dong chu liet quoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngô Khởi giết vợ cầu quan Trâu Kỵ gẩy đàn làm tướng Ngô Khởi vốn người nước Vệ, lúc bé còn ở trong làng, Ngô Khởi thường bị mẹ tránch mắng về tội du đãng, hay chơi nghề đánh gươm . Ngô Khởi cắn cánh tay chảy mắu ra mà thề với mẹ rằng: - Từ nay trở đi, con xin từ giã mẹ, đi học phương khác . Nếu không làm nên khanh tướng, lên xe xuống ngựa, cờ mở trống giong, thì con quyết không về nước Vệ trông thấy mẹ nữa! Người mẹ khóc mà bảo ở nhà . Ngô Khởi chẳng ngảnh cổ lại, cứ việc ra thẳng cửa bắc, đi sang nước Lỗ, xin học với Tăng Sâm, là học trò giỏi của Khổng Tử . Ngô Khởi ngày đem chăm chỉ, không quản khó nhọc . Quan đại phu nước Tề là Điền Cư đến nước Lỗ nghe nói Ngô Khởi là người ham học mới thử hỏi chuyện thì thấy ứng đối trơn tru như nước chảy liền gả con gái cho . Ngô Khởi học Tăng Sâm được mấy năm, Tăng Sâm biết là nhà Ngô Khởi còn có mẹ già, mới hỏi rằng: - Ngươi đi học đã lâu ngày, mà không về thăm mẹ thì sao cho đành lòng ? Ngô Khởi nói: - Con đã thề rằng nếu không làm nên khanh tướng thì không trở về nước Vệ nữa! Tăng Sâm nói: - Đối với người khác thì mới nên thề, còn đối với mẹ thì thề sao được! Từ bấy giờ Tăng Sâm có lòng ghét Ngô Khởi . Chưa được bao lâu, có tin đồn rằng mẹ Ngô Khởi đã chết, Ngô Khởi ngửa mặt lên trời kêu to ba tiếng, rồi lại chùi nước mắt mà đọc sách như thường . Tăng Sâm giận mà nói rằng: - Ngô Khởi không về để tang mẹ, thế là người quên gốc! nước không nguồn thì tất phải kiệt, cây không gốc thì tất phải gãy, người mà không gốc thì sống sao đuợc! Ngô Khởi không phải là học trò ta! Tăng Sâm sai học trò đuổi Ngô Khởi ra, không cho học nữa . Ngô Khởi bỏ đạo nho, đi học binh pháp . Trong ba năm, học đã thành nghề, mới xin làm quan ở nước Lỗ . Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người có tài, bèn nói với Lỗ Mục công, dùng cho làm quan đại phu . Ngô Khởi đã có lương bỗng, mới mua nhiều tì thiếp để cầu vui . Bấy giờ quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà, muốn cướp nước Tề, nhưng sợ nước Lỗ thông gia mấy đời với Tề sẽ đem quân đến hỏi tội chăng, mới nhân cái thù ở Nghê Lang khi trước, mà sang đánh Lỗ, định dùng binh lực để làm cho Lỗ phải sợ . Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu nói với Lỗ Mục công rằng: - Muốn lui quân Tề, không dùng Ngô Khởi không xong! Lỗ Mục công chỉ ầm ừ ngoài miệng, lấy làm phải nhưng vẫn không chịu dùng . Đến khi nghe quân Tề đã chiếm mất Thành ấp, Công Nghi Hưu lại tâu rằng: - Tôi đã nói Ngô Khởi nên dùng, sao chúa công không theo ? Lỗ Mục công nói: - Ta vẫn biết Ngô Khởi là người tài giỏi, nhưng hắn lại kết duyên với một người con gái họ Điền nước Tề . Tình người ta còn gì yêu hơn vợ chồng, tài nào hắn không có ý thiên vị . Bởi vậy mà ta ngần ngại chưa dám quyết . Công Nghi Hưu cáo từ lui về . Ngô Khởi đã chờ ở tướng phủ mà hỏi rằng: - Quân Tề kéo sang nhiều lắm, chẳng hay chúa công đã tìm được tướng tài chưa ? ngày nay tôi không dám khoe khoang mà tự tiến, nhưng chắc rằng nếu cho tôi làm tướng thì quân Tề chẳng còn một mống nào trở về được! Công Nghi Hưu nói: - Tôi đã nói đến hai, ba lần, nhưng chúa công thấy ông kết hôn với họ Điền, vì thế mà nghi ngờ không quyết . Ngô Khởi nói: - Muốn làm cho chúa công khỏi nghi ngờ, điều ấy thực rất dễ! Ngô Khởi liền về nhà hỏi vợ là Điền Thị rằng: - Người ta có vợ, qúi ở chỗ nào ? Điền Thị nói: - Qúi ở chỗ ngừơi vợ biết trông nom công việc cửa nhà để giúp cho chồng làm nên kia khác . Ngô Khởi nói: - Chồng làm đến khanh tướng, quyền cao chức trọng, nức tiếng thơm danh, thế mới thật là nên . Vợ có mong cho chồng được như thế không ? Điền Thị nói: - Có . Ngô Khởi nói: - Ta muốn cầu nàng một việc, nàng có giúp ta thì ta mới thành công được . Điền Thị nói: - Tôi là đàn bà, có đâu lại giúp được phu quân thành công . Ngô Khởi nói: - Nay quân Tề đánh Lỗ, vua Lỗ muốn cho ta làm tướng, chỉ vì ta kết hôn với nàng là dòng dõi họ Điền ở nước Tề cho nên ghi ngờ mà không dùng . Nếu ta được thủ cấp của nàng mà đem dâng vua Lỗ thì vua Lỗ không nghi ngờ nữa, ta mới làm nên công danh được . Điền Thị kinh sợ, vừa toan mở miệng nói thì Ngô Khởi đã tuốt gươm chém đầu Điền Thị rơi xuống đất . Ngô Khởi lấy lụa bọc đầu Điền Thị đem vào yết kiến Lỗ Mục công mà tâu rằng: - Tôi có lòng báo quốc, chỉ vì vợ tôi mà chúa công nghi ngờ, nay tôi chém đầu vợ tôi, để tỏ là người một lòng vì nước Lỗ . Lỗ Mục công có ý không được vui nói rằng: - Quan đại phu lầm rồi! Được ít lâu thì Công Nghi Hưu vào yết kiến . Lỗ Mục công bảo Công Nghi Hưu rằng: - Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, thế là tàn nhẫn hết nước, con người như thế thật là khó lường! Công Nghi Hưu nói: - Ngô Khởi không qúi vợ mà ham công danh, nếu chúa công bỏ mà không dùng thì tất hắn lại giúi Tề . Lỗ Mục công nghe lời cho Ngô Khởi làm đại tướng, Tiết Liễu và Thân Tướng làm phó tướng, đem hai vạn quân ra đánh quân Tề . Ngô Khởi từ khi làm đại tướng, cơm ăn áo mặc cũng như các quân sĩ khác, nằm không giải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề, cũng đến làm hộ . Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hú mủ cho nó . Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào như tình cha con, đều giay tay mắm miệng xin cố sức đánh giặc . Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoản Bằng kéo quân thẳng tới phía nam nước Lỗ, nghe tin Ngô Khởi làm đại tướng nước Lỗ, cười mà bảo rằng: - Người ấy là rể họ Điền, chỉ nghề hiếu sắc, có biết việc quân lữ là cái gì! nước Lỗ đến ngày suy đốn, cho nên mới dùng người ấy . Đến khi hai bên đóng đồn giáp nhau, Điền Hoà không thấy Ngô Khởi ra khiêu chiến, mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì Ngô Khởi đang cùng với một người hèn hạ nhất đám quân sĩ ấy giải chiếu xuống đất mà ngồi, chia canh cùng ăn . Sứ giả về báo . Điền Hoà cười mà nói rằng: - Tướng có tôn nghiêm thì quân mới sợ, quân có sợ thì mới chịu cố sức đánh . Nay Ngô Khởi hành động như thế, còn dùng quân thế nào được, ta chẳng lo gì! Điền Hoà lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hoà, để dò thám xem cach chiến thủ của Ngô Khởi ra làm sao . Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía ssau, rồi dàn những quân lão nhược ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu, Trương Sửu nói: - Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ đều cầu tướng, có phải thế không ? Ngô Khởi sợ hãi mà đáp rằng: - Tôi dẫu hèn mạt, cũng đã học ở cửa thánh, khi nào dám làm những việc bất tình như vậy! nội nhân tôi nhân khi mất vì bệnh, lại gặp có việc quân lữ, người ta nghe tin đồn bậy, chứ không phải là thực . Trương Sửu nói: - Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân giảng hoà . Ngô Khởi nói: - Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với họ Điền, nếu cho giảng hoà thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm . Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày, rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh . Khi Trương Sửu sắp đi, Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ . Trương Sửu cáo từ lui về . Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lên đường theo sang . Điền Hoà được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là lão nhược, không lo sợ gì cả . Bỗng nghe thấy tiếng trống vang rầm ở ngoài viên mon, quân Lỗ thình lình kéo đến, Điền Hoà kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn . Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến . Đòan Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng . Chẳng ngờ hai toán quân của Tiết Liễu và Thân Tướng ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến . Quân Tề thua to, người chết như rạ . Quân Lỗ đuổi theo mãi đến đất Bình Lục (đất nước Tề) mới trở về . Lỗ Mục công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm thượng khanh . Điền Hoà trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc . Trương Sửu nói: - Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ đâu là Ngô Khởi đánh lừa . Điền Hoà thở dài mà nói rằng: - Ngô Khởi dụng binh, chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhượng Thư thuở xưa . Nếu Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên được, ta muốn sai một người sang Lỗ, mật cùng với Ngô Khởi giao thiếp để hai bên không xâm phạm nhau . Nhà ngươi có đi được không ? Trương Sửu nói: - Tôi xin liều mình sang Lỗ một phen, để chuộc lại cái tội trước . Điền Hoà mới tìm hai người mỹ nữ và đem một nghìn nén hoàng kim, giao cho Trương Sửu . Trương Sửu giả cách làm lái buôn đem sang nước Lỗ, vào lễ riêng Ngô Khởi . Ngô Khởi vốn là người tham tài hiếu sắc, thấy Trương Sửu đưa đến, liền nhận ngay rồi bảo Trương Sửu rằng: - Nhà ngươi nói lại với quan tướng quốc nước Tề, nếu Tề không xâm phạm Lỗ thì khi nào Lỗ lại đánh Tề . Khi Trương Sửu trở về, cố ý hở chuyện cho mọi người ở Lỗ Thành biết, vì thế mà mọi người đều huyên truyền việc Ngô Khởi ăn lễ của nứớc Tề . Lỗ Mục công nghe biết chuyện ấy, liền phàn nàn rằng: - Ta đã biết Ngô Khởi là người bất trắc! Lỗ Mục công toan cách chức và trị tội Ngô Khởi . Ngô Khởi sợ hãi, bỏ nhà trốn sang nước Ngụy, trọ ở nhà Địch Hoàng . Gặp bấy giờ Ngụy Văn hầu đang bàn với Địch Hoàng, không biết sai ai đi trấn thủ Tây Hà cho được . Địch Hoàng mới tiến dẫn Ngô Khởi . Ngụy Văn hầu triệu Ngô Khởi vào, mà bảo rằng: - Ta nghe tướng quân làm quan ở nước Lỗ, đã có công với Lỗ, cớ sao nay lại trốn sang nước ta ? Ngô Khởi nói: - Vua nước Lỗ nghe lời đứa du nịnh, không có lòng tin tôi, cho nên tôi phải trốn sang đây . Nay chúa công có lòng khiêm tốn, biết dùng kẻ sĩ, các người hào kiệt, ai cũng mến theo . Vậy tôi xin cầm roi mà theo hầu ở trước ngựa chúa công, nếu chúa công dùng thì dẫu thịt nát xương mòn, tôi cũng không dám hối hận . Ngụy Văn hầu bèn phong cho Ngô Khởi làm quan trấn thủ ở Tây Hà . Ngô Khởi đến Tây Hà, sửa sang thành quách, luyện tập binh sĩ, hết lòng thương yêu kẻ dưới, cũng như khi còn làm tướng ở nước Lỗ . Lại đắp một cái thành để chống nhau với nước Tần, gọi tên là Ngô Thành . Bấy giờ Tần Huệ công mất, thế tử Xuất lên nối ngôi . Nguyên Tần Huệ công là con Tần Giản công . Tần Giản công là chú Tần Linh công . Khi Tần Linh công mất, con là Sư Thấp, tuổi hãy còn nhỏ, triều thần mới lập Tần Giản công lên nối ngôi .Sau ba lần truyền ngôi đến thế tử Xuất, thì Sư Thấp đã trưởng thành . Sư Thấp nói với triều thần rằng: - Nước Tần vốn là nước của thân phụ ta, ta có tội gì mà các người bỏ ta không lập ? Triều thần không biết trả lời thế nào, mới cùng nhau giết thế tử Xuất mà lập Sư Thấp tức là Tần Hiến công . Ngô Khởi nhân khi nước Tần lắm việc, đem quân đánh lẻn, chiếm lấy năm thành . Nước Hàn và nước Ngụy thấy Ngô Khởi đánh đuợc nước Tần, đều đến chúc mừng . Ngụy Văn hầu khen cái công Địch Hoàng tiến dẫn được người giỏi, định cho Địch Hoàng làm quan tướng quốc, mới hỏi Lý Khắc . Lý Khắc nói: - Không bằng cho Ngụy Thành là hơn . Nguỵ Văn hầu gật đầu . Lý Khắc lui ra . Địch Hoàng đón mà hỏi rằng: - Tôi nghe nói chúa công muốn chọn quan tướng quốc mà hỏi ý ông, chẳng hay ông có biết chúa công đã cho ai chưa ? Lý Khắc nói: - Chúa công đã định cho Ngụy Thành . Địch Hoàng hầm hầm nổi giận mà nói rằng: - Chúa công muốn đánh Trung Sơn, tôi tiến dẫn Nhạc Dương; chúa công lo không ai giữ đất Nghiệp, tôi tiến dẫn Tây Môn Báo; chúa công lo không có ai giữ Tây Hà, tôi tiến dẫn Ngô Khởi . Cớ sao tôi lại không bằng Ngụy Thành ? Lý Khắc nói: - Ngụy Thành tiến dẫn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương và Đoàn Can Mộc, kẻ làm thầy chúa công, kẻ làm bạn chúa công; còn những người của ông tiến dẫn thì chúa công chỉ dùng làm bề tôi được mà thôi . Ngụy Thành ăn lộc kể có nghìn chung, mà vẫn đem cái lộc ấy để đãi các người hiền sĩ; còn lộc của ông chỉ để nuôi vợ con mà thôi, ông ví với Ngụy Thành sao được! Địch Hoàng sụp lạy hai lạy mà xin lỗi rằng: - Tôi nói lỡ lời, từ nay xin theo làm đệ tử . Từ bấy giờ nước Ngụy, tướng văn và tướng vũ đều có người giỏi cả, trong nước được yên ổn . Tướng quốc nước Tề là Điền Hoà thấy nước Ngụy cường thịnh, lại nghe tiếng Ngụy Văn hầu là người giỏi, thiên hạ ai cũng trọng, mới kết giao với Ngụy, rồi thiên Tề Khang công ra một nơi bãi bể, cấp cho một thành để lấy lương ăn, còn bao nhiêu thì Điền Hoà chiếm lấy tất cả . Lại sai sứ sang nói với Ngụy Văn hầu, nhờ tâu hộ với thiên tử nhà Chu, muốn viện cái lệ Tam Tấn, để cùng được phong làm chư hầu . Chu Uy Liẹt vương đã mất, con là An vương (Kiêu) lên nối ngôi, lại càng suy nhược lắm . Bấy giờ tức là năm thứ 13 đời Chu An vương, Chu An vương theo lời xin của Ngụy Văn hầu, phong cho Điền Hoà làm Tề hầu, tức là Điền Thái công . Từ khi công tử Hoàn nước Tần chạy sang nước Tề, thờ Tề Hoàn công, làm quan đại phu, cả thảy mười đời, đến đời Điền Hoà thì chiếm được Tề, mà họ Khương ở nước Tề thành ra tuyệt tự . Bấy giờ Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) đều đua nhau chọn người tài giỏi cho làm tướng quốc, vì thế mà quyền tướng quốc rất lớn . Tướng quốc nước Triệu là Công Trọng Liên, tướng quốc nước Hàn là Hiệp Luỹ . Nay hãy nói chuyện Hiệp Luỹ: khi Hiệp Lũy hãy còn hàn vi, cùng với người Bộc Dương (đất nước Vệ) là Nghiêm Toại, tên tự là Trọng Tử, cùng kết giao với nhau . Hiệp Luỹ nghèo mà Nghiêm Toại giàu . Hiệp Luỹ vẫn ăn nhờ Nghiêm Toại . Nghiêm Toại lại đem một nghìn nén vàng giúp cho Hiệp Luỹ, để Hiệp Luỹ có tiền mà đi du lịch các nước . Hiệp Luỹ nhờ thế mà sang được nước Hàn, làm quan đến tướng quốc . Hiệp Luỹ đã cầm quyền chính nước Hàn, có tiếng là người cẩn trọng, không ai được vào yết kiến riêng bao giờ . Nghiêm Tọai sang nước Hàn, muốn vào yết kiến Hiệp Luỹ để nhờ Hiệp Luỹ tiến dẫn cho . Nghiêm Toại đợi hơn một tháng mà không được vào yết kiến, mới đem tiền bạc lễ đút các người cận thần để xin vào yết kiến Hàn Liệt hầu . Liệt hầu bằng lòng muốn trọng dụng . Hiệp Luỹ lại kể những điều dở của Nghiêm Toại, và bảo Hàn Liệt hầu không nên dùng . Nghiêm Toại biết vậy, căm tức vô cùng, mới bỏ nước Hàn đi chu du thiên hạ, để đi tìm kẻ dũng sĩ đâm chết Hiệp Luỹ . Đi đến nước Tề, trông thấy trong đám đồ tể làm thịt trâu, có một người tay cầm cái búa lớn, đang bổ con trâu, nhát búa hạ đến đâu thì gân cốt trâu đứt phăng phăng ra đến đấy, mà người ấy không hề tỏ ý mệt nhọc chút nào . Cái búa thì nặng ước chừng hơn ba mươi cân . Nghiêm Toại lấy làm lạ đứng ngắm nghía kỹ người ấy thì thấy người ấy mình cao tám thước, mắt tròn râu vểnh, xương trán cao gồ, tiếng nói không giống tiếng người nước Tề . Nghiêm Toại mới hỏi họ tên và lai lịch thì người ấy đáp rằng: - Tôi họ Nghiếp, tên là Chính, vốn người nước Nguỵ, quê ở Chi ấp . Chỉ vì tôi hay thẳng tính cho nên đắc tội ở chốn hương thôn, phải đem mẹ và chị trốn sang đây, làm nghề đồ tể để kiếm ăn lần hồi cho qua ngày tháng . Nhiếp Chính lại hỏi họ tên Nghiêm Toại . Nghiêm Toại cũng bảo thực cả, rồi cáo từ mà đi . Đến sáng hôm sau, Nghiêm Toại đội mũ mặc áo, đến tận nhà Nhiếp Chính, mời Nhiếp Chinh ra quán uống rượu . Uống rượu được ba tuần thì Nghiêm Toại đưa một trăm nén vàng để tặng Nhiếp Chính, Nhiếp Chính thấy Nguyên Toại cho nhiều như vậy, có ý lấy làm lạ , Nghiêm Toại nói: - Tôi nghe nói ông có lão mẫu, vậy xin dâng của này để ông phụng dưỡng mẹ già . Nhiếp Chính nói: - Ông cho tiền để tôi phụng dưỡng lão mẫu tôi, thế thì tất ông có bụng muốn dùng tôi làm việc gì đó . Nếu ông không bảo rõ thì tôi quyết không dám nhận . Nghiêm Toại mới kể hết đầu đuôi việc Hiệp Lũy phụ ân cho Nhiếp Chính nghe và nói muốn giết chết Hiệp Lũy để báo thù, Nhiếp Chính nói: - Ngày xưa Chuyên Chư đã có câu rằng: "lão mẫu hãy còn thì không dám đem thân giúp ai cả", vậy thì việc này cũng khó nghĩ lắm . Ông cho tôi quyết không dám nhận . Nghiêm Toại nói: - Tôi mến tấm lòng cao nghĩa của ông, xin kết làm anh em, khi nào dám trái tấm lòng hiếu duỡng của ông mà cầu nên việc riêng của mình! Nhiếp Chính bất đắc dĩ mới phải nhận vàng, đem một nửa cho người chị là nàng Doanh, còn một nửa thì ngày nào cũng mua những của ngon vật lạ, phụng dưỡng bà mẹ . Được hơn một năm thì bà mẹ Nhiếp Chính chết . Nghiêm Toại đến khóc viếng, rồi lo việc tang lễ giúp Nhiếp Chính, khi an táng xong, Nhiếp Chính nói với Nghiêm Toại rằng: - Cái thân tôi ngày nay, tức là cái thân của túc hạ đó . Túc hạ muốn dùng làm việc gì, tôi cũng không dám tiếc . Nghiêm Toại mới hỏi cái kế để báo thù Hiệp Luỹ . Nhiếp Chính nói: - Tướng quốc là một bực tôn qúi, ra vào lúc nào cũng có quân sĩ hộ vệ, ta phải dùng mưu mới xong, chứ không phải chỉ lấy sức khỏe mà làm được . Tôi xin giắt một con dao nhọn đi, rồi rình lúc bất ngờ mà đâm chết . nay tôi xin từ biệt túc hạ, không bao giờ lại trông thấy túc hạ nữa! mà túc hạ cũng không nên hỏi đến việc tôi làm . Nhiếp Chính đến nước Hàn, ngủ ở ngoài thành, im lặng chờ đợi ba ngày, đến sáng sớm ngày thứ tư, đi vào trong thành, vừa lúc bấy giờ Hiệp Luỹ ở trong triều ra, xe xe ngựa ngựa, quân sĩ cầm giáo hộ vệ chung quanh, đi nhanh như bay . Nhiếp Chính theo đến tướng phủ . Hiệp Lũy xuống xe, vào ngồi trong phủ để xử quyết mọi việc . Từ cửa lớn vào đến thềm nhà, chỗ nào cũng có quân đứng cả . Nhiếp Chính đứng xa mà trông thì thấy Hiệp Lũy ngồi tựa một cái án thư, chung quanh có các người đang cầm giấy má đứng hầu bẩm rất đông . Một lúc thì các công việc xong, sắp sửa tan hầu; Nhiếp Chính nhân lúc Hiệp Lũy đang mỏi mệt, mới giả cách nói có việc cần kíp vào bẩm quan tướng quốc, rồi cứ việc ở ngoài cửa đi sấn thẳng vào . Giáp sĩ, kẻ nào ngăn lại đều bị Nhiếp Chính gạt ngã hết cả . Nhiếp Chính vào thẳng công đường, rút dao nhọn đâm Hiệp Luỹ . Hịêp Lũy sợ chạy . Chạy chưa khỏi chỗ thì bị lưỡi dao đâm trúng vào bụng mà chết . Trong phủ náo động cả lên, đều kêu có giặc, quân sĩ đóng cửa phủ lại để bắt Nhiếp Chính . Nhiếp Chính đánh chết mấy người nữa, rồi liệu biết mình không thể ra thoát được, lại sợ người ta biết mình là ai, mới vội vàng cầm dao đâm nát mặt mình ra, khoét bỏ hai con mắt, rồi tự đâm cổ mà chết . Tức khắc có người phi báo Hàn Liệt hầu . Hàn Liệt hầu hỏi giặc là người nào, không ai biết cả, bèn truyền đem thây giặc chăng bày ra giữa chợ, rồi treo giải: hễ ai biết được họ tên và lai lịch người ấy mà cáo tỏ ra thì được thưởng một nghìn nén vàng . Giải treo trong mười ngày, kẻ đi người lại, đông như kiến cỏ, mà tuyệt nhiên chẳng ai biết cả . Việc ấy đồn đến nước Ngụy, người chị Nhiếp Chính ở làng Chi ấp tên là nàng Doanh, nghe được tin ấy thì liền lăn khóc mà nói rằng; - Người ấy tất chỉ là em ta đó thôi! Nàng Doanh bèn chít khăn trắng rồi đi sang nước Hàn, trông thấy thây Nhiếp Chính chăng bày giữa chợ, liền chạy đến ôm lấy mà khóc lóc rất thảm thương . Kẻ thị lại (chức coi chợ) bắt mà nói rằng: - Nàng với người chết đó là thế nào ? nàng Doanh nói: - Người chết đó là em tôi, tên gọi Nhiếp Chính, tôi đây là chị ruột hắn, tên gọi là Doanh đó! em tôi nguyên ở Chỉ ấp vốn là người vũ dũng . Hắn biết việc đâm chết quan tướng quốc này là trọng tội, sợ di lụy đến tôi, nên khoét mắt rạch mặt ra để không ai nhận được, thế thì lẽ nào tôi lại tiếc thân tôi mà khiến cho em tôi mai một tên tuổi, chẳng ai biết đến hay sao ! Người thị lại nói: - Người chết đó đã là em nàng thì tất nàng biết vì sao hắn dám làm càn như vậy . Nếu nàng nói rõ người nào xui giục hắn thì ta sẽ tâu với chúa công tha tội cho nàng . Nàng Doanh nói: - Tôi sợ chết thì đã không dám tới đây . Em tôi vì người khác báo thù mà không tiếc cái thân, đi giết một ông tướng quốc . Tôi không nói rõ tên người ấy ra thì làm mất cái tiếng của em tôi, mà nếu tôi nói rõ ra thì lại làm em tôi mất điều nghĩa . Nàng Doanh liền đập đầu vào cái cột đá ở chợ mà chết . Thị lại vào báo với Hàn Liệt hầu . Hàn Liệt hầu ngợi khen, truyền đem thu táng cho nàng Doanh và Nhiếp Chính, rồi phong Hàn Sơn Kiên làm tướng quốc để thay Hiệp Lũy . Hàn Liệt hầu truyền cho con là Hàn Văn hầu, Hàn Vanhàu truyền cho Hài Ai hầu . Hài Ai hầu cùng với Hàn Sơn Kiên bất hoà với nhau . Hàn Sơn Kiên mới thừa cơ giết chết Hàn Ai hầu . Các quan đại thần lại cùng nhau giết Hàn Sơn Kiên mà lập con Hàn Ai hầu là Nhược Sơn, tức là Hàn Y hầu . Đến đời con Hàn Y hầu là Hàn Chiêu hầu, dùng Thân Bất Hại là tướng quốc . Thân Bất Hại tinh thông cái học "hình danh" vì thế mà nước Hàn được thịnh trị . Lại nói chuyện năm thứ 15 đời Chu An vương, Ngụy Văn hầu ốm nặng, triệu thế tử Kích ở nước Trung Sơn về . Nước Triệu nghe tin thế tử Kích dời bỏ Trung Sơn, liền đem quân sang đánh mà chiếm lấy . Từ bấy giờ Ngụy và Triệu có hiền khích với nhau . Thế tử Kích về Ngụy thì Ngụy Văn hầu đã mất rồi, thế tử Kích mới làm chủ tang lên nối ngôi, tức là Ngụy Vũ hầu . Ngụy Vũ hầu phong Điền Văn làm quan tướng quốc . Ngô Khởi ở Tây Hà vào triều, vẫn tự đắc là mình có công to, thế nào cũng được làm tướng quốc, đến khi nghe nói Điền Văn đã được làm tướng quốc rồi thì hầm hầm nổi giận mà lui ra . Ra đến cửa triều, bỗng gặp Điền Văn . Ngô Khởi đón mà bảo rằng: - Ông có biết cái công Ngô Khởi thế nào không ? hôm nay tôi xin nói cho ông nghe . Điền Văn chắp tay mà đáp rằng: - Vâng ! xin ông cho nghe . Ngô Khởi nói: - Làm tướng đem quân đánh giặc, khiến cho quân sĩ nghe tiếng trống mà có thể quên chết được, ông có bằng Ngô Khởi không ? Điền Văn nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói: -Trị trăm quan, yêu muôn dân, khiến cho kho tàng sung túc, ông có bằng Ngô Khởi không ? Điền Văn nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói: - Trấn thủ ở Tây Hà, mà quân Tần không dám xâm phạm đến bờ cõi, Hàn và Triệu đều phải kính phục, ông có bằng Ngô Khởi không ? Điền Văn nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói:- Ba điều ấy ông đều kém tôi, thế mà ngôi ông ở trên tôi là nghĩa là sao ? Điền Văn nói: - Tôi bất tài mà được ngôi cao, cũng lấy làm thẹn lắm, nhưng ngày nay tân quân hãy còn ít tuổi, các đại thần và trăm họ chưa có lòng tin theo, tôi chỉ vì là huân cựu đời trước mà được phong, thì tôi thiết tưởng lúc này không phải là lúc ta nên kể công vội . Ngô Khởi cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp rằng: - Ông nói cũng có lẽ phải! nhưng rồi đây ngôi tướng quốc thế nào cũng phải về tôi mới phải . Nội thị nghe biết chuyện hai người ấy tranh công với nhau như thế, vào tâu với Ngụy Vũ hầu . Ngụy Vũ hầu biết Ngô Khởi có lòng oán vọng, mới lưu Ngô Khởi ở lại, mà chọn người khác sai đi trấn thủ Tây Hà . Ngô Khởi sợ Ngụy Vũ hầu giết, liền bỏ trốn sang nước Sở . Sở Điệu vương (Hùng Nghi) vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người có tài, tức khắc cho làm quan tướng quốc . Ngô Khởi cảm cái ân ấy vô cùng, có ý hăng hái, muốn cố giúp cho nước Sở được cường thịnh, mới xin với Sở Điệu vương rằng: - Nước Sở ta, đất rộng mấy nghìn dặm vuông, quân giáp sĩ kể có hơn trăm vạn, đáng lẽ thì đè ép được chư hầu mà nối đời làm minh chủ mới phải, thế àm nay vẫn không hơn được các nước là bởi chưa biết cái đạo nuôi quân . Cái đạo nuôi quân, trước hết phải cấp lương cho hậu thì họ mới chịu hết sức, nay trong triều có nhiều chức quan không cần, nhiều người họ xa của nhà vua cũng ăn hại của kho nhà nước, còn lương chiến sĩ thì cấp cho chẳng được bao nhiêu, thế mà muốn khiến cho họ phải vì nước liều mình, chẳng cũng khó lắm ư! nếu đại vương chịu theo kế tôi, thải bớt những chức quan không cần đi, giảm bớt lương những người họ xa đi, để đem bổng lộc mà cấp cho chiến sĩ, như thế mà nước không được cường thịnh thì tôi xin chịu tội chết . Điệu vương theo kế ấy . Triều thần đều can không nên nghe lời nói của Ngô Khởi . Điệu vương không nghe, liền giao cho Ngô Khởi sửa lại quan chế, tước bỏ những chức quan không cần, kể hàng mấy trăm viên, con em các quan đại thần, không được dựa dẫm mà ăn lộc của nhà nước; lại định lệ cho những người trong công tộc từ năm đời trở lên thì phải đi làm ăn, cũng coi như dân thường vậy, còn từ năm đời trở xuống thì cân nhắc họ gần họ xa mà cho lương nhiều hoặc lương ít . Vì thế mà sổ chi tiêu mỗi năm dôi ra kể hàng mấy vạn . Rồi kén những quân tinh nhuẹ trong nước, sớm tối luyện tập, xét ai là người tài giỏi thì cho ăn nhiều lương, có người được tăng lương gấp mấy lần trước . Bởi thế mà quân sĩ đều có lòng ganh đua nhau, binh lực nước Sở mạnh hơn cả thiên hạ . Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) và Tề, Tần, nước nào cũng kinh sợ . Suốt đời Sở Điệu vương, không nước nào dám đem quân đến đánh . Đến khi Điệu vương mất, chưa kịp khâm liệm thì những con em các nhà qúi thích đại thần thừa cơ nổi loạn, định giết Ngô Khởi . Ngô Khởi chạy vào nơi cung tẩm . Chúng đem cung tên đuổi theo . Ngô Khởi biết sức mình không địch nổi, mới ôm lấy thi thể Sở Điệu vương . Chúng giương cung ra bắn: cả thi thể Điệu vương cũng bị mấy mũi tên . Ngô Khởi kêu to lên rằng: - Tôi dẫu chết cũng không dám tiếc, nhưng các ngươi căm tức đại vương mà bắn thi thể, thì cái tội đại nghịch bất đạo ấy,khi nào lại tránh khỏi vòng pháp luật nước Sở được! Ngô Khởi nói xong thì chết . Chúng nghe lời Ngô Khởi nói, sợ mà ta ra . Thái tử Hùng Tang lên nối ngôi, tức là Sở Túc vương . Được hơn một tháng, Túc vương xét đến cái tội bắn thi thể Điệu vương, liền sai em là Hùng Lương Phu đem quân đi bắt bọn khởi loạn mà giết đi, cả thảy hơn bảy mươi nhà . Lại nói chuyện Điền Hoà lên làm vua nước Tề, được hai năm thì mất . Điền Hoà truyền cho Điền Ngọ, Điền Ngọ truyền cho Điền Nhân Tề . Năm Điền Nhân Tề lên nối ngôi, tức là năm thứ 23 đời Chu An vương . Điền Nhân Tề cậy nước mình giàu mạnh, thấy Ngô và Việt xưng vương, sứ thần hai nước đi lại, đều dùng vương hiệu, thì cũng không chịu kém Ngô và Việt, mới tiếm hiệu xưng vương, tức là Tề Uy vương . Ngụy hầu nghe thấy nước Tề xưng vương, liền nói: - Ngụy sao lại không bằng Tề! Bấy giờ cũng tự xưng là Ngụy vương (tức là Lương Huệ vương) Tề Uy vương từ khi lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không nghĩ gì đến quốc chính . Trong khoảng 9 năm, Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân đến đánh, các tướng ở ngoài bờ cõi thường bị thua luôn . Một hôm có một người thư sinh, xin vào yết kiến tự xưng là họ Trâu, tên là Kỵ, nguyên người bản quốc, có biết gảy đàn cầm, nghe nói Tề Uy vương thích âm nhạc, nên tìm đến . Tề Uy vương cho triệu vào, mời ngồi, sai người đặt cái ghế ở trước mặt, rồi đưa cây đàn cầm ra . Trâu Kỵ lên dây đàn mà không gảy . Uy vương hỏi rằng: - Tiên sinh đã là người khéo gảy đàn cầm thì nên cho ta nghe một bài . Nay tiên sinh lên dây mà không gảy, dễ thường cái đàn này không được tốt chăng ? hay tiên sinh có ý chê ta không biết nghe đàn chăng ? Trâu Kỵ đặt cây đàn cầm xuống, rồi nghiêm nét mặt mà đáp rằng: - Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ đường tơ là việc của bọn nhạc công, tôi dẫu biết cũng không đáng gảy hầu đại vương làm gì . Uy vương nói: - Cầm lý thế nào ? xin tiên sinh cho nghe . Trâu Kỵ nói: - Cầm tức là cấm, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo . Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm, đàn cầm có năm dây, dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi; đến đời Văn vương và Vũ vương, mỗi ngài lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi . Xem thế đủ biết rằng vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới được hoà hợp, cái đạo trị nước cũng chẳng qua như thế mà thôi . Uy vương nói: - Tiên sinh nói phải lắm! nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy thử gảy chơi một khúc . Trâu Kỵ nói: - Tôi họ đàn thì phải biết cái phép chơi đàn; đại vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao ? nay đại vương bỏ nước mà không trị, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy hay không ? tôi ôm đàn mà không gảy thì đại vương không được thoả lòng, thế thì đại vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân cũng không được thoả lòng vậy! Uy vuong ngạc nhiên nói rằng: - Thế là tiên sinh mượn cây đàn để can ta đó! ta đã hiểu ý rồi . Uy vương mời Trâu Kỵ lưu lại ở hữu thất . Đến ngày hôm sau, Tề Uy vương tắm gội sạch sẽ, rồi triệu Trâu Kỵ vào, cùng bàn việc nước . Trâu Kỵ khuyên Tề Uy vương tiết bớt những sự tửu sắc, tin dùng người trung lương mà trừ bỏ đứa gian nịnh, lại luyện tập quân sĩ để mưu nghiệp bá vương . Tề Uy vương bằng lòng lắm, tức khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc . Bấy giờ có kẻ bịện sĩ là Thuần Vu Khôn, thấy Trâu Kỵ chỉ nói mấy câu mà được làm tướng quốc, có ý không phục, mới đem vây cánh sang yết kiến Trâu Kỵ . Trâu Kỵ tiếp đãi rất lễ phép . Thuần Vu Không ý khí kiêu căng, nghiễm nhiên ngồi ghế trên mà bảo Trâu Kỵ rằng: - Tôi có thiển nghĩ được mấy điều, muốn giãi bày để quan tướng quốc nghe, chẳng biết có nên không ? Trâu Kỵ nói: - Xin cứ cho nghe . Thuần Vu Khôn nói: - Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng . Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! từ nay chúng tôi không dám rời bên cạnh vua . Thuần Vu Khôn lại nói: - Dùng gỗ cức làm bánh xe lại bôi thêm mỡ trơn, thế thì trơn lắm rồi, nhưng nếu làm cái lỗ vuông thì cũng không thể nào mà chuyển vận được . Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! tôi không dám làm điều gì trái nhân tình . Thuần Vũ Khôn lại nói: - Cán cung dẫu cứng đến đâu, cũng có lúc trễ; các dòng nước chảy ra bể, tự nhiên mà hợp . Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! từ nay tôi phải yêu mến muôn dân . Thuần Vu Khôn lại nói: - Áo cầu lông chồn dẫu nát, không nên đem da chó mà vá vào . Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! tôi xin kén chọn người giỏi mà dùng, không dám cho kẻ bất tài lẫn vào đó! Thuần Vu Khôn nói: - Trục bánh xe không so sánh từng phân từng thốn thì không dùng được; cầm sắt không so sánh dây hoãn dây cập thì không thành luật được . Trâu Kỵ nói: - Xin vâng ! tôi xin sửa soạn pháp luật để giám sát những kẻ gian . Thuần Vu Khôn nín lặng, sụp lay hai lạy rồi ra . Khi đã ra cửa, môn đồ của Thuần Vu Khôn hỏi rằng: - Lúc tiên sinh mới vào yếtkiến quan tướng quốc thì sao tiên sinh đắc ý thế, mà đến lúc lui ra thì sao tiên sinh lại chịu khuất mà sụp lạy như vậy ? Thuần Vu Khôn nói: - Ta mới ngỏ ý thử năm điều, quan tướng quốc đều hiểu ý ta mà ứng khẩu trả lời ngay được, thế là một bậc đại tài, ta không thể theo kịp . Từ bấy giờ các biện sĩ nghe tiến Trâu Kỵ, không ai dám đến nước Tề . Trâu Kỵ cũng nghe lời nói Thuần Vu Khôn, mà hết lòng lo việc chính trị, thường dò xét trong các bọn quan ấp để xem ai giỏi, ai không giỏi . Bấy giờ các quan đại phu trong triều ai cũng khen quan đại phu đất A, mà chê quan đại phu đất Tức Mặc . Trâu Kỵ nói với Tề Uy vương, rồi sai người đi dò xét xem sự thực thế nào . Khi đã dò xét được sự thực rồi, Uy vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến . Quan đại phu đất Tức Mặc đến truớc, Uy vương chẳng nói gì cả, các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao . Chưa được bao lâu, quan đại phu đất A cũng đến . Uy vương truyền họp tất cả thần lại để định thưởng phạt . Triều thần ai cũng nghĩ thầm rằng: - Quan đại phu đất A phen này tất được trọng thưởng, mà đại phu đất Tức Mặc thì sắp có tai vạ đến nơi! Khi các quan văn vũ vào triều kiến cả rồi, Uy vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến trước mặt mà bảo rằng: - Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ ở đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời chê bai . Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương ấy được yên . Thế là bởi nhà ngươi chuyên lòng trị dân, mà không chịu lễ đút những người tả hữu của ta, thành ra bị họ chê bai đó . Nhà ngươi thật là một viên quan giỏi . Nói xong, liền gia phong cho, rồi lại gọi quan đại phu đất A đến mà bảo rằng: - Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời khen ngợi . Ta sai người đến dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét, hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu . Thế là nhà ngươi chỉ đem của đút lót những người tả hữu của ta, thành ra được họ khen ngợi như vậy . Nhà ngươi thật là một viên quan rất dỡ . Quan đại phu đất A sụp lạy xin đổi lỗi . Uy vương không nghe, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu lên . Vạc dầu đang sôi sùng sục, Uy vương sai trói quan đại phu đất A mà bỏ vào . Lại bắt cả những người xưa nay vẫn khen quan đại phu đất A mà chê quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến mà trách mắng rằng: - Các ngươi đều là người tả hữu gần ta, tức là hai mắt của ta, các ngươi lại tham của ăn lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải, để lừa dối ra, thế thì ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! nên đem bỏ vào vạc dầu cả . Chúng đều khóc lóc kêu van . Tề Uy vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy hơn mười người, toàn là những người xưa nay mình có lòng thân yêu đem bỏ vạc dầu . Mọi người đều run sợ . Từ bấy giờ Tề Uy vương kén chọn những người hiền tài, cho đi trấn thủ các quận . Đàn Tử đi trấn thủ Nam thành để chống cự với Sở; Điền Miện đi trấn thủ Cao Đường để chống cự với Triệu; Kiếm Phu đi trấn thủ Từ Châu để chống cự với Yên . Còn quan tư khấu và tư mã, cũng đều chọn được người giỏi cả, vì thế mà trong nước cường thịnh, chư hầu đều phải kiêng . Uy vương đem đất Hạ Bì phong cho Trâu Kỵ mà bảo rằng: - Làm thành được cái chí của ta là nhờ công nhà ngươi đó . Ta đặt tên cho nhà ngươi là Thành hầu . Trâu Kỵ tạ ân xong lại tâu rằng: - Trong ngũ bá thì Tề Hoàn công và Tấn Văn công là thịnh hơn cả, mà sở dĩ như thế, là nhờ về cái tiếng biết tôn thiên tử nhà Chu . Nay nhà Chu dẫu suy mà chín cái đinh vẫn còn, sao đại vương không vào triều thiên tử nhà Chu, để mượn cái uy lệnh thiên tử mà sai khiến chư hầu . Nếu được như vậy thì sự nghiệp của đại vương, cũng chẳng kém gì Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở trước . Uy vương nói: - Ta đã xưng vương, có lẽ nào Tề vương lại vào triều Chu vương! Trâu Kỵ nói: - Ta xưng vương nghĩa là để tỏ rằng ta hùng trưởng hơn như hầu, chứ không phải xưng vương để đối địch với thiên tử . Khi đại vương vào triều thiên tử, hãy tạm xưng Tề hầu, như thế thì thiên tử tất yêu cái đức khiêm cung của đại vương, mà gia phong cho đại vương vậy . Tề Uy vương bằng lòng, tức khắc vào triều thiên tử nhà Chu . Bấy giờ là năm thứ 6 đời Chu Liệt vương, nhà Chu suy yếu, đã lâu không thấy các nước vào triều, nay thấy Tề Uy vương đến thì trên dưới đều vui vẻ mừng rỡ . Chu Liệt vương đem hết các đồ châu báu ra tặng cho Tề Uy vương . Khi Tề Uy vương từ nhà Chu trở về nước Tề, ai trông thấy cũng ca tụng là người có hiền đức . Bấy giờ thiên hạ có bảy nước lớn là Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên và Tần . Bảy nước ấy đất rộng binh cường, đại lược đều nhau; còn các nước khác như nước Việt, dẫu có xưng vương, nhưng mỗi ngày một suy yếu, đến như Tống, Lỗ, Vệ và Trịnh thì lại càng không đáng nói đến . Từ khi Tề Uy vương làm bá chủ thì SỞ, Nguỵ, Hàn, Triệu và Yên, năm nước ấy đều chịu kém nước Tề, trong khi hội họp vẫn tôn nước Tề làm chủ minh, chỉ có Tần là một nước xa lánh về phía tây Nhung, các nước Trung quốc thường khinh bỉ, không hay thông hiếu . Đời Tần Hiến công bỗng có mưa vàng trong ba ngày, quan thái sử nhà Chu tên là Thiên than rằng: - Đất nước Tần nguyên là của nhà Chu chia cho, chỉ hơn trăm năm thì tất lại hợp, mà sẽ có đời nên nghiệp bá vương . Nay trời mưa vàng ở nước Tần, tức là cái điềm ấy đó! Tần Hiến công mất, con là Tần Hiếu công lên nối ngôi . Tần Hiếu công lấy việc không được dự hội với Trung quốc làm xấu hổ, mới hạ lệnh cầu hiền . Lệnh rằng: "Các tân khách và triều thần ai có mưu kế gì lạ làm cho nước Tần được cừơng thịnh thì ta xin dùng làm đại thần và phong cho đại ấp".

Hồi 87 88. Vệ Ưởng hết lòng giúp Hiếu công Qủi Cốc truyền phép cho Tôn Tẫn Người nước Vệ có Công Tôn Ưởng, vốn chuyên họ về "hình danh" thấy nước Vệ nhỏ yếu, không đủ thi thố tài năng của mình, mới bỏ nước Vệ đi sang nước Ngụy, muốn xin vào làm tôi quan tướng quốc nước Ngụy là Điền Văn . Bấy giờ Điền Văn đã mất, Công tôn Toạ thay làm tướng quốc . Vệ Ưởng (tức là Công tôn Ưởng) mới vào làm tôi Công Tôn Toạ . Công Tôn Tọa biết Vệ Ưởng là người có tài, liền nói với Ngụy Huệ vương cho làm chức trung thứ tử (tức là thuộc viên của quan tướng quốc). Mỗi khi có việc quan trọng thì Công Tôn Tọa la.i bàn với Vệ Ưởng . Vệ Ưởng nghị luận đều vỡ lẽ cả . Công Tôn Toạ có lòng yêu mến, muốn tiến dẫn làm quan to, nhưng chưa kịp tiến dẫn thì Công Tôn Tọa bị bệnh . Ngụy Huệ vương thân hành đến hỏi thăm, thấy Công Tôn Toạ bị bệnh nguy kịch lắm, chỉ còn thoi thóp hơi thở mà thôi . Ngụy Huệ vương mới ứa nước mắt mà nói rằng: - Chẳng may mà quan tướng quốc không khỏi thì ta biết giao việc nước cho ai được ? Công Tôn Tọa nói: - Giao cho thứ tử Vệ Uởng . Người ấy tuổi tuy còn trẻ, nhưng là một bậc kỳ tài đời nay . Nếu đại vương giao hết quốc chính cho người ấy thì thật hơn gấp mười tôi đó . Ngụy Huệ vương nín lặng, Công Tôn Toạ lại nói: - Nếu đại vương không dùng Vệ Uởng thì nên giết đi, chớ để cho hắn ra cõi, mà nước khác dùng được thì lại hại cho nước Nguỵ ta về sau này . Ngụy Huệ vương nhận lời . Khi đã lên xe trở về, Ngụy Huệ vương mới thở dài mà nói rằng: - Bệnh tình của tướng quốc đã nặng lắm rồi nên mới khuyên ta giao quyền cho Vệ Ưởng! quan tướng quốc lại bảo ta rằng: "không dùng thì phải giết đi!" chao ôi! Vệ Uởng làm gì nổi! tướng quốc, há không phải là ngài mê sảng hay sao! Ngụy Huệ vương đi khỏi rồi, Công Tôn Toạ gọi Vệ Ưởng đến cạnh giường mà bảo rằng: - Vừa rồi ta có nói với đại vương, để đại vương dùng nhà ngươi . Đại vương không nghe . Ta lại có nói: "Nếu không dùng thì nên giết đi!" đại vương nhận lời . Nay ta bảo thực với nhà ngươi, nhà ngươi nên mau mau mà trốn đi, kẻo có tai vạ . Vệ Ưởng nói: - Đại vương không biết nghe lời, quan tướng quốc mà dùng tôi, thì khi nào lại biết nghe lời quan tướng quốc mà giết tôi được! Vệ Uởng không chịu đi trốn . Quan đại phu là công tử Cùng có quen Vệ Uởng, lại tiến dẫn với Ngụy Huệ vương . Ngụy Huệ vương cũng không biết dùng . Đến bấy giờ Vệ Uởng nghe tin Tần Hiếu công hạ lệnh cầu hiền, mới bỏ Ngụy sang Tần, xin vào yết kiến một người bế thần của Tần Hiếu công tên gọi Cảnh Giám . Cảnh Giám cùng với Vệ Uởng thương nghị việc nước, biết Vệ Uởng là người có tài, liền vào tâu với Tần Hiếu công . Hiếu công cho triệu vào, hỏi về đạo trị nước . Vệ Ưởng viện dẫn các đời vua như Hi, Nông, Nghiêu, Thuấn để trả lời . Vệ Uởng nói chưa hết lời thì Hiếu công đã ngủ mất rồi . Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào yết kiến, Hiếu công trách mắng rằng: - Vệ Uởng là một người gàn! hắn nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng đuợc, sao nhà ngươi lại tiến dẫn cho ta ? Cảnh Giám lui về bảo Vệ Uởng rằng: - Tôi đưa tiên sinh vào yết kiến chúa công, sao tiên sinh lại nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng được, khiến chúa công chán mà không muốn nghe ? Vệ Uởng nói: - Tôi đem đế đạo nói với chúa công, nhưng chúa công không hiểu, vậy ông hãy xin cho tôi vào yết kiến một lần nữa . Cảnh Giám nói: - Chúa công đã có ý không bằng lòng, tất phải để chậm độ năm ngày nữa thì mới nói được . Quá năm ngày, Cảnh Giám lại vào tâu với Hiếu công rằng: - Vệ Uởng chưa nói được hết lời, xin chúa công hãy cho vào yết kiến một lần nữa . Tần Hiếu công lại triệu Vệ Uởng vào . Vệ Uởng giãi bày những công việc của Hạ Vũ và vua Thang, vua Vũ thuở xưa, Hiếu công vừa vẫy tay bảo lui ra, vừa nói rằng: - Nhà ngươi thật là một người học rộng nhớ nhiều, nhưng cổ kim mỗi lúc một khác, nhà ngươi nói như thế thì dùng nhà ngươi làm sao được! Cảnh Giám đứng chờ ngoài cửa, trông thấy Vệ Uởng ở trong cung đi ra, đón mà hỏi rằng: - Ngày hôm nay thế nào ? - Tôi đem vương đạo nói với chúa công, chúa công còn chưa bằng lòng . Cảnh Giám nói: - Ông vua dùng người khác nào kẻ đi săn dùng cái cung, chỉ mong sao cho sớm tối có lợi ngay . Nay tiên sinh bỏ cái lợi trước mắt mà đi nói những chuyện đế vương thì hợp ý chúa công thế nào được ! Vệ Uởng nói: - Lúc trước, chưa hiểu ý chúa công thế nào, tôi sợ chúa công có chí cao mà tôi lại nói thấp chăng, vậy nên phải nói như thế để dò ý . Nay đã dò được ý rồi, giả sử tôi được yết kiến chúa công một lần nữa, thì lo gì mà không hợp . Cảnh Giám nói: - Tiên sinh hai lần vào yết kiến, mà đều nói trái ý chúa công tôi cả, khi nào tôi lại còn dám nói nữa khiến chúa công tôi nổi giận . Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào triều tạ tội, không dám nói đến Vệ Uởng nữa . Khi Cảnh Giám về nhà Vệ Uởng lại hỏi rằng: - Ông có tâu với chúa công, xin cho tôi vào yết kiến nữa hay không ? Cảnh Giám nói: - Tôi không tâu . Vệ Uởng nói: - Tiếc thay, chúa công có lệnh cầu hiền mà lại không biết dùng người hiền . Thôi, tôi cũng xin cáo từ thôi! Cảnh Giám nói: - Tiên sinh định đi đâu ? Vệ Uởng nói: - Chư hầu còn sáu nước lớn nữa, há lại không có một ông vua nào hiếu hiền hơn vua nước Tần sao ? mà há lại không biết được một người nào chịu hết lòng để tiến hiền hơn ông nữa hay sao ? tôi sẽ đi tìm một nơi như thế . Cảnh Giám nói: - Tiên sinh hãy thư thả, đợi trong năm ngày nữa, rồi tôi sẽ lại tâu . Quá năm ngày nữa, Cảnh Giám đứng hầu Hiếu công . Hiếu công đang uống rượu, bỗng thấy chim hồng bay qua, liền dừng chén rượu mà thở dài . Cảnh Giám tâu rằng: - Chúa công trông thấy chim hồng bay qua mà thở dài là ý làm sao ? Hiếu công nói: - Ngày xưa Tề Hòan công có nói:"Ta được Quản Trọng, khác nào như chim hồng có lông cánh" . Nay ta hạ lệnh cầu hiền, đã mấy tháng rồi, mà không được một người tài giỏi nào đến, khác nào như chim hồng có chí bay nhảy mà không được lông cánh giúp cho, bởi vậy mà ta buồn rầu . Cảnh Giám tâu rằng: - Vệ Uởng có ba thuật là "đế", "vương", "bá" khi trước vào yết kiến chúa công, đã nói thuật làm "đế" và thuật làm "vương", nay còn thuật làm "bá" muốn xin nói nốt, chúa công thử bớt thì giờ nghe xem ra làm sao . Hiếu công nghe nói đến thuật làm "bá" thấy thích hợp với sở nguyện của mình, liền sai Cảnh Giám đi triệu Vệ Uởng . Vệ Uởng vào . Hiếu công hỏi rằng: - Nhà ngươi có ba thuật sao không nói trước cho ta nghe ? Vệ Uởng nói: - Không phải là tôi không muốn nói, nhưng bá thuật dùng với đế thuật và vương thuật khác nhau: đến thuật, vương thuật thì cốt thuận dân tình mà bá thuật thì tất phải trái dân tình mới được . Hiếu công bỗng biến sắc, rồi chống thanh kiếm mà nói rằng: - Bá thuật, cứ gì phải trái dân tình mới làm được ? Vệ Uởng nói: - Đàn cầm, đàn sắt không được êm ái, thì tất phải thay dây mà gióng lại . Chính trị cũng thế, không gióng lại thì không được . Tỉêu dân chỉ cần yên trong một lúc, mà không nghĩ gì đến cái lợi trăm năm cho nên không muốn tranh cãi . Ngày xưa Quản Trọng giúp Tề Hoàn công, đặt ra phép nội chính và phép quân lệnh, chia nước Tề làm hai mươi nhăm hướng, đổi hết pháp luật cũ nuớc Tề, đâu có phải bọn tiểu dân vui lòng mà theo! đến khi nước cường thịnh, thì dân mới biết Quản Trọn là một bậc đại tài trong thiên hạ . Hiếu công nói: - Nếu nhà ngươi thật có cái thuật như Quản Trọng, thì ta dám đâu không giao hết quyền chính cho nhà ngươi, nhưng chẳng hay cái thuật ấy như thế nào ? Vệ Uởng nói: - Nước có giàu thì mới dùng binh được, binh có mạnh thì mới phá giặc được . Nay muốn cho nước giàu thì không gì bằng ra sức cày ruộng, muốn cho binh mạnh thì không gì bằng luyện tập chiến trận; lấy trọng thưởng mà dụ dân thì mới biết theo, lấy trọng phạt mà trị thì dân mới biết sợ; thưởng phạt phải cho đúng, chính lệnh phải được mọi người tuân hành . Như thế mà nước không giàu, binh không mạnh thì còn có lẽ nào nữa! Tần Hiếu công nói: - Nếu vậy thì hay lắm! cái thuật ấy ta có thể theo được . Vệ Uởng nói: - Cái thuật giàu mạnh này, nếu không có người giỏi thì cũng không làm được . Đã được người giỏi, nhưng nếu mình không biết chuyên tâm để dùng người ta mà còn nghe người này người khác nói, đổi ý luôn luôn, thì cũng không làm được . Hiếu công lại nói: - Hay lắm! Vệ Uởng xin lui ra . Hiếu công nói: - Ta đang muốn nghe cho hết cái thuật của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại vội cáo từ làm vậy ? Vệ Uởng nói: - Hãy xin chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày xem nên chăng thế nào, bấy giờ tôi sẽ xin nói hết . Khi Vệ Uởng lui về, Cảnh Gia'm lại trách rằng: - Chúa công đã hai ba lần khen phải, sao tiên sinh không nhân dịp ấy mà giãi bày cho cặn kẽ, lại còn muốn cho chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày rồi mới chịu nói, thế chẳng hoá ra mình bắt bí chúa công hay sao ? Vệ Uởng nói: - Tôi xem ý chúa công chưa nhất định, nếu không làm như vậy thì e rồi lại đổi ý mà thôi! Đến sáng hôm sau, Tần Hiếu công sai người đến triệu Vệ Uởng, Vệ Uởng từ chối rằng: - Hôm qua tôi đã tâu với chúa công rồi, chưa được ba ngày thì tôi không dám vào yết kiến! Cảnh Giám lại khuyên Vệ Uởng chớ từ chối . Vệ Uởng nói: - Tôi vừa đính ước với chúa công mà nay đã thất tín ngay, thế thì sau này tôi còn thủ tín sao được ? Bấy giờ Cảnh Giám mới chịu phục . Đến ngày thứ ba Hiếu công sai người đem xe đến đón . Vệ Uởng lại vào yết kiến, Hiếu công mời ngồi và xin lời chỉ giáo, xem ra ý tứ rất là khẩn thiết . Vệ Uởng mới kể hết những công việc nên thay đổi về chính trị nước Tần . Hai bên nói chuyện với nhau suốt trong ba ngày ba đêm, mà Hiếu công không chút mỏi mệt, liền cho Vệ Uởng làm chức tả thứ trưởng và thưởng cho năm trăm nén vàng . Lại hiểu dụ cho triều thần biết rằng từ nay trở đi, đều phải theo lệnh quan tả thứ trưởng là người có quyền định đoạt mọi việc chính trị trong nước, ai dám trái phạm thì sẽ trị tội như là chống với lệnh chỉ nhà vua . Triều thần đều sợ một phép . Vệ Uởng định hạ cái lệnh biến pháp, đã đem các điều khoản trình lên Hiếu công chủẩn y, nhưng sợ dân không tin theo, chưa dám thi hành, mới nghĩ ra một kế, đem một cây gỗ dài ba trượng, để ở cửa nam chợ Hàm Dương, rồi hạ lệnh rằng:"Ai vác được cây gỗ này sang cửa bắc thì thưởng cho mười nén vàng". Người xem rất đông, mà ai cũng nghi ngờ không hiểu ra làm sao, không ai dám vác cây gỗ ấy cả . Vệ Ưởng nói: - Không ai chịu nhận vác, hoặc còn chê ít tiền chăng ? Nói xong, liền cải lệnh, thêm tiền thưởng thành năm mươi nén vàng . Nhân dân lại cànng nghi ngờ lắm . Sau có một người đứng ra mà nói rằng: - Nước Tần ta xưa nay không có trọng thưởng như thế bao giờ, nay bỗng có cái lệnh ấy thì tất có kế nghị chi đây, nhưng dẫu không được cả năm mươi nén vàng nữa thì tất cũng phải được ít nhiều . Người ấy nói xong, liền vác cây gỗ đem dựng ở cửa bắc . Khi người ấy vác cây gỗ đi thì trăm họ theo xem, đông như kiến cỏ . Người thị lại chạy vào nói với Vệ Uởng . Vệ Uởng gọi người vác gỗ vào mà khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người lương dân, biết theo lệnh ta . Liền đem năm mươi nén vàng thưởng cho người ấy và bảo rằng: - Ta quyết không bao giờ thất tín với dân trong nước . Mọi người thấy vậy, đều bảo nhau: - Quan tả thứ trưởng đã hạ lệnh gì thì quyết thi hành cho được, chứ không hề thất tín . Ngày hôm sau, Vệ Uởng đem pháp lệnh mới ra ban bố . Đó là việc năm thứ 10 đời Chu Hiến vương . Pháp lệnh ấy như sau: 1. Định đô: Đất Hàm Dương là một nơi danh thắng ở nước Tần, núi quanh sông bọc, rất là hiểm trở, nay ta phải thiên đô sang đấy để định vương nghiệp . 2. Đặt huyện: Phàm những nơi thôn trấn trong nước, đều đặt làm huyện . Mỗi huyện đặt một viên lệnh thừa, để thi hành pháp lệnh mới . Ai trái lệnh thì tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt tội . 3. Mở đất: Phàm những đất bỏ hoang ở ngoài cõi, trừ những đường xe ngựa phải đi và những lối bờ ruộng không kể, còn thì bắt dân phụ cận tại đấy phải khai khẩn thành ruộng . Đợi khi đã thành thục rồi, bấy giờ thính theo từng bộ mà chia mẫu, để bắt phải nộp thuế . Cứ sáu thước là một bộ, hai trăm bốn mươi bộ là một mẫu . Nếu quá thước thì là gian dối, tịch biên ruộng mà sung công . 4. Định thuế: Phàm thuế ruộgn cứ chiếu từng mẫu mà thu, chứ không dùng phép "tỉnh điền thập nhất" . Bao nhiêu ruộng đều là quan điền cả, trăm họ không được riêng một thước một tấc nào . 5. Trọng giàu: Con trai phải cày ruộng, con gái phải dệt cửi . Ai cấy được nhiều thóc hoặc dệt được nhiều lụa thì gọi là lương dân, được miễn dịch trong một nhà . Người nào nghèo khổ quá thì thua vào lam nô bộc các nhà quan . Ai bỏ tro ra ngoài đường thì tức là lười biếng, không thiết việc làm ruộng, sẽ trị tội . Nghề làm thợ và nghề đi buôn thì đánh thuế nặng . Người nào có hai con trai thì phải phân dị, bắt nộp đinh tiền, nếu không phân dị thì phải nộp hai khoá . 6. Khuyến chiến: Cứ theo quân công mà định quan tước . Ai chém được một đầu giặc thì thưởng cho một cấp; ai lui một bước thì chém ngay . Kẻ có công nhiều thì được trọng thưởng xe và áo, tuỳ ý muốn hoa mỹ thế nào cũng được, không có hạn cấm . Kẻ nào vô công thì dẫu nhà giàu đến đâu cũng chỉ cho mặc quần áo vải mà thôi . Họ tôn thất, thân hay sơ đều tuy theo quân công nhiều hay là ít . Ra chiến trận mà không có công thì tứớc bỏ thuộc tịch đi, cũng coi như dân thường vậy . Phàm nhà dân có việc tranh đấu riêng thì vô luận phải hay trái đều bị chết chém . 7. Cấm gian: Cứ năm nhà gọi là bảo, mười nhà gọi là liên . Một nhà có lỗi thì chín nhà phải tố cáo, nếu không tố cáo thì mười nhà cùng phải tội chết chém ngang lưng . Ai biết cáo tỏ sự gian thì cũng coi như là đánh được quân giặc, cũng được trọng thưởng: cáo tỏ một đứa gian thì được một cấp . Các nhà hàng cơm cho người ngủ trọ, người trọ đều phải có giấy khám xét, nếu không thì không được cho trọ . Phàm dân, hễ một người có tội thì cửa nhà đều phải tịch biên sung công . Pháp lệnh mới đã yết ra, trăm họ đều nghị luận sôi nổi, kẻ thì nói rằng bất tiện, người thì nói rằng tiện . Vệ Uởng sai bắt cả vào trong phủng mà trách mắng rằng: - Các ngươi nghe lệnh, chỉ nên một lòng tin theo . Nói bất tiện là đứa ngang ngạnh, mà nói tiện cũng là đứa ô mị, đều không phải lương dân . Vệ Uởng truyền biên lấy họ tên, đem đày ra ngoài biên cảnh tất cả . Quan đại phu là Cam Long và Đỗ Trí vì tội nghị luận pháp lệnh mới, đều phải giáng làm thứ dân . Từ bấy giờ mọi người đều khiếp sợ, không ai dám nói gì, trong khi đi đường chỉ đưa mắt nhìn nhau mà thôi . Vệ Uởng sửa sang cung khuyết ở đất Hàm Dương, rồi chọn ngày thiên đô . Thế tử Tứ không thuận và chê bai pháp lệnh mới . Vệ Uởng nổi giận mà nói rằng: - Pháp lệnh không thi hành được là bởi tự người trên . Nay thế tử là con nối vua, không thể gia hình được, nhưng nếu không trị tội thì thành ra trái phép . Vệ Uởng liền tâu với Hiếu công, xin bắt tội quan thái sư và quan thái phó là thầy học của thế tử . Quan thái sư là công tôn Giả bị thích chữ châm vào mặt; quan thái phó là công tử Kiền bị cắt mũi . Trăm họ thấy vậy, đều bảo nhau rằng: - Thế tử trái lệnh mà quan thái sư và quan thái phó còn phải gia hình, huống chi là người khác . Vệ Uởng biết là lòng dân đã định, tức khắc thiên đô sang đất Hàm Dương, chia nước Tần là ba mươi mốt huyện, khai khẩn ruộng nương, tăng thuế được hơn năm trăm vạn . Vệ Uởng thường thân hành đến bến sông Vị, tra xét tù phạm trong một ngày mà giết hơn bảy trăm người, máu chảy đỏ cả nước sông Vị, tiếng khóc vang trời . Trăm họ ai cũng kinh sợ, đêm nằm ngủ thường giật mình, từ bấy giờ của bỏ rơi ở đường cái, cũng chẳng ai dám nhặt; trong nước không có trộm cướp; dân chỉ hăng hái về việc đánh giặc cho nước mà không ai dám tranh nhau về việc tư . Nước Tần giàu mạnh hơn các nước, bấy giờ đem quân đánh Sở, chiếm lấy đất Thương Ư . Lại mở được hơn sáu trăm dặm đất ở ngoài cửa Vũ Quan . Vua Hiển vương nhà Chu sai sứ phong cho Tần làm phương bá . Các nước đều đến chúc mừng . Bấy giờ nước Ngụy xưng vương, có ý muốn thôn tính nước Hàn và nước Triệu, nghe tin nước Tần dùng Vệ Uởng, mới thở dài mà nói rằng: - Tiếc thay, ta không biết nghe lời Công Tôn Toạ! Bấy giờ bọn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương đều mất cả rồi . Ngụy Huệ vương mới chịu bỏ nhiều lễ vật để vời các hào kiệt bốn phương . Có người nước Trâu là Mạnh Kha, tên tự là Tử Dư, Mạnh Kha là họ trò Tử Tư (Khổng Cấp), mà Tử Tư là cháu đích tôn Khổng Tử . Mạnh Kha có chí muốn cứu đời, nghe tin Ngụy Huệ vương cầu hiền, mới tự nước Trâu đi sang nước Ngụy . Ngụy Huệ vương thân hành ra ngoài cõi để nghinh tiếp, rồi hỏi Mạnh Kha về cái đạo làm lợi cho đất nước . Mạnh Kha nói: - Tôi chỉ biết điều nhân nghĩa, chứ không biết có điều lợi . Nguỵ vương cho lời nói ấy là viển vông, rồi không dùng . Lại nói chuyện đất Dương Thành thuộc về địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỉ Cốc (hàng quỉ), vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở . Trong núi ấy có một người ẩn sĩ, tự đặt hiệu cho mình là Quỉ Cốc tử . Tương truyền rằng người ấy họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình công, nguyên trước ở Văn Mộng sơn, cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy . Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỉ Cốc . Người ta vẫn gọi là Quỉ Cốc tiên sinh . Quỉ Cốc tiên sinh là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp . Mấy môn học vấn ấy là: 1. Số học, nhật nguyệt tương vĩ đều thu cả ở trong bày tay, xem việc trước đóan việc sau, nói gì cũng linh nghiệm; 2. Binh học, lục thao tam lược, biến hoá vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần khôn biết; 3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn dương; 4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên . Người ẩn sĩ ấy đã có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần ? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỉ Cốc để nương mình . Ban đầu đôi khi Quỉ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người, nói những điều tốt, xấu, dữ, lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao . Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại . Trong số học trò, có mấy người được nổi tiếng cùng một lúc, là Tôn Tẫn, người nước Tề; Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương . Tẫn và Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng . Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là giỏi lăm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền của để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, thì trong lòng khấp khởi, muốn giã từ Quỉ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói . Nhưng Quỉ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng: - Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà cầu lấy giàu sang ? Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng: - Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không ? Tiên sinh nói: - Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho . Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa . Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng bực, các cây cối ít có hoa nở, Bàng Quên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật qúi giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng: - Trong núi không có hoa . Tiên sinh nói: - Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia ? Bàng Quyên không dấu được phải lấy ra đưa trình . Nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ . Tiên sinh nói: - Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không ? đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lân nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm . Hoa này hái ở hang Quỉ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ "qui" có chữ "ủy", nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy . Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ . Tiên sinh lại nói: - Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình . Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy, đừng quên: "gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo". Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng: - Lời giáo hối của tôn sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ . Khi ra đi, Tôn Tẫn tiễn xuống dưới chân núi, Bàng Quyên nói: - Tiểu đệ cùng đại huynh có nghĩa kết giao, thề giàu sang có nhau, chuyến đi này nếu gặp bước tiến thân, tiểu đệ tất phải tiến cử Ngô huynh để cùng lập sự nghiệp . Tôn Tẫn nói: - Hiền đệ có giữ được như lời không ? Bàng Quyên nói: - Nếu tiểu đệ sai lời, sẽ phải chết ở dưới muôn mũi tên . Tôn Tẫn nói:- Đa tạ hậu tình, cần gì phải thề độ như thế! Nói xong, hai người cùng gạt lệ chia tay . Tôn Tẫn trở về núi . Tiên sinh thấy Tôn Tẫn rơm rớm nước mắt bèn hỏi rằng: - Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không ? Tôn Tẫn nói: - Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau! Tiên sinh nói: - Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không ? Tẫn nói: - Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được ? Tiên sinh nói: - Không làm được! không làm được! Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói . Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng: - Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta . Học trò vâng lời . Khi đến lượt Tôn Tiễn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tiễn rằng: - Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tô Vũ tử, xưa kia ông ngươi đem dâng vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân SỞ . Sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô đài; từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa . Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy; ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho . Tôn Tẫn nói: - Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này ? Tiên sinh nói: - Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to . Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được . Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc . Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại, Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào, tiên sinh mừng mà nói rằng: - Ngươi biết dụng tâm như thế, thì tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy . Lại nói Bàng Quyên biệt Tôn Tẫn, đi thẳng đến nước Ngụy, đem binh pháp vào nói với quan tướng quốc là Vương Thác để hòng tìm cách tiến thân . Vương Thác tiến vào Huệ vương . Khi Bàng Quyên vào chầu, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm ở trước mặt Huệ vương, Huệ vương vừa cầm đũa xong . Quyên mừng nghĩ thầm rằng thầy ta nói gặp dê thì tươi, lời nói ấy quả không sai . Huệ vương thấy Bàng Quyên tướng mạo đường đường thì buông đũa đứng dậy đón chào . Bàng Quyên sụp lạy hai lạy . Huệ vương nâng dậy, hỏi về sở học, Quyên thưa rằng: - Tôi học Quỉ Cốc tiên sinh, cũng có biết được cái tinh tuý của phép dùng binh . Rồi chỉ vạch tâu bày, có điều gì đem ra nói hết . Huệ vương hỏi: - Nước ta đông có nước Tề, tây có nước Tần, nam có nước Sở, bắc có nước Hàn, Triệu, Yên, đều ngang sức cả, mà nước Triệu cướp đất Trung Sơn của ta, thù ấy chưa báo, tiên sinh có kế gì giúp ta không ? Bàng Quyên nói: - Đại vương chẳng dùng tôi thì thôi, nếu dùng tôi làm tướng, thì đánh trận nào được trận ấy, đánh thành nào được thành ấy, có thể kiêm tính được cả thiên hạ lo gì sáu nước kia . Huệ vương nói: - Tiên sinh nói qúa, e rằng khó làm được như lời! Quyên nói: - Tôi tự lượng cái tài tôi,chắc có thể thu được sáu nước vào trong tay, nếu có sai lời, xin cam chịu tội . Huệ vương bằng lòng lắm, cử ngay làm nguyên suý và kiêm chức quân sư, con trai Quyên là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai, đều phong là tướng . Quyên luyện binh huấn võ, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng . Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu . Lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang . Bấy giờ Mặc Địch đi ngao du các danh sơn, nhân qua Quỉ Cốc vào thăm bạn, gặp Tôn Tẫn cùng nhau đàm luận, đều hợp ý nhau lắm, bèn bảo Tẫn rằng: - Anh học đã thành, sao không ra lập công danh, lại cứ ở chúi mãi nơi rừng núi ? Tẫn nói: - Tôi có người bạn học là Bàng Quyên ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí, sẽ tiến dẫn nhau, vì vậy tôi phải chờ đợi . Mặc Địch nói: - Quyên đã làm tướng nước Ngụy rồi, vậy tôi xin vì anh đến nước Ngụy để xét xem ý Quyên thế nào . Mặc Địch từ biệt, đi đến nước Nguỵ, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không thẹn, biết là không cố ý tiến dẫn Tôn Tẫn, bèn cứ ăn mặc quê kịch mà vào yết kiến Ngụy Huệ vương . Huệ vương vốn biết tiếng Mặc Địch, xuống thềm đón vào hỏi về binh pháp . Mặc Địch vạch ra những điều đại lược, Huệ vương mừng lắm, muốn giữ lại làm quan, Mặc Địch cố từ nói rằng: - Tôi thì bản tính quê mùa, không quen mặc áo đội mũ . Tôi có biết người cháu Tôn Vũ tên là Tẫn, thực đáng tài đại tướng, tôi thực không bao giờ theo kịp, nay người ấy ở ẩn trong Quỉ Cốc, sao đại vương không cho triệu đến mà dùng ? Huệ vương nói: - Tôn Tẫn học ở Quỉ Cốc tức là đồng môn với Bàng Quyên, vậy nhà ngươi xem sức học của hai người, ai hơn ai ? Mặc Địch nói: - Tẫn cùng Quyên dẫu là đồng học, nhưng Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, dẫu cả thiên hạ cũng không ai đối địch được, nữa là Bàng Quyên! Mặc Địch từ tạ ra đi, Huệ vương lập tức cho đòi Bàng Quyên vào hỏi rằng: - Ta nghe người cùng học với khanh là Tôn Tẫn, được riêng binh pháp bí truyền của Tô Vũ tử, tài giỏi không ai bằng, sao khanh chẳng vì quả nhân triệu đến ? Bàng Quyên nói: - Hạ thần không phải là không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng nghĩ Tẫn là người nước Tề, họ hàng đều ở nuớc Tề, nay làm quan với Ngụy, thì tất thế nào hắn cũng coi Tề hơn, vì vậy hạ thần không dám tiến cử . Huệ vương nói: "Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ", há cứ phải người bản quốc mới dùng được ư ? Bàng Quyên nói: - Đại vương đã muốn triệu Tôn Tẫn, hạ thần xin viết thư gọi đến . Bàng Quyên dẫu không nói gì, nhưng trong lòng trù trừ, nghĩ thầm binh quyền nước Ngụy ngày nay ở trong tay mình, nếu Tôn Tẫn đến thì hắn sẽ cướp mất, nhưng Ngụy vương đã bảo thì thế nào cũng phải phụng mệnh, âul là đợi khi hắn đến sẽ lập kế, ngăn trở đường tiến dụng của hắn, lại càng hay . Nghĩ vậy rồi viết một phong thư trình Huệ vương xem, Huệ vương dùng xe tứ mã và nhiều vàng ngọc, sai người cầm phong thư của Bàng Quyên đi đến Quỉ Cốc đón Tôn Tẫn . Tôn Tẫn bóc thư ra xem, đại ý nói: "Quyên nay nhờ bóng đại huynh, đến yết Ngụy vương thì được trọng dụng ngay . Mấy lời hẹn nhau trong khi từ biệt, vẫn ghi nhớ bên lòng, nay đã tiến cử đại huynh lên Ngụy vương, vậy xin đại huynh mau mau phó triều để cùng lập nên sự nghiệp". Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỉ Cốc tiên sinh, tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thày, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến . Tiên sinh nghĩ rằng Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy vương, thôi đành cứ để cho đi vậy, liền bảo Tôn Tẫn cũng đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào . Bấy giờ là tiết tháng chín . Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm giả ngay vào trong bình, Tiên sinh liền đoán rằng: - Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tinh chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tài hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người đều qúi trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một lòai với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng . Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình . Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được! Tiên sinh bèn đổi tên cho là "Tẫn" . Theo nghĩa chữ thì chữ "tẫn" là một thứ cực hình chặt chân . Quỉ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết . Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem . Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi . Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mô, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh . Tiên sinh nói: - Trong đời này thực hiếm có người thông minh . Lấy cái tư chất của hai người nếu chịu kiên tâm học đạo, thì có thể thành tiên, cớ sao còn muốn dấn mình vào chốn trần ai, cam để cho các danh lợi hão huyền bó buộc ? Tần, Nghi đồng thanh đáp rằng: - Gỗ tốt không chịu mục nát ở dưới tảng đá, gươm sắc không thể giấu kín trong hòm, tháng trọn ngày qua, thì giờ khôn chuộc, anh em tôi nhờ ơn thầy dạy bảo, cũng muốn the thời mà lập công danh hòng để tiếng lại đời sau . Tiên sinh nói: - Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không ? Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại . Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đóan rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành; Tần gặp gỡ ngày, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng, tiên sinh lại nói: - Ta xem Tôn, Bàng hai người thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai người mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay . Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy . Tiên sinh lại đem hai cuốn sách chia tặng hai người . Tần, Nghi cùng nhìn xem thì đều là cuốn Thái Công âm phù thiên, bèn nói rằng: - Sách này đệ tử đọc thuộc lòng đã lâu, ngày nay tiên sinh lại ban cho, chẳng hay có dùng vào việc chi đựợc không ? Tiên sinh nói: - Các ngươi dẫu học thuộc rồi, nhưng chưa nhận được chỗ tinh vi, chuyến đi này nếu chưa đắc ý, thì nên đem sách này mà nghiền ngẫm lại, tất có bổ ích . Ta từ đây cũng đi tiêu dao ngoài bể, không còn ở lại nơi Quỉ Cốc này nữa . Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi, thì vài hôm sau, tiên sinh cũng bỏ Quỉ Cốc mà ngao du, có người nói tiên sinh đã lên tiên rồi .

Tôn Tẫn giả điên thóat nạn Bàng Quyên bại trận Quế Lăng Lại nói Tôn Tẫn khi đến nước Ngụy, ở trong phủ Bàng Quyên, tạ ơn Bàng Quyên đã tiến dẫn mình . Quyên có ý lên mặt . Tẫn lại thụât việc tiên sinh đổi tên mà là "Tần" ra "Tẫn" . Quyên nói: - Chữ "Tẫn" có nghĩa không hay, sao lại đổi như thế ? Tẫn nói: - Tiên sinh đặt cho thế nào thì phải theo thế, không dám trái mệnh . Ngày hôm sau hai người cùng vào triều yết Huệ vương, Huệ vương xuống thềm đón tiếp, tỏ ý cung kính lắm . Tẫn lạy mà tâu rằng: - Hạ thần là kẻ dân hèn ở thôn dã, mà đại vương quá yêu, ban cho lễ đón mời,thật lấy làm xấu hổ lắm . Huệ vương nói: - Mặc Tử có nói tiên sinh được riêng bí truyền của Tôn Vũ, nên quả nhân khát vọng lắm, nay tiên sinh đã hạ cố đến, quả nhân xiết bao vui lòng . Huệ vương bèn hỏi Bàng Quyên rằng: - Quả nhân muốn phong tôn tiên sinh làm phó quân sư, cùng với khanh cùng giữ binh quyền, ý khanh nghĩ thế nào ? Bàng Quyên nói: - Hạ thần với Tôn Tử là bạn đồng song, Tẫn là bậc anh của hạ thàn, lẽ nào hạ thần lại để cho anh làm phó chi bằng hãy tạm bái Tôn Tẫn làm khách khanh, đợi khi Tôn Tẫn lập được công hạ thần sẽ xin nhường chức, chịu ở dưới quyền . Huệ vương chuẩn tấu, liền bái Tôn Tẫn làm khách khanh, cho ở phủ riêng cũng xấp xỉ với Bàng Quyên . Chức khách khanh nghĩa là coi như khách, không coi làm tôi, cái ý Bàng Quyên muốn mượn cớ ấy để một mình giữ lấy binh quyền, không chia cho Tôn Tẫn, tuy tử tế mà thực là thâm hiểm . Từ đó Tôn, Bàng năng đi lại với nhau . Bàng Quyê nghĩ thầm Tôn Tẫn đã có bí truyền, chưa thấy thổ lộ, cần phải dụng ý dò hỏi mới được, bèn đặt tiệc mời Tẫn; trong lúc uống rượu cùng nói về binh cơ, Tôn Tẫn đáp được câu nào, Quyên bèn giả cách hỏi rằng: - Những điều ấy có phải ở trong binh pháp Tôn Vũ tử đó không ? Tôn Tẫn đáp phải, Quyên nói: - Ấy trước đệ cũng được tiên sinh truyền thụ cho, nhưng vì không dụng tâm, nên quyên hết cả; nay xi cho mượn để xem lại, thì cám ơn vô cùng . Tẫn nói: - Sách ấy do tiên sinh chú giải rõ ràng, khác với nguyên bản; tiên sinh chỉ cho mượn xem ba ngày rồi đòi lại, và cũng không có bản sao . Quyên hỏi: - Ngô huynh có còn nhớ không ? Tẫn nói: - Tôi cũng còn nhớ lõm bõm . Quyên muốn được Tẫn truyền bảo cho, nhưng chưa dám nói ngay . Cách đó mấy ngày, Huệ vương muốn thử tài Tôn Tẫn, bày cuộc duyệt võ ở giáo trường, bảo Tôn, Bàng cùng diễn binh pháp . Những trận của Bàng Quyên bày, Tẫn xem qua, nói ngay được là trận ấy trận nọ, trận nào nên phá bằng cách nào . Đến khi Tẫn bày trận, thì Quyên mờ mịt không biết, hỏi thăm Tẫn là trận gì, Tẫn nói đó là trận "điên đảo bát môn" . Quyên lại hỏi trận ấy có biến hoá không, Tẫn nói nếu đánh thì nó biến ra trận "trường xà" . Quyên liền lẻn đến tâu với Huệ vương, đến khi Huệ vương hỏi lại Tôn Tẫn, thấy nói đúng như lời Quyên, mới tin rằng tài Quyên cũng không kém gì Tẫn, trong lòng càng mừng . Chỉ có Quyên sau khi về phủ, nghĩ thầm tài Tẫn thực hơn mình, nếu không trừ đi, tất có ngày sẽ bị đè bẹp, bèn bày ra một kế, trong lúc cùng Tẫn họp mặt, mới hỏi rằng: - Họ hàng đại huynh đều ở nước Tề, nay đại huynh đã làm quan nước Ngụy, sao không cho đón cả đến đây, để cùng hưởng phú qúi ? Tẫn chảy nước mắt nói rằng: - Đại huynh chưa rõ cái cảnh khổ nhà tôi, tôi lên bốn đã mồ côi mẹ, lên chín đã mồ côi cha, nhờ ông chú là Tôn Kiều nuôi cho; chú tôi làm quan với Tề Khang công, sau Điền Thái công đuổi Khang công ra bể, các bề tôi phần nhiều bị giết, họ hàng tôi tan đi mỗi người mỗi nơi . Chú tôi và hai anh họ tôi là Tôn Bình, Tôn Trác, đem tôi chạy sang đất nhà Chu lánh nạn, vì gặp năm mất mùa, lại cho tôi đi làm thuê ở một nơi, thế là từ đó tôi bị lưu lạc một mình . Sau tôi lớn lên, nghe nói Quỉ Cốc tiên sinh đạo cao học rộng, liền một mình đến xin học, từ đó dẫu đến quê quán cũng chẳng còn được biết tin gì nữa là họ hàng . Quyên lại hỏi: - Vậy thì đại huynh có còn tưởng nhớ đến phần mộ ông cha ở quê hương không ? Tẫn nói: - Người ta không phải cỏ cây, khi nào lại quên được gốc rễ . Khi tôi ra đi, tiên sinh cũng nói là kết cục sẽ lập công danh ở quê hương cũ, nhưng nay tôi đã làm tôi nước Ngụy, thì việc đó không nên nói đến nữa . Bàng Quyên giả ý nói rằng: - Đại huynh nói phải lắm, đại trượng phu tuỳ chốn lập công, cần gì cứ phải quê hương cũ . Cách đó nửa năm, Tôn Tẫn đều quên những lời đã nói,một hôm đi chầu về, bỗng có một người nói tiếng Sơn Đông, xưng tên là Đinh Át, quê ở Lâm Tri . Y nói rằng y cầm một phong thư đến Quỉ Cốc đưa cho Tẫn, nhưng đến đó nghe Tẫn đã ra làm quan với Ngụy, nên phải đến đây . Nói xong đưa phong thư ra, Tẫn đón lấy bóc ra xem, trong thư đại ý kể lể gặp lúc không may, nhà cửa lìa tan, anh em mỗi người một nơi, nay nhờ vua Tề thương hại, triệu về làng cũ, nên muốn gọi Tẫn trở về để anh em được họp mặt và khôi phục lại cơ nghiệp nhà . Tẫn thấy lá thư của hai anh, cảm động quá phát khóc, rồi khoản đãi Đinh Át và viết một phong thư trả lời, nhờ đưa lại cho hai anh, trong thư đại ý nói dẫu nhớ quê hương, nhưng đã làm quan với Ngụy, chưa có thể về được, đợi bao giờ lập nên công danh, bấy giờ sẽ liệu về . Đinh Át nhận phong thư và một đĩnh vàng của Tẫn cho làm hộ phí, từ tạ ra đi . Ai ngờ tên Đinh Át ấy chẳng phải là khách buôn, chính là tên Từ Giáp của Quyên sai giả mạo để đánh lừa và làm hại Tẫn đó . Số là Quyên nhân đã hỏi biết cảnh nhà của Tẫn, liền mạo viết một bức thư của Tôn Bình, Tôn Trác, rồi sai Tử Giáp giả là Đinh Át, đến đưa cho Tẫn . Tẫn tin là thực, viết thư trả lời, Quyên liền bắt chước tự dạng, viết thêm vào bên dưới mấy câu, nói: "Em dẫu làm quan với Ngụy, nhưng nghĩ đến nước cũ, lòng riêng vẫn canh cánh khôn khuây . Bất nhật em sẽ liệu về để lại được cùng nhau sum họp, nếu vua Tề có lòng yêu mến mà dùng, thì em xin hết sức giúp". Rồi Quyên lập tức vào chầu Ngụy vương, đuổi các người hầu ra chỗ khác, dâng trình bức thư ấy, nói rõ là Tôn Tẫn có lòng phản Ngụy theo Tề, tư thông với Tề, Quyên dò biết sai người chẹn đường nên bắt được bức thư này . Huệ vương xem xong nói rằng: - Tôn Tẫn lòng nhớ nước cũ, có lẽ nào cho là quả nhân chưa trọng dụng, chưa thi thố được hết tài năng ? Bàng Quyên nói: - Tổ phụ Tẫn là Tôn Vũ làm đại tướng nước Ngô, về sau cũng về lại với nước Tề; quê cha đất tổ, ai là người quên được . Đại vương dẫu trọng dụng Tẫn, mà lòng Tẫn đã quyến luyến nước Tề, tất không khi nào chịu vì Ngụy ra sức Tài Tẫn không kém gì hạ thần, nếu nước Tề dùng Tẫn làm tướng tất sẽ cùng Ngụy tranh hùng, đó là một điều lo lớn cho đại vương sau này, chi bằng đại vương nên giết quách đi . Huệ vương nói: - Tôn Tẫn vì nhận lời quả nhân mời mà đến đây, nay tội trạng chưa rõ mà vội giết đi, e rằng thiên hạ sẽ chê trách quả nhân là khinh kẻ sĩ chăng ? Quyên thưa rằng: - Đại vương nói rất phải, hạ thần xin khuyên dỗ Tôn Tẫn, nếu hắn chịu ở lại nước Ngụy, thì đại vương sẽ cho quyền cao chức trọng, bằng không thì đại vương sẽ giao cho thần nghị tội, hạ thần sẽ có cách khu sử . Bàng Quyên vái Từ Huệ vương lui ra, đi đến ngay phủ Tôn Tẫn hỏi rằng: - Nghe nói đại huynh nhận được thư nhà gửi đến phải không ? Tôn Tẫn vốn lòng thực thà liền đáp rằng có, rồi thuật lời trong thư của hai anh mong mỏi mình mau trở về quê hương . Bàng Quyên nói: - Đi lâu nhớ nhà, thường tình ai chẳng thế, sao đại huynh chẳng vào chầu Ngụy vương, xin phép lấy một hai tháng về thăm phần mộ, rồi sau lại đến . Tẫn nói: - E đại vương sinh lòng ngờ mà không cho phép chăng ? Quyên nói: - Anh cứ xin, tôi sẽ giúp . Tẫn xin vâng, và nhờ Quyên nói hộ . Ngay đêm ấy, Quyên vào nói với Huệ vương rằng: - Hạ thần đã hết lời khuyên dỗ mà Tẫn không chịu ở, lại có lời oán vọng, nếu hắn có dâng biểu xin phép nghỉ, đại vương nên kể cái tội tư thông với sứ Tề . Huệ vương gật đầu . Hôm sau quả nhiên Tôn Tẫn dâng biểu xin nghỉ hơn một tháng để về nước Tề thăm mộ . Huệ vương xem tờ biểu nổi giận, phê ngay mấy câu ở bên dưới rằng: "Tôn Tẫn tư thông với xứ Tề, ngày nay cáo về, rõ ràng có ý phản Ngụy, thực đã phụ lòng uỷ nghiệm của quả nhân, nên cách bỏ quan tước, giao cho phủ quân sư hỏi tội". Ty quân chính phụng mệnh, lập tức bắt Tôn Tẫn đến phủ quân sư, Bàng Quyên trông thấy giả cách sợ hãi hỏi rằng: - Đại huynh làm sao mà đến nỗi này ? Ty quân chính tuyên mệnh Huệ vương, Bàng Quyên lĩnh chỉ xong, liền bảo Tẫn rằng: - Đại huynh gặp cái điều oan ức này, tiều đệ sẽ vào chầu, hết sức đảm bảo cho đại huynh . Nói xong, đi ngay vào triều, tâu với Huệ vương rằng: - Tôn Tẫn dẫu có tội tư thông với Tề, nhưng tội ấy chưa phải là tội chết; cứ như ý ngu của hạ thần, chi bằng ta chặt chân Tẫn và thích chữ vào mặt Tẫn khiến Tẫn thành người tàn phế, suốt đời không thể trở về đất cũ; như thế ta vừa được toàn mệnh cho hắn, vừa không có sự lo về sau . Huệ vương khen phải, Bàng Quyên trở về phủ, bảo Tôn Tẫn rằng: - Đại vương giận lắm, muốn xử cực hình, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức đảm bảo, mừng cho đại huynh được toàn tính mệnh, nhưng đại huynh phải chặt chân, và thích chữ vào mặt, đó là theo pháp luật nước Ngụy, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu xin . Tôn Tẫn nói: - Tiên sinh đã nói dẫu Tẫn này có bị tàn hại nhưng cũng không phải là việc đại hung, nay được toàn tính mệnh như thế này, là nhờ ơn đại huynh, Tẫn này không dám quên báo . Bàng Quyên bèn sai đao phủ trói Tôn Tẫn lại, chặt bỏ hai xương bánh chè ở hai đầu gối . Tẫn kêu rú lên một tiếng rồi ngã lăn ra mê mẩn không biết gì, hồi lâu mới tỉnh; kẻ hành hình lại dùng kim châm vào mặt Tẫn bốn chừ "tư thông ngoại quốc", rồi lấy mực bôi vào . Bàng Quyên giả ý giả kêu khóc, lấy thuốc dịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người khiêng ra thư quán, dùng lời nói ngon ngọt để an ủi . Chừng hơn một tháng, Tôn Tẫn vết đau đã liền, nhưng vì mất xương bánh chè, hai chân yếu đuối không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn mà ngồi . Tôn Tẫn đã thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung ba bữa, rất lấy làm buồn . Bàng Quyên bèn nhờ Tôn Tẫn truyền cho những bài của Quỉ Cốc tiên sinh chú giải binh pháp của Tôn Vũ tử, Tẫn khảng khái nhận lời . Quyên đưa thẻ gỗ nhờ Tẫn viết ra . Tẫn viết mười phần chưa được một . Quyên sai một tên người hầu là Thành Nhi ở hầu hạ bên cạnh Tẫn, tên này thấy Tẫn vô tội bị oan, có ý thương xót . Một hôm, bỗng Quyên cho gọi nó đến hỏi Tẫn viết mỗi ngày được mấy bản, nó nói vì Tẫn bị chặt chân, ngồi rất khó khăn, nên mỗi ngày chỉ viết được hai ba bản . Quyên nổi giận nói rằng: - Viết chậm thế thì bao giờ cho xong, mày phari thúc giục luôn cho ta . Thành Nhi lui ra hỏi tên hầu cận Bàng Quyên rằng: - Quân sư nhờ Tôn quân viết, sao lục thúc giục như thế ? Tên hầu cận nói: - Mày không biết, quân sư đối với Tôn quân, bề ngoài thì làm ra thương xót, nhưng trong lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho Tôn quân là vì muốn Tôn quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa để Tôn quân phải chết đói, đó là việc kín, mày chớ nên tiết lộ . Thành Nhi biết thê', về mật báo cho Tôn Tẫn biết, Tẫn cả sợ, nghĩ thầm: Bàng Quyên đã bất nghĩa như thế, há có nên còn truyền bảo cho binh pháp ? lại nghĩ đến mình không chịu viết, tất nó sẽ nổi giận giết ngay . Nghĩ mãi muốn cầu kế thoát thân, sực nhớ khi ra đi Quỉ Cốc tiên sinh có trao cho một cái cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá mới được mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra . Bèn mở cái cẩm nang ra xem, đó là một bức lụa vàng, ở trong đó viết ba chữ "giả cách điên". Tẫn nghĩ bụng:"té ra như vậy!" Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, Tẫn cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng mê man và nôn ọe hồi lâu rồi nổi giận, giương mắt hét to lên rằng: - Mày sao dùng thuốc độc hại ta! Rồi vứt cả chai lọ xuống đất, lấy những thẻ gỗ đã viết rồi ném vào lửa đốt bỏ, miệng cứ lảm nhảm mắng chửi mãi không thôi . Thành Nhi không biết là Tẫn giả cách, vội đi báo Bàng Quyên . Ngày hôm sau, Quyên thân đến xem, thấy Tẫn đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng lại khóc oà lên . Quyên hỏi: - Đại hunh làm sao mà cười, làm sao mà khóc như thế ? Tẫn nói: - Ta cười là cười vua Ngụy muốn hại mệnh ta, ta có mười vạn thiên binh giúp sức, làm gì được ta! ta khóc là khóc nước Ngụy không có Tôn Tẫn, thì không có ai làm đại tướng! Nói rồi, lại giương mắt nhìn Quyên, rồi cứ đập đầu mà lạy hoài, miệng nói xin Quỉ Cốc tiên sinh cứu mạng . Quyên nói: - Tôi là Bàng Quyên đây, đại sư huynh chớ nhận lầm! Tẫn nắm chặt lấy áo Quyên không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh . Quyên sai các người theo hầu giằng ra, hỏi Thành Nhi: - Tôn Tử phát bệnh từ bao giờ ? Thành Nhi nói phát tự ban đêm . Quyên lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ Tẫn giả cách điên, muốn thử xem thật giả, bèn sai người khiêng đặt vào trong chuồng lợn, đầy dẫy những phân, Tẫn xoã tóc úp mặt mà nằm sấp xuống . Quyên lại sai người mang cơm rượu đến nói dối rằng: "tôi thương tiên sinh bị chặt chân, gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên suý không biết đâu" . Tẫn biết là mưu gian của Quyên, trợn mắt mắng rằng: - Mày lại đem thuốc độc hại ta à ? Nói rồi đổ rượu vứt cơm xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn và lấy phân chó và cục bùn đưa cho, Tẫn cầm lấy ăn ngay . Tên kia về báo Quyên, Quyên chắc là Tẫn điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng Tôn Tẫn, mặc cho ra vào . Tẫn hoặc sớm đi chiều về, lại cứ nằm ở chuồng lợn; hoặc đi mà không về, nằm đất, nằm cát ở đường chợ; hoặc cười nói, hoặc kêu khóc . Nhiều người biết là Tôn khách khanh, thương hại Tẫn bị tàn phế, đều cho ăn uống . Tẫn hoặc ăn, hoặc không ăn, nói lảm nhảm luôn mồm, không ai biết là Tẫn giả cách điên cả . Tuy vậy, Bàng Quyên vẫn còn lấy làm lo, hạ lệnh cho địa phương cứ mỗi sáng phải đến trình báo xem Tẫn ở đâu . Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nước Tề ở nhà Điền Kỵ . Có người học trò là Cầm Hoạt mới ở nước Ngụy đến . Mặc Địch hỏi thăm Tôn Tẫn ở nước Ngụy có đắc ý không, Cầm Họat đem việc Tôn Tẫn bị chặt chân thuật lại cho Mặc Địch nghe . Mặc Địch nói: - Ta vốn muốn tiến cử hắn, ngờ đâu lại thành ra hại hắn . Mặc Địch bèn đem tài học của Tôn Tẫn và việc Bàng Quyên ghen ghét, nói với Điền Kỵ, Điền Kỵ vào tâu ngay với Uy vương xin đem quân đón Tôn Tẫn về nước . Điền Kỵ nói: - Bàng Quyên đã không muốn cho Tẫn làm quan ở nước Ngụy, thì khi nào lại muốn cho Tẫn làm quan ở nước Tề . Muốn đón Tôn Tẫn, phải như thế, như thế .. mới được . Uy vương liền sai Thuần Vu Khôn mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, Cầm Hoạt giả làm kẻ hầu đi theo . Sang đến Ngụy, Thuần Vu Khôn vào chầu Huệ vương rồi ra ở ngoài nhà trạm . Cầm Họat thấy Tẫn điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm mới lén đến thăm . Tẫn dựa lưng vào thành giếng mà ngồi, thấy Cầm Hoạt thì chỉ giương mắt nhìn mà không nói . Cầm Hoạt ứa nước mắt nói rằng: - Tôn Tử khổ đến thế ư ? có biết Cầm Hoạt này không ? Thầy tôi có kể nỗi oan của Tôn khanh với vua Tề, vua Tề rất là thương mến, nay sai ông Thuần Vu Khôn đến đây, không phải là vì việc dâng trà mà thực là muốn đem Tôn khanh về Tề để báo cái thù chặt chân đó thôi . Tôn Tẫn chảy nước mắt như mưa, hồi lâu mới nói rằng: - Tôi vẫn chắc là chết rấp ở ngoài rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này . Nhưng Bàng Quyên vẫn ngờ vực lắm, không thể đem tôi đi lọt được đâu ? Cầm Họat nói: - Tôi đã có kế rồi, Tôn khanh không phải quá lo, chờ khi nào tôi đi, tôi sẽ đến đón, nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác . Hôm sau Huệ vương khoản đãi Thuần Vu Khôn, biết Khôn là người biện luận giỏi, nên tặng vàng lụa rất nhiều . Khôn từ tạ Huệ vương chực đi, Bàng Quyên lại đặt rượu ở Trường Đình để tiễn hành . Đêm trước Cầm Họat đã đem Tôn Tẫn giấu ở trong một cái xe phủ kín, đem quần áo của Tẫn cho một tên đầy tớ là Vương Nghĩa mặc bù đầu xoã tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả làm Tôn Tẫn, địa phương cứ thế trình báo, nên Bàng Quyên không ngờ . Thuần Vu Khôn từ biệt Bàng Quyên, bảo Cầm Họat cho xe đi trước và gịuc đi thật nhanh, còn mình thì đi áp hậu . Mấy ngày sau Vương Nghĩa cũng tìm được cách thoát thân, chạy theo . Quan địa phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ ở trên mặt đất, không thấy Tôn Tẫn đâu, liền đi báo Bàng Quyên, Quyên nghi là Tẫn nhảy xuống giếng tự tử, sai người mò vớt không thấy, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tông tích Tẫn đâu, nhưng sợ Ngụy vương trách hỏi, bèn tâu là Tôn Tẫn chết đuối, cũng không ngờ là Tôn Tẫn đã về nước Tề rồi . Lại nói Thuần Vu Khôn đã mang được Tôn Tẫn ra khỏi đất Ngụy, mới đem Tôn Tẫn tắm rửa và thay quần áo . Khi về đến Lâm Tri, Điền Kỵ thân đi đón ở ngoài mười dặm nói với Uy vương, cho đem xe êm chở vào triều . Uy vương hỏi Tẫn về binh pháp, muốn cho Tẫn làm quan ngay, Tẫn nói: - Hạ thần chưa có chút công gì, không dám nhận chức . Vả lại Bàng Quyên nếu biết hạ thần làm quan với Tề lại sinh lòng ghen ghét, chi bằng hãy tạm giấu đi, đợi có việc gi dùng đến, hạ thần sẽ xin ra sức . Uy vương nghe lời cho ở nhà Điền Kỵ, Điền Kỵ tôn làm bực thượng khách . Tôn Tẫn muống cùng Cầm Họat đi tạ ơn Mặc Địch thì hai thầy trò Mặc đã bỏ đi từ lúc nào rồi . Tẫn áy náy mãi . Rồi sai người dò hỏi tin Tôn Bình, Tôn Trác, thì chẳng thấy tăm hơi, mới biết là Bàng Quyên đánh lừa . Tề Uy vương lúc rỗi, thường cùng các công tử trong tôn tộc cưỡi ngựa bắn cung, đánh cuộc làm vui . Điền Kỵ vì sức ngựa kém, nên thường thua cuộc . Một hôm Điền Kỵ đưa Tôn Tẫn cùng đến trường bắn xem bắn, Tẫn thấy sức ngựa của Điền Kỵ không kém lắm mà ba vòng đều thua cả, bèn bảo Điền Kỵ rằng: - Ngày mai ngài lại đánh cuộc, tôi sẽ có cách làm cho ngài được cuộc . Điền Kỵ nói: - Nếu quả tiên sinh có cách làm cho tôi thế nào cũng được, tôi sẽ lại cùng đại vương đánh cuộc một nghìn vàng . Tẫn bảo Điền Kỵ cứ vào tâu xin đánh cuộc với Uy vương, Uy vương nhận lời . Đến ngày thi, các công tử đều sắp sửa xe ngựa đến trường thi, dân chúng họp xem đến vài nghin người . Điền Kỵ hỏi Tẫn rằng: - Cách quyết thắng của tiên sinh thế nào ? một nghìn vàng đánh cuộc không phải chuyện chơi . TÔn Tẫn nói: - Ngựa tốt ở nước Tề đều tụ hợp cả ở trong tầu nhà vua, ngài nếu cứ theo thứ tự mà đua thì khó được lắm, nhưng tôi có thể dùng thuật mà được cuộc . Ngài nên biết đã chia ra vòng đua, tất có chia ra ba hạng nhất, nhì, ba; đem con ngựa hạng ba của ngài, thì với con ngựa hạng nhất của vua, rồi đem con ngựa hạng nhất của ngài thi với con hạng nhì của vua, đem con ngựa hạng nhì của ngài thì với con ngựa hạng ba của vua, ngài dẫu bị thua một vòng, tất còn được hai vòng . Điền Kỵ phục là thuật giỏi, rồi dùng yên vàng nệm gấm thắng vào con ngựa hạng ba, giả làm con ngựa hạng nhất, cùng Uy vương đánh cuộc một vòng trước . Sức ngựa kém nhau xa quá, Điền Kỵ lại mất nghìn vàng . Uy vương cả cười, Điền Kỵ nói: - Còn hai vòng nữa, nếu tôi thua cả, bấy giờ sẽ cười . Đến khi thi hai vòng thứ hai và thứ ba, thì quả nhiên ngựa của Điền Kỵ đều thắng cả, Điền Kỵ được cuộc một nghìn vàng, liền tâu rằng: - Sự được cuộc ngày hôm nay, không phải sức ngựa của hạ thần, đều là thuật của Tôn Tử dạy cho cả . Uy vương lấy làm khen ngợi, cho rằng một việc nhỏ mọn như thế, đã đủ tỏ cái trí của TÔn Tử, từ đó càng thêm kính trọng, ban thưởng rất nhiều . Lại nói chuyện Nguỵ Huệ vương đã bỏ Tôn Tẫn, giao việc khôi phục đất Trung Sơn cho Bàng Quyên . Bàng Quyên tâu rằng đất Trung Sơn ở xa nước Nguỵ, vậy nên đem quân đánh thẳng vào Hàm Đan để báo thù ngày trước . Huệ vương bằng lòng . Bàng Quyên đem năm trăm cỗ xe đi đánh, vây thành Hàm Đan . Triệu Thành hầu đem đất Trung Sơn đút cho Tề để cầu cứu . Tề Uy vương đã biết tài Tôn Tẫn, muốn cử làm đại tướng, Tôn Tẫn từ mà nói rằng: - Hạ thần là kẻ đã bị hành hình mà sống thừa, nếu cho làm chủ tướng e quân dịch sẽ cười là nước Tề không có tướng tài, xin đại vương cử Điền Kỵ làm tướng thì hơn . Uy vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư, cứ ở luôn trong xe, ngầm bày mưu kế mà không để lộ tên ra . Điền Kỵ muốn đem binh đi cứu Hàm Đan, Tôn Tẫn ngăn rằng: - Tướng nước Triệu không đương nổi Bàng Quyên . Quân ta đến được Hàm Đan, thì thành đã bị hạ rồi, chi bằng cứ đóng quân ở giữa đường, mà rêu rao lên rằng ta muốn đánh Tương Lăng; Bàng Quyên tất phải quay về, bấy giờ ta sẽ đón đánh, thế nào cũng được . Điền Kỵ theo lời . Quả nhiên tướng Triệu là Ngưu Tuyển chờ mãi quân Tề không đến, thế cùng phải đem thành Hàm Đan đầu hàng Bàng Quyên . Bàng Quyên sai người báo tiệp cho vua Nguỵ biết, lại đang muốn tiến quân, thì được tin Tề sai Điền Kỵ đem quân đánh Tương Lăng, bèn hoảng sợ, vội rút quân về; khi còn cách Quế Lăng chừng hai mươi dặm, thì gặp quân Tề . Nguyên Tôn Tẫn đã liệu biết quân Ngụy tất đến, sai nha tướng là Viên Đạt đem ba nghìn quân chặn đường khiêu chiến, cháu họ Bàng Quyên là Bàng Thông lĩnh tiền đội đến trước, liền xông vào đánh chừng hai mươi hợp, Viên Đạt giả cách thua chạy . Bàng Thông sợ có kê, không dám đuổi theo, trở lại bẩm với Bàng Quyên . Quyên nổi giận, mắng rằng: - Tên tiểu tướng ấy còn không bắt nổi, thì bắt thế nào được Điền Kỵ ? Nói rồi dẫn đại quân đuổi theo; khi sắp đến Quế Lăng, thấy trước mặt quân Tề bày thành trận thế, nhìn xem rõ ràng là trận pháp "điên đảo bát môn" là thế trận khi Tôn Tẫn mới đến nước Ngụy đã bày, trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm Điền Kỵ làm sao lại biết được trận pháp này, hay là Tôn Tẫn đã lẻn về nước Tề chăng ? đoạn cũng bày ra trận thế . Bên quân Tề, Điền Kỵ cỡi ngựa ra trận, gọi tướng Nguỵ có tay nào giỏi thì ra nói chuyện . Bàng Quyên cưỡi ngựa ra, bảo Điền Kỵ rằng: - Tề với Nguỵ vẫn có hoà hiếu, Nguỵ đánh Triệu, có dự gì đến Tề ? tướng quân bỏ việc hoà hiếu mà tìm việc cừu thù, thật là thất kế! Điền Kỵ nói: - Triệu đem đất Trung Sơn dâng cho chúa công ta,chúa công ta sai đem quân đến cứu, nếu Ngụy cũng cắt vài quân đem dâng, thì ta lập tức rút quân về ngay . Quyên nổi giận nói rằng: - Ngươi có bản lĩnh gì mà dám đối địch với ta ? Điền Kỵ nói: - Ngươi đã tự đắc là có bản lĩnh, vậy có biết trận pháp của ta đây không ? Quyên nói: - Đó là trận pháp "điên đảo bát môn" ta học được của thày Quỉ Cốc, ngươi ăn cắp ở đâu được một vài phần, lại dám hỏi ta, ở nước ta dù đứa trẻ con lên ba cũng đều biết cả . Điền Kỵ nói: - Ngươi đã biết, thế có dám đánh không ? Bàng Quyên dù không biết cách phá, nhưng sợ thất thế, nên phải làm ra mặt thông hiểu, trả lời quyết đánh, rồi gọi ba tướng Bàng Thông, Bàng Anh, Bàng Mao, lên bảo rằng: - Ta đã nghe Tôn Tẫn giảng về trận pháp này, cũng biết sơ cách đánh phá, nhưng trận này có thể biến ra trận "trường xà", đánh đầu thì đuôi ứng, đánh đuôi thì đầu ứng, đánh giữa thì đầu và đuôi đều ứng, người đánh không khéo, là bị vây hãm ngay . Nay ta vào đánh trận này, ba ngươi đều lĩnh một đạo quân hễ thấy trận biến là ba đội đều tiến, khiến cho đầu đuôi không thể ứng nhau được, thì trận mới có thể phá được . Bàng Quyên phân phó đã xong, liền tự mình dẫn năm nghìn quân, xông vào đánh trận . Mới vào trong trận, thấy tám mặt mỗi mặt một sắc cờ, rối rít đổi nhau không nhận được ra thế nào, xông bên đông, đột bên tây, chỗ nào cũng thấy gươm dáo như rừng, không sao tìm được lối ra, rồi thấy tiếng chiêng tiếng trống đánh dồn và tiếng người reo hò vang động một góc trời; trên các lá cờ đều thấy có ba chữ "quân sư Tôn", Bàng Quyên sợ quá, nghĩ thầm rằng:"thằng què quả đã trốn về nước Tề, ta mắc mưu nó rồi!" đang cơn nguy cấp, may được Bàng Anh, Bành Thông dẫn hai đạo quân xông vào phá hai vòng vây cứu được Quyên ra, năm nghìn quân tiên phong bị giết không còn một mống, khi hỏi đến Bàng Mao, thì Mao cũng bị Điền Anh giết; thiệt hại cộng hơn hai vạn quân . Bàng Quyên biết rõ Tôn Tẫn đang ở trong Tề rồi, sợ quá, cùng Bàng Anh, Bàng Thông bỏ dinh trại, luôn đêm trốn về nước Ngụy, Huệ vương nghĩ đến cái công lấy được Hàm Đan, nên tha tội cho Bàng Quyên . Tề Uy vương từ đó tin dùng Điền Kỵ và Tôn Tẫn, đem binh quyền giao cho, Trâu Kỵ sợ hai người sau này thay mình làm tướng quốc, bèn cùng môn khách là công tôn Duyệt bàn cách đánh đổ Điền Kỵ và Tôn Tẫn, thì lại gặp vừa lúc Bàng Quyên sai người lễ đút nghìn vàng, yêu cầu nước Tề bỏ Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi . Trâu Kỵ bèn sai công tôn Duyệt giả làm người nhà Điền KỴ, đem tiền đến nhờ một lão thầy bói ở Ngũ Cổ, nói Điền Kỵ nay có binh quyền ở tay, muốn mưu việc lớn, nhờ đoán xem tốt xấu thế nào . Lão thầy bói chối là việc bội nghịch không dám dự nghe, công tôn Duyệt nói không xem cho thì thôi, xin giữ kín đừng tiết lộ cho ai biết . Công tôn Duyệt vừa đi ra, thì sai gia nhân của Trâu Kỵ đã ập vào bắt lão thầy bói, hạch tội xem bói cho kẻ phản thần, thầy bói báo rằng tuy có người đến bói, nhưng chưa hề gieo quẻ . Rồi Trâu Kỵ vào ngay chầu Uy vương, tâu việc Điền Kỵ xem bói, và dẫn cả thầy bói đến làm chứng . Uy vương quá đem lòng ngờ, hàng ngày sai người dò xét cử động của Điền Kỵ, Điền Kỵ biết chuyện, bèn thác bệnh giao giả binh quyền, Tôn Tẫn cũng từ chức quân sư, Bàng Quyên nghe tin, trong lòng vui sướng quá, cho là từ nay mình có thể ngang dọc thiên hạ, bèn xin với vua Ngụy cho được cùng thái tử Thân đem quân đi đánh ở nước Hàn để phá trước cái kế của Hàn chực giúp Triệu để đánh Ngụy . 2003-08-09 23:58:46 Hồi 89 90. Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên Năm con trâu phân thây Thương Ưởng Lại nói Bàng Quyên cùng thái tử Thân đem quân đi đánh nước Hàn, đi qua Ngoại Hòang, có một kẻ sĩ là Từ Sinh xin vào yết kiến thái tử . Thái tử hỏi: - Tiên sinh hạ cố vào thăm quả nhân, có điều gì dạy bảo ? Từ Sinh nói: - Thái tử đi chuyến này, sẽ để đánh nước Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng ở đây, thái tử có muốn nghe không ? Thái tử Thân nói: - Điều đó quả nhân muốn nghe lắm . Từ Sinh nói: - Thái tử tự lượng của mình có giàu hơn Nguỵ, ngôi mình có cao hơn vương không ? Thái tử Thân nói: - Hơn thế nào được! Từ Sinh nói: - Nay thái tử tự làm tướng đi đánh Hàn, may mà được, thì giàu chẳng hơn Nguỵ, ngooi chẳng hơn vương; vạn nhất mà thua thì làm thế nào ? nay có cái thuật để tránh đuợc cái hại trận thua mà chuốc được cái vinh quang xưng vương, cho nên tôi mới nói là bách chiến bách thắng đó . Thân nói: - Phải lắm, quả nhân xin theo lời dạy của tiên sinh, lập tức kéo quân trở về . Từ Sinh nói: - Thái tử dẫu cho lời tôi là phải, nhưng chắc không làm được . Kìa một người nấu canh, nhiều người húp nước, nay những kẻ muốn húp nước canh của thái tử rất nhiều, thái tử dù muốn quay về, nhưng chẳng ai nghe nào . Từ Sinh từ tạ ra đi . Thái tử muốn hạ lệnh ban sư, Bàng Quyên nói: - Đại vương đem ba quân giao cho thái tử, nay chưa thấy được thua gì mà đã vội ban sư, thì có khách gì bại trận ? chư tướng đều không muốn trở về không . Thái tử Thân không thể tự quyết được, bèn dẫn quân tiến đến thẳng kinh đô nước Hàn . Hàn Ai hầu khiến người sang Tề cáo cấp và cầu cứu . Tề Tuyên vương hỏi quân thần, tướng quốc Trâu Kỵ nói không nên cứu, bọn Điền Kỵ, Điền Anh thì nói nên cứu, duy có Tôn Tẫn lặng im không nói gì . Tuyên vương nói: - Quân sư không nói gì, có lẽ cho hai kế cứu và không cứu đều là không phải chăng ? Tôn Tẫn nói: - cả hai đều không phải cả . Nước Ngụy tự cậy mạnh, năm trước đánh Triệu, năm nay đánh Hàn, lòng họ có phải đã quên nước Tề ta đâu ? nếu không cứu thì bỏ nước Hàn cho béo Nguỵ, cho nên nói không cứu là không phải . Ngụy sang đánh Hàn, Hàn chưa bị núng mà ta cứu thế là ta thay Hàn chịu nạn binh cách, Hàn được yên mà ta bị nguy, cho nên nói cứu cũng là không phải . Tuyên vương hỏi: - Vậy thì biết làm ra thế nào ? Tôn Tẫn nói: - Cứ ý tôi, thì ta nên hứa với nước Hàn là cứu binh Tề sớm chiều sẽ đến . Hàn hầu mừng quá, liền hết sức chống Ngụy, trước sau giao phong đến năm sáu lần, Hàn đều không thắng nổi, lại sai sứ sang Tề thúc giục cứu binh, Tề lại dùng Điền Kỵ làm tướng, Điền Anh làm phó, Tôn Tẫn làm quân sư, đem năm trăm cỗ xe đi cứu Hàn . Điền Kỵ muốn tiến thẳng sang Hàn, Tôn Tẫn nói: - Không nên, không nên! trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến đất Triệu; nay cứu Hàn sao lại đến đất Hàn ? Điền Kỵ hỏi ý thế nào, Tôn Tẫn nói: - Cái thuật để gỡ mối phân tranh, là phải đánh ngay vào nơi mà người ta cần phải cứu . Nay ta nên chỉ đánh thẳng vào kinh đô nước Ngụy mà thôi . Điền Kỵ theo lời, bèn, hạ lệnh cho ba quân tiến sang nước Ngụy . Bàng Quyên đánh được quân Hàn luôn mấy trận, sắp tiến lên để đánh Tân Đô, bỗng tiếp được tin cảnh báo ở trong nước nói quân Tề lại vào cướp Nguỵ, Bàng Quyên cả sợ, liền truyền lệnh bỏ Hàn về ngay, quân Hàn cũng không đuổi theo, Tôn Tẫn biết Bàng Quyên sắp đến, bảo Điền Kỵ rằng: - Quân Tam Tấn vốn dũng cảm mà khinh quân Tề, chi bằng nay ta giả làm thế yếu để dụ nó . Điền Kỵ nói: - Dụ cách thế nào ? Tôn Tẫn nói: - Ngày nay nên làm mười vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi . Nó thấy số bếp giảm xuống tất cho là quân ta nhát sợ mà trốn tránh quá nửa, nó sẽ gấp đường tiến đánh . Như thế, khí nó tất kiêu và sức nó tất mỏi, ta sẽ dùng kế mà đánh, thế nào cũng được . Điền Kỵ theo như kế ấy mà làm . Lại nói Bàng Quyên quay quân trở về, nghĩ thầm quân Hàn thua luôn, mình đang chực tiến đánh, bỗng bị quân Tề quấy rối, phá công cuộc của mình, lấy làm căm giận lắm; khi về đến đất Ngụy, biết là quân Tề đã đi trước rồi, để lại dấu tích đóng trại cũ rất rộng rãi, mới sai người đến xem chỗ bếp đun, thấy có mười vạn chỗ, hôm sau nữa chỉ thấy còn có ba vạn bếp, Bàng Quyên mừng rỡ lấy tay giơ lên trán mà nói: - Đó là hồng phúc của Ngụy vương! Thái tử Thân nói: - Quân sư chưa thấy quân địch thì làm sao đã vội mừng ? Quyên nói: - Tôi vốn biết người Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có ba ngày mà quân lính đã bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư ? Thái tử Thân nói: - Người Tề hay lừa dối, quân sư nên cẩn thận . Bàng Quyên nói: - Bọn Điền Kỵ phen này tự đến nộp mình, Quyên dẫu bất tài cũng xin bắt sống để rửa cái thù ở Quế Lăng Nói xong liề truyền lệnh chọn hai vạn quân tinh nhuệ, cùng thái tử Thân chia làm hai đội, gấp ngày đi lên, còn bộ binh thì lưu lại sau, sai Bàng Thông thống suất, từ từ tiến lên . Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức, quân do thám bảo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lôc, đi luôn đêm ngày, gấp đừờng mà tiến . Tôn Tẫn tính nhẩm hành trình, biết thế nào chiều tối ngày hôm ấy Bàng Quyên cũng đến Mã Lăng, chỗ này là một thung lũng sâu và hẹp, có thể phục binh . Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đuờng để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: "Bàng Quyên chết dưới cây này", mặt trên viết ngang dòng chữ "Lời truyền của Tôn quân sư", sai bộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần kén năm nghìn quân cung nỏ, mai phục ở hai bên tả hữu, dặn hễ khi thấy dưới gốc cây có ánh lửa, thì nhất tề bắn nỏ ra; lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục ở nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, thì theo sau chặn giết . Tôn Tẫn phân phát đã xong, cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng . Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đi qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh . Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ là hạ tuần tháng mười, trời không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt để nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được . Bàng Quyên mắng rằng: - Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo, nên lập ra kế ấy . Nói xong, Bàng Quyên bèn ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, nhưng bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng lại có nét chữ, nhưmg vì là đêm tối khó nhận rõ, nên sai một tên lính châm lửa soi xem . Bàng Quyên đọc thấy hai câu viết ở trên rất rõ ràng, bèn giật mình nói: - Thôi ta mắc mưu thằng què rồi! Liền hạ lệnh cho lui mau . Bàng Quyên nói chưa dứt thì hai toán phục binh của Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, đều giương cung nỏ bắn loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương, liệu không thể thoát được mới than rằng: - Ta giận không giết chết được thằng què ấy! Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ mà chết . Bàng Anh cũng bị tên nỏ bắn chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể . Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa; Bàng Quyên dùng bức giả thư để lừa chặt chân Tôn Tẫn, nay cũng bị Tôn Tẫn lừa lại bằng cái kế giảm bếp . Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên Bàng Quyên phải chết ở Mã Lăng . Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa mười hai năm, ứng vào cái triệu cành hoa có mười hai lá . Bấy giờ thái tử Thân ở phía sau, nghe tiền quân bại trận thì sợ hãi, đóng quân lại không dám đi, không ngờ lại có một đạo quân Điền Anh, từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá không ai dám đánh đều bỏ chạy tán loạn cầu thoát lấy thân . Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói lại để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống suất đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí . Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên . Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe . Quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về . Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ mà chết . Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên báo cho biết; đạo quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe đập đầu xin nộp mạng, Điền Kỵ muốn giết nốt, Tôn Tẫn nói: - Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, đến con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu . Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biểu triều cống, nếu không, quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn . Bàng Thông dạ dạ rồi đi ngay . Điền Kỵ đem quân về nước . Tề Tuyên vương cả mừng, đặc tiệc thưởng công, tự tay đưa chén rượu mời Điền Kỵ, Điền Anh, và Tôn Tẫn . Tướng quốc Trâu Kỵ, tự nghĩ ngày trước riêng nhận của lót nước Ngụy, muốn hãm hại Điền Kỵ, trong lòng lấy làm xấu hổ, bèn xưng bệnh nặng, sai người nộp giả ấn tướng quốc . Tề Tuyên vương bèn cử Điền Anh làm tướng quân, còn Tôn Tẫn làm quân sư như cũ, gia phong ấp lớn . Tôn Tẫn cố từ không nhận, lại tự viết cả mười ba thiên binh thư của tổ phụ là Tôn Vũ, dâng lên Tuyên vương, nói rằng: - Tôi là kẻ tàn phế, đội ơn dùng đến, nay trên báo được ơn chúa, dưới báo được thù riêng, lòng ước mong đã được thoả . Sở học của tôi đều ở trong sách này, lưu tôi lại cũng vô dụng, vậy xin cho một mảnh núi hoang để được yên ở hưởng hết tuổi già . Tuyên vương cố lưu lại không được, bèn cho ra ở núi Thạch Lư . Tôn Tẫn ở núi ấy hơn một năm, một hôm bỗng không thấy đâu nữa, có người nói là Tẫn đã thành tiên đi theo Quỉ Cốc tiên sinh rồi . Tuyên vương đem đầu Bàng Quyên treo ở quốc môn để làm oai và sai người báo tiệp với chư hầu; chư hầu đều sợ hãi, hai vua Hàn, Triệu cám ơn được cứu cũng thân hành đến chào mừng . Tuyên vương muốn cùng Hàn, Triệu hợp quân đánh Nguỵ . Nguỵ Huệ vương sợ quá cũng sai sứ đến cầu hoà và xin triều cống . Tề Tuyên vương hẹn với vua Tam Tấn cùng họp ở thành Bác Vọng . Hàn, Triệu, Ngụy đều không dám trái ý, cả ba vua cùng thời triều kiến, ai nấy đều cho là một sự vẻ vang . Tuyên vương từ đó cậy nước mạnh, say mê tửu sắc, xây Tuyết Cung ở trong thành, để làm chỗ yến tiệc ăn chơi, lại mở một khoảng đất bốn mươi dặm, ở ngoài thành để làm nơi săn bắn; lại nghe lời những người văn học du thuyết, lập ra tả hữu giảng thất ở Tắc Môn, họp vài nghìn du khách, trong đó có bọn Trâu Diễn, Điền Biên, Tiếp Dư, Hòan Uyên, bảy mươi sáu người đều cho vào hạng thượng đại phu, ngày nào cũng chỉ bàn bạc những sự hão huyền, cho bế thần là Vương Hoan coi giữ mọi việc . Điền Kỵ thường can ngăn không nghe, uất ức mà chết . Một hôm Tuyên vương ăn yến ở Tuyết Cung, bày nhiều nữ nhạc, bỗng có một người đàn bà trán rộng, mắt sâu, mũi cao, hầu lộ, lưng cong, cổ to, ngón tay dài, bàn chân to, da đen như sơn, tóc bù như cỏ mùa thua, mình mặc áo rách, từ ngoài đi vào, nói xin vào yết kiến Tề vương . Vũ sĩ ngăn lại nói rằng: - Mụ đàn bà xấu xí này ở đâu mà dám xin vào yết kiến đại vương ? Người đàn bà xấu xí nói: - Ta là người ở huyện Vô Diệm nước Tề, họ là Chung Li, tên là Xuân, năm nay đã bốn mươi tuổi, kén chồng chưa được người nào, nay nghe đại vương mở yến ở Li cung, ta đến yết kiến để xin được vào hậu cung làm việc rẩy quét . Ai nấy đều bưng miệng cười, cho là một người con gái trơ tráo vô sỉ, bèn vào tâu Tuyên vương . Tuyên vương cho đòi vào . Các quan ngồi hầu yến, thấy người đàn bà ấy xấu xí quá đều bưng miệng cười . Tuyên vương nói: - Trong cung ta phi tần thị nữ đã đủ ngạch cả rồi; mụ kia mặt mộc người thô, ế ẩm ở trong làng xóm, thân phận dân hèn, mà lại muốn vào nơi cung cấm, phải chăng là có tài năng gì lạ thường ư ? Chung Li Xuân tâu rằng: - Thiếp chẳng có tài chi lạ, chỉ có thuật ẩn ngữ (cách ra hiệu) mà thôi . Tuyên vương nói: - Hãy thử dùng cái thuật của mụ để đóan việc cho ta xem sao, nếu nói sai, ta sẽ chém đầu . Chung Li Xuân liền giương mắt, hếch răng, cất tay hai ba lần, rồi vỗ đầu gối mà kêu to lên rằng: - Nguy lăm! nguy lắm! Tuyên vương không hiểu ý thế nào, hỏi quần thần, cũng chẳng ai biết . Tuyên vương nói: - Mụ kia lại đây nói rõ cho ta nghe nào ! Xuân gật đầu nói: - Đại vương tha tội chết cho thiếp, thiếp mới dám nói . Tuyên vương nói: - Cho mày vô tội . Xuân nói: - Thiếp giương mắt là thay vua mà nhìn cái nạn binh lửa, hếch răng là thay vua để phạt cái miệng cự gián, cất tay là thua vua đuổi xa những kẻ sàm nịnh, vỗ đầu gối là thay vua đạp đổ cái đài yến ẩm chơi bời . Tuyên vương cả giận mắng rằng: - Quả nhân khi nào có bốn điều lỗ ấy, con mẹ nhà quê này dám nói càn . Quân đâu, đem chém cổ nó đi! Xuân nói: - Xin cho thiếp được nói rõ bốn điều lỗi ấy của đại vương rồi sẽ chịu chết . Thiếp nghe Tần dùng Thương Uởng mà nước được giàu mạnh, không bao lâu sẽ đem quân ra Hàm Quan để giành hơn thua với Tề, thì chắc Tề bị tổn hại ngay từ đầu, vì đại vương trong thì không có tướng giỏi mà ngoài thì việc biên phòng bỏ trễ, cho nên thiếp vì đại vương giương mắt mà nhìn . Đại vương say mê nữ sắc, bỏ trễ việc nước, những người trung trực can ngăn, thì đại vương cự mà không nghe, cho nên thiếp hếch răng để vì vua nhận lời can vậy . Vả bọn Vương Hoan a dua nịnh hót, bọn Trâu Diễn bàn nói viển vông, đại vương tin dùng bọn ấy thiếp sợ có hại cho xã tắc, cho nên thiếp giơ tay để vì đại vương xua đuổi họ đi . Đại vương xây cung mở vườn, dùng hết sức dân làm cạn kho nước, cho nên thiếp vỗ đầu gối muốn vì vua đạp đổ những nơi ấy đi . Đại vương có bốn điều lỗi ấy, nguy như trứng để đầu đẳng, mà còn vui chơi, không hề lo nghĩ, cho nên thiếp phải liều chết tây bày, nếu được đại vương cho là phải mà nghe theo, thì dù chết cũng không hối hận! Tuyên vương than rằng: - Nếu không có lời nói của họ Chung này, thì quả nhân không bao giờ được biết những điều lầm lỗi của mình . Lập tức bãi yến, dùng xe chở nàng Chung Li Xuân về cung lập làm chính hậu . Chung Li Xuân nói: - Nếu đại vương không nghe lời thiếp, thì dùng làm gì cái thân thiếp này, xin đại vương phải xem việc trị nước và việc dùng người hiền là cần cấp hơn cả mọi việc . Tuyên vương theo lời, lập tức đuổi bọn du nịnh, tin dùng hiền sĩ, lại đuổi hết bọn du thuyết đi, dùng Điền Anh lfm tướng quốc, đãi người nước Trâu là Mạnh Kha làm bực thượng tân, từ đó nước Tề được yên ổn và thịnh vượng, lại lấy ấp Vô Diệm phong cho nhà Chung Li Xuân, gọi nàng là Vô Diệm quân . Lại nói tướng quốc nước Tần là Vệ Uởng nghe tin Bàng Quyên chết trận, nói với Hiếu công rằng: - Tần, Nguỵ ở gần nhau, nước Tần có nước Ngụy, cũng như người có bệnh ở trong tim, trong ruột . Nếu Ngụy không cướp Tần thì Tần phải cướp Ngụy, cái thế không thể cùng sống được . Nay nước Ngụy đã bị đại bại với Tề, nên nhân dịp này mà đánh Ngụy, Ngụy không giữ nổi tất phải dời sang đông; lúc bấy giờ Tần sẽ dựa vào núi sông hiểm trở, quay về phía đông mà chế phục chư hầu, đó là cái sự nghiệp đế vương vậy . Hiếu công lấy làm phải, cử Vệ Uởng làm đại tướng, công tử Thiếu Quan làm phó, mang năm vạn quân đi đánh Ngụy . Được tin cáo cấp, Ngụy Huệ vương họp quần thần lại để bàn kế chống nước Tần . Công tử Ngang nói: - Khi trước Vệ Ưởng ở Ngụy, cùng hạ thần có quen biết, hạ thần đã từng tiến cử lên đại vương, đại vương không nghe . Nay hạ thần xin đem quân đi, trước hãy giảng hoà, nếu Vệ Uởng không cho, bấy giờ sẽ cố giữ thành trì, cầu cứu hai nước Hàn, Triệu . Quần thần đều khen phải, Huệ vương liền cử công tử Ngang làm đại tướng mang năm vạn quân đi cứu Tây Hà, tiến đóng quân ở Ngô Thành . Công tử Ngang đang muốn viết thư sai người cầm sang dinh quân Tần hỏi thăm Vệ Uởng, muốn hắn bãi binh, thì bỗng có tướng sĩ giữ thành vào báo là quan tướng quốc nước Tần sai người đưa thư, hiện ở ngoài thành . Công tử Ngang sai dòng dây qua thành đem thư lên, mở ra xem, thư rằng: "Uởng này vốn tương đắc với công tử, không khác gì ruột thịt, mà nay mỗi người thờ một chủ, làm tướng ở hai nước, vậy nỡ nào lại dùng binh để hại nhau . Ý tôi muố ước hẹn với công tử, hai bên đều bỏ binh xa và giáp trụ, dùng lễ phục cùng họp mặt ở núi Ngọc Toàn, cùng uống rượu vui chơi rồi về, để tránh cho hai nước cái nạn thịt nát máu rơi, khiến cho nghìn thu về sau phải khen cái giao tình của đôi ta không khác gì Quản, Bão . Nếu công tử bằng lòng, xin bảo cho biết ngày nào có thể hội diện được". Công tử Ngang đọc xong cả mừng bảo rằng: - chính hợp ý với ta! Bèn hậu đãi sứ giả và viết thư trả lời như sau: "Tướng quốc còn nhớ tình xưa, bắt chước việc cũ của vua Hoàn công nước Tề, lấy áo xiêm mà thay cho binh xa, để yên dân Tần, Ngụy, rõ nghĩa Quản, Bão . Đó cũng vốn là cái chí của Ngang này . Trong ba ngày, xin tướng quốc định cho lúc nào, Ngang này cũng xin cúi đầu vâng mệnh". Vệ Uởng được thư trả lời mừng mà nói rằng: - Kế ta thành rồi! Bèn sai người vào thành ước định nhật kỳ, nói rằng tiền doanh quân Tần đã triệt bỏ, hạ lệnh cho về nước, chỉ còn chờ được hội kiến nguyên suý rồi nhổ trại đều về . Lại đem hai thứ ngó sen và xạ hương dâng biếu, nói rằng hai thứ ấy là thổ sản nước Tần, ngó sen ích cho người, xạ hương trừ tà khí, gọi là để ghi nhớ giao tình và tỏ ý thân yêu về lâu dài . Công tử Ngang cho là Vệ Uởng yêu mình, càng tin là không có ý gì khác, liền đáp thư cảm tạ . Vệ Uởng giả truyền quân lệnh, sai tiền doanh rút hết . Công tử Thiếu Quang thống suất đi trước . Nhưng lại dặn thầm dọc đường chỉ nói đi săn bắn để kiếm cái ăn, rồi chia đi mai phục ở các nơi Kỳ Sơn, Bạch Tước sơn, hện đến cuối giờ ngọ đầu giờ mùi ngày ấy đều đến dưới núi Ngọc Toàn, hễ nghe trên núi có tiếng súng bắn làm hiệu thì kéo ùa vào, bắn hết những người đến đấy không để cho một người nào chạy thoát . Đến kỳ, vừa sáng ra, Vệ Uởng trước hết sai người vào báo trong thành, nói là tướng quốc đã đến trước ở núi Ngọc Toàn chực sẵn, quân theo hầu không đầy ba trăm người, công tử Ngang lại càng tin, liền lên xe phó hội, đem theo xe mui chở các thứ rượu món ăn và một bộ nhạc công, số người theo hầu cũng bằng của Vệ Uởng . Vệ Uởng đứng đón ở dưới núi, công tử Ngang thấy người đi theo đã ít, lại không có quân khí, không còn ngờ gì nữa, khi thấy nhau, đều kể giao tình ngày trước, và tỏ ý thông hoà ngày nay . Những người nước Ngụy đi theo đến đó, ai nấy đều vui mừng . Hai bên đều bày tiệc rượu, công tử Ngang ở địa vị chủ, trước hết nâng chén mời Vệ Uởng, thù tạc ba lần, tấu nhạc ba lần . Vệ Uởng sai quân sĩ phải thay nhau báo giờ luôn luôn, rồi triệt bỏ tiệc rượu của nước Ngụy, bày tiệc của nước Tần ra, hai tên hầu rượu đều là những tay dũng sĩ có tiếng ở nước Tần, một người tên gọi là Ô Hoạch, sức khoẻ mang được nghìn cân, một người tên gọi là Nhâm Bỉ, tay đánh được hổ báo . Vệ Uởng vừa cất chén đầu khuyên mời, liếc mắt bảo ý các người hầu tả hữu đi lên trên đỉnh núi bắn một tiếng súng, dưới núi cũng bắn súng theo, tiếng vang hang núi, công tử Ngang cả sợ nói rằng: - Tiếng súng ở đâu thế, có lẽ tướng quốc đánh lừa tôi chăng ? Vệ Uởng nói rằng: - Tạm lừa một lần, còn rộng cho tôi được chuộc tội về sau! Công tử Ngang hoảng sợ muốn chạy trốn ngay, nhưng bị Ô Hoạch nắm chặt ngay lấy, không thể cựa cậy được, Nhâm Bỉ thì chỉ huy tả hữu bắt hết mọi người trói lại, còn công tử Thiếu Quang đốc suất quân lính bắt hết các xa trượng và quân lính theo hầu, không còn một người nào chạy thoát . Vệ Uởng sai quân bỏ công tử Ngang vào trong xe tù, giải trước về nước Tần để báo tiệp; lại đem những người đi theo đã bắt đuợc cởi trói cho hết và cho uống rượu để khỏi sợ; lại cho dùng những xa trượng cũ đem về, nói dối là chủ suý phó hội trở về, lừa mở cửa thành, sẽ có trọng thưởng, nếu không nghe thì lập tức chém đầu . Bọn đi theo ấy là những kẻ hèn nhát, đều sợ chết cả, nên đều vâng theo mệnh lệnh . Vệ Uởng sai Ô Hoạch giả làm công tử Ngang ngồi ở trong xe, Nhâm Bỉ làm hộ tống sứ thần, cưỡi một chiếc xe theo sau . Quân Ngụy ở trên thành nhận thấy toàn là người mình cả, liền mở toang cửa thành, hai viên dũng tướng ấy nhảy ra cùng một lúc, tay đấm chân đá phá tan cửa thành, không đóng lại được nữa . Quân Ngụy sấn vào chống cự, đều bị đánh ngã; mặt sau Vệ Uởng thân đem đại quân đến, nhanh chóng như bay . Trong thành quân dân rối loạn, Vệ Uởng cho quân lính được loạn sát một trận, rồi chiếm lấy Ngô Thành . Chu Thương nghe chủ suý bị bắt, chắc là Tây Hà khó giữ được, bỏ thành chạy trốn, Vệ Uởng kéo quân vào thành An ấp . Huệ vương sợ quá, sai đại phu là Long Giả sang dinh quân Tần xin cầu hoà, Vệ Uởng nói: - Vua Nguỵ không biết dùng ta, nên ta phải sang làm quan nước Tần, đội ơn vua Tần tôn làm khanh tướng, ăn lộc muôn chung, nay lại giao phó binh quyền, nếu không diệt Ngụy thì phụ lòng của vua Tần đã tin dùng . Long Giả nói: - Tôi nghe chim khôn đến rừng cũ, tôi hiền mến vua cũ, vua Nguỵ dẫu không biết dùng túc hạ, nhưng đối với nước cha mẹ, túc hạ sao nỡ vô tình ? Vệ Uởng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Long Giả rằng: - Nếu cầu ta rút quân về, trừ phi cắt hết đất Tây Hà dâng cho Tần thì không được . Long Giả vâng lời về tâu với vua Nguỵ, Huệ vương phải theo lời, liền sai Long Giả đem địa đồ Tây Hà dâng cho quân Tần . Ngụy Huệ vương cho rằng đất An ấp ở gần Tần khó giữ được yên, bèn thiên đô đến Đại Lương, từ đó gọi là nước Lương . Tần Hiếu công thưởng công Vệ Uởng, phong làm liệt hầu, lấy mười lăm ấp Thương Ô là đất của Ngụy trước, làm thực ấp của Ưởng, gọi là Thương Quân, vì thế đời sau mới gọi Vệ Ưởng là Thương Uởng . Uởng tạ ơn về phủ riêng, bảo gia thần rằng: - Ta là kẻ chi thứ nước Vệ, sang làm quan nước Tần, vì nước Tần thay đổi chính trị, lập tức trở nên giàu mạnh . Nay lại lấy được đất Ngụy bảy trăm dặm, phong ấp mười lăm thành, đại trượng phu đắc chí đến như thế có thể nói là lẫy lừng lắm vậy! Tân khách đồng thanh khen mừng, trong bọn đó bỗng có một người cất tiếng nghiêm nghị nói rằng: - Nghìn người a dua không bằng một người nói thẳng, các người ở đây nhờ ơn Thương Quân phụng dưỡng, há nên cứ dua nịnh mà làm hại chủ ư ? Mọi người nhìn xem ai, chính vị thượng khách tên là Triệu Lương . Vệ Uởng nói: - Tiên sinh bảo mọi người dua nịnh, vậy tiên sinh thử xem tôi đây cai trị nước Tần cùng với "ngũ cổ đại phu" ai hơn ? Lương nói: - Ngũ cổ đại phu giúp Mục công, ba lần bắt vua Tần, kiêm tính hai mươi nước, làm cho chủ trở nên một vị bá chủ ở Tây Nhung . Vậy mà đến sự tự phụng mình, nắng không che lọng, nhọc không cưỡi xe, đến ngày chết, trăm họ thương khóc như mất cha mẹ . Nay ngài làm tướng nước Tần tám năm, pháp lệnh dẫu thi hành được, nhưng giết hại rất thảm, dân chỉ thấy oán, mà không thấy ân, chỉ thấy lợi mà không thấy nghĩa . Thái tử giận ngài giết mất người sư phó, oán vào tận cốt tuỷ, ở dân gian thì cha con anh em đã lâu vẫn mang lòng oán giận; nhất đán vua Tần mất đi, thì ngài sẽ bị nguy ngay, còn có thể giữ mãi được cái phú qúy ở ấp Thương Ô này mà tự khoe là đại trượng phu chăng ? sao ngài không tiến người hiền để thay mình, rồi từ bỏ lộc vị lui về cày cấy ở nơi điền giả, chỉ như vậy mới có thể mong chu toàn được . Vệ Ưởng lặng im ra ý không vui, sau đó năm tháng thì Hiếu công bị bệnh chết, quần thần tôn thái tử Tứ lên ngôi, ấy là Huệ Văn công . Thương Uởng tự phụ mình là cựu thần của tiên triều, ra vào ngạo mạn, công tử Kiền trước kia bị Vệ Ưởng cắt mũi, còn găm nỗi tức giận trong lòng mà chưa báo được, lúc ấy cùng Tôn Giả tâu với Huệ Văn công rằng: - Tôi nghe đại thần quyền thế trọng quá thì nước nguy, các người tả hữu quyền thế trọng quá thì thân nguy . Thương Uởng lập phép cai trị nước Tần, nước Tần dẫu được thịnh trị, nhưng đàn bà con trẻ đều nói đó là phép của Thương Quân, chứ không ai nói là phép của nước Tần . Nay lại phong cho Thương Uởng mười lăm ấp, ngôi cao quyền trọng, sau này tất y làm phản . Huệ Văn công nói: - Ta căm giận thằng giặc ấy đã lâu, nhưng vì nghĩ nó là thần hạ của tiên vương và chưa hề tỏ ra ý gì phảnh nghịch, nên hãy tạm dung cho nó . Nói xong, liền sai người thu tướng ấn của Thương Uởng, bắt lui về ở ấp Thương Ô . Thương Ưởng từ giã triều đình, lên xe ra khỏi thành, nghi trượng đội ngũ, còn ngang với chư hầu, trăm quan đi tiễn tống không thiếu một người nào . Công tôn Kiền, công tôn Giả mật báo với Huệ Văn công, nói Thương Quân không biết ăn năn tội lỗi, tiếm dùng nghi thức của vương giả, nếu để cho hắn ở Thương Ô, tất hắn làm phản . Cam Long, Đỗ Thế lại làm chứng quả có việc như thế, Huệ Văn công cả giận, lập tức sai công tôn Giả dẫn ba nghìn võ sĩ, đuổi bắt Thương Uởng, truyền chém đầu đem bêu rồi về báo . Công tôn Giả lĩnh mệnh ra đi . Bấy giờ nhân dân ai nấy đều oán Thương Quân, nghe tin công tôn Giả mang quân đuổi bắt, nô nức chạy theo có hàng mấy nghìn người, Thương Uởng đi xe ra khỏi thành đã hơn trăm dặm, bỗng nghe mặt sau có quân đuổi theo, thì sợ quá, biết là tân quân có lòng căm ghét, e không khỏi hoạ, vội trút bỏ mũ áo xuống xe, giả trang làm tên lính mà đi trốn; chạy đến Hàm Quan, trời sắp tối, vào nhà hàng xin ngủ trọ, chủ hàng hỏi có giấy chiếu thân không . Thương Uởng nói không có, chủ hàng nói: - Phép của Thương Quân, không cho chứa những người không có giấy chiếu thân, ai phạm pháp đều phải chém, tôi không dám cho trọ . Thương Uởng than rằng: - Ta đặt ra phép ấy, lại tự hại thân ta! Rồi đi luôn cả đêm, lẻn ra ngoài cửa quan chạy sang nước Ngụy, Nguỵ Huệ vương giận Vệ Uởng lừa bắt công tử Ngang và cắt mất đất Tây Hà, nên muốn bắt Vệ Uởng để dâng Tần . Uởng sợ quá, lại trốn về Thương Ô, mưu khởi binh đánh Tần, bị công tử Giả bắt trói giải về . Huệ Văn công kể từng tội, sai trói Ửởng đem ra chợ, dùng năm con trâu phân thây, trăm họ xúm lại tranh nhau ăn thịt, chỉ một lúc là hết . Huệ Văn công lại giết cả họ Thương Uởng . Đáng thương cho Thương Uởng đổi lập phép mới, làm cho nước Tần trở nên giàu mạnh, kết quả lại bị họa phân thây, há chẳng phải là một cái quả báo đối với sự nghiêm khắc quá mức đó ru! sau khi Thương Uởng chết rồi, trăm họ đều vui mừng hát múa ở đường, sáu nước nghe tin cũng đều mừng rỡ . Cam Long, Đỗ Trí trước bị cách chức, nay đều được phục quan . Huệ Văn công cử Tôn Diễn làm tướng quốc, Diễn khuyên Huệ Văn công cướp lấy đất Ba Thục, rồi xưng vương để hiệu triệu thiên hạ, các nước đều phải cắt đất như nước Ngụy để làm lễ mừng, nếu trái lệnh sẽ đem quân đánh ngay . Huệ Văn bèn xưng vương, sai sứ đi báo khắp chư hầu; các nước đều do dự chưa quyết, chỉ có Sở Uy vương vừa đánh chiếm được đất nước Việt, đất rộng quân mạnh, ngang nhau với Tần, quát mắng đuổi sứ Tần đi .

Tô Tần làm tướng sáu nước Trương Nghi tức giận sang Tần Lại nói Tô Tần, Trương Nghi từ khi từ tạ Qủi Cốc tiên sinh xuống núi, Trương Nghi thì về nước Ngụy, Tô Tần thì về Lộc Dương . Ở nhà Tần còn mẹ già, một anh, hai em, anh mất sớm, chỉ còn người chị dâu ở goá, hai em là Tô Đại, Tô Lệ . Mấy năm cách mặt, ngày nay lại gặp, cả nhà ai nấy đều vui mừng . Vài ngày sau, Tô Tần muốn đi chơi các nước, mới xin mẹ già cho bán gia tài để làm hành phí, mẹ già, chị dâu và vợ hết sức can ngăn, nói rằng: - Quí Tử không chịu cày cấy, buôn bán làm ăn, chỉ muốn đem mấy tấc lưỡi để kiếm giàu sang, bỏ cái nghiệp đã thành, cầu cái lợi chưa được, sau này nghèo túng, còn hối sao được ? Tô Đại, Tô Lệ cũng nói rằng: - Anh nếu giỏi thuật du thuyết, sao không đến thuyết ngay Chu vương, cũng có thể thành danh được, ở bản hương, cần gì phải đi đâu xa ? Tô Tần bị cả nhà ngăn trờ, bèn đến xin yết kiến Chu Hiến vương, bày tỏ cái thuật tự cường, vương mời ở lại quá xá; tả hữu đều biết Tô Tần vốn là con nhà làm ruộng, ngờ là người chỉ nói hão huyền, không có thực dụng, không chịu cất nhắc với Chu Hiến vương . Tô Tần lưu ở quán xá đến hơn năm trời không thể tiến thân được, bực tức bỏ về nhà, bán hết gia sản được một trăm dật hoàng kim, may một cái áo cầu lông điêu mà đen, sắm sửa xe ngựa, có đủ kẻ hầu người hạ, rồi du lịch các nước, xem các hình thể núi sông và phong tục nhân dân, rõ hết các điều lợi hại trong thiên hạ . Như thế đến vài năm, mà vẫn chưa gặp được vua nào biết dùng; Tô Tần nghe nói Vệ Ưởng được phong làm Thương Quân, được Tần Hiếu công tin dùng lắm, bèn đi sang Hàm Dương, nhưng đến nơi thì Tần Hiếu công đã mất, Thương Quân cũng chết, bèn xin vào yết kiến Huệ Văn vương . Huệ Văn vương cho triệu Tần vào trong điện hỏi rằng: - Tiên sinh không quản nghìn dặm xa xôi mà đến tệ ấp chẳng hay có điều gì dạy bảo quả nhân ? Tô Tần thưa rằng: - Tôi nghe nói đại vương đòi chư hầu cắt đất để hiến cho nước Tần, ấy có phải muốn ngồi yên mà kiêm tính cả thiên hạ chăng ? Huệ vương nói: - Phải . Tần nói: - Đại vương đông có Hàm Cốc, Hoàng Hà, tây có Hán Trung, nam có Ba Thục, bắc có Hồ Lạc, bốn mặt đều là thiên hiểm, đồng ruộng tốt có nghìn dặm, quân lính giỏi có trăm vạn . Trên thì có cái đức của đại vương, dưới thì có ức triệu sĩ dân, dựa vào đó, tôi xin hiến mưu ra sức làm cho đại vương kiêm tính được chư hầu, thống nhất được thiên hạ thay nhà Chu mà xưng đế dễ như trờ bàn tay . Có lẽ nào cứ khoanh tay ngồi yên mà thành sự được ? Huệ Văn vương vừa mới giết Thương Ưởng, trong lòng vẫn ghét những tay du thuyết, bèn từ chối rằng: - Quả nhân nghe nói lông cánh chưa đủ thì không thể bay cao . Những lời nói của tiên sinh, tiếc rằng quả nhân ngày nay chưa đủ sức làm, vậy xin đợi vài năm nữa, binh lực đủ, bấy giờ sẽ bàn tới việc ấy . Tô Tần lui ra, lại đem cái thuật của tam vương ngũ bá dùng công chiến mà được thiên hạ chép thành một cuốn sách dày, cộng hơn mười vạn chữ, hôm sau đem dâng Tần vương . Tần vương cũng có xem, nhưng tuyệt nhiên không có gì lưu dụng Tô Tần . Tô Tần lại đến yết kiến tướng quốc Công tôn Diễn, lại có lòng ghen tài, không chịu dẫn tiến, Tô Tần ở lại nước Tần hơn một năm, trăm dật hòang kim đều đã dùng hết, chiếc áo cầu lông điêu màu đen cũng rách tướp ra, không còn biết xoay vào đâu, phải bán xe ngựa và đầy tớ lấy liền làm lộ phí, rồi quẩy khăn gói đi bộ về nhà . Mẹ già thấy bộ Tô Tần lúng túng thì đem lời mắng nhiếc; vợ đang dệt cửi trông thấy cứ ngồi yên, chẳng chạy ra chào hỏi; Tần đói quá, xin chị dâu cho cơm ăn, chị dâu chối là nhà không có củi, không chịu nấu cơm cho ăn . Tần chảy nước mắt nói rằng: - Người ta mà nghèo hèn thì vợ không còn coi là chồng, chị dâu không còn coi là em, mẹ không còn coi là con nữa . Đó là cái tội của ta! Rồi lục tìm trong hòm sách, được quyển "thái công âm phù" sực nhớ ra rằng Quỉ Cốc có nói du thuyết không gặp, chỉ nên đọc kỹ cuốn sách này, thì tự khắc có tiến ích . Bèn đóng cửa xem sách, suy tìm nghĩa kín cho kỳ được, ngày đêm không nghỉ;, đêm mỏi mệt quá muốn ngủ, thì tự cầm dùi đâm vào đùi máu chảy khắp chân . Khi đã hiểu hết nghĩa lý tinh vi trong sách, lại đem hình thế các nước xem xét kỹ càng, như thế trong một năm, đại thể thiên hạ như được nắm trong bàn tay, liền tự an ủi rằng: - Tần này đã có cái sức học như thế, nay đem ra mà du thuyết với vua các nước, há lại chẳng thấy được ngôi khanh ngôi tướng, làm nên giàu sang ư ? Tần bèn sai bảo hai em là Đại, Lệ rằng: - Sự học của ta đã thành, có thể lấy được giàu sang như bỡn, các em nen giúp ta món tiền hành lý để ta đi du thuyết các nước, nếu có ngày xuất thân ta sẽ dắt các em . Lại đem quyển "âm phù" giảng giải cho hai em . Đại, Lệ cũng đều hiểu biết, nên giúp cho Tần món tiền hành lý . Tần từ biệt mẹ, vợ và chị dâu, muốn đi sang nước Tần nhưng lại nghĩ rằng:"Ngày nay trong bảy nước chỉ có nước Tần là mạnh hơn cả, có thể giúp nên đế nghiệp, nhưng trước khi vua Tần đã không chịu dùng ta, nay lại đến, nếu lại như trước, thì còn mặt mũi nào trở về làng cũ nữa ? Bèn nghĩ một kế làm cho các nước đồng lòng hợp sức với nhau để nước Tần trở nên cô thế . Nghĩ vậy bèn sang nước Triệu, bấy giờ Triệu Túc hầu ở ngôi, em trai là công tử Thành làm tướng quốc, gọi là Phụng Dương, Phụng Dương quân không thích nghe; Tần bèn bỏ Triệu đi sang Yên, xin vào yết kiến Yên Văn công, nhưng các người tả hữu chẳng ai nói giúp; ở hơn một năm, tiền lương đã cạn, phải nhịn đói ở nhà trọ; người trong nhà trọ động lòng thương, cho vay một trăm đồng tiền, Tần nhờ đó mà có cái ăn . Bỗng gặp lúc Yên Văn công đi chơi, Tần phủ phục ở bên đường . Văn công hỏi họ tên, biết là Tô Tần, mừng mà nói rằng: - Nghe nói tiên sinh năm trước dâng một tập thư mười vạn chữ cho vua Tần, quả nhân lòng hâm mộ, tiếc vì không được tập thư ấy, nay tiên sinh hạ cố đến, thực là may cho nước Yên lắm! Nói rồi bèn quay xe về triều, cho triệu Tần vào, cúi đầu mà xin lời dạy bảo . Tô Tần tâu rằng: - Đại vương ở trong hàng chiến quốc, đất vuông hai nghìn dặm, binh giáp vài mươi vạn, xe sáu trăm cỗ, ngựa sáu nghìn con, nhưng so với Trung nguyên, thì chưa bằng một nửa; vậy mà tai không nghe những tiếng ngựa sắt giáo vàng, mắt không thấy cái nguy đổ xe chém tướng, được yên ổn như thế này, đại vương có biết vì cớ gì không ? Yên Văn công nói: - Quả nhân không biết . Tần lại nói: - Nước Yên sở dĩ không bị binh đao, là nhờ có nước Triệu đứng che, đại vương không biết kết giao với nước Triệu gần, lại cắt đất để nịnh Tần xa, chẳng là dại lắm ư! Yên Văn công nói: - Vậy thì làm thế nào ? Tần thưa rằng: - Cứ như ý ngu này, chi bằng Yên kết thân với Triệu rồi kết liên với các nước, cùng nhau hợp sức chống Tần, đó mới là cái yên trăm đời đó! Yên Văn công nói: - Tiên sinh muốn dùng kế hợp tung để yên nước Yên, đó là sở nguyện của quả nhân, nhưng sợ chư hầu không cùng lòng thì sao ? Tần nói: - Tôi dẫu bất tài, xin diện kiến chư hầu để định tung ước . Yên Văn công cả mừng, giúp vàng bạc và xe ngựa, sai tráng sĩ đưa Tần đi sang Triệu . Bấy giờ Phụng Dương quân Triệu Thành đã mất, Triệu Túc hầu nghe nước Yên đưa khách đến, bèn xuống thềm đón, nói rằng: - Thượng khách hạ cố đến đây, có điều gì dạy bảo quả nhân . Tô Tần tâu rằng: - Tôi nghe nói hiền sĩ trong thiên hạ đều ngưỡng mộ cái đức của quân hầu và muốn bày tỏ tâm phúc, chỉ vì Phụng Dương quân là người ghen ghét tài năng, cho nên những du sĩ đều dừng chân không tiến, cuốn lưỡi không nói, nay Phụng Dương quân đã mất, nên tôi mới dám đến dâng tấm ngu trung . Tôi nghe: giữ nuớc không bằng yên dân, yên dân không gì bằng chọn nước mà giao hiếu; nay các nước ở Sơn Đông chỉ có Triệu là mạnh, đất rộng hơn hai nghìn dặm, quân lính có vài mươi vạn, xe nghìn cổ, ngựa vạn con, thóc đủ dùng trong vài năm, Tần ghét nhất là Triệu, vậy mà không dám đánh Triệu là sợ có Hàn, Ngụy đanh úp ở đằng sau . Cho nên làm phên giậu ở phía nam cho nước Triệu là Hàn, Nguỵ; nhưng hai nước ấy không có núi sông hiểm trờ, một ngày kia quân Tần đánh lấn hai nước, hai nước đầu hàng thì họa sẽ đến nước Triệu ngay . Tôi thường xem xét địa đồ, thấy đất đia các nuớc hơn Tần vạn dặm, quân sĩ các nước cũng nhiều gấp mười Tần, nếu sáu nước họp làm một, cùng nhằm về phía tây, thì phá Tần chẳng khó gì . Nay nước Tần hiếp bách các nước, bắt các nước phải cắt đất để cầu hoà . Không có cớ gì mà cắt đất đó là tự mình phá mình . Mình phá người và mình bị người phá, trong hai điều đó, điều nào là hơn . Theo như ý tôi, chi bằng ước với vua các nước đến họp ở Hằng Thuỷ, cùng nhau ăn thề, kết làm anh em; Tần đánh một nước thì năm nước cùng cứu; nếu nước nào trái lời thề, thì các nước cùng đánh, Tần dẫu cường bạo, khi nào lại dám đem một nước cô thế để đánh, Tần dẫu cường bạo, khi nào lại dám đem một nước cô thê để tranh được thua với cả thiên hạ ? Triệu Túc hầu nói: - Quả nhân tuổi trẻ, nhận việc nước chưa được mấy ngày, chưa hề được nghe diệu kế, nay thượng khách muốn họp chư hầu để cự Tần, quả nhân xin một lòng nghe theo . Rồi giao ngay ấn tướng cho Tô Tần, ban cho một toà nhà lớn, lại cho trăm cỗ xe, nghìn dật hòang kim, trăm đôi bạch bích, gấm vóc nghìn tấm, cử làm Tung ước trưởng . Tô Tần bèn sai người đem trăm nén vàng sang nước Yên, giả số trăm đồng tiền của người nhà trọ . Tô Tần đang định chọn ngày khởi hành sang nước Hàn, Ngụy, bỗng thấy Triệu Túc hầu cho triệu vào, nói là có việc gấp cần phải thương nghị . Tô Tần vội vàng vào ngay . Túc hầu nói là được tin biên lại báo tướng quốc nước Tần là Công tôn Diễn đem quân đánh Ngụy, bắt mất viên đại tướng là Long Giả, chém bốn vạn năm nghìm thủ cấp, vua Ngụy phải cắt mười thành Hà Bắc để cầu hoà, Diễn lại muốn dời quân đánh Triệu, biết làm thế nào ? Tần nghe nói giật mình, nghĩ thầm nếu quân Tần đến Triệu, vua Triệu tất nhiên cũng bắt chước Ngụy cầu hoà, như vậy thì kế hợp tung của mình bị thất bại . Trong khi bối rối, liền nghĩ ngay ra một kế, cố làm ra vẻ yên tĩnh, chắp tay thưa rằng: - Tôi chắc quân Tần mỏi mệt, chưa dám đến ngay nước Triệu đâu, vạn nhất có đến, tôi sẽ có kế làm cho phải rút lui ngay . Túc hầu nói: - Tiên sinh hãy tạm ở lại đây, nếu quân Tần không đến, bấy giờ hãy đi! Câu ấy thực hợp ý Tô Tần . Về đến tướng phủ, Tô Tần gọi một tên môn hạ tâm phúc là Tất Thành vào trong nhà kín bảo rằng: - Ta có người bạn học cũ tên là Trương Nghi, quê ở Đại Lương, nay ta cho mày nghìn nén vàng, mày giả làm lái buôn, đổi họ tên gọi là Giả Xá nhân, đi ngay sang Ngụy, tìm Trương Nghi . Khi giáp mặt, nên như thế, như thé, nếu đến Triệu, lại nên như thế như thế, mày nên cẩn thận, chớ phụ lòng ta . Giả xá nhân vâng mệnh, luôn đêm đi sang Đại Lương . Lại nói Trương Nghi từ khi rời Quỉ Cốc về Ngụy, muốn làm quan nước Ngụy không được, sau thấy quân Ngụy thua luôn, bèn bỏ Ngụy mà đem vợ con sang nước Sở . Vương quốc Sở là Chiêu Dương lưu làm môn hạ khách . Chiêu Dương đem quân đánh Ngụy, lấy được bảy thành Tương Lăng . Sở Uy vương thưởng công, ban cho viên ngọc bích của họ Hoà . Sao gọi là ngọc bích của họ Hoà ? Nguyên năm cuối Sở Lệ vương, có người nước Sở là Biện Hoà được viên đá có ngọc ở Kính Sơn, đem dâng Lệ vương . Lệ vương sai người sành ngọc xem, bảo chỉ là hòn đá . Lệ vương giận, cho là Biện Hoà lừa dối, chặt chân bên tả . Đến lúc Sở vương lên ngôi, Biện Hoà lại đem dâng, người xem ngọc bảo là đá, vua giận lại chặt nốt chân bên hữu . Đến khi Sở Văn vương lên ngôi, Biện Hoà lại muốn đem dâng, nhưng hai bên chân đều bị chặt cả, không thể đi đuợc, bèn ôm viên đá ngọc ở trong bọc, lăn khóc ở dưới núi Kinh Sơn, ba ngày ba đêm, khóc hết cả nước mắt rồi máu chảy ra . Có người biết là Biện Hoà, hỏi rằng: - Anh hai lần đem dâng ngọc, hai lần bị chặt chân thì nên thôi, lại còn mong được thưởng hay sao mà khóc lóc như thế ? Hoà nói: - Tôi không phải mong được thưởng, chỉ giận rằng: thực ngọc tốt mà bảo là đá, lòng ngay thẳng mà bảo là lừa dối, phải trái điên đảo, không được rõ rệt ra, cho nên tôi lấy làm đau xót lắm . Sở Văn vương nghe chuyện Biện Hoà thương khóc, bèn lấy viên đá và sai thợ ngọc phá ra xem, thì quả được viên ngọc tốt, không có dấu vết gì, nhân chế làm ngọc bích, đặt tên là ngọc bích họ Hoà, và nghĩ thương Biện Hoà, và nghĩ thương Biện Hoà thực có lòng thành, bèn cho Hoà được ăn lộc đại phu suốt đời . Ngọc bích ấy là một của qúi vô giá, nay thấy Chiêu Dương có công lao to, cho nên đem ra trọng thưởng . Chiêu Dương mang luôn ở trong mình, chưa hề bỏ ra lúc nào . Một hôm Chiêu Dương ra chơi ở Xích Sơn, tân khách theo đi hơn trăm người . Bên dưới Xích Sơn có cái đầm sâu, tương truyền là Khương Thái công ngồi câu cá ở đó; bên đầm có dựng một cái lầu cao . Mọi người ở trên lầu uống rượu làm vui, đến khi đã ngà ngà say, tân khách đều mến vẻ đẹp của viên ngọc bích, nên xin với Chiêu Dương cho mượn xem . Chiêu Dương sai tên đầy tớ giữ kho, mở hòm lấy ra một cái hộp con đựng đồ bảo ngọc, đem đến trước mặt tự tay mở khoá ra, cởi hết ba lần gấm, thì thấy ánh sáng viên ngọc lấp lánh, chiếu vào mặt mọi người . Tân khách chuyền tay nhau cầm xem, ai nấy đều nức nở ngợi khen . Trong lúc mọi người đang xem ngọc, các lính hầu báo dưới đầm có con cá to nhảy lên, Chiêu Dương chạy ra dựa vào lan can đứng xem, tân khách cũng đều chạy ra xem, thấy con cá lớn lại nhảy lên, dài hơn một trượng, đàn cá con cũng nhảy theo, một lát mây đùn từ phía đông bắc lên, cơn mưa to sắp đến . Chiêu Dương sai thu nhặt đồ đạc đi về, tên đầy tớ giữ kho tìm viên ngọc để cất đi thì không biết đã lọt vào tay ai, tìm thế nào cũng không thấy, làm huyên náo lên một hồi . Chiêu Dương về phủ, môn khách nói: - Trương Nghi là kẻ nghèo xác lại vốn vô hạnh, chắc là nó lấy trộm viên ngọc ấy, chứ không còn ai nữa! Chiêu Dương cũng lấy làm ngờ, sai người bắt Trương Nghi nọc ra đánh ra hỏi, bắt phải cung nhận . Trương Nghi thật quả không lấy trộm, nên không chịu nhận; Trương Nghi bị đánh đến mấy trăm roi, khắp mình đều bị sưng tím, ngất đi chỉ còn thoi thóp thở . Chiêu Dương thấy Trương Nghi gần chết, nên phải tha ra . Có người thương Nghi bị đánh oan, vực Nghi về nhà, vợ Nghi trông thấy, cực lòng chảy nước mắt nói rằng: - Chàng ngày nay bị nhục đều vi đọc sách du thuyết mà nên nổi, nếu cứ yên phận ở nhà làm ruộng, thì khi nào bị cái vạ này! Nghi há mồm bảo vợ nhìn xem và hỏi rằng: - Cái lưỡi ta có còn không ? Vợ cười nói rằng: - Còn . Nghi nói: - lưỡi còn, đó là tiền của, nàng chớ lo phải chịu khốn cùng mãi . Rồi đó Nghi ở nhà yên nghỉ, khi đã khỏi rồi lại trờ về nước Ngụy . Được nửa năm, nghe nói Tô Tần du thuyết vua Triệu đã được làm tướng, định sẽ đến thăm, bỗng ra cửa, thấy Giả xá nhân đỗ xe ở bên ngoài đang hỏi thăm . Nghi hỏi biết người ấy từ nước Triệu đến, liền hỏi cóc thực Tô Tần đã làm tướng quốc nước Triệu không . Giả xá nhân hỏi: - Tiên sinh là ai, có phải là bạn cũ của tướng quốc tôi không mà dò hỏi ? Nghi nói là bạn học cũ, Giả xá nhân nói: - Nếu vậy sao ngài không sang Triệu, tướng quốc tôi tất sẽ tiến cử ngài . Tôi nay việc buôn bán đã xong, sắp về Triệu, nếu ngài không chê là kẻ hèn mọn, thì xin đi cùng ngài . Trương Nghi vui lòng theo ngay . Khi đã đến bên ngoài châu thành nước Triệu, Giả xá nhân nói: - Nhà tôi ở ngoài châu thành, hiện nay tôi lại có việc bận, xin tạm biệt ngài, các cửa trong thành đều có nhà trọ chứa khách xa, để mấy hôm nữa tôi sẽ vào tìm ngài . Trương Nghi từ biệt Giả xá nhân, xuống xe đi vào trong thành, tìm nhà trọ . Hôm sau đến tướng phủ cầu vào yết kiến Tô Tần, Tần đã dặn sẵn người nhà không được thông báo; đợi mãi đến ngày thứ năm mới đưa danh thiếp vào được . Tần chối là bận việc, đợi ngày khác sẽ tiếp . Nghi lại đợi đến mấy ngày mà vẫn không được vào, giận quá muốn đi . Chủ trọ giữ lại nói rằng: - Ông đã đưa danh thiếp vào tướng phủ, mà chưa thấy phát lạc ra sao; vạn nhất quan tướng quốc cho đòi, thì tôi biết nói thế nào ? dù một năm hay nửa năm, tôi cũng không dám để ông đi . Trương Nghi buồn quá, hỏi thăm Giả xá nhân ở đâu, thì không ai biết . Lại qua vài ngày, Trương Nghi đưa giấy vào tướng phủ xin từ biệt, Tần truyền cho hôm sau vào tướng phủ . Tô Tần đã sai bày sẵn nghi vệ, đóng cửa giữa, bảo khách theo cửa bên đi vào . Trương Nghi muốn bước lên thềm, lính hầu ngăn lại nói rằng: - Tướng quốc làm việc quan chưa xong, khách hãy đợi một lát . Nghi bèn đứng ở dưới hiên, ghé mắt trông lên công trường, thấy quan thuộc vào hầu rất đông, rồi lại thấy có nhiều người vào bẩm việc . Giờ lâu, mặt trời gần xế bóng, nghe trên công đường có tiếng hỏi: - Khách đâu rồi ? Lính hầu nói: - Tướng quốc cho triệu khách vào . Nghi vuốt áo bước lên thềm, chắc là Tô Tần sẽ chạy ra đón chào, không ngờ Tần cứ ngồi yên không động . Nghi đành phải nuốt giận tiến lên vái chào, Tần đứng dậy sẽ cất tay đáp lại, nói rằng: - Dư Tử bấy lâu vẫn được bình yên đấy chứ ? Nghi tức giận quá, không đáp lại . Lính hầu bẩm dâng cơm trưa, Tần lại nói: - Việc quan bận rộn, phiền Dư Tử phải đợi lâu, sợ đói quá, có bữa cơm xoàng, mời Dư Tử hãy tạm ăn, rồi sẽ nói chuyện . Lính hầu đặt ghế cho Nghi ngồi ở dưới công đường . Tần thì ngồi ăn ở trên, cao lương mĩ vị bày đầy trên án; còn mâm cơm của Nghi thì chỉ có một đĩa thịt, một đĩa rau và lưng cơm hẩm hút mà thôi . Nghi đã toan không ăn, nhưng bụng đói quá, vả còn thiếu tiền cơm ở ngòai nhà trọ rất nhiều, đành phải ngậm sầu nuốt tủi, cầm đũa mà ăn . Lại trông lên thấy mâm cơm Tô Tần thừa mứa không hết, Tô Tần đem ban cho các lính hầu, mà mâm cơm của mình thì ăn không được đủ, trong lòng vừa thẹn vừa giận . Ăn xong, Tần lại truyền mời khách lên công đường . Nghi đi lên thấy Tần vẫn cứ ngồi trên cao không đứng dậy, giận quá không nhịn được nữa, tiến lên mấy bước, mắng rằng: - Qúi Tử! ta tưởng ngươi không quên tình cố cựu, nên đến thăm ngươi, ngờ đâu ngươi lại làm nhục ta đến thế này, còn gì là tình đồng học nữa ? Tô Tần thong thả đáp rằng: - Cứ như cái tài của Dư Tử, tưởng rằng sẽ khá trước ta, không ngờ ngày nay Dư Tử lại cùng khố như thế! ta há không thể tiến cử nhà ngươi với Triệu hầu, để nhà ngươi được giàu sang, nhưng sợ nhà ngươi trí suy tài nhụt, không làm gì được, lại để lụy cho người tiến cử thôi . Trương Nghi nói: - Đại trượng phu có thể tự làm nên phú qúi, há cứ phải nhờ nhà ngươi tiến cử ư ? Tần nói: - Nhà ngươi đã có thể tự làm nên phú qúi, sao lại còn đến yết kiến ta ? Nghĩ chút tình đồng học, ta giúp mười lạng vàng, nhà ngươi đi đâu thì đi . Nói rồi sai tả hữu đem vàng trao cho Nghi, Nghi đang tức giận, vứt bỏ vàng xuống đất, hằm hằm đi ra, Tần cũng không giữ lại . Nghi về đến nhà trọ, thấy đồ đạc của mình đều đã bị đem ra bên ngoài; hỏi làm sao, chủ trọ nói: - Hôm nay túc hạ đuợc vào yết kiến tướng quốc, tất nhiên tướng quốc sẽ mời túc hạ đến ở quán xá và cung ứng cơm nước, cho nên tôi mang sẵn ra đấy . Trương Nghi lắc đầu, miệng chỉ nói: "Đáng giận! đáng giận", rồi trút bỏ áo giày, giao trả chủ trọ . Chủ trọ nói: - Có lẽ không phải quan tướng quốc là bạn đồng học của túc hạ, túc hạ nhận nhầm không ? Nghi kéo chủ trọ lại gần, đem cái tình kết giao ngày trước và sự bạc đãi ngày nay, nói hết một lượt cho nghe . Chủ trọ nói: - Tướng quốc dẫu kiêu ngao, nhưng vị tôn quyền trọng, theo lễ tất phải thế . Người cho túc hạ mười lạng vàng, kể cũng hậu lắm, giá túc hạ cứ lấy, để trả tiền cơm, còn thừa để làm tiền ăn đường mà trở về nhà thì cũng phải lắm, cớ sao lại vứt trả . Nghi nói: - Tôi trong lúc tức giận, quăng trả xuống đất, nay trong tay chẳng có một đồng thì biết làm thế nào ? Trương Nghi đang phàn nàn thì thấy Giả xá nhân đi vào, cúi chào và nói: - Mấy hôm nay tôi không đến hầu tiên sinh được, chẳng biết tiên sinh đã vào chào Tô tướng quốc chưa ? Câu hỏi ấy lại khêu lòng tức giận của Trương Nghi, Trương Nghi đập tay xuống bàn mà mắng rằng: - Cái thằng vô tình vô nghĩa ấy còn nói đến làm gì nữa! Giả xá nhân nói: - Tiên sinh không nên vì giận mà nói quá lời như vậy! Chủ trọ liền đem việc Trương Nghi vào yết kiến Tô Tẫn như thế nào kể rõ cho họ Giả nghe và nói: - Nay tiên sinh không có gì để trả tiên cơm của tôi, muốn về lại không có tiền ăn đường, như vậy có buồn không ? Giả xá nhân nói: - Trước kia là vì tôi khuyên tiên sinh đến đây, không ngờ tiên sinh bị nhục như thế, đó thực là vì tôi mà lụy đến tiên sinh . Vậy tôi xin trả số tiền cơm chịu cho tiên sinh và biện xe ngựa để đưa tiên sinh về Ngụy, chẳng hay tiên sinh nghĩ thế nào ? Nghi nói: - Tôi cũng chẳng còn mặt nào trở về Ngụy nữa, muốn đi sang Tần chơi một phen, nhưng bực không có tiền hành lý . Giả xá nhân nói: - Tiên sinh muốn sang Tần, hay ở đó cũng có một người bạn đồng học nào chăng ? Nghi nói: - Không, trong bảy nước ngày nay, thì nước Tần là mạnh nhất, sức nước Tần có thể đánh được nước Triệu; tôi sang Tần, nếu được dùng ra, có thể báo được cái thù Tô Tần . Giả xá nhân nói: - Tiên sinh nếu đi sang nước khác thì tôi không dám đi theo, nhưng đi sang Tần, thì tôi cũng đang muốn sang đó thăm người bà con, vậy xin lại cùng đi cho có bạn, há chẳng hay lắm ru ? Nghi mừng quá, nói: - Thế gian có người cao nghĩa như ngài, đủ khiến cho Tô Tần phải xấu hổ mà chết! Trương Nghi bèn cùng Giả xá nhân kết làm anh em, Giả xá nhân trả tiền cơm cho Nghi rồi cùng lên xe đi sang Tần . Dọc đường lại may áo quần cho Nghi và thuê đầy tớ hầu hạ, phàm Nghi cần đến thứ gì đều sắm cho ngay, không hề tiếc . Khi sang đến Tần, lại bỏ ra nhiều vàng lụa đút các người tả hữu Huệ Văn vương, để mua chuộc tiếng khen cho Nghi . Bấy giờ Huệ Văn vương đang hối về việc không dùng Tô Tần, nghe lời tả hữu tiến cử, liền cho đòi Nghi vào yết kiến, cho làm khách khanh, cùng bàn về việc chư hầu . Giả xá nhân liền từ biệt ra đi . Nghi chảy nước mắt nói: - Trước đây tôi bị khốn ách quá, nhờ có anh giúp sức mới được hiển đạt ở nước Tần này, còn đang mong báo lại ơn sâu, sao anh đã vội đi như thế ? Giả xá nhân nói:Không phải tôi có thể biết được ngài, biết ngài chính là Tô tướng quốc đấy . Nghi kinh ngạc hồi lâu nói rằng: - Anh đem tiền của giúp tôi, sao lại nói là Tô tướng quốc ? Giả xá nhân nói: - Tô tướng quốc đang xướng lên thuyết "hợp tung", lo Tần đánh Triệu thì hỏng mất việc ấy, bèn nghĩ kiếm một người có thể cầm được quyền bính ở Tần, nhưng ngoài ngài ra thì không có ai làm được việc ấy, nên sai tôi giả làm lái buôn, mời ngài sang Triệu, lại sợ ngài mới đuợc thành tựu nhỏ mà đã yên phận cho nên cố ý bạc đãi ngài khiến ngài phải tức giận . Quả nhiên ngài nẩy cái ý đi sang Tần; tướng quóc lại đưa nhiều vàng bạc cho tôi, dặn tôi để ngài được tha hồ tiêu dùng, cốt làm sao cho ngài phải cầm đuợc quyền bính nước Tần mới thôi . Nay ngài đã đắc dụng ở Tần rồi, tôi phải về ngay để báo cho Tô tướng quốc biết . Trương Nghi than rằng: - Thế là ta bấy lâu ở trong cái thuật của Qúi Tử mà không biết, ta thực không bằng Qúi Tử nhiều lắm, phièn ngươi cảm ơn Quí Tử giúp, nói là suốt đời Quí Tử, ta không dám nói đến hai chữ "đánh Triệu" để báo lại cái ân sâu Qúi Tử đã gây dựng cho ta . Giả xá nhân về báo Tô Tần, Tần vào tâu ngay với Triệu Túc hầu rằng: - Quả nhiên nước Tần không dám ra quân nữa! Rồi đó đi sang Hàn, vào yết kiến Tuyên Huệ công, nói rằng: - Nước Hàn rộng hơn chín trăm dặm, có vài mươi vạn quân, những cung mạnh nỏ cứng ở trong thiên hạ, đều ở nước Hàn mà ra cả . Nay đại vương thờ Tần, Tần tất đòi cắt đất làm tin, sang năm sẽ lại đòi nữa, đất cát của Hàn có hạn mà lòng tham của Tần vô cùng; hai ba lần Hàn phải cắt đất thì đất Hàn hết mất . Tục ngữ có nói:"thà làm đầu gà, chớ làm đuôi trâu", đại vương có đức hiền, lại có quân mạnh, mà chịu cái tiếng đuôi trâu, tôi lấy làm xấu hổ lắm . Tuyên Huệ công nói: - Quả nhân xin đem cả nước mà nghe lời dạy của tiên sinh, theo như ước của vua Triệu đã định . Rồi cũng tặng Tô Tần trăm dật hoàng kim, Tô Tần lại lần lượt đi đến các nước Ngụy, Sở, Tề, đến nước nào cũng nói rõ các lẽ lợi hại của nước ấy, kết cục bảo nên cùng liên hợp cho mạnh sức để chống lại nước Tần . Vua nước nào cũng lấy làm phải và xin theo như kế "hợp tung" của Tô Tần . Tần liền về báo với Triệu Túc hầu . Khi Tần đi qua Lạc Dương, các nước đều sai sứ đi tiễn, nghi trượng cờ quạt, tiền hô hậu ủng, xe ngựa và xe chở đồ nặng liên tiế đến hai mươi dặm không hết, uy nghi không khác gì đấng vương giả; đi dọc đường, các quan viên đều ra lạy chào . Chu Hiến vương nghe Tô Tần sắp đến, sai người quét dọn đường xá sạch sẽ và bày cung trướng ở ngoài châu thành để đón . Bà mẹ già của Tần đều nghiêng mắt không dám trông lên, phủ phục cả ở ngoài bãi để đón . Tô Tần ngồi ở trong xe, hỏi chị dâu rằng: - Trước kia chị không nấu cơm cho tôi ăn, sao ngày nay lại cung kính quá như thế ? Người chị dâu nói: - Tôi thấy Qúi Tử ngày nay ngôi cao và tiền nhiều, nên tôi kính sợ . Tô Tần ngậm ngùi than rằng: - "Tình đời xem ấm lạnh giá người thành thấp cao", ta ngày nay mới biết sự giàu sang là cần phải có lắm! Rồi sai lấy xe chở các người thân thuộc cùng về làng cũ, làm một toà nhà lớn, hợp cả họ lại cùng ở, chia nghìn vàng cấp cho các người họ hàng . Em trai Tần là Đại, Lệ hâm mộ sự giàu sang của anh, cũng học sác Âm phù và thuật du thuyết . Tần ở nhà mấy hôm, rồi lại lên xe sang Triệu, vua Triệu phong làm Võ An quân, sai sứ đi ước với vua năm nước Tề, Sở, Ngụy, Hàn, Yên, đều đến họp ở Hằng Thủy, Tô Tần cùng vua Triệu đến đó trước, đắp đàn đặt vị thứ để đợi chư hầu . Đến kỳ, vua các nước đều lần lượt đến, chiếu vị thứ đứng xếp hàng ở trên đàn, Tô Tần ở dưới thềm bước lên, khải cáo với sáu vua rằng: - Các ngài đều là nước lớn ở Sơn Đông, vị đến tước vương, đất rộng quân nhiều, đều đủ tự mình xưng hùng cả . Nước Tần là một tên phu chăn ngựa cậy mạnh mà lấn hiếp các nước, vậy các ngài có cúi đầu mà thờ Tần được không ? Chư hầu đều nói: - Không chịu thờ Tần, xin theo lời dạy của tiên sinh . Tô Tần nói: - Cái kế "hợp tung" chống Tần trước đây tôi đã tỏ bày với các quân hầu rồi, ngày nay các quân hầu nên cùng quyệt máu ăn thề kết làm anh em, điều cần nhất là phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn . Sáu vua đều chắp tay nói rằng: - Xin vâng theo lời dạy! Tần bèn bưng cái mâm mời sáu vua lần lượt quyệ máu, bái cáo trời đất và tổ tôn sáu nước, một nước trái thề, năm nước cùng đánh, viết lời thề làm sáu bản, mỗi nước giữ một bản, rồi cùng dự tiệc yến . Vua Triệu nói là Tô Tần đã có công định đại kế giữ yên sáu nước, nên phong cho tước cao, khiến có thể qua lại cả sáu nước, để giữ bền điều ước "hợp tung" . Vua sáu nước đều cho là phải, rồi các vua họp phong Tô Tần làm "tung ước trưởng", kiêm đeo ấn tướng sáu nước, bài vàng, guơm báu, thống hạt thần dân sáu nước . Mỗi vua lại ban cho Tô Tần trăm dật hoàng kim, mười cỗ ngựa tốt, Tô Tần tạ ân, các vua đều về nước, còn Tô Tần lại theo Túc hầu về nước Triệu . 2003-08-10 00:00:19 Hồi 91 92. Nhường ngôi báu, Yên Khoái hại mình Dâng đất dối, Trương Nghi lừa Sở Lại nói Tô Tần đã liên hợp được sáu nước, bèn sai viết một bản tung ước bỏ vào cửa quan nước Tần, viên quan lại đưa về trìh Huệ Văn vương, Huệ Văn vương cả sợ, hỏi tướng quốc Công tôn Diễn rằng: - Nếu sáu nước hợp một, thì quả nhân không còn mong gì tiến thủ nữa! tất phải nghĩ kế phá cái tung ước ấy, mới có thể mưu đồ việc lớn được! Công tôn Diễn nói: - Đứng đầu tung ước là nước Triệu . Đại vương nên đem quân đánh Triệu, xem nước nào cứu nước Triệu trước, ta lập tức dời quân đi đánh nước ấy, như vậy thì chư hầu đều sợ mà tung ước phải vỡ ngay . Bấy giờ Trương Nghi cũng ngồi đó, ý muốn gạt việc đánh Triệu ra để báo ơn Tô Tần, bèn nói rằng: - Sáu nước mới hợp, cái thế chưa thể làm vỡ ngay được . Nếu Tần đánh Triệu thì năm nước kia sẽ đem tinh binh để trợ chiến, quân Tần lo chống lại còn chưa nổi, lại còn hòng dời đi đánh nước nào nữa ? Ở ngay cạnh nước Tần là nước Ngụy, mà ở xa mãi phía bắc là nước Yên, nếu đại vương sai sứ đem nhiều tiền của đút lót cầu thân với Ngụy, làm cho các nước sinh lòng ngờ nhau, lại cùng thái tử nước Yên kết hôn, như thế thì rồi đây tung ước tất phải tự giải vậy . Huệ Văn vương lấy làm phải, bèn hứa trả lại nước Ngụy bảy thành, để cầu hoà . Ngụy cũng sai người đến đáp lễ Tần, lại đem con gái gả cho thái tử nước Tần . Triệu vương nghe tin, đòi Tô Tần vào trách rằng: - Nhà ngươi xướng ra việc hợp tung, sáu nước hoà thuận cùng nhau chống Tần, nay chưa được hơn một năm mà hai nuớc Yên, Ngụy đều đã thông Tần, coi vậy đủ biết tung ước là không đủ cậy . Nếu quân Tần bỗng đến đánh Triệu, thì còn mong gì hai nước ấy đến cứu nữa ? Tô Tần sợ hãi tạ rằng: - Tôi xin vì đại vương sang sứ nước Yên, rồi sau sẽ có cách bảo lại nước Ngụy . Tần bèn bỏ Triệu sang Yên . Địch vương nước Yên cho Tần làm tướng quốc . Bấy giờ Địch vương mới lên ngôi, Tề Tuyên vương nhân lúc có tang đem quân đến đánh, lấy mất mười thành của Yên, Địch vương bảo Tô Tần rằng: - Trước đây tiên quân đem cả nước mà gửi cả vào lời nói của tiên sinh để sáu nước hoà thân với nhau . Nay tiên quân chết chưa héo cỏ, mà quân Tề đã đến đánh lấy mười thành, thế thì còn coi lời thề ở Hằng Thuỷ ra gì nữa! Tô Tần nói: - Tôi xin vì đại vương sang nước Tề, khiến họ phải trả lại mười thành cho nước Yên . Địch vương bằng lòng, Tô Tần liền đi sang Tề, nói với Tuyên vương rằng: - Vua Yên là đồng minh của đại vương, mà cũng là con rể yêu của vua Tần . Đại vương lấy được mười thành của Yên thì lấy làm lợi, nhưng rút cục không những Yên oán Tề mà Tần cũng oán Tề nữa . Được mười thành mà chuốc lấy hai cái oán, không phải là kế hay . Nay đại vương nên theo kế của tôi, trả lại nước Yên mười thành, mà kết thân với hai nước Yên, Tần, khi Tề đã có hai nước ấy làm vây cánh, thì đứng ra mà hiệu triệu thiên hạ, tửơng chẳng khó gì . Tuyên vương nghe lời, đem mười thành trả Yên . Bà mẹ Địch vương là Văn phu nhân vốn mến tài Tô Tần, sai tả hữu đòi Tần vào cung, nhân đó tư thông với Tần . Địch vương biết mà không nói . Tần sợ, bèn kết thân với tướng quốc Yên là Tử Chi và làm thông gia với nhau, lại khiến hai em là Tô Đại, Tô Lệ cùng Tử Chi kết làm anh em, muốn để giữ mình, Văn phu nhân năng triệu Tô Tần vào cung, Tần càng sợ không dám vào, bèn nói với Địch vương rằng: - Cái thế Yên Tề thế nào rồi cũng đến nuốt nhau . Tôi xin vì đại vương sang phản gián ở Tề . Địch vương hỏi phản gián thế nào, Tô Tần nói: - Tôi giả làm mắc tội ở Yên mà chạy sang Tề, vua Tề tất trọng dụng tôi, tôi nhân đó mà làm cho nền chính trị nước Tề phải hỏng, để làm lợi cho Yên . Địch vương bằng lòng, bèn thu lại tướng ấn của Tô Tần, Tần bèn chạy sang Tề, Tề Tuyên vương liền cho làm khách khanh . Tần nhân đó mà dẫn dụ Tuyên vương vào những thú vui săn bắn múa hát; Tuyên vương hám của thì Tần xui đánh thuế nặng; Tuyên vương mê đắm sắc đẹp, thì Tần bày vẽ cách thức khéo léo để tuyển nhiều con gái vào cung, mục đích là làm cho Tề loạn, để nước Yên thừa cơ đánh Tề . Thế mà Tuyên vương không hề tỉnh ngộ . Tướng quốc Điền Anh và khách khanh là Mạnh Kha hết sức can ngăn, Tuyên vương đều không nghe . Tuyên vương mất, con là Mân vương nối ngôi, lúc đầu cũng biết chăm nom quốc chính, lấy con gái nước Tần là chính hậu, phong Điền Anh làm tiết công, Tô Tần vẫn được làm khách khanh như cũ . Lại nói Trương Nghi nghe tin Tô Tần bỏ nước Triệu, biết là "tung ước" sắp tan, bèn không cho nước Ngụy bảy ấp Tương Lăng nữa . Ngụy Tương vương giận, sai người đến Tần đòi đất . Tần Huệ vương cử công tử Hoa làm đại tướng, Trương Nghi làm phó, đem quân đánh Ngụy, hạ được thành Bồ Dương . Nghi xin với vua Tần đem Bồ Dương trả cho Ngụy, lại sai công tử Do sang làm con tin ở Ngụy, cùng Ngụy kết thân . Trương Nghi đưa công tử Do sang tận nơi, vua Ngụy cảm lòng tốt của vua Tần, Trương Nghi thừa cơ nói rằng: - Vua Tần đãi nước Ngụy rất hậu, được đất không lấy, lại gửi con tin . Nếu đại vương tạ ơn Tần bằng đất đai thì Tần có hậu tình với đại vương . Tần, Ngụy hợp binh để mưu chư hầu, đại vương sẽ lấy đều ở nước khác còn nhiều gấp mười cái phần đất phải dâng ngày nay . Vua Ngụy tin lời, bèn dâng đất Thiếu Lương để tạ Tần, lại không dám nhận con tin . Vua Tần bằng lòng lắm, bèn bãi Công tôn Diễn, dùng Trương Nghi làm tướng . Bấy giờ Uy vương nước Sở đã mất, con là Hùng Hòe nối ngôi, ấy là Hoài vương .Trương Nghi bèn sai người đưa thư cho Hoài vương xin cho đón vợ con sang Tần và nói đến cái oan của Nghi bị ngờ là lấy trộm ngọc bích ngày trước . Hoài vương trách Chiêu Dương rằng: - Trương Nghi là hiền sĩ, sao trước kia nhà ngươi không tiến cử với tiên quân lại hiếp bách khiến hắn phải bỏ Sở sang Tần ? Chiêu Dương không nói gì, nghĩ thẹn quá, về nhà phát bệnh mà chết . Hoài vương sợ Trương Nghi giúp Tần để thôn tính các nước, thì lại muốn dùng cái ước "hợp tung" của Tô Tần để liên kết chư hầu, nhưng Tô Tần đã bị tội ở Yên, bỏ Yên chạy sang Tề rồi . Trương Nghi bèn xin vua Tần cho từ chức tướng quốc để đi sang Ngụy . Huệ Văng vương hỏi: - Khanh bỏ Tần sang Ngụy là cớ gì ? Nghi nói: - sáu nước mà còn say đắm cái thuyết của Tô Tần, thì "tung ước" chưa có thể phá ngay được . Tôi nếu đuợc cầm quyền ở Ngụy thì sẽ khiến nước Ngụy phải thần phục nước Tần trước, để làm gương cho chư hầu . Huệ Văn vương bằng lòng . Nghi liền đi sang Nguỵ, quả nhiên Nguỵ Tương vương dùng Nghi làm tướng quốc, Nghi nhân dịp này tỏ các điều lợi hại, bảo Ngụy cần phải thần phục Tần mới được yên . Vua Ngụy chưa định kế ra sao Nghi ngầm sai người xui Tần đánh Ngụy! quân Tần đại thắng, lấy được Khúc Ốc . Tương vương nổi giận, càng không chịu phục Tần, lại dùng kế "hợp tung", cử Sở Hoài vương làm "tung ước trưởng", vì thế Tô Tần lại càng được trọng dụng ở Tề . Bấy giờ tướng quốc nước Tề là Điền Anh đã mất, con là Điền Văn nối làm tiết công, gọi là Mạnh Thường quân . Điền Anh có hơn bốn mươi người con trai, Điền Văn là con một người tiện thiếp, vì sinh vào ngày mùng năm tháng năm, nên khi mới sinh, Điền Anh bảo người thiếp bỏ đi chớ nuôi, người thiếp không nỡ bỏ, đem nuôi giấu một chỗ . Khi Văn lên năm tuổi, người thiếp mới dẫn đến yết kiến Điền Anh .Anh giận là dám trái lệnh, Văn dập đầu nói rằng: - Vì cớ gì mà cha lại nỡ lòng bỏ con ? Anh nói: - Người đời vẫn nói mùng năm tháng năm là ngày hung, ai sinh con vào ngày ấy khi lớn lên nó cao bằng cái cổng, sẽ bất lợi cho cha mẹ . Văn thưa rằng: - Người ta sinh ra là thụ mệnh ở trời, nào phải thụ mệnh ở cái cổng ? nếu quả là thụ mệnh ở cái cổng, thì sao không xây thêm cho nó cao lên ? Điền Anh không biết nói thế nào nữa, nhưng nghĩ thầm cho là một đứa trẻ khác thường . Đến khi Văn lên mười tuổi, đã biết tiếp ứng tân khách . Tân khách đều thích chơi với Văn . Sứ giả các nước đến Tề, nghe tiếng Văn đều đến yết kiến; Điền Anh biết cái tài của Văn, lập làm đích tử, được nối tước tiết công, gọi là Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân đã nối tước, xây quán xá lớn để chứa kẻ sĩ trong thiên hạ, phàm người nào đến, không hỏi hiền ngu, đều thu dụng cả . Mạnh Thường quân dẫu là bậc đại quý, nhưng ăn uống cũng như khách cả . Một hôm Mạnh Thường quân đãi khách ăn đêm, có người che ánh lửa sáng, khách ngỡ là cơm có hai hạng, ném đũa xin đi . Điền Văn tự đứng dậy đem cơm so sánh, quả nhiên thấy như nhau . Người khách than rằng: - Mạnh Thường quân đãi khách như thế mà ta quá đem lòng ngờ, thực là tiểu nhân, còn mặt nào mà ở nhà ông ấy nữa! Nói xong tự đâm cổ mà chết, Mạnh Thường quân thương khóc thảm thiết, các khách thấy đều cảm động, theo về càng ngày càng nhiều, số khách ăn trong nhà có đến vài nghìn người . Chư hầu nghe Mạnh Thường quân là người hiền và có nhiều tân khách, đều tôn trọng nước Tề, bảo nhau không dám đến lấn đất . Lại nói Trương Nghi làm tướng nước Ngụy ba năm, Tương vương mất, con là Ai vương nối ngôi, Sở Hoài vương sai sứ đến điếu tang và trưng binh đánh Tần, Ai vương bằng lòng cho . Vua Hàn, vua Triệu, vua Yên cũng đều vui lòng họp quân đánh Tần . Sứ giả nước Sở đến Tề, Mân vương họp quần thần lại để hỏi kế . Nhiều người nói: "Tần với Tề có cái tình thân cậu cháu, chưa có điều gì hiềm thù thì không nên đánh". Nhưng Tô Tần chủ trương "hợp tung" nói quyết là nên đánh, chỉ có Mạnh Thường quân cho là đánh và không đánh đều không nên cả, vì đánh thì kết thù với Tần, mà không đánh thì mang oán với năm nước, chi bằng cứ ra quân mà đi chậm, quân đã ra thì năm nước không nghi mình, đi chậm thì có thể trông ngóng tình thế mà tiến hoặc lui . Mân vương cho là phải, bèn sai ngay Mạnh Thường quân đem hai vạn quân đi . Quân đi đến giữa đường, lần chần không đi . Bốn vua Hàn, Triệu, Ngụy, Yên cùng Sở Hoài vương họp quân ở ngoài cửa Hàm Cốc, định ngày tiến quân, vua Sở dẫu làm "tung ước trưởng", nhưng bốn vua kia đều tự chỉ huy lấy quân của mình, không thống nhất với nhau . Chủ tướng nước Tần là Vu Lí mở toang cửa thành, bày trận khiêu chiến . Vua năm nước đều đùn nhau, không ai dám ra trước . Cầm cự với nhau được vài ngày, Vu Lí Tật dùng kế tuyệt đường lương quân Sở; quân Sở thiếu ăn đều nhốn nháo cả lên . Vu Lí Tật thừa cơ đánh úp, quân Sở thua chạy, bốn nước kia cũng kéo quân về . Mạnh Thường quân chưa đi đến cõi nước Tần mà quân năm nước đã rút hết rồi, đó là diệu kế của Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân về Tề, Mân vương phàn nàn suýt nghe lầm kế của Tô Tần, bèn cho Mạnh Thường quân trăm cân hoàng kim, chi thêm về việc nuôi khách ăn, lại đem lòng yêu trọng . Tô Tần tự thấy xấu hổ không bằng Mạnh Thường quân . Từ đời Tề Tuyên vương, Tô Tần được trọng dụng, nên bọn tả hữu qúy khách có nhiều người ghen ghét; đến đời Mân vương, vẫn tin yêu Tần . Nhưng từ lúc Mân vương không nghe kế của Tần mà nghe kế của Mạnh Thường quân đã có lòng ghét Tần, bèn mộ tráng sĩ giắt đồ nhọn sắc lẻn vào đâm Tô Tần ở trong triều . Tô Tần bị đâm thủng bụng, lấy tay bịt lại chạy kêu với Mân vuong . Mân vương sai bắt hung thủ, nhưng hung thủ đã chạy thoát . Tô Tần nói: - Sau khi hạ thần đã chết, xin đại vương chém đầu hạ thần, mà cho người rao lên ở ngoài chợ rằng Tô Tần vì nước Yên đến làm phải gián ở Tề, nay may đã giết chết được Tô Tần rồi, có người nào biết được việc kín của Tô Tần đến tố cáo, sẽ thưởng cho nghìn vàng, như vậy thì có thể bắt được hung thủ . Nói xong, rút mũi nhọn ở trong bụng ra, máu chảy đầy đất mà chết . Mân vương theo lời Tô Tần chém đầu Tô Tần đem hiệu lệnh ở trong chợ, bỗng có người đi qua dưới cái đầu, thấy có treo thưởng, liền khoe với mọi người rằng: - Kẻ giết Tô Tần tức là tôi đây! Thị lại liền bắt trói lại, dẫn vào nộp Mân vương, vua sai đem tra tấn, quả nhiên ra được người chủ mưu, trị tội tru diệt mất vài nhà . Sau khi Tô Tần đã chết, tân khách dần dần biết cái mưu của Tần, nói Tần vì Yên mà sang làm quan ở Tề, Mân vương mới biết Tần là người lừa dối, từ đó sinh lòng thù Yên, muốn sai Mạnh Thường quân đem quân đánh Yên . Tô Đại bảo vua Yên nộp con tin để hoà với Tề, vua Yên nghe lời và sai Tô Lệ đem con tin sang yết kiến Mân vương, Mân vương vẫn căm giận Tô Tần, muốn giam Tô Lệ, Lệ kêu lên rằng: - Vua Yên muốn theo Tần, anh em tôi hết sức bày tỏ đức tốt của đại vương, nói theo Tần không bằng theo Tề, nên mới sai tôi nộp con tin để cầu hoà, sao đại vương lại ngờ bụng người chết mà bắt tội người sống ? Mân vương bằng lòng, bèn hậu đãi Tô Lệ . Lệ bèn ở lại nước Tề làm đại phu, còn Tô Đại thì vẫn còn làm quan ở nước Yên . Lại nói Trương Nghi thấy sáu nước đánh Tần không thành công, trong lòng mừng thầm, đến khi nghe tin Tô Tần chết thì cả mừng mà nói rằng: - Ngày nay mới là lúc ta được thi thố hết tài trí của ta! Bèn nói với Ngụy Ai vương rằng: - Mạnh như nước Tần thì chưa có thừa sức mà chống được với sáu nước, như vậy càng rõ cái lẽ không thể chống nhau với Tần được . Xướng ra cái nghị "hợp tung" là Tô Tần, mà Tần không giữ toàn được thân mình, phương chi còn giữ được nước cho người ư ? Anh em ruột mà cũng còn có lúc vì tiền tài mà tranh giành nhau, phương chi là nước nọ với nước kia ? Đại vương còn tin cái thuyết của Tô Tần mà không chịu theo nước Tần, nếu trong các nước có một nước nào theo Tần trước, hợp binh đánh Ngụy, thì Ngụy đến nguy mất! Ai vương nói: - Quả nhân muốn nghe lời tướng quốc mà theo Tần, chỉ sợ Tần cự không nhận, thì biết làm thế nào ? Nghi nói: - Tôi xin vì đại vương tạ tội với Tần để kết tình giao hảo của hai nước . Ai vương liền sai Nghi sang Tần cầu hoà . Từ đó Tần Ngụy đi lại với nhau, Trương Nghi lại lưu ở Tần làm tướng quốc . Lại nói tướng quốc nước Yên là Tử Chi, mình dài tám thước, lưng to mười ôm, thân thể béo nặng, mặt rộng mồm vuông, tay với bắt được chim bay, chân ruổi theo kịp ngựa chạy, từ đời Địch vương đã cầm quyền chính, đến khi vua mới là Khóai lên ngôi, say đắm tửu sắc, chỉ ham vui chơi, không trông nom việc nươc, Tử Chi có ý muốn cướp ngôi nước Yên . Tô Đại, Tô Lệ chơi thân với Tử Chi, mỗi khi đổi các sứ chư hầu, thường ngợi khen Tử Chi là người hiền tài . Yên vương Khoái sai Tô Đại sang Tề hỏi thăm con tin, việc xong trở về . Khoái hỏi: - Nghe nói nước Tề có Mạnh Thường quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, vua Tề có người tôi hiền ấy, có thể làm bá chủ thiên hạ được chăng ? Đại nói là không thể được . Khoái hỏi vì cới gì, Đại nói: - Vua Tề biết Mạnh Thường quân là người hiền mà dùng không chuyên, thì khi nào làm nên bá chủ được! Khoái nói: - Quả nhân không đuợc Mạnh Thường quân làm tôi đó thôi, nếu được thì khó gì mà chẳng chuyên dùng . Tô Đại nói: - Nay tướng quốc Tử Chi thông hiểu chính sự, tức là Mạnh Thường quân ở Yên đó! Khoái bèn cho Tử Chi được chuyên quyết việc nước . Bỗng một hôm, Khoái hỏi đại phu là Lộc Mao Thọ rằng: - Các vị nhân quân ngày xưa có nhiều, tại sao người ta lại chỉ khen có một mình Nghiêu, Thuấn ? Lộc Mao Thọ cũng là cánh Tử Chi, bèn thưa rằng: - Nghiêu, Thuấn mà được người ta khen là thánh, là vì Nghiêu biết nhường thiên hạ cho Thuấn, Thuấn biết nhường thiên hạ cho Vũ đó! Khoái nói: - Sao Vũ lại truyền thiên hạ cho con ? Lộc Mao Thọ nói: - Vũ cũng đã nhường thiên hạ cho Ích, nhưng chỉ mới khiến Ích thay mình trông nom việc chính, mà chưa kịp bỏ thái tử, cho nên sau khi Vũ mất, thái tử Khải liền cướp thiên hạ của Ích, vì vậy đến nay người ta bảo là Vũ đức kém, không bằng Nghiêu, Thuấn . Khóai nói: - Nay quả nhân muốn đem nước nhường cho Tử Chi, việc ấy có làm được không ? Lộc Mao Thọ nói: - Nhà vua làm được như thế, thì cũng chẳng khác gì Nghiêu, Thuấn vậy . Khoái bèn họp cả quần thần, bỏ thái tử Bình mà truyền ngôi cho Tử Chi . Tử Chi giả cách từ chối hai ba lầnn rồi sau mới nhận, rồi làm lễ tế trời đất, đội mũ miện, mặc áo cổn, cầm ngọc khuê, ngoảnh mặt về phương nam mà xưng vương, không hề có chút ngượng nghịu, Khoái thì về phương bắc chịu đứng vào hàng bày tôi, dọn ra ở một cung riêng . Tô Đại, Lộc Mao Thọ đều được làm chức thượng khanh . Tướng quân Thị Bị trong lòng tức giận quá, bèn đem quân bản bộ đến đánh Tử Chi, dân chúng cũng nhiều người theo, hai bên đánh nhau luôn mười ngày, giết hại vài vạn người, cuối cùng Thị Bị thua, bị Tử Chi giết chết . Lộc Mao Thọ nói với Tử Chi rằng: - Thị Bị sở dĩ làm loạn, là vì có thái tử Bình ở đó . Tử Chi muốn bắt thái tử Bình . Thái phó Quách Ngỗi cùng Bình cải trang làm dân thường, cùng nhau trốn đến núi Vô Chung lánh nạn . Em Bình là công tử Chức thì chạy sang Hàn . Người trong nước ai nấy đều oán giận . Mân vương nước Tề nghe nước Yên có loạn, sai Khuông Chương mang mười vạn quân đến đánh, người nước Yên vì căm giận Tử Chi qúa, nên đều mang giỏ cơm bầu nước đi đón quân Tề, không người nào cầm khí giới chống lại . Khuông Chương kéo thẳng đến kinh đô nước Yên, trăm họ mở cửa thành đón vào, bọn Tử Chi thấy quân Tề đông quá, đều sợ hãi tìm đường chạy trốn . Tử Chi tự cậy sức mạnh cùng Lộc Mao Thọ đem quân chống đánh ở đường lớn, quân lính tan dàn, Mộc Mao Thọ bị giết chết . Tử Chi mình bị trọng thương, còn đánh giết được hơn trăm người, lúc sức kiệt mới bị bắt . Còn Khoái thì thắt cổ chết ở cung riêng, Tô Đại bỏ chạy sang nhà Chu . Khuông Chương huỷ tôn miếu nước Yên, lấy hết các của qúy ở trong kho, bắt Tử Chi bỏ vào xe tù, cho giải trước về Lâm Tri dâng công . Đất Yên hơn ba nghìn dặm, quá nửa thuộc về Tề . Khuông Chương đóng quân lại ở kinh đô Yên . Mân vương nước Tề thân kể tội Tử Chi, đem lăng trì, lấy thịt ướp cho các quần thần . Người nước Yên dẫu căm giận Tử Chi, nhưng lại thấy vua Tề chỉ muốn diệt Yên nên không phục, bèn cùng nhau đi tìm thái tử Bình ở núi Vô Chung, rước về làm vua gọi là Chiêu vương. . Quách Ngỗi làm tướng quốc . Bấy giờ Vũ Linh vương nước Triệu căm giận Tề kiêm tính nước Yên bèn phái đại tướng Lạc Trì đón công tử Chức ở Hàn, muốn rước về làm vua nước Yên, nhưng nghe thái tử Bình đã được lập, bèn thôi . Quách Ngỗi truyền tờ hịch khắp kinh đo nước Yên, bảo cho biết nghĩa khôi phục, các ấp đã hàng Tề đều phản Tề, lại theo về với Yên . Khuông Chương không thể làm gì được, bèn kéo quân về Tề . Chiêu vương lại về kinh đô nước Yên, sửa sang tôn miếu, dốc chí báo thù nước Tề, nhún mình đem nhiều tiền của để cầu hiền sĩ, bảo tướng quốc Quách Ngỗ rằng: - Cái sĩ nhục của tiên vương, ta ngày đêm vẫn ghi nhớ trong lòng . Nếu được kẻ hiền sĩ có thể dùng mưu việc đánh Tề thì ta xin hết lòng thờ, vậy tiên sinh nên vì ta mà chọn người hiền tài . Quách Ngỗ nói: - Đời xưa, có ông vua đem nghìn nén vàng sai tên môn dịch đi cầu ngựa thiên lý, giữa đường gặp con ngựa chết, người xung quanh đều xúm lại xem mà than tiếc, tên môn dịch hỏi cái gì, mọi người đáp rằng con ngựa ấy khi còn sống, ngày đi nghìn dặm, nay nó chết, nên lấy làm tiếc . Tên môn dịch liền bỏ ra năm trăm nén vàng mua lấy bộ xương gói đội đem về, vua giận nói rằng đó là bộ xương con ngựa chết, còn dùng được việc gì mà bỏ ra nhiều tiền như thế . Tên môn dịch thưa: "Phải bỏ năm trăm nén vàng ra mua vì nó là ngựa thiên lý . Việc này đồn đi, ai nói tất sẽ nói đối với ngựa chết ta còn trả món tiền to như thế nữa là ngựa sống, tự nhiên có ngựa sống đem đến bán". Quả nhiên không đầy một năm, ông vua ấy mua được ba con ngựa thiên lý . Nay đại vương muốn cầu hiền sĩ thiên hạ, thì xin cứ gọi Ngỗi này là bộ xương ngựa chết, những người giỏi hơn Ngỗi này, tất ai cũng cầu giá đắt mà thi nhau đến . Chiêu vương bèn xây nhà cho Quách Ngỗi ở, giữ lễ đệ tử, ngoảnh mặt về phía bắc để nghe lời dạy bảo, tự mình dâng món ăn thức uống, rất mực cung kính . Lại xây một cái đài cao bên sông Dịch Thuỷ, chứa hoàng kim ở trên đài để cung cấp hiền sĩ bốn phương, đặt tên là Chiêu hiền đài, cũng gọi là hoàng kim đài . Bởi vậy tiếng vua Yên trọng hiền lìền đi khắp nơi . Kịch Tân ở Triệu đến, Tô Đại ở Chu sang, Trâu Diễn ở Tề lại, Khuất Cảnh từ Vệ tới, Chiêu vương đều cho làm khách khanh, cùng bàn việc nước . Lại nói Tề Mân vương đã thắng Yên, oai danh chấn động khắp nơi, Huệ Văn vương nước Tần lấy làm lo . Hoài vương nước Sở lại làm "tung ước trưởng" cùng Tề giao kết, trao đổi binh phù để làm tin . Vua Tần muốn chia rẽ Tề, Sở bèn triệu Trương Nghi hỏi kế, Nghi tâu rằng: - Tôi xin đem ba tấc lưỡi, đi sang Sở, thừa cơ tiến lờ, khiến cho vua Sở phải tuyệt Tề mà thân Tần . Vua Tần liền cho Nghi đến . Nghi biết vua SỞ có một người bầy tôi yêu là Ngận Thượng, hầu luôn bên mình, nói gì vua Sở cũng nghe, bèn đem nhiều vàng bạc kết giao với Thượng rồi mới vào yết kiến Hoài vương . Hoài vương vốn trọng tiếng Trương Nghi, thân ra đón vào, mời ngồi mà hỏi rằng: - Tiên sinh hạ cố đến nước tôi chẳng hay có điều gì dạy bảo ? Nghi nói: - Tôi lại đây, chỉ muốn nói giao tình hai nước Tần, Sở mà thôi . Hoài vương nói: - Quả nhân nào phải không muốn kết giao với Tần, chỉ vì Tần cứ lấn đánh mãi không thôi, nên không dám cầu thân vậy . Trương Nghi nói: - Trong thiên hạ ngày nay tuy có bảy nước, nhưng gọi là nước lớn chỉ có SỞ, Tề, và Tần mà thôi . Tần đông hợp với Tề thì Tề mạnh, nam hợp với SỞ mà không phải ở Tề . Ấy là cớ làm sao ? chỉ vì Tề là nước hôn nhân mà lại phụ Tần quá lắm . Vua Tần muốn thờ đại vương, mà chính Nghi này cũng muốn làm kẻ tôi đòi hèn hạ của đại vương, thế mà đại vương lại giao hiếu với Tề, thực là trái ý muốn chúa công tôi . Nếu đại vương có thể đóng cửa quan mà tuyệt giao với Tề, thì chúa công tôi đem sáu trăm dặm đất Thương Ô mà Thương quân đã lấy của Sở trước kia, trả lại cho Sở, đem con gái làm tuỳ thiép để hầu hạ đại vương . Tần, Sở đời đời làm thông gia, để cùng chống chọi với chư hầu . Có mấy lời xin đại vương thu nạp cho . Hoài vương vui mừng lắm, nói rằng: - Nếu Tần chịu đem đất cũ mà trả lại cho Sở, thì quả nhân tiếc gì Tề ? Quần thần đều cho là nước Sở sẽ lấy lại được đất cũ, đồng thanh chúc mừng, chỉ có một người đứng ra tâu rằng: - Không nên! không nên! cứ như ý tôi việc ấy đáng buồn chứ không đáng vui . Sở Hoài vương nhìn xem ai, thì ra khách khanh Trần Chẩn . Hoài vương nói: - Quả nhân không phí một tên quân, chỉ ngồi yên mà được sáu trăm dặm đất, làm sao nhà ngươi lại bảo là đáng buồn ? Trần Chẩn nói: - Đại vương cho là có thể tin được Trương Nghi chăng ? Hoài vương cười nói: - Sao lại không tin ? Chẩn nói: - Tần phải trọng Sở là vì có Tề, nay nếu tuyệt giao với Tề, thì Sở chỉ còn đứng một mình; Tần còn trọng gì cái nước đứng một mình ấy mà cắt sáu trăm dặm đất đem cho nữa . Đó là quỷ kế của Trương Nghi . Đại vương tuyệt giao với Tề rồi Trương Nghi sẽ phụ đại vương mà không cho đất, bấy giờ Tề lại óan đại vương mà quay theo Tần . Tề, Tần hợp lại đánh Sở, thi Sở tất mất, vì thế nên tôi nói là đáng buồn . Chi bằng đại vương trước hãy sai sứ sang Tần nhận lấy đất, được đất rồi bấy giờ sẽ tuyệt giao với Tề cũng chưa muộn . Đại vương là Khuất Bình nói rằng: - Trần Chẩn nói phải đấy, Trương Nghi là một đứa tiểu nhân phản phúc, quyết không nên tin . Ngận Thượng nói: - Không tuyệt giao với Tề đi thì khi nào Tần lại chịu trả lại đất cho ta . Hoài vương lắc đầu nói: - Chắc không khi nào Trương Nghi lại phụ quả nhân, Trần tử đừng mở mồm nói nữa, chờ xem quả nhân nhận đất! Bèn giao tướng ấn cho Trương Nghi, ban cho trăm dật hoàng kim, mười con ngựa tốt, hạ lệnh cho tướng giữ Bắc Quan không được thông với Tề, một mặt sai Bàng Hầu Sửu theo Trương Nghi vào Tần nhận đất . Trương Nghi dọc đường cùng Hầu Sửu uống rượu nói chuyện, vui như anh em . Khi gần đến Hàn Dương, Trương Nghi giả làm say rượu, lỡ chân ngã xuống dưới xe . Tả hữu vội đỡ dậy . Nghi nói: - Ta bị thương ống chân, phải kịp chữa ngay! Rồi sang cái xe khác đi vào thành trước, tâu với vua Tần, lưu Hầu Sửu ở quán dịch, còn Nghi thì đóng cửa dưỡng bệnh không vào triệu . Hầu Sửu xin vào yết kiến vua Tần không được, đến thăm Trương Nghi thì Nghi từ chối nói là chưa khỏi bệnh, cứ như thế đến ba tháng, Sửu bèn dâng thư lên vua Tần, thuật lời Trương Nghi hứa cho đất, vua Tần đáp thư nói rằng nếu Nghi đã có ước, thì vua Tần tất phải làm theo như lời, nhưng nghe nói Sở và Tề vẫn chưa tuyệt giao với nhau mà Tần sợ bị Sở lừa, tất phải đợi Trương Nghi khỏi dậy nói rõ đầu đuôi, mới có thể tin được . Hầu Sửu đi lại mãi nhà Trương Nghi mà Nghi vẫn không ra mặt, bèn sai người đem lời nói của vua Tần về báo vua Sở . Vua Sở nói: - Tần còn bảo Sở chưa tuyệt hẳn với Tề ư ? Bèn sai dũng sĩ Tống Di mượn đường nước Tống, lại mượn binh phù của Tống thẳng đến bờ cõi nước Tề, mắng nhiếc Mân vương . Mân vương cả giận, bèn sai sứ sang Tần xin cùng Tần họp binh đán Sở . Trương Nghi nghe sứ Tề đến, cho là kế đã thành, bèn nói là đã khỏi bệnh vào triều, gặp Hầu Sửu ở cửa triều, cố ý lấy làm lạ hỏi: - Tướng quân sao chưa nhận đất mà vẫn còn lẩn quẩn ở đây ? Sửu nói: - Vua Tần chỉ đợi tướng quốc khỏi bệnh mới quyết định, nay may tướng quốc đã khỏi, xin vào nói với đại vương, sớm định địa giới, cho tôi được về phúc mệnh chúa công tôi . Trương Nghi nói: - Việc ấy cần gì phải nói với vua Tần! Nghi này đã nói là có sáu dặm đất là đất ăn lộc riêng của Nghi này, xin tình nguyện đem dâng vua Sở đó thôi! Sửu nói: - Tôi vâng mệnh chúa công tôi, nói là sáu trăm dặm đất Thương Ô kia, chứ chưa nghe nói đến sáu dặm đất ấy . Nghi nói: - Có lẽ vua Sở nghe lầm chăng ? Đất của Tần là nhờ có trăm trận đánh mới được, một thước một tất chưa dễ đã đem cho người, phương chi những sáu trăm dặm . Sửu lập tức về báo vua Sở, vua Sở cả giận nói rằng: - Trương Nghi quả là đứa tiểu nhân phản phúc, ta bắt được, tất phải giết chết, ăn thịt nó mới hả lòng! Bèn truyền chỉ đem quân đánh Tần . Khách khanh là Trần Chẩn nói: - Ngày nay tôi có thể mở mồm mà nói được không ? Hoài vương nói: - Quả nhân không nghe lời nói của tiên sinh, nên bị tên giáo tặc đánh lừa, vậy ngày nay tiên sinh còn có diệu kế gì ? Trần Chẩn nói: - Nay đại vương đã không được nước Tề giúp sức nữa, mà lại đánh Tần, thì e không lợi, chi bằng cắt hai thành để đút cho Tần, hợp binh đánh Tề thì dù có mất đất với Tần, còn có thể lấy đền ở Tề được . Hoài vương nói: - Lừa dối Sở là Tần, chứ Tề có tội gì! nếu ta hợp quân với Tần mà đánh Tề, thì người ta sẽ cười ta! Rồi lập tức cử Khuất Cái làm đại tướng, Bàng Hầu Sửu làm phó, đem mười vạn quân đi đánh Tần . Vua Tần sai Ngụy Chương làm tướng, Cam Mậu làm phó, đem mười vạn quân chống đánh, lại sai người sang Tề trưng binh, tướng Tề là Khuông Chương cũng đem quân trợ chiến . Khuất Cái dẫu khỏe, nhưng không địch lại được quân hai nước, đanh luôn mấy trận đều thua . Quân Tần, Tề đuổi theo đến Đan Dương, Khuất Cái họp toàn quân lại đánh, bị Cam Mậu chém chết; quân lính bị giết hơn tám vạn người, bọn danh tướng như Bàng Hầu Sửu đều chết . Nghe tin ấy, cả nước Sở đều chấn động . Hàn, Ngụy, nghe Sở thua, cũng mưu đánh Sở, vua Sở cả sợ, bèn sai Khuất Bình sang Tề tạ tội, sai Trần Chẩn sang Tần dâng hai thành để cầu hoà . Ngụy Chương sai người về thỉnh mệnh vua Tần, vua Tần nói: - Quả nhân muốn được đất Kiềm Trung, vậy xin đem đất Thương Ô để đổi, nếu Sở bằng lòng thì có thể bãi binh được! Ngụy Chương đem lời vua Tần nói cho vua Sở biết, vua Sở nói: - Quả nhân không muốn được đất, chỉ muốn được Trương Nghi để ăn thịt mới hả lòng . Nếu thượng quốc đem Trương Nghi giao cho Sở, thì quả nhân tình nguyện dâng đất Kiềm Trung để tạ ơn Cậy sức khỏe, vua Tần gãy chân Mưu mưu lừa, vua Sở chạy trốn Lại nói vua Sở căm giận Trương Nghi lừa dối, xin dâng đất Kiềm Trung để đổi lấy một mình Trương Nghi . Các cận thần vốn ghen ghét với Trương Nghi đều nói đem một người mà đổi được vài trăm dặm đất, còn gì lợi bằng . Vua Tần nói: - Trương Nghi là người bề tôi chân tay của ta, ta thà chẳng được đất, chứ không chịu bỏ Trương Nghi . Nghi tự xin vua Tần cho mình đi, vua Tần nói: - Vua Tề đang căm giận đợi tiên sinh đến, nếu tiên sinh sang đó thì tất bị giết, quả nhân không nỡ để tiên sinh đi . Nghi nói: - Giết một tôi mà nước Tần được cả đất Kiềm Trung, thì tôi dù chết cũng được vẻ vang rồi! mà cũng chưa hẳn tôi đã chết đâu mà chúa công sợ . Vua Tần nói: - Tiên sinh có kế gì để thoát, thử nói rõ cho quả nhân nghe nào ? Nghi nói: - Vua Sở có vị phu nhân tên là Trịnh Tụ, vừa đẹp vừa khôn ngoan, được vua yêu qúi . Trước kia, khi tôi ở Sở, nghe nói vua Sở lại mới yêu một mỹ nhân khác, Trịnh Tụ bảo mỹ nhân ấy rằng: "Đại vương rất ghét người thở hơi vào mình, vậy khi hầu vua thì phải giữ ý bịt mũi lại" . Mỹ nhân ấy làm theo lời Trịnh Tụ . Vua Sở hỏi Trịnh Tụ rằng: "Mỹ nhân hễ trông thấy quả nhân là bịt mũi là cơ' làm sao ?" Trịnh Tụ nói: "Đó là nó hiềm đại vương thân thể hôi hám, cho nên phải bịt mũi để không hít phải!". Vua Sở giận quá, sai xẻo mũi mỹ nhân đi, từ đó Trịnh Tụ lại càng được vua Sở yêu qúi; vua Sở lại có người bầy tôi đắc sủng tên là Ngận Thượng, biết chiều Trịnh Tụ, trong ngoài thông đồng với nhau . Hạ thần lại quen thân với Ngận Thượng, chắc hẳn có thể che chở cho, không đến nỗi chết . Đại vương chỉ hạ lệnh cho bọn Nguỵ Chương đóng quân ở Hán Trung, làm thế tiến thủ, vua Sở tất không dám giết hạ thần! Vua Tần bèn cho Nghi đi . Nghi đã đến nước Sở, Hoài vương sai bắt giam lại, chọn ngày lễ cáo nhà thái miếu rồi sau sẽ giết . Trương Nghi ngầm sai người đem lễ đến nói lót với Ngận Thượng . Ngận Thượng vào nói với Trịnh Tụ rằng: - Hỏng rồi, phu nhân không còn một mình giữ được tình yêu của đại vương nữa rồi . Làm thế nào bây giờ ? Trịnh Tụ hỏi cớ gì . Ngận Thượng nói: - Tần không biết là vua Sở căm thù Trương Nghi, cho nên sai sang sứ Sở, nay nghe vua Sở muốn giết Nghi, Tần sẽ trả đất lấn của Sở và gả con gái cho vua Sở, dùng những gái đẹp, hát hay làm kẻ theo hầu, để chuộc tội cho Trương Nghi . Con gái Tần đến, thì vua Sở tất là yêu qúi, phu nhân dù muốn chuyên giữ lòng yêu, còn được nữa chăng ? Trịnh Tụ cả sợ hỏi rằng: - Nhà ngươi có kế gì có thể ngăn được việc ấy ? Ngận Thượng nói: - Phu nhân cứ làm như không biết chuyện ấy, đem các điều lợi hại nói với đại vương, tha cho Trương Nghi về Tần . Trịnh Tụ theo lời, đến nửa đêm bỗng khóc lóc nói với vua Sở rằng: - Đại vương muốn đem đất đổi lấy Trương Nghi, đất chưa vào Tần mà Nghi đã đến, đó là Tần có lễ với đại vương vậy . Quân Tần chỉ đánh một trận mà lấy được cả đất Hán Trung, có cái thế nuốt nước Sở, nếu giết Trương Nghi để chọc tức Tần, tất Tần sẽ đem quân đánh Sở, vợ chồng ta sẽ không còn giữ được nhau nữa, nghĩ vậy nên thiếp lòng đau như cắt ăn uống không biết ngon đã mấy hôm nay rồi . Vả kẻ làm tôi phải vì chủ mình, Trương Nghi là bậc trí sĩ trong thiên hạ, làm tướng nước Tần đã lâu, thì phải mưu ích lợi cho Tần, đó là lẽ tất nhiên, có lấy chi làm lạ ! đại vương nếu hậu đãi Nghi, thì Nghi sẽ thờ Sở cũng như thờ Tần vậy . Hoài vương nói: - Phu nhân chớ lo, việc đó để quả nhân liệu định . Ngận Thượng lại nhân dịp nói rằng: - Giết một Trương Nghi có hại cho Tần mà lại mất vài trăm dặm đất Kiềm Trung, chi bằng tha Nghi để làm chỗ hoà hảo với Tần sau này . Ý Hoài vương cũng tiếc Kiềm Trung không muốn đem cho Tần, bèn tha Nghi ra và đãi đằng rất hậu . Trương Nghi lại đem cái lợi theo Tần mà nói với Hoài vương . Hoài vương liền sai Trương Nghi về Tần để nối tình giao hiếu của hai nước . Khuất Bình đi sứ nước Tề về, nghe nói Trương Nghi đã đi rồi, bèn can rằng: - Trước kia đại vương bị Nghi lừa dối, Nghi đến tôi chắc là đại vương sẽ ăn thịt nó, nay đại vương đã tha không giết no, lại nghe nó nói bậy, tự mình thần phục nước Tề trước . Kẻ thất phu còn không quên cựu thù nữa là vua! chưa mua chuộc được lòng Tần mà đã động lòng công phẫn cả thiên hạ, tôi dám cho rằng như thế là thất kế . Hoài vương lấy làm hối hận, sai người đuổi theo bắt lại, thì Trương Nghi đi gấp đường ra khỏi đất Sở đã hai ngày rồi . Trương Nghi về Tần, Ngụy Chương cũng rút quân về . Trương Nghi bảo vua Tần rằng: - Nghi này muôn chết một sống, lại được thấy mặt đại vương, vua Sở thật là sợ Tần, nhưng xin chớ để hạ thần thất tín với SỞ . Nếu đại vương chịu cắt một nửa đất Hán Trung để báo ơn Sở, lại kết hôn nhân với Sở nữa thì hạ thần xin lấy Sở làm cớ, đi bảo sáu nước cùng nhau thần phục nước Tần . Vua Tần bằng lòng, bèn cắt năm huyện Hán Trung sai người sang Sở thông hiếu, và xin cưới con gái Hoài vương làm vợ thái tử Đãng, lại đem con gái gả cho con trai bé Hoài vương là Lan . Hoài vương cả mừng cho rằng quả Trương Nghi không lừa dối Sở . Vua Tần nghĩ đến công lao của Nghi, phong cho năm ấp hiệu là Vũ Tín quân, lại cho vàng ngọc xe ngựa, sai đem thuật liên hành đi du thuyết các nước . Trương Nghi lần lượt đi các nước Tề, Triệu, Yên, đến nước nào cũng khéo đem các điều lợi hại thiết thân của nước ấy mà bày tỏ rõ ràng, rồi nói theo Tần là có lợi . Vua các nước ấy đều vui lòng nghe theo, hậu đãi Nghi và đều cắt đất dâng Tần để cầu hoà . Thuyết liên hành của Nghi đã thành công . Nghi liền trở về báo mệnh, nhưng chưa đến Hàm Dương thì Huệ vương đã chết, con là thái tử Đãng lên ngôi, đó là Vũ vương . Tề Mân vương lúc đầu nghe lời Trương Nghi, cho rằng Hàn, Triệu, Ngụy đã cắt đất thờ Tần, cho nên không dám tự mình làm khac, nhưng sau đó lại nghe nói Nghi đến thuyết Tề rồi mới đến thuyết Triệu, cho Nghi là kẻ lừa dối, giận quá, lại nghe Huệ Văn vương mất, bèn sai Mạnh Thường quân gửi thư cho các nước, ước với các nước cùng quay lại chống Tần, khôi phục cuộc hợp tung; lại ngờ Sở đã kết hôn với Tần, sợ Sở không theo, muốn đem quân đánh, vua Sở phải sai thái tử Hoành sang làm con tin ở Tề, quân Tề mới thôi . Mân vương từ khi làm "tung ước trưởng", liên kết chư hầu, ước nước nào bắt được Trương Nghi thì thưởng cho mười thành . Vũ vương nước Tần tính người thô trực, từ khi làm thái tử vốn đã ghét Trương Nghi là hay dối trá, vì vậy trong bọn quần thần những kẻ trước kia ghen ghét Nghi, thì bấy giờ ùa nhau mà dem pha . Nghi sợ bị hoạ, bèn vào nói với Vũ vương rằng: - Tôi xin hiến một kế ngu này! Vũ vương hỏi kế gì, Nghi nói: - Vua Tề rất ghét Nghi, Nghi ở đâu tất đem quân đánh, vậy Nghi xin từ đại vươgn đi sang Đại Lương, Tề tất phải đánh Lương, Lương, Tề đánh nhau mãi không thôi, đại vương sẽ nhân dịp ấy mà đánh Hàn, thông qua Tam Xuyên để dòm dõi nhà Chu, đó là cái bước làm nên nghiệp vương vậy . Vũ vương lấy làm phải, bèn cho Nghi đi sang nước Lương, vua Lương dùng Nghi làm tướng quốc . Vua Tề nghe tin cả giận, sắp quân đánh Lương, vua Lương sợ qua, bàn với Trương Nghi, Nghi bèn sai xá nhân là Phùng Hi Giả làm người Sở, vào yết kiến vua Tề nói rằng: - Nghe nói đại vương rất ghét Trương Nghi phải không ? Vua Tề nói: - Phải . Phùng Hỉ nói: - Nếu đại vương thật là ghét Nghi thì chớ đánh Ngụy . Tôi vừa ở Hàm Dương đến, nghe nói khi Nghi ở Tần ra đi, có nói vua Tề ghét Nghi, ở đâu tất đem quân đánh đó, cho nên vua Tần dùng ba mươi cỗ xe đưa Nghi sang Lương, muôn khêu gợi cho Tề, Lương đánh nhau . Tề, Lương đánh nhau mãi không thoi, Tần nhân dịp ấy mà chuyên tâm về mặt bắc . Vậy nếu vua nay đánh Lương, tất là rơi vào cái kế của Nghi, chi bằng đại vương đừng đánh Lương, để cho Tần không tin Nghi nữa, Nghi dẫu ở Ngụy cũng không làm gì đựợc . Vua Tề bèn thôi không đánh Lương, vua Lương càng hậu đãi Trương Nghi . Được hơn một năm, Nghi ốm chết ở nước Lương . Lại nói Tần Vũ vương cao lớn có sức khỏe, hay cùng võ sĩ đấu sức làm vui . Ô Hoạch và Nhâm Bỉ, từ đời trước đã làm tướng Tề, Vũ vương vẫn tin dùng, cấp them cho bổng lộc . Người nước Tề là Mạnh Bôn, có tiếng là người có sức khỏe, đi dưới nước không sợ thuồng luồng, đi trên cạn không sợ hổ báo, khi nổi giận thở hơi, thì tiếng vang động trời, có lần ra ngoài đồng, thấy hai con trâu đánh nhau, Mạnh Bôn len vào giữa lấy ta rẽ ra, một con phục xuống đất, một con còn xông vào húc mãi, Bôn giận, tay tả nắm đầu trâu, tay hữu nhổ sừng, sừng tụt ra, con trâu chết liền, ai nấy đều khiếp sợ cái sức khoẻ lạ thường ấy, không dám chống lại . Bôn nghe vua Tần chiêu mộ dũng sĩ trong thiên hạ, bèn qua sông Hoàng Hà, lúc ấy người ở trên bờ đợi sang đò rất đông, theo lệ phải lên thuyền lần lượt . Bôn đến sau cùng nhưng lại muốn lên trước, người lái đò cho là hỗn láo, cầm mái chèo đanh vào đầu bảo Bôn rằng: - Mày dám hung hăng như thế, có lẽ là Mạnh Bôn chăng ? Bôn trợn mắt nhìn, tóc đứng ngược, quầng mắt rách, hét lên một tiếng, sóng gió nổi lên ầm ầm, người trong thuyền sợ hãi đều ngã lổng chổng xuống sông . Bôn chống chèo nhún chân, đẩy một cái thuyền đi xa đến vài trượng, một lát đến bờ, rồi đi thẳng đến Hàm Dương, vào yết kiến Vũ vương . Vũ vương thử biết là người khoẻ, cũng cho làm quan to, cùng Ô Hoạch, Nhâm Bỉ đều được tin dùng . Vũ vương nước Tần nghĩ rằng sáu nước đều đặt chức tướng quốc, mình không thèm bắt chước, bèn riêng đặt ra chức thừa tướng, Vu Lí Tật làm hữu thừa tướng . Vũ vương nhớ lời Trương Nghi bèn bào hai thừa tướng rằng: - Quả nhân sinh ở Tây Nhung, chưa được thấy cảnh phồn thịnh ở Trung nguyên, nếu được vua Tam Xuyên, đến chơi miền Củng, Lạc, thì dù chết cũng không tiếc, hai người có ai vì quả nhân đi đánh Hàn không ? Vu Lí Tật nói: - Nhà vua muốn đánh Hàn là muốn đánh Nghi Dương, để thông đường Tam Xuyên, Nghi Dương đường hiểm mà xa, nhọc quân hại của, hai nước Lương, Triệu sẽ đem quân cứu Hàn, hạ thần trộm lấy làm không nên . Vũ vương lại hỏi Cam Mậu, Mậu nói: - Tôi xin vì vua sang nước Lương, ước cùng đánh Hàn . Vũ vương cả mừng, cho Cam Mậu sang Lương, vua Lương hứa giúp quân, Cam Mậu lúc đầu cùng Vu Lí Tật trái ý nhau, sợ Tật ở trong ngăn trở, bèn sai phó sứ là Hướng Thọ về trước báo với vua Tần, nói là Lương đã bằng lòng nhưng xin vua chớ đánh Hàn . Vua Tần nghe nói lấy làm nghi hoặc, bèn thân đi đón Cam Mậu, hỏi rằng: - Thừa tướng hứa vì quả nhân hẹn Lương đánh Hàn, nay vua Lương đã bằng lòng, thừa tướng lại bảo không nên đánh Hàn là cớ làm sao ? Cam Mậu nói: - Vượt qua đường hiểm trở nghìn dặm, để đánh Hàn, sự đó không thể tính năm tháng được . Xưa kia Tăng Sâm ở ấp Phí, một người ở đó cùng họ tên với Tăng Sâm rằng: "Tăng Sâm giết người!" Bà mẹ đang dệt cửi, nói rằng: "Con ta không bao giờ giết người!" Rồi lại cứ việc dệt vải như thường; lát sau lại có một người chạy đến bảo rằng: "Kẻ giết người quả là Tăng Sâm!" Bấy giờ bà mẹ mới ném thoi, qua tường chạy trốn . Cái đức của Tăng Sâm, bà mẹ đã tin lắm, nhưng ba người đều nói là Sâm giết người nên bà mẹ hiền ấy cũng phải đem lòng ngờ con . Nay đức hiền của hạ thần không bằng Tăng Sâm, đại vương tin hạ thần chưa hẳn được bà mẹ Tăng Sâm tin con, mà kẻ dèm pha giết người, chẳng phải chỉ có ba người, hạ thần e đại vương rồi cũng đến phải nghe lời chúng vậy . Vũ vương nói: - Quả nhân không nghe lời ai cả, xin cùng nhà ngươi cùng thề! Rồi vua tôi cùng quyệt máu ăn thề, viết bản lời thề của Tức Nhưỡng, phát năm vạn quân, sai Cam Mậu làm đại tướng . Hướng Thọ làm phó kéo đến thành Nghi Dương, vây suốt năm tháng trời . Tướng giữ thành ấy cố giữ, Cam Mậu không sao phá được . Vu Lí Tật nói với Vũ vương rằng: - Quân Tần vây mãi sinh chán nản, nếu không rút về thì e có biến . Vũ vương truyền Cam Mậu rút quân vè, Cam Mậu bèn làm một phong thư để tạ Vũ vương, Vũ vương mở ra xem trong thư chỉ thấy viết có hai chữ "Tức Nhưỡng", Vũ vương nghĩ ra nói rằng: - Điều này Cam Mậu trước đã nói, thực là cái lỗi của quả nhân! Lại cấp thêm năm vạn quân, sai Ô Hoạch đi giúp Cam Mậu . Vua Hàn cũng sai đại tướng công tôn Anh mang quân cứu Nghi Dương . Hai bên đánh nhau ở dưới thành, Ô Hoạch mang một đội kích sắt nặng một trăm tám mươi cân, một mình xông vào quân Hàn, quân lính đều tan chạy, không ai dám chống đánh . Cam Mậu và Hướng Thọ đều dẫn một đạo quân, thừa thế tiến đến đánh tan quân Hàn, chém được hơn bảy vạn thủ cấp . Ô Hoạch một mình trèo lên thành, tay vịn bờ thành, bờ lở, Hoạch ngã rơi vào đống đá gãy xương sườn mà chết . Quân Tần lấy được thành Nghi Dương, vua Hàn sợ sai tướng quân công tô Xí đem bảo khí sang Tần cầu hoà . Vua Tần cả mừng, triệu Cam Mậu rút quân, lưu Hướng Thọ đóng quân lại ở Nghi Dương . Vua Tần lại sai hữu thừa tướng là Vu Lí Tật đi trước đến Tam Xuyên mở đường, theo sau có bọn dũng sĩ là Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn, thẳng vào Lạc Dương . Noãn vương nhà Chu sai sứ ra đón tại nơi ngoài thành, dùng lễ khách chủ . Tần Vũ vương từ tạ không dám tiếp kiến . Vũ vương biết chín cái đỉnh quý bày hàng chữ nhất chỉnh tề . Chín cái đỉnh ấy là khi xưa vua Vũ lấy các kim loại của chín châu đem cống mà đúc nên, mỗi cái thân đỉnh có chép núi sông nhân vật và số cống phú điền thổ của mỗi châu, tai vạc đều có chạm rồng, nên lại gọi là Cửu Long thần đỉnh . Nhà Hạ truyền lại cho nhà Thương làm của quí trấn quốc, đến khi vua Vũ vương nhà Chu đánh được nhà Thương bèn đem về cả Lạc ấp, khi đem đi dùng phu phen dắt kéo, xe thuyền khuân chở trông như chín toà núi sắt nhỏ, không biết mỗi cái sức nặng bao nhiêu . Vũ vương xem khắp một lượt, khen ngợi mãi không thôi . Trên sườn những cái đỉnh đó có khắc tên chín châu: Kinh, Lương, Ung, Đại, Từ, Dương, Thanh, Duyện, Ký để phân biệt đỉnh nào thuộc về châu nào . Vũ vương chỉ cái đỉnh chữ Ung nói rằng: - Cái đỉnh là cái đỉnh nước Tần, quả nhân sẽ mang nó về Hàm Dương . Rồi hỏi viên giữ đỉnh rằng: - Những cái đỉnh này, có người nào mang nổi không ? Viên ấy dập đầu thưa rằng: - Từ khi có đỉnh đến giờ chưa hề có xê xích, nghe nói mỗi cái nặng đến nghìn cân, chẳng ai là người mang nổi được . Vũ vương liền hỏi Nhâm Bì, Mạnh Bôn rằng: - Hai người có sức khoẻ, có thể cất nổi cái đỉnh này không ? Nhâm Bỉ biết Vũ vương cậy khoẻ hiếu thắng, từ rằng: - Sức hạ thần chì có thể trăm cân, cái đỉnh này nặng gấp mười, hạ thần chịu không mang được . Mạnh Bôn vung tay chạy lên nói rằng: - Hạ thần xin thử xem, nếu không mang nổi, xin đừng bắt tội! Nói rồi sai người lấy tơ xanh vặn làm cái dây to, buộc hai đầu dây vào hai tai vạc . Mạnh Bôn thắt lưng chặt chẽ, vén hai tay áo, rồi luồn hai ngón tay sắt vào giữa dây, hét lên một tiếng, nâng cao thân đỉnh lên khỏi mặt đất đựợ nửa thước, rồi lại đặt xuống, nhưng vì dùng sức quá mạnh hai con ngươi lồi lên, máu mắt chảy ra ròng ròng . Vũ vương cười nói rằng: - Nhà ngươi dùng sức quá, nhưng nhà ngươi đã mang nổi được cái đỉnh ấy, không lẽ quả nhân lại chịu kém! Nhâm Bỉ can rằng: - Thân vạn thặng đại vương không nên xem nhẹ! Vũ vương không nghe, liền cổi phăng cẩm bào, đại ngọc ra, nai nịt gọn gàng, lại dùng cái dải to buộc chặt tay áo, Nhâm Bỉ níu lại cố can, Vũ vương nói: - Sức nhà ngươi không mang được, lại ghen với quả nhân sao ? Nhâm Bỉ không dám nói nữa . Vũ vương hăng hai bước lên luồn hai tay vào dây, nghĩ Mạnh Bôn cất lên được, ta cất lên mà lại đi được vài bước mới là giỏi hơn, bèn dùng hết sức bình sinh, hét một tiếng, cất cái đỉnh lên cách mặt đất được nửa thước . Vũ vương vừa chực bước đi, không ngờ sức kiệt hay đuối, cái đỉnh rơi xuống đất, đè lên chân phải Vũ vương, nghe rắc rắc mấy tiếng, ống chân dậpt bét ra, Vũ vương kêu to một tiếng "đau quá!" rồi ngất đi . Các người tả hữu hoảng sợ vực Vũ vương về công quá, máu chảy đầm đìa ướt cả giường chiếu . Vũ vương đau quá không chịu nổi, đến nửa đêm thì chết . Vũ vương có nói được đến chơi miền Củng, Lạc, dẫu chết cũng không hối hận, ngày nay quả chết ở Lạc Dương, lời nói ấy há chẳng phải là lời sâ'm ư ? Chu Noãn vương nghe biết cả sợ, vội sắp sửa áo quan tốt, thân đến coi liệm, khóc than hết lễ . Vu Lí Tật rước tang Vũ vương về Sở, Vũ vương không con, đón người em khác mẹ là Tắc nối ngôi, đó là Chiêu Tương vương . Vu Lí Tật trị các tội nhấc đỉnh, giết Mạnh Bôn và diệt cả họ, cho Nhâm Bỉ là người biết can vua, dùng làm thái thú Hán trung . Tật lại nói ở triều rằng: - Thông Tam Xuyên là cái mưu của Cam Mậu bày ra . Cam Mậu sợ bị Tật làm hại, bèn chạy sang Ngụy, sau chết ở Ngụy . Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần nghe SỞ đem con tin sang Tề, ngờ là phản Tần theo Tề bèn sai Vũ Lí Tật làm đại tướng đem quân đánh Sở, Sở sai đại tướng là Cảnh Xương đón đánh, quân thua bị giết . Sở Hoài vương sợ . Chiêu Tương vương bèn sai sứ đưa thư cho Hoài vương, đại ý nói rằng: "Trước đây quả nhân cùng nhà vua kết làm anh em, lại có tình thông gia, thân nhau đã lâu . Nhà vua bỏ quả nhân mà nộp con tin sang Tề, quả nhân thực căm giận quá, vì vậy phải lấn biên cảnh của nhà vua, nhưng đó thực không phải là ý muốn của quả nhân . Nay nước lớn trong thiên hạ chỉ có Sở cùng Tần, hai ta không hoà thì làm sao sai bảo được chư hầu . Quả nhân xin cùng nhà vua họp ở Vũ Quan, cùng nhau đính ước, ăn thề rồi về, giả đất lấn của nhà vua, nối lại tình giao hiếu trước . Điều đó xin nhà vua nhận cho, nếu nhà vua không theo thì rõ rằng là tuyệt tình với quả nhân, quả nhân không thể lui quân được vậy ." Hoài vương xem xong, liền họp quần thần lại mà nói rằng: - Nếu quả nhân không đi thì tức là chọc tức Tần, mà nếu đi thì sợ bị Tần lừa, vậy có nên đi hay không nên đi ? Khuất Nguyên nói: - Tần là nước hổ lang . Sở bị Tần lừa không phải chỉ một hai lần . Nếu vua đi tất không về được . Tướng quốc Chiêu Chuy cũng nói: - Khuất Nguyên nói phải đấy , vua chớ nên đi, xin lập tức động binh để phòng quân Tần đến . Ngận Thuợng nói: - Không phải thê! sở vì không địch nổi Tần, nên quân thua tướng chết, đất cắt mất dần, nay hai nước đang kết hiếu với nhau mà lại chống cự nhau nếu Tần giận, lại đem thêm quân đánh Sở, thì làm thế nào ? Con Hoài vương là Tử Lan, lấy con gái nước Tần làm vợ, cũng hết sức khuyên vua đi, nói rằng: - Con gái Tần, Sở gả bán lẫn cho nhau, còn gì thân hơn thế nữa, nếu họ đem quân đến, còn nên xin hoà, phương chi họ lại vui lòng mời đến hội diện ? Ngận Thượng nói phải lắm nên nghe. Hoài vương vì quân Sở mới thua, lòng vốn sợ Tần, lại bị Ngận Thượng và Tử Lan thúc giụac, bèn nhận lời của vua Tần, chọn ngày khởi hành, chỉ có Ngận Thượng đi theo, Tần Chiêu vương sai em là Kinh Dương quân, đi xe vua, dùng áo mũ vua và lính thị vệ giả làm vua Tần ở Vũ Quan, sai tướng quân Bạch Khởi dẫn một vạn quân phục ở trong cửa quan để bắt cướp vua SỞ; lại sai tướng quân Mông Vụ dẫn một vạn quân phục ở ngoài cửa quan để phòng bị việc bất kỳ; một mặt sai sứ giả đi đón Sở vương, kẻ đi người lại tấp nập . Vua Sở cả tin, lòng không còn ngờ gì nữa, bèn đi thẳng đến dưới Vũ Quan, thấy cửa quan mở rộng, sứ Tần lại ra đón nói rằng: - Chúa công tôi đợi đại vương ở trong cửa quan đã ba ngày nay, không dám để xa giá của đại vương dãi dầu nơi đường xá, vậy xin rước đại vương vào quán xá, để thành lễ tân chủ . Hoài vương đã vào đất Tần, thế không thể từ chối được nữa, bèn sai sứ giả vào cửa quan . Hoài vương vừa vào khỏi, thì một tiếng súng to nổi lên, cửa quan đã đóng chặt . Hoài vương lấy làm ngờ, hỏi sứ giả rằng: - Làm sao lại đóng cửa gấp thế ? Sứ giả đáp: - Đó là phép nước Tần, khi có chiến tranh, cần phải như thế . Hoài vương hỏi vua Tần ở đâu ? Sứ giả nói: - Hiện đã đến công quán trước để chực đón . Nói xong, liền giục xe đi nhanh, được chừng hai mươi dặm, trông thấy đội thị vệ của vua Tần sắp hàng ở trước công quán, sứ giả bèn truyền dừng xe lại, thấy một người chạy ra đón, Hoài vương nhìn xem thấy người ấy dẫu mặc áo gấm, thắt đai ngọc, nhưng cử động không giống vua Tần . Hoài vương trù trừ chưa chịu xuống xe, người ấy cúi mình nói rằng: - Xin đại vương chớ ngờ, tôi thực không phải vua Tần, chính là vương đệ Kinh Dương quân vậy, mời đại vương vào trong quán xá nói chuyện . Hoài vương đành phải đi vào . Kinh Dương quân cùng Hoài vương làm lễ tương kiến, vừa mới ngồi xuống, bỗng thấy bên ngoài có tiếng reo hò, hơn vạn quân Tần bổ vây công quán, Hoài vương nói: - Quả nhân đến hội với vua Tần, làm sao lại đem binh uy để doạ nạt nhau ? Kinh Dương quân nói: - Không hề chi, chúa công tôi vừa hơi khó ở, không thể đi ra mở cửa được, lại sợ thất kính với đại vương, cho nên sai tôi đi đón đại vương, xin hạ giá đến Hàm Dương cùng quốc quân hội kiến, trong khi đi đường có kèm một ít quân lính làm thị vệ, xin đại vương chớ chối từ . Bấy giờ Kinh Dương quân không để Hoài vương được tự chủ, cứ việc dồn giục lên xe, để Mông Vụ đóng quân ở lại giữ cửa quan, còn Bạch Khởi đem quân đi hậu vệ, nhằm thẳng phía tây đi về Hàm Dương . Ngận Thượng trốn về nước Sở . Hoài vương hối hận không nghe lời nói của Chiêu Chuy và Khuất Bình, lại để Ngận Thượng xui dại, bèn chảy nước mắt thương khóc mãi không thôi . Hoài vương đã đến Hàm Dương, Chiêu Tương vương họp cả triều thần và sứ giả chư hầu ở trên Chương Đài, rồi ngồi trên hướng về phía nam, sai Hoài vương hướng về phía Bắc làm lễ bái yết như lễ phiên thần, Hoài vương cả giận, nói to lên rằng: - Quả nhân tin ở cái tình hôn nhân, coi nhẹ thân mình mà đến phó hội, nay đại vương nói dối có bệnh, dụ quả nhân đến Hàm Dương này, lại không lấy lễ tiếp đãi nhau là ý làm sao ? Chiêu Tương vương nói: - Trước kia nhà vua hứa cho quả nhân đất Kiềm Trung, rồi thì không cho, ngày nay mời nhà vua hạ cố đến đây muốn theo như lời đã hứa đo, nếu nhà vua sớm cho cắt đất thì chiều sẽ cho đưa nhà vua về Sở ngay . Hoài vương nói: - Nếu Tần muốn được đất thì cũng nên nói tử tế, hà tất phải lập kế lừa dối như thế này ? Chiêu Tương vương nói: - Nếu không làm thế, tất nhà vua không theo . Hoài vương nói: - Quả nhân xin cắt đất Kiềm Trung, cùng đại vương ăn thề, xin cho một viên tướng quân theo quả nhân đến Sở nhận đất, có nên chăng ? Chiêu Tương vương nói:- Lời thề không thể tin được, tất nhà vua phải sai sứ về Sở trước, đem địa giới, giao cắt phân minh thì quả nhân mới có thể tiễn nhà vua về được . Quần thần trong nước cũng đều đến khuyên Hoài vương, Hoài vương càng giận nói rằng: - Các người lừa dối ta đến đây, lại bắt ép ta phải cắt đất, ta chết thì chết, chứ không chịu để các người uy hiếp như thế được! Chiêu Tương vương bèn giữ Hoài vương ở lại trong thành Hàm Dương, không cho về nước . Lại nói Ngận Thượng trốn về Sở báo cho Chiêu Chuy biết rõ sự tình, Chiêu Chuy nói: - Vua ta ở Tần không được về, mà thái tử lại làm con tin ở Tề, nếu người Tề lại cùng Tần họp mưu mà giữ thái tử lại thì nước Sở không có vua . Ngận Thượng nói: - Công tử Lan hiện ở nước, sao không lập ? Chiêu Chuy nói: - Thái tử lập lên đã lâu, nay vua còn ở Tần mà dám trái mệnh, bỏ con cả lập con thứ, mai sau vua trở về nước thì biết nói làm sao ? nay ta giả cách sang Tề cáo phó, để đón thái tử, Tề tất tin theo . Ngận Thượng nói: - Tôi đã không thể vì vua chống nạn, vậy việc ấy để tôi xin làm . Chiêu Chuy liền sai Ngận Thượng sang Tề, nói dối là vua Sở đã mất, đón thái tử về chịu tang và nối ngôi . Tề Mân vương bảo tướng quốc là Mạnh Thường quân rằng: - Nước SỞ không có vua, ta muốn giữ thái tử lại, để cầu đất Hoài Bắc có nên chăng ? Mạnh Thường quân nói: - Không nên, vua Sở không phải chỉ có một con . Ta giữ thái tử lại mà họ đem đất đến chuộc thì cũng nên đấy . Nhưng nếu họ lập lại người khác lên làm vua, thì ta chẳng lợi được một tấc một thước đất nào chỉ mang tiếng bất nghĩa, như vậy thì sao nên ! Mân vương lấy làm phải, bèn đưa thái tử Hoành về Sở nối ngôi, đó là Khoảnh Tương vương . Tử Lan, Ngận Thượng vẫn trông nom mọi việc như cũ . Rồi sai sứ sang nói với Tần rằng: - Nhờ xã tắc thần linh, nước Sở đã có vua rồi! Vua Tần giữ Hoài vương lại thành ra vô ích, tức giận quá, sai Bạch Khởi làm tướng, Mông Vụ làm phó, đem mười vạn quân đánh Sở, lấy được mười lăm thành rồi về . Sở Hoài vương ở nước Tần hơn một năm, vì đã lâu ngày nên người canh giữ có phần trễ biếng, Hoài vương bèn cải trang trốn ra khỏi Hàn Dương, muốn theo phía đông về Sở . Vua Tần sai quân đuổi theo; Hoài vương không dám đi về phía đông nữa, liềy quay lên phía bắc, theo đường tắt chạy sang nước Triệu . 2003-08-10 00:01:52 Hồi 93 94. Triệu chủ phụ chết đói cung sa khâu Mạnh Thường quân ra thóat cửa Hàm Cốc Lại nói Triệu Vũ vương mình dài tám thước tám tấc, trán rộng, mồm dài, tóc rậm râu xồm, mặt đen, có ánh sáng, sức khoẻ vô địch, chí khí hùng vĩ, lên ngôi năm năm, lấy con gái nước Hàn làm phu nhân, sinh con trai là Chương, lập làm thái tử . Năm 56 tuổi, vì nằm mộng thấy một người con gái đẹp gảy đàn, đem lòng yêu mến, ngày hôm sau nói chuyện với quân thần, quan đại phu là Hồ Quảng Tự nói co con gái tên là Mạnh Điều gảy đàn rất hay . Vũ Linh vương liền cho triệu đến đài Đại Lăng, thì thấy dung mạo giống hệt như người trong mộng, vương bèn sai gảy đàn, nghe lấy làm bằng lòng lắm, đem về cung, gọi là Ngô Hài, sinh con là Hà . Khi Hàn hậu mất, liền lập Ngô Hài làm hậu, bỏ thái tử Chương, lập Hà lên làm thái tử . Vũ Linh vương tự nghĩ nước Triệu bắc giáp Yên, đông giáp Hồ, tây giáp Lâm Hồ, Lâu Phiền, lại cùng Triệu là láng giềng, mà Tần chỉ cách một con sông, ở vào nơi bốn mặt chịu đánh, chỉ e ngày một mòn yếu . Vũ Linh vương bèn tự mình mặc y phục rợ Hồ, mang đai và đi giày da thuộc; lại bắt dân đều bắt Chước tục Hồ, tay áo may chẽn, vạt áo khép vào bên tả, để tiện việc cỡi ngựa bắng cung . Trong nước không kể sang hèn ai nấy đều mặc quần áo Hồ,không đi xe chỉ cỡi ngựa, ngày ngày săn bắn . Nhờ vậy quân nước Triệu ngày càng mạnh . Vũ Linh vương tự đem quân đi cướp đất, đến tận Thường Sơn, mở thêm được vài trăm dặm; rồi nảy ra cái chí muốn nuốt Tần, lại cho rằng các tướng không thể chuyên dùng được, chi bằng giao việc nước cho con đẻ mình được rộng chân đi kinh lý bốn phương, bèn họp quần thần đặt lễ đại triều ở Đông cung mà truyền ngôi cho thái tử, tức là Huệ vương, còn mình thì làm chủ phụ, cũng như đời sau gọi là Thái thượng hoàng . Liền đó cử Phi Nghĩa làm tướng quân, Lý Đoái làm thái phó, công tử Thành làm tư mã, phong cho con trưởng là Chương ở đất An Dương, gọi là An Dương quân, và cử Điền Bất Lễ làm tướng cho An Dương quân . Chủ phụ muốn dò xem núi sông hình thế nước Tần và xem vua Tần là người thế nào, bèn trá xưng làm sứ giả nước Triệu là Triệu Chiêu, đem quốc thư sang nước Tần báo việc lập vua, lại mang vài người thợ đi dọc đường vẽ địa hình, vào thẳng Hàm Dương yết kiến vua Tần . Chiêu Tương vương hỏi rằng: - Vua nhà ngươi đã tuổi tác lắm sao ? Thưa rằng: - Còn tráng kiện lắm . lại hỏi: - Còn tráng kiện sao lại truyền ngôi cho con ? Thưa rằng: - Quốc vương tôi nghĩ rằng những vua nối ngôi, phần nhiều không hiểu việc, cho nên muốn đang lúc mình còn sống cho con tập làm việc nước . Quốc vương tôi dẫu làm chủ phụ, nhưng vẫn định đoạt việc lớn trong nước . Chiêu Tương vương nói: - Vua nước ngươi cũng sợ Tần chứ ? Thưa rằng: - Vua nước tôi không sợ Tần, vì sức nước tôi ngày nay đủ đối địch được với Tần . Chiêu Tương vương thấy ứng đối trôi chảy, trong lòng rất kính trọng . Sứ giả từ đi ra, đến ở công quán . Đêm ấy Chiêu Tương vương ngủ đến nửa đêm, bỗng nghĩ sứ giả nước Triệu, trạng mạo khôi ngô kỳ vĩ, không giống tướng kẻ làm tôi, trong lòng sinh ngờ, dằn dọc không ngủ được nữa . Sáng ra Tương vương cho đòi Triệu Chiêu vào yết kiến . Người theo hầu nói rằng: - Sứ giả đang ốm, không thể vào triều, xin hoãn cho đến hôm khác . Quá ba ngày, sứ giả vẫn chưa vào, Chiêu Tương vương giận, sai người đến xét xem, vào thẳng trong nhà, chẳng thấy sứ giả đâu, chỉ thấy người theo hầu, tự xưng chính mình mới thực là Triệu Chiêu, bèn bắt giải đến trước mặt Chiêu Tương vương . Vua hỏi: - Người là Triệu Chiêu, vậy sứ giả là người nào ? Thưa rằng: - Đó thực là chủ phụ nước tôi vậy, chủ phụ tôi muốn rõ uy dung đại vương, nên dối xưng là sứ giả đến đây . Nay chủ phụ tôi đã ra khỏi Hàm Dương được ba ngày rồi, có sai hạ thần ở lại để chịu tội . Chiêu Tương vương cả sợ, dậm chân nói rằng: - Chủ phụ nhà ngươi lừa dối ta quá lắm! Liền sai Kinh Dương quân cùng Bạch Khởi lĩnh ba nghìn tinh binh ngay ban đêm đuổi theo, đến cửa Hàm Cốc, tướng sĩ giữ cửa nói là sứ giả nước Triệu đã ra khỏi cửa từ ba ngày trước rồi . Kính Dương quân về tâu với vua Tần, vua Tần lo sợ luôn mấy hôm, rồi theo lễ tha cho Triệu Chiêu về nước . Sang năm sau, chủ phụ lại ra tuần đất Vân Trung, từ châu Đại sang phía tây, thu quân ở Lâu Phiền, đắp thành ở Linh Thọ, để trấn giữ Trung Sơn, gọi là Triệu Vương thành, Ngô Hài cũng đắp thành ở Phi Lương gọi là Phu Nhân thành . Bấy giờ trong Tam Tấn thì nước Triệu có phần mạnh hơn . Năm ấy Sở Hoài vương tự Tần chạy đến, vua Triệu sợ mang oán với Tần, và lại chủ phụ đi xa vắng, không dám tự chuyên, liền đóng cửa không cho vào, Hoài vương cùng kế bèn chạy sang nước Lương, quân Tần đuổi kịp lại, bắt mang về Hàm Dương . Hoài vương căm giận quá, hộc ra hơn đấu máu, phát bệnh rồi chết . Tần đem di thể trả Sở, người Sở thương Hoài vương bị Tần lừa phải chết nơi đất khách, trăm họ đi đón đều thương khóc như thương người thân thích . Chư hầu đều ghét Tần vô đạo, lại cùng hợp tung để chống Tần . Quan đại phu là Khuất Nguyên thương Hoài vương chết một cách đau đớn, vì nỗi Tử Lan và Ngận Thượng xui bậy; lại thấy hai người ấy vẫn nắm mọi quyền hành như trước, vua tôi chỉ tham sự tạm an, tuyệt không có chí báo Tần, cho nên thường khuyên can Khoảnh Tương vương gần người hiền xa người nịnh, kén tướng luyện binh để báo thù cho Hoài vương . Tử Lan hiểu ý, xui Ngận Thượng nói với Khoảnh Tương vương rằng: - Khuất Nguyên nghĩ mình là người đồng tộc mà không được trọng dụng, trong lòng óan vọng, thường nói với mọi người rằng đại vương quên cái thù nước Tần là bất hiếu, bọn Tử Lan không chủ trương việc đánh Tần là bất trung . Khoảnh Tương vương cả giận cách chức Khuất Nguyên đuổi về nơi làng xóm . Khuất Nguyên có người chị gái tên là Tu đã lấy chồng xa, nghe Nguyên đuổi liền trở về thăm, thấy Khuất Nguyên tóc thì bỏ xoã, mặt thì nhem nhuốc, hình dung hốc hác, vừa đi vừa ngâm thơ ở bờ sông, bèn bảo rằng: - Vua SỞ dẫu không nghe lời em, mà em ở như thế là đã hết lòng rồi, còn lo nghĩ làm gì ? may mà nhà còn có ruộng nương, sao chẳng hết sức cày cấy để tự nuôi mình mà hưởng hết tuổi trời ? Khuất Nguyên không muốn trái ý chị, bèn mang cày đi cày, người trong làng thương Nguyên có lòng trung, đua nhau giúp sức . Hơn một tháng người chị đi, Nguyên than rằng; - Vịêc nước Sở đã đến thế này, ta không nỡ trông thấy tôn miếu diệt vong! Một hôm Khuất Nguyên dậy sớm ôm hòn đá tự dìm mình xuống sông Mịch La mà chết . Hôm ấy chính là ngày mồng năm tháng năm . Người làng nghe Nguyên tự trầm, thi nhau chở thuyền nhỏ ra sông cứu thì không kịp nữa rồi, bèn làm bánh nếp có góc ném xuống dòng sông để tế, mỗi cái bánh đều có buộc sợi chỉ màu, là vì sợ bị thuồng luồng cướp ăn mất . Lại như tục đua bơi thuyền rồng ở Ngô và Sở cũng vì việc cứu với Khuất Nguyên mà sinh ra . Cái ruộng Khuất Nguyên cày, về sau gạo trắng như ngọc, nên gọi là "ruộng gạo ngọc", đặt tên làng gọi là làng "Ti qui" . Lại nói Triệu chủ phụ ra tuần ở Vân Trung, về đến Hàm Đan, luận công hành thưởng, cho nhân dân cả nước được uống rượu say ba ngày . Hôm ấy quần thần đều họp cả để chúc mừng, chủ phụ sai Huệ vương ngồi nhận lễ thấy Hà tự mình đặt ghế riêng ngồi ở cạnh xem hành lễ thấy Hà còn bé mặc áo cổn, đội mũ miện ngoảnh mặt về phía nam mà làm vua, còn con trưởng là Chương thì to lớn, đáng bực trượng phu, mà phải hướng về phía bắc lạy quì ở dưới, anh phải chịu khuất em, nghĩ thế lấy làm thương lắm . Buổi chầu tan, chủ phụ thấy công tử Thắng ở bên cạnh, bèn bảo nhỏ rằng: - Ngươi có thấy An Dương quân không ? dẫu An Dương quân vẫn theo ban chầu lạy, nhưng có ý không vui . Ta muốn chia đất Triệu làm hai, cho Chương làm vua ở Đại, cũng ngang với Triệu, ý ngươi nghĩ thế nào ? Thắng thưa rằng: - Chúa công trước đã tính lầm, nay phận vua tôi đã định rồi, mà lại còn sinh việc ra, e rồi anh em sau này sẽ tranh giành nhau mất . Chủ phụ nói: - Quyền ở tay ta, còn phải lo gì . Chủ phụ về cung, phu nhân là Ngô Hài thấy sắc mặt đổi khác, liền hỏi: - Ngày nay trong triều có việc gì ? Chủ phụ nói: - Ta thấy thái tử cũ là Chương là anh mà phải chầu em, thực là trái ngược, muốn lập Chương làm vua Đại; Thắng lại nói là không nên, cho nên ta trù trừ chưa quyết . Ngô Hài nói: - Xưa kia Mục hầu nước Tấn sinh hai con, trưởng là Cừu, thứ là Thành Sự . Mục Hầu mát, Cừu lên nối ngôi, đóng đô ở Dực, phong em là Thành Sự ở Khúc Ốc, về sau Khúc Ốc mạnh, diệt hết con cháu của Cừu và thôn tính cả đất Dực, việc đó chắc chủ phụ có biết . Thành SỰ là em mà còn giết được anh, phương chi Chương lại là anh đối với em, là lớn đối với bé ư ? Mẹ con tôi rồi đến bị người ta ăn thịt mất . Chủ phụ quá nghe lời nói của Ngô Hài, bèn thôi việc ấy . Có người nội thị trước kia hầu thái tử Chương ở Đông cung, nghe chủ phụ bàn việc ấy bèn đi bảo riêng cho Chương biết, Chương bàn với Điền Bất Lễ . Bất Lễ nói: - Chủ phụ muốn chia đất phong vương cho hai con là do ở công tâm, chỉ vì lời nói của người đàn bà làm ngăn trở đó thôi! vua còn bé không hiểu việc, nếu thừa cơ dùng kế mà làm, thì chủ phụ cũng không làm thế nào được . Chương nói: - Việc ấy nhà ngươi nên lưu ý, giàu sang ta sẽ có nhau . Thái phó là Lý Đoái quen thân với Phì Nghĩa, mật báo Phì Nghĩa rằng: - An Dương quân cường tráng mà kiêu, vây cánh rất nhiều và Dương có lòng oán vọng . Điền Bất Lễ là người cương cường tự phụ, biết tiến mà không biết thóai, hai người đang cùng nhau mưu làm bậy, đến khi việc hỏng thì ông là người có tránh nhiệm và quyền thế tất là phải chịu tai họa trước mọi người . Sao ông chẳng xưng bệnh mà giao quyền cho công tử Thành, may ra có thể thoát họa được ? Phì Nghĩa nói: - Chủ phụ đem vua giao cho tôi, tôi làm tướng quốc, là vì cho tôi là người có thể ủy thác được trong lúc an nguy, nay chưa thấy họa mà đã tránh trước, há chẳng bị Tuân Tức ở dứơi suối vàng chê cười cho ư ? Lý Đoái than rằng: - Thế là ông được chữ trung mà mất chữ trí đấy! Nói xong, chảy nước mắt một hồi lâu rồi từ biệt, Phì NGhĩa nghĩ đến lời Lý Đoài, đêm không ngủ được, bữa không nuốt được, mãi không nghĩ được kế gì, bèn bảo tên hầu cận là Cao Tín rằng: - Từ nay về sau nếu có chỉ của chủ phụ đòi vua ta, thì phải bảo cho ta biết trước . Cao Tín vâng lời . Bỗng một hôm chủ phụ cùng vua đi chơi ở Sa Khâu, Chương cũng đi theo . Tại Sa Khâu có một cái đài, xây từ đời vua Trụ, nhà Thương, có hai toà li cung, chủ phụ cùng vua đều ở trong cung, cách xa nhau chừng năm sáu dặm, cái quán của Chương ở vào giữa . Điền Bất Lễ bảo Chương rằng: - Vua ra chơi ở ngoài, quân theo đi không có mấy, nếu giả mệnh chủ phụ mà triệu vua, thì vua tất đến, ta phục quân ở giữa đường mà giết đi, rồi đem chủ phụ ra mà vỗ yên dân chúng thì không ai còn dám trái lệnh nữa . Chương nói: - Kế ấy rất diệu . Liền sai tên nội thị tâm phúc, giả làm sứ giả của chủ phụ đang đêm đến triệu Huệ vương, nói rằng: - Chủ phụ tự nhiên phát bệnh, muốn được trông thấy mặt nhà vua, xin nhà vua đến ngay cho ! Cao Tín liền chạy đi bảo tướng quốc Phì Nghĩa, Nghĩa nói; - Chủ phụ vốn không bệnh, việc đó đáng ngờ! Bèn vào nói với vua rằng: - Nghĩa này xin đi trước, đợi không có việc gì, bấy giờ nhà vua sẽ đi . Lại bảo Cao Tín rằng: - Nhà ngươi đóng chặt cửa cung, chớ nên khinh suất mở ra! Phì Nghĩa cùng vài kỵ binh theo sứ giả đi trước, đến giữa đường, quân phục ngỡ là vua, ồ ra giết chết cả . Điền Bất Lễ châm lửa xem thì thấy là Phì Nghĩa, sợ quá nói rằng: - Việc hỏng mất rồi . Âu là nhân lúc việc còn chưa lộ, ta đem hết quân đánh úp vua, may còn có thể được! Rồi đem Chương đến đánh vua . Cao Tín vì Phì Nghĩa đã dặn trước, nên đã dự bị phòng giữ rất chắc chắn . Điền Bất Lễ đánh phá cung vua, không sao phá được, đến lúc trời sáng, Cao Tín sai quân trèo lên nóc nhà bắn xuống, nhiều người bị thương, về sau hết cả tên bắn, Cao Tín phải sai rút ngói ném xuống; Điền Bất Lễ sai lấy đá to buộc vào đầu cây để đánh cửa cung, tiếng vang như sấm . Huệ vương đang ở trong lúc nguy cấp, bỗng nghe bên ngoài có tiếng reo hò, hai đội quân nữa kéo đến đánh, quân Bất Lễ thua to, xô nhau bỏ chạy . Số là công tử Thành, Lý Đoái ở trong thành bàn với nhau, sợ An Dương quân thừa cơ làm loạn, mỗi người liền đem một đội quân kéo đến tiếp ứng, gặp lúc quân địch đang vây cung vua, giải cứu được cái nạn ấy . Chương đánh thua, hỏi Điền Bất Lễ rằng: - Bây giờ biết làm thế nào ? Bất Lễ nói: - Công tử hãy chạy ngay vào chỗ chủ phụ mà khóc lóc kêu xin, chủ phụ tất sẽ che chở cho; còn tôi, tôi xin hết sức chống với toán quân đuổi theo . Chương theo lời, một mình cưỡi ngựa chạy vào cung chủ phụ . Chủ phụ quả nhiên mở cửa cho vào, dấu kín một nơi . Bất Lễ đem tàn binh đánh nhau với quân của Thành, Đoái, quân ít không địch nổi, bị Lý Đoài chém chết . Đoái chắc là An Dương quân không chỗ nương thân, tất phải chạy vào nhờ chủ phụ, bèn dẫn quân đến vây cung chủ phụ, phá tan cửa cung, Đoái cầm gươm đi trước mở đường, công tử Thành đi sau, vào yết kiến chủ phụ, dập đầu nói rằng: - An Dương quân làm phản, phép nước không thể tha được, xin chủ phụ cho bắt ra đây . Chủ phụ nói: - Nó chưa hề đi vào trong cung ta, hai người nên đi tìm nơi khác . Đoái, Thành hai ba lần bẩm xin, chủ phụ không nói gì . Đoái nói: - Việc đã đến thế, xin cho sục tìm một phen, nếu không có thật, sẽ xin tạ tội! Thành nói; - Nhà ngươi nói phải đấy! Bèn gọi vài trăm thân binh, tìm khắp trong cung, đến chỗ hai tường giáp nhau, bắt được An Dương quân, lôi tuột ra . Lý Đoái vội rút gươm chém đứt đầu ngay . Thành nói: - Sao vội thế ? Đoái nói: - Nếu để gặp chủ phụ, lỡ ra chủ phụ giữ lại không cho bắt thì sao ? Nếu ta chống thì trái lễ làm tôi, mà theo thì để mất một tên giặc . Chi bằng giết ngay là hơn . Thành cho là phải, Đoái cầm thủ cấp An Dương quân giơ cao lên, tự trong cung đi ra, nghe tiếng chủ phụ khóc, lại bảo Thành rằng: - Chủ phụ mở cửa cho Chương chạy vào, là trong lòng đã thương Chương rồi, chúng ta vì cố bắt Chương, vây cung chủ phụ, lôi Chương ra mà giết, thực là làm đau lòng chủ phụ . Sau khi yên việc nếu chủ phụ trị tội vây cung thì chúng ta đến bị giết cả họ mất . Vua còn bé không đủ bàn việc, chúng ta nên tự quyết . Bèn truyền lệnh quân sĩ không giải vây, rồi sai người giả truyền lệnh của Huệ vương rằng: - Những người ở trong cung, ai ra trước thì được tha tội, ai ra sau thì là vây cánh giặc, sẽ bị giết cả họ . Các tùng quan và nội thị nghe lệnh vua, tranh nhau ra trước, ở trong chỉ còn lại có một mình chủ phụ . Chủ phụ gọi không một người nào thưa, muốn ra thì cửa đã khoá chặt rồi . Quân sĩ vây luôn vài ngày, chủ phụ ở trong cung đói quá, không kiếm được cái gì ăn . Ở giữa sân có cái cây trên có tổ chim sẻ, chủ phụ bèn lấy trứng ăn, được hơn một tháng bị chết đói . Chủ phụ đã chết, người ngoài chưa ai biết, bọn Lý Đoái vẫn chưa dám vào, đợi mãi đến hơn ba tháng mới dám mở khoá vào xem, thì thi thể chủ phụ đã khô đét ra rồi . Công tử Thành đưa Huệ vương đến cung Sa Khâu, coi liệm và phát tang chôn ở đất Đại . Huệ vương trở về kinh đô, cử công tử Thành làm tướng quốc, Lý Đoái làm tư khấu . Không bao lâu, công tử Thành chết, Huệ vương nghĩ đến công tử Thắng từng can ngăn chủ phụ về việc chia đất phong vương bèn dùng làm tướng quốc, phong cho đất Bình Nguyên, gọi là Bình Nguyên quân . Bình Nguyên quân cũng có lòng hiếu sĩ như Mạnh Thường quân, khi đã qúi hiển càng chiêu nạp tân khách, trong nhà số khách ăn thường có đến vài nghìn người . Phủ đệ của Bình Nguyên quân có một cái hoạ lâu, để một mỹ nhân ở trên đó, lầu ấy trông sang nhà một người dân; chủ nhân nhà ấy bị bệnh què chân, sáng dậy tập tễnh đi ra xách nước, mỹ nhân ở trên lầu trông thấy cười ồ lên . Một lát, người què đến cửa nhà Bình Nguyên quân, xin vào yết kiến . Công tử Thắng vái chào mời vào, người què nói: - Nghe ngài có lòng yêu kẻ sĩ, cho nên kẻ sĩ không ngại xa xôi mà đua nhau đến, đó là vì ngài qúi kẻ sĩ mà khinh gái đẹp . Tôi không may bị què chân, đi lại không vững, người hậu cung của ngài lại cứ trông tôi mà cừơi, tôi không thể chịu để cho một người đàn bà làm nhục, vậy tôi xin ngài ban cho tôi cái đầu kẻ đã cười tôi . Thắng cười đáp xin vâng . Người què ra, Thắng cười nói: - Thằng ấy ngu quá, vì một cái cười mà muốn giết mỹ nhân của ta ư ? Nhà Bình Nguyên quân đã có lệ thường, người giữ việc đãi khách mỗi tháng phải dâng trình sổ khách để xem số khách nhiều ít, mà lượng tính số tiền thóc vào ra . Trước kia số khách chỉ tăng không giảm, lúc ấy thấy mỗi ngày một ít đi, hơn một năm thấy kém đi một nửa . Công tử Thắng lấy làm lạ, bèn đánh chuông họp các khách lại hỏi rằng: - Thắng này đãi các ông chưa dám có điều gì thất lễ, vậy mà các ông lại đua nhau bỏ đi là cớ làm sao ? Trong bọn khách có một người đứng lên nói rằng: - Ngài không giết bỏ vị mỹ nhân cười người què kia, ai nấy đều không bằng lòng, cho rằng ngài yêu sắc đẹp mà khinh kẻ sĩ, cho nên bỏ đi . Chúng tôi bất nhật cũng sẽ xin đi! Bình Nguyên quân cả sợ, nhận tội rằng: - Đó thực là cái lỗi của Thắng này! Nói rồi, cởi ngay thanh gươm đeo, sai tả hữu chém đầu mỹ nhân ở trên lầu, rồi tự đi đến cửa nhà người què, quì xin chịu tội . Người què lấy làm mừng . Từ đó khách trong nhà đều ngợi khen đức hiền của Bình Nguyên quân, những người đã bỏ đi lại kéo đến ở như cũ . Bấy giờ Chiêu Tương vương nước Tần nghe việc Bình Nguyên quân chém mỹ nhân để tạ người què, một hôm thuật với Hướng Thọ, khen là người giỏi . Hướng Thọ nói: - Còn chưa giỏi bằng Mạnh Thường quân . Vua Tần nói: - Mạnh Thường quân thế nào ? Hướng Thọ nói: - Mạnh Thường quân từ ngày cha là Điền Anh còn sống đã để cho chủ trương việc nhà, tiếp đãi tân khách, tân khách theo về đông như chợ, chư hầu đều có lòng kính mến, xin với Điền Anh cho làm thế tử; đến khi được nối làm Tiết công, tân khách lại càng đông, ăn uống cũng đều như mình cả, cung cấp tốn kém quá rồi đến phá sản, những kẻ sĩ ở nước Tề đến, ai nấy đều cho là Mạnh Thường quân yêu mình, không có điều tiếng gì khác . Nay Bình Nguyên quân để cho mỹ nhân cười người què mà không giết, mãi đến lúc tân khách bỏ đi, mới chém đầu để tạ, chẳng cũng muộn lắm ư ? Vua Tần nói: - Quả nhân làm sao có được một người như Mạnh Thường quân để cùng bàn việc ? Hướng Thọ nói: - Nhà vua muốn Mạnh Thường quân, sao không triệu đến ? Vua Tần nói: - Hắn là tướng nước Tề, triệu khi nào hắn chịu đến ? Hướng Thọ nói: - Nếu nhà vua cho con em ruột sang làm con tin ở Tề để mời Mạnh Thường quân, Tề tin Tần tất phải cho đi . Nhà vua được Mạnh Thường quân rồi thì dùng ngay làm tướng . Tề tất cũng dùng con em của nhà vua làm tướng . Tề, Tần đổi người làm tướng cho nhau, tình bang giao tất hoà hợp, rồi cùng nhau mưu việc thôn tính chư hầu, tất chả còn khó khăn gì nữa! Vua Tần lấy làm phải, bèn cử Kinh Dương quân tên là Khôi làm con tin ở Tề, xin đổi MẠnh Thường quân sang Tần, cho được trông thấy mặt để thoả lòng khát khao . Tân khách nghe Mạnh Thường quân được nước Tần triệu đi đều khuyên nên đi . Bấy giờ Tô Đại vừa ở Yên sang sứ Tề, mới bảo Mạnh Thường quân rằng: - Tôi từ ngoài đến đây, thấy tượng đất và tượng gỗ đang nói chuyện với nhau . Tượng gỗ bảo tượng đất rằng "Trời đang mưa, nhà ngươi tất hỏng, biết làm thế nào ?". Tượng đất cười nói rằng: "Ta là bởi đất mà sinh ra, nếu có hỏng thì lại hoàn là đất, còn nhà ngươi gặp mưa mà trôi dạt đi thì không biết đến đâu!" Tần là nước hổ lang, Sở Hoài vương sang còn không về được, huống chi ngài, nếu họ giữ không cho ngài về, thì tôi không biết rồi ngài sẽ ra sao ? Mạnh Thường quân bèn từ chối không đi, Khuông Chương nói với Mân vương rằng: - Nước Tần đưa con tin sang mà cầu được tiếp kiến Mạnh Thường quân, là có ý muốn thân Tề . Mạnh Thường quân không đi thì mất lòng Tần . Tuy nhiên, giữ con tin của Tần, còn là không tin Tần, chi bằng nhà vua cứ lấy lễ cho Kinh Dương quân về Tần, mà sai Mạnh Thường quân sang sứ Tần để đáp lễ, như vậy thì vua Tần tất tin nghe Mạnh Thường quân mà ở hậu với Tề . Mân vương cho là phải, bảo Kinh Dương quân rằng: - Quả nhân sắp sai tướng quốc sang sứ bên thượng quốc để triều bái vua Tần, há dám phiền quí nhân làm tin! Rồi sai dùng xe ngựa đưa Kinh Dương quân về Tần, lại sai Mạnh Thường quân theo sang sứ . Mạnh Thường quân cùng hơn nghìn tân khách, hơn trăm cỗ xe, theo phía tây đi đến Hàm Dương vào yết kiến vua Tần . Vua Tần xuống thềm đón, cầm tay chào hỏi, giãi tỏ lòng yêu mến bấy lâu . Mạnh Thường quân có cái áo cầu lông chồn màu trắng, lông dài hai thước, sắc trắng như tuyết, giá đáng nghìn vàng, thực là của qúi có một không hai, dùng làm lễ riêng đem dâng vua Tần . Vua Tần mặc áo cừu ấy đi vào cung, khoe với nàng Yên Cơ . Yên Cơ nói: - Áo cầu ấy người ta cũng thường có, lấy gì làm qúi! Vua Tần nói: - Giống chồn nếu không sống vài nghìn năm thì sắc không trắng, cái áo cầu này lấy những miếng da nách giống chồn ghép lại mà thành ra, là một thứ da thuần trắng, cho nên giá rất cao . Tề là một nước lớn ở Sơn Đông cho nên mới có thư áo qúi này . Bấy giờ khí trời còn ấm, vua Tần cởi áo cầu giao cho kẻ lại giữ kho, dặn phải cất cẩn thận đều mùa rét dùng, rồi chọn ngày lập Mạnh Thường quân làm thừa tướng . Vu Lí Tật sợ rằng nếu Mạnh Thường quân được dùng thì sẽ cướp mất quyền mình, bèn sai gia khách là công tôn Thích bảo vua Tần rằng: - Điền Văn là người Tề, nay làm tướng Tần, tất hắn phải nghĩ đến Tề trước rồi mới nghĩ đến Tần . Cứ lý mà suy, Mạnh Thường quân đã có cái tài trù liệu mọi việc, không việc nào sai, lại thêm có nhiều tân khách giúp dập, nếu mượn quyền Tần để mưu ngầm cho Tề, thì Tần nguy mất . Vua Tần đem lời nói ấy hỏi Vu Lí Tật, Tật nói: - Thích nói phải đấy! Vua Tần nói: - Nếu vậy thì cho hắn về hay sao ? Tật nói: - Mạnh Thường quân ở Tần đã hơn tháng, khách theo hơn nghìn người, đều biết hết việc lớn nhỏ của Tần, nếu nay để cho về thì tất có hại cho Tần, chi bằng giết đi . Vua Tần nghe lời, cho Mạnh Thường quân ra ngoài quán xá . Kinh Dương quân khi ở Tề được Mạnh Thường quân đối đãi rất hậu, ngày cùng ăn uống, khi về lại nặng mấy thứ đồ quý, Kinh Dương quân vẫn lấy làm cảm ơn; lúc ấy nghe được cái mưu của vua Tần liền đến yết kiến Mạnh Thường quân, nói rõ cho biết . Mạnh Thường quân lo sợ, hỏi kế, Kinh Dương quân nói: - Nhà vua cũng chưa biết đâu . Trong cung có nàng Yên Cơ rất được vua yêu mến, nói gì vua cũng nghe . Ngài có thư gì qúi nhất, tôi sẽ vì ngài đem dâng Yên Cơ, cầu nàng ấy nói cho một lời, thả ngài về nước, thì có thể thóat họa được . Mạnh Thường quân liền đem hai đôi bạch bích, nhờ Kinh Dương quân đem dâng Yên Cơ, xin nàng giải cứu cho . Yên Cơ nói: - Thiếp rất thích thứ áo lông chồn trắng . Nghe nói ở nước Tề vẫn có thứ áo ấy, nếu cho thiếp một cái, thiếp sẽ nói cho, chứ thứ ngọc bích này thiếp không dùng làm gì . Kinh Dương quân về báo cho Mạnh Thường quân biết, Mạnh Thường quân nói: - Chỉ có một cái áo cầu tôi đã đem dâng vua Tần, bây giờ biết lấy đâu được nữa ? Rồi hỏi khắp tân khách xem có ai kiếm được thứ áo cầu trắng không, ai nấy đều im không đáp . Cuối cùng có một người khách tự nói là có thể kiếm được . Mạnh Thường quân nói: - Nhà ngươi có kế gì kiếm được thứ áo cầu ấy ? Khách nói: - Tôi có thể giả làm chó đi ăn trộm được! Mạnh Thường quân cười rồi cho đi . Đến đêm người khách ấy mặc quần áo như con cho, chui qua cổng nhỏ, lẻn vào trong kho, làm tiếng chó sủa, kẻ lại giữ kho tưởng là chó giữ sủa, không nghi ngờ gì . Người khách rình lúc kẻ lại kia ngủ say, lấy chìa khoá giắt sẵn trong mình, mở tủ kho ra, quả nhiên thấy cái áo cầu trắng, bèn lấy trộm đem ra, dâng Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân đưa cho Kinh Dương quân đem dâng Yên Cơ, Yên Cơ vui mừng quá, lại gặp buổi đêm cùng vua uống ruợu đang vui, bèn nói rằng: - Thiếp nghe Tề có Mạnh Thường quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, Mạnh Thường quân đang làm tướng Tề, không muốn sang Tần, vì Tần mời mới đến, chẳng dùng thì thôi, sao lại chực giết ? mời vị tướng quốc của người ta đến, không có cớ gì giết đi, đại vương sẽ mang tiến hãm hại người người hiền tài, thiếp e rằng hiền sĩ thiên hạ không còn ai dám đến nước Tần nữa! Vua Tần lấy làm phải, ngày hôm sau, sai sắp xe ngựa, cấp giấy trạm, thả Mạnh Thường quân về Tề . Mạnh Thường quân nói: - Ta may nhờ một lời nói của Yên Cơ mà được thoát miệng hùm, nhưng vạn nhất mà vua Tề giữa chừng lại hối thì mệnh ta còn gì! Trong bọn khách có người khéo làm giấy tờ giả mạo, bèn vì Mạnh Thường quân đổi họ tên ở trong giấy trạm đi; ngay ban đêm gấp đường ra đi, đến cửa Hàm Cốc, mới vào nửa đêm, cửa quan đã khoá chặt từ lâu rồi . Mạnh Thường quân sợ có quân đuổi theo đến, nóng muốn ra khỏi cửa quan ngay, nhưng cửa quan đóng mở đã có giờ nhất định, đêm đến người yên rồi thì đóng, gà gáy thì mở . Mạnh Thường quân cùng các tân khách đứng ùn lại cả trong cửa, trong lòng lo sợ bồn chồn, bỗng có tiếng gà gáy từ trong bọn khách vẳng ra . Mạnh Thường quân lấy làm lạ, nhìn xem thì hoá ra trong bọn hạ khách có người khéo bắt chước tiếng gà gáy . Rồi bao nhiêu gà ở quanh đó đều gáy theo, kẻ lại giữ cửa quan tưởng là trời đã sáng thật, liền dậy khám xét giấy trạm của mọi người rồi sai mở cửa ra . Mạnh Thường quân cùng tân khách lại gấp đường ra đi, bảo hai người khách kia rằng: - Ta nay nhờ khỏi miệng hùm là nhờ sức chó sủa, gà gáy đó! Các tân khách tự thẹn là không có công gì, từ đó không dám khinh nhờn bọn hạ khách nữa . Vu Lí Tật nghe nói Mạnh Thường quân được tha về nước vội vào triều nói với vua Tần rằng: - Nếu nhà vua không giết Điền Văn, thì cũng nên giữ lại làm tin, làm sao lại thả cho hắn về ? Vua Tần lấy làm hối, lập tức sai người đuổi theo Mạnh Thường quân đến cửa Hàm Cốc, đòi xem sổ tên hành khách thì không có họ tên sứ Tề là Điền Văn . Sứ giả nói: - Hay là hắn đi theo đường tắt nào, chứ cớ sao bây giờ chưa đến ? Đợi đến nửa ngày, chẳng thấy gì, mới nói hình trạng Mạnh Thường quân và số tân khách xe ngựa, kẻ lại giữ cửa ải nói: - Nếu vậy thì bọn ấy ra khỏi cửa quan từ sớm kia rồi! Sứ giả hỏi còn có thể đuổi kịp nữa không ? Kẻ lại nói: - Bọn ấy đi nhanh lắm, nay đã cách xa đến trăm dặm, không thể đuổi kịp được nữa . Sứ giả bèn trở về báo vua Tần . Vua Tần than rằng: - Mạnh Thường quân có cái cơ mưu quỉ thần bất trắc, thực là bậc hiền sĩ trong thiên hạ! Sau vua Tần sai kẻ lại giữ kho lấy áo cầu lông chồn trắng ra để mặc, kẻ lại tâu là bị kẻ trộm lấy mất; đến khi thấy nàng Yên Cơ mặc, hỏi kỹ ra mới biết là người khách của Mạnh Thường quân lấy trộm . Vua Tần lại than rằng: - Tân khách trong nhà Mạnh Thường quân đông như chợ, hạng nào cũng có, nước Tần ta thực chưa có bằng! Rồi lấy áo hồ cừu cho nàng Yên Cơ mặc mà không bắt tội kẻ giữ kho nữa . 2003-08-10 00:02:40 Hồi 94 95. Thử Mạnh Thường, Phùng Hoan gõ gươm hát Đánh Kiệt Tống, vua Tề hợp đại binh Lại nói Mạnh Thường quân tự Tần trốn về, đừơng qua nước Triệu, Bình Nguyên quân Triệu, Thắng ra ngoài đón ở ngoài ba mươi dặm, rất là cung kính . Người nước Triệu vốn nghe tiếng Mạnh Thường quân mà chưa được biết mặt, lúc ấy thi nhau đi xem, thấy Mạnh Thường quân lùn thấp bé nhỏ, trong bọn người đi xem, có kẻ cười nói rằng: - Trước kia ta hâm mộ Mạnh Thường quân, cho rằng người trời tất là khôi vĩ khác thường, nay xem ra thì chỉ là một anh chàng bé nhỏ mà thôi! Cũng có nhiều người hùa theo cười cợt . Đêm ấy những kẻ cười Mạnh Thường quân đều bị mất đầu . Bình Nguyên quân biết đó là do môn khách của Mạnh Thường quân làm ra, nhưng không dám hỏi đến . Lại nói Tề Mân vương sau khi đã sai Mạnh Thường quân sang Tần, thì như mất hai cánh tay, sợ nước Tần dùng mất, rất lấy làm lo, cho khi thấy Mạnh Thường quân trốn về được, thì cả mừng, lại dùng làm tướng quốc . Từ đó Mạnh Thường quân được tân khách theo về càng đông, bèn chia làm ba đẳng; khách thượng đẳng gọi là "đại xá", khách trung đẳng gọi là "hạnh xá", khách hạ đẳng gọi là "truyền xá". Đại xá là gồm những khách nào có thể thay thế mình, hạng này được ăn thịt đi xe; hạnh xá gồm những khách nào có thể dùng được, hạng này chỉ được ăn thịt, không được đi xe; truyền xá gồm những khách chỉ cho ăn cơm sạch trấu cho khỏi đói, ra vào mặc ý đó là hạng hạ khách . Những người khách mà lúc trước đã có công làm gà gáy chó sủa hay giấy trạm giả, đều được ở vào hạng đại xá . Hàng năm số bổng thu đựợ ở ấp Tiết, không đủ để cung tân khách, Mạnh Thường quân bèn đem tiền cho ấp Tiết vay, lấy số lãi để thêm vào sự chi tiêu . Một hôm có một người thân thể cao lớn, mặc áo rách, đi dép cỏ, tự nói họ Phùng, tên Hoan, người nước Tề, xin vào yết kiến . Mạnh Thường quân vái chào mời cùng ngồi, nói rằng: - Tiên sinh hạ cố, có điều gì dạy Văn này ? Hoan nói: - Không có gì . Tôi trộm nghe ngài có lòng yêu mến kẻ sĩ, không chọn sang hèn, cho nên chẳng ngại đem cái thân nghèo đến nương náu cửa ngài . Mạnh Thường quân cho ở hạng truyền xá . Hơn mười ngày, Mạnh Thường quân hỏi người truyền xá trưởng rằng: - Người khách mới đến làm việc gì ? Truyền xá trưởng nói: - Phùng tiên sinh nghèo quá chẳng có cái gì, chỉ có một thanh kiếm lại không có vỏ, lấy dây cỏ buộc đeo ở sau lưng, ăn xong cứ gõ gươm mà hát rằng: "Gươm ơi! về đi thôi! ăn không có cá!" Mạnh Thường quân cười nói: - Đó là hắn hiềm ta cho ăn uống chẳng có gì!Nói xong, liền đổi cho vào ở hạng hạnh xá, bữa ăn nào cũng có cá thịt . Lại sai người hạnh xá trưởng xét xem ý Hoan thế nào . Năm ngày sau, người hạnh xá trưởng bảo rằng: - Phùng tiên sinh vẫn gõ gươm mà hát như cũ, nhưng câu hát có khác lần trước . Tiên sinh hát rằng: "gươm ơi! về đi thôi! đi không có xe!" Mạnh Thường quân lấy làm lạ, nói: - Hắn muốn ta đãi vào hạng thượng khách chăng ? người ấy chắc là có tài lạ! Rồi đổi cho lên hạng đại xá, và sai người đại xá trưởng xét xem thế nào . Hoan ngày ngày cỡi xe ra đi đến đêm mới về, lại hát rằng: "Gươm ơi! về đi thôi! chẳng có gì gửi về nhà giúp đỡ!" Đại xá trưởng nói với Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân nhăn trán nói rằng: - Người khách ấy sao tham lam đến thế ? rồi lại sai dò xét xem, nhưng Hoan không hát nữa . Được hơn một năm, người quản gia nói với Mạnh Thường quân rằng tiền thóc chỉ còn đủ tiêu trong một tháng . Mạnh Thường quân tra sổ thấy dân gian thiếu nợ rất nhiều, bèn hỏi các tân khách rằng: - Ai có thể đến ấp Tiết đòi nợ cho tôi được ? Người đại xá trưởng nói rằng: - Phùng tiên sinh chẳng thấy có sở trường gì, nhưng xem ra thì một con người trung thực có thể dùng được . Hôm trước ông ta đã tự xưng làm thượng khách . Vậy ngài hãy dùng xem . Mạnh Thường quân liền cho vời Phùng Hoan đến nói về việc đi thu nợ, Phùng Hoan nhận lời ngay, không hề từ chối, rồi cỡi xe đi ngay đến ấp Tiết, ngồi ở trong công phủ . Dân ấp Tiết có đến một vạn nhà, phần nhiều đều có vay nợ, nghe Tiết công sai vị thượng khách đến thu, thì đem nộp giả rất nhiều, tính số tiền được lãi hơn mười vạn . Phùng Hoan đem nhiều tiên sai mua rượu và trâu bò, lại cho yết thị phàm nhà nào có nợ Mạnh Thường quân, không kể trả được hay không trả được, ngày hôm sau phải mang giấy đến công phủ để xét . Trăm họ nghe có rượu và trâu bò đều đúng kỳ mà đến . Phùng Hoan đều cho ăn uống no say, rồi nhân đó xét rõ ai giàu ai nghèo . Ăn xong, mang sổ ra xét lại, hiện người nào dư sức, dẫu nhất thời không trả được mà về sau có thể trả được, thì bắt viết văn tự xin tra hạn . Thấy thế, những người nghèo quá không thể trả được đều lạy xin nới rộng kỳ hạn . Phùng Hoan sai đem hết những giấy nợ của bọn người nghèo châm lửa đốt, rồi bảo mọi người rằng: - Mạnh Thường quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các ngươi không có tiền để làm sinh kế, chứ không phải vì mưu lợi đâu! nhưng Mạnh Thường quân có mấy ngàn thực khách, bổng lộc không đủ, cho nên bất đắc dĩ phải đòi số nợ lãi để cung tân khách . Nay người có thể trả được thì cho gia hạn, người không thể trả được đã đốt bỏ văn tự đi coi như không có nợ . Mạnh Thường quân làm ơn với ấp Tiết các ngươi co thể gọi là hậu lắm đó! Trăm họ đều dập đầu nói: - Mạnh Thường quân thật là cha mẹ chúng tôi! Trước kh đó có người đem việc đốt giấy nợ báo cho Mạnh Thường quân biết, Mạnh Thường quân giận quá, sai người đi ngay gọi Phùng Hoan về . Phùng Hoan tay không vào yết kiến Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân giả ý hỏi rằng: - Khách khó nhọc lắm nhỉ, thu nợ xong rồi à ? Hoan nói: - Không những tôi đã vì ngài thu nợ, lại vì ngài thu được cả lòng dân nữa . Mạnh Thường quân biến sắc mặt trách rằng: - Văn này vì khách ăn trong nhà những ba nghìn người, bỗng lộc không đủ, cho nên phải cho dân Tiết vay để lấy lãi ma chi dùng thêm . Nghe nói khách thu được tiền lãi đem mua nhiều trâu bò rượu thịt cho họ ăn uống, lại đốt bỏ mất một nửa những giấy nợ, thế mà còn nói là để thu lòng người, thì chẳng rõ cái cách thu lòng người gì mà lạ vậy ? Hoan thưa rằng: - Xin ngài bớt giận để tôi giãi bày . Ngừơi mắc nợ rất đông, không bày ra cho ăn uống thì chúng không chịu đến đủ mặt, không xét rõ được ai thừa sức và ai nghèo khổ . Kẻ có sức trả thì tôi đã bắt làm giấy khất . Còn kẻ nghèo khổ thì dầu đốc thúc, chúng cũng không trả được, nợ lâu lãi nhiều rồi đến bỏ trốn ấp . Ấp Tiết là đất thế phong của ngài, nhân dân ở đó là những người mà ngài phải cùng chung những lúc yên nguy; nay tôi đốt bỏ những giấy nợ vô dụng đi để rõ tấm lòng ngài khinh của mà yêu dân, cái tiếng nhân nghĩa sẽ lan rộng ra vô cùng, vì thế nên tôi mới nói là đã vì ngài thu lòng người vậy . Mạnh Thường quân vì phải lo tính đến sự cung nuôi tân khách, trong lòng vẫn lấy làm giận . Nhưng văn tự nợ đã bị đốt cả rồi, cũng không làm thế nào được . Mạnh Thường quân đành phải gượng làm vui, vái tạ Phùng Hoan . Lại nói Tần Chiêu vương lấy làm hối là đã để Mạnh Thường quân về mất, lại thấy Mạnh Thường quân là con người cơ mưu đáng sợ, lo người ấy đắc dụng ở Tề tất sẽ làm hại cho Tần, bèn đặt điều cho nói ở khắp nước Tề rằng Mạnh Thường quân được nêu cao danh giá trong thiên hạ, nguồi người chỉ biết có Mạnh Thường quân mà không biết có vua Tề; bất nhật Mạnh Thường quân sẽ thay làm vua nước Tề . Lại sai người nói với Khoảng Tương vương nước Sở rằng trước kia sáu nước đánh Tần, một mình quân Tề ở lại sau, vì Sở tự xưng là "tung ước trưởng", Mạnh Thường quân không phục, cho nên không chịu cùng đánh, và khi Hoài vương ở Tần, vua Tần muốn cho về, Mạnh Thường quân sai người đến bảo vua Tần là không nên, vì bấy giờ thái tử nước Sở đang làm con tin ở Tề, cho nên Mạnh Thường quân muốn xui Tần giết Hoài vương đi, rồi về sẽ giữ thái tử lại để cầu Sở phải cắt đất, vì vậy thái tử xuýt không được về, mà Hoài vương phải chết ở Tần, vua Tần có lỗi với SỞ là do Mạnh Thường quân xui nên, cho nên muốn được Mạnh Thường quân mà giết đi, để xin lỗi với Sở, không ngờ hắn lại trốn về mất . Nay hăn lại chuyên quyền ở nước Tề, chẳng sớm thì muộn hắn sẽ cướp ngôi . Hai nước Tần, Sở từ đây chẳng được yên nữa . Nay vua Tần xin hối điều lỗi trước mà kết hiếu với Sở, gả con gái làm vợ vua Sở, để cùng phong bị cái biến Mạnh Thường quân . Vua Sở lầm nghe lời nói ấy, bèn thông hoà với Tần, đón con gái vua Tần làm phu nhân, rồi cũng sai người đặt điều nói như thế ở Tề . Quả nhiên vua Tề sinh nghi, bèn thu tướng ấn của Mạnh Thường quân, cho về ở ấp Tiết . Các tân khách nghe Mạnh Thường quân bị bãi chức dần dần bỏ đi, chỉ có Phùng Hoan vẫn theo bên cạnh cầm cương xe cho Mạnh Thường quân . Chưa đến ấp Tiết, trăm họ già trẻ đã dắt díu nhau đi đón, tranh nhau dâng rượu cơm và hỏi thăm sức khoẻ . Mạnh Thường quân nói: - Bây giờ mới thấy rõ câu tiên sinh nói vì Văn này mà thu lòng người vậy . Phùng Hoan nói" - Ý tôi không phải chỉ có thế mà thôi! nếu cho tôi được một cỗ xe, thì tôi sẽ làm cho ngài được thêm trọng ở Tề, ấp ăn lộc càng thêm rộng . Mạnh Thường quân nói: - Tiên sinh định thế nào tôi xin vâng theo . Mấy hôm sau Mạnh Thường quân sắm xe ngựa và tiền bạc đưa cho Phùng Hoan và nói rằng: - Xin để tiên sinh dùng đi đâu tuỳ ý! Phùng Hoan đi ngay sang Tần, xin vào yết kiến Chiêu Tương vương, nói rằng: - Kẻ sĩ đến ở Tần đều muốn làm cho Tần mạnh, và làm cho Tề yếu, Tần với Tề thế không cùng mạnh được, nước nào mạnh thì được thiên hạ . Vua Tần hỏi: - Tiên sinh có kế gì cho nước Tần trở nên mạnh được không ? Phùng Hoan nói: - Đại vương đã biết nước Tề bỏ Mạnh Thường quân chưa ? Tề sở dĩ được thiên hạ xem trọng là vì có Mạnh Thường quân là người hiền tài, vậy mà vua Tề nghe lời dèm pha, thu lại tướng ấn, lấy công làm tội, Mạnh Thường quân tất oán Tề lắm . Nay nhân ngay lúc Mạnh Thường quân đang oán Tề, mà Tần mời sang làm tướng, thì bao nhiêu việc kín của Tề, Tần sẽ biết hết, nhân đó mà lấy cả nước Tề cũng được, há phải là chỉ mạnh hơn Tề mà thôi đâu ? đại vương nên kíp sai sứ đem lễ vật ngầm sang đón Mạnh Thường quân ở ấp Tiết, chớ nên bỏ lỡ cơ hội . Vạn nhất vua Tề biết hối mà lại dùng Mạnh Thường quân, thì trong hai nước Tề và Tần, nước nào mạnh yếu chưa thể định được! Bấy giờ Vu Lí Tật mới mất, vua Tần nóng muốn được một vị hiền tướng, nghe lời Hoan nói thì cả mừng, bèn lấy mười cỗ xe tốt, trăm dật hoàng kim, sai sứ giả đem nghi trượng thừa tướng đi theo để đón Mạnh Thường quân, bảo phải đi ngay chớ nên dùng dằng . Phùng Hoan bèn đi gấp về Tề, không vào chào Mạnh Thường quân vội, trước đến yết kiến vua Tề nói rằng: - Tần và Tề tranh nhau mạnh yếu hơn thua như thế nào, vua đã biết . Được người hiền tài thì mạnh, mất người hiền tài thì yếu . Nay tôi nghe người ta nói vua Tần thấy Mạnh Thường quân bị bãi thì lấy làm may lăm, sai sứ sang đón về làm tướng . Nếu Mạnh Thường quân làm tướng quốc nước Tần thì sẽ đem những điều lợi cho Tề mà làm lợi cho Tần, như vậy thì Tần trở nên mạnh, mà Lâm Tri, Tức Mặc thì nguy đến nơi rồi! Vua Tề ra vẻ sợ hãi hỏi rằng: - Như vậy thì biết làm thế nào ? Phùng Hoan nói: - Sứ Tần sớm chiều sẽ đến ấp Tiết, nhân lúc họ chưa đến, đại vương nên lại dùng Mạnh Thường quân làm tướng, ban rộng thêm ấp phong, Mạnh Thường quân tất mừng mà nhận . Sứ Tần dẫu mạnh, lẽ nào chẳng nói với vua mà dám tự tiện đón vị tướng quốc của người ta ư ? Mân vương khen phải, nhưng thực ra trong lòng vẫn chưa tin, bèn sai người đi đến nơi biên cảnh dò xét hư thực, thì thấy xe ngựa ầm ầm kéo đến, hỏi ra thì quả là sứ Tần . Sứ giả luôn đêm về nói với Mân vương, Mân vương liền sai Phùng Hoan cầm cờ tiết đi đón Mạnh Thường quân, rồi cho phục chức tướng quốc, lại phong thêm cho một nghìn hộ . Sứ giả Tần đến ấp Tiết, nghe Mạnh Thường quân đã lại làm tướng nước Tề, bèn quay xe trở về . Khi Mạnh Thường quân đã trở lại làm tướng nước Tề, thì những tân khách trước bỏ đi đều lại quay về cả . Mạnh Thường quân bảo Phùng Hoan rằng: - Văn nay đối với tân khách không dám có điều gì thất lễ, mà khi bị bãi chức, khách đều bỏ Văn này mà đi . Nay nhờ tiên sinh mà Văn này lại được phục chức, tân khách còn mặt mũi nào mà thấy Văn nữa ? Phùng Hoan đá rằng: - Vinh nhục thịnh suy là lẽ thường ở đời . Ngài không thấy cái chợ ở nơi đô hội lớn đó ru ? sớm ra thì ai nấy chen vai tranh cửa mà vào, đến chìều thì vắng ngắt như bãi tha ma; vì những cái người ta cần đến không có nữa . Ở đời giàu sang lắm kẻ cầu thân, nghèo hèn chẳng ai buồn hỏi, đó là việc thường ngài còn lại gì! Mạnh Thường quân lạy hai lạy mà nói rằng: - Kính xin vâng mệnh! rồi cứ đãi khách như xưa . Bấy giờ Ngụy Chiêu vương, cùng Hàn Lý vương hợp binh đánh Tần, Tần sai Bạch Khởi đem quân đón đánh, đại chiến ở Y Khuyết, chém đầu hai mươi bốn vạn, bắt được tướng Hàn là công tôn Hỉ, lấy được ba trăm dặm đất Hà Đông . Chiêu Tương vương cả mừng, cho rằng bảy nước đều xưng vương cả thì tước vương không lấy gì làm lạ, muốn lập riêng đế hiệu để tôn mình lên trên, nhưng lại sợ mang tiếng là đôc tôn, bèn sai người nói với Tề Mân vương rằng: - Nay thiên hạ đều xưng vương, chẳng biết theo ai, quả nhân ý muốn xưng Tây đế để chủ phương tây, tôn vua Tề làm Đông đế để chủ phương đông, chia đôi thiên hạ, ý đại vương cho là thế nào ? Mân vương ý chưa quyét, hỏi Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân nói: - Tần vì ngang ngược, nên chư hầu ghét, nhà vua chớ nên bắt chước . Được hơn một tháng, Tần lại sai sứ sang Tề ước cùng đánh Triệu, gặp lúc Tô Đại ở Yên đến, Mân vương hỏi ngay về việc cùng Tần xưng đế . Đại thưa rằng: - Tần không mời nước khác cùng xưng đế, mà chỉ riêng mời nước Tề, là có ý tôn Tề vậy, nếu cự tuyệt thì phật ý Tần, mà nhận thẳng thì bị chư hầu ghét . Vậy xin nhà vua cứ nhận lời mà chớ xưng, để cho Tần xưng trước, chờ khi nào chư hầu phương tây đều đã tuân theo, bấy giờ nhà vua sẽ xưng đế để chủ phương đông, cũng chưa muộn gì . Nếu Tần xưng đế mà chư hầu không phục, thì nhà vua sẽ nhân đó mà bắt tội Tần . Mân vương theo lời lại hỏi về việc Tần ước Tề cùng nhau đánh Triệu . Tô Đại nói: - Xuất quân mà không có cớ thì việc tất không thành . Triệu không có tội gì mà ta đánh, nếu được đất chỉ lợi cho Tần, chứ Tề không có ích gì . Nay vua Tống là người vô đạo, thiên hạ đã gọi là Kiệt Tống, vậy đánh Triệu, không bằng đánh Tống, được đất có thể giữ, được dân có thể sai, mà lại được tiếng là giết kẻ bạo ngược, đó là việc làm của Thang, Vũ ngày xưa vậy . Mân vương bằng lòng lắm, bèn nhận đế hiệu mà không xưng, rồi hậu đãi Tần mà từ chối việc đánh Triệu . Vua Tần xưng đế mới được hai tháng, thấy Tề vẫn xưng vương, bèn bỏ đế hiệu không xưng nữa . Lại nói vua Tống bấy giờ tên là Yển, sinh có tướng lạ, mình dài chín thước bốn tấc, mặt rộng một thước ba tấc, mắt như sao lớn, mặt có ánh sáng, sức khoẻ có thể uốn cong nắn thẳng được một cái móc sắt . Đời Chu Hiển vương năm thứ 41, Yển giết anh là Định Thành mà tự lập lên làm vua . Được mười một năm, nhân trong nước có người tìm tổ chim sẻ, thấy trong một cái trứng đã nở được một con cắt con, cho là điềm lạ, đem dâng Yển, Yển sai quan thái sử bói xem hay dở thế nào . Thái sử xem xong tâu rằng: - Chim nhỏ nhà sinh chim lớn, đó là cái điềm đổi yếu làm mạnh, lập nên nghiệp bá vương . Yển mừng nói rằng: - Nước Tống yếu lắm, nếu quả nhân không chấn hưng thì còn chờ đợi ai ? Rồi kén nhiều tráng đinh, tự huấn luyện lấy, được mười vạn tinh binh, đông đánh Tề, lấy năm thành; nam đánh Sở mở rộng được hơn ba trăm dặm đất; tây lại đánh được Nguỵ, lấy hai thành; diệt nước Đằng chiếm lấy cả nước, rồi sai sứ sang thông hiếu với Tần . Tần cũng sai sứ sang đáp lại . Từ đó Tống trở nên một nước mạnh, cùng Tề, Sở, Tam Tấn ngang hàng . Yển tự xưng là Tống vương, cho rằng anh hùng thiên hạ không ai bằng mình, muốn chóng làm nên nghiệp bá vương; mỗi khi coi chầu, bắt quần thần đều hô vạn tuế; trên thềm hô dưới thềm theo, lính vệ ngoài cửa cũng đều hô theo, tiếng nghe xe đến vạn dặm . Yển lại lấy túi da đựng máu trâu treo lên một cái cần cao, giương cung mà bắn, cung mạnh tên cứng bắn suốt qua cái túi da, máu từ trên không chảy xuống dòng dòng, rồi sai người truyền ngôn ở chợ rằng vua ta bắn trời đắc thắng, để dọa nạt người ở xa . Lại bày cuộc uống rượu suốt đêm, đem rượu ép đổ cho quần thần, nhưng ngầm sai tả hữu lấy nước sôi giả làm rượu để mình uống, quần thần người nào vốn uống được nhiều lúc ấy cũng đều say lả ra không giữ được lễ nữa, chỉ có Yển vẫn tỉnh táo như thường . Những người tả hữu hót nịnh rằng: - Quân vương lượng rượu như bể, dù uống đến nghìn thạch cũng không say! Yển lại bắt nhiều phụ nữ để hành lạc, một đêm có thể ngự được mười con gái, sai người nói phao lên rằng tinh thần vua Tống mạnh bằng mấy trăm người, không bao giờ thấy mỏi mệt . Một hôm đến chơi ở gò Phong Phụ, thấy một người đàn bà hái dâu rất đẹp, bèn xây đài Thanh Lăng để đứng trông, rồi hỏi dò thì biết là vợ Hàn Phùgn, con gái họ Tức, bèn sai người đến dỗ Phùng bảo đem vợ hiến mình . Phùng đem chuyện ấy nói với vợ và hỏi có bằng lòng không . Người vợ làm bài thơ để tỏ ý rằng: Núi Nam có con chim Núi Bắc chăng lưới bắt Chim mặc sức bay cao Lưới kia đành quãng vất . Vua Tống vẫn cứ yêu mến họ Tức không thôi, sai người đến tận nhà cướp lấy . Hàn Phùng thấy vợ bị bắt đưa lên xe đi, trong lòng đau xót, liền tự sát . Vua Tống đòi họ Tức cùng lên đài Thanh Lăng, bảo rằng: - Ta đây là vua Tống, có quyền cho người được phú qúi, cũng có quyền cho người được sống hay bắt người phải chết, chồng nàng đã chết, nàng còn về với ai ? nếu nàng bằng lòng quả nhân, thì sẽ được lập làm vương hậu . Họ Tức lại làm bài thơ để tỏ ý rằng: Chim có sống mái, Chẳng theo phượng hoàng, Thiếp là thứ dân Chẳng thích Tống vương! Vua Tống nói: - Nàng nay đã đến đây, dẫu không muốn thờ quả nhân cũng không thể được . Họ Tức nói: - Để cho thiếp tắm gội thay áo, lạy linh hồn chồng cũ, rồi sẽ xin hầu đại vương! Vua Tống bằng lòng . Họ Tức tắm gội thay áo xong, ngửa trông lên không, chắp tay vái hai vái, rồi từ trên đài đâm đầu xuống đất . Vua Tống vội sai người kéo áo lôi lại nhưng không kịp, trông xuống thì đã thấy nàng tắt hơi rồi, khám trong mình thấy ở giải quần có một bức thư, đại ý nói sau khi chết xin cho đem thi thể cùng chôn một mộ với Hàn Phùng, ở dưới suối vàng sẽ được cám ơn sâu . Vua Tống cả giận, bắt chôn riêng một nơi, cố làm cho hai một cách xa nhau, cho đông tây dẫu trông thấy nhau mà không gần nhau được . Chôn được ba ngày, vua Tống trở về nước . Bỗng một đêm bên cạnh mỗi ngôi mộ có mọc lên một cây văn tử, chỉ trong một tuần, cây ấy mọc cao hơn ba thước, cành lá quấn qúit lấy nhau như một . Có một đôi chim uyên ương bay đậu ở trên cành, giao đầu cùng kêu thương, người trong xóm thương xót bảo nhau rằng đó là oan hồn vợ chồng Hàn Phùng hóa sinh ra vậy, bèn gọi thứ cây ấy là "cây tương tư" . Vua Tống bạo ngược, quần thần có nhiều người can ngăn . Vua Tống căm giận, bèn để cung tên ở bên chỗ ngồi, người nào can ngăn liền giương cung bắn chết, trong có một ngày mà bắn chết ba người là Cảnh Thành, Đái Oo, và công tử Cần . Từ đó cả triều không ai dám can ngăn nữa . Chư hầu gọi vua Tống là Kiệt Tống . Bấy giờ vua Tề nghe lời Tô Đại, sai sứ sang Sở, Ngụy ước cùng đánh Tống để chia ba . Vua Tần nghe tin giận nói rằng: - Tống mới cùng Tần kết giao mà Tề đánh, quả nhân tất phải cứu Tống mới được . Vua Tề sợ quân Tần cứu Tống, hỏi kế Tô Đại . Đại nói: - Tôi xin ngăn quân Tần để đại vương được thành công đánh Tống . Tô Đại bèn đi yết kiến vua Tần nói rằng: - Nay nước Tề đánh Tống, tôi xin có lời mừng quả nhân . Vua Tề cường bạo không khác gì vua Tống, nay ước cùng Sở, Ngụy mà đánh Tống, cái thế tất đánh lừa Sở, Ngụy . Sở, Ngụy bị lừa tất phải quay về phía tây mà theo Tần, như vậy Tần bỏ một Tống để nhử Tề mà thu được hai nước Sở, Nguỵ vậy . Vì nhà vua có cái lợi ấy nên tôi mừng . Vua Tần nói: - Quả nhân muốn cứu Tống, có nên chăng ? Đại đáp rằng: - Kiệt Tống bị thiên hạ đem lòng căm giận đều muốn mất đi mà một mình Tần lại cứu, thiên hạ sẽ lại đem lòng căm Tống mà đổi sang căm Tần . Vua Tần nghe lời, không phái quân đi cứu Tống nữa . Quân Tề kéo đến đất Tống trước; quân Sở, Ngụy cũng lục tục đến họp, tướng Tề là Hàn Nhiếp, tướng Sở là Đường Muội, tướng Ngụy là Mang Mão, ba người cùng họp bàn . Đường Muội nói: - Vua Tống dâm ngược, lòng ngừời lìa oán, ba nước ta đều có cái thù mất quân mất đất, nên truyền hịch văn, tuyên bố tội ác, để chiêu dụ những dân đất cũ, khiến họ quay dáo lại mà đánh Tống . Hàn Nhiếp nói: - Hai ngài nói đều phải cả! Bèn làm hịch văn kể mười tội lớn của Kiệt Tống: 1. đuổi anh cướp ngôi, được nước không chính; 2. diệt Đằng kiêm đất, cậy mạnh lấn yếu; 3. tham công hiếu chiến, xâm phạm nước lớn; 4. túi da bắn trời có tội với thượng đế; 5. say sưa suốt đêm, không hỏi đến việc chính; 6. cướp lấy vợ người, hoang dâm vô sỉ; 7. bắn giết những bề tôi can ngăn, khiến những người trung lương phải ngậm miệng; 8. tiếm vương hiệu, ngạo mạn tự tôn; 9. riêng nịnh nước Tần, kết oán với các lân quốc; 10. khinh thần thánh ngược nhân dân, không còn giữ đạo làm vua . Hịch văn đến đâu, lòng người đều náo động, ở những nơi của ba nước bị Tống chiếm được, nhân dân đều khong vui lòng theo Tống, nên đâu đấy đều đuổi bỏ quan lại, lên mặt thành tự giữ để đợi quân Tề đến, bởi vậy quân ba nước đến đâu được đấy, thẳng đến thành Chuy Dương . Vua Tống điểm duyệt xa mã, tự lĩnh đạo trung quân, cách thành mừơi dặm đóng binh, để phòng giữ quân ba nước đánh úp . Hàn Nhiếp sai tướng bộ hạ là Lư Khâu Kiệm sai mấy tên quân to tiếng, đứng trên xe cao, kể mười tội của Kiệt Tống . Vua Tống cả giận, sai tướng quân là Lư Man ra thành đánh qua vài hợp . Lư Khâu Kiệm thua chạy, Lư Man đuổi theo, Kiệm bỏ hết xe ngựa khí giới lật đật chạy trốn . Vua Tống lên trên lũy, trông thấy quân Tề đã thua, mừng nói rằng: - Đánh lui được quân Tề, thì Sở, Ngụy chẳng còn làm gì đươc. Bèn đem hết quân ra đánh, thẳng bức dinh Tề . Hàn Nhiếp lại nhường một trận, lui ra ngoài hai mươi dặm đóng trại, sai hai quân Đường Muội và Mang Mão chia hai đường tả hửu lẻn đánh mặt sau đại dinh vua Tống . Hôm sau, vua Tống tửởng là quân Tề không thể đánh được nữa bèn đem hết quân tiến đánh . Lư Khâu Kiệm dùng hiệu cờ Hàn Nhiếp, bày ra trận thế để chống giữ . Từ giờ thìn đến giờ ngọ, đánh nhau hơn ba mươi lần, vua Tống quả nhiên là người anh dũng, một tay chém chết hai mươi viên tướng Tề, binh sĩ chết mất hơn trăm, tướng Tống là Lư Man cũng chết trận . Lư Khâu Kiệm lại thua to bỏ chạy, bỏ lại vô số xe ngựa và khí giới; quân Tống tranh nhau cướp lấy . Bỗng có thám tử báo rằng quân địch đánh úp thành Chuy Dương rất gấp, hỏi dò ra là hai quân Sở, Ngụy . Vua Tống cả giận, vội quay quân trở lại, đi chưa được năm dặm, bỗng có một đạo quân xông ra, quát to lên rằng: - Thượng tướng nước Tề là Hàn Nhiếp ở đây , đứa hôn quân vô đạo kia sao không đầu hàng đi! Hai tướng tả hữu vua Tống là Tái Trực, Khuất Chí Cao đều đem quân ra, Hàn Nhiếp hăng hái ra oai, chém chết ngay Chí Cao ở dứơi xe; Tái Trực không giao phong, bảo hộ vua Tống vừa đánh vừa chạy, về đến dưới thành Chuy Dương . Tướng giữ thành là công tôn Bạt nhận được quân mã của nhà, mở cửa cho vào . Ba nước họp quân đánh phá, ngày đêm không nghỉ . Bỗng lại có một đạo quân kéo đến, tức là Tề Mân vương, sợ Hàn Nhiếp không thành công, thân suất đại tướng Vương Chúc, thái sử Hiểu dẫn ba vạn quân đến giúp sức . Quân Tống biết vua Tề thân đốc quân, đều sợ hãi mà sinh nản lòng cả, lại vì vua Tống không thương quân lính, ngày đêm chỉ đốc thúc canh giữ mà chẳng có ân hưởng gì, nên đều oán giận . Tái Trực bảo vua Tống rằng: - Thế quân địch rất mạnh mà lòng người lại sinh biến, chi bằng đại vương hãy bỏ thành tạm tránh đến Hà Nam, rồi sẽ lo khôi phục sau . Vua Tống bấy giờ trong lòng buồn bực, cái chí muốn đồ bá tranh vương đã nguội ngắt như tro tàn, bèn than thở một hồi, rồi cùng Tái Trực nửa đêm bỏ thành mà trốn . Công tôn Bạt dựng cờ hàng, đón vua Tề vào thành, vua Tề vỗ yên trăm họ, một mặt sai quân lính đuổi theo vua Tống . Đến Ôn ấp thì đuổi kịp, trước bắt Tái Trực chém chết, vua Tống nhảy xuống ngòi Thần Nông, không chết, bị quân lính lôi ra chém đầu đưa về Chuy Dương. Tề, Sở, Ngụy bèn cùng diệt Tống, chia đất làm ba . Khi quân Sở, Ngụy đã đi rồi, Mân vương nói: - Việc đánh Tống này, công Tề nhiều hơn, vậy Sở và Ngụy sao được nhận đất ? bèn đem quân ngậm tăm theo sau Đường Muội, đánh úp quân Sở ở Trùng Để, thừa thắng tiến mãi, thu lấy cả đất Hoài Bắc, lại lấn đánh Tam Tấn được thắng lợi luôn . Sở, Ngụy căm giận vua Tề phụ ước, quả nhiên đều sai sứ cầu phụ nước Tần . Tần lại cho đó là cái công của Tô Đại . Tề Mân vương đã lấy được Tống, thì chí khí lại càng kiêu căng, sai sứ đi dụ vua ba nước Vệ, Lỗ, Trần, ép phải xưng thần vào triều . Ba nước sợ oai phải theo . Mân vương nói: - Quả nhân chiếm Yên diệt Tống, mở đất hơn nghìn dặm, đánh Lương cắt Sở oai lừng khắp chư hầu, Lỗ, Vệ đều đã xưng thần . Mai kia sẽ đem một toán quân lấy đất của hai nhà Chu, dời chín đỉnh đến Lâm Tri, xưng hiệu là thiên tử để ra lệnh cho thiên hạn, ai còn dám không theo .Mạnh Thường quân can rằng: - Vua Tống vì kiêu căng cho nên Tề mới đánh được, xin đại vương nên lấy nước Tống làm răn . Nhà Chu dẫu hèn yếu, nhưng vẫn là vua chung thiên hạ, bảy nước đánh nhau không dám động đến, là vì còn sợ danh nghĩa . Đại vương trước kia đã bỏ đế hiệu không xưng, thiên hạ thấy thế đều khen ngợi nước Tề là khiêm nhượng, nay bỗng nảy ra cái chí thay nhà Chu, e không phải là cái phúc của nước Tề . Mân vương nói: - Vua Thang đánh Kiệt, vua Vũ đánh Trụ . Kiệt, Trụ, chẳng phải là thiên tử đó ru ? Quả nhân sao không bằng Thang, Vũ, chỉ tiếc ngươi không phải là Y Doãn, Thái Công đó thôi! Rồi đó lại thu tướng ấn của Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân sợ bị giết, bèn cùng tân khách chạy sang Đại Lương ở nhờ công tử Vô Kỵ . Vô Kỵ là con bé của Ngụy Chiêu vương, tính người rất là khiêm tốn, qúy trọng kẻ sĩ, niềm nở tiếp đãi tân khách . Một hôm, đang ăn cơm buổi sáng, bỗng có một cho chim cưu bị con chim dao đuổi, vội chui xuống gậm bàn, Vô Kỵ che giấu cho con chim cưu, thấy con chim dao đi rồi, mới thả cho ra . Không ngờ con dao ẩn ở trên nóc nhà, thấy con cưu bay ra thì đuổi bắt mà ăn thịt . Vô Kỵ tự trách rằng: - Con cưu ấy tránh nạn mà vào với ta, thế mà vẫn bị con dao giết chết, thực là ta phụ con cưu ấy . Nghĩ vậy rồi cả ngày không ăn, sai các người tả hữu bắt chim dao, được hơn trăm con, mỗi con nhốt vào một cái lồng, Vô Kỵ nói: - Chỉ có một con dao giết con cưu kia, nỡ nào lại bắt tội lây đến những con dao khác! Bèn cầm gươm đập lên những cái lồng mà khấn rằng: - Con nào không giết con cưu kia thì hướng vào ta mà kêu lên, ta sẽ tha cho! Tất cả chim dao đều kêu, riêng đến một cái lồng, con dao ở trong ấy gục đầu không dám ngửa trông, bèn bắt ra giết chết . Rồi sai mở lồng thả các con khác ra . Người ta nghe việc ấy đều lấy làm kính phục, nói rằng: - Triệu công tử không nỡ phụ một con chim cưu, thì khi nào lại nỡ phụ người! Từ đó kẻ sĩ không kể hiền ngu đều theo về đông như chợ, khách ăn trong nhà cũng đến ba nghìn người, cũng như Mạnh Thường quân và Bình Nguyên quân . Nước Ngụy có một ẩn sĩ là Hầu Doanh, tuổi đã hơn bảy mươi, nhà nghèo phải làm chức giữ cửa ở Di Môn . Vô Kỵ nghe tiếng là người thanh khiết và hay có kỳ kế, người trong làng xom đều tôn kính, gọi là Hầu Sinh, bèn đi xe đến tận nhà yết kiến, lấy hai mươi cân hoàng kim làm lễ chào . Hầu Sinh từ chối nói rằng: - Doanh này yên phận nghèo để giữ mình, không nhận lấy của ai một đồng nào, nay đã già rồi, lẽ nào lại vì công tử mà đổi tiết ? Vô Kỵ không thể ép được, muốn tỏ ý tôn kính cho tân khách biết, bèn đặt một cuộc đại yến . Đến ngày, tôn thất và các tướng văn tứớng võ nước Nguỵ cùng các quý khách đều đến dự yến . Khi mọi người đã ngồi yên rồi, còn trống ghế thứ nhất ở bên tả, Vô Kỵ bèn sai sắp xê thân hành đến Di Môn mời Hầu Sinh đến dự yến . Hầu Sinh lên xe, Vô Kỵ vái mời ngồi trên, Hầu Sinh không thể nhún nhừơng . Vô Kỵ ngồi bên cạnh để cầm cương, ý rất cung kính . Hầu Sinh lại bảo Vô Kỵ rằng: - Tôi muốn đến thăm một người bạn là Chu Hợi làm nghề mổ lợn ở trong chợ, công tử có thể cùng đi với tôi được không ? Vô Kỵ nói: - Xin cùng đi với tiên sinh! Rồi đánh xe quặt đường đi vào chợ . Đến cửa hàng thịt, Hầu Sinh nói: - Công tử hãy tạm dừng xe lại, để già này xuống thăm khách . Hầu Sinh xuống xe, vào nhà Hợ, cùng Hợi ngồi ở trước bàn thịt nói chuyện với nhau giờ lâu . Hầu Sinh thỉnh thoảng lại nhìn Vô Kỵ, thấy Vô Kỵ vẫn ra ý vui vẻ không chán nản . Bấy giờ mấy chục tên kỵ binh theo hầu, thấy Hầu Sinh nói chuyện mãi, lấy làm tức mình, có đứa chửi vụng, Hầu Sinh cũng nghe tiếng nhưng nhìn Vô Kỵ thì thấy Vô Kỵ vẫn vui vè, bèn từ biệt Chu Hợi, lại lên xe ngồi trên như trước . Vô Kỵ đi từ giờ ngọ mãi đến giờ thân mới về đến phủ, các qúi khách thấy Vô Kỵ thân đi đón khách, lại để trống chỗ để đợi, không biết là vị du sĩ có tiếng ở nơi nào hay sứ thần nước lớn nào, đều một lòng kính cẩn chờ đợi . Chờ mãi không thấy đến, ai nấy đều chán nản . Bỗng nghe báo công tử đã đón khách về đến nơi, mọi người đều đứng dậy chờ xem khách là người nào . Khi khách vào, chúng đều ngước mắt nhìn xem, thì thấy một ông già râu bạc, áo mũ mộc mạc, mọi người đều kinh ngạc . Vô Kỵ dẫn Hầu Sinh giới thiệu với khắp mọi người, ai nấy mới biết là người giữ cửa Di Môn, đều không bằng lòng . Vô Kỵ mời Hầu Sinh ngồi ghế đầu, Hầu Sinh không hề nhún nhường . Khi uống rượu đã nửa chừng, Vô Kỵ tay nâng chén rượu mời Hầu Sinh, Hầu Sinh đón lấy và nói rằng: - Tôi đây là một kẻ lại giữ cửa quan, công tử đã hạ mình đến đón, chờ lâu ở trong chợ, lại cho ngồi trên các tân khách, về phần tôi thực là quá phận . Sở dĩ tôi làm ra như thế, là muốn cho công tử được tiếng là biết nhún mình quí kẻ sĩ vậy! Các qúi khách đều cười thầm rồi tiệc tan . Từ đó Hầu Sinh là thượng khách của Vô Kỵ . Hầu Sinh nhân đó mà tiến cử Chu Hợi, Vô Kỵ mấy lần đến yết kiến, nhưng Chu Hợi tuyệt không đến đáp lễ, mà Vô Kỵ cũng không lấy làm quái, đủ biết là người phục lòng qúi trọng kẻ sĩ nhường nào! Bấy giờ Mạnh Thường quân đến Ngụy, ở nhờ Vô Kỵ, đồng thanh đồng khí nên tình ý rất hợp nhau . Mạnh Thường quân vốn chơi thân với Bình Nguyên quân nước Triệu, khuyên Vô Kỵ kết giao với Bình Nguyên quân, Vô Kỵ lại đem người chị gả cho Bình NGuyên quân làm phu nhân . Từ đó Triệu, Ngụy thông hiếu với nhau, có Mạnh Thường quân đứng giữa làm môi giới . Mân vương nước Tề từ sau khi Mạnh Thường quân bỏ đi, lại càng kiêu căng, muốn thay nhà Chu làm thiên tử . Bấy giờ ở nước Tề sinh ra nhiều điềm quái dị, trời mưa ra máu trong khoảng vài trăm dặm, ướt cả áo người đi đường, tanh hôi lạ thường; lại đất nẻ vài trượng, nước suối chảy ra; lại có người đến cửa quan mà khóc, chỉ nghe thấy tiếng, mà không thấy hình . Nhân dân lấy làm lo sợ, các quan đại phu là Hồ Cáng, Trần Cử đều lần lượt vào can ngăn Mân vương và xin gọi Mạnh Thừơng quân về . Mân vương đều tức giận đem giết chết cả, sai phơi thây ngoài đường đi, để bịt miệng những người muốn can . Vì vậy bọn Vương Chúc, Thái Sử Hiểu đều xưng bệnh từ chức, về ẩn

Hồi 95 96. Nhạc Nghị diệt Tề thống đại quân Điền Đan phá Yên thả trâu lửa Lại nói Yên Chiêu vương từ khi lên ngôi, ngày đêm chỉ lo tính việc đánh Tề để báo thù, viếng người chết, thăm kẻ bồ côi, tôn lễ hiền sĩ, đồng cam cộng khổ với quân lính, vì vậy hào kiệt bốn phương theo về đông như chợ . Có người nước Triệu là Nhạc Nghị, cháu nội của Nhạc Dương, từ bé hay đọc binh pháp . Xưa Nhạc Dương được phong ở Linh Thọ, con cháu bèn ở luôn đó . Gặp cuộc loạn ở Sa Khâu đời chủ phụ, Nhạc Nghị bỏ Linh Thọ mang gia quyến đến ở Đại Dương, làm tôi Ngụy Chiêu vương mà không được tin dùng, nay nghe tiếng vua Yên chiêu đãi hiền sĩ, muốn đến làm tôi, bèn mưu sang sứ Yên, yết kiến Chiêu vương, nói về binh pháp, Chiêu vương biết là người giỏi, đãi như qúi khách . Nhạc Nghị nhún nhường không dám dương, xin cho được làm tôi . Chiêu vương cả mừng, liền bái Nhạc Nghị làm á khanh, ngôi cao hơn bọn Kịch Tân . Nhạc Nghị bèn gọi hết người trong họ dời sang ở nước Yên, làm dân Yên . Bấy giờ nước Tề cường Thịnh, lấn đánh chư hầu . Chiêu vương giấu kín tăm hơi, nuôi quân thương dân, đợi thời hành động . Đến khi Mân vương đuổi Mạnh Thường quân mà buông tay cuồng bạo, trăm họ không sao chịu nổi, thì nuớc Yên đã giàu của đông người, quân sĩ sẵn sàng đánh giặc để đền ơn nước . Chiêu vương bèn hỏi Nhạc Nghị rằng: - Quả nhân ngậm cái thù của tiên nhân đã hai mươi tám năm nay rồi, chỉ sợ một mai chết đi, không kịp tự tay cầm dao găm mà đâm vào bụng vua Tề để rửa thù cho nước! nay vua Tề cuồng bạo, trong ngoài đều oán, đó là ý trời muốn làm mất nước Tề, quả nhân muốn đem quân đi cùng vua Tề quyết một trận sống mái, vậy tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân ? Nhạc Nghị nói: - Nước Tề đất rộng người nhiều, quân lính quen đánh trận, ta chưa có thể một mình đánh được . Nếu đại vương muốn đánh thì tất phải mưu toan với các nước . Nước Triệu là láng giềng gần nhất của nước Yên, vậy bắt đầu nên họp với Triệu rồi thì Hàn cũng tất theo; còn Ngụy thì có Mạnh Thường quân ở đó, Mạnh Thường quân lại đang căm giận Tề, tất Nguỵ cũng theo, như vậy mới có thể đánh được Tề! Chiêu vương lấy làm phải, liền sai Nhạc Nghị đi nói với Triệu, vua Triệu nhận lời, lại gặp lúc có sứ Tần ở đó, Nhạc Nghị liền đem cái lợi đánh Tề mà nói với sứ Tần . Sứ Tần về báo, vua Tần đang ghét nước Tề cường thịnh, sợ chư hầu phản Tần mà theo Tề, bèn cũng xin dự tiệc đánh Tề . Kịch Tân sang Ngụy nói với Tín Lăng quân, Tín Lăng quân cũng bằng lòng, lại hẹn nước Hàn cũng dự vào, rồi cùng định kỳ xuất binh .Vua Yên bèn đem hết quân tinh nhuệ trong nước, sai Nhạc Nghị thống suất . Tướng Tần là Bạch Khởi, tướng Triệu là Liêm Pha, tướng Hàn là Bạo Diêu, tướng Ngụy là Tấn Bỉ, mỗi người đốc suất một đạo quân, đúng hẹn mà đến . Vua Yên sai Nhạc Nghị thống suất cả quân năm nước, gọi là Nhạc thượng tướng quân, thẳng đường tiến sang nước Tề . Vua Tề tự đốc suất đạo trung quân, cùng đại tướng là Hàn Nhiếp đón đánh ở phía tây Tế Thuỷ . Nhạc Nghị thân đi trước quân lính, binh tướng bốn nước đều hăng hái xông đánh, chém giết quân Tề thây lăn đầy đồng, máu chảy thành suối . Hàn Nhiếp bị em Nhạc Nghị là Nhạc Thừa giết chết . Các đạo quân thừa thắng đuổi theo, vua Tề thua to, chạy về Lâm Tri, luôn ban đêm sai người sang Sở cầu cứu, hứa xin dâng cho Sở cả đất Hoài Bắc; một mặt kiềm điểm quân dân, lên thành phòng giữ . Tần, Ngụy, Hàn, Triệu thừa thắng, chia đường đi đánh lấy những thành ở biên cảnh . Chỉ có Nhạc Nghị tự dẫn quân Yên kéo thẳng mãi vào, đến đâu đều hiểu dụ, các thành nước Tề đều tan vỡ, thế như chẻ tre . Đại quân áp thẳng đến thành Lâm Tri . Mân vương sợ quá, bèn cùng vài mươi viên quan văn võ, ngầm mở cửa bắc chạy trốn sang nước Vệ, Vệ hầu ra tận ngoài thành đón rước và xưng thần, mời vào thành, nhường chính điện cho ở, cung phụng rất cung kính . Mân vương kiêu ngạo, không muốn lấy lễ đãi Vệ quân . Quần thần nước Vệ đều không bằng lòng, ban đêm lẻn đến cướp các xe chở đồ . Mân vương giận, muốn nhờ vua Vệ đến chầu, bảo phải bắt kẻ trộm, nhưng vua Vệ luôn mấy ngày không đến triều kiến, cũng không cung cấp thực phẩm cho nữa . Mân vương xấu hổ quá, đợi mãi đến mặt trời đã xế chiều, trong bụng thấy đói lắm, sợ vua Vệ mưu hại mình, bèn cùng Di Duy và mấy người nữa luôn ban đêm trốn đi . Những người đi theo thấy mất chủ đều tìm đường tan chạy cả . Khi Mân vương chạy đến cửa quan nước Lỗ, viên lại giữ cửa phi báo, vua Lỗ sai sứ giả ra đón . Di Duy hỏi: - Nước Lỗ đãi vua ta thế nào ? Sứ giả nói: - Sẽ đãi vua ngươi bằng mười cỗ thái lao . Di Duy nói: - Vua ta là thiên tử, thiên tử đến tuần thú, chư hầu phải lánh ra ở ngoài cung, sớm chiều phải tự mình coi nom thức ăn ở dưới thềm, thiên tử ăn xong, mới được lui mà coi chầu, há chỉ đãi mười cỗ thái lao mà thôi ư ? Sứ giả về báo vua Lỗ, vua Lỗ cả giận, đóng cửa không cho vào nữa . Mân vương lại phải chạy sang nước Trâu, gặp lúc vua Trâu mới chết, Mân vương muốn vào thăm . Di Duy bảo người nước Trâu rằng: - Thiên tử hạ mình đến điếu tang, chủ nhân phải trở lưng về áo quan, đứng ở hè phía tây, ngoảnh mặt về phía bắc mà khóc; thiên tử đứng ở hè trên, ngoảnh mặt về phía nam mà viếng người đã chết . Người nước Trâu nói rằng: - Nước tôi nhỏ, không dám phiền thiên tử hạ mình đến viếng . Rồi cũng cự không cho vào . Mân vương hết đường chạy, không biết tính thế nào . Di Duy nói: - Nghe đâu thành Cử Châu còn giữ được, sao không chạy đến đó ? Mân vương liền chạy đến Cử Châu, đốc quân giữ thành để chống với quân Yên . Nhạc Nghị đánh phá được thành Lâm Tri, lấy hết tài vật và tế khí của nước Tề và những trọng khí của nước Yên bị Tề cướp ngày trước, dùng xe lớn chở về nước Yên . Chiêu vương mừng quá, thân đến trên sông Tế, khao thưởng ba quân, phong cho Nhạc Nghị đất Xương Quốc, gọi là Xương Quốc quân, Chiêu vương trở về nước, lưu Nhạc Nghị ở lại Tề, để thu nốt những thành còn chưa hàng phục . Tôn thất nước Tề có một người là Điền Đan có trí thuật và biết việc quân, Mân vương không biết trọng dụng, hiện lúc ấy chỉ làm một người coi chợ ở Lâm Tri . Quân Yên vào thành Lâm Tri, nhân dân đều chạy loạn, Điền Đan cùng cả họ chạy trốn đến Yên Bình đem chặt bỏ đầu cái trục xe của mình cho sát đến vàng bánh, rồi lấy lá sắt bịt chặt cho vững chắc, ai nấy đều chê cười . Không bao lâu quân Yên đến đánh Yên Bình, thành vỡ, người Yên Bình lại tranh nhau chạy trốn, các xe xô đẩy nhau, vì nhiều đầu trục va chạm vào nhau không thể đi nhanh được . Chỉ có xe của người họ Điền vì đầu trục đều đã bọc sắt, nên không vướng víu, đi được nhanh, chạy thoát được đến Tức Mặc . Nhạc Nghị lại chia quân đi cướp đất, đến ấp Hoạch nghe quan thái phó cũ nước Tề là Vương Chúc ở đó, bèn truyền lệnh cho quân vây ngoài ấp cách ba dặm, không cho phạm đến, rồi sai người đem lễ đón Chúc, muốn tiến lên vua Yên . Chúc từ là bệnh già không chịu đi, sứ giả nói: - Thượng tướng quân có lệnh, thái phó đến sẽ dùng ngay làm tướng và phong cho ấp muôn nhà, nếu không đi thì sẽ đem quân làm cỏ cả ấp . Chúc ngửa mặt lên trời than rằng: - Trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không thờ hai chồng . Vua Tề xa bỏ những người trung thực, cho nên tôi lui về nhà mà cày ruộng, nay nước mất vua chạy, tôi không thể cứu được; nay các người lại chự lấy binh lực doạ tôi, tôi sống mà chịu tiếng bất nghĩa, chẳng thà giữ trọn nghĩa mà chịu chết còn hơn! Nói xong tự treo đầu lên trên cây, vật mình một cái, cổ đứt mà chết . Nhạc Nghị nghe nói, than tiếc mãi không thôi, rồi sai làm lễ táng rất hậu, dựng mộ chí đề rằng: "Mộ Vương Chúc, trung thần nước Tề" . Nhạc Nghị ra quân vừa sáu tháng, đánh hạ được bảy mươi hai thành nước Tề, đều đặt làm quận huyện của Yên, duy có Cử Châu và Tức Mặc, người Tề cố giữ không sao hạ được, Nhạc Nghị bèn cho quân lính nghỉ, triệt bỏ chính lệnh nghiêm khắc của nước Tề, lại lập đền cùng tế Tề Hoàn công, Quản Di Ngô, tìm thăm những người ẩn sĩ, dân Tề đều vui mừng . Nhạc Nghị cho rằng Tề chỉ còn có hai thành mà lại trong tay mình rồi, thì cũng chẳng làm gì được, cho nên không cố đánh lấy nữa . Lại nói vua Sở thấy sứ Tề sang xin quân cứu và hứa dâng cả đất Hoài Bắc, bèn sai đại tướng là Trác Xỉ đem hai mươi vạn quân, lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận đất . Vua Sở bảo Trác Xỉ rằng: - Vua Tề cấp quá mà phải cầu ta, tướng quân sang đó cứ liệu chừng mà làm, hễ có lợi cho Sở, thì cứ tuỳ ý mà làm việc . Trác Xỉ tạ ân đem quân đi, yết Tề Mân vương ở Cử Chau, Mân vương cảm cái ơn Trác Xỉ đến cứu, bèn lập làm tướng quốc, quyền lớn đều về tay Xỉ . Xỉ thấy quân Yên thế mạnh, muốn giết Mân vương cùng Yên chia nhau đất Tề, khiến người Yên lập mình làm vua . Nhạc Nghị đáp lại rằng: - Tướng quân giết kẻ vô đạo, tự mình lập nên công danh, sự nghiệp ấy đến Hoàn, Văn ngày xưa cũng không đáng kể . Vậy xin vâng mệnh . Trác Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Li, mời Mân vương đến duyệt binh . Mân vương đến nơi, Xỉ liền bắt mà kể tội rằng: - Tề có ba cái điềm mất nước: Mưa ra máu, đó là trời bảo; đất nẻ toang, đó là đất bảo; có người đến giữa cửa quan mà khóc, đó là người bảo . Vậy mà vua không biết răn sợ, giết người trung, bỏ người hiền, mong mỏi điều phi phận, nay đất đai đều mất hết phải trộm sống ở một thành, còn muốn làm gì nữa ? Mân vương cúi đầu không nói gì . Di Duy ôm lấy vua mà khóc . Trác Xỉ sai giết Di Duy trước, rồi rút gân Mân vương, treo lên nóc nhà, sau ba ngày Mân vương mới tắt hơi . Mân vương bị giết như thế, thực thảm quá! Trác Xỉ về Cử Châu, muốn tìm thế tử con vua Tề mà giết nốt, nhưng không thấy, bèn làm biểu tâu vua Yên tự kể công mình, nhờ Nhạc Nghị chuyển đạt cho . Lại nói quan đại phu nước Tề là Vương Tôn Giả mới mười ba tuổi, cha mất, chỉ còn mẹ già, Mân vương thương cho làm quan . Mân vương bỏ chạy, Giả cũng theo đi . Đến nước Vệ lạc nhau, chẳng biết Mân vương ở đâu nữa, Vương Tôn Giả bèn lẻn về nhà, bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề đâu, Giả nói: - Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, không biết vua đi về ngả nào ? Bà mẹ giận nói rằng: - Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong, mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong . Vua mong bày tôi, có khác gì mẹ mong con . Mày làm tôi vua Tề, ban đêm vua chạy trốn, mày không biết vua đi đâu, sao lại dám bỏ về ? Giả thẹn quá, lại từ biệt mẹ già, đi tìm vua Tề; nghe vua ở Cử Châu thì đến ngay để tìm . Khi đến đó, mới biết vua Tề đã bị Trác Xỉ giết . Giả bèn trần tay áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ rằng: - Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung, nếu ai bằng lòng cùng ta giết kẻ có tội, thì theo ta cùng trần tay áo bên tả! Người trong chợ cùng bảo nhau rằng: - Người ấy ít tuổi mà còn có lòng trung nghĩa, chúng ta ai là người thượng nghĩa, tưởng đều nên theo! Một chốc có đến hơn bốn trăm người trần tay áo bên tả . Bấy giờ quân Sở dẫu nhiều, nhưng đều chia đóng ở ngoài thành . Trác Xỉ ở cung vua Tề đang uống rượu say, sai phụ nữ tấu nhạc làm vui, vài trăm quân lính, dàn hầu ở ngoài cung . Vương Tôn Giả đem hơn bốn trăm người xông vào cướp khí giới quân lính, sấn vào trong cung, bắt Trác Xỉ, xả thây ra, băm nát nghiền thành nước thịt, rồi đóng cửa thàn cố giữ, quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn, một nửa đầu hàng nước Yên . Lại nói thế tử Tề là Pháp Chương, nghe vua Tề bị hại; bèn cải trang làm ngừơi nghèo khổ, tự x7ng người ở Lâm Tri, tên là Vương Lập chạy đi tránh nạn, nhưng không biết đi đâu, phải vào nhà thái sử Hiểu làm mướn, giữ việc tưới vườn, làm lụng chăm chỉ, không ai biết là con vua . Thái sử Hiểu có người con gái tuổi vừa cập kê, bỗng ra chơi vườn, thấy trạng mạo Pháp Chương lấy làm lạ, nghĩ thầm người này không phải là người thường, cớ sao lại phải khuất phục ở đây . Rồi sai thị nữ hỏi dò lai lịch, Pháp Chương sợ vạ, nhất định không chịu nói ra . Người con gái nghĩ thầm đây là rồng đội lốt cá nên sợ mà phải giấu, tất người này về sau phú qúy không biết thế nào mà nói vậy . Từ đó, thời thường sai thị nữ cung cấp cho áo cơm, lâu dần thành ra thân cận . Pháp Chương bèn ngỏ riêng thân thế cho người con gái biết, người con gái bèn cùng Pháp Chương đính ước vợ chồng, rồi tư thông với nhau, cả nhà không ai biết . Bấy giờ viên tướng giữ thành Tức Mặc bị bệnh chết, trong quân không chủ, muốn chọn một người biết việc binh, cử lên làm tướng, mà không có người . Có người biết việc Điền Đan chặt đầu trục xe bọc sắt, chạy nạn được toàn, nói tài ấy có thể làm tứớng, bèn cùng nhau tôn lên làm tướng quân . Điền Đan tay cầm ván, thuổng, cùng sĩ tốt cùng làm việc, họ hàng thê thiếp đều ghép vào trong hàng ngũ cả . Người trong thành vừa sợ vừa yêu . Lại nói quần thần nước Tề bỏ chạy tán loạn, nghe việc Vương Tôn Giả, cùng đi dò tìm thái tử, hơn một năm, Pháp Chương biết là thực lòng, bèn ra mắt tự nói mình thực là Pháp Chương . Thái sử Hiểu báo cho Vương Tôn Giả biết, Giả bèn mang xe đến đón về lên ngôi vua, đó là Tương vương, rồi báo việc ấy cho thành Tức Mặc biết, ước cùng giúp nhau, để chống quân Yên . Nhạc Nghị vây suốt ba năm không được, bèn giải vây lui ra chín dặm đắp lũy để giữ, hạ lệnh rằng dân trong thành có ai ra kiếm củi, thì cho ra không được bắt, ai đói thì cho cơm ăn, ai rét thì cho áo mặc, có ý muốn cho nhân dân trong thành phải cảm ơn mà vui lòng quy hàng . Lại nói quan đại phu nước Yên là Kỵ Kiếp, có sức khoẻ và cũng hay nói việc binh, quen thân với thái tử Nhạc Tư, có ý muốn chiếm lấy binh quyền, bèn bảo tháii tử rằng: - Vua Tề đã chết, chỉ còn thành Cử Châu, Tức Mặc là ta chưa lấy được mà thôi . Trong có sáu tháng Nhạc Nghị hạ được hơn bảy mươi thành của Tề, vậy còn hai thành ấy phỏng lấy nốt có khó khăn gì ? Sở dĩ Nhạc Nghị không lấy ngay, là vì thấy người Tề chưa qui phục nên muốn thong thả đem ân uy để kết chặt lòng dân Tề . chẳng bao lâu nữa Nhạc Nghị sẽ tự lập làm vua Tề đó! Thái tử nói với Chiêu vương, Chiêu vương giận nói rằng: - Cái thù của tiên vương ta, không phải Xương Quốc quân không thể báo được, cho dù Xương Quốc quân thực muốn làm vua Tề nữa, kể công há chẳng đáng ru ? Bèn đánh thái tử hai mươi roi, rồi sai sứ cầm cờ tiết đến Lâm Tri, bái Nhạc Nghị làm vua Tề . Nhạc Nghị cảm kích mà ứa nước mắt, thề chết không chịu mệnh . Chiêu vương nói: - Ta vốn biết bản tâm của Nhạc Nghị quyết không bao giờ lại phụ ta! Chiêu vương vì ham thụật thần tiên, sai phương sĩ luyện kim thạch làm thuốc thần, uống vào lâu ngày phát nhiệt thành bệnh mà chết . Thái tử Nhạc Tư nối ngôi, đó là Huệ vương . Điền Đan thường mật sai người sang Yên dò thám sự tình, nghe việc Kỵ Kiếp âm mưu thay quyền Nhạc Nghị và việc thái tử bị đánh, nói rằng: - Nước Tề khôi phục được là ở đời vua sau nước Yên chăng ? Đến khi Yên Huệ vương lên ngôi, Điền Đan sai người sang phao lên ở nước Yên rằng: Nhạc Nghị muốn làm vua Tề đã lâu, vì chịu hậu ân của tiên vương Yên, không nỡ làm phản, cho nên hoãn đánh hai thành để chờ cơ hội đó, nay vua mới lên ngôi, hắn sắp cho Tức Mặc giảng hoà . Người Tề sợ nhất Yên phái tướng khác đến, thì thành Tức Mặc sẽ bị tàn phá chẳng còn gì nữa . Yên Huệ vương đã lâu vẫn nghi Nhạc Nghị, khi nghe lời phao đồn ấy hợp với lời nói của Kỵ Kiếp, thì tin ngay, bèn sai Kỵ Kiếp đi thay Nhạc Nghị mà triệu Nhạc Nghị về nước . Nghị sợ bị giết, nghĩ mình là người Triệu, bèn bỏ chạy về Triệu . Vua Triệu bèn phong cho ở đất Quan Tân, gọi là Vọng Chư quân . Kỵ Kiếp lên thay Nhạc Nghị làm tướng, thì đổi hết quân lệnh của Nhạc Nghị, quân Yên đều căm giận không phục . Kỵ Kiếp đến lũy ba ngày, thì đem quân đi đánh Tức Mặc, vây thành mấy vòng . Trong thành giữ rất vững, Điền Đan sớm dậy bảo người trong thành rằng: - Đem qua ta chiêm bao thấy Thượng đế bảo ta rằng sẽ lại nổi, Yên tất phải thua, bất nhật sẽ có thần nhân làm quân sư cho ta, đánh trận nào được trận ấy . Có một tên tiểu tốt hiểu ý, chạy đến trước mặt Đan, nói nhỏ rằng: - Tôi có thể làm quân sư được không ? Nói rồi ù té chạy . Điền Đan nói: - Vị thần nhân ta thấy trong chiêm bao tức là người này! Rồi cho tên tiểu tốt đội mũ mặc áo, để ở trong quân trứớng, cho ngồi trên, ngoảnh mặt về phía bắc mà thờ làm thầy . Tên tiểu tốt nói: - Tôi thực không có tài cán gì cả . Điền Đan nói: - Nhà ngươi cứ im, chớ có nói gì! Rồi gọi thần sư, mỗi lần hạ một lệnh gì, tất bẩm mệnh thần sư đã rồi mới làm; lại bảo người trong thành rằng: - Thần sư có lệnh, đến bữa ăn phải tế trước tiên tổ ở sân, sẽ được tổ tôn phù hộ cho! Người trong thành vâng theo lời dạy . Chim chóc bay trên thấy ở giữa sân có đồ tế đều sà xuống ăn, như vậy sớm chiều hai lần, quân Yên trông thấy lấy làm quái dị . Quân Yên lại nghe chuyện có thần sư xuống giúp, cùng bảo nhau rằng nước Tề được trời giúp, không thể địch nổi, nếu địch lại tất trái ý trời . Điền Đan lại sai người nói xấu Nhạc Nghị rằng: - Xương Quốc quân lành quá, bắt được người Tề không giết, cho nên người trong thành không sợ; nếu xẻo mũi đi, để lên hàng trước thì người Tức Mặc tất phải khổ mà chết! Kỵ Kiếp tin thực đem bao nhiêu quân hàng xẻo mũi hết cả, người trong thành thấy vậy sợ quá, bảo nhau cố giữ, đừng để quân Yên bắt được . Điền Đan lại cho nói rêu rao lên rằng mồ mả của mọi nhà trong thành đều chôn ở ngoài thành cả, nếu bị quân Yên đào bỏ thì làm thế nào ? Kỵ Kiếp lại sai quân lính đào hết mồ mả ở ngoài thành, đốt thây người chết, quẳng bỏ hài cốt, người Tức Mặc ở trên thành trông thấy đều khóc lóc, căm tức muốn được ăn thịt người Yên, cùng nhau kéo đến quân môn xin ra đánh một trận để báo thù cho tổ tôn . Điền Đan biết là quân lính có thể dùng được rồi, bèn kén chọn năm nghìn người cừơng tráng cho ẩn ở các nhà dân, còn bao nhiêu người già yếu phụ nữ thì sai lần lượt giữ thành, lại sai sứ đưa lễ sang quân Yên, nói trong thành lương hết, đã định đến ngày mỗ thì ra hàng . Kỵ Kiếp bèn hỏi chư tướng rằng: - Ta ví với Nhạc Nghị thế nào ? Các tướng đều nói Kiếp giỏi hơn Nghị gấp mấy lần, trong quân đều nhảy nhót hô vạn tuế . Điền Đan lại thu ở trong dân được hơn nghìn vàng, sai các nhà giàu đưa biếu riêng các tướng Yên, yêu cầu trong ngày hạ thành sẽ bảo toàn gia quyến cho . Các tướng Yên cả mừng, nhận vàng, lại giao cho mỗi nhà một lá cờ nhỏ, bảo cắm ở trên cửa để làm dấu hiệu, rồi không phòng bị gì cả, chỉ ngong ngóng chờ Điền Đan ra hàng . Điền Đan lại thu ở trong thành được nghìn con trâu, may áo đỏ, vẽ năm sắc rồng, khoác vào mình trâu, lấy những lưỡi dao nhọn buộc vào sừng trâu, lại lấy cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu, kéo lê đằng sau như cái chổi lớn, trước kỳ hạn ra hàng một ngày, xếp đặt đâu vào đấy . Ai nấy đều không hiểu ý thế nào . Điền Đan giết trâu làm tiệc, đợi đến lúc hoàng hôn, triệu năm nghìn quân cường tráng cho ăn uống no say, vẽ năm sắc vào mặt, cho cầm khí giới chạy theo trâu, sai trăm họ đào thành làm hang, tất cả vài mươi chỗ, dồn trâu chui qua hang ra ngoài, châm lửa đốt bó cỏ buộc ở đuôi, lửa cháy gần đến đuôi, trâu bị nóng quá, rống lên chạy thẳng sang dinh quân Yên, năm nghìn tráng sĩ ngậm tăm chạy theo . Quân Yên cứ chắc là hôm sau người Tề đầu hàng thì sẽ kéo vào thành, nên ban đêm đều ngủ yên cả . Bỗng nghe tiếng chạy rình rịch, giật mình tỉnh dậy, thấy có hơn nghìn ngọn đuối sáng rực như ban ngày, trông ra thấy những con vật mình có vẽ rồng hồng hộc chạy đến, cặp sừng húc vào đâu, người chết và bị thương đến đấy . Trong quân rối loạn . Năm nghìn tráng sĩ, không nói không rằng, dao lớn búa to cứ gặp người là chém, dẫu có năm nghìn người mà khí thế hăng hái bằng mấy vạn quân . Vả lại quân Yên mấy hôm trước vẫn nghe quân Tề có thần sư xuống dạy, bấy giờ thấy những quân mặt mũi lang lổ như ma quỷ, thì lại càng ghê sợ, không dám chống lại . Điền Đan lại thân suất người trong làng reo hò chạy đến, những người già yếu và phụ nữ đều gõ những đồ đồng, tiếng vang trời dội đất, quân Yên lại càng khiếp sợ, ai nấy đều quảng bỏ khí giới, xô đẩy nhau chạy trốn, giày xéo lên nhau mà chết không biết bao nhiêu mà kể . Kỵ Kiếp cưỡi xe hốt hoảng chạy trốn, thì gặp ngay Điền Đan đâm cho một dáo chết ngay . Quân Yên thua to . Điền Đan chỉnh đốn đội ngũ, thừa thế đuổi theo, đánh đâu được đó, các thành ấp nghe quân Tề đắc thắng, tướng Yên đã chết, đều phản Yên mà qui lại với Tề . Điền Đan binh thế ngày càng thịnh, cướp đất Tề . Hơn bảy mươi thành đã bị nước Yên lấy, thì nước Tề đều lấy lại được cả . Quân và tướng đều cho là Điền Đan có công lớn, muốn tôn lên làm vua, Điền Đan nói: - Thái tử Pháp Chương hiện ở Cử Châu, ta là họ xa khi nào dám tự lập mình làm vua . Rồi đến Cử Châu đón Pháp Chương . Vương Tôn Giả cầm cương xe cho Pháp Chương đi đến Lâm Tri, thu táng thi hài Mân vương, chọn ngày cáo miếu lâm triều, tức là Tương vương . Tương vương bảo Điền Đan rằng: - Tề nguy mà lại yên, mất mà lại còn, đều là công thúc phụ trước kia thúc phụ đã có uy danh ở An Bình, nay phong thúc phụ làm Anh Bình quân, ăn bổng lộc một vạn hộ . Vương Tôn Giả được cử làm á khanh . Lại đón con gái thái tử Hiểu về làm vương hậu . Bấy giờ thái tử Hiều mới biết con gái mình đã hiến thân cho Pháp Chương từ trước, giận mà mắng rằng: - Mày không đợi lời mối lái mà tự ý lấy chồng, không phải là con ta, ta thề suốt đời cha con không trông thấy nhau nữa! Tương vương sai người cấp thêm quan lộc cho thái tử Hiểu, Hiểu đều không nhận, nhưng vương hậu thời thường vẫn sai người đến thăm hỏi, chưa bao giờ dám bỏ . Bấy giờ Mạnh Thường quân ở Ngụy, nhường tướng ấn cho công tử Vô Kỵ, Ngụy phong Vô Kỵ làm Tín Lăng quân, Mạnh Thường quân lui về ở ấp Tiết cùng Bình Nguyên quân, Tín Lăng quân cùng đi lại rất thân . Tề Tương vương sợ, lại sai sứ đón Mạnh Thường quân về làm tướng quốc, nhưng Mạnh Thường quân từ chối . Lại nói Yên Huệ vương từ khi Kỵ Kiếp thua trận, mới biết Nhạc Nghị là người hiền tài, nhưng hối không kịp nữa, bèn sai người đưa thư cho Nghị để xin lỗi, muốn đón Nghị về nước, Nghị đáp thư không chịu về . Vua Yên sợ Triệu dùng Nhạc Nghị để mưu hại Yên, bèn lại cho con Nghị là Nhạc Gian được tập phong làm Xương Quốc quân, em họ Nghị là Nhạc Thừa làm tướng quân, đều tỏ lòng qúi trọng . Nghị bèn kết hợp tình giao hiếu Yên, Triệu, đi lại cả đôi bên, hai nước đều lấy Nghị làm khách khanh, về sau Nghị mất ở Triệu . Bấy giờ Liêm Pha làm đại tướng ở Triệu, có sức khoẻ, biết dùng quân, chư hầu đều sợ Triệu . Quân Tần thường đến lấn đất Triệu, Liêm Pha hết sức chống cự . Tần không làm gì được, bèn cùng Triệu giao hiếu

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro