DÒNG CHIP INTEL VÀ AMD

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Pentium

Pentium có thể nói là dòng chip đa dạng nhất hiện nay, bởi nó có rất nhiều phiên bản với tốc độ cũng rất khác nhau. Pentium có nhiều đột phá mang tính "cách mạng", và luôn đi kèm với sự lớn mạnh của Intel trong nhiều năm qua.

+ Pentium -- 1993-1996 (60MHz-200MHz)

Là phiên bản đầu tiên của dòng chip Pentium, Pentium được xây dựng trên công nghệ vi xử lý 350nm với 3,1 (hoặc 3,3) triệu transitor. Pentium có bus hệ thống là 50, 60 và 66MHz; và cache L2 từ 256KB tới 1MB.

+ Pentium Pro -- 1995-1997 (150MHz-200MHz)

Được sử dụng cho dòng máy tính để bàn và máy chủ cao cấp, Pentium Pro tăng khả năng hỗ trợ tối đa bộ nhớ từ 4GB lên 64GB. Pentium Pro có cache L2 từ 512KB - 1MB; sử dụng bus hệ thống 60MHz hoặc 66MHz; chứa 5,5 tới 62 triệu transitor. Pentium Pro được chế tạo trên công nghệ vi xử lý 350nm.

+ Pentium MMX -- 1997-1999 (233MHz-300MHz)

Số lượng transitor của Pentium MMX là 4,5 triệu; được chế tạo trên công nghệ vi xử lý 350nm (đối với phiên bản dành cho máy tính đề bản), và 250nm (đối với phiên bản dành cho thiết bị di động).

+ Pentium II -- 1997-1999 (233MHz-450MHz)

Pentium II có bus hệ thống 66MHz hoặc 100MHz. Các model Pentium II dành cho máy tính để bàn có 7,5 triệu transistor với 512KB cache L2 ; trong khi phiên bản dành cho thiết bị di động có 27,4 triệu transistor với 256KB cache L2.

+ Pentium II Xeon -- 1998-1999 (400MHz-450MHz)

Chủ yếu sử dụng cho dòng máy chủ cao cấp "2-way" và "4-way", Pentium II Xeon có 100MHz bus hệ thống và cache L2 từ 512KB - 2MB.

+ Pentium III -- 1999-2001 (500MHz-1,13GHz)

Pentium III được công bố trong giai đoạn 1999-2001. Bộ vi xử lý này có bus hệ thống 100MHz hoặc 133MHz; 512KB hoặc 256KB cache L2. Phụ thuộc vào từng model mà Pentium III có từ 9,5 - 28 triệu transitor. Pentium III được sản xuất trên công nghệ vi xử lý 250nm và 180nm.

+ Pentium III Xeon -- 1999-2001 (500MHz-933MHz)

Cũng được công bố trong thời kỳ 1999-2001, Pentium III Xeon chủ yếu được dành cho loại máy chủ từ "2-way" tới "8-way". Xeon thường có cache tối đa lên tới 2MB.

+ Pentium 4 -- 2000 (1,4-3,4GHz)

Là kiến trúc Pentium mới nhất được giới thiệu từ năm 2000, Pentium IV bắt đầu với 400MHz bus hệ thống và 256KB cache L2 (sau này tăng lên 800MHz và 2MB). Những phiên bản đầu tiên của Pentium IV có 42 triệu transitor, được chế tạo trên công nghệ vi xử lý 180nm.

Pentium M

Là một phần của nhãn hiệu Centrino dành cho các chủng loại máy tính xách tay, Pentium M hiện đang có 2 phiên bản: "Banias" và "Dothan". Banias là tên mã của Pentium M được giới thiệu năm 2003 với tốc độ 1,6MHz - tương đương với hiệu suất của Pentium IV "Northwood" 2,4MHz. Trong khi đó, "Dothan" là thế hệ thứ hai của Pentium M, được giới thiệu năm 2004 với nhiều phiên bản: Pentium M 715 (1,5 GHz), 725 (1,6 GHz), 735 (1,7 GHz), 745 (1,8 GHz), 755 (2 GHz), and 765 (2,1 GHz). "Dothan" được chế tạo trên công nghệ vi xử lý 90nm, hỗ trợ chuẩn PCI Express, Serial ATA và Gigabit Ethernet.

Pentium D

Pentium D là một series gồm nhiều bộ xử lý với phiên bản đầu tiên (tên mã "Smithfield") được Intel giới thiệu hồi cuối tháng 5/2005 vừa qua. Pentium D sẽ tích hợp 2 chip Pentium IV Prescott trên một tấm silicon đơn (hay còn được gọi với cái tên là "chip lõi kép"). Pentium D là dòng chip "lõi kép" dành cho máy tính để bàn có các tốc độ: 2,8GHz, 3GHz, hoặc 3,2GHz. Dòng chip này không hỗ trợ công nghệ siêu phân luồng (HT), hay ít ra là cũng trong giai đoạn hiện nay.

Pentium Extreme Edition

Pentium Extreme Edition (EE)cũng là chip lõi kép nhưng lại được xây dựng trên lõi của "Smithfield" (phiên bản đầu của Pentium D). Pentium EE hỗ trợ công nghệ HT, do vậy sẽ có 4 bộ xử lý logic. Tốc độ của Pentium EE là 3,8GHz,

Intel và AMD là hai công ty sản xuất chip xử lý máy tính lớn nhất thế giới. Mỗi công ty cho ra đời nhiều loại chip vi xử lý khác nhau

Chip AMD Operton 140, 142, 144, 146, 148, 150, 152 và 154 mạnh hơn Intel Xeon 2.0 và 3.6 Ghz. AMD Operton

240, 242, 244, 246, 248, 250, 252 và 254 mạnh hơn chip lõi kép Intel Dual Xeon 2.0 - 3.6 Ghz. AMD Operton 840, 842, 844, 846, 848, 850, 852 và 854 thì không có chip Xeon nào địch lại vì Operton là chip hệ 8, ta có thể cho 8 chip chạy chung với nhau cùng 1 lúc. Xeon của Intel chỉ có thể cho 4 con chạy với nhau là tối đa.

Xeon và Operton thuộc hạng dùng cho server, cho những công ty lớn. Loại dùng ở nhà phải kể là Athlon của AMD và Pentium 4 của Intel.

Athlon chia ra nhiều hạng gồm: Athlon FX, Athlon 64, Athlon Barton Core và Athlon XP

Pentium cũng chia ra nhiều hạng: Pentium 4 EE, Pentium 4 HT, Pentium 800 Mhz Bus và Pentium 4 533 Mhz Bus...

Hiện thời, dùng để chơi game thì không có con chip nào địch lại Athlon FX của AMD. Cũng vì thế mà hệ FX mắc kinh khủng. Athlon XP và Athlon Barton Core thuộc hệ cũ, dùng socket A hết còn thông dụng. Cả hai tuy rất tốt nhưng tỏa nhiệt quá nhiều. Các đời chip cũ của AMD đều nóng hơn Intel khá nhiều.

Athlon FX và Athlon 64, đời mới của AMD, dùng socket 939 (socket 940 dùng cho Operton). Đây mới thật là những con CPU mạnh và nhất là được dùng dưới dạng 64 bit. Nếu đem so sánh với những CPU cùng hạng của Intel dưới dạng 32 bit thì ngang ngửa nhau, AMD có nhanh hơn nhưng không đáng nói. Dưới 64 bit thì cả Xeon và Pentium 4 không phải là đối thủ của Operton và Athlon 64. Chẳng hạn con chip AMD Athlon 64 3.700+ Socket 574 tại Việt Nam có giá đến 538 USD, còn con Atholon 64 3.500+ Socket 939 "bèo hơn" cũng có giá đến 256 USD.

CPU hạng yếu, thuộc loại rẻ tiền, thì có Celeron của Intel và Sempron của AMD. Sempron là hậu thân của Duron, AMD dùng Sempron cạnh tranh với Celeron D của Intel. Sempron đời cũ, dùng socket 454 yếu hơn Celeron của Intel. Nhưng Sempron đời mới, Sempron 64 dùng socket 754, mạnh tương đương với Pentium 4, hơn hẳn Celeron D. Cái đáng chú ý là Sempron 64 dùng cho hệ thống điều hành chạy dưới dạng 64 bit được, Celeron D không được.

Thời gian hơn 1 năm nay, cả AMD lẫn Intel đều đẩy mạng cuộc đua CPU lõi kép. Chip lõi kéo có nghĩa là 2 con CPU cùng được đặt trên một bản mạch silicon và được xem là một "chip lõi kép". Tuy rằng chỉ có 1 con CPU nhưng lại mạnh tương đương với 2 con thường. Intel có Xeon Dual Core, Pentium D và Pentium Duo. AMD có Operton Dual Core, Athlon FX Dual Core và Athlon X2.

Operton Dual Core gồm có: Operton 165, 170, 175 và 180 của hệ 1; Operton 265, 270, 275 và 280 của hệ 2; Operton 865, 870, 875 và 880 của hệ 8.

Athlon FX Dual Core và Athlon X2 đều mạnh hơn, dùng ít điện hơn, phát ra hơi nóng thấp hơn Pentium Dual Core.

Trong các loại CPU, AMD đều qua mặt Intel không ít thì nhiều ngoại trừ những con CPU dùng cho máy xách tay. Intel Pentium M và Mobile Pentium mạnh hơn Athlon XP-M, Mobile Athlon và Turion 64. Pentium M cộng với công nghệ Centrino vừa ít hao điện tạo điều kiện cho pin xài được lâu hơn, vừa tiết ra ít hơi nóng lại vừa mạnh hơn Turion 64.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#may#tinh