Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Đóng gói prc: Đa Tình Kiếm

Chương 45 : ĐIỀU LO NGHĨ CỦA GIANG PHONG

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.514 (Nhâm Thìn, 1412), mùa đông tháng 11.

Gia Định Thành.

Bọn Đinh An Bình về đến Gia Định Thành, mang theo vô số cống vật : vàng, ngà voi, ngọc trai, và rất nhiều bảo vật khác. Cả những pho tượng đá, những biểu tượng đặc trưng văn hóa thu được từ Raigama và Raffna cũng được chở về. Những thứ này, trong mắt bọn Quảng Tế Pháp sư chỉ là những vật kỳ lạ, nhưng đối với Giang Phong nó có giá trị hơn nhiều.

Thành Đức Điện. Tiểu triều.

Sau khi nghe chúng thủ hạ hồi báo công việc như thường lệ, Giang Phong bỗng khẽ than :

- Đến giờ mới thấy Trường Thanh Cung quá nhỏ. Phải chi khi trước trẫm cho xây dựng lớn hơn.

Trường Thanh Cung thật ra rộng đến 4 kilômét vuông, nếu chỉ là một cung điện bình thường thì không hề nhỏ. Ngay cả Tử Cấm Thành mà Vĩnh Lạc đế đang dốc toàn quốc lực xây dựng, huy động hơn 100 vạn dân phu, phải mười mấy năm nữa mới xong, cũng chỉ rộng có 0,72 kilômét vuông. Thế nhưng, Trường Thanh Cung lại không phải là một cung điện bình thường, mà còn là nơi ở của Giang Phong, đồng thời cũng là nơi Giang Phong cất giữ tài sản của mình. Giang Phong bảo nhỏ, bởi vì lúc này các tài sản đó đã chiếm đến gần một nửa cung điện. Đương nhiên nếu chỉ châu ngọc vàng bạc thì không đến nỗi chiếm nhiều chỗ như thế. Giang Phong cho thu thập cả những tượng đá, hoa văn, điêu khắc, … tóm lại là đủ mọi thứ mà người hiện đại gọi là cổ vật văn hóa. Thậm chí, mấy tòa tháp đá nếu tháo ra vận chuyển được thì Giang Phong cũng đã cho mang luôn về đây, cuối cùng chất đầy trong cung. Số lượng các tiểu quốc mà Đế quốc đã chinh phục có đến hàng nghìn (Chiêm Thành và Vạn Tượng hơn trăm, Khmer và Thái hàng trăm, Majapahit nhiều hơn nữa, …), trải qua hàng trăm năm tích lũy, kho tàng cũng rất đáng kể. Đó là chưa kể đến mỗi tiểu quốc ít ra đều có cung điện và đền thờ. Sau này các nhà khảo cổ khi khai quật một di tích, thường thu được rất nhiều cổ vật. Đằng này Giang Phong không thu từ di tích mà là nguyên trạng. Thành ra tài bảo và cổ vật văn hóa nhiều vô kể, đến nỗi phải lo không có chỗ cất giữ. Trừ những tượng đá ra, các bảo bối khác đương nhiên không thể tùy tiện để chất đống ngoài sân vườn chịu mưa nắng, sương gió được.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Thánh hoàng. Hay là chúng ta mở rộng cung điện.

Giang Phong nói :

- Trẫm cũng có ý đó. Chư khanh có phương án nào không ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hiện tại phía nam và phía đông Trường Thanh Cung là sông rạch. Phía tây có một ít dân cư, phía bắc còn trống. Chúng ta có thể mở rộng ra phía tây và phía bắc.

Đào Anh nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bên kia sông Gia Định còn rất rộng rãi, chúng ta có thể xây thêm cung điện bên đó, rồi xây cầu nối cả hai cung điện với nhau.

Triệu Phong nói :

- Không ổn. Ta nhớ trước đây Tần Thủy Hoàng xây cung điện ở hai bên sông Vị, rồi xây cầu nối lại với nhau. Làm như thế hóa ra chúng ta học theo Tần Thủy Hoàng sao ? Không tốt. Mà dường như cung điện của Tần Thủy Hoàng đó sau này bị thiêu rụi thì phải.

Quảng Tế Pháp sư gật đầu nói :

- Đúng thế. Sau này cung điện bị Hạng Vũ thiêu rụi.

Đào Anh vội biện bác :

- Ta không có ý đó.

Giang Phong khẽ cười, an ủi Đào Anh. Đinh An Bình xuất thân Cấm vệ trưởng, chỉ huy lực lượng bảo vệ Giang Phong trước đây, do đó quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an ninh, nên nói :

- Nếu xây dựng hai cung điện, việc bảo vệ sẽ khó khăn hơn.

Giang Phong gật đầu. Ngoài vấn đề an ninh, Giang Phong còn có một lý do khác nữa. Giang Phong không muốn xây dựng hai cung điện, bởi muốn biến Trường Thanh Cung trở thành tòa cung điện lớn nhất thế giới. Có thể trước đây chỉ lớn nhất về quy mô, nhưng nhờ số lượng tài bảo và cổ vật văn hóa kia, chắc chắn sau này sẽ còn lớn nhất về giá trị, về nét đặc sắc, và về sự tráng lệ nguy nga. Do vậy, Giang Phong phán :

- Đồng thời mở rộng sang phía tây và phía bắc 5 dặm. Chính bắc và tây bắc tạm thời làm viên lâm, dự phòng cho sau này. Chính tây chia thành nhiều khu, mỗi khu vuông vức 2,5 dặm, dành cho một chủ đề riêng như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, …

Giang Phong chỉ đề ra ý tưởng, còn thiết kế, thực hiện là việc của bọn Quảng Tế Pháp sư. Sự việc như thế là đã được quyết định. Giang Phong hy vọng rằng các khu trưng bày đó, do tập trung rất nhiều bảo vật của các tôn giáo, sau này có thể trở thành thánh địa để các tín đồ đến viếng, chiêm ngưỡng. Trường Thanh Cung sau khi mở rộng sẽ có diện tích 100 dặm vuông (10x10 dặm), tức 16 kilômét vuông (4x4 kilômét). Chủ yếu công trình tập trung ở khu vực chính tây và bức tường thành bao quanh cung điện. Còn khu vực chính bắc và tây bắc chỉ phải trồng thêm cây xanh, tạo giả sơn và đào hồ, suối để tạo thành viên lâm, khối lượng công việc tuy không ít, nhưng đơn giản.

Tiếp đó, Giang Phong lại bảo :

- Triệu Phong và An Bình tiếp tục luyện quân, chuẩn bị cho kế hoạch sắp tới. Tuyên triệu Lý Ngân hồi triều. Truyền Thế Căng khẩn trương luyện quân, chuẩn bị bắc tiến.

Kế hoạch sắp tới đương nhiên là đối phó quân Minh, giành lại Đại Việt. Giang Phong không can thiệp lúc này vì ngại Giản Định Đế và Trùng Quang Đế nghi kỵ. Hai người đó nổi danh đa nghi, không khéo chưa đánh được quân Minh đã biến thành nội chiến, khiến quân Minh hưởng lợi. Thà rằng Giang Phong tự đánh quân Minh. Và Giang Phong đã quyết định khi quân Trần bị tiêu diệt thì sẽ xuất quân bắc tiến. Đương nhiên bắc tiến theo kiểu của Giang Phong.

Sau khi mọi người lĩnh chỉ, Giang Phong lại hỏi :

- Tình hình Đài Loan thế nào ?

Đinh An Bình tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đài Loan hiện đã ổn định. Dân di cư và dân bản địa đã chịu sống hòa hợp với nhau. Trước đây có một số kẻ chống đối đều đã bị phán là nghịch dân, đưa đến Sumatra hết rồi.

Giang Phong hài lòng bảo :

- Điều 8 quân Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Trấn Ninh, Trấn Phong, Định Hải đến đảo Đài Loan luyện quân để thích nghi với khí hậu phương bắc. Triệu Phong quản việc này.

Triệu Phong cả mừng vâng dạ lĩnh chỉ. Giang Phong lại bảo Quảng Tế Pháp sư :

- Nghe nói người Mông Cổ đã khôi phục phần nào thực lực, đang quấy nhiễu biên giới Minh triều. Khanh hãy cho người liên hệ với các bộ tộc Mông Cổ, viện trợ lương thực khí giới cho bọn họ. Đương nhiên chúng ta cũng không thể chịu thiệt, hãy đổi lấy chiến mã về. Trẫm định sẽ thành lập kỵ binh.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ lĩnh chỉ. Việc này cũng bình thường, kẻ địch của kẻ địch chính là bạn. Viện trợ cho Mông Cổ để bọn họ quấy nhiễu Minh triều, đối với Đế quốc rất có lợi. Hơn nữa, Mông Cổ thiếu vũ khí nhưng thừa chiến mã, đổi chiến mã về để thành lập kỵ binh càng có lợi hơn. Kỵ binh Mông Cổ danh vang thiên hạ kia mà. Chiến mã Mông Cổ thấp bé, tốc độ không nhanh bằng chiến mã Đại Uyển, A Lạp Bá; nhưng có sức bền rất tốt, có thể tác chiến xa, lâu dài, thích hợp quân đội viễn chinh.

Đinh An Bình chợt hỏi :

- Khải tấu Thánh hoàng. Còn xứ Lưu Cầu giải quyết thế nào ạ ? Bọn họ hiện vẫn triều cống cho Minh triều.

Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Vậy hãy thành lập quận Lưu Cầu thuộc tỉnh Đài Loan.

Đinh An Bình vâng dạ, lĩnh chỉ. Triệu Phong chợt nói :

- Thánh hoàng. Nghe nói Khai hoa đạn hiệu quả rất tốt. Xin hãy trang bị cho các đạo lục quân để thần có thể huấn luyện những chiến thuật tác chiến mới.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Trẫm đã truyền lệnh mở rộng Xưởng quân khí, toàn lực sản xuất đạn dược để trang bị cho toàn quân.

Sau đó bãi triều. Mọi người ai lo việc nấy. Triệu Phong lập tức điều động 8 đạo quân chuẩn bị, rồi liên hệ với Hải quân vận chuyển bọn họ đến Đài Loan huấn luyện. Quảng Tế Pháp sư một mặt chuẩn bị khởi công mở rộng cung điện, một mặt tổ chức sứ đoàn đi Mông Cổ. Còn Soái hạm của Đinh An Bình thì di chuyển đến Lưu Cầu. Chỉ cần vài chục chiến hạm dàn hàng ngoài khơi cũng đủ khiến quân dân Lưu Cầu kinh hoàng thất sắc. Quốc vương Lưu Cầu dâng biểu cầu hòa, nhưng bị từ chối. Sau mấy trận oanh kích, quân Lưu Cầu trói quốc vương lại, mở cửa thành bảo đầu hàng. Lưu Cầu chịu ảnh hưởng của Nhật Bản nhiều hơn Trung Hoa, nên họ xây dựng thành bảo chứ không phải phương thành theo kiểu Trung Hoa.

Chiếm lĩnh kinh đô của Lưu Cầu, Đinh An Bình hiểu dụ quân dân các xứ thuộc Lưu Cầu đầu hàng, sau đó thiết lập hệ thống quan lại, sử dụng hàng binh Lưu Cầu đảm nhiệm các chức trách ở các huyện. Xong đâu đấy, các chiến hạm lại nhổ neo, đi bình định các đảo trong vùng vốn không thuộc Lưu Cầu. Theo quan điểm của Đinh An Bình, những hòn đảo ngoài biển mà không thuộc về quốc gia nào thì đều thuộc về Đế quốc; Hải quân của Đế quốc có thể hoạt động đến đâu thì nơi đó thuộc về lãnh hải của Đế quốc. Thời này các quốc gia còn chưa có khái niệm lãnh hải (mới có khái niệm lãnh thổ), thậm chí nhiều quốc gia còn có “Cấm hải lệnh” cấm đóng thuyền lớn đi biển, hay như Minh triều cấm cả ngư dân đi biển. Do vậy mà không có ai tranh giành quyền lãnh hải với bọn Đinh An Bình.

Chương 46 : HỒNG LONG PHN HẠM ĐỘI

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa xuân.

Cát Ti quả nhiên không thể ngồi yên được, luôn luôn tìm cách mở rộng vùng kiểm soát của Đế quốc để tiện cho việc thương mại. Sau vụ Tích Lan, Cát Ti lại báo cáo việc Vương quốc Hồi giáo Mamluk ở Cairo kỳ thị thương nhân nước ngoài, gây khó khăn cho việc thương mại của Đế quốc (thật ra phần lớn là của Giang Phong, bởi chỉ có Giang Phong mới có những thương thuyền cỡ lớn đi đến tận các xứ A Lạp Bá, một số ít thuộc về các quan trong triều). Sự thật thì việc kỳ thị thương nhân nước ngoài của các Vương quốc Hồi giáo cũng không phải mới xảy ra gần đây, từ lâu bọn họ đã đặt ra mức thuế rất cao đánh vào thương nhân nước ngoài, thậm chí đối với nhiều vương quốc, đó còn là nguồn thu chính của bọn họ. Chỉ có điều, Cát Ti không cam tâm đóng khoản thuế cao ngất như thế, theo cách nói của Cát Ti thì : bọn họ lấy tiền của Thánh hoàng một cách trơ tráo, không thể chấp nhận được. Cát Ti đã nhiều lần phái sứ giả thương lượng với bọn họ, nhưng đều không thành.

Tiền của Thánh hoàng bị lấy đi một cách trơ tráo (thật ra thì cũng có một bộ phận tiền của các quan trong đó). Đó là đại sự. Toàn thể triều đình đều phẫn nộ, và Giang Phong đã phái một phân hạm đội của Tây Dương Hạm đội đến bán đảo A Lạp Bá (Arab). Các xứ Tích Lan được lệnh phải hỗ trợ phân hạm đội này.

Phân hạm đội được đặt tên là Hồng Long phân hạm đội, gồm 3 chiếc Thất Tinh cấp chiến hạm, 10 chiếc Tuần Dương hạm và hơn 50 chiến thuyền lớn nhỏ, về quy mô đã tương đương với Nam Dương Hạm đội. Phân hạm đội do Đô Đốc Tôn Lương chỉ huy, còn chở theo 1 sư của Thần Sách quân đang trú đóng ở Tích Lan, cùng rất nhiều lương thực vật tư.

Phân hạm đội từ Tích Lan xuất phát, đi ngang qua mũi đất phía nam của lục địa Ấn Độ, tiếp tục đi thẳng về phía tây. Tuyến đường này, các thương thuyền dưới quyền Cát Ti đã qua lại rất nhiều lần, hải đồ đã hoàn thiện, lại có thêm sự hướng dẫn của hướng đạo đoàn, nên phân hạm đội không gặp phải khó khăn gì đáng kể.

Đi về phía tây, đến lục địa Phi châu, phân hạm đội quay mũi dọc theo bờ biển mà đi về phương bắc. Đó là hải tuyến đơn giản nhất mà bọn Cát Ti vẫn sử dụng : từ Tích Lan đi thẳng về phía tây, gặp lục địa thì chuyển về hướng bắc sẽ đến được các xứ A Lạp Bá. Phần đất lục địa đó chính là lãnh thổ của nước Somali thời hiện đại, lúc này vẫn chỉ là những bộ lạc sơ khai, tiếng Anh gọi chung những xứ đó là ‘Ethiopic and Somali Tribes’.

Tháng 4, đến được mũi đất tiến vào Hồng Hải, phân hạm đội dừng lại. Đô đốc Tôn Lương cho quân đổ bộ lên chiếm lĩnh hai mũi đất đó, để tiện khống chế hải tuyến. Do eo biển giữa hai mũi đất quá hẹp, nếu bị địch quân khống chế sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho Hải quân Đế quốc nếu muốn ra vào Hồng Hải.

Hai mũi đất đó lúc này chẳng có quân đội trú đóng, quân đội Đế quốc chỉ cần đổ bộ lên cắm trại ở đó, rồi khẩn cấp xây dựng pháo đài. Mất gần nửa tháng mới xây xong vòng tường bên ngoài của pháo đài và vài kiến trúc quan trọng cho việc phòng thủ. Đô đốc Tôn Lương cho đặt trên mỗi pháo đài 50 khẩu thần công. Cùng với bức tường cao 2 trượng và 500 quân trú phòng, nếu bị đại đội địch quân tấn công, pháo đài vẫn có thể đứng vững cho đến khi viện binh đến cứu. Còn nếu địch quân dưới 1 vạn, tấn công pháo đài chỉ hao binh tổn tướng mà thôi.

Trong lúc pháo đài đang xây dựng, Đô đốc Tôn Lương phái sứ giả đến triều đình Adal ở bờ phía nam và triều đình Rasulid ở bờ phía bắc, đồng thời thông báo về Tích Lan để đội thuyền thứ hai lên đường chở vật tư đến bổ sung.

Trên vùng đất bờ nam Hồng Hải lúc này có hai vùng riêng biệt : vùng phía bắc là các triều đại bản địa và vùng phía nam cũng là triều đại bản địa, nhưng chịu ảnh hưởng của Hồi giáo, hình thành dần những tiểu quốc Hồi giáo.

Vùng phía bắc gồm nhiều tiểu quốc chư hầu của Vương triều Solomonic, là một triều đại được thành lập trên vùng cao nguyên Abyssinian (ở xứ Ethiopia). Vương triều Solomonic là sự nối tiếp vương triều Zagwe, các quốc vương tự nhận mình là hậu duệ của quốc vương Asumite triều Solomonic, nên cũng gọi vương triều của mình là Solomonic. Vị quốc vương đầu tiên là Yekuno Amlak, người đã lật đổ vị quốc vương cuối cùng của vương triều Zagwe và kết hôn với con gái của họ.

Vùng phía nam sau khi Hồi giáo truyền vào đã hình thành nhiều tiểu quốc, dưới sự thống lĩnh của Vương quốc Hồi giáo Adal. Do khác biệt tôn giáo, do ảnh hưởng của Hồi giáo, chiến tranh giữa Solomonic và Adal diễn ra liên tục. Xứ Adal trước khi Hồi giáo truyền vào là chư hầu của Solomonic. Từ năm 1288, các tiểu vương xứ này theo Hồi giáo và không triều cống cho Vương triều Solomonic nữa, thế là chiến tranh bùng nổ, kéo dài đến tận lúc này. Đến năm 1332 các tiểu quốc cùng thống nhất chống lại Solomonic, Adal được xem như thành lập. Quân Solomonic thường chiếm được ưu thế, nhiều vị quốc vương của Adal bị bắt, bị giết, nhưng cuộc phản kháng vẫn cứ tiếp diễn đến giờ. Đến năm 1403, quốc vương của Adal là Sa’ad Din II đã chiến thắng quân Solomonic nhiều trận nhỏ, củng cố được vị thế của Adal. Theo lịch sử, đến năm 1415, quân Adal giành được ưu thế trong chiến tranh, Vương quốc Hồi giáo Adal được chính thức thừa nhận, và tồn tại đến năm 1555 thì tan rã thành nhiều tiểu quốc nhỏ.

Còn các vương triều của xứ Ethiopia trong lịch sử, tuy trên danh nghĩa có lãnh thổ rộng lớn, nhưng cứ phải thường xuyên đối phó các cuộc phản kháng ở các địa phương. Điều đó chứng tỏ bọn họ ít được lòng dân. Và nước Ethiopia hiện đại hoàn toàn là một quốc gia nội lục, không giáp biển, thường xuyên có chiến tranh với lân quốc để mở đường ra biển. Thậm chí vào năm 1998 đã nổ ra chiến tranh giữa Ethiopia với Eritrea để tranh giành một vùng đất giáp biển, kéo dài đến năm 2000, với kết quả là 123.000 người Ehiopia và 19.000 người Eritrea thiệt mạng. Quân Ethiopia ban đầu chiếm giữ được khoảng 20% lãnh thổ Eritrea nhưng sau đó đã bị đánh lui.

Sứ giả của Đô đốc Tôn Lương đến nơi, đã được triều đình Adal tiếp đãi trọng hậu. Quốc vương Sa’ad Din II đồng ý nhượng mũi đất đó cho Đế quốc, đổi lại, Đế quốc giúp Adal chống lại quân Solomonic. Dù sao thì Adal chưa kiểm soát được hoàn toàn vùng này, mũi đất đó chỉ trực thuộc Adal trên danh nghĩa, và giờ đây đã do bọn Tôn Lương kiểm soát. Trong tình thế bị quân Solomonic uy hiếp, hiệp ước này xem ra có lợi cho Adal nhiều hơn.

Còn sứ giả đến Rasulid thì bị triều đình ở đó đuổi về. Không những thế, quân đội Rasulid tập kết ở Ta’izz, kinh đô thứ hai của vương quốc, rồi tiến xuống Moka, theo đó tấn công mũi đất. Đại quân Rasulid đông đến 5 vạn người, trong đó có 1 vạn kỵ binh. Hồng Long phân hạm đội chỉ có 1 vạn Hải quân, cùng với 1 vạn lục quân của Thần Sách quân, nên Đô đốc Tôn Lương quyết định phòng thủ, tiêu hao sinh lực địch quân.

Khi quân đội Rasulid tiến xuống thì pháo đài đã xây dựng xong các kiến trúc phòng thủ. Đô đốc Tôn Lương phái 1.000 quân trú đóng trong pháo đài, còn lại đều đóng ở bờ biển phía nam. Các chiến hạm, chiến thuyền dàn ra dọc theo bờ biển. Pháo đài nằm gần biển, nên có thể cùng Hải quân hiệp đồng tác chiến.

Tháng 6, quân đội song phương giao chiến bên ngoài pháo đài. Do quân số ít hơn, lại ở xa hậu phương, khó bổ sung binh lực nên Đô đốc Tôn Lương không cho quân trực tiếp giao chiến. Ban ngày, các khẩu thần công trên pháo đài và trên các hạm thuyền luân phiên nhả đạn về phía quân Rasulid. Ban đêm, quân Đế quốc được chia thành những toán nhỏ khoảng 1.000 người, quấy nhiễu, tập kích quân Rasulid, chủ yếu tiêu hao sinh lực địch quân.

Giữa tháng 6, do thám được vị trí trại lương của quân Rasulid, Đô đốc Tôn Lương sai quân tập kích, dùng hỏa dược dẫn hỏa thiêu rụi trại lương, đồng thời còn thường xuyên cho tấn công cắt đứt các đường tiếp tế. Cuối tháng 6, thành Moka nằm bên cạnh bờ biển phía tây bắc mũi đất bị chiếm. Quân Rasulid thiếu lương, rơi vào tình thế khó khăn.

Tháng 7, quân Rasulid hết lương, phải rút lui. Quân Đế quốc truy đuổi, bắt được hơn 5.000 tù binh. Do quá xa, để khỏi tốn công vận chuyển, Đô đốc Tôn Lương tỏ ra rộng rãi, chuyển giao toàn bộ tù binh cho Adal để sung vào quân đội của họ. Quốc vương Adal tặng lại nhiều châu báu để cảm tạ.

Suốt tháng 7, Hồng Long phân hạm đội chia nhau đi cướp phá các thành trấn duyên hải thuộc Vương triều Rasulid. Một số bộ lạc du mục trên bán đảo A Lạp Bá quy phục. Đô đốc Tôn Lương chia phần đất duyên hải nằm trong tầm uy hiếp của Hải quân thành nhiều phần, giao cho bọn họ quản lý. Bọn họ có toàn quyền trên các khu vực đó và nộp thuế cho Đế quốc. Do được xem là lương dân nên mức thuế không cao. Nếu sau này bọn họ trở thành thuận dân thì mức thuế sẽ càng thấp hơn nữa.

Chương 47 : TIẾN ĐẾN AI C̣P

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa thu tháng 8.

Quân Rasulid lại tập kết ở Ta’izz, định tiến xuống tái chiếm các vùng duyên hải. Đô đốc Tôn Lương được các bộ lạc báo tin, liền suất lĩnh quân đội, phối hợp cùng chiến sĩ của các bộ lạc tập kích quân Rasulid trên đường hành quân. Quân Rasulid đại bại. Toàn bộ lương thực, khí giới thu được cùng với gần 1 vạn tù binh được giao hết cho các bộ lạc. Lực lượng của các bộ lạc trở nên lớn mạnh, hăng hái luyện tập chờ quân Rasulid tiến xuống lần nữa. Nhiều bộ lạc du mục khác thấy thế, đua nhau quy thuận. Tất cả vùng duyên hải của vương triều Rasulid bị phân chia hết. Mỗi khi quân Rasulid họp quân tiến xuống tái chiếm thì đều bị quân Đế quốc liên hợp với lực lượng của các bộ lạc đánh bại, tù binh đều trở thành chiến sĩ của các bộ lạc, làm cho thực lực của các bộ lạc ngày càng mạnh hơn. Sau vài trận, quân Rasulid không dám tiến xuống nữa.

Tháng 9, sau khi các bộ lạc quy thuận đã ổn định được vùng quản hạt của mình, chiếu chỉ của Giang Phong truyền đến, phong cho tộc trưởng các bộ lạc này thành tiểu vương Hồi giáo, mang phẩm hàm hầu tước, bá tước của Đế quốc, cho thành lập các tiểu quốc Hồi giáo. Hơn 40 tiểu quốc được thành lập dọc theo vùng duyên hải Rasulid, bao vây phong tỏa phần còn lại của Rasulid trong nội địa.

Cuối tháng 9, một bộ lạc lớn trong sa mạc đột nhiên tiến đến chiếm lấy Ta’izz từ tay quân Rasulid, rồi sai sứ giả đến liên hệ với Đô đốc Tôn Lương cầu phong, được Tôn Lương tiến cử, và triều đình Đế quốc đã chấp thuận.

Sang tháng 10, nhiều tiểu quốc chư hầu trong nội địa cũng chuyển sang quy phục và nộp thuế cho Đế quốc. Bọn họ lo sợ quân Đế quốc tiến vào và bị các bộ lạc trong sa mạc kéo ra chiếm mất đất đai, giống như các tiểu quốc chư hầu của Rasulid ở vùng duyên hải trước đây, nay đã bị các bộ lạc chiếm lấy và thành lập các tiểu quốc mới, hoặc giống như Ta’izz. Vương triều Rasulid chỉ còn kiểm soát được khu vực xung quanh kinh đô chính Zabid, thế lực chỉ tương đương một tiểu quốc lớn. Quốc vương của vương triều Rasulid vẫn giữ vương hiệu, nhưng không còn được ai công nhận nữa. Mọi người chỉ xem ông ta như là một tiểu vương của tiểu quốc Zabid.

Tiếp đó, chiến hạm chuyển xuống vùng phía đông nam Adal, khu vực các bộ lạc Ethiopic và Somali, rồi các tiểu quốc vùng nam vịnh Aden được thành lập. Các bộ lạc xứ này lần lượt chuyển đổi sang chế độ phong kiến, kiến lập tiểu quốc, uy hiếp vương triều Solomonic từ phía nam. Từ bộ lạc chuyển sang phong kiến, giới quý tộc cần có những sự hưởng thụ mới tương ứng. Các thương đội do Cát Ti quản lý có thêm thị trường. Quan hệ kinh tế thay đổi, xứ này cũng dần dần phồn vinh.

Tháng chạp, có thêm viện binh từ Tích Lan, Hồng Long phân hạm đội chính thức tiến đến vịnh Suez ở phía tây bán đảo Sinai, gần cửa kênh đào Suez thông ra Hồng Hải.

Con kênh đào này đã có lịch sử rất lâu đời. Từ thời các Pharaon, người Ai Cập đã đào kênh nối thông Địa Trung Hải với Hồng Hải. Có lẽ vào khoảng những năm 1878 đến 1839 trước Tây lịch, vào triều đại Pharaon Senusret III đã có một kênh đào đông tây nối sông Nile với Hồng Hải phục vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc giao thương giữa Hồng Hải với Địa Trung Hải. Có nhiều dấu vết cho thấy con kênh này đã tồn tại vào thế kỷ 13 trước Tây lịch vào thời kỳ Pharaon Ramesses II. Có điều, con kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc bấy giờ và nhanh chóng bị lãng quên.

Theo sử sách Hy Lạp, vào khoảng những năm 600 trước Tây lịch, Hoàng đế Necho II của Hy Lạp đã nhận thấy tầm quan trọng của kênh này và cho tu sửa lại nó. Tuy nhiên con kênh chính thức được hoàn thành bởi Hoàng đế Darius I của Ba Tư. Ông đã hoàn thành con kênh sau khi chiếm Ai Cập và đã mở rộng nó đủ để cho phép hai tàu chiến trieme tránh nhau trong kênh và hành trình trong kênh mất 4 ngày. Sau khi sửa sang con kênh xong, Darius I đã xây dựng bia kỷ niệm công lao của mình ở đấy.

Hồng Long phân hạm đội tiến vào vịnh Suez, khiến cho trú quân và dân chúng ở trên bờ xuất hiện khủng hoảng. Từ mấy tháng trước, bọn họ đã nghe đồn đại về sự xuất hiện của những chiến hạm ‘rất lớn’ đến từ Đông phương Đế quốc. Nhưng đa số chỉ nghe qua rồi cười đối phương nói quá, phóng đại, thổi phồng sự thật. Nào ngờ, đến khi tận mắt chứng kiến, bọn họ còn cảm thấy các chiến hạm này còn lớn hơn cả sự tưởng tượng ban đầu.

Nếu chỉ như vậy thôi thì còn chưa có gì phải lo sợ. Có điều, gần đây lan truyền trong khắp Ai Cập tin tức về sự hiềm khích giữa vương triều Burji ở Cairo với Đông phương Đế quốc. Mọi người đều đã biết chuyện vương triều Burji kỳ thị thương nhân của Đông phương Đế quốc, cự tuyệt sứ giả của họ, và quan hệ song phương trở nên ác liệt. Mấy tháng gần đây đã không còn thấy thương nhân của Đông phương Đế quốc xuất hiện trên đất Ai Cập. Do đó, khi thấy Hồng Long phân hạm đội xuất hiện, ai nấy đều biết chiến tranh giữa hai nước sắp bùng nổ. Thường dân vội vã thu dọn đồ đạc, tạm thời di tản ra xa vùng chiến sự. Còn binh lính được lệnh tăng cường phòng bị. Rất nhiều cứ điểm phòng ngự nhanh chóng được lập nên dọc theo bờ biển.

Trong quân đội Ai Cập thời kỳ này có một lực lượng đặc biệt, nô lệ binh, tiếng Ai Cập gọi là Mamluk, là lực lượng quân đội được tổ chức từ những người nô lệ theo Hồi giáo. Triều đại do những tướng lĩnh Mamluk có gốc nô lệ thành lập được gọi là triều đại Mamluk, bắt đầu từ năm 1250, gồm có 2 dòng Bahri và Burji. Thường thì ngôi vị quốc vương do các tướng lĩnh Mamluk thay nhau nắm giữ, và rất thường xảy ra việc đánh giết nhau để tranh ngôi, do đó mà các vị quốc vương cũng thường không ở ngôi được lâu dài. Có năm, có đến 4 vị quốc vương thay nhau cai trị.

Vào năm 1249, thời quốc vương Salih Ayyub của vương triều Ayyubid, quốc vương Louis IX của nước Pháp hô hào thánh chiến, nhưng không tiến đánh Jerusalem mà lại tấn công Cairo. Quân đội viễn chinh do Louis IX đích thân chỉ huy trước tiên chiếm giữ Damietta ở gần cửa sông Nile phía bắc Cairo, sau đó tiến dần về phía nam. Trong lúc chiến tranh xảy ra thì quốc vương Salih Ayyub qua đời, con trai là Al Mu’ Azzam Turanshah kế vị. Nhưng trước khi Turanshah kịp xuất quân thì các tướng lĩnh Mamluk đã đánh bại quân viễn chinh trong trận Al Mansurah và bắt giữ Louis IX, do đó mà thanh thế vang dội. Turanshah điều đội thân binh của mình chiếm giữ các vị trí hiểm yếu để đề phòng quân Mamluk. Nhưng các tướng lĩnh Mamluk đã ra tay trước, ám sát Turanshah, sau đó đánh lẫn nhau để tranh ngôi trong suốt 10 năm. Kết quả, hai thế lực mạnh nhất là Qutuz kiểm soát Cairo và Baybars Bahri kiểm soát Syria (lúc này thuộc Ai Cập). Đến khi quân Mông Cổ tiến vào khu vực, hai thế lực này liên hợp với nhau, đánh bại quân Mông Cổ. Tiếp đó nội chiến lại xảy ra, và cuối cùng Baybars Barih chiến thắng, thành lập vương triều Mamluk Barih.

Năm 1377, một cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Syria và lan nhanh sang các xứ Ai Cập khác. Năm 1382, Barquq lên cầm quyền, kết thúc vương triều Barih. Năm 1389, Barquq bị đánh bại phải chạy khỏi Cairo, nhưng đến năm 1390 đã chiếm lại được, chính thức thành lập vương triều Mamluk Burji. Barquq là một kẻ hiếu chiến, đã giết sứ giả của Timur, Đại Hãn Mông Cổ cai quản một hãn quốc rộng lớn từ Thổ Nhĩ Kỳ, Syria ở phía tây đến khu vực bắc Ấn Độ ở phía đông, do đó đã kết thù với Timur, rồi dẫn đến chiến tranh năm 1400.

Cũng giống như vương triều Mamluk Barih, vương triều Mamluk Burji thường xuyên xảy ra chiến tranh giữa các tướng lĩnh Mamluk để tranh ngôi và các vị quốc vương thường không ở ngôi được lâu dài. Chỉ từ khi chính thức thành lập (1390) đến lúc này (1413) đã có 4 cuộc nổi loạn tranh ngôi và có 5 vị quốc vương. Có người ở ngôi chỉ vài tháng.

1. Az Zahir Sayf Al Din Barquq (1390 – 1399), qua đời.

2. Faraj bin Barquq (1399 – 1405), bị đánh đuổi, chạy thoát.

3. Abdul Aziz bin Barquq (1405), cướp ngôi thành công, nhưng vài tháng sau bị đánh bại, bị bắt, chết trong tù.

4. Faraj bin Barquq (1405 - 1412), giành lại được ngôi, làm quốc vương lần thứ hai, nhưng rồi lại gặp phản loạn, bị giết.

5. Al Adil Al Musta’ in Billah (1412), cướp ngôi thành công, nhưng vài tháng sau lại bị lật đổ, chạy thoát.

6. Tatar I (1412 – đến lúc này), cướp ngôi thành công.

Tóm lại, thời đại của các Mamluk cũng là thời đại nội chiến của Ai Cập, các tướng lĩnh Mamluk đánh nhau không ngừng. Nội chiến liên miên, đất nước bị chia cắt, các thế lực quân phiệt chia nhau kiểm soát các khu vực và chờ cơ hội cướp ngôi. Tình cảnh dân Ai Cập lúc này không nói cũng đủ biết. Hồng Long phân hạm đội đến Suez trong hoàn cảnh như thế.

Chương 48 : TṚN SUEZ ĐÁNH BẠI QUN MAMLUK

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa đông tháng chạp.

Hồng Long phân hạm đội tiến vào vịnh Suez, gây nhiều khủng hoảng cho quân dân trên bờ. Quân đội Mamluk xây dựng khẩn cấp nhiều cứ điểm dọc theo bờ biển, tổ chức phòng ngự. Chỉ vì vịnh Suez quá dài, quân Mamluk không thể nào phong tỏa hết bờ biển, nên tập trung phòng thủ ở bờ phía tây, đề phòng quân đội đối phương đổ bộ tiến đánh kinh thành Cairo.

Hồng Long phân hạm đội lại không hề có ý định tiến đánh Cairo, đương nhiên nếu thời cơ thuận lợi, bọn họ sẵn sàng chiếm lĩnh những nơi có thể chiếm lĩnh được. Nhưng lúc này đây cần ưu tiên hoàn thành nhiệm vụ trước đã. Toàn thể các thuyền hạm thuộc Hồng Long phân hạm đội di chuyển vào tận sát cửa vào kênh đào Suez, sau đó xuống thuyền nhỏ, đổ bộ lên bờ. Toàn khu vực Suez địa hình bằng phẳng, rất thích hợp cho quân đội đổ bộ, nhưng thuyền hạm của Hồng Long phân hạm đội quá lớn, không thể trực tiếp cập vào bờ được, phải sử dụng thuyền nhỏ cho quân đội lần lượt đổ bộ.

Số binh sĩ đã đặt chân lên bờ lập tức tổ chức thành đội ngũ, tiêu diệt tất cả binh lính tuần phòng của quân Mamluk. Còn các thuyền nhỏ lại quay ra vận chuyển tiếp đợt quân đổ bộ tiếp theo. Lục quân trên Hồng Long phân hạm đội không đông, cũng chỉ có 2 sư 2 vạn người, nên chỉ mất vài lượt vận chuyển là đã đổ bộ hết lên bờ.

Lúc này, quân Mamluk cũng đã phát hiện đối phương đổ bộ, lập tức điều động 5 vạn quân đang trú đóng quanh đó kéo đến tấn công, có ý đổ đẩy lui quân đội đối phương xuống biển. Bọn họ cũng đã thám thính được rằng đối phương quân đội không đông.

Song phương đối diện, không có gì phải do dự, lập tức lao vào tiến công. Quân đội Đế quốc ít hơn, không trực tiếp tấn công mà dàn thành đội hình phòng ngự, chờ đối phương xông đến. Trọng bộ binh một tay cầm khiên lớn, một tay cầm đại đao dàn thành hàng đầu tiên. Khiên lớn cao gần 1 mét, 2 chiếc khiêng chồng lên nhau, dựng thành hàng chỉnh tề phía trước thành một bức tường vững chắc bảo hộ toàn quân. Tiếp đó là trường thương binh xếp thành hàng thứ hai, trường thương xuyên qua những khoảng trống giữa các chiếc khiên, hướng về phía trước tạo thành thương trận. Cung thủ ở sau cùng, giương cung lắp tên sẵn sàng bắn ra. Đây chỉ là trận hình thông thường của quân đội các nước phương đông.

Quân Mamluk đông hơn, lại cần chủ động tấn công, nên dàn thành đội hình cách đó vài dặm rồi tiến hành xung phong. Các xứ A Lạp Bá nổi tiếng về kỵ binh, 1 vạn kỵ binh dàn ra phía trước làm thành quân chủ lực công kích, mục tiêu xung phá đội hình quân đối phương, 4 vạn bộ binh còn lại phụ trợ.

Hiệu lệnh truyền xuống. Kỵ binh Mamluk thúc chiến mã xung phong, khí thế hung hãn, chứng tỏ cực kỳ thiện chiến. Không thiện chiến sao được, bởi quân Mamluk quanh năm đánh nhau vì tranh đoạt ngôi quốc vương kia mà. Nội chiến liên miên, kết quả trực tiếp là quân đội đều thiện chiến.

Song phương còn cách hơn 2 dặm (800 mét), Mamluk kỵ binh sắc mặt lộ vẻ hung hăng, tay nắm chặt đao kiếm, chuẩn bị chiến đấu. Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Hàng loạt đạn pháo từ các chiến hạm ngoài biển bắn vào, rải xuống giữa đội hình Mamluk kỵ binh, lập tức người ngã ngựa nghiêng, đội hình hỗn loạn. Những con ngựa phía trước vì bị đạn pháo phía sau làm cho kinh sợ, hoảng loạn phóng nhanh về phía trước. Những con ngựa phía sau thì sợ hãi chạy tạt sang hai bên. Còn những con ngựa ở ngay đó thì … bị đạn pháo bắn trúng, còn kết quả nào khác nữa.

Số phận những Mamluk kỵ binh ở hàng đầu cũng không khá hơn. Do chiến mã kinh hãi phát cuồng, đã tăng tốc chạy tới trước, xung thẳng vào thương trận. Kết quả thành xâu thành xâu đinh vào trường thương, tử trạng rất thê thảm.

Tiếp đó, 400 khẩu thần công cỡ nhỏ của lục quân khai pháo. Khai hoa đạn rải vào đầu số Mamluk kỵ binh còn chưa xung vào thương trận, tạo nên càng nhiều thương vong, càng nhiều hỗn loạn. Sau đó, cung thủ phóng tên. Mỗi loạt hơn vạn mũi tên bắn đầy trời, hết loạt này đến loạt khác, liên miên bất tuyệt, làm cho tiền đầu Mamluk kỵ binh thiệt hại nặng nề, gần như toàn diệt. Quân đội Đế quốc tiền tiến, lại tiền tiến, áp sát dần nửa phần còn lại của Mamluk kỵ binh. Các khẩu thần công cỡ nhỏ cũng được đẩy theo. Bên phía quân Mamluk, 4 vạn bộ binh cũng đã tiến đến gần, hội hợp cùng số Mamluk kỵ binh còn lại, chuẩn bị xung phong cùng quân Đế quốc hỗn chiến. Các tướng lĩnh Mamluk cũng đã nhận ra nếu cứ giữ khoảng cách, bọn họ chỉ làm bia cho đại pháo của đối phương.

Thần công đại pháo oai lực cự đại, chỉ đáng tiếc thời gian mỗi lần khai pháo hơi bị lâu, do đó cung nỏ vẫn là vũ khí quan trọng trong chiến tranh. Cung nỏ chỉ đến đâu, hàng nghìn quân Mamluk thương vong đến đó. Cung nỏ chỉ về phía nào, quân Mamluk ở đó thương vong ngã xuống còn nhanh hơn cắt cỏ. Nông dân cắt cỏ thì cắt từng nắm từng nắm nhỏ, còn quân Mamluk ngã xuống thì từng phiến từng phiến lớn. Lúc này, cung thủ đã bắn hơn 10 lượt, bắn ra hơn 10 vạn mũi tên, sát tử trọng thương hàng vạn địch nhân thì các khẩu thần công đại pháo lại mới khai pháo lần thứ hai.

Oanh. Oanh. Oanh …

Loạt pháo thứ hai khiến cho sĩ khí của quân Mamluk giảm đến mức thấp nhất. Cuối cùng, đã có tướng lĩnh Mamluk chịu không nổi, dẫn quân tháo chạy. Quân của viên tướng đó ở phía sau, chưa cùng quân đối phương trực tiếp chiến đấu, nhưng thấy tình cảnh phía trước, ai nấy không khỏi lạnh người, vừa nghe lệnh rút lui là lập tức ùn ùn tháo chạy. Theo thể chế hiện tại của vương triều Mamluk, địa vị của các tướng lĩnh Mamluk phụ thuộc vào lực lượng quân đội mà họ nắm giữ. Có quân đội, bọn họ mới có thể chiếm địa bàn, làm quân phiệt, mưu đồ tranh ngôi. Nếu như không còn quân, bọn họ cũng sẽ không là gì cả. Do đó viên tướng kia sợ quân bản bộ thương vong hết sạch, nên tự tiện dẫn quân tháo lui. Dù sao thì các tướng lĩnh Mamluk chẳng ai chịu ai, chỉ cần nắm quân trong tay là chẳng cần sợ gì cả.

Sau khi có một toán quân Mamluk tháo chạy, những toán quân Mamluk ở gần đó thấy tình thế không hay, cũng bắt đầu tháo chạy theo. Gần 3 vạn tàn quân Mamluk nhanh chóng tan vỡ, tranh nhau tháo chạy, tình thế hỗn loạn cực độ.

Giữa lúc đó, từ trong hướng nội địa chợt xuất hiện đại đội nhân mã bất thần tấn công tàn quân Mamluk. Một bên vừa đại bại, sĩ khí mất hết, đang tháo chạy; một bên dưỡng tinh xúc nhuệ, chiến ý bừng bừng. Chiến cục hoàn toàn nghiêng hẳn về một phía. Tàn quân Mamluk bị lưỡng diện hiệp kích, lớp thương vong, lớp bị bắt, lớp đầu hàng. Chỉ có vài trăm Mamluk kỵ binh hộ tống vài tướng lĩnh quan trọng chạy thoát về hướng tây bắc.

Đạo quân xuất hiện trong hướng nội địa đó chính là quân đội của các tiểu quốc mới thành lập dọc theo bờ đông bắc Hồng Hải (trước đây mấy tháng còn là chiến sĩ của các bộ tộc du mục trong sa mạc). Mỗi lần theo quân đội Đế quốc chinh chiến đều thu được chiến lợi phẩm phong hậu, khiến cho quân đội các tiểu quốc càng thêm tích cực tham chiến. Thật ra thì dù không có chiến lợi phẩm, để lấy lòng Đế quốc, các tiểu quốc cũng sẽ xuất quân.

Giải quyết xong chiến trường, quân đội Đế quốc tiến về khu vực đã chọn sẵn để xây dựng nơi trú quân. Còn quân đội các tiểu quốc lo phân chia tù binh, chiến lợi phẩm. Quân Mamluk kéo đến đây 5 vạn, tử trận 1 vạn rưỡi, chạy thoát vài trăm, Có đến gần 3 vạn rưỡi tù binh để các tiểu quốc chia nhau. Có điều, các tiểu quốc ‘hiến’ cho Hồng Long phân hạm đội 1 vạn tù binh để làm khổ lực. Trận chiến này, các tiểu quốc chỉ ở phía sau kiểm tiện nghi, công lao chủ yếu thuộc về quân đội Đế quốc. Đại bộ phận chiến lợi phẩm nhượng cho bọn họ là quá đủ rồi, bọn họ cũng không dám giành hết. Dù sao quân đội Đế quốc cần xây dựng trú địa, nên rất cần khổ lực.

Tiếp đó, vật tư được cho chuyển lên bờ, bắt đầu xây dựng thành lũy trấn thủ xứ này. Có 1 vạn khổ lực, việc xây dựng nhanh chóng hơn dự định. Chẳng bao lâu nữa, nơi đây sẽ xuất hiện một tòa thành thị đồng thời cũng là thương cảng, tiền cảnh khả quan.

Trong lúc Đô đốc Tôn Lương bận lo chỉ huy việc kiến thiết tân thành, một viên tùy tướng được giao chỉ huy quân đội Đế quốc và quân liên hợp các tiểu quốc tiến về phía bắc, thanh lý các cứ điểm của quân Mamluk dọc theo bờ kênh đào, thuận tiện xem có thời cơ tiến về Cairo hay không ?

Kênh đào thời này không giống với kênh đào thời hiện đại, không thẳng theo hướng bắc – nam, mà có hình chữ L, bắt đầu từ Hồng Hải, thông sang hồ Đắng Lớn (Great Bitter Lake) ở phía bắc, rồi thông sang hồ Timsah ở phía bắc hồ Đắng Lớn, tiếp đó chuyển hướng sang phía tây đi vào hồ Wadi Turnilat, theo sông Nile đi ngang qua Cairo, tiếp đó xuôi dòng sông Nile đi về hạ lưu ra Địa Trung Hải. Kênh đào lại cạn, chỉ có một số ‘tiểu hình’ chiến thuyền của Hồng Long phân hạm đội là vào được. Do đó lúc này tác dụng không lớn. Hồng Long phân hạm đội được lệnh đến đây xây dựng một thành thị làm nơi dừng chân giao thương cho các viễn dương thương nhân.

Chương 50 : TIẾN CHIẾM THANH NGHỆ

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa xuân tháng ba.

Trấn Bắc Tướng quân Phạm Thế Căng suất lĩnh hai quân Bảo Tiệp, Linh Tiệp vượt đèo Ngang bắc tiến thảo phạt quân Minh, sai thám mã truyền hịch đi các nơi. Hịch rằng :

“Ta Trấn Bắc Tướng quân họ Phạm,

Tính thẳng ngay bố cáo hịch này,

Kể từ khi Ngô tặc sang đây,

Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi.

Dân Đại Việt vốn không lầm lỗi,

Giết bỏ đều quyền nội trong tay

Ngoài nhân dân ngậm đắng nuốt cay,

Trong triều sĩ đêm ngày ta thán.

Quân Trương Phụ, Lý Bân, Mộc Thạnh,

Giết dân ta máu chảy thành sông,

Chốn quân doanh uế trược muôn phần,

Giặc tàn bạo xa gần thiết sỉ.

Vâng Đế quốc Thánh hoàng mật chỉ,

Ta xuất binh nghĩa vị cần vương.

Đất Nam phương tề tận đao thương

Quét trừ bọn nhiễu nhương tàn bạo.

Đồng hiệp sức ra tay giữ nước,

Như thuốc hay chữa bệnh mau lành,

Tờ hịch văn truyền đến trấn thành,

Mong triều dã ứng theo đuổi giặc.”

(chú : Anh Quốc Công Trương Phụ, Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh, Phong Thành Hầu Lý Bân là 3 viên tướng Minh triều có chức tước cao nhất trong đạo quân xâm lấn Đại Việt. Nguyên còn có Thành Quốc Công Chu Năng làm thống soái, nhưng khi đến Long Châu, chưa ra khỏi đất Tàu thì đã chết, phó soái Trương Phụ lên thay).

Khi quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang tiến ra. Tướng trấn thủ Kiềm Châu là Phạm Đống Cao đem dân binh các tộc Mường đi đánh đất Trà Long (Tương Dương, Nghệ An). Khi đến núi Bồ Cát thì gặp quân Minh cũng đang tiến lên. Song phương xông vào nhau quyết chiến. Phạm Đống Cao một thương một ngựa, xông thẳng vào giữa trận giặc đánh giết, ngựa đến đâu, quân Minh rẽ ra đến đấy. Dân binh các tộc Mường thấy thế càng thêm hăng hái, tràn lên đánh giết rất dữ dội. Quân Minh yếu thế không địch nổi, phải rút chạy về Trà Long. Quân Mường giết được sĩ tốt quân Minh hơn nghìn người, bắt được hơn trăm con ngựa và rất nhiều khí giới.

Thắng trận Bồ Cát, Phạm Đống Cao thừa thế suất quân tràn xuống vây thành Trà Long. Quan Tri châu là Cầm Bành vốn là một chi của họ Cầm ở Sầm Châu, nhận được thư của Cầm Công nên mở cửa thành ra hàng. Quân Mường chiếm được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy. Sau đó, Phạm Đống Cao dẫn quân thuận theo sông Lam tiến xuống đất Khả Lưu, cùng quân Thuận Hóa hợp vây thành Nghệ An.

Còn Phạm Thế Căng khi suất quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang ra bắc, các châu huyện vùng bắc Tân Bình nguyên là vùng quản hạt cũ của Phạm Thế Căng đều mở cửa thành đầu hàng. Phạm Thế Căng vốn là đệ nhất danh tướng của Đại Việt lúc bấy giờ, lại từng có công dẹp giặc Chiêm Thành nên rất được lòng dân xứ này. Đại quân thuận thế tiến đến phía nam thành Nghệ An mà không gặp trở ngại gì đáng kể. Khi quân đến làng Đa Lôi, huyện Thổ Du (nay là huyện Thanh Chương), thì dân làng mang rượu thịt ra đón rước, khóc lạy mà nói rằng : không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ.

Tháng 4, Quân Thuận Hóa tiến đến Nghệ An, đóng quân ở phía nam thành, doanh trại kéo dài mấy dặm, quân thế rất mạnh. Quân Minh trong thành chỉ có hơn vạn, cùng năm nghìn dân binh của ‘ngụy tướng’ Phan Liêu, nên hết sức cố thủ, không dám ra đánh. Phan Liêu nguyên là con của Phan Quý Hữu, làm quan Thái Phó thời Trùng Quang Đế. Tháng 6 năm ngoái, quân Trương Phụ vào Nghệ An thì Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy ngày sau thì mất. Trương Phụ cho con Quý Hữu là Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Chính Liêu đã chỉ đường cho quân Minh vây bắt vua quan Trùng Quang Đế. Liêu biết mình phải tội lớn với Đại Việt, nên chỉ còn cách hết sức chống giữ, chờ cứu viện.

Trương Phụ ở Thăng Long nghe tin Phạm Thế Căng bắc tiến, đang vây thành Nghệ An, liền sai bộ tướng Lý An mang 5 vạn quân theo đường biển vào cứu viện. Bắc Dương Hạm đội Đại Đô đốc Mã Tân (nguyên tên thật là Matavamca, đại tướng của tiểu quốc Puni) đã phái một đội chiến hạm chờ sẵn ngoài biển, chờ các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đi qua thì xông ra đánh. Sau một trận pháo kích cộng với xung kích, các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đều bị bắn vỡ, bị đụng chìm. Quân Minh tử trận vài nghìn, còn lại đều bị bắt, không có ai chạy thoát.

Các chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội tiêu diệt xong các chiến thuyền quân Minh, liền kéo ra bắc đồn trú ở cửa biển Thần Phù, ngăn hẳn các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Trường Yên (Ninh Bình) với quân Minh ở Thăng Long.

Nghệ An Thành.

Dừng quân nghỉ ngơi 3 ngày, Phạm Đống Cao tập trung 1.200 khẩu thần công thuộc 2 đạo quân, lập thành trận địa pháo ở phía nam thành, sau đó đồng loạt nã pháo vào tường thành, cửa thành. Đạn pháo làm thành tường chấn động rung rinh, đá rơi ra từng tảng từng tảng. Quân Minh cũng có một số thần công đại pháo thu được từ quân nhà Hồ, liền bắn trở ra. Thế nhưng hỏa dược của quân Minh chất lượng kém hơn hẳn hỏa dược của quân Đế quốc, nên phạm vi xạ kích không xa bằng, hoàn toàn bị áp chế.

Thành Nghệ An tuy kiên cố, nhưng cũng không thể chịu nổi 1.200 khẩu đạn pháo liên tục oanh kích. Chỉ sau hơn nửa ngày, tường thành đã sụp đổ một mảng lớn. Thật ra thì thành Nghệ An còn kém kiên cố hơn thành Đồ Bàn của Chiêm Thành nhiều, bởi đã lâu năm chưa được tu tạo sửa chữa. Mọi chú ý của nhà Hồ đều tập trung vào các thành trì ở phía bắc, đặc biệt là thành Đa Bang. Thế mà thành Đa Bang khi bị quân Minh tấn công còn không đứng vững được bao lâu, nói gì đến thành Nghệ An.

Khi tường thành sụp đổ, quân Thuận Hóa tràn vào trong thành. Do trong thành đều là dân Việt nên thần công đại pháo không được phép bắn pháo vào bên trong. Thế nhưng, 6 vạn quân Thuận Hóa tràn ngập thành Nghệ An cũng đủ khiến quân Minh khiếp đảm, phải mở cửa bắc tháo chạy. Tri phủ Nghệ An Phan Liêu chết trong đám loạn quân, dân binh của Phan Liêu đều đầu hàng. Phạm Thế Căng để lại 1 sư 1 vạn quân trấn thủ Nghệ An, còn lại lập tức truy đuổi quân Minh đang tháo chạy.

Nói về quân Minh do tướng Trần Trí cầm đầu bỏ thành Nghệ An chạy về phía bắc, định rút về Thăng Long. Nào ngờ chỉ chạy được chưa đến 10 dặm thì chợt nghe phía trước pháo nổ vang trời, tiếng reo dậy đất, rồi quân Mường ở hai bên đường đổ ra đánh giết. Trần Trí cố suất quân chống cự một lúc, lại thấy quân Thuận Hóa đuổi đến, cờ hiệu của Phạm Thế Căng phất phới tung bay trong gió, cả kinh thất sắc, vội bỏ mặc sĩ tốt, quay đầu ngựa tháo chạy về phương bắc. Quân Minh tan rã, bị bắt, bị thương, bị giết gần hết, chỉ còn lại chưa đến nghìn người chạy được theo Trần Trí.

Phạm Thế Căng bảo Phạm Đống Cao dẫn quân về trấn thủ Nghệ An, đồng thời chỉnh hợp hàng binh, xử lý tù binh, sau đó lại suất quân đuổi theo bọn Trần Trí đến tận Diễn Châu. Trần Trí dẫn quân vào thành Diễn Châu cố thủ.

Phạm Thế Căng nghe báo Trần Trí lại dẫn quân vào cố thủ ở Diễn Châu, tiền quân đã vây chặt Diễn Châu Thành, tức giận nghiến răng nói :

- Ái chà ! Ai ngờ cái gã Trần Trí này lại giỏi chạy đến thế. Lần này quyết không cho gã có cơ hội chạy thoát nữa.

Nói đoạn phân binh đi chiếm giữ các chỗ hiểm yếu ở về phía bắc Diễn Châu, sau đó mới suất đại quân đến vây thành. Bọn Phạm Thế Căng bao vây 3 ngày, chờ thần công đại pháo kéo đến nơi, rồi lại cũng giống như ở Nghệ An, dùng đại pháo bắn thành. Nhưng lần này chỉ có 1.000 khẩu thần công dàn ra phía trước cổng thành phía nam.

Trần Trí nghe báo, biết là không thể giữ nổi thành, truyền quân sĩ gom góp lương thực mang theo, sau đó lại mở cửa bắc tháo chạy. Bọn Trần Trí ghé vào Diễn Châu mục đích không phải muốn cố thủ ở đấy, chỉ vì thiếu lương, cần bổ sung thêm mà thôi.

Bọn Trần Trí lại chạy về phía bắc, khi đi ngang qua một cánh rừng, bỗng nghe thấy hai bên trống đánh vang trời, quân reo dậy đất, rồi có một toán quân đổ ra đón đánh. Viên tướng dẫn đầu mắt to, râu rậm, mặt đen, tướng dữ như hổ, một tay cầm khiên, một tay cầm đại đao, giục ngựa xông ra, quát lớn :

- Quân giặc kia còn chạy đi đâu ? Trương Hổ ta chờ các ngươi đã lâu lắm rồi.

Trần Trí sai viên tùy tướng múa thương chặn đánh, nhưng chỉ vừa xông ra là đã bị Trương Hổ chém một đao ngã lăn xuống ngựa. Trần Trí cả kinh thúc quân ùa vào. Trương Hổ lùi lại, quát quân sĩ bắn tên ra, quân Minh trúng tên thương vong rất nhiều. Trần Trí cũng trúng tên rơi xuống ngựa, rồi bị bắt. Quân Minh thấy chủ tướng bị bắt, lại bị vây chặt, đều phải đầu hàng.

Phạm Thế Căng phái 1 sư 1 vạn quân đi chinh phục các châu huyện vùng Diễn Châu, sau đó suất quân đến vây thành Tây Đô. Cũng áp dụng chiến thuật như ở Diễn Châu và Nghệ An, dù chỉ còn lại 800 khẩu thần công, nhưng thành Tây Đô chẳng có bao nhiêu quân Minh, chỉ chống cự được 4 ngày rồi thất thủ.

Chiếm xong thành Tây Đô, Phạm Thế Căng lại để 1 sư 1 vạn quân ở lại bình định vùng này, sau đó kéo 3 vạn quân còn lại thuộc đạo Linh Tiệp tiến ra Trường Yên, cùng Hải quân hội hợp. Kể từ lúc này, khu vực từ sông Đáy trở vào nam đều được sát nhập vào bản đồ Đế quốc.

Chương 51 : BAO VY THIÊN TRƯỜNG

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 5.

Nghỉ ngơi ở Trường Yên một thời gian cho sĩ binh dưỡng sức, đồng thời chờ bổ cấp đầy đủ, Phạm Thế Căng lại vượt sông Đáy tiến quân ra bắc đánh chiếm Thiên Trường. Lúc này, 2 đạo quân Bảo Tiệp và Linh Tiệp lại hội hợp đầy đủ, quân thế lừng lẫy.

Trương Phụ ở Thăng Long sai Mộc Thạnh mang 3 vạn quân ra giữ Thiên Trường, sai Phương Chính mang 2 vạn quân ra đóng ở Ninh Kiều để tiếp ứng, lại sai người chạy trạm khẩn cấp về Tàu cầu viện, và gọi quân Vân Nam sang cứu.

Phạm Thế Căng kéo quân đến vây thành Thiên Trường, lại học theo lối cũ, cho dàn trận địa thần công đại pháo, oanh kích công phá thành tường. Thế nhưng, Mộc Thạnh là danh tướng Minh Triều, đâu dễ chịu thua, đã sai lính đào lấy đất đá trong thành lấp vào những chỗ hư hỏng của thành tường, còn sai lấy phên tre, mảnh chiếu thấm ướt nước che bên ngoài tường thành để giảm bớt lực lượng của đạn pháo. Phạm Thế Căng lại sai tập trung công kích vào cổng thành. Nào ngờ Mộc Thạnh lại cho quân đổ đất lấp hẳn cổng thành lại.

Bắn phá suốt cả ngày không xong, Phạm Thế Căng đành tạm dừng lại. Nghĩ mãi không ra kế gì phá thành, Phạm Thế Căng chỉ đành cho vây thành. Trong thành có 3 vạn quân tinh nhuệ, và ước 1 vạn dân binh. Phạm Thế Căng chỉ có 6 vạn quân, nếu cường công, dù có chiếm được thành thì cũng sẽ thiệt hại nặng nề, có hại cho việc bắc phạt.

Hôm sau, Phạm Thế Căng triệu tập chư tướng bàn kế phá thành, một viên tùy tướng hiến kế :

- Tướng quân. Chúng ta hãy bắn thư vào thành bảo Mộc Thạnh cho dân ra khỏi thành, rồi sẽ quyết chiến để khỏi liên lụy dân chúng. Nếu trong thành không còn dân, chúng ta sẽ sử dụng đại pháo.

Phạm Thế Căng lắc đầu nói :

- Vô ích thôi. Mộc Thạnh mưu mô quỷ quyệt, quyết chẳng bao giờ đồng ý việc đó.

Viên tùy tướng nói :

- Chúng ta cứ thử xem, biết đâu …

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ, thấy thử xem cũng chẳng hề gì, nếu như thành công thì càng tốt. Liền đó, Phạm Thế Căng sai viết chiến thư, cột vào mũi tên và cho quân bắn vào trong thành. Kết quả thật đúng như ước đoán của Phạm Thế Căng, Mộc Thạnh sau khi đọc xong chiến thư, chỉ khẽ cười nhạt, rồi cho quân đến đóng doanh trại lẫn với các phố xá trong thành.

Hành động đó của Mộc Thạnh khiến Phạm Thế Căng và chư tướng mắng chửi không tiếc lời. Bọn Phạm Thế Căng đang vô kế khả thi, bàn luận phân vân, thì có thám tử vào báo :

- Tướng quân. Quân Ngô trong thành đang chuẩn bị chiến đấu. Có nhiều khả năng Mộc Thạnh sẽ xuất thành quyết chiến.

Chư tướng nghe báo, hoan hỉ vỗ tay kêu lớn :

- Thánh hoàng phù hộ. Mộc Thạnh chịu xuất thành rồi.

- Chỉ cần quân Ngô chịu ra khỏi thành, chúng ta có thể đánh cho bọn chúng không còn manh giáp.

- Phải đó. Nếu không phải vì có dân trong thành, quân Ngô đã bị diệt sạch từ lâu rồi.

Phạm Thế Căng không lạc quan như chư tướng. Mộc Thạnh nổi tiếng lão mưu thâm toán, quỷ quyệt vô cùng. Quân Minh thế yếu, phải cố thủ thành trì chờ viện binh từ phương bắc sang, có lý nào lúc này lại chủ động xuất thành quyết chiến. Phạm Thế Căng suy nghĩ một lúc, không nghĩ ra nguyên do, liền hỏi chúng tham mưu :

- Mọi người thấy thế nào ?

Trong quân bộ có tham mưu bộ, mỗi đạo quân đều có đặt ban tham mưu, để giúp các tướng lĩnh bày mưu hiến kế. Phạm Thế Căng chỉ huy đại quân, nên đương nhiên cũng có một ban tham mưu tương đối quy mô. Chúng tham mưu bàn bạc một hồi, rồi viên tham mưu truởng đại diện nói :

- Tướng quân. Có lẽ quân Ngô định cướp doanh.

Phạm Thế Căng cả kinh :

- Cướp dinh ?

Viên tham mưu trưởng gật đầu nói :

- Quân Ngô yếu thế, chẳng lẽ nào lại chủ động xuất thành quyết chiến. Bọn chúng chuẩn bị chiến đấu, chỉ có thể là tập kích doanh trại quân ta. Tướng quân cũng nên chú ý động tĩnh của Phương Chính ở Ninh Kiều. Quân Ngô có thể lưỡng diện hiệp công.

Phạm Thế Căng gật đầu khen phải, phái thám tử tăng cường thám thính tin tức của Mộc Thạnh và Phương Chính. Chúng tham mưu cũng bàn bạc lên phương án đối phó.

Mây đầy trời. Gió chỉ hiu hiu thổi. Đêm nay trời tối đen, cả năm ngón tay giơ trước mặt cũng khó thấy rõ.

Mộc Thạnh phái quân đội xuất thành cướp doanh có đến 2 vạn rưỡi, do Đô ty Chu Kiệt suất lĩnh. Quân cướp doanh của Chu Kiệt len lén rời thành, hướng về phía doanh trại của quân Nam. Toàn quân đều đi bộ, sĩ tốt trong miệng đều ngậm một thanh gỗ nhỏ để khỏi phát ra thanh âm. Nghĩ đến sự an bài của Mộc Thạnh, Chu Kiệt trong lòng bình tĩnh. Ngoài đạo quân này, phía Phương Chính cũng hiệp đồng tác chiến, cơ hội thành công càng cao hơn.

- Tướng quân. Phía trước đã là doanh trại của quân Nam.

Thám tử len lén đến báo cáo. Chu Kiệt bỏ thanh gỗ nhỏ trong miệng ra, truyền lệnh :

- Truyền quân đội chuẩn bị xung kích địch doanh.

Sau đó, gã cầm chắc trường thương, ánh mắt chăm chú nhìn về phía trước, chờ quân đội chỉnh quân bị chiến.

- Tướng quân. Mọi thứ đã chuẩn bị xong cả.

Một viên bộ tướng đến báo cáo. Chu Kiệt nắm chặt trường thương, vung lên chỉ về phía trước, quát :

- Xung phong.

Chu Kiệt dẫn đầu quân đội hướng doanh trại quân Nam xung phong. Hỏa tiễn nhanh chóng đốt cháy các doanh trướng, quân của Chu Kiệt điên cuồng hướng doanh trướng bắn tên. Hỏa tiễn sáng rực cả một góc trời.

- Sát.

Trường thương của Chu Kiệt chỉ hướng trước mặt, rồi dẫn đầu sĩ tốt xông vào bên trong doanh trại. Hai vạn rưỡi tướng sĩ bắn ra vô số hỏa tiễn, doanh trướng của quân Nam lửa cháy rực trời. Quân Minh nhanh chóng xông được vào bên trong doanh trại.

Lửa cháy càng lúc càng lớn, nhưng bên trong doanh trại không có một địch quân nào xuất hiện. Nhìn thấy tình cảnh đó, Chu Kiệt trong lòng kinh hãi. Gã biết lần này đã hãm nhập vào vòng mai phục của quân Nam rồi.

- Rút lui.

Trong lúc hoảng loạn, Chu Kiệt lớn tiếng truyền lệnh quân đội rút lui. Quân Minh cũng đua nhau chạy ra ngoài, vừa chạy vừa quát tháo, người phía sau hối thúc người phía trước :

- Lui. Lui mau.

- Giặc có mai phục.

- Nhanh lên. Nhanh lên.

Trong doanh trại, quân Minh mạnh ai nấy chạy, không còn hàng ngũ gì nữa. Tình cảnh bắt đầu hỗn loạn. Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Một trận pháo kích bắn ngay lên đầu quân Minh, lần này đều sử dụng Khai hoa đạn. Do mục tiêu đã định sẵn từ trước, các khẩu thần công đều hướng vào bên trong doanh trại, đạn pháo rải đều khắp hết mọi nơi. Hơn nghìn khẩu thần công đồng loạt bắn ra hơn nghìn viên đạn pháo, nổ tung ra thành hàng vạn mảnh sắt nhỏ bén nhọn, rải xuống đầu quân Minh, khiến quân Minh tổn thất nặng nề. Quân cướp doanh chỉ có 2 vạn rưỡi, chỉ sau một loạt pháo kích, đã thọ thương gần hết, số tử vong cũng không ít. Tiếp đó là một làn mưa tên bắn vào giải quyết những kẻ còn lại. Chu Kiệt cũng chết trong đám loạn quân. Quân Minh toàn diệt.

Giữa lúc ấy, phía tây bắc đột nhiên truyền đến tiếng trống trận thùng thùng, tiếp đó 2 vạn quân của Phương Chính đã kéo đến. Toán quân này nguyên bản cũng lẳng lặng kéo đến cướp doanh, nhưng trên đường gặp nhiều trở ngại, đến chậm hơn một chút, khi thấy doanh trại quân Nam lửa cháy rực trời, biết trận chiến đã diễn ra, nên không cần che giấu hình tích nữa, khẩn cấp kéo đến tiếp ứng.

Phạm Thế Căng đứng trên vọng lâu quan sát trận chiến, khẽ cười nói :

- Quả như tham mưu trưởng đã nói. Bọn Phương Chính cuối cùng cũng đến rồi.

Đoạn quay sang hỏi tùy tướng :

- Chuẩn bị sẵn sàng cả rồi chứ ?

Viên tùy tướng đáp :

- Trình Tướng quân, chư tướng đã sẵn sàng. Đêm nay quyết chiếm cho được thành Thiên Trường.

Phạm Thế Căng gật đầu nói :

- Có thể phát động được rồi.

Mệnh lệnh truyền xuống. Lập tức tiếng trống trận càng lớn hơn. Từ bốn phương tám hướng xông ra vô số quân Nam bao vây quân Phương Chính. Đây là đạo mai phục thứ hai. Lửa cháy ngút trời, tiếng reo dậy đất. Quân Phương Chính bị tập kích bất ngờ, lâm vào hỗn loạn, cộng với vô số cung tên bắn vào bọn họ, thương vong nặng nề, 2 vạn quân Minh bị 5 vạn quân Nam phục kích, làm sao chống nổi. Phương Chính cảm thấy không hay, quay đầu ngựa hết sức liều mạng phá vòng vây, hướng thành Thiên Trường rút lui.

Lần này quân Minh tổng cộng phái 4 vạn rưỡi quân đội đi cướp doanh, 2 vạn rưỡi quân của Chu Kiệt đã bị tiêu diệt hoàn toàn, giờ đây 2 vạn quân của Phương Chính cũng đang bị bao vây, đồ sát. Đại tướng Trương Hổ từ trong hàng quân xông ra, gặp phải Phương Chính đang rút lui, cả mừng quát lớn :

- Tướng Ngô kia, còn chạy đi đâu.

Vừa quát, Trương Hổ vừa vung đại đao chặn Phương Chính lại. Biết khó thể chạy kịp, Phương Chính chỉ đành quay lại cùng Trương Hổ chiến đấu. Song phương đâm qua chém lại. Dù Trương Hổ sức lực hơn người, nhưng Phương Chính lúc này đã ở trạng thái liều mạng, nhất thời khiến cho Trương Hổ gặp ít nhiều khó khăn.

Chính đang chiến đấu, đám thân binh của Phương Chính đột nhiên xông thẳng vào vòng chiến, liều mạng ngăn Trương Hổ lại. Phương Chính thừa cơ giục ngựa bỏ chạy. Trương Hổ bị đám thân binh của Phương Chính ngăn cản, không đuổi theo kịp, tức giận quay sang chém giết đám thân binh.

Chương 52 : GIẢI PHÓNG THIÊN TRƯỜNG

Lại nói, sau khi Phương Chính chạy thoát, quân Minh tan vỡ càng nhanh hơn. Phạm Thế Căng cũng truyền quân nhanh chóng giải quyết trận chiến. Quân Nam không trực tiếp hỗn chiến mà đứng bên ngoài bắn tên. Tên bay đầy trời. Quân Minh thương vong vô số. Lớp bị chết, lớp bị thương, lớp bị bắt, lớp đầu hàng. Chỉ có chưa đến 3.000 quân chạy thoát được, hoảng loạn tháo chạy về hướng thành Thiên Trường. Số này sở dĩ chạy thoát được cũng là do Phạm Thế Căng cố ý thả cho đi.

Cũng lúc này, tại một ngôi làng cách thành Thiên Trường không xa, có hai thanh niên đang ngồi uống rượu chuyện trò, cùng thảo luận quốc gia đại sự. Cả hai tư chất văn nhã, thần thái cao quý, rõ ràng xuất thân từ dòng dõi cao quan vọng tộc. Một người đưa mắt dõi nhìn về phía bắc, khẽ thở dài than :

- Giặc Ngô hại nước, biết bao giờ mới có vua hiền, cứu dân trong vòng nước lửa.

Người kia chợt hỏi :

- Nguyễn huynh thấy Phạm tướng quân thế nào ?

Người họ Nguyễn lắc đầu nói :

- Là tướng giỏi, nhưng không biết tâm tính thế nào.

Người kia gật đầu nói :

- Phạm tướng quân là đệ nhất danh tướng của Đại Việt ta, trước có công bình Chiêm, sau giữ yên Nam Trấn. Ngày trước ta còn nghĩ Phạm tướng quân là người trung nghĩa. Trong khi giặc Chiêm hoành hành, triều đình nguy cấp, nhiều đại tướng và tôn thất đã theo hàng giặc Chiêm thì Phạm tướng quân vẫn một lòng chiêu tập dân binh theo triều đình chống giặc. Thế nhưng, khi Quý Ly soán vị, Phạm tướng quân không có ý kiến gì. Khi giặc Ngô sang, Phạm tướng quân cũng không tỏ thái độ. Khi đức Giản Định Đế và Trùng Quang Đế khởi binh, Phạm tướng quân cũng không ủng hộ. Thậm chí khi đức Trùng Quang Đế thất thế, xin với Phạm tướng quân mở cửa ải để lánh về phương nam cũng bị từ chối. Rồi giờ đây Phạm tướng quân lại bộc phát, chỉ trong vài tháng đã bình định được một khu vực còn rộng lớn hơn đức Giản Định Đế lúc trước. Trong tay chỉ có 6 vạn quân mà cả Mộc Thạnh, Trần Trí, Phương Chính đều không phải đối thủ. Xem ra Trương Phụ cũng không khá hơn, nếu không đã xuất binh quyết chiến chứ đâu có giữ thế thủ chờ viện binh như lúc này.

Người họ Nguyễn nói :

- Ta càng lúc càng nhìn không thấu Phạm tướng quân. Nhưng theo như hịch văn, Phạm tướng quân có vua hiền để phò tá. Chẳng phải hịch văn có câu “Vâng Đế quốc Thánh hoàng mật chỉ” đó sao ? Chỉ không biết vị vua hiền đó là người thế nào ?

Người kia hỏi :

- Chúng ta đi gặp Phạm tướng quân chứ ?

Người họ Nguyễn nói :

- Bấy lâu nay chúng ta du lịch khắp nơi, chưa tìm thấy ai xứng đáng là vua hiền cả. Dù sao đây cũng là cơ hội.

Người kia gật đầu nói :

- Cũng phải.

Người họ Nguyễn lại nói :

- Ta xem trận chiến này như là một cơ ngộ đi. Khi nào Phạm tướng quân chiếm được Thiên Trường, chúng ta sẽ đến bái kiến. Dù sao Thiên Trường cũng là đất tổ của nhà huynh. Thiên Trường được giải phóng, cũng là một sự kiện có ý nghĩa trọng đại.

Người kia nhìn ra ngoài trời, nói :

- Gió lên rồi.

Hai người họ đang yên lặng trầm tư, đột nhiên có một người hối hả chạy vào, vừa thở dốc vừa nói :

- Công tử. Công tử. Giặc Ngô nhân đêm tối đến cướp doanh trại quân ta, đại bại. Mấy vạn giặc Ngô chỉ có vài nghìn chạy thoát.

Cả hai giật mình sửng sốt, đồng bật dậy, nói :

- Đi. Chúng ta đi xem thử.

Nói về quân Minh do Phương Chính cầm đầu cuống cuồng tháo chạy. Quân Nam đuổi theo ở xa xa phía sau. Tiếng trống trận thùng thùng, tiếng hò reo vang dậy càng làm cho quân Minh thêm hoảng loạn. Phạm Thế Căng cho quân chậm chậm từ từ đuổi theo đằng sau, cố ý bức quân Minh chạy vào trong thành Thiên Trường.

Phương Chính cùng chúng sĩ tốt chạy đến trước cửa thành, lớn tiếng gọi thủ quân mở cửa :

- Quân đâu. Mau mở cửa.

- Ngươi, ngươi, ngươi nữa. Nhanh lên.

- Quân Nam sắp đuổi theo đến nơi rồi kìa.

- Có mau mở cửa không ? Còn chần chừ, đợi bản tướng quân vào thành rồi sẽ chém đầu các ngươi.

Cửa thành mở ra, quân Minh tranh nhau chạy vào bên trong. Chỗ cổng thành hỗn loạn vô cùng. Binh lính thủ thành liên tục thúc giục bại binh nhanh chóng vào thành, kẻo quân Nam đuổi đến. Mộc Thạnh ở trên thành lâu nhìn thấy cảnh đó, chỉ khẽ lắc đầu thở dài. Không ngờ quân Nam cũng có người giỏi mưu lược. Kế hoạch cướp doanh hoàn hảo như thế mà lại gặp phải cảnh thảm bại thế này, 4 vạn rưỡi đại quân chỉ chạy thoát được có vài nghìn. Thật là trời chẳng phù hộ Thiên triều a. Còn việc quân Nam đuổi tới, Mộc Thạnh cũng không lo lắm, bởi đối phương hãy còn xa, mà số quân Minh ở ngoài thành chỉ còn chưa đến hơn nghìn, chỉ lát nữa thôi là có thể vào hết và cửa thành có thể đóng lại.

Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Nghe tiếng đại pháo nổ vang, quân Minh đều cả kinh thất sắc. Mộc Thạnh cũng giật mình. Hiện tại trong số tất cả quân Minh ở đây chỉ có một nhóm người không giật mình, cũng không kinh hãi. Đó là đám thủ quân đang trấn giữ ở cổng thành và số bại binh còn sót lại ở dưới thành môn. Bọn họ không giật mình kinh hãi, bởi vì đã không còn cơ hội nữa. Đạn pháo bắn ngay vào giữa cổng thành, khiến gần trăm người đang chen chúc ở đó tử thương gần hết.

Tiếp đó, lại có thêm nhiều loạt đạn pháo liên tiếp rải lên tường thành, uy hiếp thủ quân không dám ló đầu lên. Còn ở thành môn, vẫn có từng loạt, từng loạt đạn pháo bắn vào đó, ngăn không cho thủ quân đóng cổng thành lại. Phía quân Nam, Phạm Thế Căng đã cho chuẩn bị trận địa thần công đại pháo từ trước, ngắm vào mục tiêu sẵn sàng, nên khi phát xạ cũng tương đối tinh chuẩn.

Đạn pháo bắn được một lúc thì ngừng lại. Nhưng quân Minh trong thành chẳng thấy nhẹ nhõm chút nào, bởi bọn họ phát hiện quân Nam nhân lúc bọn họ lo ẩn nấp đạn pháo đã xông đến chiếm lĩnh thành môn, và hiện đang tràn vào trong thành. Mộc Thanh thở dài, dẫn tàn quân mở cửa phía bắc rút chạy. Cổng thành đã bị chiếm, quân Nam có đến 6 vạn, trong khi quân Minh kể cả đám bại binh chỉ còn lại chưa đến 8.000, chênh lệch quá lớn, dù quân Minh có sĩ khí ngút trời cũng không thể nào chống cự nổi, đừng nói lúc này vừa mới bại trận, sĩ khí giảm sút nghiêm trọng. Biết sự tình vô vọng, Mộc Thạnh không bao giờ miễn cưỡng làm.

Mộc Thạnh đã bỏ thành rút chạy, Phạm Thế Căng nhanh chóng kiểm soát được Thiên Trường, dời đại bản doanh vào trong thành và tiến hành an dân, đồng thời phân phái các tướng lĩnh dẫn quân đi chiếm lĩnh các nơi khác. Thiên Trường đại bại, quân Minh giờ chỉ còn lại một lực lượng ít ỏi ở Thăng Long. Phạm Thế Căng nhân đó phái Trương Hổ dẫn 1 vạn quân đi chiếm lĩnh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh của quân Minh ở Vân Nam sang; lại phái Cầm Huy dẫn 1 vạn quân đi chiếm lĩnh Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh của quân Minh ở Lưỡng Quảng sang. Đích thân Phạm Thế Căng sẽ dẫn 4 vạn quân còn lại đi đánh Thăng Long. Đồng thời, truyền thư cho Phạm Đống Cao ở Nghệ An mang dân binh ra giúp.

Giữa lúc Phạm Thế Căng đang bận lo chỉnh đốn quân đội, chuẩn bị tiến đánh Thăng Long thì có tùy tướng vào báo :

- Tướng quân. Quân ta bắt được hai người hình tích khả nghi. Bọn họ bảo là từ Thăng Long vào đây bái kiến Tướng quân.

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ giây lát, rồi gật đầu nói :

- Có lẽ là hiền sĩ của Đại Việt ta. Mời bọn họ vào đây.

Lát sau, tùy tướng dẫn hai thanh niên khí chất văn nhã đi vào. Phạm Thế Căng nhìn hai người họ một lượt. Cả hai ước hơn ba mươi tuổi, một có phong thái thư sinh, còn người kia tuy văn nhã, nhưng thần thái nghiêm nghị, có tư chất tướng môn hổ tử. Cả hai hướng vào Phạm Thế Căng thi lễ, nói :

- Trần Văn, Trần Vũ bái kiến Phạm tướng quân.

Phạm Thế Căng khẽ gật đầu nói :

- Hai ngươi chờ một lúc. Bản tướng giải quyết quân vụ xong rồi chúng ta sẽ đàm đạo.

Cả hai người vâng dạ, ngồi vào ghế ở mé dưới. Viên tùy tướng gọi người dâng trà. Phạm Thế Căng lại tiếp tục phê duyệt báo cáo quân tình. Còn hai người mới đến lại chú ý quan sát Phạm Thế Căng. Càng quan sát, cả hai lại càng cảm thấy hồ đồ. Phạm Thế Căng tuy có đại tướng phong phạm, khí thế bất phàm, nhưng không có vẻ gì là trí tướng. Thế mà trận đánh tối quá, chiến sự oanh oanh liệt liệt, quân Nam đại thắng, tiêu diệt gần 4 vạn rưỡi quân Minh, trong khi bản thân thiệt hại chưa đến 1 nghìn, phải nói là chiến quả huy hoàng.

Hai người bọn họ tối qua khi nghe gia nhân báo tin chiến sự, lập tức chạy ngay đến gần chiến trường quan sát tình thế. Thời gian đi lại cũng chỉ mất hơn canh giờ, vậy mà khi cả hai đến nơi thì Phạm Thế Căng đã vào thành rồi. Chiến lực và hiệu suất của quân Thuận Hóa khiến cả hai đối Phạm Thế Căng càng thêm kính ngưỡng. Trước giờ, cả hai chỉ biết Phạm Thế Căng được tôn xưng là Đại Việt đệ nhất danh tướng, còn họ Phạm giỏi thế nào thì chưa nghe ai nói đến, chỉ biết rằng trận chiến nào có Phạm Thế Căng tham gia đều giành thắng lợi, vắng mặt Phạm Thế Căng, đa số thất bại, hoặc chinh chiến vô công. Thậm chí có người còn gọi Phạm Thế Căng là ‘phúc tướng’. Điều này, cả Phạm Thế Căng cũng không ngờ đến.

Chương 53 : ĐỐI THOẠI – CH́N KINH

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 5. Thiên Trường.

Phạm Thế Căng xử lý quân cơ sự vụ xong, quay sang nhìn 2 thanh niên tự xưng là Trần Văn và Trần Vũ kia một lượt, rồi chỉ tủm tỉm cười. Cả hai vội đứng dậy vòng tay nói :

- Tướng quân.

Phạm Thế Căng vẫn không đứng dậy đáp lễ, chỉ khẽ cười nói :

- Hai ngươi bất tất đa lễ, cũng không cần giấu diếm thân phận làm gì.

Cả hai nghe Phạm Thế Căng nói vậy, kinh hãi vô cùng. Một người ấp úng nói :

- Tướng quân biết chúng ta ?

Phạm Thế Căng cười nói :

- Ta với Ứng Long tuy không có nhiều giao tình, nhưng dù sao cũng là đồng liêu. Thần thái của ngươi khá giống Ứng Long, không khó để nhận ra. Ta cũng rất kính nể Băng Hồ Công.

Cả hai nghe nói giật mình, vội nghiêng người thi lễ, nói :

- Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn bái kiến Tướng quân.

Ứng Long là tên thật của Nguyễn Phi Khanh. Phạm Thế Căng có biết Nguyễn Phi Khanh, nên nhận ra thanh niên kia là ái tử của Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi. Trước đây Phạm Thế Căng từng nghe nói Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn kết bạn chu du khắp nơi tìm minh chủ, nên khi nhận ra Nguyễn Trãi thì cũng đoán biết người còn lại hẳn là Trần Nguyên Hãn. Băng Hồ Công là Trần Nguyên Đán, ông nội của Trần Nguyên Hãn, làm quan Tư đồ dưới thời Trần. Nguyễn Trãi là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán nên cùng Trần Nguyên Hãn cũng là thân thích.

Phạm Thế Căng cười nói :

- Bất tất đa lễ. Cứ ngồi đi.

Cả hai vâng dạ, ngồi xuống. Tuy Phạm Thế Căng chỉ ngồi trên soái vị, không hề đứng dậy chào đón, không thể gọi là lễ hiền hạ sĩ, nhưng cả hai người cũng không lộ vẻ bất mãn hay có ý không vui. Sách “Tang thương ngẫu lục” có chép rằng hai người ‘ra mắt’ Lê Lợi đến 2 lần : lần đầu, hai người đến và bỏ về sau khi thấy Lê Lợi xé thịt bằng tay và đưa lên miệng ăn ngay trong ngày giỗ; lần thứ hai, hai người mới ở lại sau khi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư. Điều đó chứng tỏ cả hai đều nghiêm khắc với việc chọn minh chủ để phò tá. Có điều Phạm Thế Căng khác Lê Lợi. Lê Lợi chỉ là thổ hào ở vùng Lam Sơn, trước khi khởi nghĩa thì danh vọng không lớn. Còn Phạm Thế Căng là ‘đệ nhất danh tướng’ của Đại Việt, vị cao quyền trọng. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn lúc này chỉ là những thanh niên có chí lớn, chưa trở thành hiền thần hay danh tướng, thân phận không thể sánh bằng Phạm Thế Căng. Hơn nữa, Phạm Thế Căng cùng với Nguyễn Phi Khanh là đồng liêu, đó cũng là sự thật. Thậm chí, thân phận địa vị của Phạm Thế Căng so với Nguyễn Phi Khanh còn cao hơn, và so với các con của Trần Nguyên Đán cũng cao hơn hẳn. Các con của Trần Nguyên Đán chỉ được làm Tướng quân bình thường; còn Phạm Thế Căng tổng lĩnh Nam Trấn, cai quản 3 phủ Thuận Hóa, Tân Bình và Thăng Hoa, là biên cương trọng thần, được quyền tự chiêu mộ binh mã (các tướng khác tự chiêu mộ binh mã sẽ bị xem như là tạo phản). Do đó Phạm Thế Căng xem bọn Nguyễn Trãi là hậu bối cũng không có gì là không phải, nhất là lúc này, sau khi chiếm được Thiên Trường, thanh thế và danh vọng đều tăng cao.

Bọn Nguyễn Trãi ngồi xuống rồi, Nguyễn Trãi mới hỏi :

- Tướng quân nay đã chiếm được Thiên Trường rồi, không biết khi nào ra lấy lại Đông Quan ?

Phạm Thế Căng nói :

- Đông Quan ? Ý ngươi muốn nói Thăng Long. Đông Quan là tên của họ Hồ gọi, bản triều vẫn gọi nó là Thăng Long. Triều đình đã ban chỉ, lấy đất từ Trường Yên đến Lạng Giang thành lập tỉnh Thăng Long, lấy Thăng Long Thành làm trị sở. Bản tướng đương nhiên phải lấy lại Thăng Long. Bọn Trương Phụ hiện chỉ còn lại một ít quân đội, không phải lo.

Nghe Phạm Thế Căng nhắc đến điều mà bọn họ vẫn thắc mắc bấy lâu, Nguyễn Trãi vội hỏi :

- Xin hỏi Tướng quân, triều đình ở đâu ạ ? Triều đình đã lập, sao không chiếu cáo thiên hạ ?

Phạm Thế Căng khẽ cười, nói :

- Triều đình không phải mới lập. Chúng ta phò tá Thánh hoàng, thành lập đạo quân đầu tiên vào năm Mậu Dần ở Kiềm Châu, hành doanh đặt ở Thánh Sơn. Đến năm Canh Thìn, cũng là năm Quý Ly xưng đế, Thánh hoàng đã dời hành doanh đến Hóa Châu, đồng thời thành lập Hải quân. Đến năm Quý Mùi, bản triều xây dựng An Phú Thành, Thánh hoàng lại dời hành doanh đến đó. Sang năm sau, Thánh hoàng chính thức chọn Gia Định Thành làm kinh đô, dời triều đình đến Gia Định. Bản triều đã chuẩn bị bắc phạt từ khi còn ở Kiềm Châu, đương nhiên không thể phô trương để cho giặc Ngô biết mà đề phòng. Đâu có như bọn Giản Định, Trùng Quang, chỉ có một ít binh mã mà đã huênh hoang tự xem mình là Thiên tử, rồi lại còn sợ thiên hạ không ai biết.

Bọn Nguyễn Trãi nghe Phạm Thế Căng nói thế, càng thêm ngơ ngác. Nguyễn Trãi từng đọc rất nhiều sách, có thể nói là tinh thông ‘thiên văn địa lý’ (Nguyễn Trãi từng viết quyển ‘Dư Địa Chí’, đương nhiên là khái niệm ‘thiên văn địa lý’ của nhà nho thời bấy giờ), nhưng chưa từng nghe đến An Phú, Gia Định. Do vậy liền hỏi :

- Tướng quân. An Phú ở đâu ạ ?

Phạm Thế Căng nói :

- Hiện chúng ta đang ở tỉnh Thăng Long. Phía nam, từ Thanh Hóa đến Hóa Châu là tỉnh Thuận Hóa. Phía nam Thuận Hóa, phần lãnh thổ của Chiêm Thành trước đây kể luôn đất Thăng Hoa gọi là tỉnh Phú Yên. Phía nam tỉnh Phú Yên chính là tỉnh Gia Định. Gia Định Thành là trị sở của tỉnh Gia Định, và cũng là kinh đô của bản triều.

Nguyễn Trãi ngạc nhiên hỏi :

- Vậy ra triều đình đã diệt Chiêm Thành ?

Phạm Thế Căng gật đầu nói :

- Chiêm Thành nhiều lần quấy nhiễu Thuận Hóa, nên bản triều đã diệt hẳn Chiêm Thành để tuyệt hậu hoạn. Đương nhiên giờ đây dân Chiêm đều đã trở thành thần dân của Đế quốc.

Nguyễn Trãi lại hỏi :

- Tướng quân. Triều đình đóng đô thiên nam, không phải khó trị nước lắm sao ? Triều đình có định sau này sẽ thiên đô về Thăng Long ?

Phạm Thế Căng bật cười nói :

- Cái gì mà thiên nam. Các ngươi vẫn không bỏ được tư tưởng thổ hào rồi, chỉ biết được mấy tấc đất quanh nhà mình mà thôi. Cương thổ Đế quốc rộng mênh mông. Trong cương thổ Đế quốc, kinh đô của bản triều thiên bắc và thiên đông đấy. Ở phương nam, chỉ riêng đất Minh Châu cũng lớn gấp đôi cương thổ của Minh triều. Từ Gia Định đi đến vùng cực nam của Đế quốc còn xa hơn từ Gia Định đi đến vùng cực bắc của thảo nguyên Mông Cổ nữa đấy. Như thế mà gọi là thiên nam sao ?

Bọn Nguyễn Trãi chấn kinh không sao kể siết. Khái niệm thiên hạ của bọn họ chủ yếu chỉ là đất Trung Hoa và Đại Việt, miễn cưỡng kể thêm Chân Lạp, Chiêm Thành, Ai Lao, Mông Cổ, Triều Tiên. Còn theo như lời Phạm Thế Căng, cương thổ của Đế quốc chẳng phải rất lớn, lớn hơn cả Minh triều, là một siêu cấp Đế quốc. Nguyễn Trãi cảm thấy đầu óc loạn cả lên, những tri thức đã học trước đây xem như vô dụng cả. Trần Nguyên Hãn thì đỡ hơn, bởi chẳng nghiên cứu sâu về ‘thiên văn địa lý’, nên trấn tĩnh hỏi :

- Xin hỏi Tướng quân. Cương thổ Đế quốc rộng đến mức nào ạ ?

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ giây lát, đoạn hỏi :

- Các ngươi biết các xứ Thiên Trúc, Ba Tư chứ ?

Trần Nguyên Hãn cau mày, Nguyễn Trãi đã định thần lại, gật đầu nói :

- Biết ạ. Phía tây Trung Hoa là đất Tây Vực, phía tây của Tây Vực là Thiên Trúc, lại đi về phía tây nữa là đến đất Ba Tư.

Phạm Thế Căng cười hỏi :

- Nếu đi về phía tây nữa thì sao ?

Nguyễn Trãi cố ngẫm nghĩ, cố nhớ lại kinh sách, hồi lâu mới nói :

- Theo cổ thư ghi lại thì phía tây Ba Tư là Đại Tần, đó là một nước rất lớn. Thời Hán từng sai Trương Khiên đi sứ sang các nước phía tây, nhưng cũng chỉ đi được đến các nước ở Tây Vực. Đến thời Đường, mới có Tam Tạng Thiền sư đi được sang đến Thiên Trúc. Chuyện về các xứ Ba Tư, Đại Tần chỉ do các thương nhân Tây Vực kể lại.

Phạm Thế Căng gật đầu :

- Đại Tần chính là u châu, ngày trước gọi là La Mã, ở về phía tây xứ Ba Tư. Cương thổ Đế quốc theo hướng bắc - nam, khi nãy bản tướng đã nói qua rồi. Còn theo hướng đông – tây, nếu lấy Gia Định Thành làm chuẩn, xem khoảng cách từ Gia Định Thành đến nam Thiên Trúc là 1 đoạn, thì từ nam Thiên Trúc đi sang phía tây một đoạn tương đương nữa là đến xứ Somali, rồi lại đi tiếp về phía tây bắc một đoạn tương đương nữa là đến A Lạp Bá, nơi đó cũng vẫn là cương thổ của Đế quốc. A Lạp Bá nằm về phía tây nam xứ Ba Tư, phía nam u châu. Còn về phía đông thì bản tướng cũng không rõ hiện đã mở mang đến đâu rồi, nhưng có lẽ ngắn hơn một chút.

Càng nghe nói ý nghĩ của bọn Nguyễn Trãi càng hỗn loạn, không thể tưởng tượng ra cương thổ Đế quốc rộng đến mức nào. Bọn họ chỉ có khái niệm Thiên Trúc rất xa, còn Ba Tư thì rất rất xa, nhưng xa như thế nào thì vẫn không có khái niệm rõ ràng. Tuy vậy, bọn họ đều không phải người thường, nhanh chóng bỏ qua chuyện đó, chỉ cần biết được Đế quốc rất rộng lớn, rất hùng mạnh là được rồi.

Chương 54 : HỊCH VĂN

Lại nói, Phạm Thế Căng giảng giải về cương thổ và thế lực của Đế quốc, khiến cả Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều chấn kinh không sao kể siết. Nhưng cả hai đều không phải người thường, nhanh chóng bỏ qua chuyện đó, không nghĩ đến nữa. Nguyễn Trãi lại hỏi về chuyện quan trọng trước mắt :

- Tướng quân. Sau khi đã lấy lại được Thăng Long thì sẽ làm gì nữa ạ ?

Theo ý Nguyễn Trãi là muốn hỏi về việc khôi phục đất nước, bởi sau khi đánh đuổi được quân Minh thì việc quan trọng cần làm là an dân, khôi phục đất nước. Nhưng Nguyễn Trãi lại quên rằng mình lại dùng đến tầm nhìn mà Phạm Thế Căng bảo là ‘thổ hào’, trong tầm nhìn hạn hẹp chỉ biết có Đại Việt, mà quên rằng Đế quốc rất hùng mạnh, sử dụng nhân tài vật lực của hơn 60 tỉnh để khôi phục Đại Việt, không thành vấn đề. Hiện tại, Đế quốc trừ Thăng Long và Thuận Hóa ra còn có 63 tỉnh khác, trong đó đất Minh Châu (Úc châu) rộng lớn chỉ được lập 1 tỉnh (vì ít dân).

Phạm Thế Căng nói :

- Còn làm gì nữa chứ ! Đương nhiên tiếp tục bắc phạt. Nhiệm vụ của bản tướng là tiến chiếm Quảng Tây.

Tiến chiếm Quảng Tây ? Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều giật mình, nhưng rồi nghĩ lại, theo lời Phạm Thế Căng thì Đế quốc đã hùng mạnh như thế, có lẽ chẳng có gì phải sợ Minh triều. Và giờ đây bọn họ mới hiểu ý nghĩa của từ ‘bắc phạt’ mà Phạm Thế Căng nói nãy giờ. Lúc trước cả hai chỉ nghĩ ‘bắc phạt’ là từ Thuận Hóa đánh ra Thăng Long, nhưng đến lúc này cả hai mới hiểu ý nghĩa thực sự của nó. ‘Bắc phạt’ là chinh phạt Bắc triều, không phải chỉ đơn giản là khôi phục Đại Việt, vì vậy mới mất đến 16 năm chuẩn bị.

Phạm Thế Căng lại nói :

- Lý Ngân đã tiến quân vào Vân Nam. Triệu Phong đã tiến đánh Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, hiện đang tấn công Kim Lăng, kinh đô của Minh triều. Chỉ có bản tướng là hơi chậm, cần phải khẩn trương hơn nữa. Bản tướng cần chiếm lĩnh Quảng Tây, sau đó phối hợp với Lý Ngân tiến quân vào Hồ Quảng.

Thấy cũng đã đủ đả kích tinh thần hai người bọn họ rồi, Phạm Thế Căng cười a a nói :

- Đây là hịch văn do Tử Tấn soạn. Các ngươi xem qua đi. À. Tử Tấn với Nguyễn Trãi thi đỗ đồng khoa thì phải ?

Nguyễn Trãi giật mình hỏi :

- Phải chăng Tướng quân nói đến Chuyết Am Lý Tử Tấn.

Phạm Thế Căng gật đầu :

- Phải đó. Y văn hay chữ tốt, được Thánh hoàng tin dùng, cho giữ chức Trưởng sử, phụ trách thảo chiếu chỉ, công văn.

Nguyễn Trãi nói :

- Vãn sinh với Chuyết Am huynh đỗ cùng khoa năm Canh Thìn.

Phạm Thế Căng đưa cho bọn họ xem tờ hịch văn do Lý Tử Tấn soạn. Hịch văn này để truyền sang đất Bắc, nên viết bằng chữ Hán, tạm dịch như sau :

“Thường nghe rằng :

Bậc minh chủ gặp nguy vong mà biến thế,

Đấng trung thần lo nạn nước mà tùng quyền.

Vậy nên :

Có người phi thường rồi mới có việc phi thường. Có việc phi thường rồi mới có công lao phi thường. Người phi thường ấy, không phải ai cũng có thể bắt chước được.

Xưa kia, Đại Tống gặp lúc vua hèn, Tần Cối dối vua hại người trung nghĩa, tác oai tác phúc. Thiên hạ lắm người oán hận nhưng không ai dám nói gì. Thế rồi hắn cũng phải chết, mang tiếng ô nhục, lưu tiếng xấu muôn đời.

Cho đến cuối thời Nam Tống, Sử Di Viễn chuyên chính, bên trong giữ quyền tể tướng, bên ngoài thống chế tam quân, lạm quyền quốc sự, quyết việc nơi Cung cấm, dưới lăng loàn, trên suy yếu, bách tính ai cũng đau lòng.

Ngày nay có gã Yên vương Chu Lệ làm càn. Cha gã là Nguyên Chương, vốn là ăn mày được Quách Tử Hưng thu nhận, nhờ tài nịnh hót mà được thừa kế chức vị, nắm quyền quân sự, làm điều yêu nghiệt, tham tàn càn rỡ, tổn thương phong hóa, tàn ngược nhân dân, bị đuổi đánh, phải chạy sang đầu phục Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi, quan bái Quốc công, vậy mà không biết đền ơn, nhờ có của tiền mua lấy chức vị, mang vàng ngọc đút lót chỗ quyền môn, trộm cắp đỉnh tư, làm nghiêng đổ cơ đồ Tống thất.

Đến gã tên Lệ, con thằng ăn mày, cháu tên tá điền, nên chẳng có nết na gì, tai quái luông tuồng, ham loạn lạc, vui trong tai vạ của bách tính.

Bản triều đây, thống lĩnh tứ hải, tảo trừ lũ hung nghịch. Gặp hồi Huệ đế yếu hèn, tên Lệ mượn cớ ‘tịnh nạn’, xin với bản triều giúp đỡ thanh quân trắc, diệt gian thần. Bản triều tưởng gã có lòng trung nghĩa, nên đã cho giữ một cánh quân, tặng lương tặng của, tưởng rằng chim ưng, chó săn cũng có chút tài khả dụng.

Nào ngờ tên Lệ là đứa ngu si dốt nát, tiến liều lùi bậy, liên miên bại trận, làm tổn quân mã, mất cả nhuệ khí tam quân. Bản triều lại phải rèn luyện quân ngũ, chinh tập lương thảo, rồi cho gã tiếp tục cử sự. Thân dê đội lốt hổ, nắm được quyền hành, những tưởng rồi gã sẽ đem thân khuyển mã để báo được những trận thua trước, cứu nạn cho bách tính Trung Nguyên.

Thế mà gã nhân được thể, dám làm trò chó vượt qua rào, hung hăng tàn bạo, chinh chiến liên miên, hại người hiền, giết người ngay. Quan cố Học sĩ Phương Hiếu Nhụ là bậc anh tài tuấn vĩ, thiên hạ đều biết tiếng, nhìn ngay nói thẳng, không lời dua nịnh, mà cũng bị gã giết hại, phanh thây giữa chợ, đầu bêu ngọn giáo, vợ con đều bị hại. Từ đó kẻ sĩ khắp nơi ai ai cũng đều tức giận, nhân dân chốn chốn càng xót xa căm hờn.

Về sau, bản triều có việc ở phương tây, nên có sai quan trưởng sử đến truyền cho gã phải an phủ dân thảo nguyên phương bắc. Thế mà gã dám ngông nghênh làm càn, đem quân cướp bóc các bộ lạc thảo nguyên, để đến nỗi dân phương bắc tụ tập báo thù, làm hại đến bách tính Trung Nguyên. Như thế tội lỗi của gã thật lớn lắm vậy.

Gã khinh thường thiên oai, bại hoại pháp chế, rối loạn kỷ cương, khuynh loát cả cõi Trung Nguyên, chuyên chế hết cả triều chính, muốn thưởng ai mặc lòng, muốn giết ai tùy ý. Yêu ai thì làm rạng đến ba đời, ghét ai thì giết cả ba họ. Ai tụ tập luận bàn thì bị chém công khai, ai bí mật dị nghị thì bị giết lén lút. Bách quan phải ngậm miệng, người đi đường chỉ đưa mắt cho nhau, không ai dám nói tiếng nào. Chức thượng thư chỉ còn biết ghi chép buổi triều hội, công khanh ngồi đứng cho có vị. Ôi thương thay ! Giận thay !

Thân ở ngôi vương mà gã quen thói trộm cướp, làm nhơ cả nước, làm nhục muôn dân, gây vạ độc địa cho cả vong hồn người chết. Chính sự thì gã tinh ranh khắc nghiệt, luật lệ đặt ra trói buộc khắp mặt, cạm bẫy chăng ra đầy đường khắp lối, khiến ai nấy giơ tay đụng phải lưới, bước chân vướng phải tròng. Cho nên dân vô tội các xứ Miêu, Việt đau khổ lầm than, tiếng rên la khắp chốn rất là ai oán. Trải xem sử sách cổ kim, những kẻ làm vua mà tham tàn khốc liệt cũng nhiều, nhưng không kẻ nào tai hại bằng tên Lệ ngày nay nữa.

Bản triều còn bận nhiều việc, chưa kịp răn trách gã, tức là còn nấn ná rộng dung, tưởng gã sẽ sửa lầm cải lỗi đi chăng ? Thế mà gã vẫn lòng lang dạ sói, manh tâm gây vạ, muốn đạp đổ pháp tắc, tàn ngược thiên hạ. Gã hãm hại người trung nghĩa, chính là gã muốn củng cố địa vị độc tài để được tự làm ác như con cú độc vậy.

Bản triều phụng oai linh Thiên đế an phủ tứ hải. Hiện nay đất Trung Nguyên lầm than, dân Trung Nguyên khốn khổ, tuy có kẻ sĩ trung nghĩa, nhưng bị bạo quân tàn ngược hiếp chế, thì còn phát triển khí tiết của mình làm sao được ? Hơn nữa, tên Lệ còn sai mấy vạn Cẩm y vệ, lùng sục khắp cõi, ngoài mặt giả thăm dò dân tình, thực chất là tàn hại bách tính. Bản triều sợ rằng sự tàn ngược đó mỗi lúc một nảy nở thêm, nên ban chiếu răn trách gã. Thế mà gã không những nhắm mắt bịt tai, lại còn dối lừa thiên sứ. Thánh hoàng nổi giận, truyền chỉ thảo phạt. Nay mai quân thiên triều bốn đường cùng tiến, thị vũ dương uy, cùng khôi phục an lạc cho cõi Trung Nguyên, cứu bách tính giữa vòng tai vạ.

Ai lấy được thủ cấp của tên Lệ, sẽ được phong vương, trấn thủ cõi Trung Nguyên. Tướng sĩ quan lại những ai đến hàng, đều miễn trừ tội cũ. Bản triều sẵn sàng mở rộng đường ân đức, ban thưởng tuyên dương cho ngay.

Nay hịch truyền ra, bố cáo thiên hạ, để tứ phương thần dân biết rằng kẻ nghịch tất bị nghiêm trừng, kẻ ác tất bị chỉnh trị. Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng khó lọt.”

Đọc xong hịch văn, cả Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đều trợn tròn mắt, không ngờ hịch văn còn có thể viết như vậy. Nói như thế, tội lỗi của Minh đế ‘cao như núi, sâu như biển’ a. Phạm Thế Căng khẽ cười. Khi mới đọc hịch văn lần đầu, y cũng vậy thôi. Sau một lúc, y mới bảo :

- Được rồi. Hai ngươi đến đây làm gì ta đã biết rồi. Nếu hai ngươi có ý phụng sự triều đình, ta sẽ tiến cử hai ngươi với Thánh hoàng. Tử Tấn vẫn khen Nguyễn Trãi ngươi văn hay chữ tốt. Ngươi với Tử Tấn cùng thi đỗ đồng khoa, làm quan đồng triều là hợp quá rồi còn gì. Còn Nguyên Hãn, nghe nói ngươi không chỉ giỏi võ mà còn có mưu lược, xem ra có thể trở thành đại tướng.

Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều cúi đầu suy nghĩ. Phạm Thế Căng cũng không giục, để yên cho cả hai suy tính.

(chú : Hàn Lâm Nhi tự xưng là Tiểu Minh Vương của nước Tống, khi Chu Nguyên Chương về đầu, được phong là Ngô quốc công).

Chương 55 : TY CHINH HOÀN THÀNH

Lại nói, khi nghe Phạm Thế Căng chiêu dụ, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn cùng trầm ngâm suy nghĩ. Phạm Thế Căng cũng không hối thúc, cứ để yên cho cả hai suy tính. Hồi lâu sau, Nguyễn Trãi đứng dậy vòng tay nói :

- Đa tạ Tướng quân có lòng cất nhắc. Bọn vãn sinh tài sơ học thiển, chưa dám nhập triều vi quan. Nhưng nếu có thể, mong rằng Tướng quân có thể thu xếp cho bọn vãn sinh đến Gia Định thăm viếng Chuyết Am huynh.

Phạm Thế Căng là người thế nào, đương nhiên biết thừa bọn Nguyễn Trãi muốn gì, nhưng y chỉ cười cười nói :

- Được thôi. Ta sẽ thu xếp để các ngươi có thể theo thương thuyền vào Gia Định.

Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đồng cung thân nói :

- Đa tạ Tướng quân.

Phạm Thế Căng lại nói :

- Chỉ có điều, khi đã đặt chân lên cương thổ bản triều, các ngươi nếu như không muốn bị thiệt thòi, tốt nhất là nên bỏ hẳn các thói quen của nho gia. Bản triều khinh nho, nho gia tối tiện.

Nguyễn Trãi nghe nói kinh hãi thất sắc, hỏi :

- Nho gia là gốc của triều đình, tại sao triều đình lại khinh nho ạ ? Không có nho gia làm sao trị nước ? Như thế chẳng phải nguy lắm hay sao ?

Phạm Thế Căng khẽ cười nhạt, nói :

- Bản triều khinh nho, mà vẫn dân phú quốc cường đó thôi. Đại Việt trọng nho, thì vẫn bé tẻo teo, ngay cả Ai Lao, Chiêm Thành cũng dám hiếp đáp. Ở bản triều, trừ nho gia ra, chúng dân đều bình đẳng, sĩ nông công thương đều như nhau. Tứ đại bộ môn của bản triều là Thương, Chính, Giáo, Quân. Sở dĩ ở bản triều nho gia tối tiện là vì Thánh hoàng bảo rằng nho gia là phản đồ của Khổng môn, xuyên tạc hoặc bóp méo các tư tưởng cao đẹp của Khổng phu tử. Khổng phu tử bảo rằng ‘hữu giáo vô loại’, việc giáo hóa không được phân biệt đối đãi; Thánh hoàng muốn giáo hóa toàn dân, mọi thần dân của bản triều đều phải biết chữ; trong khi đó nho gia lại chủ trương thực hiện chính sách ngu dân, đương nhiên tối tiện.

Nguyễn Trãi kinh hãi không sao kể siết, bởi Nguyễn Trãi thực chất là một nhà nho, mà theo như lời của Phạm Thế Căng, nho gia là phản đồ của Khổng môn, là tối tiện. Trong khi đó, Trần Nguyên Hãn lại chú ý vấn đề khác, nên hỏi :

- Tướng quân. Triều đình giáo hóa toàn dân được sao ạ ? Chẳng lẽ ở Đế quốc tất cả thần dân đều biết chữ ?

Phạm Thế Căng lắc đầu nói :

- Không. Muốn toàn dân đều biết chữ, có lẽ phải mất 10 năm nữa. Hiện tại tỷ lệ biết chữ mới đạt 7 phần, vẫn còn 3 phần đang tiếp tục theo học. Đương nhiên biết chữ ở đây chỉ tính là biết đọc, biết viết, không cần phải biết làm thơ, làm phú. Bản triều thực hiện nhiều chính sách khuyến học, chẳng hạn như mở trường học ở mỗi huyện, các thôn làng có cả lớp học, dạy học hoàn toàn miễn phí; hoặc như ai biết chữ đóng thuế nhẹ hơn người không biết chữ. Do đó mọi người đều tích cực học chữ.

Trần Nguyên Hãn chép miệng nói :

- Mở trường đến tận thôn làng, lại dạy học hoàn toàn miễn phí, như thế tốn kém biết bao nhiêu mà nói, nhất là một đại quốc với cương thổ rộng lớn như Đế quốc.

Phạm Thế Căng mỉm cười bảo :

- Bản triều tiền lương sung túc, chẳng vấn đề gì. Năm kia, Nam Thiên Trúc hiến 10 vạn cân vàng, Thánh hoàng đã dụng một phần cho việc giáo hóa, thành ra không sợ thiếu tiền.

Nói đoạn, Phạm Thế Căng lấy ra một túi gấm nhỏ nhưng trông cũng khá nặng, trao cho Trần Nguyên Hãn, cười nói :

- Đây là chút ít ta cho các ngươi làm lộ phí. Mấy đồng xu của Đại Việt hay Đại Minh, ở bản triều không sử dụng được đâu. Bản triều cũng không sử dụng vàng thoi bạc nén.

Trần Nguyên Hãn ngần ngừ giây lát, rồi tạ ơn nhận lấy. Phạm Thế Căng lại nói :

- Trong đó có 100 kim tệ, 100 ngân tệ, 100 đồng tệ, chắc cũng đủ cho các ngươi sử dụng một thời gian. 100 đồng tệ bằng 1 ngân tệ, 100 ngân tệ bằng 1 kim tệ, 100 kim tệ bằng 10 lượng hoàng kim.

Sau đó Phạm Thế Căng gọi người đưa cả hai đi nghỉ ngơi, sáng mai sẽ theo vận thuyền đi ra chỗ Hạm đội, rời từ đó phía Hải quân sẽ thu xếp cho bọn họ.

Gia Định Thành. Trường Thanh Cung. Tử Tiêu Điện.

Giang Phong lại ngự trong điện nghe Quảng Tế Pháp sư báo cáo nội tình ngoại vụ của Đế quốc. Quảng Tế Pháp sư ngoài chức danh chính thức là Chính vụ bộ bộ trưởng, còn kiêm nhiệm quản lý bộ phận giám sát, tình báo, làm tai mắt cho Giang Phong. Tuy lão kiêm nhiệm nhiều việc, nhưng các công việc cũng không mất công mất sức gì nhiều, vì lão chỉ phụ trách quản lý, còn việc thực hiện đã có quan lại cấp thấp hơn phụ trách. Thực tế lão chỉ lo việc chuyển những ý đồ của Giang Phong thành mệnh lệnh, rồi phân phó chúng thuộc quan thực hiện. Trong số các văn võ triều thần, chỉ có lão là người hiểu ý Giang Phong nhất.

Ngự trên ngai, Giang Phong vẫn mặc bộ bạch y như thường lệ. Quảng Tế Pháp sư là nhất đẳng trọng thần, vận y phục màu đen, tay áo rộng, thắt đai vàng, đội mão triều thiên. Y phục của Đế quốc lấy màu trắng là tôn quý nhất, kế đó là màu đen, tím, lục. Còn các màu khác thì như nhau. Từ y phục của Giang Phong được chế theo kiểu các phim cổ trang kiếm hiệp Hồng Kông thời hiện đại, đã trở thành kiểu y phục phổ biến nhất trong Đế quốc. Kiểu y phục này khác hoàn toàn hán phục mà Minh triều bên Tàu hay các vua quan nhà Trần, nhà Hồ ở Đại Việt vẫn dùng, đã trở thành nét đặc sắc riêng của Đế quốc. Y phục trên phim ảnh được thiết kế để có thể thu hút người xem, nên đương nhiên là phải đẹp rồi (xấu ai mà xem). Giang Phong thích y phục đẹp, nên đã chọn kiểu đó.

Gần đây có hai việc Giang Phong đặc biệt chú ý : Bắc phạt và Tây chinh. Bắc phạt là việc bọn Phạm Thế Căng đang thực hiện. Còn Tây chinh là nhiệm vụ của Hồng Long phân hạm đội ở các xứ A Lạp Bá. Việc Tây chinh rất thuận lợi. Hồng Long phân hạm đội có 1 vạn thủy quân, 2 vạn lục quân, và được sự phối hợp của các tiểu quốc chư hầu trong vùng, đã kiểm soát hoàn toàn bán đảo Sinai, khu vực lân cận các hồ Đắng, Timsah, Ballah và Wadi Turnilat; các cửa biển của các nhánh sông Nile ở phía tây, đặc biệt là vùng vịnh Buhayrat Al Manzilah; khu vực nằm giữa sông Jordan, Tử Hải và Địa Trung Hải, kéo dài cho đến gần Tripoli. Liên quân cũng đã từng bao vây Cairo, buộc vương triều Mamluk ở đó phải cầu hòa.

Hiện tại vùng đất của vương triều Mamluk thực tế chia thành 3 phần. Phần Cairo và Thượng Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Muayyad Sayf Ad Din Tatar, quốc vương hiện tại của vương triều Mamluk. Khu vực Alexandria và vùng tây bắc Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Adil Al Musta' in Billah, quốc vương bị lật đổ năm Nhâm Thìn (1412), chạy thoát đến Alexandria. Phần bắc Sinai gồm cả đất Syria do các tướng lĩnh Mamluk tự cai quản, đang có khuynh hướng chuyển đổi thành các tiểu quốc Hồi giáo.

Khu vực kiểm soát của Đế quốc ở đấy được chia thành 4 tỉnh. Hai tỉnh vùng tây bắc là Sinai và Jerusalem. Hai tỉnh vùng đông nam là Yemen và Somali (triều đình chỉ trực tiếp quản lý hai khu vực quanh pháo đài trấn giữ hai mũi đất ở eo biển dẫn vào Hồng Hải, lấy đó làm trị sở của tỉnh, còn lại đều là các lãnh địa chư hầu, không lập quận huyện). Jerusalem là một vùng đất của chiến tranh, nếu do các vương triều Hồi giáo kiểm soát thì trở thành lý do kêu gọi Thập tự chinh, còn nếu do các thế lực thuộc Cơ Đốc giáo kiểm soát thì lại là nguyên nhân của Thánh chiến. Trong suốt chiều dài lịch sử của thành Jerusalem, có đến 25 thế lực thay nhau kiểm soát, trong đó có cả La Mã (Roma), Ba Tư (Persia), Babylon, Byzantine, Macedonia, các hiệp sĩ thập tự chinh (Crusaders), … Thành Jerusalem nằm ngay phía bắc bán đảo Sinai, vốn do vương triều Mamluk ở Cairo kiểm soát, sau khi đánh bại Vương quốc Jerusalem của Các hiệp sĩ thập tự chinh. Khi quân đội Đế quốc bao vây Cairo, đã nhân tiện phái một đạo quân đến chiếm lấy, rồi tuyên bố biến Jerusalem thành tự do thành thị, cho phép tín đồ của mọi tôn giáo đến hành hương, thăm viếng, định cư. Giang Phong còn thiết lập một quy chế đặc biệt cho thành Jerusalem : một ‘hội đồng quản hạt’ gồm đại diện của 4 thế lực lớn trong thành cổ (là Armenia, Do Thái, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo), sẽ thay mặt Đế quốc quản lý chính sự của thành thị, chịu trách nhiệm trực tiếp với Chính vụ ty của tỉnh. Một ngôi đền quy mô cực lớn cũng được xây dựng tại khu vực di tích ngôi đền thiêng liêng cổ xưa, sẽ là nơi thờ tự chung của các tôn giáo.

Tóm lại, công cuộc Tây chinh tiến triển rất thuận lợi, Hồng Long phân hạm đội chỉ còn lo ổn định tình hình trong 4 tỉnh mới thành lập, đưa thêm dân đến lập nên các khu định cư, và xây dựng thành Suez trở thành một trung tâm thương mại của khu vực.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 56 : Tây tuyến và Bắc tuyến

Báo cáo xong tình hình các xứ A Lạp Bá, Quảng Tế Pháp sư lại thở dài nói :

- Thánh hoàng. Tuy rằng tình hình nhìn chung rất thuận lợi, nhưng tình hình u Châu bất ổn cũng khiến bản triều gặp phải không ít khó khăn.

Giang Phong cau mày hỏi :

- Bản triều chỉ mới tiến quân đến các xứ A Lạp Bá, quan hệ gì đến u Châu ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bản triều đang gặp phải vấn đề người Do Thái di cư. Từ khi hội đồng quản hạt của Thành Jerusalem được thành lập, có sự tham gia của đại diện người Do Thái, vô số người Do Thái trên khắp u Châu đang đổ về Jerusalem. Hiện tại đã có gần 10 vạn người Do Thái đến xin định cư ở Jerusalem, và còn có gấp mấy lần số đó đang tiếp tục đổ về. Tuy rằng người Do Thái có thể tự hỗ trợ lẫn nhau, không đến nỗi tạo thành gánh nặng cho bản triều, nhưng có quá nhiều người di cư đến như thế cũng gây ra ít nhiều bất ổn.

Giang Phong hỏi :

- Vì nguyên nhân gì mà bọn họ bỏ nơi sinh sống kéo nhau di cư đến Jerusalem. Di cư qua mấy nghìn dặm không phải là việc dễ dàng.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Người Do Thái buộc phải di cư vì sự bài xích và tàn hại của các vương quốc và lãnh địa ở u Châu. Những năm gần đây, rất nhiều người Do Thái bị tàn sát và trục xuất, những người còn sống sót phải lang thang khắp nơi. Năm Tân Mùi (1391), vương quốc Tây Ban Nha tàn sát hơn 4.000 người Do Thái ở Seville, tiếp đó là hàng nghìn người bị Tòa án dị giáo bắt giam, tra tấn và thiêu sống, người Do Thái đã phải bỏ trốn khỏi Tây Ban Nha. Năm Giáp Tuất (1394), vương quốc Pháp Lan Tây tịch thu tài sản và trục xuất hơn 10 vạn người Do Thái ra khỏi lãnh thổ. Ở Đức Ý Chí, người Do Thái bị xem là vật hiến tế trong các buổi tế thần. Ở khắp các vương quốc và lãnh địa ở u Châu đều có những sự việc tương tự. Theo tin tức thu được, ở u Châu cứ vài chục năm là những việc như thế lại xuất hiện một lần. Người Do Thái giỏi kinh doanh, đa phần giàu có. Các quốc vương và lãnh chủ ở u Châu cứ chờ người Do Thái tích tụ được một số tài sản lớn là lại trục xuất và tịch thu tài sản của họ. Quá trình cứ thế lập đi lập lại.

Giang Phong hỏi :

- Bọn họ sử dụng lý do gì để bức hại người Do Thái ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đa phần buộc tội tổ tiên người Do Thái đã sát hại Thần của Cơ Đốc giáo. Ngoài ra còn có những buộc tội người Do Thái thực hiện những nghi lễ tế ma quỷ, dùng máu trẻ em để hiến tế; bỏ độc vào giếng nước hại người Cơ Đốc giáo; xúc phạm Thần của Cơ Đốc giáo bằng các nghi thức ma quỷ, …

Giang Phong khẽ thở dài, nói :

- Xem ra ở u Châu, người Do Thái bị xem là ma quỷ, là xấu xa tàn ác.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đúng thế đấy ạ ! Người u Châu mỗi khi gặp phải tai họa gì hầu như đều cho rằng có nguyên nhân từ người Do Thái, rồi sát hại người Do Thái để hiến tế hoặc trả thù.

Giang Phong trầm ngâm giây lát, rồi phán :

- Cố hỗ trợ họ. Nhưng để tất cả tập trung ở Jerusalem cũng không ổn. Tìm cách phân tán một phần về các tỉnh khác. Người Do Thái giỏi kinh doanh buôn bán, phân tán đi các tỉnh có lợi cho phát triển thương mại.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ, đoạn nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Hiện tại u Châu đang rất rối ren. Hầu như dân các xứ u Châu đều theo Cơ Đốc giáo, nhưng hơn chục năm nay, Cơ Đốc giáo lại đồng thời có đến 3 vị giáo chủ : Gregorius XII ở Roma, Benedictus XIII ở Avignon và Alexander V ở Bolonia; khi Alexander V qua đời thì Gioan XXIII lên thay. Cả 3 vị này đều tự xưng mình là đại diện của giáo hội. Các quốc vương và lãnh chủ chia bè kết phái tấn công lẫn nhau. Mấy năm trước, Gregorius XII buộc phải rời giáo đô Roma vì chiến tranh. Roma thuộc về Gioan XXIII, thì đến năm ngoái Gioan XXIII cũng phải chạy khỏi Roma. Ở u Châu hiện nay rất loạn, vô cùng loạn.

Giang Phong nói :

- Hiện tại bản triều chưa thể can thiệp vào đó. Truyền quốc thư yêu cầu bảo hộ các quyền lợi của bản triều không bị xâm phạm. Mục tiêu ưu tiên của bản triều hiện tại là Minh triều.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ. Giang Phong lại hỏi :

- Việc bắc phạt thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư liền báo cáo chiến quả của các đạo quân bắc phạt. Đối với đạo quân của Phạm Thế Căng, hiện tại Trương Phụ và Mộc Thạnh đang bị vây trong thành Thăng Long, hầu như toàn bộ lãnh thổ của Đại Việt đều đã được giải phóng. Phạm Thế Căng đang tập trung binh lực chuẩn bị giải quyết cho xong thành Thăng Long để còn tiếp tục bắc tiến.

Tây lộ do Lý Ngân chỉ huy cũng đã kiểm soát được bộ phận phía nam của cao nguyên Vân Quý. Tây lộ có 4 đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Ninh dẫn theo 10 vạn dân binh Thái – Lào, tiến vào cao nguyên Vân Quý. Chính quy quân tấn công chiếm lĩnh các phủ huyện, sau đó giao lại cho dân binh phòng thủ, quản lý. Dân binh chiến lực không bằng được chính quy quân, nhưng cũng đủ để phòng thủ các phủ huyện, hoặc đối phó những đạo quân thông thường. Hiện tại Tây lộ đại quân đang áp sát Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam. Đạo quân Vân Nam sang tiếp viện cho bọn Trương Phụ vừa nghe tin đại quân áp cảnh, chưa ra khỏi biên giới đã phải vội vã rút về, bị Trấn Ninh quân chặn đánh trên đường, tan rã hoàn toàn. Quá nửa Vân Nam đã bị Đế quốc kiểm soát.

Đông lộ Đại quân do Triệu Phong chỉ huy, từ Đài Loan tấn công chiếm lĩnh các phủ huyện duyên hải vùng Quảng Đông, Phúc Kiến; cướp phá các phủ huyện duyên hải cùng Chiết Giang, Tô Châu (do gần Kim Lăng, nơi tập trung quân tinh nhuệ của Minh triều, nên không chiếm lĩnh). Hiện tại các hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội đã tiến vào Trường Giang, áp sát phong tỏa Kim Lăng và cắt đứt tuyến giao thông vận tải trên Đại Vận Hà.

Chú : Chữ ‘Pope’ trong tiếng Anh xuất phát từ chữ ‘papa’ trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, đây là từ ngữ gốc Hy Lạp Cổ, dùng để chỉ người cha trong gia đình. Ban đầu, người Công giáo Đông phương nói tiếng Hy Lạp hoặc Tây phương nói tiếng Latinh đều dùng chữ ‘papa’ để gọi các vị giám mục, linh mục trong giáo hội, thể hiện sự tôn trọng, kính cẩn. Ngày nay, Giáo hội Chính Thống Hy Lạp, Chính Thống Nga và Serbia vẫn sử dụng cách gọi như thế. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Roma chỉ sử dụng từ ngữ này dành cho vị giám mục Roma. Lịch sử Giáo hội Công giáo Roma ghi nhận, Grêgôriô VII (1073-1085) là người đã chính thức giới hạn việc dùng từ ‘papa’.

Từ ‘giáo hoàng’ trong tiếng Việt thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được dịch một cách cảm quan từ người Công giáo đối với vị lãnh đạo tinh thần của mình. ‘Giáo’ nghĩa là Giáo hội, ‘hoàng’ nghĩa là ông vua, người lãnh đạo giáo hội. Các giáo dân Công giáo Việt Nam thường sử dụng danh xưng Đức Thánh Cha. Thật ra chức vụ chính thức của Ngài là : Giám mục Roma, mục tử đoàn chiên chúa. Trong lịch sử, có nhiều vị đã được bầu lên, nhưng qua đời trước khi đảm nhiệm chức vụ mục tử đoàn chiên chúa, và cũng không được chính thức xem là ‘Pope’. Ban đầu, Cơ Đốc giáo bị Đế quốc La Mã cấm đoán. Đến thời Hoàng đế Constantinople mới được công khai truyền giáo. Khi đó Cơ Đốc giáo có 5 trung tâm tôn giáo là : Jerusalem, Antioch, Rome, Alexandria, và Constantinople; 5 vị Giám mục của những nơi này là những vị đứng đầu giáo hội, địa vị ngang hàng nhau. Trong đó, Jesusalem được tôn vinh là ‘Mẹ Giáo Hội’ (Mother Church); Alaxandria được xem là trung tâm học thuật của Cơ đốc giáo. Trong số 5 vị Giám mục đó, chỉ có Giám mục Roma và Giám mục Constantinople tranh giành quyền chủ trì các Công đồng, cũng là người đại diện của Chúa, dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây vào năm 1054.

Cách dịch sai này cũng giống như dùng từ ‘Thiên Chúa giáo’ để chỉ Giáo hội Công giáo Roma, do yếu tố lịch sử, bắt nguồn từ việc Công giáo Roma là giáo hội thuộc Kitô giáo được truyền bá vào Việt Nam sớm nhất. Thuật ngữ ‘Kitô giáo’ (thường được người Công giáo Roma sử dụng) hay ‘Cơ Đốc giáo’ (thường được người Tin Lành sử dụng) được dùng để chỉ các tôn giáo khởi nguồn từ Chúa Kitô (Chúa Cơ Đốc, Christ). Tín đồ được gọi là ‘Kitô hữu’. Nhưng theo ngữ nghĩa, Cơ Đốc giáo hoặc Kitô giáo (Christianity) bao hàm các tôn giáo khởi nguồn từ Chúa Cơ Đốc hoặc Chúa Kitô (Christ), bao gồm cả Công giáo Roma, Chính Thống giáo Đông Phương, Tin Lành, Anh Giáo, giáo hội Luther, … Tương tự, Thiên Chúa giáo nên được hiểu là ‘Các tôn giáo thờ phụng Thiên Chúa’. Vì vậy, thuật ngữ ‘Thiên Chúa giáo’ nên dùng cho ‘Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham’, vì các tôn giáo này có một điểm chung là xác quyết niềm tin của mình vào Thiên Chúa. ‘Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham’ bao gồm Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Mormon và nhiều giáo phái nhỏ khác.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 57 : Minh Triều chiến loạn (1)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 4. Quảng Châu. Cửa biển Hổ Môn. Đông Thắng đảo.

Đông Thắng đảo trước đây hoang vu không một bóng người, giờ đây tụ tập vô số hạm thuyền, binh sĩ, lương thực vũ khí. Triệu Phong đã thiết lập ở đấy nam tuyến chỉ huy bộ, phụ trách chinh phạt Quảng Châu. Đông Thắng đảo nằm ngay trên tuyến giao thông hàng vận của Châu Giang, nằm ngay cửa biển, dễ kiểm soát và thống quản toàn cục. Chỉ huy bộ đóng ở đây là rất thích hợp.

Đứng trên Đông Vũ sơn, một ngọn núi cao trên Đông Thắng đảo, Triệu Phong nhìn về phía Quảng Châu. Trời đầy sương che mờ cảnh vật, không thể nhìn thấy được thứ gì ở xa. Chỉ có thể nghe thấy những tiếng đạn pháo nổ đoàng đoàng từ xa vẳng lại, lâu lâu lại nhìn thấy những đạo hỏa quang bắn thẳng lên trời.

Độ nửa tháng trước, chiến sự ở Giao Chỉ nguy cấp, tuân theo thánh chỉ, Quảng Đông Đô chỉ huy sứ Lý Thừa Nghiêu đã tuyển lấy 3 vạn quân từ các vệ sở ở 19 châu phủ đất Quảng Đông : Quảng Châu, Liên Châu, Triệu Khánh, Đức Khánh, Thiệu Châu, Nam Hùng, Huệ Châu, Liên Bình, Triều Châu, Cao Châu, Hóa Châu, Lôi Châu, Liêm Châu, Khâm Châu, Quỳnh Châu, Đam Châu, Vạn Châu, Nhai Châu, La Định đi cứu viện Giao Chỉ. Trong Quảng Châu Thành giờ đây chỉ còn lại 5.000 quân phòng thủ, nếu là bình thường, đó cũng đã là một lực lượng rất hùng hậu.

Hiện tại, trong Quảng Châu Thành có 3.000 phủ binh, bên ngoài thành có 1.000 quân trấn thủ Tam Giang Khẩu, cùng với 1.000 quân Phiên Ngu vệ. Minh triều quân chế định mỗi vệ sở cơ bản có 5.600 quân, các tiểu tướng gọi là thiên hộ, bách hộ, … Nhưng do một bộ phận đã bị điều đi cứu viện Giao Chỉ, Phiên Ngu vệ chỉ còn lại 1.000 quân do một viên thiên hộ chỉ huy.

Từ sáng sớm, nghe tin báo có mấy toán Uy Khấu đang cướp phá các thôn trấn ngoài thành, Đô chỉ huy sứ Lý Thừa Nghiêu đã phái 1.000 phủ binh phối hợp với 1.000 quân Phiên Ngu vệ đi đánh dẹp. Ở cách thành hơn 50 dặm, phủ binh đụng độ ‘Uy Khấu’. Nhìn thấy đối phương chưa đến 1.000 người, 2 viên thiên hộ lãnh quân cả mừng, lập tức hợp quân dàn trận tác chiến. Quang minh chính đại đối trận, trước thực lực cường đại của Thiên triều đại quân, 2 viên thiên hộ tự tin đám ‘Uy Khấu’ kia sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt. Đám quân ‘ô hợp’ kia làm sao có thể kháng cự nổi Thiên triều tinh nhuệ đại quân.

Các tướng lãnh quân Minh đang còn mơ mộng về chiến thắng, đột nhiên nghe thấy những tiếng nổ đoàng đoàng. Tiếp đó là hàng loạt đạn pháo rải xuống đầu quân Minh. Hàng trăm viên đạn pháo rải xuống, hàng trăm quân Minh thương vong, trận hình hỗn loạn. Phía ‘Uy Khấu’ vẫn án binh bất động, không thừa cơ tấn công.

Chỉ sau loạt đạn pháo đầu tiên, đã có 1 viên thiên hộ tử trận. Viên thiên hộ còn lại cố gắng tụ tập quân đội, ra lệnh xung phong. Muốn tránh khỏi đạn pháo oanh tạc, chỉ có thể cùng quân giặc hỗn chiến mà thôi. Dù sao lúc này quân Minh cũng vẫn còn đông hơn.

Sau một hồi cố gắng, quân Minh cũng đã tập hợp lại, nhắm quân giặc xung phong. Nào ngờ quân giặc không dám ứng chiến mà lại lui về phía sau. Quân Minh hùng hổ đuổi theo, đột nhiên người ngã ngựa nghiêng. Quân Minh lúc này mới phát hiện bị lọt vào một trận địa cạm bẫy dày đặc. Khi nãy trận địa cạm bẫy này bị đội hình quân ‘Uy Khấu’ che mất, khi bọn họ lui lại thì mới lộ ra.

Liền đó, một loạt đạn pháo lại ập tới, rải xuống đầu quân Minh. Lần nay Khai hoa đạn làm cho quân Minh tổn thất thảm trọng, số thương vong hơn nghìn. Quân ‘Uy Khấu’ thừa cơ tràn tới tấn công. Quân Minh thấy thảm cảnh đồng bạn, sĩ khí mất hết, chỉ còn biết tìm đường tháo chạy. Sau một trận đuổi giết, quân Minh chỉ chạy thoát được chưa đến trăm người.

Nghe bại binh hồi báo, Lý Thừa Nghiêu mới biết quân giặc không phải là Uy Khấu, bởi Uy Khấu không thể nào có hỏa lực mạnh mẽ đến như vậy. Gã chỉ còn biết tập họp phủ binh chuẩn bị thủ thành, không dám phái quân rời thành nữa. Đối diện địch quân lợi hại như thế, giao chiến trên đất bằng, quân Minh chỉ có thiệt hại thảm trọng mà thôi. Giờ chỉ còn biết dựa vào thành trì phòng ngự, đồng thời phái quân đi cầu viện.

Đạo tiên phong của Đế quốc quân đội sau khi đánh tan 2.000 quân Minh, lập tức kéo vào đóng trại phía trước Quảng Châu Thành. Nhìn thấy đối phương chỉ dùng 1.000 quân mà định tấn công thành trì có 2.000 quân phòng ngự, Lý Thừa Nghiêu cũng không dám mở cửa thành ra đánh mà quyết tâm cố thủ.

Dưới sự dẫn đường của hướng đạo, các hạm thuyền của Đệ nhất phân hạm đội thuộc Bắc Dương Hạm đội thuận dòng Châu Giang tiến thẳng đến Quảng Châu Thành. Tam Giang Khẩu chỉ có 1.000 quân trấn thủ, sau mấy trận oanh kích, đã nhanh chóng thất thủ. Các hạm thuyền thẳng đến trước Quảng Châu Thành. Quân Minh ở Quảng Châu mấy chục năm nay chẳng gặp phải chiến loạn gì, an nhàn quen rồi, chẳng có ý thức phòng bị gì cả. Khi chợt phát hiện đầy trời đạn pháo rải xuống đầu, thủ quân ở Tam Giang Khẩu nhanh chóng hãm nhập hỗn loạn. Khi quân đội Đế quốc đổ bộ lên bờ, quân Minh hoặc là quỳ xuống xin hàng, hoặc là bị đao thương sát tử. Chỉ chưa đến nửa giờ, Tam Giang Khẩu đã bị quân đội Đế quốc kiểm soát, 1.000 quân Minh trấn thủ ở đấy xem như bị tiêu diệt hoàn toàn.

Đế quốc quân đội đại quy mô đổ bộ đương nhiên kinh động rất nhiều người. Chỉ vì lúc này ở Quảng Châu Thành chỉ còn lại hơn 2.000 phủ binh, còn không đủ lực lượng để phòng ngự, làm sao dám ra ngăn chặn. Trấn Phong quân 3 vạn người kéo đến bên ngoài thành, càng làm cho Lý Thừa Nghiêu thêm lo lắng bất an.

Đến chiều, khi đại quân bố trí hoàn tất, 600 khẩu thần công của Trấn Phong quân đồng loạt hướng vào Quảng Châu Thành khai hỏa. Quảng Châu Thành đã từ rất lâu chưa từng gặp cảnh chiến loạn, thành tường thiếu tu sửa, chỉ sau 2 loạt oanh kích, 1.200 phát đạn đã bắn sập thành môn. Tiếp đó, thần công chuyển hướng oanh kích vào phía trong thành, mở đường cho Trấn Phong quân nhập thành. Quảng Châu Thành chẳng cầm cự được bao lâu là đã hãm nhập vào đao thương chiến hỏa.

Các quan viên của Quảng Đông từ Bố Chánh Sứ cho đến tiểu quan tiểu lại còn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì được tin Quảng Châu Thành đã thất thủ. Nhìn thấy trong thành chiến hỏa hỗn loạn, cả bọn chỉ còn biết dẫn gia nhân tìm đường chạy loạn.

Trong Đô chỉ huy sứ ti, Lý Thừa Nghiêu thẫn thờ nhìn mấy chục gã thân binh trung thành còn sót lại, đoạn vẫy tay bảo bọn họ tìm đường tẩu thoát, sau đó vào trong Đại sảnh, ngồi lên án, quan phục chỉnh tề, rút kiếm tự sát.

Boong. Boong. Boong …

Trời vừa tờ mờ sáng, từng đội từng đội quan quân khua đồng la đi qua từ dãy phố rao lớn :

- Mọi gia mọi hộ nghe đây. Bản triều Thần Thánh Đế quốc, lần này bắc phạt Minh triều đại nghịch vô tín, bách tính vốn vô tội, miễn giữ yên bổn phận, không chống lại Thiên triều, tất sẽ bình an. Bằng ai chống lại, bản triều tất diệt mãn môn, tru cửu tộc …

Sau cơn chiến hỏa bất ngờ, dân trong thành đều ở yên trong nhà, không ai dám ra ngoài đường. Mọi nhà đều đóng kín cửa. Dân chúng vẫn còn trong cơn hỗn loạn. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra cả. Trước giờ không ai có khái niệm Quảng Châu Thành sẽ bị tấn công, bởi ai cũng tin rằng Đại Minh là Thiên triều đại quốc, là hùng mạnh nhất, không đánh nước khác thì thôi, còn có nước nào dám đến xâm phạm. Chính vì vậy, khi quân đội Đế quốc kéo vào thành, đã làm cho niềm tin của quân dân trong thành sụp đổ hoàn toàn. Mất niềm tin, mất phương hướng, không ai còn biết phải làm gì. Thành ra việc chiếm lĩnh của Trấn Phong quân càng thêm thuận lợi.

Triệu Phong cũng không vào thành, chỉ để lại 1 sư của Trấn Phong quân ở lại bình định vùng này, sau đó đại quân tiến lên phía bắc chiếm lĩnh các thành thị dọc theo vùng duyên hải. Bảy đạo quân còn lại là Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Trấn Ninh, Định Hải cũng được đưa vào đổ bộ lên các vùng duyên hải Phúc Kiến, Chiết Giang, chiếm lĩnh các phủ huyện ở đó. Thành trì thiếu tu sửa, quân đội thiếu huấn luyện, nên các thành trì lần lượt thất thủ. Chỉ chưa đầy nửa tháng, các phủ huyện duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến lần lượt bị chiếm lĩnh, các phủ huyện thuộc Chiết Giang bị cướp phá sạch sẽ.

Đại đô đốc Mã Tân chỉ huy lực lượng chủ lực của Bắc Dương Hạm đội phối hợp cùng 3 đạo quân Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long tấn công các xứ tỉnh Chiết Giang. Minh triều lấy vùng đất từ Phúc Kiến cho đến lưu vực Thái Hồ, gồm cả Gia Hưng, Hồ Châu đặt làm tỉnh Chiết Giang. Còn Tô Châu thì thuộc Nam Trực Lệ (gồm cả các địa khu Hoài Bắc, Hoài Nam, Giang Nam). Đại quân công chiếm nơi nào đều cướp phá triệt để. Toàn bộ của cải của Minh triều lẫn những người có liên quan trực tiếp với Minh triều (không chỉ quan lại mà kể cả nho sĩ, phú hộ) đều bị tịch thu. Dân chúng được phân làm hai loại : thuận dân và nghịch dân. Mã Tân lấy lý do nơi này sẽ trở thành chiến trường, buộc dân chúng di cư đi nơi khác, hoặc về phương nam, hoặc về phương bắc. Những ai chịu làm thần dân của Đế quốc được cấp lương, đưa lên thuyền di cư về phương nam; những ai không chịu làm thần dân của Đế quốc thì bị tịch thu toàn bộ tài sản, rồi đưa lên thuyền di cư về vùng Giang Bắc. Tính ra chỉ có 3 phần dân chúng chọn di cư về phương nam. Và tiếp đó quan lại Minh triều ở Giang Bắc phải hao tâm tốn sức lo cho hàng trăm vạn lưu dân không chút tài sản, không chút lương thực.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 58 : Minh Triều chiến loạn (2)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 4. Huệ Châu.

- Báo.

Một viên thám tử chạy đến trước mặt Hiệu úy Lưu n, vừa thở dốc vừa cung thân hành lễ. Lưu n chưởng quản đệ tam sư của Trấn Phong quân, nên mang hàm Hiệu úy. Lưu n khẽ gật đầu ra hiệu cho viên thám tử báo cáo tình hình quân giặc.

- Hồi báo Hiệu úy đại nhân. Minh tặc Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân hai ngày trước đã dẫn 3.000 phủ binh bỏ thành đào tẩu. Hiện tại Huệ Châu Thành không binh không tướng, đệ tứ vệ đã công chiếm Huệ Châu phủ nha môn, đang thanh lý dư đảng Minh tặc trong thành.

Lưu n biến sắc :

- Chạy rồi ?

Lưu n thống suất Trấn Phong quân đệ tam sư rời Quảng Châu bắc tiến, hướng về Phúc Kiến. Huệ Châu Thành nằm về phía đông bắc Quảng Châu, là một tòa đại thành án ngữ trên đường tiến quân. Sau khi dễ dàng chiếm lĩnh các huyện Nam Hải, Đông Hoàn, Lưu n cũng đồng thời bố trí việc tấn công chiếm lĩnh Huệ Châu, nơi có đến 3.000 quân Minh trấn thủ. Y đã tiêu tốn rất nhiều tâm lực chuẩn bị phương án tác chiến, nào ngờ chỉ sau một đêm, lại được tin báo quân Minh đã bỏ chạy mất rồi, giống như một đao toàn lực lại chém vào không khí vậy, cảm giác rất khó chịu. Lưu n nhíu mày, bảo viên tùy tướng :

- Ngô Vệ úy. Hãy suất lĩnh kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc, cố gắng làm chậm bước tiến của bọn chúng, chờ hậu quân của ta đến hợp công.

- Vâng.

Kỵ binh vệ úy Ngô Minh lập tức ứng tiếng, rồi suất kỵ binh vệ khẩn cấp đuổi theo quân Minh. Kể từ khi Đế quốc viện trợ lương thực khí giới cho Mông Cổ chư tộc, đã đổi về rất nhiều chiến mã. Một phần chiến mã được đưa đến nuôi dưỡng ở các quân mã trường ở Minh Châu (Úc Châu), một bộ phận cung cấp cho 8 đạo quân ở Đài Loan, thành lập lực lượng kỵ binh. Mỗi sư 1 vạn người đều có thành lập 1 kỵ binh vệ 1.000 người. Trước giờ kỵ binh vệ chưa từng tham gia tác chiến, dù ngày thường cố gắng huấn luyện, nhưng anh hùng không có đất dụng võ, nay mới được thử thân thủ, đương nhiên toàn quân tướng sĩ vô cùng hưng phấn, theo sự hướng dẫn của thám tử đuổi gấp theo quân Minh.

Tự trong lòng mà nói, Lưu n cũng cảm thấy ‘đồng tình’ phủ quân Quảng Đông. Toàn Quảng Đông có 19 châu phủ, 75 huyện. Quân đội phải chia ra trú đóng các nơi, mỗi phủ có thể có 1 vệ sở, cũng có khi chỉ có vài nghìn, mỗi huyện vài trăm huyện binh; lực lượng phân tán khắp nơi, mà các tướng lĩnh đâu dám tự tiện rời trú sở, chỉ có thể ở tại chỗ cố thủ, và cầu mong đối phương không đánh đến nơi. Vì vậy, đối 3.000 phủ binh Huệ Châu, Lưu n tin chắc có thể toàn diệt. Nhưng y không ngờ chưa giao chiến mà quân Minh đã bỏ thành mà chạy, à không, đã ‘chiến thuật chuyển di’ mất rồi. Kế hoạch đã chuẩn bị rất chu đáo mà giờ đây lại không có chỗ dùng.

- Ai ! Minh tặc chẳng có kẻ nào là tốt cả. Uổng công ta …

Lưu n khẽ lắc đầu, khóe miệng bất giác nhếch lên lộ ra một tia cười lạnh. Nếu như ngươi đã dám bỏ chạy, ta sẽ giúp ngươi tuyên truyền, xem Minh triều sẽ xử trí việc này như thế nào. Địch quân chưa đến đã bỏ thành mà chạy, tội này …

- Truyền lệnh đệ ngũ vệ phối hợp đệ tứ vệ nhanh chóng thanh lý Minh tặc trong thành. Đệ nhất vệ, đệ nhị vệ, đệ tam vệ men theo Đông Giang mà tiến quân, công chiếm các huyện Bác La, Long Xuyên, Hà Nguyên, … Đệ lục vệ, đệ thất vệ theo quan đạo tiến thẳng đến Vĩnh An. Đệ bát vệ, đệ cửu vệ hiệp trợ kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc.

Quân Minh không còn, Lưu n quyết định chia quân công chiếm toàn bộ 8 huyện của Huệ Châu phủ. Mệnh lệnh truyền xuống, quân đội lập tức chia đường hành động.

Nói về kỵ binh vệ sau khi rời Huệ Châu lập tức phóng ngựa phi nhanh. Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân đã bỏ chạy cách nay hai ngày rồi. Tuy thời gian đã qua mấy ngày, nhưng dù sao cũng đông đến 3.000 người, dấu vết để lại rất rõ ràng.

Đuổi theo một lúc, viên thám tử hướng đạo đột nhiên hô quân đội dừng lại, rồi chạy vào bên mé đường, đến một gốc cây không thấy có gì đặc biệt, lần mò một lúc, lôi ra một ống trúc nhỏ. Gã bẻ gãy ống trúc lấy ra một bức mật thư, dùng một loại chất lỏng đồ lên, đọc xong, rồi chạy lại nói với kỵ binh vệ úy Ngô Minh :

- Vệ úy đại nhân. Minh tặc không chạy đến Hải Phong mà chuyển hướng Đồng Sơn đi về phía Liên Hoa Sơn. Nơi đó núi non hiểm trở, đường lối lại thông hướng nhiều nơi. Lưu bọn Minh tặc ở đó thật không có lợi cho quân ta.

Ngô Minh khẽ gật đầu. Nếu như quân Minh bỏ chạy luôn thì không nói làm gì. Còn nếu như bọn họ trốn vào Liên Hoa Sơn chuẩn bị đánh du kích thì thật không ổn. Mặc dù Ngô Minh tin rằng quân Minh tướng sĩ sống an nhàn sung sướng ở phủ thành quen rồi, chưa chắc đã có thể chịu đựng được cuộc sống gian khổ trong rừng núi, đặc biệt lúc này lại đang là mùa mưa. Nhưng dù sao thì cẩn thận vẫn hơn. Ngô Minh suy nghĩ một lúc, rồi truyền lệnh :

- Lập tức chuyển hướng Đồng Sơn, cấp tốc hành quân, cố đuổi cho kịp Minh tặc. Diệt xong Minh tặc chúng ta sẽ nghỉ ngơi. Các huynh đệ, kỵ binh vệ chúng ta lần đầu xuất trận, phải đánh làm sao cho thật oanh oanh liệt liệt.

Chúng kỵ binh lớn tiếng vâng dạ. Toàn quân lại khẩn cấp tiền tiến. Đuổi theo gần một ngày, bọn họ đã nhìn thấy quân Minh phía trước. Quân Minh cũng đã phát hiện bọn họ, dừng quân dàn trận ứng chiến. Bộ binh gặp phải kỵ binh, có bỏ chạy cũng vô ích. Hai chân người không thể nào chạy nhanh bằng 4 chân ngựa.

Kỵ binh vệ chỉ có 1.000 người, quân Minh có đến 3.000, dù giao chiến vẫn có thể thắng được, nhưng tất nhiên sẽ tổn thất nặng. Đây là lực lượng kỵ binh duy nhất của Trấn Phong quân đệ tam sư, không thể chỉ đánh một trận rồi thôi. Ngô Minh suy nghĩ thật nhanh, rồi truyền lệnh :

- Giữ khoảng cách an toàn, kỵ xạ.

Liền đó kỵ binh phóng ngựa đến khoảng cách quân Minh ước 20 trượng (tức 80 mét), giương cung phóng tên. Một nghìn mũi tên đồng loạt rải xuống đầu quân Minh, ít ra cũng khiến quân Minh tổn thất vài trăm. Trong đội hình quân Minh lập tức vang lên những tiếng rên la kêu gào inh ỏi của những người thọ thương nhưng chưa chết.

Nhìn thấy cảnh đó, Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân tâm thần choáng váng, kinh hãi không sao kể siết. Quân giặc thật là hiểm ác. Kỵ binh đối chiến bộ binh, không chịu xung phong tấn công mà ở ngoài bắn cung như thế, thật là … thật là bỉ ổi vô sỉ mà.

Ngô Minh chẳng cần biết có bỉ ổi vô sỉ hay không. Nhiệm vụ của gã chỉ là cầm chân quân Minh, chờ đại quân đến nơi sẽ hợp lực tiêu diệt. Trong chiến thuật chiến tranh của Đế quốc không cho phép ‘giết địch 1.000, tự tổn 800’, trừ phi tình huống đặc thù. Có điều lúc này không phải là tình huống đặc thù.

Kỵ binh lại phóng loạt tên thứ hai, khiến quân Minh tổn thất thêm vài trăm người nữa. Quân sĩ Huệ Châu vốn là ‘lính kiểng’, bình thường chỉ giữ thành, làm oai với bình dân bách tính, chứ không phải tinh binh cường tướng để tham gia chiến tranh, vì thế trang bị cũng bình thường, trừ một số tướng lĩnh, quân đội sĩ tốt chỉ mặc áo vải, không ai có áo giáp hay hộ tâm kính cả, vì thế mà khi bị trúng tên khó tránh khỏi thương vong. Đặc biệt là khi trên đầu mũi tên có một rãnh nhỏ, sau khi ngâm vào mấy thứ thuốc nước lấy từ chỗ Thạch Lang Pháp sư thì chất thuốc bám lại đấy, ai bị bắn trúng, chất đó hòa tan vào máu, không làm chết người ngay mà … Nhìn cảnh quân Minh lúc này cũng đủ biết. Đại đa số quân Minh trúng tên lúc này chưa chết hẳn, ôm vết thương lăn lộn dưới đất, kêu gào inh ỏi, máu tuôn không ngừng, thảm cảnh khiến đồng bạn không khỏi rợn người.

Không còn cách nào khác, Vương Vân đành suất lĩnh sĩ tốt xung phong. Khoảng cách chẳng có bao xa, chỉ cần cố chịu một loạt tên là có thể cùng kỵ binh hỗn chiến. Kỵ binh mất đi tốc độ, mất đi khoảng cách thì chẳng khá hơn bộ binh bao nhiêu. Có điều Ngô Minh đời nào để cho đối phương toại nguyện. Kỵ binh được lệnh lùi ra xa, rồi tiếp tục phóng tên. Khi đối phương lại gần thì lại tiếp tục lùi ra xa, rồi bắn tên tiếp. Cứ như thế, sau loạt tên thứ 5, quân Minh đã tổn thất quá nửa, chỉ còn lại hơn 1.000 người.

Tấn công vô ích, bỏ chạy vô môn, Vương Vân đành suất lĩnh tàn binh chạy về phía một ngọn đồi gần đấy. Sau khi đã chạy lên đồi, bọn họ lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, tạm thời có được một chỗ yên thân để nghỉ ngơi.

Quân Minh không thể chạy được nữa, Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 59 : Minh Triều chiến loạn (3)

Lại nói, tấn công vô ích, trốn thoát không đường, quân Minh đành chạy lên một ngọn đồi gần đấy, rồi lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, cố thủ trên đấy. Quân Minh không thể chạy được nữa, kỵ binh vệ úy Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.

Ngô Minh giục ngựa đi vòng quanh đồi khảo sát địa hình, tìm cách tiêu diệt quân giặc. Trên đồi cây cối rậm rạp, lại đang mùa hạ, có thể sử dụng hỏa công. Thế là Ngô Minh phái mấy đội kỵ binh đi thu gom các vật dễ cháy. Số còn lại chia làm hai đội, luân phiên tuần tra, ngăn không cho quân Minh có cơ hội đào thoát.

Trưa hôm sau, khi đã thu gom được một lượng lớn các vật dễ cháy, lại đang lúc trưa nắng, Ngô Minh truyền lệnh phóng hỏa đốt rừng. Quân sĩ ném vật dễ cháy vào các bụi cây rậm rạp dưới chân đồi, rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa dần dần bốc cao và lan dần lên trên đồi. Khói bốc mù mịt. Kỵ binh được lệnh lui ra phía xa xa, và chuẩn bị truy sát số quân Minh có thể vượt qua ngọn lửa mà thoát được xuống đồi.

Ngọn lửa khi đã bốc cao thì lan rất nhanh lên trên đồi. Cả ngọn đồi giờ đây trông giống như một ngọn đuốc khổng lồ. Quân Minh trên đồi bị khói hun, bị lửa đốt kêu la inh ỏi. Cả ngọn đồi chìm trong biển lửa, sức nóng kinh hồn. Phần lớn quân Minh đều bị thiêu chết trên đồi. Chỉ có chưa đến trăm người đào thoát được xuống đồi, nhưng rồi lại nhanh chóng làm mồi cho cung tên của kỵ binh. Đối diện kỵ binh truy sát, bọn họ không ai đào thoát được. Huệ Châu vệ của Minh triều hoàn toàn bị xóa sổ. Sau đó, kỵ binh vệ quay lại cùng bản sư công phạt các xứ đông bắc Quảng Đông, dần dần bức cận Phúc Kiến.

Không chỉ Trấn Phong quân, cả 8 đạo quân thuộc Đông lộ đều tứ diện khai hoa, công thành bạt trại, chiếm lĩnh cướp phá hàng trăm phủ huyện dọc theo duyên hải, nam từ Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) cho đến tận bờ nam Trường Giang ở phía bắc.

Minh triều hiện tại đang trong giai đoạn suy yếu, có thể nói là suy yếu nhất kể từ ngày đầu kiến quốc đến giờ. Sử sách ghi lại, giai đoạn cường thịnh nhất của Minh triều (năm 1392, thời Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương), quân đội ước tính có 16.489 tướng lĩnh, 1.198.434 binh sĩ và 45.080 chiến mã. Nhưng sau ba cuộc đại quy mô chiến tranh do Vĩnh Lạc đế phát động : Tịnh nạn chiến tranh (1398 – 1402), Đại Minh – Đại Ngu chiến tranh (từ 1406 đến giờ), Đại Minh – Mông Cổ chiến tranh (1410), binh lực suy giảm rất nghiêm trọng, đặc biệt là cuộc nội chiến Tịnh nạn.

Binh chế của Minh triều không thực hiện quân dịch chế độ mà thực hiện quân hộ chế độ, hay còn gọi là vệ sở chế độ. Minh triều tại toàn quốc các nơi quân sự trọng điểm chiến lược thiết lập vệ sở trú quân. Mỗi vệ có quân đội 5.600 người, bên dưới có thiên hộ sở, bách hộ sở, dưới nữa là tổng kỳ và tiểu kỳ. Các vệ sở đều thuộc quyền quản hạt của Ngũ quân đô đốc phủ, chỉ có số ít ngoại lệ thuộc quyền quản lý của Binh bộ, có chuyện gì thì tập trung điều động, không chuyện gì thì trả về vệ sở.

Minh triều không tuyển mộ binh sĩ từ dân chúng (theo kiểu quân dịch chế độ), mà quân đội có nguồn gốc từ thế tập quân hộ (tức quân hộ chế độ), do mỗi quân hộ phái 1 người làm chính đinh đến vệ sở gia nhập vệ sở quân. Binh sĩ tại vệ sở luân phiên tuần phòng và làm ruộng. Lương thực thu được qua làm ruộng sẽ được sử dụng để cung cấp cho tướng sĩ và những nhu cầu cần thiết khác của vệ sở. Mục tiêu của việc này là dưỡng binh nhưng không hao tốn tài lực quốc gia (ngụ binh ư nông chính sách). Quân hộ số lượng cố định, thế tập từ đời này sang đời khác, một người làm lính thì cả nhà đời đời làm lính. Do vậy, binh nguyên của quân đội Minh triều có hạn, chỉ hạn chế trong số binh hộ đó thôi. Mãi đến đời Gia Tĩnh sau này (bối cảnh của Truyện Kiều), do loạn lạc nhiều mới thực hiện quân dịch chế độ, mộ binh từ dân chúng để đối phó với nội ưu (quân khởi nghĩa trong nước) ngoại hoạn (uy khấu ở phía đông, hải tặc ở phía đông nam, quân Miến Điện ở phía tây nam, quân Mông Cổ ở phía tây bắc, quân Nữ Chân ở phía đông bắc). Quân hộ chế độ tuy làm quốc khố bớt tốn kém, nhưng cũng có những nhược điểm nghiêm trọng : binh nguyên bị giới hạn; sĩ binh thiếu thời gian huấn luyện (theo quy chế thì mỗi ngày 2 giờ tuần phòng 8 giờ làm ruộng, nếu huấn luyện thì tính vào thời gian tuần phòng, mà vùng quản hạt không thể không tuần phòng, thành ra ít huấn luyện); nhưng nghiêm trọng hơn cả là nạn kiêm tính đất đai, rất nhiều ruộng đất của vệ sở giao cho quân hộ bị các tướng lĩnh chiếm làm của riêng, quân sĩ không đủ sống, phải tìm nghề khác mưu sinh, đào binh xuất hiện rất nhiều. Không hiếm các vệ sở, quân số thực tế không còn đủ một nửa biên chế, và các tướng lĩnh cũng khai gian để ăn trọn số quân lương cấp cho những binh sĩ thiếu đó (ví dụ vệ sở đủ biên chế 5.600 người, nhưng thực tế chỉ có 2.600 người, thì số quân lương của 3.000 người còn lại các tướng lĩnh sẽ chia nhau). Thời kỳ nông dân Sơn Đông khởi nghĩa, có những vệ như Thanh Châu vệ, mãn biên chế 5.600 người, nhưng thực tế binh lực chỉ hơn nghìn người, thành ra đại bộ phận Sơn Đông nhanh chóng bị quân khởi nghĩa chiếm lĩnh, Vĩnh Lạc đế phải điều động quân tinh nhuệ ở kinh đô đi đàn áp.

Minh triều lại chia lãnh thổ thành 2 kinh là Bắc trực lệ (Bắc Kinh, bao gồm phần lớn vùng Hà Bắc) và Nam trực lệ (Kim Lăng, gồm cả Giang Tô, An Huy); 13 tỉnh là Thiểm Tây, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. Địa giới phân theo địa hình sông núi (không giống thời hiện đại), có nhiều chỗ không hợp lý lắm, ví dụ như Nam trực lệ bao quát 3 địa khu lớn là Hoài Bắc, Hoài Nam và Giang Nam, hoặc như tỉnh Hà Nam lại quản hạt một bộ phận đất đai ở phía bắc Hoàng Hà (vốn thuộc Hà Bắc), tỉnh Sơn Đông quản hạt cả đất Liêu Đông, tỉnh Thiểm Tây quản hạt từ đất Thiểm Tây về phía tây (gồm cả Cam Túc, Thanh Hải). Hai kinh và 13 tỉnh lại chia thành 153 phủ, 234 châu (gồm cả trực lệ châu thuộc tỉnh và chúc châu thuộc phủ) và 1171 huyện. Các châu phủ lại không thể không có quân đội canh phòng, do đó đã phân bớt một lượng không nhỏ quân đội.

Nguyên bản Minh triều có 1.198.434 binh sĩ (gần 120 vạn), phân cho 2 kinh, 13 tỉnh, 153 phủ, 234 châu, 1171 huyện, trong thời bình tương đối ổn thỏa. Nhưng Vĩnh Lạc đế lại là người hiếu chiến. Cuộc chiến tranh ở Đại Việt chiếm mất 20 vạn. Sau khi đánh nhau với Mông Cổ năm Canh Dần (1410), quân đội trú phòng ở biên giới phía bắc phải tăng cường, kể luôn phòng thủ Bắc Kinh chiếm mất 50 vạn (Bắc Kinh, Sơn Hải quan, Hà Bắc, Sơn Tây, Cam Túc mỗi nơi ước 10 vạn). Quân trú phòng ở Nam Kinh 10 vạn (trước đây phải 20 vạn). Chỉ còn lại chưa đến 40 vạn phụ trách phòng thủ mấy trăm châu phủ, hơn nghìn huyện (nếu không tính huyện, chỉ chia đều cho gần 400 châu phủ thì mỗi nơi chỉ được xấp xỉ 1.000 quân, đó là chưa tính đến quân số khống do các vệ sở khai gian). Đặc biệt, cuộc chiến tranh ở Đại Việt toàn lấy quân ở các tỉnh phía nam, thành ra lực lượng trú phòng ở các châu phủ huyện phía nam càng thêm thiếu thốn. Thậm chí nhiều phủ huyện không thấy một bóng quân Minh.

Chính vì những nguyên nhân trên, khi quân đội Đế quốc tiến công vào các tỉnh phương nam, gần như đánh vào chỗ không người. Tốc độ tiến quân cực nhanh, hầu như ngày nào cũng có phủ huyện bị công chiếm. Theo kế hoạch của quân bộ, quân đội Đế quốc chỉ chiếm lĩnh các xứ Quảng Đông, Phúc Kiến (ở vùng duyên hải, với sự hỗ trợ của Hải quân, dễ phòng thủ hơn). Nam Dương Hạm đội liên tục vận chuyển 10 vạn dân binh các xứ Lã Tống, Mã Lai, Java lên phụ trách trú phòng các phủ huyện chiếm được. Tỉnh Quảng Đông có 19 châu phủ, 75 huyện; tỉnh Phúc Kiến có 9 châu phủ, 57 huyện; 10 vạn dân binh dư sức trú phòng rồi. Quân phòng thủ của Minh triều trước khi quân đội Đế quốc đến còn không được một nửa số đó.

Chinh phạt khoảng 3 tháng, toàn bộ các châu phủ ở Quảng Đông, Phúc Kiến toàn bộ nạp nhập vào bản đồ Đế quốc. Thời gian tiêu hao chủ yếu là quá trình hành quân, chứ công thành chiến hầu như không đáng kể, nhiều phủ huyện còn không có quân Minh phòng thủ, hoặc có nhưng quá ít, thiếu huấn luyện (phần lớn quân tinh nhuệ đã bị điều động cho cuộc chiến tranh ở Đại Việt rồi), vừa nghe đối phương kéo đến đã bỏ thành mà chạy. Cũng do vậy mà chiến tích của các kỵ binh vệ gần đây ngày càng nổi bật. Kỵ binh chỉ chiếm một phần mười quân số, nhưng giết địch đến hơn một nửa.

Trong thời gian đó, đạo quân từ Quảng Đông đi tiếp viện Đại Việt, nghe tin Quảng Châu nguy cấp, vội vã quay về cứu viện, đã bị Trấn Ninh quân đánh tan. Tiếp đó, Trấn Ninh quân khai tiến vào Giang Tây. Nơi đó có một địa điểm trọng yếu mà Giang Phong ra lệnh phải cố gắng công chiếm cho được.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 60 : MINH TRIỀU CHIẾN LOẠN (4)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa thu tháng 7.

Lúc này, khi vùng Quảng Đông, Phúc Kiến lần lượt bị chiếm lĩnh thì vùng Chiết Giang và phía đông của Nam trực lệ (Tô Châu) đã phải gánh chịu hoàn cảnh chiến hỏa khủng khiếp nhất từ xưa đến giờ. Vì nơi đây rất gần Kim Lăng, trọng địa của Minh triều, Đế quốc chưa định chiếm lĩnh, nên đã tiến hành cướp phá triệt để. Toàn bộ tài sản, lương thực của quan phủ và dân chúng đều bị tịch thu (trừ số dân chúng chịu quy thuận Đế quốc và di cư về phương nam sinh sống). Ruộng vườn đều bị đốt sạch, nhà cửa thành trì đều bị san bằng. Hơn thế nữa, toàn bộ dân chúng đều bị cưỡng chế di cư về vùng Giang Bắc, ai trái lệnh xử trảm, khiến cho các xứ Giang Nam giờ đây bốn phía quạnh hiu, không một bóng người. Vùng Giang Nam là vựa lúa chính của Minh triều, chỉ cần phá sạch vùng này, tình cảnh của Minh triều sẽ càng thêm nguy ngập.

Trong lúc vùng Giang Nam vắng vẻ hoang tàn thì vùng Giang Bắc hoàn toàn ngược lại – quá đông người. Hàng trăm vạn dân chúng từ Giang Nam dắt dìu nhau tìm phương sinh kế. Không chút tài sản, không chút lương thực, để có thể sống qua ngày, bọn họ phải vào rừng hái rau, xuống sông bắt cá, tìm kiếm tất cả những thứ gì có thể ăn được. Chỉ sau vài ngày, rau không còn, cá cũng hết, bọn họ cùng quẫn đến mức tìm bắt cả sâu bọ, lột cả vỏ cây để ăn. Tình cảnh bọn họ có khi còn thảm hơn lưu dân lúc Hoàng Cân khởi nghĩa thời Hán mạt - Tam Quốc.

Lưu dân đã khổ, quan lại Minh triều cũng khổ không kém. Lưu dân đói khổ, quan lại tâm khổ. Bất ngờ có quá nhiều lưu dân đói khổ kéo đến, các quan lại Minh triều phải vò đầu bức tóc, lao tâm lao lực tìm cách xử trí. Trước tình cảnh này, nếu không an bài thỏa đáng, rất có thể gây ra đại loạn. Nhiều nơi đã xuất hiện tình trạng cướp bóc nhà phú hộ, hoặc phá kho lương của quan phủ. Đói khổ quá rồi, nếu không tìm được thức ăn thì sẽ chết đói, dù sao cũng chết, nếu liều mạng biết đâu còn có cơ hội sinh tồn. Chính vì thế mà cũng đã có không ít lưu dân đã biến thành bạo dân, loạn dân, khiến cho tình trạng trị an trong vùng trở nên vô cùng tồi tệ. Một số huyện thành còn bị loạn dân chiếm lĩnh, quan lại bị giết, phủ khố và phú hộ bị cướp phá.

Đó chính là mục đích của Đế quốc, nhiễu loạn hậu phương của Minh triều.

Cũng cùng lúc này, các vùng Sơn Đông, Hà Bắc cũng gặp phải chiến loạn. Các phiên chủ ở Đông Doanh thấy quân đội Đế quốc cướp phá thuận lợi quá, chiến lợi phẩm nhiều vô số, nên cũng phái quân sang cướp bóc vùng duyên hải Sơn Đông. Mông Cổ chư tộc thấy Trung Nguyên đại loạn, cũng phái chiến sĩ đánh xuống phía nam, cướp phá báo thù. Khắp lãnh thổ Minh triều, từ nam chí bắc đều bị chiến hỏa thiêu đốt, sinh linh đồ thán.

Đến cuối tháng 7, ngoài 2 đạo quân Trấn Phong, Trấn Ninh tiến công Giang Tây, cả 6 đạo quân còn lại đều đã tề tụ ở vùng nam ngạn Trường Giang, áp sát Kim Lăng Thành. Bắc Dương Hạm đội đã phong tỏa Trường Giang và Đại Vận Hà, lương thực từ phía nam không thể vận chuyển lên phía bắc được nữa.

Triệu Phong chuyển đại bản doanh lên Sùng Minh đảo, trực tiếp chỉ huy cuộc bao vây Kim Lăng.

Sùng Minh đảo nằm ngay Trường Giang nhập hải khẩu, còn được gọi là ‘Trường Giang môn hộ, Đông hải Doanh châu’. Toàn đảo 3 mặt giáp sông, 1 mặt giáp biển, tổng diện tích ước 1.225 kilômét vuông, đông tây dài 80 kilômét, bắc nam rộng từ 13 đến 18 kilômét. Trên đảo bằng phẳng, không đồi núi. Sùng Minh đảo hình thành vào khoảng Đường Vũ Đức nguyên niên (Tây Lịch 618), có cư dân ở Đan Dương, Cư Dung di cư đến sinh sống, lập thành thôn trấn.

Triệu Phong đến Sùng Minh đảo, ngay lập tức, một căn cứ hải quân và một tòa tiểu thành cũng nhanh chóng được xây dựng, làm căn cứ bổ cấp vật tư lương thực cho các đạo quân. Đế quốc đã chuẩn bị tiến hành chiến tranh lâu dài. Minh triều dù sao cũng là nước lớn, lãnh thổ rộng, dân cư đông, không thể đánh nhanh thắng nhanh được.

Lúc này, nhận được tin Minh triều đã tụ tập quân đội về phòng thủ Kim Lăng Thành, Triệu Phong rất hoan hỉ. Đó là một tin rất tốt lành. Dù sao quân bộ cũng chỉ quyết định bao vây Kim Lăng, không tiến hành công thành chiến. Quân Minh bỏ các phủ huyện kéo về Kim Lăng, đối với việc công chiếm các phủ huyện càng dễ dàng hơn. Do đó, Triệu Phong đã phái Thần Vũ quân tiến công cướp phá các phủ huyện vùng Nam trực lệ, lại phái Thần Uy quân men theo Trường Giang, dưới sự hỗ trợ của Bắc Dương Hạm đội, tiến công cướp phá vùng Hồ Quảng (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc). Dân chúng các xứ này cũng bị tịch thu tài sản và cưỡng chế di cư sang Giang Bắc. Hơn 200 hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội phong tỏa hoàn toàn Trường Giang, không một chiếc thuyền nào của Minh triều có thể rời Giang Bắc đi xuống phía nam, Vĩnh Lạc đế có muốn điều binh ở Hà Bắc, Sơn Đông xuống tăng viện cho Kim Lăng cũng không thể thực hiện được. Hơn nữa, quân Hà Bắc còn phải phòng ngự quân Mông Cổ, quân Sơn Đông lại phải chống uy khấu (cách Minh triều gọi hải tặc Đông Doanh).

Triệu Phong đích thân chỉ huy 4 đạo quân Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Định Hải bao vây Kim Lăng Thành. Xung quanh Kim Lăng Thành có nhiều đồi núi, thích hợp bố trí thần công đại pháo oanh kích vào thành, thậm chí có nơi còn có thể trực tiếp bắn pháo đến tận Hoàng cung Đại nội. Cũng chính vì nguyên nhân này, khi được triều thần chỉ cho thấy điều đó, Vĩnh Lạc đế mới quyết định dời đô lên Bắc Kinh. Đương nhiên quân đội Đế quốc không thể bỏ qua ưu thế đó mà không tận dụng. Toàn bộ 2.400 khẩu thần công đại pháo của 4 đạo quân đều được kéo lên các ngọn đồi đó (theo quân chế, mỗi đạo quân 3 vạn người được phối thuộc 600 khẩu thần công). Sau đó mỗi ngày đều luân phiên oanh kích vào thành, đêm ngày không nghỉ. Xạ thủ cứ nhắm vào những nơi tập trung nhiều kiến trúc, đặc biệt là Hoàng cung, mà oanh kích. Quân dân Minh triều trong thành khổ không sao kể siết. Tuy quân Minh trong thành có đến 15 vạn quân, nhưng đối phương cũng có 12 vạn, cùng với thần công đại pháo oai hiếp, quân Minh không có chút ưu thế nào. Hơn nữa, Kim Lăng hiện tại vẫn là kinh đô của Minh triều, không thể tùy tiện bỏ được (theo lịch sử, đến năm 1420 Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh mới xây dựng xong, đến năm 1421 Vĩnh Lạc đế mới chính thức dời đô từ Kim Lăng lên Bắc Kinh). Đối với Hán tộc mà nói, triều đình bỏ kinh đô mà chạy, uy tín của triều đình và sĩ khí của quân đội sẽ tổn thất rất nặng nề.

Kim Lăng thành cao hào sâu, quân đội đông đảo, Triệu Phong chỉ vây thành và đêm ngày oanh kích. Chiến sự chủ yếu chuyển sang các phủ huyện lân cận.

Dương Châu phủ.

Dương Châu là một phủ trực thuộc Nam trực lệ, nằm bên bờ bắc Trường Giang. Từ xưa Dương Châu đã là một thành thị lớn, kinh tế phát triển, cư dân đông đúc. Từ thời Đường đã nổi tiếng là ‘Phú giáp thiên hạ’, ‘Dương nhất Ích nhị’ (chỉ Dương Châu và Ích Châu, tức Thành Đô). Khi vùng phía nam của Nam trực lệ không còn chỗ để cướp phá nữa, Thần Vũ quân liền nhắm đến Dương Châu ở Giang Bắc. Một tiểu phân hạm đội gồm 20 chiến thuyền của Bắc Dương Hạm đội theo dòng Đại Vận Hà tiến về sát thành Dương Châu. Chiến hạm quá lớn, không thể vào Đại Vận Hà được thì dàn ra dọc theo bờ bắc Trường Giang. Cùng lúc đó còn có Thần Vũ quân đệ nhị sư cũng tiến về Dương Châu Thành.

Dương Châu ở về phía đông bắc Kim Lăng Thành. Do bị cách trở bởi Trường Giang, Dương Châu vệ không thể tăng viện cho Kim Lăng được, nên giờ đây trong thành vẫn còn lại khoảng 4.000 quân Minh.

Dương Châu Thành. Tri phủ nha môn.

Các quan viên văn võ của Dương Châu phủ tụ tập trong đại đường bàn việc chống giặc. Người bảo công, người bảo thủ, mỗi người một ý, tranh cãi kịch liệt. Dương Châu vệ chỉ huy sứ Trương Hạo Kiên đỏ mặt tía tai nói :

- Tri phủ đại nhân. Ngài quyết ý xuất quân sát tặc ?

Tri phủ Dương Châu Đổng Chương chậm rãi vuốt râu nói :

- Tặc quân đại pháo lợi hại, các vị chắc cũng nghe nói rồi. Nếu chúng ta cứ cố thủ trong thành, hậu quả … e rằng sẽ không khác gì Tô Châu đâu. Thà rằng chúng ta xuất thành nghênh chiến, dĩ dật đãi lao, may ra còn có cơ hội thắng lợi.

Trương Hạo Kiên nói :

- Không ổn. Tặc quân đông hơn chúng ta, xuất thành nghênh chiến, thua nhiều hơn thắng.

Đổng Chương cãi :

- Cố thủ trong thành, chút cơ hội thắng lợi cũng không có. Tặc quân hành quân đến đây, tất phải nhọc mệt. Chúng ta nhân lúc bọn chúng chưa kịp nghỉ ngơi dưỡng sức, nhất cổ tác khí tấn công, chỉ cần quan quân một lòng, tất có cơ hội thắng lợi. Chứ để tặc quân có thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta không còn cơ hội nào nữa.

Trương Hạo Kiên và các tướng lĩnh của Dương Châu vệ lại nhất trí thủ thành, không chịu xuất thành nghênh chiến. Cuối cùng, Đổng Chương đành nói :

- Chư vị muốn thủ thành thì bản phủ không nài ép nữa. Vậy hãy chia cho bản phủ 3.000 quân, bản phủ xuất thành chống giặc. Chư vị còn lại 1.000 quân, có thể điều tập thêm dân chúng hỗ trợ thủ thành.

Trương Hạo Kiên và các tướng lĩnh bàn bạc một lúc, rồi chấp nhận đề nghị của Đổng Chương. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên vì sự dũng cảm của ông ta. Tri phủ vốn là văn quan, mà lại hăng hái suất quân đánh giặc, quả là trung thần hiếm có trên đời.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 61 : DƯƠNG CHU BINH BẠI

Lại nói, các tướng lĩnh của Dương Châu vệ cuối cùng cũng chấp nhận đề nghị của Đổng Chương, chia cho ông ta 3.000 quân để xuất thành nghênh chiến. Trong lúc chờ điều động quân đội, Đổng Chương trở về phủ, gọi viên sư gia thân tín đến bảo :

- Ngươi hãy mau thu xếp cho gia quyến của bản phủ cải trang thành sĩ binh, trà trộn vào quân đội mà xuất thành.

Viên sư gia ngạc nhiên nói :

- Ý của Đại nhân là … ?

Đổng Chương cười nhạt nói :

- Bọn Trương Hạo Kiên muốn cùng chết với thành, bản phủ không ngăn cản. Hừ. Kinh đô còn bị vây, Tô Châu còn bị san bằng, bản thành làm sao chống nổi.

Viên sư gia ngơ ngác hỏi :

- Tặc quân hùng mạnh như thế, sao Đại nhân còn suất quân nghênh chiến ? Vãn sinh thấy chẳng có bao nhiêu cơ hội chiến thắng.

Đổng Chương cười lạnh nói :

- Bản phủ cũng thấy vậy, nhưng nếu xuất thành, may ra còn có cơ hội sống sót. Bản phủ là văn quan, khi xuất chiến có ở phía sau cũng chẳng ai nói gì được. Hễ binh bại, bản phủ có thể tìm nơi lánh nạn. Sau này triều đình có tra xét, chỉ cần báo cáo là bị tặc quân chặn mất đường, không hồi thành được. Như thế vẫn còn hơn cùng chết với thành.

Viên sư gia sáng mắt lên, tán tụng :

- Đại nhân anh minh.

Đổng Chương ngay trưa hôm đó suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh địch. Sau khi rời thành, viên sư gia lẳng lặng dẫn gia quyến của tri phủ đại nhân và của mình rời quân đội, lánh nạn về phương bắc. Quân đội tiếp tục hướng nam hành quân.

Đồng Sơn.

Đồng Sơn là một ngọn núi nằm về phía nam Dương Châu Thành, gần Đại Vận Hà và Trường Giang, đỉnh núi cao 149,5 mét, là ngọn núi cao nhất Dương Châu. Trong lúc bố trí tấn công Dương Châu Thành, Thần Vũ quân đệ nhị sư tạm thời đóng chỉ huy bộ ở đó. Hiệu úy Đào Gia Khiêm cùng các tùy tướng, vệ úy hợp nhau bàn bạc kế hoạch công thành. Trưa hôm đó, nghe thám tử hồi báo, Đào Gia Khiêm cười nhạt nói :

- Đổng Chương thật là to gan lớn mật nha. Dám bỏ thành không phòng thủ, lại suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh chiến. Như thế càng tiện cho chúng ta.

Đào Gia Khiêm thật sự không nghĩ ra được lý do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương xuất thành nghênh chiến. Phải chi quân Minh đông hơn thì không nói, đằng này là lấy 3.000 chống 1 vạn có thần công đại pháo hỗ trợ.

Bầu trời đầy mây, thái dương khuất sau bạch vân làm không gian bớt chói chang hơn. Mây trắng dày đặc trên không trung tạo ra cảm giác bầu trời có vẻ thấp hơn. Gió mát từ ngoài sông thổi vào, làm không gian dịu mát. Từ trên núi cao nhìn xuống, không gian cũng thoáng đãng rộng lớn hơn.

Đào Gia Khiêm cho 9 bộ binh vệ bày trận dưới chân núi chờ quân Minh đến, còn kỵ binh vệ mai phục sau những đám cây rậm trên núi, chờ lệnh xuất kích. Cả 200 khẩu thần công cũng được bố trí trên núi. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều thuộc về đệ nhị sư.

Ước nửa giờ sau, 3.000 quân Dương Châu vệ do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương thống lãnh đã hành quân đến nơi. Bọn họ phải đối mặt với 9.000 địch quân chờ sẵn từ lâu. Đổng Chương ngồi trên chiến mã ở phía sau hàng quân, xung quanh là 100 thân binh. Cả bọn đã sẵn sàng để … bỏ chạy. Hầu như không ai tin rằng trận này Dương Châu vệ có thể thắng được, từ tướng lĩnh cho đến sĩ tốt. Có điều, không ai phản đối việc xuất thành nghênh chiến của Đổng Chương, bởi cả bọn đều đang chờ cơ hội để bỏ chạy, đương nhiên là chạy luôn về phương bắc lánh nạn chứ không phải chạy về Dương Châu Thành. Không ai muốn cùng chết với thành. Qua lời của lưu dân Giang Nam đi ngang qua đây, bọn họ đều biết được tình cảnh của các phủ huyện ở Giang Nam.

Bọn Đào Gia Khiêm nhìn quân Minh như nhìn những người sắp chết. Tại chiến trường bằng phẳng thế này rất có lợi cho hỏa khí của Đế quốc phát huy toàn bộ oai lực. Phía sau bọn họ lúc này có đến 200 khẩu thần công đã nạp đạn sẵn sàng, toàn là Khai hoa đạn. Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Lệnh xạ thủ chuẩn bị, vọng thủ ước tính cự ly. Khi địch quân tiến đến 200 trượng đồng loạt khai hỏa.

- Vâng.

Nhận được mệnh lệnh, xạ thủ và vọng thủ đều chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi khẩu thần công có 2 xạ thủ, phụ trách nạp hỏa dược, đạn pháo và châm lửa. Còn vọng thủ là những người tinh thông toán thuật, có thể ước tính khoảng cách địch - ta.

- Địch quân cách 500 trượng.

- Địch quân cách 400 trượng.

- Địch quân cách 300 trượng.

- Địch quân cách 200 trượng.

- Khai hỏa.

Các khẩu thần công lập tức gầm lên, rải đạn về phía quân Minh. Mỗi viên Khai hoa đạn chứa hơn trăm mảnh sắt bén nhọn, 200 viên nổ tung trên đầu quân Minh, rải xuống hàng vạn mảnh sắt, làm quân Minh thương vong thảm trọng, kêu gào rên rỉ inh ỏi. Chiến trường máu thịt tứ tung, không khí lẫn theo mùi tanh của máu, cảnh tượng cứ như ở dưới mười tám tầng địa ngục. Chỉ có Đổng Chương cùng đám thân binh ở phía sau, nằm ngoài tầm đạn pháo nên thoát được (Đổng Chương sợ chết nên đi rất chậm). Nhìn thấy thảm cảnh trước mặt, cả bọn sợ xanh mặt, vội vã quay đầu ngựa tháo chạy. Đào Gia Khiêm đời nào để cho bọn họ tháo chạy dễ dàng như thế, lập tức truyền lệnh :

- Kỵ binh vệ truy kích.

Thế là 1.000 kỵ binh ùa xuống núi, đuổi theo truy sát hơn 100 người bọn Đổng Chương. Còn 9 bộ binh vệ bắt đầu xử lý chiến trường, giải quyết toàn bộ quân Minh thương vong. Vì sắp phải công chiếm Dương Châu, bọn họ không muốn phân bớt binh lực canh giữ tù binh - không thu tù binh.

Trận chiến Đồng Sơn kết thúc, giải quyết xong chiến trường, đệ nhị sư lập tức hành quân đến Dương Châu. Kỵ binh vệ đi trước, đến phong tỏa Dương Châu Thành. Kỵ binh tuy không thể công thành, nhưng có thể phong tỏa thành trì. Dù sao thì quân Minh trong thành cũng chỉ còn lại khoảng nghìn người.

Sáng hôm sau, đệ nhị sư đại quân đã dàn trận phía trước Dương Châu Thành. Phía sau quân trận chính là trận địa thần công đại pháo. Bên cạnh đó là một núi đạn pháo. Dương Châu Thành nằm ngay bên cạnh Đại Vận Hà, tiếp tế cực kỳ dễ dàng.

Cho quân đội chuẩn bị hoàn tất, Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Khai hỏa.

Thần công đại pháo tiếp tục gầm lên, oanh kích vào Dương Châu Thành. Trận địa pháo chia làm 2 bộ phận, 100 khẩu thần công hướng vào thành môn nhả đạn, 100 khẩu còn lại rải đạn lên tường thành, tiêu diệt thủ quân. Sau 10 loạt đạn, thành môn bị phá, toàn bộ đại pháo được đẩy lên rải đạn pháo vào bên trong mở đường cho bộ binh tiến quân.

Dương Châu vệ chỉ huy sứ Trương Hạo Kiên ban đầu còn tập trung được vài vạn dân phụ hiệp trợ thủ thành. Nhưng khi thành môn bị phá, đạn pháo rải vào trong thành, một bộ phận dân phu hốt hoảng tìm đường chạy trốn, làm lòng quân hoán tản. Đến khi Đào Gia Khiêm cho quân bắc loa truyền rằng Đế quốc quân đội không bắt tù binh, hễ ai cầm vũ khí chống lại đều trảm thủ, thì quân dân trong thành không còn ai cầm vũ khí nữa. Trương Hạo Kiên cùng đám tùy tướng và thân binh mở cửa bắc bỏ chạy, và bị kỵ binh vệ truy sát. Đệ nhị sư đại quân tiến vào Dương Châu Thành.

Tiếp theo đó, cũng như ở vùng Giang Nam, bọn Đào Gia Khiêm tiến hành đại thanh lý. Một bộ phận nhỏ dân chúng quy thuận được cấp lương thực và đưa ra ngoài thành, lên thuyền di cư về phương nam. Sau đó, toàn bộ tài sản của quan phủ và quân dân trong thành bị tịch thu hết. Toàn bộ cư dân bị cưỡng chế rời khỏi Dương Châu, đi về phương bắc. Dương Châu Thành bị san bằng. Do có thuốc nổ nên việc san bằng thành trì cũng không khó lắm.

Việc chiếm thành chỉ mất mấy canh giờ, nhưng việc xử lý sau chiến tranh mất gần nửa tháng. Không hổ danh ‘nhất Dương nhị Ích’, tài vật trong thành Dương Châu được thu thập lại, chất cao như núi, vàng bạc châu báu, kỳ trân dị bảo nhiều không kể siết. Hèn gì quân Nguyên và quân Thanh đánh chiếm Dương Châu đều mở cuộc đại tàn sát để cướp đoạt tài vật. Kim Nguyên Bảo và Ngân Nguyên bảo (nén vàng, nén bạc dạng thuyền kiểu Trung Hoa) đều có nguồn gốc từ tài vật cướp được ở Dương Châu. Khi quân Nguyên chiếm Dương Châu đã mở cuộc đại tàn sát, cướp được vàng bạc nhiều vô số. Viên tướng Nguyên đã cho đúc vàng, bạc thành nén dạng thuyền, chở về kinh đô. Nguyên đế thấy hình dáng như thế rất đẹp, nên cho phổ biến rộng rãi, và được các triều đại sau này tiếp tục sử dụng. Nguyên Bảo có nghĩa là bảo vật của nhà Nguyên.

Số tài vật thu được ở Dương Châu tương đương với tài vật ở Tô Châu và Hàng Châu cộng lại, đủ thấy người Dương Châu giàu như thế nào. Các chiến thuyền phải liên tục vận chuyển chiến lợi phẩm ra Sùng Minh đảo, rồi Lục Tinh đại vận hạm sẽ vận chuyển tài vật về Gia Định. Lương thực thu được thì giữ lại làm quân lương. Sau các cuộc cướp phá ở khu vực Giang Nam và Hồ Quảng, vựa lúa của Trung Hoa đã trở nên hoang tàn, không một bóng người, rất nhiều kho quân lương của Minh triều đã rơi vào tay quân đội Đế quốc. Tình hình chiến sự đối Minh triều càng thêm bất lợi.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 61 : DƯƠNG CHU BINH BẠI

Lại nói, các tướng lĩnh của Dương Châu vệ cuối cùng cũng chấp nhận đề nghị của Đổng Chương, chia cho ông ta 3.000 quân để xuất thành nghênh chiến. Trong lúc chờ điều động quân đội, Đổng Chương trở về phủ, gọi viên sư gia thân tín đến bảo :

- Ngươi hãy mau thu xếp cho gia quyến của bản phủ cải trang thành sĩ binh, trà trộn vào quân đội mà xuất thành.

Viên sư gia ngạc nhiên nói :

- Ý của Đại nhân là … ?

Đổng Chương cười nhạt nói :

- Bọn Trương Hạo Kiên muốn cùng chết với thành, bản phủ không ngăn cản. Hừ. Kinh đô còn bị vây, Tô Châu còn bị san bằng, bản thành làm sao chống nổi.

Viên sư gia ngơ ngác hỏi :

- Tặc quân hùng mạnh như thế, sao Đại nhân còn suất quân nghênh chiến ? Vãn sinh thấy chẳng có bao nhiêu cơ hội chiến thắng.

Đổng Chương cười lạnh nói :

- Bản phủ cũng thấy vậy, nhưng nếu xuất thành, may ra còn có cơ hội sống sót. Bản phủ là văn quan, khi xuất chiến có ở phía sau cũng chẳng ai nói gì được. Hễ binh bại, bản phủ có thể tìm nơi lánh nạn. Sau này triều đình có tra xét, chỉ cần báo cáo là bị tặc quân chặn mất đường, không hồi thành được. Như thế vẫn còn hơn cùng chết với thành.

Viên sư gia sáng mắt lên, tán tụng :

- Đại nhân anh minh.

Đổng Chương ngay trưa hôm đó suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh địch. Sau khi rời thành, viên sư gia lẳng lặng dẫn gia quyến của tri phủ đại nhân và của mình rời quân đội, lánh nạn về phương bắc. Quân đội tiếp tục hướng nam hành quân.

Đồng Sơn.

Đồng Sơn là một ngọn núi nằm về phía nam Dương Châu Thành, gần Đại Vận Hà và Trường Giang, đỉnh núi cao 149,5 mét, là ngọn núi cao nhất Dương Châu. Trong lúc bố trí tấn công Dương Châu Thành, Thần Vũ quân đệ nhị sư tạm thời đóng chỉ huy bộ ở đó. Hiệu úy Đào Gia Khiêm cùng các tùy tướng, vệ úy hợp nhau bàn bạc kế hoạch công thành. Trưa hôm đó, nghe thám tử hồi báo, Đào Gia Khiêm cười nhạt nói :

- Đổng Chương thật là to gan lớn mật nha. Dám bỏ thành không phòng thủ, lại suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh chiến. Như thế càng tiện cho chúng ta.

Đào Gia Khiêm thật sự không nghĩ ra được lý do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương xuất thành nghênh chiến. Phải chi quân Minh đông hơn thì không nói, đằng này là lấy 3.000 chống 1 vạn có thần công đại pháo hỗ trợ.

Bầu trời đầy mây, thái dương khuất sau bạch vân làm không gian bớt chói chang hơn. Mây trắng dày đặc trên không trung tạo ra cảm giác bầu trời có vẻ thấp hơn. Gió mát từ ngoài sông thổi vào, làm không gian dịu mát. Từ trên núi cao nhìn xuống, không gian cũng thoáng đãng rộng lớn hơn.

Đào Gia Khiêm cho 9 bộ binh vệ bày trận dưới chân núi chờ quân Minh đến, còn kỵ binh vệ mai phục sau những đám cây rậm trên núi, chờ lệnh xuất kích. Cả 200 khẩu thần công cũng được bố trí trên núi. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều thuộc về đệ nhị sư.

Ước nửa giờ sau, 3.000 quân Dương Châu vệ do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương thống lãnh đã hành quân đến nơi. Bọn họ phải đối mặt với 9.000 địch quân chờ sẵn từ lâu. Đổng Chương ngồi trên chiến mã ở phía sau hàng quân, xung quanh là 100 thân binh. Cả bọn đã sẵn sàng để … bỏ chạy. Hầu như không ai tin rằng trận này Dương Châu vệ có thể thắng được, từ tướng lĩnh cho đến sĩ tốt. Có điều, không ai phản đối việc xuất thành nghênh chiến của Đổng Chương, bởi cả bọn đều đang chờ cơ hội để bỏ chạy, đương nhiên là chạy luôn về phương bắc lánh nạn chứ không phải chạy về Dương Châu Thành. Không ai muốn cùng chết với thành. Qua lời của lưu dân Giang Nam đi ngang qua đây, bọn họ đều biết được tình cảnh của các phủ huyện ở Giang Nam.

Bọn Đào Gia Khiêm nhìn quân Minh như nhìn những người sắp chết. Tại chiến trường bằng phẳng thế này rất có lợi cho hỏa khí của Đế quốc phát huy toàn bộ oai lực. Phía sau bọn họ lúc này có đến 200 khẩu thần công đã nạp đạn sẵn sàng, toàn là Khai hoa đạn. Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Lệnh xạ thủ chuẩn bị, vọng thủ ước tính cự ly. Khi địch quân tiến đến 200 trượng đồng loạt khai hỏa.

- Vâng.

Nhận được mệnh lệnh, xạ thủ và vọng thủ đều chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi khẩu thần công có 2 xạ thủ, phụ trách nạp hỏa dược, đạn pháo và châm lửa. Còn vọng thủ là những người tinh thông toán thuật, có thể ước tính khoảng cách địch - ta.

- Địch quân cách 500 trượng.

- Địch quân cách 400 trượng.

- Địch quân cách 300 trượng.

- Địch quân cách 200 trượng.

- Khai hỏa.

Các khẩu thần công lập tức gầm lên, rải đạn về phía quân Minh. Mỗi viên Khai hoa đạn chứa hơn trăm mảnh sắt bén nhọn, 200 viên nổ tung trên đầu quân Minh, rải xuống hàng vạn mảnh sắt, làm quân Minh thương vong thảm trọng, kêu gào rên rỉ inh ỏi. Chiến trường máu thịt tứ tung, không khí lẫn theo mùi tanh của máu, cảnh tượng cứ như ở dưới mười tám tầng địa ngục. Chỉ có Đổng Chương cùng đám thân binh ở phía sau, nằm ngoài tầm đạn pháo nên thoát được (Đổng Chương sợ chết nên đi rất chậm). Nhìn thấy thảm cảnh trước mặt, cả bọn sợ xanh mặt, vội vã quay đầu ngựa tháo chạy. Đào Gia Khiêm đời nào để cho bọn họ tháo chạy dễ dàng như thế, lập tức truyền lệnh :

- Kỵ binh vệ truy kích.

Thế là 1.000 kỵ binh ùa xuống núi, đuổi theo truy sát hơn 100 người bọn Đổng Chương. Còn 9 bộ binh vệ bắt đầu xử lý chiến trường, giải quyết toàn bộ quân Minh thương vong. Vì sắp phải công chiếm Dương Châu, bọn họ không muốn phân bớt binh lực canh giữ tù binh - không thu tù binh.

Trận chiến Đồng Sơn kết thúc, giải quyết xong chiến trường, đệ nhị sư lập tức hành quân đến Dương Châu. Kỵ binh vệ đi trước, đến phong tỏa Dương Châu Thành. Kỵ binh tuy không thể công thành, nhưng có thể phong tỏa thành trì. Dù sao thì quân Minh trong thành cũng chỉ còn lại khoảng nghìn người.

Sáng hôm sau, đệ nhị sư đại quân đã dàn trận phía trước Dương Châu Thành. Phía sau quân trận chính là trận địa thần công đại pháo. Bên cạnh đó là một núi đạn pháo. Dương Châu Thành nằm ngay bên cạnh Đại Vận Hà, tiếp tế cực kỳ dễ dàng.

Cho quân đội chuẩn bị hoàn tất, Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Khai hỏa.

Thần công đại pháo tiếp tục gầm lên, oanh kích vào Dương Châu Thành. Trận địa pháo chia làm 2 bộ phận, 100 khẩu thần công hướng vào thành môn nhả đạn, 100 khẩu còn lại rải đạn lên tường thành, tiêu diệt thủ quân. Sau 10 loạt đạn, thành môn bị phá, toàn bộ đại pháo được đẩy lên rải đạn pháo vào bên trong mở đường cho bộ binh tiến quân.

Dương Châu vệ chỉ huy sứ Trương Hạo Kiên ban đầu còn tập trung được vài vạn dân phụ hiệp trợ thủ thành. Nhưng khi thành môn bị phá, đạn pháo rải vào trong thành, một bộ phận dân phu hốt hoảng tìm đường chạy trốn, làm lòng quân hoán tản. Đến khi Đào Gia Khiêm cho quân bắc loa truyền rằng Đế quốc quân đội không bắt tù binh, hễ ai cầm vũ khí chống lại đều trảm thủ, thì quân dân trong thành không còn ai cầm vũ khí nữa. Trương Hạo Kiên cùng đám tùy tướng và thân binh mở cửa bắc bỏ chạy, và bị kỵ binh vệ truy sát. Đệ nhị sư đại quân tiến vào Dương Châu Thành.

Tiếp theo đó, cũng như ở vùng Giang Nam, bọn Đào Gia Khiêm tiến hành đại thanh lý. Một bộ phận nhỏ dân chúng quy thuận được cấp lương thực và đưa ra ngoài thành, lên thuyền di cư về phương nam. Sau đó, toàn bộ tài sản của quan phủ và quân dân trong thành bị tịch thu hết. Toàn bộ cư dân bị cưỡng chế rời khỏi Dương Châu, đi về phương bắc. Dương Châu Thành bị san bằng. Do có thuốc nổ nên việc san bằng thành trì cũng không khó lắm.

Việc chiếm thành chỉ mất mấy canh giờ, nhưng việc xử lý sau chiến tranh mất gần nửa tháng. Không hổ danh ‘nhất Dương nhị Ích’, tài vật trong thành Dương Châu được thu thập lại, chất cao như núi, vàng bạc châu báu, kỳ trân dị bảo nhiều không kể siết. Hèn gì quân Nguyên và quân Thanh đánh chiếm Dương Châu đều mở cuộc đại tàn sát để cướp đoạt tài vật. Kim Nguyên Bảo và Ngân Nguyên bảo (nén vàng, nén bạc dạng thuyền kiểu Trung Hoa) đều có nguồn gốc từ tài vật cướp được ở Dương Châu. Khi quân Nguyên chiếm Dương Châu đã mở cuộc đại tàn sát, cướp được vàng bạc nhiều vô số. Viên tướng Nguyên đã cho đúc vàng, bạc thành nén dạng thuyền, chở về kinh đô. Nguyên đế thấy hình dáng như thế rất đẹp, nên cho phổ biến rộng rãi, và được các triều đại sau này tiếp tục sử dụng. Nguyên Bảo có nghĩa là bảo vật của nhà Nguyên.

Số tài vật thu được ở Dương Châu tương đương với tài vật ở Tô Châu và Hàng Châu cộng lại, đủ thấy người Dương Châu giàu như thế nào. Các chiến thuyền phải liên tục vận chuyển chiến lợi phẩm ra Sùng Minh đảo, rồi Lục Tinh đại vận hạm sẽ vận chuyển tài vật về Gia Định. Lương thực thu được thì giữ lại làm quân lương. Sau các cuộc cướp phá ở khu vực Giang Nam và Hồ Quảng, vựa lúa của Trung Hoa đã trở nên hoang tàn, không một bóng người, rất nhiều kho quân lương của Minh triều đã rơi vào tay quân đội Đế quốc. Tình hình chiến sự đối Minh triều càng thêm bất lợi.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 62 : TRUY SÁT TRƯƠNG PHỤ

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 6. Thăng Long.

Hoàng Cung của Đại Việt xưa, nay là Đại tướng quân phủ, các tướng Minh triều như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính, Vương Hữu, … hội họp bàn bạc tìm cách vượt qua cảnh nguy khốn trước mắt. Từ khi Thăng Long bị vây, tình hình nguy cấp, những cuộc hội họp như thế này diễn ra hàng ngày ở đây. Nhưng thực lực song phương quá chênh lệch, bọn họ vẫn không tìm ra được cách gì để cứu vãn tình thế nguy ngập hiện tại, chỉ còn biết đặt hy vọng vào các đạo viện quân từ Vân Nam và Lưỡng Quảng sắp sang.

Hôm nay, thần sắc Trương Phụ cực kỳ không tốt. Chư tướng đều đoán rằng đã có đại sự phát sinh. Phương Chính ngạc nhiên hỏi :

- Đại soái. Có việc gì khiến ngài phải lo lắng như vậy. Tuy lúc này tình hình đối chúng ta có phần bất lợi, nhưng chỉ cần viện quân sang đến thì chúng ta sẽ đánh tan quân Nam được ngay. Cũng giống như thời bọn Trần Quỹ, Đặng Tất vậy đó. Quân Nam chỉ mạnh nhất thời, làm sao có thể chống nổi đại binh Thiên triều.

Mộc Thạnh lắc đầu nói :

- Không dễ dàng thế đâu. Phạm Thế Căng không giống bọn Đặng Tất. Họ Phạm nổi danh là Giao Chỉ đệ nhất danh tướng, đánh đâu thắng đó. Nếu viện quân sang, chúng ta cũng chỉ có thể bảo vệ được Đông Quan mà thôi.

Đông Quan chính là tên gọi thời này của Thăng Long, do bọn Hồ Quý Ly đặt sau khi dời kinh đô về Tây Đô (Thanh Hóa). Nghe nhắc đến viện binh, Trương Phụ lại thở dài. Mộc Thạnh kinh hãi hỏi :

- Đại soái. Phải chăng viện binh gặp trở ngại gì trên đường đi ?

Trương Phụ lại thở dài, nói :

- Không có viện binh nữa đâu.

Phương Chính cả kinh, đứng bật dậy nói :

- Không thể nào nha. Rõ ràng triều đình đã đưa tin sang bảo là sẽ có viện binh kia mà.

Trương Phụ thần sắc trầm trọng, nhìn khắp chư tướng một lượt, nói :

- Bản soái buộc phải báo cho mọi người biết một tin rất xấu.

Chư tướng thấy Trương Phụ thần sắc trầm trọng, biết là sự việc nghiêm trọng, đều chú tâm lắng nghe, đồng thời suy đoán xem chuyện gì. Trương Phụ nói :

- Quân Nam mạnh hơn chúng ta tưởng nhiều. Đây là hịch văn của bọn chúng truyền sang Trung Nguyên. Mọi người xem đi.

Nói đoạn, Trương Phụ lấy tờ hịch văn mà Lý Tử Tấn soạn, truyền sang đất Minh triều đưa cho chư tướng xem. Mọi người lần lượt xem qua, ai nấy đều vừa kinh vừa nộ. Phương Chính vỗ bàn nói :

- Vô quân vô phụ. Bọn chúng thật không xem Thiên triều ra gì mà !

Vương Hữu nói :

- Đại soái. Bọn chúng truyền hịch như thế, lẽ ra triều đình phải phẫn nộ, điều động đại quân sang chinh phạt chứ, sao lại không có viện binh ?

Chúng tướng đồng thanh khen phải. Chỉ có Mộc Thạnh là vẫn nhíu mày suy nghĩ. Vương Hữu hỏi :

- Kiềm quốc công. Ngài nghĩ ra điều gì vậy ?

Mộc Thạnh là con thứ của Kiềm Ninh Vương Mộc Anh, kế nghiệp anh là Mộc Xuân, trấn thủ đất Vân Nam vào năm 1398. Sau khi đánh bại nhà Hồ, chiếm lĩnh Đại Việt, Mộc Thạnh đã được Vĩnh Lạc đế phong làm Kiềm quốc công vào năm 1408 (tước quốc công chỉ thấp hơn tước vương). Trong thời Minh, con cháu nhà họ Mộc đời đời trấn thủ Vân Nam, phụ trách phòng ngự sự tấn công của quân Miến Điện.

Nghe hỏi, Mộc Thạnh lắc lắc đầu, xua tan những ý nghĩ không có đáp án, quay sang hỏi Trương Phụ :

- Đại soái. Trước đây khi hoàng thượng khởi binh Tịnh nạn, nghe nói có nhận được viện trợ từ một thế lực ngoại quốc, phải chăng … ?

Trương Phụ gật đầu nói :

- Ta nghĩ đúng là bọn họ. Hoàng thượng trước đây có hứa tạo điều kiện cho bọn họ buôn bán với Trung Nguyên. Nhưng triều đình gần đây lại tăng cường hạn chế việc buôn bán với ngoại quốc. Có lẽ vì thế mà đã làm bọn họ tức giận.

Phương Chính chép miệng nói :

- Bọn họ tức giận thì làm được gì. Chẳng lẽ bọn họ còn có thể xâm phạm Thiên triều được sao ?

Trương Phụ trầm trọng nói :

- Đúng thế.

Phương Chính nói :

- Phải như vậy chứ ! Trong thiên hạ còn ai dám xâm phạm Thiên triều, không sợ Thiên oai hay sao.

Trong khi đó, Mộc Thạnh lại giật mình hỏi :

- Đại soái. Chẳng lẽ bọn họ đã xuất quân ?

Trương Phụ gật đầu nói :

- Đúng thế. Hịch văn vừa truyền là bọn họ cũng xuất quân.

Chúng tướng cả kinh, sửng sốt, thất thần. Hồi lâu, Mộc Thạnh mới hỏi :

- Đại soái. Tình hình chiến sự thế nào rồi ? Chẳng lẽ bọn họ đã đánh vào Lưỡng Quảng ?

Trương Phụ nói :

- Không. Tình hình nghiêm trọng hơn nhiều.

Chư tướng nghe nói vậy, tâm tình bất giác trở nên trầm trọng. Không ai nói gì nữa, ngồi yên chờ nghe Trương Phụ nói. Trương Phụ khẽ than một tiếng, nói :

- Hồi tháng tư, bọn họ xuất quân hai đường tấn công bản triều. Tây lộ quân từ đất Thái tấn công Vân Nam. Đông lộ quân từ ngoài biển tấn công Quảng Đông. Thành Quảng Châu chỉ cầm cự được mấy canh giờ là thất thủ. Sau đó các phủ huyện khác cũng lần lượt thất thủ. Cũng cùng lúc đó, các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và Nam trực lệ cũng bị tấn công. Đến giờ, các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang đều đã rơi vào tay bọn họ. Ngay cả Nam Kinh cũng đang bị bao vây, Đại Vận Hà và Trường Giang đã bị phong tỏa. Theo tin mới nhất, các đạo quân của bọn họ đang tụ tập về Nam Kinh, chuẩn bị công thành.

Tình hình còn nghiêm trọng hơn chư tướng tưởng tượng. Mọi người thất thần, đầu não hỗn loạn. Chỉ có Mộc Thạnh là còn trấn tỉnh, hỏi :

- Đại soái. Quảng Tây vẫn chưa thất thủ ?

Trương Phụ khẽ lắc đầu, nói :

- Chưa. Nhưng sắp rồi. Tây lộ quân sau khi chiếm xong Vân Nam đang chuyển hướng sang Quảng Tây.

Mộc Thạnh nói :

- Đại soái. Chúng ta ở đây cố thủ cô thành, cũng không ích lợi gì. Phạm Thế Căng vì sợ tổn thất nên không công thành, chứ nếu quân Nam toàn lực công thành, chúng ta cũng khó giữ được. Tình hình đã vậy, triều đình chắc chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến việc Giao Chỉ. Chi bằng chúng ta tạm rút về giữ Quảng Tây.

Trương Phụ gật đầu nói :

- Ta cũng nghĩ vậy.

Thế là cả bọn bàn bạc việc rút khỏi Thăng Long, chạy về giữ Quảng Tây. Trong thành quân Minh chỉ còn gần 2 vạn, để có đủ binh lực giữ Quảng Tây, không thể để tổn thất thêm nữa.

Mấy hôm sau, vào buổi tối, quân Minh bất ngờ mở cửa đông, bỏ thành rút chạy. Bọn họ không đi bằng cửa bắc bởi nơi đó Phạm Thế Căng có đặt trọng binh trấn giữ. Bọn họ cũng không chạy về hướng Bạch Hạc là đường quân Minh kéo sang đánh nhà Hồ khi trước, mà lại chạy về phía đông bắc, theo hướng Vạn Kiếp, rồi từ đó rút về Quảng Tây qua đường Lạng Sơn, đến châu Tư Minh. Trương Phụ khi trước sang đây bằng đường Bạch Hạc, nay không dám về bằng đường cũ, sợ bị phục kích.

Gần 2 vạn quân Minh, vì đào mạng mà chạy đi rất nhanh và lặng lẽ. Không ai dám phát ra tiếng động mạnh, sợ bị đối phương phát hiện. Sự việc có liên quan đến tính mạng, quân Minh bộc phát năng lực mà ngày thường không thể nào có được. Trương Phụ dẫn quân an toàn chạy đến bến Vạn Kiếp, mọi người thở phào nhẹ nhòm. Quân Minh một số lo nấu cơm ăn, một số khác lo kết bè để sang sông. Cả bọn tạm nghỉ ngơi giây lát trước khi tiếp tục cuộc bôn đào.

Cơm nấu xong, quân Minh đang tụ tập lại chuẩn bị ăn cơm, đột nhiên từ xa có tiếng pháo nổ vang trời, rồi có tiếng quân hò reo vang dội. Liền đó là một trận pháo kích dội xuống đầu quân Minh, tạo ra tổn thất thảm trọng. Quân Minh không còn lòng dạ nào ở lại đấy nữa, quăng bỏ chén cơm, tìm đường tháo chạy. Từ phía đông nam có đến mấy vạn quân đang rung cờ đánh trống rầm rộ tiến vào, đao thương kiếm kích sáng ngời, tiếng quân reo dậy đất. Quân Minh đã biết đối phương lợi hại rồi, đương nhiên không dám chạy ra hướng đó, đành kéo nhau xuống bè bơi sang bờ bên kia. Một số khác không lên được bè, đành ôm khúc gỗ bơi sang, vũ khí khôi giáp quăng bỏ cả. Giữa lúc đó, trên sông xuất hiện rất nhiều chiến thuyền, thuận dòng bơi đến. Từ trên thuyền tên bắn xuống như mưa, quân Minh chết vô số, máu tươi nhuộm hồng cả mặt sông.

Bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh được chúng tùy tướng hộ tống chạy sang được bờ bên kia, kiểm điểm lại binh mã, thấy chỉ còn lại vài nghìn người, đại tướng Vương Hữu tử trận. Lúc đó, quân Nam lại lên thuyền chuẩn bị vượt sông đuổi theo. Cả bọn không dám chần chờ, vội vã cướp đường mà chạy.

Trên đường đi, quân Minh thường xuyên bị dân binh các thôn làng phục kích, thiệt hại dần. Thỉnh thoảng lại nghe phía sau có tiếng quân Nam hò hét đuổi theo, nên cả bọn đều không dám dừng chân nghỉ ngơi, việc ăn uống chỉ đành gặm lương khô, uống nước lạnh. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi vô cùng, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 63 : Tiến Quân Quảng Tây

Lại nói, trên đường rút chạy, quân Minh bị phục kích ở Vạn Kiếp, thiệt hại thảm trọng. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi rã rời, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.

Nội Bàng vốn là một quan ải, đồi núi hiểm trở. Khi quân Minh đi qua đó, lập tức từ trên núi có đạn pháo và cung tên bắn xuống, đồng thời còn có phục binh đổ ra đánh. Các tướng Minh hết sức chống trả, cướp đường mà chạy. Phương Chính suất lĩnh 1.000 quân đoạn hậu, bị chết trong đám loạn quân.

Chạy đến Lộc Châu, quân Minh lại gặp phục binh từ hai bên sườn núi bắn tên tẩm độc xuống như mưa. Các tướng Minh liều chết bảo hộ Trương Phụ chạy thoát, Mộc Thạnh tử trận. Qua khỏi Lộc Châu, quân Minh chỉ còn lại vài trăm người. Ai nấy thần tình ảo não. Trương Phụ không dám đi đường lớn nữa, dẫn quân lẻn theo đường tắt đi về phía châu Tư Minh.

Đến được châu Tư Minh là đã vào đất Quảng Tây rồi. Bọn Trương Phụ đều thở phào nhẹ nhõm. Nào ngờ, vừa đến gần quan ải thì từ bốn phía có đại quân đổ ra bao vây. Rồi từ trên quan ải có người nói vọng xuống :

- Trương tướng quân. Ta là Phạm Thế Căng, ở đây chờ tướng quân đã lâu.

Vừa nói xong, không để cho đối phương có thời gian phản ứng, Phạm Thế Căng truyền quân xông vào vây đánh. Ba nghìn quân trang bị tinh lương đối phó vài trăm người mỏi mệt rã rời, kết quả không cần nói cũng đủ biết. Bởi vì khi sang đánh Đại Việt, bọn Trương Phụ đối xử với dân Việt tàn nhẫn vô cùng, làm lắm điều tàn bạo gớm ghê, như là : xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu, còn những người Việt ai theo quân Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Do đó mà Phạm Thế Căng đã không bắt tù binh, sát tử tất cả.

Bọn Trương Phụ không thể chạy thoát được là do quan niệm thâm căn cố đế đã làm hại bọn họ. Sơn xuyên Đại Việt, bọn họ không thể nào thông thạo bằng bọn Phạm Thế Căng. Sau khi giải phóng Đại Việt, vây thành Thăng Long, Phạm Thế Căng danh tiếng lừng lẫy, dân Việt đều ủng hộ, sẵn sàng thông phong báo tín, báo tin về tung tích của quân Minh. Khi quân Minh còn ở trong thành Thăng Long, Phạm Thế Căng còn chưa nắm được rõ ràng. Nhưng từ khi quân Minh bỏ thành rút chạy thì chẳng bao lâu sau Phạm Thế Căng đã biết tin, bố trí phục kích. Bọn Trương Phụ cứ nghĩ rằng nơi đây cũng là đất Minh triều (quan niệm thâm căn cố đế rồi), cũng giống như bên Trung Nguyên, thành ra quên mất những vấn đề trên, dẫn đến toàn quân tận diệt.

Đế quốc có lực lượng Hải quân hùng hậu. Phạm Thế Căng ngay khi biết tin đã nhờ Hải quân vận chuyển 2 sư của Bảo Tiệp quân đến Vạn Kiếp, đồng thời lấy thêm dân ở đó giả làm quân đội để tăng thanh thế. Khi quân Minh đang chuẩn bị ăn cơm, mấy vạn đại quân kéo ra tấn công thì chỉ có 2 vạn quân ở phía trước là chính quy quân, còn phía sau đều là dân chúng giả trang. Khi quân Minh chạy được qua bên kia sông thì chỉ có 1 sư vượt sông đuổi theo, còn 1 sư theo đường biển sang đánh châu Tư Minh.

Tiêu diệt được bọn Trương Phụ rồi, Phạm Thế Căng thông tri cho Phạm Đống Cao ở Nghệ An ra trấn thủ Thăng Long, giao việc ổn định Thăng Long cho dân binh Mường của Phạm Đống Cao, rồi suất lĩnh Bảo Tiệp quân, Linh Tiệp quân tiến vào đất Quảng Tây. Khi Phạm Thế Căng đặt chân lên đất Quảng Tây thì 2 đạo quân Trấn Ninh, Trấn Phong đang công chiếm Giang Tây cũng giao cho Phạm Thế Căng thống lĩnh.

Mùa thu tháng 7, quân của Phạm Thế Căng và quân của Lý Ngân từ Vân Nam sang cùng hội họp dưới chân thành Quế Lâm. Sau khi Vân Nam, Quảng Đông, nam Giang Tây bị Đế quốc quân đội chiếm lĩnh, Quảng Tây đã trở thành một ốc đảo, bị bao vây tứ phía. Quân Minh ở đây không còn chút ý chí chiến đấu, đào binh vô số. Mà nguyên bản ở đây đã không có bao nhiêu quân đội, thành ra các phủ huyện nhanh chóng thất thủ, rơi vào tay Đế quốc.

Khi trước, để chuẩn bị lực lượng đánh nhà Hồ, Vĩnh Lạc đế đã cho điều động lực lượng từ Nam Kinh, theo đường thủy xuống hội binh với các lực lượng đang tập trung tại Quảng Tây, gồm 9,5 vạn quân từ các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng (gồm Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay), cộng với 1 vạn kỵ binh và bộ binh lấy từ Cấm quân, 3 vạn thổ binh từ Quảng Tây. Minh triều cũng huy động chuẩn bị tác chiến 7,5 vạn kỵ binh và bộ binh từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Các xứ Vân Nam và Quảng Tây được lệnh mỗi xứ phải chuẩn bị 20 vạn thạch lương (mỗi thạch 100 cân, mỗi cân 0,6 kilôgam) cung ứng cho quân đội. Vân Nam cũng được lệnh huy động 1 vạn quân tiếp viện. Trận chiến này đã điều động đến 22 vạn quân ở phía nam (khi sang đánh, quân Minh nói thăng lên là 80 vạn để hư trương thanh thế), sau khi chiếm được đất Đại Việt thì thiệt hại cũng không ít.

Đến khi Giản Định đế và Trùng Quang đế nổi lên, quân Minh đánh thua nhiều trận, thiệt hại không ít, phải rút về giữ Thăng Long và dâng biểu cáo cấp về Minh triều xin viện binh. Mộc Thạnh được lệnh mang 4 vạn quân Vân Nam sang cứu, nhưng lại bại trận, phải về giữ thành Cổ Lộng. Minh triều lại phải phái Trương Phụ dẫn quân sang cứu viện. Lần này Trương Phụ tuy bắt được Giản Định đế và Trùng Quang đế, nhưng chưa kịp ban sư hồi triều thì gặp phải Phạm Thế Căng suất quân bắc phạt, sau nhiều trận chiến đã tử trận tại châu Tư Minh, đại quân toàn diệt.

Sau mấy trận chiến liên tục đó, quân đội ở các tỉnh phương nam của Minh triều hầu như bị điều sang Đại Việt gần hết. Thành ra khi quân đội Đế quốc tiến sang, gần như tiến vào chỗ không người. Quảng Tây cùng với Vân Nam là hai nơi quân đội bị điều đi nhiều nhất. Vì thế mà Phạm Thế Căng tiến sang đã công chiếm các phủ huyện rất dễ dàng, chỉ chưa đầy 1 tháng đã tiến quân đến dưới chân thành Quế Lâm.

Trong thành Quế Lâm lúc này chỉ còn lại chưa đầy 2.000 quân. Đối diện với hơn chục vạn quân ngoài thành, thủ quân không còn ý chí kháng cự, liền giết chết tướng lĩnh chỉ huy, mở cửa thành đầu hàng. Chiếm lĩnh đại bộ phận Quảng Tây, Phạm Thế Căng để lại 1 sư của Bảo Tiệp quân tiếp tục bình định xứ này, rồi đại quân chuyển hướng sang đất Quảng Đông. Nhiệm vụ của Phạm Thế Căng lúc này là thống lĩnh 4 đạo quân Bảo Tiệp, Linh Tiệp, Trấn Phong, Trấn Ninh công chiếm Giang Tây và vùng nam Hồ Quảng (tức Hồ Nam). Còn Lý Ngân thống lĩnh 4 đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Biên tấn công Quý Châu và cướp phá Tứ Xuyên.

Vĩnh Lạc đế là kẻ tàn nhẫn và đa nghi. Sau khi dời lên Bắc Kinh đánh nhau với quân Mông Cổ, Vĩnh Lạc đế đã mang hai phần ba quân đội lên phương bắc, chỉ để lại phương nam một phần ba quân đội giao cho Thái tử Giám quốc thống lĩnh. Lúc này, các tỉnh phương bắc của Minh triều dày đặc quân đội. Sơn Đông 20 vạn (Sơn Đông, Liêu Đông), Bắc trực lệ 30 vạn (Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Hải quan), Sơn Tây 10 vạn (Nhạn Môn quan), Thiểm Tây 20 vạn (Trường An, Gia Dụ quan – Cam Túc). Trong khi đó các tỉnh phương nam ngoài Nam trực lệ (Nam Kinh) có 10 vạn quân, còn lại gần 30 vạn, phần lớn dốc vào chiến tranh ở Đại Việt, ở các tỉnh chẳng có bao nhiêu quân đội. Hậu quả của việc này là các tỉnh phương nam nhanh chóng thất thủ, dân chúng bị đuổi chạy về phương bắc, trở thành lưu dân ‘tam không’ (không nhà cửa, không tài sản, không lương thực), gây hỗn loạn ở vùng Giang Bắc.

Nói về Phạm Thế Căng, chỉ để lại Quảng Tây 1 sư của Bảo Tiệp quân phối hợp với dân binh Thái - Lào điều từ Vân Nam sang cùng bình định xứ này, sau đó suất lĩnh 2 sư của Bảo Tiệp quân, tiến vào đất Giang Tây hội họp cùng Trấn Phong quân và Trấn Ninh quân. Còn đạo Linh Tiệp quân tiến sang công chiếm vùng nam Hồ Quảng.

Trên đất Giang Tây, lấy vùng phía nam mới chiếm được làm bàn đạp, Phạm Thế Căng xua quân tràn lên phía bắc, công thành bạt trại, thế như phá trúc. Đại quân đi trước, dân binh Lã Tống, Mã Lai và Java điều từ Quảng Đông sang đi phía sau, phụ trách phòng thủ những phủ huyện mà bọn Phạm Thế Căng chiếm được. Đại quân men theo Cống thủy, tiến chiếm Cống Châu phủ, một vị trí trọng yếu nằm cạnh hợp lưu của Cống thủy và Chương thủy. Sau đó đại quân tiến thẳng về Nam Xương, thủ phủ của Giang Tây. Sau ba ngày công thành, dù thủ quân chiến đấu kiên cường, nhưng quân số quá ít, chỉ hơn 3.000 người, nên chỉ giữ được đến ngày thứ ba thì thành phá.

Vì trận này công thành chiến kéo dài, chiến sự khốc liệt, quân đội Đế quốc thiệt hại hơn 1.000 người (lấy 8 vạn quân tấn công một tòa thành chỉ có 3.000 thủ quân, thiệt hại như thế là nặng), Phạm Thế Căng nổi giận xung thiên, ra lệnh bắt giữ toàn bộ quan lại tướng lĩnh của Minh triều trong thành, trảm toàn gia. Toàn bộ sĩ tốt trong quân đội Minh triều, dù phủ binh hay dân binh đều bị trảm. Số người bị giết lên đến mấy vạn. Toàn bộ dân chúng bị xua về phía nam sung vào lực lượng khổ công. Nam Xương Thành không còn lại một bóng người. Vì việc này, Phạm Thế Căng phải điều 1 sư của Bảo Tiệp quân đi theo áp giải. Họ Phạm làm thế là muốn cảnh cáo những phủ huyện khác phải suy tính hậu quả nếu như chống lại đại quân.

(chú : trong lịch sử, Trương Phụ chết khi đi theo Minh Anh Tông đánh quân Ngõa Thích ở Thổ Mộc Bảo. Trận đó 50 vạn quân Minh đại bại, Minh Anh Tông bị bắt sống, Trương Phụ tử trận. Giờ đây gặp phải Phạm Thế Căng nên Trương Phụ chết sớm hơn).

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 64 : Cảnh đức Trấn

Sau trận Nam Xương, đại quân của Phạm Thế Căng đẩy nhanh tiến độ công thành bạt trại. Trấn Ninh quân khẩn cấp hành quân công chiếm các huyện vùng đông bắc Nam Xương, đặc biệt là Phù Lương huyện, nơi có một mục tiêu quan trọng do Giang Phong chỉ định phải ưu tiên công chiếm – Cảnh Đức Trấn. Các đạo quân còn lại tỏa đi đánh chiếm các nơi khác. Rất nhiều phủ thành có chưa đến nghìn thủ quân, khi đại quân đến nơi đã không dám kháng cự, nhanh chóng mở cửa thành đầu hàng.

Phù Lương huyện. Cảnh Đức Trấn.

Cảnh Đức Trấn là một trung tâm gốm sứ của Trung Hoa, lần đầu tiên được ghi vào sử sách là vào thời Đông Tấn, gọi là Tân Bình Trấn. Đến năm 621 thời Đường, cải tên thành Tân Bình huyện; năm 716 lại cải tên thành Tân Xương huyện, lập Xương Nam Trấn trực thuộc Tân Xương huyện. Năm 742, Tân Xương huyện cải tên thành Phù Lương huyện. Bắc Tống năm 1004, gốm sứ Xương Nam chất lượng ưu lương, được Tống Chân Tông chọn sử dụng trong cung đình, gọi là ngự dụng từ khí, đồng thời lấy niên hiệu làm tên, cải Xương Nam Trấn thành Cảnh Đức Trấn, để đề cao địa vị của gốm sứ Xương Nam. Từ đó, danh xưng Cảnh Đức Trấn được sử dụng đến ngày nay.

Cảnh Đức Trấn là một hương trấn thuộc Phù Lương huyện, nằm về phía đông bắc Nam Xương phủ. Ở đây có rất nhiều xưởng gốm sứ lớn, dân cư đông đúc, kinh tế thịnh vượng. Năm Nhâm Ngọ (1402), Vĩnh Lạc đế vừa chiếm được Nam Kinh, đăng cơ xưng đế, đã vội vã thành lập Cảnh Đức Trấn Ngự khí hán, chuyên cung cấp gốm sứ cho cung đình. Điều đó cho thấy Cảnh Đức Trấn đều được mọi triều đại coi trọng.

Khi nghe tin Nam Xương thất thủ, hàng vạn người bị giết, toàn bộ dân chúng bị cưỡng chế di cư về phương nam, các đại nhân vật có thân phận địa vị ở Cảnh Đức Trấn vội hội họp lại bàn bạc, tính chuyện tương lai. Không chỉ tin tức ở Nam Xương Thành, tin tức từ các xứ Hàng Châu, Tô Châu, Dương Châu, … liên tục đưa đến, cũng làm bọn họ lo lắng bất an. Dân chúng vốn không có bao nhiêu tài sản, còn bọn họ đều là đại phú hào, đại thương gia, không thể không lo. Mọi người tùy sự quen biết mà tụ họp thành từng nhóm, bàn tán sôi nổi, thậm chí tranh luận kịch liệt.

Trong lúc những người khác xôn xao bàn luận, Ngũ Quốc Trung, chủ xưởng gốm sứ lớn nhất Cảnh Đức Trấn, vẫn an nhiên nhấm nháp chung trà, thần thái tiêu dao tự tại, chẳng có vẻ gì là lo lắng cả. Thái độ của y trở nên rất nổi bật giữa cảnh mọi người đều lo lắng bất an này. Một người ngồi bên cạnh hiếu kỳ hỏi :

- Ngũ huynh xem ra vẫn tiêu dao tự tại, lẽ nào đã đi trước mọi người một bước ?

Những người xung quanh nghe nói đều quay lại nhìn. Ngũ Quốc Trung lắc đầu nói :

- Không có.

Người kia hỏi :

- Thế sao Ngũ huynh chẳng có vẻ gì là lo lắng hết ?

Ngũ Quốc Trung ung dung tự đắc nói :

- Việc gì phải lo lắng. Chúng ta tuy cũng là đại phú hào, đại thương gia. Nhưng chúng ta khác những vị lão bản ở Tô Châu, Hàng Châu.

Những người khác nhao nhao hỏi :

- Khác như thế nào ?

Ngũ Quốc Trung thủng thẳng nói :

- Chúng ta nắm giữ những loại gốm sứ chất lượng ưu lương nhất. Đó là một lá bùa hộ mệnh quan trọng. Chư vị có thấy khi nào cải triều hoán đại mà chúng ta bị liên lụy hay không ? Miễn sao chúng ta giữ đúng bổn phận của mình, đừng tham gia vào quan trường tranh đoạt thì không việc gì phải lo lắng.

Mọi người ồ lên, đồng thanh khen phải. Triều đại nào cũng cần gốm sứ để sử dụng. Cung đình cần, quan lại cần, phú hào cần. Do vậy mà Cảnh Đức Trấn luôn được các triều đại đặc biệt bảo hộ. Một người vẫn chưa yên tâm, hỏi :

- Chúng ta có cần đưa gia quyến đi tránh nạn không ?

Ngũ Quốc Trung nói :

- Tránh nạn ở đâu bây giờ ? Tứ phía đều binh hoang mã loạn, chạy ra ngoài lúc này, có thể bị giết bất cứ lúc nào. Còn nếu may mắn không bị giết thì cũng sẽ bị tịch thu tất cả mọi thứ, đuổi lên phương bắc, lúc đó lại phải đào củ, lột vỏ cây mà ăn qua ngày, và có thể chết đói bất cứ lúc nào.

Mọi người nghe họ Ngũ nói có lý quá, không ai dám bỏ trấn trốn đi. Cả bọn cũng không còn quá lo lắng cho tương lai, chuyển sang tán tụng họ Ngũ và tiếp tục bàn chuyện làm ăn.

Vài ngày sau, một toán 3.000 kỵ binh kéo đến phong tỏa Cảnh Đức Trấn, không cho ai rời khỏi. Trong đó có 1.000 kỵ binh trực tiếp bao vây Ngự khí hán. Có điều kỵ binh không quấy nhiễu người trong trấn nên mọi người cũng yên tâm chờ đợi.

Mười ngày sau, Phạm Thế Căng rời Nam Xương, đích thân dẫn Bảo Tiệp quân đệ nhị sư, đệ tam sư đến Cảnh Đức Trấn.

Phạm Thế Căng đến nơi, mệnh lệnh truyền xuống, quân đội lập tức tập trung tất cả các nghệ nhân gốm sứ, những người thợ làm việc trong lĩnh vực gốm sứ về một nơi, rồi dù muốn hay không muốn, tất cả đều bị cưỡng chế di cư về phương nam cùng với gia đình. Ai phản kháng, vẫn như mọi khi, trảm toàn gia. Dưới lưỡi đao sáng loáng, hầu như chẳng ai dám kháng cự. Tân gia của bọn họ đã được chuẩn bị sẵn ở Thuận An huyện, phía bắc Gia Định Thành. Giang Phong đã quyết định cho xây dựng nơi đó thành một trung tâm gốm sứ của Đế quốc.

Phạm Thế Căng chỉ cần những nghệ nhân, thợ gốm. Còn chủ xưởng, thương gia, phú hộ, quan viên, nho sĩ, tức những đại nhân vật thì xử lý giống như ở Tô Châu, Hàng Châu, Dương Châu – toàn trảm, gia sản tịch thu. Dân cư ở Cảnh Đức Trấn chỉ được chia thành 2 loại : người làm công (9 phần) và giới chủ (1 phần). Người làm công thì di cư về Thuận An, Gia Định. Giới chủ thì toàn trảm, bởi bọn họ là những người dễ thiên hướng về Minh triều nhất. Đế quốc chỉ cần thợ gốm sứ, không cần chủ xưởng gốm sứ. Các xưởng gốm sứ ở Thuận An hiện tại tuy quy mô không bằng ở Cảnh Đức Trấn, nhưng đó là do thiếu thợ, chứ tay nghề của các nghệ nhân ở đấy cũng chưa chắc thua kém những nghệ nhân ở Cảnh Đức Trấn. Dù sao thì Thái Học Viện lúc nào cũng nghiên cứu các công nghệ mới, mẫu mã mới, rồi đưa ra áp dụng tại các xưởng gốm sứ ở Thuận An. Còn ở Cảnh Đức Trấn thì chỉ nghề truyền nghề, làm theo kinh nghiệm mà thôi. Gốm sứ Chu Đậu thời Trần chất lượng rất tốt, trước khi quân Minh sang thì các nghệ nhân Chu Đậu đều đã di cư đến Thuận An. Chỉ đáng tiếc, nghệ nhân gốm sứ vẫn còn ít quá, không thể mở rộng quy mô, vì thế mà Giang Phong mới nhắm đến Cảnh Đức Trấn.

Sau khi xử lý xong công việc ở Cảnh Đức Trấn, Phạm Thế Căng truyền lệnh : san bằng Cảnh Đức Trấn. Không chỉ có thế, rất nhiều xác người chết, xác động vật chết còn bị ném xuống giếng, hồ, ao, đầm quanh đấy để sau này gây ra ôn dịch, để không ai dám đến đây sinh sống nữa. Phạm Thế Căng quyết định xóa sổ hẳn Cảnh Đức Trấn. Nếu sau này có người xây dựng lại Cảnh Đức Trấn thì khó thể xây dựng ở đây. Mà nếu xây dựng ở nơi khác thì Cảnh Đức Trấn sẽ không còn là Cảnh Đức Trấn nữa.

Đầu tháng chín, tin thắng lợi tới tấp đưa về Soái doanh của Phạm Thế Căng. Đến lúc này, 14 châu phủ ở Quảng Tây (Nam Xương, Trữ Châu, Thụy Châu, Cửu Giang, Nam Đường, Nhiêu Châu, Quảng Tín, Kiến Xương, Phủ Châu, Cát An, Lâm Giang, Viên Châu, Cống Châu, Nam An) và 77 huyện đều đã bị chiếm lĩnh hoàn toàn. Phạm Thế Căng để 2 sư của Bảo Tiệp quân ở lại ổn định tình hình, sau đó đại quân tràn sang vùng nam Hồ Quảng ở phía tây, mục tiêu Động Đình Hồ.

Hồ Quảng là một tỉnh lớn, gồm có 31 châu phủ, 108 huyện. Hồ có nghĩa là cái hồ, ý muốn chỉ Động Đình Hồ; Quảng nghĩa là rộng lớn. Hồ Quảng là đất Kinh Châu xưa, có thể chia thành 3 vùng : vùng nam Động Đình Hồ (tức Hồ Nam), vùng bắc Động Đình Hồ (tức Hồ Bắc), và vùng đông Động Đình Hồ (tức phần phía nam của An Huy, phần phía bắc của An Huy thuộc về Nam trực lệ). Theo chỉ dụ từ Gia Định, bọn Phạm Thế Căng chỉ chiếm lĩnh vùng nam Hồ Quảng, các phần còn lại chủ yếu là cướp phá, xua dân di cư về phương bắc. Dưới sự uy hiếp của Bắc Dương Hạm đội, khu vực hai bên bờ Trường Giang sẽ bị biến thành vùng trắng, không dân cư, trở thành ranh giới tự nhiên với Minh triều, tạo điều kiện cho Đế quốc ổn định khu vực chiếm được ở phía nam.

Sang tháng 10, toàn bộ những vùng phía nam Trường Giang đều đã bị Đế quốc kiểm soát (trong đó có vùng trắng không dân cư ở hai bên bờ Trường Giang). Quảng Tế Pháp sư cũng đã phái quan viên đến cai trị những vùng chiếm được. Theo ý của Giang Phong, những chức vị cấp tỉnh, quận sẽ do người Kinh, Mường, Chiêm đảm nhiệm (trong quan niệm của Giang Phong, người Kinh, Mường, Chiêm đều là người Việt). Còn các chức vị cấp huyện, ở vùng Vân Quý sẽ do người Thái – Lào đảm nhiệm; ở vùng Lưỡng Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, nam Hồ Quảng sẽ do người Lã Tống, Mã Lai, Java đảm nhiệm. Việc trị an cũng do 20 vạn dân binh kiểm soát.

_________________________________________________

Do Vĩnh Lạc đế tập trung quân đội lên phía bắc, phương nam nhanh chóng đổi chủ. Vĩnh Lạc đế nổi giận lôi đình, huy động 100 vạn đại quân nam hạ. Thần Thánh Đế quốc chỉ có thể điều động 30 - 33 vạn chống cự. Với tình hình như thế, theo bà con chiến tranh sẽ diễn ra thế nào theo hướng có lợi cho Đế quốc.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 65 : CHỦN BỊ ĐẠI QUYẾT CHIẾN

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa đông tháng 10.

Các vùng chiếm được từ Minh triều tạm thời đã ổn định, Quảng Tế Pháp sư phụng mệnh Giang Phong chia tỉnh, quận, huyện và điều phái quan viên đến đảm nhiệm việc trị dân.

Đất Vân Nam (rộng 394.100 kilômét vuông) Minh triều chia làm 60 châu phủ, 30 huyện (có châu, phủ không có huyện trực thuộc); Đế quốc chia thành 5 tỉnh, Vân Nam, Đại Lý, Lệ Giang, Bảo Sơn, Trấn Khang; 32 châu phủ lớn cải thành quận; còn lại lập huyện, đồng thời lập thêm nhiều huyện mới ở các vùng dân tộc (quan chức vẫn do người dân tộc nắm giữ, tự quản lý).

Đất Quý Châu (rộng 176.100 kilômét vuông) Minh triều chia làm 17 châu phủ, 14 huyện; Đế quốc chia thành 2 tỉnh Quý Dương, Vĩnh Ninh.

Đất Quảng Tây (rộng 236.700 kilômét vuông) Minh triều chia làm 58 châu phủ, 50 huyện; Đế quốc chia thành 3 tỉnh Quế Lâm, Tư Minh, Nam Ninh.

Đất Quảng Đông (rộng 177.900 kilômét vuông) Minh triều chia làm 19 châu phủ, 75 huyện; Đế quốc chia thành 3 tỉnh Quảng Châu, Quỳnh Châu, Triều Châu.

Đất nam Hồ Quảng (rộng khoảng 230.000 kilômét vuông) có 14 châu phủ, 42 huyện của Minh triều; Đế quốc chia thành 3 tỉnh Trường Sa, Hành Sơn, Nguyên Châu.

Đất Giang Tây (rộng 166.900 kilômét vuông) Minh triều chia làm 14 châu phủ, 77 huyện; Đế quốc chia thành 2 tỉnh Cống Chương, Cửu Giang.

Đất Phúc Kiến (rộng 121.400 kilômét vuông) Minh triều chia làm 9 châu phủ, 57 huyện; Đế quốc chia thành 2 tỉnh Phúc Châu, Tuyền Châu.

Còn các xứ Chiết Giang, Nam trực lệ, bắc và đông Hồ Quảng, nam Tứ Xuyên tuy Đế quốc cũng kiểm soát được hoàn toàn hoặc một bộ phận, nhưng không còn dân, nên không thiết tỉnh. Đó là vùng trắng, vùng ranh giới tự nhiên với Minh triều sau này.

Nam trực lệ (Nam Kinh). Kim Lăng Thành.

Cho đến lúc này, quân đội Đế quốc vẫn tiếp tục vây thành, và thường xuyên bắn pháo vào thành, bất kể đêm ngày. Quân ngoài thành không công thành, và quân trong thành cũng không thể phá vòng vây. Cho đến lúc này, trải qua gần nửa năm bị vây, quân dân trong thành cũng đã quá quen với tiếng đạn pháo rồi, thậm chí có người khi nghe pháo nổ cũng chẳng buồn tránh nữa, trúng đạn chết thì thôi, xem như là giải thoát.

Hiện tại trong thành đang lâm vào cảnh thiếu thốn lương thực nghiêm trọng. Các kho quân lương trong thành đủ cung cấp cho 10 vạn quân dùng trong mấy năm, nên quân đội không lo thiếu lương. Có điều dân chúng ít có ai dự trữ trong nhà cả nửa năm lương thực. Dân thành thị mà, mua vừa đủ ăn, ăn hết rồi lại đi mua tiếp. Các cửa hiệu bán gạo cũng vậy, kho gạo trong thành cũng chỉ đủ bán một thời gian mà thôi, và gần đây thì đều cạn sạch rồi (một phần là do bán hết, nhưng cũng có một phần đầu cơ làm giá, bị dân chúng phẫn nộ phá kho cướp sạch). Ngoài ra người trong thành cũng không có rau xanh để ăn hàng ngày. Trước đây thì mỗi ngày đều có nông dân chở rau từ ngoài thành vào bán, nhưng từ khi thành bị vây thì hết rau ăn rồi. Thử nghĩ xem suốt gần nửa năm không có rau ăn. Hậu quả … Ngay cả thịt cá cũng thiếu thốn. Nhà cửa bị đạn pháo bắn sập, bắn cháy cũng không có nguyên liệu để sửa chữa. Người dân trong thành đã sắp trở thành ‘tam không’ giống như lưu dân ở Giang Bắc.

Quân trong thành đã 3 lần tổ chức phá vây, nhưng cả 3 lần đều bị thiệt hại thảm trọng mà phải rút lui vào thành. Ban đầu thủ quân có 15 vạn thì lúc này chỉ còn lại chưa đến 10 vạn. Quân bên ngoài vẫn ổn định ở 4 đạo quân, 12 vạn người, và sau mỗi tháng quân số bị tổn thất sẽ được bổ sung ngay. Thật ra thì quân đội Đế quốc chỉ bị tổn thất một ít vào 3 lần phá vây của quân Minh. Chứ bình thường chỉ vây thành, không công thành, làm sao có thiệt hại.

Giữa tháng 10, các đạo quân tề tụ về Kim Lăng, chuẩn bị cho một cuộc chiến quy mô lớn sắp diễn ra.

Sùng Minh đảo. Trường Hưng Thành.

Trường Hưng Thành là một tòa tiểu thành mới được xây dựng trong thời gian bắc phạt, là căn cứ hậu cần của Đông lộ quân và cũng là đại bản doanh của Triệu Phong.

Lúc này, các tướng lĩnh của bắc phạt đại quân đang tụ họp bàn bạc chiến sự. Có Triệu Phong của Đông lộ quân, Lý Ngân của Tây lộ quân, Phạm Thế Căng của Nam lộ quân và Mã Tân của Bắc Dương Hạm đội. Ngoài ra còn có Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình mang chiếu lệnh của Giang Phong đến.

Đinh An Bình nói :

- Theo tin từ thám tử, Minh triều đang chuẩn bị huy sư nam hạ, giải vây Kim Lăng Thành.

Mã Tân hỏi :

- Đinh Đại nhân. Minh triều đang bị người Mông Cổ cướp phá vùng bắc biên và người Đông Doanh cướp phá vùng Sơn Đông, còn có thể điều động đại quân nam hạ được sao ?

Đinh An Bình nói :

- Hai phần ba quân lực Minh triều tập trung ở phòng tuyến phía bắc, tổng cộng 80 vạn. Lần này Vĩnh Lạc đế quyết tâm giải vây Kim Lăng, nên định bỏ mặc các xứ Cam Túc, Sơn Tây, chỉ tập trung phòng thủ vùng Hà Bắc, Sơn Đông mà thôi. Có thể đại quân nam hạ đông đến 60 vạn. Ngoài ra còn có thêm 40 vạn dân binh. Tổng quân số đạt đến 100 vạn.

Triệu Phong ngạc nhiên hỏi :

- 40 vạn dân binh ? Ở đâu ra thế ?

Đinh An Bình nói :

- Trước nay Minh triều thực hiện chính sách quân hộ, chỉ tuyển quân trong quân hộ, nhưng lần này tình hình nguy cấp, Vĩnh Lạc đế đã nghe lời quần thần, tuyển quân từ những người khỏe mạnh trong số lưu dân chạy loạn, vừa tăng thêm quân số, vừa giảm bớt số lưu dân thiếu đói, nhất cử lưỡng tiện. Có điều, 40 vạn dân binh đó thực chất cũng chỉ là nông dân bỏ cuốc cày cầm vũ khí mà thôi, chưa hề được huấn luyện, chiến lực chẳng đáng kể gì. Giống như Hoàng Cân quân thời Hán mạt vậy đó.

Phạm Thế Căng cau mày nói :

- Tổng binh lực của chúng ta chỉ có 42 vạn. Nếu vẫn tiếp tục bao vây Kim Lăng Thành thì chỉ có thể điều động tối đa 33 vạn quân ứng chiến. Nếu cùng quân Minh quyết chiến, dù chúng ta vẫn có thể chiến thắng, nhưng chắc chắn sẽ tổn thất thảm trọng. Quân Minh ở biên giới phía bắc thường xuyên đánh nhau với người Mông Cổ, nên đều thiện chiến.

Mã Tân cười nói :

- Ai bảo trực diện quyết chiến làm chi mà tổn thất thảm trọng.

Mã Tân tướng quân sau mười năm phục vụ trong quân đội Đế quốc, đã nghiên cứu rất sâu sắc chiến lược chiến tranh của Đế quốc. Triệu Phong gật đầu nói :

- Đúng thế. Chúng ta không cần quyết chiến, chỉ cần kéo dài thời gian. Quân Minh có một nhược điểm là không có nhiều lương thực. Quân đội càng đông thì càng nhanh chóng tan rã.

Đinh An Bình cười nói :

- Phải đó. Hồng Vũ đế kiến đô ở Kim Lăng vì nơi đây là vùng sản lương, do vậy mới có chủ trương ‘quảng tích lương, hoãn xưng vương’. Vĩnh Lạc đế dời đô lên Bắc Kinh. Mà phương bắc đất hẹp người đông, lương thực thiếu thốn, hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn lương thực từ Giang Nam chuyển lên. Mấy tháng nay, Hải quân của chúng ta phong tỏa Đại Vận Hà, vùng Hà Bắc đã lâm vào cảnh thiếu lương thực. Cộng thêm hơn nghìn vạn lưu dân đổ lên Giang Bắc, tình hình càng thêm trầm trọng. Giá lương thực đã tăng lên gấp mấy lần so với trước đây mà vẫn không có để bán. A a, 100 vạn quân, để xem bọn họ có thể cầm cự được bao lâu.

Mã Tân nói :

- Vậy thì chúng ta chỉ cần phong tỏa Trường Giang, không cho quân Minh vượt sông là được.

Đinh An Bình mỉm cười nói :

- Không không. Không nên phong tỏa tuyệt đối. Cũng nên tạo cơ hội cho quân Minh có thể vượt sông.

Triệu Phong khẽ cười hỏi :

- Ý Đại nhân là … ?

Đinh An Bình gật đầu, mỉm cười. Triệu Phong vỗ bàn cười nói :

- Hay lắm. Cứ làm như thế đi.

Mã Tân cũng đã hiểu ra, nói theo :

- Đúng thế. Nên tạo cơ hội cho quân Minh vượt sông. Chỉ là … không phải toàn bộ.

Mọi người đều cười. Đinh An Bình lại nói :

- Tháng trước Triều Tiên quốc có phái một đoàn thuyền chở lương thực sang hỗ trợ cho Minh triều. Thánh hoàng đã phái sứ giả đến trách hỏi, nhưng bọn họ không lý gì đến. Thánh hoàng đã phái một đội chiến hạm của Nam Dương Hạm đội tiến vào vùng biển Triều Tiên.

Triệu Phong bình luận :

- Bọn họ còn chưa nhìn rõ thời thế.

Đinh An Bình lại bảo Mã Tân :

- Tướng quân phái một tiểu phân hạm đội tiến vào Hoàng Hà, phong tỏa được phần nào hay phần đó. Làm sao khiến cho Hà Bắc thiếu đói thì càng hay.

Triệu Phong nói :

- Hay là để ta phái một đạo quân đi cướp phá các phủ huyện dọc hai bên bờ Hoàng Hà.

Đinh An Bình suy nghĩ một lúc, rồi nói :

- Hay đó. Chỉ cần phong tỏa triệt để Trường Giang, 33 vạn hay 30 vạn cũng không khác biệt gì nhiều.

Mã Tân hỏi :

- Có nên thông báo cho người Đông Doanh biết để cùng phối hợp không ?

Đinh An Bình gật đầu nói :

- Cũng được. Bảo bọn họ chuyển mục tiêu lên vùng duyên hải Hà Bắc.

Triệu Phong chợt nói :

- Nếu quân Minh huy sư nam hạ, biên giới phía bắc chắc chắn yếu đi. Nên liên hệ với người Mông Cổ tăng cường tiến công. Khi cần thiết, Hải quân có thể chở bọn họ theo đường biển đổ bộ lên Hà Bắc. Chỉ cần bọn họ chiếm được một đoạn Trường Thành, tình hình sẽ có biến chuyển ngay.

Mọi người khen phải. Phương hướng đã định. Việc còn lại là giao cho tham mưu đoàn tính toán.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 66 : VĨNH LẠC ĐẾ QUYẾT ĐỊNH THN CHINH

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414). Cũng tức là Minh triều Vĩnh Lạc năm thứ 12.

Khổng Phu Tử có câu nói : “Hà chính mãnh vu hổ”, nghĩa là chính quyền hà khắc đáng sợ như cọp dữ. Câu nói này rất thích hợp vào giai đoạn đầu này của Minh triều. Từ thời Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương, ‘hà chính’ nào chỉ đáng sợ như cọp dữ. Chu Nguyên Chương là người tàn bạo hiếu sát, liên tục tàn sát công thần, bởi cho công thần là những ‘gai nhọn’ có hại cho sự thống trị của họ Chu, cần phải loại bỏ. Toàn bộ những văn thần võ tướng từng vào sinh ra tử giúp ông ta dựng nên đại nghiệp đều bị sát hại triệt để. Nhiều vụ án lớn như Hồ Duy Dung, 3 vạn người bị sát hại; Lam Ngọc, 2 vạn người bị xử trảm. Sử cũ chép rằng, mỗi sáng trước khi vào triều các quan đều từ biệt vợ con, bởi không biết có còn sống qua ngày hôm đó hay không. Ông ta còn cấm đoán thương nhân, bởi cho rằng thương nhân là hạng người chỉ chuyên bóc lột người khác, dẫn đến thương mại đình đốn, thương nhân không dám làm ăn, các cửa hiệu đều đóng cửa, người dân muốn mua gì cũng không được. Mãi đến lúc xã hội hỗn loạn, ông ta mới rút bỏ lệnh cấm. Ngoài ra, đối phó không nổi hải tặc, ông ta lại ban bố ‘Cấm hải lệnh’, cấm người dân đóng thuyền lớn, cấm ra biển (kể cả đi đánh cá), cấm sinh sống gần biển, những người dân sống gần bờ biển đều bị cưỡng chế di dời vào nội lục. ‘Cấm hải lệnh’ bắt đầu từ Chu Nguyên Chương, tồn tại suốt trong triều đại nhà Minh. Như thế, nào chỉ gọi là ‘hà chính’, thật sự là ‘bạo chính’.

Sự lạc hậu của Trung Hoa so với thế giới cũng bắt đầu từ thời Minh. Trước đó, nền văn minh Trung Hoa luôn dẫn đầu thế giới trong hàng nghìn năm. Các sử gia cho rằng sự lạc hậu này có nhiều nguyên nhân, trong đó có biện pháp thống trị chuyên chế bảo thủ của Chu Nguyên Chương, đặc biệt là thể chế chính trị tập quyền cao độ, quyền lực về kinh tế nằm dưới cực quyền chính trị, mà các chế độ về cửa ải bến sông, chế độ cấm buôn bán trên biển, chế độ hộ làm nghề thủ công, chế độ lưu thông hàng hóa … là nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra, cách chọn nhân tài bằng lối văn bát cổ (một thể văn dùng trong các kỳ thi thời phong kiến, chỉ chuộng phô trương hình thức, ít chuộng giá trị đích thực của nội dung) và chủ trương văn hóa chuyên chế của Minh triều cũng là nguyên nhân chủ yếu để tạo nên sự đình trệ của xã hội Trung Hoa. Do đó, tuy Chu Nguyên Chương có công lớn đánh đuổi quân Nguyên, nhưng cũng có tội rất lớn đối với đất nước Trung Hoa.

Minh triều chỉ có được mấy năm dùng ‘nhân trị’ dưới thời Kiến Văn đế Chu Doãn Văn. Nhưng những năm này lại là những năm chiến tranh khốc liệt. Cuộc chiến Tĩnh nạn tuy chỉ kéo dài trong 3 năm, mà trước sau đã gây tổn thất gần trăm vạn quân. Lần đầu, triều đình phái lão tướng 65 tuổi Cảnh Bỉnh Văn suất lĩnh 30 vạn Bình Yên đại quân, đại bại ngay đêm Trung Thu. Tiếp đó lại đến phiên Lý Cảnh Long suất lĩnh 50 vạn quân tiếp viện, hợp với tàn quân của Cảnh Bỉnh Văn thành 60 vạn, và bại trận càng thê thảm hơn. Phía Yên quân, số tổn thất không rõ, nhưng cũng có mấy lần thảm bại, đại quân tận thất, chỉ còn Yên Vương Chu Lệ và một số tùy tướng chạy thoát về Bắc Bình. Ba năm chiến tranh, tổn thất gần trăm vạn quân, chưa kể đến bình dân bách tính chết trong chiến loạn hay trở thành lưu dân, chết đói trên đường chạy loạn.

Vĩnh Lạc đế Chu Lệ lên ngôi, tiếp nối sự tàn bạo hiếu sát của cha, sát hại rất nhiều quần thần. Và ông ta còn hơn cả cha mình ở chỗ hưởng thụ, hiếu danh và hiếu chiến. Chu Nguyên Chương còn tương đối tiết kiệm. Chu Lệ xây cung thất, đào Vận Hà, sửa Trường Thành, trưng tập hàng triệu phu dịch (làm không công). Chu Lệ tuyển mỹ nữ khắp thiên hạ (trong và ngoài nước), tận tình hưởng thụ, phung phí tiền tài để chiều ý mỹ nhân. Chu Lệ thường niên phát động chiến tranh, chinh nam phạt bắc, hao binh tốn của vô số. Quốc khố cạn kiệt, triều đình tăng thuế, dân chúng lầm than.

Chu Lệ là một vị hoàng đế cực kỳ hiếu danh, sử Tàu gọi là ‘hảo đại hỉ công’. Chu Lệ cũng là một vị hoàng đế ưa thể diện. Dẹp loạn, chinh chiến và bản thân phô trương lãng phí đã khiến cho quốc khố gần như cạn kiệt. Nhiều năm chiến tranh, các kho lương nhập không đủ xuất, lương thực cạn dần. Lương thiếu tiền thiếu, sự tình tự nhiên trở nên nghiêm trọng. Muốn giải quyết trong thời gian ngắn, chỉ có thể tăng thuế.

Cai trị trong hoàn cảnh đó, Vĩnh Lạc đế Chu Lệ lại không thể nghe được những lời trái tai. Những ai làm hoàng đế phật lòng, đều không có kết cục tốt. Kết quả, bên tai Vĩnh Lạc đế lúc nào cũng chỉ nghe những lời tán tụng anh minh thần vũ, thiên hạ thái bình, Vĩnh Lạc thịnh thế, … Mười mấy năm nhắm mắt bịt tai tự cao tự đại, thình lình đại chiến bộc phát, nam phương tận thất, chỉ trong vòng nửa năm mà một nửa giang sơn Đại Minh đã đổi chủ, Vĩnh Lạc đế không nộ khí xung thiên sao được.

Bắc trực lệ. Bắc Kinh. Dưỡng tâm điện.

Phía trên ngai rồng, Vĩnh Lạc đế Chu Lệ trợn mắt nhìn xuống mấy chục vị quần thần quỳ phục phía dưới.

Rầm.

Một âm thanh chấn động, vang vọng trên điện vốn yên ắng như tờ. Các tấu sớ trên long án bị Vĩnh Lạc đế xua tay, rơi đầy dưới nền điện. Vĩnh Lạc đế cầm lấy chung trà mà cung nữ dâng lên, nhấm nháp một ngụm để giáng hỏa, rồi mới nói :

- Đứng cả dậy đi. Việc đã thế rồi, chư khanh phải nhanh chóng tìm cách giải quyết.

Tuy nhiên không rõ ý tứ của Vĩnh Lạc đế thế nào, như quần thần phía dưới vẫn phải run rẩy đứng lên. Hoàng đế không nổi giận ? Lạ thật đấy ! Mấy chục vị đại thần không ai dám lên tiếng, toàn bộ đều cúi đầu chờ hoàng đế kim khẩu ngọc ngôn.

Hoàng thái tôn Chu Chiêm Cơ xuôi tay đứng hầu phía sau Vĩnh Lạc đế. Chu Chiêm Cơ là con trưởng của Thái tử Giám quốc Chu Cao Thức, rất được Vĩnh Lạc đế yêu quý, đi đâu cũng cho đi theo. Có lần, Vĩnh Lạc đế muốn phế Thái tử, hỏi đại thần về đức hạnh của Thái tử. Vị đại thần đó biết ý của Vĩnh Lạc đế, đã nói một câu : “Hảo hoàng tôn”. Thế là Vĩnh Lạc đế bỏ ý định phế Thái tử, vì muốn vị Hoàng thái tôn yêu quý của mình được kế ngôi.

Vĩnh Lạc đế đột nhiên quay lại hỏi :

- Cơ nhi. Ngươi nói thử xem. Trước tình thế này bản triều phải làm sao ?

Chu Chiêm Cơ giật mình, nhưng nhanh chóng trấn tĩnh, ngẫm nghĩ thật nhanh, rồi bình tĩnh nói :

- Đánh. Tập toàn quốc chi lực, nhất chiến diệt tặc quân, chương hiển Đại Minh thiên oai, an định thiên hạ nhân tâm, trọng chấn quân trung khí thế.

- Ừm.

Vĩnh Lạc đế mặt không đổi sắc, chỉ khẽ ậm ừ một tiếng, rồi quay sang hỏi chúng quần thần :

- Lời của Hoàng thái tôn, chư khanh thấy thế nào ?

Biết không thể chần chờ được nữa, nếu chần chờ có thể dẫn đến long nhan phẫn nộ, Cam Túc quân vụ chưởng sự Dương Vinh xuất ban tâu :

- Khải tấu thánh thượng. Thần nhận thấy lời Hoàng thái tôn rất có lý. Tặc quân phong tỏa Vận Hà, lương thực từ Giang Nam không thể vận chuyển lên phương bắc. Nếu triều đình không sớm khai thông Vận Hà, sớm muộn gì Hà Bắc cũng thiếu lương, tình hình sẽ nghiêm trọng.

Vua quan hay quân dân gì cũng đều không thể không ăn, thiếu lương đương nhiên tình hình sẽ nghiêm trọng, thậm chí sẽ xuất hiện phản loạn. Các cuộc khởi nghĩa nông dân lớn mạnh có khi nào không phải vì đói khổ. Vĩnh Lạc đế lại quay sang nhìn những người khác. Phò mã Quảng Bình hầu Viên Dung xuất ban tâu :

- Khải tấu thánh thượng. Nam Kinh là kinh đô của tiên đế, là bản triều căn cơ, nếu thất thủ, tất quân dân sĩ khí thụ tổn, thỉnh khẩn cấp tăng viện.

Vĩnh Lạc đế cau mày, nói :

- Tặc quân thế mạnh, bản triều còn phải phòng ngự Mông Cổ và Uy Khấu, không đủ binh lực nam hạ, khó a !

Cẩm Y Vệ đô chỉ huy thiêm sự Kỷ Cương xuất ban tâu :

- Khải tấu thánh thượng. Gần đây lưu dân từ Giang Nam chạy lên Giang Bắc ngày càng đông, vô sở xử sự, để lâu tất sinh biến. Triều đình có thể tuyển thanh tráng nhập ngũ, tất sẽ có trăm vạn đại quân.

Vĩnh Lạc đế khen phải, phán :

- Chư khanh hãy chỉnh bị binh mã, lương thực, khí giới, chuẩn bị huy sư nam hạ. Lần này trẫm sẽ thân chinh, suất trăm vạn đại quân bình tặc.

Chúng quần thần tuân chỉ. Bộ máy quân sự của Minh triều lập tức khẩn trương vận chuyển. Lương thực, vũ khí được tập trung về Thông Châu. Ngũ quân đô đốc phủ điều động 60 vạn binh mã tập hợp tổ chức nam chinh đại quân. Cẩm Y Vệ đô chỉ huy thiêm sự Kỷ Cương phụng chiếu đến vùng Giang Bắc trưng tập thanh tráng 40 vạn, sung vào quân đội. Quần thần văn võ cũng chuẩn bị sẵn sàng tùy giá nam chinh.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 67 : MINH TRIỀU BÁCH VẠN ĐẠI QUN

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.517 (́t Mùi, 1415). Cũng tức là Minh triều Vĩnh Lạc năm thứ 13. Mùa xuân, tháng giêng.

Sau mấy tháng chuẩn bị, Minh triều đã tụ tập được 60 vạn đại quân. Các đạo quân từ Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Liêu Đông, cùng kéo về hội quân ở Tế Nam (thủ phủ của tỉnh Sơn Đông), chuẩn bị Nam chinh. Cẩm Y Vệ đô chỉ huy thiêm sự Kỷ Cương cũng đã chiêu tập nạn dân được 40 vạn, tập trung ở Tế Nam luyện quân, chờ hội họp với đạo Cấm quân từ Thông Châu xuống.

Ngày 15 tháng giêng, Vĩnh Lạc đế tế cáo thiên địa, xa giá rời thành Bắc Kinh, ngự giá thân chinh. Đạo Cấm quân hộ giá đến Thông Châu, hội họp cùng đạo quân từ Sơn Tây vừa vượt Thái Hành Sơn sang, sau đó cùng vượt Hoàng Hà tiến về Tế Nam.

Ngày 8 tháng 2, các đạo quân hội nhau ở Tế Nam. Vĩnh Lạc đế tổ chức duyệt binh, chính thức truyền hịch nam chinh. Trăm vạn đại quân đóng trại bên ngoài thành, doanh trại dài trên trăm dặm (dặm Tàu), khắp nơi đều thấy toàn người là người. Vĩnh Lạc đế thấy trong tay mình có đến trăm vạn đại quân, ý khí phong phát, cuồng ngạo tuyên bố :

- Phen này trẫm thân chinh, quyết tận diệt loài nghịch lỗ.

Sau đó, Cam Túc quân vụ chưởng sự Dương Vinh lĩnh ấn tiên phong, suất lĩnh 30 vạn đại quân đi trước mở đường. Đạo trung quân do Vĩnh Lạc đế thân tự suất lĩnh, rầm rộ kéo về phương nam. Quân đi trải dài hàng trăm dặm. Trăm vạn đại quân khí thế ngút trời, ‘thiên hạ’ (theo khái niệm của Minh triều) chấn động.

Tin truyền về phương nam. Bắc Dương Hạm đội Đại đô đốc Mã Tân triệu tập đại bộ phận hạm thuyền về phòng ngự suốt dọc tuyến hạ lưu Trường Giang. Ngoài ra, Trấn Bắc tướng quân Phạm Thế Căng thân suất lĩnh đạo quân Định Hải được một phân hạm đội của Bắc Dương Hạm đội chở lên phía bắc.

Cuối tháng 2, đạo tiên phong của quân Minh tiến đến phía bắc Hoài Thủy. Tại đây, đường lộ bị phá hủy nghiêm trọng, quân Minh buộc phải tạm dừng lại, lo việc mở đường.

Ở đấy lại có một trại thủy quân bên bờ sông, trước đây có một đội thủy quân của Minh triều trú đóng, sau đó bị các chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội tiêu diệt, chiếm giữ. Giờ đây, thấy quân Minh người đông thế mạnh, các chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội tạm rời khỏi đấy, rút về phương nam. Chiếm lại được trại thủy quân, có sẵn cơ sở ở đấy, Dương Vinh liền cho đóng đại bản doanh ngay trong trại thủy quân, còn đạo quân tiên phong thì đóng doanh trại quanh đó. Quân Minh ban ngày đi mở đường, ban đêm trở về nghỉ ngơi ở đó.

Bấy giờ, vào đêm cuối tháng, trời đêm u ám không trăng. Một đội hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội lại tiến về phía thủy trại. Thuyền đi trên mặt nước, lấp loáng dưới ánh sao trời, mấy rặng u uất bóng cây xanh, một dải mênh mông màu lụa trắng, bốn bề lặng ngắt, thuyền lướt băng băng.

Khi đến canh tư, gần đến doanh trại quân Minh, cách khoảng 5 dặm mặt sông, đội hạm thuyền gặp phải 10 chiếc thuyền tuần tra của giặc. Thuyền giặc rất nhỏ, mỗi chiếc thuyền chỉ chở được ước chừng 10 người. Đó là những thuyền nhỏ của dân trong vùng vừa bị quân Minh trưng dụng. Hoàng Nghĩa Hiền, viên tướng thống lĩnh đội chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội lập tức truyền lệnh vây đánh, tiêu diệt được 8 chiếc, còn lại 2 chiếc đi sau cùng, nhanh tay chèo mà chạy thoát về thủy trại phi báo. Hoàng Nghĩa Hiền thúc đội chiến thuyền đuổi theo đến sát thủy trại.

Gần đến nơi, các chiến hạm dàn hàng, các khẩu thần công đều hướng về phía thủy trại. Một tiếng lệnh truyền, hơn trăm khẩu thần công đồng loạt khai hỏa, nã pháo về phía thủy trại. Liền đó, trong khi xạ thủ tiếp tục nạp đạn pháo thì chiến thuyền đã tiếp tục tiến sát đến mục tiêu hơn. Rồi sau đó các khẩu thần công lại tiếp tục nã đạn vào thủy trại, khiến cả khu vực thủy trại khói lửa mịt trời, tiếng rên la kêu gào dậy đất. Trước khi rút đi, quân đội Đế quốc đã chuẩn bị sẵn rất nhiều vật dễ cháy, để lại trong thủy trại và các khu vực quanh đó, lại còn rắc lên đó hỏa dược. Vì vậy mà khi bị dẫn hỏa, cả khu vực đột nhiên biến thành biển lửa. Quân Minh đang giấc ngủ mê, choàng thức giấc, kinh hồn thất vía, xô xát dẫm đạp nhau, kẻ thì chạy lên bờ, kẻ thì nhảy xuống sông, ai nấy đều chỉ cố tìm đường thoát thân, không ai có lòng dạ kháng cự.

Tiếp đó, các doanh trại của quân Minh đóng quanh đó cũng bị mấy đội đặc chủng binh của quân đội Thần Thánh Đế quốc xâm nhập phóng hỏa. Quân Minh ban ngày làm việc mệt nhọc, lúc này đang còn chìm đắm trong giấc mộng hương, đột nhiên cảm giác bốn bề nóng bức, rồi nghe tiếng báo động vang trời, bật ngồi dậy chạy ra khỏi trướng bồng thì đã thấy hỏa quang tràn ngập, liệt diệm xung thiên. Những kẻ ngủ mê, khi ngọn lửa ập đến, không chạy kịp, mang nhiên hốt hoảng giữa vùng lửa dữ. Những kẻ thật thà chậm chạp thì cố lo cứu hỏa. Những kẻ linh mẫn nhanh nhạy hơn thì đã đoán biết sự tình không hay.

Giữa cảnh hỗn loạn đó, thế lửa mỗi lúc một thêm dữ dội. Nguyên bản doanh trại, trướng bồng của quân Minh đều làm bằng gỗ, vải, lại thêm dưới đất ngập đầy lá cây, cỏ dại, và còn được rắc thêm hỏa dược từ trước, hiện tại lại bị đổ thêm dầu lên nữa. Ngọn lửa đã bốc lên ngùn ngụt, lan ra nhanh chóng, sức người làm sao cứu nổi. Chẳng bao lâu sau, ngọn lửa từ các điểm nhỏ ban đầu đã lan tràn ra khắp doanh trại. Số quân Minh lo cứu hỏa cũng đã bỏ dỡ hành động vô ích đó, bắt đầu tìm đường thoát thân. Thế nhưng, bốn phía đều là ngọn lửa, chạy đi đâu bây giờ.

Đêm hôm đó, ngay bờ sông, lửa cháy rực trời, pháo nổ vang dội. Dương Vinh ở trong thủy trại, nghe báo động, vội ra ngoài chỉ huy quân Minh ứng chiến. Có điều, đến lúc này bọn họ mới phát hiện nơi duy nhất không có lửa chính là cổng của thủy trại. Dương Vinh vốn là văn quan, tuy cũng có ít nhiều mưu lược, nhưng không có kinh nghiệm cầm quân tác chiến, lúc này liên hệ với quân Minh ở các doanh trại xung quanh lại bị cắt đứt, nên cũng không biết phải làm sao, chỉ đành cùng các tùy tướng và thân binh chạy vội ra hướng cổng thủy trại để tìm lối đào sinh.

Nào ngờ lúc này 2 đạo Thần Uy và Thần Vũ lại kéo đến, chia ra truy sát những kẻ may mắn thoát ra được từ các doanh trại của quân Minh quanh đó, đồng thời phân ra một sư án ngữ trước cổng thủy trại, chặn đứng hy vọng thoát thân của bọn Dương Vinh.

Tại khu vực chật hẹp nơi cổng thủy trại, số quân Minh muốn tìm lối thoát thân mạnh ai nấy chạy, bị dồn lại tại đó, khó thể qua được. Không chỉ có thế, trong bóng đêm ở phía xa xa lại còn có cung tên bắn tới không ngừng. Cứ 10 người thì chưa chắc đào thoát được 1, 2. Đó là chưa kể đến việc chạy thoát được ra bên ngoài sẽ còn bị đối phương truy sát.

Doanh trại quân Minh lúc này đây giống như một đống lửa khổng lồ đang bừng bừng cháy, làm cho bóng đêm tăm tối thêm phần sáng lạn. Quân đội của Thần Thánh Đế quốc ẩn náu trong bóng tối, liên tục bắn tên, trong lòng đều có cảm giác : “Sướng làm sao ! Ban đêm bắn tên mà còn có người chiếu sáng cho nữa, khiến chúng ta không đến nỗi vì không nhìn thấy đối phương mà bắn trật. Thật là sướng nha !”.

Quân đội của Thần Thánh Đế quốc thì sướng rồi, chỉ có quân Minh là chịu không nổi, kêu khóc inh ỏi, tiếng gào khóc rên la liên miên bất tuyệt, càng nghe càng cảm thấy thê lương.

Giữa cảnh hỗn loạn đó, đột nhiên trong đám quân Minh có kẻ hô lớn :

- Tránh ra. Tránh ra. Dương đại nhân đến rồi.

- Dương đại nhân đến. Tránh đường. Tránh đường.

Trong đám quân Minh đột nhiên phân ra một khoảng trống, để Dương Vinh cùng các tùy tướng và chúng thân binh xuất trại phá vây. Dương Vinh vốn nghỉ ngơi trong thủy trại, bị cảnh hỗn loạn làm cho tỉnh giấc, sau khi tổ chức thủ hạ cứu hỏa không thành, liền biết đại thế đã mất, lại nghe nói cổng thủy trại đã bị quân địch ngăn chặn, đành suất lĩnh tàn binh chạy ra, quyết tâm liều mạng phá vòng vây. Mấy vạn quân Minh trú đóng bên trong thủy trại đều muốn thông qua cổng thủy trại mà thoát thân, chen chúc nhau ở đó. Bọn Dương Vinh không thể qua được, vô kế khả thi, chỉ đành sai thân binh trảm sát những kẻ cản đường. Bọn thân binh vừa chém giết vừa lớn tiếng hô hoán, do đó mới mở ra được một khoảng trống.

Dương Vinh được bọn thân binh hộ tống đến cổng thủy trại, nhìn thấy số quân Minh chạy trốn ra bên ngoài đều lần lượt gục ngã dưới làn mưa tên dày đặc, bất đắc dĩ phải lớn tiếng quát :

- Đừng chạy loạn lên. Nghe lệnh của ta.

Dương Vinh tuy quát như thế, nhưng trong lòng thì vạn phần lo lắng. Lúc này đại thế đã mất, bốn bề đều là biển lửa, nếu không bỏ chạy thì chỉ có thể bị ngọn lửa thiêu chết mà thôi. Mặc dù Dương Vinh chẳng có chủ ý gì, nhưng tiếp theo tiếng quát vừa rồi, số tàn quân hoảng loạn chạy trốn cũng giảm dần, và dần dần tập hợp lại xung quanh bọn Dương Vinh, chờ chủ tướng tổ chức phá vây.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 68 : QUN MINH THỌ HẠI

Lại nói, khi Dương Vinh chạy ra được đến cổng thủy trại, thu góp tàn quân tập họp quanh mình, lo tổ chức phá vây. Quân Minh không hoảng loạn đào thoát nữa, mà dần dần tụ tập lại xung quanh bọn Dương Vinh. Cũng cùng lúc này, ở phía đối diện, số lượng tên bắn ra cũng giảm dần.

Dương Vinh mặc dù nỗ lực tưởng nhìn xem đối phương thật ra có đến bao nhiêu nhân mã. Thế nhưng lúc này y đang ở chỗ sáng, còn đối phương ở chỗ tối cách đó cả trăm mét, dù cho y có cố gắng thế nào đi nữa thì cũng chỉ có thể nhìn thấy ở phía xa xa mờ mờ ảo ảo có vô số bóng dáng địch quân, nhưng thật ra có bao nhiêu thì y không thể nhìn rõ được.

Dưới sự oai hiếp của cung tên, trong lúc không biết rõ phía đối phương tình hình thế nào, Dương Vinh bắt đầu do dự, không dám mạo muội dẫn đầu binh sĩ xông ra. Đừng nói lúc này quân Minh đa số y phục không tề chỉnh, kể cả các tướng lĩnh nhiều người cũng không có đủ giáp trụ, hơn nữa sĩ binh đều mong muốn trốn chạy, chẳng hề có ý chí chiến đấu, dù có thế nào cũng khó thể chống đỡ nổi làn mưa tên dày đặc của đối phương. Nghĩ đến chỗ này, Dương Vinh không khỏi tức giận, lớn tiếng mắng chửi :

- Con rùa rút đầu ở đằng kia ! Các ngươi là sơn tinh thủy quái ở đâu ? Không dám cùng chúng ta chính diện chiến đấu, lại nhắm lúc chúng ta đang ngủ, mò đến đây phóng hỏa ! Như thế sao có thể gọi là anh hùng hảo hán ? Các ngươi có dám cùng chúng ta chiến đấu trăm hiệp ? Nếu như chúng ta thắng, các ngươi hãy mau nhường đường. Nếu như chúng ta bại, thì có chết cũng tâm phục khẩu phục. Xuống đến âm phủ, chúng ta cũng sẽ gọi các ngươi một tiếng hảo hán ! Còn nếu không, dù hôm nay chúng ta có chết ở đây, chắc chắn sẽ biến thành quỷ hồn, thống lĩnh chúng huynh đệ tìm các ngươi báo thù ! Bọn tiểu quỷ ở đối diện kia ! Các ngươi có dám cùng chúng ta quyết một trận tử chiến ? Các ngươi có ai dám không ?

Bọn quân Minh quanh đó cũng đồng thanh hô lớn :

- Các ngươi có ai dám không ?

Phía đối diện chợt có những tiếng cười rộ, rồi có người lớn tiếng đáp lại :

- Các ngươi hồ đồ mất rồi. Chúng ta là người của Thần Thánh Đế quốc, đương nhiên không phải người hán, làm sao có thể trở thành hảo hán được. Hắc hắc. Lão hồ đồ kia ! Mau chịu chết đi thôi.

Tiếp đó, có tiếng đại pháo gầm lên, rồi một loạt thần công rải xuống đầu quân Minh, khiến xương tan thịt nát tung tóe khắp nơi. Quân Minh hoảng loạn không dám tụ tập lại một chỗ nữa mà tứ tản bôn đào. Có điều khi bọn họ chạy ra ngoài thì lại có một làn mưa tên dày đặc ập đến, kết liễu vô số người. Quân Minh trong lúc hỗn loạn, chết hại rất nhiều.

Cuộc chém giết mãi đến khi mặt trời lên cao rồi mới kết thúc. Trận này, quân Minh tử thương vô số, mười phần không chạy thoát được một. Cả 30 vạn tiên phong quân, số chạy thoát được chỉ hơn vạn người. Thi thể nằm la liệt khắp nơi. Có thi thể bị ngọn lửa đốt cháy thành than, nhưng cũng có thi thể bị cung tên bắn chết. Quân đội Thần Thánh Đế quốc xử lý chiến trường bằng cách mang những thi thể nào chưa bị đốt cháy quẳng xuống ao hồ, giếng nước gần đó, hoặc ném vào rừng rậm, đồi núi cho phơi thây ngoài sương gió. Không chỉ có thế, khi đại quân đã rút lui rồi, một số người ở lại còn lấy ra mấy ống trúc có chứa các mẫu dịch bệnh (tác phẩm của Thạch Lang Pháp sư ở Thái Học Viện), mang rải xuống các chỗ ném thi thể khi nãy, để thúc đẩy dịch bệnh phát sinh. Bọn họ hy vọng mấy chục vạn thi thể ở đây sẽ tạo ra một trận dịch bệnh khủng khiếp.

Tin truyền về phương bắc. Nghe báo 30 vạn quân tiên phong mất cả, Vĩnh Lạc đế long nhan đại nộ, vỗ án mắng rằng :

- Họ Dương kia. Trẫm tưởng ngươi có tài cán, phong cho quan chức, sai thống lĩnh 30 vạn tiên phong quân. Nào ngờ ngươi bất tài như thế, 30 vạn đại quân chỉ một đêm là mất sạch. Thật nhục quốc thể mà !

Thế rồi Vĩnh Lạc đế sai truyền chỉ kết tội Dương Vinh, phạt toàn gia nam thì sung quân ở bắc biên, vĩnh viễn không được về phương nam, nữ thì sung làm nô tỳ, hầu hạ ở các nơi công quán. Tiếp đó, Vĩnh Lạc đế lại thúc đại quân tiến nhanh hơn, lại sai Cẩm Y Vệ đô chỉ huy thiêm sự Kỷ Cương đi chiêu mộ thêm 30 vạn quân nữa để bổ sung vào số vừa tử trận.

Quân Minh lại rầm rộ kéo đến vùng Hoài Bắc, đến chỗ chiến trường mấy hôm trước thì buộc phải dừng lại, vì đường chưa mở xong. Vĩnh Lạc đế cho tập hợp các văn võ đại thần đến bàn bạc. Phò mã Quảng Bình hầu Viên Dung tâu :

- Thánh thượng. Chúng ta nên sai quân dọn dẹp các chỗ doanh trại cũ, dựng lên tân doanh trại mà trú đóng ở đó. Tặc quân vừa mới phóng hỏa xong. Những gì có thể cháy được thì đều đã cháy hết rồi. Chúng ta đóng quân ở đó, sẽ không sợ hỏa công nữa. Còn nếu như tặc quân có gian kế gì khác, chỉ cần chúng ta canh phòng nghiêm ngặt thì dù tặc quân có gian kế cũng không có cơ hội thực hiện.

Vĩnh Lạc đế khen phải, sai y kế thi hành. Cả 70 vạn đại quân đồng loạt khai công, tiến độ rất nhanh, chẳng bao lâu là một tòa doanh trại lớn hơn trước gấp mấy lần đã được dựng lên. Sau đó, Vĩnh Lạc đế cắt ra 20 vạn quân luân lưu tuần phòng, đề phòng địch quân tập kích. Còn lại 50 vạn thì lo việc mở đường.

Hơn nửa tháng trôi qua, đường đi đã mở được mấy chục dặm. Kỷ Cương cũng đã chiêu mộ được 30 vạn tân binh, đưa đến đấy. Vĩnh Lạc đế lại cắt ra 30 vạn quân (với một nửa là tân binh) làm đạo tiên phong, sai Viên Dung làm thống soái, đi trước mở đường. Đại quân tạm nghỉ ngơi lại đấy, chờ sĩ khí khôi phục rồi mới tiến quân. Sau trận thảm bại của tiên phong quân vừa rồi, sĩ khí của quân Minh đã suy giảm rất nghiêm trọng. Hơn nữa, tiến quân vài chục dặm rồi lại phải lập lên doanh trại mới thì rất tốn công tốn sức. Thà rằng chờ đến khi đường lộ mở thông rồi thì tiến quân luôn thể. Trong thời gian đó, Vĩnh Lạc đế giao việc giám sát quan quân cho Kỷ Cương cùng chúng Cẩm Y Vệ, rồi cùng các ái phi và cung nhân ‘điên loan đảo phụng’ bên trong long trướng.

Lúc này đây, quân Minh lại khôi phục trăm vạn đại quân như lúc đầu, nhưng khí thế không còn như trước nữa. Vả lại, trăm vạn đại quân này chất lượng không đảm bảo, bởi vì trong đó có đến 70 vạn tân binh (với 40 vạn chỉ mới huấn luyện được 1 tháng, và 30 vạn hoàn toàn chưa được huấn luyện, chỉ có thể xem là phu dịch). Sau trận hỏa công khi trước, 30 vạn quân tinh nhuệ của đạo tiên phong đã hiến thân trong biển lửa.

Mấy ngày sau, Viên Dung sai người về báo đường đã sắp thông, tối đa 10 ngày nữa là xong. Vĩnh Lạc đế liền triệu văn võ đại thần nhóm họp nghị sự, bàn việc tiến quân. Thế nhưng, chờ cả nửa canh giờ mà chỉ thấy quần thần đến được có mấy người. Vĩnh Lạc đế long nhan đại nộ, vỗ án quát mắng :

- Trẫm tuyên triệu mà dám không đến, thật là không xem trẫm ra gì mà. Người đâu ! Lập tức tuyên triệu lần nữa, nếu như lại không đến, xử trảm !

Thánh chỉ ban ra, nhưng còn chưa kịp truyền đi thì lần lượt có người đến bẩm báo :

- Khải tấu thánh thượng. Vương tướng quân thọ trọng bệnh, hiện tại không thể ngồi dậy nổi.

- Khải tấu thánh thượng. Chu thị lang thọ trọng bệnh, hôn mê bất tỉnh.

- Khải tấu thánh thượng. Khâu tướng quân thọ trọng bệnh.

- Khải tấu thánh thương. Hoàng thượng thư trúng phải thương hàn, tay chân vô lực, thọ bệnh trên giường.

Hàng loạt tin báo khiến Vĩnh Lạc đế kinh nghi bất định. Hóa ra văn võ đại thần đa số đều thọ trọng bệnh. Có người bảo là thương hàn, có người cho là trúng phải tà khí. Hầu như những người thọ bệnh đều mắt mờ chóng mặt, tay chân vô lực, thân thể thì lúc nóng lúc lạnh, nhiều chỗ đau đớn nhức nhối. Nhưng làm sao mà cả bọn lại thọ bệnh cùng lúc như thế chứ. Xem ra có phần cổ quái. Vĩnh Lạc đế lập tức truyền chỉ cho Kỷ Cương thống suất Cẩm Y Vệ đi tra xét.

Chỉ hơn canh giờ sau, Kỷ Cương vào bẩm báo :

- Khải tấu thánh thượng. Không chỉ các vị đại nhân thọ trọng bệnh. Kể cả binh sĩ cũng đều thọ bệnh khoảng 8 phần. Hiện chỉ còn lại khoảng 15 vạn binh sĩ là còn khỏe mạnh.

Vĩnh Lạc đế và chúng quần thần (những người còn sót lại) đều thất kinh, biết ngay đại sự không hay. Mọi người bàn luận phân vân, đều biết là đã trúng phải âm mưu quỷ kế của tặc quân, nhưng không ai biết được nguyên nhân, nên cũng không thể đề ra được cách đối phó. Cuối cùng, Vĩnh Lạc đế chỉ còn cách truyền chỉ cho Kỷ Cương khẩn trương điều tra nguyên nhân khiến mấy chục vạn đại quân đồng loạt thọ bệnh.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 69 : ÔN DỊCH

Lại nói, khi biết tin đại bộ phận quan quân đều thọ trọng bệnh, Vĩnh Lạc đế và quần thần đều biết là đã trúng phải âm mưu quỷ kế của đối phương. Nhưng vì không tìm được nguyên nhân nên không ai có thể đề ra được cách đối phó. Cuối cùng, Vĩnh Lạc đế chỉ còn cách truyền chỉ cho Kỷ Cương khẩn trương điều tra nguyên nhân khiến cho mấy chục vạn đại quân đồng loạt thọ bệnh.

Chưa điều tra thì không sao ! Đến khi điều tra thì mới thấy kinh sợ. Xung quanh khu vực doanh trại, trong các khu rừng, bụi rậm có vô số thi thể thối rữa. Dưới các ao hồ, giếng nước quanh đó cũng vậy. Tin tức vừa hồi báo, các thái y đã nhất trí khẳng định : ôn dịch. Thời cổ đại, các mùa xuân hạ trong dân gian thường xuất hiện ôn dịch. Quan điểm của người Trung Hoa xem ôn dịch là độc khí, mà theo họ, chỉ cần ‘chính khí tồn nội’ thì có thể ‘tị kì độc khí’. Do đó dân gian mỗi khi phát sinh đại quy mô ôn dịch, mọi người thường không nghĩ đến tìm đại phu chữa bệnh, mà là tìm đạo sĩ làm phép trừ tà. Thật ra thì có tìm đại phu cũng chẳng mấy hữu ích. Cách chữa bệnh của người Tàu là ‘vọng, văn, vấn, thuyết’, gọi là ‘tứ chẩn’. Sau khi bắt mạch xem bệnh xong rồi thì mới bốc thuốc, sắc thuốc cho bệnh nhân uống. Quy trình chữa bệnh tốn rất nhiều thời gian. Mà thuốc cũng không hề rẻ. Do đó người nghèo thường không có tiền chữa bệnh. Đặc biệt đối với ôn dịch, thường thì chỉ một người mắc bệnh, chẳng bao lâu sau cả làng chết sạch. Những chuyện như thế là rất phổ biến.

Vào giai đoạn này, hễ nơi nào phát sinh ôn dịch là nơi đó trở nên hoang tàn. Y học chưa đủ phát triển để chống lại ôn dịch. Đối với người hiện đại, có lẽ ít có ấn tượng về ôn dịch. Nhưng trong khoảng thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, ôn dịch đồng nghĩa với thần chết, hậu quả rất khủng khiếp. Khoảng giữa thế kỷ 14, một trận đại dịch đã tràn qua châu u, châu Á, Bắc Phi, gây nên hậu quả rất kinh hoàng, con người gọi là ‘Cái chết đen’ (Black Death). Con số người thiệt mạng do đại dịch ‘Cái chết đen’ thay đổi liên tục theo kết quả các cuộc nghiên cứu. Theo chuyên gia về lịch sử Trung Cổ Philip Daileader thì kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy có chừng 45% tới 50% dân số châu u chết trong vòng chỉ bốn năm (từ 1346 đến 1350), các quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải như miền Nam nước Pháp, Tây Ban Nha, tỷ lệ dân số tử vong có lẽ lên tới 75% đến 80%; trong khi ở các nước phía Bắc như Đức hay Anh, con số này dừng lại ở khoảng 20%. Tại khu vực Trung Đông gồm Iraq, Iran và Syria, số người chết trong giai đoạn trung kỳ Hồi giáo là vào khoảng một phần ba dân số. Ước khoảng 40% dân số Ai Cập đã chết trong lần đại dịch này. Người ta cho rằng cứ sau vài thế hệ dân số thì ôn dịch lại quay trở lại với mức độ hủy diệt khác nhau cho tới tận thế kỷ 17. Tổng cộng trong giai đoạn này đã có trên 100 đại dịch quét qua châu u. Ở Trung Hoa cũng không tránh khỏi. Ước tính nạn ôn dịch trong thế kỷ 14 đã cướp đi mạng sống của ít nhất một phần ba dân số Trung Hoa.

Tóm lại, thời bấy giờ, ôn dịch rất khủng khiếp. Người dân xem ôn dịch là thiên tai, nhân lực không thể kháng cự, chỉ có thể chịu đựng chờ chết, hoặc cầu trời đất thánh thần phù trợ tai qua nạn khỏi.

Mặc dù Vĩnh Lạc đế và quần thần đã cố gắng hết sức, thế nhưng số quân Minh ngã bệnh càng lúc càng đông, và số người chết càng lúc càng nhiều. Chúng thái y, đại phu dù rất cố gắng, nhưng nhân số có hạn, chỉ có thể cứu chữa cho các trọng thần, còn mấy chục vạn quan quân thì đành chịu. Đến khi số người chưa mắc bệnh chỉ còn lại hơn 10 vạn, Vĩnh Lạc đế đành suất lĩnh tàn quân tạm rút về Tế Nam tị nạn. Dù không cam lòng, nhưng Vĩnh Lạc đế cũng không dám ở lâu tại ổ ôn dịch kia.

Lúc xuất chinh hùng hùng hổ hổ, trăm vạn đại quân trải dài mấy trăm dặm, sĩ khí ngút trời; vậy mà chỉ mới chưa đầy 2 tháng, Vĩnh Lạc đế đã phải dẫn tàn quân hơn 10 vạn chạy về Tế Nam. Thật không cam lòng nha. Vĩnh Lạc đế long nhan đại nộ, chỉ tay về phương nam, lớn tiếng quát mắng :

- Nghịch lỗ vô sỉ ! Trẫm cùng các ngươi không đội chung trời !

Cùng lúc đó, tin tức không cánh mà bay, chẳng bao lâu đã lan truyền khắp chốn Trung Nguyên, sau đó cả vùng thảo nguyên, Đại Mạc, Tây Vực, Cao Ly, Đông Doanh, cho đến nam phương các xứ thảy đều thông hiểu. Minh triều cho đến lúc này đã hao tổn gần 90 vạn đại quân, và còn 30 vạn tân tiên phong quân ở mạn Dương Châu, mọi người cũng đều cho rằng ít có hy vọng bình yên đào thoát. Hoài Bắc chiến dịch, thiên hạ chấn động. Đại Minh quốc thống lung lay.

Nói về đạo tân tiên phong quân gồm 30 vạn người, do Phò mã Quảng Bình hầu Viên Dung thống lĩnh, đã mở đường đến tận khu vực Dương Châu. Khi tin tức về thảm họa ở Hoài Bắc truyền đến, lòng quân chấn động. Chúng tướng và binh sĩ đều có lòng rút về. Viên Dung cũng không phải là danh tướng, thấy tình thế như vậy, vô kế khả thi, cũng đành thuận theo ý kiến chúng tướng mà rút về phương bắc. Có điều cả bọn không dám về bằng đường cũ, bởi không ai dám đi qua vùng ôn dịch, nơi đã giết chết 60 vạn đại quân, nên đi vòng về phía đông, men theo vùng Quảng Lăng, đi song song theo bờ biển mà về hướng Từ Châu.

Hôm đó, đại quân đi qua một vùng rừng rậm. Hai bên đường đều mọc đầy cây cối rậm rạp. Quân Minh mải đi, trong lòng lo rầu, sợ địch quân đuổi theo, nên chỉ cắm cúi bước nhanh, không ai để ý dưới chân đất đá rất khác thường : đều có màu đen bóng.

Quân Minh mải hành quân, đột nhiên nghe thấy từ phía sau có tiếng quân reo dậy đất, biết là địch quân đã sắp đuổi đến nơi, đều hoảng loạn tháo chạy về phía trước. Quân Minh trở nên hỗn loạn, không còn đội ngũ gì nữa. Viên Dung và chúng tướng cố gắng lập lại trật tự, nhưng đều vô ích. Quân sĩ mạnh ai nấy chạy, hiệu lệnh truyền xuống chẳng ai nghe theo. Thậm chí có rất nhiều tướng lĩnh cấp thấp cũng đã chạy theo quân sĩ. Đối với mọi người lúc này, tính mạng quan trọng hơn cả. Trước tiên phải lo đào mạng, mọi chuyện tính sau.

Đột nhiên, bốn phía có những tiếng nổ vang. Tiếp đó, từ cả bốn phía hỏa quang xung thiên, liệt diễm hung hãn. Chỉ trong chốc lát, bốn phương tám hướng đều là lửa đỏ. Càng khủng khiếp hơn khi quân Minh phát hiện đất đá dưới chân cũng bốc lửa, bùng cháy dữ dội. Bọn họ không biết rằng khi phát hiện bọn họ rút lui theo đường này, Bắc Dương Hạm đội Đại đô đốc Mã Tân đã cho hạm thuyền vận chuyển rất nhiều than đá đến đây, rải đầy mặt đất. Mà than đá khi đã bốc cháy, hỏa thế rất dữ dội, nhiệt độ cũng rất cao. ‘Đất đá’ cháy, cây cỏ cháy. Cả khu vực nhanh chóng biến thành biển lửa. Ngọn lửa ở đây cháy đến 2 ngày 2 đêm mới tắt.

Trận này, 30 vạn tân tiên phong quân toàn diệt. Trước sau, chỉ trong hơn 2 tháng, đã có 120 vạn quân Minh tử trận, văn thần võ tướng tử vong vô số. Minh triều quốc lực đại tổn, quốc thế đại giảm, quốc thống ngửa nghiêng.

Giải quyết xong quân Minh từ phương bắc kéo xuống, chiến quả huy hoàng, các tướng lĩnh của đạo quân bắc phạt lại nhóm họp ở Sùng Minh đảo, Trường Hưng Thành để cùng bàn bạc chiến sự. Phạm Thế Căng đã suất quân tiến về phương bắc, giờ chỉ còn lại Triệu Phong, Lý Ngân, Mã Tân và Đinh An Bình. Sau khi tổng kết tình hình chiến sự, Đinh An Bình nói :

- Sau khi thiệt hại 120 vạn quân binh, Minh triều đã không còn năng lực phát động chiến tranh nữa rồi.

Triệu Phong nói :

- Đừng nói là phát động chiến tranh, bọn họ còn có thể tự bảo được nữa không cũng là vấn đề.

Lý Ngân nói :

- Có lẽ cũng đã đến lúc giải quyết Kim Lăng Thành rồi.

Đinh An Bình gật đầu nói :

- Đúng thế. Sau khi giải quyết xong Kim Lăng Thành, chúng ta có thể lấy Trường Giang làm biên giới, lấy vùng Giang Bắc – Hoài Nam làm vùng đệm, tiến hành ‘tam quang chính sách’.

Chiến lược đã định, các đạo quân bắc phạt của Thần Thánh Đế quốc bắt đầu tập trung về xung quanh Kim Lăng Thành. Bọn Đinh An Bình huy động đến 10 đạo quân, 30 vạn quân để tấn công Kim Lăng Thành lúc này còn lại chưa đến 10 vạn quân. Tỷ lệ công : thủ là 3 : 1, thật ra nếu bình thường thì cũng chưa đủ đảm bảo để có thể công chiếm thành công. Nhưng lúc này là lúc phi thường. Thành Kim Lăng đã bị bao vây gần được một năm, trong thành lương thực thiếu thốn, lại thêm ngày ngày đều bị thần công đại pháo nã đạn vào, khiến cho quân dân trong thành cả sức lực và tinh thần đều suy sụp nghiêm trọng. Lại thêm tin tức 120 vạn đại quân bị tiêu diệt, Vĩnh Lạc đế dẫn 10 vạn tàn quân tháo chạy về Tế Nam, khiến cho quân Minh trong thành sĩ khí mất hết, và dân chúng thì bắt đầu có ý nghĩ cải triều hoán đại. Tóm lại, tất cả quân dân đều nhìn thấy tương lai của Minh triều đang dần trở nên mờ mịt.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 70 : KIM LĂNG TH́T THỦ

Kim Lăng Thành.

Thần Thánh Đế quốc tập trung 30 vạn quân chuẩn bị công chiếm Kim Lăng Thành. Sau khi bị bao vây gần 1 năm, quân dân trong thành cả tinh lực và sức lực đều suy sụp nghiêm trọng. Một bầu không khí bi quan bao trùm từ Hoàng cung cho đến các phố phường.

Ngày 25 tháng 3, Triệu Phong đích thân chỉ huy việc công thành, 30 vạn đại quân chia thành 3 đạo, dàn ra trước các cửa đông, nam và tây, chỉ để lại cửa bắc. Đó là chiến thuật ‘vây tam khuyết nhất’ rất quen thuộc. Ở mỗi cửa thành có 10 vạn quân, 2.000 khẩu thần công (mỗi sư 1 vạn người thì có 200 khẩu thần công cỡ nhỏ, có bánh xe để kéo đi) đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ còn chờ lệnh công thành.

Đầu giờ Mão, Triệu Phong truyền lệnh công thành. Cả 6.000 khẩu thần công đồng loạt khai hỏa. Ánh lửa đạn rực hồng cả nửa bầu trời. Tiếng pháo nổ vang trời uy hiếp tinh thần của quân dân trong thành. Một phần ba số thần công sử dụng đạn sắt đặc nhắm bắn vào cổng thành, trong khi đó hai phần ba còn lại sử dụng khai hoa đạn rải lên đầu quân dân bên trong. Khu vực từ tường thành kéo dài vào bên trong hơn trăm bước bị biến thành khu vực tử vong. Không có một sinh vật nào có thể sống sót ở đấy.

Chỉ sau 6 loạt đạn, cổng thành đã bị phá. Các khẩu thần công được đẩy lên phía trước, rải đạn mở đường tiến quân. Các đạo quân cũng lần lượt tiến vào trong thành. Quan quân vừa tiến vào thành vừa hô lớn :

- Đầu hàng khỏi chết, kháng cự diệt môn.

Đương nhiên là hô bằng tiếng Hán. Trong thời gian vây thành, bọn Triệu Phong cho quân sĩ học thuộc câu này, và nay đã có cơ hội mang ra sử dụng. Quan quân tiến vào thành tương đối thuận lợi. Phần lớn quân Minh không có lòng nào kháng cự mà đua nhau chạy ra cửa bắc tìm đường đào tẩu. Rất nhiều phú hộ trong thành cũng dắt nhau tháo chạy. Bọn họ đã sớm biết rằng quân đội Thần Thánh Đế quốc chỉ tha cho dân nghèo. Còn phú hộ với quan lại đều bị tịch thu toàn bộ tài sản. Có lý do hẳn hoi ! Quan lại làm việc cho Minh triều, là kẻ địch, cần nghiêm trị; phú hộ đều ít nhiều có quan hệ với quan lại, tức là cũng có quan hệ ‘thân mật’ với Minh triều, cũng là kẻ địch và cũng cần trừng phạt. Bọn họ không muốn sống cuộc sống nghèo khổ nên mới liều mạng gom góp tài sản bỏ trốn. Trong khi đó thì bình dân bách tính ai nấy ở yên trong nhà, chờ cơn binh lửa đi qua.

Cuối cùng, có khoảng 3 vạn quân Minh hạ vũ khí đầu hàng, hơn 6 vạn quân Minh, trong đó có 1 vạn Cấm quân bảo hộ Thái tử Giám quốc cùng các quan viên chạy ra cửa bắc tìm đường tẩu thoát. Ngoài ra còn có hơn 10 vạn phú hào và gia quyến dắt dìu nhau tháo chạy. Mười mấy vạn người cùng ùa ra khỏi thành, quang cảnh hỗn loạn vô cùng.

Triệu Phong để lại 6 vạn quân bình định Kim Lăng Thành, truy quét tàn dư Minh triều trong thành; phái 12 vạn quân truy sát quân Minh đào tẩu, do Lý Ngân thống lĩnh; và cử ra 12 vạn quân truy sát phú hào bỏ trốn, do Đinh An Bình thân tự chỉ huy. Quân chia ba lộ cùng hành động.

Nói về đạo quân trong thành, sau mấy canh giờ lùng sục, giải quyết toàn bộ các nơi đề kháng, chiếm lĩnh các nha môn, Hoàng cung, và phủ đệ của quan viên Minh triều, Triệu Phong cho niêm phong tất cả. Theo quan niệm của bọn Triệu Phong, phong thủy của thành Kim Lăng không tốt, do vậy bọn họ không có ý định đóng đại bản doanh trong thành. Đối với Triệu Phong, đóng đại bản doanh ở Trường Hưng Thành, Sùng Minh đảo tốt hơn nhiều. Nơi đó xây dựng theo kiểu Gia Định Thành, tiện nghi đầy đủ, vật chất phong phú, hưởng thụ cuộc sống tốt hơn, và đặc biệt là cũng an toàn hơn.

Đạo quân của Đinh An Bình đuổi theo đám phú hộ bỏ trốn, nhanh chóng đuổi kịp. Bọn phú hộ mang vác nặng nề, sức lực lại không thể nào bằng được quân đội, do đó chẳng bao lâu là bị bao vây. Bọn phú hộ mặc dù chia thành nhiều nhóm, chạy về nhiều hướng khác nhau. Nhưng quan quân đông hơn, cũng chia thành nhiều đội, tỏa ra bao vây tất cả. Chỉ mất hơn một ngày là toàn bộ đều bị bắt trở lại. Đinh An Bình cho tịch thu tất cả tài sản bọn họ mang theo, và áp giải bọn họ ra giam giữ Trường Hưng Thành, chờ đưa về phương nam. Trong văn án, Đinh An Bình xem bọn họ giống như quan lại Minh triều bị bắt, tức là tù phạm. Đã có thánh chỉ từ Gia Định Thành đưa đến, tất cả tù phạm loại này sẽ được chuyển giao cho Thương vụ bộ, đưa sang u châu bán làm nô lệ. u châu hơn 50 năm trước vừa trải qua trận đại dịch ‘Cái chết Đen’, dân số giảm gần một nửa, rất cần nhân lực bổ sung, đặc biệt là nô lệ làm các công việc nặng nhọc (các tài liệu ghi lại cho biết u châu mất đến 150 năm mới khôi phục lại quy mô dân số bằng với trước đại dịch).

Sau khi tấn công Minh triều, ban đầu Giang Phong chỉ cho bắt tù binh làm khổ công, nhưng rồi số khổ công có nguồn gốc Hán tộc này gây ra nhiều chuyện thị phi tại nơi trú đóng, đặc biệt là tầng lớp quan lại của Minh triều vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nho học, xem Hán tộc là Thiên triều thượng quốc, các nước khác đều là phiên bang, hoặc man di mọi rợ. Giang Phong rất không hài lòng, hậu quả đương nhiên nghiêm trọng. Một đạo thánh chỉ đã quyết định số phận của số ‘điêu dân’ đó, tất cả đều bị biến thành nô lệ, bán sang u châu. Và từ lúc đó về sau, tất cả quan lại của Minh triều cùng với tầng lớp nho gia, sĩ tử đều bị biến thành nô lệ hết. Những kẻ này chính là những kẻ được hưởng đặc quyền đặc lợi trong xã hội Minh triều (quan lại thì khỏi phải nói, còn nho sĩ chỉ cần đỗ Tú Tài là được miễn toàn bộ lao dịch thuế khóa, đỗ đạt cao thì dù không làm quan cũng được hưởng bổng lộc, tạo nên gánh nặng cho xã hội).

Còn đạo quân của Lý Ngân truy sát tàn dư quân Minh, chỉ đuổi sát theo phía sau và tiêu diệt những kẻ chậm chân chứ không tràn lên giao chiến. Dụng 12 vạn tấn công 6 vạn địch quân, tuy cũng có thể thắng được, nhưng tất nhiên cũng phải chịu thiệt hại không nhỏ. Bọn họ chỉ đuổi theo, ngăn chặn các đường phía nam, bức quân Minh chạy men theo Trường Giang về phía tây (quân Minh không chạy về phía đông, bởi bọn họ không thể chạy ra biển).

Đinh An Bình sau khi giải quyết xong đám phú hộ đào tẩu thì cũng suất quân đuổi theo hỗ trợ đạo quân của Lý Ngân. Đinh An Bình là Hải quân bộ bộ trưởng, nên khi đuổi theo chọn ngay đường thủy, sử dụng các hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội vận chuyển quân đội đi về phía thượng lưu, đổ bộ xuống chặn đường tàn dư quân Minh. Khi quân Minh chạy đến được Vu Hồ thì bị chặn đứng. Đầu tiên là một trận pháo kích dội xuống đầu quân Minh, 1.200 khẩu thần công bắn ra Khai hoa đạn, biến thành hàng chục vạn mảnh sắt nhọn như tên, bén như dao, giống như nhà nông cắt lúa mà cắt lấy sinh mạng quân Minh, khiến quân Minh ngã xuống từng phiến từng phiến lớn. Sau đó, 24 vạn đại quân hợp vây, tiêu diệt tàn dư còn lại. Trận này, quân Minh thương tàn hơn 4 vạn, tử trận hơn 1 vạn, chỉ còn lại chưa đến 5 nghìn bị bắt. Thái tử Giám quốc Chu Cao Thức tự sát, rất nhiều đại thần cũng tự sát theo.

Đinh An Bình có thân phận địa vị cao nhất ở đây, nên sinh sát đại quyền, chiến hậu xử lý, an bài tù binh, Lý Ngân nhường hết cho y định đoạt. Đinh An Bình chỉ giữ lại số tù binh chưa bị thương tật, còn hơn 4 vạn thương tàn binh bị đuổi về phương bắc, để tạo thêm gánh nặng cho Minh triều. Bọn họ đã bị thương tật tàn phế, chắc chắn không thể tham quân ra trận được nữa. Ngoài ra, hơn vạn thi thể trận vong cũng bị đưa xuống hạm thuyền vận chuyển về vùng Hà Bắc, rồi ném xuống các ao hồ sông suối dọc theo Hoàng Hà. Hoài Thủy chiến dịch đã tạo cho bọn Đinh An Bình rất nhiều ý tưởng.

Ba ngày sau khi Kim Lăng Thành bị công chiếm, 30 vạn đại quân của Thần Thánh Đế quốc tề tụ về đây. Toàn bộ dân chúng trong thành đều bị tập hợp lại, rồi phân chia thành 2 nhóm : lương dân và nghịch dân. Hơn 100 vạn cư dân của Kim Lăng thì có hơn 60 vạn nguyện ý quy thuận tân triều (bởi bọn họ đã nhìn thấy tương lai mờ mịt của Đại Minh), còn lại gần 40 vạn vẫn hướng về phương bắc. Nhưng lần này Minh triều đã thảm bại, quốc lực suy kiệt, bọn Đinh An Bình không có ý định cung cấp miễn phí cho Minh triều mấy chục vạn ‘tân binh’ nữa. Do đó, Đinh An Bình vỗ án quyết định, và Thương vụ bộ có thêm gần 40 vạn tân nô lệ.

Kim Lăng Thành dù sao cũng là kinh đô của Minh triều trong suốt 50 năm nay, kim ngân tài bảo tụ tập ở đây vô số. Mặc dù kho tàng trong Hoàng cung sau mấy phen chiến loạn đã không còn nhiều nữa, nhưng Kim Lăng có rất nhiều phú hộ, tài sản tịch thu được nhiều vô số. Bọn Đinh An Binh chỉ mất 1 ngày để chiếm lĩnh Kim Lăng, nhưng phải mất cả tháng để xử lý chiến quả.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 71 : Minh Quốc tiêu điều

Năm Vĩnh Lạc thứ 13 quả là một năm đại hạn đối với Minh triều. Năm ngoái tuy Giang Nam toàn thất, nhưng Minh triều vẫn còn giữ được vùng Giang Bắc, kể từ Trường Giang cho đến Trường Thành, và quân đội cũng còn được 80 vạn tinh nhuệ. Thế nhưng sang năm nay, chỉ mới 3 tháng đầu năm, từ ban đầu có 80 vạn tinh nhuệ, 70 vạn tân binh, tổng cộng 150 vạn; mà giờ đây chỉ còn lại 30 vạn tàn binh (20 vạn ở Bắc Kinh, Hà Bắc và 10 vạn ở Tế Nam). Đại Minh quốc lực suy kiệt, quốc thế chông chênh, quốc thống có cơ đứt đoạn.

Tế Nam Thành.

Sau khi thất trận ở Hoài Thủy, dẫn tàn binh chạy về Tế Nam, Vĩnh Lạc đế ở tại hành cung, ngày ngày nổi giận, hết đập phá rồi lại sát nhân. Vô số bảo vật trong hành cung đã bị hủy hoại bởi cơn giận của Vĩnh Lạc đế. Không ít cung nhân và đại thần cũng bị liên lụy, gia phá thân vong. Giờ đây, các đại thần nhân tâm hoảng hốt, ai nấy đều sợ nhập cung diện thánh, vì sợ gặp phải cơn giận bất thường của đấng quân vương.

Nếu Vĩnh Lạc đế loạn phát oai mà quốc thế được cứu vãn thì cũng tốt. Đằng này tin xấu cứ liên tục truyền về. Đúng là phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.

Vùng Sơn Đông hoàn toàn hỗn loạn, một phần vì tin bại trận khiến cho dân tâm hoảng hốt, một phần vì ‘Uy khấu’ ngông cuồng cướp phá khắp nơi. Trước đây ‘Uy khấu’ chỉ cướp phá dọc theo vùng duyên hải. Nhưng giờ đây bất kể sông hồ, hễ nơi nào thuyền đến được là có mặt ‘Uy khấu’, quan quân không thể nào đánh dẹp nổi. ‘Uy khấu’ rất xảo quyệt. Hễ thấy đại đội quan quân thì lên thuyền rút chạy, còn nếu như thấy một toán nhỏ quan quân thì bọn họ sẵn sàng tấn công. Thậm chí có nhiều toán ‘Uy khấu’ tập hợp lại thành một lực lượng hùng mạnh, công chiếm các huyện thành. Sơn Đông đại loạn, dân bất liêu sinh.

Không chỉ có thế, do vùng Sơn Đông trở nên điêu tàn, những nơi có thể cướp phá ít đi, nhiều toán ‘Uy khấu’ bắt đầu chuyển hướng sang vùng Hà Bắc. Trên các sông hồ ở Hà Bắc gần đây đã thấy xuất hiện bóng dáng ‘Uy khấu’.

Nếu như ‘Uy khấu’ chỉ có thể làm tổn thương Minh triều, không nghiêm trọng đến nỗi vong quốc diệt tộc, thì giờ đây Minh triều đã phải đối diện với một nguy cơ lớn hơn nhiều. Cuối tháng 3, thám mã khẩn cấp đưa tin cáo cấp từ Bắc Kinh : Sơn Hải Quan thất thủ, Mông Cổ nhập quan. Trước đây người Mông Cổ chỉ có những toán nhỏ tiến vào lãnh thổ Minh triều cướp phá. Nhưng vào khoảng tháng 2, người Mông Cổ đi vòng theo đường biển, vượt qua Bột Hải, xâm nhập Liêu Tây, Hữu Bắc Bình (phía nam Trường Thành), bao vây Sơn Hải Quan. Đến giữa tháng 3, Sơn Hải Quan thất thủ, và đại đội kỵ binh Mông Cổ nam tiến. Các bộ tộc Mông Cổ đều đã biết tin quân Minh thảm bại, tổn thất 120 vạn đại quân, quốc lực suy kiệt, nên nhân cơ hội này kéo nhau tấn công Minh triều báo thù việc Vĩnh Lạc đế đánh Mông Cổ 5 năm trước. Do ảnh hưởng của Thần Thánh Đế quốc, sự kiện quân Mông Cổ tấn công Bắc Kinh xảy ra sớm hơn 34 năm.

Tin cáo cấp của Bắc Kinh khiến Vĩnh Lạc đế hoảng hốt. Bắc Kinh là nơi căn bản của Vĩnh Lạc đế, phần lớn thân tộc hoàng thất còn lại hiện đang tập trung ở đấy (số ở Nam Kinh nếu không tự sát thì đã trở thành tù binh rồi). Lúc này không còn sức chống giữ phương nam, chỉ còn cách tập trung những lực lượng còn lại phòng thủ Bắc Kinh. Thế là, theo đề nghị của quần thần, Vĩnh Lạc đế dẫn quân về Bắc Kinh. Cẩm Y Vệ đô chỉ huy thiêm sự Kỷ Cương lại được phái đi làm công việc quen thuộc : chinh binh, mà lần này là cưỡng chinh (cưỡng chế chinh binh).

Sau khi Vĩnh Lạc đế về đến Bắc Kinh, tình hình Hà Bắc tạm ổn định. Quân Mông Cổ dựa vào ưu thế kỵ binh, liên tục di động cướp phá các nơi, nhưng không còn năng lực công chiếm các phủ thành nữa. Mà quân Minh cũng không đủ năng lực đánh đuổi quân Mông Cổ về thảo nguyên phương bắc. Minh triều chỉ còn cách giữ vững các nơi yếu địa, đồng thời chờ Kỷ Cương chinh binh.

Trong lúc bận lo đối phó với quân Mông Cổ, Minh triều đành bỏ mặc hai tin cáo cấp khác : Liêu Đông thất thủ và Triều Tiên cầu viện. Minh triều hiện tại đang phải cố gắng phòng thủ Bắc Kinh, tự lo thân còn chưa xong, làm sao đủ sức lo chuyện khác được.

Minh triều nguyên bản kiểm soát được một eo đất hẹp tại bán đảo Liêu Đông (đối diện với Sơn Đông qua Bột Hải). Điều này không có nghĩa là Minh triều kiểm soát được vùng phía bắc Sơn Hải Quan (bên ngoài Trường Thành), bằng chứng rõ nhất là Liêu Đông thuộc sự cai quản của Sơn Đông hành tỉnh. Giờ đây Sơn Hải Quan đã rơi vào tay quân Mông Cổ. Vùng biển đã bị các chiến hạm của Thần Thánh Đế quốc kiểm soát, Minh triều dù có muốn chiếm lại Liêu Đông cũng hữu tâm vô lực. Sau khi quân đội ở Liêu Đông bị Vĩnh Lạc đế rút về tham gia đội quân nam chinh, Phạm Thế Căng suất lĩnh đạo quân Định Hải đã dễ dàng chiếm lĩnh Liêu Đông mà không gặp phải sự phản kháng đáng kể nào. Cũng bắt đầu từ lúc này, các bộ lạc Mông Cổ đã có thể nhận viện trợ hoặc giao dịch trực tiếp với Thần Thánh Đế quốc từ Liêu Đông. Người Mông Cổ sử dụng chiến mã để đổi lấy lương thực, vũ khí trang bị cho lực lượng kỵ binh đi cướp phá Minh triều; sau đó lại sử dụng kim ngân tài bảo cướp được đổi thành lương thực, vũ khí, rồi tiếp tục cướp phá. Nhờ đó, lực lượng của bọn họ càng lúc càng mạnh hơn.

Còn xứ Triều Tiên, lúc này do nhà Triều Tiên cai trị, nên còn có quốc hiệu là ‘Đại Triều Tiên quốc’. Nhà Triều Tiên (1392 – 1910), tiếng Hàn là Joseon, hay còn gọi là nhà Lý, là một triều đại được thành lập bởi Triều Tiên Thái Tổ Lý Thành Quế (I Songgye) và tồn tại hơn 5 thế kỷ. Triều đại này được thành lập sau khi Lý Thành Quế lật đổ nhà Cao Ly (Koryo) tại Khai Thành (Kaesong), rồi dời kinh đô về Hán Thành (tức Seoul ngày nay). Lý Thành Quế là người thân Minh ngay từ khi còn là tướng lĩnh của nhà Cao Ly. Khi xin Minh triều sắc phong vào năm 1393, Lý Thành Quế e nhà Minh phản đối việc Lý Thành Quế quyết tâm chọn quốc hiệu là Triều Tiên, nên đề xuất thêm một tên gọi khác là Hòa Ninh (lấy từ tên trang ấp của cha mình là Lý Tử Xuân). Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương sau khi biết tên Triều Tiên có nguồn gốc từ chữ ‘Triều Nhật Tiên Minh’ (nghĩa là ‘buổi sáng trong lành’) liền quyết định chọn tên Triều Tiên, nhưng chỉ phong cho Lý Thành Quế làm Quyền Tri Triều Tiên Quốc Sự. Mãi đến năm 1401, Minh triều mới phong cho Triều Tiên Thái Tông Lý Phương Viễn (lên ngôi từ năm 1400) làm Triều Tiên Quốc Vương. Sau khi qua đời, Lý Phương Viễn được vị vua kế tiếp đặt cho thụy hiệu là ‘Cung định Thánh đức Thần công Kiến thiên Thể cực Đại chính Khải hữu Văn vũ Duệ triết Thành liệt Quang hiếu Đại vương’.

(chú : Vương triều này được người Hán gọi là ‘Lý thị Triều Tiên vương triều’, gọi tắt là ‘Lý Triều’; nhưng người Hàn Quốc không sử dụng cách gọi này, bởi cho rằng nó mang tính chất nhục nhã, gợi cho họ nhớ đến giai đoạn bị Nhật Bản xâm chiếm, Triều Tiên Hoàng đế bị giáng xuống thành Lý vương, phiên vương của Nhật Bản, khiến người Hàn Quốc nhớ đến giai đoạn khổ nhục đó, do vậy vẫn gọi là ‘Triều Tiên vương triều’).

Khi chiến tranh bùng nổ, Đại Vận Hà bị phong tỏa, Minh triều lâm vào cảnh thiếu lương thực, Triều Tiên quốc có phái một đoàn thuyền chở lương thực sang hỗ trợ cho Minh triều. Giang Phong đã phái sứ giả đến trách hỏi, nhưng vua quan Triều Tiên không lý gì đến. Trong mắt bọn họ, Minh triều vẫn là Thiên triều thượng quốc, còn Thần Thánh Đế quốc chỉ là phiên bang tiểu quốc. Vì vậy, Giang Phong đã phái một đội chiến hạm của Nam Dương Hạm đội tiến vào vùng biển Triều Tiên, phong tỏa toàn vùng. Giờ đây, vùng biển Triều Tiên hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Thần Thánh Đế quốc. Thuyền bè của Đông Doanh được tự do đi lại trên biển, trong khi thuyền bè của Triều Tiên hễ ra khơi là bị tiêu diệt ngay. Điều này đã tạo cơ hội cho cướp biển Đông Doanh cướp phá Triều Tiên, hành động còn ngông cuồng hơn cả ở vùng Sơn Đông, Hà Bắc (dù sao thì quốc lực của Triều Tiên cũng không thể sánh được với Đại Minh). Chỉ trong mấy tháng, Triều Tiên không còn giữ được các đạo phía nam, mất đi 3 trong số 8 đạo hành chính của cả nước, vì thế mới dâng biểu sang Minh triều cáo cấp. Có điều lúc này Minh triều muốn cứu viện Triều Tiên, chỉ có 2 đường : đường bộ, thì phải vượt qua Sơn Hải Quan do quân Mông Cổ trấn giữ và Liêu Đông do Định Hải quân của Phạm Thế Căng trú đóng; hoặc đường biển thì phải vượt qua sự phong tỏa của Bắc Dương Hạm đội ở Bột Hải và Nam Dương Hạm đội ở vùng biển Triều Tiên; mà trong lúc này, với Minh triều là điều không thể. Không có được viện binh, thế lực của Triều Tiên vương triều ngày càng suy yếu.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 72 : BẮC PHƯƠNG ĐẠI LOẠN

Lại nói, Triều Tiên dâng biểu sang Minh triều cáo cấp, xin viện binh. Nhưng Minh triều tự thân còn chưa lo xong, sao có thể lo đến việc ở Triều Tiên. Không có được viện binh, thế lực của Triều Tiên vương triều ngày càng suy yếu. Trong nước bắt đầu xuất hiện loạn lạc.

Tháng 4, giới quý tộc Quyền môn (Gwonmun) lại nổi dậy, phục ngôi cho Cung Nhượng Vương. Trước đây, vào năm 1388, Lý Thành Quế lật đổ U Vương của Cao Ly vương triều, tôn Dương Vương lên ngôi. Nhưng sau đó y lại giết cả U Vương và Dương Vương, đưa một người thuộc vương tộc là Vương Dao lên kế vị, hiệu xưng Cung Nhượng Vương. Đến năm 1392, Lý Thành Quế lại lật đổ Cung Nhượng Vương, giam lỏng ở Nguyên Châu, và tự đăng cơ xưng vương, lập nên nhà Triều Tiên, dời đô đến Hán Thành. Trong thời gian trị vì của Lý Thành Quế, giới quý tộc Quyền môn nhiều lần nổi dậy định phục ngôi cho họ Vương, nhưng đều bị đàn áp. Lần này, nhân cơ hội Triều Tiên vương triều suy yếu, bọn họ lại nổi dậy, thành công phục ngôi cho Cung Nhượng Vương, khôi phục quốc hiệu Cao Ly, đóng đô ở Toàn Châu, lãnh thổ bao gồm 3 đạo phương nam là Toàn La (Toàn Châu phủ, La Châu mục), Khánh Thượng (Khánh Châu phủ, Thượng Châu mục, Tấn Châu mục), và Trung Thanh (Trung Châu mục, Thanh Châu mục, Công Châu mục).

Tháng sau, một viên biên tướng trấn thủ Bình An đạo của Triều Tiên là Kim Thế Nam đã cất quân đánh chiếm Hàm Kính đạo ở phía đông, sau đó tự xưng Kim Chiêu Vương, quốc hiệu Kim, đóng đô ở Bình Nhưỡng, lãnh thổ bao gồm 2 đạo phương bắc là Bình An (Bình Nhưỡng phủ, Trữ Biên đại đô hộ phủ, Nghĩa Châu mục) và Hàm Kính (Hàm Hưng phủ, Kính Thành đô hộ phủ, Bắc Thanh đô hộ phủ). Triều Tiên vương triều chỉ còn lại 3 đạo ở giữa là Kinh Kỳ (Hán Thành phủ, Khai Thành phủ), Hoàng Hải (Hoàng Châu mục, Hải Châu mục) và Giang Nguyên (Giang Lăng đại đô hộ phủ, Nguyên Châu mục).

Cả hai nước Cao Ly và Kim đều sai sứ đến Gia Định cầu phong, đồng thời liên minh với nhau uy hiếp Triều Tiên quốc.

Còn ở Minh triều, tình hình cũng hỗn loạn không kém.

Đầu tháng 5, do Kỷ Cương chinh binh chinh lương ở Hà Nam một cách quá tàn bạo, hễ gặp tráng đinh là bắt, hễ gặp lương thực là thu, khiến dân chúng căm phẫn, lần lượt nổi dậy khởi nghĩa. Khắp các phủ Trần Châu, Hứa Châu, Trịnh Châu, Vũ Châu, Đặng Châu, Nam Dương, Quy Đức, Chương Đức đều có quân khởi nghĩa. Do quan quân không còn, các quan viên Minh triều ở Hà Nam không thể nào đàn áp quân khởi nghĩa nổi. Nghĩa quân tràn ra khắp nơi, công thành lược địa. Kỷ Cương bị đuổi chạy về Sơn Đông.

Sau một thời gian công thành lược địa, một đạo nghĩa quân lớn chiếm được Nam Dương phủ làm đại bản doanh. Do có tiền lương, có địa bàn, nghĩa quân ở Nam Dương dần dần thu phục được các đạo nghĩa quân nhỏ hơn, lại nhận được viện trợ từ phương nam nên ngày càng phát triển hùng mạnh. Thủ lĩnh của bọn họ là Lưu Khánh tự nhận là hậu duệ của Hán Quang Vũ đế, tuyên bố kế nghiệp tổ tiên, khôi phục Hán triều. Ngày 3 tháng 6, Hán quân tụ họp được 20 vạn người, kéo về bao vây Lạc Dương. Sau 5 ngày vây hãm, Lạc Dương thất thủ. Ngày 15 tháng 6, Lưu Khánh đăng cơ xưng đế, xưng hiệu là Uy Vũ đế, quốc hiệu Đại Hán, đóng đô Lạc Dương. Đến đầu tháng 7, trong số 20 châu phủ, 96 huyện của Hà Nam hành tỉnh thì đã có 17 châu phủ, 72 huyện thuộc quyền kiểm soát của Hán quân. Chỉ còn lại 3 châu phủ nằm sát Sơn Đông thì vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của Minh triều.

Hán quân hưng khởi thúc đẩy hào cường vọng tộc các xứ lần lượt học theo. Ai lại không muốn kiến quốc xưng đế, không những có thể quang tôn diệu tổ, mà còn có thể hưởng tận vinh hoa phú quý.

Ngày 15 tháng 7, Lý Thiếu Hoa xưng đế ở Trường An, xưng hiệu Thánh Đức, quốc hiệu Đại Đường, lãnh thổ gồm 18 châu phủ, 68 huyện ở trung bộ Thiểm Tây (trừ 12 châu phủ, 27 huyện vùng Hán Trung và Lan Châu). Ngày 20 tháng 7, Minh Ngọc Toàn xưng vương ở Thành Đô, xưng hiệu Đức Vương, quốc hiệu Hạ. Minh Ngọc Toàn là em của Hạ vương Minh Ngọc Trân của nước Hạ ở vùng Tứ Xuyên trước đây. Nhờ dư oai của Minh Ngọc Trân, Hạ Đức Vương Minh Ngọc Toàn chiếm lĩnh được 35 châu phủ, 111 huyện của Tứ Xuyên hành tỉnh và 4 châu phủ, 11 huyện vùng Hán Trung của Thiểm Tây hành tỉnh; lãnh thổ rộng hơn 2 nước Đại Hán và Đại Đường nhiều.

Tháng 8, một phú hào của tiền trang Sơn Tây là Tiền Khải dốc hết tài sản ra mộ quân, tụ họp được hơn 20 vạn người, chiếm lấy cả 23 châu phủ, 79 huyện đất Sơn Tây. Ngày 15 tháng 9, Tiền Khải đăng cơ xưng đế, xưng hiệu Long Khánh đế, quốc hiệu Tấn, đóng đô ở Thái Nguyên. Ngoài ra còn có 8 châu phủ và 16 huyện vùng Lan Châu bị quý tộc Mông Cổ chiếm giữ, xưng vương và tuyên bố kế tục nhà Nguyên (sau khi chạy khỏi Bắc Kinh, dòng dõi nhà Nguyên vẫn tiếp tục xưng đế trên thảo nguyên Mông Cổ, sử gọi là Bắc Nguyên, nhưng không có quyền lực gì đáng kể).

Tóm lại, đến mùa thu, Minh triều chỉ còn lại vùng Hà Bắc và Sơn Đông. Các tỉnh Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Tây, Tứ Xuyên lần lượt hình thành các nước Đại Hán, Đại Đường, Tấn, Hạ và phiên vương Mông Cổ ở Lan Châu. Còn vùng Hồ Bắc, Huy Châu, Dương Châu, trên danh nghĩa được Thần Thánh Đế quốc tuyên bố là lãnh thổ của mình (biên giới phía bắc là Hoài Thủy), nhưng thực tế đã bị biến thành vùng đất trống, không một bóng người, trở thành vùng đệm giữa các nước Hán tộc ở phía bắc với Thần Thánh Đế quốc. Hơn nữa, vùng Hoài Thủy vừa xảy ra ôn dịch, dân chúng cũng không dám đến đấy sinh sống.

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.517 (́t Mùi, 1415). Mùa thu, tháng 8. Sùng Minh đảo. Trường Hưng Thành.

Triệu Phong mấy tháng nay rảnh rỗi không có việc gì làm, hết tắm biển rồi lại câu cá, đánh cờ giải khuây. Minh triều quốc lực suy kiệt, không còn đủ khả năng phát động chiến tranh nữa, cuộc bắc phạt đã kết thúc, các đạo quân đã lần lượt rút về phương nam. Giờ chỉ còn lại Định Hải quân ở Liêu Đông, Thần Long quân ở Kim Lăng, Thần Vũ quân ở Trường Sa và Thần Uy quân ở Quảng Châu; cùng với Bắc Dương Hạm đội đóng đại bản doanh ở Đài Loan. Các tướng lĩnh cũng chỉ còn lại Triệu Phong, và Mã Tân là còn ở lại phương bắc cho đến khi cục diện ổn định. Trong khi đó thì Lý Ngân lại suất lĩnh các đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Biên theo đường cũ qua Vân Nam quay về xứ Thái.

Hôm nay, Triệu Phong đang ngồi câu cá giải khuây thì có thân binh đến bẩm báo :

- Đại nhân. Có Triệu Anh Triệu đại nhân từ Gia Định đến.

Triệu Phong nghe báo mà giật mình. Triệu Anh là thân đệ của Triệu Phong, trước đây được Giang Phong chọn vào giúp việc ở Tử Tiêu Điện, có thể xem là cận thần của Giang Phong. Nay gã được phái đến đây, hẳn phải có đại sự gì quan trọng.

Triệu Phong liền trở về Soái phủ, tiếp kiến thân đệ. Triệu Anh thần thái hưng phấn, vừa bước vào đã nói ngay :

- Đại ca. Chúc mừng đại ca nha !

Triệu Phong cau mày hỏi :

- Đệ. Có việc gì cũng nên nói cho rõ ràng ! Không nên nhanh nhảu như vậy ! Chúc mừng điều gì thế ?

Triệu Anh hớn hở nói :

- Có thánh chỉ cho đại ca đây.

Triệu Phong giật mình, vội sai sắp bàn hương án, tiếp chỉ. Lễ tiết đầy đủ, Triệu Anh giở chiếu chỉ ra tuyên đọc :

“Thụ mệnh vu thiên, Thánh hoàng chiếu viết :

Trẫm duy lập chính dụng nhân, nghi cử khảo công chi điển. Lường tài định vị, dụng tinh trị sự chi năng. Tư nhĩ Quân bộ Các thần, Lục quân bộ bộ trưởng Triệu Phong, thần uy vũ dũng, văn vũ kiêm thông, chinh nam phạt bắc, chiến tích huy hoàng. Tư đặc thăng thụ Ngự tiền hộ giá đại thần, Chiêu Vũ Vương, gia cửu tích.

Tứ chi sắc mệnh, miễn hàm cần ư xu sự. Thức khâm thành mệnh, vĩnh vô dịch ư thừa hưu. Khâm thử.”

Tạm dịch :

“Thể theo mệnh trời, Thánh hoàng chiếu rằng :

Trẫm nghĩ việc trị nước dùng người, nên xem xét theo phép công. Lường tài mà phong chức, dựa theo năng lực làm việc. Nay Quân bộ Các thần, Lục quân bộ bộ trưởng Triệu Phong, thần oai võ dũng, văn võ kiêm thông, chinh nam phạt bắc, chiến tích huy hoàng. Nay đặc biệt gia phong cho làm Ngự tiền hộ giá đại thần, Chiêu Vũ Vương, gia cửu tích.

Ban cho sắc mệnh, phải cố siêng năng làm việc. Sứ mệnh vua giao, luôn làm không chán không nghỉ. Khâm thử.”

Triệu Phong nghe nói mà kinh ngạc ngẩn người. Phong vương, gia cửu tích. Cửu tích là dấu hiệu của Thiên tử, được sử dụng xa mã, vận cổn miện theo nghi vệ cao nhất (của nho gia). Trước đây có Tào Tháo, Tư Mã Ý, Lý Thế Dân đều được gia cửu tích. Triệu Phong kinh hãi lắp bắp :

- Đệ. Chuyện này …

Gia cửu tích là chuyện không tầm thường, không khéo có thể mang lại họa sát thân. Vì thế mà Triệu Phong rất lo lắng. Quả thật là Triệu Phong công lao quá lớn. Triệu Anh cười nói :

- Đại ca nên nhớ rằng Thánh hoàng không phải là phàm nhân. Thánh hoàng cộng trị cả thiên địa.

Triệu Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi tung hô vạn tuế và tiếp chỉ.

Bản đồ 8 đạo Triều Tiên :

http://www.mediafire.com/?1mh9cde610j70jl

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 73 : HÀ BẮC DN

Lại nói, sau khi nghe thân đệ phân giải, Triệu Phong tung hô vạn tuế và tiếp chỉ, chính thức thụ phong vương tước. Triệu Anh còn mang theo cổn miện may sẵn cho Triệu Phong. Thấy đại ca vẫn còn lo lắng, Triệu Anh nói thêm :

- Đại ca. Không chỉ có đại ca được phong vương và gia cửu tích thôi đâu ! Cả Phạm tướng quân, Lý tướng quân, Mã đại đô đốc, Đinh đại nhân đều được phong vương và gia cửu tích. Cả đệ nữa. Đệ nhờ được hưởng phúc của đại ca mà cũng được phong thưởng. Đối với Thánh hoàng, Thiên tử cũng chỉ là một danh hiệu của nhân gian mà thôi. Thánh hoàng là Thiên, nếu chúng ta được làm Thiên tử thì cũng như trở thành con cháu của Thánh hoàng mà thôi.

Triệu Phong gật đầu khen phải. Trải qua hơn chục năm tuyên truyền, quan niệm Giang Phong là ‘Thiên’ đã thâm nhập nhân tâm, nhất là những người thân cận với Giang Phong lại càng tin tưởng. Giang Phong là ‘Thiên’, địa vị đương nhiên cao hơn những vị Hoàng đế vốn tự xưng mình là ‘Thiên tử’. Và như vậy thì bọn Triệu Phong có được sử dụng nghi vệ Thiên tử cũng không có vấn đề gì cả. Sau đó, hai huynh đệ họ Triệu hàn huyên trò chuyện, hỏi thăm việc nhà việc nước. Triệu Phong vốn rất yêu quý vị thân đệ này của mình, nghe nói gã cũng được phong vương, lòng rất cao hứng. Nói chuyện hồi lâu, Triệu Anh như chợt nhớ ra, mới nói :

- Đại ca. Đệ đến đây là còn có chuyện muốn nhờ đại ca đó nha !

Triệu Phong hỏi :

- Chuyện gì thế ?

Triệu Anh nói :

- Thánh hoàng phong cho đệ làm Tống Mẫn Vương, phái đệ đến Khai Phong thành lập nước Tống. Thánh hoàng bảo đệ đến đây nhờ đại ca thu xếp cho.

Triệu Phong ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói :

- Không thành vấn đề. Hiện tại trong thành Kim Lăng có gần 4 vạn hàng binh, ta sẽ chiêu mộ thêm cho đủ 10 vạn, rồi đệ dẫn quân chiếm lĩnh vùng Sơn Đông, sau đó tiến chiếm Khai Phong. Ta sẽ lấy 2 vạn Thần Long quân và 2 vạn Định Hải quân hỗ trợ đệ. Đồng thời sẽ thông tri cho Bắc Dương Hạm đội phong tỏa Hoàng Hà.

Thế là Triệu Phong tập họp hàng binh, rồi lấy thêm dân binh người Hán từ các tỉnh (dân binh theo khái niệm của Thần Thánh Đế quốc, không phải dân binh mới chiêu mộ của Minh triều), sau đó chiêu mộ thêm cho đủ 10 vạn, toàn là người Hán, giao cho Triệu Anh thống lĩnh. Bọn Triệu Phong lúc này mới tuyên dương thân phận của mình cho dân chúng biết, rằng bọn họ là dòng dõi hoàng tộc Đại Tống, khi bị nhà Nguyên tiêu diệt thì tổ tiên là Triệu Trung đã chạy sang Đại Việt, có giúp người Đại Việt chống lại nhà Nguyên. Nay Triệu Anh trở về Khai Phong khôi phục Đại Tống triều đình.

Sau khi chuẩn bị hoàn tất, Triệu Anh suất lĩnh 10 vạn quân đổ bộ vào bán đảo Sơn Đông. Triệu Phong cũng đích thân suất lĩnh 4 vạn quân theo hỗ trợ thân đệ. Chỉ trong mấy ngày, bọn họ đã bao vây Tế Nam Thành. Đừng nói Tế Nam, cả Sơn Đông hành tỉnh cũng chẳng còn bao nhiêu binh mã, Kỷ Cương chống cự không nổi, phải bỏ Tế Nam mà chạy về Hà Bắc. Tiếp đó, Triệu Phong suất quân chiếm lĩnh các châu phủ, rồi giao lại cho quân của Triệu Anh tiếp quản. Chỉ sau 2 tháng đánh dẹp, toàn bộ 21 châu phủ, 89 huyện vùng Sơn Đông, cùng với 3 châu phủ, 24 huyện vùng Khai Phong đã tận thu trong tay. Ngày 20 tháng 10, Triệu Anh đăng cơ xưng đế, xưng hiệu Mẫn đế, quốc hiệu Đại Tống, đóng đô ở Khai Phong. Được sự cho phép của Giang Phong, Triệu Anh tuy chỉ là vương tước của Thần Thánh đế quốc, nhưng lại là hoàng đế đối với các nước khác. Cũng giống như các tiểu vương Hồi giáo ở các xứ A Lạp Bá, lại chỉ là hầu tước của Thần Thánh Đế quốc. Tước vị được Giang Phong ban cho phải tôn quý hơn.

Hệ thống tước vị ở Thần Thánh Đế quốc được chia thành 3 bậc. Cao nhất, tôn quý nhất là tước vị phong cho văn thần võ tướng của Đế quốc. Những người này chỉ được phong tước, không được phong đất, nhưng giữ các yếu chức ở triều đình Đế quốc, do vậy mà thân phận tôn quý. Chỉ vì triều đình thực hiện chế độ trung ương tập quyền, không có cắt đất phân phong, nên mới không được phong đất. Ở vị trí thứ hai là tước vị của các chư hầu, tuy cũng được Đế quốc phong tước cho, nhưng có địa vị thấp hơn. Ví dụ như cũng đồng là vương tước, nhưng Triệu Anh có thân phận địa vị thấp hơn Triệu Phong, dù rằng Triệu Anh có lãnh thổ, có triều đình riêng. Thấp nhất là tước vị của người ngoại quốc, không phải được Đế quốc phong cho. Thường thì Đế quốc cũng công nhận tước vị của bọn họ, nhưng bị giảm đi 2 cấp. Ví dụ như đế thì ngang công, vương thì ngang hầu, công tước thì ngang bá tước, … (hệ thống tước vị lần lượt là : đế, vương, công, hầu, bá, tử, nam; cả phương đông và phương tây đều giống nhau. Ở u châu chỉ có Đế quốc La Mã Thần Thánh là có hoàng đế; còn lại như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, … đều chỉ có quốc vương, gọi là vương quốc; các nước nhỏ hơn thì chỉ có công tước, gọi là công quốc).

Tóm lại, đến tháng 10, vùng Trung Nguyên đã xuất hiện 6 nước lớn tương đương nhau và 1 nước nhỏ ở khu vực Cam Túc. Tình trạng này gần giống với thời Ngũ Đại Thập quốc, một nửa đất nước bị người không phải Hán tộc chiếm giữ (thời kỳ đó là người Sa Đà). Phần còn lại hình thành hàng loạt các nước nhỏ khác. Điểm đặc biệt là thời kỳ đó, các nước lớn do người không phải Hán tộc thành lập lại được xem là chính thống, tôn chủ; còn các nước nhỏ của người Hán do lãnh thổ nhỏ bé, nên chỉ được xem là các tiểu quốc chư hầu. Giờ đây tình trạng cũng tương tự.

Đại Tống – Tống Mẫn đế Triệu Anh, chiếm lĩnh 24 châu phủ, 113 huyện ở vùng Sơn Đông và Khai Phong, đóng đô ở Khai Phong, quân đội có 10 vạn và đang được chiêu mộ thêm, được sự hỗ trợ trực tiếp của Triệu Phong nên tiền lương, vũ khí đều sung túc, thực lực hùng hậu.

Đại Hán – Hán Uy Vũ đế Lưu Khánh, chiếm lĩnh 17 châu phủ, 72 huyện ở vùng Hà Nam, đóng đô ở Lạc Dương, quân đội có 30 vạn, có nhận viện trợ từ phương nam, quốc lực hùng hậu. Trong nước tình hình tương đối ổn định, không chịu ảnh hưởng nhiều của chiến tranh loạn lạc.

Đại Đường – Đường Thánh Đức đế Lý Thiếu Hoa, chiếm lĩnh 18 châu phủ, 68 huyện ở trung bộ Thiểm Tây hành tỉnh, đóng đô ở Trường An, quân đội có 20 vạn, quốc lực trung bình. Trong nước tình hình ổn định, dân chúng an cư lạc nghiệp, không bị ảnh hưởng nhiều của chiến tranh loạn lạc.

Hạ - Hạ Đức Vương Minh Ngọc Toàn, chiếm lĩnh 39 châu phủ, 122 huyện ở vùng Tứ Xuyên và Hán Trung, đóng đô ở Thành Đô, quân đội 20 vạn, quốc lực yếu, nhưng địa hình hiểm trở, dễ thủ khó công, tách biệt hẳn với vùng Trung Nguyên, hoàn toàn không bị ảnh hưởng của chiến tranh loạn lạc.

Tấn – Tấn Long Khánh đế Tiền Khải, chiếm lĩnh 23 châu phủ, 79 huyện ở đất Sơn Tây, đóng đô ở Thái Nguyên, quân đội 30 vạn, quốc lực hùng hậu, nhưng phải chịu sự uy hiếp của Đại Minh ở phía đông và Mông Cổ ở phía bắc.

Lương – Lương Vương Oyiradai, chiếm lĩnh 8 châu phủ và 16 huyện ở vùng Cam Túc, đóng đô ở Lan Châu, quân đội có 5 vạn kỵ binh Mông Cổ, quốc lực yếu, nhưng cách xa Trung Nguyên, gần Mông Cổ, dễ nhận được viện trợ từ các bộ lạc Mông Cổ. Oyiradai vốn là một Hãn (Khan) của Bắc Nguyên, nhưng đang tìm cách hướng Thần Thánh Đế quốc cầu phong.

Đại Minh – Minh Vĩnh Lạc đế Chu Lệ, chiếm lĩnh 27 châu phủ, 116 huyện ở vùng Bắc trực lệ (tức vùng Hà Bắc), đóng đô ở Bắc Kinh, quân đội có 50 vạn (gồm 30 vạn quân tinh nhuệ và 20 vạn tân binh mới chiêu mộ), thực lực mạnh nhất, nhưng đang phải đánh nhau với các bộ lạc Mông Cổ. Lãnh thổ phía bắc của Đại Minh thường xuyên bị quân Mông Cổ cướp phá. Vùng Liêu Tây, Hữu Bắc Bình và lân cận Sơn Hải Quan vẫn đang do người Mông Cổ kiểm soát. Và vùng duyên hải cùng các nơi lân cận sông hồ vẫn tiếp tục bị ‘Uy khấu’ cướp bóc. Đại Minh quốc cũng là nơi hỗn loạn nhất, dân tình khốn khổ nhất. Người dân truyền tụng nhau bài thơ cổ ‘Hà Bắc dân’ để bày giải nỗi lòng mình :

“Hà Bắc dân,

Sinh cận nhị biên trường khổ tân,

Gia gia dưỡng tử học canh chức,

Thâu dữ quan gia sự di địch.

Kim niên đại hạn thiên lý xích,

Châu huyện nhưng thôi cấp hà dịch,

Lão tiểu tương y lai tựu nam,

Nam nhân phong niên tự vô thực.

Bi sầu thiên địa bạch nhật hôn,

Lộ bàng quá giả vô nhan sắc,

Nhữ sinh bất cập Trinh Quán trung,

Đẩu túc sổ tiền vô binh nhung.”

Tạm dịch :

“Dân Hà Bắc,

Giữa hai biên giới sống khổ cực,

Sinh con ai chẳng dạy nông tang,

Nộp hết cho quan để biếu giặc.

Năm nay đại hạn nghìn dặm khô,

Phu đi làm sông huyện vẫn bắt,

Trẻ già dắt díu xuống miền nam,

Nam tuy được mùa vẫn đói rạc.

Trời thảm đất sầu ngày tối sầm,

Bao khách qua đường mặt nhợt nhạt,

Tiếc sinh chẳng nhằm đời Trinh Quán,

Vài đồng đấu gạo không loạn lạc.”

Qua đó cũng đủ thấy tình cảnh của dân chúng Đại Minh quốc khốn khổ đến thế nào. Làm ra bao nhiêu lương thực, phải nộp cho triều đình phần lớn làm quân lương (để dùng cho việc chiến tranh), phần nhỏ giữ lại cũng chẳng yên, phía bắc thì có quân Mông Cổ cướp phá, phía nam thì có ‘Uy khấu’ cướp bóc. Người chết đói còn nhiều hơn người chết vì chiến tranh. Không ít người bỏ xứ tha hương, dắt dìu nhau vượt Thái Hành Sơn sang Sơn Tây, hoặc vượt Hoàng Hà xuống Sơn Đông, Hà Nam tỵ nạn. Sự xuất hiện của dân tỵ nạn đến từ Hà Bắc tuy có khiến triều đình các nước phải lo nhiều hơn về việc trị an và bố trí nạn dân, nhưng cũng làm cho lòng dân không còn hướng về Đại Minh nữa. Dân chúng suy nghĩ rất đơn giản, và chỉ hướng về sung túc an định chứ chẳng bao giờ hướng về khốn khó cơ hàn. Chẳng mấy ai muốn phải chịu cảnh giống như dân Hà Bắc cả.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 74 : NHỮNG ĐIỀU TRÔNG TH́Y

Trở lại Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ, tháng 5.

Hai người bọn Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn được Phạm Thế Căng sắp xếp cho theo thương thuyền để vào Gia Định. Tuy Trung Hoa chiến loạn, nhưng vùng Đông Doanh đã trở nên phồn vinh hơn. Các tuyến thương mại cũng chuyển dần về hướng đó. Nhân cuộc bắc phạt của Thần Thánh Đế quốc, hải tặc Đông Doanh sang cướp phá Trung Hoa, mang về rất nhiều tài bảo, trở nên giàu có, thành ra nhu cầu hưởng thụ cũng trở nên cao hơn nhiều. Đó là cơ hội cho các thương nhân.

Cả hai được Phạm Thế Căng cấp cho ‘thông hành chứng thư’ rồi lên thuyền vào nam. Ở Thần Thánh Đế quốc, không có ‘thông hành chứng thư’ thì không thể tự do đi lại trong các thành thị, nếu bị phát hiện thì sẽ bị tống giam vào lao ngục. Người ngoại quốc muốn vào lãnh thổ Đế quốc bắt buộc phải đến Ngoại vụ ban, trực thuộc Chính vụ ty ở các tỉnh, xin cấp ‘thông hành chứng thư’ để chứng minh thân phận, đề phòng gian tế, gián điệp, tặc khấu, yếu phạm, …

Thương thuyền đi đến Hội An thì dừng lại, tiếp thêm vật tư, nước uống, cũng như để cho thương nhân lên Hội An Thành mua bán. Hội An là một tân thành thị, được thành lập vào năm ́t Dậu (1405) theo lệnh của Giang Phong. Thành Hội An không nằm tại vị trí Hội An ngày nay, mà nằm ở khu vực phía nam đèo Hải Vân, ngay khu vực Đà Nẵng. Tại đó có một vịnh nước sâu, thuận lợi cho các hạm thuyền cỡ lớn neo đậu.

Thuyền ghé vào Hội An. Bọn Nguyễn Trãi cũng lên bờ, vào dạo phố phường để cảm nhận phong cách phố thị phương nam. Đến trước cổng thành, bọn họ phải trình ‘thông hành chứng thư’ thì mới được thủ thành sĩ binh cho vào.

Bọn họ trước tiên đi dạo một vòng phố thị, để thỏa mãn tâm nguyện nghiên cứu cuộc sống của người phương nam. Ở đây, bọn họ dễ dàng nhận ra phong cách sống của người dân khác hẳn vùng Thăng Long. Không khí thương nghiệp bao trùm mọi nơi. Các cửa hiệu buôn bán sầm uất, khách ra vào nhộn nhịp. Hội An là một trong những trạm trung chuyển của tuyến thương mại từ phương bắc đến Gia Định, kinh đô của Đế quốc, nên dù chỉ mới thành lập chưa đến 10 năm, mà đã trở thành một tòa đại thành thị, dân số hơn 10 vạn người, là trung tâm kinh tế quan trọng nhất của cả tỉnh Phú Yên (tức đất Chiêm Thành cũ).

Đặc biệt, bọn Nguyễn Trãi phát hiện trong thành có đủ mọi thành phần dân tộc. Người Hán, người Việt, người Mường, người Chiêm, người Lào, người Thái, người Khmer, người Mã Lai, người Java, người Thiên Trúc, người Đông Doanh, người Mông Cổ, … thậm chí có cả người u da trắng và người Phi da đen. Nguyễn Trãi cố tìm cách nói chuyện với một người da trắng, và biết được rằng bọn họ đến từ một nơi rất xa, rất xa, ở tận bên kia bờ đại dương, ở một xứ gọi là A Lạp Bá, và bọn họ cũng là thần dân của Đế quốc.

Đi dạo khắp thành, cả hai đều kinh ngạc trước những đường phố thẳng tắp, đều đặn như bàn cờ, mặt đường bằng phẳng, nhà cửa hai bên đường đều được xây bằng gạch ngói, cao 2, 3 tầng, không hề nhìn thấy những ngôi nhà gỗ xập xệ như các thành thị ở vùng Thăng Long. Nhất là cảnh phồn vi nhộn nhịp ở đây. Trần Nguyên Hãn nói :

- Nguyễn Trãi. Ta không thể tin rằng đây chỉ là một tòa tân thành mới được xây dựng chưa đến 10 năm. Nếu ở phương bắc, kể cả bên Trung Nguyên, thì cũng có thể kể là một tòa đại thành.

Theo quan niệm của hai người bọn họ trước đây, trừ người Hán và người Việt là văn minh, còn lại đều là ngu muội, lạc hậu, dã man. Còn ở đây, người Hán và người Việt đều không chiếm ưu thế. Tỷ lệ người Chiêm, người Mường và người Java cao hơn nhiều (điều này cũng không có gì khó hiểu, bởi quan niệm sĩ, nông, công, thương; trọng nông khinh thương, thương nhân tối tiện của nho gia đã thâm căn cố đế trong tư tưởng của người Việt thời bấy giờ).

Nguyễn Trãi ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Nguyên Hãn. Đừng quên thế lực của Đế quốc. Đã có thể kiến lập một Đế quốc rộng mênh mông như thế, thì ở Đế quốc không điều gì là không thể. Ở đây đã vậy, ta tin chắc rằng khi đến Gia Định chúng ta sẽ nhìn thấy những điều không thể tưởng tượng nổi.

Trần Nguyên Hãn nói :

- Nãy giờ ta chú ý một điều : tất cả người dân ở đây đều đối xử bình đẳng với nhau, không phân biệt đối xử dù thuộc bất kỳ dân tộc nào.

Nguyễn Trãi nói :

- Nghe nói ở Đế quốc mọi thần dân, dù thuộc bất kỳ dân tộc nào, cũng đều bình đẳng trước pháp luật. Đế quốc chỉ phân biệt thần dân thành 3 loại : thuận dân, là những người có thể nói viết được ngôn ngữ của Đế quốc; lương dân, là những người không chống đối Đế quốc, nhưng chưa nói viết được ngôn ngữ của Đế quốc; và nghịch dân, là những người chống đối lại Đế quốc.

Trần Nguyên Hãn ngẫm nghĩ giây lát, đột nhiên nói :

- Vậy thì chúng ta …

Đến đây, bọn Nguyễn Trãi mới phát hiện một vấn đề nghiêm trọng : giao tiếp nói chuyện thì không vấn đề gì, nhưng bọn họ lại trở thành những người mù chữ. Ở Đế quốc, người dân không sử dụng chữ Hán, mà sử dụng một thứ chữ trông giống như những phù hào của các pháp sư thường sử dụng (chữ Latinh do cong cong ngoằn ngèo trông giống phù hào). Bọn Nguyễn Trãi không đọc được thứ chữ này, nên biến thành người mù chữ. Các cửa hiệu, thương điếm, khách sạn, … đều có biển hiệu, nhưng bọn họ không thể đọc được. Cảm giác mù chữ đối với những người có học thức cao như bọn họ thật là khốn khổ. Đặc biệt là khi bọn họ phát hiện đại bộ phận người dân đều biết chữ, bất kể thuộc dân tộc nào. Thế là, bọn họ quyết tâm khi về thuyền phải nhờ chúng thương nhân dạy cho học chữ. Dù sao thì từ nay về sau bọn họ cũng đã trở thành thần dân của Đế quốc rồi. Nếu không đọc viết được văn tự của Đế quốc, bọn họ chỉ có thể kể là thần dân hạng hai - lương dân mà thôi.

Dạo phố một hồi cũng mỏi chân, cả hai quyết định ghé vào hàng quán nào đó bên đường để nghỉ ngơi ăn uống. Đi được mấy bước, cả hai chợt nghe từ một quán trà gần đó có tiếng ca ngâm vọng ra :

“Đất quê ta khi mưa chẳng thấm,

Người quê ta tuy lấm mà vui.

Đất nước ta gian lao mà anh dũng,

Quê hương ta ra ngõ gặp anh hùng.”

Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đưa mắt nhìn nhau, rồi rảo bước đi vào trà quán. Vào bên trong, bọn họ nhìn thấy một trung niên nhân vận thanh y trường bào, tóc cột dây tơ, tay cầm quạt lông, ung dung phe phẩy. Trên chiếc bàn trước mặt có một chiếc khay gỗ, một chiếc phách để gõ nhịp và một bình trà. Qua lời nói của những người trong quán, bọn Nguyễn Trãi biết được đó là thuyết thư nhân, và bọn họ không biết rằng thuyết thư nhân còn là quan viên của Đế quốc, dù chức vị nhỏ, nhưng được Giang Phong đặc biệt trọng thị.

Tìm bàn ngồi xuống, gọi một bình trà và vài món bánh trái, cả hai ngồi yên chờ nghe thuyết thư nhân nói chuyện, sẵn tiện tìm hiểu phong tục phương nam. Ở nơi đất lạ quê người, bọn họ trở nên cẩn thận hơn, không dám mạo muội xen vào những việc không liên quan đến mình.

Thuyết thư nhân nhấp nháp chung trà thấm giọng xong, cầm phách lên gõ nhịp, hắng giọng ngâm rằng :

“Đại Việt xưa,

Có lắm trang tuấn kiệt hùng anh.

Trải mấy ngàn năm lịch sử lừng danh

Biết bao gương oai hùng sáng lạn

Một lòng tranh đấu, gìn giữ cho giang san

Cho nước nhà thịnh trị bình an

Lòng không nề nguy hiểm gian nan

Chỉ mong Tổ quốc bền vững vinh quang.

Xưa kia dân ta lắm điều khổ cực

Dưới quyền thống trị của nước Tàu

Thuở ấy có vị nữ anh hùng họ Trưng

Cùng đứng lên để lo dẹp giặc

Trước là bảo vệ đất nước non sông

Sau quyết tâm rửa hận thù chồng

Hai bà phất cờ cưỡi voi ra trận

Đánh đuổi lũ quân Tàu

Mê Linh từ nay rạng ánh thanh bình

Nước non nhà dứt nạn chiến chinh.”

Mọi người vỗ tay cổ vũ. Nhiều người bỏ tiền vào chiếc khay gỗ trước mặt thuyết thư nhân. Có ai đó nói :

- Đào tiên sinh. Tấu một đoạn nào nói về quê ta đi.

Những người khác đua nhau khen phải. Thuyết thư nhân tươi cười gật đầu, gõ phách ca rằng :

“Chín năm qua,

Xây dựng quê nhà,

Hào hùng thay khúc tráng ca.

Hội An quê ta

Trải chín mùa xuân ngát hương hoa

Trên quê hương sâu nặng nghĩa tình

Thương sao miền đất quê mình

Đã từng bước trưởng thành

Từ sau cuộc chiến tranh

Biết bao mất mát đau thương

Của những năm tháng u buồn

Thuở nơi đây là bãi chiến trường

Một thời tang tóc bởi đao thương.

Chín năm qua ngày hòa bình lập lại

Quê ta chuyển mình cất cánh vươn vai

Hội An phố thị hôm nay

Ước hẹn sáng ngời tương lai.”

Ở trà quán cả buổi, nghe thuyết thư nhân ca ngâm cho đến xế chiều, thấy đã đến giờ phải về thuyền, bọn Nguyễn Trãi mới rời Hội An, ra bến xuống thuyến. Nguyễn Trãi có quan hệ khá tốt với một thương nhân trên thuyền, do đó cả hai liền theo người đó nhờ dạy cho văn tự của Đế quốc. Thứ chữ này đọc sao viết vậy, rất đơn giản, đối với bọn Nguyễn Trãi sẽ chẳng mất nhiều thời gian để có thể đọc viết thông thạo.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 75 : Đến Gia Định thành

Thương thuyền tốc độ không nhanh, lại chở nặng, nên mất khoảng 10 ngày mới đến được khu vực Long Sơn. Đi dọc theo bờ biển, từ Hội An Thành (Đà Nẵng ngày nay) đến Long Sơn huyện (Vũng Tàu ngày nay) ước khoảng 1.000 kilômét, do không có nhiều gió nên thuyền chỉ đi được khoảng 100 kilômét mỗi ngày (tính ra chỉ hơn 4 kilômét mỗi giờ, là tốc độ thông thường của các thuyền buồm thời bấy giờ).

Ở tận cùng mũi đất nhô ra ngoài biển của Long Sơn huyện có một pháo đài với nhiều khẩu thần công cỡ lớn, để kiểm soát vịnh Long Sơn, nơi cửa biển của sông Gia Định. Mọi hải thuyền lớn nhỏ muốn vào sông Gia Định đều phải ghé cảng Long Sơn, đến Hải quan ty xin giấy phép xuất nhập quan khẩu. Gia Định là kinh đô của Thần Thánh Đế quốc, nên được kiểm soát nghiêm ngặt hơn những nơi khác.

Thuyền tiến vào vịnh Long Sơn. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đứng bên ngoài khoang thuyền xem phong cảnh. Thuyền bè ra vào tấp nập, quang cảnh nhộn nhịp khiến cả hai đều kinh ngạc. Nhất là khi nhìn rất nhiều thuyền lớn có đến 6, 7 cột buồm, dài hơn 10 trượng, cả hai đều phải thán phục sự giàu mạnh của Thần Thánh Đế quốc. Đại Việt xưa nay chưa bao giờ có được cảnh này.

Đột nhiên, Trần Nguyên Hãn chỉ về một hướng, bật kêu lên thảng thốt :

- Nhìn kìa !

Nguyễn Trãi vội quay nhìn về hướng đó, và cũng giật mình thất sắc. Trước mắt hai người họ là một chiếc thuyền khổng lồ, thật lớn, cực kỳ lớn, vô cùng lớn. Thuyền của bọn họ ở bên chiếc thuyền đó, chênh lệch quá lớn. Lão thương nhân đang đứng gần đó, thấy hai người như thế, vuốt râu cười nói với vẻ tự hào :

- Đó là Thất Tinh cấp vận hạm, phụ trách vận chuyển lương thực, khí giới cho quân viễn chinh ở Kim Lăng. Thuyền dài 50 trượng, rộng 18 trượng, cao 2 trượng, tải trọng khoảng 1 ức rưỡi cân. Hải quân của Đế quốc còn có Lục Tinh cấp chiến hạm lớn hơn nữa. Và ta còn nghe nói các vị Học sĩ ở Thái Học Viện đang nghiên cứu chế tạo Ngũ Tinh cấp chiến hạm.

Hầu như bất cứ thần dân nào của Đế quốc, khi nhìn thấy những chiến hạm khổng lồ như thế đều cảm thấy tự hào, nhất là khi giới thiệu nó với người lạ. Bọn Nguyễn Trãi liền nhân cơ hội đó, hỏi han về Thần Thánh Đế quốc, về Gia Định Thành.

Khi thuyền cập vào Long Sơn cảng, lão thương nhân bảo :

- Chúng ta ở lại thuyền, đừng lên bến. Thuyền chỉ ghé vào đây giây lát để xin giấy phép xuất nhập quan khẩu, rồi sẽ đi ngay. Đến chiều chúng ta sẽ có thể nghỉ ngơi ở Gia Định Thành rồi.

Nói đến đây, lão chợt vuốt râu tán thán :

- Gia Định Thành là tòa thành tuyệt vời nhất trên thế gian. Trường Thanh Cung cũng là cung điện vĩ đại nhất trên thế gian. Khi nghỉ hưu, ta nhất định sẽ đến Gia Định Thành sinh sống, an dưỡng tuổi già. Ta đã xin được giấy phép định cư ở Gia Định rồi.

Nguyễn Trãi ngạc nhiên hỏi :

- Muốn sinh sống ở Gia Định Thành cũng phải xin phép nữa sao ạ ?

Lão thương nhân vuốt râu cười nói :

- Đương nhiên. Bất kỳ ai muốn định cư ở Gia Định Thành đều phải xin phép. Người lạ sau khi xin phép nhập thành đều chỉ được ở lại không quá nửa tháng. Nếu quá hạn, có lý do chính đáng thì có thể xin gia hạn, bằng không, khi bị phát hiện sẽ bị tống giam đó.

Thuyền chỉ ghé lại Long Sơn cảng ước khoảng nửa canh giờ, sau khi nhân viên của Hải quan ty lên thuyền tra xét xong thì nhổ neo tiếp tục khởi trình, hướng vào sông Gia Định. Trên mặt sông, thuyền bè đi lại tấp nập, thuyền lớn thuyền nhỏ đủ cả. Thủy thủ trên các thuyền có rất nhiều dân tộc, cho thấy thuyền đến từ nhiều địa vực khác nhau.

Đến chiều, thuyền cập cảng Gia Định. Cảng nằm ngay cạnh một khu thương mại sầm uất, trên bến dưới thuyền, cảnh mua bán náo nhiệt vô cùng, hàng hóa xuất nhập liên tục, có gốm sứ, tơ lụa, trà diệp, hương liệu, thủ công mỹ nghệ, lâm sản, hải sản, … Hàng hóa chủng loại phong phú và nhiều vô kể.

Thuyền cập cảng. Trong lúc chúng thương nhân lo tìm đối tác tiến hành mua bán thì Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tiến thành.

Gia Định Thành được xây dựng sau khi Trường Thanh Cung đã hoàn công, chu vi 100 dặm (tức 40 kilômét, rộng hơn thành Bắc Kinh vốn chỉ có chu vi 24 kilômét), cao 4 trượng, dày từ 4 đến 5 trượng (trên đỉnh và dưới chân tường), cứ cách 50 trượng có một pháo đài, bố trí thần công đại pháo. Thành được xây hoàn toàn bằng gạch và thạch nê, bên trong có cốt sắt (chứ không đắp bằng đất giống như thành Thăng Long; hoặc chỉ có lớp đá mỏng, dày khoảng 0,7 mét ở mặt ngoài như thành Tây Đô của nhà Hồ). Bên ngoài có hộ thành hà rộng 10 trượng, sâu ước 2 trượng. Thành môn quy hô hùng vĩ, thành lâu tráng lệ huy hoàng. Đứng trước thành môn, bọn Nguyễn Trãi không khỏi choáng ngợp, thầm nhủ rằng trên thế gian không có tòa thành nào vĩ đại hơn Gia Định Thành. Trần Nguyên Hãn cảm thán :

- Thật là một tòa thành vĩ đại !

Thăng Long Thành tuy là tòa thành lớn nhất Đại Việt, nhưng so với Gia Định Thành thì giống như huyện thành so với kinh thành - không thể so sánh.

Sau khi trình ‘thông hành chứng thư’ bọn Nguyễn Trãi được thủ thành sĩ binh chỉ đường đến Chính vụ ty đăng ký tạm trú, sau đó cả hai nhập thành. Đi qua thông đạo dưới thành môn, bọn Nguyễn Trãi kinh ngạc khi phát hiện phố thị không chật chội như ở Thăng Long. Đại lộ chính rộng 20 trượng. Những đại lộ nhỏ hơn rộng 10 trượng, 15 trượng ngang dọc như bàn cờ. Xen giữa là những đường phố nhỏ hơn, chỉ rộng 5 trượng, cắt ngang qua các đại lộ. Mặt đường bằng phẳng và sạch sẽ. Phố xa phồn hoa, náo nhiệt nhưng không hề hỗn loạn. Dân chúng sống trong những tòa nhà xây bằng gạch, cao 2, 3 tầng, chỉnh tề sang trọng. Trong thành không hề nhìn thấy những ngôi nhà gỗ xiêu vẹo, cũng không có những con hẻm nhỏ tối tăm của dân nghèo, mà vẫn thường được gọi là bần dân khu.

Trong lúc Nguyễn Trãi mãi ngắm nhìn phố xá, Trần Nguyên Hãn giục :

- Chúng ta đến Chính vụ ty trước đã.

Nguyễn Trãi gật đầu khen phải. Thế là cả hai theo hướng dẫn của sĩ binh ở thành môn mà tìm đến Chính vụ ty. Ở đó, cả hai được quan viên hướng dẫn điền vào một biểu mẫu xin tạm trú, in dấu tay đầy đủ, rồi được cấp giấy phép tạm trú nửa tháng. Sau đó, cả hai hỏi thăm đường, tìm khách sạn thuê phòng nghỉ lại. Ở Thần Thánh Đế quốc, chỉ có khách sạn chứ không có khách điếm.

Sau đó, cả hai bắt đầu đi dạo, tham quan Gia Định Thành, mà mục tiêu đầu tiên là Trường Thanh Cung. Dù không thể vào bên trong, nhưng đi dạo bên ngoài cũng đủ thấy sự vĩ đại của nó. Tường thành của cung điện có chu vi 40 dặm (tức 16 kilômét), quy mô hùng vĩ hơn cả Thăng Long Thành. Giờ đây, cả hai mới nhận thấy lời nói của lão thương nhân trên thuyền quả không sai. Trên thế gian khó tìm được một cung điện nào khác vĩ đại hơn Trường Thanh Cung.

Trong lúc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đi dạo bên ngoài thì Giang Phong ngự trong Tử Tiêu Điện xem báo cáo về những hành động của hai người bọn họ thời gian qua. Do được Lý Tử Tấn tiến cử, Quảng Tế Pháp sư rất trọng thị hai người bọn Nguyễn Trãi, và đã chỉ thị Ám bộ theo dõi hành tông của bọn họ. Lão đã biết trước hai người bọn họ sẽ vào Gia Định, vì sau khi gặp bọn họ, Phạm Thế Căng đã sai người đưa tin về triều. Có điều, hiện tại triều đình không thiếu quan viên, mà Giang Phong cũng không có hứng thú với Bình Ngô Sách, cũng như tư tưởng nho gia của Nguyễn Trãi, nên tạm thời chưa cho triệu kiến, chờ thời gian rèn luyện bọn họ.

Đọc xong báo cáo, Giang Phong mỉm cười nói :

- Gã Nguyễn Trãi này cũng thú vị nhỉ.

Thấy Giang Phong mỉm cười, Quảng Tế Pháp sư biết rằng việc này xem như đã xong. Sau này sẽ có Lý Tử Tấn chiếu cố hai người bọn họ. Quảng Tế Pháp sư lại hỏi :

- Thánh hoàng. Thế vụ việc nô lệ Hán tộc xử lý thế nào ạ ?

Tù binh bắt được từ Minh triều ban đầu đều được sung làm khổ công giống như những tù binh khác. Nhưng giới sĩ phu, quan lại Hán tộc vốn bị tư tưởng nho gia hun đúc lâu năm, không chịu yên phận mà thường xuyên sinh sự thị phi, khiến các trại khổ công không thể nào yên tĩnh được. Giang Phong tức giận, đã truyền chỉ biến bọn họ thành nô lệ. Nghe nhắc đến việc đó, Giang Phong khẽ cau mày, ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Nữ thì bán trong nước, còn nam thì bán sang u châu.

u châu hơn 50 năm trước đã trải qua một trận đại dịch ‘Cái chết đen’ làm dân số giảm gần một nửa, do đó đang rất cần lao động lực, và nam nô lệ là một lựa chọn khả thi. Còn nữ nô lệ là sinh sản lực, có thể giúp dân số của Đế quốc tăng thêm, nên sẽ không bán ra nước ngoài. Một nam ba nữ mỗi năm có thể sinh ba người con, nhưng một nữ ba nam mỗi năm chỉ có thể sinh được một người con mà thôi. Vì thế, tỉ lệ sinh nhiều hay ít phụ thuộc nhiều vào số phụ nữ (đương nhiên đối với trường hợp đàn ông vô sinh là ngoại lệ).

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 76 : Sứ giả của Napoli

Ngoài các vụ trên, kỳ này lại còn xảy ra nhiều việc khác. Quảng Tế Pháp sư tiếp tục bẩm tấu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Các tướng quân Hồi giáo ở Syria, phía bắc Jerusalem, xứ A Lạp Bá, dâng biểu xin thần phục bản triều và xin thành lập các tiểu quốc Hồi giáo. Thỉnh Thánh hoàng định đoạt.

Trước đây các xứ Syria (thời trước thế kỷ 20 gồm cả Lebanon), Jerusalem (gồm cả Israel, Jordan, Palestine) đều thuộc về vương quốc Hồi giáo Mamluk ở Cairo. Nhưng sau khi Đế quốc chiếm giữ bán đảo Sinai và Jerusalem thì vương quốc Hồi giáo Mamluk bị chia thành 3 phần : phần Cairo và Thượng Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Muayyad Sayf Ad Din Tatar, quốc vương hiện tại của vương triều Mamluk; khu vực Alexandria và vùng tây bắc Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Adil Al Musta' in Billah, quốc vương bị lật đổ năm Nhâm Thìn (1412), chạy thoát đến Alexandria; và đất Syria (bị tách rời khỏi Ai Cập bởi bán đảo Sinai và Jerusalem) do các tướng lĩnh Mamluk tự cai quản, có khuynh hướng chuyển đổi thành các tiểu quốc Hồi giáo giống các xứ Somali và Yemen gần đó. Sau một thời gian chuẩn bị, đến lúc này, các tướng quân ở Syria đã dâng biểu cầu phong, mong muốn trở thành tiểu vương Hồi giáo.

Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi phán :

- Cắt phần Tripoli khỏi Jerusalem, thành lập tỉnh Tripoli, gồm cả các xứ Syria.

Quảng Tế Pháp sư cung kính lĩnh chỉ. Điều đó có nghĩa là các khu vực thuộc Syria trở thành một tỉnh riêng, với vùng ven biển, gồm Tripoli (nay thuộc Lebanon, trước đó có thời gian là tiểu quốc Tripoli của các Hiệp sĩ Thập tự chinh cho đến khi bị người Ai Cập chiếm giữ) và các vùng lân cận do Đế quốc kiểm soát; khoảng 90% diện tích còn lại sẽ do các tướng lĩnh Mamluk tự cai quản với các tiểu quốc Hồi giáo của mình. Thể chế ở đây sẽ giống với 2 tỉnh Somali và Yemen ở gần đó.

Tiếp đó, Quảng Tế Pháp sư lại tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Việc tuyển mỹ nữ nhập cung nên xử lý thế nào ạ ?

Trong cung quá trống vắng không có lợi cho quốc vận, các vị văn võ đại thần đều nghĩ vậy, nên cuối cùng Giang Phong cũng đã chấp thuận tuyển mỹ nữ nhập cung. Có điều tuyển thế nào, quy mô ra sao, phạm vi tuyển, … còn chờ định đoạt. Giang Phong hỏi :

- Ý quần thần thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Để cho công bằng, chúng thần nghĩ nên tuyển trong phạm vi toàn quốc, chia đều cơ hội cho các tỉnh. Hơn nữa, để khỏi mang tiếng kỳ thị, mọi dân tộc đều tuyển. Nếu như có ai không hợp thánh ý thì vẫn có thể cho làm phổ thông cung nhân, hoặc ban cho những ai có công. Dù sao thì cũng đều là mỹ nữ cả.

Giang Phong trầm ngâm giây lát, đoạn phán :

- Tuyển mỗi tỉnh một người. Các nước chư hầu vẫn có thể tham gia. Không giới hạn dân tộc.

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Hiện tại bản triều có 95 tỉnh; cộng thêm các xứ Đông Doanh, Mông Cổ xin lấy thêm 5 người nữa cho đủ 100.

Giang Phong bằng lòng. Tuyển chẵn 100 cho may mắn. Số 100 xưa nay vẫn là số hên. Nhân sinh bách tuế, bách niên giai lão, bách quan, bách tính, Bách Việt, … Nghe nói cả nước có đến 95 tỉnh, Giang Phong cũng không ngờ, liền lấy sổ sách ra xem lại. Bọn Quảng Tế Pháp sư chia tỉnh tùy theo khu vực, lớn nhỏ khác nhau. Lớn nhất là Minh Châu (Úc), nhỏ nhất là Đài Loan (gồm cả Lưu Cầu). Tổng cộng 95 tỉnh, kể luôn Tripoli.

Xong việc tuyển mỹ, Quảng Tế Pháp sư lại tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Hôm qua thần nhận được tin báo của Hồng Long Phân hạm đội Đô đốc Tôn Lương. Tôn Đô đốc bảo rằng sắp tới có Louis Đệ Tam của Napoli theo vận thuyền của phân hạm đội đến Gia Định, có việc muốn thương lượng với bản triều.

Giang Phong ngạc nhiên hỏi :

- Y đến có việc gì ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Theo tin tức thu được, vị Louis Đệ Tam đó trên danh nghĩa là Quốc vương của Napoli, nhưng ngôi vua đã bị người khác chiếm mất. Bắt đầu từ khoảng 40 năm trước đến giờ, ngôi vua của xứ Napoli này rất hỗn loạn và phiền nhiễu. Khi đó, nữ vương John Đệ Nhất không có con, đầu tiên chọn em họ của mình là Charles của Durazzo làm người thừa kế. Nhưng sau đó, giữa hai người nảy sinh xích mích, xem nhau như kẻ thù, nên John Đệ Nhất đã chọn Louis Đệ Nhất làm người thừa kế. Có điều chẳng bao lâu sau, Charles đem quân tấn công, bắt giam John, tự lên ngôi vua của Napoli và sau đó giết chết John trong tù. Louis Đệ Nhất đã mấy lần dẫn quân về giành lại ngôi vua, nhưng đều không thành công. Khi Charles qua đời thì con là Ladislas lên kế vị, nhưng vì còn nhỏ nên mất ngôi, bị trục xuất. Con trai của Louis Đệ Nhất là Louis Đệ Nhị lên kế vị, cũng chỉ được 3 năm thì bị Ladislas lật đổ. Khoảng 5 năm trước, Louis Đệ Nhị lại đem quân về giành lại ngôi vua, nhưng thất bại. Ladislas vừa mới mất năm nay, ngôi vua truyền cho chị của y là John Đệ Nhị. Louis Đệ Nhị không cam tâm nên mới phái trưởng tử là Louis Đệ Tam đi sứ sang bản triều. Bọn họ muốn tìm ngoại viện. Louis Đệ Tam hiện tại mới 11 tuổi. Khi tin tức truyền về triều, có lẽ bọn họ đã đến Tích Lan.

Giang Phong hỏi :

- Tình thế xứ đó thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư tra duyệt tư liệu một hồi lâu, rồi mới chỉ lên trên địa đồ, tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Phía tây các xứ A Lạp Bá là Địa Trung Hải. Bán đảo La Mã nằm ngay giữa Địa Trung Hải, một đầu nối vào bờ phía bắc. Ở trung tâm bán đảo có thành La Mã, là lãnh địa của vị giáo chủ Cơ Đốc giáo La Mã. Phía nam bán đảo là vương quốc Napoli. Phía dưới vương quốc Napoli có một hòn đảo lớn, là Sicily, trước kia cũng là một vương quốc độc lập, nhưng giờ đây là thuộc địa của vương quốc Aragon ở bờ tây bắc Địa Trung Hải. Ngoài ra trên bán đảo còn có rất nhiều công quốc, lãnh địa lớn nhỏ khác như Florence, Genoa, Venice, … Chiến tranh xảy ra liên miên. Thậm chí hiện tại Cơ Đốc giáo La Mã còn có đến 3 vị giáo chủ ở Avignon, Bolonia và La Mã. Cả 3 đều tuyên bố là chính thống.

Giáo Hoàng là cách dịch sai của người Tàu, rồi người Việt lấy dùng. Người Tàu biết đến Thiên Chúa rộng rãi nhất có lẽ là thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc. Hồng Tú Toàn tự xưng là người đại diện của Thiên Chúa ở nhân gian, rồi xưng Thiên Vương. Có lẽ người Tàu cho rằng Đức Cha ở La Mã phải có địa vị tôn quý hơn, nên phải gọi là Giáo Hoàng. Thật ra ở châu u chưa bao giờ sử dụng danh hiệu có nghĩa là Giáo Hoàng. Danh hiệu chính thức của Ngài là Giám mục La Mã, mục tử đoàn chiên chúa, và được gọi một cách tôn kính là Papal hay Pope, dịch đúng nghĩa phải là Đức Cha, người Việt còn gọi là Đức Thánh Cha (thời kỳ Trung Cổ, ở miền trung nước Ý có Papal States – nước của Đức Cha). Vào khoảng đầu thế kỷ 15 này, ngay cả ở Trung Hoa cũng chưa có cách gọi ‘Giáo Hoàng’. Người Hán, người Việt thường gọi người đứng đầu các giáo phái là ‘giáo chủ’ : giáo chủ Bạch Liên giáo (Minh giáo hay Hỏa giáo), giáo chủ Thiên Sư giáo (Đạo giáo), … Do đó trong truyện sẽ sử dụng từ ‘giáo chủ’ cho phù hợp với hoàn cảnh. Khi nói đến ‘giáo chủ của Cơ Đốc giáo La Mã’ tức là nói đến ‘Giáo Hoàng’, còn ‘giáo chủ của Cơ Đốc giáo Phương Đông’ tức là chỉ ‘Thượng phụ giáo chủ của Chính Thống giáo’.

Giang Phong ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi phán :

- Napoli cũng chỉ là một tiểu quốc, khi tiếp đãi chỉ cần sử dụng lễ tiết như với các phiên chủ của Đông Doanh, tộc trưởng của Mông Cổ hay tiểu vương Hồi giáo, tương đương hầu tước của bản triều.

Ý bản thân chưa phải là một nước lớn (chỉ tính phần bán đảo), đằng này Napoli chỉ là phần phía nam của Ý, dù xưng là vương quốc thì đối với Đế quốc cũng chỉ là tiểu vương. Hơn nữa, cha con Louis nhà Valois chỉ là vua của Napoli trên danh nghĩa, ngai vàng đã bị cướp mất hơn 20 năm nay.

Những người mà bọn Giang Phong nói đến lúc này đã đến được Tân Thành, một thành thị nằm trên một hòn đảo ở ngay mũi đất cực nam của Mã Lai bán đảo. Louis Đệ Tam do còn nhỏ nên có một vị lão thần là Ferdinand Caracciolo đi cùng, với một số cận vệ. Bọn họ chỉ đi nhờ vận thuyền của Hồng Long phân hạm đội đến Tích Lan, rồi theo thương thuyền để đến Gia Định. Hôm nay, thương thuyền ghé lại Tân Thành, và bọn họ quyết định tiến thành tham quan.

Bọn họ đầu tiên đi dạo một vòng thành thị, để Louis Đệ Tam và Ferdinand Caracciolo tìm hiểu phong tục của Thần Thánh Đế quốc. Tân Thành, có thể nhiều người không nhớ được tên này, nó chính là hòn đảo Singapore nằm trong eo biển Malacca, và cũng là đất nước Singapore (Tân Gia Ba). Tân Thành không có tài nguyên để phát triển, nhưng nằm ngay trên Hoàng kim hải đạo, là căn cứ hậu cần của những tàu thuyền đi trên tuyến hải vận Đông – Tây, nhờ vậy mà kinh tế rất phát triển, nhất là thương mại, đặc biệt phồn vinh. Nhiều thương thuyền đến từ A Lạp Bá, để tiết kiệm thời gian đi lại, chỉ đi đến đây, bán hàng hóa của phương tây, rồi mua đặc sản của phương đông chở về.

..........................................

1An PhúNam đảo Luzon104,688 2Lã TốngBắc đảo Luzon

3Nam AnĐảo Visayas61,077 4Định AnTây đảo Mindanao128,110 5Hòa AnĐông đảo Mindanao

6Puni9 tỉnh đảo Borneo743,330 7Hải An

8Hải Châu

9Hải Dương

10Hải Đường

11Hải Hưng

12Hải Ninh

13Hải Phú

14Hải Thanh

15Gia ĐịnhNam bộ Việt Nam63,294 16Tân HóaBắc đảo Sulawesi174,600 17Tân AnNam đảo Sulawesi

18Tân ĐịnhĐảo Maluku74,505 19Cát Long Pha2 tỉnh Mã Lai bán đảo131,598 20Cát Lan Đan

21Tân nvùng Tanintharyi (Myanma)43,328 22Tân ÝMã Lai bán đảo (thuộc Thái)88,503 23Lamuri8 tỉnh đảo Sumatra470,000 24Batak

25Pane

26Padang

27Jambi

28Palembang

29Lampung

30Bengkulu

31Kalapa2 tỉnh đảo Java126,700 32Kediri

33BaliQuần đảo Sunda nhỏ88,627 34Phú YênNam trung bộ Việt Nam44,257 35Tây NguyênViệt Nam54,475 36Nam Vang3 tỉnh xứ Khmer178,035 37Cao Miên

38Angkor

39Thái Nam5 tỉnh xứ Thái86,115 40Thái Đông

83,180 41Thái Trung

83,791 42Thái Bắc

85,852 43Khorat

85,674 44Viên Thành3 tỉnh xứ Lào232,350 45Sa Thành

46Sầm Châu

47Đông An9 tỉnh đảo New Guinea786,000 48Đông Anh

49Đông Bình

50Đông Ba

51Đông Cơ

52Đông Cương

53Đông Hà

54Đông Hiệp

55Đông Hưng

56Tích LanĐảo Sri Lanka65,000 57Đài Loan 38,251 58Thuận HóaBắc trung bộ Việt Nam51,511 59Thăng LongĐông bắc Việt Nam52,814 60Trấn NinhTây bắc Việt Nam62,432 61SinaiBán đảo Sinai + bờ tây Suez65,000 62Minh ChâuÚc châu7,686,850 63YemenYemen + bờ đông Hồng Hải1,127,970 64SomaliSomali và bờ tây Hồng Hải937,657 65JerusalemIsrael, Palestine, Jordan119,270 66Vân Nam5 tỉnh xứ Vân Nam (Tàu)394,100 67Đại Lý

68Lệ Giang

69Bảo Sơn

70Trấn Khang

71Quý Dương2 tỉnh xứ Quý Châu (Tàu)176,100 72Vĩnh Ninh

73Quế Lâm3 tỉnh xứ Quảng Tây (Tàu)236,700 74Tư Minh

75Nam Ninh

76Quảng Châu3 tỉnh xứ Quảng Đông (Tàu)177,900 77Quỳnh Châu

78Triều Châu

79Trường Sa3 tỉnh xứ Hồ Nam (Tàu)211,800 80Hành Sơn

81Nguyên Châu

82Chương Cống2 tỉnh xứ Giang Tây (Tàu)166,900 83Cửu Giang

84Phúc Châu2 tỉnh xứ Phúc Kiến (Tàu)121,400 85Tuyền Châu

86Kim Lăng2 tỉnh xứ Giang Tô (Tàu)108,940 87Trường Hưng

88Hàng Châu2 tỉnh xứ Chiết Giang (Tàu)101,800 89Ôn Châu

90An Khánh2 tỉnh xứ An Huy (Tàu)139,400 91Huy Châu

92Kinh Châu3 tỉnh xứ Hồ Bắc (Tàu)185,900 93Nghi Xương

94Tùy Châu

95TripoliSyria (gồm cả Lebanon)195,630

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Phụ lục :

95 tỉnh của Thần Thánh Đế quốc (đến năm 1414)

1 An Phú Nam đảo Luzon 104,688

2 Lã Tống Bắc đảo Luzon

3 Nam An Đảo Visayas 61,077

4 Định An Tây đảo Mindanao 128,110

5 Hòa An Đông đảo Mindanao

6 Puni 9 tỉnh đảo Borneo 743,330

7 Hải An

8 Hải Châu

9 Hải Dương

10 Hải Đường

11 Hải Hưng

12 Hải Ninh

13 Hải Phú

14 Hải Thanh

15 Gia Định Nam bộ Việt Nam 63,294

16 Tân Hóa Bắc đảo Sulawesi 174,600

17 Tân An Nam đảo Sulawesi

18 Tân Định Đảo Maluku 74,505

19 Cát Long Pha 2 tỉnh Mã Lai bán đảo 131,598

20 Cát Lan Đan

21 Tân n vùng Tanintharyi (Myanma) 43,328

22 Tân Ý Mã Lai bán đảo (thuộc Thái) 88,503

23 Lamuri 8 tỉnh đảo Sumatra 470,000

24 Batak

25 Pane

26 Padang

27 Jambi

28 Palembang

29 Lampung

30 Bengkulu

31 Kalapa 2 tỉnh đảo Java 126,700

32 Kediri

33 Bali Quần đảo Sunda nhỏ 88,627

34 Phú Yên Nam trung bộ Việt Nam 44,257

35 Tây Nguyên Việt Nam 54,475

36 Nam Vang 3 tỉnh xứ Khmer 178,035

37 Cao Miên

38 Angkor

39 Thái Nam 5 tỉnh xứ Thái 86,115

40 Thái Đông 83,180

41 Thái Trung 83,791

42 Thái Bắc 85,852

43 Khorat 85,674

44 Viên Thành 3 tỉnh xứ Lào 232,350

45 Sa Thành

46 Sầm Châu

47 Đông An 9 tỉnh đảo New Guinea 786,000

48 Đông Anh

49 Đông Bình

50 Đông Ba

51 Đông Cơ

52 Đông Cương

53 Đông Hà

54 Đông Hiệp

55 Đông Hưng

56 Tích Lan Đảo Sri Lanka 65,000

57 Đài Loan 38,251

58 Thuận Hóa Bắc trung bộ Việt Nam 51,511

59 Thăng Long Đông bắc Việt Nam 52,814

60 Trấn Ninh Tây bắc Việt Nam 62,432

61 Sinai Bán đảo Sinai + bờ tây Suez 65,000

62 Minh Châu Úc châu 7,686,850

63 Yemen Yemen + bờ đông Hồng Hải 1,127,970

64 Somali Somali và bờ tây Hồng Hải 937,657

65 Jerusalem Israel, Palestine, Jordan 119,270

66 Vân Nam 5 tỉnh xứ Vân Nam (Tàu) 394,100

67 Đại Lý

68 Lệ Giang

69 Bảo Sơn

70 Trấn Khang

71 Quý Dương 2 tỉnh xứ Quý Châu (Tàu) 176,100

72 Vĩnh Ninh

73 Quế Lâm 3 tỉnh xứ Quảng Tây (Tàu) 236,700

74 Tư Minh

75 Nam Ninh

76 Quảng Châu 3 tỉnh xứ Quảng Đông (Tàu) 177,900

77 Quỳnh Châu

78 Triều Châu

79 Trường Sa 3 tỉnh xứ Hồ Nam (Tàu) 211,800

80 Hành Sơn

81 Nguyên Châu

82 Chương Cống 2 tỉnh xứ Giang Tây (Tàu) 166,900

83 Cửu Giang

84 Phúc Châu 2 tỉnh xứ Phúc Kiến (Tàu) 121,400

85 Tuyền Châu

86 Kim Lăng 2 tỉnh xứ Giang Tô (Tàu) 108,940

87 Trường Hưng

88 Hàng Châu 2 tỉnh xứ Chiết Giang (Tàu) 101,800

89 Ôn Châu

90 An Khánh 2 tỉnh xứ An Huy (Tàu) 139,400

91 Huy Châu

92 Kinh Châu 3 tỉnh xứ Hồ Bắc (Tàu) 185,900

93 Nghi Xương

94 Tùy Châu

95 Tripoli Syria (gồm cả Lebanon) 195,630

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 77 : THAM QUAN TN THÀNH

Lại nói, bọn Louis Đệ Tam và Ferdinand Caracciolo đi tham quan Tân Thành để tìm hiểu phong tục của Thần Thánh Đế quốc. Đây là lần đầu tiên bọn họ đi ra ngoài u châu, nên nhìn gì cũng thấy mới lạ. Louis Đệ Tam sau khi quan sát một hồi, bỗng nói :

- Caracciolo. Ta thấy ở đây không hề có người nghèo nha. Thần Thánh Đế quốc quả là giàu có !

Ferdinand Caracciolo nói :

- Thiếu chủ. Nghe nói ở Thần Thánh Đế quốc, người nghèo chỉ sống ở các vùng nông thôn mà thôi. Sống ở thành thị đều là người giàu có cả. Còn Thần Thánh Đế quốc giàu có là sự thật. Quốc thổ quá rộng lớn, tài nguyên quá sung túc, hàng hóa quá phong phú mà. Nghe nói ở Thần Thánh Đế quốc bấy lâu nay không hề xảy ra nạn đói.

Một lão nhân đi cùng bọn họ chợt góp lời :

- Ta còn nghe nói khoảng 2 năm trước, vương quốc Vijayanagara ở nam Thiên Trúc đã cống hiến cho triều đình Thần Thánh Đế quốc 1.600 vạn kim tệ. Ta không thể tưởng tượng nổi số vàng đó phải chở bao nhiêu thuyền mới hết. Như thế của đủ thấy Thần Thánh Đế quốc giàu đến mức nào !

Ferdinand Caracciolo giật mình hỏi :

- Nhiều đến thế ư ?

Lão nhân này xem ra có vẻ là đại nhân vật, bí mật đi theo sứ đoàn, bởi xem thái độ của Ferdinand Caracciolo đối với lão cũng không thua đối với thiếu chủ của mình. Lão nhân gật đầu bảo :

- Đúng thế. Ngoài ra hàng năm các tỉnh đều tiến cống vô số tài bảo về Gia Định. Nghe nói Gia Định Thành là tòa thành thị vĩ đại nhất thế giới. Ở đó lại có tòa cung điện vĩ đại nhất mọi thời đại.

Louis Đệ Tam vẫn chưa có khái niệm rõ ràng về kim tệ, nên hỏi :

- 1.600 vạn kim tệ là bao nhiêu ?

Ferdinand Caracciolo giải thích :

- Thiếu chủ. Kim tệ nặng hơn florin một chút. Tỷ lệ quy đổi phổ biến là 11 florin đổi được 10 kim tệ. Như vậy 1.600 vạn kim tệ tương đương 17.600.000 florin.

Florin là đơn vị tiền tệ của Ý, và được sử dụng phổ biến khắp châu u vào thời Trung Cổ, trở thành đồng tiền chung của toàn châu u thời bấy giờ (đơn vị tiền tệ trong game ‘Medieval : Total War’ cũng là florin). Florin ban đầu là đồng tiền vàng của nước cộng hòa Florence, nên được gọi là florin. Florence là trung tâm thương mại và tài chính của châu u vào lúc đó, các ngân hàng của Florence có chi nhánh ở khắp châu u, do đó florin trở nên thông dụng. Các nước khác ở châu u sau này đúc đồng tiền vàng cũng theo quy cách của florin và cũng gọi là florin, chỉ có hình và chữ trên đồng tiền là khác. Mỗi florin tiêu chuẩn nặng 54 grain vàng (tức khoảng 3,5 gam). Một lượng vàng nặng 37,5 gam. Như vậy, 10 kim tệ = 1 lượng vàng = 37,5 gam; còn 11 florin = 38,5 gam. Lấy florin đổi kim tệ phải chịu thiệt một ít, bởi vì sau đó Đế quốc còn phải mang florin đúc lại thành kim tệ, phải tốn thêm chi phí. Ở Thần Thánh Đế quốc chỉ được phép sử dụng kim tệ trong giao dịch, vì vậy mà các thương nhân phương tây cũng đã dần dần có thói quen sử dụng kim tệ, để mua bán với thương nhân của Thần Thánh Đế quốc được thuận tiện hơn. Hiện tại, do chiến tranh ở phương bắc, ‘Con đường Tơ lụa’ trên bộ đã trở nên rất nguy hiểm, thương mại đường biển trở thành lựa chọn hàng đầu của thương nhân phương tây. Ngoài ra, Trung Hoa chiến loạn, sản xuất đình đốn, thương nhân chỉ có thể mua hàng hóa của Thần Thánh Đế quốc mà thôi.

Louis Đệ Tam cả kinh nói :

- Nhiều đến thế ư ? Với số tiền đó, có thể mua được bao nhiêu là lãnh địa.

Lão nhân nói :

- Thần Thánh Đế quốc không có chuyện mua bán lãnh địa. Toàn bộ quốc thổ đều thuộc về Hoàng đế.

Louis Đệ Tam nói :

- Lúc đi qua Hồng Hải, chẳng phải chúng ta thấy có vô số tiểu quốc hay sao ? Kể cả vùng bắc Jerusalem cũng vậy. Các tiểu vương ở đó đều nhận mình là thần tử của Thần Thánh Đế quốc.

Lão nhân nói :

- Một số vùng xa xôi tuy có phong đất cho quý tộc, thành lập các vương quốc, công quốc, … Nhưng những lãnh địa đó vẫn thuộc về Hoàng đế. Một khi bọn họ làm cho Hoàng đế không hài lòng thì lãnh địa có thể bị thu hồi. Các lãnh địa không có người thừa kế cũng sẽ bị thu hồi. Ở Thần Thánh Đế quốc, Hoàng đế là Thần, có quyền tối thượng.

Louis Đệ Tam nói với vẻ âu lo :

- Như thế quý tộc của Thần Thánh Đế quốc không thể đảm bảo được tài sản của mình ư ? Lãnh địa của bọn họ có thể bị thu hồi bất kỳ lúc nào, chỉ cần Hoàng đế không hài lòng !

Lão nhân nói :

- Vấn đề là Thần Thánh Đế quốc quá hùng mạnh, kháng cự chỉ có thể bị diệt vong. Hơn nữa, so với các quý tộc ở La Mã, quý tộc ở Thần Thánh Đế quốc an định và phú túc hơn nhiều. Chỉ cần đừng làm điều gì khiến Hoàng đế bất mãn thì chẳng sao cả. Với lãnh thổ quá rộng lớn, nếu như đừng làm gì quá đáng thì triều đình cũng không rảnh mà hỏi đến.

Nói đến đây, lão quay sang một trung niên nhân bên cạnh, hỏi :

- Dayan. Có phải thế không ?

Trung niên nhân là người u, nhưng lại vận y phục theo kiểu của Thần Thánh Đế quốc. Y là người Do Thái, tên đầy đủ là David Ben Dayan, trước đây sống ở miền bắc Ý Đại Lợi bán đảo, gần công quốc Milan. Sau vì muốn tránh bị kỳ thị mà cùng những người Do Thái khác di cư đến Jerusalem, trở thành thần dân của Thần Thánh Đế quốc. Do gia cảnh giàu có, lại giỏi việc thương mại, y đã mua một chiếc thương thuyền, hoạt động trên tuyến hải vận Gia Định – Sinai. Lão nhân kia có quen biết y lúc còn ở Ý, nên đã theo thuyền của y đến Gia Định. Giờ đây, đã là thần dân của Thần Thánh Đế quốc, theo như dân gian thường gọi là ‘cao nhân nhất đẳng’, y không cần cung kính đối đãi bọn Louis Đệ Tam như trước kia nữa. Trước đây, khi đối diện lão nhân kia, y còn phải quỳ xuống lạy chào, bởi ở Ý, thậm chí ở cả u châu, lão có thân phận rất tôn quý. Lão chính là George Đệ Nhất, Vương tử - Giám mục của Trento, một lãnh địa ở bắc Ý, hiện tại là chư hầu của Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức (Đế quốc La - Đức, gồm miền bắc Ý, Đức, Áo và một số quốc gia đông u khác). Lão sang Gia Định có hai nhiệm vụ chính : một cho giáo hội, tìm kiếm sự ủng hộ cho Công đồng Constance trước sự uy hiếp của Ladislas (vua thực tế của Napoli, mấy năm trước đã đánh chiếm Roma, đánh đuổi giới lãnh đạo của giáo hội); một cho bản thân mình, do Trento đang bị đe dọa chiếm đóng bởi quân đội Áo – Tyrolese (của Frederick Đệ Tứ, Công tước Áo, Bá tước Tyrol).

Nghe hỏi, y điền đạm nói :

- Đúng thế. Cuộc sống ở Đế quốc an định và phú túc hơn nhiều. Cũng có rất nhiều tiện nghi để hưởng thụ cuộc sống. Ngay cả một thương nhân như ta cũng còn được hưởng thụ tốt hơn công tước, hầu tước ở u châu. Ở Đế quốc, không ai bị kỳ thị vì sắc tộc hay tôn giáo, chỉ phân biệt thái độ đối với Đế quốc, thần phục hay chống đối mà thôi.

Louis Đệ Tam than :

- Đúng thế. Ở chỗ ta chẳng có gì khác để giải trí ngoài yến tiệc và khiêu vũ. Ngày ngày cứ như thế, sinh hoạt chẳng còn có hứng thú gì nữa.

Ferdinand Caracciolo nói :

- Thiếu chủ. Còn có đua ngựa và đấu kiếm nữa nha.

Louis Đệ Tam lắc đầu nói :

- Hai trò đó ta đâu có tham gia được.

Louis Đệ Tam mới 11 tuổi, nên chưa thể tham gia hai trò nguy hiểm đó. David Ben Dayan nghe thế, cười nói :

- Nếu các vị có hứng thú thì ta xin mời các vị cùng đi thưởng thức một trò giải trí của Đế quốc.

Louis Đệ Tam nghe nói, hai mắt sáng rỡ, vội gật đầu nói :

- Phải đó. Chúng ta đi thôi.

Cả bọn theo David Ben Dayan đi về hướng đông bắc của thành thị. Trên đường đi, David Ben Dayan chỉ những tờ giấy lớn dán trên các bức tường, vẽ những hình ảnh nhiều màu sặc sỡ rất bắt mắt, nói :

- Đó là quảng cáo cho trận đấu sắp diễn ra ?

Louis Đệ Tam ngạc nhiên hỏi :

- Quảng cáo là gì ?

David Ben Dayan giải thích :

- Tức là giới thiệu về trận đấu, cổ động mọi người đi xem. Quảng cáo sẽ giúp nhiều người biết về thứ được quảng cáo hơn. Ví dụ như ta mang đặc sản từ u châu đến đây bán, nhưng người ở đây chẳng mấy ai biết đến, lúc đó ta có thể thuê quảng cáo để giới thiệu hàng hóa của mình cho mọi người biết. Quảng cáo có nhiều loại : có thể là dán tranh ảnh như thế này, cũng có thể thuê người đi khắp các đường phố mà rao hàng, giới thiệu, …

(chú : tên của giới quý tộc u châu thường có ‘Đệ Nhất’, ‘Đệ Nhị’, … đi kèm để phân biệt với tổ tiên họ khi trùng tên. Người Việt hiện giờ cũng có không ít người có tên trùng với tên của ông bà, còn nếu như xét đến mấy trăm năm hoặc nghìn năm trước, có lẽ ai cũng sẽ bị trùng tên với một vị tổ tiên nào đó. Quý tộc u châu truyền thừa mấy trăm năm, thậm chí cả nghìn năm, nên trùng tên là rất phổ biến. Ví dụ Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Byzantine (330 – 1453) là Constantine I, và Hoàng đế cuối cùng là Constantine XI, giữa họ còn có 9 vị Constantine khác. Cho đến thời hiện đại, nhiều người u Mỹ trong tên gọi vẫn có số thứ tự kèm theo, ví dụ như Bill Gates của Microsoft, có tên đầy đủ là William Henry Gates III).

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 78 : TN THÀNH ṾN ĐỘNG TRƯỜNG

Lại nói, sau khi nghe David Ben Dayan giải thích về quảng cáo, Louis Đệ Tam lại hỏi :

- Trận đấu gì thế ?

David Ben Dayan nói :

- Túc cầu, một môn thi đấu rất được người dân Đế quốc ưa thích. Môn này đối kháng khích liệt, rất phù hợp với tinh thần thượng võ của người dân. Và môn này cũng thích hợp cho cả quý tộc và bình dân. Quý tộc thường tự tổ chức một đội túc cầu, thi đấu với những đội khác, giành lấy vinh dự. Còn bình dân thì xem thi đấu hoặc tham gia thi đấu.

Nói đến đây, y chỉ về phía một kiến trúc quy mô lớn ở phía trước, bảo :

- Đến rồi. Kia chính là Tân Thành Vận động trường, nơi tổ chức các sự kiện thi đấu diễn ra tại Tân Thành quận.

Tiếp đó mỗi người bỏ ra 10 ngân tệ để mua vé vào bên trong. Ở Vận động trường có 3 loại vé : Quý tân phòng, 10 kim tệ (được ngăn thành từng phòng riêng, có bàn ghế, trà kỷ, …); Quý tân khu, 10 ngân tệ, khu vực dành riêng cho giới giàu có; và Phổ thông khu, 10 đồng tệ, dành cho bình dân bách tính. Không phải bọn Louis Đệ Tam không muốn mua vé loại 1, nhưng vì không còn, đành phải chấp nhận vé loại 2. Sau đó, cả bọn vào trong, đến khu vực ghi trên vé. Cũng may là khu vực này chuyên dành cho giới giàu có, và cũng có không ít quý tộc ở đấy (số lượng Quý tân phòng có hạn, không phải ai cũng mua được vé loại 1), nên bọn Louis Đệ Tam cũng không cảm thấy khó chịu.

Túc cầu là một môn thể thao rất phổ biến ở thế giới của Giang Phong trước khi xuyên việt đến đây. Mấy năm trước, Giang Phong nhận thấy dân chúng thiếu thốn giải trí, sinh hoạt rất buồn chán, mà ‘nhàn cư vi bất thiện’, do đó Giang Phong đã cho phổ biến những môn thể thao có thể phổ biến được, để thần dân có nơi giải trí, phát tiết phần tinh lực vượng thịnh trong những lúc rảnh rỗi, trong đó có môn túc cầu. Môn túc cầu không cần điều kiện gì đặc biệt, chỉ cần một khoảng đất trống làm sân thi đấu là được, đương nhiên những trận đấu chính thức sẽ được tổ chức trong các Vận động trường. Vấn đề lớn nhất đối với túc cầu là ‘cầu’ (trái bóng). Thời này không có cao su. Bên Tàu trước đây làm cầu bằng bố hoặc vải (ngay thời Tống đã rất được giới quyền quý ưa thích, Cao Cầu nhờ giỏi đá cầu mà được làm quan lớn). Cầu bằng bố thì đàn hồi tốt, nhưng vì đặc ruột nên nặng, phải có sức lực mạnh mẽ mới đá được, mà cũng không thể đá xa, chỉ thích hợp giới quân nhân, võ sĩ. Cầu bằng vải thì nhẹ hơn, nhưng chỉ thích hợp đá bổng, đá qua đá lại trên cao. Giang Phong nhớ rằng có một môn thể thao gọi là cầu mây, liền cho người dùng mây đan thành cầu, bên ngoài bọc vải, sau nhiều phen nghiên cứu đã tạo ra được trái cầu rỗng ruột, đàn hồi tốt. Môn này được dân chúng đặc biệt ưa thích, chỉ sau vài năm là đã phổ biến ra toàn Đế quốc, từ thành thị cho đến thôn quê đều xuất hiện vô số các đội túc cầu.

Túc cầu đã trở thành một môn thể thao có quy mô toàn Đế quốc, nên cũng có một hệ thống các giải thi đấu hoàn chỉnh. Các đội túc cầu tùy thực lực mà được phân thành 3 hạng : nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng. Dưới nữa là nghiệp dư đội, không được xếp hạng. Mỗi hạng đều có các giải vô địch, được tổ chức hàng năm. Các đội lấy tỉnh làm đơn vị, cùng thi đấu với nhau, để thăng hạng hay xuống hạng. Mỗi tỉnh, nhất đẳng có 8 đội, mỗi năm có 2 đội xuống hạng; nhị đẳng có 12 đội, tam đẳng có 16 đội, mỗi năm đều có 2 đội thăng hạng và 2 đội xuống hạng. Mỗi 4 năm sẽ tổ chức giải vô địch toàn Đế quốc, vòng chung kết tổ chức ở Gia Định Thành, khiến cho các đội có thêm động lực phấn đấu.

Sự thật thì 3 năm trước, giải vô địch túc cầu toàn Đế quốc lần thứ nhất được tổ chức với quy mô cực kỳ hoành tráng, làm chấn động cả Đế quốc. Nhất là khi đội vô địch cùng một số nhân vật biểu hiện xuất sắc, được Giang Phong triệu kiến, cho tham gia yến tiệc ở Trường Thanh Cung. Sau đó còn phong tước quý tộc cho 1 số người (đương nhiên chỉ là tiểu quý tộc, chỉ có danh vị, chẳng có bổng lộc gì), làm cho những người giàu có nhưng chưa phải là quý tộc càng thêm phong cuồng. Quý tộc tuy chỉ là danh vị, nhưng giữa quý tộc và bình dân bách tính thân phận khác xa nhau rất nhiều. Ở đâu cũng vậy, quý tộc vẫn luôn tôn quý, vẫn là mục tiêu mà nhiều người hướng đến. Và ở Thần Thánh Đế quốc, còn có nhiều nơi, nhiều trò giải trí chỉ dành riêng cho giới quý tộc tham gia.

Đối với những việc đó, Giang Phong xem trọng nhất là lợi ích xã hội. Các giải vô địch toàn Đế quốc mỗi 4 năm tổ chức 1 lần không chỉ giúp các địa phương có thêm cơ hội tương hỗ giao lưu, mà còn tăng cường khái niệm quốc gia trong thần dân của Đế quốc.

Tân Thành Vận động trường, 1 vạn chỗ ngồi gần như kín chỗ. Bọn Louis Đệ Tam ngồi ở khán đài phía đông, nhìn cảnh náo nhiệt của Vận động trường, không khỏi giật mình. Tân Thành chỉ có chưa đến 10 vạn cư dân, tính ra đã có 1 phần 10 cư dân trong thành đến đây xem thi đấu. David Ben Dayan đã xem qua nội dung quảng cáo, liền giải thích :

- Hôm nay là trận đấu quan trọng giữa đội Vương thị của quận Tân Thành và đội Cơ Long liên minh của quận Cát Long Pha. Kết quả trận đấu này có ảnh hưởng lớn đến thứ hạng của các đội tại giải vô địch túc cầu tỉnh Cát Long Pha năm nay. Chỉ có 2 đội đứng đầu mỗi tỉnh mới có cơ hội tham gia vòng sơ tuyển của giải vô địch túc cầu toàn Đế quốc tổ chức vào năm tới.

Cơ Long, tức Klang, là tên sông và tên thung lũng ở Kuala Lumpur, thủ đô của Malaysia, nơi có nhiều mỏ khai thác thiếc. Sau khi cầu viên của hai đội xuất trường, cả Vận động trường trở nên náo nhiệt hẳn lên. Tất cả từ cầu viên, cho đến chủ cầu đội đều hy vọng có thể tiến kinh, danh dương thiên hạ. Cư dân bản địa cũng hy vọng cầu đội của địa phương mình có thể tiến kinh, để chứng tỏ địa phương mình hơn hẳn các địa phương khác. Thể diện, đối với cá nhân hay tập thể đều rất quan trọng. Đôi khi, con người cũng có thể vì thể diện mà bất kể tính mạng.

Sau tiếng còi khai cuộc, trận đấu bắt đầu. Thật tế thì luật lệ thi đấu của túc cầu được Giang Phong bê hoàn toàn luật lệ của hậu thế ra áp dụng (đương nhiên chỉ những gì Giang Phong nhớ được), sau đó tùy tình hình mà cải tiến cho phù hợp với thời đại bấy giờ. Sau gần 5 năm phổ biến, các luật lệ đã rất hoàn thiện.

Trên sân, trận đấu nhanh chóng kịch liệt hẳn lên. Vì là đội chủ nhà, Vương thị đội có lực lượng cổ động viên rất đông đảo. Tiếng hò reo cổ vũ trên khán đài không lúc nào dứt. Tuy vậy, Cơ Long liên đội cũng không hề kém. Do nhiều hào tộc ở Cát Long Pha liên hợp thành lập, thực lực của Cơ Long liên đội cũng vào hàng đầu cả tỉnh. Cả hai đội đều do hào tộc đầu tư, dụng nhiều tiền của chiêu mộ các hiệp khách giang hồ tham gia thi đấu, nên năng lực vượt hơn phổ thông cầu đội rất nhiều.

Hiệp khách giang hồ nguyên bản là những người ưa ẩu đả, thích đánh nhau, và đại đa số là loại du thủ du thực, không có sinh kế chính đáng, thường làm những việc phạm pháp (giết người, bảo kê, buôn lậu, …). Giới giang hồ được các tiểu thuyết kiếm hiệp tuyên dương, ca ngợi, nhưng thực ra so với giới xã hội đen thời hiện đại cũng chẳng hơn gì. Từ thời xa xưa đã có câu : “Hiệp dĩ võ phạm cấm”, cũng đủ thấy giới hiệp khách giang hồ thường bị các triều đại phong kiến đặt ra ngoài vòng pháp luật. Nhất là đặc điểm mỗi khi có xích mích liền chém giết lẫn nhau, rất bị quan phủ phản cảm.

Hiện tại khác hơn rồi. Phần lớn hiệp khách giang hồ đã bị triều đình ‘gián tiếp’ chiêu an, cấp cho bọn họ cơ hội hoàn lương. Mặt khác triều đình cũng tăng cường đả kích những kẻ ngoan cố. Nhất lưu, nhị lưu hiệp khách thì có thể tổ chức tiêu cục, lấy việc bảo hộ các thương đội làm sinh kế. Đế quốc có thương mại rất phát triển, bọn họ không sợ thiếu việc làm. Đại hiệp thì có thể gia nhập quân đội, trở thành tướng lĩnh, quân quan. Còn tam lưu, bất nhập lưu hiệp khách thì có thể tham gia các môn thể thao đòi hỏi nhiều thể lực, kiểu như túc cầu. Thành ra hiện tại ở Đế quốc hầu như chẳng còn ai dám xưng là dân giang hồ nữa. Nếu không, chẳng bao lâu sao là sẽ bị lực lượng tinh nhuệ của Đế quốc truy sát, không có chốn dung thân.

Tóm lại, cầu viên của các hào môn cầu đội đa phần có xuất thân hiệp khách giang hồ, bởi bọn họ nhiều năm tập võ, thân thể bền bỉ, lực lượng mạnh mẽ, tốc độ nhanh chóng, khi đá cầu có ưu thế hơn hẳn những người bình thường. Các hào tộc khi tổ chức cầu đội cũng ưa thích tuyển mộ những người như thế. Cầu viên nếu có năng lực xuất sắc còn có thu nhập cao. Vừa được danh, vừa được lợi, nên nghề cầu viên rất được nhiều hiệp khách hoàn lương ưa thích.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 79 : Khích liệt đối kháng

Lại nói, sau tiếng còi khai cuộc, trận đấu trên sân nhanh chóng kịch liệt hẳn lên. Do ảnh hưởng của Giang Phong, hình thức thi đấu của túc cầu ở Đế quốc khác hẳn thời Đại Tống bên Tàu, chủ yếu là trực tiếp đối kháng, chứ không phải thưởng thức cầu viên biểu diễn những động tác hoa mỹ, có tám phần giống với hiện đại túc cầu.

Trên sân, trận đấu càng lúc càng khích liệt. Vương thị là hào cường của Tân Thành, quan hệ với giới hào cường ở Cát Long Pha không tốt lắm, dẫn đến quan hệ giữa hai cầu đội cũng không được tốt. Cầu viên của song phương đa số lại xuất thân từ giới giang hồ hiệp khách, thành ra trong trận đấu đã diễn ra không ít những hành động bạo lực.

Ở các địa phương của Đế quốc, các cầu đội kiểu như Vương thị đội, hay Cơ Long liên đội nhiều không kể siết. Giới quý tộc hào phú dần có phong trào nuôi dưỡng cầu đội để tranh danh. Đừng nói là vô địch toàn Đế quốc, dù chỉ vô địch toàn tỉnh, khi về đến quê nhà cũng phong quang vô hạn, có thể diện vô cùng. Còn giả như hai gia tộc có hiềm khích, thay vì suất lĩnh gia đinh đánh nhau thì phạm pháp, để cho cầu đội của hai nhà thi đấu tranh thắng bại, làm thế sẽ văn minh hơn nhiều.

Ngồi trên khán đài, xem cầu viên song phương cao tốc di chuyển, chuyền những đường cầu điệu nghệ và đầy uy hiếp, cổ động viên của hai đội hưng phấn vô cùng, không ngừng hò reo cổ vũ. Tuy Tân Thành Vận động trường là sân nhà của Vương thị đội, nhưng cũng có hơn nghìn cổ động viên của Cơ Long liên đội từ Cát Long Pha theo cầu đội đến đây cổ vũ cho trận đấu. Lúc này đây, không chỉ bình dân bách tính mà cả giới quý tộc hào phú cũng thỉnh thoảng bật dậy, lớn tiếng reo hò cổ vũ cho đội mà mình ủng hộ. Không khí náo nhiệt đầy thích khích đó khiến cho Louis Đệ Tam cũng bị cảm nhiễm, đôi lúc cũng hoan hô như những người khác (đương nhiên là hoan hô bằng tiếng Latinh, ở xung quanh chẳng mấy người hiểu được).

Cầu đang được một cầu viên của Vương thị đội dẫn tiến sát đến cầu môn của đối phương. Đột nhiên, một, hai, rồi ba cầu viên của Cơ Long liên đội từ ba hướng áp lại, ngăn cản mọi đường tiến của đối thủ. Cầu viên của Vương thị đội thấy không còn khả năng tự dẫn tiến, liền đá mạnh cầu vào khu vực trung tâm, cách cầu môn chưa đến 20 mét. Cầu bay bổng trên cao, hàng loạt cầu viên của cả hai đội đồng thời nhảy bật lên, hy vọng dùng đầu đẩy cầu công môn hoặc phá ra ngoài.

Một cầu viên của Vương thị đội tiếp cầu, đẩy cầu chuyển hướng vào góc trái cầu môn. Giữa lúc đó, thủ môn của Cơ Long liên đội hai chân bật lên, dịch chuyển về phía góc trái một bước, sau đó phóng người lên cao, tại không trung vươn thân người cao lớn của mình, tay phải giơ ra, chính diện chặn cầu, sau đó đẩy mạnh ra xa. Cầu vượt cột dọc ra ngoài.

Toàn trường bật lên những tiếng thở dài tiếc nuối. Một số người xung quanh chỗ bọn Louis Đệ Tam bàn luận xôn xao :

- Razak chuyền cầu hơi gấp, nếu không Chandra đã không thể đấy bóng ra ngoài.

- Không đúng. Chu Thái dùng đầu đẩy cầu vào góc chết. Tại Chandra phán đoán chính xác. Chandra thật là tài, không hổ danh là đệ nhất thủ môn viên.

- Đúng thế. Chandra là đệ nhất thủ môn viên, trạng thái luôn luôn ổn định. Cơ Long liên đội đã sang tận Java, dùng nhiều tiền để thỉnh y về đó.

- Không đúng. Razak mới là đệ nhất cầu viên. Mỗi cú chuyền bóng vào cấm khu hầu như đều tạo ra cơ hội công môn.

- Hứ, nói thừa. Chuyền bóng vào cấm khu mà không tạo ra cơ hội công môn thì còn chuyền làm gì.

- Phải đó. Tạo ra cơ hội mà không thành công ghi bàn thì cũng vô ích. Tài năng của Chandra chặn đứng mọi cơ hội của Razak.

Cả bọn tranh cãi dữ dội. Cũng may vì đều là giới quyền quý nên còn giữ thân phận, không đến nỗi sử dụng quyền cước. Tuy nhiên nhiều người lớn tiếng, đỏ mặt tía tai. Louis Đệ Tam quay sang nói với David Ben Dayan :

- Túc cầu xem hồi hộp ghê nha. Mà sao bọn họ tranh cãi dữ vậy ?

David Ben Dayan nói :

- Bọn họ ủng hộ hai đội khác nhau, hơn nữa trước trận đấu đã cá cược với nhau, nên giờ biện luận cho đội mà mình ủng hộ.

Louis Đệ Tam ngạc nhiên :

- Cá cược ?

David Ben Dayan nói :

- Đương nhiên. Cá cược trong túc cầu rất thịnh hành ở Đế quốc. Nhưng triều đình có hạn chế, mức cá cược không được quá cao.

Trong lúc bọn họ đang nói chuyện thì toàn trường đột nhiên yên tĩnh bất thường, sau đó là tiếng còi báo hiệu ghi bàn. Lúc bọn Louis nhìn xuống sân thì phát hiện cầu môn của đội Vương thị đã bị công phá. Cầu viên của Cơ Long liên đội đang ôm nhau hoan hô.

- Phạm quy. Phạm quy.

Trong một Quý tân phòng gần đó truyền ra tiếng thét phẫn nộ làm bọn Louis Đệ Tam giật mình. Bất quá thanh âm đó chỉ truyền ra đến Quý tân khu bên cạnh, chứ không ảnh hưởng gì đến các khán đài khác. Giữa cảnh náo nhiệt ồn ào của toàn trường, thanh âm của y thật không đáng kể. Một vị quý tộc ngồi gần bọn Louis Đệ Tam chép miệng nói :

- Lão Vương Quang lại nổi giận rồi.

Một người bên cạnh nói :

- Cũng phải thôi. Thua trận này, lão sẽ mất mặt trước những người ở Cát Long Pha.

Một người khác tiếp lời :

- Đến giữa trận đấu, lão ta thế nào cũng vào phòng nghỉ của cầu viên quát tháo một trận.

Quả nhiên, sang hiệp thứ hai, cầu viên của Vương thị đội phong cuồng tung hoành khắp sân, hừng hực khí thế như đang chuẩn bị đánh nhau, có một lúc dồn ép đối phương về phía phần sân của đội mình. Cầu viên của Cơ Long liên đội đa phần cũng xuất thân từ giới giang hồ hiệp khách, đâu thể để đối phương bức ép dễ dàng như vậy. Thế là, thay vì chặn cầu thì lại chặn chân, ‘lỡ bước’ ‘mất đà’ chạy đâm vào nhau liên tục diễn ra. Trận đấu trở nên hỗn loạn.

Đột nhiên, một cầu viên của Cơ Long liên đội khi chặn chân đối thủ, có động tác quá mạnh, làm đối phương ngã sấp xuống sân, rồi không gượng dậy nổi nữa. Một số cầu viên gần đó còn nhìn thấy có máu đổ. Thế là cầu viên hai đội tụ lại, khoa chân múa tay tranh chấp kịch liệt. Trọng tài phải nhờ đến lực lượng bảo vệ của Vận động trường mới phân tán được cầu viên của hai đội ra xa nhau. Người bị thương được đưa ra ngoài sân. Trọng tài quyết định phạt thẻ vàng cầu viên phạm quy, và cho Vương thị liên đội hưởng cú đá phạt ngay trước cầu môn. Lẽ ra thì phải phạt thẻ đỏ, nhưng trọng tài thấy cầu viên hai đội gần như hỗn chiến, có vẻ bực mình hành động của các cầu viên Vương thị đội, nên chỉ phạt thẻ vàng.

Sau một lúc chuẩn bị, cầu viên của Cơ Long liên đội đã xếp xong nhân tường phòng thủ. Razak đứng trước cầu, chuẩn bị đá phạt. Giữa lúc đó, có người vỗ vai y, nói :

- Razak, nhường cú đá phạt này cho ta được không ?

Razak nhìn thấy đội hữu là Vệ Thanh, ngạc nhiên hỏi :

- Cậu đá phạt ?

Razak ngạc nhiên vì Vệ Thanh không hề thiện trường đá phạt. Vệ Thanh nói :

- Hàn Thức là bà con xa với ta. Ta muốn trả thù cho hắn.

Razak gật đầu, nhường quyền đá phạt cho Vệ Thanh. Sau khi trọng tài ra hiệu đã có thể đá phạt, Vệ Thanh lui lại phía sau mấy bước, rồi chạy nhanh tới, đá vào cầu một cú thật mạnh. Cầu từ mặt sân bay lên, giống như mũi tên rời cung, nhanh như tên bắn lao về phía cầu môn, à không, không phải lao tới cầu môn. Mang theo sự phẫn nộ của Vệ Thanh, hàm chứa lực lượng hùng hậu, cầu bay với tốc độ cực nhanh. Mọi người chỉ nhìn thấy cầu biến mất, thoát cái đã thấy xuất hiện trước mặt Mã Tam, người vừa bị phạt thẻ vàng khi nãy.

Mã Tam chỉ còn biết trợn mắt nhìn cầu từ nhỏ biến lớn, tiếp đó liền cảm thấy nơi mặt gần như bị trọng trùy đập phải, ánh mắt tối sầm, nước mắt không khống chế được, chảy dài ra. Cùng với nước mắt còn có hai dòng máu từ mũi ứa ra.

Cầu sau khi tạo nên những hậu quả đó liền bật trở lại, kế tục lăn đến gần chỗ Vệ Thanh. Cổ động viên trên khán đài còn chưa kịp nhận ra chuyện gì thì Vệ Thanh đã đá thêm một cú nữa. Lần này cầu bay thấp, trong lúc Mã Tam đang ngã xuống thì bắn trúng bụng của gã, khiến gã triệt để hôn mê.

Cầu lại bật ngược trở về. Vệ Thanh còn định đá thêm một cú nữa. Thế nhưng những người xung quanh đã kịp phản ứng. Cầu viên của Cơ Long liên đội xông thẳng tới cùng Vệ Thanh ‘lý luận’ (đương nhiên không chỉ bằng miệng). Cầu viên của Vương thị đội cũng xông vào tiếp ứng đội hữu. Trọng tài thì khẩn cấp kêu gọi bảo vệ của Vận động trường.

Trận thi đấu túc cầu biến thành thi đấu võ đài. Dưới sân thì cầu viên hỗn chiến. Trên khán đài, do bị phân ra thành hai khu vực khác nhau nên cổ động viên của hai đội chỉ có thể mắng chửi hoặc ném giày dép vào nhau. Tình thế cực kỳ hỗn loạn.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 80 : Sứ đoàn đến Long Sơn

Lại nói, sau khi Vệ Thanh hành động trả thù, trận thi đấu túc cầu biến thành thi đấu võ đài. Mọi người từ cầu viên cho đến cổ động viên đều tấn công lẫn nhau. Tình thế cực kỳ hỗn loạn. Phải gần một khắc sau thì bảo vệ mới giải tán được cầu viên của hai đội ra xa nhau. Đến lúc này, các trọng tài khẩn cấp hội ý, bàn cách xử lý vụ việc. Cổ động viên thấy thế đều lặng yên chờ đợi, tạm thời không tấn công nhau nữa.

Cuối cùng, 18 cầu viên của cả hai đội bị thẻ đỏ đuổi ra khỏi sân. Bọn họ là những người tham gia hỗn chiến hăng hái nhất, và ít nhiều đều thọ thương. Trên sân chỉ còn lại 4 người, 2 của Cơ Long liên đội và 2 của Vương thị đội. Dù chỉ còn lại bao nhiêu người đó thì trận đấu cũng vẫn phải tiếp tục tiến hành. Kết quả cuối cùng, trận này Cơ Long liên đội giành thắng lợi với tỷ số 1 : 0.

Sau khi trận đấu kết thúc, bọn Louis đứng dậy định ra về thì bị David Ben Dayan ngăn lại. Trong lúc cả bọn ngạc nhiên thì David Ben Dayan chỉ xung quanh nói :

- Mọi người chẳng thấy những người khác đều chưa về cả hay sao ?

Ferdinand Caracciolo hỏi :

- Tại sao thế ?

David Ben Dayan nói :

- Thế nào lát nữa ở bên ngoài cổ động viên của hai đội cũng hỗn chiến. Chúng ta chờ bọn họ bị giải tán xong rồi hãy ra cho an toàn.

Bọn Louis Đệ Tam hiểu ra, vì sự an toàn của bản thân nên cũng ngồi lại chờ đợi. Hồi lâu sau, khi thấy những người khác rời đi thì bọn họ cũng mới đi theo. Rời Vận động trường, Louis Đệ Tam hào hứng hỏi :

- Xem túc cầu cũng hấp dẫn ghê. Ở đây còn trò giải trí nào nữa không ?

David Ben Dayan nói :

- Ở tây bắc có một sân côn cầu, nhưng đó là trò giải trí dành riêng cho quý tộc. Ta là bình dân bách tính nên không vào được.

Đá cầu bằng chân nên gọi là túc cầu. Còn đánh cầu bằng gậy thì được gọi là côn cầu (môn này chính là golf), ở Thần Thánh Đế quốc chỉ dành riêng cho giới quý tộc. Louis Đệ Tam nói :

- Ngươi không phải là quý tộc, nhưng chúng ta là quý tộc nha.

David Ben Dayan cười nhạt hỏi :

- Vậy các vị có quý tộc bài không ?

Louis Đệ Tam ngạc nhiên hỏi :

- Quý tộc bài là gì ?

David Ben Dayan nói :

- Quý tộc bài là chứng nhận thân phận quý tộc ở Đế quốc. Quý tộc bài có 3 loại : ngân bài cấp cho quý tộc có lãnh địa ở địa phương, kim bài cấp cho quý tộc không có lãnh địa, và ngọc bài cấp cho vương tước. Các vị không có quý tộc bài, đương nhiên thân phận quý tộc không được Đế quốc công nhận.

Trong lòng y nói thêm một câu : “Ở Đế quốc, các ngươi và ta đều bình đẳng, chẳng ai tôn quý hơn ai”. Chỉ có điều, vì lễ mạo mà y không nói thẳng ra. Louis Đệ Tam nói :

- Chúng ta không phải người của Thần Thánh Đế quốc, làm sao có thể có được quý tộc bài chứ !

David Ben Dayan nói :

- Thì chính vì vậy mới không được Đế quốc công nhận thân phận quý tộc. Đế quốc đối xử với những người không phải là thần dân của Đế quốc chỉ có hai thái độ : thân thiện hoặc địch đối, không phân biệt quý tộc hay bình dân. Có nghĩa là người từ u châu sang, nếu không chống đối Đế quốc thì dù quý tộc hay bình dân đều được đối xử như nhau. Còn chống đối thì … hắc hắc, nhà giam của Đế quốc sẽ có thêm người.

Louis Đệ Tam nói :

- Sao lại thế được chứ ? Còn gì là quy tắc nữa chứ !

Ở u châu, quý tộc của nước này khi sang nước khác thì thân phận quý tộc vẫn được công nhận, dù hai nước thân thiện hay địch đối. Ví dụ như Anh – Pháp có chiến tranh, công tước ở Anh khi sang Pháp vẫn là công tước (trong một nước thường có nhiều phe phái, công tước ở Anh chưa chắc đã bị người Pháp xem là kẻ thù). David Ben Dayan nói :

- Nên nhớ ở đây là Đế quốc, có quy tắc của Đế quốc. Toàn bộ u châu hợp lại, trong mắt Đế quốc cũng chỉ là một tiểu địa phương mà thôi. Quy tắc của u châu đối với Đế quốc chẳng có giá trị gì cả. Nên biết rằng hiện tại Đế quốc có rất nhiều tỉnh, trong đó tỉnh lớn nhất rộng bằng cả u châu.

George Đệ Nhất, Vương tử - Giám mục của Trento thì lại quan tâm vấn đề khác (Vương tử - Prince, là tước hiệu ở u châu, cao hơn Công tước - Duke, thấp hơn Quốc vương – King, không nhất thiết là con của vua). Lão hỏi :

- Tại sao quý tộc có lãnh địa sử dụng ngân bài, còn quý tộc không có lãnh địa lại sử dụng kim bài. Chẳng lẽ ở Thần Thánh Đế quốc, quý tộc không có lãnh địa lại có địa vị cao hơn quý tộc có lãnh địa.

David Ben Dayan gật đầu nói :

- Đúng thế. Ngân bài quý tộc là ngoại thần, đa phần là ngoại tộc quy hóa, giống như ở Yemen, Somali hoặc Syria. Bọn họ có lãnh địa, nhưng không được giữ các quan chức ở Đế quốc, một số người còn gọi bọn họ là quý tộc nhà quê. Kim bài quý tộc là nội thần, đa phần là cận thần của Thánh hoàng, vì lập công nên được phong tước, bọn họ không có lãnh địa, nhưng quan chức tại thân, địa vị tôn quý hơn. Bọn họ sống ở thành thị, thường thì giàu có hơn, và sự hưởng thụ cũng phong phú hơn. Ngân bài quý tộc có địa vị thấp hơn kim bài quý tộc nửa bậc.

George Đệ Nhất gật đầu tỏ ý hiểu. Quan trọng là có quan chức với không có quan chức, được Hoàng đế tin tưởng hay không. Giống như ở Đế quốc La – Đức (Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức, hay còn gọi là Thánh chế La Mã), Bá tước nhưng có quyền bầu Hoàng đế (thường gọi là tuyển hầu) thì địa vị cao hơn Công tước nhưng không có quyền bầu Hoàng đế, dù cho trên danh nghĩa thì thân phận của Công tước cao hơn Bá tước. Bao giờ cũng vậy, quyền vị vẫn thường đi liền với nhau. Hơn nữa, khi sang đến Thần Thánh Đế quốc, bọn họ nhận thấy ngay cuộc sống giữa thành thị và nông thôn khác nhau rất rõ rệt.

Louis Đệ Tam thì quan tâm đến những chuyện khác hơn, hỏi :

- Thế còn nơi giải trí nào khác nữa không ?

David Ben Dayan nói :

- Trong thành còn có Kịch viện, nhưng các vị không nói được ngôn ngữ của Đế quốc, có vào xem cũng không hiểu được gì đâu. Những nơi khác thì lúc này không có mở cửa. Chỉ còn lại Đế quốc Lạc viên mà thôi. Ở đó có nhiều tiện nghi phục vụ quý khách, miễn là có tiền, ai cũng vào được.

Thế là trước sự hối thúc của Louis Đệ Tam, David Ben Dayan dẫn cả bọn đến tham quan Đế quốc Lạc viên, một trong những nơi du ngoạn và hưởng thụ của giới giàu có ở Đế quốc. Trong đó có thương nghiệp khu, bán đủ loại hàng hóa cung ứng cho cuộc sống của giới quý tộc hào môn; có các khu thể thao, giải trí; lại có cả thư viện. Đến đây, mọi người chia thành 3 nhóm : bọn Louis Đệ Tam đến khu giải trí; David Ben Dayan thì đến thương nghiệp khu; còn George Đệ Nhất thì sang khu thư viện. Cả Louis Đệ Tam và George Đệ Nhất đều có mang theo phiên dịch nên đi riêng không thành vấn đề.

Sáng hôm sau, cả bọn rời Tân Thành giương buồm thẳng tiến đến Long Sơn huyện. Khoảng cách từ Tân Thành đến Long Sơn ước 2.700 dặm (khoảng 1070 kilômét), thuyền đi mất hơn 10 ngày. Đến Long Sơn, thuyền ghé vào xin giấy phép xuất nhập quan khẩu. Vì sắp đến Gia Định (thật ra thì Long Sơn huyện đã thuộc địa giới tỉnh Gia Định), bọn Louis Đệ Tam đều ra bên ngoài khoang thuyền xem phong cảnh. Thuyền bè ra vào tấp nập, quang cảnh nhộn nhịp trên bến dưới thuyền khiến cả bọn đều kinh ngạc. Ý Đại Lợi bán đảo cũng có nền thương nghiệp phát triển (chẳng hạn như Florence, Venice, Genoa, …), nhưng không có bến cảng nào bằng được Long Sơn. Nhất là khi nhìn thấy rất nhiều thương thuyền cỡ lớn có đến 6, 7 cột buồm, dài hơn 10 trượng (40 mét), dài gấp mấy lần các thuyền lớn nhất của u châu thời bấy giờ. Cả bọn đều phải thán phục sự giàu mạnh của Thần Thánh Đế quốc.

(chú : thuyền của u châu thời Trung Cổ đa phần chỉ dài khoảng 20 mét trở lại. Đội thuyền thám hiểm của Columbus vào cuối thế kỷ 15 gồm các thuyền carrack và caravel, trong đó chiếc lớn nhất có tên là Santa Maria, dài 22,6 mét, rộng 3 mét, sau bị mắc cạn ở Haiti và bị phá hủy).

Lúc thuyền đang neo đậu trong cảng, bọn họ đều giật mình thảng thốt, không thể nói nên lời khi đột nhiên nhìn thấy một ‘vật khổng lồ’ đang tiến đến gần. Những thủy thủ ở gần đó đều bật cười. Cảnh tượng thế này, bọn họ không chỉ nhìn thấy một lần. Rất nhiều người lần đầu đến Long Sơn, đặc biệt là người ngoại quốc, đều có thái độ như thế. Một người cười bảo :

- Đó là Lục tinh cấp chiếm hạm của Hải quân Đế quốc, dài 60 trượng (240 mét), rộng 20 trượng (80 mét), cao 2 trượng (8 mét), tải trọng khoảng 2 ức cân (200 triệu cân, tức 12 vạn tấn).

George Đệ Nhất lẩm bẩm :

- Chiến thuyền lớn thế này, làm sao đánh lại.

Hải chiến thời bấy giờ, ở cả u – Á hầu như đều giống nhau, chủ yếu là tràng nhau cho chìm, hoặc xông lên boong thuyền hỗn chiến, dùng tên lửa bắn nhau chủ yếu là để gây hỗn loạn. Nhưng với chiến thuyền lớn thế này, đối diện thuyền ‘nhỏ’ ở u châu có thể xưng là vô địch. Bọn họ đã từng nhìn thấy những chiến thuyền của Hồng Long phân hạm đội tuần tra trên Hồng Hải, nhưng không có chiếc nào lớn đến thế này.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 81 : Đệ trình thư hàm ngoại giao

Lại nói, khi trông thấy Lục Tinh cấp chiến hạm của Hải quân Đế quốc, bọn Louis Đệ Tam đều giật mình thảng thốt. Hồi lâu, Ferdinand Caracciolo bật thốt :

- Chúa ơi ! Thần Thánh Đế quốc làm sao mà tạo được thuyền lớn thế này cơ chứ ? Chẳng lẽ là ân tứ của Chúa ?

Lúc này, David Ben Dayan đã trở về thuyền, nghe nói vậy liền cười nhạt nói :

- Nên nhớ đây là Đế quốc, là Thần Thánh Đế quốc. Thánh hoàng là thần thánh, chủ tể cả thiên địa. Còn Chúa thì … Ở Đế quốc, chẳng có mấy người tín Chúa. Số lượng người Do Thái chúng ta còn đông hơn số người tín Chúa Cơ Đốc.

George Đệ Nhất ôn tồn nói :

- Đây là đất nước của truyền thuyết, xuất hiện kỳ tích gì cũng không phải là lạ. Với lãnh thổ rộng mênh mông của Thần Thánh Đế quốc, e rằng Đế quốc của người Mông Cổ cũng không thể sánh kịp.

Người Mông Cổ xây dựng một Đế chế rộng mênh mông từ u sang Á, lúc mạnh nhất có lãnh thổ rộng đến 33 triệu kilômét vuông. Người Mông Cổ cũng là cơn ác mộng của u châu thời Trung Cổ. Đế quốc của người Mông Cổ ở Trung Hoa là nhà Nguyên đã bị nhà Minh tiêu diệt vào năm 1368, nhưng Bắc Nguyên vẫn tồn tại trên thảo nguyên bên ngoài Trường Thành cho đến năm 1635. Kim Trướng Hãn quốc ở Nga và Đông u tồn tại cho đến năm 1502. Sát Hợp Đài Hãn quốc (Chagatai) có lãnh thổ kéo dài từ sông Amu Darya ở phía nam của biển Aral cho đến dãy núi Altai ở biên giới Mông Cổ và Trung Hoa ngày nay, tồn tại cho đến tận năm 1687. Còn Đế quốc của Timur (Timurid Empire) - đế chế bao gồm toàn bộ Trung Á, cũng như phần lớn của Pakistan, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Tiểu Á và Caucasus - bị tan rã năm 1526, thì một vị hoàng tử là Babur đã chiếm Ấn Độ, thành lập Đế chế Mughal tồn tại đến năm 1857 (khi bị Anh xâm chiếm). Nói chung, đối với u châu lúc này, thế lực của người Mông Cổ ở phía đông vẫn còn rất mạnh.

Nghe nhắc đến người Mông Cổ, David Ben Dayan nói thêm :

- Ta nghe nói người Mông Cổ ở phương bắc có nộp cống cho Đế quốc.

Trong lúc bọn Louis Đệ Tam kinh ngạc thì thuyền rời cảng Long Sơn, tiến vào Gia Định Giang, thẳng về Gia Định Thành. Sông này nơi rộng nhất lên đến hàng nghìn mét, nơi hẹp nhất cũng vài trăm mét, sâu từ 15 – 20 mét, đủ cho nhiều thuyền lớn qua lại.

Trên hành trình đến Gia Định, ấn tượng sâu sắc nhất đối với bọn Louis Đệ Tam là mỗi tòa thành của Thần Thánh Đế quốc đều được xây dựng cao lớn kiến cố, nhiều bức tường thành dày hơn chục mét, cao hơn chục mét, khiến bọn họ không thể tưởng tượng được phải có quân đội như thế nào mới có thể công chiếm được những thành thị kiên cố đến như thế. Các tường thành ở u châu tuy cũng có nhiều nơi cao đến hơn chục mét, nhưng độ dày chỉ khoảng 4 mét trở lại. Thậm chí nhiều bức tường thành chỉ dày hơn 1 mét, sau khi bị máy bắn đá bắn vài lần là sập xuống. Có thể chỉ có tường thành của Constantinople là có thể sánh được (khi bị người Ottoman bao vây thành phố năm 1371, người Byzantine giữ được đến 82 năm, mãi đến năm 1453 mới thất thủ).

Ngoài ra, Louis Đệ Tam thì rất hứng thú với sự hưởng thụ của giới quý tộc ở Đế quốc, còn George Đệ Nhất thì hứng thú nhất với các thư viện của Thần Thánh Đế quốc. Mỗi khi nghĩ đến kho sách đồ sộ trong các thư viện, George Đệ Nhất không khỏi say mê, thầm nhủ phải cố gắng mua thật nhiều sách của Thần Thánh Đế quốc, mang về Trento xây dựng một thư viện quy mô như vậy. Hiện tại u châu vẫn còn trong giai đoạn cuối của ‘Đêm dài Trung Cổ’, văn hóa không những không phát triển mà còn thụt lùi so với thời Đế quốc La Mã Cổ đại.

Thuyền cập cảng Gia Định. Đứng trên bến cảng rộng lớn, nhìn về tòa thành cao lớn ở phía xa, David Ben Dayan nói :

- Chúng ta đến Gia Định rồi đấy.

Là thần dân của Đế quốc, mỗi khi đứng trước Gia Định Thành giới thiệu với người mới đến lần đầu, David Ben Dayan cũng giống như những thần dân khác của Đế quốc, đều cảm thấy vô cùng hãnh diện. Người Do Thái mấy nghìn năm nay không có Tổ quốc, nên giờ đây David Ben Dayan đã xem Đế quốc như Tổ quốc của mình. Dù sao thì Jerusalem cũng là một phần của Đế quốc, và Đế quốc là nơi duy nhất người Do Thái được đối xử bình đẳng với những dân tộc khác, thậm chí bọn họ còn được tham gia quản lý Jerusalem, thánh địa của các dân tộc quanh Địa Trung Hải.

- Đây quả là một tòa thành thị vĩ đại.

Khi đi đến gần Gia Định Thành, George Đệ Nhất bất giác quay sang nói với David Ben Dayan. Ở u châu cũng có nhiều tòa đại thành thị, nhưng không có nơi nào sánh được với Gia Định Thành, không chỉ với quy mô kiến trúc mà còn cả sự phồn hoa thịnh vượng. Chỉ cần nhìn cảnh tàu thuyền nhộn nhịp nơi bến cảng cũng thấy được phẩn nào sự giàu mạnh của Gia Định Thành. Đặc biệt, lão còn phát hiện người Đế quốc rất chú trọng kỷ luật và trật tự. Nhà cửa ở Đế quốc đều được xây dựng ngay hàng thẳng lối, đường xá thẳng tắp, phố thị sạch sẽ, náo nhiệt nhưng không hỗn loạn.

Khi đi qua khỏi thành môn, bọn họ nhìn thấy hiện ra trước mắt những đường phố rộng lớn và thẳng tắp, phố xá phồn hoa vô cùng. Hai bên đường, các cửa hiệu trưng bày đầy hàng hóa, đủ mọi chủng loại, người mua kẻ bán nhộn nhịp. Người xe qua lại tấp nập, đông đúc nhưng trật tự. David Ben Dayan nhắc nhở bọn Louis Đệ Tam :

- Các vị phải đi về phía bên phải để khỏi cản trở giao thông.

Tiếp đó, y đưa bọn Louis Đệ Tam đến liên hệ với Ngoại vụ ty thuộc Chính vụ bộ, đệ trình thư hàm ngoại giao. Thư hàm nhân danh Louis Đệ Nhị, Công tước xứ Anjou, Bá tước xứ Provence, Bá tước xứ Maine, Vua của Napoli (danh nghĩa), Vua của Sicily (danh nghĩa), lãnh chủ xứ Guise. Đó là tất cả các danh hiệu mà Louis Đệ Nhị có được. Đúng ra Louis Đệ Nhị còn có danh hiệu Vua của Jerusalem (đương nhiên cũng trên danh nghĩa), nhưng đã bỏ đi để tránh xung đột với Thần Thánh Đế quốc. Ngoài ra còn có thư hàm ngoại giao của Vua Pháp, bởi Louis Đệ Nhị là em họ của Vua Pháp Charles Đệ Lục (cả hai cùng là cháu nội của vua John Đệ Nhị, cha họ là anh em ruột). Đồng thời, George Đệ Nhất cũng trình công hàm của giáo chủ Công giáo La Mã Gregorius XII. Các thư hàm đều bày tỏ ý nguyện muốn thông sứ với Thần Thánh Đế quốc, đó chỉ là phần công khai, còn những phần bí mật khác sẽ cần thảo luận sau.

Ngoại vụ ty cử Chính sứ tiếp đãi George Đệ Nhất, còn Phó sứ tiếp đãi Louis Đệ Tam. Chính phó sứ là quan viên đứng đầu Ngoại vụ ty, phẩm cấp còn cao hơn Chính phó sứ của các Chính vụ ty cấp tỉnh nửa cấp, nên tiếp đãi sứ đoàn là hợp lễ. George Đệ Nhất bản thân là Vương tử - Giám mục, thân phận cao quý hơn Louis Đệ Tam (và cả Louis Đệ Nhị nếu như bỏ đi các tước vị danh nghĩa), do đó được Chính sứ tiếp đãi. Trong lúc Ngoại vụ ty lo đón tiếp sứ đoàn, báo cáo về sự việc cũng đã được khẩn cấp đưa vào Trường Thanh Cung để trình lên Giang Phong.

Tử Tiêu Điện.

Quảng Tế Pháp sư cầm báo cáo của Ngoại vụ ty tấu trình với Giang Phong, rồi nói :

- Thánh hoàng. Sứ đoàn của Napoli đã đến Gia Định. Thật ra sứ đoàn không phải là của Napoli mà đến từ Anjou. Theo luật thừa kế ở u châu thì ngôi vua của Napoli đúng ra phải thuộc về Louis Đệ Nhất. Nữ vương Joanna Đệ Nhất của Napoli chọn Louis Đệ Nhất làm người thừa kế. Nhưng Charles Đệ Tam đã đem quân cướp ngôi, giết hại Joanna Đệ Nhất. Louis Đệ Nhất, rồi con trai là Louis Đệ Nhị đã nhiều lần mang quân về giành lại ngôi vua, nhưng đều thất bại. Charles Đệ Tam qua đời, truyền ngôi cho con trai là Ladislaus. Chính gã Ladislaus này càng hiếu chiến hơn, vào các năm Mậu Tý (1408), Canh Dần (1410) và Quý Tỵ (1413) đã đánh chiếm thành La Mã, trục xuất các giáo chủ Gregorius XII và John XXIII của Công giáo La Mã, riêng lần thứ hai có buộc John XXIII bồi thường 10 vạn florin, ước khoảng 9 vạn 909 kim tệ. Theo tin tức thu được, John XXIII đã chạy khỏi Roma đi cầu cứu với Hoàng đế La – Đức, và đang chuẩn bị triệu tập Công đồng ở Constance.

Giang Phong cau mày hỏi :

- Vậy sao công hàm lại là của Gregorius XII ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Hiện ở Công giáo La Mã có đến 3 vị giáo chủ : Gregorius XII lên ngôi ở La Mã; John XXIII tuy cũng lên ngôi ở La Mã, nhưng kế vị từ Alexander V của Pisa; và Benedicto XIII lên ngôi ở Avignon. Do đó chỉ có Gregorius XII được xem là chính thống.

Giang Phong nói :

- Vấn đề tôn giáo để bọn họ tự giải quyết lấy, bản triều không nên can thiệp vào, miễn sao đừng ảnh hưởng đến lợi ích của bản triều thì thôi.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ, rồi hỏi :

- Thánh hoàng có định tiếp kiến George Đệ Nhất và Louis Đệ Tam không ạ ?

Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát rồi nói :

- Vụ này các khanh cứ chiếu phép xử lý. Khi nào xong hết rồi trẫm sẽ triệu kiến bọn họ.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 82 : Khuyên đất Phi Châu - Cải tổ Hải quân

Khi Giang Phong quyết định tạm thời chưa triệu kiến George Đệ Nhất và Louis Đệ Tam, Quảng Tế Pháp sư để chuyện đó sang một bên, lại tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng, Tây Dương Hạm đội tiến hành khuyên đất ở Phi châu đã gần thành công. Các chiến hạm tiền tiêu đã đến được cửa vào Địa Trung Hải. Các khu dân cư đã mở đến khoảng giữa bờ tây. Các thuyền vẽ bản đồ cũng đã vẽ đến khu vực phía nam.

Tên gọi Phi châu có nguồn gốc từ thời cổ đại, khi người La Mã gọi vùng Bắc Phi là Africa terra. Sau đó từ Africa được dùng để chỉ toàn bộ Phi châu cho đến tận ngày nay, khi phiên sang âm Hán Việt sẽ thành ‘A Phi Lợi Gia’, gọi tắt là Phi (cũng giống như America phiên sang âm Hán Việt thành ‘A Mỹ Lợi Gia’, gọi tắt là Mỹ). Phi châu lúc này vẫn còn là vùng đất hoang sơ với hàng vạn bộ lạc chiếm cứ lãnh thổ rộng mênh mông. Trừ vùng ven Địa Trung Hải có xuất hiện các quốc gia thống nhất, thì vùng còn lại vẫn theo chế độ bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc một cách lỏng lẻo. Chính vì nguyên nhân đó mà người u châu đã chiếm Phi châu làm thuộc địa một cách tương đối đơn giản. Nhớ đến việc đó, Giang Phong cũng rất muốn học theo, nhưng với tình trạng của Đế quốc hiện tại, chiếm lĩnh hoàn toàn Phi châu là một việc không hề dễ dàng. Đế quốc không đủ quân đội để đóng giữ các nơi. Vì vậy chúng triều thần mới đề ra sách lược khuyên đất chiếm địa bàn. Tức là Hải quân của Đế quốc sẽ mở mang, xây dựng các khu dân cư dọc vùng duyên hải, củng cố địa bàn, dần dần mở rộng ra kiểm soát toàn bộ vùng duyên hải. Lực lượng Hải quân của Đế quốc hùng mạnh nhất thời bấy giờ, hoàn toàn đủ năng lực làm việc đó. Sau khi khuyên địa thành công thì có thể ngăn cản người u châu xâm chiếm Phi châu.

Thế là, các chiến hạm của Tây Dương Hạm đội bắt đầu từ Somali đi lần về phía nam, chở theo người và vật tư, cứ cách khoảng 500 dặm (200 kilômét) thì xây dựng một khu dân cư bên bờ biển, với chỉ khoảng hơn trăm hộ dân, vài công xưởng, làm đầu cầu giao thương với các bộ lạc trong vùng, mua đặc sản của bọn họ, và bán lại cho bọn họ những hàng hóa của Đế quốc. Giang Phong chỉ ra lệnh chiếm lĩnh phần đất cực nam của Phi châu, vì nơi đó có nhiều vàng. Bọn Quảng Tế Pháp sư đã chuẩn bị 3 vạn hộ đưa đến đó định cư.

Ngoài các Hạm đội của Hải quân, Đế quốc còn có hai Hạm đội bán quân sự : một gọi là các thuyền khảo sát, có nhiệm vụ đi tìm các tuyến hàng hải tốt nhất; và một gọi là các thuyền vẽ bản đồ, có nhiệm vụ đi dọc theo các bờ biển, hiệu chỉnh bản đồ cho hoàn thiện hơn. Bản đồ đầu tiên do Giang Phong vẽ ra chỉ có hình dạng đại khái, không hề chính xác về tỉ lệ. Các thuyền vẽ bản đồ sẽ đi dọc theo bờ biển, khảo sát địa hình phương vật, ước tính khoảng cách, rồi vẽ lại bản đồ cho chính xác hơn.

Giang Phong lại hỏi :

- Thế khu vực phía đông thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Các thuyền khảo sát đã tiếp cận bờ biển nam Mỹ châu, nhưng chưa tìm ra được tuyến hàng hải tốt nhất. Ngoài ra bọn họ cũng đã khảo sát xong Đông Minh Châu đảo, hòn đảo lớn ở phía đông Minh Châu. Một số khu dân cư đầu tiên cũng đã được xây dựng ở đấy. Dân bản địa ở đấy không đông lắm.

Giang Phong suy nghĩ giây lát, đoạn hỏi :

- Hải quân hiện tại có bao nhiêu chiến hạm ? Lĩnh hải của bản triều đã rất rộng lớn, có lẽ cần tổ chức lại các Hạm đội.

Quảng Tế Pháp sư tìm trong các sổ sách một hồi lâu, rồi tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Hiện tại Hải quân có 18 chiếc Lục Tinh cấp chiến hạm, 42 chiếc Thất Tinh cấp chiến hạm, 120 chiếc Tuần dương hạm, 122 đại hình chiến thuyền, 80 trung hình chiến thuyền và 90 tiểu hình chiến thuyền. Trong số đó có khoảng một nửa đang phục vụ cho chiến trường phương bắc.

Giang Phong nói :

- Trung tiểu hình chiến thuyền hãy chuyển sang dân sự, cũng có thể bán lại cho thương nhân sử dụng làm thương thuyền. Số hạm thuyền còn lại tổ chức thành 6 Hạm đội : Lam Long Hạm đội, Thanh Long Hạm đội, Hồng Long Hạm đội, Hắc Long Hạm đội, Bạch Long Hạm đội và Hoàng Long Hạm đội. Lam Long và Thanh Long Hạm đội sẽ đóng đại bản doanh ở Sùng Minh đảo và Đài Loan đảo, phụ trách khu vực Bắc Hải. Hồng Long Hạm đội đóng đại bản doanh ở Tích Lan, phụ trách khu vực Nam Thiên Trúc Hải. Hắc Long Hạm đội sau khi tiến trú Địa Trung Hải sẽ đóng đại bản doanh ở mũi đất phía nam cửa vào của Địa Trung Hải, trên vùng đất của người Moors. Bạch Long Hạm đội đóng đại bản doanh ở Long Sơn, phụ trách khu vực Nam Hải. Còn Hoàng Long Hạm đội tạm thời đóng đại bản doanh ở Minh Châu, bảo vệ tuyến hàng hải sang Mỹ Châu. Việc cải tổ Hải quân, cố gắng trong 1 năm phải xong. Ngoài ra cần chú ý, Long của bản triều không giống Long của Hán tộc, đừng lấy Long của Hán tộc làm kỳ hiệu.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ, ghi vào sổ cho nhớ. Rồng Việt Nam luôn có những đặc trưng rõ ràng :

Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện cho 12 tháng trong năm, biểu trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Thân rồng mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời tiết, mùa màng; trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn.

Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa : nó có bờm dài, râu cằm, không sừng, mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn khác với các con rồng khác của các nước, đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn (có người gọi là mào lửa) chứ không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa, Lưỡi rồng mảnh và rất dài. Miệng rồng luôn ngậm viên châu (ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Hoa thì rồng hay cầm viên ngọc bằng chân trước). Viên châu tượng trưng cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng luôn hướng lên đớp lấy viên châu, thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.

Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả sức mạnh và sự thống trị thường thấy của một con rồng phương Đông. Toàn thân rồng toát lên nét uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái vươn chân dài, đầu ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho khí thế hừng hực muốn tiến lên chinh phục các giá trị văn minh nhất của phương Đông cổ đại. Rồng của Việt Nam tượng trưng cho trí tuệ nhiều hơn là sức mạnh. Tiếc rằng hình tượng rồng của Việt Nam đã bị vùi lấp bởi sự sùng bái văn hóa Hán của các triều đại phong kiến cuối cùng là triều Lê và triều Nguyễn. Con rồng của Việt Nam đã bị Hán hóa (Hanization) kể từ triều Lê.

Quảng Tế Pháp sư lại hỏi :

- Thánh hoàng. Bản triều cương thổ mở rộng rất nhiều, có cần tăng quân không ạ ?

Giang Phong hỏi :

- Các khanh thấy thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Dạ. Chúng thần thấy rằng nên tăng thêm lục quân. Bản triều cương thổ quá lớn mà lục quân chỉ có 57 vạn là quá ít đấy ạ. Nam Thiên Trúc còn có 110 vạn, Minh triều khi trước cũng có đến 120 vạn. Ngay cả bọn Hồ Quý Ly khi trước cũng có đến 50 vạn quân.

Giang Phong suy nghĩ một lúc, rồi phán :

- Tuyển thêm 5 đạo quân nữa, cứ gọi là Uy Viễn, Chiêu Đức, Chiêu Hòa, Chiêu Viễn, Chiêu Tín. Chiếu theo lệ cũ, đưa sang tây phương luyện quân.

Sau khi tấu trình xong mọi việc, Quảng Tế Pháp sư liền lui ra, chỉ đạo việc hội đàm với bọn Louis Đệ Tam và George Đệ Nhất. Chỉ đạo chứ không chủ trì, vì Quảng Tế Pháp sư là đệ nhất trọng thần của Thần Thánh Đế quốc, vì tự trọng thân phận cũng như quốc thể mà không thể bình đẳng tiếp xúc với sứ đoàn, còn nếu như lấy tư cách kẻ trên người dưới thì cũng không hay lắm, vì bọn Louis Đệ Tam không phải là thần dân của Đế quốc. Nếu như bọn họ không chịu cúi đầu thì sự việc sẽ càng phức tạp hơn.

Louis Đệ Tam tiếp xúc với Đế quốc, mang theo đề nghị liên minh cùng chống lại vương quốc Anh Cách Lan (England). Nhưng đề nghị này chỉ mang lại một sự mỉm cười nhã nhặn từ Ngoại vụ ty Phó sứ. Đế quốc muốn đánh nhau với Anh Cách Lan thì cần gì liên minh với ai. Hơn nữa, trong mắt mọi thần dân của Đế quốc, từ quan viên quý tộc cho đến bình dân bách tính, đều không xem vương quốc Pháp Lan Tây (France) ngang hàng với Đế quốc, tối đa chỉ ngang một tỉnh của Đế quốc mà thôi.

Đề nghị không được chấp nhận, bọn Louis Đệ Tam đưa ra đề nghị thứ hai, Đế quốc xuất quân tấn công quân Anh, nước Pháp sẽ trả tiền cho Đế quốc, quan hệ này ở u châu thường sử dụng, gọi là cố dụng quân. Nhà Louis mấy lần dẫn quân chiếm lại Napoli cũng đều có sử dụng cố dụng quân. Thế nhưng, đề nghị thứ hai này cũng không được chấp thuận. Đế quốc không thiếu tiền để mang tính mạng binh sĩ đi trao đổi. Hơn nữa, nếu cần thì Đế quốc tự tuyên chiến, rồi tự chiếm lấy chiến lợi phẩm vẫn hơn. Văn thần võ tướng của Đế quốc không ai cho rằng Đế quốc đánh không lại quân Anh.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 83 : Nhập cung diện thánh

Lại nói, sau khi đề nghị liên minh, rồi cố dụng quân đều lần lượt bị từ chối, phía Louis Đệ Tam đành chấp nhận giải pháp cuối cùng : ký kết một hiệp định thương mại. Louis Đệ Tam thay mặt cho cha mình là Louis II de Anjou (Louis Đệ Nhị của xứ Anjou) cùng đại diện của Thương vụ bộ ký kết hiệp định, theo đó Đế quốc sẽ cung cấp vũ khí, nhu yếu phẩm cho Anjou, nếu cần cũng có thể cho vay.

Phía George Đệ Nhất, các thỏa thuận tiến hành dễ dàng hơn nhiều. Về mặt chính thức, Đế quốc đồng ý ủng hộ Công đồng Constance và phái sứ giả đến dự. Ngoài ra còn có 2 mật ước : Đế quốc thừa nhận Gregorius XII là giáo chủ hợp pháp của Công giáo La Mã, 2 giáo chủ còn lại là ngụy giáo chủ; Đế quốc ủng hộ sự độc lập của Trento, và sẽ gây sức ép đối với Frederick Đệ Tứ, Công tước Áo, Bá tước Tyrol, để quân đội Áo – Tyrolese không xâm chiếm Trento.

Các hiệp ước ký kết xong, cả Louis Đệ Tam và George Đệ Nhất mới có thời gian đi du ngoạn Gia Định Thành. Đầu tiên, bọn họ đi dạo một vòng thành thị, ngắm nhìn các cửa hiệu hai bên đường phố chất đầy hàng hóa. Hành trình này mất đến 3 ngày, và Louis Đệ Tam mua rất nhiều vật phẩm, đặc sản của phương đông, những thứ mà ở u châu vô cùng quý hiếm, như tơ lụa, gốm sứ, hương liệu, trà diệp, hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là Louis Đệ Tam rất thích các loại đồ chơi đặc sắc của phương đông. George Đệ Nhất thì mãn nguyện vì mua được rất nhiều sách. Gia Định Thành là trung tâm học thuật của cả Đế quốc, nên văn hóa giáo dục rất phát triển, các thư quán, thư viện lớn nhỏ có ở khắp nơi trong thành. Thành ra tùy tùng của bọn họ phải tay sách tay mang rất nhiều thứ.

Đến ngày thứ ba, bọn họ đi xuống khu bến cảng, và gặp được David Ben Dayan đang bàn chuyện làm ăn ở đấy. Thế là mọi người hội họp cùng đến trà quán uống trà đàm đạo. Trà diệp là một đặc sản của phương đông, và rất quan trọng đối với người phương tây. Người phương tây ăn nhiều chất dầu mỡ, nên cần uống trà để giảm béo, đặc biệt là hồng trà. Văn hóa trà từ đó thâm nhập vào đời sống sinh hoạt hàng ngày của người u Mỹ.

Sau một tuần trà, George Đệ Nhất nhìn cảnh nhộn nhịp của bến cảng, cảm thán nói :

- Dayan. Ta thật không dám tin đây là tòa thành thị chỉ mới được xây dựng hơn 10 năm trước. Dù ở u Châu cũng không có tòa thành thị nào sánh được với nơi đây, kể cả La Mã.

David Ben Dayan cười cười nói :

- Các hạ. Ngài nên biết rằng chủ nhân của thành thị này, và của cả Đế quốc rộng mênh mông này là một vị thần linh. Đối với nhân loại chúng ta xem là kỳ tích thì đối với thần linh cũng chỉ là chuyện bình thường.

Louis Đệ Tam nói :

- Cung điện của Hoàng đế thật vĩ đại. Chúng ta chỉ đi quanh một vòng thôi mà đã mất cả nửa ngày. Không biết bên trong còn lộng lẫy đến thế nào ?

David Ben Dayan nói :

- Không phải Hoàng đế. Đừng lầm lẫn giữa Thánh hoàng và Hoàng đế. Ở phương đông có nhiều tước vị, cao nhất là Hoàng, dưới Hoàng là Đế, rồi mới đến Vương. Hoàng đế là tước vị trung gian, nằm giữa Hoàng và Đế. Ở phương đông xưa nay chỉ có 4 vị Hoàng, trừ Thánh hoàng ra thì 3 vị còn lại đều sống ở thời viễn cổ, cách nay hàng vạn năm.

Dừng lời giây lát, David Ben Dayan mới nói tiếp :

- Trong Trường Thanh Cung tập trung toàn bộ bảo vật của Đế quốc, vàng bạc châu báu và các cống phẩm của các địa phương. Nghe đồn bên trong vàng bạc chất cao như núi, bảo vật không tính bằng rương mà bằng cung điện. Trường Thanh Cung đã mấy lần mở rộng vì không đủ chỗ chứa các cống phẩm.

George Đệ Nhất nói :

- Gia Định Thành dân cư thật đông đúc, chắc cũng phải trên chục vạn chứ không ít.

David Ben Dayan nói :

- Toàn tỉnh Gia Định có dân số gần 200 vạn, riêng Gia Định Thành ước khoảng 60 vạn.

Bọn George Đệ Nhất đều ngạc nhiên, trầm trồ về sự thịnh vượng của Gia Định Thành. Nên biết lúc này nước Anh dân số chỉ có 4 triệu, tức 400 vạn. Nước Pháp đang bị người Anh chiếm đóng gần một nửa lĩnh thổ, trăm năm chiến tranh vẫn đang diễn ra, cả nước hoang tàn. Còn Constantinople lúc này cũng chỉ có khoảng 5 vạn người. Trong khi thành La Mã (Roma) chỉ có 2 vạn (số liệu ước tính năm 1400).

George Đệ Nhất lại nói :

- Gia Định Thành có nền học thuật cực kỳ hưng thịnh. Mấy hôm nay ta thấy có rất nhiều thư viện ở khắp nơi.

David Ben Dayan nói :

- Đế quốc áp dụng chế độ khuyến khuyến giáo dục. Cơ sở giáo dục miễn phí trên toàn Đế quốc, những người không biết chữ phải đóng thuế cao hơn. Chính vì thế mà đại bộ phận thần dân của Đế quốc đều biết chữ. Học thuật không hưng thịnh sao được.

George Đệ Nhất giật mình hỏi :

- Ngươi nói Thần Thánh Đế quốc dạy chữ miễn phí cho mọi người dân ?

David Ben Dayan cười cười nói :

- Không phải !

George Đệ Nhất ngạc nhiên :

- Thế sao ngươi mới nói … ?

David Ben Dayan nói :

- Ta không nói dạy chữ miễn phí, mà là cơ sở giáo dục, tức là không chỉ dạy chữ, mà cả các môn cơ sở như Toán pháp, Ngữ pháp, Viết văn, … Giáo dục ở Đế quốc chia làm 3 cấp bậc chính là Sơ học, Trung học, Đại học. Mỗi thôn làng đều có lớp học, mỗi huyện đều có trường Sơ học, mỗi quận đều có trường Trung học, mỗi tỉnh đều có trường Đại học. Tối cao là Thái Học Viện ở Gia Định. Cấp Sơ học được dạy miễn phí.

George Đệ Nhất nói :

- Dù chỉ miễn phí cấp Sơ học thì tốn kém biết bao nhiêu mà kể !

David Ben Dayan nói :

- Bởi vậy, người Đế quốc hầu như ai cũng biết toán thuật, gian thương khó mà làm ăn được ở đây. Chỉ có người Do Thái chúng ta nhờ trung thực nên đi đến đâu cũng được hoan nghênh.

Bọn George Đệ Nhất cố nén cười. Người Do Thái ở u châu nổi tiếng là gian thương, thường cho vay nặng lãi nên tiếng tăm không được tốt (Cơ Đốc giáo không cho phép tín đồ cho vay, vì thế nghề cho vay gần như trở thành chuyên chức của người Do Thái).

Hôm nay bàn về Trường Thanh Cung, sáng hôm sau, bọn George Đệ Nhất, Louis Đệ Tam đã được Đệ nhất trọng thần của Đế quốc là Quảng Tế Pháp sư mời vào trong cung dự yến. Yến tiệc gồm toàn các món ngon vật lạ của Đế quốc, do những đầu bếp tài ba nhất chế biến, nên cả bọn ăn đến no căng cả bụng, không tiếc lời khen ngon. Bọn họ đều là những người thuộc giới quyền quý nhất u châu, nhưng cũng chưa bao giờ được ăn những món ngon đến vậy. Cho đến lúc bấy giờ, ẩm thực ở u châu cũng vẫn còn khá đơn điệu.

Sau đó cả bọn được hướng dẫn tham quan cung điện. Dù không được nhìn thấy các kho vàng bạc, nhưng các bảo vật trong cung nhiều đến nỗi cả bọn chấn động cả tâm thần. Nhìn các bảo vật chứa đầy trong các cung điện, hết cung điện này đến cung điện khác, cả bọn chấn kinh không sao kể siết. Đến lúc này, bọn họ mới có cảm giác chân thực về sự giàu mạnh của Thần Thánh Đế quốc.

Bọn họ mất 2 ngày mới tham quan được một phần Trường Thanh Cung. Mấy ngày hôm đó bọn họ được nghỉ lại trong cung chứ không cần trở về khách sạn. Đến sáng ngày thứ ba, Quảng Tế Pháp sư thông báo cho cả bọn biết Thánh hoàng triệu kiến. Chỉ có George Đệ Nhất, Louis Đệ Tam và lão quản gia Ferdinand Caracciolo mới được đến Văn Nghi Điện diện thánh. Bọn tùy tùng không được phép đi theo.

Bước chân vào Văn Nghi Điện, cả George Đệ Nhất, Louis Đệ Tam và lão quản gia Ferdinand Caracciolo đều cảm thấy chấn kinh. Đừng nói các cung điện của quốc vương, hoàng đế, dù là các tòa thần điện lớn nhất u châu cũng không thể sánh bằng với nơi thiết triều của triều đình Thần Thánh Đế quốc. Không chỉ rộng lớn, sự tráng lệ nguy nga, chạm vàng khảm ngọc rực rỡ huy hoàng làm cả bọn lóa cả mắt. Và điều làm cả bọn kinh hãi hơn cả là những viên minh châu giá trị liên thành lại được khảm trên tường và trần để chiếu sáng. Quả là lộng lẫy xa hoa đến cực điểm.

Hai bên đại điện, văn vũ đại thần nhìn bọn Louis Đệ Tam, không hề thấy lạ lùng. Chịu ảnh hưởng của Giang Phong, trọng thương, nên gia tộc bọn họ ít nhiều đều có thương thuyền buôn bán giữa đông - tây phương, do đó đối với người u châu cũng chẳng xa lạ gì. Các đại thần của triều đình Đế quốc đồng thời cũng là các đại thương nhân, và Giang Phong chính là đệ nhất đại thương nhân. Thần Thánh thương hội của Giang Phong là đệ nhất thương hội của Đế quốc.

Đến trước long giai, George Đệ Nhất, Louis Đệ Tam và lão quản gia Ferdinand Caracciolo hướng về Giang Phong, chiếu theo tây phương lễ nghi hành lễ bái kiến :

- Thánh hoàng vĩ đại. Chúng thần đại biểu toàn thể u châu nhân dâng Ngài sự tôn kính tối cao và chân thành.

Lưỡng ban văn vũ đại thần đều lộ vẻ không hài lòng về cách hành lễ của bọn họ, nhưng Giang Phong đã cho phép nên không ai dám nói gì.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 84 : Thu nhận nghĩa tử

Trường Thanh Cung. Văn Nghi Điện.

Sau khi ba người bọn Louis Đệ Tam hành lễ bái kiến, Giang Phong truyền bình thân, rồi ngắm nhìn ba người bọn họ. Louis Đệ Tam mới 11 tuổi, tuấn tú thông minh, xuất thân quyền quý nên rất có phong thái quý tộc. Lão quản gia Ferdinand Caracciolo thì có bề ngoài của một thuộc hạ ít nói, trung thành, nhưng qua ánh mắt, Giang Phong cho rằng lão ta cũng là kẻ lắm mưu mô. George Đệ Nhất là một vị Giám mục, thường niên bố đạo, nên dung diện từ hòa, thần thái thân thiện, dễ được lòng người khác. Trong khi đó, bọn Louis Đệ Tam cũng len lén quan sát Giang Phong. Khi đối diện Giang Phong, bọn họ có cảm giác đối diện với một lực lượng thần bí siêu nhiên, giống như một vị thần linh từ trên cao dụng ánh mắt từ hòa phủ thị chúng sinh.

Nhìn thấy ba người bọn họ đột nhiên cúi đầu, Giang Phong không hề cảm thấy ngạc nhiên. Ngoài sự thần bí do Giang Phong tạo ra qua hình tượng thần linh, bản thân kiến trúc của Văn Nghi Điện cũng góp công đáng kể. Nơi long giai được xây dựng cao hơn phần còn lại của đại điện, chạm khắc nhiều hình ảnh, phù hào thần bí, cùng với sự kim bích huy hoàng đã gây nên ít nhiều áp lực đối với người bên dưới.

Giang Phong khẽ mỉm cười, hỏi George Đệ Nhất :

- Dường như Gregorius XII đã 90 tuổi rồi phải không ?

Tuy ba người bọn họ không dẫn theo phiên dịch, nhưng triều đình có phiên dịch, là quan viên của Thương vụ bộ. Nghe hỏi, George Đệ Nhất kính cẩn đáp :

- Hồi bẩm Thánh hoàng. Hết năm nay Đức Cha sẽ tròn 90 tuổi.

Tiếng Anh gọi là Pope, tiếng Latinh là Papal, nghĩa là Đức Cha (giáo dân người Việt gọi tôn kính là Đức Thánh Cha), có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ‘papa’, nghĩa là ‘cha’. Đức Cha Gregorius XII tên thật là Angelo Corraro, sinh năm 1326, đến nay (năm 1414) là đã 89 tuổi, có thể nói là thượng thọ. Thời xưa hiếm có vị vua chúa nào có thể sống thọ đến thế, nhất là trong thời loạn lạc (Đức Gregorius XII từng phải rời giáo đô Roma vì bị Ladislaus chiếm đóng, sau đó không thể quay về).

Giang Phong lại nói :

- 90 tuổi, chẳng còn nhiều sức lực nữa, nên nghỉ ngơi an dưỡng là hơn.

George Đệ Nhất ngập ngừng hỏi :

- Ý Thánh hoàng là …

Giang Phong không trả lời, lại nói :

- Còn việc của Trento, trẫm sẽ viện trợ ngươi 3 nghìn vũ khí và 1 năm lương thực cho 3 nghìn người. Chỉ cần ngươi chiêu mộ dân chúng trong lĩnh địa, vũ trang và huấn luyện bọn họ, ít ra cũng có thể tự bảo được.

George Đệ Nhất cả mừng, vâng dạ tạ ơn. Đối với các cuộc chiến tranh ở u châu thời Trung Cổ, 3 nghìn quân cũng là một lực lượng đáng kể. Louis Đệ Nhị (cha của Louis Đệ Tam) đã từng suất lĩnh 1.500 kỵ binh tấn công Napoli vào năm 1409, chiếm lại được các vùng đất của Đức Cha (Papal States) bị Ladislaus chiếm trước đó, nhưng tấn công Napoli không thành công. Còn trong ‘Chiến tranh trăm năm’ (1337 – 1453) giữa Anh và Pháp, lực lượng đông đảo nhất của Pháp là dưới thời vua Charles VI (1415) thì cũng chỉ có 36.000 người (tương ứng quân Anh của Henry V có 12.000 người). Không giống với phương đông, mỗi cuộc chiến tranh là hàng chục vạn cho đến hàng trăm vạn quân. Cũng chính vì vậy mà chỉ với 2 vạn kỵ binh, người Mông Cổ đã có thể đánh đến tận u châu.

Sau đó, Giang Phong quay sang Louis Đệ Tam, hỏi :

- Hài tử. Con có em trai không ?

Louis Đệ Tam ngạc nhiên không hiểu sao Giang Phong lại hỏi thế, nhưng vẫn kính cẩn đáp :

- Hồi bẩm Thánh hoàng, con có em trai là René mới 5 tuổi.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Trẫm không có nhi tử. Con có muốn làm nghĩa tử của trẫm không ?

Louis Đệ Tam ngơ ngác :

- Sao ạ ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Con có em trai, các tước vị ở Anjou hãy nhường lại cho em trai, còn các vùng đất bị người khác chiếm mất, như Napoli, Sicily, … trẫm sẽ giúp con giành lại. Con cũng sẽ là hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc. Và trẫm sẽ viện trợ lương thực vũ khí cho Anjou. Nghe nói quân Pháp Lan Tây đang bị quân Anh Cách Lan tấn công gấp lắm, tình thế nguy ngập lắm phải không ?

Louis Đệ Tam ngơ ngác nhìn lão quản gia Ferdinand Caracciolo. Lão ta khẽ hỏi :

- Ý thiếu chủ thế nào ?

Louis Đệ Tam hỏi :

- Theo lão ta có nên đồng ý không ?

Lão quản gia ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Nếu thiếu chủ đồng ý, thiếu chủ sẽ lập tức trở thành hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc, thân phận tôn quý. Thánh hoàng còn hứa giúp thiếu chủ khôi phục Napoli, Sicily, và còn viện trợ lương thực vũ khí cho Anjou để chống quân Anh Cách Lan. Tình hình của Pháp Lan Tây hiện nay không hay lắm, nếu sắp tới mà còn thất trận nữa thì Anjou sẽ bị uy hiếp. Nghe nói Công tước đại nhân còn dự định nếu tình hình không hay thì sẽ đưa phu nhân và tiểu thiếu chủ sang Provence lánh nạn. Do đó, theo lão thần thấy, nếu thiếu chủ đồng ý, về công hay tư đều có lợi cả. Chỉ có điều nếu vậy thì thiếu chủ sẽ phải xa Anjou.

Louis Đệ Tam ngẫm nghĩ giây lát, rồi bật cười nói :

- Cũng có sao đâu. Trước đây ta cũng vẫn ở Provence đó thôi. Hơn nữa, việc ta làm hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc cũng đâu có ngăn cấm ta về thăm mẹ và em trai ta.

Nói xong, Louis Đệ Tam quay sang nói với Giang Phong :

- Thánh hoàng. Con đồng ý ạ. Nhưng Thánh hoàng sẽ viện trợ cho Anjou thứ gì thế ạ ? Có nhiều không ?

Giang Phong mỉm cười :

- 1 vạn vũ khí, 1 năm lương thực cho 1 vạn quân, 1 tiểu hạm đội, có được không ?

Louis Đệ Tam nói :

- Sao lại là một tiểu hạm đội ạ ? Một đại hạm đội không được sao ?

Giang Phong cười nói :

- Tiểu hạm đội là theo tiêu chuẩn của Thần Thánh Đế quốc, tức là tổng tải trọng từ 1 ức (100 triệu) cân trở xuống. Thôi được rồi. Trẫm cho con được lựa chọn chiến thuyền, được không ? Nhưng đây không phải là trẫm viện trợ cho Anjou mà là tặng cho con. Còn con muốn tặng lại cho ai thì tùy ý con.

Louis Đệ Tam miễn cưỡng nói :

- Vâng ạ !

Giang Phong thấy vậy, chỉ mỉm cười. Sau đó Giang Phong cho Louis Đệ Tam khấu đầu lạy chín lạy, trước sự chứng kiến của văn vũ đại thần, chính thức trở thành nghĩa tử của Giang Phong, hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc. Tên gọi tiếng Pháp Louis không thích hợp, Giang Phong cùng các đại thần bàn bạc, đổi lại là Long nhi, có âm gần giống, nhưng thích hợp hơn. Do vậy, từ đây Louis Đệ Tam có tên mới là Giang Long, gọi thân mật là Long nhi.

Giang Phong cho thu xếp một cung điện thật xinh đẹp trong Trường Thanh Cung cho Long nhi ở, đồng thời chọn thầy dạy học cho Long nhi. Lão quản gia Ferdinand Caracciolo cũng ở chung tại đó, hầu hạ thiếu chủ.

Hôm sau, Long nhi đến gặp Giang Phong, xin cho đi chọn chiến thuyền để thành lập hạm đội. Cậu bé muốn sớm xong việc để còn cho Ferdinand Caracciolo về Anjou báo tin. Giang Phong bảo Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình đưa cậu bé đi ra căn cứ hải quân ở bán đảo Long Sơn.

Khi đi, Long nhi thầm nghĩ phải nên lựa chọn thế nào, chợt nhớ rằng không có khái niệm 1 ức cân là bao nhiêu, liền hỏi lão quản gia :

- 1 ức cân là bao nhiêu vậy ?

Lão quản gia thầm tính toán một lúc, rồi nói :

- Thiếu chủ. Cứ 3 cân thì tương đương với 4 livre. Vậy 1 ức cân tương đương 133 triệu livre, hay 60 nghìn tấn Anh Cách Lan.

Thời Trung Cổ ở châu u, người Pháp sử dụng đơn vị đo khối lượng là livre (= 489,5 gam hệ SI), quintal (= 100 livre), once (= 1/16 livre), denier (= 1/24 once), grain (= 1/24 denier); người Anh thì sử dụng đơn vị pound (= 454 gam hệ SI), ton (hay tấn, = 2240 pound, tương đương 1016,96 kilôgam hệ SI), ounce (= 1/16 pound), dram (= 1/16 ounce), grain (= 1/7000 pound). Thần Thánh Đế quốc thì sử dụng đơn vị của phương đông, 1 cân = 16 lượng, 1 lượng = 10 chỉ = 100 phân = 1.000 ly, 1 tấn = 10 tạ = 100 yến = 1.000 cân (1 cân = 600 gam, 1 tấn = 600 kilôgam hệ SI).

Sau một lúc, lão quản gia lại nói thêm :

- Thiếu gia. Hiện nay, hải quân hoàng gia Anh Cách Lan có khoảng 180 chiến thuyền, tổng tải trọng cũng chỉ đạt hơn 20 nghìn tấn Anh Cách Lan. Các chiến thuyền Balinger lớn nhất cũng chưa đạt 100 tấn, thường có 40 người. Một chiến thuyền cỡ lớn thì tối đa cũng chỉ khoảng 200 tấn. Hải quân Pháp Lan Tây trước chiến tranh có hơn 200 chiến thuyền, nhưng giờ thì … mất hết cả rồi. Sau trận L’Ecluse hồi 74 năm trước (năm 1340), Pháp Lan Tây không còn hải quân nữa.

Long nhi cả mừng nói :

- Vậy thì tiểu hạm đội của ta sẽ lớn gấp 3 lần hạm đội của Anh Cách Lan ?

Lão quản gia nói :

- Vâng ạ. Nhưng nếu chiến thuyền của Đế quốc lớn thì số lượng chiến thuyền sẽ không nhiều.

Long nhi nói :

- Không sao. Thuyền lớn thì dễ đụng chìm thuyền nhỏ. Thà rằng có 1 chiến thuyền cỡ lớn còn hơn có 3 chiến thuyền cỡ nhỏ.

Đinh An Bình đứng gần đó, thông qua phiên dịch, biết bọn họ nói gì, không khỏi bật cười.

Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc

Tác giả: gianghoaingoc

Nguồn: ttv

Chương 85 : Tình hình Pháp Lan Tây

Lại nói, khi nghe Long nhi và lão quản gia Ferdinand Caracciolo bàn bạc về hạm đội, Đinh An Bình không khỏi bật cười, bảo :

- Hạm đội của Hải quân Đế quốc chiến đấu không phải bằng cách đụng chìm địch hạm, mà là bắn chìm.

Long nhi ngạc nhiên hỏi :

- Bắn chìm là sao ?

Đinh An Bình nói :

- Đương nhiên là sử dụng thần công đại pháo bắn chìm.

Long nhi ngơ ngác hỏi :

- Thần công đại pháo ?

Đinh An Bình chỉ vào dãy thần công đại pháo nằm dọc hai bên mạn thuyền, cười nói :

- Đó chính là thần công đại pháo.

Bọn họ đi trên chiến thuyền của Hải quân, nên đương nhiên có trang bị thần công đại pháo. Trừ Thần Thánh Đế quốc, đối với thời bấy giờ, ở cả phương đông và phương tây, hải chiến vẫn là sử dụng chiến thuyền đụng nhau, hoặc cung thủ và chiến sĩ quyết chiến. Long nhi nghe nói, liền chạy đến bên một khẩu thần công đại pháo, xem thử, sờ thử, rồi hỏi :

- Nó lợi hại lắm à ?

Đinh An Bình cười nói :

- Nó có thể bắn vỡ địch hạm cách chúng ta hơn 5 dặm, điện hạ nghĩ có lợi hại không ?

Long nhi mở tròn mắt, kinh ngạc nói :

- Lợi hại thế cơ à ?

Đinh An Bình lại nói :

- Trước đây, khi tấn công các thành trì duyên hải, thần công đại pháo của Hải quân còn được sử dụng để bắn sập thành tường của các thành trì nữa kia. Thành tường bị phá, quân ta chiếm thành sẽ dễ dàng hơn.

Khi ra đến căn cứ Hải quân ở Long Sơn, nhìn các chiến thuyền nằm đầy trong vịnh, Long nhi cứ ngần ngừ mãi không biết nên lựa chọn thế nào. Đây chỉ là tiểu hình, trung hình chiến thuyền mà trước đây Giang Phong đã định cho thoái dịch, bán lại cho thương nhân dùng làm vũ trang thương thuyền. Nhưng những chiến thuyền dài 60 mét, 80 mét thì đối với Long nhi cũng là rất lớn, so với các chiến thuyền của u châu thời bấy giờ thường chỉ dài hơn 10 mét, tối đa cũng chỉ 20 mét là đã rất lớn. Chỉ về những chiến thuyền trong vịnh, Đinh An Bình nói :

- Thuyền nhỏ có tải trọng khoảng 700 vạn cân, thuyền lớn khoảng 1.700 vạn cân. Ngoài ra chiếc thuyền chúng ta vừa đi đó có tải trọng hơn 3.000 vạn cân. Tùy ý điện hạ lựa chọn, miễn sao không quá 1 ức cân thì thôi.

Long nhi cùng lão quản gia bàn bạc một lúc rồi quyết định chọn 1 chiếc đại hình chiến thuyền (3.000 vạn cân), 2 chiếc trung hình chiến thuyền (1.700 vạn cân) và 5 chiếc tiểu hình chiến thuyền (700 vạn cân), tổng tải trọng là 9.900 vạn cân. Đây là những chiến thuyền thời kỳ đầu, mỗi chiếc chỉ có từ 10 đến 20 khẩu thần công đại pháo. Tiểu hạm đội có 8 chiến thuyền, được Long nhi đặt tên là “Hạm đội Angers”, theo tên lâu đài của nhà Louis tại Anjou, cũng còn được gọi là trái tim của Anjou. Kỳ hạm, tức chiến thuyền chỉ huy, được đặt tên là “René de Anjou”, theo tên em trai của Long nhi, người sẽ thừa kế lĩnh địa Anjou và danh hiệu Công tước sau này (do Long nhi nhường lại). Hai chiếc trung hình chiến thuyền được đặt tên là “Comte de Maine” (Bá tước của Maine) và “Comte de Provence” (Bá tước của Provence), đều là các tước vị mà René sau này sẽ được thừa kế.

Sau khi đã thành lập Hạm đội xong, Đinh An Bình điều thủy thủ đến phục vụ tạm thời trên Hạm đội Angers, chờ sau này đến u châu sẽ bàn giao cho nhà Anjou, và giúp bọn họ huấn luyện tân thủy thủ. Tiếp đó là lương thực và vũ khí được chuyển lên các chiến thuyền.

Sau 10 ngày chuẩn bị, George Đệ Nhất và Ferdinand Caracciolo cùng đoàn tùy tùng lên thuyền trở về u châu. Đoàn thuyền rời Gia Định Giang, đi về phía nam đến Tân Thành, sau đó đi theo tuyến hàng hải đông tây, qua Tích Lan, Somali, Yemen vào Hồng Hải rồi đến Sinai. Đến thành Suez nằm bên bờ vịnh Suez, lương thực vũ khí được đưa lên bờ, rồi chuyển xuống thuyền nhỏ, theo kênh đào Suez đưa ra bờ Địa Trung Hải. Còn Hạm đội không thể vào kênh đào Suez, đành phải đi dọc theo bờ biển Phi châu, mất nhiều thời gian hơn.

George Đệ Nhất và Ferdinand Caracciolo dẫn đoàn tùy tùng khẩn cấp đi sang thành Sinai ở bên bờ Địa Trung Hải, bên bờ vịnh Buhayrat al Manzilah. Bọn họ thuê thương thuyền để đưa lương thực vũ khí vượt Địa Trung Hải về Provence và Trento.

Khi Ferdinand Caracciolo về đến Provence thì đã vào cuối mùa đông năm Giáp Ngọ, theo Tây Lịch thì đã vào đầu năm mới 1415. Từ năm ngoái, quốc vương Anh Cách Lan Henry V (lên ngôi năm 1413) đã từ chối đề nghị giảng hòa của phe Armagnac đang nắm quyền nhiếp chính triều đình Pháp Lan Tây. Do đó, mọi người đều đang chờ đợi một cuộc chiến tranh quy mô lớn tái bùng phát.

Giai đoạn từ năm 1389 đến năm 1415 này được các sử gia phương tây gọi là “giai đoạn hòa bình thứ hai” của cuộc “chiến tranh trăm năm”. Gọi là hòa bình, nhưng thực chất Pháp Lan Tây lâm vào cảnh nội chiến giữa phe Armagnacs do Công tước Louis I de Orléans đứng đầu (khác Louis I de Anjou, ông nội của Louis III) và phe Burgundy do Công tước Jean I de Burgundy đứng đầu, với sự hậu thuẫn của Anh Cách Lan. Nguyên nhân của cuộc nội chiến là sự xung đột giữa Jean I de Burgundy với Louis I de Orléans trong cách điều hành quốc gia, rồi dẫn đến chiến tranh, kéo theo đồng minh của hai phe tham chiến.

Khi quốc vương Pháp Lan Tây Charles VI de France bị bệnh tâm thần, đất nước được cai trị bởi một hội đồng nhiếp chính do vương hậu Isabeau de Bavière đứng đầu kể từ năm 1393. Vương hậu là người không có chủ trương và các thành viên có ảnh hưởng nhất trong hội đồng nhiếp chính là Công tước xứ Burgundy, Công tước xứ Orléans và Công tước xứ Anjou. Do Công tước xứ Anjou phải lo giành lại các đất đai của mình ở Napoli nên ít quan tâm triều chính, thành ra chỉ có Công tước xứ Burgundy và Công tước xứ Orléans tranh quyền với nhau (Công tước xứ Anjou có nhiều lĩnh địa nhất nên có địa vị siêu nhiên, Công tước phu nhân còn là người tài trợ cho những lực lượng chống quân Anh, trong đó có cả Joan de Arc sau này).

Trong thực tế, sự xung đột này là sự đối mặt giữa hai hệ thống kinh tế, xã hội và tôn giáo. Pháp Lan Tây là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển với một hệ thống tôn giáo và chế độ phong kiến mạnh mẽ, các lĩnh chủ phong kiến có vai trò quan trọng và nhiều quyền lực. Trong khi đó, Anh Cách Lan có khí hậu ẩm, nhiều mưa, nhiều đồng cỏ và nghề nuôi cừu phát triển. Người Anh bán lông cừu cho xứ Flanders để dệt may thành quần áo. Do đó, ở Anh Cách Lan, giai cấp tư sản và các thành thị đang ngày càng trở nên quan trọng hơn. Công tước xứ Burgundy đồng thời cũng là Bá tước xứ Flanders, có quan hệ mật thiết với người Anh, ủng hộ mô hình kinh tế của người Anh với nền thương mại và giai cấp tư sản phát triển. Còn phe Armagnacs ủng hộ chế độ hiện thời, với sự thống trị quốc gia của các lĩnh chủ phong kiến. Ngoài ra, phe Armagnacs được sự ủng hộ của giáo chủ Clément VII ở Avignon, còn phe Burgundy được sự ủng hộ của giáo chủ Urbain VI ở Roma (người tiền nhiệm của Gregorius XII).

Sau khi Công tước Louis I de Orléans bị ám sát năm 1407, Paris bị kiểm soát bởi Jean I de Burgundy, và nội chiến quy mô lớn bùng phát. Sau nhiều cuộc chiến, song phương lúc thắng lúc thua, nên đã cùng ký kết hòa ước vào năm 1412. Đến mùa xuân năm 1413, Jean I de Burgundy tiến hành một cuộc cải cách ở Paris, gây ra cuộc nổi loạn Cabochiens, với xu hướng hạn chế quyền lực của chế độ quân chủ, tăng cường quyền lực cho giới tư sản. Nhưng sự lạm dụng của phe Burgundy và Capochiens, nhất là các cuộc thảm sát, đã khiến dân chúng bất mãn và nổi loạn. Khi bị đàn áp, họ đã kêu gọi phe Armagnacs về giải cứu Paris. Đến năm 1414, phe Armagnacs giành lại được quyền kiểm soát Paris và Công tước Burgundy bị đuổi chạy về vùng đông bắc. Đến lúc này, người Anh bắt đầu can thiệp giúp đồng minh của họ. Mọi người ai cũng biết chiến tranh giữa Anh Cách Lan và Pháp Lan Tây chắc chắn sẽ tái diễn.

Trong hoàn cảnh đó, lão quản gia Ferdinand Caracciolo vội khẩn cấp chinh binh, tuyển mộ nông dân từ các lĩnh địa của nhà Anjou, trước mắt là ở Provence, tổ chức thành quân đội, khẩn trương huấn luyện chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới. Nhà Anjou tuy không tham gia vào cuộc nội chiến, nhưng vẫn phải chống lại sự xâm chiếm của Anh Cách Lan, bởi các lĩnh địa Anjou và Maine nằm không xa Paris. Ngoài ra, lão còn gửi 1.000 người sang Sinai nhờ Hồng Long phân hạm đội giúp huấn luyện thành thủy thủ, để tương lai có thể phục vụ ở hạm đội Angers.

Nhận được tin báo, Louis II de Anjou cũng cử Công tước phu nhân Yolande de Aragon và René đến Provence chủ trì đại cuộc. Một vạn quân đội là một lực lượng rất đáng kể, nhất là trong hoàn cảnh lúc này. Do các xứ Napoli sẽ do Louis III, lúc này là Long nhi, giải quyết nên nhà Anjou có thể rảnh tay lo việc trong nước. Người dân Pháp Lan Tây đã quá mệt mỏi với sự tranh giành quyền lực của hai phe Armagnacs và Burgundy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro