nước Lỗ hết lòng phụng sự nước Tề, đến sau Tề Huệ công cụng thương tình mà trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây.

Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ ) lên làm vua, đã ba năm trời,mà không làm một việc gì cả,ngày nào cũng đi săn bắn,và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung.Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng:

-Nếu ai can thì sẽ bắt tội chết !

Quan đại phu là Thân Vô Úy vào yết kiến,thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ,tay trái ôm Sái Nữ,xung quanh chỗ ngồi, đầy những đàn địch chuông trống.Sở Trang vương hỏi Thân Vô Ý rằng:

-Quan Ðại phu vào đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói điều gì?

Thân Vô Uý nói:

-Tôi tới đây không phải muốn uống rượu và nghe hát,nguyên vì mới rồi tôi đang di chơi,có người đem một câu đố đố tôi,tôi không đoán ra được,vậy tôi muốn tâu lên để đại vương nghe.

Trang vương nói:

-Câu đố gì mà đại vương không đóan ra được,hãy nói cho ta nghe?

Thân Vô Uý nói:

-Có một con chim lớn,lông đủ năm sắc, đậu ở trên gò cao nước Sở, đã ba năm nay,mà không thấy hay,cũng không thấy kêu,không biết là con chim gì?

Trang vương hiểu là Thân Vô Uý có ý can mình,mới cười mà bảo rằng:

-Ta đã biết rồi ! Con chim ấy không phải là con chim thường,ba năm nay không bay,bay tất cao đến tận trời,ba năm không kêu,kêu tất làm cho người phải khiếp sợ.Nhà ngươi hãy đợi mà xem.

Thân Vô Uý sụp lạy rồi đi ra. Ðợi trong mấy hôm thấy Sở vương vẫn chơi bời như cũ.Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến.Khi vào,trông thấy Trang vương,liền khóc oà lên,Trang vương nói:

-Tại sao mà khóc lóc như vậy?

Tô Tòng nói:

-Tôi khóc vì nổi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.

Trang vương nói:

-Vì cớ gì mà nhà ngươi chết,vì sao mà nước Sở mất?

Tô Tòng nói:

-Tôi muốn can đại vương, đại vương tất không nghe mà giết tôi.Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa.Mà đại vương thì cứ say đắm tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,còn gì mà nước Sở không mất !

Trang vương bỗng nhiên biến sắc mà bảo rằng:

-Ta đã có lệnh: ai can thì bắt tội chết,sao nhà ngươi đã biết chết mà còn dám can,chẳng cũng ngu lắm ư?

Tô Tòng nói:

-Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nổi ngu lắm như đại vương.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

-Sao nhà ngươi dám bảo là ta ngu lắm?

Tô Tòng nói:

-Ðại vương làm vua một nước,có muôn cổ xe,có đất nghìn dặm,binh mã hùng cường,chư hầu tinh phục, đó là cái lợi muôn đời,nay say đắm tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự, đến nổi nước lớn đến mặt ngoài,nước nhỏ phản ở mặt trong,thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời,không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi chẳng qua chỉ đến chết mà thôi,nhưng đại vương giết tôi,thì đời sau tất gọi tôi là trung thần,ví tôi như Long Bàng và Tí Can thuở trước,vậy thì tôi chẳng ngu chút nào ! Còn cái ngu của đại vương thì đến nỗi muốn làm một đứa thất phu cũng không thể được ! Thôi tôi nói đến đây là hết,xin cho mượn thanh gươm của đại vương đeo để tôi đâm cổ trước mặt đại vương,cho khỏi trái với cái mệnh lệnh của đại vương dã ban bố.

Trang vương vội vàng đứng dậy,ngăn Tô Tòng mà bảo rằng:

-Tôi,xin đại phu hãy thôi ! Lời nói của đại phu thật là trung thực,ta xin nghe !

Nói xong ,liền bỏ hết âm nhạc,xa Trịng Cơ,lìa Sái Cơ,mà lập Phàn Cơ làm chũ trong cung.Sở Trang vương nói rằng:

-Khi trước ta hãy săn bắn,Phàn Cơ thường can mà ta không nghe,Phàn Cơ bèn không ăn thịt các giống cầm thú nữa. Ấy là ngươi nội trợ hiền của ta đó !

Trang vương lại bổ dụng Vĩ Giả,Phan Uông và Khuất Ðăng để chia quyền của quan lệnh doãn là Ðấu Việt Tiêu,và chỉnh đốn chính sự trong nước,rồi sai công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở ) đem quân đi đánh Tống.Qui Sinh cùng với quân nước Tống là Hoa Nguyên.Lại sai Vĩ Giả đem quân sang cứu Trịnh,cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm,bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương.Sang năm sau Trang vương mới tha cho Hoa Nguyên và Giải vương về nước.Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh,Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung nguyên.

Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh,muốn kết với Tấn để chống Sở.Triệu Xuyên hiến kế rằng:

-Nước Tấn có một thuộc quốc gọi là nước Sùng ,qui phụ nước Tần đã lâu,nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu,bấy giờ ta phải giảng hoà với Tần.

Triệu Thuẫn theo lời,liền tâu với Tấn Linh công,sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng,Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng:

-Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta,nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần,chắc Tần giận lắm,khi nào chịu giảng hòa.

Triệu Thuẫn nói:

-Chủ ý ta đã định rồi !

Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết,Hàn Quyết tủm tỉm cười,rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng:

-Triệu tướng quốc làm việc nay là muốn giúp TRiệu Xuyên giữ lấy quyền thế họ Triệu,không phải là muốn giảng hoà với Tần đâu.

Triệu Sóc nín lặng lui ra.Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng,mà lại đem quân đi đánh Tấn,vây đất Tiêu Ấp.Triệu Xuyên rút quân về cứu đất Tiêu Ấp,quân Tần mới chịu lui.Từ đó,Triệu Xuyên mới được tham dự binh quyền.Du Biền ốm chết,Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền.

Tấn Linh công năm đã lớn tuổi,sinh ra hoang dâm bạo ngược,hăm chơi bời,tin yêu một quan đại phu tên gọi Ðỗ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa đào,cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra trông như gấm vóc,mới đặt tên là Ðào Tiên.Trông vườn xây một cái đài cao ba từng ,khỏang giữa lại lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên lầu,cột vẽ hoàng sơn,gạch hoa ngói đỏ,bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá thành quách đều như ở trước mặt cả.Linh công thích ý lắm,thường thường lên lầu thưởng lãm hoăc cùng với Ðồ Ngạn Giả thi nhau bắn chim và uống rượu.Một hôm Linh công cho gọi phường hát diễn tuồng ở trên đài,nhân dân đều đứng ở ngoài vườn để xem.Linh công nói với Ðỗ Ngạn Giả rằng:

-Bắn chim sao bằng bắn người,ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi,ai bắn trúng mắt thì được giải nhất,bắn trúng vai và cánh thì không kể,nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to.

Tấn Ling công bắn về phía hữu, Ðổ Ngạn Giả bắn về phía tả.Nhân dân ở ngoài vườn,người thì bị trúng vào mang tai,người thì bị trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả,kêu rầm lên rằng:

-Hãy còn bán nữa đấy !

Linh công giận lắm,truyền cho quân sĩ cùng bắn ra như mưa,nhân dân,người thì vỡ đầu,kẻ thì sầy trán,người thì lòi mắt,kẻ thì gẫy răng,tiếng khóc như ri.Linh công ở trên đài trông thấy,ném cái cung xuống đất cười ha hả,bảo Ðỗ Ngạn Giả rằng:

-Ta chơi ở cái đài này,chưa có hôm nào vui như hôm nay !

Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đấy nữa ! Lại có một người nhà Chu đem dâng một con chó dữ,tên gọi Linh ngao,mình cao ba thưóc,sắc như than đỏ,mà lại tinh khôn lắm,biết theo ý người.Người có lỗi,Linh công vẫn gọi Linh ngao sai cắn.Con Linh ngao chồm lên,cắn vào tận mặt,kỳ chết mới thôi.Linh công dùng một người chuyên việc nuôi con Linh ngao mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê.Con Linh ngao cũng khéo theo ý người nuôi,bảo sao được vậy.Người nuôi con Linh ngao ấy gọi là ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu.Linh công bỏ lễ ngoại triều ở ngoài điện mà bắt các quan phải vào triều ở nội tẩm.Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì ngao nô vẫn dắt con Linh ngao hầu ở bên cạnh,ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Linh công nên dùng người hiền,xa kẻ nịnh,và chăm nom chính sự trong nước.Linh công cứ như người điếc,chẳng thèm để vào tai,lại có ý nghi kỵ.Một hôm tan triều,các quan đại phu đều lui về cả,chỉ co Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung.Hai người đang nói chuyện với nhau,than thở về việc nước,bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra.Triệu Thuẫn nói:

-Sao lại có cái giỏ tre ở trong cung ra như vậy?Tất là có cớ sao đây !

Nói xong ,liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng :

-Đem lại đây xem,đem lại đây xem !

Hai người nội thị chỉ cấm đầu đi thẳng,không nói gì cả .Triệu Thuẫn hỏi rằng:

-Trong giỏ tre đựng cái gì thế ?

Nội thị nói:

-Ngài là quan tướng quốc,nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem,chứ chúng tôi không dám nói .

Triệu Thuẫn lòng càng nghi,rủ Sĩ Hội cùng đến để xem,thì thấy một cánh tay người thò ra phía ngoài giỏ .Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại,thì thấy ở trong có một cái xác chết .Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ,hỏi đầu đuôi làm sao .Nội thị không dám nói .Triệu Thuẫn nói:

-Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước .

Nội thị mới chịu nói:

-Người này nguyên là một tên nhà bếp,chúa công sai nấu món thịt gấu,nấu mãi không xong,chúa công nóng uống rượu,giục hai ba lần,người ấy lật đật dâng lên,khi chúa công ném thì lại chưa chín,bởi vậy chúa công đánh chết,chém làm mấy khúc,rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng .Chúa công đã hẹn thời khắc cho mà đi,nếu chậm thì chúng tôi có tội .

Triệu Thuẫn tha cho nội thị cứ việc khiêng đi .Nội thị đi khỏi rồi ,Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng:

-Chúa công bạo ngược quá,coi mạng người như cỏ rác .Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong .Âu là hai ta cùng vào khuyên can .

Sĩ Hội nói:

-Hai ta khuyên can mà chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa,chi bằng để tôi vào trước,nếu tôi khuyên can mà chúa công không nghe,bấy giờ tướng quốc sẽ vào .

Linh công đang ngồi ở trên thềm,trông thấy Sĩ Hội vào,biết là có ý muốn khuyên can,liền bảo Sĩ Hội rằng :

-Đại phu chớ nói,ta đã biết lỗi rồi,để ta xin lỗi .

Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng :

-Người ta ai là không có lỗi,chúa công đã biết lỗi thì tất sửa đổi,thế là một điều đại phúc cho nước nhà,chúng tôi lấy làm mừng lắm .

Nói xong lui ra,thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn .TRIỆU Thuẫn nói :

-Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chinh lệnh khác .

Ngày hôm sau,Linh công truyền thẳng xe đi ra chơi Đào Viên,chờ xa giá đến thì ra yết kiến .Tấn Linh công ngạc nhiên hỏi:

-Ta không cho Triệu sao khanh lại đến đây ?

TRIỆU Thuẫn sụp lạy xin lỗi,và tâu rằng:

-Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu,cũng chưa có lấy ai giết người làm vui bao giờ !Nay tướng công nuôi chó để cắn người,bắn cung để hại người,lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa nhà bếp,mạng người rất là quan trọng ,mà chúa công coi rẻ như vậy thì sao giữ yên được nước nhà ?Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa,xin chúa công quay xe về triều,sửa đổi lỗi trước,khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn,thì tôi dẫu chết cũng thỏa lòng!

Tấn Linh công có ý hổ thẹn,lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng:

-Khanh hãy lui về,đẻ cho ta chơi một hôm nay nữa,từ mai trở đi ta xin nghe lời .

Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn ,không cho Linh công vào .Đỗ Ngạn Giả ở bên cạnh,liền nói:

-Tướng quốc khuyên can chúa công,thế là phải lắm,nhưng xa giá đã đến đây,chẳng lẽ về không,khiến cho người ta chê cười,âu là tướng quốc hãy lui về,đến buổi triều sáng mai rồi sẽ thương nghị .

Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên,đẻ cho Linh công đi,rồi trừng mắt nhìn Đỗ Ngạn Giả mà mắng rằng :

-Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ mày !

Nói xong,vẫn còn hầm hầm tức giận .Đỗ NGẠN Giả theo Linh công vào chơi trong vườn .Linh công đang vui cười .Đỗ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng:

-Tiếc thay cuộc vui chỉ còn lần này mà thôi !

Linh công nói:

-Sao đại phu lại nói như vậy ?

Đỗ Ngạn Giả nói:

-Tôi chắc rằng sáng mai thì Tiệu tướng quốc lại nói lôi thôi,không để cho tướng công đưọc đến đây nữa .

Linh công nổi giận mà nói rằng:

-Từ xưa đến nay,chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế,chưa nghe nói vua bị kiềm chế bao giờ ?Lão ấy còn sống thì lại không tiện cho ta lắm,ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được ?

Đổ Ngạn Giả nói:

-Tôi có một người tên gọi Thư Nghê,nhà nghèo,vẫn được tôi chu cấp cho,bởi vậy cảm cái ơn tôi mà vẫn xin cố sức chết để đền báo .Nếu sai người ấy giết chết Triệu tướng quốc thì chúa công tha hồ mà vui chơi,không lo gì nữa !

Linh công nói:

-Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm !

Đêm hôm ấy,Đổ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến cho ăn cơm uống ruợu,rồi bảo rằng:

-Triệu Thuẫn chuyên quyền,nay ta phụng nệnh chúa công sai nhà ngươi đến giết đi,nhà ngươi nên phục ở cửa Triệu Thuẫn,đợi đến đầu canh năm ,khi hắn vào triều,thì xông lại mà đâm chết,chớ có làm hỏng việc!

Thư Nghê vâng mệnh,liền dắt một con dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn,trông thấy cửa mở toang,xe ngựa đã sắp sẳn ở ngoài cửa .Trên thềm bóng đèn lờ mờ .Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối .Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều,tay cầm cái hốt,nghiêm trang ngồi ở gian giữa,(nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều,nhưng còn sớm quá vậy ngồi đấy để đợi cho sáng) .Thư Nghê thấy vậy,giật mình kinh sợ,lui ra ngoài cửa,thở dài mà than rằng:

-Người ta một lòng cung kính thế kia,tức là trung thần,nếu ta giết người trung thần thì là bất trung,không giết thì trái mệnh vua,lại là bất tín .Bất trung bất tín thì sống làm gì nữa !

Thư Nghê bèn đứng giữa cửa nói to rằng :

-Ta là Thư Nghê đây,thà trái mệnh vua,không nỡ giết người trung thần !Nay ta tự tử mà chết,nhưng sau này tất chúa công sai người khác đến,tướng quốc phải phòng bị mới được .

Nói xong,liền đập đầu vàào cây hoè trước cửa,vở óc ra mà chết .Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên,bvội vàng vào báo với Triệu Thuẫn .Viên xa hũu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng:

-Tướng quốc không nên vào triều vội nếu vào triều thì tôi e có biến .

Triệu Thuẫn nói:

-Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm,nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ,còn việc chết sống dã có số mệnh,ta có lo gì !

Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hoè rồi lên xe vào triều .Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết,liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê .Đồ Ngạn Giả nói:

-Thư Nghê đi không thấy về,có người nói là đập đầu vào cây hoè mà chết,chư rỏ vì cớ gì .

Linh công nói :

-Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào ?

Đồ Ngạn Giả nói :

-Tôi còn có một kế,chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn .

Linh công nói:

-Kế gì ?

Đồ Ngạn Giả nói:

-Ngày mai chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu ở trong cung ,rồi phục sẵn giáp sĩ ở phía sau tường,đợi khi đang uống rượu dở dang,chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem,tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho tướng công .Bấy giờ tôi đứng bên,sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm,toan sự hại vua,gọi quân sĩ đến cứu giá,quân sĩ sẽ đổ ra bắt mà giết đi .Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết,chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần,chúa công nghĩ sao ?

Linh công khen phải,rồi theo kế mà làm .Ngày hôm sau,Linh công ra triều,bảo Triệu Thuẫn rằng:

-Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta,nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung,để tạ ơn tướng quốc .

Nói xong,liền bảo Đổ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung .Viên xa hữu của Triệu Thuẫn là Đế Di Minh theo vào .Khi bước lên thềm,Đổ Ngạn Giả bảo Đế Di Minh rằng:

-Chúa công cùng với tuớng quốc uống rượu,người khác không ai được lên thềm cả .

Đế Di Minh liền đứng ở dưới thềm .Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy,rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công .Đổ Ngạn Giả đứng hầu bên tả .Khi uống rượu mới được ba tuần,Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng :

-Ta nghe nói thanh gươm của tướng quốc tốt lắm .Tướng quốc cho ta xem .

Triệu Thuẫn không biết là kế,toan cởi gươm ra để đưa .Đế Di Minh ở dưới thềm trông thấy,nói to lên rằng :

-Bề tôi hầu rượu vua,theo lễ không được uống quá ba chén,cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế ?

Triệu Thuẫn biết ý ,liền đứng ngay dậy .Đế Di Minh hầm hầm tức giận,bước lên thềm vực Triệu Thuẫn xuống .Đổ NGẠN Giả gọi Ngao Nô thả con Linh ngao đuổi theo,đến gần cửa cung,Đế Di Minh cầm ngay cái dùi đánh con Linh ngao gãy cổ mà chết .LLinh công giận lắm,truyền cho quân sĩ đổ ra bắt Triệu Thuẫn .Đế Di Minh đứng chắn ngang lại,để cho Triệu Thuẫn chạy trước .Giáp sĩ tới nơi,Di Minh cự chiến một hồi,mình mẫy đầy vết thương rồi kiệt sức mà chết .

Triệu Thuẫn đang chạy,thấy có người đuổi kịp đến nơi,Triệu Thuẫn sợ lắm .Người ấy nói:

-Tướng quốc chớ sợ,tôi đến cứu ngài đây!

Triệu Thuẫn nói:

-Nhà ngươi là ai ?

Người ấy nói:

-Tướng quốc không nhớ người nằm ở bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Triếp tức là tên tôi đó .

Nguyên năm năm về trước,Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn,ngồi nghĩ trong bụi dâu,trong thấy một người đàn ông nằm lăn dưới đất .Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người bắt .Người ấy đói không trở dậy được,hỏi đến họ tên thì người ấy nói:

-Tên tôi là Linh Triếp .Tôi sang học ở nước Vệ,đã ba năm nay,bây giờ trở về,tiền lưng hét cả,không lấy gì mà ăn,nhịn đói đã ba ngày rồi!

Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm,sai người mang cho cơm và thịt,Linh Triếp chia cơm thịt làm hai phần,một nữa bỏ vào giỏ con của mình,còn một nữ để ăn .

Triệu Thuẫn hỏi:

-Nhà ngươi cất đi một nữa để làm gì ?

Linh Triếp nói:

-Tôi còn mẹ già,hiện ở cửa .Tôi đi vắng đã lâu ngày,chưa biết mẹ tôi còn hay mất,nay chỉ cách đấy có mấy dặm,may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem lộc của quan tướng quốc ban cho về dâng mẹ tôi .

TRIỆU Thuẫn khen là hiếu tử,bảo cư ăn hết đi,rồi lấy cơm và thịt khác để xếp vào giỏ cho .Linh Triếp lạy tạ rồi đi .Sau Linh Triếp ứng mộ ra lính,lại ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn,Linh Triếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn .Bấy giờ người tùy tùng bỏ chạy tán loạn cả .Linh Triếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn chạy ra triều môn .Bọn giáp sĩ giết xong Đế Di Minh lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn .Vừa lúc ấy,thì có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn,tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe .Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Triếp bảo cùng lên xe thì Linh Triếp đã trốn rồi .Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm,không đuổi theo nữa .Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng:

-Nay ta không thể về nhà được ! Một là ta sang nước Địch,hai là sang nước Tần,phải tìm chỗ để nương thân mới xong .

Bấy giờ hai cha con cùng ra cửa tây,đi về phía tây .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 51 : ÐỒNG HỒ CHÉP THẲNG ÁN ÐÀO VIÊNVUA SỞ MỪNG CÔNG MỞ ÐẠI HỘI

Tấn Linh công lập mưu giết Triệu Thuẫn,dẫu không giết được,nhưng thấy Triệu Thuẫn bỏ trốn đi thì trong lòng

cũng mừng rỡ khác nào đứa học trò được rời thầy học ra,sự mừng rỡ kể sao cho xiết,liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại Ðào Viên,không về cung nữa.Triệu Xuyên đang đi săn ở Tây Giao trở về,gặp Triệu Thuẫn và Triệu Sóc.Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng:

-Thúc phụ chớ sang nước khác vội,hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.

Triệu Thuẫn nói:

-Nếu vậy thì ta hãy tạm ở lại núi Thu Dương để đợi tin nhưng nhà ngươi nên cẩn thận,chớ đẻ thêm tai vạ đấy.

Triệu Xuyên từ biệt Triệu Thuẫn và Triệu Sóc,rồi trở về kinh thành,nghe biết Tấn Linh công chơi ở Ðào Viên,mới giả cách vào yết kiến và xin lỗi với Linh công rằng:

-Tôi là thân thích với người có tội,khi nào lại còn dám hầu hạ ở bên cạnh chúa công,xin chúa công cho tôi được từ chức.

Linh công tin là thực,mới phủ dụ Triệu Xuyên rằng:

-Triệu Thuẫn đã nhiều lần khinh bỉ ta,ta không thể chịu được,việc nầykhông can dự gì đến nhà ngươi,nhà ngươi cứ yên tâm mà giữ chức.

Triệu Xuyên lại tạ,rồi lại tâu rằng:

-Tôi thiết tưởng làm vua chỉ quý hơn người ta là được thoả thích cả về thanh,cả về sắc mà thôi,nay chúa công dẫu có đàn sáo chuông trống,nhưng số nội cung chưa đủ,còn lấy gì làm vui ! Tề Hoàn công thuở xưa biết bao nhiêu phi tần,ngoại vị chánh cung,lại còn sáu bà như phu nhân nữa,tiên quân ta là Tấn Vương công,từ khi còn trốn ở các nước, đến đâu cũng lấy vợ,lúc trở về nước,ngọai sáu mươi tuổi,mà phi tần còn rất đông,nay chúa công đã lập ra đài cao vườn rộng thư thế nầy,mà sao không sai ngưòi đi tuyển gái đẹp về dạy múa hát để làm trò vui,chẳng cũng hay lắm ư !

Linh công nói:

-Nhà ngươi nói chính hợp ý ta ! Nay ta muốn tuyển gái đẹp trong nước thì nên sai ai được?

Triệu Xuyên nói:

-Quan đại phu là Ðỗ Ngạn Giả đi tuyển con gái,bất cừ trong thành ngoài ấp,phàm có con gái trong hai mươi tuổi bắt phải làm sổ khai trinh,hạn trong một tháng thì về báo tin.Triệu Xuyên mượn việc ấy để sai Ðỗ Ngạn Giả đi biệt chỗ khác,rồi lại tâu với Linh công rằng:

-Ðội quân thị vệ của chúa công ở Ðào Viên hãy còn ít lắm,tôi có tuyển được hai trăm lính tinh dùng,xin chúa công cho sung vào làm quân thị vệ.

Linh công thuận cho,Triệu Xuyên về dinh,tuyển hai trăm quân giáp sĩ.Bọn giáp sĩ hỏi Triệu Xuyên rằng:

-Chẳng hay tướng quân định sai chúng tôi đi đâu?

Triệu Xuyên nói:

-Chúa công chẳng thương gì đến dân,chỉ vui chơi ở chốn Ðào Viên,nay có sai ta tuyển bọn các ngươi vào đấy để ngày đêm canh phòng.Bọn các ngươi đây,ai là người không vợ con nhà cửa,nay đi vào đấy, ăn sương nằm gió,biết bao giờ xong;

Bọn giáp sĩ đều than vãn mà nói rằng:

-Ðưá vô đạo hôn quân ấy,sao không chóng chết đi ! Nếu Triệu tướng qiân (trỏ Triệu Thuẫn)còn ở nhà,tất không có việc này.

Triệu Xuyên nói:

-Ta có một câu nàynmuốn bàn cùng các ngươi,chẳng biết có nên không?

Bọn giáp sĩ đều nói:

-Nếu tướng quân cứu được cho chúng tôi thoát khỏi nông nổi khổ sở này thì ơn tái sinh ấy bao giờ chúng tôi quên được.

Triệu Xuyên nói:

-Chỗ Ðào Viên này không kín đáo lắm,như chốn thâm cung.Canh hai đêm hôm nay,các ngươi xông vào trong vườn,giả cách đòi xin ban thưởng,chờ khi ta vẫy tay áo làm hiệu thì các ngươi giết ngay hôn quân đi,ta sẽ đón quan tướng quốc về lập vua khác,các ngươi nghĩ thế nào?

Bọn giáp sĩ đều nói:

-Chúng tôi xin vâng mệnh !

Triệu Xuyên cho bọn giáp sĩ ăn cơm uống rượu,sai chực sẳn ở ngoài cửa Ðào Viên,rồi vào tâu với Linh công.Linh công lên đài trong thấy bọn giáp sĩ người nào cũng tráng kiện,thì bằng lòng lắm ,bèn giữ Triệu Xuyên ở lại hầu rượu.Uống rượu đến canh hai,bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng uyên náo.Linh công kinh sợ,hỏi là cớ gì.Triệu Xuyên nói:

-Ý chừng quân túc vệ xua đuổi người đi đêm đó mà thôi, để tôi xin ra bảo họ đừng làm kinh động thánh giá.

Triệu Xuyên sai thấp đèn lồng, ở trên đài bước xuống.Bọn giáp sĩ hai trăm người đã phá cửa vào đến nơi.Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng yên cả ở dưới đài,rồi lại trở lên tâu với Linh công rằng:

-Quân sĩ biết chúa công dự tiệc,vậy muốn xin chúa công ban thưởng cho lộc thừa,chứ không có ý gì khác cả.

Linh công truyền cho nội thị đem rượu ban thưởng cho quân sĩ,rồi đứng tựa bao lơn mà trông xuống.Triệu Xuyên đứng bên cạnh,gọi to lên rằng:

-Chuá công thân hành ra đây ban thưởng cho các ngươi,các ngươi hãy bái tạ ơn trên.

Nói xong,giơ tay áo vẫy một cái .Quân sĩ biết là Linh công liền kéo ồ lên.Linh công sợ hãi,bảo Triệu Xuyên rằng:

-Giáp sĩ trèo lên lầu làm gì thế? Nhà ngươi truyền cho họ xuống đi !

Triệu Xuyên nói:

-Quân sĩ nhớ quan tướng quốc là Triệu Thuẫn,muốn xin chuá công cho đón về.

Linh công chưa kịp trả lời thỉ đã bị quân giáp sĩ xúm lại đâm chém chết ngay.Thi vệ xung quanh đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Xuyên nói:

-Nay đã trừ được hôn quân rồi,các ngươi chớ nên giết bậy một người nào,phải theo ta đi đón quan tướng quốc về triều.

Ðỗ Ngạn Giả đang đi tuyển gái đẹp ở ngoài cõi xa,nghe báo Linh công bị giết,giật mình kinh sợ,biết là mưu kế của Triệu Xuyên,nhưng không dám nói ra,bèn lẻn về nơi dinh phủ.

Bọn Sĩ Hội nghe tin ấy,cũng vội vàng chạy đến Ðào Viên,nhưng chẳn thấy một người nào cả,biết là Triệu Xuyên đã đi đón Triệu Thuẫn về.Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Ðào Viên.Các quan trong triều đều hợp đông đủ cả.Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh công mà khóc òa lên,rất là thảm thiết,tiếng khóc vang động đến ngoài vườn.Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng:

-Xem thế thì biết quan tướng quân là người trung thành.Việc này chẳng qua chỉ bởi chúa công ta gây nên tai vạ,chứ không phải lỗi của quan tướng quốc.

Triệu Thuẫn truyền rước thi thể của Tấn Linh công sang chôn ở đất Khúc Ốc,rồi hợp triều thần để lập vua mới.Bấy giờ Tấn Linh công chưa có con trai.Triệu Thuẫn nói:

-Từ khi tiên quân ta mất đi,tôi đã có xướng nghị rằng không nên lập vua nhỏ,vì nhiều người không thuận,mà thành ra có việc này,bây giờ ta phải thận trọng mới được.

Sĩ Hội nói:

-Trong nước có vua lớn thì là một điều đại phúc,quan tướng quốc dạy phải lắm !

Triệu Thuẫn nói:

-Tiên quân ta (tức là Tấn Văn công) ngày xưa hiện còn một người con.Lúc mới sinh ra,bà mẹ nằm mộng thấy thần nhân giơ bàn tay đen xoa vào đứa bé,bởi vậy mới đặt là Hắc Ðiến.Ngày nay đang làm quan ở nhà Chu,hiện đã lớn tuổi,tôi muốn đón về để lập lên làm vua.

Các quan không dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng:

-Quan tướng quốc nghĩ rất phải.

Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên,mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước Tấn.Công tử Hắc Ðiến vào triều nhà Thái miếu,rồi nối ngôi lên làm vua,tức là TấnThành công.Tấn Thành công đã lên ngôi,giao hết quyền chính cho Triệu Thhuẫn,lại đem con gái gả cho Triệu Sóc,tức là nàng Trang Cơ.Triệu Thuẫn tâu với Tấn Thành công rằng:

-Mẹ tôi nguyên là con gái nước Ðịch.Bà Triệu Cơ tôi (con gái Tấn văn công gả cho thân phụ Triệu Thuẫn là Triệu Thôi )thuở xưa nhường cho mẹ tôi làm vợ cả,vậy nên tôi được làm đích tử,nhận chức trung quân,nay con bà Triệu Cơ tôi là:Triệu Ðồng,Triệu Quát,và Triệu Anh, đều đã lớn tuổi cả,tôi lại xin nhường lại quyền chức ấy.

Thành công nói:

-Quan tướng quốc không phải nhường, để ta sẽ dùng cho làm quan tất cả.

Nói xong,liền cho Triệu Ðồng,Triệu Quát và Triều Anh làm quan đại phu.Triệu Xuyên nói riêng với Triệu Thuẫn rằng:

-Ðổ Ngạn GIả ngày trước xu nịnh tiên quân để làm hại họ Triệu.Việc Ðào Viên này chỉ có Ðổ ngạn Giả ra ý không thuận,nếu không trừ bỏ người ấy đi thì họ Triệu ta cũng khò lòng mà yên được.

Triệu Thuẫn nói:

-Người ta không bắt tội nhà ngươi thì chớ,nhà ngươi lại định bắt tội người ta hay sao ! Họ Triệu ta ngày nay chỉ nên cùng với các quan triều thần hòa mực với nhau,chớ nên gây ra những việc thù oán.

Triệu Xuyên không dám nói đến việc Ðổ Ngạn Giả nữa. Ðỗ Ngạn Giả cũng một lòng theo ý họ Triệu để được khỏi tội.Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy,một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản chép của quan thái sử là Ðồng Hồ để xem Ðồng Hồ chép việc Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,trông thấy chép rỏ ràng: "Mùa thu,tháng bảy,năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên".

Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:

-Quan thái sử lầm rồi ! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm,ta có biết đâu đến việc giết vua,mà quan thái sử lại đổ lỗi cho ta,chẳng cũng oan lắm ư!

Ðồng Hồ nói:

-Ngài làm quan tướng quốc,trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua này,khi ngài về lại không trị tội quân giặc,như thế mà bảo không phải tự ngài chủ mưu,còn ai tin được?

Triệu Thuẫn nói:

-Bây giờ có thể chửa lại được không?

Ðồng Hồ nói:

-Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế,bởi vậy đầu tôi có thể cắt được,chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.

Triệu Thuẫn thở dài than rằng:

-Thế mới biết cái quyền chép sử,còn lớn hơn cái quyền làm tướng quốc ! Tiếc thay,bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời,hối sao cho kịp !

Từ bấy giờ Triệu Thuẩn phụng sự Tấn Thành công,càng thêm kính cẩn.Triệu Xuyên cậy có công to,xin làm chức chính khanh,Triệu Thuẩn sợ mang tiếng,không cho.Triệu Xuyên tức giận,phát ra cái ung ở đằng lưng mà chết.Con Triệu Xuyên là Triệu Chiên xin nối giữ chức vị của cha.Triệu Thuẫn bảo Triệu Chiên rằng:

-Ðợi khi nào nhà ngươi lập được công trạng thì dẫu ngôi khanh tướng cũng chẳng khó gì !

Chu Khuông vương mất.Em là Du lên nối ngôi,tức là Chu Ðịnh vương.Năm đầu Chu Ðịnh vương,Sở Trang vương đem quân đánh đất Lục Hồn,qua sông Lạc Thủy,keó đến địa giới nhà Chu, định dùng uy lực áp chế thiên tử mà cùng với nhà Chu chia đôi thiên hạ.Chu Ðịng vương sai quan đại phu là Vương Tôn Mẫn đến uý dụ Sở Trang vương.Sở Trang vương hỏi:

-Tôi nghe nói vua Ðại Vũ ngày xưa có đúc chín cái đinh,từ nhà Hạ,nhà Thương đến nhà Chu ta vẫn truyền cho nhau,coi là của quý,hiện nay để ở đất Lạc Dương.Chẳng hay những cái đinh ấy hình dáng,lớn bé và nặng nhẹ thế nào,xin quan đại phu cho biết?

Vương Tôn Mẫn nói:

Vua Ðại Vũ nhà Hạ đúc nên chín cái đinh, đến đời vua Kiệt vô đạo,mới thiên sang nhà Thương?Vua Trụ nhà Thương bạo ngưọc,chín cái đinh ấy lại thiên sang nhà Chu,xem thế thì biết đời nào có đức thì mới giữ nổi chín cái đinh ấy.Khi nhà vua Thành vương nhà Chu tôi để chín cái đinh ấy ở Lạc Dương, đã có bói một quẻ thì biết rằng nhà Chu tôi truyền được ba mươi đời,bảy tram năm có lẻ,năm nay vận mệnh nhà Chu hãy còn,nhà vua chớ nên hỏi đến đinh vội !

Sở Trang vương hổ thẹn,từ bấy giờ không dám có ý nom dòm nhà Chu nữa.

Lại nói chuyện quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Việt Tiêu từ khi thấy Sở Thành vương chia mất quyền chính của mình,trong lòng oán giận,lại cậy mình là người tài giỏi và đời trước có công lao,dân trong nước ai cũng tin phục,mới có ý muốn làm phản,thường vẫn nói rằng:

-Nhân tài nước Sở chỉ có một mình Vĩ Giả mà thôi,còn thì chẳng đáng kể.

Khi Sở Trang vương đi đánh Lục Hồn,cũng lo đấu Việt Tiêu làm phản,mới bảo Vĩ Giả ở lại để giữ nước. Ðấu Việt Tiêu thấy Sở Trang vương đem quân đi vắng,mới quyết chí nổi loạn, định đem hết những quân của bản tộc ra để khởi sự. Ðấu Khắc (con Ðấu Ban ) không theo. Ðấu Việt Tiêu giết chết Ðấu Khắc,rồi đem quân đến giết quan tư mã là Vĩ Giả.Con Vĩ Giả là Vĩ Ngao đem mẹ chạy trốn sang Mộng Trạch. Ðấu Việt Tiêu ra đóng đồn ở đất Chưng Giã để chặng đường Sở Trang vương trở về.Sở Trang vương nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,tức khắc rút quân về nước.Về gần đến đất Chương Lạp, Ðấu Việt Tiêu đem quân ra đối địch.Quân Sở Trang vương trông thấy Ðấu Việt Tiêu đeo cung cầm giáo, đi lại hăng hái ở trước trận, đều có ý sợ hãi.Sở Trang vương nói:

-Họ Ðấu mấy đời có công với nước,nay chẳng thà để cho Ðấu Việt Tiêu hpụ ta,chớ ta không nỡ phụ Ðấu Việt Tiêu.

Nói xong,liền sai quan đại phu là Tô Tùng sang điều đình với Ðấu Việt Tiêu,thuận cho giảng hoà và tha cho cái tội giết quan tư mã. Ðấu Việt Tiêu nói:

-Ta xấu hổ vì phải làm chức lệnh doãn,chứ ta có mong ân xá đâu ! Có dám đánh thì đem quân tới đây !

Tô Tùng hai ba lần phủ dụ mà Ðấu Việt Tiêu không nghe.Khi Tô Tùng về rồi, Ðấu Việt Tiêu truyền nổi hiệu trống tiến quân sang dắnh.Sở Trang vương hỏi các tướng rằng:

-Các tướng,có ai dám đối địch với Ðấu Việt Tiêu không?

Quan đại tướng là Nhạc Bá vâng mệnh ra trận.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng liền đem quân ra nghinh chiến.Phan Uông trông thấy Nhạc Bá không đánh nổi Ðấu Bí Hoàng,cũng giục ngựa ra trận.Em Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Kỳ cũng đem quân ra giao chiến với Phan Uông.Sở Trang vương ngồi trên xe,cầm dùi đánh trống để đốc chiến. Ðấu Việt Tiêu lại bắn mũi tên nữa,cắm vào cái mộc.Sở Trang vương vội vàng truyền lịnh thu quân.

Ðấu Việt Tiêu cố sức tiến đánh,may có hữu quân đại tướng là công tử Trắc và tả quân đại tướng là công tử Anh Tề,hai mặt đổ lại,bấy giờ Ðấu Việt Tiêu mới lui quân.Nhạc Bá và Phan Uông nghe hiệu cũng thu quân trở về.Về đến đất Hoàng Hử,Sở Trang vương truyền đem hai cái tên của Ðấu Việt Tiêu ra xem thì thấy dài gấp rưỡi cái tên khác,cánh tên bằng lông hạc, đốc tên bằng răng báo,mũi tên sắc không biết thế nào mà kể ! Các người xung quanh trông thấy,ai cũng lắc đầu lè lưỡi,lấy làm sợ hãi,cho là mũi tên thần. Ðêm hôm ấy,Sở Trang vương đi tuần các dinh,nghe thấy quân sĩ chỗ nào cũng hợp nhau bàn về mũi tê thần tiên của Ðấu Việt Tiêu,cho là khó lòng đánh nổi.Sở Trang vương mới lập kế sai người đặt chuyện ra mà nói với quân sĩ rằng:

-Ðời tiên quân ta là Sở Van vương ngày xưa nghe nói người Nhung Nam làm tên tốt lắm,sai sứ đi hỏi,người Nhung Nam mới đem dâng hai cái tên,gọi là "Thấu cốt phong",vẫn để ở nhà thái miếu. Ðấu Việt Tiêu lấy trộm được hai cái tên ấy,nhưng bắn hai phát là mất rồi,còn sợ gì nữa ! Chỉ đến ngày mai là ta đánh tan được thôi.

Bấy giờ quân sĩ mới được yên lòng.Sở Trang vương hạ lệnh rút quân sang nước Tùy,giả cách nói định mướn quân các nước ở Hán Ðông về đánh Ðấu Việt Tiêu.Tô Tùng nói với công tử Trắc rằng:

-Giặc mạnh ở trước mặt mà ta lui quân thì e hỏng việc.

Công tử Trắc nói:

-Ðấy tất là đại vương lập kế đó thôi ! Chúng ta vào yết kiến thì tự khắc biết rõ.

Ðêm hôm ấy,công tử Trắc cùng với công tử Anh Tề vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

-Ðấu Việt Tiêu mạnh thế lắm,ta không thể địch nổi,phải dùng kế mới đánh được.

Trang vương đem mật kế bảo với hai tướng,và sai họ đem quân đi mai phục.Cả hai đều vâng mệnh đem quân đi.Gà gáy hôm sau,Trang vương truyền cho đại binh kéo lui. Ðấu Việt Tiêu nghe tin,tức khắc đem quân đuổi theo.Quân Trang vương cố sức đi gấp qua đất Cánh Lăng. Ðấu Việt Tiêu cũng cố sức đuổi theo,một ngày một đêm đi hơn hai trăm dặm, đến cầu Thanh Hà,trông thấy quân Trang vương đang thổi cơm ở bên kia cầu,lại cố sức đuổi theo cho kịp.Khi đấu Việt Tiêu đến nơi thì quân Trang vương bỏ cả nồi niêu mà chạy. Ðấu Việt Tiêu hạ lệnh đuổi theo,cốt ý bắt cho kỳ được Trang vương,rồi mới được ăn cơm sáng.Quân Ðấu Việt Tiêu đang lúc mỏi mệt,lại phải nhịn đói để cố mà tiến lên,bèn theo kịp Trang Uông.Phan Uông bảo Dấu Việt Tiêu rằng :

-Nhà ngươi muốn bắt vua Sở thì sao không cố mau lên một chút !

Ðấu Việt Tiêu tưởng thực mới bỏ Phan Uông,lại cố đuổi theo sáu mươi dặm nữa, đến địa giới Thanh Sơn,gặp toán quân của Hùng Phụ Cơ. Ðấu Việt Tiêu hỏi Hùng Phụ Cơ rằng:

-Vua Sở ở đâu?

Hùng Phụ Cơ nói:

-Vua Sở chưa đi đến đây !

Ðấu Việt Tiêu trong lòng nghi ngờ,lại bảo Hùng Phụ Cơ rằng:

-Nhà ngươi tìm vua Sở cho thìkhi ta lên lém vua,sẽ cho nhà ngươi được quyền chính.

Hùng Phụ Cơ nói:

-Ta trông quân sĩ nhà ngươi đều mệt mỏi cả,nên phải cho ăn no thì mới giao chiến được.

Ðấu Việt Tiêu lấy làm phải,mới đóng quân lại để nấu cơm ăn.Quân Ðấu Việt Tiêu đang nấu cơm ăn,bỗng thấy công tử TRắc và công tử Anh Tề hai mặt đem quân đến đánh.Quân Ðấu Việt Tiêu đói không thể đánh được,bỏ chạy về phía nam,lui về cầu Thanh Hà thì cầu ấy đã bị phá đổ từ bao giờ rồi.Nguyên Sở Trang vương đã đem quân phục sẵn ở bên cầu, đợi cho Ðấu Việt Tiêu qua cầu thì phá cầu đi để chặn lối trở về. Ðấu Việt Tiêu thấy cầu đã bị phá gẫy,giật mình kinh sợ,truyền cho quân sĩ dò xem nước sông nông sâu thế nào để tìm đường sang.Bỗng nghe ở bên kia sông có tiếng pháo nổ,một toán quân Sở quát to:

-Quân Nhạc Bá đóng đây, Ðấu Việt Tiêu mau mau xuống ngựa mà đầu hàng đi !

Ðấu Việt Tiêu giận lắm,truyền cho quân sĩ đứng bên này sông giương cung ra bắn.Trong toán quân Nhạc Bá có một viên tiểu tướng tài nghề bắn cung tên gọi Dưỡng do Cơ,người ta vẫn khen là "thần tiển".Dưỡng Do Cơ nói với Nhạc Bá xin cùng với Ðấu Việt Tiêu bắn thì Nhạc Bá thuận cho.Dưỡng Do Cơ đứng ở bờ sông bên này,quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

-Mặt sông rộng nhì thế này,tên nào mà bắn cho thấu ! Tôi nghe nói quan lệnh doãn (tức là Ðấu Việt Tiêu )tài bắn lắm,vậy tôi xin cùng với ngài bắn thi.Hai bên nên đứng giáp ở trên dịp cầu,mỗi bên bắn ba phát,ai may thì sống.

Ðấu Việt Tiêu hỏi rằng:

-Nhà ngươi là ai?

Dưỡng Do Cơ nói:

-Tôi là tiểu tướng thuộc quân Nhạc Bá,tên gọi Dưỡng Do Cơ.

Ðấu Việt Tiêu có ý khinh bỉ,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

-Nhà ngươi muốn bắn thi thì hãy nhường ta bắn trước ba phát.

Dưỡng Do Cơ nói:

-Ðừng nói ba phát,dẫu đến trăm phát,tôi cũng không sợ ! Ai tránh là không giỏi !

Nói xong,liền ra đứng ở trên dịp cầu về phía sông bên này. Ðấu Việt Tiêu đứng ở dịp cầu bên kia,giương cung bắn ngay một phát,tưởng rằng phát tên này bắn ra thì Dưỡng Do Cơ lộn cổ xuống sông mà chết.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ trông thấy mũi tên đến,tay cầm đốc cung,gạt liền một cái,mũi tên rơi xuống dưới sông.Dưỡng Do Cơ lại quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

-Bắn nữa đi ! Bắn nữa đi !

Ðấu Việt Tiêu lại giương cung nhắm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn một phát nữa.Dưỡng Do Cơ ngồi sụp xuống thì mũi tên ấy qua đầu mà bay đi mất; Ðấu Việt Tiêu nói:

-Nhà ngươi bảo rằng ai tránh là không giỏi,sao lại còn ngồi sụp xuống,như vậy không phải là trưọng phu.

Dưỡng Do Cơ nói:

-Quan lệnh doãn còn được bắn một phát nữa, đến phát này thì tôi không dám tránh,nếu phát này không trúng thì ngài phải nhường cho tôi bắn.

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

-Nếu hắn không tránh thì phát tên này tất phải trúng. Ðấu Việt Tiêu tức khắc giương cung ra bắn.Dưỡng Do Cơ đứng vững hai chân,không cựa cậy chút nào,khi mũi tên tới nơi,liền há mồm thật to,cắn chặt ngay lấy. Ðấu Việt Tiêu bắn ba phát tên cùng không trúng cả,có ý sợ hải,nhưng trót đã hẹn lời,cũng phải để cho Dưỡng Do Cơ bắn lại,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

-Nay ta nhường hco nhà ngươi bắn lại ba phát,nếu bắn không trúng bấy giờ nhà ngươi lại phải nhường ta.

Dưỡng Do Cơ cười mà bảo rằng:

-Có bao giờ mà lại đến ba phát ! Tôi chỉ bắn một phát thì quan lệnh doãn đi đơì mà thôi !

Ðấu Việt Tiêu nói:

-Nhà ngươi nói khoát làm gì thế,hãy thử bắn xem nào !

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

-Hắn bắn phát tên này mà trúng,chẳng kể làm chi,nhược bằng không trúng ta còn sợ nữantha hồ cho hắn bắn.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ là người bắn giỏi lắm,trăm phát trúng cả trăm,bấy giờ Dưỡng Do Cơ giả cách giương cung ra bắn,nhưng tay vẫn giữ lấy tên. Ðấu Việt Tiêu nghe tiếng dây cung,tưởng là tên đến,mới nghiêng mình tránh về phía tả.Dưỡng Do Cơ nói:

-Tên vẫn còn ở tay tôi,nào đã bắn đâu ! Quan lệnh doãn bảo ai tránh là không giỏi,cớ sao lại tránh?

Ðấu Việt Tiêu nói:

-Còn sợ ngưòi ta tránh sao gọi là bắn giỏi!

Dưỡng Do Cơ lại gỉa cách giương cung ra bắn. Ðấu Việt Tiêu lại trắnh về phiá hữu.Dưỡng Do Cơ thừa lúc Ðấu Việt Tiêu tránh luôn tay bắn một phát nữa, Ðấu Việt Tiêu không biết tên đến,né tránh không kịp,mũi tên xuyên qua sọ,chết ngay tại trận.Quân Ðấu Việt Tiêu thấy chủ tướng đã chết rồi,bỏ chạy tán loạn.Công tử Trắc và công tử Anh Tề chia đường đuổi theo,giết cho quân Ðấu Việt Tiêu thây chết như núi,máu chảy thành sông.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng trốn sang nước Tấn,sau vua Tấn dùng làm quan đại phu,phong cho ở đất Miêu,gọi là Miêu Bí Hoàng.Sở Trang vương đã được toàn thắng,thu quân trở về kinh thành,bao nhiêu người họ Ðấu,bất cứ lớn bé đều đem chém đầu cả,chỉ trừ co con Ðấu Ban là Ðấu Khắc Hoàng hiện đang làm quan châm doãn, đương phụng mệnh Sở Trang vương sang sứ nước Tề.Khi Khắc Hoàng về đến nước Tống,nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,các người theo hầu đều can không nên về vội Ðấu Khắc Hoàng không nghe.

Khi Ðấu Khắc Hoàng về đến kinh thành nước Sở,vào nói với quan tư khấu xin chịu tội và bảo rằng:

-Tổ phụ ta ngày xưa là Tử Văn đã biết Ðấu Việt tiêu có tướng làm phản,tất đến nổi diệt tộc,khi sắp tạ thế,có dặn thân phụ tôi trốn sang nước khác.Thân phụ tôi nghĩ ơn nước Sở,không nơỏ bỏ đi,thành ra bị Ðấu Việt Tiêu giết chết.Nay tôi đã cùng họ với kẻ phản nghịch,lại không theo được lời dặn của tổ phụ tôi,vậy thì còn sống làm gì ! Tôi xin chịu tội chết !

Trang vương nghe nói bèn than rằng:

-Tử Văn ngày xưa thật là thần nhân ! Huống chi lại có công to với nước Sở,nỡ nào lại để cho tuyệt tự !

Nói xong,liền xá tội cho Ðấu Khắc Hoàng,vẫn cho làm quan,lại cho đổi tên là Ðấu Sinh,nghĩa là đáng chết mà được sống.

Trang vương khen Dưỡng Do Cơ có công bắn chết Ðấu Việt Tiêu,cho làm chức xa hữu,nghe nói Ngu Khâu là người hiền,cho quyền chức lệnh doãn.Sở Trang vương truyền mở một tiệc đại yến ở trên tiệm đài,triệu các quan triều thần đến dự tiệc,lại cho cả các phi tần theo đi.Trang vương bải triều thần rằng:

-Ta không uống rượu nghe hát, đã sáu năm trời này,bấy giờ dẹp yên được bọn phản nhgịch rồi,ta xin cùng với các người bày một tiệc vui gọi là thái bình yến.Phàm các quan viên văn vũ,bất cừ to nhỏ đều được dự tiệc cả.

Các quan sụp lạy,rồi theo thứ tự vào ngồi.Chức bào nhân (Người nhà bếp) dâng món ăn,chức thái sử (chức quan coi việc văn hóa,nghệ thuật )tấu nhã nhạc.Khi mặt trời đã gần lặn,tiệc rượu còn đang vui,Sở Trang vương truyền thắp nến lên để uống rượu nữa,lại sai một cung tần được vua yêu là Hứa Cơ, đi mời khắp các quan mỗi người một chén rượu.Các quan đều đứng dậy để uống,bỗng có một trận gío to,bao nhiêu nến thắp ở trên điện,tắt hết cả.Các nội thị còn đang châm lửa chưa đến.Trong các quan đại phu,có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp,nhân lúc tối tăm,thò tay nắm lấy vạt áo nàng.Hứa Cơ tay trái dứt vạt áo,tay phải nắm được giải mũ của người ấy.Giải mũ đứt,người ấy sợ lắm,vội vàng buông tay ra,Hứa Cơ lấy được cái giải mũ,rón rén đi đến trước mặt Trang vương,ghé tai mà tâu rằng:

-Thiếp vâng mệnh đại vương ra mời các quan uống rượu,mà có một người vô lễ,dám nhân lúc tắt nến,nắm lấy vạt áo thiếp,thiếp đã dứt được cái giải mũ của người ấy,xin đại vương thắp nến mà xem xét xem.

Trang vương vội vàng truyền cho nội thị chớ thắp nến vội và bảo các quan triều thần rằng:

-Ngày nay ta bày tiệc,mong cùng các người mua vui,các người nên bỏ cả giải mũ đi,rồi cùng ta uống rượu thật say.Nếu ai không dứt giải mũ thì chưa được vui lắm.

Các quan triều thần đều dứt bỏ hết giải mũ.Bấy giờ Trang vương mới thắp nến,thàng ra không biết người nào nắm vạt áo Hứa Cơ cả.Tiệc xong,trở về trong cung,Hứa Cơ tâu với Sở Trang vương rằng:

-Thiếp nghe nói nam nữ phải có phân biệt,huống chi lại là vua tôi. Ðại vương sai thiếp mời các quan uống rượu,là để tỏ lòng kính trọng các quan,nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà đại vương không trị tội,thì còn ra thể thống gì nữa !

Trang vương cười mà bảo rằng:

-Ta bày tiệc rượu này là muốn để các quan đều được cùng vui,bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm.Rượu say sinh ra chớt nhả,chẳng qua cũng là thường tình,trị tội một người mà làm cho các quan không được vui, đó không phải là điều ta muốn !

Hứa Cơ thán phục.Về sau người ta gọi tiệc rượu ấy là "Tuyệt anh hội" (nghĩa là hội dứt giải mũ ).Một hôm,Trang vương cùng với Ngu Khâu bàn tiệc chính trị, đêm đã khuya,mới trở cung.Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Trang vương rằng:

-Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà đại vương về chậm như vậy?

Trang vương nói:

-Ta cùng vơi Ngu Khâu bàn việc,thành ra khuya quá mà không biết.

Phàn Cơ nói:

-Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta.

Phàn Cơ nói:

-Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất là người hiền.

Trang vương hỏi:

-Sao thế?

Phàn Cơ nói:

-Ngu Khâu mỗi lần cùng với đại vương bàn việc chính trị,thường đến đêm khuya,mà chưa thấy tiến cử một người nào cả.Cái trí của một người thì có hạn,mà số kẻ sĩ nước Sở thì vô cùng.Ngu Khâu muốn đem cái trí của một người để che lấp tất cả kẻ sĩ trong thiên hạ sao gọi là người giỏi được?

Trang vương khen phải.Ngày hôm sau, đem lời Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe.Ngu Khân nói:

-Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều đó; để tôi xin liệu ngay.

Ngu Khâu liền hỏi khắp triều thần,xem có ai biết người hiến thì nói. Ðấu Sinh nói với Ngu Khâu rằng:

-Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi Vi Ngao là người hiền.Vi Ngao vì tránh cái nạn Ðấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch,người ấy thật có tài làm tướng quốc.

Ngu Khâu vào tâu,Trang vương nói:

-Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường,nếu nhà ngươi khôn gnói,có lẽ ta quên mất !

Sở Trang vương bèn sai Ngu Khâu cùng với Ðấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao.Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc,bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao.Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn,sang ở Mộng TRạch,làm ruộng nuôi thân.Một hôm,Tôn Thúc Ngao vác cày ra đồng,thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu,giật mình kinh sợ mà nói rằng:

-Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành,ai trông thấy nó là chết,ta nguy đến nơi rồi !

Nói đoạn,lại nghĩ thầm rằng:

-Nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này ai trông thấy nó lại bỏ mạng,cho bằng một mình ta đành chịu mà thôi.

Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy,mới giơ cái cày đánh chết con rắn,chôn ở bờ ruộng,rồi trở về nhà khóc với mẹ.Bà mẹ hỏi cớ làm sao,Tôn Thúc Ngao nói:

-Con nghe nói ai thấy con rắn hai đầu cũng chết,nay con trông thấy,con lo rằng không sống mà nuôi mẹ được vậy nên con khóc.

Bà mẹ nói:

-Bây giờ con rắn ở đâu?

Tôn Thúc Ngao nói:

-Con sợ người khác lại trông thấy nữa,nên đã giết chết mà chôn đi rồi.

Bà mẹ nói:

-NGười ta hễ có một niềm thiện ở trong lòng,trời tất phù hộ cho.Nay con trông thấy con rắn hai đầu,sợ di lụy đến người khác,giết mà chôn đi,thế là con hơn một niềm thiện nhiều lắm ! Con tất không chết mà lại được phúc nữa.

Mấy hôm sau,bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang vương đến triệu Tôn Thúc Ngao.Bà mẹ mới cười mà bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

-Ðấy là vì việc con chôn rắn mà được phút đó !

Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo bọn Tôn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở,Sở Trang vương cùng với Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt một ngày,lấy làm bằng lòng lắm,mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

-Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, đại vương đã vội giao quyền chính cho,e rằng người ngoài không phục.Vậy tôi xin theo các quan đại phu.

Trang vương nói:

-Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không,mới nhận làm chức lệnh doãn.Tôn Thúc Ngao chỉng đốn chính trị nước Sở,lập ra quân pháp,cho Ngu Khâu coi đạo trung quân,công tử Anh Tề coi đạo tả quân,công tử Trắc coi đạo hữu quân,Dưỡng Do Cơ đạo hữu quảng,Khuất Ðăng coi đạo tả quảng,hiệu lệnh rất nghiêm,nhân dân được yên ổn,lại đáp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng,dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức.Triều thần thấy Trang vương tin dùng Tôn Thúc Ngao,thì lúc đầu không phục,nhưng đến lúc Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị hẵn hòi rành mạch,mới tấm tắc mà khen rằng:

-Nước Sở có phúc, được người hiền thần ấy,chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa.Tử Văn thuở xưa làm lệnh doãn khiến cho nước Sở được cường thịnh,nay có Tôn Thúc Ngao,khác nào như Tử Văn sống lại !

Bấy giờ Trịnh Mục công (Lan )mất,thế tử Di lên nối ngôi,tức là Trịnh Linh công.Công tử Tống và công tử Quy Sinh cầm quyền chính nước TRịnh,vẫn bắt cá cả hai tay,chưa biết theo Tấn hay theo Sở.Sở Trang vương mới cùng với Tôn Thúc Ngao thương nghị, định đem quân sang đánh Trịnh.Bỗng nghe tin Trịnh Linh công bị công tử Quy Sinh giết chết?Sở Trang vương bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

-Nhân việc này ta đem quân sang đánh Trịnh,lại càng có cơ lắm!

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 52 : CÔNG TỬ TỐNG NGHĨ GHEN MIẾNG ĂNTRẦN LINH CÔNG QUÁ MÊ SẮC ÐẸP

Công tử Quy Sinh,tên tự là Tử-Gia.Công tử Tống tên tự là Tử-Công,hai người đều là quý thích(họ hàng thân thích của vua) ở nước Trịnh.Bấy giờ đang năm đầu Trịnh Linh Công,công tử Tống và công tử Quy Sinh hẹn nhau cùng vào triều.Bỗng đâu ngón tay trỏ của công tử Tống tự nhiên rung động.Công tử Tống mới giở ngón tay mình đang rung cho công tử Quy Sinh xem.Công tử Quy Sinh lấy làm lạ.Công tử Tống nói:

-Bao giờ ngón tay trỏ của tôi rung động thì thế nào ngày ấy tôi cũng được ăn một món gì lạ.Ngày trước tôi đi sứ nước Tấn, được ăn thạch hoa ngư (cá),sau sang sứ nước Sở, được ăn thiên nga(ngỗng),một lần được ăn hợp hoan quất (quýt),ngón tay trỏ đều báo trước,mà lần nào cũng nghiệm cả.Chưa biết ngày hôm nay được ăn món gì đây !

Khi công tử Tống và công Quy Sinh vào đến triều môn,thấy nội thị phụng mệnh đi gọi đồ tể gấp lắm...Công tử Tống hỏi nội thị rằng:

-Nhà ngươi gọi đồ tể có việc gì?

Nội thị nói:

-Có người ở Hán Giang về,mua được một con giải to lắm,nặng hơn hai trăm cân đem dâng cho chúa công.Chúa công nhận mà thưởng cho người ấy,bây giờ buộc con giải ở dưới thềm,sai tôi đi gọi người vào làm thịt, để định bày tiệc thết các quan đại phu.

Công tử Tống nói:

-Ðó tức là một món ăn quý lạ,ngón tay trỏ của ta rung động quả là có nghiệm.

Khi vào đến trong triều,trong thấy ở chân cột dưới thềm có buộc một con giải thật to,hai người cứ nhìn nhau mà cười. Ðến lúc yết kiến Trịnh Linh Công,nét mặt hai người vẫn còn hớn hở.Trịng Linh Công hỏi:

-Hai người hôm nay có sự gì mà vui mừng như vậy?

Công tử Quy Sinh nói:

-Lúc công tử Tống cùng với tôi sắp vào triều thì ngón trỏ rung động,công tử Tống có nói:hễ ngón tay trỏ rung động thì bao giờ cũng được ăn món gì quý lạ.Nay trông thấy dưới thềm có buộc con giải to,chắc là thế nào chúa công ngự tiệc,cũng có gia ân đến chúng tôi,vậy nên chúng tôi buồn cười.

TRịnh Linh Công nói đùa rằng:

-Nghiệm hay không,việc ấy còn tùy ở ta.

Khi tan triều về,công tử Quy Sinh bảo công tử Tống rằng:

-Miếng ngon dẫu có,nhưng nếu chúa công triệu nhà ngươi thì làm thế nào?

Công tử Tống nói:

-Ðã bày tiệc để thết các quan,có lẽ nào lại quên ta được!

Ðến lúc ngự tiệc,nội thị đi triệu khắp cả các quan đại phu.Công tử Tống hớn hở vào triều trông thấy công tử Quy Sinh.Liền cười mà bảo rằng:

-Tôi vẫn chắc rằng chúa công thế nào cũng triệu tôi.

Ðược một lúc,các quan đều đến cả.Trịnh Linh Công mời ngồi,rồi bảo các quan rằng:

-Thịt giải là một món ăn quý lạ,ta không dám ăn một mình,xin cùng với các ngươi cùng uống rượu.

Các quan cùng nói:

-Chúa công có của ngon vật lạ gì,cũng nhớ đến chúng tôi,chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được.

Nhà bếp đem món thịt giải dâng lên Trịnh Linh Công trước.Trịnh Linh Công nếm mà khen ngon,rồi sai người ban cho các quan mỗi người một bát thịt giải và một đôi đủa ngà,mà đưa từ bàn dưới lên đến bàn trên.Khi đưa đến bàn nhất,bàn nhì thì chỉ có một bát thịt giải,nhà bếp bèn tâu với Linh Công rằng:

-Thịt giải hết cả rồi,chỉ còn một bát,chúa công dạy đưa cho ai?

Trịnh Linh Công nói:

-Ðưa cho Tử Gia (tức là công tử Quy Sinh).

Nhà bếp đêm bát thịt giải đưa đến trước mặt công tử Quy Sinh.Linh Công cười rầm lên mà bảo rằng:

-Ta định ban khắp cho các ngươi mà lại thiếu một mình Tử-công(tức là công tử Tống).Thế là số Tử Công không được ăn thịt giải.Ngón tay trỏ sao gọi là nghiệm được.

Nguyên Linh công cố ý truyền cho nhà bếp nấu thiếu đi một bát thịt giải đế chứng tỏ rằng ngón tay trỏ của công tử Tống không nghiệm,cốt ý gây nên một câu chuyện cười.Ai ngờ công tử Tống đã trót nói khoát với công tử Quy Sinh,ngày nay thấy các quan đều được ăn cả,mà mình không đưọc ăn,thẹn quá hóa giận,mới chạy thẳng đến trước mặt Linh công,thò ngay tay vào bát thịt giải của Linh Công,vớt lấy một miếng cầm ăn,vừa ăn vừa nói:

-tôi đã được ăn rồi,có phải ngón tay trỏ của tôi không nghiệm đâu!

Nói xong,tức khắc lui ra.Trịnh Linh công nổi giận,ném đũa xuống mà rằng:

-Công tử Tống vô lễ,dám khinh ta như vậy,hay là cho nước Trịnh không có lưỡi gươm sắc chém được đầu hắn chăng!

Bọn công tử Quy Sinh đều sụp lạy mà tâu rằng:

- Công tử cậy tình thân thuộc,muốn được thừa huệ chúa công,có phải dám vô lễ đâu,xin chúa công tha lỗi cho.

- Linh công hầm hầm tức giận.Các quan đều mất vui mà tan về cả.Công tử Quy Sinh tức khắc đến nhà công tử Tống mà bảo rằng:

- Ngày hôm nay chúa công tức giận lắm,sáng mai công tử nên vào triều xin lỗi.

Công tử Tống nói:

-Hễ mình khinh người thì người ta cũng khinh mình dẫu ai cũng vậy,nay chúa công khinh tôi trước,lại còn trách nổi gì!

Công tử Quy Sinh nói:

-Ðã đành rằng thế,nhưng theo lễ vua tôi thì công tử nên tạ mới phải.

Ngày hôm sau,hai người lại cùng vào triều.Công tử Tống cũng đứng trong bạn mình mà làm lễ,nhưng không tỏ ra hối hận sợ hải chút nào, đến nổi công tử Quy Sinh không an tâm mới tâu với Linh công rằng:

-Công tử Tống sợ chúa công quở trách,nay đến tạ tội nhưng sợ quá không nói nên lời,xin chúa công khoan dung cho.

Trịnh Linh công nói:

-Ta sợ có lỗi với Tử Cống chứ Tử Cống có sợ có lỗi với ta đâu!

Nói xong,tức thì vùng vằng đứng dậy.Khi tan triều trở về,công tử Tống mời công tử Quy Sinh đến hà mà bảo rằng:

-Chúa công giận ta lắm,thế nào cũng trị tội ta,chi bằng ta nổi loạn mà giết ngay chúa công đi,thì mới khỏi chết được.

Công tử Quy Sinh lấy tay bịt tai mà bảo công tử Tống rằng:

-Chết nổi! Giống vật mình nuôi lâu ngày,mình còn chẳng nở giết,huống chi là vua một nước,sao công tử lại nói hồ đồ như vậy !

Công tử Tống nói:

-Ta nói bỡn đó thôi,xin chớ tiết lộ cho người khác biết.

Công tử Quy Sinh cáo từ trở về.Công tử Tống dò biết công tử Quy Sinh cùng với em Trịnh Linh công là công tử Khứ Tật chơi bời thân thiết lắm,mới đặt điều nói ngay giữa triều đường rằng:

-Tử Gia (tên tự công tử Quy Sinh) cùng với Tử Lương (tên tự công tử Khứ Tật ) hai người ngày đêm bàn nhau,không biết định làm việc gì ! E rằng việc ấy rất nguy hiểm cho nước Trịnh ta !

Công tử Quy Sinh vội vàng nắm lấy tay công tử Tống dắt đến chỗ vắng người mà bảo rằng:

-Sao công tử lại nói như vậy?

Công tử Tống nói:

-Nhà ngươi không đồng mưu với ta,thế nào ta cũng khiến nhà ngươi chết trước ta một ngày !

Công tử Quy Sinh vốn người nhu nhược,không dám quyết đoán,nghe lời công tử Tống nói,sợ hãi mà hỏi rằng:

-Nhà ngươi định làm thế nào?

Công tử Tống nói

-Chúa công vô đạo,xem một việc chia thịt giải này thì đủ biết.Nếu làm xong đại sự,thì ta cùng nhà ngươi lập công tử Tử Lương (tức là công tử Khứ Tật ) lên làm vua,rồi cầu thân với Tấn mà giữ lấy nước nhà.

Công tử Quy Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp lại rằng:

-Thôi,mặc công tử muốn làm gì thì làm,ta cũng không tiết lộ cho ai biết cả.

Công tử Tống liền tụ hợp trong nhà,nhân khi Linh công đi làm lễ thu tế,bèn đem nhiều tiền bạc đút lót cho thị vệ,nửa đêm lẻn vào chỗ vua ngủ ở trai cung,lấy cái bị đất đè lên mình mà giết đi rồi nói dối là Linh công bị bệnh trúng áp.Công tử Quy Sinh biết việc ấy mà không dám nói ra.Ngày hôm sau,công tử Quy Sinh và công tử Tống bàn nhau lập công tử Khứ Tật lên làm vua.Công tử Khứ Tật kinh sợ,từ chối rằng:

-Tiên quân ta có tám người con.Nếu định lập người hiền,thì tôi không có tài đức gì cả,mà định lập người nhiều tuổi thì đã có công tử Kiên.Tôi dầu chết thì thôi,chứ không dám quá phận như vậy!

Bấy giờ công tử Quy Sinh và công tử Tống mới lập công tử Kiên lên làm vua,tức là Trịnh Tướng công.Nguyên Trịnh Mục Công thuở xưa,cả thảy có mười ba người con.Trịnh Linh công bị giết,Trịnh Tướng công nối ngôi làm vua.Còn mười một người con nữa là: 1.Công tử KHứ Tật,tên tự là Tử Lương;2.Công tử Hỷ,tên tự là Tử Hán;3.Công tử Phi,tên tự là Tử Tứ;4.Công tử Phát,tên tự là Tử Quốc;5.Công tử Gia,tên tự là Tử Khổng;6.Công tử Yến,tên tự là công tử Du;7.Công tử Phú,tên tự là Tử Ấn;8.Côn gtử Phong;9.Công tử Vũ;10.Công tử Nhiên;11.Công tử Chí.

Trịnh Linh công ghét các em hay bè phái,chỉ sợ ngày sau sinh biến,mới bàn riêng với công tử Khứ Tật, định để một mình Khứ Tật ở nhà,còn thì đuổi hết các em đi sang các nước khác.Công tử Khứ Tật nói:

-Tiên quân ta thuở xưa,lúc mới sinh ra,có ứng vào cái mộng cành lan, đó là điềm họ ta sẽ được hưng thịnh.Anh em trong một nhà cũng ví như cái cây có cành,có lá,nếu đem cắt bỏ cành lá đi mà để cho gốc rễ trơ trọi thì chắc cái cây ấy chẳng bao lâu cũng đến khô héo.Nay chúa công bao dung được các em thì thôi,nhược bằng không bao dung được mà phải đuổi đi thì tôi cũng xin đi,chớ nỡ đâu một mình ở lại,mai sau còn mặt mũi nào trông thấy tiên quân ở dưới suối vàng nữa.

Trịnh Linh công nghe nói cảm động,mới cho cả mười một người em đều ở lại làm quan đại phu,cùng cầm quyền chính.Công tử Tống sai sứ giao kết với nước Tấn, để nhờ che chở cho nước Trịnh.Năm sau,Sở Trang vương sai công tử Anh Tề làm tướng, đem quân sang đánh Trịnh,và hỏi nước Trịnh rằng:

-Sao nước Trịnh dám giết vua?

Nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ đem quân sang cứu Trịnh.Nước Sở mới rút quân về đánh nước Trần.

Năm thứ ba đời Chu Ðịnh vương,quan thượng khanh nuớc Tấn là Triệu Thuẩn mất,Khướt Khuyết thay làm trung quân nguyên soái nghe nói nước Trần cùng với nước Sở giảng hòa,liền tâu với Tấn Thành công,sai Tuân Lâm Phủ theo Tấn Thành công, đem quân bốn nước Tống,Vệ Trịnh,Tào,kéo sang đánh nước Trần.Tấn Thành công đi đến nữa đường thì bị bệnh mà chết.Tuân Lâm Phủ liền rút quân về,rồi lập thế tử Nho lân làm vua,tức là Tấn Cảnh Công.Năm ấy Sở Trang vương đánh Trịnh, đóng quân ở đất Liễu Phân(đất nước Trịnh).Khướt Khuyết đem quân sang cứu Trịnh,lẻn đánh quân Sở.Quân Sở bị thua,người nước Trịnh ai cũng mừng rỡ,chỉ có một mình công tử Khứ Tật là sắc mặt lo âu.Trịnh tướng công lấy làm lạ,liền hỏi.Công tử Khứ Tật nói:

-Nước Tấn đánh được quân Sở,chẳng qua là gặp may mà thôi.Tôi chỉ sợ quân Sở căm tức mà lại sang đánh Trịnh, đóng quân ở phía Bắc sông Ðĩnh Thủy.Gặp bấy giờ công tử Quy Sinh bị bệnh chết,công tử Khứ Tật mới truy cứu cái tội nếm thịt giải khi trước,mà giết công tử Tống, đem phanh thây ở trong triều,lại đẽo áo quan của công tử Quy Sinh và đuổi gia quyến đi nơi khác,rồi sai sứ sang tạ tội với Sở Trang vương rằng:

-Nước tôi có kẻ phản nghịch là công tử Quy Sinh và công tử Tống,nay đã trị tội cả rồi,vậy chúa công tôi xin theo vua Trần cùng sang ăn thề mà qui phụ thượng quốc.

Sở Trang vương thuận cho, định họp vua Trần và vua Trịnh cùng ăn thề ở đất Thần lăng,bèn sai sứ sang ước hẹn với vua Trần.Sứ giả ở nước Trần về,nói rằng vua TRần bị quan đại phu là Hạ Trung Thư giết chết,trong nước đại loạn.Nguyên Trần Linh công là con Trần Cung công vốn người lẳng lơ biếng nhác,không có uy nghi gì cả,lại ham mê tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,tin dùng hai quan đại phu là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Hai người ấy đều một phường tửu sắc,bởi vậy vua tôi ý hợp tâm đầu,nói cười đùa bỡn,rất là chớt nhã,không còn e lệ gì nữa!

Bấy giờ trong triều có một người hiền thần là Tiết Giả,trung thực dám nói thẳng,Trần Linh công vẫn có ý nễ sợ.Lại có quan đại phu là Hạ Ngự Thúc?Nguyên người cha Hạ Ngự Thúc là công tử Thiếu Tây (con Trần Ðịnh công ),tên tự là Tử Hạ,bởi vậy Ngự Thúc dùng chữ Hạ làm họ,gọi là Hạ Ngự Thúc,vẫn nối đời làm quan tư mã nước Trần, ăn lộc ở đất Châu Lâm.Hạ Ngự Thúc lấy con gái TRịnh Mục công làm vợ,gọi là nàng Hạ Cơ,mắt phượng mày ngài,môi son má phấn,dáng dấp đã chẳng kém gì Ly Cơ,Tức Vi,lẳng lơ lại có phần hơn Ðắc Kỷ,Văn Khương,ai trông thấy cũng phải tâm thần mê mẫn.Hạ Cơ lại còn một câu chuyện ly kỳ nữa là: Năm mới mười lăm tuổi,nằm mộng thấy một chàng đẹp trai,mũ ngọc áo lông,tự xưng là thượng giới thiên tiên,cùng với Hạ Cơ giao hợp,rồi dạy Hạ Cơ những phép hấp tinh đạo khí, để thỏa thích lòng người trong khi giao tiếp.

Khi Hạ Cơ chưa lấy chồng, đã tư thông với anh là công tử Man (thứ huynh của Trịnh Linh công ),chưa được ba năm thì công tử Man ốm quặt quẹo rồi chết non,sau lấy Hạ Ngự Thúc,sinh được một người con trai tên gọi là Hạ Trưng Thư.Hạ Trưng Thư tên tự là Tử Nam,năm mười hai tuổi thì cha là Hạ Ngự Thúc ốm chết.Hạ Cơ thường có ngoại tình,mới để Hạ Trưng Thư ở trong thành theo thầy học tập,còn mình thì về ở đất Châu Lâm.Khổng Ninh và Nghi Hàng phủ nguyên trước là bạn đồng liêu với Hạ Ngự Thúc,trong thấy Hạ Cơ đẹp,vẫn có ý nom dòm.Hạ Cơ có một con thị nữ tên gọi là Hà Hoa là người rất tinh quái,vốn đã hiểu biết tính chủ.Một hôm Khổng Ninh cùng với Hạ Trưng Thư đi săn,nhân tiện đến Châu Lâm,rồi ở chơi ngủ lại ở đấy,Khổng Ninh chịu phí tâm cơ,mật kết cùng Hà Hoa,tặng một cành trâm và nhờ nói hộ với chủ,bởi thế mới cùng Hạ Cơ tư thông.

Khổng Ninh lại lấy trộm cái quần trong bằng gấm của Hạ Cơ đem ra khoe với Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng thèm thuồng,mới đem tiền của bàn mưu với Hà Hoa, để nhờ tiến dẫn hộ.Hạ Cơ xưa nay trông thấy Nghi Hàng Phủ là người vóc dạc cao lớn,mặt mũi phương phi,cũng đã có lòng thích,mới bảo Hà Hoa mời đến.Nghi Hàng Phủ khéo làm cho Hạ Cơ được bằng lòng,bởi vậy được Hạ Cơ yêu hơn Khổng Ninh.Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ rằng:

-Ngày trước quý nương có cho Khổng Ninh một cái quần gấm,nay đã có lòng yêu tôi,cũng nên cho tôi cái gì để kỷ niệm.

Hạ Cơ cười mà bảo rằng:

-Cái quần gấm ấy là hắn lấy trộm của thiếp,chứ không phải thiếp tặng cho đâu.

Hạ Cơ lại ghé tai bảo nhỏ Nghi Hàng Phủ rằng:

-Dẫu nằm cùng giường với nhau,nhưng cũng có kẻ hậu người bạc chứ!

Nói xong,liền cởi cái áo cánh bằng lụa đưa tặng Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ bằng lòng lắm,từ bấy giờ hai người lại càng thân mật,còn Khổng Ninh thì mỗi ngày Hạ Cơ một nhạt dần.Vì Khổng Ninh khi trước có đem cái quần gấm của Hạ Cơ khoe khoang với Nghi Hàng Phủ,sau Hàng Phủ được cái áo cánh của Hạ Cơ,lại đem khoe với KHổng Ninh.KHổng Ninh hỏi chuyện Hà Hoa,biết là Nghi Hàng PHủ cùng với Hạ Cơ thân mật lam,mới sinh lòng ghen ghét định tìm kế để phá.Khổng Ninh nghĩ thầm rằng:

-Chúa công cũng là người dâm dục,nghe đồn Hạ Cơ đẹp,vẫn có lòng mơ ước, đã nhiều lần nói đến,chỉ tiếc rằng cờ chẳng đến tay,chi bằng ta dắt chúa công đến,tất nhiên chúa công phải ơn ta.Vả chúa công có bệnh hôi nách,chắc là Hạ Cơ cũng không ưa,bấy giờ ta thừa cơ mà hưởng chung cuộc vui thú,khiến Nghi Hàng Phủ phải nhạt bớt đi một vài phần,cho thỏa tấm lòng căm tức của ta, ấy chính là diệu kế đó!

KHổng Ninh bèn lẻn vào yết kiến Trần Linh công,nhân khi đàm luận,nói đến chuyện Hạ Cơ là người đẹp,thiên Hạ không ai bằng.Linh công nói:

-Ta cũng nghe đồn từ lâu,nhưng năm nay chắc nàng đã gần bốn mươi tuổi,e rằng hoa đắc tháng ba,còn gì là xuân nữa!

Khổng Ninh nói:

-Hạ Cơ khéo giữ nhan sắc lắm,năm nay vẫn còn như con gái mười lăm tuổi,và am hiểu cái thuật trong phòng,giao tiếp rất thần diệu.

Linh công bấy giờ lửa dục nổi lên ngùn ngụt,sắc mặt đỏ bừng,bảo Khổng Ninh rằng:

-Nhà ngươi có kế gì khiến cho ta được đi lại với Hạ Cơ thì ta không dám quên ơn.

Khổng Ninh nói:

-Hạ Cơ nhà ở Châu Lâm.Chỗ ấy nhiều cây cối,phong cảnh rất đẹp,sáng mai chúa công giả cách ra chơi Châu Lâm,tât thế nào Hạ Cơ cũng phải nghênh tiếp.Hạ Cơ có một con thị nữ,tên gọi Hà Hoa,cũng khá thông thạo việc tình,dẻ tôi xin đem ý chúa công bảo nó khéo nói với Hạ Cơ,chắc thế nào cũng xong chuyện.

Linh công cười mà bảo rằng:

-Việc này ta tin cậy ngươi đó!

Ngày hôm sau,Trần Linh công truyền thẳng ngựa xe ra chơi Châu Lâm,cho quan đại phu là Khổng Ninh đi theo.Khổng Ninh sai người đưa tin trước cho Hạ Cơ để sửa tiệc sẵn,lại tỏ ý cho con Hà Hoa biết,bảo nó nói với Hạ Cơ.Linh công đến Châu Lâm.Hạ Cơ mặc lễ phục ra rước vào trong nhà rồi sụp lạy mà tâu rằng:

-Con trai thiếp là Hạ Trưng Thư đi trọ học vắng nhà,không biết chúa công tới đây,vậy nên không kịp nghêng tiếp,xin chúa công tha lỗi.

Giọng nói thỏ thẻ như tiếng chim oanh,nghe rất êm tai ! Linh công thấy Hạ Cơ nhan sắc chẳng khác gì một vị thiên tiên,bọn phi tần trong cung ít ai bì kịp,mới bảo Hạ Cơ rằng :

-Thôi ta miễn lễ cho quý nương,ta nghe nói quý nương ở đây có cái vườn hoa đẹp,vậy ta muốn vào xem một chút.Hạ Cơ nói:

-Từ khi phu quân tạ thế đi rồi,cái vườn này bỏ hoang,không ai quét dọn,thiếp xin cáo tội trước với chúa công.

Hạ Cơ ứng đối rất lưu loát.Trần Linh công càng thêm có lòng yêu mến,truyền cho Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, để đưa vào ngoạn cảnh ở vườn hoa.Hạ Cơ bỏ lễ phục ra,bên trong lại mặc có một bộ quần áo thường rất nhã đạm,trông khác nào như đóa hoa lê ở dưới bóng trăng,chùm mai nhị ở trong đám tuyết, ưa nhìn biết nhường nào ! Hạ Cơ đưa Linh công vào chốn hậu viên.Vườn dẫu chẳng lấy gì làm rộng lắm,nhưng có đủ hoa tươi lá lạ,cây đẹp cỏ thơm,một dòng nước chảy quanh,mấy gian nhà thủy tạ,khoảng giữa lại có hiên cao,tức là chỗ yến khách,hai đầu có hai dãy nhà,lối đi thông vào nội tẩm.Phía trong nữa có một chuồng ngựa,còn về phía tây vườn có một chỗ đất bỏ không, để làm chỗ tập bắn.

Linh công còn đang ngoạn cảnh thì trong hiên đã bày một bàn tiệc thịnh soạn.Hạ Cơ bưng chén rượu đứng mời?Trần Linh công cho ngồi hầu ở bên cạnh.Hạ Cơ khiêm nhượng không dám vào ngồi.Linh công nói :

-Có lẽ nào chủ nhân lại không ngồi! Thôi thì hôm nay ta hãy miễn lễ vua tôi cho,cứ ngồi lại uống rượu cho vui.

Linh công truyền cho Khổng Ninh ngồi bên hữu,Hạ Cơ ngồi bên tả.Trong khi uống rượu,Linh công cứ nhìn Hạ Cơ chòng chọc,mắt không hề chớp.Hạ Cơ cũng liếc mắt đưa tình.Linh công nhân lúc tửu hứng,lại càng si tình.Khổng Ninh ở bên cạnh tán tụng thêm vào,làm cho Linh công tấm lòng phơi phới,rượu uống vào mãi mà không thấy nhiều ! Mặt trời đã lặn về tây,người nhà thắp nến,lại uống một chập nữa,Linh công say quá,nằm gục xuống đấy mà ngủ,tiếng ngáy khè khè.Khổng Ninh bảo riêng với Hạ Cơ rằng:

-Chúa công hâm mộ nhan sắc của quí nương,ngày nay tới đây,tìm cuộc truy hoan,quý nương chớ nên trái ý.

Hạ Cơ mĩm cười,không nói gì cả.Khổng Ninh tức khắc truyền cho quân sĩ đều ra ngoài yên nghỉ.Hạ Cơ sửa soạn gối thêu mền gấm,lại tắm gội sạch sẽ để chờ khi vua ngự.Bấy giờ chỉ để có thị nữ Hà Hoa đứng hầu ở cạnh Linh công. Ðược một lúc,Linh công tỉnh rượu,mở mắt nhìn,trông thấy Hà Hoa,liền hỏi:

-Ai đấy ?

Hà Hoa quỳ xuống mà tâu rằng:

-Tiện tì tên gọi Hà Hoa,phụng mệnh chủ mẫu cho ra đây hầu hạ chúa công.

Nói xong,liền dâng một chén nước mai thang để giã rượu.

Trần Linh công hỏi:

-Nước mai thang này,ai nấu mà khéo nhĩ?

Hà Hoa nói:

-Tâu chúa công,nước mai thang là do tiện tì nấu.

Trần Linh công nói:

-Nhà ngươi biết nấu mai thang,vậy thì nhà ngươi biết làm mối cho ta không?

Hà Hoa giả cách không hiểu mà đáp rằng:

-Tiện tì đây không quen làm mối,nhưng cũng xin hết lòng,chẳng hay chúa công để ý đến người nào?

Trần Linh công nói:

-Ta vì chủ mẫu nhà ngươi mà ruột gan rối loạn.Nếu nhà ngươi giúp ta được thì ta sẽ trọng thưởng.

Hà Hoa nói :

-Chủ mẫu tôi phận hèn,sợ không đáng hầu quý nhân,nếu chúa công có lòng nghĩ đến thì tiện tì xin đưa vào.Linh công mừng lắm,sai Hà Hoa cầm đèn lồng để dẫn lối. Ðường đi khuất khúc,rối vào đến phòng ngủ của Hạ Cơ.Hạ Cơ đang ngồi một mình ở dưới bóng đèn ngẩn ngơ chờ đợi,bổng nghe tiếng giầy,toan hỏi xem ai thì Linh công đã bước vào đến trong cửa.Hà Hoa cầm đèn quay ra.Linh công không nói năng gì, ẫm Hạ Cơ vào màn cùng nằm.Trong khi ân ái thấy chẳng khác gì gái tơ,Linh công lấy làm lạ,liền hỏi.Hạ Cơ nói:

-Thiếp có phép nội thị,sau khi sanh đẻ cũng chẳng qua chỉ ba ngày thì đã lại nguyên cũ.Linh công khen rằng:

-Ta được gặp quý nương,chẳng khác gì được gặp thiên tiên.

Sức Linh công, đã không bằng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phú,hơi hám lại không được thơm tho,chỉ vì là ông vua một nước,nên Hạ Cơ cũng ham lợi mà không quản ngại,chiều chuộng đủ điều trong khi cùng giường cùng gối.Linh công thấy vậy,cho là một sự gặp gỡ ít có gần đến gà gáy,Hạ Cơ giục Linh công trở dậy.Linh công nói:

-Ngày nay ta được gần gụi ái khanh,nghĩ lại bọng phi tần,không khác gì đất bùn chẳng hay ái khanh có nghĩ đến ta chút nào không?

Hạ Cơ ngờ Linh công đã biết việc Khổng Ninh và Nghi hàng Phủ đi lại với mình,mới nói với Linh công rằng:

-Xin nói tình thực với chúa công,từ khi phu nhân thiếp tạ thế đi rồi,thiếp không tự chế được mình,cũng có đi lại với người khác,nay đã được hầu hạ chúa công thì từ bây giờ trở đi,thiếp không dám tiếp ai nữa !

Linh công nói:

-Ái khanh xưa nay giao tiếp những ai,nên kể thực cho ta biết,can chi mà phải giấu diếm?

Hạ Cơ nói:

-Hai quân đại phu là khổng Ninh và Nghi Hàng phủ vì cớ đi lại trông nom đứa con nhỏ của thiếp,thành ra có cùng thiếp dan díu,ngoài ra không có một ai.

Linh công cười mà bảo rằng:

-Thảo nào mà Khổng Ninh cứ khen cái tài tiếp của ái khanh.Nếu chưa trải qua sao có biết được !

Hạ Cơ nói:

-Tiện thiếp biết tội đã nhiều,xin chúa công thứ cho.

Linh công nói:

-Khổng Ninh có cái công tiến dẫn ái khanh,ta còn nhớ ơn, ái khanh chớ ngại.Ta chỉ ước ao được cùng ái khanh đi lại lâu dài,còn thì mặc ái khanh,ta chẳng cấm làm gì!

Hạ Cơ nói:

-Chúa công cứ thường thường đi lại thì có khó gì chẳng được lâu dài với nhau.

Linh công trở dậy.Hạ Cơ cởi cái áo lót mình,mặc vào cho Trần Linh công mà nói rằng:

-Mỗi lúc chúa công trông thấy cái áo này cũng như trông thấy tiện thiếp.

Hà Hoa lại cầm đèn lồng đưa Linh công theo lối cũ ra ngoài hiên.Sáng hôm sau,Hạ Cơ mời Linh công lên nhà trên để ngự cơm sáng.Cơm xong.Khổng Ninh lại theo Linh công về triều.Các quan đều hợp cả ở triều môn chờ đợi.Linh công truyền cho miễn triều,rồi đi thẳng vào trong cung.Nghi Hàng Phủ nắm lấy áo Khổng Ninh,cố hỏi xem tối hôm trước Linh công ngủ ở đâu.Khổng Ninh không thể giấu được ,mới phải nói thật cả.

Nghi Hàng Phủ biết là Khổng Ninh tiến dẫn,mới giẫm chân xuống đất mà gắt rằng:

-Món tốt như thế ,sao lại nhường cho người ta hưởng một mình !

Khổng Ninh nói:

-Chúa công lấy làm đắc ý lắm ! Lần sai thì đến phần nhà ngươi,có gì mà lo !

Hai người cười sằng sặc rồi trở về.Ngày hôm sau,Linh công ra triều, đợi lúc quan đã tan về cả,mới gọi Khổng Ninh đến trước mặt mà tạ ơn tiến dẫn Hạ Cơ,lại gọi Nghi Hàng Phủ vào mà hỏi rằng:

-Có ái thú như thế mà không tâu với ta,hai người lại hưởng trước là nghĩa làm sao?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đồng thanh tâu rằng:

-Thần đằng quả không gì cả !

Linh công nói:

-Chính Hạ Cơ đã thú với ta như vậy,các người lại còn giấu diếm làm gì!

Khổng Ninh nói:

-Thí dụ như một món ăn,bày tôi phải nếm trước,nếu nếm mà không thấy ngon thì không dám tiến dâng.

Linh công cười mà bảo rằng:

-Thí dụ như món chân gấu (là món ăn ngon nhất trong các món ăn của Trung quốc) thì nhường cho ta ăn trước cũng được chứ sao !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đều bưng miệng cười,Linh công lại nói:

-Ta cùng hai người dẫu đều đều đi lại với nàng,nhưng riêng với ta,nàng có tặng một vật để làm kỷ niệm.

Nói xong,liền vạch cái áo lót mình cho Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xem mà bảo rằng:

-Mỹ nhân cho ta đấy,hai người có được không ?

Khổng Ninh nói

-Tôi cũng có !

Linh công hỏi :

-Nàng tặng nhà ngươi cái gì ?

Khổng Ninh vén áo, để lộ cái quán gấm,rồi nói với Linh công rằng:

-Hạ Cơ tặng cho tôi đấy ! Chẳng những tôi có,Nghi Hàng phủ cũng có.

Linh công lại hỏi Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cởi cái áo cánh lụa đưa trình Linh công.Linh công bật cười mà nói rằng:

-Ba ta người nào cũng đều có một vật tùy thân để làm tang chứng,ngày khác đi ra Châu Lâm,có thể cùng nhau mỡ đại hội "liên sàng" được đấy !

Một vua và hai bày tôi, đùa bỡn nhau ở chốn triều đường,tiếng đồn đến ngoài,làm cho một vi trung thần nghiến răng nghiến lợi mà kêu rằng:

-Triều đình là chỗ phép tắc kỷ cương mà nhảm nhí như vậy thì cơ mất nước đến nơi rồi !

Nói xong,liền đi thẳng vào triều để đem lời can ngăn

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 53 : SỞ TRANG VƯƠNG TRẢ LẠI ÐẤT TRẦNTẤN CẢNH CÔNG ÐEM QUÂN CỨU TRỊNH

Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đem những đồ vật của Hạ Cơ tặng cho, đùa bởn với nhau ở chốn triều đường.Quan đại phu là tiết gia nghe nói,liền vào triều để định can Linh công.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vốn sợ Tiết Giã là người chính trực,nay thấy vua không triệu mà Tiết Giã đến,biết là Tiết Giã có ý muốn đem lời can ngăn,mới cáo từ Linh công mà lui ra.Linh công rảo đến trước mặt,nắm lấy vạt áo Linh công,rồi quỳ xuống mà tâu rằng:

-Tôi nghe nói vua tôi phải lễ nghĩa,nam nữ phải có phân biệt,nay vua tôi dắt nhau đi dâm loạn,lại đem chuyện ấy khoe khoang ở chốn triều đường,không còn một mãy may liêm sỉ nào cả. Ðó là cái cơ mất nước,xin chúa công hãy nghĩ lại.

Trần Linh công thẹn toát mồ hôi ra,lấy áo che mặt mà nói rằng:

-Nhà ngươi bất tất phải nói lắm,ta đã biết hối rồi !

Tiết Giã cáo từ lui ra.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đứng ở ngoài cửa,trong thấy Tiết Giã hầm hầm nổi giận mà lui ra,thì lẩn vào trong đám đông người để tránh.Tiết Giã trông thấy,gọi Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại mà trách rằng:

-Vua có điều thiện ,bề tôi nên bày ra,vua có điều bất thiện,bề tôi nên dấu đi.Nay hai người đã xui vua làm điều bất thiện,mà lại còn nói ra,nhân dân ai cũng biết cả,thì còn ra thể thống gì,sao hai ngươi không biết xấu hổ !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ không biết nói sao,chỉ vâng dạ và chịu lỗi.Tiết Giã đi khỏi,Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vào yết kiến Linh công,thuật lại những lời nói của Tiết Giã và tâu với Linh công rằng:

-Từ nay trở đi,chúa công chớ đi chơi Châu Lâm nữa !

Linh công nói:

-Vậy thì hai người có đi hay không?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nói:

-Tiết Giã chỉ cốt can chúa công,chứ có việc gì đến chúng tôi.Vậy thì chúng tôi đi được,mà chúa công không nên đi.

Linh công hăng hái nói rằng:

-Thà rằng ta mất lòng Tiết Giã,chứ đời nào lại chịu bỏ nơi vui thú ấy !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại tâu rằng:

-Nếu chúa công lại đi nữa thì không khỏi Tiết Giã làm rầy rà lôi thôi,biết làm thế nào?

Linh công nói:

-Hai người có kế gì mà khiến Tiết Giã đừng nói nữa không?

Khổng Ninh nói:

-Nếu muốn cho Tiết Giã đừng nói thì chỉ có một cách khiến hắn không mở miệng ra được.

Linh công cười mà nói rằng:

-Hắn có miệng thì hắn nói,ta dùnh cách gì mà khiến cho hắn không mở miệng ra được.

Nghi Hàng Phủ nói:

-Tôi hiểu câu nói của Khổng Ninh rồi ! Người ta chết thì không mở miệng ra được,sao chúa công không hạ lệnh giết chết Tiết Giã đi thì có phải được vui thú suốt đời hay không?

Linh công nói:

-Ta giết hắn thế nào được?

Khổng Ninh nói:

-Hay là dể tôi sai một người rình mà đâm chết hắn đi !

Linh công nói:

-Nhà ngươi cứ làm !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ cáo tự lui ra,rồi bàn nhau đem tiền của thuê thích kháchđứng rình ở một chỗ hẻo lánh đợi Tiết Giã vào triều đi qua,giết chết Tiết Giã.Người nước Trần thấy vậy,cho là Trần Linh công sai người giết,chứ không biết rằng đó là âm mưu của Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Tiết Giã chết rồi,vua tôi lại càng không kiêng nễ gì nữa,lâu lâu lại rủ nhau ra chơi Châu Lâm.Trưóc còn giấu giếm,sau lâu ngày quen thói,công nhiên ra chơi chẳng nghĩ gì đến tai tiếng nữa.Người nước Trần có làm một bài thơ "Châu Lâm" để chê Linh công.Hạ Trưng Thư dần dần khôn lớn,biết chuyện mẹ như vậy,trong lòng khác nào dao đâm,nhưng ngại vì có Trần Linh công,không làm thế nào được.Mỗi khi Linh công sắp ra Châu Lâm thì Trưng Thư tạo sự đi vắng, để cho khuất mắt,còn bọn trai gái dâm loạn ấy thấy Hạ Trưng Thư đi vắng thì lấy làm mừng.

Ngày tháng thoi đưa,Hạ Trưng Thư đã mười tám tuổi,cao lớn đẹp đẽ,có sức khỏe,lại giỏi nghề bắn cung.Linh công muốn lấy lòng Hạ Cơ;mới cho Trưng Thư nối chức của cha làm quan tư mã,coi giữ binh quyền.Trưng Thư tạ ơn,rồi vào bái yết Hạ Cơ.Hạ Cơ dặn rằng:

-Ðấy là ân điền của chúa công,con nên một lòng vì nước,chớ nghĩ gì đến việc nhà.

Trưng Thư từ biệt Hạ Cơ vào triều cung chức.Một hôm,Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại ra chơi Châu Lâm.Hạ Trưng Thư cảm ơn vua cho được làm tư mã,về nhà bày tiệc để thết đãi.Hạ Cơ vì có con ở đấy,không dám ra hầu rượu.Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trong khi say rượu,cười nói đùa bỡn,múa tay hoa chân.Hạ Trưng Thư trông thấy ghét lắm mới lui vào sau bình phong để nghe xem nào thế nào.Trần Linh công bảo Nghi Hàng Phủ rằng:

-Hạ Trưng Thư cao lớn đẹp đẻ lắm,trông giống nhà ngươi lắm,hay là con rơi của nhà ngươi đấy?

Nghi Hàng Phủ cười mà nói rằng:

-Hạ Trưng Thư hai mắt lau láu,rất giống chúa công.

Khổng Ninh ở bên cạnh nói bông rằng:

-Chúa công và Nghi Hàng Phủ hãy còn ít tuổi,sinh thế nào được hắn,tôi chắc hắn có nhiều bố lắm,dẫu mẹ hắn cũng không nhớ được hắn là con ai nữa !

Nói xong,ba người lại vỗ tay cười ầm lên.Hạ Trưng Thư nghe nói,hổ thẹn vô cùng,tức thì hầm hầm nổi giận,vào khóa chặt cửa phòng của Hạ Cơ lại,rồi lẻn qua cửa ngang ra ngoài,truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh phủ,không được để cho Linh công cùng KHổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy thoát.

Quân sĩ vâng lệnh,vây kín quanh phủ.Hạ Trưng Thư mình mặc nhung phục tay cầm bảo kiếm, đem một toán quân tiến vào cửa giữa,quát to lên rằng:

-Mau mau bắt lũ dâm tặc !

Linh công đang cười nói khề khà,chẳng biết tí gì cả.Khổng Ninh nghe tiếng,vội vàng nói với Linh công rằng:

-Nguy cấp lắm rồi!

Hạ Trưng Thư đánh lừa ta rồi !Nay hắn đem quân vào,kêu bắt dâm tặc,ta biết chạy đường nào cho thoát?

Nghi Hàng Phủ nói:

-Cửa trước nó đã vây kín thì ta chạy về cửa sau.

Ba người xưa nay ở nhà Hạ Cơ đã thông thuộc cả đường lối,Linh công định chạy vào phòng Hạ Cơ,dể cầu Hạ Cơ cứu cho.Chẳng ngờ khi vào đến nơi,thấy cửa phòng đã khóa chặt,lại càng sợ hãi,liền chạy ra sau vườn.Trưng Thư cầm kiếm đuổi theo.Linh công nhớ rằng ở bên chuồng ngựa,có cái tường thấp,có thể nhảy qua được,mới chạy về phía chuồng ngực.Trưng Thư quát to lên rằng:

-Ðứa hôn quân kia,mày chạy đường nào cho thoát !

Trưng Thư giương cung bắn ngay một phát,nhưng không trúng.Linh công chạy vào chuồng ngựa,toan tìm chỗ ẩn thân,chẳng may bị đàn ngựa cắn đá,vội vàng lui ra.Trưng Thư đuổi kịp,lại bắn thêm một phát nữa,trúng vào giữa bụng,Trần Linh công chết ở cạnh chuồng ngựa.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trông thấy Linh công chạy về phía đông,biết là Hạ Trưng Thư tất nhiên đuổi theo,mới quay về phía Tây chạy vào trường tập bắn,tìm chỗ rào thủng chui ra được,không dám về nhà nữa,rủ nhau trốn sang nước Sở.Hạ Trưng Thư bắn chết Trần Linh công,rồi kéo quân vào thành,nói dối là Linh công say rượu ngộ cảm mà chết,lập thế tử Ngọ lên nối ngôi,tức là Trần Thành công.Trần Thành cọng trong lòng căm tức Hạ Trưng Thư,nhưng sức không làm gì nổi,nên phải ẩn nhẩn không dám nói ra.Hạ Trưng Thư cũng sợ chư hầu đem quân đến hỏi tội mình,mới cố ép Trần Thành công phải sanh chầu nước Tấn, để vững chỗ dựa.

Lại nói chuyện sứ nước Sở phụng mệnh Sở Trang vương sang hẹn Trần Linh công đến hội ở đất Thần Lăng,khi sang chưa đến nước Trần,nghe tin có bạn,mới quay trở về,lại vừa gặp Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trốn sang nước Sở,vào yết kiến Sở Trang Vương,giấu kín những chuyện vua tôi dâm loạn,chỉ nói việc Hạ Trưng Thư làm phản,giết Trần Linh công,cũng giống như sứ nước Sở về báo khi trước.Sở Trang vương mới hợp triều thần để thương nghị.Bấy giờ nước Sở có quan đại phu tên gọi là Khuất Vu ,tên tự là Tử Linh (con Khuất Ðăng ).Khuất Vu mặt mày thanh tú,văn vũ toàn tài,chỉ phải cái bệnh hiếu sắc,vẫn chuyên học phòng trung bí thuật của Bành tổ,mấy năm trước sang sứ nước Trần,gặp Hạ Cơ đi chơi được thấy nhan sắc,lại nghe đồn nghề chơi tuyệt diệu,thì trong lòng ước ao lắm. ÐẾn lúc nghe nói Hạ Trưng Thư làm phản,KHuất Vu muốn nhân việc ấy để mà sang lấy Hạ Cơ,mới cố khuyên Sở Trang vương đem quân sang đánh Trần.Quan lệnh doãn là Tôn THúc Ngao cũng nói nên đánh.

Sở Trang Vương mới đưa một đạo hịch sang nước Trần,nói rằng: "Hiếu thị cho nhân dân nước Trần biết,Hạ Trưng Thư có tội giết vua,trên thần dưới người đều tức giận cả,nước Trần không đánh được,vậy ta phải yên lặng,không được náo động"

Người nước Trần đọc hịch,ai cũng đổ lỗi cho Hạ Trưng Thư,muốn nhờ tay nước Sở giết đi,cho nên không muốn chống cự quân Sở.Sở Trang vương củng với các tướng là công tử Anh Tề,công tử Trắc và Khuất Vu đem đại binh kéo thẳng đến kinh thành nước Trần,chẳng có ai chống cự lại cả.Hạ Trưng Thư biết là người trogn nước oán mình,bèn trốn ra Châu Lâm.Bấy giờ Trần Thành Công còn đang ở nước Tấn chưa vềnquan đại phu là Viên Pha (cháu bốn đời Viên Ðào Ðề )cùng với triều thần thương nghị rằng:

-Vua nước Sở đem quân sang đây,chỉ cốt để trị tội Hạ Trưng Thư,chi bằng ta bắt gặp Hạ Trưng Thư đem nộp vua Sở rồi xin giảng hòa.

Triều thần đều lấy làm phải.Viên Pha liền sai con là Kiều Như đem quân tới Châu Lâm để bắt Hạ Trưng Thư?Kiều Như chưa kịp đi thì quân nước Sở đã kéo đến dưới chân thành .Nước Trần lâu nay,chính lệnh không ra gì,và Trần Thành công đi vắng,không ai làm chủ,dân nước Trần mới mở cửa thành cho quân Sở vào.Sở Trang vương kéo quân vào hỏi bọn Viên Pha rằng:

-Hạ Trưng Thư ở đâu?

Viên Pha nói:

-Hiện nay ở Châu Lâm.

Sở Trang vương lại hỏi:

-Sao các quan nước Trần lại dung túng cho Hạ Trưng Thư mà không trị tội?

Viên Pha nói:

-Không phải là chúng tôi không muốn trị tội,nhưng thế không làm gì nổi.

Sở Trang vương liền sai Viên Pha đi dẫn đường rồi đem đại phu tiến sang Châu Lâm, để công tử Anh Tề đóng một toán quân ở trong thành.Hạ Trưng Thư đang thu nhập gia tài, địng đem mẹ là Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh,nhưng chưa kịp thì quân Sở vây kín Châu Lâm,bắt được Hạ Trưng Thư.Sở Trang vương không thấy Hạ Cơ đâu cả,sai tướng sĩ sục tìm thì bắt được ở sau vườn,còn Hà Hoa không biết trốn đi đâu mất.Hạ Cơ sụp lạy trước mặt.Sở Trang vương mà tâu rằng:

-Thiếp chẳng may gap lúc nước nhà biến loạn,phận liễu bồ sống chết ở trong tay đại vương,nếu đại vương rủ lòng thương,thì xin cho thiếp được sung vào làm kẻ thị tì phục dịch.

Hạ Cơ nhan sắc đã diễm lệ,lời nói lại trang nhã rạch ròi,Sở Trang vương thấy vậy tâm thần mê mẩn,bảo các tướng rằng:

-Phi Tần nước Sở ta dẫu nhiều,nhưng được như Hạ Cơ thì rất ít, ý ta muốn đem về cung,các người nghĩ thế nào?

Khuất Vu can rằng:

-Ðại vương đem quân sang đây là cốt để trị kẻ có tội,nếu lấy Hạ Cơ thì hoá ra một người tham sắc,sao gọi là bá chủ được?

Trang vương:

-Tử Linh (tên tự của Khuất Vu )nói phải lắm,ta không dám nạp vào hậu cung nữa.Nhưng người đàn bà này là một vật quí ở thế gian nếu để mắt ta trông thấy thì khó lòng nhịn được.

Trang vương bèn truyền cho quân sĩ đuổi Hạ Cơ đi.Bấy giờ công tử Trắc đứng bên cạnh cũng mê nhan sắc của Hạ Cơ,lại thấy Sở Trang vương không dùng,mới quỳ mà tâu rằng:

-Tôi chẳng may góa vợ,xin đại vương cho tôi lấy nàng làm vợ.

Khuất Vu lại can rằng:

-Ðại vương không nên cho.

Công tử Trắc giận lắm,nói:

-Tử Linh không bằng lòng cho ta lấy Hạ Cơ là bởi cớ sao?

Khuất Vu nói:

-Người đàn bà ấy là một vật chẳng lành ở trong trời đất,cứ như tôi đã biết thì công tử Man và Hạ Ngự Thúc chính vì nó mà chết non, vua Trần và Hạ Trưng Thư vì nó mà bi giết,Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì nó mà phải tan nát.Thiên hạ thiếu gì người có nhan sắc mà lại đi lấy một người như thế, để di họa về sau !

Sở Trang vương nói:

-Cứ như lời Tử Linh nói thì ta cũng sợ lắm !

Công tử Trắc lại bảo Khuất Vu rằng:

-Nếu vậy thì tôi cũng không dám ! Nhưng người bảo đại vương,không nên lấy,và ta cũng không nên lấy,hay nhà ngươi muốn lấy chăng ?

Khuất Vu nói luôn mấy câu rằng:

-Không dám ! Không dám !

Sở Trang vương nói:

-Nếu để hắn vô chủ thì có người tranh,ta nghe nói Tương lão mới rồi vợ chết, âu là ta cho Tương lão lấy làm vợ kế.

Bấy giờ Tương Lão cũng đem quân theo Sở Trang vương, ở toán hậu đội.Trang vương bèn triệu đến mà gã Hậu Cơ.Hai vợ chồng cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.

Khuất Vu can Sở Trang vương và công tử Trắc không nên lấy Hạ Cơ là có ý muốn giữ phần cho mình,nay thấy Sở Trang vương đem gả cho Tương Lão thì nghĩ thầm rằng: "Ðáng tiếc ! Ðáng tiếc!".Nhưng lại tự nhủ rằng:

-Tương Lão chịu nổi Hạ Cơ thế nào được,chẳng qua cũng chỉ trong dăm sáu tháng,một năm thì Hạ Cơ cũng lại góa chồng thôi !Bấy giờ ta sẽ định liệu.

Sở Trang vương đóng quân ở Châu Lâm một đêm,rồi lại trở về kinh thành nuớc Trần.Công tử Anh Tề đón vào trong thành.Sở Trang vương truyền đem Hạ Trưng Thư ra cửa thành mà phân thây,theo như lối Tề Tướng công xử tội Cao Cừ Di ngày trước.Sở Trang vương trị tội Hạ Trưng Thư rồi,thu hết bản đồ nước Trần,lập làm một huyện của nước Sở,cho công tử Anh Tề làm quan trấn thủ, để quản trị dân nước Trần,còn bọn Viên Pha, đều bắt đem về nước Sở cả.

Các nước phụ thuộc vào nước Sở ở Nam Phương nghe tin Sở Trang vương diệt được nước Trần, đều đến triều hạ,chỉ có quan đại phu nước Sở là Thân Thúc Thời đi sứ nước Tề chưa về (bấy giờ Tề Huệ công mất thế tử Vô Giã lên nối ngôi,tức là Tề Khoảnh công.Tề và Sở vẫn giao hiếu với nhau,bởi vậy Sở Trang vương mới sai Thân Thúc Thời sang viếng vua cũ và dùng vua mới ), đến lúc về,thấy Sở Trang vương diệt được nước Trần mà không chúc mừng câu nào cả,Sở Trang vương sai nội thị ra trách mắng Thân Thúc Thời rằng:

-Hạ Trưng Thư vô đạo giết vua,ta đem quân sang hỏi tội,thu được bờ cõi nước Trần,các nước phụ thuộc của ta đều đến triều hạ cả,mà nhà ngươi chẳng nói gì đến,hay có ý cho việc ta đánh Trần là không phải?Thân THúc Thời đi theo sứ giả vào yết kiến để được nói hết lời trước mặt nhà vua.Sở vương thuận cho.Thân Thúc Thời nói rằng:

-Có một người dắt trâu đi tắt qua ruộng người ta,dẫm nát cả lúa mạ.Người chủ có ruộng giận lắm,cướp lấy trâu.Như cái kiện ấy mà đến tai đại vưong thì đại vương định xử ra làm sao?

Sở Trang vương nói:

-Dắt trâu dẫm lúa,dẫu có tổn hại nhưng cũng chẳng là bao,mà lại cướp lấy trâu thì chẳng cũng quá lắm ư ! Nếu ta xử cái kiện ấy thì phạt nhẹ đứa dắt trâu mà trả trâu cho nó,nhà ngươi nghĩ có phải không?

Thân Thúc Thời nói:

-Sao đại vương xử kiện thì sáng như thế mà xử với nước Trần lại tối như vậy ! Hạ Trưng Thư giết vua,thì nó có tội,không phải vì thế mà giết Trần đáng diệt, đại vương trị tội hắn là đủ,nay lại diệt nước Trần thì khác nào như chuyện cướp trâu,còn mừng về nổi gì !

Sở Trang vương nói:

-Nhà ngươi nói phải lắm !

Thân Thúc Thời nói:

-Ðại vương đã cho lời nói tôi là phải thì sao không bắt chước việc trả lại trâu cho người ta?

Sở Trang vương tức khắc triệu quan đại phu nước Trần là Viên Pha vào mà hỏi rằng:

-Hiện nay vua nước Trần ở đâu?

Viên Pha nói:

-Khi trước ở nước Tấn,bây giờ không biết đi đâu?

Nói xong,nước mắt chảy xuống ròng ròng.Sở Trang vương động lòng mà bảo rằng:

-Nay ta định trả lại nước cho nhà ngươi,mà ngươi nên tìm đón vua Trần về,rồi một lòng thần phục nước Sở ta,chớ có quên cái ơn ấy.

Sở Trang vương lại triệu Khổng Ninh và Nghi Hàng PHủ,tha cho về nước để cùng giúp vua Trần .Viên Pha dẫu biết là tai vạ nước Trần bởi tại Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nhưng ở trước mặt Sở Trang vương không dám nói đến,chỉ cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.Khi bọn Viên Pha gần ra khỏi địa giới nước Sở thì gặp Trần Thành Công ở nước Tấn về,nghe tin nước nhà bị diệt,cũng toan sang để kêu với Sở Trang vương.

Viên Sa thuật lại cái lòng tử tế của Sở Trang vương cho Trần Thành Công nghe,rồi vua tôi cùng nhau về nước.Quan trấn thủ nước Trần là công tử Anh Tề đã tiếp được thư của Sở Trang vương triệu về nước,mới đem bản đồ nước Trần gaio trả lại cho Trần Thành Công.Khổng Ninh về nước chưa được một tháng,nhiều khi ban ngày trông thấy Hạ Trưng Thư đến bắt đền mạng rồi thành ra bệnh điên cuồng,nhảy xuống ao mà chết. Ðêm hôm Khổng Ninh chết,Nghi Hàng Phủ cũng nằm mộng thấy Trần Linh Công,Khổng Ninh và Hạ Trưng Thư,ba người cùng đến bắt Nghi Hàng PHủ.Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng kinh sợ mà chết.

Công tử Anh Tề về đến nước Sở vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

-Ta đã t rả lại nước Trần rồi,sẽ xin đền cho nhà ngươi chỗ khác.

Công tử Anh Tề xin khu ruộng ở đất Thân và đất Lã.Trang vương toan thuận cho.Khuất Vu liền nói với Trang vương rằng:

-Ðất Thân và đất Lã là một nới trọng yếu,nước Sở ta dùng để chống giữ với nước Tấn,không nên đem thưởng cho ai cả.

Sở Trang vương mới thôi,không cho công tử Anh Tề nữa. Ðến lúc Thân Thúc Thời cáo lão,Trang vương đem đất Thân phong cho Khuất Vu.Khuất Vu chẳng từ chối mà nhận ngay.Công tử Anh Tề vì thế sinh hiềm khích với Khuất Vu.Trang Vương thấy nước Trần dẫu thần phục mình,nhưng còn nước Trịnh vẫn theo nước Tấn,mới cùng triều thần thương nghị việc đánh TRịnh.

Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Trang vương rằng:

-Ta đánh Trịnh thì nước Tấn tất đến cứu,vậy mới phải đem đại binh đi mới được.

Trang vương liền cử đại binh tiến sang đánh Trịnh.Tương lão đi làm tiền hộ.Viên phó tướng thuộc toán quân của Tương Lão tên là Ðường Giao xin với Tương Lão rằng:

-Trịnh là một nước nhỏ,bất tất phải phiền đến đại binh,tôi xin đem thủ hạ một trăm người để mỡ đường đi trước.

Tương Lão khen mà cho đi. Ðường Giao cố sức xông pha đi trước,quân nước Trịnh không đương nổi,vì thế mà đại binh của Sở Trang vương thấy quân tiền bộ đi được nhanh cóng như vậy,mới khen Tương Lão rằng:

-Ta không ngờ nhà ngươi đã già mà còn khỏe được như thế.

Tương Lão nói:

-Ðó không phải là công tôi,nhờ có viên phó tướng là Ðường Giao cố sức,mới được như vậy !

Trang vương triệu Ðường Giao đến,toan trọng thưởng, Ðường Giao nói:

-Tôi chịu ơn Ðại vương to lắm,ngày nay gọi chút báo đền có đâu lại dám lĩnh thưởng.

Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

-Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo chịu ơn ta ?

Ðường Giao nói:

-Trong bữa tiệc "Tuyệt Anh"có người nắm vạt áo Hứa Cơ,người ấy tức là tôi đó! Ðại vương rộng lượng tha mà không giết,vậy nên tôi phải cố sức để báo đền.

Trang vương nói:

-May làm sao! Giả sử bấy giờ ta thắp nến lên để trị tội người mất giải mũ vì ta thì sao bây giờ lại có người vì ta mà cố sức như vậy !

Sở Trang vương truyền ghi lấy công Ðường Giao để đợi khi đánh Trịnh xong trở về thì sẽ trọng dụng. Ðường Giao nói chuyện với mọi người rằng:

-Tội ta đáng chết mà đại vương không giết,vậy ta cố sức để báo đền.Nay ta đã nói rỏ ra rồi,chẳng lẽ ta là người có tội mà lại đợi sau này đại vương trọng dụng hay sao?

Ðêm hôm ấy, Ðường Giao tức khắc bỏ trốn,không biết đi đâu mất.Sở Trang vương nghe nói khen rằng:

-Ðường Giao thật là một người giỏi!

Ðại binh nước Sở vây thành nước Trịnh,cả thẩy mười bảy ngày.Trịnh Tương công có lòng trông mong quân Tấn đến cứu,không chịu giảng hòa,quân sĩ chết hại rất nhiều.Phía đông bắc thành nước Trịnh có một chỗ lở hơn mười trượng,quân nước Sở sắp sửa trèo vào.Sở Trang vương nghe trong thành có tiếng khóc rầm rĩ, động lòng thương xót,truyền cho quân sĩ hãy lui lại mười dặm.Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

-Ta nên nhân lúc thành lở mà tiến vào,cớ sao lại lui quân?

Sở Trang vương nói:

-Người nước Trịnh chỉ biết sợ uy ta,chưa biết mến đức ta,nay ta lui quân là để tỏ cho nước Trịnh biết ta có lòng nhân đức.

Trịnh Tương công thấy nước Sở lui quân,ngờ là nước Tấn đã đem quân đến cứu,mới chở những nơi thành lở,rồi cố sức chống giỡ.Sở Trang vương biết là nước Trịnh không chịu đầu hàng,lại tiến quân vây thành đến hơn ba tháng.Tướng nước Sở là Nhạc Bá phá cửa thành tiến vào.Sở Trang vương truyền cho quân sĩ không được nhũng nhiễu hại dân.Trịnh Tương công để trần vai áo,dắt đàn dê ra đón quân Sở mà tạ tội rằng:

-Tôi là kẻ ngu dại,không biết thần phục thượng quốc, để đến nổi đại vương nổi giận phải đem quân tới nước tôi,nay tôi biết tội đã nhiều,xin đại vương rộng lượng thương cho nước tôi làm nước phụ thuộc,không đến nổ tuyệt duyệt,thì nước tôi được đội ơn nhiều lắm.

Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

-Nước Trịnh cùng quá ,mới chịu đầu hàng,nếu ta tha cho thì rồi họ lại làm phản,chi bằng ta diệt hẳn đi.

Sở Trang vương nói:

-Nếu ngày nay ta diệt nước Trịnh mà Thân Thúc Thời hãy còn thì tất lại đem cái chuyện "cướp trâu dẫm lúa" mà cười ta đó.

Sở Trang vương truyền lui quân ba mươi dặm,rồi cho nước Trịnh giảng hoà.Trịnh Tương công thân hành đến đại dinh quân Sở xin hội thề,và cho người em là công tử Khứ Tật sang làm con tin.Sở Trang vương truyền rút quân về đóng ở Diên Ðịa.Quân thám tử về báo với Sở Trang vương rằng:

-Nước Tấn cho Tuân Lâm phủ làm chánh tướng,Tiên Cốc làm phó tướng, đem quân sang cứu Trịnh đã giảng hòa,ta còn sinh sự với Tấn gì nữa,chi bằng ta giữ cho toàn quân mà về.

Có kẻ cận thần là Ngủ Sâm tâu với Sở Trang vương rằng:

-Quan lệnh doãn nói thế là phải ! Nước Trịnh cho sức ta không bằng Tấn,cho nên mới theo Tấn,nay quân Tấn đến mà ta rút về thì tỏ ra rằng thật là ta không bằng Tấn.Vả nước Tấn biết Trịnh theo Sở thì tất đánh Trịnh,vậy ta đánh Tấn để cứu Trịnh,chẳng cũng nên lắm ư!

Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang vương rằng:

-Quân nước Sở ta,năm trước sang đánh Trần,năm nay sang đánh Trịnh,nhọc mệt lắm rồi,nếu đánh mà không mắng thì dẫu ăn thịt Ngũ Sâm,cũng không đáng cái tội của hắn vậy.

Ngũ Sâm nói:

-Nếu đánh mà được thì quan lệnh doãn là người vô mưu,nếu đánh không dược thì thịt Ngũ Sâm này tất bị quân Tấn ăn mất,còn đâu mà để phần người nước Sở nữa!

Sở Trang vương liền hỏi ý tất cả các tướng, đưa cho mỗi người một cai bút để viết vào bà tay,ai định đánh thì viết chữ "Ðánh",ai định lui thì viết chữ "Lui".Các tướng viết xong,Sở Trang vương sai mở bàn tay ra xem thì chỉ có bốn người viết chữ "Lui" là: Quan trung quân nguyên soái Ngưu Khâu,quan lệnh doãn Tương lão và hai tướng là Sai Cưu Cơ và Bánh Danh.Còn bọn công tử Anh Tề,công tử Trắc,công tử Cốc Thần,Khuất Ðăng,Phan Ðảng,Nhạc Bá,Dưỡng Do Cơ,Hứa Bá,Hùng Phụ Bá,và Hứa Yển hơn hai mươi người đều viết chữ "Ðánh" cả.

Sở Trang vương nói:

-Ngưu Khâu là bậc lão thành,nay cùng vớ quan lệnh doãn hợp ý nhau,vậy thì lui quân về là phải.

Sở Trang vướng truyền đến sáng mai thì rút qaun về? Ðêm hôm ấy,Ngũ Sâm xin vào yết kiến,nói với Trang vương rằng:

-Ðại vương sợ gì nước Tấn mà phải bỏ nước Trịnh như vậy?

Sở Trang vương nói:

-Nào ta có bỏ nước Trịnh bao giờ?

Ngũ Sâm nói:

-Quân Sở ta vây nước TRịnh ba tháng mới thu phục được nước TRịnh nay quân Tấn đến mà ta rút về,khiến cho Tấn được côn glà cứu nước Trịnh,thế thì chẳng phải ta bỏ nước Trịnh là gì !

Sở Trang vướng nói:

-Quan lệnh doãn bảo ta rằng đánh Tấn vị tất đã được,vậy nên ta phải bỏ.

NGũ Sâm nói:

-Tôi đã tính trước cả rồi ! Tuân Lâm PHủ nước Tấn mời lên làm trung quân nguyên soái,chưa có uy tính gì để cho người ta phục,quan phó tướng là Tiên Cốc,nguyên là con Tiên Thả Cư,cháu Tiên Chẩn,cậy thế mấy đời có công,làm nhiều điều kiêu ngạo,còn bọn Loan ,Triệu đều mỗi người một ý,xem thế thì các tướng nước Tấn,không đồng tâm với nhau,dẫu nhiều quân đến đâu,cũng có thể phá tan được.Vả đại vương làm vua một nước mà phải sợ các tướng nước Tấn, để cho thiên hạ chê cười thì sao cho nước Trịnh chịu phục.

Sở Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

-Ta dẫu không khéo dùng quân,cũng chẳng chịu thua các tướng nước Tấn !

Nói xong,liền sai người bảo quản lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao cho tất cả chiến xa quay về hướng bắc mà tiến đến Quản Thành để đợi quân Tấn đến thì đánh.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 54 : SỞ VƯƠNG ÐUỔI QUÂN TUÂN LÂM PHỦƯU MẠNH ÐÓNG VAI TÔN THÚC NGAO

Tấn Cảnh cũng nghe tin Sở Trang vương thân hành đem quân sang đánh Trịnh,mới phong Tuân Lâm Phủ làm trung quân nguyên soái,Tiên Cốc làm phó nguyên soái, để đem quân sang cứu.Khi đi đến sông Hoàng Hà,có quân thám tử báo rằng:

-Trịnh bị Sở vây, đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, đã hàng Sở rồi.Quân Sở đã sắp sửa rút về.

Tuân Lâm Phủ bèn triệu các tướng vào để hội nghị.Sĩ Hội nói:

-Ðem quân đi cứu mà không kịp,bây giờ đánh Sở cũng chẳng ra thế nào,chi bằng ta hãy rút về,sau sẽ định liệu.

Tuân Lâm Phủ khen phải,toan truyền rút quân về.Bỗng có một viên đại tướng đứng dậy can rằng:

-Không nên ! Nước Tấn ta làm được bá chủ là vì biết bênh vực kẻ yếu,nay Trịnh đợi mãi không thấy quân ta đến cứu,mới phải hàng nước Sở,ta đánh được nước Sở thì Trịnh tất lại về với ta.Nếu ta bỏ Trịnh mà tránh quân Sở thì các nước nhỏ còn trông cậy vào ta nổi gì ! Nước Tấn không làm được bá chủ nữa rồi.Nếu nguyên soái nhất định rút quân về,thì tôi tình nguyện đem quân bản bộ của tôi ra đánh một trận.

Tuân Lâm Phủ nhìn xem ai là quan phó nguyên soái Tiên Cốc.Tuân Lâm Phủ bảo Tiên Cốc rằng:

-Vua Sở thân hành đem quân tới đây,binh nhiều tướng mạnh,nếu ta đem một toán quân sang đánh,khác nào như ném thịt vào hổ đói mà thôi,phỏng có ích gì !

Tiên Cốc thét lên rằng:

-Nếu ta không đi thì sẽ có người bảo rằng đường đường nước Tấn mà không có một người nào dám đánh,chẳng cũng xấu hổ lắm ư ! Chuyến này ta đi,dẫu chết tại trậncũng còn được tiếng là người có chí khí !

Tiên Cốc nói xong,tức khắc lui ra. Ði đến cửa dinh gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát.Tiên Cốc bảo Triệu Ðồng và Triệu Quát rằng:

-Quan nguyên soái sợ nước Sở muốn rút quân về,chỉ một mình ta quyết đem quân đi đánh.

Triệu Ðồng và Triệu quát nói:

-Ðại trượng phu phải như thế ! Anh em tôi cũng xin đem quân bàn bộ đi theo tướng quân.

Ba người cùng nhau đem quân qua sông Hoàng Hà.Tuân Thủ không thấy Triệu Ðồng và Triệu Quát,liền hỏi quân sĩ mới biết hai người đã theo Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà để đón đánh quân Sở,liền giật mình kinh sợ,và nói với quan tư mã Hàn Quyết.Hàn Quyết vào bảo Tuân Lâm Phủ rằng:

-Nguyên soái không biết việc Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà hay sao?Nếu gặp quân Sở thì tất bị thua,ngài làm nguyên soái mà để cho Tiên Cốc bị thua thì lỗi ở ngài đó !

Tuân Lâm Phủ kinh sợ hỏi kế,Hàn Quyết nói:

-Việc đã lỡ ra như vậy,chi bằng ta kéo cả đại binh sang đánh,nếu được thì công về ngài,nếu không được thì cả các tướng cùng phải chịu tội,chẳng hơn là ngài chịu tội một mình hay sao?

Tuân Lâm Phủ khen phải,truyền kéo đại binh qua sông.Tiên Cốc nghe tin,mừng mà nói rằng:

-Ta vẫn biết là nguyên soái phải theo lời nói của ta !

TRịnh tướng công cho người đi dò thám,biết là quân Tấn cường thịnh lắm,chỉ sợ một mai chiến thắng thì lại trị cái tội theo Sở,mới hợp triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Hoàng Thủ nói:

-Tôi xin sang sứ bên quân Tấn dể khuyên Tấn đánh Sở,Tấn được thì theo Tấn,Sở được thi theo Sở.Bên nào mạnh thế thì ta theo,chứ có lo gì !

Trịnh Tương công khen phải,rồi sai Hoàng Thú đi.Hoàng Thú đến nói với quân Tấn rằng:

-Chúa công tôi mong quý quốc đến cứu,khác nào đại hạn mong mưa.Chỉ vì xã tắc lâm nguy nên mới phải theo Sở trước mặt chứ không phải dám phản bội thượng quốc.Nay Sở chiến thắng mà sinh kiêu,vả lại đi lâu mỏi mệt,nếu thượng quốc đánh quân Sở thì nước Trịnh tôi cũng xin theo.

Tiên Cốc nói:

-Ta đánh được Sở và làm cho Trịnh phải phục,chỉ ở trận này !

Loan Thư nói:

-Người nước Trịnh hay phản phúc lắm,ta chớ nên tin lời !

TRiệu Ðỗng và Triệu Quát nói:

-Người nước Trịnh xin theo ta để cùng đánh Sở, đó là một cơ hội chớ nên bỏ ! Ta nên theo lời Tiênn Cốc

Hai người nói xong,bèn không vân lệnh Tuân Lâm Phủ,mà lại tự tiện theo Tiên Cốc cùng với Hoàng Thú định ước đánh Sở,Trịnh Tương công lại sai sứ đến quân Sở,khuyên Sở Trang vương giao chiến với Tấn.Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao lo quân Tấn cường thịnh,nói với Sở Trang vương rằng:

-Người nước Tấn không có ý quyết chiến,chi bằng ta cho người sang giảng hoà,giảng hoà mà không được,bấy giờ ta sẽ giao chiến thì lỗi tại nước Tấn.

Sở Trang vương lấy làm phải,liền sai Sái Cưu Cư sang quân Tấn xin giảng hòa.Tuân Lâm Phủ mừng lắm,nói:

-Nếu vậy thì là phúc cả cho hai nước!

Tiên Cốc trỏ vào mặt Thái Cưu Cư mà mắng rằng:

-Nước người đã cướp thuộc quốc của ta,nay lại còn sang giảng hòa ! Dẫu nguyên soái ta cho hòa,ta cũng nhất định không chịu,ta quyết đánh cho chẳng còn một mống nào trở về,khiến nước ngươi biết tay Tiên Cốc này.Nhà ngươi nên mau mau về báo với vua Sở,liệu mà trốn trước đi,kẻo nữa khó toàn tính mệnh đó !

Sái Cưu Cư bị Tiên Cốc sỉ mắng một hồi,cúi đầu lui ra. Ði đến cửa dinh,lại gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát,Triệu Ðồng và Triệu Quát giơ gươm trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

-Nếu mày còn sang đây lần nữa thì ta sẽ cho mày nếm lưỡi gươm này !

Sái Cưu Cư ra khỏi dinh quân Tấn là Triệu Chiên.Triệu Chiên giương cung vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

-Mày là miếng thịt ở đầu mũi tên của ta,chẳng bao lâu ta sẽ bắt sống mày,hãy cho mày trở về báo trước cho vua Sở mày biết.

Sái Cưu Cư trở về nói với Sở Trang vương.Sở Trang vương nổi giận,hỏi các tướng xem ai dám sang khiêu chiến với quân Tấn không? Quan đại tướng là Nhạc Bá xin đi.Nhạc Bá ngồi một cái xe tiến sang vòng quân Tấn.Gặp một bọn quân hơn mười người,Nhạc Bá bắn chết một người,rồi quay xe trở về.Quân Tấn chia làm ba toán đuổi theo,toán đi giữa là Bảo Quý,toán đi phía tả là Bảng Ninh,toán đi phía hữu là Bàng Cái.Nhạc Bá hét to lên rằng:

-Ta bắn về phía tả thì trúng ngựa,bắn về phía hữu thì trúng người ,nếu bắn không trúng thì ta thua !

Nhạc Bá giương cung bắn luôn mỗi bên một phát,phát bên tả trúng suốt ba bốn con ngực,xe không đi được nữa,phát bên hữu trúng Bàng Cái,còn quân sĩ thì bị thương rất nhiều.Bởi vậy toán quân phía tả và phía hữu đều không dám theo nữa,chỉ có Bảo Quý chỉ huy toán quân di giữa là cố sức đuổi gần đến nơi,Nhạc Bá chỉ còn có một phát tên,toan giương cung ra bắn Bảo Quý,nhưng lại nghĩ thầm rằng:

-Nếu phát tên này ta bắn không trúng thì tất nhiên bị hại !

Nhạc Bá còn đang nghĩ ngợi thì bỗng có một con hươu to ở đâu chạy qua trước mặt.Nhạc Bá liền bắn chết con hươu ấy rồi sai Nhiếp Thúc xuống xe lấy con hươu, đưa biếu Bảo Quý.Bảo Quý thấy Nhạc Bá bắn chẳng sai phát nào,trong lòng sợ hãi,nhân thấy Nhạc Bá sai người biếu con hươu,mới giả cách than rằng:

-Tướng nước Sở biết giữ lễ như vậy thì ta không dám xâm phạm.

Bảo Quý quay xe trở về.Tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ biết Bảo Quý thả cho Nhạc Bá chạy,nổi giận mà nói rằng:

-Nước Sở có người đến khiêu chiến,mà nước Tấn ta không ai dám sang trận địa quân Sở,tôi e rằng người nước Sở tất cũng cười ta,vậy tôi xin sang để dò xem quân Sở mạnh yếu thế nào.

TRiệu Chiên cũng nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Tôi xin cùng với NGụy tướng quân cùng đi.

Tuân Lâm Phủ nói :

-Khi trước Sở sang xin giảng hòa với ta rồi mới đánh,nay các người sang quân Sở,cũng phải xin giảng hòa trước để gọi là đáp lễ lại Sở.

Ngụy Kỳ xin vâng mệnh.Triệu Chiên đưa Ngụy Kỳ lên xe trước mà bảo rằng:

-Tướng quân báo lại việc Sái Cưu Cư,còn tôi xin báo lại việc Nhạc Bá.

Quan thượng quân nguyên soái là Sĩ Hội nghe tin Triệu Chiên và Ngụy Kỳ sang trận địa quân Sở,vội vàng vào yết kiến Tuân Lâm Phủ, đeẻ can ngăn việc ấy,nhưng vào đến nơi thì hai tướng đã đi rồi.Sĩ Hội mới nói riêng với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Ngụy Kỳ và Triệu Chiên còn ít tuổi nóng nảy bồng bột,không biết tùy cơ ứng biến,tất làm cho quân Sở phải tức giận.Nếu quân Sở bất thình lình mà đến đánh thì ta làm thế nào?

Bấy giờ quan phó tướng là Khước Khắc cũng đến nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Tình ý nước Sở khó mà lường được,ta nên phòng bị trước !

Tiên Cốc thét to lên rằng:

-Sắp sửa giao chiến,lại còn phòng bị gì nữa !

Tuân Lâm Phủ không biết đằng nào mà quyết đoán.Sĩ Hội lui ra,nói riêng với Khước Khắc rằng:

-Nguyên Soái chẳng khác gì người bù nhìn ! Thôi chúng ta phải tự liệu lấy mới được.

Sĩ Hội nói xong,liền bảo Khước Khắc rủ hai quan thượng quân đại phu là Củng Sóc và Hàn Xuyên đem quân bản bộ ra phục ở trước núi ngao Sơn.Quan Trung quân đại phu là Triệu Anh Tề cũng lo quân Tấn thua,sai người sắp thuyền sẵn ở cửa sông Hoàng Hà đề phòng khi chạy trốn.Ngụy kỳ vẫn ghét Tuân Lâm Phủ,muốn làm cho Tuân Lâm Phủ mang tiếng,nên trước mặt Tuân Lâm Phủ thì nói đến việc hoà,nhưng khi sang đến quân Sở thì lại nói đến việc đánh.Tướng nước Sở là Phan Ðảng biết chuyện trước kia Sái Cưu Cơ sang sứ nước Tấn,bị tướng nước Tấn sĩ nhục nay thấy Ngụy Kỳ đến,bàn tính sự báo thù,vội vàng bước vào đại binh thì Ngụy Kỳ đã ra khỏi dinh rồi.Phan Ðảng tức khắc dục ngựa đuổi theo,bèn toan quay lại để đối địch,bỗng thấy trông rừng có sáu con hươu lớn,nhân nghĩ đến việc tướng nước Sở biếu hươu khi trước,liền giương cung bắn chết một con,sai người hầu xe đem biếu Phan Ðảng mà nói rằng:

-Khi trước Nhạc tướng quân có cho quân Tấn tôi một con hươu,nay quân Tấn tôi đáp lễ lại.

Phan Ðảng nghĩ thầm rằng:

-Quân Tấn cũng bắt chước lối cũ của ta như vậy,nếu ta đuổi theo thì chẳng hóa ra người nước Sở ta vô lễ lắm ư! Bèn cùng truyền quay xe trở lại.Ngụy Kỳ về đến dinh quân Tấn,nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Vua nước Sở không cho giảng hòa, định đánh một trận để quyết thắng phụ.

Tuân Lâm Phủ hỏi:

-Triệu Chiên đâu?

Ngụy Kỳ nói:

-Tôi đi trước,hắn đi sau,thành ra tôi không được gặp.

Tuân Lâm Phủ nói :

-Nước Sở đã không cho giảng hòa thì Triệu Chiên tất nhiên bị hại !

Nói xong,sai Tuân Dinh đem quân đi đón Triệu Chiên.Nguyên Triệu Chiênđang đêm đi đến trước cửa dinh quân Sở,giải chiếu xuống đất ngồi, đem rượu ra uống,rồi sai hơn hai mươi người giả cách nói tiếng nước Sở,lén vào trong dinh quân Sở.Quân Sở biết là giả,nắm lại để hỏi.Người ấy rút dao đâm chết một người trong đám quân Sở.Quân Sở náo động cả lên, đốt đuốc đuổi bắt được mấy người.Những người khác trốn thóat chạy ra,trông thấy Triệu Chiên vẫn còn ngồi trên chiếu,thì vội vàng ôm lên xe,rồi tìm người dong xe thì đã mắc trong đám quân Sở,không ra được rồi.Triệu Chiên phải cầm cương ngựa lấy,ngựa đói không thể đi được.

Sở Trang vương nghe nói có giặc lên đến,liền thân hành đem quân ra đuổi.Quân đuổi gấp lắm,Triệu Chiên vội vàng bỏ xe trốn vào trong rừng.Tướng nước Sở là Khuất Ðăng trông thấy cũng xuống xe đuổi theo,Triệu Chiên cởi áo giáp và xe ngựa đem về nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương vừa toan quay xe trở về thì thấy Phan Ðảng chạy đến.Phan Ðảng trỏ về phía bắc mà bảo Sở Trang vương rằng:

-Trông cắt bụi bay lên thế kia thì đại nước Tấn sắp sửa kéo đến!

Sỡ dĩ có đám cát bụi ấy là bởi có toán quân của Tuân Dinh phụng mệnh Tuân Lâm Phủ đi đón Triệu Chiên,Phan Ðảng trông không rỏ,tưởng là đại binh quân Tấn,làm cho Sở Trang vương sợ hãi,mặt xám xanh lại,may gặp có toán quân của quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao kéo đến.Sở Trang vương mới được yên lòng.Sở Trang vương hỏi Tôn Thúc Ngao rằng:

-Sao lệnh doãn biết có đại binh nước Tấn sắp tới mà đem quân ra cứu ta?

Tôn Thúc Ngao nói:

-Tôi không biết có đại binh nước Tấn,nhưng tôi sợ đại vương khinh thường xông vào quân giặc,nên tôi phải đem quân tiếp ứng,còn đại binh ta cũng sắp tới đây bây giờ.

Sở Trang vương ngảnh về phía bắc,trông lại một lượt,thấy đám cát bụi cũng không thấy gì làm cao;mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

-Không phải đại binh nước Tấn.

Tôn Thúc Ngao nói:

-Nay các tướng đều đả đến cả,xin đại vương cứ truyền lệnh tiến đánh,nếu ta đánh được một toán thì các toán khác đều phải vỡ tan.

Sở Trang vương liền truyền lệnh tiến binh.Tuân Lâm Phủ cũng đem quân ra đối địch,nhưng quân Sở nhiều quá,quân Tấn không thể nào địch nổi,tức khắc bỏ chạy tán loạn.Tuân dinh đi đón Triệu Chiên,không thấy đâu cả,lại gặp tường nước Sở là Hùng Phụ Cơ,hai bên giao chiến một lúc,hưng Tuân Dinh thấy quân Sở đông quá,cũng phải bỏ chạy,bị Hùng Phụ Cơ bắt sống.Tướng nước Tấn là Bàng Bá đem hai con là Bàng Ninh và Bàng Cái cùng ngồi một cái xe nhỏ để chạy trốn, đi chận không,da bàn chân trầy ra hết.Triệu Chiên trông thấy,kêu to lên rằng:

-Ai đi xe thế kia,cứu tôi với !

Bàng Bá nghe tiếng Triệu Chiên,bảo hai con chớ ngảnh cổ lại.Hai con không hiểu ý cha,tức thì ngảnh cổ nom lại phía sau xem ai.Triệu Chiên trông thấy liền gọi:

-Bàng Bá cho ta lên xe với !

Hai con nói với Bàng Bá.Bàng Bá tức giận lắm,nói:

-Ðã như vậy thì hai đứa mày nhường chỗ cho người ta ! Bàng Bá tức thì đuổi hai con xuống mà cho Triệu Chiên lên xe.Bàng Ninh và Bàng Cái mất xe thành ra chết ở trong đám loạn quân.Tuân Lâm Phủ và Hàn Quyết cùng một bọn tàn quân chạy men bờ sông Hoàng Hà,ngảnh lại trông thấy Tiên Cốc bị thương ở ttrán,máu chảy đầm đià, đang xé áo chiến bào ra để buộc.Tuân Lâm Phủ trỏ vào mặt Tiên Cốc mà bảo rằng:

-Tướng quân hăng hái lắm mà sao cũng như thế !

Ði đến cửa sông Hoàng Hà,gặp Triệu Quát cũng đến,Quát nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Anh tôi là Triệu Anh Tề,khi trước có sắp sẵn thuyền bè,nay đã qua sông rồi,mà chẳng bảo cho chúng ta biết,như vậy thì còn ra nghĩa lý gì nữa !

Tuân Lâm Phủ nói:

-Những lúc nguy cấp này còn bảo nhau sao kịp !

Triệu Quá vẫn hầm hầm tức giận,từ bấy giờ cùng với Triệu Anh Tề thành ra hiềm khích.

Tuân Lâm Phủ nói:

-Quân ta không thể đánh nhau với Sở được nữa,bây giờ nên mau mau nghĩ kế để qua sông.

Tuân Lâm Phủ liền sai Tiên Cốc đi tìm thuyền,nhưng chỉ tìm được có mấy chiếc.Tuân Lâm Phủ chưa kịp qua sông thì lại thấy có vô số quân ùn ùn chạy đến.Tuân Lâm Phủ nhìn xem quân nào thì tức là toán quân của Triệu Sóc và Loan Như bị tướng nước Sở là công tử Trách đánh đuổi,cùng chạy đến đây.Tuân Lâm Phủ ngảnh về phía nam,trông thấy cát bụi bay lên ngỡ là quân Sở đuổi tới,mới sai đánh trống và hạ lệnh rằng:

-Ai sang trước thì sẽ có thưởng !

Quân sĩ tránh cướp thuyền chở,thành ra giết hại lẩn nhau.Dưới thuyền người đã đầy rồi,mà còn nhiều người chen nhau bước xuống đến nổi đắm mất ba mươi chiếc thuyền.Tiên Cốc đứng ở trong thuyền lại thét to lên rằng:

-Ðứa nào bíu vào mái chèo và mạn thuyền thì cứ lấy dao mà chặt tay đi !

Các thuyền đều theo lệnh lấy dao ra chặt,ngón tay rơi vào trong thuyền,khác nào hoa rụng,phải bốc từng bốc mà ném xuống sông.Trên bờ người khóc như ri,nghe rất thê thảm ! Mặt sau lại có bọn Tuân Thủ,Triệu Ðồng,Ngụy Kỳ,Bàng Bá và Bảo Quý lục tục kéo đến.Tuân Thủ đã xuống thuyền rồi,không trông thấy con là Tuân Dinh,sai người đứng ở trên bờ gọi rầm lên.Có người biết là Tuân Dinh bị bắt,nói với Tuân Thủ.Tuân Thủ nói:

-Con ta đã bị bắt thì ta không chịu về không !

Nói xong tức thì lên bờ để lại xông vào đám quân Sở.Tuân Lâm Phủ can rằng:

-Tuân Dinh đã bị bắt thì tướng quân đi cũng vô ích.

Tuân Thủ nói:

-Nếu tôi bắt được tướng nước Sở thì cũng có thể đòi lại được con tôi.

Ngụy Kỳ vốn chơi thân với Tuân Dinh,bởi vậy cũng xin theo đi.Tuân THủ mừng lắm, đem mấy trăm quân trở lại.Quân sĩ nhiều người vẫn kính phục Tuân Thủ,cho nên đều vui lòng theo cả,có người đã xuống thuyền rồi,nghe nói Tuân Thủ định trở lại để tìm Tuân Dinh,cũng đều lên bờ xin theo.Tuân Thủ là người bắn giỏi lắm,bấy giờ xông vào quân Sở,trông thấy tướng nước Sở là Tương Lão đang đi thu thấp những xe ngựa và khí giới của quân Tấn bỏ lại,có ngờ đâu quân Tấn thình lình kéo đến,không kịp đề phòng,bị Tuân Thủ bắn cho một phát,ngã lăn xuống đất.Công tử CỐc Thần trông thấy Tương Lão bị mũi tên,vội vàng đến cứu.

Ngụy Kỳ xông vào,giao chiến với công tử Cốc Thần.Tuân Thủ lại bắn luôn phát nữa,trúng ngay vào cánh tay phải của công tử Cốc Thần.Công tử Cốc Thần đau quá, đứng lại để nhổ mũi tên,bị ngụy Kỳ bắt sống và lấy thêm cả cái xác của Tương Lão mang về,Tuân Thủ nói:

-Ðem công tử Cốc Thần và xác Tương Lão này cũng đủ chuộc lại được con ta,ta nên trở về.

Nói xong,liền giục ngựa về ngay.Khi quân Sở biết mà đuổi theo thì đã khôn gkịp.Côn gtử Anh Tề đem quân đuổi đánh Sĩ HỘi.Sĩ Hội vừa đánh vừa chạy,may nhờ có quân của Cung Spốc tiếp ứng,mới chạy thoát được.Công tử Anh Tề có sức đuổi theo,lại gặp tướng nước Tấn là Khước Khắc đem quân đến.Công tử Anh Tề thấy vậy,phải thu quân trở về.Tuân THủ về đến cữa sông Hoàng Hà,thấy toán quân của Tuân Lâm Phủ chưa qua sông thết,có ý kinh sợ,may nhờ có toán quân của Triệu Anh Tề đã qua sông rồi,cho người đem thuyền sang đón,quân Tấn mới qua được sông Hoàng Hà.

Ðại Bình quân Sở đã kéo đến Bí Thành,NGũ Sâm nói với Sở Trang vương xin mau mau đuổi theo để đánh quân Tấn.Trang vương nói:

-Nước Sở ta từ khi thua Tấn ở đất Thành Bộc,vẫn lấy làm xấu hổ,nay được một trận này đủa rưả cái thẹn năm xưa,nhưng hai bên rồi cũng nên giảng hòa với nhau,ta còn giết hại làm gì nữa.

Sở Trang vương truyền đóng quân lại.Trịnh Tương công biết là quân Sở thắng trận,thân hành đến Bí Thành để khao thưởng quân sĩ, đón Sở Trang Vương về đất Hành Ưng,rước vào ở trong vương cung,mở tiệc chúc mừng.Phan Ðảng nói với Sở Trang vương xin chất xác quân Tấn để đắp một cái đài gọi là "Kinh quán" kỷ niệm võ công của người nước Sở.Sở Trang vương nói:

-Ta chỉ nhờ may mà đánh được quân Tấn,sao đáng gọi là vũ công !

Sở Trang vương nói xong,truyền cho quân sĩ nhặt chôn những xác người chết,lại làm văn tế thần sông Hoàng Hà,rồi thu quân về.Khi về đến nước Sở,ban thưởng công thần,cho ngũ Sâm làm quan đại phu.Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao thở dài mà than rằng:

-Tuân Lâm Phủ là một bậc đại thần.Việc đánh Sở này bởi tại Tiên Cốc trái lệnh, đến nổ thua quân,nay chúa công giết một Tiên Cốc,cũng đủ làm gương cho kể khác.Ngày xưa nước Sở giết Thanéh Ðắc Thần mà Tấn Văn công mừng;nước Tấn tha Mạnh Minh mà Tấn Tướng công sợ,xin chúa công tha tội cho Tuân Lâm Phủ,khiến được lập công về sau.

Tấn Cảnh công theo lời,liền chém Tiên Cốc,phục chức cho Tuân Lâm Phủ,và sai luyện tập quân mã, đợi ngày khác đi đánh báu thù.

-Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao ốm nặng,dặn con là Tôn An rằng:

-Ta có một tờ di biểu,khi ta chết rồi,mày nên đem dâng đại vương. Ðại vương có cho mày làm quan thì mày chớ nhận.Tài mày nhỏ mọn,không nên dự vào đám quan trường.Nếu đại vương có phong ấp cho mày,mày phải từ chối,từ chối mà không được thì nên xìn đất Tẩm Khâu.Tẩm Khâu là một chỗ đất xấu,chẳng ai thèm tranh dành,hoạ may con cháu về sau mới được hưởng cái lộc ấy.

Nói xong thì chết,Tôn An đem tờ di biểu vào dâng Sở Trang vương;Trang vương mở ra đọc.Tờ di biểu như sau này:

-"Tôi vốn là kẻ khốn cùng đội ơn đại vương cất nhắc cho làm lệnh doãn,trong mấy năm nay không có công trạng gì đáng kể phụ lòng đại vương ủy thác,cũng lấy àm hổ thẹn.Nay nhờ uy linh của đại vương được mệnh chung trong nhà,thật là may cho tôi! Tôi chỉ có một đứa con ngu dốt,không thể cho làm quan được,còn cháu tôi là Viễn Bằng thì cũng có tài năng,có thể dùng được.Nước Tấn làm bá chủ đã mấy đời,mời rồi dẫu bị thua,nhưng chúa công chớ nên xem thường.Dân nước Sở ta khổ về việc chiến tranh đã lâu,chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được yên nghĩ.Người ta đến lúc sắp chết,câu hỏi thường hay họp lẽ phải.Xin chúa công xét cho".

Sở Trang vương đọc xong,than rằng:

-Tôn Thúc Ngao gần chết mà vẫn không quên việc nước.Trời làm cho Tôn Thúc Ngao chết,cũng là một sự không may cho ta.

Trang vương nói xong thân hành đến nhà Tôn Thúc Ngao ôm lấy áo quan mà khóc.Các quan đi theo hầu,cũng đều khóc cả.Ngày hôm sau,Trang vương cho công tử Anh Tề làm quan lệnh doãn,và cho Viễn Bằng làm quan châm doãn.Trang vương lại muốn cho Tôn An làm quan công chính,nhưng Tôn An theo lời cha dặn,nhất định xin từ chối,trở về xin làm ruộng.Trang vương có yêu một người kép hát là Mạnh Thù Nho,vẫn gọi là Ưu Mạnh. Ưu Mạnh là người lùn,không đầy năm thước,nguyên là một người kép hát,rất giỏi lại có tài khôi hài, được Trang vương yêu lắm.Một hôm, Ưu Mạnh ra chơi ngoài đồng,gặp Tôn An đi kiếm củi,quẩy một gánh củi trở về. Ưu Mạnh đón mà hỏi rằng:

-Sao công tử chịu khó nhọc mà gánh củi như vậy?

Tôn An nói:

-Cha tôi làm tướng quốc trong mấy năm trời,không lấy một đồng tiền nào của ai, đến lúc chết chẳng còn lý gì,bởi vậy tôi phải gánh củi.

Ưu Mạnh than rằng:

-Công tử cứ vững lòng,rồi đây thế nào đại vương cũng triệu công tử!

Ưu Mạnh về nhà chế ra một bộ mũ áo giống như của Tôn Thúc Ngao ngày trước,lại bắt chước dáng điệu ăn nói của Tôn Thúc Ngao luyện tập trong ba ngày,cái gì cũng giống,thật là Tôn Thúc Ngao sống lại !Gặp bấy giờ Sở Trang vương ngự yến ở trong cung,triệu Ưu Mạnh vào làm trò. Ưu Mạnh sai một người khác ra trò trước, đóng vai Sở Trang vương,làm ra bộ tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao,còn mình thì đóng vai Tôn Thúc Ngao.Sở Trang vương (vai trò) trông thấy,giật mình king sợ mà nói rằng:

-Ô hay ! Tôn Thúc Ngao hãy còn sống à? Ta tưởng nhớ nhà ngươi lắm,nhà ngươi nên ở lại mà giúp ta !

Ưu Mạnh nói:

-Tôi đây chỉ giống Tôn Thúc Ngao mà thôi,có phải là Tôn Thúc Ngao thật đâu!

Sở Trang vương (vai trò ) nói:

-Ta tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao mà không được trông thấy,nay thấy nhà ngươi giống Tôn Thúc Ngao,cũng khiến cho ta được đỡ nhớ.Ta cho nhà ngươi cứ làm tướng quốc,nhà ngươi chớ từ.

Ưu Mạnh nói:

-Đại vương tin dùng tôi như vậy,rất hợp với sở nguyện của tôi ,nhưng tôi có lão thê ở nhà,rất là từng trải tinh đời để tôi xin về bàn với lão thê tôi,rồi mới dám vâng lệnh.

Ưu Mạnh trở vào buồng trà,một lúc lại bước lên sàn hát mà tâu với Sở Trang vương(vai trò ) rằng:

-Vừa rồi tôi có bàn với lão thê tôi,thì lão thê tôi khuyên tôi chớ nhận.

Sở Trang vương (vai trò) hỏi:

-Sao vậy?

Ưu Mạnh nói:

-Lão thê tôi có đặt một bài hát để khuyên tôi,vậy tôi xin hát.

Nói xong liền hát:

-Quan tham không nên làm,thế mà nên làm !

Quan liêm nên làm,thế mà không nên làm !

Quan tham không nên làm, đã tham thì tất đê hạ,mà nên làm vì con cháu được lên xe xuống ngựa !

Quan liêm nên làm, đã liêm thì tất cao khiết,mà không nên làm vì con cháu phải ăn đói mặc rách !

Chàng chẳng thấy:

Quan lệnh doãn nước Sở ta là Tôn Thúc Ngao,lúc sống làm quan không lấy của ai một đồng nào.

Chẳng may thất lộc( người làm quan chết đi,người ta gọi là thất lộc,nghĩa là mất lộc(lương bổng ) đi rồi,con cháu nghèo hèn đói khát,chỉ có cái túp chui ra chui vào...

Chàng,chàng ôi,chàng chớ học đòi Tôn Thúc Ngao !

Quân vương nào có nhớ công lao!

Trang vương trông thấy Ưu Mạnh lời ăn tiếng nói,giống hệt như Tôn Thúc Ngao thuở xưa, đã động lòng thương xót,sau nghe đến bài hát của Ư Mạnh,bỗng ứa nước mắt mà nói rằng:

-Khi nào ta dám quên công Tôn Thúc Ngao !

Trang vương liền sai Ưu Mạnh đi triệu Tôn An.Tôn An mặc áo rách, đi giày cỏ,vào yết kiến Trang vương.Trang vương hỏi:

-Nhà ngươi đến nổi cùng khốn như thế ư?

Ưu Mạnh đứng bên cạnh, đỡ lời mà tâu rằng:

-Nếu không cùng khốn thì đã không tỏ được cái nhân đức của quan lệnh doãn ngày trước!

Trang vương nói:

-Tôn An khi trước đã từ chối không muôn làm quan,nay ta nên phong cho một cái ấp lớn.

Tôn An đã cố ý xin từ chối.Trang vương nói:

-Ta đã quyết định như thế,nhà ngươi chớ nên từ chối.

Tôn An nói

-Nếu đại vương nghĩ đến chút công lao của tôi,mà muôn cho tôi được ấm no thì xin phong cho tôi ở đất TâmẩKhâu là đủ.

Trang vương nói:

-Khi cha tôi gần mất có dặn tôi như vậy,nếu không phong cho đất Tảm Khâu thì tôi không dám nhận.

Trang vương theo lời.Về sau,người ta thấy rằng Tẩm Khâu là một nơi đất xấu,không ai muốn tranh đoạt.Con cháu Tôn Thúc Ngao cứ nối đời được hưởng lộc ấy.

Tuân Lâm Phủ nước Tấn nghe tin Tôn Thúc Ngao chết,biết là quân Sở chưa có thể đi cứu Trịnh được,mới tâu với vua Tấn xin đem quân đi đánh Trịnh,nhưng chỉ cướp phá biên giới nước Trịnh,rồi thu quân trở về.Các tướng nói với Tuân Lâm Phủ xin vây kín thành nước Trịnh.Tuân Lâm Phủ nói:

-Ta vây kín thành nước TRịnh,cũng chưa chắc đã lấy nổi,vạn nhất nước Sở đem quân đến cứu thì lại thành ra thêm việc,chi bằng ta hãy để cho người nước Trịnh phải sợ ta.

Trịnh Tương công thấy vậy,quả nhiên sợ lắm,sai sứ sang bàn mưu với nước Sở và đưa người em là công tử Chương sang nước Sở, đổi lấy công tử Khứ Tật về về nước TRịnh để cùng cầm quyền chính trong nước.Sở Trang vương nói:

-Nếu nước Trịnh biết thủ tín,thì chẳng cần gì phải giữ người làm tin.

Sở Trang vương nói xong,liền cho cả hai người đều về,rồi hợp các quan triều thần lại để thương nghị.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 55 : GIẮT DAO LẺN VÀO DINH QUÂN SỞKẾT CỎ BẮT ĐƯỢC TƯỚNG NƯỚC TẦN

Sở Trang vương họp triều thần lại để thương nghị việc cùng chống quân Tấn.Công tử Trác nói với Sở Trang vương rằng:

-Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn,nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu,khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta.

Sở Trang vương nói:

-Nhà ngươi bàn dẫu phải,nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được.Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy,vua Tống bị thương chết,thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc,vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta.Sau đó Tống Chiêu công bị giết,công tử bão lên nối ngôi,nay đã mười tám năm rồi,ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả.

Công tử Anh Tề nói:

-KHó gì điều ấy ! Vua Tề đã mấy lần Triều sính nước ta,mà ta chưa đáp lại nay ta mượn đường nước Tống để sang sứ nước Tề,nếu Tống không hco hay là vô lễ với sứ nước ta thì sẽ gây sự mà đem quân sang đánh.

Sở Trang vương nói:

-Bây giờ sai ai đi sứ?

Công tử Anh Tề nói:

-Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc.Người ấy nên sai đi.

Sở Trang vương liền sai Thân Vô Úy đi sứ nước nước Tề.Thân Vô Úy tâu với Sở Trang vương rằng:

-Sang sứ nước Tề,tất phải đi qua nước Tống,xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường.

Trang vương nói:

-Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc,rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư,vua Tống trái lệnh,tôi bắt người thị vệ mà giết đi,bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm.Nay tôi qua nước Tống,nếu đại vương không cấp cho một đội văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi.

Trang vương nói:

-Trong đạo văn thư gửi sang Tề,ta để tên là Thân Chu,mà không dùng tên cũ Thân Vô Úy của nhà ngươi nữa !

Thân Vô Úy vẫn chưa chịu đi,nói rằng:

-Tên đổi được,nhưng mặt không thể đổi được.

Trang vương nổi giận nói:

-Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù mà đem quân diệt nước Tống.

Thân Vô Úy không dám từ chối nữa.Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tề vào yết kiến Trang vương mà kêu rằng:

-Tôi chết vì việc nước,xin đại vương trông nom cho con tôi.

Trang vương nói:

-Đó là việc của ta,nhà ngươi chớ lo ngại?

Thân Vô Úy từ giả rồi đi.Người con là Thân Tề tiễn ra đến ngoài cõi.Thân Vô Úy dặn rằng:

-Cha đi chuyến này,tất chết ở nước Tống,con nên tâu với đại vương báo thù cho cha,con chớ quên lời cha dặn.

Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giả với nhau.Vô Úy đi đến địa giới nước Tống.Quan trấn thủ nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư,Vô Úy nói:

-Ta phụng mệnh vua Sở,chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề,chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống.

Quan trấn thủ giam giữ sứ giả là Thân Chu,rồi sai người phi báo với Tống Văn Công.Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính với nước Tống liền tâu với Tống Văn công rằng:

-Nước Sở là một nước cừu địch với ta,nay sai sứ sang nước ta,mà không có văn thư mượn đường,thế là khinh ta quá lắm,xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi.

Tống Văn công nói:

-Ta giết sứ nước Sở thì tất nước Sở đem quân sang đánh,biết làm thế nào?

Hoa Nguyên nói:

-Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh,còn hơn là để cho nước Sở khinh ta,nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh,chi bằng ta hãy giết sứ nước Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn.

Hoa Nguyên bèn sai người áp giải sứ giả là Thân Chu về trong triều.Hoa Nguyên trông thấy Thân Chu thì nhận được ngay là Thân Vô Úy,lại càng tức giận mà mắng rằng:

-Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta,nay lại đổi tên là Thân Chu toan tránh khỏi tội chết hay sao?

Thân Vô Úy biết mình thế nào cũng chết,mới quát to lên mà mắng rằng:

-Thằng Bão (tên Tống Văn công )kia,mày thông gian với tổ mẫu lại giết chết đích điệt,may mà thóat nạn,lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớnQuân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày tan xác ra như cám !

Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước,rồi sau mới chém,lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi.Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang vương,Sở Trang vương đang ăn cơm,nghe tin Thân Chu bị giết,thì ném đủa xuống chiếu,rồi đứng ngay dậy,sai quân tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống,lại cho Thân Tề (con Thân Chu )làm chức quân chính để theo đi đánh.Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (kinh thành nước Tống ),làm ra những cái thang cao bằng mặt thành,bốn mặt đánh vào.

Hoa Nguyên cố sức chống giữ,lại sai quân đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn;Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu.Mưu thần là Bá Tôn can rằng:

-Tuân Lâm phủ đem đại quân đi đánh quân Sở mà bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời gíup cho nước Sở đó ! Nay ta đi cứu Tống,vị tất đã nên việc.

Cảnh công nói:

-Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta,nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống !

Tấn Cảnh công khen phải,hỏi các quan trong triều xem có ai dám sang sứ nước Tống.Quan đại phu là Giải Dương xin đi.Tấn Cảnh công nói :

-Việc này trừ phi Tử Hồ (tên tự của Giải Dương )thì không còn ai đương nổi !

Giải Dương mặc quần áo thường dân đi sang nước Tống,bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương nhận biết lé tướng nước Tấn,tên gọi Giải Dương,mới hỏi Giải Dương rằng:

-Nhà ngươi đến đây có việc gì,

Giải Dương nói:

-Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện.

Sở Trang vương nói:

-Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được,ta đã không nỡ giết mà tha cho về,nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thế là nghĩa lý gì,nhà ngươi thử nói ta nghe !

Giải Dương nói:

-Tấn và Sở là cừu địch,thì tôi bị giết là phải lắm,còn nói gì !

Trang vương khám trong mình GIải Dương,bắt được đạo văn thư,liền mở ra xem,xem xong bảo rằng:

-Kinh thành nước Tống,chẳng qua chỉ nay mai thì ta sẽ phá vỡ mà thôi,bây giờ nhà ngươi phải nói trái lại những lời đã viết trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: "Nước Tấn ta ngày nay có nhiều việc cần kíp,không thể nào sang cứu nước Tống được,sợ để cho nước Tống phải mong đợi mãi thì lỡ công việc,vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết !"Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa,tất phải ra hàng,nhân dân hai nước sẽ tránh khỏi được vạ chiến tranh khổ sở.Khi việc đã thành rồi,ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta.

Giải Dương cùi đầu nín lặng,không nói gì cả.Sở Trang vương nói:

-Nếu nhà ngươi không nghe lời thì ta sẽ chém đầu.

Giải Dương vốn không muốn nghe lời,nhưng sợ mình chết ở trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền báo cho nước Tống biết,mới gỉa cách xin vâng mệnh.Sở Trang vương để Giải Dương đứng ở trên xe,bắt phải ra truyền bão cho người nước Tống.Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng:

-Ta là sứ nước Tấn,tên gọi Giải Dương,bị quân Sở bắt được,bảo ta dụ nước ngươi ra hàng,nhưng nước ngươi chớ nghe,chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu đó !

Sở Trang vương nghe tiếng,liền sai lôi xuống mà mắng rằng:

-Nhà ngươi đã nhận với ta mà lại bội ước thế là ngươi thất tín,chớ trách ta tàn ác.

Sở Trang vương truyền cho vũ sĩ đem Giải Dương ra chém.Giải Dương chẳng sợ hải chút nào cả,thong dong mà đáp rằng:

-Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín ! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tống tôi lắm.Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao?Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng chữ tín của nước Sở là ở bên ngoài chứ không ở bên trong !

Sở Trang vương khen rằng:

-Nhà ngươi là một trung thần không sợ chết !

Nói xong,liền tha cho về.Hoa Nguyên nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu,lại càng cố sức chống cự với quân Sở.Công tử Trắc (tướng nước Sở )sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống mà ở phía ngoài thành nước Tống mà ở, để dứng trên nhìn vào trong thành,xem tình hình nước Tống.Hoa nguyên cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nhìn ra.Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau,trong thành nước Tống,lương thực hết sạch cả,nhiều người bị chết đói.Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bão kẻ dưới,người nước Tống đều cảm động mà khóc đổi con cho nhau mà ăn,lượm lặt xương người chết mà nấu.

Sở Trang vương không biết làm thế nào.Quân sĩ lại tâu rằng:

-Lương thực trong dinh,chỉ còn bảy ngày nữa thì hết.

Sở Trang vương nói:

-Ta không ngờ nước Tống mà đánh khó như thế.

Nói xong,liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống,thì thấy quân sĩ giữ thành rất nghiêm chỉnh.Sở Trang vương bèn thở dài,rồi triệu công tử Trắc để bàn việc rút quân về.Thân Tề (con Thân Vô Úy )sụp lạy,trước xe Sở Trang vương,khóc mà nói rằng:

-Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương,nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao !

Sở Trang vương có ý hổ thẹn.Thân THúc THời bấy giờ đang cầm cương trên xe Sở Trang vương,mới hiến kế rằng:

-Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được,nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở,và cầy ruộng để lấy thóc ăn,tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây lâu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng.

Sở Trang vương khen phải,truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thanéh.Trong mười ngươì thì để năm người vây thành,còn năm người cày ruộng,cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần.Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy,nói với Tống Văn công rằng:

-Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu,biết làm thế nào, âu là tôi xin lẻn vào dinh quân Sở để hiếp công tử Trắc,bắt phải cho giảng hoà thì họa chăng mới được việc.

Tống Văn công nói:

-Nước ta còn hay mất,quan hệ ở việc này lắm,tướng quốc phải cẩn thận mới được!

Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao,lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang vương. Đêm hôm ấy Hoa Nguyên thay hình đổi dạng làm người thị vệ,dòng dây xuống thành,lẻn đến dinh quân Sở.Gặp quân Sở đang đi tuần,Hoa Nguyên hỏi rằng:

-Quan nguyên soái có ở trên chòi không?

Quân Sở nói:

-Có !

Hoa nGuyên lại hỏi:

-Ngài đã ngủ chưa,

Quân Sở nói:

-Mấy ngày hôm nay,ngài khó nhọc quá,hôm nay đại vương ban cho một thẩu rượu,ngài uống xong đã đi nghĩ rồi !

Hoa Nguyên vội trèo thẳng lên trên chòi.Quân Sở ngăn lại Hoa Nguyên nói:

-Hôm nay đại vương có việc cơ mật,cần phải dặn bảo quan nguyên soái,mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, đại vương sợ quan nguyên soái uống rượu mà ngủ quên đi mất,nên phải sai tôi đến đây để dặn lại cho thất cặn kể rồi về nói ngay cho đại vương biết.

Quân Sở tưởng thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên.Trên chòi đèn thấp còn sáng,công tử TRắc cởi áo,nằm ngủ đã say,Hoa Nguên trèo ngay lên giường nắm se sẽ lấy tay lay công tử Trắc.Công tử Trắc tỉnh dậy,bị Hoa nGuyên nắm lấy hai cánh tay.Công tử Trắc vội vàng hỏi:

-Ai thế này?

Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng:

-Nguyên soái chớ sợ ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây ! Tôi phụng mệnh chúa công tôi lên sang đây để xin giảng hòa nếu quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau đời đời giao hiếu,nhươc bằng quan nguyên soái không nghe thì tôi và nguyên soái cùng chết đêm nay.

Hoa Nguyên tay trái giữ lấy công tử Trắc,tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra.Trong dưới bóng đèn,thấy lưỡi dao sáng quắc,công tử Trắc vội vàng đáp rằng:

-Có việc thì thương lượng với nhau,cần gì mà phải thô lỗ.

Hoa nguyên rụt lưỡi dao lại mà xin lỗi rằng:

-Nguyên soái chớ lấy làm lạ ! Vì sự thế gấp quá,cho nên tôi phải làm như vậy.

Công tử Trắc nói:

-Tình hình nước Tống bây giờ thế nào?

Hoa Nguyên nói:

-Chẳng nói giấu gì nguyên soái,nước tôi đổi con cho nhau mà ăn,nhặt xương người mà nấu,cùng khốn lắm rồi !

-Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy kia à?Sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà báo cho ta biết?

Hoa Nguyên nói:

-NGười quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương,tôi chắc quan nguyên soái là người quân tử,vậy nên tôi không dám giấu.

Công tử Trắc nói:

-Thế thì vì cớ gì mà nước Tống còn không chịu đầu hàng?

Hoa Nguyên nói:

-Tình hình nước tôi dẫn cùng khốn,nhưng chí khí dân nước tôi vẫn chưa sờn,cho nên vua và dân nước tôi cố sức chống giữ,thà rằng cùng chết với nhau,còn hơn cái nhục đầu hàng ở dưới chân thành.Nếu quan nguyên soái có lòng thương dân mà rút quân ra ngoài ba mươi dặm,thì chúa công tôi cũng xin một lòng thần phục quý quốc,không bao giờ dám trái lời.

Công tử Trắc nói:

-Ta cũng chẳng dấu gì nhà ngươi,quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày mà nước người không đầu hàng thì quân Sở cũng phải rút về thôi.Mới rồi,ta sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng,là lập kế khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi.Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm,vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín.

Hoa Nguyên nói:

-Tôi xin cùng với Nguyên soái ăn thề,hai bên đều không sai lời nhau !

Công tử Trắ cùng Hoa Nguyên ăn thề xong,lại xin kết nghĩa anh em.Công tử Trắc lấy một chiếc lệnh tiễn trao cho Hoa Nguyên,dặn phải đi mau.Hoa Nguyên có chiếc lệnh tiễn ấy thì cứ công nhiên đi thẳng đến dướu thành,làm ám hiệu cho trên thành thả dây xuống rồi kéo l ên, đi thẳng vào trong cung, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công.Sáng hôm sau,công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang vương nghe,và tâu rằng:

-Xuýt nữa thì mệnh tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi,may mà Hoa Nguyên có lòng nhân từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân,tôi đã nhận lời rồi,xin đại vương xuống chỉ.

Sở Trang vương nói:

-Nước Tống cùng khốn như thế,ta nên cố đánh cho kỳ được !

Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng:

-Quân ta chỉ còn có lượng ăn trong bảy ngày,tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

-Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc?

Công tử Trắc nói:

-Một nươc Tống nhỏ mọn như vậy,còn có người bề tôi không chịu nói dối,huống chi đường đường nước Sở ta mà lại không có người bề tôi như thế hay sao !

Trang vương nguôi cơn giận mà bảo rằng:

-Quan tư mã nói phải lắm!

Trang vương bèn hạ lệnh rút quân,ra đóng ở ngoài ba mươi dặm.Thân Tề thấy Trang vương đã hạ lệnh rút quân về,không dám ngăn trở,nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc.Trang vương sai người khuyên bảo Thân Tề rằng:

-Nhà ngươi chớ phiền ! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi !

Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để làm tờ giao ước.Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống,cùng với Tống Văn công ăn thề.Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cửu Thân Chu sang trả quân Sở và sang ở lại nước Sở đế làm tin.Sở Trang vương rút về nước Sở,làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể.Các quan trong triều đều đi đưa tất cả.Sở Trang vương lại cho Thân Tề được nối chức cha làm quan đại phu.Hoa Nguyên ở nước Sở,chơi thân với công tử Trắc và nhân đó lại kết giao với công tử Anh Tề.

Một hôm hai người ngồi chơi với nhau,bàn đến thời sự,công tử Anh Tề thở dài mà than rằng:

-Nay Tấn và Sở tranh nhau,binh hoà liên miên biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình !

Hoa Nguyên nói:

-Tôi nghĩ đang khi Tấn và Sở tranh nhau,không bên nào chịu thua,như bây giờ nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau,các nước phụ thuộc của hai bên nào thì triều cống về bên ấy,rồi cùng nhau yên nghĩ,khiến cho nhân dân trách khỏi lầm than khổ sở,như thế cũng chẳng may cho đời lắm ru !

Công tử Anh Tề nói:

-Việc ấy nhà ngươi có làm nổi hay không?

Hoa Nguyên nói:

-Ta có giao du với tướng quân nước Tấn là Loan Thư,năm trước tôi sang sứ nước Tấn,Loan Thư cũng có nói đến việc ấy,tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được.

Ngày hôm sau,công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc.Công tử Trắc nói:

-Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến,việc ấy đã bàn đến thế nào được.

Hoa Nguyên ở Sở đã được sáu năm thì Tống Văn công (Bão)chết,con là Tống Cung công(Cố)lên nối ngôi.Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang.

Lại nói chuyện Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây quân Tống đã hơn một năm,mới bảo Bá Tôn rằng:

-Nước Tống cố giữ được như vậy,cũng đã mỏi mệt lắm rồi,ta chớ nên thất tín,phải đem quân đi cứu mới được;

Tấn Cảnh công đem quân đi cứu Tống.Bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến.Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình vương,vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất,từ đó mỗi ngày một cường thịnh.Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi ,lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân.Anh Nhi hèn yếu,quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền,khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ,Phong Thư còn e sợ,không dám hoành hành lắm,từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi,Phong THư không còn e sợ ai cả,muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn,liền vu tội cho Bá Cơ,bảo vua nước Lộ giết đi.

Một hôm,Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi,nhân khi uống rượu say,thinhau bắn chim,Phong Thư bắn sẩy tay khiến vua nước Lộ bị thương ở mắt.Phong thư ném cung xuống đất,cười mà nói rằng:

-Tôi bắn không trúng nên phạt một chén rượu.

Vua nước Lộ không thể nhịn được,nhưng liệu sức mình không làm gì nổi Phong Thư mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn,xin nước Tấn đem quân sang hỏi tội Phong Thư.Mưu thần nước Tấn là Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

-Nay ta giết Phong Thư,chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía tây nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng,cơ hội ấy chớ nên bỏ phí !

Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công),mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng.Nguy Khóa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ.Phong Thư đem quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn,bị quân Tấn đánh thua,bỏ chạy sang nước Vệ.Vệ Mục công (Tốc) đang củng với nước Tấn giao hiểu,liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn.Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô(kinh thành nước Tấn)mà giết đi.Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón.Tuân Lâm Phủ ra đón.Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ ,rồi bắt đem về nước Tấn,lại mượn cớ,dân nước Lê nhớ vua cũ,liều tìm con cháu vua nước Lê,daađp thành cho ở một chỗ,tiếng là khôi phục nước Lê,kỳ thực là dể diệt nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót,rồi tự vẫn chết.Người nước Lộ lập đền thờ.Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ,mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng.

Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận,mới lưu phó tướng là Ngụy Khóa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy.Bỗng có một tóan quân kéo đến nước Lộ,hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tấn tên gọi là Đỗ Hồi.Nguyên từ khi Tần Khang công chết,con là Tấn Cung công (Đạo)nối ngôi,nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng,là một nước phụ thuộc của Tần,bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết,con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi,bấy giờ,bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công,nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư,Tần toan đem quân đến cứu,nhưng lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư và bắt vua nước Lộ,Tần bèn sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ.

Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần,hàm răng nhọn hoắt,khóe mắt tròn xoe,tay cứng như đồng,mặt đen tựa sắt,râu xòm tóc quăn,mình cao hơn trượng,lại có sức khỏe,vẫn thường cầm một cái búa khai sơn,nặng một trăm hai mươi cân.Nguyên Đỗ Hồi thuộc giống Bạch Địch,khi trước đã có một lần ở Thanh My sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn ba con hổ,rồi lột da đem về,Tần Hoan công nghe nói là người vũ dũng,cho lamé xa hữu tướng quân,lại một lần nữa, Đỗ Hồi chỉ đem b atrăm người mà phá vỡ được hơn một vạn giặc cướp ở Xa Nga Sơn,bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy,thân làm đến đại tướng.

Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến,tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi tay cầm búa khai sơn, đem ba trăm quân đến tận nơi,chém giết quân Tấn,khác nào như một vị thiên thần giáng hạ.Quân Tấn sợ hải,bỏ chạy tán loạn.Ngụy Khỏa vội vàng rút quân vào trại,rồi giữ thế thủ,không dám ra đánh nữa. Đỗ Hồi đến khiêu chiến luôn trong ba ngày mà Ngụy Khỏa nhất định không ra.Bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ(em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

-Chúa công sợ bọn Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến,vậy có sai tôi đến đây để tiếp ứng.

Ngụy Khỏa thuật lại những chuyện vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi cho là không ai địch nổi.Ngụy Kỳ không tin,nói rằng:

-Làm gì đám giặc cỏ ấy !Ngày mai tôi r atrận,thế nào cũng quyết đánh tan được !

Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến.Ngụy Kỳ tức giận,toan xông ra đánh.Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại.Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đổ Hồi. Đổ Hồi lại múa búa khai sơn,tả xung hữu đột,chém chết quân Tấn.Ngụy Kỳ thua to,may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng,mới về được trong trại. Đêm hôm ấy,Ngụy Khỏa đang ngồi trong trại,ngh' quanh nghĩ quẩn,không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ mòng mòng,bỗng nghe tiếng người ghé vào tai mà đọc ba tiếng: "Thanh Thảo bi", đến lúc tỉnh dậy,không hiểu là nghĩa làm sao,mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước,bèn đem chuyện nói với Ngụy Kỳ.

Ngụy Kỳ nói:

-Cách đây độ mười dặm,có một cái bãi cỏ,tên gọi "Thanh Thảo bi"hay là quân Tần sau này tất sẽ phải thua trận ở đấy chăng,vậy tôi xin đem một toán quân đến đó mai phục sẵn,rồi anh lập kế đem quân giặc đến,hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được.

Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo bi.Ngụy KHỏa giả cách thua chạy,dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo bi.Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra,cùng với Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đổ Hồi chẳng sợ hải chút nào cả,vẫn cầm búa khai sơn,tả xung hữu đột,dần dần tiến đến phía Thanh Thảo bi.Bỗng thấy Đổ Hồi mỗi bước lại ngã một cái,khác nào như người trượt nước băng.Quân Tấn thấy vậy,reo ầm cả lên.Ngụy Khỏa ngừng trông,thấy một ông lão già,mình mặc áo vải,chân đi giày đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi.Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả,bị quân Tấn đuổi bắt,số ba trăm người chỉ trốn thóat được độ bốn năm chục người mà thôi.

Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng:

-Ngươi cậy có sức khỏe,cớ sao cũng để bị bắt thế này?

Đỗ Hồi nói:

-Không biết hai chân ta vướn gphải vật gì mà thành ra khó cử động quá. Đó là trời hại ta,chứ không phải sức ta không đánh nổi.

Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

-Đỗ Hồi đã có sức khoe,nếu ta để y sống thì e sẽ sinh biến.

Ngụy Khỏa nói:

-Ý ta cũng nghĩ như vậy !

Nói xong,truyền chém Đỗ Hồi,rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy,Ngụy Kỳ nằm ngủ,lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến mặt vái chào mà nói rằng:

-Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đổ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đổ Hồi vướng chân mà ngã đó.

Ngụy Khỏa kinh sợ ,nói rằng:

-Tôi chưa được biết cụ bao giờ,sao cụ lại giúp tôi như vậy,tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ?

Ông lão già nói:

-Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ.Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi,vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân.Sau này con cháu tướng quân được đời đời vinh hiển mãi.

Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu,tên gọi Tổ Cơ.Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

-Nếu ta ra trận mà chết đi,mày nên cho Tổ Cơ đi lấy chồng được nơi xứng đáng,khiến Tổ Cơ có chổ nương tựa,chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng !

Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng,lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

-Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta;khi ta chết rồi,mày phải đem nàng ấy chôn theo ta,cho ta ở dưới suối vàng có người bầu bạn.

Nói xong thì chết.Ngụy Khỏa an táng cho cha,nhưng lại không bắt Tổ Cơ chôn theo.Ngụy Kỳ nói:

-Anh không nhớ lời cha dặn lúc gần mấy hay sao?

Ngụy KHỏa nói:

-Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gã chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất,lại dặn phải đem nàng đem chôn theo, đó chỉ là lời dặn lúc mê hoảng mà thôi,người hiếu tử nên theo lời dặn của cha khi còn sáng suốt,chớ theo lời trối khi lúc mê hoảng.

Về sau,Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một nho sĩ.Vì NGụy Khỏa có âm đức ấy,cho nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ lại để báo ơn.Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho NGụy Kỳ nghe.Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng.

Vua tôi nước Tần nghe tin Đổ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía.Tấn Cảnh công thưởng cho Ngụy Khỏa đất Linh Hồ, để làm thái ấp,lại đúc một quả chuông để ghi công thắng trận.Vì quả chuông là "Cảnh chung".Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị,nước Lưu Vu và nước thuộc Lưu Vu là nước Đạc Thần.Mấy nước ấy đều là của người Xích Địch,từ đó đất đai Xích Địch đều thuộc về nước Tấn tất cả.

Bấy giờ nước Tấn mất mùa,trộm cướp nổi lên như ong.Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài dò xét kẻ trộm,người ấy tên gọi Khước Ưng.KHước Ưng thường ra chơi chợ,trỏ vào ai mà bảo là kẻ trộm; đem bắt về tra hỏi thì quả nhiên là kẻ trộm thật.Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ưng rằng:

-Tại sao nhà ngươi lại biết được như vậy?

KHước Ưng nói:

-Tôi trong con mắt người ấy,khi thấy hàng hóa ở chợ thì có ý tham,thấy người ở chợ thì có ý thẹn,sao thấy tôi tới nơi thì có ý sợ,bởi thế mà tôi biết đích là kẻ trộm.

Khước Ưng mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm,nhưng số kẻ trộm lại càng ngày càng nhiều.Quan đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

-Nguyên Soái dùng Khước Ưng để bắt trộm,nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt được hết mà KHước Ưng đã chết đến nơi !

Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ hỏi rằng:

-Sao thế?

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 56 : Tề Khoảnh công bày cuộc mua cườiPhùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ

Tuân Lâm Phủ dùng Khước Ung để bắt kẻ trộm, Dương Thạch Chức biết là tất có kẻ sẽ giết chết Khước Ung, bèn nói với Tuân Lâm Phủ . Tuân Lâm Phủ hỏi cớ làm sao, Dương Thạch Chức nói:

- Khước Ung cậy có tài dò xét, nhưng một mình không thể bắt hết được kẻ trộm; thế nào rồi đây kẻ trộm cũng bày mưu lập kế để hại Khước Ung, còn gì mà không chết!

Được ba ngày nữa, Khước Ung đang đi chơi, bị một lũ mấy mươi đứa kẻ trộm túm lại đánh chết; chúng cắt đầu Khước Ung đem đi mất . Tuân Lâm Phủ lo lắm, cũng ốm nặng mà chết . Tấn Cảnh công nghe thấy Dương Thạnch Chức khi trước có nói với Tuân Lâm Phủ về việc Khước Ung, mới triệu vào mà hỏi rằng:

- Nhà ngươi đã đoán trước được việc Khước Ung, vậy thì nhà ngươi có biết dùng mưu kế gì mà dẹp yên được lũ trộm cắp kia không ?

Dương Thạch Chức nói:

- Dùng mưu trí mà trị kẻ trộm khác nào lấy đá chặn xuống cỏ, cỏ vẫn mọc lách vào khe đá được; dùn vũ lực mà trị quân trộm, khác nào lấy đá mà chọi với đá, hai bên tất cùng phải vỡ . Nay muốn dẹp yên quân trộm thì phải làm thế nào khiến chúng biết liêm sĩ, chứ bắt nhiều cũng không ích gì! Xin chúa công tôn trọng những thiện nhân ở trong triều, khiến cho kẻ bất thiện trông thấy mà biết sửa đổi, như thế thì lo gì chẳng có ngày dẹp yên được quân trộm .

Tấn Cảnh công lại hỏi rằng:

- Thiện nhân nước Tấn ta ngày nay, ai là hơn cả, nhà ngươi thử nói cho ta biết .

Dương Thạch Chức nói:

- Không ai bằng Sĩ Hội . Sĩ Hội là người tín nghĩa, ôn hoà mà không nhu nhược, uy nghiêm mà không dữ tợn, chúa công nên dùng .

Đến lúc Sĩ Hội có công dẹp được mấy nước thuộc về giống Xích Địch, thì Tấn Cảnh công tâu với Chu Định vương . Chu Định vương cho Sĩ Hội phẩm phục chức thượng khanh, Sĩ Hội được thay quyền Tuân Lâm Phủ, lại kiêm chức thái phó, được phong ở đất Phạm, sau thành ra tổ họ Phạm . Sĩ Hội đem những khoa điều bắt trộm, xóa bỏ tất cả, chỉ chuyên đem giáo hóa mà khuyên dân làm điều thiện, từ bấy giờ bai nhiêu quân trộm nước Tấn đều trốn sang nước Tần, nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh . Tấn Cảnh công lại có ý muốn làm bá chủ . Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

- Đời Văn công ta hội chư hầu ở Tiền Thổ, đến đời Tương công ta hội chư hầu ở Tân Thành, chư hầu đều một lòng theo Tấn cả . Từ khi ta thất tín ở Lịnh Hồ, thành ra tuyệt giao với Tấn; đến lúc Tề, Tống có kẻ giết vua mà ta không sang hỏi tội, bởi vậy các nước ở Sơn Đông mới khinh nước Tấn ta mà theo Sở . Sau nước Sở đánh Trịnh và Tống, ta cũng không sang cứu, thành ra Trịnh và Tống lại theo Sở nốt; chỉ còn mấy nước nhỏ như Vệ, Tào là theo Tấn mà thôi . Nay chúa công muốn làm bá chủ, tất phải kết thân với nước Lỗ và nước Tề rồi rình xem nước Sở có biến cố gì, ta sẽ thừa cơ sang đánh mới có thể đắc chí được .

Tấn Cảnh công khen phải, liền sai thượng quân nguyên sóai là Khước Khắc đem nhiều lễ vật sang sứ nước Lỗ và nước Tề .

Lỗ Tuyên công cảm cái ơn Tề Huệ công định vị cho mình, bởi vậy thường sai người sang sính lễ nước Tề; đến đời Tề Khoảnh công (Vô Giá) lên nối ngôi, nước Lỗ vẫn theo lệ cho người sang sính lễ . Khước Khắc phụng mệnh Tống Cảnh công sang sứ nước Lỗ, rồi cáo từ Lỗ Tuyên công sang sứ nước Tề . Lỗ Tuyên công nhân tiện đến kỳ sang sính lễ nước Tề, mới sang quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ cùng đi với Khước Khắc .

Khi Khước Khắc cùng Quý Tôn Hàng Phủ sang đến nước Tề, thì vừa gặp có sứ nước Vệ là Tôn Lương Phu và sứ nước Tào là công tử Thủ, cũng sang sính lễ nước Tề . Sứ thần bốn nước cùng vào triều kiến Tề Khoảnh công và dâng lễ vật . Tề Khoảnh công trông thấy hình dáng bốn vị sứ thần, nghĩ thầm lấy làm quái lạ, mới nói với bốn vị sứ thần rằng:

- Xin mời các ngài về nghỉ ở nhà công quán, rồi ngày mai cùng dự tiệc cho vui!

Sứ thần bốn nước cáo từ lui ra . Tề Khoảnh công vào cung, trông thấy mẹ là Tiêu Thái phu nhân, vẫn hãy còn nhịn cười không được . Nguyên Tiêu Thái phu nhân là con gái Tiêu Quân, kết duyên với Tề Huệ công . Khi Tề Huệ công chết rồi, Tiêu Thái phu nhân ngày đêm thương khóc . Tề Khoảnh công là người có hiếu, việc gì cũng cố làm cho mẹ được vui lòng . Phàm những chuyện buồn cười ở chốn dân thôn, đều thuật lại cho mẹ nghe, để cho mẹ được tươi cười vui vẻ . Hôm ấy, Tề Khoảnh công cứ cười ngặt nghẽo mà không nói là việc gì . Tiêu Thái phu nhân hỏi rằng:

- Có chuyện gì mà con vui cười như vậy ?

Tề Khoảnh công nói:

- Hôm nay có một chuyện rất quái lạ là: Tấn, Lỗ, Vệ, Tào bốn nước đều sai sứ thần đến sính lễ nước ta, mà sứ thần nước Tấn là Khước Khắc thì chột, chỉ nhìn được bằng một mắt mà thôi; sứ thần nước Lỗ là Qúy Tôn Hàng Phủ thì hói, trên đầu chẳng có một sợi tóc nào; sứ thần nước Vệ là Tôn Lương Phu thì khiễng chân, một bên cao và một bên thấp; sứ thần nước Tào là công tử Thủ thì gù lưng, mặt cúi xuống đất . Con thiết tưởng người ta có tật là thường, nhưng bốn người mỗi người một tật, mà lại cùng đến nước ta một lúc, chuyện quái lạ như vậy, tài nào chẳng phải buồn cười!

Tiêu Thái phu nhân không tin, nói rằng:

- Ta muốn xem có được không ?

Tề Khoảnh công nói:

- Cứ theo lệ thì sứ thần đến nước mình, sau khi công yến, tất có tư yến . Ngày mai con bày tiệc ở vườn hoa, mời sứ thần bốn nước vào ăn yến, tất họ phải đi qua dưới Sùng Đài; bấy giờ thân mẫu mắc màn ngồi ở trên Sùng Đài mà nom trộm phỏng có khó gì!

Khi các sứ thần cùng dự công yến xong, Tề Khoảnh công lại mời vào vườn hoa để dự tư yến . Cứ theo như lệ cũ: sứ thần chư hầu đến nước nào thì nước ấy phải cung ứng xe ngựa và người hầu, để cho kẻ tùy tùng của sứ giả được tạm nghỉ . Tề Khoảnh công chú ý muốn làm cho mẹ buồn cười, mới mặt truyền chọn lấy bốn người: một người chột mắt, một người hói đầu, một người khiễng chân va một người gù lưng để dong xe cho sứ thần bốn nước:

1. Khước Khắc (sứ thần nước Tấn) chột mắt thì lại dùng người chột mắt dong xe .

2. Qúy Tôn Hàng Phủ (sứ thần nước Lỗ) hói đầu thì lại dùng người hói đầu dong xe .

3. Tôn Lương Phủ (sứ thần nước Vệ) khiễng chân thì lại dùng người khiễng chân dong xe .

4. Công tử Thủ (sứ thần nước Tào) gù lưng thì lại dùng người gù lưng dong xe .

Quan thượng khanh nước Tề là Quốc Tá (con Quốc Qúy Phú) can rằng:

- Việc tiếp đãi sứ thần các nước là một việc lớn, nên phải kính cẩn mới được, không phải chuyện đùa!

Tề Khoảnh công không nghe . Bấy giờ sứ thần các nước đi xe qua dưới Sung Đài, thành ra một xe có hai người chột mắt, một xe có hai người hói đầu, một xe có hai người khiễng chân, và một xe nữa có hai người gù lưng . Tiêu Thái phu nhân ngồi ở trên đài mở màn ra trông, bỗng bật cười to lên . Các thị nữ hầu xung quanh cũng đều bưng miệng cười cả . Tiếng cười vang ra đến ngoài . Khước Khắc lúc mới trông thấy người dong xe chột mắt, cũng cho là sự ngẫu nhiên, không lấy làm lạ, đến lúc nghe tiếng phụ nữ ở trên đài, thì trong lòng nghi hoặc, chỉ uống qua loa mấy chén rượu, rồi cáo từ lui ra . Về đến nhà công quá, sai người hỏi xem ai ở trên đài mà cười như vậy, mới biết là Tiêu Thái phu nhân .

Được một lúc, sứ thần nước Lỗ, nước Vệ và nước Tào đều đến thuật chuyện với Khước Khắc và bảo Khước Khắc rằng:

- Nước Tề cố ý chọn người cầm cương để bỡn cợt chúng ta, mà làm trò vui cho đàn bà, thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!

Khước Khắc nói:

- Chúng ta vì lòng tốt mà đến sính lễ, lại bị họ làm nhục, nếu không báo thù thì sao gọi là trượng phu ?

Bọn Quý Tôn Hàng Phủ ba người đồng thanh đáp rằng:

- Nếu ngài đem quân đánh Tề thì chúng tôi xin tâu với chúa công tôi dốc hết sức nước tôi mà đánh giúp .

Khước Khắc nói:

- Các ngài đã đồng tâm như vậy thì xin cùng nhau quệt máu ăn thề .

Thề rằng: "Khi khởi binh đánh Tề, hễ ai không chịu cố sức thì quỉ thần tru diệt!"

Sứ thần bốn nước đêm hôm ấy họp nhau thương nghị suốt sáng: đến sáng hôm sau, nước nào về nước ấy, chẳng vào cáo từ với Tề Khoảnh công nữa . Quốc Tá (quan thượng khanh nước Tề) thở dài mà than rằng:

- Tai vạ nước Tề ta sinh ra từ việc này!

Bấy giờ Qúy Tôn Hàng Phủ đang cầm quyền chính nước Lỗ, từ khi đi sứ nước Tề về, mới quyết chí báo thù Tề . Nghe tin Khước Khắc nói với Tấn Cảnh công xin khởi binh đánh Tề, chỉ vì cùng với quan thái phó là Sĩ Hội không hợp ý nhau, cho nên Tấn Cảnh công chưa cho . Qúy Tôn Hàng Phủ lại càng nóng nảy, liền tâu với Lỗ Tuyên công cho người sang mượn quân nước Sở . Vừa lúc bấy giờ Sở Trang vương (Lữ) ốm chết, thế tử Thẩm nối ngôi, mới lên mười tuổi, tức là Sở Cung vương . Sở Cung vương đang có tang, mới từ chối không cho nước Lỗ mượn quân . Quý Tôn Hàng Phủ đang lúc tức giận thì bỗng có người ở nước Tấn về thuật chuyện Khước Khắc ngày đêm khuyên bảo Tấnh Cảnh công đánh Tề, nói là đánh Tề có lợi, nếu không đánh Tề thì không làm được bá chủ, bởi vậy Tấn Cảnh nghe lời . Sĩ Hội biết là không thể nói cho Khước Khắc làm trung quân nguyên soái, cầm quyền chính nước Tấn, chẳng bao lâu nữa sẽ khởi binh đi đánh . Quý Tôn Hàng Phủ mừng lắm, liền sai công tôn Quy Phủ (con Trọng Toại) sang sứ nước Tấn, hẹn ngày khởi binh . Bấy giờ họ Mạnh Tôn, Thúc Tôn và Quý Tôn ở nước Lỗ, con cháu mỗi ngày một cường thịnh . Lỗ Tuyên công lo lắm, mới nhân khi công tôn Quy Phủ sang sứ nước Tấn, mới cầm tay Quy Phủ mà dặn rằng:

- Ba họ Hoàn mỗi ngày một cường thịnh, mà nhà vua mỗi ngày một suy yếu, nhà ngươi cũng đã biết cả . Nay nhà ngươi sang sứ Tấn, nên đem sự tình nói với vua Tấn, nhờ binh lực mà trừ ba họ ấy đi thì xin mỗi năm một lần công hiến, không bao giờ dám quên ơn . Nhà ngươi phải cẩn thận, chớ tiết lộ cho ai biết .

Công tôn Quy Phủ phụng mệnh đem nhiều lễ vật sang nước Tấn, nghe nói Tấn Cảnh công đang tin yêu Đồ Ngạn Giả, cho làm quan tư khấu, mới đem lễ vật vào biếu Đồ Ngạn Giả và nói việc Lỗ Tuyên công muốn đuổi ba họ Hoàn . Đồ Ngạn Giả khi trước đắc tội với Triệu Thuẫn, mới kết giao với Long Thư và Khước Khắc rất thân mật, liền đem lời công tôn Quy Phủ nói với Loan Thư . Loan Thư nói:

- Quan nguyên soái ta (trỏ Khước Khắc) đang giao hiếu với Quý Tôn Hàng Phủ để cùng đánh Tề thì việc ấy khó lòng làm được, âu là ta thử dò ý xem sao .

Loan Thư nhân lúc thong thả, nói chuyện với Khước Khắc . Khước Khắc nói:

- Công tôn Quy Phủ muốn làm loạn nước Lỗ, ta chớ nên nghe!

Khước Khắc bèn viết một tờ mật thư sai người phi báo với Qúy Tôn Hàng Phủ ở nước Lỗ . Qúy Tôn Hàng Phủ nổi giận, nói:

- Ngày trước giết công tử Ác và công thử Thị, đều là mưu của Trọng Toại, ta đã làm ngơ, không thèm nói đến, nay con là công tôn Quy Phủ lại lập mưu để định đuổi ta, thế mới thật là nuôi hổ có ngày di hại!

Nói xong, liền lấy tờ mật thư của Khước Khắc đưa cho Thúc Tôn Kiều Như xem . Thúc Tôn Kiều Như nói:

- Chúa công không ra coi triều, đã một tháng nay, nói là đang ốm, chẳng qua chỉ là giả dối mà thôi . Bây giờ chúng ta cùng vào thăm, đến tận trước giường nằmg để hỏi xem việc này ra sao .

Thúc Tôn Kiều Như lại sai người mời Trọng Tôn Miệt đến để cùng vào một thể . Trọng Tôn Miệt từ chối nói rằng:

- Vua tôi không có phép đối chất phải trái với nhau, tôi không dám đi .

Qúy Tôn Hàng Phủ và Thúc Tôn Kiều Như lại rủ quan tư khấu là Tang tôn Hứa (con Tang Văn Trọng) cùng đi . Ba người vào đến cửa cung, nghe tin Lỗ Tuyên công ốm nặng, thì không vào yết kiến nữa, mà lại rủ nhau cùng về . Ngày hôm sau, Lỗ Tuyên công mất . Qúy Tôn Hàng Phủ lập thế tử Hắc Quang lên nối ngôi (bấy giờ mới mười ba tuổi), tức là Lỗ Thành công . Lỗ Thành công tuổi hãy còn nhỏ, việc gì cũng giao quyền cho Quý Tôn Hàng Phủ . Qúy Tôn Hàng Phủ họp các quan đại phu lại thương nghị rằng:

- Nay vua thi nhỏ, nước thì yếu, tất phải chỉnh đốn hình pháp lại mới được . Trọng Toại ngày trước giết vua nọ lập vua kia để cố ý du nịnh nước Tề, khiến ta cùng với nước Tấn bất hoà với nhau, bây giờ ta nên xét lại mà trị tội .

Các quan đại phu đều vâng dạ xin theo mệnh . Quý Tôn Hàng Phủ liền sai quan tư khấu là Tang tôn Hứa đuổi hết những tộc đảng của Trọng Toại . Khi công tôn Quy Phủ ở nước Tấn về chưa đến địa giới nước Lỗ, đã nghe tin Lỗ Tuyên công mất, Quý Tôn Hàng Phủ đang trị tội người nhà mình, tức khắc bỏ trốn sang nước Tề . Tề Khoảnh công nghe tin Lỗ cùng Tấn hợp mưu đánh Tề, thì một mặt sai người giao hiếu với Sở, còn một mặt đem quân sang đánh Lỗ, tiếp binh qua đất Bình Âm, kéo thẳng đến thành Long Ấp . Tướng nước Tề là Lư Bồ Tựu Khôi bị quân ở cửa bắc thành Long Ấp bắt được . Tề Khoảnh công sai người gọi quân Lỗ ở trên mặt thành mà bảo rằng:

- Hễ chịu trả lại Lư Bồ tướng quân tức là Lư Bồ Tựu Khôi của ta thì ta sẽ rút quân về!

Quân Lỗ không tin, giết chết Lư Bồ Tựu Khôi, đem căng xác ở trên mặt thành . Tề Khoảnh công nổi giận, truyền cho quân sĩ bốn mặt ra sức cố đánh . Khi phá vỡ được thành Long Ấp rồi, Tề Khoảnh công đem bao nhiêu người ở cửa bắc, bất cứ quân dân, đều giết chết sạch cả, để báo cái thù giết chết Lư Bồ Tựu Khôi . Tề Khoảnh công toan tiến binh thì nghe báo có tướng nước Vệ là Tôn Lương Phu đã đem quân vào địa giới nước Tề . Tề Khoảnh công nói:

- Nước Vệ rình lúc ta đem quân đi vắng mà đến xâm phạm nước ta, nay ta nên tức khắc quay về để đón đánh quân Vệ .

Tề Khoảnh công lưu một toán quân đóng giữ Long Ấp còn đại binh thì rút về phía nam . Đi đến đất Tân Trúc (đất nước Vệ) bỗng gặp quân nước Vệ . Quan phó tướng nước Vệ là Thạch Tắc nói với Tôn Lương Phu rằng:

- Ta phụng mệnh sang đánh Tề là nhân lúc vua Tề đem quân đi vắng; nay vua Tề đã về, thì ta không nên đánh vội, hãy chờ quân Tấn và quân Lỗ đến để cùng hợp sức mới có thể toàn thắng được .

Tôn Lương Phu nói:

- Ta chỉ cốt báo cái thù vua Tề cười ta khi trước, nay gặp vua Tề, có lẽ nào lại không đánh .

Tôn Lương Phu không nghe lời Thạch Tắc, đêm hôm ấy đem quân tiến sang đánh dinh quân Tề . Quân Tề biết là quân Vệ thế nào cũng lẻn đến đánh, đã phòng bị trước cả . Khi Tôn Lương Phu vào đến dinh quân Tề, thì là mộtcái dinh bỏ không . Tôn Lương Phu toan quay trở ra thì phái tả có Quốc Tá, phía hữu có Cao Cố đem quân vây kín lại . Tề Khoảnh công cũng kéo đại binh đến, quát to lên rằng:

- Thằng khiễng chân kia, liệu mà nộp đầu đi!

Tôn Lương Phu liều chết chống lại, may sao có toán quân của Ninh Tướng và Hướng Cầm đến tiếp ứng, mới chạy theo được . Tề Khoảnh công giục quân đuổi theo, lại vừa gặp có toán quân của Thạch Tắc (tướng nước Vệ) kéo đến . Thạch Tắc bảo Tôn Lương Phu rằng:

- Quan nguyên soái cứ đi trước, để mặc tôi đối địch với quân Tề .

Tôn Lương Phu vội vàng kéo quân chạy thẳng . Chạy chưa được một dặm, lại thấy ở trước mặt có một toán quân kéo đến . Tôn Lương Phu thở dài mà nói rằng:

- Ở đây mà có quân Tề mai phục, thì ta khó lòng mà sống được .

Khi gần đến nơi, có một viên tướng ngồi ở trong xe, cúi đầu chào mà nói rằng:

- Chúng tôi không biết là nguyên soái giao chiến với quân Tề, vậy nên không kịp đến tiếp ứng, xin nguyên soái tha lỗi .

Tôn Lương Phu hỏi:

- Nhà ngươi là ai ?

Viên tướng ấy đáp rằng:

- Tôi là quan trấn thủ ở đất Tân Thúc, tên gọi Trọng Thúc Vu Hề . Quân sĩ của tôi đem theo đây, cũng đủ giao chiến với Tề một trậnn, xin nguyên soái chới ngại!

Tôn Lương Phu mới được yên lòng, bảo Trọng Thúc Vu Hề rằng:

- Quan phó tướng quân Thạch Tắc còn ở phía sau, nhà người nên đem quân tiếp ứng .

Trọng Thúc Vu Hề vâng lời, liền đem quân đi ngay . Lại nói chuyện Tề Khoảnh công gặp quân Thạch Tắc, vừa toan giao chiến thì nghe báo có quân của Trọng Thúc Vu Hề đến tiếp ứng . Tề Khoảnh công sợ ở đất nước Vệ, binh lực không tiếp viện được, mới rút quân trở về . Thạch Tắc và Trọng Thúc Vu Hề cũng không đuổi theo nữa . Tôn Lương Phu thu thập quân thua, vào trong thành Tân Trúc yên nghỉ mấy ngày . Các tướng hỏi Tôn Lương Phu, xin cho biết hôm nào thì rút quân về .

Tôn Lương Phu nói:

- Ta vốn định báo thù nước Tề, nay lại bị nước Tề đánh thua, còn mặt mũi nào về trông thây chúa công ta nữa! Nay ta định sang mượn quân nước Tấn để bắt cho được vua Tề thì ta mới thoả lòng!

Tôn Lương Phu liền lưu bọn Thạch Tắc đóng quân ở Tân Trúc, còn mình thì thân hành sang nước Tấn để mượn quân . Gặp bấy giờ quan tư khấu nước Lỗ là Tang Tôn Hứa cũng sang mượn quân nước Tấn, mới cùng Tôn Lương Phu vào gặp Khước Khắc trước, rồi sau mới yết kiến Tấn Cảnh công . Trong ngoài đồng lòng, một xướng một hoạ dù Tấn Cảnh công muốn không nghe cũng không được, bèn cho Khước Khắc cử đại binh đi đánh Tề . Tang Tôn Hứa về nước Lỗ để báo trước cho Quý Tôn Hàng Phủ biết, Qúy Tôn Hàng Phủ cũng đem quân sang hội ở đất Tân Trúc . Tôn Lương Phủ lại sai người sang ước với công tử Thủ ở nước Tào . Công tử Thủ cũng đem quân đến Tân Trúc để bàn việc đánh Tề . Quân thám tử của Tề Khoảnh công nghe tin quan tư khắc nước Lỗ là Tang Tôn Hứa mượn được quân Tấn, về báo Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công nói:

- Nếu để cho quân giặc vào đất ta thì dân trong nước đều sợ hãi, âu là ta đem quân ra ngoài cõi để mà đón đánh .

Tề Khoảnh công bèn đem quân đi đón quân Tấn, nghe nói quân Tấn đã đóng ở núi Ma Kê, mới sai sứ sang thỉnh chiến . Khước Khắc hẹn đến ngày hôm sau thì khai chiến . Quan đại tướng nước Tề là Cao Cố nói với Tề Khoảnh công rằng:

- Nước ta cùng với nước Tấ, xưa nay chưa giao chiến bao giờ, không biết người nước Tấn bạo dạn hay là nhát gan để tôi xin sang trước, thử xem ra làm sao .

Cao Cố bèn lên xe đi thẳng sang dinh quân Tấn để khiêu chiến . Trong dinh quân Tấn có một viên tiểu tướng đi xe ra . Cao Cố cầm một miếng đá lớn, ném trúng vào đầu viên tiểu tướng ấy . Viên tiểu tướng ấy ở trên xe ngã lăn xuống . Người dong xe sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Cao Cố nhảy ngay lên xe của quân Tấn, tay cầm dây cương, đánh ngựa kéo thẳng về dinh quân Tề; lại đi diễu một vòng nữa, vừa đi vừa reo rầm lên rằng:

- Ai có mua sức khoẻ, ta bán bớt cho!

Quân Tề đều vỗ tay cười . Khi quân Tấn biết mà ra đuổi theo thì đã không kịp . Cao Cố vào nói với Tề Khoảnhg công rằng:

- Quân Tấn dẫu nhiều, nhưng ít người có can đảm, không có gì đánh sợ .

Ngày hôm sau, Tề Khoảnh công xông vào trong trận, truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Quân Tấn chết hại rất nhiều . Giải Trương (tướng nước Tấn) cánh tay bị hai mũi tên, máu chảy dòng dòng xuống bánh xe, mà vẫn cố gắng cầm cương ngựa . Khước Khắc đang đánh trống thúc quân tiến vào, cũng bị một mũi tên trúng sườn bên tả, máu chảy xuống đến tận giầy . Tiếng trống nghe đã hơi chầm chậm . Giải Trương nói:

- Dẫu bị thương, nhưng chưa đến nỗi chết thì cũng phải cố sức mà đánh .

Trịnh Khâu Hoãn (quan xa hữu nước Tấn) khen lời Giải Trương nói phải, bảo Khước Khắc rằng:

- Chết sống tại số, không can chi mà sợ hãi!

Khước Khắc lại ra sức đánh trống để thúc quân, Giải Trương giục ngựa, nhằm thẳng phía tên bắn mà tiến vào . Trịnh Khâu Hoãn tay trái cầm nón che cho Khước Khắc, tay phải cầm giáo để đánh giặc . Quân Tấn nghe tiếng trống, tưởng là thắng trận, tranh nhau tiến vào, quân Tề không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy . Hàn Quyết thấy Khước Khắc bị thương nặng, liền nói rằng:

- Quan nguyên sóai hãy tạm nghỉ, để mặc tôi đuổi theo quân giặc .

Hàn Quyết đem quân đuổi theo . Quân Tề sợ hãi, bỏ chạy tán loạn . Tề Khoảnh công vòng quanh núi Hoa Bất Trú mà chạy . Hàn Quyết trông thấy cỗ xe thếp vàng của Tề Khỏanh công, liền cố sức đuổi đánh . Phùng Sửu Phủ (quan xa hữu nước Tề) bảo viên tướnng dong xe cho Tề Khoảnh công là Bính Hạ rằng:

- Tướng quân giao cương ngựa cho tôi, rồi tháo ra ngoài vòng vây, để lấy quân cứu viện .

Bấy giờ quân Tấn kéo đến nhiều lắm, vây núi Hoa Bất Trú ba vòng . Phùng Sửu Phủ bảo Tề Khoảnh công rằng:

- Bây giờ đã nguy cấp lắm rồi! chúa công nên cởi ngay áo cẩm bào ra để tôi mặc, tôi giả cách làm chúa công, còn chúa công thì mặc áo của tôi mà cầm cương xe, để đánh lừa quân Tấn . Không may có điều gì, tôi xin chết thay chúa công, chúa công mới có thể trốn thóat được .

Tề Khoảnh công theo lời, vừa đổi áo xong thì quân Hàn Quyết kéo đến . Hàn Quyết trông thấy người mặc áo cẩm bào, tưởng là Tề Khoảnh công, mới nắm lấy cương ngựa cúi đầu hai xá mà nói rằng:

- Chúa công tôi theo lời xin của nước Lỗ và nước Vệ, có sai tôi đem quân tới đây; nay được gặp nhà vua, tôi xin cầm ngựa để rước nhà vua quá bộ sang nước tôi một chút .

Phùng Sửu Phủ giả cách kêu khát nước, không thể nói được, rồi cầm cái bầu đưa cho Tề Khoảnh công mà bảo rằng:

- Phùng Sửu Phủ! Nhà ngươi đi lấy cho ta bầu nước .

Tề Khoảnh công xuống xe, giả cách ra suối lấy nước, khi lấy được nước, Phùng Sửu Phủ lại kêu là nước đục, Tề Khoảnh công lại đi tìm chỗ nước trong, rồi lần đi quanh về phía hữu mà trốn; may lại gặp có tướng nước Tề là Trịnh Chu Phủ vừa đi xe đến, bảo Tề Khoảnh công rằng:

- Bính Hạ nay đã bị hãm ở trong đám quân Tấn, không ra được rồi! Thế lực quân Tấn bây giờ to lắm, có con đường này là ít quân giặc mà thôi, chúa công nên thừa cơ đi mau .

Trịnh Chu Phủ tức thì đưa dây cương cho Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công lên xe chạy thoát . Hàn Quyết sai người báo với Khước Khắc rằng:

- Đã bắt được vua Tề rồi!

Khước Khắc mừng lắm . Khi Hàn Quyết giải Sửu Phủ đến . Khước Khắc trông thấy biết là không phải vua Tề liền nổi giận mà hỏi Phùng Sửu Phủ rằng:

- Nhà ngươi là ai ?

Phùng Sửu Phủ nói:

- Tôi là quan xa hữu nước Tề, tên gọi Phùng Sửu Phủ, còn chúa công tôi tức là người lúc nãy xuống suối đi lấy nước đó .

Khước Khắc giận lắm, nói:

- Nhà ngươi dám mạo nhận làm vua Tề, để đánh lừa quân ta thì tất phải chiếu quân pháp mà trị tội .

Khước Khắc truyền cho quân sĩ đem Phùng Sửu Phủ ra chém . Phùng Sửu Phủ kêu to lên rằng:

- Quân sĩ nước Tấn hãy nghe ta nói: từ nay chớ ai có thay vua trong lúc hoạn nạn như Phùng Sửu Phủ này mà chết mất mạng đó .

Khước Khắc sai cởi trói cho Phùng Sửu Phủ mà nói rằng:

- Người ta đã biệt tận trung với vua, ta không nên giết! Nói đoạn truyền lấy xe chở lương thực và quân dụng chở Phùng Sửu Phủ đi theo sau quân Tề . Khoảnh công về đến dinh quân Tề, nghĩ cái ơn Phùng Sửu Phủ, ra rồi lại vào, cả thảy đến ba lần . Quốc Tá và Cao Cố nghe tin Khoảnh công thua trận, vội vàng đem quân đến tiếp ứng, thấy Khoảnh công ở trong đám quân Tấn ra, giật mình hỏi rằng:

- Sao chúa công lại khinh thường mà xông vào trong chỗ hang hổ như vậy .

Khoảnh công nói:

- Phùng Sửu Phủ vì ta thay ta mà bị hãm ở trong đám quân giặc, chưa biết sống chết thế nào cho nên ta ngồi không yên được, lại phải xông vào để tìm .

Nói chưa dứt lời thì nghe báo quân Tấn đã kéo đến . Quốc Tá nói với Khoảnh công rằng:

- Nay quân ta đã bất lợi, chúa công chớ ở đây lâu, nên mau mau rút quân về nước, để đợi quân Sở đến cứu!

Tề Khoảnh công theo lời, rút quân về Lâm Tri (kinh thành nước Tề) Khước Khắc đem đại binh cùng với quân Lỗ, Vệ, Tào kéo thẳng sang nước Tề, đi qua quan ải nào, cũng đốt phá tàn hại, thẳng đến kinh đô, định diệt hẳn nước Tề .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 57 : Vu Thần kết duyên với Hạ CơTrình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn

Quân Tấn đuổi theo Tề Khoảnh công đến đất Viên Lân . Tề Khoảnh công sợ hãi, họp các tướng lại để hỏi kế . Quốc Tá nói rằng:

- Tôi xin đem cái lò nghiễn (lò hai tầng, trên chưng, dưới nấu) của Kỷ hầu và cái khánh ngọc sang lễ nước Tấn để xin giảng hoà; còn những đất ta xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ khi trước thì trả lại cho hai nước ấy .

- Như thế là ta xử với Tấn quá phải lắm rồi, nếu Tấn không nghe thì thế nào cũng phải cố sức đánh!

Quốc Tá vâng lệnh đem lò nghiễn và khánh ngọc sang dinh quân Tấn, vào nói trước với Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

- Vì Lỗ và Vệ than phiền bị Tề luôn luôn xâm chiếm, cho nên chúa công tôi thương tình mà đến cứu, chứ chúa công tôi có thù gì với nước Tề!

Quốc Tá nói:

- Tôi xin tâu với chúa công tôi trả lại những đất xâm chiếm của Lỗ và Vệ thì tướng quân nghĩ thế nào ?

Hàn Quyết nói:

- Việc ấy quyền tại quan nguyên soái (trò Khước Khắc) tôi chứ tôi không dám quyết .

Nói xong, liền đưa Quốc Tá vào yết kiến Khước Khắc . Khước Khắc trông thấy Quốc Tá, hầm hầm nổi giận . Quốc Tá đối đáp vẫn có lễ phép . Khước Khắc nói:

- Nước ngươi đã sắp mất đến nơi, lại còn muốn dùng lời nói khéo để làm kế hoãn binh hay sao! Nếu thực lòng xin giảng hoà thì phải theo ta hai điều .

Quốc Tá nói:

- hai điều đó là gì, xin ngài cho biết .

Khước Khắc nói:

- Một là nước ngươi phải đưa người con gái của Tiêu Quân sang ở nước ta để làm tin; hai là trong địa giới nước Tề phải đắp một con đường từ tây sang đông, để vạn nhất sau này nước Tề có bội ước thì ta giết người làm con tin ấy, và khi đem quân sang đánh ta có thể đi suốt từ tây sang đông được .

Quốc Tá nổi giận mà nói rằng:

- Nguyên sóai nghĩ sai rồi! Con gái của Tiêu Quân là ai, tức là thân mẫu chúa công tôi, cũng chẳng khác gì thân mẫu vua Tấn, lẽ nào lại đem quốc mẫu làm con tin bao giờ! Còn ruộng đất ở trong nước tôi là phải tuỳ theo địa thế mà đắp, nếu vì nước Tấn mà đổi lại tất cả thì khác gì một nước đã mất rồi . Nguyên soái nói như thế là ý không muốn cho nước tôi giảng hoà .

Khước Khắc nói:

- Không muốn cho giảng hoà thì nước ngươi làm gì ?

Quốc Tá nói:

- Nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, nguyên soái không cho hoà thì chúng tôi xin thu thập quân mã, cùng với nguyên soái quyết chiến một trận . Một trận không được thì hai trận; hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được thì bấy giờ cả nước Tề tôi là của nước Tấn, cần gì còn phải gửi người làm tin và đắp đường từ tây sang đông làm gì ? Ngay bây giờ, tôi xin từ biệt nguyên soái .

Quốc Tá liền đặt cái lò nghiễn và cái khánh ngọc xuống đất, rồi chắp tay vái chào mà lui ra . Qúy Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu đứng ở sau màn nghe nói, chạy ra bảo Khước Khắc rằng:

- Làm như vậy thì nước Tề giận ta quá lắm, tất cố sức mà đánh, không lẽ ta thắg mãi, chi bằng ta theo lời giảng hoà là hơn .

Khước Khắc nói:

- Sứ nước Tề đã đi rồi thì biết làm thế nào ?

Qúy Tôn Hàng Phủ nói:

- Ta nên sai người đuổi theo mà gọi lại .

Khước Khắc liền sai người đuổi theo, mời Quốc Tá hãy trở lại dinh quân Tấn . Khước Khắc bảo Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu cùng Quốc Tá làm lễ tương kiến, rồi lại nói với Quốc Tá rằng:

- Tôi sợ không làm nổi việc ấy thì có lỗi với chúa công tôi, cho nên tôi chưa dám nhận lời; nay hai quan đại phu nước Lỗ và nước Vệ (trở Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu) đã cùng nói với tôi, thì tôi cũng không dám trái ý . Vậy tôi xin nghe lời đại phu .

Quốc Tá nói:

- Nguyên soái đã thuận cho nước tôi giảng hoà thì xin ăn thề:

"Nước Tề nhận phải triều cống nước Tấn, lại trả những đấ xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ . Nước Tấn nhận phải rút quân về và không được xâm phạm của cải nước Tề".

Hai bên đều phải lập tờ thệ văn, Khước Khắc truyền đem tiết sinh ra, cùng nhau ăn thề rồi từ biệt . Khước Khắc lại tha cho Phùng Sửu Phủ trở về nước Tề . Tề Khoảnh công cho Phùng Sửu Phủ làm thượng khanh .

Bọn Khước Khắc thắng được quân Tề, trở về nước Tấn . Tấn Cảnh công đều gia phong thái ấp cho; lại cho Hàn Quyết làm tân trung quân nguyên soái, Triệu Quát làm phó; Củng Sóc làm tân thượng tuân nguyên soái, Hàn Xuyên làm phó; Tuân Trụ làm tân hạ quân nguyên soái, Triệu Chiên làm phó, mọi người đều được phong tước quan khanh cả .

Quan tư khấu là Đồ Ngạn Giả thấy họ Triệu hưng phấn càng đem lòng ghen ghét, ngày đêm chỉ cố tìm sự lầm lỗi của họ Triệu để dèm pha với Tấn Cảnh công; lại mật kết với họ Loan và họ Khước, khiến cho hai họ ấy cùng về bè với mình .

Tề Khoảnh công từ khi bị thua về, hết lòng sửa sang chính trị, để định báo thù nước Tấn . Vua tôi nước Tấn cũng sợ nước Tề báo thù, không giữ được nghiệp bá chủ, lại bắt các nước phải trả lại cho nước Tề những đất xâm chiếm mà nước Tề đã phải trả lại cho họ khi trước (theo minh ước) . Từ bấy giờ các nước chư hầu cho rằng nước Tấn không có tín nghĩa, bèn không tin phục nước Tấn nữa .

Lại nói chuyện Hạ Cơ nước Tần từ khi kết duyên với quan liên doãn nước Sở là Tương Lão, chưa được một năm thì Tương Lão phải đi đánh trận ở Bí Địa . Hạ Cơ mới cùng với con riêng của Tương Lão là Hắc Sái tư thông; đến lúc Tương Lão chết trận, Hắc Sái say mê Hạ Cơ, bỏ không đi tìm xá Tương Lão, người trong nước ai cũng chê cười . Hạ Cơ lấy làm xấu hổ, muốn mượn tiếng đi tìm xác Tương Lão để trở về nuớc Trịnh, (nguyên Hạ Cơ là con gái nước Trịnh, trước lấy chồng ở nước Tần), Tước thân công ở nước Sở là Khuất Vu thuê người mật báo với Hạ Cơ rằng:

- Thân công có lòng yêu mến nàn lắm, nàng về nước Trịnh hôm nào thì hôm ấy thân công sẽ sang xin cưới ngay .

Khúất Vu lại sai người nói với Trịnh Tương công rằng:

- Hạ Cơ muốn về nước nhà, sao nhà vua không sai người đón về ?

Trịnh Tương công quả nhiên sai sứ sang nước Sở để xin đón Hạ Cơ . Sở Trang vương hỏi các quan đại phu rằng:

- Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão, người nước Trịnh có ý muốn giúpp cho được việc, vậy nên mới sai người sang đón về .

Trang vương nói:

- Xác Tương Lão chết ở nước Tấn, người nước Trịnh giúp thế nào được ?

Khuất Vu nói:

- Tuân Dinh là con yêu của Tuân Thủ, nay bị giam ở nước Sở ta . Tuân Thủ thương nhớ lắm! Bây giờ Tuân Thủ mới được lên làm chức trung quân phó tướng ở nước Tấn, lại quen biết với quan đại phu nước Trịnh là Hoàng Thủ, thì tất thế nào rồi cũng nhờ Hoàng Thủ điều đình với nước Sở ta, xin đem thi thề công tử Cốc Thần (con Sở Trang vương) và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Vua nước Trịnh vì việc giao chiến ở Bí Địa, sợ nước Tấn đem quân sang hỏi tội, cũng muốn nhân việc này để lấy lòng nước Tấn, đó là tình thực, chứ không còn nghi ngờ gì nữa!

Nói chưa dứt lời thì Hạ Cơ vào từ biệt Sở Trang vương, tâu việc xin về nước Trịnh, vừa tâu vừa khóc, nước mắt như mưa . Lại nói với Sở Trang vương rằng:

- Nếu không tìm được Tuơng Lão thì thiếp xin thề không về nước Sở nữa!

Sở Trang vương có lòng thương mà cho đi . Hạ Cơ đi sang nước Trịnh . Khuất Vu lại mật đưa thư cho Trịnh Tương công, xin cưới Hạ Cơ làm vợ . Trịnh Tương công biết việc Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước muốn lấy Hạ Cơ, lại thấy Khuất Vu đang được trọng dụng ở nước Sở, cũng muốn kết thân, mới nhận lễ và cho cưới . Người nước Sở không ai biết chuyện ấy cả . Khuất Vu lại sai người sang bảo Tuân Thủ nước Tấn đem thi thể công tử Cốc Thần và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Tuân Thủ viết thư nhờ Hoàng Thủ (quan đại phu nước Trịnh) ở giữa nói hộ với Sở Trang vương .

Sở Trang vương muốn được thi thể con mình là công tử Cốc Thần, mới tha cho Tuân Dinh về và nước Tấn cũng giả lại hai thi thể . Đến lúc quân nước Tấn đánh Tề, Tề Khoảnh công sai sứ sang cầu cứu nước Sở, chính gặp lúc nước Sở mới có tang, chưa đem quân sang cứu, sau nghe tin quân Tề thua trận và quan đại phu nước Tề là Quốc Tá đã phải xin giảng hoà với Tấn, Sở Cung vương mới bảo triều thần rằng:

- Nước Tề theo Tấn là vì nước Sở ta chưa kịp đến cứu, đó không phải là bản tâm nước Tề . Nay ta nên cử binh đi đánh Lỗ và Vệ để báo thù cho nước Tề, có ai dám vì ta đem cái ý ấy sang nói cho vua Tề biết ?

Khuất Vu xin đi . Sở Cung vương nói:

- Nhân tiện nhà ngươi đi qua nước Trịnh, nên nước với vua Trịn đến tháng mười đem quân sang hội nhau ở địa giới nước Vệ, và cũng nói cho vua Tề biết .

Khuất Vu về nhà thu xếp tiền của và cho gia quyến đi trước còn mình thì ở lại sau, rồi thẳng đường tiến sang nước Trịnh . Khuất Vu đem lời nói của vua Sở vào ước với vua Trịnh, rồi lui ra nhà quán xá cùng với Hạ Cơ làm lễ thành thân . Đêm hôm ấy Hạ Cơ nỉ non bên gối, hỏi Khuất Vu rằng:

- Việc này khi trước phu quân có tâu với vua Sở không ?

Khuất Vu đem chuyện Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước đều muốn lấy Hạ Cơ nói lại cho Hạ Cơ nghe, lại bảo Hạ Cơ rằng:

- Ta vì ái khanh mà chịu phí bao nhiêu tâm cơ, ngày nay ba sinh mới phỉ mười thuyền, ta không dám về nước Sở nữa; sáng mai ta cùng với ái khanh tìm chốn nương thân, cùng nhau bách niên giai lão, ái khanh nghĩ thế nào ?

Hạ Cơ nói:

- Phu quân đã không về nước Sở thì việc đi sứ Tề này biết làm thế nào ?

Khuất Vu nói:

- Ta chẳng đi sứ Tề nữa! Ngày nay, cùng với nước Sở chống nhau, chỉ có nước Tấn, âu là ta cùng ái khanh sang ở nước Tấn .

Ngày hôm sau, Khuất Vu viết một đạo biểu giao cho người hầu đem về tâu với Sở Cung vương, rồi cùng Hạ Cơ trốn sang nước Tấn . Tấn Cảnh công đanh lấy việc thua nước Sở làm xấu hổ, nghe tin Khuất Vu đến, mừng lắm nói rằng:

- Thế này thì thật là trời đem người ấy đến giúp ta!

Tấn Cảnh công nói xong, liền cho Khuất Vu làm quan đại phu, lại phong cho đất Hình Địa để làm thái ấp . Khuất Vu mới bỏ họ Khuất, lấy chữ Vu làm họ, đặt tên là Thần . Từ bấy giờ vẫn gọi là Vu Thần . Sở Cung vương tiếp được tờ biểu của Vu Thần, mở ra đọc, đại lược nói rằng:

"Vua Trịnh đem Hạ Cơ gả cho tôi, tôi trót dại, không thể từ chối được . Nay tôi sợ đại vương trị tội, vậy phải tạm trốn sang nước Tấn; còn việc sứ Tề, xin đại vương chọn sai người khác . Tôi cam chịu tội chết!"

Sở Cung vương nổi giận, triệu công tử Anh Tề và công tử Trắc vào đưa tờ biểu cho xem . Công tử Trắc nói:

- Nước Sở ta và nước Tấn xưa nay vôn là cừu định với nhau, nay Vu Thần trốn sang nước Tấn, tức là làm phản, phải trừng phạt để làm gương .

Công tử Anh Tề nói:

- Hắc Sái thông dâm với kế mẫu là Hạ Cơ, cùng là có tội, cũng phải trừng phạt mới được .

Sở Cung vương theo lời, liền sai công tử ÁnhTê đem quân đến vây bắt gia tộc của Vu Thần, và sai công tử Trắc đến bắt Hắc Sái mà chém đi . Bao nhiêu gia tài của Vu Thần cùng Hắc Sái đều bị công tử Anh Tề và công tử Trắc chiếm lấy hết cả . Vu Thần nghe tin ấy mới đưa thư cho công tử Anh Tề và công tử Trắc, đại lược nói rằng:

"Các ngươi xui giục vua Sở làm những việc tham tàn, giết hại kẻ không có tội; ta quyết làm cho các người phải khổ sở ở nơi đường sá mà chết!"

Bọn công tử Anh Tề giấu bức thư ấy đi, không dám nói cho Sở Cung vương biết . Vu Thần bày mưu lập kế cho nước Tấn để sang thông hiếu với nước Ngô; rồi đem những phép xa chiến dạy người nước Ngô; lại cho con là Hồ Dung sang làm quan hành nhân ở nước Ngô, để thông tin tức cho nước Ngô và nước Tấn . Từ bấy giờ nước Ngô mỗi ngày một cường thịnh, chiếm lấy những thuộc quốc ở phía đông của nước Sở; vua nước Ngô là Trọng Mộng tiếm hiệu xưng vương . Sở Cung vương cho công tử Anh Tề làm đại tướng cùng với quân nước Trịnh sang đánh Vệ, tàn phá bờ cỡ nước Vệ, rồi lại đem quân sang xâm chiếm nước Lỗ, đóng đồn ở đất Dương Kiều . Trọng Tôn Miệt (tướng nước Lỗ) đem thợ khéo và con gái dệt cửi thêu thùa giỏi của nước Lỗ, mỗi hạng một trăn người sang dâng nước Sở và được giảng hoà . Nước Tấn cũng sai sứ ước với Lỗ Thành công cùng sang đánh Trịnh . Lỗ Thành công nhận lời .

Năm thứ 20 đời Chu Định vương, Trịnh Tương Công (Kiên) mất, thế tử Phi lên nối ngôi, tức là Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công cùng với nước Hứa tranh nhau địa giới . Vua nước Hứa sang kêu với Sở Cung vương . Sở Cung vương cho vua Hứa là phải lẽ, sai người trách Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công tức giận, mới bỏ Sở theo Tấn . Năm ấy, Khước Khắc nước Tấn bị thương, què mất cánh tay trái, liền cáo lão về nhà, chẳng được bao lâu thì mất . Loan Thư thay làm chức trung quân nguyên soái (tức là tướng quốc). Năm sau công tử Anh Tề nước Sở sang đánh Trịnh, Loan Thư đem quân đi cứu .

Lúc bấy giờ Tấn Cảnh công thấy nước Trịnh và nước Tề đều thần phục mình, thì sanh lòng kiêu ngạo, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả, và ham sự chơi bời săn bắn như Tấn Linh công thuở xưa . Triệu Đồng và Triệu Quát có ý bất hoà với anh là Triệu Anh, vu cho việc dâm loạn, rồi đuổi sang nước Tề, Tấn Cảnh công cũng không thể nào mà ngăn cấm nổi . Bấy giờ núi Lương Sơn tự nhiên sụt đá xuống làm nghẽn một khúc sông, nước sông ba ngày không chảy được . Tấn Cảnh công sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào . Đồ Ngạn Giả đút tiền cho quan thái sử để nói về việc hình phạt không hợp lẽ . Tấn Cảnh công nói:

- Ta dùng hình phạt, chưa hề có làm quá bao giờ, sao lại bảo là không hợp lẽ ?

Đồ Ngạn Giả nói với Tấn Cảnh công rằng:

- Hình phạt không hợp lẽ nghĩa là không đán tội mà trị tội, cũng như đán tội mà không trị tội . Triệu Thuẫn giết vua Linh công ta ở Đào Viên, việc ấy chép vào sử sách, đó là một tội không thể dung tha được; thế mà Thành công không trị tội, lại giao quyền chính trong nước cho kẻ phạm tội, dây dưa mãi đến bây giờ, con cháu của kẻ phạm tội làm quan, đầy khắp trong triều, thế thì lấy gì làm răn cho kẻ khác được ? và tôi nghe tin bọn Triệu Đồng và Triệu Quát cậy nhiều vây cánh, có ý muốn làm phản, Triệu Anh can ngăn không được, phải chạy ra nước ngoài; còn họ Loan và họ Khước, cũng sợ thế họ Triệu, không dám nói ra . Việc núi Lương Sơn đồ này, chính là ý trời muốn khiến chúa công giải tỏ nỗi oan của Linh công trước và trị tội họ Triệu đó!

Tấn Cảnh công từ trận đánh nhau ở Bí Địa đã ghét bọn Triệu Đồng và Triệu Quát chuyên quyền xấc xược, nay nghe lời noi của Đồ Ngạn Giả thì xiêu lòng bèn đem lời nói ấy mà hỏi Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

- Việc giết vua Linh công ở Đào Viên không dự gì đến Triệu Thuẫn . Và họ Triệu từ Triệu Thôi trở xuống, đời đời có công to với nước Tấn, sao chúa công lại nghe lời nói của đứa tiểu nhân mà nghi con cháu công thần ?

Cảnh công vẫn còn hồi nghi, lại hỏi Loan Thư và Khước Kỳ . Đồ Ngạn Giả đã dặn Loan Thư và Khước Kỳ trước, bởi vậy Loan Thư và Khước Kỳ cứ hàm hồ, không chịu biện bạch cho họ Triệu . Cảnh công mới cho lời nói của Đồ Ngạn Giả là thực liền ghi tội Triệu Thuẫn vào cái mộc bài, giao cho Đồ Ngạn Giả mà bảo rằng:

- Nhà ngươi liệu thế nào cho khỏi kinh động người trong nước thi cứ việc mà làm .

Hàn Quyết biết mưu của Đồ Ngạn Giả, đêm hôm ấy đến bảo với Triệu Sóc, bảo Triệu Sóc nên đi trốn . Triệu Sóc nói:

- Thân phụ tôi ngày xưa chỉ vì không chịu để cho tiên quân giết, đến nỗi mang tiếng xấu về sau, nay Đồ Ngạn Giả phụng mệnh chúa công để giết tôi thi tôi đâu dám trách . Nhưng vợ tôi hiện đang có thai, đã gần đến tháng, nếu sinh gái, thì chẳng nói làm chi, may mà sinh trai thì còn có thể giữ được dòng giống họ Triệu . Một giọt máu thừa ấy, xin tướng quân bảo toàn cho thì tôi dẫu hồn về chín suối, cũng được hả dạ!

Hàn Quyết khóc rằng:

- Tôi chịu ơn Triệu tướng quốc (trỏ Triệu Thuẫn) ngày xưa, chẳng khác tình cha con . Ngày nay tôi sức hèn tài mọn, không thể chém được đầu giặc (trỏ Đồ Ngạn Giả), tôi đã lấy làm xấu hổ lắm, nay còn một việc này, tôi xin hết sức! Nhưng quân giặc căm tức đã lâu, nay nhân dịp báo thù, không còn phân biệt ngọc đá vàng thau, tôi có làm gì cũng là vô ích, chi bằng ngài hãy cho công chúa (vợ Triệu Sóc, con gái Tấn Thành công) tránh nạn vào ở trong cung, mai sau sinh đặng con trai thì tất có cơ báo thù được .

Triệu Sóc vâng lời, rồi hai người gạt nước mắt mà từ biệt nhau . Triệu Sóc ước riêng với vợ là Trang Cơ rằng:

- Ngày sau sinh con gái thì đặt tên là Văn, nếu sinh con trai, nên đặt tên là Vũ, bởi vì văn thì vô dụng mà có vũ thì mới báo thù được!

Triệu Sóc lại nói chuyện cho Trình Anh biết . Trình Anh hộ tống cho Trang Cơ ra cửa sau đi một cái xe kín lên trốn vào cung ở với mẹ là Thành phu nhân (mẹ Tấn Cảnh công) . Sáng hôm sau, Đồ Ngạn Giả đem quân vây nhà họ Triệu, lấy cái mộc bài của Tấn Cảnh công ghi tội Triệu Thuẫn treo ở trước cửa, rồi kể tội họ Triệu phảnh nghịch, bắt bọn Triệu Sóc, Triệu Đồng, Triệu Quát, Triệu Chiên, cùng bao nhiêu già trẻ trai gái trong nhà đem giết tất cả . Con Triệu Chiên là Triệu Thắng bấy giờ đang ở đất Hàm Đan, nhờ vậy thóat nạn, bỏ trốn sang nước Tống . Đồ Ngạn Giả không tìm thấy Trang Cơ liền nói:

- Trang Cơ không cần phải bắt vội, nhưng nghe đâu đã có thai, vạn nhất sinh con trai thì vẫn còn cái giống phản nghịch, thêm di họa về sau!

Quân sĩ báo rằng:

- Nửa đêm hôm qua, có người đi một cái xe kín vào cung .

Đồ Ngạn Giả nói:

- Đó tất là Trang Cơ .

Nói xong, vào tâu với Tấn Cảnh công rằng:

- Toàn gia bọn phản nghịch đã trừ hết được rồi, chỉ còn có công chúa (trỏ Trang Cơ) trốn vào trong cung, xin tâu để chúa công định đoạt .

Cảnh công nói:

- Mẹ ta yêu công chúa lắm, không hỏi được đâu!

Đồ Ngạn Giả nói:

- Công chúa có mang sắp đẻ, nếu sinh hạ con trai, thì để lại giống phản nghịch, ngày sau lớn lên thế nào cũng báo thù, việc Đào Viên tất nhiên lại xảy ra một lần nữa, chúa công nên nghĩ cho kỹ!

Cảnh công nói:

Để sau này hễ sinh con trai thì ta sẽ trừ đi cũng được!

Đồ Ngạn Giả ngày đêm sai người dò thăm xem Trang Cơ sinh trai hay sinh gái . Mấy hôm sau, Trang Cơ quả nhiên sinh được con trai . Thành phu nhân truyền cho cung nhân nói dối là sinh con gái . Đồ Ngạn Giả không tin, muốn sai một người vú vào cung để khám nghiệm xem . Trang Cơ sợ hãi, cùng với Thành phu nhân thương nghị, nói dối là đứa con gái sinh ra, đã chết mất rồi . Bấy giờ Tấn Cảnh công say mê tửu sắc, chính sự trong nước để mặc Đồ Ngạn Giả muốn làm gì thì làm . Đồ Ngạn Giả nghi Trang Cơ không phải sinh con gái, và con cũng chưa chết, mới thân hành đem nữ bộc vào khám xét trong cung . Trang Cơ đem đứa cô nhi buộc vào trong đũng quần, rồi khấn rằng: "Nếu lòng trời định làm tuyệt họ Triệu thì hãy khiến đứa cô nhi này khóc; nhược bằng họ Triệu không đến nỗi tuyệt tự thì xin cho đứa cô nhi này cứ nằm im như không".

Khi nữ bộc dắt Trang Cơ ra ngoài rồi vào khám xét trong cung thì chẳng thấy gì cả . Đứa cô nhi ở trong quần cứ nằm im, không kêu khóc chút nào . Đồ Ngạn Giả khám xong trở về, nhưng trong lòng vẫn còn ghi hoặc . Có người bảo là cô nhi đã được đem ra khỏi cung rồi . Đồ Ngạn Giả liền yết thị rằng: "Hễ ai phát giác được đứa cô nhi ấy thì thưởng cho một nghìn nén vàng; nếu biết mà không nói thì cũng coi như là kẻ chứa giấu đồ gian, phạm tội phản nghịch, toàn gia sẽ bị xử trảm" .

Đồ Ngạn Giả lại truyền cho quân sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm mật; ai ra vào đều phải khám xét thật kỹ .

Triệu Thuẫn khi trước có hai người môn khách tâm phúc, một người là Công tôn Chử Cữu, một người là Trình Anh . Công tôn Chử Cữu được biết tin Đồ Ngạn Giả vây nhà họ Triệu trước Trình Anh liền bàn với Trình Anh cùng đến chịu nạn với họ Triệu, Trình Anh nói:

- Kẻ kia giả mệnh chúa công đến bắt họ Triệu thì dù chúng ta có đến để chịu chết, cũng chẳng ích gì cho họ Triệu cả .

Công tôn Chử Cữu nói:

- Vẫn biết là không ích gì, nhưng ân nhân mình có nạn, lẽ nào mình lại tránh cái chết cho được ?

Trình Anh nói:

- Trang Cơ (vợ Triệu Sóc) hiện đang có thai, nếu sinh con trai thì ta cùng nhà ngươi hết lòng mà ủng hộ, chẳng may mà sinh con gái thì bấy giờ chúng ta hãy chết, cũng chưa chậm kia mà!

Đến lúc nghe tin Trang Cơ sinh con gái, công tôn Chử Cữu khóc mà than rằng:

- Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu hay sao!

Trình Anh nói:

- Chưa lấy gì làm chắc, âu là ta hãy dò xét xem đã!

Trình Anh liền đút tiền cho các cung nhân để báo tin cho Trang Cơ . Trang Cơ biết Trình Anh là người trung nghĩa, mới viết một chữ "Vũ" đưa ra . Trình Anh mừng thầm rằng:

- Công chúa quả nhiên sinh con trai rồi!

Sau Đồn Ngạn Giả vào khám xét trong cung, không thấy gì cả . Trình Anh mới bảo công tôn Chử Cữu rằng:

- Cô nhi họ Triệu vẫn ở trong cung mà Đồ Ngạn Giả không tìm thấy, đó mới thật là lòng trời . Nhưng giấu như thế chẳng qua cũng chỉ giấu được một lúc mà thôi, sau này việc tiết lộ ra, Đồ Ngạn Giả tất lại khám xét, âu là ta phải lập kế đem ra giấu ở một nơi xa thì mới bảo toàn được .

Công tôn Chử Cữu ngẫm nghĩ trong nửa ngày, rồi hỏi Trình Anh rằng .

Trình Anh nói:

- Liều chết thì dễ, chứ giữ lấy cô nhi là một việc khó .

Công tôn Chử Cữu nói:

- Nhà ngươi nhận lấy việc khó, để ta làm việc dễ cho . Nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Trình Anh nói:

- Bây giờ nhà ngươi định kế gì ?

Công tôn Chử Cữu nói:

- Làm thế nào tìm được một đứa cô nhi khác, nói dối là cô nhi của họ Triệu, ta ẵm được vào giấu ở trong núi Thú Dương, rồi nhà ngươi ra thú, để cho Đồ Ngạn Giả vào bắt . Khi hắn đã bắt được cô nhi giả ấy rroi thì đứa cô nhi thật kia mới có thể thóat nạn được .

Trình Anh nói:

- Tìm đứa cô nhi khác không khó, chỉ khó một nỗi làm thế nào đem cô nhi thật ở trong cung ra cho được toàn vẹn ?

Công tôn Chử Cữu nói:

- Trong bọn các tướng, chỉ có Hàn Quyết là chịu ơn họ Triệu rất nhiều, việc đem đứa cô nhi ở trong cung ra, có thể nhờ Hàn Quyết được .

Trình Anh nói:

- Ta mới sinh con trai, cũng gần ngày với đứa cô nhi họ Triệu, có thể thay được; nhưng nhà ngươi đã có cái tội giấu đứa cô nhi ấy, tất nhiên se bị giết . Nhà ngươi chết trước ta thì ta sao đành lòng!

Trình Anh nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng .

công tôn Chử Cữu nổi giận mà nói rằng:

- Đó là một việc hay cho ta, sao nhà ngươi lại khóc!

Trình Anh liền gạt nước mắt, rồi từ giã lui về . Đêm hôm ấy, Trình Anh ẳm con giao tay cho công tôn Chử Cữu; lại sang yết kiến Hàn Quyết, đưa cho Hàn Quyết xem chữ "Vũ" rồi sau mới nói đến cái mưu của công tôn Chử Cữu cho Hàn Quyết nghe . Hàn Quyết nói:

- Trang Cơ đang có bệnh, sai ta đi tìm thầy thuốc, nếu nhà ngươi đánh lừa cho Đồ Ngạn Giả đi vào núi Thú Dương, tự khắc ta có kế đem được cô nhi họ Triệu ra .

Trình Anh liền phao lên cho mọi người biết rằng:

- Quan tư khấu họ Đồ (tức là Đồ Ngạn Giả) muốn bắt cô nhi họ Triệu, sao lại tìm ở trong cung ?

Người nhà Đồ Ngạn Giả nghe nói, liền hỏi Trình Anh rằng:

- Nhà ngươi có biết chỗ cô nhi họ Triệu ở đâu không ?

Trịnh Anh nói:

- Cho ta một nghìn nén vàng, ta mới chịu bảo .

Người nhà Đồ Ngạn Giả liền đưa Trình Anh vào yết kiến Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi họ tên là gì . Trình Anh nói:

- Tôi họ Trình tên Anh, cùng với công tôn Chử Cữu cùng làm tôi họ Triệu, nay công chúa (trỏ Trang Cơ) sinh con trai, có sai người ẵm ra giao cho hai chúng tôi đem giấu . Nhưng tôi sợ sau này có người tố giác thì nghìn nén vàng thưởng về tay họ được, mà cả nhà tôi tất bị chết oan, vậy nên tôi phải thú được .

Đồ Ngạn Giả nói:

- Đứa cô nhi ấy nay giấu ở đâu ?

Trình Anh nói:

- Ngài cho đuổi hết người xung quanh đi, rồi tôi xin nói .

Đồ Ngạn Giả tức khắc truyền cho tả hữu lui ra . Trình Anh nói với Đồ Ngạn Giả rằng:

- Hiện nay giấu ở trong núi Thú Dương, đi ngay mới bắt được, nếu chậm thì y trốn sang nước Tần mất! Nhưng ngài nên thân hành đi, người khác phần nhiều là thân tình với họ Triệu, chớ nên ủy thác cho ai cả .

Đồ Ngạn Giả nói:

- Nhà ngươi cứ đưa ta đi . Nếu là việc thực thì ta trọng thưởng cho, nếu không thì có tội đó!

Trình Anh nói:

- Tôi cũng vừa ở trong núi về đây, bụng đói quá, xin ngài cho ăn một bữa .

Đồ Ngạn Giả sai người dọn cơm cho ăn . Trình Anh ăn xong, lại giục Đồ Ngạn Giả đi ngay . Đồ Ngạn Giả đem ba nghìn quân theo Trình Anh thẳng đường đi vao núi Thú Dương . Đường đi quanh co, kể hàng mấy dặm, trông thấy ở bên kia suối có mấy gian nhà gianh, cửa đóng kín mít . Trình Anh trỏ cái nhà ấy mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

- Đây tức là chỗ công tôn Chử Cữu giấu đứa cô nhi!

Trình Anh đến trước gọi cửa . công tôn Chử Cữu mở cửa ra đón, trông thấy quân sĩ, giả cách hoảng hốt chạy trốn . Trình Anh gọi mà bảo rằng:

- Nhà ngươi chớ chạy, quan tư khấu họ Đồ đã biết đứa cô nhi họ Triệu ở đây rồi; ngài thân hành đến bắt, nhà ngươi nên mau mau đem nộp đi .

Trình Anh nói chưa dứt lời thì quân sĩ đã trói ngay công tôn Chử Cữu lại, đem đến trước mặt Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi:

- Đứa cô nhi họ Triệu bây giờ để đâu ?

Công tôn Chử Cữu đáp:

- Thực quả không có!

Đồ Ngạn Giả sai người lục sóat trong nhà thì thấy cửa buồng khóa kỹ lắm . Giáp sĩ phá cửa mà vào . Trong buồng rất tối, nghe như có tiếng trẻ con sợ khóc ở trên một cái giường, bèn ẵm ra ngoài thì thấy tã lót toàn bằng gấm vóc, rõ là một đứa bé con nhà quý phái . Công tôn Chử Cữu trông thấy, muốn chạy đến giành lấy, nhưng bị trói không làm gì được, mới quát to lên mà mắng Trịnh Anh rằng:

- Trình Anh thật là một đứa tiểu nhân! Khi trước họ Triệu bị bắt, ta ước với mày cùng nhau liều chết mà đến cứu, mày có bảo ta rằng công chúa (trỏ Trang Cơ) đang có thai, nếu chết đi thì sau này ai là người phù tá cho cô nhi . Nay công chúa đem cô nhi giao cho mày với ta cùng giấu vào chỗ núi này, bây giờ mày lại tham nghìn nén vàng mà đi tố giác . Ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc rằng không đền được cái ơn của họ Triệu mà thôi!

Công tôn Chử Cữu xỉ mắng Trình Anh luôn miệng, một điều tiểu nhân, hai điều tiểu nhân, khiến Trình Anh hổ thẹn, mặt đỏ bừng, bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

- Sao ngài không giết chết nó đi!

Đồ Ngạn Giả truyền đem công tôn Chử Cữu ra chém, rồi xách đứa cô nhi họ Triệu ném mạnh xuống đất chết tươi . Trong khi Đồ Ngạn Giả thân hành vào núi Thú Dương để băt cô nhi họ Triệu, thì ở khắp khinh thanh không có chỗ nào là không bàn tán xôn xao về việc này, người thi mừng thay cho Đồ Ngạn Giả, người thi thương thay cho họ Triệu, bởi vậy quân sĩ canh giữ cửa cung, cũng hơi trễ nải việc khám xét . Hàn Quyết sai một người tâm phúc, giả cách làm thầy thuốc vào cung xem bệnh cho Trang Cơ, đem cái mảnh giấy có chữ "Vũ" của Trình Anh đưa khi trước dán ở trên cái đẫy đựng thuốc . Trang Cơ trông thấy chữ "Vũ" liền hiểu ý ngay . Người thầy thuốc bắt mạch xong, giả cách theo lối đoán bệnh, nói qua mấy câu: thai tiền sản hậu v...vv.. Trang Cơ thấy cung nhân đứng xung quanh đều là người tâm phúc cả, liền đem đứa cô nhi đặt vào đẫy thuốc . Đứa cô nhi kêu khóc rầm lên . Trang Cơ lấy tay vỗ ở ngoài đẩy thuốc mà khấn rằng:

- Triệu Vũ! Triệu Vũ! Nhà ta trăm mạng chết oan, sự việc báo thù chỉ trông vào một thân con đó thôi, khi con ra cửa cung, chớ có kêu khóc!

Trang Cơ dặn xong thì đứa cô nhi không khóc nữa; khi đem ra cửa cung, cũng chẳng ai khám xét gì cả . Hàn Quyết đem được cô nhi họ Triệu ra, khác nào như người được của báu, liền giấu vào một nơi nhà kín, giao cho vú nuôi, dẫu người trong nhà cũng chẳng ai biết được .

Đỗ Ngạn Giả về dinh, đem nghìn nén vàng thưởng cho Trình Anh . Trình Anh từ chối, không chịu nhận thưởng . Đồ Ngạn Giả nói:

- Nhà ngươi chỉ vì cầu thưởng mà ra thú, cớ sao lại còn chối từ ?

Trình Anh nói:

- Tôi trước làm môn khách họ Triệu đã lâu, nay giết cô nhi họ Triệu để gỡ tội, đã làm một điều bất nghĩa, nay lại còn dám tham vàng hay sao . nếu nghĩ đến cái công nhỏ mọn của tôi thì xin dùng số vàng ấy để thu táng cho một nhà họ Triệu, gọii là chút tình của tôi đối với họ Triệuu ngày xưa .

Đồ Ngạn Giả bằng lòng mà nói rằng:

- Nhà ngươi thật là một người có nghĩa! Những thây rơi của họ Triệu, ta cho phép nhà ngươi được dùng số vàng này mà thu táng .

Trình Anh lạy tạ, nhận lấy nghìn nén vàng, rồi thu táng thây rơi họ Triệu, ở bên cạnh mộ Triệu Thuẫn . Khi thu táng đã xong, lại đến tạ ơn, thì Đồ Ngạn Giả muốn giữ lại để bổ dụng . Trình Anh ứa nước mắt mà nói rằng:

- Tôi chỉ vì tham sống sợ chết mà làm cái việc bất nghĩa này, còn mặt mũi nào trông thấy người nước Tấn nữa! Từ đây, chỉ xin bỏ cửa nhà để đi kiếm ăn nuôi miệng ở phương xa mà thôi!

Trình Anh cáo từ Đồ Ngạn Giả, rồi đến yết kiến Hàn Quyết . Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu và một người vú nuôi giao cho Trình Anh . Trình Anh nhận làm con mình, đem vào núi Mạnh Sơn để nuôi giấu . Về sau người ta gọi núi ấy là Tàng Sơn .

Đến ba năm sau, Tấn Cảnh công ra chơi Tân Điền, thấy chỗ ấy ruộng đất tốt lắm, mới thiên đô ra ở đấy, gọi là Tân Giáng, còn đô thành cũ thì gọi là Cố Giáng . Triều thần làm lễ chúc mừng . Cảnh công đặt tiệc ở nội cung để khoản đãi . Trời đã gần tối, nội thị sắp sửa thắp nến, thì bỗng có một trận gió dữ, cuốn vào trong cung điện, hơi lạnh buốt người, ai cũng kinh sợ . Trận gió vừa qua thì Tấn Cảnh công thấy một con ma đầu bù, mình dài hơn trượng, xoã tóc đến tận đất, ở ngoài cửa bước vào, quát tó lên mà mắng rằng:

- Trời ơi! con cháu ta có tội gì mà nhà ngươi giết đi, ta đã tâu với Ngọc hoàng thượng đế, cho đến đây để đánh chết nhà ngươi .

Nói xong, giơ đùi đồng đánh Tấn Cảnh công . Tấn Cảnh công kêu rầm lên rằng:

- Các quan cứu ta với!

Miệng kêu, tay rút thanh kiếm để chém con ma, chẳng ngờ lại chém phải ngón tay của mình . Triều thần không hiểu ra làm sao, vội vàng xúm lại giật lấy thanh kiếm . Tấn Cảnh công hộc máu tươi ra đằng miệng, rồi ngã lăn xuống đất .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 58 : Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốcDưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù

Tấn Cảnh công bị con ma đánh, hộc máu tươi ra đằng miệng, ngã lăn xuống đất . Nội thị vực vào trong phòng, giờ lâu mới dần dần tỉnh lại . Các quan đều không được vui mà tan về cả . Cảnh công ốm nặng không dậy được . Nội thị tâu rằng ở đất Tang môn có người thầy cúng cao tay lắm, ban ngày trông thấy ma quỷ được, xin cho đi triệu đến . Tấn Cảnh công cho đi triệu . Thầy cúng đất Tang Môn mới vào cửa phòng, đã nói ngay là có ma quỷ . Cảnh công hỏi hình dáng ma quỷ ấy thế nào . Thầy cúng nói:

- Đầu bù tóc xoã, mình cao hơn trượng, thường hay lấy tay đánh vào ngực, trông rất hung tợn!

Cảnh công nói:

- Thầy cúng nói chính hợp với măt ta trông thấy . Con ma ấy bảo là ta giết oan con cháu nó, không biết nó là ai ?

Thầy cúng nói:

- Tất là người công thần đời trước mà nay con cháu bị chết oan!

Cảnh công ngạc nhiên nói rằng:

- Ý chừng người ấy là tổ họ Triệu!

Đồ Ngạn Giả đứng bên cạnh, liền tâu với Cảnh công rằng:

- Thầy cúng này nguyên là môn khách họ Triệu, nên mượn chuyện này để nói gỡ cho họ Triệu, chúa công chớ nên nghe .

Cảnh công nín lặng . Được một lúc lại hỏi thầy cúng rằng:

- Con ma ấy có thể cúng được không ?

Thầy cúng nói:

- Con ma ấy đang có lòng căm tức, dẫu cúng cũng vô ích .

Cảnh công nói:

- Vậy thì cái hạn lớn của ta thế nào ?

Thầy cúng nói:

- Tôi xin liều chết mà nói thẳng rằng cứ như bệnh tình của chúa công thì e không kịp nếm lúa mạch mới .

Đồ Ngạn Giả bảo thầy cúng rằng:

- Chỉ trog một tháng nữa thì lúa mạch chín . Chúa công dẫu có bệnh, nhưng tinh thần còn tráng kiện, đã đến nỗi nào! Nếu chúa công được nếm lúa mạch mới thì ta chém đầu nhà ngươi!

Đồ Ngạn Giả nói xong, liền đuổi thầy cúng ra . Sau đó bệnh Tấn Cảnh mỗi ngày một nặng thêm . Y sinh nước Tấn vào xem, không biết là chứng bệnh gì, không dám cho thuốc . Quan đại phu là Nguỵ Tướng (con Ngụy Kỳ) nói với mọi nguời rằng:

- Ta nghe nói nước Tần có hai người danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, được Biển Thước truyền nghề cho, chữa bệnh tài lắm, hiện đang làm chức thái y ở nước Tần . Nay muốn chữa bệnh cho chúa công thì tấ phải mời người ấy mới được .

Mọi người đều nói:

- Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào lại chịu cho thầy thuốc sang chữa bệnh cho chúa công ta!

Nguỵ Tướng nói:

- Có tai nạn gì thì giúp đỡ lẫn nhau, ấy là việc hay của nước láng giềng! Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem ba tấc lưỡi mà báo được nước Tần phải cho danh y sang cứu chữa cho chúa công .

Mọi người đều nói:

- Nếu được như vậy thì cả triều đều cám ơn ông lắm .

Ngụy Tướng tức khắc thẳng đường đi sang nước Tần . Tần Hoàn công hỏi đến có việc gì .

Ngụy Tướng tâu rằng:

- Chúa công tôi chẳng may bị bệnh, nghe nói quý quốc có hai danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, có tài khởi tử hồi sinh, vậy tôi sang mời, để về chữa bệnh cho chúa công tôi .

Tần Hoàn công nói:

- Nước Tấn đã nhiều lần vô lý đánh nhau với quân ta; nước ta dẫu có danh y, khi nào lại chịu chữa bệnh cho vua Tấn!

Nguỵ Tướng nghiêm nét mặt đáp rằng:

- Nhà vua nghĩ thế là sai lắm! Quý quốc cùng tôi là láng giềng, bởi vậy vua Hiến công tôi ngày xưa cùng vua Mục công ở bên quý quốc đã kết thân với nhau, để định đời đời cùng nhau giao hiếu, thế mà vua Mục công lúc trước dẫu có giúp vua Huệ công tôi về nước, lại gây việc tranh chíên ở đất Hàn Nguyên; lúc sau dẫu có giúp vua Văn công về nước, lại bội lời thề ước ở sông Dĩ Thuỷ, có phải là những sự thù oán đều tự quý quốc ra cả đó không ? Khi vua Văn công tôi tạ thế đi rồi, Tần Mục công lại quá nghe lời Mạnh Minh, khinh vua Tương công tôi hãy còn trẻ tuổi, đem quân qua núi Hào Sơn, đánh lén nước phụ thuộc của nước tôi, để đến nỗi thua quân; nước tôi bắt được ba quan nguyên sóai mà đều tha cho về, rồi sau qúy quốc lại trái lời thề, đem quân sang đi đánh Sùng mà quý quốc lại đem quân cùng với nước tôi giao chiến; đến chúa công tôi bây giờ, sang hỏi tội nước Tề thì nhà vua lại sai Đỗ Hồi đem quân cứu Tề . Lúc thua không chừa, lúc được không thôi; những mối thù oán, đều là tại qúy quốc cả ! Nhà vua thử nghĩ xem như thế là nước tôi xâm phạm quý quốc, hay là quý quốc xâm phạm nuớc tôi ? Nay chúa công tôi có bệnh, muốn cầu danh y của quý quốc, các quan triều thần nước tôi đều nói: "Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào chịu cho" ! Tôi cãi rằng: "Không phải! Vua Tần đã làm nhiều việc trái lẽ, chắc đâu không biết hối, chúyến này, tôi sẽ nhân việc cầu danh y mà nối lại cái tình hoà hảo của đấng tiên quân ta thuở xưa". Nay nhà vua không cho thì lời nói của các quan triều thần nước tôi là trúng lắm rồi . Thế là cái đạo láng giềng nên phải giúp nhau mà nhà vua không giúp; cái đạo làm thầy thuốc là phải cứu sống người mà nhà vua ngăn thầy thuốc đi cứu sống người, tôi dám chê nhà vua lắm!

Tần Hoàn công thấy Nguỵ Tướng lời lẽ khảng khái, bày tỏ rành mạch thì bất giác sinh lòng kính trọng mới bảo Nguỵ Tướng rằng:

- Nhà ngươi trách ta như thế là phải, ta xin vâng lời .

Nói đoạn truyền cho thái y là Cao Hoãn sang ngay nước Tấn . Ngụy Tướng tạ ơn, rồi cùng với Cao Hoãn ngay đêm ấy rời khỏi Ung Chân mà tiến thẳng về Tân Giáng . Tấn Cảnh công ốm nặng, ngày đêm mong đợi thầy thuốc nước Tần, bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé con ở trong lỗ mũi chui ra . Một đứa nói: "Cao Hoãn nước Tần là danh y đời bây giờ, nếu hắn đến chữa thuốc thì chúng ta tất bị hại, biết làm thế nào mà tránh được ?" Đứa kia nói: "Chúng ta tránh vào phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim thì hắn làm gì ta nổi!"

Được một lúc thì Tấn Cảnh công kêu đau bụng rầm rĩ cả lên, không thể chịu được . Nguỵ Tướng đưa Cao Hoãn vào . Cao Hoãn xem mạch xong, nói với Tấn Cảnh công rằng:

- Bệnh này không thể nào mà chữa được nữa!

Tấn Cảnh công hỏi:

- Tại sao ?

Cao Hoãn nói:

- Bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim, dẫu đốt cũng không thấu được, dẫu châm cũng không tới được, còn chữa làm sao, chẳng qua cũng là mệnh trời!

Tấn Cảnh công khen rằng:

- Nhà ngươi thật là danh y! Lời nói hợp với trong mộng của ta lắm!

Nói xong truyền đem lễ vật tiễn đưa Cao Hoãn trở về nước Tần . Bấy giờ có một người tiểu nội thị tên gọi Giang Trung, hầu hạ mỏi mệt quá, đang giữa ban ngày, bỗng chợp mắt ngủ đi, thấy mình công Tấn Cảnh công bay lên trên trời; khi tỉnh dậy, nói chuyện với những người xung quanh, lại vừa gặp Đồ Ngạn Giả vào cung thăm bệnh, nghe được cái mộng ấy liền nói với Cảnh công rằng:

- Trời là dương minh, bệnh là âm ám, nay thấy bay lên trên trời, thế là bỏ chỗ âm ám mà tới chỗ dương minh, bệnh chúa công tất gần đến ngày khỏi .

Tấn Cảnh công hôm ấy thấy trong mình cũng hơi dễ chịu, lại nghe lời nói của Đồ Ngạn Giả, có ý mừng thầm . Bỗng có kẻ điền nhân đem lúa mạch mới vào dâng . Tấn Cảnh công muốn ăn ngay, liền sai nhà bếp đem một nữa giã nhỏ ra để nấu cháo . Đồ Ngạn Giả căm tức người thầy cúng về việc nói họ Triệu chết oan, mới tâu với Cảnh công rằng:

- Ngày trước thầy cúng nói: chúa công không kịp nếm lúa mạch mới, nay câu nói ấy không nghiệm, xin triệu đến mà bảo cho hắn biết .

Tấn Cảnh công theo lời, triệu người thầy cúng đất Tang Môn vào, rồi sai Đồ Ngạn Giả quở trách rằng:

- Lúa mạch mới đã để đây rồi, nhà ngươi còn dám bảo là chúa công không kịp nếm nữa hay thôi ?

Thầy cúng nói:

- Chưa chắc!

Tấn Cảnh công nghe nói tức thì biến sắc . Đồ Ngạn Giả nói:

- Bề tôi mà dám nguyền rủa vua thì tội đáng chém!

Đồ Ngạn Giả truyền đem người thầy cúng ra chém . Người thầy cúng thở dài mà than thân rằng:

- Thương hại cho ta, vì giỏi một nghề nhỏ mọn mà đến nỗi thiệt đời!

Quân sĩ đem đầu người thầy cúng đất Tang Môn vào nộp, lại vừa gặp nhà bếp dâng bát cháo lúa mạch; bấy giờ trời đang trưa, Tấn Cảnh công toan cầm lấy bát cháo lúa mạch để ăn, tự nhiên bụng phát chướng lên, muốn đi ra ngoài, vội vàng gọi Giang Trung, bảo cõng ra nhà xí . Giang Trung cõng ra đến nơi thì Tấn Cảnh công đau bụng quá, chân đứng không vững, ngã lăn xuống hố xí . Giang Trung lóp ngóp ẵm lên thì đã tắt hơi . Chung qui vẫn là không kịp nấu lúa mạch mới mà giết oan người thầy cúng cao tay ở đất Tang Môn, đó đều là cái tội của Đồ Ngạn Giả . Quan thượng khanh là Loan Thư cùng triều thần lập thế tử Châu Bồ lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công . Triều thần công nghị rằng:

- Giang Trung khi trước đã nằm mộng thấy cõng vua Cảnh công ta lên trời, sau có cõng ra nhà xí, chính là ứng cái mộng ấy, bèn đem Giang Trung tuẫn táng . Người nước Tấn nhân việc Cảnh công chết về bệnh ma quỷ, đều bàn tán về nỗi oan ức của họ Triệu, nhưng họ Loan và họ Khước đều thân thiện với Đồ Ngạn Giả còn Hàn Quyết một mình thế cô, nên cũng không dám nói .

Bấy giờ, Tống Cung sai quan thượng khanh là Hoa Nguyên sang nước Tấn để viếng vua cũ và mừng vua mới . Hoa Nguyên cùng với Loan Thư thương nghị, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau, để khỏi gây ra việc tranh chiến . Loan Thư nói:

- Nước Sở không nên tin!

Hoa Nguyên nói:

- Tôi với công tử Anh Tề nước Sở là chỗ quen thân, việc này tôi có thể đảm nhiệm được .

Loan Thư liền sai con là Loan Hàm cùng với Hoa Nguyên sang nước Sở, vào yết kiến công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề trông thấy Loan Hàm hãy còn trẻ tuổi, mặt mũi khôi ngô, liền hỏi Hoa Nguyên . Hoa Nguyên nói là con quan trung quân nguyên soái ở nước Tấn, công tử Anh Tề muốn thử tài, mới hỏi Loan Hàm rằng:

- Phép dùng quân của qúy quốc thế nào ?

Loan Hàm nói:

- Nghiêm chỉnh .

Công tử Anh Tề lại hỏi:

- Còn có cái gfi hay hơn nữa không ?

Loan Hàm nói:

- Nhàn hạ .

Công tử Anh Tề nói:

- Người ra rối loạn mà mình nghiêm chỉnh, người ta vội vàng mà mình nhàn hạn thì đánh đâu mà chẳng được . Câu nói ấy thật giản dị mà có thể tóm tắt hết được phép dùng quân .

Vì vậy công tử Anh Tề càng thêm kính trọng Loan Hàm, và đưa vào yết kiến Sở Cung vương, để bàn định việc giảng hoà của hai nước . Sở Cung vương bằng lòng rồi hẹn ngày cho ăn thề . Ngày hôm ấy Sĩ Nhiếp nước Tấn và công tử Bỉ nước Sở cùng làm lễ quệt máu ăn thề ở ngoài cửa tây nước Tống .

Quan tư mã nước Sở là công tử Trắc không được dự bàn về việc ấy, mới nổi giận mà nói rằng:

- Nam bắc từ xưa vẫn không giao thông với nhau, nay công tử Anh Tề lại muốn chuyên cái công hợp nhất, làm thế nào ta cũng phải phá mới được .

Công tử Trắc dò thám biết tin Vu Thần hợp với vua nước Ngô là Thọ Mộng cùng các quan đại phu nước Tấn, nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Vệ và nước Trịnh, hội ở đất Chung Ly, mới nói với Sở Cung vương rằng:

- Nước Tấn giao thông với nước Ngô, tất là có ý mưu hại nước Sở ta . Nay Tống và Trịnh đều theo Tấn thì các nước phụ thuộc của Sở ta không còn gì nữa!

Sở Cung vương nói:

- Ta muốn đánh Trịnh, chỉ ngại về lời thề ở Tây Môn .

Công tử Trắc nói:

- Công việc ngày nay, đàng nào lợi thì làm, cần gì lời thề!

Sở Cung vương liền sai công tử Trắc đem quân đi đánh Trịnh . Nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở . Tấn Lệ công giận lắm, họp các quan đại phu để bàn việc đánh Trịnh . Bấy giờ Loan Thư dẫu làm trung quân nguyên soái, nhưng quyền chính ở tay ba người họ Khước:

1. Khước Kỳ (con Khước Khắc) làm thượng quân nguyên soái .

2. Khước Thù (em họ Khước Khắc) làm thượng quân phó tướng .

3. Khước Chí (cháu Khước Bộ Dương) làm tân quân phó tướng .

Con Khước Thù là Khước Nghị và em Khước Chí là Khước Khất đều làm quan đại phu . Bá Tôn là người ngay thẳng, đã nhiều lần đem việc họ Khước chuyên quyền nói với Tấn Lệ công, bảo nên chọn người nào tài giỏi, hãy cho làm quan, để nén bớt quyền thế họ Khước đi thì mới bảo toàn được con cháu công thần . Lệ công không nghe lời . Ba người họ Khước căm tức Bá Tôn, mới dèm pha Bá Tôn hay chê bai triều chính . Tấn Lệ công bèn bắt Bá Tôn đem giết đi . Con Bá Tôn là Bá Châu Lê trốn sang nước Sở . Nước Sở dùng làm quan thái tề, để bàn mưu làm hạii nước Tấn . Tấn Lệ công vốn có tính kiêu ngạo xa xỉ, ngoài thì tin yêu bọn Tư Đồng (con Tư Khắc, cháu Tư Giáp) là một lũ thiếu niên mà đều được làm quan đại phu cả; còn trong thì những mỹ cơ ái tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, ngày đêm vui chơi, chẳng thiết gì đến triều chính . Bởi vậy triều thần ai cũng có ý chán nản . Sĩ Nhiếp thấy triều chính mỗi ngày một dỡ, nên không muốn đánh Trịnh nữa . Khước Chí nói:

- Nếu không đánh Trịnh thì sao cho chư hầu phục ?

Loan Thư nói:

- Ngày nay bỏ mất nước Trịnh thì Tống và Lỗ tất cũng ly tán mà thôi, Ôn Qúy (tức là Khước Chí) nói phải lắm!

Miêu Bí Hoàng (hàng tướng nước Sở, sang làm quan ở nước Tấn) cũng khuyên Tấn Lệ công nên đánh Trịnh . Tấn Lệ công nghe lời, liền giao quốc chính cho Tuân Dinh, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh; lại một mặt sai Khước Thù cùng Loan Áp sang mượn thêm quân Lỗ và Vệ .

Trịnh Thành công nghe nói quân Tấn thế mạnh thì toan sai người ra xin hàng . Quan đại phu là Diêu Câu Nhĩ nói:

- Nước Trịnh ta nhỏ mọn, ở và giữa khoảng hai nước lớn, chỉ nên chọn một nước mạnh mà theo, cớ sao lại nay Sở mai Tấn, để đến nỗi năm nào cũng phải chịu cái tai vạ chiến tranh .

Trịnh Thành công nói:

- Vậy thì biết làm thế nào ?

Diêu Câu Nhĩ nói:

- Cứ như ý tôi thì không gì bằng sang nước Sở cầu cứu, hễ quân Sở đến thì ta cùng với Sở cố sức mà đánh vỡ quân Tấn, mới có thể giữ yên được trong mấy năm .

Trịnh Thành công liền sai Diêu Câu Nhĩ sang nước Sở để cầu cứu . Sở Cung vương vẫn ngại về lời thề ở Tây Môn, không muốn cất quân, mới hỏi công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề nói:

- Vì ta thất tín, Tấn mới đem quân đánh Trịnh, nay ta lại cứu Trịnh đánh Tấn thì làm khổ dân mà vị tất đã đánh được, chi bằng ta hãy đợi thời .

Công tử Trắc nói:

- Người nước Trịnh không nỡ bội nước Sở ta, vậy nên mới đến cầu cứu . Nước ta trước đã không cứu Tề, nay lại không cứu Trịnh thì chư hầu, ai còn muốn theo ta nữa . Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem một toán quân theo đại vương đi cứu Trịnh .

Sở Cung vương bằng lòng, cho công tử Trắc làm đại tướng, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh . Sĩ Nhiếp nghe tin quân Sở sang cứu Trịnh, bảo Loan Thư rằng:

- Chúa công ta còn trẻ tuổi, không biết việc nước, nay ta giả cách sợ nước Sở mà lui quân, khiến cho chúa công ta biết nghĩ lại, mới có thể giữ yên được nước nhà .

Loan Thư nói:

- Sợ nước Sở mà lui quân việc ấy tôi không dám làm!

Sĩ Nhiếp lui ra, rồi thở dài mà nói rằng:

- Chuyến này thua là may, nếu thắng trận thì ta chỉ e rằng trong nước lại sinh ra biến loạn .

Bấy giờ quân Sở đã kéo đến đất Yên Lăng . Quân Tấn không tiến binh được nữa, phải đóng lại ở Bành Tổ Cương . Ngày hôm sau nhằm vào ngày nguyệt tận, gọi là ngày hối . Theo như binh pháp thì ngày hối phải kiêng không cất quân, bởi vậy quân Tấn chẳng phòng bị gì cả . Gần hết canh năm, vào báo rằng quân Sở đã bày trận hò hét om sòm, quân canh vào báo rằng quân Sở đã bày trận ở phía ngoài dinh, Loan Thư giật mình kinh sợ mà nói rằng:

- Quân Sở đã kéo đến tận dinh ta mà bày trận, nếu ta giao chiến, tất là bất lợi, chi bằng ta hãy họp các tướng lại để thương nghị .

Các tướng mỗi người nói một cách: người thì nói nên chọn quân tinh nhuệ mà xông vào quân Sở; người thì nói nên rút về phía sau . Bấy giờ con Sĩ Nhiếp là Sĩ Mang, mới 16 tuổi, nghe các tướng bàn mãi không xong, liền vào nói với Loan Thư rằng:

- Nguyên soái lo không có chỗ bày trận hay sao, tôi thiết tưởng đó là một việc rất dễ!

Loan Thư nói:

- Nhà ngươi có kế gì ?

Sĩ Mang nói:

- Ta mật truyền quân sĩ đóng chặt cửa dinh lại, rồi đem bao nhiêu những bếp đun, san phẳng cả đi, còn giếng thì dùng ván bắc ngang lên mà lấy kín lại, như thế thì chỉ trong một hồi lâu là có thừa chỗ bày trận mà thôi . Khi đã bày trận xong sẽ mở cửa dinh ra để giao chiến, thì quân Sở làm gì ta nổi!

Loan Thư nói:

- Bếp và giếng là những chỗ cần dùng, nếu san bếp lấp giếng thì lấy gì mà ăn ?

Sĩ Mang nói:

- Ta hãy truyền cho quân sĩ sắ sẵn lương khô và ước uống đủ dùng trong một, hai ngày, đợi khi bày trận xong, sẽ cho những quân già yếu ra phía sau dinh, làm bếp khác và khai giếng khác .

Sĩ Nhiếp vốn không muốn đánh, thấy con hiến kế, nổi giận mà mắng rằng:

- Việc binh thắng hay là phụ quan hệ ở mệnh trời . Mày biết gì mà dám nói láo!

Nói xong cầm giáo đuổi theo . Các tướng vội vàng đổ ra, ôm Sĩ Nhiếp lại, Sĩ Mang mới chạy thoát . Loan Thư cười mà bảo rằng:

- Trí khôn của đứa trẻ ấy lại có phần hơn Phạm Mạnh (tức là Sĩ Nhiếp)!

Loan Thư theo kế Sĩ Mang, truyền cho quân sĩ san bếp lấp giếng, rồi định ngày để giao chiến với quân Sở . Sở Cung vương tiến áp đến dinh quân Tấn mà bày trận, trong lòng nghĩ thầm rằng ta nhân lúc bất ngờ mà làm như thế, tất nhiên quân Tấn phải rối loạn, sau thấy quân Tấn vẫn im lặng như tờ, mới hỏi quan thái tể là Bá Châu Lê rằng:

- Tại sao quân Tấn im lặng như vậy, nhà ngươi là người nước Tấn, tất biết rõ cớ ấy ?

Bá Châu Lê nói:

- Xin đại vương trèo lên xe chòi mà xem

Sở Cung vương trèo lên xe chòi, cho Bá Chân Lê đứng ở bên cạnh . Sở Cung vương hỏi:

- Quân Tấn làm gì mà lúc thì chạy sang phía tả, lúc thì chạy sang phía hữu như thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là đang gọi quân lại .

Sở Cung vương nói:

- Sao bây giờ lại họp cả ở trung quân như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là họp để bàn mưu .

Sở Cung vương nói:

- Căng màn ra làm gì thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là làm lễ cáo với tiên quân .

Sở Cung vương nói:

- Sao bây giờ lại cất màn đi ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là đang tuyên bố hiệu lệnh .

Sở Cung vương nói:

- Tại sao trong quân huyên náo, lại có nhiều cát bụi bay mù lên như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

- Quân Tấn đang san bếp lấp giếng để lấy chỗ bày trận .

Sở Cung vương nói:

- Xe đều đóng ngựa rồi! Tướng sĩ đều lên xe rồi!

Bá Châu Lê nói:

- Đó là đã kết thành trận thế .

Sở Cung vương nói:

- Tướng sĩ đã lên xe, sao lại còn xuống ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là sắp giao chiến mà còn cúng thần .

Sở Cung vương nói:

- Ta xem quân Tấn khí thế hùng dũng lắm! hay là có vua Tấn ở đó chăng ?

Bá Châu Lê nói:

- Đó là họ Loan và họ Phạm lấy uy danh vua Tấn mà bày trận, ta chớ nên khinh thường .

Sở Cung vương biết hết tình hình quân Tấn, mới truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn sàng, để đến ngày hôm sau giao chiến . Hàng tướng nước Sở là Miêu Bí Hoàng (con Đấu Việt Lâm trống sang làm quan ở nước Tấn) cũng đứng hầu ở bên cạnh Tấn Lệ công, tâu với Tấn Lệ công rằng:

- Từ khi quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao chết đi, quân chính nước Sở chẳng có phép tắc gì cả, hai đạo tinh binh gọi là Lưỡng Quảng, lâu ngày không tuyển mộ thêm, nhiều người già yếu không thể giao chiến được, hai quan nguyên soái thì bất hoà với nau, tôi chắc rằng ta chỉ đánh một trận là phá được quân Sở .

Ngày hôm ấy, hai bên vẫn còn giữ thế chưa giao chiến, tướng nước Sở là Phan Đảng ra sau dinh tập bắn, vừa bắn trúng luôn ba phát, các tướng đều reo mừng, khen ngợi rầm rĩ lại vừa gặp có Dưỡng Do Cơ đến, các tướng trông thấy đều nói:

- Lại có một tay thần tiễn nữa đến kia!

Phan Đảng nổi giận nói rằng:

- Ta bắn như thế, phỏng đã kém Dưỡng Thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) cái gì ?

Dưỡng Do Cơ nói:

- Nhà ngươi bắn trúng cái đích kia, chưa lấy gì làm lạ, ta đây có thể bắn "bách bộ xuyên dương" kia!

Các tướng đều hỏi:

- "Bách bộ xuyên dương" là thế nào ?

Dưỡng Do Cơ nói:

- Trước đây có người lấy thuốc màu đánh dấu một cái lá trên một cây dương, ta đứng ở ngoài trăm bước bắn một phát mà trúng vào giữa cái lá ấy, bởi thế mới gọi là "bách bộ xuyên dương".

Các tướng nói:

- Ở đây cũng có cây dương, nhà ngươi thử bắn xem có được không ?

Dưỡng Do Cơ nói:

- Sao lại không được!

Các tướng mừng lắm nói:

- Ngày nay ta lại được xem mũi tên thần của Dưỡn thúc!

Các tướng lấy mực bôi vào một cái lá ở trên cây dương, để cho Dưỡng Do Cơ đứng ngòai trăm bước mà bắn thử . Dưỡng Do Cơ đứng bắn một phát . Các tướng không thấy cái tên rơi xuống đất, liền xúm lại xem thì ra cái tên ấy vướng ở trên cành cây dương mà mũi tên xuyên qua cái lá đã bôi mực . Phan Đảng nói:

- May mà trúng đó thôi! Bay giờ ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba cái lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay giỏi!

Dưỡng Do Cơ nói:

- Ta chưa dám chắc, nhưng hãy xin bắn thử!

Phan Đảnhg đánh dấu ba cái lá ở trên cây dương, ở ba chỗ cao thấp khác nhau: cái đề chữ "nhất", cái đề chữ "nhị" và cái đề chữ "tam" . Dưỡn Do Cơ nhìn qua một lượt, rồi lui ra ngoài trăm bước, lấy ba cái tên, cũng ghi số hiệu nhất, nhị, tam, rồi theo thứ tự mà bắn luôn ba phát, đều trúng tất cả . Các tướng cùng chắp tay vái Dưỡng Do Cơ mà khen rằng:

- Nhà ngươi thật là người thần!

Phan Đảng dẫu trong lòng khen thầm, nhưng lại muốn khoe tài của mình, mới bảo Dưỡn Do Cơ rằng:

- Dưỡng thúc bắn như thế cũng cho là giỏi, nhưng nghề bắn lại cần phải có sức khỏe mới được; ta đây có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp, để ta thử bắn cho các ngươi xem .

Các tướng đều nói:

- Chúng tôi muốn xem lắm!

Phan Đảng sai quân sĩ xếp liền với nhau năm lần áo giáp .

Các tướng nói:

- Thôi thế cũng đã đủ rồi!

Phan Đảng lại sai để thêm hai lần nữa, cả thảy là bảy lần . Các tướng đều nghĩ thầm: bảy lần áo giáp, có khi dày gần tới một thước, tài nào bắn xuyên qua được! Phan Đảng sai đem bảy lần áo giáp treo lên trên cái đích bia, rồi đứng ở ngoài trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn ngay một phát, chỉ nghe tiếng tên bay vụt đi, không thấy rơi xuống đất . Các tướng xúm lại xem, ai nấy đều reo rầm lên rằng:

- Bắn giỏi quá! giỏi quá!

Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, cái tên ấy suốt qua bảy lần áo giáp, như đang đóng cột, không thể lay động được . Phan Đảng nét mặt có ý khoe khoang, bảo quân sĩ đem mấy lần áo giáp ấy xuống, và cứ để cái tên y nguyên như vậy, định đưa khắp cho cả dinh cùng xem . Dưỡng Do Cơ mới bảo các tướng rằng:

- Khoan đã! đừng hạ xuống vội, để ta thử bắn một phát nữa xem sao!

Các tướng nói:

- Ừ, phải đó! để chúng ta xe tài Dưỡng thúc chuyến nữa!

Dưỡng Do Cơ giương cung lên, toan bắn lại thôi . Các tướng hỏi:

- Sao Dưỡng thúc lại không bắn ?

Dưỡng Do Cơ nói:

- Nếu cứ theo lối cũ mà bắn thì không lấy gì làm lạ; ta đây có một cách bắn khác .

Dưỡng Do Cơ nói xong, liền bắn ngay một phát . Phát tên ấy không cao, không thấp, không lệch về hai bên, lại cắm thẳng ngay vào cái đốc tên của Phan Đảng mà đẩy sang phía bên kia, còn cái tên của Dưỡng Do Cơ thì lại thế vào chỗ thủng ấy . Các tướng trông thấy, ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà khen là tài . bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục mà nói rằng:

- Dưỡng thúc thật là một tay tuyệt vời, ta không thể theo kịp!

Các tướng nói:

- Nay Tấn, Sở hai nước sắp giao chiến với nhau, chính là lúc cần dùng tài bắn, hai vị tướng quân có tài như vậy, ta nên tâu lên đại vương biết .

Các tướng bèn sai quân sĩ khiêng mấy lần áo giáp ấy đến trước mặt Sở Cung vương . Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng cũng cùng đến cả . Các tướng đem những việc hai người bắn thi với nhau thuật lại cho Sở Cung vương nghe, và tâu với Sở Cung vương rằng:

- Nước ta có người bắn giỏi như thế thì dẫu trăm vạn quân Tấn cũng chẳng làm gì nổi ?

Sở Cung vương nổi giận mà mắng rằng:

- Làm tướng đánh giặc, cần phải dùng mưu kế, chứ sao lại cầu may ở một mũi tên! nhà ngươi tự phụ như thế thì tất có ngày lại chết về nghề!

Sở Cung vương liền thu lấy cái tên của Dưỡng Do Cơ, không cho bắn nữa . Dưỡng Do Cơ hổ thẹn lui ra .

Đầu trống canh năm hôm sau, Tấn Lệ công và Sở Cung vương cùng truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống đem quân ra trận . Trịnh Thành công cũng đem quân đến tiếp ứng cho quân Sở . Tấn Lệ công đem quân ra, tiến thẳng đến trận địa quân Sở, chẳng ngờ có một chỗ bùn lầy, xe Tấn Lệ công sụt bánh, ngựa không thể nào kéo lên nổi . Con Sở Cung vương là Hùng Phiệt tuổi trẻ hăng hái trông thấy Tấn Lệ công sa lầy, liền thúc quân đến đánh . Tướng nước Tần là Loan Hàm vội vàng ở trên xe nhảy xuống, đứng giữa bùn lấy hết sức bình sinh, hai tay nâng hai bánh xe lên, bấy giờ ngựa mới ra khỏi được . Khi Hùng Phiệt đem quân đến nơi thì vừa gặp có toán quân của Loan Thư đến . Loan Thư quát to lên rằng:

- Tiểu tướng không đựơc vô lễ!

Hùng Phiệt trông thấy trên lá cờ để bốn chữ: "Trung quân nguyên soái", biết là đại binh, giật mình khinh sợ, vội vàng bỏ chạy . Loan Thư đuổi theo, bắt sống được Hùng Phiệt . Quân Sở thấy Hùng Phiệt bị bắt, đều đổ xô lại cứu, nhưng vừa lúc ấy thì Sĩ Nhiếp và Khước Chí cũng đem quân đến, quân Sở sợ có mai phục, lại phải thu quân trở về . Quân Tấn cũng không đuổi theo quan Sở nữa . Loan Thư giải Hùng Phiệt về nộp Tấn Lệ công . Tấn Lệ công toan chém . Miêu Bí Hoàng nói với Tấn Lệ công rằng:

- Vua Sở nghe tin con bị bắt, ngày mai tất nhiên đem quân đến đánh, ta nên bỏ Hùng Phiệt vào tù xa, đem ra trước trận mà dụ vua Sở .

Tấn Lệ công khen phải . Sáng hôm sau, Loan Thư truyền mở cửa dinh để sửa soạn khai chiến với quân Sở . Quan đại tướng là Nguỵ Kỳ báo Loan Thư rằng:

- Đêm qua tôi nằm mộng thấy tôi giương cung bắn trúng vừng trăng, một dải hào quang ở trong mặt trăng toé thẳng xuống đất, tôi vội vàng lùi lại, chẳng ngờ trượt chân sa xuống chỗ bùn lầy, rồi giật mình tỉnh dậy, không biết đó là điềm gì ?

Loan Thư đóan rằng:

- Cùng họ với nhà Chu ta là mặt trời thi khác họ tất là mặt trăng, bắn trúng mặt trăng, tất là bắn trúng vua Sở; nhưng lùi lại mà sa vào bùn lầy thì không phải là điềm lành, tướng quân nên cẩn thận mới được!

Nguỵ Kỳ nói:

- Nếu phá vỡ quan Sở thì tôi dẫu chết, cũng được thoả lòng!

Loan Thư liền cho Ngụy Kỳ đem quân ra trận, gặp tướng nước Sở là Doãn Tương ra nghênh chiến . Hai người đánh nhau mới được mấy hợp thì quân Tấn đem tù xa chở Hùng Phiệt ra . Sở Cung vương trông thấy, hầm hầm nổi giận, tức khắc giục ngựa tiến vào, định cướp lấy Hùng Phiệt đem về . Ngụy Kỳ trông thấy Sở Cung vương, thì không giao chiến với Doãn Tương nữa, mà quay lại đuổi theo Sở Cung vương, bắn một phát trúng ngay vào mắt bên tả . Sở Cung vương vội vàng bỏ chạy, cố nghiến răng mà rút cái tên ra, cầm ném xuống đất, con ngươi xóc ở đầu mũi tên . Có một đứa tiểu tốt nhặt lấy dâng lên Sở Cung vương và nói rằng:

- Đây là mắt rồng, đại vương không nên bỏ!

Sở Cung vương cầm lấy mà bỏ vào trong túi tên . Quân Tấn thấy Ngụy Kỳ thắng trận, đều cùng nhau tiến binh . Nguyên soái nước Sở là công tử Trắc cố sức chống cự, mới cứu thoát được Sở Cung vương . Khước Chí (tướng nước Tấn) đem quân vây Trịnh Thành công, người dong xe của Trịnh Thành công đem lá cờ đại tỉnh giấu vào trong túi cung . Trịnh Thành công mới chạy thoát được . Bấy giờ Sở Cung vương giận lắm, truyền gọi thần tiễn tướng quân là Dưỡn Do Cơ đến để cứu giá . Dưỡng Do Cơ vâng lệnh chạy đến, nhưng trong mình chẳng có một cái tên nào cả . Sở Cung vương rút hai cái tên đưa cho Dưỡng Do Cơ và bảo rằng:

- Người bắn ta vừa rồi là người râu xồm, mặc áo bào màu lục, tướng quân báo thù cho ta . Tướng quân đã là người bắn giỏi, tưởng cũng không cần phải dùng đến nhiều tên .

Dưỡng Do Cơ lĩnh lấy hai cái tên ấy, rồi tức khắc tiến sang quân Tấn, gặp một người râm xồm, mặc áo bào lục, tức là Ngụy Kỳ . Dưỡng Do Cơ quát to lên mà mắng Ngụy Kỳ rằng:

- Đứa thất phu kia! sao mày dám bắn đại vương ta!

Ngụy Kỳ vừa toan trả lời thì Dưỡng Do Cơ bắn một phát tên trúng ngay vào cổ . Nguỵ Kỳ ngã phục xuống mà chết ngay . Loan Thư tức khắc đem quân đến, cướp lại được thi thể Ngụy Kỳ đưa về . Dưỡng Do Cơ còn thừa một cái tên, đem về nộp Sở Cung vương và tâu rằng:

- Tôi nhờ uy linh của đại vương, đã bắn chết được viên tướng râu xồm mặc áo bào màu lục rồi .

Sở Cung vương mừng lắm, liền cởi ngay áo cẩm bào ban cho Dưỡng Do Cơ, lại ban cho một trăn cái tên bằng ngà . Bấy giờ quân Sở đều gọi Dưỡng Do Cơ là Dưỡng Nhất Tiễn, nghĩa là chỉ bắn một phát tên thứ nhất đã trúng được ngay, không phải bắn đến phát thứ hai . Bấy giờ quân Tấn đuổi theo quân Sở gấp lắm . Dưỡng Do Cơ đứng chắn ngang đường giương cung ra bắn . Quân Tấn không dám đến gần . Tướng nước Sở là công tử Anh Tề và công tử Nhâm Phu nghe tin Sở Cung vương bị thương, đều đem quân đến tiếp ứng, lại hỗn chiến một chập nữa, rồi quân Tấn mới chịu lui về . Loan Hàm trông thấy hiệu cờ lệnh doãn, biết là toán quân của công tử Anh Tề, mới nói với Tấn Lệ công rằng:

- Khi trước tôi sang sứ nước Sở, quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề có hỏi tôi về việc dùng binh của nước Tấn ta, tôi đáp rằng nghiêm chỉnh và nhàn hạ . Nay hai bên hỗn chiến, chưa thấy cái gì là nghiêm chỉnh; hai bên tháo lui, chưa thấy cái gì là nhàm hạ, tôi xin sai người đem rượu sang dâng công tử Anh Tề, để theo được như lời ngày trước .

Tấn Lệ công khen phải . Loan Hàm sai một người mang hũ rượu sang công tử Anh Tề mà nói với công tử Anh Tề rằng:

- Chúa công tôi thiếu người, Loan Hàm đang phải cầm giáo hộ vệ ở trên xe, vì vậy Loan Hàm không thể đến đây mà khao quân quý quốc được, có sai tôi thay mặt đem dâng hũ rượu này .

Công tử Anh Tề nhớ đến câu nói về sự nghiêm chỉnh và nhà hạ khi trước, mới khen rằng:

- Tiểu tướng quân thật là nhớ việc lắm!

Nói xong, liền nhận hũ rượu ấy, rót một chén uống mà bảo sứ giả rằng:

- Ngày mai ta sẽ ra trước trận để tạ lại .

Sứ giả nước Tấn về thuật lại cho Loan Hàm nghe . Loan Hàm nói:

- Vua nước Sở bị mũi tên như thế, mà quân Sở còn chưa chịu lui thì biết làm thế nào ?

Miêu Bí Hoàng nói:

- Ta cứ sửa soạn sẵn để sáng sớm mai quyết một trận thắng phụ, chứ có sợ gì quân Sở .

Bấy giờ Khước Thù cùng Loan Áp đi mượn quân nước Lỗ và Vệ đã trở về, nói là hai nước hiện đã cất quân sang gần đến nơi, chỉ còn cách đây độ 20 dặm . Thám tử báo tin cho Sở Cung vương biết . Sở Cung vương kinh sợ mà nói rằng:

- Quân Tấn đã nhiều mà nay lại có quân Lỗ và quân Vệ đến giúp, biết làm thế nào ?

Sở Cung vương tức khắc sai người đi triệu quan trung quân nguyên soái đến để thương nghị

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 59 : Tư Đồng cậy thế Tấn Lệ côngTriệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả

Trung quân nguyên sóai nước Sở là công tử Trắc, vốn là người nghiện rượu, mỗi lần uống kể hàn trăm bầu không thôi, mỗi lần say kể hàng suốt ngày không tỉnh . Sở Cung vương vẫn biết như vậy, nên trong khi đi trận, thường nghiêm cấm không cho công tử Trắc uống rượu . Bấy giờ Tấn và Sở gây việc tranh chiến, công tử Trắc đang làm trung quân nguyên sóai, không dám uống một hớp rượu nào cả . Khi Sở Cung vương bị mũi tên trở về, vừa thẹn vừa giận, công tử Trắc nói với Sở Cung vương rằng:

- Nay quân hai bên đều đã mỏi mệt, ngày mai đại vương hãy cho đình chiến một hôm, để tôi xin nghĩ mưu kế báo thù .

Công tử Trắc về dinh, ngồi đến nửa đêm, chưa nghĩ được mưu kế gì . Có một tên người nhà là Cốc Dương vốn là người thân cận của công tử Trắc thấy công tử Trắc lo nghĩ buồn rầu, nhân có giấu được ba lọ rượu thật ngon, liền hâm một lọ, đem dâng lên công tử Trắc . Công tử Trắc cầm chén ngửi ngạc nhiên mà hỏi rằng:

- Rượu à ?

Cốc Dương dẫu biết là công tử Trắc muốn uống, nhưng sợ người xung quanh lộ chuyện ra ngoài, mới giả cách nói:

- Không phải rượu, đây là nước tiêu thang đó .

Công tử Trắc hiểu ý, uống một hơi hết ngay, vị ngọt hương thơm, không biết thế nào mà kể! công tử Trắc uống xong lại hỏi:

- Còn nước tiêu thang không ?

Cốc Dương nói:

- Bẩm còn!

Cốc Dương lại rót một chén đầy nữa dâng lên . Công tử Trắc lâu nay thèm rượu quá, cứ gọi Cốc Dương lấy nước tiêu thang mãi . Rót xong liền uống, uống xong lại rót, thành ra uống nhiều quá, say lử người ra, rồi nằm phục ở trên chiếu mà ngủ . Sở Cung vương nghe tin quân Tấn định đến gà gáy hôm sau thì giao chiến, có quân Lỗ và quân Vệ cũng đến đánh giúp, vội vàng sai nội thị đi triệu công tử Trắc để bàn mưu kế . Ai ngờ công tử Trắc đã say tít cung thang, gọi cũng chẳng thưa, lôi cũng chẳng dậy, chỉ thấy mùi rượu nồng sực cả lên . Nội thị vào tâu với Sở Cung vươg . Sở Cung vương lại sai người gọi, cả thảy đến mười tin luôn, nhưng càng gọi gấp bao nhiêu thì công tử Trắc lại càng ngủ lỳ bấy nhiêu . Cốc Dương thấy vậy, khóc mà nói rằng:

- Ta yêu nguyên soái mà dâng rượu, ai ngờ thành ra hại nguyên sóái! nay đại vương biết thì tính mệnh ta cũng khó lòng mà toàn vẹn đuợc, chi bằng ta bỏ trốn đi là hơn .

Sở Cung vương thấy công tử Trắc không đến, không biết làm thế nào, phải sai người triệu công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề vốn bất hoà với công tử Trắc, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

- Tôi đã biết là quân Tấn mạnh thế lắm, không thể đánh được, cho nên từ trước tôi vẫn không muốn cứu Trịnh . Việc này đều tại quan tư mã (trỏ và công tử Trắc) cả, nay quan tư mã tham chén quá say, tôi cũng không biết dùng mưu kế gì cho được, chi bằng đêm hôm nay ta rút quân về, để khỏi chịu thua nhục nhã .

Sở Cung vương nói:

- Đã đành như thế, nhưng nay quan tư mã say rượu quá, nếu bị quân Tấn bắt được, thì nhục quốc thể lắm đấy!

Nói xong gọi Dưỡng Do Cơ vào mà bảo rằng:

- Ta trông cậy vào thần tiễn của nhà ngươi để hộ vệ quan tư mã ra khỏi địa giới . Chỉ còn Dưỡng Do Cơ ở lại sau . Dưỡng Do Cơ nghĩ thầm nếu đợi quan tư mã tỉnh rượu thì biết đến bao giờ!

Bèn sai nguời vực công tử Trắc dậy, đem dây da trói lại, rồi đặt lên trên xe, cho đi trước còn mình thì cùng với ba trăm quân cung tên, thong thả đi sau . Sáng hôm sau, quân Tấn mở cửa dinh ra để giao chiến, kéo thẳng đến dinh quân Sở, chẳng thấy một người nào cả, biết là quân Sở đã trốn đi rồi . Loan Thư toan đem quân đuổi theo . Sĩ Nhiếp cố ý can . Loan Thư lại nghe báo rằng khắp địa giới nước Trịnh, chỗ nào cũng có quân phòng thủ, biết là thế không làm gì nổi, mới truyền rút quân trở về nước Tấn . Quân Lỗ và quân Vệ cũng đều về nước cả .

Công tử Trắc đi được 50 dặm đường, dần dần tỉnh rượu, thấy tay chân đều vướng bận, mới kêu rầm lên rằng:

- Ô hay! ai trói ta thế này!

Quân sĩ nói:

- Quan tư mã say rượu quá, Dưỡng tướng quân sợ đi xe không vững, vậy nên phải làm như thế .

Nói xong, liền cởi trói cho công tử Trắc . Công tử Trắc hai mắt hãy còn hoa mờ cả lên, ngoảnh lại hỏi quân sĩ rằng:

- Xe ngựa ta đi đâu thế này ?

Quân sĩ nói:

- Đường về nước ta đó!

- Tại sao lại về ?

Quân sĩ nói:

- Đêm qua đại vương mấy lần ra triệu quan tư mã, vì quan tư mã say rượu quá, vậy nên đại vương sợ quân Tấn đến đánh, không có ai chống lại nổi, đã phải rút quân trở về rồi!

Công tử Trắc khóc mà nói rằng:

- Cốc Dương làm hại ta rồi!

Công tử Trắc truyền gọi Cốc Dương thì Cốc Dương đã bỏ trốn đi đâu mất . Sở Cung vương đi khỏi hai trăm dặm, mới được yên lòng . Lại sợ công tử Trắc lo tội mà tự tử, mới sai người truyền bảo rằng:

- Ngày xưa Tử Ngọc (tên tự Thành Đắc Thần) thua trận mà bị tội, là vì lúc bấy giờ tiên quân ta không đi, nay ta thân hành đem quân đi thì tội tại ta, không dự gì đến quan tư mã .

Công tử Anh Tề muốn cho công tử Trắc tự tử chết, bèn sai người nói với công tử Trắc rằng:

Việc Tử Ngọc ngày xưa thua trận mà tự tử, hẳn quan tư mã cũng đã biết; giả sử đại vương không trị tội, quan tư mã còn mặt mũi nào đối với quân sĩ nước Sở ngày nay!

Công tử Trắc thở dài mà nói rằng:

- Quan lệnh doãn (tức là công tử Anh Tề) trách ta thế là phải lắm, có lẽ nào ta lại dám tham sống làm gì!

Nói xong, thắt cổ mà chết . Sở Cung vương rất là thương tiếc .

Tấn Lệ công thắng được quân Sở, tự cho mình là thiên hại vô địch, càng có ý kiêu ngạo lắm . Sĩ Nhiếp biết là nước Tấn thế nào cũng loạn, đem lòng lo nghĩ, thành ra ốm nặng, liền sai quan thái thúc cúng thần, để khẩn xin cho được chóng chết . Chưa được bao lâu thì Sĩ Nhiếp chết .

Bấy giờ Tư Đồng là người khéo nịnh hót, Tấn Lệ công có lòng tin yêu, muốn cho làm quốc khanh, nhưng ngặt vì một nỗi chức quốc khanh không khuyết, Tư Đồng mới tâu với Tấn Lệ công rằng:

- Nay ba người họ Khước đều giữ binh quyền, vây cánh to lắm, làm nhiều điều trái phép, chỉ sợ sau lại sinh lòng phản nghịch, ta nên trừ trước đi; nếu trừ được họ Khước thì chức khanh khuyét nhiều, bấy giờ tuỳ ý chúa công, yêu ai thì cho người ấy .

Tấn Lệ công nói:

- Họ Khước chưa làm sự gì phản nghịch cả, mà ta giết đi thì e rằng triều thần không ai phục .

Tư Đồng lại tâu rằng:

- Trận đánh ở Yên Lăng, Khước Chí đã vây vua Trịnh, lại cùng vua Trịnh tư ước, rồi tha cho đi, xem thế thì biết là tất có tư thông với Sở . Chúa công nên gọi Hùng Phiệt (con Sở Cung vương bị quân Tấn bắt được) vào mà hỏi thì tự khắc biết rõ sư. thực .

Tấn Lệ công sai Tư Đồng đi gọi Hùng Phiệt . Tư Đồng bảo Hùng Phiệt rằng:

- Công tử có muốn về nước Sở không ?

Hùng Phiệt nói:

- Muốn lắm, nhưng làm thế nào mà về được ?

Tư Đồng nói:

- Công tử nghe ta điều này thì ta sẽ xin cho công tử được về .

Hùng Phiệt nói:

- Ngài bảo gì, tôi xin vâng lệnh!

Tư Đồng liền ghé tai nói nhỏ với Hùng Phiệt, để khi vào yết kiến Tấn Lệ công thì vu tội cho Khước Chí . Khi Hùng Phiệt vào yết kiến, Tấn Lệ công đuổi hết người xung quanh đi, rồi hỏi Hùng Phiệt rằng:

- Khước Chí có tư thông với nước Sở hay không ? Nhà ngươi nên nói thật thì ta sẽ cho nhà ngươi về nước .

Hùng Phiệt tâu rằng:

- Chúa công có tha tội thì tôi mới dám nói .

Tấn Lệ công nói:

- Ta đang muốn nghe nhà ngươi nói thật, khi nào lại còn bắt tội .

Hùng Phiệt nói:

- Khuớc Chí cùng công tử Anh Tề nước tôi, hai người chơi thân với nhau, vẫn có thư tín đi lại, nói: "Nhà vua không tin quan đại thần, ngày đêm chơi bời, nhân dân đều oán, không đáng làm vua! hiện nay ai cũng nhớ đến vua Tương công ngày xưa, vua Tương công có người cháu tên là Chu, nếu quân Tấn thua trận thì ta sẽ lập Chu lên làm vua mà thần phục nước Sở" . Tôi chỉ biết có một việc ấy, còn việc gì khác, thật quả tôi không được biết .

Hùng Phiệt nói chưa dứt lời thì Tư Đồng lại tâu rằng:

- Thảo nào mà trận đánh nhau ở Yên Lăng ngày trước, Khước Thù cùng công tử Anh Tề đối trận mà không bắn một phát tên nào, đủ biết là có ý tư thông với nước Sở . Xem thế thì việc Khước Chí tha vua Trịnh, còn ngờ gì nữa! nếu chúa công chưa tin thì nên sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận, rồi cho người đi rình, nếu Khước Chí quả có âm mưu, thì thế nào cũng tìm đến công tôn Chu để cùng nhau thương nghị .

Tấn Lệ công khen phải, liền sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận . Tư Đồng mật sai ngươi báo Công tôn Chu rằng:

- Quyền chính nước Tấn, một nửa ở tay họ Khước, nay Khước Chí sang báo tin thắng trận, công tôn nên nhân tiện cùng với Khước Chí giao kết thì sau này công tôn về nước, có phải cũng thêm vây cánh không ?

Công tôn Chu lấy làm phải . Khi Khước Chí đến, Công tôn Chu vào yết kiến, rồi hỏi thăm những công việc nước nhà . Khước Chí đều bảo thật tất cả . Hai người cùng nhau thương nghị, trong nửa ngày trời, Tấn Lệ công sai người rình, biết sự thể như vậy, liền cho lời nói Hùng Phiệt là thật, mới có ý muốn trừ vây cánh họ Khước . Một hôm, Tấn Lệ công cùng với cung nữ uống rượu, sai nguời nội thị là Mạnh Chương đi mua thịt hươu gấp lắm, để vội về làm việc . Bấy giờ trong chợ hết cả thịt hươu, lại vừa gặp Khước Chí đi săn về qua đến chợ, trên xe có mang theo một con hươu, Mạnh Chương chẳng hỏi gì cả, cướp ngay con hươu ấy đem đi . Khước Chí giận lắm, giương cung bắn chết Mạnh Chương, rồi lấy lại con hươu . Tấn Lệ công nghe tin nổi giận mà nói rằng:

- Khước Chí khinh ta quá lắm!

Nói xong, liền triệu bọn Tư Đồng, Di Dương Ngũ, và Trường Ngưu Kiểu đến để bàn việc giết Khước Chí . Tư Đồng nói:

- Ta giết Khước Chí thì Khước Kỳ và Khước Thù tất làm phản, chi bằng ta trừ cả đi .

Di Dương Ngũ nói:

- Đêm hôm nay ta nhân lúc bất ngờ, phụng mệnh chúa công đem quân lẻn đến thì có thể bắt được .

Trường Ngưu Kiểu nói:

- Quân sĩ của ba người họ Khước gấp đôi quân sĩ trong cung, nếu ta đến bắt mà không được thì lại đi họa đến chúa công . Nay Khước Chí kiêm chức tư khấu, Khước Thù kiêm chức sĩ sư, chi bằng ta giả cách vào hầu kiện, để nhân tiện mà giết đi, rồi các người đem quân tiếp ứng .

Tấn Lệ công nói:

- Kế ấy hay lắm! để ta sai kẻ lực sĩ là Thanh Phí Khôi đi giúp nhà ngươi .

Trường Ngưu Kiểu dò biết hôm ấy ba người họ Khước hội nghị ở nhà giảng vũ, liền cùng với Thanh Phí Khôi đem tiết gà bôi vào mặt, giả hình làm hai người đánh nhau, mỗi người tay cầm một con dao, kéo vào nhà giảng vũ để kiện nhau . Khước Thù không biết là mưu kế, mới ngồi hỏi kiện . Thanh Phí Khôi giả cách đến gân để bẩn nhỏ, rồi rút dao đâm trúng vào lưng Khước Thù, Khước Thù ngã lăn xuống đất . Khước Kỳ vội vàng giơ dao chém Thanh Phí Khôi, lại bị Trường Ngưu Kiểu xông đến, hai người giao chiến với nhau, Khước Chí tức khắc chạy ra, lên xe bỏ trốn . Thanh Phí Khôi vội vàng đâm thêm Khước Thù một nhát nữa thấy Khước Thù đã chết rồi, cũng xông lại để đánh Khước Kỳ . Khước Kỳ dẫu là vũ tướng, nhưng Thanh Phí Khôi có sức khoẻ lạ thường, và Trường Ngưu Kiểu cũng là một tay nhanh nhẹn, một mình Khước Kỳ địch sao nổi hai người, cũng bị Thanh Phí Khôi đâm chết . Trường Ngưu Kiểu thấy Khước Chí bỏ chạy, liền đuổi theo . Khước Chí đang chạy, lại gặp Tư Đồng và Di Dương Ngũ đem quân đến tiếp ứng . Tư Đồng và Di Dương Ngũ quát to lên rằng:

- Ta phụng mệnh chúa công đi bắt bọn phản nghịch là họ Khước, chớ để cho nói chạy thóat được!

Khước Chí sợ hãi, quay xe trở lại vừa gặp Trường Ngưu Kiểu đi đến nơi . Trường Ngưu Kiểu nhảy ngay lên xe Khước Chí, rồi chém lấy đầu . Thanh Phí Khôi cũng chém lấy đầu Khước Kỳ và Khước Thù để đem về nộp Tấn Lệ côg . Quan thượng quân phó tướng là Tuân Yển nghe tin chủ sóai của mình là Khước Kỳ bị hại, không biết người nào nổi loạn, tức thì đi xe thẳng tới triều môn, định vào tâu với Tấn Lệ công, rồi xin phụng mệnh dẹp giặc quan trung quân nguyên soái là Loan Thư nghe tin ấy cũng vội vàng thẳng tới triều môn . Khi Loan Thư và Tuân Yển tới triều môn thì vừa gặp Tư Đồng kéo đến, Loan Thư và Tuân Yển nổi giận mà mắng rằng:

- Ta tưởng là người nào nổi loạn, chẳng ngờ lại là lũ chuột này! triều môn là nơi cấm địa, sao nhà ngươi lại dám đem quân tới đây!

Tư Đồng chẳng trả lời làm sao cả, chỉ gọi quân sĩ mà bảo rằng:

- Loan Thư và Tuân Yển cùng với ba người họ Khước hợp mưu phản nghịch, quân sĩ xông vào mà bắt, ai bắt được sẽ có trọng thưởng .

Quân sĩ xúm lại nắm lấy Loan Thư và Tuân Yển kéo vào trong triều . Tấn Lệ công nghe tin bọn Trường Ngưu Kiểu đã giết được ba người họ Khước rồi, vội vàng ra ngự triều, lại trông thấy quân sĩ kéo đến, giật mình kinh sợ mà hỏi Tư Đồng rằng:

- Tội nhân đã giết được rồi, sao quân sĩ còn tụ hội đông như vậy ?

Tư Đồng tâu rằng:

- Hiện bắt được kẻ đồng mưu với bọn phản nghịch là Loan Thư và Tuân Yển, xin chúa công xử đoán .

Tấn Lệ công nói:

- Việc này có can dự gì đến Loan Thư và Tuân Yển ?

Trương Ngưu Kiểu quỳ gần ở trước mặt Tấn Lệ công mà mật tuân rằng:

- Loan Thư vốn là người cùng cánh với họ Khước, Tuân Yển lại là bộ tướng của Khước Kỳ, nay ba người họ Khước bị giết thì Loan Thư và Tuân Yển tất không yên tâm, thế nào cũng báo thù cho họ Khước; nếu chúa công không giết Loan Thư và Tuân Yển đi thì khó lòng yên việc được!

Tấn Lệ công nói:

- Một lúc mà giết ba người họ Khước, lại giết lây đến họ khác nữa thì ta không đành lòng!

Tấn Lệ công truyền tha cho Loan Thư và Tuân Yển . Loan Thư và Tuân Yển tạ ơn lui ra . Trường Ngưu Kiểu thở dài mà nói rằng:

- Chúa công không nỡ giết hai người ấy, nhưng ta chỉ e hai người ấy lại giết chúa công mà thôi .

Nói xong liền bỏ trốn sang nước Tây Nhung . Tấn Lệ công trọng thưởng cho quân sĩ, rồi truyền đem ba cái đầu họ Khước ra bêu ở chốn triều môn trong ba ngày . Bao nhiêu người cùng cánh với họ Khước còn đang làm quan ở trong triều, đều phải cách chức đuổi về cả; lại phong chức cho Tư Đồng, Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi: Tư Đồng thay Khước Kỳ làm thượng quân nguyên soái, Di Dương Ngũ thay Khước Thù làm tân quân nguyên soái, Thanh Phí Khôi thay Khước Chí làm tân quân phó tướng . Công tử Hùng Phiệt được tha về nước Sở . Loan Thư va Tuân Yển không muốn đồng sự với Tư Đồng, thường cáo ốm không vào triều . Tư Đồng cậy có Tấn Lệ công, cũng không để ý . Một hôm, Tấn Lệ công và Tư Đồng ra chơi nhà Tượng Lệ Thị ở phía nam núi Thái Âm, cách kinh thành hơn 20 dặm, đã ba hôm chưa về . Tuân Yển nói riêng với Loan Thư rằng:

- Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết . Nay chúng ta cáo ốm không vào triều, dẫu không việc gì, nhưng sau này bọn Tư Đồng sinh nghi thì tất cả lại vu cho ta có lòng oán vua, ta e rằng cái vạ họ Khước, ta khó lòng mà tránh khỏi đuợc!

Loan Thư nói:

- Vậy thì biết làm thế nào ?

Tuân Yển nói:

- Làm quan đại thần, nên lấy nước làm trọng, lấy vua làm khinh . Nay trong tay nhà ngươi cũng có kể hàng trăm vạn quân, nếu lập vua khác, ai là người dám trái ý .

Loan Thư nói:

- Có chắc làm nổi không ?

Tuân Yển nói:

- Con giao long còn ở dưới vực sâu thì không ai dám làm gì, chứ đã lên trên cạn, chỉ một đứa trẻ con cũng có thể trị nổi! nay chúa công ra chơi nhà Tượng Lệ Thị, ba ngày chưa về, ấy tức là con giao long đã lên trên cạn đó, còn ngại gì!

Loan Thư thở dài mà rằng:

- Nhà ta mấy đời nay trung với Tấn, nay vì việc nước mà phải dùng kế này, thế nào mai sau cũng mang cái tiếng thí nghịch đây .

Loan Thư và Tuân Yển thương nghị với nhau giả cách nói đã khỏi bệnh, có việc cần kíp, muốn yết kiến Tấn Lệ công, rồi mật sai Trình Hoạt đem ba trăm quân phục sẵn ở núi Thái Âm . Rồi hai người đến nhà Tượng Lệ Thị tâu với Tấn Lệ công rằng:

- Chúa công bỏ việc triều chính, đi chơi đã ba ngày nay chưa về, khiến cho quan dân đều có lòng trông đợi, vậy chúng tôi đến đây để đón thánh giá về triều .

Tấn Lệ công không thể từ chối được, phải lên xe về triều, Tư Đồng đi trước, Loan Thư và Tuân Yển theo sau . Đi đến núi Thái Âm, bỗng nghe có tiếng pháo nổ, phục binh đổ ra giết chết Tư Đồng . Tấn Lệ công kinh sợ, ở trên xe ngã lăn xuống đất . Loan Thư và Tuân Yển truyền cho quân sĩ bắt đem giam vào một nơi, rồi đóng quân ở núi Thái Âm . Loan Thư bảo Tuân Yển rằng:

- Ta chỉ e Sĩ Mang và Hàn Quyết sau này lại có ý khác, chi bằng ta sai người giả cách phụng mệnh chúa công triệu hai người ấy đến đây .

Tuân Yển khen phải, liền sai người đi triệu Sĩ Mang và Hàn Quyết . Sứ giả đến triệu Sĩ Mang, Sĩ Mang hỏi:

- Chúa công triệu ta có việc gì ?

Sứ giả luống cuống, không biết đằng nào mà trả lời .

- Việc này đáng nghi lắm!

Sĩ Mang bèn sai người nhà dò thám xem Hàn Quyết có đi hay không thì ra Hàn Quyết cũng cáo ốm không chịu đi . Sĩ Mang nói:

- Thế mới biết kiến thức của người trí giả thường vẫn giống nhau!

Loan Thư thấy Sĩ Mang và Hàn Quyết không đến, lại hỏi Tuân Yển rằng:

- Việc này giờ tính thế nào ?

Tuân Yển nói:

- Nhà ngươi đã cưỡi lên lưng hổ, lại còn định xuống hay sao!

Loan Thư hiểu ý gật đầu, ngay đêm ấy sai Trình Hoạ dâng thuốc độc cho Tấn Lệ công . Tấn Lệ công uống vào chết ngay . Loan Thư truyền làm lễ an táng ở ngoài cửa đông . Sĩ Mang và Hàn Quyết nghe tin, cũng vội vàng đến để chịu tang, nhưng không hỏi gì về việc tại sao Tấn Lệ công chết . Khi lễ an táng đã xong, Loan Thư họp các quan đại phu lại, để bàn lập vua mới . Tuân Yển nói:

- Ngày trước ba nguời họ Khước bị giết, là vì Tư Đồng nói dèm bảo họ Khước muốn lập công tôn Chu lên làm vua, điều đó thành ra một lời sấm, vậy ta nên đón mà lập công tôn Chu .

Các quan đạ phu đều bằng lòng cả . Loan Thư liền sai Tuân Doanh sang nhà Chu, để đón công tôn Chu về làm vua . Bấy giờ công tôn Chu đã 14 tuổi, thông minh đĩnh ngộ, thấy Tuân Doanh đến đón, hỏi hết sự thể đầu đuôi, rồi cùng với Tuân Doanh trở về nước Tấn . Về đến đất Thanh Nguyên, Loan Thư, Tuân Yển, Sĩ Mang, Hàn Quyết cùng các quan đại phu đều họp ở đấy để nghênh tiếp . Công tôn Chu bảo các quan rằng:

- Tá đây ở nước ngoài đã lâu, cũng chẳng muốn được về nước, huống chi lại còn mong làm vua! nhưng làm vua chỉ qúy về một điều chính lệnh ở trong tay mình, nếu lập lên làm vua mà không theo chính lệnh thì chẳng thà đừng lập! các ngươi có chịu một lòng tin theo chính lệnh của ta hay không, cốt ở lúc này, bằng không thi các ngươi lập người khác, chứ ta không muốn đeo một cái hư danh như Châu Bồ ngày trước đâu!

Bọn Loan Thư đều sợ hãi sụp lạy mà nói rằng:

- Chúng tôi mong được vua hiền để mà thờ, có đâu lại dám trái lệnh .

Khi lui ra ngoài, Loan Thư bảo các quan rằng:

- Vua mới ngày nay, không ví như vua cũ được, chúng ta nên giữ gìn cẩn thận mới được!

Công tôn Chu tiến vào kinh thành, làm lễ cáo nhà Thái miếu, rồi lên nối ngôi, tức là Tấn Điệu công . Ngày hôm sau, Tấn Điệu công kể tội bọn Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi truyền cho quân sĩ đem ra chém tại triều môn, còn những bè cánh đều đuổi sang nước khác; lại đem việc Tấn Lệ công chết, đổi tội cho Trình Hoạt, bắt đem căng thây ở ngoài chợ . Loan Thư thấy vậy, khiếp đảm kinh hồn, suốt đêm không ngủ, ngày hôm sau tức khắc xin cáo lão, rồi tiến dẫn Hàn Quyết để thay mình . Chưa được bao lâu Loan Thư sợ quá, thành bệnh nặng rồi chết . Điệu công nghe nói Hàn Quyết là người hiền, cho làm chức trung quân nguyên sóai để thay Loan Thư . Hàn Quyết giả cách vào tạ ơn, rồi tâu riêng với Điệu công rằng:

- Chúng tôi nhờ công đời trước, mới đuợc thế này, mà công đời trước thì không ai hơn họ Triệu: Triệu Thôi giúp vua Văn công, Triệu Thuẫn giúp vua Tương công, đều một lòng vì nước, dựng nên bá nghiệp; đến đời vua Linh công, tin dùng kẻ gian thần là Đồ Ngạn Giả, Đồ Ngạn Giả lập mưu giết Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn phải chạy trốn, mới được thóat nạn . Sau vua Linh công bị giết, vua Cảnh công nối ngôi, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả; Đồ Ngạn Giả nhân khi Triệu Thuẫn đã chết rồi, vu cho tội thí nghịch, rồi bắt chết cả nhà họ Triệu . Việc ấy dân trong nước ai cũng tức thay, may mà họ Triệu còn sót được một người con tên gọi Triệu Vũ, nay chúa công đã trị tội bọn Di Dương Ngũ thì cũng nên nghĩ lại cho cái công họ Triệu ngày xưa!

Điệu công nói:

- Việc ấy ta cũng nghe nói, hiện nay Triệu Vũ ở đâu ?

Hàn Quyết nói:

- Lúc bấy giờ Triệu Vũ mới đẻ, Đồ Ngạn Giả tìm bắt gấp lắm, có hai người môn khách họ Triệu là công ton Chử Cữu và Trình Anh: công tôn Chử Cữu đem thay một đứa trẻ khác rồi liều mình chịu chết để cứu Triệu Vũ; còn Trình Anh thì đem Triệu Vũ vào giấu ở trong núi Mạnh Sơn đã 15 năm nay rồi!

Điệu công nói:

- Nhà ngươi vì ta đi triệu về đây!

Hàn Quyết nói:

- Đồ Ngạn Giả còn ở trong triều, chúa công nên bí mật mới được .

Điệu công nói:

- Ta đã biết rồi!

Hàn Quyết cáo từ lui ra, rồi thân hành đến núi Mạnh Sơn để đón Triệu Vũ và Trình Anh . Hàn Quyết đưa Triệu Vũ vào yết kiến Điệu công . Điệu công giấu Triệu Vũ ở trong cung rồi giả cách ốm . Hàn Quyết đem các quan triều thần vào cung để vấn an . Đồ Ngạn Giả cũng theo vào . Điệu công nói:

- Các ngươi có biết vì cớ gì mà ta ốm hay không ? chỉ vì trong sổ công thần có một điều chưa minh, vậy nên trong lòng ta không được khoan khoái .

Các quan đại phu đều sụp lạy mà hỏi rằng:

- Chẳng hay trong sổ công thần có điều gì chưa minh, xin chúa công dạy cho biết ?

Điệu công nói:

- Triệu Thôi và Triệu Thuẫn đều có công to với nước, nỡ nào để cho tuyệt tự !

Các quan đồng thanh đáp rằng:

- Họ Triệu bị diệt tộc đã 15 nay, bây giờ chúa công dẫu nhớ công họ triệu, cũng chẳng còn ai mà phong được!

Điệu công truyền gọi Triệu Vũ ra chào các quan . Các quan đều hỏi:

- Chẳng hay tiểu lang quân này là người nào ?

Hàn Quyết nói:

- Đó tức là cô nhi họ Triệu, tên gọi Triệu Vũ! còn đứa cô nhi bị giết ngày trước là con Trình Anh, chứ không phải Triệu Vũ .

Đồ Ngạn Giả bấy giờ chẳng còn hồn vía nào cả, cứ phủ phục ở dưới đất, không biết nói ra làm sao . Tấn Điệu công nói:

- Việc này đều tại Đồ Ngạn Giả gây ra, nếu không diệt tộc Đồ Ngạn Giả thì sao cho thoả cái oan hồn họ Triệu!

Điệu công truyền đem Đồ Ngạn Giả ra chém, lại sai Hàn Quyết và Triệu Vũ đem quân vây nhà Đồ Ngạn Giả ra tến ở trước mộ Triệu Sóc . Người nước Tấn ai cũng lấy làm hả lòng . Điệu công đã giết Đồ Ngạn Giả rồi, liền cho Triệu Vũ thay Đồ Ngạn Giả làm chứ tư khấu . Bao nhiêu lộc điền khi trước, đều trả cho tất cả . Tấn Điệu công lại nghe nói Trình Anh là người có nghĩa, muốn dùng chức quân chính .

Trình Anh nói chuyện với mọi người rằng:

- Lúc trước ta không chết vội là vì có cô nhi họ Triệu, nay cô nhi họ Triệu đã báo thù xưa rồi, lẽ nào ta dám tham phú quý để cho công tôn Chử Cữu chịu chết một mình, âu là ta thác xuống suối vàng mà báo tin cho Chử Cữu biết .

Trình Anh nói xong liền đâm cổ mà chết . Triệu Vũ ôm lấy thi thể Trình Anh mà khóc, rồi tâu với Tấn Điệu công, xin gọi là "nghĩa trủng" . Triệu Vũ nhớ ơn Trình Anh, để tang ba năm . Điệu công đã phong chức cho Triệu Vũ, lại sai người sang nước Tống gọi Triệu Thắng về, phong cho đất Hàm Đan . Điệu công biết dùng người hiền tài, trong đám triều thần, người nào cũng xứng đáng cả . Hãy kể mấy viên quan có danh tiếng như sau:

1. Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái; 2. Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; 3. Tuân Doanh làm thượgn quân nguyên sóai; 4. Tuân Yển làm thượng quân phó tướng; 5. Loan Áp (con Loan Thư) làm hạ quân nguyên soái; 6. Sĩ Phường (con Sĩ Hội) làm hạ quân phó tướng; 7. Triệu Vũ làm tân quân nguyên sóai; 8. Ngụy Tướng (con Ngụy Xứng) làm tân quân phó tướng; 9. Kỳ Hề làm trung quân uý; 10. Dương Thiệt Chức làm trung quân phó uý; 11. Ngụy Giáng (con Nguỵ Thù) làm trung quân tư mã, coi việc thuởng phạt quân sĩ; 12. Chương Lão làm chức hậu yêm, coi việc tùân phòng; 13. Hàn Võ Kỵ (con Hàn Quyết) làm công tộc đại phu, coi việc dạy bảo con em các nhà công tộc; 14. Giả Tâm làm tư không; 15. Sĩ Ốc Trọc làm thái phó, coi việc dạy bảo thế tử; 16. Loan Củ làm thân quân nhung ngự; 17. Tuân Tân làm xa hữu tướng quân; 18. Trình Trịnh làm tán bộc, coi việc ngựa xe của vua; 19. Đạc Át Khấu làm dư uý; 20. Tịch Yển làm dư tư mã .

Nhờ có những người hiền tài giúp, Điệu công chỉnh đốn lại chính sự trong nước, trăm họ bằng lòng . Các nước Tống, Lỗ, v..v. đểu đến triều cống . Chỉ có Trịnh Thành công cảm cái ơn Sở Cung vương vì mình mà phải tổn thương mất một con mắt, bởi vậy không chịu theo Tấn .

Sở Cung vương nghe tin Tấn Lệ công bị giết rất là mừng rỡ, đang nghĩ kế để báo thù, lại nghe nói Tấn Điệu công biết dùn người hiền tài, trong ngòai ai cũng mến phục, có cơ lại làm được bá chủ, liền họp triều thần để thương nghị, muốn tìm cách làm nhiễu loạn trung nguyên, khiến cho nước Tấn không làm bá chủ được . Quan lệnh doãn là công tử Anh Tề chịu bó tay, không nghĩ được mưu kế gì cả . Công tử Nhâm Phu nói với Sở Cung vương rằng:

- Trong các nước trung nguyên, có nước Tống là một nước lớn, lại ở vào giữa khỏang nước Ngô và nước Tấn, nếu ta muốn nhiễu loạn trung nguyên thì nên bắt đầu tự nước Tống trước . Nay quan đại phu nước Tống là Ngư Thạch, Hướng Vi Nhân, Lâm Chu, Hướng Đái và Ngư Phủ, cả thảy năm người, có thù oán với quan hữu sư là Hoa Nguyên bỏ trốn sang nươc Sở ta, ta nên giúp binh lực cho bọn ấy, sai về đánh Tống, hễ đánh quân giặc . Nếu Tấn không cứu Tống thì bỏ mất chư hầu, mà cứu Tống thì phải giao chiến với bọn Ngư Thạch, bấy giờ ta chỉ việc ngồi mà đợi xem thắng bại .

Sở Cung vương theo mưu ấy, liền sai công tử Nhâm Phu làm đại tướng, dùng bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đem đại binh tiến sang đánh nước Tống

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 60 : Tuân Dinh hiến kế chia quân ngạchChư hầu đem binh vây Bức Dương

Sở Cung vương dùng mưu kế của qua hữu doãn là công tử Nhâm Phu, thống suất đại binh, cùng với Trịnh Thành công sang đánh Tống, sai bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đánh được đất Bành Thành, cho bọn Ngư Thạch đóng quân ở đấy . Cung vương bảo bọn Ngư Thạch rằng:

- Nước Tấn đang giao thiệp với nước Ngô để chống cự nước Sở ta, mà đất Bành Thành này lại là chỗ tiếp giáp Ngô và Tấn . Nay ta cho các ngươi đóng quân ở đây tiến đánh thì có thể xâm chiếm được địa giới nước Tống; lui giữ thì cũng có thể ngăn trở được đường lối đi lại của quân Tấ và quân Ngô, vậy các ngươi nên cẩn thận; chớ phụ lòng uỷ thác của ta! Dặn bảo xong, Cung vương trở về nước Sở .

Cuối năm ấy, Tống Thành công sai quan đại phu là Lão Tá đem quân vây đất Bành Thành . Ngư Thạch đem quân ra nghênh chiến, bị Lão Tá đánh thua . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin đất Bành Thành bị vây, đem quân đến cứu . Lão Tá cậy có sức mạnh, xông vào trong đám quân Sở, liền bị tên bắn chết . Công tử Anh Tề tiến binh sang xâm phạm nước Tống . Tống Thành công kinh sợ, sai quan hữu sư là Hoa Nguyên sang cáo cấp với nước Tấn . Hàn Quyết nói với Tấn Điệu công rằng:

- Ngày xưa vua Văn công ta làm được bá chủ cũng bởi có việc cứu nước Tống . Cơ hay dở ở một việc này, ta nên đem quân sang cứu mới phải .

Hàn Quyết liền sai sứ đi mượn quân chư hầu . Tấn Điệu công thống suất đại binh đến đóng ở đất Đài Cốc . Công tử Anh Tề nghe tin quân Tấn kéo đến, tức khắc rút quân trở về Sở . Đến năm sau, Tấn Điệu công đem quân 8 nước là: Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng và Tiết đến vây đất Bành Thành . Quan đại phu nước Tống là Hướng Thú sai quân sĩ đứng lên trên xe, gọi người trong thành mà bảo rằng:

- Ngư Thạch là một đứa phản tặc, không thể dung tha được . Nay nước Tấn sắp đem 20 vạn quân, đạp đổ thành này, không để sót một ngọn cỏ . Bọn các ngươi, nếu biết lẽ phải, nên bắt đứa phản tặt ấy đem nộp, chớ để cho những người vô tội cùng bị chết lây .

Dân trong Bành Thành nghe thấy, biết là Ngư Thạch trái lẽ, liền mở cửa thành ra để đón quân Tấn . Tấn Điệu công tiến vào trong thành . Quân Sở bỏ chạy cả . Hàn Quyết bắt được Ngư Thạch; Loan Áp và Tuân Yển bắt được Ngư Phủ; Hướng Thú bắt được Hướng Vi Nhân và Hướng Đãi; Trọng Tôn Miệt đại phu nước Lỗ bắt được Lân Chu, đều giải đến nộp Tấn Điệu công . Tấn Điệu công truyên đem bọn Ngư Thạch ra chém, rồi kéo quân sang hỏi tội nước Trịnh . Quan hữu doãn nước Sở là công tôn Nhâm Phu đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tống, để làm kế cứu Trịnh . Các nước lại đem quân sang cứu Tống, rồi cùng nhau rút quân về nước cả .

Năm ấy Chu Giản vương mất, thái tử Tiết Tâm lên nối ngôi, tức là Chu Linh vương . Chu Linh vương từ khi mới sinh ra, phía trên miệng đã có râu ria mọc, bởi vậy người nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu, Trịnh Thành công ốm nặng, bảo quan thượng khanh là công tử Phi rằng:

- Vua Sở vì đem quân sang cứu nước ta mà bị thương hỏng mất một mắt, ơn ấy không bao giờ ta dám quên . Sau khi ta chết, các ngươi chớ có bội nước Sở .

Trịnh Thành công nói xong thì chết . Bọn công tử Phi lập thế tử Khôn Ngoan lên nối ngôi, tức là Trịnh Hi công . Tấn Điệu công thấy người nước Trịnh chưa phục, mới đại hội chư hầu ở Thích Địa (đất nước Vệ) để bàn việc đánh Trịnh . Quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt hiến kế rằng:

- Đất nước Trịnh không đâu hiểm bằng cửa quan Hổ Lao, đó là một chỗ xung yếu, tiếp giáp nước Trịnh và nước Sở, nếu ta đắp một cái thành ở đấy, rồi đóng quân để chặn ngang thì nước Trịnh tất phải theo ta .

Vu Thần hiến kể rằng:

- Sở và Ngô chỉ cách nhau có một con sông, năm trước tôi sang sứ nước Ngô, có ước với Ngô để cùng đánh Sở . Từ bấy giờ Ngô thường sang quấy nhiễu những thuộc quốc của Sở, người nước sở lấy làm khổ lắm . Nay ta lại sai sứ sang bảo Ngô đánh Sở; nước Sở, phía đông đanh khổ với quân Ngô thì phía bắc tất không cùng ta tranh nhau nước Trịnh được .

Tấn Điệu công theo cả hai kế . Bấy giờ Tề Linh công cùng sai thế tử Quang, cùng với quan thượng khanh là Thôi Trứ sang dự hội để tuân theo mệnh lệnh của nước Tấn . Tấn Điệu công họp quân các nước để đáp thành ở cửa quan Hổ Lao, rồi lấy quân các nước cứ mỗi nước lớn một nghìn quân, mỗi nước nhỏ năm trăm hoặc ba trăm quân, cho đóng giữ ở đấy . Trịnh Hi công sợ hãi, xin giảng hoà với nước Tấn . Lúc bấy giờ quan trung quân uý nước Tấn là Kỳ Hề, đã ngoại bảy mươi tuổi, cáo lão về nghỉ . Tấn Điệu công hỏi:

- Có người nào thay nhà ngươi đựơc không ?

Kỳ Hề nói:

- Không ai bằng Giải Hổ .

Tấn Điệu công nói:

- Ta nghe nói Giải Hổ là người thù của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại còn tiến dẫn ?

Kỳ Hề nói:

- Chúa công hỏi ai là ngươi giỏi, chứ có hỏi ai là người thù của tôi đâu!

Tấn Điệu công sai người đi triệu Giải Hổ . Giải Hổ chưa kịp đến nhận chức thì đã ốm chết . Tấn Điệu công lại hỏi Kỳ Hề rằng:

- Trừ Giả Hổ ra không kể, nhà ngươi còn biết ai nữa không ?

Kỳ Hề nói:

- Sau Giải Hổ thì không ai bằng Kỳ Ngọ .

Tấn Điệu công nói:

- Thế Kỳ Ngọ không phải là con nhà ngươi sao ?

Kỳ Hề nói:

- Chúa công hỏi ai là người giỏi, chứ có hỏi ai là con của tôi đâu!

Tấn Điệu công nói:

- Nay quan trung quân phó uý là Dương Thiệt Chức cũng chết, nhà ngươi lại chọn cho ta một người khác để thay .

Kỳ Hề nói:

- Dương Thiệt Chức có hai con là: Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật . Hai người ấy đều gỉoi cả, chúa công muốn dùng người nào thì dùng .

Tấn Điệu công theo lời, cho Kỳ Ngọ làm trung quân uý, Dương Thiệt Xích làm trung quân phó uý . Các quan đại phu, đều lấy làm bằng lòng .

Con Vu Thần là Vu Hồ Dung phụng mệnh Tấn Điệu công sang sứ nước Ngô, vào yết kiến vua Ngô là Thọ Mộng, xin mượn quân để đánh Sở . Thọ Mộng thụân cho, sai thế tử Chư Phàn làm tướng, luyện quân ở bên sông Trường Giang . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin ấy, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

- Quân Ngô chưa sang nước Sở ta bao giờ, nếu đã sang được một lần thì rồi lại sang quấy mãi, chi bằng ta đánh trước đi là hơn .

Sở Cung vương khen phải . Công tử Anh Tề tuyển hai vạn thủy quân, cho qua sông Trường Giang, phá vỡ đất Cưu Tư của nước Ngô; lại toan thuận dòng kéo quân thẳng xuống . Tướng nước Sở là Đặng Sưu nói với công tử Anh Tề rằng:

- Sông Trường Giang này nước chảy xiết, tiến dễ mà lui khó, tôi xin đem một toán quân đi trước, nếu thuận lợi thì tiến, mà không thuận lợi thì cũng chẳng đến nỗi thua to . Quan nguyên sóai cứ đóng quân ở

Hách Sơn, tuỳ cơ ứng biến, mới giữ vẹn toàn được .

Công tử Anh Tề khen phải, tức khắc cho Đặng Sưu đem một toán quân tinh nhuệ cùng một trăm chiếc thuyền đi trước . Thế tử Chư Phàn nghe tin đất Cưu Tư bị quân Sở chiếm mất; liền bảo các tướng rằng:

- Quân Sở đã chiếm được đất Cưu Tư thì tất thừa thế kéo xuống, ta phải phòng bị mới được .

Thế tử Chư Phàn sai công tử Di Muội đem một toán quân với vài mươi chiếc thuyền ra Lương Sơn để làm kế dụ quân Sở; còn công tử Dư Sái (em công tử Chư Phàn) đem một toán quân ra phục sẵn ở Thái Thạch cảng . Đặng Sưu (tướng nước Sở) đem quân ra Hách Sơn, trông thấy ở Lương Sơn có binh thuyền của nước Ngô, vội vàng ra sức tiến đánh . Công tử Di Muội giả cách thua chạy . Đặng Sưu thúc quân đuổi theo, qua Thái Thạch cảng, lại gặp đại binh của công tử Chư Phàn đến . Hai bên giao chiến được mười hợp thì công tử Dư Sái ở Thái Thạch càng đem phục binh đổ ra, theo phía sau đánh ập trở lại, tên bắn như mưa . Đặng Sưu bị ba phát tên bắn vào mặt, nhưng rút tên ra mà cố sức đánh .

Bấy giờ công tử Di Muội, cưỡi chiếc thuyền lớn đến, truyền cho quân sĩ cầm giáo dài đâm vào thuyền quân Sở . Thuyền quân Sở vỡ đắm rất nhiều . Đặng Sưu bị bắn, không chịu khuất phục mà chết . Quân Sở cũng chết hại rất nhiều . Công tử Anh Tề sợ tội, toan giấu sự thua trận đi, không tâu cho Sở Cung vương biết, ai ngờ thế tử Chư Phàn thừa thắng đem quân tiến đánh, công tử Anh Tề thua to chạy về và đất Cưu Tư lại thuộc về nước Ngô . Công tử Anh Tề tức giận thành bệnh, chưa về đến kinh thành nước Sở thì chết . Sở Cung vương bèn đưa quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu lên làm chức lệnh doãn . Công tử Nhâm Phu tính tham lam, thường bắt các nước phụ thuộc phải lễ đút, Trần Thành công không thể chịu được, mới sai Viên Kiểu Như (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) sang xin theo Tấn . Sở Cung vương thấy nước Trần theo Tấn, đổi tội cho công tử Nhâm Phu, đem giết đi; lại dùng người con là công tử Trịnh (tên tự là Tử Nang) làm lệnh doãn cử binh sang đánh Trần .

Bấy giờ Trần Thành công (Ngọ) chết, thế tử Nhược lên nối ngôi, tức là Trần Ai công . Trần Ai công thấy nước Sở thế mạnh, lại xin theo Sở . Tấn Điệu công nghe tin giận lắm, toan cử binh cùng Sở tranh nhau nước Trần, bỗng nghe báo có vua nước Vô Chung là Gia Phủ sai quan đại phu là Mạnh Lạc đem da hổ, da báo cả thảy một trăm chiếc đến dâng và tâu rằng:

- Các nước Sơn Nhung, trước kia Tề Hoàn công đã dẹp yên tất cả, mới rồi nhân nước Yên và nước Tần suy yếu, các nước Sơn Nhung thấy Trung quốc không có bá chủ lại xâm nhiễu . Chúa công tôi nghe nói nhà vua anh minh, sắp nối được bá nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở xưa, vì vậyt chúa công tôi đã tuyên bá uy đức của nhà vua cho Sơn Nhung biết, các nước ấy đều muốn giảng hoà, xin nhà vua định đoạt .

Tấn Điệu công họp các tướng lại để thương nghị . Các tướng đều nói rằng:

- Quân rợ mọi ấy, không biết lẽ phải, ta phải dùng binh uy với nó mới được . Vua Tề Hoàn công thuở xưa, cũng phải trước đánh Sơn Nhung, sau đánh nước Sở, mới làm nên nghiệp bá được .

Quan tư mã là Ngụy Giáng can rằng:

- Không nên! nay ta mới thu phục được chư hầu, mà đã đem quân đi đánh Sơn Nhung thì quân Sở tất thừa hư quấy nhiễu, như vậy thì chư hầu lại bỏ Tấn theo Sở mà thôi . Sơn Nhung là cầm thú, chư hầu là anh em ta theo đuổi quân cầm thú mà bỏ mất cái tình anh em, sao gọi là kế hay được!

Tấn Điệu công nói:

- Vậy thì ta có nên giảng hoà với các nước Sơn Nhung không ?

Ngụy Giáng nói:

- Giảng hoà với các nước Sơn Nhung, có năm điều lợi: Sơn Nhung tiếp giáp với nước ta, nhiều đất bỏ hoang, ta có thể mở rộng đất được, đó là một điều lợi; Sơn Nhung không quấy nhiễu ta nữa thì những dân ở bờ cõi được yên nghiệp làm ăn, đó là hai điều lợi; quân sĩ của ta không phải khó nhọc về sự đánh dẹp, đó là ba điều lợi; Sơn Nhung đã thần phục thì các nước chư hầu cũng phải sợ hãi, đó là bốn điều lợi; ta không phải lo về mặt bắc (tức là phía Sơn Nhung) thì có thể dốc sức về mặt nam (tức là phía nước Sở) được, đó là năm điều lợi . Có năm điều lợi ấy sao chúa công không theo ?

Tấn Điệu công bằng lòng, liền sai Ngụy Giáng làm sứ thần để đi giảng hoà với các nước Sơn Nhung . Nguỵ Giáng cùng với Mạnh Lạc (quan đại phu nước Vô Chung) đến nước Vô Chung, để cùng với vua nước Vô Chung là Gia Phủ thương nghị việc giảng hoà . Gia Phủ sai người đi triệu các nước Sơn Nhung mà bảo rằng:

- Nay vua nước Tấn làm bá chủ ở Trung nguyên, có sai sứ thần sang đây, để cùng với các nước Sơn Nhung giảng hoà . Các ngươi nên một lòng thần phục, từ đây trở đi, không được quấy nhiễu .

Các nước Sơn Nhung đều xin ăn thề, lại bảo nhau đem thổ sản đến dâng Ngụy Giáng . Ngụy Giáng nhất định không lấy gì cả . Các nước Sơn Nhung đều khen Ngụu Giáng là liêm khiết, lại càng có ý kính trọng . Ngụy Giáng về tâu lại với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công bằng lòng .

Bấy giờ quan lệnh dõan nước Sở là công tử Trịnh, đã thu phục được Trần, lại đem quân đi đánh Trịnh, chỉ vì cửa quan Hổ Lao có quân Tấn đóng, nên không dám kéo qua sông Dĩ Thủy, phải theo đường nước Hứa mà tiến sang nước Trịnh .

Trịnh Hi công (Khôn Ngoan) sợ lắm, họp sáu quan khanh lại để thương nghị . Trong sáu quan khanh kể tên sau này: 1. công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 2. công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 3. công tử Gia, tên tự là Tử Khổng; (ba người này đều là con Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc tổ phụ); 4. công tử Chiếp, tên tự là Tử Nhĩ (con công tử Khứ Tật); 5. công tôn Mại, tên tự là Tử Kiều (con công tử Yển); 6. công tôn Xá, tên tự là Tử Triền (con công tử Hi); (ba người này đều là cháu Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc phụ).

Sáu quan khanh ấy đều là bậc tôn trưởng của Trịnh Hi công cả, từ lau vẫn giữ quyền chính nước Trịnh . Trịnh Hi công là người kiêu ngạo, không biết tôn trọng các bậc tôn trưởng, bởi vậy vua tôi vẫn bất hoà với nhau, nhất là công tử Phi lại càng bất hoà lắm . Trong khi hội nghị, Trịnh Hi công chú ý muốn cố giữ để đợi quân Tấn đến cứu . Công tử Phi nói:

- Tục ngữ có câu rằng: "Nước xa không cứu được lửa gần", vậy chi bằng ta theo Sở là hơn .

Hi công nói:

- Nếu ta theo Sở, quân Tấn lại sang đánh ta, lấy gì mà chống cự lại ?

Công tử Phi nói:

- Tấn vả Sở chẳng nước nào thương ta cả, ta cũng chẳng cứ phải chọn nước nào, hễ nước nào mạnh thế thì ta theo. Nay ta cứ đem lễ vật ra đợi sẵn ở ngoài cõi, Sở đến thì ta hội thề với Sở, mà Tấn đến thì ta hội thề với Tấn . Hai nước mạnh chọi nhau mãi thì tất có một nước thua, bấy giờ mạnh yếu phân biệt rõ ràng, ta xem nước nào thắng thì theo, để giữ cho nhân dân được yên ổn, thế là hay hơn cả!

Trịnh Hi công không theo kế đó, nói:

- Cứ như nhà ngươi nói, thì tại sao nước Trịnh ta chỉ những hội thề mà không năm nào đựơc yên cả .

Trịnh Hi công sai sứ sang nước Tần cầu cứu . Các quan đại phu đều sợ trái ý công tử Phi, không ai dám đi sứ . Trịnh Hi công giận lắm, thân hành đi sứ . Đêm hôm ấy Trịnh Hi công ngủ ở quán xá, công tử Phi sai người đến giết đi, rồi nói thác rằng Trịnh Hi công bị bạo bệnh mà chết, rồi lập người em là Gia lên nối ngôi, tức là Trịnh Giản công .

Công tử Phi sai người nói dối quân Sở rằng:

- Việc theo Tấn đều là tự ý Không Ngoan (tức là Trịnh Hi công), nay Không Ngoan đã chết rồi, vậy nước tôi lại xin theo thượng quốc .

Công tử Trịnh nước Sở lại cho nước Trịnh giảng hoà . Tấn Điệu công nghe tin nước Trịnh lại theo Sở, liền hỏi các quan đại phu rằng:

- Nay Trần và Trịnh cùng theo Sở cả, ta nên đánh nước nào trước ?

Tuân Dinh nói:

- Nước Tần nhỏ mọn, dẫu có theo ta hay không cũng không có gì là quan trọng cả; còn nước Trịnh là một nước trọng yếu, nếu muốn làm bá chủ, tất phải thu phục lấy nước Trịnh . Thà mất người nước Trần, chứ không nên bỏ mất một nước Trịnh!

Hàn Quyết nói:

- Tử Vũ (tên tự của Tuân Dinh) là người có kiến thức, tất thu phục đựơc nước Trịnh, tôi nay tuổi gia sức yếu, xin đem chức trung quân nguyên soái nhường lại cho Tử Vũ .

Tấn Điệu công bất đắc dĩ phải cho Tuân Dinh thay Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái, đem đại binh đi đánh Trịnh . Quân Tấn kéo thẳng đến cửa quan Hổ Lao . Người nước Trịnh xin thề . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc quân Tấn về, Sở Cung vương lại thân hành đem quân sang đánh Trịnh . Người nước Trịnh lại theo Sở . Tấn Điệu công giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng:

- Người nước Trịnh phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về, lại phản, nay muốn làm cho người nước Trịnh phải một lòng theo ta thì nên dùn kế gì ?

Tuân Dinh hiến kế rằng:

- Nước Tấn ta không thu phục được nước Trịnh là vì người nước Sở cố sức mà tranh nước Trịnh với ta . Nay muốn thu phục được nước Trịnh thì tất phải đối địch với Sở, mà muốn làm cho Sở phải khốn quẫn thì nên dùng kế "dĩ giật đãi lao" .

Tấn Điệu công nói:

- Thế nào gọi là "dĩ giật đãi lao" ?

Tuân Dinh nói:

- Quân nước mình không nên dùng luôn, dùng luôn thì người mình nhọc; quân chư hầu không nên điều động luôn, điều động luôn thì chư hầu oán . Trong nhọc mà ngoài oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được nước Sở . Tôi xin đem quân ta mà chia ra làm ba đạo, mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào, thay đổi nhau mà đối địch với quân Sở, Sở tiến thì ta lui, Sở lui thì ta tiến, đem một đạo quân của ta mà làm cho cả nước Sở không lúc nào được yên, như thế thì nước Sở khốn quẫn, bấy giờ nước Trịnh tất phải một lòng theo ta .

Tấn Điệu công khen phải liền sai Tuân Dinh luyện quân ở đất Khúc Lương chia làm ba đạo, định phép thay phiên nhau . Tuân Dinh lên tướng đàn . Trên tướng đàn có cắm một lá cờ đại bái sắc vàng, trên đề mấy chữ "Trung quân nguyên sóai Trí", dưới tướng đài chia quân làm ba đạo: đạo thứ nhất, thượng quân nguyên soái là Tuân Yển, phó tướng là Hàn Khởi, ba nước: Lỗ, Tào, Châu đem quân theo đạo ấy; trung quân phó tướng là Phạm Mang (tức là Sĩ Mang, đổi họ Phạm) đi tiếp ứng . Đạo thứ hai, hạ quân nguyên soái là Loan Áp, phó tướng là Sĩ Phường, ba nước: Tề, Đằng, Tiết đem quân theo đạo ấy; trung quân thượgn đại phu là Ngụy Hiệt đi tiếp ứng . Đạo thứ ba, tân quân nguyên soái và Triệu Vũ, phó tướng là Nguỵ Tướng, ba nước: Tống, Vệ, Nghê đem quân theo đạo ấy; trung quân hạ đại phu là Tuân Hội đi tiếp ứng .

Tuân Dinh truyền lệnh rằng:

- Ba đạo quân, cứ thay phiên nhau đi đánh Trịnh, hễ Trịnh chịu giảng hoà thì lại rút về ngay, nhất thiết không được giao chiến với quân Sở .

Công tử Dương Can là em cùng mẹ với Tấn Điệu công, mới mười chín tuổi, đang làm chức trung quân nhung ngự, tính khí hãy còn hăng hái, chưa từng ra trận bao giờ, nghe nói Tuân Dinh luyện quân để sắp đi đánh Trịnh, múa tay hoa chân, chỉ mong được ra nơi chiến trường, nhưng không thấy Tuân Dinh dùng đến mình, mới tình nguyện xin đi tiên phong . Tuân Dinh nói:

- Ngày nay ta luyện quân là chỉ muốn tiến cho chóng, lại thoái cho mau, không cần đánh quân giặc, tiểu tướng quân dẫu có sức khoẻ, cũng không dùng làm gì!

Công tử Dương Can cố ý xin mãi . Tuân Dinh nói:

- Tiểu tướng quân đã cố xin như vậy thì quyền cho làm bộ hạ quan Tuân đại phu (tức là Tuân Hội) để tiếp ứng đạo tân quân .

Công tử Dương nói:

- Đạo tân quân đến lần thứ ba mới ra đánh thì tôi đợi sao được, xin cho tôi thuộc vào đạo thượng quân .

Tuân Dinh không cho . Công tử Dương Can cậy thế là em Tấn Điệu công, đem ngay quân bạn bộ của mình, đi theo toán quân Phạm Mang . Quan tư mã là Ngụy Giảng trông thấy công tử Dương Can dám rẽ hàng quân để đi lên trước, liền đánh trống mà tuyên cáo với các tướng rằng:

- Công tử Dương Can dám trái tướng lệnh, đi loạn hàng quân, tội đáng chết chém, nay nể là em chúa công, vậy phải giết người dong xe để thay mạng .

Ngụy Giáng truyền cho quân sĩ bắt người dong xe đem chém . Công tử Dương Can căm tức vô cùng, vội vàng vào thuật chuyện lại cho Tấn Điệu công biết, và khóc mà nói rằng:

- Ngụy Giáng khinh bỉ em như vậy thì em không còn mặt mũi nào mà trông thấy các tướng nữa!

Tấn Điệu công vốn có lòng yêu em, không kịp hỏi rõ, liền nổi giận mà nói rằng:

- Nguỵ Giáng làm nhục em ta, khác nào như làm nhục ta, ta tất phải giết, không thể tha được!

Tấn Điệu công bèn truyền gọi quan trung quân phó súy là Dương Thiệt Chức, sai đi bắt Ngụy Giáng . Dương Thiệt Chức nói với Tấn Điệu công rằng:

- Ngụy Giáng là người có chí khí, có việc thì không tránh khó khăn, có tội thì không trốn hình phạt . Khi việc quân đã xong, tất nhiên đến đây tạ tội, bất tất phải cho đi triệu .

Được một lúc thì quả nhiên Ngụy Giáng đến, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm tờ tâu, sắp sửa vào triều để tạ tội . Ngụy Giáng đến triều môn thì nghe tin Tấn Điệu công toan sai người đi bắt mình, liền giao tờ tâu cho người nhà, rồi toan cầm kiếm tự tử . Bỗng có hai viên quan ở đâu hối hả chạy đến, tức là quan hạ quân phó tướng Sĩ Phường và quan chư hậu đại phu Trương Lão . Sĩ Phường và Trương Lão trông thấy Ngụy Giáng toan tự tử, vội vàng giằng lấy thanh kiếm mà nói rằng:

- Chúng tôi nghe nói quan tư mã (trỏ Ngụy Giáng) vào triều, tất là vì việc công tử Dương Can, vậy chúng tôi vội vàng tới đây, định cùng nhau vào tâu để chúa công biết, chẳng hay vì cớ gì mà quan tư mã lại liều mình như thế ?

Ngụy Giáng thuật lại việc Tấn Điệu công toan sai Dương Thiệt Chức đi bắt mình . Sĩ Phường và Trương Lão nói:

- Quan tư mã một lòng giữ phép, không tư vị ai, can gì lại phải liều mình! âu là để chúng tôi vào tâu với chúa công .

Sĩ Phường và Trương Lão đem tờ tâu của Nguỵ Giáng vào dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công mở ra xem, đại lược nói rằng:

"Chúa công không chê tôi là bất tài mà cho sung vào chức tư mã . Tôi nghe nói tính mệnh của ba quân là ở trong tay quan nguyên soái, mà quyền của quan nguyên sóai là ở trong mệnh lệnh; chỉ vì không tuân mệnh lệnh mà quân ta bị thua ở Hà Khắc và ở Bí Thành . Mới rồi, tôi có giết một kẻ không tuân theo mệnh lệnh ấy là để làm hết chức phận tư mã . Việc ấy xúc phạm đến ngự đệ, tôi biết tội đáng chết, vậy xin liều thân với lưỡi gươm trước mặt chúa công, để tỏ rõ tấm lòng thân ái của chúa công đối với ngự đệ".

Tấn Điệu công xem xong, hỏi Sĩ Phường và Trương Lão rằng:

- Ngụy Giáng bây giờ ở đâu ?

Sĩ Phường và Trương Lão nói:

- Nguỵ Giáng sợ tôi đã toan tự tử, chúng tôi cố can mãi, hiện bây giờ đang đứng ở ngoài cửa cung .

Tấn Điệu công hoảng hốt dứng dậy, chân không kịp xỏ giày bước ngay ra ngoài cửa cung, cầm lấy ta Ngụy Giáng mà bảo rằng:

- Câu nói của ta là tình riêng; việc làm của nhà ngươi là phép công . Ta không biết dạy em để phạm đến phép công, đó là lỗi tại ta, chứ nhà ngươi có lỗi gì!

Dương Thiệt Chức ở bên cạnh, nói to lên rằng:

- Chúa công đã xá tội cho thì Ngụy Giáng nên lui ra .

Ngụy Giáng lạy tạ . Dương Thiệt Chức cùng với Sĩ Phường và Trương Lão cùng sụp lạy Tấn Điệu công mà chúc mừng rằng:

- Chúa công có người bề tôi biết giữ phép như thế, chắc là thành được nghiệp bá!

Bốn người cùng cáo từ Tấn Điệu công rồi lui về . Điệu công vào cung, xỉ mắng công tử Dương Can rằng:

- Nhà ngươi không biết giữ phép, suýt nữa thì khiến ta mang tiếng xấu, giết lầm một đại tướng của ta!

Lại sai nội thị giải công tử Dương Can đến nhà quan công tộc đại phu là Hàn Vô Ky, bắt họ lễ trong ba tháng, rồi mới được trở về yết kiến . Công tử Dương Can lấy làm hổ thẹn vô cùng .

Tuân Dinh chia quân xong, vừa toan đi đánh Trịnh, bỗng có sứ thần nước Tống đưa văn thư đến, Tấn Điệu công mở xem, mới biết nước Sở và nước Trịnh thường đem quân đi qua Bức Dương sang xâm lược địa giới nước Tống . Vì thế nước Tống phải sai sứ sang cáo cấp với nước Tấn . Quan thượng quan nguyên soái là Tuân Yển nói với Tấn Điệu công rằng:

- Nước Sở đã thu phục được Trần và Trịnh rồi mà lại còn sang xâm phạm nước Tống là có ý muốn cùng nước Tấn ta tranh nghiệp bá . Nay Bức Dương là con đường quân Sở sang đánh một trận có thể chiếm lấy được, rồi phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú ở đấy, (vì Hướng Thú đã có công ở trận Bành Thành), để chẹn đường quân Sở, cũng là một kế hay đó!

Tuân Dinh nói:

- Bức Dương dẫu nhỏ, nhưng thành quách vững bền lắm, nếu ta đánh mà không được, tất bị các nước chê cười .

Quan trung quân phó tướng là Sĩ Mang nói:

- Trận Bành Thành, ta đang đánh Trịnh thì Sở xâm Tống để cứu Trịnh; trận Hổ Lao, ta đang cùng với Trịnh giảng hoà thì Sở lại xâm Tống để báo thù, vậy ta muốn phục nuớc Trịnh thì trước hết phải lập mưu giữ nước Tống mới được . Tuân Yển nói phải lắm!

Tuân Dinh nói:

- Hai người có chắc là diệt được Bức Dương hay không!

Tuân Yển và Sĩ Mang đồng thanh đáp rằng:

- Xin nguyên soái cứ chắc ở hai chúng tôi, nếu không thành công thì hai chúng tôi xin chịu tội .

Tấn Điệu công nói:

- Bá Du (tên tự của Tuân Yển) khởi xướng lên mà Bá Hà (tên tự của Sĩ Mang) giúp vào thì lo gì không thành công!

Tấn Điệu công liền phái đạo quân thứ nhất đi đánh Bức Dương, nước Lỗ, nước Tào và nước Châu đem quân theo đạo ấy . Quan đại phu Bức Dương nói với vua Bức Dương rằng:

- Quân Lỗ đóng ở thành cửa bắc, ta giả cách mở cửa thành ra đánh, khiến cho quân Lỗ kéo vào; chờ khi vào được nửa chừng, bấy giờ ta hạ cánh cửa treo ở trên xuống mà chắn ngang . Quân Lỗ đã thua thì quân Tào và quân Châu tất sợ, tự khắc khí thế của nước Tấn cũng phải nhụt đi!

Vua Bức Dương dùng kế ấy . Tướng nước Lỗ là Mạnh Tôn Miệt (tức là Trọng Tôn Miệt) đem bộ thuộc của mình là Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di đánh cửa bắc . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di trông thấy cánh cửa treo mở, liền cậy sức khoẻ tiến vào trước, Thúc Lương Ngột đi theo sau . Bỗng nghe trên mặt thành có tiếng cót két rồi cánh cửa từ từ đẩy lên . Toán hậu đội nước Lỗ thấy vậy liền nổi hiệu thu quân . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di vội vàng quay mình trở ra . Tướng Bức Dương là Văn Ban ở trong thành đem quân đuổi theo, trông thấy Thúc Lương Ngột đang giơ tay đỡ cánh cửa treo để cho quân Lỗ rút lui thì kinh hãi, nghĩ thầm rằng: "cánh cửa treo tự trên buông xuống, nặng kể có nghìn cân, nếu tướng kia không có sức khoẻ hơn người thì đỡ lên thế nào cho nổi ? nay ta ra tới đấy mà bị người ây buông xuống thì phỏng còn gì là tính mệnh!" Văn Ban không dám đuổi theo nữa, mới dừng xe lại đứng xem . Thúc Lương Ngột đợi cho quân mình lui ra hết, rồi quát to lên rằng:

- Ta đây là một danh tướng nước Lỗ, tên gọi Thúc Lương Ngột có ai muốn ra đối địch thì nhân khi ta chưa buông tay này mau mau ra đi!

Người trong thành không ai dám nói gì cả . Văn Ban giương cung toan bắng . Thúc Lương Ngột nghiêm mình trở ra, rồi buông hai tay không đỡ nữa . Cánh cửa lại sập thẳng xuống tận đất . Thúc Lương Ngột về dinh bảo Tần Cận Phụ và Địch Tây Di rằng:

- Tính mệnh hai tướng vừa rồi, thật ở trong tay ta!

Tần Cận Phụ nói:

- Nếu hậu đội không nổi hiệu thu quân thì chúng ta cố sức xông vào, đã phá vỡ thành Bức Dương rồi!

Địch Tây Di nói:

- Để đến ngày mai chỉ một mình ta phá vỡ thành Bức Dương cho họ biết sức khoẻ của người nước Lỗ .

Ngày hôm sau Mạnh Tôn Miệt lại đem quân đến dưới thành để khiêu chiến, chia quân ra từng đội, mỗi đội một trăm người . Địch Tây Di nói:

- Ta không cần phải ai giúp, một mình ta làm một đội cũng đủ rồi!

Địch Tây Di lấy một cái áo giáp trùm lên một cái bánh xe, giương lên làm cái mộc, rồi cầm một cái kích thật dài, vừa múa vừa xông vào, chạy nhanh như bay . Quân Bức Dương đứng trên mặt thành, trông thấy Địch Tây Di dũng mạnh như vậy, mới dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

- Ta dòng dây cho mà lên, có dám lên thì mới cho là giỏi!

Nói chưa dứt lời thì trong đám quân Lỗ có một viên tướng bước ra nói:

- Khi nào lại không dám!

Viên tướng ấy tức là Tần Cận Phụ . Tần Cận Phụ lấy ta bíu tấm vải, tay phải tay trái lần thay nhau mà leo lên . Khi gần đến mặt thành thì quân Bức Dương lấy dao cắt đứt tấm vải . Tần Cận Phụ đang ở lưng chừng ngã lăn xuống đất . Thành Bức Dương cao kể mấy nhận (mỗi nhận tám thước),cứ như người khác mà ngã thì chẳng chết cũng bị trọng thương, thế mà Tần Cận Phụ không hề chi cả . Qúân Bức Dương lại dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

- Còn dám lên nữa không ?

Tần Cận Phụ lại bíu tấm vải mà len lên, cũng lại bị quân trên mặt thành cắt đức tấm vải mà ngã lăn xuống đất . Tần Cận Phụ vừa đứng dậy thì quân trên mặt thành lại dòng tấm vải xuống mà hỏi rằng:

- Nào! nào! còn dám lên nữa hay là thôi đấy!

Tần Cận Phụ lại hăng hái nói:

- Nếu không dám lên thì sao gọi là giỏi được!

Nói xong, lại leo lên như trước . Quân Bức Dương ở trên mặt thành trông thấy Tần Cận Phụ đã hai lần ngã mà vẫn dám lên, không chút sợ hãi, thì có ý lo, liền giơ dao cắt tấm vải, ngờ đâu Tần Cận Phụ đã nắm được một người mà vứt xuống, chết ngay lập tức . Tần Cận Phụ cũng ngã theo xuống, lại gọi quân trên mặt thành mà bảo rằng:

- Các người còn dám dòng vải xuống nữa hay thôi ?

Quân Bức Dương đáp:

- Đã biết tài sức của tướng quân rồi, không dám dòng vải xuống nữa!

Tần Cận Phụ sai lấy ba đoạn vải ấy đưa khắp cho quân sĩ xem, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi . Mạnh Tôn Miệt khen rằng:

- Kinh thi có câu "sức khoẻ như hổ", ba tướng (trỏ Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nay thật xứng đáng với câu ấy!

Văn Ban thấy các tướng nước Lỗ đều mạnh tợn như thế, không dám ra đánh, truyền cho quân sĩ cố giữ thế thủ . Quân các nước vây thành Bức Dương đã hai mươi ngày mà chưa phá nổi, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, quân sĩ hoảng sợ . Tuân Yển và Sĩ Mang (tướng nước Tấn) vội vàng vào thương nghị với Tuân Dinh để xin rút quân về .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 61 : Tấn Điệu công cử binh đánh SởTôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua

Quân Tấn và quân chư hầu vây thành Bức Dương trong hai mươi bốn ngày mà chưa phá vỡ, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, Tuân Yển và Sĩ Mang lo sợ, vào nói với Tuân Dinh rằng:

- Chúng tôi vẫn tưởng là thành nhỏ dễ đánh, ai ngờ vây mãi không phá được, mà trời lại mưa to; nay đang mùa hạ, lại là mùa nước lên, sông Bào ở phía tây, sông Tiết ở phía đong, sông Khoách ở phía đông bắc, ba sông ấy đều nhau với sông Tứ, vạn nhất trời mưa mãi, nước mấy sông ấy tràn đến thì khó lòng mà thu quân được, chi bằng ta tạm rút về, rồi sau sẽ liệu .

Tuân Dinh nổi giận, cầm cái ghế đang ngồi, ném xuống trước mặt Tuân Yển và Sĩ Mang mà mắng rằng:

- Ta vẫn bảo thành ấy dẫu nhỏ mà vững bền lắm, chưa dễ phá nổi, các ngươi dám tự quyết là đánh được; khi ở trước mặt chúa công, các ngươi cố ý xin đi đánh, khiến cho ta phải đem quân tới đây . Nay đánh mãi không được, vừa gặp trời mưa, đã muốn rút quân về; các ngươi muốn đến đây thì dễ, chứ muốn rút về thì khó, ta hạn cho bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì sẽ chiếu theo quân pháp mà chém đầu . Muốn tốt thì đi đi cho mau chớ đến đây nữa!

Tuân Yển và Sĩ Mang sợ hãi, xám xanh cả mặt, vâng vâng dạ dạ, luôn mồm mà lui ra, bảo các tướng bộ thuộc của mình rằng:

- Quan nguyên sóai nghiêm hạn trong bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì chém đầu chúng ta, nay ta cũng nghiêm hạn cho các ngươi, nếu trong sáu ngày nữa mà không phá vỡ được thành cũng chém đầu các ngươi trước rồi ta sẽ tự tử để giữ lấy quân pháp .

Các tướng đều sợ hãi nhìn nhau . Tuân Yển và Sĩ Mang nói:

- Quân pháp không phải là nói đùa, chúng ta phải xông pha tên đạn, ngày đêm đánh riết, có tiến mà không thoái!

Nói xong, sai người ước với quân nước Lỗ, nuớc Tào và nước Châu cùng nhau ra sức . Bấy giờ thế nước đã hơi lui, Tuân Yển và Sĩ Mang thúc quân tiến đánh: tên đạn ở trên mặt thành bắn xuống như mưa, mà Tuân Yển và Sĩ Mang nhất định không đánh . Đến ngày thứ năm, trong thành hết cả tên đạn . Tuân Yển mới bắc thang trèo lên, Sĩ mang cũng lên theo, quân tướng các nước đều lục tục kéo nhau lên cả . Văn Ban tiếp chiến trong các ngõ hẻm, kiệt sức mà chết . Tuân Dinh vào thành, vua Bức Dương đem thần thuộc ra xin hàng .

Lúc bấy giờ Tấn Điệu công lo không đánh được thành Bức Dương, lại đem hai nghìn tinh binh đến để trợ chiến . Khi đi đến đất Sở Khâu (đất nước Vệ), nghe tin Tuân Dinh đã hạ được thành Bức Dương rồi, liền sai sứ đến nước Tống, đem thành Bức Dương phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú . Hướng Thú cùng với Tống Bình công thân hành đến đất Sở Khâu, yết kiến Tấn Điệu công . Hướng Thú chối từ không dám nhận phong . Tấn Điệu công liền giả đất cho Tống Bình công . Tuân Dinh thuật lại sự dũng cảm của ba tướng nước Lỗ, Tấn Điệu công ban xe và áo cho mỗi người . Các tướng nước Lỗ lạy tạ, rồi thu quân về . Tấn Điệu công trách vua Bức Dương về tội khi trước giúp Sở, giáng làm thứ nhân, lại chọn một người trong họ của vua Bức Dương cho ở đất Hoắc Thành để giữ lấy việc cúng tế .

Mùa thu năm ấy, Tuân Hội tạ thế, Tấn Điệu công thấy Ngụy Giáng là người biết giữ phép, bèn nhấc lên chức tân quân phó tướng; cho Trương Lão thay Ngụy Giáng làm chức tư mã .

Mùa đông năm ấy, đạo quân thứ hai của Tấn lại sang đánh Trịnh, đóng đồn ở đất Ngưu Thủ (đất nước Trịnh) và đất Hổ Lao, vừa lúc ấy, người nước Trịnh là Uý Chỉ nổi loạn, giết công tử Phi, công tử Phát và công tử Triệt ở tây cung . Con công tử Phi là công tôn Hạ (tên tự là Tử Tây) và con công tử Phát là công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản) đều đem bọn vũ sĩ trong nhà đi đánh Uý Chỉ . Uý Chỉ chạy về Bắc cung . Công tôn Mại cũng đem quân đuổi đánh, giết chết được Uý Chỉ, rồi lập công tử Gia làm thượng khanh . Loan Áp nói với Tuân Dinh rằng:

- Ta nên nhân lúc nước Trịnh có loạn mà tiến đánh ngay thì tất có thể phá được .

Tuân Dinh nói:

- Nhân lúc người ta có loạn mà đánh là bất nghĩa .

Tuân Dinh truyền hoãn binh không đánh vội . Quan thượng khanh nước Trịnh là công tử Gia xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc công tử Trịnh nước Sở đem quân cứu Trịnh thì quân Tấn đã rút về rồi . Nước Trịnh lại cùng với nước Sở giảng hoà . Năm sau, Tấn Điệu công lại cho đạo quân thứ ba sang đánh Trịnh . Toán quân của Hướng Thú nước Tống kéo đến cửa đông . Quan thượng khanh nước Vệ là Tôn Lâm Phủ cũng đem quân đóng ở phía bắc . Quan hạ quan nguyên soái nước Tấn là Triệu Vũ đem quân đóng ở phía tây . Tuân Dinh đem đại binh tự đất Bắc Lâm kéo qua phía tây, tiến đến cửa nam, rồi sai người ước với các toán quân cùng vây nước Trịnh . Trịnh Giản công sợ lắm, lại xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho, rồi lui quân về địa giới nước Tống . Trịnh Giản công thân hành đến khoao thưởng quân sĩ, cùng với Tuân Dinh hội thề . Sở Cung vương giận lắm, sai công tử Trịnh sang mượn quân Tần để về đánh Trịnh .

Bấy giờ vì Sở Cung vương phu nhân là em gái Tần Cảnh công (con Tần Hoàn công) nên hai nước có tình thân gia với nhau, Tần Cảnh công bèn sai đại tướng là Doanh Thiêm đem quân sang giúp nước Sở . Sở Cung vương đem đại binh thẳng đường tiến sang Huỳnh Dương và nói quả quyết rằng:

- Lần này không diệt được nước Trịnh thì không chịu rút quân về .

Trịnh Giản công từ khi giảng hoà với Tấn, biết chắc rằng thế nào Sở cũng lại đem binh sang đánh, mới họp triều thần lại để thương nghi .

Các quan đại phu đều nói:

- Hiện nay thế lực nước Tấn cường thịnh, nước Sở không bằng, nhưng quân Tấn đi thì mua mà đến thì chậm, cho nên hai nước chưa gặp được nhau để quyết một trận trống mái, thành ra cứ tranh nhau mãi; nếu quân Tấn chịu giúp ta thực sự mà đánh Sở thì quân Sở tự biết sức kém mà phải tránh xa, bấy giờ ta có thể một lòng theo Tấn được .

Công tôn Xá Chi hiến kế rằng:

- Ta muốn cho Tấn thực sự giúp ta thì phải làm cho Tấn tức giận, mà muốn làm cho Tấn tức giận thì không gì bằng đánh Tống . Nay Tống đang giao hiếu với Tấn, vậy ta buổi sớm đánh Tống thì buổi chiều quân Tấn tất sang đánh ta . Quân Tấn đến mau được, quân Sở không đến mau được, bấy giờ ta sẽ có cớ mà nói với quân Sở .

Các quan đại phu đều khen phải . Trong khi đang họi nghị thì có người báo tin nước Sở sang mượn quân nước Tần . Công tôn Xá Chi mừng mà nói rằng:

- Đó là lòng trời khiến cho ta theo Tấn!

Các quan đại phu đều không hiểu ý . Công tôn Xá Chi nói:

- Sở và Tấn cùng sang đánh thì nước Trịnh ta chịu thế nào nổi, chi bằng ta sai người ra nghênh tiếp vua Sở, rồi xui sang đánh Tống . Một là tránh khỏi cái hại quân Sở, hai là làm cho quân Tấn tức giận mà đến mau, có phải là được cả đôi đường không .

Trịnh Giản công theo kế ấy, liền sai công tôn Xá Chi đi nghênh tiếp quân Sở . công tôn Xá Chi qua sông Dĩnh, đi chưa được một xá thì gặp quân Sở . Xá Chi sụp lạy trước xe Cung vương . Cung vương cau mày quắc mắt mà hỏi rằng:

- Nước Trịnh ngươi phản phúc không thường, ta định đem quân đến hỏi tội, nay nhà ngươi tới đây là có ý gì ?

Công tôn Xá Chi nói:

- Chúa công tôi vẫn mến cái đức của đại vương, vẫn sợ cái uy của đại vương muốn suốt đời nương tựa ở dưới bóng đại vương, không bao giờ dám hai lòng; ngặt vì nước Tấn bạo ngược, cùng với nước Tống xâm nhiễu nước tôi . Chúa công tôi sợ nước nhà tàn phá bất đắc dĩ phải giảng hoà để quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi thì nước tôi lại là một nước phụ thuộc của đại vương . Chúa công tôi sợ đại vương không thấu cái nông nổi ấy, vậy phải sai tôi đến đây để giải bày tâm sự nếu đại vương sang hỏi tội nước Tống thì chúa công tôi xin đi làm tiên phong .

Sở Cung vương đổi giận làm lành mà bảo rằng:

- Nếu vua Trịnh muốn theo ta đánh Tống thì còn nói gì nữa!

Công tôn Xá Chi nói:

- Khi tôi tới đây thì chúa công đã sửa soạn quân sĩ để chực đón đại vương ở phía đông bờ cõi rồi!

Sở Cung vương nói:

- Đã đành rằng thế, nhưng quân Tần hẹn ta hội ở đất Huỳnh Dương, ta phải đợi quân Tần mới được .

Công tôn Xá Chi nói:

- Nước Tần xa cách, tất phải qua Tấn và Chu mới sang đến nước tôi, đại vương sai sứ đi ngăn lại, cũng có thể kịp; cứ như uy linh đại vương và thế lực quân Sở thì cần gì phải mượn đến quân Tần!

Sở Cung vương bằng lòng, liền sai sứ đi từ tạ quân Tần, rồi cùng với công tôn Xá Chi đi về phía đông . Đi đến đất Hữu Sầm thì thấy Trịnh Giản công đã đem quân ra nghênh tiếp, liền cùng nhau sang đánh Tống, cướp phá một phen, rồi rút quân về . Tống Bình công sai Hướng Thú sang cáo cấp với nước Tấn, và kể chuyện nước Trịnh hợp quân với nước Sở . Quả nhiên Tấn Điệu công nổi giận, lại truyền cho đạo quân thứ nhất tiến sang đánh Trịnh . Tuân Dinh bàn rằng:

- Nước Sở phỉ sang mượn quân nước Tần là vì nước Sở trong mấy năm nay chỉ những đi lại mà không thể chịu được sự lao khổ; lần này sang đánh, ta nên tỏ cho nước Trịnh biết sự cường thịnh của ta thì tự khắc nước Trịnh không dám theo Sở nữa!

Điệu công khen phải, liền hội họp các nước: Tống, Lỗ, Vệ, Tề, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ và Tiểu Châu cùng đem quân sang đánh Trịnh, diễu quân ở phía đông nước Trịnh, bắt được quân dân nước Trịnh rất nhiều . Trịnh Giản công bảo công tôn Xá Chi rằng:

- Nhà ngươi muốn làm cho nước Tấn tức giận, đem quân đến ngay, nay quả nhiên quân Tống đến thật, nhà ngươi tính thế nào ?

Công tôn Xá Chi nói:

- Tôi xin một mặt sai người giảng hoà với Tấn, một mặt sai người cầu cứu với Sở . Quân Sở đến thì tất phải giao chiến với Tấn, bấy giờ ta chọn nước nào thắng thì theo; nếu quân Sở không đến thì ta giảng hoà với Tấn rồi đem vàng ngọc làm lễ đút cho Tấn, để Tấn giúp ta thực sự thì còn lo gì nước Sở nữa!

Trịnh Giản công khen phải, liền sai quan đại phu là Bá Biền sang giảng hoà với quân Tấn, và sai công tôn Lương Tiêu cùng quan thái tể là Thạch Sước sang nói với Sở Cung vương rằng:

- Hiện nay nước Tấn lại đem quân mười một nước chư hầu đến đánh nước tôi, chúng tôi khó lòng mà giữ nổi . Nếu đại vương lấy binh lực mà thị uy với nước Tấn thì đó là sở nguyện của chúng tôi . Nếu không thì xã tắc chúng tôi lâm nguy, chúng tôi không còn có cách gì hơn là xin hoà với Tấn, xin đại vương mở lòng thương mà tha thứ cho chúng tôi .

Sở Cung vương nổi giận, gọi công tử Trinh đến để hỏi kế .

Công tử Trinh nói:

- Quân ta mới rút về, chưa được nghỉ ngoi, đã đi thế nào được ? Chi bằng ta hãy nhương nước Trịnh cho Tấn, lo gì không có ngày lấy lại .

Sở Cung vương vẫn chưa nguôi cơn giận, truyền giam công tôn Lương Tiêu và Thạch Sước lại, không cho về nước . Tấn Điệu công đóng quân ở đất Tiêu Ngư, sứ nước Trịnh là Bá Biền xin vào yết kiến . Tấn Điệu công cho vào, rồi lên tiếng nạt nộ mà hỏi rằng:

- Nước ngươi chỉ mượn việc giảng hoà mà nói dối ta đã nhiều lần rồi! lần này lại còn muốn dùng kế hoãn binh hay sao!

Bá Biền sụp lạy mà nói rằng:

- Chúa công tôi hiện đã sai sứ sang tuyệt giao với quân Sở có đâu dám hai lòng!

Tấn Điệu công nói:

- Ta đem lòng thành tín mà đãi ngươi, nếu nước còn phản phúc nữa thì chẳng những một mình ta tức giận mà các nước chư hầu cùng tức giận cả . Thôi thì nhà ngươi hãy về mà bàn lại với vua Trịnh xem đã .

Bá Biền lại nói:

- Chúa công tôi thành kính mà sai tôi tới đây, thật là muốn một lòng thần phục nhà vua, xin nhà vua chớ nghi ngại .

Tấn Điệu công nói:

- Nếu vậy thì vua Trịnh phải cùng ta hội thề!

Liền sai quan tân quân nguyên soái là Triệu Vũ cùng với Bá Biền vào thành để hội thề với Trịnh Giản công . Trịnh Giản công xin thân hành đến dinh Tấn để cùng với các nước chư hầu hội thề . Tấn Điệu công nói:

- Nếu vua Trịnh có lòng thành tín thì tự khắc quỉ thần chứng giám, hà tất phải thề một lần nữa!

Tấn Điệu công truyền tha hết quân dân nước Trịnh bị bắt, và nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm một chút gì của Trịnh, lại truyền cho toán quân ở Hổ Lao rút về hết, để cho quân Trịnh giữ lấy cửa ải . Chư hầu đều can rằng:

- Chưa có thể tin được nước Trịnh, nếu họ lại đem lòng phản phúc thì ta lại cho quân sang đóng ở Hổ Lao, chẳng cũng thêm khó một lần nữa sao ?

Tấn Điệu công nói:

- Lâu nay binh hoả liên miên, tướng sĩ các nước khó nhọc ở nơi chiến trường . Bây giờ ta muốn đem lòng thành tín mà đãi nước Trịnh, ta đã không phụ nước Trịnh thì lẽ nào nước Trịnh lại nỡ phụ ta!

Nói xong, liền bảo Trịnh Giản công rằng:

- Ta biết nước Trịnh cũng khổ sở về cuộc binh đao, nay ta muốn cùng nước Trịnh yên nghỉ; từ nay trở đi, theo Tấn hay theo Sở là tuỳ ý nước Trịnh, ta cũng không cưỡng .

Trịnh Giản công cảm động, ứa nước mắt mà nói rằng:

- Nhà vua thành tín như vậy, đến giống cầm thú cũng phải cảm kích, huống chi tôi cũng còn là loài người, lẽ nào dám phụ bạc quên ơn . Tôi còn ăn ở hai lòng thì xin quỉ thần tru diệt!

Trịnh Giản công cáo từ lui ra . Ngày hôm sau, Trịnh Giản công sai công tôn Xá Chi đem ba người nhạc sư, mười sáu người nữ nhạc, ba mươi sáu cái chuông và cái khánh, ba mươi người nữ công, cùng các thứ binh xa, đến dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công nhận, rồi đem tám người nữ nhạc, mười hai cái chuông thửơng cho Ngụy Giáng mà bảo rằng:

- Nhà ngươi khuyên ta giảng hoà với các nước Sơn Nhung, để chỉnh đốn trung nguyên, nay chư hầu hoà mục với ta, như âm nhạc hoà hài, vậy ta xin cùng nhà ngươi hưởg nhạc .

Tấn Điệu công lại đem một phần binh xa thưởng cho Tuân Dinh và bảo rằng:

- Nhà ngươi khuyên ta chia quân để làm cho Sở phải khốn quẫn; nay nước Trịnh chịu thần phục ta, cũng là công của nhà ngươi .

Ngụy Giáng và Tuân Dinh đều từ chối mà nói rằng:

- Đó là nhờ uy linh của chú công, và công lao của chư hầu, chúng tôi có tài lực gì!

Tấn Điệu công nói:

- Nếu không có hai ngươi thì sao ta được như thế này, hai ngươi chớ từ chối .

Ngụy Giáng và Tuân Dih cùng lạy tạ, chư hầu đều rút quân về nước . Tấn Điệu công lại sai người sang sứ các nước để tạ lại công khó nhọc đem quân đi giúp . Các nước đều bằng lòng . Từ bấy giờ nước Trịnh một lòng theo Tấn . Lúc bấy giờ Tần Cảnh công đánh Tấn để cứu Trịnh, thắng một trận ở đất Lịch, sau nghe tin nước Trịnh đã đầu hàng nước Tấn, liền rút quân về .

Năm sau, vua nước Ngô là Thọ Mộng ốm nặng, gọi bốn con trai là: Chư Phàn, Dư Sai, Di Muội và Quí Trát đến bên cạnh giường nằm mà bảo rằng:

- Trong bốn anh em mày, chỉ có Quí Trát được lên làm vua mà giữ lấy cơ nghiệp, ai trái mệnh ta, là bất hiếu đó .

Vua nước Ngô nói xong thì chết . Chư Phàn nhường ngôi cho Trát và nói:

- Đó là ta theo ý muốn của thân phụ chúng ta đó!

Quí Trát nói:

- Khi phụ thân hãy còn, em đã cố từ ngôi thế tử, huống chi nay phụ thân đã mất rồi, em lại nhận lấy ngôi vua hay sao! nếu anh cố nhường thì em xin trốn sang nước khác .

Chư Phàn bất đắc dĩ phải lên nối ngôi . Tấn Điệu công sai sứ sang nước Ngô để viếng tang vua cũ và chúc mừng vua mới . Qua năm sau tướng nước Tấn là Tuân Dinh, Lỗ Phường, và Ngụy Tướng đều ốm chết cả . Tấn Điệu công lại luyện quân ở Miêu Sơn, muốn cho Sĩ Mang làm trung quân nguyên soái . Sĩ Mang từ chối mà nói rằng:

- Bá Du (tên tự của Tuân Yển) còn nhiều tuổi hơn tôi, tôi xin nhường Bá Du .

Tấn Điệu công liền cho Tuân Yển được thay Tuân Dinh làm trung quân nguyên soái, Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; lại muốn cất nhắc Hàn Khởi lên chức thượng quán nguyên soái . Hàn Khởi nói:

- Triệu Vũ giỏi hơn tôi, tôi xin nhường Triệu Vũ .

Tấn Điệu công liền cho Triệu Vũ thay Tuân Yển làm thượng quân nguyên sóai; Hàn Khởi làm thượng quân phó tướng . Loan Áp vẫn làm hạ quân nguyên soái như cũ, Ngụy Giáng làm hạ quân phó tướng . Còn đạo tân quân chưa có ai làm nguyên soái . Tấn Điệu công nói:

- Chẳng thà để ngôi không mà đợi người giỏi, còn hơn dùng những người không xứng chức!

Bèn truyền cho quân lại đem quan, lính, xe cộ của đạo tàn quân mà nhập vào đạo hạ quân . Các quan đại phu đều nói:

- Chúa công ta dùng người, thật là thận trọng!

Từ bấy giờ ai cũng cố giữ chức phận, không dám trễ biếng . Nước Tấn lại cường thịnh, nối được bá nghiệp của Tấn Văn công và Tấn Tương công thuở xưa . Sau Tấn Điệu công lại bỏ bớt đạo tàn quân, chỉ còn ba đạo (thượng quân, trung quân và hạ quân) để giữ đúng lễ chư hầu .

Năm ấy Sở Cung vương (Thẩm) chết, thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là sở Khanh vương . Vua nước Ngô là Chư Phàn sai quan đại tướng là công tử Đảng đem quân đi đánh Sở . Tướng nước Sở là Dưỡng Do Cơ đem quân ra nghênh chiến, bắn chết công tử Đảng . Quân nước Ngô bị thua rút về . Chư Phàn sai sứ sag cáo cấp với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công hội chư hầu ở Hướng Địa để thương nghị . Quan đại phu nước Tấn là Dương Thiệt Bật (con thứ Dương Thiệt Chức) nói với Tấn Điệu công rằng:

- Nước Ngô nhân khi nước Sở có tang đem quân sang đánh thì thua là phải, can gì mà giúp; còn Tần là một nước láng giềng với ta, và cùng ta có tình thân gia, khi trước lại theo Sở cứu Trịnh, đánh bại quân ta ở Lịch Địa, việc ấy nên báo thù . Nếu ta đánh được quân Tần thì thế lực nước Sở phải suy kém đi .

Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Yển đem quân cùng với chư hầu đi đánh Tần, còn mình thì đóng quân ở ngoài cõi để đợi tin tức . Tần Cảnh công nghe nói quân Tấn sắp đến thì sai người đem mấy bì thuốc độc bỏ chìm ở thượng lưu sông Kinh Thủy . Quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng với quân nước Cử sang đò trước, nhiều người uống phải nước sông, đều trúng độc mà chết . Các toán quân khác không ai dám sang đò nữa . Quan đại phu nước Trịnh là công tôn Kiền đem quân tiến sang, Bắc Cung Quát theo sau, từ bấy giờ các toán quân đều kéo nhau sang cả, đóng đồn ở Vực Lâm . Quan trung quân nguyên soái nước Tấn là Tuân Yển truyền lệnh cho các quân rằng: "Gà gáy thì xuất quân, cứ theo đầu ngựa ta quay về phía nào thì đi phía ấy". Quan hạ quân nguyên sóai là Loan Áp vốn không phục Tuân Yển, nghe thấy truyền lệnh như vậy, nổi giận mà rằng:

- Việc quân phải có nhiều người tham gia ý kiến mà dầu nếu Tuân Yển có độc đóan thì cũng phải nói rõ cho người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người trong ba đạo quân mà chỉ nom về đầu ngựa của một người! đây ta cũng là hạ quân nguyên soái, đầu ngựa ta chỉ muốn quay về phái đông .

Loan Áp liền đem quân bộ thuộc rút về phía đong . Quan hạ quân phó tướng là Ngụy Giáng nói:

- Chức phận ta là phải theo quan nguyên soái của ta, không theo lệnh Tuân Yền được!

Nguỵ Gíang cũng theo Loan Áp mà rút quân về, Tuân Yển nói:

- Ta truyền lệnh không rõ, đó là lỗi của ta, nay các tướng đã không theo lệnh thì còn thành công làm sao được!

Nói đọan truyền cho các nước đều rút quân về cả . Nước Tấn cũng rút quân về . Bấy giờ Loan Hàm làm chức nhung hữu ở đạo hạ quân, nhất định không chịu, bảo người con Phạm Mang (tức là Sĩ Mang) là Phạm Uởng rằng:

- Ngày nay ta chỉ cốt sang báo thù nước Tần, nếu không thành công thì thật là xấu hổ . Hai anh em ta (Loan Hàm là em Loan Áp) lẽ nào lại cùng rút quân về, nhà ngươi có dám cùng ta sang đánh quân Tần hay không ?

Phạm Uởng nói:

- Nhà ngươi còn biết nghĩ đến điều quốc sĩ, sao ta lại không theo .

Phạm Uởng cùng với Loan Hàm đem quân sang đánh quân Tần . Tần Cảnh công đang sai người đi do thám xem tình hình quân Tấn thế nào, bỗng thấy có một toán quân tiến đến, Tần Cảnh công sai công tử Vô Địa đem quân ra nghênh chiến . Loan Hàm và Phạm Uởng hai người cùng cố sức tiến đánh, giết được quân Tần nhiều lắm . Quân Tần sợ hãi, đã toan bỏ chạy, nhưng trông thấy toán quân của Loan Áp và Phạm Uởng không có quân tiếp ứng, liền nổi hiệu trống rồi đem quân vây kín xung quanh . Phạm Uởng bảo Loan Hàm rằng:

- Quân Tân thế mạnh lắm, ta không thể đương nổi!

Loan Hàm không nghe, lại gặp có đại binh của tướng nước Tần là Doanh Thiềm kéo đến, Loan Hàm lại cố sức xung đột, một tay giết chết được mấy người nữa, rồi bị luôn bảy mũi tên mà chết . Phạm Uởng cố sức phá vòng vây chạy thóat . Loan Áp trông thấy Phạm Uởng về một mình, liền hỏi:

- Em ta đâu ?

Phạm Uởng nói:

- Đã mắc nạn ở trong đám quân Tần rồi .

Loan Áp nổi giận, cầm giáo đâm Phạm Uởng, Phạm Uởng không dám chống lại, ù té bỏ chạy, Loan Áp đuổi theo . Thân phụ Phạm Uởng là Phạm Mang ngăn Loan Áp lại mà bảo rằng:

- Sao hiền tế lại quá giận như vậy!

Loan Áp vẫn còn hầm hầm nổi giận, quát to lên mà đáp rằng:

- Con ông rủ em tôi cùng sang đánh quân Tần, nay em tôi chết trận mà con ông sống về, thế có phải là con ông giết em tôi hay không ? ông chịu đuổi nó đi, tôi còn có thể tha thứ được, nếu không thì tôi tất phải giết nó để đền mạng cho em tôi!

Phạm Mang nói:

- Việc đó ta không được biết, âu là để ta đuổi nó đi!

Phạm Uởng nghe nói, liền bỏ trốn sang nước Tần, đem sự tình đầu đuôi thuật lại cho Tần Cảnh công nghe . Tần Cảnh công mừng lắm, đãi Phạm Uởng theo lễ thượng khanh . Một hôm, Tần Cảnh công hỏi Phạm Uởng rằng:

- Vua Tấn là người thế nào ?

Phạm Uởng nói:

- Là một ông vua hiền biết nguời và có tài dùng người .

Tần Cảnh công lại hỏi:

- Các quan đại phu nước Tân, ai giỏi hơn cả ?

Phạm Uởng nói:

- Triệu Vũ, Ngụy Giáng, Dương Thiệt Bật, Trương Lão, Kỳ Ngọ và cha tôi là Phạm Mang đều là những bậc tài gỉoi cả; còn các quan công khanh khác, cũng đều biết giữ phép, làm trọn chức phận của mình, tôi không dám khinh xuất mà ban hết được .

Tần Cảnh công lại hỏi:

- Thế thì trong các quan đại phu nước Tấn, người nào có cơ suy vong trước ?

Phạm Uởng nói:

- Họ Loan có cơ suy vong truớc .

Tần Cảnh công nói:

- Ý chừng vì cớ xa xỉ có phải không ?

Phạm Uởng nói:

- Loan Áp dẫu xa xỉ cũng chưa việc gì, đến đời con là Loan Doanh thì tất không tránh khỏi nạn được!

Tần Cảnh công nói:

- Tại sao ?

Phạm Uởng nói:

- Loan Thư ngày xưa thương dân trọng sĩ, lòng người ai cũng yêu mến, bởi vậy dẫu có việc giết vua mà trong nước không ai nói đến, vì nhờ có ân đức cũ; nay Loan Áp chế đi, đến đời Loan Doanh thì ân đức của Loan Thư đã hết rồi, Loan Doanh lại là người không có nhân chính, tài nào giữ cho khỏi suy vong được!

Tần Cảnh công khen rằng:

- Nhà ngươi thật là một người hiểu lễ lắm!

Tần Cảnh công nhân có Phạm Uởng, liền giao kết với Phạm Mang, rồi sai người sang giảng hoà với nước Tấn và xin cho Phạm Uởng được phục chức . Tấn Điệu công thuận cho . Phạm Uởng về nước Tấn, Điệu công cho cùng Loan Doanh đều làm quan công tộc đại phu, và bảo Loan Áp không được báo thù oán Phạm Uởng nữa . Từ bấy giờ Tần và Tấn lại giảng hoà với nhau . Năm ấy Loan Áp chết, con là Loan Doanh thay làm hạ quân phó tướng .

Lại nói chuyện Vệ Hiến công tên là Hãn, thay cha là Vệ Đinh công, lên nối ngôi vua, trong khi có tang mà không tỏ vẻ thương xót chút nào . Bà đích mẫu Vệ Hiến công thấy vậy, biết là Hiến công không thể làm vua được, vẫn thường đem lời khuyên bảo, mà Vệ Hiến công không nghe . Đến lúc hết tang, Vệ Hiến công lại càng phóng túng lắm, chỉ tin dùng đứa du nịnh, và ham mê chơi bời, chẳng thiết gì đến chính sự cả . Vệ Đinh công ngày xưa có người em cùng mẹ là công tử Hắc Bối, vẫn cậy thế chuyên quyền; con công tử Hắc Bối là công tôn Phiếu lại nối tước của cha là quan đại phu, cũng là một người có quyền lược . Quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ, quan á khanh là Ninh Thực thấy Vệ Hiến công vô đạo, bèn cùng với công tôn Phiếu kết giao . Tôn Lâm Phủ lại mật kết với nước Tấn để làm ngoại viện, và đem những đồ bảo ngọc thiên vào Thích Địa, (ấp ăn lộc của Tôn Lâm Phủ), cho vợ con về ở đấy . Vệ Hiến công nghi Tôn Lâm Phủ có ý làm phản, mà chưa dám nói ra . Một hôm, Vệ Hiến công hẹn Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực cùng đến ăn cơm trưa, Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực mặc triều phục đứng đợi ở ngoài cửa cung từ sáng đến trưa mà không thấy lệnh truyền cho vào; ở trong cung cũng không thấy có một người nào đi ra cả .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực sinh nghi . Trời đã xế chiều, hai người vừa đói vừa nhọc, mới cùng nhau gõ cửa xin vào yết kiến . Nội thị nói:

- Chúa công đang tập bắn ở sau vườn . Hai ngài muốn yết kiến thì mời hai ngài vào đấy .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực nổi giận, nhưng cũng cố nhịn đói mà vào thẳng sao vườn, trông thấy Vệ Hiến công đang đội cái mũ da (thứ mũ dùng để đi săn) cùng với xạ sư là công tôn Đinh thi bắn . Vệ Hiến công trông thấy Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đến trước mặt, không bỏ mũ da xuống, lại đeo cung vào nách mà hỏi rằng:

- Hai ngưoi hôm nay đến đây có việc gì ?

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đồng thanh đáp:

- Chúng tôi thấy chúa công hẹn cho ăn cơm trưa, chầu chực đến giờ, bụng đã đói lắm, không dám trái lệnh, vậy phải vào đây .

Vệ Hiến công nói:

- Ta ham bắn quá, thành ra quên mất, thôi thì hai ngươi hãy lui về, để đến hôm khác!

Vệ Hiến công nói xong thì vừa có đàn chim bay qua, vừa bay vừa kêu, Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:

- Ta cùng nhà ngươi bắn thi đàn chim này!

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực hổ thẹn lui ra . Tôn Lâm Phủ nói riêng với Ninh Thực rằng:

- Chúa công không biết kính trọng các quan đại thần, chúng ta sau này khó lòng mà khỏi bị hại, biết làm thế nào ?

Ninh Thực nói:

- Chúa công vô đạo thì chỉ hại thân mà thôi, chứ hại chúng ta thế nào nổi ?

Tôn Lâm Phủ nói:

- Ta muốn lập công tôn Phiếu lên làm vua, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Ninh Thực nói:

- Việc ấy rất phải! Ta cùng nhà ngươi sẽ liệu thế mà làm .

Hai người từ biệt nhau rồi về . Tôn Lâm Phủ về nhà ăn cơm xong, ngay đêm hôm ấy sai người sang Thích Địa gọi bọn gia thần là Dữu Công Sai và Doãn Công Đà sửa soạn quân mã để định nổi loạn; lại sai con trưởng là Tôn Khoái vào yết kiến Vệ Hiến công, để dò xét ý tứ . Tôn Khoái vào tâu với Vệ Hiến công rằng:

- Cha tôi là Tôn Lâm Phủ bị cảm phong, phải về dưỡng bệnh ở bến sông Hà, xin chúa công tha thứ cho .

Vệ Hiến công cười mà bảo rằng:

- Cha ngươi chỉ vì đói quá mà thành bệnh đó thôi, nay ta không dám để cho nhà ngươi lại đóai nữa!

Nói xong truyền nội thị đem rượu ra cho Tôn Khoái uống, lại gọi nhạc công ra để hát . Quan thái sư tâu với Vệ Hiến công rằng:

- Chẳng hay chúa công dạy hát bài gì ?

Vệ Hiến công nói:

- Có chương cuối cùng trong thơ "Xảo ngôn", thật hợp với thời sự ngày nay, nhà ngươi hát bài ấy .

Quan thái sư tâu rằng:

- Bài thơ ấy ý không được hay, tôi thiết tưởng trong khi tiệc vui, không nên hát đến .

Có một nhạc công là Sư Tào nói át đi rằng:

- Chúa công dạy hát bài gì thì cứ hát bài ấy, can gì lại nói lôi thôi!

Nguyên Sư Tào gẩy đàn cầm hay lắm, Vệ Hiến công sai dạy một người thiếp yêu . Người thiếp yêu không nghe lời dạy bị Sư Tào đánh cho mười roi . Người ấy bèn vào mách với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công đánh Sư Tào ba trăm roi ở trước mặt người thiếp yêu, bởi vậy Sư Tào căm tức, bấy giờ biết bài thơ ấy không hay, mà cố ý muốn hát, để làm cho Tôn Khoái phải tức giận . Sư Tào liền cất giọng hát rằng:

"Kẻ kia là ai,

Ở bến sông Hà;

Không tài lực gì,

Mà muốn nỏoi loạn".

Chủ ý Vệ Hiến công là nhân thấy Tôn Lâm Phủ ở bến sông Hà có ý muốn nổi loạn, vậy nên định mượn câu hát, khiến cho Tôn Lâm Phủ phải sợ . Tôn Khoái nghe câu hát, trong lòng áy náy, xin cáo từ lui ra . Vệ Hiến công nói:

- Bài hát của Sư Tào, vừa rồi ngươi về nên thuật lại cho cha ngươi biết; cha ngươi dẫu ở xa, nhưng có điều gì, đây ta cũng biết cả, nên phải cẩn thận mà giữ gìn bệnh thể .

Tôn Khoái sụp lạy lui ra, về nói chuyện lại với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

- Chúa công ghét ta đã quá lắm, chẳng lẽ ta cứ ngồi mà chịu chết hay sao! nay có Cừ Viên (tên tự là Bá Ngọc, làm quân đại phu nước Vệ) là người gỉoi, nếu người ấy chịu đồng mưu với ta thì làm gì mà chẳng xong việc!

Tôn Lâm Phủ lẻn đến yét kiến Cừ Viên mà bảo rằng:

- Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết, ta chỉ e rằng có ngày mất nước thì làm thế nào ?

Cừ Viên nói:

- Bề tôi thờ vua, điều gì can được thì can, điều gì không can đuợc thì đành bỏ mà đi, còn điều khác tôi không dám biết!

Tôn Lâm Phủ liệu chừng không thể lay động Cừ Viên được, mới cáo từ trở về . Ngay ngày hôm ấy, Cừ Viên bỏ trốn sang nước Lỗ . Tôn Lâm Phủ họp quân ở Khâu Cung, sắp sửa đánh Vệ Hiến công . Vệ Hiến công sợ, sai người đến Khâu Cung giảng hoà với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ bắt người ấy giết đi, Vệ Hiến công sai người rình xem Ninh Thực làm gì thì thấy Ninh Thực đang sắp quân để tiếp ứng cho Tôn Lâm Phủ . Vệ Hiến công lại sai người gọi Bắc Cung Quát . Bắc Cung Quát cáo ốm không đến . Công tôn Đinh nói với Vệ Hiến công rằng:

- Bây giờ việc đã nguy cấ, nên mau mau trốn sang nước khác, còn có ngày lại trở về được .

Vệ Hiến công liền đem một toán quân mở cửa đông, định thẳng đương trốn sang nước Tề . Công tôn Đinh mang cung tên đi theo . Tôn Khoái và Tôn Gia (con thứ của Tôn Lâm Phủ) đuổi theo đến Hà Trạch, đánh giết một trận, toán quan của Vệ Hiến công bỏ chạy tán loạn cả, chỉ còn độ hơn mười người mà thôi; may nhờ có công tôn Đinh bắn gỉoi lắm, không sai một phát nào, người nào đến gần, đều bị tên mà chết, bởi vậy mới bảo toàn cho Vệ Hiến công chạy thóat được .

Tôn Khoái và Tôn Gia không dám đuổi theo nữa, quay trở về, vừa đi được ba dặm thì thấy Dữu Công Sai và Doãn Công Đà đem quân đến, nói là vâng lệnh Tôn Lâm Phủ đi đuổi bắt Vệ Hiến công . Tôn Khoái và Tôn Gia nói:

- Có một người bắn gỉoi lắm, các tướng phải phòng bị mới được!

Dữu Công Sai nói:

- Người ấy chắc là thầy ta, tên gọi công tôn Đinh đó!

(Nguyên Doãn Công Đà học nghề bắn với Dữu Công Sai, Dữu Công Sai lại họ nghề bắn với công tôn Đinh, ba người cùng một môn phái, cho nên đều biết tài nhau cả ).

Doãn Công Đà nói:

- Hôn quân đi cũng chưa xa, ta hãy cố đuổi theo .

Bèn đuổi theo mười lăm dặm nữa thì vừa kịp Vệ Hiến công . Người dong xe của Vệ Hiến công bị thương, công tôn Đinh phải cầm cương xe cho Vệ Hiến công, Công tôn Đinh ngảnh lại, trông thấy Dữu Công Sai ở đằng xa, mới bảo Vệ Hiến công rằng:

- Người đuổi theo ấy là học trò của tôi đó . Có lẽ nào học trò lại hại thầy, chúa công chớ ngại!

Công tôn Đinh dừng xe lại để đợi . Dữu Công Sai đi đến nơi, ngảnh lại bảo Doãn Công Đà rằng:

- Thật là thầy ta rồi!

Nói xong, liền xuống xe sụp lạy . Công tôn Đinh chào lại, rồi vẫy tay bảo đi . Dữu Công Sai trèo lên xe mà nói rằng:

- Công việc ngày nay, người nào cũng vì chủ mà làm . Nếu ta bắn thì là bội thầy, mà không bắn thì bội chủ; nay ta có một cách khiến cho trọn vẹn được cả đôi đàng!

Dữu Công Sai liền cầm cái tên gõ xuống bánh xe, bẻ đầu mũi nhọn đi, rồi nói to lên rằng:

- Xin thấy chớ sợ!

Dữu Công Sai nói xong, bắn luôn bốn phát tên: phát trước trúng vào cái thức (cái chắn ngang ở trước mặt), phát sau trúng vào cái chẩn (cái chắn ngang ở sau lưng), còn hai phát nữa trúng vào hai bên tả hữu, chỉ trừ có Vệ Hiến công và công tôn Đinh ngồi ở giữa xe là không can gì! Dữu Công Sai bắn xong, tức khắc quay xe trở về . Công tôn Đinh cũng giục ngựa tiến đi mau . Doãn Công Đà lúc trước trông thấy Vệ Hiến công đã toan giương cung ra bắn, nhưng vì có Dữu Công Sai là thầy mình ở đấy vậy phải nhường thầy . Khi về đến nửa đường, có ý hối lại, mới bảo Dữu Công Sai rằng:

- Thầy cùng với công tôn Đinh là nghĩa thầy trò, vậy phải dụng tình như thế, còn tôi đã cách đi một từng rồi, thế thì ơn thầy chưa trọng bằng mệnh chủ, nếu không cố cho thành công thì chẳng hóa bội chủ lắm sao!

Dữu Công Sai nói:

- Thầy ta (trỏ công tôn Đinh) bắn giỏi lắm, không kém gì Dưỡng Do Cơ, nhà ngươi không địch nổi đâu, khéo chẳng có mất mạng!

Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 63 : Kỳ Hề ra sức cứu Dương ThiệtPhạm Uởng lập kế hiếp Ngụy Thư

Cơ Di đang ở trong nhà Dương Thiệt Hổ, đợi Hoàn Uyên đến để định nửa đêm hôm ấy thì nổi loạn; chẳng ngờ Phạm Uởng đem quân vây nhà Dương Thiệt Hổ ở mặt ngoài, cho nên không dám tụ tập nữa, đều bỏ đi cả . Dương Thiệt Hổ bắc thang trèo lên mặt tường hỏi Phạm Uởng rằng:

- Tiểu tướng quân đem quân tới đây có việc gì ?

Phạm Uởng nói:

- Nhà ngươi xưa nay vẫn về phe với Loan Doanh, nay lại định mưu phá vỡ cửa thành để ra tiếp ứng cho Loan Doanh, đó tức là tội phản nghịch, ta phụng mệnh chúa công đến đây để bắt nhà ngươi .

Dương Thiệt Hổ nói:

- Ta có thế bao giờ! việc này tự ai nói ra ?

Phạm Uởng liền gọi Chương Giám đến truớc mặt để làm chứng . Dương Thiệt Hổ vốn người khỏe lắm, lấy tay cạy một viên đá trên mặt tường, ném trúng Chương Giám vỡ đầu ra . Phạm Uởng giận lắm, truyền quân sĩ phóng hỏa đốt nhà . Dương Thiệt Hổ vội vàng nói với Cơ Di rằng:

- Chúng ta chẳng thà liều chết, còn hơn ngồi yên để chịu trói .

Nói đoạn bèn cầm kích xông ra trước . Cơ Di cầm kiếm theo sau . Hai người vừa hò hét om sòm vừa xông qua đám lửa mà ra . Phạm Uởng nhận được mặt hai người trong ánh lửa bèn truyền cho quân sĩ bắn dồn vào . Hai người bị tên ngã xuống, quân sĩ dùng câu liêm loi ra thì đã gần chết rồi, liền trói lại mà để lên xe . Lúc bấy giờ, quan trung quân phó tướng là Tuân Ngô cũng đem quân đi tiếp ứng . Đi đến nửa đường thì gặp Hoàng Uyên, Hoàng Uyên cũng bị Tuân Ngô bắt được . Bấy giờ Phạm Uởng và Tuân Ngô hợp quân làm một, rồi giải Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên đến nộp quan trung quân nguyên soái là Phạm Mang . Phạm Mang nói:

- Cánh họ Loan còn nhiều, chỉ bắt có ba người này thì chưa trừ hết được .

Phạm Mang bèn chia quân đi tầm nã các nơi . Trong thành Giáng Đô đêm hôm ấy xiết bao huyên náo . Khi trời sáng rõ . Phạm Mang bắt được Trí Khởi, Tịch Yển và Châu Tân; Tuân Ngô bắt được bọn Trung Hàng Hỉ, Tân Du, Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều giải đến triều môn để đợi lệnh Tấn Bình công.

Lại nói chuyện Dương Thịêt Xích, tên tự là Bá Hoa, Dương Thiệt Bật, tên tự là Thúc Hướng, cùng với Dương Thiệt Hổ dẫu đều là con Dương Thiệt Chức cả, nhưng Dương Thiệt Hổ là con người thứ mẫu sinh ra . Mẹ Dương Thiệt Hổ nguyên trước là thị tì của vợ Dương Thiệt Chức, rất có nhan sắc . Dương Thiệt Chức muốn lấy, nhưng vợ Dương Thiệt Chức không cho . Bấy giờ Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều đã lớn tuổi, can mẹ không nên ghen . Người mẹ cười mà bảo rằng:

- Ta có phải là người ghen đâu: nhưng ta nghe nói đẹp lắm thì hại nhiều, chỗ núi cao vực thẳm thường hay sinh ra giống long xà . Ta e rằng lúc đã sinh ra giống long xà thì lại làm tai vạ cho chúng bay về sau đó .

Bọn Dương Thiệt Xích cố ý nói mãi, mẹ mới cho Dương Thiệt Chức lấy, sau sinh ra Dương Thiệt Hổ .

Khi Dương Thiệt Hổ lớn lên, mặt đẹp như mẹ mà có sức khỏe lạ thường, Loan Doanh yêu lắm . Bởi Dương Thiệt Hổ là người thân của Loan Doanh, thành ra Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều bị bắt cả . Quan đại phu là Nhạc Vương Phụ, tên tự là Phúc Ngư, vốn là người tin yêu của Tấn Bình công, xưa nay nghe tiếng anh em Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật là người giỏi, vẫn muốn kết giao mà chưa được, bấy giờ thấy nói hai người bị bắt, mới vội vàng vào triều, thì vừa gặp Dương Thiệt Bật, Nhạc Vương Phụ bèn vái chào và lấy lời an ủi rằng:

- Nhà ngươi chớ lo! ta vào yết kiến chúa công thế nào cũng cố sức xin cho nhà ngươi .

Dương Thiệt Bật nín lặng, không đáp . Nhạc Vương Phụ có ý thẹn . Dương Thiệt Xích nghe nói, liền trách mắng Dương Thiệt Bật rằng:

- Anh em ta ngày nay mà chết thì họ Dương Thiệt không còn một ai nữa! Nhạc Vương Phụ nay đang được chúa công tin yêu, nói gì nghe đấy, nếu nhờ hắn nói dùm một tiếng, may ra có được tha chăng, cớ sao em lại nín lặng, để mích lòng nguời ta như vậy ?

Dương Thiệt Bật cười mà nói rằng:

- Người ta sống chết đã có số mệnh . Nếu lòng trời giúp ta thì trông nhờ vào quan lão đại phu họ Kỳ (tức là Kỳ Hề) chứ Nhạc Vương Phụ làm gì được!

Dương Thiệt Xích nói:

- Nhạc Vương Phụ lúc nào cũng hầu liền bên cạnh chúa công, sao em lại bảo rằng không làm gì được ? còn quan lão đại phu họ Kỳ đã cáo lão về rồi, em lại bảo rằng có thể nhờ người ấy, ta thật lòng không hiểu ra làm sao!

Dương Thiệt Bật nói:

- Nhạc Vương Phụ chẳng qua chỉ là người du nịnh mà thôi, chúa công bảo phải thì rằng phải, bảo trái thì rằng trái; còn như quan lão đại phu họ Kỳ, thấy ai là bậc hiền tài thì bất cứ kẻ thù hay người thân, cũng đều tiến cử lên chúa công cả, lẽ nào lại bỏ sót họ Dương ta!

Lát sau, Tấn Bình công ra ngự triều . Phạm Mang đem những tên người bị bắt trong cánh họ Loan, mà tâu lên . Tấn Bình công trông thấy tên mấy anh em Dương Thiệt Xích, cũng có ý nghĩ, mới hỏi Nhạc Vương Phụ rằng:

- Dương Thiệct Xích và Dương Thiệt Bật có dự gì đến âm mưu của Dương Thiệt Hổ không ?

Nhạc Vương Phụ vẫn căm về việc Dương Thiệt Bật không thèm nói với mình, mới tâu với Tấn Bình công rằng:

- Còn ai thân hơn anh em, lẽ nào lại không biết .

Tấn Bình công bèn truyền đem giam cả bọn vào ngục, để giao cho quan tư khấu nghị tội .

Bấy giờ Kỳ Hề đã cáo lão về ở đất Kỳ, con là Kỳ Ngọ là bạn đồng liêu với Dương Thiệt Xích liền sai người phi báo cho cha biết, để Kỳ Hề viết thư đưa về cho Phạm Mang mà xin tha cho Dương Thiệt Xích . Hỳ Hề nghe tin, giật mình nói:

- Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều là người giỏi ở nước Tấn ta, nay có việc oan lạ lùng thế này, ta nên thân hành đi cứu .

Kỳ Hề liền tức khắc đi xe tới khinh thành, không đến nhà Kỳ Ngo, mà đi thẳng vào yết kiến Phạm Mang . Phạm Mang nói:

- Quan đại phu già yếu mà chịu dầm sương dãi gió tới đây, tất muốn chỉ báo tôi điều gì chăng ?

Kỳ Hề nói:

- Tôi vi việc mất còn của xã tắc mà tới đây, chứ không phải việc gì khác!

Phạm Mang kinh sợ mà bảo rằng:

- Chẳng hay việc gì khiến cho lão đại phu phải phiền lòng như vậy ?

Kỳ Hề nói:

- Người hiền tài là chỗ dựa của xã tắc . Dương Thiệt Chức khi trước có công với nước Tấn ta, còn Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bất đều nối được nghiệp cha, nay chỉ vì một người con thứ không ra gì mà giết tất cả, chẳng phải đáng tiếc lắm sao ? Ngày xưa Khước Nhuế phảnh nghịch mà con là Khước Khuyết vẫn được quan . Cha con tội cũng còn không liên can với nhau nữa là anh em! nhà ngươi đem một lòng thù riêng mà giết hại kẻ vô tội, ta lấy làm nguy cho nước Tấn lắm!

Phạm Mang vội vàng đứng dậy xin lỗi mà rằng:

- Quan lão đại phu dạy phải lắm! nhưng chúa công còn chưa nguôi cơn giận, xin quan lão đại phu cùng tôi vào triều để tâu với chúa công .

Phạm Mang bèn cùng Kỳ Hề lên xe vào triều, tâu với Tấn Bình công rằng:

- Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật không giống tính Dương Thiệt Hổ, tất không dự biết đến việc họ Loan . Vả lại công lao của Dương Thiệt Chức thuở xưa, chúa công chớ nen vội quên!

Tấn Bình công tỉnh ngộ, tuyên chỉ tha cho Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật, lại cho phục hồi nguyên chức, còn Trí Khởi, Trung Hàng Hỉ, Tịch Yển, Châu Tân và Tân Du đều phải giáng làm thứ nhân; chỉ có Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên phải xử tử mà thôi . Dương Thiệt Xich và Dương Thiệt Bật được tha, vào triều lạy tạ; khi trở về, Dương Thiệt Xích bảo Dương Thiệt Bật rằng:

- Ta nên đến tạ ơn quan lão đại phu họ Kỳ .

Dương Thiệt Bật nói:

- Quan lão đại phu họ Kỳ vì nước nhà mà nói, có phải vì riêng ta đâu, cần gì mà phải tạ!

Nói xong, liền lên xe về nhà . Dương Thiệt Xích không đành lòng, thân hành đến nhà Kỳ Ngọ, để xin yết kiến Kỳ Hề . Kỳ Ngọ nói:

- Thân phụ tôi vào yết kiến chúa công, rồi trở về đất Kỳ ngay, có ở lại đây đâu!

Dương Thiệt Xích nói:

- Quan lão đại phu họ Kỳ vốn không nghĩ gì đến sự làm ơn cho ta. Thế mới biết kiến thức của ta lại không bằng Dương Thiệt Bật!

Châu Tân từ khi bị cách chức, lại vẫn đi lại với nàng Loan Kỳ . Phạm Mang nghe biết việc ấy, sai kẻ lực sĩ đến tận nhà đâm chết Châu Tân .

Quan trấn thủ đất Khúc Ốc tên gọi Tư Ngọ, nguyên trước là môn khách của Loan Thư, khi Loan Doanh đi qua Khúc Ốc, Tư Ngọ cung cấp rất trọng hậu . Loan Doanh nói đến việc đắp thành ở Trứ ấp . Tư Ngọ hẹn xin đem quân ở Khúc Ốc sang giúp . Loan Doanh ở lại Khúc Ốc trong ba ngày . Bọn Loan Nhạc đến báo tin, nói Dương Tất đã đem quân đuổi theo . Đốc Nhung là người dong xe của Loan Doanh nói:

- Nếu Dương Tất đến đây thì ta chống cự lại, vị tất đã làm gì ta nổi!

Châu Xước và Hình Khóai nói:

- Chính vì sợ ân chủ thiếu người, nên chúng tôi đã đến đây để giúp ân chủ đó .

Loan Doanh nói:

- Ta có tội gì đâu, chẳng qua họ thù óan mà vu tội cho ta, nếu ta chống cự thì kẻ thù lại có cớ mà nói, chi bằng ta trốn đi, đợi khi chúa công xét lại .

Tư Ngọ cũng nói không nên chống cự . Loan Doanh vội vàng từ biệt Tư Ngọ, rồi trốn sang nước Sở . Khi Dương Tất đem quân đến Trứ ấp, người trứ ấp nói với Dương Tất rằng:

- Loan Doanh chưa tới đây, mới đến Khúc Ốc, đã bỏ trốn rồi .

Dương Tất lại thu quân về, trong khi đi đường, tuyên bố tội trạng của họ Loan .

Dân nước Tấn đều biết họ Loan là công thần, và Loan Doanh là người quảng đại bác ái, cho nên ai cũng thương xót . Phạm Mang nói với Tấn Bình công nghiêm cấm họ Loan, không cho đi theo Loan Doanh, ai theo thì bắt tội chết . Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du nghe tin Loan Doanh ở nước SỞ, liền đem mấy xe gia tài đi theo . Ra đến cửa thành, bị quân sĩ bắt được, đem nộp Tấn Bình công . Tấn Bình công hỏi Tân Du rằng:

- Ta đã có lệnh nghiêm cấm, sao nhà ngươi dám trái ?

Tân Du sụp lạy mà nói rằng:

- Tôi ngu dốt không hiểu việc chúa công cấm theo họ Loan có ý nghĩa gì ?

Tấn Bình công nói:

- Theo họ Loan tức là vô quân, nên ta cấm .

Tân Du nói:

- Nếu cấm kẻ vô quân thì tôi tất là khỏi chết! tôi nghe nói mình làm tôi người nào thì người ấy tức là vua mình; ông cha nhà tôi đã ba đời làm tôi họ Loan thì họ Loan tức là vua của tôi, chính vì tôi không dám quên vua, cho nên theo họ Loan, cớ sao lại cấm ? Vả Loan Doanh dẫu có tội, chúa công chỉ đuổi đi mà không nỡ giết, cũng là nghĩ đến cái công lao đời trước của họ Loan, mà muốn bảo toàn cho Loan Doanh; nay Loan Doanh bơ vơ ở nơi đất khách, đồ dùng không có, áo mặc không đủ, nếu một mai vì thế mà chết đi, thì có phải cái nhân đức của chúa công không được trọn vẹn không ? Tôi đi chuyến này là muốn giữ cho hết cái trung nghĩa của tôi, mà hoàn thành được cái nhân đức của chúa công đó!

Tấn Bình công bằng lòng mà bảo rằng:

- Nhà ngươi nên ở lại đây với ta, ta sẽ đem cái lộc của họ Loan mà cho nhà ngươi .

Tân Du nói:

- Thôi đã có nói họ Loan là vua của tôi, nếu tôi bỏ vua ấy mà theo vua khác thì sao cấm được những kẻ vô quân! chúa công giữ tôi thì tôi xin chết .

Tấn Bình công nói:

- Thôi thì ta cũng nghe lời mà cho nhà nguơi đi, để nhà ngươi giữ được cái chí ấy .

Tân Du lạy tạ, rồi đem mấy xe gia tài, ngang nhiên thẳng cửa thành mà đi ra . Loan Doanh ở địa giới nước Sở, đã được mấy tháng, toan vào Sính Đô để yết kiến vua Sở, bỗng nghĩ rằng ông cha mình mấy đời giúp Tấn là thế thù của nước Sở, nếu vua Sở không dung thì làm thế nào; lại toan đi sang nước Tề, chỉ vì tiền lưng hết cả, không thể đi được, may gặp Tân Du đem mấy xe gia tài đến, bấy giờ Loan Doanh mới sửa soạn để đi sang nước Tề . Tề Trang công từ khi thua trận ở trận Bình Âm, lấy làm xấu hổ, muốn thu dùng những kẻ dũng sĩ, đặt ra một đội gọi là "dũng nước", cho ăn lộc bằng các quan đại phu, tìm những người nào mang nổi nghìn cân, bắn trúng quan bảy lần áo giáp cho sung vào đội ấy . Trước đã có Thực Xước và Quách Tối, sau lại được bọn Gia Cử, Bính Cư, công tôn Ngao, Phong Cụ, Tác Phủ, Tướng Doãn và Lâu Yên, cả thảy chín người . Tề Trang công ngày nào cũng triệu vào cung cùng bắn bia hoặc đấu kiếm mua vui .

Một hôm, Tề Trang công ngự triều, nghe báo có quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh bị đuổi, trốn sang nước Tề, liền mừng mà nói rằng:

- Ta vẫn muốn báo thù nước Tấn, nay có Loan Doanh đến thì thật là được việc cho ta!

Nói đoạn toan sai người đi nghênh tiếp Loan Doanh . Quan đại phu là Án Anh can rằng:

- Không nên! nước nhỏ thờ nước lớn, nên phải giữ điều tín . Ta mới cùng nước Tấn ăn thề mà nay lại dung nạp Loan Doanh, nếu người nước Tấn đến trách thì ta biết nói thế nào ?

Tề Trang công cười to lên mà nói rằng:

- Nhà ngươi nói thế là sai lắm! nước Tề ta cùng nước Tấn ngang hàng với nhau, sao lại gọi là lớn và nhỏ ? ngày trước ta chịu thề với Tấn, chẳng qua chỉ vì sự nguy cấp trong một thời mà thôi, chứ lẽ nào lại chịu thần phục nước Tấn mãi như Lỗ, Vệ, Tào, và Châu ?

Tề Trang công bèn không nghe lời Án Anh, sai người đi đón Loan Doanh vào triều . Loan Doanh sụp lạy, vừa khóc vừa kể hết những nông nổi bị đuổi . Tề Trang công nói:

- Nhà ngươi chớ lo! ta sẽ giúp cho nhà ngươi được về nước Tấn .

Loan Doanh lạy tạ . Tề Trang công bày tiệc thết đãi . Trong khi ăn tiệc, Châu Xước và Hình Khoái đứng hầu ở bên cạnh Loan Doanh, Tề Trang công trông thấy Châu Xước và Hình Khoái hình vóc cao lớn, liền hỏi họ tên . Hai người nói thực cả . Tề Trang công nói:

- Trận đánh ở Bình Âm khi trước, bắt được Thực Xước và Quách Tối của ta, có phải là hai người đó không ?

Châu Xước và Hình Khoái sụp lạy tạ tội . Tề Trang công nói:

- Ta mến tiếng các ngươi đã lâu lắm .

Nói xong truyền dọn cơm rượu cho hai người ăn uống . Lại bảo Loan Doanh rằng:

- Ta muốn phiền nhà ngươi một điều, nhà ngươi chớ nên từ chối .

Loan Doanh nói:

- Nếu chúa công có cần dùng điều gì thì dẫu xương óc chúng tôi, chúng tôi cũng không dám tiếc .

Tề Trang công nói:

- Ta không dám phiền gì cả, chỉ xin mượn hai người dũng sĩ để làm bạn với ta .

Loan Doanh không dám từ chối, phải nhận lời ngay, rồi lên xe, mặt buồn rười rượi, than thầm rằng: may mà vua Tề chưa trông thấy Đốc Nhung, chẳng có thì cũng chiếm mất mà thôi .

Tề Trang công cho Châu Xước và Hình Khoái sung vào cuối hàng dũng tước, Châu Xước và Hình Khoái có ý không phục . Một hôm Châu Xước và Hình Khoái cùng với Thực Xước và Quách Tối đứng hầu bên cạnh Tề Trang côg . Châu Xước và Hình Khóai giả cách ngạc nhiên trỏ vào mặt Thực Xước và Quách Tối mà bảo rằng:

- Hai ngươi là tù nhân nước ta, sao lại được đến đây ?

Quách Tối nói:

- Ngày trước chúng ta bị Túc Sa Vệ đánh lừa, chứ không như các ngươi phải theo người ta đi trốn .

Châu Xước giận lắm, nói:

- Mày như con rận ở trong miệng ta, lại còn dám cựa quậy hay sao!

Thực Xước cũng nổi giận nói:

- Ngày nay mày ở nước ta, tức là miếng thịt ở trong mâm cơm của ta đó!

Hình Khóai nói:

- Các ngươi đã không bằng lòng với ta thì ta lại xin về với chủ cũ .

Quách Tối nói:

- Đường đường nước Tề ta, lẽ nào cứ phải nhờ đến hai ngươi mới được hay sao!

Bốn người lớn tiếng cãi nhau, mặt đỏ bừng bừng, tay mó chuôi gươm, toan sự đánh nhau . Tề Trang công dùng lời nói ngọt để khuyên can, và đem rượu cho uống, lại bảo Châu Xước và Hình Khoái rằng:

- Ta vẫn biết hai ngươi không chịu ở dưới người!

Tề Trang công bèn chia đội dũng tước làm hai ban: 1. Hữu ban là Long tước thì Châu Xước và Hình Khóai đứng đầu, lại chọn được người nước Tề là Lư Bồ Quí và Vương Hà thuộc về ban ấy; 2. Tả ban là Hổ tước, thì Thực Xước và Quách Tối đứng đầu, bọn Gía Cử thuộc về ban ấy . Các người được dự vào trog hai ban ấy đều lấy làm vinh hạnh, chỉ có Châu Xước và Hình Khóai, Thực Xước và Quách Tối, bốn người ấy là không hoà thuận với nhau mà thôi .

Bấy giờ Thôi Trữ và Quách Phong có công lập Tề Trang công, đều được làm thượng khanh, cầm quyền chính trong nước . Tề Trang công thường vẫn đến nhà hai người để uống rượu mua vui, hoặc bắn bia đấu kiếm, không còn phân biệt vua tôi nữa . Vợ cả Thôi Trữ sinh được hai con là Thôi Thành và Thôi Cương; cách mấy năm sau thì người vợ ấy chết, Thôi Trữ lại kết duyên với em gái Đông Quách Yển . Em gái Đông Quách Yển nguyên trước là vợ Đường Công, vẫn gọi là nàng Đường Khương, sinh được một con, tên gọi Đường Vô Cữu . Khi Đường Công chết, Thôi Trữ đến viếng ta, trông thấy Đường Khương có nhan sắc, mới nói với Đông Quách Yển xin cưới làm vợ kế, cũng sinh được một con, tên gọi Thôi Minh .

Thôi Trữ yêu nàng Đường Khương lắm, liền dùng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu làm gia thần, đem con nhỏ là Thôi Minh uỷ thác cho hai người, lại bảo nàng Đường Khương rằng:

- Đợi khi nào Thôi Minh khôn lớn, sẽ lập làm đích tử .

Một hôm, Tề Trang công uống rượu ở nhà Thôi Trữ . Thôi Trữ sai Đường Khương ra mời rượu . Tề Trang công trông thấy Đường Khương nhan sắc, liền đút nhiều tiền cho Đông Quách Yển, để tư thông với nàng Đường Khương . Thôi Trữ dần dần biết chuyện, hỏi Đường Khương . Nàng nói:

- Thật có như vậy! kẻ kia cậy thế là vua một nước mà bắt thiếp thì thiếp cự lại thế nào được!

Thôi Trữ nói:

- Vậy thì sao nàng không nói với ta ?

Đường Khương nói:

- Thiếp tự nghĩ mình có tội, nên không dám nói .

Thôi Trữ nín lặng hồi lâu, rồi nói:

- Việc ấy không can dự gì đến nàng!

Từ bấy giờ Thôi Trữ có ý muốn giết Tề Trang công .

Vua nước Ngô là Chư Phàn sai người sang nước Tấn cầu hôn . Tấn Bình công gả con gái cho . Tề Trang công bàn với Thôi Trữ rằng:

- Ta muốn giúp Loan Doanh trở về nước Tấn mà chưa được dịp nào, nghe nói quan trấn thủ ở Khúc Ốc là người thân với Loan Doanh, nay ta muốn mượn việc tống dắng mà đưa Loan Doanh về Khúc Ốc, khiến Loan Doanh nổi lên đánh nước Tấn, phỏng có nên chăng ?

Thôi Trữ đang căm tức Tề Trang công, muốn cho Tề Trang công kết oán với Tấn, đợi khi nước Tấn đem quân sang đánh thì đổ lỗi cho Tề Trang công mà giết đi, để du nịnh nước Tấn . Nay Tề Trang công lại muốn giúp Loan Doanh, chính là trúng phải kế ấy . Thôi Trữ liền nói với Tề Trang công rằng:

- Người Khúc Ốc có lòng với họ Loan, nhưng vị tất đã làm gì nổi, chúa công nên đem một toán quan đi tiếp ứng, giả cách nói sang đánh Vệ, rồi cùng với Loan Doanh hai mặt đánh ập vào, mới có thể phá vỡ được nước Tấn .

Tề Trang công khen phải, rồi đem mưu ấy nói với Loan Doanh . Loan Doanh mừng lắm . Gia thần của Loan Doanh là Tân Du can rằng:

- Tôi theo ngài tới đây, là để tận trung với ngài, vậy thì tôi cũng muốn ngài tận trung với vua Tấn .

Loan Doanh nói:

- Nhưng vua Tấn không nhận ta là bề tôi thì biết làm thế nào ?

Tân Du nói:

- Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở ngục Dữu Lý, mà Văn vương vẫn một lòng thần phục vua Trụ; nay vua Tấn chẳng nghĩ đến công lao họ Loan ta trước mà đuổi ngài, khiến ngài phải lưu lạc ở nước ngoài, ai là người không thương xót . Nếu ngài làm điều bất trung thì trong khoảng trời đất, còn ai dung ngài nữa!

Loan Doanh không nghe . Tân Du khóc mà nói rằng:

- Nếu vậy thì ngài đi chuyến này, thế nào cũng chết, tôi xin chết để tiễn chân ngài .

Tân Du nói xong, liền rút gươm đâm cổ mà chết . Tề Trang công chọn một người con gái trong họ để làm dắng nữ, sai quan đại phu là Tích Quy Phủ đưa sang nước Tấn, rồi dùng nhiều xe kín, để Loan Doanh và thân thuộc ngồi ở trong xe, đưa đến Khúc Ốc . Châu Xước và Hình Khóai xin theo Loan Doanh . Tề Trang công sợ Châu Xước và Hình Khoái về nước Tấn mất, mới sai Thực Xước và Quách Tối đi thay, lại dặn Thực Xước và Quách Tối rằng:

- Hai ngươi theo quan tướng quân họ Loan cũng tức như là theo ta!

Khi đến Khúc Ốc, bọn Loan Doanh lén vào trong thành, đang đêm gọi cửa nhà quan trấn thủ ở đấy là Tư Ngọ, Tư Ngọ kinh sợ không biết việc gì . Khi mở cửa ra, trông thấy Loan Doanh, liền giật mình hỏi rằng:

- Sao ngài lại đến đây được ?

Loan Doanh nói:

- Xin vào nhà kín để nói chuyện .

Tư Ngọ liền mời vào trong nhà kín . Loan Doanh cầm lấy tay Tư Ngọ, muốn nói mà chưa nói, bất giác nước mắt chảy xuống ròng ròng . Tư Ngọ nói:

- Ngài có việc gì, xin cứ nói cho biết, chớ nên thương khóc như vậy!

Loan Doanh liền gạt nước mắt mà nói rằng:

- Tôi chỉ vì các nhà họ Phạm, họ Triệu thù oán nhau mà đến nổi phải lưu lạc nước ngoài, nay vua Tề thương tôi là người vô tội, đưa tôi tới đây, mà quân Tề cũng sắp sửa đến sau . Nếu nhà ngươi chịu đem quân Khúc Ốc vào đánh Giáng Đô thì quân Tề đánh mặt ngoài, chúng ta đánh mặt trong, chắc là phải vỡ . Bấy giờ ta sẽ bắt những kẻ thù với ta mà giết chết đi, rồi phụng mệnh vua Tấn để giảng hoà với Tề . Họ Loan mà nổi lên được, chỉ cốt ở một việc này thôi .

Tư Ngọ nói:

- Thế nước Tấn đang mạnh, các nhà họ Phạm và họ Triệu vẫn hoà thuận với nhau, tôi sợ chưa làm gì nổi, lại thêm hại cho mình .

Loan Doanh nói:

- Ta có kẻ dũng sĩ là Đốc Nhung, một người có thể đương nổi được một toán quân . Vả Thực Xước và Quách Tối đều là những kiện tướng ở nước Tề bây giờ; còn Loan Nhạc và Loan Phường cũng đều sức khỏe bắn gỉoi, như thế thì nước Tấn dẫu mạnh cũng chẳng sợ gì! ngày xưa ta giúp Ngụy Giáng ở đạo hạ quân, cháu hắn là Ngụy Thư có nhờ vả điều gi, ta vẫn săn sóc cho cả, hắn vẫn muốn báo ơn ta; nếu được họ Ngụy làm nội ứng thì mười phần xong được đến tám chín . Vạn nhất việc không thành mà phải chết, ta cũng được thoả lòng!

Tư Ngọ nói:

- Đợi ngày mai, tôi dò xem lòng người thế nào, mới có thể làm được .

Bọn Loan Doanh cùng nhan ẩn trong nhà kín . Ngày hôm sau, Tư Ngọ giả cách nói nằm mộng thấy Cung thế tử (tức là Thân Sinh), rồi sửa lễ vào nhà thờ Cung thế tử để tế . Tế xong, mời tất cả các quan thuộc đến uống rượu . Loan Doanh phục sẵn ở sau bình phong . Rượu được ba tuần thì âm nhạc nổi lên . Tư Ngọ liền gạt đi mà rằng:

- Ngày xưa Cung thế tử bị oan, bây giờ chúng ta nỡ nào ngồi mà nghe nhạc được!

Mọi người nghe nói, đều có ý cảm động . Tư Ngọ lại nói:

- Bề tôi cũng như là con . Nay họ Loan mấy đời có công to, mà cả triều cố ý dèm pha, để đến nỗi phải đuổi, thì có gì khác Cung thế tử ?

Mọi người đều nói:

- Việc ấy cả nước ai cũng bất bình! chẳng hay chàng nhụ tử họ Loan còn có thể về nước được không ?

Tư Ngọ nói:

- Giả sử nhụ tử họ Loan bây giờ đã về ở đây thì các người định xử ra làm sao ?

Mọi người đều nói:

- Nếu được chàng nhụ tử họ Loan làm chủ thì chúng tôi xin hết sức, dẫu chết cũng đành lòng!

Trong bọn ngồi đấy, có nhiều người chảy nước mắt . Tư Ngọ nói:

- Các ngươi chớ phiền! chàn nhụ tử họ Loan hiện ở đây rồi!

Tư Ngọ vừa nói xong thì Loan Doanh ở phía sau bình phong đi ra, vái chào mọi người . Mọi người đều sụp lạy . Loan Doanh thuật lại đầu đuôi vì cớ gì mà về được nước Tấn, lại nói với mọi người rằng:

- Nếu được trở về Giáng Đô thì dẫu chết cũng thoả lòng!

Mọi người đều hớn hở xin theo . Ngày hôm ấy, uống rượu rất vui rồi tan . Đến hôm sau, Loan Doanh viết một tờ mật thư, nhờ người lái buôn tại Khúc Ốc đưa đến cho Ngụy Thư ở Giáng Đô . Ngụy Thư cũng thấy việc họ Triệu và họ Phạm làm tàn ác quá, khi tiếp được mật thư của Loan Doanh, liền viết thư trả lời rằng:

- "Chúng tôi vẫn mặc sẵn áo giáp ở trong mình để đợi . Khi nào quân Khúc Ốc đến, xin ra nghênh tiếp ".

Loan Doanh được tin mừng lắm . Tư Ngọ kiểm điểm giáp binh ở Khúc Ốc cả thảy được hai trăm hai mươi binh xa rồi giao cho Loan Doanh . Bè cánh họ Loan, người nào tráng kiện đều xin theo cả, chỉ có người già yếu mới chịu ở lại Khúc Ốc . Đốc Nhung làm tiên phong, Thực Xước và Loan Nhạc ở bên hữu . Quách Tối và Loan Phường ở bên tả . Đêm hôm ấy thẳng đường tiến về Giáng Đô . Khúc Ốc và Giáng Đô chỉ cách nhau có sáu mươi dặm, quân Loan Doanh đi một đêm đến nơi ngay, rồi phá lần thành ngoài mà vào, tiến thẳng đến cửa nam, người Giáng Đô không ai biết gì cả . Quân sĩ canh giữ ở cửa thành, không kịp phòng bị, chỉ một giờ là bị Đốc Nhung phá vỡ . Quân Loan Doanh kéo ồ vào thành, như vào một nơi không có người ở .

Bấy giờ Phạm Mang ở nhà, vừa ăn bữa sáng xong, bỗng thấy Nhạc Vương Phụ hoảng hốt chạy đến, báo việc Loan Doanh đã vào cửa nam . Phạm Mang giật mình kinh sợ, liền gọi con là Phạm Uởng đem quân ra chống cự . Nhạc Vương Phụ nói:

- Việc đã nguy cấp lắm! ta nên đưa chúa công chạy vào Cố Cung thì mới có thể giữ vững được .

Phạm Mang lo rằng trong nước có người làm nội ứng cho họ Loan . Nhạc Vương Phụ nói:

- Các quan đại phu đều ghét họ Loan cả, chỉ đáng lo có một mình họ Ngụy mà thôi; nếu ta phụng mệnh chúa công đi triệu ngay đến đây thì còn có thể giữ được .

Phạm Mang khen phải, liền sai Phạm Uởng phụng mệnh đến triệu Ngụy Thư . Nhạc Vương Phụ nói:

- Việc chưa rõ thế nào, hãy nên kín tiếng mới được!

Bấy giờ Tấn Bình công đang có tang, Phạm Mang và Nhạc Vương Phụ đều mặc áo giáp ở trong, rồi phủ đồ tang phục ở ngoài, trùm kín đầu lại, đi thẳng vào cung, tâu với Tấn Bình công, rồi đưa Tấn Bình công chạy vào Cố Cung . Phạm Uởng đến nhà Ngụy Thư, trông thấy quân sĩ ở nhà Ngụy Thư đã đứng sắp hàng cả ở ngòai cửa, Ngụy Thư mặc đồ nhung phục ngồi trên xe, toan đi đóan Loan Doanh . Phạm Uởng chạy ngay đến trước mặt bảo Ngụy Thư rằng:

- Họ Loan nổi loạn, nay chúa công ở Cố Cung, cha tôi và các quan đại thần đều họp ở đấy cả, có sai tôi đến đây đón ngài .

Nguỵ Thư chưa kịp trả lời, Phạm Uởng nhảy ngay lên xe tay phải cầm gươm, tay trái nắm lấy đai Ngụy Thư, làm cho Ngụy Thư kinh sợ không biết nói thế nào được nữa, rồi Phạm Uởng truyền cho người dong xe đi mau . Người dong xe hỏi đi về phía nào, Phạm Uởng quát to lên rằng:

- Đi sang Cố Cung!

Xe Ngụy Thư liền đi thẳng sang Cố Cung .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 64 : Loan Doanh diệt tộc thành Khúc ỐcKỷ Lương tử chiến cửa Thả Vu

Phạm Mang dẫu sai con là Phạm Uởng đi triệu Ngụy Thư, nhưng chưa biết hay dở thế nào, trong lòng áy náy không yên, mới trèo lên mặt thành để trông, thấy Phạm Uởng và Ngụy Thư cùng ngồi một xe ở phía xa đi đến, liền mừng mà nói rằng:

- Thế là họ Loan thật là cô thế, chẳng làm gì nổi !

Nói xong, truyền mở cửa cung đóng vào . Ngụy Thư trông thấy Phạm Mang thì mặt lộ vẻ hoang mang . Phạm Mang cầm lấy tay mà bảo rằng:

- Người ngoài không hiểu rõ, bảo là tướng quân tư thông với họ Loan, nhưng tôi đây vẫn biết tướng quân không phải là người như thế . Nếu tướng quân giúp sức với tôi mà diệt họ Loan, thì tôi xin đem đất Khúc Ốc đền công cho tướng quân .

Bấy giờ Ngụy Thư đã vào tròng của Phạm Mang rồi, bất đắc dĩ phải vân mệnh, cùng vào yết kiến Tấn Bình công để bàn mưu dẹp giặc . Được một lúc thì Triệu Vũ, Tuân Ngô, Trí Sóc, Hàn Vô Kỵ (con trưởng Hàn Quyết), Hàn Khởi (con thứ hai của Hàn Quyết), Kỳ Ngọ, Dương Thiệct Xích, Dương Thiệt Bật và Trương Mạnh Địch đều lục tục đến cả . Mỗi người lại đem theo một toán quân, thanh thế rất mạnh! Cố Cung có hai cửa . Phạm Mang sai Triệu Vũ và Tuân Ngô giữ cửa nam; anh em Hàn Vô Kỵ giữ cửa bắc, còn bọn Kỳ Ngọ thì đi tuần bốn mặt . Hai cha con Phạm Mang và Phạm Uởng cứ ở liền bên cạnh Tấn Bình công . Loan Doanh tiến quân vào trong thành, không thấy Ngụy Thư ra đón thì trong lòng nghi ngại, bèn đóng quân ở Thị Khẩu rồi sai người đi dò tin tức . Quân thám tử về báo rằng:

- Vua Tấn đã chạy vào Cố Cung, nhân dân đều theo vào đấy cả, cả Nguỵ Thư cũng vào .

Loan Doanh nổi giận, nói:

- Ngụy Thư đánh lừa ta! gặp mặt ta quyết làm cho một nhát!

Liền vỗ vào lưng Đốc Nhung mà bảo rằng:

- Nhà ngươi phá vỡ được Cố Cung thì ta sẽ cùng hưởng phú qúi với nhà ngươi!

Đốc Nhung nói:

- Xin chia quân làm đôi, tôi đánh cửa nam; còn ân chủ thì đem các tướng đánh cửa bắc, thử xem ai vào được trước!

Bấy giờ Thực Xước và Qúach Tối dẫu theo Loan Doanh, nhưng vẫn căm tức Châu Xước và Hình Khoái, vì Châu Xước và Hình Khoái là người của Loan Doanh đem sang Tề, mà lại được Tề Trang công tin yêu . Châu Xước và Hình Khóai lại tỏ ý khinh bỉ Thực Xước và Quách Tối . Huống chi Loan Doanh động mở miệng thì chỉ khoe cái tài giỏi của Đốc Nhung mà không nghĩ gì đến Thực Xước và Quách Tối cả, cho nên hai người không hề có lòng sốt sắng với Loan Doanh mà chỉ ngồi chờ xem bên nào được bên nào thua . Loan Doanh chỉ trông cậy vào một mình Đốc Nhung . Bấy giờ Đốc Nhung tay cầm hai cái kích, ngồi xe đi thẳng đến Cố Cung, dừng ngoài cửa nam xem ngắm hình thế, rồi đi đi lại lại, uy phong lẫm liệt, khác nào như một vị hung thần giáng hạ . Quân Tấn vốn biết Đốc Nhung là người vũ dũng, nên ai trông thấy cũng đều sợ khiếp đảm . Triệu Vũ cũng tấm tắc khen tài . Bộ hạ của Triệu Vũ có hai viên dũng tướng, tên gọi Giải Ung và Giải Túc là hai anh em ruột, xưa nay đã có tiếng là người giỏi đánh giáo . Giải Ung và Giải Túc nghe thấy chủ tướng mình khen Đốc Nhung, có ý không phục, nói với Triệu Vũ rằng:

- Đốc Nhung dẫu giỏi, anh em tôi cũng xin đem một toán quân ra để bắt sống .

Triệu Vũ nói:

- Nhà ngươi nên cẩn thận, chớ có khinh thường .

Giải Ung và Giải Túc mở cửa ra, đứng ở phía trong lần hào, quát to lên mà bảo Đốc Nhung rằng:

- Nhà ngươi có phải là Đốc Nhung đó không ? Ta tiếc cho nhà ngươi là một người anh hùng mà lại đi theo đứa phản nghịch! mau mau đầu hàng đi thì còn có thể đổi hoạ làm phúc được!

Đốc Nhung nghe nói nổi giận, truyền cho quân sĩ lấp một khúc hào để sang . Quân sĩ còn đang đội đất vác dá để lấp hào, Đốc Nhung nóng nảy, cầm hai ngọn kích chống thẳng xuống đất, rồi nhảy tót qua bên kia hào . Giải Ung và Giải Túc kinh hãi, cùng cầm giáo đến đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung hai ta múa giáo, chạy thẳng đến mà nghênh chiến . Con ngựa kéo xe của Giải Ung bị một đòn kích của Đốc Nhung gãy một xương sống, xe không đi được . Con ngựa kéo xe của Giải Túc thấy vậy liền rí rầm lên, không chịu chạy nữa . Anh em họ Giải nhảy xuống xe để đánh bộ . Bị Đốc Nhung đánh gãy cái giáo, Giải Túc bỏ chạy . Giải Ung hoảng sợ run tay, bị Đốc Nhung đâm cho một kích ngã lăn xuống đất . Đốc Nhung lại đuổi theo Giải Túc . Giải Túc giỏi chạy, bon thẳng đến cửa bắc, leo thành mà vào . Đốc Nhung không đuổi kịp liền quay lại định đâm chết Giải Ung thì quân sĩ nước Tấn đã cứu Giải Ung đem vào cửa rồi . Đốc Nhung tức giận, chống kích xuống đất mà quát to lên rằng:

- Còn ai dám ra đối địch với ta nữa không ?

Trong cửa không ai dám ra cả . Đốc Nhung về dinh, truyền cho quân sĩ sửa soạn để ngày mai lại đánh . Giải Ung bị thương nặng quá, đêm hôm ấy chết . Triệu Vũ thương xót vô cùng . Giải Túc nói:

- Ngày mai, tôi xin ra quyết chiến một trận nữa để báo thù cho anh tôi, dẫu chết cũng thoả lòng!

Tuân Ngô nói với Triệu Vũ rằng:

- Bộ hạ tôi, là lão tướng Mâu Đăng, có hai con là Mâu Cương và Mâu Kính . Hai người ấy đều có sức khoẻ mang nổi nghìn cân, hiện đang ở trong đội thị vệ của chúa công . Tôi xin bảo Mâu Đăng tức khắc gọi hai con đến, để sáng mai cùng ra trận với Giải Túc . Ba người đánh một thì thua làm sao được!

Triệu Vũ nói:

- Nếu vậy thì hay lắm!

Tuân Ngô bảo Mâu Đăng đi gọi hai co . Sáng sớm hôm sau, Mâu Cương và Mâu Kính đều đến cả . Triệu Vũ trông thấy hai người vóc dáng cao lớn, khí thế hùng hổ, liền phủ dụ mấy câu, rồi sai cùng với Giải Túc ra trận . Sáng hôm sau, quân Đốc Nhung đã lấp bằng được một khúc hào, tiến thẳng đến tận dưới cửa để khiêu chiến . Mâu Cương, Mâu Kính và Giải Túc mở cửa mà ra . Đốc Nhuung quát to lên rằng:

- Chúng bay không sợ chết à ?

Ba người không nói năng gì cả, xúm lại đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung chẳng sợ hãi chút nào, đang ngồi trên xe, nhảy xô xuống đất, hai tay cầm hai cái kích, múa lên mà đánh . Trục xe của Mâu Cương bị Đốc Nhung đánh gãy . Mâu Cương bất đắc dĩ cũng phải ở trên xe nhảy xuống, lại bị Đốc Nhung đánh một ngọn kích chết ngay . Mâu Kính giận lắm, cố sức xông vào, nhưng không thể được . Mâu Đăng ở trên cửa quan, liền nổi hiệu thu quân, rồi mở cửa cho Mâu Cương và Giải Tú vào . Đốc Nhung truyền cho quân sĩ phá cửa . Trên cửa bắn xuống, tên đạn như mưa, quân sĩ nhiều người bị thương mà Đốc Nhung vẫn không sợ hãi chút nào, thật là một viên dũng tướng! Triệu Vũ và Tuân Ngô thua luôn hai trận, sai người cáo cấp với Phạm Mang . Phạm Mang nói:

- Một mình Đốc Nhung, còn không đánh nổi thì dẹp thế nào được cánh họ Loan .

Đêm hôm ấy, Phạm Mang đốt đèn mà ngồi, nét mặt buồn bã . Có một kẻ gia nô đứng hầu bên cạnh, sụp lạy mà hỏi rằng:

- Quan nguyên soái có ý buồn bã, hay là ngài lo về việc Đốc Nhung ?

Phạm Mang nhìn xem ai thì tức là Phi Báo . Phi Báo nguyên là một thủ hạ của Đồ Ngạn Giả, tên gọi Phi Thành, sau vì việc Đồ Ngạn Giả mà phải tội, bị sung làm nô lệ nhà quan . Phạm Mang nghe Phi Báo nói, lấy làm lạ, liền hỏi Phi Báo rằng:

- Nhà ngươi có kế gì trừ được Đốc Nhung thì ta sẽ trọng thưởng cho .

Phi Báo nói:

- Tôi là một người có tên trong sở tội án, dẫu tài gỉoi đến đâu, cũng không bao giờ tiến thân được . Nếu quan nguyên soái xoá tên tôi ở trong sở tội án đi thi tôi xin giết Đốc Nhung để đền ơn lại .

Phạm Mang nói:

- Nhà ngươi giết được Đốc Nhung thì ta sẽ tâu với chúa công đốt cả sổ tội án đi, mà dùng nhà người làm trung quân nha tướng .

Phi Báo nói:

- Quan nguyên soái chớ nên thất tín!

Phạm Mang thề rằng:

- Nếu ta thất tín thì xin có mặt trời soi xét! nhưng chẳng hay nhà ngươi phải dùng bao nhiêu binh mã ?

Phi Báo nói:

- Khi trước Đốc Nhung còn ở Giáng Đô, có quen với tôi, vẫn cùng tôi đấu vũ . Người ấy tính nóng nảy, chỉ thích đánh nhau độc lực, nếu dùng binh mã thì không thể đánh được . Tôi xin đi một mình, tự khắc có kế bắt được Đốc Nhung .

Phạm Mang nói:

- Hay là nhà ngươi định trốn đi mà không trở lại nữa!

Phi Báo nói:

- Tôi còn có mẹ già, năm nay bảy mươi tám tuổi, còn có con nhỏ, vợ dại, sao tôi lại chịu làm điều bất trung bất hiếu ấy, để phạm tội lần nữa! nếu tôi trái lời thì cũng xin có mặt trời soi xét!

Phạm Mang mừng lắm, cho ăn cơm uống rượu, và thưởng cho một bộ áo giáp . Phi Báo trong mặc áo giáp, ngoài mặc áo nhung, đầu đội mũ cao, chân đi giày cỏ, lưng giắt dao nhọn, tay cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân, từ biệt Phạm Mang mà nói rằng:

- Tôi đi chuyến này, giết được Đốc Nhung thì thôi, bằng không thì cũng chết về tay Đốc Nhung, quyết không cùng sống được!

Phạm Mang nói:

- Ta cũng thân hành ra để xem nhà ngươi ra sức .

Phạm Mang truyền thắng xe, rồi cùng với Phi Báo đi đến cửa nam . Triệu Vũ và Tuân Ngô ra tiến kiến Phạm Mang, kể chuyện Đốc Nhung tài giỏi, làm hại mất hai tướng . PHạm Mang nói:

- Ngày nay Phi Báo xin một mình ra trận, chỉ còn mong nhờ vào hồng phúc của chúa công ta .

Phạm Mang nói chưa dứt lời thì Đốc Nhung đã đến khiêu chiến ngoài cửa . Phi Báo đứng trên cửa, gọi Đốc Nhung mà bảo rằng:

- Nhà ngươi có còn nhớ Phi Đại hay không ?

Đốc Nhung nói:

- Nay Phi Đại cũng định liều chết mà ra đó chăng ?

Phi Báo nói:

- Ai sợ nhà ngươi, chứ Phi Báo quyết không sợ! nhà ngươi nên truyền cho quân sĩ lui lại phía sau, rồi hai ta cùng nhau giao chiến, hai tay chọi với hai tay, binh khí chọi với binh khí, thử xem ai sống ai chết, để lưu tiếng anh hùng về mai sau!

Đốc Nhung nói:

- Nhà ngươi nói hợp ý ta lắm!

Đốc Nhung bèn truyền cho quân sĩ lui lại phía sau . Phi Báo mở cửa, ra giao chiến với Đốc Nhung . Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân thắng phụ . PHi Báo giả cách nói:

- Khoan đã! ta còn dở có một chút việc cần!

Phi Báo trông thấy phía tây có một chỗ tường thấp, liền chạy thẳng vào đấy . Đốc Nhung đuổi theo, quát to lên rằng:

- Chạy đằng nào cho thoát!

Bọn Phạm Mang đứng trên cửa, trông thấy Đốc Nhung đang đuổi Phi Báo, đều sợ toát mồ hôi ra, ai ngờ Phi Báo dụng kế, khi chạy đến chỗ tường thấp, bèn nhảy qua vào phía trong, Đốc Nhung cũng nhảy vào theo, Phi Báo nấp ở dưới cây lớn, chờ khi Đốc Nhung nhảy vào, nhân lúc bất ngờ, cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân đánh ngay một cái, trúng vào giữa đầu . Đốc Nhung vỡ óc ngã ngay xuống đất, mà còn giơ chân phải đá vào ngực Phi Báo, bật mất một mảnh áo giáp . Phi Báo rút lưỡi dao nhọn, cắt lấy đầu Đốc Nhung, rồi lại nhảy qua tường ra . Trên cửa mọi người thấy Phi Báo tay xách một cái đầu lâu, đầm đìa những máu, biết là Phi Báo đã giết được Đốc Nhung, liền mở rộng cửa cho Giải Túc và Mâu Cương đem quân ra đuổi đánh . Quân họ Loan thua chạy, một nửa bị giết, một nửa đầu hàng, không mấy người trốn thoát . Phạm Mang rót chén rượu, ngửa mặt lên trời, rưới rượu mà nói rằng:

- Thế này mới thật là nhờ hồng phúc của chúa công ta!

Nói xong, lại rót một chén rượu nữa thưởng cho Phi Báo, rồi đưa Phi Báo vào yết kiến Tấn Bình công . Tấn Bình công ghi công Phi Báo vào bậc thứ nhất .

Trước đó, Loan Doanh đem quân đánh cửa bắc, liên tiếp được tin thắng trận của Đốc Nhung, mới bảo các tướng sĩ rằng:

- Nếu ta có hai Đốc Nhung thì Cố Cung này có gì mà không phá vỡ nổi!

Thực Xước nghe nói, lấy chân giẫm vào chân Quách Tối, Quách Tối cũng đưa mắt để đáp lại, hai người đều cúi đầu, chẳng nói câu gì . Loan Nhạc và Loan Phường muốn lập công trạng, cố xông pha tên đạn để đánh cửa bắc . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi nhân thấy cửa nam thua luôn, cũng không dám ra đánh, chỉ giữ thế thủ mà thôi . Đến ngày thứ ba, Loan Doanh tiếp được tin Đốc Nhung bị giết, quân sĩ đều tan mất cả, thì tay chân bủn rủn, không biết làm ra thế nào, mới gọi Thực Xước và Quách Tối để thương nghị . Thực Xước và Quách Tối cười mà nói rằng:

- Đốc Nhung còn bị thua, huống chi là chúng tôi!

Loan Doanh ứa nước mắt hồi lâu . Loan Nhạc nói:

- Chúng ta nên liều chết cố đánh . Canh ba đêm hôm nay truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cửa quan, may ra có thể vào được!

Loan Doanh theo kế ấy, Tấn Bình công thấy Đốc Nhung chết, mở tiệc ăn mừng . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi cũng đều đến dự tiệc . Khi tiệc vừa tan, Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi trở về cửa bắc, bỗng thấy lửa cháy ngất trời, quân si của Loan Doanh phá cửa tiến vào, Loan Nhạc đi trước, Loan Phường theo sau, chiếm được một lần cửa ngoài . Bọn Hàn Vô Kỵ lui vào giữ lần cửa trong, rồi sai người cáo cấp với Phạm Mang. Phạm Mang sai Nguỵ Thư ra cửa nam, để thay cho Tuân Ngô đem quân đến cửa bắc đánh giúp . Anh em Hàn Vô Kỵ cùng với Tấn Bình công trèo lên trên đài, trông thấy quân Loan Doanh đóng ở lần cửa ngoài im lặng như tờ . Phạm Mang nói:

- Đó tất là có kế! nên truyền cho quân sĩ ra sức phòng giữ .

Đêm hôm ấy, quân Loan Doanh lại phóng hoả đốt cửa quan, nhưng quân Tấn đã phòng bị sẵn, chăng mấy lần da trâu có tẩm nước, lửa không bén được . Phạm Mang nói:

- Giặc đã tiến đến tận nơi, nếu ta để lâu không dẹp được thì quân Tề lại thừa kế sang đánh, thật là nguy cho nước nhà lắm!

NÓi đoạn sai con là Phạm Uởng cùng Phi Báo đem một toán quân, đi qua cửa nam, vòng sang cửa bắc, để đánh mặt ngoài, hẹn đúng thời khắc cho anh em Hàn Vô Kỵ biết, trong khi đó thì Tuân Ngô cùng Mâu Cương đem một toán quân mở cửa quan đán ra, khiến cho quân Loan hai mặt bị đánh, không thể xoay kịp . Lại sai Triệu Vũ và Nguỵ Thư đem quân đóng ở ngoài phía nam để đón đường Loan Doanh khi thua chạy . Phạm Mang truyền bảo đâu đấy, lại rước Tấn Bình công lên đài để đứng xem . Phạm Uởng lúc đi, nói với Phạm Mang rằng:

- Con hãy còn trẻ tuổi, chưa có uy vọng, vậy xin cha cho mượn hiệu cờ của đạo quân trung .

Phạm Mang thuận cho, Phạm Uởng cầm kiếm lên xe, cắm cờ đại bái mà đi ra cửa nam qua; lúc sắp đi, Phạm Uởng bảo thuộc hạ rằng:

- Trận đấu ngày nay, chỉ có tiến chứ không có thoái . Chẳng may mà thua thì ta quyết tự vẫn trước, chứ không thể cho các ngươi chết một mình .

Quân sĩ nghe nói: đều vui lòng xin theo . Tuân Ngô vâng lời Phạm Mang, truyền cho quân sĩ sửa soạn sẵn để đợi lệnh khai chiến . Được một lúc, Tuân Ngô trông thấy quân Loan Doanh rối loạn, lui ra lần cửa ngoài, biết là toán quân của Phạm Uởng đã đến, liền nổi hiệu trống, mở rộng cửa quan . Mâu Cương đi trước, Tuân Ngô theo sau, đem quân ra đánh . Loan Doanh cũng sợ quân Tấn trong ngoài giáp công, đã sai Loan Phường đem xe sắt lấp lần cửa ngoài, chia quân canh giữ .

Toán quân của Tuân Ngô không thể ra được . Khi Phạm Uởng đem quân đến, Loan Doanh trông thấy là cờ đại bái, giật mình kinh sợ mà nói rằng:

- Nguyên soái nước Tấn thân hành đến đây hay sao! bèn sai người đi dò thám, mới biết là toán quân của Phạm Uởng . Loan Nhạc nói:

- Nếu bậy thì không sợ!

Bèn truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Em Loan Nhạc là Loan Vinh can rằng:

- Quân ta nên hà tiện tên mới được, bắn hão vô ích!

Loan Nhạc mới không bắn nữa . Được một lúc Loan Vinh trông thấy một cái xe ở đằng xa đi tới, trong xe có một viên tướng mũ da áo đũi, hình dung cổ quái, liền trỏ mà bảo Loan Nhạc rằng:

- Người ấy tên gọi Phi Báo, tức là người giết Đốc Nhung của ta đó, nên bắn chết đi!

Loan Nhạc nói:

- Đợi hắn đến gần độ một trăm thước bấy giờ ta sẽ bắn .

Nói chưa dứt lời, lại thấy có một cái xe ở bên đi ngang qua . Loan Nhạc nhìn rõ trong xe có Phạm Uởng, mới nghĩ thầm rằng:

- Ta bắn chết Phạm Uởng, chẳng hơn bắn chết Phi Báo hay sao!

Liền đuổi theo Phạm Uởng mà bắn . Loan Nhạc xưa nay bắn cung, trăm phát trúng cả trăm, chẳng ngờ phát tên ấy lại không trúng . Phạm Uởng ngảnh lại, trông thấy Loan Nhạc, bèn quát to lên rằng:

- Phản tặc! mày gần chết đến nơi, lại còn bắn ta!

Loan Nhạc quay xe lui chạy, không phải là sợ Phạm Uởng, mà nhân phát tên ấy bắn không trúng, muốn dụ hắn đuổi theo đến gần, rồi sẽ bắn phát khác . Thực Xước và Quách Tối trông thấy, sợ Loan Nhạc bắn trúng, thành công mất, mới reo rầm lên rằng:

- Quân họ Loan thua rồi!

Người dong xe nghe tiếng kêu, lại ngỡ là toán quân khác bị thua, ngẩng đầu trông thấy bốn mặt, cầm cương không vững, ngựa lồng chạy quanh, bánh xe va phải cây hoè ở bên đường, làm xe đổ . Loan Nhạc ngã lăn xuống đất, vừa gặp Phi Báo đi đến, tức khắc đâm chết Loan Nhạc .

Loan Vinh sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Thực Xước và Qúach Tối cũng không dám trở về nước Tề . Thực Xước chạy sang nước Vệ, Quách Tối chạy sang nước Tần . Loan Doanh nghe tin Loan Nhạc chết, vật mình lăn khóc, quân sĩ đều có lòng thương xót . Loan Phường cùng với Loan Doanh chạy về phía nam . Tuân Ngô và Phạm Uởng họp quân đuổi theo . Loan Phường liều chết cố đánh một trận, quân Tấn mới chịu lui về . Loan Doanh và Loan Phường đều bị trọng thương, đi được một quãng đường, lại gặp toán quân của Nguỵ Thư . Loan Doanh ứa nước mắt mà bảo Ngụy Thư rằng:

- Tướng quân không nhớ năm xưa cùng ở với tôi ở hạ quân hay sao ? Nay tôi đành phận chết, nhưng không đáng chết vào tay tướng quân .

Nguỵ Thư trong lòng bất nhẫn, liền tránh cho Loan Doanh đi . Loan Doanh và Loan Phường chạy về Khúc Ốc . Được một lúc, Triệu Vũ đến, hỏi Ngụy Thư rằng:

- Loan Doanh đi qua, sao không đuổi theo mà bắt lấy ?

Ngụy Thư nói:

- Kẻ kia như con cá trong hũ, đã có nhà bếp làm thịt . Tôi nghĩ đến cái tình của tiên nhân tôi ngày xưa, không nỡ cầm dao mà giết .

Triệu Vũ nghe nói, cũng động lòng thương, không đuổi theo nữa . Phạm Mang biết là Loan Doanh đã chạy qua mà Ngụy Thư tha cho đi, nhưng làm ngơ không nói đến, liền bảo Phạm Uởng rằng:

- Quân của Loan Doanh đều là người Khúc Ốc . Kẻ kia vây cánh đã hết cả, nhà người chỉ đem một toán quân vây Khúc Ốc thì tự khắc dẹp xong .

Tuân Ngô cũng xin theo đi . Phạm Mang thuận cho Phạm Uởng và Tuân Ngô đem quân vây Khúc Ốc . Phạm Mang lại mời Tấn Bình công trở về cung cũ, rồi đem sổ tội án đốt bỏ đi, thành ra vì một Phi Báo mà cả thảy hơn hai mươi nhà cùng được khỏi tội . PHạm Mang lại xin cho Phi Báo làm trung quân nha tướng .

Tề Trang công từ khi giúp quân cho Loan Doanh trở về nước Tấn, cũng sửa soạn quân mã, cho Vương Tôn Huy làm đại tướng, Thân Tiên Ngu là phó tướng, Châu Xước và Hình Khoái làm tiên phong, Án Ly làm hợp hậu, còn bọn Giả Cử thì cho đi hộ giá, chọn ngày cất quân sang đánh nước Vệ . Người nước Vệ cố giữ không dám ra đánh . Quân Tề kéo thẳng qua đất Đế Khâu sang địa giới nước Tấn, đánh lấy đất Triều Ca . Tề Trang công lên núi Triêu Dương để khao quân, rồi chia quân làm hai đạo: Vương Tôn Huy đi về phía tả, qua ải Mạnh Môn; Tề Trang công cùng hai đạo long tước và hổ tước đi về phía hữu, qua Cơ Sơn . Hai đạo hẹn nhau cùng kéo đến núi Thái Hàng thì hợp làm một .

Khi Tề Trang công đi đến Côn Sơn, Hình Khóai ngủ đêm giữa trời dưới chân núi, bị con rắn độc cắn, sưng bụng lên mà chết . Tề Trang công thương tiếc vô cùng . Khi hai đạo quân đến núi Thái Hàng, Tề Trang công trèo lên đỉnh núi, nom về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để nghĩ kế đánh Tấn; bỗn nghe Loan Doanh đã thua chạy về Khúc Ốc, đại binh nước Tấn đuổi theo, cũng sắp đến nơi, liền thở dài mà nói rằng:

- Nếu vậy thì hỏng việc rồi, còn làm gì được nữa!

Nói xong, truyền rút quân về . Quan trấn thủ đất Hàm Đan là Triệu Thắng (con Triệu Chiên) đem quân đuổi theo . Tề Trang công tưởng là đại binh nước Tấn, vội vàng bỏ chạy chỉ để Án Ly ở lại sau đối địch . Án Ly thua trận, bị Triệu Thắng chém chết .

Phạm Uởng và Tuân Ngô vây thành Khúc Ốc hơn một tháng, bọn Loan Doanh đánh lại không nổi, trong thành chết mất quá nửa, đành chịu tan vỡ . Tư Ngọ rút gươm đâm cổ mà chết . Loan Doanh và Loan Vinh đều bị bắt cả . Loan Doanh than rằng:

- Tiếc thay, ta không nghe lời Tân Du, đến nổi thế này!

Tuân Ngô muốn giam Loan Doanh để giải về Giáng Đô . Phạm Uởng bảo Tuân Ngô rằng:

- Chúa công ta không quyết đoán, vạn nhất hắn kêu van mà lại tha ra thì kẻ thù của ta bao giờ trừ được!

Đêm hôm ấy, Phạm Uởng mật sai người thắt cổ Loan Doanh giết đi, lại giết cả Loan Vinh nữa . Bao nhiêu người họ Loan đều đem giết sạch cả, chỉ có Loan Phường trèo qua thành trốn sang nước Tống được . Bọn Phạm Uởng rút quân về, Tấn Bình công đem việc họ Loan bá cáo cho các nước biết . Nhiều nước, sai người đến chúc mừng . Phạm Mang xin cáo lão về nghỉ . Tấn Bình công cho Triệu Vũ thay cầm quyền chính .

Tề Trang công chưa đánh được nước Tấn vẫn còn căm tức, khi về đến địa giới nước Tề, không chịu vào vội mà bảo tướng sĩ rằng:

- Trận Bình Âm ngày trước, phải báo lại mới được!

Bèn đóng đồn ở ngoài thành để kiểm duyệt quân mã . Bọn Châu Xước và Giả Cử được thưởng mỗi người năm cỗ xe, gọi la ngũ thặng tân .

Giả Cử khen hai người ở Lâm Tri là Hoa Chu và Kỷ Lương là dũng sĩ, Tề Trang công tức khắc cho đi triệu Hoa Chu và Kỷ Lương . Hai người vào yết kiến . Tề Trang công cho hai người chung nhau một cỗ xe, để đi theo quân mà lập công . Hoa Chu lui về, giận lắm không ăn cơm mà bảo Kỷ Lương rằng:

- Chúa công đặt ra ngũ thặng tân là để đãi người vũ dũng, nay thấy chúng ta là dũng sĩ triệu ta đến, cho chúng ta hai người chung nhau một cỗ xe có phải là biết dùng ta đâu, chẳng qua chỉ là làm nhục ta đó thôi, chi bằng ta từ chối mà đi phương khác .

Kỷ Lương về hỏi mẹ . Mẹ nói:

- Mày sống mà vô nghĩa, chết mà vô danh thì dẫu được dự vao ngũ thặng tân, người ta cũng cười cho . Mày nên phải cố gắng, chớ có trái mệnh vua .

Kỷ Lương đem lời nói của mẹ, thuật lại cho Hoa Chu nghe . Hoa Chu nói:

- Người đàn bà còn không quên mệnh vua, huống chi là ta .

Bèn cùng với Kỷ Lương ngồi chung một xe theo hầu Tề Trang công . Tề Trang công nghỉ trong ba ngày, rồi để Vương Tôn Huy đóng quân ở lại, còn mình thì đem đại binh đi đánh nước Cử . Hoa Chu và Kỷ Lương cùng xin đi tiền đội . Tề Trang công hỏi rằng:

- Hai ngươi muốn dùng bao nhiêu giáp binh ?

Hoa Chu và Kỷ Lương nói:

- Chúa công cho hai chúng tôi chung nhau một cỗ xe, cũng đã đủ rồi, chúng tôi xin đi trước .

Tề Trang công muốn thử tài hai người bèn cười mà cho đi . Hoa Chu và Kỷ Lương thay đổi nhau cầm cương xe . Khi sắp đi, hai người phàn nàn rằng:

- Giá được một người nữa làm xa hữu thì có thể đương nổi một đội!

Một người lính trẻ tuổi chạy đến nói rằng:

- Tôi muốn xin theo hai tướng quân, chẳng hay hai tướng quân có thuận cho hay không ?

Hoa Chu hỏi họ tên . Người lính trẻ tuổi ấy nói:

- Tôi là người bản quốc, tên gọi Thấp Hầu Trọng vì mến lòng nghĩa dũng của hai tướng quân, cho nên muốn theo .

Ba người cùng ngồi một xe, thẳng đường tiến sang nước Cử . Ngày hôm sau, vua nước Cử là Lê Tị công biết quân Tề sắp đến, thân hành đem ba trăm giáp sĩ ra đi tuần, gặp xe Hoa Chu và Kỷ Lương, toan bắt lại hỏi . Hoa Chu và Kỷ Lương trừng mắt quát to lên rằng:

- Hai ta là tướng nước Tề, có ai dám cùng ta quyết chiến hay không ?

Lê Tị công kinh hãi, nhưng trông thấy, không có quân tiếp ứng, mới truyền cho quân sĩ vây kín lại . Hoa Chu và Kỷ Lương bảo Thấp Hầu Trọng rằng:

- Nhà ngươi cứ đánh trống luôn cho ta!

Hai người nói xong, mỗi người cầm một cái kích, xuống xe xông vào đánh quân nước Cử . Ba trăm quân giáp sĩ nước Cử chết đến một nửa . Lê Tị công nói:

- Ta đã biết dũng lực của hai tướng quân rồi, hai tướng quân chớ nên tử chiến, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Cử .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

- Nếu bỏ nước mà theo giặc thì sao gọi là trung ? đã phụng mệnh vua mà không hết lòng thì sao gọi là tín ? tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Cử, tôi nào dám nghĩ đến!

Hai người lại cầm kích tiến đánh . Lê Tị công không thể đương nổi, vội vàng bỏ chạy . Đại binh của Tề Trang công đến nơi, nghe nói Hoa Chu và Kỷ Lương thắng được quân Cử, thì sai sứ đi triệu đến mà bảo rằng:

- Ta đã biết tài của hai tướng quân rồi, hai tướng quân bất tất phải tiến đánh nữa, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Tề .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

- Chúa công đặt ra ngũ thặng tân mà tôi không được dự, thế là bỉ cái tài của tôi; nay lại lấy lợi mà dụ, thế là khinh cái bụng của tôi . Tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Tề, tôi nào dám nghĩ đến !

Hai người liền chắp tay vái sứ giả rồi lại thẳng đường tiến vào cửa thành nước Cử . Lê Tị công sai người đào sẵn một cái rãnh chặn ngang đường rồi đốt than ở dưới, lửa cháy ngùn ngụt . Hoa Chu và Kỷ Lương không thể qua được . Thấp Hầu Trọng nói:

- Người ta dám liều chết thì mới được tiếng về sau . Tôi có thể giúp hai tướng quân qua rãnh được!

Thấp Hầu Trọng bèn cắp cái một nằm đè lên trên đống than lửa để cho Hoa Chua và Kỷ Lương giẫm mà đi qua . Hoa Chu và Kỷ Lương bước qua được cái rãnh, ngoảnh lại thì thấy người Thấp Hầu Trọng đã cháy sém cả rồi! Hoa Chu và Kỷ Lương đứng nhìn mà khóc . Được một lúc, Kỷ Lương gạt nước mắt, Hoa Chu còn khóc chưa thôi . Kỷ Lương nói:

- Nhà ngươi sợ chết hay sao! làm sao mà khóc lâu như thế ?

Hoa Chu nói:

- Nào có phải ta sợ chết đâu! chỉ tiếc thay cho người này cũng vũ dũng như ta, mà lại chết trước ta, nên ta thương lắm!

Lê Tị công thấy Hoa Chu và Kỷ Lương đã qua được cái rãnh than lửa, vộivàng truyền cho quân sĩ phục sẵn ở bên cửa thành đợi khi hai người gần đến thì bắn . Hoa Chu và Kỷ Lương tiến thẳng đến cửa . Quân sĩ hai bên bắn ra như mưa . Hoa Chu và Kỷ Lương đến nơi, lại giết chết được hai mươi bảy người nữa . Quân sĩ ở trên mặt thành cùng chõ xuống mà bắn . Kỷ Lương bị thương nặng mà chết . Hoa Chu bị mấy mươi mũi tên không thể đánh được nửa, chịu cho ngươi nước Cử bắt, nhưng chưa tắt hơi . Lê Tị công sai đem vào thành .

Tề Trang công tiếp được tin của sứ giả, biết là Hoa Chu và Kỷ Lương có lòng quyết tử, liền dẫn đại binh tiến theo . Khi đến cửa thành nước Cử, nghe nói ba người đều chết cả, tức thì nổi giận, toan thúc quân tiến đánh . Lê Tị công sai sứ đến tạ tội rằng:

- Chúa công tôi chỉ thấy một cái xe vào cõi, không biết là đại quốc sai đến, vậy nên trót lầm lỡ mà xâm phạm . Vả đại quốc chết có ba người mà nước tôi bị giết đã hơn trăm người rồi; ba người kia cố ý xông vào chỗ chết, chứ không phải nước tôi dám gây việc binh đao, chúa công tôi sợ uy đại quốc sai tôi đến đây tạ tội, từ nay trở đi, xin một lòng triều cống nước Tề, không dám sai lời .

Tề Trang công còn chưa nguôi cơn giận, không thuận cho giảng hoà . Lê Tị công lại sai sứ ra cố nài, xin đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả, lại xin đem vàng, lụa sang khao thưởng quân sĩ . Tề Trang công còn chưa thuận cho, bỗng tiếp được tin cấp báo của Vương Tôn Huy, nói:

- Vua Tấn cùng với vua các nước Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh hội nhau ở đất Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề, xin mời chúa công mau mau rút quân về .

Tề Trang công mới cho nước Cử giảng hoà . Lê Tị công đem vàng lụa sang khao thưởng quân nước Tề, lại đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả . Còn thi thể Thấp Hầu Trọng ở trong đống lửa đã hoá ra tro rồi, không còn gì nữa . Ngay ngày hôm ấy Tề Trang công truyền rút quân về, sai đem thi thể Kỷ Lương quàn ở ngoài cõi nước Tề . Khi về đến kinh thành gặp vợ Kỷ Lương là nàng Mạnh Khương ra đón thi thể chồng ở ngoài cõi . Tề Trang công dừng xe, sai xứ đến viếng . Nàng Mạnh Khương nói với sứ giả rằng:

- Chồng thiếp mà có tội thì không dám nhận lời viếng của chúa công; nhược bằng vô tội thì chồng thiếp cũng còn chỗ viếng ta, thiếp không dám nhận .

Tề Tràng công có ý thẹn nói rằng:

- Đó là điều lỗi của ta!

Bèn sai người làm bài vị ở nhà Kỷ Lương mà đến viếng . Nàng Mạnh Khương rước linh cữu chồng để đem chôn ở ngoài thành, ngủ giữa trời ba đêm, ôm linh cữu mà khóc, đến nỗi hết cả nước mắt, chảy máu tươi ra . Bỗng thành nuớc Tề sụt lở mất mấy thước, người ta bảo rằng đó là vì nàng Mạnh Khương khóc lóc thảm thiết, nỗi tình thành của nàng cảm động đến trời đất như vậy .

Hoa Chu về đến nước Tề, vết đau nặng quá, chưa được bao lâu cũng chết . Vợ Hoa Chu khóc chồng cũng bội phần thảm thiết .

Năm ấy nước lên to lắm, sông Hoàng Hà đầy tràn, mặt đất nước sâu hơn thước . Tấn Bình công lại thôi không dám đánh Tề nữa .

Quan hữu khanh nước Tề là Thôi Trữ, ghét Tề Trang công dâm loạn, vẫn muốn đợi quân Tấn đến đánh để thừa cơ khởi sự, đã cùng với quan tả khanh là Khánh Phong thương nghị , định khi nào thành việc, sẽ chia đôi nước Tề . Sau nghe tin Tấn Bình công vì nước lụt mà hoãn việc đánh Tề , thì Thôi Trữ rất là thất vọng . Bấy giờ Tề Trang công có một người nội thị tên gọi Giả Thụ, vì một việc nhỏ mà bị Tề Trang công đánh một trăm roi . Thôi Trữ biết là Giả Thụ oán giận, liền đút tiền cho, để kết làm tâm phúc, phàm Tề Trang công làm việc gì thì Giả Thụ đều đến báo cho Thôi Trữ biết cả .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 65 : Giết Tề Quang, Thôi, Khánh cướp quyềnRước Vệ Khản, NInh Hỉ chuyên chính

Vua nước Cử là Lê Tị công nhân vì giảng hoà với nước Tề, năm ấy thân hành ang Lâm Tri (kinh thành nước Tề) để triều cống . Tề Trang công mừng lắm bày tiệc ở Bắc Bỉ để thiết đãi Lê Tị công . Phủ đệ của Thôi Trữ cũng ở Bắc Bỉ . Thôi Trữ định thừa cơ giết Tề Trang công, mới giả cách cáo ốm, không đến dự tiệc, rồi mật sai người tâm phúc đến hỏi tin Giả Thụ . Giả Thụ mật báo rằng:

- Chúa công định tiệc xong thì đến thăm quan tướng quốc .

Thôi Trữ cười mà nói rằng:

- Chúa công có nghĩ đến bệnh của ta, ta có bệnh thì chúa công càng lợi . Chẳng quan chỉ muốn đến để làm việc vô sĩ đó thôi!

Thôi Trữ lại bảo vợ là nàng Đường Khương rằng:

- Ngày nay ta muốn trừ bỏ đứa hôn quân vô đạo ấy đi, nàng chịu theo kế ta thì ta sẽ không nói đến sự xấu của nàng nữa, ngày sau lại lập con nàng làm đích tử . Nếu nàng không theo lời nói của ta thì ta chém đầu mẹ con nàng trước .

Nàng Đường Khương nói:

- Vợ thì phải theo chồng . Phu quân bảo gì mà thiếp chẳng nghe!

Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu phục quân ở hai bên cạnh nhà, Thôi Thành và Thôi Cương phục quân ở bên trong cửa, Đông Quách Yển phục quân ở bên ngoài cửa, hẹn nhau đến bấy giờ thì rung chuông làm hiệu; lại sai người mật báo cho Giả Thụ biết . Tề Trang công say mê nàng Đường Khương, quên ăn quên ngủ, không lúc nào không nghĩ đến, chỉ vì Thôi Trữ phòng giữ nghiêm mật, nên không dám thường thường đi lại . Hôm ấy nghe nói Thôi Trữ cáo ốm, thì lấy làm may lắm, thần hồn vơ vẩn bay đến với nàng Đườn Khương trong khi ngự yến với Lê Tị công, nên chỉ thù tiếp qua loa cho xong việc, rồi đi thẳng đến nhà Thôi Trữ để thăm bệnh . Người canh cửa nhà Thôi Trữ nói dối rằng:

- Quan tướng quốc tôi đau nặng quá, hiện vừa uống thuốc xong, mới đi nằm .

Tề Trang công hỏi:

- Nằm ở chỗ nào ?

Người canh cửa nói:

- Nằm ở nhà ngoài .

Tề Trang công mừng lắm, đi thẳng vào nhà trong . Bấy giờ Châu Xước, Giả Tử, công tôn Ngao và Lũ Nhân đi theo hầu . Giả Thụ bảo rằng:

- Chúa công đến đây làm gì, hẳng các ngươi đã biết, sao không đứng cả ở bên ngoài, theo vào làm gì để kinh động quan tướng quốc .

Bọn Châu Xước khen phải, liền đứng cả ở ngoài cửa . Chỉ có Giả Cử không chịu ra ngoài mà nói rằng:

- Một mình ta ở đây thì phỏng có hại gì!

Nói xong liền đứng ở nhà giữa . Giả Thụ đóng cửa giữa, rồi đi trở vào . Người canh cửa cũng đóng cửa lớn ở ngoài mà khóa chặt lại . Tề Trang công vào đến nội thất, nàng Đường Khương trang điểm rất lịch sự ra đón, nhưng chưa kịp nói một câu nào thì có thị tỳ chạy đến bảo:

- Quan tướng quốc kêu khô miệng, muốn uống nước ngọt .

Đường Khương nói với Tề Trang công rằng:

- Thiếp đi lấy nước ngọt đã, rồi sẽ đến ngay .

Đường Khương theo thị tỳ rón rén qua cửa ngang mà đi . Tề Trang công tựa bao lan đứng đợi, mãi không thấy Đường Khương ra, bỗng nghe dưới nhà có tiếng gươm giáo . Tề Trang công ngạc nhiên nói:

- Quái lạ, ở đây lại có quân sĩ hay sao!

Nói xong liền gọi Giả Thụ, không thấy Giả Thụ thưa . Được một lúc quân sĩ hai bên đổ ra . Tề Trang công kinh hãi, biết là có biến, vội vàng chạy ra cửa sau thì cửa sau đã đóng chặt rồi, Tề Trang công sức khoẻ, phá cửa mà ra, trèo lên trên một cái lầu . Đường Vô Cữu đem quân giáp sĩ vây lầu, quát to lên rằng:

- Ta phụng mệnh quan tướng quốc đến bắt dâm tặc!

Tề Trang công đứng trên lầu bảo Đường Vô Cữu rằng:

- Ta là vua nhà ngươi, nhà ngươi tha cho ta!

Đường Vô Cữu nói:

- Quan tướng quốc truyền như vậy, ta không dám trái lệnh .

Tề Trang công nói:

- Quan tướng quốc ở đâu ? ta xin thề rằng ta không làm hại gì quan tướng quốc cả !

Đường Vô Cữu nói:

- Quan tướng quốc ốm, không thể đến đây được!

Tề Trang công nói:

- Ta biết tội của ta rồi! nhà ngươi khoan cho ta được vào nhà thái miếu tự tử để tạ tội với quan tướng quốc, phỏng có nên chăng ?

Đường Vô Cữu nói:

- Chúng ta chỉ biết bắt đứa dâm tặc, chứ không biết vua là ai cả; thôi thì liệu mà tự tử ngay đi, chớ để phải chịu nhục!

Tề Trang công bất đắc dĩ phải nhảy ra cửa sổ, trèo lên hoa đài toan leo tường để chạy . Đường Vô Cữu giương cung bắn theo, trúng ngay vào đùi bên tả . Tề Trang công từ trên tường cao ngã lăn xuống đất . Quân giáp sĩ kéo đến, đâm chết Tề Trang công . Đường Vô Cữu sai người rung mấy tiếng chuông làm hiệu . Bấy giờ trời đã mờ tối, Giả Cử ở nhà giữa, lắng tai nghe thấy mấy tiếng chuông, lại thấy Giả Thụ tay cầm đèn mở cửa đi ra mà nói rằng:

- Trong nhà có giặc, chúa công sai triệu nhà ngươi, nhà ngươi vào trước đi để ta còn ra báo với bọn Châu Xước .

Giả Cử nói:

- Đưa đèn cho ta!

Giả Thụ đưa đèn cho Giả Cử, giả cách buột tay để rơi xuống đất . Đèn tắt . Giả Cử cầm kiếm đi rờ mà vào . Vào đến cửa giữa, vướng dây ngã xuống đất . Thôi Cương ở bên cửa chạy ra, giết chết Giả Cử . Bọn Châu Xước ở ngoài cửa, không biết chuyện gì cả, Đông Quách Yển giả cách thân tình, mời sang một cái nhà bên thắp đèn uống rượu cho vui; lại cho cả các người theo hầu đều được ngồi vào tiệc . Đang vui chén, bỗng nghe thấy trong nhà Thôi Trữ có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

- Chắc bây giờ chúa công ta đang uống rượu!

Châu Xước nói:

- Vậy chúa công ta không e quan tướng quốc à ?

Đông Quách Yển nói:

- Quan tướng quốc ốm nặng, còn phải e gì nữa!

Được một lúc, lại nghe có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

- Để tôi vào xem có việc gì ?

Đông Quách Yển vừa đi khỏi thì quân giáp sẽ đổ ra . Bọn Châu Xước vội vàng tìm gươm thì Đông Quách Yển đã sai người lấy trộm mất từ bao giờ rồi! Châu Xước giận lắm, trông thấy trước cửa có viên đá, liền vác lấy để đánh; chẳng ngờ Lũ Nhân vừa đi đến nơi, Châu Xước đánh lầm phải, Lũ Nhân gãy một chân . Châu Xước sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Ngao nhổ cái cọc buộc ngựa mà múa . Quân giáp sĩ nhiều người bị thương . Mọi người cầm đuốc xông vào công tôn Ngao cháy hết cả râu tóc .

Bấy giờ cừa lớn bỗng thấy mở toang, Thôi Thành và Thôi Cương lại đem quân giáp sĩ từ trong kéo ra . Công tôn Ngao giơ tay bóp gãy cánh tay của Thôi Thành . Thôi Cương cầm kích đâm chết công tôn Ngao, lại giết chết cả Lũ Nhân nữa . Châu Xước cướp được cái kich của quân giáp sĩ, quay lại để đánh . Đông Quách Yển quát to lên rằng:

- Hôn quân dâm loạn đã bị giết rồi! không can dự gì đến các ngươi cả, sao các ngươi chẳng biết lưu cái thân lại, để mà thờ vua mới ?

Châu Xước ném cái kích xuống đất mà nói rằng:

- Ta là một người đi trốn, chịu ơn của vua Tề, nay đã không cứu được vua Tề, lại làm hại Lũ Nhân, chẳng qua cũng là tại trời! ta nên liều mình báo ơn vua Tề, chứ nỡ nào tham sống để mua tiếng cười ở nước Tề và nước Tấn hay sao!

Nói xong, liền đập đầu vào tường đá . Ba bốn viên đá vỡ tung ra; đầu Châu Xước cũng vỡ . Bính Sư nghe tin Tề Trang công chết, cũng tự đâm cổ ở ngoài triều, Phong Cụ thắt cổ ở ngoài nhà . Đạc Phủ và Trương Doãn rủ nhau đến khóc Tề Trang công, đi đến nửa đường, nghe tin bọn Giả Cử chết cả, cũng đều tự sát . Vương Hà rủ Lư Bồ Quí cùng chết, Lư Bồ Quí nói:

- Chết cũng vô ích! chi bằng ta trốn đi, rồi sau sẽ liệu, may ra có một người nào phục quốc được thì ta lại tiến dẫn cho nhau .

Vương Hà nói:

- Nếu vậy thì ta cùng thề .

Thề xong, Vương Hà bỏ trốn sang nước Cử . Lư Bồ Quí sắp đi, bảo em là Lư Bồ Miết rằng:

- Chúa công đặt ra dũng tước là cần để có người hộ giá; nay ta vì chúa công mà chết, cũng không ích gì cả . Ta đi rồi, nhà ngươi cố cầu cạnh vào làm tôi Thôi Trữ và Khánh Phong để xin cho ta về, ta sẽ nhân đó mà báo thù cho chúa công, như thế thì dẫu chết cũng không uổng .

Lư Bồ Miết nhận lời . Lư Bồ Qúi liền trốn sang nước Tấn . Lư Bồ Miết xin vào làm tôi Khánh Phong . Khánh Phong dùng làm gia thần . Thân Tiên Ngu trốn sang nước Sở, sau làm quan hữu doãn ở nước Sở . Bấy giờ các quan đại phu nước Tề, nghe tin Thôi Trữ nổi loạn, đều đóng cửa đợi tin, không ai dám đến cả, chỉ có Án Anh đến thẳng tận nhà Thôi Trữ, gối đầu vào đùi Tề Trang công mà khóc . Khi Án Anh trở ra, Đường Vô Cữu bảo Thôi Trữ rằng:

- Tất phải giết Án Anh đi thì mới tránh khỏi lời phỉ báng của mọi người!

Thôi Trữ nói:

- Án Anh vốn có tiếng là người giỏi, nếu ta giết đi thì sợ mất lòng người trong nước .

Án Anh đến bảo Trần Tu Vô (cháu tằng tôn Trần Kính Trọng) rằng:

- Sao nhà ngươi không bàn lập vua mới ?

Trần Tu Vô nói:

- Thế thần nước Tề ta thì có họ Cao, họ Quốc, mà cầm quyền chính ngày nay thì có họ Thôi, họ Khánh, chứ tôi làm gì nổi !

Án Anh về, Trần Tu Vô nói:

- Loạn tặc ở trong triều, ta không nên cùng hắn đồng sự .

Nói xong, liền bỏ sang nước Tống . Án Anh lại đến nói với Cao Chỉ và Quốc Hạ . Cao Chỉ và Quốc Hạ đều nói:

- Việc ấy quyền ở họ Thôi và họ Khánh, tôi làm gì nổi!

Án Anh thở dài mà về . Khánh Phong sai con là Khánh Xá đi bắt vây cánh của Tề Trang công, đuổi giết gần hết, rồi đem xe đón Thôi Trữ vào triều . Thôi Trữ sai người triệu họ Cao và họ Quốc đến để bàn lập vua mới . Họ Cao và họ Quốc nhường quyền cho Thôi Trữ và Khánh Phong . Khánh Pong lại nhường quyền cho Thôi Trữ . Thôi Trữ nói:

- Con vua Linh Công là công tử Chử Cữu, năm nay đã lớn tuổi . Người mẹ là con gái quan đại phu nước Lỗ tên gọi Thúc Tôn Kiều Như . Lập người ấy thì nước ta có thể giao hiếu với nước Lỗ .

Triều thần đều vâng dạ xin theo . Thôi Trữ lập công tử Chử Cữu, tức là Tề Cảnh công . Bấy giờ Tề Cảnh công hãy còn nhỏ . Thôi Trữ tự lập làm hữu tướng, lại lập Khánh Phong làm tả tướng; cùng với triều thần thề ở nhà thái miếu rằng:

- Các ngươi, hễ ai không cùng lòng với họ Thôi và họ Khánh thì đã có mặt trời soi xét!

Thôi Trữ thề xong đến Khánh Phong, rồi đến họ Cao và họ Quốc . Đến lượt Án Anh, Án Anh ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

- Nếu các ngươi biết tận trung với vua để làm lợi cho nước mà tôi không cùng lòng thì đã có trời sôi xét!

Thôi Trữ và Khánh Phong đều biến sắc . Cao Chỉ và Quốc Hạ nói:

- Việc hai tướng quốc làm ngày nay, chính là việc trung vua lợi nước!

Thôi Trữ và Khánh Phong mới bằng lòng . Bấy giờ vua nước Cử là Lê Tị hãy còn ở nước Tề . Thôi Trữ và Khánh Phong phụng Tề Cảnh công hội thề với Lê Tị côg . Lê Tị công trở về nước Cử . Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu đem thi thể bọn Châu Xước và Tề Trang công cùng chôn ở Bắc Quách, giảm bớt nghi lễ, không cho giáp binh đi hộ tang, nói rằng sợ lại loạn ở dưới âm phủ! Thôi Trữ truyền cho quan thái sử Bá vào chép sử là Tề Trang công bị bệnh sốt rét mà chết . Quan thái sử Bá không nghe, chép vào thẻ rằng:

- "Ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang" .

Thôi Trữ nổi giận, giết thái sử Bá . Thái sử Bá có ba người em là Trọng, Thúc, Quí . Trọng lại chép như trước . Thôi Trữ lại giết đi . Thúc cũng chép thế . Thôi Trữ lại giế . Quí lại chép như vậy . Thôi Trữ cầm lấy cái thẻ mà bảo Qúi rằng:

- Ba anh mày đều chết cả, còn mày không sợ chết à ? Nếu mày chịu chép khác đi thì ta tha chết cho .

Quí nói:

- Chép đúng sự thực là chức phận của người làm sử, nếu trái chức phận mà sống thì chẳng thà chết còn hơn! ngày xưa Triệu Xuyên giết Tấn Linh công, quan thái sử là Đổng Hổ cho rằng Triệu Thuẫn là chính khanh mà không biết trị tội qân giặc, bèn chép rằng: "Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao" thế mà Triệu Thuẫn không lấy làm quái . Thế thì biết chức phận của người làm sử không thể bỏ được! nếu tôi không chép, trong thiên hạ tất cũng có người khác chép! tôi không chép cũng không có thể che được sự xấu của quan tướng quốc, mà lại để cho thức giả chê cười, nên tôi liều chết mà chép, xin tướng quốc cứ tuỳ ý định đọat!

Thôi Trữ thở dài mà nói rằng:

- Ta sợ nước nhà nghiêng đổ, bất đắc dĩ mà phải làm việc này! nhà ngươi dẫu chép thẳng, thiên hạ cũng xét tấm lòng cho ta!

Nói xong, liền ném cái thẻ đưa trả Quí . Quí cầm cái thẻ đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị, Quí hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói:

- Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép .

Quí đưa cái thẻ của mình chép cho Nam Sử Thị xem . Nam Sử Thị mới cáo từ mà về .

Thôi Trữ lấy việc thái sử Quí chép thẻ làm xấy hổ, mới đổ tội cho Giả Thụ mà giết đi .

Cũng trong tháng ấy, Tấn Bình công thấy nước sông đã rút xuống, lại họp chư hầu ở Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề . Thôi Trữ sai quan tả tướng là Khánh Phong đem việc Tề Trang công bị giết mà cáo với quân Tấn và nói rằng:

- Triều thần chúng tôi sợ đại quốc hỏi tội thì nguy cho xã tắc chúng tôi, cho nên đã thay đại quốc mà trừ kẻ có tội và đã lập vua mới là Chử Cữu . Từ nay xin một lòng thần phục đại quốc . Khi trước đại quốc đã chiếm đất Triều Ca thì xin đem đất ấy dâng đại quốc, ngoài ra còn có những tế khí và nhạc khí cũng xin đại quốc thu nạp cho .

Lại đem lễ vật biếu các vua chư hầu nữa . Tấn Bình công bằng lòng, rút quân về nước . Các vua chư hầu cũng đều về cả . Từ bấy giờ Tề và Tấn lại giảng hoà với nhau . Thực Xước ở nước Vệ, nghe nói Châu Xước và Hình Khóai đều chết cả, lại trở về nước Tề . Khi Vệ Hiến công (Hãn) trống sang nước Tề, vốn biét Thực Xước là người vũ dũng, bèn sai công tôn Đinh đem lễ vật đến triệu . Thực Xước lại theo Vệ Hiến công .

Năm ấy vua nước Ngô là Chư Phàn sang đánh Sở đi qua nước Sào, đem quân đánh cửa thành . Tướng nước Sào là Ngưu Thần đứng nấp ở bên cái tường thấp bắn chết Chư Phàn . Triều thần nước Ngô theo lời dặn của Thọ Mộng khi gần chết, mới lập em Chư Phàn là Dư Sái lên làm vua . Dư Sái nói:

- Anh ta không phải vì đất Sào mà chết, chẳng qua theo lời dặn của tiên vương (tro Thọ Mộng) mà cố ý liều chết, để ngôi chóng truyền đến Qui Trát (em Dư Sái) đó mà thôi!

Từ bấy giờ Dư Sái đêm nào cũng khấn trời để cầu cho mình chóng chết . Các quan đều nói:

- Người ta ai cũng muốn thọ, nay đại vương lại muốn mình chóng chết, chẳng cũng trái nhân tình lắm sao ?

Dư Sái nói:

- Vua Thái vương ta ngày xưa bỏ con lớn lập con nhỏ, mới nên được đại nghiệp, nay anh em ta bốn người, cứ theo thứ tự mà truyền ngôi cho nhau, nếu ai cũng thọ cả thì Quí Trát già mất! bởi vậy ta phải cầu cho chóng chết .

Lại nói chuyện quan đại phu nước Vệ là Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đã đuổi Vệ Hiến công (Hãn), mới lập em Vệ Hiến công lên làm vua (tức là Vệ Thương công) . Sau Ninh Thực ốmg nặng, bảo con là Ninh Hi rằng:

- Họ Ninh ta, mấy đời nay vẫn một lòng trung quân . Việc đuổi vua này là tự họ Tôn cả, chứ ta không có ý gì, thế mà người trong nước đều bảo là họ Tôn và họ Ninh đuổi vua, ta không thể nào giải tỏ ra được, còn mặt mũi nào mà trông thấy tổ phụ ở dưới đất! con làm thế nào mà đem được vua cũ về để chuộc lỗi cho ta, thế mới là hiếu tử; nếu không thì dẫu con có cúng tế, cha cũng không hưởng đâu!

Ninh Hi sụp lạy, vừa khóc vừa nói:

- Con xin cố gắng!

Ninh Hi nối cha làm chức tả tướng, từ bấy giờ có chí muốn đem Vệ Hiến công về, ngặt vì Thương Công vẫn đi dự hội với các vua chư hầu, trong nước không có biến cố gì cả; quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ lại là cừu địch với Vệ Hiến công, bởi vậy không thể làm thế nào được . Năm thứ 24 đời Chu Linh vương, Vệ Hiến công chiếm được đất Di Nghi, mới sai công tôn Đinh lẻn vào thành Đế Khâu bảo Ninh Hi rằng:

- Nhà ngươi biết đổi lại cái ý của cha mà giúp cho ta về nước thì quyền chính nước Vệ, ta giao hết cho nhà ngươi, ta chỉ giữ một việc cúng tế mà thôi .

Ninh Hi vẫn nhớ lời cha dặn, nay lại thấy Vệ Hiến công nói giao hết quyền chính cho, thì lấy làm mừng lắm, nhưng nghĩ thầm rằng: bây giờ vua Vệ đang mong về nước, cho nên dỗ ngọt ta, đến khi về rồi, lại sinh lòng khác, bấy giờ biết làm thế nào ? nay có công tử Chuyên là người hiền mà thủ tín, nếu hắn nhận cho một lời thì sau này mới không thể sai được . Nghĩ xong liền viết một tờ mật thư đưa lại cho Vệ Hiến công, đại lược nói rằng:

- "Đó là việc lớn nước nhà, một mình tôi không thể làm nổi . Người trong nước ngày nay ai cũng có lòng tin lời Tử Tiên (tên tự công tử Chuyên), nếu được công tử nhận cho một lời thì mới có thể bàn định được".

Vệ Hiến công bảo công tử Chuyên rằng:

- Ta có phục quốc được là nhờ tay Ninh Hi, vậy em nên gắng đi cho ta một chuyến .

Công tử Chuyên tuy nhận lời, nhưng vẫn nấn ná không chịu đi . Vệ Hiến công cố giục mãi . Công tử Chuyên nói:

- Thiên hạ có vua nào lại không nắm quyền chính! chúa công bảo rằng giao hết quyền chính cho Ninh Hi, tôi chắc sau này không giữ lời được, chẳng khiến cho tôi thất tín với Ninh Hi lắm sao! bởi vậy tôi không dám vâng lệnh .

Vệ Hiến công nói:

- Nay ta nương náu ở đây thì lấy đâu làm quyền chính! nếu ta giữ được việc cúng tế tiền nhân, thì cũng là mãn nguyện rồi, khi nào lại dám sai lời để lụy đến em .

Công tử Chuyên nói:

- Chúa công đã nhất quyết thì tôi nào dám từ chối để hỏng việc của chúa công .

Nói xong, liền lẻn sang Đế Khâu, vào yết kiến Ninh Hi, lại thuật cái ước của Vệ Hiến công . Ninh Hi nói:

- Nếu công tử nhận lời cho thì tôi xin hết sức!

Công tử Chuyên ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

- Nếu tôi trái lời thì không được ăn thóc của nước Vệ!

Ninh Hi nói:

- Lời thề của công tử vững như núi Thái Sơn!

Công tử Chuyên về, thuật lại cho Vệ Hiến công nghe, Ninh Hi đem lời dặn của cha nói với Cử Viên . Cử Viên bưng tai mà chạy, vừa chạy vừa nói:

- Tôi đã không dự đến việc vua đi, có đâu dám biết đến việc vua về!

Cử Viên liền bỏ nước Vệ sang ở nước Lỗ . Ninh Hi lại đem chuyện nói với quan đại phu là Thạch Ác (con Thạch Giả, cháu Thạch Tắc) và Bắc Cung Di (con Bắc Cung Quát) . Thạch Ác và Bắc Cung Di đều tán thành . Ninh Hi lại đem chuyện nói với hữu tề Cốc .

Hữu tề Cốc gạt đi mà bảo rằng:

- Không nên! lập vua mới đã mười một năm rồi, vua mới chưa có điều gì thất đức, nay định đem vua cũ về, tất phải bỏ vua mới . Nếu vậy thì cha con nhà ngươi, hai đời đều có tội cả, thiên hạ còn ai tha được nữa!

Ninh Hi nói:

- Ta chịu lời dặn của tiền nhân ta, không thể không làm việc này được .

Hữu tể Cốc nói:

- Ta thử đi yết kiến vua cũ, xem đức tính có hơn ngày xưa không, rồi mới có thể bàn được .

Ninh Hi khen phải . Hữu tể Cốc bèn lẻn sang Di Nghi, xin vào yết kiến Vệ Hiến công, Vệ Hiến công đang rửa chân, nghe tin hữu tể Cốc đến, không kịp xỏ giày, đi chân đất mà ra, hớn hở bảo hữu tể Cốc rằng:

- Nhà ngươi từ chỗ quan tả tướng (trỏ Ninh Hi) mà đến đây, tất có tin hay .

Hữu tể Cốc nói

- Tôi tiện đường sang thẳng đây, quan tả tướng không biết .

Vệ Hiến công nói:

- Nhà ngươi chỉ có việc nói giúp cho ta với quan tả tướng rằng nên mau mau làm xong việc lớn ấy đi . Quan tả tướng dẫu không muốn đem ta về, nhưng há lại không muốn được cầm quyền chính nước Vệ hay sao ?

Hữu tể Cốc nói:

- Làm vua chỉ thích vì có quyền chính trong tay, nếu không có quyền chính thì làm vua làm gì ?

Vệ Hiến công nói:

- Không phải thế! làm vua chỉ cốt được cái danh hiệu tôn qúi, ăn ngon mặc tốt, lên xe xuống ngựa, cửa cao nhà rộng, của lắm tiền nhiều, vào trong thì vui thú với đám phi tần, ra ngòai thì dong chơi về sự săn bắn, cứ gì phải có cầm quyền chính, mới là sướng hay sao!

Hữu tể Cốc nín lặng mà lui ra, lại vào yết kíên công tử Chuyên, và thuật những lời nói của Vệ Hiến công cho công tử Chuyên nghe . Công tử Chuyên nói:

- Bởi chúa công lưu lại lâu ngày, mong được về nước, cho nên nói như vậy! chứ làm vua thì cốt phải kính lễ đại thần, thu dụng hiền tài, làm việc gì phải có lòng nhân, nói câu gì phải giữ chữ tín, như vậy thì mới giữ được cái danh hiệu tôn quí . Chúa công còn lại gì mà không biết điều ấy!

Hữu tể Cốc bảo Ninh Hi rằng:

- Ta vào yết kiến chúa công, nghe câu nói thêm bẩn cả tai! chúa công vẫn giữ thói cũ .

Ninh Hi nói:

- Thế nhà ngươi có vào yết kiến công tử Chuyên hay không ?

Hữu tể Cốc nói:

- Công tử Chuyên nói phải lắm nhưng chắc chúa công không theo được!

Ninh Hi nói:

- Ta trông cậy vào công tử Chuyên, và lại ta vâng lời dặn của cha ta thuở xưa, thế nào ta cũng phải giúp!

Hữu tể Cốc nói:

- Có muốn khởi sự cũng còn phải chờ cơ hội đã .

Bấy giờ Tôn Lâm Phủ đã già, cùng với con trưởng là Tôn Khoái về ở Thích Ấp; mà để cho con thứ là Tôn Gia và Tôn Tương ở trong triều . Tôn Gia phụng mệnh Vệ Thương công sang sứ nước Tề, chỉ có một mình Tôn Tương ở nhà . Nhân bấy giờ Vệ Hiến công lại sai công tôn Đinh đến giục Ninh Hi khởi sự, hữu tể Cốc mới bảo Ninh Hi rằng:

- Nhà ngươi muốn khởi sự, nên nhân dịp này! ta bắt được Tôn Tương thì xong việc!

Ninh Hi khen phải, liền sai hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến bắt Tôn Tương . Phủ đệ của họ Tôn kiên cố lắm, không kém gì cung vua, có gia giáp một nghìn người, lại có hai viên gia tướng là Ung Thư và Chử Đái thay nhau đi tuần phòng . Hôm ấy, Chử Đái đang đi tuần, trông thấy hữu tể Cốc đem quân đến, vội vàng đóng cửa, trèo lên trên lầu đứng hỏi . Hữu tể Cốc nói:

- Ta có việc cần muốn thương nghị với Tôn tướng quân .

Chử Đái nói:

- Muốn thương nghị, sao lại đem quân đến ?

Nói xong, toan giương cung ra bắn . Hữu tể Cốc vội vàng lui lại, rồi thúc quân phá cửa . Tôn Tương cũng thân hành đứng ở trên cửa để đốc quân chống giữ . Chử Đái truyền cho quân sĩ giương cung chõ ra cửa sổ mà bắn, có mấy người chết .

Ung Thư nghe nói có giặc, cũng đem quân đến tiếp ứng .

Hữu tể Cốc biết chừng không đánh nổi, bèn rút quân trở về . Tôn Tương thúc quân đuổi theo . Khi đến nơi, Tôn Tương cầm cái câu liêm móc vào xe hữu tể Cốc mà lôi lại . Hữu tể Cốc kêu to, bảo công tôn Đinh bắn mau . Công tôn Đinh trông thấy Tôn Tương, liền giương cung ra, bắn trúng vào ngực . Ung Thư và Chử Đái vội vàng đến cứu đem về . Hữu tể Cốc về nói với Ninh Hi rằng:

- Nhà họ Tôn khó đánh lắm . Nếu không nhờ về thần tiễn của công tôn Đinh bắn trúng Tôn Tương thì hắn còn đuổi theo ta mãi .

Ninh Hi nói:

- Lần thứ nhất mà đã không đánh được hắn thì lần sau càn khó đánh nữa! nhưng đã bắn trúng được Tôn Tương thì quân sĩ tất nhiên rối loạn, đêm hôm nay ta lẻn đến mà đánh, nếu không thành công, thì phải tức khắc trốn đi, để tránh tai vạ . Ta cùng họ Tôn quyết không thể cùng sống đựơc .

Nói xong, liền một mặt sắp sửa đồ đạc, cho vợ con ra ngoài cõi trước, vì sợ thua quân, thóat thân không kịp; lại một mặt sai người đi do thám tin tức nhà họ Tôn . Quân thám tử về bảo rằng:

- Trong nhà họ Tôn, có tiếng kêu khóc . Kẻ ra người vào coi bộ bối rối lắm .

Ninh Hi nói:

- Đó tất là Tôn Tương bị thương nặng đã chết rồi!

Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Bắc Cung Di đến, nói Tôn Tương đã chết, nên đánh ngay mới được . Canh ba đêm hôm ấy, Ninh Hi cùng với Bắc Cung Di, hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến nhà họ Tôn . Ung Thư và Chử Đái đang ôm lấy thi thể Tôn Tương mà khóc, nghe báo có quân họ Ninh đến liền mặc áo giáp lên ngựa, thì quân họ Ninh đã phá vỡ lần cửa ngoài . Bọn Ung Thư vội vàng đóng cửa giữ lại, nhưng quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả, không có người chống giữ, cũng bị quân họ Ninh phá vỡ . Ung Thư trèo qua tường sau mà trốn, chạy say Thích Ấp . Chử Đái chết trong đám loạn quân .

Bấy giờ trời đã sáng rõ . Ninh Hi chém lấy đầu Tôn Tương, đem vào yết kiến Vệ Thương công mà nói rằng:

- Họ Tôn chuyên quyền đã lâu, vẫn có ý phản nghịch, tôi đã đem quân đến đánh chém được đầu Tôn Tương đây rồi .

Vệ Thương công nói:

- Họ Tôn phản nghịch, sao nhà ngươi không nói trước với ta ? Nhà ngươi đã chẳng coi ta ra gì thì còn đến yết kiến ta làm gì nữa!

Ninh Hi đứng dậy, rút gươm mà nói rằng:

- Chúa công là bởi họ Tôn lập lên, không phải là do phụng mệnh tiên quân, nay dân nước Vệ đều có lòng nhớ vua cũ, xin chúa công nhường ngôi lại, để nên được cái đức Nghiêu Thuấn .

Vệ Thương công nổi giận nói:

- Nhà ngươi tự tiện giết kẻ thế thần, toan sự bỏ vua, chính là người bề tôi phản nghịch! ta lên làm vua đã mười ba năm trời nay, thà chết thì thôi chứ không chịu nhục!

Vệ Thương công tức thì cầm giáo đuổi theo Ninh Hi . Ninh Hi lui ra ngoài công môn . Vệ Thương công trông thấy quân họ Ninh đã đứng đầy cả ở ngoài cửa, mới lùi trở lại . Ninh Hi hô quân xông lên bát Vệ Thương công . Thế tử Dốc tiến ra ngăn quân sĩ bị công tôn Đinh giết chết . Quân sĩ của Ninh Hi bắt Vệ Thương công giam lại, sau đó buộc Thương công uống thuốc độc chết .

Vệ Hiến công về thành Đế Khâu cho Ninh Hi làm tướng quốc; bọn công tôn Đinh, công tử Chuyên, Bắc Cung Di, Tề Ác, Thạch Ác, công tôn Miễn Dư, Hữu tể Cốc, Cử Viên đều được phong quan tước cả .

Riêng Thái Thúc Nghi là con Thành công, cháu Văn công không đến gặp Vệ Hiến công và không chịu nhận quan tước Hiến công phải sai người thuyết phục mãi Thái Thúc Nghi mới nghe lệnh .

Tôn Gia đi sứ ở Tề về nghe tin có biến liền không về Đế Khâu mà đến với Tôn Lâm Phủ ở Thích Ấp . Tôn Lâm Phủ, Ung Thư, Tôn Gia biết không chống nổi Vệ Hiến công liền sai người sang Tấn xin thần phục Tấn và xin Tấn đem quân đánh Vệ . Vua Tấn chỉ cho ba trăm quân sang Vệ . Ninh Hi sai tướng đem quân vây chặt ba trăm quân Tấn . Tôn Lâm Phủ bàn với Tôn Gia và Ung Thư:

- Chỉ có ba trăm quân Tấn thì làm sao chống được quân Vệ, chi bằng cứ để Ninh Hi giết hết đám quân Tấn này, Tấn Bình công sẽ căm giận mà mang đại quân diệt Vệ .

Thế là Tôn Lâm Phủ không cho người tiếp cứu quân Tấn và ba trăm quân Tấn bị tiêu diệt hoàn toàn .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 66 : Miễn Dư giết hại nhà Ninh HiThôi Trữ mắc lừa mưu Khánh Phóng

Sau khi giết chết ba trăm quân Tấn, Ninh Hi sai Thực Xước đem quân đến Thích Ấp tìm cha con Tôn Lâm Phủ hỏi tội . Tôn Khoái biết Thực Xước sức khỏe muôn người khôn địch nên phàn nàn với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nổi giận mắng Tôn Khóai rằng:

- Chỉ mới mộ tên vô danh nước Tề mà đã lo sợ hết vía thì làm sao chống lại được quân Vệ . Thôi liệu mà đem quân ra trận chiến thắng trở về .

Tôn Khóai buồn rầu mà lui ra, cùng với Ung Thư thương nghị, Ung Thư nói:

- Thực Xước một mình địch nổi muôn người, khó lòng đánh nổi, ta nên phải dùng kế mà lừa thì mới được .

Tôn Khóai nói:

- Phía tây đất Mao Thị, có một chỗ tên gọi Vi Thôn, chung quanh cây cối rậm rạp; giữa thon có một cái núi đất nhỏ, ta sai người đào hố ở trên núi, lấy cỏ phủ lên cho kín . Nhà ngươi dụ hắn đến đấy, rồi ta đóng quân ở trên núi, xỉ mắng hắn một lúc, tất nhiên hắn phải nổi giận mà xông lên đánh, tất là mắc kế của ta đó!

Ung Thư theo lời, đem quân sang đất Mao Thị, giả cách đi do dám . Khi gặp quân Thực Xước, Ung Thư làm ra dáng sợ hãi, quay đầu bỏ chạy . Thực Xước cậy có sức khoẻ, lại thấy Ung Thư ít quân, tức khắc đuổi theo . Ung Thư chạy quanh mãi về đến Vi Thôn, rồi đi tắt vào trong đám cây rậm . Thực Xước nghi trong đám cây rậm có quân phục, không dám tiến vào; bỗng thấy trên ngọn núi đất có một toán quân và một viên tướng hãy còn trẻ tuổi . Viêng tướng ấy réo tên Thực Xước mà mắng rằng:

- Mày là một đứa không ra gì ở nước Tề . Họ Loan đã xem mày như đồ bỏ, không thể dùng được; nay mày đem thân sang ăn hại nước Vệ, chẳng biết xấu hổ, lại còn thò mặt ra . Mày không biết họ Tôn ta là một nhà thế thần để tám đời rồi hay sao, mà dám xâm phạm, thật là không bằng giống cầm thú!

Thực Xước nghe nói nổi giận . Trong quân có người biết mặt Tôn Khóai, mới nói với Thực Xước rằng:

- Viên tướng ấy là con trưởng Tôn Lâm Phủ, tên gọi Tôn Khóai .

Thực Xước nói:

- Ta bắt được Tôn Khoái, tức là trừ được nửa Tôn Lâm Phủ!

Thực Xước tức thì giục ngựa thẳng tới chân núi, chẳng ngờ cả người lẫn ngựa, ngã lăn xuống hố . Tôn Khoái đã sai quân sĩ sắp sẵn cung tên, để khi Thực Xước ngã xuống thì xún lại mà bắn . Thực Xước chết ở dưới hố . Tôn Khoái dùng câu liêm kéo thi thể lên rồi cắt lấy đầu đem về nộp Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

- Bây giờ nếu nước Tấn trách ta không cứu để cho quân Tấn bị giết thì ta có lỗi, chi bằng ta giấu việc này đi mà nói là thua .

Nói xong, liền sai Ung Thư sang cáo cấp với nước Tấn . Tấn Bình công nghe tin quân Tấn bị giết, có ý giận, sai quan chính khanh là Triệu Vũ đại hội chư hầu ở đất Thiều Uyên, sắp đem quân đánh Vệ . Vệ Hiến công và Ninh Hi thân hành sang nước Tấn kể tội Tôn Lâm Phủ . Tấn Bình công bắt giam lại . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng:

- Vua Tấn vì Tôn Lâm Phủ mà bắt vua Vệ, như thế thì những đứa cường thần đều cậy quyền mà làm càn! chúa công nen sang xin với vua Tán, khiến cho trọn cái ơn khi ở Lai Thành .

Tề Cảnh công khen phải, liền sai sứ ước với Trịnh Giản công để cùng sang nước Tấn xin hộ cho vua Vệ . Tấn Bình công dẫu có ý nể, nhưng trước đã nghe lời Tôn Lâm Phủ, cho nên chưa kịp tha vua Vệ . Án Anh nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

- Nước Tấn là bá chủ thì chức phận của nước Tấn là phải đè nén kẻ cường bạo, bênh vực kẻ hèn yếu . Tôn Lâm Phủ khi trước đuổi vua, ta đã không đem quân đến đánh, nay lại còn bắt giam vua Vệ để giúp Tôn Lâm Phủ, như thế phỏng còn ai dám làm vua nữa ? ngày xưa Tấn Văn công nghe lầm lời nói của Nguyên Huyến mà bắt Vệ Thành công đem nộp thiên tử nhà Chu, thiên tử nhà Chu còn chê là trái lễ, Văn công xấu hổ mà phải tha, huống chi mình là chư hầu mà lại bắt giam vua chư hầu là nghĩa làm sao ? các ngài không biết can, thế là tư vị bề tôi mà đè nén vua, tài nào cho khỏi mang tiếng! tôi chỉ sợ nước Tấn không giữ được nghiệp bá nữa, cho nên phảii nói riêng với ngài .

Dương Thiệt Bật liền nói với Triệu Vũ để cố xin với Tấn Bình công . Tấn Bình công tha cho Vệ Hiến công về nước, nhưng vẫn không chịu tha Ninh Hi . Hữu tể Cốc bảo Vệ Hiến công đem mười hai nữ nhạc công sang dâng vua Tấn để xin chuộc Ninh Hi . Tấn Bình công bằng lòng, tha cho Ninh Hi về . Ninh Hi từ khi về, càng có ý tự phụ, việc gì cũng tự tiện quyết đoán, không bẩm mệnh Vệ Hiến công . Các quan đại phu vẫn đến họp ở nhà riêng Ninh Hi để bàn việc chính tri . Vệ Hiến công chỉ ngồi khoanh tay, không dự một việc gì cả .

Bấy giờ quan tá sư nước Tống là Hướng Thú (cháu huyền tôn của Tống Hoàn công) quen thân với Triệu Vũ nước Tấn, lại quen thân cả với quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến nữa . Hướng Thú sang sứ nước Sở, nói đến việc Hoa Nguyên nước Tống ngày xưa, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau . Khuất Kiến nói:

- Việc ấy rất hay! chỉ vì chư hầu chia rẽ mà cuộc giảng hoà không thành, bây giờ làm sao cho các thuộc quốc của Tấn và Sơ đều giao hiếu với nhau, coi nhau như một nhà, thì nạn binh đao mới có thể dẹp yên được .

Hướng Thú khen phải, liền xướng nghị vua Tấn và vua Sở hội nhau ở nước Tống để cùng nhau giảng hoà . Nước Sở từ đời Cung Vương đến bấy giờ, thường bị nước Ngô xâm nhiễu . Khuất Kiến muốn kết liên với Tấn để được chuyên một mặt chống cự nước Ngô; còn Triệu Vũ thì nhân thấy quân Sở hay sang đánh Trịnh, cũng muốn giảng hoà cho được yên việc, bởi vậy hai bên đều đồng ý sai sứ đi báo ngày hội với các thuộc quốc của mình . Khi sứ nước Tấn đến nước Vệ, Ninh Hi không báo cho Vệ Hiến công biết, mà sai Thạch Ác đi dự hội . Vệ Hiến công nghe nổi giận lắm, phàn nàn với công tôn Miễn Dư . Công tôn Miễn Dư nói:

- Tôi xin lấy lẽ phải đến trách bảo Ninh Hi .

Rồi đến bảo Ninh Hi rằng:

- Hội với chư hầu là một việc lớn, sao ngài lại không báo cho chúa công biết ?

Ninh Hi phật ý nói:

- Khi trước công tử Chuyên đã có ước với ta, ta ví như các bề tôi khác thế nào được!

Công tôn Miễn Dư về nói với Vệ Hiến công rằng:

- Ninh Hi vô lễ quá lắm, sao chúa công không giết đi .

Vệ Hiến công nói:

- Nếu khong có Ninh Hi thì sao ta được thế này! ta đã có lời ước, không nên hối lại .

Công tôn Miễn Dư nói:

- Tôi chịu ơn chúa công, không biết lấy gì mà đền lại được, xin tự đem gia thuộc trừ bỏ họ Ninh đi, nếu việc thành thì lợi cho chúa công, mà không thành thì chỉ một mình tôi chịu hại mà thôi . Vệ Hiến công nói:

- Nhà ngươi liệu mà làm, chớ để di lụy đến ta .

Công tôn Miễn Dư đến bảo hai người em họ là công tô Vô Địa và công tôn Thần rằng:

- Quan tướng quốc (trở Ninh Hi) chuyên quyền, các ngươi hẳn đã biết! chúa công ta câu nệ một chữ tín, ẩn nhẫn không chịu nói, mai sau thế lực hắn một ngày một to thì tai vạ cũng chẳng kém gì họ Tôn trước, biết làm thế nào ? công tôn Vô Địa và công tôn Thần nói:

- Sao không giết đi ?

Công tôn Miễn Dư nói:

- Ta đã nói với chúa công, nhưng chúa công không theo chi bằng chúng ta nổi lên mà giết hắn, may mà thành sự thì là phúc cho chúa công, nhược bằng không thành thì chúng ta chẳng qua cũng đến trốn sang nước khác là cùng!

Công tôn Vô Địa nói:

- Hai anh em tôi xin đi tiên phong!

Công tôn Miễn Dư xin cùng thề . Bấy giờ nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, công tôn Vô Địa bảo công tôn Miễn Dư rằng:

- Nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, tất không có phòng bị, để tôi xin thử vào trước, rồi nhà ngươi vào theo sau .

Công tôn Miễn Dư nói:

- Sao không bói xem ?

Công tôn Vô Địa nói:

- Việc tất phải làm, còn bói chi nữa!

Công tôn Vô Địa và công tôn Thần đem quân đến nhà Ninh Hi . Phía trong cửa nhà Ninh Hi xưa nay vẫn có đặt một cái cạm . Cái cạm ấy, là một cái hố sau, trên lát ván gỗ, dưới có cựa gà; hễ chạm phải cựa gà thì ván gỗ ấy bật lên mà người ngã xuống hố . Thường thì cái cạm ấy ban ngày cất đi, đêm lại đem ra, để phòng giữ quân gian .

Ngày hôm ấy, nhà Ninh Hi nhân có mở tiệc xuân yến; người nhà tụ họp cả ở nhà trong, đang xem làm trò, không có ai trông cửa, nên mới đặt cái cạm ấy để khỏi phải canh giữ . Công tôn Vô Địa không biết, chạm phải cựa gà, ngã lăn xuống hố . Người nhà Ninh Hi kinh động tranh nhau kéo ra, bắt được công tôn Vô Địa . Công tôn Thần cầm giáo đến cứu, nhưng người nhà Ninh Hi đông lắm, không thể nào địch nổi, liền bị giết chết .

Ninh Hi hỏi công tôn Vô Địa rằng:

- Ai xui nhà ngươi đến đây ?

Công tôn Vô Địa trừng mắt mắng rằng:

- Mày cậy công chuyên quyền, làm tôi không trung . Anh em ta vì nước giết mày, nay việc không thành là tại số mệnh, ai xui ta được!

Ninh Hi giận lắm, trói công tôn Vô Địa vào cột, đánh cho đến chết, rồi mới đem chém . Hữu tể Cốc nghe tin Ninh Hi bắt được quân gian, đang đêm đi xe đến để hỏi thăm . Người nhà Ninh Hi vừa mới ra mở cửa thì gặp công tôn Miễn Dư đem quân đến; công tôn Miễn Dư thưa cơ lẻn vào, chém ngay hữu tể Cốc ở bên ngoài cửa . Người nhà Ninh Hi bấy giờ náo động cả lên . Ninh Hi trong khi hoảng hốt, chưa hiểu đầu đuôi, liền hỏi:

- Người nào nổi loạn làm vậy ?

Công tôn Miễn Dư nói:

- Cả nước đều một lòng như thế, định hỏi người nào!

Ninh Hi sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Miễn Dư cầm gươm đuổi theo, chạy quanh cái cột ba vòng . Ninh Hi bị hai mũi gươm, chết ở chân cột . Công tôn Miễn Dư giết hết người nhà Ninh Hi, rồi về báo với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công truyền đem thi thể Ninh Hi và hữu tể Cốc bày ở trong triều . Công tử Chuyên nghe nói, vội vàng đi chân vào thẳng trong triêu, ôm lấy thi thể Ninh Hi mà khóc rằng:

- Không phải là chúa công thất tín, chính tại ta lừa nhà ngươi! nhà ngươi chết, ta còn mặt mũi nào đứng ở triều đình nước Vệ này nữa!

Khóc xong, lại kêu trời ba tiếng thật to, rồi về nhà, tức khắc đem cả vợ con trốn sang nước Tấn . Vệ Hiến công sai người mời ở lại . Công tử Chuyên không nghe . Khi đi đến sông Hà, Vệ Hiến công lại sai quan đại phu là Tề Ác đuổi theo mời lại . Công tử Chuyên nói:

- Muốn cho ta trở về nước Vệ . Phải làm thế nào cho Ninh Hi sống lại mới được .

Tề ác biết là không thể nói được, phải quay trở về . Công tử Chuyên trốn sang nước Tấn, ẩn ở đất Hàm Đan . Vợ chồng con cái làm nghề khâu giày để kiếm ăn, cả đời không nói gì đến chuyện nước Vệ nữa . Tề Ác về nói với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công thở dài, truyền mai táng cho Ninh Hi và hữu tể Cốc, lại muốn lập công tôn Miễn Dư làm chức chính khanh . Công tôn Miễn Dư nói:

- Tôi chưa có danh vọng gì cả, xin chúa công hãy dùng Thái Thúc Nghi .

Vệ Hiến công liền cho Thái Thúc Nghi coi giữ quyền chính . Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn .

Lại nói chuyện quan tả sứ nước Tống xướng nghị Tấn, Sở bãi binh . Bấy giờ quan chính khanh nước Tấn là Triệu Vũ, quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến, đều đến hội ở nước Tống . Các quan đại phu các nước cũng đều lục tục đến cả . Thuộc quốc của nước Tấn và Lỗ, Vệ, Trịnh theo nước Tấn đóng dinh ở phía tả . Thuộc quốc của nước Sở là Sái, Trần, Hứa theo nước Sở đóng dinh ở phía hữu . Nướg Tống là chủ .

Hai bên nghị định : cứ chiếu lệ đến kỳ triều sinh thì thuộc quốc nước Sở đến triều sinh nước Tấn, thuộc quốc nước Tấn đến triều sinh nước Sở . Còn nước lớn như Tề, Tống thì cho là ngang hàng, không thể vào số thuộc quốc . Thuộc quốc nhỏ của Tấn như Châu, Cử, Đằng, Tiết; thuộc quốc nhỏ của Sở như Đốn, Hổ, Thẩm, Mi nước nào có đủ vật lực triều sính được thì tuy ý, bằng không thì cho phụ theo với các nước lân cận . Nghị định như vậy, rồi sắp sửa làm lễ ăn thề ở cửa tây nước Tống . Khuất Kiến nước Sở mật truyền cho quân sĩ đều mặc áo giáp ở trong mình, để định đến lúc thề thì xông vào mà giết Triệu Vũ nước Tấn . Bá Châu Lê cố can, Khuất Kiến mới thôi . Triệu Vũ nghe nói quân Sở mặc áo giáp ở trong, mới hỏi Dương Thiệt Bật để nghĩ cách phòng bị . Dương Thiệt Bật nói:

- Hội thề lần này là cốt để bãi binh, nếu nước Sở làm như vậy thì nước Sở thất tín với chư hầu trước, chư hầu còn ai phục nữa . Ngài nên thủ tín, không can chi mà lo ngại!

Đến lúc sắp hội thề, Khuất Kiến nước Sở muốn vào sáp huyết trước, mới sai Hướng Thú truyền bảo cho nước Tấn biết . Hướng Thú đến dinh quân Tấn, không dám nói ra, người theo hầu phải nói thay cho Hướng Thú . Triệu Vũ nói:

- Tiên quân ta là vua Văn công ngày xưa, phụng mệnh thiên tử nhà Chu ở đất Tiễn Thổ, làm chủ chư hầu, thì sao nước Sở lại sáp huyết trước nước Tấn được ?

Hướng Thú về, thuật chuyện lại với Khuất Kiến, Khuất Kiến nói:

- Nếu nói đến vương mệnh thì nước Sở ta cũng phụng mệnh vua Huệ vương nhà Chu . Tấn và Sở ngang hàng với nhau, Tấn làm chủ đã lâu ngày nên phải nhường lại cho Sở, nếu không thì hóa ra Sở vẫn phải chịu kém Tấn, sao gọi là ngang hàng được!

Hướng Thú lại sang nói lại với Triệu Vũ . Triệu Vũ nhất định không nghe . Dương Thiệt Bật bảo Triệu Vũ rằng:

- Làm bá chủ cốt ở đức, chứ không ở thề! có đức thì dẫu sáp huyết sau, chư hầu cũng vẫn tin theo; không có đức thì dẫu sáp huyết trước, chư hầu cũng làm phản . Vả chăng hội thề lần này là chủ ý để bãi binh, mà bãi binh là một việc lợi cho thiên hạ, nếu tranh nhau sáp huyết thì phải dụng binh, dụng binh thì phải thất tín, ngài nên nhường cho Sở sáp huyết trước .

Triệu Vũ nghe lời, nhường cho nước Sở sáp huyết trước . Hai bên quyệt máu, cùng thề, rồi đâu về đấy . Quan đại phu nước Vệ là Thạch Ác đang dự hội, nghe tin Ninh Hi bị giết, không dám trở về nước Vệ, liền theo Triệu Vũ sang ở nước Tấn . Quan hữu tướng nước Tề là Thôi Trữ từ khi giết vua Trang công, lập vua Cảnh công, uy danh lừng lẫy nước Tề . Quan tả tướng là Khánh Phong, tính hay uống rượu, lại hay đi săn bắn, không mấy khi ở nhà, bởi vậy quyền chính ở tay Thôi Trữ cả . Thôi Trữ lại càng ngang ngược lắm . Khánh Phong trong lòng cũng có ý ghét . Thôi Trữ nguyên trước có hẹn với nàng Đường Khương định lập Thôi Minh là đích tử, nhưng thấy trưởng là Thôi Thành bị gãy cánh tay, không nỡ nói ra . Thôi Thành biết y, xin nhường ngôi đích tử lại cho Thôi Minh, mà xin cho mình đất Thôi Ấp để dưỡng lão . Thôi Trữ thuận cho, Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe mà nói rằng:

- Thôi Ấp tất phải để cho đích tử!

Thôi Trữ bảo Thôi Thành rằng:

- Ta muốn định đem Thôi Ấp phong cho nhà người, nhưng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe, biết làm thế nào!

Thôi Thành nói chuyện với Thôi Cương. Thôi Cương nói:

- Ngôi đích tử anh đã nhường cho, mà lại còn tiếc một chỗ Thôi Ấp hay sao ? cha ta hãy còn mà bọn Đông Quách Yển đã ngang ngược như thế; huống chi khi cha ta mất rồi thì anh em chúng ta dẫu cầu làm đầy tớ vị tất đã được!

Thôi Thành nói:

- Ta hãy nhờ quan tả tướng (tức là Khánh Phong) xin hộ cho!

Thôi Thành và Thôi Cương bèn đến nói với Khánh Phong . Khánh Phong nói:

- Thân phụ các ngươi chỉ một mực nghe lời Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu, dẫu ta có nói, cũng vị tất đã nghe . Ta e sau này bọn ấy lại làm hại thân phụ các ngươi mà thôi, sao các ngươi không trừ đi ?

Thôi Thành và Thôi Cương nói:

- Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng sức hèn tài mọn, không thể làm nổi .

Khánh Phong nói:

- Để thong thả ta nghĩ xem đã!

Thôi Thành và Thôi Cương về . Khánh Phong đem chuyện ấy nói với Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết nói:

- Họ Thôi loạn thì họ Khánh ta càng lợi chứ sao!

Khánh Phong mới nghĩ ra . Được mấy ngày nữa, Thôi Thành và Thôi Cương lại đến, kể những điều ác của Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu . Khánh Phong nói:

- Nếu nhà ngươi xử sự thì ta giúp binh khí cho .

Nói xong, liền đưa cho Thôi Thành và Thôi Cương một trăm chiếc áo giáp rất tốt và binh khí đủ số . Thôi Thành và Thôi Cương mừng lắm, đêm hôm ấy đem quân mặc áo giáp, cầm binh khí, đến phục chung quanh nhà Thôi Trữ . Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu ngày nào cũng đến yết kiến Thôi Trữ . Thôi Thành và Thôi Cương chờ khi Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu vào cửa, truyền cho quân sĩ đổ ra đâm chết . Thôi Trữ nghe tin giận lắm, vội vàng gọi người nhà thắng xe để đi thi người nhà đã bỏ trốn sạch cả rồi, chỉ còn có một người nuôi ngựa ở chuồng ngựa, liền sai người ấy thắng xe và cho một tiểu thụ giong xe, đến yết kíến Khánh Phong, kể lại việc biến ở trong nhà . Khánh Phong giả cách không biết, ngạc nhiên nói:

- Họ Thôi và họ Khánh cũng như một nhà . Mấy đứa trẻ con, sao dám càn dỡ như vậy! ngài có muốn bắt, tôi xin giúp sức .

Thôi Trữ tưởng thật, tạ ân mà nói rằng:

- Nếu ngài trừ hộ hai đứa nghiệt tử ấy để nhà họ Thôi tôi được yên ổn thì tôi xin bắt Thôi Minh phải thờ ngài làm cha .

Khánh Phong liền triệu Lư Bồ Miết đến, sai đem quân đi, rồi dặn kế riêng cho biết, để cứ theo kế đó mà làm . Lư Bồ Miết phụng mệnh, tức khắc đem quân đi ngay . Thôi Thành và Thôi Cương thấy Lư Bồ Miết đem quân đến, đóng cửa không cho vào . Lư Bồ Miết dụ rằng:

- Ta phụng mệnh qua tả tướng (tức là Khánh Phong) tới đây là để làm lợi cho các ngươi, chứ có làm hại gì nhà các ngươi đâu!

Thôi Thành bảo Thôi Cương rằng:

- Hay là quan tả tướng muốn trừ khử Thôi Minh đó chăng ?

Thôi Cương nói

- Cũng có lẽ!

Thôi Cương bèn mở cửa cho Lư Bồ Miết vào . Lư Bồ Miết vào trước, giáp sĩ kéo ồ theo sau . Thôi Thành và Thôi Cương ngăn lại không được, mới hỏi Lư Bồ Miết rằng:

- Quan tả tướng ngài dạy thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

- Thân phụ các ngươi đến kêu với quan tả tướng, quan tả tướng sai ta đi lấy đầu các ngươi .

Nói xong, truyền cho quân giáp sĩ chém lấy đầu Thôi Thành và Thôi Cương . Thôi Thành và Thôi Cương chưa kịp trả lời thì đầu đã rơi xuống đất . Lư Bồ Miết thả cho quân giáp sĩ cướp bóc trong nhà, xe ngựa, phục sức, không còn cái gì, lại đem cửa ngõ phá tan . Nàng Đường Khương sợ hãi, thắt cổ ở trong phòng mà chết; chỉ có Thoi Minh đi vắng, nên không mắc nạn . Lư Bồ Miết treo đầu Thôi Thành và Thôi Cương ở trên xe, rồi về nói lại với Thôi Trữ . Thôi Trữ trông thấy hai đầu con, vừa thương vừa giận, hỏi Lư Bồ Miết rằng:

- Chẳng hay có kinh động nội thất ta hay không ?

Lư Bồ Miết nói:

- Bẩm không, hiện người đang ngủ yên chưa dậy .

Thôi Trữ có ý mừng, bảo Khánh Phong rằng:

- Ta muốn về, ngặt vì đứa tiểu thụ này không quen giong xe, xin cho mượn một người khác .

Lư Bồ Miết nói:

- Để tôi xin giong xe hầu quan tướng quốc .

Thôi Trữ tạ ơn Khánh Phong hai ba lần, rồi lên xe trở về . Khi đến phủ, thấy cửa mở toang cả, không có một người nào, liền đi thẳng vào, đến phòng trong thì thấy nàng Đường Khương thắt cổ, hãy còn treo ở đấy . Thôi Trữ chẳng còn hồn vía nào, toan quay lại hỏi Lư Bồ Miết thì Lư Bồ Miết đã về từ bao giờ rồi! Thôi Trữ đi tìm khắp cả, không thấy Thôi Minh đâu, liền khóc oà lên rằng:

- Nay ta bị Khánh Phong đánh lừa, cửa nhà tan nát, còn sống làm chi nữa!

Nói xong, cũng thắt cổ mà chết . Nửa đêm hôm ấy Thôi Minh lẻn về phủ, lấy trộm thi thể Thôi Trữ và Đường Khương bỏ vào trong một cai áo quan, để lên xe đem ra, đào một cái huyệt ở bên cạnh tổ mộ mà chôn giấu xuống đấy . Chỉ có một mình người coi ngựa biết mà thôi, ngoài ra không ai biết cả . Chôn xong, Thôi Minh trốn sang nước Lỗ .

Khánh Phong tâu với Tề Cảnh công rằng:

- Thôi Trữ có tội giết tiên quân ta thuở xưa, vậy nên tôi phải trừ bỏ .

Tề Cảnh công chỉ ư ừ mà thôi . Từ bấy giờ Khánh Phong một mình làm tướng quốc, sai người đi triệu Trần Tu Vô trở về nước Tề . Trần Tu Vô cáo lão . Con là Trần Vô Vũ được nối chức cha .

Bấy giờ Ngô và Sở thường đánh nhau luôn . Sở Khang vương luyện tập thủy sư để sang đánh Ngô, nhưng Ngô có phòng bị, Sở không làm gì nổi, lại phải rút về . Vua nước Ngô là Dư Sái mới lên làm vua được hai năm, vốn là người cậy có sức khoẻ, hay liều chết, giận nước Sở đến đánh mình, liền sai quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung (con Vu Thần) sang dụ nước Thư Cưu là thuộc quốc nước Sở làm phản nước Sở .

Quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến đem quân đánh nước Thư Cửu . Dưỡng Do Cơ (tướng nước Sở) nói với Khuất Kiến xin đi làm tiên phong, Khuất Kiến nói:

- Tướng quân già lắm rối! Thư Cưu là một nước nhỏ, đánh tất phải được, không dám phiền đến tướng quân .

Dưỡng Do Cơ nói:

- Nước ta đánh Thư Cưu thì Ngô tất đem quân sang cứu, tôi đã nhiều lần đánh nhau với quân Ngô, biế hết tình hình, vậy xin theo đi, dẫu chết cũng thoả !

Khuất Kiến thấy Dưỡng Do Cơ nói đến chết, trong lòng cũng hơi áy náy . Dưỡng Do Cơ nói:

- Tôi chịu ơn tiên vương thuở trước vẫn muốn liều mình để báo đáp mà chưa có dịp nào, nay đầu râu đã khác xưa cả, nếu một mai ốm chết ở xó nhà, thì chẳng hóa ra ngài phụ lòng tôi lắm sao!

Khuất Kiến thấy ý Dưỡng Do Cơ đã nhất quyết mới thuận cho đi, sai quan đại phu là Tức Hoàn đi giúp . Dưỡng Do Cơ đi đến Ly Thành (kinh thành nước Thư Cưu) . Em vua Ngô là Di Muội cùng quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung đem quân sang cứu nước Thư Cưu . Tức Hoàn muốn đợi đại bih nước Sở kéo đến, rồi mới khai chiến . Dưỡng Do Cơ nói:

- Người nước Ngô chỉ giỏi nghề đánh thuỷ, nay bỏ thuyền lên cạn, mà lại không giỏi bắn cung và giong xe, ta nên nhân lúc họ mới đến mà đánh ngay đi thì có thể phá vỡ được .

Dưỡng Do Cơ tay mang cung tên, xông vào đánh trước, bắn chỗ nào thì chỗ ấy có người chết . Quân Ngô lui chạy, Dưỡng Do Cơ đuổi theo, trông thấy Khuất Hồ Dung ở trên xe, liền mắng rằng:

- Thằng giặc phản quốc kia! mày còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa!

Dưỡng Do Cơ toan bắn Khuất Hồ Dung . Khuất Hồ Dung quay xe trở lại, đi nhanh như bay . Dưỡng Do Cơ kinh sợ mà nói rằng:

- Người nước Ngô cũng tài nghề dong xe hay sao! tiếc thay ta không bắn ngay một phát!

Nói chưa dứt lời thì quân Ngô đã đem xe vay kín bốn mặt . Các tướng sĩ ở trên xe đều là những tay bắn giỏi cả, hàng vạn cung nỏ cùng bắn một lúc, Dưỡng Do Cơ chếtngay dưới trận mưa tên . Tức Hoàn chạy về báo với Khuất Kiến . Khuất Kiến thở dài mà rằng:

- Dưỡng thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) thật là muốn tìm cái chết .

Khuất Kiến liền phục quân ở Nhi Sơn, rồi sai Tử Cương đem quân đi dụ quân Ngô . Tử Cương giao chiến với quân Ngô dược hơn mười hợp thì vội vàng bỏ chạy . Khuất Hồ Dung nghi là có quân phục, không dám đuổi theo . Di Muội trèo lên chỗ cao đứng trông, không thấy quân Sở, bèn bảo Khuất Hồ Dung rằng:

- Quân Sở đã trốn hết rồi!

Di Muội liền kéo ra đuổi . Đuổi đến chân núi Nhi Sơn thì Tử Cương quay lại đánh, phục binh bốn mặt đổ ra, vây kín Di Muội lại . Di Muội cố sức đánh giải vây mà không ra nổi . May nhờ có quân Khúât Hồ Dung đến, mới phá vỡ vòng vây, đem được Di Muội ra . Quân Ngô bị thua bỏ về . Khuất Kiến liền diệt nước Thư Cưu .

Năm sau, Sở Khang vươnng lại muốn đánh Ngô, sai sứ sang mượn quân nước Tấn . Tấn Cảnh công sai em là công tôn Hàm sang giúp . Nước Ngô đem quân giữ vững cửa sông . Quân Sở không thể vào được, liền sang xâm Trịnh vì nước Trịnh lâu nay vẫn thần phục nước Tấn . Quan đại phu nước Sở là Xuyên Phong Thú, bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt ở trận tiền . Công tử Vi muốn tranh lấy để nhận công . Xuyên Phong Thú không nghe . Công tử Vi lại vào kêu với Sở Khanh vương rằng:

- Tôi đã bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt, lại bị Xuyên Phong Thú tranh mất .

Được một lúc, Xuyên Phong Thú giải Hoàng Hiệt đến nộp và cũng nói là công tử Vi muốn tranh công . Sở Khanh vương không biết quyết đóan thế nào, mới sai quan thái tể là Bá Châu Lê xét việc ấy . Bá Châu Lê tâu rằng:

- Tù nước Trịnh (trỏ Hoàng Hiệt) là quan đại phu, chứ không phải dân thường, ta hỏi tù nhân thì khắc biết .

Bá Châu Lê để Hoàng Hiệt đứng ở dưới sân, Bá Châu Lê đứng ở bên hữu, công tử Vi và Xuyên Phong Thú đứng ở bên tả, Bá Châu Lê chắp tay hướng vào công tử Vi mà bảo Hoàng Hiệt rằng:

- Ông này là công tử Vi, là em đại vương ta đó .

Lại hướng vào Xuyên Phong Thú, là quan huyện doãn ở ngoài Phương Thành! trong hai ông này, ông nào bắt được nhà ngươi, nhà ngươi phải nói thực .

Hoàng Hiệt nghe nói, hiểu ý Bá Châu Lê thiên vị công tử Vi, mới giả cách trừng mắt nhìn kỹ công tử Vi mà nói rằng:

- Tôi bị công tử bắt được .

Xuyên Phong Thú giận lắm, liền rút ngay cái giám cắm ở giá gần đó, toan đâm chết công tử Vi . Công tử Vi sợ hãi bỏ chạy Xuyên Phong Thú đuổi theo không kịp . Bá Châu Lê khuyên giải mãi, Xuyên Phong Thú mới thôi . Bá Châu Lê nói với Sở Khang vương chia đôi công ấy, rồi lại bày một tiệc rượu, bắt hai người phải giảng hoà với nhau .

Nước Việt giáp giới nước Ngô . Vua nước Việt là dòng dõi vua Vũ nhà hạ, được phong tử Vô Dư, truyền mãi cho đến Doãn Thường . Doãn Thường chăm lo chính sự, nước Việt mới cường thịnh . Nước Ngô thấy nước Việt cường thịnh, lấy làm lo lắm . Vua nước Ngô là Dư Sái lên nối ngôi, mới được bốn năm, đã đem quân sang đánh nước Việt, bắt được một người tôn tộc nước Việt, đem về chặt chân, sai giữ chiếc thuyền Dư Hoàng . Một hôm, Dư Sái đi chơi thuyền, say rượu nằm ngủ, người tôn tộc cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm chết Dư Sái, bấy giờ nội thị mới biết, liền giết người tôn tộc ấy đi . Em Dư Sái là Di Muội theo thứ tự lên nối ngôi, giao quyền chính cho Qui Trát . Quí Trát xin bãi việc chiến tranh và thông hiếu với các nước lớn . Di Muội theo lời, liền sai Quí Trát sang sứ nước Lỗ, để xét xem âm nhạc của đời Ngũ đại và của các nước; Quí Trát xem đến đâu, bình phẩm đến đấy, câu nào cũng đích đáng, người nước Lỗ phục là một tay tri âm . Sau sang sứ nước Trịnh, chơi thân với công tôn Kiều; sang nước Vệ, chơi thân với Cử Viên; sang nước Tấn, chơi thân với Triệu Vũ, Hàn Khởi và Ngụy Thư, toàn là những bậc hiền thần đời bấy giờ, xem thế cũng đủ biết Quí Trát là một người hiền đức .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 67 : Lư Bồ Quí đuổi được Khánh PhongSở Linh vương tranh làm bá chủ

Con trưởng vua Linh vương nhà Chu tên là Tấn, tên tự là Tử Kiều, vốn người thông minh trời phú, hay thổi ống sinh, theo tiếng chim phượng hoàng . Chu Linh vương lập làm thái tử . Năm mười bảy tuổi, đi chơi sông Y và sông Lạc, lúc về ốm chết . Linh vương thương xót vô cùng . Có người báo rằng:

- Chúng tôi trông thấy thái tử cưỡi con hạc trắng, đang thổi ống sinh, lại nhắn bảo cư dân nói lại với thiên tử rằng thái tử the Phù Khâu (một vị tiên) đi chơi Tung Sơn, vui vẻ lắm, thiên tử chớ nên thương nhớ .

Chu Linh vương sai đào mộ lên xem thì chỉ thấy có áo quan không, mới biết là đã lên tiên rồi . Mấy năm sau, Linh vương nằm một thấy thái tử Tấn cưỡi hạc đến đón; khi tỉnh dậy, còn nghe văng vẳng có tiếng sinh ở ngoài cửa . Linh vương nói:

- Con ta đã đến đón thi ta nên đi!

Bèn truyền ngôi cho con thứ là Quí, rồi không bệnh mà chế . Qúi lên nối ngôi, tức là Chu Cảnh vương . Năm ấy, Sở Khang vương cũng chết . Quan lệnh doãn là Khuất Kiến liền lập người em cùng mẹ với Sở Khang vương lên làm vua . Chưa được bao lâu Khuất Kiến cũng chết . Công tử Vi thay làm lệnh doãn .

Lại nói chuyện quan tướng quốc nước Tề là Khánh Phong từ khi chuyên giữ quyền chính, càng sinh ra hoang dâm vô độ . Một hôm, uống rượu ở nhà Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết sai vợ ra mời rượu . Khánh Phong trông thấy làm vừa ý, liền cùng với vợ Lư Bồ Miết tư thông, rồi gia cả quyền chính cho con là Khánh Xá, đem vợ cùng nàng hầu và của cải sang ở nhà Lư Bồ Miết . Khánh Phong tư thông với vợ Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết cũng cùng với vợ và nàng hầu của Khánh Phong tư thông, hai bên không kiêng kỵ gì nữa, nhiều khi họp nhau uống rượu đùa bỡn, khi đã say thì chung chạ lăng nhăng, các người xung quanh ai cũng phải bưng miệng mà cười . Lư Bồ Miết nói với Khánh Phong xin triệu nguời anh là Lư Bồ Quí ở nước Lỗ về, Khánh Phong thuận cho . Khi Lư Bồ Quí về đến nước Tề, Khánh Phong để cho theo hầu người con là Khánh Xá . Khánh Xá sức khoẻ hơn người, thấy Lư Bồ Quí cũng có sức khoẻ và lại khéo nói, nên có lòng yêu, bèn gả con gái là Khánh Khương cho Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí chỉ dốc một lòng báo thù cho Tề Trang công, nhưng không biết ai là người cùng lòng, mới nhân khi theo Khánh Xá đi săn, hết sức khen tài vũ dũng của Vương Hà . Khánh Xá hỏi:

- Vương Hà bây giờ ở đâu ?

Lư Bồ Quí nói:

- Hiện đang ở nước Cử .

Khánh Xá sai nguời đi triệu Vương Hà về, Vương Hà về nước, Khánh Xá cũng có lòng yêu . Từ khi Thôi Trữ và Khánh Phong nổi loạn, hai người sợ bị ám sát, nên đi đâu cũng có quân sĩ cầm giáo hộ vệ, sau thành ra lệ quen . Khánh Xá tin yêu Lư Bồ Qúi và Vương Hà, mới dùng hai người ấy cầm giáo theo hầu ở bên cạnh .

Theo lễ cũ, nhà công dọn bữa ăn cho các quan khanh và đại phu thì mỗi ngày dùng hai con gà . Bấy giờ Tề Cảnh công hay ăn chân gà, một bữa hết mấy chục con; các quan đại phu cũng đều bắt chước, thành ra gà là một món ăn quí, giá mua vọt lên, nhà bếp chi tiêu không đủ, phải sang nói với Khánh Xá để xin thêm .

Lư Bồ Quí muốn tỏ điều ác của Khánh Xá, mới xui Khánh Xá không cho, bảo rằng:

- Đồ ngự thiện (món ăn của vua) tuỳ ý mà làm, cứ gì phải gà!

Vì vậy nhà bếp lấy thịt vịt thế vào . Lũ nhà bếp lại tưởng thịt vịt không phải là đồ ngự thiện nên đã ăn vụng đi cả . Ngày hôm ấy, quan đại phu là Cao Mại (tên tự là Tử Vĩ) và Loan Táo (tên tự là Tử Nhã) ngồi hầu cơm . Tề Cảnh công trông thấy mâm cơm không có món chân gà, chỉ có xương vịt mà thôi bèn nổi giận nói rằng:

- Họ Khánh cầm quyền chính mà dám bớt ngự thiện, khinh ta đến thế là cùng!

Nói xong liền bỏ ăn mà đi ra . Cao Mại toan đến trách Khánh Phong . Loan Táo can ngăn mãi, Cao Mại mới thôi . Sau có người nói chuyện với Khánh Phong . Khánh Phong bảo Lư Bồ Miết rằng:

- Cao Mại và Loan Táo có ý giận ta, biết làm thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

- Giết thì giết đi, can chi mà sợ!

Lư Bồ Miết đem chuyện nói với anh là Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí bàn mưu với Vương Hà rằng:

- Cao Mại và Loan Táo đang giận nhau với họ Khánh, ta có thể nhờ sức được .

Đêm hôm ấy, Vương Hà đến yết kiến Cao Mại, nói với Cao Mại rằng:

- Họ Khánh đang muốn trị họ Cao và họ Loan .

Cao Mại nổi giận nói:

- Khánh Phong ngày xưa đồng mưu với Thôi Trữ để giết Trang công, nay họ Thôi đã diệt rồi, chỉ còn có họ Khánh, ta nên báo thù cho tiên quân .

Vương Hà nói:

- Tôi vẫn có chí ấy! quan đại phu mưu việc ngoài, tôi mưu việc trong, làm gì mà không nổi!

Cao Mại liền đi bàn mưu với Loan Táo định thừa cơ khởi sự . Bọn Trần Vô Vũ, Bão Quốc (cháu Bão Thúc Nha) và Án Anh đều biết cả, nhưng ai cũng ghét họ Khánh chuyên quyền, không ai chịu nói . Lư Bồ Quí và Vương Hà bói việc đánh họ Khánh, trong quẻ có câu rằng:

- "Con hổ dời huyệt con bưu thấy huyết".

Lư Bồ Quí đem đến hỏi Khánh Xá rằng:

- Có người muốn đánh kẻ thù, bói được quẻ này không biết tốt hay xấu ?

Khánh Xá nói:

- Đánh được! Hổ cùng bưu là cha con, đã phải dời huyệt và thấy huyết, còn gì mà không đánh được! chẳng hay kẻ thù là ai ?

Lư Bồ Quí nói:

- Một người trong đám hương lý .

Khánh Xá không nghi hoặc gì cả . Tháng tám năm ấy Khánh Phong đem Khánh Tự và Khánh Di đi săn bắn ở Đổng Lai; lại cho Trần Vô Vũ đi theo . Trần Vô Vũ từ biệt cha là Trần Tu Vô . Trần Tu Vô bảo rằng:

- Họ Khánh nguy đến nơi! ta e rằng nếu con cùng đi thì sẽ mắc nạn, sao không từ chối đi ?

Trần Vô Vũ nói:

- Nếu từ chối thì hắn sinh nghi, vậy nên con không dám từ chối . Để khi con đã đi rồi, thân phụ sẽ lấy cớ khác mà triệu con về .

Nói xong, liền đi thao Khánh Phong . Khi Khánh Phong đã ra đi, Lư Bồ Quí mừng lắm, nói:

- Trong quẻ bói có câu "con hổ dời huyệt" thật là nghiệm lắm!

Lư Bồ Qúi định chờ khi Khánh Xá ra tế thu thì khởi sự . Trần Tu Vô biết tin, sợ con là Trần Vô Vũ mắc nạn với Khánh Phong, liền nói dối là vợ mình ốm, sai người đi triệu Trần Vô Vũ về . Trần Vô Vũ nhờ Khánh Phong bói hộ một quẻ, nhưng trong lòng khấn thầm xin bói sự lành dữ của họ Khánh .

Khánh Phong bói xong, đoán rằng:

- Quẻ này là quẻ diệt thân . Bệnh của lão phu nhân chưa khỏi được .

Trần Vô Vũ nước mắt chảy xuống ròng ròng . Khánh Phong thương lắm, liền cho về . Khánh Tự, trông thấy Trần Vô Vũ lên xe, hỏi rằng:

- Nhà ngươi đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

- Mẹ tôi ốm, vậy nên tôi phải về .

Khánh Tự nói với Khánh Phong rằng:

- Trần Vô Vũ nói dối, chứ không phải mẹ ốm! tôi sợ trong nước có biến, tướng công nên chóng về .

Khánh Phong nói:

- Đã có con ta ở nhà, còn lo gì nữa!

Trần Vô Vũ về qua sông Hà, phá cầu mà đục thuyền ra, khíến cho Khánh Phong không có đường về, Khánh Phong vẫn không biết . Bấy giờ đã thượng thần tháng tám . Lư Bồ Qúi tụ tập quân sĩ để khởi sự . Vợ là nàng Khánh Khương (con gái Khánh Xá) hỏi rằng:

- Phu quân làm việc mà không bàn với thiếp thì tất không thành .

Lư Bồ Quí cười mà nói rằng:

- Đàn bà biết gì mà đòi dự bàn!

Nàng Khánh Khương nói:

- Phu quân không nghe nói có người đàn bà tài trí hơn đàn ông hay sao! vua Vũ vương có mười người bề tôi giỏi; trong mười người ấy có bà Áp Khương . Sao lại bảo đàn bà không dự bàn được ?

Lư Bồ Quí nói:

- Ngày xưa quan đại phu nước Trịnh là Ung Củ, đem mật mưu của vua Trịnh tiết lộ ra cho vợ là nàng Ung Cơ biết, mà đến nỗi bị giết, lại hại cả vua, ta rất lấy làm sợ .

Nàng Khánh Khương nói:

- Đàn bà phải theo chồng, chồng nói thì vợ nghe, huống chi lại có mệnh vua . Nàng Ung Cơ nghe mẹ mà hại chồng, đó là con sâu trong đám khuê các, không đáng kể .

Lư Bồ Quí nói:

- Giả sử nàng là Ung Cơ thì nàng xử thế nào ?

Nàng Khánh Khương nói:

- Giúp được thì giúp, bằng không thì thôi, cũng không tiết lộ cho ai biết .

Lư Bồ Quí nói:

- Nay chúa công ta ghét họ Khánh chuyên quyền, có bàn mưu với họ Cao và họ Loan để đuổi họ Khánh nàng, nên ta phải phòng bị, nàng chớ tiết lộ cho ai biết .

Nàng Khánh Khương nói:

- Quan tướng quốc (trỏ Khánh Phong) vừa mới đi săn có thể thừa cơ được .

Lư Bồ Quí nói:

- Ta muốn đợi đến ngày thu tế .

Nàng Khánh Khương nói:

- Thân phụ thiếp vốn người ngang ngạnh, lại đam mê tửu sắc, không có ai nói khích thì hoặc giả lại không đi, biết làm thế nào ? Thiếp xin về bên ấy cố ý ngăn lại thì việc đi tế thu tế mới xong được .

Lư Bồ Qúi nói:

- Ta đem tính mệnh mà phó thác cho nàng, nàng chớ bắt chước Ung Cơ ngày trước .

Nàng Khánh Khương đến bảo Khánh Xá rằng:

- Con nghe nói họ Cao và họ Loan định đến ngày thu tế này thì hại thân phụ, xin thân phụ chớ đi .

Khánh Xá nổi giận, nói:

- Hai họ ấy như giống cầm thú, sống chết ở trong tay ta, khi nào dám như vậy ! mà dẫu có thế nữa, ta cũng không sợ!

Nàng Khánh Khương về nói với Lư Bồ Quí . Đến kỳ tế thu, Tề Cảnh công vào làm lễ ở nhà thái miếu . Các quan đại phu đều đi theo cả . Khánh Thăng hiến tước . Quân họ Khánh đóng giữ chung quan nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi và Vương Hà cầm giáo đứng ở bên cạnh Khánh Xá, không rời một bước . Họ Trần và họ Bão, hai nhà ấy có một người coi ngựa, khéo làm trò, cho ra múa hát ở đường Ngư Ly, cố ý làm cho ngựa của Khánh Xá phải lồng chạy . Quân họ Khánh đuổi theo bắt được ngựa, rồi đem buộc một chỗ và cởi áo giáp ra, xúm lại xem làm trò .

Quân họ Cao, họ Loan, họ Trần và họ Bão họp cả ở trước cửa nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi giả cách ra ngoài, mật truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh, rồi lại trở vào, đứng ở sau lưng Khánh Xá, cầm ngược ngọn giáo, để ra hiệu cho Cao Mại biết . Cao Mại hiểu ý, sai người nhà gõ cửa ba tiếng, quân sĩ kéo ồ cả vào .

Khánh Xá kinh sợ đứng dậy . Lư Bồ Quí ở sau lưng đâm ngay một cái, trúng vào cạnh sườn . Vương Hà cầm giáo đánh vào vai bên tả, gãy hẵn bả vai . Khánh Xá trông thấy Vương Hà, liền nói:

- Thế ra chúng bay nổi loạn à ?

Nói xong, giơ tay phải cầm cái hồ rượu ném vào Vương Hà . Vương Hà chết ngay lập tức . Lư Bồ Miết truyền cho giáo sĩ bắt ngay Khánh Thăng giết đi . Khánh Xá bị thương nặng, đau quá không thể chịu được, ôm lấy cột nhà thái miếu mà rung, chuyển động cả nhà thái miếu, rồi kêu to lên một tiếng mà chết . Tề Cảnh công thấy vậy, kinh sợ toan chạy . Án Anh mật tâu rằng:

- Các quan triều thần vì tiên quân mà diệt họ Khánh để yên nước nhà, chứ không có ý gì khác cả .

Tề Cảnh công mới yên lòng, lên xe về cung . Lư Bồ Miết đem quân đi trừ họ Khánh, rồi chia giữ các cửa thành để chống nhau với Khánh Phong . Khánh Phong đi săn, về đến nửa đường, gặp người nhà đến báo tin, giận lắm, tiến quân vào phía cửa tây, nhưng trong thành canh phòng nghiêm mật, không thể phá nổi . Quân Khánh Phong dần dần bỏ trốn hết cả . Khánh Phong sợ hãi chạy sang nước Lỗ . Tề Cảnh công sai người nói với nước Lỗ, chớ nên dung nạp đứa phản nghịch . Người nước Lỗ toan bắt Khánh Phong đưa trả nước Tề . Khánh Phong nghe tin sợ hãi, chạy sang nước Ngô .

Vua Ngô là Di Muội để cho Khánh Phong ở đất Chu Phương, và cấp lương cho rất hậu, có phần hơn khi ở nước Tề, để khiến Khánh Phong dò xét tình hình nước Sở . Quan đại phu nước Lỗ là Tử Phục Hà nghe tin, báo Thúc Tôn Bảo rằng:

- Khánh Phong sang ở Ngô, lại càng giàu lắm, chẳng lẽ, trời giáng phúc cho đứa dâm nhân hay sao!

Thúc Tôn Báo nói:

- Người thiện mà giàu thì là phúc, đứa dâm mà giàu thì là hoạ . Cái họa của Khánh Phong sắp đến nơi, sao gọi là phúc được ?

Nước Tề từ khi Khánh Phong trốn thì Cao Vĩ cùng Loan Táo cầm quyền chính, mới tuyên bá tội trạng của Thôi Trữ và Khánh Phong cho người trong nước biết, rồi đem phơi thây Khánh Xá ở trong triều; lại treo giải thưởng để tìm áo quan của Thôi Trữ, hễ ai biết mà cáo tố ra thì cho một viên ngọc bích của Thôi Trữ ngày trước . Người coi ngựa nhà Thôi Trữ tham được ngọc bích, liền chỉ dẫn chỗ chôn Thôi Trữ . Đào lên thì thấy hai cái thây (Thôi Trữ và nàng Đường Khương). Tề Cảnh công toan đem cả hai cái thây ấy mà phơi ra . Án Anh can rằng:

- Hành hạ thi thể của người đàn bà là không hợp lễ .

Tề Cảnh công mới truyền đem thây Thôi Trữ căng ra giữa chợ . Người nước Tề xúm lại xem, nhiều người còn nhớ mặt, bảo nhau rằng:

- Chính là thây Thôi Trữ đó!

Các quan đại phu chia nhau các thái ấp của Thôi Trữ và Khánh Phong, thấy gia tài của Khánh Phong đều ở nhà Lư Bồ Miết, liền trị Lư Bồ Miết về tội dâm loạn, đuổi sang ở nước Bắc Yên . Lư Bồ Qúi cũng theo sang . Bao nhiêu gia tài của hai họ ấy, các quan triều thần mỗi người lấy một ít, tan nát cả, chỉ có Trần Vô Vũ không lấy một tí gì . Nhà Khánh Phong còn hơn trăm xe gỗ, các quan đại phu bàn để cho Trần Vô Vũ . Trần Vô Vũ lại đem phân phát cho người trong nước tất cả . Bởi vậy người trong nước đều ca tụng Trần Vô Vũ là người nhân đức .

Năm sau, Loan Táo chết, con là Loan Thi nối làm quan đạii phu, cùng với Cao Mại cùng cầm quyền chính . Cao Mại ghét con Cao Hậu là Cao Chỉ, và không muốn trong một nước mà hai người họ Cao đắc dụng, mới đuổi Cao Chỉ . Cao Chỉ cũng chạy sang Bắc Yên . Con Cao Chỉ là Cao Kiên chiếm giữ đất Lư Ấp . Tề Cảnh công sai quan đại phu là Lư Khâu Anh đem quân đến vây . Cao Kiên nói:

- Ta không phải làm phản, chỉ vị sợ họ Cao không có người cúng tế .

Lư Khâu Anh hứa lời lập hậu cho họ Cao . Cao Kiên bỏ trốn sang nước Tấn . Lư Khâu Anh về nói với Tề Cảnh công . Tề Cảnh công truyền lập Cao Yên để giữ việc cúng tế họ Cao . Cao Mại căm tức mà rằng:

- Sai Lư Khâu Anh đi là cốt để trừ bỏ họ Cao, nay bỏ một người lại lập một người, nào có khác gì ?

Cao Mại mật sai người giết chết Lư Khâu Anh . Các công tử như bọn Tử Sơn, Tử Thương và Tử Chu thấy vậy, đều có ý bất bình, thường thường nghị luận về việc ấy . Cao Mại giận lắm, mượn việc khác mà đuổi hết các công tử đi . Người trong nước ai cũng sợ hãi . Chưa được bao lâu, Cao Mại chết, con là Cao Cương nối làm đại phu . Cao Cương hãy còn ít tuổi, chưa được làm thượng khanh, vậy nên quyền chính nước Tề về cả một tay Loan Thi .

Bấy giờ Tấn và Sở giảng hoà, các nước đều được yên nghỉ . Quan đại phu nước Trịnh là Lương Tiêu (tên tự là Bá Hữu, con công tôn Triếp, cháu công tử Khứ Tật) đang làm thượng khanh, cầm quyền chính nước Trịnh . Lương Tiêu kiêu ngạo xa xỉ, lại thích uống rượu, mỗi bận uống rượu thường uống suốt đêm; trong khi uống rượu, không muốn tiếp một người nào, không muốn nghe một việc gì, mới sai làm một cái nhà hầm ở dưới đất, đem đồ uống rượu và nhạc khí xuống đấy để uống rượu, cả bọn gia thần đến cũng không được vào yết kiến . Một hôm đang giữa trưa, Lương Tiêu nhân khi say rượu, vào triều nói với Trịnh Giản công, định sai công tôn Hắc (tên tự là Từ Tích, con công tử Tứ, sau đổi là họ Từ) sang sứ nước Sở . Công tôn Hắc đang cùng với công tôn Hạ (tên tự là Từ Nam, con công tôn Mại) tranh nhau định lấy em gái Từ Ngô Phạm, cho nên không muốn đi xa, mới đến yết kiến Lương Tiêu để xin miễn cho việc đi sứ . Người canh cửa không cho vào mà bảo rằng:

- Quan tướng quốc đã xuống nhà hầm rồi, tôi không dám vào hầm .

Công tôn Hắc giận lắm, đêm hôm ấy cùng với Ấn Đoàn (con công tử Phong) đem quân vây nhà Lương Tiêu, rồi phóng hoả đốt cháy .

Lương Tiêu đang say rượu, người nhà vực lên xe, chạy sang đất Ung Lương (đất nước Trịnh) . Khi tỉnh rượu, nghe tin công tôn Hắc đem quân đánh mình, Lương Tiêu căm tức vô cùng . Ở Ung Lương được mấy ngày thì các gia thần dần dần kéo đến, thuật lại chuyện trong nước, nói các họ đang kết ước với nhau để chống cự họ Lương, chỉ có họ Quốc và họ Hãn là không dự vào việc ấy . Lương Tiêu mừng mà nói rằng:

- Tất thế nào họ Quốc và họ Hãn cũng có lòng giúp ta!

Nói xong, liền đem quân về đánh cửa bắc nước Trịnh . Công tôn Hắc sai cháu là Tử Đái cùng với Ấn Đoàn đem quân ra đánh . Lương Tiêu thua, trốn vào trong hàng thịt dê, bị quân Tử Đái giết chết . Bao nhiêu gia thần Lương Tiêu cũng bị giết sạch cả . Công Tôn Kiều (tên tự là Từ Sản, con công tử Phát) nghe tin Lương Tiêu chết, vội vàng đi sang Ung Lương, ôm lấy thi thể Lương Tiêu mà khóc rằng:

- Anh em cùng hại nhau! trời ơi! sao mà thảm vậy!

Công tôn Kiều thu thập thi thể bọn gia thần đem chôn chung với Lương Tiều ở thôn Đẩu Thành . Công tôn Hắc giận lắm, nói:

- Tử Sản (tức công tôn Kiều) lại vào cánh với họ Lương hay sao!

Nói đoạn toan đem quân đi đánh công tôn Kiều . Quan thượng khanh là Hãn Hổ (tên tự là Tử Bì, con công tôn Xá) can rằng:

- Từ Sản biết giữ lễ cả với người chết, huống chi là người sống! đìều lễ là gốc trong nước, giết người biết giữ lễ là không hay . Công tôn Hắc mới thôi .

Trịnh Giản công giao quyền chính cho Hãn Hổ . Hãn Hổ nói:

- Tôi không bằng Tử Sản .

Trịnh Giản công liền giao cho công tôn Kiều cầm quyền chính . Công tôn Kiều lên cầm quyền chính nước Trịnh, chính đốn pháp luật, phong tục và cách thứ làm ruộng; lại kể tội công tôn Hắc mà giết đi, đúc ra hình thư để dân biết sợ phép; lập ra hương hiệu để dân biết lỗi mình, bởi vậy người trong nước ai cũng ca tụng công đức .

Một hôm, một người nước Trịnh đi ra cửa bắc, trong khi hoảng hốt, trông thấy Lương Tiêu mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay cầm cái giáo, vừa đi vừa nói:

- Tử Đái và Ấn Đoàn hại ta, ta tất phải giết chết!

Người ấy về thuật chuyện với người khác, rồi thành bệnh ốm . Bấy giờ trong nước huyên truyền nhau, cho là hồn Lương Tiêu hiện lên, kéo nhau chạy trốn như chạy loạn . Chưa được bao lâu thì Tử Đái bị bệnh mà chết . Mấy ngày nữa Ấn Đoàn cũng chết . Người trong nước đều sợ, ngày đêm náo động . Công tôn Kiều nói với Trịnh Giản công, cho con Lương Tiêu là Lương Chỉ làm đại phu, để giữ việc cúng tế họ Lương; lại lập con công tử Gia là công tử Tiết . Từ bấy giờ người trong nước mới không huyên náo nữa . Chức hành nhân là Du Cát (tên tự là Tử Vũ) hỏi công tôn Kiều rằng:

- Lập hậu cho Lương Tiêu mà trong nước khỏi huyên náo là cớ làm sao ?

Công tôn Kiều nói:

- Phàm những đứa hung ác, khi chết đi thì hồn phách không tan được, hay làm tai làm quái, nếu có chỗ nương tựa thì không thế nữa . Ta lập hậu cho y là muốn cho y có chỗ nương tựa .

Du Cát nói:

- Nếu vậy thì lập Lương Chi mà thôi, cần gì phải lập đến công tôn Tiết, chẳng lẽ lại lo công tử Gia cũng hiện lên làm tai làm quái nữa sao ?

Công tôn Kiều nói:

- Lương Tiêu có tội, không nên lập hậu, nếu nhân việc làm tai làm quái mà lập hậu thì người trong nước tất mê hoặc về chuyện quỷ thần, cho nên ta mượn cớ khác mà lập hậu cả cho họ Lương và họ Khổng, để cho người trong nước khỏi mê hoặc .

Du Cát nghe nói, mới chịu phục là người giỏi .

Sái Cảnh công cưới con gái nước Sở là Vu thị làm vợ thế tử Ban, rồi lại tư thông với Vu thị . Thế tử Ban giận lắm nói:

- Cha đã chẳng ra gì thì con cần gì phải giữ đạo con!

Thế tử Ban lập kế nói dối đi săn, rồi cùng với mấy người nội thị tâm phúc phục sẵn ở trong phòn Vu thị . Sái Cảnh công tưởng là thế tử Ban đi vắng, liền đi thẳng vào phòng Vu thị . Thế tử Ban và mấy người nội thị đổ ra đâm chết, rồi sai người cáo với chư hầu là Sái Cảnh công ngộ cảm mà chết . Ban lại tự lập lên làm vua, tức là Sái Linh công .

Năm ấy trong cung nước Tống đang đêm thất hỏa . Các cung nữ trông thấy lửa cháy, bẩm với vợ vua Tống là nàng Bá Cơ (con gái nước Lỗ) để tránh ra nơi khác . Bá Cơ nói:

- Theo lễ thì người đàn bà, nếu không có phó mẫu ở bên cạnh thì đang đêm không được đi đâu cả . Dẫu lửa cháy dữ dội đến đâu, ta đây cũng không nên trái lễ .

Khi phó mẫu đến nơi thì Bá Cơ đã chết cháy rồi, người nước Tống ai cũng thương tiếc . Tấn Bình công thương nước Tống có cái công hợp thành mà lại bị hoả hoạn, mới họp chư hầu ở đất Thiên Uyên, quyên tiền để giúp nước Tống .

Năm thứ tư đời Chu Cảnh vương, Tấn và Sở vì khi trước hội thề ở nước Tống, nay lại định hội nhau ở đất Quắc (đất nước Trịnh). Bấy giờ công tử Vi nước Sở thấy Khuất Kiến làm lệnh doãn . Công tử Vi là thứ tử của Sở Cung vương, là người lớn tuổi hơn hết, tính tình ngang ngược ngạo mạn cậy tài không muốn ở dưới người . Công tử Vi thấy vua sở hèn yếu, việc gì cũng chuyên quyết cả; thấy Viễn Yên là người trung thực, thì vu cho tội phản nghịch, bắt đem giết đi mà cướp lấy nhà, lại giao kết với quan đại phu là Viễn Bãi và Ngũ Cử, để âm mưu làm những sự phản nghịch . Một hôm, công tử Vi đi săn, dùng tinh kỳ của vua Sở . Đi đến Vu Ấp, quan trấn thủ đất Vu Ấp là Thần Vô Vũ kể tội công tử Vi tiếm phận, thu lấy tinh kỳ cất vào kho, bởi vậy công tử Vi hơi nhụt . Đến bấy giờ công tử Vi sắp sang dự hội ở đất Quắc, liền nói với vua Sở, xin sang nước Trịnh trước, để định hỏi con gái họ Phong làm vợ . Lúc công tử Vi sắp đi, tâu với vua Sở là Hùng Mi rằng:

- Nước Sở ta đã xưng vương thì ngôi ở trên chư hầu . Phàm sứ thần nước Sở ra ngoài xin cho dùng lễ vua chư hầu, để cho các nước biết nước Sở là đấng tôn trọng .

Vua Sở thuận cho . Công tử Vi tiếm dùng nghi vệ của vua chư hầu có hai người cầm giáo đi dàn mặt . Khi đến địa giới nước Trịnh, người nước Trịnh tưởng là vua Sở, vội vàng phi báo với vua Trịnh .

Vua Trịnh sợ hãi, thân hành ra ngoài thành để nghênh tiếp, khi trông thấy, mới biết là công tử Vi . Công tôn Kiều thấy vậy, có ý ghét công tử Vi, sợ để hắn vào thành thì sinh biến, liền sai chức hành nhân là Du Cát từ chối rằng nhà công quán trong thành đổ nát, chưa kịp chữa lại, xin mời ở tạm ngoài thành . Công tử Vi sai Ngũ Cử vào trong thành để xin cưới con gái họ Phong . Vua nước Trịnh, thuận cho . Khi sắp cưới, công tử Vi lại nảy ra ý muốn đánh lẻn nước Trịnh, định mượn tiếng đón con gái họ Phong rồi sắm sửa xe cột rất nhiều để thừa cơ đánh Trịnh . Công tôn Kiều nói:

- Công tử Vi, là người bất trắc, ta phải bắt để quân sĩ ở cả ngoài thành rồi mới cho vào .

Du Cát nói:

- Để tôi ra thương thuyết với công tử Vi .

Du Cát ra yết kiến công tử Vi, nói rằng:

- Quan lệnh doãn (trỏ công tử Vi) định đem quân vào đón con gái họ Phong, nhưng thành nước tôi nhỏ hẹp, không thể dùng nổi, xin dọn một chỗ ở ngoài thành để làm lễ cưới .

Công tử Vi nói:

- Chúa công đã có lòng yêu tôi mà cho cưới con gái họ Phong, nếu lại đón ở ngoài thành sao cho thành lễ ?

Du Cát nói:

- Cứ theo như lễ thì đồ binh khí không được đem vào thành, nay quan lệnh doãn muốn dùng quân để đón dâu cho trọng thể thì nên bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử mật nói với công tử Vi rằng:

- Người nước Trịnh đã phòng bị rồi, ta bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử bèn truyền cho quân sĩ bỏ hết binh khí mà vào đón con gái họ Phong .

Lễ cưới xong, công tử Vi mới ra dự hội với chư hầu . Triệu Vũ nước Tấn cùng với các quan đại phu Tống, Lỗ, Vệ, Trần, Sái, Trịnh và Hứa đều đã có đấy cả . Công tử Vi sai người nói với Triệu Vũ rằng:

- Sở và Tấn khi trước đã hội thề với nhau, ngày nay bất tất phải sáp huyết nữa, chỉ đem hoà ước cũ mà tuyên bá lại để cho các ngài chớ quên mà thôi .

Kỳ Ngọ bảo Triệu Vũ rằng:

- Công tử Vi nói thế là có ý sợ nước Tấn ta vào sáp huyết trước, bởi vì lần trước ta nhường cho Sở, lần này Sở tất phải nhường cho ta, nếu chỉ đọc lại minh ước cũ thì bao giờ Sở cũng vẫn ở trước, ngài nghĩ thế nào ?

Triệu Vũ nói:

- Công tử Vi sang dự hội mà nghi vệ theo như vua Sở, không những chống đối với nước ngoài, mà còn có mưu gian ở trong nước, vậy ta hãy theo lời nó, để cho nó sinh kiêu .

Kỳ Ngọ nói:

- Đành vậy, nhưng lần trước Khuất Kiến cho quân sĩ mặc áo giáp ở trong để đến dự hội, may mà không xảy ra chuyện gì; nay công tử Vi lại quá hơn nữa, ngài nên phòng bị mới được .

Triệu Vũ nói:

- Việc hội chư hầu này cốt để theo cái ước bãi binh, ta chỉ biết thủ tín mà thôi, còn điều khác ta không biết .

Khi khai hội, công tử Vi xin đọc lại minh ước cũ . Triệu Vũ vâng lời . Khi tan hội, công tử Vi vội về . Các quan đại phu đều biết công tử Vi rồi sau tất nhiên làm vua nước Sở . Trong lòng Triệu Vũ vẫn lấy việc đọc lại bản ước cũ, để Sở đứng trước Tấn làm xấu hổ, sợ người ta nghị luận, mới đem cái nghĩa thủ tin, nói đi nói lại mãi cho quan đại phu các nước nghe . Khi Triệu Vũ về đi qua nước Trịnh, có quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng đi . Triệu Vũ lại nói với Thúc Tôn Báo .

Thúc Tôn Báo nói:

- Có phải tướng công cho rằng cái ước bãi binh có thể giữ được mãi không ?

Triệu Vũ nói:

- Chúng ta giữ được ngày nào hay ngày ấy, việc gì mà lo đến chuyện lâu dài .

Thúc Tôn Báo nói riêng với quan đại phu nước Trịnh và Hàn Hổ rằng:

- Triệu Vũ sắp chết đến nơi! ta nghe lời nói thấy có ý trễ biếng lắm không nghĩ gì đến chuyện lâu dài . Vả lại Triệu Vũ chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã bo bo như ông già tám mươi, còn sống lâu sao được!

Chưa được bao lâu thì Triệu Vũ quả nhiên ốm chết . Hàn Khởi thay cầm quyền chính nước Tấn .

Công tử Vi nước Sở về nước gặp Hùng Mi đang ốm ở trong cung, bèn vào cung hỏi thăm, giả cách nói có việc cơ mật, đuổi hết nội thị đi, rồi cởi giải mũ, buộc vào cổ Hùng Mi mà thắt . Một lúc thì Hùng Mi chết . Hùng Mi có hai con là Hùng Mô và Hùng Bình, nghe có biến cầm gươm vào đâm công tử Vi; nhưng công tử Vi sức khoẻ lắm, hai người không thể địch nổi, đều bị công tử Vi giết chết . Em Hùng Mi là Hùng Tị (tên tự là Tử Can) và Hùng Hắc Quang (tên tự là Tử Tích) nghe tin cha con Hùng Mi bị hại, sợ mắc tai vạ, đều trốn đi cả . Hùng Tị trống sang nước Tấn . Hùng Hắc Quang trốn sang nước Trịnh .

Công tử Vi báo tang với chư hầu rằng:

- "Vua nướcc tôi là Hùng Mi thất lộc đi, quan đại phu là công tử Vi là người thừa kế".

Ngũ Cử đổi lại rằng:

- "Các con vua Cung vương tôi thì có công tử Vi nhiều tuôi hơn cả".

Bấy giờ công tử Vi lên làm vua, đổi tên là Hùng Kiền, tức là Sở Linh vương . Sở Linh vương cho Viễn Bãi làm lệnh doãn, Trịnh Đan làm hữu doãn, Ngũ Cử làm tả doãn, Đấu Thành Nhiên làm giao doãn . Quan thái tể là Bá Châu Lê, bấy giờ đang có việc công ở đất Giáp . Sở Linh vương sợ Bá Châu Lê không phục, sai người đi giết chết, rồi cho Viễn Khải Cương làm quan thái tể . Lại lập trưởng tử là Hùng Lộc lên làm thế tử . Sở Linh vương từ khi đắc chí lại càng kiêu căng, ngang ngược, muốn làm bá chủ ở trung nguyên, sai Ngũ Cử sang nước Tấn đòi họp chư hầu; lại nghĩ con gái họ Phong hèn hạ, không đáng làm phu nhân, mới sai người sang cầu hôn ở nước Tấn, Tấn Bình công thấy Triệu Vũ mới mất, sợ thế nước Sở, không dám trái ý, điều gì cũng nghe cả . Năm ấy Trịnh Giản công và Hứa Điệu công sang nước Sở . Sở Linh vương lưu lại để đợi tin báo của Ngũ Cửu . Khi Ngũ Cửu về Sở, nói vua Tấn thuận cả hai việc . Sở Linh vương bằng lòng, sai sứ ước với chư hầu đến tháng ba năm sau thì đại hội ở đất Thân . Trịnh Giản công xin đến đất Thân trước, để nghênh tiếp chư hầu . Sở Linh vương thuận cho . Mùa xuân năm sau, chư hầu lục tục đến dự hội, chỉ có Lỗ và Vệ mượn cớ khác từ chối không đến . Nước Tống sai quan đại phu là Hướng Thú đi thay, còn các nước nhỏ như Sái, Trần, Từ và Đằng đều đến cả . Sở Linh vương đem quân đến đất Thân . Chư hầu đều lại yết kiến .

Quan tả doãn là Ngũ Cửu tâu rằng:

- Tôi nghe nói muốn làm bá chủ, tất phải được lòng chư hầu; muốn được lòng chư hầu, tất phải giữ lễ . Nay đại vương mới hội chư hầu, có Hướng Thú nước Tống và công tôn Kiều nước Trịnh đều là người biết lễ, ta càng phải nên cẩn thận mới được .

Sở Linh vương nói:

- Đời xưa, lễ hội chư hầu như thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

- Vua Khải nhà Hạ hội chư hầu ở Quân Đài, vua Thang nhà Thương hội chư hầu ở Cảnh Bạc, vua Vũ vương nhà Chu hội chư hầu ở Mạch Tân, vua Thành vương hội chư hầu ở Kỳ Dương, vua Khang vương hội chư hầu ở Phong cung, vua Mục vương hội chư hầu ở Đồ Sơn, Tề Hoàn công hội chư hầu ở Thiệu Lăng, Tấn Văn công hội chư hầu ở Tiễn Thổ . Sáu vua thiên tử và hai vua chư hầu ấy làm cuộc hội minh, đều có đặt ra lễ, tuỳ ý đại vương chọn đấy mà dùng .

Sở Linh vương nói:

- Nay ta muốn làm bá chủ thì nên dùng lễ của Hoàn công nước Tề hội chư hầu ở Thiệu Lăng, nhưng chẳng hay lễ ấy thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

- Tôi nghe nói Hoàn công nước Tề đánh được Sở lui quân về Thiệu Lăng . Nước Sở sai quan đại phu Khuất Hòan sang quân Tề . Vua Hoàn công dàn quân tám nước để cho Khuất Hoàn biết là Tề cường thịnh, rồi mới họp chư hầu cùng với Khuất Hoàn cùng thề . Nay chư hầu mới phục, đại vương cũng nên phô trương thế lực, khiến cho chư hầu sợ hãi, không còn nước nào dám trái mệnh nữa .

Sở Linh vương nói:

- Ta muốn dùng binh để ra uy với chư hầu, bắt chước như việc Hoàn công nước Tề đánh Sở khi xưa, chẳng hay trước hết nên đánh nước nào ?

Ngũ Cửu nói:

- Khánh Phong nước Tề giết vua, trốn sang nước Ngô; nước Ngô đã không trị tội lại cấp lương vào cho ở đất Chu Phường, khiến cho hắn lại giàu có hơn trước, bởi vậy người nước Tề oán giận lắm! nước Ngô là cừu địch với ta, nếu ta mượn tiếng hỏi tội Khánh Phong mà đem quân đánh Ngô thì thật là nhất cử lữơng đắc .

Sở Linh vương khen phải, liền dàn quân để doạ chư hầu, rồi hội thề ở đất Thân . Sở Linh vương thấy mẹ vua nước Từ là con gái nước Ngô, nghi vua Từ cùng cánh với nước Ngô, bắt giam lại trong ba ngày . Vua Từ xin đi hướng đạo để đánh Ngô . Sở Linh vương mới tha cho rồi sai quan đại phu là Khuất Thân, đem quân chư hầu đi đánh Ngô, vây đất Chu Phương, bắt KhánhPhong và giết hết gia thuộc . Khuất Thân nghe nói người nước Ngô có phòng bị, liền thu quân về, đem Khánh Phong nộp Sở Linh vương, Sở Linh vương toan giết Khánh Phong để tuyên bá cho chư hầu biết .

Ngũ Cửu can rằng:

- Mình không có điều gì trái thì mới để tội người khác được, nếu ta giết Khánh Phong thì tất thế nào hắn cũng quai mồm kể xấu ta .

Sở Linh vương không nghe, truyền trói Khánh Phong đem ra trước hàng quân, kề dao vào cổ, rồi bắt Khánh Phong phải tự mình kể tội mình rằng: "quan đại phu các nước nghe ta nói: chớ ai như Khánh Phong nước Tề, giết vua đi rồi hiếp con mồ côi mà hội thể với các quan đại phu".

Khánh Phong quát to lên rằng:

- Quan đại phu các nước có nghe ta nói: "Chớ ai như thứ tử Sở Cung vương, tên là Vi, giết vua là Hùng Mi, rồi cướp lấy ngôi vua mà hội thề với chư hầu".

Các người đứng xem, đều bưng miệng cười . Sở Linh vương hổ thẹn, truyền giết ngay Khánh Phong . Sở Linh vương tự đất Thân trở về nước Sở, thấy Khúât Thân ở đất Chu Phương đã rút quân trở về, không chịu tiến binh, liền nghi là tư thông với Ngô, bắt đem giết đi, rồi cho Khuất Sinh (con Khuất Kiến) thay làm quan đại phu . Viễn Bãi sang nước Tấn đón nàng Cơ thị về, lập làm Sở Linh vương phu nhân . Năm ấy, vua Ngô là Di Muội đem quân đánh Sở, tiến vào đất Cúc, đất Linh và đất Ma, để báo thù trận đánh ở Chu Phương . Sở Linh vương giận lắm, đem quân chư hầu sang đánh Ngô .

Vua nước Việt là Doãn Thường giận nước Ngô hay sang quấy nhiễu, cùng quan đại phu là Thường Thọ Qúa đem quân đến hội với nước Sở . Tướng nước Sở là Viễn Khải Cương đi tiên phong, đem quân thủy đến Thước Ngạn, bị người nước Ngô phá vỡ . Sở Linh vương thân hành đem đại quân đến đất La Nhuế . Vua Ngô là Di Muội sai người em họ là Quệ Do đến khao thưởng quân sĩ nước Sở . Sở Linh vương giận lắm, bắt Quệ Do, toan giết để lấy máu bôi vào mặt trống trận nhưng sai sứ giả ra hỏi trước một câu rằng:

- Khi nhà ngươi sang đây, có bói xem tốt xấu thế nào không ?

Quệ Do nói:

- Bói được qủe tốt lắm!

Sứ giả nói:

- Đại vương ta định lấy máu nhà ngươi đem bôi mặt trống, còn tốt về nỗi gì!

Quệ Do nói:

- Nước tôi chỉ bói việc chung của nhà nước chứ có bói sự xấu tốt riêng của một người đâu! chúa công tôi sai tôi sang tới đây khao thưởng quân sĩ là để dò xem đại vương nóng nảy hay là khoan hoà mà nghĩ cách đối đãi . Đại vương vui vẻ mà nghênh tiếp sứ thần thì nước tôi sinh lòng trễ biếng, tất có ngày phải suy mất; nếu dùng máu sứ thần mà bôi mặt trống, thì nước tôi biết là đại vương căm tức, mà hết sức phòng bị thì chắc là đủ sức để chống với đại vương, còn gì tốt hơn điều ấy!

Sở Linh vương nói:

- Người ấy thật là hiền sĩ!

Nói xong, liền tha cho về, Sở Linh vương đem quân đến địa giới nước Ngô, thấy nước Ngô phòng bị nghiêm mật lắm, không thể đánh nổi, liền rút quân về . Bây giờ Sở Linh vương mới thở dài mà nói rằng:

- Ngày trước ta giết oan Khuất Thân!

Sở Linh vương từ khi về nước, xấu hổ về việc đánh trận vô công, mới bày ra việc thổ mộc, muốn đem của cải và công binh để khoe với chư hầu . Sở Linh vương truyền làm một cái cung gọi là cung Chương Hoa, dài rộng bốn mươi dặm; ở giữa xây một cái đài cao, trông ra bốn mặt, gọi là Chương Hoa đài, cũng gọi là Tam Hưu đài .

Trong cái cung ấy cửa nhà rất là mỹ lệ, cho dân chúng ở chung quanh . Bao nhiêu kẻ có tội trốn đi, đều gọi cho về ở đấy . Khi làm xong cái cung ấy, Sở Linh vương sai sứ đi triệu chư hầu đến để khánh thành .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 68 : Tấn Bình công thích nghe âm nhạcTrần Vô Vũ chịu phóng gia tài

Sở Linh vương có tính thiên là yêu người lưng nhỏ . Bất cứ trai gái, phàm người nào vòng lưng thô lớn thì Sở Linh vương ghét, không muốn nhìn . Khi đã dựng xong cung Chương Hoa, liền truyền những gái đẹp có vòng lưng nhỏ, cho vào ở đấy, lại đặt tên là Tế Yêu cung . Các cung nhân muốn được Linh vương yêu, đều ăn ít hoặc nhịn đói để cho lưng nhỏ lại, thậm chí có người đói quá, đến nỗi chết mà cũng đành . Người trong nước bắt chước, đều cho lưng to là xấu, không ai dám ăn no; dẫu các quan trong khi triều, cũng dùng dây nịt thắt chặt lại để cho vua khỏi ghét . Linh vương luôn ở Tế Yêu cung, ngày đêm uống rượu mua vui, tiếng ca tiếng nhạc không lúc nào ngớt . Một hôm, Linh vương đang uống rượu ở trên đài, bỗng thấy ở dưới đài có tiếng huyên náo, lúc sau thì Phan Tử Thần điệu một viên quan đến trước mặt nhà vua Linh vương nhìn xem ai thì là quan trấn thủ ở Vu Ấp tên gọi Thân Vô Vũ . Linh vương kinh hãi hỏi cớ gì .

Phan Tử Thần nói:

- Thân Vô Vũ không phụng mệnh mà dám tự tiện vào chốn vương cung, bắt tên lính canh, thế là một người vô lễ, vậy nên tôi bắt giải tới đây, để đại vương trị tội .

Linh vương hỏi Thân Vô Vũ rằng:

- Nhà ngươi bắt ai vậy ?

Thân Vô Vũ nói:

- Tôi bắt một tên lính canh của tôi . Nguyên trước tôi sai nó canh cửa, nó lấy trộm tửu khí của tôi, rồi trèo tường trốn đi; tôi tìm đã hơn một năm nay mà không bắt được, bây giờ nó sung vào làm lính canh ở đây, vậy nên tôi bắt .

Linh vương nói:

- Hắn đã làm lính canh ở đây thì nhà ngươi nên tha cho hắn .

Thân Vô Vũ nói:

- Tôi nghe nói trong một nước có người trên kẻ dưới, kẻ dưới có phục tùng người trên thì nước mới khỏi loạn . Tôi có một tên lính canh cửa mà tôi không thi hành được pháp lệnh, khiến nó ẩn núp vào chỗ vương cung . Một đứa như vậy mà có chỗ ẩn núp, thì trộm cướp sẽ hoành hành còn ai ngăn cấm được nữa . Chẳng thà tôi chịu tội chết, chứ không dám vâng mệnh .

Sở Linh vương khen phải, liền bắt tên lính ấy giao giả Thân Vô Vũ và xá cái tội tự tiện vào chốn vương cung . Thân Vô Vũ lạy tạ, lui ra .

Qua mấy ngày nữa, quan đại phu nước Sở là Viễn Khải Cương sang nước Lỗ, mời được Lỗ Chiêu công đến nước Sở . Linh vương mừng lắm . Viễn Khải Cương tâu rằng:

- Vua Lỗ lúc trước không chịu đi, tôi đem cái tình hoà hiếu của Lỗ Thành công khi trước với quan đại phu nước ta là Anh Tề hai người cùng nhau hội thề ở đất Thục, mà kể lại hai ba lần và lấy nạn binh đao ra dọa, bấy giờ vua Lỗ mới sợ mà phải đi . Vua Lỗ là người hiểu lễ phép lắm, xin đại vương phải lưu tâm, chớ để cho vua Lỗ chê cười .

Linh vương hỏi:

- Vua Lỗ là người thế nào ?

Viễn Khải Cương nói:

- Vua Lỗ mặt trắng mình cao, râu dài hơn thước, rất là uy nghi .

Sở Linh vương liền mật truyền chọn lấy mười người to lớn râu dài, cho đội mũ mặc áo thật đẹp bắt tập lễ trong ba ngày, rồi sai làm chức thấn tướng, để ra tiếp kiến Lỗ Chiêu công .

Lỗ Chiêu công thoắt thấy thì lấy làm lạ, trong lòng tấm tắc mãi bèn cùng với người ấy vào chơi cung Chương Hoa . Khi vào đến cung Chương Hoa, Lỗ Chiêu công trông thấy lâu đài mỹ lệ, thì khen ngợi không ngớt mồm! Sở Linh vương hỏi rằng:

- Bên quí quốc có cái cung nào đẹp như thế này không ?

Lỗ Chiêu công đứng khúm núm mà đáp lại rằng:

- Nước tôi nhỏ mọn có đâu dám sánh với quí quốc .

Sở Linh vương không khỏi lộ vẻ tự kiêu, bèn cùng với Lỗ Chiêu công trèo lên Chương Hoa đài . Đài cao chót vót, mỗi tầng lại có một bọn mỹ đồng múa hát và chuốc rượu; khi lên đến tầng cao nhất, tiếng tơ tiếng trúc, nghe văng vẳng như ở lưng chừng trời, chẳng khác gì một nơi thiên tiên động phủ . Lỗ Chiêu công uống rượu say, cáo từ lui ra . Sở Linh vương đem một cái cung Đại Khuất đưa tặng Lỗ Chiêu công. Hôm sau, Sở Linh vương nghĩ đếnc cái cung ấy, lại có ý tiếc mới nói chuyện với Viễn Khải cương . Viễn Khải Cương nói:

- Tôi xin báo vua Lỗ trả lại cái cung ấy .

Viễn Khải Cương liền đến yết kiến Lỗ Chiêu công, giả cách không biết mà hỏi rằng:

- Hôm qua nhà vua ngự tiệc với đại vương tôi, đại vương tôi có tặng nhà vua cái gì không ?

Lỗ Chiêu công đưa cái cung cho Viễn Khải Cương xem . Viễn Khải Cương trông thấy cái cung, sạp lạy mà chúc mừng, Lỗ Chiêu công nói:

- Làm gì một cái cung mà phải chúc mừng ?

Viễn Khải Cương nói:

- Cái cung này có danh tiếng lắm . Khi trước Tề, Tấn và Việt đều sai người đến cầu, mà đại vương tôi vẫn không cho ai cả, ngày nay lại đưa tặng nhà vua, tất thế nào Tề, Tấn và Việt cũng có lòng ghen tức; qúi quốc nên phòng bị ba nước kia mà giữ lấy của báu này, vậy tôi xin chúc mừng .

Lỗ Chiêu công có ý buồn mà nói rằng:

- Tôi không biết cái cung này qúi đến thế, nếu vậy thì tôi không dám nhận .

Lỗ Chiêu công liền sai người đem cái cung ấy trả lại Sở Linh vương, rồi cáo từ về . Ngũ Cử nghe thấy chuyện ấy, thở dài mà nói rằng:

- Đại vương ta khó lòng mà toàn được! vì viẹc khánh thành, sai sứ đi triệu chư hầu, không nước nào chịu đến, chỉ có một mình nước Lỗ, mà lại còn tiếc một cái cung để thất tín với người ta . Đã tiếc của mình như thế tất muống lấy của người, tài nào không có kẻ thù oán, giữ sao cho toàn được !

Tấn Bình công nghe tin nước Sở vì việc khánh thành cung Chương Hoa mà sai sứ đi triệu chư hầu mới bảo các quan đại phu rằng:

- Sở là một nước rợ mọi mà còn biết đem lâu đài mỹ lệ khoe với chư hầu, huống chi nước Tấn ta lại chịu kém hay sao!

Quan đại phu là Dương Thiệt Bật nói:

- Bá chủ mà được chư hầu tâm phục là cốt ở đức, chứ không ở lâu đài . Cung Chương Hoa là một điều dở của nước Sở, sao chúa công lại muốn bắt chước ?

Tấn Bình công không nghe, liền sai dựng một cái cung ở bên sông Phần, thuộc địa giới Khúc Ốc, làm theo kiều cung Chương Hoa nước Sở, to lớn không bằng, nhưng tinh xảo thì có phần hơn, đặt tên là Kỳ cung; cũng sai sứ đi bá cáo chư hầu . Các vua chư hầu nghe tin ấy, đều lấy làm chê cười, nhưng cũng phải sai sứ đến chúc mừng . Chỉ có Trịnh Giản công khi trước sang dự hội với Sở Linh vương, chưa đến triều nước Tấn bao giờ và Vệ Linh công mới lên nối ngôi cũng chưa đến triều nước Tấn, hai vua ấy đều định nhân việc khánh thành Từ Kỳ cung để thân hành đến yết kiến Tấn Bình công . Vệ Linh công đi đến sông Bộc Thủy, trời tối, nằm ngủ ở quán xá . Đêm hôm ấy, nằm mãi không ngủ được, nghe văng vẳng có tiếng đàn cầm, liền khóac áo trở dậy, ngồi tựa gối mà nghe . Tiếng đàn ty tỷ rất nhỏ mà có thể nghe rõ được, xưa nay chưa có ai gảy được như thế! Vệ Linh công hỏi các người xung quanh thì đều tâu là không nghe thấy tiếng gì cả .

Vệ Linh công vốn là người thích âm nhạc có quan thái sư tên là Quyên, tinh nghề âm nhạc, Vệ Linh công yêu lắm, đi đâu cũng đem đi theo, bấy giờ sai người triệu Sư Quyên (tức là quan thái sư tên là Quyên) . Sư Quyên đến . Tiếng đàn vẫn chưa dứt, Vệ Linh công bảo Sư Quyên rằng:

- Nhà ngươi thử lắng tai nghe, tựa hồ tiếng ma qủi .

Sư Quyên nghe một hồi lâu thì tiếng đàn im .

Sư Quyên nói:

- Tôi đã nhận được đại lược rồi . Nếu nghe thêm một đêm nữa thì tôi có thể gảy được .

Vệ Linh công truyền ở thêm lại một đêm nữa . Nửa đêm hôm ấy, lại nghe có tiếng đàn . Sư Quyên lấy đàn cầm mà tập gảy theo, bắt chước được hết cái thần diệu của tiếng đàn . Khi đến nước Tấn, triều kiến xong rồi, Tấn Bình công bày tiệc ở trên đài Từ Kỳ để thết đãi Vệ Linh công .

Rượu đã ngà ngà say, Tấn Bình công nói với Vệ Linh công rằng:

- Tôi vẫn nghe noi nước Vệ có Sư Quyên là người tinh nghề âm nhạc, chẳng hay nhà vua có cho theo đó không ?

Vệ Linh công nói:

- Hiện đang đứng ở dưới đài .

Tấn Bình công nói:

- Cho gọi lên đây .

Vệ Linh công bèn cho gọi Sư Quyên lên . Tấn Bình công cũng cho gọi Sư Khoáng đến . Người hầu tức khắc dắt Sư Khoáng đến . Sư Quyên và Sư Khoáng hai người chào nhau . Tấn Bình công cho Sư Khoáng ngồi, rồi bảo Sư Quyên ngồi ở bên cạnh Sư Khoáng, và hỏi Sư Quyên rằng:

- Độ này có khúc âm nhạc nào mới không ?

Sư Quyên nói:

- Mới rồi trong khi đi đường, tôi có được nghe một khúc đàn, xin cho tôi mượn cây đàn cầm để gảy .

Tấn Bình công sai người bắc ghế, đem một cây đàn cầm để ở trước mặt Sư Quyên . Sư Quyên lên dây gảy . Mới gảy được mấy tiếng, Tấn Bình công đã khen hay . Khi gảy đến nửa chừng, Sư Khóang lấy tay gạt đi mà bảo rằng:

- Thôi thôi, khúc nhạc vong quốc ấy chớ nên gảy!

Tấn Bình công nói:

- Tại sao biết ?

Sư Khoáng nói:

- Về cuối đời nhà Ân, có Sư Diên là quan âm nhạc, cùng với vua Trụ làm ra khúc nhạc uỷ mị, vua Trụ nghe lấy làm thích lắm, tức là khúc này . Đến khi Vũ vương ta đánh vua Trụ, Sư Diên ôm đàn chạy về phía đông, nhảy xuống sông Bộc Thuỷ . Từ bấy giờ có ai thích âm nhạc đi qua đấy thì lại có tiếng đàn văng vẳng ở dưới nước . Khúc này Sư Quyên nghe được ở trong khi đi đường, tất là khúc đàn ở trên sông Bộc .

Vệ Linh công nghĩ thầm lấy làm lạ . Tấn Bình công lại bảo Sư Khóang rằng:

- Đó là âm nhạc của đời trước, dẫu gảy nghe chơi, phỏng có hại gì!

Sư Khoáng nói:

- Vua Trụ vì mê khúc đàn ấy mà đến nỗi mất nước, đó là một thứ âm nhạc bất tường, vậy chớ nên gảy .

Tấn Bình công nói:

- Ta thích nghe âm nhạc mới, Sư Quyên hãy vì ta gảy nốt khúc đàn ấy .

Sư Quyên lại lựa dây rồi gảy nốt khúc đàn ấy . Tiếng đàn êm ái, lên bổng xuống trầm, như than như khóc .

Tấn Bình công bằng lòng, hỏi Sư Khoáng rằng:

- Khúc đàn này là điệu gì ?

Sư Khoáng nói:

- Đó là điệu Thanh thương .

Tấn Bình công nói:

- Điệu Thanh thương nghe bi ai như thế à ?

Sư Khoáng nói:

- Điệu Thanh thương dẫu bi ai, cũng chưa bằng điệu Thanh chuỷ .

Tấn Bình công nói:

- Nhà ngươi có thể gảy cho ta nghe điệu Thanh chuỷ được không ?

Sư Khoáng nói:

- Không nên! ông vua có đức mới được nghe điệu ấy, nay chúa công bạc đức, không nên nghe .

Tấn Bình công nói:

- Ta thích nghe âm nhạc mới, nhà ngươi chớ nên chối từ .

Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy . Mới gảy được một khúc, thì có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi . Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con . Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời . Tấn Bình công vỗ tay mà khen . Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi, lấy làm sự lạ . Tấn Bình công truyền lấy chén bạch ngọc, rót đầy rượu vào, rồi đứng dậy cầm đưa cho Sư Khoáng . Sư Khoáng đỡ lấy uống .

Tấn Bình công khen rằng:

- Âm nhạc đến như điệu Thanh chuỷ thì không còn gì hơn nữa!

Sư Khóang nói:

- Còn chưa bằng điệu Thanh dốc .

Tấn Bình công ngạc nhiên mà hỏi rằng:

- Lại còn có điệu hay hơn Thanh thuỷ nữa! sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt ?

Sư Khóang nói:

- Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy . Ngày xưa vua Hoàng đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc; vua đời sau đức bạc, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau . Nếu bây giờ gảy khúc ấy thì các thần lại hiện xuống cả, không khéo thì có tai vạ .

Tấn Bình công nói:

- Ta nay đã già rồi, nếu được nghe điệu Thanh dốc mà chết thì cũng thoả lòng!

Sư Khóang nhất định không chịu gảy . Tấn Bình công đứng dậy, hai ba lần cố ý nài ép . Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ômg cầm mà gảy . Mới gảy một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên; gảy khúc nữa thì bỗng nổi một cơn dông, bao nhiêu ngói ở trên nóc điện bay tung lên và cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi mưa như trút nước . Dưới đài ngập mấy thước, trong đài chỗ nào cũng ước cả, Tấn Bình công sợ hãi, cùng với Vệ Linh công nằm phục vào một nơi . Khi mưa gió đã im lặng rồi, nội thị mới vực Tấn Bình công và Vệ Linh công ở trên đài xuống . Đêm hôm ấy, Tấn Bình công vì sợ mà thành bệnh, nằm mộng thấy một vật sắc vàng, to bằng cái xe, lù lù đến trước mặt . Trông kỹ ra thì hình như con ba ba, phía trước hai chân, phía sau một chân, đi dến đâu thì nước tuôn ra đến đấy . Tấn Bình công kêu lên một tiếng, rồi giật mình tỉnh dậy .

Sáng hôm sau, các quan vào cung vấn an . Tấn Bình công kể chuyện chiêm bao cho các quan nghe . Các quan đều không hiểu ra làm sao cả . Được một lúc, nghe báo có Trịnh Giản công đến, hiện đã ở ngoài công quán . Tấn Bình công sai Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến . Dương Thiệt Bật mừng mà nói rằng:

- Nếu vậy thì cái mộng của chúa công có thể đóan ra được .

Các quan đều xúm lại hỏi cớ . Dương Thiệt Bật nói:

- Quan đại phu nước Trịnh là Tử Sản (tên tự của công tôn Kiều) vốn người học rộng biết nhiều, tất thế nào vua Trịnh cũng cho người ấy đi theo . Ta sẽ đem mộng của chúa công ta mà hỏi người ấy .

Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến Trịnh Giản công và nói cho Trịnh Giản công biết là vua Tấn có bệnh, không thể ra tiếp kiến được . Bấy giờ Vệ Linh công cũng vì sợ mà hơi mệt trong mình, mới cáo từ về nước . Trịnh Giản công cũng cáo từ xin về, cho công tôn Kiều ở lại, để hỏi han bệnh tình của Tấn Bình công . Dương Thiệt Bật hỏi công tôn Kiều rằng:

- Chúa công tôi nằmg mộng thấy một vật hình như con ba ba, mình vàng mà ba chân, không hiểu là thế nào ?

Công tôn Kiều nói:

- Ngày xưa vua Nghiêu sai ông Cổn đi trị thuỷ, ông Cổn làm không được việc, vua Nghiêu mới chặt một chân mà đem đầy ra Đông Hải . Về sau, hồn ông Cổn hóa làm con rồng vàng . Từ khi con ông Cổn là Vũ lên nối ngôi, cho đến bây giờ vẫn tế thần ấy; nhà Chu suy đồi, quyền chính ở bá chủ, bá chủ nên giúp thiên tử để tế các thần, hoặc giả vua Tấn bấy giờ chưa tế thần ấy chăng ?

Dương Thiệt Bật đem lời công tôn Kiều tâu lại với Tấn Bình công . Tấn Bình công sai quan đại phu là Hàn Khởi đi tế thần Cổn, bấy giờ bệnh mới hơi bớt . Tấn Bình công khen công tôn Kiều rằng:

- Tử Sản thật là một người bác vật!

Khi công tôn Kiều sắp về nước Trịnh, thì nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

- Nhà vua không biết thương dân mà lại bắt chước sự xa xỉ của nước Sở, thế là cái tâm đã thiên đi rồi, nếu cơn bệnh trở lại, thì không cứu được nữa! mới rồi, tôi nói chuyện thần Cồn là muốn mượn chuyện ấy để khiến cho nhà vua được nguôi lòng đó mà thôi .

Bấy giờ có người hành khách đang buổi sáng sớm đi qua đất Ngụy Du (đất nước Tấn), nghe ở dưới chân núi có tiếng mấy người họp bàn việc nước Tấn; khi tới gần, nom kỹ thì chẳng thấy người nào cả, chỉ có hơn chục viên đá mà thôi . Đi khỏi rồi, lại nghe thấy như trước . Người ấy vội vàng ngảnh cổ lại thì ra tiếng nói ở trong viên đá mà ra, mới giật mình kinh sợ, rồi thuật chuyện lại cho người ở đấy biết . Người bản xứ nói:

- chúng tôi nghe thấy đá nói đã mấy ngày nay rồi, chỉ vì chuyện quái dị nên không dám nói đến .

Sau có tiếng đồn đến Giáng Đô (kinh thành nước Tấn). Tấn Bình công triệu Sư Khóang đến mà hỏi rằng:

- Tại sao đá lại biết nói ?

Sư Khóang tâu rằng:

- Đó tất là quỷ thần xui khiến ra như vậy . Quỷ thần dựa vào dân, dân có yên thì quỷ thần mới yên, nay chúa công sửa sang lâu đài, khiến cho dân tốn tiền hao sức, bởi thế mà đá biết nói .

Tấn Bình công nín lặng . Sư Khóang lui ra, bảo Dương Thiệt Bật rằng:

- Thần và nguời đều oán giận cả thì chúa công chắc không sống lâu được .

Được hơn một tháng nữa, Tấn Bình công lại ốm nặng rồi chết . Các quan triều thần lập thế tử Di lên nối ngôi, tức là Tấn Chiêu công .

Lại nói đến chuyện quan đại phu nước Tề là Cao Mại đuổi Cao Chỉ và giết Lư Khâu Anh, cả triều ai cũng không bằng lòng, đến đời con là Cao Cương nối cha làm chức đại phu, đang ít tuổi mà lại nghiện rượu, bấy giờ Loan Thi cũng nghiện rượu, bởi vậy hai người rất là tương đắc với nhau, mà không có ý thân thiết với Trần Vô Vũ và Bão Quốc . Bốn họ Cao, Loan, Trần, Bão ấy chia làm hai cánh . Họ Cao cùng họ Loan, mỗi khi họp nhau uống rượu say, lại nói xấu họ Trần và họ Bão . Họ Trần và họ Bão biết chuyện, mới đem lòng nghi kỵ họ Cao và họ Loan .

Một hôm, Cao Cương nhân khi say rượu, đánh đứa hầu trai . Loan Thi đã không xin hộ, lại xúc thêm vào . Đứa hầu trai căm tức, đêm hôm ấy sang báo với Trần Vô Vũ rằng:

- Họ Cao cùng họ Loan đang họp quân, để định đến sáng ngày mai thì sang đánh họ Trần và họ Bão .

Nói xong, nó lại sang báo với Bão Quốc . Bão Quốc tin lời, vội vàg sai đứa hầu đến ước với Trần Vô Vũ để cùng đánh họ Cao và họ Loan . Trần Vô Vũ tức khắc trao áo giáp cho bọn người nhà rồi cùng lên xe, định sang nhà Bão Quốc . Đi đến nửa đường, gặp Cao Cương đang đi xe . Cao Cương đã ngà ngà say, ngồi trên xe chắp tay chào và hỏi rằng:

- Đem người nhà mặc áo giáp đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

- Tôi đi bắt một đứa đầy tớ làm phản .

Trần Vô Vũ lại hỏi Cao Cương rằng:

- Ngài định đi đâu ?

Cao Cương nói:

- Tôi định sang uống rượu với họ Loan .

Trần Vô Vũ từ biệt Cao Cương, rồi thẳng tới nhà Bão Quốc, đã thấy Bão Quốc đang họp quân để sắp đi . Trần Vô Vũ thuật lại lời Cao Cương cho Bão Quốc nghe và nói với Bão Quốc rằng:

- Không biết hắn có sang uống rượu với họ Loan thật không ? Âu là ta thử sai người đi dò xem .

Bão Quốc sai người nhà sang dò thám nhà Loan . Người nhà về báo rằng:

- Họ Cao và họ Loan đang cởi hết cả mũ áo ra, rồi cùng nhau ngồi xổm uống rượu .

Bão Quốc nói:

- Nếu vậy thì đứa hầu kia nói càn rồi .

Trần Vô Vũ nói:

- Đứa tiểu thụ dẫu nói càn, nhưng Cao Cương gặp ta ở giữa đường, thấy ta đem quân đi, có hỏi ta đi đâu thì ta trả lời là đi đánh đứa đầy tớ làm phản . Nay Cao Cương thấy ta không đánh ai cả, tất sinh lòng nghi, hoặc lập mưu mà đuổi ta trước thì bấy giờ ta hối lại sao kịp, chi bằng ta nhân lúc này hắn uống rượu say mà đánh trước thì hơ .

Bão Quốc khen phải, tức khắc cùng với Trần Vô Vũ đem quân đến nhà Loan thi, vây kín cả bốn mặt . Loan Thi đang cầm chén rượu sắp uống, nghe tin họ Trần và họ Bão đem quân đến vây, thì giật mình kinh hãi, đánh rơi chén rượu xuống đất . Cao Cương dẫu say rượu, nhưng còn có chủ kiến, bảo Loan Thi rằng:

- Chúng ta vào triều, phụng mệnh chúa công để đánh họ Trần và họ Bão thì tất phải được .

Loan Thi tức khắc cùng với Cao Cương đem quân mở cửa sau, phá vòng vây chạy vào tới cung môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc đem quân đuổi theo . Tề Cảnh công ở trong cung, thấy bốn họ đem quân kéo đến, không biết là việc gì, vội vàng truyền cho quân sĩ đóng chặt cửa Hổ Môn lại . Cao Cương và Loan Thi không được vào, mới đóng quân ở bên hữu Hổ Môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc cũng đóng quân ở bên tả . Hai bên cùng chống giữ nhau . Được một lúc thì Án Anh đi xe đến . Bốn họ đều sai người gọi .

Án Anh không ngảnh lại, nói rằng:

- Tôi chỉ biết theo mệnh vua, không dám có ý riêng với ai cả .

Quân sĩ mở cửa cho Án Anh vào . Án Anh vào yết kiến Tề Cảnh công . Tề Cảnh công hỏi rằng:

- Nay bốn họ cùng đánh nhau, đem quân tới đây, ta nên xử ra thế nào ?

Án Anh nói:

- Họ Cao và họ Loan chuyên quyền cậy thế, kể đã lâu ngày, đuổi Cao Chi, giết Lư Khâu Anh, người trong nước ai cũng tức giận, nay lại đem quân tiến vào Hổ Môn, tội ấy không thể tha được; còn họ Trần và họ Bão chưa phụng mệnh vua mà dám đem quân đến đây, cũng không phải là vô tội, xin chúa công định đoạt .

Tề Cảnh công nói:

- Tội của họ Cao, họ Loan nặng hơn tội họ Trần, họ Bão, ta nên trừ họ Cao, họ Loan đi . Nhưng bây giờ biết sai ai cho được ?

Án Anh nói:

- Quan đại phu là Vương Hắc có thể sai được .

TỀ Cảnh công truyền cho Vương Hắc đem quân giúp họ Trần cùng họ BÃo, để đánh họ Cao và họ Loan . Cao Cương và Loan Thi đánh thua, rút lui ra đường cái . Người trong nước ghét Cao Cương và Loan Thi, đều xúm lại đánh . Cao Cương vẫn chưa tỉnh rượu, không thể đánh nổi . Loan Thi chạy ra cửa đông . Cao Cương cũng chạy theo, Vương Hắc cùng với họ Trần và họ Bão đuổi kịp đến nơi, lại cùng nhau giao chiến ở cửa đông . Quân Cao Cương và Loan Thi bỏ chạy tán loạn cả . Cao Cương và Loan Thi trốn sang nước Lỗ . Trần Vô Vũ cùng với Bão Quốc đuổi hết vợ con họ Cao và họ Loan đi, rồi chiếm lấy gia sản . Án Anh bảo Trần Vô Vũ rằng:

- Nhà người tự tiện đuổi kẻ thế thần mà lại chiếm lấy của cải, rồi thế nào người ta cũng nghị luận; sao không biết đem những của cải ấy mà nộp vào công khố, như thế có phải ai cũng bảo nhà ngươi là người có đức, sẽ có ích cho nhà ngươi về sau này nhiều lắm .

Trần Vô Vũ nói:

- Đa tạ lời ngài chỉ giáo, tôi xin vâng mệnh .

Trần Vô Vũ liền đem những của cải đã chiếm được của họ Cao và họ Loan mà biên và một quyển sổ, rồi đem dâng Tề Cảnh công . Tề Cảnh công bằng lòng . Trần Vô Vũ lại có lễ vật riêng đem dâng bà Mạnh Cơ là thân mẫu Tề Cảnh công, bà Mạnh Cơ nói với Tề Cảnh công rằng:

- Trần Vô Vũ trừ bỏ kẻ quyền thần khiến cho nước nhà được cường thịnh, mà bao nhiêu tài lợi, lại nộp vào công khố cả . Cái nhượng đức ấy thật là đánh khen! Sao không đem đất Cao Đường mà phong cho hắn ?

Tề Cảnh công theo lời . Từ đó họ Trần thành ra giàu có . Trần Vô Vũ muốn được tiếng là người tốt, mới nói với Tề Cảnh công, xin triệu các công tử về, vì các công tử khi trước bị Cao Mại đuổi, thật là vô tội . Tề Cảnh công nghe lời . Trần Vô Vũ sai người đi triệu các công tử về, phàm những mùng màn đồ đạc của các công tử và áo quần dày dép của các người hầu đều do Trần Vô Vũ xuất của nhà ra để cung đốn cả . Các công tử thấy vậy, cảm kích vô cùng . Trần Vô Vũ lại thi ân với họ nhà vua, phàm các công tử, công tôn người nào không có lương, đều xuất của nhà mà chu cấp cho . Những người ngheo khổ trong nước đến vay thóc, lúc cho vay thì đong đấu lớn, lúc đem trả thì đong đấu nhỏ; người nào cùng quá, không thể trả được thì đốt văn tự đi . Bởi vậy, người trong nước ai cũng ca tụng lòng nhân đức của Trần Vô Vũ .

Tề Cảnh công dùng Án Anh làm tướng quốc . Án Anh thấy lòng dân đều mến phục họ Trần, thường nói riêng với Tề Cảnh công và khuyên Tề Cảnh công phải mở lòng làm ơn với dân thì mới thu được nhân tâm, nhưng Tề Cảnh công không biết theo .

Lại nói chuyện Sở Linh vương khánh thành cung Chương Hoa, các vua chư hầu đến ít lắm, sau nghe nói nước Tấn khánh thành cung Từ Kỳ, chư hầu đều đến đông cả, thì có ý bất bình, mới triệu Ngũ Cửu vào để thương nghị, muốn cất quân sang đánh Trung nguyên . Ngũ Cửu nói:

- Đại vương lấy nghĩa lý triệu chư hầu, nếu chư hầu không đến thì mới nên trách, chứ lấy việc thổ mộc triệu chư hầu, mà trách chư hầu không đến thì sao cho người ta phục ? đại vương muốn đánh trung nguyên, thì nên tìm kẻ nào có tội mà đánh, mới khỏi mang tiếng .

Sở Linh vương nói:

- Ngày nay nước nào là nước có tội nên đánh ?

Ngũ Cửu nói:

- Thế tử Ban nước Sái giết cha mà cướp lấy ngôi vua, đến nay đã chín năm . Lúc đại vương mới hội chư hầu, vua Sái có đến dự hội, bởi vậy ẩn nhẫn mà không giết, nhưng những đứa loạn tặc, dẫu đến đời con cháu cũng không khỏi tội, huống chi là đang đời mình . Nước Sái lại tiếp giáp với nước Sở ta, nếu đánh Sái mà chiếm lấy đất thì nghĩa và lợi đều trọn cả đôi đường .

Ngũ Cửu nói chưa dứt lời thì có tin báo Trần Ai Công (Nịch) chết, con là công tử Lưu lên nối ngôi . Ngũ Cửu nói với Sở Linh vương rằng:

- Thế tử Yển Sư nước Trần đã có tên ở trong sổ sách của chư hầu, nay lại lập công tử Lưu, thì thế tử Yển Sư ở vào địa vị nào! cứ như ý tôi, thì tất là nước Trần lại có biến loạn .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 69 : Sở Linh vương cậy thế hùng cườngÁn Bình Trọn thi tài ăn nói

Trần Ai công tên là Nịch . Người chánh phi là Trịnh Cơ, sinh con là Yển Sư, đã được lập làm thế tử . Còn người thứ phi sinh ra công tử Lưu; người thứ ba sinh ra công tử Thắng . Người thứ phi khéo nịnh được yêu, khi đã sinh được công tử Lưu thì Trần Ai công yêu lắm, trong lòng những muốn cho làm thế tử, nhưng vì trót đã lập Yển Sư làm thế tử, không vì cớ gì mà bỏ được, mới lấy người em là công tử Chiêu làm thái phó, công tử Quá làm thiếu phó để giúp cho công tử Lưu, và dặn Yển Sư ngày sau phải truyền ngôi cho công tử Lưu . Năm ấy Trần Ai công ốm nặng, đã lâu không ra coi triều, công tử Chiêu bảo công tử Qúa rằng:

- Con thế tử Yển Sư là công tôn Ngô, năm nay đã lớn tuổi . Nếu thế tử Yển Sư lên nối ngôi thì tất là lập công tôn Ngô làm thế tử, bao giờ truyền đến công tử Lưu được . Nay chúa công ốm nặng, quyền chính ở trong tay chúng ta, chi bằng ta giả cách phụng mệnh chúa công giết thế tử Yển Sư đi mà lập công tử Lưu thì sau mới khỏi hối .

Công tử Qúa khen phải, liền cùng với quan đại phu là Trần Khổng Hoán thương nghị . Trần Khổng Hoán nói:

- Thế tử Yển Sư ngày nào cũng vào cung hỏi thăm chúa công ba lần, sớm tối ở bên cạnh chúa công, ta không thể nói dối được, chi bằng sai người nấp ở cửa cung, đợi khi ra vào mà đâm chết đi là hơn .

Công tử Qúa ban nhau với công tử Chiêu, rồi giao việc ấy cho Trần Khổng Hoán, và ước với Trần Khổng Hóan rằng khi đã lập công tử Lưu rồi, sẽ phong cho một ấp lớn .

Trần Khổng Hóan sai một lực sĩ tâm phúc đứng lẫn vào trong đám quân sĩ canh cửa . Quân sĩ canh cửa tưởng là người theo hầu thế tử Yển Sư, không nghi ngờ gì cả . Thế tử Yển Sư vào thăm bệnh xong, đang đêm ra đến cửa cung, người lực sĩ bèn tắt đèn, rồi đâm chết đi . Cửa cung náo loạn . Được một lúc, công tử Chiêu và công tử Quá đến, giả cách kinh sợ, một mặt sai người tầm nã quân giặc, còn một mặt nói vua Trần ốm nặng, nên lập công tử Lưu lên nối ngôi .

Trần Ai công biết chuyện, giận quá thắt cổ mà chết . Công tử Chiêu phụng công tử Lưu đứng chủ tang, rồi lập lên làm vua; lại sau quan đại phu là Vu Trưng Sư đến cáo với vua Sở là Trần Ai công ốm nặng mà chết . Bấy giờ Ngũ Cử đang đứng hầu ở bên cạnh Sở Linh vương thấy nói nước Trần đã lập công tử Lưu lên làm vua, không biết thế tử Yển Sư đi đâu, có ý nghi hoặc, bỗng nghe báo có người con thứ ba của Trần Ai công là công tử Thắng và người cháu gọi bằng chú là công tôn Ngô (con thế tử Yển Sư) xin vào yết kiến . Sở Linh vươg cho vào . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy, khóc lóc mà nói rằng:

- Đích huynh tôi là thế tử Yển Sư bị công tử Chiêu và công tử Qúa bày mưu giết đi, để đến nỗi thân phụ tôi phải thắt cổ mà chết, rồi bọn kia lại tự tiện lập công tử Lưu lên làm vua . Chúng tôi sợ bị hại, vậy phải đem nhau sang đây để nhờ ơn qúi quốc .

Sở Linh vương hỏi Vu Trưng Sư . Vu Trưng Sư còn chối, nhưng bị công tử Thắng biện bác, không thể cãi lại được . Sở Linh vương nổi giận mà mắng rằng:

- Nhà ngươi tức là vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá!

Nói xong truyền quân đao phủ trói lại đem ra chém . Hành hình xong, Ngũ Cử tâu rằng:

- Đại vương đã giết Vu Trưng Sư thì nên giúp công tôn Ngô để trị tội công tử Chiêu và công tử Quá, danh chính ngôn thuận, ai mà không phục . Đã dẹp yên nước Trần rồi, sẽ đến lượt nước Sái, như thế tôi chắc rằng có thể noi theo được sự nghiệp của vua Trang vương ta thuở xưa .

Sở Linh vương bằng lòng, mới đem quân sang đánh Trần . Công tử Lưu nước Trần nghe tin Vu Trưng Sư bị giết, sợ có tai vạ, không dám lên làm vua, liền trốn sang nước Trịnh . Có người bảo công tử Chiêu sao không đi theo công tử Lưu . Công tử Chiêu nói:

- Nếu quân Sở đến, ta sẽ có kế làm cho phải lui .

Sở Linh vương đem quân đến nước Trần . Người nước Trần đều thương thế tử Yển Sư chết oan, trông thấy công tôn Ngô về, ai cũng mừng rỡ, kéo nhau ra mà đón rước . Công tử Chiêu thấy việc đã nguy cấp lắm, sai người mời công tử Quá đến thương nghị . Công tử Quá đến, hỏi công tử Chiêu rằng:

- Khi trước ngài nói có kế làm cho quân Sở phải lui, chẳng hay là kế gì ?

Công tử Chiêu nói:

- Tất phải dùng một vật mới lui được quân Sở, ta muốn mượn nhà ngươi vật đó .

Công tử Quá hỏi:

- Chẳng hay vật gì ?

Công tử Chiêu nói:

- Cái đầu nhà ngươi!

Công tử Quá kinh sợ, vừa toan đứng dậy thì quân hầu xúm lại đánh chết mà chém lấy đầu . Công tử Chiêu đem đầu công tử Quá sang quân Sở, sụp lạy Sở Linh vương mà tâu rằng:

- Việc giết thế tử Yển Sư mà lập công tử Lưu, đều là công tử Quá làm . Tôi núp dưới uy của đại vương, chém đầu công tử Quá mà đem nộp, xin đại vương xá tội .

Sở Linh vương thấy công tử Chiêu nói năng khiêm tốn, đã có ý bằng lòng . Công tử Chiêu lại quỳ gần ở trước mặt, mà mật tâu rằng:

- Vua Trang vương nước Sở ngày xưa dẹp yên nước Trần, đã lấy nước Trần làm quận huyện, sau lại phong cho nước Trần, thành ra uổng công; nay công tử Lưu sợ tội bỏ trốn, nước Trần không có ai làm chủ, xin đại vương lấy làm quận huyện, chớ để cho lại về quyền họ khác .

Sở Linh vương mừng rỡ nói rằng:

- Lời nói nhà ngươi chính hợp ý ta ? nhà ngươi hãy về trước, quét dọn cung thất để đợi ta đến .

Công tử Chiêu lạy tạ rồi lui ra . Công tử Thắng nghe nói Sở Linh vương tha cho công tử Chiêu về nước, lại vào tâu với Sở Linh vương rằng:

- Việc giết thế tử Yển Sư, thủ mưu tự công tử Chiêu, đến lúc định khởi sự thì công tử Quá sai quan đại phu là Trần Khổng Hoán làm . Nay Chiêu lại đổ tội cho công tử Quá để mong được khỏi chết, như thế thì tiên quân và tiên thế tử tôi ở dưới suối vàng, sao cho được hả lòng ?

Công tử Thắng vật mình lăn khóc, quân sĩ trông thấy, ai cũng cảm động .

Sở Linh vương dỗ bảo rằng:

- Công tử chớ lo, ta sẽ liệu cách phân xử .

Ngày hôm sau, công tử Chiêu sắp sửa xa giá ra đón Sở Linh vương vào thành . Sở Linh vương ngồi ở trên triều đường, các quan văn võ đều đến yết kiến . Sở Linh vương gọi Trần Khổng Hoán đến trước mặt mà mắng rằng:

- Việc giết thế tử Yển Sư, đều bởi tay nhà ngươi, nếu không giết nhà ngươi thì sao làm gương cho kẻ khác được!

Nói xong truyền cho quân sĩ đem Trần Khổng Hoán ra chém, rồi đem đầu Trần Khổng Hoán và đầu công tử Quá bêu ở cửa thành . Sở Linh vương lại bảo công tử Chiêu rằng:

- Ta cũng mốn dung tha cho nhà ngươi, nhưng vì công luận, không thể dùng được . Nay ta tha tội chết cho, nhà ngươi phải đem ngay gia quyến ra xứ Đông Hải mà ở .

Công tử Chiêu sợ quá, không dám cãi lạ, sụp lạy rồi lui ra . Sở Linh vương sai người đem công tử Chiêu ra an trí ở nước Việt . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy Sở Linh vương, tạ cái ơn dẹp hộ quân giặc . Sở Linh vương bảo công tôn Ngô rằng:

- Ta vẫn muốn lập nhà ngươi lên làm vua nước Trần, nhưng vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá còn nhiều, tất lại thù oán, làm hại nhà ngươi, nhà ngươi nên theo ta về nước Sở .

Bèn truyền đổi nước Trần làm quận huyện nước Sở . Sở Linh vương thấy Xuyên Phong Thú khi trước dám tranh cái công bắt Hoàng Hiệt nước Trịnh, thế là người không siềm nịnh, mới cho Xuyên Phong Thú trấn thủ ở đó, gọi là Trần Công . Người nước Trần đều không bằng lòng . Sở Linh vương đem công tôn Ngô về nước, nghỉ quân một năm rồi mới đi đánh Sái . Ngũ Cử hiến kế rằng:

- Cái tội ác của vua Sái, nay đã lâu ngày, nếu ta đem quân hỏi tội thì hắn tất cãi lại, chi bằng ta dụ đến mà giết đi .

Sở Linh vương theo kế ấy, mới giả cách ra tuần du Thân Địa và sai người đem lễ vật sang mời Sái Linh công . Sứ nước Sở đem quốc thư đệ trình Sái Linh công, đại lược nói rằng:

"Tôi trông mong được thấy mặt nhà vua, xin mời nhà vua dời gót đến đất Thân . Theo đây, gọi là có những lễ vật nhỏ mọn để khao thưởng kẻ hầu hạ nhà vua, xin nhà vua nhận cho".

Sái Linh công truyên sắp xa giá để đi . Quan đại phu là công tôn Quí Sinh can rằng:

- Vua Sở là người tham mà không thực, nay sai sứ tới đây, lễ nhiều nói ngọt, tất có ý dụ ta. Chúa công chớ nên đi .

Sái Linh công nói:

- Nước Sái ta không bằng một huyện của nước Sở, nếu vua Sở triệu mà ta không đi, tất người ta đem quân đến đánh, tài nào mà địch lại nổi!

Công tôn Quí Sinh nói:

- Nếu vậy xin lập thế tử rồi hãy đi .

Sái Linh công nghe lời, lập con là Hữu làm thế tử, và giao cho công tôn Qúi Sinh giúp thế tử Hữu giữ nước, rồi tức khắc đi xe sang đất Thân, xin vào yết kiến Sở Linh vương . Linh vương nói:

- Tôi cùng nhà vua biệt nhau, thấm thoát đã tám năm, mừng cho nhà vua thần sắc vẫn còn như cũ .

Sái Linh công nói:

- Nước tôi nhờ ơn đại vương mà được dự hội với chư hầu, chưa biết lấy gì đền ơn lại . Mới rồi, nghe nói đại vương đánh được nước Trần, đã toan sang mừng, chẳng ngờ đại vương lại cho sứ đến triệu, vậy tôi xin sang đây để bái yết .

Sở Linh vương bày tiệc thết đãi, hát xướng linh đình, chủ khách thù tạc rất là vui vẻ, lại sai Ngũ Cử cho các người theo hầu Sái Linh công uống rượu ở ngoài quán . Sái Linh công vui chén uống mãi thành ra qúa say . Khi SỞ Linh vướng ném chén rượu làm hiệu thì quân sĩ ở xung quanh đổ ra, trói Sái Linh công lại, mà Sái Linh công vẫn còn say rượu chẳng biết gì cả . Sở Linh vương sai người tuyên bố rằng:

"Vua Sái giết cha cướp ngôi, nay ta phải thay trời mà trị tội, còn những người theo hầu vua Sái, ai xin hàng thì có thưởng và cũng tha cho được về".

Sái Linh công xưa nay tiếp đãi các tướng sĩ rất có ân lễ, bởi vậy các tướng sĩ không ai chịu hàng cả . Sở Linh vương truyền cho quân Sở vây kín lại rồi bắt tất cả . Bấy giờ Sái Linh công đã hơi tỉnh rượu, mới biết mình bị trói, trừng mắt nhìn Sở Linh vương mà hỏi rằng:

- Tôi có tội gì ?

Sở Linh vương nói:

- Mày giết cha cướp ngôi, thật là một đứa vô đạo, bây giờ mới chết, cũng là muộn lắm rồi!

Sái Linh công thở dài mà nói rằng:

- Tiếc thay ta không nghe lời công tôn Qúi Sinh!

Sở Linh vương truyền đem Sái Linh công nện đá cho chết, những người tuỳ tùng, dẫu đến kẻ lao dịch; đẩy xe cũng đều bị giết, cả thảy là bảy mươi người . Sở Linh vương ghi tội Sái Linh công vào một cái mộc bản, đem yết lên cho người trong nước biét, và sai công tử Khí Tật đem quân thẳng đường sang nước Sái .

Thế tử Hữu nước Sái, từ khi Sái Linh công sang Thân Địa rồi, vẫn sai người dò thám tin tức, bỗng nghe báo Sái Linh công bị giết, quân Sở sắp sang đến nơi, liền sửa soạn quân mã để phòng giữ . Quân Sở kéo đến, vây kín thành nước Sái đến hai ba vòng . Công tôn Qúi Sinh nói với thế tử Hữu rằng:

- Nước Sái ta dẫu phụ thuộc nước Sở đã lâu, nhưng khi Tấn và Sở giao ước bãi binh với nhau, tôi cũng dự vào đó, chi bằng ta sai sứ sang càu cứu nước Tấn, nước Tấn nghĩ đến lời giao ước ấy tất phải cứu ta .

Thế tử Hữu nghe lời, muốn tìm một người để sai sang sứ nước Tấn . Nguyên trong số bảy mươi người bị Sở Linh vương giết ở Thân Địa khi trước, có một người tên gọi Sái Lược, tức là thân phụ Sái Vi . Sái Vi muốn báo thù cho cha, mới nói với thế tử Hữu xin sang sứ nước Tấn . Sái Vi đang đem trèo qua thành ra, đi sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Chiêu công, vừa khóc vừa kể hết nông nỗi Sái Linh công bị giết . Tấn Chiêu công họp triều thần lại để thương nghị . Tuân Ngô (con Tuân Yển) nói rằng:

- Nước Tấn ta làm bá chủ thì chức trách là phải bênh vực chư hầu . Trước đã không cứu Trần, nay lại không cứu Sái thì sao gọi là bá chủ được!

Tấn Chiêu công nói:

- Vua Sở tàn bạo, nhưng binh lực ta không địch nổi thì biết làm thế nào ?

Hàn Khởi nói:

- Dẫu biết là không địch nổi, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi yên hay sao! ta nên họp quân chư hầu mà đi đánh mới phải .

Tấn Chiêu công liền sai Hàn Khởi hội chư hầu ở đất Quyết Ngận . Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trịnh và Tào đều sai quan đại phu đến để dự hội . Hàn Khởi nói đến việc cứu Sái, quan đại phu các nước đều lắc đầu cả, không ai dám nhận lời . Hàn Khởi nói:

- Các ngài sợ nước Sở như thế, là muốn để mặc nước Sở cứ mỗi ngày một lấn dần như tằm ăn dâu hay sao! nếu quân Sở đánh xong Trần Sái, rồi dần dần đến các nước thì bấy giờ chúa công tôi cũng không dám bàn gì nữa!

Mọi người đều nhìn nhau, không ai trả lời . Bấy giờ quan hữu sư nước Tống là Hoa Hợi cũng dự hội . Hàn Khởi bảo Hoa Hợi rằng:

- Khi trước quna hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên xướng nghị lên mà khiến họ Tấn và SỞ hội nhau ở nước Tống để gia ước bãi binh, nếu nước nào trái lời thì các nước cùng đánh . Nay nước Sở bội ước đánh Trần và Sái mà nhà ngươi cứ khoanh tay không nói một câu nào, thế thì không phải, là tại nước Sở thất tín, chính là tại nước ngươi khinh mạn chư hầu đó!

Hoa Hợi sỡ hãi mà đáp rằng:

- Khi nào nước tôi lại dám khinh mạn chư hầu, chẳng qua là tại nước Sở mọi rợ, không nghĩ gì đến tín nghĩa, nước tôi cũng không thể làm thế nào được . Nay các nước nghĩ quân đã lâu mà bỗng nhiên khơi sự chiến tranh thì vị tất đã thắng được Sở, chi bằng ta theo lời giao ước ấy mà sai sứ đến xin vua Sở tha cho nước Sái, chắc vua Sở không thể chối từ được .

Hàn Khởi thấy quan đại phu các nước đều sợ nước Sở, liệu việc cứu Sái không thể thành được, mới bàn viết một bức thư sai quan đại phu là Hồ Phủ sang đất Thân Địa đệ trình Sở Linh vương . Sái Hữu thấy các nước không chịu đem quân cứu Sái, khóc mà trở về . Hồ Phủ sang đến Thân Địa, vào yết kiến Sở Linh vương, đệ trình bức thư, đại lược nói rằng:

"Ngày trước hai nước Sở, Tấn hội thề ở nước Tống, có giao ước cùng nhau bãi binh, đến khi hội thề ở đất Quắc lại nhớ lại ước cũ, đã có qúi thần chứng giám . Chúa công tôi cùng chư hầu noi theo lời giao ước ấy, không dám gây việc chiến tranh . Nay Trần, Sái có tội, quí quốc đem quân đi đánh, dẫu bởi việc nghĩa, nhưng chẳng qua cũng là tòng quyền . Chư hầu thấy đã giết được tội nhân rồi, mà việc binh hãy còn chưa bãi, đều đến trách chúa công tôi sao không biết bênh vực những kẻ hèn yếu, chúa công tôi lấy làm xấy hổ lắm, nhưng vẫn chưa dám cất quân, là vì sợ trái lời giao ước, vậy phải sai tôi là Hàn Khởi, cùng với quan đại phu các nước, đưa bức thư này, xin đại vương tha cho nước Sái . Nếu đại vương nghĩ đến lời giao ước mà để cho nước Sái được toàn vẹn thì chẳng những là người nước Sái mà chúa công tôi và các nước đồng minh đều cám ơn đại vương lắm".

Cuối bức thư, quan đại phu các nước đều ký tên cả . Sở Linh vương trông thấy cười mà nói rằng:

- Ta đã sắp phá vỡ được nước Sái mà các ngươi muốn đem một câu nói lại đến giải vây, coi ta như đứa trẻ con hay sao! nhà ngươi về nói lại cho vua Tấn biết: Trần Sái là nước phụ thuộc của ta, không phiền các nước phương bắc phải trông nom hộ .

Hồ Phủ toan cố ý nàn xin thì Sở Linh vương đứng dậy trở vào, cũng không viết thư hồi đáp . Hồ Phủ căm tức mà trở về . Vua tôi nước Tấn dẫu giận nước Sở nhưng cũng không biết làm thế nào . Sái Hữu về đến nước Sái, bị quân Sở bắt được, giải đến nộp công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật bắt hiếp Sái Hữu phải đầu hàng . Sái Hữu không chịu, Khí Tật bèn đem giam ở hậu quân . Công tử Khí Tật biết quân Tấn không đến cứu, lại càng cố sức đánh thành nước Sái .

Công tử Qúi Sinh nói với thể tử Hữu rằng:

- Bây giờ việc đã nguy cấp rồi, tôi xin liều mình sang dinh quân Sở để xin quân Sở rút về, nếu quân Sở nghe cho thì dân ta không đến nỗi tàn hại .

Thế tử Hữu nói:

- Công việc trong thành, trông cậy ở một tay đại phu, sao đại phu nỡ bỏ tôi mà đi .

Công tôn Qúi Sinh nói:

- Nếu thế tử không bằng lòng cho tôi đi thì con tôi là Triều Ngô, có thể sai đi được .

Thế tử Hữu gọi Triều Ngô đến, khóc mà sai đi . Triều Ngô vào yết kiến công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật tiếp đãi tử tế . Triều Ngô nói:

- Công tử đem quân đánh nước tôi, nước tôi chắc thế nào cũng mất, nhưng chưa được rõ là vì tội gì ? nếu vì tội tiên quân tôi thất đức thì thế tử nước tôi có tội gì ? tôn xã nước tôi có tội gì ? xin công tử thương mà xét cho .

Công tử Khí Tật nói;

- Ta cũng biết nước Sái không đáng phải tuyệt diệt, nhưng ta phụng mệnh vua SỞ sang đây, nếu không thành công thì tất phải chịu tội .

Triều Ngô nói:

- Tôi còn có một câu nữa, xin đuổi hết người xung quanh, cho tôi được nói .

Công tử Khí Tật nói;

- Nhà ngươi cứ noi, người xung quanh ta không hề chi cả .

Triều Ngô nói:

- Vua Sở lên ngôi, không do đường chính, công tử hẳn cũng đã biết . Phàm người biết nghĩ, ai là không giận . Nay lại trong làm khổ dân về việc thổ mục, ngoài là khổ dân về việc can qua, lòng tham không chán, năm trước diệt Trần, năm sau lừa Sái . Công tử không nghĩ đến thù vua mà lại ra sức để giúp, tôi e rằng đến khi ta vạ, chắc là công tử cũng phải chịu một phần . Công tử vốn có tiếng là người hiền hậu, sáng suốt, lại có cái điềm đương bích, người nước Sở ai cũng muốn cho công tử lên làm vua; nay công tử đem quân quay về mà trị tội kẻ giết vua hại dân ấy thì còn ai dám chống lại với công tử nữa . Chẳng hơn là thờ một ông vua vô đạo, mà mua oán với thiên hạ hay sao! nếu công tử nghe lời tôi, thì tôi xin đem quân nước tôi đi làm tiên phong giúp công tử .

Công tử Khí Tật nổi giận, nói:

- Đứa thất phu kia, dám đem lời nói khéo để chia rẽ vua tôi nước ta, tội đáng chém chết, nhưng ta hay gửi cái đầu ở trên cổ nhà ngươi đó, cho nhà ngươi về truyền báo thế tử Hữu mau mau ra hàng đi thì còn được toàn tính mệnh!

Công tử Khí Tật truyền quân sĩ đuổi Triều Ngô ra . Nguyên khi trước Sở cung vương có một người thiếp yêu, sinh được năm con: con trưởng là Hùng Chiêu, tức là Sở Khang vương; người thứ hai là Vi, tức là Sở Linh vương; người thứ ba là Tị, tên tự là Tử Can; người thứ tư là Hắc Quang, tên tự là Tử Tích; còn người thứ năm là công tử Khí Tật . Trong năm người con ấy, Sở Cung vương muốn chọn một người để lập làm thế tử mà chưa biết lập ai, muốn tế các thần, rồi chôn một viên ngọc bích ở giữa ở trong sân nhà thái miếu, đánh dấu chỗ chôn rồi đến canh năm cho năm người con vào yết tổ, xem người nào đứng làm lễ đúng vào chỗ chôn ngọc bích, thì người ấy được qủi thần chọn làm vua . Khang vương vào trước, đứng cách ngọc bích xa lắm . Công tử Khí Tật bấy giờ tuổi hãy còn nhỏ, người vú ẵm vào lễ đứng chính giữa ở trên ngọc bích, Sở Cung vương biết là có thần giúp, bởi vậy rất yêu công tử Khí Tật . Khi Sở Cung vương chết, công tử Khí Tật hãy còn nhỏ, thành ra Khang vương lên nối ngôi, nhưng các quan đại phu nước Sở nghe thấy việc chôn ngọc bích ấy, ai cũng biết rằng về sau công tử Khí Tật tất lên làm vua .

Bấy giờ Triều Ngô nước Sái nói đến cái điềm "đương bích", công tử Khí Tật sợ lời nói ấy truyền bá ra thì tất Sở Linh vương ghen ghét, vậy nên giả cách đuổi Triều Ngô ra, Triều Ngô trở vào trong thành, thuật lại lời nói của công tử Khí Tật cho thế tử Hữu nghe . Thế tử Hữu nói:

- Làm vua thì phải vì nước mà chết, đó là lẽ chính, ta đây dẫu chưa nối ngôi, nhưng cũng là phụng mệnh giữ nước, thì cũng nên vì nước mà liều mình, chẳng hơn chịu cúi đầu làm nô lệ mà thờ kẻ cừu địch hay sao!

Thế tử Hữu nói thế, rồi lại càng cố sức chống với quân Sở . Thành nước Sái bị vây từ tháng bảy mùa hạ, đến tháng mười một mùa đông, công tôn Qúi Sinh mệt nhọc thành bệnh, nằmg không dậy được . Trong thành lương hết, chết đói mất quá nửa . Quân Sở trèo lên mặt thành đông như đàn kiến, liền phá vỡ thành nước Sái . Thế tử Hữu đành ngồi mà chịu trói . Công tử Khí Tật vào thành phủ dụ nhân dân, rồi bắt thế tử Hữu và Sái Hựu giải về nộp Sở Linh vương, còn Triều Ngô vì có câu nói "đương bích" mà được tha . Chưa được bao lâu, công tôn Quí Sinh chết, Triều Ngô mới theo công tử Khí Tật .

Bấy giờ Sở Linh vương đã về Sính Đô nằmg mộng thấy một người vào yết kiến, tự xưng là thần Cửu Cương sơn, bảo Sở Linh vương rằng:

- Nhà ngươi tế ta, ta cho nhà ngươi được thiên hạ!

Khi SỞ Linh vương tỉnh dậy, mừng lắm, liền sắp xa giá ra Cửu Cương sơn nhân gặp công tử Khí Tật báo tin đã diệt được nước Sái . Sở Linh vương toan giết thế tử Hữu để tế thần . Thân Vô Vũ can rằng:

- Ngày xưa, Tống Tương công giết vua Tắng để tế thần Thư Thuỷ mà chư hầu làm phản, đại vương chớ nên theo điều dở ấy .

SỞ Linh vương nói:

- Thế tử Hữu là con một người có tội, ta cũng coi như là giống súc sinh mà thôi .

Thân Vô Vũ lui ra, thở dài mà nói rằng:

- Đại vương bạo ngược như vậy thì toàn vẹn làm sao cho được!

Thân Vô Vũ liền cáo lão về làm ruộng . Sái Vi thấy thế tử Hữu bị giết, thương khóc trong ba ngày . Sở Linh vương cho là trung, rồi tha tội và thu dụng . Sái Vi nghĩ đến cha là Sái Lược khi trước cũng bị Sở Linh vương giết, vẫn còn nuôi lòng báo thù bảo Sở Linh vương rằng:

- Các nước theo Tấn mà không theo Sở, là vì Tấn gần mà Sở xa, nay đại vương đã đánh được Trần, Sái, tiếp giáp với trung nguyên nếu đắp thành cho cao rộng, rồi đặt thêm quân để thị uy với chư hầu thì nước nào không phải sợ . Bấy giờ tiến sang đánh Ngô và Việt, trước tự phía đông nam, sau đến phía tây bắc, tôi chắc có thể thay nhà Chu mà làm thiên tử được .

Sở Linh vương nghe nói bằng lòng, từ bấy giờ mới có ý tin dùng Sái Vi . Rồi truyền đắp thành ở Trần, Sái, cao rộng thêm ra, lại cho công tử Khí Tật trấn thủ ở nước Sái, để đền lại cái công diệt Sái . Lại đắp hai cái thành ở phía đông và phía tây, gọi là Bất Lang thành, để giữ chỗ hiểm yếu của nước Sở . Sở Linh vương cho rằng thiên hạ không nước nào cường thịnh bằng nước Sở, chẳng bao lâu nước Sở sẽ thu được cả thiên hạ, mới gọi quan thái bốc vào để bói xem bao giờ thì được làm thiên tử . Quan thái bốc nói:

- Nhà vua đã xưng vương tức là thiên tử rồi, còn bói làm gì ?

Sở Linh vương nói:

- Nay còn có nhà Chu thì Sở ta chưa phải là vương thật; có lấy được hết thiên hạ mới thật là vương .

Quan thái bốc hơ mai rùa để bói . Tự nhiên mai rùa vỡ . Quan thái bốc nói:

- Thế này là việc không thành!

Sở Linh vương cầm mai rùa ném xuống đất, rồi vùng vằng đứng dậy mà kêu to lên rằng:

- Trời ơi! trời tiếc gì mà không cho ta được thiên hạ! nếu vậy thì trời sinh ta làm gì !

Sái Hựu tâu rằng:

- Việc cốt tại người, chứ cái xương khô ấy biết gì!

Sở Linh vương bằng lòng . Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều có ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống . Quan đại phu nước Tề là Án Anh (tên tự là Bình Trọng) phụng mệnh Tề Cảnh công sang sứ nước Sở . Sở Linh vương bảo triều thần rằng:

- Án Anh mình không đầy năm thước, mà chư hầu đều khen là người giỏi . Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả, ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục, để nâng cao cái uy của nước Sở, các ngươi thử nghĩ xem có kế gì ?

Quan thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng:

- Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới sỉ nhục được hắn .

Viễn Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh vương . Sở Linh vương nghe lời . Đêm hôm ấy, Viễn Khải Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông, vừa vặn độ năm thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữ lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào . Được một lúc, Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông, trông thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa . Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng:

- Ngài đi qua cái chỗ ấy, cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa!

Án Anh nói:

- Đó là chỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi . Có sang sứ nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang sứ nước người thì tất phải đi cửa người .

Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo với Sở Linh vương . Sở Linh vương nói:

- Ta muốn dỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn dỡn lại!

Nói xong truyền mở cửa thành cho Án Anh vào . Án Anh vào trong thành, thấy có một toán xa kỵ, người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm râu, tay cầm một ngọn giáo thật dài, trông như vị thiên thần, đến đón Án Anh, có ý muốn tỏ rõ Án Anh là người thấp lùn bé nhỏ, Án Anh nói:

- Ta sang sứ hôm nay là vì việc giao hiếu, chứ không phải là muốn gây việc chiến tranh, dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy!

Án Anh nói xong bão vũ sĩ đứng ra một bên, rồi giục xe thẳng tới cửa triều . Ngoài cửa triều có hơn mười viên quan, đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng hai dãy . Án Anh xuống xe, chắp tay vái chào . Trong hàng các quan, có một viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng:

- Ngài có phải là Án Bình Trọng, người ở đất Di Duy (tức là Lai Địa) đó không ?

Án Anh nhìn xem ai thì tức là con Đấu Vi Qúi, tên gọi Đấu Thành Nhiên, hiện đang làm quan giao doãn . Án Anh đáp rằng:

- Phải! chính tôi đó! chẳng hay ngài định dạy điều gì ?

Đấu Thành Nhiên nói:

- Nước Tề, kể từ đời Thái công thuở xưa, vốn là một nước cường thịnh, sao từ khi Hoàn công mất đi rồi, trong nước nhiều loạn, tranh cướp lẫn nhau, hết bị Tấn đánh, lại bị Tống đánh . Vua Tề ngày nay, cũng chẳng kém gì Hoàn công, mà cái hiền đức của ngài phỏng có thua gì Quản Trọng (tức là Quản Di Ngô), sao ngài không biết giúp vua Tề để chấn hưng cơ nghiệp cũ, mà chịu cúi đầu thờ nước lớn như đám nô bộc, thật tôi không hiểu ra làm sao!

Án Anh đáp rằng:

- Có biết thời thế mới gọi là tuấn kiệt, có thông cơ biến mới gọi là anh hào . Từ khi nhà Chu suy, Tề và Tấn làm bá chủ ở Nam Man, dẫu bởi có nhân tài, nhưng chẳng qua cũng là do khí vận . Kìa như Tấn Tương công và Tần Mục công cường thịch biết bao mà sau cũng phải hèn yếu; nước Sở từ khi vua Trang vương mất đi, cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh, cứ gì một nước Tề! chúa công tôi hiểu lẽ ấy, cho nên vẫn luyện tập quân mã để đợi thời; nay sai tôi sang đây là theo lễ giao hiếu với lân quốc, sao gọi là nô bộc được ? ngài có phải là dòng dõi Tử Văn đó không ? Tử Văn khi xưa là một bậc danh thần ở nước Sở, biết thời thế, thông cơ biến, mà sao lời nói của ngài nghe trái với Tử Văn nhiều lắm!

Đấu Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên, cúi đầu lui ra . Được một lúc, trong hàng bên tả lại có người hỏi Án Anh rằng:

- Án Bình Trọng tự phụ là người biết thời thế, thông cơ biến, nhưng trong khi Thôi Trữ và Khán Phong nổi loạn, thì triều thần nước Tề, tử Giải Cử trở xuống, bao nhiêu tử tiết, Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi . Ngài là thế gia nước Tề, đã không dám đánh giặc, cũng không biết tử tiết, còn bo bo giữ lấy danh vị làm chi!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan thượng đại phu nước Sở, tên gọi Dương Mang, tên tự là Tử Hà . Án Anh đáp rằng:

- Người có tiết lớn thì không cần những điều nhỏ mọn, người biết lo xa thì không nghĩ đến những sự tầm thường . Ông vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo, nay vua Trang công tôi không phải vì nước mà chết, những người chết theo, toàn là vì tình riêng, tôi dẫu hèn mạt, có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy! vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi, tôi không đi là để lập vua mới mà giữ lấy nước, chứ có phải là vì tham danh vị đâu! huống chi việc biến loạn, nước nào chẳng có, ngài chắc các quan triều thần nước Sở đều là những người một lòng tử tiết cả hay sao!, sao ngài chỉ biết trách người mà không biết trách mình ?

Dương Mang nín lặng không đáp được nữa . Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có một người ra hỏi Án Anh rằng:

- Ngài nói là ngài muốn lập vua mới để giữ lấy nước, câu nói ấy có ý khoe khoang quá! trong khi họ Thôi và họ Khánh giết nhau, họ Trần và họ Bão tranh quyền nhau, chẳng thấy ngài có mưu kế gì lại cả, nếu quả ngài có lòng báo quốc thì sao lại như thế!

Án Anh cười mà nói rằng:

- Ngài biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác! lúc bấy giờ, tôi ở liền bên cạnh chúa công, tôi bày mưu lập kế, để giữ yên nước nhà, những kẻ bàng quan tài nào biết rõ được ?

Trong hàng bên tả lại có một người ra bảo Án Anh rằng:

- Đại trượng phu gặp thời, đã có đại tài lược, tất có đại qui mô! tôi xem ra thì ngài khó lòng mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận .

Án Anh nhìn xem ai thì là quan thái tể nước Sở tên gọi Viên Khải Cương . Án Anh nói:

- Tại sao ngài lại biết là tôi bỉ lận ?

Viễn Khải Cương nói:

- Thân danh ngài làm tướng quốc thì mũ áo và xe ngựa, tưởng cũng nên trang sức để tỏ cái ân huệ của vua, cớ sao lại mặc áo cừu rách, cưỡi con ngựa gầy, mà đi xứ nước ngoài như vậy, chẳng lẽ lương ăn không đủ hay sao ? tôi nghe nói cái áo cừu của ngài, may từ thuở bé, đã ba mươi năm nay không thay; mà mỗi khi tế lễ, ngài dùng con lợn nhỏ quá, đến nỗi vai lợn không chật mâm, như thế không phải bỉ lận là gì!

- Án Anh vỗ tay cười rầm lên mà nói rằng:

- Sao kiến thức của ngài thiển cận như vậy! tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ, suốt trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon, không ai phải đói rét; những nguời hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no, cả thẩy đến hơn bảy mươi nhà, thế thì muốn tỏ cái ân huệ của vua, còn gì bằng điều ấy!

Án Anh nói chưa dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có một người trỏ tay vào mặt Án Anh mà cười vừa nói:

- Tôi nghe nói vua Thành Thang mình cao chín thước là bậc hiền vương, Tử Trang sức địch muôn người là bậc danh tướng . Nay ngài mình thấy không đầy năm thước, sức yếu không tròi nổi một con gà, chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng, tự phụ là tài gỉoi, tôi tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm mới phải!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là cháu công tử Chân, tên gọi Nang Ngoã, tên tự là Tử Thường, hiện đang làm chức xa hữu . Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng:

- Tôi nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ, bao giờ cũng đè được nghìn cân; cái chèo dẫu dài, bao giờ cũng ngâm ở dưới nước . Trương Địch người cao mà bị giết ở Lỗ, Nam Cung Trường vạn sức khỏe mà bị giết ở Tống; túc hạ mình dài sức khỏe, có lẽ cũng giống hai người ấy . Tôi biết thân không có tài cái gì, nhưng hỏi thì phải nói, sao ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng ?

Nang Ngoã không biết nói thế nào nữa . Bỗng nghe báo cáo quan lệnh doãn và Viễn Bái đến . Các quan đều sắp hàng đứng đợi . Ngũ Cử mời Án Anh vào triều, rồi bảo các quan đại phu rằng:

- Án Bình Trọng là hiền sĩ nước Tề, sao các ngài lại nói quá như vậy ?

Được một lúc Sở Linh vương ra ngự triều . Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến . Sở Linh vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng:

- Nước Tề quả thật không có người hay sao ?

Án Anh nói:

- Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người ?

Sở Linh vương nói:

- Thế thì sao lại sai tiểu nhân sang sứ nước ta ?

Án Anh nói:

- Nước tôi vẫn có lệ: người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, đại nhân sang sứ đại quốc, tiểu nhân sang sứ tiểu quốc . Tôi là tiểu nhân, bất tài bất đức, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở .

Sở Linh vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm lạ . Gặp bấy giờ có người ở ngoại thành đem dâng hộp hoan quất (quít). Sở Linh vương vỗ tay cười ầm lên mà bảo rằng:

- Người nước Tề dễ thường không ăn quít bao giờ! cớ sao lại không bóc vỏ ?

Án Anh nói:

- Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi cũng không được bóc võ mà quẳng đi . Nay đại vương đưa cho tôi, cũng như là chúa công tôi đưa cho tôi vậy . Đại vương không truyền cho bóc võ, nên tôi phải ăn cả .

Sở Linh vương bất giác kính phục, mời ngồi uống rượu . Được một lúc, có ba bốn vũ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm . Sở Linh vương nói:

- Tên tù ấy người ở đâu ?

Vũ sĩ tâu:

- Người nước Tề .

Sở Linh vương hỏi:

- Phạm tội gì ?

Vũ sĩ tâu :

- Tội ăn trộm .

Sở Linh vương ngảnh lại bảo Án Anh rằng:

- Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao!

Án Anh biết là Sở Linh vương cố ý bày ra chuyện ấy để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng:

- Tôi nghe nói giống quít ở xứ Giang Nam, đem sang trồng ở xứ Giang bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau . Nay người nước Tề, khi ở nước Tề thi không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì người nước Tề!

Sở Linh vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng:

- Ta định chế nhạo nhà ngươi, chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo!

Bèn tiếp đãi Án Anh rất trọng thể, cho đến khi về nước Tề . Tề Cảnh công khen công Án Anh, tôn làm thượng tướng, ban cho một cái áo câu giá nghìn lạng vàng, lại muốn phong thêm thái ấp cho nữa, nhưng Án Anh đều từ chối cả . Tề Cảnh công lại muốn lam cho Án Anh một cái nhà mới . Án Anh cũng cố xin thôi .

Một hôm, Tề Cảnh công ra chơi nhà, trông thấy vợ Án Anh, mới hỏi Án Anh rằng:

- Đó là nội tử của khanh đấy à ?

Án Anh tâu rằng:

- Phải!

Tề Cảnh công cười mà nói rằng:

- Chao ôi! già mà xấu lắm! ta có đứa ái nữ, trẻ mà đẹp, để ta gả cho khanh .

Án Anh nói:

- Lúc trẻ trung, người ta lấy mình, là mong lúc già nua có thể nhờ vả được; vợ tôi dẫu già mà xấu, nhưng khi nào tôi nỡ phụ!

Tề Cảnh công khen rằng:

- Vợ con chẳng nỡ phụ, huống chi là vua!

Từ bấy giờ Tề Cảnh công có lòng tin cậy Án Anh lắm .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 70 : Giết ba anh, Sở Bình Vương lên ngôiHội chiêu hầu, Tấn Chiêu Công làm chủ

Bấy giờ năm thứ 12 đời Chu Cảnh Vương, Sở Linh Vương đã diệt được Trần và Sái rồi, lại thêm sáu nước nhỏ là Hứa, Hồi, Trần, Đạo, Phòng, Thân sang đất Kinh Sơn, trăm họ phải bỏ nhà bỏ cửa mà đi nơi khác, tiếng than khóc rộn lên khắp đường xá. Sở Linh Vương vẫn cho là thiên hạ đã nắm chắc trong tay mình nên chỉ ngày đêm vui chơi ở Chương Hoa Đài, lại toan sai sứ sang nhà Chu đòi lấy chín cái đỉnh đem về nước Sở. Quan hữu doãn là Trịnh Đan can rằng :

- Nay Tề, Tấn còn mạch, Ngô, Việt chưa theo thì nhà Chu dẫu sợ ta, chư hầu tất cũng không phục.

Sở Linh Vương không bằng lòng nói rằng :

- Có một điều này, xuýt nữa ta quên đi mất ! Khi trước ta hội chư hầu ở Thân Địa, xá tội cho vua Từ, ai ngờ vua Từ lại bội ta mà theo Ngô; nay ta nên đánh Từ trước, rồi đánh Ngô sau, khiến cho các nước từ Trường Giang trở về phía đông, đều là thuộc quốc của ta cả, thế thì thiên hạ về tay đến một nửa rồi.

Sở Linh Vương giao cho Viễn Bài và Sái Hựu giúp thế tử Lộc giữ nước, còn mình thì đi luyện tập quân mã ở cuối sông Di Thuỷ, và sai quan tư mã Đốc đem quân sang vây thành nước Từ.

Đại binh Sở Linh Vương đóng ở Kiên Khê, để làm thanh viện (phô trương thanh thế để khiến người ta sợ) . Mùa đông năm ấy tuyết xuống nhiều lắm, đóng dày mặt đất đến hơn ba thước. Sở Linh Vương hỏi nội thị rằng :

- Ngày trước, nước Tần có dâng ta cái áo cầu "Phục đào" và cái mền "Thuý Vũ", các người đem ra đây cho ta.

Nội thị đưa áo và mền ra, Sở Linh Vương mặc áo và khoác mền vào, đầu đội mũ dạ, chân đi giầy da, tay cầm cái roi bằng tơ tía ra ngoài trướng đứng xem tuyết. Gặp có quan hữu doãn là Trịnh Đan đến yết kiến. Sở Linh Vương bỏ mũ và mền, vứt roi xuống, rồi đứng nói chuyện với Trịnh Đan, Linh Vương nói :

- Trời rét quá đi mất !

Trịnh Đan nói :

- Đại vương mặc mấy lần áo cừu đứng trong trướng hồ mà còn rét như thế, huống chi quân sĩ áo thì ít, chân thì trần, đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm binh khí đứng ở trong đám gió tuyết, thì khổ biết dường nào ! Sao đại vương không tạm rút quân đánh Từ về, đợi đến qua xuân, khí giời ấm áp sẽ hay ?

Linh Vương nói :

- Nhà ngươi nói rất phải ! Nhưng từ khi khởi binh đến nay, ta đánh đâu được đấy, chắc rằng chỉ nay mai tất có tin thắng trận.

Trịnh Đan thưa rằng :

- Từ không phải như Trần và Sái. Từ cách nước Sở đến hơn ba nghìn dặm, mà lại còn dựa vào nước Ngô nữa. Nếu nhà vua tham đánh Tùu, khiến cho ba quân ở ngoài giá rét khổ sở, vạn nhất trong nước có biến, lòng quân ly tán, thì tôi dám lấy làm nguy cho đại vương lắm.

Linh Vương cười mà nói rằng :

- Xuyên Phong Thu ở Trần, Khí Tật ở Sái, Ngũ Cử giữ nước với thái tử, thế là có đến ba nước Sở ta còn lo gì nữa ?

Vừa lúc ấy có quan thái sử là Ỷ Tướng đi qua.

Linh Vương trỏ Ỷ Tướng mà bảo Trịnh Đan rằng :

- Đây là một nhà bác vật, phàm các sách như "Tam phần", "Ngũ điển", "Bát sách", "Cửu khâu", đều thông hiểu cả, nhà người nên trọng đái người ta.

Trịnh Đan nói :

- Đại vương khen quá lời ! Ngày xưa vua Mục vương nhà Chu đi dong chơi khắp thiên hạ. Sái công tức là Mưu Phủ làm thơ "Kỳ thiểu" để can ngăn. Mục vương nghe lời mà trở về tránh khỏi được tai vạ. Thế mà tôi đem thơ ấy hỏi Ỷ Tướng, Ý Tướng không biết, việc bản triều mà còn không biết, huống chi là việc đời xưa !

Linh Vương hỏi :

- Bài thơ "Kỳ thiểu" thế nào, nhà ngươi đọc cho ta nghe. Trịnh Đan đọc. Sở Linh vương lại hỏi nghĩa. Trịnh Đan cắt nghĩa. Sở Linh vương biết là Trịnh Đan có ý can mình, mới nín lặng không nói gì cả, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo Trịnh Đan rằng :

- Nhà ngươi hãy lui ra, để ta nghĩ lại xem.

Đêm hôm ấy, Linh vương đã toan rút quân về, bỗng nghe báo quân tư mã Đốc đã thắng nhiều trận, hiện đang vây kinh thành nước Từ. Linh vương nói :

- Nếu vậy thì nước Từ có thể diệt được !

Linh vương bèn nhất định cứ đóng quân ở Kiên Khê, từ đông sang xuân, ngày nào cũng lấy săn bắn làm vui; lại toan bắt dân phải sửa soạn lâu đài ở đấy, không nghĩ gì đến việc về nước cả.

Bấy giờ có Triều Ngô (con quan đại phu nước Sái là Quí Sinh), theo hầu công tử Khí Tật, ngày đêm vẫn nghĩ mưu để khôi phục nước Sái, mới cùng với Quan Tòng (người nước Sở) thương nghị. Quan Tòng nói :

- Vua Sở gây ra việc tranh chiến, đem quân đi lâu ngày không về, nhân dân ai cũng oán giận, ta nên nhân cơ hội này mà khôi phục lại nước Sái.

Triều Ngô nói :

- Bây giờ làm thế nào khôi phục được ?

Quan Tòng nói :

- Hùng Kiên (tên sở Linh vương) được lập lên làm vua, ba vị công tử (Tử Can, Tử Tích và Khí Tật) đều không phục, nhưng sức không làm gì nổi. Nay ta giả mệnh Sái công (tức Khí Tật) mà triệu Tử Can và Từ Tích về, rồi bức hiếp Sái công phải khởi sự mà chiếm lấy nước Sở. Nước Sở đã mất thì Hùng Kiên mất sào huyệt, còn làm gì được nữa. Đến đời vua sau, tất nhiên ta phục được nước Sái.

Triều Ngô nghe lời, sai Quan Tòng giả mệnh lệnh của Sái công đi triệu Tử Can (tức công tử Tị) ở nước Tấn, và Tử Tích (tức là công tử Hắc Quang) ở nước Trịnh về, nói là Khí Tật định lấy quân Trần, Sái đưa hai vị công tử về nước để chống nhau với Hùng Kiên. Tử Can và Tử Tích mừng lắm, tức khắc đi sang nước Sái để hội nhau với Khí Tật. Quan Tòng về trước báo với Triều Ngô. Triều Ngô đón đường nói với Tử Can và Tử Tích rằng :

- Sái công chưa hề ra lệnh, nhưng ta có thể bức hiếp Sái công bắt phải theo ta.

Tử Can và Tử Tích nghe nói, đều sợ hãi biến sắc, Triều Ngô nói :

- Hùng Kiên đem quân đi, lâu ngày không về, trong nước không có phòng bị. Sái Vĩ nghĩ đến cái thù giết cha, chỉ mong cho có loạn. Đấu Thành Nhiên làm chức giao doãn, vẫn thân nhau với Sái công; nếu Sái công cử sự thì hắn tất làm nội ứng. Xuyên Phong Thu dẫu đã được phong ở Trần, nhưng vẫn không phục Hùng Kiên, nếu Sái công cho người triệu thì hắn tất theo ngay. Đem quân Trần Sái đánh một nước Sở không có phòng bị, khác nào như lấy của ở trong túi mình, hai công tử còn lo nỗi gì!

Tử Can và Tử Tích nghe nói, mới được yên lòng, liền cùng với Triều Ngô hội thể. Trong ước thư lại đề tên Sái công đứng đầu. Thể xong, Triều Ngô đưa Tử Can và Tử Tích lẻn vào Sái thành. Sái công đang ngồi ăn cơm sáng bất ngờ thấy Tử Can và Tử Tích đến, thì hốt hoảng sợ hãi toan đứng dậy tránh mặt. Triều Ngô chạy đến, nắm lấy vạt áo Sái công mà bảo rằng :

- Việc đã đến nơi rồi, ngài còn định đi đâu !

Tử Can và Tử Tích ôm lấy Sái công vừa khóc vừa nói :

- Hùng Kiên vô đạo, giết anh và cháu, lại đuổi bọn chúng tôi. Hai tôi tới đây là muốn nhờ binh lực nhà ngươi để báo thù cho anh. Khi thành sự rồi, sẽ để ngôi vua cho nhà ngươi.

Khí Tật thảng thốt không biết làm thế nào, mới đáp lại rằng :

- Xin để thong thả, rồi sẽ thương nghị.

Triều Ngô nói :

- Hai công tử đói rồi hãy cùng ăn cơm với Sái công.

Tử Can và Tử Tích ăn cơm xong, Triều Ngô giục phải làm ngay, liền tuyên cáo cho mọi người biết rằng:

- Sái công triệu hai công tử đến đây, để cùng khởi sự, hiện đã cùng nhau hội thề ở ngoài cõi, nay cho hai công tử vào Sở trước.

Khí Tật ngăn lại mà bảo rằng :

- Sao lại nói oan cho ta ?

Triều Ngô nói :

- Mới rồi, thề ở ngoài cõi, trong ước thư có tên ngài đứng đầu, ngài còn giấu chi nữa ! Âu là hãy mau mau khởi sự để cùng hưởng phú quí.

Triều Ngô lại tuyên cáo ở ngoài chợ cho người nước Sái biết rằng :

- Vua Sở vô đạo, diệt nước Sái ta, nay Sái công cho ta phục quốc. Bọn các người đều là dân nước Sái, nỡ nào để cho nước nhà phải suy vong, nên rủ nhau theo Sái công và hai công tử cùng sang đánh Sở.

Người nước Sái nghe nói, đều bảo nhau cầm binh khí đến họp ở cửa Sái công. Triều Ngô nói với Sái công rằng :

- Lòng dân đã quả quyết như vậy, ngài nên phủ dụ mà dùng, nếu không thì sinh biến.

Khí Tật nói :

- Nhà ngươi bắt ta phải trèo lên mình hổ hay sao ? Bây giờ nên làm thế nào ?

Triều Ngô nói :

- Hai công tử còn ở ngoài thành, ngài nên mau mau đem quân nước Sái họp với hai công tử,rồi tôi xin sang bảo Trần công (tức Xuyên Phong Thu) đem quân theo ngài.

Khí Tật theo lời, đem quân hợp với Tử Can và Tử Tích. Triều Ngô sai Quan Tòng sang Trần, để nói với Trần công. Quan Tòng đi đến nửa đường gặp một người nước Trần, tên gọi Hạ Khiết, tức là cháu huyền tôn Hạ Trung Thư, cùng với Quan Tòng vốn quen biết nhau. Quan Tòng mới đem việc phục Sái nói với Hạ Khiết. Hạ Khiết nói :

- Ta theo hầu Trần công, cũng là có ý muốn phục Trần, nay Trần công ốm nặng , nhà ngươi bất tất phải sang nữa, cứ về trước đi, rồi ta sẽ đem quân Trần sang giúp.

Quan Tòng về báo với Sái công. Triều Ngô lại viết một tờ mật thư đưa cho Sái Hậu, bảo làm nội ứng. Sái công sai gia thần tà Tu Vụ Mâu làm tiên phong. Sử Ấp làm phó tiên phong, lại sai Quan Tòng làm hướng đạo, đem quân đi trước. Gặp bấy giờ Hạ Khiết cũng đem quân Trần đến. Hạ Khiết nói với Sái công rằng :

- Xuyên Phong Thu đã chết rồi, tôi đem đại nghĩa hiểu dụ người nước Trần, ai cũng vui lòng theo cả.

Sái công mừng lắm, sai Triều Ngô đốc xuất quân Sái và Hạ Khiết đốc xuất quân Trần, thẳng đường tiến sang Sinh Đô. Sái Hựu nghe tin Sái công đem quân đến, tức khắc sai người tâm phúc ra ngoài thành để giúp đỡ lương thực. Đấu Thành Nhiên thân hành ra đón Sái công. Quan lệnh doãn là Viễn Bái đang đem quân để giữ thành thì Sái Hựu đã mở cửa cho quân Sái vào. Tu Vụ Mâu vào trước reo lên to rằng :

- Sái công đã giết được vua Sở ở Kiên Khê rồi, đại binh sắp sửa tới đây !

Người trong nước ghét Sở Linh vương vô đạo, đều muốn cho Sái công làm vua, nên không chống cự gì cả. Viễn Bái toan đem thế tử Lộc đi trốn, nhưng quân Tu Vụ Mâu đã vây kín vương cung. Viễn Bái không vào được, liền về nhà đâm cổ mà chết. Sái công đem đại binh vào đến vương cung, gặp thế tử Lộc và công tử Bái Địch, đều giết chết cả, rồi lập Tử Can lên làm vua. Tử Can từ chối.

Sái công nói :

- Bao giờ cũng phải lập người nhiều tuổi hơn, chớ nên từ chối.

Tử Can mới lên nối ngôi, rồi cho Tử Tích làm lệnh doãn và Sái công làm tư mã. Triều Ngô nói riêng với Sái công rằng :

- Việc này thủ xướng tự ngài, sao ngài lại nhường cho người khác làm vua ?

Sài công nói :

- Vua Sở hãy còn ở Kiên Khê, đã lấy gì làm yên được. Vả lại ta tranh ngôi với hai anh thì người ta cũng chê cười ta.

Triều Ngô hiểu ý mới hiến kế rằng :

-Quân sĩ theo vua Sở ra ở Kiên Khê, bị nhiều sự khổ sở, tất nhiên muốn về; nếu ta sai người đến dụ, chắc hẳn chúng bỏ hết, bấy giờ đại binh ta kéo đến thì có thể bắt được vua Sở.

Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đến Kiên Khê dụ quân sĩ rằng :

- Sái công đã vào kinh thành nước Sở, giết hai con vua Sở và lập Tử Can lên làm vua rồi. Vua mới có lệnh rằng : "Phàm quân sĩ, hễ ai về ngay thì tha tội cho, ai về sau thì bắt tội cắt mũi; nếu ai theo vua Sở cũ thì trị tội ba họ, ai đem đồ ăn, đồ uống cho vua Sở cũ thì cũng bị tội như thế."

Quân sĩ nghe lệnh, tức khắc tan mất quá nửa. Sở Linh vương hãy còn say rượu, nằm ngủ ở trên đài. Trịnh Đan hoảng hốt vào báo. Linh vương nghe nói hai con bị giết, thì từ trên giường ngã lăn xuống đất, khóc lóc rầm rĩ. Trịnh Đan nói :

- Quân sĩ đã tan rã như vậy thì đại vương nên mau mau trở về.

Linh vương gạt nước mắt nói rằng :

- Có ai yêu con như ta hay không ?

Trịnh Đan nói :

- Giống chim muông còn biết yêu con, huống chi là người !

Sở Linh vương thở dài nói rằng :

- Ta giết con của ngườita nhiều lắm thì bây giờ người ta lại giết con ta !

Được một lúc, nghe báo vua mới (tức là Tử Can) sai Sái công làm đại tướng, cùng với Đấu Thành Nhiên đem quân Trần và Sái tiến đến Kiên Khê, Sở Linh vương giận lắm, nói :

- Ta đãi Đấu Thành Nhiên không có điều gì tệ bạc, hắn lại phản ta ! Chẳng thà ta liều chết mà đánh, còn hơn ngồi để chịu trói !

Linh vương bèn rút quân đi qua Tương Châu, toan về đánh Sính Đô. Trong khi đi đường, quân sĩ bỏ trốn nhiều lắm. Linh vương rút gươm chém chết mấy người mà vẫn không ngăn cấm được. Khi đến đất Si Lương, chỉ còn độ một trăm người đi theo mà thôi. Sở Linh vương nói :

- Hỏng việc rồi !

Nói xong, liền cởi mũ áo treo lên cành liễu. Trịnh Đan nói :

- Đại vương hãy về gần đô thành, để xét xem lòng người trong nước thế nào ?

Linh vương nói :

- Người trong nước đều đã phản lại ta, hà tất phải xem xét nữa.

Trịnh Đan nói :

- Nếu không thì xin trốn sang nước khác, rồi mượn quân về đánh cũng có thể được.

Sở Linh vương nói :

- Chư hầu còn ai yêu ta nữa, điều đại phúc lẽ đâu gặp được mãi, chẳng qua chỉ thêm nhục mà thôi !

Trịnh Đan thấy Linh vương không nghe lời, sợ mắc tại vạ, liền cùng với Y Tướng trốn về nước Sở. Linh vương không thấy Trịnh Đan sợ hãi rụng rời, cứ quanh quẩn ở đất Ly Trạch. Quân sĩ chẳng còn ai cả, chỉ trơ có một mình, đói quá, toan tìm vào chốn hương thôn để kiếm cái ăn, thì lại không biết đường. Dân ở đấy có kẻ biết là vua Sở, nhưng thấy bọn quân sĩ đi trốn nói rằng pháp lệnh của vua mới nghiêm khắc lắm, thì đều sợ hãi mà tránh xa cả. Linh vương suốt trong ba ngày không được một hột cơm, một giọt nước nào vào miệng đói quá nắm lả ở dưới đất, chỉ còn có hai con mắt mở trừng trừng, nhìn kẻ qua người lại, xem có ai quen biết cứu mình chăng.

Bỗng gặp một người đi đến. Linh vương nhìn xem ai thì là một người lính canh cửa trước tên gọi Quyên Nhân Trù. Linh vương bèn gọi mà bảo rằng :

- Quyên Nhân Trù ! Nhà ngươi cứu ta với !

Quyên Nhân Trù nghe tiếng gọi liền đến trước mặt sụp lạy.

Linh vương, nói :

- Ta đói đã ba ngày nay rồi ! Nhà ngươi kiếm cho ta một bát cơm, hoạ may có sống được chăng ?

Quyên Nhân Trù nói :

- Ai cũng sợ lệnh vua mới, tôi còn kiếm đâu được cơm.

Linh vương thở dài, bảo Quyên Nhân Trù đến ngồi gần ở bên cạnh, rồi gối đầu vào đùi Quyên Nhân Trù để ngủ. Quyên Nhân Trù chờ cho Linh vương ngủ say, liền nhấc đầu Linh vương gối lên tảng đất, rồi bỏ trốn đi. Khi Sở Linh vương tỉnh dậy, gọi Quyên Nhân Trù không thấy thưa, mời rờ tay lên đầu thì thấy mình gối vào tảng đất. Linh vương kêu trời mà khóc, tiếng đã khản cả đi. Lúc sau nữa, lại có một người đi xe qua, thấy tiếng Linh vương, xuống xe để nom thì quả là Linh vương thật, mới sụp lạy dưới đất mà hỏi rằng :

- Làm sao đại vương đến nỗi thế này !

Linh vương ràn rụa nước mắt hỏi rằng :

- Nhà ngươi là ai ?

Người ấy tâu rằng :

- Tôi là Thân Hợi, con quan trấn thủ ở Vu Điạ, tên gọi Thân Vô Vũ. Cha tôi hai lần đắc tội với đại vương, mà đại vương không giết, nên khi cha tôi gần mất, có dặn tôi rằng : "Khi nào đại vương có hoạn nạn gì thì phải cố sức mà theo". Tôi không bao giờ dám quên lời dặn ấy. Mới rồi, nghe tin kinh thành bị phá, Tử Can cướp ngôi, tôi tức khắc ngày đêm thẳng tới Kiên Khê, để tìm đại vương, nhưng tìm mãi không thấy. May sao lòng trời run rủi, lại gặp đại vương ở đây. Bây giờ chỗ nào cũng là vây cánh Sái công, đại vương không nên đi đâu cả. Tôi có nhà tại Cúc Thôn, cũng gần ở đây, xin đại vương tạm vào nhà tôi, rồi sẽ bàn chuyện sau.

Nói xong, liền đem lương khô dâng Linh vương, Linh vương cố nuốt xuống cổ, mới dần dần tỉnh lại. Thân Hợi vực Linh vương lên xe, rồi đưa về Cúc Thôn. Linh vương xưa nay ở cung Chương Hoa, nguy nga tráng lệ, nay thấy nhà Thân Hợi lụp xụp, cúi đầu mới chui vào được, nghĩ lấy làm đau lòng, nước mắt tuôn ra không ngớt. Thân Hợi quỳ mà tâu rằng :

- Xin đại vương cứ yên lòng, ở đây tĩnh mịch lắm, không có ai qua lại. Đại vương hãy đợi mấy ngày xem tình hình thế nào, rồi sẽ liệu sau.

Linh vương thổn thức không nói ra tiếng. Thân Hợi lại quỳ để dâng thực phẩm. Linh vương chỉ khóc mà không ăn uống gì cả. Thân Hợi lại sai hai đứa con gái vào hầu, để Linh vương vui lòng, nhưng Linh vương không cởi đai áo, than thở cả đêm, đến đầu canh năm thì không nghe thấy tiếng thở nữa.

Hai người con gái mở cửa ra, báo với cha rằng :

- Đại vương đã thắt cổ chết rồi !

Thân Hợi nghe nói Linh vương chết, ngậm ngùi thương tiếc, rồi khâm liệm đem chôn, lại bắt hai người con gái đem chôn theo.

Sái công cùng với Đấu Thành Nhiên, Triều Ngô, và Hạ Khiết sang Kiên Khê để đánh Linh vương. Đi đến nửa đường gặp Trịnh Đan và Y Tướng thuật chuyện : Quân sĩ Linh vương bỏ trốn hết, Linh vương chỉ có một thân một mình, đánh liều chịu chết, hai người không nỡ trông thấy phải bỏ mà về.

Sái công nói :

- Bây giờ hai người định đi đâu ?

Trịnh Đan và Y Tướng nói :

- Chúng tôi định về nước Sở.

Sái công nói :

- Hai người hãy theo ta, tìm xem tông tích vua Sở ở đâu rồi sau sẽ về một thể.

Sái công đem đại binh đến đất Si Lương, chẳng thấy vua Sở đâu cả. Có người dân ở đấy biết là Sái công, liền đem mũ áo vua Sở đến nộp và nói rằng :

- Mũ áo này tôi bắt được ở trên cành liễu ba hôm trước.

Sái công hỏi rằng :

- Vua Sở đã chết hay là còn sống, nhà ngươi có biết không ?

Người ấy nói :

- Không biết.

Sái công nhận lấy mũ áo, trọng thưởng cho người ấy, rồi lại cố tìm Linh vương. Triều Ngô nói rằng :

- Vua Sở bỏ mũ áo thế này, là thế cùng lực kiệt lắm rồi, chắc cũng chết ở noi ngòi rãnh, bất tất phải cố tìm nữa; nhưng nay Tử Can đã lên ngôi, nếu để chậm thì hắn được lòng người, ta khó lòng trừ nổi !

Sái công nói :

- Thế thì nên làm thế nào ?

Triều Ngô nói :

- Người trong nước chưa rõ vua Sở sống chết thế nào, ta nhân lúc lòng dân chưa định này, sai vài mươi tên quân gỉa cách thua trận chạy về, nói đại binh của vua Sở sắp tới, rồi lại sai Đấu Thành Nhiên về báo tin với Tử Can, Tử Can và Tử Tích đều là những kẻ dút dát vô mưu, nghe thấy tin ấy, tất nhiên kinh khiếp mà tự tử, bấy giờ ngài cứ việc đem quân về, ung dung lên ngôi làm vua, chẳng còn lo ngại điều gì nữa !

Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đem hơn một trăm quân giả cách thua trận chạy về Sính Đô, vừa chạy vừa kêu rằng :

- Sái công thua trận bị giết rồi ! Đại binh của vua Sở cũng sắp sửa tới nơi !

Người trong nước tin là thực, ai cũng kinh sợ. Được một lúc, Đấu Thành Nhiên đến, cũng nói như vậy, người trong nước lại càng tin lắm, đều trèo cả lên mặt thành để trông ngóng. Đấu Thành Nhiên vào báo với Tử Can rằng :

- Vua Sở giận lắm, định đem quân về trị tội đại vương, đại vương nên liệu kế, khỏi đến bị nhục. Tôi đây cũng xin đi trốn !

Đấu Thành Nhiên nói xong, hoảng hốt bỏ đi ngay. Tử Can triệu Tử Tích vào, nói lại chuyện cho Tử Tích nghe .

Hai anh em ôm nhau mà khóc. Liền đó, lại nghe tin quân Linh vương đã kéo vào thành. Tử Tích rút gươm đâm cổ mà chết. Tử Can kinh sợ, cũng rút gươm tự tử. Trong cung náo động, hoạn quan và cung nữ sợ mà tự tử cũng nhiều, chết nằm ngổn ngang ở trong cung.

Tiếng kêu khóc như ri. Đấu Thành Nhiên lại đem quân vào, thu dọn những thây người chết, rồi đem quân thần ra đón Sái công. Khi Sái công đến, người trong nước chưa biết, vẫn tưởng là Linh vương; đến lúc thấy Sái công, mới biết rằng những tin hoảng báo trước đều là mưu kế của Sái công bày ra cả. Sái công vào thành lên ngôi, đổi tên là Hùng Cư, tức là Sở Bình vương. Dân nước Sở chưa ai biết là Sở Linh vương chết, thường thường náo động, có khi đang đêm huyên truyền nhau là Sở Linh vươngvề, ai nấy đều kinh sợ.

Bình vương lo lắm, mới bàn mưu vơi Quan Tòng, mặt sai người lấy một cái thây người chết, đội mũ mặc áo Sở Linh vương vào, thả ở thượng lưu sông Hán để cho trôi trở xuống, nói dối là thi thể Sở Linh vương, vớt lên đem quàn ở đất Si Lương, và hiểu dụ cho người trong nước biết : từ bấy giớ dân Sở mới được yên lòng. Cách ba năm sau, Bình vươnglại sai người tìm thi thể Linh vương. Thân Hợi mới chỉ chỗ cho biết, Sở Bình vương lại đem về làm lễ an táng.

Lại nói chuyện tư mã Đốc ang vây nước Từ, lâu ngày không đánh được, sợ tội không dám rút quân về, liền tư thông với nước Từ, cứ đóng đồn giữ ở đấy; sau nghe tin Linh vương chết, mới dám rút quân về. Về đến đất Dự Chương, bị công tử Quang nước Ngô (con trưỏong Chư Phán) đem quân đón đánh. Công tử Quang nước Ngô bắt được tư mã Đốc, rồi thừa thế chiếm lấy ấp Châu Lai của nước Sở.

Bình vương lên ngôi, làm lễ an táng cho Tử Can và Tử Tích, cho Đấu Thành Nhiên làm lệnh doãn, Dương Mang (tên tự là Tử Hà) làm tả doãn. Vì nghĩ thương Viễn Yểm và Bá Châu Lê khi trước bị oan mà chết, Bình vươngcho con Bá Châu Lê là Bá Khước Uyển làm hữu doãn, và em Viễn Yểm là Viễn Xạ cùng Viễn Việt đều làm đại phu; con Triều Ngô, Hạ Khiết và Sái Hựu, đều cho làm quan hạ đại phu cả; lại thấy công Phường là người dũng cảm, cho làm chức tư mã.

Bấy giờ Ngũ Cử đã chết rồi, Bình vương nghĩ đến khi trước Ngũ Cử là người trực tính, hay can gián nhà vua, mới phong cho con là Ngũ Xa ở đất Liêu, gọi là Liên công. Con Ngũ Xa là Ngũ Thượng, cũng được phong ở đất Đường, gọi là Đường công. Còn như bọn Viễn Khải Cương, Trịnh Đan, và các quan triều thần đều được giữ nguyên chức cũ. Sở Bình vương lại muốn phong chức cho Quan Tòng. Quan Tòng nói là cha đời trước đã có nghề bói, nay xin làm chức bốc đoán. Sở

Bình vương thuận cho. Các quan triều thần đều sụp lạy tạ ơn, chỉ có Triều Ngô và Sái Hựu xin từ chức mà đi. Sở Bình vương hỏi cớ làm sao. Triều Ngô và Sái Hựu đều nói :

- Chúng tôi đem quân giúp đại vương là có ý muốn cầu phục nước Sái. Nay đại vương đã lên ngôi, mà tôn tự nước Sái chúng tôi vẫn chưa có ai cúng tế, chúng tôi còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đại vương nữa. Ngày xưa Linh vương tham sự chiếm đất, để cho lòng người oán giận, bây giờ đại vương muốn thu lấy lòng người thì nên phục quốc cho nước Trần và nước Sái mới phải.

Sở Bình vương khen phải, mới sai người tìm dòng dõi vua Trần và vua Sái, tìm được con thế tử Yến Sư nước Trần tên là Ngô và con thế tử Hữu nước Sái tên là Lư; liền sai quan thái sư chọn ngày tốt phong cho Ngô làm Trần hầu tức là Trần Huệ công; Lư làm Sái hầu tức là Sái Bình công. Triều Ngô và Sái Hựu theo Sái Bình công trỏ về nước Sái. Hạ Khiết theo Trần Huệ công trở về nước Trần. Quân Trần, quân Sái đều được khao thưởng, rồi quân nước nào lại rút về nước ấy. Bao nhiêu châu báo của Trần, Sái khi trước Sở Linh vương lấy về, chứa ở trong kho nước Sở, bấy giờ đều được trả lại cho Trần và Sái cả. Sáu nước nhỏ khi trước Sở Linh vương bắt thiên về phía Kinh Sơn, bấy giờ đều được trở về chốn cũ. Vua tôi các nước ấy đều mừng rỡ và cảm ơn Sở Bình vương khôn xiết.

Con trưởng Sở Bình vương tên là Kiến, tên tự là Tử Mộc (mẹ là con gái nước Sái) bấy giờ tuổi đã lớn, được làm thế tử. Sở Bình vương lại cho Liên công là Ngũ Xa làm chức thái sư ( Thái sư và thiếu sư đều là chức quan để dạy thế tử, cũng như chức thái phó và thiếu phó.) Có một người nước Sở tên là Phi Vô Cực, xưa nay vẫn theo hầu Bình vương, khéo du nịnh lắm. Bình vương có lòng yêu, cho làm đại phu. Phi Vô Cực xin theo thế tử Kiến. Sở Bình vương mới cho làm chức thiếu sư; lại cho Phấn Dương làm đông cung tư mã. Sở Bình vương thấy trong nước được thái bình, chỉ ngày đêm vui chơi hưởng thanh sắc.

Nước Ngô chiếm ấp Châu Lai, Bình vương cũng chẳng nghĩ gì đến sự báo phục. Phi Vô Cực làm chức thiếu sư, nhưng ngày nào cũng theo hầu ở bên cạnh Bình vương. Thế tử Kiến ghét Phi Vô Cực là người du nịnh, có ý khinh bỉ. Quan lệnh doãn là Đấu Thành Nhiên cậy công chuyên quyền, Phi Vô Cực gièm với Bình vương đem giết đi, rồi cho Dương Mang làm lệnh doãn. Thế tử Kiến thương nói Đấu Thành Nhiên chết oan. Phí Vô Cực lo sợ, sinh lòng hiềm khích với thế tử Kiến. Phí Vô Cực lại tiến dẫn Yên Tương Sư, Bình vươngcho làm chức hữu lệnh cũng có lòng yêu lắm.

Lại nói chuyện nước Tấn từ khi lập ra Tử Kỳ cung, chư hầu đều biết là có ý trễ nãi, không phục nữa. Tấn Chiêu công lên ngôi muốn phục hưng bá nghiệp đời trước, nghe nói Tề Cảnh công cho Án Anh sang sứ nước Sở, cũng sai người đến trách nước Tề sao không sang triều kiến nước mình. Tề Cảnh công thấy Tần và Sở trong nước nhiều việc biến loạn, có ý muốn thừa thế lên làm bá chủ, mới định nhân liệu sang triều kiến nước Tấn, cho kẻ dũng sĩ là Cổ Gia Tử đi theo. Khi qua sông Hoàng Hà, có con ngựa tả tham (con ngựa buộc ở bên tả xe) buộc ở man thuyền. Tề Cảnh công vốn yêu con ngựa ấy lắm, đang đứng xem kẻ ngự nhân (giữ ngựa) cho ngựa ăn, bỗng thấy có một trận mưa to, sóng gió rào rạt, thuyền nghiêng muốn úp, có con giải lớn thò đầu lên trên mặt nước, há miệng thật to, ghếch vào mạn thuyền, ngoạp con ngựa tả tham là lặn xuống sông. Tề Cảnh công kinh sợ. Cổ Gia Tử đứng bên cạnh, tâu rằng :

- Chúa công chớ sợ ! Tôi xin đi tìm !

Nói xong, cởi áo cầm gươm, nhảy xuống dưới nước, rẽ sóng mà bơi, khi nổi khi chìm, trôi đi đến chín dặm, rồi chẳng thấy tông tích đâu cả. Tề Cảnh công thở dài mà nói rằng :

- Cổ Gia Tử chết mất rồi !

Được một lúc, sóng gió im lặng, trông thấy có máu chảy ở mặt nước. Cổ Gia Tử tay trái kéo đuôi con ngựa tả tham, tay phải xách cái đầu con giải, đầm đìa những máu, ở dưới nước lên. Tề Cảnh công kinh sợ mà khen rằng :

- Thế thì thật là thần dũng ! Tiên quân ta ngày xưa đặt ra đội dũng tước, cũng chưa có ai giỏi như vậy !

Nói xong liền hậu thưởng cho Cổ Gia Tử. Khi đến nước Tấn. Tề Cảnh công vào yết kiến Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công bày tiệc để thết đãi. Nước Tấn thì có Tuân Ngô làm tướng lễ (Khi ăn tiệc hay tiếp khách vẫn có một người đứng coi sóc hoặc chỉ bảo gọi là tướng lễ). Nước Tề có A1n Anh. Khi rượu đã ngà ngà say. Tấn Chiêu công nói với Tề Cảnh công rằng :

- Bây giờ không biêt lấy gì làm vui, xin đánh đầu hồ ( là cầm cái thẻ ném vào miệng bầu để cầu được trúng).

Tề Cảnh công vâng lời. Thị vệ lấy cái hồ ra và dâng một nắm thẻ để đánh. Tề Cảnh công nhường cho Tấn Chiêu công đánh trước. Tấn Chiêu công đang cầm cái thẻ ở trong thì Tuân Ngô hát ví rằng :

"Có gò thịt cao,

Có ao rượu sâu

Chúa công tôi trúng

Làm chủ chư hầu".

Tấn Chiêu công ném mạnh một cái thì thẻ trúng vào hồ, bèn ném cả bó thẻ xuống đất. Các quan nước Tấn thấy vậy, đều sụp lạy chúc mừng. Tề Cảnh công có ý không bằng lòng, khi cầm cái thẻ lên để đánh đầu hồ, cũng hát rằng :

"Có gò thịt cao

Có ao rượu sâu

Thẻ này tôi trúng

Thay chân quân hầu".

Tề Cảnh công cũng buông mạnh một cái, trúng ngay vào trong hồ, bèn cười to lên, rồi ném nắm thẻ xuống đất. Án Anh cũng sụp lạy chúc mừng. Tấn Chiêu công đổi ngay sắc mặt. Tuân Ngô nói với Tề Cảnh công rằng :

- Nhà vua lỡ lời mất rồi ! Chỉ vì nước Tấn tôi nối đời làm bá chủ mà nay nhà vua tới đây, sao nhà vua lại nói thay chúa công tôi làm chủ chư hầu ?

Án Anh thay lời Tề Cảnh công mà đáp rằng :

- Ngôi bá chủ có nhất định thuộc về ai bao giờ, ai có đức thì người ấy được. Ngày xưa nước Tề làm bá chủ, rồi đến nước Tấn thay; nước Tấn có đức thì ai dám không phục, nhược bằng không có đức thì Ngô và Sở cũng có thể thay Tấn được, huống chi là Tề !

Dương Thiệt Bật nói :

- Hiện nay nước ta đang làm chủ chư hầu, việc gì phải bói đầu hồ mới biết ! Tuân Ngô nói thế cũng là không phải !

Tuân Ngô biết lỗi, nín lặng không nói gì cả. Cổ Gia Tử đứng ở dưới thềm nói to lên rằng :

- Ngày đã về chiều, nên bãi cuộc rượu !

Tề Cảnh công cáo từ lui ra. Ngày hôm sau, trở về nước Tề.

Dương Thiệt Bật nói với Tấn Chiêu công rằng :

- Chư hầu sắp có lòng ly tán, nếu không dùng binh lực thì sao giữ được quyền bá chủ.

Tấn Chiêu công khen phải, liền truyền lệnh luyện tập quân mã và sai sứ sang nhà Chu xin cho một vương thần (người bề tôi của vương tử nhà Chu) đến, hẹn tới tháng bảy năm ấy thì đại hội chư hầu ở đất Bình Khâu (đất nước Vệ). Chư hầu nghe nói có vương thần dự hội, đều phải đến cả. Tấn Chiêu công giao cho Hàn Khởi giữ nước rồi đem đại binh thẳng đường tiến sang Bộc Dương(kinh thành nước Vệ). Quân đông cả thảy ba mươi trại. Chư hầu thấy quân Tấn rầm rộ như vậy đều có ý sợ.

Khi khai hội, Dương Thiệt Bật bưng chậu máu dâng lên mà nói rằng :

- Tiên thần nước tôi là Triệu Vũ, quá tin lời ước bãi binh mà giao hiếu với nước Sở. Vua Sở là Hùng Kiến (tức là Sở Linh vương) thất tín, đến nỗi diệt vong. Nay chúa công tôi muốn bắt chước như kỳ hội Tiền Thổ trước, trên nhờ ơn thiên tử, dưới dẹp yên trung nguyên, xin các nước cùng thề để làm tin.

Các chư hầu đều cúi đầu đáp rằng :

- Xin vâng lệnh !

Chỉ có Tề Cảnh công nín lặng không nói gì cả. DươngThiệt Bật nói với vua Tề rằng :

- Nhà vua có ý không muốn thề hay sao ?

Tề Cảnh công nói :

- Chư hầu không phục thì mới phải thề, nếu ai cũng vâng mệnh thì còn thề làm gì nữa !

Dương Thiệt Bật nói :

- Kỳ hội ở Tiền Thổ khi trước, nước nào là nước không phục, sao cũng phải thề! Nhà vua không theo thì chúa công tôi thế tất phải đem quân đến hỏi tội.

Dương Thiệt Bật nói chưa dứt lời thì nghe hiệu trống đánh, các trại quân đều cấm cờ đại bái ( cờ dùng trong khi giao chiến). Tề Cảnh công có ý sợ, mới đổi giọng mà đáp rằng :

- Quý quốc còn cho việc thề là không thể bỏ được, có đâu tôi lại không dám theo !

Bấy giờ Tấn Chiêu công thề trước, rồi sau đến chư hầu, từ Tề, Tống trở xuống đều thề cả. Vương thần là Lưu Trí không phải thề, chỉ đứng chứng kiến mà thôi. Nước Châu và nước Cứ đem việc nước Lỗ thường sang xâm nhiễu cáo với Tấn Chiêu công, Tấn Chiêu công trách Lỗ Chiêu công rồi bắt quan thượng khanh nước Lỗ là Thúc Tôn Ý Như giam lại một chỗ. Từ Phục Huệ Bá nói riêng với Tuân Ngô rằng :

- Nước Lỗ to gấp mười nước Châu và nước Cử, nếu Tấn bỏ Lỗ thì Lỗ tất theo Tề và Sở, chẳng cũng thiệt cho Tấn lắm ru ! Và khi Sở đánh Trần và Sái, Tấn đã không cứu, mà nay lại bỏ một nước anh em hay sao!

Tuân Ngô khen phải, nói chuyện với Hàn Khởi. Hàn Khởi vào tâu với Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công liền tha cho Thúc Tôn Ý Như về nước Lỗ. Từ bấy giờ chư hầu đều có ý không tôn phục nước Tấn.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 71 : Vì quả đào, cùng nhau sống chếtTham gái đẹp, quên tình cha con

Tề Cảnh công đến dự hội ở Bình Khâu, dẫu sợ binh uy nước Tấn mà phải thề, nhưng trong lòng biết là nước Tấn không có chí lớn, thì muốn khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa. Khi về nước, Cảnh công bảo quan tướng quốc là Án Anh rằng :

- Nước Tấn làm bá chủ ở phía tây bắc, ta làm bá chủ ơ phía đông nam, cũng được chứ sao!

Án Anh nói :

- Nước Tấn xây đắp lâu đài để làm khổ dân, bởi vậy mà chư hầu ly tán. Nay chúa công muốn làm bá chủ, không gì bằng thương dân !

Tề Cảnh công nói :

- Thương dân thì làm thế nào ?

Án Anh nói :

- Giảm bớt hình phạt thì dân khỏi oán, nhẹ bớt thuế má thì dân biết ơn. Tiên vương ngày xưa, hễ thấy dân nghèo khổ, tất lấy thóc kho mà chu cấp, nay chúa công cũng nên bắt chước.

Tề Cảnh công nghe lời Án Anh, lấy thóc kho ra để chu cấp cho những người nghèo khổ. Người trong nước ai cũng bằng lòng. Nước Tề lại đòi các nước ở phía đông triều cống. Nước Từ không chịu theo. Tề Cảnh công sai Điền Khai Cương làm tướng, đem quân đi đánh. Hai bên đánh nhau ở đất Bồ Toại (đất Từ). Điền Khai Cương chém được tướng nước Từ là Doanh Sáng và bắt giáp sĩ năm trăm người. Vua Từ sợ lắm, sai sứ đến cầu hoà.

Tề Cảnh công liền ước với vua Đàm, vua Cừ và vua Từ cùng ăn thề ở đất Bồ Toại. Vua Từ đem cái đỉnh của nước Thân Phủ đến lễ đút Tề Cảnh công. Vua tôi nước Tấn dẫu biết như vậy, mà không dám hỏi đến. Từ bấy giờ nước Tề mỗi ngày một cường thịnh cùng với nước Tấn cùng làm bá chủ. Tề Cảnh công thường cùng Điền Khai Cương dẹp được nước Từ, và cùng Cổ Gia Tử chém được con giải, đều cho vào hàng "ngũ thặng tân". Điền Khai Cương lại tiến dẫn cùng tên Tiệp là người vũ dũng. Nguyên công tôn Tiệp mặt như chàm đổ, hai mắc ốc nhồi, mình cao hơn trượng, sức khoẻ mang nổi mấy nghìn cân. Tề Cảnh công trông thấy lấy làm lạ, mới cùng công tôn Tiệp đi săn ở Đông Sơn.

Đang săn, bỗng trông thấy một con hổ, trán có đốm trắng, ở khe núi gầm thét chạy ra, toan vồ con ngựa của Tề Cảnh công. Tề Cảnh công kinh hãi. Công tôn Tiệp ở trên xe nhảy xuống, chẳng có gươm giáo gì cả, hai tay không xông vào bắt con hổ ấy, tay trái nắm lấy gáy con hổ, tay phải đấm mạnh một cái, con hổ chết ngay lập tức, Tề Cảnh công khen là vũ dũng, cũng cho dự vào hàng "ngũ thặng tân". Công tôn Tiệp liền cùng với Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử kết làm anh em, tự xưng là "tam kiệt" ở nước Tề. Bọn "tam kiệt" cậy mình có công to và sức khoẻ, vẫn thường khinh bỉ các quan triều thần, nhiều khi ở trước mặt Tề Cảnh công mà ăn nói hỗn láo, chẳng có lễ phép chút nào cả. Tề Cảnh công tiếc cái tài ba của ba người ấy cũng có ý khoan dung cho.

Bấy giờ trong triều có một kẻ nịnh thần là Lương Khâu Cứ, Tề Cảnh công cũng yêu lắm. Lương Khâu Cứ trong thì siểm nịnh Tề Cảnh công để được tin dùng, ngoài thì giao kết với "tam kiệt" để thêm vây cánh. Bấy giờ có Trần Vô Vũ đang phóng tiền của thu lòng người, có ý muốn chiếm nước Tề, mà Điền Khai Cương lại là thân thuộc với Trần Vô Vũ, Án Anh lấy làm lo lắm, vẫn muốn lập kế trừ đi, nhưng sợ Tề Cảnh công không nghe, lại sinh kết oán với bọn "tam kiệt" vì thế cũng không dám nói.

Một hôm, Lỗ Chiêu công cũng vì cớ không phục nước Tấn, muốn kết giao với Tề, thân hành sang triều kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày tiệc để thết đãi. Nước Lỗ thì Thúc Tôn Nhược (con Thúc Báo) làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Bọn "tam kiệt" chống gươm đứng ở dưới thềm; kiêu căng ngạo mạn, không coi ai ra gì ! Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công rượu đã ngà ngà say. Án Anh tâu rằng :

- Trong vườn quả kim đào đã chín, xin sai người ra trẩy để chúc thọ hai vua.

Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho người giữ vườn đem kim đào vào dâng. Án Anh tâu rằng :

- Kim đào là một của báu, tôi xin thân hành đi coi xét việc trẩy quả.

Án Anh bèn lĩnh chìa khoá cửa vườn rồi đi ngay. Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công rằng :

- Đời Tiên công tôi ngày xưa, có người Đông Hải, đem cái hột đào đến để dâng, nói là giống "Vạn thọ kim đào", nguyên giống ở Độ Sách sơn ngoại bể, cũng gọi tên là "Bàn đào" nữa. Nước tôi trồng đã hơn ba mươi năm, cành lá rất tốt, nhưng chỉ khai hoa mà không kết quả; mãi đến năm nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quý lắm, nên phải khoá cửa vườn lại, nay nhân có nhà vua tới đây, tôi xin đem ra để dâng nhà vua.

Lỗ Chiêu công chấp tay cảm ơn, lát sau thì Án Anh đưa người giữ vườn bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to bằng cái bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương bay ngào ngạt, thật là một thứ của quí. Tề Cảnh công hỏi rằng :

- Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à ?

Án Anh nói :

- Còn ba, bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có sáu quả.

Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc, đến dâng trước mặt Lỗ Chiêu công. Thị vệ bưng mâm đào đến. Án Anh chúc một câu rằng :

"Đào to bằng đấu

Thiên hạ ít có

Hai vua cùng ngự

Nghìn năm hưởng thọ !"

Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả đào, thấy ngon ngọt lạ thường, nên ngợi khen mãi không ngớt mồm. Đến lượt Tề Cảnh công, cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả đào, ăn xong, lại bảo quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Nhược rằng :

- Thứ đào này quí lắm! Quan đại phu có tiếng là người giỏi, nay lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả.

Thúc Tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng:

- Hiền đức của tôi, còn kém quan tướng quốc (trỏ Án Anh) muôn phần. Quan tướng quốc trong thì sửa sang chính trị, ngoài thì khiến cho chư hầu phải phục, có công to lắm, vậy thứ đào này nên nhường để quan tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm!

Tề Cảnh công nói :

- Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người một chén rượu và một quả đào.

Án Anh và Thúc Tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy. Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng :

- Trong mâm còn hai quả đào, chúa công nên truyền lệnh cho các quan, người nào có công lao nhiều thì ra mà lĩnh lấy quả đào ấy.

Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ cho các quan rằng :

- Trong hàng các quan ai cũng có công lao nhiều, đáng ăn quả đào này thì cho được đứng ra mà tâu. Đã có quan tướng quốc xét công lao mà cho đào.

Công tôn Tiệp đứng ra tâu rằng :

- Ngày xưa tôi theo chúa công đi săn ở Đông Sơn, ra sức giết được hổ thì công ấy thế nào ?

Án Anh nói :

- Cái công bảo giá (bảo vệ nhà vua) to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa !

Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn Tiệp lãnh lấy rồi lui xuống. Cổ Gia Tử đứng ra mà tâu rằng :

-Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi trước tôi giết được con giải yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến chúa công nguy mà lại yên, công ấy thế nào ?

Tề Cảnh công nói :

- Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu không có tướng quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật là một kỳ công trên đời, đáng uống rượu và ăn đào lắm!

Án Anh vội đưa rượu và đào cho Cổ Gia Tử. Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng :

- Tôi phụng mệnh chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt sống được hơn năm trăm quân Từ, vua Từ cùng vua Đàn, vua Cử đều sợ hãi mà phải xin hoà, tôn chúa công lên làm chủ, cái công ấy có đáng ăn đào hay không ?

Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng :

- Cái công của Điền Khai Cương ví với hai tướng trước, lại còn gấp mười, nhưng nay hết đào rồi thì hãy tạm thưởng cho một chén rượu, đợi đến năm khác sẽ hay.

Tề Cảnh công bảo Điền Khai Cương rằng :

- Công nhà ngươi to lắm, chỉ tiếc thay nói chậm, thành ra hết cả đào.

Điền Khai Cương chống gươm nói rằng :

- Giết hổ và chém giải, chẳng qua là những việc nhỏ mà thôi. Ta đây xông pha tên đạn ở ngoài nghìn dặm, biết bao nhiêu công khó nhọc, lại không được ăn đào, chịu nhục ở trước mặt hai vua, để tiếng cười về mai hậu, còn mặt mũi nào mà đứng trong triều đình nữa !

Nói xong, đâm cổ chết ngay. Công Tôn Tiệp giật mình, cũng rút gươm mà nói rằng :

- Chúng ta công nhỏ mà được ăn đào, họ Điền công to mà không được ăn. Ta ăn đào mà không biết nhường, sao gọi là liêm; thấy người ta chết mà không theo, sao gọi là dũng !

Nói xong, cũng đâm cổ chết. Cổ Giả Tử kêu rầm lên rằng :

- Ba chúng ta kết nghĩa với nhau, thề cùng nhau sống chết, nay hai người đã chết, ta còn ham sống làm gì!

Nói xong, lại cũng lấy gươm đâm cổ chết. Tề Cảnh công vội vàng sai người ngăn lại, nhưng không kịp. Lỗ Chiêu công cũng đứng dậy nói :

- Tôi nghe ba tướng ấy đều là những bậc tài giỏi nhất thiên hạ, tiếc thay trong một buổi sớm mà chết mất cả ba người !

Tề Cảnh công nghe nói, thì biến sắc, chỉ làm thinh không đáp. Án Anh thong dong đáp rằng :

- Đó chẳng qua là mấy kẻ vũ dũng ở nước tôi mà thôi, dẫu có chút công nhỏ mọn, cũng không đáng tiếc.

Lỗ Chiêu công nói :

- Ở bên quí quốc, những kẻ vũ dũng như thế phỏng được mấy người ?

Án Anh đáp rằng :

- Những kẻ bày mưu lập kế ở chốn miếu đường, có tài làm tướng quốc hoặc làm nguyên soái thì dến vài ba mươi người, còn những kẻ vũ dũng ấy thì chẳng qua chỉ để chúa công tôi sai khiến mà thôi, dẫu sống hay chết, nước Tề tôi cũng không hơn thiệt gì cả !

Tề Cảnh công nghe nói, mới được yên lòng. Án Anh lại rót rượu mời Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công. Hai vua cùng uống rượu thật vui rồi tan về. Khi Lỗ Chiêu công về rồi, Tề Cảnh công gọi Án Anh mà hỏi rằng :

- Trong tiệc mới rồi, khanh nói khoe khoang để giữ thể diện cho nước Tề ta; nhưng ta chỉ lo không biết lấy ai thay vào bọn "tam kiệt" ?

Án Anh nói :

- Tôi xin tiến cử một người giỏi hơn "tam kiệt".

Tề Cảnh công hỏi :

- Khanh định tiến cử ai?

Án Anh nói :

- Có Điền Nhượng Thư, văn võ toàn tài, dùng làm đại tướng được.

Tề Cảnh công nói :

- Người ấy cùng một họ với Điền Khai Cương phải không ?

Án Anh nói :

- Người ấy dẫu cùng họ với Điền Khai Cương nhưng về ngành thứ mà Điền Khai Cương không biết trọng đãi, cho nên vẫn ẩn ở Đông Hải. Chúa công muốn tuyển tướng thì không ai bằng người ấy.

Tề Cảnh công nói :

- Khanh đã biết là người giỏi, sao không tâu ngay ?

Án Anh nói :

- Người giỏi, chẳng những chọn cho được vua mới chịu ra làm quan, lại cần phải chọn bạn nữa, như bọn Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử thì khi nào Điền Nhượng Thư chịu đứng cùng hàng!

Tề Cảnh công ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng vẫn hiềm về nỗi họ Điền thân thuộc với Trần Vô Vũ, vậy nên ngần ngại không quyết định. Một hôm, có biên lại (chức quan ngoài biên thuỳ) báo tin rằng :

- Nước Tấn thấy nói "tam kiệt" đã chết, cât quân sang đánh mặt đông; nước Yên cũng thừa cơ đem quân sang xâm nhiễu mặt bắc.

Tề Cảnh công sợ lắm, liền sai Án Anh đem lễ vật ra Đông Hải đón Điền Nhượng Thư vào triều. Điền Nhượng Thư giảng giải binh pháp, hợp ý Tề Cảnh công lắm. Ngay ngày hôm ấy, Tề Cảnh công cho Điền Nhượng Thư làm nguyên soái, đem quân đi đánh Tấn và Yên. Điền Nhượng Thư tâu với Tề Cảnh công rằng :

- Tôi vốn con nhà hèn hạ ở chốn thôn dã, nay chúa công giao binh quyền cho, e rằng lòng người không phục xin chúa công chọn một người nào được trọng vọng trong nước xưa nay, để làm giám quân, thì hiệu lệnh của tôi mới có thể thi hành được.

Tề Cảnh công theo lời, sai quan đại phu là Trang Giả đi làm giám quân, Điền Nhượng Thư và Trang Giả cùng lạy ta lui ra. Ra đến ngoài triều, Trang Giả hỏi Điền Nhượng Thư rằng :

- Quan nguyên soái định đến bao giờ thì cất quân đi?

Điền Nhượng Thư nói :

- Giờ ngọ ngày mai, tôi xin đợi ngài ở quan môn để cùng đi, xin ngài chớ sai hẹn.

Đến giờ ngọ ngày hôm sau, Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ cấm cây gỗ làm nêu để xem bóng mặt trời, và sai người đến giục Trang Giả. Trang Giả còn ít tuổi, vốn thấy mình được quí hiển mà kiêu căng lại cậy thế Tề Cảnh Công yêu vì, nên chẳng coi Điền Nhượng Thư ra gì; vả lại vẫn tưởng là mình làm giám quân thì muốn thế nào cũng được. Ngày hôm ấy, họ hàng đều bày tiệc tiễn chân. Trang Giả vui chén quá say, thấy sứ đến giục, cũng chẳng buồn đứng dậy. Điền Nhượng Thư đợi mãi, mặt trời đã xế về tây, mà vẫn chưa thấy Trang Giả đến, mới trèo lên tướng đài để truyền hiệu lệnh cho quân sĩ. Trang Giả đi đến quan môn, thủng thỉnh xuống xe, trèo lên tướng đài. Điền Nhượng Thư cứ nghiểm nhiên ngồi không đứng dậy mà hỏi Trang Giả rằng :

- Quan giám quân vì cớ gì bây giờ mới đến ?

Trang Giả chắp tay vái mà đáp rằng :

- Nhân vì tôi sắp khởi hành, họ hàng bạn hữu đều bày tiệc tiễn chân, thành ra đến hơi chậm mất một chút.

Điền Nhượng Thư nói :

- Phàm người làm tướng, trong ngày chịu mệnh vua thì phải quên nhà; khi đã truyền lệnh cho quân sĩ thì phải quên cha mẹ; khi tay cầm dùi trống, xông pha tên đạn thì phải quên cả thân mình. Nay nước giặc sang xâm nhiễu, ngoài biên thuỳ náo động, chúa công ta ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng, đem việc đánh giặc uỷ thác cho hai ta, cùng mà sớm tối lập công để cứu khổ cho trăm họ, còn lòng nào mà cùng với họ hàng bạn hữu bày cuộc vui nữa !

Trang Giả tủm tỉm cười, đáp rằng :

- Cũng may mà còn kịp, quan nguyên soái bất tất phải quá trách.

Điền Nhượng Thư nổi giận, đạp bàn mà mắng rằng :

- Nhà ngươi cậy được chúa công yêu, làm cho quân sĩ sinh lòng trễ biếng, nếu lúc ra trận cũng như thế thì hỏng hết cả công việc !

Điền Nhượng Thư truyền gọi chức quân chính đến hỏi rằng :

- Cứ theo quân pháp, hễ hẹn mà đến chậm thì nên bắt tội gì ?

Chức quân chính đáp rằng :

- Cứ theo quân pháp thì phải xử trảm !

Trang Giả nghe nói phải đem chém mới có ý sợ, vội vàng ở trên tướng đài chạy xuống. Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ trói lại, rồi đem ra cửa quân để chém. Bấy giờ Trang Giả không còn một chút hơi rượu nào cả, van van lạy lạy xin tha. Những người theo hầu Trang Giả chạy đến báo tin với Tề Cảnh công. Tề Cảnh công kinh hãi, liền gọi Lương Khâu Cứ, sai cầm cờ tiết đến bảo Điền Nhượng Thư tha tội chết cho Trang Giả, lại dặn phải đi xe thật mau, kẻo không kịp, nhưng đi đến nơi thì Trang Giả đã chết rồi. Lương Khâu Cứ không biết, tay cầm cờ tiết, đi xe thẳng tiến vào cửa quan.

Điền Nhượng Thư truyền cho quân sĩ ngăn lại, rồi hỏi chức quân chính rằng :

- Vào quan môn mà dám đi xe nhanh như vậy, thì nên bắt tội gì ?

Chức quân chính đáp rằng :

- Cứ theo quân pháp thì cũng phải xử trảm.

Lương Khâu Cứ mặt như chàm đổ, kêu là phụng mệnh mà đến, chứ không phải tự mình. Điền Nhượng Thư nói :

- Đã có mệnh vua thì tha cho không chém, nhưng làm thể nào cũng phải giữ quân pháp, vậy thì ta phá xe, giết ngựa đi để thay mạng cho sứ giả.

Lương Khâu Cứ được khỏi chết, cúi đầu len lét mà đi. Quân sĩ thấy vậy, ai cũng sợ hãi. Đại binh của Điền Nhượng Thư chưa kéo ra đến nơi, mà quân Tấn nghe tin đã bỏ trốn đi rồi. Quân Yên cũng rút về. Điền Nhượng Thư đuổi theo mà đánh, chém được hơn một vạn đầu giặc. Người nước Yên thua to, phải đem lễ vật sang xin hoà.

Khi Điền Nhượng Thư rút quân về, Tề Cảnh công thân hành ra đón, phong làm chức đại tư mã, sai giữ binh quyền. Chư hầu nghe tiếng Điền Nhượng Thư, ai cũng kính phục. Tề Cảnh công trong có Án Anh, ngoài có Điền Nhượng Thư, trong nước mỗi ngày một cường thịnh. Tề Cảnh công thấy nước nhà đã được cường thịnh, ngày nào cũng đi săn và uống rượu để cầu vui, còn quyền chính giao hết cho Án Anh, khác nào như Tề Hoàn công dùng Quản Di Ngô khi trước.

Một hôm, Tề Cảnh công ở trong cung cùng với cung nữ uống rượu; đến nửa đêm, bỗng nhớ đến Án Anh, truyền cho nội thị đem tửu khí và các thức nhắm đến nhà Án Anh, rồi báo trước cho Án Anh biết rằng :

- Chúa công sắp đến !

Án Anh đội mũ mặc áo, cầm hốt đứng chắp tay ở ngoài cửa để đón. Tề Cảnh công chưa kịp xuống xe, Án Anh đã chạy lại, sợ hãi mà rằng :

- Chư hầu có việc gì chăng, hay nước nhà có việc gì chăng ?

Tề Cảnh công nói :

- Không.

Án Anh nói :

- Thế thì sao đang đêm chúa công lại thân hành đến nhà tôi ?

Tề Cảnh công nói :

- Quan tướng quốc công việc khó nhọc, nay ta có rượu ngon và các thứ âm nhạc, không dám vui một mình, xin cùng với quan tướng quốc cùng vui.

Án Anh nói :

- Việc giao kết chư hầu và giữ yên nước nhà thì tôi xin hết sức; còn những việc bày cuộc vui để hầu hạ chúa công thì đã có người khác, tôi không dám dự đến.

Tề Cảnh công quay xe trở lại, rồi sang nhà quan tư mã là Điền Nhượng Thư. Nội thị đến báo trước cho Điền Nhượng Thư biết. Điền Nhượng Thư đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm kích, đứng ở ngoài cửa để đón. Khi xe Tề Cảnh công đến. Điền Nhượng Thư cúi đầu mà hỏi rằng :

- Chư hầu có nước nào quấy nhiễu hay đại thần có người nào phản nghịch chăng ?

Tề Cảnh công nói :

- Không.

Điền Nhượng Thư nói :

- Thế thì sao đang đêm chuá công lại thân hành ra nhà tôi ?

Tề Cảnh công nói :

- Nào có biết gì khác đâu, chỉ vì ta nghĩ đến cái công khó nhọc của tướng quân, vậy có rượu ngon và các thứ âm nhạc, muốn cùng với tướng quân cùng vui !

Điền Nhượng Thư nói :

- Việc đánh nước thù và dẹp kẻ phản nghịch thì tôi xin hết sức; còn những việc bày cuộc vui để hầu hạ chúa công thì thiếu gì người, sao chúa công lại hỏi đến kẻ giới trụ (giới áo giáp trụ, Giới trụ nghĩa là những tướng võ).

Tề Cảnh công có ý không được vui. Nội thị hỏi :

- Chúa công định về cung hay đi đâu ?

Tề Cảnh công nói :

- Đi sang nhà quan đại phu là Lương Khâu Cứ.

Nội thị lại báo trước cho Lương Khâu Cứ biết.

Lương Khâu Cứ tay trái ôm đàn cầm, tay phải cấp ống kèn, miệng hát nghêu ngao mà ra đón Tề Cảnh công ở tận ngoài đường. Tề Cảnh công bằng lòng, mới cởi áo ra, rồi cùng với Lương Khâu Cứ uống rượu vui, và nghe các thứ âm nhạc mãi đến gà gáy, mới trở về cung.

Ngày hôm sau, Án Anh và Điền Nhượng Thư cùng vào triều tạ tội, lại can Tề Cảnh công không nên đang đêm ra uống rượu ở nhà các quan, Tề Cảnh công nói :

- Ta không có hai người thì lấy ai trị nước, không có Lương Khâu Cứ thì lấy ai mua vui? Ta không làm trở ngại đến công việc của hai ngươi, hai ngươi chớ nên can dự đến công việc của ta !

Bấy giờ Trung Nguyên nhiều việc, nước Tấn không thể quản cố được. Tấn Chiêu công lên làm vua được sáu năm thì mất, thế tử Khứ Tật lên nối ngôi, tức là Tấn Khoảnh công. Năm thứ nhất đời Tấn Khoảnh công, Hàn Khởi và Dương Thiệt Bật đều ốm chết cả. Nguỵ Thư cầm quyền chính. Tuân Lịch và Phạm Uông đều có tiếng là người hay ăn lễ. Kẻ gia thần của Kỳ Doanh, tên là Kỳ Thắng, tư thông với vợ Ô Tang (cũng là gia thần của Kỳ Doanh). Kỳ Doanh bắt Kỳ Thắng, Kỳ Thắng lễ đút Tuân Lịch. Tuân Lịch nói với Tấn Khoảnh công mà gièm Kỳ Doanh. Tấn Khoảnh công lại bắt Kỳ Doanh. Dương Thiệt Thực Ngã (con Dương Thiệt Bật) là phái Kỳ Doanh, liền giết Kỳ Thắng. Tấn Khoảnh công nổi giận, giết Kỳ Doanh và Dương Thiệt Thực Ngã, lại diệt cả họ Kỳ và họ Dương Thiệt. Người nước Tấn nghe nói, ai cũng thương là oán. Sau Lỗ Chiêu công bị kẻ cường thần là Quí Tôn Ý Như đuổi, Tuân Lịch (nước Tấn) lại ăn tiền của Quí Tôn Ý Như, không cho Lỗ Chiêu công chạy vào nước Tấn. Tề Cảnh công hội chư hầu ở Yên Lăng, để bàn mưu giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, bởi vậy ai cũng kính phục. Từ bấy giờ uy danh Tề Cảnh công mới lừng lẫy.

Lại nói chuyện vua nước Ngô là Di Muội lên ngôi được bốn năm thì ốm nặng, theo lời cha anh dặn ngày trước, muốn truyền ngôi cho em là Qúi Trát. Qúi Trát từ chối mà nói rằng :

- Ta quyết không bao giờ chịu nhận ! Dẫu tiên vương ta ngày xưa có trối lại, nhưng ta cũng không dám theo, bởi vì ta coi sự phú quí khác nào như gió thu thoảng qua mà thôi, có thiết gì !

Quí Trát liền trốn về ở Diên Lang. Triều thần nước Ngô bèn lập con Di Muội là Châu Vu lên làm vua, cải tên là Liêu, tức là Vương Liêu. Con Chư Phán là công tử Quang giỏi về việc binh, Vương Liêu dùng làm tướng. Công tử Quang cùng với quân sĩ Sở giao chiến ở đất Trường Ngạn (đất nước Sở), giết được quan tư mã nước Sở là công tử Phương. Người nước Sở kinh sợ, phải đắp thành ở đất Châu Lai để phòng giữ nước Ngô. Bấy giờ Phí Vô Cực khéo du nịnh, Sở Bình vương (Lư) yêu lắm. Sái Bình công đã lập đích tử tên là Chu làm thế tử, người thứ tư tên là Đông Quốc muốn tranh, mới lễ tiền cho Phí Vô Cực, để nhờ nói hộ với Bình vương ( Phí Vô Cực là quan nước Sở, được Sở Bình vương yêu lắm. Bấy giờ Sái thuộc Sở, vậy nên phải nhờ Phí Vô Cực nói hộ).

Sở Bình vương thấy vậy, hỏi Phí Vô Cực rằng :

- Tại sao người nước Sái đuổi thế tử Chu ?

Phí Vô Cực nói :

- Thế tử Chu định làm phản nước Sở ta, người nước Sái không bằng lòng, vậy nên đuổi đi.

Sở Bình vương cũng không hỏi gì đến nữa. Phí Vô Cực ghét thế tử Kiến (con Sở Bình vương), bèn muốn làm cho cha con phải lìa rẽ nhau, nhưng chưa có kế gì. Một hôm, Phí Vô Cực tâu với Sở Bình vương rằng :

- Thế tử đã lớn tuổi, sao đại vương không cầu hôn cho thế tử, mà muốn cầu hôn thì không đâu bằng nước Tần. Tần là một nước cường thịnh xưa nay vẫn giao hiếu với Sở, nếu ta kết hôn với Tần thì thế lực nước Sở càng thêm vững vàng.

Sở Bình vương nghe lời, sai Phí Vô Cực sang nước Tần cầu hôn cho thế tử Kiến. Tần Ai công cũng họp triều thần để thương nghị. Các quan đều nói :

- Xưa nay nước Tần ta, và nước Tấn vẫn kết hôn với nhau, nay nước Tấn đã lâu không đi lại với ta, mà nước Sở hiện đang cường thịnh, vậy ta nên cho nước Sở kết hôn.

Tần Ai công liền hẹn gã em gái là nàng Mạnh Doanh cho nước Sở. Sở Bình vương lại sai Phí Vô Cực đem lễ vật sang nước Tần xin cưới. Phí Vô Cực sang đến nước Tần, đem lễ vật đệ trình lên. Tần Ai công bằng lòng, sai công tử Bồ đưa nàng Mạnh Doanh sang nước Sở. Hành trang có cả thảy một trăm cổ xe, các dâng thiếp theo hầu kể có vài ba mươi người. Nàng Mạnh Doanh vào từ biệt anh rồi đi. Trong khi đi đường Phí Vô Cực thấy nàng Mạnh Doanh nhan sắc tuyệt trần; lại thấy trong đám dâng thiếp có một người dáng điệu đứng đắn lắm, hỏi dò ra mới biết là Tề nữ (con gái nước Tề). Nguyên trước thân phụ Tề nữ sang làm quan ở nước Tần. Tề nữ theo sang từ thuở bé, đến sau vào làm thị nữ trong cung, hầu nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực dò biết như vậy, nhân đêm hôm ấy ngủ ở quán xa, mật triệu Tề nữ đến mà bảo rằng :

- Ta trông thấy nàng có quý tướng, muốn giúp cho nàng được làm vợ ngôi thế tử, nếu nàng chịu theo kế ta thì sau này phú quí không biết đâu mà kể !

Tề nữ cúi đầu nín lặng. Phí Vô Cực về trước một hôm, vào tâu với Sở Bình vương, nói nàng mạnh Doanh đã đến, còn cách xa độ ba xá. Sở Bình vương hỏi rằng :

- Nhà ngươi đã được trông thấy mặt nàng chưa? Nhan sắc thế nào ?

Phí Vô Cực biết Sở Bình vương là người ham tửu sắc, định khoe khoang vẻ đẹp của nàng Mạnh Doanh để làm cho Sở Bình vương phải động lòng, may sao lại gặp Sở Bình vương hỏi đến, chính trúng vào kế của mình, bèn tâu rằng :

- Mắt tôi trông thấy con gái đã nhiều, nhưng chưa thấy người nào đẹp như nàng Mạnh Doanh! Chẳng những trong cung nước Sở không có ai bằng, dẫu tượng truyền các bậc tuyệt sắc đời xưa như Đắc Kỹ và Ly Cơ, cũng chỉ nghe tiếng đồn mà thôi, chứ e rằng nàng Mạnh Doanh đẹp muôn phần, vị tất những người kia đã được một !

Sở Bình vương nghe nói, mặt đỏ bừng lên, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà nói rằng :

- Ta xưng vương làm gì cho uổng ! Chẳng gặp được người tuyệt sắc ấy, thật cũng phí một đời !

Phí Vô Cực xin đuổi hết những người chung quanh rồi mật tâu với Sở Bình vương rằng :

- Nếu đại vương yêu sắc đẹp của nàng Mạnh Doanh thì sao đại vương không lấy đi ?

Sở Bình vương nói :

- Ta đã cưới về cho thế tử, làm vậy sợ hại đến luân lý.

Phí Vô Cực tâu rằng :

- Việc gì mà hại ! Nàng Mạnh Doanh dẫu cưới cho thế tử, nhưng chưa hề đến nơi; nay đại vương đón nàng vào cung, còn ai dám nghị luận nữa.

Sở Bình vương nói :

- Ta khoá được miệng các quan, chứ bưng thế nào được miệng thế tử ?

Phí Vô Cực nói :

- Tôi xem trong đám dâng thiếp có Tề nữ là người dáng điệu đứng đắn, cho giả làm nàng Mạnh Doanh được. Tôi xin đưa nàng Mạnh Doanh vào cung, rồi đem Tề nữ tiến cho thế tử, như vậy thì hai bên cùng phải giấu kín cả, thật là trọn vẹn mọi bề !

Sở Bình vương mừng lắm, dặn Phí Vô Cực phải bí mật lắm mới được. Phí Vô Cực bảo công tử Bồ nước Tần rằng :

- Hôn lễ nước Sở, không giống các nước, tân nhân tất phải vào cung yết kiến đại vương tôi đã, rồi mới cùng với thế tử thành thân.

Công tử Bồ xin vâng lệnh. Phí Vô Cực bèn đưa nàng Mạnh Doanh và các dâng thiếp vào cung để yết kiến Sở Bình vương, rồi để nàng Mạnh Doanh ở lại đấy; lại bắt các cung nữ giả làm dâng thiếp nước Tần, còn Tề nữ thì gỉa làm nàng Mạnh Doanh, đưa sang cung thế tử Kiến. Các quan và thế tử Kiến đều không biết mưu gian của Phí Vô Cực. Sở Bình vương sợ thế tử Kiến biết việc nàng Mạnh Doanh, mới cấm thế tử Kiến không cho vào cung, rồi ngày đêm chỉ cùng với nàng Mạnh Doanh uống rượu mua vui, chẳng thiết gì đến chính sự cả.

Bấy giờ bên ngoài cũng có nhiều người thì thào nghi việc nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực sợ thế tử Kiến biết, mới bảo Bình vương rằng :

- Nước Tấn làm bá chủ được lâu năm, chỉ vì tiếp giáp với Trung Nguyên. Vua Linh vương ta ngày xưa đắp thành ở Trần và Sái là có ý muốn tranh nghiệp bá, nay hai nước được phục quốc, Sái mà Sở lui về ở phương nam thì làm sao mà tranh nghiệp bá được, sao đại vương không sai thế tử ra trấn thử ở đất Thành Phủ, để giao thông với phương bắc, còn đại vương thì chuyên một mặt mà mở mang về phương nam, như vậy thì có thể thu hết được thiên hạ.

Bình vương còn ngần ngừ chưa quyết. Phí Vô Cực lại ghé tai mật tâu rằng :

- Việc nàng Mạnh Doanh, lâu ngày tất phải tiết lộ, nếu để cho thế tử đi xa, chẳng cũng lợi cả đôi đường hay sao!

Bình vương nghĩ ra, liền sai thế tử Kiến đi trấn thủ ở đất Thành Phủ, cho Phấn Dương làm quan tư mã ở đất Thành Phủ. Lại dặn Phấn Dương rằng :

- Nhà người thờ thế tử, cũng như là thờ ta !

Ngũ Xa biết Phí Vô Cực gièm pha, đã toan can ngăn Bình vương.

Phí Vô Cực biết vậy, lại tâu với Bình vương sai Ngũ Xa sang Thành Phủ để giúp thế tử. Khi thế tử Kiến đã đi rồi. Bình vương lại lập nàng Mạnh Doanh làm chánh hậu và đuổi Sái Cơ (mẹ thế tử Kiến) về đất Viên Dương; bấy giờ thế tử Kiến mới biết chuyện nàng Mạnh Doanh đã bị cha đổi mất, nhưng không thể làm thế nào được. Nàng Mạnh Doanh dẫu được Bình vương yêu dấu, nhưng thấy biết vậy cũng không dám hỏi. Được hơn một năm, nàng Mạnh Doanh sinh con trai, Bình vương yêu quí lắm, đặt tên là Trân.

Khi Trân đã được đầy tuổi tôi, Bình vương hỏi nàng Mạnh Doanh rằng :

- Từ khi nàng vào cung đến giờ, thường hay buồn rầu ít được vui vẻ, là cớ làm sao ?

Nàng Mạnh Doanh nói :

- Thiếp vâng mệnh vua anh, sang hầu hạ đại vương, vẫn tưởng rằng Tần Sở một nhà, thanh xuân đôi lứa; khi đã vào tới cung, mới biết đại vương đã nhiều tuổi. Thiếp không dám oán đại vương, nhưng chỉ tiếc rằng sinh sau đẻ muộn quá !

Sở Bình vương cười mà nói rằng :

- Cái đó là bởi số phận ! Khanh về với quả nhân thì muộn, nhưng làm chánh hậu thì đã sớm được không biết mấy năm rồi !

Nàng Mạnh Doanh nghe nói, trong lòng nghi hoặc, mới dò hỏi các cung nữ. Các cung nữ không thể giấu được, bèn thuật chuyện lại cho nghe. Nàng Mạnh Doanh thở dài, rồi ứa nước mắt khóc. Bình vương biết ý, hết sức chiều chuộng, hẹn lập Trân làm thế tử, bấy giờ nàng Mạnh Doanh mới hơi yên lòng. Phí Vô Cực vẫn lấy việc thế tử Kiến làm e ngại, sợ sau này Kiến nối ngôi thì tất trị tội mình, mới tâu với Bình vương rằng :

- Tôi nghe tin thế tử cùng với Ngũ Xa bàn mưu phản nghịch, mật sai người giao thông với Tề và Tấn, đại vương phải phòng bị mới được.

Bình vương nói :

- Thế tử vốn là người hiếu thuận, có đâu có những việc ấy !

Phí Vô Cực nói :

- Thế tử vì việc nàng Mạnh Doanh mà đem lòng oán giận. Nay ở đất Thành Phủ, vẫn luyện tập binh mã, thường khen Mục vương ngày xưa nổi loạn mà được hưởng nước Sở, con cháu phồn thịnh, thế là có ý muốn bắt chước. Nếu đại vương không trừ bỏ đi thì tôi xin muốn trốn trước để khỏi tai vạ.

Bình vương vẫn muốn bỏ thế tử Kiến, lập Trân làm thế tử, lại nghe lời nói của Phí Vô Cực, cũng hơi động lòng, toan hạ lệnh bỏ thế tử Kiến.

Phí Vô Cực lại tâu rằng :

- Thế tử đang giữ binh quyền ở ngoài, nếu hạ lệnh bỏ thì khác nào như giục thế tử làm phản. Ngũ Xa sẽ làm chủ mưu cho thế tử. Chi bằng đại vương triệu Ngũ Xa về đã, rồi sau đem quân bắt thế tử, mới có thể trừ bỏ được.

Bình vương khen phải, sai người triệu Ngũ xa. Ngũ xa về. Bình vương hỏi rằng :

- Thế tử Kiến đem lòng phản nghịch, nhà ngươi có biết không ?

Ngũ Xa vốn là người chính trực, đáp rằng :

- Đại vương chiếm lấy vợ thế tử, cũng đã quá lắm rồi, nay lại nghe lời đứa tiểu nhân mà bỏ tình cốt nhục, thì sao cho đành ?

Bình vương có ý hổ thẹn, truyền bắt Ngũ Xa giam lại. Phí Vô Cực tâu rằng :

- Ngũ Xa dám nói như vậy, quả là có lòng oán vọng. Nếu thế tử biết Ngũ Xa bị bắt thì tất nổi loạn, đem quân Tề và quân Tấn về, ta khó lòng đương nổi !

Bình vương nói :

- Ta muốn sai người đi giết thế tử, chưa biết dùng ai.

Phí Vô Cực nói :

- Sai người khác đi thì thế tử tất chống cự được, chi bằng mật dụ cho quan tư mã là Phấn Dương phải bắt thế tử mà giết đi.

Bình vương liền sai người mật dụ Phấn Dương rằng :

- Giết thế tử thì được trọng thưởng, tha thế tử thì phải tội chết.

Phấn Dương tức khắc sai người tâm phúc báo cho thế tử Kiến biết, dặn phải mau mau đi trốn.

Thế tử Kiến kinh sợ. Bấy giờ Tề nữ đã sinh con trai, đặt tên là Thắng. Thế tử Kiến liền đem vợ con chạy sang nước Tống. Phấn Dương biết thế tử Kiến đã trốn rồi, mới bảo người Thành Phủ trói mình lại, giải về Sinh Đô nộp Sở Bình vương. Phấn Dương tâu với Bình vương, nói thế tử đã trốn mất rồi. Bình vương nổi giận mắng rằng :

- Việc này tự miệng ta nói ra, vào đến tai nhà ngươi, còn ai biết nữa mà báo thế tử !

Phấn Dương nói :

- Chính tôi báo thế tử ! Ngày trước đại vương có dặn tôi rằng : "Nhà ngươi thờ thế tử, cũng tức như là thờ ta!" Tôi vâng lời dặn ấy, không dám hai lòng, cho nên phải bảo cho thế tử biết. Sau nghĩ ra mới biết là mắc tội, hối lại không kịp !

Bình vương nói :

- Nhà người đã tha thế tử, lại dám đến yết kiến ta, không sợ chết hay sao ?

Phấn Dương nói :

- Tôi đã không theo được lời dặn sau cùng của đại vương nếu lại sợ chết mà không đến thì thành ra hai tội. Và chưa có tang chứng gì là thế tử phản nghịch cả, nếu đem trị tội chẳng cũng oan lắm sao! Thế tử sống thì tôi dẫu chết cũng được thoả lòng !

Bình vương động lòng, và có ý thẹn, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Phấn Dương rằng :

- Phấn Dương dẫu có trái mệnh, nhưng tấm lòng trung trực cũng đáng khen !

Bình vương xá tội cho Phấn Dương, vẫn cho được làm quan tư mã ở Thành Phủ. Bình vương lập con nàng Mạnh Doanh là Trân làm thế tử, lại cho Phí Vô Cực làm chức thái sư. Phí Vô Cực tâu rằng :

- Ngũ Xa có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Viên, đều là bậc tài giỏi, nếu để trốn sang nước Ngô thì tất hại cho nước Sở, chi bằng ta bắt Ngũ Xa phải viết thư triệu về. Kẻ kia tin lời cha, tất rủ nhau về cả, bấy giờ ta giết hết đi, mới có thể trừ được hậu hoạn.

Sở Bình vương mừng lắm, sai người vào ngục đem Ngũ Xa ra, rồi đưa giấy bút cho mà bảo rằng :

- Nhà ngươi xui thế tử làm phản, đáng lẻ phải chết chém, nhưng ta nghĩ đến cái công tổ phụ nhà ngươi, không nỡ bắt tội. Nhà ngươi nên viết thư triệu hai con về, ta sẽ phong quan chức cho.

Ngũ Xa biết là Bình vương đánh lừa, để triệu về mà giết cả đi, mới tâu rằng :

- Con trưởng tôi là Ngũ Thượng, nhân hậu ôn hoà, nghe tôi triệu thì tất về ngay; còn con thứ tôi là Ngũ Viên thì văn vũ toàn tài, mà tính nhẫn nại, mai sau có thể làm nên việc được, nó tinh khôn lắm, vị tất đã chịu về.

Bình vương nói :

- Nhà ngươi cứ theo lời ta mà triệu về, còn về hay không, không can dự đến nhà ngươi !

Ngũ Xa không dám trái mệnh, liền viết một bức thư, đại lược nói rằng :

"Ta có lời cho hai con là Thượng và Viên biết rằng : Ta vì nói thẳng trái ý đại vương mà phạm tội, nhưng đại vương nghĩ đến công của tổ phụ ta ngày xưa, không nỡ giết chết, vậy có theo lời bàn của các quan mà tha tội cho , lại muốn phong quan chức cho hai con nữa. Hai con nên mau mau về triều, nếu chậm thì có tội."

Ngũ Xa viết xong, đệ trình Bình vương, Bình vương xem qua, lại truyền giam Ngũ xa vào ngục, và sai Yên Tương Sư đem thư sang Đường Ấp để triệu Ngũ Thượng và Ngũ Viên. Khi Yên Tương Sư sang đến Đường Ấp thì Ngũ Thượng cùng Ngũ Viên đã sang Thành Phủ rồi. Yên Tương Sư lại sang Thành Phủ, đến gặp Ngũ Thượng, liền đem lời chúc mừng. Ngũ Thượng nói :

- Thân phục tôi đang bị giam, còn vui gì mà chúc mừng ?

Yên Tương Sư nói :

- Đại vương quá nghe người ta nói, bắt giam tôn công (trỏ Ngũ Xa ), may có các quan bảo lịnh, tâu rằng nhà tôn công về trước đã ba đời trung trực, cho nên đại vương nghĩ lại, bèn phong cho tôn công làm tướng quốc, và phong cho hai ngài làm Hồng Đô hầu (Thượng) và Cái hầu (Viên). Tôn công bị giam đã lâu, nay mới được tha, mong nhớ hai ngài lắm, vậy có sai tôi mang thư đến đây để đón.

Ngũ Thượng nói :

- Thân phụ tôi bị giam, lòng tôi thật đau như cắt, nay được tha là may, khi nào lại dám mong quan chức !

Yên Tương Sư nói :

- Đó là mệnh vua, ngài chớ nên từ chối !

Ngũ Thượng mừng lắm, liền đem thư vào nhà trong cho em là Ngũ Viên xem.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 72 : Dụ hai con, Sở Bình lập kếNghĩ một đêm, Ngũ Viên bạc đầu

Ngũ Viên, tên tự là Tử Tư, người ở Giám Lợi, mình cao một trượng, lưng rộng người ôm, mày rộng một thước (đời thượng cổ, thước (xích) tấc (thần) rất nhỏ ), mắt sáng như điện, sức khoẻ lạ thường, lại văn vũ toàn tài, là con Ngũ Xa, em Ngũ Thượng. Ngũ Thượng cùng với Ngũ Viên đều theo cha sang đất Thành Phủ. Yên Tương Sư phụng mệnh Sở Bình vương ra dụ Ngũ Thượng, Ngũ Viên vào triều. Yên Tương Sư vào yết kiến Ngũ Thượng trước, đưa bức thư của Ngũ Xa, rồi xin vào yết kiến Ngũ Viên. Ngũ Thượng cầm bức thư vào nhà trong cho Ngũ Viên xem và bảo rằng :

- May thay, phụ thân được khỏi tội, hai ta được phong hầu, em nên ra tiếp kiến sứ giả.

Ngũ Viên nói :

- Phụ thân được khỏi tội, cũng đã là may, ta có công gì mà được phong hầu, chẳng qua chỉ là triều đình lừa ta đó thôi. Ta về thì tất bị hại.

Ngũ Thượng nói :

- Hiện có thư của thân phục ta, khi nào lại là giả dối được.

Ngũ Viên nói :

- Phụ thân một lòng tận trung với nước, nay bị tội oan, biết là thế nào rồi sau chúng ta cũng báo thù, cho nên phụ thân muốn cho chúng ta hiến thân cho nước để khỏi lo về sau.

Ngũ Thượng nói :

- Em nói thế chẳng qua là phỏng đoán thôi, vạn nhất bức thư là chân tình thì cái tội bất hiếu của chúng ta để đâu cho hết !

Ngũ Viên nói :

- Để em xin bói một quẻ.

Ngũ Viên nói xong, liền đoán rằng :

- Cứ như quẻ bói này, thì vua dối bề tôi, cha dối con. Nếu về tất bị hại, chứ chẳng khi nào được phong hầu cả !

Ngũ Thượng nói :

- Không phải ta tham gì chuyện phong hầu, mà ta chỉ mong được trông thấy phụ thân mà thôi.

Ngũ Viên nói :

- Người nước Sở sợ có anh em ta ở ngoài, vậy nên chưa dám giết phụ thâh, nếu ta lầm mà về thì chỉ khiến cho phụ thân chóng chết mà thôi.

Ngũ Thượng nói :

- Cái tình cha con, nếu ta được trông thấy mặt thì ta chết cũng thoả lòng !

Ngũ Viên thở dài mà rằng :

- Về mà cũng chết, phỏng có ích gì ! Nếu anh muốn về thì từ đây em xin vĩnh biệt .

Ngũ Thượng khóc hỏi rằng :

- Em định đi đâu ?

Ngũ Viên nói :

- Ở đâu có thể báo thù được nước Sở, thì em đi.

Ngũ Thượng nói :

- Trí lực của anh thua em xa lắm. Vậy anh nên về Sở, còn em thì đi nước khác. Anh lấy sự theo cha làm hiếu, em lấy sự báo thù làm hiếu, mỗi người một chí. Từ đây trở đi, anh em ta không được trông thấy nhau nữa !

Ngũ Viên sụp lạy bốn lạy để từ biệt Ngũ Thượng. Ngũ Thượng gạt nước mắt, ra tiếp kiến Yên Tương Sư nói em là Ngũ Viên không muốn phong hầu, không thể cưỡng được. Yên Tương Sư đưa Ngũ Thượng về yết kiến Bình vương. Bình vương truyền bắt Ngũ Thượng giam lại. Ngũ Xa thấy một mình Ngũ Thượng về triều, liền thở dài mà nói rằng :

- Ta vẫn biết Ngũ Viên không chịu về.

Phí Vô Cực lại tâu với Bình vương rằng :

- Còn một Ngũ Viên, nên sai bắt ngay, nếu chậm thì hắn trốn mất !

Bình vương nghe lời, liền sai quan đại phu là Vũ Thành Hắc đem quân đi bắt Ngũ Viên. Ngũ Viên nghe tin quân Sở sắp đến bắt mình, khóc mà nói rằng :

- Nếu vậy thì cha tôi và anh tôi không khỏi chết được !

Liền bảo vợ là Gĩa thị rằng :

- Ta muốn trốn sang nước khác, mượn quân về để báo thù cho cha, anh, nên không thể trông nom đến nàng được, biết làm thế nào ?

Gĩa thị trừng mắt nhìn Ngũ Viên mà nói rằng :

- Đại trượng phu nghĩ đến cái thù của cha, anh, lòng đau như cắt , còn lòng nào mà tưởng đến người đàn bà ! Phu quân nên mau mau trốn đi, chớ nghĩ đến thiếp !

Gĩa thị nói xong, liền vào trong nhà thắt cổ mà chết. Ngũ Viên vật mình lăn khóc, đem thi thể Giã thị chôn tạm vào một nơi, rồi thu xếp khăn gói, mình mặc áo bào trắng, đeo kiếm cầm cung trốn đi. Ngũ Viên chưa đi được nửa ngày thì quân Sở đã kéo đến vây nhà, không tìm thấy Ngũ Viên, đoán chừng Ngũ Viên tất chạy về phía đông, mơí tức khắc đuổi theo. Ước độ ba trăm dặm, đến một chỗ đồng không mông quạnh, Ngũ Viên giương cung bắn chết người dong xe của Vũ Thành Hắc; lại nhắm Vũ Thành Hắc, toan bắn luôn một phát nữa. Vũ Thành Hắc sợ hãi xuống xe bỏ chạy. Ngũ Viên bảo Vũ Thành Hắc rằng :

- Ta định bắn chết nhà ngươi, nhưng hãy tha cho để nhà ngươi về báo cho vua Sở biết rằng : "Nước Sở muốn còn giữ được cúng tế thì chớ giết cha và anh ta, bằng không thì tất ta phải diệt nước Sở, mới hả được lòng căm tức của ta!"

Vũ Thành Hắc cúi đầu đi thẳng, về báo với Sở Bình vương. Sở Bình vương giận lắm, sai Phí Vô Cực giải cha con Ngũ Thượng ra chợ để chém. Khi sắp bị chém, Ngũ Thượng nhiếc mắng Phí Vô Cực là một đứa du nịnh, làm hại kẻ trung lương. Ngũ Xa ngăn Ngũ Thượng mà bảo rằng :

- Cần gì phải nói cho rởm, ai nịnh ai trung, sau này sẽ có công luận ! Ta chắc rằng Ngũ Viên còn sống thì vua tôi nước Sở cũng khó lòng ngồi yên được mà ăn !

Bình vương nói :

- Ngũ Viên dẫu trốn, nhưng đi tất chưa xa, ta nên sai người đuổi theo.

Bình vương bèn truyền cho quan tả tư mã là Thẩm Doãn Thu phải đem quân đi duổi bắt cho kỳ được. Ngũ Viên đi đến bờ sông Đại Giang, liền nghĩ ngay một kế : cởi cái áo bào trắng đang mặc treo lên cành liễu, lại đem đôi giầy bỏ ở bên bờ, rồi thay đôi giầy cỏ, cứ men bờ sông mà đi. Thẩm Doãn Thu đuổi theo đến bờ sông, bắt được giầy và áo của Ngũ Viên, đem về tâu với Bình vương rằng :

- Không biết Ngũ Viên đi phương nào mất !

Phí Vô Cực tâu rằng :

- Tôi có một kế làm cho Ngũ Viên không còn đường nào mà trốn.

Bình vương hỏi kế gì ? Phí Vô Cực nói :

- Một mặt chiên yết các nơi, bất cứ người nào, hễ bắt được Ngũ Viên thì thưởng năm vạn thạch thóc, và cho làm thượng đại phu; còn ai chứa chấp hoặc buông tha Ngũ Viên thì cả nhà đều bị chết chém; bao nhiêu những người qua lại ở bến sông hoặc cửa ải, đều phải khám xét thật kỹ. Lại sai sứ đi báo khắp các nước, không nước nào được dùng Ngũ Viên. Như thế thì Ngũ Viên sẽ không có đường trốn, dẫu chưa bị bắt mà cô thế cũng chẳng làm gì nổi !

Bình vương theo kế ấy, sai người vẽ hình tượng Ngũ Viên để cho đi tầm nã các nơi.

Ngũ Viên men bờ sông đi về phía đông, định trốn sang nước Ngô, nhưng ngặt vì đường sá xa xôi, chưa thể đi được; lại nghĩ muốn sang nước Tống để tìm thế tử Kiến, mới theo con đường Thu Dương mà đi. Đi đến nửa đường, bỗng trông thấy một toán xe ngựa tấp nập, Ngũ Viên ngờ là có quân Sở đón đường, phải đứng nấp ở trong bụi rậm; sau nhìn kỹ mới biết là người bạn cũ của mình tên gọi Thân Bao Tư, nhân đi sứ nước ngoài về qua đấy. Ngũ Viên chạy ra, đứng ở bên xe. Thân Bao Tư vội vàng xuống xe tiếp kiến và hỏi Ngũ Viên rằng :

- Nhà ngươi vì cớ gì mà lủi thủi một mình như vậy ?

Ngũ Viên đem việc Bình vương giết oan cha và anh mình nói cho Thân Bao Tư nghe, vừa nói vừa khóc. Thân Bao Tư nghe nói, cũng động lòng mà hỏi rằng :

- Bây giờ nhà ngươi định đi đâu ?

Ngũ Viên nói :

- Ta nghe nói kẻ thù của cha mẹ thì không cùng đội trời chung, nay ta định trốn sang nước khác, mượn quân về đánh Sở, ăn thịt vua Sở, xé thây Phí Vô Cực, cho hả tấm lòng căm tức của ta !

Thân Bao Tư can rằng :

- Vua Sở dẫu vô đạo, nhưng dù sao cũng là vua, nhà ngươi đã mấy đời ăn lộc vua, nỡ nào lại làm phản ?

Ngũ Viên nói :

- Ngày xưa Kiệt và Trụ bị kẻ bề tôi giết, cũng chỉ vì vô đạo, nay vua Sở dâm loạn, lấy tranh vợ của con, lại nghe lời du nịnh mà làm hại kẻ trung lương, ta mượn quân về Sinh Đô là để quét rửa những sự ô uế cho nước Sở đó; huống chi lại là báo thù cho cha và anh ta nữa. Ta thề rằng nếu ta không diệt Sở thì không còn đứng ở trên đời !

Thân Bao Tư nói :

- Nếu ta bảo nhà ngươi báo thù nước Sở thì ta là kẻ bất trung, mà bảo nhà ngươi đừng báo thù lại là đẩy nhà ngươi vào chỗ bất hiếu. Thôi tuỳ ý nhà ngươi, ta cũng vì tình bạn hữu mà không tiết lộ cho ai biết cả. Nhưng nhà ngươi định diệt Sở thì ta đây quyết cứu Sở, nhà ngươi định làm cho Sở nguy thì ta đây quyết giữ cho Sở yên !

Ngũ Viên từ biệt Thân Bao Tư rồi đi ngay. Đến nước Tống tìm thấy thế tử Kiến, hai người cùng ôm nhau mà khóc, rồi kể những tội ác của Sở Bình vương. Ngũ Viên nói :

- Thế tử đã vào yết kiến vua Tống chưa ?

Thế tử Kiến nói :

- Nước Tống đang có loạn, nên ta chưa vào yết kiến được.

Lại nói chuyện vua Tống tên là Tá, là con một người thiếp yêu của Tống Bình công. Tống Bình công nghe lời kẻ hoạn quan là Y Lệ, giết thế tử Toạ mà lập Tá. Tống Bình công mất, Tá lên nối ngôi, tức là Tống Nguyên công. Tống Nguyên công người xấu xí, mà tính nhu nhược, lại không có tín nghĩa, ghét họ thế khanh là họ Hoa cường thịnh, mới cùng với bọn công tử Dán, công tử Ngự Nhung, Hướng Thắng và Hướng Hành bàn mưu trừ bỏ họ Hoa. Hướng Thắng nói lộ cho Hướng Ninh (con Hướng Thư) biết. Hướng Ninh quen thân với Hoa Hướng, Hoa Định và Hoa Hợi, mới báo bọn ấy nổi loạn trước. Hoa Hợi giả cách cáo ốm. Các quan đều đến hỏi thăm. Hoa Hợi bắt công tử Dán và công tử Ngự Nhung đem giết đi, giam Hướng Thắng, Hướng Hành vào trong kho. Tống Nguyên công nghe tin, vội vàng lên xe thân hành đến nhà họ Hoa xin tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành. Hoa Hợi lại bức hiếp Tống Nguyên công phải giao thế tử và một người thân thuộc để làm tin, mới chịu nghe lời.

Tống Nguyên công nói :

- Ngày xưa nhà Chu và nước Trịnh cùng trao đổi con tin với nhau, nay ta giao thế tử cho nhà ngươi thì nhà ngươi cũng phải giao con tin với ta.

Hoa Hợi thương nghị, rồi cho con mình là Hoa Vô Cảm cùng con Hoa Định là Hoa Khải, con Hướng Ninh là Hướng La sang ở làm con tin cho Tống Nguyên công. Tống Nguyên công cũng cho thế tử Loan và người em là công tử Địa sang ở làm con tin cho Hoa Hợi. Hoa Hợi mới tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành theo Tống Nguyên công về triều. Tống Nguyên công và phu nhân nhớ thế tử Loan lắm, ngày nào cũng đến nhà Hoa Hợi để thăm thế tử Loan, ăn cơm xong mới về. Hoa Hợi lấy thế làm bất tiện, toan đưa thế tử Loan sang trả. Tống Nguyên công mừng lắm. Hướng Ninh không nghe, bảo Hoa Hợi rằng :

- Ta phải bắt thế tử sang làm tin vì chúa công không biết thủ tín, nếu ta trả thế tử thì tai vạ tất đến nơi!

Tống Nguyên công nghe tin Hoa Hợi không chịu trả thế tử Loan, tức thì nổi giận, sai quan tư mã là Hoa Phí Toại đem quân đánh Hoa Hợi. Hoa Phí Toại nói :

- Còn thế tử ở đấy, sao chúa công không nghĩ ?

Tống Nguyên công nói :

- Chết sống đã có mệnh, ta không thể nào chịu được những điều sĩ nhục này !

Hoa Phí Toại nói :

- Chúa công đã nhất quyết thì có đâu tôi dám trái ý.

Hoa Phí Toại liền sửa soạn quân mã để sắp sang đánh Hoa Hợi. Tống Nguyên công đem những con tin của Hoa Hợi là Hoa Vô Cảm, Hoa Khải và Hướng La chém tất cả. Con Hoa Phí Toại là Hoa Đăng quen thân với Hoa Hợi, liền chạy sang báo Hoa Hợi. Hoa Hợi vội vàng sắp quân để nghênh chiến, nhưng lại bị thua.

Hướng Ninh toan giết thế tử Loan. Hoa Hợi nói :

- Ta đã đắc tội với vua, nay lại còn giết thế tử thì ngươita tất nghị luận !

Liền đem con tin giao trả, rồi cùng với bè cánh trốn sang nước Trần. Hoa Phí Toại có

ba con : con trưởng là Hoa Khu, con thứ là Hoa Đa Liêu, còn Hoa Đăng tức là con thứ ba. Hoa Đa Liêu vốn đã bất hoà với Hoa Khu, nhân cái loạn họ Hoa, mới tâu với Tống Nguyên

công rằng :

- Hoa Khu đồng mưu với Hoa Hợi và Hoa Định, nay sai người sang nước Trần triệu Hoa Hợi là có ý muốn làm nội ứng.

Tống Nguyên công nghe lời, sai kẻ hoạn quan là Nghi Liêu đi bảo Hoa Phí Toại. Hoa Phí Toại nói :

- Việc này tất là tại Hoa Đa Liêu nói gièm, nhưng chúa công đã nghi Hoa Khu thì xin đuổi đi.

Kẻ gia thần của Hoa Khu là Trương Mang nghe được tin ấy, sang hỏi Nghi Liêu. Nghi Liêu không chịu nói. Trương Mang rút gươm mà bảo rằng :

- Nếu nhà ngươi không nói ta đâm chết.

Nghi Liêu sợ hãi, nói thực tất cả. Trương Mang về báo với Hoa Khu, xin giết Hoa Đa Liêu. Hoa Khu nói :

- Một mình Hoa Đăng phải đi trốn đã đau lòng thân phụ lắm rồi, nay anh em ta lại tàn hại lẫn nhau thì còn ra thế nào, âu là ta chịu nhường mà tránh đi.

Hoa Khu từ biệt với cha là Hoa Phí Toại. Trương Mang đi theo. Vừa gặp Hoa Phí Toại ở trong triều ra, Đa Liêu cầm cương, Trương Mang trông thấy, hầm hầm nổi giận, chém chết Hoa Đa Liêu và bức Hoa Phí Toại cùng chạy ra ở Nam Lý. Lại sai người đến nước Trần triệu bọn Hoa Hợi về để cùng mưu phản. Tống Nguyên công sai Nhạc Đại Tâm làm đại tướng đem quân vậy Nam Lý. Hoa Đăng lại sang mượn quân nước Sở. Sở Bình vương sai Viễn Việt đem quân sang giúp họ Hoa. Ngũ Viên nghe tin quân Sở sắp đến, liền cùng thế tử Kiến chạy sang nước Trịnh. Tấn Khoảnh công cũng đem quân chư hầu đến giúp Tống Nguyên công. Chư hầu không muốn giao chiến với Sở, liền khuyên Tống Nguyên công cũng rút quân vây Nam Lý về, để thả cho bọn Hoa Hợi chạy sang nước Sở, rồi hai bên cùng nhau bãi binh.

Bấy giờ quan thượng khanh nước Trịnh là công tôn Kiều mới mất, Trịnh Định công thương tiếc vô cùng, lại vốn biết Ngũ Viên là anh hùng, và nước Trịnh đang giao hiếu với Tấn mà cừu địch với Sở, cho nên khi nghe tin thế tử Kiến đến, thì lấy làm mừng lắm, sai người mời vào công quán, và tiếp đãi rất hậu. Thế tử Kiến và Ngũ Viên mỗi lần vào yết kiến Trịnh Định công lại kể lể những nỗi oan tình, vừa nói vừa khóc. Trịnh Định công nói :

- Nước Trịnh ta nhỏ quân ít, không làm gì được. Nhà ngươi muốn báo thù thì sao không bàn mưu với nước Tấn.

Thế tử Kiến để Ngũ Viên ở lại nước Trịnh rồi đi sang nước Tấn vào yết kiến Tấn Khoảnh công. Tấn Khoảnh công hỏi hết đầu đuôi cho ra ở quán xá, rồi họp sáu quan khanh là Nguỵ Thư, Hàn Bất Tin, Triệu Uông, Phạm Uông, Tuân Di, và Tuân Lịch, để thương nghị.

Bấy giờ sáu quan khanh cầm quyền chính, không ai chịu kém ai. Tấn Khoảnh công nhu nhược, việc gì cũng không dám chuyên quyết, mà trong bọn sáu quan khanh, chỉ có Nguỵ Thư và Hàn Bất Tín có tiếng là người giỏi, còn bốn người kia toàn là những phường tham quyền cậy thế, nhất là Tuân Di lại hay ăn lễ lắm. Khi công tôn Kiều còn cầm quyền chính nước Trịnh, thì các quan khanh đều phải sợ cả; đến khi Du Cát thay công tôn Kiều, Tuân Di nước Tấn mới đòi ăn lễ của Du Cát. Du Cát không theo, từ bấy giờ Tuân Di ghét nước Trịnh. Khi vào thương nghị, Tuân Di mật tâu với Tấn Khoảnh công rằng :

- Nước Trịnh xưa nay vẫn là bất thường, lúc thì theo Tấn, lúc thì theo Sở. Nay thế tử Kiến ở nước Trịnh, nước Trịnh tất tin lời. Nếu thế tử Kiến chịu làm nội ứng cho ta, để đem quân sang đánh Trịnh thì khi đánh được Trịnh, ta sẽ phong cho thế tử Kiến, rồi sau này tìm cách diệt Sở, chẳng cũng nên lắm ru !

Tấn Khoảnh công theo kế ấy, liền sai Tuân Di đến báo thế tử Kiến. Thế tử Kiến nhận lời, rồi từ biệt Tấn Khoảnh công trở về nước Trịnh, bàn mưu với Ngũ Viên. Ngũ Viên can rằng :

- Ngày xưa tướng nước Tấn là Kỳ Tử và Dương Tôn cũng bàn mưu đánh nước Trịnh, đã chẳng được thành sự, lại không có chỗ mà dung thân. Người ta đang lấy điều trung tín mà đãi mình, sao lại nỡ hại người ta ? Việc ấy tôi thiết tưởng không nên làm.

Thế tử Kiến nói :

- Ta đã nhận lời với vua tôi nước Tấn rồi !

Ngũ Viên nói :

- Ta không dám làm nội ứng cho Tấn, cũng chưa có tội gì, nếu lập mưu lẻn đánh nước Trịnh, thì tín nghĩa đều mất cả, còn ra thế nào ! Thế tử làm việc này, tôi chắc rằng tai vạ sắp đến.

Thế tử Kiến tham được nước Trịnh, không nghe lời can của Ngũ Viên, liền đem gia tài mộ riêng quân vũ dũng , lại giao kết với các người hầu gần Trịnh Định công để dùng làm vây cánh. Tấn Khoảnh công mật sai người sang hẹn ngày với thế tử Kiến, nhưng chẳng ngờ việc tiết lộ ra, có người vào đầu thú với Trịnh Định công. Trịnh Định công cùng Du Cát thương nghị, triệu thế tử Kiến vào uống rượu ở trong vườn, nhưng cấm người hầu theo vào. Khi uống được mấy chén Trịnh Định công hỏi thế tử Kiến rằng :

- Ta đây đem lòng tử tế mà dung nạp thế tử, sao thế tử lại lập tâm định hại ta ?

Thế tử Kiến nói :

- Tôi có như thế bao giờ ?

Trịnh Định công gọi người đến đối chứng. Thế tử Kiến không thể chối được nữa. Trịnh Định công truyền cho lực sĩ bắt thế tử Kiến mà đem giết đi, lại giết cả những người ăn tiền của thế tử Kiến mà không đầu thú, cả thảy hơn hai chục người. Ngũ Viên đang ở quán xá, tự nhiên thấy rùng mình, mới nghĩ thầm rằng :

- Không khéo thì thế tử nguy mất !

Được ít lâu, người theo hầu thế tử Kiến trốn về quán xá nói việc thế tử Kiến bị giết. Ngũ Viên tức khắc cùng con thế tử Kiến là công tử Thắng thẳng đường sang nước Ngô, nhưng sợ có quân Trịnh đuổi theo, vẫn phải ngày núp đêm đi, trăm cay nghìn đắng, không kể hết được !

Đi qua nước Trần, biết không phải là chỗ dung thân được, lại đi về phía đông trong mấy ngày nữa, sắp đến cửa Chiêu Quan. Chỗ này hai bên núi cả, ra khỏi cửa quan thì có một con sông thông sang nước Ngô được. Mới rồi, nhân việc Ngũ Viên đi trốn, Sở Bình vương sai quan tư mã là Viễn Việt đóng quân ở đấy. Ngũ Viên đi đến Lịch Dương sơn, chỉ cách Chiêu Quan độ sáu mươi dặm, ngần ngừ không dám đi vội, còn ẩn núp trong rừng rậm. Bỗng gặp một ông lão chống gậy đi tắt vào trong rừng. Ông lão ấy trông thấy Ngũ Viên có vẻ lấy làm lạ, mới đến trước mặt mà vái chào. Ngũ Viên cũng chào lại.

Ông lão nói :

- Nhà ngươi có phải là Ngũ Viên đó không ?

Ngũ Viên giật mình đáp rằng :

- Sao ngài lại hỏi câu ấy ?

Ông già nói :

- Lão đây là học trò ông Biển Thước, tên gọi Đông Cao công. Thuở còn trẻ lấy nghề làm thuốc để đi choi khắp các nước, nay đã tuổi tác, về nghỉ ở đây. Mấy năm trước, Viễn tướng quân (trỏ Viễn Việt) có bệnh, mời lão đến thăm; lão trông thấy trên cửa quan có treo bức tranh vẽ Ngũ Viên, giống nhà ngươi lắm, vậy nên lão hỏi. Nhà ngươi bất tất phải giấu, lão ở sau núi này, nhà ngươi quá bộ lại chơi, lão sẽ nói chuyện.

Ngũ Viên biết không phải là người thường, mới cùng công tử Thắng đi theo Đông Cao công. Đi được vài dặm, có một cái nhà gianh. Đông Cao công vái Ngũ Viên mời vào. Vào đến trong nhà, Ngũ Viên sụp lạy hai lạy. Đông Cao công vội vàng đáp lễ mà bảo rằng :

- Chỗ này không phải chỗ nhà ngươi ở được !

Nói đoạn lại đưa Ngũ Viên và công tử Thắng đi về phía tây, vào cái cửa nhỏ rồi sang qua vườn trúc. Sau vườn có ba gian nhà đất, cửa bé bằng lỗ chui, cùng nhau cúi đầu mà vào. Trong nhà có bày bàn ghế, hai bên khoét hai cửa sổ con cho sáng. Đông Cao công nhường cho Ngũ Viên ngồi trên. Ngũ Viên trỏ vào công tử Thắng mà bảo :

- Có tiểu chủ tôi ở đâu, tôi xin đứng bên.

Đông Cao công hỏi là ai. Ngũ Viên nói :

- Đây tức là con thế tử Kiến nước Sở tên gọi công tử Thắng; còn tôi chính thực là Ngũ Viên, thấy ngài là bực trưởng giả, vậy không dám giấu, vua Sở giết cha và anh tôi, làm thế nào tôi cũng phải báo thù, xin ngài chớ tiết lộ.

Đông Cao công mơi mời công tử Thắng ngồi trên, còn mình và Ngũ Viên mỗi người ngồi một bên. Ngồi xong, Đông Cao công bảo Ngũ Viên rằng :

- Lão đây chỉ biết cứu người, khi nào lại có lòng hại người. Dẫu nhà ngươi ở đây một năm, hai năm cũng không ai biết, nhưng cửa Chiêu Quan canh phòng nghiêm ngặt lắm, nhà ngươi làm thế nào mà đi qua được, tất phải nghĩ một kế gì cho được vẹn toàn ?

Ngũ Viên quỳ xuống mà hỏi rằng :

- Ngài có kế gì cứu thoát tôi được thì sau này tôi xin hậu tạ .

Đông Cao công nói :

- Chỗ này hẻo lánh, không có ai biêt, nhà ngươi cứ ở đây, rồi lão sẽ nghĩ một kế đưa nhà ngươi và công tử đi qua cửa quan được.

Ngũ Viên lạy tạ. Đông Cao công ngày nào cũng làm rượu thết đãi. Đã được bảy ngày mà Đông Cao công không nói gì đến kế đưa qua cửa quan cả. Ngũ Viên nói với Đông Cao công rằng :

- Trong lòng tôi đang nghĩ việc báo thù, coi một khắc như một nam, nếu nấn ná mãi ở đây thì khác nào như kẻ chết rồi. Ngài đã là người cao nghĩa thì cũng nên thương tình đôi chút .

Đông Cao công nói :

- Lão nghĩ đã kỹ lắm, nhưng còn đợi người nữa đến đây!

Ngũ Viên hồ nghi không quyết. Đêm ấy nằm không ngủ được, muốn từ giã Đông Cao công để đi thì sợ không qua được cửa quan, thêm mắc tai vạ, muốn cố ở để đợi thì lại sợ kéo dài ngày tháng, mà cũng chưa biết là Đông Cao công đợi ai. Nghĩ quanh nghĩ quẩn, băn khoăn đau đớn, như có người cầm dao đâm vào ruột, đang nằm bỗng đứng dậy chạy xung quanh nhà, trời đã tảng rạng mà không biết. Đông Cao công đẩy cửa bước vào, trông thấy Ngũ Viên, kinh hãi mà hỏi rằng :

- Râu tóc nhà ngươi cớ sao mà khác hẳn đi như vậy! Hay là vì nghĩ quá mà hoá ra như thế?

Ngũ Viên không tin, cầm lấy gương soi thì ra râu tóc đã trắng xoá cả. Ngũ Viên mới ném cái gương xuống đất, rồi nức nở mà khóc rằng :

- Hai mái tóc đã bạc cả mà chẳng làm nên được một việc gì ! Trời ơi là trời !

Đông Cao công nói :

- Túc hạ chớ lấy làm buồn, đó là một điều tốt !

Ngũ Viên lau nước mắt, mà hỏi rằng :

- Sao lại gọi là điều tốt ?

Đông Cao công nói :

- Túc hạ tướng mạo khôi ngô, người ta dễ nhận lắm, nay râu tóc trắng xoá, trông lạ hẳn đi, có thể che được mắt thiên hạ. Và người bạn già của lão cũng đã tới nơi thì kế lão may ra thành được.

Ngũ Viên hỏi :

- Ngài định làm thế nào ?

Đông Cao công nói :

- Người bạn của lão tên gọi Hoàng Phủ Nột, ở Long Động sơn, cách đây bảy mươi dặm. Người ấy mình cao chín trượng, trông dáng hơi giống nhà ngươi. Nay bảo hắn giả hình nhà ngươi mà nhà ngươi thì giả hình làm đứa theo hầu. Khi hắn bị bắt, chúng đang lao nhao rối rít thì nhà ngươi lẻn qua cửa quan mà đi.

Ngũ Viên nói :

- Cái kế của ngài dẫu khéo, nhưng để luỵ đến bạn của ngài thì tôi không đành lòng !

Đông Cao công nói :

- Không hại gì cả, lão sẽ có cách giải cứu. Lão đã bàn kỹ với Hoàng Phủ Nột rồi. Ông ta là người khẳng khái, nhận lời ngay, bất tất phải lo ngại.

Nói xong, sai người mời Hoàng Phủ Nột vào để chào Ngũ Viên. Ngũ Viên trông thấy quả nhiên giống mình thật, trong lòng mừng lắm. Đông Cao công lại dùng một thứ thuốc để Ngũ Viên bôi mặt, làm cho khác hẳn đi. Khi trời đã nhá nhem tối, Đông Cao công bảo Ngũ Viên cởi áo trắng đưa cho Hoàng Phủ Nột mặc, còn Ngũ Viên thì mặc áo cánh trắng, giả làm người theo hầu. Công tử Thắng cũng ăn mặc như đứa trẻ con nhà quê.

Ngũ Viên và công tử Thắng sụp lạy Đông Cao công bốn lạy và nói rằng :

- Sau này nên việc được thì quyết xin hậu tạ.

Đông Cao công nói :

- Lão thương nhà ngươi bị oan, vậy nên muốn giúp, chứ có mong tạ làm gì !

Đêm hôm ấy, Ngũ Viên cùng với công tử Thắng theo Hoàng Phủ Nột đi sang cửa Chiêu Quan. Mờ mờ sáng hôm sau thì vừa đi đến nơi. Tướng nước Sở là Viễn Việt truyền cho quân sĩ canh phòng nghiêm mật. Phàm những người đi qua phải tra xét kỹ lưỡng. Trên cửa quan có treo một bức tranh Ngũ Viên để đối chứng. Khi Hoàng Phủ Nột đến cửa quan, quân sĩ trông thấy hình dáng giống người trong tranh lắm, mình mặc áo trắng, mà lại có vẻ sợ hãi, liền bắt giữ lại rồi phi báo với Viễn Việt. Viễn Việt cưỡi ngựa ra xem, nhác trông đã bảo "Chính phải rồi!", bèn truyền cho quân sĩ bắt lấy đem về. Hoàng Phủ Nột giả cách không biết chuyện gì, chỉ van lạy xin tha.

Bấy giờ quân sĩ và nhân dân ở xung quanh đấy nghe tin bắt được Ngũ Viên, đều nô nức kéo nhau đến xem. Ngũ Viên nhân lúc cửa quan mở rộng, cùng công tử Thắng đi lẫn vào trong đám đông người, ăn mặc đã khác thường, râu tóc lại trắng xoá, vả lại ai cũng tưởng Ngũ Viên đã bị bắt rồi, nên không tra xét gì nữa, thành ra Ngũ Viên và công tử Thắng đi thoát qua được. Viễn Việt đem Hoàng Phủ Nột ra tra hỏi, bắt làm tờ cung, để định giải về Sính Đô. Hoàng Phủ Nột cãi rằng :

- Tôi là ẩn sĩ ở Long Động sơn, tên gọi Hoàng Phủ Nột có hẹn với một người bạn là Đông Cao công cùng đi chơi, không dám làm điều gì trái phép cả, sao lại bắt trói thế này ?

Viễn Việt nghe tiếng Hoàng Phủ Nột nói, nghĩ thầm rằng :

- Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng vang như chuông, người này hình dáng dẫu giống, nhưng tiếng nói hơi nhỏ, hay vì cớ dãy gió dầm sương xui thành ra thế chăng ?

Viễn Việt còn đang nghi hoặc thì nghe báo có Đông Cao công vào yết kiến. Viễn Việt truyền đem Hoàng Phủ Nột giải đi một nơi, rồi mời Đông Cao công vào. Đông Cao công nói với Viễn Việt rằng :

- Chúng tôi nhân đi chơi qua đây, nghe tin tướng quân đã bắt được kẻ vong thân (viên quan đi trốn) là Ngũ Viên, vậy tôi xin có lời mừng .

Viễn Việt nói :

- Quân sĩ có bắt được một người mặt giống Ngũ Viên, nhưng hắn vẫn chưa chịu thú nhận.

Đông Cao công nói :

-Quan tướng quân cùng cha con Ngũ Viên cùng làm quan một triều, có lẽ nào lại không nhận được rõ mặt ?

Viễn Việt nói :

- Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng vang như chuông, người này mắt nhỏ mà tiếng bé. Ta ngờ là vì cớ khổ sở lâu ngày mà thành ra thế.

Đông Cao công nói :

- Tôi cũng có biết mặt Ngũ Viên, xin cho tôi xem qua, sẽ rõ hư thực.

Viễn Việt truyền giải Hoàng Phủ Nột đến. Hoàng Phủ Nột trông thấy Đông Cao công, vội vàng gọi mà bảo rằng :

- Ông hẹn tôi cùng đi chơi, sao không đến mau, để tôi phải chịu nhục thế này!

Đông Cao công nói với Viễn Việt rằng :

-Tướng quân lầm rồi ! Đây là người bạn tôi, tên gọi Hoàng Phủ Nột, có hẹn tôi cùng đi chơi ở đây, chẳng ngờ hắn lại đi trước. Nếu tướng quân không tin thì tôi đã có tờ quá quan văn điệp (giấy phép đi qua cửa quan) này, sao tướng quân lại vu cho là vong thân được ?

Đông Cao công liền thò tay vào trong ống áo lấy tờ quá quan văn điệp ra đệ trình Viễn Việt. Viễn Việt có ý thẹn, đứng dậy cởi trói cho Hoàng Phủ Nột và rót một chén rượu mời uống mà bảo rằng :

- Việc này là bởi quân sĩ bắt lầm, xin ông chớ lấy làm lạ !

Đông Cao công nói :

- Quan tướng quân giữ phép triều đình, như thế là phải, có việc gì mà lạ !

Viễn Việt lại đem vàng lụa đưa tặng Đông Cao công và Hoàng Phủ Nột. Hai người tạ ơn lui ra. Viễn Việt lại truyền lệnh cho quân sĩ phải canh giữ nghiêm ngặt như trước. Ngũ Viên qua được cửa Chiêu Quan, trong lòng mừng thầm, thẳng đường đi mau. Đi được mấy dặm, bỗng gặp một người Ngũ Viên nhìn xem ai thì tức là Tả Thành, hiện đang làm lính canh cửa Chiêu Quan. Nguyên hắn là người ở đất Thành Phủ, khi trước có theo hầu cha con Ngũ Viên đi săn bắn, cho nên nhận được rõ mặt Ngũ Viên lắm. Tả Thành trông thấy Ngũ Viên thì kinh sợ mà hỏi rằng :

- Triều đình đang tầm nã ngài gấp lắm, sao ngài lại qua được cửa quan ?

Ngũ Viên nói :

- Đại vương biết ta có một viên dạ minh châu, bắt ta phải đem nộp, nay viên hạt châu ấy về tay người khác, ta còn phải đi tìm. Mới rồi, ta đã bẩm mệnh quan Viễn tướng quân (trỏ Viễn Việt), ngài cho ta đi.

Tả Thành không tin mà nói rằng :

- Đại vương có truyền lệnh : ai tha ngài thì cả nhà bị chém. Vậy xin ngài hãy cùng tôi trở về cửa quan, để tôi hỏi lại chủ tướng, rồi sau sẽ đi.

Ngũ Viên nói :

- Nếu bắt ta trở lại để hỏi chủ tướng thì ta nói là viên hạt châu ấy đã giao cho nhà ngươi; nhà ngươi khó lòng mà gỡ tội được. Chi bằng nhà ngươi làm ơn tha cho ta đi, lại thành ra tử tế.

Tả Thành vốn biết Ngũ Viên là bậc anh hùng, không thể đương nổi, mới tha cho đi. Khi về đến cửa quan, cũng giấu kín chuyện ấy, không dám nói đến. Ngũ Viên đi mau một quãng nữa, trông thấy sông Đại Giang, mặt nước mênh mông, làn sóng cuồn cuộn, lại không có thuyền bè gì cả. Ngũ Viên thấy mặt trước thì bị sông chắn, mặt sau thì bị quân theo, trong lòng đang bồn chồn hoảng hốt, bỗng thấy có một ông lão đánh cá ngồi chiếc thuyền nhỏ, bơi ngược dòng nước đi lên. Ngũ Viên mừng mà nói rằng :

- Trời chưa nỡ hại ta !

Nói xong, liền gọi ông lão đánh cá mà bảo rằng :

- Ông đánh cá ôi, cho tôi sang với ! Ông đánh cá ôi, mau mau cho tôi sang với !

Ông lão đánh cá toan ghé thuyền để đón, nhưng trông thấy trên bờ có người đi, mới lên tiếng mà hát rằng :

- Kia kìa bóng dâu

Đã xế ngang đầu....

Đôi ta hẹn nhau

Trong bụi hoa lau...

Ngũ Viên nghe câu hát hiểu ý, liền men bờ sông đi thẳng xuống bãi, núp vào trong bụi hoa lau. Một lúc lâu, ông lão đánh cá ghé thuyền vào bờ, không thấy Ngũ Viên đâu cả, lại lên tiếng hát rằng :

- Mặt trời đã xế

Lòng ta thương lo....!

Mặt trăng đã mọc

Sao không sang đò.... ?

Ngũ Viên và công tử Thắng ở trong bụi hoa lau chui ra. Ông lão đánh cá vội vàng gọi xuống thuyền. Khi hai người đã xuống thuyền thì ông lão đánh cá cầm mái chèo từ từ bơi đi. Một lúc sang tới bờ bên kia, ông lão đánh cá bảo Ngũ Viên rằng :

- Đêm qua nằm mộng thấy tướng tinh rơi vào trong thuyền. Lão biết là có người lạ qua đây, vậy nên lão đón, tình cờ lài gặp nhà ngươi. Nhà ngươi quyết không phải là người thường , nên nói thực cho lão biết.

Ngũ Viên liền nói thực họ tên cho nghe. Ông lão đánh cá ái ngại mà bảo rằng :

- Lão trông nét mặt nhà ngươi có ý đói, để lão đi lấy cơm cho ăn. Nhà ngươi hãy đợi đây một chút.

Ông lão đánh cá liền buộc thuyền ở dưới gốc cây, để đi vào trong xóm lấy cơm cho Ngũ Viên và công tử Thắng ăn. Ông lão đánh cá đi mãi không thấy trở lại. Ngũ Viên bảo công tử Thắng rằng :

- Lòng người khó dò lắm, chắc đâu là hắn không gọi người để bắt ta.

Hai người lại cùng nhau núp vào trong bụi hoa lau. Một lúc lâu, ông lão đánh cá đem cơm canh, cá thịt đến dưới gốc cây, không trông thấy Ngũ Viên đâu cả mới gọi to lên rằng :

- Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Lão có định hại nhà ngươi để cầu lợi đâu!

Ngũ Viên ở trong bụi lau thưa mà đi ra.

Ông lão đánh cá nói :

- Lão biết nhà ngươi đói, đi lấy cơm cho ăn, sao nhà ngươi lại trốn ?

Ngũ Viên nói :

- Tính mệnh tôi bây giờ ở trong tay cụ. Tôi đang lúc lo nghĩ, trong lòng bàng hoàng, chứ cũng không phải là bỏ trốn.

Ông lão dọn cơm, Ngũ Viên và công tử Thắng ăn no. Lúc sắp đi, Ngũ Viên cởi thanh kiếm đưa cho ông lão đánh cá mà bảo rằng :

- Thanh kiếm này là của tiên vương ban cho. Ông cha tôi đeo thanh kiếm này đã ba đời rồi. Gía đáng trăm nén vàng, xin để đền ơn cụ.

Ông lão đánh cá cười mà bảo rằng :

- Lão nghe nói vua Sở có treo giải : "Ai bắt được Ngũ Biên cho thóc năm vạn thạch và tước thượng đại phu. Như thế lão còn chẳng tham, lẽ nào lại tham thanh kiếm trăm nén vàng làm gì! Vả thanh kiếm này cần dùng cho nhà ngươi, chứ lão có dùng chi đến!

Ngũ Viên nói :

- Cụ đã không nhận thanh kiếm, xin cụ cho biết tên họ để sau này hậu tạ.

Ông lão đánh cá nổi giận nói rằng :

- Lão thấy nhà ngươi bị oan, vậy nên thương mà giúp nhà ngươi, nhà ngươi lại đem câu hậu tạ mà nhử lão, thế thì sao gọi là trượng phu được !

Ngũ Viên nói :

- Cụ dẫu không mong báo, nhưng lòng tôi sao đành !

Ngũ Viên lại cố nài ông lão đánh cá nói họ tên.

Ông lão đánh cá bảo rằng :

- Ngày nay gặp nhau đây, nhà ngươi là kẻ mang tội đi trốn, lão là người tha kẻ có tội, còn hỏi họ tên làm gì! Huống chi lão kiếm ăn ở trên mặt nước, bèo trôi sóng dạt, dẫu hỏi họ tên, cũng không mấy khi đã gặp. Vạn nhất lòng trời xui khiến, lại được gặp nhau thì lão gọi nhà ngươi là "người trong bụi lau", nhà ngươi gọi lão là "ông lão đánh cá", thế cũng là đủ!

Ngũ Viên lạy tạ rồi đi. Được mấy bước, lại quay trở lại bảo ông lão rằng :

- Nếu mặt sau có quân đuổi theo thì xin cụ đừng tiết lộ gì hết.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 73 : Ngũ Viên giả dại hát giữa chợChuyên Chư dâng cá giết Vương Liêu

Ông lão đánh cá đã chở thuyền cho Ngũ Viên qua sông, lại dọn cơm cho Ngũ Viên ăn, mà không chịu nhận thanh kiếm. Ngũ Viên đã đi rồi nhưng lại sợ có quân đuổi theo, lại quay trở lại, dặn ông lão đánh cá chớ tiết lộ cho ai biết. Ông lão đánh cá thở dài mà nói rằng :

- Lão làm ơn cho nhà ngươi mà nhà ngươi lại nghi lão. Nếu bây giờ có quân đuổi theo, thì dẫu ai chở quân sang sông, lão cũng bị nghi mà không thể nào giải tỏ được. Thôi thì lão liều chết để cho nhà ngươi khỏi nghi !

Ông lão bèn cởi dây buộc thuyền ra, quẳng mái chèo đi, rồi lật thuyền tự đắm mình chết đuối ở giữa dòng sông. Ngũ Viên thở dài mà nói rằng :

- Tôi gặp ông mà được sống, ông vì tôi mà phải chết, thật đáng đau lòng !

Ngũ Viên và công tử Thắng đi đến đất Phiên Dương, đói quá phải xin ăn, gặp một người đàn bà, đang ngồi giặt ở bến sông Lại Thuỷ, có đem theo một đô cơm. Ngũ Viên dừng chân đứng lại hỏi người ấy rằng :

- Bà làm ơn cho tôi xin một bữa cơm có được không ?

Người đàn bà cúi đầu đáp lại rằng :

- Thiếp một mình ở nhà với mẹ, đã ba mươi năm nay chưa lấy chồng, có đâu lại dám đem cơm cho một người khách lạ !

Ngũ Viên nói :

- Tôi gặp bước cùng khốn này, phải xin một bữa, bà rủ lòng thương mà cho, còn ngại nỗi gì !

Người đàn bà ngẩng đầu trông thấy Ngũ Viên mặt mũi khôi ngô, liền bảo Ngũ Viên rằng :

- Thiếp trông mặt nhà ngươi không phải người thường, chẳng lẻ lại vì một điều nhỏ mọn mà để cho nhà ngươi phải đói khát hay sao ?

Liền mở giỏ cơm ra đưa cho Ngũ Viên, Ngũ Viên và công tử Thắng chỉ ăn một ít mà thôi. Người đàn bà ấy nói :

- Các ngươi còn phải đi xa, sao không ăn cho no ?

Hai người lại ngồi ăn hết cả. Lúc sắp đi Ngũ Viên bảo người đàn bà rằng :

- Bà đã rủ lòng thương mà cho ăn, chúng tôi không bao giờ dám quên ơn, xin nói thật, chúng tôi là những người đi trốn, nếu gặp người khác hỏi, xin bà chớ tiết lộ.

Người đàn bà có ý buồn mà than rằng :

- Mẹ goá con côi, ba mươi năm nay thiếp vẫn một lòng trinh tiết, nào ngờ vì một giỏ cơm mà thành ra nói chuyện với đàn ông, còn gì là trinh tiết nữa ! Thôi, các người cứ đi!

-

Ngũ Viên từ biệt rồi đi. Được mấy bước, ngoảnh đầu trông lại, thấy người đàn bà ấy đã ôm một viên đá lớn, nhảy xuống sông tự tử. Ngũ Viên thương xót vô cùng, mới cắn đầu ngón tay, lấy máu viết hai mươi chữ lên trên một viên đá rằng :

"Nàng ngồi giặt

Ta đi xin

Ta bụng đói

Nàng chết đuối

Sau mười năm nữa

Báo ơn nghìn vàng ...."

Ngũ Viên viết xong, lại sợ người khác trông thấy, bèn lấy đất lấp kín lại. Ngũ Viên đi được hơn ba trăm dặm thì đến đất Ngô Xu, thấy một tráng sĩ trán dô, mắt sâu, dáng dữ như hổ, tiếng to như sấm, đang đánh nhau với một tráng sĩ khác, ai can cũng không được. Bỗng có một bà lão ở trong nhà bước ra, gọi mà bảo rằng :

- Chuyên Chư ! Không nên thế !

Tráng sĩ có ý sợ hãi, ngừng tay trở vào trong nhà. Ngũ Viên lấy làm lạ, hỏi người đứng bên rằng :

- Tráng sĩ như thế kia, mà sao lại sợ một người đàn bà ?

Người đứng bên nói :

- Người ấy sức khoẻ địch nổi muôn người, xưa nay không hề sợ ai cả; lại vốn là một người có nghĩa khí, thấy ai có sự bất bình, thường liều chết để cứu giúp. Bà lão đứng gọi trong cửa mới rồi, tức là mẹ người ấy đó. Chuyên Chư, tức là họ tên người ấy đó! Người ấy có hiếu với mẹ lắm, dẫu đang giận đến đâu mà nghe mẹ bảo, cũng phải thôi ngay.

Ngũ Viên khen rằng :

- Thế mới thật là người giỏi!

Hôm sau, Ngũ Viên tìm vào yết kiến Chuyên Chư, Chuyên Chư ra nghênh tiếp, hỏi lai lịch của Ngũ Viên. Ngũ Viên nói thật họ tên, và kể hết những nông nổi mình bị oan. Chuyên Chư nói :

- Ngài bị cái oan to như thế, sao không tìm vào yết kiến vua Ngô để mượn quân báo thù ?

Ngũ Viên nói :

- Vì chưa có người tiến dẫn.

Chuyên Chư nói :

- Hôm nay ngài hạ cố tới đây, định bảo tôi điều gì chăng?

Ngũ Viên nói :

- Tôi mến hiếu đức của ngài, muốn cùng ngài kết giao.

-

Chuyên Chư mừng lắm, liền vào nói với mẹ, rồi cùng Ngũ Viên kết làm anh em. Ngũ Viên hơn Chuyên Chư hai tuổi, Chuyên Chư gọi bằng anh. Ngũ Viên vào bái yết bà mẹ Chuyên Chư. Chuyên Chư cũng đưa vợ con ra chào Ngũ Viên, rồi giết gà làm cơm ăn, vui vẻ như anh em ruột. Chuyên chư lại mời Ngũ Viên và công tử Thắng ngủ đấy một đêm.

Ngày hôm sau, Ngũ Viên bảo Chuyên Chư rằng :

- Anh xin từ giã em vào kinh thành để tìm cơ hội phục sự Ngô vương.

Chuyên Chư nói :

- Vua Ngô là người vũ dũng mà kiêu ngạo, không bằng công tử Quang biết tôn kính kẻ hiền sĩ, sau này có cơ thành sự được.

Ngũ Viên nói :

- Em đã chỉ bảo, anh xin nhớ lời. Sau này có lúc dùng đến em, xin em chớ từ chối.

Chuyên Chư nhận lời, Ngũ Viên và công tử Thắng từ giã rồi đi. Đến đất Mai Lý, thì thầy thành quách nhỏ hẹp, chợ búa lụp sụp, kẻ đi người lại, chẳng ai quen thuộc với mình. Ngũ Viên mới giấu công tử Thắng ở ngoại thành, rồi bôi mặt, xoả tóc giả cách điên cuồng, tay cầm ống tiêu, đến giữa chợ ngồi thổi, để xin ăn những khách qua đường. Ngũ Viên cầm ống tiêu thổi một bài như sau này :

" Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư !

Tấm thân lưu lạc đến bao giờ!...

Trăm cay nghìn đắng, chứ thương thì thương....

Chưa báo thù được cho cha, dẫu sống cũng dư!

Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư!

Một đêm lo nghĩ đầu bạc phơ!...

Kinh hồn mất vía, chứ thương thì thương...

Chưa báo thù được cho anh, dẫu sống cũng dư!

Ngũ Tử Tư! Hoa lau bụi nọ, bến sông kia!...

Liều chết cố sống, chứ thương thì thương ...

Chưa báo thù được cho thân, dẫu sống cũng dư!..."

Người trong chợ không ai hiểu gì cả.

Lại nói chuyện công tử Quang nước Ngô là con vua Ngô trước, tên gọi Chư Phàn. Khi Chư Phàn chết, đáng lẽ công tử Quang được lên nối ngôi, nhưng Chư Phàn vâng lời cha dặn, muốn truyền ngôi cho các em để theo thứ tự cho đến Qúi Trát, bởi vậy Dư Sái và Dư Muội (em Chư Phàn) được theo thứ tự lên làm vua. Đến khi Dư Muội chết, Quí Trát không chịu nối ngôi, đáng lẽ lại lập con Chư Phàn mới phải, nhưng Vương Liêu (con Dư Muội) có lòng tham, tự lập lên làm vua. Công tử Quang không phục, muốn giết Vương Liêu, ngặt vì bọn triều thần đều bè cánh với Vương Liêu cả, không biết bàn mưu với ai. Công tử Quang vẫn ẩn nhẫn, tìm một người có tài xem tướng, tên gọi Bị Ly, cử làm chức giữ chợ, dặn phải chú ý tìm kẻ hào hiệp.

Một hôm, Ngũ Viên thổi ống tiêu đi qua chợ, Bị Ly thấy tiếng sầu thảm, mới lắng tai nghe, rồi chạy ra xem, thì kinh hãi mà nói rằng :

- Tôi xem tướng đã nhiều, chưa có ai lạ như thế!

Bị Ly liền vái chào Ngũ Viên, mời ngồi lên trên, Ngũ Viên khiêm nhượng không dám ngồi. Bị Ly nói :

-Tôi nghe tin nước Sỏo giết một người trung thần là Ngũ Xa, con là Ngũ Tử Tư trốn đi nước ngoài, chẳng hay ngài có phải là Ngũ Tử Tư chăng ?

Ngũ Viên chưa kịp trả lời. Bị Ly lại nói :

- Tôi không phải muốn làm hại ngài, chỉ vì tôi thấy ngài tướng mạo kỳ dị, tôi muốn giúp ngài được nên phú quý.

Ngũ Viên mới nói thực tất cả. Người hầu Bị Ly, nghe được chuyện ấy, vào báo với Vương Liêu. Vương Liêu gọi Bị Ly đến, bắt phải đưa Ngũ Viên vào yết kiến. Bị Ly một mặt sai người báo riêng cho công tử Quang biết; còn một mặt bảo Ngũ Viên tắm gội thay áo để vào yết kiến Vương Liêu. Vương Liêu trông thấy mặt, có ý lấy làm lạ, mới cùng Ngũ Viên nói chuyện, biết Ngũ Viên là người giỏi, cho làm quan đại phu. Ngày hôm sau, Ngũ Viên vào lạy tạ, nói đến những sự cha và anh mình bị oan, nghiến răng nghiến lợi, hai mắt quắc lên như nẩy lửa. Vương Liêu khen là người khí khái, mới rủ lòng thương nhận giúp quân cho để báo thù. Công tử Quang vốn biết tiếng Ngũ Viên là người trí dũng, có ý muốn dùng, nghe nói Ngũ Viên vào yết kiến Vương Liêu, sợ Vương Liêu dùng mất liền vào nói với Vương Liêu rằng :

- Tôi nghe nói kẻ vong thân nước Sở là Ngũ Viên chạy sang nước ta, đại vương cho là người thế nào ?

Vương Liêu nói :

- Ngũ Viên là người giỏi mà có hiếu.

Công tử Quang nói :

- Đại vương thấy thế nào mà biết là người giỏi và có hiếu?

Vương Liêu nói :

- Ngũ Viên vũ dũng khác thường, cùng với ta bàn việc nước, đều hợp lẽ cả, thế tức là giỏi. Ngũ Viên nghĩ đến tình oan của cha và anh mà không lúc nào dám quên, có nói với ta xin mượn quân để báo thù, thế tức là hiếu.

-

Công tử Quang nói :

- Đại vương có nhận lời cho mượn quân hay không ?

Vương Liêu nói :

- Ta thương tình hắn, đã nhận lời cho mượn rồi !

Công tử Quang can rằng :

- Xưa nay ông vua một nước lớn, không vì kẻ thất phu mà cất quân bao giờ! Nước ta đã nhiều phen giao chiến với Sở mà chưa được lần nào đại thắng; nếu giúp quân cho Ngũ Viên, mà được thì kẻ kia hả dạ, nếu ta thua thì quân ta thêm nhục, chẳng hoá ra coi một kẻ thất phu trọng hơn điều quốc sĩ hay sao? Điều ấy quyết không nên!

Vương Liêu lấy làm phải, liền bãi cái nghị đánh Sở. Ngũ Viên nghe tin công tử Quang can Vương Liêu như vậy, mới phàn nàn rằng :

- Công tử Quang đang có mưu đồ ở bên trong, ta chưa có thể nói chuyện bên ngoài được.

-

Ngũ Viên bèn xin từ chức đại phu.

Công tử Quang lại nói với Vương Liêu rằng :

- Ngũ Viên thấy đại vương không chịu cất quân mà xin từ chức đại phu, thế là có ý oán giận, đại vương không nên dùng.

-

Vương Liêu không dùng Ngũ Viên nữa, chỉ cấp cho trăm mẫu ruộng ở Dương Sơn. Ngũ Viên và công tử Thắng cùng nhau về cầy ruộng ở Dương Sơn. Công tử Quang liền tìm đến yết kiến Ngũ Viên và giúp cho thóc lúa, lại hỏi Ngũ Viên rằng :

- Nhà ngươi đi lại trong khoảng nước Ngô và nước Sở, đã từng gặp người nào tài dũng được gần như nhà ngươi không ?

Ngũ Viên nói :

- Tôi thì ra gì mà kể, nhưng tôi có gặp Chuyên Chư, thật là một dũng sĩ !

Công tử Quang nói :

- Ta muốn nhờ nhà ngươi mà giao kết với Chuyên Chư có được không ?

Ngũ Viên nói :

- Chuyên Chư ở cách đây cũng không xa lắm, xin cho triệu đến, chỉ ngày mai thì tới nơi.

-

Công tử Quang nói :

- Đã là một tráng sĩ thì ta xin đến tận nơi mà mời, khi nào dám sai người triệu.

-

Công tử Quang nói xong, liền cùng Ngũ Viên đi xe đến nhà Chuyên Chư. Chuyên Chư đang ngồi mài dao ở ngoài phố, để đi làm thịt lợn cho người ta, trông thấy ngựa xe rộn rịp, đã toan chạy trốn.

Ngũ Viên ngồi trên xe gọi mà bảo rằng :

- Anh đây mà!...

Chuyên Chư vội vàng dừng tay mài dao, chờ xe Ngũ Viên đến. Ngũ Viên xuống xe chào Chuyên Chư, lại trỏ công tử Quang mà bảo Chuyên chư rằng :

- Vị này là trưởng công tử của nước Ngô, mến yêu cái tài của em, muốn đến yết kiến, em chớ nên từ chối.

Chuyên Chư nói với công tử Quang rằng :

- Tôi là một kẻ hèn mọn, có tài năng gì mà làm phiền lòng công tử.

Chuyên Chư vái chào công tử Quang mà mời vào. Nhà tranh cửa túp, mọi người phải cúi đầu mới vào được. Công tử Quang vái chào Chuyên Chư và giải toả tấm lòng kính mến. Chuyên Chư đáp lễ lại. Công tử Quang đưa biếu các thứ vàng bạc. Chuyên Chư nhất định từ chối. Ngũ Viên ở bên cạnh cố khuyên mãi. Chuyên Chư mới chịu nhận. Từ bấy giờ Chuyên Chư thành ra người của công tử Quang. Công tử Quang ngày nào cũng sai người đưa cho gạo thịt, mỗi tháng lại cấp vải lụa cho, và thỉnh thoảng đến hỏi thăm bà mẹ Chuyên Chư.

Chuyên Chư cảm phục lòng tử tế ấy, một hôm hỏi công tử Quang rằng :

-Tôi là một kẻ hèn mọn ở chốn thôn giã, đội ơn công tử chu cấp, không biết lấy chi báo đáp, công tử có việc gì sai khiến tôi xin hết sức !

Công tử Quang liền đuổi hết người xung quanh mà bày tỏ ý muốn giết Vương Liêu.

Chuyên Chư nói :

- Vua trước là Dư Sái mất thì con là Vương Liêu đáng được nối ngôi, cớ sao công tử lại muốn

giết ?

Công tử Quang thuật lại di mệnh của tổ phụ ngày xưa, và bảo Chuyên Chư rằng :

- Quí Trát đã không chịu nhận ngôi thì nên phải trả ngôi lại cho người con đích trưởng. Người con đích trưởng tức là ta đây, chứ sao Vương Liêu lại được nối ngôi ? Ta đây sức yếu, không làm gì nổi, muốn nhờ tay nhà ngươi.

Chuyên Chư nói :

- Sao không sai một cận thần, nhân lúc thong thả, thuật lại những lời di mệnh của vua trước cho Vương Liêu nghe, khiến Vương Liêu phải thoái vị, mà lại phải dùng đến kiếm khách cho thương tổn hoà khí trong nhà ?

Công tử Quang nói :

- Vương Liêu là người tham mà cậy khoẻ, chỉ biết điều lợi chứ không biết điều nghĩa, nếu nói với hắn thì lại thêm hại mình. Ta cùng với Vương Liêu không thể nào cùng đứng được.

Chuyên Chư hăng hái mà đáp rằng :

- Công tử nói phải lắm, nhưng tôi còn có lão mẫu, chưa dám liều chết.

Công tử Quang nói :

- Ta cũng biết nhà người mẹ già con thơ, nhưng trừ phi nhà ngươi thì không ai giúp ta được việc ấy. Nếu thành sự thì mẹ già và con thơ của nhà ngươi tức là mẹ già và con thơ của ta, ta xin hết lòng cấp dưỡng, không dám phụ ơn nhà ngươi.

Chuyên Chư ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng :

- Muốn làm việc gì tất phải nghĩ cho kỹ thì mới vẹn toàn. Con cá ở dưới vực sâu mà vào trong tay người đánh cá là vì có cái mồi thơm. Nay muốn đâm chết Vương Liêu, tất phải tìm xem Vuuơng Liêu thích cái gì để mà tiến dâng thi mới tiến gần được. Chẳng hay Vương Liêu thích cái gì ?

Công tử Quang nói :

- Vương Liêu chỉ thích ăn.

Chuyên Chư nói :

- Trong các món ăn thì món nào Vương Liêu thích hơn cá ?

Công tử Quang nói :

- Thích nhất là món chả cá.

Chuyên Chư nói :

-Như vậy thì tôi hãy xin từ giã ngài một độ.

Công tử Quang nói :

- Nhà ngươi định đi đâu ?

Chuyên Chư nói :

- Tôi xin đi học làm món ăn, mới có cớ đến gần Vương Liêu được.

Chuyên Chư bèn đi sang Thái Hồ để học làm chả cá, trong ba tháng. Khi Chuyên Chư đã học được thành nghề rồi, lại về yết kiến công tử Quang. Công tử Quang giấu kín Chuyên Chư ở trong phủ và gọi Ngũ Viên đến mà bảo rằng :

- Chuyên Chư đã học được nghề chả cá rồi, làm thế nào mà đến gần Vương Liêu được ?

Ngũ Viên nói :

- Ta không trị nổi được chim hồng và chim hộc là vì nó có lông cánh, vậy muốn trị chim hồng và chim hộc thì tất phải cắt lông cánh nó trước. Tôi nghe nói con Vương Liêu là công tử Khánh Ky mình cứng như sắt, sức địch muôn người, tay vồ được giống chim đang bay, chân đá được giống thú rất mạnh. Vương Liêu có Khánh Ky lúc nào cũng đi liền bên cạnh, ta khó lòng làm gì nổi. Huống chi lại còn hai em là Yếm Dư và Chúc Dung, đều là người tài giỏi, lại đang giữ bình quyền, vậy bây giờ muốn giết Vương Liêu, ắt phải trừ bỏ ba người ấy trước. Nếu không trừ bộ ba người ấy thì dẫu may ra có thành sự nữa, công tử cũng không ngồi yên mà nối ngôi được.

Công tử Quang ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Ngũ Viên rằng :

- Nhà ngươi nghĩ phải lắm! Thôi thì nhà ngươi hãy về làm ruộng; đợi có dịp nào, ta sẽ thương nghị.

Ngũ Viên cáo từ lui ra .

Năm ấy vua Cảnh vương nhà Chu mất. Người đích tử đã được lập làm thái tử tên là Mãnh, người thứ tử tên là Mang, còn người thứ tử mà lớn tuổi hơn cả (nghĩa là con bà thứ mà lớn tuổi), tên là Triều. Chu Cảnh vương yêu vương tử Triều lắm, dặn quan đại phu là Tân Mạnh, muốn cho vương tử Triều làm thái tử, nhưng chưa kịp lập thì mất. Lưu Quyền vốn có hiềm khích với Tân Mạnh, cùng Đan Kỳ giết Tân Mạnh, rồi lập thái tử Mãnh, tức là Chu Diệu vương, Doãn Cố, Cam Du và Thiệu Hoán đều là vây cánh vương tử Triều, mới cùng nhau họp quân, sai quan thượng tướng là Nam Cung Cực đến đánh Lưu Quyền. Lưu Quyền bỏ chạy sang đất Dương. Đan Kỳ rước thái tử Mãnh ra đóng ở đất Hoàng. Vương tử Triều sai Tầm Miện đem quân sang đánh. Tầm Miện bị thua mà chết.

Tấn Khoảnh công nghe nói nhà Chu biến loạn, sai quan đại phu là Tịch Đàm và Tuân Lịch đem quân sang lập thái tử Mãnh, đóng ở Vương Thành. Doãn Cố cũng lập vương tử Triều ở đất Kính, chưa được bao lâu, thái tử Mãnh ốm chết. Đan Kỳ và Lưu Quyền lại lập người em là vương tử Mang, tức là Chu Kinh vương, đóng ở Địch Toàn. Người nhà Chu gọi vương tử Mang là Đông vương, gọi vương tử Triều là Tây vương. Hai bên cùng chống cự nhau, đã sáu năm chưa thôi. Thiệu Hoán chết. Nam Cung Cực cũng bị sét đánh mà chết. Quan đại phu nước Tấn là Tuân Lịch lại đem quân chư hầu sang giúp Chu Kinh vương, đưa về Thành Chu bắt được Doãn Cố, vương tử Triều vỡ quân. Con Thiệu Hoán là Thiệu Ngân lại đem quân đánh vương tử Triều. Vương tử Triều bỏ chạy sang nước Sở. Chư hầu đắp thành hộ cho nhà Chu, rồi rút quân về. Chu Kinh Vương cho Thiệu Ngân là người phản phúc, bắt đem ra cùng chém với Doãn Cố. Người nhà Chu đều lấy làm vui mừng.

Bấy giờ người mẹ thế tử Kiến nước Sở đang ở đất Vấn Dương. Phí Vô Cực sợ bà này làm nội ứng cho Ngũ Viên, mới xui Sở Bình vương giết đi. Người mẹ thế tử Kiến nghe tin, mật sai người sang cầu cứu với vua Ngô là Vương Liêu. Vương Liêu sai công tử Quang đem quân sang đất Vấn Dương để đem mẹ thế tử Kiến về nước Ngô. Công tử Quang đi đến đất Chung Ly, tướng nước Sở là Viễn Việt đem quân ra chống cự, và sai người phi báo cho Sở Bình vương biết. Sở Bình vương cho quan lệnh doãn là Dương Mang làm đại tướng, lại đòi lấy quân sáu nước là Trần, Sái, Hồ, Thẩm, Đốn và Hứa. Vua Hồ tên là Không, vua Thẩm tên là Bính, thân hành đem quân đến. Trần sai quan đại phu là Hạ Khiết đến. Nước Đốn, nước Hứa, nước Sái cũng sai quan đại phu đến. Quân Hồ, Thẩm, Trần đóng ở phía hữu. Quân Đốn, Hứa, Sái đóng ở phía tả. Đại binh của Viễn Việt đóng ở giữa. Công tử Quang nghe tin, sai người phi báo với Vương Liêu. Vương Liêu cùng công tử Yểm Dư (em Vương Liêu) đem đại binh đến đóng ở đất Kê Phủ (đất nước Sở).

Vừa lúc ấy, quan lệnh doãn nước Sở là Dương Mang ngộ cảm mà chết, Viễn Việt thay làm đại tướng . Công tử Quang mới nói với Vương Liêu rằng :

- Nước Sở mất quan đại tướng thì quân sĩ đã ngã lòng rồi! Chư hầu theo Sở dẫu nhiều, nhưng đều là sợ thế mà theo, chứ không phải thực lòng. Vua Hồ và vua Thẩm không quen việc chiến tranh; Hạ Khiết nước Trần là người vũ dũng mà không có mưu trí; còn nước Đốn, nước Hứa và nước Sái xưa nay vẫn bị nước Sở ức hiếp, trong lòng không phục, khi nào chịu ra sức. Nay ta đem quân đánh Hồ, Thẩm, và Trần thì mấy nước ấy phải vỡ chạy trước; mấy nước ấy đã vỡ chạy thì đại binh nước Sở tất khiếp sợ mà phải thua, xin đại vương cho quân già yếu ra trước để dụ Sở, còn quân cường tráng thì phục ở phía sau.

Vương Liêu theo kế ấy, chia quân làm ba đạo : công tử Quang ở phía hữu; công tử Yểm Dư ở phía tả; còn mình đem đại binh đi ở giữa. Trước hết hãy sai ba nghìn tội nhân xông vào hữu dinh quân Sở. Bấy giờ đang ngày hối (ngày cuối cùng trong một tháng, hôm ấy trời tối, không có trăng) tháng bảy mùa thu. Theo binh pháp thì phải kiêng ngày hối, không hành quân nên vua Hồ, Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều không phòng bị, bỗng nghe quân Ngô kéo đến, liền mở cửa dinh ra đánh. Bọn tội nhân nước Ngô không có kỷ luật nào cả, đứa chạy đứa đứng. Quân Sở tranh nhau đuổi bắt, cũng thành ra chẳng có hàng ngũ nào. Công tử Quang ở phía tả thừa cơ tiến đánh, đâm chết Hạ Khiết ở dưới chân ngựa. Vua Hồ và vua Thẩm sợ hãi bỏ chạy, cũng bị công tử Yểm Dư bắt được. Quân Sở chết hại rất nhiều, còn giáp sĩ bị bắt sống hơn tám trăm người.

Công tử Quang truyền đem vua Hồ và Thẩm ra chém, rồi tha bọn giáp sĩ về, để báo cho tư dinh quân Sở biết rằng vua Hồ, vua Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều bị giết cả rồi. Quân nước Đốn, nước Hứa và nước Sái sợ hãi, cùng nhau chạy trốn. Vương Liêu và hai đạo quân tả hữu cùng tiến vào. Đại tướng nước Sở là Viễn Việt chưa kịp bày trận, quân sĩ đã trốn mất quá nửa. Quân Ngô ở phía sau xông đến giết được nhiều lắm, người chết như rạ, máu chảy thành suối. Viễn Việt thua to, chạy thẳng một mạch năm mươi dặm đường. Công tử Quang vào đất Vấn Dương, đem mẹ thế tử Kiến về nước Ngô.

Viễn Việt nghe tin, lại đem quân sang Vấn Dương thì quân Ngô đã rút về từ bao giờ rồi. Viễn Việt biết cơ không đuổi theo được, mới thở dài mà nói rằng :

- Ta phụng mệnh vua Sở ra giữ cửa Chiêu Quan mà để cho Ngũ Viên trốn thoát được, thế là vô công; nay đã làm vỡ quân bảy nước, lại để mất mẹ thế tử Kiến thế là có hai tội. Đã vô công mà lại ó hai tội thì còn mặt mũi nào trông thấy vua Sở nữa.

Nói xong, bèn thắt cổ mà chết. Sở Bình vương nghe tin quân Ngô mạnh thế, trong lòng lo sợ mới cho Nang Ngoả thay Dương Mang làm lệnh doãn. Nang Ngoã hiến kế rằng Sính Thành thấp hẹp, lại mở đất ở phía đông, đắp thêm một cái thành lớn, cao hơn thành cũ bảy thước và rộng thêm hơn hai mươi dặm, gọi tên thành cũ là Kỳ Nam thành, vì ở phía nam núi Kỳ Sơn; còn thành mới thì gọi tên là Sính Thành, rời đô sang đóng ở đấy, lại đắp một thành về phía tây để làm cánh tay hữu, gọi tên là Mạch Thành. Ba thành theo hình chữ "phẩm" liên lạc với nhau. Người nước Sở ai cũng khen công của Nang Ngoã. Thẩm Doãn Thư cười mà nói rằng :

- Tử Thường (tên tự của Nang Ngoã) không nghĩ gì đến đức chính mà chỉ chăm việc đáp thành. Nếu quân Ngô kéo đến thì dẫu mười Sính Thành cũng không giữ nổi !

Nang Ngoã muốn báo thù trận Kê Phủ, mới hết sức sửa sang thuyền bè và luyện tập quân thuỷ. Trong ba tháng, quân thuỷ đã thành thuộc rồi. Nang Ngoã theo sông Đại Giang tiến sang địa giới nước Ngô.

Công tử Quang nước Ngô nghe tin quân Sở kéo đến, vội vàng ra nghênh chiến thì Nang Ngoã đã rút quân về rồi. Công tử Quang nói :

- Quân Sở vừa mới rút quân về, tất không phòng bị.

Công tử Quang lẻn sang đánh ấp Sảo; diệt được ấp Sào, lại diệt cả ấp Chung Ly nữa, rồi rút quân về. Sở Bình vương nghe tin hai ấp bị diệt, thì hoảng hốt sợ hãi, thành ra ốm nặng, mới triệu Nang Ngoã và công tử Thân (tên tự là Tử Tây, là thứ trưởng tử của Sở Bình vương) đến cạnh giường nằm mà đem thế tử Trân uỷ thác cho hai người ấy. Dặn xong thì mất. Nang Ngoã bàn riêng với Bá Khước Uyên rằng :

- Thế tử Trân hãy còn nhỏ. Và người mẹ đáng lẽ là vợ thế tử Kiến, không phải chính hậu. Tử Tây (tức công tử Thân) đã lớn tuổi mà lại có đức hạnh, nếu lập Tử Tây thì nước Sở mới có cơ cường thịnh được !

Bá Khước Uyển đem lời nói Nang Ngoã kể với công tử Thân. Công tử Thân nổi giận mà nói rằng :

- Nếu bỏ thế tử Trân, tức là tỏ sự xấu của đại vương ta trước. Mẹ thế tử Trân là con gái nước Tần, đã được lập làm phu nhân, nếu bỏ thế tử Trân thì mất lòng một nước lớn ở ngoài. Thế là trong ngoài cùng oán cả, quan lệnh doãn muốn làm lợi cho ta mà lại gây vạ cho ta đấy! Nếu còn nói đến việc ấy nữa thì tất phải giết chết Nang Ngoã mới được !

Nang Ngoã sợ, mới lập thế tử Trân lên nối ngôi, cải tên là Chẩn, tức là Sở Chiêu vương. Nang Ngoã vẫn làm lệnh doãn. Bá Khước Uyển làm tả doãn. Yên TươngSư làm hữu doãn. Phí Vô Cực vì cái ơn trước làm sư phó nay cũng được cầm quyền chính. Trịnh Định công nghe nói người nước Ngô đem mẹ thế tử Kiến về, mới sai người đem châu ngọc sang tiến công, để giải cái thù khi trước giết thế tử Kiến. Mẹ thế tử Kiến đến nước Ngô. Vương Liêu cho ở ngoài Tây Môn, sai công tử Thắng (con thế tử Kiến) phụng dưỡng. Ngũ Viên nghe tin Sở Bình vương chết, vật mình lăn khóc cả ngày không thôi. Công tử Quang lấy làm lạ mà hỏi rằng :

- Vua Sở là kẻ thù của nhà ngươi, nhà ngươi nghe tin ấy, nên lấy làm mừng, cớ sao lại khóc ?

Ngũ Viên nói :

- Tôi khóc không phải là thương vua Sở, tôi tiếc rằng không được bêu đầu hắn để cho hả tấm lòng căm tức của tôi!

Ngũ Viên nghĩ giận về việc không được bêu đầu Sở Bình vương, suốt ba đêm không ngủ, mới tìm được một kế, liền nói với công tử Quang rằng :

- Công tử muốn khởi sự, còn chưa được dịp hay sao /

Công tử Quang nói :

- Ta nghĩ ngày nghĩ đêm mà chưa có dịp nào.

Ngũ Viên nói :

- Nay vua Sở mới chết, trong triều nước Sở không có ai là người giỏi cả, sao công tử không tâu với Vương Liêu đem quân sang đánh.

Công tử Quang nói :

- Nếu Vương Liêu lại sai ta đi thì biết làm thế nào ?

Ngũ Viên nói :

- Công tử giả cách ngã xe đau chân thì tất Vương Liêu không khi nào sai công tử. Bấy giờ công tử sẽ tiến dẫn công tử Yểm Dư và công tử Chúc Dung làm tướng; lại sai công tử Khánh Ky đi mượn quân nước Trịnh và nước Vệ để cùng đánh Sở. Thế là một lượt trừ được ba kẻ vây cánh của Vương Liêu. Vương Liêu sắp đến ngày tận số đó!

Công tử Quang lại hỏi rằng :

- Ba đứa ấy dẫu đi rồi nhưng còn Quí Trát ở trong triều. Qúi Trát thấy ta cướp ngôi, khi nào chịu để yên ?

Ngũ Viên nói :

- Nay Ngô và Tấn đang giao hiếu với nhau, công tử tâu với Vương Liêu sai Quí Trát sang sứ nước Tấn, để dò xét tình hình trung nguyên. Vương Liêu là người kiêu ngạo, mà không có mưu trí, tất nhiên nghe lời. Khi Quí Trát đi sứ về thì chuyện đã xong rồi, còn nói gì được nữa !

Công tử Quang sụp lạy Ngũ Viên mà nói rằng :

- Ta được nhà ngươi thật là trời giúp !

Ngày hôm sau, công tử Quang vào tâu với Vương Liêu. VươngLiêu hớn hở theo lời. Công tử Quang nói :

- Việc này đáng lẽ tôi xin ra sức, nhưng ngặt vì ngã xe thành ra đau chân, đang phải chữa thuốc không thể đi được.

Vương Liêu nói :

- Thế thì ta biết sai ai bây giờ ?

Công tử Quang nói :

- Việc này là một việc lớn, không phải người rất thân thì không thể uỷ thác được. Xin đại vương phải chọn cho kỹ.

Vương Liêu nói :

- Yểm Dư và Chúc Dung có nên không ?

Công tử Quang nói :

- Tất phải sai những người ấy mới được việc !

Công tử Quang lại nói :

- Xưa nay Tấn và Sở tranh nhau làm bá chủ, nước Ngô ta vẫn là thuộc quốc, bây giờ Tấn đã suy rồi, mà Sở lại thua luôn, chư hầu đều có lòng ly tán, chưa biết về tay ai. Ta nên sai công tử Khánh Ky sang mượn quân nước Trịnh và nước Vệ, để cùng đánh Sở, rồi lại sai Quí Trát sang sứ nước Tấn để dò xét xem tình hình trung nguyên thế nào, còn đại vương thì luyện tập quân thuỷ, phòng khi dùng đến, chắc có thể tranh đước nghiệp bá.

Vương Liêu mừng lắm, sai Yểm Dư và Chúc Dung đem quân đi đánh Sở, và sai Quí Trát sang sứ nước Tấn. Còn công tử Khánh Ky thì không sai đi. Yểm Dư và Chúc Dung đem hai vạn quân sang vây ấp Tiềm của Sở. Quan trấn thủ ở ấp Tiềm giữ thế thủ không ra đánh, rồi sai người cấp báo với Sở Chiêu vương . Bấy giờ, Sở Chiêu vương mới lên nối ngôi, hãy còn ít tuổi, nghe tin quân Ngô vây ấp Tiềm thì hoảng hốt sợ hãi. Công tử Thân nói với Sở Chiêu vương rằng :

- Người nước Ngô nhân khi ta có tang mà đem quân sang đánh, ta nên cho những quân già yếu ra nghênh chiến, để cho hắn khinh thường mà tiến vào, rồi sai quan tả tư mã là Thẩm Doãn Thư đem một vạn quân bộ sang cứu ấp Tiềm, lại sai quan tả doãn là Bá Khước Uyển đem một vạn quân thuỷ đi chận phía sau quân Ngô. Như thế thì ta có thể phá vỡ quân Ngô được.

Sở Chiêu vương mừng lắm, liền sai Thẩm Doãn Thư và Bá Khước Uyển đem quân đi. Yểm Dư và Chúc Dung đang vây ấp Tiềm, nghe tin có quân Sở đến cứu, giật mình kinh sợ, chia quân làm hai đạo : một nửa vây thành, còn một nửa ra nghênh chiến. Thẩm Doãn Thư không đánh, sai quân đem đá lấp hết các đường đi để cho quân Ngô không có lối mà kiếm củi và lấy nước. Bá Khước Uyển lại đem quân thuỷ chẹn các cửa sông. Quân Ngô tiến thoái đều khó cả, mới phải đóng làm hai đồn, để nương tựa nhau mà ra sức chống giữ với quân Sở, rồi sai người về cáo cấp cùng Vương Liêu. Công tử Quang nói với Vương Liêu rằng :

- Khi trước tôi muốn mượn quân Trịnh và Vệ chính vì cớ ấy. Bây giờ sai ngay công tử Khánh Ky đi, tưởng cũng chưa chậm.

Vương Liêu sai Khánh Ky đi mượn quân Trịnh.

Ngũ Viên bảo công tử Quang rằng :

- Công tử có thanh kiếm truỷ thủ đó không ? Muốn dùng Chuyên Chư chính là ở lúc này.

Công tử Quang nói :

- Phải đó! Ngày xưa vua nước Việt là Doãn Thường, sai Âu Giả Tử làm năm thanh kiếm, đem ba thanh sang dâng nước Ngô ta, một là "Trạm Lư", hai là "Bàn Sính", ba là "Ngư Trường", "Ngư Trường" tức là thanh kiếm truỷ thủ vậy. Hình nó dầu bé nhỏ mà sắc lắm, chém vào sắt như chém vào bùn. Tiên vương ban cho ta, ta vẫn lấy làm quý báu, giấu ở đầu giường để phòng khi nguy cấp. thank kiếm ấy mấy đêm nay cứ sáng rực lên, ý chừng thần vật ấy muốn uống máu Vương Liêu đó chăng ?

Công tử Quang đem thanh kiếm truỷ thủ ra cho Ngũ Viên xem. Ngũ Viên ngợi khen một lúc, rồi gọi Chuyên Chư đến, đưa cho xem. Chuyên Chư không đợi phải bảo, đã hiểu ý ngay, khẳng khái mà đáp rằng :

- Vương Liêu ngày nay thật là nên giết. Hai em và công tử đều đi xa cả, kẻ kia thế cô, làm gì ta nổi! Nhưng việc liều chết này tôi không dám tự chủ, xin về nói lại với mẹ già tôi đã, rồi mới dám vâng lệnh.

Chuyên Chư về nhà, trông thấy mẹ, chưa nói đã khóc. Người mẹ nói :

- Chuyên Chư, sao con buồn rầu như vậy? Hay là công tử định dùng con đó chăng ? Cả nhà ta chịu ơn công tử đã nhiều, chưa biết lấy gì báo đáp. Trung hiếu sao cho trọn cả đôi đường. Con cứ đi đi, chớ có vì mẹ mà ngần ngại. Con giúp nên việc cho công tử, để danh tiếng đời sau, mẹ đây dẫu chết cũng vui lòng!

Chuyên Chư cứ quyến luyến mãi, không nỡ bỏ đi. Người mẹ nói :

- Mẹ muốn uống một hớp nước suối thật trong, con hãy đi lấy cho mẹ uống.

Chuyên Chư vội vàng xuống suối lấy nước. Khi trở về nhà không trông thấy mẹ đâu cả, mới hỏi vợ.

Vợ nói :

- Mới rồi, tôi thấy mẹ kêu mệt, vào buồng nằm nghỉ, dặn tôi chớ có làm náo động, rồi đóng chặt cửa lại.

Chuyên Chư trong lòng nghi ngờ, mới mở cửa sổ dòm vào thì thấy mẹ đã thắt cổ chết. Chuyên Chư vật mình lăn khóc, đem thi thể chôn ở ngoài cửa tây. Chôn xong, bảo vợ rằng :

- Ta chịu ơn công tử nhiều lắm, vẫn muốn liều chết để báo đáp, chỉ vì còn mẹ già, cho nên chưa dám. Nay mẹ đã mất rồi, ta phải đi báo ơn công tử. Sau khi ta chết thì mẹ con nhà mày, thế nào công tử cũng cấp dưỡng cho. Chớ có ngăn trở việc ta !

Chuyên Chư vào yết kiến công tử Quang, thuật lại chuyện mẹ tự tử cho công tử nghe. Công tử Quang có ý ngậm ngùi, rồi tìm lời khuyên giải mãi; sau mới bàn đến việc giết Vương Liêu. Chuyên Chư nói :

- Sau công tử không bày một tiệc rượu để mời Vương Liêu. Nếu Vương Liêu chịu đến thì việc này mười phần đã xong được đến tám chín.

Công tử Quang liền vào yết kiến Vương Liêu và nói rằng :

- Tôi có một tên nhà bếp ở Thái Hồ về, mới học được nghề làm chả cả khéo lắm, thật là một món ăn khác thường ! Xin mời đại vương quá bộ đến nhà tôi nếm món ăn ấy.

Vương Liêu xưa nay vốn thích chả cá, nên vui lòng nhận lời, hẹn đến ngày hôm sau thì sang chơi. Đêm hôm ấy, công tử Quang sai giáp sĩ phục sẵn ở trong phòng kín, lại sai Ngũ Viên đem một trăm tử sĩ tiếp ứng mặt ngoài. Ngày hôm sau, công tử Quang lại sang mời Vương Liêu. Vương Liêu vào nói với mẹ rằng :

- Công tử mời con sang uống rượu, hoặc giả có mưu gì chăng ?

Người mẹ nói :

- Công tử Quang vẫn có lòng uất ức, lần này mời con, tất có ý khác, sao con không từ chối đi ?

Vương Liêu nói :

- Từ chối thì sinh ra hiềm khích, chi bằng ta phòng giữ cho nghiêm mật, chắc y không làm gì nổi.

Vương Liêu mặc mấy lần áo giáp, rồi truyền cho quân sĩ sắp hàng từ cửa cung cho đến nhà công tử Quang. Vương Liêu đi đến cửa nhà công tử Quang. Công tử Quang ra đón vào. Vương Liêu ngồi chiếu giữa. Công tử Quang đứng hầu bên cạnh. Những người thân tín của Vương Liêu đứng đầy c3 ở trong nhà và ngoài thềm. Hơn trăm lực sĩ đứng xung quanh Vương Liêu, đều cầm giáo dài và gươm sắc. Nhà bếp dâng món ăn đi qua dưới sân, đều phải cởi áo, khám xét thật kỹ, rồi mới cho quỳ gối xuống đất mà dâng lên; lại còn hơn mười lực sĩ tuốt gươm đi kèm hai bên cạnh . Nhà bếp đặt món ăn lên bàn, không dám ngẩng trông, lại quỳ gối mà lui xuống. Công tử Quang rót chén rượu kính mời Vương Liêu, giả cách khuỵu chân, làm ra bộ đau đớn mà tâu với Vương Liêu rằng :

-Chân tôi, chỗ đau vẫn chưa khỏi, mỗi khi phát đau, buốt đến tận xương, phải dùng lụa buộc chặt lại thì mới đỡ. Xin đại vương miễn thứ cho tôi được ra ngoài buộc chân, rồi lại vào ngay.

Vương Liêu nói :

- Được ! Vương huynh cứ đi !

Công tử Quang khập khiễng bước dần từng bước, đi vào nhà trong. Được một lúc Chuyên Chư dâng món chả cả cũng bị khám xét như mấy người trước, nhưng không ai ngờ lưỡi gươm truỷ thủ thì đã được giấu ở trong bụng con cá. Lực sĩ đi kèm hai bên. Chuyên Chư quỳ gối đi đến trước mặt Vương Liêu, lấy tay xé con cá, bỗng rút lưỡi gươm ra, đâm thẳng vào bụng Vương Liêu. Sức đâm mạnh quá suốt ba lần áo giáp, lòi lưỡi gươm ra phía sau lưng. Vương Liêu kêu một tiếng thật to, rồi chết ngay lập tức. Lực sĩ xúm lại, đâm Chuyên Chư nát nhừ người ra. Công tử Quang ở trong nhà biết là Vương Liêu chết rồi, mới đem quân ra giết hết những người tâm phúc của Vương Liêu. Quân theo hầu Vương Liêu bỏ chạy tán loạn cả. Bao nhiêu thị vệ ở mặt ngoài, bị Ngũ Viên đuổi đánh cả.

Công tử Quang lên xe vào triều tuyên bố tội Vương Liêu bội ước tự lập, rồi quyền tạm nối ngôi, để đợi Qúi Trát về nước; lại truyền đem thi thể Vương Liêu ra an táng theo như lễ thường, và hậu táng cho Chuyên Chư, phong con là Chuyên Nghị làm thượng khanh, phong Ngũ Viên làm chức hành nhân, đãi như lễ khách mà không bắt làm tôi; chức thị lại là Bị Ly có cái công tiến thóc trong kho cấp phát cho thăng làm đại phu; đem tiền thóc trong kho cấp phát cho những người cùng khổ, người trong nước ai cũng bằng lòng.

Công tử Quang còn e có công tử Khánh Ky ở ngoài, sai người dò thám xem lúc nào về nước thì báo trước; thám tử về báo công tử Khánh Ky đã về gần đến kinh thành, công tử Quang bèn đem đại binh đóng ở trên sông Giang để đón đường. Khánh Ky nghe tin, tức khắc bỏ trốn. Thám tử về báo, công tử Quang phi ngựa đuổi theo. Khánh Ky bỏ xe mà chạy đất, chạy nhanh như bay, ngựa đuổi theo không kịp. Công tử Quang truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn. Khánh Ky giơ tay bắt lấy mũi tên, không phát nào vào mình cả. Công tử Quang biết chừng không thể bắn được, mới truyền cho quân trấn thủ ở phía tây phòng giữ nghiêm mật, rồi rút quân về.

Mấy hôm sau Quí Trát ở nước Tấn về nước Ngô, biết tin Vương Liêu đã chết, liền đi thẳng ra mộ Vương Liêu khóc mà để tang. Công tử Quang thân hành ra tận mộ, xin nhường ngôi vua cho Quí Trát và nói rằng :

- Đó là theo ý tổ phụ và các thúc phụ ta ngày xưa đó!

Qúi Trát nói :

- Muốn thế nào thì được thế, còn phải nhường làm gì ! Ai giữ được cũng thế, yên được nhân dân thì tức là vua ta đó !

Công tử Quang không thể nài ép được, mới lên nối ngôi vua, xưng hiệu là Hạp Lư. Quí Trát lấy việc tranh nhau làm xấu hổ, cáo lão về ở đất Diên Lăng, suốt đời không nói gì đến việc nước Ngô nữa. Yểm Dư và Chúc Dung bị quân Sở vây ở ấp Tiềm, mong mãi không thấy quân Ngô sang cứu, đang cùng nhau thương nghị để tìm kế thoát thân. Bỗng nghe báo công tử Quang giết Vương Liêu cướp ngôi, hai người liền vật mình lăn khóc, rồi bảo nhau rằng :

- Công tử Quang đã giết vua cướp ngôi như vậy thì tất không để cho chúng ta được yên thân !

Hai người nói xong, toan sang đầu nước Sở, nhưng lại sợ nước Sở không tin, chưa biết làm thế nào. Chúc Dung nói :

- Nay cứ giữ chết ở đây thì bao giờ cho xong việc, chi bằng ta nhân đêm tìm đường trốn sang nước khác để liệu tính về sau.

Yểm Dư nói :

- Hiện quân Sở đang vây kín bốn mặt, chúng ta như chim ở trong lồng, làm thế nào mà thoát thân được ?

Chúc Dung nói :

- Tôi có một kế. Truyền cho tướng sĩ hai đồn, hạn đến ngày mai thì khai chiến, rồi nửa đêm hôm nay tôi cùng anh cải trang tìm đường lẻn trốn, quân Sở tất không ngờ.

Yểm Dư và Chúc Dung cùng mấy người tâm phúc giả hình làm quân tuần tiễu, rồi tìm đường lẻn trốn. Yểm Dư trốn sang nước Từ. Chúc Dung trốn sang nước Chung Ngô. Sáng hôm sau, quân sĩ hai đồn không thấy chủ tướng đâu cả, đem nhau chạy trốn, trở về nước Ngô, bỏ lại áo giáp và binh khí rất nhiều, đều bị tướng nước Sở là Bá Khước Uyển bắt được. Các tướng nước Sở muốn nhân lúc nước Ngô có loạn, đem quân sang đánh. Bá Khước Uyển nói :

- Khi trước nước Ngô nhân lúc nước ta có tang mà sang đánh, thế là bất nghĩa. Ta lại còn bắt chước làm gì !

Bá Khước Uyển liền cùng với Thẩm Doãn Thư rút quân trở về, đem những áo giáp và binh khí bắt được của quân Ngô dâng nộp Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương chia ra làm hai phần, một phần thì ban thưởng cho Bá Khước Uyển, lại có lòng kính trọng, việc gì cũng hỏi Bá Khước Uyển. Phí Vô Cực thấy vậy, ghét Bá Khước Uyển lắm, mới nghĩ ra một kế để làm hại Bá Khước Uyển.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 74 : Giết Vô Cực tỏ lòng Nang NgoãĐâm Khánh Ky nổi tiếng Yêu Ly

Phí Vô Cực đem lòng ghen ghét Bá Khước Uyển, mới cùng với Yên Tương Sư thương nghị, nghĩ ra một kế, nói dối quan lệnh doãn nước Sở là Nang Ngoã rằng :

- Tử Ác (tên tự Bá Khước Uyển) muốn bày tiệc mời ngài, nhờ tôi nói trước để xem ngài có lòng hạ cố đến chăng ?

Nang Ngoã nói :

- Người ta có lòng mời, lẽ nào lại không đi !

Phí Vô Cực lại nói với Bá Khước Uyển rằng :

- Quan lệnh doãn có nói chuyện với tôi, muốn sang chơi uống rượu ở nhà ngài, chẳng hay ngài có vì quan lệnh doãn mà sửa một tiệc rượu được không ?

Bá Khước Uyển không biết là mưu, liền đáp lại rằng :

- Tôi phận hèn chức nhỏ, được quan lệnh doãn quá yêu đến, còn gì vinh hạnh bằng ! Sáng mai tôi xin sửa tiệc để mời quan lệnh doãn, nhờ ngài nói giúp cho.

Phí Vô Cực nói :

- Ngài mời quan lệnh doãn, định dùng thứ gì để kính biếu ?

Bá Khước Uyển nói :

- Tôi không biết quan lệnh doãn ngài thích thứ gì ?

Phí Vô Cực nói :

- Quan lệnh doãn chỉ thích áo giáp và binh khí. Nay thấy các đồ giáp binh ta bắt được của quân Ngô khi trước, ngài được chia một nửa, cho nên muốn uống rượu ở nhà ngài mà nhân tiện mượn xem các đồ giáp binh ấy. Ngài nên cho đem cả ra đây, để tôi chọn xem những cái nào tốt.

Bá Khước Uyển sai đem các đồ giáp binh ra cho Phí Vô Cực xem. Phí Vô Cực chọn những cái tốt nhất, cả thảy được năm mươi chiếc, rồi bảo Bá Khước Uyển rằng :

- Thôi thế cũng là đủ ! ngài cho bày cả ở phía trong cửa, rồi che màn đi, hễ quan lệnh doãn hỏi đến thì mang ra mà dâng, tất nhiên quan lệnh doãn lấy làm quí báu; còn các thứ khác thì quan lệnh doãn không thích gì cả.

Bá Khước Uyển tin là thực, mới mắc màn ở phía trong cửa, bày các đồ giáp binh, rồi nhờ Phí Vô Cực đi mời Nang Ngoã. Khi Nang Ngoã sắp đi, Phí Vô Cực lại nói với Nam Ngoã rằng :

- Lòng người ta không biết đâu mà lường ! Tôi xin sang trước để dò xét xem tình ý thế nào rồi ngài hãy sang.

Phí Vô Cực đi một lúc, chạy hộc trở về, vừa nói vừa thở mà bảo Nang Ngoã rằng :

- Xuýt nữa thì tôi làm hại quan lệnh doãn! Tử Ác mời ngài hôm nay, không phải là lòng tử tế, tất có ý muốn hại ngài. Tôi trông thấy trong màn ở phía bên cửa, có bày các đồ giáp binh. Ngài vô ý mà sang hôm nay, tất nhiên bị hại.

Nang Ngoã nói :

- Ta cùng Tử Ác không có hiềm khích gì, làm sao lại thế ?

Phí Vô Cực nói :

- Kẻ kia cậy được đại vương yêu, muốn thay ngài làm lệnh doãn. Và tôi nghe Tử Ác âm mưu với nước Ngô. Khi quân ta sang cứu ấp Tiềm, các tướng quân nước Ngô có loạn, đem quân sang đánh; Tử Ác ăn tiền của nước Ngô, cho là việc bất nghĩa, rồi bắt quan tả tư mã (tức là Thẩm Doãn Thư) phải rút quân về. Ngày trước nước Ngô nhân nước ta có loạn mà sang đánh, chính là một dịp báo thù, nếu không ăn tiền của Ngô, sao lại chịu rút quân ? Tử Ác mà đắc chí thì nước Sở nguy mất !

Nang Ngoã còn chưa tin, lại sai người khác đi xem. Khi về đều nói trong màn ở phía bên cửa nhà Bá Khước Uyển quả có giáp binh thật. Nang Ngoã nổi giận, liền sai người triệu Yên Tương Sư đến, nói cho biết việc Bá Khước Uyển cùng với Dương Lập Trung, Dương Hoàn và Dương Đà đồng mưu với nhau đã lâu, vẫn muốn cầm quyền chính nước Sở.

Nang Ngoã nói :

- Nó là một đứa thất phu ở nước khác đến (Bá Khước Uyển là con Bá Châu Lê. Bá Châu Lê vốn trước là quan nước Tấn sang đầu nước Sở), mà lại dám làm loạn, ta quyết đâm chết mới nghe.

Nang Ngoã liền tâu với Chiêu vương, sai Yên Tương Sư đem quân đến bắt Bá Khước Uyển. Bá Khước Uyển biết là mắc lừa Phí Vô Cực, bèn đâm cổ mà chết. Con Bá Khước Uyển là Bá hi sợ hãi bỏ trốn. Nang Ngoã truyền đốt nhà Bá Khước Uyển. Người trong thành không ai chịu đốt. Nang Ngoã càng giận lắm, liền hạ lệnh rằng :

- Ai không chịu đốt nhà Bá Khước Uyển thì cùng bắt tội.

Người trong thành ai cũng biết Bá Khước Uyển là người hiền, nhưng vì có lệnh của Nang Ngoã, đều phải cầm một nắm rơm, ném vào nhà Bá Khước Uyển. Nang Ngoã truyền cho quân sĩ vây kín nhà Bá Khước Uyển. Chỉ trong chốc lát, cả nhà Khước Uyển hoá ra tro cả. Nang Ngoã giết hết vây cánh của Bá Khước Uyển lại bắt cả Dương Lập Trung, Dương Hoàn, và Dương Đà, vu cho tội thông mưu với Ngô, đem giết chết. Người trong nước ai cũng thương là oan.

Một hôm, Nang Ngoã nhân đêm sáng trăng, trèo lên lầu chơi, nghe văng vẳng bên tai có tiếng hát ở phía ngoài chợ. Bài hát như sau :

"Đừng ai bắt chước Bá Khước Uyển, trung mà bị oan

Tấm thân đã uổng, nắm xương cũng tàn !

Nước Sở không có vua, chỉ có họ Phí và họ Yên !

Quan lệnh doãn khác nào tượng gỗ, bị chúng sai khiến

Trời có thấu chăng ? Báo ứng hiển hiện ! "

Nang Ngoã vội vàng sai người đi dò xét, xem ai hát thì thấy trong phố xá nhà nào cũng bày đèn hương nghi ngút để cúng lễ. Hỏi ra mới biết, là dân chúng cúng Bá Khước Uyển, vì trung mà bị oan, cầu cho được thấu đến trời. Người nhà về báo với Nang Ngoã. Nang Ngoã mới vào hỏi các quan trong triều. Bọn công tử Thân đều nói Bá Khước Uyển không có tư thông với Ngô bao giờ. Nang Ngoã có ý hối. Thẩm Doãn Thư nghe nói người trong nước đều nguyền rủa quan lệnh doãn, mới bèn vào cung bảo Nang Ngoã rằng :

- Người trong nước ai cũng oán ngài, ngài có biết không ? Phí Vô Cực là một kẻ dèm pha ở nước Sở này, cùng với Yên Tương Sư kết làm vây cánh với nhau, lập mưu đuổi Triều Ngô và Sái hầu Chu : lại xui tiên vương làm những điều càn dỡ, để đến nỗi thế tử Kiến chết tại đất ngoài. Trước hắn đã làm cho cha con Ngũ Xa chết oan, nay lại làm cho Bá Khước Uyển cùng ba họ Dương đều chết oan cả. Người trong nước oán hai người ấy đến xương tuỷ, đều đổ lỗi là tại ngài dung túng và ai cũng nguyền rủa ngài. Một mai nước Sở có việc gì thì giặc nổi mặt ngoài, dân phản mặt trong, tôi lấy làm nguy cho ngài lắm! Chi bằng ngài trừ lũ ấy đi thì mới yên việc được.

Nang Ngoã sợ hãi, đang ngồi đứng dậy mà bảo Thẩm Doãn Thư rằng :

- Đó thật là điều lỗi của tôi ! Xin quan tư mã giúp tôi một tay để trừ bỏ hai thằng giặc ấy.

Thẩm Doãn Thư nói :

- Nếu vậy thì phúc cho nước nhà lắm, tôi xin vâng mệnh.

Thẩm Doãn Thư bèn sai người truyền bá cho dân trong nước biết rằng :

- Qaun tả doãn (tức là Bá Khước Uyển) bị chết oan đều là tại Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, quan lệnh doãn đã rõ mưu gian ấy, nay định đem quân đi đánh. Dân trong nước ai muốn theo thì cho đi.

Thẩm Doãn Thư nói chưa dứt lời, dân trong nước đều đua nhau cầm binh khí đi trước. Nang Ngoã kể tội Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, rồi bắt đem chém, bêu đầu ở ngoài chợ. Người trong nước không đợi quan lệnh doãn truyền bảo, đều tranh nhau đem lửa đốt nhà Phí Vô Cực và Yên Tương Sư. Nang Ngoã lại giết hết vây cánh Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, từ bấy giờ người trong nước mới không oán giận nữa.

Vua nước Ngô là Hạp Lư hỏi Ngũ Viên rằng :

- Ta muốn cho nước được cường thịnh để tranh nghiệp bá, nên làm thế nào ?

Ngũ Viên sụp lạy, rồi ứa nước mắt mà đáp rằng :

- Tôi là một kẻ tội nhân ở nước Sở, cha và anh tôi bị oan, chết chẳng ai chôn, giỗ chẳng ai cúng, nên tôi phải đem thân sang đây để trông nhờ đại vương. Đại vương không bắt tội, là may rồi, khi nào lại còn dám dự đến chính sự của nước Ngô.

Hạp Lư nói :

- Không có nhà ngươi thì ta còn phải chịu nhục ở dưới kẻ khác, nay nhờ nhà ngươi chỉ bảo mà được thế này, còn định đem chính sự trong nước phó thác cho nhà ngươi, cớ sao đang nửa chừng mà nhà ngươi lại có ý chán, hoặc là nhà ngươi cho ta không đáng giúp hay sao ?

Ngũ Viên nói :

- Không phải thế ! Tôi nghe nói người thân bao giờ cũng hơn người sơ, người gần bao giờ cũng hơn người xa. Tôi là một kẻ lưu lạc ở nước khác đến, có đâu lại dám ở trên các mưu thần nước Ngô! Huống chi cái thù lớn của tôi chưa báo được thì lòng tôi bối rối, còn nghĩ ra được mưu kế gì ?

Hạp Lư nói :

- Mưu thần nước Ngô không ai bằng nhà ngươi, nhà ngươi chớ nên từ chối. Khi công việc nước ta được tạm yên, ta sẽ vì nhà ngươi báo thù. Nhà ngươi muốn thế nào, ta xin theo ý.

Ngũ Viên nói :

- Bây giờ đại vương muốn thế nào ?

Hạp Lư nói :

- Nước ta ở xếch về phía đông nam, đất thấp mà ẩm, lại có cái nạn nước bể, ruộng nương không mở mang ra được, nhân dân không vững lòng để làm ăn. Nay muốn cho nước cường thịnh thì nên thế nào ?

Ngũ Viên nói :

- Dân có yên ổn thì nước mới được cường thịnh, cho nên phải làm thế nào để mặt trong có thể giữ dân mà mặt ngoài có thể đánh giặc được. Muốn như vậy thì phải làm cho thóc lúa đầy đủ trong kho, phải sửa sang thành quách và luyện tập binh mã.

Hạp Lư nói :

- Nhà ngươi nói phải lắm ! Vậy thì việc ấy ta giao cho nhà ngươi.

Ngũ Viên liền đi xem ngắm hình thế, chọn được một nơi đất tốt ở phía đông bắc núi Cô Tô. Tức thì đắp một cái thành lớn, rộng bốn mươi bảy dặm, chia làm tám cửa như sau : Bản Môn và Xà Môn ở phía nam; Tề Môn và Bình Môn ở phía bắc; Lâu Môn và Tượng Môn ở phía đông; Xương Môn và Tư Môn ở phía tây. Thành quách đã đắp xong rồi, Ngũ Viên đón Hạp Lư thiên đô vào đấy, rồi tuyển mộ quân sĩ, dạy cho biết những phép chiến trận. Lại đắp một cái thành nữa ở phía nam Phượng Hoàng sơn, để phòng giữ nước Việt, gọi là Nam Vũ thành. Hạp Lư cho lưỡi "Ngư Trường" (tức là lưỡi gươm truy thủ mà Chuyên Chư đâm Vương Liêu) là vật chẳng lành, mới bỏ vào hòm, phong kín lại mà không dùng đến nữa; lại đắp một cái thành ở Ngưu Thủ sơn, đúc mấy nghìn thanh kiếm, gọi là Biển Chư. Lại tìm được người nước Ngô tên gọi Can Tương, cùng học một thầy với Âu Giả Sác. Can Tương đi tìm những kim loại, thiêt loại tinh anh, rồi chọn ngày chọn giờ, sai các đồng nam và đồng nữ cả thảy ba trăm người, ngày đêm đốt than, nấu suốt ba tháng, mà vàng và sắt đều không chảy. Can Tương không biết vì cớ làm sao. Người vợ là nàng Mạc Gia bảo Can Tương rằng :

- Thần vật, tất phải đợi sinh khí của con người mới thành được. Nay phu quân đúc kiếm, trong ba tháng không xong, hoặc giả thần vật còn phải đợi sinh khí của con người đó chăng ?

Can Tương nói :

- Ngày xưa thầy ta cũng đúc mãi không thành kiếm, rồi hai vợ chồng đều nhảy vào trong lò, bấy giờ mới thành; về sau ai đúc kiếm ở chân núi ấy cũng phải làm lễ tế lò, mới dảm mở ra. Nay ta đúc mãi không được, hay là cũng phải như thế !

Nàng Mạc Gia nói :

- Thầy ta còn bỏ thân để đúc nên kiếm thần, sao ta lại không bắt chước.

Nàng Mạc Gia liền tắm gội sạch sẽ ra đứng ở cửa lò, rồi sai các đồng nam và đồng nữ kéo bễ đốt than. Khi lửa cháy dữ thì nàng Mạc Gia nhảy vào trong lò. Được một lúc, vàng và sắt đều chảy ra cả, đúc nên được hai thanh kiếm : thanh đúc trước đặt tên là Can Tương, thanh đúc sau, đặt tên là Mạc Gia. Can Tương giấu thanh đúc trước (tức thanh kiếm Can Tương) đi, rồi đem thanh kiếm Mạc Gia đến dâng Hạp Lư. Hạp Lư cầm thanh kiếm chém thử vào viên đá, viên đá tức thì đứt đôi ra. Hạp Lư thưởng cho Can Tương một trăm nén vàng.

Sau Hạp Lư biết là Can Tương giấu mất một thanh kiếm, sai người đến đòi, và bảo nếu không chịu trả thì sẽ bị giết. Can Tương đem thanh kiếm ra xem . Thanh kiếm ở trong bao nhảy ra, hoá thành con rồng xanh. Can Tương cưỡi con rồng xanh ấy bay lên trời mất. Sứ giả về nói với Hạp Lư. Hạp Lư thở dài, từ bấy giờ càng quý thanh kiếm Mạc Gia lắm. Thanh kiếm Mạc Gia sau không biết về đâu mất. Cách hơn sáu trăm năm, đến triều nhà Tấn, có quan thừa tướng tên gọi Trương Hoa trông thấy trên trời có khí lạ, liền triệu một người giỏi thiên văn là Lôi Hoán đến hỏi. Lôi Hoán nói :

- Đó là cái tinh của bảo kiếm, ở về địa phận Phong Thành.

Trương Hoa tức khắc bổ cho Lôi Hoán làm huyện lệnh ở Phong Thành. Lôi Hoán đào nền nhà ngục, bắt được cái hòm bằng đá, dài hơn sáu thước, mở ra xem, trong có hai thanh kiếm, dùng thứ đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì ánh sáng rực rỡ. Lôi Hoán đưa một thanh kiếm cho Trương Hoa, còn một thanh nữa lưu lại để dùng. Trương Hoa xem thanh kiếm rồi bảo rằng :

- Đây tức là thanh kiếm Can Tương, còn thanh kiếm Mạc Gia đi đâu mất. Tuy vậy mà thần vật thế nào rồi cũng lại hợp với nhau.

Sau Lôi Hoán và Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diên Bình, tự nhiên hai thanh kiếm nhảy xuống nước mất, vội vàng sai người lặn tìm, thì thấy có hai con rồng ngũ sắc vểnh râu trừng mắt, làm cho người ấy sợ mà trở về. Từ bấy giờ mất tích hai thanh kiếm ấy.

Vua nước Ngô là Hạp Lư quý thanh kiếm Mạc Gia lắm. Lại thuê người làm cái kim câu (lưỡi gươm cong queo) ai làm giỏi thì được thưởng trăm nén vàng.

Người trong nước đua nhau làm kim câu dễ dàng. Có một người câu sư (người thợ làm kim câu) tham giải thưởng to, giết chết hai con, lấy máu tưới vàng, đúc thành hai cái kim câu, đem dâng Hạp Lư. Qua mấy ngày nữa, câu sư đến cửa xin lĩnh thưởng. Hạp Lư hỏi :

- Người ta dâng kim câu nhiều lắm, sao một mình nhà ngươi dám đến lĩnh thưởng ? Cái kim câu của nhà ngươi có khác gì không ?

Câu sư nói :

- Tôi muốn được thưởng, đã giết chết hai con để đúc thành hai cái kim câu ấy, người khác bì thế nào được !

Hạp Lư truyền đem hai cái kim câu ấy ra xem. Các thị vệ tâu rằng :

- Hai cái kim câu ấy đã bỏ lẫn vào trong đám kim câu khác, trông giống nhau lắm, không thể chọn lấy riêng ra được.

Câu sư nói :

- Xin đại vương cho tôi xem.

Thị vệ đem cả đống kim câu ra để ở trước mặt câu sư. Câu sư cũng không biết cái nào mà chọn, mới gọi tên hai đứa con mà nói rằng :

- Ngô Hồng và Hổ Kê ơi! Ta ở đây, sao hai con không hiển linh ở trước mặt đại vương ?

Câu sư nói chưa dứt lời thì hai cái kim câu ở trong đống nhảy ra, ấp vào ngực câu sư. Hạp Lư kinh sợ mà bảo rằng :

- Ừ, thế thì nhà ngươi nói thực !

Hạp Lư liền thưởng cho câu sư một trăm nén vàng. Từ bấy giờ Hạp Lư cũng quý hai cái kim câu ấy như thanh kiếm Mạc Gia, đeo luôn ở trong mình.

Bấy giờ Bá Hi nước Sở sợ tội chạy trốn, nghe nói Ngũ Viên đã làm quan ở nước Ngô, mới trốn sang nước Ngô, vào yết kiến Ngũ Viên. Hai người nhìn nhau mà khóc, rồi Ngũ Viên đưa Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư hỏi Bá Hi rằng :

- Nước ta ở về nơi hẻo lánh xứ Đông Hải này mà nhà ngươi chẳng quản xa xôi, cố tìm tới, tất cũng có nghĩ được điều gì hay để bảo ta chăng ?

Bá Hi nói :

- Đời ông (Bá Châu Lê) và đời cha (Bá Khước Uyển) tôi vẫn một lòng tận trung với Sở. Nay cha tôi không có tội gì mà bị giết oan, tôi phải bơ vơ chạy trốn, nghe nói đại vương là người cao nghĩa, đã thu dùng Ngũ Viên, cho nên tôi đem thân tới đây, sống chết cũng ở trong tay đại vương vậy.

Hạp Lư có lòng thương, cho làm quan đại phu, để cùng với Ngũ Viên cùng bàn việc nước. Quan đại phu nước Ngô là Bị Ly hỏi riêng Ngũ Viên rằng :

- Ngài nghĩ thế nào mà tin Bá Hi như vậy ?

Ngũ Viên nói :

- Sự oan uổng của Bá Hi, cũng chẳng khác gì sự oan uổng của tôi. Tục ngữ có câu rằng : "đồng bệnh tương liên" (cùng bệnh thì thương nhau), hẳn ngài chẳng còn lạ gì điều ấy.

Bị Ly nói :

- Ngài chỉ biết mặt ngoài chưa biết mặt trong. Tôi trông Bá Hi, mắt nhìn như mắt chim ưng, chân đi như dáng con hổ, thế là người tham nịnh tàn ác, chớ nên đến gần. Nếu người ấy được trọng dụng thì tất luỵ đến ngài.

Ngũ Viên không cho là phải, cùng với Bá Hi cùng thờ vua Ngô.

Lại nói chuyện công tử Khánh Ky trốn sang ở Ngải Thành, chiêu nạp kẻ hào kiệt, kết liên với lân quốc, muốn đợi thời để về nước Ngô đánh báo thù. Hạp Ly nghe tin ấy, bảo Ngũ Viên rằng :

- Việc Chuyên Chư ngày trước, thật ta nhờ sức nhà ngươi. Nay Khánh Ky lại muốn báo thù, ta ăn không biết ngon, nằm không được yên, nhà ngươi nên vì ta mà nghĩ giúp mưu kế.

Ngũ Viên nói :

- Tôi cùng với đại vương mưu việc giết Vương Liêu, cũng đã là bất trung rồi; nay lại mưu giết cả con Vương Liêu nữa, thế thì còn trời đất nào !

Hạp Lư nói :

- Ngày xưa vua Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ, lại giết cả Vũ Canh (con vua Trụ), người nhà Chu chẳng thấy ai chê cả. Nếu Khánh Ky hãy còn thì cũng như là Vương Liêu chưa chết, nhà ngươi chớ nên vì được điều nhỏ mọn mà gây nên cái tai vạ về sau. Ta phải có một tay như Chuyên Chư nữa thì việc này mới xong được ! Nhà ngươi tìm tòi những kẻ trí dũng kể đã lâu ngày, vậy nhà ngươi có biết ai không ?

Ngũ Viên nói :

- Khó nói lắm! Tôi có quen một người bé nhỏ, có thể bàn mưu được.

Hạp Lư nói :

- Khánh Ky sức khoẻ lắm, một người bé nhỏ thì làm gì nổi ?

Ngũ Viên nói :

- Người này dẫu bé nhỏ, nhưng sức khoẻ địch nổi muôn người.

Hạp Lư hỏi :

- Người nào thế ? Tại sao nhà ngươi biết là giỏi, thử nói ta nghe ?

Ngũ Viên nói :

- Người ấy họ là Yêu, tên là Ly, là người nước Ngô. Ngày xưa tôi thấy hắn dám nhiếc mắng một người tráng sĩ tên gọi Tiêu Khâu Tố, cho nên biết là người giỏi.

Hạp Lư hỏi :

- Việc người ấy mắng nhiếc một người tráng sĩ thế nào ?

Ngũ Viên nói :

- Tiêu Khâu Tố vốn người Đông Hải, có người bạn làm quan chết ở Ngô. Tiêu Khâu Tố sang Ngô để viếng bạn, đi qua bến Hoài Tân, toan cho ngựa xuống uống nước. Người giữ bến bảo Tiêu Khâu Tố rằng : Con sông này có thuỷ thần, trông thấy ngựa thì hay bắt mất, ông đừng cho ngựa xuống uống nước". Tiêu Khâu Tố nói : "Có tráng sĩ đứng đây, thuỷ thần nào dám hiện lên". Tiêu Khâu Tố liền sai người nhà dắt ngựa xuống sông cho uống nước. Qủa nhiên, con ngựa ấy rít lên mà sa xuống nước mất. Người giữ biến nói : "Thuỷ thần bắt mất ngựa của ông rồi!" Tiêu Khâu Tố nổi giận, xoay trán người ra, rồi cầm kiếm nhảy xuống nước, để đánh nhau với thuỷ thần. Thuỷ thần hoá phép nổi sóng rất dữ dội, mà không làm gì nổi Tiêu Khâu Tố. Cách ba ngày ba đêm, Tiêu Khâu Tố ở dưới nước nổi lên, bị thần đánh mù mất một mắt. Khi đến nước Ngô, vào viếng tang người bạn, Tiêu Khâu Tố dửng dưng tự đắc thuật lại chuyện đánh thuỷ thần, có vẻ lên mặt với mọi người, thái độ không được khiêm tốn. Bấy giờ Yêu Ly cũng ngồi ở đấy, có ý bất bình, bèn bảo Tiêu Khâu Tố rằng : "Nhà ngươi lên mặt với mọi người, muốn tự đắc là dũng sĩ đó chăng ? Ta nghe nói kẻ dũng sĩ đã đánh nhau với ai, chẳng thà chết chứ không chịu nhục; nay nhà ngươi đánh nhau với thuỷ thần, chịu mất ngựa không lấy lại được, lại bị hỏng mất một mắt, nghĩ nên hổ thẹn biết dường nào, thế mà còn đeo đẳng cái thân sống thừa, thế là đồ vô dụng ở trong khoảng trời đất, còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa!" Tiêu Khâu Tố bị nhục, có ý hổ thẹn, nín lặng không nói gì cả, rồi cáo từ lui ra. Chiều hôm ấy, Yêu Ly về nhà nói chuyện với vợ rằng : "Hôm nay ta làm nhục một kẻ dũng sĩ là Tiêu Khâu Tố ở trong một đám tang, hắn căm tức vô cùng ! Đêm nay thế nào hắn cũng đến báo thù. Ta nên nằm sẵn ở giữa nhà để đợi hắn đến. Nàng chớ có đóng cửa." Người vợ vốn biết dũng khí của chồng mới theo lời chồng bỏ ngõ cửa. Qủa nhiên Tiêu Khâu Tố nửa đêm hôm ấy giắt dao đến nhà Yêu Ly, trông thấy cửa ngỏ, mới đi thẳng vào, thấy Yêu Ly rũ tóc nằm ở phía dưới cửa sổ. Yêu Ly thấy Tiêu Khâu Tố đến, cứ nghiêm nhiên mặc kệ, không thèm cựa quậy, cũng không có ý sợ hãi. Tiêu Khâu Tố cầm dao kề vào cổ Yêu Ly mà kể tội rằng : "Nhà ngươi có ba điều đáng chết, đã biết hay chưa ? Yêu Ly nói : "Chưa biết". Tiêu Khâu Tố nói : "Nhà ngươi làm nhục ta trong đám tang, đó là một điều đáng chết; khi về nhà lại không biết lo xa, dám bỏ ngỏ cửa , đó là hai điều đáng chết; trông thấy ta mà không chạy trốn, đó là ba điều đáng chết. Thế thì tự nhà ngươi muốn chết, còn oán gì ta nữa !". Yêu Ly nói : "Ba điều ấy cũng chưa đáng chết, nhưng nhà ngươi có ba điều hèn, đã biết chưa ?" Tiêu Khâu Tố nói : "Chưa biết". Yêu Ly nói : " Ta làm nhục nhà ngươi trong đám đông người, mà nhà ngươi không dám nói lại một câu nào, đó là một điều hèn; nhà ngươivào nhà ta mà không lên tiếng, có ý lẻn trộm, đó là hai điều hèn; cầm dao kề vào cổ ta rồi mới nói khoác, đó là ba điều hèn. Nhà ngươi có ba điều hèn ấy, lại còn trách ta thì thật là đáng khinh lắm !"

Tiêu Khâu Tố bèn rút dao lại mà khen rằng : "Kể cái vũ dũng của ta, đời không mấy kẻ bàng, mà Yêu Ly lại còn hơn ta, thế thì thật là một dũng sĩ ! Nếu ta giết người dũng sĩ thì mang tiếng với đời, mà không giết thì ta cũng khó lòng mà gọi là vũ dũng được !" Tiêu Khâu Tố nói xong, liền ném dao xuống đất, đập đầu vào cửa sổ mà chết.

Ngũ Viên lại nói với Hạp Lư rằng :

- Trong khi Tiêu Khâu Tố đến viếng tang, tôi cũng có ngồi đấy, nên tôi biết rõ. Như thế, không phải là Yêu Ly sức khoẻ địch nổi muôn người sao ?

Hạp Lư nói :

- Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.

Ngũ Viên đến gặp Yêu Ly và bảo rằng :

- Vua Ngô mến cái tài của nhà ngươi, muốn được gặp mặt.

Yêu Ly kinh sợ mà nói rằng :

- Ta là người thường dân hèn mọn, có tài giỏi gì mà dám ứng triệu.

Ngũ Viên hai ba lần giải bày những tình ý kính mến của vua Ngô, Yêu Ly mới theo Ngũ Viên vào triều. Hạp Lư lúc trước nghe Ngũ Viên khoe tài của Yêu Ly vẫn tưởng là người khôi ngô lạ thường, đến lúc trông thấy Yêu Ly hình thù thấp bé, mặt mũi xấu xa, có ý không bằng lòng, mới hỏi Yêu Ly rằng :

- Ngũ Viên nói Yêu Ly là dũng sĩ, có phải nhà ngươi đó chăng ?

Yêu Ly nói :

- Tôi bé nhỏ không có sức khoẻ, gió thổi mạnh thì ngã, nhưng đại vương muốn sai gì, tôi cũng xin cố làm !

Hạp Lư nín lặng, không nói gì cả. Ngũ Viên biết ý, liền tâu rằng :

- Con ngựa hay không cần to lớn, quí hồ sức khẻ, có thể mang nặng đi xa được thì thôi. Yêu Ly hình dáng dẫu xấu, nhưng tài trí lạ thường, nếu không dùng người ấy thì không thể thành sự được, xin đại vương chớ bỏ hoài !

Hạp Lư truyền dẫn Yêu Ly vào trong hậu cung và cho ngồi. Yêu Ly nói :

- Tôi xem ý đại vương, chắc là lo nghĩ về công tử Khánh Ky. Tôi có thể giết chết hắn được.

Hạp Lư cười mà bảo rằng :

- Khánh Ky sức khoẻ như voi, chạy nhanh hơn ngựa, ta e rằng nhà ngươi không địch nổi!

Yêu Ly nói :

- Giết được người ta, cốt ở trí khôn, không ở sức khoẻ, tôi được đến gần Khánh Ky thì giết hắn như cắt tiết con gà mà thôi.

Hạp Lư nói :

- Khánh Ky là người tài trí, vẫn hay chiêu nạp những kẻ vong mệnh (những người có tội đi trốn) ở bốn phương, thấy nhà ngươi là người khách ở nước Ngô đến, khi nào lại quá tin mà cho nhà ngươi đến gần ?

Yêu Ly nói :

- Khánh ky đã hay chiêu nạp những kẻ vong mệnh, định mưu hại nước Ngô, thì tôi xin giả cách làm một người có tội trốn đi. Xin đại vương hãy giết vợ con tôi, chặt cánh tay phải của tôi. Khánh Ky tất phải tin tôi mà cho đến gần, như thế mới có thể nên việc được !

Hạp Lư ngậm ngùi nói :

- Nhà ngươi không có tội gì, ta nỡ nào làm hại nhà ngươi như thế !

Yêu Ly nói :

- Tôi nghe nói vui vợ con mà không biết hết đạo thờ vua thì không gọi là trung được; ham cửa nhà mà không biết lo việc giúp vua thì không gọi là nghĩa được. Nếu tôi được nên danh trung nghĩa thì dẫu chết sạch cả nhà, cũng được thoả lòng.

Ngũ Viên đứng bên cạnh, cũng nói với Hạp Lư rằng :

- Yêu Ly vì nước quên nhà, vì chủ quên mình, thế mới thật là bậc hào kiệt. Khi đã nên việc rồi, đại vương sẽ truy tặng cho vợ con y, để lưu danh tiếng về sau, thế là được !

Hạp Lư thuận cho. Ngày hôm sau, Ngũ Viên cùng Yêu Ly vào triều. Ngũ Viên xin cử Yêu Ly làm tướng, đem quân đi đánh Sở. Hạp Lư mắng rằng :

- Ta xem sức Yêu Ly, dẫu đánh một đứa trẻ con, cũng vị tất đã nổi, huống chi là đánh Sở ! Và ngày nay công việc trong nước mới yên, ta không muốn động binh.

Yêu Ly nói :

- Nếu vậy đại vương bất nhân quá! Ngũ Viên giúp đại vương được nước Ngô, mà đại vương khơng báo thù hộ cho Ngũ Viên hay sao?

Hạp Lư nổi giận mắng rằng :

- Nhà ngươi là một đứa gia nhân, biết đâu được việc lớn trong nước, sao lại dám đương triều nói hỗn với ta như vậy!

Nói xong truyền cho lực sĩ bắt Yêu Ly đem chặt một cánh tay phải đi, rồi giam vào trong ngục. Lại sai người bắt giam cả vợ con Yêu Ly nữa. Ngũ Viên thở dài mà lui ra. Triều thần đều không biết chủ ý thế nào cả. Mấy hôm, Ngũ Viên mật truyền cho quân canh ngục phải khoản đãi Yêu Ly. Yêu Ly thừa cơ lẻn trốn, gặp ai cũng kể những nổi oan khổ, rồi tìm đến nước Vệ, vào yết kiến công tử Khánh Ky. Khanh Ky nghĩ là nói dối, không nhận cho theo. Yêu Ly cởi áo ra cho Khánh Ky xem. Khánh Ky trông thấy cụt một cánh tay phải, mới tin là thực, liền hỏi rằng :

- Vua Ngô đã giết vợ con nhà ngươi, chặt cánh tay nhà ngươi, may nhà ngươi định theo ta làm gì?

Yêu Ly nói :

- Tôi nghe nói vua Ngô giết thân phụ công tử mà cướp mất ngôi vua, nay công tử kết liên với chư hầu, định về đánh báo thù, vậy tôi đem cái thân sống thừa này đến theo công tử, tôi đã biết rõ hết tình hình nước Ngô; với cái tài của công tử mà công tử lại dùng tôi làm hướng đạo thì chắc có thể về nước được. Công tử báo thù cho thân phụ, tôi cũng báo thù cho vợ con tôi.

Khánh Ky nghe nói, vẫn chưa lấy làm tin lắm. Được ít lâu, có người tâm phúc của Khánh Ky đi thăm ở nước Ngô về, đem việc vợ con Yêu Ly bị đốt ở giữa chợ, thuật lại cho Khánh Ky nghe. Khánh Ky mới thực lòng tin dùng Yêu Ly, hỏi Yêu Ly rằng :

- Ta nghe nói vua Ngô dùng Ngũ Viên và Bá Hi làm mưu chủ, luyện binh tuyển tướng, trong nước cường thịnh lắm, mà ta thì quân ít sức yếu, làm thế nào mà bảo thủ được ?

Yêu Ly nói :

- Bá Hi là đồ vô mưu, không lo gì người ấy; chỉ có một mình Ngũ Viên là trí dũng kiêm toàn, nhưng nay cũng đã có hiềm khích với vua Ngô rồi.

Khánh Ky nói :

- Ngũ Viên là ân nhân của vua Ngô, nay vua tôi nước Ngô đang tương đắc với nhau, sao bảo là có hiềm khích ?

Yêu Ly nói :

- Công tử mới biết một mà chưa biết hai. Ngũ Viên sở dĩ tận trung với vua Ngô là muốn mượn quân để đánh Sở mà báo thù cho cha anh, nay Sở Bình vương đã chết, Phí Vô Cực cũng chết, mà vua Ngô thì an hưởng phú quí, chẳng nghĩ đến việc báo thù cho Ngũ Viên. Tôi vì cớ nói giúp cho Ngũ Viên mà bị vua Ngô làm hại, tôi chắc rằng trong lòng Ngũ Viên cũng oán vua Ngô lắm ! Tôi trốn thoát được, cũng là nhờ cái công chu toàn của Ngũ Viên đó! Ngũ Viên có dặn tôi rằng : "Đi chuyến này, thử dò xem ý công tử thế nào, nếu công tử chịu vì tôi báo thù thì tôi xin làm nội ứng cho công tử, để chuộc lại cái tội đồng mưu với vua Ngô năm xưa!" Nếu công tử không nhân dịp này đem quân về đánh, lại để cho vua tôi hắn lại liên hợp với nhau thì tôi dám nói quyết rằng cái thù của công tử và của tôi, chẳng còn ngày nào báo được.

Yêu Ly nói xong, khóc rầm lên rồi toan đập đầu vào vách mà chết. Khánh Ky vội vàng ôm lại mà bảo rằng :

- Khoan đã ! Ta xin theo lời nhà ngươi. Ta xin theo lời nhà ngươi!

Nói xong liền đem Yêu Ly về Ngãi Thành, dùng làm tâm phúc, sai luyện tập quân sĩ và sửa sang thuyền bè, định trong ba tháng nữa thì theo dòng sông mà tiến sang đánh quân Ngô. Khánh Ky và Yêu Ly cùng ngồi một thuyền. Khi đi đến giữa dòng, thuyền sau còn đi cách xa, Yêu Ly bèn nói với Khánh Ky rằng :

- Công tử nên ngồi lên mũi thuyền để ra lệnh cho quân sĩ.

Khánh Ky lên ngồi ở mũi thuyền. Yêu Ly chỉ còn một tay, cầm cái giáo ngắn đứng hầu. Bỗng giữa sông nổi lên một trận gió. Yêu Ly quay mình đứng về đầu gió, mượn sức gió thổi, cầm giáo đâm suốt vào bụng Khánh Ky, ngọn giáo thò ra phía sau lưng. Khánh Ky xách ngược Yêu Ly lên, dìm đầu xuống nước ba lần, rồi lại ẵm lên để lên trên đầu gối cúi nhìn mà cười, và bảo rằng :

- Thiên hạ lại còn có kẻ dũng sĩ này dám cả gan đâm ta ! Quân sĩ toan xúm lại để đâm Yêu Ly, Khánh Ky gạt đi mà bảo rằng :

- Người này là dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày để chết hai dũng sĩ của thiên hạ. Đừng giết hắn làm gì, nên tha cho hắn về Ngô để tỏ lòng trung của hắn!

Khánh Ky đẩy Yêu Ly xuống dưới chân, rồi giơ tay rút ngọn giáo ra. Máu chảy như xối, Khánh Ky chết.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 75 : Tôn Vũ dạy cung nữ tập trậnNang Ngoã bắt chư hầu lễ tiến

Khánh Ky gần chết dặn quân sĩ chớ giết Yêu Ly.

Yêu Ly nói :

- Ta có ba điều không thể dung được. Dẫu công tử tha ta, ta cũng không tham sống làm gì.

Mọi người đều hỏi :

- Ba điều gì không thể dung được ?

Yêu Ly nói :

- Vì đạo thờ vua mà giết cả vợ con, thế là bất nhân; vì vua mới mà giết con vua cũ, thế là bất nghĩa; nên việc cho người mà đến nỗi tàn hại cả thân thể, cả vợ con, thế là bất trí. Đã phạm ba điều ấy, còn mặt nũi nào mà đứng trên cõi đời nữa !

Yêu Ly nói xong, liền đâm đầu xuống sông. Người lái thuyền lại vớt Yêu Ly lên. Yêu Ly nói :

- Nhà ngươi vớt ta làm gì ?

Người lái thuyền nói :

- Nhà ngươi về nước, tất được tước lộc, sao lại không về ?

Yêu Ly nói :

- Đến vợ con mà tính mệnh ta cũng còn không tiếc huống chi là tước lộc. Các ngươi đem xác ta về Ngô mà lấy trọng thưởng.

Nói xong, giật lấy thanh kiếm của người đứng bên, chặt bỏ chân đi, rồi tự đâm cổ mà chết. Mọi người bèn rủ nhau đem thi thể Yêu Ly và Khánh Ky sang nộp vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư bằng lòng, trọng thưởng cho mọi người, rồi dùng lễ thượng khanh an táng Yêu Ly ở dưới cửa thành mà khấn rằng :

- Nhà ngươi hãy đem thân dùng để giữ thành cho ta.

Hạp Lư lại truy tặng cho vợ con Yêu Ly, lập miếu thờ chung Yêu Ly với Chuyên Chư, dùng lễ công tử an táng Khánh Ky ở bên mộ Vương Liêu và đặt tiệc lớn để thết đãi triều thần. Ngũ Viên khóc mà tâu với Hạp Lư rằng :

- Những mối thù của đại vương, đều trừ được cả, còn mối thù của tôi, biết bao giờ mới trả xong!

Bá Hi cũng khóc lóc mà xin quân đánh Sở. Hạp Lư nói :

- Việc ấy để sáng mai sẽ bàn.

Ngày hôm sau, Ngũ Viên và Bá Hi lại vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư nói :

- Ta muốn vì hai người mà đem quân đánh Sở, nhưng chẳng biết dùng ai làm tướng được?

Ngũ Viên và Bá Hi đồng thanh đáp :

- Tuỳ ý đại vương, dẫu ai làm tướng chúng tôi cũng xin hết sức.

Hạp Lư nghĩ thầm Ngũ Viên và Bá Hi đều là người Sở, nếu họ đã báo thù xong thì khi nào chịu ra sức giúp mình nữa, mới nín lặng không nói gì cả, chỉ ngẩng mặt hứng gió nam mà thở dài.

Ngũ Viên hiểu ý, nói với Hạp Lư rằng :

- Đại vương sợ nước Sở lắm quân nhiều tướng hay sao ?

Hạp Lư nói :

- Chính thế!

Ngũ Viên nói :

- Tôi xin cử một người chắc chắn đánh được Sở.

Hạp Lư hớn hở hỏi :

- Nhà ngươi định cử ai ? Tài người ấy thế nào ?

Ngũ Viên nói :

- Người ấy họ Tôn tên Vũ, cũng là người nước Ngô ta.

Hạp Lư nghe nói là người nước Ngô, thì có ý mừng rỡ.

Ngũ Viên lại tâu rằng :

- Người này tinh thông thao lược, có làm ra mười ba thiên binh pháp, mà đời không mấy người biết tài. Hiện nay người ấy ẩn ở La Phù sơn. Nếu được người ấy làm quân sư thì cả thiên hạ cũng không ai địch nổi được, huống chi là Sở!

Hạp Lư nói :

- Nhà ngươi thử triệu đến đây cho ta.

Ngũ Viên nói :

- Người này không phải là kẻ tầm thường, phải đem lễ vật đến đón thì có lẽ mới chịu ra.

Hạp Lư theo lòi, mới lấy mười nén hoàng kim, một đôi bạch bích, sai Ngũ Viên đến La Phù sơn đón Tô Vũ. Ngũ Viên vào yết kiến Tôn Vũ, giải bày những tình ý kính mến của Hạp Lư. Tôn Vũ mới theo Ngũ Viên vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư xuống thềm chào đón, rồi mời ngồi, hỏi về binh pháp. Tôn Vũ đem mười ba thiên binh pháp đệ dâng Hạp Lư. Hạp Lư sai Ngũ Viên đọc cả lên một lượt. Ngũ Viên đọc. Mỗi khi đọc hết một thiên thì lại ngợi khen không ngớt. Mười ba thiên pháp ấy như sau đây :

1) Thuỷ kế thiên; 2) Tác chiến thiên; 3) Mưu công thiên; 4) Quân hình thiên; 5) Binh thế thiên; 6) Hư thực thiên; 7) Quân tranh thiên; 8) Cửu biến thiên; 9) Hành quân thiên; 10) Địa hình thiên; 11) Tưu địa thiên; 12) Hoả công thiên; 13) Dụng gián thiên.

Hạp Lư ngảnh lại bảo Ngũ Viên rằng :

- Xem binh pháp này, thì biết cái tài thông thiên triệt địa của Tôn tiên sinh. Chỉ tiếc thay ta đây nước nhỏ quân ít, biết làm thế nào ?

Tôn Vũ nói :

- Binh pháp của tôi chẳng những dùng trong đám quân sĩ mà thôi, dẫu đến đàn bà con gái, biết theo hiệu lệnh của tôi, cũng có thể đi đánh giặc được.

Hạp Lư vỗ tay cười mà nói rằng :

- Sao tiên sinh nói viễn vông quá như vậy, lẽ nào đàn bà con gái mà lại sai cầm gươm tập trận được ?

Tôn Vũ nói :

- Đại vương bảo tôi nói viễn vông thì hãy xin cho phép tôi luyện tập các cung nữ, nếu không được thì tôi xin chịu tội.

Hạp Lư truyền đem ba trăm cung nữ giao cho Tôn Vũ luyện tập. Tôn Vũ nói :

- Xin đại vương chọn cho hai người sủng cơ (cung nữ được vua yêu) làm đội trưởng thì hiệu lệnh mới có thể thi hành được.

Hạp Lư lại truyền gọi hai người sủng cơ là Tả cơ và Hữu cơ đến trước mặt mà bảo Tôn Vũ rằng :

- Hai nàng này là người yêu của ta, phòng có làm đội trưỏong được không ?

Tôn Vũ nói :

- Làm được ! Nhưng phân việc binh tất phải có thưởng phạt thì hiệu lệnh mới được nghiêm chỉnh, xin đại vương cho lập một người làm chấp pháp, một người làm quân lại để tuyên bố hiệu lệnh, hai người làm cổ lại để cầm trống và mấy người làm nha tướng để cầm gươm giáo đứng ở trên đàn cho trọng sự thể.

Hạp Lư đều thuận cho cả. Tôn Vũ chia đám cung nữ ra làm tả đội và hữu đội; cho Tả cơ quân lính tả đội, còn Hữu cơ quân lính hữu đội. Hai đội đều mặc binh phục và cầm binh khí.

Tôn Vũ tuyên bố hiệu lệnh có ba điều : 1. Không được hỗn loạn hàng ngũ; 2. Không được cười nói rầm rĩ; 3. Không được có ý làm trái hiệu lệnh.

Tôn Vũ hẹn đến sáng hôm sau thì mọi người đều hội tại giáo trường (nơi luyên tập quân sĩ). Người nào cũng mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm mộc. Tả cơ và Hữu cơ thì trang phục như tướng quân, đứng ở hai bên, chờ Tôn Vũ thăng trường. Tôn Vũ thân hành ra chỉ bảo mẫu mực và bày thành trận thế. Lại truyền đem hai lá cờ vàng đưa cho Tả cơ và Hữu cơ để cầm đứng trước, còn các cung nữ đứng ở sau. Hai đội chực cả ở hai bên để nghe lệnh. Tôn Vũ hạ lệnh rằng :

- Hễ nghe thấy hồi trống thứ nhất thì hai đội đều đứng dậy cả, nghe hồi trống thứ hai thì tả đội quành về bên hữu, hữu đội quành về bên tả, nghe hồi trống thứ ba thì đều giơ kiếm ra như thể đánh nhau; hễ nghe thấy hiệu thanh la thì rút quân kéo lui.

Các cugn nữ đều bưng miệng cười. Viên cổ lại đánh một hồi trống. Các cung nữ kẻ ngồi kẻ đứng, không được đều nhau. Tôn Vũ đứng dậy mà nói rằng :

- Hiệu lệnh không rõ, diễn tập không đúng là tội quan tướng đó !

Tôn Vũ truyền cho viên quân lại truyền bá hiệu lệnh một lần nữa. Viên cổ lại đánh một hồi trống. Các cung nữ đều đứng dậy, nhưng nghiêng nghiêng vẹo vẹo, đổ xổ vào nhau, mà vẫn cười như trước. Tôn Vũ liền vén hai tay áo, cầm lấy dùi mà đánh trống, hiệu lệnh vẫn tuyên bố như trước. Tả cơ và Hữu cơ cùng các cung nữ đều cười ồ lên cả.

Tôn Vũ nổi giận, hai mắt trợn lên, tóc dựng trên đầu, liền gọi :

- Viên chấp pháp đâu !

Viên chấp pháp đến quỳ ở trước mặt. Tôn Vũ nói :

- Hiệu lệnh không rõ, diễn tập không đúng là tội tại quan tướng đó ! Đã tuyên bố hiệu lệnh mà quân sĩ không theo thì là tội tại quân sĩ đó! Cứ theo quân pháp, nên trị tội gì ?

Viên chấp pháp nói :

- Nên chém !

Tôn Vũ nói :

- Quân sĩ không thể giết hết được, ta nên trị tội hai viên đội trưởng !

Tôn Vũ truyền đem hai người nữ đội trưởng ra chém để làm gương. Các nha tướng trông thấy Tôn Vũ hầm hầm nổi giận, thì không dám trái mệnh, liền trói Tả cơ và Hữu cơ điệu ra. Hạp Lư ngồi ở trên đài trông thấy, vội vàng sai Bá Hi cầm cờ tiết đến nói với Tôn Vũ rằng :

- Ta đã biết tài dụng binh của tướng quân rồi. Nhưng hai nàng ấy là người nâng khăn sửa túi của ta và rất hợp ý ta. Ta không có hai nàng ấy thì ăn không biết ngon, xin tướng quân tha cho.

Tôn Vũ nói :

- Việc quân không phải là việc đùa! Tôi đã chịu mệnh làm tướng rồi thì khi ở trong quân, dẫu có mệnh vua, cũng không được phép theo nữa. Nếu theo mệnh vua, tha kẻ có tội thì sao cho quân sĩ phục !

Tôn Vũ truyền chém ngay Tả cơ và Hữu cơ, đem bêu đầu ở trước hàng quân. Các cung nữ đều sợ run cầm cập, không dám ngẩng nhìn. Tôn Vũ lại chọn hai người khác ở trong hai đội ấy cho làm tả đội trưởng và hữu đội trưởng, rồi nổi trống và tuyên bố hiệu lệnh : hồi trống thứ nhất, đều đứng dậy cả; hồi trống thứ hai, đều đi vòng quanh; hồi trống thứ ba, hai bên cùng hợp chiến, khi nghe hiệu thanh la thì lui quân. Quân sĩ lúc tiến lúc lui, đều đúng khuôn phép, không sai một chút nào. Trong khi diễn tập từ trước đến sau ai nấy đều im lặng như tờ. Tôn Vũ bèn sai viên chấp pháp đến tâu với Hạp Lư rằng :

- Quân đội đã được chỉnh tề rồi, xin tuỳ ý đại vương điều khiển, bây giờ dẫu đại vương bảo nhảy vào đống lửa, cũng không ai dám lui tránh.

Hạp Lư thương Tả cơ và Hữu cơ lắm, sai làm lễ hậu táng ở Hoành Sơn, rồi lập đền thờ, gọi là Ái cơ tử. Vì lòng thương Tả cơ và Hữu cơ nên Hạp Lư mới có ý không muốn dùng Tôn Vũ. Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng :

- Đại vương muốn đánh Sở mà làm bá chủ thiên hạ, cho nên mong tìm được người tướng giỏi. Nhưng người tướng giỏi, cần nhất phải là một người quả quyết, nếu không có Tôn Vũ thì ai là người dám vượt sông Hoài, sông Tử, băng qua nghìn dặm mà sang đánh Sở bây giờ ? Gái đẹp dễ có, chứ tướng giỏi khó tìm, nay thương hai nàng ấy mà bỏ mất một tướng giỏi thì khác nào như tiếc đám cỏ xấu mà bỏ mất đám lúa tốt đó!

Hạp Lư nghe nói tỉnh ngộ, bèn phong Tôn Vũ làm thượng tướng quân, hiệu là quân sư, giao phó cho việc đánh Sở. Ngũ Viên hỏi Tôn Vũ rằng :

- Phải tiến quân từ chỗ nào ?

Tôn Vũ nói :

- Phàm việc dụng binh, trước hết phải giữ gìn mặt trong đã, rồi mới có thể đánh mặt ngoài được. Tôi nghe nói em Vương Liêu là Yểm Dư ở nước Từ, Chúc Dung ở nước Chung Ngô, hai người ấy đều muốn báo thù. Nay ta phải trừ bỏ hai người ấy, rồi sẽ tiến binh đánh Sở.

Ngũ Viên khen phải, tâu với Hạp Lư. Hạp Lư nói :

- Từ và Chung Ngô đều là nước nhỏ, ta sai sứ đến bảo bắt họ, tất họ phải theo lời.

Hạp Lư liền sai một người sang Từ bắt Yểm Dư và một người sang Chung Ngô bắt Chúc Dung. Vua Từ là Chương Vũ không nỡ để cho Yểm Dư chết, mới mật sai người báo Yểm Dư. Yểm Dư trốn đi, lại gặp Chúc Dung. Hai người bàn nhau chạy sang nước Sở. Sở Chiêu vương mừng mà nói rằng :

- Hai công tử ấy đều thầm oán nước Ngô, ta nên nhân lúc họ cùng khốn mà kết nạp.

Bèn cho hai công tử ở đất Thư Thành, để luyện tập quân mã mà chống nhau với nước Ngô. Hạp Lư giận nước Từ và nước Chung Ngô, sai Tôn Vũ đem quân đi đánh. Vua Từ là Chương Vũ chạy sang nước Sở. Tôn Vũ bắt vua nước Chung Ngô đem về, lại lẻn sang đánh Thư Thành, giết Yểm Dư và Chúc Dung. Hạp Lư muốn thừa thắng tiến vào đánh Sính Đô (kinh thành nước Sở), Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng :

- Dân đang mỏi mệt, chưa nên dùng vội.

Tôn Vũ nói xong, liền rút quân về. Ngũ Viên hiến kế rằng :

- Phàm ít mà thắng được nhiều, yếu mà thắng được mạnh là tất phải hiểu cái lẻ "dĩ dật đãi lao" ( mình thong thả khoẻ khoắn, chờ cho quân địch mệt nhọc, đến để đánh). Tấn Điệu công ngày xưa chia quân làm ba đạo để làm cho Sở phải khó nhọc, mới đánh được Sở ở đất Tiêu Ngư. Kẻ cầm quyền ở nước Sở ngày nay đều là những phường ngu dốt, không biết gì, xin đại vương cũng chia quân làm ba đạo để sang quấy nhiễu nước Sở. Cứ thay đổi nhau, Sở ra thì ta về, mà Sở về thì ta ra, khiến cho kẻ kia mệt mỏi, bấy giờ ta sẽ kéo cả ra mà đánh thì tất phải vỡ được.

Hạp Lư khen phải, mới chi quân làm ba đạo, cho sang quấy nhiễu bờ cõi nước Sở. Sở đem quân ra cứu. Ngô lại rút quân về, người nước Sở rất khổ sở.

Hạp Lư có người con gái yêu tên là Thắng Ngọc. Một hôm ăn tiệc, người nhà bếp dâng món cá hấp. Hạp Lư ăn một nửa, còn thừa đưa cho Thắng Ngọc. Thắng Ngọc giận, nói :

- Đại vương cho con cá ăn dở, thế là làm nhục ta, ta còn sống làm gì nữa.

Thắng Ngọc lui ra, rồi tự tử. Hạp Lư thương lắm, mới làm một cái lăng thật to ở ngoài Sương Môn, đào hào đắp luỹ, nhưng chỗ đất đào thành ra cái hồ lớn (tức là hồ Vũ Phần bây giờ); lại đục đá hoa để làm quách, bao nhiêu vàng bạc châu báu ở trong kho, đem chôn gần đến nửa phần; chôn thêm cả một thanh bảo kiếm là thanh kiếm Bản sinh, lại sai người múa bạch hạc (làm con hạc trắng đội mà múa) ở giữa chợ nước Ngô. Dân kéo đến xem kể hàng vạn người, nhân tiện bảo mọi người theo lối Toại môn ( cửa hang đi ngầm dưới đất vào huyệt) mà vào xem. Trong Toại môn có làm một cái máy. Khi dân đã kéo ồ cả vào, Hạp Lư liền cho giật máy cho cửa đóng sập lại, rồi đem đất lấp đi. Kể hàng vạn người vừa trai, vừa gái, đều chết tất cả.

Hạp Lư nói :

- Ta bắt hàng vạn người chết theo thì con gái ta ở dưới suối vàng, không đến nỗi cô quạnh.

Lại nói chuyện Sở Chiêu vương, một hôm đang nằm ở trong cung, bỗng sực thức dậy, thấy bên gối có hào quang sáng rực, liền ngoảnh lại trông thấy một thanh bảo kiếm. Sáng hôm sau, Chiêu vương sai triệu Phong Hồ Tử là một người giỏi xem kiếm, vào cung, rồi đưa thanh kiếm cho xem. Phong Hồ Tử trông thấy thanh kiếm, kinh sợ mà nói rằng :

- Đại vương lấy đâu được thế này ?

Sở Chiêu vương nói :

- Đêm qua ta ngủ dậy, bắt được ở bên gối, chẳng hay đó là thanh kiếm gì ?

Phong Hồ Tử nói :

- Đây là thanh kiếm "Trạm Lư" của một kiếm sư tên gọi Âu Giã Tử đúc ra. Ngày xưa vua nước Việt đúc được năm thanh kiếm. Vua nước Ngô là Thọ Mộng muốn lấy, vua nước Việt mới đem dâng ba thanh là "Ngư trường", "Bản sinh", và "Trạm lư". "Ngư trường" là thanh truỷ thủ sau đâm chết Vương Liêu, thanh kiếm "Bản sinh" sau chôn theo con gái Hạp Lư, chỉ còn có một thanh kiếm "Trạm lư" này. Tôi nghe nói thanh kiếm này thiêng lắm, hễ vua làm điều trái lẽ thì thanh kiếm này biến mất; nó hiện ra ở nước nào thì nước ấy được cường thịnh. Nay vua Ngô giết Vương Liêu để cướp ngôi, lại chôn sống hàng vạn người theo con gái, người nước Ngô ai cũng oán giận, vậy nên thanh kiếm "Trạm lư" này bỏ chỗ vô đạo mà đến chỗ hữu đạo đó!

Sở Chiêu vương quí thanh kiếm "Trạm lư " lắm, đeo luôn ở cạnh mình, lại tuyên bố cho người trong nước biết, lấy làm một cái điềm hay. Hạp Lư mất thanh kiếm, sai người đi dò tìm. Có kẻ báo là thanh kiếm ấy đã về nước Sở. Hạp Lư nổi giận nói :

- Đó tất là vua Sở đút tiền cho bọn thị vệ ta để lấy trộm thanh kiếm đây !

Hạp Lư tức thì giết chết mấy chục thị vệ vẫn hầu hạ chung quanh; lại sai Tôn Vũ, Ngũ Viên và Bá Hi đem quân đi đánh Sở, và sai sang mượn quân nước Việt. Vua nước Việt là Doãn Thường chưa tuyệt giao với Sở, không chịu phát binh. Khi bọn Tôn Vũ đã đánh được đất Lục và đất Tiềm của nước Sở rồi, không thấy có quân tiếp ứng, liền rút quân về. Hạp Lư giận nước Việt không chịu phát binh đánh Sở, toan quay sang đánh Việt. Tôn Vũ can rằng :

- Năm nay tuế tinh ở về địa phận nước Việt. Ta đánh Việt tất không lợi.

Hạp Lư không nghe, đem quân đánh Việt; phá vỡ quân Việt ở đất Huế Lý, cướp lấy của cải, rồi lại rút về. Tôn Vũ nói riêng với Ngũ Viên rằng :

- Sau bốn mươi năm nữa, chắc nước Việt sẽ cường thịnh mà nước Ngô phải suy vong!

Năm sau, quan lệnh doãn nước Sở là Nang Ngoã đem quân đánh Ngô, để báo thù trận đánh ỏo đất Lục và đất Tiềm khi trước. Hạp Lư sai Tôn Vũ và Ngũ Viên đem quân ra nghênh chiến, phá vỡ quân nước Sở ở đất Sào, bắt được tướng nước Sở là Can Phồn đem về. Hạp Lư nói :

- Chưa vào tới Sính Đô, thì dẫu phá vỡ quân Sỏo cũng là vô công.

Ngũ Viên nói :

- Tôi có lúc nào quên được Sính Đô đâu, chỉ vì nước Sở đang cường thịnh, không nên khinh thường. Nang Ngoã (quan lệnh doãn nước Sở) dẫu không được lòng dân, nhưng chư hầu chưa ai ghét cả. Tôi nghe Nang Ngoã hay ăn tiền, chẳng bao lâu chư hầu tất cả cũng sinh biến, bấy giờ ta sẽ nhân dịp mà đánh Sở.

Hạp Lư giao cho Tôn Vũ luyện tập thuỷ quân; còn Ngũ Viên thì ngày nào cũng sai người dò thám công việc nước Sở. Một hôm, nghe báo có nước Đường và nước Sái sai sứ sang thông hiếu, hiện đã tới cõi ngoài. Ngũ Viên mừng mà nói rằng :

- Đường và Sái đều là thuộc quốc của nước Sở, nay tự nhiên sai sứ sang thông hiếu với ta, tất đã có lòng oán Sở. Ấy là cơ hội trời khiến cho ta phá Sở, tiến vào Sính Đô đó.

Nguyên các nước thấy Sở Chiêu vương bắt được thanh kiếm "Trạm lư", thì đều đến chúc mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cùng đến. Sái Chiêu côgn có một đôi ngọc bội màu mỡ dê và hai chiếc áo cấu bằng lông điểu bạch, bèn đem mỗi thứ một chiếc dâng Sở Chiêu vương để làm lễ chúc mừng, còn thì để mình đeo mà mặt. Nang Ngoã trông thấy thích lắm, sai người đòi lấy. Đường Thành công có một đôi ngựa rất quí, tên gọi Túc Sương; Thành công đem đôi ngựa ấy thắng xe đi đến nước Sở, ngựa đi nhanh mà êm lắm. Nang Ngoã cũng có ý thích, sai người đòi lấy. Đường Thành công không cho.

Khi Đưòong Thành công và Sái Chiêu công vào triều kiến xong, Nang Ngoã nói dèm với Sở Chiêu vương rằng :

- Đường và Sái tư thông với Ngô, nếu tha cho về thì tất dẫn Ngô sang đánh Sở, chi bằng ta bắt giữ lại.

Sở Chiêu vương bèn truyền giam Đường Thành công và Sái Chiêu công ở quán xá, cho một nghìn quân cạnh giữ. Bấy giờ Sở Chiêu vương còn ít tuổi, quyền chính đều ở tay Nang Ngoã. Đường Thành công và Sái Chiêu công bị giam tại Sở, đã ba năm trời. Thế tử nước Đưòong không thấy Đường Thành công về, sai quan đại phu là công tôn Triết đến nước Sở thăm tin, mới biết là Đường Thành công bị giam. Công tôn Triết nói riêng với các thị vệ rằng :

- Chúa công ta tiếc đôi ngựa để chịu giam mãi ở nước Sở, sao lại trọng súc vật mà khinh nước nhà như thế! Chi bằng chúng ta lấy trộm đôi ngựa ấy đem dâng quan lệnh doãn nước Sở để chúa công được về. Khi chúa công về rồi, có trị chúng ta về tội lấy trộm ngựa thì chúng ta cũng cam lòng!

Thị vệ theo lời, liền đem rượu cho kẻ giữ ngựa uống thật say, rồi lấy trộm đôi ngựa đem dâng Nang Ngoã và nói với Nang Ngoã rằng :

- Chúa công tôi có lòng kính mến quan lệnh doãn, vậy sai chúng tôi đem đôi ngựa quý này đến dâng.

Nang Ngoã mừng lắm, nhận lấy đôi ngựa. Ngày hôm sau vào tâu với Sở Chiêu vương rằng :

- Nước Đường đất nhỏ quân ít, dẫu ta có tha cho về, cũng chẳng làm gì ta nổi.

Sở Chiêu vương nghe lời, tức thì tha cho Đường Thành công về nước. Khi Đường Thành công đã về đến nước Đường, công tôn Triết và các thị vệ đều sụp ở trước sân để xin chịu tội. Đường Thành công nói :

- Các ngươi không đem ngựa mà dâng đứa tham phu qấy thì sao cho ta được về nước. Đó là lỗi của ta, các người cũng đừng oán ta !

Đường Thành công trọng thưởng cho công tôn Triết và các thị vệ. Sái Chiêu công nghe nói Đường Thành công dâng ngựa được về, cũng đém áo cừu và ngọc bộ dâng Nang Ngoã. Nang Ngoã lại nói với Sở Chiêu vương rằng :

- Sái cũng như Đường, ta đã tha cho Đường thì còn giữ Sái làm gì nữa.

Sở Chiêu vương theo lời. Sái Chiêu công cáo từ lui về, trong lòng căm tức; khi đến sông Hán Thuỷ, bèn cầm viên bạch bích ném xuống sông mà thề rằng :

- Nếu ta không đánh được Sở mà lại qua sông này lần nữa thì xin chết như thế này !

Khi về nước, tức khắc cho thế tử Nguyên sang làm con tin tại nước Tấn, để mượn quân đánh nước Sở. Tấn Định công đem việc Nang Ngoã tham lam vào tố cáo với Chu Kính vương. Chu Kính vương sai quan khanh sĩ là Lưu Quyền đem quân đến giúp. Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào, Cừ, Châu, Đốc, Hồ, Đằng, Tiết, Kỷ, Tiêu Châu, Từ và Sái cả thảy mười bảy nước đều oán giận Nang Ngoã là người tham lam, đem quân theo Tấn. Sĩ Uông nước Tấn làm đại tướng, Tuân Di làm phó tướng, đem quân chư hầu hội ở đất Thiệu Lăng. Tuân Di nghĩ mình vì nước Sái mà đánh nước Sở là có công với nước Sái, nên cũng muốn đợi ăn tiền, bèn sai người bảo Sái Chiêu công rằng :

- Tôi nghe nói nhà vua có áo cừu và ngọc bội, đem dâng vua tôi nước Sở, sao đến nước tôi lại không có gì cả ? Chúng tôi vì nhà vua mà cất quân đi, đưòong xa hàng nghìn dặm, chẳng hay nhà vua định lấy gì mà khao thưởng quân sĩ của nước tôi ?

Sái Chiêu công nói :

- Tôi thấy quan lệnh doãn nước Sở là người tham lam, vậy nên bỏ Sở mà theo Tấn. Nay nếu ngài nghĩ cái nghĩa minh chủ mà đem quân đánh Sở thì năm trăm dặm đất ở xứ Kinh Tương kia đều là để khao thưởng quân sĩ cả, còn gì lợi hơn nữa !

Tuân Di nghe nói, có ý hổ thẹn. Bấy giờ trời mưa to luôn mãi, quan khanh sĩ nhà Chu bị bệnh sốt rét. Tuân Di nói với Sĩ Uông rằng :

- Ngày xưa Tề Hoàn công cường thịnh như thế mà còn chịu đóng quân ở Thiệu Lăng để giảng hoà với Sở. Tiên quân nước ta là Văn công chỉ đánh được Sở có một trận mà việc tranh chiến lan man mãi không thôi. Nước ta từ khi cùng Sở giảng hoà, hai bên vẫn không hiềm khích gì với nhau, vậy thì không nên gây ra việc tranh chiến. Huống chi độ này mưa nhiều nước lụt, bệnh sốt rét đang phát, tôi e rằng tiến lên vị tất đã đánh được Sở, mà lui về lại bị quân Sở đuổi theo, ta nên lo trước mới được.

Sĩ Uông cũng là một đứa tham phu, muốn ăn tiền của nước Sái, nhưng chưa được mãn nguyện, mới mượn cớ mưa nhiều nước lụt, tiến binh không lợi, cho thế tử Nguyên trở về nước Sái, rồi hạ lệnh rút quân. Các nước thấy nước Tấn rút quân, cũng đều rút quân về cả. Sái Chiêu công thấy các nước rút quân về, trong lòng chán ngán, khi về qua nước Thẩm, gị6n vua Thẩm không theo đánh Sở, mới sai quan đại phu là công tôn Tính đem quân đánh Thẩm, bắt vua Thẩm giết đi, để cho hả lòng oán Sở. Nang Ngoã giận lắm, đem quân đánh Sái, vây thành nước Sái. Công tôn Tính nói với Sái Chiêu công rằng :

- Ta không thể trông cậy ở nước Tấn được, chi bằng sang cầu viện nước Ngô. Các quan nước Ngô như Ngũ Viên và Bá Hi đều là cừu địch với Sở, tất thế nào cũng giúp ta.

Sái Chiêu công nghe lời, liền sai công tôn Tính sang ước với Đường Thành công để cùng đi mượn quân nước Ngô, lại cho người con thứ là công tử Kiền sang ở làm tin. Ngũ Viên đưa vào yết kiến Hạp Lư và nói với Hạp Lư rằng :

- Đường và Sái oán giận nước Sở mà xin làm tiên phong để sang đánh Sở. Cứu Sái là một tiếng tốt, đánh Sở là một lợi to. Đại vương muốn tiến binh vào Sính Đô thì nên nhân cơ hội này !

Hạp Lư nhận lời, sai công tôn Tính về trước để báo cho Sái Chiêu công biết.

Hạp Lư đang bàn việc tiến binh, bỗng nghe báo có quân sư là Tôn Vũ xin vào yết kiến. Hạp Lư mời vào. Tôn Vũ nói :

- Nước Sở khó đánh là vì có nhiều thuộc quốc, ta chưa dễ tiến đến tận nơi được. Nay vua Tấn xương lên một câu mà mười tám nước hợp : trong mười tám nước ấy thì Trần, Hứa, Hồ và Đốn đều là thuộc quốc của Sở, mà cũng bỏ Sở theo Tấn, xem thế thì biết người ta đều oán Sở, chẳng những Đường và Sái. Phen này nước Sở cô thế rồi!

Hạp Lư bằng lòng, sai Bị Ly và Chuyên Nghị giúp thế tử Ba giữ nước, cho Tôn Vũ làm đại tướng. Ngũ Viên và Bá Hi làm phó tướng, công tử Phu Khái làm tiên phong, công tử Sơn đốc vận lương thực, rồi đem sáu vạn quân Ngô theo đường thuỷ qua sông Hoài, tiến sang nước Sái. Nang Ngoã thấy quân Ngô thế to lắm, liền giải vây nước Sái mà chạy về; lại sợ quân Ngô kéo quân sông Hán, mới đóng quân giữ ở đấy, và sai người về Sính Đô cáo cấp. Sái Chiêu công ra nghênh tiếp Hạp Lư, rồi vừa khóc vừa kể những tội ác của vua tôi nước Sở. Được một lúc, Đường Thành công cũng đến. Đường Thành công và Sái Chiêu công tình nguyện cùng theo đánh Sở. Lúc sắp khởi hành, Tôn Vũ truyền cho quân sĩ lên cả đường bộ, còn bao nhiêu thuyền bè cứ để ở khúc sông Hoài. Ngũ Viên thấy vậy, sẽ hỏi riêng Tôn Vũ .

Tôn Vũ nói :

- Ta đi đường thuỷ thì ngược nước mà chậm, khiến cho Sở phòng bị trước được, khó lòng phán nổi.

Ngũ Viên rất lấy làm phục. Đại binh nước Ngô qua đường Dự Chương tiến thẳng đến đóng ở phía bắc sông Hán, còn quân Sở đóng ở phía nam. Nang Ngoã ngày đêm chỉ lo quân Ngô tiến đến, nghe nói thuyền bè nước Ngô có ở sông Hoài, bấy giờ mới yên lòng. Sở Chiêu vương nghe tin quân Ngô sắp sang đánh, liền họp các quan lại để hỏi kế. Công tử Thân nói :

- Tài Tử Thường không phải là tài đại tướng. Đại vương nên sai quan tư mã là Thẩm Doãn Thư đem quân đi, giữ cho quân Ngô khỏi qua sông Hán. Kẻ kia đi xa xôi không có tiếp ứng thì tất không ở lâu được !

Sở Chiêu vương theo lời sai Thẩm Doãn Thư đem một vạn quân rưỡi hợp cùng Nang Ngoã để chống quân Ngô. Thẩm Doãn Thư đem quân tới nơi, Nang Ngoã đón vào. Thẩm Doãn Thư hỏi rằng :

- Quân Ngô đi đường nào mà đến đây được chóng như vậy ?

Nang Ngoã nói :

- Quân Ngô bỏ thuyền bè ở sông Hoài, rồi theo đường bộ qua Dự Chương tới đấy.

Thẩm Doãn Thư cười ha hả mà nói rằng :

- Người ta nói Tôn Vũ dụng binh như thần, cứ như ta xem thì khác nào trò trẻ.

Nang Ngoã nói :

- Sao vậy ?

Thẩm Doãn Thư nói :

- Người nước Ngô quen thạo thuyền bè, lợi về việc đánh thuỷ, nay lại bỏ thuyền bè ở khúc sông Hoài để đi cho chóng, vạn nhất thua trận thì lấy đường nào mà chạy về ? Ta nghĩ cũng nực cười!

Nang Ngoã nói :

- Quân kia hiện đang đóng ở phía bắc sông Hán, ta dùng kế gì mà phá được ?

- Tôi chia cho ngài năm nghìn quân. Ngài cứ theo dọc bờ sông Hán mà đóng đồn, bao nhiêu thuyền bè, bắt để cả ở bên này sông, lại sai quân thuỷ đi tuần khắp mặt sông, khiến cho quân Ngô không thể nào qua sông được, rồi tôi đem đại binh qua đường Tân Tức đi thẳng sang sông Hoài, đốt hết những thuyền bè của quân Ngô đi lại, dùng gỗ đá lấp con đường Hán Đông. Lúc bấy giờ ngài đem quân qua sông Hán đánh vào mặt trước, tôi đem quân đánh mặt sau. Kẻ kia thuỷ bộ đều nghẽn cả, không có đường mà chạy, chắc hẳn là ta bắt sống được vua tôi nước Ngô.

Nang Ngoã mừng lắm, nói :

- Tôi chịu kém cái tài cao đoán của quan tư mã !

Thẩm Doãn Thư cho quan đại tướng là Vũ Thành Hắc coi năm nghìn quân ở lại để giúp Nang Ngoã, còn mình thì đem đại binh tiến thẳng vào đường Tân Tức.

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 76 : Hạp Lư tiến vào thành Sinh ĐôNgũ Viện khai quật mộ vua Sở

Thẩm Doãn Thú đem quân đi rồi, quân Ngô và quân Sở vẫn chống giữ nhau ở hai bên bờ sông Hán . Được mấy ngày, Vũ Thành Hắc muốn du nịnh Nang Ngoã, mới nói với Nang Ngoã rằng:

- Quân Ngô bỏ thuyền lên cạn thì còn lấy gì làm tài giỏi, vả lại không thuộc địa thế, nên quan tư mã đã chắc là chúng tất thua . Nay quân ngô cố đánh đã trong mấy hôm mà không thể qua sông được thì tất sinh lòng trễ biếng, ta nên tiến binh sang mà đánh ngay .

Một người tướng yêu của Nang Ngoã tên gọi Sử Hoàng cũng nói:

- Người trong nước ngày nay yêu ngài thì ít, mà yêu quan tư mã thì nhiều . Nếu quan tư mã đem quân đốt được thuyền bè nước Ngô thì trận đánh Ngô này, quan tư mã được công đầu . Như ngài đây làm quan lệnh doãn, quyền cao chức trọng mà đã bị mấy lần thua trận, nay lại nhường cái công đầu ấy cho quan tư mã thì còn mặt mũi nào mà đứng đầu hàng trăm quan nữa ? Tôi chắc rằng quan tư mã tất thay ngài làm lệnh doãn mà thôi, chi bằng ta theo cái kế của Vũ Thành Hắc đem quân qua sông mà quyết một trận thắng phụ .

Nang Ngoã nghe lời, mới truyền tiến binh qua sông Hán sang bày trận ở Tiểu Biệt sơn . Sử Hoàng đem quân ra khiêu chíên . Tôn Vũ sai tướng tiên phong là công tử Phu Khái đem quân ra đối địch . Công tử Phu Khái chọn ba trăm quân dũng sĩ, đều dùng thứ gỗ tốt làm tay thước, gặp quân Sở đâu thì đánh túi bụi vào đầu . Quân Sở thấy vậy, đều kinh sợ không thể địch nổi, bị quân Ngô đánh cho một trận . Sử Hoàng thua to chạy về . Nang Ngoã bảo Sử Hoàng rằng:

- Nhà ngươi xui ta qua sông Hán, nay mới đánh có một trận mà đã bị thua, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa!

Sử Hoàng nói:

- Nay đại binh vua Ngô đón ở dưới núi Đại Biệt, chi bằng đêm nay đương lúc bất ngờ, ta đem quân sang đánh thì có thể bắt sống vua Ngô được .

Nang Ngoã theo lời, liền truyền một vạn quân, định đêm hôm ấy theo con đường tắt tiến sang Đại Biệt sơn . Tôn Vũ được tin công tử Phu Khái thắng trận, các tướng đều đến chúc mừng, bèn nói:

- Nang Ngõa là một người ngu dốt, nay Sử Hoàng thua trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm . Đêm nay tất thế nào cũng lẻn đánh đại dinh ta, ta nên phòng bị trước mới được .

Tôn Vũ bèn sai công tử Phu Khái và Chuyên Nghị đem quân bản bộ phục hai bên Đại Biệt sơn, và sai Đường Thành công cùng Sái Chiêu công chia quân làm hai đạo để tiếp ứng . Lại sai ngũ Viên đem năm nghìn quân lẻn sang tiểu Biệt sơn để đánh đại dinh của Nang Ngõa, còn Bá Hi thì đem quân tiếp ứng . Tôn Vũ lại sai công tử Sơn bảo hộ vua Ngô (Hạp Lư) sang đóng đồn ở núi Hán Âm để tránh nơi xung đột . Canh ba đêm hôm ấy, quả nhiên Nang Ngõa đem quân lẻn đến đại dinh của quân Ngô, thấy im lặng như tờ, chẳng có phòng bị gì cả; khi tiến vào trong dinh, cũng chẳng thấy vua Ngô đâu cả . Nang Ngoã biết có quân phục, vội vàng trở ra, bỗng gặp hai đạo quân của Chuyên Nghị và công tử Phu Khái ở hai bên đổ ra đánh . Đường Thành công quát to lên mà bảo Nang Ngoã rằng:

- Trả lại đôi ngựa túc sương của ta thì ta tha chết cho nhà ngươi!

Sái Chiêu công tử cũng quát to lên mà bảo rằng:

- Trả lại áo cừu và ngọc bội của ta thì ta tha cho!

Nang Ngoã vừa buồn vừa thẹn, vừa tức, vừa sợ . Trong khi nguy cấp, nay nhờ có toán quân của Vũ Thành Hắc kéo đến, cứu được Nang Ngoã chạy . Chạy được mấy dặm, nghe báo đại binh của mình đã bị tướng nước Ngô là Ngũ Viên cướp mất rồi, còn Sử Hoàng thua trận, không biết chạy đi đâu mất, Nang Ngoã kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả, bèn đem bại binh chạy sang đất Bách Cử . Sử Hoàng cũng đem đại binh đến đấy, hai người mới cùng lập đồn trại . Nang Ngoã nói:

- Tôn Vũ dụng binh thật là tài giỏi, chi bằng ta hãy trốn về, để xin thêm quân rồi sẽ đánh .

Sử Hoàng nói:

- Ngài đem đại binh đánh Ngô, nay bỏ mà trốn về, vạn nhất quân Ngô qua sông Hán, tiến thẳng vào Sính Đô thì cái tội ấy đổ cho ai được . Chi bằng ngài cố sức mà đánh, dẫu có chết tại trận, cũng còn để được tiếng thơm về sau .

Nang Ngoã còn đang ngần ngại thì nghe báo Sở Chiêu vương đã cho một toán quân đến tiếp ứng . Nang Ngõa vội vàng ra nghênh tiếp thì trông thấy quan đại tướng là Viễn Xạ . Viễn Xạ nói:

- Đại vương nghe tin thế quân Ngô to lắm, sợ quan lệnh doãn không thể đánh nổi, vậy sai tôi đem một vạn quân đến để trợ chiến .

Vĩễn Xạ lại hỏi đến chuyện đánh nhau trước . Nang Ngoã thuật lại nét mặt có ý bẽn lẽn . Viễn Xạ nói:

- Nếu quan lệnh doãn theo lời quan tư mã thì can gì đến nỗi thế này! bây giờ chỉ có một kế: đào hào, đắp lũy, không đánh nhau nữa, đợi quân của quân tư mã về rồi cả hai sẽ hợp sức mà đánh .

Nang Ngoã nói:

- Chỉ vì ta khinh thường sang đánh đại binh quân Ngô, thành bị quân Ngô cướp mất đại binh của mình, chứ nếu hai bên cứ đối trận với nhau thì quân Ngô cũng chẳng mạnh hơn quân Sở ta được . Nay tướng quân mới đến đây, nên nhân cái nhuệ khí của ta mà quyết một trận .

Viễn Xạ không nghe, lập riêng một nơi đồn trại khác, cách đồn trại Nang Ngoã những hơn mười dặm . Nang Ngoã cậy mình quyền cao chức trọng, không sợ Viễn Xạ . Viễn Xạ cũng khinh Nang Ngoã là người ngu dốt, có ý không chịu . Hai bên thành ra bất hoà, việc gì cũng không bàn bạc với nhau nữa . Tướng nước Ngô là công tử Phu Khái dò biết là Nang Ngoã và Viễn Xạ bất hoà với nhau, mới vào nói với vua Ngô rằng:

- Nang Ngoã tham mà bất nhân, có nhiều người oán; Viễn Xạ dẫu đến trợ chiến, nhưng không chịu theo hiệu lệnh, bởi vậy quân sĩ đều sinh lòng trễ biếng, nếu ta đánh thì có thể phá vỡ được .

Hạp Lư không nghe, công tử Phu Khái lui ra mà nói rằng:

- Dẫu đại vương không nghe, nhưng ta cũng cứ đi, may ra phá vỡ quân Sở thì có thể tiến vào Sính Đô được .

Sáng hôm sau, công tử Phu Khái tự đem quân bản bộ sang đánh Nang Ngõa . Tôn Vũ nghe tin, vội vàng sai Ngũ Viên đem quân đi tiếp ứng . Công tử Phu Khái tiến vào đánh trại Nang Ngoã, Nang Ngõa không phòng bị gì cả . Trong trại náo loạn . Vũ Thành Hắc liều chết để đánh . Nang Ngõa không kịp lên xe, đi đất chạy ra sau trại, đùi chân trái bị một mũi tên, may nhờ có Sử Hoàng đem quân đến, vực Nang Ngõa lên xe và bảo Nang Ngõa rằng:

- Quân lệnh doãnh liệu mà tránh đi, còn tôi xin liều chết ở đây .

Nang Ngõa cỡi bỏ áo bào ra, rồi ngồi xe đi thẳng, không dám trở về Sính Đô, mà trốn sang Trịnh . Ngũ Viên tiến quân đến nơi . Sử Hoàng sợ Ngũ Viên đuổi theo Nang Ngoã, mới cầm kích xông vào đánh, giết chết quân Ngô hơn hai trăm người . Quân Sở chết hại cũng độ số ấy . Sử Hoàng bị trọng thương mà chết . Vũ Thành Hắc đánh nhau với công tử Phu Khái, nhưng đánh không nổi cũng bị công tử Phu Khái chém chết . Con Viễn Xạ là Viễn Diên nghe tin Nang Ngõa bị thua, vào nói với cha, xin đem quân ra cứu . Viễn Xạ không cho, lại thân hành ra đứng ở cửa dinh, nghiêm cấm quân sĩ không ai được náo động, nếu náo động thì chém . Đại binh của Nang Ngoã đều về với Viễn Xạ . Viễn Xạ điểm lại, còn có hơn một vạn; mới hợp cả lại, thành một đạo quân, bấy giờ quân thế lại mạnh . Viễn Xạ nói:

- QUân Ngô thừa thắng kéo đến đây thì ta không thể địch nổi, chi bằng ta nhân lúc quân Ngô chưa đến mà rút về Sính Đô, rồi sau sẽ liệu .

Viễn Diên đi trước, Viễn Xạ đi sau . Công tử Phu Khái nghe tin Viễn Xạ rút về, liền đem quân đuổi theo, đến đất Thanh Phát, thấy quân Sở đanh sắp thuyền quan sông . Quân Ngô toan xông vào đánh . Công tử Phu Khái can rằng:

- Dẫu giống thú mà mình làm quá lắm, nó còn cắn lại huống chi là người . Nay ta xông vào đánh gấp thì tất họ phải liều chết để cự lại, chi bằng ta hãy tạm đóng quân một nơi, đợi khi quân Sở qua sông được nửa chừng, bấy giờ sẽ đổ ra mà đánh . Ta chắc rằng quân Sở kẻ nào đã qua sông rồi thì mong được thóat nạn, kẻ nào chưa qua thì tranh nhau mà sang, còn ai muốn đánh nữa .

Công tử Phu Khái tức thì lui hai mươi dặm đóng quân lại . Khi bọn Tôn Vũ kéo đến, nghe thuật lại lờinói của công tử Phu Khái, ai cũng khen phải . Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng:

- Ta có người em như thế thì lo gì mà không tiến vào Sính Đô được .

Ngũ Viên nói:

- Tôi nghi Bị Ly đã có xem tướng công tử Phu Khái, nói Phu Khái là người chân lông mọc ngược, tất có ngày phản nghịch . Dẫu người ấy tài giỏi thật, nhưng chớ nên trao quyền cho .

Hạp Lư nghe nói, không cho là phải . Viễn Xạ nghe tin quân Ngô đuổi theo, đã toan bày trận để đối địch, sau lại nghe tin quân Ngô kéo lui, mới mừng mà nói rằng:

- Ta vẫn biết người nước Ngô nhát, không dám đuổi kỳ cùng!

Viễn Xạ hạ lệnh cho quân sĩ sắp sửa để qua sông . Mười phần quân Sở mới qua sông được ba thì công tử Phu Khái đem quân đến . Quân Sở tranh nhau sang đò, thành ra đại loạn . Viễn Xạ không thể nào ngăn cấm được nữa, phải bỏ mà chạy trốn . Quân Ngô theo sau đuổi đánh, cướp được cờ trống gươm giáo rất nhiều . Tôn Vũ sai quân Đường và quân Sái cướp lấy thuyền bè dưới sông để phòng khi dùng đến . Viễn Xạ chạy đến đất Ung Lạp, quân sĩ đều đói, không thể đi được, nhưng mừng răng chạy được xa rồi, mới cùng nhau thổi cơm ăn . Khi cơm vừa chín thì quân Ngô lại kéo đến . Quân Sở chưa kịp ăn phải bỏ cả cơm mà chạy . Quân Ngô sẵn cơm, liền ăn cho no rồi lại đuổi theo . Quân Sở ngã xéo lên nhau, chết hại không biết bao nhiêu mà kể! Viễn Xạ đổ xe, bị công tử Phu Khái đâm chết . Con Viễn Xạ là Viễn Diên cũng bị quân Ngô vây kín . Viễn Diên cố sức đánh mà không thể ra thóat được .

Bỗn nghe ở phía đông bắc, lại có tiếng quân reo . Viễn Diên nói:

- Quân Ngô lại kéo đến nữa thì tính mệnh ta không toàn!

Nguyên đó là toán quân của quan tư mã Thẩm Doãn Thú kéo sang Tân Tức, nhưng nghe tin Nang Ngoã thua trận, mới theo đường cũ lui về . Về đến đất Ung Lạp, vừa gặp quân Ngô đang vây Viễn Diên . Thẩm Doãn Thú mới chia quân làm ba toán mà tiến vào . CÔng tử Phu Khái không thể địch nổi, phải giải vây mà chạy . Thẩm Doãn Thú cố đánh một trận . Quân Ngô chết mất hơn nghìn người . Thẩm Doãn Thú toan đuổi theo thì gặp đại binh của Hạp Lư đến . Hai bên cùng đóng quân lại để chống giữ nhau . Thẩm Doãn Thú bảo kẻ gia thần là Ngô Câu Ti rằng:

- Quan lện doãn vội đánh, làm cho kế của ta không thành chẳng qua cũng là lòng trời . nay thế giặc đã to quá, âu là sáng mai ta quyết chiến một trận, may mà thắng thì là phúc cho nước Sở, nhược bằng không thắng thì ta xin gửi nhà ngươi giữ hộ cái đầu của ta, chớ để co quân Ngô bắt đươc .

Thẩm Doãn Thú lại bảo Viễn Diên rằng:

- Thân phụ nhà người đã chết về tay giặc, thì nhà ngươi không nên chết nữa, nên mau mau về đi mà nói với Tử Tây (tên tự của công tử Thân) để nghĩ cách giữ Sính Đô mới được .

Viễn Diên sụp lạy nói rằng:

- Xin quan tư mã cố sức đánh giặc Ngô để lập nên cônng lớn .

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng, Viễn Diên từ biệt Thẩm Doãn Thú rồi đi . Ngày hôm sau, hai bên bày trận giao chiến . Thẩm Doãn Thú xưa nay xử với quân sĩ rất có ân nghĩa; quân sĩ cảm cái ơn ấy đều cố sức đánh giặc . Công tử Phu Khái dẫu có tài vũ dũng, nhưng khônng thể địch nổi, đã sắp phải thua chạy . May gặp đại binh của Tôn Vũ, phía hữu có Ngũ Viên và Sái Chiêu công, phía tả có Bá Hi và Đường Thành công, cùng nhau xông vào đánh quân Sở . Quân Sở bỏ chạy tán loạn, Thẩmm Doãn Thú bị mấy mũi tên, nằm gục ở trên xe, không thể đánh được nữa, liền gọi Ngô Câu Ti mà bảo rằng:

- Ta nay đã thành ra người vô dụng rồi, nhà ngươi nên mau mau lấy đầu ta mà đem về tâu với đại vương .

Ngô Câu Ti không nỡ . Thẩm Doãn Thú cố sức gào lên một tiếng, rồi nhắm mắt lại . Ngô Câu Ti bất đắc dĩ cầm thanh kiếm chém lấy đầu Thẩm Doãn Thú, rồi bọc lại mà mang về Sính Đô . Quân Ngô thừa thế, cứ việc thẳng đường mà tiến . Viễn Diên về trước, vào yết kiến Sở Chiêu vương, kể chuyện Nang Ngõa và chuyện thân phụ mình là Viễn Xạ bị giết, vừa kể vưa khóc . Sở Chiêu vương kinh sợ, vội vàng triệu bọn công tử Thân và công tử Kết đến để thương nghị , toan đem quân ra tiếp ứng . Bỗng thấy Ngô Câu Ti đến, đệ trình cái đầu Thẩm Doãn Thú và thuật lại nguyên nhân thua trận là bởi quan lệnh doãn không theo kế của quan tư mã .

Sở Chiêu vương khóc mà nói rằng:

- Ta không biết dùng quan tư mã ngay từ trước, ấy là lỗi của ta!

Sở Chiêu vương xỉ mắng Nang Ngõa thậm tệ . Ngô Câu Ti nói:

- Quân Ngô mỗi ngày một tiến, đại vương nên nghĩ cách giữ lấy Sính Đô .

Sở Chiêu công một mặt sai người triệu con Thẩm Doãn Thú là Thẩm Chư Lương đến để đem đầu cha về làm lễ an táng, lại phong cho Thẩm Chư Lương làm Diệp công; một mặt bàn bỏ Sính Đô chạy về phía tây .

Công tử Thân khóc mà can rằng:

- Xã tắc, lăng tẩm ở Sính Đô cả, nếu đại vương bỏ đi thì biết bao giờ lại về được!

Sở Chiêu vương nói:

- Nước Sở ta chỉ hiểm về sông Hán, nay quân Ngô đã sắp kéo đến nơi, chẳng lẽ ta cứ bỏ tay ngồi chịu trói hay sao!

Công tử Kết nói:

- Tráng dinh trong thành hãy còn mấy vạn . Đại vương nên đem thóc lúa trong kho ban thưởng cho mọi nguời, để họ cảm ơn mà cố sức chống giữ; lại sai sứ sang bảo các nước Hán đông đem quân vào giúp ta . Quân Ngô tiến vào đất ta lương thực khó vận, tài nào ở lâu được .

Sở Chiêu vương nói:

- quân Ngô lấy lương ở nước ta chứ lo gì thiếu ăn . Ta xem như Đốn, Hồ theo Tấn; Trần, Sái theo Ngô thì biết là cách thuộc quốc đều bỏ ta cả, ta còn trông cậy nỗi gì!

Công tử Thân lại nói:

- Tôi xin đem quân ra, cố sức đánh giặc, nếu đánh không được, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm .

Sở Chiêu vương nói:

- Nước ta còn hay là mất, nay ở tay hai anh (trỏ công tử Thân và công tử Kết) nên làm thế nào thì hai anh cứ làm ta đây cũng không cần biết .

Sở Chiêu vương gạt nước mắt vào cùng . Công tử Thân và công tử Kết thương nghị, sai đại tướng là Đấu Sào đem năm nghìn quân ra giữ Mạc Thành để phòng đường bắc, quan đại tướng là Tống Mộc đem năm nghìn quân ra giữ Kỷ Nam thành để phòng đườn tây bắc . Công tử Thân đem một vạn quân đóng ở Lỗ Phục giang để phòng mặt đông . Chỉ còn phía tây Xuyên Giang, phía nam Tương Giang, đều là nơi hiểm trơ, không phải là đường quân Ngô tiến vào, thì không phòng bị . Công tử Kết đem bọn công tôn Do Vu, công tôn Ngữ, Chung Kiện, Thân Bao Tư đi tuần ở trong thành rất là nghiêm mật . Vua Ngô là Hạp Lư họp các tướng để hỏi kỳ tiến vào Sính Đô .

Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng:

- Quân Sở dẫu thua luôn, nhưng Sính Đô vẫn còn toàn thịnh . Vả lại ba thành liên tiếp với nhau, chưa dễ đánh nổi; Lỗ Phục giang ở phía tây là một lối tắt vào Sở, tất Sở có quân phòng bị . Nay ta cứ theo mặt bắc tiến vào, chia quân làm bao đạo: một đạo đánh Mạch Thành; một đạo đánh Kỷ Nam thành; còn đại vương thì đem đại binh kéo thẳng vào Sính Đô . Như vậy thì khác nào sấm sang không kịp bưng tai, kẻ kia giữ chỗ này mất chỗ nọ, ta có thể phá vỡ Sính Đô được .

Tôn Vũ khen phải . Hạp Lư liền sai Ngũ Viên và công tử Sơn đem một vạn quân đi đánh Mạch Thành, quân Sái theo giúp đạo ấy; Tôn Vũ và công tử Phu Khái đem một vạn quân đi đánh Kỷ Nam thành, quân Đường theo giúp đạo ấy; còn mình thì cùng với bọn Bá Hi đem đại binh tiến vào đánh Sính Đô . Ngũ Viên đi mấy ngày, đã gần đến Mạch Thành, nghe nói có quan đ.ai tướng nước Sở là Đấu Sào đóng quân ở đấy, liền sai lập đồn trại rồi thay hình đổi dạng, cùng với hai tên lính đi xem xét hình thế . Ngũ Viên đi đến một làng, thấy người trog làng đang bắt con lừa xay lúa mạch . Người ấy cầm roi đánh con lừa, con lừa chạy thì cái cối xay quay chuyển đi, rồi bột lúa mạch lấm tấm roi xuống . Ngũ Viên thấy vậy, sực nghĩ ra mà rằng: ta tìm được kế để phá Mạch Thành rồi!

Ngũ Viên liền trở về dinh, mật truyền cho quân sĩ, mỗi người phải tìm một cái túi vải, trong đó có chứa đất, lại phải làm một bó cỏ, hẹn đến đầu canh năm sáng hôm sau thì đem nộp, ai không có sẽ chém; đến đầu canh năm sáng hôm sau, lại truyền lệnh mỗi người phải có bao nhiêu đá vụn, nếu không cũng chém . Sáng hôm nay, Ngũ Viên chia quân làm hai đạo: Sái Chiêu công đem một đạo quân đến phía đông Mạch Thành còn công tử Kiên (con Sái Chiêu công) đem một đạo quân đến phía tây Mạch Thành, hai đạo đều truyền cho quân sĩ đem đất đá và cỏ, đắp thành một cái thành nhỏ . Ngũ Viên thân hành đứng đốc xuất quân sĩ, chỉ trong một lúc thì đắp xong . Một cái thành hẹp mà dài, giống hình con lừa, gọi là Lư thành, còn mọot cái thành tròn, giống hình cối xay, gọi là Ma thành, Sái Chiêu công không hiểu ý ra làm sao cả .

Ngũ Viên cười mà nói rằng:

- Phía đông có con lừa, phía tây có cối xay thì tất xay nhỏ được bột lúa mạch .

Đấu Sào ở Mạch Thành nghe tin quân Ngô đặp hai thành ở phía đông và phía tây, vội vàng đem quân ra đánh . Khi đến nơi Đấu Sào thấy hai thành đắp đã vững rồi . Đấu Sào đến thành phía đông . Trên thành cắm cờ san sát, tiếng mõ đánh không lúc nào im . Đấu Sào giận lắm toan xông vào đánh thì thấy cửa thành mở rộng, có một viên thiếu niên tướng quân đem quân ra nghênh chiến . Đấu Sào hỏi họ tên . Viên tướng quân đáp rằng:

- Ta đây là con vua Sái, tên gọi công tử Kiền .

Đấu Sào nói:

- Đứa nhụ tử kia không phải là tay đối địch với ta . Chẳng hay Vũ Viên ở đâu mà không thấy ?

Công tử Kiền nói:

- Ngũ Viên đã đi đánh Mạch Thành của nhà ngươi rồi .

Đấu Sào càng giận, cầm kích xông vào đánh công tử Kiền . Hai bên đánh nhau độ hơn hai mươi hợp, bỗng có quân thám tử đến báo với Đấu Sào rằng:

- Quân Ngô đã đến đánh Mạch Thành, xin tướng quân mau mau rút quân về .

Đấu Sào sợ mất sào huyệt, vội vàng rút về . Quân sĩ thấy vậy sợ hãi, thành rối loạn . Công tử Kiền thừa thế đánh một trận, nhưng không dám đuổi theo . Đấu Sào về đến Mạch Thành, gặp Ngũ Viên đang dàn quân để vây thành . Đấu Sào chào Ngũ Viên mà bảo rằng:

- Lâu nay ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? sự oán thù đời trước của nhà ngài là do Phí Vô Cực gây ra, nay đứa du nịnh ấy đã bị giết rồi, ngài còn căm tức nỗi gì nữa! cái ơn ba đời làm quan nước SỞ, tôi tưởng ngài chưa thể quên được!

Ngũ Viên đáp rằng:

- Tiền nhân ta có công to với Sở, vua Sở không nghĩ đến lại giết oan cha anh ta và muốn giết cả ta nữa . May mà có trời giúp, ta mới thóat được nạn, chịu cay đắng trong mười chín năm nay cho đến bây giờ . Nhà ngươi có xét tình thì mau mau tránh ra xa, chớ có cùng ta xung đột, để bảo toàn lấy tính mệnh .

Đấu Sào liền mắng rằng:

- Đứa phản tặc kia, nếu ta tránh mày thì còn ra thế nào!

Đấu Sào bèn cầm kích xông vào đánh Ngũ Viên . Ngũ Viên cũng cầm kích ra nghênh chiến . Hai bên đánh nhau, mới được mấy hợp, Ngũ Viên bảo Đấu Sào rằng:

- Nhà ngươi đã mệt nhọc rồi, ta cho nhà ngươi vào thành, đến sáng mai sẽ đánh .

Đấu Sào nói;

- Ngày mai sẽ quyết chiến một trận!

Hai bên cùng rút quân . Người trong Mạch Thành liền mở cửa để đón quân Đấu Sào vào . Đến nửa đêm, tự nhiên trên mặt thành nghe có tiếng reo: "quân Ngô đã vào trong thành rồi!" nguyên trong quân Ngũ Viên có nhiều người trước là quân Sở sang đầu hàng, bởi vậy Ngũ Viên cố ý thả cho Đấu Sào vào thành, rồi sai những quân ấy trà trộn với quân Sở mà lẻn vào trong thành đợi đến nửa đêm sẽ giòng dây qua mặt thành đã có hơn một trăm quân Ngô đương reo ầm cả lên; ở ngoài thành thì có quân Ngũ Viên tiếp ứng . Quân Đấu Sào thấy vậy, bỏ chạy tán loạn . Đấu Sào ngăn cấm không được, cũng phải bỏ chạy . Ngũ Viên không đuổi theo nữa, chiếm lấy Mạch Thành rồi sai người báo với Hạp Lư .

Tôn Vũ đem quân qua Hổ Nha sơn quanh vào đông Dương Bản, trông thấy sông Chương Giang ở phía bắc thế nước to lắm, Kỷ nam thành thì thế đất hơi thấp, phía tây có Xích Hồ, nước hồ thông vào Kỷ Nam thành và Sính Đô . Tôn Vũ nghĩ ngay một kế, truyền cho quân sĩ lên đón cả ở gò cao, sắp sẵn thuổng cuốc, đến đem hôm ấy thì đào một cái ngòi sâu, tháo nước sông Chương Giang cho chảy vào Xích Hồ, lại đắp một cái đê dài chắn nước, làm cho mặt nước cao hơn mặt đất hai ba trượng .

Bấy giờ vừa gặp mùa đôg, gío tây nổi lên, Tôn Vũ liền tháo nước cho chảy vào Kỷ Nam thành . Quan trấn thủ ở Kỷ Nam thành tên gọi Tống Mộc, tưởng là nước lên, truyền cho dân chạy về Sính Đô để tránh nước; chẳng ngờ thế nước mỗi ngày một lớn, cả xứ Sính Đô cũng trắng xoá như bể . Tôn Vũ sai người đẵn tre ở trên núi ghép làm thuyền bè . Quân Ngô tiến thẳng đến tận kinh thành nước Sở, bấy giờ người nước Sở mới biết là quân Ngô tháo nước sông Chương Giang, ai cũng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn . Sở Chiêu vương biết là Sính Đô không thể giữ nổi, mới sai Trâm Doãn Cố sắp thuyền, rồi cùng em gái là Qúi Vu cùng xuống thuyền để chạy . Công tử Kết đang đứng trên mặt thành thúc quân giữ nước, nghe nói Sở Chiêu vương đã xuống thuyền chạy, bất đắc dĩ cũng phải chạy theo . Tôn Vũ phụng Hạp Lư tiến vào trong thành, rồi sai người đi phá cái đê ngang chắn nước, nước lại rút về sông Chương Giang rồi chia quân đi giữ các mặt . Ngũ Viên ở Mạch Thành cũng đến yết kiến Hạp Lư . Hạp Lư ngồi ở trên điện Sở Chiêu vương, các quan triều thần đều vào lạy mừng . Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng vào yết kiến . Hạp Lư mừng lắm bày tiệc mua vui . Đêm hôm ấy, Hạp Lư ngủ ở trong cung Sở Chiêu vương .

Các thị vệ bắt được Sở Chiêu vương phu nhân, đem dâng Hạp Lư . Hạp Lư toan cho vào hầu, nhưng còn ngần ngại . Ngũ Viên bảo Hạp Lư rằng:

- Nước còn chiếm lấy, huống chi là vợ!

Hạp Lư mới cho vào hầu . Có người tâu với Hạp Lư, nói mẹ Sở Chiêu vương là nàng Bá Doanh, tức là vợ thế tử Kiền, khi trước Sở bình vương thấy đẹp chiếm lấy, nay cũng mới đứng tuổi, chưa lấy gì là già . Hạp Lư động lòng, sai người đến triệu . Bá Doanh không chịu ra . Hạp Lư nổi giận, sai người đi bắt . Bá Doanh đóng chặt cửa phòng lại, rồi lấy thanh kiếm đập vào cửa mà nói rằng:

- Thiếp nghe nói vua là tiêu biểu cho một nước . Cứ theo lễ thì trai gái không ngồi cùng giường, không ăn cùng mâm, để giữ cho có phân biệt . Nay nhà vua trái lễ mà bày cái gương dâm loạn cho người trong nước . Kẻ vị vong này sẽ đâm cổ mà chết, chứ không dám theo lời!

Hạp Lư hổ thẹn, xin lỗi mà rằng:

- Ta vì kính mến phu nhân, muốn được trông mặt, chứ có dám có ý nghĩ gì đâu!

Hạp Lư lại nghiêm cấm tướng sĩ không ai được vào . Ngũ Viên tìm mãi, không bắt được Sở Chiêu vương mới cho bọn Tôn Vũ và BÁ Hi chiếm cứ lấy các nhà quan đại phu, bắt thê thiếp vào hầu hạ, để làm cho sỉ nhục . Đường Thành công, Sái Chiêu công cùng công tử Sơn vào sục tìm nhà Nang Ngoã thì thấy áo cừu và ngọc bội vẫn để nguyên phong ở trong hòm, đôi ngựa túc sương cũng vẫn ở trong chuồng ngựa . Đường Thành công và Sái Chiêu công bèn lấy lại những đồ vật của mình đem dâng Hạp Lư . Hạp Lư thấy nhà Nang Ngõa có nhiều châu báo vàng bạc, bèn cho phép các thị vệ tha hồ vào lấy, thành ra của cải rơi bừa bãi cả ngoài đường . Công tử Sơn toan cướp lây vợ Nang Ngoẫ . Công tử Phu Khái đến, lại đuổi công tử Sơn mà tranh lấy . Ngũ Viên xin với Hạp Lư muốn phá huỷ nhà tôn miếu nước Sở .

Tôn Vũ can rằng:

- Việc binh nên phải lấy điều nghĩa làm chủ . Sở Bình vương bỏ thế tử Kiến mà lập con Tần nữ, tin nghe những đứa tham nịnh, giết hại những người trung lương, dùng cách tàn bạo mà đối đãi với chư hầu . Bởi thế, quân Ngô ta mới đến đây được . Nay đã phá vỡ kinh thành nước Sở rồi, ta nên lập ngay con thế tử Kiền là công tử Thắng lên làm vua Sở đi . Người nước Sở vẫn thường nhớ thế tử Kiến, tất nhiên bằng lòng, mà công tử Thắng sẽ cảm ơn nước Ngô ta, không bao giờ dám bỏ sự triều cống . Thế thì đại vương dẫu xá cho Sở, cũng như là chiếm lấy Sở, danh và thực trọn cả đôi đường .

Hạp Lư muốn diệt nước Sở, mới không nghe lời Tôn Vũ liền phá huỷ nhà tôn miếu của nước Sở . Đuờng Thành công và Sái Chiêu công cũng cáo từ về nước . Hạp Lư lại bày tiệc ở Chương Hoa đài, cho các quan triều thần uống rượu . Nhạc công tấu nhạc . Các quan triều thần vui vẻ cả, chỉ có Ngũ Viên vẫn cứ buồn rầu, ứa nước mắt mà khóc . Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng:

- Nhà ngươi đã thoả được chí báo thù nước Sở rồi, cớ sao lại còn buồn rầu ?

Ngũ Viên gạt nước mắt đáp rằng:

Sở Bình vương thì đã chết rồi, vua Sở bây giờ cũng trốn mất, thế thì cái thù của cha anh tôi, muôn phần chưa báo được một phần!

Hạp Lư nói:

- Vậy ý nhà ngươi muốn thế nào ?

Ngũ Viên nói:

- Xin đại vương cho tôi đào mã Sở Bình vương lên, phá áo quan ra mà chém lấy đầu thì tôi mới hả được lòng căm tức .

Hạp Lư nói:

- Nhà người giúp ta được nhiều việc, ta tiếc gì mà không cho đào nắm xương khô ấy lên, để báo thù cũ cho nhà ngươi .

Ngũ Viên hỏi biết mộ Sở Bình vương chôn ở ngoài cửa đông, liền đem quân bản bộ đến . Khi đến nơi, thấy bốn mặt đồng cỏ xanh ngắt, một vùng nước hồ trong veo, chẳng biết mộ chôn ở chỗ nào cả . Ngũ Viên mới vật mình than khóc mà nói rằng:

- Trời ơi! trời không khiến ta báo được thù cho cha và anh ta hay sao!

Bỗng có một ông cụ già đi đến trước mặt Ngũ Viên, vái chào mà hỏi rằng:

- Tướng quân muốn tìm mộ Sở Bình vương để làm gì ?

Ngũ Viên nói:

- Sở Bình vương lấy tranh vợ của con, dùng kẻ du nịnh hại người trung lương, lại giết cha anh ta, lúc sống ta không thể đâm chết y được thì lúc chết ta cũng muốn xả xác y ra để báo thù cho cha ta và anh ta ở dưới suối vàng .

Ông cụ già nói:

- Sở Bình vương cũng biết mình có nhiều người oán, sợ có kẻ đào mà, vậy nên mộ chôn ở giữa hồ . Tướng quân muốn tìm áo quan thì phải tát cạn cái hồ này mới lấy được .

Ông cụ già nói xong, lại trỏ cho Ngũ Viên biết chỗ . Ngũ Viên sai người lặn xuống mò, sờ thấy có một cái quách bằng đá, liền sai quân sĩ mỗi người mang một túi đất xếp xung quanh mộ, rồi tát nước ra, đào lên xem . Khi mở cái quách đá ấy ra, thấy trong có một cái áo quan rất nặng . Mở áo quan ra xem, chỉ thấy mũ áo và mấy trăm cân sắt mà thôi . Ông cụ già nói:

- Đấy là áo quan giả, còn áo quan thật ở bên dưới kia .

Ngũ Viên liền sai đào một tầng nữa, quả nhiên có áo quan thật . Khi lôi xác ra, thấy đích thị là xác Sở Bình vương da thịt vẫn còn nguyên cả . Ngũ Viên trông thấy, hầm hầm nổi giận, tay cầm cái roi đồng, đánh luôn ba trăm roi, khiến xương rơi thịt nát . Ngũ Viên lại lấy chân giẫm lên bụng xác Sở Bình vương, rồi hỏi ông cụ già rằng:

- Tại sao cụ lại biết rõ chỗ chôn Sở Bình vương và sự thể quan quách như thế ?

Ông cụ già nói:

- Tôi có phải là ai đâu, chính là thợ đá đã làm cái mộ này lúc bấy giờ! bấy giờ Sở Bình vương sai bọn thợ đá chúng tôi hơn năm chục người làm một ngôi giả . Khi làm xong, sợ bọn chúng tôi tiết lộ ra, liền đem giết hết cả, chỉ có một mình lão trốn được . Nay cảm lòng hiếu nghĩa của tướng quân, lão phải đến đây để mách bảo . vả cũng là để báo thù cho hơn năm chục cái hồn oan của bọn thợ đá chúng tôi khi xưa .

Ngũ Viên sai đem vàng bạc thưởng cho ông cụ già .

Lại nói chuyện Sở Chiêu vương đi thuyền quan sông Thư Thủy, trốn vào Vân Trung, gặp một bọn giặc độ mấy trăm người, đang đêm xuống cướp thuyền, cầm giáo đánh Sở Chiêu vương . Bấy giờ công tôn Do Vu đứng ở bênh cạnh, lấy lưng che chở cho Sở Chiêu vương và quát to lên rằng:

- Đây là vua Sở, các ngươi làm gì thế ?

Công tôn Do Vu nói chưa dứt lời thì ngọn giáo của bọn cướp đâm trúng vào vai, máu chảy đầm đìa đến tận gót . Do Vu ngã gục xuống đất . Bọn giặc nói:

- Chúng ta chỉ biết tiền của chứ không biết vua là ai cả ! đến như quan lệnh doãn đại thần, cũng còn tham ăn tiền, huống chi là chúng ta!

Bọn giặc nói xong, bao nhiêu vàng bạc ở trong thuyền, lấy hết sạch cả . Trâm Doãn Cố vội vàng ôm Sở Chiêu vương, chạy lên bờ, Sở Chiêu vương kêu to lên rằng:

- Có ai cứu em gái ta đó không ?

Quan hạ đại phu là Chung Kiến ghé lưng cõng nàng Quí Vu đi theo Sở Chiêu vương . Khi ngảnh đầu trông lại đã thấy bọn giặc phóng hoả đốt thuyền . Sở Chiêu vương chạy được mấy dặm, thì trời sáng rõ . Công tử Kết, Tống Mộc, Đấu Tân và Đấu Sào đều lục tục theo đến nơi . Đấu Tân nói với Sở Chiêu vương rằng:

- Nhà tôi ở Viên ấp chỉ cách đây độ bốn mươi dặm, xin đại vương hãy tạm đến đó, rồi sau sẽ liệu .

Được một lúc, công tôn Do Vu cũng theo đến . Sở Chiêu vương ngạc nhiên mà hỏi rằng:

- Nhà ngươi bị thương nặng, làm thế nào mà khỏi được ?

Do Vu nói:

- Tôi đau quá không chạy được, khi lửa cháy đến mình tôi, bỗng thấy có một người vực tôi lên bờ . Trong khi mơ màng, tôi nghe tiếng nói rằng: "ta là quan lệnh doãn nước Sở cũ, tên gọi Tôn Thúc Ngao . Nhà ngươi nói cho đại vương biết: quân Ngô chẳng bao lâu nữa, sẽ phải rút về . Xã tắc nước ta vẫn còn vững bền mãi mãi!" nói xong, lại lấy thuốc dịt vào vai cho tôi, khi tôi tỉnh dậy, hết cả đau đớn, vậy mới theo kịp đến đây .

Sở Chiêu vương nói:

- Tôn Thúc Ngao tước, nguyên là người ở Vân Trung . Anh linh đến nay vẫn còn chưa mất!

Mọi người đều ngợi khen và lấy làm lạ lùng . Đấu Sào đem lương khô ra để mọi người cùng ăn . Trâm Doãn Cố cầm bầu đi lấy nưóc, để dâng Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương sai Đấu Tân đi tìm thuyền ở bến Thành Cữu . Đấu Tân trông thấy ở phía đông có một chíếc thuyền đi đến . Trong thuyền có cả đàn bà con trẻ . Nhìn kỹ thì ra thuyền của quan đại phu là Lam Doãn Điệp . Đấu Tân gọi mà bảo rằng:

- Đại vương ở đây, nhà ngươi nên đem thuyền lại để chờ .

Lam Doãn Điệp nói:

- Ông vua đã mất nước rồi, ta còn chở làm gì!

Lam Doãn Điệp nói xong, không hề ngánh cổ lại . Đấu Tân chờ đợi ít lâu nữa, lại thấy một chiếc thuyền đánh cá . Đấu Tân cởi áo ra, ném cho người lái thuyền . Người lái thuyền mới ghé thuyền vào bờ . Sở Chiêu vương và nàng Qúi Vu xuống thuyền đi sang Viên ấy . Người em thứ hai của Đấu Tân là Đấu Hoài đi làm cơm .

Khi Đấu Hoài dâng cơm, thường hay trông trộm Sở Chiêu vương . Đấu Tân có ý nghi, mới cùng người em út là Đấu Sào hầu liền ở bên cạnh Sở Chiêu vương . Đến nửa đêm, Đấu Tân nghe có tiếng liếc dao ở sau nhà . Đấu Tân mở cửa ra xem, thì thấy Đấu Hoài tay cầm một con dao nhọn, nét mặt hầm hầm . Đấu Tân hỏi:

- Em liếc dao làm gì ?

Đấu Hoài nói:

- Em định giết vua .

Đấu Tân nói:

- Vì cớ gì mà em lại sinh lòng phản nghịch ?

Đấu Hoài nói:

- Thân phụ ta (tức là Đấu Thành Nhiên) một dạ trung thành,mà vua Bình vương nghe lời Phí Vô Cực lại đem giết đi . Vua Bình vương đã giết thân phụ ta thì ta giết con vua Bình vương để báo thù lại, chẳng cũng nên chăng ?

Đấu Tân nổi giận mắng rằng:

- Vua cũng như trời . Trời giáng họa cho ai thì người ấy phải chịu, chứ ai lại dám oán trời!

Đấu Hoài nói:

- Khi còn ở nước thì là vua, nay mất nước rồi thì là kẻ thù . Thấy kẻ thù mà không giết, sao gọi là người được ?

Đấu Tân nói:

- Cổ ngũ có câu rằng: "Không nên oán đến đời con". Vả đại vương đã biết hối cái lỗi của đời trước mà dùng anh em ta, nay lại nhân lúc đại vương nguy cấp mà giết thì sao cho phải đạo . Nếu mày có lòng ấy, ta phải chém mày trước!

Đấu Hoài cắp dao ra đi, vẫn còn chưa nguôi cơn giận . Sở Chiêu vương thấy ngoài cửa có tiếng quát mắng, liền dậy mặc áo rồi đứng nghe trộm, nghe hết cả đầu đuôi, mới không dám ở Viên ấp nữa . Đấu Tân, Đấu Sào cùng công tử Kết thương nghị, rồi đem Sở Chiêu vương chạy sang nước Tuỳ .

Lại nói chuyện công tử Thân đống quân ở Lỗ Phục Giang nghe tin Sính Đô đã mất rồi, Sở Chiêu vương phải chạy trốn, sợ người trong nước tan tác, không có ai làm chủ, mới mặc đồ vương phục, để cho yên lòng dân . Dân chạy lọan, đều theo Sở Chiêu vương mới nói với Hạp Lư rằng:

- Chưa bắt được vua Sở thì chưa diệt được nước Sở, tôi xin đem một toán quân đi về phía tây để dò tìm mà bắt về .

Hạp Lư thuận cho . Ngũ Viên đem quân đi dò tìm, nghe tin Sở Chiêu vương ở nước Tuỳ, vội vàng thẳng đường tiến sang nước Tùy, đưa thư cho vua Tuỳ, bắt phải nộp Sở Chiêu vương .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 77 : Giọt Lệ Bao Tư tràn sân TầnChiếc thuyền Chiêu vương về nước Sở

Ngũ Viên đón quân ở phía nam nước Tuỳ, rồi sai sứ đưa thư cho vua Tuỳ . Trong thư đại lược như sau:

"Các nước ở xứ Hán Đông, thuộc về dòng dõi thiên tử nhà Chu, nay bị nước Sở nuốt gần hết, may mà trời giúp nước Ngô ta, cho đến hỏi tội vua Sở . Nếu nhà vua bắt vua Sở đem nộp thì những ruộng ở Hán Dương, sẽ để cho nhà vua tất cả . Đại vương tôi xin cùng nhà vua kết làm anh em, cùng thờ thiên tử nhà Chu".

Vua nước Tuỳ xem xong, liền họp các triều thần lại để thương nghị . Công tử Kết nước Sở, nét mặt cũng giống SỞ Chiêu vương mới nói với vua Tuỳ rằng:

- Nay việc đã nguy cấp đến nơi, tôi xin giả làm vua Sở để đem minh nộp nước Ngô, may ra có thể thoát được .

Vua Tùy sai quan thái tử bói xem tốt xấu thế nào . Trong quẻ bói có câu rằng: "Trị có ngày loạn, nguy có ngày yên, cũ chớ nên bỏ, mới chớ nên cầu, tây lân là hổ, đông lân là thịt".

Vua Tuỳ nói:

- Cũ là SỞ mà mới là Ngô, thế này là quỷ thần bảo ta cứ theo Sở .

Vuy Tuỳ bèn sai sứ ra trả lời Ngũ Viên rằng:

- Nước tôi từ xưa đến nay, vẫn phụ thuộc với Sở, vua Sở qua đây, tôi không thể nào mà từ chối được, nay vua Sở đã đi sang nước khác rồi xin tướng quân xét cho .

Ngũ Viên thấy Nang Ngoã ở Trịnh, nghi Sở Chiêu vương cũng chạy sang Trịnh . Vả lại người nước Trịnh khi trước giết thế tử Kiến, việc ấy cũng chưa báo thù, mới đem quân sang đánh Trịnh . Bấy giờ người bề tôi hiền nước Trịnh là Du Cát mới mất . Trịnh Định công sợ lắm, đổ lỗi cho Nang Ngoã . Nang Ngõa tự tử mà chết . Trịnh Định công đem xác Nang Ngõa ra nộp quân Ngô và nói với quân Ngô rằng:

- Vua Sở thực chưa đến nước Trịnh!

Quân Ngô vẫn không chịu lui, nhất định đòi diệt nước Trịnh để báo thù cho thế tử Kiến . Các quan đại phu nước Trịnh xin liều đánh một trận để quyết thắng phụ . Trịnh Định công nói:

- Quân mã nước ta phỏng có bằng nước Sở hay không ? nước Sở còn bị nước Ngô phá vỡ, huống chi là ta!

Trịnh Định công liền hạ lệnh rằng:

- Có ai lui được quân Ngô thì ta quyết xin chia quyền chính nước Trịnh cho .

Lệnh ấy tuyên yết đã được ba ngày . Bấy giờ người con ông lão đánh cá cũng chạy lọan trốn ở trong thành nước Trịnh, nghe nói nước Ngô dùng Ngũ Viên làm tướng, mới vào nói với Trịnh Định công xin lập kế lui được quân Ngô . Trịnh Định công hỏi:

- Nhà ngươi phải dùng bao nhiêu quân mã mới lui được quân Ngô ?

Người ấy nói:

- Tôi không phải dùng một lưỡi gươm nào, chỉ xin chúa công cho tôi một chiếc mái chèo nhỏ, để tôi vừa đi vừa hát, tự khắc quân Ngô phải lui .

Trịnh Định công không tin, nhưng việc đã gấp lắm, chẳng biết làm thế nào, cũng phải đưa cho người ấy một cái mái chèo mà bảo rằng:

- Nếu nhà ngươi lui được quân Ngô thì ra sẽ trọng thưởng .

Người con ông lão đánh cá bèn chèo qua thành ra, đi thẳng vào dinh Ngô, gõ mái chèo mà hát rằng:

"Ngươi trong lau! người trong lau!

Lưng đeo bảo kiếm bảy về sao .

Có nhớ năm xưa chàng qua sông,

Cơm nếp, canh cá ai cho ăn ? ...

quân Ngô bắt được, giải vào nộp Ngũ Viên . Vào đến nơi, người ấy vẫn hát như trước . Ngũ Viên ngạc nhiên đứng dậy mà hỏi rằng:

- Nhà ngươi là ai ?

Người ấy cắp mái chèo mà đáp rằng:

- Tướng quân không trông thấy tay tôi cầm cái gì hay sao ? tôi tức là con ông lão đánh cá ở Ngạc Trử đó!

Ngũ Viên động lòng thương xót mà nói rằng:

- Thân phụ nhà ngươi vì ta mà chết, ta vẫn muốn báo ơn, nhưng không biết làm thế nào . Ngày nay may được gặp đây . Nhà ngươi trông thấy ta mà hát như thế là muốn điều gì ?

Người ấy nói:

- Tôi chẳng muốn điều gì cả! nguyên vua Trịnh tôi đã sợ binh uy của tướng quân, có hạ lệnh cho người trong nước rằng: "Ai lui được quân Ngô thì ta xin chia quyền chính nước Trịnh cho". Tôi thiết nghĩ thân phụ tôi cũng được biết tướng quân, muốn xin tướng quân xá cho nước Trịnh!

Ngũ Viên thở dài mà than rằng:

- Trời ơi! ta được thế này, đều nhờ ơn ông lão đánh cá đó, khi nào ta dám quên!

Tức thì Ngũ Viên truyền giải vây nước Trịnh rồi rút quân về . Người con ông lão đánh cá nói với Trịnh Định công . Trịnh Định công mừng lắm, bèn phong cho một trăm dặm đất . Người trong nước gọi là Ngư đại phu .

Ngũ Viên đã giải vây cho nước Trịnh, rút quân về đóng nước Sở, rồi hai người đi chiêu dụ các nước phụ thuộc của Sở và dò tìm tin tức Sở Chiêu vương .

Lại nói chuyện Thân Bao Tư từ khi quân Ngô phá vỡ được kinh thành nước Sở, liền chốn vào ở trong hang đá đất Di Lăng, nghe tin Ngũ Viên đào mã mà đánh vào thây Sở Bình vương, lại đang dò bắt Sở Chiêu vương, mới viết một bức thư sai người đưa cho Ngũ Viên . Trong thư đại lược nói rằng:

"Nhà ngươi khi trước đã làm bề tôi Sở Bình vương, nay lại đem thi thể Sở Bình vương ra mà làm tàn nhục như vậy, dẫu gọi là báo thù, nhưng cũng khí quá lắm! phàm làm qúa thì không ai chịu được, nhà ngươi nên mau mau rút quân về, ta đây phải noi theo cái ước phục Sở".

Ngũ Viên tiếp được thư, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo người mang thư rằng:

- Ta bận nhiều việc, không thể viết thư trả lời được . Nhà ngươi vì ta mà nói lại với Thân Bảo rằng: "trung và hiếu không thể vẹn cả đôi " trời tối đường xa, nên phải đi ngược làm trái .

Người mang thư về nói với Thân Bảo Tư, Thân Bảo Tư nói:

- Ngũ Viên quyết chí diệt nước Sở, chẳng lẽ ta cứ ngồi yên hay sao! Sở Bình vương phu nhân ngày xưa là con gái Tần Ai công, thế thì đại vương ngày nay tức là cháu ngoại nước Tần . Vậy muốn khôi phục nước Sở, tất phải cầu viện nước Tần mới được!

Thân Bao Tư liền thẳng đường chốn sang nước Tần, đi vội suốt ngày đêm, bàn chân xây xát, máu chảy đầm đìa, phải xé áo ra mà buộc . Khi đến Uông Châu, Bao Tư vào tâu với Tần Ai công rằng:

- Nước Ngô tham như lợn, độc như rắn, lâu nay vẫn muốn cắn nuốt chư hầu, bây giờ đã bắt đầu từ nước Sở trước . Đại vương tôi bị thua, phải chạy trốn ở nơi thảo dã, có sai tôi sang đây để cáo cấp với quý quốc, xin qúy quốc nghĩ tình thân thuộc mà đem quân giải cứu cho .

Tần Công Ai nói:

- Nước Tấn ta hẻo lánh ở về phía tây này, quân hiếm tướng ít, giữ mình không nổi còn giúp được ai!

Than Bao Tư nói:

- Sở và Tần tiếp giáp nhau . Nay Sở bị Ngô đánh mà Tần không cứu, Ngô đã diệt Sở thì tất có ngày đánh Tần . Nhà vua giúp Sở, tức là giữ cho Tần đó . Chẳnng thà Sở về tay Tần, còn hơn về tay Ngô . Nếu nhà vua cứu nước Sở khỏi mất thì nước Sở tôi xin đời đời thần phục nước Tần .

Tần Ai công còn ngần ngại chưa quyết, nói rằng:

- Quan đại phu hãy về nghỉ ở công quán, để ta thương nghị các triều thần đã .

Thân Bao Tư nói:

- Đại vương tôi còn đang chạy trốn nơi thảo dã, chưa ở yên được nước nào, khi nào tôi dám ra nghỉ ở công quán .

Bấy giờ Trần Ai công chỉ ham mê tửu sắc, chẳng thiết nghĩ gì đến chính sự . Thân Bao Tư xin mãi mà Tần Ai công nhất định không chịu phát binh . Thân Bao Tư cứ đội mũ mặc áo, đứng luôn ở trong sân vua Tần, ngày đêm kêu khóc, không lúc nào im tiếng, cứ như thế trong bảy ngày bảy đêm liền không ăn uống một tí gì cả . Tần Ai công thấy vậy, kinh ngạc mà rằng:

- Bề tôi nước Sở biết nghĩ đến vua khẩn thiết như thế ư! nước Sở có bề tôi hiền như thế mà còn bị nước Ngô đánh, huống chi là ta không có người bề tôi hiền nào, khi nào nước Ngô lại để cho yên!

Tần Ai công nói xong, ứa nước mắt khóc, đọc bài thơ Vô Y để tỏ ý phát binh sang giúp Sở . Thân Bao Tư lạy tạ . Từ bấy giờ Bao Tư mới chịu ăn uống . Tần Ai công sai quan đại tướng la Tử Bồ và Tử Hổ đem quân theo Thân Bao Tư sang cứu Sở . Thân Bao Tư nói:

- Đại vương tôi ở nước Tuỳ, mong được quân cứu, khác nào như đại hạn mong mưa, tôi xin về trước để báo cho đại vương tôi biết . Quan nguyên soái đem quân quan đất Thương, đất Cốc mà sang phía đông, chỉ trong năm ngày có thể đi tới Tương Dương được, bấy giờ sẽ quay về phía nam và sang Kinh Môn; còn tôi đây xin đem quân Sở qua Thạch Lương sơn, cũng đi về phía nam, thế thì chỉ trong ba ngày có thể gặp nhau được . Quân Ngô đang cậy thắng, tất không phòng bị . Vả quân sĩ ở nước ngoài, lâu ngày cũng muốn về, nếu ta phá vỡ được một toán thì tự khắc phải tan cả .

Tử Bồ nói:

- Ta chưa thuộc đường lối, tất phải có quân Sở hướng dẫn mới được, quan đại phu chớ sai hẹn .

Thân Bao Tư đến nước Tuỳ, vào yết kiến Sở Chiêu vương, thuật lại chuyện sang mượn quân Tần, hiện nay nước Tần đã phát binh sang cứu, Sở Chiêu vương mừng lắm, bảo vau Tuỳ rằng:

- Khi trước trong quẻ bói có câu: "Tây lân là hổ, đông lân là thịt". Nước Tần ở phía tây nước Sở mà nước Ngô ở phía đông, câu ấy thật ứng nhiệm

Bấy giờ bọn Viễn Diên, Tống Mộc cũng thu thập quân mã còn lại đến theo Sở Chiêu vương . Công tử Thân và công tử Kết thu thập quân sĩ nước Tuỳ để cùng tiến phát . Quân Tần đóng đồn ở Tương Dương để đợi quân Sở . Thân Bao Tư đưa bọn công tử Thân và công tử Kết vào yết kiến quân Tần, rồi quân Sở đi trước, quân Tần kéo sau . Đi đến sông Nhi Thuỷ thì gặp toán quân của công tử Phu Khái (tướng nước Ngô) . Tử Bồ bảo Thân Bao Tư rằng:

- Quan đại phu hãy đem quân Sở giao chiến với quân Ngô trước, tôi sẽ tiếp sau .

Thân Bao Tư ra trận, giao chiến với công tử Phu Khái . Công tử Phu Khái nhờ có sức mạnh, coi thường Thân Bao Tư . Hai bên giao chiến ước hơn mười hợp, chưa chia thắng phụ . Tử Bồ và Tử Hổ đem quân đến tiếp ứng . Công tử Phu Khái trông thấy hiệu cờ có chữ Tần, kinh sợ mà nói rằng:

- Cớ sao lại có quân Tần đến đây như vậy ?

Công tử Phu Khái vội vàng thu quân thì đã tan mất đến quá nửa . Bọn công tử Thân và công tử Kết thừa thế đuổi theo đến năm mươi dặm mới thôi . Công tử Phu Khái chạy về Sính Đô, vào yết kiến Hạp Lư, thụât chuyện quân Tần mạnh lắm, quân Ngô không thể đương nổi . Hạp Lư có ý sợ . Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng:

- Việc binh là việc nguy hiểm, nên dùng tạm chớ không nên dùng lâu . Vả đất Sở còn rộng, lòng dân chưa chịu phục Ngô, khi trước tôi xin đại vương lập công tử Thắng lên làm vua Sở, chính là vì điều ấy . Chi bằng bây giờ ta sai sứ sang nói với Tần, hẹn cho vua Sở về nước, rồi cắt cõi tây nước SỞ để thêm đất cho nước Ngô ta cũng không phải là không lợi . Nếu đại vương cứ quyến luyến ở Sở để chống Sở, quan Sở sẽ tức giận mà cố sức, quân Ngô kêu ngạo mà trễ nải, lại thêm có quân Tần như giống hổ lang giúp Sở thì tôi chưa chắc đã vẹn toàn được .

NGũ Viên biết chừng không thể bắt được Sở Chiêu vương cũng cho lời nói Tôn Vũ là phải . Hạp Lư toan theo . Bá Hi nói với Hạp Lư rằng:

- Quân ta từ khi khai chiến đến giờ, đi đến đâu phá vỡ đến đấy, chỉ đánh năm trận mà lấy đuợc Sính Đô, nay mới gặp quân Tần, đã toan rút lui về, trước hăng hái thế nào mà tại sao nay lại nhút nhác như vậy ? xin đại vương cứ cấp cho tôi một vạn quân, tôi quyết đánh cho quân Tần chẳng còn một mống nào trở về, nếu không đánh được, xin chịu tội chết!

Hạp Lư khen mà cho đi . Tôn Vũ và Ngũ Viên cố can Bá Hi không nên đánh . Bá Hi không nghe, đem quân ra giao chiến với quân Sở . Bá Hi trông thấy tướng nước Sở là công tử Thân liền quát to lên mà mắng rằng:

- Mày thật là vạn phần chết rồi, khác nào như đống tro nguội, nay còn mong nóng lại sao !

Công tử Thân cũng mắng rằng:

- Mày là một đứa phản nghịch, bây giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta!

Bá Hi giận lắm, cầm kích xông vào đánh công tử Thân . Công tử Thân cũng cầm giáo nghênh chiến . Hai bên đánh nhau mới được mấy hợp thì công tử Thân giả cách thua chạy . Bá Hi đuổi theo được độ hai dặm, thì phía tả có quân Thẩm Chư Lương, phía hữu có quân Viễn Diên, ra mà đánh . Tướng nước Tần là Tử Bồ và Tử Hổ cũng đem quân xông thẳng vào giữa trận quân Ngô . Bá Hi cố sức xung đột mà không thể địch nổi, may nhờ có toán quân của Ngũ Viên kéo đến, mới cứu thóat được Bá Hi về . Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư, sụp lạy xin chịu tội . Tôn Vũ bảo riêng với Ngũ Viên rằng:

- Bá Hi là người cậy công mà tự đắc, sau này tất làm tai vạ cho nước Ngô . Chi bằng nhân việc y thua trận này, ta mượn quân pháp chém đi cho rồi .

Ngũ Viên nói:

- Kẽ kia dẫu thua trận, nhưng trước đã có công to . Vả ta đang đánh nhau với quân giặc, không nên chém một đại tướng .

Ngũ Viên liền tâu với Hạp Lư xin tha tội cho Bá Hi . Quân Tần kéo đến tận Sính Đô . Hạp lư giao cho công tử Phu Khái và công tử Sơn giữ Sính Đô, còn mình thì đem quân ra đóng ở Kỷ Nam thành, sai Ngũ Viên, Bá Hi chia quân ra đóng ở Ma thành và Lư thành, để cùng nương tựa nhau mà chống cự với quân Tần . Lại sai sứ đi mượn quân Đường và nước Sái . Tướng nước Sở là Tử Tây bảo Tử Bồ rằng:

- Quân Ngô đã lấy Sính Đô làm sao huyệt, nếu lại được Đường và Sái giúp vào thì khó lòng địch nổi; chi bằng ta thừa thế đem quân sang đánh Đường . Nước Đường đã phá thì nước Sái sợ mà không dám giúp, bấy giờ ta mới có thể phá được quân Ngô .

Tử Bồ khen phải, liền cùng với Tử Kỳ đem quân sang diệt nước Đường, giết Đường Thành công . Sái Ai công sợ, khômg dám đem quân giúp Ngô nũa . Công tử Phu Khái vẫn cậy mình có công phá Sở, chỉ vì thua trận ở Nghi Thuỷ, Hạp Lư mới sai đong quân giữ Sính Đô cùng với công tử Sơn . Bởi vậy công tử Phu Khái có ý không bằng lòng, nghĩ thầm rằng cứ theo lệ nước Ngô, thì anh phải truyền ngôi cho em, sau này mình sẽ được nối ngôi . Nay Hạp Lư đã lập công tử Ba là thế tử thì mình quyết không khi nào được lập nữa; chi bằng ta nhân lúc này đem quân về nước cướp ngôi xưng vương, chẳng hơn là sau này lại phải tranh nhau hay sao!

Công tử Phu Khái bèn đem quân bản bộ lẻn ra cửa đông, qua sông Hán mà về nước Ngô, nói dối người nước Ngô rằng Hạp Lư bị quân Tần đánh, không biết chạy đi đâu mất, cứ theo thứ tự thì mình được lên ngôi nối ngôi .

Công tử Phu Khái tự xưng là vua nước Ngô, sai con là Phù Tang đem quân đóng ở Hà Thuỷ để chặn đường không cho Hạp Lư về . Thế tử Ba nước Ngô cùng với Chuyên Nghị thấy vậy bèn đem quqan lên mặt thành chống giữ, không cho công tử Phu Khái vào . Công tử Phu Khái sai sứ sang mượn quân nước Việt, hẹn khi thành sự, sẽ biếu năm thành để tạ ơn .

Hạp Lư nghe tin quân Tần sang diệt nước Đường, giật mình kinh sợ, toan họp các tướng lại để thương nghị . Bỗng thấy công tử Sơn đến báo việc công tử Phu Khái không biết vì cớ gì mà đem quân về nước Ngô . Ngũ Viên nói:

- Nếu vậy thì Phu Khái tất có lòng làm phản!

Hạp Lư nói:

- Công tử Phu Khái là một kẻ vũ phu, chẳng làm gì nổi, ta chỉ lo cho người nước Việt nhân chuyện này mà gây sự với ta . Đại vương nên rút quân về ngay để dẹp loạn trong nước trước .

Hạp Lư bèn giao cho Tôn Vũ và Ngũ Viên đóng quân giữ Sính Đô còn mình thì với Bá Hi theo đường thuỷ về nước . Khi về đến sông Hán, được tin của thế tử Ba cáo cấp nói công tử Phu Khái làm phản, lại đi mượn quân nước Việt về để đánh Ngô . Hạp Lư kinh sợ mà rằng:

- Ngũ Viên nói đúng lắm!

Hạp Lư liền một mặt sai sứ sang Sính Đô để rút quân Tôn Vũ và Ngũ Viên về; một mặt kéo thẳng về nước và truyền dụ cho các tướng sĩ biết rằng ai bỏ công tử Phu Khái mà về hàng ngày thì giữ nguyên chức, nếu chậm không hàng sẽ bị giết chết .

Toán quân của Phù Tang (con công tử Phu Khái) ở sông Hoài nghe lệnh đều bỏ về với Hạp Lư cả . Phù Tang chạy sang Cốc dương . Công tử Phu Khái toan bắt dân ra làm lính, nhưng người nước Ngô nghe tin Hạp Lư hãy còn, đều rủ nhau chạy trốn . Công tử Phu Khái đem quân bản bộ đón đánh Hạp Lư .

Hạp Lư nói:

- Ta tin cậy nhà ngươi như tay chân, cớ sao nhà ngươi lại làm phản ?

Công tử Phu Khái nói:

- Nhà ngươi giết Vương Liêu, cũng là làm phản chứ chi!

Hạp Lư nổi giận, truyền cho Bá Hi ra đánh . Đánh được mấy hồi, Hạp Lư thúc cả đại binh tiến vào . Công tử Phu Khái dẫu có sức khỏe, nhưng quân Hạp Lư nhiều quá, không thể địch nổi, thành ra thua to . Phù Tang đã sắp thuyền sẵn ở sông Giang để chờ công tử Phu Khái, rồi cùng nhau trốn sang nước Tống . Hạp Lư về nước Ngô, thế tử Ba đón vào trong thành, cùng bàn mưu để chống nước Việt . Tôn Vũ tiếp được thư của Hạp Lư truyền rút quân về, đang cùng với Ngũ Viên thương nghị, bỗn nghe báo có một người trong đám quân Sở đưa bức thư cho Ngũ Viên . Ngũ Viên mở ra xem thì tức là bức thư của Thân Bao Tư gửi đến . Trong thư đại lược như sau:

"Vua tôi nhà ngươi chiếm sứ Sính Đô trong bấy nhiêu ngày mà không dẹp yên được nước Sở, đủ biết là ý trời không muốn làm cho nước Sở phải diệt . Nhà ngươi đã giữ lời nói diệt Sở thì ta đây cũng quyết giữ cái chí phục Sở, nhưng tình bạn hữu với nhau, giúp nhau thì co, chứ hại nhau thì không nên; nếu nhà ngươi liệu bớt cái uy quân Ngô thì ta đây sẽ cũng không dùng hết cái sức quân Tần".

Ngũ Viên đưa thư cho Tôn Vũ xem và bảo rằng:

- Nước Ngô ta đem mấy vạn quân kéo thẳng vào kinh thành nước Sở, đốt nhà tôn miếu, phá nền xã tắc, đánh vào xác người chết, chiếm lấy nhà người sống . Kể trong việc kẻ làm tôi mà báo thù vua, từ xưa đến nay, chưa bao giờ được thoả như thế! vả quân Tần dẫu đánh được ta một trận, nhưng ta cũng chưa tổn hại cho lắm . Binh pháp có câu rằng: "Thấy dễ thì tiến, thấy khó thì lui", may sao quân Sở chưa biết nỗi nguy cấp của ta, nên lui về là phải .

Tôn Vũ nói;

- Ta rút về không thì bị quân Sở cười, chi bằng tâu với đại vương mà xin phong cho công tử Thắng .

Ngũ Viên khen phải, mới viết thư trả lời Thân Bao Tư . Thư nói như sau:

"Sở Bình vương đuổi người con vô tội, giết người bày tôi vô tội, ta đây xiết bao căm tức, vậy mới nên cơ sự này! ngày xưa Tề Hoàn công không nỡ diệt nước Hình và nước Vệ; Tần Mục công ba lần lập vua cho nước Tấn, để tiếng khen đến đời nay . Ta đay đãu hèn mọn, cũng trộm biết cái nghĩa ấy . Nay con thế tử Kiến là công tử Thắng đang lưu lạc ở nước Ngô, chưa được yên Sở; nếu nước Sở chịu đón công tử Thắng về để giữ việc cúng tế thế tử Kiến thì khi nào ta dám không rút quân mà giúp nên cái chí của nhà ngươi!"

Than Bao Tư được tin, nói chuyện với công tử Thân . Công tử Thân nói:

- Ý ta cũng muốn lập công tử Thắng .

Công tử Thân bèn sai người sang nước Ngô đón công tử Thắng về . Thẩm Chư Lương can rằng:

- Thế tử Kiến ngày xưa đã bị truất thì công tử Thắng tức là một kẻ cừu địch, nay mình lại nuôi kẻ cừu địch để làm hại nước hay sao ?

Công tử Thân nói:

- Thắng là một kẻ thất phu, không can chi điều ấy!

Công tử Thân vâng mệnh Sở Chiêu vương triệu công tử Thắng về mà hẹn phong cho đại ấp . Tôn Vũ và Ngũ Viên liền hạ lệnh rút quân . Phàm những báu vật ở trong kho nước Sở, đều chất lên xe chở về . Lại thiên những dân Sở kể hàng vạn nhà sang ở chỗ đất hoang của nước Ngô . Ngũ Viên bảo Tôn Vũ theo đường thuỷ đi về trước, còn mình theo đường bộ qua Lịch Dương Sơn, định tìm Đông Cao công để trả ơn . Khi đi đến nơi thì chẳng thấy nhà cửa đâu cả . Lại sai ngươi sang Long Động Sơn để tìm Hoàng Phủ Nột, cũng chẳng thấy tông tích Nột ở đâu . Ngũ Viên thở dài mà than rằng:

- Thật là những bậc cao sĩ!

Ngũ Viên nói xong, liền đến chỗ ở trước, sụp lạy hai lạy rồi đi . Khi đến cửa Chiêu quan, quân Sở để bỏ trốn hết cả . Ngũ Viên sai phá cửa quan ấy . Khi qua bến Lại Thuỷ, Ngũ Viên than rằng:

- Năm xưa ta bị đói ở đây, có xin cơm của một người con gái . Người con gái cho ta ăn cơm, rồi đâm đầu xuống sông mà chết . Ta có đề mấy câu trên viên đá, chẳng hay có còn hay không ?

Ngũ Viên sai người đào lên thì chữ đề trên viên đá vẫn còn y nguyên như cũ . Ngũ Viên muốn đem một nghìn nén vàng để đề ơn, nhưng không biết nhà người con gái ở đâu, mới sai ném vàng xuống vệ sông mà khấn rằng:

- Lòng ta không phụ, nàng có thiêng liêng, xin nàng chứng giám!

Khấn xong rồi đi . Đi chưa được một dặm, có bà lão ngồi bên cạnh đường trông thấy quân Ngô kéo qua thì khóc . Quân sĩ bắt lại hỏi:

- Vì có gì mà khóc ?

Bà lão già nói:

- Ta có một người con gái chưa chồng, mẹ con cùng ở với nhau, đã hai mươi năm trời; sau con ta ra đập sợi ở bến sông này có gặp một ông quân tử lỡ độ đường, mới đem cơm cho ăn, nhưng sợ việc bị tiết lộ ra, liền đâm đầu xuống sông mà chết . Ta nghe nói ông quân tử ấy tức là Ngũ tứớng quân . Nay Ngũ tướng quân thắng Sở trở về mà chẳng thấy đền ơn cho con ta . Ta tủi rằng con ta chết uổng, vậy nên ta khóc .

Quân sĩ bảo rằng:

- Chủ tướng ta đây tức là Ngũ tướng quân đó! ngài muốn đem một nghìn nén vàng đền ơn ấy mà không biết nhà bà ở đâu, hiện đã ném vàng xuống vệ sông, sao mà không đến đấy mà lấy .

Bà già mới đến vệ sông lấy vàng đem về .

Vua Việt là Doãn Thương nghe tin bọn Tôn Vũ rút quân về nước Ngô, biết Tôn Vũ tài nghệ dụng binh, khó lòng đánh nổi, nên mới rút quân về . Lại nghĩ thầm Việt chẳng kém gì Ngô, liền tự xưng là Việt vương . Hạp Lư xét cái công phá Sở, cho Tôn Vũ đứng đầu . Tôn Vũ không muốn làm quan, lại xin về núi . Hạp Lư sai Ngũ Viên lưu lại . Tôn Vũ bảo Ngũ Viên rằng;

- Ngài lại còn không biết đạo trời hay sao ? nóng lắm thì rét nhiều, xuân qua thì thu đến . Nay đại vương cậy mình cường thịnh, tất sinh lòng kiêu xa, nếu ta không xin về thì rồi có hậu hoạn . Chẳng những tôi lo cho tôi, tôi lại còn lo cho ông nữa .

Ngũ Viên không cho làm phải . Tôn Vũ cố ý cáo từ về núi . Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng lụa . Trong khi đi đường, Tôn Vũ đều đem ban phát cho những dân nghèo khổ . Về sau không biết Tôn Vũ đi đâu mất .

Hạp Lư phong Ngũ Viên làm tướng quốc, và cũng theo lối như Trọng phụ nước Tề và Tử Văn nước Sở khi trước, chỉ gọi tên tự của Ngũ Viên là Tử Tư mà thôi . Lại cho Bá Hi là thái tể, cùng dự quốc chính; đổi tên cửa Sương Môn gọi là Phá Sở Môn; xây đá ở Lâu môn về phía nam, đóng quân ở đấy để giữ với nước Việt, gọi là Thạch Môn quan . QUan đại phu ở nước Việt là Phạm Lãi, cũng đắp thành ở Tích Giang để chống giữ với nước Ngô, gọi là Cố Lăng .

Lại nói chuyện công tử Thân và công tử Kết trở về Sính Đô, một mặt thu táng hài cốt Sở Bình vương và sửa lại tôn miếu xã tắc; một mặt sai Thân Bao Tư đem thuyền sang nước Tuỳ đón Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương giao ước với vua Tuỳ: hai nước quyết không xâm phạm nhau . Vua Tuỳ tiễn Sở Chiêu vương xuống thuyền, rồi mới trở về . Sở Chiêu vương đi đến giữa sông Đại Giang, ngồi ở trong thuyền, ngẩng trông bốn mặt, lại nhớ đến những sự khổ sở trong khi lưu lạc năm xưa bỗng thấy dưới mặt nước nổi lên một vật to bằng cái đấu, sắc đỏ hồng hồng, sai người vớt lên xem, rồi đem hỏi các quan chẳng ai biết vật gì cả .

Sở Chiêu vương liền cầm dao chặt đôi ra, thấy trong có một quả như quả dưa; đem nếm xem thì thấy ngon ngọt lạ thường . Sở Chiêu vương truyền đem chia cho mỗi người một miếng mà bảo rằng:

- Thứ quả này không biết gọi tên là gì, âu là ta ghi lại để đợi có nhà bác vật nào sau này biết chăng .

Đi một ngày nữa, đến đất Vân Trung, Sở Chiêu vương thở dài mà than rằng:

- Đây là chỗ ta mất cướp hôm xưa đây, nên phải ghi lấy!

Sở Chiêu vương truyền cắm thuyền lại ở bên bờ sông, sai Đấu Tân đắp một cái thành nhỏ ở đấy, để cho những khách qua đường có chỗ trú ngụ .

Bọn công tử Thân và công tử Kết đi ra ngoài Sính Đô năm mươi dặm để nghênh tiếp Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương về đến Sính Đô, trông thấy ngoài thành sương trắng đầy đường, trong thì cung khuyết tàn phá, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng . Khi vào yết kiến mẹ là nàng Bá Doanh, hai mẹ con trông nhau mà khóc .

Sở Chiêu vương nói:

- Nước nhà chẳng may gặp phải đại biến, đến nỗi miếu xã bị phá, lăng mộ bị nhục . Cái thù này bao giờ mới báo lại được ?

Nàng Bá Doanh nói;

- Ngày nay con đã về, trước hết cần phải thưởng phạt cho công minh, sau phải phủ dụ trăm họ, chờ khi nào thế lực sung túc, bấy giờ sẽ nghĩ cách báo thù .

Sở Chiêu vương sụp lạy, xin vâng lệnh . Đêm hôm ấy, Sở Chiêu vương ngủ ở trai cung, sáng hôm sau vào tế cáo tôn miếu xã tắc và đi thăm nom phần mộ, rồi mới ra coi triều, để các quan vào lạy mừng .

Sở Chiêu vương nói:

- Ta tin dùng những đứa tiểu nhân, đến nổi gần mất nước, nếu không có bọn các ngươi thì bao giờ ta lại được trông thấy mặt trời . Làm mất nước là tội của ta, phục được nước là công của các ngươi đó!

Các quan đại phu đều lạy tạ . Sở Chiêu vương thết đãi các tướng nước Tần và khao thưởng quân Tần rồi tiễn đưa về nước . Lại luận công hành thưởng, cho công tử Thân làm lệnh doãn, công tử Kết làm tả doãn . Thân Bao Tư có công to đi mượn quân Tần, Sở Chiêu vương định cho làm hữu doãn .

Thân Bao Tư nói:

- Tôi sang mượn quân Tần là việc nước chứ không phải vì thân tôi . Nay đại vương đã lấy được nước rồi thì lòng tôi được thoả, có đâu tôi dám nhận chức này để cầu lợi .

Thân Bao Tư nhất định từ chối không nhận . Sở Chiêu vương cứ ép mãi . Thân Bao Tư đi trốn . Người vợ bảo Thân Bao Tư rằng:

- Phu quân đem cả vợ con liều thân họai thể, để đi mượn quân Tần về thu phục lại nước Sở, dẫu nhận thưởng cũng xứng đáng, can gì phải trốn ?

Thân Bao Tư nói:

- Trước đây, ta vì tình bè bạn, không tiết lộ cái mưu của Ngũ Viên, để cho Ngũ Viên phá được nước Sở . Đó là cái tội của ta . Đã có tội còn đi nhận công, ta lấy làm xấu hổ lắm!

Thân Bao Tư liền đem vợ con trốn vào rừng núi . Sở Chiêu vương sai người tìm mãi cũng không được, mới ban khen và yết ở cửa nhà Thân Bao Tư mấy chữ :"Nhà người trung thần" . Sở Chiêu vương lại cho Do Vu làm hữu doãn mà bảo rằng:

- Khi trước nhà người vì che chở cho ta mà bị một mũi giáo ở đất Vân Trung, bao giờ ta dám quên ơn!

Còn bọn Thẩm Chư Lương, Trung Kiến, Tốn Mộc, Đấu Tân, Đấu Sào và Diễn Viên, đều được thăng chức cả . Sở Chiêu vương lại triệu Đấu Hoài, toan thưởng . Công tử Thân can rằng:

- Khi trước Đấu Hoài định hại đại vương, nên đem trị tội, cớ sao lại thưởng ?

Sở Chiêu vương nói:

- Kẻ kia định báo thù cho cha, thế tức là hiếu tử . Đã là hiếu tử thì không làm được trung thần!

Sở Chiêu vương cho làm đại phu . Lam Doãn Điệp xin vào yết kiến Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương giận về nỗi khi trước ở Thành Cữu không chịu ghé thuyền cho đi, toan bắt đem giết, mới sai người ra bảo Lam Doãn Điệp rằng:

- Khi trước nhà ngươi bỏ ra ngoài đường xá, nay lại còn xin yết kiến làm gì ?

Lam Doãn Điệp nói:

- Nang Ngoã ngày xưa quên ơn nhớ thù, đến nỗi bị thua ở Bắc Cử, cớ sao đại vương lại còn bắt chứơc ? vả chiếc thuyền ở Thành Cữu, sao êm ái bằng cung điện ở Sính Đô . Tôi bỏ đại vương ở Thành Cữu là có ý muốn đại vương tỉnh ngộ lại . Ngày nay tôi tới đây là muốn xem đại vương đã biết tỉnh ngộ hay chưa ? đại vương không xét những cớ mất nước mà lại nhớ cái tội tôi không ghé thuyền; tôi dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc thay cho cơ nghiệp nước Sở!

Công tử Thân tâu với Sở chiêu vương rằng:

- Lam Doãn Điệp nói thẳng lắm! đại vương nên tha cho, để ghi lấy câu chuyện trong khi thất bại .

Sở Chiêu vương bèn cho Lam Doãn Điệp vào yết kiến, lại cho được giữ nguyên chức đại phu như cũ . Các quan triều thần thấy Sở Chiêu vương độ lượng rộng rãi như vậy, ai cũng bằng lòng . Sở Chiêu vương phu nhân nghĩ mình khi trước thất thân với Hạp Lư, xấu hổ không dám trông mặt Sở Chiêu vương nữa, liền thắt cổ mà chết .

Bấy giờ nước Việt đang gây sự với nước Ngô, nghe tin Sở Chiêu vương phục quốc, sai sứ đến chúc mừng, nhân tiến một người tôn nữ . Sở Chiêu vương lập làm kế thất, tức là nàng Việt Cơ . Việt Cơ là người hiền đức . Sở Chiêu vương rất kính trọng . Sở Chiêu vương lại nghĩ thương em gái là Qúi Vu khi trước đi theo trong lúc họan nạn, muốn chọn một người hiền để gả . Qúi Vu nói với SỞ Chiêu vương rằng:

- Phép làm con gái , không được gần đàn ông . Khi trước Chung Kiến đã có cõng em đi thì tức là chồng em đó, em không muốn kết duyên với người khác nữa .

Sở Chiêu vương liền gả Qúi Vu cho Chung Kiến; lại cho Chung Kiến làm tư nhạc đại phu . Sở Chiêu vương lại nhớ đến sự hiển vinh của quan lệnh doãn cũ là Tôn Thúc Ngao, sai người lập đền thờ ở đất Vân Trung . Công tử Thân thấy Sính Đô bị tàn phá, và người nước Ngô ở đấy đã lâu, quen biết hết đường lối, mới tâu Sở Chiêu vương xin thiên đô sang đất Nhược, gọi là Tân Sính . Sở Chiêu vương bày tiệc, cùng với các quan triều thần uống rượu vui .

Trong khi tiệc rượu đang vui, quan nhạc sư là Hồ Tử sợ Sở Chiêu vương chỉ biết cái vui ngày nay mà quên cái khổ năm trước, lại giống như lối cũ Sở Bình vương, mới ôm cây đàn cầm đến trước mặt Sở Chiêu vương mà tâu rằng:

- Tôi có khúc đàn "Cùng Nột", xin gảy để đại vương nghe .

Sở Chiêu vương nói

- Ta sẵn lòng nghe lắm!

Hồ Tử ôm cây đàn mà gảy, tiếng nghe rất sầu thảm ! Sở Chiêu vương hiểu ý, nước mắt chảy xuống ròng ròng . Hồ Tử cất cây đàn đi, rồi lui xuống dưới thềm . Sở Chiêu vương truyền bãi tiệc, từ bấy giờ chăm chỉ về việc chính trị . Khi công tử Thắng về, Sở Chiêu vương lên làm Bạch Công . Lại đắp một cái thành cho công tử Thắng ở, gọi là Bạch công thành . Sau thành ra một chi họ Bạch ở đấy . Công tử Phu Khái ở nước Tống nghe tin Sở Chiêu vương không nghĩ những điều thù oán cũ, mới trở về nước Sở . Sở Chiêu vương biết là người vũ dũng, phong cho ở Đường Khê, gọi là Đường Khê thị .

Công tử Thân nghĩ việc làm mất nước Sở, căn nguyên bởi nước Đường và nước Sái . Nay Đường đã diệt mà Sái hãy còn, mới tâu với Sở Chiêu vương đem quân đi đánh Sái để báo thù . Sở Chiêu vương nói:

- Nay việc nước mới yên, ta chưa dám bắt dân phải khó nhọc .

(Theo Xuân Thu truyện chép từ Sở Chiêu vương năm thứ 10 phải chạy trốn; năm thứ 11 được phục quốc . Mãi đến năm thứ 20 mới đem quân đi đánh nước Đốn, bắt vua Đốn tên là Tường; năm thứ 21 đem quân đi đánh nước Hồ, bắt vua Hồ tên là Báo, để báo cái thù khi trước theo Tấn đánh Sở; năm thứ 22 vây nước Sái, hỏi cái tội khi trước theo Ngô vào Sính Đô . Sái Chiêu công phải xin hàng . Sở Chiêu vương thiên nước Sái sang khoảng sông Giang và sông Nhũ . Còn trong 10 năm giữa thì Sở Chiêu vương biết dưỡng đức cho dân được yên nghỉ, bởi vậy đánh đâu được đấy, lại làm cho nước Sở cường thịnh .)

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 78 : Lê Di hiến kế dùng Lai BinhKhổng Tử kể tội giết Thiếu Chính

Tề Cảnh công thấy nước Tấn không đánh nổi nước Sở, chư hầu đều có ý chán, muốn thay nước Tấn làm bá chủ . Lỗ Chiêu công khi trước bị quan đại phu nước Lỗ là Quí Tôn Ý Như đuổi . Tề Cảnh công định giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, nhưng Qúi Tôn Ý Như cố ý chống cự không theo . Lỗ Chiêu công lại sang cầu cứu nước Tấn . Quan đại phu nước Tấn là Tuân Lịch cũng ăn tiền của Qúi Tôn Ý Như mà không chịu giúp Lỗ Chiêu công . Lỗ Chiêu công phải chết ở nước ngoài . Qúi Tôn Ý Như liền bỏ thế tử Diễn mà lập công tử Tống lên nối ngôi, tức là Lỗ Định công . Lỗ Định công vì cớ Qúi Tôn Ý Như giao thông với Tuân Lịch nước Tấn, cho nên theo Tấn mà không theo Tề: Tề Cảnh công giận lắm, dùng Quốc Hạ làm tướng đem quân sang quấy nhiễu bờ cõi nước Lỗ, nước Lỗ cũng không thể đánh lại nổi . Chưa được bao lâu, Qúi Tôn Ý Như chết, con là Kỳ nối chức tức là Qúi Khang tử . Nguyên trước Mạnh thị, Qúi thị và Thúc thị, ba họ ấy từ khi Lỗ Chiêu công còn ở nhà, cũng đã cùng nhau chia ba nước Lỗ . Họ nào cũng có dùng riêng gia thần để cầm quyền chính, thành ra vua Lỗ không có bề tôi . Đến lượt bọn gia thần lại tiếm quyền của ba quan đại phu làm nhiều điều ngang ngược, xâm phạm đến chủ mình . Bấy giờ Mạnh Tôn Vô Kỵ, Qúi Tôn Tư, Thúc Tôn Châu Cừu, dẫu mỗi nhà có một cái ấp riêng, nhưng quyền chính đều về tay chức ấp tể cả .

1. Mạnh thị có Thành ấp, viên ấp tể là Công Liễm Dương .

2. Qúi thị có Phí ấp, viên ấp tể là Công Sơn Bất Nhữu .

3. Thúc thị có Cấu ấp, viên ấy tể là Công Nhược Điểu .

Thành của ba ấp đều tự ba nhà lập riêng, rất là bền vững, chẳng khác gì kinh thành ở Khúc Phụ . Trong ba viên ấp tể ấy thì Công Sơn Bất Nhữu ngang ngược hơn cả . Công Sơn Bất Nhữu có một người gia thần họ Dương tên Hổ, tên tự là Hoà, vốn người trán to vai rộng, cao hơn chín thước, sức khỏe lạ thường, lại nhiều mưu trí . Lúc đầu Qúi Tôn Tư tin dùng, cho làm chức ấp tể; sau dần dần Dương Hổ chuyên hết quyền chính nhà Qúi thị, thành ra Qúi thị lại bị Dương Hổ áp chế, không biết làm thế nào được .

Bấy giờ lại có quan thiếu chính, tên là Mão, vốn người học rộng nhớ dai, lại có tài khéo nói . Cả nước ai cũng cho là một người thông thái . Nhưng thiếu chính Mão có tính nham hiểm, phản phúc; khi thấy ba nhà thì tán tụng là có công giúp vua yên nước; khi thấy bọn Dương Hổ thì lại giả cách nói những giọng phù công thất (trỏ vua Lỗ) mà ức tư gia (trỏ ba nhà), làm cho hai bên cừu địch lẫn nhau, nhưng ai cũng yêu cái tài hùng biện của thiếu chính Mão, cho nên không ai tỏ được mưu gian của y cả .

Lại nói chuyện Mạnh Tôn Vô Kỵ, tức là con Trọng Tôn Quặc, cháu Trọng Tôn Miệt . Khi Trọng Tôn Quặc hãy còn vẫn mến danh tiếng Khổng Tử người nước Lỗ, bắt con là Mạnh Tôn Vô Kỵ theo Khổng Tử để học lễ .

Khổng Tử nước Lỗ tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni . Cha là Thúc Lương Ngột, khi trước làm quan đại phu ở Trâu ấp, tức là viên dũng tướng hai tay nâng nổi cái cánh cửa treo ở thành Bức Dương ngày trước . Nguyên trước Thúc Lương Ngột lấy con gái họ Thi nước Lỗ, không có con . Người thiếp sinh được một con, tên là Mạnh Bì thì lại có tật ở chân . Thúc Lương Ngột mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn . Họ Nhan có năm con gái, đều chưa gả chồng cả, có ý chê Thúc Lương Ngột đã già, mới bảo các con rằng:

- Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan đại phu ở Trâu ấp không ?

Các con chẳng ai trả lời cả . Người con gái út tên là Trưng Tại, đứng dậy thưa rằng:

- Phép làm con gái khi còn ở nhà phải theo lời cha, cha đặt đâu con phải ngồi đấy, còn phải hỏi gì!

Họ Nhan nghe nói lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột . Trưng Tại đã kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi, cùng nhau vào lễ cầu tự ở Ni Sơn . Trưng Tại trèo lên trên núi cây cối đều rung động lên . Khi làm lễ xong trở xuống thì lá cây lại rủ xuống như cũ . Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng:

- Sau này nàng sẽ sinh được con thánh, nhưng khi nào lâm sản nên vào trong Không Tang .

Đến khi tỉnh dậy thì thành có thai . Một hôm Trưng Tại lại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, trông thấy năm ông cụ già đứng ở dưới sân, tự xưng là năm vì sao, dắt một con thú giống như con trâu con mà có một sừng, mình lại có vằng . Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục ngay xuống mà nhả cái thước ngọc ở trong miệng ra . Trên cái thước ngọc có câu văn rằng: "Con nhà thủy tinh, nối đời Chu suy mà làm Tố vương" . Trưng Tại biết có điềm lạ, mới lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy mà dắt đi . Khi tỉnh dậy, nói chuyện với Thúc Lương Ngột . Thúc Lương Ngột nói:

- Con thú ấy tất là con kỳ lân .

Gần đến ngày đẻ, Trưng Tại mới hỏi Không Tang là chỗ nào . Thúc Lương Ngột nói:

- Núi Nam Sơn có cái hang đá, tục gọi là Không Tang đó .

Trưng Tại nói:

- Khi tôi lâm sản, tất phải đến đấy .

Thúc Lương Ngột hỏi:

- Sao vậy ?

Trưng Tại thuật chuyện chiêm bao hôm trước, rồi sửa soạn đến ở hang đá Không Tang . Đến hôm ấy, có hai con rồng xanh ở trên trời xuống, phục ở hai bên sườn núi, lại có hai người thần nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại, gội xong thì biến đi . Khi Trưng Tại lâm sàn, bỗng thấy trong hang đá có một thứ nước suối ấm chảy ra, để Trưng Tại tắm . Trưng Tại tắm xong, suối lại cạn ngay . Khổng Tử sinh tuớng có lạ: môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng như lưng con rùa; miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao . Thúc Lương Ngột nói:

- Vì ta cầu tự ở Ni Sơn mà được đứa bé này, vậy thì ta đặt tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni . Chưa được bao lâu thì Thúc Lương Ngột tạ thế .

Trưng Tại hết lòng nuôi con . Khổng Tử, khi lớn lên, mình dài chín thước sáu tấc, có thánh đức, ham học, đi chu du các nước, khắp thiên hạ chỗ nào cũng có học trò . Vua các nước đều có lòng kính mến, nhưng bị các nhà quyền qúi đem lòng ghen ghét, thành ra không nước nào dùng được .

Bấy giờ Khổng Tử đang ở nước Lỗ . Mạnh Tôn Vô Kỵ nói với Qúi Tôn Tư rằng:

- Muốn dẹp yên được biến loạn thì tất phải dùng Khổng Khâu .

Qúi Tôn vừa đứng dậy thay áo thì có người ở Phi ấp đến báo rằng:

- Chúng tôi đào giếng thấy một chỗ đất rỗng, trong có con dê, không biết là cớ sao ?

Qúi Tôn Tư muốn thử sức học của Khổng Tử liền dặn người ấy không được nói, rồi vào bảo Khổng Tử rằng:

- Có người đào giếng, bắt được con chó, không biết là cớ sao ?

Khổng Tử nói:

- Cứ như ý tôi thì đó tất là con dê, chứ không phải con chó .

Qúi Tôn Tư kinh sợ mà hỏi rằng:

- Cớ sao lại biết ?

Khổng Tử nói:

- Tôi nghe nói loài sơn quái gọi là qúi võng lạng, loài thuỷ quái gọi là long võng tượng, loài thổ quái gọi là phần dương . Nay đào được một con vật ở dưới đất, tất là con phần dương đó!

Qúi Tôn Tư nói:

- Tại sao gọi là phần dương ?

Khổng Tử nói:

- Phần dương nghĩa là con dê không phải đực, không phải cái, chỉ có hình giống con dê mà thôi .

Qúi Tôn Tư liền gọi người Phi ấp vào hỏi thì quả nhiên như thế, lại càng kinh sợ mà khen rằng:

- Khổng Khâu thật là một tay bác học, không có cái gì là không biết .

Qúi Tôn Tư dùng Khổng Tử làm quan tể ở đất Trung Đô . Việc ấy đồn đến tai Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương sai sứ giả đưa đồ lễ và đem một vật bắt được ở dòng sông Giang khi trước đến hỏi Khổng Tử . Khổng Tử nói:

- Đấy là quả bèo, có thể bổ mà ăn được .

Sứ giả nói:

- Tại sao ngài lại biết ?

Khổng Tử nói:

- Khi trước tôi có sang Sở, nghe đứa trẻ hát rằng: "Vua Sở qua sông, bắt được quả bèo, to bằng cái đấu, đỏ như mặt trời, bổ ra mà ăn, vị ngọt như mật". Vì thế mà tôi biết .

Sứ giả nói:

- Quả bèo có dễ tìm được không ?

Khổng Tử nói:

- Bèo là một vật lênh đênh trên mặt nước, không có chỗ nhất định, không kết thành quả được, thế thì trăm nghìn năm mới có một lần . Đó là cái triệu tan mà lại hợp, suy mà lại thịnh, đáng mừng thay cho vua Sở!

Sứ giả về nói với Sở Chiêu vương . Sở Chiêu vương lấy làm kính phục . Chính sự của Khổng Tử làm cho đất Trung Đô rất là thịnh trị . Các nước đều sai người đến xem để bắt chước . Lỗ Định công biết Khổng Tử là người giỏi, triệu cho làm quan tư không . Năm thứ 19 đời Chu Kính vương, Dương Hổ muốn chuyên quyền nước Lỗ mới bàn mưu với Công Sơn Bất Nhữu và Thúc Tôn Chiếp, định giết Qúi Tôn Tư và Thúc Tôn Châu Cừu, rồi cho Công Sơn Bất Nhữu thay Qúi Tôn Tư, Thúc Tôn Chiếp thay Thúc Tôn Châu Cừu, còn mình thì thay Mạnh Tôn Vô Kỵ .

Dương Hổ mến Khổng Tử là người hiền, muốn dùng để giúp việc cho mình, mới sai người đến bảo ý cho Khổng Tử biết . Khổng Tử không chịu theo . Dương Hổ sai người đem một con lợn chín đến biếu Khổng Tử . Khổng Tử nói:

- Đây là kế của Dương Hổ buộc ta phải đến tạ ơn y để y được tiếp kiến mà dụ ta đó .

Khổng Tử sai học trò rình lúc Dương Hổ đi vắng mới đến nhà Dương Hổ, đưa danh thiếp rồi về . Dương Hổ không dùng được Khổng Tử . Khổng Tử mật nói với Mạnh Tôn Vô Kỵ rằng:

- Dương Hổ rồi tất làm loạn, mà loạn khởi từ họ Qúi trước, ngài nên phòng bị mới khỏi tai vạ .

Mạnh Tôn Vô Kỵ liền mộ ba trăm tráng sĩ, giả cách thuê làm nhà ở ngoài cửa nam, kỳ thực để phòng lọan . Mạnh Tôn Vô Kỵ lại báo quan tể ấp Thành là Công Liễm Dương phải sửa soạn quân mã để khi có tin báo thì tức khắc đến cứu . Tháng tám năm ấy, nước Lỗ sắp làm lễ Đế tế . Vô Kỵ nghe tin, liền nói:

- Dương Hổ mời Qúi Tôn Tư, việc này khả nghi lắm!

Mạnh Tôn Vô Kỵ sai người báo với Công Liễm Dương, hẹn đến trưa hôm ấy thì đem quân tới cửa nam để tiếp ứng . Ngày hôm ấy, Dương Hổ thân hành đến nhà Qúi Tôn Tư, mời Qúi Tôn Tư lên xe . Dương Hổ đi trước, Dương Việt (em họ Dương Hổ) đi sau, xung quanh đều là người phái họ Dương cả . Chỉ có một người dong xe cho Qúi Tôn Tư là Lâm Sở, xưa nay vẫn là môn khách nhà họ Qúi . Qúi Tôn Tư có lòng nghi, mới nói riêng với Lâm Sở rằng:

- Nhà ngươi có thể đưa xe ta tới nhà họ Mạnh được không ?

Lâm Sở hiểu ý, khi đi đến con đường rộng, thì rẽ dây cương quay xe về phía nam, rồi gia roi đánh ngựa . Ngựa lồng chạy mau lắm . Dương Việt trông thấy, gọi ầm lên rằng:

- Kìm ngựa lại!

Lâm Sơ chẳng nói gì cả, gia roi đánh mãi . Ngựa càng chạy mau . Dương Việt tức thì nổi giận, giương cung bắn Lâm Sở, nhưng bắn không trúng, bèn cũng ra roi đánh ngựa kéo xe của mình để đuổi . Trong khi vội vàng, Dương Việt đánh rơi roi ngựa . Dương Việt cúi xuống nhặt roi thì xe Qúi Tôn Tư đi đã xa rồi . Qúi Tôn Tư tới cửa nam đi thẳng vào nhà họ Mạnh mà kêu lên rằng:

- Mạnh Tôn cứu ta với!

Mạnh Tôn Vô Kỵ sai ba trăm tráng sĩ phục sẵn ở phía trong hàng rào . Được một lúc, Dương Việt đến, thúc quân phá rào, tráng sĩ ở trong bắn ra, quân Dương Việt chết hại rất nhiều . Dương Việt cũng bị trúng tên mà chết . Dương Hổ ngảnh lại, không trông thấy Qúi Tôn Tư, bèn quay trở về lối trước, hỏi người đi đường rằng:

- Các ngươi có trông thấy xe quan tướng quốc không ?

người đi đường nói:

- Ngựa lồng, đã đi ra phía cửa nam rồi!

Nói chưa dứt lời thì gặp đại binh của Dương Việt chạy đến . Dương Hổ mới biết là Dương Việt đã bị bắn chết, Qúi Tôn Tư đã trốn vào nhà họ Mạnh rồi, cũng tức thì nổi giận, định đem quân vào triều để hiếp Lỗ Định công phải đánh họ Mạnh . Khi đi đến nửa đường, gặp Thúc Tôn Châu Cừu, Dương Hổ lại hiếp cả Thúc Tôn Châu Cừu, bắt phải đem quân cùng sang đánh họ Mạnh ở cửa nam . Mạnh Tôn Vô Kỵ cố sức chống giữ .

Dương Hổ sai phóng hoả . Qúi Tôn Tư sợ lắm . Mạnh Tôn Vô Kỵ thấy trời vừa đúng trưa, bảo Qúi Tôn Tư rằng:

- Không sợ! có quân ở Thành ấp sắp đến cứu .

Chưa dứt lời thì có một viên mãnh tướng ở phía đông đem quân đến, quát to lên rằng:

- Ta là Công Liễm Dương đây, các ngươi chớ xâm phạm đến chủ ta .

Dương Hổ giận lắm, xông lại đánh Công Liễm Dương . Hai bên giao chiến hơn năm mươi hiệp, tinh thần Dương Hổ càng thêm hăng hái . Công Liễm Dương đã có ý hơi khiếp sợ . Thúc Tôn Châu Cừu ở sau mặt trận kêu to lên rằng:

- Dương Hổ thua rồi!

Rồi tức khắc đem quân đưa Lỗ Định công chạy về phía tây . Quân của vua Lỗ cũng chạy theo vua . Mạnh Tôn Vô Kỵ phá rào đem quân ra đuổi . Gia thần nhà họ Qúi là Khổ Việt cũng đem quân đến . Dương Hổ thế cô, chạy về giữ cửa Quán Dương . Ba nhà cùng hợp quân đến đánh . Dương Hổ không thể địch nổi, sai đốt cửa Lai Môn . Quân Lỗ tránh lửa phải rút lui . Dương Hổ xông qua đống lửa mà ra, chạy sang nước Tề, vào yết kiến Tề Cảnh công, đem ruộng Quán Dương dâng nước Tề, để mượn quân đánh Lỗ . Quan đại phu nước Tề là Bão Quốc nói với Tề Cảnh công rằng:

- Nước Lỗ đang dùng Khổng Khâu ta không thể địch nổi . Chi bằng ta bắt Dương Hổ và đem ruộng Quán Dương trả lại nước Lỗ, để lấy lòng Khổng Khâu .

Tề Cảnh công nghe lời, bắt Dương Hổ giam ở Tây Bỉ . Dương Hổ cho quân canh uống rượu say, rồi trốn sang nước Tống . Nước Tống cho Dương Hổ ở đất Khuông . Dương Hổ rất ác với người đất Khuông . Người đất Khuông toan giết . Dương Hổ lại trốn sang nước Tấn, làm tôi Triệu Uởng . Tề Cảnh công thấy Dương Hổ trốn mất, sợ người nước Lỗ nghi mình dung nạp, mới sai sứ đưa thư cho Lỗ Định công, nói rõ việc Dương Hổ trốn sang nước Tống, và ước với Lỗ Định công cùng hội ở núi Giáp Cốc để giảng hoà . Lỗ Định công họp ba nhà cùng thương nghị . Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

- Người nước Tề hay nói dối, chúa công chớ khinh suất mà đi dự hội .

Qúi Tôn Tư nói:

- Nước Tề đã nhiều lần đem quân đánh ta, nay muốn hoà hiếu, cớ sao ta lại từ chối ?

Lỗ Định công nói:

- Nay ta định sang hội với Tề, nên cho ai đi bảo giá ?

Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

- Tất phải dùng Khổng Khâu là ông thầy của tôi .

Lỗ Định công liền triệu Khổng Tử đến, giao cho việc tướng lễ để sang hội với Tề .

Lúc Lỗ Định công sắp đi . Khổng Tử tâu rằng:

- Tôi nghe nói có văn thì tất phải có vũ, hai điều ấy không thể bỏ một điều được . Xem như việc Tống Tương công sang hội ở Vu Địa khi trước, thì ta cũng nên phải phòng bị . Xin chúa công cho quan tư mã đem quân đi theo mới được .

Lỗ Định công nghe lời, truyền cho quan đại phu là Thân Câu Tu làm hữu tư mã, Nhạc Kỳ là tả tư mã đem quân đi theo sau; lại sai quan đại phu là Tư Vô Hoàn đem quân đến đóng cách hội sở độ mười dặm . KHi đến đất Giáp Cốc, Tề Cảnh công đã lập sẵn một cái đàn cao ba tầng, cách thức trông rất đơn giản . Tề Cảnh công đóng ở phía hữu, Lỗ Định công đóng ở phía tả . Lúc bấy giờ quan đại phu nước Tề là Lê Di là một người có nhiều mưu trí . Từ khi Lương Khâu Cử chết đi, Tề Cảnh công tin dùng Lê Di lắm . Đêm hôm ấy, Lê Di xin vào yết kiến . Tề Cảnh công cho vào . Tề Cảnh công hỏi rằng:

- Có việc gì mà đêm hôm nhà ngươi tới đây như vậy ?

Lê Di tâu rằng:

- Nước ta xưa nay vốn là cừu địch với Lỗ, chỉ vì nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, ta sợ mai sau có hại đến nước Tề ta, vậy nên mới lập ra hội này . Tôi xem Khổng Khâu là người biết lễ mà không có vũ dũng, chẳng quen việc tranh chiến bao giờ . Sáng mai chúa công ra khai hội, truyền đem phườg nhạc các nước đến, để cho vua Lỗ được vui, rồi sai ba trăm quân Lai Di giả hình làm nhạc công, tiến vào bắt vua Lỗ và bắt cả Khổng Khâu nữa; còn tôi ở dưới đàn sẽ đem quân đuổi đánh quân Lỗ . Bấy giờ tính mệnh vua tôi nước Lỗ ở trong tay ta, chúa công muốn định đọat thế nào tuỳ ý .

Tề Cảnh công nói:

- Việc này có nên làm hay không, để ta phải bàn với quan tướng quốc (trỏ Án Anh) .

Lê Di nói:

- Quan tướng quốc vốn chơi thân với Khổng Khâu . Nếu nói cho quan tướng quốc biết thì việc này không thể làm được, xin chúa công cứ giao cho tôi .

Tề Cảnh công nói:

- Ta cũng nghe lời nhà ngươi, nhưng nhà ngươi phải cẩn thận lắm mới được .

Lê Di tức khắc đi bảo với quân Lai Di . Ngày hôm sau, Tề Cảnh công và Lỗ Định công hội nhau ở trên đàn . Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ; nước Lỗ thì Khổng Tử làm tướng lễ . Hai bên vái chào nhau . Khi làm lễ xong, Tề Cảnh công nói với Lỗ Định công rằng:

- Tôi có đủ phường nhạc các nước, xin cùng với nhà vua cùng vui .

Tề Cảnh công truyên cho người Lai Di lên tấu nhạc Lai Di . Bọn ba trăm người Lai Di tay cầm các đồ vũ mạo và kiếm kích ở dưới đàn kéo lên, miệng hát những tiếng lúi lo, theo với âm nhạc . Khi người Lai Di lên đến nửa thềm, Lỗ Định công trông thấy, đã có ý lo . Khổng Tử không sợ hãi gì cả, rảo bước sang đứng ở trước mặt Tề Cảnh công mà tâu rằng:

- Hai nước ta đang hội nhau để tỏ lòng hiếu, nên dùng lễ Trung quốc, sao lại dùng đến âm nhạc của giống rợ mọi như vậy, xin cho bỏ đi .

Án Anh không biết là kế Lê Di, cũng tâu với Tề Cảnh công rằng:

- Khổng Khâu nói thế, chính là hợp lễ đó!

Tề Cảnh công có ý thẹn, liền truyền cho người Lai Di lui xuống . Lê Di thấy vậy giận lắm, lại gọi phường nhạc nước Tề đến mà dặn rằng:

- Khi ăn tiệc đến nửa chừng, các ngươi hát bài thơ Tệ Cẩu rồi ra bộ dỡn cợt nhau, để làm cho vua tôi nước Lỗ phải tức giận thì ta sẽ trọng thưởng cho .

Lê Di trèo lên trên đàn, tâu với Tề Cảnh công rằng:

- Xin tấu âm nhạc trong cung để chúc thọ hai vua . Tề Cảnh công nói:

- Âm nhạc trong cung, không phải là âm nhạc rợ mọi, nên cho tấu ngay .

Lê Di truyền cho phường nhạc ra diễn . Bọn phường nhạc hơn hai chục người, đều cải trang vẽ mặt chia làm hai bên, một bên đóng nam, một bên đóng nữ . Họ kéo nhau, hát toàn những giọng dâm loạn, vừa hát vừa cười . Khổng Tử chống gươm trừng mắt nhìn Tề Cảnh công mà tâu rằng:

- Kẻ thất phu dám cợt nhạo vua chư hầu thì tội đáng chết, xin cho quan tư mã nước Tề chiếu phép hành tội .

Tề Cảnh công không nói gì cả . Bọn phường nhạc lại cợt nhao như trước . Khổng Tử nói:

- Hai nước ta đã giao hiếu với nhau coi nhau như anh em thì quan tư mã nước Lỗ, tức là quan tư mã nước Tề .

Khổng Tử nói xong, liền ngảnh xuống dưới đàn mà vẫy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ . Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ lên thẳng trên đàn, bắt hai tên đứng đầu trong bọn ca công đem xuống chém; còn những đứa khác đều sợ mà bỏ chạy . Tề Cảnh công kinh hãi . Lỗ Định công tức khắc cáo từ . Lê Di lúc trước vẫn định đón ở dưới đàn để bắt Lỗ Định công, sau một là thấy Khổng Tử có tài ứng biến, hai là thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ đều là tay anh hùng, ba là nghe nói ở ngoài mười dặm có quân Lỗ đóng, mới phải lui về . Tề Cảh công về, gọi Lê Di vào mà trách rằng:

- Khổng Khâu làm tướng lễ, đều theo nhạc cổ nhân, sao nhà ngươi lại xui ta dùng cách rợ mọi ấy, ta đang cùng với nước Lỗ giao hiếu, nay thành ra cừu thù .

Lê Di sợ hãi xin chịu tội, không dám cãi một câu nào . Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng:

- Người quân tử khi đã biết lỗi của mình thì dùng cách thành thực mà tạ lại . Nay nước Lỗ có ba xứ ruộng ở Vấn Dương: một là Hoan Điền, Dương Hổ nước Lỗ đem dâng nước ta, đó là của bất nghĩa; hai là Vận Điền, năm trước nước ta lấy của nước Lỗ cho Lỗ Chiêu công ở; ba là Quí Âm Điền, tiên quân ta ngày xưa nhờ thế lực của nước Tấn mà lấy của nước Lỗ . Nước Lỗ mất ba xứ ruộng ấy vẫn lấy làm căm tức . Chúa công nên nhân dịp này đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ để xin lỗi thì vua tôi nước Lỗ tất phải bằng lòng, mà tình giao hiếu của ta và Lỗ càng thêm bền chặt .

Tề Cảnh công bằng lòng, liền sai Án Anh đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ . Ruộng Vấn Dương nguyên trước là của Lỗ Hi công ban cho Qúi Hữu, ngày nay nước Tề trả lại vua Lỗ, tức lại về tay họ Qúi . Bởi vậy Qúi Tôn Tư cảm ơn Khổng Tử, truyền đắp thành ở đất Qúi Âm, gọi là Tạ Thành để ghi công ấy; lại nói với Lỗ Định công thăng chức cho Khổng Tử làm đại tư khấu .

Bấy giờ có một con chim lớn dài ước ba thước, mình đen cổ trắng, mỏ dài mà có một chân, tự phía nam nước Tề bay sang nước Lỗ, vỗ hai cánh đứng múa ở ngoài đồng, người làm ruộng đuổi đi không được, rồi sau nó bay về phía bắc . Qúi Tôn Tư nghe có chuyện quái dị ấy, đem hỏi Khổng Tử, Khổng Tử nói:

- Con chim ấy tên gọi là thương dương, sinh ở bên Bắc Hải . Khi nào trời sắp mưa to thì con thương dương múa . Bởi vậy chỗ nào thấy con thương dương múa tất là chỗ ấy sắp có cái hại mưa dầm, chỗ giáp giới Tề và Lỗ nên phải phòng bị mới được .

Qúi Tôn Tư truyền cho dân ở đấy phải đắp đê và lợp nhà cho kỹ . Chưa được ba ngày thì quả nhiên trời mưa rất to, sông Vấn nước đầy tràn lên . Nước Lỗ đã có phòng bị trước, cho nên không bị hại . Việc ấy đồn đến nước Tề . Tề Cảnh công càng thêm kính phục Khổng Tử . Từ đấy Khổng Tử nổi tiếng là một nhà bác học, khắp trong thiên hạ ai cũng gọi là thánh nhân . Khổng Tử tiến dẫn Trọng Do (tên gọi là Tử Lộ) và Nhiễm Cầu (tên tự là Tử Hữu), Qúi Tôn Tư đều dùng làm gia thần .

Một hôm, Qúi Tôn Tư hỏi Khổng Tử rằng:

- Dương Hổ dẫu trốn đi, nhưng Công Sơn Bất Nhữu lại nổi lên, dùng cách gì mà trị được ?

Khổng Tử nói:

- Ta phải dùng lễ chế thì mới trị được . Cứ theo như lễ chế thì gia thần không được chứa giáp binh, quan đại phu không được đắp thành một trăm trĩ, bởi vậy chức ấp tể không trông cậy vào đâu mà dám nổi loạn, sao ngài không bắt Công Sơn Bất Nhữu phá thành đi và bỏ đồ giáp binh đi, có phải là yên việc không ?

Qúi Tôn Tư khen phải, nói với họ Mạnh và họ Thúc . Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

- Nếu có lợi cho nước nhà thì ta có tiếc gì .

Bấy giờ thiếu chính Mão đang ghét Khổng Tử, muốn phá việc ấy, mới sai Thúc Chiếp Mật báo cho Công Sơn Bất Nhữu biết . Công Sơn Bất Nhữu muốn giữ thành để làm phản, biết người nước Lỗ vẫn kính trọng Khổng Tử, cũng muốn nhờ Khổng Tử giúp cho, bèn sai người đưa lễ vật và một bức thư cho Khổng Tử . Thư rằng:

- "Từ khi Tam Hoàn chuyên chính, vua yếu, bề tôi mạnh, lòng người ai cũng oán giận . Tôi dẫu làm quan với họ Qúi, nhưng vẫn một lòng mến điều công nghĩa, xin đem Phi ấp nộp làm của công, rồi giúp vua để trừ kẻ cường bạo, khiến cho nước Lỗ lại theo được cái nghiệp cũ của Chu công thuở xưa . Nếu ngài cho tôi là phải thì xin mời ngài quá bộ sang Phi ấp, ta sẽ bàn việc . Gọi là có chút lễ vật kính dâng, xin ngài nhận cho".

Khổng Tử nói với Lỗ Định công rằng:

- Nếu Công Sơn Bất Nhữu làm phản thì ta lại phải khó nhọc về việc dùng quân . Xin chúa công cho tôi sang Phi ấp để bảo hắn nghĩ lại mà đổi lỗi đi, phỏng có nên chăng ?

Lỗ Định công nói:

- Công việc nước nhà, ta trông cậy vào nhà ngươi cả, nhà ngươi chớ nên lúc nào rời bên cạnh ta .

Khổng Tử trả lời lại bức thư và lễ vật của Công Sơn Bất Nhữu . Công Sơn Bất Nhữu thấy Khổng Tử không nhận lời, liền sai người nói với quan tể ấp Thành là Công Liễm Dương và quan tể ấp Cấu là Công Nhược Điểu để cùng nổi loạn . Công Liễm Dương và Công Nhược Điểu đều không theo . Viên mã chính ở Cấu âp tên gọi là Hầu Phạm là người có sức khỏe lại giỏi bắn, người Cấu ấp ai cũng sợ . Hầu Phạm vẫn có ý muốn làm lọan, mới sai ngừơi giết Công Nhược Điểu, rồi tự xưng làm quan tể ấp Cấu, đem quân Cấu chống cự với ba nhà . Thúc Tôn Châu Cừu nghe tin Hầu Phạm làm phản, đến bảo Mạnh Tôn Vô Kỵ . Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:

- Tôi xin giúp ngài một tay để cùng trừ đứa phản nô ấy .

Bấy giờ họ Mạnh cố sức chống giữ . Mạnh Tôn Vô Kỵ không thể đánh nổi, bảo Thúc Tôn Châu Cừu sang cầu viện nước Tề . Có kẻ gia thần họ Thúc tên gọi Tử Xích ở trong ấp Cấu, giả cách theo Hầu Phạm . Hầu Phạm tin dùng lắm . Tử Xích bảo Hầu Phạm rằng:

- Họ Thúc sai sứ sang mượn quân nước Tề, hai nước hợp quân đánh ta, ta địch thế nào nổi ? chi bằng ta đem ấp Cấu sang hàng nước Tề . nước Tề mặt ngoài dẫu thân với Lỗ, nhưng trong thực ghét Lỗ . Nếu Tề được ấp Cấu thì có thể hiếp Lỗ được . Tất Tề mừng lắm, phải đem chỗ đất to hơn ở nơi khác đền lại cho ngài . Đàng nào ngài cũng có đất ở, mà lại bỏ được chỗ nguy đến chỗ yên, còn gì lợi bằng!

Hầu Phạm khen phải, sai người sang xin hàng với nước Tề và nộp ấp Cấu . Tề Cảnh công hỏi Án Anh rằng:

- Họ Thúc mượn quân ta để đánh ấp Cấu, nay Hầu Phạm lại nộp ấp Cấu mà xin hàng, ta biết xử thế nào ?

Án Anh nói:

- Ta đang cùng với Lỗ hoà hiếu, sao lại nhận cho kẻ phản thần nước Lỗ sang đầu hàng . Ta nên giúp họ Thúc là phải .

Tề Cảnh công cười mà nói rằng:

- Cấu ấp là ấp riêng của họ Thúc, có dự gì đến vua Lỗ, huống chi Hầu Phạm đang xâu xé với họ Thúc, đó là một việc không may cho Lỗ mà rất may cho Tề . Ta đã có kế, cứ nhận lời cả hai bên để làm cho họ hỏng việc .

Tề Cảnh công bèn sai quan tư mã là Điền Nhương Thư đóng quân ở giáp giới nước Lỗ để đợi khi có biến: nếu Hầu Phạm đánh được họ Thúc thì chia quân giữ lấy ấp Cấu, rồi đón Hầu Phạm về nước Tề; nếu họ Thúc đánh được Hầu Phạm thì giả cách nói là đem quân sang giúp họ Thúc mà đánh ấp Cấu . Tùy cơ ứng biến, ấy là cái kế gian hùng của Tề Cảnh công đó . Tử Xích thấy Hầu Phạm đã sai sứ sang Tề rồi, lại bảo Hầu Phạm rằng:

- Nước Tề vừa mới giao hiếu với Lõ, chưa chắc đã chịu giúp ta, ta nen sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh, vạn nhất có sự nguy biến gì dùng đến cho tiện .

Hầu Phạm vốn kẻ vũ phu không biết suy xét, tin là phải, mới truyền sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh . Tử Xích viết một bức thư, bắn ra ngoài thành cho quân Lỗ . Quân Lỗ nhặt được thư, đưa cho Thúc Tôn Châu Cừu . Thúc Tôn Châu Cừu mở thư ra xem . Thư rằng:

"Tôi là Tử Xích đã lập sẵn mưu kế đánh Hầu Phạm, chẳng bao lâu nữa trong thành tất có nội biến, xin chúa công đừng lo ngại ".

Thúc Tôn Châu Cừu mừng lắm, báo tin cho Mạnh Tôn Vô Kỵ biết rồi sắp quân để đợi . Mấy hôm sau sứ giả ở nước Tề về, báo với Hầu Phạm, nói vua Tề đã bằng lòng nhận Cấu và định đổi cho một cái ấp khác . Tử Xích nghe tin, vào mừng Hầu Phạm, khi trở ra, sai người bá cáo cho nhân dân biết rằng: họ Hầu sai sứ giả xin đem Cấu âp phụ thuộc với Tề, sứ giả về nói quân Tề sắp kéo sang .

Nhân dân nghe nói náo động cả lên, có nhiều người đến hỏi Tử Xích . Tử Xích nói:

- Ta cũng nghe nói như vậy, nhưng Tề đang giao hiếu với Lỗ, không muốn chiếm đất, định thiên dân sang ở đất Liêu Nhiếp nước Tề . Xưa nay người ta vẫn có câu "ở đâu sâu đấy" nay nghe nói sắp sửa phải bỏ xứ mình mà đi, ai là người không sợ hãi .

Mọi người nghe nói, huyên truyền nhau, ai cũng oán giận . Một đêm Hầu Phạm đang uống rượu say . Tử Xích biết vậy, liền sai mấy chục người tâm phúc đi quanh thành mà kêu ầm lên rằng:

- Quân Tề đã đến ngoài thành rồi! chúng ta nên mau mau sắp đồ hành lý, chỉ trong ba ngày nữa đã phải bồng bế nhau đi!

Nói xong lại khóc . Dân ấp Cấu náo động, đến họp cả ở cửa Hầu Phạm . Những người già yếu tiếng khóc như ri; còn những kẻ cường tráng; đều nghiến răng nghiến lợi, oán giận Hầu Phạm . Bỗng trông thấy cửa dinh có đồ binh giáp, chúng liền cướp lấy, mặc áo giáp vào mình, tay cầm đồ binh, cùng nhau reo ầm lên mà vây chung quanh nhà Hầu Phạm . Quân sĩ giữ thành bấy giờ cũng theo chúng mà phản Hầu Phạm . Tử Xích vội vàng bảo Hầu Phạm rằng:

- Dân ấp Cấu không chịu phụ thuộc nước Tề, đều bảo nhau làm phản . Ngài có còn binh giáp để cho tôi ra đánh không ?

Hầu Phạm nói:

- Binh giáp của ta đều bị chúng cướp mất cả rồi! bây giờ chỉ nên nghĩ cách nào tránh tai vạ là hơn .

Tử Xích nói;

- Tôi xin cố sức đưa ngài đi trốn .

Nói xong lại ra bảo với mọi người rằng:

- Các người nên nhường một lối để cho họ Hầu đi trốn .Họ Hầu trốn thì quân Tề cũng không đến nữa .

Mọi người theo lờ, nhường một lối cho đi . Tử Xích đi trước, Hầu Phạm đi sau, gia thuộc còn hơn một trăm người và hơn mười cỗ xe . Tử Xích đưa ra khỏi cửa đông, rồi đem quân Lỗ vào thành mà phủ dụ nhân dân .

Mạnh Tôn Vô Kỵ toan đuổi theo Hầu Phạm . Tử Xích can rằng:

- Tôi đã nhận lời cho hắn được trốn thóat rồi!

Mạnh Tôn Vô Kỵ nghe lời không đuổi nữa, liền phá bớt thành Cấu đi ba thước, rồi dùng Tử Xích làm quan tể ở đấy . Hầu Phạm chạy sang với quân Tề . Tướng nước Tề là Điền Nhương Thư biết là quân Lỗ đã phá vỡ ấp Cấu, liền rút quân về . Thúc Tôn Châu Cừu và Mạnh Tôn Vô Kỵ cũng trở về nước Lỗ . Lúc trước Công Sơn Bất Hữu nghe nói Hầu Phạm chiếm đánh, thì mừng mà nói rằng:

- Bây giờ họ Quí đang thế cô, ta thừa hư lẻn đánh, có thể cướp được nước Lỗ .

Nói xong, liền đem quân ấp Phi tiến vào đất Khúc Phụ .

Thúc Tôn Chiếp làm nội ứng, mở cửa thành cho Công Sơn Bất Nhữu vào . Lỗ Định công vội vàng triệu Khổng Tử đến hỏi kế . Khổng Tử nói:

- Quân nhà vua yếu lắm, khong thể dùng được, tôi xin đưa chúa công chạy sang với họ Qúi .

Khổng Tử bèn đưa Lỗ Định công chạy sang họ Quí . Trong cung họ Qúi có một cái đài cao rất bền vững, Lỗ Định công ở đấy . Được một lúc, quan tư mã là Thân Câu Tu đem hết binh pháp ra trao cho quan tư mã, để phục ở hai bên tả hữu . Còn quân sĩ thì xếp hàng ở trước đài . Công Sơn Bất Nhữu cùng Thúc Tôn Chiếp thương nghị rằng:

- Ta làm việc này, vẫn mượn tiếng là phù công thất mà ức tư gia . Nếu ta không phụng vua Lỗ làm chủ thì sao đánh nổi họ Qúi ?

Nói xong, liền vào cung để tìm Lỗ Định công, nhưng tìm không thấy, biết là Lỗ Định công đã chạy sang nhà họ Qúi, mới đem quân sang, đánh nhau với bọn quân nhà vua . Bọn quân này bỏ chạy . Bỗng thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ ở hai bên đem quân tiến ra . Khổng Tử phù Lỗ Định công đứng ở trên đài, bảo người Phí ấp rằng:

- Chúa công đứng đấy, các ngươi lại không biết bỏ nghịch mà theo thuận hay sao ? nên mau mau cởi áo giáp mà đầu hàng đi thì được xá tội .

Người Phi ấp biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, ai dám không nghe, bèn bỏ đồ binh mã sụp lạy ở dưới đài . Công Sơn Bất Nhữu và Thúc Tôn Chiếp thế cùng, bỏ chạy sang nước Ngô . Thúc Tôn Châu Cừu đã phá được thành Cấu . Qúi Tôn Tư cũng sai phá bớt thành Phi ấp, chỉ còn để theo như phép cũ . Mạnh Tôn Vô Kỵ cũng muốn phá ấp Thành . Tề ấp Thành là Công Liễm Dương hỏi kếu thiếu chính Mão . Thiếu chính Mão nói:

- Ấp Cấu và ấp Phi vì làm phản mà phải phá thành, nếu lại phá cả ấp Thành thì hóa ra ta cũng chẳng khác gì lũ phản thần hay sao! nhà ngươi cứ nói phá ấp Thành thì khi quân Tề sang xâm cõi bắc, ta lấy gì mà đương nổi . Cứ một mực giữ lời nói ấy thì dẫu chống cự lại mà khong cho phá, cũng không gọi là làm phản được .

Công Liễm Dương theo kế ấy, sai quân sĩ trèo lên mặt thành mà nói với Mạnh Tôn Vô Kỵ rằng:

- Tôi giữ thành này, không phải là vì họ Mạnh, chính là vì nước Lỗ, nếu phá đi thì sợ khi quân Tề kéo đến, không lấy gì mà đương nổi . Vậy xin liều chết mà cố giữ chứ không dám động đến một viên gạch .

Khổng Tử cười mà nói rằng:

- Công Liễm Dương không khi nào nói được câu ấy, tất có người xui đó .

Qúi Tôn Tư khen Khổng Tử định được ấp Phi, tự biết là tài đức mình không bằng, mới để cho Khổng Tử giúp làm việc tướng quốc, việc gì cũng hỏi đến Khổng Tử, nhưng Khổng Tử nói câu gì thì thiếu chính Mão lại cố ý dèm pha khiến cho người nghe phần nhiều mê hoặc . Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định công rằng:

- Nước Lỗ không cường thịnh lên được, là tại trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh, ví như người muốn trồng lúa tốt, tất phải trừ bỏ cỏ xấu . Xin chúa công cương quyết, cho đem các đồ phủ Việt trong nhà thái miếu ra bày ở dưới lưỡng quán để dùng về việc hình .

Lỗ Định công thuận cho . Sáng hôm sau, Lỗ Định công truyền cho triều thần hội nghị, để bàn việc phá ấp Thành . Người thì nói nên phá, người thì nói không nên phá . Thiếu chính Mão muốn đón ý Khổng Tử, nói phá ấp thành có sáu điều kiện: 1. để tôn trọng quyền vua, không ai được bằng; 2. để tôn trọng cái hình thế đô thành; 3. để ức quyền tư môn; 4. để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không có chỗ nương cậy; 5. để yên lòng ba nhà (Mạnh, Thúc, Qúi); 6. để cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm phải kính phục .

Khổng Tử tâu với Lỗ Định công rằng:

- Ấp Thành nay đã cô thế, còn làm gì được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với nhà vua, sao dám bảo là lộng quyền ? thiếu chính Mão dùng lời nói khéo để làm rối lọan chính sự, khiến cho vua tôi ly gián nhau, cứ theo phép thì nên giết .

Triều thần đều nói:

- Thiếu chính Mão là một người có danh vọng của nước Lỗ ta, dẫu có nói lầm nữa, cũng chưa đến phải tội chết .

Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định công rằng:

- Thiếu chính Mão là người dối giá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc . Nếu không giết đi thì chính sự không làm nổi . Xin chúa công cho đem phủ việt ra để trị tội .

Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói thiếu chính Mão ở dưới lưỡng quán mà giết đi . Triều thần, đều xám xanh cả nét mặt . Ba nhà trông thấy, cũng phải sợ hãi . Từ khi giết được thiếu chính Mão rồi, Lỗi Định công và ba nhà mới một lòng nghe lời Khổng Tử .

Khổng Tử mới chỉnh đốn kỷ cương trong nước, lấy những điều lễ nghĩa và liêm sĩ mà dạy dân, cho nên dân không nhiễu loạn mà chính sự mỗi ngày một hay . Ba tháng về sau, phong tục biến cải cả; các nhà buôn gà lợn, không dám nhồi cám để dối người mua; trong khi đi đường bên trai bên gái phân biệt khác nhau, không có hỗn loạn; thấy của rơi ở đường, nhưng không phải của mình thì không ai thèm nhặt; người các nước đến du lịch dều được nước Lỗ tiếp đãi tử tế, không để thiếu thốn .

Dân nước Lỗ làm một bài ca để tán tụng công đức Khổng Tử . Bài ca ấy truyền tụng sang đến nước Tề . Tề Cảnh công kinh sợ mà nói rằng:

- Nếu vậy thì sau này nước ta tất bị nước Lỗ xâm chiếm, ta nên phải nghĩ kế để phòng bị!

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 79 : Lê Di lập kế hại Khổng TửVăn Chủng bày mưu thông Bá Hi

Khi Tề Cảnh công hội ở Giáp Cốc về, Án Anh ốm chết . Tề Cảnh công thương khóc mấy ngày, đang lo trong triều không có người hiền tài, lại nghe tin nước Lỗ dùng Khổng Tử mà được cừơng thịnh, mới lo sợ mà nói rằng:

- Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu tất nên nghiệp bá, mà nên nghiệp bá thì tất phải tranh đất . Nước ta tiếp giáp với Lỗ thì cái họa ấy tất đến nước ta trước, biết làm thế nào ?

Quan đại phu là Lê Di tâu rằng:

- Chúa công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không tìm cách ngăn đi ?

Tề Cảnh công nói:

- Nước Lỗ đang giao quyền chính cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được ?

Lê Di nói:

- Tính con người ta, hễ được cường thịnh, thì tất sinh lòng kiêu giật, xin chúa công lập một bộ nữ nhạc đem cho vua Lỗ . Vua Lỗ đã nhận nữ nhạc thì tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu . Bấy giờ Khổng Khâu tất phải bỏ Lỗ mà đi, chúa công mới có thể ngồi yên được .

Tề Cảnh công bằng lòng, sai Lê Di xem trong đám nữ lư, chọn những đứa xinh đẹp, độ trong 20 tuổi, cả thảy 80 người, chia làm 10 đội, đều cho ăn mặc gấm vóc và dạy hát múa . Khúc hát ấy gọi là "Khang lạc" thah âm và điệu bộ đều mới lạ, đủ mọi chiều phong vận, ở đời chưa có bao giờ! khi luyện tập đã thành rồi, lại dùng cỗ ngựa, cương vàng, yên nạm, mỗi con một sắc, trông đẹp như gấm, sai sứ đem dâng Lỗ Định công . Sứ giả làm hai rạp bằng gấm ở ngoài cửa Cao Môn nước Lỗ, rạp phía đông bày đàn ngựa, rạp phía tây bày nữ nhạc, rồi đệ quốc thư vào tâu Lỗ Định công rằng:

"Tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ quân hầu mấy lời . Khi trước hội ở Giáp Cốc, tôi có thất lễ với quân hầu, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn, may mà quân hầu có lòng dung thứ, cho tôi được giao hiếu như xưa . Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc không sang sính vấn được, nay có mấy đội ca vũ, để khuây lòng điện hạ, bảy cỗ ngựa hay,, để êm xe điện hạ, xin đem dâng quân hầu, gọi là chút lòng kính mến, xin quân hầu nhận cho".

Qúi Tôn Tư thấy nước Lỗ được thái bình, cũng đã sinh lòng kiêu căng trễ nãi . Bỗng nghe nói nữ nhạc nước Tề mỹ miều thánh thót, trong lòng vui vẻ, liền đổi y phục, cùng với mấy người tâm phúc, đi xe lẻn ra Cao Môn để xem . Bấy giờ người nhạc trưởng đang diễn tập, tiếng hát lanh lảnh lên đến mây xanh, điệu múa nhẹ nhàng nhấp phới như làn gió dịu, khi tiến khi thoái, vẻ sáng làm quáng cả mắt người xem . Qúi Tôn Tư đứng xem một lúc lâu, trông thấy nhan sắc và phục sức, lòng như ngây dại . Lỗ Định công một ngay ba lần cho triệu, mà Qúi Tôn Tư chỉ vì ham mê nữ nhạc mà không vào triều . Đến ngày hôm sau, Qúi Tôn Tư mới vào yết kiến . Lỗ Định công đưa quốc thư của nước Tề cho xem . Qúi Tôn Tư tâu rằng:

- Đó là nhã ý của vua Tề, ta không nên từ chối .

Lỗ Định công cũng có lòng tưởng mộ liền hỏi:

- Nữ nhạc để ở đâu, ta thử đi xem thế nào .

Qúi Tôn Tư nói:

- Hiện ở ngoài Cao Môn . Chúa công ra xem, tôi xin đi theo . Nhưng sợ náo động trăm họ, chi bằng ta đổi y phục là hơn .

Bấy giờ vua tôi cũng bỏ phẩm phục, lên một cái xe nhỏ, đi ra Cao Môn . Có kẻ báo tin cho người nhạc trưởng, người nhạc trưởng truyền cho bọn nữ nhạc phải ra sức hát múa . Bấy giờ véo von đủ giọng, uốn éo trăm chiều, mười đội vũ nữ, dập dìu thay đổi, thật là đầy tai mệt mắt, nghe nhìn không kịp, làm cho hai vua tôi nước Lỗ bất giác cũng tay múa chân nhảy .

Thị vệ lại khoe với Lỗ Định công rằng:

- Ở về phía đông, có nhiều ngựa đẹp .

Lỗ Định công nói:

- Xem một chỗ này cũng tuyệt rồi, bất tất phải hỏi đến ngựa nữa!

Đêm hôm ấy, Lỗ Định công về cung, suốt đêm không ngủ . Bên tai vẫn văng vẳng nghe tiếng âm nhạc, phảng phất như mỹ nhân nằm ở cạnh mình . Ngày hôm sau, sợ hỏi triều thần thì lại mỗi người nói một cách, Lỗ Định công cho triệu một mình Qúi Tôn Tư vào cung, để viết thư đáp lại Tề Cảnh công . Trong thư giải lòng cảm kích, ở đây không nói xiết được! lại lấy trăm nén vàng để tặng sứ giả nước Tề, rồi đem nữ nhạc vào cung, chia cho Qúi Tôn Tư ba mươi người . Còn ngựa thì giao cho ngữ nhân chăn nuôi . Lỗ Định công và Qúi Tôn Tư mới được nữ nhạc, chỉ lo hưởng dụng cho thoả, ngày thì hát múa, đêm thì chiếu chăn, suốt trong ba hôm, chẳng nghĩ gì đến chính sự trong nước . Khổng Tử nghe biết việc ấy, chán mà thở dài . Học trò Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh nói rằng:

- Chúa công lười biếng, chẳng nghĩ gì đến chính sự . Thầy nên đi nước khác .

Khổng Tử nói:

- Nay mai sắp tế giao, nếu nhà vua còn giữ được đại lễ thì cũng chưa đến nỗi nào!

Đến lúc tế giao, Lỗ Định công vừa làm lễ xong, tức khắc về cung, chẳng ra coi triều, cũng chẳng nghĩ gì đến phần tế . Người coi việc chia phần tế đến hỏi thì Lỗ Định công phó thác cho Qúi Tôn Tư, Qúi Tô Tư lại phó thác cho kẻ gia thần . Khổng Tử đi tế về mãi đến chiều tối, cũng chẳng thấy thịt phần đưa đến, mới bảo Trọng Do rằng:

- Nếu vậy thì cũng là tại lòng trời!

Khổng Tử lại ngồi gẩy một khúc đàn cầm . Gẩy xong khúc đàn, liền sắp sửa hành trang để rời nước Lỗ . Trọng Do và Nhiễm Cầu cũng bỏ quan đi theo Khổng Tử . Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang nước Vệ . Vệ Linh công mừng rỡ đón vào . Khi Khổng Tử vào, Vệ Linh công hỏi việc chiến trận . Khổng Tử nói:

- Chiến trận thì tôi chưa học đến .

Ngày hôm sau, thì đi ngay . Lúc đi qua ấp Khuông, về địa giới nước Tống, người ấp Khuông vốn ghét Dương Hổ, thấy Khổng Tử giống mặt Dương Hổ, ngỡ là Dương Hổ lại đến, mới họp nhau để vây . Trọng Do nói với Khổng Tử xin đánh . Khổng Tử can rằng:

- Ta không có thù hằn gì với người ấp Khuông cả . Việc này tất có duyên cớ làm sao đây . Ta cứ yên rồi đám kia tự khắc tan .

Khổng Tử lại ngồi gảy đàn cầm . Vừa lúc ấy thì Vệ Linh công sai người đến mời Khổng Tử trở lại . Người ấp Khuông mới biết là lầm, đến xin lỗi, rồi kéo nhau đi, Khổng Tử lại trở về nước Vệ, vào trọ ở nhà quan đại phu là Cừ Viên .

Lại nói chuyện Vệ Linh công phu nhân là nàng Nam Tử, con gái nước Tống, có nhan sắc và tính tình dâm đãng . Khi còn ở Tống, Nam Tử đã tư thông với công tử Triều, cũng là một người đẹp trai . Hai bên cùng đẹp cả nên yêu nhau hơn vợ chồng . Đến lúc về với Vệ Linh công, sinh được người con tên là Khóai Qúi . Khoái Qúi đã lớn, được lập làm thế tử rồi mà nàng Nam Tử vẫn chưa bỏ được tính xưa . Bấy giờ nước Vệ lại có một chàng đẹp trai tên gọi Di Tử Hà, vốn được Vệ Linh công yêu dùng . Có khi Di Tử Hà ăn quả đào đã hết một nửa, còn thừa đem đút vào miệng Vệ Linh công . Thế mà Vệ Linh công cũng bằng lòng ăn, lại khoe với người khác rằng:

- Di Tử Hà yêu ta đến thế là cùng! một miếng đào ngon, cũng không nỡ ăn cả, lại đem chia cho ta .

Triều thần, ai cũng cười vụng . Di Tử Hà cậy thế chuyên quyền, làm nhiều điều bậy bạ . Vệ Linh công ngoài thì yêu Di Tử Hà, trong thì sợ nàng Nam Tử, muốn tìm cách làm sao cho nàng được bằng lòng nen thỉnh thoảng lại gọi công tử Triều ở Tống sang chơi với Nam Tử . Tiếng xấu đồn lan mà Vệ Linh công không lấy làm thẹn . Khóai Qúi nghĩ giận lắm, bèn sai kẻ gia thần là Hí Dương Tốc, định khi vào triều kíến thì đâm chết nàng Nam Tử để rửa sự xấu ấy đi . Nam Tử biết chuyện, mách với Vệ Linh công . Vệ Linh công đuổi Khoái Quí . Khoái Qúi chạy sang nước Tống, rồi lại sang nước Tần . Vệ Linh công lập con Khoái Qúi là công tử Triếp làm thế tử . Khi Khổng Tử trở lại nước Vệ, nàng Nam Tử biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, rất có lòng kính trọng, mới xin tiếp kiến .

Một hôm, Vệ Linh công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, để Khổng Tử đi xe sau . Khổng Tử thở dài mà than rằng:

- Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc!

Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống, cùng với học trò giảng lễ ở dưới gốc một cây lớn . Quan tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng vì đẹp trai mà được Tống Cảnh công yêu, bấy giờ đang có quyền thế, có ý ghét Khổng tử, mới sai ngươi chặt cây đi, rồi tìm cách giết Khổng Tử . Khổng Tử phải cải trang, bỏ trốn sang Trịnh, lại sắp sang Tấn . Nghe nói Triệu Uởng nước Tấn giết kẻ hiền thần, mới phàn nàn rằng:

- Giống điểu thú còn không nỡ hại lẫn nhau, huống chi là người!

Khổng Tử lại trở về nước Vệ . Chưa được bao lâu thì Linh công mất . Người nước Vệ lập công tử Triếp, con Khoái Qúi lên làm vua, tức là Vệ Xuất công . Khóai Qúi cũng nhờ có Tấn giúp, cùng với Dương Hổ chiếm cứ ấp Thích . Bấy giờ Khoái Qúi và công tử Triếp hai cha con tranh nhau, Tấn giúp cho Khoái Qúi, Tề giúp cho công tử Triếp . Khổng Tử thấy vậy, ghét là trái lễ, bỏ Vệ sang Trần, lại sắp sang Sái . Sở Chiêu vương nghe tin Khổng Tử ở khoảng nước Trần và Sái thi sai người đi đón . Các quan đại phu nước Trần và nước Sái sợ nước Sở dùng Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bèn sai người đem quân vây Khổng Tử . Khổng Tử bị tuyệt lương trong ba ngày, mà vẫn gảy đàn đọc sách . Bỗng thấy có một người dị nhân cao hơn chín thước, mũ cao áo dài, tay cầm ngọn giáo, trỏ vào mặt Khổng Tử mà quát lên, nghe tiếng thật to . Trọng Do thấy vậy chạy đến lôi ra, cùng đánh nhau ở sân . Người ấy rấ khỏe, Trọng Do không đánh nổi . Khổng Tử đứng bên, nhìn xem hồi lâu, rồi bảo Trọng Do rằng:

- Sao không nắm vào cạnh sườn!

Trọng Do liền nắm vào cạnh sườn thì người kỳ dị ấy hết sức, hai tay cứng đờ ra mà ngã xuống đất, hóa thành một con cá chiên lớn . Học trò đều lấy làm quái lạ . Khổng Tử nói

- Phàm vật gì già mà suy thì các tinh phụ vào . Ta giết đi thì thôi, chớ có chi là lạ!

Khổng Tử sai học trò đem mổ để nấu ăn cho đỡ đói . Học trò đều mừng mà nói rằng:

- Thật là của trời cho!

Sứ nước Sở đem quân đến đón Khổng Tử . Khổng Tử đến nước Sở . Sở Chiêu vương mừng lắm, toan đem đất Lý Xa phong cho Khổng Tử . Quan lệnh doãn là công tử Thân can rằng:

- Ngày xưa Văn vương ở Phong, Vũ vương ở Kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu thân tích đức, thành ra thay quyền nhà Ân mà lên làm vua . Nay đức tính của Khổng Tử chẳng kém gì Văn vương và Vũ vương mà học trò lại đều là bậc đại hiền, nếu phong đất cho thì sau này tất là thay quyền nước Sở ta mất .

Sở Chiêu vương lại thôi . Khổng Tử biết là nước Sở không thể dùng mình được, lại trở về nước Vệ . Vệ Xuất công muốn giao quyền chính, nhưng Khổng Tử không chịu theo . Quan tướng quốc nước Lỗ là Qúi Tôn Phí cũng đến triệu h.c trò Khổng Tử là Nhiễm Cầu . Khổng Tử nhân thế, lại trở về nước Lỗ . Nước Lỗ trọng đãi Khổng Tử, coi như bậc quan đại phu về cáo lão . Sau đó trong bọn học trò Khổng Tử, thì có Trọng Do và Cao Sai làm quan nước Vệ; Đoan Mộc Tứ, Nhiễm Cầu, Hữu Nhược và Ninh Bất Tề làm quan nước Lỗ .

Lại nói chuyện vua Ngô là Hạp Lư khi đánh được nước Sở, uy danh lừng lẫy, sinh ra chơi bời, sửa sang cung thất; lập cung Trường Lạc ở giữa kinh thành, lại đắp Cao đài ở trên núi Cô Tô (núi ấy ở phía tây nam thành nước Ngô, cũng là núi Cố Tư), mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi . Mùa xuân và mùa hạ thì Hạp Lư ở ngoài thành, mùa thu và mùa đôg thì vào ở trong thành . Một hôm, Hạp Lư nghĩ đến cái thù người Việt đánh Ngô khi trước, định sang báo lại . Lại nghe tin Tề và Sở sai sứ giao hiếu với nhau, nên giận mà nói rằng:

- Tề và Sở giao hiếu với nhau là một sự lo cho ta ở phía bắc . Ta muốn đánh Tề trước, rồi sau sẽ đánh Việt .

Tướng quốc là Ngũ Viên can rằng:

- Lân quốc sai sứ đi lại giao hiếu, đó là lẽ thường, vị tất đã phải là Tề định giúp Sở mà hại ta, ta chớ nên cất quân sang đánh vội . Nay vợ cả thế tử Ba đã mất, chưa có kế thất, sao đại vương không sai sứ sang Tề cầu hôn, nếu Tề không cho, bấy giờ sẽ đánh, cũng không muộn .

Hạp Lư theo lời, sai quan đại phu là Vương Tôn Lạc sang nước Tề, để cầu hôn cho thế tử Ba . Bấy giờ Tề Cảnh công tuổi đã già cả, chí khí suy kém, không được hăng hái như xưa . Trong cung chỉ còn có một người con gái đang nhỏ chưa gả chồng, không nỡ đem bỏ đất Ngô . Ngặt vì trong triều không có người tài, ngoài biên không có tướng giỏi, nếu trái ý nước Ngô thì e rằng Ngô lại đem quân sang đánh, chịu lầm than khốn khổ, như nước Sở, bấy giờ hối sao kịp! quan đại phu là Lê Di cũng khuyên Tề Cảnh công nên kết hôn với Ngô, chớ nên làm cho Ngô tức giận, Tề Cảnh công bất đắc dĩ phải gả con gái là nàng Thiếu Khương cho Ngô . Vương tôn Lạc về nói với Hạp Lư . Hạp Lư về sai Vương Tôn Lạc đem sính lễ sang nước Tề, để cưới nàng Thiếu Khương về cho thế tử Ba .

Tề Cảnh công phần thương con gái, phần sợ nước Ngô, đem lòng căm tức, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, thở dài mà nói rằng:

- Nếu Án Anh và Điền Nhương Thư còn thì nào ta đến nỗi phải sợ người nước Ngô như thế này!

Tề Cảnh công lại bảo quan đại phu là Bão Mục rằng:

- Ta nhờ nhà ngươi đưa con gái ta sang Ngô . Đây là con gái yêu của ta, nhà ngươi tâu với vua Ngô săn sóc cho nó .

Tề Cảnh công thân hành ra đỡ nàng Thiếu Khương lên xe rồi tiễn đến cửa nam mới trở lại . Bão Mục đưa nàng Thiếu Khương sang Ngô, và đem lời nói của Tề Cảnh công tâu với Hạp Lư . Bão Mục mến tiếng Ngũ Viên là người giỏi, bèn cùng với Ngũ Viên kết giao . Nàng Thiếu Khương hãy còn nhỏ tuổi, dẫu cùng thế tử Ba kết hôn, nhưng chưa biết cái vui vợ chồng, chỉ một lòng tưởng nhớ cha mẹ, ngày đêm kêu khóc . Thế tử Ba thường khuyên dỗ, nhưng nàng Thiếu Khương vẫn sầu thảm không vui, dần dần uất kết thành bệnh . Hạp Lư thương lắm, mới truyền lập một cái lầu ở phía bắc Môn rất là hoa mỹ, đặt tên là Vọng Tề Môn, để cho nàng Thiếu Khương hàng ngày lên chơi đấy . Nàng Thiếu Khương trèo lên Vọng Tề lầu, trông về phía bắc, chẳng thấy nước Tề đâu cả, lại còn thương xót, nên bệnh mỗi ngày một nặng .

Khi nàng Thiếu Khương gần chết, dặn thế tử Ba rằng:

- Thiếp nghe nói đứng đỉnh núi Ngư Sơn, có thể trông về Đông Hải được . Xin thế tử chôn thiếp ở chỗ ấy, may ra hồn thiếp có khôn thiêng còn được trông về nước Tề .

Thế tử Ba tâu lại với Hạp Lư, rồi sai an táng nàng Thiếu Khương ở trên đỉnh núi Ngư Sơn . Hạp Lư muốn chọn trong các công tử để lập một người làm thế tử, nhưng chưa biết lập ai, vẫn định bàn với Ngũ Viên . Vợ cả thế tử Ba sinh được một người con, tên là Phù Sai, năm ấy đã hai mươi sáu tuổi . Phù Sai vốn người ngang tàng anh vĩ, thật là một bậc tài nhân . Nghe nói ông là Hạp Lư muốn chọn lập thế tử, liền vào yết kiến Ngũ Viên mà nói rằng:

- Ta đây là cháu đích tôn, nếu lập thế tử mà bỏ ta thì định lập ai ? việc này chỉ xin nhờ một câu nói của quan tướng .

Ngũ Viên nhận lời . Được một lúc, Hạp Lư sai người triệu Ngũ Viên đến để bàn việc lập thế tử . Ngũ Viên nói:

- Muốn cho về sau khỏi sinh biến loạn thì phải lập đích tử, nay thế tử dẫu tạ thế, nhưng đã có đích tôn là Phù Sai đó .

Hạp Lư nói:

- Ta xem Phù Sai là người ngu mà bất nhân, sợ không giữ được cơ nghiệp .

Ngũ Viên nói:

- Phù Sai là người tín nghĩa; vả lại cha chết thì con thay đó la hợp lẽ phải, còn nghi ngờ nỗi gì!

Hạp Lư nói:

- Ta nghe nhà ngươi, nhà ngươi cố mà giúp thế tử !

Hạp Lư nói xong, liền lập Phù Sai làm thế tôn . Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn . Năm thứ 24 đời Chu Kính vương, Hạp Lư tuổi già, tính khí càng thêm nóng nảy, nghe nói là vua nước Việt là Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn mới lập, bèn định nhân khi nước Việt có tang, đem quân sang đánh . Ngũ Viên can rằng:

- Nước Việt dẫu có tội đánh lén nước Ngô khi trước, nhưng nay đang có tang, ta chớ nên đánh vội .

Hạp Lư không nghe, giao quốc chính cho Ngũ Viên và Phù Sai, rồi cùng bọn Bá Hi, Vương Tôn Lạc và Chuyên Nghị, đem ba vạn tinh binh tiến sang nước Việt . Vua Việt là Câu Tiễn thân hành ra đốc quân, Chư Kế Dĩnh làm đại tướng, Linh Cô Phù làm tiên phong, Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu doãn, gặp quân Ngô ở đất Huề Lý, hai bên đóng dinh, cách nhau mười dặm, cùng nhau giao chiến, chưa phân được thua . Hạp Lư giận lắm, mới đem hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn, nghiêm cấm trong quân không được khinh động, chờ khi quân Việt trễ nãi sẽ đánh . Câu Tiễn trông thấy quân Ngô nghiêm chỉnh, bèn bảo Chư Kế Dĩnh rằng:

- Khí thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia, ta chớ nên khinh thương, phải dùng kế để làm cho họ rối loạn .

Câu Tiễn sai quan đại phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn đốc quân sĩ ở hai bên tả hữu xông vào đánh dinh quân Ngô . Quân Ngô cứ giữ vững thế trận, rồi dùng cung nỏ mà bắn lại . Quân Việt không phá nổi, lại phảu rút về . Câu Tiễn không biết làm thế nào . Chư Kế Dĩnh mật tâu rằng:

- Ta nên dùng lũ tội nhân ..

Câu Tiễn hiểu ngay . Ngay hôm sau, mật truyền quân lệnh: bắt lũ tội nhân vẫn đem theo trong quân, cả thảy ba trăm người, chia làm ba toán, đều để trần vai áo, lấy kiếm trỏ vào cổ, tiến sang quân Ngô . Người đi đầu nói với quân Ngô rằng:

- Chúa công tôi không biết tự lượng sức mình, để đắc tội với qúy quốc, nay qúy quốc đã đem quân đến đánh, chúng tôi không dám tham sống, xin tình nguyện chết thay chúa công tôi .

Người đi đầu nói xong thì cả bọn cứ thứ tự đâm cổ mà chết .

Quân Ngô xưa nay chưa trông thấy bao giờ, đều lấy làm quái lạ, ngây mặt ra mà nhìn; rồi lao nhao hỏi lẫn nhau, không biết là cớ làm sao . Bỗng thấy quân Việt nổi hiệu trống, Trù Vô Dư và Tư Hãn đem hai toán quân, cầm dao cắp mộc, xông đến tận nơi mà đánh . Quân Ngô hoảng hốt, thành rối loạn . Câu Tiễn lại đem đại binh kéo đến, phía hữu có Chư Kế Dĩnh, phía tả có Linh Cô Phù, xông vào trong trận quân Ngô . Tướng Ngô là Vương Tôn Lạc cố sức cùng với Chư Kế Dĩnh giao chiến . Linh Cô Phù trông thấy vua Ngô là Hạp Lư, liền cầm dao xông vào để chém . Hạp Lư vội vàng bỏ chạy, Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải Hạp Lư rơi giầy, ngã lăn xuống đất, may có tướng quân của Chương Nghị đến, mới cứu thoát được . Chương Nghị bị nhiều viết thương nặng . Vương Tôn Lạc biết là Hạp Lư bị thương, không dám ham đánh, vội vàng rút quân, bị quân Việ đuổi theo giết chết quá nửa . Hạp Lư bị thương nặng, tức khắc rút quân . Linh Cô Phù bắt được chiếc giầy của Hạp Lư, đem về nộp Câu Tiễn . Câu Tiễn mừng lắm .

Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, không chịu đau được, đi được bảy dặm đường thì kêu to lên một tiếng mà chết . Bá Hi hộ tang đi trước, Vương Tôn Lạc đem quân đi sau, dần dần về đến nước Ngô . Quân Việt cũng không đuổi theo nữa . Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô; đưa linh cữu Hạp Lư ra an táng ở Hải Dũng Sơn; sai thợ đào núi làm huyệt, rồi đem lưỡi "Ngư trường" của Chuyên Chư dùng khi trước để chôn theo, cùng rất nhiều vàng ngọc . Khi an táng rồi, lại giết hết cả bọn thợ để chôn theo nữa . Ba hôm sau, có người trông thấy ở trên núi ấy có con bạch hổ nằm phục, mới gọi tên ấy là Hổ Khâu Sơn . Kẻ thức giả cho là tại chôn nhiều vàng, nên kim khí hiện ra như thế . Đến đời nhà Tần, Tần Thuỷ Hoàng sai người đào mộ Hạp Lư để tìm lưỡi Ngư trường, nhưng tìm không thấy, chỗ đào sau thành ngòi sâu, tức là Hổ Khâu kiếm trì . Chương Nghị bị thương nặng, cũng chết, phụ táng ở sau núi ấy, nay không biết mộ tại chỗ nào . Phù Sai đã an táng Hạp Lư rồi, lập con trưởng là Hữu làm thế tử, lại sai mười nội thị thay đổi nhau đứng ở giữa sân, mỗi khi mình đi ra đi vào thì mấy người ấy lại quát to lên, gọi tên mà bảo:

- Phù Sai! mày quên cái thù vua Việt giết ông mày rồi sao ?

Phù Sai liền khóc mà đáp rằng:

- Dạ! không bao giờ tôi dám quên!

Phù Sai lại sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện thủy quân ở Thái Hồ, lập trường bắn ở Linh Nham Sơn để tập bắn, đợi khi hết tang ba năm, sẽ sang đánh nước Việt để báo thù .

Bấy giờ Tấn Khoảnh công nhu nhược, sáu quan khanh tranh quyền, chực giết hại lẫn nhau . Tuân Di (tức là Phạm thị) cùng Sĩ Cát Xạ (tức là trung hàng thị) thân nhau giao kết hôn nhân, bởi vậy Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa đều có bụng ghét, Thâm Lịch (tức là Trí thị) có yêu một gia thần, tên gọi là Lương Anh Phủ, muốn cho làm quan khanh . Lương Anh Phủ cậy có Tuân Lịch yêu, lập kế đuổi Tuân Di để thay giữ quyền chức, bởi vậy Tuân Lịch cũng sinh thù ghét Phạm thị và Trung Hàng thị . Quan thượng khanh là Triệu Uởng có người cháu tên là Ngọ, được phong ở đất Hàm Đan, mẹ Ngọ là em gái Tuân Di, cho nên Tuân Di là cậu mà Ngọ là cháu .

Năm trước, Vệ Linh công và Tề Cảnh công họp mưu phản Tấn, Triệu Uởng nước Tấn đem quân đánh Vệ . Nước Vệ sợ, xin nộp năm trăm nóc nhà để tạ tội . Triệu Uởng cho Ngọ ở lại đất Hàm Đan gọi là Vệ Cống . Chưa bao lâu, Triệu Uởng muốn thiên năm trăm nóc nhà ấy sang Tấn Dương . Ngọ sợ người nước Vệ không phục, chưa dám vâng lệnh ngay . Triệu Uởng cho là Ngọ chống cự với mình liền nổi giận, bắt về Tấn Dương mà giết đi . Tuân Di giận Triệu Uởng về việc giết cháu, mới bàn nhau với Sĩ Cát Xạ định cùng đánh Triệu Uởng để báo thù cho Ngọ . Triệu Ưởng có người mưu thần tên gọi Đổng An Vu, bấy giờ đang giữ thành Tấn Dương cho Triệu Uởng . Đổng An Vu nghe được mưu của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, tức khắc về Giáng Đô nói với Triệu Uởng rằng:

- Phạm thị và Trung Hàng thị vẫn liên kết với nhau, nay nếu họ nổi loạn thì ta khó lòng trị được, ngài nên phòng bị trước .

Triệu Uởng nói:

- Nước Tấn ta vẫn có lệnh rằng kẻ nào làm loạn thì phải chịu tội chết . Ta cứ đợi hắn nổi lọan trước rồi sau sẽ hay .

Đổng An Vu nói:

- Để cho hắn nổi loạn thì hại trăm họ, chẳng thà một mình tôi chết thay . Nếu có việc gì tôi xin chịu tội .

Triệu Uởng không nghe . Đổng An Vu cứ sửa soạn giáp binh để đợi khi có việc . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ tuyên bố với mọi người rằng:

- Đổng An Vu sửa soạn giáp binh là có ý định hại ta .

Nói xong, liền họp quân đến vây nhà Triệu Uởng . May mà Đổng An Vu đã phòng bị sẵn, mới đem quân cứu thóat được Triệu Ưởng chạy sang thành Tấn Dương . Triệu Uởng sợ hai nhà kia đem quân đến đánh, mới lập cách cố thủ . Tuân Lịch bảo Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa rằng:

- Triệu Uởng là đầu trong sáu quan khanh . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ không vâng mệnh vua mà dám đem quân đuổi đánh, thế thì quyền chính về tay hai nhà ấy cả .

Hàn Bất Tín nói:

- Chi bằng ta buộc hai nhà ấy vào tội thủ xướng mà đánh đuổi đi .

Ba người cùng vào tâu với Tấn Định công, rồi phụng mệnh Tấn Định công đem quân đi đánh Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, Tuân Di và Sĩ Cát Xạ cố sức chống lại, nhưng không thể địch nổi, mới bàn nhau và bắt hiếp Tấn Định công . Hàn Bất Tín sai người rao ở giữa chợ rằng:

- Phạm thị và Trung Hàng thị mưu phản, nay định đem quân vào hiếp vua .

Người trong nước tin lời ấy, đều cầm binh khí đến cứu Tấn Định công . Ba nhà nọ nhờ sức người trong nước, phá tan được quân Tuân Di và Sĩ Cát Xạ . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Triều Ca . Hàn Bất Tín nói với Tấn Định công rằng:

- Phạm thị và Trung Hàng thị thật là kẻ khởi xướng việc loạn, nay đã bị đuổi rồi, còn họ Triệu mấy đời có công to với nước Tấn ta, nên cho được phục chức .

Tấn Định công thuận cho, liền gọi Triệu Uởng ở Tấn Dương về cho được phục chức . Lương Anh Phủ (gia thần của Tuân Lịch) muốn thay Tuân Di làm quan khanh . Tuân Lịch vào nói với Triệu Uởng, Triệu Uởng hỏi Đổng An Vu . Đổng An Vu nói:

- Nước Tấn ta chỉ vì có nhiều người cầm giữ quyền chính, nên mới thành ra nhiễu loạn, nếu lập Lương Anh Phủ thì khác nào lại thêm một Tuân Di .

Triệu Uởng mới không cho Lương Anh Phủ làm quan khanh . Lương Anh Phủ giận lắm, biết là tại Đổng An Vu ngăn trở, mới bảo Tuân Lịch rằng:

- Họ Hàn và họ Ngụy đều về phái họ Triệu thì ta cô thế mất! họ Triệu chỉ trông cậy vào mưu thần là Đổng An Vu, sao ta chẳng nghĩ cách trừ đi ?

Tuân Lịch hỏi:

- Dùng kế gì mà trừ được ?

Lương Anh Phủ nói:

- Đổng An Vu sửa soạn giáp binh để gây nên loạn . Phạm thị và Trung Hàng thị nếu bị kẻ thủ xướng thì nên bắt tội Đổng An Vu .

Tuân Lịch bèn theo lời Lương Anh Phủ đến trách Triệu Uởng . Triệu Uởng sợ . Đổng An Vu nói với Triệu Uởng rằng:

- Tôi định bụng liều chết đã lâu rồi! tôi chết mà yên được họ Triệu thì chết còn hơn sống!

Đổng An Vu lui ra, thắt cổ chết . Triệu Uởng đem giăng xác Đổng An vu ra ngoài chợ, rồi sai người bảo với Tuân Lịch rằng:

- Hiện đã trị tội Đổng An Vu rồi!

Tuân Lịch cùng Triệu Uởng kết minh, hai bên cam kết không hại nhau . Triệu Uởng vẫn thờ riêng Đổng An Vu ở trong gia miếu để báo đền công trước . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chiếm Triều Ca đã được lâu ngày . Những nước chư hầu phản Tấn đều muốn nhân dịp ấy làm hại nước Tấn . Triệu Uởng đã nhiều lần đem quân đến đánh, nhưng Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ đều sai sứ giúp thóc và quân cho Tuân Di cùng Sĩ Cát Xạ, Triệu Uởng không thể đánh nổi, mãi đến năm thứ 30 đời Chu Kính vương, Triệu Uởng họp quân ba nhà: Hàn, Ngụy và Trí mới phá vỡ được Triều Ca . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Hàm Đan, sau lại chạy sang Bách Nhân . Chưa được bao lâu thành Bách Nhân cũng vỡ, bọn vây cánh của Tuân Di va Sĩ Cát Xạ là Phạm Cao Di, Trương Liễu Sóc đều bị chết trận, còn Dư Nhượng cũng bị con Tuân Lịch là Tuân Giáp bắt được . Con Tuân Giáp là Tuân Dao xin tha cho Dự Nhượng, từ bấy giờ Dự Nhượng về làm tôi Trí thị . Tuân Di và Sĩ Cát Xạ bỏ trốn sang nước Tề . Trong bọn sáu quan khanh nước Tấn, từ bấy giờ chỉ còn có bốn là Triệu, Ngụy, Hàn, Trí mà thôi .

Mùa xuân tháng hai năm thư 26 đời Chu Kính vương, vua Ngô là Phù Sai đã hết tang ông, mới cáo nhà thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, cử đại binh theo đường thuỷ qua Thái Hồ sang đánh nước Việt . Vua Việt là Câu Tiễn họp triều thần lại để thương nghị . Quan đại phu là Phạm Lãi (tên tự là Thiếu Bá) tâu rằng:

- Nước Ngô bị ta giết mất vua, lập chí báo thù đã ba năm nay rồi, khí lực đang hăng hái lắm, ta khó lòng mà địch nổi, nên phải nghĩ cách cố thủ mới được .

Quan đại phu là Văn Chủng tâu rằng:

- Cứ như tôi thiển nghĩ thì không gì bằng sai người xin lỗi để cầu hoà, để cho hắn rút quân về, rồi sau sẽ liệu .

Câu Tiễn nói:

- Hai người, một người nói thủ, một người nói hoà, đều không phải là thiện kế . Nước Ngô là thế thù của ta, nay đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại, thì chẳng cũng hèn lắm!

Câu Tiễn liền đem ba vạn quân ra đón đánh ở dưới núi Tiêu Sơn . Lúc mới giao chiến, quân Ngô hơi lùi . Quân Việt giết được hơn trăm người . Câu Tiễn thừa thắng tiến vào, đi được mấy dặm thì gặp đại binh của Phù Sai . Hai bên bày trận giao chiến . Phù Sai đứng ở mũi thuyền, tay cầm dùi đánh trống để đốc suất tướng sĩ . Tướng sĩ đều hăng hái hơn trước . Gặp có gío bắc nổi lên, sóng nổi dữ dội, Ngũ Viên và Bá Hi mỗi người ngồi một chiếc thuyền lớn, giương buồm thuận gió mà tiến . Quân Ngô đem cung nỏ bắn ra như mưa . Quân Việt ngược gió, không thể đương nổi, thua to bỏ chạy . Quân Ngô chia ba đường đuổi theo . Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết . Tư Hãn cũng bị tên mà chết . Vua Ngô thừa thắng đuổi theo, giết được quân Việt không biết bao nhiêu mà kể . Câu Tiễn chạy vào Cố Thành, quân Ngô vây kín mấy lần, khiến cho quân Việt không có đường lấy nước uống . Phù Sai mừng mà nói rằng:

- Ta chắc rằng chỉ trong mười ngày thì quân Việt đều chết khát tất cả!

Ngờ đâu ở trên đỉnh núi có một cái suối nước . Dưới suối có nhiều cá ngon . Câu Tiễn sai đem mấy trăm con cá sang biếu vua Ngô . Vua Ngô kinh sợ . Câu Tiễn để Phạm Lãi cố thủ ở đấy, rồi đem một toán tàn binh lẻn chạy về núi Cối Kê quân sĩ chỉ còn có hơn trăm nghìn người . Câu Tiễn thở dài mà nói rằng:

- Từ đời tiên quân đến giờ, trong ba mươi năm, ta chưa hề thua trận nào như thế này! cũng bởi ta không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng đó!

Quân Ngô đánh Cố Thành gấp lắm . Ngũ Viên đóng dinh ở phía hữu . Bá Hi đóng dinh ở phía tả . Trong một ngà, Phạm Lãi ba lần sai người đến cáo cấp với vua Việt là Câu Tiễn . Câu Tiễn sợ lắm .

Văn Chủng hiến kế rằng:

- Nay việc đã nguy cấp lắm, nhưng cho người ra xin hoà, cũng còn có thể kịp được!

Câu Tiễn nói:

- Nước Ngô có quan thái tể là Bá hi, người ấy tham của mê sắc, lại có lòng ghen ghét những kẻ tài năng, cùng với Ngũ Viên đồng triều mà vẫn không hợp ý nhau . Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm, ta nên sang dinh Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hoà cho . Bá Hi nói với vua Ngô, điều gì cũng được, dẫu Ngũ Viên biết mà ngăn trở, cũng không thể kịp .

Câu Tiễn nói:

- Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì ?

Văn Chủng nói:

- Quân trung thì không gì hiếm bằng nữ sắc . Ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng . Nếu trời còn thương nước Việt ta thì Bá Hi tất nghe lời .

Câu Tiễn tức khắc sai sứ về đô thành nói với phu nhân tuyển những mỹ nữ trong cung cả thẩy được tám người, cho trang sức rất lịch sự, lại thêm hai mươi đôi bạch bích, một nghìn nén hoàng kim, ngay đêm hôm ấy sai Văn Chủng sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến . Bá Hi lúc đầu đã toan từ chối, nhưng sai người ra dò thì thấy có nhiều lễ vật, mới thuận cho vào . Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi . Văn Chủng quỉ mà kêu rằng:

- Chúa công tôi là Câu Tiễn hãy còn trẻ tuổi, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nỗi tai vạ, nay chúa công tôi đã biết hối tội, xin đem cả nước làm tôi vua Ngô, nhưng sợ vua Ngô không nghe; chúa công tôi biết ngài là người có công với Ngô, mặt ngoài là bức thành cho nước Ngô, mặt trong là tâm phúc của vua Ngô, vậy sai tôi là Văn Chủng sang để van lạy ngài trước, nhờ ngài nói dùm cho một câu, gọi là có chút lễ lạc, đem dâng ngài . Từ nay trở đi, còn nhiều ân nghĩa về sau nữa .

Văn Chủng liền cầm cái đơn kê khai các lễ vật dâng trình Bá Hi . Nhưng Bá Hi còn làm ra vẻ giận dữ mà mắng rằng:

- Nước Việt ngươi chẳng qua chỉ trong sớm tối thì bị phá diệt! phàm của cải nước Việt, cái gì không về tay nước Ngô, mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn này sang dử ta hay sao!

Văn Chủng lại nói:

- Nước Việt tôi dẫu thua, nhưng nay đóng ở Cối Kê, hiện còn năm nghìn quân tinh nhuệ, có thể giao chiến được một trận . Nếu giao chiến mà thua, bấy giờ chúa công tôi sẽ đốt hết kho tàng mà đem thân trốn đi nước ngoài, để cầu viện quân Sở, chưa chắc nước Việt tôi đã về tay nước Ngô được . Giả sử có về tay nước Ngô nữa thì qúa nửa của cải nộp về cho Ngô, còn ngài và các tướng chẳng quan mỗi người được một vài phần; chi bằng ngài làm ơn nói cho nước Việt tôi được giảng hoà thì chúa công tôi dẫu đem thân nhờ vua Ngô, mà thực là đem thân nhờ ngài đó . Mỗi khi cống hiến, chưa nộp vua Ngô, đã phải nhớ đến ngài trước . Có phải là ngài hưởng riêng một mối lợi to, mà các tướng không ai được dự đến . Huống chi giống thú mà đến lúc cùng khốn, cũng phải cố cắn; nếu Việt liều một trận sống chết, nào đã chắc rồi ra thế nào!

Văn Chủng giãi bày một hồi lâu, làm cho lòng Bá Hi chuyển động . Bá Hi mới giật đầu mà tủm tỉm cười . Văn Chủng lại trỏ cái đơn kê khai lễ vật mà nói rằng:

- Tám người mỹ nữ này đều tuyển ở trong cung nước Việt, nhưng nếu chọn ở dân gian thì sẽ còn nhiều người đẹp hơn . Chúa công tôi được về nước Việt thì xin hết sức tìm tòi để lại đem dâng nộp .

Bá Hi đứng dậy mà nói rằng:

- Quan đại phu không sang hữu dinh (trỏ dinh Ngũ Viên) mà tới đây hẳn cũng biết là tôi không có ý hại người . Để đến sáng mai, tôi xin đưa quan đại phu vào yết kiến vua Ngô, rồi sẽ bàn định .

Bá Hi nhận lễ vật và lưu Văn Chủng ở trong dinh, bày tiệc thết đãi . Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai . Bá Hi vào trước, đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin hoà, nói với Phù Sai . Phù Sai bừng bừng nét mặt mà bảo rằng:

- Nước Việt cùng ta có cái thù không đội trời chung, khi nào ta lại cho hoà!

Bá Hi nói:

- Đại vương không nhớ lời nói của Tô Vũ khi xưa hay sao! "Việc binh là nên dùng tạm, chứ không nên dùng lâu" . Nước Việt dẫu đắc tội với ta, nhưng tôi tưởng nước Việt cũng đã chịu nhún nước Ngô ta nhiều lắm: vua Việt xin làm tôi nước Ngô, vợ vua Việt xin làm thiếp nước Ngô, bao nhiêu châu báu nước Việt, đem nộp vào cung nước Ngô cả . Nước Việt chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi . Vậy thì ta cho nước Việt hoà, lợi biết dường nào, mà ta được tiếng là tha cho nước Việt . Như vậy thì nước Ngô ta có cớ làm bá chủ được . Nếu cố sức mà diệt nước Việt thì Câu Tiễn kia tất cũng đành đốt tôn miếu, giết vợ con, ném hết vàng ngọc suống sông, rồi đem năm nghìn quân cảm tử mà liều chết với nước Ngô ta, chẳng cũng hại đến tôi con của chúa công lắm ru! dầu có giết được người ấy, sao bằng thu được nước ấy, chả có phần lợi hơn ư!

Phù Sai nói:

- Bây giờ Văn Chủng ở đâu ?

Bá Hi nói:

- Hiện đang đứng chờ ở ngoài .

Phù Sai cho triệu vào . Văn Chủng quì gối kéo lết mà tiến lên, lại đem những lời hôm trước mà nói với Phù Sai nhưng còn có phần khúm nún hơn . Phù Sai nói:

- Vua ngươi xin làm tôi Ngô, vậy thì có chịu theo ta về Ngô hay không ?

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

- Đã xin làm tôi nhà vua thì sống chết ở trong tay nhà vua, thế nào cũng xin vâng mệnh .

Bá Hi nói với Phù Sai rằng:

- Vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô, vậy thì nước Ngô ta dẫu tha cho Việt, cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt . Đại vương còn muốn chi nữa!

Phù Sai liền cho nước Việt giảng hoà . Có người sang hữu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết . Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai . Khi vào đến nơi, thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng ở bên cạnh Phù Sai . Ngũ Viên hầm hầm nổi giận, hỏi Phù Sai rằng:

- Đại vương đã cho nước Việt giảng hoà rồi à ?

Phù Sai nói:

- Ta đã cho rối

Ngũ Viên kêu luôn mấy tiếng:

- Không nên! không nến

Văn Chủng hoảng sợ, đứng lui xuống mấy bước để nghe Ngũ Viên nói hết . Ngũ Viên can Phù Sai rằng:

- Việt tiếp giáp với ta, thế không cùng đứng được! nếu Ngô không diệt Việt thì Việt cũng diệt Ngô . Kìa như Tần Tấn, dẫu ta đánh được, mà đất của họ, ta không thể ở được, xe của họ ta không thể đi được; còn như Việt mà ta đánh được, thì đất của họ ta ở được, thuyền của họ ta đi được, đó là cái lợi của xã tắc, không thể bỏ . Huống chi Việt là kẻ thù lớn của tiên vương ta ngày xưa, ta không diệt Việt thì chẳng phụ mất lời thề trước sân ngày xưa hay sao ?

Phù Sai nín lặng, không biết nói ra thế nào, chỉ đưa mắt mà nhìn Bá Hi, Bá Hi nói:

- Quan tướng quốc nói thế là lầm! nếu bảo rằng Ngô Việt ở về mặt thuỷ, thế tất phải diệt nhau, thì Tần, Tấn, Tề, Lỗ cùng ở mặt bộ, có lẽ cũng phải diệt nhau hay sao ? nếu bảo rằng Việt là kẻ thù lớn của tiên vương nước Ngô, không thể tha được, vậy thì quan tướng quốc thù Sở biết dường nào, mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hoà làm gì ? nay vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện về Ngô, so với Sở chỉ nộp một công tử Thắng, thì lại càng không giống nhau nữa! quan tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho đại vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế ?

Phù Sai mừng mà bảo Ngũ Viên rằng:

- Bá Hi nói phải, nhà ngươi hãy lui về, đợi khi nước Việt cống tiến, ta sẽ chia tặng nhà ngươi .

Ngũ Viên sầm nét mặt lại, thở dài mà than rằng:

- Tiếc thay! ta không nghe lời Bị Ly, mà lại cùng với đứa gian thần đồng sự!

Ngũ Viên căm tức không thôi; mồm cứ lẩm bẩm; khi lui ra ngoài, bảo quan đại phu là Vương Tôn Hùng rằng:

- Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa, chẳng qua chỉ hai mươi năm thì cung điện nước Ngô thành ra ao chuôm mất cả!

Vương Tôn Hùng cũng chưa lấy làm tin lắm . Ngũ Viên nuốt giận mà trở về hữu dinh . Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn . Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn . Phù Sai hỏi:

- Bao giờ thì vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô ?

Văn Chủng nói:

- Chúa công tôi đội ơn đại vương xá cho, định trở về nước nhà thu xếp nhưng ngọc lụa trai gái để đem sang cống, xin đại vương hãy tạm khoan kỳ hạn cho . Dầu chúa công tôi có đem lòng thất tín cũng chẳng trốn được búa rìu sấm sét của đại vương .

Phù Sai thuận cho, liền ước định đến trung tuần tháng năm thì vợ chồng vua Việt phải sang Ngô . Lại sai Vương Tôn Hùng theo Văn Chủng sang Việt để giục vua Việt phải mau mau khởi trình, còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ vua Việt, nếu vua Việt sai hẹn không sang thì sẽ đem quân diệt nước Việt . Phù Sai kéo đại binh trở về trước .

Đông Châu Liệt Quốc - Hồi 80 : Phù Sai mắc mưu tha vua ViệtCâu Tiễn hết sức thờ nước Ngô

Quan đại phu nước Việt là Văn Chủng được vua Ngô cho hoà, về tâu với vua Việt rằng:

- Vua Ngô đã rút quân về, có sai quan đại phu là Vương Tôn Hùng theo tôi đến đây để giục khởi trình; còn quan thái tể là Bá Hi thì đóng quân ở Ngô Sơn để đợi chúa công sang cống .

Câu Tiễn nghe nói, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng . Văn Chủng nói:

- Kỳ hạn đã gần đến nơi, chúa công nên mau mau trở về thành để thu xếp việc nước, chứ thương khóc làm gì!

Câu Tiễn gạt nước mắt trở về thành, trông thấy chợ búa như cũ mà trai tráng tiêu điều thì rất là hổ thẹn . Vua Việt mời Vương Tôn Hùng nghỉ ở công quán rồi thu xếp vàng ngọc đóng thành mấy xe; lại chọn những mỹ nữ trong nước được ba trăm ba mươi người, định đem ba trăm người nộp Phù Sai, còn ba mươi ngươi đem nộp cho Bá Hi . Câu Tiễn vẫn còn chưa muốn khởi hành, Vương Tôn Hùng phải giục giã luôn mãi .

Câu Tiễn khóc mà bảo triều thần rằng:

- Ta nối nghiệp tiền nhân, vẫn một lòng kính sợ; không dám lười biếng, nay vì một trận thua mà đến nỗi này, phải đem thân đi làm thằng tù ở nước khác, chuyến đi này chắc không có ngày trở lại!

Triều thần đều ứa nước mắt . Văn Chủng tâu rằng:

- Ngày xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, Văn vương bị giam ở Dữ Lý mà sau nên được nghiệp vương; Tề Hoàn công phải chạy sang nước Cử, Tấn Văn công phải chạy sang nước Địch, mà sau nên được nghiệp bá . Xem thế thì biết cai cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho đứng vương bá đó . Chúa công cứ vững lòng mà theo ý trời, sẽ có ngày hưng thịnh được, can chi mà quá nghĩ, để đến nỗi tổn thương cái chí của mình .

Ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương Tôn Hùng đi trước một ngày, Câu Tiễn và phu nhân đi sau . Triều thần tiễn đến bến sống Chính Giang . Phạm Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rượu tiễn . Văn Chủng dâng chén rượu chúc cho Câu Tiễn . Câu Tiễn ngẩng mặt lên trời mà thở dài, rồi cầm chén mà rơi nước mắt, chẳng nói gì cả . Phạm Lãi nói:

- Các bậc thánh hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não, những điều sỉ nhục, không thể chịu được, có phải là chỉ một chúa công ngày này mà thôi đâu!

Câu Tiễn nói:

- Ngày xưa vua Nghiêm dùng hiền thần là Thuấn và Vũ mà thiên hạ được trị bình, dẫu có thuỷ tai, cũng không hại người lắm . Nay ta phải bỏ Việt sang Ngô, giao nước nhà cho các quan đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy!

Phạm Lãi bảo triều thần rằng:

- Tôi thiết tưởng vua phải lo thì bề tôi nhục, vua phải nhục thì bề tôi nên chết . Nay chúa công ta phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục về nỗi sang Ngô, bọn ta đây há lại không có một kẻ hào kiệt vì chúa công chia buồn hay sao ?

Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng:

- Ai cũng là tôi con, tuỳ ý chúa công sai khiến .

Câu Tiễn nói:

- Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chí mình để xem ai có thẻ theo đi, ai có thể ở nhà giữ nước được ?

Văn Chủng nói:

- Ở nhà để xem xét công việc trong nước thì Phạm Lãi không bằng tôi, nhưng đi theo chúa công mà lâm cơ ứng biến thì tôi không bằng Phạm Lãi .

Phạm Lãi nói:

- Văn Chủng xét mình đã rõ lắm, chúa công nên đem việc nước mà giao cho, còn như việc nhẫn nhục mà theo chúa công để nghĩ cách báo thù thì tôi không dám từ chối .

Phạm Lãi nói xong thì lần lượt đến các quan đại phu tỏ bày ý kiến . Quan thái tể là Khổ Thành nói:

- Tuyên bố mệnh lệnh để tỏ đức tính của nhà vua, và quyết đóan những việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi!

Quan hành nhân là Duệ Dung nói:

- Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nỗi chịu nhục, đó là việc của tôi!

Quan tư trực là Hạc Tiến nói:

- Vua có điều gì trái lẽ, xin hết sức can ngăn, dẫu kẻ thân thích nhà vua cũng không vị nể, đó là việc của tôi!

Quan tư mã là Chư Kế Dĩnh nói:

- Bày trận đánh giặc, dẫu tên đạn bời bời mà không chịu lui, vẫn một cố tiến, đó là việc của tôi!

Quan tư nông là Cao Như nói:

- Dốc lòng khuyên dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách tiết kiệm, đó là việc của tôi!

Quan thái sử là Kế Nghê nói:

- Xem xét thiên văn địa lý để dò biết mọi sự cát hung, đó là việc của tôi!

Câu Tiễn nói:

- Ta dẫu phải sang làm tù ở nước Ngô, nhưng đã có các quan đại phu dốc lòng cố sức mà giữ gìn nước nhà, thì ta còn lo gì nữa!

Câu Tiễn cho các quan triều thần ở lại, còn mình thì cùng với Phạm Lãi đi sang Ngô . Vua tôi tiễn biệt nhau đều ràn rụa nước mắt, Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Cái chết ai không sợ, nhưng ta đây nghĩ đến cái chết, mà trong bụng không thấy sợ chút nào!

Nói xong, xuống thuyền đi ngay . Mọi người đi đưa đều khóc tất cả, rồi sụp lạy ở bên bờ sông . Câu Tiễn cũng không ngảnh lại . Câu Tiễn phu nhân vịn mạn thuyền mà khóc, trông thấy đàn ô thước đang nhặt tôm ở ven sông, bay đi lượn lại, có ý thoả thích, liền cảm mà làm bài hát rằng:

"Đàn chim (hề ...) cao bay

Vẫy vùng (hề ...) đường mây!

Thân thiếp (hề ...) vô tội,

Trách trời (hề ...) độc thay!

Hây hẩy (hề ...) gió may,

Trở về (hề ...) bao ngày!

Lòng đau (hề ...) như cắt,

Nước mắt (hề ...) vơi đầy! "

Câu Tiễn nghe thấy phu nhân than vãn như vậy, thì trong lòng xao động, nhưng muốn cho phu nhân được nguôi lòng, cũng gượng cười mà nói rằng:

- Lông cánh của ta đã đủ rồi, tất cũng có ngày cao bay, lo gì điều ấy!

Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan thái tể nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn, và dâng vàng lụa trai gái . Bá Hi nói:

- Văn Chủng ở đâu, sao không thấy đến ?

Phạm Lãi nói:

- Văn Chủng còn phải giữ nước cho chúa công tôi, cho nên không đến được .

Bá Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn . Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho . Bá Hi nhận với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu tiễn được trở về nước Việt . Câu Tiễn cũng hơi yên lòng . Bá Hi cho quân giải Câu Tiễn về Ngô, đưa vào nộp Phù Sai . Câu Tiễn trần vai áo sụp lạy ở dưới thềm .

Câu Tiễn phu nhân cũng theo vào . Phạm Lãi đem cái đơn kê khai các vật qúy và mỹ nữ dâng lên Phù Sai . Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:

- Tôi tớ nhà vua ở miền Đông Hải là Câu Tiễn, vì không biết sức mình, để đến nỗi đắc tội với đại vương ở nơi biên cảnh, nay đại vương xá tội, lại cho được sang đây hầu hạ, nếu đại vương lại thương tình mà tha tội chết cho thì thật lấy làm đội ơn vô cùng!

Phù Sai nói:

- Nếu ta nghĩ đến cái thù tiên vương ngày xưa thì không thẻ nào tha cho nhà ngươi được!

Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng:

- Tội tôi thật đáng chết, xin đại vương thương lại cho!

Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh, mắt quắc ra lửa, tiếng vang như sấm, nói với Phù Sai rằng:

- Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn muống giương cung ra bắn, huống chi nay nó lại đậu ở trước sân! Câu Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá trong hũ, sống chết ở tay kẻ nhà bếp, vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con hổ về núi, con cá kềnh ra biển, còn trị làm sao!

Phù Sai nói:

- Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba đời . Ta không phải vì yêu vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái ý đạo trời .

Bá Hi nói:

- Quan tướng quốc chỉ nghĩ cái lợi trước mắt một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau . Đại vương nói thế, thật là một bậc nhân giả .

Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời du nịnh của Bá Hi, không theo lời can của mình, thì căm tức mà lui ra . Phù Sai nhận lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm một cái nhà đá ở bên cạnh mộ Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy, lột mũ áo đi mà cho mặc quần áo xấu, bắt giữ việc chăn ngựa . Bá Hi vẫn giấu diếm đem thực phẩm cho, nên Câu Tiễn không đến nỗi chết đói . Mỗi khi Phù Sai đi chơi, lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa, đi đất ở trước xe, người nước Ngô đều trỏ mà bảo nhau rằng:

- Đấy là vua nước Việt!

Câu Tiễn chỉ cúi đầu mà đi . Câu Tiễn ở nhà đá đã được hai năm, Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời một bước . Một hôm, Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến . Câu Tiễn sụp lạy . Phạm Lãi đứng ở phía sau . Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng:

- Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi cửa nhà tan nát, danh hiền không làm quan ở một nước diệt vong . Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù, chẳng cũng đã nhục lắm ru! ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi, bỏ Việt theo Ngô, thì ta sẽ trọng dụng . Đó là bỏ ưu họan mà lấy phú quý, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Bấy giờ Câu Tiễn phục ở dưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất . Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:

- Kẻ đã mất nước, không dám nói hay; tướng đã thua trận, không dám nói mạnh . Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp chúa công tôi làm điều thiện, để đến nỗi đắc tội với đại vương . May mà đại vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để ra vào hầu hạ đại vương, thế thì tôi đã được mãn nguyện rồi, có đâu còn dám mong phú qúy!

Phù Sai nói:

- Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thì lại cứ về nhà đá .

Phạm Lãi nói:

- Xin vâng mệnh!

Phù Sai đứng dậy, trở về cung . Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá . Câu Tiễn ăn mặc tồi tàn, cắt cỏ nuôi ngựa . Câu Tiễn phu nhân cũng lôi thôi rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân ngựa . Còn Phạm Lãi thì kiếm củi để nấu cơm, mặt mũi gầy gò . Phù Sai sai người dò thám, thấy vua tôi nước Việt cùng nhau làm lụng không ra ý oán giận, mà suốt đêm suốt ngày, cũng không thấy buồn rầu chút nào, mới cho là đồ vô chí, chẳng nghĩ đến làm chi nữa .

Một hôm, Phù Sai lên Cô Tô đài, trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân ngựa . Phạm Lãi cầm chổi đứng hầu một bên, mới ngảnh lại bảo Bá Hi rằng:

- Câu Tiễn chẳng qua là vua một nước nhỏ, Phạm Lãi chẳng qua là một kẻ học trò, thế mà trong khi hoạn nạn, họ vẫn còn giữ được lễ vua tôi, ta rất có lòng kính trọng .

Bá Hi nói:

- Chẳng những đáng kính, thực cũng đáng thương!

Phù Sai nói:

- Thực như lời quan thái tể nói . Ta đây nghĩ cũng thương tình . Nếu hắn biết đổi lỗi thì phỏng có nên ta không ?

Bá Hi nói:

- Đại vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn, gia ân cho Việt, chắc là Việt cũng biết đền ơn . Xin đại vương phải quyết đoán .

Phù Sai nói:

- Ta sẽ sai quan thái sử chọn ngày tốt để tha cho vua Việt về nước .

Bá Hi mật sai người đến nhà đá báo tin cho Câu Tiễn biết .

Câu Tiễn mừng lắm, nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi nói:

- Để tôi xin bói một quẻ, xem lành dữ thế nào .

Phạm Lãi bói, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

- Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy gì làm mừng .

Câu Tiễn nghe nói, lại có ý buồn . Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:

- Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang mà không giết, vua Trụ giam vua Văn vương mà không giết, đến lúc đạo trời quay lại, chuyển họa thành phúc thì vua Kiệt bị vua Thang đuổi, nhà Thương bị nhà Chu diệt . Nay đại vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e rằng lại sắp có hoạ như nhà Hạ và nhà Thương .

Phù Sai nghe Ngũ Viên nói, lại có ý muốn giết Câu Tiễn, bèn sai người triệu Câu Tiễn vào . Bá Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết . Câu Tiễn kinh sợ, lại nói với Phạm Lãi . Phạm Lãi lại nói:

- Chúa công đừng sợ! vua Ngô giam chúa công đã ba năm nay; trong ba năm còn không nỡ, huống chi là bây giờ! chúa công cứ đi, không ngại!

Câu Tiễn nói:

- Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay mà không đến nỗi chết, đều là nhờ mưu kế của quan đại phu cả .

Câu Tiễn vào thành yết kiến Phù Sai, phải chầu chực trong ba ngày, mà không thấy Phù Sai ra thị triều . Bá Hi ở trong cung ra, phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn lại về nhà đá . Câu Tiễn lấy làm lạ hỏi .

Bá Hi nói:

- Đại vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết ông vậy nên triệu đến . May gặp khi đại vương bị cảm hàn, không thể dậy được . Tôi vào thăm bệnh, nhân tâu với đại vương rằng: "Người bệnh muốn cầu yên thì phải làm phúc, nay vua Việt chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến trời . Đại vương nên tạm tha cho y về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định liệu". Vì nghe lời tôi mà đại vương tha cho ngài về nhà đá đó!

Câu Tiễn cảm tạ khôn xiết . Ở nhà đá được ba tháng nữa, Câu Tiễn nghe tin Phù Sai vẫn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ . Phạm Lãi bói xong, bảo Câu Tiễn rằng:

- Phù Sai không chết ngày kỷ tị thì bớt, đến ngày nhâm thân thì khỏi hẳn . Bây giờ đại vương cố xin vào thăm, khi được vào thăm, cố tình nếm phân cho Phù Sai, rồi lạy mừng mà nói kỳ khỏi bệnh . Đến kỳ khỏi thật thì tất nhiên y cảm ơn mà tha cho đại vương .

Câu Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng:

- Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua không nhẽ lại chịu nhục mà nếm phân cho người ta hay sao!

Phạm Lãi nói:

- Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở Dữu Lý, giết con Văn vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt mà đưa cho Văn vương ăn, thế mà Văn vương cũng chịu đau đớn mà ăn thịt con . Ta muốn thành đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn . Vua Ngô có lòng thương người như đàn bà mà không có lòng quả quyết như kẻ trượng phu, đã toan tha ta rồi đổi ý . Ta không làm thế thì sao cho vua Ngô chịu rủ lòng thương .

Câu Tiễn tức khắc đến nói với Bá Hi rằng:

- Nghe nói bệnh tình đại vương không giảm, lòng tôi lo lắng, ăn ngủ không yên, xin theo ngài vào thăm, để tỏ tình thần tử .

Bá Hi nói:

- Ngài đã có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu .

Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh . Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào . Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai . Phù Sai trừng mắt nhìn mà bảo rằng:

- Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à ?

Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:

- Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói long thể bất hoà, thật là nát gan héo ruột, chỉ mong được trông thấy mặt rồng mà không biết làm thế nào!

Câu Tiễn nói chưa dứt lời thì Phù Sai đau bụn muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra . Câu Tiễn nói:

- Khi tôi ở Đông Hải có học người y sư được một cách xem phân mà biết bệnh chóng hay là chậm khỏi .

Câu Tiễn nói xong chắp tay đứng ở cửa sổ . Nội thị đưa cái thùng đến cạnh giường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài . Phù Sai đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái thùng đưa ra ngoài cửa . Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà nếm . Mọi người xung quanh đều bịt mũi cả . Câu Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:

- Kẻ tù này xin chúc mừng đại vương, bệnh đại vương đến ngày kỷ tị thì bớt, sang tháng ba về ngày nhâm thân thì khỏi hẳn .

Phù Sai hỏi:

- Tại sao mà biết ?

Câu Tiễn nói:

- Tôi nghe người y sư có dạy phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết . Nay kẻ tù này nếm phân đại vương, thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời khí xuân hạ phát sinh, bởi thế mà biết .

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

- Câu Tiễn nhân đức thay! thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân để đóan bệnh bao giờ!

Bấy giờ nhân Bá Hi đứng ở bên cạnh, Phù Sai bèn hỏi rằng:

- Quan thái tể có nếm được không ?

Bá Hi lắc đầu nói:

- Tôi thật rất yêu đại vương, nhưng việc ấy tôi không làm nổi .

Phù Sai nói:

- Chẳng những quan thái tể, dẫu thế tử của ta cũng không thể làm được!

Phù Sai truyền tha Câu Tiễn, không bắt về nhà đá nữa, được tuỳ tiện tìm chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước . Câu Tiễn lạy tạ rồi lui ra . Từ bấy giờ Câu Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như trước . Sau Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh, đúng như lời Câu Tiễn nói .

Phù Sai cho Câu Tiễn là trung thành với mình, nên khi đã khỏi bệnh, liền truyền bày tiệc ở trên Văn Đài, cho Câu Tiễn vào dự yến . Câu Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến . Phù Sai trông thấy, truyền Câu Tiễn tắm gội và ban cho mũ áo . Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận . Câu Tiễn thay mũ áo xong, lại vào sụp lạy Phù Sai . Phù Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng:

- Vua Việt là người nhân đức, không nên làm nhục lâu, ta định tha tội, cho được về nước, nay nên tiếp đãi tử tế .

Các quan đại phu đều vái nhường Câu Tiễn, mời ngồi, rồi ngồi cả hai bên cạnh . Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức, không chịu vào ngồi, liền quay trở ra . Bá Hi nói:

- Đại vương ta lấy cái lòng một người nhân đức mà tha cái tội của người nhân đức . Tôi nghe nói "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", ngày nay ai là nhân thì ngồi lại, ai là bất nhân thì bỏ đi . Quan tướng quốc là người cương dũng, cho nên thẹn không dám ngồi chứ sao!

Phù Sai cười mà nói:

- Quan thái tể nói phải lắm!

Rượu được ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc thọ cho Phù Sai . Phù Sai bằng lòng lắm, ngày hôm ấy uống rượu thật say, rồi sai Vương Tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra quán, đợi trong ba ngày nữa, sẽ đưa về nước . Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:

- Hôm qua đại vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào ? Câu Tiễn trong bụng như hổ lang, mà mặt ngoài giả cách cung kính . Đại vương thấy ý nói lời xu nịnh, chẳng nghĩ gì đến gai vạ mai sau . Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ dèm pha, nghĩ điều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở trên lò than mà mong khỏi cháy, ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn, thì có lẽ nào ?

Phù Sai không bằng lòng nói rằng:

- Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy quan tướng quốc là quà cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân . Làm bề tôi mà bất trung và bất nhân thì còn dùng được việc gì nữa! Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải đến dâng nộp, đem thân làm tôi tớ, đó là điều trung; khi ta có bệnh, chịu nếm phân ta mà không có lòng oán giận, đó là điều nhân . Nếu ta theo ý riêng của quan tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thì trời nào còn tựa ta nữa!

Ngũ Viên nói:

- Sao đại vương nghĩ lầm như vậy ? con hổ mà thu mình lại thì tất là chực vồ, con cáo mà rụt cổ lại thì tất là định cắn . Vua Việt vào làm tôi Ngô, dẫu trong lòng oán giận, đại vương cũng không thể biết được . Bây giờ y cúi xuống mà nếm đống phan của đại vương, chắc đâu không có một ngày kia y ngẩng lên mà ăn gan ruột của đại vương . Đại vương không xét mà mắc mưu thì tất có ngày bị hại .

Phù Sai nói:

- Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi!

Ngũ Viên biết không thể can được, uất ức mà lui ra .

Đến ngày thứ ba . Phù Sai lại bày tiệc rượu ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu Tiễn . Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân, chỉ có Ngũ Viên không đến dự . Phù Sai bảo Câu Tiễn rằng:

- Ta tha cho nhà vua về nướ, nhà vua nên nhớ ơn nước Ngô, chớ đem lòng thù oán!

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

- Đại vương thương tôi là kẻ khốn cùng, cho được sống mà về nước, tôi xin đời đời không dám quên ơn . Trời cao thăm thẳm, soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thì trời nào có tựa!

Phù Sai nói:

- Người quân tử không sai lời! thôi, nhà vua lên đường . Nên gắng! nên gắng!

Câu Tiễn lại sụp lạy, nước mắt đầm đìa, ra vẻ quyến luyến .

Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe . Phạm Lãi cầm cương xe . Câu Tiễn phu nhân cũng sụp lạy tạ ơn, rồi cùng lên xe đi về phía nam . Bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu Kính vương . Câu Tiễn về đến bến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà nói rằng:

- Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ, bỏ thân cõi khác, ngờ đâu nay lại được về nước giữ lấy việc cúng tế .

Câu Tiễn ngảnh lại nhìn phu nhân mà khóc . Các người xung quanh cũng đều cảm động mà khóc cả . Văn Chủng đem triều thần và dân trong thành ra đón ở bến Chiết Giang, tiếng rao dậy đất . Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để tiến vào thành . Phạm Lãi bấm đốt ngón tay, rồi nói với Câu Tiễn rằng:

- Ngày mai rất tốt, chúa công nên đi mua cho kịp .

Câu Tiễn tức khắc giục ngựa tiến vào trong thành . Muốn ghi sâu trong lòng cái nhục ở Cối Kê, Câu Tiễn muốn đắp thành và thiên đô ra đấy để luôn luôn nhớ tới, bèn giao hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu .

Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong, phía tây bắc lập lầu Phi Dục ở núi Ngoạ Tang để làm thiên môn; phía đông nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ . Còn mặt tây bắc thì để không, và nói phao lên rằng đã thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, nhưng kỳ thực là để tiện đường tiến đánh Ngô mai sau .

Khi thành đã đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc ra một quả núi, chu vi mấy dặm, như hình con qủi, cây cỏ rậm rạp, có người trông quả núi ấy, nhận được là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được . Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

- Tôi đắp cái thành này ứng với thiên tượng, vậy nên có quả núi ấy hiện lên, đó là cái điềm nước Việt ta nên được nghiệp bá .

Câu Tiễn mừng lắm mới đặt tên núi ấy là Quái Sơn, cũng gọi Phi Lai Sơn, cũng gọi là Qui Sơn . Sau khi thiên đô sang ở đấy Câu Tiễn bảo Phạm Lãi rằng:

- Ta thực thất đức, để đến nỗi nước nhà suy đốn, phải đem thân đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và các quan đại phu giúp thì sao được như thế này ?

Phạm Lãi nói:

- Đó là nhờ hồng phúc của chúa công, chứ chúng tôi có công gì . Nhưng xin chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thì mới có cơ báo thù được nước Ngô .

Câu Tiễn nói:

- Xin vâng lệnh dạy bảo!

Bấy giờ bèn giao quốc chính cho Văn Chủng, quân chính cho Phạm Lãi, tôn trọng hiền tài, kính lão thương nghèo, trăm họ đều bằng lòng .

Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng . Phạm Lãi biết có một thứ rau ở một quả núi về phía bắc thành, tên gọi là rau trấp . Rau ấy ăn được, nhưng hơi có mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp đem về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi . Sau ngươi ta gọi tên núi ấy là Trấp Sơn . Câu Tiễn gấp muốn báo thù, mới cố sức chăm chỉ suốt ngày suốt đêm, khi buồn ngủ thì lại lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại thì lấy nước giập vào, mùa đông thường ngồi gân nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa, xếp củi mà nằm lên trên, chớ không dùng giường nệm; lại treo một quả mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng lại nếm một ít . Câu Tiễn đêm nào cũng khóc sụt sùi, khóc chán rồi thở dài; lại luôn luôn nhắc đến hai tiếng "Cối Kê" . Câu Tiễn thấy sau khi suy bại, dân so giảm kém mới hạ lệnh cấm con trai không được lấy vợ già; ông già không được lấy vợ trẻ; con gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi không lấy vợ thì bắt tội cha me; đàn bà sắp chửa sắp đẻ, đều phải trình quan, để quan cho thầy thuốc đến coi sóc; sinh con trai thì thưởng cho hồ rượu và con chó; sinh con gái thì thưởng cho hồ rượu và con lợn; ai sinh ba con thì quan nuôi hộ hai; ai sinh hai thì quan nuôi hộ một; hễ có ai chết thì Câu Tiễn thân hành đi đưa đám và thương khóc . Câu Tiễn mỗi khi đi đâu, cũng đem cơm và đồ ăn để ở trong xe, hễ gặp trẻ con thì cho ăn và hỏi tên họ .

Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày . Phu nhân cũng chăm việc dệt cửi, cùng chia sự lao khổ . Trong bảy năm, Câu Tiễn không thu thuế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm . Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không sai sứ sang cống hiến nước Ngô; lại sai người vào núi hái dây cát, dệt làm vài nhỏ, định đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng . Phù Sai khen lòng trung thành của Câu Tiễn, sai nguời phong thêm đất cho, phía đông đến Câu Dụng, phía tây đến Hùê Lý, phía nam đến Cô Miệt, phía bắc đến Bình Nguyên, cả thảy hơn tám trăm dặm . Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấn, cam mật một trăm vò, áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dâng Phù Sai tạ để cái ơn phong đất . Ngũ Viên nghe nói, liền cáo ốm không vào triều . Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thần phục, lại càng tin lời nói của Bá Hi . Một hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:

- Ngày nay trong nước thái bình, ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào ?

Bá Hi nói:

- Ở gần đô thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô, nhưng cái đài của vua trước dựng lên chưa đước tráng lệ lắm, đại vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có thể dung được nghìn người, rồi họp những ca đồng vũ nữ ở đấy, thì thật là một sự khóai lạc đệ nhất nhân gian .

Phù Sai khen phải, liền treo giải, cầu tìm những cây lớn gỗ quí . Văn Chủng nghe tin, vào nói với Câu Tiễn rằng:

- Tôi nghe nói: "Con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn tốt, con cá lặn ở dưới vực sâu, chỉ chết về cái mồi thơm". Nay chúa công muốn báo thù nước Ngô thì phải tìm mồi xem Ngô thích cái gì mới có thể trị nổi .

Câu Tiễn nói:

- Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi ?

Văn Chủng nói:

- Tôi có nghĩ cách phá Ngô, cả thảy được bảy kế:

1. Chịu tốn của cải để làm vua tôi nước Ngô bằng lòng .

2. Lấy gía đắt mua thóc, để làm cho Ngô thiếu lương thực .

3. Đem mỹ nữ sang dâng để làm Ngô phải mê hoặc .

4. Đem thợ khéo, gỗ tốt sang dâng, để cho Ngô làm cung thất tốn hại tiền của .

5. Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn .

6. Hại kẻ trung trực để làm cho thế cô .

7. Tích của, luyện quân, để đợi khi địch suy yếu .

Câu Tiễn nói:

- Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào được ?

Văn Chủng nói:

- Nay vua Ngô đang sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây lớn gỗ qúi đem dâng .

Câu Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa được cây nào thật tốt . Thợ mộc đều có lòng oán giận, đêm ngày ta thán với nhau .

Một hôm đang đêm, tự nhiên trời sinh hai cây thần mộc, to hai mươi vi, dài năm mươi tầm, một cây ở phía nam núi, gọi là cây tử, một cây ở phía bắc núi, gọi là cây nam . Thợ một kinh ngạc, vội vàng về báo với Câu Tiễn . Triều thần chúc mừng Câu Tiễn rằng:

- Lòng thành của chúa công cảm động đến trời, cho nên trời sinh gỗ thần để giúp chúa công .

Câu Tiễn mừng lắm, thân hành đến làm lễ tế rồi mới sai đẵn đem bào nhẵn đi và dùng thuốc xanh đỏ vẽ hình rồng rắn, sai Văn Chủng đưa sang dâng Phù Sai . Phù Sai thấy cây gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ . Ngũ Viên can rằng:

- Ngày xưa vua Kiệt làm Linh Đài, vua Trụ làm Lộc Đài khổ dân hao của đến nỗi mất nước, Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ này đó!

Phù Sai nói:

- Câu Tiễn được cây gỗ qúi này, không để mà dùng, lại đem dâng ta, thế là lòng tử tế, sao lại từ chối ?

Nói xong, truyền đem hai cây gỗ để sửa đài Cô Tô . Trong năm năm mới làm xong, cao ba trăm trượng, rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thì trông suốt được hai trăm dặm . Nguyên trước đã có con đường chín khúc đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra . Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lục mà chết rất nhiều .

Câu Tiễn nghe tin, bảo Văn Chủng rằng:

- Quan tướng quốc nói: nên đem thợ khéo gỗ tốt sang dâng để cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của . Kế ấy đã thi hành rồi . Nay trên đài cao, tất phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được người tuyệt sắc thì sao làm cho hắn mê hoặc được, quan tướng quốc bàn mưu giúp ta .

Văn Chủng nói:

- Việc gì cũng bởi trời cả . Trời đã sinh thần mộc thì lo gì không có mỹ nữ . Nhưng nếu ta sụ tìm thì e rằng dân tình náo động . Tôi nghĩ được một kế, có thể xem mặt hết con gái trong nước, lúc đó tuỳ ý chúa công kén chọn .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro