dong dinh ho ngoai su 1 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online 145 Phiếu Sao điểm 5 sao4 sao3 sao2 sao1 sao Đã xem 129585 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 1

Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,

(Chinh phụ ngâm khúc)

 Nghiêm Sơn cho các đạo binh lên đường được ba ngày thì có ngựa lưu tinh báo rằng Triệu Anh-Vũ đã cho binh vượt Thiên-sơn. Đào Kỳ và toàn quân chiếm được Độ-khẩu. Tại bản doanh còn Nam-hải nữ hiệp, Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Lương Hồng-Châu với đạo binh Nam-hải. Vương nói với Nam-hải nữ hiệp: – Tôi với Phương-Dung phải lên đường đi Kinh-châu. Đạo Kinh-châu do Đại-tư-mã Đặng Vũ thống lĩnh. Đặng là một đại-tướng giỏi nhất của Hán, ngặt vì phó tướng của Đặng là Mã Viện không ai chịu ai, vì vậy hơn năm qua, không thắng được Thục. Nếu tôi có mặt, thì hai người mới không dám kình chống nhau. Phương-Dung hỏi: – Mã Viện là ngưới thế nào? – Mã Viện được phong chức Phục-ba tướng quân. Hồi phụ thân ta làm tướng cho Trường-sa vương. Viện là một huyện-úy. Sau cô Viện trở thành Vương-phi Trường-sa vương, y được cất nhắc lên chức Đô-úy, rồi Thái-thú. Hồi ta cùng Kiến-Vũ thiên-tử khởi binh, y đem toàn quân theo. Kiến-Vũ thiên-tử cảm động là người trung lương, chỗ con cô con cậu, nên cho y giữ đại quân. Lúc ta với Đặng Vũ đánh chiếm Kinh-châu, có bàn với Thiên-tử rằng: "Đất Kinh-châu địa thế phân chia Nam, Bắc Trung-nguyên bằng sông Trường-giang. Phía Bắc là hàng rào bảo vệ Lạc-dương, phía Nam tiếp giáp Lĩnh-nam, nơi các Thái-thú bất phục. Phía Đông giáp Mân-Việt, lòng người nan trắc. Phía Tây giáp Thục, Công-tôn Thuật hùng cứ, bất cứ lúc nào cũng gặp nguy hiểm, cần có người văn võ kiêm toàn, trung lương trấn thủ. Ta đề cử Mã Viện trấn giữ chín quận Kinh-châu, còn em y là Mã Anh làmThái-thú Trường-sa. Trong khi ta đánh vùng Giang-đông, chiếm Mân-việt, rồi kinh lược Lĩnh-nam" Lê Ngọc-Trinh hỏi: – Tại sao Kiến-Vũ thiên-tử không giao cho Mã Viện đánh Thục, mà lại giao cho Đặng Vũ? Nghiêm Sơn lắc đầu: – Mã Viện tuy là người trung lương, nhưng so với Đặng Vũ y chỉ là một đại tướng dưới quyền. Cho trấn thủ Kinh-châu là quá sức rồi. Chứ còn thống lĩnh quân nghiêng nước, các tướng khác như Sầm Bành, Mã Vũ không phục. Tuy vậy Kiến-Vũ thiên-tử vẫn giao y trấn thủ Kinh-châu kiêm phó tướng cho Đặng Vũ. Nghiêm Sơn thở dài tiếp: – Mã cậy thế là người thân của Mã thái-hậu, trấn thủ vùng trọng địa, trong khi tài ba, công lao y thua xa 9 đại tướng dưới quyền Đặng Vũ, được ta tặng cho danh hiệu "Tương-dương cửu hùng". Phương-Dung tỏ vẻ hiểu biết: – Tương-dương cửu hùng là chín đại tướng võ công vô địch, tài dùng binh không thua Tôn Vũ, dường như họ tên là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hán, Phùng Tuấn, Đoàn Chí, Lưu Long. Tất cả chín người theo Kiến-Vũ thiên-tử từ khi mới khởi binh. Hiện họ đều ở đạo Kinh-châu cả sao? – Đúng thế. Vì võ công cao, tài dùng binh giỏi, lại nhiều công lao hơn Mã Viện. Mã Viện làm phó tướng, họ bất phục. Đã vậy Mã Viện còn muốn hất cẳng Đặng Vũ, khi Đặng Vũ cầm quân đánh vào Thục, y tìm cách chần chờ không chịu cung ứng lương thảo, bổ sung binh lính, cho nên Đặng Vũ mới thua. Phương-Dung gật đầu: – Vì vậy đại ca cần có mặt ở Kinh-châu phải không? Dường như Mã Viện chỉ sợ có Thiên-tử với đại ca thì phải? Nghiêm Sơn gật đầu: – Đúng thế. Việc dùng binh quan trọng nhất là trị quân cho nghiêm. Ta thành công nhờ đều đó. Một lần Mã Viện ỷ thế Mã thái-hậu, ta sai đem ra chặt đầu. Kiến-Vũ thiên-tử xin ta tha tội cho y. Ta phạt đánh y 30 côn, cách chức xuống còn sư trưởng, sai đi lập công chuộc tội. Từ đó y thấy ta như gà thấy cáo. Sư muội thấy đấy ta đối xử với anh hùng Lĩnh-nam, sư bá, sư thúc, sư đệ, sư muội bằng tất cả tình ruột thịt, họ là anh hùng, họ biết vì đại nghĩa tuân phục lệnh ta, thì có gì xảy ra đâu? Lê Ngọc-Trinh nói: – Bọn em là người hiệp nghĩa. Đem chữ hiệp ra làm việc, mà lại gây sự với nhau. Đem chữ nghĩa ra giúp đại ca Dù mất mạng cũng không từ, còn đâu là chuyện bất tuân lệnh nữa. Nghiêm Sơn gật đầu: – Sư muội nói đúng đó. Vương nói với Nam-hải nữ hiệp: – Phàm việc xung phong, tranh thắng, cần bảo vệ hậu quân cho vững. Lỡ hậu quân có biến cố, thì tiền quân bị lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ đã vượt Kim-sơn. Đào Kỳ đang chiếm Độ-khẩu, song địa thế quá hiểm trở, vậy cần bảo vệ hậu quân thực kiên cố. Cho nên tôi mới nhờ Nam-hải nữ hiệp, sư thúc Lương Hồng-Châu, sư muội Lê Ngọc-Trinh là những người tinh minh mẫn cán, thống lĩnh đạo Nam-hải với ba Quân-bộ, ba Sư-kỵ dàn ra làm trừ bị, bảo vệ hậu quân. Phương-Dung hỏi: – Trong sáu đạo quân Lĩnh-nam, đạo Nam-hải bảo vệ hậu quân, đạo Nhật-nam sư bá Lại Thế-Cường đã điều lên Kinh-châu trợ chiến, đạo Cửu-chân do Hoàng sư-tỷ chỉ huy, đạo Quế-lâm do Minh-Giang chỉ huy, đạo Tượng-quận do sư đệ Đào Hiển-Hiệu thống lĩnh đánh Độ-khẩu. Đại ca nghĩ xem quân số đánh vào mặt sau Ích-châu như vậy đủ chưa? Nghiêm Sơn nói: – Ta được Tế-tác báo cho biết, Công-tôn Thiệu dồn toàn lực ra Kinh-châu, Hán-trung. Mặt Nam do một tướng trẻ, con nuôi Công-tôn Thiệu tên là Công-tôn Phúc tước phong Bình-nam vương trấn thủ. Quân số chưa quá 5 vạn, làm sao địch lại Tiểu sư-đệ với hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ? Phương-Dung, Nghiêm Sơn lên đường đi Kinh-châu. Nghiêm Sơn chỉ mang theo mười tiễn thủ của phái Hoa-lư hộ vệ. Phương-Dung mang theo mười Thần-ưng liên lạc với các cánh quân. Lần đầu tiên Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cỡi con ngựa Ô. Ngựa Ô là một loại ngựa rừng Tây-vu. Hồ Đề phải mất công khó nhọc lắm mới bắt được nó. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng tặng cho Phương-Dung. Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cưỡi ngựa không yên cương thì ngạc nhiên. – Ngựa không cương làm sao mà điều khiển được? Phương-Dung cười: – Nó là ngựa hoang, được chị Hồ Đề dạy dỗ, hiểu được tiếng người, không cần cương. Nàng hô lớn: – Chạy mau! Con ngựa Ô vọt lên như tên bắn. Nghiêm Sơn phi ngựa theo. Hai người tới Kinh-châu vào khoảng nửa đêm. Vương với Phương-Dung gọi cửa. Đặng Vũ, Trưng Nhị mở cửa thành ra đón. Trưng Nhị nhìn mặt Phương-Dung biết đã thành công, nàng hỏi: – Chiếm được Độ-khẩu, Kim-sơn rồi à? Phương-Dung gật đầu: – Quân đã qua Kim-sơn và Độ-khẩu rồi. Có lẽ giờ này họ đang trên đường tới Thành-đô. Cho nên em với Nghiêm đại-ca lên đây xem Đặng đại tư-mã cùng chị chiếm ải Xuyên-khẩu vào Bạch-đế. Với hùng tài đại lược của Đặng đại tư-mã thì vào Thành-đô chắc nhanh hơn Đào tam-ca. Đặng Vũ thất kinh hồn vía nghĩ: Trước đây Kiến-Vũ thiên-tử thường nói rằng Nghiêm Sơn vừa có mưu, vừa có trí, lại thêm tính tình hào sảng của võ lâm hiệp sĩ không sai. Vương từ Lĩnh-Nam lên đạo quân ít hơn ta nhiều, nhờ tinh thần hiệp nghĩa, vương được một số cao nhân hiệp sĩ giúp đỡ, mới thành công như vậy. Kiến-Vũ thiên-tử, Ngô Hán với ta đều cho Tế-tác thám thính tìm đường đánh mặt sau Ích-châu mà tuyệt vọng, vì sông nước chảy xiết, núi cao vời vợi, không thể vượt qua. Nay vương đã làm được, thì vương hơn ta gấp bội, vương xứng đáng là người trên ta. Kiến-Vũ thiên-tử hứa rằng, ai bắt hoặc giết được Công-tôn Thuật sẽ cho làm chúa Ích-châu. Nghiêm Sơn làm chúa Lĩnh-Nam, nơi bờ xôi giếng mật, vương đâu có thèm làm chúa Ích-châu? Ta cần phải được lòng vươn mới mong vào Ích-châu. Vì vậy Đặng Vũ đối với Nghiêm Sơn cực kỳ cung kính. Y sai chuẩn bị trướng gấm cho Nghiêm Sơn nghỉ, để hôm sau còn tiếp tục nghĩ kế đánh Xuyên-khẩu. Phương-Dung ở chung với Trưng Nhị, Hồ Đề. Sau khi rời Phiên-ngung, Trưng Nhị điều động anh hùng Lĩnh-Nam theo Đặng Vũ lên Kinh-châu trước. Còn Lại Thế-Cường với Hồ Đề thống lĩnh đạo Nhật-nam cùng với binh đoàn đặc biệt Tây-vu lên sau. Phải hơn tháng mới tới. Trong khi chờ đợi Lại Thế-Cường, Hồ Đề tới, Trưng Nhị suốt ngày cùng Đặng Vũ lo bổ sung binh mã, tiếp thu lương thảo, thao luyện binh sĩ. Mọi việc vừa hoàn tất thì Nghiêm Sơn tới. Chỉ cách nhau một tháng mà Trưng Nhị, Hồ Đề cảm thấy như xa Phương-Dung một năm vậy. Họ là những thiếu nữ trẻ tuổi tài năng xuất chúng, cùng hướng về đaÏi cuộc phục hồi Lĩnh-Nam, coi nhau như chân tay. Trần Năng hỏi về kế hoạch đánh Độ-khẩu và Kim-sơn, Phương-Dung trình bày tỉ mỉ từng chi tiết một. Hồ Đề bảo Phương-Dung: – Sau này nếu chúng ta khởi binh, phải chia thành khu vực, đánh nhiều mặt trận cùng một lúc, theo ý em phải chia như thế nào? Phương-Dung đáp: – Em đã nghĩ đến chuyện này rồi. Chúng ta chia làm bốn khu vực khác nhau. Khu vực Quế-lâm thì sư bá Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu sẽ đứng chủ trương đại cuộc. Nhưng người điều khiển phải là Minh-Giang. Sư huynh Minh-Giang kinh nghiệm hành quân lại, lại hiểu nhân vật địa phương; huyện-lệnh, huyện-úy người nào theo ta, người nào chống ta, y biết hết. Trưng Nhị trầm ngâm một lúc tiếp: – Phương-Dung nhận xét đúng, chắc em đã thổ lộ mưu kế của chúng ta với Minh-Giang. Hiện giờ em để Đào tam đệ chỉ huy mặt Nam Ích-châu, còn Minh-Giang là Phấn-oai đại tướng-quân. Y là người Hán, liệu y có chống Quang-Vũ không? Phương-Dung gật đầu: – Chúng ta đã có 5 Thái-thú, 6 Đô-úy, Đô-sát, 5 Đại tướng-quân, thì Lĩnh-Nam đã là của chúng ta rồi. Chỉ còn Tô Định mà thôi. Tô bây giờ như người cụt tay, cụt chân. Đô-úy là sư thúc Trần Khổng-Chúng. Anh hùng Lĩnh-Nam do Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc thống lĩnh. Kỵ binh có đaÏo Văn-lạc và Đăng-châu chiếm Luy-lâu. Các đạo Mai-động, Cối-giang, Thái-hà chiếm Long-biên. Còn các nơi khác như Thiên-trường, có sư thúc Trần Quốc-Hương, Lục-hải có Hùng Bảo, Trường-yên có phái Hoa-lư...Nghĩa là chúng ta cùng khởi binh một ngày. Quan lại địa phương ai theo ta thì để, ai không theo, chặt đầu. Trần Năng tiếp: – Vấn đề trước mắt là, ai thống lĩnh quần hùng? Từ trước đến nay, chúng ta mạnh ai nấy làm, chưa có người làm chúa tướng? Em sợ khi đánh đuổi giặc đi rồi lại lâm vào hoàn cảnh tranh giành địa vị. Phật-Nguyệt nói: – Đúng đấy, hiện chúng ta tôn Nam-hải nữ hiệp là người cầm đầu anh hùng Lĩnh-Nam. Nam-hải nữ hiệp chỉ là người đạo đức, cầm đầu anh hùng thì được, chứ tổ chức, cai trị một quốc gia thì không được. Phương-Dung suy nghĩ một lúc rồi nói: – Bàn chung những người sau đây có đủ tài năng, đức độ để làm chuyện đó: Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, Đặng đại-ca, Nhị Trưng, sư thúc Đào Thế-Hùng. Em nghĩ sáu người này đều không ai bằng Nghiêm đại-ca. Trưng Nhị gật đầu: – Ta cũng nghĩ thế, tại sao ta không để Nghiêm đại-ca làm Lĩnh-Nam hoàng đế? Phương-Dung cười: – Em gần Nghiêm đại-ca nhiều, em biết chí của người lắm. Khi đứng ra giúp chúng ta xin Quang-Vũ cho phục hồi Lĩnh-Nam, thì Nghiêm đại-ca xin từ chức Lĩnh-nam vương, để tỏ ý không vì tham quyền cố vị mà chống lại nghĩa huynh Quang-Vũ. Người cũng như sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, chỉ thích tiêu dao sơn thủy. Vì vậy nếu Quang-Vũ thuận, người sẽ để Lĩnh-Nam cho chúng ta tổ chức thành một nước. Còn Quang-Vũ không thuận ắt có chiến tranh. Trường hợp đó Người sẽ đứng ngoài, không muốn giúp Quang-Vũ đánh chúng ta, cũng không muốn vì chúng ta mà phản Quang-Vũ. Phương-Dung trầm tiếng: – Em nghĩ thế này có đúng không: Sáu vùng Tượng-quận, Quế-lâm, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam, Nam-hải, các lạc-hầu bầu lấy một vị vương. Sáu vị vương đó bầu lấy một Lĩnh-Nam hoàng đế: Lệ đặt ra 5 năm bầu lại một lần. Trần Năng vỗ tay: – Sư thẩm hay thật, nghĩ ra được lối giải quyết đó. Ngày xưa, các động, trang đã bầu người thống lĩnh Tây-vu là An-Dương vương, nổi lên đánh vua Hùng. Có điều họ chỉ biết bầu lên, mà không biết ấn định thời gian tái bầu. Thành ra Ngài trở thành vị Hoàng-đế, cho đến lúc già, đầu óc thiếu minh mẫn, lầm lần trong vụ Trọng-Thủy. Trưng Nhị gật đầu: – Bây giờ chúng ta tạm coi thống lĩnh Cửu-chân là Đào-hầu, Nhật-nam là sư bá Lại Thế-Cường, Giao-Chỉ là Đặng đại-ca, Quế-lâm là sư bá Triệu Anh-Vũ, Nam-hải là Khúc-giang ngũ hiệp. Còn Tượng-quận thì phải lên Trường-sa mời Tượng-quận tam anh. Phương-Dung nói: – Còn Lĩnh-Nam hoàng đế, vấn đề khó đây. Bây giờ chúng ta cùng đoán xem, ai sẽ được bầu. Rồi mỗi người cùng viết vào một mảnh giấy kín, xem có ai giống nhau không? Các anh hùng cầm bút, viết lên giấy. Lại Thế-Cường thu các tờ giấy, mở ra. Thấy có 9 tờ thì 8 tờ ghi chữ Trưng Trắc, một tờ ghi chữ Đào Thế-Kiệt. Ông cười tủm tỉm nói với Trưng Nhị: – Ta gấp đôi tuổi cháu, ta nhận xét không sai đâu, trước sau gì chị cháu cũng phải lĩnh chức Lĩnh-Nam hoàng đế. Thực là từ tiền cổ đến giờ mới có một. Muôn ngàn năm sau, anh hùng thiên hạ đều lắc đầu không hiểu tại sao chúng ta lại cử nữ hoàng đế. Song không cử Trưng Trắc thì không biết cử ai đây? Trưng Nhị khẳng khái nói: – Nếu tất cả anh hùng đều đề cử, chắc chị cháu nhận lĩnh. Đã là con cháu Hùng vương, An-dương Vương đâu sợ khó, sợ nguy hiểm. Đám anh hùng nói chuyện cho đến trời sáng, họ mới nhắm mắt dưỡng thần, vận khí lấy lại sức khỏe. Sáng hôm sau Nghiêm Sơn truyền đánh trống tụ tập các tướng. Tướng sĩ Hán trước đây đều dưới quyền chỉ huy của Nghiêm Sơn. Cách nhau một thời gian lâu dài, bây giờ giữa lúc họ bại trận, Nghiêm Sơn trở về với một đạo hùng binh, hàng trăm hào kiệt giúp sức. Họ nghiêm chỉnh đứng nghe lịnh, lòng tràn đầy hy vọng. Đặng Vũ trình bày: – Đạo quân Kinh-châu từ khi bại trận, án binh bất động để bổ sung, tướng sĩ đã phục hồi lại tinh thần. Nay nhờ Vương gia, binh lương đầy đủ. Sĩ tốt muốn ra trận phục thù. Trước mắt là ải Xuyên-khẩu kiên cố, phía sau Xuyên-khẩu là thành Bạch-đế. Binh tướng Xuyên-khẩu, ước 5 vạn bộ, hai vạn kỵ. Nghiêm Sơn gật đầu: – Bây giờ chúng ta ngồi xem Đặng đại tư-mã với Trưng Nhị trổ tài thần vũ. Tướng trấn thủ bên giặc là ai? Sầm Bành nói: – Là Công-tôn Thiệu, em ruột Công-tôn Thuật, tài kiêm văn võ. Về võ công y xử dụng đại đao, đoản đao đều thần sầu quỷ khốc. Về quyền cước, y xử dụng một pho chưởng pháp rất hùng hậu. Tôi đã đấu với y mấy trận, bất phân thắng bại. Y là một trong Thiên-sơn thất hùng. Phương-Dung giật mình hỏi: – Tôi nghe Nghiêm nguyên soái nói, Kiến-Vũ thiên tử khởi binh từ Hoài-dương, thì Đặng đại tư-mã cắp gươm theo hầu bên người, đánh thẳng về Lạc-dương. Võ tướng của Vương Mãng anh hùng là thế, mà không ai chịu nổi của Tư-mã lấy 10 chưởng. Sau Đặng đại tư-mã bị thua về tay tướng quân. Tiếp theo tướng quân đánh tới Kinh-châu, Xích-mi cõ công cao biết mấy, mà rút cục cũng thua tướng quân. Bên giặc nghe tên là khiếp đảm, thế mà y đấu ngang tay với tướng quân thì không phải tầm thường. Võ công y thuộc loại dương cương, ở đây chúng ta có sư thúc Phật Nguyệt xử dụng âm nhu có thể trị được. Còn hai người nữa, võ công dương cương tuyệt đỉnh là Khất đại phu với Đào tam ca, nhưng hai người không có ở đây. Vậy đối vối Công-tôn Thiệu, chúng ta cần đánh một trận bằng mưu trí, để y mất nhuệ khí và đánh baị y bằng võ công, để binh sĩ tin tưởng. Đặng Vũ muốn Trưng Nhị điều binh xem sao, nên bưng ấn kiếm đưa cho nàng. Y nghĩ rằng, nếu trận này thất bại, y đổ cho Nghiêm Sơn. Còn thành công thì y hưởng: – Xin nhờ Trưng cô nương trổ thần oai cho. Trưng Nhị không khiêm tốn cầm ấn kiếm nói: – Trước hết ta đánh cho giặc một trận để chúng mất nhuệ khí và lấy nhuệ khí cho quân ta. Các tướng Hán thấy một nữ quân sư tuổi chưa quá 25, khuôn mặt đẹp như ngọc, uy nghi lên trướng, chưa chi đã coi như thắng địch thì không tin cho lắm. Trưng Nhị đọc được nét mặt họ, nàng thản nhiên cầm bút viết một phong thư. "Trưng Nhị, lĩnh Quân sư đạo binh Kinh-Sở nhà Đại-Hán, thư cho Trường-sa vương. Tiểu nữ từ Lĩnh-nam, được Lĩnh-nam vương hạ cố mời làm Quân-sư cho Đại tư-mã. Vương gia lịnh cho tiểu nữ phải vào Thành-đô trước Tết, thưởng hoa xuân đất Thục. Vậy xin mời các vị anh hùng Thiên-sơn xuất thành quyết chiến một trận". Nàng nói với Hồ Đề: – Phiền sư muội cho chim ưng đưa vào thành dùm. Hồ Đề gật đầu, hú lên lanh lảnh. Một con chim ưng bay lên đậu vào tay nàng. Nàng đưa phong thư nó cắp vào mỏ. Nàng huýt sáo, ra hiệu chỉ chỗ, nó gật đầu bay bổng lên trên mây, hướng vào thành Xuyên-khẩu. Trưng Nhị thăng trướng ra lệnh: – Phía bắc thành Xuyên-khẩu có rừng Đại-xuyên, bây giờ mùa Đông, cây cỏ không lá khó phục binh. Nữ tướng Lê Chân dẫn một nghìn quân kỵ vá 50 thớt voi, vòng phía Đông sang Tây phục sau đồi. Đợi khi Đại tư-mã và Công-tôn Thiệu giao chiến, thế nào chúng cũng cho một đội kỵ binh xuất cửa Bắc đánh vào sườn phải của chúng ta. Khi giặc xuất thành, đợi cho chúng dàn quân đánh vào hữu quân của ta đang hồi kịch liệt, lập tức thả 50 thớt voi và phục binh đánh vào hậu quân chúng. Bị đánh bất ngờ, chúng cùng đường tất tử chiến. Bấy giờ phải mở một đường cho chúng chạy vào rừng. Ở đấy sẽ có đội quân bắt chúng. – Phía Nam thành Xuyên-khẩu có rừng Nghi-đô. Nữ tướng Trần Năng mang 50 thớt voi cùng 5000 quân phục tại đây. Khi Đặng đại tư-mã giao chiến với Công-tôn Thiệu, tất giặc xuất cửa thành phía Nam đánh vào tả quân của ta, tôi sẽ cho đốt pháo lệnh, bấy giờ xua voi và phục binh ra đánh. Giặc bị đánh trước sau thế nào cũng bỏ chạy vào rừng. Giặc đông quá không bắt hết đâu, phải dùng cung nỏ mà bắn. Giặc tất bị tử thương nhiều, bấy giờ hãy đổ quân ra mà bắt lấy. – Công-tôn Thiệu xuất thành, chúng ta chờ y ở Vu-sơn. Đặng đại tư-mã với tôi ở trung quân. Sư thúc Phật Nguyệt cầm tả quân, sư thúc Lại Thế-Cường cầm hữu quân. Chúng ta cùng xuất trận. Nếu Công-tôn Thiệu xuất trận, Đặng tư-mã sẽ đấu vối y. Dù thắng, dù bại, tôi cũng xuất quân và đội voi tràn sang trận địch. Quân giặc bị đánh bất thình lình, quân trong thành sẽ đổ ra cửa Bắc, Nam cứu viện. Sư bá Lại Thế-Cường chia quân ra làm đội, một nửa chống với tả quân địch, một nửa chống với đội quân cửa Bắc. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh, sư muội Trần Năng cho đổ phục binh ra đánh. Giặc thua tất chạy vào rừng. Hồ Hác sư đệ phục ở đây một đội binh mà bắt sống. Quân cửa Nam đổ ra thì sư thúc Phật Nguyệt sẽ chia quân làm hai, một nửa chống với hữu quân địch, một nửa đánh quân tiếp viện cửa Nam. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh lên. Sư muội Lê Chân sẽ đổ phục binh ra đánh vào hậu quân đội tiếp viện cửa Nam. Bấy giờ sư thúc Phật Nguyệt phải giết cho bằng được tướng địch để giặc mất nhuệ khí. Tôi có lời dặn chung: Khi giặc bị thua nên bắt sống càng nhiều càng tốt, tôi sẽ dùng đám quân sĩ này làm tan nát đoàn quân Thục còn lại. Các tướng thấy Trưng Nhị điều quân phải phép, đều ngẩn người ra khâm phục. Chính Đặng Vũ cũng ngẩn người, vì y đã thấy Phương-Dung điều quân. Y cho rằng Phương-Dung chỉ biết ước tính về chiến lược mà thôi, không ngờ bây giờ thấy Trưng Nhị chỉ huy quân tỏ ra thông thạo cả chiến thuật lẫn chiến lược. Trưng Nhị tiếp: – Lĩnh-nam vương gia và quân-sư Phương-Dung sẽ ra trước trận để khích lệ tướng sĩ. Vừa lúc ấy thì chim ưng trở về. Hồ Đề nói: – Nó đưa thư rồi. Đến chiều có sứ từ trong thành đưa thư qua. Trưng Nhị cầm lấy thư đọc. Thư viết: "Dã phu phái Thiên-sơn là Công-tôn Thiệu kính gửi Trưng Nhị cô nương thuộc phái Tản-viên, đất Lĩnh-nam". Nàng đọc xong đưa cho Phương-Dung xem: "Tôi là tên nhà quê, ở núi Thiên-sơn, cùng huynh trưởng xuất thân theo đòi nghiệp võ. Chúng tôi gồm bảy người sư huynh đệ đồng môn, thề cùng nhau dùng võ công giúp kẻ khó, cứu người nguy, trừ đạo tặc. Thời thế nhiễu nhương, vua thì hôn ám, quân thì nhũng lạm, giặc giã nổi lên tứ phương, Trăm họ khốn khổ, muốn sống không nổi. Vì vậy huynh trưởng tôi, tụ tập đệ tử chiếm vùng Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, tổ chức thành một nước Nghiêu-Thuấn. Trước đây tôi có giao tình với sư huynh Đặng Thi-Sách rất hậu. Giữa hai người cùng một ý chí cầm gươm cứu dân. Nay chúng tôi đang làm, trong khiến trăm họ yên ổn, vua với tôi, quân với dân coi nhau như ruột thịt. Vì vậy tuy Ích-châu đất hẹp, dân nghèo, mà Quang-Vũ đem hùng binh trăm vạn, chia làm ba đạo, bao lần tiến vào đều bị đánh bại. Mới đây Tế-tác báo rằng Trưng cô nương cùng Lĩnh-nam vương xuất lĩnh hào kiệt phò Hán diệt Thục. Dĩ nhiên Lĩnh-nam nhân tài như rừng, như biển, cùng Hán diệt Thục thì Thục nguy vong. Thục nguy vong thì trăm họ Ích-châu lầm than, cũng chẳng đáng nói gì, nhưng khi Hán đã diệt Thục, liệu Lĩnh-nam có còn đứng vững được không? Lĩnh-nam vương có còn được tại vị hay không? Trước đây, thời Tây-Hán, Sở-vương Hàn Tín, công lao dường nào, cuối cùng cũng bị diệt tộc. Nay Lĩnh-nam vương công đã không bằng Hàn Tín, mà uy lại bao trùm thiên hạ, thì cái họa không xa là mấy. Kính cẩn mong cô nương nghĩ lại". Phương-Dung đọc xong chuyển cho Hồ Đề, Trần Năng cùng đọc. Trần Năng nói: – Tế tác của Thục thật tài. Chúng ta họp tại Quế-lâm, cơ mật bảo toàn, chỉ có chư tướng được biết thôi, thế mà Thục biết rồi. Đợi ngày mai ra trận sẽ định liệu. Sáng hôm sau Đặng Vũ cho lệnh xuất quân, tới đồi Vu-sơn dàn nghiêm chỉnh. Công-tôn Thiệu dàn quân, quân khí hùng tráng, uy vũ ngất trời. Trưng Nhị, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường đứng trước trận uy thế phiêu phiêu phiêu, hốt hốt, trong cái uy có cái nhàn tản. Công-tôn Thiệu thủng thỉnh cưỡi ngựa ra trước trận nói với Đặng Vũ: – Quang-Vũ thế cùng lực kiệt, tướng sĩ nản lòng, binh tướng không muốn chiến đấu, nên phải đi cầu viện Lĩnh-nam về đối phó với chúng ta. Đặng Vũ! Ngươi là Đại tư-mã, theo hầu Quang-Vũ đã lâu, tự hào trí dũng song toàn, vậy ngươi có dám cùng ta đấu không? Hay phải dựa vào mấy vị cô nương đất Lĩnh-nam? Đặng Vũ cầm roi chỉ sang trận Thục: – Lĩnh-nam hay Ích-châu cũng đều là đất của nhà Đại-Hán, mấy vị cô nương Lĩnh-nam, sang đây để trừ diệt bọn anh em phản tặc các người. Công-tôn Thiệu quát lên: – Bọn mi sức cùng, lực kiệt, đem đàn bà ra trận mà làm cái gì? Trưng Nhị bước ra trước trận nói : – Công-tôn vương gia. Vương gia hỏi câu đó đủ tỏ ra vương gia không biết cái lý của trời đất. Trong thế gian có trời thì có đất, có nóng thì có lạnh, có nam thì có nữ. Cho nên quân Hán mới có nữ tướng, nữ binh. Vương gia coi thường phụ nữ, chẳng hóa ra không hiểu lẽ biến hóa của vũ trụ ư? Hồ Đề là người của Tây-vu theo chế độ mẫu hệ, nàng ghét nhất những người khinh thường phụ nữ. Trong đại hội Tây-hồ, Đinh Công-Thắng chế nhạo Hùng Bảo phải phục tùng vợ, nàng đã đánh cho y phải chui qua háng Trần Năng. Bây giờ nghe Công-tôn Thiệu nói giọng khinh nữ, nàng nổi giận cành hông, phất tay hai cái, hú lên một tiếng dài, vang tới trời cao. Trưng Nhị biết nàng nổi giận, chắc lại tinh nghịch cái gì đây. Nàng không can gián, nói nhỏ với Đặng Vũ: – Để cho Công-tôn Thiệu chịu nhục một chút cũng không sao. Từ phía sau trận một thiếu niên, tuổi khoảng 13-14, quần áo da, phi ngựa đến bên Hồ Đề. Hồ Đề nói nhỏ: – Sún Lé, em cho chúa tôi bên Thục ăn cứt đi. Sún Lé hỏi : – Mấy bãi? Hồ Đề đáp: – Hai trăm bãi. Sún Lé cầm tù và thổi lên trời mấy hơi dài liên miên bất tận. Từ chân trời xa xa, một đoàn chim ưng bay đến trước trận. Đàn chim ưng lông màu nâu, dưới ánh nắng phản chiếu lóng lánh đẹp vô cùng. Đàn chim chia làm 5 toán, mỗi toán 25 con xếp hàng rất ngay ngắn, bay đến trước trận lượn thành vòng tròn. Sún Lé lại cầm tù và thổi lên một hơi dài nữa, từ chân trời xa xa đoàn chim ưng khác bay đến, cũng 25 con xếp 5 hàng ngay ngắn. Hai đàn chim lượn vòng vòng trên nền trời. Tướng sĩ Hán, Thục cùng ngửa cổ lên nhìn hai đoàn Thần-ưng không biết những gì sẽ xảy ra. Ngay cả Nghiêm Sơn, Đặng Vũ, Phương-Dung, Trưng Nhị thấy Hồ Đề mang theo đội Thần-ưng, họ không hiểu nàng cho chúng tham chiến dưới hình thức nào? Nhất là đội này được chỉ huy bởi bọn thiếu niên tuổi chưa quá 15, đều có bộ răng đẹp, mà có hỗn danh là Sún Lé, Sún Cao, Sún Lùn, Sún Rỗ và Sún Hô. Bây giờ thấy Hồ Đề hú lên một tiếng vang vang, thì Sún Lé phi ngựa ra. Sún Lé cầm tù-và thổi, đoàn thần ưng bay lượn rất nhịp nhàng. Bỗng cả đoàn bay vọt lên mây rồi bất thần đâm bổ xuống với tốc độ kinh khủng vào giữa trận Thục. Binh tướng Thục vội vàng chuẩn bị vũ khí đối phó. Nhưng đoàn thần ưng bay xuống cách họ hơn trăm trượng thì vọt trở lên, đồng kêu một loạt. Tướng sĩ Thục thấy trên đầu, y phục, ngựa đều bị một loạt phân chim rơi xuống. Họ đưa tay lên sờ mặt rồi ngửi, mặt mũi nhăn nhó khó chịu. Đứng lược trận phía xa, Nghiêm Sơn thấy tướng sĩ Thục bị Thần-ưng ị tập thể xuống đầu, trông thực thảm thiết. Vương là người nghiêm trang, cũng phải cười đến sùi bọt mép ra. Hai đoàn Thần-ưng sau khi thả phân vào trận Thục, đồng ré lên một loạt, biến vào chân trời xa. Các tướng sĩ bên Hán cười ầm lên, vỗ tay hoan hô. Hồ Đề thấy như vậy đã đủ. Nàng hú lên một tiếng. Sún Lé gò ngựa trở về trận, đứng chờ lệnh. Hồ Đề hỏi Công-tôn Thiệu: – Công-tôn vương gia, thế nào, nữ nhân có tài hay vô tài? Lời vương gia nói ra, chỉ đáng so sánh với phân chim mà thôi. Công-tôn Thiệu người đầy cứt chim, giận quá, y chỉ một tướng cạnh là Công-tôn Đoàn: – Ngươi hãy ra giết đứa con gái kia cho ta. Công-tôn Đoàn vọt ngựa ra đứng trước Hồ Đề: – Nữ tướng kia! Hãy cùng ta đấu ít trăm hiệp. Hồ Đề vọt ngựa ra trước, tay nàng rung lên, cây roi da đã chụp xuống đầu Công-tôn Đoàn. Nguyên cái roi Hồ Đề cán ngắn, khoảng vài gang tay, còn lại là những sợi da. Đầu mỗi sợi da móc những tấm lục lạc và dao, móc câu. Nàng vung lên một cái thì Công-tôn Đoàn thấy một cái lưới chụp vào người. Y múa đao đỡ nhưng không kịp, một vài móc câu trúng vào người y, máu chảy ra lênh láng. Hai người quấn lấy nhau giao phong. Hồ Đề thấy võ công Đoàn cao hơn mình, bản lĩnh ngang với Trần Năng, nên không dám coi thường. Đánh được trên trăm hiệp, Hồ Đề đuối sức, nàng lùi dần về phía sau. Công-tôn Đoàn lợi dụng nàng sơ hỏ, quát lên một tiếng, chém cụt đầu con ngựa nàng. Hồ Đề biết thế nguy, là người ở rừng núi, đánh dư trăm trận, nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nàng đạp chân vào yên ngựa, vọt người lên. Công-tôn Đoàn vớt một đao lên cao định kết liễu tính mạng nàng, thì y cảm thấy một ám khí chụp xuống đầu. Ám khí là sợi dây mềm trói tay y lại, đao rơi xuống đất. Y vùng vẫy thoát khỏi sợi dây, thì Hồ Đề đã rơi xuống sau ngựa y, chụp cổ bắt sống, phi ngựa chạy về trận Hán, liệng y xuống đất. Bấy giờ mọi người mới nhìn ra, thấy Công-tôn Đoàn bị một con trăn to bằng cổ tay, dài hơn trượng siết chặt, không giẫy được. Nguyên Hồ Đề thường nuôi, dạy trăn, rắn làm vũ khí. Nàng cũng như các hào kiệt Tây-vu, kể cả Lục Sún đều đeo trên lưng một cái túi. Trong túi có hai con trăn lớn và hơn chục con rắn nhỏ cực độc. Chúng được huấn luyện tinh vi. Khi lâm trận, chỉ cần xùy một tiếng, chúng từ trong túi đeo trên lưng vọt ra tấn công địch. Vì vậy trong lúc nguy cấp, Hồ Đề xùy một tiếng, con trăn nằm trong túi dưới bụng ngựa, vọt ra quấn lấy Công-tôn Đoàn. Công-tôn Thiệu nhảy ra định cứu tướng của mình thì Sầm Bành vung đao chém xả ngay mặt kình lực mạnh vô cùng : – Công-tôn Thiệu, chúng ta tái đấu. Sầm Bành chĩa đao ngay đầu y chém xuống ! Hai người quay cuồng đấu vơi nhau. Trưng Nhị chỉ giỏi về chưởng pháp, kiếm pháp, nàng không hiểu nhiều về đao pháp, quay lại nhìn Phật-Nguyệt để hỏi ý kiến. Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, kiếm thuật của nàng thần thông, không kém gì Phương-Dung, Đào Kỳ, nàng phân biệt được đao pháp của Công-tôn và Sầm. Nàng nói nhỏ cho Trưng Nhị nghe : – Đao pháp của hai người thuộc loại dương-cương, nhưng hai môn phái khác nhau. Bành thuộc Bắc phái, trầm mãnh, thiếu biến hóa tinh vi. Còn Thiệu dường như thuộc vùng Kinh-Sở, vừa trầm vừa hùng, biến hóa tinh kỳ. Hai bên nội lực cùng cao ngang với Khất đại-phu, Đào tam-lang, Lê Đạo-Sinh. Có điều cả hai cùng kinh nghiệm chiến đấu, khó mà biết ai thắng bại. Nội lực Bành hùng hậu hơn một chút, nếu đấu chưởng thì thắng. Tôi cần quan sát võ công hai người, để Phương-Dung, Đào Kỳ nghiên cứu cách phá. Lỡ một mai họ sang Lĩnh-nam, ta biết phá võ công của họ. Biết cách phá ta không còn sợ gì nữa. Hai tướng đấu trên hai trăm hiệp. Hồ Đề hỏi Trưng Nhị : – Chị muốn em cho tên Công-tôn một bài học hay không ? Trưng Nhị thấy Hồ Đề thích tinh nghịch mà bấy lâu nay phải trở thành đại tướng, không có dịp phát tiết cũng buồn, ban nãy nàng cho Công-tôn Thiệu ăn phân chim, dùng trăn bắt sống Công-tôn Đoàn, lòng đầy phấn khởi. Bây giờ nàng muốn mang Công-tôn Thiệu ra đấu nữa, thì tính trẻ con của Trưng Nhị cũng nổi dậy, nàng hỏi : – Em muốn cho hắn bài học như thế nào ? Hồ Đề bưng miệng cười : – Em muốn nó trần truồng trước trận cho bõ ghét, vì nó có tội khinh thường đàn bà. Trưng Nhị gật đầu : – Ừ, em làm thử chị xem. Hồ Đề phi ngựa đến trước hai tướng hô lớn : – Công-tôn vương-gia, Sầm đại tướng quân xin ngừng tay ? Hồ Đề người rừng núi, nàng ưa nói mộc mạc. Nhưng từ khi rời Giao-chỉ sang đây, lúc nào cũng đi cạnh Trưng Nhị, được Trưng Nhị dạy dỗ rằng : Bất cứ trường hợp nào, dù là kẻ thù, cũng phải nói năng lịch sự, tỏ ra chúng ta dù là võ tướng cũng vẫn không mất vẻ đoan chính, nhu thuận của gái Lĩnh-nam. Cho nên lời nói vừa rồi của nàng mới văn vẻ như vậy. Hai tướng cùng lui ngựa lại. Hồ Đề bảo Sầm Bành : – Sầm tướng quân, tôi thấy võ công Công-tôn vương-gia vô cùng kỳ diệu nên muốn lĩnh giáo ít chiêu. Xin Đại tướng-quân nhường cho tôi được không ? Hai vị đã đánh nhau nhiều rồi mà chưa chán ư ? Công-tôn Thiệu vừa bị nàng chỉ huy đội Thần-ưng ỉa đầy đầu, quần áo, y chưa nguôi giận, tiếp theo cháu là Công-tôn Đoàn bị nàng dùng trăn bắt sống. Y thấy võ công nàng không mấy gì cao, nhưng nàng chỉ huy được trăn, chim ưng huyền bí kỳ lạ, y đã ngán. Nàng thấy võ công y cao mà còn dám thách đấu, thì chắc là có mưu đồ gì đây, y không muốn ra tay, vẫy một cái. Một tướng trẻ khoảng ba mươi tuổi, dáng điệu hiên ngang hùng vĩ bước ra trước trận nói lớn : – Ta là Thượng-tướng Vũ Chu, nếu bên người có ai địch nổi thì ra đây đối chiêu. Mã Viện nói nhỏ : – Vũ Chu là tướng vô địch bên giặc, thất học, vô mưu, nhưng có võ công cao hơn tôi. Tôi bị bại về tay hắn một lần. Hồ Đề xua tay : – Vũ tướng quân ! Ta thấy người coi cũng đẹp đẽ đấy, ta không muốn đấu với ngươi. Ta muốn đánh nhau với Công-tôn Thiệu kia. Ngươi về trận nghỉ đi, đừng đánh nhau với ta, không tốt đâu. Nàng là người Tây-vu, ngẫm nghĩ câu nói bằng tiếng Mường, xong mới dịch sang tiếng Hán, nên giọng hơi ngọng. Người Mường nghĩ sao nói vậy, nàng thấy Vũ Chu dáng điệu hiên ngang, hùng vĩ thì dịch sang tiếng Hán là đẹp đẽ.  Người Trung-nguyên vào thế kỷ thứ nhất bị ảnh hưởng sâu đậm của đạo lý Khổng Mạnh, nam ra ngoài xã hội, nữ ở trong nhà : Nam tại ngoại, nữ tại nội. Đàn bà con gái khi đi đường gặp đàn ông lạ nhìn vào mặt một cái, đã phải che mặt xấu hổ. Thế nhưng nay họ thấy các nữ tướng Lĩnh-nam nhu mì xinh đẹp, trang phục tươi như hoa, giống như những đóa hoa xuân, ra trước trận đã là một điều hiếm thấy. Họ còn thấy Hồ Đề bắt sống Công-tôn Đoàn dễ dàng, bây giờ nàng lại khen Vũ Chu đẹp đẽ, thì không thể nào hiểu nổi. Công-tôn Thiệu ngẫm nghĩ : – Ta chỉ cần đánh một hiệp là bắt được con nhỏ, đem về làm tỳ thiếp cũng sướng một đời. Đất Ích-châu làm gì có đàn bà thế này ? Nghĩ vậy y chỉ mặt Hồ Đề : – Ngươi dùng chim ưng làm người ta dơ bẩn, được ta sẽ bắt ngươi, đem về lột trần truồng cho quân sĩ coi. Đối với người Hán thời bấy giờ, con gái bị người ta nắm lấy tay, phải chặt tay đi để bảo toàn danh tiết. Con gái bị lột trần truồng ra thà giết đi còn sướng hơn. Hồ Đề là người Mường, nàng thường cùng các bạn gái đêm đêm ra suối, cởi trần truồng tắm với nhau, đùa vui ca hát, đó là điều thích thú. Bây giờ nghe Công-tôn Thiệu nói, nàng cười : – Ta không cần ngươi lột đâu. Ta biết tự cởi lấy để tắm mà ! Trưng Nhị nói nhỏ với Hồ Đề : – Y nói lột quần áo sư muội ra là nhục lắm đấy. Sư muội trả đũa đi. Con ngựa của Hồ Đề đã bị Công-tôn Đoàn chém chết, nàng mượn con ngựa ô của Phương-Dung. Nàng huýt sáo một tiếng, con ngựa lao thẳng vào Công-tôn Thiệu. Các tướng sĩ cũng ngạc nhiên khi thấy con ngựa đen nhỏ, không cương, phóng nhanh như lao. Thiệu vung đao chém vào đầu ngựa ô, định giết ngựa, bắt tướng. Nhưng ngựa ô là linh vật của rừng Tây-vu, nó thấy kình lực đao chém vào đầu thì khuỵu vó trước xuống, uốn cong lưng, dựng vó sau lên đá vào ngực Công-tôn Thiệu. Thiệu vội thu đao về đưa ngang cắt hai chân sau ngựa Ô. Ngựa Ô chui dưới bụng ngựa Thiệu, luồn qua phía sau. Trong khi đó Hồ Đề nhảy xuống đất vung tay một cái, cả trăm quả mắt mèo chụp xuống đầu Công-tôn Thiệu. Thiệu vội trở đao lên lia đứt những sợi dây nhưng không kịp nữa, mấy cái móc câu đã trúng người y, đau đớn thấu xương, máu chảy đầm đìa. Con ngựa Ô chui qua bụng ngựa Thiệu, há mồm đớp một cái đứt nghiến hai trứng ngựa Thiệu, rồi vọt ra sau. Ngựa Thiệu bị đứt nghiến hai trứng đau quá hí lên một tiếng ngã lăn ra. Nói chậm chứ diễn tiến ngựa Ô lao tới chui qua bụng, đớp trứng liên hợp với hai đao của Thiệu và một roi của Hồ Đề thật mau. Công-tôn Thiệu là võ học danh gia, y thấy ngựa đổ xuống vội vọt mình lên cao để khỏi ngã. Hồ Đề ném vào người y một nắm ám khí, y vung chưởng lên gạt, thì ra là một đám phấn gì đó, chứ không phải ám khí. Y rơi xuống đất, nhìn ngựa mình bị đứt hạ bộ, máu đầm đìa, trong khi đó Hồ Đề đã lên lưng ngựa Ô ngồi, tay nàng cầm hai cái cật ngựa máu còn nhỏ giọt, đưa ra trước ba quân nói : – Cật ngựa mà xào rau ăn thì chắc là ngon lắm. Cám ơn vương-gia ban cật ngựa. Tướng sĩ bên Hán cười đến phun bọt miệng ra. Quân lính bên Thục không nhịn được cũng phì cười. Họ vội bụm miệng lại vì thấy chủ soái mình bị nhục mạ, cười có khác gì cổ võ bên địch. Con ngựa của Công-tôn Thiệu giẫy mấy cái thì chết. Hồ Đề rú lên một tiếng dài, một đàn chim ưng từ trên trời lao xuống xúm nhau rỉa thịt con ngựa Thiệu. Phút chốc con ngựa chỉ còn bộ xương. Người nghiêm trang nhất là Nghiêm Sơn với Lại Thế-Cường cũng phải cười đến sùi bọt mép ra. Nghiêm Sơn đã biết Hồ Đề ngỗ nghịch, nhưng không ngờ nàng còn dạy con ngựa Ô ngỗ nghịch theo nàng đến thế. Phương-Dung là một thiếu nữ tinh nghịch, thấy Hồ Đề nghịch quá, phải gật đầu nhận rằng mình còn thua nàng quá xa. Trưng Nhị bảo sẽ Đặng Vũ : – Hồ Đề tinh nghịch qúa sợ Công-tôn Thiệu nổi giận, xin tướng quân chuẩn bị đánh với y. Quả nhiên Công-tôn Thiệu nổi giận, vung đao nhảy đến tấn công Hồ Đề. Con ngựa Ô vọt chạy ngược về phía trận Thiệu. Thiệu mừng quá đuổi theo. Phía trận Thục, ba tướng đứng đầu thấy ngựa Hồ Đề chạy đến định dùng vũ khí đánh, nhưng ngựa Ô lạng một cái trở đầu chạy ngược về. Nó vung cước đá ngược ra sau, trúng đầu hai con ngựa tướng Thục. Hai con ngựa đau quá hí lên, quật chủ rơi xuống đất. Khinh công Công-tôn Thiệu tuy cao nhưng không đuổi kịp ngựa Ô. Không cương, Hồ Đề huýt sáo chỉ huy, nó cứ chạy vòng vòng quanh trận, làm Thiệu đuổi một lúc mệt quá ngừng lại, thì ngựa Ô cũng ngừng lại. Công-tôn Thiệu cảm thấy vết thương do roi Hồ Đề đánh vào ngứa ngáy, y đưa tay lên gãi, thấy ở cổ cũng ngứa. Y không chịu được, cởi giáp quăng xuống đất mà gãi. Y càng gãi, càng ngứa. Trưng Nhị hỏi Hồ Đề : – Sư muội, em làm gì hắn vậy ? Hồ Đề cười : – Em tung vào người hắn một ít bột móc mèo. Bột này trúng da thì ngứa lắm, nhưng không làm chết người. Thông thường trúng da thì không đáng ngại, nếu người ta chạy nhiều, mồ hôi đổ ra, phấn móc mèo lọt vào lỗ chân lông, thì ngứa đến điên lên được. Công-tôn Thiệu nhảy lên ngựa của một tướng Thục, giật quần áo ra mà gãi. Y ngứa quá, râu tóc dựng đứng lên. Hồ Đề cười ha hả nói : – Công-tôn vương gia ! Vương-gia đòi lột quần áo tôi. Tại sao vương gia lại tự lột quần áo mình vậy? Vũ Chu thấy chủ tướng bị làm nhục, vọt ngựa ra trước trận định đánh với Hồ Đề, Trưng Nhị vẫy tay cho Hồ Đề lùi lại, Phật-Nguyệt tiến ra. Phật-Nguyệt phi ngựa ra tới trước Vũ Chu nói: – Ta là Phật-Nguyệt, gái Việt đất Lĩnh-nam, muốn cùng anh hùng Ích-châu qua lại mấy chiêu; Vũ Chu thấy một thiếu nữ mảnh mai, mặc quần áo lụa xanh, không mặc giáp trụ, lưng đeo bảo kiếm, nói năng nhu nhã, y coi thường: – Được, vậy cô nương muốn cùng ta đấu quyền hay đấu kiếm? Phật-Nguyệt gật đầu: – Tôi muốn lĩnh giáo tướng quân mấy chiêu kiếm. Công-tôn Thiệu đã được y sĩ thoa thuốc, hết ngứa, mặc giáp trụ lại. Y rút kiếm sau lưng đưa cho Vũ Chu: – Vũ tướng quân, nếu ngươi bắt được cô gái này, ta gả cho tướng quân làm vợ đấy. Binh Thục cười ầm lên. Vũ Chu cầm kiếm, cởi giáp trụ bỏ lại trận, nhảy xuống ngựa đứng đối diện với Phật-Nguyệt. Trống trận hai bên khua vang lừng. Vũ Chu cầm kiếm vòng một chiêu khoanh tay như chào. Phật-Nguyệt cũng cầm kiếm nhảy lên cao quay một vòng, giải khăn lụa bay phấp phới trông thật đẹp. Nàng đáp xuống khoanh tay chào. Tướng sĩ hai bên thấy chiêu này, biết khinh công của nàng không tầm thường. Vũ Chu tấn công trước, kiếm chiêu kình lực mạnh kêu lên những tiếng vo vo. Bên này trận Lại Thế-Cường nói với Trưng Nhị: – Trưng cô nương! Cô nương bảo Phật-Nguyệt đừng giết Vũ Chu vội, để y diễn hết kiếm thuật Thục, hầu chúng ta hiểu rõ địch hơn đã. Đặng Vũ nhăn mặt nhìn Trưng Nhị, Lại Thế-Cường tự nói thầm: Chúng mày thật hỗn láo! Võ công Vũ Chu vô địch đến Sầm Bành còn không địch lại, mà chúng mày dám bảo Phật-Nguyệt đừng giết y, cứ làm như là giết y dễ dàng lắm. Ta sợ Vũ Chu chỉ chém vài kiếm là con nhỏ kia mất mạng ngay. Đặng Vũ xuất thân từ một danh gia đệ tử, năm 25 tuổi theo Quang-Vũ với Nghiêm Sơn khởi binh, các tướng của Vương Mãng không ai địch lại y. Mãi tới trận đánh Hoài-dương gặp Sầm Bành về hàng Hán, từ đó bên Thục không còn một tướng nào là đối thủ của y. Sầm Bành, Đặng Vũ, Phùng Dị là ba đệ nhất cao thủ Đông-Hán. Ngày nọ y đến đầu quân theo Quang-Vũ. Nghiêm Sơn đã đấu thử với y, chỉ chịu được có 7 chưởng rồi chịu thua. Sở dĩ y phải ở dưới quyền Nghiêm, vì một là y không có công trạng bằng Nghiêm với hai mươi lần cứu giá. Hai là Quang-Vũ với Nghiêm Sơn có tình kết nghĩa huynh đệ. Ba là Nghiêm xuất thân nghĩa hiệp, có tài dùng người, khiến anh hùng quy phục. Bốn là tài dụng binh của Nghiêm vô địch thiên hạ. Từ khi cầm quân đánh Thục, Đặng Vũ đấu ngang tay với Thiên-sơn thất hùng của Tây-xuyên, mới đây y lại bị bại dưới tay Vũ Chu. Thế mà hôm nay nghe Lại Thế-Cường dặn Phật-Nguyệt rằng đừng giết Vũ Chu, có nghĩa là nàng thừa khả năng giết Vũ Chu, đời nào y tin. Còn Lại Thế-Cường, ông biết Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, được Nguyễn Phan dốc túi truyền nghề, kiếm thuật của nàng đến chỗ siêu việt như Phương-Dung. Hơn nữa, cách nay mấy trăm năm, Vạn-tín hầu Lý Thân sang Hàm-dương đấu với anh hùng đời Tần. Ông tổng hợp kiếm thuật Trung-nguyên thành những nguyên lý chính, rồi tìm ra phá cách đó là kiếm thuật Lĩnh-nam, lưu truyền đến nay là Long-biên kiếm pháp. Đối với các võ công khác Long-biên kiếm pháp chưa chắc là vô địch, vì phải đợi đối phương ra chiêu, rồi mới thuận thế đưa ra những thức khắc chế chống lại. Nhưng kiếm pháp Long-biên chế ra để khắc chế kiếm pháp Trung-nguyên, mỗi chiêu, mỗi thức đã hàm khắc tinh. Cho nên Lại Thế-Cường biết rõ Phật-Nguyệt thắng Vũ Chu. Kiếm của Vũ Chu phát ra kình lực vo vo, mỗi chiêu thức bổ xuống mạnh đến long trời lở đất, mạnh đến không thể tưởng tượng được. Y đánh đã mười chiêu, chiêu nào cũng biến ảo phi thường, người ngoài những tưởng Phật-Nguyệt sẽ lâm nguy. Nhưng nàng cứ trơn tuột như con chạch, mấy lần kiếm Vũ Chu chỉ nhích một chút nữa là đả thương được nàng. Các tướng Hán, Thục đều nín lặng hồi hộp theo dõi, mỗi chiêu Vũ Chu đánh ra, có tiếng kêu lên: – Ái chà! – Úi! Quá! – Chết! Sau khi tránh mười chiêu của Vũ Chu. Phật-Nguyệt nhận ra nội công của nàng khắc chế nội công của y đã đành. Còn kiếm pháp của nàng dường như thức nào cũng dùng để phá kiếm pháp của y. Các tướng Hán như Sầm Bành, Đặng Vũ, Cảnh Yểm, Mã Vũ đều nhận thấy kiếm pháp Phật-Nguyệt nhẹ nhàng, phiêu hốt, chiêu nào cũng bao hàm sát thủ, biến hóa quái dị không biết đâu mà lường. Bất giác họ đưa mắt nhìn Nghiêm Sơn : – Lĩnh-nam vương tài như Y Doãn, Chu Công có khác. Một mình, một ngựa kinh lược Lĩnh-nam, mấy năm sau, đem về hơn ba mươi vạn hùng binh, vơi hơn một trăm anh hùng. Một cô gái đơn sơ, mộc mạc, võ công tầm thường như Hồ Đề, mà điều khiển được chim ưng, ngựa ô, làm cho bên Thục kinh hoàng. Bây giờ một thiếu nữ ẻo lả, cả ngày không nói một câu, xuất trận với kiếm thuật kinh thiên động địa, mỗi chiêu nàng phóng ra, mọi người đều rùng mình tự hỏi kiếm pháp này là kiếm pháp gì, mà mỗi chiêu, mỗi thức đều khắc chế với võ công của mình ? Bất thình lình, Phật-Nguyệt lộn liền ba vòng ra xa, bóng trắng lấp loáng với giải khăn hồng ngang lưng, như một bông hồng bay lượn trong gió. Vũ Chu vọt người lên theo, xả liền ba nhát. Đến nhát thứ ba, y vừa chém xuống thì Phật-Nguyệt vọt người lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Vũ Chu chém một chiêu bao trùm dưới chân nàng. Tướng sĩ hai bên đều nhắm mắt lại, không muốn nhìn một thiếu nữ xinh đẹp như nàng bị đứt làm hai. Phật-Nguyệt tà tà đáp xuống làn kiếm quang của Vũ Chu. Nàng xỉa một chiêu vào giữa trung tâm. Nàng lại bay vọt lên cao. Vũ Chu vọt người lên. Ở trên không hai người chiết với nhau trên mười chiêu, rồi cùng đáp xuống một lúc. Thình lình Vũ Chu đổi kiếm pháp. Kiếm của y chậm hẳn lại, chiêu nào kình lực cũng veo véo. Phật-Nguyệt nhảy lui liền mười bước, rồi nàng quay tròn người như một con quay, người ta chỉ thấy bóng trắng ở giữa có sợi dây hồng. Nàng lăn vào làn kiếm quang của Vũ Chu. Bỗng choảng một tiếng, cả hai cũng nhảy lui lại. Phật-Nguyệt đã tra kiếm vào vỏ. Còn Vũ Chu thì ôm tay, cườm tay ứa máu ra, mặt lộ vẻ vừa kinh hoàng, vừa khâm phục. Phật-Nguyệt chắp tay nói : – Vũ tướng quân ! Đa tạ tướng quân nhẹ tay. Vũ Chu nhăn nhó đáp : – Cô nương Phật-Nguyệt, tiểu-tướng vẫn chưa phục, vì vừa rồi cô nương ra chiêu thế nào tiểu-tướng hoàn toàn không nhìn thấy. Câu nói của Vũ Chu chính là ý nghĩ của tướng sĩ Hán, Thục. Tất cả không ai hiểu Phật-Nguyệt đã ra chiêu như thế nào. Chỉ có một mình Phương-Dung đứng lược trận phía sau biết mà thôi. Phật-Nguyệt là một thiếu nữ nhu nhã, tính tình ôn hòa, nàng thấy Vũ Chu quả có bản lĩnh chân thực. Nàng thắng y là nhờ kiếm pháp Long-biên khắc chế kiếm pháp Thiên-sơn, chứ không phải kiếm pháp nàng cao hơn y. Nàng nói : – Vũ tướng quân, trên thế gian này ngoài,ân sư của tiểu nữ ra, có lẽ chỉ có hai ngừơi là thắng được kiếm thuật của tướng quân mà thôi. Tiểu nữ cũng như họ, thắng tướng quân là nhờ kiếm pháp của bản môn khắc chế kiếm pháp Thiên-sơn, chứ không phải võ công tiểu nữ cao hơn tướng quân đâu. Bên trận Thục Công-tôn Thiệu và các tướng nghe Phật-Nguyệt nói, họ cảm thấy cô gái Lĩnh-nam này hiệp nghĩa, thật thà đáng kính, không phải người tàn nhẫn độc ác. Công-tôn Thiệu là một người trí dũng tuyệt vời, y nghĩ rất mau : – Hoàn cảnh đưa day, những người này ở vào thế đối nghịch với ta. Ta với Đặng Thi-Sách là chỗ thâm giao, vậy ta phải cho người khẩn sang Lĩnh-nam gặp y, nếu không kéo được những người này về với Thục, ít nhất họ cũng không giúp Hán. Nghĩ vậy Công-tôn Thiệu nói : – Cô nương! Cô nương có thể diễn lại cho Tiểu-vương được mở rộng tầm mắt không ? Phật-Nguyệt gật đầu. Nàng vọt người lên cao, tay rút kiếm đưa xuống dưới, nàng vận khí, thanh kiếm cong đi, rồi bật sang phải. Kình lực làm lưỡi kiếm kêu lên vo vo. Bây giờ Vũ Chu mới biết rằng, y vung kiếm lên chém nàng, nàng đưa kiếm gạt, rồi vận khí lưỡi kiếm bật sang ngang, vì vậy y mới bị trúng cườm tay. Y ra nhặt kiếm, nhìn Phật-Nguyệt cẩn thận, rồi bay vọt lên tấn công. Lần này Phật-Nguyệt rút kiếm đâm ngược trở lại. Kiếm pháp của nàng nhanh quá, hư hư ảo ảo, không biết đâu mà lường. Người ta chỉ thấy bóng trắng nhấp nhô chập chờn khi trái, khi phải. Đặng Vũ đứng lược trận nhìn tình cảnh của Vũ Chu, y nghĩ : – May là Vũ Chu, nếu là mình có lẽ bị giết lâu rồi. Đánh được hai trăm hiệp, Phật-Nguyệt thấy kiếm pháp của Vũ Chu có tới 36 chiêu khác nhau, mỗi chiêu đều biến hóa mãnh liệt vô cùng, nên nàng tránh không đỡ. Đợi khi Vũ Chu đánh hết một lượt, nàng đã hiểu rõ kiếm pháp của y. Y chém liền ba chiêu véo véo véo. Phật-Nguyệt nhảy vọt lên cao ánh kiếm quay thành những vòng tròn bao phủ khắp người Vũ Chu. Chỉ một chiêu đó nàng đã biến thành 72 chiêu khác nhau. Vũ Chu hoa mắt nhảy lui lại 7 bước, mà kiếm quang vẫn bao phủ lấy người. Phật-Nguyệt thu kiếm nhảy lui lại cười : – Vũ tướng quân, người thấy rõ chưa ? Vũ Chu lắc đầu : – Như thế không kể, cô nương dùng tà thuật, chứ có phải dùng kiếm thuật đâu, ta không phục. Phật-Nguyệt cười : – Vậy thì được, bây giờ ta cắt chỏm mũ của tướng quân đây. Thân hình thấp thoáng một cái, ánh kiếm lóe lên, không ai nhìn rõ nàng ra chiêu như thế nào, đã nhìn thấy nàng tra kiếm vào vỏ đánh cách một tiếng, khoanh tay cười. Vũ Chu nhảy lui lại, mặt tái mét, vì chỏm mũ của y bị cắt đứt, y cúi xuống nhặt lên tay phát run. Bên này Sầm Bành nhìn thấy kiếm chiêu của Phật-Nguyệt, y tỉnh ngộ : – Trước đây có một người ở Lĩnh-nam tên Lý Thân sang Hàm-dương đánh thắng tất cả võ sĩ của Tần Thủy-Hoàng bằng chiêu kiếm thần tốc vô cùng, sau được phong là Vạn-tín hầu. Vậy con này tất là đệ tử đời sau của Vạn-tín hầu chứ không sai. Kiếm pháp của nó thần sầu quỷ khốc. Nếu ta là Vũ Chu, ta cũng không biết làm sao đỡ được. Ta nghe con nhỏ Phật-Nguyệt kiếm pháp còn thua Phương-Dung với Đào Kỳ, thế thì kiếm pháp của chúng còn cao siêu tới đâu ? Ngoài trận Phật-Nguyệt vung kiếm lên ánh bạc bao trùm người Vũ Chu. Y chỉ đỡ mà không kịp. Được mấy chục hiệp, mồ hôi vã ra. Lần này Trưng Nhị hô lớn : – Giải quyết đi thôi. Phật-Nguyệt vung kiếm lên, choảng một tiếng, Vũ Chu bị đâm trúng cườm tay. Kiếm rơi xuống đất. Tay trái Phật-Nguyệt bắt kiếm quyết, tay phải dí kiếm vào cổ y, giải khăn đỏ bay phấp phới trông như một nàng tiên. Vũ Chu bật ngửa người ra sau, lăn đi mấy vòng, rồi vọt người đứng dậy, tưởng đã thoát được kiếm Phật-Nguyệt, nhưng vừa đứng dậy, y đã thấy cổ đau nhói, kiếm Phật-Nguyệt dí vào. Y sợ quá biết khó thoát khỏi cái chết, hiên ngang nói : – Ta giận vì học nghệ chưa tinh, bị bại dưới tay cô nương. Cô nương giết ta đi. Vũ Chu này không sợ chết đâu. Phật-Nguyệt cười lớn : – Vũ tướng quân, người có khí phách anh hùng thật hiếm thấy. Tiểu nữ trót mạo phạm mong tướng quân rộng lượng thứ lỗi. Trên đời tiểu nữ chưa bao giờ gặp một kiếm thuật danh gia như tướng quân. Tiểu nữ dám hỏi : Tướng quân với Thiên-sơn lão tiên là thế nào ? Vũ Chu đáp: – Thiên-sơn lão tiên là Thái-sư phụ của tiểu tướng. Phật-Nguyệt, Phương-Dung, Trưng Nhị đều à lên một tiếng kinh ngạc. Ngày nọ trên thuyền từ đảo về Bắc, Khất đại-phu kể chuyện rằng cách nay 20 năm ông cùng Nguyễn Phan sang Trung-nguyên chơi, đấu với khắp anh hùng thiên hạ, để tìm bạn đồng đạo. Sau hơn một năm, hai người chỉ tìm được Thiên-sơn lão tiên là người hiệp nghĩa, rồi kết bạn với nhau. Công-tôn Thiệu hỏi : – Chẳng hay cô nương có quen biết với Thái-sư phụ của chúng tôi chăng ? Phật-Nguyệt đáp : – Tôi bằng này tuổi, làm sao quen được với một lão tiên như Thiên-sơn đại hiệp! Chẳng qua sư phụ tôi với lão tiên là bạn tri kỷ. Cách nay 20 năm sư phụ tôi với Khất đại-phu, cùng lão tiên đấu võ, uống rượu, rồi kết bạn. Khi rời Lĩnh-nam sang đây, sư phụ dạy rằng, nếu biết tin tức lão tiên ở đâu, cho người biết để người sang cùng đối ẩm. Công-tôn Thiệu kêu lớn lên: – Thì ra cô nương là đệ tử của Long-biên thần kiếm Nguyễn Phan tiên sinh. Chúng tôi thua là phải lắm. Đặng Vũ thấy Phật-Nguyệt, Công-tôn Thiệu thân mật, sợ hai bên hòa hoãn thì khó khăn cho y. Y cầm roi ngựa chỉ một cái. Các tướng Hán xua quân tràn sang trận Thục. Bỗng trận phía trái, phía phải đều xáo trộn, thì ra trong thành đã cho hai đạo quân đánh vào trận Hán. Trưng Nhị sai đốt pháo lệnh, cho quân sĩ lui lại, một đàn voi trận xuất hiện. Lần đầu tiên binh tướng Thục thấy voi, thất kinh hồn vía bỏ chạy. Hai đội quân bên trái, phải không sợ vẫn đánh thúc vào mạn sườn quân Hán. Hán quân cương quyết xua voi trợ chiến. Chỉ được một lát hai đạo trái, phải dao động, thì ra hai đội của Lê Chân, Trần Năng xuất hiện. Binh Thục bị ba đội voi bao vây chạy hỗn loạn. Công-tôn Thiệu bỏ Phật-Nguyệt xông về phía Bắc gặp Trần Năng. Y không nói không rằng phóng chưởng đánh liền. Trần Năng vận khí, phát chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng Ngưu tọa ư điền đánh lại. Bùng một tiếng, nàng thấy nảy đom đóm mắt, khí huyết đảo lộn. Vội nhảy vọt lên cao hít một hơi chân khí. Trong khi đó Công-tôn Thiệu cũng rung động toàn thân bởi y không ngờ nữ tướng có công lực mạnh như vậy. Y vung chưởng nữa đánh lên không. Trần Năng trên cao phát chiêu Ác ngưu nan độ đánh xuống. Bùng một tiếng người nàng lại bay lên. Nàng là người can đảm nhiều mưu trí, đá gió một cái đáp xuống đất. Công-tôn Thiệu bị tê cả tay. Y nói : – Thiếu nữ kia, ngươi tên gì ? Trên đời này chỉ có Đặng Vũ, Sầm Bành đỡ được chưởng của ta mà thôi. Ngươi đỡ được mấy chưởng của ta, thì công lực không phải tầm thường. Sư phụ của ngươi là ai ? Trần Năng đáp : – Tôi họ Trần tên Năng, sư phụ tôi họ Trần húy Đại-Sinh. Công-tôn Thiệu nghe đến tên Trần Đại-Sinh thì mặt y cau lại. Y nói : – Trần cô nương, xin cô nương hãy kíp liên lạc với tôn sư, hỏi người xem việc cô nương đánh Thục có hợp đạo lý hay không ? Trần lão tiên sinh với Thái sư-phụ tôi là chỗ giao hảo thâm tình. Sư huynh Đặng Thi-Sách với tôi vốn là chỗ cựu giao. Thôi tôi rút quân đây. Trưng Nhị phất cờ, quân Hán chia làm ba, một đạo do Hồ Đề, Đặng Vũ với Trưng Nhị chỉ huy đuổi theo Công-tôn Thiệu. Một đạo do Lại Thế-Cường chỉ huy quẹo sang phải hợp với Trần Năng đánh đội quân cửa Bắc. Một đạo do Phật-Nguyệt quẹo sang trái đánh đạo quân cửa Nam. Trưng Nhị cho đuổi tới chân thành, trên thành Xuyên-khẩu lăn gỗ đá bắn tên xuống, nàng phất tay cho quân lùi lại. Nghiêm Sơn thấy như vậy đã đủ, vương cho đánh chiêng thu quân. Các tướng binh đều trở về. Kiểm điểm bắt được hơn 3000 tù binh. Trần Năng cùng các y sĩ đang băng bó vết thương cho binh Hán lẫn tù binh bị thương. Sầm Bành hướng vào Trần Năng : – Trần phu nhân, không ngờ phu nhân mảnh mai như vậy mà chưởng lực mạnh đến thế. Phu nhân đối với Công-tôn Thiệu ba chưởng ngang tay, trên đời thật hiếm có. Cảnh Yểm nói với Phật-Nguyệt : – Thú thực tôi chỉ biết khâm phục cô nương mà không biết cô nương sử dụng chiêu thức như thế nào làm cho Vũ Chu dở sống, dở chết. Các tướng Hán bây giờ mới kính phục Trưng Nhị và các tướng Lĩnh-nam. Đặng Vũ nói với Nghiêm Sơn : – Giặc không biết vương-gia ở đây. Hôm nay thấy chúng ta thắng trận, chúng cho rằng chúng ta không đề phòng, chắc thế nào cũng cướp trại. Vậy Trưng cô nương điều binh đề phòng. Nghiêm Sơn lắc đầu : – Công-tôn Thiệu là người cẩn thận, mưu trí tuyệt vời. Y vừa mới bại trận, lại bị trúng độc, nhuệ khí mất, chắc y không cướp trại đâu. Trưng Nhị mỉm cười : – Lĩnh-nam vương liệu địch không sai. Tôi có cách khiến y cướp trại. Nếu đêm nay y cướp trại, ta sẽ chiếm thành Xuyên-khẩu, đuổi giặc đến Bạch-đế thành. Sau đó chia quân ra làm ba, đánh Vũ-khê, Vũ-lăng và Bạch-đế. Đặng Vũ ngẫm nghĩ một lát nói : – Trưng quân sư, giáp sĩ của giặc ở Giang-tân, Bột-lãng có đến mấy vạn, giáp sĩ Thành-đô còn hơn 10 vạn. Nếu ta đánh mau quá, giặc dồn hết quân ra mà sĩ tốt của ta lại mệt mỏi thì nguy. Chúng ta nên đợi đạo quân của Ngô Hán, Đào Kỳ đánh cho giặc rúng động, giặc đem quân từ Thành-đô đi cứu các nơi kia, ta chỉ cần đánh một trận là lấy được Ích-châu dễ dàng. Trưng Nhị nhìn Đặng Vũ cười : – Lĩnh-nam vương đã là anh em kết nghĩa với Kiến-Vũ thiên tử. Tướng quân là một trong ba vị đại thần. Chúng ta cần hy sinh nhiều hơn các nơi kia mới phải chứ. Có phải tướng quân sợ mình đánh nhanh quá, giặc đưa quân ra tiếp viện, khó vào Thành-đô trước, trong khi các nơi kia rảnh tay, nhập Thành-đô, thì cái mộng làm chúa Ích-châu bị mất phải không ? Đặng Vũ bị nàng nói trúng tim đen, y chối quanh : – Tôi sợ binh sĩ mệt mỏi mà thôi. Trưng Nhị chỉ chờ y nói có thế, nhìn Phương-Dung như thông cảm : – Ừ ta đang muốn cho mi tiến chậm để Ngô Hán bắt Công-tôn Thuật, nay mi tự nói ra thì sau này đừng trách ta. Nàng làm bộ như hiểu ra : – Tôi chưa kinh nghiệm, may nhờ tướng quân chỉ bảo, nếu không thì làm quân sĩ mệt mỏi. Thôi được, chúng ta khao thưởng sĩ tốt trước đã. Đặng Vũ cho lệnh giết trâu, mổ dê khao thưởng quân sĩ. Những người chết cho chôn cất tử tế, làm mộ, trên đề tên, quê quán, sau này cho cải táng mang về quê. Trưng Nhị tập hợp tù binh giữa bãi lớn, nàng để Đặng Vũ đứng lên đọc hịch của Nghiêm Sơn, rồi hỏi lớn : – Ai chịu đầu hàng thì ta tha. Ai không chịu đầu hàng thì ta chém đầu. Nào ai đầu hàng thì đứng lên sang bên phải. Quân sĩ cười oà. Có người cười ha hả đến sùi bọt mép. Có người nhổ nước miếng, có người hỉ mũi tỏ vẻ khinh bỉ. Trưng Nhị ngạc nhiên hỏi : – Các ngươi là tù binh bị bắt, đàng lẽ ta đem ra chém. Nhưng nghĩ các ngươi còn vợ con, nên không nỡ, mở rộng cửa cho các ngươi đầu hàng. Tại sao các ngươi lại vô lễ như vậy ? Một tiểu tướng nói : – Trưng cô nương, trận đấu hôm nay thấy tư thái cô nương cùng các vị anh hùng Lĩnh-nam, tôi khâm phục các vị có võ công, võ đạo, trí dũng tuyệt vời. Nhưng có điều đáng tiếc. Trần Năng đứng cạnh hỏi : – Chúng tôi hành xử quang minh chính đại, có gì đáng tiếc đâu ? Viên tướng đó nói : – Trước đây Hoàng-thượng và Trường-sa vương thường nói rằng: Trong thiên hạ nghĩa sĩ rất hiếm. Hiện chỉ đất Lĩnh-nam với Tây-xuyên là nhiều anh hùng. Tây-xuyên có Thiên-sơn thất hùng mà Hoàng-thượng là một. Vì vậy Tây-xuyên giám đứng lên chống lại triều đại thối nát của Lưu Tú. Tương lai chắc chỉ còn Lĩnh-nam mà thôi. Rồi trong lúc bàn về anh hùng Lĩnh-nam, Trường-sa vương có khoe rằng người là bạn thân với Đặng Thi-Sách, người muốn gửi sứ giả sang mời Đặng tiên sinh hợp tác phản Hán, phục lại đất Thục, đất Việt. Không ngờ hôm nay các anh hùng giúp Hán, tức là giúp kẻ ác diệt nhân nghĩa vậy. Cho nên chúng tôi mới tiếc. Y thở dài tiếp : – Cô nương xem, chúng tôi là dũng sĩ đất Thục, dù bị bắt, chúng tôi cam lòng chịu chết chứ không chịu hàng. Thôi cô nương đem chúng tôi ra chém quách đi, chúng tôi tuyệt không oán hận. Trưng Nhị nhìn Trần Năng, Hồ Đề nàng thấy trong mắt mỗi người dường như có vẻ khâm phục tướng Thục. Nàng nói : – Thôi ta đã hứa tha, thì sẽ tha các ngươi. Các ngươi về đi, thanh gươm ta chỉ có thể chém giặc, chứ không thể chém người có võ đạo cao. Đám tướng binh Thục đứng dậy thủng thẳng ra về. Đặng Vũ không hiểu, hỏi : – Trưng quân sư, tại sao lại tha chúng dễ dàng vậy ? Trưng Nhị đưa tờ hịch của Nghiêm Sơn cho y : – Phàm việc thiên hạ phải giữ chữ tín. Lĩnh-nam vương đã ban hịch tôn trọng hiền sĩ. Họ tuy là tướng sĩ Thục thật, nhưng họ là kẻ sĩ giết đi thật uổng. Sáng hôm sau, một tham-tướng vào báo với Đặng Vũ : – Thưa Đại-tư mã, không hiểu trong các cánh rừng quanh dinh Hán, có rất nhiều xác binh lính chết, quần áo xương còn nguyên mà thịt mất hết, máu me văng đầy chung quanh. Quân sĩ rúng động cho rằng những người đó bị yêu tinh ăn thịt. Cảnh Yểm hỏi : – Có bao nhiêu xác như vậy ? – Thưa gần 100 xác. Đặng Vũ truyền lệnh cho quân sĩ không được vào rừng lẻ tẻ, và cho điều tra nguyên do.

Nguồn: Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Người đăng: mọt sách

Thời gian: 30/08/2004 5:24:18 CH

        Hồi 2

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online 145 Phiếu Sao điểm 5 sao4 sao3 sao2 sao1 sao Đã xem 129587 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 2

Thiên ưng lục tướng

 Trưng Nhị kiểm điểm lại, ước tính bên Thục tổn thất khoảng trên một vạn người. Lối tính cổ cứ một bị bắt, có 4 vừa bị thương, vừa bị chết. Còn bên Hán chỉ có hơn ba nghìn chết, khoảng một vạn bị thương. Binh tướng bên Hán đồn đại Trưng Nhị, Phương-Dung có tài như Khương Thái-Công, Tôn Tử, Ngô Khởi; Hồ Đề, Phật-Nguyệt có phép tiên. Ngược lại trong lòng Đặng Vũ ẩn tàng một mối lo nghĩ rằng hắn không bắt được Công-tôn Thuật, không làm chúa được đất Thục. Hắn nghĩ cách, làm cách nào vào Thành-đô trước, nhưng nghĩ hoài không ra. Binh tướng được nghỉ ngơi dưỡng sức. Nghiêm Sơn tổ chức cuộc khao quân thật lớn, thăng cấp những tướng sĩ có công, phủ tuất những gia đình tử sĩ. Trong tiệc khao quân, tướng sĩ Hán uống rượu ăn thịt vui vẻ hơn bao giờ hết. Vì đã từ lâu đạo Kinh-châu của Đại tư-mã Đặng Vũ và Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành đánh nhau với Công-tôn Thiệu bị bại mấy trận, binh sĩ chết không được bổ sung. Bây giờ Nghiêm Sơn mang các anh hùng Lĩnh-nam sang trợ chiến. Trận đầu, không dùng bất cứ một tướng nào bên Hán, mà thắng Thục oanh liệt. Trước trận họ thấy tuyệt diệu nhất là Hồ Đề, một cô gái người Mường, trang phục xanh, đỏ kỳ lạ, nói tiếng Hán không sõi, tính tình bộc trực, võ công không cao, nhưng với đội Thần-ưng của nàng làm cho cả hai bên đều kinh hoảng. Rồi nàng dùng ngựa Ô cho đớp hai quả cật ngựa của Công-tôn Thiệu. Nàng lại phóng ám khí làm Công-tôn Thiệu phải lột quần áo, còn dùng trăn trói tướng Thục. Họ thấy cô gái ẻo lả, thâm trầm ít nói như Phật-Nguyệt, mà đánh bại đại tướng quân bên Thục là Vũ Chu. Trong tiệc, Nghiêm Sơn nhận thấy đám anh hùng Lĩnh-nam dường như không vui vẻ, chỉ ăn uống lấy lệ. Vương cố tìm hiểu nguyên do. Đợi tan tiệc, vương cùng Phương-Dung đến trại anh hùng Lĩnh-nam, thì tất cả đang họp. Bên ngoài Vi Đại-Lâm cùng đội Thần-ngao canh phòng rất nghiêm mật. Trên trời một đoàn Thần-ưng bay lượn, tuần phòng. Sún Lé đứng trên đài cao chỉ huy. Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung: – Sư muội Trưng Nhị có tài đế-vương chứ không phải người thường. Năm nay nàng mới 24 tuổi mà tài đã muốn hơn ta, nếu cứ đà tiến triển này trong vòng hai năm nữa, trong thiên hạ không ai địch nổi nàng. Phương-Dung cười: – Như đại-ca thấy, võ công cao nhất là Khất đại-phu, đạo đức nhất là Nam-hải nữ hiệp, yêu nước nhất là Đào-hầu Cửu-chân, thế mà em không hiểu sao tất cả đều quy phục Trưng Trắc, Trưng Nhị. Chính em, võ công cao hơn Nhị Trưng; điều binh mưu trí, em hơn Trưng Nhị, nhưng tự thấy mình quy phục Trưng sư tỷ, sư tỷ nói gì em không dám cãi. Ngay sư tỷ Hồ Đề làm nữ chúa 72 động trên vùng Tây-vu, sống với thiên nhiên, coi trời nhỏ bằng cái vung, thế mà Trưng sư tỷ nói gì cũng nghe răm rắp. Nghiêm Sơn cười: – Để ta phân tích cho sư muội nghe. Về xung phong hãm trận, hành quân đánh giặc, các vị như Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Lại Thế-Cường, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu thực là đại tài. Nhưng họ chỉ là chiến tướng, chứ không phải đại tướng. Phàm làm đại tướng, trên phải thông thiên văn, dưới phải thông địa lý; lại biết mình, biết người, biết điều khiển các chiến tướng. Sư muội, Đào Kỳ, Vĩnh-Hoa, Trưng Nhị, Trưng Trắc đều có cả. Nhưng Vĩnh-Hoa thiên về mưu và kế. Sư muội giỏi dùng binh hơn. Sư muội giỏi hơn cả ta, nên ta để sư muội làm Tổng quân sư. Đặng Vũ, Ngô Hán đều có tài đại tướng, họ không biết kết hợp giữa mưu và trí, thành tài dụng binh, vì vậy ta để Trưng Nhị với Vĩnh-Hoa làm quân sư cho họ, ta để Khất đại-phu, Phật-Nguyệt theo tòng chinh giúp họ. Chỉ riêng có Đào tiểu sư đệ, y có đủ tài. Y biết kết hợp mưu với trí, giỏi dụng binh, y vừa là đại tướng vừa là quân sư. Võ công y rất cao, ta dạy y kỹ về xung phong, hãm trận, không cần người theo giúp y về võ lực. Ta sợ y trẻ quá, có điều gì quá đáng chăng. Ta để Hoàng sư tỷ đi bên cạnh. Ta biết trên đời này y chỉ vui lòng nghe lời có ba người: Đào hầu, Đinh hầu và Hoàng sư tỷ. Nghiêm Sơn tiếp: – Có một điều, chỉ Nhị Trưng là có tài thu phục nhân tâm. Tài đó là tài đế vương. Chính vì vậy mà những người ngỗ nghịch như sư muội, như Hồ Đề đều khuất phục. Phương-Dung cười: – Còn đại ca! Đại ca biết điều khiển các tướng, biết thu phục nhân tâm, nên mới là Lĩnh-nam vương. Em như đại ca, em kéo quân về Lĩnh-nam xưng là Hoàng-đế. Trưng Nhị sư tỷ làm Thừa-tướng, Đào tam lang làm Tư-mã, em làm Tư-đồ. Câu nói đó của Phương-Dung, đối với Nghiêm Sơn là câu nói đùa của một thiếu nữ vô tư, vương cười khì bỏ qua. Vương đâu có biết Trưng Nhị, Phương-Dung đã bàn với nhau, hầu dò ý vương. Nghiêm Sơn cười: – Con chim thích bay trên trời cao, con nai thích gặm cỏ bên bờ suối. Nghĩa huynh Quang-Vũ của ta thích làm hoàng-đế, còn ta, ta thích cùng Hoàng sư tỷ, ruổi ngựa ngao du bốn phương, ngắm cảnh đẹp của tạo hóa mà thôi. Phương-Dung gật đầu: – Hoàng sư tỷ cũng muốn thế, hôm trước em gọi Hoàng sư tỷ bằng vương-phi, sư tỷ nhíu mày lại, tỏ ý không thích. Em nghĩ kiếp trước đại ca với sư tỷ là Sào Phủ với Hứa Do thì đùng hơn. Vi Đại-Lâm đến trước mặt Nghiêm Sơn hỏi; – Lĩnh-nam vương gia! Ngài có việc gì không? Lão còn vào báo với Trưng cô nương. Nghiêm Sơn gật đầu: – Lão tướng vào báo với Trưng sư muội rằng có ta với Dung muội cần gặp anh hùng Lĩnh-nam. Vi Đại-Lâm trở vào một lúc thì Trưng Nhị ra đón. Nghiêm Sơn khen: – Trưng muội bố phòng như thế này, đến con kiến cũng không lọt vào được, huống hồ là gian tế giặc. Mặt Trưng Nhị lạnh lùng mời Nghiêm Sơn vào trướng, để ngồi lên thủ vị cao nhất. Nghiêm Sơn thấy không khí lạnh lùng, vương hỏi: – Từ hơn năm nay, Đặng Vũ đánh Thục bị thất trận liên tiếp. Cho nên thiên tử mới triệu ta về đánh giặc. Chiến thắng đầu tiên hoàn toàn nhờ các vị sư thúc, sư bá, sư huynh, sư đệ. Nhưng trong buổi tiệc khao quân này, ta thấy các vị đều có ý không vui. Vì vậy ta đến đây tìm hiểu tại sao. Trong chúng ta là tình huynh đệ, chứ không phải một vị Lĩnh-nam vương đối với tướng sĩ. Hồ Đề liếc nhìn Trưng Nhị hỏi ý kiến. Trưng Nhị gật đầu tỏ ý ưng thuận. Hồ Đề đứng lên nói: – Khi rời Lĩnh-nam, tiểu muội được biết rằng trước đây Công-tôn Thuật là một mệnh quan của nhà Hán. Trấn giữ sáu quận, rồi nhân lúc Vương Mãng cướp ngôi, mà xưng đế đất Thục, chiếm 41 quận Tây-xuyên, sau tiến chiếm 9 quận Kinh-châu và 34 châu quận Hán-trung. Công-tôn Thiệu hợp với Ngỗi Hiêu chiếm Lũng-hữu cùng xưng đế. Hán-đế dẹp yên Ngỗi Hiêu, đất Lũng-hữu yên. Duy còn đất Thục là mối loạn, nên chúng ta giúp Hán-đế dẹp Công-tôn Thuật. Nghiêm Sơn gật đầu: – Thì bây giờ sư muội thấy đúng rồi đó. Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường tiếp lời Hồ Đề: – Qua trận đánh vừa rồi, cũng như khi xem xét dân tình, tôi thấy Công-tôn Thuật sở dĩ xưng đế, đánh bại Hán vì y xuất thân võ lâm. Võ đạo của y rất cao, y là một trong Thiên-sơn thất hùng. Nước Thục trên từ vua, xuống dưới tướng sĩ, đối xử với nhau như đám Lĩnh-nam chúng ta. Dân chúng Ích-châu sung sướng hơn dân Kinh-châu. Tôi hỏi dân Kinh-châu họ nói rằng thời Tây-Hán họ không khổ, không sướng. Đến khi Xích Mi, Vương Mãng chiếm, họ khổ vô cùng. Sau khi Thục chiếm họ rất sung sướng. Bây giờ lại thuộc Hán, họ khổ như hồi Xích Mi cai trị. Cho nên chúng tôi có cảm tưởng mình giúp kẻ bất nhân, đánh người nhân. Do đó trong tiệc chúng tôi không vui, họp nhau đây tìm hiểu sự thực. Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: – Ta rời Quang-Vũ sang Lĩnh-nam đúng lúc chiếm Kinh-châu, nên không biết sau đó việc nội trị thế nào. Chúng ta là nghĩa hiệp, các vị nghiên cứu xem Thục có điều gì khiến dân chúng sung sướng; Hán có điều gì khiến dân chúng đau khổ, chúng ta bỏ những điều khổ cho dân, làm những gì hạnh phúc cho dân. Đặng Vũ tuy thống lãnh đạo quân này, nhưng ta ở trên. Thiên tử cho ta trọn quyền thay người, các vị đề nghị gì, ta sẵn sàng theo. Thiên tử là ta, ta là các vị. Vậy các vị đề nghị đi. Vi Đại-Sơn tiếp: – Ngoài trận lão thấy Vũ Chu anh hùng khí phách hiên ngang. Tướng sĩ Thục bị bắt, đều chịu chết chứ không chịu hàng. Họ giống chúng ta, chúng ta chẳng nên đánh. Trần Năng lắc đầu: – Lão bá nói thế thì đúng rồi, nhưng chúng ta cần giúp Quang-Vũ để phục hồi Lĩnh-nam. Vì vậy dù biết đánh người nhân cũng phải ra tay. Phục hồi đất nước trên hết. Câu nói của Trần Năng làm mọi người tỉnh ngộ. Sáng hôm sau Nghiêm Sơn gọi Đặng Vũ đến nói: – Đặng đại tư-mã tài ba lỗi lạc, hãy lo chiếm Xuyên-khẩu vào Thành-đô. Ta với quân sư Phương-Dung đi Hán-trung ngay, hầu gặp Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán, duyệt xét tình hình thế nào mới được. Việc quan trọng nhất ta muốn nói với Đại tư-mã rằng: Đất Ích-châu là nơi trước đây Cao-tổ nhà Hán ẩn náu, sau quật khởi đánh Sở bá vương. Vì vậy tướng quân đi đến đâu cũng phải lấy nhân nghĩa đối với trăm họ, đó là điều cần thiết vậy. Đặng Vũ, Trưng Nhị tiễn Nghiêm Sơn, Phương-Dung lên đường. Thông thường các tướng soái đi đâu, binh tướng theo hầu cả hàng vạn để bảo vệ. Nhưng Nghiêm Sơn, Phương-Dung là người võ công cao cường, không cần hộ tống. Vương chỉ mang theo mấy thần ưng làm phương tiện liên lạc, với mười tiễn thủ của phái Hoa-lư. Tiễn Nghiêm Sơn đi rồi, lúc trở về Hồ Đề nói với Đặng Vũ: – Ngày mai mình chuẩn bị đánh thành Xuyên khẩu. Ở không buồn quá! Đặng Vũ rùng rình chưa muốn tiến công, cho tới một hôm tế tác báo cho biết Thành-đô đang rúng động vì đạo quân phía Nam đã tiến tới Long-xương, Hán-nguyên. Đạo Lĩnh-nam tạm ngừng tiến công để kinh lược các thành trì, thiết lập hệ thống cai trị, đồn ải cho an toàn mới vào Thành-đô. Còn đạo quân Tây-xuyên đã đánh được Dương-bình quan, chia làm hai tiến đánh Ba-trung, Kiếm-các. Thành-đô vội đưa binh tướng ra trấn thủ mặt Nam, Bắc. Công-tôn Thuật lo lắng vô cùng. Đặng Vũ nghe báo cuống cuồng, vội tập họp tướng sĩ đánh Bạch-đế, Xuyên-khẩu càng gấp càng tốt. Trưng Nhị biết tâm lý y, nàng nên cứ rùng rình không lên tiếng. Đặng Vũ hỏi: – Trưng quân sư, bây giờ chúng ta phải tiến quân cho mau mới được. Trưng Nhị giả vờ: – Được, vậy chúng ta chiếm Xuyên-khẩu, rồi chia quân ra làm ba. Một đánh Bạch-đế, một đánh Vũ-khê, một đánh Vũ-lăng được chăng? Đặng Vũ muốn đánh nhanh, không đồng ý: – Theo ý tôi, ta tiến đánh Xuyên-khẩu rồi vây thành Bạch-đế cầm chân giặc. Ta tiến dọc theo sông Trường-giang đánh Bồ-lăng. Tới Bồ-lăng chia làm hai, một theo sông Bồ-giang, một theo sông Nê-giang, tiến đến uy hiếp Thành-đô. Trưng Nhị càng đủng đỉnh: – Đánh như vậy thì mau đấy, nhưng những ải phía sau ta chặn đường tiếp tế, ta kẹt ở giữa thì nguy đấy. Chi bằng ta cứ thong thả mặc cho hai đạo quân kia vào Thành-đô trước. Đặng Vũ tức đến đỏ mặt lên, nhưng y vì cần Trưng Nhị nên phải nín nhịn, y nói ngọt: – Trưng cô nương, xin cô nương giúp tôi... Trọn đời tôi nguyện không quên ơn cô nương. Trưng Nhị thấy đùa như vậy đã đủ rồi, nàng nói: – Thôi được, hôm nay chúng ta đánh chiếm Xuyên-khẩu, bao vây thành Bạch-đế. Như vậy Đại-tư-mã vừa ý chứ? Đặng Vũ mừng cuống cuồng lên, bưng ấn kiếm hai tay đưa trước mặt Trưng Nhị: – Xin Trưng quân sư điều binh cho. Đặng Vũ sai đánh trống triệu tập quân sĩ đến nghe lệnh. Trưng Nhị lên trước trướng ngồi: – Hôm Đặng đại-tư mã muốn chúng ta đánh Xuyên-khẩu, nhất quyết giờ Tý đêm nay phải vào trong thành. Tướng sĩ nào lui thì chém đầu làm hiệu lệnh dù cấp nào cũng quyết không tha. Các tướng Hán nghe nói, mặt nhìn mặt ngẩn ngơ. Kiến-oai đại tướng quân Cảnh Yểm đứng lên thưa: – Thưa quân sư trận đầu quân sư không dùng đến chúng tôi, chỉ dùng các tướng Lĩnh-nam mà thắng giặc. Hôm trước giặc cùng ta dàn trận thì dễ, chứ bây giờ tướng giặc võ công cao, quân sĩ tinh luyện, chúng nhất quyết thủ trong thành làm sao mà đánh vào được. Trước đây Đại tư-mã đã cùng anh em chúng tôi đánh bao phen, chỉ chết uổng sĩ tốt mà thôi. Bây giờ quân sư bắt phải vào thành giờ Tý đêm nay, thì thực không thể nào được. Trưng Nhị nhìn Đặng Vũ cười: – Đại hội quân ở Quế-lâm, quân sư Phương-Dung đã định sẵn kế sách. Chúng ta đánh bại các cao thủ bên giặc, cần thắng một trận để cho giặc mất nhuệ khí, bấy giờ sẽ đánh thành. Hai vấn đề đầu tiên, chúng ta đã thành công. Bây giờ đánh thành không khó khăn gì nữa. Trước kia, các vị thua vì binh sĩ chết không được bổ sung, khí thế giặc mạnh. Bây giờ ngược lại khí thế ta mạnh, binh giặc không được bổ sung. Nàng cầm binh phù nói: – Nữ tướng Phật-Nguyệt, chỉ huy toàn bộ hải quân đánh chiếm cảng Độ-hà. Nữ tướng Hồ Đề cho Phật-Nguyệt mượn đội Thần-ưng. Khi hai bên dàn quân đánh nhau, cho Thần-ưng xuất trận làm địch phải rối loạn. Hải-quân giặc bỏ chạy không cần đuổi xa, đến bên Cổ-lăng thì đóng lại, bao vây mặt sau thành Bạch-đế. Hồ Đề hỏi : – Thần-ưng của tôi có một Lữ, gồm 600 con, chia thành từng Lượng 25 con. Cho mượn hết hay chỉ mượn một vài Tốt ? Sau khi đuổi giặc thì trả về hay vẫn mang theo bao vây thành Bạch-đế ? Trưng Nhị đáp : – Đánh nhau dưới nước, vũ khí quan trọng là cung tên. Khi Phật-Nguyệt dùng cung tên bắn giặc tất nhiên giặc bắn lại. Nếu ta dùng Thần-ưng từ trên bổ xuống đánh, địch phải dùng cung tên bắn Thần-ưng, như vậy hàng ngũ rối loạn. Khi đến Cổ-lăng, Thần-ưng vẫn được giữ để còn đánh thủy quân giặc nữa. Phật-Nguyệt hỏi : – Đô-đốc Lưu Long hiện coi thủy quân, vậy tôi là chủ tướng hay Lưu Long là chủ tướng ? Đặng Vũ đáp : – Cô nương Phật-Nguyệt làm chủ tướng. Trưng Nhị tiếp : – Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm mang hai vạn quân đánh cửa Bắc, cần giữ vững trận tuyến không cho giặc chạy ra. Xin sư bá Lại Thế-Cường theo giúp Cảnh tướng-quân. Lại Thế-Cường hỏi : – Quân mã của Kiến-oai đại tướng-quân gồm ba vạn. Đạo quân Nhật-nam của tôi gồm bốn vạn Bộ-binh, bẩy nghìn năm trăm kỵ binh, nếu đem cả đi thì e rằng nhiều quá chăng ? Còn mang đi một phần thì mang quân của ai ? Trưng Nhị nói : – Binh lính của Cảnh đại tướng-quân đánh nhiều trận đã mệt mỏi, cho họ nghỉ dưỡng sức. Sư bá mang quân Nhật-nam xuất trận. Nàng tiếp : – Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ mang hai vạn quân đánh cửa Nam. Nếu thấy giặc bỏ chạy, thì lùi lại cho chúng thoát khỏi thành. Sư muội Lê Chân mang theo một trăm thớt voi giúp Mã tướng-quân. Cứ thẳng đường đuổi không sợ phục binh, vì giặc trong thành Bạch-đế không dám xuất ra cứu đâu, nếu chúng xuất ra, sẽ bị thủy-quân ở Cổ-lăng đánh úp thành. – Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân mang hai vạn quân phục ở Vu-sơn, khi giặc bỏ thành chạy, chờ một nửa đi qua hãy đổ ra đánh. Tuy bắt không được tướng giặc, nhưng cũng bắt được một số quân. Sau đó tiến vào cửa Tây thành. Xin sư thúc Trần Năng theo giúp Mã tướng-quân. – Chúng ta bỏ trống cửa Tây cho giặc chạy về thành Bạch-đế. – Đặng đại-tư-mã, Sầm đại tướng-quân đánh vào cửa Đông làm nỗ lực chính. Xin Đặng đại tư-mã cho binh sĩ chuẩn bị thang, cung nỏ sẵn. Ngừng một lát, nàng nói : – Tôi nhắc lại là cung nỏ với đoản đao phải sẵn sàng. Chúng ta đánh cửa Đông gấp, giặc sẽ lên thành dùng cung nỏ bắn xuống và lăn gỗ đá. Nữ tướng Hồ Đề chuẩn bị đội Thần-phong. Khi pháo lệnh nổ, cho đội Thần-phong đánh quân trên thành. Pháo lệnh đó cũng là lệnh cho quân sĩ bắc thang lên. Chúng ta có một phần tư giờ để lên thành mà thôi. Vì chậm trễ, giặc đem lửa đốt, Thần-phong bỏ chạy, tất ta gặp nguy. Binh sĩ lên mặt thành rồi cung nỏ bắn lùi giặc, mở cửa cho đại-quân tiến vào. Đặng đại tư-mã, Chinh-di đại tướng-quân đánh vào giữa thành. Phấn-oai đại tướng-quân Lưu Hân với tôi đánh sang cửa Nam. Hổ-oai đại tướng-quân Phùng Tuấn và sư tỷ Hồ Đề đánh sang cửa Bắc. Bấy giờ giặc bỏ thành chạy, chúng ta không cần đuổi theo, vì đã có phục binh chặn đường bắt sống. Trước đây khi hội quân ở Quế-lâm, Trưng Nhị và Hồ Đề có hứa sẽ làm cho quân trên thành tê liệt trong vòng nửa giờ, giúp Đặng Vũ đánh thành. Bấy giờ Đặng Vũ hỏi rằng đạo quân mà Hồ Đề làm tê liệt quân trên thành là quân gì ? Hồ Đề không trả lời, nàng sợ lộ bị giặc biết, giặc sẽ có cách chống. Bây giờ Đặng Vũ mới biết là đội ong, nếu địch quân biết trước sẽ dùng lửa chống lại, e khó thành công. Các đạo quân lục tục lên đường. Đặng Vũ với Trưng Nhị vừa lên ngựa đi được một lát, chưa tới thành Xuyên-khẩu có thám mã về báo : – Thủy-quân giặc bỏ chạy, nữ tướng Phật-Nguyệt đang cho quân đuổi theo. Nguyên Phật-Nguyệt là người cơ mưu, võ công cao cường. Lúc nàng đến cảng thủy quân thì Lưu Long, Đoàn Chí đã chờ sẵn. Nàng ra lệnh cho Lưu Long dàn chiến thuyền, khua chiêng trống tiến lên đánh quân Thục. Thủy quân Thục đông hơn Hán lại đóng ở thượng-lưu sông, tấn công như vũ bão. Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, khinh công của nàng ngang với Đào Kỳ, Phương-Dung. Nàng chỉ nhún mình mấy cái đã leo đến đỉnh cột soái thuyền quan sát. Thủy quân Thục chia làm bốn cánh, dàn ra thành đội hình như một tam giác. Phía trước ba đội : Trung quân, tả, hữu. Phiá sau là đội trừ bị. Mỗi đội phía trước có một soái thuyền rất lớn, đội phía sau có năm soái thuyền, một số thuyền nhỏ lui tới tiếp tế cho các chiến thuyền phía trước. Phật-Nguyệt ít đọc binh thư, chưa biết gì về thủy chiến, hơi bỡ ngỡ. Nàng nhìn bên Hán cũng dàn trận tương tự. Là người thông minh, nàng nghĩ: – Hai bên bắn nhau thế này mà mình ở dưới hạ lưu, địch thượng lưu thì mình yếu thế. Vậy phải cho hai bên cận chiến, thế thượng lưu của địch sẽ mất đi. Nàng gọi Sún Lé, người chỉ huy Thần-ưng hỏi : – Sư đệ, nếu hai bên đánh lẫn nhau, Thần-ưng có cách nào phân biệt giữa ta và địch không ? Sún Lé cầm đầu Tây-vu Thiên-ưng, tính tình tinh nghịch hơn cả Hồ Đề, nhiều mưu lắm mẹo, nó nghe Phật-Nguyệt hỏi thế thì gật đầu : – Có chứ, quân Hán mặc quần áo xanh, quân Thục mặc quần áo sậm. Kể từ lúc giáp chiến đến giờ, Thần-ưng đã phân biệt được giữa ta và địch. Tùy chị muốn, em sẽ ra lệnh cho Thần-ưng chỉ tấn công những ai mặc quần áo mầu nâu sậm thôi. Phật-Nguyệt gọi Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí và đô-đốc Lưu Long lại dặn : – Bây giờ thế này, hai tướng-quân cho thuyền xuôi theo dòng nước, ryt lui nhưng vẫn giữ vững đội hình. Như vậy mình không phải xuất lực chèo. Giặc đuổi theo thì mình vẫn cứ lui từ từ, cho quân bắn cầm chừng. Cố giữ đôi bên khoản g cách một tầm tên. Chúng ta sẽ cho ba soái thuyền vọt về trước. Lưu tướng-quân đánh bên phải, tôi đánh vào giữa. Đoàn tướng-quân đánh vào bên trái. Khi thấy soái kỳ của giặc bị tôi chặt gãy, sư đệ Sún Lé cho Thần-ưng bay lên tấn công. Đợi hàng ngũ địch loạn mới cho quân đuổi theo. Nàng dặn Sún Lé : – Sư đệ có 600 Thần-ưng, chia thành 6 tốt phải không ? – Không em để một tốt cho sư tỷ Hồ Đề dùng. Em mang theo 5 tốt, mỗi tốt 100. Một tốt chia làm 4 lượng. Mỗi lượng 25 Thần-ưng. – Em có mấy người điều khiển Thần-ưng? – Tất cả có 5 người với em nữa là sáu. Chúng em đều nhỏ tuổi cả. Lớn nhất 16, nhỏ nhất 14. – Vậy thì tốt lắm. Em trấn nhậm trung ương. Đứng trên soái hạm chỉ huy. Đầu tiên cho bốn tốt xuất trận. Một tốt đánh vào phải, một tốt đánh vào trái, một đánh vào giữa, một đánh vào hậu quân địch. Còn một tốt cho bay lượn trên không làm trừ bị. Còn đánh cách nào thì tùy ý em. Sún Lé cười như nắc nẻ: – Có cho các tướng Thục ăn phân chim không? Phật-Nguyệt là đệ tử của Nguyễn Phan, nên tính tình hiền lành, nhu mì ít tinh nghịch như Hồ Đề, Trần Năng, nàng tát yêu Sún Lé: – Không cần, hôm trước tướng bên giặc oai phong, cho Thần-ưng thả phân xuống, làm mất thể diện chúng. Hôm nay là trận đánh sinh tử, cần cho tấn công cào mặt, móc mắt. Sún Lé hỏi: – Có bằng này lối đánh: Một là cho Thần-ưng bất thần tấn công, nhào xuống mổ mắt, cào mặt mấy cái rồi bay lên không. Địch bị thương, tất ngửa mặt lên trời theo dõi. Em cho chim bay lượn đe dọa. Thấy chúng cúi xuống, em cho Thần-ưng nhào xuống đánh. Chúng ngửa lên thì cho Thần-ưng bay lượn đe dọa, làm chúng không thể tấn công về trước. Còn lối đánh thứ nhì, thì cho từng lượng Thần-ưng một từ trên cao nhào xuống đánh, mổ mắt cào mặt, rồi lại bay lên. Tiếp theo lượng thứ nhì, cứ như vậy trên trời mỗi cánh quân đều có ba lượng, một lượng tấn công. Chị thích lối nào? Lưu Long nói: – Nên đánh lối thứ nhì hay hơn. Khi em cho Thần-ưng đánh, thì bọn tôi chèo thuyền lên tấn công, địch phải thua. Phật-Nguyệt chỉ về phía trước nói: – Em thử cho tấn công đội thứ nhì chị xem nào? Sún Lé cầm tù-và thổi một hơi dài, lập tức có năm tiếng tù-và của những Sún chỉ huy Thần-ưng ở các thuyền khác đáp lại. Sún Lé lại cầm tù-và thổi liền bẩy tiếng to nhỏ khác nhau. Lập tức soái thuyền phía sau có một thiếu niên khác nhỏ tuổi hơn Sún Lé một chút, leo lên cột buồm tay cầm năm lá cờ xanh, vàng, đỏ, trắng và đen phất, lát sau có tiếng kêu ré trên không của loài chim, rồi một đám Thần-ưng từ xa bay tới chia làm 5 đội, mỗi đội 25 con trông rất đều đặn. Đàn Thần-ưng bay vòng vòng trên trời như thao diễn. Sún Lé nói với Phật-Nguyệt: – Thằng Sún Lùn đang thao diễn dấy! Em cho lệnh tấn công đây. Nói rồi nó cầm tù-và thổi ba tiếng dài, lập tức Sún Lùn cầm cờ xanh phất một cái, đội hình Thần-ưng đi đầu kêu lên đồng loạt, từ trên cao bổ xuống chiến thuyền Thục, mỗi con tấn công một thủy thủ. Đám thủy thủ bị tấn công bất ngờ buông cung tên để gạt Thần-ưng, thì Thần-ưng lại bay bổng trên cao. Thế là thủy thủ trên một chiến thuyền Thục bị thương gần hết, giữa lúc đang luống cuống thủy quân Hán, bắn ngã gục hết rồi nhảy vọt sang chiếm lấy. Phật-Nguyệt bảo Sún Lé: – Em cho tấn công vào tất cả các chiến thuyền phía phải một lượt. Sún Lé cầm tù-và thổi năm hơi. Lập tức Sún Lùn phát cờ liên tiếp. Đoàn Thần-ưng ré đồng loạt, từ trên cao bổ xuống. Một trăm Thần-ưng tấn công vào bốn chiến thuyền, lại bay vọt lên cao. Thủy thủ Hán thích quá, bắn tên rào rào, nhảy sang cướp chiến thuyền địch. Bên Thục hỗn loạn vì mất năm chiến thuyền một lúc. Hậu quân chuyển động, rồi các chiến thuyền từ từ rút lui. Phật-Nguyệt chỉ một soái thuyền bảo Sún Lùn: – Em dùng Thần-ưng tấn công soái thuyền kia đi. Sún Lùn cầm tù-và thổi. Lập tức đoàn Thần-ưng lại kêu lên vang trời. Bốn lượng mỗi lượng 25 con vụt xuống soái thuyền. Dưới soái thuyền đã chuẩn bị, dùng tên bắn một loạt, nhưng không trúng con nào. Bọn thủy thủ dùng dao chém ngược trở lên đồng loạt, hơn 10 Thần-ưng chết văng dưới sàn. Sún Lùn cầm cờ phất ba cái, tức thì số Thần-ưng còn lại đồng loạt lao xuống tấn công. Thủy thủ Thục mải đánh nhau với Thần-ưng, thì soái thuyền Lưu Long đã đuổi kịp, Lưu Long nhảy vọt sang trước cùng quân Hán đánh nhau với Thục. Dù trên soái thuyền Thục, hết trên trăm người bị thương, số còn lại đến hơn 300 đồng chống trả. Phật-Nguyệt thấy cảnh hỗn độn bảo Sún Lé: – Không cần chị ra lệnh, chỗ nào có quân Thục, em ra lệnh tấn công thực gấp. Sún Lé cầm tù-và thổi lên liên tiếp. Trên các chiến thuyền khác đám Sún đồng phất cờ. Thần-ưng lao vùn vụt tấn công. Hàng ngũ Thục quân náo loạn cả lên, chiến thuyền Hán được dịp tràn đến bắt. Binh Thục đang hỗn loạn, thì viên đô-đốc chỉ huy hạm đội nhận ra người chỉ huy đoàn Thần-ưng là Sún Lé, y nói với tên cận vệ mấy câu. Người này phất tay ra hiệu, mười tên thủy thủ võ công cao cường theo y, tấn công đồng loạt binh Hán, rồi nhảy sang thuyền có Sún Lé. Võ công 11 người này cực cao, chỉ mấy chiêu chúng đã chiếm được chiến thuyền. Một trong bọn họ đã nhảy tới chụp Sún Lé. Sún Lé đã chuẩn bị từ trước, nó cúi đầu húc vào bụng tên này. Y ngẩn người ra, vì trên đời này khi bị tấn công, thì người ta nhảy lùi lại tránh, chứ có ai húc đầu vào đối thủ đâu. Y đưa tay túm Sún Lé, nhấc lên định trói lại thì cảm thấy bàn tay đau nhói. Y nhìn kỹ thì ớn da gà, vội buông Sún Lé ra, vì trên mu bàn tay y có đến năm con bò-cạp. Y đạp chết bò-cạp thì mu bàn tay sưng lên. Y biết phải bắt cho được Sún Lé để lấy thuốc giải độc. Nếu không chỉ trong khoảnh khắc, nọc bò-cạp chạy vào tim thì hết phương cứu chữa. Y nhặt đao chém liên tiếp mười chiêu, giết 10 thủy thủ Hán. Khi y quay lại tìm, thì Sún Lé đã leo lên chót vót cột buồm, thè lưỡi chế nhạo y. Nguyên Lục Sún là 6 đứa trẻ mồ côi. Cha mẹ chúng bị người Hán bắt giết. Hồ Đề đem về nuôi nấng dạy dỗ. Chúng sống với thú rừng, leo cây nhảy nhót như khỉ đã quen. Y chỉ chuyền mấy cái đã lên đến đỉnh cột buồm, đứng điều khiển Thần-ưng. Bọn 11 cao thủ chém hầu hết quân Hán trên thuyền Sún Lé, nhưng không làm cách nào bắt được nó. Tên trưởng toán lo sợ cuống cuồng vì tay y tím bầm sưng lớn. Y biết nọc độc đang chạy lên cánh tay, chậm thì chết, bèn gọi lớn: – Chú nhỏ kia mau đưa thuốc giải độc bò-cạp cho ta, nếu không, ta sẽ chặt cột buồm thì chú rơi xuống là hết đời. Sún Lé cười khì khì, tính tinh nghịch nổi dậy. Nó tụt quần đái xuống đầu bọn thủy thủ Thục. Bọn này vội nhảy tránh, tên cầm đầu phất tay: – Hạ cột buồm xuống! Cả mười tên xúm vào dùng dao chặt cột buồm. Sún Lé thấy nguy, vội cầm tù-và thổi, móc trong túi ra cây cờ vàng phất lia lịa xuống dưới chân. Từ xa một đoàn Thần-ưng ré lên, bay đến. Chúng thấy chúa tướng lâm nguy, đồng loạt tấn công bọn thủy thụ.. Bọn này là những cao thủ võ công đâu có dở, chúng vung đao chém. Sáu Thần-ưng bị trúng đao rơi xuống sàn. Sún Lé sợ Thần-ưng tử trận nhiều. Nó cầm cờ ra lệnh đoàn Thần-ưng không tấn công nữa, từ trên bổ xuống gần đầu quân địch lại vọt lên. Bọn thủy thủ không dám chặt cột buồm, ngửa mặt lên trời, phòng Thần-ưng tấn công. Trong khi đó gần 500 Thần-ưng như những vì sao xẹt trên trời, lao vào các chiến thuyền khác. Quân Hán được dịp tiến đánh. Một khắc sau bên Thục cho lệnh rút lui, chiến thuyền Hán cho lệnh đuổi theo ráo riết. Phật-Nguyệt thấy một thuyền Hán không người chèo lái, trên cột buồm có Sún Lé phất cờ điều khiển Thần-ưng đánh 11 thủy thủ Thục, nàng thất kinh, tự mắng: – Mình thật sơ ý, mải lo tấn công, quên mất một chiến thuyền Hán bị cao thủ Thục đánh chiếm, trên đó có Sún Lé. Khi hai thuyền gần nhau, nàng nhún mình một cái, nhảy qua chiến thuyền kia kêu lớn: – Sún Lé! Có chị đây đừng sợ! Nàng lia kiếm, tên thủy thủ Thục vung đao đỡ. Choang một tiếng, Phật-Nguyệt thấy tay tê rần, thì biết đây là một cao thủ. Nàng nhớ lời sư phụ dặn: – Kiếm pháp Long-biên lấy thần tốc làm căn bản tuyệt đối, không nên chạm nhau với vũ khí địch. Nàng thu kiếm về ánh thép chớp lên, một cái đầu thủy thủ rơi xuống. Mười tên thủy thủ reo lên tấn công Phật-Nguyệt. Nàng đảo kiếm một lần nữa, hai tên ôm ngực ngã xuống. Tám tên đang ngơ ngác, thì kiếm lại vung lên, nàng đã đâm bốn tên ngã gục. Bốn tên còn lại la lên một tiếng, nhảy xuống sông biến mất. Sún Lé bây giờ mới thoăn thoắt tuột xuống sàn thuyền. Phật-Nguyệt bảo nó: – Em cho lệnh ngừng tấn công chỉ bay theo dọa địch mà thôi. Sún Lé cầm tù-và thổi một hơi. Chỉ lát sau Thần-ưng bay thành năm đoàn, lượn vòng tròn trên trời rất đẹp mắt. Phật-Nguyệt ra lệnh đuổi theo rất gấp. Nàng đứng đầu một mũi thuyền, bên Thục bắn tên sang, nàng dùng kiếm pháp thần thông đánh dạt ra hết. Khi thuyền nàng đã đuổi kịp thuyền phó đô-đốc đi cản hậu. Nàng nhảy vọt sang lia một kiếm, đầu y rụng xuống. Nàng vung kiếm lên hơn 30 chiêu, hơn ba mươi cái đầu rụng xuống. Cứ thế, nàng nhảy từ thuyền này sang thuyền khác. Thủy quân Thục bắn nhiều quá, hết tên, chỉ còn nước bỏ chạy. Khi đuổi đến Cổ-lăng, bên Hán bắt được trên trăm chiến thuyền Thục. Phật-Nguyệt cho thu quân về bến Cổ-lăng, chiếm các cảng Vân-dương, Văn-giang. Đặng Vũ nghe tin Phật-Nguyệt đuổi thủy quân Thục thì mừng lắm. Y cho lệnh vây Xuyên-khẩu rất gấp. Quân trong thành thi nhau bắn tên, lăn đá xuống. Trưng Nhị đứng bên Hồ Đề hỏi: – Sư muội chuẩn bị xong chưa? Hồ Đề cười: – Lúc nào mà chả xong. Trưng Nhị sai đốt pháo lệnh. Quân ngoài ải tiến vào đến chân thành. Hồ Đề quay lại ra hiệu. Sáu thiếu nữ xinh tươi, cỡi ngựa dàn phía sau nàng, cầm ống tre thổi lên những tiếng nhạc du dương. Thì phía sau năm cái xe lớn có hàng triệu con ong bay rợp trời. Chúng chia làm sáu đội khác nhau, tấn công quân trên thành. Quân sĩ trên thành bị ong đốt bất ngờ, ngã lăn xuống dưới hoặc ôm đầu bỏ chạy. Lập tức quân Hán bắc thang leo lên. Tới mặt thành, họ dùng cung tên bắn vào quân bên trong. Hồ Đề vẫy tay ra hiệu, Lục-phong nữ chỉ huy Thần-phong, cầm ống tre thổi lên. Thần-phong là là bay trở về xe đậu phía sau trận. Quân Hán trèo lên mặt thành như kiến, chỉ một lát sau cổng thành mở. Đặng Vũ phi ngựa vào trước, sau đó đến Hồ Đề, Trưng Nhị. Hồ Đề chỉ huy đội quân đánh sang phía Bắc gặp Vũ Chu đang chỉ huy quân chống cự. Y múa đao chém nàng. Hồ Đề tự biết mình không phải là đối thủ của y, vội giật cương ngựa tránh né. Vũ Chu từ mình ngựa lao vút trên cao chụp bắt. Hồ Đề thất kinh, rút kiếm chém. Y không coi nàng vào đâu, y xuyên tay qua kiếm chụp cổ nàng. Hồ Đề kinh hoàng vội bỏ ngựa lăn xuống đất. Vũ Chu đáp trên mình ngựa, phóng một kiếm vào ngực Hồ Đề. Nàng thấy bên cạnh đó có một cây vội leo lên. Nàng ở vùng núi lâu năm, leo cây nhanh như vượn. Vũ Chu vận sức đánh một chưởng, cây rung động thực mạnh. Vừa lúc đó đám đệ tử Tây-vu tới nơi, người thì quăng trăn, người ném rắn ra. Vũ Chu hoảng hốt bỏ chạy. Hồ Đề thổi còi gọi ong. Ong từ ngoài thành bay vào. Nàng cho Thần-phong bay là là rượt theo binh Thục tới cửa Tây mới ngừng lại. Hồ Đề đủng đỉnh đi vào tới giữa thành gặp Đặng Vũ với Trưng Nhị. Nàng kể lại trận đánh kinh khủng vừa rồi cho hai người nghe. Trưng Nhị dặn: – Từ nay em phải cẩn thận chớ có khinh địch như vậy nữa. Đi đâu cũng mang theo đám sư đệ và đội Thần-phong theo đề phòng. Trưng Nhị kiểm điểm lại, hàng quân trên một vạn, kho tàng, lương thảo đầy ăm ắp. Đặng Vũ sai mở cửa thành cho các đoàn quân phía ngoài vào. Tổng hah dinh của Đặng Vũ cũng di chuyển vào thành. Trưng Nhị gọi Sầm Bành, Mã Vũ, Hồ Đề: – Phiền các vị đem một đội Thiết-kỵ, một đội Thần-tượng ra tiếp viện Trần Năng. Vì ta e nếu Trần Năng không địch lại Vũ Chu và Công-tôn Thiệu thì nguy to. Ba người vọt lên ngựa đi liền. Đuổi theo một quãng thấy quân Hán đang giao chiến với quân Thục. Tướng Thục quả nhiên là Vũ Chu đang tả xung hữu đột đánh cản hậu. Còn Trần Năng đứng trên đồi cao, cầm cờ chỉ huy. Sầm Bành chỉ cho Mã Vũ, nói: – Chúng mình học binh pháp từ nhỏ đánh đư trăm trận đã đành. Còn thiếu nữ này không biết học binh pháp từ bao giờ, mà tài chỉ huy không thua gì bọn mình. Vũ Chu tả xung hữu đột, đi đến đâu quân Hán dạt ra đến đó. Mồ hôi ướt đẫm chiến bào, người y đã mệt nhoài. Nếu cứ như thế này thì chỉ một lát nữa, y kiệt lực chết mất. Y ngẩng mặt nhìn lên sườn đồi thấy có nữ tướng cầm cờ đỏ phất ra hiệu cho quân Hán vây y. Bất giác y tỉnh ngộ: – Thì ra nữ tướng này đang chỉ huy quân vây ta. Ta phải giết thị mới mong thoát chết.  Y rút kiếm chém xả mấy nhát, vòng vây dãn ra. Y nhảy nhót mấy cái lên đỉnh đồi, vung chưởng đánh Trần Năng liền. Trần Năng vận sức chống lại. Bùng một tiếng, nàng cảm thấy lồng ngực muốn nổ tung ra, tai kêu vo vo. Biết gặp đối thủ, nàng hít hơi một cái, nàng phát chiêu Ngưu nhập thanh điền trong Phục-ngưu thần chưởng. Vũ Chu trả một chiêu vào đầu Trần Năng. Y tưởng với chưởng đó Trần Năng sẽ tan xương nát thịt. Trần Năng biết nguy hiểm. Khi rời Lĩnh-nam, sư phụ có dặn nàng. Nếu gặp đối thủ dùng sức dương-cương hùng mạnh thì vận khí trở về Đốc-mạch, rồi phát lực ra huyệt Trung-xung ở đầu ngón tay giữa, rồi biến thành chỉ tấn công. Chỉ này ông với Đào Kỳ vừa mới phát minh ra. Trần Năng thấy chưởng chụp xuống đầu, nàng xuống đinh tấn, chĩa ngón tay chỏ xuyên vào chưởng của Vũ Chu. Vũ Chu cảm thấy một luồng lực đạo xuyên qua chưởng lực chạy vào người, ngực y đau nhói lên. Y nhăn mặt lui lại. Còn Trần Năng bị chưởng của y đánh bay vọt lại phía sau. Sầm Bành, Mã Vũ thấy chiêu thức Trần Năng kỳ diệu, họ chưa muốn nhập cuộc, đứng ngoài quan sát. Vũ Chu lại phát chưởng tấn công. Trần Năng hít hơi, vận sức phóng chỉ ra huyệt Thiếu-trạch ở đầu ngón tay út. Véo một cái, chỉ xuyên vào giữa chưởng của Vũ Chu, cả hai cùng lui lại. Quân sĩ hai bên dãn ra. Đúng ra với công lực của Trần Năng không thể nào thắng Vũ Chu. Nhưng một là y hoảng hốt vì bị vây, hai là Lĩnh-nam chỉ pháp quá tinh diệu, nên nàng mới chống nổi. Đấu đến chiêu thứ năm, bấy giờ Trần Năng đã bắt đầu thấm mệt. Cứ mỗi chiêu, nàng phải lui lại hai bước. Vũ Chu biết thế, vận sức đánh ra một chiêu cực kỳ thâm hậu. Trần Năng luống cuống phát bừa một chiên, đó là chiêu dương-cương Hải triều lãng đãng của phái Cửu-chân. Chiêu này Đào Kỳ đã dạy nàng và Hùng Bảo. Chưởng phong ào ào phát ra. Vũ Chu thấy chưởng kỳ lạ vội phất chiêu đỡ. Bùng một tiếng, cả hai lùi lại. Trần Năng chỉ hơi khó chịu. Còn Vũ Chu thì lui lại hai bước. Chính Trần Năng cũng không ngờ được như thế, vì chưởng pháp Cửu-chân xưa nay vẫn thua Phục-ngưu thần chưởng. Thế mà nàng đấu với Vũ Chu sáu chưởng, chưởng nào cũng nàng cũng kém thế. Vậy mà bây giờ mới đánh có lớp thứ nhất của Cửu-chân chưởng, Vũ Chu đã lui lại hai bước, kém thế rõ ràng là tại sao ? Thực ra Phục-ngưu thần chưởng do Sơn-Tinh chế, sau được Vạn-tín hầu Lý Thân bổ sung cực kỳ tinh vi. Nhưng vì công lực của nàng với Vũ Chu cách nhau xa, nên nàng bị thua. Còn Cửu-chân chưởng là do Thục An-Dương vương và Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung chế, mục đích khắc chế võ công Trung-nguyên, nên Trần Năng đánh ra, thì khắc được chưởng của Vũ Chu. Vấn đề ngoắt ngoéo như vậy làm sao Trần Năng hiểu nổi? Nàng phóng một hơi phát lớp thứ nhì, lớp này mạnh gấp hai lần lớp trước, Vũ Chu vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, y thấy đầu óc choáng váng, vội hít hơi giữ thăng bằng thì lớp thứ ba tới mạnh gấp đôi lớp thứ nhì. Vũ Chu kinh hãi nhảy vọt lên trên cao, y rút kiếm chém Trần Năng. Trần Năng kinh hoảng rút kiếm đỡ. Choảng một tiếng, kiếm của nàng bay vọt lên cao. Vũ Chu chém kiếm thứ nhì, nàng vội lăn tròn dưới đất tránh. Vũ Chu chém thêm nhát nữa, thì thấy vật gì lạnh toát chui vào cổ. Y kinh hãi thò tay lấy ra, thì bị vật gì cắn vào ngón tay đau thấu tâm can. Y nhìn lại thì là một con rắn lục bằng ngón tay. Y bóp chết con rắn rồi thì tai, rồi mũi, mắt, đầu nhức không thể tưởng tượng được. Y nhìn lên một đàn ong đang xúm vào đốt. Y vội vung kiếm mở một con đường máu chạy biến vào rừng. Trần Năng thoát nạn, đứng dậy thì thấy Hồ Đề đang cười thì biết là nàng đã cứu mình. Chị em mừng mừng tủi tủi nắm tay nhau, ra lệnh thu quân trở về thành. Trong khi Sầm Bành, Mã Vũ xua binh đuổi quân Thục. Trưng Nhị truyền chư tướng vào nhận lệnh : – Phép dùng binh, khi giặc thua cần đánh tiếp không cho chúng nghỉ. Chư quân dự trận Xuyên-khẩu được nghỉ ở hậu quân. Những vũ khí, lương thảo thu được của giặc sung vào làm của công. Còn trâu bò, của cải binh tướng giặc thì thưởng cho tướng sĩ hữu công. Quân sĩ reo hò mừng rỡ. Vì họ theo Hán có hàng chục năm nay, mỗi khi thắng trận, chỉ được ăn một bữa khao quân hoặc thăng cấp là cùng. Còn những của cải thì tướng soái lấy hết có bao giờ đến lượt họ đâu. Hôm nay họ thấy vị nữ quân sư này ra lệnh thưởng cho họ tất cả, họ không reo mừng sao được. Đặng Vũ nói : – Bây giờ chúng ta đánh thành Bạch-đế. Thành này là kho tàng của Thục tại miền Đông. Thành cao, hào sâu khó đánh. Công-tôn Thiệu cất vàng bạc châu báu tại đây. Nếu ai vào thành trước tiên, những gì lấy được của Thiệu, ta thưởng cho hết, lại cho trấn thủ thành này. Các tướng sĩ biết Công-tôn Thiệu là em Công-tôn Thuật, tước phong Trường-sa vương, làm đại nguyên-soái, tiền của giàu có súc tích. Nếu ai vào thành Bạch-đế trước tiên, sẽ thành đại-phú, sống đến mấy chục đời mới hết. Trưng Nhị đáp : – Thành Bạch-đế có bốn cửa, cửa Tây và Nam bị thủy quân vây hãm, chắc y không chạy qua ngã đó. Phía Đông thành thì đại-quân ta đóng, vậy chắc chắn y sẽ chạy về phía Bắc. Binh thư nói rằng : Giặc cùng khó đánh, chớ đuổi. Lại cũng nói : Một người liều mạng, mười người khôn địch. Chúng ta chỉ cần vây hãm làm cho binh tướng giặc kinh hoảng bỏ chạy, hơn là cố đánh thành, chết nhiều vô ích. Đặng Vũ góp ý : – Theo ý tôi chúng ta cần phải đánh thành gấp mới được, trễ thì chúng ta vào Thành-đô sau hai đạo kia mất. Trưng Nhị thấy Đặng Vũ muốn đánh gấp, nàng nghĩ : – Y muốn thì ta để y làm. Chết là chết quân Hán, chứ có chết người Việt đâu ? Nàng nói với Đặng Vũ : – Đặng đại tư-mã đánh dư trăm trận, nhiều kinh nghiệm công thành, xin Tư-mã đích thân điều động mới được. Đặng Vũ không lui được, y phân phối : – Đô-đốc Lưu Long chỉ huy thủy quân đánh dọc theo sông Trường-giang, để giặc không chạy qua sông. Xin Phật-Nguyệt cô nương theo giúp Lưu đô-đốc, đề phòng Vũ Chu với Công-tôn Thiệu. – Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm đánh cửa Bắc. Xin phu nhân Trần Năng, cô nương Lê Chân theo giúp. – Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ, đánh cửa Tây. Xin đại-hiệp Lại Thế-Cường theo trợ giúp. – Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân, anh hùng Lĩnh-nam cùng với chúng tôi công thành. Đặng Vũ sai đốt pháo lệnh, chư quân reo hò, tiến đánh. Thành Bạch-đế là thành cổ, hào sâu, quân trong cố thủ, quân ngoài bắc thang leo lên. Quân trong thành dùng cung tên bắn xuống. Công thành hơn một ngày, binh lính chết hơn vạn người. Thây chất hàng chục đống lớn, mà vẫn không lấy được thành. Đặng Vũ đành cho lệnh rút ra xa bao vây. Y thăng trướng hỏi Hồ Đề : – Hồ cô nương. Cô nương có thể dùng Thần-phong giúp tôi một tay chăng ? Binh sĩ chết nhiều quá rồi ! Hồ Đề đưa mắt nhìn Trưng Nhị hỏi ý kiến. Trưng Nhị nói : – Thần-phong chỉ dùng được một lần mà thôi. Bây giờ dùng nữa, giặc dùng lửa đốt lên, Thần-phong phải bỏ chạy. Tuy nhiên tôi vẫn có kế đánh được thành. Nàng quay lại hỏi Hồ Đề ; – Sư muội một Thần-ưng có thể mang được bao nhiêu cân ? Hồ Đề ngẩn người ra nói : – Em chưa thử nhưng chúng thường bắt gà. Chúng tha một con gà đực lớn dễ như không. Trưng Nhị gật đầu : – Như vậy chúng có thể mang nổi bốn cân (2kg ngày nay). Em cho truyền tin gọi đoàn Thần-ưng về đây ngay, đêm mai chúng ta chiếm thành. Hồ Đề nhìn Trưng Nhị tủm tỉm cười. Đặng Vũ ngẩn người ra. Tuy nhiên vì tự ái, y không hỏi Trưng Nhị sẽ dùng kế gì. Y vội cho ngựa lưu tinh đến cảng Cổ-lăng, xin Phật-Nguyệt cho đội Thần-ưng về trợ chiến. Sáng hôm sau bọn Sún Lé lục tục trình diện. Chúng là trẻ con, chẳng biết quân pháp, chẳng biết chủ soái là gì, miệng cứ bô bô kể cho Hồ Đề nghe đám Thần-ưng đánh giặc. Đặng Vũ nhìn sáu đứa trẻ mặt mũi lem luốc. Y bật cười hỏi Sún Lé : – Em đã cho Thần-ưng ăn chưa ? Sún Lé cười : – Chúng nó nhá thịt binh Thục no rồi không cần ăn nữa. Bây giờ tập họp chúng lại, không cho ăn. Mai chúng đói, xuất trận thì tuyệt hảo. Chúng sẽ đớp thịt binh Thục cho Đặng đại tư-mã coi. Hồ Đề hỏi Sún Lé : – Em có thể cho Thần-ưng tha một sợi dây lên cao, bảo chúng cột dây vào cây cột được không ? – Dễ quá, cứ để vật đó trước mắt, em thổi tù-và, chúng dùng chân cặp. Em thổi hai tiếng chúng bay lên. Em thổi hai tiếng lớn, một tiếng nhỏ, chúng bay vòng quanh, dây cuộn vào cột. Trưng Nhị gật đầu: – Đêm nay chúng ta dùng hỏa công đốt thành Bạch-đế. Chúng ta có 600 Thần-ưng, mỗi Thần-ưng một lần mang bốn cân, hai lần là tám cân, cộng chung có khoảng 4000 cân tẩm dầu, thả vào thành rồi dùng tên lửa bắn, thì thành Bạch-đế thành tro, thành than. Sún Đen hỏi: – Sư tỷ, vậy là đêm nay bọn em nướng chả Công-tôn Thiệu với Vũ Chu phải không? Phàm là anh hùng Lĩnh-nam làm việc gì cũng quang minh chính đại. Em muốn báo cho tướng sĩ trong thành biết trước. Hoặc họ đầu hàng, hoặc họ bị nướng chả. Chị bảo có nên không? Đặng Vũ bế bổng Sún Đen lên: – Bọn chúng ta là tướng soái đánh dư trăm trận mà thua một chú bé 16 tuổi. Sún Đen, em nói đúng đó, bây giờ ta cho thư-lại chép mấy trăm tờ hịch của Lĩnh-nam vương cho quân bắn vào thành, như vậy biết đâu quân Thục không sợ mà buông gươm đầu hàng. Sún Lé tiếp: – Đặng đại tư-mã muốn cho quân Thục sợ mà buông gươm đầu hàng ư? Dễ lắm, bây giờ Đặng đại tư-mã viết thêm một đoạn vào hịch của Nghiêm đại-ca rằng Thành-đô bị Đào đại-ca bao vây. Phía Bắc Ngô Hán tiến sát Thành-đô. Thành Bạch-đế bị cô lập vì mất Trường-giang. Thủy quân bỏ chạy, mặt Đông thì bị chúng ta bao vây. Tiến không được mà lui thì hết đất sống. Chi bằng đầu hàng được bảo toàn tính mệnh, hoặc muốn cũng được giữ nguyên quan chức. Đặng Vũ há hốc mồm ra ngạc nhiên vì lời của Sún Lé. Nguyên bọn Lục Sún được Hồ Đề truyền thụ võ công, nhưng nàng chỉ coi bọn chúng là sư đệ, chứ không coi là đệ tử. Trong 72 động Tây-vu của nàng đa số toàn là người vùng rừng núi, nói năng tự do. Bọn Sún là những đứa trẻ thông minh, mỗi khi hội họp Hồ Đề cho chúng được phát biểu ý kiến như người lớn. Vì vậy mấy hôm nay chúng đã hiểu tình hình hai bên... Sún Lé, nó đưa ra những lời bàn mà không ai ngờ nổi. Trưng Nhị di chuyển từ Giao-chỉ sang Quế-lâm cùng Hồ Đề, Lục Sún. Nàng biết Lục Sún có trí thông minh đặc biệt. Nàng khen: – Ý kiến của Sún Đen thật tinh tế. Kế hoạch công thành của Đặng đại tư-mã vẫn giữ nguyên, thêm vào việc truyền hịch của Sún. Ta treo giải thưởng dù bên Thục hay bên Hán, người nào giết hoặc bắt được Công-tôn Thiệu sẽ được làm trấn thủ thành Bạch-đế. Tất cả của cải tịch thu được của y sẽ thưởng cho hết. Làm như vậy Công-tôn Thiệu sinh nghi ngờ mọi người, khiến y ăn không ngon, ngủ không yên. Nàng cầm bút thảo: Đại tư-mã nhà Đại-Hán truyền hịch cho các tướng sĩ trong Bạch-đế thành được rõ: Lĩnh-nam vương lĩnh chức Tả tướng-quốc truyền hịch hứa rằng các ngươi đầu hàng thì được giữ nguyên chức tước. Ta là thuộc hạ của người sẽ tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh mà thi hành. Vậy nếu các người giết hoặc bắt được Công-tôn Thiệu ta cho làm trấn thủ thành Bạch-đế. Phàm những của cải tịch thu được của y, ta thưởng cho hết. Các ngươi có biết không? Đạo quân Lĩnh-nam 30 vạn, đã chiếm Hán-nguyên, Giang-an và Long-xương. Đạo quân Tây-xuyên đã chiếm được Dương-bình quan, Ba-trung. Chỉ một sớm, một tối là tiến vào Thành-đô. Các ngươi ở trong thành Bạch-đế tiến thì không xong, lui thì không nẻo. Thủy-quân đã bỏ chạy, lương thảo ngày một cạn. Các ngươi mau mở cửa thành đầu hàng thì mạng sống chức tước được giữ, lương bổng không bị mất, gia đình được bảo trọng. Đêm nay ta dùng Thần-ưng đốt thành nhưng chỉ để cảnh cáo các ngươi thôi. Neéu các ngươi không đầu hàng, đêm mai ta quyết sẽ nướng các ngươi thành than. Vậy ta truyền hịch cho các ngươi rõ. Đặng Vũ sai cầm bản thảo giao cho thư-lại chép. Đến trưa thì đã chép được trên ngàn tờ. Trưng Nhị hỏi Hồ Đề: – Sư muội định cho Thần-ưng truyền hịch, hay dùng tên bắn vào thành. Hồ Đề bảo Sún Lé: – Em là thủ lĩnh của Lục Sún, cho em quyết định. Sún Lé bảo Sún Cao: – Này Sún Cao, Sún Cao cho một tốt Thần-ưng làm việc đi? Sún Cao cầm tù-và thổi năm tiếng liền, một đám Thần-ưng đậu trên cây bay xuống trước mặt. Sún Cao cho mỗi Thần-ưng ngậm 10 tờ hịch, rồi hú hai tiếng chỉ lên thành Bạch-đế. Đoàn Thần-ưng vỗ cánh vút lên trời bay lượn. Sún Cao thổi bốn tiếng. Thần-ưng chia làm bốn toán lượn vòng tròn trên bốn cửa thành. Sún Cao nói: – Chị Hồ Đề, em cho Thần-ưng thả thật thấp cho chị coi nghe. Nó thổi bốn tiếng nữa. Thần-ưng từ trên cao lao xuống thành, tới sát ngọn cây thì há mỏ cho những tờ hịch bay ra, rồi vút lên cao, hợp thành đàn. Sún Cao cầm tù và thổi mấy tiếng, cả đoàn 100 Thần-ưng bay về đậu trên cây cổ thụ trước trướng của Đặng Vũ. Trưng Nhị ra lệnh cho viên tướng phụ trách tiếp vận chuẩn bị 2000 bó cỏ, mỗi bó nặng bốn cân, tẩm dầu sẵn, đến giờ Dậu thì phải đủ. Nàng nói với Đặng Vũ: – Chúng ta chuẩn bị đánh thành đêm nay. Các tướng sĩ nghe Trưng Nhị nói vậy đều phấn khởi tinh thần, cho binh sĩ ăn uống, nghĩ ngơi, đợi đêm tấn công. Trưng Nhị thăng trướng truyền lệnh; – Trong thành hiện còn bốn vạn nhân mã, hai vạn Kỵ-binh tinh nhuệ. Nếu chúng ta bức quá giặc cùng đường thì phải chống cự, sĩ tốt bị thương nhiều. Chúng ta mở đường cho giặc chạy. Mục đích là chiếm thành tiêu hao nửa quân số là đủ. Suốt một giải phía Đông Ích-châu do Công-tôn Thiệu chỉ huy. Các ải Lương-bình, Phong-đô, Võ-lăng cũng còn trên bốn vạn người ngựa. Nếu chúng đồng kéo đến cứu thành Bạch-đế, thì không biết đến bao giờ chúng ta mới vào được Thành-đô. Đêm nay, làm sao chiếm được thành Bạch-đế, giết được Công-tôn Thiệu thì suốt một giải phía Đông-Thục giặc như rắn mất đầu không người chỉ huy, chúng ta tiến dễ dàng. Đánh thành, chúng ta mở cửa Tây và Bắc cho chúng chạy. Các đạo quân mai phục phải đợi cho giặc đi qua một nửa rồi mới đổ ra đánh cắt nửa sau. Các tướng đồng cúi đầu khâm phục. Trưng Nhị tiếp: – Công-tôn Thiệu, Vũ Chu võ công cao cường. Ở đây có Đặng đại tư-mã, Phiêu-kỵ đại tướng-quân Sầm Bành, Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm, Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ và sư tỷ Phật-Nguyệt địch lại chúng. Vậy sư tỷ Phật-Nguyệt phụ trách bảo vệ Lục Sún đánh thành. Còn bốn vị phục binh từ Giang-khẩu đến Ôn-tuyền chặn đánh Công-tôn Thiệu, Vũ Chu. Sư đệ Hồ Hác chia đội Thần-tượng ra làm bốn theo trợ chiến với các vị tướng quân. – Đại tướng-quân Lưu Long và Lâu-thuyền tướng quân Đoàn Chí đặt dưới quyền điều khiển của sư bá Lại Thế-Cường, dàn thủy quân từ Cổ-lăng đến Vân-dương, không cho giặc qua sông, cũng để ngăn đạo quân từ Võ-lăng lên cứu viện. – Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân điều quân đánh vào cửa Bắc thành. Nhớ đánh thật gấp không cho giặc ra khỏi thành. Sư thúc Trần Năng đi theo giúp Cảnh tướng-quân. – Chinh-di đại tướng-quân Tang Cung đánh cửa Nam, có sư muội Lê Chân trợ lực, cần giữ chắc không cho giặc xuất thành. – Phấn-oai đại tướng-quân Lưu Hân, sư muội Phật-Nguyệt, Lục Sún và tôi đánh cửa Đông. – Trận này hoàn toàn nhờ sức sư muội Hồ Đề và Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Trưng Nhị ngừng một lúc tiếp: – Thành Bạch-đế cao 20 trượng. Hào phía ngoài rộng 15 trượng, sâu 2 trượng. Dưới hào đầy chông gai, rất khó đánh. Hôm qua chúng ta tổn thất gần một vạn người mà không thu được thắng lợi gì. Hôm nay phải tận dụng đoàn Thần-ưng và Thần-phong. Hồ Đề lắc đầu: – Lần trước chúng ta dùng Thần-phong đánh Xuyên-khẩu, giặc đã biết rồi nên đã chuẩn bị để chống lại. Chỉ cần đốt lên mấy cụm khói là đoàn Thần-phong bỏ chạy. Em nghĩ chúng ta không nên dùng tới nữa thì hơn. Trưng Nhị lặng thinh suy nghĩ một lúc lâu mới nói: – Như vậy chúng ta chỉ có thể dùng Thần-ưng đốt thành mà thôi. Thành Bạch-đế rất rộng, chúng ta đốt gì bây giờ? Và làm thế nào để đốt? Tôi nghĩ nên đốt kho lương thực, làm nát lòng quân Thục và đốt dinh Công-tôn Thiệu. Vậy chúng ta cho Thần-ưng thả cỏ tẩm dầu, rồi dùng tên lửa bắn lên là thành công. Hồ Đề, Trần Năng, Lê Chân đồng gật đầu. Lại Thế-Cường là người kinh nghiệm nhiều, ông nói: – Từ ngoài thành đến kho lương và dinh Công-tôn Thiệu khá xa, làm sao chúng ta bắn tên lửa tới được? Chỉ có cách duy nhất cho Thần-ưng ngậm cỏ đốt sẵn từ ngoài thành thả vào tốt hơn. Sún Đen lắc đầu: – Sư bá! Nếu đốt sẵn cỏ ở ngoài cho Thần-ưng thả vào, chỉ nửa đường là cỏ cháy lớn, tất Thần-ưng bị nướng chín mất. Trưng Nhị hỏi Phật-Nguyệt: – Khinh công phái Long-biên tuyệt vời, vậy sư muội có cách nào vào trong thành được không? Phật-Nguyệt lắc đầu: – Tôi chỉ có thể vọt lên cao được hơn hai trượng mà thôi. Mà thành cao tới 20 trượng, làm sao vào được? Sún Lé nheo mắt cười: – Giả như có một sợi dây từ trên thành thòng xuống, sư tỷ cần bao nhiêu cái chớp mắt có thể lên trên thành? Mọi người bật cười vì lối dùng chớp mắt làm đơn vị đo thời gian đó của Sún Lé, nhưng ai cũng phải phục vì lối đo lường đó rất hợp với hoàn cảnh. Phật-Nguyệt ngơ ngác: – Chỉ cần mười chớp mắt là đủ. Mỗi chớp mắt tôi lên được 2 trượng, với 20 trượng tôi cần mười chớp mắt. Nhưng trên mặt thành quân sĩ lăn đá, bắn tên làm sao mà lên được. Trưng sư tỷ, sư tỷ định bảo tôi lên mặt thành làm gì? Trưng Nhị đáp: – Sau khi thả cỏ tẩm dầu vào thành, sư muội châm lửa đốt kho lương và dinh Công-tôn Thiệu. Công tác này cần người võ công cao. Hiện Trần Năng với sư muội có thể địch lại Thiệu và Vũ Chu, nên tôi mới nghĩ đến sư muội hoặc Trần Năng lọt vào thành. Hồ Đề bảo Sún Đen: – Lục-phong quận-chúa làm cho quân sĩ trên thành tê liệt trong 50 chớp mắt, như vậy sư tỷ có đủ thời giờ lên mặt thành. Sún Đen! Bây giờ em làm thế này: Một mặt em cho đội Thần-ưng bay lượn trên cao ngậm cỏ tẩm dầu sẵn. Chị cho đội Thần -phong bất thần tấn công vào cửa Đông, nếu quân Thục đốt lửa đuổi được Thần-phong thì cũng mất ít ra hàng trăm cái chớp mắt, ngọn lửa và khói mới đủ sức đuổi Thần-phong. Bấy giờ sư tỷ Phật-Nguyệt đã lên mặt thành rồi. Nàng ngưng lại bảo Sún Lé: – Em lựa lấy 10 Thần-ưng thực lớn chờ sẵn ở cửa Đông. Khi chị cho Thần-phong tấn công quân trên thành, thì lệnh cho Thần-ưng ngậm một đầu dây bay lên mặt thành quấn quanh cột cờ mấy vòng. Chị Phật-Nguyệt sẽ bám dây phi thân lên. Chỉ cần tới mặt thành là sư tỷ giết quân dễ như trở bàn tay. Ta cũng sẽ lên theo sư tỷ Phật-Nguyệt để cùng đốt kho lương thực. Khi kho cháy rồi, tất giặc đổ xô cứu hỏa. Chúng ta đi đốt dinh Công-tôn Thiệu. Trưng Nhị dặn Sún Lé: – Em nhớ khi thấy lửa trong thành bốc cao, lệnh cho Thần-ưng tiếp tục thả cỏ tẩm dầu xuống những nơi bốc cháy. Sún Lé cười khúc khích, Hồ Đề quát: – Đây là quân lệnh nếu em vô phép thì chị chặt đầu có im ngay không? Sún Lé bụm miệng nói: – Chị Trưng Nhị coi bọn em là thần thánh, nên em sướng, em cười mà cũng cấm sao? Này nhé Sún Lé cao gần trượng, thành cao hơn 20 trượng mà chị Trưng Nhị bảo em thấy chỗ nào cháy thì lệnh cho Thần-ưng thả cỏ khô. Chúng em có là thánh như Phù-Đổng Thiên-vương đâu mà nhìn xa được như vậy? Muốn như vậy, họa chăng một trong bọn em leo lên mặt thành chỉ huy Thần-ưng. Trưng Nhị xoa đầu Sún Lé: – Em nói đúng đó, chị sơ xuất quá. Vậy thế này: Sún Đen chỉ huy Thần-ưng thả dây trên mặt thành. Sún Cao, Sún Lùn, Sún Rỗ chỉ huy Thần-ưng thả cỏ ngoài mặt thành. Còn Sún Lé lên mặt thành với chị để chỉ huy Thần-ưng thả cỏ vào khu vực mình muốn. Sún Hô làm trừ bị.

Nguồn: Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Người đăng: mọt sách

Thời gian: 30/08/2004 5:26:27 CH

Hồi 1        Hồi 3

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129588 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 3

Cái bóng của Phù-đổng Thiên-vương

 Trưng Nhị bảo Hồ Đề :

– Em nhớ lúc nào cũng phải duy trì đội Thần-phong bảo vệ cho mình và các Sún ở dưới thành. Riêng Sún Lé thì đã có chị bảo vệ.

Hồ Đề chỉ Sún Lé :

– Sún Lé có tài leo dây, leo cây còn hơn khỉ, vậy khi sư tỷ leo lên thành, nó cũng leo được như thường, chị khỏi lo cho nó. Cần nhất kiếm cho nó một cây cao, để nó leo lên đó dùng tù-và chỉ huy Thần-ưng. Chị cần đề phòng địch dùng tên bắn mà thôi. Chứ trên đời này ngoài những đệ tử Tây-vu ra, không ai có thể đuổi bắt được nó trên cây.

Đặng Vũ tuyên bố giải tán. Các tướng lục đục ra đi. Trưng Nhị dẫn Phật-Nguyệt, Hồ Đề cùng các Sún theo quân đến cửa Đông. Chờ đúng canh hai, Trưng Nhị nổ pháo lệnh, quân sĩ các mặt tấn công vào thành. Quân Thục lại dùng tên đá bắn xuống như mưa.

Trưng Nhị đứng nhìn quân Thục chiến đấu, lòng đầy khâm phục, nói nhỏ với Phật-Nguyệt, Hồ Đề :

– Các sư muội thấy không, quân Thục chiến đấu dũng cảm vô cùng, trách chi Đặng Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân và Mã Vũ là những đại tướng, những cao thủ vào sinh ra tử hàng hai chục năm, mà cũng bị thua. Vì sự nghiệp Lĩnh-nam ta phải đánh họ, chứ thực sự trong lòng, ta muốn kết bạn với họ. Đánh họ trong hoàn cảnh này thật đáng buồn.

Hồ Đề phất tay ra hiệu, Hoàng Long đưa ống tiêu lên miệng thổi, âm thanh nhu hòa vọng đi rất xa. Từ xa có tiếng vù vù, càng lúc nàng gần, rồi một đàn ong bầu đen thui bay đến rợp trời, nhào xuống tấn công quân quân Thục. Quân Thục kinh hoảng ngã lăn trên mặt thành, ôm đầu chạy. Viên tướng trấn thủ hô lớn :

– Đốt lửa lên !

Y vừa ra lệnh, vừa vung đao gạt ong, nhưng đoàn Thần-phong đã lọt lưới đao, đốt y. Đao pháp của y bị rối loạn, người y bị hàng trăm ong bầu bu vào. Y nghiến răng chịu đựng chỉ huy sĩ tốt đốt lửa.

Dưới thành Sún Lé đã chuẩn bị. Thấy quân trên mặt thành rối loạn, nó huýt một tiếng sáo, có năm Thần-ưng ngậm một đầu dây bay lên cao, chúng lượn bốn vòng quanh cây trụ trên mặt thành cho dây quấn chặt vào. Phật-Nguyệt cầm dây giật thử thấy chặt, nàng bám vào đầu dây tung mình leo lên, vèo một cái đã tới mặt thành. Nàng chưa kịp đứng vững, thì một loạt tên hàng trăm mũi từ dưới thành bắn vào nàng. Nàng rút kiếm, ánh thép loang loáng chém đứt loạt tên. Bấy giờ nàng mới nhìn thấy bên dưới, hàng trăm cung thủ núp sau ụ đất hướng lên trên thành. Họ thi nhau bắn, nhưng kiếm pháp của Phật-Nguyệt cực kỳ linh diệu, không mũi tên nào trúng được nàng.

Nàng gọi lớn :

– Cho một người chỉ huy Thần-phong lên đây.

Vừa nói nàng vừa vung kiếm gạt tên. Thấp thoáng, đã thấy một người đứng sau nàng cầm vòi thổi tu tu. Đàn Thần-phong từ trên cao nhào xuống tấn công đám xạ thủ. Chúng ôm đầu chạy tán loạn. Bấy giờ Phật-Nguyệt mới nhìn lại phía sau, thì Hồ Đề, Trưng Nhị, Sún Lé, Hoàng Phong đã lên mặt thành. Hoàng Phong chỉ huy đoàn Thần-phong tấn công đám cung thủ. Bây giờ quân Thục đã đốt lửa lên rồi. Hoàng Phong thổi ống tre cho đoàn Thần-phong trở về.

Trên mặt thành, Hồ Đề, Trưng Nhị, Hoàng Phong thả dây xuống mặt thành. Bọn dũng sĩ Hán leo lên, rồi họ lại thả dây khác xuống. Chỉ một lát sau hơn một trăm người lên được.

Quân Thục chiến đấu như một đàn sư tử, dù họ gặp những cao thủ như Phật Nguyệt, Trưng Nhị tấn công.

Sún Lé vừa lên mặt thành, nó đã nhìn thấy gần chân thành một cây khá cao. Nó quăng sợi dây vào cành cây rồi đu mình sang. Nó còn lơ lửng trên không, một mũi tên xé gió bắn đứt sợi dây. Nó rơi xuống như một quả mít rụng. Vừa xuống đất, một binh Thục lia đao chém vào đầu nó. Nó lăn đi một vòng tránh khỏi. Người đội trưởng nhảy đến ôm lấy nó định bắt sống. Nó kinh hoảng huýt lên tiếng sáo. Lập tức trong cái túi bên hông nó, một con trăn vọt ra quấn lấy viên đội trưởng. Thoát nạn, nó bám lấy cây leo lên cao. Hai binh sĩ Thục chạy đến lia đao chặt chân, thì nó đã lên tới ngọn. Hai tên này tên này định tìm cách leo lên cây giết nó. Nhưng vèo một cái, hai tên cung thủ bị đánh một chưởng bay ngược trở lại, chết ngay tại chỗ. Nó nhìn xuống, thì ra Trưng Nhị phóng chưởng cứu nó. Nó nhe răng cười :

– Cám ơn sư tỷ.

Nó leo lên tít trên cao, lấy đá châm vào ngọn đuốc rồi hỏi Trưng Nhị :

– Sư tỷ, kho lương ở đâu ?

Trưng Nhị trỏ về phía trước :

– Chín dẫy nhà kia kìa.

Sún Lé cầm tù-và thổi, phất ngọn đuốc về phía dẫy nhà kho lương thực. Đoàn Thần-ưng đang bay lượn trên không, hướng về phía đó thả những bó cỏ tẩm dầu xuống. Bên dưới Trưng Nhị tả xung, hữu đột tiến về phía kho lương định đốt. Nhưng quân Thục vây kín như tường đồng vách sắt. Sún Lé ngồi trên ngọn cây tiếp tục chỉ huy Thần-ưng thả cỏ khô. Cỏ đã thả xong rồi nhưng Trưng Nhị, Phật-Nguyệt đang bị vây kín. Kiếm pháp Phật-Nguyệt tinh diệu, nàng đi đến đâu đầu rơi đến đó, nhưng quân Thục không lùi bước. Trưng Nhị chưởng lực cực mạnh, nàng tiến tới đâu, người đổ tới đó. Bỗng vòng vây mở ra, Vũ Chu đã xuất hiện. Y vung chưởng đánh Trưng Nhị. Trưng Nhị biết y là một đại cao thủ bên Thục không dám coi thường vội vận sức đỡ. Trưng Nhị là một đại cao thủ của phái Tản-viên. Nàng chỉ thua có Trần Đại-Sinh, Lê Đạo-Sinh, Đặng Thi-Kế và Nguyễn Thành-Công mà thôi, nên chưởng lực rất mạnh. Bùng một tiếng Vũ Chu khựng lại, y cảm thấy cánh tay tê buốt, còn Trưng Nhị thì khí huyết đảo lộn. Nàng chợt nhớ lời Trần Năng thuật lúc đối chưởng với Vũ Chu. Nàng dùng Phục-ngưu thần chưởng chỉ đấu được có 6 chưởng, sau đó nàng dùng chưởng pháp Cửu-chân thì thắng. Trưng Nhị biết thế, nàng thử vận Phục-ngưu thần chưởng, đánh chiêu thứ nhì, quả nhiên nàng phải lui hai bước, còn Vũ Chu thản nhiên như không. Võ công nàng cao hơn Trần Năng lại nhiều mưu trí, nên chiêu sau chưa phát ra, nàng đã lùi lại nói :

– Vũ tướng quân là anh hùng vô địch, nhưng Thành-đô bị bao vây, Dương-bình quan, Kiếm-các đã mất, đầu hàng đi thôi.

Vũ Chu không trả lời vung chưởng đánh nữa. Trưng Nhị vận sức phóng ra một chiêu Phục-ngưu thần chưởng đỡ chưởng của y, lần này nàng lùi đến ba bước, tới bên cạnh Phật-Nguyệt. Phật-Nguyệt vội đâm một nhát kiếm về phía y, y phải lùi lại ba bước mới tránh khỏi kiếm quang. Y vội rút kiếm giao đấu với Phật Nguyệt.

Sún Lé ngồi trên cây cao thấy Phật-Nguyệt, Trưng Nhị bị vây, nó nghĩ được một kế, bóp miệng hú. Năm Thần-ưng đến đậu quanh nó. Nó lấy đuốc châm vào năm bó cỏ của Thần-ưng rồi chỉ về phía trước. Năm Thần-ưng bay về phía kho lương, thả năm bó cỏ lửa xuống. Phút chốc năm nơi lửa bốc cháy ngun ngút. Sún Lé thích chí huýt sáo gọi Thần-ưng đến nữa, lần này mỗi Thần-ưng đậu trước mặt nó, nó châm lửa, lại bay đi. Chốc lát trong thành Bạch-đế lửa bốc dậy ngút trời.

Sún Lé hỏi xuống dưới :

– Kho lương cháy rồi, vậy đốt ở đâu nữa bây giờ ?

Trưng Nhị vừa chiến đấu, vừa nói :

– Cứ tiếp tục đốt kho lương nữa đi.

Sún Lé hú lên, từng đoàn trăm Thần-ưng đến đó thả cỏ tẩm dầu xuống. Chốc lát cả chín dẫy nhà chứa lương thảo biến thành biển lửa.

Bên dưới Hồ Đề cùng các võ sĩ Hán mở cổng vào phía Đông thành, quân Hán có voi yểm trợ, tiến vào thành. Trong thành tuy quân Thục quyết tâm chiến đấu, nhưng bị voi tấn công mạnh quá, hàng ngũ rối loạn. Rồi các cửa thành khác cũng mở toang ra, quân Hán ào ào tiến vào.

Sún Lé thích chí cười ha hả. Bỗng một mũi tên xé gió bay đến trước mặt. Nó tránh nhưng không kịp, mũi tên trúng người, nó đau quá la lên một tiếng lớn, rồi rơi từ trên xuống như một trái cây rụng. Trưng Nhị nghe tiếng nó kêu biết sự không lành, vội bỏ trận tuyến lại đưa tay hứng lấy nó. Sức nó rơi mạnh quá, làm nàng cũng ngã chúi về phía trước. Trần Năng nhảy xuống ngựa, bồng Sún Lé lên cấp cứu. Nàng mổ mũi tên ra, lấy thuốc rịt lại cho nó. Lục Sún là những đứa trẻ mồ côi được Hồ Đề đem về nuôi dạy từ nhỏ, chúng nó rất can trường. Dù mũi tên cắm sâu vào thịt, Sún Lé cũng nghiến răng chịu, chứ nó không kêu, không khóc.

Xưa nay Lục Sún sống với nhau như anh em, chúng vội chạy lại hỏi Trần Năng rối rít lên. Trần Năng thấy mũi tên trúng vào mông không nguy hiểm lắm, an ủi :

– Các Sún cứ yên tâm không sao đâu.

Sún Rỗ chửi thề :

– Đ.m. nó bọn Thục, chúng ông phải tìm thằng nào bắn để trả thù mới được.

Nó nhìn về phía trước, thấy Thần-ưng từng đoàn một lao xuống tấn công một người. Chúng nhận ra là Công-tôn Thiệu. Sún Rỗ nói :

– Anh em ơi ! Thằng Công-tôn Thiệu bắn Sún Lé, Thần-ưng đang đánh trả thù, chúng ta mau tiến lên bắt thằng này cho chim ưng ăn thịt.

Năm Sún cùng hội lại bên Sún Lé hỏi mưu kế. Sún Lé nói:

– Mỗi đứa chúng ta đều mang theo một con trăn, hãy dùng trăn mà bắt thằng Thiệu mới được.

Nguyên bọn Sún đi đâu cũng mang theo một con trăn để trong túi vải đeo bên mình. Bọn trăn này được huấn luyện thành thục để làm vũ khí, Sún Rỗ nói nhỏ với các Sún, rồi cả năm đứa cùng tiến vào vườn hoa gần đó.

Cuộc hỗn chiến tới sáng thì Hán chiếm được toàn thành. Trưng Nhị sai đánh chiêng thu quân, mở rộng bốn cửa thành, cho quân ra đóng bên ngoài chỉ để lại một lữ kị binh để bảo vệ tướng soái. Nàng cho các tướng sĩ kiểm soát bắt hết tàn quân giặc, cứu hỏa những nơi còn đang cháy. Đến sáng mọi việc mới tạm yên.

Trưng Nhị rất quan tâm đến Sún Lé, hỏi Trần Năng:

– Thế nào?

Trần Năng đáp:

– Không sao mũi tên trúng mông xuyên tới xương. Tôi đã lấy ra và buộc thuốc. Sún Lé phải nghỉ ít nhất một tháng không được dụng võ mà thôi.

Sún Lé nói:

– Em là con cháu Phù-đổng Thiên-vương, em không sợ chết. Nếu em chết thì Thần-ưng với các Sún trả thù cho em.

Trần Năng bồng Sún Lé giao cho Hồ Đề, dặn:

– Không cho Sún Lé hoạt động nhiều, vì hoạt động vết thương sẽ vỡ ra.

Trưng Nhị cùng mọi người kiểm điểm nhân mã, cho kỵ binh bao vây kín soái phủ Công-tôn Thiệu, chờ Đặng Vũ về sẽ quyết định thái độ đối với vợ con y.

Nàng thấy vắng bóng Lục Sún, hỏi Hồ Đề:

– Bọn Sún đi đâu mất rồi vậy?

Hồ Đề tủm tỉm cười:

– Chúng nó là trẻ con, chắc chạy chơi quanh đây chị khỏi cần lo, cứ thấy đàn Thần-ưng đâu là chúng nó ở đó. Tìm chúng nó đâu có khó gì?

Đến gần trưa Đặng Vũ về cùng với hàng vạn tù binh bị bắt. Đặng Vũ chắp tay hướng về đám anh hùng Lĩnh-nam:

– Đại tư-mã Đại-Hán xin kính cẩn đa tạ các vị nữ hiệp Lĩnh-nam ra tay trợ giúp, ơn này đời đời chúng tôi không quên.

Trưng Nhị chỉ phủ Công-tôn Thiệu nói:

– Tôi cho kỵ binh bao vây phủ Trường-sa vương, đợi Tư-mã trở về kiểm điểm tài sản, ban quyết định đối với vợ con y.

Kiến-oai đại tướng quân Cảnh Yểm nói:

– Việc này quan trọng lắm, trước đây Đại tư-mã hứa rằng, nếu ai bắt được Công-tôn Thiệu hoặc chiếm được soái phủ đầu tiên thì cho trấn thủ thành Bạch-đế và cho cả kho tàng của thành này. Không biết đã ai vào được chưa? Trong phủ còn ai không?

Đặng Vũ cùng Trưng Nhị tiến vào cổng soái phủ, lá cờ của Công-tôn Thiệu biến mất, trên cột cờ phất phới lá cờ của 72 động Tây-vu. Bất giác mọi người quay lại nhìn Hồ Đề.

Đặng Vũ hỏi:

– Hồ cô nương. Thì ra cô nương đã chiếm nơi này trước rồi à?

Hồ Đề cũng ngạc nhiên:

– Tôi luôn ở cạnh sư tỷ Trưng Nhị, không rời nhau nửa bước, làm sao chiếm được phủ này. Có lẽ một trong anh em của Tây-vu vào đây. Không chừng là Vi Đại-Lâm, Vi Đại-Sơn chỉ huy Thần-ngao, cũng có thể em tôi là Hồ Hác chỉ huy đội Thần-tượng. Ừ... không chừng là Lục-phong quận chúa cũng nên.

Đặng Vũ tiếp tục đi qua năm sáu dãy dinh thự to lớn, tới một dinh cao nhất, trên cửa đại sảnh có chữ sơn son thiếp vàng:

Trường-sa vương soái phủ.

Đặng Vũ đẩy cửa bước vào. Bất ngờ mọi người cùng oà một tiếng, đứng dừng lại há hốc miệng nhìn. Vì trên trướng của Công-tôn Thiệu nghễu nghện ngồi trên là Sún Lé, năm ghế bên cạnh có năm Sún ngồi. Sún Lé làm như người lớn, đứng dậy chắp tay mời mọi người:

– Tiểu tướng Sún Lé, trấn thủ thành Bạch-đế, xin Đại tư-mã ghé gót thịt vào quý phủ ăn bữa cơm mặn mà.

Lục Sún ở cùng với Hồ Đề, sống với thiên nhiên, nói năng giản dị. Từ hôm tòng chinh đến giờ, nó bắt đầu học được lối nói khách sáo của người Hán, nhưng trong lúc vội vàng, đáng lẽ nói gót ngọc, nó thấy mình đi chân đất nên nói là gót thịt. Người ta tự xưng phải nói là tệ phủ, đây nó nói lộn ra quý phủ. Dùng bữa cơm đạm bạc nó nói là mặn mà.

Hồ Đề quát lớn:

– Các Sún không được đùa, đây là quân lệnh. Vô phép ta chặt đầu. Mau đứng dậy nhường chỗ cho Đại tư-mã và các sư bá, sư tỷ.

Sún Lé vẫy tay, các Sún đồng đứng dậy. Sún Lé nói :

– Quân trung bất hí ngôn. Đặng đại tư-mã đã từng truyền hịch : ai bắt được Công-tôn Thiệu thì thưởng cho kho tàng của y. Ai vào thành đầu tiên thì cho làm trấn thủ, có đúng thế không ? Sao bây giờ lại nuốt lời?

Đặng Vũ gật đầu :

– Quả đúng như em nói. Ta đã hứa là phải thi hành.

Sún Rỗ chỉ Sún Lé nói :

– Sún Lé từ mặt thành nhảy xuống đầu tiên, có đúng thế không ? Ở đây có sư tỷ Trưng Nhị, Phật-Nguyệt làm chứng.

Trưng Nhị gật đầu:

– Lên mặt thành đầu tiên là sư tỷ Phật-Nguyệt, nhưng nhảy xuống đất đầu tiên là Sún Lé.

Sún Lé nói :

– Ai đã chiếm soái-phủ Công-tôn Thiệu ? Thưa Sún Lé này chứ ai? Chứng cớ là Sún Lé đã treo cờ 72 động Tây-vu và hạ cờ soái của Công-tôn Thiệu xuống đầu tiên, rồi Lục Sún vào chiếm soái phủ. Nhảy vào thành đầu tiên là Sún Lé, chiếm soái phủ là Lục Sún, hạ cờ soái Công-tôn Thiệu là Sún Lé. Vậy Lục Sún phải được hưởng kho tàng của Công-tôn Thiệu và trấn thủ thành Bạch-đế. Đã là tướng phải giữ lời hứa với người dưới. Chúng tôi là người dưới, xin đừng dối chúng tôi. Đại tư-mã phải giữ lời hứa. Hơn nữa người lớn không được lừa trẻ con. Vả lại trong các tướng đánh thành Bạch-đế. Lé tôi suýt bỏ mạng, công ấy không nhỏ.

Đặng Vũ nhìn Trưng Nhị không biết trả lời sao, y nói :

– Kho tàng có thể cho các Sún, nhưng các Sún còn nhỏ tuổi quá, thì làm sao có thể làm tổng trấn thành này ?

Sún Rỗ cười ầm lên :

– Được mạnh đi chứ lị ! Được đứt đuôi con nòng nọc đi chứ lị. Có luật nào cấm trẻ con làm trấn thủ đâu ? Bảo chúng tôi là trẻ con ư, sao bắt chúng tôi xuất trận ?

Sún Lùn tiếp :

– Trong trận đánh thủy quân, chúng tôi lập công đầu. Chiếm thành Bạch-đế cũng là chúng tôi. Nếu bảo chúng tôi không công là ăn hiếp trẻ con. Chúng tôi cũng phải được hưởng chứ? Vả lại ngày xưa Phù-đổng Thiên-vương còn nhỏ tuổi cũng cầm quân đánh giặc, tại sao Lục Sún không được trấn thủ thành này ? Bên Trung-nguyên trước đó có cậu bé 12 tuổi là Cam La làm Tể-tướng được, thì chúng tôi cũng làm tổng trấn được chứ ?

Đặng Vũ không biết nói sao, nhìn Trưng Nhị cầu cứu. Trưng Nhị nhìn Hồ Đề, nàng cũng lắc đầu.

Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí nói :

– Trong hịch nói rằng ai bắt được Công-tôn Thiệu mới được làm trấn thủ thành Bạch-đế, vậy mấy Sún có bắt được y không đã ?

Đặng Vũ cũng nói :

– Đúng đấy, các Sún có bắt được Công-tôn Thiệu không nào ?

Sún Lé nhìn các bạn rồi cùng cười :

– Được Đại tư-mã hứa như thế phải không ?

Đặng Vũ gật đầu :

– Tôi hứa chắc như vậy, nếu các em bắt được Công-tôn Thiệu, ta cho các em làm tổng trấn thành này.

Sún Lé vỗ tay một cái, Sún Lùn, Sún Rỗ mở cửa phòng bên cạnh, dẫn một người bị trói, mình đầy thương tích, đầu bịt một tấm khăn. Sún Lé mở khăn trùm đầu, thì ra là Công-tôn Thiệu.

Trưng Nhị giật mình :

– Các sư đệ, làm sao các sư đệ bắt được y ?

Sún Lùn nói :

– Khi Công-tôn Thiệu bắn Sún Lé, chúng em chui trong bụi cây đuổi theo y về đến đây. Y vào phủ điều khiển gia đình rút lui, rồi mới đeo kiếm định đốc thúc quân tiếp tục chiến đấu. Mỗi đứa chúng em mang theo một con trăn. Chúng em đồng quăng ra quấn y. Y hết dẫy nổi, chúng em mới trói lại, chiếm phủ này.

Sún Rỗ tiếp :

– Bây giờ kho tàng của y thuộc về Lục Sún. Lục Sún đồng trấn thủ thành Bạch-đế. Ha, ha...

Sún Lé vỗ tay :

– Thành Bạch-đế này có bốn cửa, mỗi Sún trấn một cửa. Trung ương thì Sún Rỗ thống lĩnh. Sún Lé này làm quân sư. Binh sĩ có thêm 600 thần-ưng. Tuyệt hảo, tuyệt hảo.

Sún Cao tiếp :

– Chúng ta sẽ vẽ hình lên cờ. Cờ của ta thì có một Sún cao nghệu, còn cờ Sún Rỗ thì có hình tổ ong.

Cứ thế, mỗi Sún một câu, làm Đặng Vũ không biết làm sao trả lời cho xuôi. Trưng Nhị tìm ra một lối giải quyết, nàng muốn trêu Đặng Vũ, nháy Hồ Đề nói :

– Có lẽ phải cho Lục Sún trấn thủ thành Bạch-đế mới được. Vì trong hịch đã hứa như vậy. Nếu bảo Lục Sún không đủ tài trấn thủ, thì Lục Sún sẽ không chịu, vì chúng đã xuất trận hai lần đều thành công. Nếu bảo chúng còn nhỏ, thì tại sao lại cho chúng lâm trận.

Nàng nói với Đặng Vũ :

– Xin Đặng đại tư-mã cho biết sẽ đề cử ai làm phó tướng cho Lục Sún, vì chúng chưa đủ kinh nghiệm trị quân.

Đặng Vũ càng luống cuống nói với Trưng Nhị :

– Trưng cô nương, cô nương là quân sư, việc này xin để cô nương quyết định.

Trưng Nhị thấy để Lục Sún đùa vui như vậy cũng đủ. Nàng biết Lục Sún hơn ai hết : Cái gì cũng phải có lý, không được coi chúng là trẻ con thế thôi. Nàng nghĩ : Không cho chúng làm Tổng trấn thì muôn ngàn lần chúng không chịu. Chi bằng đem cái sở đoản của chúng ra dọa. Lục Sún là những đứa trẻ ồn ào, sợ cô độc. Vậy hãy đem cái cô độc ra dọa chúng.

– Đặng tư-mã đồng ý cho Lục Sún trấn thủ thành Bạch-đế. Vậy Tham-tướng đâu hãy lấy sổ sách ra, bàn giao thành cho Tây-vu Thiên-ưng lục tướng.

Tham tướng bưng ra một chồng sổ sách gần một trăm cuốn nói :

– Đây là sổ ghi chép lương thảo của thành. Xin Tiểu tướng quân ghi nhớ trong đó chép gạo, muối, cá khô, bò, trâu, lợn, gà nuôi quân.

Sún Lé cầm lên coi, nó chỉ đọc được hai chữ trên bìa cuốn sổ. Nó lắc đầu nói với Sún Đen :

– Đen ơi ! Hỏng rồi mày thử đọc xem.

Sún Đen lắc đầu :

– Mày học giỏi nhất, cũng chỉ biết được, mười tám, mười chín chữ, mà còn chịu thua thì tao làm sao mà đọc được.

Viên Tham tướng đưa tiếp cuốn sổ ghi quân số, tên tuổi từng binh sĩ một. Cuốn sổ dày hơn gang tay. Tiếp theo là cuốn ghi kế hoạch phòng thủ.

Lục Sún nhìn nhau ngẩn người. Sún Rỗ nói với Sún Lé :

– Mày khôn nhất trong bọn, mày giữ sổ sách. Bọn tao chỉ biết Ục nhau thôi.

Viên Tham-tướng trình bày gần hai mươi loại sổ sách. Lục Sún ngơ ngẩn nhìn nhau chưa biết nói sao.Trưng Nhị tiếp :

– Sau đây bọn ta vào Thành-đô. Các sư đệ ở lại thành Bạch-đế cho đến già.

Lục Sún vào thành Bạch-đế bắt được Công-tôn Thiệu, đòi làm Tổng-trấn cho vui, chứ thật sự chúng đâu có thích làm quan. Bây giờ nghe Trưng Nhị bảo chúng nó phải ở lại đây cả đời. Sáu đứa nhìn nhau, sợ hãi ra mặt. Sún Hô là đứa nghĩ xa nhất, nó hỏi Hồ Đề :

– Sau khi đánh xong Thục, sư tỷ có về qua đây không ?

Hồ Đề lắc đầu :

– Bọn ta theo ngã Độ-khẩu về Lĩnh-nam. Mười năm sau, ta cho người đến thăm các sư đệ.

Sún Cao là đứa nhát nhất, nó nói :

– Thôi chúng mày ở lại mà làm Tổng trấn. Tao theo sư tỷ đánh Thành-đô rồi trở về rừng Tây-vu. Chứ ở đây chỉ có sáu đứa, buồn bỏ mẹ đi í! Mười năm sau sư tỷ mới đón về Lĩnh-nam thì chết bỏ bu !

Sún Lùn, Sún Rỗ, Sún Hô, Sún Đen cũng nói :

– Thôi bọn tao cũng không ham cái chức Tổng trấn đâu. Đã không biết chữ thì làm sao mà đọc sổ sách.

Sún Lé hỏi Đặng Vũ :

– Thưa Đại-tư-mã, luật nhà Hán có cho phép nhường chiến công cho nhau không ? Ví như anh em chúng tôi có công có thể nhường cho một tướng khác chẳng hạn ?

Đặng Vũ gật đầu :

– Các em muốn tặng cho ai ?

Sún Lé nhìn các bạn nó rồi nói:

– Chúng mày ạ! Tao nghĩ rằng chúng mình còn nhỏ quá không làm Tổng-trấn được, chi bằng nhường công lao cho một vị đại tướng-quân nhà Hán thì hay hơn?

Đặng Vũ gật đầu tỏ vẻ hài lòng:

– Thế các em muốn nhường chức Tổng-trấn lại cho ai nào?

– Các đại-tướng ở đây nhiều quá, ai cũng làm Tổng-trấn được. Nhưng tao thấy ông Bô-lỗ đại-tướng quân Mã Vũ là người nhân từ, biết thương dân, vậy chúng mình nhường cho ông ấy quách.

Lục Sún cùng reo lên. Sún Lé nói với Đặng Vũ:

– Đại tư-mã! Chúng tôi muốn nhường chức Tổng-trấn thành Bạch-đế cho Bô-lỗ đại tướng quân Mã Vũ, vì ông ấy hiền lành lắm.

Nguyên Bô-lỗ đại tướng quân là người nhu nhã, học thức. Ông có hai đứa con trai bị chết trong chiến tranh. Nếu hai con ông còn sống, tuổi cũng ngang Lục-Sún. Vì vậy từ hôm Lục Sún tới Kinh-châu, ông thường sang lều bọn chúng trò chuyện. Ông dạy chúng cách hành quân, bố trận, xung phong, hãm địch. Chúng học lấy thuật đó áp dụng vào việc chỉ huy Thần-ưng. Cho nên cả Lục Sún đều thích ông. Nay chúng đề nghị nhường công trạng cho ông. Đặng Vũ nói:

– Được, vậy Bô-lỗ đại-tướng quân ở lại làm Tổng-trấn thành Bạch-đế, Xuyên-khẩu. Còn tài sản của Công-tôn Thiệu vẫn để cho Lục Sún.

Lục Sún đồng ý đề nghị của Đặng Vũ, chúng lục lọi hết các phòng trong phủ Trường-sa vương, lấy không biết bao nhiêu đồ quý giá. Chúng nó đều là trẻ con ở rừng núi, đùa nghịch với thiên nhiên, không biết giá trị vàng bạc châu báu. Sún Lé bảo Hồ Đề:

– Sư tỷ, chúng em biếu, sư tỷ đấy.

Hồ Đề thì xuất thân từ một cô gái Mường ở Tây-vu, nhờ tài thao lược, võ công tuyệt vời và nhất là tính tình giản dị, mà từ một Động-chủ nàng tiến lên làm Thống-lĩnh 72 động. Nàng lấy thú rừng săn bắn, hoa cỏ, dạy giỗ thú vật làm vui, tuyệt không thích những đồ nữ trang. Còn vàng bạc, nàng cũng thấy không cần thiết, nên dửng dưng trước kho tàng lớn lao. Nàng nói với Trưng Nhị:

– Xin sư tỷ cho kiểm điểm lại, em dùng voi cho chở về Lĩnh-nam. Những thứ này, chúng ta cần đến nó sau này.

Trưng Nhị hiểu rằng, với kho tàng, sau này sẽ dùng để phục quốc, nàng sai đóng thành thùng.

Không biết Sún Lé nghĩ sao, lựa lúc người lớn không chú ý, bốc lấy một ít châu ngọc, vàng bạc cho vào một túi nhỏ, đeo bên hông, nó nháy các bạn rồi cùng cười.

Trong những anh hùng Lĩnh-nam tham dự trận đánh. Lục Sún là trẻ con, chỉ thích nghịch ngợm, ăn vặt mà không thiết đến tiền bạc. Chúng ở rừng lấy cây cỏ, thú vật làm tiêu khiển, được Hồ Đề nuôi nấng, dạy dỗ, thân nàng là lãnh chúa, mà coi bọn chúng như em, nên chúng thấy sung sướng, không còn ước vọng gì nữa. Hồ Đề dạy chúng những gì là yêu nước, là Âu-lạc, là Văn-lang, khiến máu trẻ của chúng sôi sục việc nước. Tuổi chúng còn nhỏ, được tham dự những việc người lớn, chúng thích chí. Còn tiền bạc chúng không biết để lãm gì?

Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường nói nhỏ với Trưng Nhị, Trần Năng:

– Lĩnh-nam mình đến hồi đại-phúc rồi thì phải. Trên từ Trưng Nhị cho đến Lê Chân, Trần Năng, Phật-Nguyệt, dưới đến Lục Sún, người nào thấy vàng bạc, châu báu cũng chẳng thiết gì. Đàn bà con gái ai cũng thích vàng bạc, châu báu đeo đầy người. Còn các cháu đây nhan sắc cũng diễm lệ như bất cứ ai. Võ công còn hơn ta, mưu trí trùm hoàn vũ, thế mà trông thấy kho châu báu, chả cần xem xét, chả cần một món gì, khác với bọn tướng Hán, người nào cũng hau háu nhìn vàng ngọc, nhất định Lĩnh-nam sẽ được phục hồi.

Trưng Nhị cũng đồng một ý tưởng như Lại Thế-Cường. Hôm sau nàng gọi em trai Hồ Đề là Hồ Hác đến dặn rằng:

– Chị cho em về Giao-chỉ trước. Em mang theo một số đệ tử Tây-vu giúp đỡ. Em tải mấy thùng châu báu về Tây-vu cất giấu cẩn thận. Việc này chỉ có chị Hồ Đề, Trần Năng, Phật-Nguyệt, Lê Chân và sư thúc Lại Thế-Cường biết mà thôi, còn ngoại giả em dấu hết. Những thùng châu báu, ta sẽ dùng đến mai sau.

Hồ Hác vâng lệnh lên đường.

Trong khi Đặng Vũ cho quân sĩ nghỉ dưỡng sức, thì Lục Sún, Mã Vũ ngày ngày cỡi ngựa ngao du thành Bạch-đế. Các Sún nhận thấy dân chúng khóc lóc tiếc thương vì Thục bị Hán đánh. Họ than thở rằng hồi sống dưới chế độ Công-tôn Thiệu sung sướng hơn chế độ nhà Hán nhiều.

Một buổi chiều Sún Lé bàn với các Sún:

– Tao đề nghị chúng mình vào nhà tù thăm Công-tôn Thiệu hỏi xem y cai trị cách nào mà dân chúng khoan khoái hơn Mã Vũ cai trị? Dân không vui là tội chúng mình, vì chúng mình lập công cho Quang-Vũ, làm họ khổ sở, tao nghĩ lỗi ở tại chúng mình.

Lục Sún đồng ý, chúng đòi đến nhà tù thăm Công-tôn Thiệu. Sún Cao nói:

– Sư tỷ Hồ Đề dạy rằng, dù đối với tù nhân, cùng nên lấy lòng hiệp nghĩa. Công-tôn Thiệu là ông vua con, bị tù chắc khổ sở lắm. Chúng ta mang rượu thịt vào thăm ông ấy mới phải.

Chúng lấy một bình rượu, một con gà nướng, rồi đến nhà tù. Viên quan coi tù biết chúng là những đại tướng-quân. Làm mất lòng chúng, chúng hú lên một tiếng, y sẽ bị chim ưng nhá thịt liền. Y mở cổng nhà tù nói:

– Thiên-ưng lục tướng muốn thăm nhà tù xin cứ tự nhiên.

Lục Sún đến nhà giam Công-tôn Thiệu. Y bị giam trong căn nhà đá, chân tay bị xích. Sún Lé ra bộ ta đây lịch sự:

– Công-tôn đại hiệp, mấy hôm nay chắc người khó chịu lắm nhỉ? Chúng tôi mang rượu thịt đến mời đại-hiệp xơi đây!

Công-tôn Thiệu thản nhiên rót rượu ra uống, cầm con gà quay lên ăn. Ăn xong, y hỏi:

– Sáu chú em đại danh là gì ? Sáu chú dùng trăn bắt ta, thực giỏi. Ta bị bắt, chẳng đáng tiếc. Điều đáng tiếc là các chú còn trẻ, có tài, tại sao đi giúp Quang-Vũ ? Triều đình nhà Hán đâu có đem lại hạnh phúc cho dân ?

Sún Rỗ nói :

– Chúng tôi định đến hỏi ông điều này đấy. Mấy hôm nay, chúng tôi đi dạo chơi khắp nơi, dân chúng than tiếc cho ông. Họ nói ông cai trị thì trăm họ sung sướng. Còn Hán cai trị thì họ khổ vô cùng. Ông có thể cho chúng tôi biết cách cai trị của ông như thế nào không ?

Công-tôn Thiệu nói :

– Được chứ ! Tôi nói cho các chú nghe cũng chẳng sao. Chúng tôi là bảy người sư huynh, sư đệ, được đời tặng cho danh hiệu là Thiên-sơn thất hùng. Nhân thời loạn, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, chúng tôi khởi binh, đem tinh thần hiệp sĩ cứu dân, lập ra nước Thục. Vì bất đắc dĩ chúng tôi phải xưng đế, xưng vương, chứ có ai muốn công danh đâu ? Chúng tôi ban hành luật lệ rộng rãi, vì vậy dân chúng hạnh phúc. Còn Mã Vũ cũng có lòng nhân từ, nhưng luật lệ nhà Hán hà khắc, thì sao dân chúng sung sướng được ?

Lục Sún là những đứa trẻ ngay thẳng, chúng nghe Công-tôn Thiệu nói vậy, đồng gật đầu công nhận là đúng. Sún Đen nói :

– Hôm trước Trưng sư tỷ họp với chúng mình đưa ra ý kiến. Chúng mình giúp Hán đánh Thục là giúp kẻ ác đánh người nhân. Bây giờ chuyện đã như thế này thì làm sao đây ? Tao đề nghị đêm nay chúng mình thả Công-tôn đại-hiệp ra để tạ tội với dân chúng đất Thục.

Sún Cao là đứa nhát, nó nói :

– Tao không dám đâu, lỡ sư tỷ biết thì chết đòn.

Sún Lé hỏi Công-tôn Thiệu :

– Công-tôn đại-hiệp, dường như đại hiệp viết thư cho Trưng sư tỷ nói rằng đại-hiệp là bạn thân với đại-ca Đặng Thi-Sách phải không ?

Công-tôn Thiệu đáp:

– Cách đây hơn hai mươi năm, Đặng đại-ca theo hầu Thái sư-thúc là Khất đại-phu. Tôi theo hầu Thái sư-phụ là Thiên-sơn lão tiên, cùng lên đỉnh Kim-sơn chơi. Chúng tôi kết nghĩa huynh đệ. Tôi lớn tuổi hơn là anh. Chúng tôi thề cùng hợp tác với nhau mưu đồ hạnh phúc cho trăm họ. Vì vậy chúng tôi mới lập ra nước Thục. Đặng đại-ca lập lại Lĩnh-nam. Thục, Lĩnh-nam liên kết với nhau chống Hán.

Sún Đen nói :

– Bây giờ muốn biết đúng hay sai, xin Công-tôn đại hiệp viết cho Đặng đại-ca một bức thư, kể hết sự tình. Tôi cho Thần-ưng đem về Lĩnh-nam. Nếu Đặng đại-ca công nhận những lời đại-hiệp là đúng, chúng tôi đánh Hán giúp Thục.

Nó lấy bút mực cho Công-tôn Thiệu viết thư. Thư viết xong, nó bỏ vào một ống tre dưới chân thần-ưng, rồi ra hiệu, dặn dò. Thần-ưng bay bổng lặn trời, hướng phía Nam.

Lục Sún trở về nghỉ. Bốn hôm sau Thần-ưng trở lại. Chúng mở ống tre dưới chân Thần-ưng có đến bốn tờ giấy. Một tờ viết đầy chữ, ba tờ vẽ rất nhiều hình. Hình thứ nhất vẽ hai lão ông trên tuyết uống rượu. Chúng nhận ra một ông giống Khất đại-phu. Cạnh hai ông có hai người đeo kiếm đứng hầu, chúng nhận ra là Đặng Thi-Sách và Công-tôn Thiệu.

Sún Hô nói :

– Như vậy lời nói của Công-tôn Thiệu là đúng rồi đó.

Nguyên mười năm trước, Khất đại-phu lên Kim-sơn thăm người bạn già là Thiên-sơn lão tiên. Ông mang Đặng Thi-Sách theo để dạy thêm kinh nghiệm cho chàng. Thiên-sơn lão tiên cũng mang theo một đồ tôn là Công-tôn Thiệu. Giữa đỉnh núi tuyết hai lão tiên đánh cờ, uống rượu. Còn hai đồ tôn bàn chuyện mưu đồ hạnh phúc cho dân. Hai người ý hợp, tâm đầu, họ kết làm huynh đệ, trước sự chứng kiến của hai đại tôn sư võ học. Công-tôn Thiệu định chiếm Đông-xuyên, Tây-xuyên, Kinh-châu rồi quay mặt lên phía Bắc chống với Hán. Còn Đặng Thi-Sách định lập lại Lĩnh-nam. Hai người thề sẽ cứu ứng lẫn nhau.

Cách đây mấy tháng Đặng Thi-Sách được Trưng Trắc cho biết, anh hùng Lĩnh-nam theo Nghiêm Sơn sang Trung-nguyên đánh Công-tôn Thuật. Ông không ngờ Công-tôn Thuật là anh Công-tôn Thiệu, nên không có ý kiến gì. Vì anh hùng Lĩnh-nam cố theo tòng chinh mới đem được 30 vạn quân Hán ra khỏi đất nước mình, cuộc nổi dậy mới dễ thành công. Bây giờ được thư Công-tôn Thiệu, ông mới bật ngửa ra rằng Công-tôn Thiệu là Trường-sa vương của Thục. Thục đang lâm nguy vì đám anh hùng Lĩnh-nam. Ông vội sai Trưng Trắc lên đường thuyết phục anh hùng Lĩnh-nam phản Hán trợ Thục. Trợ Thục có lợi. Lĩnh-nam, Hán, Thục chia ba thiên hạ. Thục và Lĩnh-nam cứu ứng lẫn nhau mới mong tồn tại. Chuyện giúp Hán để đem 30 vạn quân rời Lĩnh-nam thì đã xong rồi. Một mặt ông viết bức thơ cho Công-tôn Thiệu dặn dò phải kín đáo. Ông muốn viết thư cho Lục Sún, nhưng chúng không biết chữ thì làm thế nào ? Sư muội Nguyễn Quý-Lan đề nghị ông nên vẽ hình, Lục Sún cũng hiểu được câu chuyện.

Bức tranh thứ nhì vẽ một người khổng lồ đầu có sừng, hai răng nanh dài, định bắt dân chúng ăn thịt. Phía trước có bảy người dùng kiếm đánh người khổng lồ. Trong bảy người đó, có một người giống hệt Công-tôn Thiệu.

Sún Hô nói :

– Đặng đại-ca ví Quang-Vũ như con quỷ ăn thịt người. Còn đây là Thiên-sơn thất hùng đánh quỷ cứu dân.

Bức thứ ba vẽ sáu người con gái, cạnh sáu đứa trẻ và đàn chim đứng giúp con quỷ mọc sừng đánh lại năm người cầm kiếm.

Sún Hô nói :

– Đặng đại-ca nói Trưng sư tỷ với bọn mình trợ giúp Quang-Vũ đánh Thục, là giúp quỷ hại dân.

Bức thứ tư vẽ bảy người cầm kiếm bị thua chạy, một người bị bắt trói, người đó là Công-tôn Thiệu. Bức thứ năm vẽ Công-tôn Thiệu bị trói nằm trong tù. Lục Sún cầm búa chặt xích cứu y.

Sún Hô bàn :

 – Đặng đại-ca bảo chúng mình cứu Công-tôn Thiệu, chúng mày có đồng ý làm không ?

Sún Lé nói :

– Làm thì làm chứ sợ đíu gì Đặng Vũ. Tao đề nghị thế này : Lát nữa tao ra mượn thợ rèn làm cho cái búa với mấy cái cưa nhỏ. Chúng mình quay một con ngỗng thực lớn, rồi bỏ búa, cưa vào gửi cho Công-tôn Thiệu. Lúc y ăn thịt ngỗng, thấy búa cưa, y sẽ dùng để cắt xích, trốn đi. Sư tỷ Hồ Đề, Trưng Nhị không thể nào nghi ngờ bọn ta đã thả tù. Chúng mày nghĩ sao ?

Lục Sún đồng ý. Sún Lé lên ngựa ra chợ.

Chiều hôm đó Sún Lé mang một con ngỗng quay thực lớn, nặng đến mười cân (5 kg) và một bình rượu vào nhà tù thăm Công-tôn Thiệu. Nó lấy bức thư của Đặng Thi-Sách viết đưa cho Công-tôn Thiệu. Công-tôn Thiệu đọc cho nó nghe :

« Công-tôn đại-ca,

Từ hồi Kim-sơn cách biệt, đã hơn mười năm, chúng mình không gặp nhau. Gần đây, mãi lo phục hồi Lĩnh-nam, nên nhiều lúc muốn lên Thiên-sơn yết kiến Thiên-sơn lão tiên, gặp lại đại-ca, anh em hàn huyên mà không được. Hôm nay nhận được thư đại ca do Thần-ưng mang đến, em biết Thiên-sơn thất hùng đã làm nên sự nghiệp Nghiêu, Thuấn ở Trung-nguyên. Em cho Trưng Trắc lên đường thực hiện lời hứa của anh em mình cách đây mười năm. Lục Sún sẽ cứu đại-ca tai qua, nạn khỏi. Thư bất tận ngôn, ngày tháng còn dài, anh em mình sẽ còn gặp nhau.

Tiểu đệ Đặng Thi-Sách cẩn bút ».

Sún Lé nói nhỏ :

– Trong con ngỗng quay này có cái búa và cái cưa. Đêm nay Công-tôn đại-hiệp cắt xích mà về Thục. Thôi tôi đi đây.

Sáng hôm sau có tin báo với Đặng Vũ rằng : Công-tôn Thiệu vượt ngục. Đặng Vũ, Sầm Bành, Trưng Nhị đến tận nơi điều tra, thấy ba tên cai ngục bị đánh trọng thương nằm đó, các dây xích khóa chân tay Thiệu bị cắt đứt. Đặng Vũ cười :

– Công-tôn Thiệu có vượt ngục cũng chẳng ngại, vì tinh thần quân đội Thục đã tan vỡ, vậy chúng ta tiến quân cho mau. Trước hết chia quân làm hai đạo. Một đạo theo giòng sông Trường-giang chiếm Võ-lăng, thuận thế chiếm Bồ-lăng, Bích-sơn để phòng giặc đánh chận hông. Còn một đạo phải đánh chiếm Lương-bình, Quảng-an và Phong-khê. Đến Phong-khê thì thì Thành-đô ở trước mặt rồi.

Trưng Nhị bàn :

– Đạo đánh Vũ-lăng thì tôi xin lĩnh mệnh điều khiển. Tôi tiến tới hợp với đạo quân Lĩnh-nam ở Long-xương. Như vậy Đại-tư mã tiến quân tới đâu cũng không sợ gì nữa. Tôi chỉ cần đem các tướng Lưu Long, Đoàn Chí, Lê Chân là đủ. Còn lại thì do tướng quân thống lĩnh. Tới Long-xương, tôi ngược Nê-giang tiến về Thành-đô. Không biết ý tướng quân thế nào ?

Ý của Đặng Vũ là tiến vào Thành-đô càng sớm càng tốt. Nay được Trưng Nhị đề nghị đánh vào phía trái cản các đạo quân đánh vào Thành-đô thì còn gì bằng nữa. Y chia cho Trưng Nhị toàn bộ thủy quân với mười vạn quân bộ. Dự định hôm sau tiến quân.

Các thành chiếm được giao cho Phục-ba tướng quân Mã Viện trấn giữ.

Chiều hôm đó quân vào báo :

– Có sứ giả của Chinh-viễn đại tướng quân Đào Kỳ tới.

Từ hôm rời Đào Kỳ đến giờ, Đặng Vũ, Trưng Nhị không được tin tức gì, nay mới nhận được sứ giả.

Cửa trướng mở, sứ giả bước vào làm mọi người bật cười, vì sư giả là Giao-long nữ Trần Quốc cùng với năm con trai của Nguyễn Tam-Trinh là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Giao-Chi. Họ mặc giống nông dân đất Thục, lưng đeo bảo kiếm trông rất oai vệ. Đặng Vũ chưa biết đám này, đưa mắt nhìn Trưng Nhị. Trưng Nhị giới thiệu từng người một, rồi hỏi :

– Có phải các em giả làm dân Thục, đi đường sông đến đây không ?

Giao-Chi gật đầu :

– Chúng em phải đi như vậy, chứ đi vòng, phải mất mấy tháng thì lâu quá. Dọc đường thủy quân Thục không tra xét gì, đến Cổ-lăng mới bị quân Hán tra xét, chúng em phải đưa thẻ bài mới được đến đây.

Giao-long nữ cười:

– Chị Trưng Nhị, chị tiến quân chậm quá, hôm nay mới chiếm được có hai thành thôi à? Bọn em chiếm được Độ-khẩu, Mễ-dương, Đức-xương, Phổ-khách, Việt-tây và Mỹ-cơ. Sư bá Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng, chiếm được Xích-khẩu, Giang-an, Long-xương rồi. Hai đạo quân đã bắt tay được với nhau. Không chừng bây giờ vào Thành-đô rồi cũng nên.

Đặng Vũ thất kinh hồn vía hỏi:

– Thế thì khi cô nương lên đường, Đào tướng-quân đã tiến tới đâu rồi?

Giao-long nữ nói:

– Đào đại-ca ngưng tiến quân vào Thành-đô mà tiến phía Tây chiếm Cửu-long Nhã-giang và Càn-định. Đào đại-ca bảo để dành cho Đặng tư-mã vào Thành-đô trước. Đào đại-ca sợ thủy quân Thục mạnh, sai chúng em đến trợ chiến. Sư-tỷ, đi dọc đường em nghe quân Thục phía Đông bị đánh tan rồi phải không?

Đặng Vũ nghe Giao-long nữ nói, y mừng run người lên nghĩ:

– Đào Kỳ là người tốt với ta. Y đánh giặc không cần lập công, quan chức, y nhường cho ta chiếm Thành-đô đây.

Trưng Nhị hỏi:

– Em hãy thuật cho chị nghe chi tiết việc đạo quân Lĩnh-nam đánh như thế nào mà thành công mau như vậy.

Giao-long nữ chỉ một tướng quân trẻ tuổi, khí vũ hiên ngang, mặt sậm đen, phong thái ôn nhu:

– Đào đại ca giữa trận kết bạn với Vương đại-ca, nguyên Vương đại-ca là Bình-nam vương của Ích-châu. Đại-ca theo hàng Lĩnh-nam nên mới đánh mau thế. Còn đánh như thế nào em để chị Giao-Chi kể. Vì Đào đại-ca bảo tính em hay đùa không được kể truyện.

Đoạn này thuật cuộc tiến quân của Đào Kỳ, cùng thời gian với cuộc tiến quân của Trưng Nhị

Sau Nghiêm Sơn, Phương-Dung lên đừng đi Kinh-châu, thì đạo-quân của Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng cũng lên đường. Đào Kỳ, Hoàng Thiều-Hoa đi Vĩnh-nhân. Giao-long nữ Trần Quốc đi cạnh Thiều-Hoa cười nói huyên thuyên. Nàng là cô gái mồ côi, không cha, không mẹ bị đời hiếp đáp cơ cực, may được Trần Quốc-Hương nuôi dạy coi như con đẻ, được cưng chiều được dạy võ, dạy văn, dạy âm nhạc, nên giữa tuổi thơ tính tình nàng mở rộng vô cùng. Từ khi còn ở Thiên-trường, nàng được đọc sách nói về người xưa cầm quân đánh giặc, thường mơ màng ngày nào đó nàng cũng ruổi ngựa, chỉ huy thủy quân xông pha mặt trận. Không ngờ bây giờ giấc mơ là đây. Sau lần đấu với Đào Kỳ trên sông Thiên-trường, không những Đào Kỳ không buồn mà càng sủng ái nàng như một cô em gái, biết trọng dụng tài của nàng, nên nàng cao hứng cực điểm. Nàng nhìn Thiều-Hoa rồi hỏi:

– Chị Thiều-Hoa này, người ta nói Mỵ Nương đẹp lắm, Trương Chi say mê nàng đến điên đảo, vậy không biết Mỵ Nương có đẹp bằng chị không?

Thiều-Hoa cười:

– Mị-Nương đẹp thế nào chị không biết. Nhưng có điều chị biết rõ là nàng chỉ có mối tình cho Trương Chi, chứ nàng không có mối tình yêu nước như Giao-long nữ.

Giao-long nữ hỏi Đào Kỳ:

– Sư tỷ Thiều-Hoa khen quá, làm em sợ. Em nghĩ tại sao mình đi đánh Thục làm gì? Chi bằng ta đem quân về Giao-chỉ giết Tô Định, chiếm hết sáu quận lập Nghiêm đại-ca làm hoàng-đế. Chúng ta đánh sang Trung-nguyên, bắt Hoàng-đế Trung-nguyên phải triều cống mình có phải hơn không?

Đào Kỳ lắc đầu:

– Trong chúng ta có ai muốn làm vua đâu? Chỉ mong phục quốc rồi ruổi ngựa ngao du ngắm cảnh hùng vĩ của đất nước mà thôi.

Hoàng Thiều-Hoa nghe Trần Quốc nói, nàng mới tỉnh ngộ:

– Ừ nhỉ! Sau khi phục được Lĩnh-nam thì ai sẽ làm vua? Hoặc giả sư phụ ta? Ta thấy Khất đại-phu, Nam-hải sư bá đều là người hiệp nghĩa, tiêu dao tự tại, chả ai muốn làm vua chi cho khổ thân. Không chừng sư phụ mình phải làm vua cũng nên. Nếu sư phụ mình phải làm vua thì... ta phải cản mới được. Ta không muốn người phải chịu khổ sở suốt đời. Ta đọc sách thấy vua lúc nào cũng lo lắng, ăn ngủ không yên, sao bằng làm lạc-hầu tiêu dao núi rừng sướng hơn nhiều.

Bỗng Giao-long nữ nhớ ra việc gì, bảo Đào Kỳ:

– Em đọc binh thư nói rằng: “Binh quý hồ tốc”, nghĩa là dùng binh phải cần cho mau. Lại cũng nói: “Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”, nghĩa là binh chúng ta xuất hiện ở chỗ giặc không biết, đánh vào chỗ giặc không phòng bị. Nay chúng ta đã mạo hiểm đánh ở phía Nam Thục như thế này, cũng giống như ngày xưa Hàn Tín giả bộ một mặt sửa chữa Sạn- đạo, một mặt đổ quân đánh Trần Thương, làm cho Hạng Võ không đề phòng.

Hoàng Thiều-Hoa thấy mới chỉ gần Đào Kỳ, Phương-Dung có một năm mà Giao-long nữ đã am tường binh pháp thì mừng lắm, nàng nói:

– Sư nếu muội là Đào Kỳ, thì em sẽ làm gì?

Giao-long nữ mở lớn mắt cười:

– Em ra lệnh cho ngựa lưu tinh báo các huyện đường mở sẵn cửa ải để quân đi qua. Tuyệt đối không cho dân chúng biết có binh tướng từ Lĩnh-nam lên, như vậy Tế-tác giặc không biết được. Một mặt em ra lệnh cho Trấn-nam tướng quân Trần Huệ ở Vĩnh-nhân triệu tập quân, chuẩn bị đi Kinh-châu trợ chiến. Tai mắt giặc tại đó thiếu gì, chúng tin là thực, chúng ta xuất quân đánh bất thần như sét nổ, thì lấy Độ-khẩu dễ như trở bàn tay.

Đào Kỳ mở to mắt nhìn Giao-long nữ, chàng chỉ thấy đó là một cô gái xinh đẹp, lưng thon, ngón tay trắng như búp măng, đang cầm ống tiêu thổi khúc Cổ loa di hận... Không ngờ trong đầu lại nghĩ được một kế tuyệt diệu như vậy. Chàng hướng vào Giao-long nữ nghiêm trang chắp tay vái ba vái:

– Đa tạ sư muội chỉ dạy.

Giao-long nữ vội chắp tay đáp lễ:

– Nghĩa phụ em thường nói: Đào hầu dạy con và đệ tử giống như Khổng-Tử dạy học trò, lúc nào cũng phải giữ lễ. Nghĩa phụ em dạy con và đệ tử thì cho phát triển tự do, em mới được lý lắc với người.

Đào Kỳ cầm lệnh tiễn giao cho viên Tham-tướng dặn dò mấy câu. Y vâng dạ ruổi ngựa như bay. Vì vậy khi quân qua các quận, huyện, dân chúng, quan chức coi như chàng dẫn binh lính đi tập trận, không phải đón tiếp, cung ứng lương thực như thường lệ.

Mấy hôm gần tới Vĩnh-nhân, chàng cho quân nghỉ ngơi, rồi sáng hôm sau lên đường, để quân sĩ tới nơi vào lúc chập choạng tối. Trấn-nam tướng-quân Trần Huệ chuẩn bị sẵn, tiếp rước chàng vào trướng trong thành.

Phó tướng Ngô Đạt nói:

– Ty chức tiếp được lệnh tiễn của Nguyên-soái, ra lệnh cho quân sĩ chuẩn bị lương thực, lừa ngựa. Họ tưởng rằng sẽ lên Kinh-châu trợ giúp Đại tư-mã. Họ đang chờ lệnh.

Trần Huệ, Ngô Đạt kinh ngạc, vì thấy bọn Đào Kỳ có 16 người, thì hết 8 là những thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời, tuổi còn trẻ.

Đào Kỳ chỉ Hoàng Thiều-Hoa giới thiệu:

– Đây là Vương-phi Lĩnh-nam vương, lĩnh chức Tả tướng-quốc cũng là sư tỷ của tôi.

Trần Huệ nghe nói Lĩnh-nam vương-phi là người đẹp sắc nước hương trời, nên khi thấy Hoàng Thiều-Hoa đẹp như tiên nữ, y không ngạc nhiên. Y chỉ ngạc nhiên khi thấy nàng cũng là một võ tướng mà thôi.

Đào Kỳ giới thiệu những người khác:

– Đây là sư muội Trần Quốc, biệt hiệu là Giao-long nữ, Trần tướng quân đã gặp rồi.

– Đây là sư tỷ Nguyễn Giao-Chi cùng với năm sư huynh Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều thuộc thủy quân, sẽ giúp chúng ta vượt sông, như hôm trước chúng tôi đã làm.

Trần Huệ mừng lắm:

– Hôn trước chỉ một mình Nguyên-soái cùng với Trần đô-đốc cũng sang sông dễ dàng, bây giờ chúng ta thêm 6 vị nữa cùng với đội Giao-long binh, thì càng mau hơn.

– Đây là Ngũ-long công chúa, chỉ huy đội Thần-long tập kích thủy quân Thục.

Giao-long nữ hỏi:

– Trấn-nam tướng quân, người với tôi cùng họ, chắc tướng quân biết. Họ Trần ở bất cứ đâu đều giỏi bơi lội ca. Tôi còn mang theo đội Giao-long hơn 100 sư huynh, sư đệ nữa. Vì vậy chúng ta qua cùng một lúc 100 người, chăng 100 sợi dây, chỉ lát sau 100 nữa qua sông thành 200 sợi. Cứ như thế chỉ cần nửa giờ, chúng ta có 600 sợi dây. Với 600 sợi dây, chúng ta bắc cầu phao trong nửa giờ là xong. Liệu như vậy đã đủ chưa?

Trần Huệ thấy cô bé xinh đẹp, tính toán phân minh, thì tiếp:

– Nữ Đô-đốc tính thế thì tuyệt. Dù khi chúng ta mới sang sông tại Độ-khẩu giặc biết, tập họp quân tiến ra đánh cũng phải mất một giờ. Bấy giờ chúng ta đã bắc cầu phao, hơn một Sư sang sông, giặc chỉ có đường chạy.

Đào Kỳ ra lệnh:

– Ngay bây giờ, Đô-đốc Giao-long nữ chỉ huy đội Giao-long binh Thiên-trường. Giao-Chi chỉ huy các huynh đệ Cối-giang chăng dây ngầm dưới sông trước. Qua bên kia thì trấn thủ bảo vệ đầu cầu.

– Phấn-oai đại tướng quân Minh-Giang chỉ huy đánh chiếm đồn Hoa-bình và thành Độ-khẩu. Về đồn Hoa-bình thì sư huynh Nguyễn Nhân dẫn một lữ bộ-binh sang Hoa-bình tất kéo quân về cứu, bấy giờ đổ quân ra đánh.

Ngưng một lát chàng tiếp:

– Thành Độ-khẩu có bốn cửa, hai cửa quay mặt ra sông, do thủy quân trấn giữ. Hai mặt này không thuộc bổn phận của Phấn-oai tướng quân.

– Sư huynh Nguyễn Nghĩa chỉ huy một lữ bí mật qua sông, đến trấn ngay phía Tây Độ-khẩu. Khi thấy pháo lệnh nổ thì đánh thành.

– Sư huynh Nguyễn Lễ, Nguyễn Trí, Nguyễn Tín mỗi người chỉ huy một lữ, cho bắc cầu phao thượng khẩn. Sau khi cầu phao bắt rồi, Trấn-nam tướnng quân chỉ huy bản bộ quân mã tuần hành trên sông, giữ cầu, bảo đảm việc tiếp tế cho các đạo tấn công cửa Bắc thành Độ-khẩu.

– Sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, sư đệ Đào Hiển-Hiệu mỗi người dẫn một vạn binh, năm ngàn kỵ binh cùng tiến đánh Mễ-dịch. Chiếm Mễ-dịch xong giao thành cho sư huynh Nguyễn Nhân trấn giữ. Sư tỷ tiến đánh Đức-xương. Sư đệ tiến đánh Phổ-khách.

– Sau khi sang sông bắc xong cầu dây, Giao-long nữ trở về chỉ huy đội Giao-long cùng Ngũ-long công chúa, thủy quân Vĩnh-nhân đánh chiếm cửa Nam Độ-khẩu.

Người ngậm tăm không lên tiếng, ngựa buộc miệng tháo nhạc, âm thầm lên đường. Tới quãng bờ sông đêm trước. Giao-long nữ vẫy tay, lập tức đội Giao-long Thiên-trường, cùng đội đệ tử Cối-giang xuống bờ, rồi đóng cọc. buộc một đầu dây vào. Sau đó Đào Ky, Giao-long cùng mọi người nhảy xuống nước bơi qua. Trời tháng mười một lạnh thấu xương, nhưng người nào cũng có thuốc chống lạnh của Khất đại-phu, họ không sợ. Tới bờ bên kia, họ buộc dây vào các gốc cây, giật mạnh. Ở bên này, một số người lại bám dây lội qua, chăng thêm một số dây. Bấy giờ Đào Kỳ mới cho họ đào lỗ, đóng cọc. Bọn người làm việc âm thầm, bỗng có tiếng nhạc ngựa reo. Đào Kỳ ra lệnh im lặng, nép mình xuống đất. Từ xa, một đội quân binh khoảng hai mươi người cầm đuốc đi tới, có lẽ đây là đội tuần tiễu.

Đội quân tới gần, thấy dây, gỗ ngổn ngang thì ngạc nhiên. Viên chỉ huy nói:

– Tại sao có gỗ với dây thế này?

Đào Kỳ phất tay ra hiệu, đám anh hùng Lĩnh-nam cùng vùng dậy, chỉ vài hiệp bắt sống cả hai mươi binh sĩ. Đào Kỳ sai trói lại, rồi ra hiệu cho mọi người tiếp tục chăng dây, đóng cọc.

Chàng quay lại thẩm vấn viên chỉ huy:

– Mi tên gì ? Thuộc cơ đội nào? Nếu nói thực ta tha cho. Bằng ngập ngừng là ta giết liền.

Tên này tỏ vẻ quật cường :

– Ngươi là ai ?

– Ta là Lĩnh-nam đại tướng quân được lệnh đánh Độ-khẩu.

– Nếu ngươi uy hiếp ta, thì ta không nói. Còn nếu ngươi hứa cho ta hàng như hịch Lĩnh-nam vương ta sẽ nói.

– Ta hứa nếu sai lời sẽ bị chết dưới muôn ngàn mũi tên.

– Được ! Ta là lữ trưởng Kỵ trong Độ-khẩu tên là Vũ Gia.

– Trong thành Độ-khẩu có biết cuộc tấn công của ta không ?

– Không ! Vì không ai ngờ trời lạnh thế này mà các ngươi dám qua sông.

– Ngươi đi đâu đây ?

– Ta đến đồn Hòa-bình kiểm soát.

– Tướng trấn thủ thành Độ-khẩu tên là gì ? Võ công y có cao không ?

– Y là con nuôi của Công-tôn Thuật, võ công rất cao. Y tài kiêm văn võ, được Công-tôn Thuật phong làm Bình-nam vương. Hôm qua y đi Việt-tây không biết để làm gì ? Hiện giờ người trấn thủ trong thành là Lê Hữu-Đức, võ công tầm thường. Y mới cưới vợ thứ năm hôm nay. Giờ này có lẽ y đang động phòng hoa chúc. Hôm qua Tế-tác báo rằng quân ở đồn Vĩnh-nhân sắp lên đường đi Kinh-châu, sẽ có quân mới tới, sáng mai bàn giao. Tuyệt không ngờ là đánh úp Độ-khẩu.

Đào Kỳ hỏi mật khẩu đêm nay cùng chi tiết trong thành. Vũ Gia trả lời rõ ràng. Chàng bảo y :

– Nếu đúng như lời người nói, sau khi hạ Độ-khẩu, ta cho ngươi làm lữ trưởng kỵ binh như cũ.

Đến đây thì ba lữ đã theo cầu phao qua sông. Đào Kỳ dặn Hoàng Thiều-Hoa :

– Sư tỷ cẩn thận, tại Việt-tây có Công-tôn Phúc, con nuôi Công-tôn Thuật, võ nghệ rất cao cường.

Giao-long nữ bảo Đào Kỳ :

– Đại-ca, bây giờ chúng em trở về đánh cảng Độ-khẩu.

Rồi nàng cùng đội Giao-long Thiên-trường với đám huynh đệ Cối-giang trở về Độ-khẩu. Tới nơi, tướng sĩ thủy quân chờ đợi ứng chiến. Trần Quốc móc trong túi ra một cái hộp lớn nói:

– Đây là thuốc chống lạnh, mỗi người phải uống một viên. Như vậy chúng ta có thể chịu lạnh được trong ba giờ. Chỉ cần ba giờ, chúng ta chiếm được Độ-khẩu rồi.

Phó tướng Ngô Đạt hỏi:

– Hiện tại đây chúng ta có 50 chiến thuyền lớn, 50 chiến thuyền nhỏ. Giặc có 100 chiến thuyền lớn, 50 chiến thuyền nhỏ. Vậỵ tại đây chúng ta đông hơn. Cần phải đánh thắng ngay trong đêm nay, nếu chậm trễ, đội Mễ-dương kéo tới thì nguy.

Giao-long nữ truyền lệnh:

– Đô đốc Vĩnh-nhân cùng các thuyền chờ sẵn bên này. Khi thấy bên kia sông có lửa cháy, hỗn loạn thì cho chiến thuyền sang đánh. Mọi người đều phải thoa lưu huỳnh với rượu vào chân tay, nếu không sẽ bị đội Thần-long cắn chết.

Nói xong nàng cùng đội Giao-long binh, đội đệ tử Cối-giang đeo giây vào lưng trườn xuống nước, lặn sang bên kia bờ. Tổng số đội Giao-long binh trên 200 người, chăng được 200 sợi dây. Bên này Ngô Đạt cho thủy quân cùng bám dây qua sông.

Chỉ lát sau hơn 500 người qua sông. Giao-long nữ cùng đội Giao-long binh lặn xuống nước đục thuyền địch. Nàng ra lệnh cho họ đục những lỗ lớn gần bằng cái mâm, nhưng chỉ đục gần lủng thì ngừng lại. Giữa miếng ván đục, đóng một cái đinh lớn, đầu đinh buộc sợi dây. Đang khi giao chiến thì giật dây cho ván bật khỏi thuyền.

Ngũ-long công chúa đã sang sông cùng với mấy cái bè chở Thần-long. Thần-long theo đầu cầu bò lên chiến thuyền địch.

Bấy giờ Giao-long nữ mới cho lệnh chiến thuyền Hán rời bến sang sông. Thuyền tới bên này bờ, Ngô Đạt đốt pháo lệnh, quân sĩ tràn vào thành. Bấy giờ thủy quân Thục mới thức giấc. Việc đầu tiên họ thấy trong chiến thuyền đầy rắn. Bước đến chỗ nào cũng đầy rắn, thuyền thì lủng những lỗ lớn, nước tràn vào ào ào. Họ kinh hồn táng đởm, bỏ thuyền nhảy xuống sông bơi trốn. Thế là phút chốc các chiến của họ chìm xuống đáy sông.

Quân Thục tuy anh dũng, nhưng giật mình thức giấc, các cửa thành đã mở, quân Hán tràn vào chiếm mất rồi, thành ra họ chỉ còn một nước là đầu hàng.

Dù sao Đào Kỳ vẫn chưa quen cách tiếp quản đồn trại, canh giữ, phỏng vấn tù binh. Song Minh Giang là người chỉ huy đánh Độ-khẩu, chàng đã ở trong quân ngũ hai chục năm, rất thạo việc đánh thành, chiếm đất. Nên khi đội quân của Trần Quốc, Ngô Đạt đánh các cửa Đông, Nam. Các đội của Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đánh phía Tây, Bắc, cùng tràn vào thành. Minh Giang truyền thu quân, tiếp quản doanh trại, phân loại, thẩm vấn tù binh, chỉ một lát là xong.

Trời sáng Đào Kỳ chỉ huy tiếp thu xong Độ-khẩu, Hoa-bình, Mễ-dương. Đến trưa được tin Đào Hiển-Hiệu đã chiếm thành Phổ-khách. Không thấy tin tức Hoàng Thiều-Hoa, chàng hồi hộp lo nghĩ cho sư tỷ.

Đến chiều Trần Huệ đã thực hiện xong hai chục cầu phao. Đại quân Cửu-chân, Quế-lâm, Tượng-quận qua sông hết. Mười lăm vạn quân đổ vào đất Thục chiếm ba thành.

Bỗng Thần-ưng mang thư của Hoang Thiều-Hoa về, Đào Kỳ mở ra xem:

“Ta cùng sư đệ Hiển-Hiệu chiếm Mễ-dịch dễ dàng. Hiển-Hiệu đem quân đánh Phổ-khách, ta đánh Đức-xương vào thành giờ Mùi. Sang giờ Thân thì Bình-nam vương Công-tôn Phúc mang quân từ Tây-xương trở lại. Ta xuất thành giao chiến, bất lợi. Thành Đức-xương bị địch chiếm lại. Ta bị vây ở Kim-xuyên”.

Đào Kỳ thăng trướng truyền lệnh:

– Quân sĩ đánh Độ-khẩu, Hoa-bình, Mễ-dịch thuộc đạo Tượng-quận cho nghỉ ở nhà dưỡng sức. Nay tuyển quân sĩ đạo Cửu-chân đi tiếp cứu Lĩnh-nam vương-phi. Còn binh sĩ đạo Quế-lâm làm trừ bị.

– Đại tướng-quân Trần Huệ trấn đóng Vĩnh-nhân bảo vệ đầu cầu bên kia bảo đảm cho việc tiếp tế an toàn. Phó tướng Ngô Đạt chỉ huy Thủy-quân bảo vệ mặt thủy. Phấn-oai đại tướng-quân Minh Giang trấn thủ Độ-khẩu, Hoa-bình, Mễ-dương.

– Đô-đốc Trần Quốc, sư tỷ Giao-Chi, chỉ huy đội Giao-long binh và đoàn đệ tử Mai-động dùng chiến thuyền vượt sông Nhã-long lên chặn đường rút lui của quân Thục từ Đức-xương trở về Tây-xương.

– Các sư huynh Nhân, Nghĩa mỗi người lĩnh một vạn Kỵ binh đi làm tiền đội. Tôi với sư huynh Lễ dẫn một vạn Kỵ binh đi đội thứ nhì. Sư huynh Trí, Tín dẫn hai vạn Bộ binh đi tiếp ứng.

– Ngũ-long công chúa trấn thủ dọc Kim-sa giang.

Từ Độ-khẩu đến Kim-xuyên phải mất hai giờ sức ngựa. Đào Kỳ, Nguyễn Lễ tới nơi thấy Hoàng Thiều-Hoa đóng quân ở trên đồi Kim-xuyên. Binh sĩ nấp sau các gốc cây, hốc đá phòng thủ uy nghiêm. Quân Thục bao vây phía dưới, không tiến được. Chàng ra lệnh cho Nguyễn Nhân, Nghĩa, Lễ dẫn ba vạn Kỵ-binh vây vòng ngoài quân Thục. Quân Thục bị đánh từ trong ra, vây từ ngoài vào mà vẫn không rối loạn, dàn thành trận thế dựa lưng trên sông, lập trận.

Đào Kỳ nói với anh em Nhân, Nghĩa, Lễ:

– Tướng Thục dùng binh đến như thế kia, tôi e Lĩnh-nam mình không quá hai người theo kịp. Hãy trông kia: Họ chỉ có hơn vạn quân, đang bao vây sư tỷ Thiều-Hoa. Chúng ta kéo đến ba vạn kỵ-binh. Họ lui lại bắt chước Hàn Tín bối thủy lập trận, tỏ ý quyết chiến với ta. Được ta không tấn công vội. Giặc cùng cố vây, ta sẽ bị tổn hại nhiều.

Đạo quân Đào Kỳ đã bắt tay được với đạo quân Hoàng Thiều-Hoa. Nàng mừng lắm nói:

– Sư đệ vừa đến kịp. Quân ta thức suốt đêm qua đánh Mễ-dịch, Đức-xương, người ngựa mỏi mệt, thì tướng Thục đem quân từ Tây-xương đến. Quân họ đông hơn ta một chút, song tinh lực khỏe, ta bị sút kém, nên rút lên đồi cố thủ.

Chàng cùng Thiều-Hoa tiến lại trước trận Thục. Tướng chỉ huy Thục tuổi khoảng 21-22, uy vũ hiên ngang, ngồi trên mình ngựa lên tiếng hỏi:

– Nữ tướng kia là ai? Tướng kia là ai? Có thể cho ta biết tên không? Ta là Bình-nam vương Công-tôn Phúc đây.

Đào Kỳ chỉ Thiều-Hoa:

– Người này là Lĩnh-nam vương-phi sư tỷ của ta. Họ Hoàng tên Thiều-Hoa. Còn ta là Chinh-viễn đại tướng quân Đào Kỳ.

Công-tôn Phúc nói:

– Ta nghe nói Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn, giao cho một tướng trẻ, người Việt võ công cao cường chỉ huy đạo Lĩnh-nam 30 vạn quân. Thì ra là ngươi. Ta khâm phục ngươi. Địa thế Độ-khẩu, bốn con sông nước chảy như thác, mùa Đông lạnh thấu xương mà ngươi đánh úp được. Ngươi giỏi hơn Đặng Vũ, Ngô Hán, Mã Viện nhiều. Hiện ta chỉ có vạn rưỡi quân mà ngươi mang đến ba vạn Kỵ binh, một vạn rưỡi Bộ binh, kỵ binh của sư tỷ ngươi nữa, thì quân số ngươi gấp bốn ta. Song đã là anh hùng, thì sợ gì ?

Đào Kỳ thấy tướng trẻ, khí vũ tiêu sái, lời lẽ đầy khí phách anh hùng, thì chàng sinh lòng mến phục nói :

– Không phải vậy đâu. Ta còn ba vạn bộ binh sắp tới nữa. Ta lấy đông áp chế ngươi, thiếu vẻ anh hùng. Vậy nếu ngươi muốn, ta mở đường cho ngươi rút binh. Tiếc ơi là tiếc !

Công-tôn Phúc hỏi :

– Ngươi tiếc gì ?

– Ta tiếc vì ta với ngươi bị đặt vào thế đối nghịch. Nếu không chúng ta kết thành bạn, chẳng thú lấm ư !

Công-tôn Phúc nói :

– Được, bây giờ thế này : Ta với ngươi đấu chưởng. Nếu ngươi thắng, ta xin đầu hàng. Nếu ta thắng ngươi, ngươi phải rút hết quân mã khỏi Thục. Cả hai trường hợp, chúng ta đều kết bạn như vậy được không ?

Hoàng Thiều-Hoa bảo Đào Kỳ :

– Sư đệ cẩn thận, ta đã đấu với y trước sau mười chưởng. Chưởng của y ngang với sư thúc Đào Thế-Hùng chứ không tầm thường đâu. Ta dặn sư đệ cẩn thận chứ không phải ta sợ sư đệ thua, mà sợ sư đệ đả thương y. Y dùng binh giỏi, võ công cao, khí vũ hiên ngang, giết chết thật uổng..

Thiều-Hoa nói với Đào Kỳ, anh em Mai-động ngũ đều nghe thấy, họ nói nhỏ với nhau :

– Đệ tử Cửu-chân có khác. Khí phách anh hùng của sư tỷ, sư đệ họ giống nhau, thấy người hào kiệt, là yêu tài. Dù hào kiệt đó là kẻ đối đầu với mình.

Đào Kỳ xuống ngựa đến trước khu đất trống. Công-tôn Phúc cũng xuống ngựa. Đào Kỳ nói :

– Công-tôn vương-gia ! Nào chúng ta xuất chiêu. Ta lớn tuổi hơn ngươi. Vậy ngươi xuất thủ trước đi.

Công-tôn Phúc vận khí phát chưởng. Chưởng chưa ra, Đào Kỳ đã biết chưởng đó là chưởng dương-cương. Chàng vận nội công âm nhu đỡ. Bốp một tiếng. Chưởng của Công-tôn Phúc mất tích. Y ngẩn người ra, vận khí phát chiêu thứ nhì. Chưởng phong ào ào chụp xuống. Đào Kỳ phát chiêu Ngưu hổ tranh phong. Bùng một tiếng. Công-tôn Phúc lảo đảo lui lại. Người y muốn tê liệt. Đào Kỳ thấy chưởng của y nang với Phong-châu song quái. Chàng đợi y phục hồi sức lực mới vận đủ mười thành công lực phát chiêu Hải triều lãng lãng. Công-tôn Phúc thấy chưởng quái ác, vội vận khí chống đỡ. Binh một tiếng y bay bổng lên cao. Hoàng Thiều-Hoa vội vọt người lên nắm cổ áo y nhảy sang bên cạnh, thì lớp thứ nhì của chiêu Hải triều lãng lãng đã tới. Bình một tiếng, cây thông to bằng bắp đùi bên đường gẫy làm đôi đổ xuống. Lớp thứ ba ào ào phát ra. Đào Kỳ hướng vào ụ đất bên đồi. Ầm một tiếng đất đá bay mịt mù. Đến lớp thứ tư chàng hướng vào một tảng đá. Lớp này mạnh gấp 16 lần lớp đầu. Tảng đá lớn hơn người ôm bật lên cao. Chàng đánh tiếp lớp thứ năm. Tảng đá bay đến trúng một cây lớn hơn bắp đùi. Cây gẫy gục xuống.

Công-tôn Phúc được Hoàng Thiều-Hoa cứu mạng. Y đứng nhìn năm lớp chưởng của Đào Kỳ mà kinh hồn động phách.

Y chắp tay hướng Đào Kỳ:

– Đào đại-ca, tiểu đệ chịu phục rồi.

Đào Kỳ chạy lại nắm tay Công-tôn Phúc. Hai người quỳ giữa đồi, cùng hướng lên trời làm lễ, cùng khấn:

“Chúng tôi là Đào Kỳ và Vương Phúc xin kết làm huynh đệ. Một lòng sống chết có nhau. Nếu ai ăn ở hai lòng thì trời tru, đất diệt”.

Đào Kỳ hỏi Công-tôn Phúc:

– Thì ra tiểu đệ họ Vương chứ không phải họ Công-tôn sao?

Hai người lên ngựa thủng thỉnh dẫn quân về Đức-xương. Vương Phúc nói:

– Tướng trấn thủ Đức-xương là em thứ nhì của đệ là Vương Lộc. Tướng trấn thủ Tây-xương là em thứ ba của đệ là Vương Thọ. Truyện đệ là con nuôi của Công-tôn Thuật rất dài, để đệ tường thuật cho đại ca nghe. Nguyên phụ thân đệ tên là Vương Nguyên, đứng hàng thứ sáu trong Thiên-sơn thất hùng.

Hoàng Thiều-Hoa ngắt lời:

– Có phải lệnh-tôn trước kia làm Đại tư-mã cho Ngỗi Hiêu không?

– Đúng thế.

– Thiên-sơn thất hùng là những ai?

– Thiên-sơn thất hùng là bảy người sư huynh, sư đệ thuộc phái Thiên-sơn.

Đào Kỳ xen vào:

– Tôi nghe Khất đại-phu nói đến một lần. Khất đại-phu là bạn thân của Thiên-sơn lão tiên. Vậy Thiên-sơn lão tiên có phải là sư phụ của Thiên-sơn thất hùng không?

Vương Phúc lắc đầu:

– Không! Thiên-sơn lão tiên là Thái sư phụ của Thiên-sơn thất hùng. Thất hùng gồm: Công-tôn Thục hiện là Thục-đế. Công-tôn Khôi là Bắc-bình vương hiện giữ quyền Tả tướng-quân. Người thứ ba là Trường-sa vương Công-tôn Thiệu trấn thủ Kinh-châu mới bị thua, lui về giữ Xuyên-khẩu, Bạch-đế. Người thứ tư là Điền Sầm tước phong Tần-vương, lĩnh chức Tư-không. Người thứ năm là Tạ Phong tước Tề-vương, lĩnh chức Tư-đồ. Người thứ sáu là gia phụ. Người thứ bảy là Triệu Khuôn tước Lũng-tây vương lĩnh chức Tể-tướng. Khi mới khởi đại nghiệp, phụ thân đệ võ công cao nhất, laị thi đỗ Hiếu-liêm, văn võ toàn tài, giữ chức Tể-tướng. Không ngờ Công-tôn Khôi lòng lang, dạ thú, thấy gia mẫu xinh đẹp, muốn cướp, mới vu cho gia phụ làm phản, bất thần đem quân đến vây bắt cả nhà. Gia phụ thoát thân được.

Công-tôn Thuật khám phá ra mưu đồ độc ác của em mình. Y truyền vào ngục đem ba anh em đệ về nuôi dưỡng, nhận làm con nuôi. Bấy giờ đệ mới ba tuổi, em Thọ mới ba tháng. Anh em đệ mơ mơ màng không biết gì. Thuật bịa chuyện rằng: Phụ thân đệ là tướng thuộc quyền y, chết trận, y đem về nuôi. Lớn lên Thuật phong đệ tước Bình-nam vương, cùng hai em trấn thủ vùng Nam Ích-châu. Khi đệ tới đây trấn thủ, thì người nhũ mẫu của đệ khi xưa xuất hiện, kể cho chúng đệ biết mọi sự.

Thiều-Hoa hỏi:

– Vì vậy sư đệ mới hàng Hán, mượn tay Hán trả thù nhà giùm phải không?

Vương Phúc nói:

– Đúng thế, đệ sẽ viết thư cho hai em tôi cùng về hàng. Tình hình bên Thục đệ biết hết. Ngày mai chúng ta tiếp thu Tây-xương rồi tiến đánh Việt-tây, Mỹ-cơ. Sau đó đến Hán-nguyên là vào Thành-đô được rồi.

Nguồn: Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Người đăng: mọt sách

Thời gian: 30/08/2004 5:27:35 CH

Hồi 2        Hồi 4

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129589 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 4

Ai ngờ đôi lứa thiếu niên;

Quan sơn để cách hàn huyên bao đành.

(Chinh phụ ngâm khúc)

Đào Kỳ đã có chủ trương trước, đi đâu chàng cũng thi ân bố đức cho dân, để gây tiếng tăm cho đất Lĩnh-nam. Đạo quân của chàng có 15 vạn, bây giờ thêm quân Thục đầu hàng nữa thành 20 vạn. Chàng tuyển nhân sĩ địa phương có tài có đức bổ làm huyện-úy, huyện-lệnh. Tính từ hôm rời Quế-lâm đến giờ, mới gần một tháng mà chàng đã chiếm được suốt một giải Tây-nam Ích-châu. Nhờ anh em họ Vương, chàng biết hét quân tình đất Thục. Chàng cử Vương Lộc đi với Nguyễn Nhân dò thám tin tức đạo quân Kim-sơn của Đinh Công-Thắng và Triệu Anh-Vũ.

Theo đề nghị của Vương Phúc, chàng dời tổng hành dinh lên Tây-xương, uy hiếp thành Việt-tây. Hôm qua thám mã về báo cho biết: Tại Thành-đô biết tin mất năm quận phía Nam bối rối vô cùng. Công-tôn Thuật ra lệnh cho con rể là Phan Hào giữ vững thành không được giao chiến. Vì vậy các thành Việt-tây, Mỹ-cơ không mở cửa, không biết tình hình bên trong như thế nào.

Hôm sau có tin Nam-hải nữ hiệp di bản doanh tới nơi. Đào Kỳ vội vàng cùng Thiều-Hoa ra ngoài đón. Nam-hải nữ hiệp nhìn chàng cười:

– Ta để hậu cứ cho Lương Hồng-Châu với Lê Ngọc Trinh coi. Ta vào đây trấn thủ phía sau để cháu tiến vào Thành-đô.

Thiều-Hoa giới thiệu anh em họ Vương với Nam-hải nữ hiệp. Bà cầm tay ba người nói:

– Ta không bảo cháu hàng Hán là đi vào con đường tốt. Nhưng ta thấy cháu có con mắt tinh đời giữa trận tiền kết bạn với Đào Kỳ, Thiều-Hoa mới là khí phách đại trượng phu. Ta nghe nói nội công của cháu âm dương điều hòa hơi giống nội công của ta. Vậy cháu thử đánh một chưởng để ta so sánh với võ công Sài-sơn xem thế nào.

Vương Phúc thấy Đào Kỳ cung kính một thiếu phụ trên 50 tuổi, dáng người mảnh khảnh, đẹp đẽ, thì cũng kính cẩn theo. Nhưng chàng không tin võ công bà ta bằng mình. Bà còn bảo chàng phóng chưởng để khảo hạch võ công mình. Lòng tự ái nổi dậy, chàng hít một hơi phóng một chiêu đánh vào người bà. Chàng sợ làm bà bị thương e Đào Kỳ buồn, nên chỉ phát có năm thành công lực. Nam-hải nữ hiệp đưa tay đỡ nhẹ nhàng. Bộp một cái, chưởng của Vương Phúc biến mất tăm mất tích. Hổ thẹn quá, chàng vận đủ mười thành công lực, phóng một chiêu cực kỳ vũ bão. Chưởng phong ào ào chụp vào người bà. Bà nhàn nhã đưa chưởng đỡ. Bộp một cái, chưởng của chàng lại mất tích lần nữa. Bà nói:

– Giỏi lắm! Chưởng của cháu cương nhu gồm đủ. Với tuổi này trên đời ít người bằng được.

Vương Phúc kinh ngạc, tự an ủi:

– Bà ở vai sư bá Đào Kỳ dĩ nhiên võ công phải cao cường rồi.

Đào Kỳ sai đặt tiệc đãi Nam-hải nữ hiệp. Tiệc nữa chừng, bà nói:

– Vùng Đức-xương gồm các thành Đức-xương, Độ-khẩu, Phổ-dịch, Phổ-khách và Tây-xương. Trước do Vương Phúc trấn nhậm, bây giờ ta cử Vương Thọ thống lĩnh. Chức mới của Vương Thọ là Bình-nam đại tướng quân. Cháu được toàn quyền trong vùng. Đợi chiếm xong Việt-tây, ta cử Vương Lộc làm trấn thủ. Còn Vương Phúc trấn thủ Long-xương. Như vậy nửa Ích-châu thuộc anh em Vương-gia quản lĩnh. Bây giờ chúng ta tiến quân đánh Mỹ-cơ trước, để bắt tay với Đinh Công-Thắng.

Vương Phúc thiết kế:

– Thành Mỹ-cơ nằm trên đỉnh núi. Phía trước có mười đồn nhỏ đóng bảo vệ. Các đồn nằm cạnh khe núi địa thế hiểm trở. Tướng giữ thành võ công tầm thường, nhưng mưu trí tuyệt vời, y tên Trần Thanh-Nhiên. Quân mã tổng số độ hơn một vạn. Trong thành lương thực đầy đủ, ăn đến ba năm mới hết. Chúng ta cần cho người lẻn vào làm nội ứng đánh úp thì mới thành công.

Đào Kỳ chắp tay nói:

– Xin Nam-hải sư bá cùng với sư tỷ Thiều-Hoa ở nhà điều khiển ba quân, cháu với Vương Phúc, Giao-long nữ thám thính Mỹ-cơ xem sự thể thế nào đã.

Giao-long nữ thấy việc gì Đào Kỳ cũng gọi mình thì thích lắm bèn lên ngựa cùng đi. Nàng hỏi Vương Phúc:

– Vương đại ca! Hôm trước đại ca kể rằng thân phụ là Nguyên soái của Ngỗi Hiêu. Công-tôn Thuật cử Triệu Khuôn đi cứu rồi chiếm mất đất, rồi đoạt quân binh và giết lão bá. Bây giờ đại ca đầu hàng Lĩnh-nam, chúng tôi sẽ giúp đại ca báo thù.

Vương Phúc chắp tay:

– Đa tạ sư muội trước. Bây giờ tôi đề nghị thế này. Chúng ta giả làm thợ săn đến Mỹ-cơ bắn thú rừng. Đào đại ca và Trần cô nương nói tiếng Tứ-xuyên không được rõ ràng, không cần lên tiếng, để cho tôi lo liệu mọi việc. Trước khi đến Mỹ-cơ phải qua rừng Kê-sơn, chúng ta vào đó săn thú, mang ra chợ bán. Ngựa chúng ta cỡi là chiến mã, dễ bị lộ, chúng ta phải đi bằng ngựa của dân.

Trần Quốc khen ngợi:

– Vương đại-ca quả thực là một tướng giỏi. Giá Công-tôn Thuật không phải là kẻ thù của đại-ca thì chúng tôi khó mà lấy được Độ-khẩu.

Câu nói của nàng đúng với ý nghĩ của Đào Kỳ. Ba người thay quần áo dân, lên ngựa đi. Trời mùa Đông, rừng núi thê lương hiu quạnh. Đến trưa thì tới rừng Kê-sơn. Vương Phúc dẫn hai người vào rừng. Chàng chỉ xuống suối:

– Về mùa này, rừng núi khô, ở đây có con suối thú vật thường đến đây uống nước. Chúng ta chỉ cần đi theo suối là có thú.

Hơn một giờ sau, ba người bắn được nào gà, nào trĩ, nào công hàng chục con. Đi một giờ nữa, thấy bên kia suối có một con nai mẹ đang uống nước với nai con. Trần Quốc giương cung định bắn, thì Vương Phúc cản lại:

– Cô nương, nếu cô nương bắn nai mẹ, thì nai con sẽ sống ra sao? Còn bắn chết con thì nai mẹ sẽ đau đớn mà chết. Thôi ta tha cho chúng.

Nguyên Vương Phúc mồ côi mẹ từ thuở còn thơ. Tuy chàng được một vương-phi của Công-tôn Thuật nuôi dưỡng coi chàng như con đẻ, mà lòng chàng luôn luôn nghĩ đến mẹ. Trí nhớ chàng trở về tuổi lên ba, không giúp chàng hình dung được khuôn mặt của mẹ như thế nào. Một mặt nhớ mẹ thương cha, một mặt chàng giả vờ quên dĩ vãng đi, vì sợ Công-tôn Thuật khám phá ra. Nay thấy mẹ con đôi nai nhởn nhơ uống nước, động tâm linh, chàng cản không cho Trần Quốc bắn chúng.

Trần Quốc cảm động:

– Vương đại-ca quả là người nhân từ hiếm có.

Đào Kỳ cũng nói:

– Đất Lĩnh-nam chúng tôi trọng nhất là người đạo đức, rồi mới tới tài. Bàn về võ công thì sư bá Nam-hải không phải là nhất, nhưng sư bá là người nhân từ, đạo đức nhất. Vì vậy khắp nơi đều kính trọng ngài. Như phái Tản-viên võ công cao nhất là Khất đại-phu, Lê Đạo-Sinh. Thế nhưng đại-phu được kính trọng tuyệt đối vì ngài đạo đức. Dưới ngài có Nhị Trưng, đạo đức, khiêm tốn, nên chúng tôi kính trọng như bậc trên vậy. Sau này gặp đội quân Kinh-châu, đại ca sẽ có dịp biết sư tỷ Trưng Nhị.

Vương Phúc nói:

– Từ hôm gặp Đào đại-ca đến giờ, tôi muốn hỏi một câu mà mãi hôm nay mới dám. Đó là tại sao ở Lĩnh-nam có nhiều phụ nữ giỏi như vậy?

Đào Kỳ nhìn Trần Quốc đáp:

– Phụ nữ ở đâu cũng vẫn là phụ nữ. Họ có đủ tính năng như đàn ông con trai. Tùy theo hoàn cảnh sinh sống, giáo dục, phát triển tài năng của họ. Lĩnh-nam khác Trung-nguyên. Trung-nguyên ảnh hưởng của Nho-giáo, nào là Nam tại ngoại, nữ tại nội, nào là Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Coi người phụ nữ như đầy tớ, không cho học hành, không cho làm việc lớn, thành ra họ không có khả năng phát triển. Người phụ nữ sinh ra, đã nghĩ đến phục tùng chồng, nghĩ đến hầu hạ chồng, nghĩ đến việc chui đầu vào, chổng đít ra ở bếp... Thông tuệ mòn đi thật đáng tiếc. Còn người phụ nữ Lĩnh-nam thì ngược lại, khi họ sinh ra đời, họ nghĩ họ cũng làm được những chuyện như đàn ông, tư tưởng phát triển mạnh. Chính phu nhân của tôi hiện là đệ nhất quân sư của Lĩnh-nam vương. Sư tỷ của tôi đường đường là Lĩnh-nam vương phi cao quý biết mấy, nhưng vẫn làm đại tướng xuất trận.

Bỗng Vương Phúc chỉ xuống suối:

– Kìa! Con gấu đen đang bơi. Nếu bắt sống thì bán được nhiều tiền lắm. Vùng này ít ai bẫy được gấu.

Trần Quốc cười khúc khích vẫy tay làm hiệu :

– Để tôi bắt sống !

Nói rồi nàng nhảy ùm xuống suối lặn mất. Con gấu vẫn bơi đằng xa có ngờ đâu Trần Quốc lặn dưới lòng suối bắt nó. Vèo một tiếng, sợi dây từ dưới nước vọt lên không, bay đến chụp vào cổ gấu. Con gấu thụp xuống suối lặn mất, sợi dây chụp vào khoảng không. Một khắc sau, từ dưới đáy suối, sóng cuồn cuộn nổi lên. Suối trong veo biến thành đục ngầu. Rồi Trần Quốc từ dưới nước vọt lên như con cá chép, đáp vào bờ. Tay nàng cầm sợi dây đưa cho Đào Kỳ :

– Anh Kỳ giúp em một tay.

Đào Kỳ cầm lấy sợi dây giật mạnh. Con gấu từ dưới lòng suối bay vọt lên không, từ từ rơi xuống cạnh Vương Phúc. Vương Phúc vung tay thành cầm nã thủ, túm cổ nó đè xuống. Trần Quốc reo lên chạy đến trói lại.

Đào Kỳ chặt cành cây làm đòn gánh, nói :

– Chúng ta khiêng ra chỗ cột ngựa chở đến Mỹ-cơ bán.

Bỗng có tiếng nói :

– Khoan ! Các người giỏi lắm, để con gấu lại, ta muốn mua.

Rồi có hai người phi ngựa đến. Vương Phúc nhận ra đó là Thái-thú Mỹ-cơ Trần Thanh-Nhiên và em y là Trần Thanh-Triết. Hai anh em y không nhận ra Vương Phúc, vì chàng đã hóa trang thành một người già, bôi đất vào mặt, da hóa ra vàng khè. Vương Phúc giả vờ không biết anh em họ Trần, hỏi :

– Chẳng hay các vị định mua con gấu này bao nhiêu tiền ?

Trần Thanh-Nhiên ngắm nghía con gấu đáp :

– Chà lông đẹp quá. Con gấu này già lắm rồi, thọ ít ra trăm tuổi rồi. Các người định bán bao nhiêu tiền ?

Vương Phúc chối :

– Chúng tôi không bán, định mang về lột da làm áo, lấy mật làm thuốc, nhưng nếu các vị trả giá cao tôi cũng bán. Xin các vị cho 20 lượng bạc.

Thực ra con gấu chỉ đáng giá 10 lượng. Vương Phúc đòi quá đi để anh em họ Trần không mua, chàng mới có cớ mang vào thành Mỹ-cơ. Không ngờ Trần Thanh-Triết đồng ý :

– Tôi trả 20 lượng, phiền các vị mang về thành Mỹ-cơ cho tôi.

Trần Thanh-Nhiên chợt nhớ ra điều gì hỏi :

– Vị cô nương này tuổi chưa tới 18 mà bơi lặn giỏi như thế, thật hiếm thấy trên thế gian. Cô lặn dưới suối đánh vật với gấu, cột được cổ nó.

Vương Phúc trả lời thay :

– Biểu muội tôi không tập võ, nhưng chúng tôi sống bằng nghề săn bắn từ nhỏ, tạo thành bản lĩnh bắt gấu dưới nước.

Trần Thanh-Nhiên bảo Vương Phúc :

– Các ngươi mang gấu về Mỹ-cơ, ta trả đủ 20 lương bạc.

Không dừng được Vương Phúc vẫy Đào Kỳ, Trần Quốc đi theo. Chàng cột gấu lên lưng một con ngựa, rồi cỡi chung ngựa với Đào Kỳ đi theo anh em họ Trần.

Ra tới đường, anh em họ Trần có thêm 20 kỵ binh theo hầu. Trần Quốc đi sát Đào Kỳ ra hiệu, ngụ ý hỏi có nên bắt sống anh em Trần Thanh-Nhiên không ? Đào Kỳ lắc đầu, tỏ ý chờ xem đã.

Hơn giờ sau tới thành Mỹ-cơ. Thành nằm trên ngọn đồi thoai thoải, dựa lưng vào dãy núi đá cao chót vót. Thác nước từ trên núi đá rót vào thành tạo thành tiếng kêu ào ào. Nước từ trong chảy ra ngoài thành hai con suối rộng. Nước suối trong xanh, chảy quanh lấy thành như một con rắn uốn khúc. Dọc theo suối 10 đồn binh xây bằng đá, ngoài có hàng rào bằng cọc gỗ. Anh em Trần Thanh-Nhiên đi lên sườn núi, binh sĩ trông thấy y, hành lễ theo quân cách.

Thành Mỹ-cơ không lớn, xây bằng đá, cao hơn mười trượng. Mặt thành rộng, thiết kỵ đi đi lại lại tuần tiễu nghiêm mật. Đào Kỳ thấy địa thế hiểm trở, đưa mắt nhìn Vương Phúc, nghĩ đến lời bàn của Phúc : Nếu không có nội ứng, thì không đánh được.

Đến dinh trấn thủ, Trần Thanh-Nhiên sai lấy bạc trả Vương Phúc. Y cầm bình rượu rót hai ly mời Vương Phúc, Đào Kỳ, nói :

– Duyên may gặp gỡ, trọn đời ta kính phục những tráng sĩ tài ba, nay gặp các vị xin cạn một ly gọi là duyên kỳ ngộ.

Vương Phúc, Đào Kỳ cầm ly uống liền. Đào Kỳ uống vào cảm thấy rượu có mùi vị khác lạ. Chàng nghĩ chưa ra mùi vị gì, thì thấy Vương Phúc loạng choạng, ôm đầu kêu lên :

– Rượu có thuốc độc.

Nội công Đào Kỳ cực thâm hậu, chàng vận khí mửa rượu ra, thì thấy đầu óc quay cuồng. Chàng nghiến răng vận đủ mười thành công lực, hướng Trần Thanh-Nhiên phát chưởng. Thanh-Nhiên kinh hoàng lăn tròn dưới đất tránh. Chưởng trúng vào cái sập gụ giữa nhà, bình một tiếng, cái sập gụ nặng nề bay khỏi phòng, văng ra giữa sân, rơi xuống vỡ làm mấy mảnh.

Trần Quốc quát lên, tấn công Trần Thanh-Triết. Chỉ ba chiêu y phải lùi ra ngoài sân.

Đám vệ sĩ Mỹ-cơ ào ào vây phủ. Trần Quốc đánh liền ba chưởng đẩy lui, rồi hướng ngọn suối ngoài cổng thành chạy ra. Trần Thanh-Triết hô vệ sĩ đuổi theo. Trần Quốc chạy đến cây cầu đứng lại nói lớn :

– Thôi đời ta hết rồi ! Ta tự tận cho xong.

Rồi nàng nhảy ùm xuống sông, lặn đi thật xa. Thấy bụi cây bên đường, nàng chui vào nhô đầu lên thở, hướng mắt nhìn lại cây cầu. Đám vệ sĩ đứng trên cầu một lúc không thấy Trần Quốc, chúng cho rằng nàng chết chìm. Trần Thanh-Nhiên quan sát một lúc lâu y mới nói :

– Dù y thị lặn giỏi đến đâu cũng phải ngóc đầu lên mà thở. Ta chờ một lúc xem sao ?

Y cho vệ sị đi dọc bờ sông trong khoảng trăm trượng, canh chừng xem Trần Quốc có trồi lên thở không.Trong khi đó nàng đã lặn xa đến hàng mấy trăm trượng. Tới khu rừng hoang nàng trồi đầu lên thở. Ngó trước ngó sau không thấy ai, nàng vọt một cái nhảy lên bờ như con cá chép, đứng lại nhìn thành Mỹ-cơ phía xa xa trên đồi. Nàng thầm nghĩ :

– Từ đây tới Tây-sương xa hàng trăm dặm, đồi núi âm u, ta làm thế nào về được? Mà ta không về báo tin, ở nhà không hiểu sự tình ra sao. Hay là ta tìm cách trở lại Mỹ-cơ cứu hai người ra?

Cuối cùng nàng tìm được một lối giải quyết:

– Trần Thanh-Nhiên bắt được hai người, tất thế nào cũng giải về Việt-tây cho Phan Hào phát lạc. Ta đón đường tìm cách cứu ra là ổn thỏa nhất.

Đã có chủ định, nàng tìm bụi cây, chui vào nằm ngủ một giấc. Khi tỉnh dậy trời đã về chiều, trong bụng đói, nàng tìm cành cây vót nhọn ra sông săn cá. Nhảy xuống nước thấy cá bơi từng đàn, nàng dùng cây xiên, mỗi lần xiên là một con. Chỉ lát sau nàng đã được hàng chục con. Đem cá lên tìm hốc đá, đốt củi, nướng ăn. Những con cá suối núi, béo ngậy thơm tho, giúp nàng một bữa ăn ngon miệng. Nàng nhìn về Mỹ-cơ thấy phía trước mấy đồn là con sông. Vương Phúc nói cho nàng biết đó là sông Tây-khê Trong lúc không tìm ra kế cứu Đào Kỳ, nàng nhớ lời Phương-Dung dặn:

– Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, cứ đặt mình là quân địch mình sẽ làm gì? Thì tự nhiên ước tính được tình hình. Bây giờ nếu nàng là Trần Thanh-Nhiên, nàng sẽ không giải Đào Kỳ, Vương Phúc bằng đường rừng tới Việt-tây, rất nguy hiểm, có thể sẽ bị quân thành Tây-xương cứu ra. Vậy thì Thanh-Nhiên sẽ ngược sông Tây-khê đến Nga-biên rồi quẹo sang Hán-nguyên. Đến Hán-nguyên là địa phận của Phan Hào.

Nghĩ như thế, nàng quyết định tìm cách về Mỹ-cơ, ẩn náu bên sông, xem chúng giải Đào Kỳ xuống thuyền nào, nàng sẽ tìm cách cứu ra. Nàng chuồn xuống nước trở về Mỹ-cơ, hai tay quay tròn, người trườn trong lòng sông như con Giao-long. Đến Mỹ-cơ nàng núp ở bụi cây bờ sông, nhìn sang đám thủy quân đứng cách đó không xa. Tất cả mười chiến thuyền lớn, hai mươi chiến thuyền nhỏ đậu thành hình chữ nhất rất nghiêm chỉnh.

Chờ đến khuya vẫn không thấy động tĩnh gì, nàng trồi lên bờ đi về phía thành Mỹ-cơ. Nàng men theo các bụi cây quanh thành, tới cửa Bắc thì có một nguồn suối chảy ào ào từ trong thành ra ngoài. Nàng lẩm bẩm:

– Thì ra thế thành này sở dĩ làm trên núi vì phía sau còn ngọn núi cao hơn, có thác nước dẫn vào, làm đường tiếp tế cho quân.

Quan sát kỹ thấy chỗ suối chảy ra có một vọng canh, mấy tên quân nói chuyện với nhau, sự canh phòng không mấy nghiêm mật lắm, nàng cười thầm.

– Nước chảy xiết thế này, thì cần gì phải canh phòng? Ai có thể vào thành bằng lối này được? Nhưng ta thì lại dễ dàng.

Nàng chui xuống suối lội ngược theo thác nước. Nước tuy chảy xiết nhưng nàng bám theo ghềnh đá mà đi. Chỉ lát sau đã vượt qua đoạn dài đến trăm trượng. Trong thành nước chảy êm hơn bên ngoài, nàng lội một quãng nữa chỗi dậy nhìn: Nàng đang ở trong cái hồ trên đỉnh núi. Phía trên hồ là thác nước từ trên cao đổ xuống. Phía dưới hồ là thác nước chảy ra ngoài thành. Vọt lên bờ hồ, đứng nhìn địa thế, nàng tìm ra dinh Thái-thú nơi Đào Kỳ, Vương Phúc bị bắt. Hướng chỗ có ánh sáng chiếu ra, nàng lặn tới. Bên ngoài dinh thự có thiết kỵ đi lại tuần hành nghiêm ngặt. Nàng vòng ra phía sau dinh, lén vào bên trong một căn nhà có khói bốc lên, thì ra đó là nhà bếp. Ngó trước, ngó sau không có ai, nàng vọt qua cửa sổ vào bếp. Trong nhà bếp có hai người thị nữ đang làm việc cùng với ba người đầu bếp. Một thị nữ nói:

– Hôm nay Trần tướng quân bắt được Bình-nam vương và một tên giặc, ngài ăn mừng. Sáng mai sẽ giải về Nga-biên. Hai người này được ngài cho ăn uống tử tế gớm!

Một đầu bếp nói:

– Không hiểu sao Bình-nam vương lại phản hoàng-thượng theo giặc?

Thị nữ ra bộ biết nhiều hơn:

– Tôi nghe thẩm vấn mới biết rằng Bình-nam vương không phải là con đẻ của hoàng-thượng. Trước đây hoàng-thượng là sư huynh của Vương Nguyên. Vương Nguyên theo Ngỗi Hiêu, được phong làm Nguyên-soái. Khi Ngỗi Hiêu bị Hán đánh thua, hoàng-thượng cử Lũng-tây vương Triệu Khuôn đi cứu. Không hiểu sau đó sự thể thế nào, Lũng-tây vương chiếm hết đất của Ngỗi Hiêu. Vương Nguyên bỏ đi mất tích. Lúc Vương Nguyên theo Ngỗi Hiêu thì ba người con bơ vơ, được hoàng-thượng đem về nuôi dưỡng phong tước vương, thế mà lại phản hoàng-thượng.

– Thế còn tên giặc đi theo?

– Bình-nam vương khai rằng y là tên quân hầu, theo dò thám mà thôi. Sáng nay còn một đứa con gái cùng đi theo. Bình-nam vương khai rằng y thị là vợ của ngài. Y thị nhảy xuống sông tự tử rồi.

Trần Quốc nghe vậy mặt nóng bừng lên. Tuy nàng biết Vương Phúc khai láo để đánh lừa Trần Thanh-Nhiên, nhưng nàng cũng cảm thấy ngượng ngập. Nói chuyện một lúc, người tỳ nữ chạy ra ngoài dường như tìm chỗ đi tiểu. Nàng vội theo bén gót, quả nhiên tới gốc cây, y thị ngồi xuống. Trần Quốc nhảy vèo đến bịt miệng, dí dao vào cổ y thị:

– Im mồm! Nếu la một tiếng, tao cắt đầu.

Nàng bắt thị nữ đi vào phòng gần đó, xé vạt áo nhét giẻ vào miệng, lấy dây lưng trói lại, rồi lột quần áo mặc vào. Nàng thản nhiên đi lên sảnh đường, đứng ngoài ghé mắt nhìn vào thấy hai anh em Trần Thanh-Nhiên đang bàn truyện, cùng với một người đàn bà tao nhã, xinh đẹp. Trần Thanh-Nhiên nói:

– Phu nhân, ngày mai tôi sẽ giải Vương Phúc với tên quan binh Hán về Hán-nguyên. Tôi nghe hoàng-thượng bí mật đến duyệt xét quân tình, vậy phu nhân nên đi gặp Hổ-oai đại tướng-quân, nhờ người dọ ý hoàng-thượng xem thế nào đã. Nếu hoàng-thượng nổi giận Vương Phúc thì tôi giải y về. Còn hoàng-thượng vẫn sủng ái y, thì tôi thả y đầu hàng Hán.

Ngừng một lát, y thở dài đáp:

– Bỗng dưng tôi gặp đại nạn. Vương Phúc đến dò thám Mỹ-cơ, tôi biết mà không bắt thì y đánh thành, tất tôi bị giết. Mà bắt y thì không biết giải quyết ra sao. Giao về hoàng-thượng, nếu mà hoàng-thượng giết y, thì tôi khó yên được với thái-hậu. Còn hoàng-thượng tha y, thì tôi cũng khó sống với y. Trăm sự tôi nhờ phu nhân lo liệu giùm, làm sao cho ổn.

Người đàn bà đó là vợ Thanh-Nhiên. Trần Thanh-Nhiên xuất thân võ không cao, văn không giỏi, nhưng nhờ cơ duyên mà trờ thành tướng trấn thủ một vùng. Vợ y là con nhà danh gia. Thị có hai chị em. Người chị lấy Nguyễn Bình, lĩnh Hổ-oai đại tướng quân cho Công-tôn Thuật. Người em lấy Thanh-Nhiên. Nhiên là Vũ-vệ hiệu-úy trong cung không ai biết đến. Vì vợ y xinh đẹp lọt vào mắt Nguyễn Bình. Thế là bề ngoài là vợ Thanh-Nhiên, bề trong là tình nhân của anh rể. Trần Thanh-Nhiên biết thế, y lờ đi, để cho vợ tằng tịu với anh rể hầu mưu cầu danh lợi. Từ một chức hiệu-úy, trở thành huyện-úy, rồi huyện-lệnh. Cuối cùng y leo lên đến chức thái-thú. Nguyễn Bình giữ chức Hổ-oai đại tướng quân, chỉ huy tất cả bọn thị vệ trong cung, y lại là em ruột Hoàng-hậu Công-tôn Thuật. Y có rất nhiều thế lực.

Trần Thanh-Nhiên bảo quân hầu:

– Ngươi dẫn tội nhân ra đây!

Quân hầu đi một lát, thì dẫn Vương Phúc, Đào Kỳ đem tới. Thanh-Nhiên chắp tay vái Vương Phúc:

– Bình-nam vương-gia! Chắc vương-gia đang tự hỏi tại sao tiểu nhân biết vương-gia mà ra tay phải không? Vương-gia ơi! Có gì đâu, tôi quen mặt vương-gia quá rồi, dù vương-gia có hóa trang khác đi đôi chút, nhưng tôi vẫn nhận ra. Vì suốt thành Mỹ-cơ này, những người thợ săn đều phải làm tế-tác cho tôi, tôi biết mặt hết. Nay tự nhiên thấy vương-gia đi cùng với một thiếu niên, một thiếu nữ thì biết là tế-tác Hán. Cho nên vương-gia đòi con gấu 20 lượng bạc, tôi vẫn mua là thế. Tôi biết vương-gia võ công cao cường, không thể dùng võ bắt, mà phải dùng thuốc mê. Tôi mời vương-gia ở đây, ngày mai đưa về Hán-nguyên để hoàng-thượng xử lý. Không biết thái-hậu có cứu được vương-gia hay không?.

Vương Phúc cười gằn:

– Ta khen ngươi tinh tế, xứng đáng là thái-thú. Nếu ta là Phan Hào, ta sẽ ban thưởng cho ngươi.

Trần Thanh-Nhiên cười nhạt:

– Người ta bảo hoàng-thượng có ba người con nuôi anh hùng quả thật không sai. Vương-gia bị ta bắt mà vẫn khẳng khái, đó là Dũng, ta dùng mưu bắt người, không oán còn khen ta, đó là Lược. Biết đầu Hán để giữ địa vị, đó là Mưu. Dù làm Bình-nam vương vẫn không quên thù cha, đó là Hiếu. Nhưng Vương-gia ơi, tại sao Vương-gia lại hàng Hán?

Vương Phúc thở dài:

– Mỗi người một chí, ngươi như con ếch nằm đáy giếng thì biết gì mà hỏi ta. Thôi ngươi mau đem ta chém đi cho rồi. Còn ngươi không dám giết ta, thì liệu mà đầu hàng. Trần Thanh-Nhiên! Ta khuyên ngươi đầu Hán, chức vụ thái-thú chỉ có thăng chứ không có giảm đâu. Ngươi nghe lời ta đi. Còn nay ngươi giải ta cho Thuật, chưa chắc y giết ta. Thái-hậu sẽ che chở cho ta. Ngươi chẳng được công trạng gì đâu ? Còn người hàng Hán, ta hứa sẽ bảo lãnh cho ngươi làm thái-thú Mỹ-cơ, hoặc ngươi có công còn được phong thứ-sử Hán-nguyên không chừng.

Trần Thanh-Nhiên nghe thuyết, biết lời Vương Phúc nói không sai, y hỏi :

– Nếu như tôi đầu hàng sẽ phải làm gì ?

Vương Phúc tiếp :

– Người có ba đường lựa chọn : Một là ngươi bỏ cờ Thục, kéo cờ Hán đem toàn bộ binh mã đầu hàng, vẫn giữ được chức thái-thú Mỹ-cơ. Còn nếu ngươi khá hơn, khi chúng ta kéo quân đánh Việt-tây, ngươi mang quân về cứu rồi bất thần mở cửa thành, cho chúng ta vào thì ngươi được làm thứ-sử. Ngươi là người nhiều mưu trí, quyết định đi, đừng dùng dằng đại nạn đến trước mắt bây giờ !

Thanh-Nhiên nghe Vương Phúc nói, tâm thần rung động, nhìn vợ rồi hỏi :

– Tướng chỉ huy đạo Lĩnh-nam có đủ quyền lực cho tôi làm thứ-sử không ?

Vương Phúc cười :

– Tướng chỉ huy đạo này là một nhân vật lỗi lạc, Lĩnh-nam vương là anh rể của người. Phó tướng đạo Lĩnh-nam chính là vương-phi Lĩnh-nam vương. Chắc ngươi có nghe nói ?

Trần Thanh-Nhiên gật đầu :

– Tôi nghe Nghiêm Sơn lấy một người con gái Việt đẹp hơn Tây Thi, võ công cao cường đấu võ với vương-gia ngang tay. Nghiêm rất kính nể bà vợ này có đúng không ?

Vương Phúc gật đầu :

– Ngươi nói đúng đấy. Đào nguyên-soái không ham công danh. Người chỉ vì tình chị gái giúp Lĩnh-nam vương mà thôi. Ngươi thấy đó, cứ đánh đến đâu Đào nguên soái cử đô-úy, huyện-úy, huyện-lệnh, thái-thú cả thứ-sử nữa. Ta cùng người đấu chưởng hẹn rằng nếu ta thua thì phải đầu hàng. Quả nhiên ta thua, người cùng ta kết nghĩa anh em, bằng hữu rất tương đắc.

Thanh-Nhiên sai người đưa Vương Phúc vào phòng giam, rồi bàn với vợ và em :

– Phu nhân ! Hiền đệ nghĩ thế nào ?.

Thanh-Triết hiện là đô-úy Mỹ-cơ, y biết chức vị của anh là do chị dâu tạo nên, do vậy y nói lảng :

– Đại-ca nên hỏi tẩu tẩu thì hơn.

Vợ Nhiên là người khôn ngoan, thị nghĩ :

– Địa vị của Nhiên là do ta tạo ra, địa vị đó có vững hay không cũng do ta. Bây giờ về hàng Hán, y coi như địa vị đó do y. Y sẽ chẳng ngần ngại gì mà bỏ ta, lấy vợ khác. Ta phải cản trở mới được.

Nghĩ vậy, thị nói :

– Em nghĩ không nên hàng. Tướng quân bắt được Vương Phúc đem giải về cho hoàng-thượng. Hoàng-thượng tất thăng chức cho tướng-quân.Việc gì đi hàng Hán, trong khi tướng quân không có thực tài, họ sẽ không ngần ngại gì mà không giết chết tướng quân.

Trần Thanh-Nhiên bị vợ điều khiển đã quen, y không dám trái ý. Y bàn :

– Bây giờ thế này. Ngày mai phu nhân đến Hán-nguyên triều kiến hoàng-thượng, tâu rằng nếu chúng ta giết được Vương Phúc sẽ được thưởng gì ? Nếu ngài đồng ý giết, ta chặt đầu y đem nộp. Còn ngài chần chừ ta sẽ đầu hàng Hán, như vậy là xong.

Bàn luận một lúc vợ chồng đi ngủ. Trần Quốc chờ cho chúng ngủ say, nàng mới mò đến căn nhà giam Đào Kỳ. Phía ngoài có hai tên quân cầm đao đi đi lại lại canh phòng. Nàng thản nhiên bước tới, tên quân canh cầm đuốc soi, tưởng nàng là tỳ nữ của thái-thú.

– Cô nương ! Cô nương tới đây có việc gì ?

Trần Quốc cố nói theo giọng Thục :

– Phu nhân dặn tôi nói với hai anh coi chững tội nhân tự tử. Nếu tội nhân tự tử hai anh sẽ bị chết chém.

Hai tên quân canh nhìn nhau :

– Ta vào trong xem sao.

Một tên đứng ngoài, một tên đi cùng Trần Quốc mở cửa bước vào nhà giam. Dưới ánh đuốc, Đào Kỳ, Vương Phúc bị trói cả chân lẫn tay nằm đó.

Nàng khép cửa lại bảo tên quân canh :

– Anh coi chừng chúng có cắn lưỡi chết không ?

Đào Kỳ nghe tiếng Trần Quốc mừng lắm, mở mắt nhìn. Tên quân canh cúi xuống kéo môi Vương Phúc coi. Trần Quốc rút dao đâm một nhát trúng tim. Y nghẹo cổ ra sau, nằm trợn mắt, nàng vội chụp lấy bó đuốc, tay cắt dây trói cho Đào Kỳ và Vương Phúc.

Đào Kỳ mừng lắm :

– Sư muội làm thế nào mà người vào được đây ?

Trần Quốc chỉ tay ra ngoài. Hai người mở hé cửa. Nàng lia dao một cái, tên quân canh đã bị giết chết tươi. Vương Phúc nói :

– Chúng ta mau đi uy hiếp Trần Thanh-Nhiên.

Ba người theo lối sau, lén vào phòng ngủ vợ chồng Thanh-Nhiên. Đào Kỳ vận âm kình đẩy mạnh một cái, cánh cửa mở tung ba người đã lọt vào phòng. Trong phòng hãy còn đèn. Vương Phúc nhảy đến dí dao vào cổ Thanh-Nhiên. Trần Quốc dí dao vào cổ vợ y. Đào Kỳ nói:

– Nếu các ngươi la một tiếng, ta giết ngay lập tức.

Trần Quốc đóng cửa lại. Đào Kỳ nói:

– Ta là Nguyên-soái Đào Kỳ đây. Bây giờ nếu người đầu hàng, ta hứa sẽ cho người làm thái-thú như cũ. Người nghĩ sao?

Trần Thanh-Nhiên nhìn vợ rồi nói:

–Tôi xin quy phục.

Đào Kỳ bảo y :

– Bây giờ chúng ta mặc giả làm quân sĩ. Ngươi hãy lấy ngựa đi cùng ta rời khỏi đây 20 dặm, sau đó ta cho người trở về. Khi ta đem quân đến, ngươi phải mở cửa đầu hàng, nếu không thì đừng trách ta.

Thanh-Nhiên sai lấy quần áo lính Thục cho ba người mặc, cùng vợ lên ngựa đi. Qua cổng thành, viên quan giữ cổng hỏi :

– Thái-thú đi đâu giữa đêm khuya vậy ?

Trần Thanh-Nhiên nghiêm nghị :

– Ta đi dọ thám quân tình.

Năm người ra khỏi cổng thành được trên 20 dặm. Đào Kỳ vận sức vào tay, phát chiêu Thiết kình phi chưởng cực kỳ mãnh liệt, đánh vào một cây lớn. Rầm một tiếng cây này đổ xuống. Thanh-Nhiên khủng khiếp đứng run run.

Đào Kỳ nói :

– Trần Thái-thú, ta nói một là một, hai là hai. Ngày mai ta đem quân đánh thành Việt-tây. Người giả bộ đem quân đi cứu viện, rồi thừa dịp vào thành, đêm mở cửa cho chúng ta vào, thì ta để cho người làm thứ-sử Hán-nguyên. Thôi thái-thú về đi.

Ba người phi ngựa trở về tới Tây-xương thì trời vừa sáng. Nam-hải nữ hiệp cùng Thiều-Hoa ra đón vào hỏi :

– Sự thể ra thế nào ?

Đào Kỳ tường thuật mọi việc.

Đào Hiển-Hiệu nói :

– Tam ca, em có lời muốn thưa với Tam-ca.

Đào Kỳ gật đầu :

– Em cứ nói.

– Tam ca được Nghiêm đại ca ủy nhiệm thống lĩnh 30 vạn hùng binh Lĩnh-nam, cầm vận mệnh mấy triệu dân chúng. Trọng trách không nhỏ. Trung-tín hầu Vũ Bão-Trung đã dạy :

« Đạo làm tướng, không làm cái gì. Không cái gì mà không làm được ».

Có nghĩa rằng bất cứ cái gì người dưới làm được thì ủy nhiệm họ, hầu họ có dịp lập công. Nhưng cái gì cũng phải biết, phải hiểu, phải trách nhiệm đó là cái gì cũng làm. Đi thám sát Mỹ-cơ, thì Tam-ca sai bất cứ một tham-tướng nào mà không được ? Việc gì Tam-ca phải đem thân vạn thặng vào chỗ nguy hiểm? Nếu không có Giao-long nữ cứu, Tam-ca bị hại, đạo Lĩnh-nam sẽ ra sao ?

Đào Kỳ đứng dậy chắp tạ lỗi :

– Anh biết lỗi, từ nay không mạo hiểm nữa. Cảm ơn em.

Thiều-Hoa nói:

– Chắc Thanh-Nhiên không đầu hàng đâu. Có khi y mưu hại chúng ta cũng nên. Cần phải cẩn thận mới được.

Đào Kỳ nhìn Vương Phúc cười. Vương Phúc nói:

– Vương-phi đừng lo, chúng tôi có kế đánh Việt-tây rồi.

Sáng hôm sau Đào Kỳ thăng trướng truyền lệnh:

– Sư huynh Nguyễn Nhân lĩnh một vạn binh tiến đánh cửa Bắc. Sư huynh Nguyễn Nghĩa dẫn một vạn binh tiến đánh cửa Tây. Sư huynh Nguyễn Lễ lĩnh một vạn binh tiến đánh cửa Nam. Sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa lĩnh một vạn binh đánh cửa Đông. Sư bá Nam-hải tổng chỉ huy công thành. Xin sư bá đánh cầm chừng, không cần cố chiếm thành, mục đích nhử cho Trần Thanh-Nhiên đến ứng chiến. Sư tỷ Nguyễn Giao-Chi, sư muội Trần Quốc lĩnh một vạn kỵ binh phục ở rừng Chiêu-giác. Cả hai đặt dưới quyền điều khiển của sư huynh Vương Lộc, án binh tại đây. Nếu thấy binh Mỹ-cơ đến cứu Việt-tây để cho đi qua, rồi tốc thẳng chiếm Mỹ-cơ, tuyệt đường về của chúng. Còn thấy Mỹ-cơ kéo cờ Hán, cứ vào thành an dân. Sư huynh Nguyễn Tín, Nguyễn Nghĩa mỗi người lĩnh một vạn quân phục ở Ly-ty phòng quân Hán-nguyên tiếp cứu Việt-tây.

Sáng hôm sau các đội binh phát pháo đánh Việt-tây. Quân trên thành bắn tên xuống như mưa. Bên dưới bắc thang leo lên. Bên trên lăn gỗ đá xuống. Đánh đến chiều Nam-Hải nữ hiệp cho ngưng chiến nghỉ. Sáng hôm sau lại đánh tiếp. Đánh đến ngày thứ tư, khoảng trưa có thám mã báo:

– Đạo quân Mỹ-cơ kéo cờ Thục đến cứu Việt-tây.

Trên thành phát pháo mở toang bốn cửa ra giáp chiến. Nam-hải cho lệnh lui quân lại dàn trận. Hoàng Thiều-Hoa lui quân về phía cửa Nam. Thế là đạo quân Mỹ-cơ liên lạc được với đạo quân Việt-tây. Hai bên dàn trận dưới chân thành.

Phan Hào đứng trước ngựa, bên trái là Thanh-Nhiên, bên phải là Thanh-Triết, giáp sĩ đao thương sáng ngời.

Phan Hào chỉ roi sang trận Hán:

– Mời Bình-nam vương ra nói chuyện.

Vương Phúc phi ngựa ra đứng trước trận hỏi:

– Phò-mã Phan Hào, ngươi có gì muốn nói với ta?

Phan Hào cầm roi ngựa chỉ Vương Phúc nói:

– Vương Phúc! Khi phụ thân ngươi mất tích, hoàng-thượng thương tình côi cút đem ngươi về nuôi dưỡng, tin dùng, phong cho ngươi đến Bình-nam vương, thế mà ngươi nỡ lòng nào phản hoàng-thượng?

Vương Phúc nói lớn:

– Công-tôn Thuật với phụ thân ta là chỗ sư huynh, sư đệ. Khi phụ thân ta làm đại nguyên-soái cho Ngỗi Hiêu, Công-tôn Thuật cử Triệu Khuôn mang binh sang cứu, thừa cơ đoạt đất, chiếm thành, thân phụ ta bị giết chết. Thù không trả, không được. Vì vậy ta hàng Hán. Ngươi hẳn nghe câu: Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta.

Phan Hào vọt ngựa lên hỏi:

– Vương Phúc, ngươi có dám đơn đấu cùng ta không?

Vương Phúc cười:

– Đã là anh hùng trong thiên hạ, ta há sợ ngươi sao?

Nói rồi chàng nhảy xuống đất. Phan Hào cũng nhảy xuống ngựa. Y vẫy tay cho quân lính lui lại, rồi rút kiếm đâm Vương Phúc. Vương Phúc không đỡ né mình tránh khỏi, rồi trả đòn. Đào Kỳ đứng nhìn thấy kiếm pháp hai người cùng môn hộ, cương nhu hợp nhất không có chỗ nào sơ hở. Bất giác chàng nghĩ thầm:

– Đất Thục nhiều nhân tài như thế này, hèn chi Công-tôn Thuật không chống lại Hán-đế. Cũng may y hại cha Vương Phúc, nếu không làm sao mình chiếm được bốn thành nhanh như vậy.

Hai người đấu với nhau trên trăm hiệp không phân thắng bại. Hoàng Thiều-Hoa quan sát rồi nói:

– Về kiếm pháp ta e cả hai người đều hơn ta nhiều, nhưng chưởng pháp thì họ còn kém ta.

Đào Kỳ ghé tai Thiều-Hoa, Nam-hải nữ hiệp nói mấy câu, rồi chàng phất cờ một cái. Quân Hán tràn sang như nước vỡ bờ. Hai bên đánh nhau mù trời, đến chiều thì mới thu quân.

Hoàng Thiều-Hoa bảo Đào Kỳ:

– Ta lượng đâu có sai, Trần Thanh-Nhiên quả không chịu hàng mà.

Đào Kỳ nói:

– Ta đợi hết đêm nay xem sao.

Quả nhiên canh ba, trong thành lửa bốc lên đỏ rực, nhiều tiếng la hét. Bốn cửa thành mở toang. Thanh-Triết, Thanh-Nhiên đứng trên cổng thành vẫy quân Hán vào.

Đào Kỳ cười:

– Thằng Thanh-Nhiên giả hàng, dụ ta vào trong thành, phục cung nỏ hại ta đây. Được ta sẽ tương kế tựu kế cho chúng bây biết tay.

Đào Kỳ đi đầu, dẫn quân vào trong thành. Phía sau là Nam-hải nữ-hiệp, Vương Phúc. Vừa vào trong thành, thì cổng đóng lại. Cung thủ hai bên bắn ra như mưa. Đào Kỳ quát một tiếng, rút kiếm múa như mây bay, như gió cuốn. Nhấp nhô mấy cái chàng cũng bắt được Trần Thanh-Nhiên, Vương Phúc đã bắt được Trần Thành-Triết.

Nam-hải nữ hiệp đánh quật lại cùng Hoàng Thiều-Hoa đẩy lui quân giữ thành, mở tung cửa ải ra, quân Hán tràn vào như nước, hai bên đánh nhau rối loạn trong đêm. Đào Kỳ đang tả xung hữu đột, được tin báo: “Thành Việt-tây mở tung ba cửa, xua quân ra cướp trại Hán. Tình hình rất nguy ngập”.

Đào Kỳ quát:

– Dù gì cũng phải chiếm được thành ai lui thì chém.

Quân Hán không dám lui lăn xả vào đánh. Đi đầu là Đào Kỳ, Thiều-Hoa, Nam-hải nữ hiệp, Vương Phúc. Bốn ngươi đi đến đâu bên giặc giạt ra đến đấy. Phan Hào vung chưởng đánh vào đỉnh đầu Nam-hải nữ hiệp. Bà vung chưởng đánh xéo vào hông y. Y vội đổi hướng vòng tay xuống dưới đỡ chưởng của bà. Hai chưởng gặp nhau, y cảm tưởng như đánh vào bị bông, kình lực mất tăm mất tích. Nam-hải nữ hiệp vỗ lưng ngựa một cái, con ngựa cất hai vó trước chồm đến trước mặt Phan Hào. Phan Hào ngơ ngác tự hỏi:

– Trên đời sao có lối cỡi ngưạ kỳ lạ thế này? Hai bên đấu chưởng mà ngựa cất vó lên có khác nào tự tử không?

Y phát một chiêu mạnh như núi lở, đánh vào bụng ngựa của bà. Nam-hải nữ hiệp là đệ nhất cao nhân của phái Sài-sơn. Tổ sư phái Sài-sơn là Phù-đổng Thiên-vương nổi danh về tài kỵ mã. Cho nên đệ tử phái này đều có thuật kỵ mã siêu việt. Bà đạp chân vọt người lên cao, hai chân biến thành móc câu chụp vào đầu Phan Hào. Y kinh hoàng bật hai tay lên đỡ câu của bà, thì con ngựa của y đã bị ngựa của bà đặt hai chân trước lên vai. Con ngựa của Phan Hào hí lên một tiếng đau đớn, ngã chúi đầu xuống đất. Phan Hào vọt khỏi mình ngựa, đáp xuống, y thấy cổ đau nhói. Biết gặp nguy hiểm, y lộn người ra sao lăn đi một vòng rồi đứng dậy, thì Nam-hải nữ-hiệp đã đứng trước mặt kiếm chỉ vào cổ.

Phan Hào biết đối thủ không muốn giết mình, chứ nếu muốn thì y đã chết rồi. Y buông đao nói:

– Ta giận vì học nghệ không tinh, bị thua ngươi. Ngươi giết ta đi, ta không oán hận gì cả.

Nam-hải nữ hiệp thấy y hào sảng, bà thu kiếm về nói:

– Phan tướng-quân hồi ta bằng tuổi người, võ công ta thua người xa. Thôi ngươi về đi. Người còn trẻ mà tài đã sớm trổ, giết đi thật uổng.

Phan Hào nhặt kiếm, phóng vào đêm tối. Đào Kỳ chiếm được thành, leo lên dịch lâu coi. Doanh trại Hán lửa ngút trời. Trong bốn trại, một trại bị quân Thục tràn ngập. Còn ba trại đang giao chiến ác liệt. Chàng nói với Nam-hải nữ hiệp:

– Xin sư bá ở lại giữ thành. Chúng cháu tiếp cứu trại mình.

Đào Kỳ, Thiều-Hoa, Vương Phúc mở cổng thành dẫn thiết kỵ xung vào trận. Trại đầu tiên do Đào Hiển-Hiệu chỉ huy. Chàng đứng trên cao đốc chiến. Quân Thục đã đến hàng rào thứ nhì mà không tiến được nữa. Tướng Thục thấy Hán có viện binh, thì lui trở lại, hàng ngũ chỉnh tề chạy về phía Đông. Đào Kỳ sang cứu trại thứ nhì, trại này do Nguyễn Nhân chỉ huy mặt Nam, Nguyễn Nghĩa chỉ huy mặt Bắc. Chàng chưa kịp nhảy vào vòng chiến, thì Phan Hào xuất hiện. Y ra lệnh lui quân. Trước khi lên ngựa y hướng về Nam-hải nữ hiệp nói :

– Xin hẹn ngày tái ngộ.

Bây giờ trời đã sáng Vương Phúc bảo Phan Hào :

– Phan phò mã, để ta tiễn người về Hán-nguyên, nếu không phục binh không cho người đi đâu.

Phan Hào điểm lại quân còn không đầy một vạn, phần lớn bị thương. Y dẫn binh đi theo Vương Phúc.

Quả nhiên đến Ly-ty thấy phục binh của Nguyễn Tín, Nguyễn Nghĩa phục ở đây. Vương Phúc chắp tay nói :

– Phan Hào chùng ta là con một nhà, ngươi là rể, ta là con nuôi, mà cũng là kẻ thù của Công-tôn Thuật, vì vậy chúng ta đi hai đường. Hôm nay tiễn ngươi đi hẹn một mai gặp lại.

Đào Kỳ kiểm điểm lại binh mã, thấy hao hết hai vạn, ba sư trưởng và mười bốn lữ trưởng tử thương. Số bị thương gần hai vạn. Chàng lo lắng nói :

– Ta có 15 vạn quân mang từ Lĩnh-nam, trong các trận trước chỉ chết có mấy trăm người, không ngờ trận này mất hai vạn, bị thương hai vạn chỉ còn mười vạn, với bốn vạn hàng binh, làm sao vào Thành-đô được ?

Đào Hiển-Hiệu thấy anh buồn, an ủi :

– Trước khi xuất binh, Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa cùng Nghiêm Sơn đã tính rằng giặc thủ, ta công, thì giặc mất một ta mất hai. Thế mà từ hôm đánh Độ-khẩu tới giờ, quân anh em Vương Phúc đầu hàng trước sau có năm vạn, quân Phan Hào chết hơn năm vạn nữa, như vậy là họ hao hết 9 vạn. Đàng lẽ ta phải mất 18 vạn, mà nay mới mất có hai vạn là đại thắng rồi. Tam ca mau viết thư về hậu cứ cho sư thúc Lương Hồng-Châu bổ sung kịp thời.

Hoàng Thiều-Hoa cũng nói :

– Nhiệm vụ của chúng ta là chiếm Độ-khẩu, rồi án binh, mục đích làm náo động Ích-châu. Thế mà nay ta chiếm trước sau hơn bảy thành là quá sức rồi. Bây giờ nên án binh giữ quân chờ các đạo kia vào Thành-đô. Nếu chúng ta đánh gấp quá, Công-tôn Thuật đem đại quân đến đây, chúng ta nguy mất. Không biết hiện giờ Đinh Công-Thắng đã tiến đến đâu rồi ? Ta cần chờ tin tức đạo Kim-sơn đã.

Chiều hôm đó có tin Trần Quốc báo về, đã chiếm xong Mỹ-cơ, xin cử người trấn nhậm.

Đào Kỳ nói với Vương Phúc :

– Vương hiền đệ, em ở đây lâu biết người nhiều, vậy em tuyển lấy những người cũ dưới quyền chỉ định thái-thú, huyện-lệnh, huyện-úy, an dân giùm ta.

Vương Phúc cảm động vì Đào Kỳ mới kết nghĩa đã tin tưởng mình. Chàng khẳng khái lên đường đi Mỹ-cơ ngay.

Chiều hôm đó Trần Quốc, Nguyễn Giao-Chi, vương Phúc trở về. Đào Kỳ thấy gương mặt Trần Quốc như có gì khác lạ mà chàng đoán không ra. Tay nàng cầm một khúc gỗ tươi trên có cụm phong lan trắng nở thơm ngát.

Hoàng Thiều-Hoa hỏi :

– Sư muội đi đánh giặc mà cũng có thì giờ cắt lan rừng chơi à ?

Trần Quốc cuối đầu ngượng ngùng. Giao-Chi nói:

– Vương đại-ca cắt tặng Giao-long nữ đấy chứ. Vương đại-ca bảo đó là lan Khương-thị. Hoa chỉ nở vào mùa Đông mà thôi.

Liếc mắt, Thiều-Hoa đoán được cái gì đã xảy ra. Từ hôm đầu hàng tới giờ, gần như lúc nào Vương Phúc, Trần Quốc cũng ở cạnh nhau, khắng khít như đôi chim. Nàng biết mối tình chớm nở trong lòng hai người. Nàng hỏi:

– Vương đệ! Lan Khương-thị là gì vậy?

Vương Phúc kể:

– Nguyên đời Tần Thủy Hoàng xua dân làm Vạn-lý trường-thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Bấy giờ có một cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Chồng bị bắt đi dân công. Vợ là Khương-thị ở nhà chờ đã 5 năm. Nàng bỏ nhà lên ải Bắc tìm chồng. Nàng đi suốt một giải thành tuyết phủ vạn dặm, đi từ trại này sang trại khác, không thấy chồng đâu. Khi đến một hòn núi cao, bão tuyết mịt mù. Nàng bưng mặt khóc như mưa bão, thì núi tuyết rung động mãnh liệt rồi lở xuống. Trong khe núi đầy tuyết không biết bao nhiêu xác chết mà kể. Nàng lật từng xác chết. Xác nào cũng đóng băng cứng như đá. Quá uất hận nàng hát bài Hùng trĩ, giọng điệu thê lương. Tiếng hát dứt thì một xác chết ứa máu ra ở miệng. Nàng đến coi, thì ra là xác chồng. Nàng ôm chồng khóc thê thảm. Uất khí bốc lên, tuyết lại lở xuống. Chôn nàng với chồng trong lòng núi.

Chàng ngừng một lát lại tiếp:

– Từ ngày ấy, về mùa Đông, cứ ngày tuyết lạnh nhất trong năm, thì trên những cành cao, cành nào hướng về phía Bắc đều mọc một thứ phong lan, hoa nở trắng rất đẹp và thơm. Người ta gọi loại phong lan đó là Lan Khương-thị.

Vương Phúc tiếp:

– Tiểu đệ kể chuyện tình Khương-thị đó cho Trần cô nương nghe. Trần cô nương đã sáng tác ngay bản tiêu, tên là Truyện tình Khương-thị.

Nam-hải nữ hiệp là đại sư-bá của Trần Quốc, bà cũng như các Thái-bảo Sài-sơn đều thông âm nhạc, nghe Phúc kệ bà hỏi:

– Trần sư điệt con đưa bản nhạc cho sư-bá coi nào?

Trần Quốc bẽn lẽn, hai tay cung kính đưa bản nhạc lên. Nam-hải nữ hiệp cầm ống tiêu thổi. Tiếng nhạc thì thầm hiu hắt khi bổng khi trầm, khi thủ thỉ như cặp tình nhân mới yêu nhau, khi thê lương ảm đạm như thiếu phụ phòng không, khi thì mịt mờ như Khương-thị đang đứng trước cảnh gió tuyết của Trường-thành.

Khúc nhạc dứt, mà mọi người còn cảm thấy như dư thoang thoảng bên tai. Nam-hải đưa trả khúc nhạc cho Trần Quốc:

– Cháu diễn tả được hết câu chuyện tình Khương-thị, nhưng bản nhạc cũng như câu truyện buồn quá.

Đào Kỳ hỏi:

– Vương hiền đệ! Hiền đệ có biết bản Hùng trĩ mà Khương-thị hát trên đường tìm chồng không?. Bài hát này có liên quan gì đến bài thơ Hùng trĩ trong phần Quốc-phong Kinh-Thi không?

Vương Phúc nhìn Đào Kỳ, suy nghĩ trong lòng:

– Đào đại-ca chỉ hơn ta mấy tuổi là cùng. Võ công vô địch là vì võ công Lĩnh-nam tuyệt thế. Còn Kinh-thi là văn học của Trung-nguyên, sao đại-ca cũng thông thạo như một văn nhân?

Chàng đáp:

– Đúng đấy! Nàng lấy bài Hùng trĩ trong Kinh-thi phổ thành nhạc. Khúc nhạc lưu truyền khắp Trung-nguyên. Tiểu đệ sao lại, giữ bên mình. Nay nhân tiện có sư-bá Nam-hải, mong người không tiếc công chỉ điểm cho.

Đoạn chàng lấy bản nhạc, hai tay cung kính đệ lên trước mặt Nam-hải nữ hiệp. Nam-hải vẫy tay gọi Trần Quốc, Giao-Chi:

– Cháu gái lại đây, cùng coi.

Ba người xuất thần, coi một lượt. Bà nói:

– Khúc hát thật tuyệt, ta e người soạn bản này tài không thua gì Trương Chi, Tiêu Sử, Tư mã Tương-Như. Nào bây giờ tiếng hát Giao-Chi ngọt ngào, êm nhe,ï giọng cao vút, cháu ca lần đầu. Tiếp theo giọng Trần Quốc trầm ấm, cháu ca lần thứ nhì. Ta đánh đàn bầu, Giao-Chi kéo nhị, Trần Quốc đánh sênh. Nguyễn Nhân đánh trống cơm, Nguyễn Nghĩa đánh đàn nguyệt, Nguyễn Lễ đánh đàn kìm, Nguyễn Trí, Nguyễn Tín thổi tiêu. Còn Vương Phúc cháu tấu đàn tỳ-bà được không? Chúng ta thử hòa hợp nhạc khí Lĩnh-nam với Trung-nguyên xem có hay không?

Các tướng là những người cầm gươm lên ngựa, đánh dư trăm trận, bây giữa trướng Chinh-viễn đại-tướng quân bày ra cuộc tấu nhạc. Tự tiền cổ chưa bao giờ họ nghe nói tới.

Trần Quốc đánh sênh, coi như người điều khiển, nàng xuống tay trước. Một loạt các âm thanh đồng cất lên. Tiếng tiêu của Nguyễn Trí cộng Nguyễn Tín, pha lẫn nội lực, bốc lên cao vút, truyền đi rất xa. Tiếng đàn tỳ-bà nỉ non, ai oán, hòa với tiếng đàn Bầu kéo dài, âm thanh rung động không gian, làm não lòng người nghe.Tiếng đàn nguyệt, đàn kìm ngân, hòa tiếng nỉ non của tiếng nhị như khóc như thương.

Âm thanh hòa được một lần thì Giao-Chi cất tiếng hát. Nàng là người có hoa tay, nấu ăn nức tiếng, giọng ca của nàng êm nhẹ, mà cao vút, ai cũng tưởng sẽ tắc, mà nàng lướt qua dễ dàng.

Hùng trĩ vu phi,

Duệ duệ kỳ vũ,

Ngã chi hoài hĩ,

Tự di y trở.

Hùng trĩ vu phi,

Hạ thượng kỳ âm,

Triển hỹ quân tử,

Thực lao ngã tâm.

Lối tấu nhạc thời Lĩnh-nam, cứ sau một khúc thì ngưng hát, nhạc sĩ tiếp tục tấu nhạc thêm ba lần nữa, rồi mới hát khúc tiếp theo. Lợi dụng khoảng trống Đào Kỳ giảng cho Hoàng Thiều-Hoa nghe. Đoạn này ý nói :

Con chim Trĩ trống bay về phương xa,

Đập cánh phành phạch trên cánh đồng,

Em nhớ anh, lòng ẩn ức không nguôi,

Mối sầu càng dập, càng nồng.

Con chim trống bay về phương xa,

Tiếng hót bi thương khi cao, khi thấp,

Lòng em thương nhớ anh dài miên miên vô tận,

Nhớ nhớ, thương thương, lòng quặn đau.

Giao-Chi lại cất tiếng ca:

Chiêm bỉ nhật nguyệt,

Du du ngã tư,

Đạo chi vân viễn,

Yết vận năng lai.

Bách nhĩ quân tử,

Bất tri đức hạnh,

Bất ký bất cầu,

Hà dụng bất tang.

Đào Kỳ lại giảng :

Nhớ anh, em lại nhìn lên mặt trời, mặt trăng,

Ruột đứt từng khúc, máu rướm trong tim,

Nghìn trùng xa cách núi non ngăn trở,

Biết bao giờ anh lại về bên em.

Trên cao bạo chúa cai trị nào hiểu,

Sao không biết tu sửa đức hạnh,

Đau lòng, nhưng ta vẫn không thù, không oán ghét ai,

Sao ngươi không biết thuận với lòng dân.

Ghi chú

Bản dịch của Kim Y Phạm Lệ Oanh.

Trĩ kia bay liệng tung trời,

Cất cao đôi cánh khoan thai nhẹ nhàng.

Hỡi người lòng thiếp vấn vương,

Vì đâu nỡ để Sâm, Thương cách vời.

Kìa trông con trĩ bay hoài,

Bổng trầm cất tiếng khoan thai hữu tình.

Hỡi người quân tử chân thành,

Lòng em gửi gấm bao tình nhớ thương.

Kìa xem ngày tháng ruổi mau,

Lòng ta dằng dặc mối sầu tương tư.

Đường xa thăm thẳm mịt mù,

Bao giờ trở lại quê xưa hởi chàng?

Những người quân tử xưa nay,

Ai không biết giữ thẳng ngay làm đầu?

Chẳng ghen ghét, chẳng tham cầu,

Hẳn là sẽ gặp nhiều câu tốt lành.

(Thi Kinh Quốc Phong, bản dịch của Kim Y Phạm Lệ Oanh, Q1, trg.115-118, Cành-nam Hoa-kỳ xb.)

Giao-Chi ca xong lần đầu, thì Trần Quốc ca lần thứ nhì. Tiếng Trần Quốc trầm ấm, đôi khi lanh lảnh vang đi rất xa. Nàng dứt tiếng hát, thì tiếng tấu nhạc cũng ngừng.

Các tướng sĩ cùng vỗ tay vang dội. Nam-hải nữ hiệp đọc được nét buồn trên mặt Thiều-Hoa, Đào Kỳ, Đào Hiển-Hiệu. Bà biết bọn trẻ từ Lĩnh-nam sang Bắc viện, tuy họ giữ chức đại tướng-quân, võ công cao cường, nhưng bản chất vẫn là thiếu niên. Quan sơn cách trở, hàn huyên không đạt được, họ bị tiếng nhạc, tiếng ca gợi lại nhớ thương. Thiều-Hoa nghĩ lại những buổi chiều cùng Nghiêm Sơn thả thuyền trên sông Hồng-hà ngắm mặt trời lặn. Đào Kỳ nghĩ đến Phương-Dung trên đường từ Lục-hải về Long-biên. Còn Đào Hiển-Hiệu thì nhớ đến nét mặt thanh tú, vẻ đẹp huyền ảo như có như không của Đinh Hồng-Thanh.

Trần Quốc phá tan bầu không khí tịch mịch của ba người. Nàng nói với Vương Phúc :

– Vương đại-ca, đại ca cho phép muội sao bản nhạc này được không ?

Vương Phúc hai tay nâng lên ngang mày :

– Của quý dành tặng quý nhân. Trần cô nương, Vương Phúc tôi kính tặng cô nương, khúc nhạc này.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:07:45 SA

Hồi 3        Hồi 5

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129590 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 5

Thục đạo chí nan nan thượng thanh thiên.

(Lý Thái-Bạch, Thục-đạo sơn)

Nghĩa: Đường vào đất Thục khó thay, núi cao tới trời.

Đào Kỳ thấy giữa Trần Quốc, Vương Phúc nảy nở những đóa hoa tình. Chàng nghĩ đến chuyện tác thành cho hai người. Một bên là cô em gái thông minh, tài trí, tính tình ngổ nghịch, mà chí muốn ôm hoàn vũ vào lòng. Một bên là nghĩa đệ sinh ra trong hoàn cảnh éo le, mồ côi cha mẹ, không ưa Hán mà phải đầu Hán, chẳng qua mượn Hán trả thù nhà. Chàng kinh nghiệm qua vụ Nghiêm Sơn và Thiều-Hoa. Hai người có tình ý với nhau, chàng chỉ cần mở một lối, thì tình ý họ sẽ phát triển mau hơn. Nghĩ được một kế chàng cầm lệnh bài nói :

– Ta có việc phải làm. Ta cần một người tài trí, thông thạo đường đất Ích-châu. Lại cần một người bơi lội giỏi. Vì vậy Vương hiền đệ và sư muội Giao-long nữ hãy giúp ta. Hai em phải hành sự thực bí mật mới được, lộ ra thì mất mạng như chơi.

Trần Quốc là cô gái thông minh tuyệt đỉnh, nàng ở bên cạnh Đào Kỳ lâu, gì mà nàng không hiểu ý ông anh. Nàng cúi đầu e thẹn. Còn Vương Phúc thì không hiểu ý Đào Kỳ, chàng nói :

– Tiểu đệ xin chờ lệnh đại ca.

Đào Kỳ chỉ lên bản đồ nói :

– Vương đệ cùng Trần sư muội dùng thuyền đi về phía Giang-an, dò thám tin tức đạo quân vượt Kim-sơn của ta đánh đến đâu rồi? Nhất thiết mọi chuyện, hiền-đệ được thay ta hành sự. Trần muội phải nghe theo lệnh của Vương hiền-đệ.

Nam-hải nữ hiệp liếc mắt một cái, đã hiểu được thâm ý Đào Kỳ, bà nói :

– Giao-long nữ! Con là đệ tử của đệ thất Thái-bảo Sài-sơn. Trận Độ-khẩu vừa qua, con làm rạng danh sư phụ. Đại sư-bá khen con đó. Bây giờ con hãy đi cùng Vương sư huynh, nhớ ít đùa nghịch, chín chắn hơn một chút.

Sáng hôm sau Vương Phúc, Trần Quốc từ tạ Nam-hải nữ hiệp, Đào Kỳ lên đường. Hoàng Thiều-Hoa gọi Trần Quốc lại bên cạnh nắm tay nói :

– Việt cũng thế, Hán cũng vậy, ai tốt thì là bạn ta, ai xấu là kẻ thù của ta. Em đi cùng Vương Phúc nên gắng học hỏi những kinh nghiệm về võ học, hành binh của Thục, sau này còn dùng đến.

Nàng lấy chuỗi ngọc trai đeo trên cổ, quàng vào cổ Trần Quốc, lại lấy chiếc vòng hồng ngọc trên tay đeo vào tay Quốc, rồi tát yêu một cái :

– Chúc em lên đường thành công. Sau khi hoàn tất, sư tỷ hy vọng được nghe em hát bản Đào yêu.

Trong các anh hùng thời Lĩnh-nam, chính sử cũng như huyền sử đều chép rằng Thiều-Hoa là người nhu mì nhất, tình tình rộng rãi, thương yêu sư đệ, sư muội như con đẻ. Điều này đã đúng với Đào Kỳ. Nàng hơn Đào Kỳ có năm tuổi. Khi Đào hầu nhà tan, cửa nát không biết sống chết ra sao. Nàng trông coi Đào Kỳ như mẹ trông coi con. Vì vậy suốt cuộc đời Đào Kỳ, chàng chỉ nghe lời có mấy người. Đứng đầu là cha mẹ, sau đó đến Thiều-Hoa.

Trời sinh ra phụ nữ có tính nhu thuận, lấy đức dạy dỗ trẻ con. Họ được đứa trẻ dành cho tình thương đằm thắm. Trần Quốc là đứa trẻ mồ côi, Trần Quốc-Hương mang về nuôi nấng, dạy dỗ. Chính lòng yêu thương quảng đại của ông làm cho Trần Quốc kính yêu ông vô bờ bến. Từ hôm nàng theo quân đến giờ, bên cạnh có sư bá Nam-hải. Nhưng bà uy nghiêm quá, nàng thấy thiếu thân mật. Còn Hoàng Thiều-Hoa, lúc nào cũng ôn nhu đằm thắm với nàng. Bây giờ Thiều-Hoa lại lấy ngọc đeo trên người tặng cho. Cảm động quá, không biết nói sao, nàng ôm chặt lấy Thiều-Hoa, rơm rớm nước mắt. Hai chị em ôm nhau một lúc rồi nàng buông ra nói :

– Em sẽ nhớ lời sư tỷ mãi mãi.

Hai người chuẩn bị hành trang. Hôm sau lên đường. Trên đường đi nàng hỏi Vương Phúc :

– Vương đại-ca, tôi nghe đại-ca văn võ toàn tài, muốn thỉnh thị đại-ca một việc được không ?

Vương Phúc cảm động nói :

– Xin cô nương cứ nói, tôi sẵn sàng.

– Khi tặng ngọc cho tôi, sư tỷ Thiều-Hoa nói chờ tôi trở về hát bản Đào yêu. Tôi không biết bản này, gặng hỏi ngọn gốc bản nhạc, thì đại sư-bá dạy rằng, trên đường đi hỏi đại-ca. Vậy Đào yêu là gì ? Là Yêu hoa Đào hay Con yêu tinh họ Đào ? Hay Cây Đào thành yêu ?

Vương Phúc cười :

– Không phải đâu! Đào là cây Đào, Yêu là tốt tươi. Đào yêu là bài thơ trữ tình trong thiên Quốc-phong, Kinh-thi. Bài thơ ca tụng đức độ của người con gái, khi về nhà chồng biết thích nghi, hòa hợp với gia đình nhà chồng.

– Bài thơ đó như thế nào ? Xin đại-ca giảng cho tôi nghe.

Vương Phúc đọc:

Đào chi yêu yêu,

Chước chước kỳ hoa,

Chi tử vu quy,

Nghi kỳ thất gia.

Đoạn này ý nói có cây hoa Đào tươi tốt. Có người con gái đi lấy chồng, đối đãi hòa thuận với gia đình nhà chồng. Bài thơ rất phổ thông, vì vậy sau này, khi chúc tụng một cô gái đi lấy chồng, người ta thường đề trên lụa mấy chữ:

Chi tử vu quy.

Hoặc

Nghi gia, nghi thất.

Vừa khen đức độ cô gái, vừa chúc may cho cô. Lối viết chữ trên lụa chúc con gái đi lấy chồng, ý tứ rút trong Kinh-thi. Nó vừa có tính chất bình dân, vừa có tính chất bác học cổ truyền.

Trần Quốc vẫn chưa hiểu, hỏi:

– Bài thơ có bốn câu thôi ư?

– Còn chứ, tất cả là 12 câu. Tám câu sau là:

Đào chi yêu yêu,

Hữu phần kỳ thực,

Chi tử vu quy,

Nghi kỳ gia thất.

Đào chi yêu yêu,

Kỳ điệp chăn chăn,

Chi tử vu quy,

Nghi kỳ gia nhân.

Nghĩa là cây đào tươi tốt, đầy trái mũm mĩm. Người con gái nhà kia đi lấy chồng. Đoạn dưới nói : Cây đào tươi tốt trái cây thơm ngon. Người con gái đi lấy chồng, hòa thuận với cả gia đình nhà chồng.

Ghi chú

Bản dịch của Kim Y Phạm Lệ Oanh:

Cây đào non mơn mởn,

Rực rỡ muôn đóa hoa.

Thiếu nữ vui duyên mới,

Êm hòa đạo thất gia.

Cây đào non mơn, mởn,

Quả núc nỉu đầy cành.

Cô kia vừa xuất các,

Cầm sắt vui duyên lành.

Cây đào non mơn mởn,

Lá óng mượt xanh tươi.

Cô kia về nhà mới,

Gia đình thêm đông vui.

(Thi Kinh Quốc Phong, bản dịch của Kim Y Phạm Lệ Oanh, thủ bút của Trương Cam Khải, Cành-Nam, Hoa-kỳ xb Q1,trg 19-21)

Bây giờ Trần Quốc mới hiểu ý Hoàng Thiều-Hoa, nàng liếc nhìn Vương Phúc mặt đỏ lên. Để đánh trống lảng, nàng hỏi :

– Vương đại-ca có bản nhạc này không ?

Vương Phúc đáp :

– Có chứ. Bản nhạc thường dùng để tấu khi đưa cô dâu về nhà chồng.

Chàng mở bọc, lấy khúc nhạc hai tay đưa cho Trần Quốc. Trần Quốc liếc qua, rồi cầm cây đàn bầu bên cạnh dạo lên, cất tiếng hát.

Vương Phúc lấy ống tiêu trong bọc ra, để lên môi, hòa tấu. Một người là danh gia đệ tử của môn phái có hàng nghìn năm kinh nghiệm âm nhạc. Một người là đấng tài hoa đất Thục. Tiếng tiêu, tiếng đàn bầu hòa lẫn với tiếng hát Trần Quốc. Tài ở chỗ là ngựa vẫn vỗ vó dòn dã trên đường, mà tiếng đàn, tiếng tiêu, tiếng ca không bị ngắt quãng. Ca hết Trần Quốc nói :

– Khúc nhạc này âm điệu vui quá nhỉ?

Hai người phi ngựa đi Mỹ-cơ. Thái-thú Mỹ-cơ tên Trần Ngọc-Thái, trước y là tướng dưới quyền Vương Phúc, mới được Vương Phúc tiến cử với Đào Kỳ. Y ra ngoài thành đón tiếp :

– Không biết đại-nhân với cô nương đến có chuyện gì dạy bảo không ?

Vương Phúc nói :

– Tôi cần một con thuyền buôn thực lớn, ngày mai dùng đường thủy, nhập Kim-sa giang, theo Kim-sa giang đến Giang-an.

Trần Ngọc-Thái nói nhỏ :

– Tiểu nhân nghe tin hôm qua có trận đánh ở Giang-an. Thành Giang-an bị một đạo quân từ trên núi đổ xuống đánh úp. Thái-thú bị bắt phải đầu hàng. Nghe nói ở Long-xương, Trấn-đông đại tướng-quân của Thục tử trận, thành cũng mất rồi, không rõ đạo quân nào ? Từ đâu tới ?

Trần Quốc nghe nói mừng khôn tả, nghĩ thầm :

– Hai ông cụ Triệu Anh-Vũ và Đinh Công-Thắng quả thực là thần nhân. Núi Kim-sơn cao, hiểm trở là thế mà vượt qua được.

Trần Ngọc-Thái là người lớn tuổi, liếc qua y cũng biết tình ý giữa Vương Phúc với Trần Quốc. Y nghĩ thầm :

– Vương đại-nhân là trang thiếu niên anh tài, còn nàng là gái Việt đẹp như tiên nữ, họ có tình ý với nhau là sự thường.

Y lấy một thương thuyền lớn, cho binh sĩ giả làm thủy thủ đi theo Vương Phúc. Để hóa trang, y cho chất lên thuyền nhiều sản phẩm địa phương như : Quế-chi, Mộc-nhĩ, nấm hương, xương hổ, da thú. Y hóa trang cho Vương Phúc thành một lái buôn. Còn Trần Quốc thì hóa trang thành một tiểu thư khuê các.

Thuyền tới Kim-sa giang thì không cần chèo nữa, cứ việc buông mái chèo cho thuyền xuôi về phía Đông. Giao-long nữ ưa đùa cợt, bây giờ ngồi một mình trước Vương Phúc, sinh ra e ngại không nói nên lời.

Vương Phúc là người tinh tế, chàng lấy sách ra, giảng cho nàng về phương pháp đóng chiến thuyền của Trung-nguyên, cùng những phương pháp tác chiến dưới nước. Quả nhiên vì thế mà hai người bớt ngượng ngùng.

Hai ngày sau, thuyền tới trấn Bá-dương. Vương Phúc cho thuyền ghé vào bến. Trấn này nằm trên ngã tư, nơi hội tụ của các dòng sông Kim-sa giang, Trường-giang, Hoành-giang và Dân-giang, rất phồn thịnh. Dân cư đông đúc, thuyền bè đậu san sát trên bến. Trong trấn không thấy có binh lính kiểm soát.

Vương Phúc dẫn Trần Quốc lên bờ dạo chơi. Hai người đi khắp trấn, rồi vào tửu lâu kiếm bàn ngồi. Đối với món ăn Trung-nguyên, Trần Quốc mù tịt, nàng để cho Vương Phúc tùy ý gọi gì thì gọi. Hai người ngồi ăn được một lát, có ca kỹ tới. Ca nhi là một thiếu nữ xinh đẹp, dáng người thanh nhã, da trắng hồng, đôi mắt đen to. Tuổi nàng khoảng 17-18. Cạnh nàng là một nhạc công tuổi khoảng 50. Tay lão cầm lấy ống tiêu bằng trúc dài, màu xanh óng ánh như ngọc.

Thiếu nữ tới trước bàn chắp tay nói :

– Công-tử, tiểu-thư có nghe hát không ? Tiểu nữ xin tấu một vài bản hầu nhị vị.

Trần Quốc là đệ tử phái Sài-sơn, nàng rất thích âm nhạc. Nghe nói tấu nhạc là nàng động lòng rồi. Nàng nhìn Vương Phúc như có ý bảo đồng ý.

Vương Phúc hỏi lão già :

– Tiên sinh lấy mỗi khúc bao nhiêu tiền ?

Lão già nói :

– Cả hát, cả tấu nhạc, xin công-tử cho một chỉ bạc.

Trần Quốc cố uốn giọng giống tiếng Thục:

– Tôi xin tạ tiên sinh và cô nương năm chỉ một bản.

Thời bấy giờ hát và tấu một khúc nhạc mà trả một chỉ tức là thượng hạng rồi, thế mà Trần Quốc trả những năm chỉ, lão già mừng quá:

– Đa tạ tiểu thư rộng lượng. Không biết tiểu thư muốn tấu khúc gì đây?

Trần Quốc đáp:

– Xưa Tư-mã Tương-Như tấu nhạc cho Trác Văn-Quân nghe, khúc đó là Phượng cầu kỳ hoàng, vậy tiên sinh có biết không?

Lão ông thoáng một nét khâm phục:

– Tiểu nhân biết, xin hầu công tử và tiểu thư.

Ông lão lấy ống tiêu thổi. Người thiếu nữ ngồi xếp chân đánh đàn tranh. Tiếng tiêu, tiếng đàn văng vẳng trong không gian. Mây trời như ngừng trôi, hồn người như chìm đắm trong lời ca trữ tình của Tư-mã Tương-Như gửi cho Trác Văn-Quân:

Phượng hề! Phượng hề! Quy cố hương,

Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,

Hữu nhất diễm nữ tại thử đường,

Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường?

Hà do giao tiếp, vi uyên ương.

Trần Quốc tuy giỏi âm nhạc. Nàng nghe sư phụ nói về khúc hát lãng mạn này, mà chưa biết nội dung ra sao, lại càng không biết xuất xứ của nó. Nàng hỏi Vương Phúc, chàng giảng:

– Tư-mã Tương-Như là một đại văn nhân, một đại nhạc-gia thời Tây-Hán. Ông là người đất Thục. Thuở nhỏ học võ không thành, sau bỏ học văn. Một ngày kia ông rời Thục vào Trung-nguyên cầu danh. Khi xe đi qua cây cầu, ông nói:

– Nếu không cỡi xe bốn ngựa, thì không về qua cầu này.

Ông phiêu bạt khắp nơi không được trọng dụng. Một ngày kia, một trong những người phục tài âm nhạc của ông có Trác công đặt tiệc mời ông. Sau tiệc Trác công muốn thưởng thức tài nghệ của ông, ông từ chối. Song liếc mắt, thấy một thiếu nữ kiều diễm tuổi khoảng 17-18 ngồi sau màn, ông đồng ý. Vì theo ông, không thể vì một bữa tiệc mà bắt ông tấu nhạc. Ông tấu nhạc đây chỉ là tấu cho giai nhân nghe mà thôi. Ông vừa tấu nhạc vừa ca bản Phượng cầu kỳ hoàng, nghĩa là chim Phượng đi tìm chim Hoàng.

Trần Quốc thấy câu chuyện diễm tình hỏi:

– Ý nghĩa câu hát ấy thế nào, tôi không hiểu rõ nghĩa cho lắm.

Vương Phúc giảng:

– Năm câu thơ trên nghĩa là:

Chim phượng ơi! Chim phượng ơi! Về quê hương cũ đi,

Người đã đi khắp bốn bể để tìm con chim hoàng,

Mà nay gặp gỡ được người thiếu nữ diễm kiều tại đây,

Ngôi nhà này làm ta đau đớn đứt ruột được,

Làm sao để được tiếp xúc với nàng để thành uyên ương?

Cô gái lại cất tiếng hát đoạn sau:

Phượng hề! Phượng hề! Tùng hoàng tê,

Đắc thác tửø vỹ vĩnh vi phi,

Giao tình thông thể tất hòa hài,

Trung dạ tương phùng biệt hữu thùy?

Vương Phúc lại giảng:

– Bốn câu sau nghĩa là:

Chim phượng ơi! Chim phượng ơi, theo chim hoàng tìm chỗ đậu,

Như vậy người đã được đuôi chim hoàng, được nàng làm vợ,

Từ nay hai người hai mà là một, hòa vui với nhau,

Giữa đêm nay chúng ta sẽ gặp nhau được chăng?

Người con gái xinh đẹp núp sau màn cửa đó là Trác Văn-Quân, nhan sắc tuyệt vời. Đêm đó nàng bỏ nhà, trốn theo Tư-mã Tương-Như.

Trần Quốc hỏi:

– Sau hai người có ở đời với nhau không ?

– Có ! Trác-công thấy con gái bỏ nhà theo trai, giận lắm, không thèm nhìn mặt. Nàng bán áo hồ-cừu lấy tiền mở quán cơm. Nàng nấu bếp, Tương-Như rửa bát. Trác-công thấy vậy xấu hổ quá gọi nàng về chia cho 100 người hầu, vàng bạc mấy trăm cân. Bấy giờ hoàng-hậu của vua Vũ-đế nhà Hán bị vua lãng quên. Bà mời Tư-mã Tương-Như vào cung đãi trà. Tương-Như cảm động làm bài phú diễn tả nỗi cô đơn của bà. Một ngày kia vua Vũ-đế ngồi ngắm trăng với phi tần, chợt nghe một Thái-giám ngâm bài phú của Tương-Như. Nhà vua rung động tâm can, than rằng :

– Tiếc thay tác giả bài phú đã qua đời! Ta không được gặp.

Thái-giám tâu rằng bài phú đó do Tư-mã Tương-Như sáng tác cho hoàng-hậu. Vũ-đế mời Tương-Như yết kiến, phong cho chức Đại-phu.Vũ-Đế lại sủng ái hoàng-hậu như xưa. Bấy giờ giặc Hung-nô phía Bắc thường xâm phạm Trung-nguyên. Vua Vũ-đế sai Tương-Như đi thuyết phục chúng. Tương-Như một xe, một đàn lên sa mạc tấu cho dân chúng Hung-Nô nghe. Vua Hung-Nô mời ông vào cung tấu nhạc. Ông nhân đó khuyên Hung-Nô bãi binh. Vua Hung-Nô vì thương tài Tương-Như, bãi binh, thần phục Vũ-đế. Vũ-đế phong cho Tương-Như tước hầu, ban áo gấm cho về Thục. Tương-Như nhờ vậy nổi danh khắp nơi. Tương-Như gặp một giai nhân trẻ. Ông định bỏ Trác Văn-Quân. Văn-Quân hát lại bài Phượng cầu kỳ hoàng. Tương-Như xúc động không bỏ vợ nữa. Hai người sống bên nhau cho đến chết (2).

Ghi chú

(2) Khúc Phượng cầu kỳ hoàng nghĩa là chim phượng tìm chim hoàng. Phượng là chim trống. Hoàng là chim mái. Khúc này rất nổi tiếng được lưu truyền rộng trong văn học sử và Âm nhạc sử của Trung-quốc. Trong Kiều, đoạn tả Kiều đánh đàn cho Kim-Trọng nghe, có nhắc tới :

Khúc đâu Tư-mã Phượng cầu,

Nghe ra như oán như sầu phải chăng?

Giai thoại về văn chương âm nhạc có thế. Sau này người ta lãng mạn hóa đi thành tiểu thuyết. Đoạn trên đây, chúng tôi thuật theo bộ chính sử Sử ký Tư-mã Thiên, quyển 117, từ trang 2999 đến trang 3074. Do Trung-hoa thư cục, Hương-cảng xuất bản.

Tư Mã Thiên với Tư Mã Tương Như là người sống gần như đồng thời với nhau. Tư Mã Tương Như tự là Trường Khanh. Tư Mã Thiên tự là Tử Trường. Tử Trường thuật chuyện các vua chúa, danh nhân rất ngắn. Thường chỉ trong vòng 20 đến 50 trang. Khi ông thuật đến Tư Mã Tương Như, bút pháp của ông tươi sáng, sống động vô cùng. Ông để ra đến 75 trang (nếu dịch ra Việt ngữ ít ra là 250 trang), thuật về Trường Khanh.

Song các Nho gia đời sau thường không ưa Tương Như, vì việc Trác Văn Quân bỏ nhà theo trai.

Khúc hát hết mà Trần Quốc vẫn còn ngây ngất, vì bài hát có xuất xứ diễm tình. Nàng móc túi lấy ra nén bạc đáng giá năm lượng, hai tay đưa cho lão ông:

– Tiếng rằng mỗi khúc một chỉ. Nhưng tiếng tiêu của tiên sinh không thua gì Tiêu Sử. Tiếng hát và tiếng đàn của cô nương nào có kém gì Lộng Ngọc ngày xưa đâu? Một chỉ đâu xứng đáng với tay tiên. Tôi xin kính cẩn dâng 5 lượng, gọi là duyên may gặp gở.

Người ca kỹ tuyệt không ngờ cô tiểu thư này rộng rãi và lịch sự đến thế. Nàng cầm lấy nén bạc hỏi:

– Chẳng hay tiểu thư muốn tấu khúc nhạc nào nữa không?

Trần Quốc nói:

– Đời vua Văn-đế nhà Hán, có người cung nữ tên là Vương Chiêu-Quân gả cho rợ Hồ. Trên đường cống Hồ nàng khóc lóc thảm thiết, nhớ lại ân sủng của quân vương, nàng làm khúc Chiêu Quân tình khúc, hay còn gọi là Chiêu Quân quá quan. Tiên sinh và cô nương có biết không ? (3)

Chú giải

(3)Chiêu Quân quá quan tên khúc nhạc không biết tác giả là ai. Nguyên đời Văn-Đế nhà Hán (179-157 trước Tây lịch) đem một cung nữ tên Vương Chiêu-Quân gả cho vua Hung Nô. Nhân đó người đời sau lãng mạn hóa đi, trở thành thiên tình sử. Từ đó người ta sáng tác ra khúc nhạc Chiêu Quân quá quan, nghĩa là nàng Chiêu Quân qua quan ải đến vùng Hung Nô. Khúc nhạc âm điệu rất sầu thảm. Trong Kiều, Nguyễn Du tả tiếng đàn Thúy Kiều tấu cho Kim Trọng nghe, có nói đến :

Quá quan này khúc Chiêu Quân,

Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.

Thiếu nữ chắp tay đáp :

– Tiện nữ xin tấu để công-tử và tiểu-thư nghe. Từ ngày ra đời kiếm ăn đến giờ, đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp tiểu thư hiểu được tiếng đàn.

Nói rồi lão già thổi tiêu, thiếu nữ vừa ca, vừa đánh đàn. Tiếng hát lẫn tiếng nhạc, ai oán não nùng như tiếng Chiêu Quân thương khóc khi phải từ giã vua về đất Hồ. Khúc hát hết, Trần Quốc lại lấy ra nén vàng năm lượng ra tặng cho thiếu nữ. Nàng nói :

– Đa tạ tiên sinh cho chúng tôi được nghe tiếng tiêu thần và giọng oanh vàng. Không biết trên thế gian này, có mấy ai có được tài thần như tiên sinh và cô nương.

Lão ông cảm động nói :

– Kể từ tiểu nhân ra giang hồ kiếm ăn, đây là lần đầu tiên gặp tri âm. Để tiểu nhân dạo một vài khúc mong cô nương chỉ giáo.

Lão ông mặt nhìn trời xa xa :

– Lão mới sáng tác một vài khúc, mong tiểu thư phẩm bình.

Nói rồi ông cầm tiêu thổi. Tiếng tiêu cao vút lên tận mây xanh, khiến mọi người ngồi đó đều ngây ngất thổn thức trong lòng. Dứt khúc nhạc, Trần Quốc nói :

– Tiếng tiêu khi trầm, khi cao vút, điệu nhạc khi dài như tiếng đau thương của cha mất con, khi ngân như tiếng nức nở của đứa trẻ mất mẹ. Khi ngậm ngùi như vợ chồng xa cách. Khi phẫn hận như anh hùng thất thế. Thưa tiên sinh, đó có phải là tâm sự của tiên sinh không ?

Lão ông đứng chắp tay hướng Trần Quốc vái một vái :

– Quả đúng vậy đây là khúc Trường-giang huyết lệ vậy. Nguyên lão có người vợ làm ca kỹ, bị người ta bắt mất, nay không rõ ở đâu. Hai cha con đi hát sống qua ngày, hy vọng tìm lại được. Vì vậy lão đặt khúc nhạc để tiêu sầu.

Trần Quốc thắc mắc :

– Nếu tiên sinh cho rằng chúng tôi là tri kỷ, có thể tỏ cho biết tâm sự hay không ? Biết đâu chúng tôi có thể giúp tiên sinh tìm lại phu nhân ?

Thiếu nữ gật đầu :

– Đã vậy xin phiền lòng tri âm.

Nàng đứng dậy. Trần Quốc trả tiền nhà hàng, cùng Vương Phúc dẫn cha con người ca kỹ theo. Trần Quốc chú ý thấy bước đi của lão già rất vững, gót chân lại hồng mịn, chứng tỏ lão chưa già lắm. Nàng nhìn cổ tay, thấy da chưa nhăn. Nàng chửi thầm :

– Mình chết thực! Thì ra lão cải trang.

Xuống tới thuyền Trần Quốc lấy một cái khăn ướt đưa cho lão già :

– Tiên sinh đã là tri âm, sao còn giấu tướng mạo nhau làm chi ?

Lão già biết rằng mình cải trang đã bị lộ, vội cầm khăn lau, lập tức hiện ra một khuôn mặt trẻ trên 40, rất hùng vĩ.

Lão già nhìn Trần Quốc cười :

– Cô nương dường như người đất Lĩnh-nam thì phải ? Từ Lĩnh-nam đến đây đường xa vạn dặm, chắc phải có lý do quan trọng lắm mới khiến gót ngọc vào đất Ích-châu này ?

Vương Phúc biết lão già không vừa, vội đáp :

– Cô nương này từ Lĩnh-nam đến vùng Kinh-châu học âm nhạc, cô là bạn của em gái tôi, nên cùng đáp thuyền đi cho biết Trường-giang muôn vẻ.

Trần Quốc móc trong túi bản Truyện tình Khương-Thị, nói :

– Tôi mới mua được một bản nhạc phiền tiên sinh với cô nương tấu cho tôi nghe được chăng ?

Lão già cầm bản nhạc liếc qua rồi nói :

– Được chứ ! Được lắm chứ.

Ông cầm ống tiêu thổi, thiếu nữ dạo đàn. Hai người đàn tiêu tấu hợp, khiến cho Vương Phúc ngây ngất. Tấu xong lão nói :

– Khúc nhạc này đoạn đầu tha thiết như đôi lứa yêu nhau, khúc sau thì ly biệt thảm sầu, nhớ thương đằng đẵng. Đoạn cuối rõ ràng là tiếng thiếu phụ khóc chồng.

Vương Phúc gật đầu kính phục lão già :

– Bèo mây gặp gỡ, trước lạ sau quen. Chúng tôi không dám hỏi cao danh quý tính của tiên sinh và cô nương.

Lão già đáp :

– Từ ngày ra đời, dùng tiếng đàn làm vui thiên hạ, tôi chưa hề gặp được khách tri âm như công tử, tiểu thư, đáng lẽ phải mang gan ruột ra tạ lòng tri kỷ. Nhưng vì một lẽ khổ tâm riêng, tôi không thể tiết lộ danh tính. Đối với người khác tôi sẽ dùng danh tính giả, đối với công tử và tiểu thư thì chúng tôi không dám. Người ở trấn Bá-dương thương tài gọi chúng tôi là Vu-Sơn tiêu thần và tiểu nữ là Sa-Giang cầm tiên. Xin hai vị cứ dùng tên đó là được rồi.

Vương Phúc bảo thủy thủ làm cơm, lấy rượu mời Vu Sơn, chàng nói :

– Thưa tiên sinh, tôi họ Vương, nên thường gọi là Vương nhất-lang, còn cô nương đây họ Trần, bơi lội giỏi, có tên là Giao-long. Chúng tôi buôn bán trên sông. Ngày mai sẽ đi Giang-an, rồi theo Trường-giang vào Kinh-sở. Chúng tôi chỉ đi ít ngày rồi trở về trấn. Không biết bấy giờ có được gặp gỡ tiên sinh và cô nương không?

Chàng để ý thấy Sa Giang là một thiếu nữ nhu mì, với vẻ đẹp đầy sầu muộn. Thiếu nữ với Trần Quốc ngang tuổi nhau, chuyện trò tương đắc về âm nhạc. Hai người như quen thân nhau từ thuở nào rồi vậy.

Vu Sơn bảo Vương Phúc :

– Vương công tử phải cẩn thận, đường từ đây sang Kinh-Sở đang có đánh nhau lớn. Hôm qua tôi nghe tin, không biết quân Hán từ đâu kéo đến đánh chiếm Giang-an. Tôi lại nghe dường như quân Hán đã chiếm Việt-tây, Mỹ-cơ. Thủy quân Thục ở trấn Bá-dương có đến hai vạn, mới nhổ neo đêm rồi theo Dân-giang về Đông-sơn. Có lẽ để cứu Thành-đô hoặc Hán-nguyên bị lâm nguy cũng nên.

Vu Sơn lại thở dài :

– Tình hình này thì Ích-châu sẽ thuộc về Hán trong sớm tối mà thôi. Công-tôn Thuật chưa biết sẽ bị bắt, bị giết lúc nào. Có lẽ cha con tôi sẽ đi Thành-đô, để xem sự thay đổi của lớp sóng phế hưng. Ích-châu với một triều đình, nào vua, nào vương, nào hầu, nào quan lại. Rồi hoàng-hậu, phi tần, hoàng-tử, công-chúa, tiểu thư, công-tử... rồi phút chốc trở thành người vong quốc, không nhà, không cửa, không có cả đất mà chôn nữa.

Vương Phúc nghe Vu Sơn khuyên chàng nên tránh chỗ chiến tranh, rồi y lại bảo sẽ về Thành-đô xem chiến tranh, thì dường như y khuyên chàng là thực tâm, còn y về Thành-đô là có chủ ý riêng. Chàng cũng đang có ý đợi chuyến công tác này xong, xin Đào Kỳ cho phép cầm một đội quân đột nhập Thành-đô, giết Công-tôn Thuật trả thù nhà. Nếu được đi với Vu Sơn thì hay biết mấy, chàng nói với lão :

– Tiên sinh, nếu tiên sinh không chê anh em chúng tôi hủ lậu, chúng ta cùng đi Giang-an rồi vào Thành-đô một lượt, như vậy có nên chăng ?

Lão gật đầu đồng ý :

– Tạ lòng công tử chiếu cố, cha con chúng tôi sẽ cùng đi với công tử.

Vương Phúc cho thuyền nhổ neo rời trấn Bá-dương đi Nam-khê. Thuyền xuôi Trường-giang đi rất mau. Sông Trường-giang chảy cuồn cuộn giữa hai vách núi, trông xa xa như một bức tranh hùng vĩ. Trần Quốc là người học âm nhạc, tính lãng mạn, nay đứng trước cảnh đẹp của thiên nhiên, lòng nàng ngây ngất chứa chan. Nàng cầm tiêu thổi bản Động-đình dạ ca của Trương Chi, tiếng tiêu vang trên mặt nước. Vu Sơn và Sa Giang họa đàn và tiêu theo. Vương Phúc nhìn cảnh sông nước nghe tiếng nhạc, chàng có cảm tưởng như mình lọt vào non tiên. Chàng nghĩ :

– Gái nước Việt nhiều tình cảm, lạ yêu nước hơn yêu chồng. Gái Giang-đông chỉ biết có chồng, không biết đến nước... Nay cứ nhìn Trần Quốc đủ rõ. Người nàng mảnh khảnh nhu nhã như bông hoa lan buổi sáng. Thế mà ra tay chọc trời khuấy nước, cầm một vạn kỵ binh, đánh Mỹ-cơ trong một ngày lấy được thành, lấy mười đồn. Có ai ngờ nàng lội qua Độ-khẩu giữa mùa Đông lạnh buốt, nước chảy như thác chăng dây cho quân qua. Có ai ngờ nàng đánh bại thủy quân Độ-khẩu trong chốc lát không ? Bây giờ nàng nhu mì, ủy-mị thả hồn trong tiếng nhạc. Nếu ta có được người vợ như vậy, dù chết đến mấy lần cũng đáng.

Bỗng thuyền trưởng chạy vào khoang nói :

– Thưa chủ nhân phía trước có ba chiếc thương thuyền lớn, dường như trên thuyền người ta đang đánh nhau. Không biết là quan binh hay quân cướp, xin chủ nhân định liệu.

Vương Phúc cùng Trần Quốc ra ngoài khoang nhìn về phía trước, thấy ba chiếc thuyền buôn lớn đậu sát vào nhau. Trên thuyền có cuộc giao tranh. Nhưng cách xa quá nhìn không rõ. Chàng ra lệnh cho thuyền cứ thẳng đường đi tới.

Vu Sơn nói với Trần Quốc :

– Tiểu thư ! Ai đánh nhau mặc ai, chúng ta cứ tấu nhạc được chăng ?

Trần Quốc lấy ống tiêu dồn lực vào thổi bài Tình hận Trương Chi. Tiếng tiêu của nàng hàm chứa nội lực, vọng đi rất xa, hòa lẫn với tiếng sóng Trường-giang, thành một âm điệu như có như không, nửa tiên nửa tục. Sa Giang cũng mang đàn tranh ra tấu. Vương Phúc nhíu mày nhìn ba người :

– Ba người này mê âm nhạc quá rồi ! Phía trước người ta đang chém giết nhau, mà mình thả hồn trong cung nhạc được, thì cũng là một sự hiếm có trên thế gian.

Thuyền càng lại gần, tiếng đao kiếm chạm nhau chan chát càng nổi lên lớn hơn. Trên con thuyền chia làm hai phe, một phe mặc theo lối binh lính Thục. Một phe mặc theo lối dân buôn trên sông. Bên Thục có ba cao thủ, hai nam, một nữ đánh nhau với bên dân gian, cũng có ba người thôi. Ba cao thủ bên Thục, chàng nhận ra lão già dùng đao pháp vùng Hán-trung nội lực rất hùng tráng. Còn hai cao thủ một nam, một nữ xử dụng kiếm pháp rất lạ, chàng không nhận ra. Phía ba cao thủ dân gian thì một nam khoảng 50 tuổi và một đôi thiếu niên nam nữ. Ngoài ra còn một thiếu nữ đứng chống kiếm lược trận. Họ dùng thứ võ công hơi quen quen, song trong lúc nhất thời chàng chưa nhận ra. Võ công phe dân gian, chiêu thức kỳ bí, chiêu nào cũng khắc chế với võ công phái Thiên-sơn của chàng.

Chàng giật mình nghĩ :

– Nếu người nào học võ công này, chỉ cần một cao thủ bậc trung cũng đủ hạ một cao thủ bậc nhất của phái Thiên-sơn nhà mình.

Trong phép đấu võ, cứ mỗi chiêu đánh ra, ta phải tìm hiểu chiêu thức của mình để phá địch. Trong khi những chiêu thức đó, chiêu nào cũng hàm chứa thế phá võ công phái Thiên-sơn, nên Vương Phúc mới lo sợ. Người đàn ông dân gian lớn tuổi, quát lên phóng ra một chưởng dũng mãnh, ào ào chụp xuống. Người đàn ông có râu mép bên Thục, phản công lại bằng một chưởng rất hùng hậu. Cả hai đều nhảy lui lại vận khí. Vương Phúc nhận ra chưởng của người lớn tuổi dân dã, giống chưởng của Hoàng Thiều-Hoa đã đấu với chàng hôm trước. Chàng quay lại định hỏi Trần Quốc, thì nghe Vu Sơn nói với Sa Giang :

– Lão già bên Thục kia võ công không phải tầm thường, đôi nam nữ đi với hắn dùng võ công Lĩnh-nam. Ta nghe Kiến-Vũ sai Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn mang đạo quân Lĩnh-nam đi đánh Thục. Nghiêm vương gia ở Lĩnh-nam một thời gian, người mời được rất nhiều hào kiệt vùng cực nam theo giúp. Đám quân Thục này là bọn Tế-tác. Còn đám Lĩnh-nam kia chắc cũng là quân Hán. Chúng ta hãy ngồi quan sát xem sao đã.

Vương Phúc Trần Quốc nghe nói, bấy giờ mới biết cha con Vu Sơn là người có võ công tuyệt vời. Hai người nháy nhau, ý nói phải cẩn thận, lòng người nham hiểm khó đo.

Vương Phúc thấy lão già bên Thục xử dụng võ công Thiên-sơn, thuộc loại đại cao thủ, mà chàng không nhận ra lão là ai. Với nội lực, chưởng lực như lão ít ra cũng thuộc vào hàng sư phụ, sư thúc của chàng, người như thế đất Thục được mấy.

Trần Quốc nhìn qua, nàng nhận ra đôi nam nữ mặc theo lối binh lính Thục là Phong-châu song quái. Còn phía dân gian, nàng nhận ra họ là người thuộc phái Cửu-chân. Người lớn tuổi và đôi thiếu niên trẻ tuổi nàng chưa gặp bao giờ. Còn thiếu nữ xinh đẹp đứng lược trận chính là người mà nàng kính trọng ngang sư phụ, đó là Trưng Trắc. Thái độ Trưng Trắc uy nghiêm, phiêu hốt coi thường mọi chuyện.

Về phía Vũ Hỷ, y đấu với người đàn ông phái Cửu chân được ít hiệp thì yếu thế dần. Phương-Anh đấu với thiếu nữ trẻ tuổi, y thị có vẻ thắng thế hơn. Trần Quốc kinh ngạc tự hỏi :

– Ngày nọ Phong-châu song quái tới trang Thiên-trường gây sự với sư phụ mình, chỉ với mười chưởng, Phương-Anh đánh sư phụ mình lạc bại, mà sao thiếu nữ này đấu với y thị hơn trăm hiệp mà vẫn còn cầm cự được? Bản lãnh của nàng có phần ngang với Hoàng Thiều-Hoa là ít.

Còn thanh niên trẻ đấu với lão già bên Thục ngang tay. Công lực lão già hùng hậu, đao pháp tinh vi, mỗi chiêu đánh ra vèo vèo, thế mà vẫn không đàn áp được thanh niên, vì chàng sử dụng võ công Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên.

Thuyền của Vương Phúc sắp lại gần trận chiến, một người của phe Thục lớn tiếng :

– Ở đây đang có chiến tranh. Đao kiếm vốn vô tình, thuyền buôn nào đó xin tránh ra chỗ khác.

Biết người quan binh Thục bảo mình tránh ra xa để khỏi phiền phức. Tính ngang tàng nổi dậy, Trần Quốc ra hiệu cho thuyền thẳng tới. Nàng cầm ống tiêu thổi lên một bài, âm hưởng vang dội, nhu hòa mà hùng tráng. Nàng dùng nội lực chuyển tiếng tiêu đi rất xa. Bản nhạc nàng tấu đó là bản Động đình ca của Trương Chi, sau được Nguyễn Tam-Trinh nhuận sắc lại. Âm hưởng vui tươi như muôn ngàn tiếng chim hót buổi sáng mùa xuân, vừa hùng tráng như quân reo, ngựa hí.

Vũ Hỷ nghe tiếng tiêu, biết thuyền mới đến có người Lĩnh-nam, y hô lớn :

– Ngừng tay !

Hai bên cùng ngừng tay lui lại. Người đàn ông Lĩnh-nam lớn tuổi lên tiếng :

– Tiếng tiêu cử bài Động đình ca là biểu hiệu của phái Sài-sơn. Vậy không hiểu vị Thái bảo nào ở bên đó, xin xuất hiện để tương kiến.

Trần Quốc bỏ ống tiêu nói vọng sang :

– Trần Quốc, đệ tử đệ thất Thái-bảo Trần tiên sinh ở tại đây. Không biết vị cao nhân nào của phái Cửu-chân ở bên đó ?

Người đàn ông phái Cửu-chân nói lớn :

– Đinh Đại thuộc phái Cửu-chân, đệ tử là Quách Lãng cùng con gái là Đinh Bạch-Nương. Trần sư điệt, sao cháu lại ở đây ? Sư phụ cháu đâu ? Người vẫn mạnh chứ ? Lâu ngày quá ta không gặp người.

Nguyên Đinh Đại với Trần Quốc-Hương sư phụ của Trần Quốc là đôi bạn tương đắc.

Thuyền của Trần Quốc ghé sát vào với ba chiếc thuyền kia. Nàng cầm ống tiêu nhảy sang hướng Đinh Đại hành lễ :

– Tiểu nữ Trần Quốc xin tham kiến sư bá.

Nàng quay lại Trưng Trắc :

– Sư tỷ ! Tấm thân cao quý vạn thặng của sư tỷ sao cũng ở đây ? Đặng đại ca đâu rồi, đại ca có đi cùng với sư tỷ không ?

Trưng Trắc chỉ Song-quái :

– Chúng ta từ Lĩnh-nam sang đây trợ chiến cho Đinh tiên sinh, không ngờ gặp bọn Song-quái. Chúng giúp Công-tôn Thuật. Giữa đường hai bên gặp nhau gây cuộc ác đấu.

Thình lình Sa Giang nhảy vèo đến, dùng trảo tấn công lão già mặc binh phục Thục. Lão già lạng người đi tránh khỏi rồi phản công. Sa Giang là một ca kỹ xinh đẹp, nàng mặc quần áo lụa mỏng phất phơ trước gió. Nàng tấn công lão già Thục liên tiếp không ngừng. Nhưng chỉ được có mấy hiệp, nàng có vẻ yếu thế. Vu Sơn thấy vậy cầm ống tiêu đâm xéo vào lão già nói :

– Công-tôn Khôi, ngươi có nhận được ta không ? Ngươi đường đường là Bắc-bình vương lĩnh chức Tả tướng-quân, tại sao ngươi lại giả trang thành một tên lính già ? Dù ngươi có cháy thành than, ta cũng nhận được ngươi.

Lão già tức Công-tôn Khôi không trả lời, rút kiếm ra trả đòn. Thế là hai người đấu với nhau trên sàn thuyền. Võ công của Vu Sơn với Công-tôn Khôi cùng một môn phái. Có điều Vu Sơn thì nhẹ nhàng, phiêu hốt, còn Công-tôn Khôi thì nặng nề trầm mãnh.

Vương Phúc nghe Vu Sơn nói chàng mới giật mình :

– Thì ra lão già này là Công-tôn Khôi, tước phong Bắc-bình vương, lĩnh chức Tả tướng-quân của Thục. Y là em ruột Công-tôn Thuật, anh Công-tôn Thiệu, quyền lực y chỉ thua Công-tôn Thuật mà thôi. Y là vai sư thúc mình. Còn Vu Sơn là ai mà có thù với Công-tôn Khôi ? Võ công Vu Sơn cao hơn Khôi, vậy lão là ai ?

Công-tôn Khôi vừa đánh, vừa cười :

– Vương sư đệ, đã lâu lắm ta không được tin tức gì của sư đệ, không ngờ hôm nay gặp gỡ ở đây. Tại sao sư huynh, sư đệ gặp nhau, sư đệ không cùng ta hàn huyên chuyện cũ, lại muốn giết ta ?

Vu Sơn không trả lời, dùng vũ khí liên tiếp tấn công. Chiêu số của y cực kỳ thần tốc, ác liệt. Tiếng tiêu phát ra vi vu nghe rất êm tai. Người y phiêu phiêu hốt hốt, chiêu số lại kỳ diệu không biết đâu mà lường. Còn Công-tôn Khôi công lực mạnh như vũ bão, mỗi chiêu kiếm phát ra đều có tiếng xé gió, rít lên rùng rợn.

Trần Quốc hỏi khẽ Vương Phúc :

– Công-tôn Khôi cùng môn phái với đại ca phải không ?

Vương Phúc gật đầu :

– Y vào hàng sư thúc của tôi. Y là em ruột Công-tôn Thuật đấy. Trước đây, võ công y cao hơn tôi nhiều, nhưng gần đây, vì tửu sắc quá độ, công lực y giảm đi rất mau. Y hiện là Bắc-bình vương, lĩnh Tả tướng quân, một tay điều khiển binh mã miền này. Trọng trách ngang với tôi trước đây và hơn Trường-sa vương Công-tôn Thiệu.

Trần Quốc hỏi Sa Giang :

– Cô nương, dường như cô nương và lão bá có mối thù với Công-tôn Khôi phải không ?

Sa Giang rớt nước mắt nói :

– Đúng đó, chính y làm cho gia đình em tan nát. Em mất mẹ từ thuở mới có hai tháng. Ba người anh và mẹ em bị giết. Cha con em phiêu bạt giang hồ cũng vì y. Nếu chị có cách gì giúp em trả mối thù này thì muôn đời em không quên ơn.

Vu Sơn dồn Công-tôn Khôi tới đầu thuyền. Công lực Khôi giảm dần, chỉ còn lo chống đỡ. Y thở hổn hển, nhưng chiêu số phát ra vẫn mạnh như thường. Bỗng Vu Sơn kêu lớn lên :

– Công-tôn Khôi, không ngờ ngày hôm mi bị chết dưới tay ta, trên dòng sông Trường-giang này.

Dứt lời y đâm ba chiêu vào mắt Khôi. Công-tôn Khôi hoảng hốt lui lại thì chân đạp vào khoảng không. Y nhắm mắt chờ chết. Vũ Hỷ thấy vậy vung chưởng đánh vào sau lưng Vu Sơn cứu viện. Chưởng của y là Phục ngưu thần chưởng, ào ào chụp xuống. Chưởng chưa tới, mà Vu Sơn cảm thấy muốn bể lồng ngực.

Chúng ta nên nhớ cách đây hơn mười năm, y chỉ đánh một chưởng khiến Đào Thế-Kiệt phun máu miệng. Hơn mười năm nay theo Lê Đạo-Sinh, y luyện tập không ngừng, công lực ngày nay của y không kém gì Lê.

Trưng Trắc thấy thế, lách mình một cái đến sau Vũ Hỷ, tay nàng khoằm khoằm phát ra một chiêu Long-hổ trảo chụp vào cổ y. Vũ Hỷ hoảng hốt, thu chưởng về biến thành quyền đánh vào vai nàng. Trưng Trắc biến thành cầm nã, nắm lấy bàn tay y giật mạnh một cái, y loạng choạng chúi về phía trước. Nàng nhảy lui lại nói :

– Sư đệ ! Hai người đánh một không phải là đạo lý của phái Tản-viên.

Từ cách lách mình, phát chiêu, lui về của Trưng Trắc oai nghiêm như một người trên dạy người dưới. Vũ Hỷ giận cành hông phóng chưởng đánh Trưng Trắc. Trưng Trắc lắc đầu vẫy tay :

– Sư đệ ! Ta không muốn dính vào những việc dơ bẩn. Ngươi đừng ép ta.

Miệng nói nàng vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng. Vũ Hỷ cảm thấy cánh tay tê chồn, nội lực Trưng Trắc vừa nhu hòa, vừa cương mãnh. Y nghĩ đến một truyện, toát mồ hôi :

Ngày nọ trong đại hội hồ Tây, Khất đại-phu dùng nội lực cương nhu hợp nhất đánh bại Lê Đạo-Sinh. Có lẽ Khất đại-phu đã truyền lại cho Trưng Trắc chăng ? Y khôn ngoan, kinh nghiệm chiến đấu. Thấy mình bất lợi giả bộ cười :

– Sư tỷ không muốn dây dưa thì thôi.

Chỉ một chiêu của Vũ Hỷ can thiệp làm Vu Sơn phân tâm một chút. Công-tôn Khôi lấy lại được tư thế. Y nhảy vọt lên cao đá gió, người đã ở giữa thuyền. Nhưng Vu Sơn theo y như bóng với hình. Y hoảng hốt, vừa lui, vừa đỡ. Phương-Anh thấy y lâm nguy, rút kiếm đỡ ống tiêu của Vu Sơn. Nhưng kiếm chưa ra hết, Đinh Đại đã quát lên một tiếng. Ông xử dụng kiếm pháp Cửu-chân tấn công vào ngực y thị. Y thị kinh hoàng thu kiếm về đỡ. Đinh Đại đã tra kiếm vào vỏ :

– Phương-Anh! Không nên can thiệp vào truyện người khác.

Phương-Anh nổi giận chém liền năm chiêu vèo vèo vào Đinh Đại. Ông nhảy lui lại trả đòn. Vu Sơn đã dồn Công-tôn Khôi đến gần ngộp thở, thì Vũ Hỷ lại nhảy vào. Lần này Trưng Trắc không can thiệp nữa.

Vương Phúc đứng ngoài lược trận. Thình lình chàng rút kiếm tấn công Vũ Hỷ năm chiêu. Mỗi chiêu biến thành bảy tám bao trùm lấy y. Từ lúc hai thuyền kế nhau. Vũ Hỷ đã chú ý đến Vương Phúc, vì chàng hóa trang, y cho rằng chàng là một lái buôn. Bây giờ thấy chàng ra chiêu cùng một thứ võ công Thiên-sơn của Công-tôn Khôi, kình lực không kém gì Khôi. Y vừa đỡ vừa lui lai. Y dùng kiếm pháp Tản-viên.

Một bên nổi tiếng Phong-châu song quái kinh nghiệm lâu năm, gian manh nhất thiên hạ. Một bên trí dũng kiêm toàn, tư thái đường đường chính chính của bậc vương giả. Hai người diễn ra trận đấu trên sàn thuyền. Thế là trên sàn thuyền diễn ra ba cặp song đấu kịch liệt. Vu Sơn dùng một tuyệt chiêu đánh rơi kiếm của Công-tôn Khôi, rồi dí tiêu vào cổ y. Ông cười gằn :

– Sư huynh, hôm nay ngươi phải chết dưới tay ta.

Bỗng có tiếng quát :

– Ngừng tay, bằng không chúng ta buông tên.

Mọi người đều nhảy lùi lại, thì ra trong lúc hai bên mê trận, ba chiến thuyền Thục đã tới hồi nào. Trên thuyền thủy thủ đều cầm tên, dương cung chĩa sang. Viên chỉ huy nói :

– Các ngươi để cho Vương-gia của chúng ta về bên này, ta để cho các ngươi đi.

Trưng Trắc thấy tình thế nguy ngập, nàng nói với Vu Sơn :

– Tiêu thần tiên sinh ! Xin tiên sinh cứ tha cho Công-tôn vương-gia. Vương-gia làm ác, ngày đền tội sẽ không xa đâu.

Vu Sơn không biết Trưng Trắc là ai. Song thấy tư thái nàng vừa uy nghiêm, vừa nhu nhã tỏ ra một đại tôn sư đương thời. Võ công của nàng tuyệt cao, thì tin tưởng lời nói của nàng không phải là quá đáng. Ông nói :

– Công-tôn Khôi, hôm nay ta tha cho ngươi, nhưng ngươi đã bại dưới tay ta rồi, một ngày kia ta sẽ xẻo thịt ngươi cũng chưa muộn.

Đinh Đại nói với Trưng Trắc :

– Đặng phu nhân phải cẩn thận. Phong-châu song quái tráo trở không ngừng. Chúng ta tha chúng về, chúng trở mặt bắn tên sang thì nguy.

Trưng Trắc mỉm cười :

– Đinh hầu đừng e ngại, tôi có cách đối phó. Song quái là người của Tản-viên, họ có làm gì chăng nữa, cũng không qua khỏi sự ước tính của tôi.

Mọi người thấy thái độ bình tĩnh uy nghi của Trưng Trắc, thêm tin tưởng. Trước đây nàng ra tay tấn công Vũ Hỷ rồi lên tiếng dạy dỗ y, làm y không nói được lời nào. Bây giờ nàng lại ung dung xử lý vấn đề, tự coi Song quái như nằm trong tay nàng vậy.

Nàng nói với Trần Quốc :

– Phiền sư muội giúp cho một tay, đưa Công-tôn vương gia về thuyền giùm.

Nàng ghé tai Trần Quốc nói mấy câu. Trần Quốc toét miệng cười như nắc nẻ. Nàng cầm dao dí vào cổ Công-tôn Khôi cùng hắn đi sang thuyền Thục. Nàng nói :

– Bắc-bình vương-gia ! Vương-gia là Tả tướng quân của Thục, chắc Vương-gia thông hiểu đại cuộc. Nếu người của Vương-gia trở mặt buông tên, hoặc có hành vi gì định hại tôi, con dao này sẽ xuyên qua ngực Vương-gia đấy. Tôi nói được là làm được.

Công-tôn Khôi thấy Trần Quốc mảnh mai xinh đẹp, thân pháp nhẹ nhàng thì biết là người có võ công không tầm thường. Y tím mặt đi theo nàng. Trần Quốc theo Công-tôn Khôi sang thuyền y. Song quái cũng về thuyền chúng. Bốn chiến thuyền của Thục rời xa dần, còn lại hai chiến thuyền của Vương Phúc dàn thành hàng dài. Bảy chiếc thuyền chia làm hai toán rời xa nhau. Mọi người không biết Trưng Trắc dự tính giải quyết thế nào, khi Trần Quốc phải sang thuyền của Công-tôn Khôi.

Hai đoàn thuyền của hai phe xa nhau hơn một lằn tên, bọn thuộc hạ của Công-tôn Khôi bảo Trần Quốc :

– Bỏ đao xuống nếu không mất mạng.

Trần Quốc cười :

– Ta đang định bỏ, nhưng các ngươi quát bảo ta bỏ, ta không bỏ đấy ! Các ngươi làm gì ta ?

Bốn thanh kiếm từ bốn phía hướng nàng đâm xéo tới. Trần Quốc biết thế nguy, nàng nhún chân nhảy vọt lên cao túm lấy cột buồm, nhìn xuống cười :

– Các ngươi có giỏi lên đây bắt ta.

Một thiếu nữ tuổi khoảng 18-19 chạy đến bên Công-tôn Khôi hỏi :

– Gia gia ơi ! Gia gia có sao không ?

Công-tôn Khôi lắc đầu. Bảo thuộc hạ :

– Các ngươi bắt con nhỏ đó cho ta.

Nói rồi y vào khoang thuyền. Trần Quốc nghĩ được một kế nói:

– Thôi các ngươi lui ra, ta xuống cho mà bắt.

Nàng buông tay đáp xuống như chim. Vừa xuống sàn thuyền, nàng ôm lấy con gái Công-tôn Khôi, lăn ùm xuống nước. Bọn thủy thủ trên thuyền la hoảng lên.

Công-tôn Khôi hô lớn:

– Các ngươi phải cứu Quận-chúa cho mau.

Bọn thủy thủ nhìn xuống sông, song không thấy Trần Quốc và Quận-chúa đâu cả. Chúng ngó ra xa xem có thấy hai người nổi lên không, nhưng cũng biệt tăm. Vũ Hỷ nhảy sang thuyền Công-tôn Khôi quan sát. Y nói:

– Có lẽ chết chìm cả hai rồi. Nước chảy xiết thế này, lại đang rét mùa Đông, công lực nào chịu cho thấu?

Công-tôn Khôi ra lệnh cho thủy thủ thả mủng xuống, chèo dọc sông tìm kiếm.

Nguyên do lúc còn ở trên thuyền. Trưng Trắc dặn Trần Quốc rằng, sau khi tới thuyền Công-tôn Khôi, nàng nhảy xuống nước trở về thuyền mình. Trưng Trắc sẽ cho thuyền xuôi theo dòng sông để Trần Quốc lên.

Bản tính Trần Quốc thông minh, được sư phụ cưng chiều, ngỗ nghịch đã quen. Tuy tuân lệnh Trưng Trắc, nhưng nàng thuận tay bắt sống quận chúa Thục mang theo. Nàng cặp quận chúa lặn thẳng tới mạn bên kia thuyền mới trồi lên. Đứng bên này thuyền Trưng Trắc nhìn thấy hết. Tính nàng không giống Trưng Nhị. Trưng Nhị vui vẻ, hồn nhiên. Nàng thì nghiêm trang ít đùa. Nhưng thấy Trần Quốc phá phách có ích, nàng cũng bật cười. Nàng nói một mình:

– Bố ta nói rằng tám vị Thái-bảo Sài-sơn là những bậc thầy giỏi nhất Lĩnh-nam. Cứ thấy một cô bé ngây thơ như Trần Quốc, mà có hành động mẫn tiệp như vậy, đủ rõ cách dạy người của sư bá Trần Quốc-Hương như thế nào.

Trần Quốc cặp quận chúa Thục nổi lên mé bên kia thuyền, trên thuyền Thục không nhìn thấy. Nàng vọt một cái, người bay lên cao như một con cá chép, đáp xuống mạn thuyền. Đinh Bạch-Nương đỡ quận-chúa Thục vào khoang, dốc ngược chân cho nước chảy ra. Nàng để tay lên ngực quận-chúa, dồn chân khí vào, một lát quận chúa mở mắt, thở như thường. Nàng thấy toàn người lạ, tu lên khóc. Trưng Trắc bảo nàng:

– Quận-chúa đừng sợ. Chúng ta là người nghĩa hiệp, quyết không làm nhục, cũng không làm hại nàng đâu.

Người Hán vốn coi thường phụ nữ, cho nên Vu Sơn tiêu thần cũng cùng một quan niệm. Nhưng từ lúc xuống thuyền Vương Phúc đến giờ. Ông thấy nào là Trần Quốc, nào là Đinh Bạch-Nương, nào Phương-Anh, nào Trưng Trắc đều là những phụ nữ trẻ tuổi xinh đẹp, có hành động xuất chúng. Ông ngạc nhiên như đi vào thế giới mới lạ. Trưng Trắc đọc được tư tưởng của ông, nàng tủm tỉm cười. Trần Quốc giới thiệu mọi người với Vương Phúc.

Trưng Trắc hỏi Vu Sơn:

– Thần tiêu tiên sinh ! Nếu tiên sinh coi chúng tôi như người nhà. Tiên sinh có thể cho chúng tôi rõ mối thù giữa tiên sinh với Công-tôn Khôi không ? Bởi lát nữa tôi sẽ bắt y giao cho tiên sinh, để tiên sinh trả thù. Vì vậy hành vi của chúng ta phải quang minh chính đại, cần biết rõ nguồn gốc, tội trạng y. Mong tiên sinh miễn cho cái tội tò mò.

Vu Sơn mơ màng nhìn về phía chân trời xa xăm, như để nhớ lại những kỷ niệm hai mươi năm về trước. Ông nói :

– Với Đặng phu nhân, tôi không thổ lộ tâm sự thì thổ lộ với ai bây giờ ?

Bất thình lình ông vùng dậy, đâm ống tiêu vào giữa mắt Vương Phúc. Bị tấn công như chớp, nhưng chàng là người kinh nghiệm chiến đấu đã quen, né người tránh kịp. Vu Sơn biến thế đâm thành thế móc đánh vào cổ chàng. Chàng bật ngón trỏ ra, nếu Vu Sơn tiếp tục đánh, tay ông tự đập vào ngón trỏ của chàng. Vu Sơn rút ống tiêu về, đâm vào giữa ngực của chàng. Chàng chụp tay như móc câu bắt lấy tay ông. Ông vội buông tiêu gạt. Bốp một tiếng, cả hai người đều lùi lại, xương cốt kêu răng rắc.

Vương Phúc lên tiếng :

– Vu Sơn tiên sinh ! Tiểu bối biết tiên sinh muốn trắc nghiệm võ công, mới phải chống đỡ. Xin tiên sinh lượng thứ cho.

Trưng Trắc, Đinh Đại thấy Vương Phúc còn trẻ mà có bản lĩnh cùng kinh nghiệm chiến đấu như thế thì lấy làm ngạc nhiên vô cùng. Cả hai đều nghĩ :

– Đất Lĩnh-nam có lẽ chỉ có Đào Kỳ là so sánh được với chàng mà thôi.

Đinh Đại thấy tướng mạo Vương tiêu sái, nói năng lễ độ biết chàng cũng là người đọc sách. Ban nãy Trần Quốc giới thiệu giản dị rằng Vương đại ca, Trưng Trắc tưởng một tướng nào của Hán theo công tác mà thôi. Bây giờ mới chú ý đến. Trưng Trắc thấy Vu Sơn tấn công chàng, những tưởng rằng họ muốn thử nghiệm võ công. Nhưng bây giờ thấy vẻ mặt ông cùng với Sa-Giang đầy vẻ khủng khiếp, thì ngẩn người ra.

Vu Sơn thở dài :

– Thì ra Bình-nam vương-gia đây ! Kẻ hèn này có mắt như mù, ngồi thuyền cạnh Vương-gia mà không biết Vương-gia. Thảo nào võ công tuyệt vời.

Ông quay lại giới thiệu với Trưng Trắc :

– Người này con của Công-tôn Thuật tên Công-tôn Phúc tước phong Bình-nam vương, điều khiển toàn bộ binh mã Thục ở miền Nam Ích-châu.

Trần Quốc biết Vu Sơn hiểu lầm, xen vào :

– Lão gia ! Lão gia lầm rồi, trước đây Vương đại-ca là Bình-nam vương. Vương đại-ca là con nuôi Công-tôn Thuật chứ không phải con đẻ. Hai mươi năm trước, thân phụ đại ca bị Công-tôn Thuật hại, bắt Vương đại ca nuôi làm con. Cho nên trong trận đánh Độ-khẩu, Vương đại-ca đấu võ với nguyên soái đạo Lĩnh-nam là Đào Kỳ, rồi kết bạn giữa trận tiền. Đạo quân Lĩnh-nam chiếm được 7 thành Nam Ích-châu là nhờ công của Vương đại-ca. Vương đại-ca họ Vương chứ không phải họ Công-tôn.

Vu Sơn thu chiêu, ông giật bắn người lên hỏi :

– Công tử họ Vương ? Tại sao Công-tử biết mình họ Vương ?

Vương Phúc điềm nhiên nói :

– Nhũ mẫu của tôi nói cho biết như vậy. Nhũ mẫu thuật rằng Công-tôn Khôi vì mê sắc đẹp của mẫu thân tôi mà hại cha tôi. Công-tôn Thuật lúc đầu nghe lời Khôi. Sau khám phá ra cha tôi bị hàm oan, mới đem anh em chúng tôi về phủ nuôi nhận làm con đẻ.

Vu Sơn mắt mờ đi, lệ chảy tuôn xuống má, hỏi :

– Có phải năm nay công tử được hai mươi ba tuổi không ? Công tử sinh tháng ba, giờ Dần, ngày mồng chín.

Vương Phúc giật mình :

– Sao tiên sinh biết rõ thế ?

Vu Sơn nói tiếp :

– Em kế nhỏ hơn công tử 18 tháng, y sinh tháng chín giờ Thìn, ngày 12. Em thứ ba công tử nhỏ hơn anh 20 tháng, sinh tháng năm, giờ Thìn. Có đúng thế không ? Nhũ mẫu công tử là A Ninh, năm nay 45 tuổi.

Vương Phúc đáp :

– Đúng ! Không sai chút nào. Tại sao tiên sinh lại biết như vậy ?

Vu Sơn không trả lời Vưng Phúc, ông nói với Trưng Trắc :

– Tôi xin thuật truyện cho Đặng phu nhân nghe. Tôi xuất thân từ phái Thiên-sơn, sư phụ tôi thu tất cả bảy đệ tử. Anh em chúng tôi đều được sư phụ huấn luyện trở thành văn võ toàn tài. Chúng tôi được đời tặng cho danh hiệu Thiên-sơn thất hùng.

Trần Quốc xen vào :

– Trước khi tiến quân vào đất Thục, Lĩnh-nam vương kể cho cháu nghe rằng Thiên-sơn thất hùng tài năng quán chúng. Người nào cũng văn võ toàn tài, đởm lược hơn người. Vì vậy họ mới xưng đế đất Thục, dám chống lại Hán triều. Dù họ là đế, là vương, là dân dã, họ vẫn gọi nhau bằng sư huynh, sư đệ ăn cùng mâm ngủ cùng giường. Họ đối với thuộc hạ coi như chân tay gan ruột, sĩ tốt một lòng sống chết với họ. Tài ba như Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành mà cũng bị đánh bại. Vì thế Kiến-Vũ thiên tử mới thỉnh Lĩnh-nam vương ra quân.

Vu Sơn gật đầu :

– Tiểu cô nương tri kỷ của ta ơi, kiến thức của cô nương rộng đấy. Đúng như cô nương nói. Trong Thiên-sơn thất hùng ta được sư mẫu thương yêu nhất, dốc túi truyền âm nhạc. Ta thích làm quan, đi thi đậu Hiếu liêm, có bản lĩnh khá cao vì thế không thiếu gì nơi rắp ranh gả con gái. Hiềm vì bản tính ta thích âm nhạc, chỉ chăm chú học tiêu, học đàn. Rồi một hôm ta ra chợ huyện, thấy cô ca kỹ đang ngồi ôm xác cha khóc lóc thảm thiết. Ta hỏi tới sự tình, cô gái kể rằng nàng mới 15 tuổi, theo cha đi hát rong kiếm tiền. Đêm qua chẳng may cha chết, nàng không tiền chôn cha. Ta thương tình, bỏ tiền ra chôn cất cha nàng rất tử tế. Nàng cảm nghĩa, nguyện suốt đời làm nô tỳ cho ta. Ta thấy nàng xinh đẹp tuyệt trần, lại thấy tài cầm ca của nàng mà không nghĩ đến thân phận nghèo hèn. Vì vậy ta tuyển nàng làm cơ thiếp. Tin này đến tai cha ta. Bấy giờ người đang làm Thứ-sử Kinh-châu. Người đùng đùng nổi giận bắt ta phải trở về cưới vợ. Ta tuân lời cưới con gái Thứ-sử Tây-xuyên làm chính thất. Thế là ta có chính thất, thứ thiếp. Cuộc sống rất đầm ấm. Bấy giờ các sư huynh, sư đệ của ta đều xuống núi lập nghiệp. Công-tôn Thuật, Công-tôn Khôi, Công-tôn Thiệu đều làm huyện-lệnh, thái-thú. Đặng phu nhân thử tưởng tượng xem, chúng ta bốn sư huynh, sư đệ làm thái-thú bốn quận liên tiếp nhau, thế lực mạnh như thế nào ?

Ông thở dài tiếp :

– Trong thất hùng chúng ta còn ba người chưa xuất thân. Đó là Điền Sầm, Tạ Phong và Triệu Khuôn. Chúng ta nâng đỡ cử họ làm đô-úy thuộc quyền. Thế là Thiên-sơn thất hùng chiếm lĩnh 6 quận liên tiếp, thế lực hùng hậu vô cùng. Kịp đến khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Anh em chúng ta chiếm lĩnh Đông-xuyên, Tây-xuyên, Ích-châu, Kinh-châu, dựng thành nước Thục, mộng chiếm Trung-nguyên. Không ngờ Công-tôn Khôi lòng lang dạ thú. Y thấy chính thê của ta xinh đẹp, khi ta vắng nhà y đột nhập vào trêu ghẹo, nàng không chịu, y hãm hiếp rồi phóng chưởng giết chết. Thuận tay y đốt nhà ta quăng tất cả con cái, đầy tớ vào đống lửa, rồi vu cho ta tội phản bội Công-tôn Thuật. Công-tôn Thuật cho lệnh tầm nã ta. Ta bôn ba giang hồ trốn tránh. Cũng may ta gửi đứa con gái của chính thất cho ngoại nó nuôi, nên mới còn sống sót, là con bé này đây.

Ông chỉ vào Sa Giang, rồi tiếp :

– Ta bỏ trốn đến vùng Lũng-hữu, đần quân với Ngỗi Hiêu. Ngỗi Hiêu phong ta làm Đại-tư-mã. Quang-Vũ mang quân đánh Ngỗi Hiêu. Ta chống trả làm các tướng Sầm Bành, Đặng Vũ đều bị bại. Ngỗi Hiên chết, con Ngỗi Hiêu là Thuần kế nghiệp. Giữa lúc đó Quang-Vũ đem đại quân đến đánh. Công-tôn Thuật phong cho người em thứ bảy trong Thiên-sơn thất hùng là Triệu Khuôn làm Lũng-tây vương, mang quân cứu viện ta.

Khi ta gặp sư đệ Triệu Khuôn, y cho biết Công-tôn Khôi được phong Bắc-bình vương lĩnh chức Tả tướng-quân. Y không hề giết vợ con ta mà chỉ cướp tỳ thiếp của ta mà thôi. Công-tôn Thuật điều tra ra dã tâm của Công-tôn Khôi, bắt y trấn thủ vùng Kim-sơn không cho về triều nữa. Ta hối hận ngờ oan Công-tôn Thuật, nhân lúc Ngỗi Thuần hàng Hán. Ta giao tất cả quân tướng các châu, huyện cho Thuật, rồi tuyệt tích giang hồ, tìm Công-tôn Khôi trả thù.

Trưng Trắc thở dài :

– Thế mà người ta bảo Công-tôn Thuật sai Triệu Khuôn vờ cứu tiên sinh, rồi nhân đó cướp thành trì, binh tướng. Oan cho Công-tôn Thuật quá.

Đinh Đại tiếp:

– Thì ra tiên sinh là Vương Nguyên nức tiếng Trung-nguyên đấy.

Tất cả mọi người ngồi trên thuyền đều kêu lên tiếng úi chà. Vì Vương Nguyên là tướng đại tài phò Ngỗi Hiêu chiếm Lũng-hữu, đánh Quang-Vũ nhiều trận kinh hồn táng đởm. Những đại tướng như Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Mã Viện đều thua chạy. Tài dùng binh của y đã giỏi, võ công lại rất cao cường.

Vương Phúc đến trước mặt Vu Sơn lạy tám lạy:

– Con bất hiếu là Vương Phúc xin ra mắt phụ thân.

Vương Nguyên chỉ Sa Giang:

– Em con đây.

Trưng Trắc để cha con họ Vương khóc một lúc, rồi mới nói:

– Bây giờ chúng ta bắt Công-tôn Khôi để Vương tiên sinh báo thù.

Nàng gọi ba thuyền trưởng lại dặn dò chi tiết, rồi ghé tai Trần Quốc nói nhỏ mấy câu. Trần Quốc cười khúc khích gật đầu tuân lệnh. Nàng nói với Vương Phúc:

– Vương đại-ca! Trước đây tôi hứa bắt Công-tôn Khôi cho đại-ca trả thù. Hôm nay tôi thực hiện lời hứa đây.

Bấy giờ ba thuyền của Lĩnh-nam đã tới gần ba thuyền của Thục. Thủy thủ Thục thấy vậy đều dương cung, cầm tên chuẩn bị tác chiến. Song thuyền Lĩnh-nam cứ đi song song theo thuyền Thục, cách một lằn tên.

Phía bên Thục vì muốn tìm xác quận chúa, họ tưởng thuyền Lĩnh-nam đang tìm xác Trần Quốc như họ, không chú ý. Hai dãy thuyền đi đi lại lại được một lúc, bất thình lình một thuyền bên Thục bị thủng đáy, nước chảy vào ào ào. Thủy thủ la hét tìm cách đút nút lỗ thủng. Nhưng lỗ bằng cái mâm, nước ào vào như thác đổ. Thuyền trưởng cho thủy thủ chèo thật mau, áp vào thuyền khác. Thủy thủ vừa sang hết, con thuyến từ từ chìm xuống.

Vũ Hỷ là người khôn ngoan y nói với Công-tôn Khôi:

– Vương gia! Dường như bên Lĩnh-nam cho người đục thuyền ta thì phải?

Thuyền trưởng nhìn Vũ Hỷ cười khinh bỉ:

– Vũ tiên sinh nói lạ. Nước sông Trường-giang chảy xiết thế này, trời đang tiết Đông-chí, lạnh thấu tim gan, hỏi ai có bản lĩnh nhảy xuống nước mấy phút mà không bị nước cuốn đi? Dù nước không cuốn đi thì máu cũng đông lại mà chết, làm sao đục thuyền được. Thuyền của ta là chiến thuyền đáy chìm sâu hơn một trượng. Ai dám lặn xuống mà đục được một lỗ to như vậy? Họa chăng là Giao-long!

Vũ Hỷ thấy thuyền trưởng nói có lý nhưng y vẫn nghi ngờ. Lát sau thủy thủ ở ba chiến thuyền khác cũng kêu lên những tiếng kinh hoàng. Vì ba con thuyền đều bị thủng đáy, lỗ to tròn như cái mâm.

Công-tôn Khôi ra lệnh:

– Thả mủng xuống!

Trên mỗi con thuyền đều có hai cái mủng cấp cứu. Mủng được thả xuống nước. Công-tôn Khôi, Vũ Hỷ cùng nhảy xuống một cái với vợ. Còn mấy cái khác thì các tướng nhảy xuống. Còn lại quân sĩ la hoảng, nhảy ùm xuống sông bơi vào bờ. Thuyền ở giữa sông nước chảy xiết, trời tháng chạp lạnh thấu xương, nên chúng vừa bơi kêu cứu.

Trưng Trắc cho ba chiếc thuyền Lĩnh-nam đến gần, thả dây xuống cho chúng bám, lôi lên sàn thuyền trói lại. Tuy nàng cứu kịp thời, nhưng số thủy thủ Thục chỉ sống sót có một nửa, còn hầu hết bị nước cuốn đi mất. Nàng cho thuyền đuổi theo chiếc mủng chở Công-tôn Khôi, Vũ Hỷ đang chèo ở cuối dòng nước.

Bất thình lình, chiếc mủng lại cũng bị thủng một lỗ, nước tràn vào. Vũ Hỷ cùng vợ bỏ Công-tôn Khôi, nhảy xuống nứơc bơi vào bờ. Công-tôn Khôi đang chới với giữa chiếc mủng thủng, thì một con cá cực lớn nhảy vọt lên cao, đáp giữa mủng. Y nhìn ra là Trần Quốc. Y kinh hoảng chụp lấy vai nàng. Trần Quốc không tránh, còn ôm lấy y lặn xuống nước. Mấy khắc sau, người ta thấy Trần Quốc nổi lên, tay túm tóc Công-tôn Khôi, y bị ngất xỉu vì ngộp nước. Đinh Bạch-Nương tung sợi dây xuống cuốn lấy Trần Quốc, nàng giật mạnh một cái, Trần Quốc, Công-tôn Khôi vọt lên sàn thuyền. Vương Nguyên nhìn Trần Quốc bằng con mắt khâm phục.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:09:02 SA

Hồi 4        Hồi 6

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129591 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 6

Tây-vu Lục-hầu tướng

Trưng Trắc lệnh cho thuyền xuôi giòng sông. Nàng kể cho Vương Phúc, Trần Quốc nghe: Nguyên sau khi Nghiêm Sơn, Đào Kỳ xuất chinh, thì ở nhà Phong Châu Song-quái vượt ngục. Vũ Trinh Thục là người cầm đầu hệ thống Tế-tác Lĩnh Nam, được tin chính Lê Đạo Sinh cứu Song-quái, rồi cùng các đệ tử như Đức Hiệp, Hoàng Đức lên đường đi Trung Nguyên. Vũ Trinh Thục không biết bọn họ đi Trung Nguyên làm gì. Trưng Trắc viết thư thông báo cho các lộ anh hùng Lĩnh Nam biết. Đặng Thi Sách ước tính Lê Đạo Sinh đi Trung Nguyên sẽ bất lợi cho Nghiêm Sơn.

Giữa lúc đó Đặng Thi Sách được thư của Tây Vu Thiên ưng lục tướng tức Lục Sún hỏi về lời cam kết giữa Thi Sách với Công Tôn Thiệu trên núi Kim Sơn cách đây hơn mười năm. Thi Sách chưa kịp trả lời, lại được thư của Phùng Vĩnh Hoa với các anh hùng Lĩnh Nam đạo Hán Trung, cũng hỏi về chuyện đó. Đặng Thi Sách, Trưng Trắc không dám quyết định, hội ý với Đào Thế Kiệt, để cùng đi Trung Nguyên quan sát tình hình. Hai người viết thư trả lời Phùng Vĩnh Hoa phải "cẩn thận". Giữa lúc chuẩn bị lên đường thì Đào Thế Kiệt lâm bịnh nặng. Ông sai sư đệ Đinh Đại, mang theo đệ tử Quách Lãng với con gái là Đinh Bạch Nương lên đường. Mục đích chuyến đi, báo cho anh hùng Lĩnh Nam biết vụ Lê Đạo Sinh để đề phòng. Mục đích thứ nhì, quan sát tình hình Trung Nguyên, hầu đưa ra quyết định kịp thời.

Trưng Trắc tới Phiên Ngung, thì bản doanh của Nam Hải nữ hiệp đã dời vào đất Thục. Trưng Trắc gặp Lương Hồng Châu, Lê Ngọc Trinh trấn giữ hậu quân, tiếp tế cho đạo binh của Đinh Công Thắng và Triệu Anh Vũ.

Trần Quốc tường thuật tỉ mỉ từ ngày tiến quân sang Trung Nguyên đến giờ. Nhất là những gì đạo quân Lĩnh Nam đã làm. Nhiệm vụ của nàng với Vương Phúc là liên lạc với đạo quân Đinh Công Thắng. Trên đường đi, gặp Vương Nguyên, rồi gặp Trưng Trắc. Trong khi đó chính Trưng Trắc đang trên đường liên lạc với đạo quân Đào Kỳ.

Vương Phúc là Bình Nam Vương, trấn thủ mặt Nam Ích Châu. Chàng nổi tiếng có tài dùng binh. Nghe Trưng Trắc kể, chàng thắc mắc:

– Núi Kim Sơn cao đến hai ngàn trượng (4000 mét ngày nay), muốn đi từ Tượng Quận vào thục phải băng qua đến hai mươi ngọn núi. Núi cao trùng trùng điệp điệp. Trên đỉnh núi quanh năm có tuyết. Đến con chim bay qua còn khó khăn thay, làm thế nào đưa một đạo quân vào?

Trưng Trắc tường thuật.

Đoạn này thuật cuộc tiến quân của đạo binh

Đinh Công Thắng và Triệu Anh Vũ vượt núi Thiên-sơn

Đinh Công Thắng với Triệu Anh Vũ mang đội quân Thần Hầu của Hồ Đề hơn vạn người đến Xích Thủy. Cả hai người đều tuổi Trung niên trên 40, võ công cao, kinh nghiệm nhiều, văn võ kiêm toàn. Họ ở vai sư thúc Nghiêm Sơn, danh dự, địa vị đáng tôn kính, cho nên dù giá nào, họ cũng phải vượt Kim Sơn vào Thục.

Triệu Anh Vũ đề nghị:

– Đinh Công huynh là chủ tướng, chỉ huy phía sau, tôi là phó tướng phải lên trước. Nếu tôi lên xong, đổ núi, thì Đinh Công huynh hãy lên thì vừa.

Đinh Công Thắng không chịu:

– Tôi là chủ tướng, tôi đi trước, Triệu huynh đi sau.

Hai người thâm trầm, họ không cãi nhau, mà đề nghị rút thăm. Khi rút thăm thì Triệu Anh Vũ được đi trước. Đinh Công Thắng dặn:

– Triệu huynh lên đầu tiên, nhớ cẩn thận, vì phía bên kia núi, Công Tôn Thuận đóng một đội tiễn thủ trên trăm người. Hãy đợi chúng ta lên đông đủ rồi cùng đánh xuống một thể.

Điều khiển đội Thần hầu là Tây Vu lục hầu tướng. Tuổi chúng từ 13 đến 17. Ông chỉ huy là Trung Quân hầu tướng, tuổi lớn nhất là 17. Người Tây Vu sống với núi rừng thiên nhiên. Họ bắt khỉ nuôi, dạy như người để sai vặt. Khi Hồ Đề được bầu làm Thống Lĩnh, nàng hợp những người nuôi khỉ, dạy khỉ lại gom góp kinh nghiệm. Từ đó nàng đưa ra phương pháp nuôi, dạy khỉ. Nàng cho lệnh bắt khỉ, chia thành từng trăm con, nuôi chúng bằng rau, đậu, trái cây có tẩm nước muối. Chỉ ít lâu sau chúng trở thành ghiền. Đuổi chúng cũng không đi. Nàng huấn luyện chúng như một đội quân.

Đội Thần hầu lên đến mấy ngàn con. Nàng chia chúng thành một Ngũ 5 con. Một Lượng 25 con. Một tốt 100 con. Một Lữ 500 con. Nàng có tất cả 5 Lữ cộng chung tới 2500 con. Khi quyết định Bắc viện, nàng tuyên bố chọn một Lữ 500 con theo. Các Lữ trưởng tranh nhau đòi đi. Cuối cùng nàng cho thi leo cây, băng núi. Nếu tướng sĩ chỉ huy Lữ nào giỏi hơn hết thì được tùng chinh. Sau cuộc thi, TâyVu lục hầu tướng thắng.Nàng quyết định mang cả Lữ của Lục hầu tướng lên đường. Nàng còn đem theo đội dã nhân, tức Hầu quân hầu tướng 100 con nữa.

Tây Vu lục hầu tướng là 6 đứa trẻ. Cha mẹ nó bị người Hán giết chết, hoặc bị bắt đi lao binh. Chúng bơ vơ côi cut, nàng đem về nuôi dạy. Chúng sống chung với khỉ, leo trèo mãi thành quen. Suốt ngày chúng đu từ cây nọ sang cây kia. Chúng chỉ huy đàn Thần hầu rất giỏi.

Triệu Anh Vũ hỏi Trung quân hầu tướng là Hoàng hầu;

– Bây giờ cháu cho đội nào xuất trận đầu tiên?

Hoàng Hầu hỏi:

– Sư bá định kế hoạch như thế nào, để cháu còn điều khiển "ba quân".

Triệu Anh Vũ thấy thằng bé chưa tới 18 tuổi, mà nói năng như người lớn thì mừng lắm:

– Ta muốn chăng giây lên đỉnh Kim Sơn, cho quân bám giây leo tiếp, chăng từ đỉnh xuống chân núi phía trong. Từ chân núi phía trong, lại chăng lên đỉnh thứ nhì. Chúng ta cần vượt trước sau 9 đỉnh núi cao và 6 đỉnh núi thấp.

Hoàng Hầu rút cờ lệnh mầu đen nói:

– Trần Bắc tướng quân, Hắc hầu tướng nghe lệnh.

Hắc hầu đứng dậy uy nghi như người lớn:

– Có tiểu tướng đây.

Hoàng Hầu nói:

– Ngươi cho Thần hầu leo lên đỉnh núi thứ nhất rồi trấn ở đó. Nếu có địch tới tấn công, lập tức chống trả, dù chết cũng không được lùi, chỉ cần ngươi chống được khoảng mấy khắc, thì dưới này trên một trăm quân sẽ lên trợ chiến với ngươi.

Trấn bắc hầu tướng ra sân hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt, lập tức trăm con khỉ lông đen tập hợp ở sân. Nó méo miệng, nhăn mặt làm hiệu, khọt khẹt nói với Thần hầu. Đám Thần hầu mỗi con đeo một thanh đao nhỏ ở lưng, ôm sợi dây lên đường.

Hoàng hầu tướng gọi:

– Chinh Đông hầu tướng nghe lệnh.

Thanh hầu tướng bước ra oai vệ, ưỡn ngực:

– Có tiểu tướng đây.

Triệu Anh Vũ suýt bật cười, nhưng ông vội bụm miệng lại giả vờ ho.

Hoàng hầu tướng nói:

– Ngươi dẫn Thần hầu, mỗi hầu đeo trên người một quả bầu đựng nước. Lưng đeo thực nhiều trái cây, tiếp tế cho các đạo Thần hầu. Sau khi Trấn Bắc tướng quân và đạo Hắc hầu lên đỉnh thứ nhất, thì ngươi cho Thần hầu đeo mỗi hầu một sợi day vào lưng, bám day leo lên, tiếp tế cho đội Hắc hầu. Vì sau khi leo núi sẽ khát nước và đói lắm.

Thanh hầu tướng hỏi:

– Chúng tôi tiếp tế sao còn phải đeo ở lưng một sợi dây chi cho nặng nữa?

Hoàng hầu tướng oai vệ:

– Ngươi biết một mà không biết hai. Phàm phép dùng binh phải lấy mau làm căn bản. Tại sao phải chia ra Hắc hầu chăng dây mà Thanh hầu không chăng dây được? Lợi dụng leo lên tiếp tế, một công đôi việc, ngươi cho mang theo lên 100 sợi dây rồi cột một đầu vào cây hay đá, thả xuống, như vậy là ta có tới 200 sợi. Ngươi hiểu không?

Thanh hầu tướng vâng lệnh, ra ngoài hú lên tập họp thần hầu.

Triệu Anh Vũn ngẩn người ra về phép ước tính điều quân của cậu bé Hoàng hầu tướng. Ông có biết đâu, khi còn ở Tây Vu, Hồ Đề đã cho luyện tập hành quân hàng trăm lần, bọn hcúng điều khiển đã quan, nhiều kinh nghiệm.

Hoàng hầu tướng lại gọi:

– Bình-nam hầu tướng nghe lệnh.

– Ngươi dẫn Thần-hầu, mỗi hầu mang theo hai cuộn dây. Đợi cho Thanh hầu tướng lên đỉnh, thì ngươi lên sau. Ngươi cho Thần-hầu bám vách núi leo lên đỉnh núi thứ nhì. Lên tới, cột dây vào đá, vào cây, rồi thả xuống dưới. Ngươi trấn thủ tại đây, đề phòng giặc tới cắt dây. Nếu giặc tới phải chiến đấu tới cùng bảo vệ đầu cầu. Trên đỉnh núi thứ nhì có tuyết, ngươi phải mang theo 200 viên thuốc chống lạnh, bắt mỗi Thần-hầu uống một viên, nếu không thì không chịu nổi.

Hoàng hầu tướng lại gọi:

– Trấn-tây hầu tướng nghe lệnh.

Bạch hầu bước vào hô lớn:

– Tiểu tướng nghe lệnh.

– Ngươi là tướng tiên phong, phải đi trước. Ngươi đợi Xích hầu tướng lên đỉnh thứ nhì rồi, thì ngươi lên theo. Mỗi hầu mang theo hai sợi dây dài. Ngươi leo lên đỉnh cao nhất của Kim-sơn, trấn thủ tại đây. Nhớ quan sát xem có địch không. Sau đó ngươi cho cột dây, thòng xuống dưới, cho đoàn quân leo lên. Nhớ mang theo thuốc chống lạnh. Đây là đỉnh cao nhất của Kim-sơn, bên kia là thung lũng, thuộc đất Thục, phải cẩn thận để giặc khỏi thấy ta.

Hậu-quân hầu tướng thấy không sai đến mình, nó bứt rứt hỏi:

– Tại sao tôi không được đánh trận này?

Hoàng hầu tướng nói:

– Ngươi lĩnh nhiệm vụ quan trọng hơn hết. Ngươi cho Thần-hầu chuẩn bị vồ với cọc, mang theo dây. Ngươi lên đỉnh cao nhất Kim-sơn, cho dã nhân dò theo dốc núi, gỡ tuyết ra đóng cọc chăng dây xuống thung lũng. Vì dã nhân của ngươi to lớn, khỏe mạnh, ngươi xuống núi nếu gặp địch còn chiến đấu.

Thế rồi suốt gần hai tháng trời, đoàn quân của Triệu Anh Vũ mới vượt qua Kim-sơn. Đến đỉnh Kim-sơn, Triệu Anh Vũ cùng Đinh Công Thắng đứng trên cao nhìn xuống nói:

– Kia là Giang-an, phía xa là Vĩnh-xuyên. Giang-an ở dưới chân núi nầy. Kia là đồn Trường-đình.

Sau hai tháng, hơn vạn người đã lên đến đỉnh núi. Đoàn khỉ tiếp tục được Tây-vu lục hầu tướng chỉ huy mang lương thảo từ dưới lên. Trong khi đó, Triệu Anh Vũ, Đinh Công Thắng thả dây bắt đầu xuống dưới chân núi Kim-sơn. Sau khi đến ngọn thứ ba thì hiện ra một đồn binh khá rộng lớn. Triệu Anh Vũ bàn với Đinh Công Thắng:

– Chúng ta làm thế nào chiếm đồn này, không cho một tên chạy thoát mới đánh úp được Giang-an. Mùa Đông tuyết phủ, chúng trốn trong đồn Trường-đình ngủ vùi, chứ không tuần tiễu đâu. Vậy chúng ta chờ đêm bất thần tấn công, chúng trở tay không kịp.

Bỗng Triệu Anh Vũ chú ý đến nhiều vết chân người đi trên tuyết, ông chỉ cho Đinh Công Thắng:

– Sư đệ nhìn kìa, vết chân người mới đi. Còn in hẳn lên tuyết. Nếu đi lâu rồi, thì bị tuyết rơi phủ mất.

Hai người sợ hãi đến tê dại người nói:

– Ai mà có thể lên đỉnh núi này? Người này võ công chắc cao hơn bọn ta. Nếu họ ra tay thì liệu chúng ta còn sống được không?

Hai người đến mỏm đá cao nhất, thấy có vết dao khắc vào đá:

Anh hùng Lĩnh Nam,

Lập chí phục quốc,

Hữu mục vô minh,

Hữu nhĩ bất văn,

Trợ ác, phù bạo.

Diệt thiện đồng đạo.

(Anh hùng Lĩnh Nam,

Lập chí phục quốc,

Có mắt như mù,

Có tai như điếc,

Giúp kẻ bạo tàn,

Đánh người đồng đạo".

Đinh Công Thắng nói:

– Vị cao nhân này cảnh cáo chúng ta vì phục quốc, mà giúp Hán bạo tàn, đánh Thục nhân nghĩa. Không biết người này là ai?

Anh Vũ đứng suy nghĩ một lúc, rồi quyết định chờ đêm đánh đồn dưới chân núi.

Đinh Công Thắng đồng ý, hai người chờ đến đêm, Triệu Anh Vũ dẫn 3000 quân chận các ngả, sợ quân trong đồn thoái ra còn bắt. Chính bản thân ông điều khiển quân, âm thầm bao vây. Nhưng khi ông tiến sát đồn, vẫn không thấy bóng người. Ông lệnh cho sĩ tốt phục ở ngoài, rồi vọt lên cao nhảy vào hàng rào quan sát, chỉ thấy bốn dẫy nhà. Trong nhà leo lét có ánh lửa củi đốt sưởi, khói bốc lên. Ông tự chửi thầm mình:

– Mình quá cẩn thận! Đám binh lính trấn đóng đâu có đề phòng giặc, mà chỉ để giữ trộm cướp, chúng ngủ hết rồi.

Ông nhảy ra, cho lệnh quân sĩ mở cổng đồn tràn vào. Binh sĩ trong đồn giật mình tỉnh giấc, tưởng là cấp trên tuần tra. Chúng chắp tay lạy xin tha tội.

Nguyên đồn Trường-đình thuộc quyền kiểm soát của Thái thú Giang-an, quân sĩ đa số già lão, mục đích đề phòng trộm cướp mà thôi. Biết đồn trưởng lầm mình với thượng cấp của y. Triệu Anh Vũ nói giọng Ích-châu rất thạo, ông bàn với Đinh Công Thắng:

– Bây giờ tôi giả làm một chức quan Thục, bắt tên đồn trưởng dẫn về Giang-an. Chúng ta đến Giang-an trong đêm, thình lình bắt Thái-thú chiếm thành.

Hai người bàn định rồi, Triệu Anh Vũ cho gọi đồn trưởng vào:

– Ngươi tên là gì?

– Tiểu nhân tên Hoàng Thông.

– Ngươi có biết ta là ai không?

– Dạ tiểu nhân không biết.

– Ta là Biệt kị hiệu úy, lĩnh chức Nội giám thống lĩnh cấm quân của đức Hoàng-đế. Ta được lệnh đem quân đề phòng giặc. Không ngờ ngươi ăn cơm triều đình, mà lười biếng, bỏ đồn để ngủ. Đáng lẽ tội chết chém. Nhưng ta thương tình tha cho. Vậy lệnh cho ngươi mang quân mã dẫn đường, ta đến Giang-an thanh sát Thái-thú. Thái-thú Giang-an tên là gì? Y là người như thế nào?

Hoàng Thông lạy tạ đáp:

– Thái-thú Giang-an họ Tôn tên Minh, là người lớn tuổi, làm Thái-thú từ đời Hán đến giờ. Tại Giang-an có một Lữ trấn đóng. Thủy quân thì đóng ở Nam-khê, có 10 chiến thuyền, khoảng một Lữ.

Từ Trường-đình đến Giang-an khoảng 30 dặm. Triệu Anh Vũ bàn với Đinh Công Thắng:

– Bây giờ Đinh huynh mang quân đi tắt đường núi đến phục sẵn ở Nam-khê. Còn tôi dẫn quân giả làm Việt kị hiệu úy bắt Thái-thú Tôn Minh gọi thủy quân Nam-khê về Giang-an. Thủy quân đi rồi, đại ca đánh úp Nam-khê.

Triệu Anh Vũ cùng Hoàng Thông lên đường đi Giang-an Đến nơi đã về khuya. Trời tháng chạp lạnh buốt tới xương, trên thành có mấy tên quân co ro đứng canh. Hoàng Thông tới gọi cửa. Tên Tốt trưởng giữ cửa thành lên vọng lầu thấy Hoàng Thông thì hỏi:

– Hoàng tốt trưởng, ngươi về đây giữa đêm có chuyện gì vậy?

Hoàng Thông chỉ phía sau người ngựa, cờ xí:

– Hoàng-thượng được tin quân Hán đánh Việt-tây, Bạch-đế, sợ Đông-nam có gì sơ xảy, sai Việt kị hiệu úy đại tướng quân, kiêm Nội-giám thống lĩnh cấm quân tới tuần tra. Ngươi mau mở cửa thành.

Tên Tốt trưởng mở cửa thành. Triệu Anh Vũ xua quân tràn vào. Tên Tốt-trưởng thấy quân sĩ mặc khác với quân Thục có hơi ngạc nhiên. Nhưng y nghĩ rằng có lẽ Cấm quân khác với quân thường. Quân của Triệu Anh Vũ vào thành chia nhau trấn giữ các cửa.

Triệu Anh Vũ cùng một số võ sĩ tới phủ Thái-thú. Quân giữ phủ loan báo cho Tôn Minh. Tôn Minh giật mình, mặc quần áo ra công đường. Triệu Anh Vũ truyền trói lại. Tôn Minh làm Thái-thú Giang-an đã lâu, y lớn tuổi, nhiều kinh lịch, hỏi lại:

– Không biết Đại tướng quân giữ chức gì? Tới đây sao không loan báo cho tiểu nhân đón tiếp? Tiểu nhân phạm tội gì mà bị trói thế này?

Triệu Anh Vũ cười:

– Ta là Chinh-di Đại tướng quân nhà Hán, Triệu Anh Vũ. Ta đem quân vượt Kim-sơn phạt Thục. Thành đã bị ta chiếm.

Đồn trưởng Trường-đình Hoàng Thông nghe Triệu Anh Vũ nói thì ngớ người ra. Bấy giờ y mới biết mình bị lừa. Tôn Minh nói:

– Tôi nguyên là Thái-thú của triều Hán. Khi Vương Mãng phản nghịch tôi thế cô không đủ lực chống, phải đầu hàng. Công-tôn Thuật chiếm đánh châu quận, tôi nhắm mắt đưa chân theo y. Nay đại quân Hán đã đến. Tiểu nhân xin nguyện đầu thú, lập công chuộc tội.

Triệu Anh Vũ hỏi:

– Binh lương ở đây được bao nhiêu?

Tôn Minh đáp:

– Tất cả lương thảo tiếp tế cho Bá-dương trấn, Nam-khê, Long-xương đều chứa ở đây. Lương thực có thể nuôi 5 vạn quân trong ba năm. Lừa ngựa hơn hai vạn. Thủy quân có 210 chiến thuyền ở Giang-an, với một Lữ. Nhưng tiểu nhân được tin Bắc-bình vương. Tả tướng quân Công-tôn Khôi hiện có mặt ở Long-xương. Khôi là em ruột Thục đế. Không biết y tới Long-xương làm gì.

Triệu Anh Vũ nói:

– Ngươi lấy binh phù, cho ngựa chạy đến Nam-khê gọi Lữ trưởng thủy quân, dẫn quân đến đây gấp. Nói rằng có lệnh của Tả tướng quân Công-tôn Khôi trưng tập. Lữ trưởng thủy quân tên là gì?

– Y tên là Thanh Châu, tuổi khoảng 30, tính rất quật cường, là chân tay thân tín của Thứ-sử Long-xương. Tôi chắc y không chịu đầu hàng.

Tôn Minh lấy binh phù cho người thân tín đi Nam-khê, sáng hôm sau khoảng giờ Tỵ thì quân báo rằng chiến thuyền từ Nam-khê đã tới, neo ở cảng Giang-an. Triệu Anh Vũ cho người ra cảng đón Lữ trưởng, Lữ phó thủy quân nhập thành. Y vừa vào tới sảnh đường thì bị võ sĩ bắt lại. Triệu Anh Vũ hỏi:

– Nếu chịu đầu hàng, thì vẫn giữ nguyên phẩm trật cũ. Còn không ta chém đầu tức khắc.

Lữ trưởng Thanh Châu tỏ ý quật cường:

– Ta bị Thái-thú đánh lừa mà bị bắt, ta không phục, ta không đầu hàng, ngươi muốn giết thì cứ giết.

Triệu Anh Vũ dầu sao cũng là người hiệp sĩ giang hồ, mà đạo lý giang hồ Lĩnh-Nam, vốn trọng nghĩa khí. Ông thấy Thanh Châu khẳng khái, coi cái chết như không, thì có cảm tình nói:

– Người đất Thục quả nhiên nhiều nghĩa khí. Theo ý ngươi phải thế nào ngươi mới phục?

Thanh Châu nói:

– Nếu người dùng võ công thắng được ta, thì ta đầu hàng người.

Triệu Anh Vũ càng thấy cảm tình:

– Đấu võ có nhiều thứ, ngươi muốn đấu kiếm, đấu quyền hay đấu khinh công?

Thanh Châu đáp:

– Ta nghe nói đứa trẻ con ở Lĩnh Nam cũng biết võ, ngươi từ Lĩnh Nam lên đây, chắc võ công phải cao. Ngươi là người Việt thì giỏi kiếm, vậy ta không đấu kiếm với ngươi. Ta theo thủy quân, mà thủy quân phải leo dây giỏi. Vậy ta muốn đấu leo dây, bây giờ hãy dùng sợi dây treo lên 1 cành cây thực cao, rồi ngươi với ta thi, nếu ai leo được nhiều lần thì người ấy thắng.

Triệu Anh Vũ võ công cực cao, nhưng người ông to béo, bắt ông leo dây kiểu đó giỏi lắm ông leo được 40 trượng là cùng. Ông nhìn Thanh Châu, thấy người y gầy, chân tay cứng cáp, ông phân vân, chưa biết tính sao.

Trấn-tây tướng quân Bạch Hầu nói:

–Này Thanh Châu tướng quân! Tướng quân có biết chúng tôi tới đây bằng đường nào không? Thưa vượt núi Kim-sơn đấy. Đất Lĩnh Nam nổi tiếng về võ học, mà sư bá tôi được chỉ định vượt Kim Sơn, ắt người phải leo núi giỏi. Người là chúa tướng mà lại đi đấu với tướng quân, thì mang tiếng ỷ lớn hiếp nhỏ. Người Lĩnh Nam không bao giờ làm. Vậy tướng quân với tôi thi. Nếu tôi thắng thì tướng quân đầu hàng, chúng mình là anh em một nhà. Còn tướng quân thắng, thì sư bá sẽ thả tướng quân về. Tướng quân nghĩ sao?

Thanh Châu nhìn Bạch Hầu, thấy đó là một thằng bé mặt mũi khôi ngô, nhưng vừa qua hai tháng vượt núi, da mặt cháy nám. Hai con mắt chiếu ánh sáng long lanh, chứng tỏ là một đứa trẻ thông minh. Y đáp:

– Được, tôi với chú em thi leo dây.

Triệu Anh Vũ biết Tây-vu lục hầu là những chúa tướng loài khỉ, đừng nói leo dây một lúc, mà leo dây mấy ngày chúng cũng làm được. Ông đồng ý:

– Thôi, sư bá để cháu đấu với Thanh tướng quân.

Các tướng sĩ đều theo Thanh Châu và Bạch hầu ra trước sân, giữa sân có một cây gạo cao chót vót. Bạch Hầu lấy một sợi dây lớn, rồi hú lên mấy tiếng thảnh thót. Lập tức một 1 con vượn trắng to lớn, từ xa vừa hú vừa đến trước mặt nó, cúi đầu kính cẩn hành lễ, Bạch Hầu chí chóe với con vượn trắng mấy câu. Con vượn lấy dây cột vào lưng, thoăn thoắt leo lên cành cây cao chót vót. Nó cầm dây cột vào đầu cành thả xuống, Bạch hầu nói:

– Từ trên cành kia xuống đến đây là 15 trượng, chúng ta leo dây thi xem ai leo được nhiều hay leo nhanh?

Thanh Châu đáp:

– Tôi muốn thi xem ai leo được nhiều.

Bạch Hầu nói:

– Tướng quân là khách, tôi là chủ. Tướng quân leo trước đi.

Thanh Châu lại nắm lấy dây rồi thoăn thoắt leo lên, chốc lát đã tới cành cây. Y vỗ tay vào cành rồi tụt xuống, sắp chạm đất rồi leo lần thứ nhì.

Triệu Anh Vũ khâm phục:

– Nếu mình thi với hắn chắc là thua, không biết Bạch hầu có địch lại hắn không?

Thanh Châu leo được hai lần rưỡi, ngưng lại tuột xuống nói:

– Bây giờ tới chú em, chú leo đi.

Y tin rằng Bạch hầu không thể nào bằng. Bạch hầu khọt khẹt mấy tiếng, rồi bám lấy dây leo thoăn thoắt. Tới ngọn cây, nó lộn ngược đầu xuống đất, rồi thoăn thoắt tụt xuống. Cứ như thế nó leo lần thứ nhì, lần thứ ba. Thanh Châu kinh hồn, thì nó leo lần thứ tư, lần thứ năm. Tới lần thứ năm nó nói:

– Thanh Châu đại ca, tôi có thể leo cả ngày, nhưng đói quá rồi, nghỉ vậy.

Nó tụt xuống đất, vỗ vai Thanh Châu nói:

– Bây giờ đại ca là người nhà rồi, chúng ta lập môn phái, gọi là phái Hầu công hay khỉ đột công đi

Thanh Châu thấy thái độ mọi người vui tươi, không hống hách, ác ý. Y sụp xuống đất lạy Triệu Vũ Anh:

– Tiểu nhân xin tâm phục, khẩu phục đầu hàng, mong đại tướng quân thâu nhận cho.

Triệu Anh Vũ đỡ y dậy nói:

– Ta được Thanh Châu là được thêm một sư điệt nữa, cháu cứ gọi ta là sư bá như Tây-vu lục hầu. Người Lĩnh Nam chúng ta vốn nhiều tình cảm, dù trong quân ngũ, cũng coi nhau như ruột thịt. Về việc nước cháu vẫn suất lĩnh thủ quân cho ta.

Đinh Công Thắng bàn với Triệu Anh Vũ:

– Chúng ta đã chiếm được Nam-khê, thì nên tiến đánh Long-xương hay không? Theo Thanh Châu nói, hiện Công-tôn Khôi ở Long-xương, nếu chúng ta tiến quân, y sẽ điều động toàn bộ nhân mã Đông-nam đánh chúng ta.

Đinh Công Thắng là người cẩn thận, ông nói:

– Mục đích của đạo quân Đào Kỳ và mục đích của chúng ta là làm náo loạn phía nam Ích-châu, chia bớt lực lượng của giặc, cho hai đạo Kinh-châu và Hán-trung. Vậy chúng ta chỉ cần lọt vào đây là đủ, còn đánh thì quân ta bất quá, được một vạn người, không đủ chiếm bất cứ một thành nào khác nữa. Chúng ta hãy đợi liên lạc được với đạo Kinh-âu hoặc Độ Khẩu rồi sẽ tính.

Đinh Công Thắng đề nghị Triệu Anh Vũ đóng ở Nam-khê, còn ông đóng ở Giang-an làm thế ỷ dốc. Tây-vu lục hầu, dẫn Thần-hầu, lên núi Kim-sơn để bảo vệ mặt sau Giang-an.

Triệu Anh Vũ khẳng khái lên đường đến Nam-khê, tìm cách liên lạc với Đào Kỳ. Ông ủy lạo dân chúng địa phương, truyền bỏ tất cả những thứ thuế do Công-tôn Thuật đặt ra, ông đặt một tiệc lớn mời các tướng sĩ để mừng chiến thắng.

Tiệc tan, ông về dinh, chưa kịp ngủ thì có tiếng kêu thích khách. Ông vội đeo kiếm nhảy ra ngoài, thì thấy một người lùn, bịt mặt, đang tấn công Thanh Châu. Y chỉ đánh 2 hai chưởng, Thanh Châu phun máu miệng. Quân sĩ bao vây thích khách, chật cứng như nêm. Ông nhảy nhót mấy cái tới nơi. Người lùn vung chưởng tấn công ông, ông nhận ra đối thủ, dùng một thứ chưởng dương cương, nội công chính đại quang minh. Ông thấy hơi quen, nhưng chưa nhận ra, ông vận hết sức đánh lại một chưởng, ông cùng người lùn giao đấu dưới ánh đuốc. Bên cạnh người lùn còn một phụ nữ, cũng bịt mặt, chống kiếm đứng lược trận. Hai bên đấu trên trăm chiêu, ông nhận thấy muốn thắng đối phương thực khó. Những người có võ công như vậy, trên giang hồ rất hiếm, ông nhảy lui lại nói:

– Tôn giá là ai? Coi thân thủ vào hạng hiếm có trên giang hồ. Xin cho biết danh tánh được không?

Người lùn không nói gì, hú lên một tiếng, cùng người đàn bà nhảy lên nóc nhà định chạy. Nhưng khi y còn lơ lửng trên không, thì bị mấy người đứng trên nóc nhà bao vây, một người vung chưởng đánh người lùn, một người đánh người đàn bà. Tuy bị bất ngờ, cả hai vận sức đỡ. Bùng một tiếng, cả hai bật trở xuống đất. Bóng người trên mái nhà nhảy xuống, hai người tấn công hai thích khách, bằng những chiêu cực kỳ dũng mãnh. Bấy giờ, Triệu Anh Vũ mới nhận ra, đám mới tới gồm bốn người, một nam một nữ trẻ, đứng ngoài lược trận. Còn hai người đánh thích khách, thì người nữ rất đẹp, dáng điệu uy nghi, người nam tuổi khoảng 50.

Triệu Anh Vũ thấy bốn người võ công đều ngang với ông, ông phục tài hô lớn:

– Ngừng tay!

Bốn người nhảy lui lại. Ông nhận ra người nữ mới tới giúp ông là Trưng Trắc, còn ba người kia ông không nhận ra. Trưng Trắc chỉ mặt hai thích khách:

– Phong-châu song quái, sư đệ, sư muội, lâu nay vẫn mạnh khỏe chứ?

Hai người bịt mặt mới mở khăn ra. Trưng Trắc giới thiệu với Triệu Anh Vũ:

– Đây là Vũ Hỷ và Vũ Phương Anh, cả hai đều là người phái Tản Viên nhà tôi, nhưng việc làm của họ thì ác độc nhất Lĩnh Nam.

Nàng chỉ ba người cùng đi, rồi giới thiệu:

– Đây là Đinh-hầu ở Cửu-chân, một trong Cửu-chân song kiệt. Còn đây là Quách Lãng, đệ tử của Đinh-hầu, và đây là Đinh Bạch Nương, ái nữ của Đinh-hầu.

Triệu Anh Vũ từng nghe danh Phong Châu song quái, với Cửu-chân song kiệt, ông chấp tay nói:

– Hân hạnh.

Ông hỏi Vũ Hỷ:

–Chẳng hay Vũ tiên sinh và phu nhân, giá lâm thành Nam Khê này có điều gì dạy bảo?

Vũ Hỷ cười:

– Chả có gì cả!

Rồi y vung tay đánh ba chưởng, cùng vợ vọt lên mái nhà, chạy vào đêm tối mất hút. Trưng Trắc nói với Triệu Anh Vũ:

– Chúng tôi từ Lĩnh Nam đến đây trợ chiến với sư bá. Khi đến Giang-an thì gặp vợ chồng Song-quái, chúng tôi theo bén gót, dò la động tĩnh.

Triệu Anh Vũ mời Đinh Đại, Trưng Trắc vào sảnh đường. Đinh Đại nói:

– Chúng tôi được tin Lê Đạo Sinh cùng Song Quái, Hoàng Đức, Đức Hiệp sang Trung nguyên, phải báo cho quí vị biết, không ngờ gặp chúng ở đây

Trưng Trắc hỏi tình hình trận chiến, Triệu Vũ Anh tường trình chi tiết. Ông muốn nhờ Trưng Trắc, Đinh Đại, liên lạc với Đào Kỳ dùm, Trưng Trắc nhận lời. Ông lấy hai thuyền buôn của dân rất lớn, cho thủy thủ giả làm thường dân, đưa Trưng Trắc, Đinh Đại đi Mỹ-cơ. Giữa đường gặp một dân thuyền chở Song Quái và Công-tôn Khôi, hai bên thấy nhau là lăn vào giao chiến. Trưng Trắc chỉ biết song quái, không biết Công-tôn Khôi, nên không đề phòng thủy quân Thục. Có ngờ đâu Công-tôn Khôi tuy đi dân thuyền, nhưng vẫn có chiến thuyền đi xa xa để hộ vệ.

Trưng Trắc thuật xong nàng hỏi Vương Nguyên:

– Vương đại hiệp, tôi bắt sư huynh Công-tôn Khôi cho đại hiệp. Vậy phải điều kiện nào, người mới tha tội cho sư huynh?

Vương Nguyên bị tan nhà nát cửa, vì sư huynh Công-tôn Khôi. Bây giờ thấy cha con y bị trói, quần áo ướt lạnh run lập cập, bao nhiêu kỷ niệm cũ những ngày còn ở Thiên-sơn theo học với sư phụ hiện ra. Ông ngẫm nghĩ 1 lúc rồi nói

– Xin hãy cứ giam y lại, tôi suy nghĩ ít ngày đã.

Trưng Trắc sai một chiến thuyền, trở về Nam-khê báo tình hình mặt trận Độ-khẩu cho Đinh Công Thắng, Triệu Anh Vũ biết. Còn nàng cùng Trần Quốc, Vương Phúc trở lại Việt-tây.

Nam-hải nữ hiệp, Đào Kỳ nghe tin Trưng Trắc, Đinh Đại đến thì mừng lắm, ra đón vào thành. Trà nước yên vị xong, Đào Kỳ hỏi Đinh Đại:

– Thưa cậu, bố mẹ cháu, chú thím, mợ và các em vẫn mạnh khỏe chứ?

Đinh Đại móc túi đưa ra bức thư nói:

– Vì Lĩnh Nam có biến cố mới, Lê Đạo Sinh cứu Song Quái, dẫn đệ tử sang Trung Nguyên không biết có múu đồ gì. Quần hùng yêu cầu tỷ phu với Trưng Trắc, là người chủ tọa cuộc họp ở Tây-hồ, lên đường sang Trung-nguyên quan sát tình hình, đưa ra đường lối hành động. Ngặt vì tỷ phu bị cảm nặng, ủy cho ta đi. Đây tỷ phu viết cho cháu.

Đào Kỳ ngồi ngay ngắn, sửa y phục đàng hoàng, lấy khăn lau tay sạch sẽ, rồi mới dám bóc thư ra đọc:

Đào Hầu, Chưởng Môn phái Cửu Chân, thư cho con út là Đào Kỳ.

Mọi việc ở Lĩnh Nam vẫn tốt đẹp. Tô Định, Lê Đạo Sinh chưa có hành động gì khả dĩ đáng lo ngại. Ta cùng mẹ con với cậu đã hợp được 9 nhà ở đất Cửu Chân làm một. Thái-thú Tiết Bảo, đại sư ca Trần Dương Đức, đại ca Nghi Sơn đều đồng tâm nhất trí. Ba mà là một, một mà là ba. Phu nhân của cố trang chủ Thiên-bản Mai Tiến, cùng bốn con đang cai quản năm trang ấp. Ngặt một điều, các huyện lệnh và quan lại, người Hán vẫn còn vọng tưởng như hồi Nhâm Diên.

Tuần trước các Lạc-hầu, Lạc-tướng, Động-chủ, Trang-chủ họp ở Ngọc-đường, bầu ta làm thống lĩnh vùng Cửu-chân, ta cử con làm phó, Trưng Trắc với ta là người đồng chủ toạ cuộc hội trên Tây-hồ, quyết định đường lối phục hồi Lĩnh Nam. Bây giờ hoàn cảnh đã đổi khác, sắp có sự thay đổi lớn lao.

Lời giáo huấn này con phải ghi nhớ trong lòng.

Đào Thế Kiệt cẩn bút.

Đào Kỳ đưa thư cho Hoàng Thiều Hoa nói:

– Bố em dặn sư tỷ ít điều, sư tỷ đọc đi.

Hoàng Thiều Hoa sửa lại quần áo, ngồi nghiêm chỉnh, cầm thư đọc.

Nàng đọc xong, hướng vào Trưng Trắc nói:

– Trưng sư tỷ! Trong thư sư phụ em dặn nhất nhất phải tuân theo lệnh sư tỷ, vậy sư tỷ có gì dậy, em và tiểu sư đệ sẵn sàng tuân theo như tuân theo sư phụ

Trưng Trắc ngồi nghiêm chỉnh, nói với Thiều Hoa:

– Kể về võ công, nhân số thì phái Tản-viên của ta gấp mười phái Cửu-chân. Song người phái Cửu-chân võ công không cao, người không nhiều, dù bao nhiêu người vẫn là một, vì vậy thế lực hùng hậu. Ta được Đào-hầu ủy nhiệm việc lớn, phải cố gắng làm. Nội trong mấy ngày nữa, ta sẽ nói phải làm những gì cho sư muội với tiểu đệ biết.

Giao Long Nữ ngắt lời:

– Trưng sư tỷ! Em muốn thưa một điều.

Trưng Trắc gật đầu:

– Sư muội cứ nói! Sư muội là Đô-đốc thủy quân, lời của sư muội chắc cũng không tầm thường.

Giao Long Nữ tiếp:

– Bàn về tuổi, thì Đào đại ca đã hai mươi ba, bàn về địa vị thì là Chinh viễn đại tướng quân, cầm 30 vạn nhân mã trong tay. Bàn về võ công, còn muốn hơn Khất đại-phu. Bàn về cơ thể, thì to lớn hơn Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân. Thế mà sư tỷ cứ gọi là tiểu sư đệ, nghe không thuận tí nào cả.

Trưng Trắc gật đầu:

– Đa tạ sư muội nhắc nhở. Ta biết lỗi, vì quen miệng.

Trưng Trắc móc trong túi ra một bức thư, nàng vẫy Đào Hiển Hiệu:

– Có một người con gái sắc đẹp như người trong tranh, gửi thư cho sư đệ. Nếu sư đệ đoán đúng thì trao thư cho.

Đào Hiển Hiệu đỏ mặt, chàng sẽ đáp:

– Chắc là Đinh Hồng Thanh.

Trưng Trắc lắc đầu:

– Sai rồi sư đệ ơi, ta thông cảm với đệ, ngươi với Hồng Thanh là chỗ sư huynh sư đệ đồng môn, là bạn thanh mai trúc nhã, vì sự nghiệp Lĩnh Nam phải xa nhau cũng tội. Vì vậy lúc nào ngươi cũng nghĩ đến Hồng Thanh. Song người gửi thư cho Đào sư đệ là Đào Phương Dung.

Đào Hiển Hiệu, bẽn lẽn cầm lấy bao thư xé ra, bên trong có đến ba bức thư khác nhau. Chàng lui lại một góc, lần lượt mở ra đọc, đọc xong chàng gấp lại bỏ vào túi.

Giao Long Nữ hỏi:

– Đào đại ca, có tin gì lạ không?

Đào Hiển Hiệu đáp:

– Cũng bình thường thôi.

Giao Long Nữ cười:

– Trong bao có ba bức thư, một bức của bá phụ, một bức của chị Đào Phương Dung, một bức của chị Hồng Thanh.

Hiển Hiệu hỏi:

– Sư muội có mắt thần hay sao mà biết rõ như thế?

Giao Lưng Nữ nheo mắt làm xấu:

– Có gì mà đoán không ra, bức thư thứ nhất của chị Đào Phương Dung, viết cho đại ca. Trong thư anh em với nhau, chắc có lời đùa vui, vì đại ca vừa đọc vừa cười tủm tỉm. Bức thư thứ nhì của chị Hồng Thanh, vì nét mắt đại ca, khi thì hiện ra bẽn lẽn, khi thì hiện ra vẻ tươi hồng, nhu mì, khi thì hiện ra vẻ ngơ ngác, nhớ nhung. Trên đời này làm gì có người thứ nhì, viết thư khiến cho đại ca, hiện ra nhiều vẻ đặc biệt như vậy, ngoại trừ chị Hồng Thanh? Còn bức thư thứ ba là của lão bá, cho nên đại ca mở ra, không dám đọc ngay. Đại ca ngừng lại sửa y phục nghiêm chỉnh, đứng thẳng người rồi cung cung kính kính đọc. Đúng không? Đại ca chịu chưa?

Đào Hiển Hiệu cười:

– Sư muội lợi hại thực, liếc mắt một cái mà biết được hết sự thực.

Đào Kỳ tổ chức buổi họp, xem phải làm những gì. Vương Phúc nói:

– Bây giờ chúng ta cử các tướng đi an dân tại những vùng mới chiếm được. Tổ chức lại hệ thống cai trị cho có bộ mặt mới. Tôi đề nghị cứ một tướng Lĩnh Nam được một hàng tướng Thục dẫn đường, đi đến các vùng chung quanh an dân, vỗ về họ. Nhất thiết các Huyện lệnh, Huyện úy đều giữ nguyên, để họ an lòng.Về lương bỗng của nhà Hán cao hơn nhà Thục, vì vậy cũng nhắc các nơi trả lương cho tướng sĩ theo thể chế nhà Hán. Những người trước nay vì trung thành với Hán mà bị Công-tôn Thuật giết, phải truy tìm con cháu, ban tiền tử tuất, tìm xác chôn cất và truy phong cho họ lên hai cấp so với cấp lúc bị giết. Những tên Huyện lệnh, Huyện úy ác đức, phải giết cho dân chúng hả lòng. Đất đai của chúng cùng tài sản thì sung công hoặc ban cho những gia đình tuẫn quốc. Thuế khóa của Thục thì nhẹ hơn Hán, xin giữ nguyên chế độ thuế khóa, đừng thu theo Hán… công việc này cần những người uy tín, có toàn quyền. Xin đại ca định liệu. Tôi thì xin đại ca cho đi liên lạc với Ngô Hán, và cầm đầu một đội Tế-tác nhập Thành-đô, bắt Công-tôn Thuật. Vì Thuật là người khôn ngoan vô cùng, lúc đại quân tiến vào, y có thể trốn mất, không biết đâu mà tìm.

Đào Kỳ nói :

– Vương đệ ! Tôi biết Vương đệ nóng lòng về Thành-đô giết Công-tôn Thuật báo thù, và cũng để tìm cách cứu nhũ mẫu ra khỏi cung. Vì hiền đệ sợ quân Hán đến, trong loạn quân, nhũ mẫu khó bảo toàn phải không ?

Vương Phúc gật đầu.

Đào Kỳ nói tiếp :

– Chúng ta có nhiều vấn đề phải làm ngay. Thứ nhất đi các nơi an dân. Việc này cần có người minh mẫn, đạo cao đức trọng, vậy thì không có ai bằng đại sư bá Nam-hải. Xin đại sư bá cùng với Vương nhị lang, an dân từ Độ-khẩu tới Việt-tây. Còn từ Việt-tây đến Cửu-long, Nhã-giang xin Hoàng sư tỷ đi với Vương tam lang. Còn từ đây đến Giang-an, sư bá Triệu Anh Vũ sẽ đi cùng với Vương sư bá và Sa Giang. Thứ nhì là liên lạc với hai đạo quân kia. Từ đây đi Kinh-châu bằng đường thủy dễ dàng nhất. Chúng ta bắt Công-tôn Khôi, chiếm được Giang-an thì đạo Kinh-châu chỉ việc thẳng đường tới Thành-đô. Nhưng đường Kinh-châu vào Thành Đô phải qua ngã Trường Giang. Vậy tôi nhờ chính Vương hiền đệ dẫn Trần sư muội, Giao Chi sư tỷ và năm sư huynh Nhân, Nghiã, Lễ, Trí, Tín đem theo các sư huynh, đệ trong đội Giao Long binh giúp sư tỷ Trưng Nhị tiến quân mau hơn.

Vương Phúc hỏi :

– Bọn tiểu đệ tám người đi Kinh-châu, thì đại ca… không còn người trợ giúp. Có nguy hiểm lắm không ?

Đào Kỳ thấy nhiều lần Vương Phúc luôn lo lắng cho mình, dự liệu việc đều tỷ mỷ, cẩn thận, chàng cảm động nói :

– Hiền đệ đừng lo! Ta nói cho hiền đệ biết ta có thêm bốn vị khách mới tới, các vị cũng có thể là tướng giúp ta, việc đánh Thành-đô ta nắm trong tay. Còn việc bắt Công-tôn Thuật ta không có mưu kế. Binh pháp nói rằng biết mình biết người trăm đánh trăm thắng. Ta tự biết ta võ công cao, dùng binh tạm được còn mưu kế tuyệt vời thì phải nhờ đến sư tỷ Trưng Nhị, Vĩnh Hoa. Biết Công Tôn Thuật là hiền đệ, biết mình là Vĩnh Hoa. Vị sư tỷ ấy muốn bắt y, chẳng khác gì chúng ta móc tay vào túi lấy món đồ. Vậy sau khi hiền đệ giúp Trung Nhị đánh đến Long-xương, Đồng-nam, thì xin phép sang đạo Hán-trung cùng Phùng sư tỷ thiết kế bắt Công-tôn Thuật.

Trưng Trắc phất tay hỏi :

– Khoan ! Xin qúi vị khoan lên đường đã !

Nàng hỏi Đào Kỳ :

– Đào sư đệ ! Chúng ta sẽ còn phải tiến quân vào sâu đất địch nhiều ! Sư đệ hứa rằng những binh sĩ đầu hàng, ai muốn ở lại thì cho ở lại, điều đó đã thực hiện rồi. Còn những ai muốn về quê làm ăn thì cho họ về. Điều này chưa thực hiện. Hhiện có khoảng hơn vạn binh lính Thục bị bắt, hiền đệ nên cho họ về quê làm ăn, để họ được gần gia đình.

Đào Kỳ chắp tay hướng Trưng Trắc hành lễ :

– Người ta nói Tản-viên song phượng thì Trung Trắc nhân từ, Trung Nhị mưu trí tuyệt vời quả đúng. Đa tạ sư tỷ dạy dỗ.

Chàng ra lệnh chu cấp lương tiền, quần áo cho những tù binh Thục, đưa về quê quán làm ăn. Chàng còn cấp cho mỗi người một giấy, chỉ thị cho Huyện lệnh, Huyện úy không được truy cứu tội lỗi cũ của họ. Hơn vạn binh Thục mừng đến chảy nước mắt, lên đường về quê, lòng hân hoan biết ơn Đào Kỳ.

Trần Quốc hỏi :

– Trước khi đánh Việt-tây, đại ca hứa với Thái-thú Mỹ-cơ Trần Nhiên rằng nếu y thực tâm đầu hàng, sẽ cho giữ chức Thái-thú như cũ. Còn như y giúp đại ca lấy được Việt-tây, đại ca sẽ cho y làm Thú-sử Việt-tây. Nhưng y trá hàng, còn bày mưu làm kế không thành cho Phan Hào, khiến chúng thiệt hơn vạn binh, dù chúng ta thắng trận. Bây giờ đại ca xử trí với y như thế nào ?

Đinh Đại là sư thúc, lại là cậu Đào Kỳ, ông biết cháu mình nhiều tình cảm, khó có thể giết người, nên ông xen vào :

– Cháu Kỳ, lòng nhân không thể lúc nào cũng áp dụng được, cháu phải chém đầu y làm hiệu lịnh mới hả lòng quân.

Vương Nguyên đứng dậy chắp tay xá Đinh Đại :

– Đinh-hầu, tôi nghĩ chúng ta không nên giết y làm gì. Cái thứ tồi tệ đến độ dâng vợ cho giặc kiếm chút công danh, giết chi cho bẩn gươm. Tôi xin hiến một kế, mượn tay Công-tôn Thuật giết y. Bây giờ Đào nguyên soái cứ giả vờ không truy cứu tội, thả lỏng y trong thành. Khi đi thăm dân, mang y đi theo. Ít lâu sau tất y trốn về Thành-đô. Công-tôn Thuật là đứa đa nghi, sẽ giết anh em y.

Đào Kỳ cảm tạ Vương Nguyên, nghĩ trong lòng :

– Ông này, văn thì đỗ Hiếu-liêm, làm quan nhà Hán, đàn giỏi, tiêu hay, võ công không thua ta mà mưu trí sâu xa không kém gì Vĩnh Hoa. Chỉ tiếc rằng ông đào hoa quá, có nhiều vợ đẹp mà thành ra tan nhà nát cửa. Cũng may ông ta có ba con trai, một gái đều thông minh, văn võ song toàn.

Cha con Vương Nguyên gặp Nam-hải nữ hiệp, như người quen nhau từ lúc nào. Họ luôn luôn bên cạnh nhau, bàn âm nhạc, hoà nhạc với nhau. Trưng Trắc thấy vậy nói :

– Đào sư đệ, ngươi hãy nhờ Nam-hải sư bá cùng với Vương tiên sinh, Sa Giang tổ chức những cuộc trình diễn âm nhạc cho tướng sĩ nghe, để họ giải trí, được chăng?

Sa Giang vui vẻ đáp:

– Sư tỷ dạy đúng đấy, em nghĩ nên làm như thế. Cứ mỗi ngày chúng ta trình diễn cho một Lữ coi. Có điều phải dùng những điệu nhạc dân gian hùng tráng, để quân sĩ không nhớ nhà.

Hôm ấy ngày 15 tháng Chạp, Đào Kỳ ngồi trong trướng bàn việc tiến quân vào Thành-đô, thì quân canh báo:

– Có sứ giả của Lĩnh-nam vương tới.

Đào Kỳ vội vàng tiếp, sứ giả là một viên võ quan, đi cùng với Quỳnh Hoa. Quỳnh Hoa thấy Đào Kỳ, chạy lại nắm tay chàng:

– Đào đại ca! Đại ca mạnh khỏe chứ? Đại ca giỏi quá, đánh đến đây rồi à?

Mỗi lần Đào Kỳ gặp cô em gái này, lòng chàng lại rộn lên niềm vui ấm áp. Chàng nắm tay Quỳnh Hoa:

– Mạnh khỏe thì vẫn mạnh khỏe, nhưng không có ổi có mận mà ăn, nhất là không có hoa Quỳnh, hoa Quế mà ngắm.

Quỳnh Hoa móc trong bọc ra một phong thư đưa cho Đào Kỳ:

– Đây là thư của Nghiêm đại ca.

Đào Kỳ móc ra đọc, được biết Nghiêm Sơn đã cho một đạo quân nữa từ Tử-dương tiến chiếm Vạn-nguyên, Thành-khẩu, Thông-giang, Ba-trung, nối liền hai đạo Kinh-châu với Hán-trung. Nghiêm Sơn muốn chàng tiến đánh Hán-nguyên, Đông-sơn, Mi-sơn và Thành-đô.

Đợi Đào Kỳ đọc thơ Nghiêm Sơn xong, Quỳnh Hoa móc trong túi ra một cái hộp rất đẹp để lên bàn:

– Còn hộp này, đố đại ca biết trong đựng gì?

Đào Kỳ ngắm nghía, suy nghĩ, song chàng đoán không ra, lắc đầu:

– Sư muội, anh đoán không ra.

Quỳnh Hoa mở lớp lụa bọc ngoài, bên trong là cái hộp sơn son thiếp vàng, trên vẽ một cây đào đầy trái. Tim chàng đập mạnh, vì nhận ra là nét vẽ của Phương Dung. Chàng cầm lấy trịnh trọng mở nắp hộp, bất giác ngẩn người ra, đỏ mặt lên. Vì bên trong có chiếc khăn quàng cổ của Phương Dung mầu xanh lợt. Chiếc khăn này nàng choàng trong ngày cưới ở đảo. Cạnh chiếc khăn là một cái áo gối thêu rất công phu: Đóa hoa đào bên cạnh hai con chim uyên ương.

Trong còn có bức thư, chàng không kiên nhẫn chờ đợi, mở ra đọc liền. Thì không phải thư mà là một tập nhật ký, Phương Dung ghi từng ngày một, những nỗi niềm nhớ nhung của nàng. Thấy chung quanh đông người, không tiện đọc, chàng cất đi.

Quỳnh Hoa đưa cho Hoàng Thiều Hoa một hộp lớn hơn. Thiều Hoa mở lớp lụa bên ngoài ra, bên trong là một hộp gấm. Nàng mở hộp, trong có nhiều thứ. Vật đầu tiên đập vào mắt là bông cúc bằng vàng, chạm trổ tinh vi. Cành và lá bằng ngọc bích xanh lóng lánh.

Thiều Hoa ngắm nghía một lúc rồi đeo vào tóc.

Vương Nguyên là người lãng mạn, thích âm nhạc, ông trọng phụ nữ có sắc đẹp. Tư hôm gặp Hoàng Thiều Hoa, sắc đẹp ôn nhu, văn nhã, như có một cái gì bí hiểm thu hút người nhìn. Lòng ông lại hồi tưởng đến hai người vợ quốc sắc thiên hương, đến nỗi Công-tôn Khôi, sư huynh của ông hại ông để chiếm. Đem so sánh vợ với Hoàng Thiều Hoa, thì sắc đẹp của vợ ví như hông hoa Lan hoa Huệ. Thanh tao có thanh tao, ông tìm ra một nét mà chỉ Thiều-Hoa mới có, là phong tư rạng trỡ, hồng hào tươi mát của người tập võ.

Ông là người trọng sắc đẹp, thấy sắc đẹp như thấy bông hoa tươi thắm. Ngắm nhìn chỉ để ngắm nhìn, lưng dạ vẫn giữ đạo chính nhân quân tử. Ông nổi tiếng là tiêu thần, vì vậy ông cầm ống tiêu thổi một bài ca tụng sắc đẹp của Thiều Hoa. Tiếng tiêu nhu hòa, như mây trôi phiêu lãng, róc rách như suối chảy, có khi thoang thoảng như tiên nga nhảy múa trên đồi đầy hoa.

Khúc tiêu dứt, mọi người đều ngơ ngẩn xuất thần, như mơ màng ở thế giới thần tiên.

Thời bấy giờ, luân lý Khổng, Mạnh rất khắt khe. Việc Vương Nguyên vừa thổi tiêu vừa ngắm nhìn Thiều Hoa là điều vô lễ không tha thứ được. Song Thiều Hoa được giáo huấn cách nhận xét, cách biết người. Gặp Vương Nguyên, nàng xếp ông vào loại dị nhân, võ công cực cao, có tài vương bá như Nghiêm Sơn, con mắt của ông chiếu ra nét đa tình hiếm thấy. Người đa tình thường là người đa tài, không phải kẻ tham dâm hiếu sắc.

Hoàng Thiều Hoa biết ông sáng tác bản tiêu, ca tụng sắc đẹp của mình. Nàng đứng lên:

– Đa tạ tiên sinh quá khen tặng.

Nàng mở lớp giấy ở đáy hộp lên thấy bốn bộ quần áo lụa bốn màu: Xanh lá cây, vàng cánh kiến, hồng tươi và trắng. Trên mỗi bộ quần áo thêu rất công phu. Nàng lật xuống dưới còn bốn cái khăn, bốn cái dây lưng và một bức thư.

Quỳnh Hoa xòe tay:

– Lĩnh-nam vương gửi quà cho Vương-phi, rồi Chinh-tây quân sư gửi quà cho phu quân, thế mà chả ai thưởng cho con bé mang thư cái gì cả.

Thiều Hoa tát yêu vào má Quỳnh Hoa, rồi lấy trong bọc ra một chuỗi ngọc trai dài, quấn vào cổ Quỳnh Hoa đến ba vòng mới hết, nói:

– Không cần sư muội mang quà cho ta, ta cũng thưởng cho sư muội.

Nam-hải nữ hiệp nghĩ thầm:

– Đúng ra với tuổi của Thiều Hoa, Phương Dung lúc nào cũng bên cạnh chồng, sớm tối có nhau. Vì quốc sự, họ phải xa nhau, thực cũng tội.

Đào Kỳ hỏi thăm Quỳnh Hoa về trận đánh Hán-trung. Chàng biết đây là mặt trận lớn nhất, người điều khiển mặt trận này là con trưởng Công-tôn Thuật, với 20 vạn quân, mấy ngàn dũng tướng. Mưu lược tuyệt vời như Ngô Hán, võ công cao cường như Phùng Dị, Lai Háp trợ giúp còn bị thua mấy trận nghiêng ngả. Chàng biết Ngô Hán có "trí" như Phương Dung, Trưng Nhị, có tài dùng người như Vĩnh Hoa và có tài xung phong hãm trận như Nghiêm Sơn với chàng. Phùng Dị võ công tuy cao nhưng so với bên Thục thì thua xa, vì vậy Nghiêm Sơn mới tăng viện thêm Khất đại phu, Cao Cảnh Minh theo giúp.

Quỳnh Hoa đáp:

– Đạo quân Hán-trung không gặp may mắn như đạo Kinh-châu, Lĩnh-nam. Trước sau hai bên đánh trăm trận. Ông ngoại em bị thương. Sư bá Cao Cảnh Minh súyt mất mạng, con trai út Ngô Hán tử thương. Nghiêm đại ca, sư tỷ Phương Dung phải thân tới điều động quân mã. Trận đánh nào cũng thần sầu quỉ khốc. Bên Thục tướng sĩ một lòng, mỗi người là một dũng sĩ. Họ đã quyết chiến, dù chết cũng không lùi. Mãi tới hai ngày trước, mới chiếm được Võ-đô, Nam-bình, Dương-bình quan, Kiếm-các, Giang-du. Công-tôn Thuật rất khôn, y đoán được ý định của ta đánh Độ-khẩu với mục đích làm náo loạn Thành-đô. Còn mặt Kinh-châu quá xa, thủy quân Thục rất mạnh, khó vào được. Y dồn cầm chân quân Thục ở mặt Giang-du, cho đạo Kinh-châu và Lĩnh-nam tiến vào Thành-đô trước.

Hoàng Thiều Hoa hỏi:

– Nghiêm đại ca hiện đóng ở đâu?

Quỳnh Hoa cười:

– Lĩnh-nam vương phi hỏi Lĩnh-nam vương chinh tiễu nơi đâu hay sư tỷ Thiều Hoa hỏi Nghiêm đại ca?

Thiều Hoa vỗ lưng Quỳnh Hoa:

– Chị hỏi nghiêm đại ca.

Quỳnh Hoa không trả lời, nàng cất tiếng ngâm Sa-mạc:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?

Nhớ ai dạ những bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.

Ngâm xong nàng mới nói:

– Sư tỷ xưa nay là người thông minh, linh mẫn bậc nhất Lĩnh Nam, mà sao hôm nay lại lẩn thẩn quá. Lúc đến đây em nói, em từ Kiếm-các tới. Thế thì Nghiêm đại-ca phải ở Kiếm-các mới gửi quà cho sư tỷ được chứ.

Hoàng Thiều Hoa đỏ mặt lên, nàng nói lảng:

– Bao giờ sư muội trở về Kiếm-các?

Quỳnh Hoa không dám đùa nữa:

– Em phải trở về ngay, để săn sóc ông ngoại em.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:10:14 SA

Hồi 5        Hồi 7

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129592 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 7

Màn mưa tưởng tuyết xông pha

Nghĩ thôi lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài

(Chinh phụ ngâm khúc)

Đoạn này thuật cuộc chiến của đạo binh Ngô Hán,

mà Phùng Vĩnh Hoa làm quân sư.

Sau khi rời bản doanh của Nghiêm Sơn, Ngô Hán cùng các anh hùng Lĩnh Nam lên đường trở về Hán-trung. Mấy năm qua y lĩnh chức Xa kị đại tướng quân, thống lĩnh binh mã Hán-trung, Tây-lương, Trường-an cùng với Đại tư mã Đặng Vũ đánh Thục. Y gặp phải tướng cầm quân Thục là Thái tử Công-tôn Tư, văn võ kiêm toàn. Cạnh Tư có nhiều cao thủ phái Thiên-sơn. Tướng sĩ hết lòng cố thủ trong thành Dương-bình quan hiểm trở, y bị thất bại mấy trận.

Lần hội quân với Nghiêm Sơn, với con mắt nhận xét của y, Thục tất bị chiếm trong vòng một hai tháng là cùng. Quân sư Phương Dung, Trưng Nhị, Vĩnh Hoa hứa giúp y vào Thành-đô trước, thì cái mộng làm chúa Ích-châu trở thành sự thật.

Y từng ở dưới trướng Nghiêm Sơn mấy năm. Y biết Nghiêm Sơn có tài vương bá, khéo thu phục lòng người. Chả vậy mà đám anh hùng Lĩnh Nam cảm nghĩa Nghiêm Sơn, theo giúp hết lòng. Phùng Vĩnh Hoa, y chưa biết tài nàng cho lắm, còn Khất đại phu, Cao Cảnh Minh, y biết đó là những cao thủ bậc nhất thiên hạ. Vĩnh Hoa mang theo đội Thần-báo, Thần-hổ, mỗi đội 300 con, chuyên chở trên hơn 600 cỗ xe. Nếu hai bên đang giao tranh, mà xua đội Thần-báo, Thần-hổ vào tấn công địch, phần thắng dễ dàng như không. Y là người đọc sách, đã được đọc tài liệu nói về Nỏ-thần Âu Lạc đặt trên xe, bắn một lúc hàng ngàn mũi tên, tầm xa gấp đôi tên thường. Dọc đường, y còn nhận thấy đám anh hùng Lĩnh Nam tính tình giản dị. Họ đối xử với nhau như anh em trong nhà. Y cũng xin Khất đại-phu cho phép gọi ông là Thái sư-thúc như Phùng Vĩnh Hoa.

Phải mất đến hơn mười ngày mới về tới Hán-trung. Lập tức y cho mời hết các quan văn võ, giới thiệu anh hùng Lĩnh Nam cùng mưu sự.

Từ ngoài vào bản doanh phải qua nhiều trại quân. Giáp sĩ đi đứng uy nghiêm hùng tráng, binh sĩ kỷ luật. Trần-gia tam nương là đệ tử của Thiên-thủ Viên-hầu Lại Thế Cường, từng thao luyện tráng đinh, hùng cứ một vùng chống Tô Định. Ba nàng thấy quân phong, quân khí Ngô Hán, nói nhỏ vào tai Phùng Vĩnh Hoa:

– Trưng sư tỷ dự tính giúp Ngô Hán chiếm Ích-châu, để sau này không còn sợ y cầm quân đánh nhau với Lĩnh Nam cũng phải. Xem quân khí thế này, y chỉ thua có Nghiêm đại ca mà thôi.

Hồng Nương cất tiếng khen:

– Ngô đại tướng quân, tôi thấy các đạo quân Lĩnh Nam, Kinh-châu, Hán-trung. So sánh chung, quân khí đạo Lĩnh Nam hơn hết. So về quân phong thì đạo Hán-trung là đệ nhất. Hèn gì trên đường từ Lĩnh Nam sang đây, Lĩnh-nam vương không tiếc lời ca ngợi tướng quân.

Ngô Hán là một loại anh hùng, y nói:

– Đa tạ cô nương khen ngợi. Trước tôi chỉ là một tên nhà quê, cắp gươm theo hầu Lĩnh-nam vương, được Vương gia chỉ dạy cho rất nhiều.

Ngô Hán truyền đánh trống, tụ hội tướng sĩ nghe lệnh. Các tướng tề tựu đông đủ. Ngô Hán chỉ từng người một giới thiệu:

– Đây là Vũ-oai đại tướng quân Lưu Thương.

Cao Cảnh Minh buột miệng:

– Tại hạ ở Lĩnh Nam đã từng nghe danh. Mới đây được Lĩnh-nam vương nhắc nhở: Lưu tướng quân tiễn lực, tiễn thuật đệ nhất Trung-nguyên.

Lưu Thương nghe trong đạo Lĩnh Nam có Thần-nỏ Âu Lạc, đều là đệ tử, cháu của Cao Cảnh Minh. Cao Cảnh Minh là đệ nhất cao thủ tiễn thuật đời nay. Do đó, tuy đắc chí, nhưng y khiêm nhượng nói:

– Không dám, tiểu tướng hy vọng được Trường-yên đại hiệp chỉ dậy thêm.

Ngô Hán tiếp:

– Đây là Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị.

Phùng Vĩnh Hoa kêu lên:

– Lĩnh-nam vương thường nhắc nhở: đến võ lâm trung nguyên mà không được gặp Sầm-Phùng-Mã thì coi như chưa biết gì về võ công. Không biết các vị Sầm Bành, Mã Vũ có ở đây không?

Phùng Dị đáp:

– Hai vị đó ở đạo Kinh-châu.

Phùng Vĩnh Hoa nhìn các tướng Hán, nàng đọc được trong con mắt họ những vẻ nghi ngờ về khả năng của nàng. Nàng lờ đi, tự nhủ:

– Những người này, một đời đọc binh thư, ngồi trên mình ngựa, mạng sống của họ nay còn mai mất, họ thấy mình còn trẻ, nghi ngờ là phải. Chưa chắc mình đã bằng họ. Sư phụ mình thường bảo: Ngoài bầu trời này có bầu trời khác. Trung Nguyên đất rộng người nhiều, là nơi phát tích văn minh lâu đời, chính những sách mình đọc đều của người Hán. Mình chẳng nên coi thường thiên hạ.

Tham quan Vương Hữu Bằng trình bày:

– Nguyên soái đi mấy ngày, chúng tôi tiếp được lệnh chỉ của Lĩnh-nam vương Tả tướng quân, bắt các Thái-thú Lũng-thượng, Đông-xuyên, Trường-an đem tinh binh bổ sung. Chúng ta hiện có đủ tinh binh. Còn thêm mấy vạn mới đến đóng ở Nam Trịnh, chờ lệnh Nguyên-soái. Lương thảo gia nạp đủ, thừa nuôi quân trong ba năm. Lừa ngựa khí giới hùng tráng, cho nên tinh thần các tướng sĩ rất hứng khởi. Chờ Nguyên-soái về là tiến quân.

Ngô Hán gật đầu:

– Lĩnh-nam vương gia dùng ba quân sư đều là nữ, mỗi đạo một người. Các nữ quân sư có võ công cao. Ba nữ quân sư đã thiết kế bổ xung binh sĩ bằng cách chọn lấy những người khỏe mạnh, kinh nghiệm chiến đấu gửi cho mặt trận, chứ không lấy tân binh. Các địa phương phải tuyển tân binh bổ xung chỗ thiếu hụt.

Các tướng sĩ nhìn Vĩnh Hoa với con mắt thán phục đôi chút. Vĩnh Hoa hỏi:

– Muốn thắng giặc phải biết mình trước, xin Tham-quân cho tôi biết chi tiết về quân số, đồn trú hai bên.

Vương Hữu Bằng đem ra tấm bản đồ lớn chỉ lên:

– Quân Hán có 25 vạn bộ, 5 vạn kị, 3 vạn thủy binh, đây là lực lượng cơ động đánh giặc. Bên giặc có 15 vạn bộ, 5 vạn kị, 5 vạn thủy tất cả đều cơ động. Về ý đồ của giặc thì chỉ muốn giữ lấy Ích-châu. Biệt lập như một nước, đợi thời kéo ra đánh Trung-nguyên. Như trước đây đức Cao Tổ nhà Hán đã dùng để đánh Sở Bá Vương Hạng Võ. Nhờ vậy mà chúng ta chiếm được ưu thế. Trong các thành Võ-đô, Hồng-nguyên, Tùng-khê, Bình-võ, Nam-bình, Bà-trung, Thông-giang mỗi thành có hơn hai vạn, vừa kị, vừa bộ, vừa thủy. Tổng cộng 20 vạn nữa, lực lượng cơ động đóng Dương-bình-quan và Kiếm-các. Tính chung thì lực lượng cơ động của ta là 33 vạn, rất tinh nhuệ, đa số thuộc đất Thục, một số thuộc các bộ lạc ở phía Tây đưa về.

Vĩnh Hoa hỏi tiếp:

– Còn các tướng của giặc như thế nào?

– Tổng chỉ huy toàn miền Bắc Ích-châu, là con trưởng Công-tôn Thuật, tức Thái-tử Công-tôn Tư, năm nay 30 tuổi. Y học kiêm Bách-gia, Chu Tử, Lục-thao, Tam-lược, tính tình lại ôn hòa, biết trọng hiền tài, thương sĩ tốt, đối với dân chúng coi như con đẻ. Y được Công-tôn Thuật tin yêu, định nhường ngôi vua cho. Về võ công y đứng vào bậc nhì Ích-châu, chỉ thua có sư phụ, sư thúc mà thôi.

Vĩnh Hoa nhìn Ngô Hán:

– Khi đi đường đàm luận với Ngô tướng quân, tôi thấy Ngô tướng quân lược thao gồm tài, mà bị thua mấy trận, đã đoán giặc có nhiều ưu thế đặc biệt. Xin Tham-quân tiếp cho.

– Quân sư bên giặc là Tào Mạnh, tước Trung-lang tướng, thầy dạy Văn cho Công-tôn Tư. Thục còn có 8 tướng nữa, hầu hết văn võ kiêm toàn. Đứng đầu là Lũng-tây vương Triệu Khuôn, sư phụ Công-tôn Tư, sau đó là Phiêu-kị đại tướng quân Nhiệm Mãng, tước phong Vũ-dương hầu. Dưới quyền Công-tôn Tư, còn 7 người sư huynh, sư đệ của y, đều võ công kinh thế.

Phùng Vĩnh Hoa hỏi kỹ về địa thế rồi nói:

– Trước đây chúng ta đã đánh những trận nào?

Ngô Hán chỉ lên bản đồ:

– Lần đầu tiên chúng tôi tiến đánh Nam-bình, Võ-đô và Dương-bình-quan, hạ được Nam-bình, thì giặc tiến công chiếm mất Tử-dương, chúng cũng lấy lại Nam-bình, trận này coi như hòa. Lần thứ nhì chúng tôi dẫn quân đánh Dương-bình quan, thắng giặc ba trận, đến trận thứ tư bị bại vì Thiên Sơn thất hùng bất thần xuất trận, các tướng Hán không ai địch lại, chúng tôi bị thua. Trận cuối cùng chúng tôi đánh Võ-đô, giặc xuất raở Dương-bình quan, đánh cắt đường tiếp tế, chúng tôi lui về Hán-trung. Trận này tôi bị bại nặng, Kiến-võ hoàng-đế thân chinh ra tra xét, thấy giặc quá mạnh mới ủy Lĩnh-nam vương, Tả tướng-quân từ Lĩnh Nam về chinh tiễu. Chính ngài phán rằng, đất Lĩnh Nam nhiều đại tôn sư võ học, có thể giúp Hán thành công.

Các tướng sĩ ngồi nhìn Vĩnh Hoa, xem nàng giải quyết ra sao, Vĩnh Hoa thản nhiên nói:

– Tham-quân vừa nêu ra 5 ưu điểm của giặc, Lĩnh-nam vương Tả-tướng, với chúng tôi đã biết những điều đó, dự trù cách phá rồi. Lợi thế thứ nhất của giặc là đông hơn ta. Nay đã bị mất, vì ta thêm đạo Kinh-châu cả thủy, bộ, kỵ lên tới 30 vạn. Cộng chung ta có số quân cơ động, đông gấp đôi giặc. Lợi thế thứ nhì là địa thế giặc cũng mất, vì ta chia ra 3 mặt tiến đánh. Bây giờ lợi thế thứ nhì của giặc hóa ra lợi thế cho ta. Lợi thế thứ ba của giặc là tướng sĩ đồng lòng, nay ta có Lĩnh-nam vương Tả-tướng ở trên, thống lĩnh ba đạo, lợi thế thứ ba ta cũng có, coi như ngang với giặc. Lợi thế thứ tư của giặc là được lòng dân, thì Lĩnh-nam vương ra truyền hịch cho dân chúng biết, làm cho lòng quân, tướng giặc xôn xao, thì thế này của giặc cũng bị tê liệt. Lợi thế thứ năm là tướng giặc võ công cao hơn ta, nay ta hơn giặc gấp bội. Đất Lĩnh Nam về võ công, anh hùng hào kiệt nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Theo Lĩnh-nam vương, có gần trăm đại cao thủ, ta không sợ giặc nữa.

Ngừng một lát Vĩnh Hoa tiếp:

– Đạo quân Kinh-châu có kế hoạch sẵn, chỉ trong ba ngày phải đánh Công-tôn Thiệu một trận, để y mất nhuệ khí về dùng binh giỏi. Đánh bại Công-tôn Thiệu, Vũ Chu cho Thục mất uy thế võ công. Sau đó chiếm Xuyên-hẩu, kế hoạch phải thực hiện trong 10 ngày, giờ này quân Hán đã vào Xuyên Khẩu, đang đánh thành Bạch Đế.

Các tướng sĩ nhìn nhau, họ bắt đầu nhìn Vĩnh Hoa bằng con mắt khâm phục, Vĩnh Hòa tiếp:

– Giặc tin tưởng vào dãy núi Kim-sơn cao 2000 trượng, tuyết phủ quanh năm, không đề phòng mặt Giang-an, tin tưởng địa thế Độ-khẩu, họ không có nhiều quân ở Độ-khẩu, Đức-xương. Nhưng Công-tôn Thuật quên mất rằng đất Lĩnh Nam toàn đồng lầy, sông ngòi. Anh hùng hiệp sĩ vùng này lội nước như cá. Ta đã có kế hoạch vượt sông Nhã-giang, Định-hà, tung kị binh đánh Độ-khẩu, Mễ-dịch, Đức-xương, Phổ-khách, Tây-xương, Việt-tây. Giặc thấy miền Nam thất thủ, tất kéo quân về đây phòng thủ, ta chỉ đánh một trận là lấy được Dương-bình quan, Kiếm-các.

Các tướng sĩ nghe Phùng Vĩnh Hoa phân tích tình hình mới tỉnh ngộ, Phùng Vĩnh Hoa nhìn xuống các tướng, thấy một tướng trẻ là Đỗ Mạo, nàng nói:

– Phiền tướng quân mang theo 10 quân kị dẫn đường, tôi quan sát Dương-bình quan một chuyến.

Hoành-giã tướng quân Vương Thường nói:

– Xin cô nương cẩn thận mang theo nhiều binh sĩ một chút, vì sợ bên giặc đổ ra bất thần.

Phùng Vĩnh Hoa cười:

– Tôi tuy võ công không cao, nhưng thanh kiếm này không dở.

Nàng rút kiếm đánh ra 10 chiêu, ánh thép lóe lên, kiếm chiêu bao trùm một vùng, rồi tra kiếm vào vỏ đến cách một, tiếng, các tướng Hán giật mình, không ngờ một thiếu nữ xinh đẹp, nho nhã như thế mà kiếm pháp lại hiểm ác, bao hàm sát thủ khủng khiếp.

Quế Hoa, Quỳnh Hoa đều nói:

– Sư tỷ cho em đi với!

Vĩnh Hoa gật đầu đồng ý.

Đoàn người lên ngựa hướng Dương-bình quan, dọc đường Vĩnh Hoa quan sát địa thế rất kỹ càng. Tới chân thành, nàng nhìn lên: Trên mặt thành binh tướng đi lại tuần phòng hùng tráng. Bất thình lình cửa thành mở toang, một đội thiết kị, khoảng 500 người, tiến về phía Vĩnh Hoa, khi còn cách khoảng một dặm thì chia làm ba, ý định bao vây Vĩnh Hoa, Đỗ Mạo nói:

– Xin cô nương cẩn thận, giặc tới rồi, chạy ngay đi không nguy lắm.

Vĩnh Hoa gò ngựa đứng nhìn, nàng bảo Quế Hoa, Quỳnh Hoa:

– Hai em thử với giặc ít chiêu cho chị xem nào?

Quế Hoa, Quỳnh Hoa vọt ngựa ra, đám kị binh Thục thấy hai cô gái phi ngựa tới trước, thì ngừng lại.

Đỗ Mạo nói:

– Người đi đầu là Hổ-oai tướng quân Hầu Đơn, y là sư đệ của Công-tôn Tư, y giỏi về quyền cước, mà dở về kiếm thuật.

Hầu Đơn gò ngựa hỏi:

– Này, các ngươi định tới đây dò thám hả? Bộ hết muốn sống rồi chăng?

Phùng Vĩnh Hoa phi ngựa đến sau lưng Quế Hoa, Quỳnh Hoa chắp tay vái:

– Tiện nữ Phùng Vĩnh Hoa, đất Lĩnh Nam xin tham kiến, Hổ-oai đại tướng quân Cảnh-dương hầu, Hầu tướng quân.

Hầu Đơn đang tuần hành trên thành, thấy dưới thành có khoảng 20 người đang chỉ chỉ chỏ chỏ, nghi rằng đó là thám mã của Hán, y điểm 500 kị binh xuống bắt. Y tưởng bọn thám mã sẽ phải bỏ chạy, không ngờ khi đến gần thì thấy Đỗ Mạo, với 10 kị binh đứng sau, còn phía trước có ba cô gái khoảng 19, 20, ôn nhu, văn nhã, xinh đẹp chưa từng thấy. Nhất là Vĩnh Hoa lại chào hỏi lễ phép, y cũng chắp tay đáp lễ:

– Tiểu tướng mắt kém, không biết các vị cô nương tới đây làm gì?

Vĩnh Hoa giả bộ ngây thơ:

– Chúng tôi từ Lĩnh Nam tới, nghe Dương-bình quan đang có chiến tranh, muốn ra đây xem cho biết. Không biết tướng quân có thể cho tôi vào thành chơi, hoặc dạo quanh thành không?

Hầu Đơn đáp:

– Nếu ba vị cô nương thích thăm thành thì được, nhưng Thục và Hán đang có chiến tranh, mà cô nương lại đi với quân Hán, e không được. Thôi để ta bắt mấy quân Hán kia, rồi đưa cô nương vào thành.

Vĩnh Hoa lắc đầu:

– Tôi muốn để tướng quân bắt mấy tên Hán này, nhưng có có người không đồng ý, đó là hai cô sư muội của tôi, chúng bảo võ công tướng quân không đáng cho chúng nể phục, vậy xin tướng quân dạy cho chúng vài chiêu được chăng?

Hầu Đơn là đệ tử phái Thiên-sơn, văn võ toàn tài, tính tình phong nhã, y thấy ba cô gái nhu nhã xinh đẹp muốn đấu võ với mình, thì ngẩn người ra một lúc rồi chắp nói:

– Không biết vị cô nương nào dạy bảo chúng tôi đây?

Quế Hoa từ mình ngựa vọt lên cao. Còn lơ lửng trên không nàng đãõ phóng một chuởng chụp xuống đầu Hầu Đơn. Hầu Đơn là một cao thủ đất Thục, kinh nghiệm chiến đấu, thấy thế chưởng kỳ lạ,hùng mạnh đánh vào đỉnh đầu, vội xuống tấn lùi lại tránh. Không ngờ Quế Hoa còn ở trên không, đá gió một cái, người nàng vọt theo, chưởng lực đánh xéo vào sườn. Y trầm người, đẩy xéo tay lên đỡ. Bùng một tiếng. Quế Hoa vọt lên cao, lộn đi hai vòng,trông rất đẹp mắt, tay nàng biến thành trảo chụp xuống đầu Hầu Đơn.

Hầu Đơn vừa đấu chưởng với Quế Hoa, y thấy chưởng lực đối phương rất tinh diệu, kỳ ảo, như có như không, công lực dương cương, cánh tay tê dại. Y chưa kịp định thần thì chảo đã chụp tới, y vung tay gạt, đánh trả một quyền, Quế Hoa đổi chảo thành chỉ, đâm vào ngực y đánh bốp một cái, y đau điếng người lùi lại mặt tái mét.

Quế Hoa là cháu của Khất đại-phu Trần Đại Sinh, nàng ở với ông từ thuở nhỏ, được luyện tập rất tinh vi, võ công của nàng ngang với Hoàng Thiều Hoa, hơn Lê Chân, Vĩnh Hoa một bậc, vì vậy Hầu Đơn mới bị thất bại trong vài chiêu.

Quế Hoa tiến lên ra chưởng nữa, chưởng phong ào ào chụp tới, vì đó là chiêu Ác ngưu nan độ, trong Phục ngưu thần chưởng, Hầu Đơn hít hơi vận đủ 10 thành công lực đỡ, người y lảo đảo lùi lại.

Từ nhỏ, Quế Hoa chỉ biết luyện tập, đấu với em là Quỳnh Hoa, chứ chưa xuất trận bao giờ. Đây là lần đầu tiên đấu với người ngoài, nàng như con nghé tơ, thấy đối thủ là húc, không cần biết đối thủ lợi hại hay không lợi hại. Nàng vận tay thành chỉ, đưa chân khí ra Thủ tam dương kinh, rồi truyền tới huyệt Thương-dương ở ngón trỏ, đó là một chiêu trong Lĩnh-nam chỉ, mà Khất đại-phu với Đào Kỳ mới chế ra, chỉ phong phát ra veo véo.

Phùng Vĩnh Hoa thấy Hầu Đơn là người có khí phách, không muốn giết y, vội hô:

– Ngừng tay!

Nhưng đã trễ, chỉ phát ra rồi, không thu lại được, Quế Hoa vội đổi chiêu, véo một tiếng chỉ trúng chân trước ngựa Hầu Đơn, chân ngựa bị tiện đứt. Con ngựa đau quá, hí lên một tiếng thê thảm, ngã lộn xuống đất.

Quế Hoa vọt người lên cao, đáp xuống lưng ngựa mình.

Phùng Vĩnh Hoa nói với Hầu Đơn:

– Hầu tướng quân, như vậy đủ rồi, tướng quân về đi, phiền tướng quân nói với Thái-tử Công-tôn Tư, rằng hai hôm nữa, tiểu nữ muốn được bái kiến ngài dưới thành, thưa chút việc.

Nàng vẫy mọi người lên ngựa trở về, Hầu Đơn ngẩn người nhìn theo, vì y thấy nàng xinh đẹp, ôn nhu văn nhã, nói năng khách khí lịch sự. Dù trước trận tiền, gươm đao choang choảng mà nàng thản nhiên như đi ngắm cảnh. Không biết Vĩnh Hoa là ai, y đoán chừng ít ra nàng phải là Quận-chúa, hay phu nhân một nhân vật lớn ở Lĩnh Nam, mới có hai thiếu nữ trẻ đẹp, võ công cao đi hầu cận.

Vĩnh Hoa trở về doanh trại, Đỗ Mạo đem truyện kể cho các tướng nghe, bấy giờ mọi người mới tin rằng, võ công Lĩnh Nam vô địch thiên hạ.

Hôm sau Phùng Vĩnh Hoa nói với Ngô Hán:

– Hôm qua tôi cùng Hậu-quân Hiệu-úy, Đỗ tướng-quân thám thính thành Dương-bình quan, tôi dùng lời lẽ nhu nhã nói truyện, còn Quế Hoa đấu chưởng, họ thua, hiện bên giặc đang thắc mắc về chúng tôi. Có như vậy Công-tôn Tư mới nghi hoặc, đã nghi hoặc thì thế nào cũng tìm hiểu, tôi lại đưa lời mời y ra nói truyện, hai ngày nữa xuất thành. Trong khi y với tôi đối trận, ta đánh úp Võ-đô trước. Tôi đã kế hoạch đánh Võ-đô, ta chiếm Võ-đô thì sườn phải không sợ uy hiếp, bấy giờ ta mới đánh Dương-bình quan.

Ngô Hán là người đọc sách làm quan võ, y có tài nhận xét người. Thoáng qua y đã nhận thấy chân tài của Vĩnh Hoa, qua việc thám thính, Ngô bưng ấn kiếm trao cho Vĩnh Hoa, các tướng tuy không nghe Quế Hoa đánh Hầu Đơn, nhưng vẫn chưa tin tưởng lắm, lục tục vào trướng nghe lệnh.

Phùng Vĩnh Hoa nói:

– Hiện ở Võ-đô giặc có ba vạn bộ, một vạn kị và và vạn thủy, cộng chung là năm vạn. Ta đánh Võ-đô trước, tướng trấn thủ Võ-đô là Phiêu-kỵ Đại tướng-quân Nhiệm Mãng, y là sư thúc của Công-tôn Tư, phụ trấn với y còn có hai đệ tử Điền Nhung, Nhiệm Đăng. Từ trước đến nay đánh Võ-đô, là Chinh-tây Đại tướng quân Phùng Dị, Hoành giã đại tướng quân Vương Thường. Vậy bây giờ mỗi vị mang một vạn quân tới bày trận. Quế Hoa giúp Phùng tướng quân, Quỳnh Hoa giúp Vương tướng quân Khi giặc mang quân bộ ra đánh, hai tướng giao tranh lấy lệ, rồi chia thành hai ngả tả hữu lùi mấy dặm. Chờ khi thấy hậu quân giặc rối loạn, thì Quế Hoa, Quỳnh Hoa mới xuất trận, phải đánh bại Điền Nhung và Nhiệm Đăng Khi giặc bỏ chạy phải đuổi theo gấp, không cho chúng vào thành, chúng sẽ chạy về Lâm-giang, đồn Lâm-giang ở trên ngọn đồi, chỉ có hơn ngàn quân trấn đóng, tức chúng không dám xuất đồn cứu viện. Lập tức án ngữ tại đây, không cho chúng về Võ-đô, trái lệnh thì xử trảm.

Quế Hoa chưa thuộc cách dụng binh hỏi:

– Đánh bại hai tướng giặc thì không khó, ngặt vì quân Thục tinh nhuệ, nếu chúng tử chiến rút về thành, trường hợp này lỗi của hai tướng Phùng, Vương hay lỗi ở bọn em?

Vĩnh Hoa giảng:

– Giặc bị thua nhuệ khí đã mất, chị dùng hai em không phải hai đại tướng quân Phùng, Vương thiếu tài, mà mục đích gây hoài nghi cho giặc. Giặc thấy hai em là cô gái nhỏ tuổi, không biết dùng binh, chúng khinh thường, rồi bị hai tướng Phùng, Vương đánh bại.

Vĩnh Hoa tiếp :

– Sư bá Cao Cảnh Minh dẫn theo Trung lang tướng Lai Háp, Tiền-quân Hiệu-úy Chu Á Dũng phục ở Vọng-tử quan. Khi thấy giặc đuổi theo Phùng, Vương,thì tiến lên đánh vào hậu quân giặc. Sau khi giặc bỏ chạy về Lâm-giang, phải kéo tới chiếm Lưỡng-hà khẩu.

Nàng đứng lên chắp tay hướng Khất đại-phu :

– Thái sư-thúc, xin Thái sư-thúc cùng cháu đi lấy Võ-đô, chúng ta chỉ cần mấy ngàn quân là đủ vào thành.

Nàng nói với Ngô Hán :

– Từ Dương-bình quan tới Võ-đô không có đường bộ, phải theo sông Gia-lực xuôi đến Quảng-nguyên rồi ngược sông Bạch-long. Dù đi cách nào cũng mất hai ngày. Chúng ta đánh Võ-đô bất thình lình, khi Võ-đô thất thủ, ít ra hai ngày Công-tôn Tư mới biết. Tuy vậy cũng phải đề phòng. Tôi chỉ có thể cầm chân Công-tôn Tư tại đây một buổi mà thôi.

Ngô Hán hỏi Vĩnh Hoa làm cách nào chiếm được Võ-đô với vài ngàn người. Nàng ghé tai nói nhỏ mấy câu. Ngô Hán gật đầu khen :

– Tuyệt diệu !

Hai hôm sau Ngô Hán truyền lịnh kéo quân tới Dương-bình quan, dàn ra trước ải truyền loa gọi Công-tôn Tư ra đánh nhau. Trong thành phát pháo, bốn cửa mở toang, quân tướng, xe, ngựa, nghiêm chỉnh xuất thành, dàn ra đối diện với quân Hán. Vĩnh Hoa thấy lối bày trận thầm khen quân Thục được huấn luyện tinh nhuệ.

Công-tôn Tư cầm roi ngựa chỉ Ngô Hán :

– Tên hủ nho kia, ngươi trói gà không chặt, đánh nhau với ta trên mười trận, quân sĩ chết năm sáu vạn rồi, ngươi chưa biết sợ ư? Ta nghe Lưu Tú vừa cho triệu em kết nghĩa là Nghiêm Sơn trấn thủ Lĩnh Nam về đánh chúng ta. Vậy Nghiêm Sơn đâu, bảo y ra đây nói chuyện với ta.

Cửa trận Hán mở, ba hồi trống trận đánh vang lừng. Phùng Vĩnh Hoa giục ngựa thủng thẳng bước ra trận, nàng hướng về Công-tôn Tư :

– Người con gái Lĩnh Nam là Phùng Vĩnh Hoa xin bái kiến Công-tôn Thái-tử. Tiểu nữ ở Lĩnh Nam nghe tiếng Thái-tử phẩm chất tuấn nhã, văn võ song tài, nhã lượng, cao trí, khiến quần hùng Trung-nguyên dù văn, dù võ đều khâm phục. Cho nên cách đây hai hôm, tiểu nữ nhắn với Hầu tướng quân, xin được bái kiến Thái-tử. Quả nhiên hôm nay ngài giá lâm, thực là hân hạnh.

Nàng chắp tay vái liền bốn vái.

Công-tôn Tư nghe nói, đạo quân Lĩnh Nam có nhiều phụ nữ xinh đẹp, võ công cao cường. Hôm trước sư đệ của y là Hầu Đơn bị bại về tay một thiếu nữ trẻ, y không tin. Hôm nay thấy Vĩnh Hoa ẻo lả, không mặc giáp sắt như mọi người, mà mặc quần áo lụa trắng mỏng, khăn choàng cổ màu đỏ sậm, dây lưng hồng bay phất phơ trước gió như một vị tiên nga, lại nói năng lễ phép.

Trong lịch sử chiến tranh Trung-nguyên, khi hai bên đối diện thường người ta đem những lời tục tằn, dơ bẩn nhục mạ nhau. Mỗi đạo binh đều có toán mạ binh tức lính chửi nhau. Chúng dùng loa chửi bên địch đủ mọi lời dơ bẩn nhất chứ chưa từng có hai tướng đối trận lai khen nhau bao giờ. Công-tôn Tư là Thái-tử, tương lai lên kế vị cha làm vua. Y thống lãnh binh quyền trong tay, thiếu gì người tưng bốc nịnh nọt. Nhưng nay đứng trước trận, một thiếu nữ xinh đẹp, phiêu hốt đưa lời ca tụng rất đúng, chứ không ca tụng quá mức. Như phẩm chất tuấn nhã thời bấy giờ chỉ có nam giới nói với nhau, chứ có bao giờ nữ giới lại dám ca tụng nam giới như vậy đâu ? Lần thứ nhất Công-tôn Tư được một thiếu nữ xinh đẹp ca tụng. Lại nữa thiếu nữ đó là quân sư, là kẻ thù. Nàng còn khen y nhã lượng, cao trí, văn võ song toàn, là những điều có thực. Y sinh cảm tình với nàng, vội vàng đáp lễ :

– Không dám! Chẳng hay cô nương quí tính phương danh là gì ? Cô nương đẹp thế kia, mà ra trước trận tiền, gươm giáo vốn vô tình, lỡ phạm vào cô nương, chẳng ân hận lắm ư ?

Vĩnh Hoa đáp :

– Phàm làm vua phải biết lòng trời, làm tướng phải biết ta biết người. Vua thì lo giữ nước, quan thì lo giữ chức, nhà giàu thì lo giữ của. Nay Thái-tử tài kiêm văn võ, mưu lược hơn đời, nắm trọn binh mã trong tay, quyền nghiêng thiên hạ. Thái-tử mang quân đánh ở ngoài, thắng thì địa vị cũng chẳng hơn, còn bị ghen ghét. Mà bại thì ngôi Thái-tử e khó giữ được. Thái tử là người đọc sách, mà không nhớ tích Thái-tử Lịch Sanh bị cha là Tấn Linh Công giết chết ư? Hiện giờ ở trong, các em đang ngấm ngầm vận động tranh ngôi Thái-tử. Các bà phi tần của vua cha chỉ biết vàng bạc, thương yêu những người cúi đầu tuân phục. Còn Thái-tử, mẹ qua đời, lo chinh chiến mà không được lòng các phi tần. Vì vậy đại họa không biết lúc nào sẽ tới.Tôi vì Thái-tử mà ra đây nói vài lời phải trái. Nghe hay không là quyền của Thái-tử.

Công-tôn Tư quả đang lo những điều Vĩnh Hoa nói. Mẹ của y đã qua đời. Công-tôn Thuật đặt một phi tần khác lên làm hoàng-hậu, cực kỳ sủng ái. Thuật còn nuôi ba con trai của Vương Nguyên làm con, tước phong tới Bình-nam vương, trấn thủ phía nam Ích-châu. Ngoài ra y lại không được lòng hai người chú là Công-tôn Thiệu, Công-tôn Khôi đang trấn thủ Đông và Đông-nam. Bây giờ trước trận Phùng Vĩnh Hoa nói toẹt mối lo ngại cuả y ra. Y biết là đúng, song vẫn thản nhiên :

– Phùng cô nương dạy quả đúng như hoàn cảnh của ta. Nhưng đạo làm tôi phải trung với chúa, đạo làm con phải hiếu với cha mẹ. Thái tử Lịch Sanh tuy chết oan, nhưng danh còn với thiên cổ. Ta được vua cha ủy thác trấn nhậm biên thùy, phải cố giữ cho nước yên, dân được sung sướng thì đã toại nguyện. Còn làm vua hay làm tôi ta không cần nghĩ tới. Cám ơn cô nương đã dạy dỗ. Xin cô nương lui về, để ta cùng Ngô Hán đấu với nhau một trận long trời lỡ đất.

Y lại nói với Ngô Hán :

– Ngô Hán, chúng ta đánh nhau mãi chết quân sĩ nhiều quá, vậy người có dám đấu với ta chăng ? Dù đấu văn, đấu võ môn gì ta cũng nhận.

Phùng Vĩnh Hoa nói ;

– Không biết Thái-tử có thể thù tiếp tôi được chăng ? Tôi xin đấu văn với Thái-tử. Xin Thái-tử ra đầu đề trước đi.

Công Tôn Tư nói :

– Nếu là cô nương, tôi xin nhường cô nương ra đầu đề. Chúng ta đấu ba cuộc, ai thắng hai thì coi như được. Không biết cô nương nghĩ sao? Cô nương thắng, tôi nguyện lui binh, dẫn đường mời cô nương du lịch thắng cảnh Dương-bình quan hay cả đất Ích-châu như cô nương đã nói với sư-đệ tôi hôm qua. Còn nếu tôi thắng, xin cô nương bảo Ngô Hán lui quân về, để tướng sĩ được nghỉ một tháng. Không biết cô nương có chấp thuận không ?

Phùng Vĩnh Hoa nghiêng mình đáp lễ :

– Tôi xin tuân lịnh Thái-tử. Môn thi đầu tiên của tôi là âm nhạc. Tôi tấu một vài khúc, xin Thái-tử đánh nhịp cho.

Vĩnh Hoa là đệ tử phái Sài-sơn, nàng rất giỏi âm nhạc. Nàng vẫy tay về sau, một nữ binh theo hầu dâng lên cây đàn bầu. Nàng để cây đàn trên mình ngựa, dạo khúc Dương Xuân Bạch Tuyết. Nàng dùng nội lực chuyển vào cây đàn, âm thanh đi rất xa. Tướng sĩ hai bên trước nay đã cùng nhau đánh hàng trăm trận, sống chết có thừa. Nay bỗng dưng được thấy một thiếu nữ xinh đẹp, ra trước trận tấu nhạc bằng thứ đàn chỉ có một giây. Tiếng đàn đầm ấm, thanh cao, u nhã, khiến hồn họ như lâng lâng bay bổng lên cao.

Bên trận Thục, Công-tôn Tư rút kiếm ra đánh nhịp theo điệu đàn của nàng, hợp thành một khúc nhạc tuyệt vời. Khúc nhạc dứt, quân sĩ hai bên vỗ tay hoan hô rúng động trời đất.

Phùng Vĩnh Hoa nói:

– Trời sắp vào Xuân, hai bên đánh nhau mãi chán lắm rồi, chi bằng chúng ta cùng nhau tấu nhạc cho tướng sĩ nghe chẳng thú lắm sao. Từ ngày rời Lĩnh Nam đến giờ, nay là lần đầu tiên tiện nữ được gặp tri âm. Đời này tri âm được mấy người, có phải không Thái-tử? Nào tiểu nữ lại thổi một khúc tiêu, mong nhã lượng quân tử dạy cho.

Phùng Vĩnh Hoa được trời phú cho giọng nói thanh tao. Đến sư phụ, cha mẹ nghe nàng nói mà còn thương, huống hồ đứng trước trận tiền nói với Công-tôn Tư. Câu nào cũng êm đềm văn hoa.

Ngô Hán nghĩ thầm:

– Tại sao đất Lĩnh Nam nhiều nhân tài đến thế nhỉ? Nếu nàng không là người bên mình, mình cũng bị mắc mưu. Có ai ngờ, hiện giờ binh tướng của mình đã kéo đến Võ-đô, đánh úp thành mất rồi. Có ai ngờ thiếu nữ trẻ thế kia mà võ công cao, mưu thần chước thánh như vậy.

Nàng vọt người lên cao, con ngựa của nàng phi như bay trước trận. Nàng đứng trên lưng ngựa, cầm ống tiêu thổi bài Động Đình dạ khúc. Nghe thổi tiêu, thì tướng sĩ hai bên cũng từng nghe qua. Đây là nàng đứng trên lưng ngựa, ngựa phi như bay, nàng vẫn giữ được nguồn âm thanh liên miên bất tuyệt là điều không ai tưởng tượng nổi.

Nguồn gốc của phái Sài-sơn bắt đầu từ Phù-đổng Thiên-vương, nghệ thuật cỡi ngựa thần sầu quỉ khốc. Có điều Vĩnh Hoa hợp nghệ thuật cỡi ngựa với âm nhạc được. Ngựa cứ phi bụi mù, tiếng sáo vẫn véo von, khi lên cao vút từng mây, khi nỉ non như tiếng sóng Động-đình. Y phục màu trắng, dây lưng khăn hồng bay phất phới trước gió, tiếng tiêu bay bổng trên không gian. Khúc tiêu hết, quân sĩ hai bên vỗ tay vang dội.

Phùng Vĩnh Hoa vọt người lên cao, đáp xuống, ngồi ngang trên lưng ngựa, chắp tay hướng Công-tôn Tư:

– Xin Thái-tử dạy cho ít lời.

Công-tôn Tư thở dài:

– Tôi thua cô nương cuộc này. Còn cuộc thứ ba, xin cô nương tiếp cho.

Phùng Vĩnh Hoa phi ngựa tới trước trận:

– Tôi xin Thái-tử vừa tấu nhạc, vừa dạy cho mấy thế võ.

Nói rồi nàng cầm ống tiêu đâm liền. Y vội rút kiếm đỡ. Thì Vĩnh Hoa đã thu chiêu trở về. Tiếng gió lọt vào ống tiêu kêu lên những tiếng vi vu. Thế là Vĩnh Hoa dùng tiêu đấu với kiếm của Công-tôn Tư, nhưng tiếng tiêu vẫn phát ra bài Động Đình dã ca nghe rất êm tai. Nếu người nào nhắm mắt tưởng nàng tấu nhạc, có ngờ đâu đó là những chiêu kiếm phổ vào tiêu đầy sát thủ. Đánh được gần trăm hiệp, bài Động Đình dã ca dứt, nàng lui lại:

– Xin thái tử dạy cho ít lời.

Công-tôn Tư nhìn nàng phiêu hốt như có như không, phất phơ trước gió giải lụa trên cổ màu hồng trông như tiên nữ. Y ngất ngây đáp:

– Trong ba cuộc đấu, tôi thua cô nương hai cuộc. Vậy ngoài những điều tôi đã hứa, cô nương muốn thế nào tôi cũng xin chiều lòng tri âm.

Vĩnh Hoa mỉm cười:

– Mai này, Thái-tử với tôi lên đồi Định-cường, chúng mình đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, uống rượu tiêu dao ngày tháng, chẳng hơn dùng gươm dao giết nhau ư?

Công-tôn Tư trấn nhậm phía Bắc Ích Châu chống với Hán, mục đích của y là trấn thủ chứ không có tham vọng chiếm Trung-nguyên. Y phải xuất thành vì quân Hán tấn công, chứ y không ham chiến. Bây giờ Vĩnh Hoa thắng, lại đề nghị bãi chiến, tấu nhạc, đánh cờ, là điều y cầu mà không được.

Công-tôn Tư ngây người đáp:

– Tôi sẽ hầu tiếp cô nương, tôi mời cô nương ngắm thắng cảnh Định-cường.

Vĩnh Hoa tiếp:

– Đây gần Dương-bình quan hơn, Thái-tử là chủ, tôi là khách, nhất thiết rượu, hoa quả do Thái-tử đem tới. Giờ Mùi ngày mai chúng ta gặp nhau.

Nàng vái dài một vái rồi phi ngựa về trận. Ngô Hán cho lui quân. Y không hiểu kế của Vĩnh Hoa hỏi:

– Mai là ngày chúng ta đánh Võ Đô, cô nương làm sao đánh cờ, tấu nhạc với Công-tôn Tư được?

Vĩnh Hoa ghé tai Ngô Hán nói nhỏ mấy câu, Ngô Hán gật đầu nói:

– Đêm nay quân sư Tào Mạnh cùng Công-tôn Tư nghĩ nát đầu cũng không ra chủ ý của cô nương. Có điều, chúng ta chuyển quân, sợ Tế-tác của giặc khám phá ra nguy hiểm vô cùng.

Phùng Vĩnh Hoa cười:

– Khi rời Phiên-ngung về đây, tôi có giới thiệu với Tướng quân một lão tướng của chúng tôi tên Vi Đại Khê. Vị lão tướng chỉ huy 100 chó Ngao. Tôi đã bí mật cho chó Ngao phục trong các hẻm núi, dọc đường đến Võ-đô. Nếu Tế tác giặc ẩn núp, sẽ bị phát hiện, giết chết liền.

Bỗng Hổ-nha đại tướng Cáp Diên bước vào thưa:

– Trình Nguyên-soái và quân sư, Ngao-sơn Vi Đại Khê bắt được 37 tên Tế Tác, xin Nguyên-soái định liệu.

Vĩnh Hoa cười:

– Giam chúng lại, cho ăn uống tử tế, giờ Mùi ngày mai thả chúng ra.

Nàng nói với Ngô Hán:

– Ngày mai, giờ Mùi tôi hội với Công-tôn Tư, bấy giờ thả chúng ra, chúng có về báo cáo thì đã trễ.

Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đợi trời tối, âm thầm sai 2000 quân, nay 300 cỗ xe bí mật lên đường. Mỗi cỗ xe chở hai Hổ hoặc hai Báo. Trời vừa sáng thì vượt sông Hán-thủy. Phùng Vĩnh Hoa chỉ phía tòa thành xa xa nói:

– Kia là Võ-đô, chúng ta phải lấy thành trước giờ Ngọ.

Nàng cho gọi Tây-vu tam hổ tướng, tam báo tướng tới họp. Hồ Đề phong chúng là đại tướng quân cho oai, chứ thực sự chúng đều là những thiếu niên, tuổi chưa tới 18. Song chúng chỉ huy, huấn luyện Hổ, Báo đã lâu. Bọn Hổ, Báo nghe tiếng tù-và, tiếng hú hoặc điệu phất cờ mà tiến, thoái, bao vây, tấn công địch như một đạo quân tinh nhuệ.

Vĩnh Hoa ra lệnh cho Hắc Hổ:

– Sư đệ phục đội Hổ binh ở đây. Đợi lệnh tôi thì xua hổ tấn công vào thành. Sư-đệ định tấn công cách nào?

Hắc Hổ nói:

– Em chỉ huy bằng cờ. Em chỉ huy đội Hắc-hổ làm trừ bị phía sau. Còn Hoàng chỉ huy bằng tù và, Bạch thì chỉ huy bằng thanh la. Chúng em liên lạc với nhau bằng cờ. Như vậy, Hoàng, Bạch chia hổ thành 10 đội, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, thì hàng thứ nhất cắt đứt đội hình địch, rồi chia làm hai quẹo sang phải, trái tấn công. Hàng thứ nhì chọc thẳng vào trung ương. Đội hắc hổ của em tùy nghi tiếp viện, đề phòng địch đánh tập hậu.

Phùng Vĩnh Hoa vỗ vai Hắc Hổ:

– Các em đúng là đại tướng.

Nàng gọi Hắc Báo ra lệnh:

– Sư đệ dẫn đội báo phục kích ở giữa đường từ Lưỡng-hà khẩu về Võ-đô, đợi khi Võ-đô lâm nguy, ắt thủy quân từ Lưỡng-hà khẩu về cứu viện. Thái sư thúc Cao Cảnh Minh lập tức xua quân chiếm khẩu. Sư đệ có bổn phận ngăn không cho địch quân trở về.

Phùng Vĩnh Hoa cùng Khất đại phu leo lên ngọn cây cao nhìn về Võ-đô quan sát trận địa. Trước thành Võ-đô, Chinh-tây tướng quân Phùng Dị, cạnh Quế Hoa. Hoành-giả tướng quân Vương Thường cạnh Quỳnh Hoa. Phía sau quân sĩ dàn thành trận nghiêm chỉnh.

Trên thành Võ-đô phát pháo lệnh, quân sĩ từ hai cửa thành ra ngoài. Rồi cũng dàn thành trận trước quân Hán. Mỗi cửa thành vẫn còn khoảng vài trăm quân thiết kị trấn giữ.

Hai tướng xuất trận bên Thục là Điền Nhung và Nhiệm Đăng, dàn trận xong, Nhiệm Đăng phi ngựa ra trước hỏi:

– Phùng Dị, Vương Thường các ngươi là bại tướng, còn đến đây làm gì? Hãy về đi để khỏi uổng mạng.

Y chỉ tay một cái, đại quân Thục tràn sang như nước vỡ bờ. Võ công Phùng Dị, Vương Thường cao hơn Nhiệm Đăng và Điền Nhung. Hai người đứng đốc chiến cho quân sĩ xung sát.

Đánh được một lát, trong thành Võ-đô nổ ba tiếng pháo, hai đạo quân nữa đổ ra tiếp ứng.

Phùng Dị, Vương Thường cho lệnh đổi tiền quân làm hậu quân, lui binh. Thục binh chia làm hai đuổi theo. Bấy giờ ở Vọng-tử quan, Cao Cảnh Minh đốt pháo lệnh đánh vào hậu quân hai đội Thục binh. Quân Thục thấy quân Hán xuất hiện đánh vào hậu quân thì nao núng, gần như rối loạn. Hai tướng Điền Nhung, Nhiệm Đăng bình tĩnh chia quân ra làm hai cự địch. Một mặt đốt pháo hiệu báo về thành cho biết họ bị lâm nguy.

Quế Hoa vọt ngựa lên phóng chưởng đánh Nhiệm Đăng. Nhiệm Đăng thấy một thiếu nữ trẻ tuổi, không mặc áo giáp trụ, phóng chưởng đánh mình, thì gác vũ khí giơ quyền đỡ. Binh một tiếng, y bật người khỏi ngựa. Cũng may võ công cao, y lộn một vòng đứng xuống đất, tay tê chồn. Y cho rằng vừa rồi mình khinh xuất, y lại vung chưởng đáng một chiêu cực kỳ thần tốc. Quế Hoa hít hơi phát chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng, chiêu Lưỡng Ngưu Tranh Phong. Bùng một tiếng nữa, lần này nàng mới thấy ê tay, phải lui lại một bước. Bên kia Nhiệm Đăng cũng lùi hai bước. Hai người lại đấu với nhau, chiêu nọ kế tiếp chiêu kia, uy lực gấp bội. Chỉ 20 hiệp, Nhiệm Đăng đã luống cuống tay chân, bị nàng đá trúng sườn. Y vọt lên cao bỏ chạy vào trận, thế là trận thế y rối loạn, bị vây hai đầu.

Phía bên kia Quỳnh Hoa đánh với Điền Nhung. Điền Nhung thấy nữ tướng thì biết rằng phải là người có tài mới dám ra trận. Y cẩn thận vận đủ mười thành công lực đánh ra. Bùng một tiếng, Quỳnh Hoa cảm thấy cánh tay tê dại. Nàng biết gặp kình địch, vội dùng Phục-ngưu thần chưởng chống lại. Nhưng dầu sao nàng cũng chỉ là một thiếu nữ 19-20 tuổi, công lực chưa làm bao, mà Điền Nhung thì lớn tuổi hơn Nhiệm Đăng nhiều, công lực của y mạnh không thể tưởng tượng được. Đấu với nhau được 12 chưởng, Quỳnh Hoa đã thấy mắt hoa đầu váng. Tuy nhiên vì tự hào Gái Việt đất Lĩnh Nam lại là cháu Khất đại phu, nàng quyết dù chết cũng không lùi lại một bước. Điền Nhung thấy vậy khen cho cô gái nhỏ tuổi mà can đảm.

Y hít một hơi đầy, rồi vận khí phóng ra một chưởng mong kết liễu tính mệnh Quế Hoa, nàng quyết không lùi. Đầu óc hoang mang, nàng hít hơi phát bừa một chưởng. Chưởng đó là chiêu Kình Ngư Xuyên Dương trong Thiết-kình phi chưởng của phái Cửu Chân, mà Đào Kỳ đã dạy nàng. Hai chưởng chạm nhau, Điền Nhung bật lui trở lại đến ba bước. Quỳnh Hoa ngạc nhiên đến ngẩn người ra. Nàng phát chiêu Thiết-kình phi chưởng nữa đánh tới. Điền Nhung vận đủ mười thành công lực đỡ. Bùng một tiếng nữa, người y bắn về phía sau, loạng choạng muốn ngã, y oẹ một tiếng, thổ ra búng máu tươi.

Điền Nhung cảm thấy trong hai chiêu cuối cùng của Quỳnh Hoa tuy bao hàm phong lôi vũ bão thực, nhưng kém mãnh liệt tinh diệu hơn các chiêu trước nhiều, mà lại thắng. Y còn thấy rõ hai chiêu sau khắc chế với võ công của y.

Quỳnh Hoa tuyệt không ngờ Thiết-kình phi chưởng lại có uy lực hơn Phục-ngưu thần chưởng. Nàng nghĩ:

– Ông ngoại dậy rằng, Phục-ngưu thần chưởng là chưởng lực mạnh nhất Lĩnh Nam. Thế sao lại không bằng Thiết-kình phi chưởng?

Sự thực nếu dùng Thiết-kình phi chưởng đấu với Phục-ngưu thần chưởng chắc chắn sẽ bị thua. Bởi vì Phục-ngưu thần chưởng do Sơn Tinh chế ra, rất tinh diệu với võ công Lĩnh Nam. Còn Thiết-kình phi chưởng do Vũ Bảo Trung chế ra, trong nguyên tắc khắc chế võ công của tướng Tần, tức khắc võ công Trung-nguyên. Quỳnh Hoa dùng nó đánh Điền Nhung, y bị bại ngay.

Điền Nhung hỏi Quỳnh Hoa:

– Cô bé kia! Ngươi tên họ là gì? Ta xem dường như võ công của ngươi không thuộc bất cứ môn phái nào ở Trung-nguyên, vậy sư phụ ngươi là ai?

Quỳnh Hoa được Vĩnh Hoa dặn phải lễ độ, nhu nhã, nàng nghiêng mình thi lễ:.

– Tiểu nữ họ Trần tên Quỳnh Hoa, gái Việt đất Lĩnh Nam. Tiểu nữ không có sư phụ. Tiểu nữ thụ nghiệp với ngoại tổ. Ngoại tổ họ Trần húy là Đại Sinh, thường được đời tôn là Thánh y Khất đại phu. Tướng-quân! Người rút quân đi thôi. Tiểu nữ với người vì quốc sự mà phái đối chiêu. Tiểu nữ làm người bị thương, trong lòng rất áy náy. Thôi người đi đi, tiểu nữ không đuổi theo đâu.

Điền Nhung thấy một thiếu nữ xinh đẹp, không mặc giáp trụ, xuất trận đã lấy làm lạ. Nàng dùng chưởng lực thắng mình là hai điều lạ. Thắng mình rồi, nàng còn nói năng nhu nhã, tỏ ý hối hận làm mình bị thương, càng ngạc nhiên và cảm động. Y thấy phía Đông có quân vây, mà ở nay có đồn Lâm-giang. Y cho quân chạy về phía đó. Y chạy được một quãng thì gặp Nhiệm Đăng. Nhiệm kể chuyện bị một thiếu nữ khác là Trần Quế Hoa đánh bại. Hai người cho quân lên đồi Lâm-giang đồn trú, chờ quân trong thành cứu viện.

Vĩnh Hoa thấy thành mở cửa, rồi một đội kị binh xuất thành, đánh về phía hậu quân của Phùng Dị, Vương Thường biết Nhiệm Mãng xuất binh cứu viện, thành bỏ trống. Nàng cười với Khất đại phu:

– Thái sư thúc, Nhiệm Mãng bị trúng kế cháu rồi. Chúng ta chiếm thành đi thôi.

Nàng rút tù và ra thổi một hồi, lệnh cho Hắc Hổ. Hắc hổ hú lên một tiếng dài, mười hổ tướng đồng hú lên, các đội hổ binh gầm gừ hướng Võ-đô lao tới. Tại bốn cửa thành Võ-đô, đều có thiết kỵ gác phía ngoài. Bỗng những tiếng gầm gừ, rồi một đoàn cọp vàng, trắng, đen, vằn bốn mầu khác nhau tấn công vào bốn cửa thành. Binh Thục là những võ sĩ can đảm, dùng vũ khí chống lại. Nhưng ngựa của chúng thấy cọp sợ quá lăn kềnh ra, bỏ chạy mất. Đàn cọp tràn vào bốn cửa thành. Vĩnh Hoa cùng Khất đại phu vào thành, hạ cờ Thục xuống, treo cờ Hán lên, sai đốt cỏ báo hiệu cho Quỳnh Hoa, Quế Hoa biết rằng đã chiếm được thành.

Điền Nhung, Nhiệm Đăng bị vây ở chân núi Lâm-giang, được tín hiệu báo rằng sư phụ Nhiệm Mãng từ trong thành đem thiết kị ra cứu ứng. Hai tướng dẫn quân quay lại đánh. Phùng Dị, Vương Thường vội dàn quân rút lên núi lập thế cố thủ. Nhiệm Mãng và hai đệ tử gặp nhau. Nhiệm Đăng hỏi:

– Sư phụ! Không biết ở Lĩnh Nam có phái võ nào khắc chế với võ công phái Thiên-sơn không? Hôm nay bọn sư huynh đệ chúng con gặp hai thiếu nữ rất trẻ, xinh đẹp đánh bị thương.

Nhiệm Mãng chau mày bắt Nhiệm Đăng thuật lại những chiêu thức đã đấu. Nhìn đệ tử diễn lại, mắt ông lộ ra những tia khủng khiếp, ông nói không ra lời. Nhiệm Đăng theo học với Nhiệm Mãng từ lâu, y biết sư phụ mình là đệ tử cao nhân đương thời, không ai địch nổi quá hai chưởng của ông, thế mà không hiểu sao nghe thấy hai cô gái xuất hiện, mắt lại lo sợ như vậy.

Nhiệm Mãng thở dài:

– Điều mà sư phụ lo nghĩ bấy lâu, nay đã thành sự thật. Để sư phụ kể cho con nghe. Nguyên hai trăm năm trước đây, đất Lĩnh Nam được cai trị bởi một vị vua gọi là An Dương Vương. Tên nước là Thục. Bấy giờ Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, muốn mang quân đánh Lĩnh Nam. Triều Thần can gián không nên, vì đường đất xa xôi, lam sơn chướng khí, nhân vật Lĩnh Nam không phải tầm thường.

Tần Thủy Hoàng không tin, muốn dò thám nhân vật Lĩnh Nam, mới cho sứ đòi vua An Dương Vương cống mấy võ sĩ. Vua An Dương gửi sang một võ sư cùng với đoàn đệ tử. Võ sư này tên là Lý Thân. Thầy trò Lý Thân dùng võ công đấu với võ sĩ Tần trước sân rồng, thắng hết tất cả võ quan, vệ sĩ. Tần Thủy Hoàng phong cho Lý Thân là Tư-lệ hiệu-úy mang quân đánh Hung-nô. Lý Thân đến đâu là Hung-nô bỏ chạy. Hung-nô yên, Tần Thủy Hoàng phong Lý Thân tước Vạn-tín hầu, cho về quê Lĩnh Nam thăm nhà. Mấy năm sau Hung-nô lại sang đánh, tướng Tần không sao địch nổi. Tần Thủy Hoàng lại cho người sang triệu Lý Thân. Nhưng Lý Thân đã qua đời. Tần Thủy Hoàng sai làm một tượng giống hệt Lý Thân, để trên cổng thành Hàm-dương. Trong bụng có đủ máy móc, binh lính vào trong đó giật dây, thì tượng cử động như người sống. Quân Hung-nô tưởng Lý Thân còn sống, không dám sang đánh nữa.

Tần Thủy Hoàng tưởng Lý Thân chết rồi, sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân sang đánh An Dương Vương, tin rằng chiếm được nước Thục dễ dàng. Nào ngờ thất bại. Y quên mất một điều, mỗi khi đấu với một võ sư Trung-nguyên, Lý Thân thường giả vờ chống đỡ, dò biết hết chiêu thức. Lộ số võ công của địch, rồi đem về nghiên cứu ra cách khắc chế. Hôm sau y chỉ phản công mấy chiêu là thắng được. Khi về nước, y tập trung hết tất cả võ công Trung-nguyên tìm ra nguyên lý, ưu điểm, khuyết điểm, rồi chế ra một thứ nội công, quyền, cước, kiếm, trượng phá võ công chúng ta.

Nhiệm Đăng hiểu ra:

– Khi chúng ta giao đấu với địch thủ, phải cố gắng tìm ra những sơ hở của đối phương, rồi mới tìm chiêu thức của mình khắc chết được mà phản công. Còn hậu duệ của Lý Thân đấu với chúng ta, chỉ cần đánh bừa đi, từ chiêu số đến nội công, đều đã bao hàm khắc tinh với chúng ta. Thế thì hồi ấy chắc Đồ Thư bị bại!

Nhiệm Mãng thở dài:

– Bại thì còn khá. Dân số Lĩnh Nam hồi đó bất quá vài triệu người, quân lính bất quá trăm ngàn, thế mà Đồ Thư mang tới 500 ngàn quân sang đánh, toàn quân bị diệt, y bỏ xác tại Lĩnh Nam. Từ đó võ lâm Trung-nguyên khi đụng chạm với võ lâm Lĩnh Nam thường bị bại dễ dàng. Hai thiếu nữ mà các ngươi gặp, tuổi bất quá 19-20, thời gian luyện tập chưa lâu, mà đã như vậy. Nếu sư phụ y xuất hiện, ta e rằng đến sư huynh ta là Triệu Khuôn cũng lạc bại.

Nhiệm Đăng nhớ ra điều gì:

– Con nghe nói rằng Hán Quang Vũ bị ta đánh thua, y cho gọi người em kết nghĩa trấn thủ Lĩnh Nam là Nghiêm Sơn về, giao cho toàn quyền điều động binh mã đánh Ích-châu. Nghiêm Sơn lấy vợ Việt, khéo thu phục võ lâm nhân sĩ Lĩnh nam, họ theo giúp rất đông. Hai cô gái hôm nay chắc thuộc đám người đó.

Nhiệm Mãng chỉ lên núi:

– Bây giờ quân của ta đông hơn, địch ở trên núi. Chỉ cần vây nửa buổi là chúng chết khát. Ta cần đấu chưởng với hai cô gái Việt, để biết rõ nội công, chiêu số chúng như thế nào.

Bỗng binh sĩ la hét náo loạn. Nhiệm Mãng hỏi sao, họ chỉ về phía trước: Khói trong thành Võ-đô bốc lên mịt mù.

Nhiệm Mãng kinh hoàng:

– Chúng ta không cần vây bọn này nữa. Hãy trở về Võ-đô xem sao đã.

Nhiệm Mãng cùng Điền Nhung dẫn quân trở về. Đi một lát gặp một đám tàn quân chạy tới. Chúng quỳ rạp xuống đường mà khóc:

– Không biết cọp ở đâu nhiều quá, đến mấy trăm con tràn vào thành với quân Hán. Thành đã bị chiếm mất rồi. Tất cả vợ con, thân thuộc chúng tôi bị hãm trong tay giặc, không chừng bị cọp ăn thịt hết cũng nên. Xin tướng quân kíp trở lại chiếm thành.

Nhiệm Mãng lòng nóng như lửa đốt:

– Các ngươi đã đốt lửa gọi quân ở Lưỡng-hà khẩu về chưa?

– Thưa có, thủy quân Lưỡng-hà khẩu về đến giữa đường bị một đạo Hán quân khác chiếm Lưỡng-hà khẩu. Bao nhiêu chiến thuyền bị địch bắt hết. Thủy quân quay trở lại thì bị một đội báo mấy trăm con tấn công. Binh lính bị báo cắn chết quá nửa, số còn lại bị bắt.

Nhiệm Mãng thúc quân đi cho mau, nhưng phía hậu quân của Nhiệm Đăng náo loạn lên. Nguyên Phùng Dị, Vương Thường thấy quân Thục từ thành đổ ra đánh vào sau mình, theo kế Vĩnh Hoa, chạy lên núi lập trận. Được một lát thấy khói bốc lên tại Võ-đô. Hai tướng biết quân Hán đã vào Võ-đô. Tiếp theo thấy binh Thục chia làm hai, một cản hậu, một hối hả trở về, biết rằng chúng đang náo loạn. Hai tướng cho quân đuổi theo rất gấp.

Dẫn đầu binh Hán là Quỳnh Hoa, Quế Hoa khiến Nhiệm Đăng càng uất lên. Cạnh hai nàng còn Phùng Dị, Vương Thường võ công cao ngang với sư phụ y. Nhiệm Đăng là tướng tài bên Thục, can đảm có thừa, y thúc quân cương quyết chặn hậu. Cho nên Phùng Dị, Vương Thường tả xung hữu đột cũng không chọc thủng được tuyến quân Thục.

Nhiệm Mãng là Phiêu-kị đại tướng quân của Thục, võ công, trí dũng tuyệt vời, y không tỏ vẻ nao núng, hạ lệnh cho binh sĩ lùi về Vọng-tử quan, đóng quân ven núi.

Vĩnh Hoa truyền lệnh thu quân. Các tướng Hán vào thành. Bấy giờ họ mới phục Phùng Vĩnh Hoa, lạy rạp xuống đất mà chúc tụng.

Chu Á Dũng đứng lên hiến kế:

– Giặc mất thành, lương thực không có, muốn vượt sông thì không có thuyền bè. Đóng ở Vọng-tử quan thì lương thảo không có. Xin quân sư cho đánh một trận để bắt Nhiệm Mãng.

Phùng Vĩnh Hoa cười:

– Chu tướng quân ước tính tình hình như vậy cũng tạm gọi là có mưu lược. Nhưng không phải là kế tốt nhất. Tướng quân thử nghĩ coi, Nhiệm Mãng là Phiêu-kị đại tướng quân Thục, trấn nhậm Võ-đô với một vạn thủy quân, một vạn kị binh, ba vạn bộ binh. Thế mà bị ta đánh một trận thành mất, cửa ngõ vào Thành-đô bị mở. Thủy quân bị giết hơn ba ngàn, còn lại đầu hàng. Chiến thuyền, khí giới mất hết. Ba vạn bộ binh hao mất một. Một vạn kị binh mất trên năm ngàn. Bây giờ chỉ còn hai vạn bộ binh với năm nghìn kị binh đóng ở Vọng-tử quan, lương thực không có. Không biết chiều nay sẽ lấy gì ăn. Bất cứ giá nào y cũng phải liều một trận tìm đường thoát thân. Trong các đường thoát thân, chắc chắn y sẽ rút về phía Bích-khẩu, vượt sông Dương-bình quan. Vậy ta phục quân ở đó chắc chắn bắt được y.

Các tướng hớn hở, muốn đi đánh liền. Vĩnh Hoa nói:

– Giặc cùng chớ đuổi. Bây giờ tôi phải làm cho Nhiệm Mãng mất tinh thần đã, sau mới làm tan quân của y được. Vậy Chinh-tây Phùng tướng quân thủ ở Lưỡng-hà khẩu thay cho sư bá Cao Cảnh Minh. Tại đây có một vạn bộ binh Hán và hơn năm ngàn hàng binh thủy quân Thục. Phùng tướng quân cho chiến thuyền tuần tiễu dọc từ Lưỡng-hà khẩu tới Lâm-giang, ngăn đường giặc qua sông. Tuyệt đối không được lên bờ giao chiến.

Phùng Dị lên đường liền. Vĩnh Hoa tiếp:

– Hoành-giả Vương tướng quân lĩnh một vạn quân bộ, năm ngàn quân kị ra đóng ở đồn Lâm-giang, không cho giặc trở về Dương-bình quan. Tuyệt đối không rời khỏi trại.

Vương Thường lãnh lệnh lên đường. Vĩnh Hoa tiếp:

– Trung-lang tướng Lai Háp trấn thủ Võ-đô, giữ vững thành. Tôi để lại cho một vạn quân, như vậy đủ không?

Lai Háp gật đầu:

– Nếu trong một tháng tôi giữ được. Quá một tháng thì không nổi.

Vĩnh Hoa gật đầu:

– Tôi chỉ cần một ngày thôi.

Nàng tiếp:

– Tiền-quân hiệu-úy Chu Á Dũng dẫn một vạn quân bộ, phục ở phía Nam sông Hán-thủy. Thấy Nhiệm Mãng đến đó thì đổ ra đánh ngay trước mặt, không cho chúng về Dương-bình quan. Xin Cao Cảnh Minh sư bá đi cùng với Chu tướng quân. Vì e Nhiệm Mãng xuất hiện, Chu tướng quân không phải địch thủ của y.

Nàng đứng lên nói với Khất đại-phu:

– Thái sư thúc cùng Quế Hoa, Quỳnh Hoa và cháu đi bắt Nhiệm Mãng.

Nàng gọi Hắc Hổ và Hắc Báo tướng lại dặn nhỏ mấy câu. Hai người vâng dạ, gật đầu đi liền.

Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đi thẳng đến Vọng-tử quan. Binh Thục đang trên đường đến Hán-thủy. Nhiệm Mãng đi đầu, thấy Vĩnh Hoa chỉ có bốn người với mười quân kị, y cho quân dừng lại. Điền Nhung chỉ Quế Hoa, Quỳnh Hoa cho Nhiệm Mãng biết.

Quế Hoa, Quỳnh Hoa phi ngựa lên trước. Quỳnh Hoa nghiêng mình thi lễ:

– Tiểu nữ là Trần Quỳnh Hoa, gái Việt đất Lĩnh Nam xin vấn an Phiêu-kị đại tướng quân, Kiến-oai đại tướng quân, Xa-kị đại tướng quân. Hôm nay ra trận, vì việc nước chúng tôi phải qua lại mấy chiêu với các vị, thực rất lấy làm áy náy. Tuy được các vị nhẹ tay cho, tôi thấy các vị có khí phách anh hùng, vì vậy đến đây tạ lỗi.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:11:36 SA

Hồi 6        Hồi 8

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129593 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 8

Đã trắc trở đôi ngàn xà hổ,

Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.

(Chinh phụ ngâm)

Nhiệm Đăng bảo Điền Nhung:

– Ngươi ra đấu thử với một trong hai cô gái đó, ta xem nào.

Điền Nhung phi ngựa ra trước trận, nghiêng mình đáp lễ:

– Sáng nay tôi đã bại trận, được cô nương dung mạng, cảm thấy ơn trọng nghĩa sâu. Bây giờ tôi lớn mật, muốn được cô nương dạy cho mấy chiêu nữa.

Quế-Hoa liếc mắt hỏi ý kiến Vĩnh-Hoa. Vĩnh Hoa nói nhỏ:

– Chúng muốn dò gia số, võ công của sư muội đấy. Sư muội cứ đánh lung tung để chúng tìm không ra.

Quế-Hoa nhảy xuống ngựa, nàng vung tay dùng một thế quyền của phái Sài-sơn tấn công, tay phải nàng phát chưởng xéo vào đầu của Điền Nhung, tay phải biến thành trảo chụp vào ngực y. Điền Nhung trầm người xuống tránh khỏi tay phải của nàng. Tay phải y gạt tay trái, còn tay trái y phát chưởng đánh vào ngực nàng. Quế-Hoa thu hai tay về cùng phát chưởng. Đây là chưởng của phái Long-biên, thuần âm. Bịch, hai chưởng đụng nhau, cà hai đều lùi lại. Quế-Hoa mượn đà chưởng của đối phương vọt người lên cao. Từ trên nàng co hai chân lại, rồi phóng một phi cước vào người Điền Nhung, đó là chiêu phi cước của phái Cửu-chân.

Hai người đấu với nhau trên hai chục hiệp mà Nhiệm Mãng vẫn chưa tìm ra nguyên tắc võ công của Quế-Hoa. Là người kinh nghiệm chiến đấu, y biết Quế-Hoa dùng những chiêu thức khác nhau của nhiều võ phái để đánh lạc hướng. Nhưng y cũng tìm thấy trong những chiêu thức đo,ù hầu như đều khắc chế với võ công của y.

Y quát lên:

– Điền Nhung lùi lại!

Điền Nhung nhảy lùi lại. Nhiệm Mãng tiến lên, chắp tay hướng Quế-Hoa:

– Trần cô nương, Nhiệm mỗ là Phiêu-kỵ đại tướng-quân của Thục, sư phụ của Nhiệm Đăng và Điền Nhung. Hai đồ nhi được cô nương dạy dỗ, còn dung tình cho chúng. Tôi là sư phụ của chúng. Tôi muốn được kiến thức võ công cao siêu của cô nương.

Quế-Hoa nghiêng mình đáp lễ:

– Thì ra ngài là đại cao thủ phái Thiên-sơn. Khi tiểu nữ còn ở Lĩnh Nam đã từng nghe Phiêu-kỵ đại tướng-quân trấn thủ Dương-bình quan, đánh quân Hán mờ trời mịt đất, một đêm chiếm ba thành. Hôm nay tiểu nữ mới được bái kiến, thật vinh hạnh.

Nhiệm Mãng phóng chưởng đánh liền. Chưởng chưa đánh tới, mà Quế-Hoa đã thấy nghẹt thở. Nàng trầm người xuống phát chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục-ngưu thần chưởng ra đỡ. Bùng một tiếng, người nàng vọt về sau. Nàng mượn sức nhảy vọt lên. Từ trên cao nàng phát chiêu Ngưu ngọa ư sơn. Chiêu thức này cực kỳ hùng hậu, đánh trở xuống như thác đổ. Nhiệm Mãng vừa rồi chỉ vận có ba thành công lực thử Quế-Hoa. Sau khi đụng nhau một chưởng, thấy chưởng pháp của nàng tinh diệu vô cùng, vì vậy nàng thắng Nhiệm Đăng, chứ công lực nàng thua Nhiệm Đăng xa. Lần này Quế-Hoa phát ra một chưởng, chiêu số tinh diệu, y vận tới năm thành công lực phạt ngang, Quế-Hoa bay vọt về sau, đáp xuống an toàn, nhưng nàng phải lùi lại hai bước mới đứng vững. Cánh tay nàng tê dại gần như không cử động được. Nhưng nàng ỷ có ông đứng phía sau lược trận, nên không sợ hãi. Nàng hít một hơi phát chiêu Ngưu hổ tranh phong. Nhiệm Mãng muốn dò chiêu số của nàng, y đánh cầm chừng. Sự thực nếu đấu từng chiêu, chỉ cần một chiêu Quế-Hoa đã bị hạ. Nhưng nàng đã được Đào Kỳ dạy đủ 36 chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng, cùng cách biến hóa. Chiêu nọ nối tiếâp chiêu kia, thành một pho võ công, vừa thủ vừa công rất kín. Chứ còn so về công lực, nàng còn thua cả Trưng Nhị, Phong-châu song quái.

Hai bên quay cuồng một lúc, Nhiệm Mãng đã nhận biết về Phục-ngưu thần chưởng. Y suy nghĩ:

– Võ công Lĩnh-Nam quả thật kinh người, chưởng pháp này không có một chút sơ hở, cho dù một cô gái chỉ mới mười chín đôi mươi thôi, mà đệ tử mình cũng đành chịu thua quả không oan. Người con gái này luyện tập bất quá được mười năm là cùng. Còn đệ tử mình luyện tập cả 25-30 năm rồi, mà bị bại. Nàng chỉ luyện thêm năm bảy năm nữa, thì mình cũng không phải là đối thủ của nàng. Hai cô gái nhỏ này xuất trận, nhưng chắc phía sau thế nào cũng có sư trưởng của nàng. Ta phải ra tay để họ xuất hiện, xem họ là ai?

Y vận sức đến bảy thành, phát chiêu ào ào. Quế-Hoa thấy vậy vội trần người xuống phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh của phái Cửu-chân, do Đào Kỳ dậy nàng hồi chàng dưỡng bệnh ở nhà nàng. Bùng một tiếng nàng cảm thấy cánh tay tê chồn, còn Nhiệm Mãng cảm thấy chưởng lực mình bị mất vô âm tích. Y nhận ra chiêu thức này khắc chế với võ công của y. Y phóng chưởng thứ nhì, lần này Quế-Hoa phát ra một chiêu trong Thiết kình phi chưởng của phái Cửu-chân. Bùng một tiếng thứ nhì, Quế-Hoa bật lùi hai bước, nhưng chưởng thứ ba của Nhiệm Mãng đã tới. Nàng vội rút kiếm ra đâm vào giữa chưởng lực của y. Nhiệm Mãng bật ngang chưởng một cái, kiếm của nàng bị văng lên không. Còn tay nàng toạc hổ khẩu, máu ra ròng ròng. Nhiệm Mãng vọt tới chụp nàng, định bắt sống. Khi tay y sắp chụp xuống thì cảm thấy có luồng gió lạnh lướt qua trên đầu. Biết nguy hiểm, y bật tay trở lên phát ra một chưởng đỡ luồng gió đó. Nhưng y chạm vào vật gì mềm đến bạch một cái, vật đó tan ra từng miếng bay tứ tung. Thì ra ai đã liệng một trái dưa bay qua đầu y. Tuy y đánh tan trái dưa, nhưng cảm thấy hơi kỳ lạ, vì trái dưa bị vỡ tan ra từng mảnh đều đặn như cắt.

Y nhìn về trận Hán, tuyệt không tìm ra người quăng trái dưa. Chỉ thấy Vĩnh-Hoa đứng lược trận. Y biết tuổi tác Vĩnh-Hoa không thể nào có công lực ấy. Y hướng về trận Hán kêu lớn:

– Cao nhân nào xin xuất hiện!

Không có tiếng trả lời trong khi đó Quế-Hoa lại vung chưởng đánh. Y chụp tay bắt chưởng của nàng. Chưởng của y sắp chụp vào người nàng, thì nghe một tiếng kêu o o ở trên không nhức tai, khó chịu vô cùng. Y nhảy lùi lại, nhìn lên thì thấy một vật to bằng hai nắm tay đang vù vù tiến về phía y rất chậm chạp, kình lực mạnh kinh người. Y biết người ném đó sử dụng hai kình lực một lúc. Một làm cho vật đó quay tròn, hóa cho nên có tiếng kêu o o. Hai là kình lực đẩy vật đó tiến tới rất chậm. Y không dám coi thường, vận đủ mười thành công lực đánh vào vật đó. Bình một tiếng vật đó vỡ tan, bắn ra làm mười mấy mảnh văng lại trận Thục, trúng vào đám quân sĩ. Chúng đau quá la ối ối, nhưng không có tên nào bị thương. Nhiệm Mãng coi lại vật tròn thì ra là trái bưởi. Nhiệm Mãng hoảng sợ nghĩ:

– Ai mà công lực mạnh đến thế? Khiến cho quả bưởi quay tròn với tốc độ kinh người, phát ra tiếng kêu điếc tai, kình lực mạnh làm cho vỏ bưởi rạn ra. Đến khi chạm vào chưởng ta thì vỡ ra từng múi, dư lực bắn vào trận Thục.

Y còn hoang mang thì Quế-Hoa đã đánh trúng vào vai y một chưởng. Chưởng này rất mạnh đau đến nảy đom đóm mắy. Y nổi giận quát lớn:

– Cao nhân nào, xin xuất hiện, bằng không tôi giết vị tiểu cô nương này.

Vẫn không có tiếng trả lời. Nhiệm Mãng móc trong túi ra bốn lưỡi phi đao, phóng vào Quế-Hoa, kình lực rất mạnh. Quế-Hoa hoảng hốt chưa biết tránh né cách nào, thì có tiếng kêu rít lên nhức tai, rồi bốn vật bay tới đụng vào bốn lưỡi phi đao đánh choang một tiếng. Bốn lưỡi phi đao gãy vụn từng mảnh, bay tỏa ra bốn phía. Còn một vật nữa trúng ngực Nhiệm Mãng bịch một cái. Mặt y tái mét nhìn lại, thì ra là một trái chanh. Y bàng hoàng như trong giấc mơ:

– Người này võ công cao không biết bao nhiêu mà kể, nhưng y là cao nhân không muốn giết ta, chỉ cảnh cáo thôi. Bằng không với một viên sỏi, mạng ta đã tuyệt.

Y hướng về trận Hán:

– Cám ơn đại đức của cao nhân Lĩnh-Nam đã tha mạng.

Y vẫy tay cho quân chạy về phía sông Hán-thủy. Chính y đi cản hậu. Chạy đến bờ sông, thấy dọc sông cờ Hán bay phất phới. Song tìm hoài, không một bóng người. Y cho quân rẽ vào con đường men sườn núi mà đi. Chạy được một quãng nghe tiếng reo hò inh ỏi, rồi quân Hán đổ ra. Hai tướng Hán chặn mất lối đi. Nhiệm Mãng không nói không rằng, vung đao chém liền. Tướng Hán là Chu Á-Dũng vung thương đỡ. Choảng, thương gãy đôi. Y hoảng hốt vọt khỏi mình ngựa xuống đất, vừa tránh kịp ngọn đao thứ nhì của Nhiệm Mãng. Giao tranh một lúc, quân Hán bỏ chạy lên núi. Nhiệm Mãng cho quân tiến lên, y đi đoạn hậu. Tới một khe núi có tiếng gọi:

– Nhiệm Mãng, đầu hàng đi thôi, ngươi bị chúng ta vây kín rồi chạy không thoát đâu.

Nhiệm Mãng nhìn lên thấy một người hùng vĩ mặt hồng hào, oai nghiêm, đứng trên cành cây cổ thụ.

Người đó nói:

– Nhiệm tướng quân, ta là Trường-yên đại-hiệp Cao Cảnh-Minh, người đất Lĩnh Nam. Ta với ngươi không thù, không oán, ta không giết ngươi. Vậy ngươi hãy đi đi. Ta chỉ bắt quân của ngươi thôi. Ngươi hãy xem ta bắn gãy lá cờ soái của ngươi đây.

Người đó bưông tên, tiếng kêu chát tai, cây cờ soái của Nhiệm Mạng cán bằng sắt, chạm vào mũi tên tóe lửa rồi gãy làm hai.

Nhiệm Mãng là người bác học nghe nhiều, y biết Lĩnh-Nam là nơi sản xuất nhiều tiễn thủ kinh người. Y chưa kịp phản ứng thì người đó nói:

– Ta bắn rơi bảo kiếm của ngươi đây.

Nhiệm Mãng rút kiếm vung lên, mũi tên xé gió, chạm vào kiếm kêu choảng một tiếng. Kiếm bị đổi chiều chạm vào bao kiếm, cả bao lẫn, kiếm đều bật văng ra xa.

Nhiệm Mãng phát run nghĩ:

– Với công lực của ta, đệ nhất cao thủ chưa chắc đánh rơi được vũ khí, mà sao người này có thể đánh rơi được kiếm, thì công lực y không vừa. Chắc y là người đã dùng trái cây ném ta hồi nãy đây.

Nhiệm Mãng đã lầm, người dùng trái cây ném y hồi nãy là Khất đại-phu. Còn người bắn y là Trường-yên đại hiệp, hai người hoàn toàn khác nhau. Y thấy hai người võ công cao quá, tưởng là một. Y bỏ ngựa cùng hai đệ tử kéo nhau lên núi chạy thoát thân.

Vĩnh-Hoa thấy đại quân Thục đã tan, cho thu quân. Các tướng lục tục trở về. Nàng ra lệnh:

– Chinh-tây Phùng tướng quân trấn thủ Võ-đô. Hoành giả tướng quân trấn thủ Lưỡng-hà-khẩu. Còn Trung-lang tướng quân Lai Háp thống lĩnh quân để công thành Nam-bình. Tiền-quân Hiệu-úy Chu tướng-quân vây Võ-bình. Chỉ cần đánh cầm chừng. Nếu thấy quân Thục từ Kiếm-các tới cứu thì phải rút về Bắc ngạn sông Bạch-long cố thủ.

Nàng cùng Khất đại-phu, Trường-yên đại-hiệp, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa lên đường về Dương-bình quan. Dọc đường Quế-Hoa hỏi Trường-yên đại-hiệp:

– Đại sư-bá, sư bá bắn giỏi như vậy, tầm xa nhất sư bá bắn xa được khoảng bao nhiêu?

– Không nhiều lắm độ 200 trượng.

Quế-Hoa úi chà một tiếng rồi hỏi tiếp:

– Mỗi phát sư-bá bắn được bao nhiêu mũi?

– Nhiều nhất là 20 mũi, trúng vào hai mươi mục tiêu khác nhau.

Qua câu hỏi của Quế-Hoa, Vĩnh-Hoa nghĩ ra được một kế:

– Nếu công thành, chỉ cần Trường-yên sư-bá bắn ba mũi tên vào một cổng thành, giết sạch binh tướng trấn thủ trên vọng lâu, ta cho người đánh thành dễ dàng.

Quỳnh-Hoa hỏi ông ngoại:

– Ông ngoại ơi! Tại sao ông chỉ dùng trái cây ném Nhiệm Mãng mà không ra tay bắt sống?

Khất đại-phu cười:

– Cháu không biết đấy thôi. Chính sư-tỷ Vĩnh-Hoa nhờ ông dọa Nhiệm Mãng để hắn sợ, chứ có muốn ngoại giết hắn đâu. Vả lại hắn là một người tài trí, anh hùng giết đi thì uổng quá.

Về tới đại bản doanh, Ngô Hán cùng các tướng ra đón, mừng hớn hở. Vì Vĩnh-Hoa đã cho ngựa lưu tinh về báo rồi. Nàng thăng trướng ra lệnh:

– Bây giờ chúng ta chuẩn bị đánh Dương-bình quan. Việc này xin Ngô tướng-quân suất lĩnh cho. Tôi hẹn giờ Mùi cùng với Công-tôn Tư hội ở núi Định-cường. Tôi chỉ cần Thái sư-thúc Khất đại-phu đi theo thôi. Còn tất cả do Ngô tướng-quân điều động. Chúng ta đánh cầm chừng thôi. Khi hay tin Nam-bình, Võ-đô, Võ-bình bị vây. Công-tôn Tư chia quân đi cứu các nơi, chúng ta mới lấy Dương-bình quan.

Bấy giờ tiết Đông-chí, trời lạnh, tuyết rơi lất phất. Vĩnh-Hoa trang điểm thật lộng lẫy. Nàng mặc bộ quần áo trắng, cổ choàng khăn đỏ dây lưng cũng màu đỏ. Nàng cho lệnh lấy một xe lớn lên đường đi Định-cường. Khất đại-phu giả làm người đánh xe. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa và mấy thị-nữ ngồi chung một xe với Vĩnh-Hoa. Xa xa đã thấy trên đồi Định-cường có cờ Thục bay phất phới. Tới gần chân đồi, Công-tôn Tư đứng đón nàng, y xá ba xá:

– Hôm nay tên nhà quê đất được tiếp kiến đệ nhất giai nhân đất Việt. Thực là tam sinh hữu hạnh.

Trên đỉnh đồi có khoảng trăm quân Thục canh gác. Công-tôn Tư thấy Vĩnh-Hoa chỉ đi với ông già đánh xe, hai cô gái và ba tỳ nữ, y cũng yên tâm phần nào.

Trên khu đất bằng phẳng, Tư cho làm một nhà sàn bằng gỗ, trong đốt hương nghi ngút tỏa mùi thơm. Y mời Vĩnh-Hoa vào trong. Bên trong có nhiều nhạc khí treo trên tường. Hai người ngồi vào bàn. Tư rót nước mời:

– Đây là trà đất Thành-đô. Mong rằng sẽ làm vừa lòng cô nương.

Vĩnh-Hoa nâng chung trà uống, mỉm cười hỏi:

– Tết sắp đến rồi, không biết Thái-tử có cho quân nghỉ Tết không?

Công-tôn Tư lắc đầu:

– Tôi muốn lắm chứ. Nhưng Ngô Hán đâu có để tôi yên mà ăn Tết. Này Phùng cô nương, tôi nghe đất Lĩnh-Nam có nhiều anh hùng sang dự trận đánh Thục chúng tôi, phải không? Những người tài hoa như cô nương khiến chúng tôi lo sợ. Còn Nghiêm Sơn hiện ở đâu, chúng tôi không thấy y xuất hiện.

Vĩnh-Hoa thở dài:

– Công-tôn Thái-tử! Giữa Phụ-hoàng thái-tử và Hán Quang-Vũ chẳng qua là người Hán tranh chấp với nhau mà thôi. Ai được, ai thua đất Thục vẫn là người Hán cai trị người Hán. Còn Lĩnh-Nam chúng tôi từ đời vua Thần-Nông đã phân biệt cương giới với Trung-nguyên. Nhưng sau Tần Thủy-Hoàng đánh chiếm Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, chúng tôi mất nửa nước. Rồi kịp tới Triệu Đà lợi dụng lòng ngay thẳng của vua An-Dương mà chiếm mất Âu-Lạc. Nhà Hán dứt, Triệu Đà lập thành quận, huyện. Người Hán tới cai trị chúng tôi, coi chúng tôi như trâu, chó. Mở miệng là gọi Nam-man, Man-di, khổ không biết bao nhiêu mà kể. Anh hùng Lĩnh-Nam chúng tôi đã hợp lại với nhau xin Hán-Đế trả lại đất cũ lập lại cố quốc. Chúng tôi vẫn là nước thần phục, tiến cống hàng năm. Chúng tôi tòng chinh đất Thục, chẳng qua cho Quang-Vũ biết: Nếu trả đất Lĩnh-Nam thì có một người bạn tốt, nếu không trả, khó mà giữ được.

Công-tôn Tư thấy Vĩnh-Hoa không giấu diếm điều cơ mật phục quốc của anh hùng Lĩnh-Nam. Nàng nói với y, có nghĩa là giữa hai người đều tin tưởng lẫn nhau. Y nói:

– Cô nương biết thương Lĩnh Nam, sao không nghĩ đến đất Thục? Sao cô nương không giúp chúng tôi đánh Hán?

Vĩnh-Hoa cảm thấy thương hại Công-tôn Tư:

– Thái-tử nói vậy cũng phải, nhưng việc đời như dòng nước trôi. Chúng tôi với Thái-tử lâm vào thế đối nghịch mất rồi. Chúng tôi sang đây là vì một người bạn là Nghiêm Sơn, giúp y vì tình bằng hữu mà thôi. Chính nhờ y mà đất Lĩnh-Nam chúng tôi mới được tập võ, do đó nảy sinh anh tài. Tuy nhiên tôi nghĩ đất nước cần thống nhất thành một mối, sao Thái-tử không xin với Phụ-hoàng trở thành một nước phiên, hàng năm tiến cống có phải tốt đẹp không? Ích-châu là một nước nhỏ, chịu nhún một chút, đâu có gì đáng kể là nhục? Nếu muốn mưu đồ đại sự, sau này chỉnh đốn quân mã, đợi Trung-nguyên rối loạn kéo binh ra ngã Trần-thương về kinh đô, thiên hạ vào tay như không? Nếu Thái-tử quyết ý như vậy, tôi nguyện giúp Thái-tử.

Công-tôn Tư thở dài:

– Phụ-hoàng tôi đã sai sứ sang Hán xin thần phục. Trước đây Ngỗi Hiêu, Xích Mi, Vương Mãng còn, Quang-Vũ để chúng tôi yên. Bây giờ các nơi kia bị diệt rồi, y cất quân muốn diệt nốt chúng tôi luôn.

Nghĩ một lát Công-tôn Tư nói:

– Trước đây Tổ-sư chúng tôi là Thiên-sơn lão tiên với Khất đại-phu Trần Đại Sinh có giao tình rất hậu. Hai vị hẹn mười năm sau lại lên đỉnh Kim-sơn uống rượu, đánh cờ, luận võ. Lần cuối cùng người mang theo thúc-phụ tôi là Công-tôn Thiệu, Khất đại-phu mang theo sư thúc Đặng Thi Sách.

Vĩnh-Hoa ngạc nhiên bật kêu lên:

– Úi cha!

Công-tôn Tư tiếp:

– Thúc phụ tôi với Đặng sư thúc kết làm huynh đệ. Hai bên hẹn cùng tuốt gươm cứu dân. Đặng sư thúc lập lại Lĩnh Nam. Chúng tôi lập lại Thục, chiếm Kinh-châu, Trường-an. Chúng ta chia ba thiên hạ với Hán. Hán đánh Thục thì Lĩnh Nam cứu. Hán đánh Lĩnh Nam thì Thục cứu. Không ngờ… bây giờ Lĩnh Nam lại giúp Hán diệt Thục.

Phùng Vĩnh-Hoa nói:

– Trở về tôi sẽ hỏi Khất đại-phu xem chuyện này thế nào. Nếu đúng như vậy chúng tôi sẽ đổi thái độ. Song khi tôi với Thái-tử ngồi đây thì Ngô Hán mang quân đi đánh Dương-bình quan. Chuyện này coi như tôi vô tình không biết.

Công-tôn Tư chắp tay:

– Nếu được như lời cô nương, từ nay nguyện một đời không quên đại ơn, đại đức.

Quân hầu dâng bàn cờ, Vĩnh-Hoa nhìn bàn cờ hỏi:

– Tôi chơi cờ không hay, Thái-tử chấp tôi một quân xe đi?

Công-tôn Tư gật đầu cười:

– Được tôi xin chiều cô nương.

Vĩnh-Hoa là học trò phái Sài-sơn, cầm, kỳ, thi họa đều thông. Nàng thấy Công-tôn Tư đi cờ rất cao, nước đi nào của y cũng tỏ ra là người quân tử. Nàng muốn kéo dài thời gian, nên nghĩ rất kỹ mới đi một nước. Đánh ba bàn, nàng ghìm cho hòa cả ba. Công-tôn Tư biết thế, y nói:

– Phùng cô nương quả là anh thư đất Lĩnh Nam.

Chiều đến tuyết lất phất rơi, trên đồi nhìn xuống trời đất trắng xóa, trông thật đẹp. Nàng lấy cây đàn Nhị (đờn cò) ra, kéo những khúc nhạc của Trương Chi, của phái Sài-sơn. Cứ mỗi khúc, Công-tôn Tư lại gõ xênh đánh nhịp theo.

Trời đã tối, trước khi từ biệt ra về, Vĩnh-Hoa thở dài:

– Công-tôn thái-tử, chúng ta là bạn tri âm, nhưng vô tình bị đặt vào thế đối nghịch. Duyên kỳ ngộ nay đã hết, nếu sau này có gì bất trắc tôi sẽ chạy sang Thái-tử. Ngược lại nếu Thái-tử có điều chi bận tâm lo lắng, tôi cũng sẽ hết tâm lo lắng.

Công-tôn Tư cảm động thi lễ:

– Phùng cô nương, hậu hội hữu kỳ.

Vừa lúc đó một kỵ mã phi ngựa đến như bay, quỳ gối:

– Thưa Thái-tử, Ngô Hán dẫn quân đánh thành.

Công-tôn Tư cười:

– Ta nể bên Hán là nể anh hùng Lĩnh Nam, chứ Ngô Hán ta sợ gì hắn? Trước khi đến đây tương hội với Phùng cô nương, ta đã dự trù kế hoạch đối phó, nếu hắn đánh thành rồi. Công-tôn Tư phi ngựa về thành. Vĩnh-Hoa cũng lên xe trở về bản doanh. Tới nơi Ngô Hán tiếp vào, nói:

– Nhờ cô nương cầm chân Công-tôn Tư, tôi cho vây Dương-bình quan, không ngờ trời bỗng dưng đổ tuyết thành ra không đánh được.

Ngô Hán cùng Vĩnh-Hoa đến Dương-bình quan xem, thấy binh sĩ trong thành canh phòng rất nghiêm ngặt, khó có thể lên được. Vĩnh-Hoa đi khắp hết bốn cửa thành xem xét, nàng nghĩ thầm:

– Tiếc thay ta chỉ giỏi dùng mưu mẹo mà không biết cách điều binh, đánh thành. Cho nên trước hoàn cảnh này đành bó tay. Giá có Trưng Nhị hay Phương-Dung ở đây tất lấy thành này dễ như trở bàn tay..

Quả thực đúng như ý nghĩ của Vĩnh-Hoa, tuy nàng cũng đọc binh thư như Trưng Nhị, Phương-Dung, nhưng thiên tư mỗi người một khác. Phương-Dung, Trưng Nhị thì sách lược, chiến lược giỏi đã đành. Hai người đã ở trong phủ Lĩnh-nam công một thời gian, cùng Đào Kỳ nghiên cứu rất kỹ sách huấn luyện tướng sĩ của Hán. Từ một viên sĩ tốt cho tới Tốt trưởng, Lữ-trưởng, Sư-trưởng, Quân-đoàn trưởng như thế nào, cách điều hợp lực lượng, công thành, phá ải ra sao. Rồi cả hai hợp với những điều trong Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, mà thành một bản lĩnh riêng biệt. Còn Vĩnh-Hoa chỉ biết những điều trong Lục-thao, Tam-lược, Tôn-ngô binh pháp, mà thôi. Trận đánh Võ-ơô, nàng ra lệnh cho các tướng đánh mặt này, chận mặt kia, chứ không thể nào cho chỉ thị chi tiết phải đánh như thế nào. Bốn tướng mang theo đều ở lứa tuổi 40, đánh dư trăm trận, nàng chỉ cần bảo đánh đâu, là họ ứng biến đánh như thế nào rồi. Bây giờ Ngô Hán cũng như nàng không hơn, không kém. Nàng giữ Công-tôn Tư trong hơn nửa ngày, mà Ngô Hán chỉ xua quân đánh thành như những lần trước, chứ không có gì mới mẻ hơn.

Bỗng đâu tiếng pháo nổ vang trời, từ Định-cường một đội Thục binh xuất hiện, đánh vào phía cửa Nam Dương-bình quan. Một đội nữa từ Quảng-nguyên đánh vào phía Tây.

Ngô Hán ra lệnh cho hai đạo quân vây cửa Nam và Tây rút trở về Bắc. Quân đang rút thì từ trong thành, bốn cửa mở tung, quân đánh ra mạnh như vũ bão. Thế đạo quân vây cửa Tây do Mã Thành chỉ huy và đạo quân vây cửa Nam do Đỗ Mạo chỉ huy bị ép vào giữa.

Ngô Hán đang luống cuống chưa biết giải quyết ra sao. Thì Vĩnh-Hoa ra lệnh:

– Hán-trung Thứ-sử Sử Hùng giữ vững mặt Đông, có Quế-Hoa trợ chiến. Hành-quân Tư-mã Vương-Bá giữ vững mặt Bắc, có Quỳnh-Hoa trợ chiến. Nhất thiết không được lùi một bước. Ai lùi chém tại chỗ.

– Cao Cảnh-Anh, Cao Cảnh-Hùng dẫn đội Thần-nỏ 1 đánh cửa Tây, cứu Tây-lương Thứ-sử Mã Thành. Sư huynh Cao Cảnh-Hào, Cao Cảnh-Kiệt dẫn đội Thần-nỏ 2 đánh cửa Nam giúp Hậu-quân Hiệu-úy Ngô Triệu. Trần Đạm-Nương, Trần Thanh-Nương mang quân đánh vào phía sau địch

– Thái sư-thúc Khất đại-phu và Trường-yên sư bá vào trong thành, đốt kho lương giặc làm náo loạn lòng quân.

Nàng nhìn thấy người chỉ huy đoàn quân Thục từ phía Nam vây ép Đỗ Mạo và Công-tôn Tư. Nàng không muốn đối trận với y, nên lùi lại gò cao quan sát tình hình. Hai bên đánh nhau dưới tuyết, trống đánh, quân reo, ngựa hí vang trời. Đêm mùa đông, mờ mờ trắng, hai bên chém giết nhau khủng khiếp. Bỗng nàng gọi Hoàng Hổ lại nói mấy câu. Hoàng Hỗ cười ha hả rồi lui về trận. Một tiếng sau những tiếng gầm gừ vang dội lên, trên trăm con cọp chia thành mười đội xông vào cửa Bắc. Đám quân trấn thủ cửa nầy đang giao tranh ác liệt với Quế-Hoa, Vương Bá thì bị đội cọp chọc thủng phía sau. Thục binh bỏ vũ khí chạy sang cửa Tây. Quân trên thành hoảng sợ, đóng cửa lại. Đám canh gác ở vọng lầu bắn tên xuống như mưa. Đội cọp bị chết mấy con phải lùi lại.

Bỗng vèo vèo mấy tiếng xé gió trên không, một loạt tên bay lên, toán xạ thủ Thục ngã gục trên vọng lâu.

Trường-yên đại hiệp hô lớn:

– Hoàng Hổ, cháu cho cọp tiến sát vào chân thành đi.

Hoàng Hổ hú lên một tiếng cho cọp tiến sát chân thành. Đám quân trên vọng lâu vừa thò đầu định bắn xuống, thì Trường-yên đại hiệp lại bắn liền bốn phát, mỗi phát mười mũi tên, đám xạ thủ lại ngã gục xuống.

Ông lại bắn tiếp một mũi tên thật lớn vào cánh cửa vọng lâu. Mũi tên cột một sợi dây. Khất đại-phu chạy đến chân thành nắm sợi dây giật sẽ một cái, rồi hô:

– Ta lên đây!

Ông bám dây thoăn thoắt leo lên thành. Trên thành một tướng xuất hiện, múa kiếm định chặt đứt dây. Hắn vung kiếm lên. Cao Cảnh-Minh giương cung, choang, thanh kiếm văng mất. Viên tướng kia vẫn không nao núng, rút dao ngắn định tiếp tục cắt, thì véo véo năm mũi tên bay lên, một trúng vào đầu y, còn lại trúng vào bốn tên xạ thủ của vọng lâu. Mũi tên cột một sợi dây, tất cả ngã lộn đầu xuống đất.

Khất đại-phu đã lên đến vọng lâu. Ông vung chưởng đánh vào vọng lâu. Bùng, vọng lâu kêu răng rắc rồi đổ ầm xuống chân thành. Thục binh ngẩn người ra, vì thấy công lực ông thật kinh người.

Khất đại-phu nhảy xuống thành, chỉ ba chưởng ông đã đánh bay cả đám quân phía trong. Ông rút kiếm chặt sợi dây cột cổng thành, mở ra cái rầm.

Ông cảm thấy nghẹt thở, như bị ai đánh trộm. Ông không quay lại, mà vung về phía sau một chưởng, đó là chiêu Lưỡng ngưu tranh phong, bùng một tiếng, tay ông cảm thấy tê chồn. Bấy giờ ông mới quay lại, thấy người đánh mình là một tên quân Thục tướng mạo rất uy vũ.

Ông ngạc nhiên nghĩ:

– Từ sau trận hồ Tây, đây là lần đầu tiên ta gặp đối thủ có công lực mạnh đến như vậy.

Ông định phóng chưởng đánh, y đã lùi lại, vì đàn cọp tràn vào trong thành, gầm lên những tiếng long trời lỡ đất.

Hành-quân Tư-mã Vương Bá và Quế-Hoa dẫn quân nhập thành, đánh vào trung ương. Ông bỏ cửa Bắc, chạy vào kho lương thực, dinh thự trung ương châm lửa đốt. Lửa bốc lên ngút trời. Ông chạy ra cửa Đông thấy Thứ-sử Hán-trung Sử Hùng, Quỳnh-Hoa cùng Hoàng Báo tướng chỉ huy đội Báo-quân nhập thành rồi.

Ông ra cửa Nam, trận chiến đang khốc liệt. Đứng trên cao nhìn xuống, thấy viên quan đấu chưởng với ông ban nãy, đang múa kiếm chận hậu cho quân rút lui. Y đi đến đâu quân Hán dạt đến đó. Cuối cùng quân Thục rút lui được hết. Ông ngẫm nghĩ: Đất Thục quả nhiên nhiều anh tài, nếu không có ông, với đám quần hào Vĩnh-Hoa, có lẽ không bao giờ Ngô Hán thắng được Thục.

Phùng Vĩnh-Hoa cho lệnh thu quân. Các tướng tề tựu đầy đủ. Ngô Hán tổng kết lại bên Hán chết hơn hai vạn, bên Thục vừa chết vừa bị bắt trên ba vạn. Thực là một trận đánh long trời lở đất. Hai bên quân cùng tinh nhuệ, tướng cùng dũng cảm. Một bên cố thủ, một bên quyết đánh. Ngô Hán cho đám quân ở Nam-trịnh bổ sung tức thì để kịp theo quân Thục. Y thăng trướng hướng về Khất đại-phu và Trường-yên đaÏi hiệp:

– Đệ tử kính cẩn tạ ơn các lão tiên sinh, nếu không có các vị ra tay trợ giúp, thì không những không vào được thành mà hai đạo quân đánh cửa Tây và cửa Nam bị diệt hết.

Phùng Vĩnh-Hoa ra lệnh cho quân sĩ không được hại tù binh, nhất là không được đụng đến vợ con, gia tộc, của cải tướng sĩ bên Thục. Nàng nhờ Khất đại-phu chữa trị cho thương binh, rồi thả cho về. Nàng đi quan sát khu nhà ở của tướng sĩ bên Thục, thấy vợ con gia quyến họ ngồi ôm nhau khóc lóc thảm thiết. Nàng cho phép họ được ra ngoài thành tìm xác thân nhân đem về chôn cất. Những ai muốn rời thành đến Kiếm-các theo chồng con, thì cho xe ngựa chở theo của cải. Nàng dẫn Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa cùng đi kiểm điểm, tới dinh Thái-tử Công-tôn Tư, nghe bên trong có tiếng khóc rất bi ai. Nàng vào xem, bên ngoài có quân Hán đang canh gác, bước vào thấy có một thiếu phụ trẻ đẹp, đang ôm hai thiếu phụ khác, với vẻ che chở, cả ba cùng quỳ lạy một viên Lữ-trưởng người Hán. Viên Lữ-trưởng ngồi trên ghế. Nàng núp sang một bên cửa quan sát. Viên Lữ-trưởng quát hỏi:

– Ba người là tỳ thiếp của Công-tôn Tư phải không?

Thiếu phụ trẻ nói:

– Tôi là cơ thiếp của Thái-tử. Còn hai người này một là vợ của Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh, người còn lại là phu nhân của Lũng-tây vương Triệu Khuôn.

Viên Lữ-trưởng hỏi tỳ thiếp của Công-tôn Tư:

– Nàng tên gì? Bao nhiêu tuổi?

– Thiếp là Xuân-Hoa, năm nay 21 tuổi.

Thôi được để hai người đàn bà này sang bên kia, còn nàng ở đây hầu hạ ta. Ta sẽ tha chết cho.

Xuân-Hoa cúi đầu nhỏ lệ:

– Thiếp là gái có chồng, xin tướng quân dung thứ, đừng bắt tiện thiếp phải thất tiết. Tướng quân muốn gì thiếp cũng xin dâng.

Viên Lữ-trưởng cười:

– Được để ta nghĩ xem.

Đám quân đi theo y kiểm điểmn tài sản của Công-tôn Tư xong, trình cuốn sổ lên. Viên Lữ-trưởng nói:

– Số châu ngọc nầy nhiều quá, người khai một nửa thôi, số còn lại để cho ta.

Viên thư lại vâng dạ, cầm bút bôi đi chép lại. Viên Lữ-trưởng bảo Xuân-Hoa:

– Ngươi dẫn ta vào phòng, để ta khám xét xem còn vàng bạc gì không.

Xuân-Hoa vâng dạ đi trước, viên Lữ-trưởng theo sau. Vừa vào phòng y khép cửa lại. Có tiếng Xuân-Hoa ú ớ vọng ra.

Vĩnh-Hoa nổi giận bước vào, nàng phóng chân đá một cái, cánh cửa bật tung. Viên Lữ-trưởng thấy nàng vội buông Xuân-Hoa. Vĩnh-Hoa chụp tóc viên Lữ-ttrưởng lôi y ra ngoài, tát y hai cái liền. Nàng ra tay mạnh quá, khiến miệng y phun máu. Nàng quát hỏi:

– Mi tên gì?

– Tiểu nhân tên Võ Hữu-Hạnh.

– Ngươi thuộc đạo quân nào?

– Tiểu nhân thuộc đạo trung quân được Ngô nguyên soái sai đi canh gác phủ Thái-tử Công-tôn Tư.

Vĩnh-Hoa sai trói y lại. Nàng nói với ba người đàn bà:

– Các nàng đừng sợ, ta sẽ đưa các nàng về với chồng.

Nàng trở về lại đại sảnh đường Dương-bình quan. Ngô Hán đã bày tiệc mừng chiến thắng. Vĩnh-Hoa sai dẫn Võ Hữu-Hạnh vào giữa lúc các tướng đang uống rượu, nghe ca hát. Ngô Hán đứng dậy, bưng chén rượu đến trước Vĩnh-Hoa.

– Phùng cô nương, bản soái chờ mãi không thấy cô nương về, đành phải khai tiệc. Nay có ly rượu này cảm tạ cô nương. Nếu không có cô nương cùng anh hùng Lĩnh-Nam, thì làm sao nhà Hán thu được thành này.

Vĩnh-Hoa cầm ly rượu uống rồi nói:

– Ngô nguyên soái, tôi đi thăm phủ đệ các tướng bên Thục, thấy Lữ-trưởng Võ Hữu-Hạnh đang định hiếp dâm vợ con tướng sĩ bên Thục để lại. Tôi sai bắt về đây để nguyên soái định liệu.

Thời bấy giờ, cứ sau một chiến thắng, lừa ngựa lương tục, vũ khí, cho đến vợ con, tôi tớ bên giặc đều tịch thu để thưởng cho tướng sĩ có công. Việc bắt vợ con tướng giặc để thưởng cho tướng mình là chuyện thường. Nhưng Nghiêm Sơn xuất thân là người nghĩa hiệp. Ông truyền bỏ những việc dơ bẩn ấy đi, vì không có vẻ anh hùng chút nào. Hơn nữa trong hịch đã nói rằng dù một ngọn rau, một cọng cỏ cũng không đụng đến, vì vậy các tướng sĩ Hán đi đến đâu cũng không dám cướp phá.

Ngô Hán hỏi Võ Hữu Hạnh mấy câu, ông giận lắm quát:

– Tội ngươi đáng xử trảm. Vậy ngươi có gì kêu ca không?

Y cúi đầu khóc lóc không nói gì. Ngô Hán sai đem ra viên môn chặt đầu, đem đi khắp nơi bêu cho quân tướng xem làm gương.

Vĩnh-Hoa ghé tai Ngô Hán nói nhỏ mấy câu. Ngô Hán mừng lắm:

– Xin Quân-sư cứ tự tiện. Mưu Quân-sư cao như thế, thì chẳng mấy chốc chúng ta vào tới Thành-đô.

Phùng Vĩnh-Hoa dự tiệc xong, trở về thư phòng riêng, sai lấy bút mực viết một bức thư gửi cho Công-tôn Tư:

Tả quân-sư của Xa-kỵ đại tướng quân nhà Hán, Lĩnh-Nam Đăng-châu nữ hiệp gửi cho Công-tôn Thái-tử Ích-châu.

Sau lần gặp gỡ tại Định-cường, thì trận đánh trúc chẻ, ngói tan xảy ra, hiện không được biết tôn giá Thái-tử ở đâu. Phàm đã đãi nhau là tri kỷ, thì dù là thù hận, dù việc trọng đại đến đâu cũng không thể bỏ cái nghĩa tri âm. Nhân gặp Vương-phi của Thái-tử, Vương-phi của Lũng-tây vương và phu nhân của Trung-lang tướng Tào Mạnh bị nạn. Nay xin đưa Vương-phi cùng tài sản các vị trở về, để tạ nghĩa tri âm. Hẹn sẽ gặp nhau.

Phùng Vĩnh-Hoa cẩn bút.

Nàng niêm phong, đóng ấn, ký tên xong đưa cho Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:

– Ta phiền sư muội dẫn đoàn xe của mấy vị này đến Kiếm-các trao tận tay Thái-tử cho ta.

Rồi nàng ghé tai dặn Quế-Hoa mấy câu. Quế-Hoa gật đầu cười rồi cùng Quỳnh-Hoa dẫn đoàn xe hướng Kiếm-các đi tới. Đoàn xe dài tới 20 cỗ, trên chở đầy vợ con, nô tỳ, của cải tướng Thục bỏ lại.

Phùng Vĩnh Hoa về trướng, thì thấy Khất đại-phu, Trường-yên đại-hiệp cùng anh hùng Lĩnh Nam tụ hội đông đủ. Phía ngoài Vi Đại Khê chỉ huy đội Thần-ngao canh phòng nghiêm ngặt. Trên không đội Thần-ưng bay lượn không ngừng.

Nguyên hôm chia tay ở Phiên-ngung, Trưng Nhị dặn dò anh hùng các đạo rằng, mỗi khi cần họp riêng với nhau, nên cho đội Thần-ngao canh chừng ờ ngoài ba hay bốn vòng thực nghiêm mật. Trừ đạo Kinh-châu có 600 Thần-ưng; mỗi đạo mang 10 con để liên lạc. Khi hội họp thì dùng Thần-ưng bay trên cao tuần thám. Công tác bố phòng này giao cho Ngao-sơn tứ lão.

Phùng Vĩnh-Hoa kính cẩn hướng vào Khất đại-phu:

– Thưa sư thúc, chẳng hay sư thúc tổ chức buổi họp, có gì dạy bảo cháu?

Khất đại-phu đáp:

– Ta có nhiều điều muốn nói với cháu chưng chưa đến lúc. Song các anh hùng muốn tổ chức cuộc họp, để chúng ta trao đổi những nhận xét về mấy ngày qua.

Phùng Vĩnh Hoa mời Khất đại-phu, Cao Cảnh Minh ngồi lên chủ tọa. Trường-yên đại-hiệp nói:

– Qua trận đánh Võ-đô, Dương-bình quan, lão nhận thấy tướng sĩ Thục là những anh hùng hào sảng đầy lòng nghĩa hiệp. Quân, tướng một lòng, giống như người Lĩnh Nam của ta. Dân chúng các vùng Võ-đô, Dương-bình quan mình mới chiếm được, họ khóc lóc thảm thiết khi Thục bị thua. Chúng ta hỏi thăm, họ nói rằng với Thục, họ được hưởng hạnh phúc. Với Hán luật pháp khắc khe. Phàm xưa nay, ai đem lại hạnh phúc cho trăm họ, người đó là minh-chúa. Ai đem khổ cực cho dân là giặc. Đời Hồng-bàng trải qua mấy nghìn năm, đem hạnh phúc cho dân Lĩnh Nam ta, nên chúng ta thờ. Đời vua cuối cùng tàn bạo nên chúng ta theo An Dương Vương. Bên Trung-nguyên, Kiệt, Trụ vô đạo nên mới có Thành-Thang, Văn-Vương. Bây giờ Hán vô đạo mới có Thục. Ta có cảm tưởng mình giúp kẻ ác, đánh người nhân mất rồi.

Trần Đạm-Nương nói:

– Thái-tử Công-tôn Tư là người anh hùng hào sảng. Y lấy cái phong nhã đãi sư-muội, không biết sư muội nghĩ sao?

Tây-vu Hoàng-Hổ tướng nói:

– Em thấy hổ xông vào trận, nhiều tướng sĩ đứng lại chịu ăn thịt, để cho binh sĩ rút. Vì vậy em cho hổ tiến từ từ, không nỡ giết người nghĩa sĩ.

Trần Hồng-Nương tiếp:

– Chúng ta mưu phục hồi Lĩnh Nam, vì muốn rút 30 vạn quân Hán ra khỏi đất nước mình, mà phải giúp Hán đánh Thục. Bây giờ Thục đã rút rồi, ta kệ Hán, Thục đánh nhau là hơn hết.

Phùng Vĩnh Hoa nói:

– Tôi tiếp xúc riêng với Công-tôn Tư, quả y là người anh hùng hào kiệt, thấy chúng ta giúp Hán mà không căm hận. Vì vậy khi vào thành Dương-bình quan, tôi nói dối Ngô Hán rằng tha vợ con tướng sĩ của họ về để gây nghi ngờ giữa cha con Công-tôn Thuật, nhưng thực ra là tha họ.

Khất đại-phu nói:

– Vậy như thế nầy, cháu dùng Thần-ưng đưa tin về Giao-chỉ hỏi Đặng Thi Sách, Trưng Trắc, Đào Thế Kiệt xem họ quyết định thế nào. Trong khi đó chúng ta lần lữa tìm cách cản trở Ngô Hán đánh Thục.

Phùng Vĩnh Hoa cung kính thưa:

– Cháu xin tuân lệnh Thái-sư thúc.

Nàng cầm bút viết thư, giao cho Vi Đại Khê sai Thần-ưng chuyển đi. Hôm sau Ngô Hán muốn tiến binh đánh Kiếm-các. Phùng Vĩnh-Hoa cười:

– Đại tướng-quân, chúng ta chiếm hai thành lớn, Thục rung động. Nếu tiến binh nữa Công-tôn Thuật sẽ dồn binh ra đây. Đạo Lĩnh Nam, Kinh-châu sẽ vào Thành-đô trước. Tướng-quân còn hy vọng gì làm chúa Ích-châu.

Ngô Hán chợt nhớ ra, lấy lý do tuyết xuống nhiều, cho quân sĩ nghĩ ngơi.

Sáu hôm sau Thần-ưng từ Giao-chỉ bay sang. Mang theo hai bức thư. Vi Đại-Khê trình bức thư cho Khất đại-phu. Ông liền cho triệu tập đại hội anh hùng Lĩnh Nam. Phùng Vĩnh Hoa cầm ống tre bổ ra, trong có hai bức thư. Một do Đặng Thi Sách viết cho Khất đại-phu. Một của Đào Thế Kiệt gửi cho Phương-Dung. Nàng cầm thư Đặng Thi Sách gửi cho Khất đại-phu đọc:

Đệ tử Đặng Thi-Sách và Trưng Trắc khép nép kính thư lên Thái sư-thúc là Trần lão tiên.

Khi Thái sư-thúc và anh hùng Lĩnh Nam lên đường rồi, công việc nhà vẫn tốt đẹp cả. Các trang ấp của Thái sư-thúc Lê Đạo-Sinh và đệ tử người, cháu đã cử đệ tử bản môn đến quản nhiệm; tổ chức, huấn luyện tráng đinh cùng ban hành chính sách do Thái sư-thúc dậy, bỏ hình pháp, lấy đức trị người. Tô Định không còn quyền làm gì, y chỉ ở quanh Luy-lâu mà thôi. Long-biên hầu Lưu Nhất-Phương chưởng quản hết mọi sự.

Mới đây đệ tử nhận được thư của Thiên-ưng Tây-vu Lục-hầu tướng gửi, nói rằng đạo Kinh-châu đánh thành Bạch-đế bắt được Trường-sa vương Công-tôn Thiệu. Thiệu kể chuyện mối giao tình giữa Thái sư-thúc và Thiên-sơn lão tiên ngày nọ trên đỉnh Kim-sơn, cùng lời giao ước giữa cháu vài y. Lục-Sún xin ý kiến rằng điều Thiệu kể có đúng hay không? Nếu đúng chúng thả Công-tôn Thiệu ra, nếu sai thì thôi.

Khi cháu cùng Đào-hầu chủ tọa đại hội đánh hồ Tây, đã quyết định trợ Hán đánh Thục, nào ngờ Công-tôân Thuật là anh Công-tôn Thiệu và là đồ tôn của Thiên-sơn lão tiên. Bây giờ sự thể đã thế, cháu vội liên lạc với Đào-hầu. Hai bên cùng cử người liên lạc với anh hùng Lĩnh Nam, duyệt xét tình hình, quyết định tại chỗ. Đào-hầu cử Đinh-hầu, cháu cử Trưng Trắc cùng lên đường. Vậy cháu dám xin Thái sư-thúc bàn riêng với anh hùng Lĩnh Nam tạm ngừng tiến quân. Nhất thiết mọi việc không cho Nghiêm Sơn với Hoàng Thiều-Hoa biết vội.

Cháu kính cẩn kính chúc Thái sư-thúc vạn thọ.

Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc cẩn bút

Nàng cầm thư Đào Thế-Kiệt viết mở ra đọc:

Đào-hầu chưởng môn phái Cửu-chân thư cho con dâu là Phương-Dung.

Ta gửi sư-thúc Đinh Đại và Trưng Trắc sang Trung-nguyên. Mọi quyết định của sư-thúc và Trưng Trắc là của ta. Con tuyệt đối tuân theo dù quyết định đó có phải hy sinh tính mạng của các con hoặc của tất cả anh hùng Lĩnh Nam đang Bắc-viện.

Đào Thế-Kiệt.

Cao Cảnh-Minh hỏi Khất đại-phu:

– Lão tiên sinh, xin lão tiên sinh dạy cho bọn hậu bối ít lời.

Khất đại-phu, mắt mơ màng nhìn về phía chân trời xa:

– Cách nay hơn mười năm, lão lên đường sang tương hội với người bạn già là Thiên-sơn lão tiên. Lão mang theo đồ tôn là Đặng Thi Sách. Thiên-sơn lão tiên mang theo đồ tôn là Công-tôn Thiệu. Trong khi chúng ta đàm luận võ công, đánh cờ. Thì Thiệu, Sách kết huynh đệ. Thiệu lớn hơn là anh. Chúng nguyện đem ba thước gươm ra cứu đời. Thi-Sách muốn phục hồi Lĩnh Nam. Thiệu muốn lập lại Thục rồi chiếm Kinh-châu, Trường-an. Thục, Hán, Lĩnh Nam chia ba thiên hạ. Nếu Hán đánh Thục thì Lĩnh Nam cứu viện. Khi xuất chinh trợ Hán ta đâu có ngờ Công-tôn Thuật là anh Công-tôn Thiệu. Hà… chúng ta đánh lầm người rồi bây giờ biết làm sao?

Phần Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa điều khiển đoàn xe Thục chở vợ con tướng sĩ Thục, đến Quảng-nguyên thì gặp binh Thục đóng ở đấy. Tướng bên Thục là Hầu Đơn sai quân chặn lại. Y nhận ra Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:

– Nhị vị Trần cô nương. Nhị vị đi đâu đây?

Quế-Hoa chỉ đoàn xe nói:

– Đoàn xe này chở vợ con cùng của cải các tướng ở Ích-châu bỏ lại. Phùng sư tỷ bảo chúng tôi hộ tống về trao tận tay Thái-tử.

Hầu Đơn đi từng xe kiểm lại, thấy quả toàn vợ con các tướng, trong đó có cả vợ y. Vợ y thấy y òa lên khóc lóc thảm thiết:

– Tướng công, bọn thiếp tưởng không bao giờ gặp lại tướng công nữa, không ngờ nay lại được trở về.

Hầu Đơn giao quân cho phó tướng. Còn y đích thân đi theo Quế-Hoa. Chiều hôm đó đoàn xe đến Kiếm-các. Hầu Đơn để đoàn xe ở ngoài, y vào báo cho Công-tôn Tư biết.

Sau khi thất thủ Dương-bình quan, Công-tôn Tư cùng các tướng sĩ tuy thoát thân, bảo vệ được chủ lực quân, nhưng thành mất, vợ con tướng sĩ bị lọt vào tay địch. Y buồn rầu không biết giải quyết ra sao, sáng nay y được tin báo vợ con binh sĩ được trả về hết. Bây giờ lại được tin báo, vợ con y cùng các tướng do sứ giả hộ tống đến tận nơi trao trả.

Tư sai mở cổng thành cho đoàn xe vào. Y mời Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa vào trướng. Hai nàng thi lễ chứ không lạy:

– Công-tôn thái-tử, sư tỷ Vĩnh-Hoa nhờ chúng tôi chuyển thư nầy tới Thái-tử và hộ tống Vương-phi cùng vợ con các tướng giao về Thái-tử.

Một văn thần quát:

– Hai người con gái thật vô lễ. Luật lệ ở đâu cũng vậy, sứ giả phải quỳ gối lạy chúa tướng. Tại sao hai nàng lại đứng mà nói năng vô lễ như vậy. Bộ các ngươi chê gươm Thục không sắc sao?

Quỳnh-Hoa cười khanh khách:

– Trong lịch sử Trung-nguyên chưa từng có việc bắt được của, vợ con bên địch mà sai sứ giả đem trả về cho bao giờ. Sở dĩ sư tỷ sai tôi đem vợ con, của cải các tướng về trả, một là vì sư-tỷ với Thái-tử là bạn tri âm, thì Vương-phi của Thái-tử là chị của sư-tỷ. Con của Thái-tử là cháu của sư-tỷ. Vợ con các tướng thuộc quyền Thái-tử cũng như anh em họ hàng sư-tỷ. Tôi vì sư-tỷ mà đưa đến đây, chứ đâu phải sứ? Trên đời làm gì có ân nhân phải quỳ gối lạy người thọ ân bao giờ? Ngươi thân làm quan văn, mà không thông đạo lý chút nào, làm sao mà thắng Hán được?

Công-tôn Tư chắp tay tạ lỗi:

– Trần cô nương bỏ lỗi cho.

Y bóc thư Vĩnh-Hoa ra định đọc, thì Quỳnh-Hoa bưng đến một cái hộp.

– Sư-tỷ gửi tặng Thái-tử đấy.

Công-tôn Tư mở ra coi, thì thấy một cây đàn cò (nhị). Trên mặt đàn có bút tích Vĩnh-Hoa viết đề tặng. Công-tôn thái-tử ngẩn người ra, không hiểu Vĩnh-Hoa định làm gì. Nàng là người tốt với y, hay kẻ thù? Mới hôm qua cùng nàng hòa nhạc, rồi nàng chỉ huy quân Hán cướp Dương-bình quan, bây giờ nàng trả vợ con, của cải về, rồi sai tặng đàn. Y nói với Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:

– Xin hai vị cô nương nghĩ lại đây chơi vài ngày, ta sẽ sai người theo hai cô nương về tạ ơn Phùng cô nương.

Vừa lúc đó có quân báo:

– Khải tấu Thái-tử, có Phiêu-kỵ đại tướng quân, Kiến-oai đại tướng quân, Xa-kỵ đại tướng quân tự trói mình xin vào yết kiến Thái-tử.

Công-tôn Tư giật bắn người lên, sai dẫn ba người vào. Ba người đồng quỳ xuống nói:

– Chúng tôi bất tài để mất Nam-bình, Võ-đô và Bình-võ, xin đem thân về chịu quân pháp.

Mặt Công-tôn thái-tử tái mét, đứng lên cởi trói cho ba người, rồi hỏi Nhiệm Mãng:

– Sư-thúc, vì đâu nên nỗi? Quân Hán làm thế nào mà chiếm được Võ-đô dễ dàng như vậy?

Nhiệm Mãng thở dài, thuật lại chi tiết cuộc chiến. Y kết luận :

– Trên đường về đây, tôi nghe tin Nam-bình và Bình-võ đều thất thủ.

Nhiệm Đăng thấy Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa ngồi đó chỉ vào hai nàng:

– Đây chính hai cô nương nầy đánh tôi với Điền sư huynh trọng thương. Còn một cô nữa lớn tuổi hơn, chỉ huy bốn tướng Hán đánh Võ-đô, Lưỡng-hà khẩu, và một lão già bắn tên, kình lực mạnh vô cùng, khiến suýt nữa sư phụ tôi mất mạng ở Hán-thủy.

Triệu Khuôn lắc đầu:

– Sư điệt, ngươi có nhìn lầm chăng? Cách đây hai ngày chính hai vị cô nương nầy dự trận đánh Dương-bình quan, làm sao các cô có thể dự trận Võ-đô? Còn sư tỷ của cô mới hai hôm trước, cùng lên đồi Định-cường tấu nhạc, đánh cờ, rồi trở về đánh trận Dương-bình quan. Còn lão già mập mạp, lão là ông của hai cô nương này, chính lão leo lên cửa Bắc Dương-bình quan vào thành trước. Ta đã đấu với lão hai chưởng, thì làm sao lão có mặt ở Võ-đô được?

Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh bảo Triệu Khuôn:

– Xin các vị tướng quân đừng cãi nhau nữa. Phải chính sư-tỷ cô nương nầy, và cả hai cô lẫn ông cô đều dự trận đánh Võ-đô. Nhưng sau khi trận kết thúc, họ phi ngựa về Dương-bình quan ngay, chúng ta tuyệt không ngờ họ đánh cả hai nơi.

Quế-Hoa cười khúc khích:

– Tào quân sư nói đúng mà sai. Nguyên chúng tôi là ba cặp chị em sinh đôi. Chia nhau đánh Võ-đô và Dương-bình quan.

Công-tôn Tư biết hai nàng nói đùa:

– Xin hai cô nương về quán dịch nghỉ ngơi. Sáng mai chúng tôi sẽ đưa hai cô nương về Dương-bình quan.

Tỳ nữ dẫn hai nàng rời đại sảnh, thì một thiếu phụ xinh đẹp đón lại chào hỏi. Quế-Hoa nhận ra nàng là Trần Hương Lan vợ Triệu Khuôn. Nàng niềm nở đón hai nàng:

– Nhờ đại ơn, đại đức của Phùng cô nương, chúng tôi mới được toàn vẹn, nếu không thì đã bị vùi hoa dập liễu với bọn quân Hán vô loại. Hôm nay chúng tôi xin được mời hai vị cô nương dùng bữa cơm lạt.

Hương-Lan dẫn Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa về phủ, tiệc đã bày ra, Hương-Lan tiếp đãi hai nàng cực kỳ cung kính. Đang bữa ăn, Hương-Lan cứ hỏi về tình hình bên Hán. Quỳnh-Hoa đã được Vĩnh-Hoa dặn trước nên Quỳnh-Hoa bảo với Hương-Lan:

– Xin Vương-phi cho tỳ nữ ra ngoài tiểu-muội mới dám nói.

Hương-Lan đưa mắt nhìn, đám tỳ nữ ra ngoài hết Quế-Hoa mới nói:

– Hán có ba đạo đánh vào Ích-châu. Đạo thứ nhất do Đại tư-mã Đặng Vũ chỉ huy. Giờ này đã lấy được Xuyên-khẩu, Bạch-đế, hiện đã tiến tới Lương-bình, Võ-lăng. Đạo thứ hai toàn người Lĩnh Nam, vượt Kim-sơn, chiếm Độ-khẩu, Mễ-dịch, Phổ-khách, Đức-xương, Mỹ-cơ và Việt-tây. Có lẽ giờ này sắp đến Thành-đô. Còn đạo Hán-trung đã lấy Võ-đô, Nam-bình, Bình-võ và Dương-bình quan. Không biết Vương gia sẽ đối phó thế nào?

Hương-Lan thở dài:

– Hai vị cô nương đã dự trận thì thấy. Hoàng-thượng là người nghĩa hiệp, cùng các sư đệ dựng nên nghiệp Đế ở đất Thục. Chiếm Ích-châu, Kinh-châu, Hán-trung và Lũng-tây. Gần đây binh cô, thế kiệt nên chỉ còn Ích-châu. Tướng sĩ Ích-châu trên dưới một lòng, vì vậy đánh quân Hán nhiều trận kinh thiên động địa. Nhưng từ khi anh hùng Lĩnh-Nam xuất hiện, chúng tôi bị thua liên tiếp. Anh hùng Lĩnh Nam là những người nghĩa hiệp, không biết tại sao lại trợ Hán đánh Thục. Đất Thục tuy nhỏ, nhưng chúng tôi thề chiến đấu tới chết, chứ không đầu hàng Hán.

Từ hôm theo quân đến Hán-trung đánh Thục đến giờ, chị em Quế-Hoa được tận mắt thấy binh sĩ Thục chiến đấu dũng cảm. Tướng sĩ Thục trên dưới đối xử với nhau như huynh đệ. Hai nàng tuổi mới 18, không kinh lịch nhiều, không đọc sách nhiều như Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, nhưng cứ theo lý tính mà suy nghĩ, hai nàng cảm thấy hình như mình giúp kẻ bất nghĩa, đánh người nghĩa hiệp. Hôm nay nghe Hương-Lan trần tình, hai nàng nín thinh, không biết đáp lại làm sao.

Sau bữa ăn có thị-nữ vào nói lại với Hương-Lan:

– Thưa Vương-phi, Vương-gia truyền Vương-phi cho phép Vương-gia được tiếp chuyện với hai cô nương Lĩnh-Nam.

Quế-Hoa gật đầu:

– Chúng tôi sẵn sàng tiếp đón Vương-gia.

Một lát sau Triệu Khuôn bước vào, y dẫn theo hai người nữa. Triệu Khuôn chỉ vào người thứ nhất giới thiệu:

– Đây là Tam sư huynh của chúng tôi, họ Công-tôn tên Thiệu, hiện lĩnh chức Trường-sa vương.

Quế-Hoa nói:

– Tôi nghe Phùng sư-tỷ nói rằng Vương-gia trấn thủ Xuyên-khẩu chống lại Đặng Vũ, sao… lại có mặt ở đây?

Công-tôn Thiệu buồn rầu:

– Tôi bất tài bị Trưng cô nương đánh cho thua hai trận, mất thành Bạch-đế, Xuyên-khẩu, còn bị bắt làm tù binh. Thế rồi… trong khi bị tù, tôi tỏ ý chí cương quyết không chịu khuất phục. Tôi được sáu thiếu niên đại nhân, đại nghĩa thả ra.

Quỳnh-Hoa biết là Lục Sún, nói:

– Là Lục Sún phải không?

Công-tôn Thiệu chỉ biết tên Thiên-ưng Tây-vu Lục tướng, chứ không biết cái tên đặc biệt này, bèn trả lời:

– Không trong sáu người, không có người nào Sún cã. Họ điều khiển Thần-ưng đánh thủy quân Xuyên-khẩu, đốt thành Bạch-đế.

Quế-Hoa bật cười:

– Vương-gia không biết đấy thôi, chúng có tên hiệu là Thiên-ưng Tây-vu Lục tướng. Song hồi nhỏ chúng nó đều bị sún răng, nên sư-tỷ Hồ Đề gọi chúng là Lục Sún. Đó là Sún Lé, Sún Cao, Sún Rỗ, Sún Hô, Sún Đen và Sún Lùn. Không biết chừng chúng thả Vương-gia ra là do ý chúng hay do lệnh sư tỷ Trưng Nhị.

Công-tôn Thiệu tường thuật chi tiết cuộc đối thoại, lý luận với các Sún, củng như việc yêu cầu viết thư cho Đặng Thi-Sách. Cuối cùng các Sún đem búa, cưa cho y cắt xích vượt ngục.

Công-tôn Thiệu kết luận:

– Trước khi từ biệt, Sún Lé tỏ ý buồn rầu, an ủi tôi như một người lớn: Chúng cháu thấy các sư-thúc, sư-bá, sư huynh phái Thiên-sơn là những anh hùng hào kiệt, giống như anh hùng Lĩnh Nam chúng cháu. Sư tỷ cháu vì muốn phục hồi Lĩnh Nam mà đem chúng cháu đi đánh Thục. Chúng cháu tuy lập được nhiều công, mà cảm thấy như mình mang tội lỗi, vì vậy chúng cháu lén thả sư thúc ra. Sún Lé còn cho tôi một cặp Thần-ưng để liên lạc với nó. Tôi khâm phục Lục Sún nghĩa hiệp, bí mật về đây yết kiến Thái-tử, trình bày tự sự, lại nhận được nghĩa cử của Đăng-châu nữ hiệp.

Công-tôn Thiệu đưa thư của Đặng Thi-Sách cho Quế-Hoa đọc.

Triệu Khuôn thở dài:

– Tiếc rằng trong đại-hội, anh hùng Lĩnh Nam quyết định đem quân trợ Hán đánh Thục, đại-ca Đặng Thi Sách không tham dự, nên giữa anh hùng Lĩnh Nam với chúng tôi là đồng đạo, lại không giúp được nhau, hơn nữa thành thế đối nghịch.

Quỳnh-Hoa ngơ ngẩn xuất thần vì câu nói của Triệu Khuôn. Triệu Khuôn chỉ một người cùng đi nói:

– Đây là đại ca của chúng tôi, đứng đầu Thiên-sơn thất hùng, họ Công-tôn tên Thuật, hiện là Hoàng-đế đất Thục. Chúng tôi tới đây tương hội với cô nương không phải giữa một vị Hoàng-đế với sứ giả, mà giữa đồ tôn của Thiên-sơn lão tiên với đồ tôn của Khất đại-phu lão tiên. So vai vế thì hai vị cô nương ngang vai với chúng tôi. Xin hai vị cô nương dạy cho một lời.

Quế-Hoa biết ý Triệu Khuôn muốn nàng hứa giúp Thục đánh Hán, nàng bật người dậy trả lời:

– Tôi còn nhỏ tuổi kiến thức, võ công đều tầm thường không có quyền quyết định gì. Các vị cho người liên lạc với ông tôi hoặc các sư-tỷ Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa mới có thể giải quyết được mọi chuyện. Hoặc cho người đến đạo Lĩnh Nam yết kiến sư tỷ Trưng Trắc. Sư tỷ là phu nhân của đại ca Đặng Thi Sách. Sư tỷ với Đào-hầu là hai người lãnh đạo đất Lĩnh Nam.

Công-tôn Thiệu nói:

– Thư của sư đệ Thi Sách viết cho tôi nói rằng Trưng Trắc đã lên đường cùng với Đinh-hầu. Không biết hai người này có toàn quyền không?

Quỳnh-Hoa nói:

– So vai vế, thì ông tôi cao nhất. So về đạo đức thì cô tôi là Nam-hải nữ-hiệp có địa vị lớn nhất. Song Đào-hầu, sư-tỷ Trưng Trắc coi như Hoàng-đế Lĩnh Nam vậy. Ai cũng nghe theo, Đinh-hầu là em vợ, là sư đệ Đào-hầu, hai người cùng là một.

Công-tôn Thuật nói:

– Cuộc họp hôm nay rất cơ mật. Cô nương về chỉ nên nói với ông ngoại hoặc Phùng cô nương là đủ rồi.

Sáng hôm sau Công-tôn Thuật trở về Thành-đô. Công-tôn Tư sai sứ giả theo Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa về Dương-bình quan tạ ơn Phùng Vĩnh-Hoa về việc thả vợ con tướng sĩ Thục.

Viên sứ giả vào trướng làm lễ với Vĩnh-Hoa, trình thư và quà lên.

Vĩnh-Hoa hỏi;

– Nhà ngươi có phải là người trung tín của Thái-tử không? Ngươi tên gì? Hiện giữ chức gì?

Viên văn quan đáp:

– Tiểu nhân là Thái-giám hầu hạ Thái-tử. Tiểu-nhân tên Nhật-Thanh.

Vĩnh-Hoa tặng cho Nhật-Thanh một chuỗi ngọc, nàng nói:

– Ta dặn câu nào ngươi phải nhớ câu đó nghe. Ngươi nói với Thái-tử rằng, khi Thái-tử gặp điều bất như ý, ta sẵn sàng trợ giúp. Ta với Thái-tử là tri âm của nhau. Thái-tử gặp hoạn nạn, thì cũng chính là hoạn nạn của ta vậy.

Đoạn nàng mở thư ra đọc:

Đệ-tử phái Thiên-sơn là Công-tôn Tư thư cho Đăng-châu nữ-hiệp Phùng Vĩnh-Hoa cô nương.

Phùng cô nương là trang quốc sắc Lĩnh Nam, văn võ toàn tài. Lĩnh quân-sư, nhưng lại không coi tên nhà quê như tôi là kẻ thù. Trước ba quân cùng tôi hợp tấu, rồi lại hẹn cùng tôi lên đồi Định-cường uống rượu, đánh cờ, tấu nhạc. Nghĩ thực không khác gì lên tiên. Sau trận Dương-bình quan, vợ con, tài sản của tôi và chư tướng được cô nương trả về an toàn. Ơn này nguyện báo đáp. Tuy nhiên hiện nay tôi đang bị nhiều mối lo, nguy nan đến trong sớm tối. Hôm ở trên đồi Định-cường tôi đã yêu cầu cô nương giúp cho một việc lớn. Nếu việc này thành, đất Ích-châu vĩnh viễn trong tay tôi, nguyện không bao giờ quên ơn. Thư ngắn nói không hết lời, mong cô nương đừng quên là được.

Các chi tiết khác, hai vị Trần cô nương sẽ thưa lại sau.

Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa thuật lại tỷ mỷ những gì anh hùng Thiên-sơn, nói với hai nàng.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:12:57 SA

Hồi 7        Hồi 9

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129594 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 9

Não người áo giáp bấy lâu,

Hồn quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.

(Chinh phụ ngâm khúc)

Nghiêm Sơn trước đây là chúa tướng của tất cả tướng Hán. Vương không phân biệt trên dưới, đối xử với họ như anh em. Từ khi Vương rời Trung-nguyên đi Lĩnh Nam, đã gần chục năm. Bây giờ gặp lại nhau, chuyện trò náo nhiệt. Trong tất cả các tướng Hán, thì Phùng Dị hiện là Chinh-tây đại tướng quân, lại có tài dũng tướng, mà phải làm phó tướng cho Ngô Hán, nên y buồn rầu không chịu trổ hết tài năng. Gặp lại Nghiêm, y muốn trổ tài để Nghiêm trọng dụng. Y luôn đi bên cạnh trình bày sách lược đánh Thục.

Ngô Hán sai bày tiệc khao quân, Nghiêm Sơn thấy anh hùng Lĩnh Nam đều hờ hững, vui cười miễn cưỡng. Là người lãnh đạo hàng triệu tướng sĩ trong bao nhiêu năm qua, nên người dưới buồn vui, giận hờn hiện trên nét mặt Vương đều nhận ra ngay. Vương cho rằng ngày Tết sắp đến, đám anh hùng Lĩnh Nam phải xa nhà, lòng tưởng nhớ quê hương khiến họ kém vui.

Sáng hôm sau có quân vào báo. Công-tôn Tư mời Nghiêm Sơn ra trận.

Nghiêm Sơn cầm bút phê:

– Ngày mai quyết chiến ở đồi Quảng-nguyên.

Nghiêm Sơn đánh trống triệu tập quân sĩ nghe lệnh. Các tướng có công với nhà Hán, như Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị, Hổ-nha đại tướng quân Cáp Diên, Vũ-oai đại tướng quân Lưu Thương, Hoành-giả tướng quân Vương Thường, Trung-lang tướng quân Lai Háp, bị đặt dưới quyền Ngô Hán. Họ cho Ngô là người đọc sách, không xứng đáng làm chủ tướng. Bây giờ được chính Nghiêm Sơn chỉ huy, họ hăm hở chờ lệnh.

Nghiêm Sơn nói:

– Xa-kị tướng quân Ngô Hán mang ba vạn quân bộ và một vạn quân kỵ cùng với Hậu-quân hiệu-úy Đỗ Mạo và Thần-nỏ Âu-lạc tứ hùng trợ giúp đi theo đường Nam-giang đến thành Ba-trung. Không cần chiếm được thành, chỉ cần đốt lửa, công phá để làm loạn lòng quân của Công-tôn Tư mà thôi.

– Trường-yên đại hiệp cùng Tham-quân Vương Hữu Bằng trấn giữ Dương-bình quan.

– Quân-sư Phùng Vĩnh-Hoa cùng với Thái sư-thúc Khất đại-phu ngay đêm nay đến Võ-đô điều động binh mã, đạo này từ Bình-võ kéo về đánh Khúc-giang.

– Tây-lương Thứ-sử Mã Thành mang bản bộ binh mã đóng tại Thành-xuyên làm hữu dực, Hán-trung Thứ-sử mang bản bộ binh mã phục tại Đại-thạch làm tả dực.

– Hành-quân Tư-mã Vương Bá mang ba vạn quân bộ, ba vạn quân kỵ dàn ra tại Quảng-nguyên.

– Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa mỗi sư muội lĩnh một vạn binh đem theo sáu sư-đệ Hoàng, Hắc, Bạch hổ và Hoàng, Hắc, Bạch báo đóng ở hai bên vùng đồi Quảng-nguyên, khi thấy ta lui binh, giặc đuổi, để cho chúng đi qua. Đợi khi có pháo lệnh, ta đánh quật lại, tả dực, hữu dực đánh bít đường về của chúng, thì kéo đến đánh Kiếm-các.

– Trung-lang tướng dẫn bốn vạn binh phục ở trái Quảng-nguyên, Hổ-nha đại tướng-quân dẫn bốn vạn quân phục ở bên phải Quảng-nguyên. Khi thấy chúng ta rút lui, đổ ra đánh bít lối về của giặc.

Sáng hôm sau Nghiêm Sơn cùng Phương-Dung dẫn các tướng Phùng Dị, Lưu Thương, Trần gia tam nương đem quân tới đồi Quảng-nguyên.

Công-tôn Tư phi ngựa ra trước trận, bên phải có Lũng-tây vương Triệu Khuôn, bên hữu có Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh. Tào Mạnh hô lớn:

– Mời Lĩnh-nam vương, Tả tướng quân, Nghiêm đại soái ra nói chuyện.

Nghiêm Sơn gò ngựa nói:

– Nghiêm Sơn ở Quế-lâm đây.

Triệu Khuôn vận khí vào đơn điền nói lớn:

– Lĩnh-nam vương gia, tôi nghe Vương-gia là anh hùng hào kiệt Trung-nguyên, vì nghĩa cứu Quang-Vũ, một đêm đánh 20 trận với võ sĩ của Vương Mãng. Được Quang-Vũ kết huynh đệ phong làm Bình-nam tướng quân, Lĩnh-nam công, trấn thủ 6 quận Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Nam-hải, Tượng-quận. Nay Hán bị chúng tôi đánh bại, phải triệu người về phong làm Lĩnh-nam vương. Kẻ thôn phu núi Thiên-sơn này vẫn hằng nghe danh Vương-gia như sấm động. Mới rồi được tin Vương-gia đẹp duyên giai ngẫu với đệ nhất giai nhân đất Lĩnh-nam. Vương-phi là người trong võ lâm. Lão phu chưa kịp cử người mang lễ đến mừng, thì Vương-gia đã mang quân đến đánh anh em lão phu rồi. Lão phu thấy mình thực vô duyên. Tuy nhiên lễ vật đã sẵn, lão phu xin dâng Vương-gia tại đây.

Y ngoắc tay ra sau vẫy một cái, có hai thiếu nữ bưng hai hộp gỗ sơn son thếp vàng. Hai thị đến trước ngựa Nghiêm Sơn, quì xuống dâng lên.

Vũ-oai tướng-quân Lưu Thương bảo Nghiêm Sơn:

– Xin Vương-gia cẩn thận sợ có cạm bẫy gì bên trong.

Phương-Dung cười:

– Lũng-tây vương là đệ nhất hào kiệt đời nay, khi nào lại làm chuyện đó. Đại ca cứ mở ra đi.

Nghiêm Sơn xuống ngựa mở cái quả thứ nhất. Chàng ngẩn người ra, vì trong quả có 9 bộ quần áo bằng gấm Thục với 9 mầu khác nhau. Trên ngực mỗi chiếc áo đều thêu một bông cúc tuyệt đẹp.

Nguyên bông cúc là biểu hiệu của Hoàng Thiều-Hoa, cho nên Nghiêm Sơn nhìn thấy, tim Vương đập mạnh một cái. Đậy quả lại, Vương mở tiếp quả thứ nhì, bên trong có hai hộp nhỏ. Vương mở hộp thứ nhất, là một cành đào. Hoa bằng hồng ngọc, lá bằng bích ngọc. Cành đào đó giống như cành đào biểu hiệu của phái Cửu-chân. Vương mở hộp thứ nhì là con Thần-ưng bằng vàng, mắt là hai hạt kim cương. Con Thần-ưng nầy là biểu hiệu của phái Quế-lâm nhà Vương. Bên dưới có tấm danh thiếp đề tên Thiên-sơn thất hùng.

Nghiêm Sơn nhân hai cái quả. Vương chắp tay tạ:

– Chưởng môn phái Quế-lâm xin đa tạ các vị đại hiệp phái Thiên-sơn đã cho quà. Tiện nội hiện không có đây. Khi nào rảnh rang, tại hạ sẽ cùng tiện nội lên Thiên-sơn bái tổ và tạ ơn các vị đại hiệp.

Triệu Khuôn ngiêng mình đáp lễ:

– Tại hại được nghe Nghiêm đại hiệp gọi anh em tại hạ bằng tiếng hiệp nghĩa thật mát lòng, mát dạ. Nghiêm đại hiệp quả là tri kỷ của anh em tại hạ vậy.

Nghiêm Sơn nghe Triệu Khuôn nói vậy thì tự nghĩ:

– Thực là hỏng bét, mình thấy họ dùng lễ võ lâm đồng đạo đối với mình thì buột miệng gọi là đại hiệp như vậy chẳng hóa ra họ khởi binh là có chính nghĩa ? Thực là hỏng bét.

Triệu Khuôn hướng vào Phương-Dung:

– Đào phu nhân, tại hạ là người Trung-nguyên, không rành đạo lý võ lâm Lĩnh Nam. Xin phu nhân cho biết thế nào là võ đạo, hiệp nghĩa Lĩnh Nam?

Phương-Dung biết Nghiêm Sơn bị mắc bẫy Triệu Khuôn, vì Vương gọi họ là đại hiệp, anh em họ đều là nghĩa hiệp cứu khổn phò nguy. Như vậy việc họ xưng đế ở Thục là chính nghĩa, còn Hán thì trở thành tà đạo. Biết thế, từ hôm sang Trung-nguyên, nàng là nhân vật thứ hai sau Nghiêm Sơn, nhưng thấy việc mình đánh Thục trợ Hán quả là giúp kẻ hung tàn. Còn đám anh em Thiên-sơn đối xử với nhau như ruột thịt, sợ rằng đám Lĩnh Nam của nàng cũng không bằng. Chỉ mấy năm họ đã kiến thiết đất Thục thành một quốc gia giàu có, dân chúng hưởng no ấm, trên khắp Trung-nguyên không đâu bằng. Vì vậy nàng muốn nhân câu trả lời Triệu Khuôn thức tỉnh Nghiêm Sơn.

Nàng dõng dạc nói:

– Triệu đại hiệp! Võ đạo Lĩnh Nam so với Thục, với Trung-nguyên đại thể cũng giống nhau, có khác nhau về chi tiết do hoàn cảnh địa phương mà thôi. Người được gọi là đại hiệp thấy kẻ ác phải trừng trị, thấy người gặp hiểm nguy dù mất tính mạng cũng phải ra tay cứu trợ. Đó là phần giống nhau. Còn phần khác như Nghiêm vương gia thấy Kiến-Vũ thiên tử bị võ sĩ Vương Mãng giết hại, một đêm đánh 20 trận, bị thương 15 lần cứu cho được. Như chúng tôi đây, đất nước bị chìm đắm nô lệ trên 200 năm, người Hán sang cai trị nước tôi coi dân như trâu như chó. Kịp đến khi Nghiêm đại ca sang trấn nhậm, trước giết tham quan, sau hạ lệnh bỏ những luật lệ quái ác, vì vậy chúng tôi đáp lễ đại ca, bằng cách giúp người đánh thục.

Nghiêm Sơn tiếp:

– Nghiêm tôi xuất thân làm hiệp sĩ lấy nhân nghĩa làm vũ khí. Cứu Kiến-Vũ thiên tử là do lòng nhân cứu người khi hoạn nạn há vì công danh mà làm chuyện đó. Khi Thiên-tử ủy cho tại hạ chức Bình-nam tướng quân, việc đầu đầu tiên tại hạ cách chức bọn Thái-thú tham ô, bọn Huyện-úy ác độc chính nhờ đó mà nhân sĩ Lĩnh Nam không coi tại hạ là kẻ thù, giúp tại hạ như giúp bằng hữu. Đất Lĩnh Nam, nam cũng như nữ đều được trọng, đều có tài.

Ngưng một lúc Vương tiếp:

– Tại hạ tiến quân vào đất Thục, giúp nghĩa huynh của tại hạ là Kiến-Vũ thiên-tử. Trước kia tại hạ vì nghĩa, một đêm đánh 20 trận cứu người, rồi kết huynh đệ. Cho đến nay, trong thiên hạ, ngoài Thiên-tử, tại hạ là người thứ nhì. Từ xưa đến giờ, giữa chúa tôi chưa từng có một bầy tôi nào được biệt đãi như Nghiêm nầy. Vì vậy Nghiêm tôi dù biết Thiên-sơn thất hùng là hào kiệt, là nghĩa sĩ đời nay cũng vẫn tiến quân đánh Thục. Khi tiến quân vào Thục, tại hạ sai truyền hịch khắp nơi không được đụng đến một sợi cỏ của dân. Vì vậy khi chiếm được Dương-bình quan, Phùng Vĩnh-Hoa hạ lệnh giết Lữ-trưởng Võ Hữu Hạnh vì xâm phạm vợ con, tướng sĩ Thục. Lại sai niêm phong tài sản, đưa vợ con tướng Thục trả về, như vậy có phải là Nhân, Nghĩa, Hiệp không?

Triệu Khuôn cười:

– Trước đây Vương-gia truyền hịch, hứa rằng tướng sĩ Thục đầu hàng sẽ được giữ nguyên chức tước cũ? Vậy Vương-gia có thấy ai đầu hàng chưa? Tại hạ nói để Vương-gia biết, vận nhà Hán đã hết rồi, nên chúa ta mới phất cờ dựng nghiệp. Trước kia Lưu Bang mang quân từ Ích-châu ra tranh thiên hạ với Hạng Võ mà thành công, bây giờ cái vòng cũ lại trở về: Chúa ta sẽ đem quân tranh thiên hạ với Quang-Vũ và sẽ chiếm Trung-nguyên. Ta thấy Vương-gia tài trí anh hùng đâu kém gì Văn Vương? Bỏ xa Lưu Bang, sao Vương-gia không kéo quân, trước chiếm Hán-trung, Lương-châu, sau chiếm Lĩnh Nam, Kinh-châu lên ngôi hoàng-đế, đem nhân đức cai trị dân có hơn không?

Nghiêm Sơn cười lớn:

– Triệu huynh nói vậy là không hiểu ta rồi. Ta xuất thân hiệp sĩ, phải lấy nghĩa làm đầu. Đối với thiên hạ, Quang-Vũ là kẻ bất nhân bất nghĩa, nhưng Quang-Vũ đối với ta bằng tất cả tấm lòng tri kỷ, ta phải đáp nghĩa người. Ta đã nói với người, khi đại sự xong rồi, một thanh gươm, một con ngựa tiêu dao tự tại. Ta há vì phú quý mà phản nghĩa huynh ư?

Triệu Khuôn cười gằn:

– Lĩnh-nam vương biết chúng tôi dựng Thục là hành hiệp cứu người, mà vẫn muốn đánh chúng tôi. Đất Thục tuy hẹp, dân Thục tuy nghèo nhưng không thiếu nghĩa sĩ. Chúng tôi nhất quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Nào Vương-gia, hãy tiến lên cùng chúng tôi đánh một trận, chứ cứ đi núp bóng quần hồng Lĩnh Nam thì đâu phải anh hùng.

Phương-Dung lên tiếng:

– Lũng-tây vương-gia, tiểu nữ ở Lĩnh Nam nghe danh ngài như sấm nổ ngang tai: Nào kết huynh đệ với Thục-đế, một tay dựng nghiệp cho Thục, chiếm Ích-châu, bình Kinh-châu, kinh lược Tây-xuyên, Có thể nói giang sơn nhà Công-tôn là do tiên sinh dựng nên. Tiên sinh là sư phụ của Đông-cung thái-tử. Thái-tử Công-tôn Tư là Đại tư-mã đất Thục, như vậy tiên sinh là một Thái thượng hoàng rồi còn gì nữa? Nhưng tại sao tiên sinh lại hủ lậu quá vậy? Tiên sinh chê Nghiêm đại ca của tôi núp bóng quần hồng, như vậy tiên sinh không biết lẽ tự nhiên của trời đất. Phàm trong trời đất có Dương, ắt có Âm. Âm, Dương là đạo của trời. Đàn ông là Dương, đàn bà là Âm, có gì khác nhau đâu? Bên Trung-nguyên thiếu gì anh thư lỗi lạc làm nên chuyện kinh thiên động địa, huống hồ đất Lĩnh Nam chúng tôi.

Ngưng một lúc, nàng nói:

– Tiên sinh bỉ thử phụ nữ Lĩnh Nam, vậy người đã thấy Phùng sư-tỷ của tôi chưa? Sư-tỷ mới 24 tuổi, văn liệu tiên sinh có bằng không? Nhất định là không! Còn võ thì hai người chưa động thủ, hơn kém chưa phân. Còn tài thao lược chỉ một trận chiếm ba thành Nam-bình, Võ-đô, Bình-võ. Trận thứ nhì chiếm Dương-bình quan. Liệu tiên sinh có hơn không, thế mà tiên sinh một điều bỉ thử, hai điều bỉ thử gái Việt là tại sao?

Nàng hướng Công-tôn Tư nghiêng mình hành lễ:

– Công-tôn thái-tử! Tiểu nữ là vợ của Lĩnh-nam nguyên soái Đào Kỳ, họ Nguyễn tên Phương-Dung, muốn được nói chuyện riêng với Thái-tử có được không?

Công-tôn Tư thấy Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Vĩnh-Hoa đều xinh đẹp, nói năng dịu dàng ôn nhu. Nay lại thấy Phương-Dung đẹp sắc sảo hơn nhiều. Y nghe nói Phương-Dung là đệ nhất quân sư của Nghiêm Sơn, chính nàng điều động ba đạo đánh Thục. Văn đã thế, kiếm thuật thần thông vô cùng, nay thấy nàng tự nhiên bày tỏ cảm tình với mình, thì nghiêng mình đáp lễ:

– Thôn phu Công-tôn Tư xin bái kiến Đào phu nhân. Chẳng hay phu nhân có điều chi dậy bảo?

Phương-Dung cười rất tươi. Nàng vận khí vào đơn điền nói:

– Hôm qua tiện nữ tới đây thì gặp quân sư đạo Hán-trung là Phùng sư-tỷ. Sư-tỷ nói rằng giữa người với Thái-tử có tình tri âm. Trước ba quân cùng nhau tấu nhạc. Lại khi lên đồi Định-cường ngắm tuyết, uống trà đọc phú Ly Tao, thổi tiêu, đánh đàn. Thái-tử nói với Phùng sư-tỷ rằng, hiện Thái-tử gặp nhiều hoạn nạn, mong sư-tỷ giúp Thái-tử toại chí lớn không biết có đúng như vậy không?

Công-tôn Tư đáp:

– Quả đúng như thế. Không biết Đào phu nhân có giúp chúng tôi như Phùng cô nương không?

Phương-Dung nói lớn:

– Giúp chứ! Nhất định giúp. Sư-tỷ với chúng tôi tình như chân tay, nhất định tôi sẽ vì sư-tỷ giúp Thái-tử. Nhưng chuyện ấy từ từ mà làm.

Quân-sư Tào Mạnh là người thông hiểu thế cuộc, vội tiến lên nói:

– Đào phu nhân, người nói giúp Thái-tử chúng tôi, thì giúp bằng cách nào?

Phương-Dung cười:

– Tào tiên sinh, tiên sinh được người đời tôn là túi khôn của Trung-nguyên, chức tới Trung-lang tướng, thế mà tại sao không hiểu người xưa nói rằng: Việc lớn thiên hạ không thể bàn trước công chúng, chuyện trọng đại như vậy mà đem nói ra, có khi nguy cho Thái-tử.

Tướng trẻ bên Thục là Hầu Đơn hỏi Nghiêm Sơn:

– Lĩnh-nam vương, hồi nãy sư phụ tôi ngỏ ý thách Vương-gia đấu trăm chưởng, không biết Vương-gia có giám nhận lời không, mà im lặng như vậy? Từ hơn hai tháng nay, cả đạo Hán-trung toàn thấy anh hùng Lĩnh Nam xuất trận, chưa hề thấy anh hùng Trung-nguyên xuất thủ, thế nghĩa là thế nào?

Đô đốc bên Hán là Lý Thái-Hiên quát lớn:

– Hầu Đơn, mi có giỏi ra đây cùng ta đấu một trận. Hôm trước ngươi bị bại vì một cô nương trẻ tuổi Lĩnh Nam, bây giờ ngươi còn dám vác mặt ra đây ư?

Hầu Đơn chưa kịp nói gì, thì Trung-lang tướng bên Thục là Phan Đức vọt ngựa ra vung đao chém Lý Thái-Hiên. Lý Thái-Hiên không đỡ y vọt khỏi mình ngựa, đợi cho lưỡi đao Phan Đức qua dưới chân, y bổ cho một kiếm. Phan Đức hoảng hốt lăn mình xuống đất tránh khỏi thế kiếm ác liệt, nhưng y thoát khỏi thì con ngựa của y bị chặt đứt xương sống, hí lên một tiếng thê thảm rồi ngã lăn ra. Phan Đức bỏ đao, rút kiếm đâm Lý Thái-Hiên. Hai bên quay cuồng kịch đấu. Phương-Dung thấy kiếm pháp của Lý Thái-Hiên mau không kém gì Long-biên kiếm pháp của nàng. Còn kiếm pháp của Phan Đức thì khi mau khi chậm biến ảo không lường. Nàng hỏi Nghiêm Sơn:

– Nghiêm đại-ca, đại-ca phải cẩn thận, Lý Thái-Hiên bại đến nơi rồi.

– Sao sư muội biết ?

– Có gì mà không biết. Hai người nội lực ngang nhau, kiếm pháp của Lý lấy mau thắng chậm, sử dụng tốn nhiều nội lực quá, mà y không biết sử dụng hư chiêu. Còn kiếm pháp của Phan thì trầm mãnh, đánh chậm ít tốn nội lực. Cho nên càng đánh lâu, y càng lợi.

Nghiêm Sơn quan sát, thấy quả đúng như Phương-Dung nói. Trải qua trăm hiệp, kiếm pháp của Lý Thái-Hiên bắt đầu chậm lại. Vương bảo Phương-Dung:

– Sư muội có cách nào giúp Lý Thái-Hiên không?

– Chịu! Không có cách nào cả, ngoài việc ta nhảy vào vòng chiến, nhưng làm như vậy thì thiếu tính cách anh hùng.

Nghiêm Sơn vọt ngựa vào giữa trận của hai người. Vương rút kiếm ra gạt mạnh, một tiếng choảng lớn vang lên, hai thanh kiếm của hai tướng đều văng lửa rồi bay lên không. Vương thuận tay bắt lấy rồi cầm đến trước mặt Công-tôn Tư trả lại:

– Xin hoàn trả kiến cho Thái-tử. Thái-tử với tôi đang nói chuyện với nhau, tại sao họ là bộ thuộc lại dám xen vào vô lễ, vì vậy tôi phải can ra.

Công-tôn Tư gì mà không biết Nghiêm Sơn vờ can thiệp để cứu thuộc hạ. Chàng cười khẩy:

– Công lực Nghiêm nguyên soái thực là thâm hậu, mưu kế càng cao hơn nữa, hôm nay Công-tôn mỗ phải lĩnh giáo võ công của Nghiêm nguyên soái mới được. Xin mời.

Công-tôn Tư vọt khỏi mình ngựa xuống đất. Còn lơ lửng trên không đã vung chưởng đánh Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn trầm người xuống tránh, thuận thế đẩy lại một chưởng. Hai luồng nội lực gặp nhau, chàng cảm thấy tay hơi tê dại, Vương nghĩ:

– Công lực thằng cha này không thua Phong-châu song quái là bao.

Vương vẫn dùng chưởng lực thong thả tấn công. Hai người ngang tuổi nhau, một bên là cao đồ của phái Quế-lâm, đánh dư trăm trận, một bên là đệ tử đắc ý nhất của phái Thiên-sơn.

Tướng sĩ hai bên cùng ngây người ra đứng nhìn hai vị chúa tướng đấu nhau. Phương-Dung chỉ giỏi về kiếm thuật, còn về quyền chưởng nàng chỉ ở mức trung bình mà thôi. Nàng nhìn trận đấu, không phân biệt đùược ai sẽ thắng.

Nàng đi dọc theo hàng tướng sĩ ra hiệu cho họ chuẩn bị, hễ thấy phất nàng trận là đánh liền. Ngoài trận đấu, bỗng Nghiêm Sơn đổi lối đánh, chưởng lực của Vương thành chậm chạp nhưng hùng mạnh vô cùng. Cứ mỗi khi hai chưởng đụng nhau, Công-tôn Tư lại lui một bước. Đến chưởng thứ mười thì y lui về đến trận Thục. Nghiêm Sơn quát lên phóng một chưởng cực kỳ hùng hậu. Công-tôn Tư thế không dừng được phải vung chưởng đỡ. Bốp một tiếng, hai chưởng chạm nhau rồi dính làm một. Thế là cuộc đấu trở thành đấu nội lực.

Nói chung dù đấu chưởng hay đấu nội lực, Công-tôn Tư cũng không thể bằng Nghiêm Sơn. Một, Tư xuất thân là một Thái-tử, thời gian luyện tập dù lâu đến đâu cũng không thể bằng một người lưu lạc giang hồ như Nghiêm Sơn. Tư lại có năm thê bảy thiếp yến tiệc suốt ngày, đâu bằng Nghiêm Sơn tuy làm quan lớn nhưng chỉ một mình Thiều-Hoa. Ba là Tư chỉ biết các võ sư trong đất Thục, còn Nghiêm Sơn thì biết rất nhiều thứ võ công khác nhau.

Đấu nội lực, trên đầu hai người kết lên một làn khói trắng mờ mờ. Công-tôn Tư mặt đỏ như gấc, còn Nghiêm Sơn thì ung dung nhàn nhã. Đến lúc này Vương mình thắng, tuy Vương thương tài Công-tôn Tư, nhưng không biết thế nào thu nội lực về. Nếu Vương tự ý thu về, lập tức bị nội lực Công-tôn Tư đánh sang. Nội lực của Vương trở về họp với nội lực y thành một thì nội lực của hai người tấn công Vương. Vương muốn lên tiếng bảo y cùng thu nội lực về, mà không dám mở miệng, vì mở miệng nội tức tiết ra, chàng bị thương trước.

Phan Đức đứng ngoài, thấy chủ tướng lâm nguy, y lần lần tới bên cạnh, hít một hơi chân khí bất thình lình vung chưởng đánh vào hậu tâm Nghiêm Sơn. Triệu Khuôn, Phương-Dung đứng ngoài đồng kêu lớn.

– Dừng tay!

Triệu Khuôn kêu là muốn cứu Phan Đức, vì khi y đụng vào người Nghiêm Sơn, giữa lúc nội lực Vương phát ra cực kỳ mạnh, có khác gì châu chấu nhảy vào đụng bánh xe đang chạy mau sẽ bị văng ra mà chết. Còn Phương-Dung vì sợ Nghiêm Sơn bị thương. Nhưng không kịp nữa. Bùng một tiếng, một người bay bổng lên không bắn ra xa, rơi xuống đất nằm ngay, máu miệng ri rỉ chảy ra, đó là Phan Đức.

Nghiêm Sơn bị một chưởng vào lưng, nội lực yếu đi, lúc đó Công-tôn Tư mới thu được chưởng lực về. Nghiêm Sơn đâu có chịu buông tha, Vương phóng năm chưởng như vũ bão. Công-tôn Tư đỡ tới chưởng thứ ba lảo đảo muốn ngã.

Triệu Khuôn đứng ngoài thấy đệ tử kiêm chủ tướng lâm nguy, y vung chưởng đánh vào sau lưng Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn tuyệt không ngờ Triệu Khuôn ra tay như vậy. Vương thu chưởng về đỡ không kịp, Vương nghiến răng dồn nội lực ra định kết liễu tính mạng Công-tôn Tư để cả hai cùng chết. Nhưng thoáng một cái, Phương-Dung nhảy đến lia ba kiếm vào cổ, vai, lưng Triệu Khuôn cực kỳ thần tốc. Một chiêu biến thành 36, ba chiêu biến thành 108 chiêu. Triệu Khuôn hoảng hốt thu chưởng về lăn tròn dưới đất tránh thoát nhưng chậm một chút. Choang, cái mũ đội trên đầu y bị trúng kiếm văng ra xa. Búi tóc y bị cắt đứt, bay lả tả. Y vọt người đứng dậy được, nhưng vẫn chưa hoàn hồn. Y là đệ nhất cao thủ đất Thục, đấu khắp anh hùng không ai thắng được. Mới mấy hôm trước đây, y đấu chưởng với Khất đại-phu, bị bại. Nhưng nay bị Phương-Dung đánh mấy chiêu kiếm, suýt mất mạng. Y kinh hoảng, chân tay run lẩy bẩy. Nhưng y cho rằng Phương-Dung đánh trộm mà đắc thế, chứ y không phục. Y rút kiếm của một đệ tử đứng sau, cầm tay, đảo một vòng nói:

– Kiếm pháp phu nhân cực kỳ tinh diệu, lão phu muốn lãnh giáo mấy chiêu.

Về phía Công-tôn Tư, nhờ Nghiêm Sơn phân tâm vì chiêu chưởng của Triệu Khuôn, y thoát khỏi chưởng lực của Vương. Hai người đồng nhảy lui lại xem Phương-Dung đấu với Triệu Khuôn.

Các tướng bên Thục biết Triệu Khuôn là đệ nhất anh hùng đất Thục, mới đây nghe tiếng Phương-Dung là truyền nhân của Vạn-tín hầu, kiếm pháp thần thông không biết đâu mà lường. Vì vậy dù Hán, dù Thục họ đều muốn xem hai người đấu với nhau.

Phương-Dung đã tra kiếm vào vỏ khoanh tay đứng nhìn Triệu Khuôn:

– Lũng-tây vương Triệu Khuôn là đệ nhất anh hùng đất Thục mà lại hèn hạ, đánh lén người à? Như thế còn dám lên mặt anh hùng hảo hán ư? Được, ngươi với ta đấu kiếm. Nếu ta thắng, ngươi phải rút khỏi Kiếm-các hoặc đầu hàng Hán để được lĩnh chức Ích-châu vương. Còn ta thua thì anh hùng Lĩnh-nam nguyện rút khỏi Trung-nguyên. Vậy ngươi nghĩ thế nào?

Triệu Khuôn gật đầu:

– Được, ta xin hứa.

Y cầm kiếm lên đảo một vòng, hướng kiếm về phía trước như hành lễ.

Phương-Dung chắp tay đáp lễ cười :

– Không dám, Vương-gia quả là người khách sáo.

Bóng trắng thấp thoáng, Phương-Dung rút kiếm khỏi vỏ, đánh ba chiêu liền, kiếm chiêu cực kỳ quái dị. Triệu Khuôn trông rất rõ, nhưng khi y định phản ứng thì kiếm của nàng đã thu về, tra vào vỏ đánh cạch một tiếng. Dây đai chiến bào, dây đeo vỏ kiếm đã bị cắt đứt rơi xuống đất.

Các tướng Thục kinh hoảng la lên :

– Úi chà !

– Ối trời ơi !

Triệu Khuôn quát lên một tiếng chém liền bốn chiêu. Nhưng bóng trắng thấp thoáng, Phương-Dung đã rút kiếm ra, nàng không đỡ kiếm của y mà đánh thẳng vào người. Y thấy cổ mát lạnh, vội nhảy lui rờ xem, cổ ran rát. Thì ra y đã bị trúng kiếm.

Phương-Dung cười :

– Triệu lão gia, mấy chiêu kiếm Lĩnh Nam thế nào? Xin lão gia dạy cho ít lời.

Triệu Khuôn lầm lì không nói vung kiếm chém liên tiếp. Phương-Dung rút kiếm ra đánh lại. Hai bên đánh nhau không còn phân biệt được kiếm của người nào với người nào nữa. Triệu Khuôn thì trầm mãnh, Phương-Dung thì hư hư thực thực, không biết đâu mà lường.

Triệu Khuôn càng đấu càng sợ hãi, y thấy kiếm hư hư thực thực, nhiều chiêu y tưởng là hư không đỡ gạt, lại biến thành thực, làm y suýt nữa thì mất mạng. Đánh hơn ba trăm hiệp, y cố gắng cho kiếm hai người đụng nhau, để dùng nội lực trấn gãy kiếm Phương-Dung mà không cách nào được. Y thấy những chiêu kiếm của Phương-Dung nhiều khi đần độn thô kệch không thể tưởng được, nhưng nó lại là những chiêu thức bao hàm sát thủ, khắc chế với kiếm pháp của y. Phương-Dung cứ thuận tay đẩy kiếm ra, chiêu nọ nói tiếp chiêu kia thành một sợi dây liên miên bất tuyệt, bất cứ chỗ nào cũng dồn y vào chỗ chết được. Càng đánh y càng kinh khủng, rồi y chỉ còn lùi dần, lùi dần. Tướng sĩ hai bên chưa có trình độ hiểu được kiếm thuật của đệ nhất cao thủ, nhưng họ thấy Phương-Dung nhàn nhã, dây lưng vàng bay phất phới, một tay bắt kiếm quyết, một tay cầm kiếm phiêu phiêu hốt hốt, cười tươi như hoa nở. Triệu Khuôn thì quát tháo, nhảy nhót tránh né hoài. Được hơn 600 hiệp y bắt đầu thấy lâm nguy, kiếm của Phương-Dung bao trùm khắp người như đe dọa, muốn giết lúc nào thì giết. Y đâm nản lòng, thuận tay tung kiếm lên trời, đứng im coi như mình chết, rồi nói:

– Đào phu nhân, ta thua rồi ! Không phải công lực ta yếu, không phải ta không có tài trí, mà tài trí tổ tiên ta thua tài trí tổ tiên phu nhân. Phu nhân giết ta đi thôi.

Phương-Dung thu kiếm lại nhảy lui ba bước nói:

– Triệu vương-gia, trên đời nầy trừ những kiếm thuật danh gia Lĩnh Nam ra, không ai là đối thủ của Vương-gia. Ngày xưa, tướng Tần là Đồ Thư chỉ chịu được có 120 chiêu là bỏ mạng, nay Vương-gia đấu với tiện nữ trên 700 chiêu mới bị thua, trên đời này khó có ai là đối thủ của Vương-gia. Vương-gia muốn chết tiện nữ xin chiều ý Vương-gia vậy.

Nàng vung kiếm ánh bạc lấp loáng chụp lên đầu Triệu Khuôn. Phương-Dung muốn thử xem Triệu Khuôn có phải là người can đảm không, chứ nàng không muốn giết y, thì bên trận Thục hàng trăm mũi tên bắn vào người nàng.

Nghiêm Sơn hô lớn:

– Cẩn thận!

Phương-Dung vung kiếm lên, thấp thoáng một cái, bao nhiêu tên đều rớt xuống. Nàng nhấp nhô mấy cái đã nhập trận Thục, ánh kiếm như tuyết rơi chụp xuống, hơn mười cái đầu của bọn tiễn thủ rơi xuống.

Nghiêm Sơn vung tay một cái, quân Hán tràn sang trận Thục. Hai bên tướng sĩ lăn xả vào đánh nhau. Quân tướng Thục, Hán đều là những người thiện chiến trung kiên. Hán vì chính thống tái lập Hán triều mà ra sức. Thục đều là nghĩa sĩ được Công-tôn Thuật trọng đãi, muốn vì nghĩa tri kỷ mà ra tay. Trận chiến kinh khủng vô cùng.

Nghiêm Sơn ra lệnh cho quân Hán vừa đánh vừa lui dần về phía Dương-bình quan. Quân Thục đuổi theo rất gấp.

Đuổi hơn được năm dặm, quân sư Tào Mạnh nói với Công-tôn Tư:

– Xin Thái-tử cẩn thận, chúng ta vừa vượt qua một quãng rừng, sợ quân Hán mai phục đổ ra chặn hậu chăng?

Nhưng không kịp nữa, quân Hán quay trở lại đánh rất dữ. Bên cánh trái, phải quân của Cáp Diên, Lai Háp đổ ra đánh ép lại, chặn mất đường về. Phía trước Nghiêm Sơn cho quân quay trở lại.

Các tướng Thục đều can trường và vũ dũng, dù đứng trước nguy nan vẫn không sợ hãi. Họ chia quân ra làm ba chống cự.

Nghiêm Sơn kiếm một chỗ đồi đất cao, lên đó đứng chỉ huy. Trong đời chinh chiến Vương đã dự không biết bao nhiêu trận đánh với quân Vương Mãng, chỉ cần vây hãm là chúng bỏ giáo xin hàng. Đây quân Thục dù bị vây cũng quyết chiến đến cùng, đủ hiểu Công-tôn Tư luyện quân rất kỹ, y đối xử với tướng sĩ rất thân ái, vì vây họ mới quyết chết chứ không đầu hàng.

Phương-Dung leo lên một cây cao nhìn về phía thành Kiếm-các. Nàng thấy rõ mồn một hai đạo quân của Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đang tiến đến đánh thành. Quân giữ thành đã nao núng lắm rồi. Hai đội Thần-hổ và Thần-báo bất thần xông được vào trận Thục, quân Thục hoảng sợ bỏ hàng ngũ chạy. Quân Hán vào trong thành.

Một ánh lửa trong thành bốc lên, Phương-Dung biết đó là dấu hiệu chiếm xong thành. Nàng nhảy xuống khỏi cây báo cho Nghiêm Sơn biết. Nghiêm Sơn phất cờ, lập tức hai đội quân của Tây-lương thứ-sử Mã Thành, Hán-trung thứ-sử Sử Hùng lui về hai bên. Quân Thục từ đó lui về. Các tướng Thục cầm vũ khí đi cản hậu, hàng ngũ rất nghiêm chỉnh. Nghiêm Sơn cho đuổi theo xa xa.

Quân Thục về tới thành thì thấy cờ vàng của mình không còn nữa, mà toàn một màu đỏ của cờ Hán. Công-tôn Tư phi ngựa tới trước coi, thấy trên thành binh sĩ Hán canh phòng nghiêm nhặt.

Y ra lệnh cho quân chạy về hướng Nam. Bây giờ Nghiêm Sơn mới cho quân đuổi theo tới chân thành Thương-khê, ra lệnh bao vây.

Nghiêm Sơn tập trung các tướng mở tiệc khao quân. Tiệc đang vui, có tin báo Thần-nỏ Âu-lạc tứ hùng đến. Nghiêm Sơn cho mời vào. Trông thấy Thần-nỏ Âu-lạc có vẻ mệt mỏi, biết chuyện chẳng lành. Vương đứng dậy hỏi :

– Có chuyện gì vậy.

Cao Cảnh-An nói :

– Công-tôn Thuật vừa cử con trai thứ là Công-tôn Thi lĩnh 5 vạn, xuất qua ngả Thông-giang đánh tập hậu Ngô Hán. Ngô Hán ít quân hơn, bị đánh úp hai ngả thua chạy về Dương-bình quan. Con trai là Hậu-quân hiệu-úy Ngô Triệu bị tử thương. Chúng tôi núp trên núi dùng Thần-nỏ bắn tử thương 12 tướng Thục, Ngô Hán mới chạy thoát. Ba vạn quân hao hết hai vạn. Quân Thục hiện vây Dương-bình quan rất gấp.

Thế là tiệc vui tan. Nghiêm Sơn triệu tập các tướng khẩn cấp, Vương để Phương-Dung điều động. Phương-Dung bàn:

– Chúng ta được tin đạo quân Lĩnh-nam tiến đến Hán-nguyên rồi, không biết tại sao Công-tôn Thuật biết đạo này chỉ đe dọa Thành-đô, nên y mới tung quân trừ bị ra đánh úp Ba-trung. Vậy Bây giờ ta phải giải vây Dương-bình quan đã.

Nàng gọi Tây-lương thứ-sử Mã Thành nói:

– Tôi giao cho tướng quân hai vạn bộ binh, 150 Thần-hổ, 150 Thần-báo, cùng với Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa trấn thủ Kiếm-các. Hễ giặc đến để cho chúng vây, không được ra đánh. Nếu chúng kéo toàn lực đuổi theo chúng ta, thì người giữ thành, giao cho Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa dẫn Thần-báo, Thần-hổ đánh vào hậu quân chúng.

Quế-Hoa hỏi:

– Thế trong ba chúng tôi ai là chủ tướng ?

Phương-Dung phì cười :

– Võ công nhờ hai sư muội. Còn điều khiển nhờ Mã tướng quân, dĩ nhiên Mã tướng quân là chủ tướng.

Phương-Dung tiếp:

– Địch vây Dương-bình quan thế nào cũng chia làm hai, một phần vây thành, một phần phục kích đợi ta trở về đánh, hợp với quân của Công-tôn Tư đuổi theo ta. Vậy ta không trở về cứu Dương-bình quan nữa, mà đánh thẳng vào Ba-trung là nơi chúng đồn trữ lương thảo. Chiếm được lương thảo, ta có lương dùng, trong khi địch hoang mang.

– Đạo quân Công-tôn Thi không có thủy quân, vậy Đô-đốc Lý Thái-Hiên chia thủy-quân ra làm hai. Một nửa đóng tại Quảng-nguyên làm thế ỷ dốc cho Dương-bình quan và Kiếm-các. Một nửa đóng tại Kiếm-các để giữ thành.

Lý Thái-Hiên thắt mắc:

– Dương-bình quan bị vây nếu ta không cứu sẽ bị thất thủ, như vậy sợ mất đường về.

Nghiêm Sơn cười:

– Lý đô-đốc thực không biết người tý nào. Tại Dương-bình quan, Tham-quân Vương Hữu-Bằng, Trường-yên đại hiệp có hai vạn quân, nay thêm Xa-kỵ tướng quân Ngô Hán một vạn quân bộ, một vạn quân kỵ, cộng lại là bốn vạn thêm một vạn thủy quân nữa thành 5 vạn. Theo binh thư, một thủ phải mười mới đánh được. Đây chúng ta có 5 vạn, địch có 5 vạn, làm sao thắng nổi. Chúng lại phải phân ra một đạo chặn đường về của ta nữa. Về tướng, so sánh giữa Công-tôn Thi và Ngô tướng quân, võ công Ngô tướng quân không bằng y, nhưng về hành quân, bố trận, một ngàn lần y không bằng Ngô tướng quân.

Phương-Dung tiếp:

– Đạo quân của Công-tôn Tư bị thua hai trận tinh thần mất. Nếu ta đánh Công-tôn Thi, Tư sẽ không mang quân cứu. Ngược lại chúng ta đánh Tư thì Thi cứu. Vậy chúng ta chỉ cần dồn nỗ lực đánh Thi mà thôi. Nhưng tại sao tôi lại phải để quân cho Tây-lương thứ-sử với Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Bởi vì khi chúng ta đánh Thi, thì Tư án binh bất động. Khi Thi đã thua, chúng ta mệt mỏi, Tư sẽ mang quân chiếm lại Kiếm-các và Dương-bình quan. Tại sao? Vì Thi là con trai của Tây-cung quý phi đất Thục. Võ công y cao hơn anh, cũng có tài thao lược. Y đang ngắm nghé ngôi Thái-tử. Cho nên y mới xin cầm quân để có thể tranh phong với anh. Công-tôn Tư bị thua mấy trận, Công-tôn Thuật không tin y nữa mới cho Công-tôn Thi cầm quân. Chắc chắn Công-tôn Tư mong cho em bại, thì đời nào y cứu Thi.

Các tướng đồng ý với lý luận của Phương-Dung, nàng tiếp:

– Hành-quân Tư-mã Vương Bá dẫn 2000 quân đánh cửa Nam, Cao Cảnh-Anh sư huynh mang 2000 quân đánh cửa Đông. Sư huynh Cao Cảnh-Hùng mnga 2000 quân đánh cửa Nam, còn sư huynh Cao Cảnh-Kiệt cùng với Nghiêm đại ca và tôi dẫn một đội võ sĩ đột nhập Ba-tung trước. Khi đã đột nhập rồi, chúng tôi mở tung cửa thành, các vị ở ngoài đánh vào.

Nghiêm Sơn chưa kịp ra quân thì có thám mã về báo:

– Quân sư Phùng Vĩnh-Hoa và Khất đại-phu đã đánh úp được Khúc-giang. Chủ tướng Thục bị bắt, quân sĩ trong thành hơn vạn người đầu hàng hết.

Phương-Dung hội ý với Nghiêm Sơn rồi viết thư cho Phùng Vĩnh-Hoa để nàng mang bản bộ binh mã đi tắt về phục ở Định-cường làm thế ỷ dốc cho Dương-bình quan.

Trời tối, Phương-Dung lên đường. Người ngậm tăm, ngựa buộc hàm đi trong đêm, đến canh ba mới đến thành Ba-trung, Nghiêm Sơn bàn:

– Ba-trung chỉ có 5000 quân canh giữ, đóng trong thành 3000, ngoài 2000. Vậy chúng ta tìm cách lọt vào thành trước, rồi mở cửa cho quân tràn vào. Ta lại đem một đội phục cản đường quân cứu viện ở bên ngoài.

Phương-Dung, Nghiêm Sơn, Cao Cảnh-Kiệt dẫn một đội võ sĩ đến Ba-trung trước. Nghiêm Sơn đi một vòng thành, thấy cửa Tây có chỗ thấp. Trong thành một cây cao sát tường, có thể dùng dây leo vào được. Vương lấy sợi dây nhỏ cột vào mũi tên, nói với Cao Cảnh-Kiệt:

– Sư-đệ dùng hết công lực bắn mũi tên nầy lên cành cây kia để chúng ta leo vào thành.

Cao Cảnh-Kiệt nhăn mặt:

– Công lực đệ chỉ có giới hạn, bắn mũi tên vào cây không được sâu lắm, làm sao chúng ta bám dây leo lên mà không bị rớt xuống?

Phương-Dung cười:

– Thì đại-ca bắn ba mũi liền, rồi ta quấn ba sợi dây vào với nhau. Tiểu muội nhẹ nhất, xin lên trước, lên tới nơi sẽ cột dây vào cành cho mọi người leo lên.

Cao Cảnh-Kiệt tỉnh ngộ. Chàng cầm tên vận sức giương cung buông đánh vèo một cái. Mũi tên cắm sâu vào thân cây đến quá nửa. Cung tên của phái Hoa-lư là thứ đặc biệt, khác với cung tên thường, vì họ là hậu duệ của Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, người chế ra Thần-nỏ thời Âu-lạc.

Cao Cảnh-Kiệt bắn liền hai mũi nữa, Phương-Dung cầm ba sợi dây cuốn vào với nhau rồi giật thử, thấy chắc chắn, nàng bám vào leo lên thoăn thoắt. Phút chốc tới gạc cây, nàng cắt ba sợi dây ở ba mũi tên ra, cột vào cành, rồi lấy thêm sợi nữa ở trên lưng cột vào cành khác. Nghiêm Sơn cho Cao Cảnh-Kiệt và đám võ sĩ lên trước. Vương leo lên cuối cùng.

Đoàn người đi trong đêm tối đầy tuyết tới cửa thành Tây. Quân sĩ đã ngủ cả. Nghiêm Sơn vận sức đẩy mạnh một cái, then cửa vọng lâu gẫy, Vương nhảy vào bên trong. Bên trong có mười tên quân canh đang ngủ. Chúng giật mình thức giấc thì bị bắt hết. Phương-Dung dí gươm vào cổ tên trưởng toán hỏi mật khẩu. Tên nầy sợ quá khai ra: Hỏi Nam-hàn, đáp Bắc-nhiệt.

Phương-Dung để cho 10 võ sĩ cùng với Cao Cảnh-Kiệt giữ cửa thành. Nàng với Nghiêm Sơn sang cửa Bắc, cửa này quân sĩ còn thức. Tên đội trưởng thấy người đi tới hô lớn:

– Nam-hàn.

Nghiêm Sơn đáp:

– Bắc-nhiệt.

Tên đội trưởng tưởng người nhà, vừa định hỏi tên họ, thì tất cả 10 quân canh đã bị bắt. Phương-Dung để mười võ sĩ ở lại canh cửa Bắc. Hai người thấy dinh thự giữa thành còn đèn nến sang choang. Nàng cùng Nghiêm Sơn hướng đó đi tới. Thì ra là dinh của huyện-lệnh. Hai người núp dưới cửa sổ nhìn vào. Phương-Dung thấy cảnh bên trong suýt nữa kêu lên thành tiếng. Vì viên huyện-lệnh đang uống rượu cùng với Đức-Hiệp, đại đệ tử của Lê Đạo-Sinh.

Bỗng huyện-lệnh nói:

– Công-tôn nhị thái-tử lần này ra quân, trận đầu đánh Ngô Hán khiến y mất hơn vạn quân. Nhờ hai vị giúp sức, giết chết con của y là Hậu-quân hiệu-úy Ngô Triệu, làm y mất hết chí khí. Nếu chiếm được Dương-bình quan, chúng ta đánh thẳng lên Trường-an, không những giải vây cho Thành-đô mà còn tranh hùng với Quang-Vũ ở Trung-nguyên nữa.

Đức-Hiệp tỏ vẻ lo âu:

– Tuy vậy hiện quân Hán ba mặt đánh Thành-đô. Mặt Đông do Đặng Vũ, đã chiếm được Bạch-đế, Xuyên-khẩu, Võ-lăng đang vây Bột-lăng. Phía Nam thì đạo Lĩnh-nam do Đào Kỳ chỉ huy đã tiến đến Hán-nguyên. Không biết đức Hoàng-đế nhà ta có giữ được không? Nay nhị Thái-tử theo kế sư phụ tôi, xuất quân đánh Ba-trung, vây Dương-bình quan, nhưng tôi vẫn e ngại. Nghiêm Sơn võ công chỉ ngang chúng tôi, nhưng còn hai người nữa đáng sợ là là Phương-Dung hiện là quân sư của Nghiêm Sơn, kiếm thuật thần thông và Trần Đại-Sinh, sư bá của tôi, hiện đang ở trong đạo Hán-trung, không rõ sẽ xuất hiện lúc nào. Thái-tử nhờ tôi ở đây giúp đại nhân giữ huyện, kỳ thực để bảo vệ lương thảo.

Huyện-lệnh cười:

– Tiên sinh đừng lo, quân Hán hiện dồn hết sức lực đánh với Thái-tử ở Kiếm-các. Dù biết Dương-bình quan bị vây cũng không dám rút lui, vì rút lui thì bị đánh phía sau. Chính vì vậy Tây-cung nương nương mới tâu với Chúa-thượng cho nhị Thái-tử đánh úp Ba-trung vây Dương-bình quan, rồi tiến ra Trường-an. Quân-sĩ suốt một giải Lương-châu, Tây-xuyên, Đông-xuyên đều tập trung giao cho Ngô Hán. Nay đạo quân Ngô Hán bị kẹt ở Dương-bình quan, Kiếm-các, Võ-đô do Công-tôn Thái-tử cầm chân. Nhị thái-tử chỉ trở tay một cái là chiếm được Trường-an. Trường-an lâm nguy thì Lạc-dương ở trong tay chúng ta. Bấy giờ Ngô Hán bị cô lập chẳng cần đánh cũng tan. Nhị thái-tử đánh chiếm Trung-nguyên thì ngôi báu về tay người. Tiên sinh có biết không? Tây-cung quý-phi là em gái ta, Nhị thái-tử là cháu gọi ta bằng cậu.

Đức-Hiệp hỏi:

– Sư-phụ và anh em chúng tôi đem hết tài năng giúp Thái-tử, không biết sau này Thái-tử có giữ lời hứa không?

Huyện-lệnh cười:

– Sao lại không? Thái-tử hứa với lệnh-sư rằng: Khi Thái-tử chiếm được Trung-nguyên, việc đầu tiên phong lệnh-sư làm Lĩnh-nam vương cai quản sáu quận Quế-lâm, Nam-hải, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam. Phàm các chức Thứ-sử, Thái-thú, Huyện-úy, Huyện-lệnh đều do lệnh-sư bổ nhiệm, coi như một nước riêng. Chúa tôi không bao giờ can thiệp vào.

Nghiêm Sơn vẫy Phương-Dung ra xa nói:

– Bây giờ tôi chiếm cửa Đông, sư muội chiếm cửa Nam, rồi đốt pháo lệnh cho quân tràn vào. Tôi và sư muội phải hóa trang, mới bắt được Đức-Hiệp. Nếu không vừa thấy chúng ta hắn đã bỏ trốn.

Phương-Dung tiến đến cửa Nam, quân canh vẫn còn thức. Chúng hô mật khẩu, một võ sĩ đáp lại. Nàng nhảy vèo vào trong, ánh kiếm lóe lên, 10 tên quân bị giết hết.

Lên vọng lâu nhìn ra ngoài, thấy quân Hán núp gần thành, bố trí rất cẩn thận. Nàng sai võ sĩ mở cổng thành, rồi đốt pháo lệnh. Nàng cầm pháo vận sức ném lên không. Pháo nổ bùng một tiếng, tóe lửa ra bốn phía. Quân bên ngoài reo hò, ào ào tiến vào. Chỉ thoáng một cái đã chiếm được hết các kho lương thảo. Quân trong thành giật mình tỉnh giấc, thì thành đã bị chiếm.

Huyện-lệnh còn đang uống rượu với Đức-Hiệp, nghe tiếng quân reo, ngựa hí pháo nổ, tiếng gươm chạm vào nhau loảng xoảng. Cả hai cầm kiếm vọt khỏi phòng đụng phải đoàn võ sĩ với Cao Cảnh-Kiệt. Cao Cảnh-Kiệt nhắm đầu huyện-lệnh đánh xuống. Y đưa kiếm gạt, choang một tiếng, lửa tóe ra, kiếm cuả y bay mất. Cánh tay tê chồn, y hoảng hốt lui lại. Đức-Hiệp thấy vậy phóng chưởng đánh Cao Cảnh-Kiệt. Kiệt bỏ kiếm vận chưởng đỡ. Bốp một tiếng, Kiệt bật lui lại, cánh tay chàng tê dại, ngực nghẹt thở. Chàng kinh hoảng chưa biết tính sao, thì chưởng thứ nhì đã tới. Chàng cảm thấy ngộp thở, vội lăn người xuống tránh khỏi. Thế chưởng trúng tường nhà, ầm tường bật tung đi một khoảng.

Vừa lúc đó Phương-Dung tới, nàng lia một kiếm vào cổ Đức-Hiệp. Y đưa tay toan bắt kiếm, thế kiếm đổi chiều hướng vào cùi chỏ. Y ngửa người ra tránh, định búng tay đánh bật ra, thì kiếm đã đâm vào cổ. Y ngồi thụp xuống tránh khỏi, thì kiếm đã dí vào lưng. Kinh hoảng y húc đầu vào chân nàng để thoát thân. Đúng ra với thức này, đối với địch thủ đàn ông dù chết thì thôi chứ không ai chịu nhục nhã đâm đầu vào háng đối thủ, huống chi là địch thủ phụ nữ. Nhưng Đức-Hiệp thấy cái chết trong đường tơ kẻ tóc, muốn tìm đường sống mới phải xử dụng. Phương-Dung vọt người lên cao. Khi nàng đáp xuống Đức-Hiệp đã trốn mất.

Nghiêm Sơn cho lệnh thu quân vào thành, sai đốt lửa cho binh sĩ sưởi ấm, làm tiệc khao quân ngay trong đêm. Kiểm điểm lại lương thảo địch, chất như núi trong thành. Nghiêm Sơn mừng lắm, Vương ra lệnh tha tất cả quân lính bị bắt. Phương-Dung cười:

– Đại-ca định dùng chúng để báo tin cho Công-tôn Thuật biết kho lương thực bị chiếm phải không?

– Đúng vậy.

Cao Cảnh-Kiệt từ ngoài vào, dẫn theo Đức-Hiệp và huyện-lệnh. Cả hai bị trói, trên hai đầu gối và vai đều bị tên cắm rất sâu. Phương-Dung nói với Cảnh-Kiệt:

– Đại-ca dùng tài Thần-nỏ phải không? Hai người bị bắn cùng một bộ vị rất cân đối. Tài thực. Thôi đại-ca cho giam họ lại.

Phương-Dung sai quân sĩ đem cỏ khô lên mặt thành đốt, lửa bốc cao, lại cho quân reo hò thật lớn. Cao Cảnh-Anh hỏi:

– Sư muội định làm gì thế?

Phương-Dung giải thích:

– Tôi làm thế để Công-tôn Thi biết Ba-trung bị đánh, tất y sai quân về cứu viện, y sẽ bị Hán-trung thứ-sử phục tại Nam-giang tiêu diệt.

Đêm đó Nghiêm Sơn đốt củi để quân sĩ sưởi, giết trâu bò làm tiệc chiến thắng tưng bừng. Phương-Dung ghé tai Nghiêm Sơn nói nhỏ mấy câu. Nghiêm Sơn cười, gật đầu đồng ý. Vương cùng Phương-Dung, Cao Cảnh-Kiệt uống rượu trong trướng, giam Đức-Hiệp, huyện-lệnh phòng bên cạnh. Rượu được vài tuần, một tên quân giả làm sứ giả của Công-tôn Tư vào thưa:

– Tiểu nhân là Nhật-Thanh, thái giám hầu cận của Thái-tử. Thái-tử sai tiểu nhân đến đây yết kiến Vương-gia. Như Thái-tử đã hứa, người bỏ Dương-bình quan, Kiếm-các, Võ-đô, Nam-bình, Bình-võ, Giang-du cho quân Hán. Hôm nay người án binh bất động để Vương-gia đánh Công-tôn Thi. Xin Vương-gia mau tiến vào Thành-đô, Thái-tử sẽ làm nội ứng.

Nghiêm Sơn giả vờ say nói:

– Ta hứa tấu với Kiến-Vũ thiên tử phong cho Thái-tử làm Hán-trung vương, cai quản Ích-châu, Tây-xuyên. Lời hứa này không sai. Hôm rồi Thái-tử đã cùng với Quân-sư của ta là Phùng cô nương, tấu nhạc dưới tuyết để cho ta lấy Dương-bình quan. Ta hứa gả Phùng cô nương cho Thái-tử.

Phương-Dung tiếp:

– Ngươi có công làm việc nảy ta thưởng cho ngươi trăm lạng bạc, ba viên bảo thạch. Thôi ngươi về đi.

Trong này Đức-Hiệp, huyện-lệnh nghe rõ ràng. Đức-Hiệp nhìn thấy trên tường có con dao. Y đứng dậy dùng chân móc con dao xuống. Lấy chân cắp dao, cắt dây trói cho huyện-lệnh. Huyện-lệnh thoát khỏi, dùng dao cắt dây trói cho Đức-Hiệp. Hai người vọt khỏi cửa sổ, biến vào đêm tối đầy tuyết.

Đến khi tiệc tan. Phương-Dung mở cửa phòng giam Đức-Hiệp, thấy hai người đã biến mất. Nàng mỉm cười nói với Nghiêm Sơn:

– Nhà Công-tôn sắp giết nhau đến nơi rồi. Chúng ta vào Thành-đô trước Tết, thế là xong.

Nghiêm Sơn sai Hành-quân Tư-mã Vương Bá ở lại trấn thủ thành Ba-trung. Còn bao nhiêu lương thảo chuyển vận về Kiếm-các. Vương với Phương-Dung về tới nơi thì Sử Hùng cũng tới. Y báo cáo toàn thắng, giết chết bên Thục hơn vạn quân, nhưng bị một phụ nữ người Lĩnh-nam đánh y ba chưởng, y ngã ngựa bị thương suýt nữa bị giết.

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

145 Phiếu Sao điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao

Đã xem 129595 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 10

Tục nhật chu nam tử

Kim nhật bạch phát thôi

(Lý Bạch)

Buổi sáng còn là cậu bé tóc dơ,

Hôm nay tóc bạc đã bạc ra rồi.

Phương-Dung tiếp lời :

– Vậy thì cháu sẽ mang theo các tướng Phùng Dị, Vương Thường, Lai Háp, Chu Á-Dũng đánh Công-tôn Thi. Còn Nghiêm đại-ca với Phùng sư-tỷ đánh Công-tôn Tư. Thái sư-thúc đi theo đạo này, vì bên Thục có nhiều cao thủ lắm, không tầm thường đâu. Chỉ nguyên Công-tôn Tư đã ngang tay với Nghiêm đại-ca. Sau khi đánh tan quân Công-tôn Thi, cháu cùng Ngô tướng quân đánh vào Lục-giang trấn, bao vây Thành-đô ngăn không cho Công-tôn Thuật chạy về phía Đông.

Nghiêm Sơn hỏi Phùng Vĩnh-Hoa:

– Sư muội đánh nhau với Công-tôn Tư lâu ngày, sư-muội hiểu rõ hết khả năng tướng sĩ Hán, Thục, vậy theo ý sư-muội nên đánh Cẩm-dương như thế nào. Vì Công-tôn Thuật hiện dồn đại quân ở đây để ngăn ta.

Phùng Vĩnh-Hoa im lặng suy nghĩ. Trước mắt nàng là đám quân ở Dương-bình quan khóc như mưa, như gió, khi quân Hán chiếm thành. Biết bao nhiêu binh tướng Thục tự tử không chịu đầu hàng. Gương mặt thành khẩn của Công-tôn Tư, y khẩn khoản xin nàng với anh hùng Lĩnh-nam thực hiện lời giao ước giữa Đặng Thi-Sách với Công-tôn Thiệu. Nhất là giao tình giữa Thiên-sơn lão tiên với Khất đại-phu. Nàng được thư của Đặng Thi-Sách, Đào Thế-Kiệt rằng Đinh Đại và Trưng Trắc sang Trung-nguyên quan sát tình hình, rồi đưa ra quyết định tại chỗ, tiếp tục trợ Hán đánh Thục hay có thái độ khác. Thư tới đã lâu mà sao không được tin tức gì của họ? Nàng đoán có lẽ giờ này Đinh Đại, Trưng Trắc đến với đạo Lĩnh-nam, bàn kế sách với Đào Kỳ, Nam-hải nữ hiệp. Vì vậy nàng muốn ngừng tiến quân, chờ tin tức đạo Lĩnh-nam.

Phùng Vĩnh-Hoa đáp:

– Bây giờ Công-tôn Thuật dồn hết lực lượng ra đối đầu với đạo quân Hán-trung. Vậy phải báo cho đạo Lĩnh-nam đánh Thành-đô ngay. Nhờ Tham quân Lê Hữu-Bằng đi với Quế-Hoa đến Việt-tây báo cho Đào hiền-đệ tiến quân ngay tức thì.

Quế-Hoa khẳng khái nhận lời. Nghiêm Sơn, Phương-Dung cùng gọi riêng Quế-Hoa ra chỗ khuất đưa cho nàng hai chiếc hộp dặn:

– Sư muội đưa hộp này cho Đào sư-đệ và hộp này cho Hoàng sư-tỷ giùm ta.

Quế-Hoa mở to mắt nhìn hai người rồi nheo mắt cười:

– Hai hộp này là cẩm nang diệu kế để Đào đại-ca đánh giặc phải không?

Phương-Dung lắc đầu:

– Không! Đó là quà của Nghiêm đại-ca gửi cho Hoàng sư-tỷ và ta gởi Đào đại-ca.

– Như vậy là quà riêng tức là chuyện riêng chứ không phải chuyện công phải không?

– Ừ đây là chuyện riêng của ta với Hoàng sư tỷ.

– Thế thì tiểu muội không mang đâu.

– Tại sao?

Quế-Hoa nheo mắt:

– Lĩnh-nam vương Tả tướng-quân gửi quà cho Vương-phi. Quân-sư gửi quà cho phu quân, đây là chuyện riêng tôi không làm. Muốn tôi làm phải trả công.

Phương-Dung biết Quế-Hoa tính còn trẻ con hay đùa, nàng nói:

– Được sau khi đi về, sư-muội muốn gì ta sẽ tặng.

Quế-Hoa cùng Vương Hữu-Bằng lên đường đến Việt-tây.

Phùng Vĩnh-Hoa đợi Phương-Dung với Nghiêm Sơn trở lại rồi nói tiếp:

– Chúng ta không cần đánh chiếm Cẩm-dương làm gì. Cứ dàn quân dùng dằng với địch, cho hai đạo kia tiến vào Thành-đô. Vậy ngày mai Nghiêm vương-gia đi cùng với Thái-sư thúc Khất đại-phu mang theo Thần-nỏ Âu-lạc đến Cẩm-dương, chúng ta trực diện đánh nhau với địch

Sáng hôm sau, Nghiêm Sơn mời Khất đại-phu cùng Vĩnh-Hoa, Thần-nỏ Âu-lạc tứ hùng đi theo đến Cẩm-dương dàn trận ra cánh đồng. Bên Thục, Thái-tử Công-tôn Tư cũng dàn quân đối trận. Tuy thành mất, nguy đến nơi, mà tướng sĩ Thục vẫn khẳng khái, hàng ngũ chỉnh tề.

Quân-sư Thục là Tào Mạnh gò ngựa hỏi:

– Chúng ta đánh nhau mãi, chết nhiều quân quá rồi, bây giờ chúng ta cùng nhau đấu võ, không biết bên Hán có tướng nào nhận không?

Phùng Vĩnh-Hoa thủng thỉnh thúc ngựa ra trước trận:

– Tại sao lại không? vậy chúng tôi để bên Thục cho đầu đề trước.

Trấn-bắc đại tướng-quân Ngụy Đảng phi ngựa ra nói:

– Nhất sinh tôi biết đấu kiếm, đánh chưởng và bắn tên. Vậy có tướng nào dám đấu cùng ta không?

Nghiêm Sơn từng nghe Ngụy Đảng có biệt hiệu là Tiểu Dưỡng Do-Cơ thì biết tiễn thủ của y không phải tầm thường. Trong lần theo Triệu Khuôn mang quân cứu Ngỗi Hiêu ở Lũng-thượng, khi bị quân Phùng Dị đánh gấp quá, Ngỗi Hiêu bỏ thành chạy. Một mình Ngụy Đảng trên gò cao với một cây cung, bất cứ tướng Hán nào tiến lên đều bị bắn chết. Sau đích thân Phùng Dị phi ngựa lên, y bắn bốn mũi trên đầu Phùng gạt được, đến lần thứ năm thì y bắn hai mũi một lúc, một hướng cổ, một hướng bụng. Phùng gạt mũi hướng bụng, thì mũi tên khác bay tới cắt đứt dây cương ngựa, vì vậy quân Hán phải lui lại. Bây giờ nghe Ngụy Đảng thách đấu bắn cung, Nghiêm Sơn nhìn các tướng Hán ngơ ngác chưa biết tính sao.

Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa ra nói:

– Ta là Cao Cảnh-Kiệt, người Việt đất Lĩnh-Nam. Ta muốn cùng tướng quân thi bắn tên. Vậy tướng quân cứ ra đề đi, ta sẵn sàng tiếp.

Nghiêm Sơn tỉnh ngộ:

– Mình thực lú lẫn, có Thần-nỏ Âu-lạc ở đây mà quên đi.

Ngụy Đảng chỉ vào cây cung nói:

– Chúng ta mỗi người dùng ba mũi tên và một con ngựa, cùng đấu với nhau ở trước ba quân. Chúng ta sai cắm bốn góc bốn cây cờ. Nếu ai chạy ra ngoài sẽ bị thua. Cung ai gãy cũng bị thua, dĩ nhiên ngã ngựa cũng bị thua.

Cao Cảnh-Kiệt cười:

– Thế thì được rồi, chúng ta không ai mặc giáp, thế mới gọi là anh hùng. Ngụy tướng quân có đồng ý không?

– Dám chứ ! Nhưng ta đặt vấn đề, nếu thua ta phải đầu hàng bên Hán, ngược lại ngươi thua cũng phải đầu hàng bên ta.

Cao Cảnh-Kiệt gật đầu:

– Cứ thế! Nào chúng ta cùng đấu.

Cao Cảnh-Kiệt trở về trận, bỏ áo giáp cỡi ngựa trận không yên phi ra trước trận. Chàng chỉ mặc có chiếc áo nâu, đầu chít khăn, đúng theo lối của dân Việt đất Lĩnh-Nam. Tướng sĩ hai bên reo hò ầm ĩ. Kiệt thúc ngựa cho phi vòng vòng trong khu vực cắm cờ.

Ngụy Đảng bỏ giáp trụ, phi ngựa chạy trước mặt Cao Cảnh-Kiệt. Cuối cùng hai tướng gò ngựa đứng đối diện nhau.

Công-tôn Tư cho nổ một tiếng pháo. Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa chạy quanh bãi. Ngụy Đảng thúc ngựa đuổi theo. Bỗng Ngụy Đảng nạp tên bắn mũi thứ nhất. Tiếng tên xé gió bay đến giữa lưng Cao Cảnh-Kiệt. Kiệt vọt người lên cao, mũi tên đi dưới chân. Khi mũi tên lướt qua dưới chân chàng, rơi xuống đất, thì chàng đáp xuống lưng ngựa. Chàng cặp chân vào bụng ngựa, lộn người xuống thò tay xuống nhặt mũi tên. Hai ngựa chạy cách nhau một khoảng ngắn. Quân sĩ hai bên reo hò vang trời đất. Vì người bắn đã giỏi mà người tránh càng giỏi hơn.

Bên trận Hán, Nghiêm Sơn nói với Vĩnh-Hoa:

– Người ta gọi bốn anh em họ Cao là Thần-nỏ cũng phải. Với mũi tên vừa rồi, nếu là ta, ta chỉ có nước chết, chứ làm sao tránh nổi. Cao tứ-đệ giỏi thật, hèn chi ngày xưa Cao-cảnh hầu dùng Thần-nỏ bắn, Triệu Đà bị bại biết bao phen. Ngày nay đồ tử, đồ tôn vẫn còn giữ được oai phong cũ.

Ngụy Đảng phi ngựa đuổi theo bén gót Cao Cảnh-Kiệt. Y nạp tên bắn mũi thứ nhì, nhắm ngay đít ngựa Cao Cảnh-Kiệt. Cao Cảnh-Kiệt nghe tiếng gió biết nguy cơ. Người bên Hán la hét vang trời lo cho chàng. Vì nếu mũi tên trúng đít ngựa, ngựa sẽ hất chàng xuống đất, như vậy là thua. Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa giữa tiếng reo hò. Chàng nghe tên từ phía sau, vội chống hai tay lên lưng ngựa, còn hai chân lộn ngược về sau, mũi tên vừa tới mông ngựa, chân chàng gạt ngang, hất bay mũi tên lên không, rồi uốn cong người lên cao ngồi vào lưng ngựa như thường. Quân sĩ hai bên reo hò vang dội. Ngụy Đảng thấy mình mất hai mũi tên biết nguy hiểm, dừng lại không đuổi nữa, Cao Cảnh-Kiệt cũng gò ngựa lại.

Ngụy Đảng nói:

– Ngươi không dám đấu cùng ta, cứ chạy đâu phải anh hùng.

Cao Cảnh-Kiệt đáp:

– Được bây giờ ta không tránh né, nếu ta tránh né hay phi ngựa hoặc gạt đỡ coi như thua cuộc.

Tướng sĩ hai bên cùng giật mình lo nghĩ cho Kiệt, vì tài bắn của Ngụy Đảng tuyệt cao, chàng không tránh né hoặc đỡ gạt, chỉ có chết mà thôi. Quân sĩ hai bên cùng im lặng, giữa trận tiền, mỗi bên hàng mấy vạn người mà như một đêm vắng vậy.

Ngụy Đảng nói lớn:

– Ta bắn vào giữa ngực ngươi đây.

Y buông tên, mũi tên xé gió bay tới. Kiệt cũng nạp tên bắn lại. Hai mũi tên đến giữa đường gặp nhau tóe lửa rồi cùng rơi xuống đất. Nhưng Cao Cảnh-Kiệt buông một lúc hai mũi, một bắn trúng tên Đảng, một bay vào giữa mặt y.

Ngụy hoảng hốt lấy cung gạt mũi tên, nhưng y gạt vào khoảng không. Vì tên của Kiệt tới trước mặt Đảng vài thước thì rơi xuống đất. Ngụy Đảng lấy cung móc một cái, mũi tên bay lên cao, y cầm lên coi, thì ra tên đã được bẻ mũi. Bây giờ y mới hiểu đối phương tha cho mình, chỉ muốn biểu lộ bản lĩnh mà thôi.

Ngụy Đảng còn đang ngơ ngác, thì Cao Cảnh-Kiệt nói lớn:

– Ta bắn gãy cung ngươi đây.

Chàng buông tên. Tên xé gió bay tới, ba mũi một lúc. Ngụy Đảng đang luống cuống, thì chát một cái, cung của y bị gãy. Phía sau cây cờ hiệu của Thục bị trúng tên, cũng gãy gục xuống. Ngụy Đảng toát mồ hôi, y biết Cao Cảnh-Kiệt không muốn giết mình, cũng không muốn giết tướng bên mình. Kiệt bắn ba mũi tên, chỉ đánh gãy cung, đánh gãy cây cờ, hiển dương tiễn pháp Âu-lạc.

Y biết mình kém đối thủ xa, y nghiêng mình:

– Tiểu tướng chịu thua anh hùng Lĩnh-Nam.

Cao Cảnh-Kiệt nghiêng mình đáp lễ:

– Nghĩa sĩ Việt đất Lĩnh-Nam chỉ cần phân thắng bại, chứ không bao giờ giết người đã thua mình. Ngụy tướng-quân, người có giữ lời hứa với ta rằng, nếu ngươi thua sẽ đầu hàng không?.

Ngụy Đảng đến trước ngựa của Công-tôn Tư, dập đầu lạy bốn lạy:

– Thái-tử, sư huynh, Thái-tử không phân biệt trên dưới, dùng tình nghĩa huynh đệ đãi tôi. Đáng lẽ suốt đời tôi phải theo Thái-tử để đền ơn tri ngộ. Nhưng nay tài hèn sức mọn, phải thua người, vậy xin Thái-tử nhận bốn lạy của tôi, coi như lễ tiễn biệt. Tôi là nghĩa sĩ đất Thục, thà chịu chết chứ không đần hàng Quang-Vũ. Vì vậy tôi xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ.

Nói rồi Ngụy Đảng cầm kiếm đưa lên cổ tự vẫn. Mọi người đồng kêu rú lên. Công-tôn Tư muốn cản mà không kịp chỉ còn biết thét:

– Ngừng tay!

Nhưng không kịp nữa. Bỗng có vật gì mầu xanh to bằng nắm tay, từ bên trận Hán bay hướng vào cổ tay Ngụy Đảng, vật đó bay nhanh quá không ai biết đó là vật gì, khi bay phát ra những tiếng vo vo nhức tai.

??????

Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa sang trận Thục. Chàng hiên ngang xuống ngựa đỡ Ngụy Đảng dậy:

– Ngụy tướng quân, người là nghĩa sĩ thì nhiều, nghĩa sĩ thực hiếm. Tướng quân khỏi cần đầu hàng nữa. Chúng ta đấu tên rồi kết bạn, không biết có nên chăng?

– Ngụy Đảng này được kết thân với một anh hùng Lĩnh-Nam thực cầu mà không được.

Hai người cùng quì gối giữa trận, thề rằng:

– Chúng tôi Ngụy Đảng thuộc phái Thiên-sơn đất Thục và Cao Cảnh-Kiệt thuộc phái Hoa-lư đất Lĩnh-Nam, dùng nghĩa kết huynh đệ thề suốt đời lấy nghĩa đối xử với nhau. Nếu sai lời trời tru đất diệt.

Hai người quay lưng lại lạy nhau. Ngụy Đảng 45 tuổi làm anh, Cao Cảnh-Kiệt 22 tuổi làm em. Sau khi kết nghĩa, hai người nắm tay nhau ra một tảng đá dưới gốc cây, cách xa trận tuyến ngồi nói chuyện. Họ chỉ còn biết tình huynh đệ, tình người, tạm quên đi những gì là Hán, là Thục, là Lĩnh-Nam.

Công-tôn Tư thấy Ngụy Đảng được một người bên Hán quăng ám khí cứu thoát chết thì mừng lắm. Ngụy lại kết bạn với một hào kiệt Lĩnh-Nam thì mừng lắm, y hướng vào trận Hán:

– Không biết cao nhân nào phóng ám khí cứu Ngụy huynh, Tiểu-vương xin đa tạ.

Nguyên trái chanh đó do Khất đại-phu phóng ra cứu người. Ngài là một đại danh y đi đâu cũng mang theo nhuều trái cây làm thuốc. Thấy Ngụy Đảng khẳng khái tự vận, ngài không nỡ nhìn người nghĩa sĩ chết uổng nên mới ném trái chanh ra.

Công-tôn Tư chắp tay về phía Hán quân lạy đủ ba lạy.

Quỳnh-Hoa thấy Cao Cảnh-Kiệt chiến thắng anh hùng, tính bồng bột trẻ con nổi dậy, nàng vọt ngựa ra giữa hàng quân hai bên hỏi:

– Tiểu nữ là Trần Quỳnh-Hoa, người Việt đất Lĩnh-Nam xin được tiếp mấy chiêu cao siêu của anh hùng đất Thục.

Bên Thục đã có Điền Nhung, Hầu Đơn nếm mùi chưởng lực của nàng và Quỳnh-Hoa. Họ kể cho các bạn nghe, có người tin, có người không tin. Trấn-tây tướng-quân Thục là Sử Hùng, từ lâu không tin rằng một cô nhỏ tuổi, ẻo lã, xinh đẹp thế kia mà lại có chưởng lực mạnh như thế, y phi ngựa ra nói:

– Tôi là Sử Hùng. Trấn-tây tướng-quân xin được lĩnh-giáo mấy thế võ cao siêu của anh hùng Lĩnh-Nam.

Y nhảy xuống ngựa khoanh tay đứng chờ. Quỳnh-Hoa từ trên mình ngựa vọt người lên cao, đánh một thế Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần chưởng. Chân đá gió một cái, người nàng tà tà đáp xuống trước mặt Sử Hùng, thân pháp đẹp vô cùng. Sử Hùng thấy thế chưởng kỳ diệu không dám coi thường, y khoanh tay một vòng, đánh trở lên một chưởng. Hai chưởng gặp nhau, Quỳnh-Hoa bị bay vọt lên cao. Ở trên không nàng lộn đi hai vòng rồi tà tà đáp xuống đất.

Vừa tới đất, nàng vung chưởng đánh liền. Sử Hùng vung chưởng đỡ. Hai chưởng chạm nhau, bùng một tiếng, cả hai cùng bật lui trở lại. Qua hai chưởng đầu Sử Hùng biết công lực đối phương không kém mình là bao. Y vận công lực phát ra tột đỉnh tấn công liên tiếp hơn mười chưởng liền. Chưởng của y ảo diệu vô cùng. Nhưng Quỳnh-Hoa vẫn dùng Phục-ngưu thần chưởng là chưởng pháp cương mãnh, cực kỳ tinh vi của Lĩnh-Nam, nên y không làm sao đánh bại được nàng. Nhiều khi hai chưởng gặp nhau, y cảm thấy tay còn tê dại nữa là khác. Bây giờ y mới biết võ công Lĩnh-Nam kinh người. Y nhớ lại lời sư phụ nói: Đất Lĩnh-Nam anh hùng võ sĩ đông như kiến, đứa trẻ lên năm cũng biết đánh võ, quả đúng. Y càng đánh, càng thấy chưởng pháp đối phương hùng mạnh, không một chút sơ hở để có thể xen vào tấn công được. Y nghĩ: Một cô gái nhỏ tuổi ẻo lã như thế nầy đây mà mình đánh không lại, liệu những người lớn hơn võ công của họ sẽ đến mức nào đây?

Nguyên do Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa là cháu Khất đại-phu mồ côi từ nhỏ, được ông nuôi nấng dạy dỗ. Cả hai nàng được học võ với ông ngay từ lúc sáu tuổi. Khất đại-phu là một nhà y học đại tài, ông nuôi hai cháu bằng thức ăn, nước uống đặc biệt, vì vậy mới 18 tuổi, nhưng công lực như người 25-30 tuổi. Võ công hai nàng có phần hơn Vĩnh-Hoa, Lê Chân, Hồ Đề. Có thể nói khắp Lĩnh-Nam, chỉ có Phương-Dung, Phật-Nguyệt, Đào Kỳ gặp kỳ duyên, mới có võ công cao hơn hai nàng mà thôi.

Đấu được trên 50 hiệp nữa, Quỳnh-Hoa đã yếu dần, chiêu thức đã rối loạn, hơi thở gấp. Bởi Phục-ngưu thần chưởng là chưởng pháp dương-cương, công lực cao thấp đều sử dụng được. Nhưng khi sử dụng thì nội lực tiêu hao rất mau. Mà nàng chỉ có công lực mười hai năm luyện tập là cùng. Trong khi Sử Hùng đã luyện đến 30 năm. Quỳnh-Hoa càng đánh càng yếu thế. Nhưng nàng nghĩ mình không thể thua được, mình thua sẽ làm mất uy tín của ông ngoại, của Vĩnh-Hoa, nên cố gắng chống đỡ thêm mười mấy chiêu nữa.

Nàng chợt nhớ nếu dùng Cửu-chân chưởng pháp có thể thắng địch. Nghĩ vậy nàng đổi chiêu phóng ra Thiết-kình phi chưởng. Bộp một tiếng, chưởng của nàng chạm vào chưởng của Sử. Sử thấy tay rung động mạnh, công lực tiêu tan mất. Y thất kinh hồn vía, nghĩ:

– Ủa! Sao con bé nầy tự nhiên thay đổi chưởng pháp. Mà chưởng pháp này bao hàm khắc tinh với chưởng pháp của mình thế này.

Y đứng ngẩn người ra suy nghĩ, thành ra Quỳnh-Hoa có thời giờ điều khí lấy lại công lực. Nàng lại phóng một chiêu trong Thiết-kình phi chưởng nữa.

Sùử Hùng thấy chưởng này khắc chế chưởng của y, bao hàm sát thủ. Y vội đưa chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai lùi lại.

Quỳnh-Hoa được Đào Kỳ dạy có hơn mười chiêu rời rạc của phái Cửu-chân mà thôi, nên chỉ lát sau nàng trở lại những chiêu thức cũ. Sử Hùng là người kinh nghiệm, y biết trước nàng sẽ phóng những chiêu nào, y vận sức lộn người về phía sau đánh ngược lại một chiêu. Quỳnh-Hoa biết nguy vội dùng hai chưởng chập một phóng ra đỡ. Bùng một tiếng nàng bật lùi trở lại.

Sử nhảy vèo đến khoằm khoằm ra chiêu Ưng trảo, bắt sống nàng. Thì y cảm thấy như ai đánh trộm, chiêu vừa nhẹ, vừa êm. Hoảng hốt, y bật chưởng về phía sau đỡ, trúng phải một vật vừa mềm, vừa nhẹ đến bạch một cái, vật này vỡ tan ra. Cánh tay y đau rần, đưa cánh tay lên ngửi là mùi cam. Y nhìn về trận Hán xem ai vừa đã ném trái cam, mà kình lực vừa nhu, vừa mạnh đến như vậy. Nhưng tuyệt không tìm ra. Y vận hết sức đánh ra một chưởng như vũ bão. Chưởng chưa ra khỏi, thì có tiếng rú trên không gian, tiếng xé gió đưa đến kình lực mạnh ghê hồn. Y nhìn lại thấy một thứ ám khí to bằng cái đầu, đang quay tròn trong không gian với tốc độ kinh khủng, kêu thành những tiếng vi vu chói tai. Ám khí quay thật nhanh nhưng đi chậm hướng người y. Y trầm người phóng một chưởng đỡ. Chưởng vừa phát thì ám khí đổi chiều vọt lên cao rồi rơi xuống, thành ra y đánh vào khoảng không. Y nhìn lại là một trái dưa. Y mãi đỡ trái dưa, quên mất Quỳnh-Hoa, bị nàng giáng cho một chưởng vào lưng đau thấu tâm can.

Sử Hùng biết người phóng trái cây chỉ mục đích cứu người, chứ không có ý hại y. Chứ nếu người muốn hại, y đã chết ngay từ trái chanh vừa rồi.

Y quay lại hỏi :

– Cao nhân nào xin xuất hiện để tại hạ được tương kiến !

Không có ai trả lời. Trong khi đó Quỳnh-Hoa ỷ có ông, phóng chiêu tấn công như vũ bão.

Sử Hùng nghĩ :

– Cần phải đánh con nhỏ này bị thương, mới mong kẻ nào đó xuất hiện.

Nghĩ vậy y quay lại phát chiêu tấn công Quỳnh-Hoa, Chiêu thức cực kỳ thâm độc. Quỳnh-Hoa thấy hai lần nàng bị nguy, đều có trái cây của ông ngoại phóng ra cứu, càng hăng hái. Bởi từ nhỏ, sống với ông Ngoại được cưng chiều đã quen. Dù bất cứ việc gì, khó khăn, nguy nan đến đâu cũng được ông giải cứu. Ông ngoại nàng là Khất đại-phu, võ công cao nhất Lĩnh-nam, y đạo trùm thiên hạ, uy tín tiếng tăm không ai không biết, nàng không e sợ ai nữa. Bây giờ đứng trước trận, có ông ở sau, nàng càng hứng khởi hơn nhiều.

Chiêu thức Sử Hùng đánh ra vèo vèo, nhưng Quỳnh-Hoa đều đỡ được. Sự thực mà nói, về công lực nàng kém Sử xa, nhưng về chiêu thức, nàng hơn hẳn Sử. Vì vậy Sử muốn thắng nàng trong chốc lát, không dễ, đấu với nàng hơn trăm chiêu, y giả vờ lui lại, để sơ hở ở ngực. Quỳnh-Hoa chĩa tay vào đó đánh một quyền. Sử chụp được tay phải, tay trái nắm dây lưng nàng nhấc bổng lên vận sức ném xuống. Với cái ném đó nàng không chết cũng bị thương. Y vận sức định vật nàng xuống thì nghe có bốn tiếng xé gió phía sau, rồi hai tay, hai đầu gối y bị bốn vật nhỏ ném trúng vào, chát chát chát chát đau quá, y rú lên thành tiếng, lảo đảo ngã xuống.

Quỳnh-Hoa vọt người lên đứng dậy.

Tướng sĩ hai bên cùng nhìn rõ hết, nhưng họ không biết ai phóng bốn vật nhỏ kình lực mạnh đến như vậy đánh Sử Hùng. Chỉ có Quỳnh-Hoa, Nghiêm Sơn, Vĩnh-Hoa và Thần-nỏ Âu-lạc tứ hùng biết rõ Khất đại-phu đã làm việc đó mà thôi.

Quân sĩ bên Thục nhảy ra ôm Sử Hùng về trận, Quỳnh-Hoa đánh một chưởng đẩy lui chúng lại nói :

– Khoan ! Để ta băng bó cho đại tướng-quân đã.

Nàng cuối xuống lấy kiếm cắt ống quần, tay áo Sử, móc ra trong mình một hộp thuốc cao, bôi lên các vết thương, rồi lấy dây lưng mình băng lại cho y. Nàng lấy trong túi ra hộp thuốc khác và một trái cam đưa cho Sử :

– Sử đại-ca, chân tay đại ca đều bị gãy, tôi băng bó như thế này thì đại-ca phải nghỉ trong 21 ngày mới khỏi. Còn thuốc đây để uống cho khỏi đau. Đại-ca vì đấu võ với tôi mà bị đau, tôi chả có gì đền cả, chỉ có trái cam này đại-ca ăn cho đỡ khát. Ngon lắm đấy !

Các tướng sĩ thấy nàng băng bó, rồi an ủi Sử như chị an ủi em, thì không nhịn được phì cười lên.

Bên trận Thục, Nhiệm Mãng nói với Triệu Khuôn :

– Sư huynh, dù sao chúng ta cũng là những võ sĩ bậc nhất đất Thục. Hôm trước tôi đánh nhau với cô bé nầy, cũng bị cao nhân đó liệng trái cây. Vậy bây giờ tôi ra đánh cô, còn sư huynh quan sát xem đại cao thủ đó là ai nghe.

Nhiệm Mãng bước ra xá Quỳnh-Hoa :

– Cô nương, ta là Phiêu-kỵ đại tướng-quân Nhiệm Mãng, muốn được lĩnh giáo cao chiêu của cô nương.

Quỳnh-Hoa cười rất ngây thơ :

– Nhiệm tướng-quân, người là sư đệ của Triệu Khuôn, tức là sư thúc của Thái-tử Công-tôn Tư, tiểu nữ nghe nói người là cao thủ bậc nhất của đất Thục. Hôm trước chúng ta đã cùng nhau đấu mấy hiệp ở bờ sông Hán-thủy, tướng quân chưa cho là đủ, lại muốn đấu nữa hay sao. Được nào mời tướng quân ra tay đi.

Quỳnh-Hoa ở tuổi 18, như con nghé tơ, trên không sợ trời, dưới không sợ đất. Lại ỷ có ông ngoại ở phía sau, ai thách nàng cũng đánh hết. Nói dứt lời, nàng vung chưởng tấn công Nhiệm Mãng ngay, chưởng của nàng là chưởng Tản-viên.

Nhiệm Mãng chỉ vận hai thành công lực đỡ chưởng của nàng. Nàng biết công lực y cao hơn mình rất nhiều, nhưng vẫn cứ tấn công liên tiếp. Đến chưởng thứ mười, bất thình lình Nhiệm Mãng phát một chưởng đến năm thành công lực đánh thẳng. Nàng trung bình tấn, chụm hai chưởng vào nhau, đỡ chưởng của y. Nhưng chưởng của y mạnh quá, khiến nàng bay vọt ra sau, ngã lăn ra đất, tay chân tê liệt. Nhiệm Mãng vung tay, ra một chiêu nữa,kình lực ào ào do xuống đầu Quỳnh-Hoa. Quỳnh-Hoa kinh hoàng chịu chết. Bỗng một tiếng véo trên không, vừa nhu, vừa mạnh đánh xuống đầu y. Y hoảng hốt gạt, thì vật đó cuốn chặt vào hai tay. Thì ra đó là một sợi dây, không biết ai đã ném ra mà kình lực mạnh đến như vậy.

Quỳnh-Hoa nhờ đó mà đứng dậy. Nhiệm Mãng dùng sợi dây làm vũ khí quất vào người nàng, kình lực rít lên xé gió... Quỳnh-Hoa nhảy lùi không giám đỡ, lại một tiếng véo xé gió, một viên sỏi bay đến tiện đứt sợi dây của y.

Nhiệm Mãng biết có cao nhân can thiệp, y càng ra sức tấn công Quỳnh-Hoa ráo riết, để sư huynh Triệu Khuôn tìm thủ phạm bấy lâu nay làm anh em họ kinh sợ.

Nghiêm Sơn, Phùng Vĩnh-Hoa thấy Quỳnh-Hoa ỷ có Khất đại-phu, ai cũng dám ra tay, thì phì cười. Nghiêm Sơn kinh nghiệm hơn truyền lệnh cho Phùng Dị :

– Phùng tướng-quân, Nhiệm Mãng không hẳn muốn đấu võ với Trần cô nương. Có lẽ y muốn đấu để Triệu Khuôn tìm Khất đại-phu. Phùng tướng quân ra đấu võ với y đi.

Phùng Dị là đại tướng văn võ toàn tài, trước đây y lĩnh chức Bình-tây đại tướng quân, lĩnh đạo quân Hán-trung đánh Thục. Bị thua hai trận, vì tài dùng binh của y không bằng Công-tôn Tư. Quang-Vũ mới cử Ngô Hán lĩnh binh mã Trường-an, Tây-lương đánh Thục. Y bị làm phó tướng cho Ngô Hán, lòng đầy bất mãn. Từ khi Nghiêm Sơn trở về chỉ huy, y chưa có dịp thi thố tài năng. Bây giờ được lịnh của Nghiêm Sơn, y từ từ tiến ra trước trận.

Phùng Vĩnh-Hoa hô lớn :

– Ngừng tay !

Quỳnh-Hoa, Nhiệm Mãng đều nhảy lùi lại. Vĩnh-Hoa nói :

– Quỳnh-Hoa, em không phải là đối thủ của Phiêu-kỵ đại tướng quân. Thôi lui về trận đi.

Quỳnh-Hoa lui lại, Phùng Dị tiến lên :

– Nhiệm Mãng, chúng ta lại tái đấu.

Hai người đã đấu với nhau nhiều trận, trong bốn năm qua, Nhiệm Mãng cười :

– Ta muốn nghiên cứu võ công Lĩnh-Nam, chứ còn võ công của ngươi ta đâu có lạ gì. Đước, tái đấu thì tái đấu.

Bây giờ Nhiệm Mãng mới giở võ công chân thực ra, y phát chiêu chưởng phong bao hàm cương nhu chụp xuống. Phùng Dị thản nhiên nhảy tránh sang một bên, đánh cắt ngang vào chưởng của Nhiệm Mãng. Bình một tiếng, tuyết bắn lên không, trắng xóa một vùng rơi xuống lả tả.

Phùng Vĩnh-Hoa nói nhỏ với Khất đại-phu :

– Thái sư-thúc, võ công hai người thế nào ?

Khất đại-phu nói :

– Võ công của Nhiệm Mãng thuộc phái Thiên-sơn. Cương nhu hợp nhất, trong cương có nhu, trong nhu có cương. Còn võ công Phùng Dị lại thuần cương. Công lực, kinh nghiệm hai người lại ngang nhau. Nếu đấu mãi cả hai đi đến kiệt lực mà chết chứ không có ai thắng cả.

Ngừng một lúc, ông nói :

– Võ công hai người này trên Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Trát, Phan Đông-Bảng. Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại một bậc. Có lẽ ngang với Lê Đạo-Sinh. Nếu Đào Kỳ với ta chưa phát minh ra lối vận công bằng kinh mạch, cách điều hòa âm dương, thì ta không hơn được họ.

Hai người đấu với nhau trên 300 hiệp. Nghiêm Sơn nói với Khất đại-phu :

– Xin Thái sư-thúc giúp Phùng tướng-quân một tay.

Khất đại-phu tủm tỉm cười. Ông bốc một nắm tuyết, vận âm kình vào tay. Nắm tuyết trở thành cứng rắn. Ông ném về phía hai người. Nắm tuyết kêu lên vo vo, bay đến gần người thì chạm phải kình lực của họ tan ra từng mảnh. Mảnh tuyết bắn vào người Phùng Dị thì không sao, song bắn vào đầu Nhiệm Mãng, rơi xuống đầu làm y choáng váng. Vì nội công của y cương nhu hợp nhất cần phải điều hòa âm dương. Đầu là chỗ chí dương, bị tuyết là vật chí âm rơi vào. Lập tức âm dương thiếu thăng bằng, chưởng lực của y phát ra bị bế tắc. Y kinh khủng nhảy lui lại bốn bước tránh chưởng lực của Phùng Dị.

Tất cả việc làm của Khất đại-phu, Triệu Khuôn đều nhìn thấy. Y không chần chờ, vọt người sang trận Hán, vung chưởng đánh vào người ông. Chưởng lực của y bao gồm phong lôi,xoáy mạnh chụp xuống. Ông mỉm cười, vuốt râu, lách qua mình y một cái, vọt qua đầu y. Ông đáp xuống giữa Phùng Dị và Nhiệm Mãng.

Giữa lúc đó Nhiệm Mãng vung chưởng đánh Phùng. Chưởng trúng Khất đại-phu, bùng một tiếng. Nhiệm Mãng bay vọt ra xa. Bàn tay như tê dại, khí huyết đảo lộn, y đứng nhìn ông run run kinh sợ.

Triệu Khuôn vái Khất đại-phu :

– Thì ra lão tiên sinh. Từ nãy đến giờ chúng tôi không biết cao nhân nào trợ giúp cho tiểu cô nương, không ngờ là lão tiên sinh. Xin lão tiên sinh cho biết cao danh quý tánh ?

Khất đại-phu không trả lời. Ông nắm dây lưng Quỳnh-Hoa liệng về phía trận Hán, như liệng một con gà nhẹ nhàng. Quỳnh-Hoa xoay người một cái đáp xuống yên lành. Việc bị ông ngoại liệng như vậy đối với nàng rất quen. Bởi khi nàng luyện võ công thường hay làm nũng, ông lại túm lấy liệng xuống sông để nàng tập bơi.

Triệu Khuôn thấy Khất đại-phu không trả lời mình, lại túm lấy Quỳnh-Hoa liệng về trận như liệng một con gà, biết thân phận ông không nhỏ.

Vĩnh-Hoa tiến ra đáp :

– Lũng-tây vương gia! Vị lão nhân gia đây là Thái-sư-thúc của tất cả chúng tôi. Đám anh hùng Lĩnh-Nam sang đây chinh chiến, chỉ có một hai người là dưới lão nhân gia một bậc mà thôi. Còn tất cả đều dưới người hai bậc. Người họ Trần tên Đại-Sinh, nhưng người làm thầy thuốc, cứu độ chúng sinh, nên được tôn là Đại-phu. Lão nhân gia lại dễ tính, chữa bệnh cho mọi người, người ta dâng cơm, hoa quả, ngài nhận hết. Lão nhân gia gặp đường, ngủ đường, gặp chợ ngủ chợ, người ta gọi ngài là Khất đại-phu, tức ông thầy thuốc đi ăn mày. Có người lại gọi ngài là Tiên ông.

Triệu Khuôn giật mình hỏi:

– Chẳng hay tiên sinh với Nguyễn Thành-Công là thế nào?

Phùng Vĩnh-Hoa đáp:

– Nguyễn sư-bá gọi người là sư thúc.

Nguyên cách đây hơn mười năm, Triệu Khuôn đang trấn thủ Trường-sa. Y quen với một du khách từ Lĩnh-Nam sang chơi. Hai bên bàn luận về võ công. Y tự thị rằng chưởng lực của phái Thiên-sơn mạnh nhất thiên hạ. Du khách đó không chịu. Thế rồi hai bên đấu chưởng. Đấu đến hơn trăm chiêu. Khuôn mới biết rằng chưởng lực đối phương hết sức tinh diệu, thuộc loại dương cương. Y khâm phục, cùng du khách uống rượu kết bạn. Du khách, du khách bấy giờ mới khai tên thực là Nguyễn Thành-Công thuộc phái Tản-viên. Hai người bàn sang chuyện quốc sự. Thành-Công và Triệu Khuôn đều cho rằng đù Thục chiếm được Kinh-châu, Tây-xuyên, Đông-xuyên và Lũng-hữu vẫn không giữ vững được với nhà Hán, vì oai danh cai trị hai trăm năm của Trung-nguyên, dân chúng vẫn chưa quên được họ Lưu. Vậy Thục cần có mười năm cai trị một phần thiên hạ, ban ơn bố đức để dân chúng bỏ Hán theo Thục. Còn Thành-Công thì quật khởi, phục hồi Lĩnh-Nam, đất Lĩnh-Nam tuy anh tài đông, nhưng dân ít giữ sao nổi. Như vậy Lĩnh-Nam và Thục sẽ liên kết chia ba thiên hạ với Lưu Tú. Nay gặp Khất đại-phu ở đây, thấy ông đã già, y tỏ ý không phục, nói:

– Hậu bối xin được tiếp mấy chiêu của cao nhân đất Lĩnh-Nam.

Khất đại-phu thấy Triệu Khuôn thách mình đấu võ. Ông giơ tay lên vẫy vẫy, rồi đi về trận.

Vĩnh-Hoa giảng cho Triệu Khuôn:

– Khất đại-phu không bao giờ muốn ra tay với đám hậu bối. Ngài bảo tướng quân muốn đấu thì đấu với Quỳnh-Hoa hay Nghiêm nguyên soái đủ rồi. Đại-phu còn bảo tướng quân với người không thù, không oán đánh nhau làm gì. Nếu tướng quân có bệnh, người sẵn sàng chữa cho. Chứ ngài là một tiên ông không muốn đánh người.

Triệu Khuôn quát lớn:

– Tiên sinh khinh đất Thục không người, vậy xin lãnh một chưởng này.

Y vận đủ mười thành công lực, phóng vào ngực Khất đại-phu. Ông không đỡ cũng không lui. Chưởng úp chụp lên người ông, ông quay tay một vòng. Lập tức chưởng của Triệu Khuôn mất tich, mất tăm.

Triệu Khuôn kinh khiếp đánh chưởng thứ nhì. Khất đại-phu nhíu mày tỏ vẻ khó chịu vô cùng. Ông khẽ bật tay, một luồng nội lực nhu hòa bao trùm lấy người Triệu Khuôn, hóa giải hết kình lực của y.

Bấy giờ y mới biết đối phương công lực cao không biết đến đâu mà kể. Y khâm phục nhưng bản năng tự vệ nổi lên:

– Võ công của y cao thế này mà giúp Hán, mình cùng các sư huynh, sư đệ chết không có đất mà chôn mất. Phải tính kế trừ đi mới được.

Y nghĩ được một kế nói:

– Trần tiên sinh! Ta là đệ nhất cao thủ mà không thể đánh trúng vạt áo tiên sinh. Nhục nhã vô cùng, thôi còn sống làm gì nữa, chết đi cho rảnh.

Y vận sức vào hai tay đưa lên đập đầu tự tử. Thái-tử Công-tôn Tư và bọn đệ tử kêu thét lên:

– Sư phụ đừng làm thế?

– Sư phụ! Khoan!

Chưởng lực y đã đập tới đầu rồi. Khất đại-phu thấy vậy nhảy vèo đến, hai tay xuyên vào giữa hai chưởng với đầu y, đẩy trở lên.

Triệu Khuôn chờ có thế, y vận hết nội lực day hai chưởng vào người Khất đại-phu. Bùng một tiếng, người ông lảo đảo lui lại. Trong khi Triệu Khuôn bị bật ra xa đến ba trượng.

Nghiêm Sơn, Vĩnh-Hoa, Quỳnh-Hoa cùng kêu thét lên kinh hoảng, vì Khất đại phu trúng gian kế của Triệu Khuôn.

Nguyên Triệu Khuôn biết dùng sức không đánh được ông. Y biết ông là thầy thuốc đầy lòng nhân đạo. Y giả tự tử để ông ra tay cứu. Bấy giờ ông hở ngực lại không vận khí, dùng hết lực đánh vào người ông hai chưởng cực mạnh. Khất đại-phu ôm ngực lảo đảo, mép ri rỉ máu. Triệu Khuôn lao đến vận sức phóng liền hai chưởng nữa hòng kết liễu tính mạng ông. Nghiêm Sơn thất kinh hồn vía, vọt người ra dùng hết sức bình sinh đánh hai chưởng cứu Khất đại-phu, thì bị Nhiệm Mãng vung chưởng đỡ. Bình một tiếng cả hai đều lui lại. Nghiêm Sơn cảm thấy khí huyết đảo lộn, ngực đau nhức vô cùng, chàng ọe một cái, thổ ra búng máu tươi, Phùng Dị thấy chúa tướng bị thương, nhảy ra tấn công Nhiệm Mãng.

Quỳnh-Hoa thấy ông bị thương mà đối thủ đang đánh tới, vội nhảy ra vung chưởng đánh Triệu Khuôn. Nàng chưa tới, Khất đại-phu đã chụp Triệu Khuôn nhấc lên cao. Ông nói lớn lên:

– Trọn đời ta chỉ chữa bệnh cứu người, chứ không đánh người. Ta học võ cho khỏe mạnh hành hiệp cứu đời. Lần đầu tiên ta dùng võ đấu với Lĩnh-nam vương, tìm hiểu võ công Quế-lâm. Lần thứ nhì, ta chỉ bảo vệ con cháu Lĩnh-Nam, chứ không muốn đánh ai. Triệu vương gia, ngươi là một trong Thiên-sơn thất hùng, võ công, chức vị không nhỏ, thế mà ngươi phải dùng thủ đoạn hèn hạ đánh ta, tại sao?

Ngưng một lúc để điều tức, ông khạc ra búng máu rồi nói:

– Phải rồi Triệu vương gia, phái Thiên-sơn nhà ngươi đạo đức khắp thiên hạ, ai cũng biết. Thiên-sơn lão tiên với ta là bạn thân, ta cũng muốn cản đồ tử, đồ tôn không nên đánh Thục, vì chúng phải đánh Thục để phục Lĩnh-Nam. Ta không cản chúng, cũng không muốn đánh đồ tử, đồ tôn của Thiên-sơn lão tiên.

Thiên-sơn lão tiên là Thái-sư phụ của Thiên-sơn thất hùng. Họ nghe Khất đại-phu là bạn của Thái-sư phụ biết ông không nói dối. Khất đại-phu từ từ thả Triệu Khuôn xuống đất, nói lớn với quân Hán, Thục:

– Chư quân tướng Hán, Thục nghe đây. Tại sao Triệu vương gia lại phải dùng thủ đoạn hèn hạ đánh ta? Ta biết rồi! Ngươi nghĩ, võ công ta cao như thế mà trợ Hán đánh Thục thì nguy thay, vì vậy Vương-gia phải giả tự tử để dụ ta cứu người, rồi bất thần giết ta. Này Lũng-tây vương, nếu ta là Vương-gia, ta cũng làm thế.

Ông quay lại vẫy Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa :

– Hai con mèo con ra đâu ra đây.

Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa từ trận Hán chạy ra. Ông chỉ vào Triệu Khuôn nói :

– Các con phải học lối hành động như Lũng-tây vương. Khi phải cứu người thì hy sinh cả cái thân cũng không tiếc. Khi cứu nhiều người thì sinh cái danh cũng không màng. Khi cứu nước thì việc gì dơ bẩn đến đâu cũng làm. Lũng-tây vương vì việc nước mà bỏ cái danh dự ra ngoài, làm việc hèn mạt, đáng quý thay.

Ông ngừng một lúc, rồi tiếp :

– Từ sáng đến giờ các cháu thấy hai vị này dùng võ công Thiên-sơn. Võ công Thiên-sơn ngồi trên tuyết luyện công, lấy khí dương của mặt trời, hợp với khí âm của tuyết cho nên đánh ra coi thì nhẹ nhàng mà núi lỡ, băng tan. Kình lực phát lúc chạm vào ta thấy cương mãnh rồi tiếp theo thấy nhu nhuyễn. Nếu đối thủ gặp cương mãnh thu lực lại thì thôi, còn không thì gặp nhu nhuyễn hóa giải mất, rồi cuối cùng thì phần cương mãnh hơn, thì không chịu được nữa.

Ông thả Triệu Khuôn ra, nói :

– Lũng-tây vương, ở đây có cả sư đệ ngươi là Phiêu-kỵ đại tướng quân Nhiệm Mãng. Hai người dường như chưa tin võ công Lĩnh-Nam. Vậy ta đứng đây cho cả hai cùng đánh, ta quyết không đỡ vậy các ngươi đánh đi.

Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng tuy biết Khất đại-phu là bạn của Thái sư phụ, họ không tin rằng ông có thể chịu được cả hai cùng đánh. Nhiêm Mãng nói :

– Trần tiên ông, tiên ông đã là bạn của Thái sư-phụ tại hạ, khi nào bọn tại hạ dám mạo phạm tiên ông nữa. Tiên ông nói rằng hai sư huynh đệ tại hạ đánh vào tiên ông mà tiên ông chịu nổi e rằng thái quá.

Nhiệm Mãng bước lại cạnh mô đất lớn. Y vận khí phát một chưởng, đó là chiêu tuyết lạc Thiên-sơn trong thiên-sơn cửu thức. Mọi người thấy chưởng phong rít lên, bình một tiếng, cả mô đất tung đi như bị người ta đào lên vậy, cát đá bay mịt mù.

Ngiêm Sơn kinh hãi nghĩ :

– Chỉ cần một trong hai người kia đánh một chưởng vào ta thì ta mất mạng như chơi. Ta vừa đánh ra một chưởng y đã đỡ lại, mà ta đã hộc máu tươi. Đủ biết chưởng lực của y mạnh đến chừng nào.

Khất đại-phu cười :

– Cái đó vô dụng hai ngươi cứ đánh ta đi.

Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng cùng nhìn nhau hội ý, rồi hít một hơi, phóng đủ mười thành công lực vào ông.

Hai chưởng từ hai phía đánh vào Khất đại-phu. Ông xoạc chân vận khí phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cát bụi bay mịt mờ. Nhiệm Mãng, Triệu Khuôn đều bật văng trở lại, miệng phun máu. Hai người cố gắng mãi mới bò dậy được. Nhưng họ không chịu lui. Lại vận sức phát ra hai chưởng từ hai phía đánh vào người ông một lúc.

Lần này Khất đại-phu xoay tay một cái, ông lui về sau một bước, thủ pháp giống như ông hái hai trái cây vậy. Lập tức chưởng của Triệu Khuôn đánh vào chưởng của Nhiệm Mãng. Cả hai cùng lảo đảo lui lại.

Khất đại-phu nói như giảng giải :

– Hai vị thấy thế nào ? Chiêu đầu hai vị đánh vào ta, ta dùng nội công Lĩnh-Nam chống lại. Nội công của Thiên-sơn khởi đầu từ cương rồi nhu, cuối cùng là cương. Tức trong cái dương cương của núi đá có cái âm nhu của tuyết. Trong cái lạnh của tuyết có dương nhiệt của mặt trời. Còn nội công Tản-viên gốc ở sư tổ Sơn Tinh. Tổ sư ngồi trên núi Tản-viên luyện công. Núi Tản-viên rất cao, khí trời nóng bức, vì vậy trong đó có cái cương của núi đá, cái dương nhiệt của mặt trời. Hai vị đánh vào ta thấy toàn thân rung động. Rồi hai vị đánh vào nhau thì thấy, khi đầu rung động, sau đó nhẹ nhàng nhu hòa, rồi phong lôi cương mãnh. Đó là nguyên lý khác nhau của phái Thiên-sơn và Tản-viên. Võ công ảnh hưởng đến võ đạo. Vì vậy đệ tử của Tản-viên đường đường cương mãnh. Cương mãnh chính trực thì tốt, nhưng cứng quá thì có ngày gãy. Còn võ đạo Thiên-sơn trong cái cương có pha cái nhu. Như vừa rồi Lũng-tây vương dùng hết sức đánh ta là cương, sau đó giả tự tử để dẫn dụ ta là nhu, rồi lại muốn tranh thắng mà cùng sư đệ phóng chưởng đánh ta vì không tin ta chịu nổi hai người đánh cùng một lúc.

Ông tủm tỉm cười :

– Bây giờ hai vị coi chưởng thuần dương của ta.

Ông đến bên một gốc cây to bằng bốn gang tay, vận khí đánh chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục-ngưu thần chưởng. thân cây to như vậy, mọi người nghe đến Ầm một tiếng, cây gãy làm đôi từ từ đổ xuống.

Tướng sĩ hai bên cùng kinh khủng đến đờ người ra.

Bất thình lình Khất đại-phu vung chưởng hướng hai người. Hai người vận khí chống lại, nhưng chưởng của họ mất tăm mất tích, một luồng kình lực nhu hòa bật tung hai người lên bay về phía trận Thục. Tướng sĩ đều la hoảng. Nhưng hai người lại rơi trúng lưng hai con ngựa của họ, tựa như họ nhảy lên cỡi vậy.

Khất đại-phu mỉm cười :

– Hậu duệ của Thiên-sơn lão tiên thật lắm người tài.

Ông khen như khen con cháu vậy.

Thình lình từ trận Thục, một viên đá to bằng cái thúng vọt lên cao bay đến chỗ Khất đại phu, tiếng gió rít vo vo. Tướng sĩ hai bên ngẩn người ra, vì không biết ai đã dùng thủ pháp gì mà bắt được viên đá vừa to vừa nặng, bay nhanh không thể tưởng như thế.

Khất đại-phu xuống đinh tấn, tay ông phát chiêu về phía trước, viên đá gặp kình lực của ông liền đổi chiều bay tạt sang bên, trúng vào thân cây. Thân cây gập làm đôi đổ xuống.

Ba viên đá từ giữa trận Thục bay ra, nối đuôi nhau gió rít lên vèo vèo. Khất đại-phu phát lên một tiếng phát chưởng đẩy ra. Viên đá đầu tiên đổi chiều bay lên không, viên đá thứ nhì tạt sang phải, viên đá thứ ba tạt sang trái. Trong khi đó viên đá từ trên cao rơi xuống, Khất đại-phu xỉa một cái, viên đá vỡ làm đôi, bay theo trúng hai viên đá kia. Bốn viên đá vỡ tan tành thành bụi bay mù mịt.

Khất đại-phu cười lớn :

– Thiên-sơn lão hữu, hơn mười năm không gặp nhau, không ngờ võ công ngươi cao đến như vậy.

Trong trận Thục một tên lính rẽ đồng đội tiến ra giữa trận, tên này giơ tay tháo nón gỡ khăn che mặt, hiện ra một ông già râu tóc trắng như cước, mặt hồng hào như một trái táo chín. Lão già đến nắm tay Khất đại-phu, cả hai cười hô hố, coi binh tướng hai bên như không có.

Thiên-sơn lão tiên rút trong bọc ra một hộp lớn đưa cho Khất đại-phu nói :

– Này Trần huynh, từ khi chúng ta biết nhau đến giờ, đệ vẫn hàng ngày sai đệ tử lên núi Thiên-sơn kiếm Tuyết-sâm và Hà-thủ-ô nghìn năm định gửi sang Lĩnh-nam cho huynh làm thuốc cứu người. Hôm nay gặp huynh ở đây, đệ xin dâng tận tay.

Khất đại-phu cũng lấy trong bọc ra một gói lớn đưa cho Thiên-sơn lão tiên :

– Thiên-sơn lão huynh, huynh thường nói rằng, núi Thiên-sơn tuyết xuống quanh năm, nếu có mật gấu hay cao hổ-cốt Lĩnh-nam uống vào thì luyện nội công mới tốt. Đệ đã cất được mấy cân. Hôm đi cùng đồ tử đồ tôn qua đây đệ mang theo. Xin dâng sư huynh.

Hai cao thủ già, một từ Thiên-sơn đến, một từ Lĩnh-Nam qua. Phơi phới như tiên ông, ôm nhau cười nói giữa lúc hai bên hàng trăm nghìn người đang chuẩn bị chém giết.

Đằng sau Thiên-sơn lão tiên có Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng, Công-tôn Tư khoanh tay đứng hầu. Đằng sau Khất đại-phu có Phùng Vĩnh-Hoa, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Hai ông già kéo nhau lại ngồi trên thân cây bị Khất đại-phu đánh gãy, cầm tay nhau nói chuyện. Họ kể cho nhau nghe về những thú vui hằng ngày, ngắm mây trời, nghe suối chảy. Thiên-sơn lão tiên lấy ra bình rượu mời Khất đại-phu uống. Hai người uống rượu say sưa nói chuyện, làm tướng sĩ hai bên dở khóc dở mếu. Xông vào đánh nhau cũng không được, mà rút cũng không xong.

Quế-Hoa bưng ra một cái điếu thuốc lào. Điếu làm bằng sứ trên vẽ hình hai ông lão ngồi đánh cờ mặt giống hệt Thiên-sơn lão tiên và Khất đại-phu. Cần là một cây trúc xanh mướt, chạm trổ cảnh núi rừng, nét vẽ thật tinh vi sắc sảo. Khất đại-phu đặt điếu trước mặt Thiên-sơn lão tiên, lấy nắm thuốc cho vào điếu. Quế-Hoa đánh lửa lên, hai tay dâng cho Thiên-sơn lão tiên.

Ông cười :

– Lần trước gặp nhau huynh đã cho đệ cái điếu ống, lần này lại cho cái điếu bát. Giữa cảnh tuyết phủ núi Thiên-sơn mà hút thuốc lào Lĩnh-Nam thì tuyệt.

Ông kéo cần để lên miệng hít một hơi. Tiếng nước trong điếu kêu lách cách vang dội một vùng. Ông ngừng lại ngửa mặt lên trời, mắt lim dim để thưởng thức mùi vị thuốc, rồi phu khói lên không. Khói thuốc gặp lạnh kết thành làn hơi trắng tan dần vào không gian.

Hai lão tiên ngồi hút thuốc, đàm luận thánh nhân.

Thiên-sơn lão tiên chỉ Công-tôn Tư :

– Đây là đồ tôn của đệ. Hôm trước y cùng Phùng cô nương dạo đàn tấu nhạc, tiếc rằng chúng nó ở xa nhau quá, nếu không thì chúng ta kết hợp cho chúng thành vợ chồng, rồi đem lên đỉnh Thiên-sơn để chúng hưởng cảnh thần tiên của tạo hóa.

Công-tôn Tư sợ đến không thở được. Vì chàng kiểm soát binh mã rất ngặt, thế mà Thái sư-thúc tổ lẻn vào trong quân bấy lâu nay mà mình không hay.

Khất đại-phu quay lại bảo Công-tôn Tư và Vĩnh-Hoa :

– Hai cháu cho rút quân. Hãy nể mặt hai lão già này ngừng tiến quân, đợi sau Tết hãy đánh nhau.

Phùng Vĩnh-Hoa dạ một tiếng trở về trận. Nghiêm Sơn tuy là chúa tướng, nhưng địa vị chàng trong võ lâm so với hai ông tiên này quá thấp. Bây giờ chàng muốn tiến quân, đám anh hùng Lĩnh-Nam sẽ mích lòng. Còn đóng quân như lời của hai ông, thực không còn ra thể thống gì. Vĩnh-Hoa nói :

– Nghiêm đại-ca ! Đất Lĩnh-Nam mình coi Khất đại-pu như là một tiên ông, một Thái sư-phụ. Nghiêm đại-ca hãy nể lời người mà lui binh về, đợi sau Tết hãy tiến đánh.

Nghiêm Sơn đành ra lệnh rút binh về ải Kiếm-các.

Trở về ải Kiếm-các, Nghiêm Sơn cho họp đám anh hùng Lĩnh-Nam và tướng sĩ bàn định kế hoạch.

Ngoài trời mưa tuyết lất phất, hai tiên ông vẫn ngồi uống rượu nói chuyện, cạnh có Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng đứng hầu. Trời tối hồi nào rồi mà hai ông không hay. Quế-Hoa công lực yếu nhất, chịu lạnh yếu, nàng phát run nói với Khất đại-phu :

– Ông ngoại ơi, lạnh quá cháu chịu không nổi rồi.

Thiên-sơn lão tiên chỉa ngón tay trỏ hướng vào trán nàng, điểm đến vèo một tiếng, Quế-Hoa cảm thấy một luồng nhiệt khí nhu hòa chuyển khắp cơ thể, làm người nàng nóng ran lên.

Khất đại-phu nói với Thiên-sơn lão tiên :

– Sư huynh bây giờ chúng ta về đâu ?

Thiên-sơn lão tiên nói :

– Đây gần Thiên-sơn, vậy tiểu đệ là chủ, vậy mời Trần huynh ghé vào thành Cẩm-dương, chúng ta uống rượu, nói chuyện.

Hai người đứng lên rảo bước về Cẩm-dương. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng líu ríu theo sau. Vào trong thành quân sĩ đã dàn ra uy nghi đón hai ông. Hai ông vẫn cười nói coi như không có gì. Một người dáng điệu uy mãnh, tiến ra khom lưng hành lễ :

– Đệ tử Công-tôn Thuật, xin tham kiến nhị vị Thái sư-phụ.

Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đã gặp ông ở Kiếm-các nên không ngạc nhiên. Khất đại-phu đáp lễ :

– Không dám, ngài đứng đầu Thiên-sơn thất hùng đây phải không ? Ngài hiện là đương kim hoàng đế đất Thục sao lại nhẹ thể đối với hai lão nhà quê như vậy.

Công-tôn Thuật chắp tay :

– Đệ tử tuy là vua Thục nhưng vẫn không quên đạo nghĩa võ lâm. Đệ tử cùng các sư đệ lập ra nước Thục, chỉ vì muốn cứu dân Thục thoát khỏi ách tham tàn của vua quan nhà Hán, chứ không hề vì tham quyền cố vị.

Công-tôn Thuật mời hai ông ngồi lên hai cái ghế bọc gấm thực lớn, rồi khoanh tay đứng sau hầu. Cung nga dâng trà nóng, rượu thơm, hoa quả lên.

Thiên-sơn lão tiên hỏi Công-tôn Thuật:

– Các sư đệ của ngươi đâu, gọi ra đây tham kiến Thái sư bá đi.

Công-tôn Thuật vẫy tay, từ sau bức màn gấm, năm người xếp hàng đi ra. Y chỉ vào từng người giới thiệu:

– Đây là Công-tôn Thiệu, vừa là sư đệ, vừa là bào đệ của đệ tử. Y được phong Trường-sa vương trấn thủ Trường-sa. Mới đây bị thất trận mất Kinh-châu. Y trấn thủ Xuyên-khẩu, đánh nhau với Đặng Vũ trên mười chện khiến Đặng Vũ thua phải rút đi. Sau đó Đặng Vũ được anh hùng Lĩnh-Nam trợ giúp, đánh chiếm Xuyên-khẩu, Bạch-đế. Y bị bắt, may nhờ mấy vị tiểu anh hùng Lĩnh-Nam nể tình nghĩa hiệp thả về đây.

Vì trong phòng có nhiều người, Công-tôn Thuật không dám nói người tha Thiệu là Lục Sún, sợ nguy hiểm cho ân nhân.

Công-tôn Thuật chỉ một người nữa:

– Đây là sư đệ của đệ tử tên là Công-tôn Khôi, y cũng là bào đệ của đệ tử. Tước phong Bắc-bình vương, trấn thủ vùng Đông-nam Ích-châu. Mới đây cũng bị anh hùng Lĩnh-Nam bắt sống trên sông Trường-giang, may nhờ một anh hùng Lĩnh-Nam nể tình nghĩa hiệp tha cho.

Việc Lục Sún thả Công-tôn Thiệu thì Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa biết, còn ai thả Công-tôn Khôi thì nàng không hề biết.

Công-tôn Thuật chỉ vào một người nữa giới thiệu:

– Đây là sư đệ Điền Sầm, tước phong Tần-vương lĩnh chức Tư-đồ.

Y chỉ vào một người khác:

– Đây là ngũ đệ tên Tạ Phong lĩnh chứ c Tư-không.

Thiên-sơn lão tiên hỏi:

– Sư phụ ngươi thu một lượt bảy đệ tử, huấn luyện cho văn võ toàn tài. Ngươi đứng đầu, bốn người vừa ra mắt ta đã biết rồi. Người thứ bảy là Lũng-tây vương Triệu Khuôn ta gặp ở giữa trận. Sau này sư phụ ngươi còn thu thêm một người nữa, ngoài Thiên-sơn thất hùng là Nhiệm Mãng ta cũng đã gặp. Vậy người thứ sáu đâu? Y tên gì?

Công-tôn Thuật luống cuống đáp :

– Đệ lục sư đệ tên là Vương Nguyên, cách xa đã lâu, đệ tử không được tin tức gì cả.

Khất đại-phu xen vào :

– Nếu lấy quyền lực của ngài là Hoàng-đế, lão phu không dám can thiệp vào chuyện của ngài. Vì lão phu hiện đang ở bên quân Hán. Nếu lấy võ đạo mà bàn, thì lão phu trên Công-tôn đại-hiệp đến hai bậc. Công-tôn đại hiệp ơi, Thiên-sơn lão tiên đang hưởng nhàn trên tuyệt đỉnh Thiên-sơn, ngắm mây trời, uống tuyết, thưởng trăng, thế mà ngài bỏ thì giờ xuống đây chẳng qua cũng vì Công-tôn đại hiệp mà thôi. Đại hiệp cứ nói thực đi, may ra lão phu gỡ được cái thế cờ tuyệt vọng này của đại hiệp.

Thiên-sơn lục-hiệp và Nhiệm Mãng đồng quì xuống một lượt. Công-tôn Khôi khóc rằng :

– Thái sư-phụ ! Xin Thái sư-phụ giết đệ tử đi. Đệ tử phạm tội đã nhiều không thể tha thứ. Sau khi giết đệ tử rồi, xin Thái sư-phụ cứu cho trăm họ Ích-châu, bảo vệ sự sống còn của phái Thiên-sơn.

Thiên-sơn lão tiên hắng rặng hỏi :

– Công-tôn Thiệu ngươi là người thành thực, chí tình, ngươi đem tiền nguyên hậu quả của chuyện Vương Nguyên nói cho ta biết ?

Công-tôn Thiệu cúi đầu thuật :

– Khi sư phụ để tử từ trần, người có dặn phải đứng lên đánh đuổi bọn tham quan, cứu trăm họ Ích-châu, Kinh-sở, Lưỡng-xuyên, tạo hạnh phúc cho muôn dân. Bấy giờ là niên hiệu Kiến-thủy nguyên niên (32 trước tây lịch). Vua Thành-Đế chuyên dùng hoạn quan và bọn ngoại thích. Vừa lên ngôi ngài phong cậu là Vương Sung làm hầu tước, giao hết binh quyền cho họ ngoại. Đến niên hiệu Hà-bình thứ nhì nhà vua lại phong cho 8 người cậu họ Vương làm Liệt-hầu (27 trước Tây-lịch). Đến niên hiệu Dương-sóc nguyên niên (24 trước Tây-lịch), quan Kinh-triệu doãn Vương Chương làm sớ tâu lên vua, nói Đại tư-mã Vương Phùng quá ác. Vua giết chết Vương Chương. Đến niên hiệu Tuy-hòa nguyên niên (8 trước Tây-lịch), vua Thành-Đế phong cho Vương Mãng làm Đại tư-mã. Trong thiên hạ ai theo họ Vương thì sống, ai chống thì chết.

Công-tôn Thiệu thở dài :

– Trước đó tất cả bảy sư huynh đệ của đệ tử đều đi thi, đỗ Hiếu-liêm. Nhờ tài kiêm văn võ bọn đệ tử được thăng lên tới Thái-thú, riêng Lục sư-đệ thì phong tới Thứ-sử. Bọn đệ tử nghe lời sư phụ dùï làm Thứ-sử, Thái-thú nhưng vẫn lấy võ đạo trị dân, vì vậy dân chúng tuân phục. Kịp đến khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Bọn đệ tử họp các huynh đệ lại, phất cờ nêu cao chính nghĩa, phục hồi Hán triều. Lưu Huyền khởi binh xưng là Cảnh-Thủy hoàng-đế, anh em đệ tử đều qui phục. Ít lâu sau Quang-Vũ dùng gian kế đoạt ngôi của Cảnh-Thủy, các sư đệ bàn với đệ tử phất cờ dựng nghiệp. Riêng Lục sư-đệ trấn thủ vùng Lũng-tây tài trí hơn người được cử làm Thừa-tướng. Sự nghiệp Thiên-sơn đang huy hoàng, thình lình sư đệ Công-tôn Khôi khám phá ra Lục sư-đệ chuẩn bị sĩ tốt giết đại sư huynh lên làm vua. Đại sư huynh sai nhị sư huynh bất thần đến vây bắt Lục sư-đệ. Lục sư đệ trốn mất, chính thê tự tử chết. Đại sư huynh truyền tịch thu tài sản.

Bọn đệ tử đều tin như vậy, sau đại sư-huynh vào nhà ngục thẩm vấn thứ thiếp của Lục sư-đệ, mới biết rằng y thị được Nhị sư huynh đem về làm thứ thiếp rồi. Đại sư huynh thấy bên trong có gì bí ẩn, mở cuộc thẩm vấn rộng rãi, mới biết Nhị sư-huynh vì say mê người thứ thiếp của Lục sư-đệ, buông lời chọc ghẹo. Nàng đem chuyện nói với Lục sư-đệ. Lục sư-đệ giận quá, định dẫn đệ tử đến hỏi tội Nhị sư-huynh. Vì vậy Nhị sư-huynh ra tay trước. Đại sư-huynh xấu hổ, hối hận mang ba con trai của Lục sư-đệ về phủ nuôi nói dối là con đẻ, dạy dỗ cẩn thận. Đứa lớn tên Phúc, tước phong Bình-nam vương. Hai đứa em là Lộc, Thọ, tuy còn nhỏ tuổi đều được phong làm Thứ-sử.

Công-tôn Thiệu thở dài :

– Chuyện tưởng thế là yên. Không ngờ sau đó bọn đệ tử được tin Lục sư-đệ giúp Ngỗi Hiêu phất cờ ở Lũng-hữu, xưng là vua. Lục sư-đệ võ công đã cao, tài dùng binh lại hơn người, vì vậy Quang-Vũ xuất đại binh đánh đều bị thất bại. Khi Ngỗi Hiêu chết, Quang-Vũ đem binh đánh nữa, Lục sư-đệ bị thất bại. Đại sư huynh mới cử người thân nhất với Lục sư-đệ là Thất sư-đệ mang quân cứu Lục sư-đệ. Hai bên họp quân đuổi được Quang-Vũ. Thất sư-đệ kể hết sự tình cho Lục sư-đệ nghe, để sư huynh đệ giảng hòa. Được ít lâu sau con Ngỗi Hiêu là Ngỗi Thuần hàng Hán, Lục sư-đệ chán nản, đem bản bộ quân mã giao cho Thất sư-đệ. Tất cả đất đai còn lại của Ngỗi Thuần đều giao cho Đại sư-huynh quản nhiệm hết. Lục sư-đệ bỏ đi tiêu dao sơn thủy. Còn chuyện về sau, Thất sư-đệ sẽ kể tiếp.

Triệu Khuôn tiếp lời :

– Không ngờ Lục sư-huynh xưng là Vu-sơn cùng với người con gái là Sa-Giang giả làm người hát dạo, tiêu dao sơn thủy. Lục sư-huynh được người đời tặng cho danh hiệu Tiêu-thần, Sa-Giang được tặng danh hiệu Cầm-tiên. Cách đây ít tháng, đạo quân Lĩnh-Nam vượt Kim-sơn đánh Độ-khẩu...

Thiên-sơn lão tiên gật đầu :

– Chuyện này ta biết. Anh hùng Lĩnh-Nam dùng tới 600 con vừa vượn vừa khỉ cho chúng chăng dây, vượt Kim-sơn đánh vào phía sau Ích-châu, ta đứng trên núi thấy hết. Nếu ta ra tay thì họ đã chết hết trên núi tuyết Kim-sơn. Nhưng ta thấy họ là những người anh hùng võ công tuyệt cao, nên ta lờ đi cho họ tiến vào Nam Ích-châu.

Quế-Hoa đứng hầu cạnh Khất đại-phu chợt nhớ ra một điều. Hôm trước nàng mang quà của Nghiêm Sơn, Phương-Dung cho Thiều-Hoa, Đào Kỳ, được Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng kể cho nghe. Khi họ lên đến tuyệt đỉnh tuyết sơn. Thấy có vết chân người để lại trên tuyết và vết đao khắc vào đá mấy câu thơ :

Anh hùng Lĩnh-nam,

Lập chí phục quốc,

Có mắt như mù,

Có tai như điếc,

Giúp kẻ bạo tàn,

Đánh người đồng đạo.

Triệu Anh-Vũ biết người khắc mấy câu thơ trên là đại cao thủ, không muốn giết ông. Song ông không đoán được đại cao thủ đó là ai. Hôm nay Quế-Hoa mới biết là Thiên-sơn lão tiên.

Nàng lên tiếng :

– Lão tiên ! Hôm ở đỉnh Kim-sơn may nhờ lão tiên nương tay cho, không thì Triệu sư thúc với đạo Thần-hầu Lĩnh-nam đã bỏ mạng, tan xương nát thịt rồi.

Thiên-sơn lão tiên xoa đầu nàng :

– Trần huynh với ta giống nhau. Chúng ta lớn rồi, không thể ra tay đánh đám con cháu. Ta biết họ vào Thục đánh đồ tử, đồ tôn ta, mà ta cũng không nỡ ra tay. Họ là anh hùng giết đi thực uổng.

Ông nói tiếp :

– Thế rồi Công-tôn Khôi bị anh hùng Lĩnh-Nam bắt trên sông Trường-giang ta cũng biết hết. Đáng lẽ Vương Nguyên đem Công-tôn Khôi ra xẻo thịt tế vợ, nhưng may mắn có một anh thư Lĩnh-Nam tên Trưng Trắc, ban đêm lẻn vào nhà tù thả y ra.

Khất đại-phu, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đều kêu lên một tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc.

Ông tiếp :

– Hiện Vương Nguyên đang theo đạo Lĩnh-Nam cùng với ba đứa con vào Thành-đô diệt họ Công-tôn trả mối hận năm xưa. Các ngươi sắp sửa bị giết chết ba họ trong sớm tối.

Thiên-sơn ngũ hùng cùng Nhiệm Mãng quỳ gối xuống khóc :

– Thái sư thúc hãy cứu trăm họ Ích-châu. Sáu anh em đệ tử nguyện tự tử để đền tội. Bọn đệ tử đồng lòng tôn Lục sư-đệ lên làm Hoàng-đế.

Khất đại-phu hỏi Thiên-sơn lão tiên :

– Huynh tính sao ? Họ cũng đáng thương.

Thiên-sơn lão tiên rót rượu mời Khất đại-phu rồi nói :

– Đệ xuống đây thì đã là câu trả lời cho Trần huynh vậy. Trần huynh ơi, huynh làm thuốc cứu hàng nghìn người, bây giờ xin huynh ban cho phương thuốc cứu trăm họ Ích-châu đi.

Khất đại-phu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu :

– Thiên-sơn lão tiên, hai cái thân già chúng mình phải ra tay thôi. Bây giờ đệ phải trở về ngay mới kịp, hẹn dịp khác chúng ta sẽ gặp lại sau.

Ông cùng hai cháu lên đường trở về dinh Hán, đến nơi gần nửa đêm. Phùng Vĩnh-Hoa và các anh hùng Lĩnh-Nam ngồi chờ. Họ thấy ông về thì mừng lắm. Quế-Hoa tường thuật tỉ mỉ cuộc hội kiến trong thành Cẩm-dương cho mọi người nghe.

Phùng Vĩnh-Hoa nói :

– Sáng nay cháu được thư của sư tỷ Trưng Trắc. Sư-tỷ cũng có viết thư cho Trưng Nhị và anh hùng đạo Kinh-châu nói :

Hãy án binh bất động, chờ đến sau Tết mới có quyết định. Sư tỷ còn vào Thành-đô hội với Thiên-sơn thất hùng, quyết định ra sao, sẽ chúng ta biết.

Đoạn này thuật cuộc tiến quân của Anh Hùng Lĩnh Nam và Đào Kỳ

Tại bản doanh anh hùng Lĩnh-Nam, Trưng Trắc cho mời riêng anh hùng Lĩnh-Nam đến họp. Nàng hướng vào Nam-hải nữ hiệp, Hoàng Thiều-Hoa, Đào Kỳ :

– Sư bá, sư muội, sư đệ. Cháu xin tạ lỗi với các vị về vụ cháu tha Công-tôn Khôi. Trước khi sang đây, Đặng đại-ca đã tiếp sứ giả của Công-tôn Thiệu. Sứ giả thuật tất cả mọi việc, xin đại ca thực hành lời hứa chia ba thiên hạ trước đây. Đặng đại ca không dám chủ trương, bí mật mời Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, tất cả bảy vị Thái bảo phái Sài-sơn, sư thúc Nguyễn Trát phái Long-biên, sư thúc Cao Cảnh-Sơn phái Hoa-lư để xin ý kiến. Tất cả đều đồng ý với Đặng đại ca và Công-tôn Thiệu. Đại hội cử cháu sang hội ý với anh hùng Lĩnh-Nam bên này. Cháu dũng Thần-ưng đưa thư cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa cùng ngưng tiến quân, đợi sau Tết mới có quyết định.

Trưng Trắc hướng về Vương Nguyên :

– Vương tiên sinh, tiên sinh nên về đất Thục làm vua, chúng tôi có thể giúp tiên sinh giữ vững cơ nghiệp phái Thiên-sơn.

Hoàng Thiều-Hoa xen vào hỏi :

– Trưng sư muội, Nghiêm đại ca có biết chuyện này không ?

Trưng Trắc lắc đầu :

– Chắc chắn là không.

Thiều-Hoa rưng rưng nước mắt hỏi Đào Kỳ :

– Sư đệ, vậy tất cả anh hùng Lĩnh Nam phản Nghiêm đại ca sao ?

Đào Kỳ ôm lấy Thiều-Hoa :

– Sư tỷ ! Em thương yêu sư tỷ còn hơn chính bản thân em nữa. Vì vậy chính em đã thuyết phục anh hùng Lĩnh-Nam tùng chinh giúp Nghiêm đại-ca. Bây giờ sự thể như thế này, chúng ta cần tiến quân vào Thành-đô, hội nhau bàn định. Nếu tất cả muốn diệt Thục phò Hán, thì ta đánh Thành-đô. Còn nếu có quyết định khác, chúng ta sẽ tùy cơ định liệu. Em nghĩ chúng ta chỉ phản Hán, chứ đâu có phải phản Nghiêm đại-ca. Anh hùng Lĩnh-Nam đều ghi nhớ ơn đức của Nghiêm đại-ca, muốn tôn người lên làm Hoàng-đế mà.

Đào Kỳ cho tập hợp tướng sĩ ra lệnh :

– Chúng ta là đạo quân đầu tiên tiến vào Thành-đô. Vậy tướng sĩ phải nghiêm cấm quân sĩ không được cướp của dân, không được phạm đến tù binh, hàng binh, không được đốt phá cung thất Thục-đế. Nếu tướng sĩ phạm thì cấp Lữ trưởng trở xuống bị xử trảm.

Chàng ra lệnh :

– Sư bá Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng tiến quân theo hai đường, một chiếm Long-xương, rồi theo đường thủy vào uy hiếp Thành-đô. Một theo đường Đông-sơn đến Mi-sơn. Đạo này có hiền đệ Vương Lộc làm tiên phon g dẫn đường. Hiền đệ nhớ một điều: Thù nhà sau nợ nước, nếu người dòng họ Công-tôn đầu hàng thì không được giết.

Ngừng một lát chàng tiếp:

– Hiền-đệ Vương Thọ cùng sư muội Đinh Bạch-Nương, sư đệ Hiển-Hiệu và Quách Lãng đánh Hán-nguyên. Còn sư bá Nam-hải, sư thúc Đinh Đại, sư thúc Vương Nguyên, sư tỷ Thiều-Hoa, sư muội Vương Sa-Giang đánh thẳng vào Thành-đô.

Đinh Bạch-Nương hỏi:

– Trong bọn chúng tôi, ai là chúa tướng?

Đào Kỳ buồn cười về cô em bà Chằng, nói:

– Sư-đệ Hiển-Hiệu là Hổ-nha đại tướng quân dĩ nhiên sư đệ làm chúa tướng.

Vương Thọ hỏi:

– Đánh Hán-nguyên xong chúng tôi sẽ làm gì?

Đào Kỳ khen:

– Hiền đệ quả là người cầm quân kinh nghiệm. Sau khi hạ xong Hán-nguyên, hiền-đệ cho đối xử với tù binh, hàng binh như chúng ta đã làm. Hiền-đệ cử một tướng cũ của hiền-đệ trấn thủ. Hiền-đệ tức tốc mang quân đến trấn ở Tiểu-kim bắt Công-tôn Thuật. Vì có thể y sẽ chạy vô khu rừng núi này ẩn thân.

Hiển-Hiệu lĩnh mệnh, mời các tướng trẻ ra ngoài bàn định kế sách.

Đào Kỳ tiếp:

– Sư bá Nam-hải mang ba vạn quân tiến theo đường phía Nam đánh vào Thành-đô. Thế nào sư bá cũng vào thành trước. Xin sư bá chỉ huy việc tiếp thu thành trì, bảo quản kho tàng. Sư thúc Đinh Đại kinh nghiệm chiến đấu nhiều, xin lãnh ba vạn quân đánh vào cửa Bắc Thành-đô. Sư tỷ Trưng Trắc lĩnh một vạn quân đánh vào cửa Đông. Sở dĩ sư tỷ lĩnh ít quân, vì phía sau sẽ có đạo quân của sư bá Đinh Công-Thắng, Thiệu Anh-Vũ tiến lên, tổng số sẽ tới năm vạn là ít. Sư tỷ Thiều-Hoa đánh cửa Tây, chỉ cần phục quân ở ngoài thành, đợi cho giặc chạy qua một nửa thì đổ quân ra, cắt làm đôi mà bắt giặc. Số còn lại giặc chạy về Tiểu-kim, đã có Hiển-Hiệu bắt chúng. Thôi mời quý vị điểm quân, ngày mai giờ Dần sẽ xuất phát.

Vương Nguyên nước mắt đầm đìa hỏi:

– Đào nguyên soái, cha con tôi với Công-tôn Khôi thù sâu như biển. Tại sao nguyên soái không cho cha con tôi xuất lực?

Đào Kỳ ghé tai Vương Nguyên nói nhỏ:

– Vương sư thúc, sư muội và cháu sẽ đột nhập Thành-đô bắt giặc trước tất cả. Nhưng phải giữ bí mật hết sức mới được.

Vương Nguyên cả mừng chắp tay lạy Đào Kỳ. Đào Kỳ vội đỡ dậy. Hai người ra chỗ vắng bàn việc đột nhập Thành-đô.

Vương Nguyên móc trong túi ra tấm bản đồ:

– Đây là bản đồ Thành-đô, tôi ghi rất kỹ. Đào nguyên soái hãy coi.

Đào Kỳ thấy bản đồ ghi chi tiết từng chỗ đóng quân trong thành, sông, núi kinh, lạch, cùng các cung điện, không chỗ nào mà không có. Chàng ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao sư thúc có bản đồ nầy?

Vương Nguyên đáp:

– Nguyên hai cha con tôi hóa trang, đổi hình làm nghề ca hát khắp Thành-đô, biết rõ mọi đường lối trong thành.

Đào Kỳ cho lấy thẻ bài cũ của Việt-tây để ba người dùng, rồi bí mật lên đường vào Thành-đô.

Vương Sa-Giang bàn:

– Bây giờ chúng ta phải giả dạng mới được. Cha làm nhạc công, con làm ca nhi còn Đào đại-ca làm gì bây giờ?

– Thành-đô ai cũng biết cha và con cả rồi, bây giờ Đào đại-ca nói tiếng Thành-đô không rõ thì dễ bị lộ lắm. Chi bằng cha tuyên bố con mới lấy chồng, Đào đại-ca là chồng của con. Đào đại-ca đóng vai người câm.

Vương Nguyên là văn sĩ lãng mạn, coi chuyện đó thường tình. Nhưng Vương Sa-Giang ngượng quá:

– Đào đại-ca có vợ rồi, cha không biết hay sao mà bảo con là vợ đại-ca?

Vương Nguyên phì cười:

– Cha có bảo con là vợ đại-ca thực đâu. Hai người là vợ chồng giả thôi mà. À! Được rồi, Đào đại-ca giả làm người câm, để cha muốn nói gì thì nói. Đại-ca làm người mãi võ kiếm tiền, như vậy chúng ta đột nhập Thành-đô dễ dàng hơn.

Vương Nguyên tính khoáng đạt, nghĩ sao nói vậy, nhưng Sa-Giang với Đào Kỳ tự nhiên thấy ngượng ngùng. Ba người lấy một ít vàng bạc làm lộ phí, rồi lên đường đến Thành-đô.

Chiều hôm đó ba người đến Nhã-an. Nhã-an là một quận gần Thành-đô, nằm trên giao điểm của năm con sông, thuyền bè đi lại tấp nập, dân cư đông đúc. Dù đất Thục đang loạn ly, mà hàng quán buôn bán vẫn sầm uất. Trai thanh gái lịch đi lại vui vẻ. Quân lính đầy trong quận lỵ nhưng không sách nhiễu dân chúng như quân Hán ở Giao-chỉ thường làm.

Vương Nguyên quen thuộc với trấn này, ông nói:

– Trấn có khoảng ba mươi ngàn nóc gia, nguồn thủy lợi như tôm cá không biết bao nhiêu mà kể, lại là nơi nuôi nhiều súc vật, rất giàu có. Chúng tôi qua lại ca hát nhiều lần, dân phố quen mặt chúng tôi. Đào huynh đệ mới đến đây lần đầu, lại không nói được giọng Ích-châu, vì vậy chúng ta tránh gặp gỡ nhiều người. Chúng ta tạm kiếm nhà quen nghỉ ngơi, rồi ngày mai lên đường, nhất thiết giấu kín hành tung, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Bây giờ chúng ta đến nhà Tạ viên ngoại, nghỉ ngơi ăn uống đã.

Ba người đi về phía bãi sông Thanh-y. Trên sông thuyền đậu san sát, cạnh sông, một khu vườn rộng, ngoài có hàng rào rất đẹp. Vương Nguyên giật chuông. Một lát, có người lão bộc mở cổng. Lão bộc trông thấy Vương tỏ vẻ sợ hãi, giật mình. Y chắp tay lắp bắp:

– Đại tiên sinh giá lâm, để tiểu nhân vào báo với trang chủ.

Nói rồi y chạy biến vào trong. Đào Kỳ hơi ngạc nhiên vì thân thủ y không phải tầm thường, mà tại sao lại đi làm nô bộc. Rồi nữa, khi y thấy Vương thì sợ hãi, tại sao ?

Vương đối với dân chúng là ngươi hát dạo kiếm tiền, một nghề chỉ hơn ăn mày một chút thôi. Tuy vậy, chàng nghĩ :

– Có lẽ Vương là bạn của trang chủ, nên nô bộc trông thấy phải kính trọng là lẽ thường.

Tạ trang chủ quần áo chỉnh tề, chạy ra đón khách. Y chắp tay chào Vương Nguyên :

– Tiên sinh và cô nương giá lâm tệ trang, thật hân hạnh cho chúng tôi. A... còn vị thiếu niên nầy là ai ?

Vương Nguyên chỉ Đào Kỳ :

– Y là con rể tôi. Tôi mới cho chúng cưới nhau mấy tháng trước. Y bị câm từ nhỏ, không biết nói nhưng nghe được, hiểu được và biết viết. Võ công y thuộc loại khá. Y theo chúng tôi đi mãi võ độ nhật.

Tạ viên ngoại mời khách vào trang. Qua hai lần cổng, đến một cái sân khá rộng, trong sân đầy cây kiểng, nào quất, nào thủy-tiên. Trong vườn đầy đào và mai, trên cây đào đã lấm tấm mấy nụ hoa nở. Vào tới nhà chủ nhân hỏi Vương Nguyên :

– Tiên sinh ở chơi mấy ngày, đợi qua Tết hãy về Thành-đô, để chúng tôi được thưởng thức khúc nhạc tiên trong ngày đầu xuân.

Vương Nguyên lắc đầu :

– Đa tạ viên ngoại, đợi khi khác. Chúng tôi có việc khẩn phải lên đường. Xin viên ngoại cho tá túc một đêm là đủ.

Tạ viên ngoại gọi người nhà dặn :

– Người nầy là hiền tế của Vương tiên sinh. Ngươi đưa họ ra căn phòng ngoải thủy các. Vợ chồng trẻ, đêm xuân đáng giá ngàn vàng, họ phải ở thủy các mới xứng đáng.

Người lão bộc đưa Đào Kỳ và Sa-Giang ra phía sau, quả nhiên có căn nhà nội lên giữa cái hồ. Từ bờ ra thủy các phải qua một cái cầu. Hai người qua cầu rồi, lão bộc cầm một bánh xe trên bờ quay tròn, bánh xe cuốn dây, cây cầu cất lên. Thế là Đào Kỳ với Sa-Giang cô lập trên thủy các. Hai người mở cửa căn thủy các vào trong, có một phòng ngủ, giường nệm rất dầy, có đủ chăn, màn sạch sẽ. Trên vách treo mấy thanh kiếm. Như vậy chứng to ûchủ nhân là người văn võ toàn tài.

Sa-Giang than :

– Họ tưởng đại-ca với tiểu muội là vợ chồng thực, nên cho ở với nhau trong thủy các này. Thủy các có một cái giường, tối ngủ làm sao đây? Chúng mình đâu phải vợ chồng!

Đào Kỳ nghĩ:

– Tại sao họ đưa mình vào thủy các rồi kéo cầu lên? Họ định giam mình ở đây hay sao?

Trong đầu chàng chợt nhớ lại ngày nào ở Thái-hà trang, Lê Đạo-Sinh cũng xếp đặt cho chàng với Tường-Quy cùng xuống du thuyền, rồi tình yêu nảy sinh, tạo thành một thiên trường hận. Giờ nầy Tường-Quy đã ra người thiên cổ, chàng vẫn không quên được.

Sa-Giang nhìn chàng hỏi:

– Đào đại-ca, có phải đại-ca nhớ nhung sư tỷ Phương-Dung không?

Đào Kỳ lắc đầu:

– Tôi đang nghĩ chuyện khác.

– Chuyện khác! Đại-ca nói dối em rồi. Nếu đại-ca nghĩ chuyện khác thì khuôn mặt không tỏ ra những nét nhu mì, yêu thương như vậy. Nét mặt đó chỉ có khi người ta nghĩ đến người mình yêu mà thôi.

Đào Kỳ nhìn Sa-Giang, chàng thấy nét mặt cô nhu mì, ôn nhu, tươi như hoa xuân. Chàng vội quay đi để tư tưởng không bị cuốn vào vòng tội lỗi. Sa-Giang hỏi:

– Đại-ca! Đại-ca thấy em với chị Phương-Dung ai đẹp hơn?

Đào Kỳ không ngờ Sa-Giang hỏi câu đó. Chàng suy nghĩ rồi đáp:

– Bàn về thông minh, lanh lợi, trên thế gian không có người thứ hai bằng Phương-Dung. Bàn về vẻ đẹp thì nàng có vẻ đẹp uy nghiêm như những đóa hoa Huệ, hoa Thủy-tiên. Còn cô thì vẻ đẹp như hoa Đào, hoa Mận mùa xuân. Khi cô vừa hát, vừa đàn thì có sức hấp dẫn, thu hút người ta hơn cả sư-tỷ Hoàng Thiều-Hoa.

Sa-Giang hỏi tiếp:

– Em nói tỷ dụ thôi nghe. Tỷ dụ như anh mới quen chị Phương-Dung với em cùng một lúc, anh không bị phân chia về người Việt, người Hán, không bị dư luận, cha mẹ can thiệp, anh sẽ chọn ai ?

Đào Kỳ chết lặng, không ngờ nàng hỏi câu đó. Sa-Giang so với Phương-Dung võ công không bằng, văn học thua xa, kiến thức kém cỏi, gia thế càng kém, nhưng đối với chàng dường như nàng có một cái gì giống Tường-Quy, chàng dễ bị rung động. Hai người đã bị ước hẹn giả vợ chồng, rồi lại bị đưa ra nhà thủy các vắng vẻ thế này rồi nàng lại hỏi câu đó nữa, làm Đào Kỳ hoảng sợ. Chàng chạy ra ngoài sân nhìn tuyết lất phất rơi. Rõ ràng là chàng chạy trốn.

Một lát chàng thấy có một hơi thở thơm tho bên cổ trái, rồi một bàn tay mềm mại nắm lấy tay chàng. Chàng muốn gỡ ra mà người như bị tê liệt, không sao cử động được, Sa-Giang dựa vào người chàng. Chàng thấy ấm áp dễ chịu, đưa tay ra quàng lấy nàng. Hai người đứng như vậy lâu lắm, mãi cho đến khi có tiếng người lão bộc nói bên kia cầu :

– Cô nương, tiểu nhân đưa cơm vào cho cô nương và lang quân xơi.

Đào Kỳ hoảng hốt buông Sa-Giang ra, hai người vào thủy các ăn cơm. Suốt bữa ăn, hai người không nói với nhau câu nào.

Trời bắt đầu tối, Sa-Giang lấy lửa đốt lên cây đèn để ở án thư. Nàng lấy đàn ra dạo, tiếng đàn rung động không gian, truyền ra ngoài hồ. Bên ngoài tuyết xuống, mọi vật trắng xóa. Sa-Giang ru hồn vào tiếng đàn, cất giọng hát :

Tĩnh nữ kỳ thù,

Sĩ ngã ư thành ngung.

Ái nhi bất kiến,

Tao thủ trì trù.

(Có người con gái nhu mì, đợi ta ở góc thành. Ta yêu nàng mà không gặp, vò đầu, vò tóc rối bời).

Đào Kỳ biết nàng lấy bài hát này trong Kinh thi, phổ vào nhạc. Dưới ánh đèn huyền ảo, chàng thấy Sa-Giang đẹp vô cùng, giống như Tường-Quy trước đây. Chàng nhắm mắt lại để tưởng tượng ra hình ảnh Phương-Dung, nhưng Phương-Dung vẫn không thấy, mà chỉ thấy đôi vai gầy, đôi mắt ướt, hai bàn tay trắng nhỏ của Sa-Giang. Chàng nhủ thầm:

– Ta là con trai của Đào-hầu nổi danh đạo đức Lĩnh-Nam. Ta không thể đi đến đâu để tình ái đến đó được. Phương-Dung là vợ ta, nàng thông minh, võ công tuyệt vời, mưu trí không ai bì kịp. Nàng đẹp như tiên nga, giờ này đang nhớ nhung ta.

Nhưng chàng lại thấy hình ảnh của người đàn ông lấy nhiều vợ. Chàng thường thấy những danh nhân, đi đâu gặp dịp là nghe con hát, vui với kỹ nữ là điều thường tình, không có tội gì cả. Bất quá lấy thêm Sa-Giang làm vợ nữa là cùng, có gì trắc trở đâu?

Sa-Giang ngưng đánh đàn, nàng đến ngồi cạnh Đào Kỳ, ngước mắt nhìn chàng hỏi;

– Đại-ca chưa trả lời câu hỏi của em ban nãy.

Đào Kỳ thở dài:

– Vương cô nương, tôi là người đất Lĩnh-Nam, đã có vợ rồi. Vợ tôi là Phương-Dung, do cha mẹ cưới cho. Chúng tôi thương nhau từ nhỏ tới giờ. Tôi biết cô nương đối với tôi một mối nhu tình, nhưng tôi không làm gì để đền đáp cô nương được cả.

Sa-Giang dựa đầu vào vai Đào Kỳ. Chàng ngồi im, không dám đẩy nàng ra. Cứ như vây lâu lắm, thì chàng khám phá ra Sa-Giang đã ngủ rồi. Chàng khẽ bồng nàng lên đặt vào giường, đắp chăn cho nàng ngủ. Còn chàng thì ngồi trên ghế dưỡng thần.

Chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Chập chờn cho đến sáng hôm sau. Vương Nguyên gọi hai người. Đào Kỳ giật mình tỉnh giấc trước. Chàng chạy ra mời lão vào trong thủy các. Vương Nguyên nói:

– Chúng ta chuẩn bị vào Thành-đô hôm nay. Trời tuy có tuyết nhưng đường không trơn mấy. Ngựa đi lại chắc không sợ gì.

Nguồn: CDDLT

Người đăng: NHDT

Thời gian: 29/12/2004 1:15:10 SA

Hồi 9        Hồi 11

Viet Nam Thu Quan thu vien Online - Design by Pham Huy Hung

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro