Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc Part 1 (ch­ương 1-64)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1 : SỰ CỐ

Hôm nay nắng đẹp trời trong.

Ta buồn chẳng biết vì sao ta buồn.

À không ! Hôm nay đúng là một ngày nắng đẹp trời trong, thời tiết mát mẻ, nhưng Giang Phong lại đang rất cao hứng. Vì sao cao hứng ư ? Mọi người không biết ? Có gì đâu. Giang Phong trúng số, à không, trúng thưởng. Tuy giải thưởng cũng nhỏ thôi, chỉ là một chiếc đồng hồ đeo tay, nhưng là sản phẩm của một thương hiệu nổi tiếng nha. Có đồng hồ hàng hiệu, lại không mất tiền, không cao hứng sao được.

Nói về Giang Phong, có lẽ nhiều người cũng không lạ gì. Giang Phong chỉ là một người bình thường như bao người bình thường khác. Sinh ra ở miền Tây, sống ở thành phố. Tốt nghiệp Đại học rồi hùn vốn với một người bạn cùng mở công ty. Công ty làm ăn cũng khá, nhưng vì bất đồng ý kiến với người bạn cùng hùn vốn, nên đã rút vốn ra, mua một ngôi nhà để cho thuê, hàng tháng lấy tiền thuê nhà sinh sống. Còn Giang Phong thì hàng ngày đọc sách, chơi game, hay đi đây đi đó. Đương nhiên đó chỉ là bề ngoài. Giang Phong vẫn còn một số khoản đầu tư bí mật khác, đủ để Giang Phong sống an nhàn đến hết đời.

Đặc biệt, Giang Phong có một đặc điểm quan trọng : đối tiền bạc cực kỳ mẫn cảm. Giang Phong không keo kiệt, nhưng rất tiết kiệm, khi không cần thiết thì tuyệt đối không phung phí. Đương nhiên, nếu cần thì Giang Phong cũng sẵn sàng chi mạnh tay. Có một vị tỷ phú nước ngoài đã từng tuyên bố rằng : nếu dưới chân ông ta có 5 đô la, ông ta sẽ không nhặt, bởi vì chỉ trong vài giây ông ta cúi xuống nhặt tiền thì đã có thể làm ra nhiều hơn số tiền 5 đô la đó (thật tế nếu 1 giây làm ra 5 đô la thì 1 năm bất quá kiếm được 157.680.000 đô la, thu nhập hàng năm của ông ta cao hơn nhiều). Giang Phong đối quan niệm đó không tán thành chút nào, 5 đô la tuy ít, nhưng người Việt có câu “tích tiểu thành đại”, 5 đô la cũng là tiền mà. Hơn nữa, có nhặt tiền thì cũng có thiệt hại gì đâu.

Do đó, khi trúng thưởng, Giang Phong rất cao hứng, đến giờ thì nhanh chóng đi nhận thưởng ngay. Địa điểm trao thưởng là Văn phòng đại điện của Tập đoàn trên một tòa cao ốc. Tập đoàn này trước giờ chỉ bán hàng ở Việt Nam thông qua đại lý là một doanh nghiệp trong nước, hiện giờ đang có ý định trực tiếp đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, nên mở Văn phòng đại diện, sau này sẽ phát triển thành phân công ty. Do chỉ mới trong giai đoạn khảo sát, Văn phòng đại diện này chưa có trụ sở riêng, mà thuê địa điểm trong một cao ốc văn phòng. Để phát triển thương hiệu, Tập đoàn đã tổ chức đợt khuyến mãi tặng quà. Và Giang Phong đã may mắn trúng thưởng.

Đi lên địa điểm trao thưởng ở tầng 13 trong cao ốc, Giang Phong khẽ lắc đầu. Người của Tập đoàn này không biết nghĩ sao nữa. Dù cho Văn phòng đại diện của bọn họ nằm ở tầng 13 thì chẳng lẽ không thể dời địa điểm trao thưởng đến chỗ khác được hay sao. Hơn nữa Giang Phong nhớ rằng địa chỉ Văn phòng đại diện của bọn họ in trong thư mời là tầng 12. Không biết có người nào vì vị trí của địa điểm trao thưởng mà không đến nhận hay không. Giang Phong lưỡng lự giây lát, rồi đi vào thang máy.

Trên tầng 13 có một phòng họp lớn, vốn là của một công ty khác được bọn họ mượn lại làm nơi trao thưởng. Số người trúng thưởng cũng không ít, đến hơn trăm người. Tất cả cùng vào trong phòng, tìm chỗ ngồi.

Cũng như mọi buổi lễ khác, đầu tiên bọn Giang Phong vẫn phải nghe phía doanh nghiệp phát biểu dài dòng, quảng cáo cho thương hiệu của mình. Hết người này xuống lại đến người khác lên, bọn họ tranh nhau nói suốt hơn 1 giờ làm bọn Giang Phong ai nấy đều thấy buồn ngủ. Giang Phong mơ mơ màng màng, không nhớ bọn họ đã nói những gì nữa.

Cuối cùng rồi cũng đến lúc trao thưởng. Sản phẩm được mang ra. Ánh mắt mọi người đều sáng lên.

Nhưng bọn Giang Phong chưa được nhận thưởng ngay mà lại phải nghe thêm một khoảng thời gian giới thiệu sản phẩm nữa. Có điều lúc này Giang Phong đã hết buồn ngủ, chú ý lắng nghe. Dù gì thì lát nữa Giang Phong cũng được sở hữu nó mà, cũng nên biết nó có những tính năng gì chứ. Tuy rằng nó có kèm theo quyển sổ tay Hướng dẫn sử dụng, nhưng nghe giải thích vẫn dễ hiểu hơn.

Theo lời giới thiệu, chiếc đồng hồ này là một sản phẩm mới của Tập đoàn, có rất nhiều tính năng ưu việt, như : không thấm nước (thời buổi này nếu thấm nước còn có thể gọi là đồng hồ được sao, chỉ có thể gọi là đồ chơi thôi); chịu được áp suất nước khi lặn sâu (cũng bình thường); vỏ làm bằng hợp kim không gỉ (rất bình thường); có đèn chiếu sáng để xem đồng hồ vào ban đêm (bình thường); có chuông báo giờ (bình thường); cốt làm bằng hợp kim đặc biệt nên chạy rất chính xác (khá, nhưng cần phải thử mới biết); trên mặt đồng hồ có nạm đá quý (có lẽ cũng không quý lắm, vì giá đồng hồ không cao); có bật lửa nhỏ để hút thuốc lá, dùng pin năng lượng mặt trời (cái này lạ, hay); có con dao nhỏ rất sắc bén để gọt trái cây (!?!), rất nhỏ, chỉ dài có 2 cm thôi; … Sau hàng lô các tính năng, Giang Phong chỉ chú ý một tính năng đặc biệt : ‘đồng hồ tự động’. Hồi những năm cuối thế kỷ 20, các loại đồng hồ tự động rất nhiều, nhưng đến giờ này đã trở nên cực kỳ hiếm. Lúc nhỏ Giang Phong cũng có một chiếc đồng hồ tự động, quà của mẹ cho, cực kỳ bền. Chiếc đồng hồ đó mẹ của Giang Phong đã từng đeo, khi Giang Phong đi học thì được tặng cho (lúc đó đồng hồ còn hiếm, đắt tiền và khó mua), và Giang Phong đã đeo nó cho đến tận khi lên Đại học. Hiện giờ nó vẫn chưa hư, chỉ vì đứt dây, cũ quá không có dây để thay, không thể đeo được nữa. Cũng vì vậy, Giang Phong có tình cảm đặc biệt với ‘đồng hồ tự động’.

Cuối cùng, sau một thời gian chờ đợi khá lâu, Giang Phong cũng được nhận chiếc đồng hồ của mình. Nó khá to so với các loại đồng hồ thời trang khác, nhưng lại rất cân đối, khi đeo không hề gây phản cảm. Xem ra hàng hiệu có khác nha.

Buổi lễ kết thúc, bọn Giang Phong ra về. Mọi người ùa cả ra hành lang, tràn đến thang máy. Khu vực này chỉ có hai chiếc thang máy, mà có đến cả trăm người cần đi. Mọi người chen lấn nhau, ồn ào hỗn loạn vô cùng. Có lẽ thích chen lấn xô đẩy cũng là một đặc tính khó bỏ được của người Việt chăng ? Giang Phong khẽ lắc đầu, ở lại chờ đợi. Thế là Giang Phong tránh ra một góc để khỏi chen lấn với người khác. Nhưng vì hành lang khá hẹp, cuối cùng Giang Phong chỉ đành quay vào trong phòng họp ngồi chờ.

Chờ một hồi lâu, Giang Phong mở cửa phòng ra ngoài thì thấy vẫn còn khá nhiều người trên hành lang. Mọi người bàn tán xôn xao. Nghe đâu thang máy gặp phải sự cố, bị kẹt lại. Giang Phong khẽ thở dài, quay lại trong phòng.

Ngồi chờ một lúc, Giang Phong chợt cảm thấy chấn động. Cả tòa nhà chấn động. Đồ đạc bàn ghế trong phòng đều rung chuyển, ngã nghiêng. Động đất chăng ? Giang Phong mở cửa phòng. Bên ngoài đầy khói. Vô số người chen lấn xô đẩy nhau. Tiếng hò hét kêu gào hỗn loạn. Có sự cố !

Giang Phong chỉ mới kịp nghĩ đến đó, chưa kịp có hành động gì thì chợt cảm thấy áp lực tăng nhanh, một lực hút rất mạnh kéo Giang Phong về phía sau, đó là hướng vách tường nha. Giang Phong cố gắng chống chọi, hai tay nắm chặt bàn ghế trong phòng, hai chân cũng móc chặt vào chân bàn, đồng thời quay lại nhìn.

Trước mắt Giang Phong, trên tường có một lỗ đen, cực đen. Lực hút là từ nơi đó phát ra. Lực hút cực mạnh, hút tất cả mọi thứ, cả Giang Phong và cả đồ đạc xung quanh. Cái gì vậy nhỉ ? Giang Phong chỉ mới kịp nghĩ thế thì trước mắt lại tối đen, áp lực trầm trọng khiến Giang Phong hôn mê bất tỉnh. Giang Phong đã bị hút vào trong cái lỗ đen đó. Tuy hai tay vẫn nắm chặt bàn ghế, nhưng lực hút của lỗ đen quá mạnh, hút cả Giang Phong lẫn bàn ghế vào bên trong nó.

Trưa hôm đó, đài đưa tin : “Sáng nay, tòa nhà XXX gặp phải sự cố cháy nổ, đến giờ vẫn chưa thể dập tắt. Cứu hộ đang tìm cách tiếp cận hiện trường. Theo tin chúng tôi nhận được, vẫn còn có hàng trăm người bị mắc kẹt trong đó, hy vọng sống sót không cao. Nguyên nhân sự cố đang được cơ quan điều tra khẩn trương xác minh.”

__________________________________________________ _______________

Có bác bảo rằng họ Giang là gốc TQ, không phải nha. Các nhà ngôn ngữ học (Việt Nam và nước ngoài) đã chứng minh từ 'Giang' nghĩa là 'sông lớn' có nguồn gốc Việt cổ, là tên gọi chính thức của con sông có tên là Trường Giang ngày nay. Ít nhất là đến thời Hán vẫn chưa dùng chữ 'Giang' nghĩa là 'sông' này. Thời đó, Trường Giang có tên là 'Giang thủy', và các sách địa chí thời xưa cũng công nhận tên sông Giang đã có từ trước khi người Hán đến đó. Mọi người cũng nên nhớ rằng, cho đến thời Chu, người Tàu vẫn còn ở mạn Hoàng Hà.

Chương 2 : XUYÊN VIỆT – TA CŨNG XUYÊN VIỆT

Giang Phong chợt tỉnh thần, rồi có cảm giác như đang rơi từ trên cao xuống. Giang Phong mở mắt ra, và nhận ra mình đang rơi thật. Tiếp đó, Giang Phong chạm đất, không, không phải chạm đất, bởi nếu chạm đất thì Giang Phong không thể yên ổn thế này, ít nhiều cũng phải bị thương chứ. Và rồi Giang Phong cảm thấy bên dưới có vật gì đó mềm mềm. Khi nhìn kỹ, Giang Phong điếng người.

Người. Chính xác là một thi thể vừa tử vong. Có lẽ người này vừa bị Giang Phong đè chết. Xung quanh cũng còn hơn chục người nữa cũng bị đè chết bởi bàn ghế đồ đạc bị lỗ đen hút theo Giang Phong. Đang ở đâu đây ? Giang Phong đưa mắt nhìn quanh.

Đập vào mắt Giang Phong đầu tiên là cảnh núi rừng hùng vĩ. Tiếp đó, ở cách chỗ Giang Phong không xa có một toán hơn mười người đang tay cầm giáo mác, vẻ mặt trầm trọng, người đầy thương tích. Điều đặc biệt là bọn họ đều ăn mặc theo kiểu người dân tộc miền núi, và kể cả những người vừa bị đè chết cũng vậy. Những người kia nhìn Giang Phong với vẻ lo lắng bất an. Sự xuất hiện của Giang Phong cùng những thứ đồ đạc mà Giang Phong ‘mang theo’ hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của bọn họ.

Làm gì đây ? Giang Phong suy nghĩ thật nhanh, rồi đứng lên, ngửa mặt nhìn trời, khẽ hừ một tiếng, nói :

- Các ngươi thật quá đáng. Tự nhiên đẩy ta xuống chỗ này.

Bọn người kia đưa mắt nhìn nhau. Một lão già trong bọn bạo gan bước tới, ngập ngừng hỏi :

- Đại nhân có phải đến từ kinh đô.

Nghe lão hỏi, Giang Phong bất giác giật mình. Kinh đô ? Chẳng lẽ xuyên việt rồi. Trước giờ chỉ thấy chuyện xuyên việt trong các tiểu thuyết. Không ngờ lúc này lại gặp phải. Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, đoạn hỏi :

- Đây là đâu ? Lúc này là thời nào thế ?

Lão già cung kính đáp :

- Hồi đại nhân. Nơi đây là ấp Nam Nhung, thuộc Kiềm Châu, trấn Nghệ An. Năm nay là năm Quang Thái thứ 10.

Giang Phong ngẫm nghĩ, cũng không nghĩ ra là thời nào, nhưng có thể chắc chắn một điều là không phải thời hiện đại, bởi thời hiện đại không có dùng từ kinh đô. Việc này từ từ tìm hiểu cũng được. Giang Phong đưa mắt nhìn quanh, rồi hỏi :

- Ở đây vừa xảy ra việc chi thế ?

Lão già thở dài nói :

- Hồi đại nhân. Bọn kia là người của nước Chiêm Thành, sang dụ các tộc trong vùng theo hàng. Tộc của chúng ta không chịu theo, nên bị bọn họ lập kế sát hại. Cũng may đại nhân xuất hiện kịp thời, giết bọn chúng đi, cứu mạng mọi người.

Giang Phong khẽ thở phào. Xem ra việc giết người này không những không sao mà còn là chuyện tốt, được những người kia mang ơn. Xem người Chiêm Thành dụ hàng không được, phải ‘lập kế’ sát hại cũng đủ thấy bọn họ thế lực không nhỏ. Dù rằng sẽ kết oán với người Chiêm Thành, nhưng Giang Phong không lo lắm. Giang Phong hỏi han một lúc, biết được bọn họ là đầu lĩnh của Đông Giang tộc, một trong những tộc lớn nhất vùng, tộc nhân lên đến hàng nghìn, sống tập trung trong các động Lễ Dương, Tiết La, Lục Lang, Hùng Yên. Nơi bọn Giang Phong đang đứng chính là thánh sơn, nơi tế thần của tộc. Các đầu lĩnh của tộc lúc đi lên núi tế thần thì bị đám người Chiêm Thành tập kích.

Sau khi nắm được phần nào hiện tình, Giang Phong bảo bọn họ lo chữa trị vết thương, còn bản thân Giang Phong thì kiểm tra toàn bộ những gì hiện có. Toàn bộ tài sản của Giang Phong lúc này gồm có : đồng hồ (vừa được nhận thưởng), ví tiền (tiền và giấy tờ chắc không còn sử dụng được), điện thoại (ở đây đương nhiên không có sóng, pin chắc chỉ còn xài được 1 ngày), lược nhỏ, kính cầm tay và con dấu cá nhân. Đó là những thứ Giang Phong luôn mang theo trên người. Ngoài ra thì chỉ còn bộ quần áo đang mặc. À, còn có hơn chục bộ bàn ghế bị hút theo Giang Phong nữa. Giang Phong khẽ lắc đầu. Lạ đất lạ người, giữa rừng sâu núi thẳm, xem ra không thể tự lập được rồi.

Sau khi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, chúng đầu lĩnh của Đông Giang tộc trở về động. Giang Phong cũng đi theo bọn họ. Trước lúc lên đường, Giang Phong cùng bọn họ vận chuyển phần lớn tài sản của Giang Phong mà không mang theo được (bàn ghế) vào trong một hang động gần đấy cất giữ. Hang động đó là nơi thờ tự của bọn họ, khô ráo sạch sẽ, tạm cất giữ được. Những vật từ trên trời rơi xuống, bọn họ chưa từng thấy bao giờ, được cho là đồ vật của Thần linh, do đó có thể cất giữ cùng những đồ tế tự mà không gây ra ý kiến gì. Tiền bạc trong ví tiền của Giang Phong hiện không thể dùng được, nhưng số bàn ghế đó chắc chắn có giá trị lớn nha. Ít ra Giang Phong cũng phải tính toán cho tương lai của mình ở nơi xứ lạ quê người này chứ.

Đến chiều, mọi người về đến động Lễ Dương, chỉ cách thánh sơn khoảng 2 cây số, theo lời của Trưởng lão (lão già từng nói chuyện với Giang Phong) là 5 dặm, tức mỗi dặm khoảng 400 mét. Động Lễ Dương khá rộng rãi, cư dân ước hơn nghìn người, trừ y phục mặc trên người thì cách thức sinh hoạt không khác người Kinh là mấy. Theo lời Trường lão cho biết, nơi đây từng là chỗ đóng quân của vua Trần khi đi đánh Ai Lao năm xưa, trong núi vẫn còn bia ghi lại. Do đó mà người dân nơi này tiếp xúc nhiều với người Kinh, cách sống cũng tương đối tiếp cận.

Giang Phong theo Trưởng lão về nhà, và tạm thời sống lại đấy. Bọn họ đối Giang Phong rất cung kính. Khi được hỏi trước đây sống ở đâu, Giang Phong chỉ lên trời, và bọn họ không hề nghi ngờ, bởi Giang Phong nhìn trước nhìn sau đều không giống người của thời này (giống sao được mà giống), lại bị rơi từ trên trời xuống cùng với rất nhiều ‘thần vật’.

Sau một thời gian, Giang Phong đã tìm hiểu được hiện trạng đương thời. Lúc này là giai đoạn cuối của thời Trần. Niên hiệu Quang Thái là của vị vua gần cuối, dường như chỉ làm vua được khoảng 10 năm (chính xác là từ 1388 đến 1398), rồi bị Hồ Quý Ly bức phải nhường ngôi cho con lúc đó mới 3 tuổi mà vào núi tu tiên. Hai năm sau thì Hồ Quý Ly cướp ngôi. Tiếp đó thì nhà Minh bên Tàu sang đánh, và bắt đầu thời kỳ ‘Thuộc nhà Minh’. Thời này là giai đoạn biến loạn của Đại Việt. Giang Phong xuyên việt đến thời kỳ này, thật là không may.

Đến thời này được khoảng 1 tháng, Giang Phong đã học được một số Hán tự. Giang Phong không thể không học, bởi nếu không học Hán tự thì sẽ không thể đọc được sách vở thư từ. Người Việt từ xưa đến nay chỉ nói có một thứ tiếng, nhưng thời bấy giờ viết bằng chữ Hán, và chữ Nôm lúc này chưa được phổ biến, mà muốn học chữ Nôm thì lại phải học chữ Hán trước (thành ra còn khó hơn, chỉ có một số ít sĩ phu mới học).

Hôm đó, chúng đầu lĩnh của Đông Giang tộc lại nhóm họp ở nhà Trưởng lão. Giang Phong được thỉnh đến tham dự, và vị trí cao nhất vốn của Trưởng lão được nhường lại cho Giang Phong. Dù sao Giang Phong cũng là ‘thần linh’ mà. Theo quan niệm lúc bấy giờ, vũ trụ có 'tam giới’ : Thượng giới (tiên giới), Hạ giới (nhân gian giới) và U Minh giới (quỷ giới). Nếu không phải người phàm thì tất phải là thần linh hoặc yêu ma quỷ quái. Mà Giang Phong ‘bị đẩy’ từ trên trời xuống (theo lời Giang Phong nói và cũng theo những gì bọn họ trông thấy), nên tất phải là thần linh trên Thượng giới.

Khi nghe mọi người bàn bạc, Giang Phong mới biết người Chiêm Thành lại sang quấy rối. Từ khi Trần Khát Chân đánh bại quân Chiêm Thành năm canh ngọ (1390), Chiêm vương Chế Bồng Nga tử trận thì Chiêm Thành đã suy yếu, không còn thực lực sang đánh Đại Việt nữa. Thế nhưng, hàng năm bọn họ vẫn sang quấy nhiễu các vùng biên giới, chiêu hàng các tộc trong vùng. Và ở xứ Kiềm Châu này, cũng có một số tộc thiên hướng theo Chiêm Thành. Hiện thời các quan trong triều đang mải lo tranh quyền đoạt lợi, ở những nơi xa xôi này không ai quản tới, các tộc phải tự lo lấy. Đông Giang tộc đã từng giết hại sứ giả của Chiêm Thành (thật ra là bị Giang Phong đè chết), cho nên lần này bọn họ kéo sang có thể là nhắm vào Đông Giang tộc. Vì thế mà mọi người nhóm họp bàn cách đối phó.

Cũng cần phải giải thích thêm, ngày xưa nếu vua lên ngôi vào giữa năm thì năm đó vẫn dùng niên hiệu của vua trước, sang năm mới bắt đầu sử dụng niên hiệu của vua mới, gọi là nguyên niên. Trần Thuận Tông làm vua từ năm 1388 đến năm 1398 với niên hiệu Quang Thái thì năm Quang Thái nguyên niên là năm 1389, đến năm Quang Thái thứ 10 là năm 1398. Xem ra năm nay Thiếu Đế 3 tuổi lên ngôi, và còn 2 năm nữa thì Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi. Từ năm 1396, theo ý muốn của Hồ Quý Ly, triều đình đã dời đô vào Thanh Hóa, gọi là Tây Đô, tại động Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, trấn Thanh Đô (tên của Thanh Hóa lúc bấy giờ). Lúc này tình hình triều đình cực kỳ khẩn trương.

Trước tin quân Chiêm Thành sắp sang đánh, mọi người bàn tán phân vân. Theo tin tức nhận được, quân Chiêm ước khoảng 2.000, phần lớn trang bị tinh lương. Còn Đông Giang tộc tối đa chỉ huy động được 1.500 tráng sĩ, trang bị chỉ tạm được. Hơn kém quá rõ. Nhiều người đề nghị mang hết tài sản tạm lánh vào rừng. Quân Chiêm kéo sang không cướp bóc được gì, rồi cũng phải rút đi. Nhưng cũng có người quyết chống giữ với giặc.

Bàn tán một hồi, mọi người không sao quyết định được, đều đưa mắt nhìn Giang Phong.

Chương 3 : CHIÊM QUÂN LAI PHẠM

Lại nói, trước tin quân Chiêm Thành sắp sang đánh, mọi người bàn tán phân vân. Do thực lực song phương hơn kém quá rõ. Nhiều người đề nghị mang hết tài sản tạm lánh vào rừng tránh giặc, thực hiện vườn không nhà trống. Nhưng cũng có người quyết chống giữ với giặc, bảo vệ đất đai của tổ tiên. Bàn tán một hồi, mọi người không sao quyết định được, đều đưa mắt nhìn Giang Phong.

Nãy giờ Giang Phong chỉ ngồi yên nghe mọi người tranh luận, giờ thấy mọi người đều nhìn mình chờ đợi, Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, rồi mới nói :

- Bỏ mặc cho giặc vào cướp thì không nên rồi. Nhưng nếu trực tiếp đánh nhau với giặc cũng không ổn. Dù thắng hay thua cũng sẽ thiệt hại nặng nề.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng ánh mắt sáng lên hỏi :

- Phải chăng đại nhân muốn nói đến dùng kế ?

Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Nếu như không phải đánh nhau với quân Chiêm Thành mà vào rừng săn bắn thì toàn tộc có thể động viên được bao nhiêu người ?

Mọi người không hiểu ý Giang Phong, ngơ ngác nhìn nhau. Trưởng lão đáp :

- Nếu chỉ là săn bắn, phần lớn người già và phụ nữ đều có thể tham gia, tính ra cũng khoảng 3.000 người.

Đông Giang tộc vốn là một nhánh của người Mường ở Thanh Hóa, sau theo vua Trần vào đánh Ai Lao, rồi định cư ở vùng Kiềm Châu này (nay thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Nơi đây là cửa ngõ chính thông sang đất Ai Lao lúc đó. Nhà Trần mấy lần cất quân đánh Ai Lao, đều theo đường này. Quân Ai Lao sang cướp phá Đại Việt, cũng đi qua đây. Minh Tông Thượng Hoàng từng dẫn đại quân đến đóng ở Kiềm Châu, khiến giặc sợ hãi không dám vào cướp phá. Thượng Hoàng bèn sai ông Nguyễn Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài bia đó có chữ lớn bằng bàn tay, khắc vào đá sâu đến 1 tấc, đến nay vẫn còn, nội dung tạm dịch như sau :

“Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài biển đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi (1335) vua thân đem sáu quân (1) đi tuần cõi tây. Thế tử (2) nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các đạo mán là Quỳ, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ và các bộ Mán Thanh xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp năm ất hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá.”

(chú 1 : theo Chu Lễ, Thiên tử có 6 quân, chư hầu nước lớn có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ có 1 quân; cho nên quân đội thường được gọi là ‘tam quân’, chỉ có thiên tử mới được dùng ‘lục quân’ – tiền, hậu, tả, hữu, trung, ngự lâm).

(chú 2 : Thế tử là con vua chư hầu, còn con Thiên tử mới được gọi là Thái tử).

Tuy quân Trần tạm thời đánh đuổi được giặc, nhưng cũng chỉ có thể giữ không cho quân giặc vào trong cõi cướp phá, chứ không diệt được hẳn, do đó mới phái tướng quân họ Phạm dẫn bản bộ trấn giữ. Họ Phạm người Mường, nên dân Mường ở mạn Thanh Hóa theo về rất đông, hình thành nên Đông Giang tộc hiện giờ, đời đời trấn giữ đất này. Trong những lần đánh Chiêm Thành gần đây, quân triều đình thường xuyên đại bại, các hào trưởng trong vùng cùng nhiều tôn thất nhà Trần đều theo hàng Chiêm, chỉ có Phạm Thế Căng và Phan Mãnh một lòng một dạ theo triều đình, nên sau khi dẹp giặc xong đều được trọng thưởng. Phạm Thế Căng chính là con của Trưởng lão Phạm Thế Hưng, hiện đang làm Thiêm phán đất Kiềm Châu (thật ra vẫn làm nhiệm vụ trấn thủ ở đây, không được tăng thêm chút quyền lực nào, có lẽ vì thế mà gây nên bất mãn, dẫn đến kết cục như trong sử sách (3) chăng ?).

(chú 3 : theo sử sách, khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần thì Phạm Thế Căng theo nhà Hồ; khi nhà Minh bên Tàu sang đánh nhà Hồ, họ Phạm lại theo nhà Minh; khi quân Hậu Trần nổi lên, họ Phạm chống lại, sau bị tướng nhà Hậu Trần là Đặng Tất bắt được giết đi, chết năm 1408).

Trong những người dự hội cũng có cả Phạm Thế Căng. Y là người từng dẫn quân chinh chiến, hiện lại đang là quan quân triều đình, nên nói thêm :

- Phía Kiềm Châu cũng có thể điều động 500 quân, nhưng chỉ là dân binh, không phải tinh nhuệ.

Giang Phong nói :

- Xem ra chúng ta có 2.000 dân binh chống nhau với 2.000 quân tinh nhuệ của Chiêm Thành. Số còn lại chỉ có thể phất cờ gióng trống mà làm nghi binh.

Phạm Thế Căng hỏi :

- Đại nhân. Chúng ta nên làm thế nào ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Dùng 4 chữ : nhiễu, dụ, phục, sát.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, rồi phân phân bàn tán. Sau đó, kế hoạch được định ra, và mọi người phân đầu hành sự. Phạm Thế Căng từng là tướng quân, được giao thống lĩnh 2.000 dân binh (1.500 của Đông Giang tộc và 500 của Kiềm Châu), có cháu là Phạm Đống Cao giúp sức; còn Trưởng lão Phạm Thế Hưng chỉ huy những người còn lại và phụ trách phòng vệ các động.

Vài ngày sau.

Quân Chiêm Thành từ phía nam kéo sang, lần theo bờ sông Tiết La kéo về đất Kiềm Châu. Mục tiêu của bọn họ rõ ràng là Đông Giang tộc. Lần này tuy quân Chiêm chỉ có 2.000, nhưng toàn là tinh nhuệ, phần lớn đã từng theo Chiêm vương Chế Bồng Nga 4 lần tiến vào cướp phá Thăng Long. Những người này đối lãnh thổ Đại Việt cũng khá quen thuộc, là chủ lực của những đạo quân quấy nhiễu Đại Việt bấy lâu nay.

Thế nhưng, khác với những lần trước, lần này quân Chiêm không thể nào yên ổn tiến quân. Liên tục có những toán dân binh Đông Giang tộc từ trong rừng dùng cung tên bắn lén, dùng đá ném, thậm chí chỉ hò hét thị uy giả vờ như phục binh. Tuy quân Chiêm không thiệt hại bao nhiêu, mấy ngày qua chỉ tổn thất gần trăm người, nhưng không thể nào yên tĩnh nghỉ ngơi được, cả đoàn quân mệt mỏi vô cùng. Chiêm tướng không phải không muốn đuổi theo tiêu diệt những kẻ địch đáng hận kia, nhưng bọn họ không sao thông thuộc địa hình bằng người của Đông Giang tộc, mỗi khi truy đuổi không những tốn công vô ích, mà đôi khi còn tổn thất không ít người. Cuối cùng, Chiêm tướng chỉ còn cách mắt nhắm mắt mở, không cho truy đuổi nữa mà truyền lệnh quân Chiêm tăng cường đề phòng bị tập kích.

Bắt đầu từ hôm qua, dụng cách ứng phó trên, quân Chiêm đã không còn tổn thất nhân mạng nữa. Dù vẫn còn chịu sự quấy nhiễu không ngừng, mệt mỏi vô cùng, nhưng đó cũng là một thành tích đáng mừng. Chiêm tướng thở phào nhẹ nhõm, định tăng gia tốc độ hành quân, khi nào đến gần lãnh địa của Đông Giang tộc sẽ cho quân nghỉ ngơi dưỡng sức trước khi chiến đấu.

Đột nhiên, giữa đoàn quân có nhiều tiếng quát tháo xen lẫn với những tiếng rên rỉ kêu la. Chiêm tướng cả kinh, quay lại nhìn, và bất giác thất sắc. Khủng bố ! Quang cảnh thật là khủng bố nha ! Hàng đàn ong độc bay đầy trời, xông vào châm chích quân Chiêm, khiến cả bọn trúng độc, kêu la rên rỉ inh ỏi. Ong không như người, thân hình quá nhỏ, lại bay khá nhanh, nên không sao tiêu diệt hết được. Làm thế nào mà xuất hiện vô số ong độc như thế này. Phải rồi ! Đông Giang tộc ! Chắc chắn là bọn người Đông Giang tộc đã làm. Chiêm tướng tức giận vô cùng, nhưng cũng đành phải lo đối phó với sự tình trước mắt, liền truyền lệnh quân Chiêm nổi lửa đuổi ong. Ngày xưa không có bật lửa như thời hiện đại, mỗi lần nổi lửa không phải dễ, do đó mà khi bầy ong độc bị xua đuổi hết thì quân Chiêm cũng tổn thất thảm trọng. Đến khi kiểm điểm lại, phát hiện thủ hạ tuy không có ai tử vong, nhưng thọ thương cũng gần 500, Chiêm tướng tức đến trào máu miệng. Chưa tiến đến chỗ địch nhân mà đã thiệt hại gần một phần ba quân số rồi. Tình thế có vẻ không may a.

Kế sách dùng ong đuổi giặc này, Giang Phong đã học theo cách làm của quân dân miền Tây sử dụng thời chống Mỹ, tuy không giết chết quân giặc, nhưng khiến số quân giặc không thể chiến đấu tăng gấp ba lần, bởi thương binh không thể bỏ mặc, mỗi thương binh cần phải có hai người khiêng. Cứ có một thương binh thì sẽ có ba người bị loại khỏi vòng chiến. Quân Chiêm thì không đến nỗi như vậy, nhưng ít ra cũng mỗi người cõng một người. Kết quả là có gần nghìn quân Chiêm bị loại khỏi vòng chiến.

Đêm đến, khi quân Chiêm cắm trại nghỉ ngơi thì đến nửa đêm, từ bên ngoài có những tiếng hò reo vang dội như muốn tập kích doanh trại. Mấy ngày qua, quân Chiêm đã quá quen với cảnh này rồi, nên ai canh gác tiếp tục canh gác, ai ngủ cứ tiếp tục ngủ. Đặc biệt là số thương binh và những người phải cõng thương binh, do cả ngày hành quân mệt nhọc nên đều kiệt sức, ngủ say như chết. Trước tình cảnh đó, Chiêm tướng cũng không quá lo lắng, bởi quân giặc mà đến tập kích thì đâu khi nào hò reo náo động đến như vậy.

Chương 4 : NỬA ĐÊM TẬP DOANH

Lại nói, khi bên ngoài doanh trại có những tiếng hò reo vang dội như muốn tập kích quân doanh, thì bên trong doanh trại, tướng sĩ quân Chiêm ai vẫn cứ làm việc nấy, ai canh gác tiếp tục canh gác, ai ngủ cứ tiếp tục ngủ. Đặc biệt là số thương binh và những người phải cõng thương binh, do cả ngày hành quân mệt nhọc nên đều kiệt sức, ngủ say như chết. Cả bọn đều lo dưỡng sức cho cuộc hành quân ngày mai. Lúc này đây, quân Chiêm sợ nhất là thời gian hành quân ban ngày, không biết rồi sẽ gặp phải chuyện khủng bố gì nữa. Thủ đoạn của Đông Giang tộc khiến cả bọn không lạnh mà run. Cả Chiêm tướng cũng vô kế khả thi, không biết đường nào mà đề phòng.

Lúc này, từng làn gió mát thổi tới, đám quân Chiêm canh gác còn rất cao hứng, thậm chí có người nói :

- Tối nay trời còn không tệ nha. Ăn no rồi, còn có gió mát, thật là sung sướng. Chả bù với tối qua, trời nóng không chịu được.

Bên cạnh lập tức có người tán đồng :

- Đúng thế ! Đúng thế ! Xem ra vận xui sắp rời khỏi chúng ta rồi. Ngày mai tình hình có thể khá hơn.

Giữa lúc đó chợt có người bảo :

- A ! Không đúng nha ! Sao bọn mọi cứ hò reo mãi không dứt vậy nha. Bọn chúng không mệt thì chúng ta cũng thấy mệt.

Những người còn lại đều lắng tai nghe, rồi gật gù nói :

- Phải đó nha. Mấy đêm trước bọn chúng chỉ kéo đến reo hò một lúc thôi hà.

Chính giữa lúc bọn quân Chiêm bàn tán phân phân thì từ xa có vô số mũi tên bắn tới như mưa. Vút. Vút. Vút … Những mũi tên vô tình bay tới, giết hại hay trọng thương hàng loạt quân Chiêm. Bọn quân Chiêm phụ trách canh gác này hoàn toàn không tận chức, địch nhân kéo đến sát bên cạnh rồi mà vẫn không hay biết, để đến nỗi ám tiễn thương thân. Nhưng thật ra chuyện này cũng không thể trách được bọn chúng. Giữa đêm tối chẳng nhìn rõ được gì, chỉ có thể phân biệt người qua lại bằng thanh âm. Nhưng thanh âm lúc này thì … Khắp bốn phía đều vang dội những tiếng hò reo. Ngoài những tiếng hò reo liên tục dội vào tai, đã liên tục mấy đêm liền khiến bọn họ gần như miễn dịch, thì bọn chúng không thể nghe được thanh âm nào khác. Dân binh của Đông Giang tộc lẳng lặng tiến đến gần mà bọn chúng không hề hay biết.

Những cảnh trạng tương tự cũng diễn ra ở những hướng khác. Tất cả số quân Chiêm canh gác ở vòng ngoài đều bị giải quyết gọn gẽ. Dân binh Đông Giang tộc lại lặng lẽ tiến sát vào trong. Và lại một đợt tập kích các toán quân Chiêm canh gác nữa. Nhưng lần này không hoàn toàn giữ được bí mật. Mục đích bạo lộ.

Chiêm tướng cũng là một người năng chinh thiện chiến, bố trí canh gác gồm cả hai bộ phận ‘minh’ và ‘ám’. ‘Minh’ là những toán quân Chiêm canh gác bên ngoài. Còn ‘ám’ là số quân Chiêm ẩn núp trong những lùm cây bụi cỏ. Dân binh Đông Giang tộc sát hại được những toán quân Chiêm canh gác ở bên ngoài thì bị nhóm ‘ám’ báo động. Toàn doanh trại quân Chiêm được lệnh báo động toàn quân.

Mục đích bạo lộ, không còn thế bất ngờ, Phạm Đống Cao chỉ huy dân binh dưới quyền chuyển sang thực hiện phương án hai, nghênh ngang xuất hiện, đường đường chính chính tiến công vào doanh trại. Chiêm tướng được tin báo, đã tập họp gần nghìn quân Chiêm còn đủ sức chiến đấu (những kẻ không phải thương binh hay ban ngày không phải cõng thương binh) kéo ra ngăn chống. Địch quân chưa đến 500, gã tin rằng với số quân đó cũng đủ sức giải quyết.

Phạm Đống Cao cùng chúng dân binh sau một phen xông sát, thấy đại đội quân Chiêm kéo ra, liền nhanh chóng rút lui. Bọn họ đều thông thạo địa hình rừng núi vùng này, di chuyển trong rừng nhanh như gió, quân Chiêm không sao đuổi kịp. Chiêm tướng rút kinh nghiệm những lần bị tập kích trước đây, cũng không cho quân đuổi theo. Kiểm điểm ba quân, thấy tổn thất hơn 200 người, Chiêm tướng giận quá, không chỗ phát tiết, chỉ có thể lớn tiếng mắng chửi Đông Giang tộc xảo quyệt đê hèn, không dám đường đường chính chính đối trận cùng gã ta. Gã không nghĩ rằng quân sĩ của gã đều là quân chính quy tinh nhuệ, còn phía Đông Giang tộc toàn là dân binh. Song phương đối trận thì đâu thể nào gọi là công bằng cho được. Kẻ mạnh dùng sức, kẻ yếu dùng mưu là thiên kinh địa nghĩa.

Thế nhưng, gã ta chỉ mắng chửi được mấy câu thì phải dừng lại, vì có binh sĩ đến báo nam dinh bị địch nhân tấn công. Gã ta cả kinh, vì nam dinh chính là nơi cất giữ lương thực, nếu có gì bất trắc thì toàn quân lâm nguy. Do đó gã lập tức suất lĩnh quân đội cứu viện nam dinh.

Kéo quân đến nam dinh, gã vội dàn quân phòng ngự, bảo vệ khu vực chứa lương thực. Vì giữa đêm tối, để đề phòng bất trắc, gã không dám phản công mà chỉ lo phòng ngự, chờ trời sáng sẽ hay. Dù sao thì cũng chỉ vài giờ nữa thôi thì trời sẽ sáng. Sau khi bố trí phòng ngự xong, gã mới rảnh rang quan sát tình hình. Đến lúc này gã chấn kinh không sao tưởng tượng được. Phía xa xa, cả hai hướng đông nam và tây nam có vô số bó đuốc chiếu sáng rực cả một vùng, và đối phương đang chỉnh quân, chuẩn bị tấn công về phía này. Tiếng hò reo vang trời dậy đất. Quan trọng hơn cả, nhìn thoáng qua cũng có thể xác định được ở mỗi phía ít nhất cũng có đến 1.000 người. Chẳng lẽ Đông Giang tộc kéo hết trai tráng trong tộc đến đây. Và gã ta càng thêm quyết tâm phòng ngự, chỉ cầu giữ cho được kho lương. Còn đánh nhau thì lúc nào đánh cũng được, chẳng cầu chi ngay lúc này.

Núi rừng Kiềm Châu.

Giờ đây quanh doanh trại của Chiêm quân khắp tứ bề đều nghe thấy những tiếng hò reo vang dội. Nhưng Chiêm tướng cho rằng tất cả đều là hư trương thanh thế, chỉ có hướng tấn công vào nam dinh là thật, bởi vì toàn doanh trại chỉ có nam dinh là quan trọng nhất, là nơi chứa lương thực, là mệnh mạch của toàn quân.

Nghe thấy quá nhiều tiếng hò reo từ cả bốn phía dồn đến, Chiêm quân ai nấy đều khẩn trương, nhưng dưới sự đốc thúc của Chiêm tướng, cả bọn không ai dám rời khỏi vị trí. Từ quân đến tướng, ai cũng mong cho trời mau sáng.

Đối phương hò reo, lại hò reo. Chiêm quân chờ đợi, lại chờ đợi.

Song phương đối trận đến gần sáng thì phía Đông Giang tộc rút lui. Đối phương không tấn công khiến Chiêm tướng rất bất ngờ. Thế nhưng, sau khi trời sáng, gã kiểm tra doanh trại, kiểm điểm ba quân thì trở nên lồng lộn điên cuống, bởi phương hướng mà gã đoán là thật thì chỉ là nghi binh, còn các hướng khác mà gã cho là nghi binh thì lại là thật công.

Cho đến khi gần sáng, các dinh khác trong doanh trại đều đã bị đối phương công phá, trừ số quân chưa đến nghìn người theo gã phòng thủ nam dinh, những người còn lại đều đã trận vong hoặc trọng thương mất sức chiến đấu. Những người này hầu như đều là thương binh bị ong chích hay những người đã cõng thương binh vào ban ngày, do mệt quá nên đêm đến là ngủ vùi, bị tấn công mà không kịp trở tay. Tình thế quân Chiêm lúc này vô cùng tồi tệ. Chỉ còn hơn 900 quân là còn sức chiến đấu, với điều kiện là bỏ mặc những kẻ thọ thương. Mà nếu làm thế thì sẽ khiến sĩ khí đại giảm, bởi sĩ binh không ai chắc rằng sắp tới mình không thọ thương, hay thọ thương rồi không bị bỏ mặc. Đường hành quân sắp tới chắc chắn rất là khủng bố. Thủ đoạn của đối phương bọn họ đều lần lượt nếm qua rồi. Rất đáng sợ a.

Ngày hôm đó, quân Chiêm ở lại doanh trại củng cố đội ngũ, chữa trị cho người bị thương chứ không tiếp tục hành quân. Hơn nữa, Chiêm tướng tiến thoái lưỡng nan, bởi với lực lượng còn lại lúc này, không đủ năng lực tấn công Đông Giang tộc nữa. Nhưng chẳng lẽ như thế này lại quay về.

Đến tối hôm sau, người của Đông Giang tộc lại kéo đến. Lần này bọn họ không bất thần tập kích nữa, mà đường đường chính chính kéo đến. Lực lượng Đông Giang tộc lúc này rất đông đảo, lên đến 3.000 người, gồm 2.000 dân binh và 1.000 ‘dự binh dân binh’. Có điều bọn họ không tấn công vào doanh trại, chỉ bao vây bên ngoài. Quân Chiêm cũng chỉ phòng ngự ở bên trong, chờ trời sáng. Lần này bọn chúng học khôn hơn, co cụm lại ở nam dinh, không phân tản ra như trước nữa. Cả bọn đều hiểu rằng truy đuổi nhau trong rừng, dù là ban ngày thì phần bất lợi cũng thuộc về bọn chúng, chứ đừng nói chi là giữa đêm hôm tăm tối thế này.

Phía bắc doanh trại quân Chiêm, hai cha con Trưởng lão Phạm Thế Hưng và Phạm Thế Căng quan sát vòng vây, thầm hài lòng. Phạm Thế Căng hỏi :

- Phụ thân. Chúng ta chỉ bao vây như thế thôi à ?

Trưởng lão Phạm Thế Hưng cười hắc hắc nói :

- Sao lại chỉ bao vây như thế. Đại nhân đã biết trước sẽ có chuyện này nên đã sắp đặt cả rồi. Hắc hắc. Ta đã chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn cho bọn chúng rồi. Lát nữa sẽ thấy.

Phạm Thế Căng rất hiếu kỳ, nhưng dù có hỏi thế nào thì cũng vô ích, chỉ được bảo : chờ lát nữa sẽ biết.

Chương 5 : QUÂN CHIÊM ĐẠI BẠI

Lại nói, khi nghe phụ thân bảo đã chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn cho quân Chiêm, Phạm Thế Căng rất hiếu kỳ, nhưng dù có dò hỏi thế nào thì cũng vô ích, chỉ đành chờ xem. Lát sau, Phạm Đống Cao cũng đến, hào hứng nói :

- Trưởng lão ơi. Chúng ta tấn công chứ ạ ? Người của chúng ta đông gấp ba chúng, thắng chắc.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng trừng mắt nhìn gã, nói :

- Tấn công. Chỉ biết tấn công. Quân Chiêm toàn là tinh nhuệ thiện chiến. Chúng ta tấn công sẽ thương vong rất nặng đó.

Phạm Đống Cao tiu nghỉu hỏi :

- Vậy chúng ta phải làm sao ? Cứ bao vây mãi như thế thôi ư ?

Trưởng lão Phạm Thế Hưng nói :

- Chờ chút đi. Bọn nhỏ chuẩn bị cũng sắp xong rồi.

Không sao được, cả hai chỉ đành chờ đợi.

Lát sau …

Đột nhiên, giữa đêm tối, giữa cảnh khẩn trương, từ trong doanh trại quân Chiêm chợt vọng ra những tiếng rú nghe cực kỳ thê thảm. Rồi tiếp đó là những tiếng kêu gào thảm thiết. Chúng nhân liền kéo đến gần, xem thử tình hình.

Lúc này, trong doanh trại quân Chiêm đèn đuốc sáng rực, những tiếng kêu “Rắn độc”, “Rết kìa”, “Coi chừng”, “Giết nó” … vang lên không ngớt, xen lẫn với tiếng kêu gào rên rỉ, vô cùng hỗn loạn. Hóa ra người của Đông Giang tộc chỉ bao vây mà không tấn công, lại từ bên ngoài ném vào trong doanh trại đủ thứ độc vật : rắn, rết, bọ cạp, … Thậm chí còn có nơi bị ném vào nguyên cả một tổ ong lớn. Chính lũ ong và độc vật đã khiến cho doanh trại của quân Chiêm hỗn loạn. Rất nhiều quân Chiêm bị ong độc chích, bị rắn rết cắn và trở thành thương binh. ‘Vũ khí sinh học kiểu nguyên thủy’ này xem ra cũng rất lợi hại a.

Trong lúc Chiêm tướng định lệnh cho thủ hạ lo trừ diệt độc vật, xua đuổi ong độc, thì Phạm Thế Căng thừa cơ chỉ huy dân binh phát động tấn công. Chỉ có điều để giảm bớt thương vong, dân binh chỉ đứng từ xa dùng cung tên tấn công, khiến cho quân Chiêm phải chọn lựa giữa việc chống nhau với người hay với độc vật. Và vì lưỡng diện thọ địch, quân Chiêm thảm bại nhanh chóng, số thương binh càng lúc càng tăng lên, nếu không bị tên bắn trúng thì cũng bị ong chích hay rắn rết cắn.

Trước tình hình đó, Chiêm tướng đành gom góp tàn binh tổ chức phá vòng vây. Quân Chiêm chỉ còn lại hơn 500 người theo sau Chiêm tướng, mà phần lớn cũng đều không lành lặn, thương tích không ít thì nhiều. Thấy quân Chiêm khí thế hung hãn, liều mạng đột phá vòng vây, Phạm Thế Căng không cho dân binh trực tiếp ngăn chặn, mà cố ý nới lỏng vòng vây, để lộ ra một khoảng trống cho quân Chiêm thoát thân. Sau đó y mới xua quân truy đuổi, chém giết những kẻ chậm chân. Trong vùng rừng núi này, quân Chiêm không thể nào thông thạo địa hình bằng người Đông Giang tộc. Cơ hội chạy thoát của bọn chúng không cao.

Trong khi đó, Trưởng lão Phạm Thế Hưng ở lại thu thập chiến quả, xử lý tù binh. Sau trận này, quân Chiêm vẫn còn lại hơn nghìn người, dù đều thọ thương, nhưng chưa tử vong. Trưởng lão cho người xử lý thương thế bọn chúng, rồi áp giải về động.

Sau trận đại thắng quân Chiêm, toàn thể dân chúng các động đều hân hoan phấn khởi, tổ chức ca múa ăn mừng. Đây là lần đầu tiên dân binh Đông Giang tộc độc lập tác chiến với quân Chiêm Thành, và đã thắng lợi vẻ vang, nên rất đáng kỷ niệm.

Ở nhà Trưởng lão, Giang Phong nghe bọn Phạm Thế Hưng báo cáo chiến quả xong, khẽ gật đầu, bảo Phạm Đống Cao :

- Chỉnh bị dân binh, chờ khi hồi phục sức lực xong lập tức xuất chinh.

Phạm Đống Cao ngạc nhiên hỏi :

- Đại nhân. Giờ đánh ai nữa ạ ?

Giang Phong nói :

- Chẳng phải trong vùng vẫn có một số tộc có ý theo Chiêm Thành đó sao ? Nhân đà thắng lợi, nên giải quyết bọn họ luôn cho tuyệt hậu hoạn.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng ánh mắt sáng lên, nói :

- Phải đó. Cần giải quyết luôn cho tuyệt hậu hoạn.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Đống Cao lo chinh chiến, Thế Hưng lo xử lý chiến quả. Chủ yếu trị tội những kẻ cầm đầu mà thôi. Dân chúng không có tội. Hơn nữa, người của Đông Hưng tộc vẫn còn ít quá.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng gật đầu lia lịa, nói :

- Phải đó. Người của bản tộc vẫn còn ít quá.

Thế là cả hai lại đi chỉnh bị dân binh, chuẩn bị xuất chinh. Phạm Đống Cao sẽ thống lĩnh 1.000 dân binh đi trước, Trưởng lão suất lĩnh 1.000 ‘dự bị dân binh’ đi sau tiếp ứng. Nhân đó, Giang Phong còn thảo một đạo hịch văn để giành lấy chính nghĩa. Hịch rằng :

“Nay Chiêm vương La Khải, là kẻ phản nghịch, nguyên vô tài đức, chiếm lấy vương vị, thật là ngụy triều. Trong tàn hại dân chúng, ngoài quấy nhiễu lân bang, thường viễn chinh làm dân khốn khổ. Yêu thanh tương kế, xuất quân phạm Việt. Các ngươi muốn hồn thủy mạc ngư, theo về Chiêm Thành, tội đáng muôn thác. Vì vinh hoa phú quý, dẫn giặc vào trong bờ cõi. Quân giặc quá xứ, dân bất liêu sinh. May nhờ thần thánh hiển linh, quân ta xuất chiến, Chiêm quân đại bại, Chiêm tướng thụ thủ. Các ngươi lại không biết tội mình, nhất tâm theo giặc, ngoan cố kháng cự, làm hại dân chúng, khổ cực trăm bề. Ô hô thương thay ! Đại Việt chúng dân, đau đớn muôn phần. Các ngươi xem tổ tiên như không có, giả danh yêu quái, ngộ đạo lê dân, làm nhơ đạo thánh, làm hại quốc thống. Đại Việt xã tắc, nếu mất về Chiêm, bốn phương hỗn loạn, yêu đồ hoành hành. Phàm là dân Đại Việt ta, cần nên hợp nhau đánh giặc, đồng sức đồng lòng, tiêu diệt nghịch tặc, chỉ trong lần này. Nay truyền hịch văn, chúng dân cẩn ký.”

Trưởng lão Phạm Thế Hưng lập tức cho người sao hịch văn thành nhiều bản, truyền đi các nơi. Thậm chí những nơi đông dân cư trong vùng lão còn phái người đến tuyên đọc cho nhiều người cùng biết (bởi phần lớn dân chúng không biết chữ), cố ý tạo ra thanh thế thật lớn. Đương nhiên đó là việc sau này. Khi hịch văn được truyền đi các nơi, thì có khi mọi việc đã được giải quyết xong hết rồi.

Hai ngày sau, Phạm Thế Căng dẫn quân trở về, ngoài hơn trăm hàng binh còn có thêm thủ cấp của gã Chiêm tướng. Y nghe nói đến hành động của bọn Phạm Đống Cao, lập tức dẫn quân đi tiếp ứng. Thật ra y chỉ muốn an toàn tuyệt đối, chứ thật ra một động có hơn nghìn dân như động Lễ Dương đã là một động lớn hiếm hoi trong vùng rồi. Quân của Đông Giang tộc sĩ khí cao ngang (mới chiến thắng quân Chiêm), nhân số đông đảo (2.000 người), trang bị tinh lương (cướp được của quân Chiêm), đối phó một động hơn nghìn dân không thành vấn đề. Nếu như đối phương hay tin, triệu tập tộc nhân từ các động khác về co cụm phòng thủ thì cũng có thể để lại đó, chờ giải quyết sau. Huống chi cũng có thể thượng báo triều đình về hành vi ‘tạo phản’ của đối phương – dù sao thì theo Chiêm Thành cũng đồng nghĩa với tạo phản rồi. Mà vua chúa nào cũng đều rất nhạy cảm với hành vi tạo phản.

Hơn mười ngày sau, bọn Phạm Thế Hưng, Phạm Thế Căng, Phạm Đống Cao lục tục trở về, mang theo rất nhiều tài vật cướp được. Trong lần xuất quân này, bọn họ chiếm được gần 10 động ‘phản nghịch’, có gần 20 động nhỏ phụ cận ‘xin’ được quy phục, mở rộng vùng kiểm soát ra hơn 30 động, dân cư ước hai vạn người, hiển nhiên trở thành một thế lực lớn mạnh nhất vùng, đứng trên cả các tộc Quỳ, Cầm, Xa, Lạc.

Trước chiến quả huy hoàng đó, các đạo quân chỉ tổn thất hơn trăm người không hề làm cho mọi người giảm đi sự hưng phấn. Chiến tranh bao giờ mà không có thương vong mất mát. Thật ra với các chiến dịch như vừa rồi, chỉ thương vong trăm người đã là một thành quả đáng tự hào rồi.

Không chỉ Đông Giang tộc có lợi, ngay cả Giang Phong cũng có được rất nhiều lợi ích. Trước tiên, Giang Phong đã chân chính trở thành Phúc thần của toàn tộc (Giang Phong chỉ mới đến một thời gian mà bọn họ đã phát triển nhanh chóng như thế rồi). Ngoài ra, không ít bảo vật chiến lợi phẩm được tuyển chọn ‘cung phụng’ cho Giang Phong. Thật ra Giang Phong cũng rất hài lòng với địa vị thần linh của mình, bởi vì như thế sẽ không xung đột với quyền lợi của nhà họ Phạm. Từ xưa đã có quan niệm : ‘Thần bất thực nhân gian yên hỏa’. Thần linh là để mọi người cung phụng, tôn thờ và cầu khấn mỗi khi gặp khó khăn. Phàm nhân chẳng ai lại lo thần linh sẽ giành quyền lực với mình. Tuy hiện tại nhà họ Phạm đối Giang Phong rất cung kính, nhưng nếu như Giang Phong trực tiếp can thiệp vào quyền lực của Đông Giang tộc, không thể đảm bảo đến một lúc nào đó, vì quyền lợi thế tục, bọn họ sẽ cùng Giang Phong trở mặt thành thù. Hiện tại Giang Phong sức yếu thế cô, chỉ muốn được yên ổn phát triển. Hơn nữa, thân phận thần linh có thể củng cố địa vị ‘lĩnh tụ đương nhiên’ của Giang Phong. Người xưa muốn làm đại sự, mượn chuyện thần linh cũng là thường sự. Ở bên Tàu có Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghĩa; nhà Đường tuyên xưng Lão Tử là tổ tiên của mình, và tôn làm Thái Thượng Lão Quân (trước thời nhà Đường chưa có danh xưng Thái Thượng Lão Quân). Ở Việt Nam cũng có nhà Đinh, nhà Lý, nhà Trần đều được trời cho long mạch mà thành thiên tử.

Chương 6 : ĐỊNH SÁCH

Lại nói, sau khi ăn mừng thắng lợi và phân chia chiến lợi phẩm, chúng đầu lĩnh của Đông Giang tộc lại nhóm họp để tổng kết kinh nghiệm tác chiến. Mọi người bàn tán phân phân. Trưởng lão Phạm Thế Hưng cười tít mắt, nói :

- Lần này bọn nhỏ chiến đấu rất dũng cảm. Tộc ta không thiếu dũng sĩ nha.

Phạm Thế Căng nói :

- Tứ tự chân ngôn ‘nhiễu, dụ, phục, sát’ thật là hiệu quả. Phải chi năm trước có được tứ tự chân ngôn này thì quân ta đâu có thua quân Chiêm, để đến nỗi Thăng Long bốn lần thất thủ. Hừ. Bọn thư sinh ở kinh đô thật là phường bị thịt mà.

Phạm Đống Cao nói :

- Lần này đánh giết thật đã tay. Một mình con đã giết cả trăm tên giặc đó nha.

Quảng Tế Pháp sư, trước đây là thầy pháp của tộc, giờ là cân ban của Giang Phong (lão vốn thờ phụng thần linh, nay gặp ‘thần linh’ nên đương nhiên phải theo), kiêm quản tài chính sự vụ của tộc (bởi là người giỏi tính toán nhất, gần đây lại theo học ở Giang Phong khá nhiều toán pháp, năng lực đại tăng), chợt vuốt râu nói :

- Lợi hại nhất vẫn là đám ong với độc vật nha. Nếu chúng ta gặp phải cũng không biết làm sao mà đối phó.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng giật mình :

- Thế thì cũng không ổn nha. Lỡ như kẻ địch dùng chúng để đối phó với chúng ta thì sao. Giờ đây chúng ta đã là thế lực lớn mạnh nhất vùng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa này. Rất nhiều kẻ địch lúc nào cũng dòm ngó chúng ta nha.

Mọi người đều hướng về Giang Phong. Suy nghĩ giây lát, Giang Phong bảo :

- Ta nghe nói nhiều người dùng hùng hoàng để đuổi rắn độc, mọi người tìm hiểu thử xem. Còn muốn đuổi ong thì chỉ còn cách luôn luôn chuẩn bị sẵn lửa khói, nhất là những loại gỗ khi đốt cho nhiều khói.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng nhìn Phạm Thế Căng bảo :

- Mau lo việc này nha. Hãy tận dụng cả lực lượng của quan binh.

Phạm Thế Căng vâng dạ. Mọi người tổng kết chiến quả xong (thật ra là đua nhau khoe khoang chiến tích của mình), Giang Phong mới nói :

- Giờ đây, có mấy việc cần làm ngay.

Chúng nhân yên lặng lắng nghe. Giang Phong nói :

- Trước tiên, cần tuyển ra bản tộc đệ nhất dũng sĩ, là người giết giặc nhiều nhất, cho nhiều ưu đãi, tưởng thưởng.

Quảng Tế Pháp sư gật gù nói :

- Có như vậy, sau này khi có chiến đấu mọi người sẽ càng hăng hái hơn.

Giang Phong nói :

- Việc này Thế Hưng phụ trách.

Giang Phong là ‘thần linh’, chỉ có mọi người tôn kính Giang Phong chứ Giang Phong không cần tôn kính ai cả, do đó đối với ai cũng đều gọi thẳng tên cả. Hơn nữa, nếu Giang Phong không làm thế, chúng nhân còn có những lo nghĩ không đâu, cho rằng ‘đại nhân phân biệt đối xử’. Trưởng lão Phạm Thế Hưng cung kính vâng dạ. Giang Phong lại nói :

- Tiếp đó, cần gửi công văn về triều đình báo cáo sự tình, báo rằng có hơn vạn quân Chiêm tiến công Nghệ An, trong vùng có nhiều hào tộc theo giặc. Tuy rằng chúng ta đã liên hợp các tộc đánh bại quân giặc, tiêu diệt hơn 5 nghìn, bắt sống hơn nghìn, nhưng nghe nói đó chỉ là đội tiên phong của quân Chiêm. Tình thế rất nguy ngập, mong triều đình tìm cách ứng phó. Đồng thời gửi thủ cấp Chiêm tướng về triều thỉnh công.

Trưởng lão Phạm Thế Hưng thắc mắc :

- Đại nhân. Báo cáo có hơn vạn quân Chiêm thì dễ hiểu rồi, nhưng mắc gì mà chúng ta lại phải nói là ‘liên hợp các tộc đánh bại quân giặc’ chứ ?

Phạm Đống Cao cũng nói :

- Phải đó. Thật sự chỉ có một mình tộc chúng ta đánh giặc thôi mà. Mắc gì phải chia bớt công lao cho các tộc khác.

Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Theo mọi người, với công lao như thế, triều đình sẽ tưởng thưởng thế nào ?

Cả bọn ngẩn người nhìn nhau. Phạm Thế Căng chép miệng nói :

- Bất quá tưởng thưởng ít vàng bạc châu báu mà thôi. Người Mường chúng ta dù có lập đại công cũng không thể nào làm quan lớn được. Cứ xem khi đánh nhau với quân Chiêm lúc trước thì biết. Phan Mãnh thì được về triều làm tướng quân, còn tiểu tướng thì … ngoài ít vàng bạc ra thì có được tưởng thưởng gì đáng kể đâu. Cái chức Thiêm phán nghe thấy oai, thật ra cũng là công việc của chúng ta trước giờ.

Chúng nhân gật đầu đồng cảm, không còn hưng phấn như trước nữa. Giang Phong lại nói :

- Hơn nữa, báo là có hơn vạn quân Chiêm, nếu chỉ báo một mình Đông Giang tộc ứng chiến mà chiến thắng, triều đình có tin không ? Bọn họ cũng biết bản tộc đại khái có bao nhiêu người mà.

Quảng Tế Pháp sư gật gù nói :

- Phải đó. Bản tộc chỉ có chưa đến bốn nghìn người, đánh bại hơn vạn quân Chiêm thì khó tin quá.

Phạm Thế Căng lại thắc mắc :

- Triều đình chắc chắn sẽ chẳng ban thưởng gì đáng kể, chúng ta còn phải bày ra chuyện phiền phức như thế mà chi ?

Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Theo ngươi, khi chúng ta gửi thủ cấp của Chiêm tướng và báo cáo tình hình như thế, triều đình sẽ ứng phó thế nào ?

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói :

- Các quan trong triều hiện tại đều đang lo tranh quyền đoạt lợi. Nghe nói Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly trước khi xưng đế có họ Lê) làm phụ chính, có ý đồ thoán đoạt ngôi báu. Tình hình khẩn trương như thế, bọn họ còn tâm trí đâu mà lo việc ngoài biên ải.

Giang Phong nói :

- Khi đó, triều đình không lo thì người sẽ làm gì ?

Phạm Thế Căng ngơ ngác :

- Làm gì ư ? Thì trước giờ làm gì sẽ tiếp tục làm thế. Tiểu tướng nghĩ quân Chiêm khó mà kéo đại đội nhân mã sang lần nữa. Còn nếu chỉ là tiểu đội thì không sợ.

Giang Phong nói :

- Không nên như thế. Trong báo cáo gửi về triều, hãy vô hạn phóng đại mưu đồ của quân Chiêm, bảo rằng bọn chúng muốn sang đánh để trả thù lần thất bại trước. Nhưng chú ý là chỉ nên báo rằng bọn chúng chỉ định quấy nhiễu cướp phá vùng Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An mà thôi, không những không có ý định sang cướp phá kinh đô, mà còn cướp phá xong thì rút ngay về nước. Dù sao thì thực lực của chúng cũng không còn mạnh như trước nữa.

Tân Bình, Thuận Hóa chính là khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay. Còn Nghệ An xưa thì bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh (Hồ Quý Ly mới đổi thành Lâm An Trấn, nhưng quân dân vẫn quen gọi là Nghệ An). Phạm Thế Căng lắc đầu nói :

- Nếu báo cáo như thế, triều đình càng có lý do để bỏ mặc.

Giang Phong mỉm cười :

- Nếu trong triều không có ai chịu đứng ra ứng phó với quân Chiêm, ngươi hãy xin nhận quản lĩnh quân dân vùng Tân Bình, Thuận Hóa để chống giặc. Xứ đó xa xôi hẻo lánh, đất rộng người thưa, lại là đất Chiêm trước kia, trong mắt triều đình chẳng quan trọng gì mấy. Ngươi xin nhận thì triều đình sẽ đồng ý thôi. Còn chức Thiêm phán Kiềm Châu hãy giao lại cho Đống Cao.

Phạm Thế Căng nói :

- Nhận chức đó chỉ rước khổ về mình, có tiếng mà không có miếng. Vì thế mà trước giờ có ai chịu nhận đâu, toàn do quan lại Nghệ An kiêm quản. Mà quan lại Nghệ An cũng chẳng mấy khi ngó ngàng tới xứ đó.

Giang Phong nói :

- Thì cũng chính vì thế mà ngươi mới có cơ hội nhận được. Dù sao thì cũng là biên cương trọng thần nha. Hơn nữa, Kiềm Châu cũng chẳng khá hơn gì xứ đó. Quản một mình Kiềm Châu sao bằng quản cả Tân Bình, Thuận Hóa. Ngươi cứ nhận đi, rồi ta sẽ có an bài.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Đại nhân. Nghe nói Đại tri châu Hóa Châu là Đặng Tất rất được Lê Quý Ly tin dùng. Mấy năm trước vì tố cáo Phan Mãnh bất mãn Lê Quý Lý chuyên quyền mà được trọng dụng.

Nghe nhắc đến Đặng Tất, Giang Phong giật mình. Đặng Tất là cha của Đặng Dung đây mà. Về cuộc đời và sự nghiệp của Đặng Tất, có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo Giang Phong thì Đặng Tất là một người cơ hội và giỏi luồn lách. Nhà Trần còn thì theo nhà Trần, nhà Hồ lên thì theo nhà Hồ, nhà Minh sang thì theo nhà Minh, nhà Hậu Trần nổi lên thì lại theo nhà Hậu Trần, sau bị Giản Định Đế nhà Hậu Trần giết chết. Người xưa nói : Tôi trung không thờ hai chúa. Đặng Tất lại thờ đến bốn chúa, mà thờ chúa nào cũng đều được trọng dụng cả, không phải là người cơ hội và giỏi luồn lách thì là gì. Nếu không nhờ có Đặng Dung làm bài thơ Thuật Hoài, e rằng nhiều người còn chẳng biết đến Đặng Tất. Có một người như thế tồn tại ở xứ này, đối đại nghiệp của Giang Phong thật không có lợi. Sử dụng người như thế, Giang Phong cũng không yên tâm chút nào.

Ngẫm nghĩ giây lát, Giang Phong nói :

- Trước hết, hãy đại tứ tuyên dương Đặng Tất cầm quân bất lực, trấn giữ Hóa Châu mà để cho quân Chiêm đánh tới tận Nghệ An. Sau đó, cử người mật ước với Lê Quý Ly, bảo rằng chúng ta ủng hộ y, với điều kiện y phải ủng hộ chúng ta chống Chiêm Thành. Cứ nói rằng chúng ta có thù với Chiêm Thành, và bất mãn với bất kỳ kẻ nào phản đối chúng ta chống Chiêm Thành. Sau đó bảo Lê Quý Ly rằng Đặng Tất giỏi trị quân nhưng không giỏi cầm quân, làm tướng ở kinh thành thích hợp hơn trấn giữ biên cương. Tóm lại, vô hạn khoa trương rằng Đặng Tất không có khả năng ứng phó với quân Chiêm.

Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Sao chúng ta không vu cho Đặng Tất cấu kết với quân Chiêm, mưu đồ tạo phản ?

Giang Phong lắc đầu nói :

- Sự việc lần này tối đa có thể vu cho Đặng Tất thất chức mà thôi. Hơn nữa, gã ta rất được Lê Quý Ly tin dùng. Vu hãm gã, đối với chúng ta không hề có lợi.

Sự việc đã được quyết định, và chúng nhân phân nhau hành động. Riêng Giang Phong chỉ định quyết sách, không cần làm gì cả, chỉ ngồi yên chờ đợi kết quả.

Chương 7 : THÁNH SƠN

Thánh Sơn chỉ cách động Lễ Dương khoảng 5 dặm (2 kilômét), là nơi đầu tiên Giang Phong đặt chân đến xứ này. Và giờ đây, Thánh Sơn đã trở nên náo nhiệt hơn xưa, bởi nó không chỉ là nơi tế tự của Đông Giang tộc, mà đã trở thành đại bản doanh của Giang Phong. Sau khi giải quyết xong việc quân Chiêm, Giang Phong cảm thấy cần xây dựng lực lượng riêng cho mình, nên đã dời đến đây, đồng thời tuyển chọn hơn trăm thanh niên tài tuấn trong Đông Giang tộc theo hộ vệ. Lão Quảng Tế Pháp sư cũng dọn đến đây để làm Tổng quản cho Giang Phong. Lão này cho rằng đi theo Giang Phong sẽ có tương lai hơn ở lại Lễ Dương làm pháp sư. Hơn nữa, đi theo Giang Phong, lão có thể học được nhiều thứ.

Thánh Sơn đã được toàn thể tộc nhân Đông Giang tộc sửa sang lại. Hàng trăm gian đình viện, lầu các được dựng lên theo thiết kế của Giang Phong, chủ yếu dựa vào những hình ảnh mà Giang Phong đã từng xem trên phim ảnh. Giang Phong không xây dựng lâu đài tráng lệ (muốn xây dựng cũng không được, không có tiền a), mà chỉ dựng lên những tòa đình viện như những gian nhà lớn, nhưng thiết kế xinh xắn thanh nhã, và những tòa lâu các hai tầng không lớn lắm. Tất cả đều được dựng bằng gỗ có sẵn trong rừng. Những kiến trúc này, người Đông Giang tộc xây dựng rất dễ dàng nhanh chóng. Thêm vào đó là vô số hoa thơm cỏ lạ được trồng xung quanh. Thế là trên đỉnh Thánh Sơn đã xuất hiện một đại viên lâm tuyệt đẹp.

Trung tâm của đại viên lâm, khu vực lân cận thánh động, giờ đây là nơi ở của Giang Phong, được xem là cấm địa, chỉ những người thân cận với Giang Phong mới được vào. Những người còn lại chia nhau ở tại những khu vực quanh đó, phụ trách hộ vệ. Hộ vệ Giang Phong, hộ vệ thánh sơn, hộ vệ thánh động. Trong đó, hộ vệ Giang Phong là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất.

Mấy hôm nay, Giang Phong mải suy tính xem việc gì cần ưu tiên thực hiện trước. Muốn làm nên một phen sự nghiệp thì cần phải có thế lực của riêng mình. Mà muốn xây dựng thế lực, trước tiên và quan trọng hơn cả là phải có tiền. Không có tiền, muốn làm gì cũng không được. Binh sĩ không thể dùng tay không giết giặc, binh sĩ cũng không thể mang bụng đói ra chiến trường. Ít ra cũng phải đảm bảo được binh sĩ ăn no và có vũ khí tốt. Muốn thế thì phải có tiền. Mà Giang Phong lại không có tiền, à không, phải nói là không có nhiều tiền. Hiện tại Giang Phong cũng có được chút ít tài sản (từ chiến lợi phẩm), nhưng chỉ đủ Giang Phong sử dụng cho các hoạt động trên thánh sơn hiện tại, thành lập lực lượng quân sự thì không đủ sức.

Vậy, cần ưu tiên kiếm tiền, càng nhiều tiền càng tốt.

Nhưng làm sao để có thể kiếm được nhiều tiền. Giang Phong cố nhớ lại các nhân vật chính trong các truyện đã đọc làm gì sau khi xuyên việt. Chế tạo xi măng, cái này không khó lắm, nhưng với tình hình hiện tại, không có thị trường nha. Luyện thép, cái này … với điều kiện của xứ này, luyện ra thép, chế thành vũ khí chưa chắc đã ưu việt hơn vũ khí hiện tại của Đại Việt. Chế thuốc nổ, cái này chỉ cần biết ít nhiều về hóa học, tập trung một số thuật sĩ đương thời thì cũng có thể chế ra được; nhưng thuốc nổ thời này cũng không lạ gì, người Tàu đã sử dụng thuốc nổ hơn nghìn năm trước rồi. Chế súng ống đại bác, cái này … trừ người trong nghề, ngay cả các giáo sư còn chưa chắc chế được, đừng nói chi chỉ có ít kiến thức học được thời phổ thông như Giang Phong. Hơn nữa, trong số các con của Hồ Quý Ly có một vị vũ khí đại sư nha.

Làm gì đây ?

Giang Phong trong lúc đi dạo trên thánh sơn, vô tình nhớ đến lần đi nghỉ mát ở Đà Lạt, đi dạo trên phố núi, ngắm các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ. Phải nha. Đồ thủ công mỹ nghệ. Ở xứ rừng núi Kiềm Châu này, gỗ quý không hiếm, chỉ cần chút khéo tay cùng óc sáng tạo là có thể tạo ra những đồ mỹ nghệ đáng giá. Giang Phong không khéo tay, nhưng thủ hạ có người khéo tay. Còn óc sáng tạo, cho dù Giang Phong không sáng tạo được thứ gì đặc biệt thì chiếu phép mà làm, cứ làm theo những gì đã biết, vào thời này hẳn cũng sẽ là thứ mới lạ, và bán được giá cao, thu được nhiều tiền. Tóm lại, ở trên rừng, làm đồ mỹ nghệ cũng có thể kiếm được nhiều tiền.

Thế là, theo lệnh của Giang Phong, Quảng Tế Pháp sư chỉ huy thủ hạ tìm kiếm các loại gỗ quý, đặc biệt là gỗ đàn hương, một loại gỗ có thể tỏa ra hương thơm đến cả mấy thập kỷ, một số đặc biệt còn có hương thơm đến hàng thế kỷ sau. Với uy vọng của Giang Phong hiện tại, người Đông Giang tộc cũng tham gia giúp đỡ, và một số bộ tộc trong vùng nghe nói Giang Phong đang cần gỗ quý, cũng gửi ‘cống phẩm’ đến (lúc này, quà cho Giang Phong không gọi là ‘tặng phẩm’, mà gọi là ‘cống phẩm’, theo nghĩa cống hiến cho thần linh). Cả Cầm Công ở xứ Bồn Man cũng gửi đến một rương ‘thượng phẩm đàn hương mộc’.

Nhận lễ vật của Cầm Công, Giang Phong không khỏi ngạc nhiên, nhưng khi nghe Quảng Tế Pháp sư giải thích thì Giang Phong mới hiểu vị thế hiện tại của mình đối với các bộ tộc trong vùng.

Cầm Công là vua của xứ Bồn Man. Dân xứ này chủ yếu là người Thái, do nhà họ Cầm đời đời cai trị (giai đoạn các năm 1369 – 1478). Bồn Man là một xứ trải dài từ giáp giới xứ Nghệ, xứ Thanh ở phía đông, cho đến bờ sông Mé Khoảng (tên gọi của đoạn sông Mekong chảy qua Lào, giống như người Việt gọi đoạn sông Mekong chảy qua Việt Nam là Cửu Long Giang). Vị trí của Bồn Man xưa thuộc khu vực phía tây của tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa ngày nay, tức là tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Hủa Phăn (Lào). Xiêng Khoảng ở phía tây Nghệ An, Hủa Phăn ở tây bắc Nghệ An và phía tây Thanh Hóa. Sử gia thời phong kiến gọi đây là xứ Bồn Man nội thuộc (tức phụ thuộc Đại Việt). Ngày nay người ta xếp Bồn Man vào nhóm các vương quốc cổ của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cùng nhóm với Phù Nam, Chăm Pa. Phần lãnh thổ này chính thức thuộc về Đại Việt từ năm 1479 đến năm 1893. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh Houaphan (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao).

Vào khoảng năm 1369, sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát Vân Nam vào tay nhà Minh, các bộ tộc người Thái ở phía nam xứ Vân Nam nhân cơ hội giành lấy độc lập trong vùng lãnh thổ với phía tây và phía nam là vương quốc Lan Xang (Lào), phía đông và phía bắc là Đại Việt. Tiểu quốc này đóng đô ở Sầm Châu (ngày nay là thị xã Sầm Nưa), dân số ước 9 vạn hộ. Nhà họ Cầm tuy cai trị xứ này, nhưng đất rộng người thưa, thực lực yếu ớt, không đủ sức tự bảo vệ nên đã dâng đất cho Đại Việt để xin nội thuộc, giống như Mạc Cửu đã dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn (đất Hà Tiên thời Mạc Cửu bao gồm toàn bộ phần phía nam sông Tiền, phần quanh Hà Tiên do Mạc Cửu tự mở mang khai phá, vùng còn lại do vua Chân Lạp ‘nhượng’ cho, chúa Nguyễn đặt tên là Long Hồ dinh, sau này là 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh).

Đến năm 1478, Cầm Công của xứ Bồn Man đã liên kết với Lão Qua đem binh quấy nhiễu, cướp bóc ở khu vực phía tây Đại Việt. Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lệ chia quân làm 5 đạo từ Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa (vùng Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái) đi đánh dẹp. Quân đội Đại Việt đã đánh bại liên quân Bồn Man – Lão Qua, đồng thời đánh đuổi đến tận lưu vực sông Mekong giáp với Miến Điện. Sau khi Cầm Công bị giết, Lê Thánh Tông chính thức sát nhập xứ Bồn Man nội thuộc vào Đại Việt, đặt tên là xứ Trấn Ninh, giao cho một người họ hàng của Cầm Công là Cầm Động làm Tuyên úy đại sứ, nhưng việc quản lý thực sự vẫn do các quan Đại Việt sang cai trị.

Lúc cuối thời Trần, xứ Bồn Man vẫn còn cường thịnh, các đời Cầm Công cai quản một phần đất đai rộng lớn, được triều đình trọng thị, ban cho cao quan lộc hậu. Tương truyền, con gái họ Cầm đều xinh đẹp và có thuật giữ được tuổi thanh xuân lâu dài, nên được các vị vua và thái hậu sủng ái. Nghe nói vua nhà Minh cũng từng phái người xuống phía nam tìm con gái họ Cầm về lập làm phi; thời Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ Chu Lệ), Hương Phi của họ Cầm có địa vị ngang hàng với Ngọc Phi của Cao Ly (người nổi tiếng trong lịch sử vì sở thích ăn ngọc Cao Ly, mỗi tháng tiêu phí hơn 60 vạn lượng bạc chỉ để tìm ngọc Cao Ly về nấu thành cao mà ăn).

Tuy họ Cầm cường thịnh, quản hạt đến mấy vạn hộ, nhưng dân chúng ở rải rác trong một lãnh thổ rộng mênh mông, khó lòng tập họp lại được. Lực lượng quân sự thường trực của cả xứ Bồn Man bất quá chỉ vài nghìn người, đương nhiên không thể nào địch nổi một vạn quân tinh nhuệ Chiêm Thành. Do đó mà sau trận chiến vừa rồi, uy thế của Đông Giang tộc đã cao hơn cả nhà họ Cầm, trở thành đệ nhất đại tộc trong vùng. Và Giang Phong với thân phận tinh thần lãnh tụ của Đông Giang tộc, cũng đã trở thành tinh thần lãnh tụ của các tộc trong vùng. Các đại tộc, tiểu tộc đều không đồng ý để một mình Đông Giang tộc ‘cung phụng’ Giang Phong. Thần linh thì phải để mọi người cùng thờ phụng chứ. Tình hình như thế không ngờ lại hợp ý Giang Phong. Vì lợi ích của mình, Giang Phong không thể để nhà họ Phạm nhất gia độc đại.

Chương 8 : KIẾM TIỀN ĐẠI KẾ

Lại nói, cống vật của nhà họ Cầm khiến Giang Phong bất ngờ nhận ra địa vị lãnh tụ của mình đối với các tộc trong vùng. Trận chiến giữa Đông Giang tộc và quân Chiêm được vô số người truyền tụng, mà càng truyền thì lại càng xa sự thật, sự việc đã được khoa trương lên rất nhiều.

Sự thật thì chỉ có 2.000 dân binh (trong đó có 500 dân binh của Kiềm Châu) cùng khoảng 1.500 ‘dự bị dân binh’ của Đông Giang tộc, gồm cả già trẻ trai gái, chỉ trừ những trẻ con quá nhỏ và người già quá yếu không đi đứng nổi, còn lại toàn thể tộc nhân đều được động viên tham chiến. Đông Giang tộc chỉ có gần 4.000 tộc nhân mà đã có 3.000 người ra trận, thật ra đã dốc hết toàn lực. Đối thủ của bọn họ là 2.000 quân tinh nhuệ Chiêm Thành. Thế nhưng, nhờ việc tổ chức cực kỳ cẩn mật, chỉ trừ một số đầu lĩnh trong tộc, những người khác cũng chỉ biết phần việc của mình. Do đó, ngay cả đối với những người Đông Giang tộc trực tiếp tham chiến cũng nghĩ rằng : quân Chiêm rất đông, rất mạnh; cuộc chiến rất ác liệt; chúng ta chiến đấu rất gian khổ; quân Chiêm thương vong rất nhiều; sau cùng quân Chiêm phá vòng vây chạy thoát, quân ta truy sát đến tận xứ Tân Bình mới giết được tướng Chiêm.

Và khi tin tức truyền đi qua nhiều người, cuối cùng đã thành : hơn vạn quân Chiêm tấn công, Đông Giang tộc động viên toàn dân chống giặc; song phương ác chiến ở cách động Lễ Dương không xa, trận chiến cực kỳ thảm liệt; Đông Giang tộc dân binh anh dũng thiện chiến, 1 địch 10, sát tử quân Chiêm vô số; hơn nghìn quân Chiêm thọ thương bị bắt, hơn năm nghìn quân Chiêm bị giết, số tàn quân còn lại dưới sự chỉ huy của Chiêm tướng phá vòng vây mà chạy; Phạm Thế Căng tướng quân truy sát quân Chiêm đến tận xứ Tân Bình, chém được đầu Chiêm tướng.

Quan niệm quân Chiêm đông đến hơn vạn được tất cả mọi người chấp nhận rộng rãi, bởi vì Đông Giang tộc bắt được hơn nghìn quân Chiêm cũng đủ thấy việc giết hơn năm nghìn quân Chiêm là rất đáng tin. Vì số quân Chiêm này từng theo Chế Bồng Nga tấn công Thăng Long, tức là quân tinh nhuệ thiện chiến, không dễ gì đầu hàng. Hơn nữa, trận chiến rất ác liệt, số bị bắt kia đều vì thọ thương mà bị bắt, chứ không phải hàng binh. Thêm vào đó, quân Chiêm bị bắt hơn nghìn, bị giết hơn năm nghìn mà vẫn còn đủ sức phá vòng vây chạy thoát đến tận xứ Tân Bình, cho thấy quân số hơn vạn là rất hợp lý. Thậm chí có người cho rằng quân Chiêm còn đông hơn thế nữa. Và như vậy, thực lực của Đông Giang tộc được thổi phồng lên. Mà Đông Giang tộc nhờ có Giang Phong xuất hiện rồi mới trở nên ‘hùng mạnh’ như thế. Thành ra, địa vị của Giang Phong được vô hạn đề cao.

Cống phẩm của họ Cầm là một rương ‘thượng phẩm đàn hương mộc’. Giang Phong hoan hỉ lệnh Quảng Tế Pháp sư cất giữ cẩn thận, sau này có việc quan trọng cần dùng. Vì thời gian đầu chỉ mới thử tay nghề thủ hạ, nên Giang Phong chưa muốn dùng đến thứ vật liệu quý giá như thế. Ngoài ra còn có sừng tê, ngà voi, cẩm thạch, mã não, … là những đặc sản của rừng núi do các bộ tộc gửi đến. Những thứ này ở vùng kinh kỳ thì quý giá, chứ còn ở rừng núi thì không hiếm lắm. Rừng núi Đại Việt vốn nổi danh với sừng tê và ngà voi kia mà. Và Giang Phong đều cho thu cất, chờ lúc cần dùng đến.

Sau đó, Giang Phong vắt óc thiết kế các vật phẩm, rồi đích thân truyền đạt ý tưởng của mình cho những người thợ khéo tay được tuyển chọn, để bọn họ làm ra sản phẩm. Giang Phong phải đích thân truyền đạt ý tưởng, bởi Giang Phong không có năng khiếu vẽ vời, bản thiết kế khó nhìn quá. Cũng may mọi người đều cố gắng, nên cuối cùng hàng loạt sản phẩm cũng được tạo ra theo như ý muốn của Giang Phong. Những tòa nhà bằng gỗ theo phong cách các dân tộc, những tòa cung điện theo phong cách của người Kinh, người Hán; nhỏ cỡ nắm tay cũng có, mà cao hơn thước (1 thước = 0,4 mét) cũng có, và đều được điêu khắc tinh xảo. Những bức tượng nhỏ bằng gỗ, tinh xảo nhưng dễ thương, hình phi cầm điểu thú, hình 12 con giáp, và có cả hình người. Đáng chú ý nhất là những con vật trong các bộ phim hoạt hình được tạo ra theo ý Giang Phong trông rất đáng yêu (dù sao thì hậu thế cũng có hàng triệu người yêu thích nó kia mà). Những bộ tranh tứ quý, khắc hình ‘Mai Lan Cúc Trúc’, ‘Lý Ngư Vọng Nguyệt’ theo kiểu truyền thống, hoặc những hình vẽ sự tích mà Giang Phong nghĩ ra được, tóm lại là muôn hình vạn trạng. Đặc biệt, Giang Phong còn tạo nên một số món đồ chơi bằng gỗ của thời sau này, bảo đảm vào lúc bấy giờ sẽ là hàng mới lạ, độc đáo.

Nhìn những món đồ vật được tạo ra, Quảng Tế Pháp sư không ngớt tán thán Giang Phong thật là thần, cả những ‘bảo bối’ như thế này cũng tạo ra được. Những thứ này đáng giá biết bao nhiêu tiền a. Theo ý lão, những thứ ‘bảo bối’ như thế này, cả những nhà quyền quý trong kinh đô cũng chưa chắc có được. Quả thật, những sản phẩm này Giang Phong nhận thấy còn tinh xảo hơn cả những thứ hàng mỹ nghệ mà Giang Phong đã từng thấy trước đây. Tay nghề của cổ nhân thật đáng khâm phục.

Sản phẩm đã có rồi, nhưng lại phát sinh vấn đề khác khiến Giang Phong đau đầu. Quảng Tế Pháp sư nói :

- Chúng ta không có người thạo việc buôn bán a. Những thứ này ở Kiềm Châu sẽ chẳng bán được bao nhiêu tiền. Người ở đây đều nghèo quá. Phải đưa về kinh đô mới bán được giá.

Vấn đề này quan trọng không kém việc tạo ra sản phẩm. Không có người thì đành phải tìm người vậy. Giang Phong bảo :

- Tìm thương nhân. Miễn thạo việc buôn bán, Hoa, Việt, Chiêm đều được.

Thế là Quảng Tế Pháp sư lại phái người đi lùng sục các nơi. Trong lúc chờ đợi, Giang Phong chỉ đành tranh thủ chế thêm một số sản phẩm mới. Nhóm thợ lúc này đã đông đến 50 người, được tập trung về một khu gần chỗ Giang Phong ở, khẩn trương làm việc. Nhiệm vụ của bọn họ là dựa vào những hàng mẫu mà làm ra nhiều sản phẩm hơn nữa. Chỉ có 10 người khéo tay nhất là theo Giang Phong nghiên cứu, làm ra những sản phẩm đặc thù, độc đáo và có giá trị cao. Hiện tại bọn họ đang ra sức hoàn thành bộ tranh bách thú đồ, rộng 10 trượng (40 mét), cao 1 trượng (4 mét), gồm 100 bức tranh nhỏ ghép lại, bên trên khắc đủ 100 loài thú, được Giang Phong đặt tên là “Sơn lâm bách thú đồ”.

Mấy ngày sau, Quảng Tế Pháp sư đưa một người đến gặp Giang Phong. Nhìn người này thân thể xanh xao như vừa mang trọng bệnh, Giang Phong khẽ cau mày. Quảng Tế Pháp sư nói :

- Đại nhân. Gã này là Cát Ti (Cakti), là một trong số những tù nhân Chiêm Thành mà chúng ta bắt được lúc trước. Gã là người Chiêm, nhưng không phải là quân binh mà là thương nhân. Trước đây gã ta đã từng theo chủ nhân đi buôn bán khắp vùng Chiêm Thành, Chân Lạp, Chà Và (Java), Đại Việt, thậm chí sang cả bên Tàu và bên Thiên Trúc (nam Ấn Độ).

Giang Phong ngạc nhiên hỏi :

- Không phải là quân binh thì đến đây làm gì để đến nỗi bị bắt ?

Gã kia cung kính nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Chủ nhân phái tiểu nhân đi theo quân binh để có thể ưu tiên mua lại các chiến lợi phẩm, có ngờ đâu … Ai !

Thật sự trước đó cả song phương không ai tin rằng quân Chiêm sẽ thảm bại như thế. Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Ngươi có đồng ý theo làm việc cho ta không ?

Gã kia vội nói :

- Nếu được đại nhân tin tưởng, tiểu nhân nguyện sẽ cống hiến hết sức mình.

Gã ta cũng bị ảnh hưởng bởi những lời truyền tụng gần đây, nên đối Giang Phong rất cung kính, tình tự không hề bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt Chiêm – Việt. Theo gã, cũng như theo những người khác, thần linh (miễn sao không phải là ác thần) thì luôn phải được sùng kính tôn thờ. Theo quan điểm của mọi người, Giang Phong không phải là người ở nhân gian, nên đương nhiên cũng chẳng phải là người Chiêm, người Mường, người Thái hay người Kinh. Thần linh không bị giới hạn bởi quốc gia dân tộc, hễ linh thì được người ta thờ thôi.

Nghe gã nói thế, Giang Phong mỉm cười bảo :

- Thế ngươi cần phải làm sao đấy để được ta tin tưởng.

Gã ta vội nói :

- Dạ dạ. Tiểu nhân trước đây đã từng đi nhiều nơi, thông thạo nhiều thứ tiếng, tuy chưa từng chủ trì những cuộc buôn bán lớn, nhưng ít nhiều cũng có kinh nghiệm. Đại nhân giao việc, tiểu nhân sẽ hết sức hoàn thành.

Giang Phong hài lòng hỏi :

- Ta muốn thành lập một thương đoàn để đến các nơi phồn hoa bán đặc sản của thánh sơn. Ngươi có làm được không ?

Gã ta cung kính nói :

- Dạ dạ. Tiểu nhân sẽ hết lòng phụng sự đại nhân.

Thế là Giang Phong giao cho Quảng Tế Pháp sư cùng gã tổ chức một đoàn thương nhân cùng đến kinh đô (lúc này là Tây Đô ở Thanh Hóa) buôn bán. Thấy gã cũng lanh lợi, Giang Phong giao hết việc buôn bán cho gã. Quảng Tế Pháp sư chỉ phái người theo giám sát, cũng như bảo vệ tài vật.

Sau khi thương đoàn đi được ít lâu thì bọn Phạm Thế Căng đến. Cùng đi với gã có Phạm Thế Hưng và Phạm Đống Cao.

Chương 9 : THẾ CĂNG PHÓ NHẬM, TỔNG LĨNH NAM TRẤN

Lại nói, sau khi thương đoàn của gã Cát Ti đi được ít lâu thì bọn Phạm Thế Căng đến. Cùng đi với gã có Phạm Thế Hưng và Phạm Đống Cao. Gã ta bái kiến Giang Phong, rồi hoan hỉ nói :

- Tiểu tướng đến từ biệt đại nhân để vào nam nhậm chức. Triều đình đã phong cho tiểu tướng làm Nam trấn An phủ sứ, tổng quản việc quân chính các châu ở Tân Bình và Thuận Hóa để chống nhau với quân Chiêm. Triều đình còn hứa sẽ cung cấp quân lương cho 1 vạn quân binh để trấn giữ các châu. Nhưng quân binh phải do chúng ta tự chiêu mộ. Quân triều đình hiện tại đều sẽ theo Đặng Tất về kinh.

Quảng Tế Pháp sư ngạc nhiên hỏi :

- Tổng quản cả việc quân chính ư ? Lại còn cho tự chiêu mộ quân binh nữa. Triều đình yên tâm phóng quyền như thế hay sao ?

Thật ra thì dùng 1 vạn quân binh để chống quân Chiêm Thành là không nhiều. Nhà Hồ 2 lần đánh Chiêm Thành thì 1 lần sử dụng 15 vạn, chiếm được đất Thăng Hoa; lần thứ 2 sử dụng 20 vạn, tiến được đến đất Đồ Bàn, nhưng không chiếm được, hao binh tổn tướng phải rút về mà không làm nên công trạng gì. Do đó, Lê Quý Ly cấp cho 1 vạn suất quân lương chỉ là để mộ binh phòng thủ và có cơ hội thì quấy nhiễu quân Chiêm mà thôi. Nghe Quảng Tế Pháp sư hỏi vậy, Phạm Thế Hưng cười nói :

- Chúng ta vô hạn khoa trương thực lực của quân Chiêm, lại vô hạn tuyên truyền sự bất lực của quân triều đình. Xứ đó lại toàn dân Chiêm, chẳng có mấy người Việt, mỗi năm chẳng thu được bao nhiêu phú thuế mà lắm sự phát sinh, hao tốn rất nhiều lương tiền. Phía nam lại có quân Chiêm lăm le dòm ngó. Bên trong thì dân Chiêm thường xuyên nổi loạn, dẹp mãi không hết. Trong triều lại đang có nhiều việc, Lê Quý Ly muốn Đặng Tất kéo quân về triều để tăng cường thế lực của mình, tiện cho việc thoán đoạt sau này. Vì thế mà các xứ Tân Bình và Thuận Hóa được hợp lại thành Nam trấn, giao cho Thế Căng làm An phủ sứ với nhiệm vụ duy nhất là chống quân Chiêm.

Việc Lê Quý Ly muốn thoán đoạt ngôi báu của nhà Trần lúc này không ai lạ gì. Mọi người đều biết chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn mà thôi. Dù muốn hay không, mọi người đều phải chấp nhận sự thật đó. Những thế lực chống đối đều đã bị Lê Quý Ly tiêu diệt từ nhiều năm trước. Ngay cả tôn thất nhà Trần, nhiều người cũng tỏ ra thân thiện với Lê Quý Ly, như quan Tư Đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, người có uy vọng nhất trong các tôn thất lúc bấy giờ, lại cùng Lê Quý Ly làm thông gia. Thế cũng đủ biết nhà Trần hiện đã mất lòng dân lắm rồi, khó giữ được nữa. Đối với dân chúng lúc này, ai làm vua cũng vậy, miễn sao đừng ảnh hưởng đến cuộc sống của họ thì thôi. Phạm Thế Căng lại hứng khởi nói thêm :

- Sứ giả của chúng ta đến kinh đô, Lê Quý Ly có gọi vào hỏi riêng rằng chúng ta thấy họ Trần với họ Lê ai hơn. Sứ giả của chúng ta đáp rằng : chúng ta chỉ quan tâm việc đánh Chiêm Thành, hễ ai ủng hộ chúng ta chống quân Chiêm thì chúng ta không phản đối người đó. Kết quả tiểu tướng trở thành Nam trấn An phủ sứ, và có thêm 1 vạn suất quân lương.

Giang Phong khẽ mỉm cười. Bọn họ chỉ bảo là không phản đối chứ không nói ủng hộ, quả là lo nghĩ chu toàn, chưa gì đã tính đường lui rồi. Quảng Tế Pháp sư gật gù nói :

- Xem ra Lê Quý Ly không định chờ đợi lâu nữa rồi, do đó mới gọi Đặng Tất đem quân về kinh.

Đặng Tất về kinh chứ không làm Tri châu Hóa Châu nữa, xem ra bánh xe lịch sử đã chuyển hướng rồi. Giang Phong không ưa cái lối gió chiều nào ngả theo chiều đó của Đặng Tất, nên không muốn y ở lại Hóa Châu, vùng nội định thế lực của Giang Phong sau này. Giang Phong cần Hóa Châu (tức vùng Thừa Thiên - Huế ngày nay, một số nhà ngôn ngữ học cho rằng từ Huế là do từ Hóa đọc trại ra, cũng giống như Hoa và Huê) để làm bàn đạp kiểm soát đất Thăng Hoa (lúc ấy còn là đất Chiêm Động và Cổ Lụy của Chiêm Thành), mở mang thế lực của mình.

Đặng Tất là nhân vật gây nhiều tranh cãi. Dù nhiều người khen Đặng Tất là biết thẩm thời độ thế, nhưng cũng có người cho rằng họ Đặng ‘có hai nhân cách’, ‘có hai mặt’. Giang Phong không thích y, cũng không thấy y xứng đáng là tướng tài, bất quá chỉ là tướng giỏi mà thôi. Chỉ qua cách y cư xử với Giản Định Đế thì biết. Y giúp Giản Định Đế đánh chiếm được 4 châu, Giản Định Đế phong cho y thống lãnh 2 châu ở phía nam, tức là một nửa địa bàn của nhà Hậu Trần lúc bấy giờ rồi, lại còn gia phong Hạ Quốc Công, tước này cực lớn, chỉ ở dưới vua và Thượng Quốc Công, mà xưa nay chỉ có Hưng Đạo Đại Vương sau 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông mới được gia phong Thượng Quốc Công (Thượng, Hạ Quốc Công là một tước vị đặc biệt ở Đại Việt, chỉ ở dưới vua, trên cả tước vương; giống như tước Diễn Thánh Công bên Tàu thời nhà Thanh). Thế mà y bất mãn, cho rằng phong thưởng không hậu, giả ý đem quân về Hóa Châu, không giúp Giản Định Đế đánh quân Minh nữa. Tương truyền, y có nói với bộ hạ : “Cả 4 châu đều do ta chiếm được, thế có khác nào đất đai của ta đâu, vậy mà triều đình chỉ phong cho ta có 2 châu, thôi thì ta về giữ đất của ta”. Trước tình hình đó, Giản Định Đế buộc phải tăng thêm quyền lực cho (tước vị không thể tăng thêm nữa), được quyền điều quân không phải tâu vua. Cũng từ đó mà gây nên bất mãn dẫn đến họa sát thân sau này. Còn trước đó, năm 1391 (9 năm trước khi họ Hồ cướp ngôi nhà Trần), để lấy lòng Lê Quý Lý (sau khi xưng đế mới đổi sang họ Hồ), Đặng Tất đã tố cáo hai tướng trấn thủ Hóa Châu là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê có ý bất mãn về việc Quý Ly chuyên quyền và có ý thoán đoạt, nên được tin dùng và phong làm Đại tri châu Hóa Châu. Người như thế, tốt nhất là nên đưa đi khỏi Hóa Châu, để khỏi ảnh hưởng đến đại sự của Giang Phong.

Giang Phong hỏi :

- Đặng Tất được phong chức gì ?

Phạm Thế Căng nói :

- Gã được phong làm Đô tướng, coi quân Thần Vũ.

Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, hỏi :

- Hiện các châu ở Nam trấn do ai quản lĩnh ?

Phạm Thế Căng nói :

- Hóa Châu do Đặng Tất rời đi nên tạm khuyết, Thuận Châu do Nguyễn Phong làm trấn thủ, châu Minh Linh do Nguyễn Lỗ làm trấn thủ, châu Lâm Bình do Đào Duy Liêm làm Thiêm phán, châu Bố Chính do Dương Vũ làm tri châu, còn phủ Tân Bình thì do Lý Đức Tông làm trấn phủ sứ.

Giang Phong thoáng cau mày. Nghe nhắc đến Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ, Giang Phong lập tức có ấn tượng không tốt, nhưng lại không thể nhớ ra bọn họ là người thế nào. Nhưng nếu đã khiến Giang Phong có ấn tượng không tốt, chắc bọn họ cũng có vấn đề gì đó. Vì thế Giang Phong nói :

- Đề nghị Đặng Tất dẫn theo Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ về kinh, lấy lý do là hai người này có quan hệ thân cận với Nguyễn Đa Phương, để lại không tiện.

Nguyễn Đa Phương là đại tướng của nhà Trần, trước đây đã cùng Lê Quý Ly chống quân Chiêm. Quý Ly đánh thua, còn Đa Phương thì đánh thắng. Sau vì chê bai Quý Ly bất tài nên bị hại. Thật ra thì Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ bị các sử gia xem là kẻ phản trắc. Khi quân Chiêm tấn công Thăng Hoa, Đặng Tất chống cự không nổi, rút quân về Hóa Châu thì Nguyễn Phong đóng cửa thành không cho vào, còn Nguyễn Lỗ thì chặn đánh. Sau Nguyễn Phong bị Đặng Tất bắt giết đi, Nguyễn Lỗ bại trận chạy vào nam đầu hàng Chiêm Thành, được trọng dụng. Nhà Minh sang, sai người dụ hàng, hứa sẽ phong làm quan ở bên Tàu, Lỗ theo, bị giết đi. Giang Phong không nhớ rõ sự tích của hai người bọn họ, nhưng do có ấn tượng không tốt nên cũng không muốn dùng. Phạm Thế Căng không hiểu, hỏi :

- Cả hai đều là tướng giỏi. Sao lại gửi bọn họ về kinh ?

Giang Phong nói :

- Ta xem cả hai đều có phản tướng, dùng không có lợi.

Đó là lý do mà Khổng Minh Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Chí ưa dùng. Giang Phong lần này học theo, và bọn Phạm Thế Căng không nghi ngờ gì. Cả bọn còn cùng nhau nghĩ ra thêm nhiều lý do để đẩy hai người họ đi. Không ai muốn trong số thủ hạ có người có phản tướng cả. Tiếp đó, Giang Phong lại hỏi :

- Việc chiêu mộ quân binh, các ngươi định lẽ nào ?

Phạm Thế Căng nhăn nhó than :

- Xứ này đất rộng người thưa, mộ quân không dễ a !

Phạm Thế Hưng gật đầu nói :

- Đừng nói là 1 vạn, ngay cả 4, 5 nghìn cũng không đơn giản.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Ta không bảo các ngươi mộ 1 vạn quân binh. Xứ Tân Bình, Thuận Hóa đồng bằng nhỏ hẹp, toàn là đồi núi, nhiều nơi hiểm trở dễ thủ khó công, 3.000 quân là đủ rồi. Lấy 1.000 quân trấn giữ Hải Vân Quan, 500 quân trấn giữ đèo Ngang, số còn lại giữ trị an trong vùng.

Nếu chỉ lo phòng thủ thì như thế cũng tạm ổn. Thế là mọi người bàn bạc việc mộ quân, cuối cùng quyết định Phạm Thế Căng sẽ lấy 500 dân binh Kiềm Châu, 500 dân binh của Đông Giang tộc, 500 dân binh của các tộc trong vùng, ra Nghệ An mộ thêm 500 quân nữa. Số còn lại vào trong đó sẽ chiêu mộ dân bản địa. Có được quân lương, mộ hơn nghìn quân binh có lẽ cũng không khó lắm. Giang Phong còn dặn nếu có thể thì nên dùng cả người Chiêm, đừng nên kỳ thị.

Chương 10 : TƯ DUNG HÀNH DOANH (1)

Hóa Châu, cửa Tư Dung.

Ở vùng Thuận Hóa có một địa danh nổi tiếng : phá Tam Giang. Hệ thống phá Tam Giang gồm bốn đầm lớn nối nhau trải dài hơn 68 kilômét từ bắc xuống nam (tên gọi ngày nay lần lượt là : phá Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung - Thủy Tú và đầm Cầu Hai). Một dải đất dài gồm những đụn cát cao ngăn đầm với biển, có nơi cồn cát cao đến 20 mét, có hai cửa Tư Dung (nay gọi là cửa Tư Hiền) và Nhật Lệ (cửa của sông Hương) thông với biển. Phá Tam Giang tuy là đầm, nhưng vì thường xuyên có sóng lớn nên từ xưa đã có câu :

“Thương em anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.”

Lúc này, đã hai năm kể từ khi Giang Phong xuyên việt. Năm nay có hai sự kiện trọng đại xảy ra. Ở ngoài bắc, Lê Quý Ly cuối cùng cũng bỏ cháu ngoại là Kiến Tân hoàng đế (sử gọi Thiếu Đế) lúc này mới 5 tuổi, tự xưng làm vua mà thay ngôi nhà Trần. Sau khi xưng đế thì đổi sang họ Hồ và xưng quốc hiệu là Đại Ngu, cải niên hiệu là Thánh Nguyên. Sự kiện này mọi người đều biết sớm muộn gì cũng xảy ra, nên khi nhà Hồ thành lập, trong nước cũng không có biến động gì lớn, sự việc diễn ra cũng êm ả như khi nhà Trần thay ngôi nhà Lý vậy.

Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì nhận mình có thủy tổ là Hồ Công Mãn, dòng dõi vua Thuấn, nên đặt quốc hiệu Đại Ngu để kế tục Ngu Thuấn. Tuy nhiên, sử gia Trần Xuân Sinh cho rằng : Hồ Quý Ly đã nhận sai. Dòng dõi vua Thuấn chỉ có chi họ Diêu (tên thật của vua Thuấn là Diêu Trọng Hóa, làm vua nước Hữu Ngu, hiệu xưng Ngu Thuấn), và họ Quy chứ không có chi nào họ Hồ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Hồ Công Mãn là thủy tổ họ Trần chứ không phải họ Hồ. Vua Chu Vũ Vương sau khi diệt nhà Thương, tìm được Quy Mãn là dòng dõi vua Thuấn và phong cho làm vua nước Trần. Sau khi mất, Mãn được đặt thụy hiệu là Trần Hồ Công. Hồ Công là tước hiệu, các vua thời xưa thường được gọi bằng họ (hoặc tên nước) cùng với tước hiệu, như : Tề Hoàn Công, Sở Bá Vương, Chu Vũ Vương, … Từ Trần Hồ Công truyền các đời, tới Trần Thân Công, Trần Tương Công... Các vua nước Trần từ thời Tây Chu trở đi đều là dòng dõi Trần Hồ Công chứ không phải mang họ Hồ. Hồ Công Mãn tức là vị Hồ Công tên Mãn, cũng là một cách gọi thời xưa, giống như Chu Công Đán (Cơ Đán, tổ của nước Lỗ), Thiệu Công Thích (Cơ Thích, tổ nước Yên). Do đó Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ và nhận dòng dõi vua Thuấn chỉ là mượn danh dòng họ đế vương cổ xưa. Sau này nhà Minh sang đánh Đại Ngu cũng kể ra 1 trong 22 tội của Hồ Quý Ly là tự ý đổi từ họ Lê sang họ Hồ.

Còn sự kiện thứ hai xảy ra ở các xứ phía nam, và chỉ được các tộc xứ này chú ý đến mà thôi. Tuy vậy, về lâu dài, nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến đại cuộc. Giang Phong đã dời đại bản doanh từ Thánh sơn vào Hóa Châu, đóng ở bên cửa Tư Dung. Giang Phong chọn nơi này chứ không phải trị sở của Hóa Châu, vốn đặt ở khu vực phía nam sông Thạch Hãn cho đến phía bắc phá Tam Giang (thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị và huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế ngày nay), bởi vì nơi này nằm cạnh biển, không xa rừng núi, mà lại hẻo lánh, tiện giữ bí mật những gì mà Giang Phong không muốn nhiều người biết. Đặc biệt là nó cách vịnh Đà Nẵng không xa, chỉ hơn 20 kilômét. Là người thời hiện đại, Giang Phong thừa biết vị trí quan trọng của Đà Nẵng. Chỉ có điều, lúc này các xứ nằm ở phía nam đèo Hải Vân còn thuộc đất Chiêm Thành.

Đại bản doanh mới của Giang Phong, được gọi là Tư Dung hành doanh, có quy mô lớn hơn ở Thánh sơn nhiều, và nhân số cũng được vài nghìn người. Sau gần 2 năm tích góp, Giang Phong đã có được một lượng tài sản khá lớn, ước hơn 60 vạn lượng bạch ngân. Tuy rằng số này so với các phú hào phương bắc không thấm vào đâu, và chỉ bằng chi phí một tháng ăn ngọc Cao Ly của Ngọc phi trong cung nhà Minh. Nhưng so với tình hình Đại Việt lúc bấy giờ, đó đã là một con số cực lớn. Đương nhiên, hơn chín phần trong số đó là đến từ phương bắc. Các thương đoàn của Giang Phong, thông qua một số thương nhân người Hán đã đưa sản phẩm đến tận vùng Tô Hàng, và rất được quan lại phú hào ưa chuộng. Có điều, số bạc đó hiện không có ở Tư Dung hành doanh, mà đã được chuyển ra cất ở đảo Hải Tân (tên do Giang Phong đặt, tức đảo Cồn Cỏ ngày nay, giữa biển mà gọi là cồn thì hơi kỳ, nên Giang Phong không dùng tên thời hiện đại đặt cho nó). Đảo Hải Tân cách đất liền không quá xa, chỉ khoảng 30 kilômét, nhưng lại chẳng mấy người biết đến, và lúc này cũng chưa phải là lãnh thổ Đại Việt, do đó Giang Phong đã cho người ra chiếm lấy, kiến thiết thành căn cứ bí mật của mình. Ban đầu bọn Quảng Tế Pháp sư cũng chưa rõ bản ý của Giang Phong. Trong ý nghĩ của bọn họ đều cho rằng chiếm lấy nơi xa xôi ấy có ích lợi gì kia chứ. Nhưng kể từ năm ngoái, khi Hồ Quý Ly chế ra tiền giấy, cấm người Đại Việt sử dụng tiền đồng, ai vi phạm sẽ phải tội chém; thì Giang Phong đã cho chuyển toàn bộ tài sản của mình ra Hải Tân cất giữ. Đến lúc đó mọi người mới hiểu tác dụng của nơi đó. Các thương đoàn của Giang Phong thường xuyên giao dịch với người nước ngoài, trong đó chủ yếu vẫn là phương bắc, tiền giấy của Hồ Quý Ly không sử dụng được. Giang Phong cũng không thích tiền đồng, chỉ tích trữ hoàng kim và bạch ngân.

Lúc này đây, Giang Phong và các thủ hạ trọng yếu đều tập trung ở bến thuyền bên trong cửa Tư Dung, chờ đợi một sự kiện trọng đại. Mọi người đều chú ý nhìn ra cửa biển.

Sau một thời gian chờ đợi, trên mặt biển bắt đầu xuất hiện những bóng đen. Dần dần, ba chiếc hải thuyền khổng lồ xuất hiện trước mắt mọi người. Thấy bọn Quảng Tế Pháp sư đều lộ xuất vẻ chấn kinh, Giang Phong không khỏi mỉm cười. Trước giờ bọn họ nhìn thấy những thuyền lớn bất quá vài ba chục mét. Còn ba chiếc hải thuyền kia, chiếc nhỏ nhất cũng dài hơn 60 mét, còn chiếc lớn nhất dài đến gần 100 mét, rộng hơn 40 mét, hoàn toàn là một tòa lâu đài nổi trên mặt nước.

Để có được ba chiếc thuyền kia, Giang Phong đã phải đầu tư rất nhiều. Sau gần một năm cho người tiếp cận với các thủy sư đề đốc của Minh triều, dùng trọng kim hối lộ, cuối cùng cũng đã mua được vài chiếc thuyền ‘bị hư hỏng nặng, không thể sử dụng được nữa’. Thủy sư đề đốc ở Phúc Kiến lấy cớ nhiều năm giao chiến với Uy khấu làm cho một số chiến thuyền bị hư hỏng nặng, không thể sử dụng được nữa, phải thanh lý; và người của Giang Phong đã mua lại được với giá rẻ. Đương nhiên, đại lượng bạch ngân đã chảy vào túi của quan tướng thủy quân. Để hoàn thành vụ giao dịch, Giang Phong đã chi ra hơn 20 vạn lượng bạch ngân.

Chiếc thuyền lớn nhất được gọi là ‘lương thuyền’, chủ yếu dùng để chở vật tư, lương thực. Thuyền có 7 cột buồm, dài khoảng 95 mét (56 trượng Tàu), rộng khoảng 40 mét (24 trượng Tàu). Thuyền thứ hai gọi là ‘tọa thuyền’, là thuyền chở quân, có 6 cột buồm, dài khoảng 80 mét (48 trượng Tàu), rộng khoảng 32 mét (18 trượng 8 thước Tàu). Thuyền thứ ba gọi là ‘Phú Xuyên chiến thuyền’, là thuyền chiến, có 5 cột buồm, dài khoảng 60 mét (36 trượng Tàu), rộng khoảng 22 mét (13 trượng 2 thước Tàu).

(chú : trước thời Minh Gia Tĩnh, 1 trượng Tàu = 1,6666… mét; sau thời Minh Gia Tĩnh, chiều dài 1 trượng tăng đôi).

Ba chiếc thuyền cập bến, bắc phương thương đoàn quản sự Cát Ti cùng với thuyền trưởng và một số thành viên quan trọng của thương đoàn xuống thuyền, lên bến ra mắt Giang Phong. Vì bọn họ hoàn thành nhiệm vụ, Giang Phong khen ngợi và gia thưởng. Cát Ti được thăng làm Thương mại tổng quản, quản lý tất cả các thương đoàn dưới quyền Giang Phong. Y có năng lực, giao cho chức vụ đó cũng hợp lý.

Tiếp đó, Cát Ti báo cáo với Giang Phong những việc mắt thấy tai nghe trên đất bắc. Lúc này bên Tàu đang có loạn Tĩnh nạn. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vừa qua đời hồi 2 năm trước (trùng với năm Giang Phong đến đây); Hoàng thái tôn Chu Sùng Văn kế vị, niên hiệu Kiến Văn, và tiến hành tước phiên, nhằm làm giảm quyền lực của các phiên vương. Các phiên phương nam sức yếu, có người thuận tòng, về kinh làm thái bình vương gia; có người chống lại nhưng bị đánh bại, giết chết; cũng có người tự sát. Còn các phiên phương bắc thế lực hùng mạnh, nên đều chống lại; trong đó liên minh Yên Vương – Ninh Vương cử binh nam chinh. Hiện tại song phương đang tranh chiến rất kịch liệt ở vùng Sơn Đông. Nam kinh triều đình lúc này có phần mạnh hơn, đã mấy lần đánh bại Yên Vương Chu Lệ, nhưng vẫn không tiêu diệt được.

Giang Phong suy nghĩ một lúc, rồi cho bọn Cát Ti nghỉ ngơi. Ba chiếc thuyền được sai đưa đi sửa chữa, cải trang lại. Ý Giang Phong là muốn hình dáng bên ngoài của nó phải khác đi, để không tiết lộ bí mật. Giang Phong muốn nhân cơ hội bắc phương loạn lạc, Minh triều không rảnh quản việc phương nam, tranh thủ ‘mua’ thêm càng nhiều thuyền càng tốt.

Chương 11 : TƯ DUNG HÀNH DOANH (2)

Tư Dung hành doanh.

Tuy nằm ở nơi hẻo lánh, nhưng giờ đây, Tư Dung hành doanh gần như trở thành một tòa thành trấn. Sau khi dời đại bản doanh đến đây, không những số thủ hạ ở Thánh sơn cũng chuyển đến theo, mà Giang Phong còn cho người ra các xứ Thanh Hóa, Nghệ An chiêu mộ lưu dân và những người nghèo khổ vào đây sinh sống. Vì lấy danh nghĩa mộ dân vào khai phá các xứ Thuận Hóa, để tăng tỷ lệ dân Việt so với dân Chiêm, hoàn toàn phù hợp với chủ trương của triều đình xuyên suốt từ thời Lý đến giờ, nên công việc hoàn toàn thuận lợi, không gặp khó khăn gì. Một số nơi quan lại triều đình còn tạo điều kiện cho việc mộ dân, thậm chí còn hỗ trợ thuyền bè chuyên chở dân vào nam. Thật ra thì các quan chẳng mấy người muốn lưu dân ở lại địa bàn của mình cả, sợ gây bất ổn trị an trong vùng, nên đều muốn đẩy bọn họ đi càng xa càng tốt.

Mỗi hộ gia đình đến định cư đều được Giang Phong cấp cho 1 lượng bạc, 10 đấu gạo, nếu có trẻ con thì được hỗ trợ thêm. Do đó giờ đây Tư Dung hành doanh đã có hơn một nghìn hộ dân, đã có diện mạo của một tòa Đại trấn. Những người này đều trải qua quá trình tuyển chọn rất kỹ lưỡng, ít nhất cũng đảm bảo đều là ‘thuận dân’, tức sẽ không chống lại uy quyền của Giang Phong. Giang Phong không thu nạp hãn dân, bạo dân, nghịch dân, … (trong số di dân vào nam luôn có một bộ phận là tù nhân, bị đi đày), những kẻ có thể phá hoại sự ổn định của hành doanh. Ngoài ra, còn có hơn trăm hộ dân cũng được đưa ra định cư ở đảo Hải Tân, tham gia vào xưởng thủ công đặc biệt mà Giang Phong đã mở ra ở đó. Nhiều thứ hàng hóa có giá trị cao đã được bọn họ làm ra ở đấy. Đương nhiên, những người này đều được hưởng đãi ngộ cao hơn những người khác, và lòng trung thành cũng được đảm bảo.

Đi dạo dọc theo con đường chính trong hành doanh, quan sát quang cảnh phố xá cùng sinh hoạt của cư dân, Giang Phong gật đầu hài lòng. Phố thị được Giang Phong đích thân quy hoạch, đường xá rộng rãi, các khu phố vuông vức, chỉnh tề trật tự. Giang Phong còn ra lệnh phải giữ phố xá thật sạch sẽ, ai vi phạm sẽ bị trọng phạt. Do đó mà đường phố không giống như các thành trấn khác đương thời, khắp nơi đều rất sạch sẽ. Giang Phong rất bực bội với việc xả rác trên phố, bôi bẩn trên tường, …

Ở các hoa viên nằm xen lẫn giữa các dãy phố, trẻ con cùng nhau chơi đùa, người già thì tụ họp thành từng nhóm, hoặc chơi cờ, hoặc nói chuyện, … Mọi người khi thấy Giang Phong đều cung kính vái lạy. Đối với bọn họ, Giang Phong thật sự là thần.

Tất cả cư dân trong hành doanh đều làm việc cho Giang Phong, và được trả công rất hậu. So với cuộc sống trước đây, bọn họ hiện giờ sung túc hơn nhiều, nên trông ai nấy cũng đều rất vui vẻ yêu đời. Trong hành doanh có nhiều xưởng thủ công, chuyên sản xuất các mặt hàng thông thường, cung cấp hàng hóa cho các thương đoàn. Các thương đoàn này buôn bán khắp từ nam chí bắc, nam đến tận Chà Và, bắc đến tận Kim Lăng, mang lại rất nhiều tiền của cho Giang Phong. Các thương nhân trong thương đoàn do được chia lợi nhuận của mỗi chuyến đi, nên bọn họ đều trở thành những người giàu có. Các trang viện của bọn họ đều tập trung ở một khu vực, nhà cao cửa rộng, được cư dân gọi là ‘phú thương khu’. Đối với Giang Phong, sĩ nông công thương đều bình đẳng, chỉ phân biệt họ giúp ích được cho Giang Phong hay không mà thôi. Do vậy, tầng lớp giàu có ở đây bao gồm : những thủ hạ thân tín của Giang Phong, như bọn Quảng Tế Pháp sư; các phú thương và một số đặc cấp thợ thủ công (những người chủ trì xưởng thủ công ở đảo Hải Tân). Quảng Tế Pháp sư giờ đây rất giàu có, lão rất cao hứng vì trước đây đã lựa chọn đi theo Giang Phong. Lão cũng là người được Giang Phong tin tưởng nhất.

Thợ thủ công bình thường thì không giàu như thương nhân, nhưng cuộc sống cũng rất thoải mái sung túc, và con em bọn họ đều được cho học hành đầy đủ. Giang Phong cho mở trường, bắt buộc mọi gia đình đều phải cho trẻ con đến học, đương nhiên miễn phí hoàn toàn. Giang Phong không tiếc chút tiền bạc chi cho giáo dục. Thật ra cũng chỉ tốn công dựng mấy gian nhà lớn, tuyển một số người biết chữ ra làm giáo sư, cũng chẳng tốn kém bao nhiêu. Tối đa mười năm sau, những đứa trẻ đang đi học này đều sẽ trở thành thủ hạ đắc lực của Giang Phong. Thời này học hành cũng không có gì nhiều, chủ yếu biết chữ, biết tính toán, nếu biết làm thơ làm văn thì càng tốt. Việc đó cũng do Quảng Tế Pháp sư phụ trách. Lão không ưa Nho học (pháp sư mà), nên không dạy Nho học và tôn sùng Khổng tử. Theo ý lão, có Giang Phong ở đây, còn đi tôn kính ‘lão người Tàu’ đó làm gì. Trước chủ trương của lão, Giang Phong không có ý kiến gì. Thật ra dạy mọi người trung thành với Giang Phong thì thật quá tốt, quá hợp ý Giang Phong.

Nói đến giáo dục, cũng cần phải nhắc đến việc Giang Phong ‘sáng tạo’ chữ viết. Thật ra thì sau khi đến đây khoảng một năm, Giang Phong học chữ Hán cũng không tiến bộ là mấy, cứ hay quên nét (thời xưa chưa có chữ Hán giản thể, chữ rất nhiều nét). Quá bực bội, Giang Phong liền dạy những người xung quanh sử dụng chữ quốc ngữ là thứ chữ mà Giang Phong rất quen thuộc, để có thể đọc báo cáo dễ dàng hơn. Thứ chữ này chỉ có vài chục chữ cái, theo âm ký tự, đọc làm sao viết như thế, nên rất dễ học dễ nhớ. Bọn Quảng Tế Pháp sư học vài tháng là đã có thể đọc viết dễ dàng. Mọi người gọi thứ chữ đó là ‘Thiên tự’, tức là thứ chữ ở trên trời, bởi Giang Phong vẫn được xem là người trên thượng giới kia mà. Có điều, thời này mọi người quen sử dụng chữ Hán, nên trong ‘Thiên tự’ do Giang Phong ‘sáng tạo’ ra, chỉ có một ít là chữ thuần Việt, còn lại đại bộ phận đều là chữ Hán Việt. Nhưng dù sao thì thứ chữ này dễ học hơn chữ Nôm nhiều, đặc biệt là mọi người dân ai cũng có thể học, và thời gian học cũng sẽ không quá lâu.

Để đào tạo thủ hạ tương lai, Giang Phong đã đích thân biên soạn giáo trình cho trường học. Giang Phong không cần thủ hạ chỉ biết ngâm thơ vịnh xướng ca công tụng đức. Các môn được dạy trong trường gồm : Từ ngữ, Ngữ pháp, Viết văn. Sau khi biết viết chữ, viết câu rồi viết văn, sẽ học đến Toán pháp (dạy phép tính toán). Còn môn Đạo đức, chủ yếu dạy tôn kính và trung thành với Giang Phong, thì được dạy xuyên suốt thời gian học. Khi đã học xong các môn đó thì kể như tốt nghiệp Sơ học. Những môn này thường chỉ cần học 1 năm là xong, tối đa cũng chỉ 2 năm.

Sau khi tốt nghiệp Sơ học, học sinh sẽ lên học Trung học, và tùy năng khiếu mà sẽ được phân vào các phân khoa khác nhau, học các môn khác nhau. Ví dụ sau này làm thương nhân sẽ học về Hùng biện, Địa lý, Cao cấp toán pháp, Ngoại ngữ (tiếng Hán, tiếng Chiêm, tiếng Chà Và, …); làm thợ thủ công sẽ học Hình họa (thiết kế các vật phẩm), Công nghệ (học tập kinh nghiệm làm việc), sau đó sẽ đến xưởng thực tập, làm học đồ; … Những môn này cũng mới được dạy, cũng chưa biết mất bao nhiêu thời gian mới có thể học xong. Giang Phong còn có ý định mở trường Thái học, để đào tạo chuyên gia, nhưng giờ chưa phải lúc. Trung học vẫn chưa có ai tốt nghiệp kia mà.

Tóm lại, Tư Dung hành doanh đối với cư dân ở đây là xứ sở của hạnh phúc. Đối với mọi người, tương lai tràn đầy hy vọng.

Giang Phong vừa đi dạo vừa quan sát cuộc sống của dân chúng, thầm hài lòng. Quảng Tế Pháp sư đi bên cạnh giới thiệu, dáng vẻ hãnh diện thấy rõ. Chính sự ở đây đều do lão quản lý. Lão là người thân cận Giang Phong nhất, rất hiểu ý tứ của Giang Phong, nên quản lý hành doanh đâu vào đó, không xảy ra sự gì.

Giữa lúc đó, có hộ vệ thân tín đến báo :

- Đại nhân. Đào Anh về đến rồi ạ.

Giang Phong ngạc nhiên. Cả Quảng Tế Pháp sư cũng rất ngạc nhiên, buộc miệng nói :

- Chẳng lẽ mới đó mà đánh nhau xong rồi ư ?

Đào Anh là một trong số những người đã đi theo Giang Phong sớm nhất. Cha của gã tử trận trong lần đánh Chiêm Thành lúc trước, gã cùng mẹ được Giang Phong chọn lựa đưa đến Thánh sơn làm việc, và dần dần đã trở thành thân tín của Giang Phong. Mấy hôm trước, gã được Giang Phong phái đi theo quân đội của triều đình chinh phạt Chiêm Thành, lấy danh nghĩa là người của Phạm Thế Căng đi theo làm hướng đạo. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, chỉnh đốn triều đình xong, muốn giương uy với bách quan, nên nhân lúc vua Chiêm Thành là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại mới nối nghiệp, liền cử Đỗ Mãn làm Thủy quân Đô tướng, Trần Tùng làm Bộ quân Đô tướng, lĩnh 15 vạn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Quân triều đình mới đi qua Hóa Châu chưa được 10 ngày, sao lại quay về rồi. Có việc gì chăng ?

Chương 12 : TƯ DUNG HÀNH DOANH (3)

Lại nói, khi nghe báo Đào Anh đã trở về, bọn Giang Phong liền vội trở về Thái An Đại Viện, nơi Giang Phong ở và làm việc, nằm ngay chính giữa hành doanh. Giang Phong sống ở đó, ngay bên cạnh là khu trang viện của chúng thủ hạ, là trung tâm của cả hành doanh, được cư dân gọi là ‘quan lại khu’. Bọn Quảng Tế Pháp sư tuy chỉ là thủ hạ của Giang Phong, không phải quan chức của triều đình, nhưng trong mắt dân chúng không có gì phân biệt cả. Có khác chăng là bọn họ đối xử với dân chúng tốt hơn mà thôi.

Vào trong đại sảnh, thấy Đào Anh mãn diện phong trần, Giang Phong nói :

- Ngươi cũng không cần vất vả quá như thế. Ta chỉ phái ngươi đi theo nắm bắt tình hình thôi, không cần quá khẩn trương. Tin tức biết sớm hay muộn thì cũng vậy cả mà.

Đào Anh vội nói :

- Làm việc cho đại nhân. Thuộc hạ phải tận tâm tận lực.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Thôi được rồi. Chuyện thế nào ?

Đào Anh nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Trần Đô tướng dẫn quân đi đường núi vào đất Chiêm, nhưng đi cách thủy quân quá xa, hai bên không tiếp ứng được nhau, thành ra bộ quân thiếu lương, phải rút về.

Quảng Tế Pháp sư lắc đầu nói :

- Cơ hội tốt như thế, bỏ qua thật đáng tiếc.

Giang Phong nói :

- Quý Ly muốn giương uy với thiên hạ, bị gã làm hỏng việc, thế nào cũng tức giận. Gã Trần Tùng khó tránh khỏi trọng phạt, nhưng có lẽ không đến nỗi chém đầu.

Quảng Tế Pháp sư ngạc nhiên hỏi :

- Tại sao vậy ạ ?

Giang Phong nói :

- Tội của gã so với Đỗ Tử Bình trước kia còn nhẹ hơn nhiều, ít ra chỉ lỡ việc quân, không đến nỗi hao binh tổn tướng. Hơn nữa đang lúc cần dùng người.

Nói đoạn, Giang Phong bảo Đào Anh về nghỉ ngơi. Gã thật sự đã mệt mỏi lắm rồi. Giang Phong tỏ ra quan tâm thủ hạ như thế, khiến cho chúng thủ hạ cảm động vô cùng. Giang Phong không có khí thế ‘quân lâm thiên hạ’, đứng trên cao ‘phủ thị chúng sinh’, mà thái độ lúc nào cũng hòa nhã, chỉ cần không mất phần oai nghiêm là được. Có thể cách biệt quần chúng, nhưng không thể cách biệt thủ hạ. Đào Anh cáo lui rồi, Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Đại nhân có chủ ý gì không ạ ?

Giang Phong nói :

- Lúc này không có chiến tranh với Chiêm Thành là tốt nhất. Lý Ngân thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hồi đại nhân. Gã vẫn trấn thủ ở Hải Vân Quan. Nơi đó địa thế hiểm yếu. Chỉ cần đóng giữ 1.000 quân ở đó, tin chắc quân Chiêm dù kéo đến 10 vạn cũng không qua được.

Lý Ngân là tướng của Hóa Châu, được cử vào trấn giữ Hải Vân Quan, đúng ra gã ở dưới quyền quản hạt của Phạm Thế Căng, nhưng do nơi đây rất gần Hải Vân Quan, nên cuối cùng gã biến thành thuộc tướng của Giang Phong, trực tiếp nhận lệnh từ Tư Dung hành doanh. Ngay cả Phạm Thế Căng còn phải nghe lệnh Giang Phong, nên gã nhận thấy việc đó cũng bình thường, vui vẻ nhận mệnh. Hải Vân Quan có thể mệnh danh ‘Thiên hạ đệ nhất hùng quan’ đủ thấy địa thế hiểm yếu vô cùng. Giang Phong chưa từng đến đó, nhưng cũng biết nơi đó đường núi nhỏ hẹp, xe đi chẳng lọt, ngựa bước khó khăn. Vì thế mà đại quân nam chinh cứ phải dùng thuyền tải lương. Và gã Bộ quân Đô tướng Trần Tùng mới vì đi xa thủy quân, thiếu lương thực mà phải rút về, làm lỡ chiến cơ.

Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, nói :

- Mặt bộ thì ổn rồi. Chỉ lo mặt biển. Nếu quân Chiêm đi thuyền ra tập kích, có thể gây phiền phức cho chúng ta.

Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Ý đại nhân là chúng ta nên tổ chức thủy quân ?

Giang Phong nói :

- Bảo Cát Ti tăng cường liên hệ với bắc phương, tranh thủ ‘mua’ lại càng nhiều chiến thuyền càng tốt. Tối thiểu phải có được 10 chiếc chiến thuyền, tổ chức thành hạm đội phòng thủ mặt biển.

Quảng Tế Pháp sư nhớ đến các chiến thuyền khổng lồ nhìn thấy hôm trước, gật đầu lia lịa, nói :

- Vâng ạ. Có được hạm đội như thế, chúng ta có thể khống chế được mặt biển, uy hiếp thủy quân của Chiêm Thành.

Giang Phong khẽ mỉm cười, ý đồ của Giang Phong không chỉ có thế, nhưng nói ra lúc này thì quá sớm. Có lẽ phải một, hai năm nữa mới có thể tiến hành. Thời cơ chưa đến. Ngẫm nghĩ một hồi, Giang Phong lại nói :

- Còn hai việc nữa. Thứ nhất, bằng mọi cách tận khả năng thu gom lương thực, càng nhiều càng tốt. Ta muốn đến sang năm có thể tích trữ được tối thiểu 10 vạn thạch lương. Việc này giao cho các thương đoàn lo liệu.

Quảng Tế Pháp sư giật mình, hỏi :

- Đại nhân. Cần nhiều lương thực như thế làm gì ạ ? Ngay cả đại quân chinh phạt Chiêm Thành cũng chỉ dùng đến tối đa 5 vạn thạch lương.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Tạm trữ lại đấy, sau này có việc phải dùng. Còn việc thứ hai là chiêu mộ quân đội. Tối thiểu là 5.000 người. Nếu được 1 vạn thì càng tốt.

Quảng Tế Pháp sư cả kinh, nhưng thần sắc khôi phục rất nhanh, hưng phấn hỏi :

- Đại nhân định cử sự ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Cũng đã đến lúc rồi.

Quảng Tế Pháp sư lại hỏi :

- Nhưng 1 vạn có ít quá không ạ ?

Giang Phong nói :

- Không ít đâu, 1 vạn đủ rồi. Nhiều quá khó giữ bí mật. Còn sau này muốn tăng quân, chỉ cần có nhiều ngân lượng, muốn bao nhiêu cũng có.

Giang Phong không định đánh nhau với nhà Hồ, bởi Minh triều luôn lăm le dòm ngó phương nam, thay nhà Hồ rồi lại phải đứng giữa nơi nước sôi lửa bỏng hay sao. Ngay cả Hồ Quý Ly cũng biết sớm muộn gì Minh triều cũng đánh Đại Việt, nên vẫn đang khẩn trương tích trữ lương thảo, thu góp quân đội đấy thôi. Đánh Chiêm Thành chẳng qua là để luyện binh và lập uy mà thôi. Và Giang Phong cũng chưa định đánh Chiêm Thành, bởi lúc này có đánh được cũng khó giữ được. Quảng Tế Pháp sư hoan hỉ nói :

- Vâng ạ. Thuộc hạ sẽ bảo bọn nhỏ lo liệu ngay. Thuộc hạ chờ ngày này lâu lắm rồi.

Giang Phong cười nói :

- Vẫn còn sớm mà. Lúc này chỉ mới chuẩn bị.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, cáo lui, đi thu xếp mọi chuyện. Giang Phong gọi lại bảo thêm :

- Gọi Cát Ti và Triệu Phong đến đây.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, đi thu xếp mọi sự. Tất cả mệnh lệnh Giang Phong ban ra, lão đều chấp hành triệt để, xử lý rất nhanh. Mặc dù lão chỉ là người truyền lệnh, nhưng còn kiêm thêm giám sát việc thực hiện, bởi lão phụ trách quản lý lực lượng đặc biệt của Giang Phong, chuyên giám sát công việc, điều tra tin tức, do thám tình báo, … Lão là người theo Giang Phong sớm nhất, được Giang Phong tin tưởng nhất, nên ngoài việc quản lý chính sự còn kiêm quản thêm việc đó.

Hồi lâu sau, Quảng Tế Pháp sư dẫn theo Cát Ti và Triệu Phong đến nơi. Cát Ti là người Chiêm, từng theo chủ nhân là thương buôn đi buôn bán khắp nơi, sau bị bắt rồi theo Giang Phong, và trở thành đại thương nhân; giờ đây gã đã đem cả vợ con đến Tư Dung hành doanh sinh sống trong trang viện rộng lớn của mình. Còn Triệu Phong là hậu duệ của Triệu Trung, tướng nhà Tống sang Đại Việt xin tùng chinh khi nhà Tống bị nhà Nguyên diệt, đã từng theo Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, phá quân Toa Đô. Quảng Tế Pháp sư lại là người Mường. Trong số thủ hạ của Giang Phong, Việt Chiêm Hán Mường đều có cả, Giang Phong không kỳ thị ai.

Bảo mọi người an tọa, Giang Phong hỏi :

- Cát Ti, nếu muốn mua thêm chiến thuyền, có vấn đề gì không ?

Cát Ti ngẫm nghĩ một lúc, rồi đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Chiến thuyền thì muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng lương thuyền và tọa thuyền không có nhiều, muốn có thêm thì phải liên hệ với thủy sư ở mạn Sơn Đông, Giang Tô, phải mất nhiều công sức và thời gian hơn.

Giang Phong hỏi :

- Không có nhiều là được bao nhiêu, chi phí thế nào ?

Cát Ti nói :

- Hồi bẩm đại nhân, mỗi loại chỉ khoảng chục chiếc trở lại thôi. Giá rất rẻ. Lúc trước chúng ta tốn nhiều tiền là vì phải liên hệ làm quen, tạo lập quan hệ. Ngày nay song phương đã hợp tác rồi, nên giá cả rất rõ ràng. Chiến thuyền 1 vạn lượng bạc, tọa thuyền 2 vạn lượng, lương thuyền 3 vạn lượng. Nghe nói sắp tới còn có thể thanh lý một chiếc mã thuyền, có 8 cột buồm, dài 74 trượng Tàu, rộng 30 trượng Tàu, giá 5 vạn lượng.

Giang Phong nói :

- Tốt lắm. Có thể mua được bao nhiêu thì mua hết. Chúng ta cần. À. Các ngươi có đến Đông Doanh lần nào chưa ?

Cát Ti đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Thuộc hạ chỉ mới nghe nói đến, nhưng chưa đến đó lần nào. Nghe nói xứ đó còn nghèo khổ lắm.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Xứ đó vật chất còn thiếu thốn, nhưng đặc biệt đồng và vàng có rất nhiều. Ngươi có thể mang hương liệu, ngà voi, tơ lụa, trà sang đó đổi lấy vàng mang về.

Cát Ti ngập ngừng nói :

- Dạ. Bọn thuộc hạ không ai thông thạo tuyến đường đó, có lẽ cần phải tuyển thêm người.

Giang Phong đứng dậy, bảo :

- Các ngươi theo ta vào đây.

Nói đoạn đi vào trong hậu viện. Bọn Cát Ti, Quảng Tế Pháp sư, Triệu Phong tuy không hiểu có chuyện gì, nhưng cũng vội vã đi theo.

Chương 13 : ĐÔNG DƯƠNG HẢI ĐỒ

Lại nói, đi theo vào hậu viện, bọn Cát Ti, Quảng Tế Pháp sư, Triệu Phong đều không hiểu Giang Phong định cho bọn họ xem thứ gì, chứ nếu chỉ nói chuyện thì không nhất thiết phải vào hậu viện làm chi. Hậu viện, hay còn gọi là mật viện, là nơi Giang Phong làm việc, nơi sẽ đề ra những quyết sách trọng đại, cũng là nơi lưu giữ những tài liệu quan trọng nhất.

Vào trong hậu viện, cả ba đều nhìn bức địa đồ treo trên tường, chấn kinh không ít. Lần đầu tiên, bọn họ nhìn thấy một bức địa đồ rõ ràng đến thế. Trên địa đồ có đề : ‘Đông Dương Hải Đồ’.

Bức địa đồ này, Giang Phong đã dựa theo ký ức mà vẽ lại bản đồ khu vực Đông Á, trên từ Triều Tiên, Nhật Bản, dưới đến Mã Lai, Java, đông đến Phi Luật Tân, tây đến Xiêm La, Ai Lao. Mặc dù năng khiếu vẽ vời của Giang Phong không tốt lắm, nhưng so với năng lực vẽ bản đồ thời ấy cũng rõ ràng chi tiết hơn nhiều, chỉ có tỷ lệ là không được đảm bảo, chỉ có thể đại khái biểu thị phương hướng. Dù sao Giang Phong cũng chỉ vẽ lại theo ký ức kia mà.

Giang Phong chỉ bức địa đồ, nói :

- Đó là do ta vẽ lại theo ký ức, chỉ đại khái biểu thị phương hướng; còn khoảng cách, địa hình, phương vật cần các ngươi điều tra thêm.

Đoạn quay sang hỏi Cát Ti :

- Đảo Đài Loan ngoài khơi Phúc Kiến ngươi biết rõ chứ ?

Cát Ti cung kính nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Thuộc hạ thường đi qua đó, cũng khá rõ.

Giang Phong chỉ vào vị trí đảo Đài Loan trên bản đồ, nói :

- Từ đảo Đài Loan đi về phía đông bắc có một dãy đảo nhỏ, gọi là Lưu Cầu, nơi đó có vương quốc Lưu Cầu cai trị. Tiếp tục men theo nhóm đảo nhỏ này là đến Đông Doanh. Còn từ Đài Loan xuôi về phía nam cũng có 1 nhóm đảo nhỏ, men theo nó sẽ đến Lã Tống. Trước mắt, ta cần các ngươi khảo sát địa hình và cư dân của Lã Tống. Nghe nói nơi đó hiện giờ chưa có quốc gia, chỉ có các bộ lạc độc lập nhau.

(chú 1 : Lưu Cầu xưa là 1 vương quốc độc lập; năm 1872, Nhật Bản chiếm Lưu Cầu, biến thành 1 phiên của mình, gọi là phiên Okinawa, đến năm 1879 thì trở thành 1 tỉnh; sau chiến tranh thế giới thứ 2 trở thành vùng ủy trị của Mỹ, người Nhật muốn sang đó phải có visa; đến năm 1972 mới được sát nhập trở lại Nhật Bản).

(chú 2 : Lã Tống là đảo Luzong của Philippin, Luzong là phiên âm ra latinh của tên gọi Lã Tống, giống như Hongkong – Hương Cảng, Shanghai – Thượng Hải ở bên Tàu, Singoa – Thuận Hóa ở Việt Nam).

Cát Ti mắt nhìn bản đồ, ánh mắt sáng lên, hỏi :

- Ý đại nhân là chúng ta sẽ mở mang khai phá nơi đó.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Nơi đó tuy là đảo, nhưng trồng lương thực cũng rất tốt. Lại cách xa đất liền. Sắp tới chiến hỏa từ phương bắc sẽ lan đến phương nam, thiên hạ loạn lạc, đó sẽ là nơi phát triển tốt nhất.

Chỉ vào địa đồ, Giang Phong lại nói tiếp :

- Từ Lã Tống đi men theo các đảo về phía tây nam là Mã Lai, tiếp nữa là Chà Và. Giữa Mã Lai và Chà Và có một eo biển hẹp thông sang nam Thiên Trúc. Nếu có cơ hội, các ngươi điều tra khu vực này cho ta.

Cát Ti cung kính tuân mệnh, ánh mắt hướng về Giang Phong càng thêm sùng bái. Gã tin chắc rằng kể cả các thương nhân nhiều kinh nghiệm nhất cũng không thể biết rõ địa hình địa mạo như Giang Phong. Và rồi một ý niệm tự nhiên sản sinh : “đại nhân là thần linh, đại nhân không gì là không biết”. Từ đó, lòng sùng bái chuyển hóa thành sự trung thành.

Giang Phong bảo Cát Ti :

- Ngươi hãy lo tổ chức các thương đoàn, sớm tiến hành việc đó. Ta mong có kết quả thật sớm. Chúng ta chỉ có thể hành động khi công việc của ngươi hoàn thành.

Cát Ti thấy mình được giao nhiệm vụ quan trọng, lòng rất hứng khởi, vâng dạ lui ra. Còn lại Quảng Tế Pháp sư và Triệu Phong, Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Nhìn địa đồ, hai ngươi có cảm tưởng gì ?

Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Đại nhân. Ở Lã Tống, ngoài việc có thể trồng lương thực, còn có gì khác nữa không ạ ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Nhiều khoáng sản, nhiều gỗ quý, nhiều người. Một mảnh đất rất tốt để phát triển.

Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Đại nhân. Nhiệm vụ của bọn thuộc hạ là gì ạ ?

Nhìn Triệu Phong chỉ đứng yên lặng một bên, thái độ nghiêm trang, Giang Phong thầm hài lòng. Gã này dòng dõi tướng gia, bản tính cẩn trọng, ít nói, hành sự trung quy trung củ, rất hợp ý Giang Phong, do đó mới được cất nhắc làm thống lĩnh lực lượng quân sự của Tư Dung hành doanh. Dưới trướng Giang Phong hiện tại có ba lực lượng quân sự chính : ngoại quân, nội quân và cấm vệ quân. Ngoại quân là những lực lượng bảo vệ bên ngoài, như quân đội của Lý Ngân ở Hải Vân Quan, quân đội của Phạm Thế Căng ở Hóa Châu, quân đội của Phạm Đống Cao ở Kiềm Châu, …; tổng quân số ước khoảng 5.000 người. Nội quân là lực lượng bảo vệ Tư Dung hành doanh, nhân số chỉ có 500 người, do Triệu Phong thống lĩnh. Cấm vệ quân là lực lượng bảo vệ Giang Phong, nhân số chỉ có 100 người, là lực lượng tinh nhuệ nhất, do Đinh An Bình thống lĩnh; họ Đinh cũng có thân thế giống như Đào Anh, cha tử trận trong lần đánh nhau với quân Chiêm lúc trước, mẹ con theo Giang Phong đến Thánh sơn làm việc. Những người như Đào Anh, Đinh An Bình rất được Giang Phong trọng dụng. Với lực lượng quân sự như vậy, chỉ cần kiến thiết xong hải quân, với phía bắc là đèo Ngang, phía nam là đèo Hải Vân, Giang Phong tin chắc rằng có thể giữ vững được vùng này nếu tương lai xảy ra chiến tranh. Đương nhiên, điều kiện tiên quyết là phải tích trữ đầy đủ lương thực, vũ khí.

Giang Phong hỏi Triệu Phong :

- Ngươi có ý kiến gì không ?

Triệu Phong suy nghĩ một lúc, rồi nói :

- Có phải đại nhân muốn tiểu tướng huấn luyện sĩ binh để ra chiếm lĩnh các vùng đó ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Đúng lắm. Sắp tới nội quân sẽ tăng quân số, lấy từ ngoại quân sung vào nội quân. Sau đó Quảng Tế sẽ mộ binh ở miền ngoài vào bổ sung cho ngoại quân. Quân đội của chúng ta huấn luyện thường xuyên, lại hay lên rừng săn bắn mãnh thú, khả năng chiến đấu có thể tin tưởng được. Chỉ cần huấn luyện thêm về thủy tính là có thể xuất chinh. Trước mắt, ngươi hãy huấn luyện lực lượng hiện tại, để sau này có thể đảm nhiệm các cương vị hạ cấp quân quan.

Về quân chế thì nhà Trần không có số nhất định. Có những đạo quân thì lấy 5 người làm 1 ngũ, 5 ngũ làm 1 đô, 30 đô làm 1 quân. Cũng có những đạo quân thì lấy 5 người làm 1 ngũ, 10 người làm 1 đô. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi thì cải quân chế, nam bắc phân ra làm 12 vệ, đông tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân thì có 30 đội, trung quân thì có 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Còn những cấm vệ, thì chỉ có 5 đội, có một người đại tướng thống lĩnh cả.

Giang Phong thấy cách tổ chức như thế phiền phức quá, nên cứ 10 người làm 1 đội, đặt đội trưởng; 10 đội làm 1 đoàn, đặt đoàn trưởng; 10 đoàn làm 1 vệ, đặt vệ úy; 10 vệ làm 1 sư, đặt hiệu úy. Từ vệ úy trở lên đều gọi là tướng quân. Tuy nhiên, hiện tại quân số ít, những đội quân 500 người cũng được xem là 1 vệ, đặt thiếu vệ úy. Tương tự, những đội quân 2, 3 nghìn người thì đặt thiếu hiệu úy thống lĩnh. Triệu Phong chính là thiếu vệ úy.

Quảng Tế Pháp sư thấy cả Triệu Phong cũng đã có việc để làm, vội hỏi :

- Đại nhân. Thế còn thuộc hạ sẽ làm gì ạ ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Ngươi có hai việc quan trọng để làm. Do đó mật ty cũng phải tăng nhân số. Thứ nhất, chú ý Hồ Nguyên Trừng, điều tra những kẻ thân cận với gã. Nghe nói gã này giỏi về hỏa dược và thiết kế các loại thần công đại pháo. Tiếp cận gã thì khó, nhưng tiếp cận đám thủ hạ của gã chắc sẽ dễ dàng hơn. Chủ yếu điều tra thân thế, gia đình của bọn họ. Thứ hai, cử người sang Tàu điều tra về những thợ đóng thuyền giỏi, đặc biệt là Thuyền trường ở Tuyền Châu. Cũng điều tra như đám thủ hạ của Hồ Nguyên Trừng. Nhân tiện chú ý động tĩnh ở những nơi đó.

Quảng Tế Pháp sư hỏi :

- Phải chăng đại nhân định chiêu mộ bọn họ về làm việc cho chúng ta ?

Giang Phong khẽ cười hỏi lại :

- Nếu như bọn họ không theo thì sao ?

Quảng Tế Pháp sư ngẫm nghĩ giây lát, rồi đáp :

- Vậy thì chúng ta phải chịu khó ‘thỉnh’ bọn họ vậy.

Giang Phong gật đầu nói :

- Bọn họ vẫn có thể vì nguyên do gì đó mà mất tích phải không nào ?

Quảng Tế Pháp sư gật đầu khen phải. Giang Phong lại nói :

- Bảo Thế Căng gửi thư về triều, lấy lý do thông thạo địa hình, xin lĩnh đạo Bộ quân nếu như triều đình định chinh phạt Chiêm Thành lần nữa.

Quảng Tế Pháp sư cau mày hỏi :

- Phạm tướng quân thế lực quá lớn rồi, lẽ nào triều đình chịu để cho cầm quân ?

Giang Phong mỉm cười nói :

- Không vấn đề gì đâu. Bởi ở vị trí đó không ai thích hợp hơn Thế Căng. Hơn nữa, đạo Bộ quân chỉ là phụ trợ, hoàn toàn phụ thuộc vào đạo thủy quân. Cứ xem tình hình của gã Trần Tùng thì biết.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ. Không còn việc gì nữa, lão cùng Triệu Phong cáo lui, đi lo việc của mình.

Chương 14 : THÁI HỌC VIỆN

Thiên Hải Hạm.

Đây là chiếc thuyền lớn nhất trong số các hải thuyền của Nam Dương Hạm đội, đồng thời cũng là chủ hạm. Thiên Hải Hạm nguyên bản là một chiếc ‘mã thuyền’ trong lực lượng Thủy sư của Minh triều đã được cải trang lại, có 8 cột buồm, 10 cánh buồm bằng mành vốn là đặc điểm của Thủy sư Minh triều đã được tháo xuống, thay bằng 10 cánh buồm vải. Hạm dài 74 trượng Tàu, rộng 30 trượng Tàu, tức dài khoảng 123 mét, rộng khoảng 50 mét, tải trọng ước gần vạn tấn. Để tăng cường oai lực, trên chiến hạm còn được trang bị 64 khẩu thần công, chiến đấu lực hơn hẳn Thủy sư đương thời, vì thế mới không dùng cách gọi Thủy sư mà gọi là Hạm đội.

Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư đang ở trên Thiên Hải Hạm, nghe đô đốc Đinh An Bình báo cáo về Hạm đội. Đinh An Bình nguyên là thống lĩnh Cấm vệ quân, sau khi thành lập Nam Dương Hạm đội đã được phong làm đô đốc.

Nhờ sự nỗ lực của bọn Cát Ti, Nam Dương Hạm đội hiện tại đã có được 16 chiến hạm, gồm 1 mã thuyền, 2 lương thuyền, 4 tọa thuyền và 9 chiến thuyền, đủ năng lực bảo vệ vùng biển ngoài khơi Nam trấn, thậm chí còn có thể phái một phần Hạm đội đi xa, thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt mà Giang Phong giao cho.

Nghe báo cáo xong, Giang Phong hài lòng khen ngợi mấy câu, sau đó chú ý quan sát cảnh quan trên biển. Quảng Tế Pháp sư không phải lần đầu xuất hải, nên chỉ đặc biệt cao hứng chứ không hề bị say sóng. Do lão phải quản lý luôn các công việc ở đảo Hải Tân, nên vẫn phải thường xuyên xuất hải. Lão chỉ về phía trước, nói :

- Đại nhân, phía trước là đảo Hải Tân, gần đến nơi rồi.

Giang Phong cũng đã nhìn thấy phía trước có hình bóng mờ mờ của đất liền. Đảo Hải Tân lúc này rộng hơn 4 kilômét vuông, cũng là một hòn đảo lớn trong khu vực (đến nay chỉ còn lại khoảng 2,2 kilômét vuông). Sau một lúc nữa thì hòn đảo đã hiện ra trước mắt. Trên đảo địa hình tương đối bằng phẳng, có nhiều cây xanh mọc rậm rạp thành rừng. Cũng may trên đảo có suối, cũng có thể đào được giếng lấy nước ngọt, nên con người có thể ở được. Nơi này mấy trăm năm trước đã có người Chiêm đến sinh sống, nhưng từ khi các châu Ô, Lý được cắt cho Đại Việt, dân Chiêm bỏ vào nam nên hòn đảo đã bị bỏ hoang cho đến khi bọn Giang Phong khai thác.

Chiến hạm cập vào bến cảng, bọn Giang Phong lên bờ, đi sâu vào trong đảo. Các công trình nơi đây được Giang Phong tự tay quy hoạch, nên tuy chỉ mới đến lần đầu, nhưng Giang Phong cũng chẳng thấy lạ gì. Từ ngoài bến có một con đường rộng lát đá dẫn thẳng vào trung tâm đảo. Ngay đầu đường, bên cạnh bến cảng là vọng gác. Đi theo con đường lát đá, cách bến vài trăm mét là khu sản xuất, với một bên là các Công xưởng, phía bên kia là dãy nhà kho.

Trung tâm đảo là khu dân cư. Dân số của đảo hiện tại chỉ hơn 500 người, gồm những thợ giỏi làm việc ở Công xưởng và các thuật sĩ nghiên cứu ở Thái học viện phía bên kia, cùng với gia đình của họ. Tuy cách xa đất liền, nhưng các thương thuyền, chiến thuyền ghé vào thường xuyên, trên đảo lại có đầy đủ các phương tiện phục vụ sinh hoạt nên cuộc sống bọn họ không hề đơn điệu. Trên đảo còn có cả trường học, tửu lâu, một khu giải trí phục vụ cả trẻ con và người lớn.

Bọn Giang Phong dừng lại ở khu trung tâm một lúc, Giang Phong ghé thăm các hộ gia đình ở đây, sau đó mới theo con đường chính của đảo mà đến Thái học viện ở phía bên kia. Thái học viện nằm cách biệt với khu dân cư, ở vị trí yên tĩnh, giữa rừng cây râm mát. Cách đó không xa còn có một bãi biển đẹp.

Thái học viện là nơi dạy các kiến thức bậc cao, đồng thời cũng là viện nghiên cứu. Quảng Tế Pháp sư theo lệnh Giang Phong lùng tìm khắp nơi, cả ở Đại Việt lẫn Minh triều, Chiêm Thành, Chân Lạp, Chà Và, … tốn rất nhiều công sức mới ‘thỉnh’ được vài chục thuật sĩ đến đây nghiên cứu. Giang Phong biết rất rõ tầm quan trọng của kỹ thuật, nên không hề tiếc tiền cho việc này.

Thái học viện là một khu vực gồm hàng chục dãy nhà lớn nhỏ, gồm cả nhà ở, đình viện, lâu các, thậm chí có cả một tòa tiểu cung điện. Tuy không thể so sánh với Hoàng cung ở Thăng Long, nhưng Quảng Tế Pháp sư từng nói rằng, so với Hoàng cung ở Tây Đô (Thanh Hóa) cũng không kém mấy. Thái học viện chỉ mới được xây dựng, nên vẫn còn thơm mùi gỗ mới. Mấy chục thuật sĩ đang bận rộn thu xếp nơi làm việc của mình ở đây. Còn nơi ở của bọn họ và gia đình đều ở khu dân cư tại trung tâm đảo. Thời bấy giờ, việc nghiên cứu không hề được coi trọng, phần lớn nghiên cứu của các thuật sĩ được ngoại giới xem như là việc luyện đan của đạo sĩ, mà mục đích ban đầu của các thuật sĩ cũng là phục vụ cho việc luyện đan. Thuật sĩ là một danh từ thời xưa dùng để chỉ những người nghiên cứu về vật chất, vật liệu, cũng có thể xem là các nhà hóa học cổ đại của phương đông, giống như các nhà giả kim thuật của phương tây vậy. Công việc của thuật sĩ lại rất tốn kém, nếu không được tư trợ thì cuộc sống cực kỳ khó khăn. Do đó mà phần lớn những thuật sĩ đến đây đều cam tâm tình nguyện.

Thấy Giang Phong đến, bọn họ đều dừng tay, chạy ra nghênh đón. Tất cả đều đã được Quảng Tế Pháp sư ‘tẩy não’, nên đối Giang Phong tôn kính như thần. Trong số những kẻ được ‘thỉnh’ đến, chỉ có vài người kém khai minh (hay nói kém văn hoa là cứng đầu), Quảng Tế Pháp sư đã xử lý rồi. Giang Phong đã từng nhiều lần căn dặn lão, các nghiên cứu ở Thái học viện là tuyệt mật, do đó mà lão rất cẩn thận trong việc chọn người.

Hôm nay Giang Phong ra đây là để khai trương Thái học viện, đồng thời khai giảng khóa đầu tiên, do Giang Phong thân tự giảng dạy, học viên đương nhiên là chúng thuật sĩ. Giang Phong không thể giảng dạy những gì quá cao siêu, nhưng dạy lại những kiến thức lý, hóa thời phổ thông còn nhớ được cũng tạm đủ dùng, cũng đủ khiến chúng thuật sĩ hưng phấn vô cùng.

Đương nhiên, các kiến thức đó đều đã được Giang Phong sửa đổi lại cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Chẳng hạn như Giang Phong vẫn sử dụng phương pháp ghi công thức hóa học, nhưng ký hiệu hóa học phải thay đổi cho phù hợp, chứ gọi vàng là Au, sắt là Fe, … Giang Phong cũng không biết phải giải thích thế nào. Tiếng latinh vàng là aurit, sắt là ferit, nên mới có ký hiệu như vậy. Nhưng ở đây là phương đông, là Đại Việt. Giang Phong đã cải lại cho dễ hiểu hơn : Hoàng kim (vàng) là Hk, Thiết (sắt) là Thi, Bạch ngân (bạc) là Ba, Than (cacbon) là Tha, … Thời này người ta cũng chỉ mới biết được vài nguyên tố, nên cũng không phức tạp lắm.

Giang Phong cố công giảng dạy, chúng thuật sĩ hăng hái học hỏi, nên khóa học chỉ kéo dài hơn hai tháng là tốt nghiệp (Giang Phong không còn gì để dạy nữa, đành để cho bọn họ tốt nghiệp). Đến lúc này, bọn họ trong một số lĩnh vực còn thông thạo hơn cả Giang Phong, dù sao thì nghiên cứu cũng là chuyên môn của bọn họ mà. Giang Phong chia cả bọn thành ba nhóm nghiên cứu.

Một nhóm thử nghiệm quy trình sản xuất xi măng đơn giản mà Giang Phong còn nhớ được, dường như là nghiền đá vôi và đất sét, sau đó cho thêm ít quặng sắt, sấy khô rồi sử dụng. Giang Phong chỉ nhớ được như vậy, còn làm sao ra được sản phẩm thì cần bọn họ nghiên cứu. Cũng may vật liệu đều là thứ phổ biến, nên cũng không đến nỗi quá khó khăn. Thứ này người phương tây gọi là ciment, người Việt sau này phiên sang thành Xi măng, người Tàu gọi là thủy nê (tức bùn nước). Giang Phong sau một thời gian suy nghĩ lựa chọn, chợt liên tưởng đến một loại vật liệu cũng có nguồn gốc tương tự – thạch cao, nên đã đặt tên cho nó là thạch nê (tức bùn đá), tên này cũng phù hợp và được mọi người chấp nhận, bởi nguyên liệu chính của nó vốn là đá (đá vôi) và bùn (đất sét).

Nhóm thứ hai nghiên cứu luyện thép. Người xưa chế tạo ra thép bằng phương pháp bách luyện, tức là thợ rèn liên tục dùng búa đập vào thanh sắt được nung đỏ hàng trăm lần, cho đến khi nào cảm thấy đạt yêu cầu. Phương pháp này cực kỳ tốn công, lại rất khó, phải khống chế tốt cả tốc độ và lực độ, không phải ai cũng làm được. Muốn chế tạo một bộ Ngư Lân giáp, một người thợ giỏi cũng phải mất cả tháng, còn muốn làm ra được một thanh bảo kiếm, có khi phải mất hàng năm. Giang Phong chỉ nhớ được một phương pháp rất lạc hậu : nung chảy sắt thành chất lỏng, sau đó thổi luồng không khí nóng đi qua, nhiên liệu có thể dùng than đá, thứ này không hề hiếm (các phương pháp hiện đại sử dụng dầu hỏa làm nhiên liệu, thời này đành chịu không dùng được). Chúng thuật sĩ sẽ dựa vào quy trình đó, tìm ra phương pháp luyện thép tốt nhất.

Nhóm thứ ba nghiên cứu cải tiến thuốc nổ và súng thần công. Vấn đề này con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng vốn là đại sư, do đó trong nhóm thuật sĩ ở đây có một số vốn là thủ hạ đắc lực của Hồ Nguyên Trừng. Do quan niệm ‘sĩ nông công thương’, bọn họ chỉ là tam đẳng dân, chỉ được ‘dụng’ chứ không được ‘trọng’, hơn nữa họ Hồ vốn bị xem là ‘ngụy triều’, không đủ uy tín để người khác trung thành, vì thế bọn họ theo Giang Phong mà không bị chướng ngại tâm lý gì cả. Tin rằng bằng tay nghề của bọn họ cùng với các kiến thức hóa học của Giang Phong, bọn họ sẽ đạt được thành tựu khả quan.

Thái học viện, Giang Phong đặt vào đây rất nhiều hy vọng.

Chương 15 : BA NĂM SAU

Thánh Nguyên năm thứ nhất, tức năm canh thìn (1400), cuối năm, Quý Ly làm vua chưa được 1 năm thì bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, rồi làm Thái Thượng Hoàng. Quý Ly đã nhường ngôi rồi, nhưng việc gì cũng tự mình quyết đoán cả, Hán Thương chỉ làm vua lấy vì mà thôi.

Năm sau, cải nguyên, niên hiệu Thiệu Thành nguyên niên, tức năm tân tỵ (1401), chỉnh đốn võ bị, quân số tăng lên gấp mấy lần, lại đặt ra bốn kho chứa khí giới và bắt thợ giỏi trong dân gian vào làm việc. Sửa sang thủy quân, đóng thuyền lớn. Quân lực tăng, nhưng chi tiêu nhiều, thuế khóa nặng nề, lòng dân oán thán. Quý Ly còn nói với các quan : “Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc bắc”. Trong khi Đại Việt lúc đó chỉ có hơn 2 triệu dân, chẳng lẽ Quý Ly định lấy hết con trai Đại Việt, từ cả đứa trẻ mới sinh cho đến ông già sắp chết ra làm lính.

Cũng năm đó, Tư Dung hành doanh nội quân tăng lên 5.000 người, cấm vệ quân tăng lên 500.

Thiệu Thành năm thứ hai, tức năm nhâm ngọ (1402), Quý Ly sai Đỗ Mãn làm Thủy quân Đô tướng, Phạm Thế Căng làm Bộ quân Đô tướng, suất lĩnh 15 vạn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Chiêm vương là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ trị ở vùng Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam ngày nay) để xin bãi binh. Quý Ly lại bắt phải dâng đất Cổ Lụy (Quảng Ngãi), rồi phân đất ra làm châu Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu ấy, gọi chung là Thăng Hoa trấn. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.

Cùng năm, Tư Dung hành doanh nội quân tăng lên 1 vạn, cải thành Định Hải quân. Thủy quân thành lập, nhiệm vụ đầu tiên là vận chuyển 3 vạn thạch lương lên phương bắc.

Năm sau, cải nguyên, niên hiệu Khai Đại nguyên niên, tức năm quý mùi (1403), Quý Ly lại muốn lấy những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch, và Sa Ly Nha, tức là vùng phía nam những đất đã nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem thủy bộ cả thảy 20 vạn quân sang đánh Chiêm Thành. Theo lệnh Giang Phong, Phạm Thế Căng trước đó đã cáo bệnh, nên không phải đi. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ Bàn hơn một tháng mà đánh không nổi, lương thực hết cả, đành phải rút quân về. Lần này hao binh tổn tướng mà không có công trạng gì. Hơn nữa, quân Chiêm phản kích, Thăng Hoa An phủ sứ tử trận. Thăng Hoa nguy cấp. Quý Ly không cam tâm để mất Thăng Hoa, lệnh cho Phạm Thế Căng dù đang bệnh cũng phải vào kinh lý đất Thăng Hoa. Từ đó, Thăng Hoa sát nhập vào Nam trấn.

Tư Dung hành doanh. Thái An Đại Viện.

Giang Phong đang nghe chúng thủ hạ báo cáo. Mọi người thần sắc nghiêm trang. Năm năm kể từ khi Giang Phong giáng lâm, sau năm năm chuẩn bị, giờ cũng đã đến lúc cử sự. Nam Dương Hạm đội đô đốc Đinh An Bình bẩm báo :

- Hồi bẩm đại nhân. Hạm đội đã sẵn sàng. Lần này xuất chinh có tổng cộng mã thuyền 2, lương thuyền 5, tọa thuyền 15 và chiến thuyền 20. Có thể vận chuyển được 1 vạn 5 nghìn người, lương thực đủ dùng 6 tháng, nước uống 1 tháng.

Định Hải tướng quân Triệu Phong bẩm báo :

- Hồi bẩm đại nhân. 1 vạn Định Hải quân đã sẵn sàng.

Quảng Tế Pháp sư bẩm báo :

- Hồi bẩm đại nhân. Lương thực đã tích trữ được 12 vạn thạch. Đủ cho Định Hải quân dùng trong hơn chục năm. Vũ khí cũng được tích trữ đầy 2 kho, đủ cung cấp cho 10 vạn quân. Năm nghìn dân phu cũng đã sẵn sàng.

Thương mại Tổng quản Cát Ti bẩm báo :

- Hồi bẩm đại nhân. Hướng đạo đã sẵn sàng.

Giang Phong hài lòng nói :

- Tốt. Tất cả chuẩn bị, đến giờ lập tức khởi trình.

Chúng nhân đồng cung thân nói :

- Dạ.

Rồi Đinh An Bình và Triệu Phong lập tức đi đến quân doanh, chuẩn bị cho quân sĩ xuống thuyền. Quảng Tế Pháp sư thì đi điều động dân phu. Cát Ti thì đi triệu tập số thương nhân đi theo làm hướng đạo. Mấy năm trước, Giang Phong đã bảo Cát Ti phái thương đoàn đến vùng Lã Tống thám thính tình hình, điều tra phong thổ nhân tình, vẽ lại địa đồ. Nay đã đến lúc dùng đến.

Lát sau, Quảng Tế Pháp sư quay vào, bẩm báo :

- Đại nhân. Phạm Thế Căng tướng quân xin bái kiến.

Giang Phong gật đầu bảo :

- Cho vào đi.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, lui ra, lát sau dẫn Phạm Thế Căng vào. Sau khi hành lễ xong, Giang Phong hỏi :

- Ngươi đến đây có chuyện gì thế ?

Phạm Thế Căng cung kính nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Triều đình cuối cùng cũng giao đất Thăng Hoa cho thuộc hạ rồi.

Giang Phong nói :

- Tất nhiên phải thế rồi. Có ai thích hợp hơn ngươi đâu. Ta nghĩ rằng các quan trong triều chẳng ai muốn đến Thăng Hoa cả.

Phạm Thế Căng nói :

- Đúng thế đấy ạ. Chỉ có Đặng Tất là chịu đi. Nhưng y đang luyện quân ở Đồn Sơn, không bỏ đi được. Triều đình nhất thời cũng không chuẩn bị đủ lương thảo cho đại quân, nên đành giao cho thuộc hạ tự lo lấy.

Hiện tại nhà Hồ chỉ có hai danh tướng là Đỗ Mãn và Phạm Thế Căng. Trong ba cuộc chiến tranh từ khi nhà Hồ thành lập đến giờ, Đỗ Mãn tham dự cả ba, Phạm Thế Căng chỉ tham dự một lần. Nhưng đó lại là lần duy nhất đại thắng, chiếm được đất Thăng Hoa. Còn hai lần kia đều hao quân tổn tướng, chẳng nên công trạng gì. Do đó Phạm Thế Căng tự nhiên trở thành đệ nhất danh tướng của triều đình, thanh vọng còn cao hơn cả Đỗ Mãn. Chỉ có điều, Phạm Thế Căng là người Mường, Quý Ly không tin tưởng, nên không thể về triều mà phải trấn giữ biên cương. Đương nhiên, đã là đệ nhất danh tướng thì cũng sẽ là phong cương đại lại. Vùng Nam trấn triều đình đã ủy thác cho Phạm Thế Căng toàn quyền liệu lý, lo việc phòng ngự quân Chiêm, giữ yên mặt nam cho triều đình rảnh tay phòng ngự mặt bắc. Thật ra thì nếu không giao cho Phạm Thế Căng, triều đình sẽ buộc phải phân binh (quân của Phạm Thế Căng là tư quân, lại chủ yếu là người Mường, quan tướng triều đình quản không được). Và nếu làm vậy thì phòng tuyến phía bắc sẽ yếu đi, đó là điều mà Quý Ly tối kỵ. Y vẫn luôn đề phòng Minh triều. Mối họa phương bắc lớn hơn mối họa phương nam nhiều.

Quảng Tế Pháp sư tán thán :

- Đại nhân liệu việc như thần. À quên, thuộc hạ thật hồ đồ, đại nhân vốn là thần rồi mà. Đại nhân liệu việc quả không sai. Chỉ cần Thăng Hoa An phủ sứ tử trận, quân Chiêm áp cảnh là triều đình phải giao đất Thăng Hoa cho Phạm tướng quân ngay.

Phạm Thế Căng cũng ca tụng :

- Pháp sư đại nhân cũng lợi hại thật đấy, ám sát được gã đó. Hừ, cái xứ Thăng Hoa hẻo lánh đầy nguy cơ đó mà gã vẫn nhất quyết giữ chặt không buông.

Thật ra thì do không thôn tính được Thăng Hoa, bọn Giang Phong mới lập kế hoạch bí mật phái người quấy nhiễu đất Chiêm, dẫn một số toán quân Chiêm áp sát Thăng Hoa, sau đó phái sát thủ ám sát Thăng Hoa An phủ sứ. Tạo nên giả tượng là Thăng Hoa nguy cấp. Nhiệm vụ của Phạm Thế Căng lúc này là vào đánh đuổi mấy toán quân Chiêm kia, kiểm soát hoàn toàn đất Thăng Hoa.

Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi nói :

- Tìm cơ hội bí mật hòa giải với Chiêm Thành, có thể tạm trao trả cho bọn họ hai châu ở Cổ Lụy.

Phạm Thế Căng ngạc nhiên hỏi :

- Đại nhân. Tại sao lại phải hòa giải với Chiêm Thành và trả đất cho bọn họ ?

Giang Phong nói :

- Tối đa 5 năm nữa, quân Minh sẽ sang đây. Hiện tại Quý Ly vẫn đang lo xây dựng tuyến phòng ngự phía bắc đó thôi. Chẳng lẽ ngươi muốn khi quân Minh sang rồi lưỡng diện thọ địch hay sao.

Phạm Thế Căng sắc diện trầm trọng, thở dài nói :

- Đại nhân nói phải. Để đối phó với quân Minh, chúng ta đành tạm thời hòa giải với Chiêm Thành thôi.

Quảng Tế Pháp sư nhắc nhở :

- Đại nhân đã bảo là phải bí mật hòa giải đó nha. Quý Ly tham đất Chiêm Thành, y không chịu nhường đất hòa giải đâu.

Các triều đại trước đây, mỗi khi muốn chống Bắc quân đều hòa hảo với Chiêm Thành. Nhà Lý đánh Chiêm Thành chỉ khi đã lo yên việc phương bắc rồi. Chỉ có Hồ Quý Ly trong khi chuẩn bị chống quân Minh thì lại đem quân đánh Chiêm Thành, quả là thất sách. Dù có chiếm được Thăng Hoa thì cũng chỉ là tạm chiếm, khi quân Minh kéo sang, quân Chiêm cũng bắc tiến, chiếm lại Thăng Hoa một cách dễ dàng, rồi kéo quân tấn công Hóa Châu. Thăng Hoa chẳng có mấy người Việt, làm sao giữ được. Giang Phong đương nhiên không muốn sự việc như thế diễn ra. Thà rằng học theo nhà Lý, nhà Trần tuần tự tiệm tiến, lấn dần dần. Trước mắt củng cố vùng Chiêm Động (Quảng Nam) trước đã, vùng Cổ Lụy (Quảng Ngãi) sẽ tính sau.

Phạm Thế Căng đi rồi, Giang Phong lại nhớ đến một việc quan trọng, bảo Quảng Tế Pháp sư :

- Phái người khẩn trương tìm kiếm các sách của tiền nhân, đặc biệt là các sách y học, toán pháp, binh thư, rồi đưa ra cất giữ ở Hải Tân. Không cần sợ hao tiền.

Đa số các sách cổ của người Việt thất truyền là do quân Minh mang về Tàu. Giang Phong không thể để chuyện đó diễn ra. Có điều, Giang Phong không quan tâm nhiều các sách thơ văn, pháp luật. Thu thập được thì tốt, không có cũng chẳng sao. Chủ yếu là giữ được binh thư, toán pháp, y học mà thôi. Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ, cẩn thận ghi nhớ. Mọi mệnh lệnh của Giang Phong, lão đều nguyên bản chấp hành.

Chương 16 : TIẾN QUÂN LÃ TỐNG

Lã Tống. Nguyên bản phải gọi là Lữ Tống, phiên âm sang Latinh là Luzong, người Việt quen gọi Lữ thành Lã, như Lữ Bố - Lã Bố.

Đó là một nhóm quần đảo, trong đó hòn đảo lớn nhất còn lớn hơn cả Đại Việt, nằm cách Đại Việt ước khoảng 1.400 kilômét (khoảng cách Đà Nẵng – Manila là 1.378 kilômét). Khoảng cách cũng không xa lắm. Các hải thuyền chỉ mất từ 7 đến 10 ngày là đến nơi, còn nếu thuận gió, thời gian sẽ có thể rút ngắn hơn.

Quần đảo Lã Tống chính là lãnh thổ của Philippine hiện nay. Philippine là một quốc gia không có lịch sử tiền thực dân. Trước khi Tây Ban Nha đến chiếm nơi này làm thuộc địa, Philippine chưa có một cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội thống nhất. Các đảo này có dân cư thưa thớt, với tổ chức chính trị lấy cơ sở là làng và họ hàng thân thuộc. Ngày nay người ta gọi kiểu tổ chức như thế là bộ lạc và thị tộc. Khi Tây Ban Nha đến, người bản địa tiếp cận với xã hội văn minh hơn, công việc của Tây Ban Nha ở Philippine tuy cũng là thực dân, nhưng có ý nghĩa khai hóa thực sự đối với dân bản địa. Sau khi Tây Ban Nha thất trận trước quân Mỹ vào năm 1898, thì Philippine trở thành thuộc địa, sau đó thành một Thịnh vương chung của Mỹ. Đến năm 1946 thì tách ra, tuyên bố độc lập.

(chú : mọi người vẫn hiểu lầm rằng Mỹ quốc có 50 bang, thật ra chỉ có 46 bang, còn lại Massachusetts, Virginia, Pennsylvania và Kentucky là Thịnh vượng chung; ngoài ra còn 2 Thịnh vượng chung ở hải ngoại nữa là Puerto Rico và Quần đảo Bắc Mariana. Trước đây Philippine cũng từng là 1 Thịnh vượng chung như thế. Quan hệ giữa Thịnh vượng chung với chính phủ Liên bang cũng giống như quan hệ giữa Anh và Úc. Thịnh vượng chung có thể tiến hành trưng cầu dân ý để lựa chọn 1 trong 3 tình trạng : trở thành 1 bang chính thức của Mỹ, duy trì tình trạng hiện tại, hoặc tuyên bố độc lập. Philippine trước đây đã lựa chọn độc lập. Puerto Rico đã nhiều lần trưng cầu dân ý nhưng kết quả vẫn là duy trì tình trạng hiện tại, và họ đang tiếp tục chuẩn bị trưng cầu dân ý để có thể trở thành 1 bang của Mỹ).

Nói tóm lại, Lã Tống lúc này đây vẫn còn là một vùng đất lạc hậu, dân chúng sống trong xã hội thị tộc và bộ lạc. Và Giang Phong quyết định đem văn minh đến với nơi này.

Dưới sự chỉ dẫn của hướng đạo đoàn, Hạm đội thuận lợi tiến đến bên bờ vịnh Mã Ni (tên Giang Phong đặt, tức vịnh Manila hiện nay). Vì quần đảo Lã Tống còn nổi danh là mỗi năm đều bị mấy cơn bão lớn đi qua, do đó Giang Phong đã chọn bờ vịnh Mã Ni để xây dựng thành thị, bởi nó là nơi an toàn nhất trên đảo. Suốt mấy trăm năm lịch sử, Manila chỉ bị tàn phá hồi Chiến tranh thế giới thứ hai, do bom đạn, đó là bằng chứng tốt nhất chứng minh vị trí ưu việt của nó.

Lúc này, Mã Ni có một khu dân cư nhỏ, do Vương quốc Chà Và (người Hán gọi là Trảo Oa, tiếng Latinh là Java) kiểm soát, dùng làm nơi tiếp tế cho các thương thuyền đến làm ăn buôn bán với Trung Hoa ở phía bắc. Nguyên Vương quốc Chà Và (Majapahit) lúc này đang nội chiến, giữa vua kiểm soát phía tây và anh rể kiểm soát phía đông (cuộc chiến kéo dài từ năm 1401 đến 1406, kết quả Tây Java thắng).

Khi thấy Hạm đội xuất hiện, thủ quân đều rất kinh hoàng, trên bờ hỗn loạn vô cùng, một số bắt đầu trở thành đào quân, lẩn trốn vào rừng. Toàn thể quân dân ở đây chỉ có vài nghìn, trong đó quân đội chưa đến 500, trong vịnh có một số chiến thuyền, là chiến thuyền chứ không phải chiến hạm, bởi chiếc lớn nhất cũng chỉ dài chưa đến 20 mét. Với lực lượng như thế, không thể nào chống cự nổi những đại chiến hạm của đối phương.

Giang Phong truyền lệnh các chiếm hạm cập vào bến, sau đó cho Định Hải quân đổ bộ lên bờ. Định Hải Tướng quân Triệu Phong cử 2.000 quân vào chiếm lấy khu dân cư, khống chế cư dân ở đó. Còn y đích thân chỉ huy đại đội sĩ binh truy sát thủ quân. Một vạn quân đội vũ khí tinh lương truy sát chưa đến 500 địch quân, hoàn toàn không có gì khó khăn. Giang Phong cũng không yêu cầu phải tiêu diệt tất cả, chỉ cần chiếm đất là được rồi. Do đó có một số trốn thoát vào rừng cũng không thành vấn đề.

Sau đó, 5.000 dân phu cũng đổ bộ, rồi vận chuyển vật tư từ chiến hạm lên bờ. Giang Phong chọn vị trí kiến thiết thành thị ở bên bờ vịnh, ngay cửa sông Mã Ni (tên Giang Phong đặt, tên thật là sông Pasig). Xây dựng thành thị gần sông sẽ không lo thiếu nước. Sinh sống trên đảo, nước là một tài nguyên cực kỳ quan trọng. Các vật tư mang theo trên chiến hạm, ngoài lương thực còn có một số lượng lớn sắt thép và thạch nê (tức xi măng). Đó là những thành tựu gần đây của Thái Học Viện. Quá trình luyện thép tuy tạo ra thép có chất lượng không tốt so với các phương pháp hiện đại, nhưng so với thời bấy giờ thì chất và lượng đều ưu việt. Còn thạch nê chất lượng lại cực tốt, còn tốt hơn cả xi măng thời hiện đại, có lẽ sử dụng nguyên liệu tốt và không bị thâu công giảm liệu chăng. Giang Phong đã từng cho xây dựng một tòa tiểu cung điện bốn tầng bằng bê tông cốt thép ở Thái Học Viện, kết quả rất tốt.

Quân đội kéo đến làm cư dân tại đấy kinh sợ vô cùng, không hề dám chống cự. Toàn khu dân cư chỉ có hơn 500 hộ với khoảng 3.000 nhân khẩu. Giang Phong cho tập trung toàn bộ những người khỏe mạnh đi làm dân phu, rồi xem thái độ bọn họ thế nào sẽ quyết định. Giang Phong chỉ cần thuận dân, không thể để lại những phần tử bất ổn định. Thế là có thêm được hơn 1.600 dân phu nữa.

Khi đã chuyển hết vật tư lên bờ và dựng xong các lều trại để ở tạm, Giang Phong cử 2.000 người đi khai thác đá. Lã Tống có nhiều núi, thậm chí có cả núi lửa, nên không thiếu đá. Thêm vào đó là 1.000 người khai thác cát và 1.000 người khai thác gỗ. Số còn lại lo việc sửa sang mặt bằng cho thành thị mới, vận chuyển vận tư và một số ít lo việc ăn uống cho tất cả mọi người. Ngoài ra còn có một toán thuật sĩ dưới sự hộ tống của quân đội đi các nơi tìm kiếm quặng mỏ. Trước mắt, Giang Phong cần có mỏ đất sét, núi đá vôi và mỏ sắt.

Triệu Phong dẫn quân đi đánh chiếm các nơi trong vùng, thường xuyên đưa về tù binh, và đều được Giang Phong cho chuyển thành dân phu. Chỉ sau 10 ngày, bọn Giang Phong đã kiểm soát hoàn toàn khu vực vịnh Mã Ni, cùng lưu vực Lâm Hải Hồ (tên thật là Laguna de Bay, là hồ nước ngọt lớn thứ ba tại Đông Nam Á, diện tích 911,36 kilômét vuông, cách vịnh Manila chỉ khoảng 20 kilômét). Trong khu vực đó không còn tồn tại một thị tộc hay bộ lạc nào, tất cả đều đã được sát nhập vào thế lực của Giang Phong.

Hạm đội chỉ lưu một phần ở lại vịnh Mã Ni, các thuyền vận chuyển cùng một số chiến hạm hộ tống đã quay về Đại Việt, tiếp tục vận chuyển vật tư sang Lã Tống. Do chuyến đầu tiên chở rất nhiều người, nên vật tư mang theo không nhiều lắm, đặc biệt là những thứ nặng như sắt thép.

Thành thị của Giang Phong không được xây dựng theo kiểu truyền thống, tức là có một bức tường thành bao quanh, phía ngoài còn có hộ thành hà. Trước mắt, Giang Phong không có ý định xây tường thành, bởi vì sau này sẽ còn mở rộng, mở rộng ra nhiều lần nữa. Hiện tại chỉ xây dựng một phần, đủ chỗ cho 1 vạn hộ sinh sống. Dân phu được lệnh san phẳng một khu vực vuông vức dài rộng mỗi bề 5 dặm (tức 2 kilômét). Tiếp đó là sử dụng cát, đá, thạch nê kiến tạo hai đại lộ rộng 10 trượng (tức 40 mét) nằm song song nhau dẫn thẳng ra bờ vịnh. Sử dụng thạch nê làm đường, mặt đường phẳng lì nhìn đẹp mắt hơn lát đá nhiều, xe ngựa chạy cũng rất êm. Sau đó, từ hai đại lộ mở ra các đường ngang và đường dọc, vuông góc nhau như bàn cờ. Hai bên đường được chia thành các lô nhỏ, sẽ là các khu nhà sau này. Giang Phong không có học quy hoạch đô thị, nhưng ít ra cũng từng nhìn thấy các khu dân cư thời hiện đại ra sao. Ngoài đại lộ và đường, Giang Phong còn chú trọng xây dựng hệ thống thoát nước cho thành thị. Giang Phong không muốn thành thị của mình lại rơi vào cảnh hễ mưa là ngập, đến nỗi cả thành thị chỉ còn có một điểm ngập duy nhất là ‘toàn thành phố’. Cũng may có thạch nê nên việc này cũng không khó khăn gì.

Sau một thời gian khai thác, có đủ cát đá, đặc biệt là đã nung được một lượng lớn gạch ngói, các khu nhà đầu tiên bắt đầu được xây dựng. Theo quy hoạch của Giang Phong, nhà dân được xây dựng theo hình thức ‘nhà vườn’, tức vừa có nhà, vừa có vườn. Mỗi lô có diện tích 5 mét x 12 mét, trong đó phía trước là căn nhà hai tầng rộng 5 mét x 8 mét, phần còn lại phía sau là khoảng sân rộng 5 mét x 4 mét. Trong thành thị mà có một khoảng sân như thế là quá tốt rồi.

Sau một tháng, các khu khai thác đất sét, đá vôi được kiến thiết hoàn tất. Một xưởng sản xuất thạch nê cũng được xây dựng. Lúc này chỉ còn phải vận chuyển sắt thép từ Hải Tân sang mà thôi. Tuy đã tìm ra mỏ quặng sắt, nhưng muốn tiến hành khai thác không hề dễ dàng. Công việc vẫn đang khẩn trương tiến hành.

Sau hai tháng, 1 vạn căn nhà được xây dựng xong, toàn bộ đều là những căn nhà vườn hai tầng, nhà phía trước, vườn phía sau. Thành thị đã bắt đầu có hình có dáng. Giang Phong lại phải suy nghĩ đặt cho nó một cái tên. Dùng tên Mã Ni nghe không hay, kém văn hoa, bị toàn thể thuộc hạ nhất trí phản đối.

__________________________________________________ _____________

Bà con có thể coi bản đồ để biết tình hình khu vực Đông nam á lúc bấy giờ. Tui chỉ tìm được bản đồ thế kỷ 13, nhưng đại khái thế kỷ 14, 15 cũng như thế, chỉ có Chiêm Thành bị mất ít đất.

Nhìn vào bản đồ, nhìn thấy Đại Việt thật là thảm. Thời kỳ đó Đại Việt thật yếu. Đầu thời Trần, tuy đánh thắng quân Nguyên, nhưng sau 3 cuộc chiến tranh lớn, kinh tế đất nước tan hoang cả. Đến giữa thời Trần, Đại Việt yếu đi, thường xuyên bị Chiêm Thành và Ai Lao sang cướp phá, chỉ có thể bị động phòng ngự (đem quân đánh đuổi ra khỏi đất nước, nhưng quân đội không hề ra khỏi biên giới). Đến cuối thời Trần, Chiêm Thành vài năm lại sang cướp phá, 4 lần chiếm lĩnh Thăng Long, cũng may quân Chiêm chỉ sang cướp phá rồi rút về, nước Chiêm lại thường xuyên nội chiến vì tranh ngôi, nếu không có khi Đại Việt mất nước.

Chương 17 : KIẾN THIẾT AN PHÚ THÀNH

Sau khi thành thị thành hình, Giang Phong lại phải suy nghĩ đặt cho nó một cái tên. Chúng thuộc hạ nhất trí phản đối cái tên nguyên bản của nó : Mã Ni (tên Hán tự của Manila), cho rằng như thế kém văn hoa, giống như tên gọi của một xứ ‘man di’. Đành rằng trước đây nơi này đúng là một xứ ‘man di’. Nhưng giờ đây đã không phải nữa.

Sau một thời gian suy nghĩ, Giang Phong đặt tên cho thành thị là An Phú Thành, để tưởng nhớ quê hương, nơi Giang Phong đã sinh ra. Chúng thủ hạ đâu biết suy nghĩ của Giang Phong, nhưng đều chấp nhận tên mới này, vì nó mang theo hy vọng ‘an lành và phú túc’. Và như vậy thì tên vịnh, tên sông cũng sẽ đổi thành vịnh An Phú, và An Phú Giang.

An Phú Giang (tức sông Pasig) dài khoảng 27 kilômét, chảy từ Lâm Hải Hồ (tức hồ Laguna de Bay) đến vịnh An Phú (tức vịnh Manila), giờ đây đã trở thành một con sông quan trọng, vừa cung cấp nước ngọt cho An Phú Thành, vừa là tuyến đường chủ yếu vận chuyển nguyên liệu vật tư từ khu vực Lâm Hải Hồ đến An Phú Thành. Các lò nung gạch ngói, các mỏ đất sét, các xưởng thạch nê đều nằm bên bờ Lâm Hải Hồ. Một số khu khai thác gỗ cũng ở đấy. Do đã có thể sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, việc xây dựng kiến thiết ở An Phú Thành giờ chỉ còn phụ thuộc vào lượng sắt thép vận chuyển từ Hải Tân sang.

Một vạn căn nhà mới xây dựng xong, Giang Phong cấp cho 5.000 dân phu từ Đại Việt sang mỗi người một căn, chờ đón gia đình bọn họ từ Đại Việt sang ở chung; 5.000 căn còn lại cấp cho dân bản địa quy thuận, giờ đều đã trở thành thần dân của Giang Phong. Chỉ có một số ít vốn là quân của Vương quốc Hồi giáo Văn Lai, hoặc thủ lĩnh các bộ lạc, thị tộc, ngoan cố không thuần phục, hoặc là phần tử bất ổn định, nên bị bắt đi làm khổ công, làm những công việc nặng nhọc. Thần dân của Giang Phong, khi làm việc sẽ được trả công, còn khổ công thì chỉ được nuôi ăn nuôi ở. Bọn họ tuy không đến nỗi bị ngược đãi (Giang Phong cho rằng ngược đãi sẽ khiến hiệu suất làm việc rất thấp, nên cấm ngược đãi dân phu), nhưng cũng không được tự do. Tù binh mà.

Triệu Phong vẫn tiếp tục chinh chiến, mở rộng phạm vi kiểm soát. Tù binh và dân các bộ lạc bị công chiếm liên tục được đưa về. Những người này đều được Giang Phong cho đưa đi ‘lao động cải tạo’ (thực ra là tận dụng sức lao động), trước khi quyết định cho trở thành thần dân hay khổ công.

Trong An Phú Thành, ngoài 1 vạn căn nhà ở các khu cư dân, đương nhiên còn có khu trang viên dành cho tầng lớp trên, trước mắt là Giang Phong và chúng thủ hạ, sau này còn có thêm những người giàu có. Khu vực này nằm về hướng bờ sông, thật ra phải gọi là khu tiểu cung điện, bởi mỗi gian tuy diện tích không rộng, chỉ 5 trượng x 10 trượng (tức 20 mét x 40 mét), nhưng đều xây dựng rất nguy nga quý phái. Những tòa nhà bốn tầng rộng lớn nằm giữa một khu vườn, nhìn qua cũng đủ thấy quý phái sang trọng. Muốn xây dựng được những tòa nhà cao như thế, công xưởng ở Hải Tân phải sản xuất một loạt thép đặc biệt, sau khi đúc thành dạng thanh xong phải rèn đập nhiều lần để tăng độ kiên cố vững chắc, tốn nhiều công sức hơn.

Ở trung tâm thành thị, trên một khu đất rộng dài 100 trượng đang được xây dựng một tòa cung điện. Đó là nơi ở của Giang Phong sau này. Do công trình quy mô lớn, dù sử dụng nhiều lao động, nhưng không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Tạm thời Giang Phong vẫn phải ở tại một trang viên giống như chúng thủ hạ.

Ngoài ra, trong thành thị còn có một số kiến trúc được ưu tiên xây dựng như Y Viện, Học Viện. Thầy thuốc, thầy đồ đều được đưa từ Đại Việt sang. Giang Phong còn ra lệnh mọi thần dân chưa biết chữ, bất kể nam nữ trẻ già đều phải đi học cho đến khi biết chữ, học miễn phí. Đương nhiên trường học dạy thứ chữ do Giang Phong ‘sáng tạo’ ra. Giang Phong làm thế là để giảm ảnh hưởng của chữ Hán, đồng thời nếu mọi người cùng nói một thứ tiếng, cùng viết một thứ chữ thì đều sẽ là ‘người mình’ cả. Quan trọng nhất là học thứ chữ mới này không mất nhiều thời gian bằng học chữ Hán. Giang Phong không thể chờ đợi mấy chục năm rồi mới thấy hiệu quả được.

Mấy tháng trôi qua, mọi việc đã dần vào ổn định. Lúc này ở bờ Lâm Hải Hồ đã hình thành nên một thành thị thứ hai, cách An Phú Thành ước 80 dặm. Ban đầu nơi đó chỉ có một số lò nung gạch ngói, xưởng thạch nê xây dựng bên cạnh khu mỏ đất sét lớn. Dần dần có thêm xưởng gốm, xưởng mộc, xưởng thủ công mỹ nghệ, … và kèm theo là các khu nhà dành cho những người làm việc trong các công xưởng ở. Khi số lượng các công xưởng tăng lên, các khu dân cư cũng tăng theo, và hình thành nên thành thị. Giang Phong đặt tên cho nó là An Hòa trấn.

Khoảng cuối năm, sắp vào mùa đông, Giang Phong cho tập trung dân chúng khẩn hoang các khu đất trên lưu vực An Phú Giang và Lâm Hải Hồ, chuẩn bị cho vụ đông xuân. Do khí hậu nhiệt đới ấm áp quanh năm, mùa đông cũng không quá lạnh, dân Đại Việt làm lúa theo hai vụ đông xuân và hè thu. Dù đã tích trữ được một lượng lớn lương thực, nhưng dù sao nông vụ cũng không thể bỏ.

Vào mùa vụ, nhưng Giang Phong không thể học theo các vị vua Đại Việt, ra đồng cùng dân chúng, dù chỉ là làm ruộng tượng trưng. Chúng thủ hạ đều phản đối Giang Phong làm thế. Thiên tử làm thì được, nhưng thần linh thì không nên, nếu không sẽ hạ thấp thân phận thần linh, hoặc nếu nhiễm phải ô uế thì càng không hay (quan niệm xưa ô uế có hại đối với thần linh). Đến giờ bọn họ đều nhận thức được lợi ích của thân phận thần linh của Giang Phong. Các bộ lạc ở đây dễ dàng thuận phục, một phần cũng nhờ Giang Phong là ‘thần linh’. Thuận phục thần linh là chuyện đương nhiên, chỉ có chống lại thần linh mới là đại nghịch bất đạo. Việc bọn họ cần làm chỉ là tuyên truyền cho dân chúng tin rằng Giang Phong là thần linh, sau đó mọi việc sẽ trở nên rất đơn giản. Mọi vấn đề dân tộc, nhiều khi chỉ cần đứng trước tôn giáo, sẽ không còn là vấn đề nữa. Nhất là khi dân bản địa trước đây đều sống lạc hậu.

Hơn nữa, Giang Phong còn có nhiều việc phải lo. Các thuật sĩ sau một thời gian khảo sát đã tìm được rất nhiều quặng mỏ : sắt, đồng, vàng, lưu hoàng, thủy ngân, tiêu thạch (tên thời xưa của Nitrat kali, một thành phần của thuốc nổ). Lâm Hải Hồ nguyên bản là một miệng núi lửa, do đó xung quanh nó có nhiều quặng mỏ cũng không có gì là lạ. Khu núi non ở phía bắc đảo Lã Tống cũng có rất nhiều quặng mỏ. Giang Phong phải lo tính việc khai thác, chứ cứ chở sắt thép từ Hải Tân sang cũng không hay lắm. Giang Phong cần lên kế hoạch trước, để đến khi nông nhàn thì có thể thực hiện ngay. Và cũng còn một việc quan trọng khác nữa : di dời Thái Học Viện từ Hải Tân sang An Phú Thành.

Giữa lúc đó, một tin tức khẩn cấp được báo đến Giang Phong : Vương quốc Đông Đô (tiếng latinh là Tondo) hội đại quân ở phía bắc Lâm Hải Hồ, chuẩn bị tấn công An Phú Thành để trả thù bọn Giang Phong đã giết chết quốc vương của họ.

Nghe tin này, Giang Phong rất ngạc nhiên. Bọn Giang Phong có giết chết vị quốc vương nào đâu. Còn Vương quốc Đông Đô này nghe thật lạ tai. Giang Phong cau mày, hỏi viên hướng đạo :

- Vương quốc Đông Đô này là gì thế ?

Viên hướng đạo ngẩn người, suy nghĩ một lúc mới đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Có lẽ đó chính là liên minh của các bộ lạc ở xứ này. Trước đây có một vị tù trưởng ở xứ này đem bảo vật tiến cống nước Tàu, rồi được ban cho một chiếc ấn khắc tên Đông Đô quốc, nhờ đó mà được các bộ lạc tôn làm Đại tù trưởng.

Giang Phong rất ngạc nhiên, theo Giang Phong được biết, khi Magellan đến xứ này thì nhiều bộ lạc bản địa vẫn còn sống trong xã hội nguyên thủy. Vậy mà lại có ‘Đông Đô quốc’ tồn tại. Giang Phong hỏi :

- Thế cái Đông Đô quốc đó thực lực như thế nào ?

Viên hướng đạo lắc đầu nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Không có Đông Đô quốc nào đâu. Chỉ có liên minh giữa các bộ lạc thôi. Mà thật ra thì Đại tù trưởng chỉ có danh nghĩa thôi, không chỉ huy được bộ lạc nào khác, trừ bộ lạc của ông ta.

Giang Phong liền cho người đi thám thính kỹ hơn. Đến hôm sau, khi tin tức báo về, Giang Phong không khỏi bật cười. ‘Đông Đô quốc’ đại quân chưa đến 1 vạn người, còn trang bị thì … đừng nói là khôi giáp, nhiều người còn cởi trần; vũ khí, đại đa số sử dụng một thanh gỗ vót nhọn làm vũ khí. Chỉ một số ít ‘tinh nhuệ’ thì sử dụng đao kiếm bằng sắt. Trong khi Triệu Phong dẫn quân chinh phạt vùng lưu vực Lâm Hải Hồ, một trong số các bộ lạc bị tiêu diệt có bộ lạc của Đại tù trưởng ‘Đông Đô quốc’. Do đó các bộ lạc hội quân, mục đích chủ yếu không phải là để trả thù cho Đại tù trưởng, mà để tranh giành chức Đại tù trưởng, bởi theo giao ước, ai đánh đuổi được địch quân sẽ trở thành tân Đại tù trưởng, hay nói văn hoa hơn là tân quốc vương của Đông Đô quốc.

Chương 18 : BÌNH ĐỊNH LÃ TỐNG

Nghe báo liên minh các bộ lạc hội quân tiến đánh, Giang Phong cho triệu Nam Dương Hạm đội Đô đốc Đinh An Bình đến, giao cho y việc chống giặc. Định Hải tướng quân Triệu Phong đã dẫn quân đi chinh phạt các nơi rồi. Ở An Phú Thành chỉ còn lại 2.000 Định Hải quân và hơn 1.000 thủy quân của Nam Dương Hạm đội. Nhưng chỉ với 3.000 quân xem ra cũng đủ chống giặc.

Chiều hôm đó, quân đội được tập trung ở phía bắc An Phú Thành. Giang Phong chỉ cho 2.500 quân xuất chinh. Số còn lại phải ở lại giữ gìn an ninh. An Phú Thành mới được xây dựng, và gần nửa cư dân của nó vốn là dân bản địa. Dù bọn họ đã thuận phục, nhưng cũng không thể không đề phòng. Hơn nữa, 300 quân giám sát số khổ công (tù binh) ở An Hòa trấn cũng không thể điều động.

Dù chỉ sử dụng có 2.500 quân để đối địch với gần vạn địch quân, nhưng Đinh An Bình vẫn hứa chắn rằng sẽ chiến thắng địch quân, thậm chí sẽ chiến thắng thật lẫy lừng. Giang Phong cũng căn dặn y nên dùng mưu kế chứ không nên chính diện chiến đấu. Dù có tiêu diệt được toàn bộ địch quân mà quân ta thiệt hại quá lớn thì cũng là thất bại.

Quân đội tiến đến gần vị trí đóng quân của liên minh các bộ lạc, Đinh An Bình bắt đầu cho bố trí các cạm bẫy. Quân đội của Giang Phong có một bộ phận không nhỏ là người Mường, từng sinh sống ở rừng núi nên việc bố trí cạm bẫy không lạ gì đối với bọn họ.

Sáng sớm hôm sau, quân đội tiếp tục tiến quân. Có lẽ phía liên minh các bộ lạc cũng đã được tin, nên cũng kéo quân ra ứng chiến. Song phương gặp nhau trên đường, lập tức dàn ra sẵn sàng chiến đấu. Phía quân đội của Giang Phong thì còn dàn thành trận hình, còn phía đối phương chỉ loạn thành một đoàn, chẳng ra hàng ngũ gì cả. Nhưng cũng có một điều đặc biệt là phía liên minh các bộ lạc cho những chiến sĩ (chiến sĩ chứ không phải binh sĩ, vì không hề có chút tố chất quân sự) già yếu ở phía trước, còn những người mạnh khỏe cường tráng ở phía sau. Đây là cách bố trí chiến đấu thường thấy của các dân tộc còn lạc hậu, bởi đối với bọn họ, những người già yếu là không cần thiết cho xã hội, là gánh nặng cho những người còn lại, vì thế khi chiến đấu sẽ được mang ra hy sinh đầu tiên.

Sau một tiếng quát xung phong và những tiếng trống trận tùng tùng tùng vang dội, song phương tràn lên, lao vào nhau chiến đấu. Trong số 1.500 quân đang ứng chiến có đến gần 1.000 quân là cung thủ (chủ yếu là quân của Nam Dương Hạm đội), sử dụng tên dài cung cứng bắn như mưa, khiến phía đối phương thiệt hại rất nặng nề, đương nhiên đại bộ phận chỉ là những người già yếu.

Chiến đấu khích liệt, nhưng hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của Đinh An Bình.

Song phương giao chiến quá nửa giờ. Phía liên minh các bộ lạc đã thiệt hại hơn nghìn, còn phía quân đội của Giang Phong chỉ có một số bị thương, chưa có ai tử trận. Biết làm sao được, quân của Giang Phong đều thân mang khôi giáp, khí giới sắc bén, còn đối phương đa số cởi trần, sử dụng vũ khí là những thanh gỗ vót nhọn, một số ít có vũ khí bằng sắt thì cũng là hàng thô chế lạm tạo mà các quốc gia xung quanh bỏ đi không dùng, bị thương nhân mang đến đây bán lại.

Quan sát chiến sự, thấy lực lượng cường tráng khỏe mạnh của đối phương đã thay thế dần số chiến sĩ già yếu, còn số chiến sĩ tinh nhuệ của các tù trưởng cũng dần dần áp sát chiến trường, Đinh An Bình liền ra lệnh cho quân đội tạm thời rút lui. Nhưng bọn họ không rút chạy ngay, mà chỉ vừa đánh vừa lùi.

Phía liên minh các bộ lạc nhìn thấy thắng lợi, lập tức tràn lên đuổi theo. Đến lúc này tố chất quân sự của bọn họ mới hiển lộ rất rõ ràng. Mạnh ai nấy truy đuổi, không ra hàng ngũ gì cả. Bọn họ có hơn tám nghìn chiến sĩ, cứ ùn ùn tràn lên như nước lũ vỡ bờ. Một số cạm bẫy do bọn Đinh An Bình tạo ra, không gây ảnh hưởng đáng kể nào. Chưa đến một nghìn chiến sĩ thọ thương, giữa cảnh hỗn loạn đó chẳng ai chú ý đến. Đặc biệt, một số vật phẩm sử dụng trong quân đội như nồi đồng (trong quân không sử dụng nồi gốm vì quá dễ vỡ, bất tiện), quân phục, cờ xí, … bị bọn họ tranh đoạt giành giật, khiến quang cảnh đã hỗn loạn lại càng thêm hỗn loạn, không ai có thể chỉnh đốn được. Chúng tù trưởng chỉ đuổi theo phía sau. Đã làm tù trưởng, đương nhiên không ai ngu ngốc, khi chiến đấu đều ở phía sau chỉ huy. Trước cảnh hỗn loạn, bọn họ cũng chỉ thấy như thường (các bộ lạc không có khái niệm quân đội kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ chỉnh tề). Một số vị tù trưởng còn phái hộ vệ xông lên phía trước tranh đoạt chiến lợi phẩm. Không ít người vì tranh giành chiến lợi phẩm mà đánh lẫn nhau.

Trước tình cảnh đó, Đinh An Bình không rút lui nữa, dẫn quân quay lại giao chiến. Đồng thời, một đạo phục binh khoảng nghìn người từ trong rừng đổ ra, thừa cơ đối phương trong lúc bất ngờ, xông thẳng đến chỗ chúng tù trưởng. Bên cạnh chúng tù trưởng cũng có khoảng nghìn hộ vệ. Nhưng trước đối phương hầu như chẳng tạo nên tác dụng gì, vừa xông ra ngăn chặn đã bị đánh tan. Không sao được, vũ khí của bọn họ đâm chém vào khôi giáp của đối phương, bất quá chỉ tạo thành mấy vết xước; còn đao kiếm của đối phương, chém một nhát, không chết cũng trọng thương. Theo lệnh của Đinh An Bình, đối với chúng tù trưởng và hộ vệ của bọn họ, đồng loạt trảm thủ, không bắt tù binh. Số này vốn đều bị liệt vào hàng ngũ những phần tử bất ổn định.

Giải quyết xong chúng tù trưởng, bọn Đinh An Bình liền chuyển sang xử lý đám chiến sĩ của đối phương. Thế là, chỉ dùng 2.500 quân, bọn họ vây bắt hơn bảy nghìn địch quân. Vây bắt chứ không phải chiến đấu, bởi vì sau khi chúng tù trưởng tử trận, chiến sĩ của các bộ tộc không còn sĩ khí gì nữa.

Đánh nhau được hơn nửa ngày, viện binh của bọn Đinh An Bình đến nơi. Định Hải Tướng quân Triệu Phong nghe tin liên minh các bộ lạc hội quân, nên vội vã dẫn quân trở về. Hai đạo quân liền hợp làm một, cùng nhau vây bắt tù binh. An Phú Thành đang trong lúc xây dựng, rất cần nhiều khổ công.

Sau một phen bao vây, chia cắt, đánh bại, bắt giữ, bọn Đinh An Bình và Triệu Phong cũng giải quyết được cuộc chiến. Hơn bảy nghìn tù binh, kể cả thương binh, được áp giải về An Hòa trấn. Tại đó có một trại khổ công rất lớn, dùng để khai thác quặng mỏ và làm những công việc nặng nhọc ở các công xưởng. Do số lượng tù binh quá lớn, bọn họ cũng không rảnh để truy đuổi một số ít địch quân trốn thoát. Số chiến sĩ của các bộ lạc trốn thoát được bất quá cũng chỉ vài trăm, không đáng kể đến.

Sau cuộc chiến, quân đội của Giang Phong chỉ có 4 người tử trận, hơn 500 người thọ thương, bắt được hơn bảy nghìn tù binh, phải nói là chiến quả rất huy hoàng. Đinh An Bình được ghi đại công. Quân đội cũng được phong thưởng.

Nhân lúc chúng tù trưởng đều tử trận, các bộ lạc mất đi cả tù trưởng và chiến sĩ, nhân tâm hoàng hoàng, Giang Phong liền chia Định Hải quân làm ba toán, do Triệu Phong cùng hai viên phó tướng chia nhau đi đánh chiếm các nơi. Sau cuộc chiến, các bộ lạc mất đi nòng cốt, mỗi toán quân dù chỉ có 2.500 người cũng đủ giải quyết. Giang Phong muốn nhân dịp này bình định hoàn toàn Lã Tống, để rảnh tay xử lý công việc ở phương nam. Theo tin hồi báo, tiểu vương Puni đang có vẻ muốn động binh. Dù gì thì An Phú Thành cũng là do bọn Giang Phong chiếm lĩnh từ bọn họ.

Thời kỳ này ở các quần đảo Nam Dương, tình hình gần giống với thời Xuân Thu - Chiến Quốc bên Tàu. Do có quá nhiều quần đảo, hải đảo lớn nhỏ, nên trong vùng không có một quốc gia thống nhất mà tồn tại vô số tiểu quốc. Tất cả các tiểu quốc này trên danh nghĩa là một bộ phận của Vương triều ở Java hay Malacca, nhưng vì quá xa xôi, triều đình không quản đến được, nên gần như là độc lập, chỉ cần đến kỳ triều cống đầy đủ thì triều đình cũng không quản đến bọn họ. Tình trạng này vẫn tồn tại cho đến tận thời kỳ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan đến chiếm vùng này làm thuộc địa.

Do tình hình như thế, Giang Phong nhìn thấy cơ hội mở rộng vùng kiểm soát của mình. Hơn nữa, lúc này Vương quốc Java đang nội chiến, quốc vương và anh rể tranh ngôi, nên cũng sẽ không rảnh rỗi quản đến việc của các tiểu quốc, đặc biệt là tiểu quốc Puni, một cảng thương mại lớn trong vùng.

Khác với các triều đình phong kiến lúc bấy giờ, bị ảnh hưởng của Nho học nên trọng nông khinh thương, Giang Phong tuy không khinh nông, nhưng lại rất trọng thương. ‘Phi thương bất phú’, dù mãi đến thời Lê câu này mới xuất hiện, nhưng Giang Phong đã đem ra dùng ngay lúc này. Ai chẳng muốn đất nước phú cường nhỉ. Do đó, việc ưu tiên hàng đầu của Giang Phong lúc này là kiểm soát cho được tuyến thương mại trên biển giữa Ấn Độ và Trung Hoa, rồi từ đó mới có thể tiến hành các kế hoạch lớn hơn được.

Chương 19 : TÌNH THẾ NAM DƯƠNG

Năm 1292, đoàn quân Nguyên Mông của Hốt Tất Liệt vượt biển tấn công vào đảo Java của vương quốc Kediri lúc này do quốc vương Jayakatwang trị vì. Trước đó Jayakatwang vốn là một tiểu vương của xứ Kediri, đã cướp ngôi vị vua cuối cùng của vương triều Singhasari trong một cuộc nội chiến.

Raden Vijaya, một hậu duệ của vương triều Sanghasari đã khởi binh chống lại kẻ cướp ngôi, tuy nhiên đã bị thất bại và phải tạm lùi về Majapahit, nơi mà sau này sẽ là kinh đô và tên gọi của vương quốc do ông ta sáng lập.

Khi đoàn quân viễn chinh của Hốt Tất Liệt đặt chân tới Java, Raden Vijaya đã lợi dụng một cách tài tình quân đội Nguyên Mông cho mục đích phục quốc của mình. Ông ta đã vờ thần phục quân đội Nguyên Mông và làm đạo quân tiên phong dẫn đường cho bọn họ. Quân Nguyên Mông đã đánh bại hạm đội của quốc vương Jayakatwang trong một trận chiến ở cửa sông Surabaya và tiến vào nội địa. Quốc vương Jayakatwang đã phải đầu hàng.

Mục tiêu sử dụng quân Nguyên Mông cho việc đánh bại quân đội của quốc vương Jayakatwang đã thành công, Raden Vijaya liền rút lui về Majapahit và bắt đầu tiến hành các cuộc tấn công vào quân đội Nguyên Mông. Sau khi đã thiệt hại khá nhiều lực lượng vì cuộc chiến với quân đội của quốc vương Jayakatwang, các cuộc tiến công của Raden Vijaya đã buộc quân Nguyên Mông phải rút lui, lên thuyền quay trở về Trung Hoa.

Raden Vijaya, người sáng lập ra vương quốc Majapahit, sau khi lên ngôi, đã lấy niên hiệu là Kritanajasa Jayavardhana và xây dựng quan hệ với nhà Nguyên - Trung Hoa, thông qua các đoàn sứ thần tới Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay) được chép trong Nguyên sử.

Vương triều Majapahit cực thịnh vào thời kỳ trị vì của quốc vương Rajasanagana (1350 - 1389). Các cuộc bành trướng liên tục trong thời kỳ này được thể hiện trong bản danh sách các thuộc quốc của Majapahit trong cuốn ‘Nagarakitagama’. Về đại thể nó bao gồm các đảo Java, Bali, phía nam đảo Borneo (còn gọi là Kalimantan), phần lớn đảo Sumatra và một phần phía nam của bán đảo Mã Lai. Nhưng khi quốc vương Rajasanagana qua đời, truyền ngôi cho Vikramavardhana vừa là cháu vừa là con rể, vương triều này bắt đầu suy thoái.

Lúc này, trong vương quốc bùng nổ cuộc nội chiến giữa quốc vương Vikramavardhama và người anh rể là Virabhumi vốn là tiểu vương ở miền Đông. Vương quốc thực tế bị chia cắt làm hai, lịch sử còn gọi là Đông Java và Tây Java (Sử Tàu gọi là Đông Trảo Oa và Tây Trảo Oa). Chiến sự bắt đầu vào năm 1401 và kết thúc vào năm 1406 với các chết của Virabhumi. Cuộc nội chiến dẫn đến hậu quả là sự suy yếu của vương quốc Majapahit.

Trong suốt nửa cuối thế kỷ 14 còn có những cuộc chiến tranh liên miên giữa vương quốc Majapahit và vương quốc Srivijaya ở khu vực quần đảo Sumatra. Kết quả của những cuộc chiến tranh liên miên này là vương quốc Srivijaya bại trận. Một vị vương tử của vương triều Srivijaya đã phải vượt eo biển sang lánh nạn ở bán đảo Mã Lai, và xây dựng căn cứ địa ở Malacca. Thành Malacca chính thức thành lập vào năm 1404, cũng chính là tiền thân của vương triều Malacca sau này.

Lúc Giang Phong đang bình định Lã Tống, đã là mùa đông của năm 1403. Tức là sang năm sau, thành Malacca sẽ chính thức thành lập, và vương triều Malacca cũng được xem như thành lập, tất nhiên lúc này vẫn còn nhỏ yếu.

Còn vương triều Majapahit, dù kiểm soát được phần lớn khu vực các quần đảo Nam Dương, nhưng sau những cuộc chiến tranh liên miên với Srivijaya, và cuộc nội chiến vẫn còn đang diễn ra trong nước, quốc thế đã rất suy nhược. Nếu không, sau này vương triều Malacca nhỏ bé sao có thể phân đình kháng lễ, chia nhau cùng thống trị khu vực được.

Giang Phong xây dựng An Phú Thành và thống trị Lã Tống trong hoàn cảnh như thế.

An Phú Thành.

Sau khi di chuyển Thái Học Viện và các công xưởng từ Hải Tân sang, An Phú Thành giờ đây đã chính thức trở thành đại bản doanh tạm thời của Giang Phong. Gọi là tạm thời, bởi vì Giang Phong không có ý định đóng đô tại đây. Trong tâm tưởng của Giang Phong, nơi đóng đô lý tưởng nhất vẫn là thành phố ở phương nam.

Nhiệm vụ của Nam Dương Hạm đội lúc này là tiếp tục di chuyển những tài sản của Giang Phong từ Tư Dung sang. Chẳng bao lâu nữa, cuộc chiến giữa Đại Ngu và Đại Minh sẽ nổ ra, Giang Phong không muốn tài sản của mình bị mất mát vì chiến loạn. Hơn nữa, vị quản gia của Giang Phong, Quảng Tế Pháp sư, cũng phải sang đây giúp Giang Phong quản lý công việc.

An Phú Thành giờ đây trở nên vô cùng nhộn nhịp. Cả khu vực phía tây của thành thị toàn là các công xưởng, chủ yếu là những xưởng thủ công mỹ nghệ, xưởng dệt tơ lụa, và xưởng hương liệu. Đó là những công xưởng ít gây ô nhiễm (vì thời này toàn làm thủ công, xem như không đáng kể), nên Giang Phong mới cho xuất hiện trong thành. Những công xưởng nào gây ô nhiễm nhiều, đều được xây dựng ở An Hòa trấn và An Hiệp trấn (một thành trấn mới được xây dựng gần mỏ sắt). Hàng thủ công mỹ nghệ thì được xuất sang Minh triều, hiện đang rất được ưa chuộng. Còn tơ lụa được dệt từ tơ sợi mua từ vùng Giang Chiết, Trung Hoa; cùng với hương liệu sẽ được mang bán sang các xứ Ấn Độ và Ả rập, rồi từ đó còn có thể bán sang châu Âu. Hiện tại, các thương đội của Giang Phong mới chỉ buôn bán đến Ấn Độ và một vài xứ Ả rập duyên hải lân cận.

Trước đây, các thương đội của Giang Phong trực tiếp mua tơ lụa từ Trung Hoa, sau đó mang sang các xứ Ấn Độ bán lại. Nhưng Giang Phong cho rằng như thế lợi nhuận không cao (chỉ hơn 10 lần một chút), nên cho xây dựng các xưởng dệt tơ lụa tại An Phú Thành, rồi mua tơ sợi về dệt. Người Đại Việt cũng không lạ gì với việc nuôi tằm dệt lụa. Vương phi Ỷ Lan thời Lý nổi tiếng trong lịch sử cũng từng là một cô gái hái dâu nuôi tằm. Thậm chí sử còn chép rằng các vua nhà Lý đã sử dụng tơ lụa dệt trong nước, không mua của nhà Tống. Hơn nữa, trong các loại cống phẩm đưa sang nước Tàu còn có cả gấm lụa. Điều đó chứng tỏ nghề dệt tơ lụa thời Lý đã rất phát triển, chất lượng cũng rất tốt.

Nguyên nhân thứ hai là Giang Phong nhìn thấy kiểu dáng, chủng loại của tơ lụa nhà Minh không đẹp. Đó là theo cách nhìn của Giang Phong, bởi thời hiện đại vải vóc tơ lụa có vô số chủng loại, không như thời này chỉ có đơn điệu vài loại. Thế là Giang Phong cùng một số Thái học sinh ở Thái Học Viện nghiên cứu, chế ra nhiều chủng loại hơn nữa. Đương nhiên ý tưởng là do Giang Phong đưa ra, còn làm sao thực hiện được ý tưởng là nhiệm vụ của chúng Thái học sinh. Người thời này tay nghề thì khỏi phải nói, bọn họ chỉ thiếu ý tưởng (bị cục hạn do thời đại). Thành ra những sản phẩm mới chất lượng tuyệt hảo, kiểu dáng mới lạ, chủng loại phong phú, sản xuất ra bao nhiêu cũng không đủ nhu cầu của các thương đội. Tơ lụa sản xuất tại An Phú Thành được bán với giá rất cao, rất được giới quyền quý ưa chuộng, vừa xuất hiện trên thị trường là bị mua ngay. Không chỉ có thế, hàng mỹ nghệ và hương liệu của An Phú Thành cũng có chủng loại phong phú, rất được ưa chuộng. Mỗi ngày đều có hàng đoàn thương thuyền chở hàng hóa đi các nơi, đồng thời cũng có hàng đoàn thuyền chở vàng bạc về. Giờ đây, Giang Phong chỉ chuộng vàng bạc, không nhận châu ngọc và ngân phiếu. Châu ngọc chỉ được xem là nguyên liệu cho các công xưởng. Ngân khố của Giang Phong chỉ chứa vàng bạc.

Khu vực phía Tây của An Phú Thành là các khu công xưởng, cũng là khu vực nhộn nhịp nhất thành. Phía đông bắc về hướng An Phú Giang là khu quyền quý, phần còn lại là các khu dân cư. Ngay trung tâm thành, Thái An Cung đã được xây dựng xong, đang trong quá trình hoàn thiện phần nội thất. Nhờ sử dụng thạch nê, công trình xây dựng rất nhanh, chỉ khoảng 4 tháng là đã hoàn thành. Giang Phong đã chuyển vào sống trong cung. Trước cửa chính của Thái An Cung là một đại lộ rộng 20 trượng (tức 80 mét) dẫn thẳng ra bờ vịnh. Song song với nó là hai đại lộ xây dựng từ lúc đầu, rộng 10 trượng, thông từ tây sang đông, đi ngang hai cửa bắc và nam của Thái An Cung. An Phú Thành giờ đây đã có cận 3 vạn hộ, với khoảng 2 vạn là dân bản địa thuận phục, đã trở thành một thành thị lớn, và sự phồn vinh của nó còn hơn hẳn nhiều thành thị có hàng chục vạn hộ ở bắc phương. Mọi dân cư trong thành đều có cuộc sống sung túc no đủ, nên dân bản địa đối Giang Phong không hề tỏ ý phản kháng. Chỉ chưa đầy nửa năm mà nền thống trị của Giang Phong ở Lã Tống đã rất vững vàng. Một phần là vì giới quyền quý bản địa bị bọn Triệu Phong xử lý hết cả, một phần là nhờ cuộc sống sung túc hơn trước, người dân chẳng phản kháng làm gì. ‘Dân dĩ thực vi thiên’ mà. Đủ ăn đủ mặc, cuộc sống yên ổn, mọi sự khác không thành vấn đề.

(chú : "Sử ký - Lệ Thực Kỳ Lục Giả Liệt Truyện” trong đó có câu : "Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” –“王者以民為天,而民以食為天", tạm dịch : “Bậc vương giả lấy dân làm điều tiên quyết để tồn tại, và dân thì lấy sự ăn làm điều quan trọng hàng đầu". ‘Thiên’ ở đây có nghĩa là điều tối quan trọng để tồn tại. Nhiều người dùng “dân dĩ thực vi tiên”, về mặt ý nghĩa thì cũng không sai, chỉ có điều không được chính thức xem là thành ngữ, ngạn ngữ mà thôi).

Chương 20 : CHIẾN TRANH VỚI TIỂU QUỐC PUNI (1)

Tiểu quốc Puni, còn được gọi là Poni, là tiền thân của Vương quốc Hồi giáo Brunei sau này. Các tư liệu Trung Hoa cổ có nói đến một vương quốc tên là Puni, ở bờ tây bắc của đảo Kalimantan, từng cống nạp cho các hoàng đế Trung Hoa từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 9. Khi Tam Bảo thái giám của nhà Minh là Trịnh Hòa đến Puni vào đầu thế kỷ 15, trong chuyến thám sát vùng Đông Nam Á, ông đã phát hiện một cảng thương mại quan trọng có nhiều thương buôn người Hoa làm ăn phát đạt với chính quốc.

Phải đến giữa thế kỷ 15, vương triều Majapahit theo đạo Hindu suy yếu, đạo Hồi tràn ngập các quần đảo Nam Dương, tiểu vương Puni mới theo đạo Hồi, và thành lập Vương quốc Hồi giáo Brunei. Còn giờ đây, tiểu quốc Puni vẫn là một bộ phận của vương triều Majapahit, và vẫn chưa theo đạo Hồi. Chỉ vì vương quốc đang xảy ra nội chiến, nên tiểu quốc có được phần nào độc lập hơn mà thôi. Đó cũng là nền tảng để tiểu vương Puni tuyên bố độc lập sau này. Đương nhiên, nếu như không có sự xuất hiện của Giang Phong. Giang Phong xuất hiện, bánh xe lịch sử vẫn tiếp tục vận chuyển, nhưng đã lệch hướng.

Khu dân cư ở vùng vịnh Mã Ni trước đây thuộc quyền cai quản của tiểu vương Puni. Do đó, tiểu vương Puni đang tích cực họp quân, chuẩn bị chiếm lại nó. Hạm đội của Puni đã sẵn sàng bắc tiến. Có điều, khái niệm chiến tranh của tiểu vương Puni vẫn bị cục hạn trong khu vực các quần đảo Nam Dương.

An Phú Thành. Thái An Cung, Kính Thiên Điện.

Giang Phong cùng chúng thủ hạ hội họp nghị sự. Thương mại Tổng quản Cát Ti, kiêm nhiệm chủ quản Hướng đạo đoàn hồi báo :

- Đại nhân. Theo tin hồi báo, tiểu vương Puni đang chuẩn bị xuất quân chiếm lại vùng vịnh An Phú. Theo thông tin sơ bộ, lần này tiểu vương Puni phái xuất đại bộ phận binh lực cùng phần lớn chiến thuyền của tiểu quốc, định phát động đại quy mô chiến tranh.

Tiểu quốc Puni, lãnh thổ bé xíu, cư dân ít ỏi, có phát động ‘đại’ quy mô chiến tranh, cũng chẳng ‘đại’ được là bao. Giang Phong mỉm cười hỏi :

- ‘Đại’ đến mức nào ?

Cát Ti đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Binh lực khoảng 4.000 người, chiến thuyền 60 chiếc. Chiến thuyền lớn nhất dài khoảng 5 trượng, rộng hơn 1 trượng. Còn đa số chỉ dài khoảng 3 trượng, rộng 7, 8 thước.

Chúng nhân đều bật cười. Đối diện những chiến hạm dài hơn trăm mét, rộng hơn 60 mét thì những chiến thuyền chỉ dài khoảng 20 mét, rộng 4, 5 mét thật là bé tí xíu. Có điều, đối với tình hình các tiểu quốc ở Nam Dương, lực lượng quân sự như thế đã được xem là hùng hậu; tiểu quốc Puni cũng là một thế lực đáng kể ở đây. Nam Dương không giống như Trung Hoa và Đại Việt, mỗi cuộc chiến tranh động một chút là hàng chục vạn đến cả trăm vạn quân.

Nam Dương Hạm đội Đô đốc Đinh An Bình bước ra nói :

- Đại nhân. Xin giao cho thuộc hạ giải quyết bọn chúng.

Chúng tướng cũng không ai tranh giành, bởi hải chiến là đặc trường của Hạm đội, và đó cũng là công việc của Nam Dương Hạm đội. Định Hải quân chỉ là lục quân, chuyên trách công thành chiếm đất chứ không phải hải chiến. Giang Phong mỉm cười hỏi :

- Mọi người còn có ý kiến gì nữa không ?

Định Hải Tướng quân Triệu Phong bước ra nói :

- Đại nhân. Nếu như tiểu quốc Puni đã phái xuất đại bộ phận binh lực, trong nước chắc chắn hư nhược. Xin đại nhân cho thuộc hạ xuất quân chiếm lĩnh Puni.

Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói :

- ‘Tiểu’ hạm đội của Puni giao cho An Bình phụ trách, nên giải quyết nó ngay trên biển. Tuyệt đối không cho chúng đến gần vịnh An Phú.

Vịnh An Phú giờ đã là một thương cảng quan trọng, mỗi ngày có rất nhiều thương thuyền ra vào, không thể để bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Giang Phong không muốn sinh ý của mình bị đình trệ. Đinh An Bình vâng dạ nói :

- Đại nhân an tâm. Thuộc hạ sẽ giải quyết bọn chúng thật êm thắm. Những tiểu chiến thuyền đó, mấy loạt thần công là giải quyết được ngay thôi.

Giang Phong gật đầu, bảo Triệu Phong :

- Còn Triệu Phong thì khẩn trương lo việc luyện quân, chuẩn bị công chiếm Puni. Ta quyết định tăng quân số lên 2 vạn. Định Hải quân chia làm hai, thành Định Hải nhất sư và Định Hải nhị sư, mỗi sư 5.000 người, bổ sung thêm 5.000 tân quân cho đủ 1 vạn. Định Hải nhất sư phụ trách công chiếm Puni, Định Hải nhị sư trấn giữ Lã Tống.

Triệu Phong vâng dạ, lập tức đi tuyển quân và luyện quân. Mở rộng khu vực kiểm soát, tăng quân là chuyện tất nhiên. Nguồn cung cấp binh nguyên tốt nhất là các trại khổ công ở An Hòa trấn và An Hiệp trấn. Nơi đó có rất nhiều thanh tráng vốn là chiến sĩ của liên minh các bộ lạc trước đây, có sẵn sức lực và khả năng chiến đấu, chỉ cần huấn luyện một chút là có thể cho xuất trận.

Triệu Phong và Đinh An Bình đi rồi, Giang Phong lại bảo viên thủ hạ phụ trách quản lý các kho khí giới :

- Định Hải quân tăng quân số, khí giới trong kho đủ dùng không ?

Gã ta cung kính đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Kho khí giới được tích trữ mấy năm liền, đủ cung cấp cho 5 vạn đại quân. Nhưng vẫn còn một nửa còn ở Hải Tân và Tư Dung, chưa kịp chuyển sang đây.

Giang Phong nói :

- Số khí giới ở Hải Tân và Tư Dung cứ để ở đấy. Thông tri cho xưởng khí giới ở An Hiệp sản xuất thêm khí giới cho kho An Phú. Chỉ tiêu là đủ trang bị cho 5 vạn quân.

Gã ta cung kính vâng dạ. Giang Phong lại hỏi viên thủ hạ phụ trách quản lý các kho lương thực :

- Dự trữ lương thực thế nào ?

Gã ta cung kính đáp :

- Hồi bẩm đại nhân. Lương thực chỉ đủ cho quân dân của An Phú Thành, An Hòa trấn và An Hiệp trấn dùng trong 1 năm. Đến cuối xuân, vụ mùa thu hoạch, nếu không gặp thiên tai, sẽ đủ dùng cho đến cuối năm mà không cần đến lương thực dự trữ trong kho.

Đầu mùa vụ, Giang Phong đã huy động toàn bộ dân chúng đi khai khẩn đồng ruộng để trồng lúa, nếu đến cuối vụ mà không bị thiên tai mưa bão, thì sản lượng sẽ rất khả quan. Kho lương của Giang Phong chỉ phải cung cấp cho quân dân đến cuối xuân mà thôi. Tổng dân số của An Phú, An Hòa và An Hiệp đã lên đến hơn 20 vạn người, do đó mà lượng lương thực dự trữ suốt mấy năm nay giờ chỉ đủ dùng trong 1 năm. Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, đoạn bảo :

- Cát Ti. Ngươi cho các thương đội tăng cường thu mua lương thực ở các nơi. Chiêm Thành, Chân Lạp, Đại Việt, Đại Minh, … ở đâu có bán thì mua hết. Mở rộng các kho lương. Chỉ tiêu ít nhất dự trữ đủ lương thực cung cấp cho 20 vạn quân dân trong 3 năm.

Hiện tại Giang Phong có 20 vạn quân dân, dự trữ như thế, nếu sau này khu vực kiểm soát mở rộng, dân số gia tăng thì cũng đủ dùng. Thật ra thì sau khi chiếm lĩnh một khu vực nào đó, dân bản địa vẫn có sẵn nguồn cung cấp lương thực riêng của họ để dùng, không cần bọn Giang Phong cung cấp. Nhưng nếu Giang Phong di dời bọn họ đến các thành trấn thì khác. Dân chúng rời nơi ở cũ, bắt đầu một cuộc sống mới tại nơi ở mới, do đó thời gian đầu phải được cung cấp lương thực. Tại Lã Tống hiện giờ không phải chỉ có 20 vạn người. Đó chỉ là dân số của ba thành trấn An Phú, An Hòa và An Hiệp mà Giang Phong phải cung cấp lương thực cho đến vụ thu hoạch.

Cát Ti cung kính vâng dạ, rồi lại nói thêm :

- Đại nhân. Tôm cá hải sản cũng là một nguồn cung cấp lương thực đáng kể đấy ạ.

Giang Phong mỉm cười :

- Không cần ngươi phải nói. Gần một nửa số thực phẩm cung cấp cho cư dân các thành trấn là thủy hải sản đấy. Bên bờ Lâm Hải Hồ đã hình thành nhiều làng chài.

Cát Ti cung kính nói :

- Đại nhân anh minh.

Giang Phong khẽ cười, bãi hầu. Bộ máy chiến tranh của An Phú Thành bắt đầu vận chuyển. Lương thực, vũ khí được tập trung ra bờ vịnh. Nhân dịp này, Giang Phong cũng đi thị sát vịnh An Phú. Đây là một vịnh lớn và gần kín, diện tích xấp xỉ 2.000 kilômét vuông, nơi rộng nhất khoảng 50 kilômét, trong khi đó cửa vịnh rộng chưa đến 20 kilômét, lại bị một hòn đảo ngăn đôi, với cửa phía bắc rộng khoảng 3 kilômét, cửa phía nam rộng khoảng 10 kilômét; giữa cửa phía nam còn có một số hòn đảo nhỏ rộng chỉ vài hécta. Nhìn địa hình của vịnh, Giang Phong nghĩ đến việc xây dựng các pháo đài để khống chế hai cửa ra vào. Nhưng trước hết cần phải cải tiến thần công đại pháo. Thời này thần công đại pháo hỏa lực kém quá, dù vấn đề hỏa dược đã được chúng Thái học sinh giải quyết, nhưng bản thân đại pháo vẫn còn đang trong quá trình nghiên cứu. Cũng may tại Lã Tống có rất nhiều khoáng sản : lưu hoàng (lưu huỳnh), tiêu thạch (nitrat kali), đồng, sắt, thủy ngân, … không sợ thiếu nguyên vật liệu.

An Phú Thành phát triển rất thuận lợi. Ngân khố của Giang Phong cũng ngày một đầy thêm. Nhưng Giang Phong vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Khoảng cách đến với mục tiêu vẫn còn xa.

Chương 21 : CHIẾN TRANH VỚI TIỂU QUỐC PUNI (2)

Tiểu quốc Puni, chỉ là một tiểu quốc nhỏ trong vương quốc Majapahit rộng mênh mông. Dù so với các tiểu quốc lân cận cũng là một thế lực đáng kể, nhưng thực tế vẫn cứ là một tiểu quốc nhỏ, lãnh thổ chỉ là một dãy đất hẹp ven bờ phía bắc đảo Kalimantan. Do bị cục hạn bởi khái niệm chiến tranh ở khu vực, tiểu vương Puni đã phái 4.000 quân đi trên 60 chiến thuyền đến tấn công chiếm lại vùng vịnh Mã Ni, tức vịnh An Phú lúc này. Với một lực lượng như thế, hoàn toàn đủ khả năng đánh bại các tiểu quốc khác trong khu vực. Có thể trong ấn tượng của tiểu vương Puni, xứ Mã Ni so với Puni vẫn là rất nhỏ, rất rất nhỏ chăng !

Đoàn chiến thuyền của tiểu quốc Puni, gồm có 3 chiếc ‘đại’ thuyền, dài khoảng 20 mét, rộng khoảng 6 mét, chở được 150 người; 45 chiếc ‘trung’ thuyền, dài khoảng 12 mét, rộng gần 4 mét, chở được 80 người; 12 chiếc ‘tiểu’ thuyền, dài khoảng 6 mét, rộng khoảng 2 mét, chở được 30 người. So với các đoàn thương thuyền vẫn thường xuyên đi lại trong vùng, cũng như thủy sư của các tiểu quốc lân cận, đó đã là một lực lượng rất hùng hậu. Thực tế, tiểu quốc Puni vẫn sử dụng lực lượng này để kiểm soát các thương thuyền và thu thuế.

Trên Soái thuyền, Matavamca tướng quân cùng chúng tùy tướng bàn việc viễn chinh. Trước mặt bọn họ là hải đồ vùng vịnh Mã Ni. Mọi người bàn bạc các phương án đổ bộ lên đó và đánh nhau với thủ quân; đồng thời dự đoán các tình huống có thể xảy ra. Đó vẫn là công việc mà một vị tướng có nhiều kinh nghiệm phải làm trước khi giao chiến.

Khác với chúng tùy tướng thần tình thoải mái vui vẻ, Matavamca tướng quân chẳng có vẻ gì là cao hứng, dù được tiểu vương tin cậy giao cho thống suất đại bộ phận binh lực của tiểu quốc. Matavamca ướng quân không cao hứng, không phải là vì lo lắng cho cuộc chiến. Chẳng qua là tướng quân đã biết trước rằng sau khi cuộc chiến kết thúc, ông ta sẽ lại quay về với cảnh ngồi chơi không như trước giờ. Matavamca tướng quân không có xuất thân quý tộc, nên tuy là đệ nhất danh tướng của tiểu quốc Puni, cũng vẫn không được tiểu vương trọng dụng. Một vị tướng quân mà không được cầm quân thì còn gì là tướng quân nữa.

Một viên tùy tướng thấy chủ tướng không vui, an ủi :

- Tướng quân cứ xem như đây là một cuộc du ngoạn đi.

Matavamca tướng quân cau mày nói :

- Cầm quân đánh giặc không phải chuyện đùa, không được khinh suất như thế.

Một gã tùy tướng khác nói :

- Tướng quân chỉ khéo lo. Chúng ta lực lượng hùng hậu thế này, có khi địch quân vừa thấy là bỏ chạy ngay thôi.

Matavamca tướng quân chỉ nhíu mày, không nói gì. Gã kia là thân tộc của tiểu vương, tuy danh nghĩa là tùy tướng, nhưng Matavamca tướng quân cũng không thể ra lệnh cho gã được. Gã được phái theo quân để làm gì, không cần nói cũng dễ đoán được. Trong quân, hơn một nửa số tùy tướng là người của gã, tự thành một thể hệ riêng. Tướng quân lo nhất không phải là thực lực của địch quân thế nào (theo quan niệm của bọn họ, trận chiến này cũng giống như những trận giao chiến trước đây với các tiểu quốc khác trong khu vực), mà chỉ lo khi xuất trận, mệnh lệnh ban ra không mấy người nghe theo, như thế thật nguy hiểm. Có điều, tướng quân cũng đành chịu, không có cách giải quyết nào cả.

Đột nhiên, cả bọn nghe có nhiều tiếng tù và rúc lên, hiệu lệnh này không phải là của quân đội tiểu quốc Puni, như vậy chỉ có thể là địch quân. Cả bọn chấn động. Bọn họ mới rời cảng hơn 3 ngày, hành trình chưa đi được một nửa mà đã đụng độ địch quân rồi. Xem ra địch quân tự động xuất chiến. Như vậy …

Cả bọn đang nhìn nhau, đột nhiên một gã binh sĩ từ bên ngoài hốt hoảng chạy vào, sắc mặt tái mét, hốt hoảng nói không ra hơi :

- Các vị tướng quân … địch quân … thuyền … rất lớn … vô cùng lớn …

Matavamca tướng quân cau mày hỏi :

- Lớn đến mức nào ?

Gã kia lắp bắp nói :

- Rất … rất lớn … hàng trăm lần …

Matavamca tướng quân thoáng biến sắc, rồi nhíu mày lộ vẻ không tin. Có chiến thuyền lớn đến thế hay sao ? Dù là hạm đội của quốc vương ở Majapahit cũng còn chưa lớn đến thế. Chúng tướng cũng nhao nhao bàn tán. Cả bọn đành kéo nhau ra ngoài khoang thuyền để xem. Phải xem tận mắt mới tin được.

Vừa bước ra ngoài khoang, nhìn về phía trước, cả bọn bất giác sững người. Chấn kinh. Vô hạn chấn kinh. Cái gì kia ? Những tòa lâu đài nổi trên biển. Nhìn hạm đội của đối phương, cả bọn, trên từ chủ tướng, dưới đến quân binh, đều biết rằng đã hết rồi. Tuy đối phương chỉ có 20 chiến thuyền, à không, không thể gọi là chiến thuyền, bởi chiến thuyền cũng không thể lớn đến mức đó, cả bọn cũng biết rằng trận này không cần phải giao chiến nữa. Kết quả quá rõ ràng rồi.

Matavamca tướng quân suy nghĩ thật nhanh, thở dài một tiếng, rồi trầm giọng quát :

- Tử chiến.

Một số gã tùy tướng cả kinh :

- Tướng quân …

Matavamca tướng quân phất tay nói :

- Tử chiến.

Thế nhưng, bọn họ còn chưa kịp tổ chức cho binh sĩ chiến đấu thì đối phương đã phát động tấn công. Mà hải chiến theo kiểu này, bọn họ cũng chỉ mới nhìn thấy lần đầu. Hơn nữa, vừa mới nhìn thấy, cả bọn đều lạnh người. Cả Matavamca tướng quân cũng không còn đốc thúc tướng sĩ tử chiến nữa.

Phía bên kia, Đô đốc Đinh An Bình nhìn đoàn chiến thuyền của đối phương, chỉ lắc đầu, nói với viên tùy tướng :

- Truyền lệnh tấn công. Kết thúc nhanh trận chiến.

Chúng tướng sĩ đều đã vào vị trí, vừa được lệnh lập tức chuẩn bị tấn công. Viên tiểu tướng trên vọng lâu ước lượng vị trí địch - ta xong, hô lớn :

- Khoảng cách 2 dặm 30 trượng.

Một viên tùy tướng liền hô :

- Bắn thử.

Truyền lệnh quân lập tức hô vang :

- Bắn thử …

Hiệu kỳ trên cột buồm cũng chuyển động. Các hiệu lệnh của hạm đội chủ yếu truyền đi bằng cờ hiệu, bởi thanh âm có thể nghe không rõ do sóng gió. Nhận được hiệu lệnh, xạ thủ lập tức điều chỉnh, rồi khai bác. Trên các chiến hạm của Nam Dương Hạm đội đều có trang bị thần công đại bác.

Oanh … oanh … oanh …

Hàng loạt đại bác cùng lúc bắn ra, thanh thế long trời lở đất. Tuy chỉ có một số ít bắn trúng mục tiêu, nhưng thanh thế đó cũng đủ uy hiếp tinh thần địch quân rồi. Sau khi bắn thử xong, hiệu lệnh lại truyền tiếp tục xạ kích, xạ thủ lại điều chỉnh đại bác, sau đó thêm hỏa dược, cho đạn pháo vào đại bác, rồi tiếp tục khai hỏa.

Oanh … oanh … oanh …

Lần này chúng xạ thủ bắn chính xác hơn lần bắn thử trước. Sau khi phát xạ, bọn họ cũng không dừng lại, tiếp tục nạp đạn pháo hỏa dược, rồi khai hỏa, bắn tiếp phát thứ ba.

Oanh … oanh … oanh …

Chỉ sau ba đợt pháo kích, đã có gần một nửa số chiến thuyền của đối phương bị bắn chìm hoặc gãy vỡ ra. Đại đa số là những thuyền ‘lớn’, vì mục tiêu lớn nên dễ bắn trúng hơn. Khi pháo kích, các xạ thủ hầu như đều lựa chọn mục tiêu là các thuyền ‘lớn’. Cả 3 chiếc ‘đại’ thuyền của quân đội tiểu quốc Puni đều chịu chung số phận. Quá nửa số binh sĩ của Puni đều đang phải bơi trên mặt biển. Tình hình nguy ngập, tính mệnh đáng lo.

Đô đốc Đinh An Bình đứng trên đài chỉ huy quan sát tình hình chiến sự, xung quanh là các tùy tướng. Tâm trạng mọi người rất thoải mái, nói cười vui vẻ. Đinh An Bình chợt nghe nhiều tiếng la hét kêu gào từ phía đối phương vọng qua, liền hỏi :

- Bọn chúng kêu gào gì thế ?

Một viên tùy tướng gọi viên hướng đạo kiêm thông dịch (nguyên là người giúp việc cho thương nhân từng đi buôn bán qua xứ Puni) đến hỏi, sau đó hồi báo :

- Trình Đô đốc. Bọn chúng kêu gọi xin được đầu hàng.

Đinh An Bình bảo :

- Truyền lệnh tạm ngừng oanh kích, tiếp nhận hàng binh.

Thế là chúng tùy tướng đã có việc làm, lập tức chia nhau dẫn quân đi tước khí giới và tiếp nhận hàng binh. Toàn bộ quân binh Puni chỉ có vài chục người xấu số bị đạn pháo bắn trúng, chết ngay tại chỗ, còn những người bị rơi xuống biển đều được cứu lên. Tổng số hàng binh đến cận 4.000. Ba chiếc ‘đại’ thuyền vì là mục tiêu quá nổi bật nên bị trọng điểm oanh kích, vỡ tan đầu tiên. Tất cả tướng lĩnh của Puni đều rơi xuống biển, sau khi được vớt lên, liền bị tách ra khỏi sĩ binh, giam giữ riêng.

Nhớ lại lần chiến đấu trước với liên minh các bộ lạc, cũng như cách thức của Định Hải Tướng quân Triệu Phong vẫn đối phó với hàng binh, Đinh An Bình bảo chúng tùy tướng :

- Dẫn theo hướng đạo đến phân loại các tướng lĩnh của địch quân, những kẻ nào thân cận với tiểu vương Puni thì tách ra riêng, xử lý hết.

Trước giờ Triệu Phong khi công chiếm một bộ lạc đều xử lý hết các quý tộc trong bộ lạc, chỉ để lại bình dân, như thế sau này mới dễ cai trị. Xưa nay, trong chiến tranh xử trảm địch tướng vẫn là chuyện bình thường.

Tiếp đó, Hạm đội kéo theo một chuỗi thuyền ‘bé tí xíu’ phía sau, quay trở về vịnh An Phú. Trận hải chiến chớp nhoáng đã kết thúc, bất ngờ nổ ra và cũng nhanh chóng kết thúc.

__________________

Chương 22 : CHIẾN TRANH VỚI TIỂU QUỐC PUNI (3)

Nam Dương Hạm đội.

Matavamca tướng quân ngồi trong khoang thuyền, nhìn Hạm đội của đối phương mà suy nghĩ rất lâu. Sau khi bị bắt, viên hướng đạo của Nam Dương Hạm đội nhận ra Matavamca tướng quân, biết tướng quân lâu nay vẫn có hiềm khích với tiểu vương Puni, nên được ưu đãi, cho ở riêng một khoang thuyền.

Sau trận thất bại này, Matavamca tướng quân biết rằng tiểu quốc Puni hết thời rồi. Quân đội không còn, lại gặp phải địch nhân hùng mạnh thế này, làm sao chống cự nổi. Từ khi bị bắt, Matavamca lúc ngồi trầm tư, lúc thất thần, lúc lại thở ngắn than dài. Matavamca chỉ là một vị tướng quân, chỉ biết đánh giặc, việc quan trường, quân quốc đại sự không thạo lắm (vậy mới bị tiểu vương không trọng dụng), nên cũng chẳng biết làm sao.

Đang suy nghĩ vẩn vơ, Matavamca đột nhiên giật mình, vì có người cười nói :

- Mã Tà tướng quân. Sao thế ?

Mata – Mã Tà, xem ra cách gọi như thế mới phù hợp với những người quen với Hán tự; giống như Manila được gọi thành Mã Ni hay Ma Ní vậy. Tên đặt theo Hindu giáo thật dài dòng và khó gọi. Chúng tướng thủ hạ của Giang Phong quen với Hán tự hơn là tiếng Hindu, nên gọi thành Mã Tà cho thuận tai. Mã Tà tướng quân quay lại, nhìn thấy đối phương là một vị tướng quân, không khỏi giật mình. Puni có rất nhiều thương nhân người Hán làm ăn buôn bán, Mã Tà tướng quân cũng biết tiếng Hán (thật ra là tiếng Quảng, người Đại Việt và các thương nhân người Hoa ở Nam Dương thường dùng tiếng Quảng chứ không phải tiếng Bắc Kinh), liền hỏi :

- Tướng quân là … ?

Viên tướng cười nói :

- Ta là Nam Dương Hạm đội Đô đốc Đinh An Bình.

Mã Tà tướng quân cũng biết Đô đốc là chức vị rất cao, chỉ huy cả Hạm đội, nên thoáng giật mình. Sau một lúc suy nghĩ, Mã Tà tướng quân hỏi :

- Đinh Đô đốc là người Hán ?

Đinh An Bình lắc đầu nói :

- Không phải. Ta là người Mường, Đông Giang tộc.

Mã Tà tướng quân chưa hề nghe đến người Mường, nên lộ vẻ ngơ ngác. Đinh An Bình nói :

- Tướng quân biết các xứ Chiêm Thành và Đại Việt chứ ?

Mã Tà tướng quân gật đầu nói :

- Biết. Nó nằm ở bờ biển bên kia. Từ đây đi thẳng về phía tây sẽ đến.

Đinh An Bình nói :

- Về phía tây của Chiêm Thành và Đại Việt có các xứ Mường. Người Mường có 5 bộ tộc lớn, trong số đó Đông Giang tộc là lớn nhất. Năm trước Đại nhân giáng lâm tại Đông Giang tộc, nên người Mường chúng ta đều theo Đại nhân.

Đưa mắt nhìn Mã Tà tướng quân một lượt, y lại nói tiếp :

- Ta thấy tướng quân cũng là một nhân tài. Nếu tướng quân đồng ý, ta sẽ tiến cử tướng quân với Đại nhân.

Mã Tà tướng quân ngơ ngác :

- Đại nhân là … ?

Đinh An Bình nói :

- Đại nhân rất vĩ đại, rất tôn quý. Đại nhân không phải là người ở hạ giới của chúng ta.

Thấy Mã Tà tướng quân vẫn ngần ngừ do dự, Đinh An Bình lại nói thêm :

- Số phận của xứ Puni không có gì để bàn nữa rồi. Theo lệ, khi chiếm lĩnh một xứ nào, dân xứ đó sẽ phải trở thành khổ công, làm việc một thời gian rồi mới xem thái độ thế nào mà định cách xử trí. Nếu tướng quân chịu theo, ta có thể cầu Đại nhân miễn cho dân xứ Puni khỏi trở thành khổ công, đương nhiên trừ giới quyền quý thân cận của tiểu vương.

Mã Tà tướng quân hỏi :

- Không thể tha cho tiểu vương được sao ?

Đinh An Bình nói :

- Không thể được đâu. Số phận của bọn họ đã được định đoạt. Ta chỉ có thể xin giúp cho mấy vạn dân xứ Puni mà thôi.

Mã Tà tướng quân suy nghĩ một hồi, rồi thở dài một tiếng, nói :

- Cứu giúp được cho người dân Puni cũng tốt. Mong Đô đốc giúp dùm.

Đinh An Bình cười nói :

- Tướng quân an tâm đi. Trong chúng ta đây, Việt Chiêm Hán Mường đều đủ cả, nay thêm tướng quân là người Puni thì cũng chẳng có vấn đề gì đâu.

Hạm đội tiếp tục tiến về phía bắc. Khi gần tiến vào vịnh An Phú, Đô đốc Đinh An Bình và chúng tùy tướng đều lên đài chỉ huy trên chủ hạm quan sát. Trong bọn có cả Mã Tà tướng quân.

Vào bên trong vịnh, nhìn những chiến hạm đậu bên bến cảng, Mã Tà tướng quân lại một phen chấn kinh. Những chiến hạm này đã rất to lớn rồi, mà những chiến hạm đậu bên bến cảng lại càng to lớn hơn, nhất là 2 chiếc tuần hạm và 5 chiếc vận hạm, rất khổng lồ. Mã Tà tướng quân chỉ mấy chiến hạm đó, hỏi :

- Đô đốc. Những chiến hạm kia … ?

Đinh An Bình nói :

- Đó là những tuần hạm và vận hạm, được dùng để chở Định Hải quân đến Puni.

Nghĩ đến việc những chiến hạm đó tiến vào bến cảng Puni, Mã Tà tướng quân không khỏi lắc đầu. Nhất là khi chiến hạm cập vào bến, nhìn thấy những toán Định Hải quân đang chờ lên thuyền, Mã Tà tướng quân không dám nghĩ đến hậu quả của Puni nữa. Tiểu quốc Puni lúc này binh lực không hư. Trong khi Định Hải quân tập trung trên bến lúc này có đến vạn người, vũ khí khôi giáp tinh lương. Tiểu quốc Puni ngay cả lúc toàn thịnh cũng chưa chắc chống cự nổi, đừng nói giờ đây, đại bộ phận quân đội đều đã trở thành tù binh. Puni là thuộc quốc của Majapahit, giờ chuyển sang làm thuộc quốc cho An Phú Thành, có khi cũng không tệ, Mã Tà tướng quân nghĩ vậy. Và hiện giờ đại đa số tù binh Puni cũng đều nghĩ vậy. Cảnh phồn vinh của cảng An Phú và An Phú Thành làm cả bọn chấn kinh. Cảnh tượng như thế, thành Puni thật không thể sánh bằng.

Trong lúc Định Hải nhất sư đưa quân lên các chiến hạm, Đinh An Bình dẫn Mã Tà tướng quân vào Kính Thiên Điện bái kiến Giang Phong. Những đề nghị của Đinh An Bình về việc xá miễn cho tù binh và dân chúng Puni, Giang Phong đều chấp thuận. Dân bản địa Lã Tống còn lạc hậu nên cần chỉnh đốn, còn dân Puni thì không cần. Nhìn Mã Tà tướng quân, nghĩ đến tên gọi Mã Tà mà bọn Đinh An Bình gọi, Giang Phong khẽ cười, phán :

- Cải tên ngươi thành Mã Tân, phong làm Phó đô đốc Nam Dương Hạm đội, phụ tá cho An Bình.

Tên Mã Tân dễ nghe hơn Mã Tà. Dù sao sau này gã cũng trở thành thuộc hạ của Giang Phong. Còn phong cho gã làm Phó đô đốc là vì gã xem ra quen thủy chiến, phục vụ trong Hạm đội là hợp nhất. Tiếp đó, Định Hải Tướng quân Triệu Phong bước ra nói :

- Đại nhân. Số tù binh Puni nên giải quyết thế nào ạ ?

Giang Phong hỏi :

- Ý ngươi thế nào ?

Triệu Phong nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Bọn họ là người Puni, quen thuộc vùng này, có thể sung vào các đạo quân.

Giang Phong suy nghĩ một lúc, phán :

- Phân cho Định Hải nhất sư và Định Hải nhị sư mỗi sư 1.000 người, lấy lại số tân binh tương ứng từ hai sư đó, hợp với số quân Puni còn lại, tuyển thêm người bổ sung vào cho đủ 5.000, thành lập một đạo quân mới.

Theo mệnh lệnh mới này của Giang Phong, biên chế mới của Định Hải nhất sư và Định Hải nhị sư đã trở thành 1 phần Puni, 4 phần Lã Tống và 5 phần Đại Việt. Kết cấu như thế tương đối ổn định. Dù sao cũng phải sử dụng người bản địa, chứ Giang Phong không thể tuyển quân toàn là người Đại Việt được.

Giang Phong lại bảo :

- Ổn định tiểu quốc Puni xong, lập tức công chiếm các tiểu quốc lân cận, kiểm soát toàn đảo Puni cho ta.

Đảo Puni, tức Kalimantan, dù rất lớn, nhưng các tiểu quốc thuộc Majapahit chỉ nằm men theo bờ biển phía tây và phía nam. Những vùng còn lại tình hình không khác gì Lã Tống. Chỉ cần công chiếm các tiểu quốc đó, phần còn lại rất dễ xử lý. Kinh nghiệm ở Lã Tống có thể mang sang áp dụng ở đó.

Sau đó, bọn Triệu Phong, Đinh An Bình dẫn theo Mã Tân tướng quân xuất chinh Puni. Hạm đội xuất chinh lần này gồm 2 tuần hạm (tức mã thuyền), 5 vận hạm (tức lương thuyền), 15 quân hạm (tức tọa thuyền) và 15 chiến hạm; chở theo Định Hải nhất sư 1 vạn người. Lực lượng như thế là rất hùng hậu. Giang Phong chỉ giữ lại 5 chiến hạm bảo vệ vùng vịnh An Phú.

Hạm đội tiến về phía nam, mất hơn 8 ngày thì đến được ngoài khơi Puni. Đô đốc Đinh An Bình phái ba chiến hạm rời Hạm đội tiến vào gần bến cảng. Khi thấy các chiến hạm tiến đến gần, trên bờ lập tức hỗn loạn. Nhưng rồi dưới sự chỉ huy của tiểu vương, thủ quân nhanh chóng ổn định tình hình, chuẩn bị ứng chiến. Nhiều người khỏe mạnh trong số dân chúng cũng bị trưng tập vào quân đội. Một số thương nhân giàu có mở kho đóng góp lương thực khí giới. Cả tiểu vương và thương nhân hầu như chung sức chống giặc. Trong hoàn cảnh đó, bọn họ cũng tụ tập được gần 2.000 binh lính, đương nhiên đại đa số là tân binh, mới mấy giờ trước còn là dân chúng bình thường, khả năng chiến đấu rất đáng nghi ngờ.

Ba chiến hạm diễu võ giương oai bên ngoài bến cảng một lúc, khi nhìn thấy thủ quân trên bờ đã tụ tập hoàn tất, bố trí xong xuôi, liền rút lui ra ngoài khơi. Thủ quân trên bờ đều thở phào nhẹ nhõm, nghĩ rằng địch quân thấy khó nên đã rút lui rồi.

Chương 23 : CHIẾM LĨNH PUNI

Lại nói, khi Hạm đội tiến đến ngoài khơi Puni, bọn Đinh An Bình không tấn công ngay mà cho ba chiến hạm vào đánh động thủ quân, mục đích là thúc đẩy tính tích cực của đối phương. Bọn họ đều không muốn tiểu quốc Puni không chiến mà hàng. Như thế không hợp với kế hoạch.

Sau khi nghe tin hồi báo, Đinh An Bình truyền lệnh cho Hạm đội toàn thể tiền tiến. Khi cả Hạm đội dàn hàng ngang bên ngoài bờ biển, thủ quân và dân chúng trên bờ chấn kinh không sao kể siết. Nhìn những chiến hạm khổng lồ ngoài khơi, không ai là không lạnh người. Liền sau đó, không để cho thủ quân có nhiều thời gian chuẩn bị, kỳ hiệu lay động ra lệnh tấn công. Xạ thủ trên các chiến hạm lập tức khai hỏa, dùng đại pháo oanh kích các vị trí phòng thủ của thủ quân trên bờ lẫn các kiến trúc trên bến cảng. Khi thủ quân kinh hoàng tháo lui vào trong, các chiến hạm lại tiến sâu vào, mở rộng phạm vi oanh kích. Một số đạn pháo thậm chí còn bắn đến tận thành thị phía trong, làm cho dân chúng ở đó tháo chạy cuống cuồng.

Sau một trận oanh kích đánh tan tuyến phòng ngự của thủ quân, các vận hạm và quân hạm cập vào bến cảng, đổ quân lên bờ. Một vạn quân Định Hải nhất sư dưới sự thống suất trực tiếp của Triệu Phong tiến vào thành Puni, triển khai việc truy kích thủ quân và bắt giữ những kẻ chống đối. Trước lực lượng hùng hậu của đối phương, thủ quân Puni sau một lúc đề kháng đều hạ khí giới đầu hàng. Ai cũng thấy trận chiến này hoàn toàn không có huyền niệm gì, nên cũng không muốn chống cự. Trước đây thần phục Majapahit ở Java, nay đổi người thống trị mới, xem có vẻ còn hùng mạnh hơn, cũng chẳng có chuyện gì đáng phải bàn cãi.

Triệu Phong cho quân vây bắt tất cả những kẻ chống đối, tức là tiểu vương Puni cùng thần thuộc và các thương nhân đã cùng góp sức thành lập đạo thủ quân lâm thời kia; sau đó cho trảm thủ tất cả, tài sản sung công. Thế là, gần như toàn bộ quý tộc và đại bộ phận thương nhân ở Puni bị giết. Đại bộ phận tài sản của Puni đều được sung công. Tài sản của cải ở Puni chủ yếu nằm trong tay giới quý tộc và thương nhân giàu có, còn dân chúng bình thường chẳng có bao nhiêu tài sản. Bọn Đinh An Bình và Triệu Phong cho ba chiến hạm vào trước đánh động, là để những kẻ đó có thời gian tổ chức quân đội chống cự. Có như thế mới có cớ xử lý bọn họ, sung công tài sản chứ. Còn dân thường đều được tha. Tiểu quốc không còn quý tộc bản địa mới dễ thống trị.

Tiếp đó, Triệu Phong giữ lại 1.000 quân bình định Puni. Số còn lại theo Hạm đội tiến sang các tiểu quốc lân cận. Hạm đội chia ra một số vận thuyền, áp giải tù binh và chiến lợi phẩm về An Phú Thành. Trận chiến này dễ dàng và nhanh chóng, chưa hết một ngày là đã giải quyết xong thành Puni, chỉ còn dành thời gian chiêu nạp các làng ở xa hơn mà thôi.

An Phú Thành.

Sau khi chiếm lĩnh tiểu quốc Puni, bộ máy chính quyền ở An Phú Thành lại phải hoạt động hết công suất. Số vàng bạc châu báu chiến lợi phẩm chở về làm Ngân khố của Giang Phong tăng gấp bội. Trải qua mấy trăm năm tích trữ, tài sản của tiểu quốc Puni thật khả quan. Ngoài ra, số tù binh Puni cũng cần phải an bài. Những người này vốn không phải là quân binh, nên Giang Phong không có ý cho gia nhập quân đội. Mà cũng không thể tùy tiện thả bọn họ ra. Có sẵn khổ công miễn phí lẽ nào lại không sử dụng. Giang Phong chỉ hứa xá miễn cho dân thường Puni chứ không phải tù binh. Những kẻ này không thuộc đối tượng được xá miễn, và được đưa đến An Hiệp trấn làm khổ công ở các mỏ quặng.

Đồng thời Thương mại Tổng quản Cát Ti cũng thống suất các thương đội xuống vùng Puni tiếp quản các thương thuyền của những thương nhân chống đối đã bị xử lý. Tài sản của cải thì đã được chở về An Phú Thành, nhưng các thương thuyền, hàng hóa và nhân viên của bọn họ vẫn còn lại ở đấy, giờ đây cũng được sung vào các thương đội của Giang Phong, do Cát Ti quản lý. Cát Ti giờ đây quản lý hàng trăm thương thuyền, hàng nghìn thương nhân, phải nói là vị cao quyền trọng.

Cách An Phú Thành không xa là Lâm Hải Hồ. Hồ có hình như chữ W, rộng khoảng 950 kilômét vuông. Bên trong hồ lại có một hòn đảo lớn, rộng khoảng 50 kilômét vuông, được Giang Phong đặt tên là Lâm Đảo (tên thật là Talim). Hiện tại, hòn đảo đã trở thành cấm địa, được bảo vệ nghiêm ngặt. Người bình thường không được đến gần. Trên đảo có các công xưởng quan trọng của Giang Phong. Một bộ phận của Thái Học Viện cũng được xây dựng ở đó, chuyên thử nghiệm các nghiên cứu của Thái Học Viện.

Hôm nay, Giang Phong đi thị sát ở đó. Chúng thuật sĩ, giờ là Thái học sinh, thay phiên nhau giới thiệu với Giang Phong những thành tựu nghiên cứu của bọn họ. Những cải tiến về kỹ thuật gốm sứ và tơ lụa khiến Giang Phong rất hài lòng. Còn các nghiên cứu cải tiến thần công đại pháo tuy cũng có tiến triển nhưng không được như Giang Phong mong đợi. Hỏa dược đã khá hơn. Nhờ sự gợi ý của Giang Phong, các thuật sĩ – Thái học sinh sau nhiều lần thử nghiệm đã tìm ra công thức pha chế hỏa dược tốt nhất. Nhưng kỹ thuật chế pháo lại không theo kịp. Súng thần công thời này cũng chỉ là một ống sắt dài, bắn đi những viên đạn pháo bằng sắt tròn và đặc, do quá nặng, chỉ thích hợp đặt trên hạm thuyền, sử dụng trong hải chiến và công phá các thành thị gần sông biển. Vậy mà đó đã là kỹ thuật đúc thần công đại pháo tiên tiến nhất lúc bấy giờ, do Hồ Nguyên Trừng sáng chế. Hiện tại, kỹ thuật đúc thần công đại pháo của Đại Việt tiên tiến hơn Minh triều. Theo Lê Quý Đôn chép trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’, súng thần công thời Hồ có 3 loại : súng lớn đặt trên lưng voi, súng vừa hai người khiêng, súng nhỏ vác vai. Sau này nhà Hồ bại trận, cha con Hồ Quý Ly bị bắt, nhà Minh đã đưa Hồ Nguyên Trừng về đúc súng cho họ, và được người Tàu tôn xưng là ông tổ súng thần công.

Giang Phong vẫn chưa hài lòng với kết quả hiện tại. Khảo sát một lượt, Giang Phong hỏi nhóm thuật sĩ chuyên nghiên cứu cải tiến thần công đại pháo :

- Nghiên cứu Khai hoa đạn có tiến triển gì không ?

Khai hoa đạn tức là loại đạn pháo khi bắn đến mục tiêu sẽ vỡ tan ra từng mảnh, sát thương cao đối với bộ binh. Hiện tại thần công đại pháo chỉ bắn ra viên đạn sắt tròn và đặc, bắn trúng ai mới sát thương được người đó, đối bộ binh uy lực không đáng kể. Khi nghe Giang Phong hỏi, chúng thuật sĩ thở ngắn than dài nói :

- Hồi bẩm đại nhân. Khó quá ạ. Chúng thuộc hạ vẫn đang cố gắng, nhưng chưa thành công. Đạn thì có thể ‘khai hoa’ được. Chỉ cần sử dụng quả cầu rỗng, bên trong nhồi hỏa dược là xong. Nhưng có lúc nó nổ tung ngay trước họng thần công, gây thương vong cho xạ thủ, có lúc bắn đến mục tiêu mà vẫn chưa nổ. Do đó vẫn chưa ứng dụng vào quân đội được.

Giang Phong cũng biết việc này là khó, nên chỉ đành an ủi khích lệ chúng thuật sĩ, sau đó lại hỏi :

- Còn việc thu nhỏ thần công ra sao rồi ?

- Hồi bẩm đại nhân. Cũng có tiến triển khả quan, hiện đã thu nhỏ đến mức chỉ nặng 800 cân thôi ạ. Mọi người đang nghiên cứu gắn thêm bánh xe cho nó để dễ di chuyển.

1 cân = 16 lượng = 600 gam; 800 cân tương đương 480 kilôgam, so với các loại thần công thời trước là nhỏ rồi. Nghe nói Hồ Nguyên Trừng đã cải tiến thần công đại pháo, có thể cho binh lính khiêng đi được, Giang Phong đã phái người đi thám thính, nhưng vẫn chưa có kết quả. Để chuẩn bị chống quân Minh, nhà Hồ đã cho đúc rất nhiều súng thần công. Giang Phong lệnh cho bọn Quảng Tế Pháp sư ở Đại Việt tìm cách đưa dạng phẩm hoặc những người tham gia đúc súng về đây nghiên cứu.

Khảo sát xong nhóm nghiên cứu thần công và hỏa dược, Giang Phong đi đến một khu vực tách biệt với các khu còn lại. Ở đó chỉ có một tòa trang viện với hơn chục người sinh sống làm việc. Bọn họ là tổ nghiên cứu đặc biệt của Giang Phong. Chủ trì ở đây là Thạch Lang Pháp sư, cũng là một thầy pháp của người Mường giống như Quảng Tế Pháp sư. Có điều lão không giỏi quản lý sự vật, chỉ thông thạo về các loại thảo dược trên rừng núi. Giang Phong hỏi :

- Nghiên cứu thế nào rồi ?

Thạch Lang Pháp sư cung kính đáp :

- Hồi bẩm Đại nhân. Việc Đại nhân giao cho, thuộc hạ mới vừa hoàn thành. Đó cũng là nhờ có số thảo dược thu được từ các bộ lạc trong vùng. Ở xứ này có nhiều thảo dược độc đáo lắm ạ.

Giang Phong hỏi :

- Tác dụng của nó ra sao ?

Thạch Lang Pháp sư nói :

- Nó chậm phát tác, bị trúng xong phải ba ngày sau mới phát tác. Đến lúc đó kẻ trúng độc sẽ bị nôn mửa, chóng mặt, rồi mất dần sức lực, đi đứng không nổi nữa.

Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, rồi hỏi :

- Dễ bị phát hiện không ?

Thạch Lang Pháp sư nói :

- Nếu là thành phẩm thì có thể bị các thầy lang giỏi phát hiện. Còn nếu phân ra hai loại riêng biệt thì rất khó phát hiện. Hơn nữa, đây là loại thảo dược chỉ có ở Lã Tống, không quen với nó thì càng khó phát hiện. Thuộc hạ nghĩ, chỉ cần chế thành hai loại bán thành phẩm, một loại cho vào thức ăn, một loại cho vào nước uống, sẽ rất khó bị phát hiện. Khi địch nhân vừa ăn vừa uống thì sẽ trúng độc.

Giang Phong gật đầu nói :

- Chế thật nhiều, ít nhất cũng phải đủ dùng cho ba vạn người. Chậm nhất sang năm phải xong.

Sang năm là năm 1405, Giang Phong sẽ phải sử dụng đến nó.

Chương 24 : THÀNH LẬP QUẬN HUYỆN

Năm Giáp Thân (1404), mùa xuân, An Phú Thành.

Đoàn thuyền từ Tư Dung lại cập cảng, mang theo phần tài sản cuối cùng của Giang Phong ở Hải Tân và Tư Dung sang đây. Vì thế, Quảng Tế Pháp sư cũng theo sang đây để quản lý nội vụ cho Giang Phong. Ngoài vật tư, lão còn đưa sang đây 5.000 binh sĩ mới chiêu mộ ở Đại Việt theo lệnh của Giang Phong. Số binh sĩ này sẽ hợp với đạo quân 5.000 người mới thành lập, để hình thành Định Hải tam sư. Khi đó, Định Hải tam sư sẽ phụ trách phòng thủ Lã Tống, còn Định Hải nhị sư sẽ xuống đảo Puni giúp Định Hải nhất sư bình định nơi đó. Đảo Puni quá lớn, 1 vạn quân xem ra không đủ.

Ngoài ra, đoàn thuyền còn chở đến một số súng thần công kiểu mới của Đại Việt do Hồ Nguyên Trừng cải tiến, trong đó chủ yếu là loại nhỏ hai người khiêng hoặc một người vác vai. Giang Phong lập tức cho đưa đến Thái Học Viện để chúng thuật sĩ nghiên cứu. Kỹ thuật đúc súng thần công thì hiện tại bọn Giang Phong không bằng Hồ Nguyên Trừng, nhưng kỹ thuật điều chế hỏa dược thì tiên tiến hơn nhiều. Kết hợp cả hai lại, kết quả chắc chắn khả quan.

Hiện tại, vùng duyên hải đảo Puni cơ bản đã bình định xong. Định Hải quân đang tiến dần vào trong nội địa, chiêu an các bộ lạc. Do đảo quá rộng lớn, Giang Phong sử dụng phương thức ôn hòa hơn so với Lã Tống, đại quân chiêu an trước, nếu bộ lạc đồng ý quy thuận thì cho biên hộ tịch, rồi để tù trưởng tiếp tục quản lý như trước, Giang Phong chỉ phái người mỗi năm đến thu thuế mà thôi. Còn nếu chống cự, đương nhiên không cần nương tay làm gì, đại quân tràn vào, bộ lạc xóa sổ, tù trưởng và quý tộc đồng loạt trảm thủ, tài sản toàn bộ tịch biên, cư dân đưa đi làm khổ công.

Tù binh và khổ công từ đảo Puni được chuyển về Lã Tống khai thác mỏ quặng. Trong khi đó, dân bản địa của Lã Tống lại được chuyển một phần đến vùng duyên hải đảo Puni hình thành nên các khu định cư dọc theo vùng duyên hải. Giang Phong cho xáo trộn cư dân, dù tốn kém một chút, nhưng sẽ dễ quản lý hơn. Tại đó, các thành thị lớn nhỏ được dựng lên, lớn thì có vài vạn dân, nhỏ thì chỉ hơn nghìn người. Bên trong thành thị, ngoài khu dân cư còn có một số công xưởng, chuyên sản xuất các mặt hàng gia dụng, để cung cấp cho các bộ lạc trong vùng. Các thành thị này sẽ dùng hàng gia dụng sản xuất tại đó trao đổi với các bộ lạc lấy sản vật của họ, rồi mang bán lại cho các thương đội do Cát Ti quản lý. Những sinh ý này đủ để giúp các thành thị trở nên sung túc. Giang Phong cũng sử dụng những thành thị đó để khống chế cục diện đảo Puni.

Thái An Cung, Tĩnh Tâm Lâu.

Đó là một lâu các ba tầng phía sau Kính Thiên Điện, là nơi Giang Phong thư giãn cũng như khi cần suy nghĩ công việc. Lúc này, Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư, Triệu Phong, Đinh An Bình và Cát Ti đang ngồi quanh một chiếc bàn lớn, trên bàn có một bức ‘Đông Dương Hải Đồ’. Đó là những thủ hạ thân tín nhất của Giang Phong lúc này. Bức hải đồ trên bàn không phải là bức hải đồ do Giang Phong vẽ trước kia, mà là dựa trên đó, bọn Cát Ti mất mấy năm khảo sát địa hình phương vật, rồi vẽ lại, chi tiết hơn và cũng có độ chính xác cao hơn. Nhờ dựa trên bức hải đồ do Giang Phong vẽ, nên bức hải đồ này trông gần giống với các bản đồ thời hiện đại (chỉ thiếu kinh tuyến, vĩ tuyến và độ chính xác không cao lắm); so với các bản đồ do các triều đình phong kiến vẽ, khác nhau một trời một vực. Giang Phong nhớ rằng bức Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ vẽ vào khoảng giữa thế kỷ 19, thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, thật sự nhìn không ra làm sao cả.

Bọn Giang Phong đang bàn bạc phân chia đơn vị hành chính cho khu vực kiểm soát hiện tại. Địa bàn đã quá lớn rồi, không thể tiếp tục cai trị bằng các mệnh lệnh của An Phú Thành như trước nữa. Cần phân chia hành chính và có luật lệ cai trị rõ ràng.

Quảng Tế Pháp sư kiến nghị :

- Đại nhân. Chúng ta nên chia thành các trấn, phủ, huyện như ở Đại Việt.

Triệu Phong nói :

- Đại nhân. Nên chia thành tỉnh, phủ, huyện đi.

Quảng Tế Pháp sư thì chủ trương phân chia các đơn vị hành chính theo kiểu Đại Việt, còn Triệu Phong thì muốn phân chia theo kiểu nước Tàu, vì không ưa Hồ Quý Ly. Thật ra hai kiểu trên chỉ khác nhau ở cấp thứ nhất là trấn hay tỉnh mà thôi, chứ về cơ bản thì cũng giống nhau. Cát Ti và Đinh An Bình thì không có ý kiến. Giang Phong suy nghĩ một lúc, phán :

- Khôi phục cổ chế, thiết lập quận huyện.

Đành rằng tỉnh, phủ, huyện thì giống với các triều đại sau này, nhưng Giang Phong không muốn sử dụng, bởi nó giống với các đơn vị hành chính của nước Tàu lúc bấy giờ. Minh triều chia nước Tàu thành hai kinh, mười ba tỉnh; dưới nữa gồm 140 phủ, 193 châu, 1138 huyện (châu và phủ ngang cấp nhau, châu thiết lập ở vùng rừng núi, những nơi hẻo lánh). ‘Tỉnh, phủ, huyện’ là phân cấp hành chính đặc trưng của nước Tàu; đến thời hiện đại cải thành ‘tỉnh, thị, huyện’, về cơ bản cũng giống nhau.

Nghe Giang Phong quyết định thiết lập quận huyện, Triệu Phong hỏi :

- Đại nhân. Vậy trên quận có thiết lập châu không ?

Thời Hán, một số quận hợp lại thành châu, lập thứ sử. Nhưng châu lại không phải là đơn vị hành chính chính thức, thứ sử chỉ có trách nhiệm giám sát các thái thú (cai quản các quận), chứ không phải là cấp trên của thái thú. Thứ sử lãnh lương 600 thạch mỗi năm, trong khi lương của thái thú là 2.000 thạch, mà thời xưa, lương càng cao tức là chức càng lớn. Giang Phong lại không muốn lập châu, nên suy nghĩ giây lát, rồi nói :

- Trên lập tỉnh, dưới đến quận, rồi đến huyện. Dưới huyện là các thôn làng. Cấp tỉnh đặt Chính vụ, Trị an, Tư pháp Tam ty; quận đặt Tam sở; huyện đặt Tam ban.

Giang Phong phân luôn hành chính, quân sự và tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp huyện. Kiểu hành chính đã được quyết định, giờ đến lượt phân chia địa giới hành chính. Giang Phong dùng bút vạch trên bản đồ, chia đảo Lã Tống làm hai, nói :

- Phía bắc là Lã Tống tỉnh, phía nam là An Phú tỉnh.

Lã Tống tức là đảo Luzong, diện tích 104.688 kilômét vuông, bị Giang Phong chia đôi, mỗi tỉnh khoảng hơn 5 vạn. Phần An Phú có vẻ nhỏ hơn một chút, nhưng có An Phú Thành phồn vinh đông đúc. Các đảo nằm ngoài khơi tỉnh nào cũng sẽ do tỉnh đó quản lý, tính ra mỗi tỉnh cũng gần 6 vạn. Tiếp đó, Giang Phong lại khoanh các hòn đảo bên dưới An Phú, nói :

- Khu vực các đảo phía nam An Phú thiết lập Nam An tỉnh.

Khu vực này chính là các đảo Visayas, diện tích 61.077 kilômét vuông. Tiếp đó là nhóm các hòn đảo Mindanao nổi tiếng ở phía nam, diện tích 128.110 kilômét vuông (đảo chính gần 10 vạn), lại bị Giang Phong cắt làm đôi, mỗi phần hơn 6 vạn kilômét vuông, nói :

- Phía tây là Định An tỉnh, phía đông là Hòa An tỉnh.

Đảo Puni, tức Borneo hay Kalimantan, quá lớn, với một dãy núi có đỉnh cao hơn 4.000 mét ở trung tâm; tổng diện tích 743.330 kilômét vuông. Giang Phong suy nghĩ một hồi, rồi bắt đầu từ trung tâm, vẽ chín đường thẳng ra ngoài, phân chia đảo ra thành chín phần, mỗi phần đều có một vùng duyên hải. Bởi vì chỉ có vùng duyên hải mới có các khu định cư vừa được thành lập. Giang Phong phân chia làm sao để mỗi tỉnh đều có 1, 2 khu như thế. Còn chia làm chín bởi vì chín là số tốt.

- Đảo Puni chia thành chín tỉnh là : Puni, Hải An, Hải Châu, Hải Dương, Hải Đường, Hải Hưng, Hải Ninh, Hải Phú, Hải Thanh.

Tạm thời Giang Phong chỉ phân chia trên bản đồ như thế, còn phân chia trên thực tế là việc của bọn Quảng Tế Pháp sư. Giang Phong đương nhiên không thể nhớ chính xác diện tích các đảo, chia tỉnh chủ yếu căn cứ vào Đại Việt, phân chia sao cho mỗi tỉnh bằng khoảng một nửa Đại Việt lúc bấy giờ. Từ các tỉnh đã chia, bọn Quảng Tế Pháp sư sẽ tiến hành thiết lập quận huyện dựa vào các khu dân cư hiện tại. Chỉ có các khu dân cư do Giang Phong cho xây dựng mới có thể làm trị sở của các quận huyện, chứ chẳng lẽ đóng trị sở ở các bộ lạc mà lúc này vẫn còn lạc hậu. Đương nhiên, các khu định cư đó thường được xây dựng ở các cửa sông hay cảng biển, hoặc nếu nằm sâu trong nội địa thì sẽ kiến thiết bên cạnh các mỏ quặng, các nguồn tài nguyên quan trọng.

Giang Phong lại hỏi Cát Ti :

- Hiện tại việc khảo sát các đảo phía nam thế nào rồi ?

Hướng đạo đoàn chủ yếu là thương nhân, do đó Cát Ti cũng phụ trách chỉ huy việc khảo sát tình hình các nơi. Thương nhân rất dễ thiết lập quan hệ hữu hảo với các bộ lạc trong vùng, do đó tiện cho việc khảo sát. Việc này đã thực hiện mấy năm nay rồi. Nghe hỏi, Cát Ti cung kính nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Các đảo vùng Java, Sula, Sumatra, bán đảo Mã Lai đã cơ bản hoàn thành. Chỉ có khu vực Maluku và Timor vì quá xa và nhiều đảo nhỏ nên vẫn chưa xong.

Giang Phong lại nói :

- Trọng điểm sắp tới là vùng Chân Lạp và bán đảo Mã Lai.

Cát Ti vâng dạ nói :

- Đại nhân. Hai vùng trên không vấn đề gì.

Chương 25 : TIẾN QUÂN GIA ĐỊNH (1)

Lại nói, nghe Cát Ti bảo vùng Chân Lạp và bán đảo Mã Lai không vấn đề gì, Giang Phong hỏi :

- Khu vực đó hiện nay ra sao ?

Cát Ti ngẫm nghĩ một lúc mới đáp :

- Hồi bẩm Đại nhân. Nước Chân Lạp giờ đã cực kỳ suy yếu, mấy chục năm qua thường xuyên bị nước Thái bên cạnh tấn công. Nước Thái trước kia cũng là một bộ phận của Chân Lạp, sau tách ra độc lập và tấn công Chân Lạp, lấn chiếm dần đất đai. Chân Lạp hiện giờ vẫn đang cố bảo vệ kinh thành Angkor trong tuyệt vọng, không còn khả năng quản đến những vùng khác.

Chân Lạp chính là đế quốc Khmer, đóng đô ở Angkor với thành Angkor Wat nổi tiếng. Còn Thái chính là vương quốc Sukhothai tách ra độc lập từ đế quốc Khmer từ năm 1238, sau đó đến năm 1350 thì bị vương quốc Ayutthaya thay thế. Cả hai vương triều Sukhothai và Ayutthaya đều được gọi tắt là ‘Thái’, nghĩa trong tiếng Thái là ‘tự do’ (tên gọi Xiêm La chỉ có chính thức từ thời vương triều Chakri năm 1782, được sử dụng đến năm 1939, sau đó sử dụng một giai đoạn ngắn nữa 1945 – 1949), và đều đã từng chiếm lĩnh Chân Lạp nhiều năm liền, nhưng rồi lại bị đánh lui. Đến năm 1431, Angkor bị Ayutthaya chiếm lĩnh, đế quốc Khmer diệt vong. Một bộ phận còn lại ở phía nam xây dựng kinh đô mới tại khu vực mà ngày nay là Phnom Pênh, trở thành vương quốc Khmer nhỏ yếu.

Cát Ti lại nói tiếp :

- Còn ở bán đảo Mã Lai hiện nay vừa hình thành tiểu quốc Malacca. Tiểu quốc này do một vị vương tử của vương quốc Srivijaya bên Sumatra thành lập sau khi Srivijaya bị Majapahit ở Java tiêu diệt. Tiểu quốc Malacca này tuy mới thành lập, nhưng thế lực phát triển rất nhanh, lấn chiếm dần các tiểu quốc lân cận. Nghe nói vị tiểu vương này có mộng tưởng thành lập vương quốc và đối kháng với Majapahit.

Mọi người đều phì cười, cho rằng đó là mộng tưởng viễn vông, không nói đến bọn Giang Phong, chỉ riêng vương triều Majapahit ở Java đã là một bàng nhiên đại vật rồi, cả vương triều Srivijaya ở Sumatra còn bị bọn họ chiếm lĩnh, đừng nói chi một tiểu quốc bé nhỏ ở Malacca. Nhưng Giang Phong biết rằng mộng tưởng đó sẽ thành hiện thực, bởi trong lịch sử có tồn tại vương triều Malacca cùng vương triều ở Java phân đình kháng lễ cho đến khi thực dân ở châu Âu đến đây.

Triệu Phong nghe Giang Phong hỏi Cát Ti tình hình Chân Lạp và bán đảo Mã Lai, biết ngay lại có cơ hội chinh chiến, liền hỏi :

- Đại nhân. Khi nào sẽ xuất quân chiếm lĩnh hai xứ đó ạ ?

Giang Phong nói :

- Khi nào Puni an định sẽ xuất quân.

Triệu Phong nói :

- Đại nhân. Hiện tại Puni đã an định rất nhiều rồi. Nhìn thấy hậu quả của các bộ lạc chống đối, phần lớn các bộ lạc ở đó đều chịu chiêu an. Để lại 1 vạn Định Hải nhị sư cũng đủ giải quyết tàn dư còn lại. Chúng ta có thể điều Định Hải nhất sư xuất quân công chiếm một trong hai xứ đó.

Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi chỉ vào một khu vực trên Đông Dương Hải Đồ, nói :

- Vậy hãy công chiếm khu vực này, thiết lập Gia Định tỉnh.

Khu vực mà Giang Phong chỉ đó chính là vùng miền Đông và miền Tây Nam Bộ của Việt Nam ngày nay, thời Nguyễn thiết lập Gia Định Thành, cai quản phần Nam Kỳ lục tỉnh. Khu vực này Giang Phong rất quen thuộc (không quen sao được), tổng diện tích hơn 60.000 kilômét vuông, đủ để thành lập một tỉnh. Triệu Phong nhìn khu vực đó, hoan hỉ nói :

- Toàn là vùng duyên hải. Đại nhân an tâm. Chỉ cần nửa năm là thuộc hạ sẽ bình định được khu vực đó.

Khái niệm bình định của bọn Giang Phong không phải là kiểm soát đến từng thôn làng, từng vùng đất, mà chủ yếu là kiểm soát những vị trí quan trọng, từ đó khống chế các vùng phụ cận, chiêu an các thôn làng trong vùng. Khi nào có chống đối mới xuất quân đánh dẹp. Dù sao thì bọn Giang Phong cũng không đủ người để phái xuống kiểm soát từng thôn làng. Chỉ cần dân bản địa không chống đối là có thể yên ổn sinh sống như trước đây. Hơn nữa, nhờ bọn Giang Phong đến nơi, dẫn theo các thương đội, hoàn cảnh sinh hoạt của dân bản địa còn có phần được cải thiện. Giang Phong rất chú ý việc này, bởi chủ trương trọng thương. Dễ thấy nhất là vùng Puni, các khu dân cư do Giang Phong xây dựng đã thu hút rất nhiều dân bản địa bỏ bộ lạc ra đấy sinh sống, tìm việc làm trong các công xưởng. Một số bộ lạc ở lân cận cũng kéo cả bộ lạc ra lập làng gần đó. Còn bản thân khu dân cư thì thành một khu chợ lớn để các bộ lạc trong vùng đến mua bán trao đổi hàng hóa. Nhờ vậy mà đảo Puni rộng lớn chỉ mất vài tháng là cơ bản ổn định. Riêng vùng Lã Tống, do các tù trưởng và quý tộc của các bộ lạc đều đã bị bọn Triệu Phong xử lý hết, nên dân chúng đều trở thành thuận dân và chịu sự quản lý trực tiếp của An Phú Thành.

Căn cứ vào trí nhớ, Giang Phong chỉ định một số địa điểm cần kiểm soát là Gia Định (Sài Gòn), Định Tường (Long An), Biên Hòa, Vĩnh Long, Hà Tiên, An Giang (Châu Đốc). Đó cũng chính là Nam Kỳ lục tỉnh sau này, giờ được Giang Phong đặt làm 6 quận thuộc tỉnh Gia Định. Khu vực Vũng Tàu đáng ra cũng là một vị trí chiến lược, chỉ đáng tiếc ở đó không có đủ nước ngọt để xây dựng thành một thành thị lớn. Cho quân đóng đồn ở đó hoặc xây dựng một khu dân cư nhỏ thì được.

Giang Phong lại bảo Quảng Tế Pháp sư :

- Tăng cường tích trữ sắt thép và thạch nê đủ để xây dựng 6 thành thị ở Gia Định, lần này kiến thành ở nội lục, chúng ta cần phải xây dựng thành tường.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Đại nhân. Như thế thì phải mở rộng các công xưởng, cần thêm nhiều khổ công nữa.

Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi bảo Đinh An Bình :

- Cắt ra một phần hạm đội, lấy thêm 3.000 quân của Định Hải tam sư xuất chinh Sula, bắt tù binh về làm khổ công.

Đinh An Bình vâng dạ. Triệu Phong nói :

- Đại nhân. Hay là thuộc hạ ưu tiên chiếm một vài cứ điểm trước, kiến thiết xong nơi đó rồi sẽ mở rộng ra xung quanh.

Giang Phong chợt nhớ đến ở Hà Tiên có nhiều núi đá vôi có thể sản xuất thạch nê, liền gật đầu nói :

- Vậy chiếm lĩnh Gia Định và Hà Tiên trước, sau đó từ Gia Định mở sang Định Tường và Biên Hòa, từ Hà Tiên mở sang Vĩnh Long và An Giang. Ở Hà Tiên có thể xây dựng các công xưởng sản xuất thạch nê lớn. Sản xuất tại chỗ thì đỡ mất công vận chuyển từ An Phú sang.

Đất sét để sản xuất gạch ngói thì xứ nào cũng không thiếu, không cần phải lo. Xây dựng một lò nung gạch ngói cũng chỉ mất ít ngày thôi. Bàn bạc chi tiết xong, mọi người cáo lui đi lo phần việc của mình. Giang Phong gọi Quảng Tế Pháp sư lại, bảo :

- Lã Tống có rất nhiều mỏ vàng bạc. Cần mở rộng khai thác.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, rồi hỏi :

- Thuộc hạ sang đây, xem tình trạng An Phú Thành, dường như Đại nhân không định ở đây lâu dài.

Lão có cảm giác An Phú Thành cũng sẽ giống như Thánh sơn và Tư Dung hành doanh, Giang Phong chỉ ở tạm thời. Giang Phong mỉm cười nói :

- Ta sẽ đóng đô tại Gia Định. Nơi đó nằm gần tuyến giao thương, lại ở trong nội lục, tiện phát triển hơn. Ngươi hãy chuẩn bị, khi bình định xong xứ đó, ta sẽ cho di chuyển sang đó 5 vạn hộ, chủ yếu lấy dân từ Lã Tống và Puni, kiến thiết Gia Định Thành.

Quảng Tế Pháp sư nghe Giang Phong nói đến đóng đô, hưng phấn nói :

- Đại nhân định kiến quốc. Thế thì tốt quá. Thuộc hạ phải chuẩn bị mới được.

Giang Phong mỉm cười bảo :

- Chuyện kiến quốc hãy còn sớm. Trước tiên phải lo xây dựng Gia Định Thành cho thật rộng lớn huy hoàng đã. Ta muốn rằng so với Gia Định Thành, đừng nói là Thăng Long, ngay cả Kim Lăng Thành của Minh triều cũng sẽ không bằng.

Giang Phong không nhắc đến Bắc Kinh, bởi lúc này nó chưa thành kinh đô. Minh Thành Tổ Chu Lệ xây dựng Bắc Kinh làm kinh đô cũng là chuyện của vài năm nữa, mãi đến năm 1420 mới xây xong và dời đô lên đó. Giang Phong quyết tâm xây dựng Gia Định Thành có quy mô thật to lớn, đương nhiên chỉ về quy mô thôi, chứ không so về sự tráng lệ; Giang Phong không định phung phí tiền của cho việc đó. Xây dựng cung điện thì không mất bao nhiêu tiền của, nhất là có sử dụng thạch nê và sắt thép, nhưng trang hoàng bằng kỳ hoa dị thảo, hay các công trình điêu khắc công phu mới tốn công tốn của. Giang Phong không cần những thứ chỉ để nhìn ngắm đó.

Đang nói chuyện, Giang Phong chợt cảm thấy trong người có gì đó khác lạ, liền cho Quảng Tế Pháp sư lui ra. Trước giờ Giang Phong thỉnh thoảng vẫn có cảm giác như thế, nhưng khi y sư kiểm tra thì không phát hiện có bệnh tật gì. Có điều lần này cảm giác trở nên rõ ràng hơn. Giang Phong tĩnh tâm định thần, cố tìm xem cảm giác đó là gì, nếu phát hiện được nguyên nhân thì càng tốt.

Chương 26 : TIẾN QUÂN GIA ĐỊNH (2)

Lại nói, Giang Phong cảm thấy trong người có gì đó khác lạ, liền tĩnh tâm định thần, cố tìm xem cảm giác đó là gì. Sau một hồi lâu, Giang Phong chợt cảm thấy nơi bụng nóng dần lên. Cái gì thế nhỉ ? Chăm chú theo dõi cả nửa ngày, Giang Phong mới cảm giác được dường như có một khối khí nóng di chuyển bên trong bụng. Tình tiết này có vẻ rất quen. À phải rồi, nội lực chăng ? Trong các truyện võ hiệp hay xuất hiện tình tiết này. Chẳng lẽ vô tình ăn phải kỳ trân dị bảo gì đó nên có được nội lực chăng ? Không lẽ nào ? Việc ăn uống của Giang Phong được chúng thủ hạ lo liệu kỹ lắm mà. Dù sao cũng phải thử mới được.

Nghĩ gì là làm ngay, Giang Phong gọi chúng thủ hạ đến phân phó công việc, rồi bế quan. Trước đó không quên mang theo các bản đồ kinh mạch huyệt đạo và các sách y học. Giang Phong vốn không rành mấy thứ này, cần có sẵn sách vở để nghiên cứu.

Nhớ lại xem, các cao thủ thường dẫn nội lực vào các kinh mạch, xung phá huyệt đạo. Giang Phong liền treo mấy bản đồ kinh mạch lên trước mặt, rồi tưởng tượng, đúng, tưởng tượng luồng khí nóng đi vào một mạch nào đó. Giang Phong không biết vận khí, cũng chẳng biết luyện công, chỉ có thể tưởng tượng thôi.

Tưởng tượng, rồi tưởng tượng, …

Ba tháng sau …

Giang Phong xuất quan, thần thái đã khác hẳn trước kia. Khác như thế nào ư ? Do Giang Phong bế quan suốt ba tháng, không đi đâu, nên nước da trở nên trắng trẻo hơn trước kia. Chỉ có vậy thôi. Trong quá trình ‘tu luyện’, Giang Phong chỉ tưởng tượng, rồi tưởng tượng, vậy mà không ngờ lại có hiệu quả. Luồng khí nóng đó cuối cùng cũng chịu theo ý nghĩ của Giang Phong mà vận chuyển theo các kinh mạch, dần dần xung phá các huyệt đạo, mỗi ngày một ít. Sau hai tháng công phu, luồng khí nóng đó đã đi hết một vòng kinh mạch, có lẽ đó là vận chuyển chu thiên trong võ học chăng ? Chỉ đáng tiếc, ở trong người Giang Phong, nó vận chuyển được một vòng lại mất đi một ít, và rồi đến giờ đã không còn tí nào nữa. Giang Phong rất ngạc nhiên, và cũng có hơi thất vọng. Theo trong truyện võ hiệp, đúng ra mỗi vận chuyển một vòng lại tăng thêm một ít mới phải chứ. Đằng này nó mất đi, mà cơ thể Giang Phong cũng chẳng thấy có gì thay đổi cả, trừ điều đã nói ở trên. Mà thôi, nó mất rồi thì sau này Giang Phong không cảm thấy khó chịu nữa. Thôi đành vậy. Dù trở thành võ lâm cao thủ, đối với Giang Phong cũng chẳng mấy ích lợi. Có vị quân chủ nào lại đi hành hiệp trượng nghĩa đâu. Thượng giả lao tâm, hạ giả lao lực. Giang Phong không cần đích thân làm gì cả. Nếu không, còn cần thủ hạ làm gì.

Và giờ đây, Giang Phong đã đoán được rằng luồng khí nóng trong người đó là hậu quả của quá trình xuyên việt. Ngoài ra, không còn cách giải thích hợp lý nào khác. Không biết nó có lợi hay có hại, mất đi lại càng tốt. Đỡ mất công lo lắng bất an.

Lúc này đã giữa mùa hạ. Khí hậu hải dương nên cũng không nóng lắm. Trong số các thủ hạ thân tín của Giang Phong, giờ chỉ còn lại Quảng Tế Pháp sư là có mặt ở An Phú Thành. Cát Ti thì lo chỉ huy các thương đội. Triệu Phong thì ở Gia Định. Đinh An Bình bận lo xuất chinh bắt tù binh về làm khổ công. Quảng Tế Pháp sư hay tin Giang Phong xuất quan, vội đến nghênh đón. Giang Phong nghe Quảng Tế Pháp sư báo cáo những việc xảy ra trong mấy tháng qua.

Đầu tiên là vấn đề Giang Phong quan tâm nhất, việc tiến quân Gia Định, Định Hải Tướng quân Triệu Phong hoàn thành trên cả mong đợi. Chỉ mất chưa đầy một tháng, kể cả thời gian di chuyển, Định Hải nhất sư đã bình định xong hai vùng Gia Định và Hà Tiên. Giang Phong có hơi ngạc nhiên về tốc độ, nhưng rồi cũng không lấy làm lạ, vì nhớ đến Nguyễn Hữu Cảnh chỉ suất lĩnh một toán quân vào bình định phương nam; và Mạc Cửu chỉ suất lĩnh vài nghìn quân dân, không những đã có thể kiểm soát toàn vùng Hà Tiên, mà lại còn giúp đỡ vua Chân Lạp chống giặc, được tặng thêm đất đai. Trong khi đó, Triệu Phong thống suất đến 1 vạn quân tinh nhuệ, có thêm một số chiến hạm của Nam Dương Hạm đội hỗ trợ, chiếm lĩnh các vùng bên cạnh sông, biển không thành vấn đề. Hiện tại bọn họ đang lo xây dựng quận trị tại nơi Giang Phong đã chỉ định. Quận trị Hà Tiên đóng ở gần các khu núi đá vôi, sau này sẽ là nơi đặt các công xưởng sản xuất thạch nê cung cấp cho toàn vùng, tức là khu vực Kiên Lương ngày nay. Còn quận trị Gia Định đóng ở một cù lao, cách không xa khu đồi mà Giang Phong định kiến tạo cung điện. Vị trí đó cũng tức là khu vực Quận 4 ngày nay, sẽ được Giang Phong cho xây dựng thành thương cảng. Ở đó, sau này có Cảng Sài Gòn rất phát đạt, Giang Phong không tin rằng Cảng Gia Định sẽ không phồn vinh.

Quảng Tế Pháp sư lo việc thiết lập quận huyện cho các tỉnh, giờ cũng đã xong. An Phú Tỉnh nhiều nhất, có 7 quận, 72 huyện. Lã Tống tỉnh có 5 quận 54 huyện. Các tỉnh còn lại cũng đều có từ 4 đến 6 quận, mỗi quận có từ 7 đến 12 huyện. Quảng Tế Pháp sư theo ý Giang Phong không chia các quận quá nhỏ. Các triều đại phong kiến chia Đại Việt thành tỉnh (hay lộ, trấn), phủ, huyện; mà trong đó mỗi tỉnh chỉ có 2, 3 phủ, mỗi phủ chỉ có 2, 3 huyện. Chia như thế có cấp phủ thật dư thừa. Dù là một tỉnh lớn, có đến 8, 9 huyện, chẳng lẽ quan tỉnh không quản lý nổi. Bên Tàu họ chia một tỉnh thành hơn chục phủ, hơn trăm huyện mà vẫn quản lý được đấy thôi. Chẳng lẽ quan lại bên Tàu giỏi hơn quan lại người Việt hay sao ? Nếu có quan viên nào quản lý không nổi, đó là vấn đề năng lực, Giang Phong sẽ cách chức và thay ngay. Hiện tại, kể luôn Gia Định tỉnh, bọn Giang Phong kiểm soát 15 tỉnh, tổng diện tích đất liền hơn 110 vạn kilômét vuông, dân số ước khoảng 500 vạn người; diện tích lãnh thổ gấp 10 Đại Việt, trong khi dân số chỉ gấp đôi, đúng là đất rộng người thưa.

Phân chia quận huyện, thiết lập quan chức, đương nhiên cũng phải có pháp luật kèm theo. Ngoài bộ ‘Hình luật’ dựa theo pháp luật của Đại Việt, bọn Quảng Tế Pháp sư còn dựa vào đề cương của Giang Phong mà cho ra ‘Thương luật’, ‘Công luật’, và ‘Thuế luật’. Tuy vẫn còn rất đơn giản, nhưng trước mắt cũng tạm đủ dùng. Luật thuế lại còn chia dân chúng thành ba loại đối tượng với các mức thuế suất khác nhau. Thần dân người nào có thể nói viết được ‘Thiên tự’ thì hưởng mức thuế thấp nhất; không nói được thì phải chịu mức thuế cao hơn. Ngoại kiều phải chịu mức thuế cao nhất, tương đương với mức thuế của các nước trong vùng. Giang Phong cho thực hiện giáo dục miễn phí, trường học được mở khắp nơi, ai không chịu học thì ráng chịu.

Đinh An Bình nhiều lần xuất chinh Sula, vùng duyên hải gần như bình định xong, giờ đây lại chuyển sang quần đảo Maluku bên cạnh. Do lực lượng không đủ nên bọn họ không tiến sâu vào nội địa. Số lượng khổ công ở Lã Tống đã tăng lên đến 10 vạn, bên Gia Định cũng có 3 vạn. Giang Phong cau mày nói :

- Khổ công nhiều như thế, sau này khi trả tự do, thu xếp việc làm cho bọn họ cũng mệt đấy.

Khổ công sau khi làm việc một thời gian, nếu thái độ tích cực sẽ được trả tự do, và còn được bố trí nơi ở và việc làm. Nhờ đó mà bọn họ ít chống đối, và đều hy vọng vào tương lai sẽ có cuộc sống khá hơn. Quảng Tế Pháp sư nói :

- Đại nhân. Bọn thuộc hạ đã đặt ra chính sách cho khổ công. Nếu làm việc đủ 3 năm, thái độ tích cực sẽ được trả tự do, được cấp nhà ở và tìm cho việc làm. Sau này chúng ta sẽ đưa bọn họ đi mở các khu định cư mới.

Giang Phong nói :

- Cung cấp vũ khí cho các quận huyện tự thành lập địa phương quân. Mỗi huyện 30, mỗi quận 200, mỗi tỉnh 1.000 chắc cũng đủ tự bảo rồi. Khi nào địa phương quân thành lập xong, để lại Định Hải tam sư một nửa trấn giữ Lã Tống, một nửa trấn giữ Puni. Còn Định Hải nhất sư và Định Hải nhị sư đều đưa đến Gia Định.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ. Giang Phong lại nói :

- Được rồi. Hãy chuẩn bị. Ta sẽ đến Gia Định.

Sau đó mấy ngày, Giang Phong lên Nam Dương Hạm đội đi sang Gia Định, đương nhiên Quảng Tế Pháp sư cũng đi theo. Lão là người quản lý các tài sản của Giang Phong. Đi trên chiến hạm, điều kiện sinh hoạt cũng rất tốt. Giang Phong chỉ không hài lòng tốc độ của nó. Thời hiện đại, các thuyền buồm còn chạy được 12 – 16 hải lý mỗi giờ; nhiều người đóng thuyền buồm theo đúng mô hình thời cổ, vẫn có thể chạy được 10 hải lý mỗi giờ; trong khi đó các chiến hạm của Nam Dương Hạm đội chỉ chạy được 7 – 10 kilômét mỗi giờ, chỉ nhanh hơn đi bộ một chút, nếu thuận gió hay dùng thêm chèo thì mới nhanh hơn. Do đó, đi từ An Phú sang Gia Định cũng phải mất hơn 8 ngày. Thái Học Viện đang nghiên cứu cải tiến theo lệnh của Giang Phong, nhưng tạm thời chưa có kết quả.

__________________

Chương 27 : GIA ĐỊNH THÀNH

Năm Ất Dậu (1405), mùa hạ. Gia Định Thành.

Đã một năm kể từ khi Giang Phong chuyển đại bản doanh đến nơi này. Sau hơn một năm kiến thiết không ngừng, Gia Định Thành giờ đây đã có dáng vẻ của một thành thị lớn và phồn vinh. Trong thành đường phố thẳng tắp, ngang dọc như bàn cờ, tất cả đều được trải thạch nê phẳng lì. Nhà cửa hai bên đường tuy cũng mái cong ngói đỏ, nhưng từ cột đến tường đều được xây dựng bằng gạch ngói và thạch nê, rất ít sử dụng đến gỗ. Các căn nhà trong một khu đều cùng một kiểu kiến trúc, thẳng tắp và đều đặn. Nhờ vậy mà phố xá trông rất đẹp. Tuy các thành thị và các khu định cư trong vùng kiểm soát của Giang Phong cũng được xây dựng theo kiểu này, nhưng Gia Định Thành có một điểm đặc biệt hơn, do được Giang Phong chọn làm nơi định đô, nên ở trung tâm có một tòa cung điện rất lớn, là nơi Giang Phong và chúng thủ hạ sống và làm việc.

Tòa cung điện được Giang Phong đặt tên theo ý thích, hoàn toàn không theo truyền thống đặt tên cung điện hoàng gia. Trước đây Thái An Cung, Kính Thiên Điện vẫn còn theo truyền thống, nhưng nay thì không. Giang Phong quyết tâm xây dựng một cung điện lớn nhất thế giới trong điều kiện có thể, nên tên gọi cũng đặc biệt.

Cung điện có tên là Trường Thanh Cung, ‘thanh’ trong ‘thanh phước’; khuôn viên vuông vức, mỗi cạnh dài 5 dặm (2 kilômét), xung quanh được xây một bức tường cao 2 trượng (8 mét), và bên ngoài là một vòng hào rộng 5 trượng, sâu 1 trượng. Chính môn hướng về phía nam, nhìn ra khu cảng, bên trên có lâu các, kỳ đài rất nguy nga đồ sộ, đây là Ngọ môn và cũng là bộ mặt của cung điện, không thể tùy tiện được.

Bên trong cung điện thì đơn giản hơn. Trên diện tích 4 kilômét vuông, tức 4 triệu mét vuông, Giang Phong cho xây dựng 1.000 tòa lâu các, điện đường, đình đài, viện lạc. Giang Phong ưa thích con số 1.000 này, bởi 1.000 là thiên (千), đồng âm với chữ thiên (天) nghĩa là trời. Tuy xây dựng nhiều kiến trúc như thế, nhưng trừ chính điện – Văn Nghi Điện – tất cả đều xây dựng đơn giản, không quá tinh mỹ xa hoa, chỉ cần nhìn vẻ ngoài nguy nga đồ sộ là được. Bằng cách sử dụng bê tông cốt thép, việc xây dựng các kiến trúc nguy nga đồ sộ (so với thời bấy giờ) cũng không quá khó khăn và tốn nhiều công sức. Phần còn lại của cung điện là hoa viên, trồng đủ loại cây cối có thể tìm được. Giang Phong không ưa kỳ hoa dị thảo, quý hiếm nhưng tốn kém và không ích lợi gì. Bên trong cung điện chủ yếu là vườn rừng. Các lao công đã đào cả một khu rừng gần đó di dời vào bên trong cung điện. Rừng cây làm cho cung điện thêm xanh mát và thoáng đãng. Những thứ cây cối có kiểu dáng kỳ lạ cũng được Giang Phong ưa thích, thứ này dễ kiếm và rẻ tiền hơn kỳ hoa dị thảo. Ngoài ra còn có một hồ nước lớn được đào thông với sông Trường Thanh (tức sông Sài Gòn; còn sông Nhà Bè, sông Đồng Nai gọi chung là sông Gia Định; Giang Phong không dùng chữ Sài Gòn, bởi Hán tự của nó là Tây Cống, nghe không hay).

Văn Nghi Điện là nơi lâm triều nghị sự, nên theo ý chúng thủ hạ, phải xây dựng thật to lớn và tráng lệ. Do đó, công trình đến giờ vẫn còn đang trong quá trình xây dựng. Những nơi khác đều đã xây dựng hoàn tất. Đã có hơn 2 vạn nhân công đã được huy động để xây dựng Trường Thanh Cung, mất gần một năm mới xong (trừ Văn Nghi Điện). Tuy khối lượng thi công lớn như thế, nhưng Giang Phong lại chẳng tốn kém bao nhiêu tiền. Gỗ đá, gạch ngói, thạch nê, sắt thép, các loại nguyên vật liệu vốn là của Giang Phong, tàu thuyền vận chuyển cũng của Giang Phong, lao động là khổ công, chỉ cần nuôi ăn nuôi ở, lương thực lại có sẵn, thành ra chẳng tốn kém là mấy, nếu không Giang Phong đã không cho xây dựng một công trình quy mô đến như vậy. Nên biết để xây dựng Gia Định Thành chỉ cần có 1 vạn nhân công.

Các kiến trúc hoàng gia thời bấy giờ rất ưa chuộng nguyên liệu là gỗ và đá, tuy đẹp, nhưng phải cưa xẻ, đục đẽo rất tốn công tốn sức. Muốn tìm một cây gỗ thích hợp, phải tìm kiếm rất nhiều trong rừng. Đặc biệt là đá, muốn đục đẽo một khối đá thành hình dạng như yêu cầu, sau đó ghép lại thành kiến trúc nào đó, mất rất nhiều công sức và thời gian. Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh tuy chỉ rộng 0,72 kilômét vuông, nhưng phải xây dựng đến 15 năm, huy động 100 vạn lao dịch; và tương truyền những người lên rừng tìm gỗ, mười phần không về được một. Giang Phong không dùng gỗ và đá, chỉ dùng gạch ngói, sắt thép, cần gì thì đổ bê tông, thành ra ít tốn công sức, tiến độ xây dựng rất nhanh.

Gia Định Thành giờ đây có 5 vạn hộ, khoảng 30 vạn cư dân, thêm 3 vạn khổ công, chiếm một diện tích ước 36 kilômét vuông, đã là một thành thị lớn. Trong thành có rất nhiều xưởng thủ công, ngoài các công xưởng sản xuất hàng cao cấp thuộc sở hữu của Giang Phong, còn có rất nhiều xưởng thuộc về cư dân trong thành. Một phần những xưởng này theo cư dân di dời từ An Phú Thành sang đây, một phần được xây dựng sau này. Các công xưởng giờ đây chỉ tập trung sản xuất các chủng loại hàng hóa cao cấp, tinh mỹ, chất lượng cao và đương nhiên cũng có giá trị cao. Còn những loại hàng hóa trung đẳng và phổ thông thì để lại cho cư dân. Các thợ khéo đều làm việc trong các công xưởng, bởi muốn tạo ra hàng hóa cao cấp, ngoài tay nghề giỏi còn cần phải có nguyên liệu cao cấp, thứ mà các xưởng thủ công của cư dân khó mà có được. Đa số thợ khéo là những người đã theo Giang Phong từ lâu, và từ thời Tư Dung hành doanh, bọn họ đã thuộc nhóm người giàu có.

Sản phẩm chủ yếu của Gia Định Thành là tơ lụa, gốm sứ, hàng mỹ nghệ, hương liệu, giấy (đặc biệt là giấy trầm, đặc sản của Đại Việt), nước hoa và son phấn (cũng là đặc sản của Đại Việt). Những thứ này không những có thị trường ở phương tây, mà còn được ưa chuộng ở cả phương bắc. Cảng Gia Định giờ đây còn sầm uất hơn cả cảng An Phú lúc trước, tăng thêm sự phồn vinh cho Gia Định Thành.

(chú : giấy trầm, son phấn cùng với ngà voi, sừng tê là những đặc sản của Đại Việt ngày xưa, từng nằm trong danh sách cống phẩm cho nước Tàu, đương nhiên son phấn ngày xưa không giống như son phấn thời hiện đại).

Thành Đức Điện.

Một tòa đại điện có quy mô gần bằng Văn Nghi Điện, giờ đây là nơi làm việc tạm thời của bọn Giang Phong. Như thường lệ, Giang Phong nghe chúng thủ hạ tấu báo sự việc. Giang Phong không chuyên cần chính sự như các hoàng đế thời xưa, mỗi ngày mỗi thượng triều. Mỗi tháng Giang Phong chỉ thượng triều ba lần, sơ tuần và thượng tuần tiểu triều, trung tuần đại triều. Tiểu triều chỉ gồm một số thủ hạ thân tín, đại triều gồm hầu hết quan viên có mặt ở Gia Định Thành. Bình thường, mọi việc Giang Phong phó thác hết cho thủ hạ lo liệu xử lý.

Giang Phong tuy chưa kiến quốc xưng vương, nhưng cũng đã hình thành nên tiểu triều đình, ‘tiểu’ là bởi quy mô đơn giản. Triều đình chỉ có 4 bộ : Chính vụ bộ, quản lý chính sự, do Quảng Tế Pháp sư làm bộ trưởng; Thương vụ bộ, phụ trách việc thương mại, do Cát Ti làm bộ trưởng; Lễ bộ, phụ trách việc giáo dục (xưa có câu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’, lễ quản giáo dục là phải), do Đào Anh làm bộ trưởng; và quân bộ, do Giang Phong trực tiếp nắm.

Đào Anh là cô nhi, cha hy sinh trong trận chống quân Chiêm khi Giang Phong mới đến đây, theo Giang Phong từ hồi ở Thánh sơn, nên rất được tin cậy. Gã tuy chẳng phải có văn tài gì đặc biệt, nhưng rất trung thực chấp hành những mệnh lệnh của Giang Phong, nên được giao trọng trách quản lý lễ bộ, phụ trách việc giáo dục; Giang Phong sợ tư tưởng của Nho học ảnh hưởng đến sự phát triển, nên không trọng dụng nho gia. Hiện tại giáo dục phân làm 4 cấp độ. Sơ học mở ở mỗi huyện, chủ yếu dạy dân đọc viết thông thạo. Thầy đồ ở các trường sơ học còn được phái đến từng thôn, từng làng dạy dân đọc viết ‘Thiên ngữ’. Ít nhất cũng phải nói được thứ chữ này mới có thể được xem là thuận dân, hưởng mức thuế thấp nhất và miễn lao dịch. Ở mỗi quận lại mở trường trung học, dạy toán thuật và các ngành nghề khác, tốt nghiệp có thể làm thợ ở các xưởng thủ công hay nhân viên của các thương đội. Ở mỗi tỉnh lại có trường đại học, dạy trình độ cao hơn, tốt nghiệp có thể làm thợ chính, quản lý, hoặc làm quan lại bậc thấp. Chỉ ở Gia Định Thành là có Thái Học, chuyên đào tạo chuyên viên. Hiện giờ quan lại đều được chọn theo công tích và năng lực, nhưng sau này muốn làm quan lại từ cấp quận trở lên thì phải tốt nghiệp Thái Học Viện.

Quân bộ lại chia làm tham mưu bộ, hải quân bộ và lục quân bộ. Tham mưu bộ cũng tức là mưu sĩ đoàn thời bấy giờ, Giang Phong chưa tìm được mưu sĩ nào xuất sắc, nên chỉ có vài người thiện mưu lược, giỏi bàn mưu tính kế làm việc ở đây, chưa đặt chức bộ trưởng. Hải quân bộ do Đinh An Bình làm bộ trưởng. Nam Dương Hạm đội giờ đã chia làm đôi, một phần quản lý lãnh hải, một phần đi chinh chiến các nơi, bắt khổ công; do đó đã có 2 vị tân Đô đốc. Còn Lục quân bộ đương nhiên do Triệu Phong làm bộ trưởng. Từ khi thành lập Định Hải nhất sư, Định Hải nhị sư, gã đã không còn trực tiếp chỉ huy nữa mà làm tổng chỉ huy.

Chương 28 : TẤU TRÌNH CÔNG VIỆC

Thành Đức Điện. Hôm nay thiết tiểu triều, Giang Phong nghe chúng thủ hạ tấu trình công việc trong tuần qua (thời xưa 1 tháng chia làm 3 tuần là sơ tuần, trung tuần và thượng tuần). Giang Phong thiết tiểu triều, mọi sự đơn giản, chẳng có Lôi Phong Cổ, Cảnh Dương Chung, chẳng có tam quỵ cửu khấu, mọi sự vẫn như trước kia, chỉ vì chúng thủ hạ nhất ý nên mới gọi là tiểu triều, đại triều. Giang Phong không cần danh phận, nhưng chúng thủ hạ lại cần.

Quảng Tế Pháp sư vẫn được chúng nhân công nhận là đệ nhất thủ hạ dưới trướng Giang Phong, đảm nhận Chính vụ bộ bộ trưởng, nên bước ra tấu trình trước. Chức vụ Chính vụ bộ bộ trưởng giống như chức thủ tướng ngày nay, quản lý hết mọi quốc sự, chỉ có ba ngành Thương mại, Giáo Dục và Quốc phòng vì trách nhiệm trọng đại nên được tách riêng ra, ngang hàng với Chính vụ bộ.

- Đại nhân. Sau hơn một năm bình định, các đảo Sula và Maluku đã được kiểm soát hoàn toàn. Bạch Hổ Hạm đội đã chuyển mục tiêu sang đảo Hoa Ninh (Wanin, tức New Guinea). Có điều thổ dân ở đó còn cực kỳ lạc hậu, chưa vận y phục, khó thể giáo hóa, chỉ có thể làm khổ công mà thôi.

New Guinea là một hòn đảo lớn, nhưng dân cư rất phức tạp. Đến thời hiện đại, đại đa số dân cư trên đảo vẫn còn sống theo chế độ bộ lạc, gồm hàng nghìn bộ lạc lớn nhỏ, với 1073 loại ngôn ngữ khác nhau, đa phần vẫn còn cởi trần và đóng khố, có cuộc sống lạc hậu, thậm chí chiến tranh giữa các bộ lạc vẫn thường xuyên diễn ra.

Giang Phong cau mày nói :

- Cố gắng giáo hóa. Ai giáo hóa được thì đối xử như những thuận dân khác.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, nói tiếp :

- Chiếu phép, các đảo Sula có thể chia thành hai tỉnh, các đảo Maluku hợp thành một tỉnh, thỉnh Đại nhân định danh.

Sula, tức Sulawesi, rộng đến 174.600 kilômét vuông, chưa kể các đảo nhỏ xung quanh, còn có thể chia ba, nhưng nơi đó quá xa, dân cư ít, nên chỉ chia đôi. Maluku ở ngay bên cạnh, diện tích 74.505 kilômét vuông, cũng được đặt thành một tỉnh. Giang Phong nói :

- Phân biệt đặt Tân Hóa, Tân An và Tân Định.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, lui lại. Đến phiên Cát Ti tấu trình :

- Hồi bẩm Đại nhân. Cuộc chiến ở Java đang ngày càng ác liệt, nhưng triều đình Tây Java có vẻ chiếm ưu thế hơn. Không biết Đại nhân có định can thiệp hay không ? Còn khu vực bán đảo Mã Lai, tiểu quốc Malacca hiện đã bành trướng rất nhanh, kiểm soát được một khu vực rộng lớn ở phía nam bán đảo rồi. Địa bàn cũng tương đương một tỉnh của ta.

Giang Phong bảo :

- Java tạm thời không can thiệp, kẻo song phương đình chiến, không có lợi cho chúng ta. Còn Malacca, sang năm sẽ giải quyết. Nếu các xứ Nam Dương đều đã điều tra xong, ngươi hãy mở rộng sang Tây Dương. Nghe nói phía tây bắc Thiên Trúc có các xứ Hồi giáo rất giàu có, phía tây bắc các xứ Hồi giáo nữa lại có các xứ Cơ Đốc giáo. Ở đó có nhiều thuật sĩ tài giỏi. Ngươi hãy cho người đi điều tra xem sao. Điều tra địa hình phương vật các xứ đó, rồi hoàn thiện Thiên Hạ Toàn Đồ giống như đã từng làm với Nam Dương Hải Đồ vậy. Trọng tâm là vùng Tích Lan (Sri Lanka) và vùng vịnh A Lạp Bá (Arab).

Thiên Hạ Toàn Đồ, tức bản đồ thế giới, cũng được Giang Phong vẽ lại theo trí nhớ, nên cũng giống Nam Dương Hải Đồ, chỉ đúng đại khái về hình dạng, phương vị, còn tỉ lệ thì không chính xác chút nào, cần bọn Cát Ti điều tra, hiệu chỉnh lại. Còn Nam Dương Hải Đồ giờ đã hoàn thiện, được các Hạm đội, thương đội và triều đình chính thức sử dụng.

Cát Ti vâng dạ lui về. Triệu Phong bước lên tâu :

- Đại nhân. Năm vạn tân binh đã huấn luyện xong. Thỉnh đại nhân định đoạt.

Từ năm ngoái Giang Phong đã ra lệnh tăng quân. Với khu vực kiểm soát rộng lớn, chỉ riêng phần đất liền đã gần 1,4 triệu kilômét vuông, chỉ có 3 vạn Định Hải quân là hơi ít. Tuy thêm 5 vạn tân binh nữa, tổng quân số 8 vạn cũng còn hơi ít (so với Đại Việt và nước Tàu), nhưng bởi đất rộng người thưa, bao nhiêu đó cũng tạm đủ dùng. Chính sách cai trị của Giang Phong lại ôn hòa, nên không đến nỗi gặp nhiều bất ổn.

Giang Phong nói :

- Cải Định Hải nhất sư thành Ngự Lâm quân, Định Hải nhị sư thành Cấm vệ quân. Định Hải tam sư cải thành Định Hải nhất sư. Thành lập thêm Định Hải nhị sư, Định Hải tam sư, Trấn Biên nhất sư, Trấn Biên nhị sư, Trấn Biên tam sư. Định Hải quân và Trấn Biên quân tăng cường huấn luyện, chuẩn bị viễn chinh.

Triệu Phong nghe nói viễn chinh, cả mừng, vâng dạ lui về. Đinh An Bình bước lên tâu :

- Hồi bẩm Đại nhân. Ba vạn hải quân tân binh cũng đã huấn luyện xong. Lúc nào cũng có thể tham chiến. Chỉ có chiến hạm …

Trong năm qua, số lượng chiến hạm của Hải quân không tăng đáng kể, Đinh An Bình cũng không hiểu Giang Phong cho huấn luyện 3 vạn tân binh để làm gì. Trước đây Nam Dương Hạm đội cũng chỉ có 3.000 binh sĩ. Giang Phong mỉm cười bảo :

- Chiến hạm sắp tới sẽ có, có lẽ sẽ không ít hơn 300 chiếc. Ngươi thấy có cần tuyển thêm tân binh nữa không ?

Đinh An Bình cả kinh nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Nếu như số lượng tuần hạm và vận hạm nhiều thì phải tuyển thêm tân binh nữa ạ.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Nếu ta nhớ không lầm, số lượng tuần hạm và vận hạm cũng khoảng trăm chiếc.

Đinh An Bình tính toán một lúc, rồi mới nói :

- Đại nhân. Nếu vậy xin cho thuộc hạ tuyển thêm 2 vạn tân binh nữa. Ba vạn sĩ binh điều khiển các chiến hạm không thành vấn đề, nhưng không đủ để tác chiến.

Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi phê chuẩn. Mọi người xong cả mới đến lượt Đào Anh, bộ trưởng Lễ bộ. Gã bước ra cung kính nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Tình hình giáo hóa ở các tỉnh vẫn rất tốt, trừ các tỉnh mới thành lập còn có chút khó khăn. Hiện toàn dân đã có hơn 6 phần là thuận dân, hơn 3 phần vẫn đang cố gắng học chữ, chỉ có chưa đến nửa phần là thuộc loại khó giáo hóa.

Giang Phong gật đầu hài lòng. Chỉ sau một năm, tình hình như thế là đã rất khả quan rồi. Tuy không bằng được chiến dịch Bình dân học vụ hồi năm 1945, nhưng ở đây đa số là dân ngoại quốc, học nói được tiếng Việt là đã tốt lắm rồi. Đó cũng nhờ ở những chính sách ưu đãi đối với thuận dân, sưu thuế thấp, lại miễn lao dịch, đặc biệt là nói được tiếng Việt (không cần thông thạo lắm) mới dễ kiếm việc làm, mới được ở trong thành thị và các khu định cư.

Mọi người báo cáo xong, Giang Phong truyền bãi hầu, và gọi Quảng Tế Pháp sư ở lại. Khi mọi người đã lui ra hết, Giang Phong mới hỏi :

- Tình hình phương bắc hiện nay thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Ở Đại Việt, cha con Hồ Quý Ly vẫn khẩn trương xây dựng phòng tuyến, gần đây lại chuẩn bị xây thành Đa Bang ở phía bắc Thăng Long. Đặng Tất được giao trấn giữ phòng tuyến Đa Bang. Hồ Quý Ly cho rằng Đặng Tất đánh giặc không xong, nhưng giữ thành là giỏi nhất, nên mới giao cho trọng trách ấy.

Giang Phong biết thành Đa Bang, nhà Hồ đặt rất nhiều hy vọng vào nơi đó, nên tập trung rất nhiều binh lực phòng thủ. Vì vậy, khi phòng tuyến Đa Bang tan vỡ, thành Đa Bang thất thủ, nhà Hồ cũng diệt vong.

Quảng Tế Pháp sư lại nói :

- Còn phía Minh triều cũng đang tích cực chuẩn bị binh mã, tích trữ lương thảo chuẩn bị nam chinh. Tối đa là sang năm chiến tranh sẽ nổ ra. À quên. Năm nay Minh triều còn sai sứ sang đòi đất Lộc Châu, Hồ Quý Ly ban đầu không chịu, nhưng sau lại sai Hoàng Hối Khanh dâng 59 thôn ở Cổ Lâu cho họ.

Giang Phong cau mày, hỏi :

- Tình hình các thuyền trường của Minh triều ra sao rồi ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Bọn họ đã đóng được hàng trăm thuyền lớn. Theo tin hồi báo, Minh triều Hoàng đế đã truyền chỉ cho Tam Bảo thái giám Trịnh Hòa đi kinh lược các xứ Nam Dương, dự định đến tháng 7 này sẽ khởi trình, chiến hạm ước trên 300, quân số ước 3 vạn.

Giang Phong hỏi :

- Kế hoạch thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Phía lão Thạch Lang đã xong hết. Ở Hải Tân cũng đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ còn chờ bọn họ đến là sẽ triển khai.

Giang Phong gật đầu, hỏi tiếp :

- Còn phía Chiêm Thành ?

Quảng Tế Pháp sư nhíu mày nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Chiêm Thành gần đây tuy đã hòa hảo với Phạm Thế Căng tướng quân, nhưng cũng đồng thời tích cực chiêu binh mãi mã, có vẻ muốn chuẩn bị chiến tranh. Thuộc hạ lo bọn họ lợi dụng quân Minh tiến sang, bọn Hồ Quý Ly không rảnh lo phương nam mà tiến chiếm Thuận Hóa.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Không có gì phải lo. Bọn họ mà bắc tiến thì quân Gia Định cũng sẽ bắc tiến.

Quảng Tế Pháp sư ồ lên, hứng khởi nói :

- Đại nhân anh minh.

Chương 29 : TRỊNH HÒA XUẤT HẢI

Minh triều, Hoa Nam địa khu.

Phụng ý chỉ của Minh triều Vĩnh Lạc Đế Chu Lệ, Tam Bảo Thái giám Trịnh Hòa tổ chức đội thuyền đi kinh lược các xứ Nam Dương. Vĩnh Lạc Đế vì cướp ngôi của cháu mình là Kiến Văn Đế, nghe tin đồn Kiến Văn Đế chạy về vùng duyên hải phương nam, rồi cấu kết với Uy khấu chạy ra hải ngoại, sợ có ngày Kiến Văn Đế quay về giành lại ngôi báu, nên mới phái Trịnh Hòa đi kinh lược các xứ Nam Dương, thừa cơ thám thính tin tức về Kiến Văn Đế.

Tam Bảo Thái giám Trịnh Hòa là người Hồi ở Vân Nam, tên thật là Hajji Mahmud Shams, phiên sang Hán tự thành Mã Tam Bảo. Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal Shams al Din Omar, một viên quan cai trị Vân Nam thời nhà Nguyên và đến từ Bukhara (ngày nay thuộc Uzbekistan). Họ ‘Mã’ của ông có từ người con thứ năm của Shams al Din là Masuh. Cả ông nội và cha của ông, Charameddin và Mir Tekin, đều đã hành hương tới thánh địa Mecca. Sau khi quân đội nhà Minh chiếm đóng Vân Nam, ông đã bị bắt giữ khi còn là một cậu bé con và bị hoạn, vì thế ông đã trở thành một thái giám phục vụ cho các hoàng đế Minh triều. Tên gọi Trịnh Hòa là do Vĩnh Lạc Đế đặt cho ông để thưởng công giúp lật đổ Kiến Văn Đế.

Vĩnh Lạc tam niên, lục nguyệt 15 nhật (tức ngày 11 tháng 7 năm 1405 theo Tây Lịch). Sứ đoàn gồm Trịnh Hòa làm chính sứ, Vương Cảnh Hoằng làm phó sứ, suất lĩnh sĩ binh 2 vạn 7.800 người, gồm 63 chiếc bảo thuyền cùng rất nhiều mã thuyền, lương thuyền, tọa thuyền, chiến thuyền, tổng cộng 317 chiếc; từ Tô Châu Lưu Gia Hà xuất hải, sau đó đi dọc theo bờ biển đến Phúc Kiến, rồi từ Ngũ Hổ Môn ở Phúc Kiến kéo buồm đi về phương nam, hướng đến Chiêm Thành.

Trải qua hơn một tháng lần mò trên biển, đoàn thuyền mới đến được Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam). Trịnh Hòa cho thuyền dừng lại đấy nghỉ ngơi vài ngày cho binh sĩ và thủy thủ lấy lại sức. Thủy sư của Minh triều trước nay chủ yếu hoạt động trên sông hồ, đa số không quen với sóng biển. Minh triều chỉ có Thủy sư, hoàn toàn không có Hải quân hay Hạm đội, cũng không có khái niệm lãnh hải. Đây cũng là lần đầu tiên mà bọn họ đi xa như vậy.

Sau mấy ngày nghỉ ngơi dưỡng sức, đoàn thuyền lại kéo buồm ra biển, hướng về phía nam, mục tiêu là Chiêm Thành. Khi đoàn thuyền gần đến hải phận Chiêm Thành, thủy thủ chợt thấy một đoàn gần 10 chiếc thuyền nhỏ đang đánh cá. Trịnh Hòa cho thuyền dừng lại, hỏi thăm. Đáng tiếc, những người đánh cá không ai biết Hán ngữ, song phương nói chuyện mà không hiểu nhau. Cả phiên dịch tiếng Chiêm Thành cũng không cách nào câu thông được. May mắn là trong sứ đoàn có người từng đi sứ Đại Việt, biết được chút ít tiếng Việt, liền bước ra hỏi :

- Này các ngươi. Đây là đâu thế ? Còn bao xa nữa mới đến được Chiêm Thành ?

Ngư dân nghe hỏi bằng tiếng Việt, liền đáp :

- Đây là Hải Tân quốc. Muốn đến nội địa Chiêm Thành phải đi về phía nam mấy ngày nữa mới đến.

Người kia sau khi phiên dịch lại, nghe người bên cạnh nói mấy câu, ngạc nhiên hỏi lại :

- Sao ta nhớ đến đây là đã gần đến Chiêm Thành rồi mà ?

Ngư dân đáp :

- Người dẫn đường cho các vị có phải đã đi Chiêm Thành hồi mấy năm trước không ?

Người kia nói :

- Đúng thế. Có gì khác biệt sao ?

Ngư dân nói :

- Trước đây vùng phía nam cách nơi này vài chục dặm đã là đất Chiêm Thành. Nhưng hiện giờ đó đã là đất Thăng Hoa của Đại Việt. Phần phía nam Thăng Hoa, cũng vẫn còn đang đánh nhau. Muốn đến nội địa Chiêm Thành phải tiếp tục đi về phía nam nữa.

Người trong sứ đoàn lại hỏi :

- Hải Tân quốc là một nước như thế nào ?

Ngư dân đáp :

- Hải Tân quốc là một nước ở ngoài biển, do di dân Việt, Chiêm, Mường cùng lập ra. Trước đây nằm ở ranh giới giữa Chiêm Thành và Đại Việt, nhưng giờ đây đã hoàn toàn nằm ngoài khơi Đại Việt rồi.

Người kia hỏi tiếp :

- Từ đây đi bao lâu nữa mới đến được nội địa Chiêm Thành ?

Ngư dân lắc đầu đáp :

- Không biết nữa. Chúng tiểu nhân chỉ biết đi mãi về phía nam là đến được Chiêm Thành mà thôi.

Chúng sứ thần sau một hồi bàn bạc, quyết định tạm thời ghé vào Hải Tân quốc hỏi thăm tin tức, luôn tiện thuyết phục Hải Tân quốc chủ phái người triều cống Thiên triều. Nước này nằm ngay ngoài khơi Đại Việt, lại không xa Chiêm Thành, tuy nước nhỏ dân ít, nhưng vị trí trọng yếu, cũng rất đáng để thu phục.

Đoàn thuyền ghé vào Hải Tân. Hải Tân quốc chủ thân dẫn văn võ quan viên ra đón sứ đoàn. Tuy nước này chỉ quản lý vài hòn đảo, toàn thể quân dân chưa đến 2.000, nhưng nghe nói xứ Nghệ An chỉ cách nơi đây vài trăm dặm, cả sứ đoàn đều mừng rỡ, ra sức thuyết phục Hải Tân quốc phái sứ thần về triều cống Thiên triều. Đương nhiên Hải Tân quốc chủ lập tức ưng thuận, và nhờ sứ đoàn viết thư tiến dẫn. Mọi người đều vui vẻ.

Hải Tân quốc chủ sai người bày đại tiệc tiếp đãi các thành viên sứ đoàn, đồng thời chúng binh sĩ và thủy thủ cũng có phần. Tuy yến tiệc so với Trung Hoa thì đơn giản hơn rất nhiều, nhưng mọi người đều ăn uống rất hào hứng, nhất là chúng sĩ binh và thủy thủ, bởi lênh đênh trên biển, thức ăn chẳng ngon miệng chút nào. Ăn uống xong, trừ sứ đoàn, những người khác đều phải ở lại trên thuyền hoặc cắm trại ngoài bãi biển. Hải Tân quốc quá nhỏ bé, không thể lo đủ chỗ ở cho gần 3 vạn người.

Sau khi bổ sung thêm lương thực và nước uống, đoàn thuyền lại tiếp tục đi về phương nam. Theo chỉ dẫn của người ở Hải Tân quốc, bọn họ dễ dàng đến được đất Chiêm, và ghé vào một tòa thành lớn để nghỉ ngơi, bổ sung thêm nước uống, đồng thời liên hệ với triều đình Chiêm Thành. Hải Tân đảo quá nhỏ, không đủ nước uống, bọn họ chỉ bổ sung được một ít.

Xứ này gọi là Bạt Đạt Gia, là một tiền đồn quan trọng chống quân Đại Việt của nước Chiêm, đồng thời cũng cách kinh đô Đồ Bàn không xa lắm. Sứ đoàn định nghỉ ngơi lại đây, chờ hồi đáp từ phía triều đình Chiêm Thành. Sau mấy tháng lênh đênh trên biển, đại bộ phận quan binh và thủy thủ đều kéo vào thành nghỉ ngơi ‘hưởng thụ’, chỉ một bộ phận được phái ở lại canh giữ thuyền bè.

Đêm bình an. Mọi người đều rất vui vẻ.

Sáng hôm sau, mọi người định tiếp tục vui vẻ, đột nhiên biến cố phát sinh. Một bộ phận nhân viên sứ đoàn, cùng rất nhiều binh sĩ và thủy thủ có triệu chứng trúng độc, ói mửa vật vã, thậm chí hôn mê bất tỉnh, nếu không thì cũng mất hết sức lực, đi đứng cũng khó khăn. Trịnh Hòa cả kinh, cùng các thành viên sứ đoàn hội ý, cho rằng người Chiêm Thành ám toán, cần phải ‘tiên hạ thủ vi cường’, tạm giành quyền kiểm soát nơi này, rồi tìm đại phu chữa trị. Nếu chậm trễ, cả bọn có nguy cơ bỏ thân nơi đất khách quê người.

Thế là Trịnh Hòa tập hợp binh sĩ, tổ chức tấn công thủ quân trong thành. Bị tấn công bất ngờ, quân Chiêm chống giữ không nổi, phải bỏ thành mà chạy. Bọn Trịnh Hòa dễ dàng giành được quyền kiểm soát Bạt Đạt Gia thành. Thế nhưng, điều làm bọn họ kinh ngạc nhất là dân Chiêm trong thành cũng bỏ nhà cửa, rời thành chạy theo thủ quân. Trong thành giờ đây chỉ còn lại có quân Minh.

Sau đó, quân Chiêm tổ chức lại quân đội và dân binh, chiếm giữ các vị trí hiểm yếu, bao vây quân Minh trong thành. Viện binh của quân Chiêm cũng từ các nơi lục tục kéo đến. Tình thế quân Minh trở nên nguy cấp vô cùng. Quan trọng nhất là số người bị độc phát tác ngày càng nhiều. Số người có thể chiến đấu còn lại chưa được hai phần. Toàn thể sứ đoàn từ trên xuống dưới đều mắng chửi người Chiêm xảo trá gian hiểm.

Trên bờ biển, trong doanh trại của quân Minh, chúng binh sĩ và thủy thủ đều trúng độc, nằm la liệt khắp nơi, rên rỉ không ngừng. Bọn họ không hay biết gì về sự biến trong thành.

Đến giữa trưa, một toán quân khoảng 1 vạn người từ phía nam kéo đến, xông vào doanh trại đánh giết hơn 5.000 quân Minh không còn sức phản kháng. Sau khi tiêu diệt hết quân Minh, bọn họ chỉ thu lấy vàng bạc châu báu và những vật quý giá, còn những chiến lợi phẩm khác trong doanh trại thì bỏ mặc đó, rồi chia nhau lên các thuyền đang neo đậu ngoài biển, kéo buồm đi về phía nam.

Tiếp đó, một số thuyền khác lại kéo đến, thả xuống biển nhiều bè gỗ, mảnh ván vụn, thanh gỗ gãy, rồi châm lửa đốt, biến nơi đây trông giống như vừa diễn ra một trận hải chiến, với nhiều thuyền bè bị đánh chìm, hoặc bị đốt cháy. Trên bờ đầy xác quân Minh, dưới biển đầy mảnh ván vỡ vụn, khó ai phát hiện được chân tướng sự việc.

Đến chiều tối, một toán quân Chiêm kéo đến đây, thấy quân Minh đều đã bị giết, nên rất ngạc nhiên. Nhưng rồi cả bọn lại xông vào doanh trại tranh đoạt chiến lợi phẩm. Quân Minh còn bị ai khác giết nếu như không phải quân Chiêm. Bọn họ thấy không cần thắc mắc chuyện đó.

Chương 30 : LONG SƠN HUYỆN

Long Sơn huyện.

Có thể mọi người còn chưa quen với tên gọi này, nhưng nếu nói đến Vũng Tàu, có lẽ nhiều người rất quen. Đó là một thành phố được xây dựng trên địa giới 3 làng Tam Thắng thời Nguyễn. Di tích pháo đài Phước Thắng vẫn còn, chính là Bạch Dinh ngày nay. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng Bạch Dinh (Villa Blanche) trên nền pháo đài Phước Thắng từng khai hỏa bắn vào tàu chiến Pháp 50 năm trước đó. Tại đây hiện vẫn còn lưu giữ 19 khẩu thần công của pháo đài Phước Thắng xưa.

Năm 1876, Vũng Tàu thuộc tiểu khu Bà Rịa, nằm trong khu vực (circonscription) Sài Gòn, theo nghị định phân chia hành chính của chính quyền Pháp thuộc. Ngày 1 tháng 5 năm 1895, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xã Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques. Đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa thành khu Cap Saint Jacques cho đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 khu Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 làng. Theo phân cấp hành chính của Pháp, Thành phố / Thị trấn / Làng (commune) là cấp đơn vị hành chính địa phương thấp nhất của Cộng hòa Pháp. Cấp hành chính trên commune là tổng (canton). Do đó, từ thành phố (commune) nâng cấp lên thành tổng là hợp lý. Hiện tại nước Pháp có 22 vùng (région), 96 tỉnh (département, trước cách mạng Pháp 1789 gọi là province), 329 quận (arrondissement), 3.883 tổng (canton) và 36.783 Thành phố / Thị trấn / Làng (commune).

Năm 1901, dân số Vũng Tàu là 5.690 người, trong đó có gần 2.000 người di cư từ miền Bắc vào, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy hải sản. Ngày 1 tháng 4 năm 1905 theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Cap Saint Jacques không còn là thành phố tự trị mà trở thành đơn vị hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa. Năm 1929 Cap Saint Jacques trở thành tỉnh riêng, rồi đến năm 1934 tỉnh Cap Saint Jacques lại hạ cấp xuống thành thành phố (commune). Giờ đây là thành phố thủ phủ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Một điều đáng lưu ý là nước ngọt sử dụng ở Vũng Tàu được bơm theo đường ống dẫn từ Bà Rịa ra.

Sau khi ổn định được tỉnh Gia Định rồi, Giang Phong đã cho xây dựng một khu định cư mới tại vùng đất thuộc Vũng Tàu ngày nay. Theo truyền thống đặt tên bằng Hán Việt thời bấy giờ, Giang Phong đã lấy tên Long Sơn, một hòn đảo khá nổi tiếng thuộc Vũng Tàu, làm tên huyện, và cũng để phù hợp với Long Hải huyện cũng ở bên cạnh. Cả Long Sơn huyện và Long Hải huyện đều thuộc Gia Định quận. Giang Phong không quy nó về Biên Hòa quận, bởi thời bấy giờ, chưa có đường lớn đi từ Long Sơn về Biên Hòa. Theo sông Gia Định (tức sông Đồng Nai), từ Long Sơn huyện đi về Gia Định Thành trước, rồi mới đến Biên Hòa quận sau.

Long Sơn huyện lúc này là một khu dân cư đặc biệt. Cư dân đều là gia đình những người làm việc trong Xưởng đóng thuyền của Giang Phong, phụ trách nghiên cứu, đóng mới thuyền hạm và cải trang, sửa chữa những thuyền hạm chiến lợi phẩm. Xưởng đóng thuyền này ban đầu được xây dựng ở đảo Hải Tân, sau đó di dời sang An Phú Thành, và lúc này lại di dời đến đây.

Hôm nay, Giang Phong ra thị sát Xưởng đóng thuyền ở Long Sơn, tháp tùng có lão Quảng Tế Pháp sư và Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình. Tổng quản Công xưởng là Phạm Phú Chính, một nghệ nhân đóng thuyền giỏi của Đại Việt đã từng theo Giang Phong từ thời ở Hải Tân, đưa Giang Phong ra thị sát các khu vực đóng thuyền hạm. Ở đó lúc này có hàng trăm người đang hì hục làm việc. Trong khu vịnh sát công xưởng hiện đang neo đậu hàng trăm thuyền hạm. Phạm Phú Chính đưa tay chỉ ra vịnh nói :

- Đại nhân. Đó chính là số thuyền hạm chiến lợi phẩm mà Đại nhân đã cho đưa đến hôm trước.

Hơn ba trăm chiến hạm cỡ lớn neo đậu san sát trong vịnh, quang cảnh tráng quán vô cùng. Nhưng Giang Phong chỉ nhìn qua một lượt, rồi nói với vẻ không hài lòng :

- Chẳng phải nói có hơn 60 bảo thuyền rất lớn hay sao. Sao giờ không thấy chiếc nào cả ?

Theo báo cáo trước đây, đoàn thuyền của Trịnh Hòa có 63 chiếc bảo thuyền, lớn hơn mã thuyền rất nhiều. Nhưng Giang Phong chẳng thấy có chiếc thuyền nào đặc biệt lớn so với mã thuyền cả. Theo ‘Doanh nhai thắng lãm’ (viết năm 1451), Trịnh Hòa hàng hải bảo thuyền có 63 chiếc, là loại thuyền lớn nhất thời bấy giờ, tính ra dài 151,18 mét, rộng khoảng 61,6 đến 75 mét. Trên thuyền có 9 cột buồm, treo 12 buồm mành. Mỏ neo nặng mấy nghìn cân. Cần sử dụng 200 thủy thủ mới có thể hoạt động, có thể chở nghìn người.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hồi bẩm Đại nhân. Bảo thuyền được mô tả trong báo cáo trước đây là loại thuyền mà Minh triều sử dụng trong lễ khởi hàng của Trịnh Hòa. Theo thông tin mới nhất, loại thuyền đó tuy lớn, nhưng không chịu được sóng gió, chỉ có thể sử dụng trong sông hồ chứ không ra biển được. Minh triều chỉ mang ra lòe người mà thôi. Bảo thuyền ở đây cũng có 9 cột buồm, 12 buồm, nhưng chỉ lớn hơn mã thuyền chút ít.

(chú : các tư liệu của Tàu mô tả bảo thuyền như sau : “Bảo thuyền tòng Long Giang quan xuất thủy, cư cân tùy Trịnh Hòa hạ tây dương đích phiên dịch quan Mã Hoan sở trứ ‘Doanh nhai thắng lãm’ (1451 niên định cảo ) ký lục : Trịnh Hòa hàng hải bảo thuyền cộng 63 tao, tối đại đích trường 44 trượng 4 xích, khoan 18 trượng, thị đương thì thế giới thượng tối đại đích hải thuyền, chiết hợp hiện kim trường độ vi 151,18 mễ, khoan 61,6 mễ, khoan 75 mễ; thuyền thượng 9 ngôi khả quải 12 trương phàm, miêu trọng hữu kỉ thiên cân, yếu động dụng nhị bách nhân tài năng khải hàng, nhất tao thuyền khả dung nạp hữu thiên nhân”. Luận thuyết bảo thuyền này không thể xuất hải cũng là do một số nhà nghiên cứu người Tàu thời hiện đại đưa ra, được các nhà nghiên cứu Âu Mỹ ủng hộ, bởi theo bản vẽ thiết kế còn lưu lại, sườn thuyền bằng gỗ nếu đóng lớn như thế sẽ không đủ vững chắc để chịu đựng sóng gió khi đi biển).

Giang Phong quan sát một lúc, cũng đã nhìn thấy bảo thuyền mà Quảng Tế Pháp sư nói đến. Nếu như nó không neo đậu gần mã thuyền, Giang Phong thật sự không phát hiện nó lớn hơn mã thuyền chút nào, tuy có lớn hơn thật, nhưng chỉ lớn hơn có chút ít. Giang Phong lắc đầu thất vọng, quay sang hỏi Phạm Phú Chính :

- Cải trang hết toàn bộ mất khoảng bao lâu ?

Phạm Phú Chính cung kính đáp :

- Hồi bẩm Đại nhân. Nếu không để ảnh hưởng đến các kế hoạch hiện tại của công xưởng, thì phải mất khoảng từ 6 đến 8 tháng mới có thể cải trang hoàn tất.

Giang Phong gật đầu nói :

- Như thế cũng được. Dù sao thì 2 vạn tân binh mới tuyển cũng chưa huấn luyện xong.

Trong số những người ở đây, chỉ có Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình là hứng khởi hơn cả. Nhìn mấy trăm chiến hạm trong vịnh, gã cười mãi không ngậm miệng lại được. Gã nghe nhắc đến tân binh, buộc miệng hỏi :

- Đại nhân. Số chiến hạm này sẽ giao hết cho các Hạm đội ?

Giang Phong mỉm cười hỏi lại :

- Sao ? Ngươi không muốn nhận ư ?

Đinh An Bình vội lắc đầu lia lịa, nói :

- Không … không … Đương nhiên là phải nhận chứ.

Giang Phong nói :

- Số chiến hạm này sẽ giao cho Hải quân bộ. Đến lúc đó các Hạm đội cũng phải tổ chức lại. Tạm thời thành lập 3 Hạm đội. Nam Dương Hạm đội, gồm khoảng 50 chiến hạm, 1 vạn quân, phụ trách kiểm soát hải phận Nam Dương. Tây Dương Hạm đội, gồm khoảng 100 chiến hạm, 1 vạn rưỡi quân, phụ trách khu vực hải phận nam Thiên Trúc. Bắc Dương Hạm đội, gồm số chiến hạm và số quân còn lại, phụ trách khu vực hải phận bắc Lã Tống.

Đinh An Bình cung kính vâng dạ. Có được số chiến hạm này, thực lực của các Hạm đội sẽ tăng rất nhiều. Xem xét một lúc nữa, Phạm Phú Chính lại đưa bọn Giang Phong đi tham quan nơi đóng thuyền hạm. Nhìn chiến hạm đã được đóng xong, đang nằm trong âu thuyền chờ trang hoàng nội thất và bố trí vũ khí, Đinh An Bình trợn tròn mắt, kinh hãi không sao kể siết, lắp bắp nói :

- Đây … đây là chiến hạm mới hay sao ?

Phạm Phú Chính cười nói :

- Đương nhiên là chiến hạm mới rồi. Đóng theo mệnh lệnh của Đại nhân đấy.

Đinh An Bình lo lắng hỏi :

- Nó có thể đi trên biển được không ?

Gã lo lắng như vậy cũng không phải là vô lý. Tấm gương bảo thuyền vẫn còn rành rành ra đó. Mà chiến hạm mới này còn lớn hơn nữa, dài 50 trượng (tức 200 mét), rộng 18 trượng (tức 72 mét), so với bảo thuyền còn lớn hơn nhiều. Phạm Phú Chính cười nói :

- Đương nhiên không vấn đề. Chiến hạm này được đóng gần một năm mới xong, sườn thuyền bằng gỗ, có dùng thép gia cố thêm, đã từng đi thử từ đây đến An Phú, rất vững chãi.

Đinh An Bình cả mừng hỏi :

- Chiến hạm này khi nào mới sử dụng được ? Và khi nào mới có thể đại quy mô trang bị cho các Hạm đội ?

Phạm Phú Chính nói :

- Giờ chỉ còn chờ Xưởng quân khí chuyển thần công đại pháo sang nữa là xong. Còn khi nào mới có thể đại quy mô trang bị cho các Hạm đội, còn chờ thánh ý của Đại nhân. Nhưng hiện tại năng lực của công xưởng cũng chỉ có thể đóng được 4 chiến hạm loại này mỗi năm.

Đinh An Bình lập tức nhìn Giang Phong đầy kỳ vọng. Giang Phong khẽ cau mày, suy nghĩ.

Chương 31 : XUẤT QUÂN MÃ LAI – TÂN THÀNH HUYỆN

Long Sơn huyện. Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư và Đinh An Bình đi thị sát Xưởng đóng thuyền ở đây. Khi nhìn thấy chiến hạm mới được đóng, Đinh An Bình vô cùng hưng phấn, kỳ vọng Giang Phong cho đại quy mô trang bị cho các Hạm đội. Giang Phong cau mày suy nghĩ giây lát, rồi hỏi Tổng quản Xưởng đóng thuyền Phạm Phú Chính :

- Tốc độ chiến hạm này có thể đạt đến bao nhiêu ?

Phạm Phú Chính cung kính đáp :

- Hồi bẩm Đại nhân. Chiến hạm sử dụng bánh xe đẩy nước thay cho mái chèo, tốc độ rất khả quan, lại hoạt động ổn định. Nếu 12 bánh xe và 12 cột buồm cùng lúc sử dụng, chiến hạm có thể đạt từ 50 đến 60 dặm một canh giờ. Khi thuận gió sẽ nhanh hơn, còn ngược gió sẽ chậm hơn một chút.

Tốc độ 50 – 60 dặm một canh giờ, tức 10 – 12 kilômét mỗi giờ, như thế là cũng đã khá nhanh so với tình hình thuyền bè đương thời. Nên biết, theo các tư liệu của người Tàu, Trịnh Hòa từ Minh triều kinh đô Kim Lăng (tức Nam Kinh, Giang Tô) khởi hàng vào ngày rằm tháng 6, lần mò trên biển đến hơn 1 năm, đến tận ngày 30 tháng 6 năm sau mới đến được Java. Mà khoảng cách từ Nam Kinh đến Java, theo đường thẳng chỉ có khoảng 4.500 kilômét, mà nếu đi men theo bờ biển thì cũng chỉ vào khoảng 7, 8 nghìn. Thuyền bè của Minh triều lớn thì có lớn thật, nhưng tốc độ thì … hết nói. Họ lại sử dụng buồm mành, không sử dụng vải mà dùng mành ghép bằng những thanh tre, trúc làm buồm. Theo Ibn Battuta (một học giả và là nhà du hành nổi tiếng người Ma Rốc, với các chuyến du hành gọi là ‘Rihla’ trong suốt hơn 30 năm, được coi là một trong những nhà du hành vĩ đại nhất, ‘the greatest travellers’, ngang hàng với Marco Polo, nhưng ông đi đường biển, còn Marco Polo đi đường bộ), người đã đến Trung Quốc vào năm 1347 thì : “Các tàu thuyền Trung Quốc có ba loại : loại thuyền lớn được gọi là thuyền mành, loại trung bình gọi là thuyền buồm và loại nhỏ là kakam (?, không dịch được). Loại lớn có thể có từ 3 đến 12 buồm, được làm từ các thanh tre gắn kết lại như cái mành. Chúng không bao giờ bị hạ xuống, nhưng xoay theo hướng gió; khi bỏ neo thì chúng được thả để tự do xoay theo gió. (…) Một thuyền có thể chở tới cả ngàn người, sáu trăm người trong số đó là các thủy thủ và bốn trăm người được trang bị vũ khí, bao gồm các cung thủ, những người mang mộc và nỏ để bắn các loại tên có lửa.”

Giang Phong không ưa kiểu buồm mành đó, nên các chiến thuyền chiến lợi phẩm đều phải cải trang, sửa chữa lại. Còn đối với bọn Đinh An Bình, chiến thuyền của Minh triều quá yếu ớt, không thể không sửa chữa. Bọn họ đã quen sử dụng thần công đại pháo để chiến đấu, nên trên thuyền chỉ trang bị mộc, nỏ, tên lửa (mũi tên có gắn vật dễ cháy, có thể đốt lửa), trong mắt bọn họ là quá yếu ớt. Nói về thần công đại pháo, người Tàu tôn xưng Hồ Nguyên Trừng (con thứ của Hồ Quý Ly) là ông tổ của súng thần công, nhưng thật ra Hồ Nguyên Trừng chỉ cải tiến súng thần công, còn trước đó nhà Trần đã từng sử dụng súng thần công trong chiến tranh rồi. Sử sách chép rằng, trong khi chống Chiêm Thành, Trần Khát Chân đã phục kích quân Chiêm, dùng súng lớn bắn các chiến thuyền của giặc, vua Chiêm là Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Không biết ai là người đầu tiên chế súng thần công ở Đại Việt, nhưng ít nhất là vào thời Trần, quân đội Đại Việt đã sử dụng súng thần công. Còn đến thời Hồ, quân Việt đã có súng lớn do voi mang, súng vừa hai người khiêng và súng nhỏ do một người vác trên vai. Hồ Quý Ly còn cho đúc rất nhiều để chống quân Minh. Chỉ tiếc họ Hồ làm nhiều việc mất lòng dân nên mới thất bại.

Lại nói về Giang Phong, sau khi kiểm tra nội thất tân chiến hạm, Giang Phong hài lòng phán :

- Chiến hạm loại này hãy gọi là Thất Tinh cấp chiến hạm, các Hạm đội sẽ sử dụng làm chủ chiến hạm. Tuần hạm cải thành tuần dương hạm. Vận hạm cải thành đại hình chiến thuyền, quân hạm cải thành trung hình chiến thuyền, chiến hạm cải thành tiểu hình chiến thuyền.

Theo quy định mới này, chỉ từ cấp độ tuần dương hạm trở lên mới được gọi là hạm, còn lại đều là chiến thuyền. Mặc dù nhiều chiến thuyền đã có tải trọng hàng nghìn tấn, lớn hơn nhiều loại chiến hạm thời cận đại. Giang Phong lại bảo Phạm Phú Chính :

- Mở rộng công xưởng sao cho có thể đồng thời đóng 10 chiến hạm. Tập trung nghiên cứu gia tăng tốc độ các chiến hạm. Tổ chức nghiên cứu Lục Tinh cấp chiến hạm. Cần gì cứ thông báo với Chính vụ bộ.

Thị sát xong hết, Giang Phong tạm hài lòng đối với các thành tựu của Xưởng đóng thuyền. Sau khi dặn bảo bọn Phạm Phú Chính những vấn đề cần ưu tiên, Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư trở về Trường Thanh Cung. Đinh An Bình ở lại lo nhận thuyền hạm và tổ chức lại các Hạm đội. Thật ra mục đích chính của gã khi ở lại đây là muốn đốc thúc Phạm Phú Chính sớm mở rộng công xưởng, để Hải quân của gã sớm nhận được các Thất Tinh cấp chiến hạm.

Trong lúc đó, Giang Phong lại truyền lệnh cho Triệu Phong cất quân tiến chiếm khu vực bán đảo Mã Lai để có thể kiểm soát eo biển Malacca, vốn vẫn được tôn xưng là ‘Hoàng kim hải đạo’, mọi giao thương giữa phương đông và phương tây đều phải đi qua eo biển này.

Triệu Phong dòng dõi tướng gia, tính hiếu chiến đã ăn sâu vào huyết quản. Vừa được lệnh xuất chinh, gã liền liên hệ Hải quân bộ điều động đại lượng thuyền hạm vận chuyển 3 vạn Định Hải quân đến eo biển Malacca. Do Đinh An Bình bận tọa trấn ở Long Sơn, chiến dịch này thủy bộ lưỡng đạo đều do Triệu Phong một mình chỉ huy.

Đến eo biển Malacca, Triệu Phong không cho quân đổ bộ lên bán đảo tiến hành chinh chiến ngay, mà lại đổ bộ lên một hòn đảo ở cuối bán đảo do Giang Phong chỉ định, xây dựng căn cứ ở đó. Bán đảo Mã Lai cách xa Gia Định, hậu cầu cung ứng tốn nhiều thời gian, do đó cần có một căn cứ ngay tại chỗ để tích trữ lương thực vật tư phục vụ cho chiến tranh. Hòn đảo đó, đối với bọn Triệu Phong chỉ là một hòn đảo vô danh, nhưng đối với Giang Phong thì có ấn tượng rất sâu sắc, bởi đó chính là đảo Singapore. Thạch nê, sắt thép, gạch đá đổ lên đó, nhanh chóng xây dựng lên một tòa tiểu thành, được Giang Phong đặt tên là Tân Thành. Nơi này nằm cuối bán đảo Mã Lai, ở giữa eo biển giữa bán đảo với đảo Sumatra, đặt căn cứ hải quân tại đây sẽ có thể kiểm soát được cả eo biển, kiểm soát được ‘Hoàng kim hải đạo’. Cuối mùa xuân năm Bính Tuất (1406), tức 2 năm sau khi thành Malacca thành lập, Tân Thành huyện cũng được thiết lập.

Sau gần hai tháng khẩn trương thi công, Tân Thành cơ bản đã được kiến thiết hoàn tất. Do hiện tại chỉ sử dụng cho mục đích quân sự, Tân Thành chỉ có một vòng thành và vài kiến trúc quan trọng bên trong, còn phố xá và các khu dân cư chưa có, sau này sẽ từ từ xây dựng thêm. Bên trong thành có rất nhiều kho chứa lương thực vật tư. Triệu Phong cũng đặt đại bản doanh tại đấy. Giờ đây đã là bộ trưởng Lục quân bộ, dù có hiếu chiến, gã cũng không thể đích thân ra tiền tuyến xung phong hãm trận như trước kia nữa. Thân là thống soái, phải tập ngồi trong màn trướng mà định việc chiến trường. Gã quyết tâm học tập Giang Phong. Giang Phong ngồi ở Trường Thanh Cung mà định việc thiên hạ.

Khi đã đảm bảo được hậu cần, Định Hải quân để lại 3.000 quân trấn giữ Tân Thành. Số còn lại đều hướng đến Malacca. Tân Thành nằm trên một hòn đảo, chỉ cần 3.000 quân phối hợp với Hạm đội là đủ sức phòng thủ.

Malacca là một thành thị nằm ngay bên bờ biển, là chiến trường lý tưởng cho các hạm thuyền của Hải quân. Tiểu quốc Malacca cũng chỉ mới được thành lập 2 năm, căn cơ chưa vững. Do đó bọn Triệu Phong tấn công mà không gặp nhiều khó khăn.

Các chiến hạm đến ngoài khơi Malacca thì dàn ra dọc theo bờ biển. Đây là phong cách tác chiến quen thuộc của Hạm đội. Hiệu lệnh truyền ra, hiệu kỳ phất phới, các khẩu thần công trên các chiến hạm luân phiên phát xạ. Sau nhiều trận chiến, Hải quân đã rút ra được nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Trong số đó, khi pháo kích, bọn họ sẽ không đồng loạt phát xạ mà chia làm 3 phiên, luân phiên xạ kích. Có như thế, địch quân sẽ thấy đạn pháo bắn tới không ngừng, đạn bay đầy trời, liên miên bất tuyệt. Bọn họ cũng sẽ phải liên tục tránh né đạn pháo, không có thời gian tổ chức phòng ngự.

Gần nghìn khẩu thần công liên tục phát xạ, oanh kích thành Malacca suốt hơn một canh giờ, đến nỗi nòng pháo nóng ran. Trong khi đó, trong thành Malacca, tiếng kêu la vang trời dậy đất, thê thảm vô cùng. Khu vực tường thành hướng ra bờ biển đã bị đạn pháo bắn sụp một đoạn lớn. Nhiều kiến trúc trong thành cũng bị đạn pháo bắn sập. Trong thành khói lửa mịt trời, tiếng kêu la dậy đất. Tiểu vương Malacca cố gắng chỉ huy thủ quân lập lại trật tự trong thành, còn việc phản kích, tạm thời bọn họ chưa nghĩ đến, bởi đối phương đang ở trên thuyền ngoài biển, thủ quân sử dụng cung tên có bắn ra cũng chẳng thể nào bắn đi đến khoảng cách mấy dặm được.

Chương 32 : CHIẾM LĨNH MALACCA THÀNH

Lại nói, gần nghìn khẩu thần công liên tục phát xạ, oanh kích suốt hơn một canh giờ, làm cho thành Malacca bị phá hủy nặng nề. Khu vực tường thành hướng ra bờ biển đã bị đạn pháo bắn sụp một đoạn lớn. Nhiều kiến trúc trong thành cũng bị đạn pháo bắn sập. Trong thành khói lửa mịt trời, cư dân hỗn loạn, tiếng kêu khóc rền rĩ ồn ào.

Trước tình hình đó, tiểu vương Malacca cố gắng chỉ huy thủ quân lập lại trật tự trong thành, đồng thời lo bố trí phòng ngự, đề phòng đối phương đổ bộ tấn công. Quân đội của tiểu quốc Malacca chỉ được trang bị cung tên, đối phương lại ở trên thuyền ngoài biển, bọn họ có muốn phản kích cũng lực bất tòng tâm.

Oanh kích hơn một canh giờ, thấy các nòng pháo đều đã nóng ran, Triệu Phong truyền lệnh xạ thủ tạm thời ngừng phát xạ, làm mát các nòng pháo. Thần công đại pháo mỗi khi sử dụng đều phải như vậy, nếu nòng pháo nóng quá mà vẫn bắn tiếp, có thể làm nổ nòng pháo, dẫn đến thương vong. Trong khi đó, Định Hải quân cũng được lệnh chuẩn bị.

Nghỉ ngơi khoảng nửa canh giờ, thần công đại pháo đã trở lại trạng thái bình thường, các xạ thủ được lệnh vào vị trí, Định Hải quân được lệnh lần lượt đổ bộ lên bờ. Vị trí đổ bộ là đoạn bờ biển hướng thẳng vào khu vực thành tường vừa bị phá hủy khi nãy.

Thấy Định Hải quân đổ bộ, thủ quân bên trong thành cũng dàn trận chuẩn bị tiến ra. Tiểu vương Malacca định cho quân tiến đánh lúc đối phương mới chỉ đổ bộ được một phần. Đó là thời cơ tốt nhất nếu chiếu theo lẽ thường. Có điều đáng tiếc là quân đội của Triệu Phong không thể tính theo lẽ thường được.

Thấy thủ quân dàn trận tạo thành mục tiêu quá nổi bật, Triệu Phong truyền lệnh xạ thủ khai pháo. Gần nghìn khẩu thần công trên các chiến thuyền lại hướng về trận hình của thủ quân mà nhả đạn. Tuy ‘khai hoa đạn’ chưa được nghiên cứu thành công, đạn của thần công đại pháo lúc này vẫn là những viên sắt tròn nặng. Nhưng một viên đạn nặng gần chục cân (1 cân = 600 gam), bắn trúng ai cũng chết người đó, đôi khi dư lực còn có thể làm vài người phía sau thương vong. Mỗi lượt phát xạ, gần nghìn viên đạn pháo rải xuống đầu thủ quân, cũng làm cho khoảng nghìn người thương vong. Sau vài lượt phơi mình dưới làn đạn pháo, bọn họ không chịu nổi nữa, bỏ mặc đội hình, mạnh ai nấy chạy đi tìm nơi ẩn nấp. Cả các tướng lĩnh cũng đành chịu, không ước thúc được quân sĩ. Quân đội của tiểu quốc Malacca cũng chỉ hơn vạn, nãy giờ chưa hề giao chiến mà đã tổn thất ước một phần ba, sĩ khí giảm đi rất nhiều, quân sĩ chẳng mấy ai còn có lòng dạ chiến đấu với địch nhân ‘rất’ lợi hại kia.

Định Hải quân đã đổ bộ hoàn tất, Triệu Phong truyền lệnh xạ thủ trên thuyền tạm ngừng oanh kích, thay vào đó là những khẩu thần công cỡ nhỏ của Định Hải quân khai pháo mở đường tiến vào trong thành. Giờ đây, Xưởng quân khí của Giang Phong đã dựa theo cải tiến của Hồ Nguyên Trừng, chế ra nhiều loại thần công cỡ vừa và cỡ nhỏ, gắn trên bánh xe để bộ binh có thể kéo đi các nơi tham gia tác chiến (Hồ Nguyên Trừng chế súng thần công cỡ vừa hai người khiêng, cỡ nhỏ một người vác vai; Giang Phong không thích như vậy mà bắt gắn bánh xe cho các khẩu pháo). Định Hải quân được trang bị khá nhiều loại này. Lã Tống có rất nhiều mỏ đồng, bọn Giang Phong không hề thiếu đồng để đúc thần công đại pháo.

Nhờ có thần công mở đường, Định Hải quân thuận lợi tiến vào trong thành. Tiểu vương Malacca thống suất quân đội ngoan cường chống cự một thời gian, nhưng rồi vì sức yếu thế cô, đành dẫn tàn quân bỏ thành rút lui về hướng đông bắc. Ở nơi đó tiểu quốc vẫn còn một vài tòa thành nữa. Bọn họ sẽ về đó tụ tập quân đội, mưu đồ khôi phục. Chứ lúc này bên cạnh tiểu vương chỉ còn lại hơn năm nghìn tàn quân, không thể nào đương cự nổi với 2 vạn 7.000 Định Hải quân. Triệu Phong đã có thần công đại pháo, lại còn ỷ chúng hiếp cô, quân đội Malacca không bại sao được.

Chiếm được Malacca, Triệu Phong đích thân vào thành an phủ dân chúng. Mọi người dân đều được bảo toàn tài sản, chỉ trừ những kẻ bất hợp tác mới bị bắt giữ. Đương nhiên kho tàng của tiểu vương cũng như tài sản của quan lại tướng lĩnh tiểu quốc đều bị tịch biên, sung công. Việc này, bọn Triệu Phong rất thông thạo.

Triệu Phong chỉ cho lưu lại 5.000 quân phòng thủ thành Malacca, hơn 2 vạn Định Hải quân còn lại tiếp tục lên đường chinh phạt các thành thị và tiểu quốc lân cận. Bọn Triệu Phong chỉ chiêu an các bộ lạc, còn đối với tiểu quốc thì đều tiến quân chiếm lĩnh. Bộ lạc thường chỉ là các thôn làng, có thể để cho tù trưởng tiếp tục cai quản. Nhưng tiểu quốc tối thiểu đã là cấp huyện, nhiều tiểu quốc lớn còn tương đương với cấp quận, thậm chí cấp tỉnh, phải do triều đình ở Gia Định Thành trực tiếp phái quan viên cai quản. Giang Phong muốn lãnh thổ phải được thống nhất hoàn toàn, không thể để cho địa phương thế lực tồn tại, sau này lại bày ra chuyện ly khai.

Sau gần nửa tháng, Triệu Phong đã ổn định được Malacca thành và các vùng phụ cận. Giang Phong cho chuyển đến đó Trấn Biên nhất sư để phụ trách phòng thủ Tân Thành, Malacca thành và các thành trấn phụ cận. Định Hải quân lấy thêm quân bổ sung cho số binh sĩ thương vong để đủ biên chế 3 vạn, tiếp tục chinh phạt các xứ trên bán đảo. Các xứ phía nam bán đảo dưới sự uy hiếp của Định Hải quân và Hạm đội, hầu như đều quy thuận. Chỉ có vùng phía bắc dưới sự lãnh đạo của tiểu vương Malacca tiếp tục kháng cự. Toàn vùng ngập tràn trong khói lửa chiến tranh.

Dù tiểu vương Malacca ngoan cường kháng cự, nhưng bước tiến của Định Hải quân cũng không hề chậm chút nào. Tiểu vương Malacca nguyên là vương tử ở Sumatra, chạy lên bán đảo Mã Lai chiếm đất xây thành, lập nên tiểu quốc mới được vài năm, căn cơ chưa ổn định, lòng dân chưa quy thuận, nên quân đội Malacca hết bại lại bại, bị đuổi dồn về phía bắc. Do chính sách của Giang Phong đối dân chúng khá nhẹ nhàng (chỉ nghiêm khắc đối với quý tộc và những kẻ bất hợp tác), nên được lòng dân bản địa hơn tiểu vương Malacca. Đối với dân bản địa, cả bọn Triệu Phong và tiểu vương Malacca đều là người ngoài, khi lựa chọn một trong hai, dân bản địa đều chọn đi theo bọn Triệu Phong. Không chỉ có thế, đa số quân binh có gốc bản địa trong quân đội của tiểu vương Malacca cũng chuyển sang quy thuận Định Hải quân, làm cho quân đội của tiểu vương Malacca ngày càng ít đi. Cuối cùng, sau hơn nửa năm ngoan cường chống cự, tiểu vương Malacca dẫn tàn quân hơn nghìn người chạy lên xứ Thái, lúc này là lãnh thổ của vương quốc Ayutthaya, được quốc vương xứ này thu nạp. Vương quốc Ayutthaya lúc này đang có chiến tranh với Đế quốc Khmer suy tàn, nên tiểu vương Malacca được phái sang trấn giữ biên cương phía đông, với lời hứa rằng nếu chiếm được đất đai của người Khmer sẽ giao cho tiểu vương Malacca cai trị.

Triệu Phong ổn định xong các xứ trên bán đảo Mã Lai, liền quay về đại bản doanh ở Tân Thành luyện binh, đồ mưu đảo Sumatra phía bên kia eo biển. Công việc ở bán đảo Mã Lai lúc này được chuyển giao lại cho Chính vụ bộ. Triệu Phong thuộc quân bộ, chỉ lo việc chinh phạt mà thôi. Quảng Tế Pháp sư sau khi xin ý kiến của Giang Phong, đã chia bán đảo Mã Lai thành 4 tỉnh. Phần phía nam gọi là tỉnh Cát Long Pha, gồm 6 quận : Tân Thành (sau khi di dân đến, thăng lên thành quận), Malacca, Cát Long Pha (tên Hán tự của Kuala Lumpur), Nam Ba, Quan Đan, Lân Nghi. Phía bắc tỉnh Cát Long Pha là tỉnh Cát Lan Đan (tên Hán tự của Kelantan), cũng gồm 6 quận. Dải đất hẹp phía trên, kéo dài cho đến xứ Thái được chia thành 2 tỉnh là Tân Ân (tức vùng Tanintharyi) và Tân Ý (tức xứ Pattani), mỗi tỉnh đều có 5 quận. Cả bốn tỉnh này mỗi tỉnh đều có diện tích gần 7 vạn kilômét vuông, cũng là những tỉnh lớn. Cát Long Pha và Cát Lan Đan cũng là những xứ đông dân. Chiếm xong bán đảo Mã Lai, tổng dân số các khu vực do Giang Phong kiểm soát đã tăng lên đến hơn 700 vạn người.

Tiếp đó, theo thông lệ là các cuộc di dân và kiến thiết thành thị. Các thành thị có sẵn thì được chỉnh trang lại theo phong cách mà Giang Phong ưa thích. Một số thành thị được hoàn toàn xây mới. Đặc biệt là Cát Long Pha, một thành thị được xây mới hoàn toàn bên cạnh một khu mỏ thiếc rộng lớn, trở thành thủ phủ của cả tỉnh. Giang Phong cần một lượng lớn thiếc để chế tạo các vật phẩm gia dụng. Thiết được sử dụng để mạ lên sắt thép, tạo thành thép không gỉ. Người xưa đã biết cách mạ kim loại, chẳng hạn như mạ vàng, mạ bạc, mạ đồng, … nên việc mạ thiếc cũng không đến nỗi khó khăn.

(chú : người thời xưa chưa biết cường thủy, hỗn hợp của acid sulfuric và acid clorhidric, khi mạ vàng đã mài vàng thành bột, hòa vào thủy ngân, rồi quét lên vật muốn mạ, sau đó làm nóng cho thủy ngân bay hơi).

Chương 33 : BỊ VÂY

Tân Thành.

Là quận trị của Tân Thành quận, lại nằm ngay giữa eo biển Malacca, tuyến đường biển quan trọng nối liền các nước phương đông với các nước phương tây mà mọi thương nhân buôn bán trên biển đều phải đi qua, vì thế mà Tân Thành đã phát triển rất nhanh, lại nhờ thay thế cho vai trò của Malacca thành trước đây mà trở thành một đại thành thị.

Tân Thành được chia thành hai khu vực rõ rệt. Khu đông thành là khu dân cư, khu thương mại, nơi cung cấp hàng hóa thiết yếu cho các thương thuyền xuôi ngược đông tây. Khu tây thành là khu quân sự, căn cứ của Định Hải quân và đại bản doanh của Triệu Phong. Sau khi chiếm lĩnh bán đảo Mã Lai, Triệu Phong đã không quay về Gia Định Thành mà ở lại đây luyện quân, chuẩn bị đồ mưu đảo Sumatra.

Đảo Sumatra ngày xưa là lãnh thổ của vương triều Srivijaya, gần đây mới bị vương triều Majapahit ở Java chiếm lĩnh. Theo ý nghĩ của Triệu Phong, muốn chiếm lĩnh nó cũng không có gì khó khăn, chỉ cần có thời cơ thích hợp. Định Hải quân đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần khi thời cơ đến là sẽ xuất quân.

Và cuối cùng thì thời cơ cũng đã đến.

Được tin báo có một tiểu vương trong xứ Sumatra nổi dậy chống lại sự cai trị của vương triều Majapahit, quân đội Java trú đóng trên đảo phải đưa quân đi đánh dẹp, Triệu Phong liền cho chiến hạm chở 2 vạn Định Hải quân vượt qua eo biển, đổ bộ lên bờ biển xứ Palembang, nơi từng là kinh đô của vương triều Srivijaya trước kia, nay vẫn là thành thị lớn nhất trên đảo. Từ đó, đại quân tiến về Palembang thành.

Palembang dù sao cũng từng là kinh đô của một vương triều hùng mạnh, nên thành cao hào sâu, quy mô rộng lớn, nếu thủ quân đông đảo, phòng thủ nghiêm ngặt thì cũng khó đánh chiếm. Có điều, do quân đội Majapahit phải xuất quân đánh dẹp quân khởi nghĩa, trong thành giờ chỉ còn lại khoảng 1 vạn quân. Khi thấy 2 vạn Định Hải quân kéo đến bên ngoài, bọn họ liền vội đóng cửa thành, cố thủ.

Định Hải quân cắm trại bên ngoài thành, tiếp đó là thần công đại pháo được kéo ra, liên tục pháo kích vào bên trong thành. Do thành Palembang nằm cạnh sông Musi, Định Hải quân nhận được tiếp tế dễ dàng từ Hạm đội, vì vậy mà bọn họ không hề tiếc đạn pháo, luân phiên pháo kích suốt ba ngày đêm. Nhất là vào ban đêm, thần công đại pháo xạ kích liên tục, khiến quân dân bên trong thành không thể nghỉ ngơi gì được, tinh thần và thể lực đều bị tiêu hao nghiêm trọng. Sau ba ngày, thủ quân tinh thần mỏi mệt, thể lực kiệt quệ, chịu đựng không nổi nữa, Định Hải quân chỉ phát động một trận tấn công là quân đội Majapahit đã bỏ thành mà chạy. Định Hải quân chiếm lĩnh Palembang thành.

Trước giờ thường chiến thắng dễ dàng trước các đối thủ khiến các tướng lĩnh của Định Hải quân có phần khinh địch. Trong quá trình công thành lại không gặp trở ngại gì đáng kể. Do đó mà từ quân đến tướng dần dần trở nên mất cảnh giác.

Nghỉ ngơi trong thành mấy ngày, Định Hải nhất sư Hiệu úy Đoàn Thịnh và Định Hải nhị sư Hiệu úy Vương Duy bàn nhau cất quân đi bình định các vùng lân cận. Sau một hồi tranh nhau, cuối cùng Định Hải nhất sư ở lại thủ thành, Định Hải nhị sư xuất chinh. Bọn họ thỏa thuận sau 10 ngày sẽ đổi phiên một lần. Thế là Hiệu úy Vương Duy dẫn bản bộ xuất chinh.

Ba ngày sau. Làng Sukajadi.

Đó là một ngôi làng nhỏ ở phía tây Palembang thành, là một địa danh ít ai để ý tới. Nhưng kể từ lúc này, nó đã trở nên nổi tiếng, bởi đã trở thành chiến trường giữa Định Hải nhị sư và quân đội của Majapahit ở Java. Trưa nay, song phương 4 vạn nhân mã gặp nhau bên ngoài làng Sukajadi này. Cả song phương cách nhau ngôi làng, dàn trận sẵn sàng quyết chiến.

Thế nhưng, lúc này đang giữa trưa, song phương không hẹn mà đồng thời tạm đình chiến, cho quân sĩ nghỉ ngơi và ăn bữa trưa. Đến khi trời đã bớt nắng, các tướng lĩnh của song phương mới chỉnh đốn quân đội, chuẩn bị chiến đấu.

Định Hải nhị sư chỉ có một vạn, nên chỉ dàn trận chứ không tiến quân, đứng yên tại chỗ chờ đối phương tiến tới. Sau một lúc, khi quân Majapahit đã tiến đến trước bản trận ước chừng năm dặm, Vương Duy mới hạ lệnh :

- Thần công đại pháo, chuẩn bị.

Các xạ thủ lập tức chuẩn bị sẵn sàng. Khi địch quân tiến đến cách khoảng bốn dặm, Vương Duy lại hạ lệnh :

- Phát xạ.

Mệnh lệnh truyền xuống, 100 khẩu thần công cỡ nhỏ đồng loạt phát xạ. Tuy mỗi viên đạn pháo đều trúng đích, nhưng mỗi lần phát xạ chỉ giết được hơn trăm địch quân, giữa đội ngũ 3 vạn người, hiệu quả thật chẳng đáng kể gì. Đến lúc này, bọn Vương Duy mới nhận ra thần công đại pháo chẳng phải là vô địch. Nhất là trong lúc dã chiến, mà địch quân quá đông như thế này.

Sau 10 lượt pháo kích, quân đội Majapahit đã vượt qua khoảng cách giữa song phương, tràn đến trước đội hình Định Hải nhị sư, khiến cho thần công đại pháo không thể tiếp tục khai hỏa, cái giá phải trả chỉ là gần 1.000 binh sĩ thương vong.

Song phương bắt đầu hỗn chiến.

Định Hải nhị sư là quân tinh nhuệ, trang bị tinh lương, chiến lực rất hùng mạnh. Nhưng quân đội Majapahit lại rất đông đảo. Dùng 3 đánh 1, cũng khiến binh sĩ của Định Hải nhị sư gặp rất nhiều khó khăn, hãm nhập khổ chiến. Chiến trường vang dội những tiếng chém giết, hò reo, quát tháo, kêu gào. Song phương thương vong vô số. Trận chiến cực kỳ khốc liệt.

Song phương kịch chiến đến tối. Khi đêm xuống, không thấy đường chiến đấu nữa thì mới thu quân, ai về trại nấy nghỉ ngơi, chờ sáng mai sẽ lại quyết chiến.

Về đến trại, kiểm điểm quân số, bọn Vương Duy thất kinh khi phát hiện binh sĩ thương vong hơn nửa, hơn 2 nghìn tử trận, cận 3 nghìn mang thương, chỉ còn lại chưa đến 5 nghìn là còn có thể chiến đấu. Nghĩ đến cuộc chiến ngày mai, đối diện địch quân đông đảo, e rằng lành ít dữ nhiều, cả bọn liền quyết định rút lui ngay trong đêm, lặng lẽ rút về thành Palembang.

Nói về phía quân đội Majapahit, sau khi rút lui về trại cũng kiểm điểm lại quân số, và cũng thất kinh khi phát hiện bản quân thương vong thảm trọng. Ngoài hơn 8.000 quân tử trận, còn có hơn vạn thọ thương, chỉ chiến đấu có nửa ngày mà bọn họ đã thiệt hại gần 2 vạn quân. Giờ đây chỉ còn lại hơn 1 vạn quân còn đủ năng lực chiến đấu. Nghĩ đến chiến lực của đối phương, cả bọn đều rất lo lắng. Dụng 3 vạn đối chiến 1 vạn, mà còn thương vong như thế, đủ thấy đối phương thiện chiến đến mức nào. Viên tướng chỉ huy quyết định tạm thời án binh bất động, đồng thời phái người đi trưng tập dân binh quanh vùng đến tiếp ứng.

Mấy ngày sau, vô số đội dân binh được điều đến nơi, tập họp thành đại quân. Nhìn gần 5 vạn đại quân tụ tập đông đảo, dù đại bộ phận là dân binh, nhưng viên tướng cũng cảm thấy vững lòng, truyền tiến quân. Không tìm thấy đạo quân đã cùng chiến đấu hôm trước, viên tướng liền kéo thẳng đến Palembang thành.

Trong thành, sau khi Vương Duy dẫn tàn binh trở về, bọn Đoàn Thịnh không còn dám khinh địch nữa, lập tức phái quân đi do thám các nơi trong vùng. Khi biết tin quân đội Majapahit hội họp đại quân kéo đến vây thành, quân số đối phương đến 5 vạn, bọn họ không dám xuất thành tiếp chiến, mà tăng cường phòng thủ, đồng thời phái người đến Tân Thành cầu viện.

Quân đội Majapahit kéo đến dưới thành, sau khi lập trại đóng quân, liền tổ chức công thành. Có điều, bọn họ đa số là dân binh mới được trưng tập, chiến lực không cao. Trong thành lại có nhiều thần công đại pháo, nên chỉ sau hai ngày công thành, phía Majapahit đã thương vong gần vạn mà không thể nào đặt chân lên được tường thành. Viên tướng chỉ huy chỉ còn cách chia quân bao vây tứ phía, đồng thời tiếp tục trưng tập dân binh, quyết định vây thành lâu dài cho đến khi đối phương hết sạch lương thực mới thôi.

Từ đó, mỗi ngày lại có thêm nhiều toán dân binh kéo đến gia nhập lực lượng vây thành. Bọn Đoàn Thịnh, Vương Duy càng không dám xuất thành, chỉ gắng sức cố thủ, chờ viện binh.

Tin tức truyền về Tân Thành, Triệu Phong cả kinh, một mặt điều tập quân đội đi cứu viện, mặt khác khẩn cấp báo cáo về Gia Định Thành. Hiện tại trong tay Triệu Phong chỉ còn lại 1 vạn Định Hải tam sư, cùng với 2 vạn dân binh, vốn là quân đội của tiểu quốc Malacca và các tiểu quốc khác trên bán đảo Mã Lai quy thuận. Bấy lâu nay Triệu Phong ở Tân Thành luyện quân chính là huấn luyện lực lượng này.

Trong lúc chờ đợi mệnh lệnh từ Gia Định Thành, Triệu Phong đã phái Định Hải tam sư sang Palembang tiếp viện bọn Đoàn Thịnh, Vương Duy. Định Hải tam sư được lệnh hoạt động dọc theo bờ sông Musi, dựa vào sự hỗ trợ của Hạm đội mà quấy nhiễu địch quân, tiêu hao dần sinh lực địch.

Khi Định Hải tam sư đổ bộ lên xứ Palembang, liền liên tục tấn công các đạo quân nhỏ của phía Majapahit. Nếu như gặp đại đội địch nhân, không thể chống cự nổi thì bọn họ lại rút lên các chiến hạm. Nhờ sự hoạt động của bọn họ, tình hình ở thành Palembang đỡ căng thẳng hơn. Tuy bị vây chặt, nhưng bọn Đoàn Thịnh vẫn còn cầm cự được, chờ viện binh.

Chương 34 : GIẢI VÂY PALEMBANG THÀNH

Ở Gia Định Thành, Giang Phong nhận được tin chiến sự từ Palembang, dù rất không vui vì bọn Triệu Phong hành sự lỗ mãng, nhưng cũng phái Cấm Vệ quân cùng Tây Dương Hạm đội mới thành lập tiến xuống Sumatra. Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình được giao thống lĩnh toàn quân.

Tây Dương Hạm đội có đến 100 thuyền hạm, nhiều gấp đôi Nam Dương Hạm đội. Tổng số thủy thủ và binh sĩ 1 vạn rưỡi, thần công đại pháo hơn 4.000 khẩu, là một lực lượng rất hùng hậu. Hạm đội đi về phía nam, đến Tân Thành thì ghé vào đó, lấy thêm 2 vạn dân binh ở chỗ Triệu Phong. Số quân này hợp cùng Cấm Vệ quân, được tổ chức lại, thành lập Thần Vũ quân. Cấm Vệ quân được phân vào các đội dân binh, nắm giữ các vị trí chỉ huy. Thần Vũ quân cũng gồm 3 sư, 3 vạn người.

Triệu Phong tuy không được giao chỉ huy trận này, nhưng cũng đi theo với danh nghĩa làm phó cho Đinh An Bình. Lần này chiến sự bất lợi, gã quyết tâm lấy lại cả vốn lẫn lời.

Chỉnh quân xong, Hạm đội lại rời Tân Thành, tiến về Sumatra, sau đó theo dòng Musi đến gần Palembang. Thần Vũ quân đổ bộ lên bờ, cùng Định Hải tam sư hội hợp. Theo thỏa thuận giữa Triệu Phong và Đinh An Bình, lục quân sẽ do Triệu Phong chỉ huy, còn Đinh An Bình ở lại Hạm đội, chỉ huy hải quân hỗ trợ lục quân tác chiến.

Lúc này, quân đội Majapahit đã tập hợp được một đội quân đông đảo, hơn 8 vạn người, trong đó có đến 7 vạn dân binh. Tuy khả năng tác chiến chưa cao, vũ khí cũng thô sơ, nhưng số lượng có thể bù cho chất lượng. Đại quân Majapahit vây chặt Palembang thành, đồng thời còn chiếm giữ các yếu địa. Từ khi bị Định Hải tam sư quấy nhiễu, quân Majapahit không đóng trại riêng lẻ nữa mà tập họp thành những doanh trại lớn, lại ở gần nhau cho dễ tiếp ứng. Hành động này của bọn họ có gây khó khăn cho Định Hải tam sư, nhưng lại tạo thuận lợi cho các Hạm đội Hải quân.

Tây Dương Hạm đội hội hợp cùng Tân Thành phân hạm đội của Nam Dương Hạm đội, tổng số lên đến 130 thuyền hạm, 5.000 khẩu pháo. Đinh An Bình cho các chiến thuyền, chiến hạm đi dọc theo bờ sông Musi, hễ gặp quân đội Majapahit là lập tức pháo kích. Các doanh trại lớn tập trung là mục tiêu rất rõ ràng. Thần công đại pháo tuy vẫn còn rất đơn giản, oai lực không cao, nhưng nếu tập hợp lại với số lượng lớn thì hiệu quả cũng rất đáng kể. Mỗi lượt có hàng nghìn viên đạn pháo bắn đi, đạn pháo bay đầy trời, cả một nửa bầu trời rực hồng, rồi hàng nghìn người đồng loạt tử trận, máu thịt tứ tung, tử trạng thê thảm, quang cảnh vô cùng khủng bố.

Sau vài lượt pháo kích, với hơn vạn thương vong, các doanh trại của quân Majapahit lần lượt tan vỡ. Dân binh vốn chỉ mới được chiêu tập, chưa được huấn luyện quân sự, kỷ luật lỏng lẻo, nên lúc này chạy nháo nhào hỗn loạn vô cùng. Gần 6 vạn dân binh tháo chạy tán loạn, xung tản đội ngũ của 1 vạn quân chính quy triều đình Majapahit, khiến cho tình hình càng thêm náo loạn.

Nhân cơ hội đó, Triệu Phong thống suất Định Hải tam sư và Thần Vũ quân đánh tràn vào. Với 4 vạn quân sinh lực hoàn hảo, vũ khí tinh lương, đối diện 7 vạn địch quân đang tháo chạy hỗn loạn, bọn Triệu Phong chỉ còn việc là truy sát, đồ sát. Các tướng lĩnh Majapahit cố gắng chỉ huy quân đội đề kháng. Nhưng 1 vạn chính quy quân hoàn toàn bị nhấn chìm giữa sự tấn công của Thần Vũ quân. Còn chúng dân binh thì mạnh ai nấy chạy, hiệu lệnh không truyền xuống được. Đó là hậu quả của việc sử dụng quá nhiều dân binh chưa qua huấn luyện quân sự. Kết quả, quân Majapahit đại bại. Bọn Triệu Phong sau khi tiêu diệt xong 1 vạn chính quy quân của Majapahit, liền chia nhau truy đuổi tàn binh, bắt tù binh. Bọn Đoàn Thịnh trong thành cũng kéo ra tham gia việc truy bắt.

Các cuộc vây bắt tàn quân Majapahit kéo dài đến năm ngày mới kết thúc. Các đạo quân đuổi theo ra xa hàng trăm dặm, bắt được hơn 4 vạn tù binh, trong khi bản thân thiệt hại không đáng kể. Tất cả tù binh đều được đưa về Lã Tống làm khổ công ở các mỏ quặng. Chiến lực của số dân binh này quá thấp, Triệu Phong cũng chẳng muốn tuyển chọn sung vào quân đội. Theo gã, thà rằng sang bán đảo Mã Lai chiêu mộ dân binh vẫn hơn.

Sau khi bàn bạc, việc bình định Sumatra do Triệu Phong đảm trách, còn Đinh An Bình sẽ đưa Hải quân đi cướp phá các vùng duyên hải thuộc vương triều Majapahit. Đảo Sumatra sau khi bị quân đội Majapahit chiêu tập 7 vạn dân binh, giờ đây các bộ lạc, các tiểu quốc rất thiếu thốn thanh niên trai tráng. Đây chính là thời cơ tốt nhất để chinh phục vùng này. Toàn bộ 3 vạn Thần Vũ quân và 2 vạn rưỡi Định Hải quân sẽ phụ trách chinh phục các xứ. Triệu Phong có 6 tháng để bổ sung quân số cho Định Hải quân và hoàn thiện Thần Vũ quân, bởi Cấm Vệ quân tạm sung cho Thần Vũ quân sau này sẽ được triệu hồi về Gia Định Thành.

Tin thắng trận truyền về Gia Định Thành, Giang Phong rất hài lòng, nhưng rồi lại nhận ra hậu quả nghiêm trọng của việc thiếu thốn quân đội. Hiện tại vùng quản hạt của Giang Phong rộng mênh mông, nhưng chỉ có 10 vạn lục quân, 5 vạn Hải quân, thật là quá ít. Đại Việt của Hồ Quý Ly lúc này chỉ rộng gấp đôi tỉnh Gia Định, vậy mà quân đội lại rất đông đảo. Trừ ra quân đội trấn giữ phòng tuyến phía bắc để đề phòng quân Minh, quân trấn thủ kinh đô và các thành trấn, Hồ Quý Ly còn có thể tập hợp được 20 vạn đại quân đi đánh Chiêm Thành, chứng tỏ quân số Đại Việt lúc bấy giờ có thể lên đến 50 vạn người. Thậm chí Hồ Quý Ly còn tuyên bố với triều thần là muốn có được 100 vạn đại quân để chống quân Minh.

Sau khi cùng chúng thủ hạ bàn bạc, Giang Phong quyết định tăng số lượng lục quân lên 30 vạn, hải quân cũng tăng thêm 3 vạn nữa. Như vậy trừ quân đội trú phòng các nơi, sau này khi có chiến tranh cũng sẽ có thể điều động được hơn 20 vạn quân ứng chiến, không bị thiếu thốn quân đội đến nỗi huy động cả Cấm vệ quân tham chiến như lúc này. Các xứ thuộc vương triều Majapahit ở Java được để lại làm chỗ luyện quân. Tạm thời Giang Phong chỉ cho chiếm lĩnh đảo Sumatra để củng cố sự kiểm soát eo biển Malacca, kiểm soát ‘hoàng kim hải đạo’.

Dựa vào kết quả điều tra của bọn Cát Ti trước đây, Quảng Tế Pháp sư đã chia đảo Sumatra (tổng diện tích ước 47 vạn kilômét vuông) thành 8 tỉnh : Lamuri (tức xứ Banda Aceh ngày nay), Batak (tức xứ Medan), Pane (tức xứ Riau), Padang, Jambi (từng có một thời gian là kinh đô của vương triều Srivijaya), Palembang, Lampung, Bengkulu; mỗi tỉnh rộng khoảng 6 vạn kilômét vuông, đồng thời cử quan viên đến cai trị ở cấp tỉnh, quận. Quan viên cấp huyện ưu tiên tuyển chọn người bản địa quy phục.

Sau khi ổn định tình hình ở Palembang, Triệu Phong lại quay về Tân Thành. Với thân phận hiện tại, gã không tiện đích thân dẫn quân chinh chiến các xứ, chỉ cần ở đại bản doanh chủ trì đại cục. Hơn nữa, gã lại có nhiệm vụ mới : huấn luyện tân binh. Hàng loạt tân binh được chiêu mộ ở các nơi, rồi đưa đến Tân Thành. Ở đây, bọn họ trải qua một thời gian huấn luyện quân sự, rồi lại được Hải quân đưa đến các xứ duyên hải của vương triều Majapahit tác chiến, chủ yếu là quấy nhiễu và cướp phá các xứ đó, đồng thời tăng thêm kinh nghiệm chiến đấu. Quân đội mà chưa qua chiến trường, dù có huấn luyện thế nào đi nữa, thì cũng chưa thể xem là quân đội tinh nhuệ được.

Về quân chế, ngoài Ngự Lâm quân, Cấm Vệ quân, Định Hải quân, Trấn Biên quân, Thần Vũ quân đã có, Giang Phong đặt thêm Túc vệ quân, Thần Sách quân, Thần Uy quân, Thần Long quân, Uy Tiệp quân, Bảo Tiệp quân, Long Tiệp quân. Tổng cộng có 12 quân, 30 vạn người. Trong đó có Ngự Lâm quân, Cấm Vệ quân, Túc vệ quân mỗi quân chỉ có 1 vạn người, đóng ở kinh thành Gia Định. Các quân còn lại mỗi quân 3 vạn, phân biệt đóng ở các vùng trọng yếu như An Phú, Tân Thành, Cát Long Pha, … Ngoài chính quy quân còn có địa phương quân, ở tỉnh có 2.000 quân, quận có 300 quân, huyện có 50 quân, phụ trách giữ gìn trị an ở địa phương. Các lực lượng địa phương quân này thực chất cũng chỉ là dân binh, nhưng được trang bị đầy đủ, huấn luyện thường xuyên, làm lực lượng dự bị cho chính quy quân khi cần bổ sung quân số.

Trong thời gian các đạo tân quân luyện binh, các xứ duyên hải ở Java phải nói là đại nạn lâm đầu. Các thôn làng, thành trấn đều bị cướp phá, dân cư bị bắt đưa về Lã Tống và Sumatra làm việc. Triều đình Majapahit dù rất cố gắng đề kháng, nhưng trước sự uy hiếp của các chiến hạm ngoài khơi, quân đội Majapahit chỉ có thể ngăn chặn không cho địch quân tiến vào nội địa, chứ không dám ra vùng duyên hải tác chiến. Hạm đội duy nhất của Majapahit mới đối trận với Tây Dương Hạm đội là bị đánh tan lập tức. Giờ đây mặt biển đã bị Tây Dương Hạm đội kiểm soát hoàn toàn. Vô kế khả thi, tổn thất thảm trọng, triều đình Majapahit chỉ có thể đưa ra hạ sách : dời dân vào trong nội lục, bỏ vùng duyên hải. Triều đình Majapahit đã từng gửi sứ thần cầu hòa, nhưng đã bị từ chối. Các xứ này được sử dụng để luyện quân mà, nếu cho cầu hòa thì còn lấy đâu ra chỗ để luyện quân. Muốn cho cầu hòa thì ít ra cũng phải đợi tân binh được huấn luyện xong hết đã. Giờ thì dân Majapahit đành chịu đựng vậy.

Chương 35 : THẦN THÁNH ĐẾ QUỐC

Năm Đinh Hợi (1407), mùa xuân. Gia Định Thành.

Tùng tùng tùng tùng tùng tùng….

Boong boong boong boong boong boong …

Long Phụng Cổ nổi dồn dập, Cảnh Dương Chung gõ liên hồi, báo hiệu điển lễ bắt đầu. Lúc này thời gian là chính Thìn, tức 8 giờ sáng, tất cả quan viên từ cấp tỉnh trở lên, hoặc tướng lĩnh quân đội từ Lục quân Hiệu úy, Hải quân Đô đốc trở lên đều tề tụ Trường Thanh Cung, tham gia Kiến quốc đại điển. Đã 9 năm kể từ khi Giang Phong xuyên việt, đã 3 năm kể từ ngày chuyển đại bản doanh đến Gia Định Thành, giờ đây, theo sự khẩn cầu của chúng thuộc hạ, cuối cùng Giang Phong cũng đã đồng ý kiến quốc. Tuy vậy, Giang Phong không xưng Hoàng đế, chỉ xưng Hoàng, ý là kế thừa Thái Cổ Tam hoàng, hiệu xưng Văn Hoàng, quốc hiệu Thần Thánh Đế Quốc (dựa theo Đế Quốc La Mã Thần Thánh ở châu Âu lúc bấy giờ, và Giang Phong lại là ‘thần’, tên đó phù hợp).

Chiếu theo cổ lễ, đầu tiên sẽ phải tế cáo thiên địa, nhưng nghi thức này đã bị bỏ qua, bởi Giang Phong là ‘thần’, là ‘chân thần’ chứ không phải ‘giả thiên tử’ như các vị đế vương xưa nay vẫn tự xưng. Giang Phong đã là ‘thần’, đương nhiên có thể trực tiếp câu thông thiên địa, vì vậy mà khỏi phải tế cáo nữa.

Giang Phong chỉ ngự ở Văn Nghi Điện, mặt quay về phương nam nhận sự triều bái của văn thần võ tướng. Các vị đế vương xưa nay đều ngồi quay mặt về phương nam nhận sự triều bái của quần thần, Giang Phong thấy cũng không cần thay đổi lệ đó. Ngai vàng của Giang Phong được đúc bằng vàng khối, nặng 10 vạn lượng, tức 3,75 tấn, được chạm trổ cực kỳ tinh xảo, hoàn toàn là một kiện nghệ thuật phẩm. Bọn Quảng Tế Pháp sư chuẩn bị cho lễ kiến quốc đăng cơ, đã lẳng lặng cho chế tạo từ năm trước, mất gần 1 năm mới hoàn thành. Ở Lã Tống có 31 mỏ vàng lớn nhỏ đang được khai thác nên Giang Phong không hề thiếu vàng.

Chiếu theo cổ lễ, Trung Hoa Hoàng đế sẽ phải vận cổn phục miện quan (mũ miện Thiên tử 12 dải), Đại Việt Hoàng đế sẽ vận hoàng bào long quan để làm lễ đăng cơ. Nhưng Giang Phong chỉ thích màu trắng, không ưa màu đen của cổn miện, cũng chẳng thích màu vàng của hoàng bào, vì vậy chỉ vận y phục toàn trắng, bạch y bạch bào, ngọc đái ngọc quan. Bọn Quảng Tế Pháp sư vì chiều theo sở thích của Giang Phong, đã tra duyệt cổ tịch cổ thư, tuyên bố rằng Thái Cổ Thượng Đế của Trung Hoa, Thái Cổ Phạm Thiên của Thiên Trúc đều vận y phục màu trắng, do đó màu trắng là màu tôn quý hơn cả.

Sách xưa ghi lại, vị Thượng Đế đầu tiên được biết đến ở Trung Hoa là vị Thương Đế hay Thượng Đế (phiên sang tiếng Anh là Shang Ti, vị này không phải là Ngọc Hoàng), là tổ tiên của nhà Thương, được các vua Thương tôn làm thần tối cao trên Thiên giới, vị này thường mặc y phục trắng. Đến thời nhà Chu, các vua Chu mới tôn tổ tiên của mình là Hoàng Đế, hay còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế (phiên sang tiếng Anh là Yellow Emperor), lên làm thần tối cao trên Thiên giới thay thế cho vị Thượng Đế thời nhà Thương, lúc này mới chuộng màu vàng. Còn ở Ấn Độ cổ đại, màu trắng là tôn quý nhất, chỉ tầng lớp tu sĩ mới được mặc; màu vàng là thấp kém nhất, dành cho nô lệ mặc. Khi Thích Ca lập nên đạo Phật, tuyên bố không phân biệt đẳng cấp, nên đã chọn màu vàng làm màu y phục của tăng lữ, nhưng đạo Phật ở Ấn Độ không mạnh, truyền sang Trung Hoa, Đại Việt thì tăng lữ thường không mặc y phục màu vàng mà là màu xanh (ở Trung Hoa) hoặc màu nâu (ở Đại Việt). Đến thời hiện đại, ở Ấn Độ màu trắng vẫn là màu tôn quý nhất. Ngay cả các tôn giáo khác trên thế giới như Công giáo, Hồi giáo cũng vậy.

Giang Phong vận bạch y bạch bào, ngọc đái ngọc quan, ngự trên kim long ỷ (vì làm bằng vàng nên có màu vàng, Giang Phong không hề ghét hoàng kim). Quảng Tế Pháp sư dẫn đầu bách quan quỵ phục trước Giang Phong, tâu :

- Thỉnh Đại nhân tức vị.

Theo nghi lễ soạn sẵn, Giang Phong phán :

- Trẫm đăng hoàng vị, kiến lập hoàng triều, kế Thái Cổ Tam Hoàng, khôi phục nền đại thống.

Bách quan hành đại lễ, tam quỵ cửu khấu. Giang Phong truyền bình thân, bách quan tam bái, về hàng. Dàn nhạc diễn tấu :

“Gia lạc quân tử,

Hiển hiện lệnh đức,

Nghi dân nghi nhân,

Thụ lộc vu thiên,

Bảo hựu mệnh chi,

Tự thiên thân chi.

Can lộc bách phúc,

Tử tôn thiên ức,

Mục mục hoàng hoàng,

Nghi quân nghi vương,

Bất khiên bất vong,

Suất do cựu chương.

Uy nghi ức ức,

Đức âm trật trật,

Vô oán vô ố,

Suất do quần thất,

Thụ phúc vô cương,

Tứ phương chi cương.

Chi cương chi kỷ

Yến cập thần tử,

Bách bích khanh sĩ,

Mỵ vu thánh hoàng,

Bất giải vu vị,

Dân chi du hý.”

Tạm dịch :

Nhà vua anh tuấn vui tươi

Lại còn đức tốt rạng ngời đẹp thay !

Thích hợp với dân hay quan tước,

Lộc trời vua được hưởng dồi dào

Trời phù hộ, dạy giúp vào

Tự trời hành động biết bao nhiêu lần !

Lộc cầu trăm phúc được liền,

Cháu con thì số ức thiên vô cùng.

Lại tuấn tú khiêm cung tất cả,

Ở ngôi vương hoặc giả chư hầu,

Đều không tội lỗi tí nào,

Noi theo phép tắc dựa vào phép xưa.

Uy nghi thận trọng kín thầm

Đều đều hằng có tiếng tăm tốt lành.

Con cháu không riêng tình ghét oán,

Nhiệm dụng người tài cán cao sâu.

Phúc thì vô hạn dồi dào,

Làm nên giềng mối, trông vào bốn phương.

Thánh hoàng ổn định kỷ cương

Bề tôi nhờ đó mà hòng được an.

Trăm chư hầu và hàng khanh sĩ,

Đều mến thương, tôn kính thánh hoàng,

Chẳng lười chức vị đã dành,

Thì dân chúng được yên lành vui chơi.”

Nhã nhạc tấu xong, chiếu theo cổ lễ thì đến phiên dâng ngọc tỷ, nhưng Giang Phong miễn luôn việc này. Ngọc tỷ là của Giang Phong, có lý đâu lại cần thuộc hạ dâng cho. Giang Phong không trọng Nho, trong triều không có nho gia, vì vậy mà mọi nghi lễ đều do Giang Phong định đoạt, không ai có ý kiến gì được. Giang Phong không muốn bị trói buộc bởi nghi lễ.

Ngọc tỷ chính là chiếc ấn quan trọng nhất, để đóng vào các chiếu chỉ quan trọng. Ngọc tỷ của Giang Phong được chạm khắc từ một viên bạch ngọc rất quý giá thu được từ Puni, được thợ giỏi chạm khắc công phu, mất nửa năm mới hoàn thành. Trên ngọc tỷ chạm hình Cửu trảo thần long (theo truyền thuyết là tổ của long tộc), bốn góc có tứ linh quỳ chầu. Mặt ấn khắc tám chữ “Thụ mệnh Giang tộc, thiên địa đồng trị”.

Theo lễ nghi của Minh triều, sau phần dâng Ngọc tỷ còn có “tựu vị, bái, bình thân, cúc cung, bái hưng, bái hưng, bình thân, hốt, cúc cung, tam vũ đạo, quỵ tả tất, tam khấu đầu, sơn hô vạn tuế, tái tam hô, quỵ hữu tất, xuất hốt, ………… quyển ban”. Từ ‘tựu vị’ cho đến ‘quyển ban’ kéo dài hơn 1 giờ mới xong, bách quan cứ làm đi làm lại quỳ, bái, hô vạn tuế, … thật lắm sự phiền phức. Lễ nghi Nho giáo này, cả vua quan đều thấy phiền, nhưng cứ phải làm theo để chứng tỏ triều đình trọng lễ. Có điều Giang Phong đã bỏ hết cho đơn giản.

Chiếu theo cổ lệ, Giang Phong cũng lập Thái Miếu, nhận tổ tiên mình là Đế Giang, kế thừa Phục Hy, Nữ Oa mà làm chúng thần cộng chủ (giống như nhà Chu nhận mình là hậu duệ của Hiên Viên Hoàng Đế, nhà Đường nhận mình là hậu duệ của Thái Thượng Lão Quân). Thái Miếu ở Gia Định Thành chỉ thờ ba vị : Phục Hy, Nữ Oa, Đế Giang, gọi là Tam hoàng. Còn vị Hoàng Đế tổ tiên của nhà Chu thì không được kể đến.

Đế Giang là vua của những tộc người đầu tiên sinh sống ở lưu vực sông Giang (tức Trường Giang ngày nay, thời xưa gọi là Giang thủy), bắt đầu việc trồng trọt, cách nay ước 4 vạn năm, cũng là chủ nhân của nền văn minh Thục Sơn, là tổ tiên chung của các tộc người Thái, Mường, Việt. Còn dân Hoa Hạ, đến thời nhà Chu (cách nay hơn 3.000 năm) vẫn còn sinh sống ở lưu vực sông Hà (tức Hoàng Hà ngày nay, thời xưa gọi là Hà thủy), nước Sở ở lưu vực sông Hoài còn bị xem là man di, đương nhiên không liên quan gì đến các tộc ở mạn sông Giang. Còn Phục Hy đại diện cho tộc người đầu tiên thuần hóa thú vật, Nữ Oa đại diện cho tộc người đầu tiên rời hang động, dựng lều để ở, cách nay khoảng 7 vạn năm. Ba vị này được Giang Phong tôn xưng là Tam hoàng, cho dựng đền thờ khắp nơi trong địa bàn của mình.

Sau khi tiếp nhận bách quan triều bái ở Văn Nghi Điện xong, Giang Phong suất bách quan đến Thái Miếu tế tự. Dù Giang Phong là ‘thần’, nhưng đối với Thái Cổ Đại Thần cũng phải tôn kính. Hơn nữa, Giang Phong còn nhận Tam hoàng là tổ tiên.

Lễ nghi đến đây, Giang Phong cho chấm dứt. Chiếu theo cổ lễ phải tiến hành các nghi thức cả ngày mới xong, Giang Phong không có nhiều kiên nhẫn đến thế. Lễ xong thì đãi yến triều thần. Giang Phong không cải chế (thay đổi chế độ quan lại) nên bách quan vẫn tiếp tục công việc trước đây. Sau này khi cần thiết thì sẽ điều chỉnh. Còn giờ thì tạm ổn rồi. Thể chế do Giang Phong đặt ra không hề giống triều đại nào trước đây, ngay cả chức bộ trưởng cũng mới lần đầu xuất hiện, do đó Giang Phong nói sao thì thành ra như vậy, không cần phải tuân theo cổ lễ gì cả. Giang Phong là ‘thần’ nên được lợi vô cùng, không cần phải theo các nghi lễ do ‘người phàm’ đặt ra, nhờ đó mà tránh được rất nhiều phiền phức.

Sáng hôm sau, Giang Phong cho các quan viên địa phương và các tướng lĩnh quân đội trở về cương vị của mình. Sắp tới có nhiều việc, cần được chuẩn bị sẵn sàng. Thời gian không còn nhiều nữa.

Chương 36 : CHIẾN TRANH ĐẠI MINH – ĐẠI NGU (1)

Gia Định Thành, Trường Thanh Cung, Thành Đức Điện.

Giang Phong thiết tiểu triều, chỉ gồm các thuộc hạ thân tín là bọn Quảng Tế Pháp sư, Cát Ti, Đào Anh, Triệu Phong, Đinh An Bình. Do Giang Phong không thân tự chấp chính, nên tiểu triều, đại triều đều có ý nghĩa như nhau, chủ yếu hồi báo kết quả công việc triều chính và nhận chỉ thị mới từ Giang Phong (đương nhiên giờ đây sẽ được gọi là thánh chỉ, Giang Phong vừa đăng cơ), khác biệt chẳng qua là quy mô số người tham dự. Văn Nghi Điện thiết đại triều, Thành Đức Điện thiết tiểu triều. Trong Trường Thanh Cung có đến 1.000 điện đường lâu các, nên không sợ thiếu chỗ.

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bản triều hiện đã thiết lập 30 tỉnh là : thánh đô Gia Định; An Phú và Lã Tống ở Lã Tống đảo; Nam An, Định An, Hòa An ở Nam Lã Tống quần đảo; Puni, Hải An, Hải Châu, Hải Dương, Hải Đường, Hải Hưng, Hải Ninh, Hải Phú, Hải Thanh trên Puni đảo; Tân Hóa và Tân An ở Sula quần đảo; Tân Định ở Maluku quần đảo; Cát Long Pha, Cát Lan Đan, Tân Ân, Tân Ý ở bán đảo Mã Lai; Lamuri, Batak, Pane, Padang, Jambi, Palembang, Lampung và Bengkulu ở Sumatra đảo. Các tỉnh lại được chia thành 172 quận, 1688 huyện, hơn 4 vạn thôn trấn. Ngoài ra còn có hải đồn An Đạt Man ở An Đạt Man quần đảo và hải đồn Ba Đan ở Ba Đan quần đảo. Riêng xứ Đài Loan vẫn còn đang bình định.

An Đạt Man quần đảo tức là các đảo thuộc khu vực biển Andaman, thời hiện đại gọi là quần đảo Andaman và Nicobar. Đó thật ra là hai quần đảo nằm đối diện nhau ngay trước lối vào eo biển Malacca, vì nằm ngay vĩ tuyến 10 độ nên khoảng giữa hai quần đảo còn được gọi là eo biển 10 độ (thập độ hải hạp). Các đảo này về địa lý được phân vào khu vực Đông Nam Á (dù thuộc về lãnh thổ của Ấn Độ), cách xứ Lamuri (tức Banda Aceh) không xa. Hải quân bộ đã cho xây dựng ở đó một căn cứ hải quân, gọi là hải đồn An Đạt Man, luôn luôn có một đội chiến hạm túc trực để kiểm soát eo biển, là chốt tiền tiêu của eo biển Malacca.

Ba Đan quần đảo tức là các đảo nằm giữa Philippine và Đài Loan, ở về phía nam eo biển Basi, thời hiện đại gọi là quần đảo Batanes (thuộc Philippine), cách Lã Tống về phía nam 160 kilômét, cách Đài Loan ở phía bắc 190 kilômét, tổng diện tích hơn 200 kilômét vuông, trong đó chỉ có vài đảo là con người có thể ở được. Nơi đó cũng có một hải đồn do các chiến hạm thuộc Bắc Dương Hạm đội trấn giữ.

Đảo Đài Loan, cho đến trước khi ‘Mãn Thanh nhập quan’ vẫn chưa thuộc về các triều đại Trung Hoa. Ở đó đã có dân bản địa sinh sống từ hàng vạn năm trước. Năm 1544, một chiếc tàu Bồ Đào Nha đã nhìn thấy đảo Đài Loan, và đặt tên nó là Ilha Formosa (nghĩa là hòn đảo xinh đẹp). Công ty Đông Ấn Hà Lan ban đầu chỉ buôn bán dọc theo Bành Hồ (quần đảo nằm gần bờ biển Phúc Kiến). Tuy nhiên, nhà Minh tuyên bố quần đảo này là một phần lãnh thổ của mình và đẩy lùi người Hà Lan. Năm 1624, người Hà Lan đã phải rút lui sang Đải Loan, thành lập một thành thị gọi là Tayoan (tức thành phố Đài Nam ngày nay), và bắt đầu nhập khẩu lao động từ Phúc Kiến và Bành Hồ. Người Hà Lan chiếm Đài Loan là để có chỗ buôn bán với các quốc gia Đông Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, … Đến khi Mãn Thanh thay thế nhà Minh, Trịnh Thành Công khởi nghĩa thất bại, đã dẫn quân chạy ra Đài Loan, đánh đuổi người Hà Lan, thì lúc bấy giờ Đài Loan mới do người Trung Hoa kiểm soát. Như vậy đến lúc này đảo Đài Loan vẫn chưa thuộc về nước nào, không ai quản lý, mà bỏ không thì thật phí, nên Giang Phong cho người đến quản lý vậy.

Chờ Giang Phong nghiên cứu qua địa đồ xong, Quảng Tế Pháp sư mới nói tiếp :

- Thống kê bước đầu, bản triều có khoảng 238 vạn hộ, 1.300 vạn nhân khẩu, trong đó thuận dân chiếm hơn 7 phần, lương dân chiếm cận 3 phần, nghịch dân không đáng kể, hầu như đều đang làm khổ công ở Lã Tống. Bản triều có 31 mỏ vàng ở Lã Tống, 34 mỏ vàng ở Puni, gần đây lại phát hiện khá nhiều mỏ vàng ở Sumatra, đang chuẩn bị đưa vào khai thác. Ngoài ra cũng có 83 mỏ đồng, hơn trăm mỏ sắt; lưu hoàng, diêm sinh, thiếc, thủy ngân, thạch than, thạch hôi cũng rất nhiều. Về điền sản bản triều có hơn 4 ức mẫu, mỗi năm thu lương không những đủ cho dân chúng sử dụng mà còn thặng dư cận 3 phần. Hiện các kho bản triều tích trữ rất nhiều lương thực, đủ cho trăm vạn đại quân sử dụng đến 3 năm.

Giang Phong rất hài lòng. Chỉ cần có đủ lương thực, cuộc sống no đủ, dân chúng sẽ không nổi loạn. Yêu cầu của dân chúng rất đơn giản. Họ không quan tâm ai đang cai trị, miễn sao có thể ăn no mặc ấm là được. Chỉ có các nhà Nho mới quan tâm triều đình chính thống hay không chính thống. Giống như khi nhà Hồ thay nhà Trần, dân chúng cũng chẳng ai phản đối, cho đến khi Hồ Quý Ly làm nhiều việc mất lòng dân. Do đó, Giang Phong không tiếc lời khen ngợi :

- Tốt lắm. Chỉ cần không thiếu lương tiền, bản triều vô ngại. Khanh lập đại công cho bản triều.

Quảng Tế Pháp sư được Giang Phong khen ngợi, lòng rất cao hứng, thanh âm cao thêm ba phần :

- Tạ Thánh hoàng. Đó là việc mà thần nên làm, không dám sơ suất.

Không chỉ Quảng Tế Pháp sư cao hứng, cả bọn Triệu Phong cũng rất cao hứng, vì có đủ lương thực sẽ có thể phát động chiến tranh. Sau khi Quảng Tế lui về, Triệu Phong bước ra tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bản triều lục quân 30 vạn đều đã chỉnh đốn huấn luyện xong. Mỗi sư đều được phối thuộc 200 khẩu thần công. Tất cả đều có thể lập tức tác chiến.

Đinh An Bình cũng tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bản triều Hải quân cả 3 Hạm đội đều đã chỉnh đốn hoàn tất, hải quân 8 vạn, hạm thuyền 382 chiếc, trong đó Thất Tinh cấp chiến hạm 12 chiếc. Trừ Nam Dương Hạm đội phải phụ trách phòng vệ lãnh hải, cả Tây Dương Hạm đội và Bắc Dương Hạm đội đều sẵn sàng tác chiến.

Giang Phong hài lòng, hỏi Quảng Tế Pháp sư :

- Tình hình bắc phương thế nào rồi ? Chiến tranh Minh – Đại Ngu tiến triển ra sao ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Tháng tư năm ngoái, lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình về nước, Minh triều sai Hàn Quan và Hoàng Trung mang 5.000 quân hộ tống để lập Trần Thiêm Bình làm vua.

Giang Phong cau mày hỏi :

- Gã Trần Thiêm Bình này là người thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Sau khi Chế Bồng Nga tử trận, nhà Trần đánh lui được quân Chiêm Thành, đã hạ lệnh bắt trị tội những thổ hào ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và các tướng, tôn thất từng theo hàng Chiêm Thành. Trong số những người này có một người là Trần Tông. Một tên gia nô của Trần Tông là Trần Khang đã trốn sang Ai Lao, đổi tên thành Thiêm Bình. Đến năm Canh Thìn (1400), khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, Khang mạo xưng là con của Trần Nghệ Tông, chạy sang Tàu cầu viện Minh triều đánh báo thù. Đến năm Giáp Thân (1404), Minh triều sai Lý Ỷ sang hỏi Hồ Quý Ly về việc Trần Thiêm Bình. Lý Ỷ đến công quán, bí mật sai người do thám tình hình Đại Việt. Khi Lý Ỷ về Tàu, Hồ Quý Ly mới phát hiện ý đồ do thám, liền sai Phạm Lục Tài đuổi theo giết đi. Nhưng khi đến Lạng Sơn thì Ỷ đã ra khỏi biên giới. Ỷ về Tàu, tâu mới Vĩnh Lạc đế rằng họ Hồ xưng đế và ngạo mạn. Sau khi Ỷ về Tàu, Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân sang dâng biểu tạ tội và xin rước Trần Thiêm Bình về nước tôn làm vua. Vĩnh Lạc đế hứa phong cho Hán Thương một quận lớn nếu chịu quy phục.

Giang Phong cau mày nói :

- Phụ tử Hồ Quý Ly thật tráo trở, khó khiến người khác tín phục. Quân quốc đại sự, sử dụng tiểu mưu tiểu kế, sao thành được.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Đúng thế đấy ạ. Hồ Quý Ly chỉ giỏi tiểu mưu tiểu kế, chẳng qua mặt được ai. Thành ra đối diện Minh triều toàn gặp bất lợi.

Triệu Phong hỏi :

- Thế vụ Trần Thiêm Bình thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Ngày 8 tháng 4, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh Kinh. Hai đạo quân thủy bộ của nhà Hồ đụng độ với quân Minh. Quân nhà Hồ khinh địch nên bị bại trận, các tướng Phạm Nguyên Khôi, Chu Bỉnh Trung, Trần Nguyên Huyên, Trần Thái Bộc tử trận. Hồ Nguyên Trừng xuống thuyền đi thoát, nhưng giữa đường thuyền đắm, Hồ Nguyên Trừng ngộ nạn.

Nói đến đây, Quảng Tế Pháp sư và Giang Phong nhìn nhau. Giang Phong hiểu ngay lão muốn nói gì. Hồ Nguyên Trừng giỏi chế súng thần công, Giang Phong không muốn để rơi vào tay Minh triều, nhưng lại không thể thu phục, đành dùng đến hạ sách đó. Sau khi Hồ Nguyên Trừng ngộ nạn, những thủ hạ liên quan đến việc chế súng thần công đều được bí mật đón về Xưởng quân khí ở Long Sơn.

Chương 37 : CHIẾN TRANH ĐẠI MINH – ĐẠI NGU (2)

Sau khi kể về việc Hồ Nguyên Trừng ngộ nạn, Quảng Tế Pháp sư dừng lời một lúc rồi mới lại nói tiếp :

- Đúng lúc đó, Hồ Vấn mang quân từ Vũ Cao đến đánh úp quân Minh. Hoàng Trung chống cự không nổi, đến đêm phải rút quân về. Song các tướng nhà Hồ là Hồ Xạ và Trần Đĩnh mang quân đóng chặn ở ải Chi Lăng. Quân Minh bị chặn mất đường về, đành phải chấp nhận giao nộp Trần Thiêm Bình và sai Cao Cảnh đưa hàng thư, đề nghị mở đường cho về nước. Hồ Xạ nhận hàng thư, bằng lòng nhận Thiêm Bình và mở vòng vây cho quân Minh rút lui. Quân nhà Hồ bắt được nhiều tù binh, đưa vào Nghệ An cho làm ruộng. Thiêm Bình bị mang về xử lăng trì. Sau đó, Hồ Hán Thương khẩn trương củng cố phòng tuyến Đa Bang, đồng thời sai sứ đoàn gồm Trần Cung Túc, Mai Tú Phu sang Minh triều xin giảng hòa, biện minh việc Thiêm Bình giả mạo. Nhưng sứ đoàn bị Minh triều bắt giam toàn bộ.

Đinh An Bình than :

- Xem ra Minh triều quyết ý đánh Đại Việt rồi ?

Đào Anh hỏi :

- Sao chúng ta không giúp Đại Việt chống quân Minh ?

Đinh An Bình nói :

- Giúp sao được. Lúc đó chúng ta chỉ có một ít quân, cuộc chiến ở Sumatra còn phải điều động cả Cấm Vệ quân tác chiến. Lấy quân đâu mà giúp Đại Việt.

Giang Phong nói thêm :

- Hồ Quý Ly mất lòng dân, thất bại chỉ là chuyện sớm muộn. Chúng ta giúp y rồi để mất lòng dân luôn sao ? Hơn nữa, Quý Ly bản tính đa nghi. Dù chúng ta chịu giúp, y chưa chắc đã tin. Đến lúc đó, quân ta phải lưỡng diện tác chiến, vừa phải lo chống quân Minh, vừa phải lo đề phòng quân nhà Hồ, gặp bất lợi như thế thì làm sao yên tâm tác chiến được.

Đào Anh chỉ khẽ thở dài. Quảng Tế Pháp sư tiếp lời :

- Tháng 9 năm ngoái, Minh triều sai Trương Phụ, Trần Húc mang quân đánh vào ải Pha Lũy; Mộc Thạnh, Lý Bân mang quân đánh ải Phú Lệnh. Quân Minh chỉ có khoảng 22 vạn, nhưng lại nói phao lên thành 80 vạn. Tháng 10, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, lập doanh trại ở bờ bắc sông Hồng, kéo dài đến tận Chú Giang. Quân nhà Hồ cũng bố trí dọc theo sông Hồng, do Hồ Quý Tỳ, em Hồ Quý Ly, chỉ huy. Quân ở Chú Giang do Hồ Đỗ chỉ huy. Trên bờ, quân bộ và voi đóng đối diện doanh trại quân Minh. Trương Phụ và Mộc Thạnh dùng danh nghĩa ‘Phù Trần diệt Hồ’, viết bảng văn kể tội phụ tử Hồ Quý Ly và tìm con cháu nhà Trần để phục ngôi, cho thả theo dòng sông. Nội dung bảng văn kể 22 tội của Hồ Quý Ly, gồm có 8 nội dung lớn :

1. Cướp ngôi, giết vua và tôn thất nhà Trần (2 tội).

2. Xem nước và nhân dân như thù địch (3 tội).

3. Tự tiện đổi họ Lê sang họ Hồ (1 tội).

4. Lừa gạt triều đình Minh triều (trong vụ Trần Thiêm Bình) (3 tội).

5. Đánh chiếm và khống chế vùng Tư Minh, Ninh Viễn (5 tội).

6. Đánh Chiêm Thành là nước đã thần phục Minh triều (6 tội).

7. Không theo lịch Trung Quốc, tự đổi tên nước (1 tội).

8. Khinh nhờn, không kính trọng Minh triều (1 tội).

Đinh An Bình kinh ngạc nói :

- Không ngờ bọn họ tìm ra được nhiều tội như thế, mà tội nào nghe cũng có lý cả.

Cát Ti cũng nói :

- Mưu kế này thật thâm độc.

Quảng Tế Pháp sư lại nói :

- Quân nhà Hồ trông thấy bảng văn, lại thấy chính sự nhà Hồ mất lòng dân, nên không có lòng chống quân Minh. Các tướng Mạc Thúy, Nguyễn Huân mang 1 vạn quân ra hàng quân Minh và được phong chức tước. Ngày 2 tháng chạp, quân Minh chiếm được bờ sông Mộc Hoàn và chỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy Tả Thánh Dực quân là Hồ Xạ không giữ nổi, phải dời trận địa sang phía nam sông Hồng. Đêm mùng 7 tháng chạp, quân Minh tiến ra bãi sông Thiên Mạc, bị tướng nhà Hồ là Trần Đĩnh đánh bại. Sau đó, quân Minh chấn chỉnh lại đội ngũ, đánh được hai mặt sông Thao và sông Tuyên, đóng quân ở bờ bắc sông Thao, đối diện với thành Đa Bang. Đêm mùng 9 tháng chạp, quân Minh đánh úp quân nhà Hồ ở bãi Mộc Hoàn. Tướng nhà Hồ là Nguyễn Công Khôi mải mê nữ sắc, không phòng bị, chiến thuyền bị đốt gần hết. Các đạo thủy quân mặt trên và mặt dưới của nhà Hồ đều không đến cứu ứng. Quân Minh dựng cầu phao vượt sông. Trương Phụ và Mộc Thạnh thấy các bãi sông đều có rào cọc chắn không tiến được, lại biết nhà Hồ chỉ trông vào thành Đa Bang để phòng thủ, nên tập trung tấn công thành này làm bước quyết định cục diện mặt trận. Ngày 12 tháng chạp, quân Minh nhân đêm tối đánh úp thành, Trương Phụ và Hoàng Trung đánh góc tây bắc, Mộc Thạnh và Trần Tuấn đánh mặt đông nam. Phía Mộc Thạnh dùng thang mây đánh lên mặt thành, quân Minh bị giết xác chất cao như núi nhưng vẫn không ngừng tấn công. Tướng nhà Hồ là Nguyễn Tông Đỗ đào thành lùa voi ra đánh. Biết voi sợ sư tử, quân Minh lấy vải vẽ hình sư tử trùm lên đầu ngựa và bắn tên lửa khiến voi sợ phải chạy ngược vào trong. Quân Minh đuổi theo vào tận trong thành, quân nhà Hồ đại bại, phải bỏ chạy về Hoàng Giang. Quân Minh đánh chiếm được thành Đa Bang, bắt được 12 voi chiến và vô số binh khí.

Đinh An Bình nói :

- Bọn Hồ Quý Ly kỳ vọng rất nhiều vào thành Đa Bang. Nay thành Đa Bang thất thủ, quân đội tan vỡ, bại thế đã định.

Quảng Tế Pháp sư lại nói :

- Sau khi thành mất, các cánh quân nhà Hồ dọc sông đều tan vỡ, lui về giữ Hoàng Giang. Trương Phụ tiến đến sông Phú Lương, quân nhà Hồ chặn giữ. Trương Phụ chưa biết tính ra sao thì hàng tướng là Mạc Thuý và Đặng Nguyên vẽ bản đồ địa hình xin làm hướng đạo. Ngày 13 tháng chạp, được sự dẫn đường của Mạc Thuý, quân Minh theo dọc sông Phú Lương tiến xuống, đốt phá cọc gỗ. Ngày 14, quân Minh đánh vào Thăng Long, cướp được nhiều của cải và lương thực, rồi đặt quan cai trị.

Đinh An Bình nói :

- Thế là Minh triều đã lộ rõ mưu đồ đánh chiếm Đại Việt đặt làm quận huyện chứ có ‘Phù Trần diệt Hồ’ đâu.

Triệu Phong hỏi :

- Thánh hoàng. Hồ Quý Ly tất bại. Bản triều sẽ làm gì ạ ?

Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Quý Ly mất lòng dân, nhưng họ Trần vẫn còn. Sau khi nhà Hồ thất bại, tôn thất họ Trần tất khởi binh mưu việc khôi phục. Tạm thời bản triều chưa nên can thiệp vào.

Triệu Phong khẽ than :

- Vậy là không có đánh nhau ư ?

Giang Phong mỉm cười, nói :

- Điều động 5 quân Định Hải, Thần Vũ, Thần Sách, Thần Uy, Thần Long đi bình định Majapahit. Triệu Phong thống lĩnh các đạo quân này. Tây Dương Hạm đội hỗ trợ.

Triệu Phong cả mừng nói :

- Cẩn tuân thánh ý.

Giang Phong lại nói :

- Bắc Dương Hạm đội phái một phân hạm đội đưa Bảo Tiệp quân đến Thuận Hóa, cùng Thế Căng phòng ngự các xứ Tân Bình, Thuận Hóa. Tuyệt đối không cho bọn Hồ Quý Ly chạy vào đấy. Các quân Uy Tiệp, Long Tiệp chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh.

Đinh An Bình cung kính nói :

- Cẩn tuân thánh ý.

Thế là bộ máy chiến tranh của Thần Thánh Đế quốc đã được khởi động. Triệu Phong thống lĩnh 15 vạn quân, cùng 100 thuyền hạm của Tây Dương Hạm đội tiến sang các đảo xứ Java, là lãnh thổ của vương triều Majapahit. Lúc này, vương triều Majapahit đã rất suy yếu. Cuộc nội chiến tranh ngôi giữa vua Vikramavardhama và người anh rể là Virabhumi ở miền Đông, kéo dài từ năm 1401 đến 1406, đã khiến vương quốc kiệt quệ. Tiếp theo đó là cuộc quấy nhiễu bởi việc luyện quân của bọn Triệu Phong, khiến vương quốc càng thêm suy sụp. Các tiểu quốc trong vùng không còn thần phục vương triều nữa, hoặc chỉ thần phục trên danh nghĩa. Quốc vương Vikramavardhama chỉ có thể kiểm soát Majapahit và các khu vực lân cận.

Khi Triệu Phong thống lĩnh đại quân đến tấn công, nhờ sự hỗ trợ của Tây Dương Hạm đội, thành Majapahit nhanh chóng thất thủ, quốc vương Vikramavardhama phải dẫn tàn quân chạy về phía tây, đến Galuh cố thủ. Thấy thế lực của Thần Thánh Đế quốc quá hùng mạnh, nhiều tiểu vương trong vùng sai sứ đến xin thần phục, nhưng đều bị Triệu Phong từ chối. Giang Phong không chấp nhận chế độ phong kiến phân quyền với các tiểu vương tự cai trị tiểu quốc của mình, vốn là truyền thống ở các xứ Đông Nam Á (chỉ trừ có Đại Việt). Những khu vực do Giang Phong kiểm soát, tất cả đều phải trực thuộc triều đình ở Gia Định, không thể để tồn tại các tiểu quốc là ‘quốc trung quốc’.

Trước hoàn cảnh đó, đại bộ phận các tiểu vương đều tập hợp lại xung quanh quốc vương Vikramavardhama để mưu việc đề kháng. Nhưng cũng có một số tiểu vương nguyện ý giao quyền, chỉ nhận tước vị mà hưởng cuộc sống phú quý an nhàn. Giang Phong đã chấp thuận, phong cho bọn họ tước hầu, tước bá và con cháu bọn họ muốn làm quan đều được trọng dụng.

Đảo Java không lớn, lại dài và hẹp, hoàn toàn thích hợp cho quân đội của Thần Thánh Đế quốc tác chiến. Dưới sự hỗ trợ của Tây Dương Hạm đội, Triệu Phong cho quân tập trung bình định khu vực lân cận thành Majapahit, sau đó đến khu vực phía đông, trước đây vốn là địa bàn của tiểu vương Virabhumi, anh rể của quốc vương Vikramavardhama.

Sau đó đại quân mới bắt đầu lấn dần sang phía tây, lấn dần dần, lần dần dần. Quân đội của quốc vương Vikramavardhama cứ phải lùi dần, lùi dần. Sau khi cố thủ Galuh được khoảng 8 tháng, quốc vương Vikramavardhama lại phải bỏ thành chạy về phía tây, đến xứ Kalapa. Rồi sang đầu năm sau (1408), thành Kalapa thất thủ, quốc vương Vikramavardhama tự sát. Vương triều Majapahit chính thức diệt vong.

Chương 38 : CHIẾN TRANH ĐẠI MINH – ĐẠI NGU (3)

Sau khi Majapahit diệt vong, Chính vụ bộ của Quảng Tế Pháp sư lại một phen bận rộn. Đảo Java tuy nhỏ, nhưng lại có dân số quá đông. So với đảo Puni ở phía bắc, diện tích của đảo Java chỉ bằng 1/6, nhưng dân số lại nhiều hơn gấp 10 lần, đến hơn 1.600 vạn, nhiều hơn cả phần còn lại của Thần Thánh Đế quốc.

Phần đất đai mới chiếm được gồm đảo Java và quần đảo Bali ở phía đông, cho đến tận Timor, được chia thành 3 tỉnh. Đảo Java rộng 126.700 kilômét vuông được chia làm đôi, thành 2 tỉnh : Kalapa và Kediri. Quần đảo Bali rộng 88.627 kilômét vuông, thành lập tỉnh Bali. Thần Thánh Đế quốc tăng thêm 3 tỉnh, dân số tăng thêm hơn 1.600 vạn. Do dân số ở Java quá đông, Giang Phong đã cho di dời dân chúng ở những tiểu quốc chống đối sang đảo Puni và đảo Đài Loan ở phía bắc, mỗi đảo khoảng 400 vạn, lại đưa 400 vạn sang Gia Định và các vùng lân cận mới lấn chiếm được từ Đế quốc Khmer, chỉ để lại Java 400 vạn. Đương nhiên, kế hoạch di dân khổng lồ này không thể tiến hành trong một thời gian ngắn, mà dự định sẽ kéo dài trong khoảng từ 3 đến 5 năm. Thời gian đầu chỉ di dân đến đảo Puni trước, nơi đó đất rộng người thưa, đang cần thêm người để khai phá.

Trong khi bọn Triệu Phong đang chinh phục các xứ Java, Giang Phong ở Gia Định Thành vẫn luôn chú ý diễn biến cuộc chiến tranh giữa Đại Minh và Đại Ngu. Chiến hạm có tốc độ nhanh nhất được sử dụng để truyền tin tức từ phương bắc vào.

Sau khi chiếm được Thăng Long, biết căn cứ chính của nhà Hồ ở Tây Đô, triều đình nhà Hồ đang đóng ở đấy, quân Minh đã theo đường sông Phú Lương tiến đánh.

Ngày 20 tháng 2 năm Đinh Hợi (1407), Hồ Quý Tỳ (em Hồ Quý Ly) tiến quân đến Lỗ Giang. Quân hai bên đụng độ nhau ở bờ sông. Quân nhà Hồ có 500 chiến thuyền, còn quân Minh đánh theo cả hai đường thủy bộ. Kết quả quân nhà Hồ đại bại, mất 100 chiến thuyền và 1 vạn binh lính, phải lui về Muộn Hải. Quân Minh bắt được hơn trăm người, trong đó có các tướng nhà Hồ và đem ra chém hết. Hồ Quý Ly cùng Hồ Hán Thương lui về Tây Đô.

Trong khi đó, Hồ Xạ và Hồ Đỗ không giữ được Bình Than, chạy qua cửa Thái Bình đến Muộn Hải hợp binh với Hồ Quý Tỳ. Các tướng cùng đắp lũy, đúc súng, huy động nhân lực ra mặt trận chống giặc. Tuy nhiên, khi quân Minh đuổi đánh đến nơi, quân nhà Hồ chống không nổi, lại phải lui về cửa biển Đại An.

Quân Minh sau một thời gian giao chiến phát sinh bệnh tật, cửa Muộn Hải ẩm thấp nên Trương Phụ phải mang quân ra đóng ở Hàm Tử. Hồ Quý Tỵ cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn dời quân đến Hoàng Giang, sai người đón Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương ra; sau đó cùng Hồ Xạ, Trần Đĩnh hợp quân thủy và quân bộ cùng tiến lên cửa Hàm Tử đánh quân Minh. Quân nhà Hồ lúc này có tổng cộng 7 vạn, nói thăng lên 21 vạn để phô trương thanh thế.

Ngày 30 tháng 3, quân nhà Hồ tập kết ở Hàm Tử. Hồ Xạ và Trần Đĩnh lãnh quân bộ ở bờ nam sông; Đỗ Nhân Giám và Trần Khắc Trang lãnh quân bộ ở bờ bắc sông; Nguyễn Công Chửng lãnh 100 chiến thuyền làm tiên phong. Quân Minh chia ra 2 mặt thủy bộ, đặt phục binh đón đánh. Hồ Xạ đoán quân Minh có mai phục, không chịu tiến quân. Hồ Đỗ sai người đến trách Hồ Xạ vì sao không tiến quân đánh giặc. Hồ Xạ bất đắc dĩ phải tiến đánh, rồi gặp phục binh, quân nhà Hồ đại bại. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt sống, Hy Chu chửi Phụ là giặc tàn bạo, bị Phụ giết. Đại tướng Hồ Xạ tử trận, quân bộ hai bên bờ sông đều nhảy xuống sông rồi chết đuối, quân thủy chạy thoát được, nhưng các chiến thuyền chở lương đều bị chìm. Có đến hàng vạn quân nhà Hồ tử trận, máu đỏ nhiễm hồng cả mặt sông. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các tướng bỏ chạy về Tây Đô.

Cha con Hồ Quý Ly thua chạy vào Thanh Hóa, bị quân Minh đuổi gấp, định dùng hậu phương mới chiếm được từ Chiêm Thành để kháng cự, bèn viết thư cho Phạm Thế Căng đang trấn thủ Nam Trấn, sai lấy một phần ba số dân Việt di cư khi trước mới đến khẩn hoang ở Thăng Hoa, gộp với quân lính địa phương làm quân ‘cần vương’ điều ra bắc, giao cho Nguyễn Lỗ chỉ huy, lại phong cho hoàng tử nước Chiêm cũ là Chế Ma Nô Đà Nan làm ‘Thăng Hoa quận vương’ để vỗ về dân Chiêm tại đây. Chế Ma Nô Đà Nan là con của Chế Bồng Nga, vì tướng La Khải cướp ngôi nên hai con của Chế Bồng Nga phải chạy sang hàng Đại Việt, đều được phong hầu.

Tuy nhiên, vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại nhân lúc nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, cũng cất quân bắc tiến, lần lượt chiếm lại những vùng đất vốn bị nhà Hồ chiếm giữ hồi năm Nhâm Ngọ (1402). Quân Chiêm đánh chiếm châu Tư, châu Nghĩa, giết chết Chế Ma Nô Đà Nan và tiến lên đánh phủ Thăng Hoa. Phạm Thế Căng lấy cớ phải chống cự quân Chiêm, không điều viện binh cho Hồ Quý Ly. Đồng thời, 1 vạn quân được điều đến trấn giữ quan ải ở Hoành Sơn (tức đèo Ngang), ngăn hẳn phương nam với phương bắc. Hiện tại ở Tân Bình, Thuận Hóa có 3 vạn quân bản bộ của Phạm Thế Căng, cùng với 3 vạn Bảo Tiệp quân, ngoài biển lại được một phân hạm đội của Bắc Dương Hạm đội tuần phòng, hoàn toàn đủ khả năng phòng ngự quân Minh hoặc quân Chiêm.

Ngày 23 tháng 4, quân Minh đánh vào Lỗi Giang, quân nhà Hồ không đánh mà tan. Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh, thủy quân nhà Hồ tự tan vỡ. Cha con Hồ Quý Ly định lánh đến Thâm Giang nhưng không thành. Tướng Ngụy Thức xin hai cha con Hồ Quý Ly tự thiêu vì : “Nước sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác”. Nhưng Quý Ly không nghe, nổi giận, chém chết Ngụy Thức, rồi bỏ chạy vào Nghệ An.

Đến Kỳ La thuộc Tân Bình, có bô lão nói rằng đất này không lành, không nên ở. Chỗ đó là Kỳ La cạnh núi Thiên Cầm. Kỳ La được người địa phương đọc chệch thành Ky Lê, nghĩa là trói họ Lê - họ cũ của Hồ Quý Ly; Thiên Cầm là ‘trời bắt’. Hồ Quý Ly không nghe, chém chết ông lão.

Ngày 5 tháng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Hàng tướng người Việt là Nguyễn Đại bắt được Hữu tướng quốc Hồ Quý Tỳ. Ngày 11, quân Minh đánh vào Vĩnh Ninh, Vương Sài Hồ bắt được Hồ Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy. Ngày 12, bộ tướng của Mạc Thuý là Nguyễn Như Khanh bắt được Hồ Hán Thương và thái tử Hồ Nhuế ở núi Cao Vọng (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh).

Nhà Hồ hoàn toàn thất bại.

Trong các tướng nhà Hồ, Hồ Xạ và Đỗ Nhân Giám tử trận, Lê Cảnh Kỳ tuyệt thực mà chết, Kiều Biểu và Ngô Miễn nhảy xuống sông tự vẫn. Số các đại thần còn lại : Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cần, Đỗ Mãn, Trần Nhật Chiêu, Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Bổng, … đều hàng quân Minh. Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Liễu Thăng, Lỗ Lân, Trương Thăng, Du Nhượng, Lương Định, Thân Chí bắt giải Hồ Quý Ly, các con cháu và các tướng, cùng ấn tín về Kim Lăng, kinh đô của Minh triều.

Tháng 8, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về Tàu, lưu lại Lữ Nghị, Hoàng Phúc trấn giữ Đại Việt. Cha con Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị đày ra Quảng Tây làm lính. Trong số những quan lại nhà Hồ bị bắt, vua Minh giả vờ cho một số người làm thị lang, tham chính ở các nơi xa, nhưng trên đường đi thì sai người trừ khử.

Về hành chính, Minh triều cải Đại Việt thành quận Giao Chỉ, lập 17 phủ : Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Kiến Bình, Tân An, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa. Dưới 17 phủ là 47 châu, 154 huyện, 1 vệ, 13 sở. Trong 17 phủ trên, các phủ Thuận Hóa, Thăng Hoa thực chất chỉ đặt khống, vì vùng này hiện do Phạm Thế Căng trấn giữ, quân Minh chưa chiếm được. Còn phủ Tân Bình quân Minh chỉ chiếm được phần phía bắc đèo Ngang. Kể từ đèo Ngang vào nam là vùng quản hạt của Phạm Thế Căng. Do đó, trên thực tế Minh triều chỉ quản lý được 14 phủ và nửa phía bắc phủ Tân Bình, địa giới phía nam chỉ đến đèo Ngang.

Sau khi chiếm được Đại Việt, Minh triều sai lùng bắt người tài năng, có sức khỏe, các thợ giỏi bắt mang về Tàu. Kết quả bắt được hàng nghìn người đưa về phục vụ cho triều đình nhà Minh. Cũng may một số người tài hoa nổi bật đã được bí mật đón vào nam, nếu không Đại Việt tổn thất càng nặng nề hơn. Chỉ đáng tiếc, khi nhà Hồ còn, người của Quảng Tế Pháp sư không thể công khai hành động, nên vẫn còn để lại rất nhiều thợ giỏi mà quân Minh đã bắt được.

(chú : dân số các nơi thời xưa không rõ ràng, trong truyện lấy theo tỷ lệ của Đại Việt. Thời Trần – Hồ, dân số Đại Việt có khoảng 3 triệu người Kinh, 2 triệu người ‘man’. Cũng khu vực đó ngày nay có khoảng 40 triệu. Do đó, dân số các nơi khác đều lấy theo tỷ lệ 1/8 so với dân số ngày nay. Có thể không chính xác, nhưng kể ra cũng hợp lý. Dù sao cũng chỉ là truyện).

Chương 39 : CHIẾN TRANH ĐẠI MINH – ĐẠI NGU (4)

Đại Việt từ khi chính thức độc lập vào thế kỷ thứ 10, trải qua hơn 500 năm đã lớn mạnh nhanh chóng, giữ vững bờ cõi, xâm lấn về phía nam, tất cả các mặt đều phát triển mạnh mẽ, nhất là văn hóa đã trở thành quốc hồn quốc túy và có nhiều nét riêng biệt so với Bắc triều. Chẳng hạn vua Trần Nhân Tông xuất gia lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là việc chưa hề thấy trong lịch sử Trung Hoa. Sự lớn mạnh và độc lập của Đại Việt là một hiểm họa cho Bắc triều, đã được chứng minh qua các cuộc chiến tranh Việt - Tống, Việt - Nguyên; nên Minh triều từ khi nắm quyền không thể không biết. Nhằm thủ tiêu nền văn hóa của người Việt, ngay năm Bính Tuất (1406), khi phát binh đánh Đại Việt, Vĩnh Lạc đế đã ban sắc chỉ :

“Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, Đạo giáo là không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học … đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ cũng không được để sót.”

Năm Đinh Hợi (1407), Vĩnh Lạc đế lại ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn hóa triệt để hơn :

“Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian, … các bia dù dựng lên một mảnh, hễ trông thấy là phá hủy hết … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, không được lưu lại.”

Sự hủy diệt đó đã khiến sử gia Ngô Sĩ Liên phải than rằng :

“Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn.”

Tuy Minh triều tạm thời chiếm được Đại Việt, nhưng người dân Đại Việt vẫn không ngừng nổi dậy phản kháng. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra.

Giữa năm Đinh Hợi (1407), người dân huyện Đông Lan và Trà Thanh thuộc Diễn Châu nổi dậy phá ngục, giết huyện quan. Trương Phụ và Trần Húc phải mang quân vào đánh dẹp.

Tại châu Thất Nguyên (Lạng Sơn), dân tộc bản địa lập căn cứ chống quân Minh. Trương Phụ sai Cao Sĩ Văn đi đánh, đến châu Quảng Nguyên thì bị quân khởi nghĩa giết chết. Sau Trương Phụ phái Trình Dương tăng viện thì mới thắng được.

Tháng 11, Phạm Chấn nổi dậy, lập Trần Nguyệt Hồ - một người tự xưng là tôn thất nhà Trần - làm vua ở Bình Than. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, Trần Nguyệt Hồ bị bắt, Phạm Chấn trốn thoát và gia nhập cuộc khởi nghĩa của Giản Định Đế Trần Quỹ.

Ngoài ra còn có các phong trào nhỏ lẻ khác như Chu Sư Nhan ở An Định (Thái Nguyên), Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí ở Thái Nguyên, Trần Nguyên Thôi ở Tam Đái (Phú Thọ), Trần Nguyệt Tôn ở Đồng Lợi ... Do các cuộc khởi nghĩa này đều có quy mô nhỏ, không liên kết được với nhau nên nhanh chóng bị đánh dẹp.

Lúc đó, có tôn thất nhà Trần là Trần Quỹ, con trai vua Trần Nghệ Tông, chạy đến Mô Độ, Trường Yên (Ninh Bình) thì được người phủ Thiên Trường là Trần Triệu Cơ dẫn thủ hạ đi theo. Ngày 2 tháng 10 năm Đinh Hợi (1407), Trần Quỹ lên ngôi ở Mô Độ, xưng hiệu là Hưng Khánh, còn gọi là Giản Định Đế.

Tháng 4 năm Mậu Tý (1408), quân Minh đánh vào hành dinh, vì là quân mới chiêu tập, không đánh mà tan. Giản Định Đế phải chạy về phía Tây, tạm đóng ở đất Nghệ An. Hàng tướng Đặng Tất nghe tin liền giết chết quan nhà Minh, đem quân đến họp với Giản Định Đế, tiến con gái sung vào hậu cung. Giản Định Đế phong Tất làm Hạ quốc công, cùng nhau mưu việc khôi phục. Tướng cũ của nhà Hồ là Nguyễn Cảnh Chân cũng mang quân đến giúp.

Được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân giúp sức, quân Trần đánh thắng quân Minh và các ‘ngụy quan’ nhiều trận, chiếm giữ một vùng rộng lớn từ Thanh Hóa vào tới đèo Ngang. Giản Định Đế lại sai người vào Nam Trấn dụ Phạm Thế Căng, nhưng bị từ chối. Đặng Tất vốn bất hòa với Phạm Thế Căng, định mang quân vào đánh, nhưng không qua được đèo Ngang, đành phải rút về.

Đến tháng chạp, Giản Định Đế hội tất cả quân Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, rồi tiến ra đánh Thăng Long. Quân ra đến Trường Yên (Ninh Bình) thì các quan của nhà Trần ngày trước và những hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.

Quân Minh đưa tin ấy báo về Kim Lăng. Vĩnh Lạc đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở Vân Nam sang đánh. Quân Minh cũng điều động 2 vạn thủy quân và trưng dụng 1 vạn quân vận lương ở Quảng Đông để tham gia phòng vệ. Các đội thổ binh 2.000 người cũng được điều động để kịp thời ứng cứu những nơi nguy cấp. Mộc Thạnh cùng với quan đô chưởng là Lữ Nghị vào đến bến Bô Cô thì gặp quân Trần. Hai bên giao chiến, Giản Định Đế thân tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung phong, phá tan được quân Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành Cổ Lộng (thành nhà Minh xây tại khu vực ngày nay là huyện Ý Yên, Nam Định).

Bấy giờ Giản Định Đế muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông Quan (tức Thăng Long). Nhưng Đặng Tất ngăn lại, muốn chờ quân các lộ về hội đông đủ, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không được hòa thuận. Giản Định Đế lại nghe người nói gièm, cho rằng Tất không muốn ra đánh Đông Quan vì có ‘ý khác’. Vì vậy tháng 3 năm Kỷ Sửu (1409), Giản Định Đế bắt Đặng Tất và quan tham mưu là Nguyễn Cảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người ai cũng chán nản, không có lòng giúp nữa.

Sau khi Giản Định Đế giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân thì các con của hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bỏ đi, đón Trần Quý Khoách (cháu nội Trần Nghệ Tông và gọi Giản Định Đế là chú) ra làm vua tại Chi La, Nghệ An, tức là Trùng Quang Đế. Để tránh tình trạng phân tán lực lượng, Trùng Quang Đế sai tướng Nguyễn Súy mang quân đánh úp bắt Giản Định Đế về, tôn làm Thái thượng hoàng.

Quân Minh sau trận đại bại ở Bô Cô, Mộc Thạnh phải chạy về cố thủ ở thành Đông Quan. Tháng 7, Trùng Quang Đế và Giản Định Đế chia quân hai đường đi đánh quân Minh. Giản Định Đế đóng ở Hạ Hồng, Trùng Quang Đế đóng ở Bình Than. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh.

Được tin Mộc Thạnh thất trận, Minh triều sai Trương Phụ mang 5 vạn quân sang cứu viện, thế quân Minh lại lên. Giản Định Đế bỏ thuyền lên bờ, chạy về trấn Thiên Quan. Trùng Quang Đế ngờ Giản Định Đế có ý tách lực lượng riêng nên sai Nguyễn Súy đuổi theo nhưng không kịp. Trương Phụ mang quân đuổi theo bắt được Giản Định Đế và thái bảo Trần Hy Cát, sai giải về Kim Lăng xử trảm.

Tháng 8, Trùng Quang Đế cầm cự với Trương Phụ ở Bình Than, lệnh cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ lương thực rất thiếu thốn, Đặng Dung chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho quân ăn. Quân Minh dò biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử, quân của Dung tan vỡ.

Sau khi bắt được Giản Định Đế, quân Minh cho rằng việc bình định đã gần hoàn thành, nên Trương Phụ xin với Vĩnh Lạc đế về nước, để Mộc Thạnh ở lại chỉ huy lực lượng quân Minh đã được tăng cường, đánh dẹp các nơi.

Ngày 6 tháng 9, quân Minh giao chiến với quân Trần ở cửa sông Thần Đầu. Quân Trần có đến 400 chiến thuyền, hơn 1 vạn quân, tiến đánh rất hăng hái, nhưng không địch nổi lực lượng của quân Minh nên phải rút lui.

Quân Minh đuổi theo quân Trần, đến ngày 7 tháng 2 năm Canh Dần (1410) thì đuổi đến châu Ngọc Ma. Khi đó gặp thổ binh người Thái dẫn voi chiến đổ ra đánh. Quân Minh dùng tên lửa bắn voi và quản tượng, voi hoảng sợ quay đầu chạy, thổ quân Thái tan vỡ. Đến ngày 12, quân Minh lại giao chiến với 2 vạn quân Trần tại Đông Hồ, giết 4.500 người và bắt làm tù binh hơn 2.000 người, quân Trần thua chạy về Nghệ An.

Dù rằng bị đánh lui về phía nam, nhưng lực lượng nhà Trần tiếp tục hoạt động và kiểm soát từ Nghệ An trở vào. Quân Minh liên tục phải điều động quân từ Quảng Tây sang tiếp viện cho Mộc Thạnh. Đầu năm Tân Mão (1411), Vĩnh Lạc Đế lại sai Trương Phụ dẫn 2 vạn rưỡi quân sang tiếp viện cho Mộc Thạnh để đánh dẹp quân Trần. Quân Minh tiến về phía nam, đường thủy do Trương Phụ chỉ huy, đường bộ do Mộc Thạnh chỉ huy, định đánh kẹp quân Trần lại tại các căn cứ dọc các cửa sông đổ ra biển.

Tháng 6 năm Nhâm Thìn (1412), Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân vào đánh Nghệ An, gặp Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, thì Súy và Cảnh Dị vượt biển chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, đành đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi.

Tháng 4 năm Quý Tỵ (1413), Trương Phụ lại vào đánh Nghệ An. Trùng Quang Đế rút lui về Tân Bình.

Tháng 6, quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái phó nhà Trần là Phan Quí Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con Quí Hữu là Liêu làm tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, nên nói cho Phụ biết Trùng Quang Đế có bao nhiêu tướng quân, người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chỗ hiểm, chỗ không thế nào. Trương Phụ bèn tiến quân vào Tân Bình.

Tháng 9, quân Trương Phụ vào đến Tân Bình, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định bắt sống nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống sông lấy thuyền nhỏ mà chạy thoát được. Bấy giờ quân Trần còn rất ít, Trương Phụ thấy vậy liền đem quân đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy. Nguyễn Cảnh Dị thua trận bị Trương Phụ bắt, Dị mắng Phụ rồi bị giết.

Từ khi thua trận đó, Trùng Quang Đế quân thế quá yếu, không thể chống với quân Minh được nữa, phải lui vào khu vực phía bắc đèo Ngang, rồi sai người sang nói với Phạm Thế Căng cho lui vào Thuận Hóa. Phạm Thế Căng từ chối, và sai quân giữ vững các nơi hiểm yếu. Không sao được, Trùng Quang Đế cùng bọn Đặng Dung phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng bao lâu thì bị bắt, giải về Tàu. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng tự sát. Nguyễn Súy tìm cách làm thân với viên quan áp giải mình, được cùng gã đánh cờ. Nhân thời cơ thuận lợi, Nguyễn Súy cầm bàn cờ đập chết gã rồi mới nhảy xuống biển tự vẫn.

Chương 40 : ĐÁNH CHIẾM ĐỒ BÀN

Năm Đinh Hợi (1407), mùa hạ.

Lúc này quân nhà Hồ đã đại bại, cha con Hồ Quý Ly phải dẫn tàn quân chạy về Tây Đô. Cùng lúc đó, vua Chiêm là Ba Đích Lại cũng đem quân bắc tiến, chiếm lại các châu Tư, Nghĩa, bao vây phủ Thăng Hoa. Nhờ có Bảo Tiệp quân với sự hỗ trợ của phân hạm đội thuộc Bắc Dương Hạm đội nên Thăng Hoa mới giữ vững được và tạm thời đánh lui quân Chiêm về Tư, Nghĩa.

Tin chiến sự được báo về Gia Định. Giang Phong liền phái Đinh An Bình suất lĩnh Uy Tiệp quân, Long Tiệp quân, cùng phần còn lại của Bắc Dương Hạm đội tiến đánh Đồ Bàn, kinh đô của Chiêm Thành lúc bấy giờ. Cấm Vệ quân cũng được lệnh tiến theo đường bộ, đánh lấn ra bắc.

Thành Đồ Bàn nằm cách bờ biển khoảng 50 dặm (tức 20 kilômét), tuy có sông Côn chảy ngang qua rồi đổ ra biển, nhưng thuyền hạm của Bắc Dương Hạm đội quá lớn, không thể vào được. Cũng may đã có dự kiến việc này nên trong Hạm đội có khá nhiều ‘tiểu hình’ chiến thuyền (‘tiểu hình’ theo quy cách của Thần Thánh Đế quốc). Uy Tiệp quân và Long Tiệp quân đổ bộ lên bờ, tiến đến bao vây thành Đồ Bàn. Các ‘tiểu hình’ chiến thuyền cũng theo sông Côn đến phía nam thành. Tuy chỉ có 6 vạn quân nhưng được phối thuộc 1.200 khẩu thần công đại pháo, chiến lực rất hùng hậu, lại có Hạm đội hỗ trợ, kiểm soát hoàn toàn mặt biển, không sợ giống như nhà Hồ trước đây, vì thiếu lương mà phải rút lui.

Theo thông lệ, đại quân vây thành, rồi toàn bộ thần công đại pháo tập trung thành trận địa ở phía nam thành, liên tục pháo kích vào bên trong. Các chiến thuyền liên tục vận chuyển đạn pháo từ Hạm đội vào tiếp tế cho đại quân. Hơn nghìn khẩu pháo oanh kích vào trong thành, nửa bầu trời rực hồng lửa đạn, quang cảnh rất là khủng bố. Chỉ cần mỗi viên đạn pháo giết được 1 người thì cũng đủ khiến quân dân trong thành thiệt hại thảm trọng.

Do lượng đạn pháo, hỏa dược dồi dào, Đinh An Bình không cho quân công thành mà cứ liên tục pháo kích như thế. Sau hai ngày, mặt thành phía nam bị bắn sụp nhiều đoạn, mất đi khả năng phòng ngự, và cũng đã có rất nhiều dân Chiêm theo cửa bắc chạy ra ngoài thành ẩn náu. Ở trong thành cứ bị pháo kích liên tục, thật không an toàn chút nào.

Sang ngày thứ ba, vua Chiêm cảm thấy không thể giữ nổi thành, đành dẫn quân chạy về phía tây bắc, lên vùng rừng núi ẩn náu, mưu việc khôi phục. Đinh An Bình dẫn quân vào chiếm lĩnh thành Đồ Bàn, sau đó để lại 5.000 quân trấn giữ, rồi tiếp tục bình định các vùng lân cận.

Mùa thu tháng 8, Cấm Vệ quân cũng tiến đến Đồ Bàn. Vùng lãnh thổ phía nam của Chiêm Thành đã được bình định. Đinh An Bình giao khu vực này lại cho Cấm Vệ quân quản lý, rồi dẫn quân đi vây đánh nơi ẩn náu của vua Chiêm.

Sau hai tháng vây đánh, bọn Đinh An Bình cũng bao vây được vua Chiêm trong một vùng rừng núi ở xứ Tây Sơn. Vùng núi này quá rộng lớn, sử dụng đại pháo không có hiệu quả, Đinh An Bình nghĩ ra một kế, chỉ cho quân vây chặt xung quanh, rồi sai người loan truyền rằng sắp cho phóng hỏa đốt rừng.

Tin này làm cho quân Chiêm trong núi đều kinh hồn thất sắc. Nếu cả ngọn núi bị hỏa thiêu thì bọn họ cũng không thể thoát được. Thế là quân Chiêm đào ngũ dần dần. Một số bỏ trốn, nhưng cũng có một số ít ra hàng bọn Đinh An Bình. Có được hướng đạo, Đinh An Bình cho quân khép chặt vòng vây. Rơi vào đường cùng, mà ‘bậc vương giả không thể chết về tay kẻ khác’, Chiêm vương Ba Đích Lại đã tự thiêu. Triều thần và gia nô cũng có gần trăm người tự thiêu theo vua. Chiêm Thành diệt vong.

Tháng 11, Đinh An Bình lại suất quân tiến ra vùng Tư, Nghĩa. Bảo Tiệp quân cũng từ Thăng Hoa tiến vào. Bị lưỡng diện hiệp công, lại nghe tin Đồ Bàn thất thủ, Chiêm vương đã tự thiêu, đạo quân bắc tiến của Chiêm Thành đành đầu hàng. Lãnh thổ của Đế quốc cũng được nối liền ra đến đèo Ngang.

Toàn cảnh Chiêm Thành, kể luôn vùng Thăng Hoa, cho đến Hải Vân Quan ở phía bắc cũng chưa đến 5 vạn kilômét vuông, được đặt làm 1 tỉnh. Để đặt tên cho tỉnh này, Giang Phong đã suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng chọn tên là Phú Yên. Từ nay xứ này sẽ gọi là Phú Yên tỉnh, có các quận : Hội An, Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Tiếp đó, 100 vạn dân ở Java được đưa đến định cư tại đấy, ở lẫn với dân Chiêm. Cả dân Đại Việt ở ngoài bắc chạy vào nam lánh nạn cũng được đưa đến định cư ở vùng Hội An, Thăng Hoa.

Tuy chiếm được Chiêm Thành, nhưng muốn hoàn toàn ổn định xứ này cũng phải mất khá nhiều thời gian. Tạm thời Uy Tiệp quân và Long Tiệp quân ở lại trấn thủ. Cấm Vệ quân rút về Gia Định. Bảo Tiệp quân rút về Thuận Hóa. Quân bản bộ của Phạm Thế Căng được cải tên thành Linh Tiệp quân. Phạm Thế Căng được phong Trấn Bắc Tướng quân, tạm quản 2 đạo Linh Tiệp, Bảo Tiệp mà trấn thủ các xứ Tân Bình, Thuận Hóa, phòng ngự Hoành Sơn, ngăn không cho quân Minh tiến về phía nam.

Trong lúc ở các xứ Thanh Nghệ của Đại Việt, quân khởi nghĩa của Giản Định Đế đang đánh nhau với quân Minh, thì Giang Phong lại bận lo ổn định các vùng mới chiếm được, tức các xứ Java, Sumatra và Chiêm Thành. Công cuộc di dân khổng lồ cũng được khẩn trương tiến hành.

Do dân số đã tăng lên gấp đôi, Giang Phong đã cho tăng thêm 24 vạn lục quân, 2 vạn Hải quân nữa. Với dân số hơn 3.000 vạn, chỉ có 57 vạn lục quân, 10 vạn Hải quân là không nhiều. Trong số 24 vạn lục quân tăng thêm, ngoài 18 vạn phân thành 6 quân Trấn Ninh, Trấn Hải, Trấn Phong, Uy Vũ, Uy Đức, Uy Nghĩa. Còn lại 6 vạn chia cho Ngự Lâm quân, Cấm Vệ quân và Túc Vệ quân. Từ nay, cả Ngự Lâm quân, Cấm Vệ quân và Túc Vệ quân đều có đủ 3 sư, 3 vạn người.

Có thêm tân binh tất phải luyện quân. Quan điểm của Giang Phong là quân đội chưa từng ra chiến trường thì chưa thể gọi là quân tinh nhuệ. Mục tiêu luyện quân đương nhiên là hai xứ còn lại trong vùng, vương quốc Ayutthaya ở phía bắc bán đảo Mã Lai và Đế quốc Khmer ở Angkor. Cả 6 đạo quân mới thành lập và Ngự Lâm quân, Cấm Vệ quân, Túc Vệ quân luân phiên tiến đánh 2 xứ đó, chiếm dần đất đai.

Mùa xuân năm Mậu Tý (1408), Đinh An Bình thống suất 4 quân Cấm Vệ, Trấn Ninh, Trấn Hải, Trấn Phong đánh chiếm vùng duyên hải tây nam của Đế quốc Khmer và phía nam xứ Thái, từ Hà Tiên cho đến Tân Ý (Pattani), thành lập 8 quận.

Mùa hạ, Triệu Phong lại suất 4 quân Túc Vệ, Uy Vũ, Uy Đức, Uy Nghĩa đánh chiếm thành Nam Vang ngay ngã ba sông Mekong với Tonle Sap. Thành lập tỉnh Nam Vang.

Mùa thu, Triệu Phong suất quân đánh chiếm đến khu vực phía đông Angkor. Thành lập tỉnh Cao Miên. Mùa thu tháng 9, các vua Thủy Xá, Hỏa Xá ở cao nguyên phía tây tỉnh Phú Yên xin thần phục, đều được phong hầu. Xứ này cách trở, đi lại khó khăn nên Giang Phong chỉ lập quận huyện, nhưng để người bản địa tự cai trị như trước. Tỉnh Tây Nguyên thành lập.

Mùa xuân năm Kỷ Sửu (1409), Triệu Phong lại suất quân đánh chiếm Angkor. Đế quốc Khmer diệt vong. Trên cơ sở Angkor và các vùng phụ cận thành lập tỉnh Angkor. Mùa hạ, Đinh An Bình suất quân đánh chiếm Ayutthaya, vương quốc Ayutthaya diệt vong. Tỉnh Thái Nam thành lập. Vương quốc Sukhothai ở tây bắc xứ Thái từng bị Ayutthaya thay thế, nay lại khôi phục vương triều, trở thành vua của người Thái.

Mùa xuân năm Canh Dần (1410), liên quân Sukhothai – Vạn Tượng hội quân ở cao nguyên Khorat, được 8 vạn người, sau đó tiến xuống phía tây nam định giành lại Ayutthaya. Song phương đánh nhau một trận lớn ở Sing Buri phía bắc Ayutthaya. Thần Thánh Đế quốc chỉ có 2 đạo quân ở đây, nên không thể đánh lui được liên quân Sukhothai – Vạn Tượng, nhưng liên quân cũng bị chặn đứng, không thể tiến xuống phía nam. Song phương cầm cự ở đấy.

Mùa thu năm đó, Triệu Phong thống suất 5 đạo quân Trấn Ninh, Trấn Phong, Uy Vũ, Uy Đức, Uy Nghĩa tiến về miền nam xứ Vạn Tượng, chiếm giữ vùng Savannakhet. Mùa đông, chiếm giữ Viên Chăn. Cầm Công ở Sầm Châu và tiểu vương Ai Lao cũng dâng đất. Quốc vương Vạn Tượng cố thủ ở Luang Phabang. Ba tỉnh mới được thành lập : Sa Thành, Viên Thành, Sầm Châu. Do vương quốc Vạn Tượng chủ động tấn công trước, Giang Phong cho trừng phạt bằng cách dời dân sang các tỉnh thuộc Khmer trước đây, sống lẫn với dân Khmer, đồng thời cho dời 30 vạn dân Chiêm, Java, Thái và Khmer lên sống ở Sa Thành và Viên Thành. Công cuộc di dân này kéo dài đến mùa thu năm sau mới xong.

Cũng mùa đông năm đó, liên quân Sukhothai – Vạn Tượng hết lương, lại nghe tin Vạn Tượng nguy cấp, nên phải rút về phương bắc. Một phần do chiến đấu tử trận, một phần do hết lương binh lính bỏ đi, lúc này liên quân chỉ còn lại khoảng 4 vạn. Trận này liên quân hao binh tổn tướng mà không lập nên công trạng gì. Thế nước của Sukhothai càng thêm suy yếu.

Chương 41 : ĐÚC TIỀN VÀ CẢI TỔ TÔN GIÁO

Năm Tân Mão (1411), mùa xuân.

Giang Phong quyết định giải quyết luôn xứ Thái để rảnh tay lo việc phương bắc. Đại quân chia làm 2 đường. Triệu Phong thống suất 3 đạo quân Uy Vũ, Uy Đức, Uy Nghĩa từ Viên Thành tiến sang phía tây, hướng về Sukhothai. Đinh An Bình cũng suất lĩnh 3 đạo quân Cấm Vệ, Túc Vệ, Trấn Hải, từ Thái Nam tiến về phía bắc, cùng Triệu Phong hợp vây Sukhothai. Mùa hạ, sau 6 ngày pháo kích, Sukhothai thất thủ. Quốc vương Sukhothai dẫn tàn quân chạy sang Miến Điện, được quốc vương xứ ấy thu nhận. Triệu Phong ở lại bình định các tiểu quốc Thái và xứ Luang Phabang. Đinh An Bình rút quân trở về Gia Định. Thêm 4 tỉnh mới được thành lập : Thái Trung, Thái Bắc, Thái Đông, Khorat. Do xứ này đất rộng người thưa, lại ở sâu trong lục địa, mỗi tỉnh đều rộng 8, 9 vạn kilômét vuông.

Từ lúc này, toàn vùng Đông Dương lục địa và Nam Dương quần đảo đã được thống nhất dưới sự cai quản của triều đình ở Gia Định. Chế độ phân phong tiểu quốc cũng chấm dứt. Nhờ có Hải quân hùng mạnh, Giang Phong thiết lập một chế độ trung ương tập quyền, quân chủ chuyên chế, với quyền lực tập trung vào Trường Thanh Cung. Dù Giang Phong không trực tiếp chấp chính, nhưng uy quyền của Giang Phong là không thể bàn cãi.

Sau khi thống nhất toàn khu vực, triều đình có làm hai việc quan trọng là đúc tiền và cải tổ tôn giáo.

Từ trước đến giờ, thương nhân các nước khi buôn bán giao dịch với nhau thường dùng ‘vàng thoi, bạc nén’. Có cả những nén vàng, nén bạc đúc theo hình Nguyên bảo của Tàu, cũng có cả những thoi vàng, thoi bạc dạng thanh của các nước phương nam. Hình thức hỗn loạn. Giang Phong đã cho đúc tiền mới để thống nhất tiền tệ, gồm kim tệ, ngân tệ và đồng tệ. Nguyên bảo so với dạng thoi, dạng thanh thì có đẹp hơn thật, nhưng khi cất giữ sẽ chiếm nhiều chỗ.

Một kim tệ bằng 1/10 lượng (tức 1 chỉ, tương đương 3,75 gam), được đúc theo dạng đồng xu, nhưng không có lỗ ở giữa. Một mặt chạm nổi hình chân dung Giang Phong; mặt kia có hình Thái dương ‘18 tia’ ở giữa, cùng dòng chữ “Thần Thánh Đế quốc” bằng Thiên tự ở trên, chữ Ba Tư, chữ Phạn và chữ Hán ở dưới.

Một kim tệ bằng 100 ngân tệ. Thời bấy giờ, tỷ lệ quy đổi giữa hoàng kim và bạch ngân là 1 : 60, tức 1 lượng hoàng kim bằng 60 lượng bạch ngân. Do đó 1 ngân tệ tương đương 0,06 lượng bạch ngân, nặng 2,25 gam. Vì trọng lượng riêng của hoàng kim nặng hơn bạch ngân nên dù ngân tệ nhẹ hơn kim tệ, thì thể tích lại không hề nhỏ hơn. Ngân tệ cũng có hình dạng giống kim tệ, nhưng thay hình Thái dương ‘18 tia’ bằng hình Giang sứ (con rùa).

Tiếp đó, 1 ngân tệ bằng 100 đồng tệ. Hình dạng đồng tệ cũng giống kim tệ và ngân tệ, nhưng hình vẽ là hình chiến hạm đi trên sóng biển.

Tiền tệ của Đế quốc có kiểu dáng đẹp, triều đình lại ra lệnh thu thuế bằng loại tiền tệ mới này. Do đó mà kim tệ, ngân tệ, đồng tệ nhanh chóng được sử dụng rộng rãi trong Đế quốc. Thậm chí các xứ Thiên Trúc (nam Ấn Độ), Ba Tư, Ả Rập cũng sử dụng kim tệ và ngân tệ. Hoàng kim, bạch ngân dù ở đâu thì cũng có giá trị cả.

Còn việc cải tổ tôn giáo chỉ là tình cờ. Ở Đế quốc, các xứ nội lục dân theo Phật giáo Nam tông; các xứ Tân Bình, Thuận Hóa dân Việt theo Phật giáo Bắc tông. Các xứ hải đảo và khu vực bán đảo Mã Lai thì dân lại theo Ấn Độ giáo (tức Hindu giáo). Lại có một số nhóm nhỏ theo Hồi giáo (đến giữa thế kỷ 15 Hồi giáo mới truyền bá mạnh ở Nam Dương) và các tôn giáo bản địa. Sau các cuộc đại di cư từ những năm Đinh Hợi (1407), dân chúng ở lẫn vào nhau, vấn đề tôn giáo cũng hơi hỗn loạn. Giang Phong tình cờ nghe Quảng Tế Pháp sư nói rằng hiện tại trong Đế quốc có rất nhiều thần dân thờ Giang Phong làm thần. Nguyên nhân khiến người dân tin tưởng là bởi Giang Phong ‘trường sinh bất lão’ - chỉ có thần linh mới có thể ‘trường sinh bất lão’ mà thôi. Nghe nói vậy Giang Phong mới để ý đến dung mạo của mình. Đến lúc này, đã 13 năm kể từ lúc Giang Phong xuyên việt, thế mà dung mạo Giang Phong không hề thay đổi, vẫn như lúc mới đến đây. Có lẽ quá trình xuyên việt đã gây ra chuyện này chăng. Những người khác xuyên việt thì thần công cái thế hay pháp thuật cao cường; Giang Phong không có gì cả, thì lại trở thành trẻ mãi không già, tuy cũng có ít tác dụng phụ khác, nhưng nói chung lợi nhiều hơn hại. Bình thường Giang Phong không để ý đến chuyện này, nhưng thuộc hạ và thần dân để ý. Từ đó mà thuyết ‘Giang Phong là thần linh’ được đại bộ phận thần dân tin tưởng, và rất phổ biến, kể cả trong và ngoài Đế quốc.

Đã vậy, Giang Phong quyết định cải tổ tôn giáo để giải quyết vấn đề thiếu điện đền chùa miếu để thờ phụng của dân di cư. Có điều, đặt ra một tôn giáo hoàn toàn mới bắt người dân tin theo thì dễ gây ra chiến tranh tôn giáo, khiến tình hình bất ổn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, Giang Phong chợt nhớ đến Einstein, người mà chỉ dựa vào các nghiên cứu của người khác, phát biểu lại theo ý mình, rồi trở thành nhà bác học vĩ đại. Giang Phong tổ chức lại tín ngưỡng như sau :

“Thế giới của phàm nhân gọi là hạ giới, thế giới của thần linh gọi là thượng giới.”

“Ở hạ giới có nhiều quốc gia, nhiều dân tộc. Trên thượng giới cũng có nhiều thần hệ, nhiều thần quốc. Mỗi vị thần có thể bảo hộ 1 dân tộc, 1 quốc gia, hay 1 nhóm người nào đó. Các vị đại thần có thể có tín đồ khắp nơi ở hạ giới.”

“Giang tộc là thần tộc, đồng thời cũng là thần hệ, thần quốc. Giang tộc ôn hòa nhất, chỉ tự mình tu luyện, không tranh giành tín đồ, không hiềm khích với ai.”

“Ở hạ giới, giữa các quốc gia, dân tộc thường xảy ra chiến tranh. Trên thượng giới cũng thường xảy ra chúng thần đại chiến. Nguyên nhân có thể vì hiềm khích giữa các thần linh với nhau, mà cũng có thể do hiềm khích giữa những tín đồ mà họ bảo hộ.”

“Chúng thần đại chiến rất khốc liệt, bởi thần linh đều bất tử, nếu không vì thực lực chênh lệch quá lớn, có thể làm đối phương hồn phi phách tán ngay tức khắc, thì chỉ cần 1 tia thần thức hay một chút nguyên thần cũng đủ để thần linh hồi sinh. Chúng thần đại chiến có thể kéo dài rất lâu, hàng chục năm, hàng trăm năm, hoặc lâu hơn nữa.”

“Sau chiến tranh, thần linh thọ thương cần trầm thụy (ngủ sâu) hoặc bế quan để khôi phục thực lực. Lúc đó, tín ngưỡng lực từ hạ giới có thể bị phân tán, mất đi phần nào.”

“Trải qua hàng vạn năm, các thần tộc có đông thêm, nhưng bởi chiến tranh nên tổn thương nhiều nguyên khí. Giang tộc ôn hòa nhất, không bị tổn thương nguyên khí vì chiến tranh, lại không có hiềm khích với ai, đã trở nên có uy tín nhất. Những thần linh có hiềm khích, nhưng không muốn chiến tranh, đã nhờ Giang tộc phân xử. Những thần linh phải trầm thụy hoặc bế quan, đã nhờ Giang tộc quản lý giúp tín đồ ở hạ giới, để tín ngưỡng lực không bị phân tán. Dần dần, Giang tộc cộng trị thiên địa. Các thần hệ, thần quốc phái đại diện của mình đến giúp Giang tộc quản lý công việc của thượng giới và hạ giới, hình thành thượng giới triều đình.”

“Giang tộc giúp chúng thần quản lý tín đồ ở hạ giới, đổi lại Giang tộc được hưởng 1% tín ngưỡng lực. Tín đồ khi cầu nguyện, cần thông qua Thái dương đồ để đảm bảo tín ngưỡng lực có thể đến được với thần linh.”

Đại khái, tổ chức tôn giáo mới do Giang Phong đặt ra là như thế, mục đích là để thống nhất việc thờ phụng, tế tự. Các điện đền chùa miếu từ nay phải có 2 phần. Phần nội điện thờ Đế Giang, hoặc Tam hoàng, phần chính điện phía trước thờ phụng thần, thánh, tiên, phật của nơi đó. Ví dụ, 1 ngôi chùa phật, chỉ cần dọn thêm một gian nội điện thờ Đế Giang hoặc Tam hoàng là xong. Nếu một nơi có tín đồ của nhiều tôn giáo mà thiếu đền chùa, thì chỉ xây dựng 1 ngôi đền, nội điện thờ Tam hoàng, chính điện chia thành nhiều phần, mỗi tôn giáo một phần. Như vậy sẽ có lợi cho hòa hợp tôn giáo. Còn Thái dương đồ chính là hình Thái dương ‘18 tia’ trên kim tệ. Giang Phong cho đúc thật nhiều Thái dương đồ bằng đồng, lớn nhỏ đủ loại, cho phổ biến khắp Đế quốc, đồng thời khuyến khích thương nhân truyền bá đi các nơi. Có Thái dương đồ, nếu không thể đến được đền chùa (ví dụ đang trên đường đi) thì tín đồ hướng vào đó cầu nguyện cũng được, tín ngưỡng lực vẫn có thể đến được thần linh mà họ cầu nguyện. Đương nhiên các đền chùa cũng phải có Thái dương đồ, bởi thiếu nó thì tín ngưỡng lực sẽ bị phân tán.

Tổ chức tôn giáo kiểu mới của Giang Phong truyền bá cũng thuận lợi, bởi không xung đột với tín ngưỡng hiện tại của thần dân, chỉ cải biến chút ít, không có ảnh hưởng gì nhiều. Với uy quyền của Trường Thanh Cung, chẳng ai chỉ vì chút ít cải biến đó mà chống lại triều đình. Hơn nữa, tư tưởng tôn giáo của Giang Phong nghe cũng hợp lý, được thần dân chấp nhận. Hai tôn giáo lớn nhất trong Đế quốc lúc này là Phật giáo Nam tông và Ấn Độ giáo. Vậy thì mọi người cũng chấp nhận quan niệm trên thượng giới cũng có phật quốc của Thích Ca và thần quốc của Phạm Thiên. Các thần thánh của Hồi giáo và các tôn giáo bản địa cũng có thần quốc của mình. Trên thượng giới có nhiều thần quốc. Có như thế, người dân không vì thờ Phạm Thiên mà phủ nhận Thích Ca, hay ngược lại.

Chương 42 : GIÁO HÓA VÀ LỊCH PHÁP

Ngoài vấn đề tiền tệ và tôn giáo, việc giáo hóa cũng có nhiều tiến triển. Trải qua gần 10 năm cố gắng, kể từ thời kỳ còn ở Tư Dung hành doanh, sự nghiệp giáo hóa của Đế quốc giờ đây đã rất phát triển. Giang Phong cũng quan niệm rằng “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nên rất quan tâm đến việc bồi dưỡng hiền tài. Giang Phong không đánh giá cao thiên tài, nhân tài, bởi “có tài mà không có đức cũng là người vô dụng”. Chỉ có hiền tài là cần được đề cao.

Theo quan niệm phương đông, thiên tài là bậc thấp nhất, hiền tài mới là bậc cao nhất của những người tài giỏi. Các vua thời xưa thường cho treo bảng cầu hiền, tức là cầu hiền tài (Bác Hồ sau Cách Mạng Tháng Tám cũng có cầu hiền). Những người tài giỏi được phân cấp như sau :

1. Thiên tài : là những người có thiên phú, mới sinh ra đã có tài năng đặc biệt, khi còn nhỏ được gọi là thần đồng. Có điều rất ít thần đồng phát triển được tài năng của mình cho đến lớn. Đặc biệt, đa số thiên tài tính cách khác người, rất khó gần gũi.

2. Địa tài : là những người không có thiên phú, nhưng nhờ cần cù cố gắng, ham học hỏi, nên rèn luyện được tài năng, còn gọi là ‘chân tài thực học’. Những người này được coi trọng hơn thiên tài. Có điều, địa tài không có thiên phú, nên thành tựu bị giới hạn.

3. Nhân tài : là người gồm đủ thiên tài và địa tài. Đã có thiên phú, lại cố gắng học hỏi, tất thành tựu phi thường. Xưa nay vẫn có quan niệm : nhân tài một phần nhờ thiên phú, chín phần nhờ mồ hôi; hay “bác học không có nghĩa là ngừng học”.

4. Lương tài : nhân tài là chỉ người có tài năng đặc biệt về một lĩnh vực nào đó, chưa hẳn có ích. Ví dụ như người giỏi việc cướp của giết người, cũng kể là có tài năng. Chỉ những nhân tài mà làm việc có ích cho xã hội mới được xem là lương tài. Người “có tài mà không có đức là người vô dụng”. Lương tài mới hữu dụng.

5. Hiền tài : lương tài đồng thời là hiền nhân, được gọi là hiền tài, là “nguyên khí của quốc gia”.

Để bồi dưỡng hiền tài, Giang Phong rất coi trọng việc giáo hóa. Từ Thái Học Viện ban đầu, đã phát triển thành một hệ thống trường học trải khắp các quận huyện. Thậm chí nhiều thôn trấn còn mở lớp học, do những người biết chữ dạy lại cho những người chưa biết chữ. Để khuyến khích việc giáo hóa, Giang Phong còn đặt ra nhiều ưu đãi cho những người nói được tiếng Việt, hay đọc viết được Thiên tự. Các thầy đồ, giáo sư cũng được đãi ngộ cao. Có điều, thầy đồ và giáo sư của Đế quốc không giống nho gia bên Tàu, chỉ dạy chữ, rồi làm thơ viết văn, “bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật”, mà đều thông thạo toán thuật, kỹ nghệ. Ở Đế quốc, “bách gia tranh minh”, bách nghệ đều được coi trọng như nhau. Tuy vậy, trên thực tế vẫn có phân biệt, do ảnh hưởng tư tưởng của Giang Phong, nho sinh dài lưng tốn vải, nên nho gia có địa vị kém nhất, thua cả thương nhân. Tư tưởng nho gia có lợi cho việc ngu dân, ổn định nền thống trị. Nhưng Giang Phong không cần, mà cũng không muốn ngu dân. Nếu không đã không tổ chức hệ thống trường lớp khắp cả các quận huyện thôn trấn, đẩy mạnh việc giáo hóa trong toàn Đế quốc.

Có thể nói, so với các nơi khác trên thế giới lúc bấy giờ, Đế quốc có tỷ lệ người biết chữ cao nhất. Ở Trung Hoa thì khỏi cần nói, các triều đại đều ‘độc tôn nho thuật’, thực hiện chính sách ngu dân. Ở Ấn Độ, do ảnh hưởng của Ấn Độ giáo (tiền thân là Bà La Môn giáo), sự phân chia 4 giai cấp rất rõ rệt, 2 tầng lớp dưới chiếm đại đa số dân chúng, và hầu như đều mù chữ. Còn ở phương Tây, lúc này đang trong thời kỳ đêm dài Trung Cổ, 1 nghìn năm đen tối.

Lịch pháp ở Đế quốc cũng sử dụng lịch âm theo kiểu phương đông (thật ra là Âm dương lịch, bởi vì có tính đến cả mặt trời và mặt trăng, nên mới có tháng nhuận), nhưng Giang Phong không cho sử dụng cách tính niên đại theo kiểu các triều đại phong kiến lúc bấy giờ, như Vĩnh Lạc nguyên niên, Vĩnh Lạc đệ thập niên, … của Minh triều, hay Thánh Nguyên nguyên niên của Hồ Quý Ly, Thiệu Thành nguyên niên, Khai Đại đệ ngũ niên, … của Hồ Hán Thương. Cách tính như thế rất phiền phức, khó nhớ, khó tính. Chẳng hạn từ Thánh Nguyên nguyên niên (năm Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, mở đầu nhà Hồ) cho đến Khai Đại đệ ngũ niên (năm mà Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt, nhà Hồ diệt vong) là bao nhiêu năm. Nếu không nhớ lịch sử thì làm sao tính ra.

Thánh Nguyên nguyên niên (1400, Hồ Quý Ly chỉ làm vua 1 năm, rồi nhường ngôi cho con mà làm Thái Thượng Hoàng), Thiệu Thành nguyên niên (1401), Thiệu Thành đệ nhị niên (1402), Khai Đại nguyên niên (1403), Khai Đại đệ nhị niên (1404), … Khai Đại đệ ngũ niên (1407). Tính ra nhà Hồ kéo dài gần 8 năm.

Tính toán kiểu đó quá khó khăn và phiền phức, do đó Giang Phong không đặt niên hiệu, mà cho sử dụng Giang lịch, tức lịch của Giang tộc. Tây lịch tính năm bắt đầu là Công nguyên, tức là năm chúa Jesu giáng sinh, Công giáo ra đời. Giang lịch của Giang Phong tính năm bắt đầu là khởi nguyên của văn hóa Thục sơn. Chỉ có điều Giang Phong không biết nền văn hóa Thục sơn chính thức khởi nguyên vào năm nào, nên lấy tượng trưng, kể đến năm Giang Phong xuyên việt là 3 vạn 9.500 năm. Tức là năm nay, năm Tân Mão (1411) là Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.513, thật là nghe rất oai. Giang Phong là thần, lời của Giang Phong cũng là thần dụ. Mọi người đều xem năm Giang lịch nguyên niên là năm mà Giang tộc dựng nghiệp, truyền đến lúc này đã gần 4 vạn năm.

Ngoài ra, trải qua gần 10 năm nghiên cứu, các thuật sĩ ở Thái Học Viện cũng đã chế tạo thành công Khai hoa đạn theo yêu cầu của Giang Phong, tuy còn nhiều hạn chế, nhưng cũng đã là một bước tiến vượt bậc. Nguyên lý của Khai hoa đạn là sử dụng viên đạn rỗng, bên trong chứa hỏa dược và các mảnh sắt bén nhọn, có dây cháy chậm nối với bên ngoài. Khi điểm hỏa thần công đại pháo, dây cháy chậm cũng được điểm hỏa, cháy dần vào bên trong. Bọn họ hiện chỉ có thể khống chế thời gian cháy chậm khoảng từ 3 đến 5 giây. Do đó phạm vi oanh kích của Khai hoa đạn chỉ vào khoảng 1 dặm đến 2 dặm (tức từ 400 đến 800 mét). Với nguyên lý này, nếu bắn quá xa, khi dây cháy chậm cháy hết, dù chưa đến mục tiêu, Khai hoa đạn vẫn nổ trên không trung; còn nếu bắn quá gần, dây cháy chậm chưa cháy hết, thì dù đến mục tiêu, Khai hoa đạn vẫn chưa nổ. Tuy bị hạn chế như vậy, nhưng Giang Phong cũng rất hài lòng, khen thưởng chúng thuật sĩ, bảo bọn họ cố gắng cải tiến thêm; đồng thời truyền lệnh cho Xưởng quân khí chế tạo thật nhiều Khai hoa đạn.

Năm nay, ở ngoài Đại Việt cũng là lúc Minh triều sai Trương Phụ dẫn quân sang tiếp viện cho Mộc Thạnh để đánh dẹp quân khởi nghĩa của Trùng Quang Đế. Giang Phong ngại mang tiếng, không muốn can thiệp vào công việc của họ Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế đều đa nghi), nên chuyển sự chú ý sang phía nam và phía tây.

Phía nam các xứ Java và Bali có một hòn đảo rất lớn (Úc Đại Lợi hay châu Úc), nằm cách quận Timor của tỉnh Bali chỉ 1.200 dặm (tức 480 kilômét), trên đảo cư dân thưa thớt. Sau nhiều năm thăm dò, Giang Phong đã phái Hạm đội đến đấy, xây dựng các khu định cư đầu tiên. Trên đảo có nhiều mỏ quặng và đồng cỏ, thích hợp phát triển khai khoáng và chăn nuôi. Đảo này được Giang Phong đặt tên là Minh Châu, vì cư dân quá ít, chưa đặt quận huyện, tạm thời do triều đình trực tiếp quản lý.

Phía đông tỉnh Bali có một hòn đảo lớn tương đương đảo Puni (đảo New Guinea, diện tích 786.000 kilômét vuông), sau nhiều năm quấy nhiễu, Giang Phong đã cho sát nhập hẳn vào Đế quốc, đặt làm 9 tỉnh : Đông An, Đông Anh, Đông Ba, Đông Bình, Đông Cơ, Đông Cương, Đông Hà, Đông Hiệp, Đông Hưng. Dân cư trên đảo cũng ước 100 vạn, nhưng vì còn quá lạc hậu, vẫn còn sống theo kiểu bộ lạc, cởi trần đóng khố, săn bắn hái lượm, nên chỉ mới đặt tỉnh, chưa đặt quận huyện, chờ giáo hóa dần dần. Khi nào dân bản địa đạt đến mức văn minh cần thiết thì mới thiết lập quận huyện.

Vấn đề hai xứ đó chỉ là chuyện nhỏ, không quan trọng lắm. Vấn đề ưu tiên của Đế quốc lúc bấy giờ là việc ở xứ Tích Lan, phía tây bắc hải đồn An Đạt Man.

Tích Lan, còn gọi là Ceylon hay Sri Lanka, là một hòn đảo nằm cách khoảng 31 kilômét ngoài khơi bờ biển phía nam Ấn Độ. Sri Lanka luôn là một cảng biển và là đầu mối thương mại quan trọng giữa phương đông và phương tây. Các thương thuyền từ các xứ Ả Rập, Ba Tư, Miến Điện, Thái, Mã Lai, Java, cũng như các vùng khác ở Nam Dương ngày càng lui tới đây đông hơn. Nửa phía bắc của Tích Lan lúc này đang do Vương triều Vijayanagara (tên đầy đủ là Vijayanagara Sāmrājyamu, còn được gọi là Vương quốc Bisnaga) ở nam Ấn Độ kiểm soát, do tiểu vương Aryacakravarti cai quản. Nửa phía nam là lãnh thổ của tiểu quốc Raigama, do tiểu vương Vira Alakesvara cai quản. Trong lịch sử, vị tiểu vương này có xung đột với Trịnh Hòa năm 1409, rồi bị bắt giải về Kim Lăng, sau được thả về, nhưng buồn bực mà qua đời vào năm nay (1411), sang năm sau thì tiểu quốc Raigama bị tiểu quốc Kotte thay thế. Có điều, Trịnh Hòa đã tử trận ở Chiêm Thành mấy năm trước, nên vị tiểu vương này giờ đây vẫn còn làm vua rất vui vẻ ở Raigama.

Chương 43 : TÍCH LAN (1)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.513 (Tân Mão, 1411), mùa hạ.

Do có nhiều bất đồng với Vương triều Vijayanagara (đóng đô ở Vijayanagara trên cao nguyên Deccan ở nam Ấn Độ) về các vấn đề thương mại, Cát Ti đề nghị Đế quốc nên tiến chiếm Tích Lan, ngăn chặn ảnh hưởng của Vương triều Vijayanagara ở đấy. Tích Lan là một hải cảng quan trọng trong giao thương giữa phương đông và phương tây, nếu rơi vào tay Vương triều Vijayanagara thì đối với Đế quốc vô cùng bất lợi. Nửa phía bắc của Tích Lan lúc này đang do Vương triều Vijayanagara kiểm soát, do tiểu vương Aryacakravarti cai quản. Nửa phía nam là lãnh thổ của tiểu quốc Raigama bản địa, do tiểu vương Vira Alakesvara thống trị. Thật tế là gần đây tiểu quốc Raigama liên tục bị tiểu quốc Aryacakravarti (còn gọi là tiểu quốc Jaffna vì đóng đô ở bán đảo Jaffna miền bắc Tích Lan) uy hiếp.

Mùa thu tháng 7, Giang Phong phái Đinh An Bình thống lĩnh Tây Dương Hạm đội chở theo Định Hải quân và Trấn Phong quân tiến chiếm Tích Lan.

Tháng 9, Tây Dương Hạm đội đến được bờ biển phía nam Tích Lan, lãnh thổ của tiểu quốc Raigama. Định Hải quân và Trấn Phong quân đổ bộ lên bờ, cắm trại ở Magarapura, ngay bên cửa sông. Một tòa tiểu thành nhanh chóng được xây dựng ở đấy, được đặt tên là Nam Lan Thành (thành ở phía nam Tích Lan). Cuối tháng, một vạn dân di cư cũng được đưa đến đấy để hình thành nên khu định cư đầu tiên. Tiến trình khai thác Tích Lan bắt đầu.

Tháng 10, tiểu vương Raigama phái một đạo quân 5 vạn người tiến đánh Magarapura. Song phương giao chiến ngay trên cánh đồng phía bắc Nam Lan Thành. Quân đội Thần Thánh Đế quốc lấy khỏe đánh mệt, lấy đông đánh ít, lại nhờ sự hỗ trợ của các khẩu thần công trên mặt thành, nên đã chiến thắng vang dội. Năm vạn quân Raigama bị 6 vạn quân Đế quốc vây đánh, bị đại pháo oanh kích, đặc biệt là khi Đinh An Bình vâng lệnh Giang Phong, cho thử nghiệm Khai hoa đạn trong thật chiến, khiến quân Raigama thiệt hại thảm trọng. Sau gần một ngày giao chiến, lại trải qua năm ngày truy sát, cuối cùng chỉ có hơn 5.000 quân Raigama chạy thoát. Quân đội Đế quốc bắt được hơn 2 vạn tù binh. Số tù binh này ngay lập tức bị đưa đến Sumatra làm việc trong các mỏ vàng. Đinh An Bình không dám để bọn họ ở lại Nam Lan Thành, sợ có bất trắc.

Tháng 11, khu định cư thứ hai được xây dựng ở Gadawaga, ngay một cửa sông khác nằm về phía tây Magarapura. Đế quốc phái Thần Sách quân đến Tích Lan, và Đinh An Bình giao cho trấn thủ ở đấy. Một tòa thành thứ hai được xây dựng, được đặt tên là Thúy Lan Thành. Đồng thời, Đinh An Bình phái Trấn Phong quân tiến chiếm Ratnapura, một khu vực khai thác đá quý ở về thượng nguồn con sông chảy qua Thúy Lan Thành, và xây dựng ở đấy tòa thành thứ ba, Bảo Lan Thành. Sau đó, Thần Sách quân được giao trấn thủ 3 tòa thành ấy và bình định các vùng lân cận. Trấn Phong quân và Định Hải quân tích cực chuẩn bị chiến tranh.

Tháng 12, tiểu vương Raigama huy động quân đội toàn tiểu quốc được hơn 10 vạn, kéo đến tái chiếm Ratnapura. Tiểu vương Raigama có thể từ bỏ Magarapura, cũng có thể từ bỏ Gadawaga, nhưng tuyệt đối không thể từ bỏ Ratnapura, nơi cung cấp đá quý cho tiểu quốc, là một nguồn thu nhập quan trọng của tiểu quốc.

Giữa tháng 12, trận chiến Ratnapura bùng nổ. Một bên là 10 vạn quân Raigama, một bên là 7 vạn quân Đế quốc (Định Hải quân, Trấn Phong quân và 1 sư của Thần Sách quân). Vì địch quân đông hơn, không có ưu thế về quân số, Đinh An Bình đã cho quân sử dụng hết sạch số Khai hoa đạn hiện có, tiến hành đồ sát quân Raigama. Có điều, do có kinh nghiệm từ trận chiến Magarapura, Đinh An Bình cho sử dụng Khai hoa đạn khá phân tán, mục tiêu chủ yếu là trọng thương địch quân (để còn bắt làm tù binh). Trong số địch quân thương vong vì Khai hoa đạn, chỉ có chưa đến 3 phần trận vong.

Đang chỉ huy chiến đấu, Đinh An Bình chợt nhìn thấy trong quân đội Raigama có một toán quân chiến đấu cực kỳ kiên cường, hãn bất úy tử. Khi mà các toán quân khác thấy thế bất lợi, đã chuẩn bị tháo lui thì bọn họ vẫn kiên quyết tiến công, một bước không lùi. Đinh An Bình cau mày, truyền lệnh :

- Tất cả thần công đại pháo tập trung tiêu diệt toán hãn binh kia.

Lập tức, thần công đại pháo tập trung rải đạn xuống đầu toán quân kia. Khi đã hết Khai hoa đạn, xạ thủ lại sử dụng loại đạn thông thường, tiếp tục oanh kích mục tiêu. Vậy mà 1 vạn hãn binh kia vẫn kiên trì chiến đấu cho đến người cuối cùng. Đinh An Bình cũng phải thầm thán phục chủ soái của toán quân đó, bảo với chư tùy tướng :

- Thăm dò xem toán hãn binh đó do ai chỉ huy.

Trận chiến vẫn tiếp diễn, nhưng khi toán hãn binh kia toàn thể trận vong thì quân Raigama bại thế đã định. Các toán quân còn lại của tiểu quốc Raigama lần lượt rút lui khỏi chiến trường. Thế nhưng, người xưa có câu “Binh bại như sơn đảo”, một khi bại thế đã thành định cục thì bại binh khó mà kiểm soát được. Quân Raigama định yên ổn rút lui, nhưng nào ngờ khi Định Hải quân và Trấn Phong quân chia đường đuổi theo truy sát thì bắt đầu mạnh ai nấy chạy, binh chẳng tìm thấy tướng, tướng chẳng quản được binh. Kết quả, rút lui biến thành tháo chạy, quân Raigama hoàn toàn tan rã, bại binh tháo chạy tán loạn. Đinh An Bình chia Định Hải quân và Trấn Phong quân thành 6 đạo, mỗi đạo 1 sư, chia đường truy sát tàn binh Raigama. Kết cục, chỉ có chưa đến 2 vạn tàn quân chạy về được đến Raigama. Vương tử Parakrama Bahu, thống soái quân Raigama, cùng hàng trăm viên tướng tử trận.

Sau trận chiến, Đinh An Bình mới biết toán hãn binh kia chính là toán thân binh của vương tử Parakrama Bahu. Bọn họ được huấn luyện trở thành quân tinh nhuệ bậc nhất của tiểu quốc Raigama để chống lại sự xâm lấn của tiểu quốc Aryacakravarti ở phương bắc, bấy lâu nay lập được rất nhiều chiến công, nào ngờ giờ đây toàn diệt. Thống kê chiến quả, quân Đế quốc tử trận hơn 1.000, thọ thương gần một phần ba, nhưng đã giết được 1 vạn rưỡi địch quân, bắt được 6 vạn tù binh, kể cả thương binh. Chiến quả huy hoàng. Công lao lớn nhất trong trận này không phải Định Hải quân, cũng chẳng phải Trấn Phong quân, mà chính là Khai hoa đạn. Đinh An Bình lập tức dâng biểu về triều xin bổ sung thêm đạn dược, đặc biệt là Khai hoa đạn.

Cũng như lần trước, toàn bộ tù binh lập tức được chuyển đến Sumatra, nếu là thương binh thì cũng chỉ được chữa trị cho đến khi thương thế ổn định rồi lần lượt chuyển đi. Đinh An Bình quyết không để cho tiểu quốc Raigama có cơ hội phục hồi quân lực. Tổn thất trong trận chiến này đã làm cho tiểu quốc Raigama kiệt quệ.

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.514 (Nhâm Thìn, 1412), mùa xuân tháng giêng.

Đợi cho quân sĩ dưỡng thương, khôi phục chiến lực xong, Đinh An Bình quyết định tiến đánh Raigama. Kinh đô Raigama của tiểu quốc Raigama nằm ở miền trung tây đảo Tích Lan, ở về phía tây bắc Bảo Lan Thành, cách bờ biển phía tây của đảo Tích Lan cũng không xa. Đinh An Bình chỉ để lại 4.000 quân trấn thủ Bảo Lan Thành, 3.000 quân trấn thủ Thúy Lan Thành và 3.000 quân trấn thủ Nam Lan Thành. Định Hải quân, Trấn Phong quân và 2 sư của Thần Sách quân, tổng cộng 8 vạn được huy động tiến đánh Raigama.

Cuối tháng giêng, đại quân xuất chinh. Đầu tháng hai, chiến hạm của Tây Dương Hạm đội chở quân đến khu vực bờ biển gần Raigama. Đại quân đổ bộ lên đó, rồi tiến về thành Raigama. So với hai trận chiến trước. Trận này chẳng có gì đáng kể. Quân đội Đế quốc đông hơn quân Raigama gấp ba lần, trang bị tinh lương, sĩ khí cao ngất, chiến lực hùng hậu. Quân Raigama chỉ chống cự một cách yếu ớt, sau vài trận pháo kích, tiểu vương Vira Alakesvara bỏ thành, dẫn tàn quân chạy về vùng núi phía đông bắc.

Đinh An Bình chiếm lĩnh Raigama, cải tên thành Trung Lan Thành, ổn định tình hình trong thành, bình định các vùng lân cận, đồng thời phái người dò tìm tông tích tiểu vương Vira Alakesvara. Giữa tháng hai, Đinh An Bình đang chuẩn bị cất quân truy quét tàn quân Raigama thì được tin báo tiểu vương Aryacakravarti đã ra tay trước. Quân Aryacakravarti vượt biên giới tràn vào lãnh thổ Raigama, bắt giết tiểu vương Vira Alakesvara và chiếm lĩnh một vùng đất rộng lớn ở phía đông.

Đinh An Bình cả giận, phái người đến trách tiểu vương Aryacakravarti. Tiểu vương Aryacakravarti cũng tức giận mắng sứ giả, đuổi về. Song phương chính thức kết thù. Tháng 3, Đinh An Bình phái hạm đội đến phong tỏa bán đảo Jaffna, cắt đứt liên hệ giữa kinh đô Jaffna với phần còn lại của tiểu quốc.

Mùa hạ tháng 5, Thần Vũ quân được phái đến Tích Lan. Đinh An Bình huy động Định Hải quân, Trấn Phong quân, Thần Vũ quân và 1 sư của Thần Sách quân, tổng cộng 10 vạn tiến đánh bán đảo Jaffna. Như thường lệ, đại quân vây thành và tập trung thần công đại pháo liên tục oanh kích vào thành. Quân đội Aryacakravarti bị phong tỏa đã gần 3 tháng, vật tư thiếu thốn, nhưng vẫn kiên quyết tử thủ chờ viện binh. Tiểu quốc Aryacakravarti là một bộ phận của Vương triều Vijayanagara ở nam Ấn Độ, nên đã gửi sứ giả đi cầu viện.

Chương 44 : TÍCH LAN (2)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.514 (Nhâm Thìn, 1412), mùa hạ tháng 6.

Tiểu quốc Aryacakravarti vốn là một bộ phận của Vương triều Vijayanagara ở nam Ấn Độ, nên khi bị bao vây phong tỏa đã gửi sứ giả đi cầu viện. Đầu tháng 6, thủy quân Vijayanagara (gọi là thủy quân bởi không có chiến hạm theo tiêu chuẩn Thần Thánh Đế quốc, không thể gọi là Hạm đội) chở viện quân sang Tích Lan gặp phải các chiến hạm của Tây Dương Hạm đội gần đảo Punkudutivu, ngoài khơi Jaffna. Trận hải chiến nổ ra rất nhanh và cũng kết thúc rất nhanh. Trận hải chiến diễn ra hoàn toàn ngoài sự tưởng tượng của thủy quân Vijayanagara. Thông thường, thủy chiến hay hải chiến thì chiến thuyền song phương tiến lại gần nhau. Cung thủ song phương dùng cung tên, nỏ, máy bắn đá tấn công. Sau đó các chiến thuyền áp sát vào nhau và thủy quân hỗn chiến.

Nhưng Hải quân của Thần Thánh Đế quốc được huấn luyện chiến thuật khác hẳn. Ngay từ khi mới thành lập, do thiếu quân, Giang Phong đã cấm chỉ hỗn chiến, bởi kết quả của hỗn chiến luôn là hao binh tổn tướng, ‘sát địch nhất thiên tự tổn bát bách’, dù thắng hay bại đều thiệt hại nặng nề.

Các chiến hạm, chiến thuyền của Tây Dương Hạm đội khi phát hiện địch thuyền đều chạy ra xa ngoài mấy dặm, sau đó mới quay đầu và … khai pháo. Ở cự ly đó, cung tên, nỏ hay máy bắn đá đều vô dụng. Các loại hỏa khí đơn giản cũng kém hiệu quả. Chỉ có thần công đại pháo là còn duy trì được oai lực.

Hải quân của Đế quốc đã thành lập hơn 10 năm, đã trải qua vô số trận chiến đấu lớn nhỏ, kinh nghiệm phong phú, kỹ thuật thuần thục. Sau hơn 10 lượt oanh kích, quá nửa số chiến thuyền của thủy quân Vijayanagara bị đánh chìm. Trên mặt biển trôi bồng bềnh hàng vạn sĩ binh Vijayanagara, vốn là viện quân cho Jaffna. Số chiến thuyền còn lại khiếp quá, vội vã giương cờ trắng đầu hàng.

Đến lúc này, các thủy thủ của Tây Dương Hạm đội mới thấy khổ. Lúc oanh kích địch thuyền thì sướng khoái vô cùng. Nhưng đến khi cứu những tù binh đang trôi trên biển thì thật hao công tốn sức. Trận này, Tây Dương Hạm đội bắt sống gần 10 vạn tù binh (bị trúng đạn hoặc chết đuối hơn nghìn người), thu được hơn 400 ‘tiểu’ chiến thuyền (tính theo tiêu chuẩn của Đế quốc, những thuyền nào ngắn hơn 16 trượng, tức 64 mét, đều là ‘tiểu’).

Sau khi tiêu diệt thủy quân Vijayanagara, Đinh An Bình cho các khẩu pháo trên chiến hạm cùng thần công đại pháo của lục quân tập trung lại liên tục oanh kích Jaffna, đồng thời không quên bắt loa gọi dân trong thành đầu hàng. Dù vậy, thủ quân vẫn kiên cường chống trả. Đại pháo thời này còn quá sơ khai, oai lực không cao nên mới oanh kích suốt gần một tháng mà chưa công phá được thành. Cũng có thể vì thành này quá kiên cố, thủ quân quá kiên cường.

Đến giữa tháng 6, không còn kiên nhẫn được nữa, Soái hạm chuyển đến Jaffna, Đinh An Bình quyết định đích thân chỉ huy công thành. Đầu tiên, binh sĩ được lệnh đào đất đắp thành những ngọn đồi cao bên ngoài thành, cách tường thành khoảng 1 dặm (400 mét). Sau đó, những khẩu thần công cỡ nhỏ của lục quân được kéo lên đồi. Khai hoa đạn được cho vào nòng pháo, rồi Đinh An Bình truyền lệnh phát xạ, xạ thủ châm ngòi, rải đạn vào trong thành.

Ban đầu vì định chiếm lĩnh Jaffna nên xạ thủ được lệnh chỉ sử dụng loại đạn pháo thông thường, không sử dụng Khai hoa đạn, sợ làm dân chúng trong thành thiệt mạng với số lượng lớn. Nhưng giờ đây, khi thấy dân trong thành giúp đỡ thủ quân phòng thủ, Đinh An Bình đánh giá dân trong thành toàn là nghịch dân, mà lại là loại cực kỳ ngoan cố, do đó đã cho sử dụng đến Khai hoa đạn.

Đạn pháo rải vào trong thành, lập tức tạo nên vô số tiếng gào thét thê lương, kêu la thảm thiết. Trong phạm vi 1 dặm kể từ tường thành trở vào, khói lửa ngút trời, người thọ thương vô số, tiếng khóc lóc kêu gào vang dội khắp nơi. Hàng trăm khẩu pháo đồng loạt phát xạ, mỗi viên Khai hoa đạn khi phát nổ lại bắn ra hàng trăm mảnh sắt bén nhọn. Thành ra mỗi lượt pháo kích có đến hơn chục vạn mảnh sắt rải xuống đầu quân dân trong thành. Quang cảnh vô cùng khủng bố.

Đại pháo phát xạ đồng thời cũng dọn sạch thủ quân đang phòng ngự trên tường thành. Ngay lúc đó, một số khẩu đại pháo khác cũng nhả đạn vào cổng thành. Sử dụng đại pháo phá thành nhanh hơn là sử dụng Xung xa, Công thành xa. Sau một lúc, cổng thành bằng sắt bị bắn vỡ. Đại pháo ngừng phát xạ. Đại quân tràn vào trong thành.

Quân Jaffna chống cự rất ngoan cường. Nhưng đến khi thấy đối phương dọn đường dẫn đại pháo vào thành, thì thủ quân lại nghĩ đến thảm cảnh khi nãy, ý chí chiến đấu giảm dần, và cũng đã có một số bắt đầu đào ngũ.

Do đã xác định dân trong thành là nghịch dân loại ngoan cố nhất, Đinh An Bình không ngại gì cả, truyền lệnh đại pháo nhắm vào nơi nào có nhiều địch quân mà oanh kích. Chỉ sau vài lượt phát xạ, quân Jaffna đua nhau tháo chạy, thành Jaffna thất thủ. Đinh An Bình một mặt kiểm soát toàn thành, một mặt phái quân truy sát bại binh.

Bán đảo Jaffna đã bị Tây Dương Hạm đội phong tỏa mấy tháng nay, bại binh có thể chạy đi đâu được. Kết quả chỉ sau hơn nửa tháng truy quét, tất cả đều bị bắt. Tiểu vương Aryacakravarti chết trong đám loạn quân.

Tù binh theo như thông lệ, được đưa hết đến Sumatra. Dân trên bán đảo được chia thành 2 loại : dân ngoài thành được xem là lương dân, dân trong thành bị xem là nghịch dân, chiếu theo chế độ của Đế quốc mà xử lý.

Chiếm xong Jaffna, Đinh An Bình phái Trấn Phong quân, Thần Vũ quân chia nhau đi bình định các xứ thuộc tiểu quốc Aryacakravarti; để lại 3.000 quân trấn thủ Jaffna, còn lại Định Hải quân và 7.000 quân thuộc Thần Sách quân đi theo Hạm đội tác chiến. Sau đó, Đinh An Bình đích thân đưa các chiến hạm của Tây Dương Hạm đội tiến về phía tây. Thế là các thành trấn dọc theo bờ biển phía bên kia lập tức tao ương. Tây Dương Hạm đội lập lại chiến thuật đã sử dụng ở Java, tấn công tất cả những thành trấn nằm dọc theo bờ biển và có tường thành. Những khu dân cư nào không có tường thành thì được bỏ qua. Bọn họ thấy nơi nào thủ quân đông, thành trì kiên cố thì quấy nhiễu; thấy nơi nào thủ quân ít, thành trì sơ sài thì tấn công cướp phá.

(chú : thời xưa, Hải quân đồng thời cũng là Hải tặc, thậm chí các thương thuyền cũng có thể biến thành Hải tặc, đó là chuyện rất bình thường. Không chỉ có thế, có thời kỳ các triều đình ở châu Âu còn cho phép thương thuyền nước mình tự vũ trang, cướp phá các thương thuyền hay thành trấn của địch quốc, không chỉ chiến lợi phẩm tự xử lý mà còn có quân công).

Không phải Đinh An Bình không muốn chiếm lĩnh các xứ này, nhưng theo tin tức thu được, quân đội của Vương triều Vijayanagara đông đến 110 vạn, chỉ riêng đội thân binh của Quốc vương ở Vijayanagara trên cao nguyên Deccan cũng đông đến 10 vạn bộ binh, 2 vạn kỵ binh (cavalrymen) cùng với 900 con voi. Trước một lực lượng hùng hậu như thế, Giang Phong không có ý định trực diện đối địch. Hòa hảo là tốt nhất.

Trước sự quấy nhiễu và cướp phá của Tây Dương Hạm đội, Vương triều Vijayanagara thiệt hại nặng nề. Bọn họ cũng đã từng tập trung binh lực định vây đánh quân đội Đế quốc. Nhưng Đinh An Bình đâu để bọn họ toại nguyện. Gã không bao giờ cho quân đi xa bờ biển, và thấy có vấn đề gì là lập tức lên thuyền chuyển đi nơi khác ngay. Thành ra quân đội của Vương triều Vijayanagara mải lo ứng phó chỗ này thì lửa đã cháy ở chỗ kia, phản ứng không kịp. Cuối cùng quốc vương của Vijayanagara quyết định cầu hòa.

Sau gần 3 tháng cướp phá, thấy không còn chỗ nào có thể tiếp tục nữa, Đinh An Bình cũng quyết định chấp nhận đề nghị giảng hòa của Vương triều Vijayanagara. Được sự chấp thuận của Giang Phong, bọn Đinh An Bình đã cùng sứ giả của Vương triều Vijayanagara ký kết Jaffna điều ước. Song phương thỏa thuận :

1. Hai nước hòa hảo, thân thiện.

2. Quân đội của Thần Thánh Đế quốc không được đặt chân lên lãnh thổ của Vương triều Vijayanagara nếu không được triều đình Vijayanagara đồng ý.

3. Vương triều Vijayanagara công nhận Tích Lan và các hải đảo ngoài biển thuộc về Thần Thánh Đế quốc.

4. Vương triều Vijayanagara “tặng” cho Thần Thánh Đế quốc 10 vạn cân vàng.

5. Thần thánh Đế quốc “tặng” cho Vương triều Vijayanagara 100 khẩu thần công đại pháo.

(chú : 10 vạn cân chỉ tương đương 160 vạn lượng, đối với các vương triều Ấn Độ là không nhiều. Ngày trước khi quân Anh chiếm Ấn Độ, lượng vàng trong kho của các tiểu vương là ‘vô số’, ‘không thể thống kê được’, mà ở Ấn Độ có đến hàng trăm tiểu vương. Kho tàng của các Vương triều càng khủng bố hơn).

Giải quyết xong vấn đề với Vương triều Vijayanagara, các xứ ở Tích Lan cũng đã bình định xong, Đinh An Bình chỉ để lại Thần Sách quân trấn thủ Tích Lan, sau đó dẫn quân về Gia Định. Tỉnh Tích Lan được thành lập, gồm 7 quận : Nam Lan, Thúy Lan, Bảo Lan, Trung Lan, Bắc Lan (Jaffna), Đông Lan (Gokanna), Tây Lan (Maha Theta); thủ phủ đóng ở Bảo Lan để kiểm soát các mỏ đá quý tại đó. Các thành trấn có sẵn của các tiểu quốc ở đây được cải thành huyện, quan viên chọn trong số những người bản địa. Ở Tích Lan còn nổi tiếng với ngọc trai và ngà voi, nên Giang Phong đặc biệt coi trọng, cho một phân hạm đội của Tây Dương Hạm đội đóng ở đấy.

Chương 45 : ĐIỀU LO NGHĨ CỦA GIANG PHONG

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.514 (Nhâm Thìn, 1412), mùa đông tháng 11.

Gia Định Thành.

Bọn Đinh An Bình về đến Gia Định Thành, mang theo vô số cống vật : vàng, ngà voi, ngọc trai, và rất nhiều bảo vật khác. Cả những pho tượng đá, những biểu tượng đặc trưng văn hóa thu được từ Raigama và Raffna cũng được chở về. Những thứ này, trong mắt bọn Quảng Tế Pháp sư chỉ là những vật kỳ lạ, nhưng đối với Giang Phong nó có giá trị hơn nhiều.

Thành Đức Điện. Tiểu triều.

Sau khi nghe chúng thủ hạ hồi báo công việc như thường lệ, Giang Phong bỗng khẽ than :

- Đến giờ mới thấy Trường Thanh Cung quá nhỏ. Phải chi khi trước trẫm cho xây dựng lớn hơn.

Trường Thanh Cung thật ra rộng đến 4 kilômét vuông, nếu chỉ là một cung điện bình thường thì không hề nhỏ. Ngay cả Tử Cấm Thành mà Vĩnh Lạc đế đang dốc toàn quốc lực xây dựng, huy động hơn 100 vạn dân phu, phải mười mấy năm nữa mới xong, cũng chỉ rộng có 0,72 kilômét vuông. Thế nhưng, Trường Thanh Cung lại không phải là một cung điện bình thường, mà còn là nơi ở của Giang Phong, đồng thời cũng là nơi Giang Phong cất giữ tài sản của mình. Giang Phong bảo nhỏ, bởi vì lúc này các tài sản đó đã chiếm đến gần một nửa cung điện. Đương nhiên nếu chỉ châu ngọc vàng bạc thì không đến nỗi chiếm nhiều chỗ như thế. Giang Phong cho thu thập cả những tượng đá, hoa văn, điêu khắc, … tóm lại là đủ mọi thứ mà người hiện đại gọi là cổ vật văn hóa. Thậm chí, mấy tòa tháp đá nếu tháo ra vận chuyển được thì Giang Phong cũng đã cho mang luôn về đây, cuối cùng chất đầy trong cung. Số lượng các tiểu quốc mà Đế quốc đã chinh phục có đến hàng nghìn (Chiêm Thành và Vạn Tượng hơn trăm, Khmer và Thái hàng trăm, Majapahit nhiều hơn nữa, …), trải qua hàng trăm năm tích lũy, kho tàng cũng rất đáng kể. Đó là chưa kể đến mỗi tiểu quốc ít ra đều có cung điện và đền thờ. Sau này các nhà khảo cổ khi khai quật một di tích, thường thu được rất nhiều cổ vật. Đằng này Giang Phong không thu từ di tích mà là nguyên trạng. Thành ra tài bảo và cổ vật văn hóa nhiều vô kể, đến nỗi phải lo không có chỗ cất giữ. Trừ những tượng đá ra, các bảo bối khác đương nhiên không thể tùy tiện để chất đống ngoài sân vườn chịu mưa nắng, sương gió được.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Thánh hoàng. Hay là chúng ta mở rộng cung điện.

Giang Phong nói :

- Trẫm cũng có ý đó. Chư khanh có phương án nào không ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Hiện tại phía nam và phía đông Trường Thanh Cung là sông rạch. Phía tây có một ít dân cư, phía bắc còn trống. Chúng ta có thể mở rộng ra phía tây và phía bắc.

Đào Anh nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bên kia sông Gia Định còn rất rộng rãi, chúng ta có thể xây thêm cung điện bên đó, rồi xây cầu nối cả hai cung điện với nhau.

Triệu Phong nói :

- Không ổn. Ta nhớ trước đây Tần Thủy Hoàng xây cung điện ở hai bên sông Vị, rồi xây cầu nối lại với nhau. Làm như thế hóa ra chúng ta học theo Tần Thủy Hoàng sao ? Không tốt. Mà dường như cung điện của Tần Thủy Hoàng đó sau này bị thiêu rụi thì phải.

Quảng Tế Pháp sư gật đầu nói :

- Đúng thế. Sau này cung điện bị Hạng Vũ thiêu rụi.

Đào Anh vội biện bác :

- Ta không có ý đó.

Giang Phong khẽ cười, an ủi Đào Anh. Đinh An Bình xuất thân Cấm vệ trưởng, chỉ huy lực lượng bảo vệ Giang Phong trước đây, do đó quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an ninh, nên nói :

- Nếu xây dựng hai cung điện, việc bảo vệ sẽ khó khăn hơn.

Giang Phong gật đầu. Ngoài vấn đề an ninh, Giang Phong còn có một lý do khác nữa. Giang Phong không muốn xây dựng hai cung điện, bởi muốn biến Trường Thanh Cung trở thành tòa cung điện lớn nhất thế giới. Có thể trước đây chỉ lớn nhất về quy mô, nhưng nhờ số lượng tài bảo và cổ vật văn hóa kia, chắc chắn sau này sẽ còn lớn nhất về giá trị, về nét đặc sắc, và về sự tráng lệ nguy nga. Do vậy, Giang Phong phán :

- Đồng thời mở rộng sang phía tây và phía bắc 5 dặm. Chính bắc và tây bắc tạm thời làm viên lâm, dự phòng cho sau này. Chính tây chia thành nhiều khu, mỗi khu vuông vức 2,5 dặm, dành cho một chủ đề riêng như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, …

Giang Phong chỉ đề ra ý tưởng, còn thiết kế, thực hiện là việc của bọn Quảng Tế Pháp sư. Sự việc như thế là đã được quyết định. Giang Phong hy vọng rằng các khu trưng bày đó, do tập trung rất nhiều bảo vật của các tôn giáo, sau này có thể trở thành thánh địa để các tín đồ đến viếng, chiêm ngưỡng. Trường Thanh Cung sau khi mở rộng sẽ có diện tích 100 dặm vuông (10x10 dặm), tức 16 kilômét vuông (4x4 kilômét). Chủ yếu công trình tập trung ở khu vực chính tây và bức tường thành bao quanh cung điện. Còn khu vực chính bắc và tây bắc chỉ phải trồng thêm cây xanh, tạo giả sơn và đào hồ, suối để tạo thành viên lâm, khối lượng công việc tuy không ít, nhưng đơn giản.

Tiếp đó, Giang Phong lại bảo :

- Triệu Phong và An Bình tiếp tục luyện quân, chuẩn bị cho kế hoạch sắp tới. Tuyên triệu Lý Ngân hồi triều. Truyền Thế Căng khẩn trương luyện quân, chuẩn bị bắc tiến.

Kế hoạch sắp tới đương nhiên là đối phó quân Minh, giành lại Đại Việt. Giang Phong không can thiệp lúc này vì ngại Giản Định Đế và Trùng Quang Đế nghi kỵ. Hai người đó nổi danh đa nghi, không khéo chưa đánh được quân Minh đã biến thành nội chiến, khiến quân Minh hưởng lợi. Thà rằng Giang Phong tự đánh quân Minh. Và Giang Phong đã quyết định khi quân Trần bị tiêu diệt thì sẽ xuất quân bắc tiến. Đương nhiên bắc tiến theo kiểu của Giang Phong.

Sau khi mọi người lĩnh chỉ, Giang Phong lại hỏi :

- Tình hình Đài Loan thế nào ?

Đinh An Bình tâu :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đài Loan hiện đã ổn định. Dân di cư và dân bản địa đã chịu sống hòa hợp với nhau. Trước đây có một số kẻ chống đối đều đã bị phán là nghịch dân, đưa đến Sumatra hết rồi.

Giang Phong hài lòng bảo :

- Điều 8 quân Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Trấn Ninh, Trấn Phong, Định Hải đến đảo Đài Loan luyện quân để thích nghi với khí hậu phương bắc. Triệu Phong quản việc này.

Triệu Phong cả mừng vâng dạ lĩnh chỉ. Giang Phong lại bảo Quảng Tế Pháp sư :

- Nghe nói người Mông Cổ đã khôi phục phần nào thực lực, đang quấy nhiễu biên giới Minh triều. Khanh hãy cho người liên hệ với các bộ tộc Mông Cổ, viện trợ lương thực khí giới cho bọn họ. Đương nhiên chúng ta cũng không thể chịu thiệt, hãy đổi lấy chiến mã về. Trẫm định sẽ thành lập kỵ binh.

Quảng Tế Pháp sư vâng dạ lĩnh chỉ. Việc này cũng bình thường, kẻ địch của kẻ địch chính là bạn. Viện trợ cho Mông Cổ để bọn họ quấy nhiễu Minh triều, đối với Đế quốc rất có lợi. Hơn nữa, Mông Cổ thiếu vũ khí nhưng thừa chiến mã, đổi chiến mã về để thành lập kỵ binh càng có lợi hơn. Kỵ binh Mông Cổ danh vang thiên hạ kia mà. Chiến mã Mông Cổ thấp bé, tốc độ không nhanh bằng chiến mã Đại Uyển, A Lạp Bá; nhưng có sức bền rất tốt, có thể tác chiến xa, lâu dài, thích hợp quân đội viễn chinh.

Đinh An Bình chợt hỏi :

- Khải tấu Thánh hoàng. Còn xứ Lưu Cầu giải quyết thế nào ạ ? Bọn họ hiện vẫn triều cống cho Minh triều.

Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :

- Vậy hãy thành lập quận Lưu Cầu thuộc tỉnh Đài Loan.

Đinh An Bình vâng dạ, lĩnh chỉ. Triệu Phong chợt nói :

- Thánh hoàng. Nghe nói Khai hoa đạn hiệu quả rất tốt. Xin hãy trang bị cho các đạo lục quân để thần có thể huấn luyện những chiến thuật tác chiến mới.

Giang Phong mỉm cười nói :

- Trẫm đã truyền lệnh mở rộng Xưởng quân khí, toàn lực sản xuất đạn dược để trang bị cho toàn quân.

Sau đó bãi triều. Mọi người ai lo việc nấy. Triệu Phong lập tức điều động 8 đạo quân chuẩn bị, rồi liên hệ với Hải quân vận chuyển bọn họ đến Đài Loan huấn luyện. Quảng Tế Pháp sư một mặt chuẩn bị khởi công mở rộng cung điện, một mặt tổ chức sứ đoàn đi Mông Cổ. Còn Soái hạm của Đinh An Bình thì di chuyển đến Lưu Cầu. Chỉ cần vài chục chiến hạm dàn hàng ngoài khơi cũng đủ khiến quân dân Lưu Cầu kinh hoàng thất sắc. Quốc vương Lưu Cầu dâng biểu cầu hòa, nhưng bị từ chối. Sau mấy trận oanh kích, quân Lưu Cầu trói quốc vương lại, mở cửa thành bảo đầu hàng. Lưu Cầu chịu ảnh hưởng của Nhật Bản nhiều hơn Trung Hoa, nên họ xây dựng thành bảo chứ không phải phương thành theo kiểu Trung Hoa.

Chiếm lĩnh kinh đô của Lưu Cầu, Đinh An Bình hiểu dụ quân dân các xứ thuộc Lưu Cầu đầu hàng, sau đó thiết lập hệ thống quan lại, sử dụng hàng binh Lưu Cầu đảm nhiệm các chức trách ở các huyện. Xong đâu đấy, các chiến hạm lại nhổ neo, đi bình định các đảo trong vùng vốn không thuộc Lưu Cầu. Theo quan điểm của Đinh An Bình, những hòn đảo ngoài biển mà không thuộc về quốc gia nào thì đều thuộc về Đế quốc; Hải quân của Đế quốc có thể hoạt động đến đâu thì nơi đó thuộc về lãnh hải của Đế quốc. Thời này các quốc gia còn chưa có khái niệm lãnh hải (mới có khái niệm lãnh thổ), thậm chí nhiều quốc gia còn có “Cấm hải lệnh” cấm đóng thuyền lớn đi biển, hay như Minh triều cấm cả ngư dân đi biển. Do vậy mà không có ai tranh giành quyền lãnh hải với bọn Đinh An Bình.

Chương 46 : HỒNG LONG PHÂN HẠM ĐỘI

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa xuân.

Cát Ti quả nhiên không thể ngồi yên được, luôn luôn tìm cách mở rộng vùng kiểm soát của Đế quốc để tiện cho việc thương mại. Sau vụ Tích Lan, Cát Ti lại báo cáo việc Vương quốc Hồi giáo Mamluk ở Cairo kỳ thị thương nhân nước ngoài, gây khó khăn cho việc thương mại của Đế quốc (thật ra phần lớn là của Giang Phong, bởi chỉ có Giang Phong mới có những thương thuyền cỡ lớn đi đến tận các xứ A Lạp Bá, một số ít thuộc về các quan trong triều). Sự thật thì việc kỳ thị thương nhân nước ngoài của các Vương quốc Hồi giáo cũng không phải mới xảy ra gần đây, từ lâu bọn họ đã đặt ra mức thuế rất cao đánh vào thương nhân nước ngoài, thậm chí đối với nhiều vương quốc, đó còn là nguồn thu chính của bọn họ. Chỉ có điều, Cát Ti không cam tâm đóng khoản thuế cao ngất như thế, theo cách nói của Cát Ti thì : bọn họ lấy tiền của Thánh hoàng một cách trơ tráo, không thể chấp nhận được. Cát Ti đã nhiều lần phái sứ giả thương lượng với bọn họ, nhưng đều không thành.

Tiền của Thánh hoàng bị lấy đi một cách trơ tráo (thật ra thì cũng có một bộ phận tiền của các quan trong đó). Đó là đại sự. Toàn thể triều đình đều phẫn nộ, và Giang Phong đã phái một phân hạm đội của Tây Dương Hạm đội đến bán đảo A Lạp Bá (Arab). Các xứ Tích Lan được lệnh phải hỗ trợ phân hạm đội này.

Phân hạm đội được đặt tên là Hồng Long phân hạm đội, gồm 3 chiếc Thất Tinh cấp chiến hạm, 10 chiếc Tuần Dương hạm và hơn 50 chiến thuyền lớn nhỏ, về quy mô đã tương đương với Nam Dương Hạm đội. Phân hạm đội do Đô Đốc Tôn Lương chỉ huy, còn chở theo 1 sư của Thần Sách quân đang trú đóng ở Tích Lan, cùng rất nhiều lương thực vật tư.

Phân hạm đội từ Tích Lan xuất phát, đi ngang qua mũi đất phía nam của lục địa Ấn Độ, tiếp tục đi thẳng về phía tây. Tuyến đường này, các thương thuyền dưới quyền Cát Ti đã qua lại rất nhiều lần, hải đồ đã hoàn thiện, lại có thêm sự hướng dẫn của hướng đạo đoàn, nên phân hạm đội không gặp phải khó khăn gì đáng kể.

Đi về phía tây, đến lục địa Phi châu, phân hạm đội quay mũi dọc theo bờ biển mà đi về phương bắc. Đó là hải tuyến đơn giản nhất mà bọn Cát Ti vẫn sử dụng : từ Tích Lan đi thẳng về phía tây, gặp lục địa thì chuyển về hướng bắc sẽ đến được các xứ A Lạp Bá. Phần đất lục địa đó chính là lãnh thổ của nước Somali thời hiện đại, lúc này vẫn chỉ là những bộ lạc sơ khai, tiếng Anh gọi chung những xứ đó là ‘Ethiopic and Somali Tribes’.

Tháng 4, đến được mũi đất tiến vào Hồng Hải, phân hạm đội dừng lại. Đô đốc Tôn Lương cho quân đổ bộ lên chiếm lĩnh hai mũi đất đó, để tiện khống chế hải tuyến. Do eo biển giữa hai mũi đất quá hẹp, nếu bị địch quân khống chế sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho Hải quân Đế quốc nếu muốn ra vào Hồng Hải.

Hai mũi đất đó lúc này chẳng có quân đội trú đóng, quân đội Đế quốc chỉ cần đổ bộ lên cắm trại ở đó, rồi khẩn cấp xây dựng pháo đài. Mất gần nửa tháng mới xây xong vòng tường bên ngoài của pháo đài và vài kiến trúc quan trọng cho việc phòng thủ. Đô đốc Tôn Lương cho đặt trên mỗi pháo đài 50 khẩu thần công. Cùng với bức tường cao 2 trượng và 500 quân trú phòng, nếu bị đại đội địch quân tấn công, pháo đài vẫn có thể đứng vững cho đến khi viện binh đến cứu. Còn nếu địch quân dưới 1 vạn, tấn công pháo đài chỉ hao binh tổn tướng mà thôi.

Trong lúc pháo đài đang xây dựng, Đô đốc Tôn Lương phái sứ giả đến triều đình Adal ở bờ phía nam và triều đình Rasulid ở bờ phía bắc, đồng thời thông báo về Tích Lan để đội thuyền thứ hai lên đường chở vật tư đến bổ sung.

Trên vùng đất bờ nam Hồng Hải lúc này có hai vùng riêng biệt : vùng phía bắc là các triều đại bản địa và vùng phía nam cũng là triều đại bản địa, nhưng chịu ảnh hưởng của Hồi giáo, hình thành dần những tiểu quốc Hồi giáo.

Vùng phía bắc gồm nhiều tiểu quốc chư hầu của Vương triều Solomonic, là một triều đại được thành lập trên vùng cao nguyên Abyssinian (ở xứ Ethiopia). Vương triều Solomonic là sự nối tiếp vương triều Zagwe, các quốc vương tự nhận mình là hậu duệ của quốc vương Asumite triều Solomonic, nên cũng gọi vương triều của mình là Solomonic. Vị quốc vương đầu tiên là Yekuno Amlak, người đã lật đổ vị quốc vương cuối cùng của vương triều Zagwe và kết hôn với con gái của họ.

Vùng phía nam sau khi Hồi giáo truyền vào đã hình thành nhiều tiểu quốc, dưới sự thống lĩnh của Vương quốc Hồi giáo Adal. Do khác biệt tôn giáo, do ảnh hưởng của Hồi giáo, chiến tranh giữa Solomonic và Adal diễn ra liên tục. Xứ Adal trước khi Hồi giáo truyền vào là chư hầu của Solomonic. Từ năm 1288, các tiểu vương xứ này theo Hồi giáo và không triều cống cho Vương triều Solomonic nữa, thế là chiến tranh bùng nổ, kéo dài đến tận lúc này. Đến năm 1332 các tiểu quốc cùng thống nhất chống lại Solomonic, Adal được xem như thành lập. Quân Solomonic thường chiếm được ưu thế, nhiều vị quốc vương của Adal bị bắt, bị giết, nhưng cuộc phản kháng vẫn cứ tiếp diễn đến giờ. Đến năm 1403, quốc vương của Adal là Sa’ad Din II đã chiến thắng quân Solomonic nhiều trận nhỏ, củng cố được vị thế của Adal. Theo lịch sử, đến năm 1415, quân Adal giành được ưu thế trong chiến tranh, Vương quốc Hồi giáo Adal được chính thức thừa nhận, và tồn tại đến năm 1555 thì tan rã thành nhiều tiểu quốc nhỏ.

Còn các vương triều của xứ Ethiopia trong lịch sử, tuy trên danh nghĩa có lãnh thổ rộng lớn, nhưng cứ phải thường xuyên đối phó các cuộc phản kháng ở các địa phương. Điều đó chứng tỏ bọn họ ít được lòng dân. Và nước Ethiopia hiện đại hoàn toàn là một quốc gia nội lục, không giáp biển, thường xuyên có chiến tranh với lân quốc để mở đường ra biển. Thậm chí vào năm 1998 đã nổ ra chiến tranh giữa Ethiopia với Eritrea để tranh giành một vùng đất giáp biển, kéo dài đến năm 2000, với kết quả là 123.000 người Ehiopia và 19.000 người Eritrea thiệt mạng. Quân Ethiopia ban đầu chiếm giữ được khoảng 20% lãnh thổ Eritrea nhưng sau đó đã bị đánh lui.

Sứ giả của Đô đốc Tôn Lương đến nơi, đã được triều đình Adal tiếp đãi trọng hậu. Quốc vương Sa’ad Din II đồng ý nhượng mũi đất đó cho Đế quốc, đổi lại, Đế quốc giúp Adal chống lại quân Solomonic. Dù sao thì Adal chưa kiểm soát được hoàn toàn vùng này, mũi đất đó chỉ trực thuộc Adal trên danh nghĩa, và giờ đây đã do bọn Tôn Lương kiểm soát. Trong tình thế bị quân Solomonic uy hiếp, hiệp ước này xem ra có lợi cho Adal nhiều hơn.

Còn sứ giả đến Rasulid thì bị triều đình ở đó đuổi về. Không những thế, quân đội Rasulid tập kết ở Ta’izz, kinh đô thứ hai của vương quốc, rồi tiến xuống Moka, theo đó tấn công mũi đất. Đại quân Rasulid đông đến 5 vạn người, trong đó có 1 vạn kỵ binh. Hồng Long phân hạm đội chỉ có 1 vạn Hải quân, cùng với 1 vạn lục quân của Thần Sách quân, nên Đô đốc Tôn Lương quyết định phòng thủ, tiêu hao sinh lực địch quân.

Khi quân đội Rasulid tiến xuống thì pháo đài đã xây dựng xong các kiến trúc phòng thủ. Đô đốc Tôn Lương phái 1.000 quân trú đóng trong pháo đài, còn lại đều đóng ở bờ biển phía nam. Các chiến hạm, chiến thuyền dàn ra dọc theo bờ biển. Pháo đài nằm gần biển, nên có thể cùng Hải quân hiệp đồng tác chiến.

Tháng 6, quân đội song phương giao chiến bên ngoài pháo đài. Do quân số ít hơn, lại ở xa hậu phương, khó bổ sung binh lực nên Đô đốc Tôn Lương không cho quân trực tiếp giao chiến. Ban ngày, các khẩu thần công trên pháo đài và trên các hạm thuyền luân phiên nhả đạn về phía quân Rasulid. Ban đêm, quân Đế quốc được chia thành những toán nhỏ khoảng 1.000 người, quấy nhiễu, tập kích quân Rasulid, chủ yếu tiêu hao sinh lực địch quân.

Giữa tháng 6, do thám được vị trí trại lương của quân Rasulid, Đô đốc Tôn Lương sai quân tập kích, dùng hỏa dược dẫn hỏa thiêu rụi trại lương, đồng thời còn thường xuyên cho tấn công cắt đứt các đường tiếp tế. Cuối tháng 6, thành Moka nằm bên cạnh bờ biển phía tây bắc mũi đất bị chiếm. Quân Rasulid thiếu lương, rơi vào tình thế khó khăn.

Tháng 7, quân Rasulid hết lương, phải rút lui. Quân Đế quốc truy đuổi, bắt được hơn 5.000 tù binh. Do quá xa, để khỏi tốn công vận chuyển, Đô đốc Tôn Lương tỏ ra rộng rãi, chuyển giao toàn bộ tù binh cho Adal để sung vào quân đội của họ. Quốc vương Adal tặng lại nhiều châu báu để cảm tạ.

Suốt tháng 7, Hồng Long phân hạm đội chia nhau đi cướp phá các thành trấn duyên hải thuộc Vương triều Rasulid. Một số bộ lạc du mục trên bán đảo A Lạp Bá quy phục. Đô đốc Tôn Lương chia phần đất duyên hải nằm trong tầm uy hiếp của Hải quân thành nhiều phần, giao cho bọn họ quản lý. Bọn họ có toàn quyền trên các khu vực đó và nộp thuế cho Đế quốc. Do được xem là lương dân nên mức thuế không cao. Nếu sau này bọn họ trở thành thuận dân thì mức thuế sẽ càng thấp hơn nữa.

Chương 47 : TIẾN ĐẾN AI CẬP

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa thu tháng 8.

Quân Rasulid lại tập kết ở Ta’izz, định tiến xuống tái chiếm các vùng duyên hải. Đô đốc Tôn Lương được các bộ lạc báo tin, liền suất lĩnh quân đội, phối hợp cùng chiến sĩ của các bộ lạc tập kích quân Rasulid trên đường hành quân. Quân Rasulid đại bại. Toàn bộ lương thực, khí giới thu được cùng với gần 1 vạn tù binh được giao hết cho các bộ lạc. Lực lượng của các bộ lạc trở nên lớn mạnh, hăng hái luyện tập chờ quân Rasulid tiến xuống lần nữa. Nhiều bộ lạc du mục khác thấy thế, đua nhau quy thuận. Tất cả vùng duyên hải của vương triều Rasulid bị phân chia hết. Mỗi khi quân Rasulid họp quân tiến xuống tái chiếm thì đều bị quân Đế quốc liên hợp với lực lượng của các bộ lạc đánh bại, tù binh đều trở thành chiến sĩ của các bộ lạc, làm cho thực lực của các bộ lạc ngày càng mạnh hơn. Sau vài trận, quân Rasulid không dám tiến xuống nữa.

Tháng 9, sau khi các bộ lạc quy thuận đã ổn định được vùng quản hạt của mình, chiếu chỉ của Giang Phong truyền đến, phong cho tộc trưởng các bộ lạc này thành tiểu vương Hồi giáo, mang phẩm hàm hầu tước, bá tước của Đế quốc, cho thành lập các tiểu quốc Hồi giáo. Hơn 40 tiểu quốc được thành lập dọc theo vùng duyên hải Rasulid, bao vây phong tỏa phần còn lại của Rasulid trong nội địa.

Cuối tháng 9, một bộ lạc lớn trong sa mạc đột nhiên tiến đến chiếm lấy Ta’izz từ tay quân Rasulid, rồi sai sứ giả đến liên hệ với Đô đốc Tôn Lương cầu phong, được Tôn Lương tiến cử, và triều đình Đế quốc đã chấp thuận.

Sang tháng 10, nhiều tiểu quốc chư hầu trong nội địa cũng chuyển sang quy phục và nộp thuế cho Đế quốc. Bọn họ lo sợ quân Đế quốc tiến vào và bị các bộ lạc trong sa mạc kéo ra chiếm mất đất đai, giống như các tiểu quốc chư hầu của Rasulid ở vùng duyên hải trước đây, nay đã bị các bộ lạc chiếm lấy và thành lập các tiểu quốc mới, hoặc giống như Ta’izz. Vương triều Rasulid chỉ còn kiểm soát được khu vực xung quanh kinh đô chính Zabid, thế lực chỉ tương đương một tiểu quốc lớn. Quốc vương của vương triều Rasulid vẫn giữ vương hiệu, nhưng không còn được ai công nhận nữa. Mọi người chỉ xem ông ta như là một tiểu vương của tiểu quốc Zabid.

Tiếp đó, chiến hạm chuyển xuống vùng phía đông nam Adal, khu vực các bộ lạc Ethiopic và Somali, rồi các tiểu quốc vùng nam vịnh Aden được thành lập. Các bộ lạc xứ này lần lượt chuyển đổi sang chế độ phong kiến, kiến lập tiểu quốc, uy hiếp vương triều Solomonic từ phía nam. Từ bộ lạc chuyển sang phong kiến, giới quý tộc cần có những sự hưởng thụ mới tương ứng. Các thương đội do Cát Ti quản lý có thêm thị trường. Quan hệ kinh tế thay đổi, xứ này cũng dần dần phồn vinh.

Tháng chạp, có thêm viện binh từ Tích Lan, Hồng Long phân hạm đội chính thức tiến đến vịnh Suez ở phía tây bán đảo Sinai, gần cửa kênh đào Suez thông ra Hồng Hải.

Con kênh đào này đã có lịch sử rất lâu đời. Từ thời các Pharaon, người Ai Cập đã đào kênh nối thông Địa Trung Hải với Hồng Hải. Có lẽ vào khoảng những năm 1878 đến 1839 trước Tây lịch, vào triều đại Pharaon Senusret III đã có một kênh đào đông tây nối sông Nile với Hồng Hải phục vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc giao thương giữa Hồng Hải với Địa Trung Hải. Có nhiều dấu vết cho thấy con kênh này đã tồn tại vào thế kỷ 13 trước Tây lịch vào thời kỳ Pharaon Ramesses II. Có điều, con kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc bấy giờ và nhanh chóng bị lãng quên.

Theo sử sách Hy Lạp, vào khoảng những năm 600 trước Tây lịch, Hoàng đế Necho II của Hy Lạp đã nhận thấy tầm quan trọng của kênh này và cho tu sửa lại nó. Tuy nhiên con kênh chính thức được hoàn thành bởi Hoàng đế Darius I của Ba Tư. Ông đã hoàn thành con kênh sau khi chiếm Ai Cập và đã mở rộng nó đủ để cho phép hai tàu chiến trieme tránh nhau trong kênh và hành trình trong kênh mất 4 ngày. Sau khi sửa sang con kênh xong, Darius I đã xây dựng bia kỷ niệm công lao của mình ở đấy.

Hồng Long phân hạm đội tiến vào vịnh Suez, khiến cho trú quân và dân chúng ở trên bờ xuất hiện khủng hoảng. Từ mấy tháng trước, bọn họ đã nghe đồn đại về sự xuất hiện của những chiến hạm ‘rất lớn’ đến từ Đông phương Đế quốc. Nhưng đa số chỉ nghe qua rồi cười đối phương nói quá, phóng đại, thổi phồng sự thật. Nào ngờ, đến khi tận mắt chứng kiến, bọn họ còn cảm thấy các chiến hạm này còn lớn hơn cả sự tưởng tượng ban đầu.

Nếu chỉ như vậy thôi thì còn chưa có gì phải lo sợ. Có điều, gần đây lan truyền trong khắp Ai Cập tin tức về sự hiềm khích giữa vương triều Burji ở Cairo với Đông phương Đế quốc. Mọi người đều đã biết chuyện vương triều Burji kỳ thị thương nhân của Đông phương Đế quốc, cự tuyệt sứ giả của họ, và quan hệ song phương trở nên ác liệt. Mấy tháng gần đây đã không còn thấy thương nhân của Đông phương Đế quốc xuất hiện trên đất Ai Cập. Do đó, khi thấy Hồng Long phân hạm đội xuất hiện, ai nấy đều biết chiến tranh giữa hai nước sắp bùng nổ. Thường dân vội vã thu dọn đồ đạc, tạm thời di tản ra xa vùng chiến sự. Còn binh lính được lệnh tăng cường phòng bị. Rất nhiều cứ điểm phòng ngự nhanh chóng được lập nên dọc theo bờ biển.

Trong quân đội Ai Cập thời kỳ này có một lực lượng đặc biệt, nô lệ binh, tiếng Ai Cập gọi là Mamluk, là lực lượng quân đội được tổ chức từ những người nô lệ theo Hồi giáo. Triều đại do những tướng lĩnh Mamluk có gốc nô lệ thành lập được gọi là triều đại Mamluk, bắt đầu từ năm 1250, gồm có 2 dòng Bahri và Burji. Thường thì ngôi vị quốc vương do các tướng lĩnh Mamluk thay nhau nắm giữ, và rất thường xảy ra việc đánh giết nhau để tranh ngôi, do đó mà các vị quốc vương cũng thường không ở ngôi được lâu dài. Có năm, có đến 4 vị quốc vương thay nhau cai trị.

Vào năm 1249, thời quốc vương Salih Ayyub của vương triều Ayyubid, quốc vương Louis IX của nước Pháp hô hào thánh chiến, nhưng không tiến đánh Jerusalem mà lại tấn công Cairo. Quân đội viễn chinh do Louis IX đích thân chỉ huy trước tiên chiếm giữ Damietta ở gần cửa sông Nile phía bắc Cairo, sau đó tiến dần về phía nam. Trong lúc chiến tranh xảy ra thì quốc vương Salih Ayyub qua đời, con trai là Al Mu’ Azzam Turanshah kế vị. Nhưng trước khi Turanshah kịp xuất quân thì các tướng lĩnh Mamluk đã đánh bại quân viễn chinh trong trận Al Mansurah và bắt giữ Louis IX, do đó mà thanh thế vang dội. Turanshah điều đội thân binh của mình chiếm giữ các vị trí hiểm yếu để đề phòng quân Mamluk. Nhưng các tướng lĩnh Mamluk đã ra tay trước, ám sát Turanshah, sau đó đánh lẫn nhau để tranh ngôi trong suốt 10 năm. Kết quả, hai thế lực mạnh nhất là Qutuz kiểm soát Cairo và Baybars Bahri kiểm soát Syria (lúc này thuộc Ai Cập). Đến khi quân Mông Cổ tiến vào khu vực, hai thế lực này liên hợp với nhau, đánh bại quân Mông Cổ. Tiếp đó nội chiến lại xảy ra, và cuối cùng Baybars Barih chiến thắng, thành lập vương triều Mamluk Barih.

Năm 1377, một cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Syria và lan nhanh sang các xứ Ai Cập khác. Năm 1382, Barquq lên cầm quyền, kết thúc vương triều Barih. Năm 1389, Barquq bị đánh bại phải chạy khỏi Cairo, nhưng đến năm 1390 đã chiếm lại được, chính thức thành lập vương triều Mamluk Burji. Barquq là một kẻ hiếu chiến, đã giết sứ giả của Timur, Đại Hãn Mông Cổ cai quản một hãn quốc rộng lớn từ Thổ Nhĩ Kỳ, Syria ở phía tây đến khu vực bắc Ấn Độ ở phía đông, do đó đã kết thù với Timur, rồi dẫn đến chiến tranh năm 1400.

Cũng giống như vương triều Mamluk Barih, vương triều Mamluk Burji thường xuyên xảy ra chiến tranh giữa các tướng lĩnh Mamluk để tranh ngôi và các vị quốc vương thường không ở ngôi được lâu dài. Chỉ từ khi chính thức thành lập (1390) đến lúc này (1413) đã có 4 cuộc nổi loạn tranh ngôi và có 5 vị quốc vương. Có người ở ngôi chỉ vài tháng.

1. Az Zahir Sayf Al Din Barquq (1390 – 1399), qua đời.

2. Faraj bin Barquq (1399 – 1405), bị đánh đuổi, chạy thoát.

3. Abdul Aziz bin Barquq (1405), cướp ngôi thành công, nhưng vài tháng sau bị đánh bại, bị bắt, chết trong tù.

4. Faraj bin Barquq (1405 - 1412), giành lại được ngôi, làm quốc vương lần thứ hai, nhưng rồi lại gặp phản loạn, bị giết.

5. Al Adil Al Musta’ in Billah (1412), cướp ngôi thành công, nhưng vài tháng sau lại bị lật đổ, chạy thoát.

6. Tatar I (1412 – đến lúc này), cướp ngôi thành công.

Tóm lại, thời đại của các Mamluk cũng là thời đại nội chiến của Ai Cập, các tướng lĩnh Mamluk đánh nhau không ngừng. Nội chiến liên miên, đất nước bị chia cắt, các thế lực quân phiệt chia nhau kiểm soát các khu vực và chờ cơ hội cướp ngôi. Tình cảnh dân Ai Cập lúc này không nói cũng đủ biết. Hồng Long phân hạm đội đến Suez trong hoàn cảnh như thế.

Chương 48 : TRẬN SUEZ ĐÁNH BẠI QUÂN MAMLUK

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.515 (Quý Tỵ, 1413), mùa đông tháng chạp.

Hồng Long phân hạm đội tiến vào vịnh Suez, gây nhiều khủng hoảng cho quân dân trên bờ. Quân đội Mamluk xây dựng khẩn cấp nhiều cứ điểm dọc theo bờ biển, tổ chức phòng ngự. Chỉ vì vịnh Suez quá dài, quân Mamluk không thể nào phong tỏa hết bờ biển, nên tập trung phòng thủ ở bờ phía tây, đề phòng quân đội đối phương đổ bộ tiến đánh kinh thành Cairo.

Hồng Long phân hạm đội lại không hề có ý định tiến đánh Cairo, đương nhiên nếu thời cơ thuận lợi, bọn họ sẵn sàng chiếm lĩnh những nơi có thể chiếm lĩnh được. Nhưng lúc này đây cần ưu tiên hoàn thành nhiệm vụ trước đã. Toàn thể các thuyền hạm thuộc Hồng Long phân hạm đội di chuyển vào tận sát cửa vào kênh đào Suez, sau đó xuống thuyền nhỏ, đổ bộ lên bờ. Toàn khu vực Suez địa hình bằng phẳng, rất thích hợp cho quân đội đổ bộ, nhưng thuyền hạm của Hồng Long phân hạm đội quá lớn, không thể trực tiếp cập vào bờ được, phải sử dụng thuyền nhỏ cho quân đội lần lượt đổ bộ.

Số binh sĩ đã đặt chân lên bờ lập tức tổ chức thành đội ngũ, tiêu diệt tất cả binh lính tuần phòng của quân Mamluk. Còn các thuyền nhỏ lại quay ra vận chuyển tiếp đợt quân đổ bộ tiếp theo. Lục quân trên Hồng Long phân hạm đội không đông, cũng chỉ có 2 sư 2 vạn người, nên chỉ mất vài lượt vận chuyển là đã đổ bộ hết lên bờ.

Lúc này, quân Mamluk cũng đã phát hiện đối phương đổ bộ, lập tức điều động 5 vạn quân đang trú đóng quanh đó kéo đến tấn công, có ý đổ đẩy lui quân đội đối phương xuống biển. Bọn họ cũng đã thám thính được rằng đối phương quân đội không đông.

Song phương đối diện, không có gì phải do dự, lập tức lao vào tiến công. Quân đội Đế quốc ít hơn, không trực tiếp tấn công mà dàn thành đội hình phòng ngự, chờ đối phương xông đến. Trọng bộ binh một tay cầm khiên lớn, một tay cầm đại đao dàn thành hàng đầu tiên. Khiên lớn cao gần 1 mét, 2 chiếc khiêng chồng lên nhau, dựng thành hàng chỉnh tề phía trước thành một bức tường vững chắc bảo hộ toàn quân. Tiếp đó là trường thương binh xếp thành hàng thứ hai, trường thương xuyên qua những khoảng trống giữa các chiếc khiên, hướng về phía trước tạo thành thương trận. Cung thủ ở sau cùng, giương cung lắp tên sẵn sàng bắn ra. Đây chỉ là trận hình thông thường của quân đội các nước phương đông.

Quân Mamluk đông hơn, lại cần chủ động tấn công, nên dàn thành đội hình cách đó vài dặm rồi tiến hành xung phong. Các xứ A Lạp Bá nổi tiếng về kỵ binh, 1 vạn kỵ binh dàn ra phía trước làm thành quân chủ lực công kích, mục tiêu xung phá đội hình quân đối phương, 4 vạn bộ binh còn lại phụ trợ.

Hiệu lệnh truyền xuống. Kỵ binh Mamluk thúc chiến mã xung phong, khí thế hung hãn, chứng tỏ cực kỳ thiện chiến. Không thiện chiến sao được, bởi quân Mamluk quanh năm đánh nhau vì tranh đoạt ngôi quốc vương kia mà. Nội chiến liên miên, kết quả trực tiếp là quân đội đều thiện chiến.

Song phương còn cách hơn 2 dặm (800 mét), Mamluk kỵ binh sắc mặt lộ vẻ hung hăng, tay nắm chặt đao kiếm, chuẩn bị chiến đấu. Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Hàng loạt đạn pháo từ các chiến hạm ngoài biển bắn vào, rải xuống giữa đội hình Mamluk kỵ binh, lập tức người ngã ngựa nghiêng, đội hình hỗn loạn. Những con ngựa phía trước vì bị đạn pháo phía sau làm cho kinh sợ, hoảng loạn phóng nhanh về phía trước. Những con ngựa phía sau thì sợ hãi chạy tạt sang hai bên. Còn những con ngựa ở ngay đó thì … bị đạn pháo bắn trúng, còn kết quả nào khác nữa.

Số phận những Mamluk kỵ binh ở hàng đầu cũng không khá hơn. Do chiến mã kinh hãi phát cuồng, đã tăng tốc chạy tới trước, xung thẳng vào thương trận. Kết quả thành xâu thành xâu đinh vào trường thương, tử trạng rất thê thảm.

Tiếp đó, 400 khẩu thần công cỡ nhỏ của lục quân khai pháo. Khai hoa đạn rải vào đầu số Mamluk kỵ binh còn chưa xung vào thương trận, tạo nên càng nhiều thương vong, càng nhiều hỗn loạn. Sau đó, cung thủ phóng tên. Mỗi loạt hơn vạn mũi tên bắn đầy trời, hết loạt này đến loạt khác, liên miên bất tuyệt, làm cho tiền đầu Mamluk kỵ binh thiệt hại nặng nề, gần như toàn diệt. Quân đội Đế quốc tiền tiến, lại tiền tiến, áp sát dần nửa phần còn lại của Mamluk kỵ binh. Các khẩu thần công cỡ nhỏ cũng được đẩy theo. Bên phía quân Mamluk, 4 vạn bộ binh cũng đã tiến đến gần, hội hợp cùng số Mamluk kỵ binh còn lại, chuẩn bị xung phong cùng quân Đế quốc hỗn chiến. Các tướng lĩnh Mamluk cũng đã nhận ra nếu cứ giữ khoảng cách, bọn họ chỉ làm bia cho đại pháo của đối phương.

Thần công đại pháo oai lực cự đại, chỉ đáng tiếc thời gian mỗi lần khai pháo hơi bị lâu, do đó cung nỏ vẫn là vũ khí quan trọng trong chiến tranh. Cung nỏ chỉ đến đâu, hàng nghìn quân Mamluk thương vong đến đó. Cung nỏ chỉ về phía nào, quân Mamluk ở đó thương vong ngã xuống còn nhanh hơn cắt cỏ. Nông dân cắt cỏ thì cắt từng nắm từng nắm nhỏ, còn quân Mamluk ngã xuống thì từng phiến từng phiến lớn. Lúc này, cung thủ đã bắn hơn 10 lượt, bắn ra hơn 10 vạn mũi tên, sát tử trọng thương hàng vạn địch nhân thì các khẩu thần công đại pháo lại mới khai pháo lần thứ hai.

Oanh. Oanh. Oanh …

Loạt pháo thứ hai khiến cho sĩ khí của quân Mamluk giảm đến mức thấp nhất. Cuối cùng, đã có tướng lĩnh Mamluk chịu không nổi, dẫn quân tháo chạy. Quân của viên tướng đó ở phía sau, chưa cùng quân đối phương trực tiếp chiến đấu, nhưng thấy tình cảnh phía trước, ai nấy không khỏi lạnh người, vừa nghe lệnh rút lui là lập tức ùn ùn tháo chạy. Theo thể chế hiện tại của vương triều Mamluk, địa vị của các tướng lĩnh Mamluk phụ thuộc vào lực lượng quân đội mà họ nắm giữ. Có quân đội, bọn họ mới có thể chiếm địa bàn, làm quân phiệt, mưu đồ tranh ngôi. Nếu như không còn quân, bọn họ cũng sẽ không là gì cả. Do đó viên tướng kia sợ quân bản bộ thương vong hết sạch, nên tự tiện dẫn quân tháo lui. Dù sao thì các tướng lĩnh Mamluk chẳng ai chịu ai, chỉ cần nắm quân trong tay là chẳng cần sợ gì cả.

Sau khi có một toán quân Mamluk tháo chạy, những toán quân Mamluk ở gần đó thấy tình thế không hay, cũng bắt đầu tháo chạy theo. Gần 3 vạn tàn quân Mamluk nhanh chóng tan vỡ, tranh nhau tháo chạy, tình thế hỗn loạn cực độ.

Giữa lúc đó, từ trong hướng nội địa chợt xuất hiện đại đội nhân mã bất thần tấn công tàn quân Mamluk. Một bên vừa đại bại, sĩ khí mất hết, đang tháo chạy; một bên dưỡng tinh xúc nhuệ, chiến ý bừng bừng. Chiến cục hoàn toàn nghiêng hẳn về một phía. Tàn quân Mamluk bị lưỡng diện hiệp kích, lớp thương vong, lớp bị bắt, lớp đầu hàng. Chỉ có vài trăm Mamluk kỵ binh hộ tống vài tướng lĩnh quan trọng chạy thoát về hướng tây bắc.

Đạo quân xuất hiện trong hướng nội địa đó chính là quân đội của các tiểu quốc mới thành lập dọc theo bờ đông bắc Hồng Hải (trước đây mấy tháng còn là chiến sĩ của các bộ tộc du mục trong sa mạc). Mỗi lần theo quân đội Đế quốc chinh chiến đều thu được chiến lợi phẩm phong hậu, khiến cho quân đội các tiểu quốc càng thêm tích cực tham chiến. Thật ra thì dù không có chiến lợi phẩm, để lấy lòng Đế quốc, các tiểu quốc cũng sẽ xuất quân.

Giải quyết xong chiến trường, quân đội Đế quốc tiến về khu vực đã chọn sẵn để xây dựng nơi trú quân. Còn quân đội các tiểu quốc lo phân chia tù binh, chiến lợi phẩm. Quân Mamluk kéo đến đây 5 vạn, tử trận 1 vạn rưỡi, chạy thoát vài trăm, Có đến gần 3 vạn rưỡi tù binh để các tiểu quốc chia nhau. Có điều, các tiểu quốc ‘hiến’ cho Hồng Long phân hạm đội 1 vạn tù binh để làm khổ lực. Trận chiến này, các tiểu quốc chỉ ở phía sau kiểm tiện nghi, công lao chủ yếu thuộc về quân đội Đế quốc. Đại bộ phận chiến lợi phẩm nhượng cho bọn họ là quá đủ rồi, bọn họ cũng không dám giành hết. Dù sao quân đội Đế quốc cần xây dựng trú địa, nên rất cần khổ lực.

Tiếp đó, vật tư được cho chuyển lên bờ, bắt đầu xây dựng thành lũy trấn thủ xứ này. Có 1 vạn khổ lực, việc xây dựng nhanh chóng hơn dự định. Chẳng bao lâu nữa, nơi đây sẽ xuất hiện một tòa thành thị đồng thời cũng là thương cảng, tiền cảnh khả quan.

Trong lúc Đô đốc Tôn Lương bận lo chỉ huy việc kiến thiết tân thành, một viên tùy tướng được giao chỉ huy quân đội Đế quốc và quân liên hợp các tiểu quốc tiến về phía bắc, thanh lý các cứ điểm của quân Mamluk dọc theo bờ kênh đào, thuận tiện xem có thời cơ tiến về Cairo hay không ?

Kênh đào thời này không giống với kênh đào thời hiện đại, không thẳng theo hướng bắc – nam, mà có hình chữ L, bắt đầu từ Hồng Hải, thông sang hồ Đắng Lớn (Great Bitter Lake) ở phía bắc, rồi thông sang hồ Timsah ở phía bắc hồ Đắng Lớn, tiếp đó chuyển hướng sang phía tây đi vào hồ Wadi Turnilat, theo sông Nile đi ngang qua Cairo, tiếp đó xuôi dòng sông Nile đi về hạ lưu ra Địa Trung Hải. Kênh đào lại cạn, chỉ có một số ‘tiểu hình’ chiến thuyền của Hồng Long phân hạm đội là vào được. Do đó lúc này tác dụng không lớn. Hồng Long phân hạm đội được lệnh đến đây xây dựng một thành thị làm nơi dừng chân giao thương cho các viễn dương thương nhân.

Chương 49 : BẮC PHẠT

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa xuân tháng hai.

Gia Định Thành. Trường Thanh Cung. Tử Tiêu Điện.

Đây là nơi làm việc của Giang Phong, đồng thời cũng là nơi đọc sách, nối liền với Tàng Thư Điện ở ngay bên cạnh. Trải qua hơn 10 năm sưu tầm, hiện trong Tàng Thư Điện có đủ các loại thư tịch cổ kim, đông phương tây phương. Không chỉ ưu tiên tích trữ thư tịch tại Tàng Thư Điện, Giang Phong còn ra lệnh xây dựng Thư Viện tại mọi trường học trong Đế quốc, khuyến khích mọi người đọc sách. Ở các Thư Viện còn treo hai câu :

“Vạn ban giai hạ phẩm. Duy hữu độc thư cao.”

‘Độc thư’ ở đây có nghĩa là đọc sách, là trí thức, chứ không có nghĩa là nhà nho như người Tàu vẫn hiểu. Do ảnh hưởng của Giang Phong, quan niệm về ‘độc thư’ của Đế quốc với Hán tộc hoàn toàn khác nhau. Ở Hán tộc, ‘độc thư nhân’ đồng nghĩa với nho gia. Còn ở Đế quốc, nông dân vẫn có thể đọc các sách nông học; thương nhân đọc các sách kinh thương; thợ thủ công đọc các sách công nghệ; quân binh cũng có các sách quân sự; và toán thuật thì quan trọng đối với tất cả mọi người.

Giang Phong khinh nho, nhưng không khinh Khổng. Nho giáo là biến tướng không tốt của Khổng giáo. Khổng Tử nói đến nghĩa vụ của thần dân đối với quân chủ, nhưng quân chủ cũng phải có nghĩa vụ tương ứng đối với thần dân. Mạnh Tử cũng nói : “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân thì quý, đất nước thứ hai, vua thì khinh). Ngoài ra cũng có câu : “Dân vi thuỷ ,quân vi chu ,thuỷ khả tải chu ,diệc khả phúc chu” (Dân như nước, vua như thuyền, nước có thể nâng thuyền, nhưng cũng có thể lật thuyền). Chính vì vậy, khi Khổng Tử còn tại thế, các tư tưởng của Ngài ít được các vị vua thời ấy ưa chuộng. Còn Nho giáo đã bỏ đi phần sau, chỉ giữ lại nghĩa vụ của thần dân đối với quân chủ và được các đế vương ưa chuộng. Nho giáo cũng đề cao việc đọc sách, nhưng chỉ là sách nho, khinh thường tất cả các loại sách khác, các nghề nghiệp khác, thậm chí còn xem ‘nông, công, thương’ là ‘tiện nghiệp’. Trước khi Nho giáo xuất hiện thì ‘Bách gia tranh minh’, đến khi Nho giáo xuất hiện thì ‘Bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật’. Nho giáo xuất hiện, dẫn đến việc chỉ có các sách nho mới được xem là chính thống, độc thư nhân hầu như đều là đọc sách nho, cùng với nó là chính sách ngu dân và xem dân đen như rơm rác. Trong nước chỉ khuyến khích viết văn làm thơ, xã hội mấy nghìn năm vẫn cứ như thế, làm sao phát triển được.

Khổng Tử dạy học, dạy cả ‘lục nghệ’, là lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (cưỡi ngựa), thủ (học chữ), số (học tính); học trò của Khổng Tử học cả văn lẫn võ, xuất triều vi tướng, nhập triều vi tương (‘tương’ là quan văn, ‘tướng’ là quan võ, xưa có câu ‘vương hầu tương tướng’). Đến Nho giáo lại trọng văn khinh võ, nho gia được gọi là thư sinh, còn có câu ‘thư sinh trói gà không chặt’.

Lê Quý Đôn của Đại Việt có câu : “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”, thật đúng làm sao. Lúc này câu đó chưa xuất hiện, nhưng Giang Phong đã mượn lấy mà dùng, để nhấn mạnh chủ trương của Đế quốc : mọi nghề nghiệp đều quan trọng, bách gia đều được đề cao (trừ nho gia).

Xuất binh cần truyền hịch để giành chính nghĩa, mà truyền hịch thì cần kể tội, giống như Minh triều đã kể 22 tội của Hồ Quý Ly. Tội soán cải tư tưởng của Khổng Tử cũng là một đại tội trong hịch văn bắc phạt lần này, bởi Khổng Tử là “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư” của Hán tộc.

Trong Tử Tiêu Điện lúc này chỉ có Giang Phong và Quảng Tế Pháp sư. Giang Phong đang nghe Quảng Tế Pháp sư báo cáo tình hình phương bắc.

Mùa đông năm ngoái, quân Trần của Trùng Quang Đế đã bị đánh bại hoàn toàn, vua quan Trùng Quang Đế đều bị bắt giải về Tàu, và đều tự sát trên đường áp giải. Quân Minh đã tập trung ở Nghệ An, chuẩn bị tiến đánh Thuận Hóa. Trấn Bắc Tướng quân Phạm Thế Căng đã đích thân đến trấn thủ phòng tuyến Hoành Sơn (đèo Ngang), đồng thời khẩn cấp gửi tấu biểu về triều thỉnh ý.

Giang Phong cầm tấu biểu của Phạm Thế Căng xem qua một lượt, đoạn hỏi :

- Quốc thư của bản triều gửi cho Minh triều thế nào rồi ?

Để có cớ xuất quân, trước đây Giang Phong đã sai sứ mang quốc thư sang Minh triều, yêu cầu Minh triều rút quân khỏi Đại Việt và bãi bỏ ‘Cấm hải lệnh’, không được gây khó khăn cho thương nhân của Đế quốc. ‘Cấm hải lệnh’ của Minh triều cấm người dân xuất hải (kể cả ra biển đánh cá), cấm cả việc giao thiệp với người ngoại quốc. Thương nhân của Đế quốc chỉ có thể buôn bán với quan lại do Minh triều chỉ phái, mà sự quan liêu hống hách của bọn quan lại đó khiến cho việc giao thương khó khăn vô cùng. Vì vậy mà trong quốc thư mới có yêu cầu bãi bỏ ‘Cấm hải lệnh’. Đương nhiên khi thảo quốc thư, bọn Giang Phong cũng biết rằng Minh triều chẳng khi nào chấp nhận những yêu cầu đó. Bọn họ lúc nào cũng tự kiêu tự ngạo, nhắm mắt bịt tai mà tự cho mình là Thiên triều Thượng quốc.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Sứ đoàn vẫn còn đang trên đường về, nhưng theo tin hồi báo, Vĩnh Lạc đế xem xong quốc thư của bản triều, lập tức ném xuống đất và đuổi sứ đoàn của bản triều về nước. Không những thế, y còn ra lệnh cấm thương nhân của bản triều vào đất Minh triều giao thương. Hừ. Y có cấm cũng vô ích. Bản triều xuất quân bắc phạt, chiến tranh bùng nổ, còn giao thương gì nữa.

Vốn đã biết kết quả sẽ là như thế, Giang Phong cũng không tức giận, hỏi tiếp :

- Việc chuẩn bị chiến tranh đến đâu rồi ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Ở An Phú, Viên Thành và Hội An đều đã tích trữ rất nhiều lương thảo, đủ cho đại quân sử dụng trong 1 năm. Các kho lương trong toàn Đế quốc cũng đều đã chuẩn bị sẵn sàng, có thể điều vận bất cứ lúc nào. Lương thực tích trữ của bản triều đủ để tiến hành chiến tranh trong 10 năm, thậm chí lâu hơn nữa. Bản triều lương thực rất sung túc.

Để chuẩn bị bắc phạt, bọn Giang Phong đã chuẩn bị hơn 10 năm rồi kia mà. Gần đây, sản lượng lương thực của Đế quốc mỗi năm không những đủ cho thần dân sử dụng mà còn dư gần 3 phần, đều được tích trữ trong các kho quân lương. Nhiều năm tích lũy, lương thực vô số, dù cho có gặp mất mùa liền 2, 3 năm thì toàn dân cũng không bị đói. Do đó, cung ứng cho quân đội tiến hành chiến tranh trong 10 năm cũng không thành vấn đề.

Quảng Tế Pháp sư lại nói :

- Xưởng đóng thuyền ở Long Sơn vừa cho hạ thủy 10 chiếc vận hạm tải trọng 10 vạn thạch, đủ để vận lương cho các đạo quân bắc phạt.

Giang Phong khẽ gật đầu. Mỗi thạch là 100 cân, mỗi cân 600 gam. Vận hạm còn nhỏ hơn Thất Tinh cấp chiến hạm, nhưng sử dụng để vận lương cũng đủ rồi. Quảng Tế Pháp sư nói tiếp :

- Theo Triệu Tướng quân báo về, các đạo quân đã huấn luyện xong, sẵn sàng xuất chinh. Lý Tướng quân ở Viên Thành cũng báo như vậy. Hải quân cũng đã sẵn sàng, chỉ còn chờ thánh ý.

Giang Phong hỏi :

- Phía Đông Doanh thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Các Phiên chủ ở Cửu Châu đảo đều đồng ý xuất binh cướp phá vùng Hoa Bắc, đương nhiên là phải sau khi bản triều tấn công Giang Nam. Nếu như quân đội bản triều chiếm được thượng phong, chắc chắn càng có nhiều Phiên chủ ở Đông Doanh xuất binh. Tuy bản triều chẳng hy vọng gì nhiều ở bọn họ, nhưng tin chắc bọn họ cũng sẽ gây ra ít nhiều hỗn loạn cho hậu phương của Minh triều.

Giang Phong lại hỏi :

- Phía Mông Cổ thế nào ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.512 (1410), Vĩnh Lạc Đế suất lĩnh 10 vạn quân, 3 vạn cỗ xe ngựa chở lương thực, quân nhu chinh phạt Mông Cổ. Lần đó quân Minh còn mang theo nhiều tặng vật để lấy lòng người Olrat, mà yêu cầu bọn họ trung lập. Người Mông Cổ đánh không lại, phải chạy về phía tây. Nhưng sau đó, khi quân Minh rút về thì người Mông Cổ lại quay về đất của họ, và tiếp tục quấy nhiễu biên cương phía bắc của Minh triều để trả thù. Nhờ có lương thực, vũ khí của bản triều viện trợ, người Mông Cổ liên tục nam tiến vào đất của Minh triều cướp phá, gây cho Minh triều rất nhiều thiệt hại. Hiện tại song phương vẫn còn giao tranh với nhau. Vĩnh Lạc đế giờ vẫn còn ở Bắc Bình chỉ huy quân đội phòng ngự biên cương, giao cho Thái Tử Cao Thức ở lại kinh đô Giám quốc.

Giang Phong trầm ngâm giây lát, rồi bảo :

- Truyền Tử Tấn thảo hịch bắc phạt.

Lý Tử Tấn, hiệu là Chuyết Am, sinh năm Mậu Ngọ (1378), quê ở làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc (nay thuộc huyện Thường Tín, Tp. Hà Nội), thi đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn (1400), cùng khoa với Nguyễn Trãi, dưới triều Hồ Quý Ly, nhưng không ra làm quan. Khi quân Minh sang, đã được người của Quảng Tế Pháp sư đón vào nam, và được Giang Phong giao cho giữ chức Trưởng sử, phụ trách thảo chiếu chỉ, công văn, giấy tờ, thư tín, …

Hai ngày sau, Giang Phong thiết đại triều ở Văn Nghi Điện, triệu tập triều thần văn võ, truyền lệnh bắc phạt. Sau đó, mệnh lệnh khẩn cấp truyền đi.

Chương 50 : TIẾN CHIẾM THANH NGHỆ

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa xuân tháng ba.

Trấn Bắc Tướng quân Phạm Thế Căng suất lĩnh hai quân Bảo Tiệp, Linh Tiệp vượt đèo Ngang bắc tiến thảo phạt quân Minh, sai thám mã truyền hịch đi các nơi. Hịch rằng :

“Ta Trấn Bắc Tướng quân họ Phạm,

Tính thẳng ngay bố cáo hịch này,

Kể từ khi Ngô tặc sang đây,

Việc nhà nước chứa chan nhiều nỗi.

Dân Đại Việt vốn không lầm lỗi,

Giết bỏ đều quyền nội trong tay

Ngoài nhân dân ngậm đắng nuốt cay,

Trong triều sĩ đêm ngày ta thán.

Quân Trương Phụ, Lý Bân, Mộc Thạnh,

Giết dân ta máu chảy thành sông,

Chốn quân doanh uế trược muôn phần,

Giặc tàn bạo xa gần thiết sỉ.

Vâng Đế quốc Thánh hoàng mật chỉ,

Ta xuất binh nghĩa vị cần vương.

Đất Nam phương tề tận đao thương

Quét trừ bọn nhiễu nhương tàn bạo.

Đồng hiệp sức ra tay giữ nước,

Như thuốc hay chữa bệnh mau lành,

Tờ hịch văn truyền đến trấn thành,

Mong triều dã ứng theo đuổi giặc.”

(chú : Anh Quốc Công Trương Phụ, Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh, Phong Thành Hầu Lý Bân là 3 viên tướng Minh triều có chức tước cao nhất trong đạo quân xâm lấn Đại Việt. Nguyên còn có Thành Quốc Công Chu Năng làm thống soái, nhưng khi đến Long Châu, chưa ra khỏi đất Tàu thì đã chết, phó soái Trương Phụ lên thay).

Khi quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang tiến ra. Tướng trấn thủ Kiềm Châu là Phạm Đống Cao đem dân binh các tộc Mường đi đánh đất Trà Long (Tương Dương, Nghệ An). Khi đến núi Bồ Cát thì gặp quân Minh cũng đang tiến lên. Song phương xông vào nhau quyết chiến. Phạm Đống Cao một thương một ngựa, xông thẳng vào giữa trận giặc đánh giết, ngựa đến đâu, quân Minh rẽ ra đến đấy. Dân binh các tộc Mường thấy thế càng thêm hăng hái, tràn lên đánh giết rất dữ dội. Quân Minh yếu thế không địch nổi, phải rút chạy về Trà Long. Quân Mường giết được sĩ tốt quân Minh hơn nghìn người, bắt được hơn trăm con ngựa và rất nhiều khí giới.

Thắng trận Bồ Cát, Phạm Đống Cao thừa thế suất quân tràn xuống vây thành Trà Long. Quan Tri châu là Cầm Bành vốn là một chi của họ Cầm ở Sầm Châu, nhận được thư của Cầm Công nên mở cửa thành ra hàng. Quân Mường chiếm được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy. Sau đó, Phạm Đống Cao dẫn quân thuận theo sông Lam tiến xuống đất Khả Lưu, cùng quân Thuận Hóa hợp vây thành Nghệ An.

Còn Phạm Thế Căng khi suất quân Thuận Hóa vượt đèo Ngang ra bắc, các châu huyện vùng bắc Tân Bình nguyên là vùng quản hạt cũ của Phạm Thế Căng đều mở cửa thành đầu hàng. Phạm Thế Căng vốn là đệ nhất danh tướng của Đại Việt lúc bấy giờ, lại từng có công dẹp giặc Chiêm Thành nên rất được lòng dân xứ này. Đại quân thuận thế tiến đến phía nam thành Nghệ An mà không gặp trở ngại gì đáng kể. Khi quân đến làng Đa Lôi, huyện Thổ Du (nay là huyện Thanh Chương), thì dân làng mang rượu thịt ra đón rước, khóc lạy mà nói rằng : không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ.

Tháng 4, Quân Thuận Hóa tiến đến Nghệ An, đóng quân ở phía nam thành, doanh trại kéo dài mấy dặm, quân thế rất mạnh. Quân Minh trong thành chỉ có hơn vạn, cùng năm nghìn dân binh của ‘ngụy tướng’ Phan Liêu, nên hết sức cố thủ, không dám ra đánh. Phan Liêu nguyên là con của Phan Quý Hữu, làm quan Thái Phó thời Trùng Quang Đế. Tháng 6 năm ngoái, quân Trương Phụ vào Nghệ An thì Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy ngày sau thì mất. Trương Phụ cho con Quý Hữu là Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Chính Liêu đã chỉ đường cho quân Minh vây bắt vua quan Trùng Quang Đế. Liêu biết mình phải tội lớn với Đại Việt, nên chỉ còn cách hết sức chống giữ, chờ cứu viện.

Trương Phụ ở Thăng Long nghe tin Phạm Thế Căng bắc tiến, đang vây thành Nghệ An, liền sai bộ tướng Lý An mang 5 vạn quân theo đường biển vào cứu viện. Bắc Dương Hạm đội Đại Đô đốc Mã Tân (nguyên tên thật là Matavamca, đại tướng của tiểu quốc Puni) đã phái một đội chiến hạm chờ sẵn ngoài biển, chờ các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đi qua thì xông ra đánh. Sau một trận pháo kích cộng với xung kích, các ‘tiểu’ chiến thuyền của quân Minh đều bị bắn vỡ, bị đụng chìm. Quân Minh tử trận vài nghìn, còn lại đều bị bắt, không có ai chạy thoát.

Các chiến hạm của Bắc Dương Hạm đội tiêu diệt xong các chiến thuyền quân Minh, liền kéo ra bắc đồn trú ở cửa biển Thần Phù, ngăn hẳn các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Trường Yên (Ninh Bình) với quân Minh ở Thăng Long.

Nghệ An Thành.

Dừng quân nghỉ ngơi 3 ngày, Phạm Đống Cao tập trung 1.200 khẩu thần công thuộc 2 đạo quân, lập thành trận địa pháo ở phía nam thành, sau đó đồng loạt nã pháo vào tường thành, cửa thành. Đạn pháo làm thành tường chấn động rung rinh, đá rơi ra từng tảng từng tảng. Quân Minh cũng có một số thần công đại pháo thu được từ quân nhà Hồ, liền bắn trở ra. Thế nhưng hỏa dược của quân Minh chất lượng kém hơn hẳn hỏa dược của quân Đế quốc, nên phạm vi xạ kích không xa bằng, hoàn toàn bị áp chế.

Thành Nghệ An tuy kiên cố, nhưng cũng không thể chịu nổi 1.200 khẩu đạn pháo liên tục oanh kích. Chỉ sau hơn nửa ngày, tường thành đã sụp đổ một mảng lớn. Thật ra thì thành Nghệ An còn kém kiên cố hơn thành Đồ Bàn của Chiêm Thành nhiều, bởi đã lâu năm chưa được tu tạo sửa chữa. Mọi chú ý của nhà Hồ đều tập trung vào các thành trì ở phía bắc, đặc biệt là thành Đa Bang. Thế mà thành Đa Bang khi bị quân Minh tấn công còn không đứng vững được bao lâu, nói gì đến thành Nghệ An.

Khi tường thành sụp đổ, quân Thuận Hóa tràn vào trong thành. Do trong thành đều là dân Việt nên thần công đại pháo không được phép bắn pháo vào bên trong. Thế nhưng, 6 vạn quân Thuận Hóa tràn ngập thành Nghệ An cũng đủ khiến quân Minh khiếp đảm, phải mở cửa bắc tháo chạy. Tri phủ Nghệ An Phan Liêu chết trong đám loạn quân, dân binh của Phan Liêu đều đầu hàng. Phạm Thế Căng để lại 1 sư 1 vạn quân trấn thủ Nghệ An, còn lại lập tức truy đuổi quân Minh đang tháo chạy.

Nói về quân Minh do tướng Trần Trí cầm đầu bỏ thành Nghệ An chạy về phía bắc, định rút về Thăng Long. Nào ngờ chỉ chạy được chưa đến 10 dặm thì chợt nghe phía trước pháo nổ vang trời, tiếng reo dậy đất, rồi quân Mường ở hai bên đường đổ ra đánh giết. Trần Trí cố suất quân chống cự một lúc, lại thấy quân Thuận Hóa đuổi đến, cờ hiệu của Phạm Thế Căng phất phới tung bay trong gió, cả kinh thất sắc, vội bỏ mặc sĩ tốt, quay đầu ngựa tháo chạy về phương bắc. Quân Minh tan rã, bị bắt, bị thương, bị giết gần hết, chỉ còn lại chưa đến nghìn người chạy được theo Trần Trí.

Phạm Thế Căng bảo Phạm Đống Cao dẫn quân về trấn thủ Nghệ An, đồng thời chỉnh hợp hàng binh, xử lý tù binh, sau đó lại suất quân đuổi theo bọn Trần Trí đến tận Diễn Châu. Trần Trí dẫn quân vào thành Diễn Châu cố thủ.

Phạm Thế Căng nghe báo Trần Trí lại dẫn quân vào cố thủ ở Diễn Châu, tiền quân đã vây chặt Diễn Châu Thành, tức giận nghiến răng nói :

- Ái chà ! Ai ngờ cái gã Trần Trí này lại giỏi chạy đến thế. Lần này quyết không cho gã có cơ hội chạy thoát nữa.

Nói đoạn phân binh đi chiếm giữ các chỗ hiểm yếu ở về phía bắc Diễn Châu, sau đó mới suất đại quân đến vây thành. Bọn Phạm Thế Căng bao vây 3 ngày, chờ thần công đại pháo kéo đến nơi, rồi lại cũng giống như ở Nghệ An, dùng đại pháo bắn thành. Nhưng lần này chỉ có 1.000 khẩu thần công dàn ra phía trước cổng thành phía nam.

Trần Trí nghe báo, biết là không thể giữ nổi thành, truyền quân sĩ gom góp lương thực mang theo, sau đó lại mở cửa bắc tháo chạy. Bọn Trần Trí ghé vào Diễn Châu mục đích không phải muốn cố thủ ở đấy, chỉ vì thiếu lương, cần bổ sung thêm mà thôi.

Bọn Trần Trí lại chạy về phía bắc, khi đi ngang qua một cánh rừng, bỗng nghe thấy hai bên trống đánh vang trời, quân reo dậy đất, rồi có một toán quân đổ ra đón đánh. Viên tướng dẫn đầu mắt to, râu rậm, mặt đen, tướng dữ như hổ, một tay cầm khiên, một tay cầm đại đao, giục ngựa xông ra, quát lớn :

- Quân giặc kia còn chạy đi đâu ? Trương Hổ ta chờ các ngươi đã lâu lắm rồi.

Trần Trí sai viên tùy tướng múa thương chặn đánh, nhưng chỉ vừa xông ra là đã bị Trương Hổ chém một đao ngã lăn xuống ngựa. Trần Trí cả kinh thúc quân ùa vào. Trương Hổ lùi lại, quát quân sĩ bắn tên ra, quân Minh trúng tên thương vong rất nhiều. Trần Trí cũng trúng tên rơi xuống ngựa, rồi bị bắt. Quân Minh thấy chủ tướng bị bắt, lại bị vây chặt, đều phải đầu hàng.

Phạm Thế Căng phái 1 sư 1 vạn quân đi chinh phục các châu huyện vùng Diễn Châu, sau đó suất quân đến vây thành Tây Đô. Cũng áp dụng chiến thuật như ở Diễn Châu và Nghệ An, dù chỉ còn lại 800 khẩu thần công, nhưng thành Tây Đô chẳng có bao nhiêu quân Minh, chỉ chống cự được 4 ngày rồi thất thủ.

Chiếm xong thành Tây Đô, Phạm Thế Căng lại để 1 sư 1 vạn quân ở lại bình định vùng này, sau đó kéo 3 vạn quân còn lại thuộc đạo Linh Tiệp tiến ra Trường Yên, cùng Hải quân hội hợp. Kể từ lúc này, khu vực từ sông Đáy trở vào nam đều được sát nhập vào bản đồ Đế quốc.

Thời này người Đại Việt gọi quân Minh là giặc Ngô, nên một số đoạn đối thoại trong truyện gọi giặc Ngô chính là quân Minh đó nha.

Chương 51 : BAO VÂY THIÊN TRƯỜNG

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 5.

Nghỉ ngơi ở Trường Yên một thời gian cho sĩ binh dưỡng sức, đồng thời chờ bổ cấp đầy đủ, Phạm Thế Căng lại vượt sông Đáy tiến quân ra bắc đánh chiếm Thiên Trường. Lúc này, 2 đạo quân Bảo Tiệp và Linh Tiệp lại hội hợp đầy đủ, quân thế lừng lẫy.

Trương Phụ ở Thăng Long sai Mộc Thạnh mang 3 vạn quân ra giữ Thiên Trường, sai Phương Chính mang 2 vạn quân ra đóng ở Ninh Kiều để tiếp ứng, lại sai người chạy trạm khẩn cấp về Tàu cầu viện, và gọi quân Vân Nam sang cứu.

Phạm Thế Căng kéo quân đến vây thành Thiên Trường, lại học theo lối cũ, cho dàn trận địa thần công đại pháo, oanh kích công phá thành tường. Thế nhưng, Mộc Thạnh là danh tướng Minh Triều, đâu dễ chịu thua, đã sai lính đào lấy đất đá trong thành lấp vào những chỗ hư hỏng của thành tường, còn sai lấy phên tre, mảnh chiếu thấm ướt nước che bên ngoài tường thành để giảm bớt lực lượng của đạn pháo. Phạm Thế Căng lại sai tập trung công kích vào cổng thành. Nào ngờ Mộc Thạnh lại cho quân đổ đất lấp hẳn cổng thành lại.

Bắn phá suốt cả ngày không xong, Phạm Thế Căng đành tạm dừng lại. Nghĩ mãi không ra kế gì phá thành, Phạm Thế Căng chỉ đành cho vây thành. Trong thành có 3 vạn quân tinh nhuệ, và ước 1 vạn dân binh. Phạm Thế Căng chỉ có 6 vạn quân, nếu cường công, dù có chiếm được thành thì cũng sẽ thiệt hại nặng nề, có hại cho việc bắc phạt.

Hôm sau, Phạm Thế Căng triệu tập chư tướng bàn kế phá thành, một viên tùy tướng hiến kế :

- Tướng quân. Chúng ta hãy bắn thư vào thành bảo Mộc Thạnh cho dân ra khỏi thành, rồi sẽ quyết chiến để khỏi liên lụy dân chúng. Nếu trong thành không còn dân, chúng ta sẽ sử dụng đại pháo.

Phạm Thế Căng lắc đầu nói :

- Vô ích thôi. Mộc Thạnh mưu mô quỷ quyệt, quyết chẳng bao giờ đồng ý việc đó.

Viên tùy tướng nói :

- Chúng ta cứ thử xem, biết đâu …

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ, thấy thử xem cũng chẳng hề gì, nếu như thành công thì càng tốt. Liền đó, Phạm Thế Căng sai viết chiến thư, cột vào mũi tên và cho quân bắn vào trong thành. Kết quả thật đúng như ước đoán của Phạm Thế Căng, Mộc Thạnh sau khi đọc xong chiến thư, chỉ khẽ cười nhạt, rồi cho quân đến đóng doanh trại lẫn với các phố xá trong thành.

Hành động đó của Mộc Thạnh khiến Phạm Thế Căng và chư tướng mắng chửi không tiếc lời. Bọn Phạm Thế Căng đang vô kế khả thi, bàn luận phân vân, thì có thám tử vào báo :

- Tướng quân. Quân Ngô trong thành đang chuẩn bị chiến đấu. Có nhiều khả năng Mộc Thạnh sẽ xuất thành quyết chiến.

Chư tướng nghe báo, hoan hỉ vỗ tay kêu lớn :

- Thánh hoàng phù hộ. Mộc Thạnh chịu xuất thành rồi.

- Chỉ cần quân Ngô chịu ra khỏi thành, chúng ta có thể đánh cho bọn chúng không còn manh giáp.

- Phải đó. Nếu không phải vì có dân trong thành, quân Ngô đã bị diệt sạch từ lâu rồi.

Phạm Thế Căng không lạc quan như chư tướng. Mộc Thạnh nổi tiếng lão mưu thâm toán, quỷ quyệt vô cùng. Quân Minh thế yếu, phải cố thủ thành trì chờ viện binh từ phương bắc sang, có lý nào lúc này lại chủ động xuất thành quyết chiến. Phạm Thế Căng suy nghĩ một lúc, không nghĩ ra nguyên do, liền hỏi chúng tham mưu :

- Mọi người thấy thế nào ?

Trong quân bộ có tham mưu bộ, mỗi đạo quân đều có đặt ban tham mưu, để giúp các tướng lĩnh bày mưu hiến kế. Phạm Thế Căng chỉ huy đại quân, nên đương nhiên cũng có một ban tham mưu tương đối quy mô. Chúng tham mưu bàn bạc một hồi, rồi viên tham mưu truởng đại diện nói :

- Tướng quân. Có lẽ quân Ngô định cướp doanh.

Phạm Thế Căng cả kinh :

- Cướp dinh ?

Viên tham mưu trưởng gật đầu nói :

- Quân Ngô yếu thế, chẳng lẽ nào lại chủ động xuất thành quyết chiến. Bọn chúng chuẩn bị chiến đấu, chỉ có thể là tập kích doanh trại quân ta. Tướng quân cũng nên chú ý động tĩnh của Phương Chính ở Ninh Kiều. Quân Ngô có thể lưỡng diện hiệp công.

Phạm Thế Căng gật đầu khen phải, phái thám tử tăng cường thám thính tin tức của Mộc Thạnh và Phương Chính. Chúng tham mưu cũng bàn bạc lên phương án đối phó.

Mây đầy trời. Gió chỉ hiu hiu thổi. Đêm nay trời tối đen, cả năm ngón tay giơ trước mặt cũng khó thấy rõ.

Mộc Thạnh phái quân đội xuất thành cướp doanh có đến 2 vạn rưỡi, do Đô ty Chu Kiệt suất lĩnh. Quân cướp doanh của Chu Kiệt len lén rời thành, hướng về phía doanh trại của quân Nam. Toàn quân đều đi bộ, sĩ tốt trong miệng đều ngậm một thanh gỗ nhỏ để khỏi phát ra thanh âm. Nghĩ đến sự an bài của Mộc Thạnh, Chu Kiệt trong lòng bình tĩnh. Ngoài đạo quân này, phía Phương Chính cũng hiệp đồng tác chiến, cơ hội thành công càng cao hơn.

- Tướng quân. Phía trước đã là doanh trại của quân Nam.

Thám tử len lén đến báo cáo. Chu Kiệt bỏ thanh gỗ nhỏ trong miệng ra, truyền lệnh :

- Truyền quân đội chuẩn bị xung kích địch doanh.

Sau đó, gã cầm chắc trường thương, ánh mắt chăm chú nhìn về phía trước, chờ quân đội chỉnh quân bị chiến.

- Tướng quân. Mọi thứ đã chuẩn bị xong cả.

Một viên bộ tướng đến báo cáo. Chu Kiệt nắm chặt trường thương, vung lên chỉ về phía trước, quát :

- Xung phong.

Chu Kiệt dẫn đầu quân đội hướng doanh trại quân Nam xung phong. Hỏa tiễn nhanh chóng đốt cháy các doanh trướng, quân của Chu Kiệt điên cuồng hướng doanh trướng bắn tên. Hỏa tiễn sáng rực cả một góc trời.

- Sát.

Trường thương của Chu Kiệt chỉ hướng trước mặt, rồi dẫn đầu sĩ tốt xông vào bên trong doanh trại. Hai vạn rưỡi tướng sĩ bắn ra vô số hỏa tiễn, doanh trướng của quân Nam lửa cháy rực trời. Quân Minh nhanh chóng xông được vào bên trong doanh trại.

Lửa cháy càng lúc càng lớn, nhưng bên trong doanh trại không có một địch quân nào xuất hiện. Nhìn thấy tình cảnh đó, Chu Kiệt trong lòng kinh hãi. Gã biết lần này đã hãm nhập vào vòng mai phục của quân Nam rồi.

- Rút lui.

Trong lúc hoảng loạn, Chu Kiệt lớn tiếng truyền lệnh quân đội rút lui. Quân Minh cũng đua nhau chạy ra ngoài, vừa chạy vừa quát tháo, người phía sau hối thúc người phía trước :

- Lui. Lui mau.

- Giặc có mai phục.

- Nhanh lên. Nhanh lên.

Trong doanh trại, quân Minh mạnh ai nấy chạy, không còn hàng ngũ gì nữa. Tình cảnh bắt đầu hỗn loạn. Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Một trận pháo kích bắn ngay lên đầu quân Minh, lần này đều sử dụng Khai hoa đạn. Do mục tiêu đã định sẵn từ trước, các khẩu thần công đều hướng vào bên trong doanh trại, đạn pháo rải đều khắp hết mọi nơi. Hơn nghìn khẩu thần công đồng loạt bắn ra hơn nghìn viên đạn pháo, nổ tung ra thành hàng vạn mảnh sắt nhỏ bén nhọn, rải xuống đầu quân Minh, khiến quân Minh tổn thất nặng nề. Quân cướp doanh chỉ có 2 vạn rưỡi, chỉ sau một loạt pháo kích, đã thọ thương gần hết, số tử vong cũng không ít. Tiếp đó là một làn mưa tên bắn vào giải quyết những kẻ còn lại. Chu Kiệt cũng chết trong đám loạn quân. Quân Minh toàn diệt.

Giữa lúc ấy, phía tây bắc đột nhiên truyền đến tiếng trống trận thùng thùng, tiếp đó 2 vạn quân của Phương Chính đã kéo đến. Toán quân này nguyên bản cũng lẳng lặng kéo đến cướp doanh, nhưng trên đường gặp nhiều trở ngại, đến chậm hơn một chút, khi thấy doanh trại quân Nam lửa cháy rực trời, biết trận chiến đã diễn ra, nên không cần che giấu hình tích nữa, khẩn cấp kéo đến tiếp ứng.

Phạm Thế Căng đứng trên vọng lâu quan sát trận chiến, khẽ cười nói :

- Quả như tham mưu trưởng đã nói. Bọn Phương Chính cuối cùng cũng đến rồi.

Đoạn quay sang hỏi tùy tướng :

- Chuẩn bị sẵn sàng cả rồi chứ ?

Viên tùy tướng đáp :

- Trình Tướng quân, chư tướng đã sẵn sàng. Đêm nay quyết chiếm cho được thành Thiên Trường.

Phạm Thế Căng gật đầu nói :

- Có thể phát động được rồi.

Mệnh lệnh truyền xuống. Lập tức tiếng trống trận càng lớn hơn. Từ bốn phương tám hướng xông ra vô số quân Nam bao vây quân Phương Chính. Đây là đạo mai phục thứ hai. Lửa cháy ngút trời, tiếng reo dậy đất. Quân Phương Chính bị tập kích bất ngờ, lâm vào hỗn loạn, cộng với vô số cung tên bắn vào bọn họ, thương vong nặng nề, 2 vạn quân Minh bị 5 vạn quân Nam phục kích, làm sao chống nổi. Phương Chính cảm thấy không hay, quay đầu ngựa hết sức liều mạng phá vòng vây, hướng thành Thiên Trường rút lui.

Lần này quân Minh tổng cộng phái 4 vạn rưỡi quân đội đi cướp doanh, 2 vạn rưỡi quân của Chu Kiệt đã bị tiêu diệt hoàn toàn, giờ đây 2 vạn quân của Phương Chính cũng đang bị bao vây, đồ sát. Đại tướng Trương Hổ từ trong hàng quân xông ra, gặp phải Phương Chính đang rút lui, cả mừng quát lớn :

- Tướng Ngô kia, còn chạy đi đâu.

Vừa quát, Trương Hổ vừa vung đại đao chặn Phương Chính lại. Biết khó thể chạy kịp, Phương Chính chỉ đành quay lại cùng Trương Hổ chiến đấu. Song phương đâm qua chém lại. Dù Trương Hổ sức lực hơn người, nhưng Phương Chính lúc này đã ở trạng thái liều mạng, nhất thời khiến cho Trương Hổ gặp ít nhiều khó khăn.

Chính đang chiến đấu, đám thân binh của Phương Chính đột nhiên xông thẳng vào vòng chiến, liều mạng ngăn Trương Hổ lại. Phương Chính thừa cơ giục ngựa bỏ chạy. Trương Hổ bị đám thân binh của Phương Chính ngăn cản, không đuổi theo kịp, tức giận quay sang chém giết đám thân binh.

Chương 52 : GIẢI PHÓNG THIÊN TRƯỜNG

Lại nói, sau khi Phương Chính chạy thoát, quân Minh tan vỡ càng nhanh hơn. Phạm Thế Căng cũng truyền quân nhanh chóng giải quyết trận chiến. Quân Nam không trực tiếp hỗn chiến mà đứng bên ngoài bắn tên. Tên bay đầy trời. Quân Minh thương vong vô số. Lớp bị chết, lớp bị thương, lớp bị bắt, lớp đầu hàng. Chỉ có chưa đến 3.000 quân chạy thoát được, hoảng loạn tháo chạy về hướng thành Thiên Trường. Số này sở dĩ chạy thoát được cũng là do Phạm Thế Căng cố ý thả cho đi.

Cũng lúc này, tại một ngôi làng cách thành Thiên Trường không xa, có hai thanh niên đang ngồi uống rượu chuyện trò, cùng thảo luận quốc gia đại sự. Cả hai tư chất văn nhã, thần thái cao quý, rõ ràng xuất thân từ dòng dõi cao quan vọng tộc. Một người đưa mắt dõi nhìn về phía bắc, khẽ thở dài than :

- Giặc Ngô hại nước, biết bao giờ mới có vua hiền, cứu dân trong vòng nước lửa.

Người kia chợt hỏi :

- Nguyễn huynh thấy Phạm tướng quân thế nào ?

Người họ Nguyễn lắc đầu nói :

- Là tướng giỏi, nhưng không biết tâm tính thế nào.

Người kia gật đầu nói :

- Phạm tướng quân là đệ nhất danh tướng của Đại Việt ta, trước có công bình Chiêm, sau giữ yên Nam Trấn. Ngày trước ta còn nghĩ Phạm tướng quân là người trung nghĩa. Trong khi giặc Chiêm hoành hành, triều đình nguy cấp, nhiều đại tướng và tôn thất đã theo hàng giặc Chiêm thì Phạm tướng quân vẫn một lòng chiêu tập dân binh theo triều đình chống giặc. Thế nhưng, khi Quý Ly soán vị, Phạm tướng quân không có ý kiến gì. Khi giặc Ngô sang, Phạm tướng quân cũng không tỏ thái độ. Khi đức Giản Định Đế và Trùng Quang Đế khởi binh, Phạm tướng quân cũng không ủng hộ. Thậm chí khi đức Trùng Quang Đế thất thế, xin với Phạm tướng quân mở cửa ải để lánh về phương nam cũng bị từ chối. Rồi giờ đây Phạm tướng quân lại bộc phát, chỉ trong vài tháng đã bình định được một khu vực còn rộng lớn hơn đức Giản Định Đế lúc trước. Trong tay chỉ có 6 vạn quân mà cả Mộc Thạnh, Trần Trí, Phương Chính đều không phải đối thủ. Xem ra Trương Phụ cũng không khá hơn, nếu không đã xuất binh quyết chiến chứ đâu có giữ thế thủ chờ viện binh như lúc này.

Người họ Nguyễn nói :

- Ta càng lúc càng nhìn không thấu Phạm tướng quân. Nhưng theo như hịch văn, Phạm tướng quân có vua hiền để phò tá. Chẳng phải hịch văn có câu “Vâng Đế quốc Thánh hoàng mật chỉ” đó sao ? Chỉ không biết vị vua hiền đó là người thế nào ?

Người kia hỏi :

- Chúng ta đi gặp Phạm tướng quân chứ ?

Người họ Nguyễn nói :

- Bấy lâu nay chúng ta du lịch khắp nơi, chưa tìm thấy ai xứng đáng là vua hiền cả. Dù sao đây cũng là cơ hội.

Người kia gật đầu nói :

- Cũng phải.

Người họ Nguyễn lại nói :

- Ta xem trận chiến này như là một cơ ngộ đi. Khi nào Phạm tướng quân chiếm được Thiên Trường, chúng ta sẽ đến bái kiến. Dù sao Thiên Trường cũng là đất tổ của nhà huynh. Thiên Trường được giải phóng, cũng là một sự kiện có ý nghĩa trọng đại.

Người kia nhìn ra ngoài trời, nói :

- Gió lên rồi.

Hai người họ đang yên lặng trầm tư, đột nhiên có một người hối hả chạy vào, vừa thở dốc vừa nói :

- Công tử. Công tử. Giặc Ngô nhân đêm tối đến cướp doanh trại quân ta, đại bại. Mấy vạn giặc Ngô chỉ có vài nghìn chạy thoát.

Cả hai giật mình sửng sốt, đồng bật dậy, nói :

- Đi. Chúng ta đi xem thử.

Nói về quân Minh do Phương Chính cầm đầu cuống cuồng tháo chạy. Quân Nam đuổi theo ở xa xa phía sau. Tiếng trống trận thùng thùng, tiếng hò reo vang dậy càng làm cho quân Minh thêm hoảng loạn. Phạm Thế Căng cho quân chậm chậm từ từ đuổi theo đằng sau, cố ý bức quân Minh chạy vào trong thành Thiên Trường.

Phương Chính cùng chúng sĩ tốt chạy đến trước cửa thành, lớn tiếng gọi thủ quân mở cửa :

- Quân đâu. Mau mở cửa.

- Ngươi, ngươi, ngươi nữa. Nhanh lên.

- Quân Nam sắp đuổi theo đến nơi rồi kìa.

- Có mau mở cửa không ? Còn chần chừ, đợi bản tướng quân vào thành rồi sẽ chém đầu các ngươi.

Cửa thành mở ra, quân Minh tranh nhau chạy vào bên trong. Chỗ cổng thành hỗn loạn vô cùng. Binh lính thủ thành liên tục thúc giục bại binh nhanh chóng vào thành, kẻo quân Nam đuổi đến. Mộc Thạnh ở trên thành lâu nhìn thấy cảnh đó, chỉ khẽ lắc đầu thở dài. Không ngờ quân Nam cũng có người giỏi mưu lược. Kế hoạch cướp doanh hoàn hảo như thế mà lại gặp phải cảnh thảm bại thế này, 4 vạn rưỡi đại quân chỉ chạy thoát được có vài nghìn. Thật là trời chẳng phù hộ Thiên triều a. Còn việc quân Nam đuổi tới, Mộc Thạnh cũng không lo lắm, bởi đối phương hãy còn xa, mà số quân Minh ở ngoài thành chỉ còn chưa đến hơn nghìn, chỉ lát nữa thôi là có thể vào hết và cửa thành có thể đóng lại.

Đột nhiên …

Oanh. Oanh. Oanh …

Nghe tiếng đại pháo nổ vang, quân Minh đều cả kinh thất sắc. Mộc Thạnh cũng giật mình. Hiện tại trong số tất cả quân Minh ở đây chỉ có một nhóm người không giật mình, cũng không kinh hãi. Đó là đám thủ quân đang trấn giữ ở cổng thành và số bại binh còn sót lại ở dưới thành môn. Bọn họ không giật mình kinh hãi, bởi vì đã không còn cơ hội nữa. Đạn pháo bắn ngay vào giữa cổng thành, khiến gần trăm người đang chen chúc ở đó tử thương gần hết.

Tiếp đó, lại có thêm nhiều loạt đạn pháo liên tiếp rải lên tường thành, uy hiếp thủ quân không dám ló đầu lên. Còn ở thành môn, vẫn có từng loạt, từng loạt đạn pháo bắn vào đó, ngăn không cho thủ quân đóng cổng thành lại. Phía quân Nam, Phạm Thế Căng đã cho chuẩn bị trận địa thần công đại pháo từ trước, ngắm vào mục tiêu sẵn sàng, nên khi phát xạ cũng tương đối tinh chuẩn.

Đạn pháo bắn được một lúc thì ngừng lại. Nhưng quân Minh trong thành chẳng thấy nhẹ nhõm chút nào, bởi bọn họ phát hiện quân Nam nhân lúc bọn họ lo ẩn nấp đạn pháo đã xông đến chiếm lĩnh thành môn, và hiện đang tràn vào trong thành. Mộc Thanh thở dài, dẫn tàn quân mở cửa phía bắc rút chạy. Cổng thành đã bị chiếm, quân Nam có đến 6 vạn, trong khi quân Minh kể cả đám bại binh chỉ còn lại chưa đến 8.000, chênh lệch quá lớn, dù quân Minh có sĩ khí ngút trời cũng không thể nào chống cự nổi, đừng nói lúc này vừa mới bại trận, sĩ khí giảm sút nghiêm trọng. Biết sự tình vô vọng, Mộc Thạnh không bao giờ miễn cưỡng làm.

Mộc Thạnh đã bỏ thành rút chạy, Phạm Thế Căng nhanh chóng kiểm soát được Thiên Trường, dời đại bản doanh vào trong thành và tiến hành an dân, đồng thời phân phái các tướng lĩnh dẫn quân đi chiếm lĩnh các nơi khác. Thiên Trường đại bại, quân Minh giờ chỉ còn lại một lực lượng ít ỏi ở Thăng Long. Phạm Thế Căng nhân đó phái Trương Hổ dẫn 1 vạn quân đi chiếm lĩnh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh của quân Minh ở Vân Nam sang; lại phái Cầm Huy dẫn 1 vạn quân đi chiếm lĩnh Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh của quân Minh ở Lưỡng Quảng sang. Đích thân Phạm Thế Căng sẽ dẫn 4 vạn quân còn lại đi đánh Thăng Long. Đồng thời, truyền thư cho Phạm Đống Cao ở Nghệ An mang dân binh ra giúp.

Giữa lúc Phạm Thế Căng đang bận lo chỉnh đốn quân đội, chuẩn bị tiến đánh Thăng Long thì có tùy tướng vào báo :

- Tướng quân. Quân ta bắt được hai người hình tích khả nghi. Bọn họ bảo là từ Thăng Long vào đây bái kiến Tướng quân.

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ giây lát, rồi gật đầu nói :

- Có lẽ là hiền sĩ của Đại Việt ta. Mời bọn họ vào đây.

Lát sau, tùy tướng dẫn hai thanh niên khí chất văn nhã đi vào. Phạm Thế Căng nhìn hai người họ một lượt. Cả hai ước hơn ba mươi tuổi, một có phong thái thư sinh, còn người kia tuy văn nhã, nhưng thần thái nghiêm nghị, có tư chất tướng môn hổ tử. Cả hai hướng vào Phạm Thế Căng thi lễ, nói :

- Trần Văn, Trần Vũ bái kiến Phạm tướng quân.

Phạm Thế Căng khẽ gật đầu nói :

- Hai ngươi chờ một lúc. Bản tướng giải quyết quân vụ xong rồi chúng ta sẽ đàm đạo.

Cả hai người vâng dạ, ngồi vào ghế ở mé dưới. Viên tùy tướng gọi người dâng trà. Phạm Thế Căng lại tiếp tục phê duyệt báo cáo quân tình. Còn hai người mới đến lại chú ý quan sát Phạm Thế Căng. Càng quan sát, cả hai lại càng cảm thấy hồ đồ. Phạm Thế Căng tuy có đại tướng phong phạm, khí thế bất phàm, nhưng không có vẻ gì là trí tướng. Thế mà trận đánh tối quá, chiến sự oanh oanh liệt liệt, quân Nam đại thắng, tiêu diệt gần 4 vạn rưỡi quân Minh, trong khi bản thân thiệt hại chưa đến 1 nghìn, phải nói là chiến quả huy hoàng.

Hai người bọn họ tối qua khi nghe gia nhân báo tin chiến sự, lập tức chạy ngay đến gần chiến trường quan sát tình thế. Thời gian đi lại cũng chỉ mất hơn canh giờ, vậy mà khi cả hai đến nơi thì Phạm Thế Căng đã vào thành rồi. Chiến lực và hiệu suất của quân Thuận Hóa khiến cả hai đối Phạm Thế Căng càng thêm kính ngưỡng. Trước giờ, cả hai chỉ biết Phạm Thế Căng được tôn xưng là Đại Việt đệ nhất danh tướng, còn họ Phạm giỏi thế nào thì chưa nghe ai nói đến, chỉ biết rằng trận chiến nào có Phạm Thế Căng tham gia đều giành thắng lợi, vắng mặt Phạm Thế Căng, đa số thất bại, hoặc chinh chiến vô công. Thậm chí có người còn gọi Phạm Thế Căng là ‘phúc tướng’. Điều này, cả Phạm Thế Căng cũng không ngờ đến.

Chương 53 : ĐỐI THOẠI – CHẤN KINH

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 5. Thiên Trường.

Phạm Thế Căng xử lý quân cơ sự vụ xong, quay sang nhìn 2 thanh niên tự xưng là Trần Văn và Trần Vũ kia một lượt, rồi chỉ tủm tỉm cười. Cả hai vội đứng dậy vòng tay nói :

- Tướng quân.

Phạm Thế Căng vẫn không đứng dậy đáp lễ, chỉ khẽ cười nói :

- Hai ngươi bất tất đa lễ, cũng không cần giấu diếm thân phận làm gì.

Cả hai nghe Phạm Thế Căng nói vậy, kinh hãi vô cùng. Một người ấp úng nói :

- Tướng quân biết chúng ta ?

Phạm Thế Căng cười nói :

- Ta với Ứng Long tuy không có nhiều giao tình, nhưng dù sao cũng là đồng liêu. Thần thái của ngươi khá giống Ứng Long, không khó để nhận ra. Ta cũng rất kính nể Băng Hồ Công.

Cả hai nghe nói giật mình, vội nghiêng người thi lễ, nói :

- Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn bái kiến Tướng quân.

Ứng Long là tên thật của Nguyễn Phi Khanh. Phạm Thế Căng có biết Nguyễn Phi Khanh, nên nhận ra thanh niên kia là ái tử của Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi. Trước đây Phạm Thế Căng từng nghe nói Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn kết bạn chu du khắp nơi tìm minh chủ, nên khi nhận ra Nguyễn Trãi thì cũng đoán biết người còn lại hẳn là Trần Nguyên Hãn. Băng Hồ Công là Trần Nguyên Đán, ông nội của Trần Nguyên Hãn, làm quan Tư đồ dưới thời Trần. Nguyễn Trãi là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán nên cùng Trần Nguyên Hãn cũng là thân thích.

Phạm Thế Căng cười nói :

- Bất tất đa lễ. Cứ ngồi đi.

Cả hai vâng dạ, ngồi xuống. Tuy Phạm Thế Căng chỉ ngồi trên soái vị, không hề đứng dậy chào đón, không thể gọi là lễ hiền hạ sĩ, nhưng cả hai người cũng không lộ vẻ bất mãn hay có ý không vui. Sách “Tang thương ngẫu lục” có chép rằng hai người ‘ra mắt’ Lê Lợi đến 2 lần : lần đầu, hai người đến và bỏ về sau khi thấy Lê Lợi xé thịt bằng tay và đưa lên miệng ăn ngay trong ngày giỗ; lần thứ hai, hai người mới ở lại sau khi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư. Điều đó chứng tỏ cả hai đều nghiêm khắc với việc chọn minh chủ để phò tá. Có điều Phạm Thế Căng khác Lê Lợi. Lê Lợi chỉ là thổ hào ở vùng Lam Sơn, trước khi khởi nghĩa thì danh vọng không lớn. Còn Phạm Thế Căng là ‘đệ nhất danh tướng’ của Đại Việt, vị cao quyền trọng. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn lúc này chỉ là những thanh niên có chí lớn, chưa trở thành hiền thần hay danh tướng, thân phận không thể sánh bằng Phạm Thế Căng. Hơn nữa, Phạm Thế Căng cùng với Nguyễn Phi Khanh là đồng liêu, đó cũng là sự thật. Thậm chí, thân phận địa vị của Phạm Thế Căng so với Nguyễn Phi Khanh còn cao hơn, và so với các con của Trần Nguyên Đán cũng cao hơn hẳn. Các con của Trần Nguyên Đán chỉ được làm Tướng quân bình thường; còn Phạm Thế Căng tổng lĩnh Nam Trấn, cai quản 3 phủ Thuận Hóa, Tân Bình và Thăng Hoa, là biên cương trọng thần, được quyền tự chiêu mộ binh mã (các tướng khác tự chiêu mộ binh mã sẽ bị xem như là tạo phản). Do đó Phạm Thế Căng xem bọn Nguyễn Trãi là hậu bối cũng không có gì là không phải, nhất là lúc này, sau khi chiếm được Thiên Trường, thanh thế và danh vọng đều tăng cao.

Bọn Nguyễn Trãi ngồi xuống rồi, Nguyễn Trãi mới hỏi :

- Tướng quân nay đã chiếm được Thiên Trường rồi, không biết khi nào ra lấy lại Đông Quan ?

Phạm Thế Căng nói :

- Đông Quan ? Ý ngươi muốn nói Thăng Long. Đông Quan là tên của họ Hồ gọi, bản triều vẫn gọi nó là Thăng Long. Triều đình đã ban chỉ, lấy đất từ Trường Yên đến Lạng Giang thành lập tỉnh Thăng Long, lấy Thăng Long Thành làm trị sở. Bản tướng đương nhiên phải lấy lại Thăng Long. Bọn Trương Phụ hiện chỉ còn lại một ít quân đội, không phải lo.

Nghe Phạm Thế Căng nhắc đến điều mà bọn họ vẫn thắc mắc bấy lâu, Nguyễn Trãi vội hỏi :

- Xin hỏi Tướng quân, triều đình ở đâu ạ ? Triều đình đã lập, sao không chiếu cáo thiên hạ ?

Phạm Thế Căng khẽ cười, nói :

- Triều đình không phải mới lập. Chúng ta phò tá Thánh hoàng, thành lập đạo quân đầu tiên vào năm Mậu Dần ở Kiềm Châu, hành doanh đặt ở Thánh Sơn. Đến năm Canh Thìn, cũng là năm Quý Ly xưng đế, Thánh hoàng đã dời hành doanh đến Hóa Châu, đồng thời thành lập Hải quân. Đến năm Quý Mùi, bản triều xây dựng An Phú Thành, Thánh hoàng lại dời hành doanh đến đó. Sang năm sau, Thánh hoàng chính thức chọn Gia Định Thành làm kinh đô, dời triều đình đến Gia Định. Bản triều đã chuẩn bị bắc phạt từ khi còn ở Kiềm Châu, đương nhiên không thể phô trương để cho giặc Ngô biết mà đề phòng. Đâu có như bọn Giản Định, Trùng Quang, chỉ có một ít binh mã mà đã huênh hoang tự xem mình là Thiên tử, rồi lại còn sợ thiên hạ không ai biết.

Bọn Nguyễn Trãi nghe Phạm Thế Căng nói thế, càng thêm ngơ ngác. Nguyễn Trãi từng đọc rất nhiều sách, có thể nói là tinh thông ‘thiên văn địa lý’ (Nguyễn Trãi từng viết quyển ‘Dư Địa Chí’, đương nhiên là khái niệm ‘thiên văn địa lý’ của nhà nho thời bấy giờ), nhưng chưa từng nghe đến An Phú, Gia Định. Do vậy liền hỏi :

- Tướng quân. Gia Định ở đâu ạ ?

Phạm Thế Căng nói :

- Hiện chúng ta đang ở tỉnh Thăng Long. Phía nam, từ Thanh Hóa đến Hóa Châu là tỉnh Thuận Hóa. Phía nam Thuận Hóa, phần lãnh thổ của Chiêm Thành trước đây kể luôn đất Thăng Hoa gọi là tỉnh Phú Yên. Phía nam tỉnh Phú Yên chính là tỉnh Gia Định. Gia Định Thành là trị sở của tỉnh Gia Định, và cũng là kinh đô của bản triều.

Nguyễn Trãi ngạc nhiên hỏi :

- Vậy ra triều đình đã diệt Chiêm Thành ?

Phạm Thế Căng gật đầu nói :

- Chiêm Thành nhiều lần quấy nhiễu Thuận Hóa, nên bản triều đã diệt hẳn Chiêm Thành để tuyệt hậu hoạn. Đương nhiên giờ đây dân Chiêm đều đã trở thành thần dân của Đế quốc.

Nguyễn Trãi lại hỏi :

- Tướng quân. Triều đình đóng đô thiên nam, không phải khó trị nước lắm sao ? Triều đình có định sau này sẽ thiên đô về Thăng Long ?

Phạm Thế Căng bật cười nói :

- Cái gì mà thiên nam. Các ngươi vẫn không bỏ được tư tưởng thổ hào rồi, chỉ biết được mấy tấc đất quanh nhà mình mà thôi. Cương thổ Đế quốc rộng mênh mông. Trong cương thổ Đế quốc, kinh đô của bản triều thiên bắc và thiên đông đấy. Ở phương nam, chỉ riêng đất Minh Châu cũng lớn gấp đôi cương thổ của Minh triều. Từ Gia Định đi đến vùng cực nam của Đế quốc còn xa hơn từ Gia Định đi đến vùng cực bắc của thảo nguyên Mông Cổ nữa đấy. Như thế mà gọi là thiên nam sao ?

Bọn Nguyễn Trãi chấn kinh không sao kể siết. Khái niệm thiên hạ của bọn họ chủ yếu chỉ là đất Trung Hoa và Đại Việt, miễn cưỡng kể thêm Chân Lạp, Chiêm Thành, Ai Lao, Mông Cổ, Triều Tiên. Còn theo như lời Phạm Thế Căng, cương thổ của Đế quốc chẳng phải rất lớn, lớn hơn cả Minh triều, là một siêu cấp Đế quốc. Nguyễn Trãi cảm thấy đầu óc loạn cả lên, những tri thức đã học trước đây xem như vô dụng cả. Trần Nguyên Hãn thì đỡ hơn, bởi chẳng nghiên cứu sâu về ‘thiên văn địa lý’, nên trấn tĩnh hỏi :

- Xin hỏi Tướng quân. Cương thổ Đế quốc rộng đến mức nào ạ ?

Phạm Thế Căng ngẫm nghĩ giây lát, đoạn hỏi :

- Các ngươi biết các xứ Thiên Trúc, Ba Tư chứ ?

Trần Nguyên Hãn cau mày, Nguyễn Trãi đã định thần lại, gật đầu nói :

- Biết ạ. Phía tây Trung Hoa là đất Tây Vực, phía tây của Tây Vực là Thiên Trúc, lại đi về phía tây nữa là đến đất Ba Tư.

Phạm Thế Căng cười hỏi :

- Nếu đi về phía tây nữa thì sao ?

Nguyễn Trãi cố ngẫm nghĩ, cố nhớ lại kinh sách, hồi lâu mới nói :

- Theo cổ thư ghi lại thì phía tây Ba Tư là Đại Tần, đó là một nước rất lớn. Thời Hán từng sai Trương Khiên đi sứ sang các nước phía tây, nhưng cũng chỉ đi được đến các nước ở Tây Vực. Đến thời Đường, mới có Tam Tạng Thiền sư đi được sang đến Thiên Trúc. Chuyện về các xứ Ba Tư, Đại Tần chỉ do các thương nhân Tây Vực kể lại.

Phạm Thế Căng gật đầu :

- Đại Tần chính là Âu châu, ngày trước gọi là La Mã, ở về phía tây xứ Ba Tư. Cương thổ Đế quốc theo hướng bắc - nam, khi nãy bản tướng đã nói qua rồi. Còn theo hướng đông – tây, nếu lấy Gia Định Thành làm chuẩn, xem khoảng cách từ Gia Định Thành đến nam Thiên Trúc là 1 đoạn, thì từ nam Thiên Trúc đi sang phía tây một đoạn tương đương nữa là đến xứ Somali, rồi lại đi tiếp về phía tây bắc một đoạn tương đương nữa là đến A Lạp Bá, nơi đó cũng vẫn là cương thổ của Đế quốc. A Lạp Bá nằm về phía tây nam xứ Ba Tư, phía nam Âu châu. Còn về phía đông thì bản tướng cũng không rõ hiện đã mở mang đến đâu rồi, nhưng có lẽ ngắn hơn một chút.

Càng nghe nói ý nghĩ của bọn Nguyễn Trãi càng hỗn loạn, không thể tưởng tượng ra cương thổ Đế quốc rộng đến mức nào. Bọn họ chỉ có khái niệm Thiên Trúc rất xa, còn Ba Tư thì rất rất xa, nhưng xa như thế nào thì vẫn không có khái niệm rõ ràng. Tuy vậy, bọn họ đều không phải người thường, nhanh chóng bỏ qua chuyện đó, chỉ cần biết được Đế quốc rất rộng lớn, rất hùng mạnh là được rồi.

Chương 54 : HỊCH VĂN

Lại nói, Phạm Thế Căng giảng giải về cương thổ và thế lực của Đế quốc, khiến cả Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều chấn kinh không sao kể siết. Nhưng cả hai đều không phải người thường, nhanh chóng bỏ qua chuyện đó, không nghĩ đến nữa. Nguyễn Trãi lại hỏi về chuyện quan trọng trước mắt :

- Tướng quân. Sau khi đã lấy lại được Thăng Long thì sẽ làm gì nữa ạ ?

Theo ý Nguyễn Trãi là muốn hỏi về việc khôi phục đất nước, bởi sau khi đánh đuổi được quân Minh thì việc quan trọng cần làm là an dân, khôi phục đất nước. Nhưng Nguyễn Trãi lại quên rằng mình lại dùng đến tầm nhìn mà Phạm Thế Căng bảo là ‘thổ hào’, trong tầm nhìn hạn hẹp chỉ biết có Đại Việt, mà quên rằng Đế quốc rất hùng mạnh, sử dụng nhân tài vật lực của hơn 60 tỉnh để khôi phục Đại Việt, không thành vấn đề. Hiện tại, Đế quốc trừ Thăng Long và Thuận Hóa ra còn có 63 tỉnh khác, trong đó đất Minh Châu (Úc châu) rộng lớn chỉ được lập 1 tỉnh (vì ít dân).

Phạm Thế Căng nói :

- Còn làm gì nữa chứ ! Đương nhiên tiếp tục bắc phạt. Nhiệm vụ của bản tướng là tiến chiếm Quảng Tây.

Tiến chiếm Quảng Tây ? Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều giật mình, nhưng rồi nghĩ lại, theo lời Phạm Thế Căng thì Đế quốc đã hùng mạnh như thế, có lẽ chẳng có gì phải sợ Minh triều. Và giờ đây bọn họ mới hiểu ý nghĩa của từ ‘bắc phạt’ mà Phạm Thế Căng nói nãy giờ. Lúc trước cả hai chỉ nghĩ ‘bắc phạt’ là từ Thuận Hóa đánh ra Thăng Long, nhưng đến lúc này cả hai mới hiểu ý nghĩa thực sự của nó. ‘Bắc phạt’ là chinh phạt Bắc triều, không phải chỉ đơn giản là khôi phục Đại Việt, vì vậy mới mất đến 16 năm chuẩn bị.

Phạm Thế Căng lại nói :

- Lý Ngân đã tiến quân vào Vân Nam. Triệu Phong đã tiến đánh Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, hiện đang tấn công Kim Lăng, kinh đô của Minh triều. Chỉ có bản tướng là hơi chậm, cần phải khẩn trương hơn nữa. Bản tướng cần chiếm lĩnh Quảng Tây, sau đó phối hợp với Lý Ngân tiến quân vào Hồ Quảng.

Thấy cũng đã đủ đả kích tinh thần hai người bọn họ rồi, Phạm Thế Căng cười a a nói :

- Đây là hịch văn do Tử Tấn soạn. Các ngươi xem qua đi. À. Tử Tấn với Nguyễn Trãi thi đỗ đồng khoa thì phải ?

Nguyễn Trãi giật mình hỏi :

- Phải chăng Tướng quân nói đến Chuyết Am Lý Tử Tấn.

Phạm Thế Căng gật đầu :

- Phải đó. Y văn hay chữ tốt, được Thánh hoàng tin dùng, cho giữ chức Trưởng sử, phụ trách thảo chiếu chỉ, công văn.

Nguyễn Trãi nói :

- Vãn sinh với Chuyết Am huynh đỗ cùng khoa năm Canh Thìn.

Phạm Thế Căng đưa cho bọn họ xem tờ hịch văn do Lý Tử Tấn soạn. Hịch văn này để truyền sang đất Bắc, nên viết bằng chữ Hán, tạm dịch như sau :

“Thường nghe rằng :

Bậc minh chủ gặp nguy vong mà biến thế,

Đấng trung thần lo nạn nước mà tùng quyền.

Vậy nên :

Có người phi thường rồi mới có việc phi thường. Có việc phi thường rồi mới có công lao phi thường. Người phi thường ấy, không phải ai cũng có thể bắt chước được.

Xưa kia, Đại Tống gặp lúc vua hèn, Tần Cối dối vua hại người trung nghĩa, tác oai tác phúc. Thiên hạ lắm người oán hận nhưng không ai dám nói gì. Thế rồi hắn cũng phải chết, mang tiếng ô nhục, lưu tiếng xấu muôn đời.

Cho đến cuối thời Nam Tống, Sử Di Viễn chuyên chính, bên trong giữ quyền tể tướng, bên ngoài thống chế tam quân, lạm quyền quốc sự, quyết việc nơi Cung cấm, dưới lăng loàn, trên suy yếu, bách tính ai cũng đau lòng.

Ngày nay có gã Yên vương Chu Lệ làm càn. Cha gã là Nguyên Chương, vốn là ăn mày được Quách Tử Hưng thu nhận, nhờ tài nịnh hót mà được thừa kế chức vị, nắm quyền quân sự, làm điều yêu nghiệt, tham tàn càn rỡ, tổn thương phong hóa, tàn ngược nhân dân, bị đuổi đánh, phải chạy sang đầu phục Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi, quan bái Quốc công, vậy mà không biết đền ơn, nhờ có của tiền mua lấy chức vị, mang vàng ngọc đút lót chỗ quyền môn, trộm cắp đỉnh tư, làm nghiêng đổ cơ đồ Tống thất.

Đến gã tên Lệ, con thằng ăn mày, cháu tên tá điền, nên chẳng có nết na gì, tai quái luông tuồng, ham loạn lạc, vui trong tai vạ của bách tính.

Bản triều đây, thống lĩnh tứ hải, tảo trừ lũ hung nghịch. Gặp hồi Huệ đế yếu hèn, tên Lệ mượn cớ ‘tịnh nạn’, xin với bản triều giúp đỡ thanh quân trắc, diệt gian thần. Bản triều tưởng gã có lòng trung nghĩa, nên đã cho giữ một cánh quân, tặng lương tặng của, tưởng rằng chim ưng, chó săn cũng có chút tài khả dụng.

Nào ngờ tên Lệ là đứa ngu si dốt nát, tiến liều lùi bậy, liên miên bại trận, làm tổn quân mã, mất cả nhuệ khí tam quân. Bản triều lại phải rèn luyện quân ngũ, chinh tập lương thảo, rồi cho gã tiếp tục cử sự. Thân dê đội lốt hổ, nắm được quyền hành, những tưởng rồi gã sẽ đem thân khuyển mã để báo được những trận thua trước, cứu nạn cho bách tính Trung Nguyên.

Thế mà gã nhân được thể, dám làm trò chó vượt qua rào, hung hăng tàn bạo, chinh chiến liên miên, hại người hiền, giết người ngay. Quan cố Học sĩ Phương Hiếu Nhụ là bậc anh tài tuấn vĩ, thiên hạ đều biết tiếng, nhìn ngay nói thẳng, không lời dua nịnh, mà cũng bị gã giết hại, phanh thây giữa chợ, đầu bêu ngọn giáo, vợ con đều bị hại. Từ đó kẻ sĩ khắp nơi ai ai cũng đều tức giận, nhân dân chốn chốn càng xót xa căm hờn.

Về sau, bản triều có việc ở phương tây, nên có sai quan trưởng sử đến truyền cho gã phải an phủ dân thảo nguyên phương bắc. Thế mà gã dám ngông nghênh làm càn, đem quân cướp bóc các bộ lạc thảo nguyên, để đến nỗi dân phương bắc tụ tập báo thù, làm hại đến bách tính Trung Nguyên. Như thế tội lỗi của gã thật lớn lắm vậy.

Gã khinh thường thiên oai, bại hoại pháp chế, rối loạn kỷ cương, khuynh loát cả cõi Trung Nguyên, chuyên chế hết cả triều chính, muốn thưởng ai mặc lòng, muốn giết ai tùy ý. Yêu ai thì làm rạng đến ba đời, ghét ai thì giết cả ba họ. Ai tụ tập luận bàn thì bị chém công khai, ai bí mật dị nghị thì bị giết lén lút. Bách quan phải ngậm miệng, người đi đường chỉ đưa mắt cho nhau, không ai dám nói tiếng nào. Chức thượng thư chỉ còn biết ghi chép buổi triều hội, công khanh ngồi đứng cho có vị. Ôi thương thay ! Giận thay !

Thân ở ngôi vương mà gã quen thói trộm cướp, làm nhơ cả nước, làm nhục muôn dân, gây vạ độc địa cho cả vong hồn người chết. Chính sự thì gã tinh ranh khắc nghiệt, luật lệ đặt ra trói buộc khắp mặt, cạm bẫy chăng ra đầy đường khắp lối, khiến ai nấy giơ tay đụng phải lưới, bước chân vướng phải tròng. Cho nên dân vô tội các xứ Miêu, Việt đau khổ lầm than, tiếng rên la khắp chốn rất là ai oán. Trải xem sử sách cổ kim, những kẻ làm vua mà tham tàn khốc liệt cũng nhiều, nhưng không kẻ nào tai hại bằng tên Lệ ngày nay nữa.

Bản triều còn bận nhiều việc, chưa kịp răn trách gã, tức là còn nấn ná rộng dung, tưởng gã sẽ sửa lầm cải lỗi đi chăng ? Thế mà gã vẫn lòng lang dạ sói, manh tâm gây vạ, muốn đạp đổ pháp tắc, tàn ngược thiên hạ. Gã hãm hại người trung nghĩa, chính là gã muốn củng cố địa vị độc tài để được tự làm ác như con cú độc vậy.

Bản triều phụng oai linh Thiên đế an phủ tứ hải. Hiện nay đất Trung Nguyên lầm than, dân Trung Nguyên khốn khổ, tuy có kẻ sĩ trung nghĩa, nhưng bị bạo quân tàn ngược hiếp chế, thì còn phát triển khí tiết của mình làm sao được ? Hơn nữa, tên Lệ còn sai mấy vạn Cẩm y vệ, lùng sục khắp cõi, ngoài mặt giả thăm dò dân tình, thực chất là tàn hại bách tính. Bản triều sợ rằng sự tàn ngược đó mỗi lúc một nảy nở thêm, nên ban chiếu răn trách gã. Thế mà gã không những nhắm mắt bịt tai, lại còn dối lừa thiên sứ. Thánh hoàng nổi giận, truyền chỉ thảo phạt. Nay mai quân thiên triều bốn đường cùng tiến, thị vũ dương uy, cùng khôi phục an lạc cho cõi Trung Nguyên, cứu bách tính giữa vòng tai vạ.

Ai lấy được thủ cấp của tên Lệ, sẽ được phong vương, trấn thủ cõi Trung Nguyên. Tướng sĩ quan lại những ai đến hàng, đều miễn trừ tội cũ. Bản triều sẵn sàng mở rộng đường ân đức, ban thưởng tuyên dương cho ngay.

Nay hịch truyền ra, bố cáo thiên hạ, để tứ phương thần dân biết rằng kẻ nghịch tất bị nghiêm trừng, kẻ ác tất bị chỉnh trị. Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng khó lọt.”

Đọc xong hịch văn, cả Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đều trợn tròn mắt, không ngờ hịch văn còn có thể viết như vậy. Nói như thế, tội lỗi của Minh đế ‘cao như núi, sâu như biển’ a. Phạm Thế Căng khẽ cười. Khi mới đọc hịch văn lần đầu, y cũng vậy thôi. Sau một lúc, y mới bảo :

- Được rồi. Hai ngươi đến đây làm gì ta đã biết rồi. Nếu hai ngươi có ý phụng sự triều đình, ta sẽ tiến cử hai ngươi với Thánh hoàng. Tử Tấn vẫn khen Nguyễn Trãi ngươi văn hay chữ tốt. Ngươi với Tử Tấn cùng thi đỗ đồng khoa, làm quan đồng triều là hợp quá rồi còn gì. Còn Nguyên Hãn, nghe nói ngươi không chỉ giỏi võ mà còn có mưu lược, xem ra có thể trở thành đại tướng.

Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều cúi đầu suy nghĩ. Phạm Thế Căng cũng không giục, để yên cho cả hai suy tính.

(chú : Hàn Lâm Nhi tự xưng là Tiểu Minh Vương của nước Tống, khi Chu Nguyên Chương về đầu, được phong là Ngô quốc công).

Chương 55 : TÂY CHINH HOÀN THÀNH

Lại nói, khi nghe Phạm Thế Căng chiêu dụ, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn cùng trầm ngâm suy nghĩ. Phạm Thế Căng cũng không hối thúc, cứ để yên cho cả hai suy tính. Hồi lâu sau, Nguyễn Trãi đứng dậy vòng tay nói :

- Đa tạ Tướng quân có lòng cất nhắc. Bọn vãn sinh tài sơ học thiển, chưa dám nhập triều vi quan. Nhưng nếu có thể, mong rằng Tướng quân có thể thu xếp cho bọn vãn sinh đến Gia Định thăm viếng Chuyết Am huynh.

Phạm Thế Căng là người thế nào, đương nhiên biết thừa bọn Nguyễn Trãi muốn gì, nhưng y chỉ cười cười nói :

- Được thôi. Ta sẽ thu xếp để các ngươi có thể theo thương thuyền vào Gia Định.

Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đồng cung thân nói :

- Đa tạ Tướng quân.

Phạm Thế Căng lại nói :

- Chỉ có điều, khi đã đặt chân lên cương thổ bản triều, các ngươi nếu như không muốn bị thiệt thòi, tốt nhất là nên bỏ hẳn các thói quen của nho gia. Bản triều khinh nho, nho gia tối tiện.

Nguyễn Trãi nghe nói kinh hãi thất sắc, hỏi :

- Nho gia là gốc của triều đình, tại sao triều đình lại khinh nho ạ ? Không có nho gia làm sao trị nước ? Như thế chẳng phải nguy lắm hay sao ?

Phạm Thế Căng khẽ cười nhạt, nói :

- Bản triều khinh nho, mà vẫn dân phú quốc cường đó thôi. Đại Việt trọng nho, thì vẫn bé tẻo teo, ngay cả Ai Lao, Chiêm Thành cũng dám hiếp đáp. Ở bản triều, trừ nho gia ra, chúng dân đều bình đẳng, sĩ nông công thương đều như nhau. Tứ đại bộ môn của bản triều là Thương, Chính, Giáo, Quân. Sở dĩ ở bản triều nho gia tối tiện là vì Thánh hoàng bảo rằng nho gia là phản đồ của Khổng môn, xuyên tạc hoặc bóp méo các tư tưởng cao đẹp của Khổng phu tử. Khổng phu tử bảo rằng ‘hữu giáo vô loại’, việc giáo hóa không được phân biệt đối đãi; Thánh hoàng muốn giáo hóa toàn dân, mọi thần dân của bản triều đều phải biết chữ; trong khi đó nho gia lại chủ trương thực hiện chính sách ngu dân, đương nhiên tối tiện.

Nguyễn Trãi kinh hãi không sao kể siết, bởi Nguyễn Trãi thực chất là một nhà nho, mà theo như lời của Phạm Thế Căng, nho gia là phản đồ của Khổng môn, là tối tiện. Trong khi đó, Trần Nguyên Hãn lại chú ý vấn đề khác, nên hỏi :

- Tướng quân. Triều đình giáo hóa toàn dân được sao ạ ? Chẳng lẽ ở Đế quốc tất cả thần dân đều biết chữ ?

Phạm Thế Căng lắc đầu nói :

- Không. Muốn toàn dân đều biết chữ, có lẽ phải mất 10 năm nữa. Hiện tại tỷ lệ biết chữ mới đạt 7 phần, vẫn còn 3 phần đang tiếp tục theo học. Đương nhiên biết chữ ở đây chỉ tính là biết đọc, biết viết, không cần phải biết làm thơ, làm phú. Bản triều thực hiện nhiều chính sách khuyến học, chẳng hạn như mở trường học ở mỗi huyện, các thôn làng có cả lớp học, dạy học hoàn toàn miễn phí; hoặc như ai biết chữ đóng thuế nhẹ hơn người không biết chữ. Do đó mọi người đều tích cực học chữ.

Trần Nguyên Hãn chép miệng nói :

- Mở trường đến tận thôn làng, lại dạy học hoàn toàn miễn phí, như thế tốn kém biết bao nhiêu mà nói, nhất là một đại quốc với cương thổ rộng lớn như Đế quốc.

Phạm Thế Căng mỉm cười bảo :

- Bản triều tiền lương sung túc, chẳng vấn đề gì. Năm kia, Nam Thiên Trúc hiến 10 vạn cân vàng, Thánh hoàng đã dụng một phần cho việc giáo hóa, thành ra không sợ thiếu tiền.

Nói đoạn, Phạm Thế Căng lấy ra một túi gấm nhỏ nhưng trông cũng khá nặng, trao cho Trần Nguyên Hãn, cười nói :

- Đây là chút ít ta cho các ngươi làm lộ phí. Mấy đồng xu của Đại Việt hay Đại Minh, ở bản triều không sử dụng được đâu. Bản triều cũng không sử dụng vàng thoi bạc nén.

Trần Nguyên Hãn ngần ngừ giây lát, rồi tạ ơn nhận lấy. Phạm Thế Căng lại nói :

- Trong đó có 100 kim tệ, 100 ngân tệ, 100 đồng tệ, chắc cũng đủ cho các ngươi sử dụng một thời gian. 100 đồng tệ bằng 1 ngân tệ, 100 ngân tệ bằng 1 kim tệ, 100 kim tệ bằng 10 lượng hoàng kim.

Sau đó Phạm Thế Căng gọi người đưa cả hai đi nghỉ ngơi, sáng mai sẽ theo vận thuyền đi ra chỗ Hạm đội, rời từ đó phía Hải quân sẽ thu xếp cho bọn họ.

Gia Định Thành. Trường Thanh Cung. Tử Tiêu Điện.

Giang Phong lại ngự trong điện nghe Quảng Tế Pháp sư báo cáo nội tình ngoại vụ của Đế quốc. Quảng Tế Pháp sư ngoài chức danh chính thức là Chính vụ bộ bộ trưởng, còn kiêm nhiệm quản lý bộ phận giám sát, tình báo, làm tai mắt cho Giang Phong. Tuy lão kiêm nhiệm nhiều việc, nhưng các công việc cũng không mất công mất sức gì nhiều, vì lão chỉ phụ trách quản lý, còn việc thực hiện đã có quan lại cấp thấp hơn phụ trách. Thực tế lão chỉ lo việc chuyển những ý đồ của Giang Phong thành mệnh lệnh, rồi phân phó chúng thuộc quan thực hiện. Trong số các văn võ triều thần, chỉ có lão là người hiểu ý Giang Phong nhất.

Ngự trên ngai, Giang Phong vẫn mặc bộ bạch y như thường lệ. Quảng Tế Pháp sư là nhất đẳng trọng thần, vận y phục màu đen, tay áo rộng, thắt đai vàng, đội mão triều thiên. Y phục của Đế quốc lấy màu trắng là tôn quý nhất, kế đó là màu đen, tím, lục. Còn các màu khác thì như nhau. Từ y phục của Giang Phong được chế theo kiểu các phim cổ trang kiếm hiệp Hồng Kông thời hiện đại, đã trở thành kiểu y phục phổ biến nhất trong Đế quốc. Kiểu y phục này khác hoàn toàn hán phục mà Minh triều bên Tàu hay các vua quan nhà Trần, nhà Hồ ở Đại Việt vẫn dùng, đã trở thành nét đặc sắc riêng của Đế quốc. Y phục trên phim ảnh được thiết kế để có thể thu hút người xem, nên đương nhiên là phải đẹp rồi (xấu ai mà xem). Giang Phong thích y phục đẹp, nên đã chọn kiểu đó.

Gần đây có hai việc Giang Phong đặc biệt chú ý : Bắc phạt và Tây chinh. Bắc phạt là việc bọn Phạm Thế Căng đang thực hiện. Còn Tây chinh là nhiệm vụ của Hồng Long phân hạm đội ở các xứ A Lạp Bá. Việc Tây chinh rất thuận lợi. Hồng Long phân hạm đội có 1 vạn thủy quân, 2 vạn lục quân, và được sự phối hợp của các tiểu quốc chư hầu trong vùng, đã kiểm soát hoàn toàn bán đảo Sinai, khu vực lân cận các hồ Đắng, Timsah, Ballah và Wadi Turnilat; các cửa biển của các nhánh sông Nile ở phía tây, đặc biệt là vùng vịnh Buhayrat Al Manzilah; khu vực nằm giữa sông Jordan, Tử Hải và Địa Trung Hải, kéo dài cho đến gần Tripoli. Liên quân cũng đã từng bao vây Cairo, buộc vương triều Mamluk ở đó phải cầu hòa.

Hiện tại vùng đất của vương triều Mamluk thực tế chia thành 3 phần. Phần Cairo và Thượng Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Muayyad Sayf Ad Din Tatar, quốc vương hiện tại của vương triều Mamluk. Khu vực Alexandria và vùng tây bắc Ai Cập thuộc quyền kiểm soát của Al Adil Al Musta' in Billah, quốc vương bị lật đổ năm Nhâm Thìn (1412), chạy thoát đến Alexandria. Phần bắc Sinai gồm cả đất Syria do các tướng lĩnh Mamluk tự cai quản, đang có khuynh hướng chuyển đổi thành các tiểu quốc Hồi giáo.

Khu vực kiểm soát của Đế quốc ở đấy được chia thành 4 tỉnh. Hai tỉnh vùng tây bắc là Sinai và Jerusalem. Hai tỉnh vùng đông nam là Yemen và Somali (triều đình chỉ trực tiếp quản lý hai khu vực quanh pháo đài trấn giữ hai mũi đất ở eo biển dẫn vào Hồng Hải, lấy đó làm trị sở của tỉnh, còn lại đều là các lãnh địa chư hầu, không lập quận huyện). Jerusalem là một vùng đất của chiến tranh, nếu do các vương triều Hồi giáo kiểm soát thì trở thành lý do kêu gọi Thập tự chinh, còn nếu do các thế lực thuộc Cơ Đốc giáo kiểm soát thì lại là nguyên nhân của Thánh chiến. Trong suốt chiều dài lịch sử của thành Jerusalem, có đến 25 thế lực thay nhau kiểm soát, trong đó có cả La Mã (Roma), Ba Tư (Persia), Babylon, Byzantine, Macedonia, các hiệp sĩ thập tự chinh (Crusaders), … Thành Jerusalem nằm ngay phía bắc bán đảo Sinai, vốn do vương triều Mamluk ở Cairo kiểm soát, sau khi đánh bại Vương quốc Jerusalem của Các hiệp sĩ thập tự chinh. Khi quân đội Đế quốc bao vây Cairo, đã nhân tiện phái một đạo quân đến chiếm lấy, rồi tuyên bố biến Jerusalem thành tự do thành thị, cho phép tín đồ của mọi tôn giáo đến hành hương, thăm viếng, định cư. Giang Phong còn thiết lập một quy chế đặc biệt cho thành Jerusalem : một ‘hội đồng quản hạt’ gồm đại diện của 4 thế lực lớn trong thành cổ (là Armenia, Do Thái, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo), sẽ thay mặt Đế quốc quản lý chính sự của thành thị, chịu trách nhiệm trực tiếp với Chính vụ ty của tỉnh. Một ngôi đền quy mô cực lớn cũng được xây dựng tại khu vực di tích ngôi đền thiêng liêng cổ xưa, sẽ là nơi thờ tự chung của các tôn giáo.

Tóm lại, công cuộc Tây chinh tiến triển rất thuận lợi, Hồng Long phân hạm đội chỉ còn lo ổn định tình hình trong 4 tỉnh mới thành lập, đưa thêm dân đến lập nên các khu định cư, và xây dựng thành Suez trở thành một trung tâm thương mại của khu vực.

Chương 56 : TÂY TUYẾN VÀ BẮC TUYẾN

Báo cáo xong tình hình các xứ A Lạp Bá, Quảng Tế Pháp sư lại thở dài nói :

- Thánh hoàng. Tuy rằng tình hình nhìn chung rất thuận lợi, nhưng tình hình Âu Châu bất ổn cũng khiến bản triều gặp phải không ít khó khăn.

Giang Phong cau mày hỏi :

- Bản triều chỉ mới tiến quân đến các xứ A Lạp Bá, quan hệ gì đến Âu Châu ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Bản triều đang gặp phải vấn đề người Do Thái di cư. Từ khi hội đồng quản hạt của Thành Jerusalem được thành lập, có sự tham gia của đại diện người Do Thái, vô số người Do Thái trên khắp Âu Châu đang đổ về Jerusalem. Hiện tại đã có gần 10 vạn người Do Thái đến xin định cư ở Jerusalem, và còn có gấp mấy lần số đó đang tiếp tục đổ về. Tuy rằng người Do Thái có thể tự hỗ trợ lẫn nhau, không đến nỗi tạo thành gánh nặng cho bản triều, nhưng có quá nhiều người di cư đến như thế cũng gây ra ít nhiều bất ổn.

Giang Phong hỏi :

- Vì nguyên nhân gì mà bọn họ bỏ nơi sinh sống kéo nhau di cư đến Jerusalem. Di cư qua mấy nghìn dặm không phải là việc dễ dàng.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Người Do Thái buộc phải di cư vì sự bài xích và tàn hại của các vương quốc và lãnh địa ở Âu Châu. Những năm gần đây, rất nhiều người Do Thái bị tàn sát và trục xuất, những người còn sống sót phải lang thang khắp nơi. Năm Tân Mùi (1391), vương quốc Tây Ban Nha tàn sát hơn 4.000 người Do Thái ở Seville, tiếp đó là hàng nghìn người bị Tòa án dị giáo bắt giam, tra tấn và thiêu sống, người Do Thái đã phải bỏ trốn khỏi Tây Ban Nha. Năm Giáp Tuất (1394), vương quốc Pháp Lan Tây tịch thu tài sản và trục xuất hơn 10 vạn người Do Thái ra khỏi lãnh thổ. Ở Đức Ý Chí, người Do Thái bị xem là vật hiến tế trong các buổi tế thần. Ở khắp các vương quốc và lãnh địa ở Âu Châu đều có những sự việc tương tự. Theo tin tức thu được, ở Âu Châu cứ vài chục năm là những việc như thế lại xuất hiện một lần. Người Do Thái giỏi kinh doanh, đa phần giàu có. Các quốc vương và lãnh chủ ở Âu Châu cứ chờ người Do Thái tích tụ được một số tài sản lớn là lại trục xuất và tịch thu tài sản của họ. Quá trình cứ thế lập đi lập lại.

Giang Phong hỏi :

- Bọn họ sử dụng lý do gì để bức hại người Do Thái ?

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đa phần buộc tội tổ tiên người Do Thái đã sát hại Thần của Cơ Đốc giáo. Ngoài ra còn có những buộc tội người Do Thái thực hiện những nghi lễ tế ma quỷ, dùng máu trẻ em để hiến tế; bỏ độc vào giếng nước hại người Cơ Đốc giáo; xúc phạm Thần của Cơ Đốc giáo bằng các nghi thức ma quỷ, …

Giang Phong khẽ thở dài, nói :

- Xem ra ở Âu Châu, người Do Thái bị xem là ma quỷ, là xấu xa tàn ác.

Quảng Tế Pháp sư nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Đúng thế đấy ạ ! Người Âu Châu mỗi khi gặp phải tai họa gì hầu như đều cho rằng có nguyên nhân từ người Do Thái, rồi sát hại người Do Thái để hiến tế hoặc trả thù.

Giang Phong trầm ngâm giây lát, rồi phán :

- Cố hỗ trợ họ. Nhưng để tất cả tập trung ở Jerusalem cũng không ổn. Tìm cách phân tán một phần về các tỉnh khác. Người Do Thái giỏi kinh doanh buôn bán, phân tán đi các tỉnh có lợi cho phát triển thương mại.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ, đoạn nói :

- Khải tấu Thánh hoàng. Hiện tại Âu Châu đang rất rối ren. Hầu như dân các xứ Âu Châu đều theo Cơ Đốc giáo, nhưng hơn chục năm nay, Cơ Đốc giáo lại đồng thời có đến 3 vị giáo chủ : Gregorius XII ở Roma, Benedictus XIII ở Avignon và Alexander V ở Bolonia; khi Alexander V qua đời thì Gioan XXIII lên thay. Cả 3 vị này đều tự xưng mình là đại diện của giáo hội. Các quốc vương và lãnh chủ chia bè kết phái tấn công lẫn nhau. Mấy năm trước, Gregorius XII buộc phải rời giáo đô Roma vì chiến tranh. Roma thuộc về Gioan XXIII, thì đến năm ngoái Gioan XXIII cũng phải chạy khỏi Roma. Ở Âu Châu hiện nay rất loạn, vô cùng loạn.

Giang Phong nói :

- Hiện tại bản triều chưa thể can thiệp vào đó. Truyền quốc thư yêu cầu bảo hộ các quyền lợi của bản triều không bị xâm phạm. Mục tiêu ưu tiên của bản triều hiện tại là Minh triều.

Quảng Tế Pháp sư cung kính vâng dạ. Giang Phong lại hỏi :

- Việc bắc phạt thế nào rồi ?

Quảng Tế Pháp sư liền báo cáo chiến quả của các đạo quân bắc phạt. Đối với đạo quân của Phạm Thế Căng, hiện tại Trương Phụ và Mộc Thạnh đang bị vây trong thành Thăng Long, hầu như toàn bộ lãnh thổ của Đại Việt đều đã được giải phóng. Phạm Thế Căng đang tập trung binh lực chuẩn bị giải quyết cho xong thành Thăng Long để còn tiếp tục bắc tiến.

Tây lộ do Lý Ngân chỉ huy cũng đã kiểm soát được bộ phận phía nam của cao nguyên Vân Quý. Tây lộ có 4 đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Biên dẫn theo 10 vạn dân binh Thái – Lào, tiến vào cao nguyên Vân Quý. Chính quy quân tấn công chiếm lĩnh các phủ huyện, sau đó giao lại cho dân binh phòng thủ, quản lý. Dân binh chiến lực không bằng được chính quy quân, nhưng cũng đủ để phòng thủ các phủ huyện, hoặc đối phó những đạo quân thông thường. Hiện tại Tây lộ đại quân đang áp sát Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam. Đạo quân Vân Nam sang tiếp viện cho bọn Trương Phụ vừa nghe tin đại quân áp cảnh, chưa ra khỏi biên giới đã phải vội vã rút về, bị Trấn Biên quân chặn đánh trên đường, tan rã hoàn toàn. Quá nửa Vân Nam đã bị Đế quốc kiểm soát.

Đông lộ Đại quân do Triệu Phong chỉ huy, từ Đài Loan tấn công chiếm lĩnh các phủ huyện duyên hải vùng Quảng Đông, Phúc Kiến; cướp phá các phủ huyện duyên hải cùng Chiết Giang, Tô Châu (do gần Kim Lăng, nơi tập trung quân tinh nhuệ của Minh triều, nên không chiếm lĩnh). Hiện tại các hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội đã tiến vào Trường Giang, áp sát phong tỏa Kim Lăng và cắt đứt tuyến giao thông vận tải trên Đại Vận Hà.

Chú : Chữ ‘Pope’ trong tiếng Anh xuất phát từ chữ ‘papa’ trong tiếng Latinh. Tuy nhiên, đây là từ ngữ gốc Hy Lạp Cổ, dùng để chỉ người cha trong gia đình. Ban đầu, người Công giáo Đông phương nói tiếng Hy Lạp hoặc Tây phương nói tiếng Latinh đều dùng chữ ‘papa’ để gọi các vị giám mục, linh mục trong giáo hội, thể hiện sự tôn trọng, kính cẩn. Ngày nay, Giáo hội Chính Thống Hy Lạp, Chính Thống Nga và Serbia vẫn sử dụng cách gọi như thế. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Roma chỉ sử dụng từ ngữ này dành cho vị giám mục Roma. Lịch sử Giáo hội Công giáo Roma ghi nhận, Grêgôriô VII (1073-1085) là người đã chính thức giới hạn việc dùng từ ‘papa’.

Từ ‘giáo hoàng’ trong tiếng Việt thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được dịch một cách cảm quan từ người Công giáo đối với vị lãnh đạo tinh thần của mình. ‘Giáo’ nghĩa là Giáo hội, ‘hoàng’ nghĩa là ông vua, người lãnh đạo giáo hội. Các giáo dân Công giáo Việt Nam thường sử dụng danh xưng Đức Thánh Cha. Thật ra chức vụ chính thức của Ngài là : Giám mục Roma, mục tử đoàn chiên chúa. Trong lịch sử, có nhiều vị đã được bầu lên, nhưng qua đời trước khi đảm nhiệm chức vụ mục tử đoàn chiên chúa, và cũng không được chính thức xem là ‘Pope’. Ban đầu, Cơ Đốc giáo bị Đế quốc La Mã cấm đoán. Đến thời Hoàng đế Constantinople mới được công khai truyền giáo. Khi đó Cơ Đốc giáo có 5 trung tâm tôn giáo là : Jerusalem, Antioch, Roma, Alexandria, và Constantinople; 5 vị Giám mục của những nơi này là những vị đứng đầu giáo hội, địa vị ngang hàng nhau. Trong đó, Jesusalem được tôn vinh là ‘Mẹ Giáo Hội’ (Mother Church); Alexandria được xem là trung tâm học thuật của Cơ đốc giáo. Trong số 5 vị Giám mục đó, chỉ có Giám mục Roma và Giám mục Constantinople tranh giành quyền chủ trì các Công đồng, cũng là người đại diện của Chúa, dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây vào năm 1054.

Cách dịch sai này cũng giống như dùng từ ‘Thiên Chúa giáo’ để chỉ Giáo hội Công giáo Roma, do yếu tố lịch sử, bắt nguồn từ việc Công giáo Roma là giáo hội thuộc Kitô giáo được truyền bá vào Việt Nam sớm nhất. Thuật ngữ ‘Kitô giáo’ (thường được người Công giáo Roma sử dụng) hay ‘Cơ Đốc giáo’ (thường được người Tin Lành sử dụng) được dùng để chỉ các tôn giáo khởi nguồn từ Chúa Kitô (Chúa Cơ Đốc, Christ). Tín đồ được gọi là ‘Kitô hữu’. Nhưng theo ngữ nghĩa, Cơ Đốc giáo hoặc Kitô giáo (Christianity) bao hàm các tôn giáo khởi nguồn từ Chúa Cơ Đốc hoặc Chúa Kitô (Christ), bao gồm cả Công giáo Roma, Chính Thống giáo Đông Phương, Tin Lành, Anh Giáo, giáo hội Luther, … Tương tự, Thiên Chúa giáo nên được hiểu là ‘Các tôn giáo thờ phụng Thiên Chúa’. Vì vậy, thuật ngữ ‘Thiên Chúa giáo’ nên dùng cho ‘Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham’, vì các tôn giáo này có một điểm chung là xác quyết niềm tin của mình vào Thiên Chúa. ‘Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham’ bao gồm Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Mormon và nhiều giáo phái nhỏ khác.

Chương 57 : MINH TRIỀU CHIẾN LOẠN (1)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 4. Quảng Châu. Cửa biển Hổ Môn. Đông Thắng đảo.

Đông Thắng đảo trước đây hoang vu không một bóng người, giờ đây tụ tập vô số hạm thuyền, binh sĩ, lương thực vũ khí. Triệu Phong đã thiết lập ở đấy nam tuyến chỉ huy bộ, phụ trách chinh phạt Quảng Châu. Đông Thắng đảo nằm ngay trên tuyến giao thông hàng vận của Châu Giang, nằm ngay cửa biển, dễ kiểm soát và thống quản toàn cục. Chỉ huy bộ đóng ở đây là rất thích hợp.

Đứng trên Đông Vũ sơn, một ngọn núi cao trên Đông Thắng đảo, Triệu Phong nhìn về phía Quảng Châu. Trời đầy sương che mờ cảnh vật, không thể nhìn thấy được thứ gì ở xa. Chỉ có thể nghe thấy những tiếng đạn pháo nổ đoàng đoàng từ xa vẳng lại, lâu lâu lại nhìn thấy những đạo hỏa quang bắn thẳng lên trời.

Độ nửa tháng trước, chiến sự ở Giao Chỉ nguy cấp, tuân theo thánh chỉ, Quảng Đông Đô chỉ huy sứ Lý Thừa Nghiêu đã tuyển lấy 3 vạn quân từ các vệ sở ở 19 châu phủ đất Quảng Đông : Quảng Châu, Liên Châu, Triệu Khánh, Đức Khánh, Thiệu Châu, Nam Hùng, Huệ Châu, Liên Bình, Triều Châu, Cao Châu, Hóa Châu, Lôi Châu, Liêm Châu, Khâm Châu, Quỳnh Châu, Đam Châu, Vạn Châu, Nhai Châu, La Định đi cứu viện Giao Chỉ. Trong Quảng Châu Thành giờ đây chỉ còn lại 5.000 quân phòng thủ, nếu là bình thường, đó cũng đã là một lực lượng rất hùng hậu.

Hiện tại, trong Quảng Châu Thành có 3.000 phủ binh, bên ngoài thành có 1.000 quân trấn thủ Tam Giang Khẩu, cùng với 1.000 quân Phiên Ngu vệ. Minh triều quân chế định mỗi vệ sở cơ bản có 5.600 quân, các tiểu tướng gọi là thiên hộ, bách hộ, … Nhưng do một bộ phận đã bị điều đi cứu viện Giao Chỉ, Phiên Ngu vệ chỉ còn lại 1.000 quân do một viên thiên hộ chỉ huy.

Từ sáng sớm, nghe tin báo có mấy toán Uy Khấu đang cướp phá các thôn trấn ngoài thành, Đô chỉ huy sứ Lý Thừa Nghiêu đã phái 1.000 phủ binh phối hợp với 1.000 quân Phiên Ngu vệ đi đánh dẹp. Ở cách thành hơn 50 dặm, phủ binh đụng độ ‘Uy Khấu’. Nhìn thấy đối phương chưa đến 1.000 người, 2 viên thiên hộ lãnh quân cả mừng, lập tức hợp quân dàn trận tác chiến. Quang minh chính đại đối trận, trước thực lực cường đại của Thiên triều đại quân, 2 viên thiên hộ tự tin đám ‘Uy Khấu’ kia sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt. Đám quân ‘ô hợp’ kia làm sao có thể kháng cự nổi Thiên triều tinh nhuệ đại quân.

Các tướng lãnh quân Minh đang còn mơ mộng về chiến thắng, đột nhiên nghe thấy những tiếng nổ đoàng đoàng. Tiếp đó là hàng loạt đạn pháo rải xuống đầu quân Minh. Hàng trăm viên đạn pháo rải xuống, hàng trăm quân Minh thương vong, trận hình hỗn loạn. Phía ‘Uy Khấu’ vẫn án binh bất động, không thừa cơ tấn công.

Chỉ sau loạt đạn pháo đầu tiên, đã có 1 viên thiên hộ tử trận. Viên thiên hộ còn lại cố gắng tụ tập quân đội, ra lệnh xung phong. Muốn tránh khỏi đạn pháo oanh tạc, chỉ có thể cùng quân giặc hỗn chiến mà thôi. Dù sao lúc này quân Minh cũng vẫn còn đông hơn.

Sau một hồi cố gắng, quân Minh cũng đã tập hợp lại, nhắm quân giặc xung phong. Nào ngờ quân giặc không dám ứng chiến mà lại lui về phía sau. Quân Minh hùng hổ đuổi theo, đột nhiên người ngã ngựa nghiêng. Quân Minh lúc này mới phát hiện bị lọt vào một trận địa cạm bẫy dày đặc. Khi nãy trận địa cạm bẫy này bị đội hình quân ‘Uy Khấu’ che mất, khi bọn họ lui lại thì mới lộ ra.

Liền đó, một loạt đạn pháo lại ập tới, rải xuống đầu quân Minh. Lần nay Khai hoa đạn làm cho quân Minh tổn thất thảm trọng, số thương vong hơn nghìn. Quân ‘Uy Khấu’ thừa cơ tràn tới tấn công. Quân Minh thấy thảm cảnh đồng bạn, sĩ khí mất hết, chỉ còn biết tìm đường tháo chạy. Sau một trận đuổi giết, quân Minh chỉ chạy thoát được chưa đến trăm người.

Nghe bại binh hồi báo, Lý Thừa Nghiêu mới biết quân giặc không phải là Uy Khấu, bởi Uy Khấu không thể nào có hỏa lực mạnh mẽ đến như vậy. Gã chỉ còn biết tập họp phủ binh chuẩn bị thủ thành, không dám phái quân rời thành nữa. Đối diện địch quân lợi hại như thế, giao chiến trên đất bằng, quân Minh chỉ có thiệt hại thảm trọng mà thôi. Giờ chỉ còn biết dựa vào thành trì phòng ngự, đồng thời phái quân đi cầu viện.

Đạo tiên phong của Đế quốc quân đội sau khi đánh tan 2.000 quân Minh, lập tức kéo vào đóng trại phía trước Quảng Châu Thành. Nhìn thấy đối phương chỉ dùng 1.000 quân mà định tấn công thành trì có 2.000 quân phòng ngự, Lý Thừa Nghiêu cũng không dám mở cửa thành ra đánh mà quyết tâm cố thủ.

Dưới sự dẫn đường của hướng đạo, các hạm thuyền của Đệ nhất phân hạm đội thuộc Bắc Dương Hạm đội thuận dòng Châu Giang tiến thẳng đến Quảng Châu Thành. Tam Giang Khẩu chỉ có 1.000 quân trấn thủ, sau mấy trận oanh kích, đã nhanh chóng thất thủ. Các hạm thuyền thẳng đến trước Quảng Châu Thành. Quân Minh ở Quảng Châu mấy chục năm nay chẳng gặp phải chiến loạn gì, an nhàn quen rồi, chẳng có ý thức phòng bị gì cả. Khi chợt phát hiện đầy trời đạn pháo rải xuống đầu, thủ quân ở Tam Giang Khẩu nhanh chóng hãm nhập hỗn loạn. Khi quân đội Đế quốc đổ bộ lên bờ, quân Minh hoặc là quỳ xuống xin hàng, hoặc là bị đao thương sát tử. Chỉ chưa đến nửa giờ, Tam Giang Khẩu đã bị quân đội Đế quốc kiểm soát, 1.000 quân Minh trấn thủ ở đấy xem như bị tiêu diệt hoàn toàn.

Đế quốc quân đội đại quy mô đổ bộ đương nhiên kinh động rất nhiều người. Chỉ vì lúc này ở Quảng Châu Thành chỉ còn lại hơn 2.000 phủ binh, còn không đủ lực lượng để phòng ngự, làm sao dám ra ngăn chặn. Trấn Phong quân 3 vạn người kéo đến bên ngoài thành, càng làm cho Lý Thừa Nghiêu thêm lo lắng bất an.

Đến chiều, khi đại quân bố trí hoàn tất, 600 khẩu thần công của Trấn Phong quân đồng loạt hướng vào Quảng Châu Thành khai hỏa. Quảng Châu Thành đã từ rất lâu chưa từng gặp cảnh chiến loạn, thành tường thiếu tu sửa, chỉ sau 2 loạt oanh kích, 1.200 phát đạn đã bắn sập thành môn. Tiếp đó, thần công chuyển hướng oanh kích vào phía trong thành, mở đường cho Trấn Phong quân nhập thành. Quảng Châu Thành chẳng cầm cự được bao lâu là đã hãm nhập vào đao thương chiến hỏa.

Các quan viên của Quảng Đông từ Bố Chánh Sứ cho đến tiểu quan tiểu lại còn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì được tin Quảng Châu Thành đã thất thủ. Nhìn thấy trong thành chiến hỏa hỗn loạn, cả bọn chỉ còn biết dẫn gia nhân tìm đường chạy loạn.

Trong Đô chỉ huy sứ ti, Lý Thừa Nghiêu thẫn thờ nhìn mấy chục gã thân binh trung thành còn sót lại, đoạn vẫy tay bảo bọn họ tìm đường tẩu thoát, sau đó vào trong Đại sảnh, ngồi lên án, quan phục chỉnh tề, rút kiếm tự sát.

Boong. Boong. Boong …

Trời vừa tờ mờ sáng, từng đội từng đội quan quân khua đồng la đi qua từng dãy phố rao lớn :

- Mọi gia mọi hộ nghe đây. Bản triều Thần Thánh Đế quốc, lần này bắc phạt Minh triều đại nghịch vô tín, bách tính vốn vô tội, miễn giữ yên bổn phận, không chống lại Thiên triều, tất sẽ bình an. Bằng ai chống lại, bản triều tất diệt mãn môn, tru cửu tộc …

Sau cơn chiến hỏa bất ngờ, dân trong thành đều ở yên trong nhà, không ai dám ra ngoài đường. Mọi nhà đều đóng kín cửa. Dân chúng vẫn còn trong cơn hỗn loạn. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra cả. Trước giờ không ai có khái niệm Quảng Châu Thành sẽ bị tấn công, bởi ai cũng tin rằng Đại Minh là Thiên triều đại quốc, là hùng mạnh nhất, không đánh nước khác thì thôi, còn có nước nào dám đến xâm phạm. Chính vì vậy, khi quân đội Đế quốc kéo vào thành, đã làm cho niềm tin của quân dân trong thành sụp đổ hoàn toàn. Mất niềm tin, mất phương hướng, không ai còn biết phải làm gì. Thành ra việc chiếm lĩnh của Trấn Phong quân càng thêm thuận lợi.

Triệu Phong cũng không vào thành, chỉ để lại 1 sư của Trấn Phong quân ở lại bình định vùng này, sau đó đại quân tiến lên phía bắc chiếm lĩnh các thành thị dọc theo vùng duyên hải. Bảy đạo quân còn lại là Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Trấn Ninh, Định Hải cũng được đưa vào đổ bộ lên các vùng duyên hải Phúc Kiến, Chiết Giang, chiếm lĩnh các phủ huyện ở đó. Thành trì thiếu tu sửa, quân đội thiếu huấn luyện, nên các thành trì lần lượt thất thủ. Chỉ chưa đầy nửa tháng, các phủ huyện duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến lần lượt bị chiếm lĩnh, các phủ huyện thuộc Chiết Giang bị cướp phá sạch sẽ.

Đại đô đốc Mã Tân chỉ huy lực lượng chủ lực của Bắc Dương Hạm đội phối hợp cùng 3 đạo quân Thần Vũ, Thần Uy, Thần Long tấn công các xứ tỉnh Chiết Giang. Minh triều lấy vùng đất từ Phúc Kiến cho đến lưu vực Thái Hồ, gồm cả Gia Hưng, Hồ Châu đặt làm tỉnh Chiết Giang. Còn Tô Châu thì thuộc Nam Trực Lệ (gồm cả các địa khu Hoài Bắc, Hoài Nam, Giang Nam). Đại quân công chiếm nơi nào đều cướp phá triệt để. Toàn bộ của cải của Minh triều lẫn những người có liên quan trực tiếp với Minh triều (không chỉ quan lại mà kể cả nho sĩ, phú hộ) đều bị tịch thu. Dân chúng được phân làm hai loại : thuận dân và nghịch dân. Mã Tân lấy lý do nơi này sẽ trở thành chiến trường, buộc dân chúng di cư đi nơi khác, hoặc về phương nam, hoặc về phương bắc. Những ai chịu làm thần dân của Đế quốc được cấp lương, đưa lên thuyền di cư về phương nam; những ai không chịu làm thần dân của Đế quốc thì bị tịch thu toàn bộ tài sản, rồi đưa lên thuyền di cư về vùng Giang Bắc. Tính ra chỉ có 3 phần dân chúng chọn di cư về phương nam. Và tiếp đó quan lại Minh triều ở Giang Bắc phải hao tâm tốn sức lo cho hàng trăm vạn lưu dân không chút tài sản, không chút lương thực.

Chương 58 : MINH TRIỀU CHIẾN LOẠN (2)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 4. Huệ Châu.

- Báo.

Một viên thám tử chạy đến trước mặt Hiệu úy Lưu Ân, vừa thở dốc vừa cung thân hành lễ. Lưu Ân chưởng quản đệ tam sư của Trấn Phong quân, nên mang hàm Hiệu úy. Lưu Ân khẽ gật đầu ra hiệu cho viên thám tử báo cáo tình hình quân giặc.

- Hồi báo Hiệu úy đại nhân. Minh tặc Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân hai ngày trước đã dẫn 3.000 phủ binh bỏ thành đào tẩu. Hiện tại Huệ Châu Thành không binh không tướng, đệ tứ vệ đã công chiếm Huệ Châu phủ nha môn, đang thanh lý dư đảng Minh tặc trong thành.

Lưu Ân biến sắc :

- Chạy rồi ?

Lưu Ân thống suất Trấn Phong quân đệ tam sư rời Quảng Châu bắc tiến, hướng về Phúc Kiến. Huệ Châu Thành nằm về phía đông bắc Quảng Châu, là một tòa đại thành án ngữ trên đường tiến quân. Sau khi dễ dàng chiếm lĩnh các huyện Nam Hải, Đông Hoàn, Lưu Ân cũng đồng thời bố trí việc tấn công chiếm lĩnh Huệ Châu, nơi có đến 3.000 quân Minh trấn thủ. Y đã tiêu tốn rất nhiều tâm lực chuẩn bị phương án tác chiến, nào ngờ chỉ sau một đêm, lại được tin báo quân Minh đã bỏ chạy mất rồi, giống như một đao toàn lực lại chém vào không khí vậy, cảm giác rất khó chịu. Lưu Ân nhíu mày, bảo viên tùy tướng :

- Ngô Vệ úy. Hãy suất lĩnh kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc, cố gắng làm chậm bước tiến của bọn chúng, chờ hậu quân của ta đến hợp công.

- Vâng.

Kỵ binh vệ úy Ngô Minh lập tức ứng tiếng, rồi suất kỵ binh vệ khẩn cấp đuổi theo quân Minh. Kể từ khi Đế quốc viện trợ lương thực khí giới cho Mông Cổ chư tộc, đã đổi về rất nhiều chiến mã. Một phần chiến mã được đưa đến nuôi dưỡng ở các quân mã trường ở Minh Châu (Úc Châu), một bộ phận cung cấp cho 8 đạo quân ở Đài Loan, thành lập lực lượng kỵ binh. Mỗi sư 1 vạn người đều có thành lập 1 kỵ binh vệ 1.000 người. Trước giờ kỵ binh vệ chưa từng tham gia tác chiến, dù ngày thường cố gắng huấn luyện, nhưng anh hùng không có đất dụng võ, nay mới được thử thân thủ, đương nhiên toàn quân tướng sĩ vô cùng hưng phấn, theo sự hướng dẫn của thám tử đuổi gấp theo quân Minh.

Tự trong lòng mà nói, Lưu Ân cũng cảm thấy ‘đồng tình’ phủ quân Quảng Đông. Toàn Quảng Đông có 19 châu phủ, 75 huyện. Quân đội phải chia ra trú đóng các nơi, mỗi phủ có thể có 1 vệ sở, cũng có khi chỉ có vài nghìn, mỗi huyện vài trăm huyện binh; lực lượng phân tán khắp nơi, mà các tướng lĩnh đâu dám tự tiện rời trú sở, chỉ có thể ở tại chỗ cố thủ, và cầu mong đối phương không đánh đến nơi. Vì vậy, đối 3.000 phủ binh Huệ Châu, Lưu Ân tin chắc có thể toàn diệt. Nhưng y không ngờ chưa giao chiến mà quân Minh đã bỏ thành mà chạy, à không, đã ‘chiến thuật chuyển di’ mất rồi. Kế hoạch đã chuẩn bị rất chu đáo mà giờ đây lại không có chỗ dùng.

- Ai ! Minh tặc chẳng có kẻ nào là tốt cả. Uổng công ta …

Lưu Ân khẽ lắc đầu, khóe miệng bất giác nhếch lên lộ ra một tia cười lạnh. Nếu như ngươi đã dám bỏ chạy, ta sẽ giúp ngươi tuyên truyền, xem Minh triều sẽ xử trí việc này như thế nào. Địch quân chưa đến đã bỏ thành mà chạy, tội này …

- Truyền lệnh đệ ngũ vệ phối hợp đệ tứ vệ nhanh chóng thanh lý Minh tặc trong thành. Đệ nhất vệ, đệ nhị vệ, đệ tam vệ men theo Đông Giang mà tiến quân, công chiếm các huyện Bác La, Long Xuyên, Hà Nguyên, … Đệ lục vệ, đệ thất vệ theo quan đạo tiến thẳng đến Vĩnh An. Đệ bát vệ, đệ cửu vệ hiệp trợ kỵ binh vệ đuổi theo Minh tặc.

Quân Minh không còn, Lưu Ân quyết định chia quân công chiếm toàn bộ 8 huyện của Huệ Châu phủ. Mệnh lệnh truyền xuống, quân đội lập tức chia đường hành động.

Nói về kỵ binh vệ sau khi rời Huệ Châu lập tức phóng ngựa phi nhanh. Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân đã bỏ chạy cách nay hai ngày rồi. Tuy thời gian đã qua mấy ngày, nhưng dù sao cũng đông đến 3.000 người, dấu vết để lại rất rõ ràng.

Đuổi theo một lúc, viên thám tử hướng đạo đột nhiên hô quân đội dừng lại, rồi chạy vào bên mé đường, đến một gốc cây không thấy có gì đặc biệt, lần mò một lúc, lôi ra một ống trúc nhỏ. Gã bẻ gãy ống trúc lấy ra một bức mật thư, dùng một loại chất lỏng đồ lên, đọc xong, rồi chạy lại nói với kỵ binh vệ úy Ngô Minh :

- Vệ úy đại nhân. Minh tặc không chạy đến Hải Phong mà chuyển hướng Đồng Sơn đi về phía Liên Hoa Sơn. Nơi đó núi non hiểm trở, đường lối lại thông hướng nhiều nơi. Lưu bọn Minh tặc ở đó thật không có lợi cho quân ta.

Ngô Minh khẽ gật đầu. Nếu như quân Minh bỏ chạy luôn thì không nói làm gì. Còn nếu như bọn họ trốn vào Liên Hoa Sơn chuẩn bị đánh du kích thì thật không ổn. Mặc dù Ngô Minh tin rằng quân Minh tướng sĩ sống an nhàn sung sướng ở phủ thành quen rồi, chưa chắc đã có thể chịu đựng được cuộc sống gian khổ trong rừng núi, đặc biệt lúc này lại đang là mùa mưa. Nhưng dù sao thì cẩn thận vẫn hơn. Ngô Minh suy nghĩ một lúc, rồi truyền lệnh :

- Lập tức chuyển hướng Đồng Sơn, cấp tốc hành quân, cố đuổi cho kịp Minh tặc. Diệt xong Minh tặc chúng ta sẽ nghỉ ngơi. Các huynh đệ, kỵ binh vệ chúng ta lần đầu xuất trận, phải đánh làm sao cho thật oanh oanh liệt liệt.

Chúng kỵ binh lớn tiếng vâng dạ. Toàn quân lại khẩn cấp tiền tiến. Đuổi theo gần một ngày, bọn họ đã nhìn thấy quân Minh phía trước. Quân Minh cũng đã phát hiện bọn họ, dừng quân dàn trận ứng chiến. Bộ binh gặp phải kỵ binh, có bỏ chạy cũng vô ích. Hai chân người không thể nào chạy nhanh bằng 4 chân ngựa.

Kỵ binh vệ chỉ có 1.000 người, quân Minh có đến 3.000, dù giao chiến vẫn có thể thắng được, nhưng tất nhiên sẽ tổn thất nặng. Đây là lực lượng kỵ binh duy nhất của Trấn Phong quân đệ tam sư, không thể chỉ đánh một trận rồi thôi. Ngô Minh suy nghĩ thật nhanh, rồi truyền lệnh :

- Giữ khoảng cách an toàn, kỵ xạ.

Liền đó kỵ binh phóng ngựa đến khoảng cách quân Minh ước 20 trượng (tức 80 mét), giương cung phóng tên. Một nghìn mũi tên đồng loạt rải xuống đầu quân Minh, ít ra cũng khiến quân Minh tổn thất vài trăm. Trong đội hình quân Minh lập tức vang lên những tiếng rên la kêu gào inh ỏi của những người thọ thương nhưng chưa chết.

Nhìn thấy cảnh đó, Huệ Châu vệ chỉ huy sứ Vương Vân tâm thần choáng váng, kinh hãi không sao kể siết. Quân giặc thật là hiểm ác. Kỵ binh đối chiến bộ binh, không chịu xung phong tấn công mà ở ngoài bắn cung như thế, thật là … thật là bỉ ổi vô sỉ mà.

Ngô Minh chẳng cần biết có bỉ ổi vô sỉ hay không. Nhiệm vụ của gã chỉ là cầm chân quân Minh, chờ đại quân đến nơi sẽ hợp lực tiêu diệt. Trong chiến thuật chiến tranh của Đế quốc không cho phép ‘giết địch 1.000, tự tổn 800’, trừ phi tình huống đặc thù. Có điều lúc này không phải là tình huống đặc thù.

Kỵ binh lại phóng loạt tên thứ hai, khiến quân Minh tổn thất thêm vài trăm người nữa. Quân sĩ Huệ Châu vốn là ‘lính kiểng’, bình thường chỉ giữ thành, làm oai với bình dân bách tính, chứ không phải tinh binh cường tướng để tham gia chiến tranh, vì thế trang bị cũng bình thường, trừ một số tướng lĩnh, quân đội sĩ tốt chỉ mặc áo vải, không ai có áo giáp hay hộ tâm kính cả, vì thế mà khi bị trúng tên khó tránh khỏi thương vong. Đặc biệt là khi trên đầu mũi tên có một rãnh nhỏ, sau khi ngâm vào mấy thứ thuốc nước lấy từ chỗ Thạch Lang Pháp sư thì chất thuốc bám lại đấy, ai bị bắn trúng, chất đó hòa tan vào máu, không làm chết người ngay mà … Nhìn cảnh quân Minh lúc này cũng đủ biết. Đại đa số quân Minh trúng tên lúc này chưa chết hẳn, ôm vết thương lăn lộn dưới đất, kêu gào inh ỏi, máu tuôn không ngừng, thảm cảnh khiến đồng bạn không khỏi rợn người.

Không còn cách nào khác, Vương Vân đành suất lĩnh sĩ tốt xung phong. Khoảng cách chẳng có bao xa, chỉ cần cố chịu một loạt tên là có thể cùng kỵ binh hỗn chiến. Kỵ binh mất đi tốc độ, mất đi khoảng cách thì chẳng khá hơn bộ binh bao nhiêu. Có điều Ngô Minh đời nào để cho đối phương toại nguyện. Kỵ binh được lệnh lùi ra xa, rồi tiếp tục phóng tên. Khi đối phương lại gần thì lại tiếp tục lùi ra xa, rồi bắn tên tiếp. Cứ như thế, sau loạt tên thứ 5, quân Minh đã tổn thất quá nửa, chỉ còn lại hơn 1.000 người.

Tấn công vô ích, bỏ chạy vô môn, Vương Vân đành suất lĩnh tàn binh chạy về phía một ngọn đồi gần đấy. Sau khi đã chạy lên đồi, bọn họ lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, tạm thời có được một chỗ yên thân để nghỉ ngơi.

Quân Minh không thể chạy được nữa, Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.

Chương 59 : MINH TRIỀU CHIẾN LOẠN (3)

Lại nói, tấn công vô ích, trốn thoát không đường, quân Minh đành chạy lên một ngọn đồi gần đấy, rồi lăn đá xuống, chặt cây ném xuống ngăn cản kỵ binh, cố thủ trên đấy. Quân Minh không thể chạy được nữa, kỵ binh vệ úy Ngô Minh kể như đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cũng không gấp tấn công, chỉ cho quân chia ra bao vây ngọn đồi đề phòng quân Minh đào thoát.

Ngô Minh giục ngựa đi vòng quanh đồi khảo sát địa hình, tìm cách tiêu diệt quân giặc. Trên đồi cây cối rậm rạp, lại đang mùa hạ, có thể sử dụng hỏa công. Thế là Ngô Minh phái mấy đội kỵ binh đi thu gom các vật dễ cháy. Số còn lại chia làm hai đội, luân phiên tuần tra, ngăn không cho quân Minh có cơ hội đào thoát.

Trưa hôm sau, khi đã thu gom được một lượng lớn các vật dễ cháy, lại đang lúc trưa nắng, Ngô Minh truyền lệnh phóng hỏa đốt rừng. Quân sĩ ném vật dễ cháy vào các bụi cây rậm rạp dưới chân đồi, rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa dần dần bốc cao và lan dần lên trên đồi. Khói bốc mù mịt. Kỵ binh được lệnh lui ra phía xa xa, và chuẩn bị truy sát số quân Minh có thể vượt qua ngọn lửa mà thoát được xuống đồi.

Ngọn lửa khi đã bốc cao thì lan rất nhanh lên trên đồi. Cả ngọn đồi giờ đây trông giống như một ngọn đuốc khổng lồ. Quân Minh trên đồi bị khói hun, bị lửa đốt kêu la inh ỏi. Cả ngọn đồi chìm trong biển lửa, sức nóng kinh hồn. Phần lớn quân Minh đều bị thiêu chết trên đồi. Chỉ có chưa đến trăm người đào thoát được xuống đồi, nhưng rồi lại nhanh chóng làm mồi cho cung tên của kỵ binh. Đối diện kỵ binh truy sát, bọn họ không ai đào thoát được. Huệ Châu vệ của Minh triều hoàn toàn bị xóa sổ. Sau đó, kỵ binh vệ quay lại cùng bản sư công phạt các xứ đông bắc Quảng Đông, dần dần bức cận Phúc Kiến.

Không chỉ Trấn Phong quân, cả 8 đạo quân thuộc Đông lộ đều tứ diện khai hoa, công thành bạt trại, chiếm lĩnh cướp phá hàng trăm phủ huyện dọc theo duyên hải, nam từ Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) cho đến tận bờ nam Trường Giang ở phía bắc.

Minh triều hiện tại đang trong giai đoạn suy yếu, có thể nói là suy yếu nhất kể từ ngày đầu kiến quốc đến giờ. Sử sách ghi lại, giai đoạn cường thịnh nhất của Minh triều (năm 1392, thời Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương), quân đội ước tính có 16.489 tướng lĩnh, 1.198.434 binh sĩ và 45.080 chiến mã. Nhưng sau ba cuộc đại quy mô chiến tranh do Vĩnh Lạc đế phát động : Tịnh nạn chiến tranh (1398 – 1402), Đại Minh – Đại Ngu chiến tranh (từ 1406 đến giờ), Đại Minh – Mông Cổ chiến tranh (1410), binh lực suy giảm rất nghiêm trọng, đặc biệt là cuộc nội chiến Tịnh nạn.

Binh chế của Minh triều không thực hiện quân dịch chế độ mà thực hiện quân hộ chế độ, hay còn gọi là vệ sở chế độ. Minh triều tại toàn quốc các nơi quân sự trọng điểm chiến lược thiết lập vệ sở trú quân. Mỗi vệ có quân đội 5.600 người, bên dưới có thiên hộ sở, bách hộ sở, dưới nữa là tổng kỳ và tiểu kỳ. Các vệ sở đều thuộc quyền quản hạt của Ngũ quân đô đốc phủ, chỉ có số ít ngoại lệ thuộc quyền quản lý của Binh bộ, có chuyện gì thì tập trung điều động, không chuyện gì thì trả về vệ sở.

Minh triều không tuyển mộ binh sĩ từ dân chúng (theo kiểu quân dịch chế độ), mà quân đội có nguồn gốc từ thế tập quân hộ (tức quân hộ chế độ), do mỗi quân hộ phái 1 người làm chính đinh đến vệ sở gia nhập vệ sở quân. Binh sĩ tại vệ sở luân phiên tuần phòng và làm ruộng. Lương thực thu được qua làm ruộng sẽ được sử dụng để cung cấp cho tướng sĩ và những nhu cầu cần thiết khác của vệ sở. Mục tiêu của việc này là dưỡng binh nhưng không hao tốn tài lực quốc gia (ngụ binh ư nông chính sách). Quân hộ số lượng cố định, thế tập từ đời này sang đời khác, một người làm lính thì cả nhà đời đời làm lính. Do vậy, binh nguyên của quân đội Minh triều có hạn, chỉ hạn chế trong số binh hộ đó thôi. Mãi đến đời Gia Tĩnh sau này (bối cảnh của Truyện Kiều), do loạn lạc nhiều mới thực hiện quân dịch chế độ, mộ binh từ dân chúng để đối phó với nội ưu (quân khởi nghĩa trong nước) ngoại hoạn (uy khấu ở phía đông, hải tặc ở phía đông nam, quân Miến Điện ở phía tây nam, quân Mông Cổ ở phía tây bắc, quân Nữ Chân ở phía đông bắc). Quân hộ chế độ tuy làm quốc khố bớt tốn kém, nhưng cũng có những nhược điểm nghiêm trọng : binh nguyên bị giới hạn; sĩ binh thiếu thời gian huấn luyện (theo quy chế thì mỗi ngày 2 giờ tuần phòng 8 giờ làm ruộng, nếu huấn luyện thì tính vào thời gian tuần phòng, mà vùng quản hạt không thể không tuần phòng, thành ra ít huấn luyện); nhưng nghiêm trọng hơn cả là nạn kiêm tính đất đai, rất nhiều ruộng đất của vệ sở giao cho quân hộ bị các tướng lĩnh chiếm làm của riêng, quân sĩ không đủ sống, phải tìm nghề khác mưu sinh, đào binh xuất hiện rất nhiều. Không hiếm các vệ sở, quân số thực tế không còn đủ một nửa biên chế, và các tướng lĩnh cũng khai gian để ăn trọn số quân lương cấp cho những binh sĩ thiếu đó (ví dụ vệ sở đủ biên chế 5.600 người, nhưng thực tế chỉ có 2.600 người, thì số quân lương của 3.000 người còn lại các tướng lĩnh sẽ chia nhau). Thời kỳ nông dân Sơn Đông khởi nghĩa, có những vệ như Thanh Châu vệ, mãn biên chế 5.600 người, nhưng thực tế binh lực chỉ hơn nghìn người, thành ra đại bộ phận Sơn Đông nhanh chóng bị quân khởi nghĩa chiếm lĩnh, Vĩnh Lạc đế phải điều động quân tinh nhuệ ở kinh đô đi đàn áp.

Minh triều lại chia lãnh thổ thành 2 kinh là Bắc trực lệ (Bắc Kinh, bao gồm phần lớn vùng Hà Bắc) và Nam trực lệ (Kim Lăng, gồm cả Giang Tô, An Huy); 13 tỉnh là Thiểm Tây, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. Địa giới phân theo địa hình sông núi (không giống thời hiện đại), có nhiều chỗ không hợp lý lắm, ví dụ như Nam trực lệ bao quát 3 địa khu lớn là Hoài Bắc, Hoài Nam và Giang Nam, hoặc như tỉnh Hà Nam lại quản hạt một bộ phận đất đai ở phía bắc Hoàng Hà (vốn thuộc Hà Bắc), tỉnh Sơn Đông quản hạt cả đất Liêu Đông, tỉnh Thiểm Tây quản hạt từ đất Thiểm Tây về phía tây (gồm cả Cam Túc, Thanh Hải). Hai kinh và 13 tỉnh lại chia thành 153 phủ, 234 châu (gồm cả trực lệ châu thuộc tỉnh và chúc châu thuộc phủ) và 1171 huyện. Các châu phủ lại không thể không có quân đội canh phòng, do đó đã phân bớt một lượng không nhỏ quân đội.

Nguyên bản Minh triều có 1.198.434 binh sĩ (gần 120 vạn), phân cho 2 kinh, 13 tỉnh, 153 phủ, 234 châu, 1171 huyện, trong thời bình tương đối ổn thỏa. Nhưng Vĩnh Lạc đế lại là người hiếu chiến. Cuộc chiến tranh ở Đại Việt chiếm mất 20 vạn. Sau khi đánh nhau với Mông Cổ năm Canh Dần (1410), quân đội trú phòng ở biên giới phía bắc phải tăng cường, kể luôn phòng thủ Bắc Kinh chiếm mất 50 vạn (Bắc Kinh, Sơn Hải quan, Hà Bắc, Sơn Tây, Cam Túc mỗi nơi ước 10 vạn). Quân trú phòng ở Nam Kinh 10 vạn (trước đây phải 20 vạn). Chỉ còn lại chưa đến 40 vạn phụ trách phòng thủ mấy trăm châu phủ, hơn nghìn huyện (nếu không tính huyện, chỉ chia đều cho gần 400 châu phủ thì mỗi nơi chỉ được xấp xỉ 1.000 quân, đó là chưa tính đến quân số khống do các vệ sở khai gian). Đặc biệt, cuộc chiến tranh ở Đại Việt toàn lấy quân ở các tỉnh phía nam, thành ra lực lượng trú phòng ở các châu phủ huyện phía nam càng thêm thiếu thốn. Thậm chí nhiều phủ huyện không thấy một bóng quân Minh.

Chính vì những nguyên nhân trên, khi quân đội Đế quốc tiến công vào các tỉnh phương nam, gần như đánh vào chỗ không người. Tốc độ tiến quân cực nhanh, hầu như ngày nào cũng có phủ huyện bị công chiếm. Theo kế hoạch của quân bộ, quân đội Đế quốc chỉ chiếm lĩnh các xứ Quảng Đông, Phúc Kiến (ở vùng duyên hải, với sự hỗ trợ của Hải quân, dễ phòng thủ hơn). Nam Dương Hạm đội liên tục vận chuyển 10 vạn dân binh các xứ Lã Tống, Mã Lai, Java lên phụ trách trú phòng các phủ huyện chiếm được. Tỉnh Quảng Đông có 19 châu phủ, 75 huyện; tỉnh Phúc Kiến có 9 châu phủ, 57 huyện; 10 vạn dân binh dư sức trú phòng rồi. Quân phòng thủ của Minh triều trước khi quân đội Đế quốc đến còn không được một nửa số đó.

Chinh phạt khoảng 3 tháng, toàn bộ các châu phủ ở Quảng Đông, Phúc Kiến toàn bộ nạp nhập vào bản đồ Đế quốc. Thời gian tiêu hao chủ yếu là quá trình hành quân, chứ công thành chiến hầu như không đáng kể, nhiều phủ huyện còn không có quân Minh phòng thủ, hoặc có nhưng quá ít, thiếu huấn luyện (phần lớn quân tinh nhuệ đã bị điều động cho cuộc chiến tranh ở Đại Việt rồi), vừa nghe đối phương kéo đến đã bỏ thành mà chạy. Cũng do vậy mà chiến tích của các kỵ binh vệ gần đây ngày càng nổi bật. Kỵ binh chỉ chiếm một phần mười quân số, nhưng giết địch đến hơn một nửa.

Trong thời gian đó, đạo quân từ Quảng Đông đi tiếp viện Đại Việt, nghe tin Quảng Châu nguy cấp, vội vã quay về cứu viện, đã bị Trấn Ninh quân đánh tan. Tiếp đó, Trấn Ninh quân khai tiến vào Giang Tây. Nơi đó có một địa điểm trọng yếu mà Giang Phong ra lệnh phải cố gắng công chiếm cho được.

Chương 60 : MINH TRIỀU CHIẾN LOẠN (4)

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa thu tháng 7.

Lúc này, khi vùng Quảng Đông, Phúc Kiến lần lượt bị chiếm lĩnh thì vùng Chiết Giang và phía đông của Nam trực lệ (Tô Châu) đã phải gánh chịu hoàn cảnh chiến hỏa khủng khiếp nhất từ xưa đến giờ. Vì nơi đây rất gần Kim Lăng, trọng địa của Minh triều, Đế quốc chưa định chiếm lĩnh, nên đã tiến hành cướp phá triệt để. Toàn bộ tài sản, lương thực của quan phủ và dân chúng đều bị tịch thu (trừ số dân chúng chịu quy thuận Đế quốc và di cư về phương nam sinh sống). Ruộng vườn đều bị đốt sạch, nhà cửa thành trì đều bị san bằng. Hơn thế nữa, toàn bộ dân chúng đều bị cưỡng chế di cư về vùng Giang Bắc, ai trái lệnh xử trảm, khiến cho các xứ Giang Nam giờ đây bốn phía quạnh hiu, không một bóng người. Vùng Giang Nam là vựa lúa chính của Minh triều, chỉ cần phá sạch vùng này, tình cảnh của Minh triều sẽ càng thêm nguy ngập.

Trong lúc vùng Giang Nam vắng vẻ hoang tàn thì vùng Giang Bắc hoàn toàn ngược lại – quá đông người. Hàng trăm vạn dân chúng từ Giang Nam dắt dìu nhau tìm phương sinh kế. Không chút tài sản, không chút lương thực, để có thể sống qua ngày, bọn họ phải vào rừng hái rau, xuống sông bắt cá, tìm kiếm tất cả những thứ gì có thể ăn được. Chỉ sau vài ngày, rau không còn, cá cũng hết, bọn họ cùng quẫn đến mức tìm bắt cả sâu bọ, lột cả vỏ cây để ăn. Tình cảnh bọn họ có khi còn thảm hơn lưu dân lúc Hoàng Cân khởi nghĩa thời Hán mạt - Tam Quốc.

Lưu dân đã khổ, quan lại Minh triều cũng khổ không kém. Lưu dân đói khổ, quan lại tâm khổ. Bất ngờ có quá nhiều lưu dân đói khổ kéo đến, các quan lại Minh triều phải vò đầu bức tóc, lao tâm lao lực tìm cách xử trí. Trước tình cảnh này, nếu không an bài thỏa đáng, rất có thể gây ra đại loạn. Nhiều nơi đã xuất hiện tình trạng cướp bóc nhà phú hộ, hoặc phá kho lương của quan phủ. Đói khổ quá rồi, nếu không tìm được thức ăn thì sẽ chết đói, dù sao cũng chết, nếu liều mạng biết đâu còn có cơ hội sinh tồn. Chính vì thế mà cũng đã có không ít lưu dân đã biến thành bạo dân, loạn dân, khiến cho tình trạng trị an trong vùng trở nên vô cùng tồi tệ. Một số huyện thành còn bị loạn dân chiếm lĩnh, quan lại bị giết, phủ khố và phú hộ bị cướp phá.

Đó chính là mục đích của Đế quốc, nhiễu loạn hậu phương của Minh triều.

Cũng cùng lúc này, các vùng Sơn Đông, Hà Bắc cũng gặp phải chiến loạn. Các phiên chủ ở Đông Doanh thấy quân đội Đế quốc cướp phá thuận lợi quá, chiến lợi phẩm nhiều vô số, nên cũng phái quân sang cướp bóc vùng duyên hải Sơn Đông. Mông Cổ chư tộc thấy Trung Nguyên đại loạn, cũng phái chiến sĩ đánh xuống phía nam, cướp phá báo thù. Khắp lãnh thổ Minh triều, từ nam chí bắc đều bị chiến hỏa thiêu đốt, sinh linh đồ thán.

Đến cuối tháng 7, ngoài 2 đạo quân Trấn Phong, Trấn Ninh tiến công Giang Tây, cả 6 đạo quân còn lại đều đã tề tụ ở vùng nam ngạn Trường Giang, áp sát Kim Lăng Thành. Bắc Dương Hạm đội đã phong tỏa Trường Giang và Đại Vận Hà, lương thực từ phía nam không thể vận chuyển lên phía bắc được nữa.

Triệu Phong chuyển đại bản doanh lên Sùng Minh đảo, trực tiếp chỉ huy cuộc bao vây Kim Lăng.

Sùng Minh đảo nằm ngay Trường Giang nhập hải khẩu, còn được gọi là ‘Trường Giang môn hộ, Đông hải Doanh châu’. Toàn đảo 3 mặt giáp sông, 1 mặt giáp biển, tổng diện tích ước 1.225 kilômét vuông, đông tây dài 80 kilômét, bắc nam rộng từ 13 đến 18 kilômét. Trên đảo bằng phẳng, không đồi núi. Sùng Minh đảo hình thành vào khoảng Đường Vũ Đức nguyên niên (Tây Lịch 618), có cư dân ở Đan Dương, Cư Dung di cư đến sinh sống, lập thành thôn trấn.

Triệu Phong đến Sùng Minh đảo, ngay lập tức, một căn cứ hải quân và một tòa tiểu thành cũng nhanh chóng được xây dựng, làm căn cứ bổ cấp vật tư lương thực cho các đạo quân. Đế quốc đã chuẩn bị tiến hành chiến tranh lâu dài. Minh triều dù sao cũng là nước lớn, lãnh thổ rộng, dân cư đông, không thể đánh nhanh thắng nhanh được.

Lúc này, nhận được tin Minh triều đã tụ tập quân đội về phòng thủ Kim Lăng Thành, Triệu Phong rất hoan hỉ. Đó là một tin rất tốt lành. Dù sao quân bộ cũng chỉ quyết định bao vây Kim Lăng, không tiến hành công thành chiến. Quân Minh bỏ các phủ huyện kéo về Kim Lăng, đối với việc công chiếm các phủ huyện càng dễ dàng hơn. Do đó, Triệu Phong đã phái Thần Vũ quân tiến công cướp phá các phủ huyện vùng Nam trực lệ, lại phái Thần Uy quân men theo Trường Giang, dưới sự hỗ trợ của Bắc Dương Hạm đội, tiến công cướp phá vùng Hồ Quảng (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc). Dân chúng các xứ này cũng bị tịch thu tài sản và cưỡng chế di cư sang Giang Bắc. Hơn 200 hạm thuyền của Bắc Dương Hạm đội phong tỏa hoàn toàn Trường Giang, không một chiếc thuyền nào của Minh triều có thể rời Giang Bắc đi xuống phía nam, Vĩnh Lạc đế có muốn điều binh ở Hà Bắc, Sơn Đông xuống tăng viện cho Kim Lăng cũng không thể thực hiện được. Hơn nữa, quân Hà Bắc còn phải phòng ngự quân Mông Cổ, quân Sơn Đông lại phải chống uy khấu (cách Minh triều gọi hải tặc Đông Doanh).

Triệu Phong đích thân chỉ huy 4 đạo quân Thần Long, Uy Tiệp, Long Tiệp, Định Hải bao vây Kim Lăng Thành. Xung quanh Kim Lăng Thành có nhiều đồi núi, thích hợp bố trí thần công đại pháo oanh kích vào thành, thậm chí có nơi còn có thể trực tiếp bắn pháo đến tận Hoàng cung Đại nội. Cũng chính vì nguyên nhân này, khi được triều thần chỉ cho thấy điều đó, Vĩnh Lạc đế mới quyết định dời đô lên Bắc Kinh. Đương nhiên quân đội Đế quốc không thể bỏ qua ưu thế đó mà không tận dụng. Toàn bộ 2.400 khẩu thần công đại pháo của 4 đạo quân đều được kéo lên các ngọn đồi đó (theo quân chế, mỗi đạo quân 3 vạn người được phối thuộc 600 khẩu thần công). Sau đó mỗi ngày đều luân phiên oanh kích vào thành, đêm ngày không nghỉ. Xạ thủ cứ nhắm vào những nơi tập trung nhiều kiến trúc, đặc biệt là Hoàng cung, mà oanh kích. Quân dân Minh triều trong thành khổ không sao kể siết. Tuy quân Minh trong thành có đến 15 vạn quân, nhưng đối phương cũng có 12 vạn, cùng với thần công đại pháo oai hiếp, quân Minh không có chút ưu thế nào. Hơn nữa, Kim Lăng hiện tại vẫn là kinh đô của Minh triều, không thể tùy tiện bỏ được (theo lịch sử, đến năm 1420 Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh mới xây dựng xong, đến năm 1421 Vĩnh Lạc đế mới chính thức dời đô từ Kim Lăng lên Bắc Kinh). Đối với Hán tộc mà nói, triều đình bỏ kinh đô mà chạy, uy tín của triều đình và sĩ khí của quân đội sẽ tổn thất rất nặng nề.

Kim Lăng thành cao hào sâu, quân đội đông đảo, Triệu Phong chỉ vây thành và đêm ngày oanh kích. Chiến sự chủ yếu chuyển sang các phủ huyện lân cận.

Dương Châu phủ.

Dương Châu là một phủ trực thuộc Nam trực lệ, nằm bên bờ bắc Trường Giang. Từ xưa Dương Châu đã là một thành thị lớn, kinh tế phát triển, cư dân đông đúc. Từ thời Đường đã nổi tiếng là ‘Phú giáp thiên hạ’, ‘Dương nhất Ích nhị’ (chỉ Dương Châu và Ích Châu, tức Thành Đô). Khi vùng phía nam của Nam trực lệ không còn chỗ để cướp phá nữa, Thần Vũ quân liền nhắm đến Dương Châu ở Giang Bắc. Một tiểu phân hạm đội gồm 20 chiến thuyền của Bắc Dương Hạm đội theo dòng Đại Vận Hà tiến về sát thành Dương Châu. Chiến hạm quá lớn, không thể vào Đại Vận Hà được thì dàn ra dọc theo bờ bắc Trường Giang. Cùng lúc đó còn có Thần Vũ quân đệ nhị sư cũng tiến về Dương Châu Thành.

Dương Châu ở về phía đông bắc Kim Lăng Thành. Do bị cách trở bởi Trường Giang, Dương Châu vệ không thể tăng viện cho Kim Lăng được, nên giờ đây trong thành vẫn còn lại khoảng 4.000 quân Minh.

Dương Châu Thành. Tri phủ nha môn.

Các quan viên văn võ của Dương Châu phủ tụ tập trong đại đường bàn việc chống giặc. Người bảo công, người bảo thủ, mỗi người một ý, tranh cãi kịch liệt. Dương Châu vệ chỉ huy sứ Trương Hạo Kiên đỏ mặt tía tai nói :

- Tri phủ đại nhân. Ngài quyết ý xuất quân sát tặc ?

Tri phủ Dương Châu Đổng Chương chậm rãi vuốt râu nói :

- Tặc quân đại pháo lợi hại, các vị chắc cũng nghe nói rồi. Nếu chúng ta cứ cố thủ trong thành, hậu quả … e rằng sẽ không khác gì Tô Châu đâu. Thà rằng chúng ta xuất thành nghênh chiến, dĩ dật đãi lao, may ra còn có cơ hội thắng lợi.

Trương Hạo Kiên nói :

- Không ổn. Tặc quân đông hơn chúng ta, xuất thành nghênh chiến, thua nhiều hơn thắng.

Đổng Chương cãi :

- Cố thủ trong thành, chút cơ hội thắng lợi cũng không có. Tặc quân hành quân đến đây, tất phải nhọc mệt. Chúng ta nhân lúc bọn chúng chưa kịp nghỉ ngơi dưỡng sức, nhất cổ tác khí tấn công, chỉ cần quan quân một lòng, tất có cơ hội thắng lợi. Chứ để tặc quân có thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta không còn cơ hội nào nữa.

Trương Hạo Kiên và các tướng lĩnh của Dương Châu vệ lại nhất trí thủ thành, không chịu xuất thành nghênh chiến. Cuối cùng, Đổng Chương đành nói :

- Chư vị muốn thủ thành thì bản phủ không nài ép nữa. Vậy hãy chia cho bản phủ 3.000 quân, bản phủ xuất thành chống giặc. Chư vị còn lại 1.000 quân, có thể điều tập thêm dân chúng hỗ trợ thủ thành.

Trương Hạo Kiên và các tướng lĩnh bàn bạc một lúc, rồi chấp nhận đề nghị của Đổng Chương. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên vì sự dũng cảm của ông ta. Tri phủ vốn là văn quan, mà lại hăng hái suất quân đánh giặc, quả là trung thần hiếm có trên đời.

Chương 61 : DƯƠNG CHÂU BINH BẠI

Lại nói, các tướng lĩnh của Dương Châu vệ cuối cùng cũng chấp nhận đề nghị của Đổng Chương, chia cho ông ta 3.000 quân để xuất thành nghênh chiến. Trong lúc chờ điều động quân đội, Đổng Chương trở về phủ, gọi viên sư gia thân tín đến bảo :

- Ngươi hãy mau thu xếp cho gia quyến của bản phủ cải trang thành sĩ binh, trà trộn vào quân đội mà xuất thành.

Viên sư gia ngạc nhiên nói :

- Ý của Đại nhân là … ?

Đổng Chương cười nhạt nói :

- Bọn Trương Hạo Kiên muốn cùng chết với thành, bản phủ không ngăn cản. Hừ. Kinh đô còn bị vây, Tô Châu còn bị san bằng, bản thành làm sao chống nổi.

Viên sư gia ngơ ngác hỏi :

- Tặc quân hùng mạnh như thế, sao Đại nhân còn suất quân nghênh chiến ? Vãn sinh thấy chẳng có bao nhiêu cơ hội chiến thắng.

Đổng Chương cười lạnh nói :

- Bản phủ cũng thấy vậy, nhưng nếu xuất thành, may ra còn có cơ hội sống sót. Bản phủ là văn quan, khi xuất chiến có ở phía sau cũng chẳng ai nói gì được. Hễ binh bại, bản phủ có thể tìm nơi lánh nạn. Sau này triều đình có tra xét, chỉ cần báo cáo là bị tặc quân chặn mất đường, không hồi thành được. Như thế vẫn còn hơn cùng chết với thành.

Viên sư gia sáng mắt lên, tán tụng :

- Đại nhân anh minh.

Đổng Chương ngay trưa hôm đó suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh địch. Sau khi rời thành, viên sư gia lẳng lặng dẫn gia quyến của tri phủ đại nhân và của mình rời quân đội, lánh nạn về phương bắc. Quân đội tiếp tục hướng nam hành quân.

Đồng Sơn.

Đồng Sơn là một ngọn núi nằm về phía nam Dương Châu Thành, gần Đại Vận Hà và Trường Giang, đỉnh núi cao 149,5 mét, là ngọn núi cao nhất Dương Châu. Trong lúc bố trí tấn công Dương Châu Thành, Thần Vũ quân đệ nhị sư tạm thời đóng chỉ huy bộ ở đó. Hiệu úy Đào Gia Khiêm cùng các tùy tướng, vệ úy hợp nhau bàn bạc kế hoạch công thành. Trưa hôm đó, nghe thám tử hồi báo, Đào Gia Khiêm cười nhạt nói :

- Đổng Chương thật là to gan lớn mật nha. Dám bỏ thành không phòng thủ, lại suất lãnh 3.000 quân xuất thành nghênh chiến. Như thế càng tiện cho chúng ta.

Đào Gia Khiêm thật sự không nghĩ ra được lý do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương xuất thành nghênh chiến. Phải chi quân Minh đông hơn thì không nói, đằng này là lấy 3.000 chống 1 vạn có thần công đại pháo hỗ trợ.

Bầu trời đầy mây, thái dương khuất sau bạch vân làm không gian bớt chói chang hơn. Mây trắng dày đặc trên không trung tạo ra cảm giác bầu trời có vẻ thấp hơn. Gió mát từ ngoài sông thổi vào, làm không gian dịu mát. Từ trên núi cao nhìn xuống, không gian cũng thoáng đãng rộng lớn hơn.

Đào Gia Khiêm cho 9 bộ binh vệ bày trận dưới chân núi chờ quân Minh đến, còn kỵ binh vệ mai phục sau những đám cây rậm trên núi, chờ lệnh xuất kích. Cả 200 khẩu thần công cũng được bố trí trên núi. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều thuộc về đệ nhị sư.

Ước nửa giờ sau, 3.000 quân Dương Châu vệ do Tri phủ Dương Châu Đổng Chương thống lãnh đã hành quân đến nơi. Bọn họ phải đối mặt với 9.000 địch quân chờ sẵn từ lâu. Đổng Chương ngồi trên chiến mã ở phía sau hàng quân, xung quanh là 100 thân binh. Cả bọn đã sẵn sàng để … bỏ chạy. Hầu như không ai tin rằng trận này Dương Châu vệ có thể thắng được, từ tướng lĩnh cho đến sĩ tốt. Có điều, không ai phản đối việc xuất thành nghênh chiến của Đổng Chương, bởi cả bọn đều đang chờ cơ hội để bỏ chạy, đương nhiên là chạy luôn về phương bắc lánh nạn chứ không phải chạy về Dương Châu Thành. Không ai muốn cùng chết với thành. Qua lời của lưu dân Giang Nam đi ngang qua đây, bọn họ đều biết được tình cảnh của các phủ huyện ở Giang Nam.

Bọn Đào Gia Khiêm nhìn quân Minh như nhìn những người sắp chết. Tại chiến trường bằng phẳng thế này rất có lợi cho hỏa khí của Đế quốc phát huy toàn bộ oai lực. Phía sau bọn họ lúc này có đến 200 khẩu thần công đã nạp đạn sẵn sàng, toàn là Khai hoa đạn. Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Lệnh xạ thủ chuẩn bị, vọng thủ ước tính cự ly. Khi địch quân tiến đến 200 trượng đồng loạt khai hỏa.

- Vâng.

Nhận được mệnh lệnh, xạ thủ và vọng thủ đều chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi khẩu thần công có 2 xạ thủ, phụ trách nạp hỏa dược, đạn pháo và châm lửa. Còn vọng thủ là những người tinh thông toán thuật, có thể ước tính khoảng cách địch - ta.

- Địch quân cách 500 trượng.

- Địch quân cách 400 trượng.

- Địch quân cách 300 trượng.

- Địch quân cách 200 trượng.

- Khai hỏa.

Các khẩu thần công lập tức gầm lên, rải đạn về phía quân Minh. Mỗi viên Khai hoa đạn chứa hơn trăm mảnh sắt bén nhọn, 200 viên nổ tung trên đầu quân Minh, rải xuống hàng vạn mảnh sắt, làm quân Minh thương vong thảm trọng, kêu gào rên rỉ inh ỏi. Chiến trường máu thịt tứ tung, không khí lẫn theo mùi tanh của máu, cảnh tượng cứ như ở dưới mười tám tầng địa ngục. Chỉ có Đổng Chương cùng đám thân binh ở phía sau, nằm ngoài tầm đạn pháo nên thoát được (Đổng Chương sợ chết nên đi rất chậm). Nhìn thấy thảm cảnh trước mặt, cả bọn sợ xanh mặt, vội vã quay đầu ngựa tháo chạy. Đào Gia Khiêm đời nào để cho bọn họ tháo chạy dễ dàng như thế, lập tức truyền lệnh :

- Kỵ binh vệ truy kích.

Thế là 1.000 kỵ binh ùa xuống núi, đuổi theo truy sát hơn 100 người bọn Đổng Chương. Còn 9 bộ binh vệ bắt đầu xử lý chiến trường, giải quyết toàn bộ quân Minh thương vong. Vì sắp phải công chiếm Dương Châu, bọn họ không muốn phân bớt binh lực canh giữ tù binh - không thu tù binh.

Trận chiến Đồng Sơn kết thúc, giải quyết xong chiến trường, đệ nhị sư lập tức hành quân đến Dương Châu. Kỵ binh vệ đi trước, đến phong tỏa Dương Châu Thành. Kỵ binh tuy không thể công thành, nhưng có thể phong tỏa thành trì. Dù sao thì quân Minh trong thành cũng chỉ còn lại khoảng nghìn người.

Sáng hôm sau, đệ nhị sư đại quân đã dàn trận phía trước Dương Châu Thành. Phía sau quân trận chính là trận địa thần công đại pháo. Bên cạnh đó là một núi đạn pháo. Dương Châu Thành nằm ngay bên cạnh Đại Vận Hà, tiếp tế cực kỳ dễ dàng.

Cho quân đội chuẩn bị hoàn tất, Đào Gia Khiêm truyền lệnh :

- Khai hỏa.

Thần công đại pháo tiếp tục gầm lên, oanh kích vào Dương Châu Thành. Trận địa pháo chia làm 2 bộ phận, 100 khẩu thần công hướng vào thành môn nhả đạn, 100 khẩu còn lại rải đạn lên tường thành, tiêu diệt thủ quân. Sau 10 loạt đạn, thành môn bị phá, toàn bộ đại pháo được đẩy lên rải đạn pháo vào bên trong mở đường cho bộ binh tiến quân.

Dương Châu vệ chỉ huy sứ Trương Hạo Kiên ban đầu còn tập trung được vài vạn dân phụ hiệp trợ thủ thành. Nhưng khi thành môn bị phá, đạn pháo rải vào trong thành, một bộ phận dân phu hốt hoảng tìm đường chạy trốn, làm lòng quân hoán tản. Đến khi Đào Gia Khiêm cho quân bắc loa truyền rằng Đế quốc quân đội không bắt tù binh, hễ ai cầm vũ khí chống lại đều trảm thủ, thì quân dân trong thành không còn ai cầm vũ khí nữa. Trương Hạo Kiên cùng đám tùy tướng và thân binh mở cửa bắc bỏ chạy, và bị kỵ binh vệ truy sát. Đệ nhị sư đại quân tiến vào Dương Châu Thành.

Tiếp theo đó, cũng như ở vùng Giang Nam, bọn Đào Gia Khiêm tiến hành đại thanh lý. Một bộ phận nhỏ dân chúng quy thuận được cấp lương thực và đưa ra ngoài thành, lên thuyền di cư về phương nam. Sau đó, toàn bộ tài sản của quan phủ và quân dân trong thành bị tịch thu hết. Toàn bộ cư dân bị cưỡng chế rời khỏi Dương Châu, đi về phương bắc. Dương Châu Thành bị san bằng. Do có thuốc nổ nên việc san bằng thành trì cũng không khó lắm.

Việc chiếm thành chỉ mất mấy canh giờ, nhưng việc xử lý sau chiến tranh mất gần nửa tháng. Không hổ danh ‘nhất Dương nhị Ích’, tài vật trong thành Dương Châu được thu thập lại, chất cao như núi, vàng bạc châu báu, kỳ trân dị bảo nhiều không kể siết. Hèn gì quân Nguyên và quân Thanh đánh chiếm Dương Châu đều mở cuộc đại tàn sát để cướp đoạt tài vật. Kim Nguyên Bảo và Ngân Nguyên bảo (nén vàng, nén bạc dạng thuyền kiểu Trung Hoa) đều có nguồn gốc từ tài vật cướp được ở Dương Châu. Khi quân Nguyên chiếm Dương Châu đã mở cuộc đại tàn sát, cướp được vàng bạc nhiều vô số. Viên tướng Nguyên đã cho đúc vàng, bạc thành nén dạng thuyền, chở về kinh đô. Nguyên đế thấy hình dáng như thế rất đẹp, nên cho phổ biến rộng rãi, và được các triều đại sau này tiếp tục sử dụng. Nguyên Bảo có nghĩa là bảo vật của nhà Nguyên.

Số tài vật thu được ở Dương Châu tương đương với tài vật ở Tô Châu và Hàng Châu cộng lại, đủ thấy người Dương Châu giàu như thế nào. Các chiến thuyền phải liên tục vận chuyển chiến lợi phẩm ra Sùng Minh đảo, rồi Lục Tinh đại vận hạm sẽ vận chuyển tài vật về Gia Định. Lương thực thu được thì giữ lại làm quân lương. Sau các cuộc cướp phá ở khu vực Giang Nam và Hồ Quảng, vựa lúa của Trung Hoa đã trở nên hoang tàn, không một bóng người, rất nhiều kho quân lương của Minh triều đã rơi vào tay quân đội Đế quốc. Tình hình chiến sự đối Minh triều càng thêm bất lợi.

Chương 62 : TRUY SÁT TRƯƠNG PHỤ

Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 6. Thăng Long.

Hoàng Cung của Đại Việt xưa, nay là Đại tướng quân phủ, các tướng Minh triều như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính, Vương Hữu, … hội họp bàn bạc tìm cách vượt qua cảnh nguy khốn trước mắt. Từ khi Thăng Long bị vây, tình hình nguy cấp, những cuộc hội họp như thế này diễn ra hàng ngày ở đây. Nhưng thực lực song phương quá chênh lệch, bọn họ vẫn không tìm ra được cách gì để cứu vãn tình thế nguy ngập hiện tại, chỉ còn biết đặt hy vọng vào các đạo viện quân từ Vân Nam và Lưỡng Quảng sắp sang.

Hôm nay, thần sắc Trương Phụ cực kỳ không tốt. Chư tướng đều đoán rằng đã có đại sự phát sinh. Phương Chính ngạc nhiên hỏi :

- Đại soái. Có việc gì khiến ngài phải lo lắng như vậy. Tuy lúc này tình hình đối chúng ta có phần bất lợi, nhưng chỉ cần viện quân sang đến thì chúng ta sẽ đánh tan quân Nam được ngay. Cũng giống như thời bọn Trần Quỹ, Đặng Tất vậy đó. Quân Nam chỉ mạnh nhất thời, làm sao có thể chống nổi đại binh Thiên triều.

Mộc Thạnh lắc đầu nói :

- Không dễ dàng thế đâu. Phạm Thế Căng không giống bọn Đặng Tất. Họ Phạm nổi danh là Giao Chỉ đệ nhất danh tướng, đánh đâu thắng đó. Nếu viện quân sang, chúng ta cũng chỉ có thể bảo vệ được Đông Quan mà thôi.

Đông Quan chính là tên gọi thời này của Thăng Long, do bọn Hồ Quý Ly đặt sau khi dời kinh đô về Tây Đô (Thanh Hóa). Nghe nhắc đến viện binh, Trương Phụ lại thở dài. Mộc Thạnh kinh hãi hỏi :

- Đại soái. Phải chăng viện binh gặp trở ngại gì trên đường đi ?

Trương Phụ lại thở dài, nói :

- Không có viện binh nữa đâu.

Phương Chính cả kinh, đứng bật dậy nói :

- Không thể nào nha. Rõ ràng triều đình đã đưa tin sang bảo là sẽ có viện binh kia mà.

Trương Phụ thần sắc trầm trọng, nhìn khắp chư tướng một lượt, nói :

- Bản soái buộc phải báo cho mọi người biết một tin rất xấu.

Chư tướng thấy Trương Phụ thần sắc trầm trọng, biết là sự việc nghiêm trọng, đều chú tâm lắng nghe, đồng thời suy đoán xem chuyện gì. Trương Phụ nói :

- Quân Nam mạnh hơn chúng ta tưởng nhiều. Đây là hịch văn của bọn chúng truyền sang Trung Nguyên. Mọi người xem đi.

Nói đoạn, Trương Phụ lấy tờ hịch văn mà Lý Tử Tấn soạn, truyền sang đất Minh triều đưa cho chư tướng xem. Mọi người lần lượt xem qua, ai nấy đều vừa kinh vừa nộ. Phương Chính vỗ bàn nói :

- Vô quân vô phụ. Bọn chúng thật không xem Thiên triều ra gì mà !

Vương Hữu nói :

- Đại soái. Bọn chúng truyền hịch như thế, lẽ ra triều đình phải phẫn nộ, điều động đại quân sang chinh phạt chứ, sao lại không có viện binh ?

Chúng tướng đồng thanh khen phải. Chỉ có Mộc Thạnh là vẫn nhíu mày suy nghĩ. Vương Hữu hỏi :

- Kiềm quốc công. Ngài nghĩ ra điều gì vậy ?

Mộc Thạnh là con thứ của Kiềm Ninh Vương Mộc Anh, kế nghiệp anh là Mộc Xuân, trấn thủ đất Vân Nam vào năm 1398. Sau khi đánh bại nhà Hồ, chiếm lĩnh Đại Việt, Mộc Thạnh đã được Vĩnh Lạc đế phong làm Kiềm quốc công vào năm 1408 (tước quốc công chỉ thấp hơn tước vương). Trong thời Minh, con cháu nhà họ Mộc đời đời trấn thủ Vân Nam, phụ trách phòng ngự sự tấn công của quân Miến Điện.

Nghe hỏi, Mộc Thạnh lắc lắc đầu, xua tan những ý nghĩ không có đáp án, quay sang hỏi Trương Phụ :

- Đại soái. Trước đây khi hoàng thượng khởi binh Tịnh nạn, nghe nói có nhận được viện trợ từ một thế lực ngoại quốc, phải chăng … ?

Trương Phụ gật đầu nói :

- Ta nghĩ đúng là bọn họ. Hoàng thượng trước đây có hứa tạo điều kiện cho bọn họ buôn bán với Trung Nguyên. Nhưng triều đình gần đây lại tăng cường hạn chế việc buôn bán với ngoại quốc. Có lẽ vì thế mà đã làm bọn họ tức giận.

Phương Chính chép miệng nói :

- Bọn họ tức giận thì làm được gì. Chẳng lẽ bọn họ còn có thể xâm phạm Thiên triều được sao ?

Trương Phụ trầm trọng nói :

- Đúng thế.

Phương Chính nói :

- Phải như vậy chứ ! Trong thiên hạ còn ai dám xâm phạm Thiên triều, không sợ Thiên oai hay sao.

Trong khi đó, Mộc Thạnh lại giật mình hỏi :

- Đại soái. Chẳng lẽ bọn họ đã xuất quân ?

Trương Phụ gật đầu nói :

- Đúng thế. Hịch văn vừa truyền là bọn họ cũng xuất quân.

Chúng tướng cả kinh, sửng sốt, thất thần. Hồi lâu, Mộc Thạnh mới hỏi :

- Đại soái. Tình hình chiến sự thế nào rồi ? Chẳng lẽ bọn họ đã đánh vào Lưỡng Quảng ?

Trương Phụ nói :

- Không. Tình hình nghiêm trọng hơn nhiều.

Chư tướng nghe nói vậy, tâm tình bất giác trở nên trầm trọng. Không ai nói gì nữa, ngồi yên chờ nghe Trương Phụ nói. Trương Phụ khẽ than một tiếng, nói :

- Hồi tháng tư, bọn họ xuất quân hai đường tấn công bản triều. Tây lộ quân từ đất Thái tấn công Vân Nam. Đông lộ quân từ ngoài biển tấn công Quảng Đông. Thành Quảng Châu chỉ cầm cự được mấy canh giờ là thất thủ. Sau đó các phủ huyện khác cũng lần lượt thất thủ. Cũng cùng lúc đó, các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và Nam trực lệ cũng bị tấn công. Đến giờ, các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang đều đã rơi vào tay bọn họ. Ngay cả Nam Kinh cũng đang bị bao vây, Đại Vận Hà và Trường Giang đã bị phong tỏa. Theo tin mới nhất, các đạo quân của bọn họ đang tụ tập về Nam Kinh, chuẩn bị công thành.

Tình hình còn nghiêm trọng hơn chư tướng tưởng tượng. Mọi người thất thần, đầu não hỗn loạn. Chỉ có Mộc Thạnh là còn trấn tỉnh, hỏi :

- Đại soái. Quảng Tây vẫn chưa thất thủ ?

Trương Phụ khẽ lắc đầu, nói :

- Chưa. Nhưng sắp rồi. Tây lộ quân sau khi chiếm xong Vân Nam đang chuyển hướng sang Quảng Tây.

Mộc Thạnh nói :

- Đại soái. Chúng ta ở đây cố thủ cô thành, cũng không ích lợi gì. Phạm Thế Căng vì sợ tổn thất nên không công thành, chứ nếu quân Nam toàn lực công thành, chúng ta cũng khó giữ được. Tình hình đã vậy, triều đình chắc chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến việc Giao Chỉ. Chi bằng chúng ta tạm rút về giữ Quảng Tây.

Trương Phụ gật đầu nói :

- Ta cũng nghĩ vậy.

Thế là cả bọn bàn bạc việc rút khỏi Thăng Long, chạy về giữ Quảng Tây. Trong thành quân Minh chỉ còn gần 2 vạn, để có đủ binh lực giữ Quảng Tây, không thể để tổn thất thêm nữa.

Mấy hôm sau, vào buổi tối, quân Minh bất ngờ mở cửa đông, bỏ thành rút chạy. Bọn họ không đi bằng cửa bắc bởi nơi đó Phạm Thế Căng có đặt trọng binh trấn giữ. Bọn họ cũng không chạy về hướng Bạch Hạc là đường quân Minh kéo sang đánh nhà Hồ khi trước, mà lại chạy về phía đông bắc, theo hướng Vạn Kiếp, rồi từ đó rút về Quảng Tây qua đường Lạng Sơn, đến châu Tư Minh. Trương Phụ khi trước sang đây bằng đường Bạch Hạc, nay không dám về bằng đường cũ, sợ bị phục kích.

Gần 2 vạn quân Minh, vì đào mạng mà chạy đi rất nhanh và lặng lẽ. Không ai dám phát ra tiếng động mạnh, sợ bị đối phương phát hiện. Sự việc có liên quan đến tính mạng, quân Minh bộc phát năng lực mà ngày thường không thể nào có được. Trương Phụ dẫn quân an toàn chạy đến bến Vạn Kiếp, mọi người thở phào nhẹ nhòm. Quân Minh một số lo nấu cơm ăn, một số khác lo kết bè để sang sông. Cả bọn tạm nghỉ ngơi giây lát trước khi tiếp tục cuộc bôn đào.

Cơm nấu xong, quân Minh đang tụ tập lại chuẩn bị ăn cơm, đột nhiên từ xa có tiếng pháo nổ vang trời, rồi có tiếng quân hò reo vang dội. Liền đó là một trận pháo kích dội xuống đầu quân Minh, tạo ra tổn thất thảm trọng. Quân Minh không còn lòng dạ nào ở lại đấy nữa, quăng bỏ chén cơm, tìm đường tháo chạy. Từ phía đông nam có đến mấy vạn quân đang rung cờ đánh trống rầm rộ tiến vào, đao thương kiếm kích sáng ngời, tiếng quân reo dậy đất. Quân Minh đã biết đối phương lợi hại rồi, đương nhiên không dám chạy ra hướng đó, đành kéo nhau xuống bè bơi sang bờ bên kia. Một số khác không lên được bè, đành ôm khúc gỗ bơi sang, vũ khí khôi giáp quăng bỏ cả. Giữa lúc đó, trên sông xuất hiện rất nhiều chiến thuyền, thuận dòng bơi đến. Từ trên thuyền tên bắn xuống như mưa, quân Minh chết vô số, máu tươi nhuộm hồng cả mặt sông.

Bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh được chúng tùy tướng hộ tống chạy sang được bờ bên kia, kiểm điểm lại binh mã, thấy chỉ còn lại vài nghìn người, đại tướng Vương Hữu tử trận. Lúc đó, quân Nam lại lên thuyền chuẩn bị vượt sông đuổi theo. Cả bọn không dám chần chờ, vội vã cướp đường mà chạy.

Trên đường đi, quân Minh thường xuyên bị dân binh các thôn làng phục kích, thiệt hại dần. Thỉnh thoảng lại nghe phía sau có tiếng quân Nam hò hét đuổi theo, nên cả bọn đều không dám dừng chân nghỉ ngơi, việc ăn uống chỉ đành gặm lương khô, uống nước lạnh. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi vô cùng, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.

Chương 63 : TIẾN QUÂN QUẢNG TÂY

Lại nói, trên đường rút chạy, quân Minh bị phục kích ở Vạn Kiếp, thiệt hại thảm trọng. Đến Nội Bàng, quân Minh chỉ còn lại chưa đến 2.000 người, tất cả đều mệt mỏi rã rời, chỉ vì sự sống còn nên mới miễn cưỡng cầm cự mà tiếp tục bước đào bôn.

Nội Bàng vốn là một quan ải, đồi núi hiểm trở. Khi quân Minh đi qua đó, lập tức từ trên núi có đạn pháo và cung tên bắn xuống, đồng thời còn có phục binh đổ ra đánh. Các tướng Minh hết sức chống trả, cướp đường mà chạy. Phương Chính suất lĩnh 1.000 quân đoạn hậu, bị chết trong đám loạn quân.

Chạy đến Lộc Châu, quân Minh lại gặp phục binh từ hai bên sườn núi bắn tên tẩm độc xuống như mưa. Các tướng Minh liều chết bảo hộ Trương Phụ chạy thoát, Mộc Thạnh tử trận. Qua khỏi Lộc Châu, quân Minh chỉ còn lại vài trăm người. Ai nấy thần tình ảo não. Trương Phụ không dám đi đường lớn nữa, dẫn quân lẻn theo đường tắt đi về phía châu Tư Minh.

Đến được châu Tư Minh là đã vào đất Quảng Tây rồi. Bọn Trương Phụ đều thở phào nhẹ nhõm. Nào ngờ, vừa đến gần quan ải thì từ bốn phía có đại quân đổ ra bao vây. Rồi từ trên quan ải có người nói vọng xuống :

- Trương tướng quân. Ta là Phạm Thế Căng, ở đây chờ tướng quân đã lâu.

Vừa nói xong, không để cho đối phương có thời gian phản ứng, Phạm Thế Căng truyền quân xông vào vây đánh. Ba nghìn quân trang bị tinh lương đối phó vài trăm người mỏi mệt rã rời, kết quả không cần nói cũng đủ biết. Bởi vì khi sang đánh Đại Việt, bọn Trương Phụ đối xử với dân Việt tàn nhẫn vô cùng, làm lắm điều tàn bạo gớm ghê, như là : xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu, còn những người Việt ai theo quân Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Do đó mà Phạm Thế Căng đã không bắt tù binh, sát tử tất cả.

Bọn Trương Phụ không thể chạy thoát được là do quan niệm thâm căn cố đế đã làm hại bọn họ. Sơn xuyên Đại Việt, bọn họ không thể nào thông thạo bằng bọn Phạm Thế Căng. Sau khi giải phóng Đại Việt, vây thành Thăng Long, Phạm Thế Căng danh tiếng lừng lẫy, dân Việt đều ủng hộ, sẵn sàng thông phong báo tín, báo tin về tung tích của quân Minh. Khi quân Minh còn ở trong thành Thăng Long, Phạm Thế Căng còn chưa nắm được rõ ràng. Nhưng từ khi quân Minh bỏ thành rút chạy thì chẳng bao lâu sau Phạm Thế Căng đã biết tin, bố trí phục kích. Bọn Trương Phụ cứ nghĩ rằng nơi đây cũng là đất Minh triều (quan niệm thâm căn cố đế rồi), cũng giống như bên Trung Nguyên, thành ra quên mất những vấn đề trên, dẫn đến toàn quân tận diệt.

Đế quốc có lực lượng Hải quân hùng hậu. Phạm Thế Căng ngay khi biết tin đã nhờ Hải quân vận chuyển 2 sư của Bảo Tiệp quân đến Vạn Kiếp, đồng thời lấy thêm dân ở đó giả làm quân đội để tăng thanh thế. Khi quân Minh đang chuẩn bị ăn cơm, mấy vạn đại quân kéo ra tấn công thì chỉ có 2 vạn quân ở phía trước là chính quy quân, còn phía sau đều là dân chúng giả trang. Khi quân Minh chạy được qua bên kia sông thì chỉ có 1 sư vượt sông đuổi theo, còn 1 sư theo đường biển sang đánh châu Tư Minh.

Tiêu diệt được bọn Trương Phụ rồi, Phạm Thế Căng thông tri cho Phạm Đống Cao ở Nghệ An ra trấn thủ Thăng Long, giao việc ổn định Thăng Long cho dân binh Mường của Phạm Đống Cao, rồi suất lĩnh Bảo Tiệp quân, Linh Tiệp quân tiến vào đất Quảng Tây. Khi Phạm Thế Căng đặt chân lên đất Quảng Tây thì 2 đạo quân Trấn Ninh, Trấn Phong đang công chiếm Giang Tây cũng giao cho Phạm Thế Căng thống lĩnh.

Mùa thu tháng 7, quân của Phạm Thế Căng và quân của Lý Ngân từ Vân Nam sang cùng hội họp dưới chân thành Quế Lâm. Sau khi Vân Nam, Quảng Đông, nam Giang Tây bị Đế quốc quân đội chiếm lĩnh, Quảng Tây đã trở thành một ốc đảo, bị bao vây tứ phía. Quân Minh ở đây không còn chút ý chí chiến đấu, đào binh vô số. Mà nguyên bản ở đây đã không có bao nhiêu quân đội, thành ra các phủ huyện nhanh chóng thất thủ, rơi vào tay Đế quốc.

Khi trước, để chuẩn bị lực lượng đánh nhà Hồ, Vĩnh Lạc đế đã cho điều động lực lượng từ Nam Kinh, theo đường thủy xuống hội binh với các lực lượng đang tập trung tại Quảng Tây, gồm 9,5 vạn quân từ các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng (gồm Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay), cộng với 1 vạn kỵ binh và bộ binh lấy từ Cấm quân, 3 vạn thổ binh từ Quảng Tây. Minh triều cũng huy động chuẩn bị tác chiến 7,5 vạn kỵ binh và bộ binh từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Các xứ Vân Nam và Quảng Tây được lệnh mỗi xứ phải chuẩn bị 20 vạn thạch lương (mỗi thạch 100 cân, mỗi cân 0,6 kilôgam) cung ứng cho quân đội. Vân Nam cũng được lệnh huy động 1 vạn quân tiếp viện. Trận chiến này đã điều động đến 22 vạn quân ở phía nam (khi sang đánh, quân Minh nói thăng lên là 80 vạn để hư trương thanh thế), sau khi chiếm được đất Đại Việt thì thiệt hại cũng không ít.

Đến khi Giản Định đế và Trùng Quang đế nổi lên, quân Minh đánh thua nhiều trận, thiệt hại không ít, phải rút về giữ Thăng Long và dâng biểu cáo cấp về Minh triều xin viện binh. Mộc Thạnh được lệnh mang 4 vạn quân Vân Nam sang cứu, nhưng lại bại trận, phải về giữ thành Cổ Lộng. Minh triều lại phải phái Trương Phụ dẫn quân sang cứu viện. Lần này Trương Phụ tuy bắt được Giản Định đế và Trùng Quang đế, nhưng chưa kịp ban sư hồi triều thì gặp phải Phạm Thế Căng suất quân bắc phạt, sau nhiều trận chiến đã tử trận tại châu Tư Minh, đại quân toàn diệt.

Sau mấy trận chiến liên tục đó, quân đội ở các tỉnh phương nam của Minh triều hầu như bị điều sang Đại Việt gần hết. Thành ra khi quân đội Đế quốc tiến sang, gần như tiến vào chỗ không người. Quảng Tây cùng với Vân Nam là hai nơi quân đội bị điều đi nhiều nhất. Vì thế mà Phạm Thế Căng tiến sang đã công chiếm các phủ huyện rất dễ dàng, chỉ chưa đầy 1 tháng đã tiến quân đến dưới chân thành Quế Lâm.

Trong thành Quế Lâm lúc này chỉ còn lại chưa đầy 2.000 quân. Đối diện với hơn chục vạn quân ngoài thành, thủ quân không còn ý chí kháng cự, liền giết chết tướng lĩnh chỉ huy, mở cửa thành đầu hàng. Chiếm lĩnh đại bộ phận Quảng Tây, Phạm Thế Căng để lại 1 sư của Bảo Tiệp quân tiếp tục bình định xứ này, rồi đại quân chuyển hướng sang đất Quảng Đông. Nhiệm vụ của Phạm Thế Căng lúc này là thống lĩnh 4 đạo quân Bảo Tiệp, Linh Tiệp, Trấn Phong, Trấn Ninh công chiếm Giang Tây và vùng nam Hồ Quảng (tức Hồ Nam). Còn Lý Ngân thống lĩnh 4 đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Biên tấn công Quý Châu và cướp phá Tứ Xuyên.

Vĩnh Lạc đế là kẻ tàn nhẫn và đa nghi. Sau khi dời lên Bắc Kinh đánh nhau với quân Mông Cổ, Vĩnh Lạc đế đã mang hai phần ba quân đội lên phương bắc, chỉ để lại phương nam một phần ba quân đội giao cho Thái tử Giám quốc thống lĩnh. Lúc này, các tỉnh phương bắc của Minh triều dày đặc quân đội. Sơn Đông 20 vạn (Sơn Đông, Liêu Đông), Bắc trực lệ 30 vạn (Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Hải quan), Sơn Tây 10 vạn (Nhạn Môn quan), Thiểm Tây 20 vạn (Trường An, Gia Dụ quan – Cam Túc). Trong khi đó các tỉnh phương nam ngoài Nam trực lệ (Nam Kinh) có 10 vạn quân, còn lại gần 30 vạn, phần lớn dốc vào chiến tranh ở Đại Việt, ở các tỉnh chẳng có bao nhiêu quân đội. Hậu quả của việc này là các tỉnh phương nam nhanh chóng thất thủ, dân chúng bị đuổi chạy về phương bắc, trở thành lưu dân ‘tam không’ (không nhà cửa, không tài sản, không lương thực), gây hỗn loạn ở vùng Giang Bắc.

Nói về Phạm Thế Căng, chỉ để lại Quảng Tây 1 sư của Bảo Tiệp quân phối hợp với dân binh Thái - Lào điều từ Vân Nam sang cùng bình định xứ này, sau đó suất lĩnh 2 sư của Bảo Tiệp quân, tiến vào đất Giang Tây hội họp cùng Trấn Phong quân và Trấn Ninh quân. Còn đạo Linh Tiệp quân tiến sang công chiếm vùng nam Hồ Quảng.

Trên đất Giang Tây, lấy vùng phía nam mới chiếm được làm bàn đạp, Phạm Thế Căng xua quân tràn lên phía bắc, công thành bạt trại, thế như phá trúc. Đại quân đi trước, dân binh Lã Tống, Mã Lai và Java điều từ Quảng Đông sang đi phía sau, phụ trách phòng thủ những phủ huyện mà bọn Phạm Thế Căng chiếm được. Đại quân men theo Cống thủy, tiến chiếm Cống Châu phủ, một vị trí trọng yếu nằm cạnh hợp lưu của Cống thủy và Chương thủy. Sau đó đại quân tiến thẳng về Nam Xương, thủ phủ của Giang Tây. Sau ba ngày công thành, dù thủ quân chiến đấu kiên cường, nhưng quân số quá ít, chỉ hơn 3.000 người, nên chỉ giữ được đến ngày thứ ba thì thành phá.

Vì trận này công thành chiến kéo dài, chiến sự khốc liệt, quân đội Đế quốc thiệt hại hơn 1.000 người (lấy 8 vạn quân tấn công một tòa thành chỉ có 3.000 thủ quân, thiệt hại như thế là nặng), Phạm Thế Căng nổi giận xung thiên, ra lệnh bắt giữ toàn bộ quan lại tướng lĩnh của Minh triều trong thành, trảm toàn gia. Toàn bộ sĩ tốt trong quân đội Minh triều, dù phủ binh hay dân binh đều bị trảm. Số người bị giết lên đến mấy vạn. Toàn bộ dân chúng bị xua về phía nam sung vào lực lượng khổ công. Nam Xương Thành không còn lại một bóng người. Vì việc này, Phạm Thế Căng phải điều 1 sư của Bảo Tiệp quân đi theo áp giải. Họ Phạm làm thế là muốn cảnh cáo những phủ huyện khác phải suy tính hậu quả nếu như chống lại đại quân.

(chú : trong lịch sử, Trương Phụ chết khi đi theo Minh Anh Tông đánh quân Ngõa Thích ở Thổ Mộc Bảo. Trận đó 50 vạn quân Minh đại bại, Minh Anh Tông bị bắt sống, Trương Phụ tử trận. Giờ đây gặp phải Phạm Thế Căng nên Trương Phụ chết sớm hơn).

Chương 64 : CẢNH ĐỨC TRẤN

Sau trận Nam Xương, đại quân của Phạm Thế Căng đẩy nhanh tiến độ công thành bạt trại. Trấn Ninh quân khẩn cấp hành quân công chiếm các huyện vùng đông bắc Nam Xương, đặc biệt là Phù Lương huyện, nơi có một mục tiêu quan trọng do Giang Phong chỉ định phải ưu tiên công chiếm – Cảnh Đức Trấn. Các đạo quân còn lại tỏa đi đánh chiếm các nơi khác. Rất nhiều phủ thành có chưa đến nghìn thủ quân, khi đại quân đến nơi đã không dám kháng cự, nhanh chóng mở cửa thành đầu hàng.

Phù Lương huyện. Cảnh Đức Trấn.

Cảnh Đức Trấn là một trung tâm gốm sứ của Trung Hoa, lần đầu tiên được ghi vào sử sách là vào thời Đông Tấn, gọi là Tân Bình Trấn. Đến năm 621 thời Đường, cải tên thành Tân Bình huyện; năm 716 lại cải tên thành Tân Xương huyện, lập Xương Nam Trấn trực thuộc Tân Xương huyện. Năm 742, Tân Xương huyện cải tên thành Phù Lương huyện. Bắc Tống năm 1004, gốm sứ Xương Nam chất lượng ưu lương, được Tống Chân Tông chọn sử dụng trong cung đình, gọi là ngự dụng từ khí, đồng thời lấy niên hiệu làm tên, cải Xương Nam Trấn thành Cảnh Đức Trấn, để đề cao địa vị của gốm sứ Xương Nam. Từ đó, danh xưng Cảnh Đức Trấn được sử dụng đến ngày nay.

Cảnh Đức Trấn là một hương trấn thuộc Phù Lương huyện, nằm về phía đông bắc Nam Xương phủ. Ở đây có rất nhiều xưởng gốm sứ lớn, dân cư đông đúc, kinh tế thịnh vượng. Năm Nhâm Ngọ (1402), Vĩnh Lạc đế vừa chiếm được Nam Kinh, đăng cơ xưng đế, đã vội vã thành lập Cảnh Đức Trấn Ngự khí hán, chuyên cung cấp gốm sứ cho cung đình. Điều đó cho thấy Cảnh Đức Trấn đều được mọi triều đại coi trọng.

Khi nghe tin Nam Xương thất thủ, hàng vạn người bị giết, toàn bộ dân chúng bị cưỡng chế di cư về phương nam, các đại nhân vật có thân phận địa vị ở Cảnh Đức Trấn vội hội họp lại bàn bạc, tính chuyện tương lai. Không chỉ tin tức ở Nam Xương Thành, tin tức từ các xứ Hàng Châu, Tô Châu, Dương Châu, … liên tục đưa đến, cũng làm bọn họ lo lắng bất an. Dân chúng vốn không có bao nhiêu tài sản, còn bọn họ đều là đại phú hào, đại thương gia, không thể không lo. Mọi người tùy sự quen biết mà tụ họp thành từng nhóm, bàn tán sôi nổi, thậm chí tranh luận kịch liệt.

Trong lúc những người khác xôn xao bàn luận, Ngũ Quốc Trung, chủ xưởng gốm sứ lớn nhất Cảnh Đức Trấn, vẫn an nhiên nhấm nháp chung trà, thần thái tiêu dao tự tại, chẳng có vẻ gì là lo lắng cả. Thái độ của y trở nên rất nổi bật giữa cảnh mọi người đều lo lắng bất an này. Một người ngồi bên cạnh hiếu kỳ hỏi :

- Ngũ huynh xem ra vẫn tiêu dao tự tại, lẽ nào đã đi trước mọi người một bước ?

Những người xung quanh nghe nói đều quay lại nhìn. Ngũ Quốc Trung lắc đầu nói :

- Không có.

Người kia hỏi :

- Thế sao Ngũ huynh chẳng có vẻ gì là lo lắng hết ?

Ngũ Quốc Trung ung dung tự đắc nói :

- Việc gì phải lo lắng. Chúng ta tuy cũng là đại phú hào, đại thương gia. Nhưng chúng ta khác những vị lão bản ở Tô Châu, Hàng Châu.

Những người khác nhao nhao hỏi :

- Khác như thế nào ?

Ngũ Quốc Trung thủng thẳng nói :

- Chúng ta nắm giữ những loại gốm sứ chất lượng ưu lương nhất. Đó là một lá bùa hộ mệnh quan trọng. Chư vị có thấy khi nào cải triều hoán đại mà chúng ta bị liên lụy hay không ? Miễn sao chúng ta giữ đúng bổn phận của mình, đừng tham gia vào quan trường tranh đoạt thì không việc gì phải lo lắng.

Mọi người ồ lên, đồng thanh khen phải. Triều đại nào cũng cần gốm sứ để sử dụng. Cung đình cần, quan lại cần, phú hào cần. Do vậy mà Cảnh Đức Trấn luôn được các triều đại đặc biệt bảo hộ. Một người vẫn chưa yên tâm, hỏi :

- Chúng ta có cần đưa gia quyến đi tránh nạn không ?

Ngũ Quốc Trung nói :

- Tránh nạn ở đâu bây giờ ? Tứ phía đều binh hoang mã loạn, chạy ra ngoài lúc này, có thể bị giết bất cứ lúc nào. Còn nếu may mắn không bị giết thì cũng sẽ bị tịch thu tất cả mọi thứ, đuổi lên phương bắc, lúc đó lại phải đào củ, lột vỏ cây mà ăn qua ngày, và có thể chết đói bất cứ lúc nào.

Mọi người nghe họ Ngũ nói có lý quá, không ai dám bỏ trấn trốn đi. Cả bọn cũng không còn quá lo lắng cho tương lai, chuyển sang tán tụng họ Ngũ và tiếp tục bàn chuyện làm ăn.

Vài ngày sau, một toán 3.000 kỵ binh kéo đến phong tỏa Cảnh Đức Trấn, không cho ai rời khỏi. Trong đó có 1.000 kỵ binh trực tiếp bao vây Ngự khí hán. Có điều kỵ binh không quấy nhiễu người trong trấn nên mọi người cũng yên tâm chờ đợi.

Mười ngày sau, Phạm Thế Căng rời Nam Xương, đích thân dẫn Bảo Tiệp quân đệ nhị sư, đệ tam sư đến Cảnh Đức Trấn.

Phạm Thế Căng đến nơi, mệnh lệnh truyền xuống, quân đội lập tức tập trung tất cả các nghệ nhân gốm sứ, những người thợ làm việc trong lĩnh vực gốm sứ về một nơi, rồi dù muốn hay không muốn, tất cả đều bị cưỡng chế di cư về phương nam cùng với gia đình. Ai phản kháng, vẫn như mọi khi, trảm toàn gia. Dưới lưỡi đao sáng loáng, hầu như chẳng ai dám kháng cự. Tân gia của bọn họ đã được chuẩn bị sẵn ở Thuận An huyện, phía bắc Gia Định Thành. Giang Phong đã quyết định cho xây dựng nơi đó thành một trung tâm gốm sứ của Đế quốc.

Phạm Thế Căng chỉ cần những nghệ nhân, thợ gốm. Còn chủ xưởng, thương gia, phú hộ, quan viên, nho sĩ, tức những đại nhân vật thì xử lý giống như ở Tô Châu, Hàng Châu, Dương Châu – toàn trảm, gia sản tịch thu. Dân cư ở Cảnh Đức Trấn chỉ được chia thành 2 loại : người làm công (9 phần) và giới chủ (1 phần). Người làm công thì di cư về Thuận An, Gia Định. Giới chủ thì toàn trảm, bởi bọn họ là những người dễ thiên hướng về Minh triều nhất. Đế quốc chỉ cần thợ gốm sứ, không cần chủ xưởng gốm sứ. Các xưởng gốm sứ ở Thuận An hiện tại tuy quy mô không bằng ở Cảnh Đức Trấn, nhưng đó là do thiếu thợ, chứ tay nghề của các nghệ nhân ở đấy cũng chưa chắc thua kém những nghệ nhân ở Cảnh Đức Trấn. Dù sao thì Thái Học Viện lúc nào cũng nghiên cứu các công nghệ mới, mẫu mã mới, rồi đưa ra áp dụng tại các xưởng gốm sứ ở Thuận An. Còn ở Cảnh Đức Trấn thì chỉ nghề truyền nghề, làm theo kinh nghiệm mà thôi. Gốm sứ Chu Đậu thời Trần chất lượng rất tốt, trước khi quân Minh sang thì các nghệ nhân Chu Đậu đều đã di cư đến Thuận An. Chỉ đáng tiếc, nghệ nhân gốm sứ vẫn còn ít quá, không thể mở rộng quy mô, vì thế mà Giang Phong mới nhắm đến Cảnh Đức Trấn.

Sau khi xử lý xong công việc ở Cảnh Đức Trấn, Phạm Thế Căng truyền lệnh : san bằng Cảnh Đức Trấn. Không chỉ có thế, rất nhiều xác người chết, xác động vật chết còn bị ném xuống giếng, hồ, ao, đầm quanh đấy để sau này gây ra ôn dịch, để không ai dám đến đây sinh sống nữa. Phạm Thế Căng quyết định xóa sổ hẳn Cảnh Đức Trấn. Nếu sau này có người xây dựng lại Cảnh Đức Trấn thì khó thể xây dựng ở đây. Mà nếu xây dựng ở nơi khác thì Cảnh Đức Trấn sẽ không còn là Cảnh Đức Trấn nữa.

Đầu tháng chín, tin thắng lợi tới tấp đưa về Soái doanh của Phạm Thế Căng. Đến lúc này, 14 châu phủ ở Quảng Tây (Nam Xương, Trữ Châu, Thụy Châu, Cửu Giang, Nam Đường, Nhiêu Châu, Quảng Tín, Kiến Xương, Phủ Châu, Cát An, Lâm Giang, Viên Châu, Cống Châu, Nam An) và 77 huyện đều đã bị chiếm lĩnh hoàn toàn. Phạm Thế Căng để 2 sư của Bảo Tiệp quân ở lại ổn định tình hình, sau đó đại quân tràn sang vùng nam Hồ Quảng ở phía tây, mục tiêu Động Đình Hồ.

Hồ Quảng là một tỉnh lớn, gồm có 31 châu phủ, 108 huyện. Hồ có nghĩa là cái hồ, ý muốn chỉ Động Đình Hồ; Quảng nghĩa là rộng lớn. Hồ Quảng là đất Kinh Châu xưa, có thể chia thành 3 vùng : vùng nam Động Đình Hồ (tức Hồ Nam), vùng bắc Động Đình Hồ (tức Hồ Bắc), và vùng đông Động Đình Hồ (tức phần phía nam của An Huy, phần phía bắc của An Huy thuộc về Nam trực lệ). Theo chỉ dụ từ Gia Định, bọn Phạm Thế Căng chỉ chiếm lĩnh vùng nam Hồ Quảng, các phần còn lại chủ yếu là cướp phá, xua dân di cư về phương bắc. Dưới sự uy hiếp của Bắc Dương Hạm đội, khu vực hai bên bờ Trường Giang sẽ bị biến thành vùng trắng, không dân cư, trở thành ranh giới tự nhiên với Minh triều, tạo điều kiện cho Đế quốc ổn định khu vực chiếm được ở phía nam.

Sang tháng 10, toàn bộ những vùng phía nam Trường Giang đều đã bị Đế quốc kiểm soát (trong đó có vùng trắng không dân cư ở hai bên bờ Trường Giang). Quảng Tế Pháp sư cũng đã phái quan viên đến cai trị những vùng chiếm được. Theo ý của Giang Phong, những chức vị cấp tỉnh, quận sẽ do người Kinh, Mường, Chiêm đảm nhiệm (trong quan niệm của Giang Phong, người Kinh, Mường, Chiêm đều là người Việt). Còn các chức vị cấp huyện, ở vùng Vân Quý sẽ do người Thái – Lào đảm nhiệm; ở vùng Lưỡng Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến, nam Hồ Quảng sẽ do người Lã Tống, Mã Lai, Java đảm nhiệm. Việc trị an cũng do 20 vạn dân binh kiểm soát.

_________________________________________________

Do Vĩnh Lạc đế tập trung quân đội lên phía bắc, phương nam nhanh chóng đổi chủ. Vĩnh Lạc đế nổi giận lôi đình, huy động 100 vạn đại quân nam hạ. Thần Thánh Đế quốc chỉ có thể điều động 30 - 33 vạn chống cự. Với tình hình như thế, theo bà con chiến tranh sẽ diễn ra thế nào theo hướng có lợi cho Đế quốc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro