Đồng quê-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đói quay quắt giữa miền U Minh Hạ

TT - Không ai ngờ giữa miền U Minh Hạ lừng danh “trên cơm dưới cá” mà lại đói! Không chỉ đói mà là đói quay quắt. Những ngày này, mười nhà thì hết hai, ba nhà ăn cháo cầm hơi, lay lắt qua ngày.

Trên cánh đồng láng nước thuộc các ấp 10 và 11 của xã Nguyễn Phích (huyện U Minh, Cà Mau), cái đói đang len vào từng ngõ ngách. Bà Sáu Thành - 60 tuổi - than với mấy chị em láng giềng rằng “hình như mình già rồi nên không thể chịu nổi những bữa rau cháo thay cơm như mấy năm trước. Bữa nào ăn cháo, ban đêm xót ruột ngủ không được, nằm nuốt nước miếng tới sáng”.

Ăn cháo cầm hơi

Vì sao phải ăn cháo? Bà Sáu ủ ê: “Thì ai cũng khổ nên mượn gạo không ra. Còn một nắm gạo, nấu cơm ai ăn ai nhịn? Nên nấu cháo để cả nhà cùng ăn. Quanh xóm này, nhà Sơn, nhà Tấn, nhà Toàn... đều ăn cháo thay cơm hết”.

Chị Trần Thị Phương, vợ anh Nguyễn Thanh Toàn, buồn bã: “Nghèo tới mức ăn cháo nói ra quá nhục, nhưng gần như cả xóm đều vậy nên tôi cũng chẳng ngại gì. Từ khi ruộng lúa bị ngập hết trong nước, hơn một tuần nay nhà tôi ăn cháo bốn lần. Chiều nay chỉ còn một lon gạo, lại nấu cháo nữa thôi...”.

Ba đứa con của chị ngồi quanh mẹ, mắt buồn rượi. Đứa con gái út 8 tuổi, tên Nguyễn Thị Gọn, lay chân mẹ nài nỉ nấu cơm nhão, đừng nấu cháo. Chị vỗ đầu con gái nói “có khách, chút mẹ tính cho”. Hai hôm trước, con bé đã đề nghị như vậy và được mẹ đáp ứng. Nó ăn no một bữa đến cành hông.

Nghe vợ kể chuyện các con phải ăn cháo thay cơm, anh Toàn không giấu được nỗi thống khổ của người chồng, người cha. Anh kể rằng ngày về đây nhận đất làm ruộng, anh mang theo trên 3 triệu đồng, một con heo và chiếc xuồng máy đuôi tôm. Tất cả đã trôi theo những mùa ruộng thất bát. Chẳng những vậy mà hiện anh còn mang món nợ trên 6 triệu đồng là tiền vay mượn để làm ruộng và bù cái ăn trong những tháng thiếu đói. “Làm cha mà để con phải ăn cháo trừ cơm, tôi thiệt nhục!” - anh òa khóc.

Khắp những xóm làng chúng tôi đi qua, người ta nói toàn về chuyện đói. Đói tới độ đứa con gái 4 tuổi của chị Lê Thị Hồng Riêng toát mồ hôi, xỉu. May vừa lúc có bà ngoại ghé thăm, thấy vậy chạy mua gói mì, “nấu cho ăn xong là nó tỉnh”. Nhà chị còn được vài lon gạo vì “vừa rồi bán được con chó 200.000 đồng”.

Anh Bùi Minh Phụng, chủ tiệm tạp hóa ở ấp, than: “Cuốn sổ nợ tui thay liên tục vì đầy. Mấy năm trước còn bán được, càng về sau người ta càng khổ. Mua thiếu mua chịu nhiều nhất là gạo. Có người chỉ mua món hàng 1.000-2.000 đồng cũng thiếu”. Có người vì thiếu vài giạ gạo mà bỏ xứ đi luôn. Cô vợ anh, chị Võ Ngọc Kiệp, chỉ thằng con 4 tuổi: “Có người mua nợ tui lúc mang bầu thằng này giờ vẫn chưa trả nổi dù chỉ vài trăm bạc”.

Xung đột lúa - rừng

Ông Tô Văn Vĩnh - 63 tuổi - ấm ức: “Đói là do người chớ không phải do trời”. Ông dắt chúng tôi băng qua cánh đồng ngập nước tới bẹn, lơ thơ những bụi lúa vàng choét, rồi hỏi: “Nước ngập vầy mà không cho xả thì lúa nào sống nổi?”.

Không thể xả nước vì một lẽ: giữ nước để phòng cháy rừng. Ông Trần Văn Sử, giám đốc Công ty Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết công ty đang quản lý 29.000ha đất rừng, toàn bộ diện tích này đều được quây kín bằng những con kênh chứa đầy nước. Vì làm nhiệm vụ giữ rừng nên lâm trường không dám để thiếu nước. Mà giữ nước thì làm lúa úng ngập. Nhưng để cứu rừng thì làm sao cứu được người (đói)? Ông Sử chua chát: chịu! Ông Sáu Vĩnh than: “Mỗi lần xuống mạ đều phải cấy tới cấy lui vài ba bận cây lúa mới sống nổi vì lúc nào cũng bị ngập sâu. Lắm lúc gần tới mùa gặt thì trời mưa to, lúa ngập lút luôn, coi như trắng tay. Vậy hỏi làm sao không đói?”.

Đói nên người dân bất chấp, họ kéo nhau đi phá đập. Ở ấp 20, anh Đàm Văn Nguyễn chỉ một đoạn kênh bị phá, cho biết người dân ban ngày ra đắp đập giữ nước cho lâm trường nhưng đêm lại phá ra. Ông Nguyễn Hoàng Gắt, chủ tịch xã Nguyễn Phích, cho biết: “ở xã này, các con đập từ số 1 đến số 7 đang bị phá. Hiện xã đang chỉ đạo các ấp cố gắng giữ đập. Chỉ đạo là vậy nhưng chắc giữ không nổi, bởi dân không sống nổi thì họ phá đập, không làm sao cản”.

Lối ra nào cho người dân?

Ba ngày ở U Minh Hạ, ở với nhiều nhà dân, lần đầu tiên tôi thấy có đĩa thịt trong bữa ăn là nhờ nhằm ngày giỗ kỵ ở nhà anh Lê Văn Thông. Còn lại, bữa ăn chỉ có vài con cá nhỏ trong lõng bõng nước. Nhưng việc chứng kiến một bữa ăn, điều rất bình thường, cũng là hiếm hoi. Vào giờ cơm trưa, chúng tôi ghé vào hàng chục căn nhà, tuyệt không nhà nào nổi lửa. Những cái lò trên bếp lạnh tanh. Những xoong nồi úp chỏng chơ, còn rổ rá được treo rất ngăn nắp như lâu lắm rồi chưa được dùng.

Ở vùng Bảy Kinh, chúng tôi ghé vào nhà anh Phạm Văn Hải. Cô con gái đầu Phạm Thùy Trang - 15 tuổi, rất xinh nhưng suốt cuộc gặp chưa bao giờ nở nụ cười. Anh Hải bảo Trang học rất giỏi nhưng nhà nghèo quá, mẹ lại bệnh nên đã nghỉ học từ lớp 5. Em Trang, Phạm Chí Nguyện, cũng vừa nghỉ học. Cuộc sống của cả nhà chỉ trông chờ vào vận may của người cha đi đặt lọp bắt cá, bắt rắn mỗi đêm. “Có hôm trúng được năm, bảy chục ngàn. Cũng khó khi không được đồng nào”.

Vậy còn tiền giữ rừng, trồng rừng, khai thác rừng? Những người dân U Minh Hạ giận dữ: không thể đủ sống. Rừng ở đây được giao cho dân theo tỉ lệ ăn chia, nôm na lâm trường là ông chủ, dân làm và nộp thuế. Ông Trần Văn Sử cho biết: cứ 1ha rừng tốt người dân có thể khai thác được 15 triệu đồng/chu kỳ 13 năm, nhưng người dân không đồng tình: rừng lâm trường giao là rừng nghèo kiệt, chỉ làm ra 5-6 triệu đồng/ha/chu kỳ. Mỗi gia đình được giao bình quân 3ha rừng, 13 năm mới thu được khoảng 15 triệu, tính ra một năm được... 1 triệu! “Sống sao nổi?” - ông Nguyễn Ngọc Bá (ở kênh số 10) nói.

Vậy thì lối ra nào đây? Ông “chủ rừng” Trần Văn Sử bức xúc: phải tách lúa ra khỏi rừng để người dân được tự quyền canh tác, không bị ảnh hưởng bởi nước giữ rừng. Đó cũng là nội dung của “Đề án tổ chức lại sản xuất và bố trí lại dân cư khu vực rừng tràm tỉnh Cà Mau” đang được tỉnh này xúc tiến triển khai.

Ông Trần Văn Thức, phó giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau, nhìn nhận: “Chúng tôi đã thấy được nỗi khổ của nông dân khi bị bó buộc trong những cơ chế quản lý bảo vệ rừng tràm U Minh Hạ. Đề án tổ chức lại sản xuất và bố trí lại dân cư sẽ giải quyết được bế tắc trên. Mục tiêu cơ bản của đề án là trao quyền độc lập sản xuất, không bị chi phối bởi cơ chế giữ rừng cho khoảng 6.000 hộ dân dưới tán rừng U Minh Hạ hiện nay”.

Ông cho biết thêm kinh phí thực hiện đề án lên đến 482 tỉ đồng và được thực hiện từ nay đến năm 2015. Tuy nhiên, mọi thứ vẫn đang là đề án, nằm trên giấy. Đề án trên cũng chỉ mới nghe chứ người dân chưa được thấy, được biết. Nhưng cái mà ở đây ai cũng thấy, cũng biết là đói hằng ngày, hằng tháng

Đặc sản U Minh Hạ quê tôi

Quê hương của Trúc Thanh nằm nép mình cuối dãy Trường Sơn. Nơi đó có núi, rừng, ruộng, rẫy và biển xanh. Thanh chưa bao giờ đặt chưn xuống miệt đồng bằng. Từ ngày về chung sống với tôi, Thanh chỉ biết quê chồng qua những câu chuyện kể hoặc đọc qua sách báo và xem phim ảnh chớ chưa một lần nhìn tận mắt. Thanh ao ước:

– Ngày nào về nước em sẽ về quê anh, em rất thích sóng nước miệt đồng bằng sông Cửu Long.

– Em ở miền núi nên em thích đồng bằng cũng như anh ở miệt đồng bằng thì thích về miền núi – tôi tự hào khoe với vợ – quê hương anh được cái là thiên nhiên ưu đãi nên có nhiều món ăn dân dã, anh cam đoan với em, từ Trung ra tới ngoài Bắc không đâu có được miền trù phú như U Minh.

– Nói cho cố đi ông!

– Em dìa rồi em sẽ biết.

Tôi không nói quá lắm đâu. Quê tôi vùng ven thuộc về U Minh Hạ, ra biển thì tôm cá biển, vô sông thì cá tôm sông, lên ruộng thì cá đồng, rùa, rắn... Trên trời chim chóc rất nhiều loại như: diều hâu, diệc, cò đen, cò trắng, le le, chằn bè, vịt nước.... Những vườn cò, sân chim mỗi nơi rộng hàng chục công đất vuông. Nhứt là vào những buổi chiều chim, cò bay về rợp bóng mát và kêu ríu ra ríu rít vang động cả góc rừng. Cò mần ổ trên những bụi chà là có nhiều gai nhọn. Đầu mùa mưa, cò đẻ trứng, người ta chuẩn bị áo, quần và may bao tay dầy đề phòng gai chà là quẹt rách da, chảy máu. Họ mang gùi, vác móc vô rừng móc một buổi đầy hết gùi nầy sang qua gùi khác, họ ăn cho tới khi trứng lộn mới ngưng lại. Đợi tới khi trứng nở con, chờ cò con bể bọng, mọc lông non, đủ thịt thì họ lại xách gùi vô một đợt nữa móc lấy cò con đem về bán cho quán nhậu hoặc tự làm đồ nhậu.

Nghe tới đây Thanh chận:

– Cò con ăn được sao?

– Được chớ, cò con thịt thơm, xương mềm, đem nướng, khìa nước dừa hay rô ti thì ăn rất ngon và nhậu rất bắt.

– Ngày về nước em sẽ xuống miệt U Minh ăn những món ăn dân dã cho biết.

U Minh Hạ rộng thênh thang. Nếu đi đường biển từ vịnh Rạch Giá trải dài xuống tới vịnh Gò Công, cạnh mũi Cà Mau, thì sẽ thấy rừng mắm xanh rì tiếp liền với mặt biển. Mỗi năm bãi biển nơi đây được phù sa bồi ra năm sáu chục thước, trái mắm trôi tắp vào bãi bám rễ mọc lên cây con. Ven bãi cây mắm còn non, chiều cao không quá ba thước, nước lớn ngập khuất gốc, nước ròng lòi lên đất bùn. Ngoài những râu mắm (rễ gió) chi chít từ mặt đất chĩa lên trời ra không có cỏ cây nào khác mọc. Càng lấn vào trong đất sét càng dẻo, cây mắm càng già tàn cây càng xum xuê lá, gốc cây mắm lớn vừa lỏn trong vòng ôm của một cánh tay. Cây mắm dễ đốn và tiện lợi cho những dân nghèo che chòi ở tạm, lót vạc nằm. Cây mắm đốt lên gây nhiều khói làm khó chịu cho mấy bà nội trợ mỗi khi đun bếp nấu cơm, nhưng nó rất công hiệu nhúm bếp un xua đàn muỗi đói. Những cây cối khác do chim nhả hột hoặc cây và trái giống trôi trên sông rạch tắp vào lần lượt mọc rải rác trên những vùng đất cao như cây bần, cây chà là, rau muống biển, ô rô, ráng và dây choại mọc chằng chịt đan nhau. Dây choại U Minh Hạ số lượng không nhiều nên khi cần người ta chặt về dành trói cua, xâu cá chớ không đủ thu hoạch hàng tấn mỗi năm như choại ở miệt U Minh Thượng.

Đặc sản U Minh Hạ có tôm, cá, cua, ốc len, vọp, sò, ba khía... Cái gì hổng biết chớ ba khía muối là trúng tủ Thanh rồi. Thanh rất thích ăn ba khía muối, vậy mà cô chưa từng biết hình dạng con ba khía còn sống ra sao và cách muối ba khía như thế nào. Trước khi về sống với tôi, cô tưởng tượng ba khía là con cua biển con. Tôi phải một phen giải thích, ba khía tám cẳng hai càng, cũng giòng họ nhà cua nhưng không phải là cua biển, thân hình không lớn hơn cái chén ăn cơm, vỏ nó nham nhám, màu tim tím, trên mu khuyết ba rạch nên người ta đặt tên là ba khía. Ba khía còn tươi đem luộc thịt khô khốc, bời rời không mùi vị gì hết. Nhưng sau một tuần hoặc mười ngày ngâm trong nước muối tách vỏ rút thịt ra, thịt dẻo và mùi thơm rất là đặc biệt, ta có thể pha thêm chanh, đường, tỏi, ớt vào để vài giờ thì ba khía có thêm hương vị đậm đà, vô cùng hấp dẫn.

Có một lần Thanh qua tận Paris , cô xục xạo đâu đó trong mấy tiệm bán thực phẩm Việt Nam được bốn con ba khía muối và cô mua thêm vài trái xoài xanh. Đem về hí hửng khoe với tôi. Thật tình từ ngày sang định cư xứ người cho tới nay, các loại mắm thì ăn ngon hết chỗ chê rồi, nhưng ăn một lần ba ngày sau trong nhà vẫn còn hôi. Nhứt là ăn ba khía phải dùng tay tách vỏ, một lát thì hai bàn tay hôi rình. Tuy nhiên thấy vợ vui tôi cũng hùa theo cho vợ khỏi bị cụt hứng, hơn nữa lâu lâu ăn một bữa ba khía muối chắc cũng ngon, nhà có bị hôi một tuần lễ cũng chẳng hề gì. Đứng nhìn Thanh lui cui gọt xoài, bâm nhuyễn để trộn ba khía, tôi cao hứng đọc bài dân ca.

Tháng bảy nước nhảy Cà Mau

Tháng mười ba khía hội kéo nhau đi mần

Năm Căn, Rạch Gốc, Rạch Bần...

Muỗi kêu mặc muỗi tao mê ba khía hồi

Thanh thắc mắc:

– Nước chảy chớ làm sao nước nhảy được và ba khía hồi là ba khía gì?

– Nghe dân ca hay ca dao em phải hiểu ý người ta nói gì chớ. Miệt dưới anh vào mùa mưa mực nước dưới sông dâng lên tràn bờ người ta gọi là nước nhảy, tháng bảy mực nước lên cao nhứt nên có câu: “Tháng bảy nước nhảy lên bờ.” chớ nước chảy thì chảy quanh năm hổng có gì đặc biệt hết nói làm gì. Còn ba khía hội đọc trại ra cho đúng vần thành ba khía hồi.

– Sao không nói mê ba khía rồi cho đúng vần.

– Vậy mà em cũng nói được, em ỷ có chút chữ rồi muốn sửa thơ ca người ta sao thì sửa à. Người ta nói ba khía hội thấy mà mê, chớ con ba khía xấu òm ai mê cho được.

Tới đây Thanh mới chịu nhưng cô còn ráng bướng:

– Cũng được, nghe giống thơ của Bút Tre lắm.

– À, cái nầy em phải nói là thơ Bút Tre giống dân ca mới đúng vì cái dạng dân ca có vần điệu na ná như thơ Bút Tre từ xưa miệt đồng bằng sông Cửu Long trai gái ông già bà lão đã dùng để hò hát và nói vè. Chỗ anh ở có câu vè như vầy: “Kinh Ngang có bác ba Phì cái gì hổng biết chớ... dóc thì một cây.” Nhiều người nghe hiểu lầm là bác ba Phì tức là bác ba Mập nhưng thật ra là vì kị huý người ta hổng kêu thẳng tên bác ba Phi nên mới đọc trại ra thành bác ba Phì. Một là đúng vần hai là khỏi lo con cháu bác ba Phi nghe được rồi nổi xung xách dao phay rược chém.

Trộn xong tô ba khía Thanh vừa bưng để lên bàn vừa cười mỉm:

– Em nghe anh nhắc tới bác ba Phi làm em muốn cười đây, nhưng xong rồi mình dọn chén ăn cơm đi.

Thật ra ba khía muối từ Việt Nam bay qua Pháp, rồi từ Pháp vượt trên năm trăm cây số qua tới Hòa Lan thì thịt rã tan ra nước hết, còn bốn cái vỏ bọng không, nước ba khía đã đổi màu đen đen và có hơi nặng mùi nhưng có lẽ nhờ tôi đọc và cắt nghĩa bài dân ca hay quá và trộn trái xoài xanh bầm nhuyễn còn pha thêm tỏi, đường, chanh, ớt cộng thêm tình nghĩa vợ chồng làm cho mùi vị ba khía dịu lại. Chiều hôm ấy hai vợ chồng ăn xoài chua trộn nước muối ba khía và mút hết bốn cái vỏ ba khía bọng. Tuy thực phẩm không mấy an toàn nhưng được cái là vợ chồng tôi có bữa ăn rất vui và cái bao tử của chúng tôi cũng khá tốt nên đêm đó không phải tốn thêm nước dội bồn cầu.

Có lẽ tôi phải kể tiếp chuyện ba khía hội và những biến cố sau nầy làm cho ba khía không còn hội, nếu không kể bây giờ thì sau nầy ba khía tiệt giống thì hổng còn ai biết nó rõ ràng hơn. Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện vào giữa những năm sáu mươi tới sau năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm. Lúc tuổi của tôi vừa nhận thức được ít, nhiều về cuộc sống, tôi đã theo ba, má lang thang xuống tận cùng miền đất nước. Ai đã từng tha phương cầu thực khắp miệt U Minh Hạ nếu không sống bằng nghề bắt ba khía thì cũng một lần biết qua mùa ba khía hội. Nhứt là vào những đêm trăng già tháng Mười, dưới dòng những con rạch xuyên vô khu rừng mắm hoặc rừng đước thì sẽ thấy trên những chiếc xuồng tam bảng, người ta chuẩn bị sẵn những chiếc đèn lồng hay những bó đuốc mù u hoặc đuốc tẩm dầu. Xuồng nhỏ thì chở vài ba chiếc khạp da bò, xuồng lớn thì chở những chiếc lu to tướng. Trong khạp, trong lu đựng lưng lửng nước muối pha sẵn (Độ mặn của nước muối rất là quan trọng cho việc muối ba khía; lạt quá thì ba khía trở mùi khai khai, mặn quá thì ba khía rụng ngoe, rụng càng, trong lúc ủ sơ ý để nước lã lọt vô thì ba khía bị bủng thịt và nước ba khía đen thui, hôi rình). Thời đó chưa có ống thủy đo độ, người ta pha nước muối dùng hột cơm và phối hợp với lưỡi để đo, sau khi đổ muối vô nước quậy đều người pha nếm thử nhắm chừng vừa mặn, muốn chắc ăn họ bỏ một hột cơm vào nước muối, nếu thấy hột cơm nổi lên mặt tức là vừa đủ độ để muối ba khía. Ba khía muối đúng độ để bảy tám tháng vẫn ăn được. Đêm trên rừng, trong ánh đèn lồng lờ mờ dưới ánh trăng già hơn nửa mảnh, ta thấy ba khía hội đen thui rạp trên một dãi ráng hoặc trên những dãi ô rô. Lúc đó người ta mang bao tay vào từ từ hốt bỏ vô bao rồi đem xuống xuồng đổ vào những chiếc khạp và những cái lu nước muối. Có đêm ba khía hội nhiều đến đỗi người ta hốt đầy lu, đầy khạp và khẳm xuồng mà ba khía vẫn còn loi nhoi, lúc nhúc quện nhau một khối đen ngòm.

Khoảng cuối năm sáu mươi trở về sau thì ba khía hội xa xóm nhà, xa kinh rạch hơn. Cho nên dân bắt ba khía phải cơm ghe bè bạn đi sâu vô rừng. Đêm về trải những chiếc nóp đệm đan bằng lát trên xuồng rồi chui vô ngủ chờ trăng lên mới đi lùng ba khía hội. Tuy cực khổ hơn trước kia nhưng cuộc sống dân mần ba khía vẫn còn thoải mái. Cho tới sau năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm. Năm đó dân ở thành thị thất nghiệp đổ về miệt U Minh và dân Hà Nam Ninh từ miền Bắc tràn vô ước chừng nhiều hơn ba khía hội nữa. Mỗi chiều lên, dọc theo những dòng rạch, đoàn xuồng nối nhau vào rừng, họ chuẩn bị đèn soi có, đuốc có và có cả đèn pin. Xuồng bắt ba khía nhẹ hững, mỗi chiếc chở vài ba người (bây giờ không còn dùng khạp, hay lu đựng ba khía như xưa nữa) mỗi người mang theo đèn và một thùng thiếc có nắp đậy để đựng ba khía. Bất kể ngày tháng, trừ những ngày ba khía lột, ban đêm họ thắp đèn soi sáng khu rừng giống y như ngày hội. Có người sót sa chỉ tay vào rừng: “Nhìn coi kìa, người hội chớ ba khía còn đâu nữa mà hội.” Thật vậy, cả một đoàn người lùng bắt làm anh chị ba khía hoảng hốt chui tuốt dưới hang. Tuy không chuyên nghiệp như những người mần ba khía trước kia nhưng cách bắt của họ phải nói là siêu đẳng, anh chị ba khía chui tuốt dưới hang sâu, họ để nguyên tay áo, thọt cánh tay tận nách quyết chí lôi ra từng con một. Cách bắt ba khía của họ tuy dã man thật, nhưng ta cũng nên cảm thông, vì nghèo đói họ phải tranh thủ thức suốt đêm trong rừng, lội bùn tới háng, chịu cho muỗi và bù mắt hút máu để kiếm từng con ba khía về đổi gạo. Sáng xuống xuồng rửa mặt, móc trong lỗ mũi một cục khói đèn, khói đuốc đen thui. Nhưng nhiều nhỏ gì đâu, người nào giỏi thì bắt được đầy một thùng thiếc cũng là trúng lắm rồi.

*

Cách đây hai năm tôi đưa Trúc Thanh về thăm quê tôi tận vàm sông Ông Đốc. Từ Cà Mau đi đò tốc hành về sông Ông Đốc Vàm mất hơn ba giờ đồng hồ cho sáu chục cây số đường sông.

Chúng tôi về nhằm lúc cúm gia cầm và chim chóc chết dịch, chết gió cũng nhiều. Xa cách hơn hai chục năm trời trở về thấy cảnh vật quê hương hoàn toàn thay đổi, duy tánh hiếu khách và hài hước của bà con quen biết thì không mấy đổi thay. Thấy vợ chồng tôi tới thăm, nhà nào cũng mần gà, mần vịt đãi đằng. Khi nghe tôi hỏi chuyện cúm gia cầm và chim chóc bịnh thì nghe họ cao giọng:

– Ối, đó là gà công nghiệp, chớ gà, vịt ở nhà nuôi thì mạnh như thần, tui bảo đảm gà, vịt nhà tui không con nào bị bịnh hết, ăn đi, cứ ăn thoải mái. Còn chim hả? Mấy sân chim miệt Đầm Dơi bị chết nằm la liệt, có đợt bầy chim đương bay trên trời tự dưng rớt xuống lộp độp... dẫy đành đạch, chết hết ráo, chẳng còn một con. Tốt hơn hết đừng ăn chim chóc miệt nầy, nguy hiểm lắm.

Tôi không nhịn được cười, quả là không hổ danh con cháu bác ba Phi. Gà thì con phân biệt được gà công nghiệp hay gà nhà nuôi, còn chim chóc thì làm sao phân biệt được chim miệt nầy miệt kia. Định hỏi nhưng thôi, dù sao anh nầy cũng là truyền nhân của bác Ba, tôi cần phải kính trọng. Vả lại, dầu tôi có hỏi cách nào chăng nữa thì ảnh cũng trả lời qua tuốt luốt...

Về với quê hương mà tôi cứ ngỡ mình tới một nơi nào xa lạ và mới thấy lời hứa với Trúc Thanh quả là khó thực hiện. Những dự tính của vợ chồng tôi hình như không phù hợp với người ở bên nhà. Chuyện mùa màng tiêu tang, cá mắm hết sạch, rừng cây bị tàn phá... không nóng bỏng bằng chuyện ông cán bộ nầy cất nhà lầu, bà Việt Kiều kia về mua đất... Những miếng đất ngày trước là rừng, bây giờ bán cũng được giá lắm. Họ chờ đợi vợ chồng tôi một chuyện gì khác hơn, còn chuyện của chúng tôi thì đối với họ giống như chuyện của một hành tinh nào ở ngoài trái đât. Nhưng hổng lẽ tôi lại đi mua một miếng đất để làm chỗ cho chim, cò đậu và cho ba khía làm hang? Mà nói cho cùng bán hết tài sản nhà tôi cũng chưa chắc gì đã mua mổi một thẻo đất ở đây. Ở chơi cả tuần lễ mà tôi cũng chưa biết cách nào đưa Thanh đi và cũng hổng biết nói làm sao cho cô thoả mãn tánh tò mò. Hỏi chỗ đi chơi thì nơi nào cũng đương quy hoạch. Sông Đốc Vàm bây giờ là thị trấn và đã đổi thay quá sức tưởng tượng. Nhà lầu cao lợp ngói, lợp tôn. Ngoài đường xe gắn máy hai bánh chạy ào ào, người ta ở đâu đổ về đông như kiến cỏ. Ngày trước bên kia sông nhà cửa lưa thưa chen theo rừng rậm, bây giờ rừng bị phá sạch, nhà cửa mọc lên như nấm mọc mùa mưa. Động vật thì hiếm hoi. Muốn ăn con cua, con vọp phải đặt mua một hai ngày. Còn ba khía muối có pha đèn tìm đỏ con mắt cũng chẳng ra nói chi là đốt đuốc. Cá, tôm biển không còn nhiều. Ghe câu mực, đánh cá phải ra tuốt hải phận quốc tế, tận ranh giới Thái Lan hay Mã Lai câu và đánh mới có.

Một chiều kia tôi đứng phía sau nhà nhìn con nước lớn lấp lững, có một con ba khía cái chống cẳng đứng dưới gốc cây mắm lùn còi cọc mọc lẻ loi giữa bàu nước cạnh hông nhà. Tôi quay vô nhà kêu Thanh ra xem cho biết con ba khía sống, chắc cô vui thích lắm. Thanh hớn hở đi ra đứng quan sát con ba khía một hồi cô day qua hỏi tôi:

– Tại sao càng của con ba khía chiếc lớn, chiếc nhỏ mà có vẻ không được bình thường?

Tôi nhìn kỹ con ba khía hơn, chẳng những cặp càng của nó trông có vẻ bịnh hoạn mà còn rụng thêm hai ngoe nữa. Tôi nói theo kinh nghiệm của mình:

– Có lẽ trước kia nó bị tai nạn làm sao đó, phải dùng tới đôi càng chống đỡ để thoát thân, cuối cùng thua cuộc bị gãy hai cái ngoe và phải bỏ lại hai chiếc càng mạnh và cứng; phải qua một hai mùa trăng, lột vỏ một vài lần, đôi càng mới mọc lại được, dĩ nhiên đôi càng sau thì không đẹp và mạnh bằng đôi càng trước.

Nhìn chị ba khía đứng lẻ loi đưới gốc cây mắm non trơ cành còi cọc, giọng Thanh xót xa:

– Tội nghiệp quá, gà bịnh, chim chóc cũng bịnh cho tới ba khía ở dưới hang cũng bị tật nguyền.

Nghĩ tới những khu rừng bị phá hoang và những động vật từ rừng ra tới biển, từ lớn cho tới nhỏ đã bị tàn sát thảm thương. Tôi nói:

– Con người ăn những thứ nầy bị bịnh cũng phải lắm.

– Nghĩa là sao anh?

– Em không thấy sao, từ ngày về tới giờ vợ chồng mình hỏi chuyện ai cũng cười xoà nói cho qua. Hình như họ chờ đợi mình một cái gì khác hơn là chuyện rừng cây bị phá, gà vịt, chim chóc bị bịnh chết và nếu bây giờ mình đem chuyện con ba khía tật nguyền nầy ra nói thì chắc họ cho là mình điên.

– Nếu thật vậy thì vợ chồng mình bịnh chớ đâu phải họ bịnh.

Quê hương tôi bây giờ trông giàu đẹp lắm, nhưng sao tôi vẫn thấy nó nghèo nàn, lạc hậu hơn thời xa xôi ấy. Tôi không muốn nói thêm, bèn lảng sang câu chuyện:

– Anh mới vừa kêu mấy cháu đặt mua mấy ký lô vọp cho em ăn thử.

Có lẽ Thanh cũng đã cảm nhận được sự mất mát của quê hương nầy, cô buồn bã nói như thể cho một mình mình nghe:

– Tới nước nầy rồi còn lòng dạ nào ăn với uống.

Khi chúng tôi nhìn lại thì nước dưới bàu đã ngập lên tới chỗ chị ba khía đứng, chị ta bèn leo lên thân cây mắm còi để tránh mực nước dâng. Tôi khều Thanh và chỉ chị ba khía:

– Em coi kìa, chị ba khía leo lên cây tránh nước lụt, nhìn chị ta mà anh nghĩ tới con người khi thất thế sa cơ thì chạy nạn, khi đường cùng thì đấu tranh giành giựt đến đỗi từ thể chất đến tinh thần cũng tàn tạ đâu khác gì chị ba khía gãy càng rụng ngoe kia.

  Thanh thở dài một cái rồi kéo tôi, vừa đi vô nhà cô vừa tuyên bố:

– Bắt đầu từ ngày mai cho tới ngày về bển, vợ chồng mình sẽ ăn chay!

Nhủi ốc đồng xa

SGTT.VN - Một buổi trưa đầu năm, chúng tôi mục kích hình ảnh nhủi ốc rất ấn tượng: hai anh em vác nhủi xuống bàu nước lạnh tái cả người, hai tay nắm hai cán nhủi vừa đi vừa đẩy vừa lắc. Họ đi khoảng vài chục mét thì dừng lại, nâng nhủi lên lấy ốc bỏ vào giỏ rồi nhủi tiếp.

Trao đổi với chúng tôi bên bờ ao, hai anh em ruột Lê Quyền (41 tuổi) và Lê Điểu (39 tuổi), đều trú tại thôn An Hoà, xã Điện Phong (Điện Bàn – Quảng Nam), cho biết: “Nghề nhủi này là cha truyền con nối. Ông nội tôi truyền lại cho cha, cha truyền lại cho chúng tôi và đã đi nhủi từ năm 15 – 17 tuổi”. Nghề nhủi cũng có mùa: tháng 9, tháng 10 thì đi nhủi cá, ra giêng trở đi thì nhủi ốc hút, mùa hè nhủi tép… Mỗi loại hải sản đều có dụng cụ nhủi phù hợp…

Người dân Quảng Nam có câu ca: “Siêng đi tát, nhác đi câu, muốn cho đầy bầu: chạy dề, dác nhủi”. Thật vậy, trong các dụng cụ đánh bắt cá như cái lờ, tay lưới, cái đó, cần câu… thì cái nhủi khá độc đáo. Ngoài chức năng bắt cá, nó còn mang ít nhiều dáng dấp “nghệ thuật”, mà tổ tiên cư dân lúa nước ta đã dày công chế tác. Những cái nhủi này thu hút nhiều du khách nước ngoài tò mò xem và chụp ảnh.

Anh Lê Điểu cho hay, dụng cụ nhủi bắt cá có hai cái cán bằng ngọn tre chéo nhau hình chữ X, giữa hai ngọn tre là một tấm “sáo” bện bằng những cọng tre vót nhỏ, đầu dưới là một miếng gỗ có lưỡi mỏng. Khi “nhủi”, nước sẽ thoát ra qua những cọng tre, chỉ còn lại cá hoặc những gì có trong nước. Nhủi có nhiều loại như: nhủi đụt thì dài khoảng 2,6 mét và lớn hơn, dưới lưỡi nhủi có gắn thêm một cái phao bằng hai hoặc ba ống tre (kín mắt) nhằm không cho nhủi chìm. Gần cuối thân nhủi, người ta lắp một cái vỉ bằng nan tre đan thưa, nhằm cản không cho rác vào cái túi bằng vải lắp ở cuối thân nhủi để chứa cá, tép... Nhủi đụt có thể nhủi nước cạn bắt tôm, tép dưới sông, ao.

Nhủi ốc giống như nhủi đụt, nhưng giữa các cọng tre bện thưa và lớn hơn chỉ để giữ ốc hút lại, bùn, đất theo nước thoát ra ngoài. Anh Lê Điểu nói, trung bình mỗi ngày nhủi, mỗi người được khoảng 30kg ốc hút, bán được 5.000 đồng/kg. Còn đi nhủi tép thì ngày được khoảng một ang (30 chén), bán 5.000 đồng/chén. Trừ chi phí, mỗi người kiếm khoảng 100.000 đồng/ ngày. Đi xem nhủi có khắp các vùng sông hồ, bàu, đầm… ở Quảng Nam – Đà Nẵng. Có khi xa ra đến Thừa Thiên – Huế và xem nhủi đến chiều mới về.

Anh Quyền kể, đi nhủi cá muốn mau đầy giỏ thì phải đi cho đông người, nhiều nhủi, dàn hàng ngang, hai tay nắm cán nhủi – vừa chạy vừa đẩy. Cá bị động, nhảy tứ tán. Nhiều khi cá từ nhủi này nhảy qua nhủi khác – nhất là cá lóc, may nhờ rủi chịu, kể cũng vui. Nhất là các đám ruộng, khi các trận lụt đã dứt, người ta đang cày làm vụ đông xuân. Khi cày xung quanh đám ruộng, diện tích đất chưa cày thu hẹp dần, nước đục, nhủi có nhiều cá. Còn nhủi ốc hút thì chỉ cần vài ba người nhủi có bạn cho vui… là được.

Ốc đồng - Cua đồng đổi đời

Hồi còn nhỏ, gia đình nghèo lắm ngày hai bữa cơm còn khó. Tôi nhớ có lần cả nhà ăn cháo vì hôm ấy mẹ tôi bán hàng bị ế. Vì những tháng mưa nhiều, nhưng vui! Cả nhà quây quần bên mâm cơm canh rau đạm bạc.

Thuở còn đồng hoang cỏ cháy, những tháng mưa nhiều ngoài đồng thiếu gì cua và ốc. Cả cái xóm nhỏ nghèo như xóm tôi ai cũng sinh sống bằng nghề làm thuê cuốc mướn. Những lúc rảnh rỗi công việc thì đi bắt ốc bắt cua đi bán, kiếm tiền mua chai nước tương chai nước mắm. Cuộc sống đời thường là như vậy đó. Ngày hai buổi bươn chải mà không kiếm được là bao, có hôm đội cả thúng ốc một giỏ cua mà bán còn ế. Không ai mà mua cái thứ hương đồng cỏ nội đó, thế là về cả nhà ăn một bữa no say, nào là ốc xào mặn, cua luộc chấm muối tiêu... ăn hai ba ngày vẫn còn. Nhưng thích lắm món ốc xào mặn của mẹ, món cua xào chua ngọt. Trong thời buổi như vậy, khi đến nhà ai nhìn thấy trong bữa cơm mà có bất kỳ món ốc hay món cua nào, thì biết rằng gia đình đó khổ sở mới ăn cua ăn ốc. Tôi còn nhớ lúc tôi còn học lớp 5 đội xề ốc đi bán một ký chỉ được 800 – 1000 đồng (tính từ năm 1993) cả xề ốc 8-10 kg bán hết chỉ được khoảng 8.000-10.000 đồng, xem ra cuộc sống cơ cực với con ốc, con cua đã nuôi tôi bước qua tuổi thơ đáng nhớỐc nước ngọt còn gọi là ốc đồng, ốc vàng, danh oa. Theo quan niệm y học cổ truyền thịt ốc tính hàn, vị ngọt, thành phần chủ yếu là chất đạm, mỡ, cacbua hydrrat, canxi, photpho, sắt, các sinh tố B2, PP, A... Đông y dùng ốc luộc để chữa vàng da, phù thủng, bệnh gan, trĩ,... Có thể chế biến ốc thành nhiều món ăn rất tốt cho sức khoẻ.

Ngày nay trong thời buổi mở cửa, đất nước phát triển nhiều so với trước, chuyện về những gia đình nghèo bắt ốc bắt cua thì đã trở nên hiếm hoi, chuyện ra đồng bắt ốc bắt cua bán kiếm tiền xem ra như chuyện hiếm, con ốc tự nhiên giờ trở nên khan hiếm. Miệt Đồng Tháp của tôi dường như ốc tự nhiên đã khan hiếm, thay vào đó là những ao nuôi ốc nuôi cua có tính qui mô và sức cạnh tranh lớn.

Ốc mực tuộc

SGTT Xuân 2012 - Kêu đứa con trai tên Phú mở một nắp thùng đông dưới khoang ghe, ông Dương Thành Châu hì hục lôi lên một bao mực tuộc nặng chừng 15kg cho khách dòm, phía dưới thùng còn lại một bao nữa, đây là phần mối kêu để dành nên không bán. Ghe ông Châu mới về tối qua để ăn đám cưới.

Sinh thái

Ngày xưa, khi chưa có nghề câu (hay bắt) mực tuộc bằng vỏ ốc, ông Châu bắt mực lá bằng bóng, gọi là bóng mực. Bóng dài một mét, ngang sáu tấc, hình thù giống thùng phuy nhưng có một mặt phẳng, khung được làm bằng gỗ, lưới bao quanh các mặt, chừa một lỗ, đặt hom cho mực lá chui vào. Bên trong bóng treo một chùm trứng mực lá còn tươi. Bóng thả xuống biển một buổi, mực cái chui vào làm tổ đẻ. Ghe lớn chở được ngoài trăm bóng, ghe nhỏ chừng năm, sáu chục. Mực lá tuy mắc tiền nhưng hiếm, bóng lại hay bị ghe cào phá nên giờ cũng ít người làm. Như nhiều ngư dân xóm chài, ông Châu đổi nghề sang câu mực tuộc bằng vỏ ốc, được năm năm.

Ông Châu nhớ lại chừng mười năm trước, chính dân chài ở cái xứ Hòn Heo này (thuộc xã Dương Hoà, huyện Kiên Lương) “phát kiến” ra nghề câu mực bằng vỏ ốc. Một ông thợ lặn thấy mực tuộc chui vào nằm trong các vỏ ốc dưới đáy biển, về nhà ông thử quăng mấy vỏ ốc xuống ven bờ, mực tuộc cũng chui vào, thế là Hòn Heo có thêm nghề mới, gọi là ốc mực tuộc. Mực tuộc không lớn, râu (xúc tu) ngắn, thân to và dài so với râu, xứ này gọi mực tuộc để phân biệt với bạch tuộc lớn hơn nhiều, đầu nhỏ tròn, râu dài. Dân chài có nhiều cách giải thích tại sao mực tuộc lại ưa chui vào vỏ ốc: tuộc vô kiếm tổ đẻ (nên bắt được tuộc cái nhiều) hay lấy vỏ ốc làm nơi rình mồi hoặc chỗ núp khi bị săn đuổi... Cái hay nhất của nghề là không phải thả mồi gì và không tận diệt. Nghề câu mực tuộc bằng ốc sống cũng được, nhưng theo ông Châu, “kẻ cung cấp vỏ ốc mới ngon”. Khi nghề này mới bắt đầu, có người trong xóm tên là Hùng, dân Phan Thiết, trở về quê lặt vỏ ốc mang vô đây bán cho dân câu tuộc. Thứ ốc giác này biển miền Trung đầy rẫy, ăn xong quăng vỏ chứ biết làm gì. Ông Hùng giàu lên trông thấy, mua mấy chiếc xe tải chở vỏ ốc, xây nhà lớn.

Sống nghề

Cách làm dây ốc xem ra cũng dễ. Liêm Hái, một chủ vựa vừa thu gom mực tuộc, ghẹ, cá, vừa gia công và bán dây ốc mực tuộc trong thị xã Hà Tiên hướng dẫn: “Chọn vỏ ốc chừng nắm tay người lớn, thọc ba đầu ngón tay vào là vừa, cưa đít, mài bớt miệng và khoan một lỗ để xỏ dây, sau cùng cột vào dây, loại dây viền lưới cá, khoảng hai sải tay một con”. Ông Liêm Hái tính, một thiên ốc dài khoảng 4km, giá bán 12 – 15 triệu đồng. Người mua xuất sang Thái Lan, Campuchia. Ở ấp Hòn Heo thì chủ ghe nào cũng tự mua vỏ ốc làm dây, giá có thể mắc hơn nhưng tốt hơn. Vỏ ốc giác dày, cứng, xài nhiều năm mới mục.

Kêu đứa con trai tên Quý, 18 tuổi và cũng là “bạn ghe” lấy bè (kết bằng những miếng xốp lớn) chở người tò mò ra chiếc ghe lớn đậu cách bờ vài trăm mét, ông Châu mở khoang “biểu diễn” cách thả dây ốc. Hai khoang nhỏ phía mũi ghe chứa đầy 12 thiên ốc. Để thả hết 12 thiên, ghe phải chạy liên tục 26 hải lý, mất chừng năm tiếng. Thả xong nghỉ chừng tiếng rưỡi là thu dây, mất sáu tiếng nữa. Máy cuốn dây lên khoang, mực tuộc trong ốc bò ra, người xếp dây, kẻ ướp mực tuộc. Ghe lớn từ 4 – 5 bạn, làm quần quật 17 tiếng mỗi ngày, từ nửa đêm đến 5 giờ chiều, mới thả – kéo xong một mẻ.

Mỗi năm biển có hai mùa, mùa nam (nửa đầu năm) và mùa bấc (nửa cuối năm). Mùa làm ăn là mùa nam, khi đó cả trăm chiếc ghe ốc mực tuộc nối đuôi qua vùng biển Phú Quốc đánh bắt (bên đó nhiều mực tuộc hơn). Hàng tháng trời mới về thăm vợ con. Mùa bấc, hầu hết ghe trở lại Hòn Heo vì biển động, mực tuộc bên này cũng ít, giá lại thấp, nên chỉ kiếm bằng nửa số tiền mùa nam. Tuy về nhà, nhưng chỉ là neo ở bến nhà, hầu hết ghe ốc mực tuộc vẫn đi cả chục ngày.

Bắt đầu từ Hòn Heo, nay ốc mực tuộc đã đi khắp Kiên Giang từ hòn Nghệ, hòn Sơn, hòn Củ Tron… sang Phú Quốc và qua cả Campuchia, Thái Lan. Bốn mươi sáu tuổi và có ba mươi năm lênh đênh trên biển, ông Châu đúc kết, vẻ ngậm ngùi: “Cái nghề này khó giàu nhưng bền vì không tận diệt, chỉ sợ với nạn ghe cào điện, cào bay, liệu ít năm nữa mực tuộc có còn?”

KÝ ỨC ĐÓI KHỔ

Buổi tối, tôi ngồi ở quán cà phê ở tầng thượng của một nhà hàng nổi tiếng, thả hồn vào cảnh vật xung quanh. Ở đây thật là đẹp, nhìn xuống thấy vô số những ánh đèn trên đường phố Nam Kinh, cả thành phố đang trỗi dậy trong khí trời đêm mát mẻ.

Bên trong nhà hàng, một ban nhạc trẻ với những nhạc công mặc những bộ đồ tây rất thanh lịch, đang chơi những bản nhạc du dương như ru hồn những vị thực khách. Vẫn còn món tráng miệng nhưng tôi không thể ăn thêm vì đã rất no. Thư giãn khá lâu đã làm tinh thần tôi phấn chấn lên rất nhiều.

Trong lúc mông lung ngắm cảnh, tôi chợt nhớ đến những ngày tháng chiến đấu ở Tây Bắc, đóng quân ở đại sư đoàn 120. Trong khi chiến đấu quân đoàn phải dời lên một thôn nhỏ thuộc huyện Thần Phủ, nằm ven sông Hà Tây. Lúc đó không có lương thực, chỉ còn mỗi ít đậu đen, không đủ chia cho một người một bao, nên hỏa đầu quân phải hầm mềm đậu đen với nhiều nươc, rồi chia cho mỗi người ăn. Tính ra như vậy thì mới đủ cung cấp cho mỗi người hằng ngày đều có cái ăn lót dạ. Lúc đó chúng tôi đều là thanh niên nam nữ khoảng 20 tuổi, mỗi ngày ăn như vậy thì làm sao no được chứ? Thật là đói, đói đến nỗi có thể ăn bất cứ tứ gì.

Cho dù khó khăn như vậy, bộ đội chúng tôi vẫn được chăm sóc y tế đầy đủ mỗi khi bị thương. Có một lần tôi bị thương khá nặng, Tiểu Quách đã bưng đến cho tôi một bát cháo, tuy nó có hơi loãng một chút, nhưng nhìn những hạt gạo trắng to tròn hòa với cái màu vàng óng ánh của b1i đỏ, trở thành một món ăn rất ngon, vừa đẹp vừa thơm, rất hấp dẫn. Lúc đó tôi không nỡ ăn bát cháo đó.

Đến tận bây giờ, hương vị bát cháo bí đỏ năm xưa vẫn khắc sâu trong tâm trí tôi, thậm chí nghĩ rằng sẽ không tìm được hương vị tuyệt vời ấy một lần nữa, cho dù trước mắt tôi bây giờ là một bàn tiệc sang trọng đầy những món ăn ngon.

Quá khứ khổ cực đã trôi qua, nhưng ta vẫn phải hiểu được nỗi khổ của người khác. Dù gì, những nỗi khó khăn, khổ cực chính là những bậc thang để con người bước lên bục trưởng thành.

đói 54

     Cái đói khủng khiếp 45 tôi chỉ biết qua sách báo, qua ảnh tư liệu, mà lớn lên mới biết. Còn cái đói 54 thì tôi được chứng kiến từ đầu, được nếm trọn.

     Trận lụt năm ấy là lớn nhất từ khi tôi nhận biết cho tới bây giờ. Nhà tôi ở bên sườn núi, nên lụt không tới. Nhưng đứngở nhà tôi thì nhìn thấy rõ nước đang lên rất nhanh trên con sông Rộchảy ngang trước cửa. Những ngày ấy mưa rất to, nhưng vừa mưa vừa nắng. Rồi nước từ rào cấy (sông Lam) tràn sang phá lỗ ngay dưới chân núi, bên cạnh gốc đa cổ thụ, ào ạt đổ xuống rào con (sông Rộ), tạo ra một vệt xói lở kinh khủng dưới gốc cây gối, làm cây gối đổ. Cây gối ấy to ghê lắm, ba người ôm không xuể. Nó đổ xuống rồi thì trước nhà tôi chỉ còn hai gốc đa cổ thụ nữa thôi. Ngày trước ba cây to cao như nhau, chụm lại che mát cả vùng bến bại, làm nơi nghỉ ngơi cho bà con đi làm đồng mỗi trưa, mỗi chiều về qua.

     Dòng nước phá lỗ dừng lại khi mực nước hai sông ngang nhau. Đứng trên núi nhìn xuống xóm, nhìn ra đồng, tất cả trắng lăng, không bờ bến. Người dưới xóm kết bè chuối, chở nhau lên núi. Nhà tôi chật cứng người từ dưới nền lên trên chạn. Ngoài triền núi có thêm những túp lều dựng tạm.

     Mấy ngày đầu chưa đói ngay, còn có cái ăn, thậm chí còn có cả thịt lơn, thịt bò. Lụt lên nhanh quá, nhà ai không kịp đưa lên núi thì bò lợn bị chết.

Lúa ngoài đồng mới cúi bông thì ngập, mất trắng. Mẹ tôi nuôi dở lứa tằm, đành chèo bè hái dâu, tôi ngồi trên bè với mẹ, nhìn thấy bong lúa chìm sâu dưới nước.

    Lụt ra là bắt đầu đói. Làm sao qua được cái đói thì tôi đã viết rồi. Lại có cả cải cách, đấu tố. Đêm đêm mẹ đi dự đấu tố đều đưa tôi đi cùng. Tôi ngủ gà ngủ vịt, thỉnh thoảng mở mắt thấy có người đứng chỉ tay, nhui vào mặt người quỳ dưới đất mà nói gì dữ tợn lắm.

    Gia đình cậu Cả tôi bị quy địa chủ. Mự Cả không chịu nỗi, tự quyên sinh. Cậu Cả bị quản thúc trong cái lều con dưới hố đoạn bến Khính. Ấy thế mà năm cướp chính quyền, cậu Cả là chủ tịch ủy ban lâm thời của xã Võ liệt. Cậu Hai tôi cũng bị quy là phú nông. Mà cậu Hai là đảng viên 30, mãi sau này công nhận lão thành cách mạng. Tôi nhớả Cúc con cậu Hai, lấy chồng, thì cha chồng cũng bị quy địa chủ, lại còn bị bắn, mà cụ cũng từng là cán bộ Việt minh, ả phải quay vềở với cậu mự. Ả sinh đứa đầu ở nhà ngoại. Thương cậu Cả, ả vắt sữa của mình vào chai, nhủ tôi và anh Dụng mang sang cho cậu Cả. Lần đầu hai đứa nhỏ chúng tôi biết cái mùi hoi hoi của sữa. Tưởng chỉ có thế, ai ngờ tôi nhớ mãi cái mùi ấy cho mãi đến bây giờ.

     Bà ngoại ở với mẹ con tôi. Bà già, yếu lắm rồi. Ông ngoại là học trò cụ giải San. Ông thi đỗ giải nguyên trước cả thầy học của mình một khóa. Ông không ra làm quan, nhưng trong dân vẫn gọi ông là cụ Giải. Ông lại ủng hộ Xô viết Nghệ Tĩnh, bị Pháp bắt giam và chết trong nhà lao Vinh. Mãi sau này Ông được công nhận là liệt sĩ. Lại nói về bà, chịu đựng những tháng ngày đói khổ và cay cực như thế, người bà cứ khô dần đi. Một bữa bà dặn mẹ tôi: Con kiếm cái gì bán được, mua cho mẹ ba tờ giấy bản. Hôm sau bà nhắm mắt. Ba tờ giấy bản là để đắp mặt cho bà, chứ lúc bấy giờ lấy gì mà khâm liệm cho chu tất được.

     Mộ bà cách nhà không xa. Đưa bà ra mộ, tôi nhớ mình được giao cầm cây cờ triệu. Dựng đứng cây triệu thì tôi giữ được, nhưng khi đi qua tán cây, phải nghiêng cây triệu xuống thì tôi cũng bị chúi theo, gượng mãi mới dựng lại được.

     Dồn dập bao nhiêu là sự kiện, cái đầu bé tí của tôi làm sao mà chứng kiến, mà phải ghi nhớ, thế mà nhiều cái không quên. Ông Ngô là em ruột ông Giải, hai anh em đậu đồng khoa. Ông Ngô ra làm quan. Năm 45 ông bị bắn. Mặc dầu bây giờ ông đã được gọi là chí sĩ yêu nước, nhưng khi đó thì bà Ngô và các cậu, các dì khổ lắm. Nhà cửa, đồ đạc bị tịch thu, bà và các dì các cậu phải ra ở cái chuồng bò bỏ không dưới gốc cây đa. Ngày ngày các cậu các dì mò cua bắt ốc mà lấy cái ăn. Rồi cái nồi đất để luộc ốc cũng bị người ta đập bể mất, đành vun lá đa, đốt lên mà nướng.

      Tôi còn thấy sách vở của hai ông, toàn bằng chữ nho, bị người ta chất lên thành đống rồi châm lửa đốt. Cái nền đất đốt sách ấy là sân nhà bà Xoán, tôi nhớ chính xác như thế.

     Cậu Dinh, con ông Ngô cũng bị quy địa chủ, bị tịch thu hết sạch. Cậu bỏ quê đi ngược lên phủ Quỳ, phủ Bọn, làm thuê qua ngày. Cậu bị sốt rét rừng, sưng lá lách, phải mang cái bụng báng. Mự Dinh và mấy đứa ở lại làng trong cơ cực. Tôi nhớ dáng mự với cái cào bé tí, ngồi bệt xuống đất mà cào mà cuốc từng nhát con con xuống mảnh đất cũng con con, gần đình.

Ông Lương, em của ông Giải và ông Ngô thì đã mất, còn bà Lương cũng bị quy địa chủ, bị tịch thu hết cả. Ông bà vốn ăn ở hiền lành, ông lại không đậu đạt gì, không gọi là quan, chỉ thường dân thôi. Đến khi đói quá bà Lương phải đi mót, nông dân có người thương còn dấu cho cả lượm lúa trong đống tooc… Chỉ quanh chuyện nhà với bà con mình, tôi đã đủ để bể cái đầu, không biết sao tôi còn nhớ.

     Vì nhà tôi ở trên rú, nên tôi được thấy người ta trồng hai cái cọc ở dưới eo, quãng giữa trại cậu Hai và trại ông Tám Dờn. Dưới chân cọc có hai cái rọ như là rọ lợn nhưng dài hơn nhiều. Hồi sau thì người ở đâu kéo về rất đông. Tôi còn nhỏ, chỉ nhìn thấy lưng người khác. Rồi có tiếng nổ chói tai, sau mới biết là tiếng súng. Đám người giãn ra, người ta kéo hai cái rọ có xác người trong đó, ngược qua eo, sang mái rú bên phía rọng ao mà chôn. Hai cái mộấy không có nấm, mà chỉ khỏa bằng, lâu ngày thì lõm xuống. Lũ chăn bò chúng tôi gọi là mả địa chủ.

     Cái đói, cái khổ, cái gì nữa tôi không biết hết, là những ký ức đầu đời của tôi, khi tôi bắt đầu có trí nhớ tương đối rành rọt. Lớn lên tôi có hỏi lại mẹ. Có điều thì mẹ trả lời, có điều mẹ im lặng. Có người mẹ biết tên, có người mẹ không nhớ. Có khi mẹ nói: con đừng hỏi.

     Rồi cái đói 54 qua dần đi, rồi có sửa sai. Rồi các anh, các chị con cậu Cả, cậu Hai, các em con cậu Dinh, các dì các cậu con bà Ngô với cả bà Ngô nữa, cả bà Lương và các dì con bà Lương, lần lượt đi khỏi làng, đi không còn một ai, trừ một chị phải ở lại nhà chồng. Nhiều người đi bộ đội, đi thanh niên xung phong. Dẫu cái lý lịch còn đè nặng nhiều năm, nhưng bây giờ ai cũng trưởng thành, ở khắp mọi miền đất nước. Mỗi khi gặp nhau, dù không nhắc lại, nhưng ai cũng ngậm ngùi, nhất là mỗi dịp về quê

Đói

      Ngày xưa đói là chuyện thường, no mới là lạ. Nay nước mình thuộc hạng nhất nhì thế giới về xuất khẩu gạo mà dân đói thì lạ quá. Lạ nữa là không phải chỉ có vài ba người đói, mà cả làng đói, cả mấy huyện liền có người đói. Con số gần 1/4 triệu người đói gay gắt ở Thanh hóa mới nghe cứ tưởng người ta nhắc chuyện 45, ai dè là thực giữa năm 2011. Càng lạ hơn là thời của thông tin, mà mãi tới khi 24 vạn người đói rã rời rồi mọi người mới biết. Ở đâu cũng có chính quyền, cũng có cơ sở đảng và nhiều tổ chức quần chúng khác nữa, mà dân đói thế này sao không biết. Hay có biết mà cố tình ém nhẹm đi cho qua kỳ bầu cử. Nay thấy không gượng qua được thì mới hé tin ra.

       Không biết với người khác thì thế nào, nhạy cảm với cái gì, còn riêng tôi thì nhạy cảm với đói. Tuổi thơ chưa từng được no, lớn lên trong cái đói thì làm sao mà quên cảm giác đói được. Năm 1954 quê tôi lụt lớn, vào đúng lúc lúa vừa cúi bông, cánh đồng ngập trắng, vụ mùa không hạt thóc. Đói từ giáp hạt tháng tám, kéo qua mùa đông, dần dần mới có khoai non, có ngô, mãi tháng năm năm sau mới có miếng cơm vào bụng.

      Những năm đầu sáu mươi cũng chẳng khá gì. Tôi nhớ ngày đó người ta thật thà lắm, tôn trọng luật lệ lắm, nhưng mà đói quá cũng có lúc không giữ được mình. Có người ăn cắp mấy nải chuối còn dè dặt để lại mảnh giấy: Chính sách tôi học đã thông / nhưng vì đói quá xin ông nửa buồng. Đọc mảnh giấy này còn ai nỡ oán nhau nữa, cùng cảnh cả thôi, bầu ơi thương lấy bí cùng.

     Rồi chiến tranh trên khắp cả hai miền, hạt gạo chia hai, chia ba, chia tư no làm sao được. Chiến tranh kết thúc thì cấm vận. Rồi lại biên giới tây nam, biên giới phía bắc có giặc. Rồi chủ quan nóng vội, rồi duy ý chí, tất cả đều dồn về chỗ đói.

      Từ hồi khoán hộ đỡ đói dần, rồi no, rồi có gạo xuất khẩu. Bây giờ đã là cường quốc xuất khẩu gạo. Đùng một cái, cả phần tư triệu dân Thanh hóa đói gay gắt. Đọc tin này trên NXD blog mà bàng hoàng. Bình tĩnh sao được, mình đã từng đói rồi, mình biết chứ. Ngần ấy người đói lúc này là ngiêm trọng lắm.

     Hàng loạt câu hỏi đặt ra mà mình không biết nguồn cơn đâu cả. Phải chăng hiệu ứng Vinasin đang diễn ra, kéo theo hàng loạt những đổ bể ngấm ngầm khác, kèm thêm mất mùa, kèm thêm bão giá. Dẫu gì thì cũng phải cứu dân. Đã có quá nhiều tiếng kêu cứu rồi, lại thêm một tiếng kêu cứu nữa. Đói quá! Quốc hội ơi! cứu dân

Món ăn dĩ vãng

“….Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì “những người muôn năm cũ” ? Họ là phần ký ức nhỏ trong một khoảng hành trình nào đó  của đời người. Khoảng  hành trình này đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó…”

Xe cháo huyết…đêm

Mùa đông 75, Sàigòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng..lạnh. Chiều xuống là… nhậu.  Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ, hoang mang với hiện tại và nghi ngờ tương lai… Vô vài xị với bè bạn cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp xe về nhà, táp vô xe cháo huyết  gần trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…

Cháo huyết ngon, ngon  từ  cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm và dai, với vài khoanh chào cháo quẩy mỏng dính …Cho ớt bằm thiệt cay… ấm lòng kẻ say xỉn..  Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô, cháo đã ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế !

Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa tô. Phải ăn tới 5 tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo “đạn”, thì kêu một tô, cho ớt thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.

Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để  xe cháo lại vợ chồng người con trai. Thằng con vẫn nhận ra… khách quen,  bàn tay múc cháo của nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn !

Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… xây cất nhiều, cảnh đổi thay,  chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…

Năm nay Sàigòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…

Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…

Quán cháo lòng … chiều

Gọi là quán cho bảnh, chứ  đó chỉ là cái…sạp, ngó xéo sang  chợ Đa Kao ở đường Nguyễn Huy Tự.  Quán chỉ bán buổi chiều, từ 2 giờ đến 5 giờ là vãn.

Bà chủ quán trạc 35, chưa chồng, chảnh,… Khách chiều bả, chưa thấy bả chiều khách. Mặt lạnh, ít cười. Ít không có nghĩa là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với…đàn ông.

Cháo lòng là phải đủ bộ: huyết, tim, gan, phèo, phổi,… Huyết không có gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm trên kia, nhưng tim gan phèo phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày… Dồi bà này làm mới …tuyệt! Khúc dồi to như… ống nước, và chỉ nhồi thịt, chiên dòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi.… Khách thích, muốn mua chỉ cháo và dồi. Không bán! Chảnh thế đó!

Cháo hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như  cháo huyết hầm tôm khô mực khô nói trên… Cháo lòng ăn với hành củ  tím thái mỏng, ngâm dấm, ớt bằm,…

Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/ tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng, trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu cho cả tháng đây ?

Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500 gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ (600gr),.. mang về nộp cho bà già gọi là…trả hiếu (để tối về còn có cơm nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (3 gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút.  Sữa hộp (condensed milk), làm phòng lab, nên Nhà nước “bồi dưỡng độc hại” mỗi tháng 1 hộp. May quá bà già tôi không biết uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy “hàng” ra chợ trời hồi đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa Kao) thu gom,…đắt rẻ 1 chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…

Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm,  xuân thu nhị kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm,… Coi như trên đời không có protein. Bỏ hết ! Nhịn hết ! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình người điên đảo,.. Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao ngủ được, sức đâu mà  chịu  nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của ngày mai khi bước chân vào cơ quan…

Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy, được Đảng và Nhà nước “nâng niu”trên giấy. Thời hậu chiến mà. Nghị quyết của đảng phán rằng : “…trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt”… Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái, còn sống sao thì mặc xác. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu cấp Bộ, sáng chiều mặc áo blouse (bảnh à nghen !), nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burrette.., tối về đi “cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học nhiều hơn. Hồi đó chưa có…lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa phần là con cán bộ từ rừng, trình độ cũng… rừng, dạy phải hạ thấp, hạ thấp nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hòi. Thế mới tài! Những đứa khá, phải cho bài tập riêng, khó hơn nhiều. Hôm thi về, đưa giấy nháp khoe “thầy”. Perfect!  Thế  mà rớt. Tối đó, thầy trò ngồi quán cà phê. Buồn ứa nước mắt! Tương lai tắt ngỏm. Mấy em bây giờ ở đâu? Vái Trời, mấy em đang ở bên kia… đại dương.

Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng…người thế này?  Thôi trở lại lòng…heo.

Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ coi chảnh, nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ 2 giờ chiều, đang dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả :

- Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…

- Ngộ cái gì ?

- Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huych toẹt ra. Chị coi được mắt, làm đồ mồi ngon,  sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…

Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả  đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu,..bla…bla….

Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên dặn nhỏ bà chủ “ Hôm nay, tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên của chị quá xá… Chị bán cho tui 1 tô, không lấy cháo, chỉ  lấy lòng và dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy…”.

Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.

Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người khác vui sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi…đạo đức? Thế giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn? Giây phút nào vui đây?

Năm 84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa Kao. Giữa thập niên 90, trở  lại quán cũ, thì người khác ngồi bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi.. .

Cháo lòng Đa Kao bây giờ vẫn còn, nhưng không ngon như hồi xưa nữa, nước cháo nhạt, dồi cắn mà nghe thịt.. rã rời…

Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì “những người muôn năm cũ”? Họ  là phần ký ức nhỏ trong một khoảng hành trình nào đó của đời người. Khoảng hành trình này đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó…

Lúc đầu định viết “Món ăn dĩ vãng”, viết hết đủ món, viết một lần cho xong, nhưng mới viết tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, đã thấy mỏi..tay. Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn…đọc. Mà dù không còn người đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào đâu.

Còn  sò lông, còn gỏi khô bò, còn thịt cầy, còn bia lên cơn, còn  rượu Cây Lý,… Những thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần, thật gần…tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết bài này. Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá !

Quá gần mà cũng quá xa… Thời gian lãnh đạm với mọi biến cố.

Về Mộc Châu nhớ ăn món ốc đá suối Bàng

Sau cơn mưa chiều, đám thanh niên bản Khoang Tuống (xã Suối Bàng) hò nhau ra suối bắt ốc. Tối đó, những chén rượu ấm nồng liên tục nâng lên đặt xuống bên đĩa ốc suối ngon lành.

Nhưng ai đó tưởng món ốc suối đã là ngon nhất thì quả là sai lầm. Suối Bàng còn có đặc sản ốc núi đá hấp dẫn hơn nhiều…

Ốc đá ở Suối Bàng thường chỉ xuất hiện từ tháng 4 đến cuối tháng 8, tức là vào mùa mưa, khi thời tiết ẩm ướt. Những tháng còn lại chúng vùi mình trong những lớp lá dày hoặc nằm im dưới đất. Chúng tôi cực kỳ may mắn đến Suối Bàng đúng vào mùa có ốc, đúng vào ngày mưa (chỉ những ngày mưa ốc mới xuất hiện), và gặp được người đi bắt ốc.

Trang phục đi rừng chỉnh tề, đeo con dao bên hông, khoác thêm chiếc túi, anh Mùi Văn Tuấn, bản Khoang Tuống leo lên ngọn núi um tùm cây cối sau nhà. Đường đi bắt ốc không theo lối mòn nào, anh Tuấn cứ phát cây, phát cỏ mà đi.

Những lớp lá đã mục nằm ếp xuống sau mỗi bước chân người. Trên những lớp lá mục ấy, trên những tảng đá rêu xanh còn ướt sũng sau cơn mưa thi thoảng lại thấy những chú ốc màu nâu đen đang nằm hoặc bò. Anh Tuấn cho biết: ốc này thường chỉ có ở những khu rừng rậm, nhiều cây cối, ẩm thấp. Chúng thường ra nhiều sau mưa để ăn lá cây.

Chỉ cần một đợt mưa rào là tha hồ bắt, nhiều tảng đá bắt được gần 10 con. Có những lúc, mỗi buổi anh Tuấn bắt được cả chục kg ốc. Hôm nay, trời mưa dầm nhiều ngày nên ốc không ra mấy. Tuy vậy, chỉ một loáng anh Tuấn cũng bắt được hơn 1kg ốc.

Những con ốc đá ở đây có hình dáng khá giống ốc núi bà Đen ở Tây Ninh, chúng không phát triển theo chiều dọc như ốc nhồi, ốc bươu vàng, nó phát triển theo chiều ngang, mình dẹp, to trung bình bằng hai đôt ngón tay, miệng loe ra có màu trắng sữa.

Về đến nhà, những con ốc được rửa sạch và đưa lên bếp luộc. Ở nhà anh Tuấn món ốc luộc chế biến hết sức đơn giản, không phải hấp hay luộc lá gừng, hay sả. Nước chấm cũng chỉ cần vài quả ớt chào mào xanh đỏ.

Con ốc khều ra quệt qua tí nước chấm bỏ vào miệng thấy cay cay đầu lưỡi, ốc chạm vào răng lại thấy dòn dòn, vị ngọt mát lan dần xuống cuống họng. Cái ngon ngọt, mát dòn của ốc đá là thế, không tanh nhưng có vị hăng, thơm của lá rừng. Ăn ốc đá nên nhai chậm và kỹ mới thấm được vị mát lành, vị thơm độc đáo. Và cũng chỉ ăn theo kiểu thưởng thức, không nên vì ngon, lạ mà háo hức "ăn lấy no" như nhiều món khác.

Bên đĩa ốc vừa đổ ra còn nghi ngút khói, anh Mùi Văn Khâm trầm trồ: những ngày mưa không đi nương được, ngồi bên đĩa ốc nóng là tuyệt vời nhất. Món này ở đây là đặc sản đấy, giá từ 25 đến 40 ngàn đồng/kg.

Những ngày mưa, có ốc người ta rủ nhau đi bắt đông lắm, nhiều người bỏ cả việc để đi bắt ốc về ăn. Theo lời anh Khâm, ốc đá ngoài luộc ra còn có thể chế biến thành nhiều món khác. Thường bà con không xào ốc vì khi xào ốc ra nhiều nhớt ăn không ngon, mọi người thường nấu canh.

Đun nước sôi lên, đổ ốc vào, cho thêm chút muối cho ốc dòn và khỏi tanh. Luộc chín tới rồi đổ ra khêu, thịt ốc đem nấu với lá nồm, lá chua hoặc măng chua… đều ngon. Cầu kỳ hơn, người ta có thể nạo xoài chua đem trộn với ốc và gia vị: mùi tàu, lá gừng, tía tô, chanh, ớt làm gỏi.

Hôm sau chia tay Suối Bàng, chúng tôi từ Bến Lồi (xã Suối Bàng) ngược Sông Đà  về Bến Trai (xã Quy Hướng), trên thuyền, chị Mùi Thị Liêu, bản Pưa Lai cho biết: sáng nay mẹ con tôi bắt được 4kg. Chúng tôi hỏi mua, chị cười có ít để ăn thôi, không bán.

Chỉ tay lên vách núi ven sông chị Liêu giới thiệu: ngày trước trên những cánh rừng này nhiều ốc lắm, nhiều người bảo nó ăn lá cây nên có thể làm thuốc được, giờ nhiều người đi bắt nên ốc cũng ít hơn rồi…

Có lẽ ốc đá có nhiều ở Suối Bàng vì nơi đây khí hậu trong lành, lại có diện tích rừng tương đối lớn với độ che phủ lên đến 70%. Nếu biết giữ gìn, bảo vệ, một ngày không xa khi du lịch Mộc Châu phát triển, có thể khách thăm quan đến Suối Bàng thăm hang Ma, thăm làng văn hóa của người Mường và thưởng thức đặc sản ốc núi đá.

Ốc suối mùa mưa

Những món ăn của núi rừng bao giờ cũng mang lại những cảm giác rất lạ, đã một lần thưởng thức hẳn sẽ nhớ mãi không nguôi. Ốc suối là món ăn như thế. Thế nhưng, cũng là những con ốc suối đó mà chỉ khi mùa mưa đến ốc mới thực là ngon. Bởi lẽ mùa mưa nước lũ mang theo phù sa từ nguồn đổ về, ốc suối ăn phù sa đó béo tròn, thịt chắc. Mùa đông giá lạnh ốc thu mình trong vỏ không chịu kiếm ăn gầy và rất khó bắt. Còn mùa xuân khi cây cối đâm chồi nảy lộc cũng là mùa sinh sản của ốc. Bởi thế vào những ngày tuần trăng ốc mang trong mình rất nhiều con nhỏ nên ăn sẽ mất hết cảm giác ngon miệng. Chính vì thế qua bao lần thưởng thức người dân ở các bản làng có các dòng suối đi qua đúc rút được một điều rằng khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút nước cũng là lúc ốc béo tròn ăn ngon nhất.

Tất cả những ai đã một lần thưởng thức ốc suối đều có nhận xét ốc suối ăn ngon hơn rất nhiều ốc sống nơi ao tù hay ruộng cũ. Ốc thì suối nào cũng có thế nhưng để bắt chúng thì không phải ai cũng có thể. Nhiều khách du lịch khi thấy dân bản cứ thò tay xuống nước là nhấc lên những con ốc to, béo mũm mĩm cũng lập tức muốn thử. Nhưng để bắt được chúng cũng cần có kinh nghệm. Thường những vũng nước lặng, nơi có những hõm đá tai mèo nước sâu đến tầm ngực ốc rất hay tập trung thành “đàn”. Gặp được vài vũng nước như thế là đã có một bữa tiệc núi rừng hấp dẫn không thể tìm thấy ở bất kỳ đâu.

Có rất nhiều cách chế biến ốc như luộc, hấp, xào hay nướng…tất cả đều phải khêu mới có thể ăn, riêng ốc suối có một cách “ăn” rất độc đáo đó là mút. Ốc ngâm cho hết bùn đất, đầy đủ gia vị như gừng, xả, lá chanh, ớt tươi, cho thêm chút muối xóc đề cho ngấm rồi chất bếp luộc. Khi luộc không đổ nước như thế ốc mới ngọt, gia vị ngấm đều. Ốc suối mút không cần nước chấm hay món ăn kèm nào khác, mình nó thôi cũng đã tạo thành bữa tiệc thịnh soạn. Vị cay của gia vị, lẫn với lại mùi thơm và vị ngọt của ốc, tan ra trong đầu lưỡi, vừa ăn bạn lại vừa có thể hít hà, người ăn cay đến thế nào cũng phải chảy nước mắt khi ăn món ốc mút độc đáo này. Khác với những món ăn khác, ăn ốc mút phải dùng tất cả năm đầu ngón tay, vừa ăn vừa mút chùn chụt mới ngon.

Không phải là đặc sản nhưng món ăn dân dã này lại đem lại sự ngạc nhiên thú vị cho biết bao người. Nếu có dịp đến với những bản làng bên những con suối róc rách vào mùa mưa bạn hãy tìm và thưởng thức ốc mút để một lần trải nghiệm một cách ăn độc đáo mang hương vị của núi rừng này nhé.

Mới nghe thấy thế, không hiểu sao trong đầu tôi lóe ngay lên bài ca thuộc từ hồi bé, từ thuở chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc, có tiếng sách giáo khoa (hình như các nhà soạn sách xếp vào phần các bài hát đồng dao hay là các bài ca nghề nghiệp gì đó), sau lại được đọc lại trong cuốn ''Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam'' của Vũ Ngọc Phan: Trời mưa/ Quả dưa vẹo vọ/ Con ốc nằm co/ Con tôm đánh đáo/ Con cò kiếm ăn/ Em đi lên rừng/ Hái quả bứa chua/ Em xuống dưới khe/ Mò con ốc nhỏ/ Em tra vào giỏ/ Em bỏ vào nồi/ Nó sôi sùng sục/ Nó sôi xình xịch/ Em đổ nó ra/ Em mút chí cha /Là cha chí chút/ Chì chà chì chụt/ Canh ốc thì nhạt/ Canh bứa thì chua/ Trời mưa/ Quả dưa vẹo vọ/ Con ốc nằm co/ Con tôm đánh đáo/ Con cò kiếm ăn... Nhớ bài ca này vì đọc lên thấy nó ''thân phận'' thế nào ấy, cộng với sự là lạ, ngồ ngộ, nhất là cái đoạn nhân vật ''em'' đi lên rừng (trong cái ngày mưa ấy) để hái bứa, xuống suối bắt ốc, rồi luộc ốc và ngồi mút chí cha chí chút, chì chà chì chụt (mà chắc chắn là ốc mút rồi, ốc mút thì mới mút thế chứ), để rồi thấy ''canh ốc thì nhạt, canh bứa thì chua''.

Thì hồi bé, tôi cũng đã từng đi bắt ốc suối, thấy có ốc nhể và nhiều hơn là ốc mút. Ốc mút ở nước ngọt hình như chỉ thấy ở suối; ở đầm, trằm hay ao, hồ không thấy nó thì phải, hoặc có thì rất ít, không nhiều như ở suối. Cũng ''tra vào giỏ'', về nhà ''bỏ vào nồi'' lẫn với lá bưởi, củ sả và kỳ lạ, cũng thấy nó lúc đầu ''sôi sùng sục'' sau ''sôi xình xịch'' thì chín, đổ ra, lấy cái thớt, con dao, ngồi chặt trôn (đít) ốc rồi hăm hở mút ''chí cha chí chút, chì chà chì chụt''. Có con rất khó mút, mút đau hết cả môi, rát hết cả lưỡi mà không ra. Người lớn bảo: Mày quay lại, mút ngược đằng đít nó, cho nó tụt lại, sau quay lại mới mút tiếp, mút mạnh một cái, là được. Tôi làm theo, thành công. Nhưng không ít con cũng gan lỳ tướng quân, xoay đủ cách, mút hết hơi nó cũng không ra, tức mình, lấy dao đập nát, rồi ngồi gỡ vỏ, lấy được cái ruột bé tý, nhấm ăn, lấy làm hả hê. Có điều, ngay lúc mút, đã thấy nó nhạt, nếu không nhúng vào nước chấm pha gừng, chả cần phải chờ đến lúc húp thử nước ốc luộc mới thấy câu ''nhạt như nước ốc''. Nhưng sao trong bài ca trên lại là canh ốc và sao ''canh ốc'' lại nhạt nhỉ? Nếu cứ theo nguyên thể của bài ở đây thì phải là ''nước ốc'' (luộc) mới đúng. Hay là vì nó liên quan đến ''canh bứa'' phía sau nên phải đổi thành ''canh ốc'' cho hợp lý? Hay là còn ẩn ý gì khác? Tóc bạc hết rồi, vẫn thấy nhiều bài ca dao, dân ca của các cụ xưa không thể hiểu được hết ý. Tỷ như câu: Gái thương chồng đương đông buổi chợ/ Trai thương vợ nắng quái chiều hôm. Người bảo thương thế là thương rất ít, lại có người bảo, không thương thế là thương rất nhiều.

Đang mạch, nói tiếp một chút về nước ốc luộc. Cách đây, thấm thoắt thế mà đã mười năm, ''người ấy'' ở Hà Nội, rủ tôi đi ăn ốc vào một đêm mùa đông, Bà bán hàng, chắc đã quen nàng lắm, nên chúng tôi vừa mới ngồi xuống chưa ấm chỗ, đã múc cho hai lưng bát nước ốc luộc nóng hôi hổi, thơm lừng mùi lá bưởi, mùi sả. Nàng bảo: Anh húp đi, xem thế nào. Tôi húp và ngớ ra vì ngạc nhiên, nước ốc không hề nhạt, rất vừa, nồng hương bưởi, sả, rất ngon. Nàng lại bảo: Húp lưng bát nước ốc luộc nóng này rồi thì sau đây ăn ốc không sợ bị ốc làm lạnh bụng, không sợ đau bụng nữa. Bà bán ốc cũng phụ họa: Đúng đấy! Có người cứ ăn ốc là bị đau bụng. Uống nước ốc luộc này xong là ăn được tất. Ô là là... Thế thì, có cả ''ngọt như nước ốc'' chứ?! ''Nhạt như nước ốc''/ ''ngọt như nước ốc''. Kỳ lạ!

Về sống với Vịnh Hạ Long, nói chuyện ốc mút, vợ tôi người Hạ Long bảo ''ốc này em cũng được ăn từ hồi bé. Nhưng không phải đi bắt, mà mua ở ngay cổng trường. Người ta bán ốc ủ nóng trong thúng. Xúc bằng cái bát con. Được một vốc. Lấy cái đồng 5 xu để bẻ trôn. Có hôm đang ăn thì trống vào lớp đổ ốc vào cặp, vào lớp giấu cô, bẻ mút tiếp...''. Cô ấy còn bảo, có lúc chẳng có đồng 5 xu thì bẻ trôn ốc bằng kẽ hở ở bàn, ghế học, ''bẻ được hết!”.

ừ nhỉ, thuở tiêu tiền hào, có cái đồng 1 xu, 2 xu, 5 xu có lỗ. Lỗ cái đồng 5 xu bẻ trôn ốc mút rất tiện. Mà hình như trong túi đứa nào cũng có những đồng xu này, để mua quà, để chơi đánh đáo; mua ốc mút thì dùng để bẻ trôn. Người bán ốc không trang bị cho thứ để bẻ.

Thế rồi đến thời đổi tiền, tiêu tiền đồng, tiền nghìn, không còn đồng 5 xu có lỗ, người bán có một đoạt những miếng tự tạo, hình như làm bằng tôn khá dày, hình chữ nhật, kích cỡ khoảng 5cm x 2,5cm, đục lỗ ở giữa. Gớm, bọn con gái, chúng nó cứ bẻ toanh toách, nghe rõ là vui tai.

Bây giờ người ta bẻ ốc mút bằng gì bạn biết không? Bằng kìm. Loại kìm nhỏ để tút cắt dây điện nhỏ, nơi gần khớp nối hai gọng kìm có lò xo để luôn đẩy cho miệng kìm mở ra. Dùng kìm này để cắt trôn ốc mút cứ là ngọt xớt. Tôi cắt nhanh cũng chẳng thua bọn con gái. Anh chủ quán bảo kìm này mua 12 ngàn một cái, của Trung Quốc. Ốc mút nước mặn (biển) khác hẳn với ốc mút nước ngọt (suối) về vị. Nó không nhạt, mà đậm đà hơn, đến mức chả cần chấm vào bát nước chấm pha gừng, chua chua ngọt ngọt, cay vị tương ớt mà vẫn thấy ngon. Có điều, một vốc trẻ con ốc mút ngày vợ tôi còn bé đi học mua, chỉ mấy xu, giờ đĩa ốc mút gom lại, cũng chỉ vốc trẻ con, không hơn, tãi ra trong đĩa nhìn thế thôi, mút nhoáng cái hết, mà những 20 ngàn một đĩa. Đắt ơi là đắt! Trong khi ốc chỉ to bằng đầu đũa.

Ai là người ăn ốc mút đầu tiên? Chắc chắn là người tiền sử. Ở Vịnh Hạ Long có một cái hang, gọi là Động Mê Cung, rất đẹp, có tua du lịch đi qua đấy, cho vào thăm động đấy, trong động này thảy có rất nhiều vỏ ốc chồng đống lên nhau cao hàng mét, đã gần hóa thành vôi. Ốc mút khá to, gần bằng ngón tay út. Rất thú vị là tầng vỏ ốc này, cả triệu con như một, đều không còn trôn. Ngày đó người tiền sử bẻ trôn ốc mút bằng gì nhỉ? Cứ như suy đoán của chúng ta bây giờ chắc lấy đá ghè. Chứ dùng răng cắn, thì răng của họ phải khỏe lắm. Còn như, biết đâu, đấy lại là của một nền văn minh đã lùi xa, người ta còn dùng thứ bẻ trôn ốc mút hiện đại hơn cái kìm cắt dây điện như hiện nay thì sao? Bởi lịch sử loài người tiến triển như một hình xoáy trôn ốc.

Có trời biết. Thôi, khỏi bàn. Cứ biết ốc mút, rõ ràng là một món khoái khẩu, kể từ khi có loài người trên trái đất... Và lối ăn vẫn y xì phoóc: Bẻ trôn rồi mút chí cha là cha chí chút, chì chà chì chụt, chì... chà... chì... chụt...

Ý, tý quên! Mách bạn một bí mật để xác định xem người đang đối thoại với mình bảo đã ăn ốc mút rồi có đúng thật  không. Nếu họ bảo, ăn thứ ốc này cứ hay bị cái vảy của nó mắc nơi hàm ếch, rất khó dùng lưỡi đẩy ra được, thì đúng.

Cua đồng mùa mưa

Dạo này người thành phố lại bắt gặp những anh chàng bán dạo, khi đạp xe, khi túc tắc chiếc honda cũ mèm, phía sau chở một bao bố to, phía trước lủng lẳng một chiếc xô chừng 20 lít cùng vài ba chiếc kẹp gắp than lúc lắc quanh thành xô, miệng rao gióng giả: “Cua đồng đâyyyyy”. Mua cua kiểu này là chỉ cân ký, rồi phải về tự làm. Ôi trời, bây giờ thì kể gì người thành phố, các bà nội trợ đâu đâu dường như cũng đã mất thói quen mua cua về làm từng con, ngồi giã kì cạch như xưa rồi. Ấy vậy nhưng mỗi khi dừng lại sau một tiếng gọi, xe cua di động đó vẫn thu hút các bà các cô trong xóm cùng xúm lại chọn cua. Chả là cua đồng đang lúc rộ mùa, thịt chắc mà gạch nhiều, ngon phải biết.Cua bây giờ mua về làm sạch, tách mai rồi là dùng máy xay nhuyễn, chứ cũng không có cối có chày để giã như xưa. Cái cối ngày xưa thực ra là chiếc nón vỏ nón lính bằng sắt, lật ngửa lên cho cua vào giã. Phải là loại cối này, hoặc cối đá thì mới giã được cua. Chứ nếu cối gỗ, cua sẽ không nát mà còn găm hết vỏ vào đáy cối.

Ở quê tôi những ngày mưa thế này, cua từ các hang hốc quanh mương bị ngộp, hay bò cả lên bờ. Người rành chỉ cần nhìn lỗ hang đã biết hang đó cũ hay mới, có còn cua trong ấy hay không. Nếu không phải người chuyên mò bắt thì vẫn có thể đặt lờ để bẫy cua. Chiếc lờ được đan bằng nan tre, đầu lờ gắn cái hom để cua tham mồi vào ăn mà không thoát ra được. Cũng lạ, dường như cua thích món gì trắng trắng, nên cứ để cùi dừa hoặc khoai mì trong ấy là chúng chui ngay vào lờ.

Thời đó, cua cũng không bán ký như bây giờ. Người ta bán theo chục 12 hoặc 16, xỏ cua thành từng xâu bằng dây chuối, dây lác. Người miền Tây nơi quê tôi thường nấu món canh chua cua đồng, để nguyên con khi ăn lấy ra gặm gạp. Còn những người Bắc di cư như gia đình chúng tôi thì chỉ nấu riêu cua. Tôi sợ bị cua kẹp nên không bao giờ rờ tới con cua lúc nó còn sống, nhưng lại thích được chòi gạch và giã cua.

Bà tôi thường cho lũ cua vào chiếc nồi gang, thêm chừng nửa nồi nước rồi đậy vung, xóc thật kỹ để sạch sình đất bám quanh vỏ cua. Phải làm vài lần như thế, đến khi nước trong thì những chú cua cũng đã ngất ngư, chỉ cần lấy ra xé đôi, không lo đến những đôi càng đầy dọa dẫm của chúng nữa. Loại cua vỏ vàng ngon hơn cua vỏ nâu ngả tím. Có người thích chọn cua đực vì nhiều thịt, nhưng cũng có người thích cua cái, vốn nhiều gạch và béo. Cua xé xong gỡ bỏ miệng và yếm, để riêng mai và thân vào 2 rổ cho róc hết nước. Cua phải khô thì lúc giã mới không bị bắn.

Ngồi tỉ mẩn chòi gạch cua cũng là một cái thú. Phải thật khéo, dùng tăm khều để gạch còn nguyên túi, không bị vỡ. Những túi gạch màu vàng, thỉnh thoảng lẫn cả phần trứng cua nâu li ti trông thật hấp dẫn. Xào với chút xíu dầu, gạch sẽ tươm ra vàng ươm giúp chén riêu cua hấp dẫn hơn. Giã cua là một việc cực nhọc, mỏi rã cả tay mới được một cối cua. Nhưng cua phải giã mới ngon mới dẻo, vì lúc đó sớ thịt không bị cắt đứt như khi xay, riêu nấu sẽ chắc hơn. Khi giã cho thêm chút muối cũng giúp cua đỡ bắn. “Sản phẩm” sau khi giã không đẹp mắt lắm, là một hỗn hợp dẻo quánh, đặc sệt và màu xám đen như bùn. Nhưng khi lọc xong nấu lên, cua sẽ đóng thành dề như những đám vân mây. Bà tôi thường chừa lại cho tôi những chiếc càng to không giã, cho vào nồi cùng lúc với rau. Chiếc càng cua nấu lên đỏ au, khi cắn giập bên trong vẫn còn đọng chút nước cua, ngọt lừ.

Riêu cua là món ăn nhà nghèo ở quê. Nó rẻ tiền, lại có thể kết hợp với nhiều loại rau lá, dễ đổi món cho đỡ ngán. Sống ở quê, cái sẵn nhất là rau. Thích rau muống thì ra cái mương trước nhà dùng liềm cắt xoẹt một bó, thế là có bát canh cua rau muống xanh biếc. Nếu thích ăn kèm cà muối chua thì rau đay rau dền ngoài vườn hay đám mồng tơi leo trên bờ dậu lại hợp hơn. Cũng có khi nhà tôi chỉ nấu riêu cua với vài quả cà chua, ăn kèm rau sống xà lách, rau muống chẻ. Những hôm cả nhà đông đủ, bà tôi thường nấu bún đa cua. Món này hơi lích kích, ngoài nấu riêu còn phải trụng bánh đa, luộc ít rau nhút, rau muống và cả rau cần nước. Nhưng những hôm nấu món này, cả nhà vui như hội và chiếc nồi 2 to đùng nhanh chóng cạn veo trong tiếng nói chuyện rôm rả và tiếng mưa rơi tí tách trên mái lá.

Hạnh phúc lúc ấy chỉ đơn giản vậy thôi. Nhưng những lúc hiếm hoi ngồi tự làm cua như hôm nay, tôi lại nhớ đến thắt lòng cảnh nhà nghèo mà đông vui những ngày xưa cũ.

Món mì gắn bó với tuổi th

Mình chưa đến xứ Quảng bao giờ, nên cũng chưa nếm được cái nắng gió nơi đó, càng không biết được nơi đó có những gì. Qua các mối quan hệ bạn bè, mình cũng quen biết được vài người bạn xứ Quảng và mình có học chung với một cô bạn xứ Quảng . Hôm nay, khi ngồi chơi nói chuyện, mình hỏi cô ấy là quê bạn có món đặc sản gì không? Cô ấy trả lời rằng có món mì Quảng. Mình khì cười và đáp rằng, món mì Quảng đó mình và chị mình thích lắm, rất là thích luôn và tự nhiên mình chợt... thèm, thèm món mì Quảng và thèm một thứ khác...

Món mì của xứ Quảng dọc theo eo biển miền trung đất nước là món ăn gắn bó với tuổi thơ của mình và người chị song sinh. Đôi lúc, hai chị em ngồi cùng nhau nhắc lại một món ăn mà cả hai cùng yêu thích.

Mình còn nhớ, lúc nhỏ, nhà mình ở gần khu chợ, bước chân chừng 30m là đã đến chợ. Buổi sáng đi ra đó, biết bao nhiêu hàng quán, biết bao nhiêu màu sắc của đủ thứ món được người ta chở đến bán. Những buổi sáng chủ nhật cùng đi dạo chợ, hai chị em mình thường ghé vào hàng mì Quảng để ăn sáng. Mình vẫn nhớ hình ảnh của quán mì, đó là một căn nhà gia công đồ gỗ. Mỗi sáng thì người ta bán mì Quảng.

Mình nhớ sao mùi của nồi nước lèo thơm phức, màu những miếng thịt được cắt mỏng, màu cam đỏ của những con tôm được xếp gọn gàng trên chiếc mâm nhôm. Nhớ màu vàng nghệ của rổ mì, màu xanh của rau sống... Một tô mì Quảng khi được dọn ra, có kèm một đĩa rau sống cùng vài lát chanh.

Mình lúc nào cũng muốn cô bán hàng làm mau mau, để gắp những cọng mì vàng ươm vào miệng, cắn vào những miếng thịt mềm mại, thưởng thức những con tôm ngọt thịt, nhai những hạt đậu phộng được giã bể hòa quyện với những cọng giá, rau sống được cắt nhỏ trong miệng. Sau đó là húp những muỗng nước lèo đậm đà và chua nhẹ của chanh... vừa ngồi ăn, vừa tán dóc, vừa ngắm người qua kẻ lại trong chợ...

Tuy rằng bây giờ mình không còn tìm lại được hương vị ngày trước nữa nhưng những buổi sáng đó vẫn còn in đậm trong trí nhớ của mình. Đến bây giờ mình vẫn rất thích món mì Quảng lắm, món ăn đã gắn bó với mình vào những buổi sáng chủ nhật mỗi tuần, cùng đi dạo chợ với chị song sinh, cùng nhau ngồi ăn mì, cười nói... mình thèm ghê, thèm món mì Quảng, thèm... có một vé để quay lại tuổi thơ..

Món ăn tuổi thơ

Saturday, April 18, 2009 5:40:21 AM

nấu_ăn, kỷ_niệm

Có lẽ tuổi thơ tôi lớn lên thời kỳ mà ai cũng thiếu thốn và đặc biệt thiếu thịt. Nên rau, cây trái trong vườn luôn là những món ăn thường bữa của gia đình tôi và cũng chính là món ăn phụ của tụi nhóc tụi tôi hồi nhỏ. Hồi đó đất còn rộng, mỗi nhà còn cả 1000m2, bề ngang 40m dài 25 m, phân từng lô ra như vậy vì khu tui ở là ngoại thành của HCM mà. Nhà nội tui hồi đó, trước giải phóng và cho đến năm 1988 thì ở Cao Thắng - 3/2. Còn ba tui lấy mẹ tui thì 2 người mới đi về xứ Hóc Môn - 18 thông vườn trầu, nơi mà nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11 đó, lập nghiệp. Mà tui còn nhớ hồi nhỏ, nhà ai cũng cất giữa đất hết, xung quanh rộng mênh mông so với con mắt của tui lúc bấy giờ. Dọc hàng rào thì trồng tre tàu, cây nó to, cao, hay dùng để dựng kèo lợp mái nhà, mái nhà bằng lá mía hay lá dừa nước kết lại thành từng tấm. Rồi trồng cây trúc, để mỗi diệp trung thu tụi tui hay chặt trúc, chẻ ra uốn cong lại làm lồng đèn ông sao, làm lồng đèn tàu thủy. Trồng tầm vông, cũng để lợp mái nhà. Và còn lấy măng tre, măng tầm vong để nấu canh, kho với muối ăn cơm. Rồi dặm thêm vài bụi khoai mỳ để lâu lâu đào củ lên nấu ăn chơi, vì có quà bánh gì nhiều như bây giờ. Khoa mỳ cũng được mẹ tui với mợ hai Khía sáng tác ra nhiều món lắm nhe, nào là mài củ khoai ra cho nó thành bột, vớt lấy xác, ướp chút bột ngột, ớt, muối, chiên lên thành bánh cay ăn ngon đã đời, nào là hấp nguyên bánh lớn, cho màu lá dứa, màu củ dền vô thành xanh xanh đỏ đỏ, xong chín thì cắt ra thành lọn lọn dài, dừa khô nạo ra, muối đậu phộng trộn vô thành món bánh tằm. Rồi thì chè khoai mỳ, món này cực hiếm, vì đường táng lúc đó hiếm lắm, chứ đừng nói tới đường cát như bây giờ, chỉ có đám giỗ lớn hoặc cái gì quan trọng lắm mới xài đường thôi. Rồi có khi nấu nguyên củ khoai mỳ cho chín, rồi bóp nhuyễn, cho chút muối, bột ngọt, hành lá, cuốn bánh tráng chấm nước mắm đâm tỏi ớt, sao mà nó ngon đến lạ kỳ. Những điều đó nó bình dị, âm thầm lặng lẽ đi vào lòng tui, vào hồn tui mà bây giờ 30 năm sau tui vẫn nhớ như in mùi vị của nó, dù bây giờ ko còn cây khoai mỳ ven hàng rào như thuở nào nữa, thay vào đó là hàng rào xi măng, lưới sắt, cửa sắt. Món bánh tằm làm bằng khoai mỳ thỉnh thoảng tui vẫn thấy bán, ghé xe lại mua ăn nhưng sao nó lợt lạt kỳ kỳ làm ko nuốt nổi. Sân nhà tui hồi đó tui ghét nhứt là mẹ tui biểu quét sân. Quét muốn ẹo xương sống mà cái sân nó chưa hết, lá tre, lá trúc, lại còn lá mít, đủ loại mít, lít ráo, mít mật, mít dừa, mít nghệ, mít ướt. Sáng sáng ngồi dậy sớm, cầm chổi quét sân, rồi đốt cho nó cháy lá, mẹ tui nói un cho khỏi có muỗi, nghe cái mùi khói đó mà sao tui hít lấy hít để. Rồi ngoài mít còn có 5-6 cây điều. Ăn trái điều thì mũ dính áo, bị ăn đòn. Cây nào điều vàng ngọt hơn điều đỏ, điều vàng trái bự mới ăn, nó ko gắt, trái nhỏ với điều đỏ thì tụi tui lắt hột đem nướng lên cho cháy vỏ ngoài, nó kêu xè xè cái dầu trong lớp vỏ hột điều, mà sau này tui lớn lên mới biết là vỏ hột điều người ta ép ra lấy dầu được. Rồi bỏ lên cục đá, lấy daohay đại khái cái gì đập được thì đập hột điều ra, lòi cái hột ăn được bên trong và chén. Có khi phỏng tay vì dầu của nó dính vô tay. Lấy hột thì còn lại trái vẫn chưa bỏ đi, mẹ tui lấy vô nấu canh chua với lá giấm, loại lá mà dài dài, có trái đỏ đỏ, chua thanh nấu canh ăn bá phát. Giờ kiếm ko đâu thấy còn cây đó cả. điều kho xả ớt, điều kho nước tương, điều bóp thấu.... đủ món ăn chơi từ điều. Rồi các món từ mít nữa chứ. Mít chín thì ăn mít chín, mà mít ráo với lại mít ngon mới ăn, còn dỡ và mít ướt thì mẹ tui lột múi ra, đem phơi dẻo dẻo rồi cho lên chảo sên thành mứt mít để cho chị em tui ăn dài dài khi ko có mùa mít chín. Hồi đó sau nhà có cây mít ướt, cứ đêm nào mưa lớn, gió lớn chút thì nghe "bẹp" 1 phát biết ngay 1 anh mít vừa rụng, sáng ra có khi vài ba anh là chuyện thường.

Rồi ổi, xoài, dái mít, khế... những món quen thuộc của đám nhỏ trong xóm tụi tui, tui, em tui, thằng Vũ, bé Nhung, Tý anh, thằng Ke, thằng Ty - ông Liêm, thằng Ty - mợ 2 Khía. Nếu trùng tên tụi tui sẽ kiu tên nó kèm tên ba má nó cho dễ phân biệt. Rồi con Thảo - 3 Kiền, con Gái - 9 Dữ bán nước mía, thằng Quang - 2 sữa... có đứa bằng tuổi tui, có đứa lớn hơn vài tuổi, mà cứ mày tao kiu láng, hông có anh em gì hết cho nó mệt, cứ chiều chiều là xúm lại bẻ cây bẻ trái ăn, chơi cò cò, keo, chơi u, chơi năm mười, chơi banh đũa, chơi thắt đá, chơi keng rồi cãi rồi uýnh lộn. Rồi kiu tên ba má nhau ra chửi. hahahahaha..... giờ, tụi nó đều lớn hết, có gia đình hết, mỗi đứa đi một nơi, lâu lâu nghe tin đứa này có con, đứa kia lập nghiệp đâu đó mà tự nhiên thấy rưng rưng trong lòng là lạ.

Giờ trẻ con được chăm sóc, giáo dục, nên phát triển quá chừng, đâu còn những cái cũ kỹ như tui hồi đó nữa đâu. Giờ tụi nó có biết làm con diều ra sao, làm lồng đèn như thế nào đâu, cái gì cũng có sẵn cả. đất nhà tui mẹ tui cũng bán dần rồi chỉ còn đủ 1 nền nhà 6 m bề ngang, dài 25 m để ở thôi. Xung quanh thì cũng vậy. Dân số tăng mà. Cây trái đốn hết đi để dành đất cất nhà. Đường thì đổ nhựa. Nhà nhà truyền hình cáp, đâu còn có cảnh chiều chiều kéo nhau chạy lại nhà ông năm Sáng coi cọp TV trắng đen nhà ổng nữa. Hồi đó, nhà ổng với nhà ông bà Kiền là có TV màu JVC 14 inch, gọi là giàu lắm rồi đó. Năm đó lần đầu tiên chiếu Tề Thiên đó, tui ghiền coi mà buồn ngủ nên bữa coi nào cũng ngủ gục, hết phim mẹ phải kiu dậy đi dzề. Cái thời đó sao mà thiếu thốn, mà nghĩ sao nó vui quá chừng. Nhưng nếu cho tui quay lại chắc là hông đâu, hí hí hí.

Hôm nay tự nhiên kiếm được mớ rau càng cua trong chậu bông ngoài vườn, vì mấy hổm rày có mấy cây mưa lớn, ko biết hạt theo gió từ chỗ nào tới mà mọc lên um sùm, ngắt lấy vài cái. Kết hợp hôm nay mẹ gặp thím Chương cho mấy trái điều, làm ngay 1 dĩa gỏi. Rồi bên chị Quỳnh còn sót lại cây mít èo uột, chị Phượng kiu bẻ đi, hé hé, bẻ liền, nhà còn sườn non, đem về hầm sườn non cho ông xã xử.

Vì có 2 món này hôm nay nên tự nhiên nhớ chuyện xưa cũ vậy à.

Tuổi thơ nhếch nhác gánh gồng. Lem nhem manh áo cộc. Lem nhem tháng ngày thiếu thốn nhưng cũng ngọt ngào như giấc mơ cổ tích.

1. Cây sung nhà ông Dinh

Tuổi thơ của thế hệ con nít xóm Đoài chúng tôi gắn liền với cây sung nhà Ông Dinh. Trưa hè nào, tôi và con Giang, con Hường, con Hoa cũng trốn ngủ trưa chui tọt sang nhà ông Dinh (Trần Hữu Dinh, anh của Trần Hữu Thung). Nhân lúc ông đi vắng, lẻn con đường tắt phía ao xóm sang vườn của ông, leo lên cây Sung già có cánh tay chắc nịch vươn ra ao, mà ngồi mà chơi, mà ăn sung chấm muối, ngon cực kì. Cây Sung của ông Dinh có từ khi nào, chúng tôi cũng không biết, nó gắn bó với chúng tôi từ khi nào tôi cũng chịu nhưng chẳng có trưa hè nào chúng tôi thiếu những trận cười ở trên đó…  Có hôm con Giang ham cười quá mà rớt tõm xuống ao, ao cạn nên hắn dính đầy bùn khiến mấy đứa cũng suýt rớt theo vì muốn được đầy bùn như hắn để ra kênh tắm. Trong vườn của ông Dinh còn có cây ổi sim, cây khế quả to ơi là to. Nhưng ông chỉ cho đúng một quả. Thế là chúng tôi nghĩ ra một mẹo, cho con Hoa đi vào xin (con ni dẻo mồm nhất), hắn xin một quả nhưng khi hắn trèo lên cây hắn hái ném ra ngoài bờ tường cho chúng tôi. Khi đi ra trên tay hắn cầm một quả, ông Dinh chẳng nghi ngờ gì, đó là khi ông ở nhà thì xin xỏ thế thôi… hiii  Ông Dinh mất rồi, khi chúng tôi còn học cấp 3. Cho tới giờ tôi vẫn không hiểu vì sao trưa nào ông Dinh cũng vắng nhà? Ông có cô đơn không khi một mình lủi thủi trong căn nhà cũ kĩ cho tới cuối đời?

2. Hến và ốc

Ngoài cây sung, chúng tôi còn thường đi mò hến và ốc ngoài kênh. Nước trong xanh, mát rượi, sạch lắm chứ không như bây giờ đầy thuốc sâu. Mang thêm một cái thau, hoặc xô thế là bốn con nhày ùm xuống mò. Hến nhiều ở dưới cống, nên chúng tôi chui luôn vào cống, vốc từng nắm to. Đã lăm! Cái cảm giác bàn chân man mát chạm nhẹ vào đáy kênh, nhút nhút, mườn mượt, sờ sợ  (mà tôi đã nghĩ là cứt tru), bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Hến thì mang về nhà cho Bà nấu cháo. Còn ốc, chúng tôi đang lưỡng lự thì có ông Thọ đạp xe đi qua (Ông Thọ cũng mất rồi), ông hỏi mua, bốn đứa nhìn nhau rồi quyết định bán, lấy tiền mua kem 200. Một thau ốc to bự bán cho ông Thọ 6 nghìn. Nhưng ông chỉ có 5 nghìn, ông nói tí ông quay lại ông đưa cho. Bốn tên đồng ý. Sau đó, lại lo lắng, sợ ông ấy quỵt, nên cả bốn tên quyết định tới nhà đòi.

3. Phượng

Trong xóm cây phượng ở nhà trẻ là sum xuê nhất, đỏ rực. Sáng, chúng tôi dậy thật sớm, nói là chạy thể dục nhưng thực chất là đi hái trộm phượng ở đó. Cánh phượng, nhụy phượng đều ăn rất ngon, nó chua chua ngọt ngọt chấm với muối. Hái xong mang đến đống rơm nhà con Hường chén. Một lần nọ, đang trên cây hái thì chú Lập, bảo vệ nhà trẻ bắt được. Chú hỏi: con nhà ai? tôi thì khai con nhà ông Hướng (Bố của con Hường), còn con Hường thì khai ngược lại, con Hoa và con Giang cũng vậy, lộn tùng phèo khiến chú Lập lơ là, thế là chúng tôi nhảyxuống chạy mất tiêu.

4. Mây, quả hồng xôi.

Nhà ông Hành có một cây mây ngoài đường, quả mây khi xanh rất chát, nhưng khi chín lại ngọt. Con Hoa và con Hường leo giỏi nhất thường được giao nhiệm vụ leo lên cây tre mà cây mây quấn vào để hái mây, từng chùm, từng chùm được vứt xuống. Ăn cho tím mồm, nghẹn họng, có đứa “chòi không ra”, nhưng vẫn ăn, và thèm nhỏ dãi khi nhắc lại. Còn quả hồng xôi  thì chúng tôi hay hái ngoài cồn, đi một vòng cồn là đủ ăn. Qủa nào qua nấy béo núc ních, đỏ mọng.

5. Xâu lá

Ngoài những món ăn chúng tôi: Hoa Thảo, Hường Hiển, Giang trầm, Nga kim còn đi củi nữa. Củi có trên trạm xá nhiều, mỗi đứa xách một bì lên trên đó nhặt cành khô hoặc quét lá khô thành từng đống, rồi bốc bỏ vào bì. Đầy bì rồi, thì lấy que của xà cừ xâu lá, treo lủng lẳng. Mùa quả xà cừ, lấy quả đó mài một lỗ rồi thổi, có âm thanh rất hay…

Âm thanh ấy còn vang vọng mãi… những trưa hè nóng … mỗi đứa mỗi phương rồi…

Con Hoa đi dạy mầm non, lấy chồng ở quê. Con Hường ra Hà Nội làm báo, và đã ăn hỏi. Con Giang đi dạy Văn, có chồng có con ngoài Thái Bình. Còn tôi vẫn còn mài đũng quần ở Huế… Còn một con nữa, con Vân Ngụ, cũng hay chơi với chúng tôi, nhưng vì nhà xa hơn nên chỉ tham gia được một số món … giờ cũng đã có chồng ở Sài Gòn…

Chúng tôi, cái thế hệ lớn lên từ quả sung, quả mây… từ những trưa hè nắng chạy lông nhông… chắc sẽ mãi in trong tim hình ảnh của Lèn Hai Vai… Quê mình, sao nhớ quá

Xin lại những xiên thịt nướng tuổi thơ

.

Tuổi thơ, ai cũng gắn liền với biết bao kỉ niệm ngọt ngào, những kỉ niệm giản dị thôi nhưng sao ấm áp đến thế, chiều nay đi  trong cái rét mướt  mùa đông, mùi thơm của những xiên thịt nướng đầu phố vô tình làm ta cồn cào nhớ sắc màu và mùi vị tuyệt vời những xiên thịt  nướng mà tuổi thơ đã đi qua.

·                           

Những xiên thịt nướng vàng óng, thơm ngọt như một thứ quà xa xỉ đối với lũ trẻ chúng tôi, một món ăn được chúng tôi thường xuyên ngắm nghía cùng ánh mắt thèm thuồng bởi phải vào những dịp đặc biệt mới được nếm thử. Dường như chính điều này làm mỗi đứa trẻ trong xóm càng mê tít những xiên thịt được quay tròn trên những vỉ nướng. Mỗi vòng quay như những điệu múa hồn nhiên mà chúng tôi nô đùa mỗi ngày.

Tôi rất thích những xiên thịt được quay tròn trên vỉ nướng.

Với nhiều người, những xiên thịt nướng là món ăn quá đỗi bình thường nhưng với những đứa trẻ mặt mũi nhem nhuốm mỗi khi cuối ngày thì nó gợi lại cho mỗi đứa cả một thế giới mơ ước và giàu có. Chẳng biết có phải vì thế mà những xiên thịt trên vỉ nướng luôn làm mỗi đứa thấy ấm áp và hạnh phúc hơn mỗi khi mùa đông đến.

Đối với tôi những xiên thịt nướng là một thế giới mơ ước và giàu có.

Để dành số tiền ăn sáng ít ỏi bố mẹ cho để thỉnh thoảng "tự thưởng" cho mình những xiên thịt nướng ở góc phố là những kỉ niệm ngọt ngào trong kí ức tuổi thơ tôi. Những xiên thịt nóng, trên bề mặt có một lớp ớt đỏ trong thật hấp dẫn, bên cạnh đó vị ngòn ngọt pha chút cay thơm của vừng và xả khiến đứa nào cũng xuýt xoa khi thưởng thức. Ăn xong rồi mà hương thơm những xiên thịt nướng cứ quanh quẩn trong gió.

. 

Chúng tôi đã có lần mải mê nhìn cách làm món ăn này từ cô bán hàng mà không biết chán, bàn tay khéo léo với từng động tác khiến đứa nào cũng muốn đặt hai từ “giá như” trong đầu. Thịt được chọn làm món ăn này thường là thịt có chút mỡ để tạo ra vị béo ngậy cho thịt khi nướng. Những miếng thịt cắt thành miếng nhỏ và đem ướp với vừng, xả cùng những gia vị theo sở thích của mỗi người. Khi nướng trên than củi đỏ rực, những giọt mỡ liên tục chảy xuống khiến mùi khét đặc trưng của thịt nướng tạo niềm vui cho cả một góc phố nhỏ.

Chiều đông, đi dọc con phố ngày xa xưa nhưng chẳng còn tìm thấy vị thơm của những xiên thịt nướng ngày nào. Góc phố nghèo ấy đã  thay bằng những khu công nghiệp, bằng những khu nhà cao tầng. Đã từng thưởng thức biết bao xiên thịt nướng khi lớn lên, bao hương vị món cao sang, nhưng những xiên thịt nướng tuổi thơ cùng thói quen thưởng thức món ăn theo cách đặc biệt cùng lũ bạn mãi là món ăn tuyệt vời nhất nơi tuổi thơ tôi.

Tuổi thơ nơi quê nghèo năm ấy chẳng có nhiều đồ ăn ngon, đồ chơi đẹp nhưng những gì chúng tôi đã có mãi là một chuyến tàu chạy suốt cuộc đời mình. Cho tôi xin lại chuyến tàu tuổi thơ ấy và chút ấm áp thèm thuồng của những đứa trẻ hôm nào.

Trưa hè, nhớ canh giấm tuổi thơ

Trưa mùa hè, giữa đất trời Hà Nội, chợt nhớ nhà! Nỗi nhớ cứ miên man theo từng bước chân ra ngõ.

Bất chợt bên góc vườn nhà ai, một cây khế già buông trĩu những chùm quả. Chao ôi là nhớ ! Nhớ củ dong riềng luộc sượng, bát cháo hành hay củ sắn nướng, nhớ vị đậm đà một bát giấm chua…Với tôi, đó là những món ăn tuổi thơ, được làm bằng đôi bàn tay xù xì của mẹ

Canh giấm gắn với những kỷ niệm tuổi thơ, với những mùa gió lào xao xác, hanh hao; với dáng cha, lòng mẹ tảo tần, lam lũ. Cứ mỗi độ hè về, khi ruộng đồng khô nẻ, bầu trời như một chảo lửa khổng lồ, bố lội dòng kênh tát cá cạn, mẹ vừa đi gặt về đã tất tả vào bếp, mặt còn lấm tấm giọt mồ hôi.

Hồi đó đất rộng, người thưa, con cá còn đầy rẫy ở dưới nước, cha tôi chỉ chọn những con to vừa ăn, còn những con cá nhỏ thì thả chúng về lại với ruộng đồng, vì thế cá ngày cứ sinh sôi. Những con cá cha đem về, được mẹ chế biến thành nhiều món, nhưng vào những buổi trưa hè như thế này, tôi thích nhất món cá quả nấu khế chua mẹ từng làm.

Đơn giản thôi ! Những trái khế chua ngoài vườn được mẹ hái vào xắt thành từng lát vừa ăn, đem nấu vào nồi nước dùng để lấy vị chua cho nồi canh giải nhiệt. Trong thời gian đợi nước sôi, những con cá được mẹ làm vảy và lấy hết ruột ra, rửa sạch.

Nồi nước vừa sôi, vớt hết bọt cũng là lúc cho cá vào; đợi nước sôi lần nữa, cá vừa chín tới thì thêm nếm gia vị cho vừa miệng: một ít ớt cay, rau sống, mùi tàu, dưa chua...Thế đấy! Một nồi canh giấm cá quả được nấu xong.

Canh giấm ăn cùng cơm nóng, thêm đĩa cà pháo muối trường, giòn khúm thật đúng ngon nhất trần đời! Mặc gió Lào hừng hực thổi, mặc cái nắng tháng năm như thiêu như đốt, dưới mái hiên, bên giàn hoa giấy rực rỡ đầy tiếng chim, tiếng gió…cả gia đình tôi quây quần đông đủ bên mâm cơm trưa ngạt ngào thơm…Canh giấm có cái béo của cá quả đồng nội, cái chua đậm của khế, vị cay của ớt…Và đặc biệt, trong đó mẹ nêm cả gia vị của tình thương chân chất, bao la.

Thưởng thức món canh dân dã này như thách thức cái tính bướng bỉnh vốn thường trực trong tôi. Mẹ vẫn bảo, muốn cảm nhận cái ngon của canh giấm thì người ăn thường phải huy động tất cả các giác quan để mà xuýt xoa, cảm nhận. Ăn giấm là để tìm cảm giác mạnh, bởi nơi bát giấm bé nhỏ là cả một sự giao hòa khéo léo: khế chua điếng lưỡi, cay rát đầu môi…Húp một ngụm đã khiến mắt ta cay xè, mồ hôi vã ra…dường như, mọi nhọc nhằn, mệt mỏi cũng theo đó mà tan biến hết.

Nồi canh giấm như cuộc đời của mẹ, tôi ăn mà cảm giác như thế. Mẹ nấu rất ngon. Vị chua của khế cộng với vị ngọt bùi của cá, vị cay cay của ớt, đậm đà của muối cùng thơm nồng lá mùi tàu…các hương vị hoà quyện nhau một cách tinh tế. Không mấy ai có thể làm được điều đó.

Tôi yêu mẹ, tôi hiểu mẹ khi tôi ăn muỗng canh mẹ nấu. Bên mâm cơm đạm bạc, chỉ có đĩa cá khô, rau luộc, bát cà muối, tô canh giấm, cả nhà tôi quây quần bên nhau, chị em xúm xít chìa bát cho mẹ bới cơm, thi nhau húp canh và kể chuyện học hành ở trường.

Giờ đây, cứ mỗi trưa hè lại nghe trỗi dậy một cảm xúc bâng khuâng, da diết nhớ bát canh đồng nội thuở nào, bát canh mà vị thanh chua chen lẫn với hương thơm đã làm mát cả cuộc đời cho đến tận bây giờ...

Cũng chính từ món ăn gia đình bình dân này, mẹ tôi - người nhà quê chất phác Nghệ Tĩnh, không cần dùng nhiều lời “thuyết giảng” về quê hương và nguồn cội, cũng khiến chị em tôi dù ở tứ xứ thị thành hễ tranh thủ được là đón xe về nhà, để lại quây quần bên cha mẹ, ăn món canh giấm quen thuộc và lại nghe thấm dần tình quê hương ruột thịt trong từng mạch máu

Chuột đồng nướng - món ăn tuổi thơ

Ông bà ta đã nói là cấm có sai "Món ăn nhớ lâu, đòn đau nhớ đời". Có những món ăn khi ta đã nếm một lần thì không thể nào quên được.

Riêng tôi , có một món dân dã nhất và cũng làm cho tôi nhớ nhất là món chuột đồng nướng bếp than.

Nghe tôi nói thế bạn sẽ phán một câu xanh rờn: "Eo ôi , sợ quá! Hết thứ gì ăn hay sao mà ăn chuột?"

Nhưng không, thật sự đó là một món ăn không ghê một chút nào. Mời bạn về Thanh Minh, Diên Lạc, Diên Khánh, Khánh Hòa quê tôi, bạn sẽ được nghe đến món ăn tuyệt vời này.

Nướng than

Đến vụ lúa tháng ba (âm lịch) hằng năm là lúc chuột đồng béo nhất, vì nó thường ra phá lúa, chúng đào hang sâu ở các bờ ruộng. Ta đổ nước vào hang, lấy rơm hun khói ở ngoài cửa hang, chuột bị ngộp nước, sặc khói lừ đừ, lừ đừ.

Thế là ta lấy cuốc đào và bắt hàng tá; rồi lấy rơm rạ ngoài đồng đốt cho trụi lông, túm đuôi cột lại, lấy cọng rơm xỏ xâu xách về.

Về nhà, ta tiếp tục lột da, mổ ruột bỏ hết các bộ phận bên trong; giã đồ ướp gồm: muối ớt (ớt xiêm xanh), tiêu, bột ngọt, mắm và nhất là không thể thiếu hành khô.

Ta ướp tất cả vào bên ngoài vào trong thân chuột khoảng nửa tiếng. Trong khi chờ thấm gia vị ta nhóm bếp than (món này chỉ ngon khi nướng than, chứ cho vào lò viba thì mất hết giá trị); chuẩn bị một thanh tre để chẻ gắp nướng, và hai sợi lạt để buộc.

Khi thịt chuột đã thấm gia vị, ta xếp chuột vào gắp lấy lạt buộc hai đầu và bắt đầu nướng.

Gắp để trên bếp than trở qua trở lại cho đều tay. Khi thấy mỡ rơi xuống bếp xèo xèo, mùi thơm bốc lên ngào ngạt, con chuột săn lại vàng ruộm tức là đã chín.

Thanh Loan

Gắp để trên bếp than trở qua trở lại cho đều tay. Khi thấy mỡ rơi xuống bếp xèo xèo, mùi thơm bốc lên ngào ngạt, con chuột săn lại vàng ruộm tức là đã chín.

Món này chế biến cũng bình thường, dân dã. Lúc ăn cũng phải "quê mùa" không cầu kỳ mới ngon.

Gạo lúa mới nấu lên, xới ra cho nguội rồi bới ra dĩa, phải ăn bốc (bằng tay) mới đúng kiểu.

Giã thêm một cối muối ớt xanh, (ớt chỉ vừa dập chứ không được nát quá) để nếm thêm khi ăn.

Cơm nguội, cho một con chuột nướng vào dĩa, thêm một ít muối ớt cay nữa vào và bốc.

Đến khi ăn, phải ăn từ từ mới thấy hết vị ngon của nó. Thịt chuột đồng tháng ba béo ngậy hòa với vị cay cay của tiêu, của ớt, của hành; vị thơm ngọt của thịt nướng hòa với vị thơm ngọt của lúa mới đầu mùa mới quyến rũ làm sao!

Bốc một miếng cơm, cắn vào một miếng thịt chuột nhai thêm một miếng ớt giã dập...ăn đến đâu biết đến đó. Ngon lạ ngon lùng, thơm lạ thơm lùng, thơm ngon một cách tự nhiên chân thực, không có sự can thiệp gì của các chất hóa học, công nghệ tiên tiến ...

Tuổi thơ tôi là những ngày như thế đó. Những ngày gian khổ, thiếu thốn nhưng thật là vui, và nhất là những món ăn của má tôi đã làm cho chị em tôi nhớ mãi.

Ngày nay đời sống đã khá hơn, chúng tôi đã trưởng thành, đã rời căn nhà ở làng quê hiền hòa ấy, má tôi đã chân chậm, mắt mờ, tóc bạc.

Đọc sách báo, xem tivi hôm nào cũng có mục hướng dẫn những món ăn cầu kỳ, sang trọng.

Nhưng đối với tôi những món ấy không thể nào ngon bằng món chuột đồng nướng của má -một món ăn đã thuộc về dĩ vãng mà mỗi lần nhớ lại tôi vẫn bồi hồi, xúc động, tưởng tượng xa xăm. Có lẽ những cảm xúc đó sẽ theo tôi suốt cả cuộc đờì.

Mẹ, tuổi thơ và món rau bí xào tỏi

Khác với rất nhiều người trong xóm trồng bí là để lấy quả, ra tết năm nào mẹ tôi cũng trồng mấy khóm bí nhưng chỉ đợi những chồi non mập mạp bắt đầu vươn mình là mẹ đã cắt về, bởi mẹ biết món rau bí xào tỏi là món ăn tôi yêu thích nhất.

Bố thường xuyên phải đi công tác xa, nhà vì thế chỉ còn lại hai mẹ con nên vài ba cọng bí là xong bữa. Ban đầu phải ăn món rau này nhiều tôi cũng không mấy “hài lòng”. Lâu dần thành quen rồi không biết tự bao giờ tôi lại thành ra nghiện, chỉ cần đĩa rau bí xanh non đặt giữa mâm là đánh bay mấy bát cơm ngon lành. Biết thế nên hè nào mẹ cũng trồng rất nhiều bí. Mà khóm nào khóm lấy cứ xanh mơn mởn, ngọn đâm ra tua tủa, mập mạp, mỡ màng.

Cây bí có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như quả dùng nấu chè, bông bí luộc, nấu canh…nhưng tôi lại chỉ ăn duy nhất món rau bí xào tỏi. Tôi còn nhớ những buổi sáng đầu hạ khi tôi bước vào mùa thi, sáng nào dậy mẹ cũng tranh thủ ra vườn cắt vài ngọn bí bỏ vào giỏ xe, đưa tôi đi học xong trở về hợp tác xã làm việc, mẹ tranh thủ tước từng cọng bí để trưa khi về nhà chỉ chạy ù vào bếp và khi ra đã mang theo đĩa rau bí còn nghi ngút khói và thơm lừng mùi tỏi. Đưa vào miệng cái đầu tiên tôi cảm nhận là vị đậm đà của gia vị, cọng bí thì giòn, nhai rau ráu đầy thích thú.

Có lần bố mời mấy cô chú cùng cơ quan về nhà chơi. Nhân dịp này mẹ mời các cô chú ở lại dùng cơm. Mẹ chuẩn bị rất nhiều món ăn ngon nào thịt, nào cá, và tất nhiên không thiếu món sở trường: rau bí xào tỏi… Khi dọn đầy một mâm, món nào trông cũng hấp dẫn. Thế nhưng lạ thay món rau bí của mẹ hết đầu tiên mà ai cũng tấm tắc khen ngon. Lúc ra về mấy cô còn xin mẹ mỗi người một bó ngọn bí non về đãi cả nhà.

Kí ức về tuổi thơ trong tôi không nhiều kỷ niệm, chỉ có thế nhưng sao thiêng liêng và gần gũi đến vậy. Nó nhắc tôi nhớ về những ngày tháng gian khổ của gia đình, cho tôi thêm sức mạnh sống tốt hơn giữa thành phố xô bồ này.

Tùy bút... cà chớn: Chuyện ă

Lời tâm sự: Tui sinh ra và lớn lên trong thời kì mà các cô, chú, bác, dì cậu gọi là đổi mới. Tui năm nay 23 tuổi, đang học đại học tại TPHCM. Tui xưng tui bởi tui là dân Nam bộ. Với một người Nam Bộ, chữ “tui” không chỉ là đại từ xưng hô khẳng định chính mình mà còn mang một sắc thái biểu cảm sự thân mật trong giao tiếp. Tui, chỉ là một thanh niên mới lớn, trong một xã hội mới, một con người nhỏ bé, đơn lẻ trong cộng đồng người Việt. … Con người, nhất là những người mới trưởng thành như tui thì thường hay suy nghĩ, có thể đó là những trăn trở về cuộc sống, về tương lai của chình mình hay nhiều khi chỉ là sự mông lung của tâm tưởng khi để nó lãng đãng trôi đi không kiếm soát. Tui viết những dòng này không phải để chứng tỏ một điều gì, không phải để trở thành một nhà phê phán, phê bình gì gì đó. Với tui, viết là để giải tỏa, để chia sẻ, để biết là mình không thờ ơ, không lãnh đạm với cuộc sống này. Loạt bài này tui viết đã lâu và đặt là "1001 chuyện ... tào lao" nhưng chỉ được ba bài rồi không có hứng viết nữa. Nay vào đây tìm được chút hứng thú nên tiếp tục mà sửa lại là "Tùy bút... cà chớn" với bài mở đầu: Chuyện ăn. Mời bạn cùng chia sẻ.. Có một bạn gái “hiện đại” hỏi tui nấu ăn có khó hay không? Xin thưa là nấu ăn không khó nhưng ăn được mới là chuyện khó.

Ăn cái gì bây giờ?

Tui không giấu giếm, một trong những lý do tui dọn đến chỗ trọ hiện nay là vì nơi này có nhiều đồ ăn ngon mà… rẻ. Sáng bước chân khỏi nhà, bà bán xôi liền nhắc hôm nay có ăn không? Đi mua bánh mì, ông bánh mì hỏi sao không ăn bánh bao. Trưa thì ôi thôi, cơm nhiều món nhìn đâu cũng muốn nếm. Và đến tối thực sự bối rối vì không biết phài làm khách của quán nào. Nói “đại gia” thế cho vui chứ sinh viên như tui phải tính toán kĩ càng nên ăn cái gì hằng ngày để cuối tháng không phải dùng nước mắm (pha nước mắt) dầm cơm!

Dạo quanh Saigon một chút, ta dễ dàng nhận ra Saigon đang bùng nổ những quán ăn, sang trọng có, bình dân phần nhiều. Dân số cứ “phình” lên nên cái ăn trở thành một nhu cầu lớn cần được đáp ứng. Tui có cảm giác càng lúc càng đông sinh viên lên thành phố trọ học nên đi đâu cũng thấy nhiều dịch vụ gắn thêm mác sinh viên phía sau: phòng trọ sinh viên, cơm sinh viên, sinh tố sinh viên, cà phê sinh viên và vá xe cũng sinh viên. Sinh viên dần dà đã trở thành đối tượng phục vụ chính.

Tui hãy ăn quen quán nào thì chỉ ăn quen quán đó, ít khi thay đổi, bởi quán quen thì mình sẽ được ưu tiên nhiều cơm, nhiều đồ ăn hơn. Riêng tui, khi đến một quán cơm thân thiết gần chỗ trọ thì tráng miệng được tặng thêm một quả chuối. Sinh viên sống kham khổ, ăn uống qua loa ít chất xơ thì thêm một quả chuối nữa sẽ khiến cái trực tràng mừng lắm lắm! Bởi thế tui nghĩ các bạn nào mới lên Saigon nên hỏi những đàn anh đi trước xem quán cơm bình dân nào sạch sẽ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm rồi hãy đóng đại bản doanh ở đó, sau đó mới tính tiếp chuyện hôm nào “chán cơm thèm phở” vậy.

Tạm ổn chuyện ăn cơm, ta bàn sang chuyện “ăn phở, ăn nem”. Saigon ngoài cơm ra thì món ăn ba miền thật phong phú, bởi đơn giản đây là nơi giao thoa của nhiều nguồn văn hóa. Điều này cũng khiến cho bữa ăn chính của sinh viên thêm đa dạng, bây giờ sinh viên không phải chỉ ăn đề no mà còn vô số sự lựa chọn cho mình. Trong nhiều khu trọ sinh viên, các quán phở, hủ tíu, bún bò huế cũng gia tăng số lượng theo tỉ lệ phần trăm dân số sinh viên khu đó. Tất cả đều chung một giá và hiện thời đều có mặt bằng 12000- 14000 đ 1 tô. Sinh viên đại gia ăn phở 24, hủ tíu Liến Húa, bún bò Thành nội, sinh viên bình dân ta cũng ăn phở cô ba, hủ tíu bà tư và bún bò chú mập. Cũng bột gạo, tái gân, nạm mỡ như ai lại được cái thoải mái trò chuyện trong cơn gió mát thổi ngang vệ đường. Có một điều lạ tui thường thấy là ăn ở quán sang trọng người ta cũng thường cố tỏ ra sang trọng và nghiêm túc như cho hợp với không khí ở đó, tui mà cứ căng cứng ( không phải cương) như thế thì ăn mà không biết mình đang ăn gì. Trở lại với các món mặn có nước bình dân, nếu một ngày nào đó bạn muốn thay đổi khẩu vị thì tui chỉ cho bạn một mẹo. Trước hết hãy ghé lò bánh mì gần nhất mua bánh mì không nóng giòn, rồi kêu một tô soup tái gân, lấy nước bún bò, nặn vào hai lát chanh, thêm muỗng ớt sate, vài khoanh ớt tươi, lặt thêm ít rau thơm, kinh giới rồi thủng thẳng bẻ từng miếng bánh mì giòn rụm chấm vào mà thưởng thức. Ôi cái chua, giòn, cay, mặn ngọt hòa quyện vào nhau thiệt là đã làm sao. Trong âm nhạc, ta có bài "remix", trong món ăn ta cũng "remix" món ăn vậy.

Thật là thiếu sót nếu tui đây không ráng mấy dòng về ăn vặt. Sinh viên không ăn hàng không phải sinh viên. Được một điều, hàng rong Saigon đủ vị mà giá lại khá phải chăng, Khu tui ở là phường nhỏ của quận 10 nhưng đếm cho kĩ cũng thấy gần hai chục người hàng xén bán đa số là bánh, nào là bánh bò, bánh tiêu, bánh chưng, bánh giò, có cả bò bía, gỏi cuốn rồi đủ các loại chè, à và còn một món không thể thiếu: bánh tráng trộn khô bò. Rẻ lắm, chỉ độ 2-5 ngàn đồng là bạn có thể làm mất đi cái lợt lạt của lưỡi, của họng trong những trưa nắng nóng oi nồng. Riêng tui, còn gì bằng khi buổi trưa làm bữa cơm bình dân no nê xong lại nhấm nháp bịch chè bắp ướp lạnh có phủ lên lớp nước cốt dừa béo ngậy? Có cả đậu xanh, sương sáo cho bạn nữa đấy. Bạn sẽ dễ dàng nhận ra xe chè từ xa với bà bán đội nón lá, mặc áo tay dài, nói giọng miền ngoài đứng bên chiếc xe đẩy tay hai bánh lớn, hai bánh nhỏ chia hai ngăn, ngăn trên là những nồi, thau đủ loại chè, ngăn dưới là thau nước rửa ly kề bên thùng đá bào nhỏ, lỉnh kỉnh ly chén. Xe chè nào cũng có dù nhỏ và dăm ba ghế nhựa cho khách bộ hành tạt vào thưởng thức. Riêng bà bán chè trước của nhà trọ của tui bật mí rằng một ngày bán hơn ba trăm ly, 1 ly vị chi 3 ngàn đồng, trừ phi phí cũng lời khoảng ba trăm đến bốn trăm ngàn. Than ôi, bàn chè còn hơn cả lương cứng của bác sĩ sáu năm đèn sách ! Thất nghiệp, tui đi bán chè, các bạn nhớ ủng hộ quán chè "Y khoa" của tui nha!

Cuối cùng ta làm một con tính, sinh viên bình dân ăn một ngày 3-5 ngàn tiền sáng, 20-30 ngàn cho bữa trưa và tối (tùy khu vực nội hay ngoại thành) kèm thêm 3 ngàn ăn vặt, vị chi khoảng 30- 40 ngàn một ngày là đủ chất lượng để học tập. Nếu túng quẫn quá bạn có thể gộp hai bữa ăn làm một cho đỡ chi phí mà vẫn đủ dinh dưỡng khi biết cách ăn. Làm sinh viên cũng phong lưu lắm thay

Phở trong kí ức của tôi

Nhắc đến ẩm thực Việt Nam người ta nghĩ ngay đến phở!

Phở đi vào tâm trí người Việt không đơn thuần chỉ là một món ăn mà còn là một truyền thống, một nét đẹp rất đỗi giản dị mà đáng quý.

Tôi với món phở Hà Thành có một kỷ niệm mà nhiều khi nhớ lại vẫn còn thấy ngại và "buồn cười".

Hồi nhỏ, bố mẹ đều rất bận rộn nên buổi sáng mẹ thường đưa tôi ra hàng phở đầu phố gọi cho một bát rồi hẹn nửa tiếng sau đến đón. Mặc dù đã nhẵn mặt với bác chủ hàng nhưng tôi vẫn rụt rè chọn cho mình một góc khuất nhất có thể trong quán. Hôm đó, quán phở thật đông khách. Bác chủ hàng nhanh nhẹn làm hết bát này đến bát khác. Rồi cũng đến lúc khách vãn, bác chủ quán nghỉ tay uống nước, nhưng lúc đó tôi vẫn chưa được ăn. Tôi nghĩ bụng chắc bác í nghỉ một chút rồi làm cho mình thì có gì phải vội chứ, và thế là tôi cứ ngồi im lặng trong góc khuất nhỏ đấy . Nhưng uống nước xong, bác lại quay ra nói chuyện với mấy cô bán hàng bên cạnh, và hoàn toàn không có ý định làm thêm bát nữa cho tôi. Đến lúc đấy, tôi mới nhận ra là bác hoàn toàn quên mất sự có mặt của tôi trong quán . Thông thường trong trường hợp này, bất kì ai cũng sẽ lên tiếng nhắc, nhưng tôi thì lại không làm được như thế, tôi cứ ngồi im lặng, dù rằng trong bụng đang đói cồn cào, dù biết là nếu mẹ đến đón mà chưa ăn xong nhất định sẽ bị mẹ mắng. Tôi nhút nhát thế đấy, tôi hi vọng bác chủ quán sẽ nhìn lướt qua và phát hiện vẫn còn một vị khách nhỏ trong quán của mình, nhưng bác hoàn toàn không để ý!

Tôi không nhớ nổi mình đã ngồi như thế trong bao lâu. Có thể bạn sẽ chép miệng và nói "Ôi dào, ăn muộn vài phút thì có hề hấn gì!". Cũng đúng, nhưng lúc đó tôi chỉ là một con nhóc 6,7 tuổi- chịu đói đồi với tôi đúng là cực hình! Đói quá, tôi đâm ra tủi thân, tự dưng nước mắt trào ra lúc nào không hay. Đúng lúc đó thì có một vị khách khác bước vào quán, một bác trạc tuổi mẹ tôi cũng đi ăn phở. Nhìn thấy một con bé đang sụt sùi nước mắt, bác í ngạc nhiên lắm nên quay ra hỏi bác chủ quán xem liệu có phải tôi bị...lạc không!? Đến bấy giờ bác chủ quán mới nhớ ra và rối rít xin lỗi tôi. Tôi chả còn tâm trí đâu mà nghe lời xin lỗi của bác, tôi chỉ thấy đói chết đi đươc. Dường như hiểu được tình cảnh khốn khổ của tôi, bác chủ quán nhanh chóng làm cho tôi một bát phở.

Và đến tận bây giờ tôi có thể nói chắc chắn rằng bát phở hôm đó tôi ăn là bát phở ngon nhất. Mùi thơm của các loại hành, rau quyện trong sự ngọt mềm của thịt bò, nước dùng đậm đà thơm mùi chanh, tỏi, ớt làm tôi ăn một lần mà nhớ mãi. Kể ra cũng lạ, hàng phở đấy tôi ăn suốt ngày mà không hiểu sao hôm đấy ăn lại ngon đến như thế. Không hiểu có phải do bác chủ quán cảm thấy có lỗi không mà bát phở lại...chất lượng hơn mọi hôm

Bây giờ, đi trên phố phường Hà Nội, khó mà có thể tìm được một phố nào không có ít nhất một quán phở. Tôi cũng ăn nhiều, từ quán phở vỉa hè, cho đến Phở 24, Phở Lý Quốc Sư, ... nhưng cũng chưa lần nào tìm lại được cái hương vị thơm ngon mà đã từng được nềm thử!

Có lẽ trong thưởng thức ẩm thực không chỉ cần những kiến thức tinh vi, mà đơn giản chỉ là tình yêu đối với món ăn thưởng thức và một chút tấm lòng của người đầu bếp

Giàn thiên lý đã xa

Chuyên mục: Đo Đo qua báo chí.

“Bà Năm Tự nấu canh rau dền rất ngon, nhưng chiều nào cũng ăn món đó, tôi đâm ngán. Tôi, cô Thịnh và chị Nhường liền chuyển sang tấn công đĩa cá rô chiên và chén đậu phộng rang dầm nước mắm…” (trang 75, Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh).

Trước đây, đọc những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, tôi rất thích những trang văn anh mô tả về làng quê yên ả, trong đó có những món ăn bình dị. Rồi sau này gặp anh, tôi mới vỡ lẽ những Chuẩn (Trại hoa vàng), Ngạn (Mắt biếc), Trường (Đi qua hoa cúc), Chương (Hạ đỏ) đều có “gu” ăn uống hệt như anh ngoài đời.

Đó là “gu” giản dị với những món ăn quê bình thường như mắm cái, dưa cà, canh hoa thiên lý, cá hố khô nướng dầm nước mắm hoặc kho với cà chua… Nguyễn Nhật Ánh mê những món ăn hương vị Quảng Nam, nơi có làng quê mà tuổi thơ anh trải qua với những bước chân trần. Những món anh thích như mì Quảng, canh rau dền, rau muống nấu nghêu, canh cá tràu, canh bí đỏ nấu đậu phộng, thịt bò nấu rau răm… Một vài lúc nào đó, anh cũng sẵn sàng chỉ cho người khác biết cọng rau nào mới là ngon, miếng thịt heo xắt như thế nào mới là đúng cách. Tôi trộm nghĩ, nhà văn Vũ Bằng “thương nhớ mười hai” với những món đặc sắc miền Bắc như thế nào thì Nguyễn Nhật Ánh cũng mê những món “quê kiểng” của làng quê mình như thế. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh ăn uống qua loa, đại khái mà ngược lại, vô cùng tinh tế. Hầu như Nguyễn Nhật Ánh đều ăn cơm ở nhà, và trên bàn ăn không bao giờ thiếu chén nước mắm Nam Ô nguyên chất dầm tỏi ớt, dù có khi món ăn hôm ấy chẳng ăn nhập gì với nước mắm. Đĩa rau sống trên bàn ăn của anh tưởng là đơn giản nhưng hóa ra không phải, ấy là những thứ rau mà hương vị phải hài hòa với nhau, nó gồm các thứ rau xà lách, tần ô, chuối chát, ngò rí. Không tìm được những thứ rau ấy thì sẽ phải có một đĩa rau khác gồm cà đĩa, rau muống chẻ, húng lủi, hành lá cắt khúc. Chính vì chỉ thấy ngon miệng với những món ăn dân dã này nên nhà văn “vô cùng khổ sở” những khi đi dự tiệc hoặc đi nước ngoài. Anh bảo: “Vì tôi luôn tương tư những món ăn Việt Nam, mà lại toàn là món ăn quê”.

Món ăn là văn hóa, chính vì thế mà làng quê Đo Đo theo anh vào tận Sài Gòn, trở thành tên quán chuyên bán món ăn Quảng Nam của vợ anh. Nhưng một lần được anh đưa về thăm quê, chị mới ngỡ ngàng “hóa ra những món ăn mình nấu cho anh xưa nay lại không hoàn toàn giống món ăn mà người dân ở Đà Nẵng, Quảng Nam ăn bây giờ”. Bởi vì trong khi anh cứ nhớ về món ăn của những ngày nghèo khó, thì đời sống vật chất của người dân ngoài ấy đã khá hơn rất nhiều, những món ăn đã được chế biến công phu, cầu kỳ hơn. Ai có ngờ như thế mà lại hay, những món dân dã, bình dị của quán chợ Đo Đo lại vô cùng thích hợp với những người Quảng Nam xa xứ hôm nay.

“Có một người đi qua hoa cúc

Có hai người đi qua hoa cúc

Bỏ lại sau lưng cả tuổi thơ mình”

(Đi qua hoa cúc – Nguyễn Nhật Ánh)

Nhưng có một người đi qua hoa cúc mà không bỏ lại sau lưng tuổi thơ mình, chính là Nguyễn Nhật Ánh. Tuổi thơ với những món ăn quê nhà không chỉ theo chân anh mà còn đi cả vào những tác phẩm của anh. Đôi khi chính vì vậy anh mới… khổ. Chắc bạn đọc rất ngạc nhiên? Anh kể một trường hợp về bà Kato Sakae (dịch giả người Nhật đã dịch quyển Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh sang tiếng Nhật), sau khi đọc tác phẩm của anh đã nhất quyết “bắt” Nguyễn Nhật Ánh đãi mình những món mà bà rất “mê” qua sự miêu tả của anh. Khổ một nỗi, những món ăn luôn có vẻ thơ mộng, gợi nhiều hình ảnh trên trang sách nhưng ngoài đời có khi lại cực kỳ khó kiếm.

Thuốc Nam, Thuốc Bắc

Nộm rau muống tuổi thơ...

Mỗi kỳ nghỉ hè về quê, mợ đều làm món nộm rau muống “thết đãi” đứa cháu gái bé bỏng. Món ăn dân dã mát lành đó đã gắn bó với tôi suốt quãng thời thơ ấu.

Món rau muống nộm của mợ làm thật đơn giản nhưng hương vị thì chẳng chê vào đâu được. Rau muống mùa hè xanh rộ, mợ trồng ngay sau vườn nhà. Biết cháu gái thích ăn nộm rau muống mỗi khi về thăm quê, mợ dậy thật sớm ra vườn ngắt rau.

"Rau muống mới ngắt ăn sẽ có vị ngái. Hái sớm thế này rửa sạch, để gần trưa khi cháu xuống ôtô về là có nộm”, mợ thường âu yếm bảo tôi như vậy

Rau muống rửa sạch, trần qua nước nóng cho giòn. Có thể để cả cọng hoặc chẻ làm đôi. Chỉ cần nêm nếm thêm vài ba thứ gia vị chính. Đặc biệt, không thể thiếu quả chay và lạc rang. Quả chay là thứ quả chỉ có ở Hải Phòng quê tôi làm gia vị đặc trưng cho món ăn này. Quả có vị thanh thanh chua mát không lẫn vào đâu được.

Ra Hà Nội học, thi thoảng nhớ món nộm mợ tôi thường tự làm nhưng không có quả chay nên phải thay thế bằng chanh. Quả chay thái chỉ thành sợi nhỏ, trộn đều với rau muống. Để món nộm thêm bùi, mợ đã kỳ công rang giã lạc trộn hoặc phủ lên bề mặt đĩa nộm. Lúc này chỉ còn một công đoạn nhỏ nữa là nêm gia vị tỏi, ớt, đường và nước mắm ngon cho vừa miệng.

Nhìn đĩa nộm rau muống ánh lên màu xanh của rau, màu vàng ruộm của lạc, một chút sắc đỏ của ớt chín và đầy đủ vị thanh chua của quả chay, cay của ớt, ngọt nhẹ nhàng của đường và bùi của lạc rang.

Dân dã nhưng ở đó là tình cảm dịu dàng mợ dành cho tôi - đứa cháu gái lâu ngày về thăm quê.

Giữa thời tiết oi nóng của mùa hè, chỉ nghĩ đến lúc về quê được mợ đãi món nộm dân dã mà tôi đã thấy thèm!

Một vài công dụng của rau muống

Đông y cho rằng rau muống có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, cầm máu, chảy máu cam và những bệnh về đường tiêu hóa khác.

Theo y học hiện đại, rau muống cung cấp nhiều chất xơ, chất sắt, vitamin C, vitamin A, các loại protein và một số thành phần tốt cho sức khỏe, là thức ăn tốt cho mọi người.

Từ rau muống, người ta có thể chế biến thành nhiều món ăn. Đơn giản, chỉ việc luộc rau, chấm rau luộc với tương bần hoặc nước mắm ớt, còn nước luộc rau vắt chanh vào ăn rất mát. Ngoài ra còn có rau muống xào tỏi, nấu canh khoai sọ. Và giờ đây món nộm rau muống cũng là một món ăn phổ biến, nhất là những ngày hè đang tới.

Món ăn của tuổi ấu thơ

Đó như là những món ăn được kết tinh lại bởi tình yêu thương để mỗi khi nản lòng và nhớ nhà, tôi lại hình dung ra hương vị của chúng, để lại có thêm sức mạnh và để biết rằng mọi người vẫn ở bên tôi.

Khi nghĩ về ấu thơ, tôi thường nghĩ về quê hương, về mái nhà và những người thân yêu. Khi tôi nhớ đến bố, mẹ, các chị nỗi nhớ đó trở nên hữu hình với những kỉ niệm không thể quên về những món ăn ấu thơ của tôi. Đó như là những món ăn được kết tinh lại bởi tình yêu thương để mỗi khi nản lòng và nhớ nhà, tôi lại hình dung ra hương vị của chúng, để lại có thêm sức mạnh và để biết rằng mọi người vẫn ở bên tôi.

Ngày xưa, lúc tôi còn bé, khi công kênh tôi trên lưng đi xem “ké” tivi nhà hàng xóm, bố tôi thường hỏi tôi: “Con thương bố bằng gì?” và tôi sẽ trả lời rằng: “Con thương bố bằng trăm triệu ông trời”… Những lúc ấy, tôi lại thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt rám nắng của bố. “Ừ,  bố con ta như cà với ruốc”, câu nói của bố khiến tôi liên tưởng ngay món cà dừa luộc chấm ruốc của mẹ. Ruốc mẹ làm thường là ruốc tép, thơm thơm, chua chua và chấm với cà dừa vừa đủ độ là ngon nhất. Món ấy ngày xưa là “đặc sản cây nhà lá vườn” của nhà tôi vì cà dừa trong vườn mẹ trồng, tép chị cất ngoài đồng và mẹ muối thành ruốc. Mỗi khi mẹ làm món này, bố thường sai tôi đi hái lá rau thơm, rau húng ăn kèm. Món cà dừa luộc chín tới, vẫn còn khói bốc lên và ruốc tép đặt sẵn trong bát, chấm vào nhau tạo thành vị ngọt, bùi, ăn không biết chán. Khi vào vụ cà, mẹ luộc bao nhiêu cũng hết. Cả nhà vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon. Ngày ấy và cả sau này, đối với tôi, cà chấm ruốc như một món ăn không thể thay thế, không thể đổi khác cũng như tình cảm của bố dành cho tôi vậy.

Quê tôi ở miền Trung, một vùng quê với cái nắng cái gió cháy da cháy thịt, với cái rét lạnh cắt lưng. Hầu như năm nào, bão lũ cũng đến thăm mảnh đất này. Mẹ tôi thường muối một vại dưa cà để dành nhỡ ngày bão lụt, cây cối hoa màu trong vườn bị nhấn chìm trong màn nước lũ mênh mông. Có năm, khi nước lũ dâng cao và kéo dài, vại cà cứu cánh của mẹ cũng đã cạn, tôi thấy ánh nhìn âu lo của mẹ. Mẹ lặng lẽ ngồi nghĩ cách… Cây đu đủ còn lại duy nhất trong vườn đã được hái đến quả cuối cùng. Xung quanh không còn gì cả, mẹ quyết định chặt cây đu đủ và lấy thân cây đu đủ xào làm thành món ăn. Chúng tôi vừa ăn vừa khen món mẹ nấu ngon không kém quả đu đủ xào. Mẹ mỉm cười nhưng nước mắt đong đầy trong khóe mắt. Đó là món ăn đặc biệt nhất mà tôi đã từng được ăn trong những ngày mưa bão và đó cũng là món ăn mà suốt đời tôi không quên, vì đó chính là tình thương của mẹ dành cho chúng tôi.

Chị là con gái lớn trong nhà, một tay chị tất bật làm việc nhà và chơi với hai đứa em nhỏ. Chị hơn tôi bảy tuổi, khi tôi còn ở tuổi mẫu giáo lớn thì chị đã đi bắt ốc, bắt dam, cất tép để cải thiện bữa ăn hàng ngày và giúp bố mẹ nuôi lợn, nuôi gà. Có lẽ chính vì thế mà chị đảm đang nhất trong ba chị em tôi chăng. Tôi còn nhớ những buổi chiều tối, chị vẫn mải mê với “rớ”, với tôm tép nhảy lách tách trong rổ đậy lá tre và những buổi chị ngồi rang thính, quét hồ dạy chúng tôi cách làm mồi để hấp dẫn tôm tép. Tôi thích đi “cất rớ” cùng chị, để khi rớ nhiều tôm tép lại nhảy lên hoan hô, để khi bắt được con cá thia lia, con tôm to chị lại cho tôi đựng vào chai nước. Không chỉ là người giỏi bắt tôm tép mà chị còn là người nấu ăn rất ngon. Cũng một món tép nhưng chị nấu được thành tép kho khế, tép rim, dấm tép khế chua và cả dấm tép với cà chua. Mỗi món ăn đều đậm đà hương vị của đồng quê, của sản vật quê nhà. Ngày xưa có lần chị bảo rằng con gái miền Trung nấu ăn thường “chặt to kho mặn”, tôi lại bảo chị rằng: “Chặt kho kho mặn răng em thấy cấy chi cụng ngọt ngon cả?” (chặt to kho mặn sao em thấy cái gì cũng ngọt ngon cả). Phải, đó chắc là vì quê hương, dù còn lắm những vất vả những khó khăn nhưng đó luôn là “chùm khế ngọt” trong tiềm thức của mỗi người.

Chị hai tôi là người rất thích kéo bạn bè về làm món ăn mới, những món ăn mà tôi chưa được ăn bao giờ. Chính vì thế mà tôi được làm quen với bánh bèo, bánh khoai, bánh xèo và học lỏm luôn được công thức làm bánh. Bánh bèo trông giống mũ tai bèo của các chú giải phóng quân, làm bằng bột lọc và nhân tôm. Bánh bèo làm lâu, nhiều công đoạn nhưng khi ăn thì “cực” ngon. Trong bánh bèo có vị béo của tôm, vị sần sật của bột lọc, vị thơm của rau mùi và vị hơi mặn của nước chấm. Bánh khoai làm từ khoai và bột nếp. Theo công thức thì khoai nhiều hơn bột nhưng nhiều khi các chị làm thành bột nhiều hơn khoai. Tuy nhiên tôi vẫn rất thích và ăn rất ngon lành. Những hôm trời mưa, ở nhà thấy nhạt miệng, tôi đòi chị làm kẹo lạc để ăn. Kẹo lạc làm dễ và nhanh hơn những món bánh khác nên chị chiều tôi ngay tắp lự. Đường có sẵn, lạc rang lên, xoa cho vỏ lụa hết đi, để sẵn báo trên nia rồi thắng đường, đổ ra báo và rải lạc lên trên. Ngồi chóp chép nhai kẹo và uống nước chè xanh, để cái ngọt bùi của kẹo hòa lẫn vào vị chát của nước chè xanh mới om, tôi cảm nhận được rằng đó chính là hạnh phúc ngọt ngào của tình cảm ruột thịt, của gia đình và quê hương  mình.

Những món ăn nghịch ngợm thời thơ ấu

Hồi còn nhỏ, khu nhà tôi ở rất gần sông Hồng và rất nhiều ao hồ xung quanh. Những hồ này được hình thành do ngày xưa lấy đất đắp đê. Lũ trẻ chúng tôi hàng ngày lặn hụp mò cua, bắt ốc, câu trộm cá… trong những cái hồ ấy. Khu nhà chúng tôi ở là nơi duy nhất có vài bóng điện cao áp, mà hồi đó bóng điện cao áp rất hiếm, kể cả trong nội thành HN. Cây cầu Long Biên chỉ có một dãy bóng điện sợi đốt đỏ quạch, đường phố trong nội thành cũng thế. Hình như chỉ khu lăng Bác là có điện cao áp và là nơi sáng sủa nhất thành phố.

Vào những đêm hè, những đêm “trở trời”, cà cuống, niềng niễng bay thành từng đám. Lớp cánh mỏng ánh xanh nhạt bay lượn vù vù xung quanh mấy cái bóng cao áp, đến khi “chóng mặt” đâm đánh cốp vào bóng đèn rồi rơi xòe xuống đất. Lũ chúng tôi chỉ đợi có thế là lao ra vồ, bất chấp những cái vòi đang dựng lên, bất chấp những cái càng sắc lẻm đang giương lên. Ối, ái, nó đốt tao rồi… là những từ luôn vang lên mỗi khi có một đám xúm xít vồ cà cuống. Cà cuống đốt không đau lắm, không buốt và sưng như ong. Nó chỉ đau "chịu được" và sưng cũng ít, chỉ có điều cách sưng của nó hơi đặc biệt, không sưng to nhưng chỗ sưng rất cứng, các ngón tay cứ cứng lên, ngay đơ trông rất buồn cười.

Những chú cà cuống bắt được chúng tôi đem nướng trên bếp điện đỏ rực làm bằng dây mayso trần của Liên Xô được uốn ngoằn ngèo trong khuôn một cái bếp bằng đất nung. Những con cà cuống cái có cái bụng đầy trứng, to lớn được ưu tiên “lên thiên đàng” đầu tiên. Mùi thơm ngào ngạt và hơi khét tỏa ra. Xé bỏ lớp cánh và chân cẳng cháy đen đi, bóc nhẹ lớp vỏ bụng dai dai đi, một tảng trứng xanh lục nhạt lộ ra. Cho tất vào mồm nhai, mùi tinh dầu cà cuống thơm nhẹ, trứng bùi, béo, hơi dẻo và sần sật… Thật đặc biệt, khó có trứng của con gì ngon hơn thế.

Cà cuống đực nhỏ con hơn, hung hăng hơn. Nướng chín lên rồi xé ra, mùi thơm ngào ngạt khắp nhà. Phần ngực cà cuống đực có nhiều thịt, rất ngọt và hơi béo pha chút đăng đắng của vỏ nướng bị cháy, mùi tinh dầu cay xộc lên mũi, đến tận hôm sau vẫn còn phảng phất. Một số con đực được để dành dầm nước mắm chấm rau muống luộc vào bữa ăn hôm sau. Có bố mẹ một số đứa thành thạo chế biến thì băm nhỏ cà cuống đực cho vào chai nước mắm để dành. Hồi ấy, thời bao cấp nên chẳng có gì ăn với nước mắm cà cuống, chỉ chấm rau muống luộc, ấy thế mà rất ngon. Nhà nào sang hơn thì mang kí gạo ra chợ đổi bánh cuốn mộc về cải thiện một bữa. Những dịp cải thiện như thế này không nhiều trong một năm nên chúng tôi rất nhớ, nhớ rất dai và vẫn thường khoe “nhà tao ăn bánh cuốn…”

Ong thì khỏi nói, chúng nó có làm tổ trên cây nhãn, dưới mái nhà… dù kín đến đâu cũng không thoát khỏi mắt chúng tôi. Những tổ ong muỗi mỏng manh dài thượt, lả lướt trong đám lá, những tổ ong vàng như cái lọng, những tổ ong bò vẽ vằn vện có những lỗ đen ngòm như những đôi mắt trên mặt nạ ma quỷ nhe răng dọa nạt… đều rất hấp dẫn chúng tôi. Ong bò vẽ thì chỉ có các anh, cá chú lớn dám đốt, nhưng lũ chúng tôi là phụ tá rất đắc lực và liều lĩnh. Các chú ấy thường đốt thẳng vào các lỗ trên tổ ong hoặc đến tối lấy giẻ nút các lỗ ấy lại rồi đốt. Ong muỗi thì chỉ cần một cành cây dâu có cái móc ở đầu, móc vào giật một phát là rụng xuống đất. Cầm cái mũ xua lũ ong đang bay đi rồi lao vào lấy là xong. Lỡ bị đốt thì cũng chẳng sao, đau, ngứa tí là hết. Ong vàng thì khó hơn, chỉ ngoèo được khi chúng còn nhỏ bằng bàn tay của chúng tôi. Những tổ lớn như cái mũ cối, nhiều tầng lớp thì phải đốt bằng giẻ tẩm dầu hoặc bùi nhùi rơm có nhiều khói được buộc vào cái sào tre dài. Cứ thế đem gí vào tổ, ong lớn bay tán loạn, một lúc sau, một thằng nhiều kinh nghiệm nhất, liều nhất sẽ trèo lên dùng cái móc giật cho tổ ong rơi xuống. Chỉ một lát sau, trong cái rá vo gạo đầy những ong non, có vài thằng thích ăn sống nhộng ong. Những con nhộng trắng tinh, béo múp, những con ong non trắng ngà có đầy đủ chân, râu… nhưng chưa có cánh, những con ong non sắp ra ràng bò lổm ngổm được cho tất vào một cái chảo mỡ. Xèo xèo, thơm ngậy. Cuộc liên hoan chí chóe diễn ra ngay sau đó chen chúc những cái đầu, những cái vai lấm chấm vôi trắng, dấu vết oanh kích của những chú ong vàng. Sau đó ai về nhà nấy, lát sau có những tiếng khóc ré lên của những thằng bị ăn đòn, tôi cũng thế.

Sáng hôm sau, vài thằng gầy nhẳng tự nhiên lại mang một bộ mặt cười tròn vành vạnh, béo múp. Lại đi chọc ong, lại bị đốt, lại ăn đòn… cứ thế.

Quanh khu tập thể chúng tôi có rất nhiều những cây nhãn cổ thụ. Những cây nhãn mà chúng tôi biết rất rõ cây nào sẽ chín trước, cành nào sẽ chín trước, cây nhãn nước hay cây nhãn cùi… không năm nào trượt. Ăn từ khi cắn quả nhãn ra trong hạt còn có nước, rồi đến cùi nhãn chỉ là một cái màng mỏng dính rồi hạt nhãn trắng tinh có một chấm đen, đến vệt đen. Cái vệt đen trên hạt nhãn cứ lớn dần cho đến khi đen hết hạt là nhãn chín.

Tất nhiên, chúng tôi hái trộm nhãn đấy.

Bọ xít nhãn to khỏe, cứng cáp và vàng sẫm và rất nhiều mỗi khi đến mùa nhãn. Trẻ con ngày xưa không có nhiều đồ chơi nên hầu hết là tự làm lấy, tự sáng tạo ra để có cái chơi trong dịp nghỉ hè. Đua xe bọ xít, một trò chơi thường niên rất hấp dẫn. Bọ xít nhãn “đái” rất khỏe và nhiều, nó mà đái vào mắt thì phải rửa ngay chứ không thì sưng húp cả mắt. Xe được làm bằng vỏ ống kem đánh răng bằng thiếc chứ không bằng nhựa như bây giờ. Hình như là kem đánh răng “Ngọc lan” của Nhà máy xà phòng Hà Nội. Cắt miếng săm xe đạp hoặc miếng nhựa mỏng thành miếng tròn nhỏ xíu bằng cái cúc áo làm bánh xe. Trục xe làm bằng tre vót rồi đánh bóng. Cắt ống kem đánh răng làm thân xe, hai đầu được cuốn tròn lại rồi đút trục xe vào, 4 bánh xe gắn vào trục. Ở giữa khoảng thân xe gắn cục nhựa đường làm ghế cho “tài xế bọ xít”. Đấy là model xe đơn giản nhất, các thế hệ cải tiến tiếp theo của nó còn được gắn súng ống, gươm đao, sơn phết vằn vện “khủng” lắm.

Bắt một chú bọ xít to khỏe, vặt hết chân tay rồi gắn vào ghế lái, huơ huơ mấy vòng cho nó vỗ cánh rồi đặt xuống đường đua. Vút, các chú xe bọ xít chạy rất đẹp mắt trong tiếng hò hét của lũ chúng tôi. Cũng có những cú cua gấp, xe lộn tùng phèo mấy vòng, cũng có những cú đâm nhau y như trên đường đua F1. Có thằng ham làm xe nhẹ bằng phim để chạy cho nhanh, ai dè xe chạy một đoạn rồi từ từ cất cánh bay vút lên giời trong tiếng "khóc" ré lên của khổ chủ xen lẫn trong tiếng cười phá lên của những thằng khác.

Những thằng thua, những thằng xe đâm nhau, những thằng xe bị bay mất… ngồi xếp một hàng dài cho ba thằng về nhất, nhì, ba lần lượt nhảy qua đầu. Cay cú, lại thay “tài xế”, sửa sang lại xe rồi đua tiếp, thế nào cũng được nhảy qua đầu chúng nó với vẻ mặt đắc thắng. Chơi chán rồi đem giỏ “tài xế” ra nướng chén. Bọ xít hôi là thế nhưng khi ném vào lửa nó sẽ xịt hết tinh dầu ra là không còn mùi nữa. Nướng chín vàng sẫm, bóc cánh và phủi mấy khúc chân cháy dở đi rồi tọt vào mồm, bọ xít giòn sụm, thơm phức, béo ngậy còn hơn cả cào cào châu chấu nướng.

Chiều về, tay chân vàng khè vì bị bọ xít đái, quần áo cũng thế, hôi rình. Rón rén vào nhà. Thế nào cũng có thằng bị ăn đòn.

Ơ mà con bọ xít nướng béo thật nhưng không bằng con sâu sắn dây, nó là ấu trùng của con cánh cam. Vào cuối hè, tìm những dây sắn dây bị phình ra thành cái bọc to tướng, lấy dao rạch nhẹ rồi banh ra, trong ấy có những con sâu to bằng ngón tay cái, trắng nõn, con sâu này rán lên, mỡ nó tự chảy ra béo ngậy. Nhà thằng nào có cơm nguội thì mang sang, ăn sâu xong rồi lấy cục cơm nguội quẹt mỡ tươm ra ngon phải biết. Sau đó lại hì hà hì hục với những trò nghịch ngợm mới.

Sâu dâu ăn cũng ngon nhưng không hấp dẫn lắm vì bắt nó rất khó. Sâu dâu là ấu trùng của con xén tóc, là con có hai cái răng nghiến vào nhau kèn kẹt, cho tóc vào là nó xén như ông thợ cắt tóc vậy. Sâu dâu phải bắt vào đêm. Ban ngày nó ngủ trong lỗ đục của nó dưới gốc cây, ban đêm mới lên khoét cành phía trên. Sau khi đánh dấu những cây có sâu, tối đến ra nghe thấy kèn kẹt trong cành thì chặt luôn cành ấy. Mang về chẻ ra, một chú sâu bằng ngón tay, người cứng đơ ngọ nguậy. Món này rán ăn cũng ngon nhưng chủ yếu là chúng tôi bắt cho người lớn làm thuốc chữa bệnh.

Chấu chấu, những con màu xanh và có đầu vuông vuông rang ăn cũng rất ngon. Món này chúng tôi thường bắt ngoài đồng rồi mang về rang ăn với cơm ở nhà nên không hấp dẫn chúng tôi mấy. Thỉnh thoảng vớ được chú muồm muỗm béo múp, rồi bắt cả niềng niễng và con ăn mày ở dưới nước… một mớ linh tinh đem về cấu đầu rút ruột rồi rang lên làm thức ăn cho gia đình để tỏ vẻ ngoan ngoãn để mai lại nghịch tiếp. Châu chấu được gọi là tôm bay, rang với mỡ, cho tí nước muối cà vào thì châu chấu trở nên rất giòn và ngon. Con ăn mày bùi bùi, con niềng niễng khai khai...

Vẫn còn nguyên những hình ảnh, những khuôn mặt của những thằng bạn, còn nguyên những hồ ao, cây nhãn thuở ấy, còn nguyên những cánh đồng mặc dù giờ đây không còn nữa. Và còn nhiều lắm những món ăn nghịch ngợm thời thơ ấu, những món ăn đặc biệt và ngon nhất trong đời. Mùi vị của nó vẫn còn đọng lại, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn thường mơ về.

Câu trộm

“Tiên sư cha mấy thằng ôn vật, ông mà bắt được ông quật chết !”

Một ông to béo đang bùng nhùng trong đám cây dâu tay vung nắm đấm về phía mấy đứa trẻ con đang chạy len lỏi như cá rô rạch giữa các luống dâu phía trước, vừa chạy vừa cười rúc rích.

Vào mùa hè, những cảnh như thế xảy ra như cơm bữa ở tại khu tập thể chúng tôi. Những hôm đi câu trộm mà không bị đuổi bắt thì cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó.

Quanh khu tập thể nơi chúng tôi ở cơ man nào là ao hồ và hố bom đó là chưa kể còn một con sông Hồng và mương thủy lợi chằng chịt nữa. Lũ chúng tôi khi được nghỉ hè thì như chim sổ lồng, vứt cặp sách vào một xó, tụ họp lại với nhau bàn cách đi câu trộm, bắn chim và đủ trò nghịch ngợm khác. Thuở ấy, là thời kỳ rất khó khăn. Những ai được sinh ra những năm 6x, 7x thế kỷ trước chắc chắn được nếm trải một tuổi thơ vất vả. Nhưng bù lại, nghèo khổ về vật chất nhưng lại vô cùng giàu có về những trò chơi, những trò tinh nghịch ngoài trời, gần gũi với thiên nhiên cây cỏ mà trẻ em ngày nay hiếm khi có được.

Lũ chúng tôi sàn sàn tuổi như nhau, khoảng 8-12 tuổi, lô nhô lốc nhốc, hầu như thằng nào cũng gầy nhẳng và đen nhẻm. Đầu tóc cắt cua ngắn ngủn bằng tông đơ cho mát. Chạy một lúc ngoài nắng là mùi mồ hôi khét om.

Vào mùa hè, cá ao Hợp tác xã (HTX) nổi lên ngớp nước hàng đàn đen thẫm. Chúng tôi nhìn đàn cá với cặp mắt thèm thuồng. Ngay hôm sau là bắt đầu kiếm khúc tre ngâm thật dài, chẻ ra chia nhau rồi tỉ mẩn ngồi vót, vót xong lấy phoi tre chuốt thật nhẵn, cầm cây cần trơn láng, mát tay thật sướng.

Bắt đầu đếm đốt từ ngọn xuống may, không may, may, không may… đến khi đạt độ dài vừa ý và rơi vào đốt “may” thì chặt đánh cấc một cái, thế là xong cây cần câu.

Buổi chiều xin tiền bố mẹ rồi ra cầu Long Biên đu xe đi qua cầu vào chợ Bắc qua mua cước, lưỡi câu rồi đu xe về. Phao làm bằng lông ngan, lông gà, chì thì đập bình ắc quy ra lấy. Một loáng là xong một bộ đồ câu hoàn chỉnh.

Ao cá của Hợp tác xã thật nhiều cá, cá trôi, cá trắm.. nhất cá rô phi nhiều vô thiên lủng. Lũ rô phi này rất phàm ăn nên là đối tượng chính của chúng tôi. Chúng thường ăn ở trước cửa cống, nơi có nhiều chất thải hữu cơ từ dãy chuồng trại của khu tập thể. Chúng tôi câu nó bằng giun xoăn, loại giun rất dai và tanh, cứ thả xuống là rô phi nó cắn ngay.

Khắc tinh của chúng tôi là hai ông trông cá của HTX, một ông thấp bé, hơi già, chạy rất nhanh nhưng nhanh mệt, một ông to béo chạy rất khỏe nhưng chậm. Ông thấp bé là ông Phi, ông to béo là ông Thoảng.

Chỗ câu của chúng tôi là một ngõ cụt ra bờ ao. Xét về địa hình chống “giặc” Phi, “giặc” Thoảng thì chúng tôi bị bất lợi (chúng tôi gọi hai lão ấy là giặc vì lão cũng gọi chúng tôi là giặc). Nhưng chỗ này lại là nơi tập trung nhiều cá, thế là mỗi hôm chúng tôi phân công một thằng làm “công an” đứng ngoài đầu ngõ gác hai lão ấy, lúc về được chia cá.

Sau cơn mưa rào hoặc những hôm mưa rả rích thì rô phi cắn như điên. Thả xuống là chúng cắn, lỡ giật trượt thì lưỡi câu còn móc vào con phía bên trên. Những hôm thế này thường lại an toàn vì hai ông trông cá không mấy khi đi tuần. Chúng tôi câu hàng bao tải, đem về ăn một ít, còn lại muối vào vại nấu cho lợn ăn dần rất tốt.

“Giặc đến”. “Công an” ở đầu ngõ hét vang. Một lũ lốc nhốc chạy túa vào ruộng dâu, hai ông “giặc” vứt xe đạp đánh soạt rồi đuổi theo sát nút. Càng vào sâu càng nhiều cây dâu tua tủa. Chúng tôi đã quen với việc chạy giữa các luống cây dâu qua những trò đánh trận giả nên chạy nhanh lắm. Các vụ đuổi bắt trong ruộng dâu thường thì phần thắng luôn thuộc về chúng tôi. Hai ông ấy chỉ chạy được một đoạn là chịu. Cuối cùng chỉ bị ăn chửi.

Trong lũ chúng tôi có một thằng gọi là thằng Hải “trố”, chúng tôi chạy nó vẫn câu như thường. Hai ông trông cá đuổi không được chúng tôi thì đi thu cần, thu cá. Khi hai ông đó vào tới nơi, nó mới nhảy xuống ao bơi qua chỗ khác câu tiếp. Thằng này trên đầu nó có hẳn hai xoáy, thảo nào, đúng là gan cóc tía. Nó không bao giờ bị bắt.

Thiệt hại lớn nhất của chúng tôi là mất cần vì chạy trong ruộng dâu rất vướng nên phải vứt lại. Tiếc đứt ruột nhưng cũng phải chịu. Sau đó chúng tôi sáng kiến là dùng cây dâu làm cần câu, loại này hơi nặng nhưng rất dẻo. Hơn hết là mất cần không tiếc và rất nhanh chóng có một cây cần khác để câu.

“Đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma”. Hôm “công an” mải chơi, hai ông “giặc” ập vào tóm gọn cả lũ. Chỉ có mỗi “công an” và Hải “trố” là thoát. Hải “trố” bơi sang bờ bên kia, “công an” thì đứng cười nhăn nhở ở đầu ngõ. Lũ chúng tôi sau đó bị nhốt vào một nhà kho bỏ không của HTX. Căn nhà kho kín mít, các cửa sổ dày đóng rất chặt, mái nhà kho rất cao. Mọi cách trốn đều không thực hiện được. Ông Thoảng nói với ông Phi : “Giam chúng nó 3 ngày, không cho ăn uống”. Hai ông trông cá bắc ghế đẩu ngay trước cửa kho ngồi gác.

Trời về chiều muộn, trong nhà kho trở nên tối om. Tái mặt vì sợ. Vài thằng bé nhất bắt đầu mếu máo. Khóc lóc, xin xỏ, đập cửa ầm ĩ trong kho làm hai ông trông cá cáu tiết nên ông ấy dọa bắn rồi dọa nhốt thêm vài ngày. Sợ. Cả lũ ngồi im thin thít.

Những lần chạy khác, thỉnh thoảng ông ấy cũng túm được một thằng. Những vụ lẻ tẻ thế này chỉ phải ăn bạt tai và đá đít một phát rồi thả. Tôi cũng dính một lần do vấp ngã. Phải nói là lão ấy bạt tai đau thật, tai kêu í o nửa tiếng mới hết.

Gần tối, hai ông trông cá bất ngờ mở cửa. Tất cả xếp hàng một bắt đầu khai tên tuổi, tên bố mẹ vào một cái biên bản. Sau đó phải đi xách nước ở giếng đổ đầy vào hai cái thùng phi nước ở nhà trông kho rồi mỗi đứa xơi một roi vào đít xong mới được thả cho về với lời hứa “Lần sau cháu không thế nữa ạ”

“Biên bản” được đưa đến khu tập thể, thằng nào cũng bị ăn mắng một trận nhưng ít khi bị đòn vì trẻ con nghịch nghợm như thế là chuyện thường ngày, người lớn chẳng hơi đâu. Thằng nào bị ăn đòn là những thằng chạy bị mất dép. Hồi ấy, đôi dép là chuyện lớn, mỗi năm chỉ được một bộ quần áo mới và một đôi dép vào dịp tết thôi nên quý lắm. Có những đôi dép còn hàn vá chằng chịt, xanh xanh đỏ đỏ trông chẳng còn ra hình thù của đôi dép nữa. Sau đó, chúng tôi rút kinh nghiệm, toàn đi chân đất.

Cá trắm cỏ ở ao HTX rất to. Những cơn mưa lớn mùa hạ làm ngập nước lên bãi cỏ ven bờ là hàng đàn trắm cỏ lao vào ăn. Tôi mua loại cước to như dây đàn nhị cuốn vào ống bơ. Buộc cái lưỡi to đùng kèm một cuc chì to cho nặng để dễ ném xa. Mồi câu thì lấy mấy ngọn rau muống luộc tái cuốn vào lưỡi, nếu kiếm được quả sung chín móc vào lưỡi câu càng tốt. Lom khom nấp sau mấy cây ven bờ - vì chỗ này rất trống trải, rất dễ bị phát hiện – rôi rồi ném mồi ra chỗ cỏ mà đàn cá đang ăn. Vứt cái ống bơ vào bụi rồi chui vào ruộng dâu trốn, chỉ nghển cổ ra theo dõi ống bơ. Khi ống bơ bị kéo đi thì chạy ra giật, vội vàng cuộn lấy cuộn để, lôi xềnh xệch con trắm cỏ lên bờ, ôm nó chạy thục mạng về nhà. Một chú trắm to tướng, được gần 2kg (với tôi hồi đó nó quá to).

Vào các buổi trưa hè, cá trắm thường vào chỗ mát để nghỉ. Chỉ cần bẻ một nắm lá tre buộc lại rồi gài lưỡi câu có cuốn rau muống luộc ở dưới khoảng 20cm, ném xuống chỗ bóng tre và nấp trong bụi tre đợi. Cần làm bằng cây dâu to, cước cũng to. Cá trắm thường vào ăn rau muống luộc trước. Khi ăn, nó rút xuống rất bạo, giật một phát là nó văng lên bờ, lại ôm rồi chạy. Cá to chúng tôi thường câu kiểu du kích như thế. Không bao giờ bị phát hiện. Tuy nhiên, không phải lần nào cũng câu được cá. Câu rô phi vẫn khoái hơn vì hôm nào cũng được giật mỏi tay (trẻ con thích thế).

Cá rô, cá giếc… ở ngoài hồ hoang, hố bom, kênh, mương… rất nhiều nhưng chúng tôi chỉ thích câu trộm. Câu trộm cá HTX vô cùng hấp dẫn vì ngoài việc dễ câu và câu được nhiều còn rất hồi hộp nữa. Hồi hộp y như là chơi trò bắn nhau buổi tối. Vừa câu mắt vừa láo liên, tai vừa nghe ngóng tin của “cảnh sát” rồi màn rượt đuổi lại xảy ra vô cùng ngoạn mục. Lắm trận chạy hết hơi mà ông ấy vẫn đuổi ngay sau lưng, chân mỏi nhừ y như chạy ma trong giấc mơ vậy, rất kịch tính. Cuối cùng, như thường lệ, một nắm đấm vung lên và :

“Tiên sư cha mấy thằng ôn vật, ông mà bắt được ông quật chết !”

Mò cua bắt ốc tát cá

Nhà chúng tôi ai cũng trồng rau, nuôi lợn, nuôi gà vịt hoặc thỏ gọi là “tăng gia để cải thiện đời sống”. Sáng dậy thường phải đi kiếm rau cho lợn, đó là những loại rau dền, rau dệu, cải dại, khoai nước… và đủ thứ rau linh tinh xòe mọc hoang dại ngoài ruộng ngoài bãi. Ở ngoài đồng, hệ thống mương thủy lợi khi mùa lúa gần chín, trạm bơm không bơm nước vào nữa nên nước dần cạn, còn đọng lại những khúc ngăn ngắn, đó là nơi trú ngụ cuối cùng của tôm cá sống trong mương. Vài thằng chúng tôi be bờ lại và hì hục tát nước. Nước cạn tới đâu là cá tôm lộ ra tới đó, nào rô, nào giếc, nào chép, nào cá ngạnh… nhìn mà sướng, tát không biết mệt mỏi. Đổ rau lợn trong thúng ra, xuống bắt hết tôm cá vào đó.

Bắt hết cá nổi rồi bắt đến chạch tre. Gạt hết lớp bùn nhão phía trên đi rồi dùng hai bàn tay khum lại như cái xẻng rồi xắn từng khối bùn dẻo hất về phía sau. Cứ xắn như thế, chạch sẽ phòi ra, béo múp và bụng đầy trứng. Bắt chạch không dễ đâu nhé, phải dùng hai bàn tay vốc nó rồi hất vào rổ là dễ nhất. Thỉnh thoảng còn vớ được những chú lươn vàng nâu húp híp, sướng ơi là sướng. Bắt lươn thì dùng 3 ngón tay trỏ, giữa, áp út để kẹp giống như đan rổ thì lươn có chạy đằng trời. Sau đó, chúng tôi đổ tất cả chiến lợi phẩm ra đất rồi chia đều cho nhau, dưới là tôm cá, trên là rau lợn. Hí ha hí hửng đi về trong trưa nắng, bùn đất từ đầu đến chân, vết khô thì trắng cong lên, vết ướt thì đen nom như những thằng hề.

Ngày ấy môi trường còn trong sạch, tôm cá nhiều vô kể, ở đâu cũng thấy tôm cua cá. Trong ruộng lúa thì cơ man nào là rô, lóc, ngoài kênh mương thì đủ loại, cá sông thì ê hề. Mỗi khi mưa rào, cá rô rạch trên những đám cỏ chúng tôi bắt được hàng xô. Nhưng hồi đó hầu như mọi người chỉ thèm thịt thì phải. Người lớn mỗi người một tháng chỉ được 0.3kg thịt thì phải, gạo được 15.5kg… mà phải xếp hàng ngoài Mậu dịch quốc doanh mới mua được. Kể cả rau cũng phải mua bằng tem phiếu được cấp hàng tháng. Cá tôm chúng tôi bắt về người lớn cũng chẳng hào hứng mấy vì không có nhiều mỡ để rán cá. Kho mặn thì ăn không ngon. Hình như mọi người chỉ thèm thịt.

Câu cá rô cũng rất hấp dẫn. Cá rô trong hố bom, trong các hồ hoang xung quanh rất nhiều, toàn rô to cụ mà ngày nay rất hiếm thấy. Câu bằng mồi gì nó cũng ăn. Bột mì trộn dẻo rồi vắt vào lưỡi câu, giun, châu chấu… nó ăn tất. Cần câu vót lấy bằng tre ngâm, chuốt nhẵn. Thằng nào có cần câu trúc là vênh vang lắm rồi. Ngâm cám lợn với nước vo gạo vài hôm cho chua rồi ném xuống chỗ câu nhử chúng đến

Những con rô vàng hươm mà trong bụng nó toàn mỡ, về không cần phải mổ, cứ thế nướng lên đến khi vẩy cá cháy xém và mỡ cá tứa ra xèo xèo, mèo chạy vòng quanh đến là lúc cá đã chín. Bóc lớp vảy cá cháy đi, thịt rô trắng tinh, đến bữa chỉ cần chấm với mắm tỏi ớt là xong một bữa cơm ngon lành.

Tát cá mãi cũng chán, lại chuyển sang móc cua. Ven bờ ao rất nhiều các lỗ mấp mé nước, đó là những lỗ cua. Những buổi trưa nắng, trốn ngủ mang chậu ra bờ ao rồi thọc tay vào các lỗ đó, có những hang sâu đến gần hết cánh tay mới chạm vào một vật gai góc, luồn mấy ngón tay lên trên rồi lôi ra một chú cua to tướng. Cứ móc như vậy chẳng mấy chốc trong chậu đã lổm ngổm đầy cua.

Có những hang, cua thấy nguy hiểm đã giương càng lên nghênh chiến trước, vừa thò tay đến nó cắp một phát xuýt chảy máu, giật mình thon thót nhưng những hang đó lại rất hấp dẫn, phải tìm mọi cách tóm cổ bằng được. Móc một cục đất sét, luồn vào hang và đẩy nó vào trong, lúc móc ra cả cua và đất sét thành một cục, hết cựa quậy. Có thằng bị cắp đau, tức, bắt được cua ra nó còn vặn ngoéo cái càng cho bõ tức.

Có lần thò tay vào hang, chạm phải một miếng da ram ráp, bùng nhùng rồi thấy nhói một phát là bị rắn cắn. Lúc đầu thì sợ, sau biết là nó cắn không chết thì móc cả rắn vứt ra ngoài nhìn rất “chuyên nghiệp”

Trưa móc cua, chiều đi tắm ao cũng mang theo cái chậu tranh thủ “dận trai”. Lội nước đến cổ, hai chân cứ dậm dậm xuống bùn, khi nào thấy gợn cái gai là lặn xuống móc lên một chú trai húp híp, trong một buổi tắm là được một chậu trai. Nhưng chỉ nghịch thế cho sướng thôi chứ mang về rất dễ bị ăn đòn vì mấy cái mớ cua cá trai ốc chẳng ai thích ăn đó.

Không hiểu mấy cái trò chim cua cá sao nó hấp dẫn bọn chúng tôi thế không biết. Thằng nào cũng thế, chỉ đợi đến mùa hè để vứt sách mà nghịch ngợm. Con bơi dưới nước, con bay trên giời con gì cũng hấp dẫn. Chỉ có học là ghét nhất.

Thời đó, mỗi mùa hè là một mùa đầy ắp kỷ niệm với chúng tôi, năm nào cũng vậy cho đến bây giờ những kỷ niệm đó vẫn còn nguyên vẹn. Vẫn còn mùi cá nướng, vẫn còn những vết rắn cắn đau đau ngưa ngứa, vẫn còn những cảm giác buồn buồn khi miếng bùn khô trên da cong lên…

Dưa muối của nội

TTO - Khi nắng tháng năm ngập tràn khắp nơi là lúc nội tôi lui cui làm mấy chum dưa muối. Vì thế sau này cứ mỗi độ hè về, lòng tôi lại nôn nao nhớ hương vị món ăn dân dã đã nuôi sống mình qua những năm tháng tuổi thơ nghèo khó.

Quê tôi chủ yếu làm nghề nông, mọi người quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời nhưng lại là nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm tuổi thơ êm đềm với sự chăm chút ân cần cùng những món ăn dân dã, thắm đượm tình yêu thương bao la của nội, chỉ mong sao cháu yêu lúc nào cũng cảm thấy ngon miệng khi ăn.

Đầu vụ hè thu là mùa thu hoạch dưa gang ở quê tôi. Đây cũng là thời điểm nội muối mấy chum dưa gang để dành ăn những tháng ngày còn lại trong năm. Dưa gang hái về được nội lựa những quả không bị sâu bệnh, rửa sạch rồi phơi qua nắng nhạt cho ráo nước và hơi héo.

Chum nước muối dưa luôn được nội chuẩn bị trước một ngày và chăm chút khá kỹ lưỡng. Nội hòa một lượng nước muối sao cho thật mặn, nếu nước muối nhạt dưa sẽ bị nhũn, nhanh chóng bị hư. Nội còn cho thêm một ít đường để nước muối dưa nhanh lên men.

Dưa gang được xếp ngay ngắn vào trong chum và dùng vật nặng đè lên trên để không nổi lên khỏi mặt nước. Khâu cuối cùng và cũng là khâu quan trọng nhất là đậy kín miệng chum lại và dặn dò mấy đứa cháu chúng tôi không được tò mò mở chum ra xem dưa đã ăn được chưa. Nội bảo nếu mở ra xem thường xuyên thì dưa sẽ dễ bị hư và lâu ăn được.

Suốt quá trình muối dưa, chỉ cần mở chum ra hai lần để kiểm tra xem có trái dưa nào nổi lên trên hay không và đảo dưa lên cho đều. Sau một tháng rưỡi dưa ngấm muối đều, có thể ăn được.

Khi ăn, chỉ cần lấy vài trái dưa muối ra rửa sạch nước váng, xắt lát, rửa qua nước lạnh vài lần cho dưa bớt mặn rồi vắt ráo. Dưa muối đạt yêu cầu là trái dưa săn chắc, vỏ dưa chuyển sang màu vàng nhạt, hơi nhăn nheo do bị chần bằng vạt nặng, không bị mềm nhũn khi vắt ráo nước, có vị dai, giòn, chua, mặn

Dưa muối (cắt lát dày) kho với nước cá, xào mỡ là những món ngon dân dã. Mắm dưa muối - nước mắm chanh, tỏi, ớt thêm một ít dầu phộng phi thơm hoặc đậu phộng rang là một món ăn lạ miệng và rất “chạy” cơm. Những bữa cơm thanh đạm với chén mắm dưa muối và tô canh rau vườn nhà là những món ngon dân dã dưới bàn tay chăm sóc khéo léo và tình yêu thương vô bờ bến của nội, đã nuôi tôi khôn lớn và trưởng thành.

Đặc biệt, trong những ngày mưa gió bão bùng, chợ đò xa xôi cách trở, những món từ dưa muối của nội thật đáng giá. Đấy cũng là những món ăn khá quen thuộc của bao nhiêu người dân quê nghèo ngày ấy.

Gói cơm nắm tuổi thơ

Hơn 20 năm qua, tôi chỉ biết mải mê cùng với những trang sách, những cánh diều trong những ngày hè chói chang nắng và tấm tắc khen ngon khi thưởng thức những món mẹ nấu. Những món mẹ nấu cho tôi chẳng thể nào nhớ hết. Có lẽ còn nhiều hơn số tuổi của mẹ bây giờ. Nhưng có một món mẹ làm mà tôi không bao giờ quên được, mùi vị của nó cứ theo tôi trong suốt những năm sinh viên sống xa nhà, xa mẹ. Đó là món cơm nắm muối v

Tôi còn nhớ, những vắt cơm nắm muối vừng luôn được tôi mang theo mỗi khi đi thăm quan cùng lớp những năm cấp 2, cấp 3. Thế mà chưa bao giờ tôi cảm thấy chán cái vị bùi bùi của lạc và vừng. Sống ở chốn Hà Thành phồn hoa, náo nhiệt với vô vàn món ngon mới lạ, nhưng sao tôi vẫn thấy nhớ đến quắt quay món cơm nắm muối vừng của mẹ mỗi khi tiết trời se lạnh. Cái hương vị ngọt bùi của cơm, hơi mằn mặn của muối vừng lại càng làm tăng thêm nỗi nhớ thương da diết của tôi về mẹ.

Những nắm cơm trắng muốt, tinh khiết mang màu của nắng mới. Chỉ trông thôi đã cảm nhận được cái vị ngọt dẻo rồi. Cơm nắm muối vừng đơn giản thế nhưng không phải ai làm cũng ngon đâu. Mẹ làm cơm nắm muối vừng sao vừa ngon, dẻo lại thơm bùi lắm. Mẹ như thổi cả tình thương yêu dành cho con mỗi khi mẹ biết con thèm những nắm cơm chấm muối vừng. Nhìn niêu cơm mẹ thổi vừa lửa, thật dẻo, thật mướt những lại không bị dính bết nhạt nhẽo. Mẹ bảo, cơm thổi xong phải nắm ngay từ khi còn nóng để những hạt cơm dính quyện vào nhau. Khi nắm xong vẫn nhìn thấy rõ những hạt cơm dẻo trong chứ không vỡ, nát hạt.

Gia vị để chấm những nắm cơm trắng ngần ấy không gì có thể ngon hơn khi chấm với muối vừng. Cái sắc trắng tinh khôi và hương vị ngòn ngọt của cơm khi đi kèm với màu vàng ươm và vị thơm bùi của hạt vừng, hạt lạc rang thơm, giã nhỏ trộn với chút muối thì ngon phải biết!

Đời sống con người ngày càng được nâng cao nhưng không vì thế mà ta quên đi những món ăn dân dã. Cơm nắm muối vừng như một nét thanh nhã trong văn hoá ẩm thực của người Việt. Tôi đã thưởng thức món cơm nắm của những cô hàng rong trên những con phố, những sao tôi càng nhớ da diết hơn hương vị cơm nắm muối vừng của mẹ nơi quê nhà. Những nắm cơm của các cô hàng rong được gói bằng lớp ni-lon và giấy báo khiến tôi nhớ đến nao lòng cái mùi hăng hăng thơm nồng của lá chuối mẹ vẫn dùng để gói cơm

Món ăn ngon từ càng Còng Gío.

Nếu nói về món ăn này,thì mình nghĩ những ai đã từng sống từ bé thì cũng đã từng ăn được món này tại chính tại quê mình,có thể nói là cái món ăn dân dã này gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta khi sống và lớn lên từ Vĩnh Châu thì không thể không từng ăn món này,và có thể nói là món này ở tại VC rất phổ biến hồi đó và phần lớn trẻ con đều thích mỗi chiều lại xin ba mẹ vài ngàn để mua món ăn dân dã này thường được bán ở những góc đường ở VC hồi đó.Nhưng cái gì cũng tiến hóa và thay đổi mai mọt đi,cuộc sống càng tiến bộ thì cũng kéo theo nhiều thay đổi giờ VC không còn món này bán phổ biến như hồi đó tôi thường thấy các bà,các dì thương bưng những rỗ còng gió bán mỗi khi chiều đến vì giờ vì cuộc sống không còn ai bỏ nhiều công sức ,thời gian để mà bắt và thu hoạt từng cái càng của con còng gió.

Bản thân tôi hồi bé cũng từng trãi qua những cãm xúc mà chính quê hương mình mang lại và cũng trực tiếp cãm thụ được giá trị sống mà vùng đất đã sinh ra mình để đến trưởng thành và lao vào cuộc sống ở vùng đất xa lạ thì khi mình có thời gian nhìn lại quá khứ nhìn lại tuổi thơ mình đã từng trải qua tại chính quê hương mình thì đó những giá trị sống qúy giá mà không phải ai cũng may mắn mà còn lưu lại trong tâm hồn mình khi cuộc sống còn hối hả hiện nay,bản thân tôi muốn nói lên điều này để các bạn trẻ hôm nay sống tại chính quê hương mình mà không còn may mắn hưởng thụ được những giá trị cuộc sống của vùng quê thì nếu có cơ hội các bạn hãy hỏa mình và cãm thụ những cãm xúc và giá trị của những khoảng khắc mà tại chình quê hương mình mang lại cho mình.

Tôi xin kể cách bắt còng gió mà từ bé tôi cùng các bạn trong "xóm" hồi nhỏ hay đi bắt khi mùa còng gió đến,để các bạn chưa tửng trãi qua có thể cãm nhận như thế nào khi mình có dịp thưởng thức món này tại quê mình.

Nếu đi sớm dọc theo biển Vĩnh Châu, tập trung ở khu vực biển Vĩnh Phước, Vĩnh Tân, thuộc tx. Vĩnh Châu. Chính xác hơn là dọc theo tuyến đê biển vùng đồng muối. Càng Còng Gió tươi có thể nấu riêu ăn rất ngon, tôi đã thử và thấy rằng -ngọt, thơm và sánh hơn cua đồng. Còn không thì vào cỡ 1-2 giờ chiều, càng Còng gió đã được luộc chín, ăn theo kiểu nhấm như hạt Hướng Dương cũng vẫn thú vị bởi lẽ: tuy to cở ngón chân cái, nhưng vỏ nó mềm, thịt ngọt và chắc, vị hơi mặn và thơm hơn thịt cua biển.

Mỗi chú Còng gió có hai càng, nhưng chỉ có những con đực thì sở hữu một cái càng "cái" bự xự cỡ ngón chân cái. Cái càng này chỉ để hù dọa và "lấy le" với đồng loại nhất là mấy "ả Còng" là chính chứ khi gặp con người và tiếng động lớn thì chúng bỏ chạy "trối chết" và rất nhanh..chui xuống những hang nhỏ, ngóc ngách trên bãi biển mà nếu như bạn có chủ đích kiếm càng Còng Gió để nhấm nháp thì thật sự là hơi bị hiếm.

Bí quyết là cách thu hoạch "càng".

Để chuẩn bị cho một chuyến đi, bạn cần chuẩn bị:

- Vài kg thính, được chế bằng cám rang.

- Thịt cá để hơi ươn hoặc tôm tép trộn chung với nhau cho dậy mùi.

- Vài cây chổi Chà Tre thật lùm sùm nhưng dẻo và không quá cứng. Mục đích nhằm không cho Còng chết.

Buổi sáng khi biển chuẩn bị ròng (nước xuống) khoảng 3-4 giờ sáng, bạn chọn bãi cát ven biển mà mình đã chọn, rải thính và nhẹ nhàng đi sang một bãi cát khác để làm công việc tương tự. Sau đó mình quay lại lại bãi biển đã rải thính đầu tiên và theo dõi bằng ngọn đèn pin nhỏ. Lũ Còng bắt mùi thơm của thính sẽ mò ra bãi ăn mồi. Theo dõi, khi thấy chúng đã ra nhiều, những người "thu hoạch" sẽ .. 1-2-3 nhào ra với chổi Chà Tre và quét lũ Còng trên bãi. Cứ quét qua, quét lại với mục đích cho lũ còng lăn nghiêng, lăn ngửa. Bọn Còng Gió có một thuộc tính là hễ bị động và nguy hiểm thì sẽ "buông càng" để "bỏ của chạy lấy Còng cho lẹ". Mà cái càng "đực" là thứ bị bỏ lại trước tiên. Sau trận "quét", những người đi thu càng chỉ cần quét gom trên bãi để thu sản phẩm. Nhằm lúc "trúng" thì phải đựng bằng thúng mới vừa. Cách thu hoạch này hay ở chỗ là bọn Còng Gió không chết mà chỉ "bỏ càng", vài bữa sẽ mọc lại để chuẩn bị cho đợt thu hoạch sau.

(p/s: Món này giờ mình vẫn còn thấy bán mỗi chiều ở góc góc ngã tư Lê Lai và Trần Hưng Đạo,các bạn chưa từng ăn thì hãy 1 lần thử món này nha

Tự nhiên thấy thèm một chén cơm nóng, dĩa tôm rang khô, tô nước rau muống luộc....

Sao bây giờ khi cuộc sống trở nên hiện đại hơn, đầy đủ hơn, hưởng thụ nhiều hơn, lại làm cho con người ta muốn tìm về cái thời còn khốn khó. Hồi xưa muốn mua tí thịt heo là phải tranh nhau miếng tem bé tí rồi sau đó là xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rau muống thời ấy ứ hự ra, ăn ngán gần chết. Còn bây giờ thịt cá muốn ăn bao nhiêu cũng có, chỉ cần xách giỏ ra chợ là khuân về cả đống món ngon vật lạ, ấy vậy mà khi ngồi vào mâm cơm nhà giàu đầy đủ chất bổ, ta chẳng thấy thấy háo hức muốn ăn bằng khi nhìn vào mâm cơm của con nhà nghèo với độc một dĩa rau tập tàng kèm chén mắm cá cơm....

Nhớ hồi đó Ngêu có 1.500 đồng/kg, nhiều khi ra chợ chẳng thèm nhìn tới ( vì ăn hoài ), còn bây giờ sau khi được phát hiện ra đó là một món khoái khẩu thì Ngêu đã nghiễm nhiên được ngự ở các nhà hàng, quán nhậu. Nhiều khi thèm một chén canh Ngêu mà không dám ăn vì ... mắc quá, những 30.000đ/kg. Bây giờ mọi thứ đảo lộn hết cả rồi. Cái gì mà khi xưa còn nghèo ăn phát ngán thì bây giờ lại là những món khiến ta chết thèm.

Nhớ có lần về quê thấy bà chị họ đi đâu khiêng về cả đống ngó sen, mới đầu tưởng bà chị làm món xào đãi khách. Ai dè hỏi ra mới biết bả khiêng về bằm... cho heo ăn. Mình mắt tròn mắt dẹt, cái thứ mà ở Sài Gòn được coi là món ngon thì ở quê lại là đồ ăn của heo. Mình thèm quá một dĩa ngó sen xào bò, nhưng chẳng lẽ lại để bả biết mình đang thèm rau heo???

Nhiều khi thèm lắm một miếng khô cá cơm kho dùng với cơm nóng, thèm được húp một chén canh bí nấu tép tươi. Thèm dĩa cà bát xắt miếng chấm mắm ruốc..... Ôi ôi, Thèm quá những bữa ăn đạm bạc của cái thời còn nghèo khó bần hàn...

Thỉnh thoảng về Q2 ở lại ăn cơm với Câu Mẹ, mình tranh thủ chạy ra vườn hái trái bầu làm món bầu sống chấm mắm tỏi, hoặc hái vài cọng rau muống non vô chấm nước cá kho. Chỉ thêm một tí đạm bạc vô thôi mà bữa ăn trở nên lạ và ngon miệng vô cùng.

Ôi thèm quá, thèm lắm các món ăn nhà nghèo!

Ký ức đồng quê

Cập nhật lúc 00:07, Chủ Nhật, 08/01/2012 (GMT+7)

...Cha tiên sư tam đại, tứ đại, ngũ đại cái quân giang hồ tứ chiếng, đánh đĩ mười phương! Mày cậy ái ố mỹ miều, cổ kiêu ba ngấn thì cứ việc xắn quần vén váy giữa bàn dân thiên hạ cho cú rúc, quạ đâm, kiếm cơm phúng cha, dưỡng mẹ! Cớ sao lại vập mặt về đây quyến rũ chồng bà? Này, bà nói cho mà biết nhá! Con chim  của chồng bà ở nhà là giống là má, là vàng là ngọc. Chui vào bướm mày là rắn, là rết, là ma là quỷ. Tổ sư cha cái giống gà què ăn vụng cối xay, chín kiếp ăn mày, bảy đời sãi mõ, chó cái có hom! Bà chửi cho mày phải khoan tai ra mà nghe. Khoét mắt ra mà nhìn. Chớ tưởng mặt bà rỗ mà xem thường nhá! Bà rỗ mặt đấy, nhưng là rỗ hoa, rỗ ngọc, rỗ thóc, rỗ tiền. Còn cái mặt mẹt của nhà mày dẫu tròn! Cái bướm của mày dẫu to! Cũng chỉ là loại đĩ voi, đĩ ngựa, đĩ chó, đĩ mèo, nửa trinh không đáng! Muốn sống mà nằm ngửa thì cuốn xéo đi nơi khác cho khuất mắt bà. Mày còn ở xóm Trại thêm một ngày, bà ăn thêm một bữa cơm chửi mày một ngày. Ở thêm hai ngày, ba ngày, bà ăn hai ba bữa cơm chửi mày hai ngày, ba ngày… Rát họng bà uống nước chanh. Mệt bà ngậm sâm. Qua tuần ăn chay lại mổ gà tẩm bổ chửi cho sướng miệng nhá! - Mụ Phó dừng chửi, hậm hực quay vào thềm cửa. Chiêu ngụm nước vối trong chiếc ấm đất nuốt ừng ực, thở hào hển.

Phía bên kia hàng rào tre, nhà Gái Hoa đã thắp đèn. Yên ắng như không có chuyện gì xảy ra.

A, hỗn láo. Quá hỗn láo! Nó dám coi thường, không thèm chửi giả bà đến một câu? Cả làng này ai chả biết cái giống mạt hạng nhà nó. Thằng bố chuyên nghề sãi mõ. Ông nội nó cũng là sãi mõ. Cụ kỵ nó vẫn là sãi mõ! Quanh năm rạc cẳng lốc cốc, bốc bải xôi thừa, thịt ôi ở đình làng. Nó là con Hĩm, vắt mũi chưa sạch đã ngứa nghề, bỏ nhà theo giai. Bây giờ lại đổi tên Hĩm thành Hoa. Trơ trẽn ôm con hoang về làng lên mặt thành phần bần cố. Đòi chia vườn, chia ruộng. Vẩy mông ưỡn ngực chim chuột đàn ông. Nghĩ mà căm! Thời buổi lộn tùng phèo mất rồi!

Mụ Phó bực bội kéo vạt áo lau mồ hôi trên mặt. Tiện tay hất hất vạt áo ra phía trước cho đỡ nóng. Chợt nghe tiếng cựa mình cạu cọ của lão chồng say xỉn đang nằm lăn lóc trên chiếc phản gỗ, mụ giả bộ đi ra sau nhà đóng cửa chuồng gà. Mụ sợ chồng bắt gặp đang chửi Gái Hoa.

Người làng ai cũng biết điểm yếu đó của mụ. Họ thường bàn tán rằng, sự đời thật trớ trêu. Cái con mụ trời đánh thánh vật, đanh đá cá cày, chua ngoa hơn mẻ ấy lại sợ chồng mới là chuyện lạ! Mà lão Phó Kền, chồng mụ, thì củ mỉ cù mì, hiền như cục đất. Chưa bao giờ thấy lão to tiếng gây gổ với ai.

Nhưng nói đi phải nói lại. Ngày trước mụ Phó cũng là một thiếu nữ hiền thục đoan trang. Tên cha mẹ đặt là Ngô Thị Vân. Về nhan sắc tuy có phần lép vế. Mặt rỗ hoa. Thân hình cao to rắn chắc. Nhưng bù lại, thị là con gái cưng của một gia đình nền nếp khá giả.

Nghe nói, ông nội từng đỗ cử nhân ở khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn. Năm mười tám tuổi, gia đình gả Vân cho cu Kền, con trai thứ tư của ông thợ đóng cối xay thóc ở làng bên.

Ngày Vân mới về làm dâu, cu Kền, tức chồng thị, mới mười ba tuổi. Tanh như ngoé. Gọi vợ là chị. Làm dâu được sáu năm, khi Kền đã biết làm thằng đàn ông thực sự, bố mẹ vợ bèn mua cho miếng đất ở xóm Trại. Lại bỏ tiền xây căn nhà gạch ba gian để vợ chồng ở riêng. Rồi cắt thêm năm sào ruộng mật ở đồng La làm của hồi môn.

Người ta bảo, lấy vợ như Kền đúng là chuột sa chĩnh gạo.

Thật ra Kền không mấy quan tâm đến của nả. Anh tiếp tục theo nghề phó cối của bố. Lang thang khắp tổng Hà đóng cối cho dân mấy làng. Năm thì mười hoạ mới ghé qua nhà ngủ với vợ một đêm.

Phó Kền thường đóng cối tại nhà chủ. Cơm no rượu say rồi ngủ lại qua đêm. Khoản tiền công thì tuỳ lòng. Không mè nheo tính toán thiệt hơn. Dân trong vùng rất khoái thuê Phó Kền đóng cối.

Đó cũng là nguyên do gây ra nỗi uẩn ức mà mụ vợ phải gánh chịu. Ấy là cái sự Phó Kền ăn nằm với một người đàn bà goá ở làng La. Mụ Phó đã không hề hay biết. Chỉ tới khi con mẹ ấy ẵm đứa bé trai ba tháng tuổi, giống Phó Kền như lột, đến trả để đi tái giá, mụ mới điếng người trước sự việc đã rồi.

Cụ cố nội bảo, trong cái rủi có cái may. Rằng mình là vợ điếc. Có lỗ đái mà chẳng có lỗ đẻ. Không nhẽ thằng chồng cam chịu tuyệt tự? Thôi thì hỏng nồi vơ rế. Dù sao cũng là giọt máu chồng mình. Cứ nuôi dưỡng đứa bé, nó sẽ là con mình. Lúc về già còn có đứa chống gậy. Coi như số phận đã an bài, đành chịu lép với ông giời. Mụ lặng lẽ chấp nhận. Đặt tên đứa bé là Kển.

Nuôi cu Kển cũng vất vả bận rộn, nhưng căn nhà ấm cúng hẳn lên. Lâu dần mụ Phó cảm thấy cu Kển như con mình đẻ ra. Những tưởng ông giời đã bù đắp ân huệ. Nào ngờ, cái con mẹ goá đĩ thoã ấy đùng đùng vác mặt trở về, trâng tráo đòi lại cu Kển. Tổ sư cha cái quân ăn cháo đái bát, mặt dày, mày dạn! Nó vụng trộm với chồng bà rồi cào bướm ăn vạ. Vứt con vào nhà bà xơn xớt nói rằng, giọt máu của lão Kền, giữ lấy mà nuôi. Lúc muốn đòi con thì lật mặt bảo, cha đứa bé là người danh giá đàng hoàng chứ không phải thằng phó cối!        

Hôm cu Kển bị bắt mang đi, nó co rúm lại. Ôm chặt lấy mụ Phó khóc thét gọi bu ơi! Mụ Phó uất quá, ngất xỉu. Dù thuộc loại bà chằn ở làng, nhưng mụ Phó buộc phải chịu thua. Thôi thì tránh voi chẳng xấu mặt nào. Nghe nói, con mẹ goá nạ dòng ấy đã kiếm được ông chồng quyền thế, nhưng mắc căn bệnh oái oăm gì đó? Không có khả năng làm con giống nên mới giành lại cu Kển.

Từ ngày mất con, nhà mụ Phó lạnh tanh như có đám. Lão chồng về đến nhà là say xỉn. Chưa thật say thì rót thêm rượu trong chiếc hũ sành uống cho say, rồi lăn ra ngủ.

Nếu có người gọi đóng cối, lão lẳng lặng gánh đồ đi khỏi nhà. Không có việc lão ngồi một mình nhâm nhi chén rượu suông. Còn mụ Phó thì sinh tật thích gây gổ với láng giềng. Trước kia mụ đã thuộc loại đàn bà chua ngoa độc địa, nhưng cũng chỉ độc địa với những người dám cà khịa với mình. Bây giờ mụ tức đời chửi tuốt tuồn tuột, chửi để vơi nhẹ nỗi đắng cay.

Ở xóm Trại này mụ Phó căm nhất Gái Hoa, con lão Sãi Oản. Gái Hoa mới được chia miếng đất làm nhà kề vườn bưởi nhà mụ. Nghe nói, bố của Sãi Oản, tức ông nội Gái Hoa, là dân tứ chiếng lưu lạc đến làng Cốc.

Dạo ấy, mõ làng vừa bị chó dại cắn chết, nên kẻ lạc loài kia mới được thay chân sãi mõ. Làng dựng cho túp lều nhỏ ở góc cuối chợ để ở. Rồi Sãi Oản thừa kế chân mõ của bố. Do thân phận nghèo hèn nên gần tuổi băm vẫn không lấy được vợ. Một lần có ông lão ăn mày qua làng, dẫn theo cô con gái mặt mũi tròn trĩnh trắng trẻo, nhưng hai mắt thong manh. Sãi Oản xin lão ăn mày lấy cô gái mù làm vợ.

Người vợ thong manh ở cữ bốn lần nhưng chỉ nuôi được con Hĩm. Năm Hĩm mười sáu tuổi đã thành một thiếu nữ xinh đẹp. Thắt đáy lưng ong. Nước da trắng mịn như trứng gà bóc. Trai làng nhiều anh si mê. Nhưng không ai dám cưới con gái sãi mõ, loại hèn kém nhất làng làm vợ.

Thế rồi Hĩm biến khỏi làng. Ngày hoà bình lập lại, Hĩm trở về với tên mới là Hoa. Lại có đứa con gái nhỏ xíu, nên người quê thường gọi là Gái Hoa. Theo lời Gái Hoa thì bố của đứa bé là liệt sĩ. Gái Hoa được chia miếng đất mới tịch thu của địa chủ ở xóm Trại, kề bên mảnh vườn nhà Phó Kền. Nhờ dân làng giúp đỡ, Gái Hoa dựng căn nhà tre để ở. Bấy giờ Sãi Oản đã mất, Gái Hoa đón bà mẹ mù loà về ở với mình.

Đúng là gái một con trông mòn con mắt. Gái Hoa bây giờ còn mặn mòi xinh đẹp hơn thuở trước. Cặp mắt ướt át mời gọi. Bộ ngực no tròn nhày nhót gợi tình. Cánh đàn ông trong làng như bị hớp hồn. Nhiều ông vợ con đề huề vẫn kiếm cớ thậm thụt tìm đến.

Một lần mụ Phó nhìn thấy Gái Hoa lén lút đào hố chôn mớ lông gà ở góc vườn. A, con này ghê thật! Giữa bàn dân thiên hạ nó xưng xưng kể nghèo kể khổ! Vậy mà dám mổ gà tẩm bổ? Chẳng kém gì ông chánh, ông lý ngày trước. Ở làng này, giàu có phong lưu như Bạ Sùng cũng chỉ dám thịt gà vào dịp giỗ tết, hoặc thết khách quý trên tỉnh về. Còn nó là quân mạt hạng, tiền ở đâu ra? Hay nó bắt trộm gà hàng xóm? Tung tích con này thật đáng ngờ, phải theo dõi làm cho ra nhẽ mới được.

Chờ tối hẳn, mụ Phó lách rào mò sang nhà Gái Hoa. Rình ở bức vách sau nhà. Nghe tiếng thì thào rên rỉ, rồi tiếng va chạm cót két phía trong, mụ hồi hộp ghé mắt áp vào tấm liếp che cửa sổ. Trong ánh đèn dầu tù mù, mụ thấy một gã đàn ông to khoẻ đang đè ngửa Gái Hoa trên giường. Cả hai trần như nhộng.

Mụ ngẩn người một lúc… Định hô hoán hàng xóm đến bắt quả tang. Thoáng do dự, mụ lại lặng lẽ dán mắt vào tấm liếp nhìn trộm quân đĩ bợm làm tình. Đang độ tuổi hồi xuân. Dẫu lấy chồng đã trên hai mươi năm, nhưng chưa lần nào mụ có cảm giác rạo rực như lúc ấy.

Lúc trở về nhà, mụ nằm lăn ra chõng tre thở hổn hển. Ngó sang phía chồng đang ngáy khò khò ở giường bên, bất giác mụ bật tiếng thở dài. Lão Phó Kền kém mụ năm tuổi, còn đang sung sức lắm. Nhưng ở đâu thì chẳng biết chứ đối với vợ lão quá thờ ơ. Về tới nhà là say. Có đêm mụ phải chủ động đánh thức lão mới chịu miễn cưỡng làm phận sự ông chồng…

Quân khốn nạn! Mụ Phó cảm thấy thù hận Gái Hoa vô cùng. Nó xuất thân mạt hạng! Đánh đĩ tứ phương còn dám trâng tráo vác mặt về đây! Chẳng hiểu tại sao lũ đàn ông ở làng lại cười cợt nịnh bợ, xoắn xít tít mù chung quanh nó? Không còn ra thể thống gì nữa!

Ừa, mà thằng nào dám trốn vợ mò đến hú hí với nó nhỉ? Mụ cố nhớ lại hình dáng gã đàn ông đè ngửa Gái Hoa trên giường. Phải rồi, đích thị là Giáo Ngôn. Cháu nội cụ Tiên Chỉ. Đã nhiều lần mụ bắt gặp Giáo Ngôn đến nhà Gái Hoa. Lại còn cho quà đứa bé gái? Rồi anh chị trò chuyện tình tứ lắm. Chẳng hiểu sao chữ nghĩa như Giáo Ngôn vẫn ăn phải bùa con đĩ ấy nhỉ?

Mà lạ gì sự đời! Đứa nào bên ngoài chẳng làm ra vẻ đức hạnh. Mở miệng là răn dạy chữ nghĩa thánh hiền. Nhưng bụng dạ thì cứt cả!

Rồi mụ lại nghĩ vẩn vơ về số kiếp của mình. Cả đời chưa hề thiếu thức ăn thức mặc. Dưng mà cái tâm thì khổ chẳng ai bằng. Mụ Phó luôn cảm thấy tức tưởi cho thân phận mình. Người đời không hiểu nỗi chua cay u uẩn của mụ…

Từ dạo Gái Hoa về ở cạnh nhà đã là lần thứ hai Phó Kền chữa cối xay cho nó. Lần trước lão làm gần một ngày. Lúc về mặt tươi hơn hớn, nồng nặc mùi rượu. Không thấy lão đưa tiền công nhưng mụ không dám hỏi. Chắc con đĩ ấy nó nằm ngửa để trả công rồi. Mụ Phó tức lắm nhưng cũng chỉ chửi trên mây, trên gió. Lần này nó dìu lão Phó Kền say mèm sang tận ngõ. Mụ điên tiết gạt phắt tay nó. Bế thốc lão chồng vào chiếc phản lim. Cắt một lát gừng đánh gió. Phó Kền nôn oẹ khùng khục, rồi há mồm ngủ say như chết.

Quân chó má! Chỉ được cái tài chim chuột đàn ông. Bà phải đào mả ông mả cha mày lên cho bõ tức.

Mụ Phó đã định chửi thêm một chập nữa, nhưng thấy chồng cựa mình thức giấc nên lại thôi. Đêm về khuya. Làng xóm im phăng phắc. Tiếng con mèo cái động dục gào lên  thê thiết. Mụ Phó trằn trọc khó ngủ. Lặng lẽ ra ngồi trước hiên nhà, quạt phành phạch. Mụ ngẩng nhìn trời vẻ lo âu. Phía biển những cụm mây đen đang đùn lên che dần các vì sao. Gió bắt đầu nổi lên.

Một lúc sau gió mạnh dần. Những tảng mây gà con lao vùn vụt trên bầu trời. Thời tiết này chắc sẽ bão to. Lẩm bẩm một mình lòng dạ bất an, mụ đi vòng quanh nhà một lần nữa. Xem lại chuồng gà. Lấy tấm liếp chắn trước cửa chuồng heo. Ở xóm Trại này chỉ duy nhất nhà Phó Kền được xây cất chắc chắn. Nền gạch cao hai thước. Cột gỗ lim, tường gạch, lợp ngói âm dương. Đã qua nhiều trận bão lớn vẫn không suy suyển gì.   

...Mưa gió tầm tã kéo dài từ canh hai đến hết đêm. Sáng ngày hôm sau mưa chỉ còn lất phất. Nhưng trời đổi hướng gió tây, quật phá ào ạt.

Bão to rồi! Tiếng trống thúc hộ đê thình thình hối hả. Ông trưởng xóm cầm loa cuộn bằng kẽm tôn chạy khắp nơi đốc thúc...

Phó Kền còn đang ngái ngủ đã có người đến đập cửa bảo, bác phó trai đem cuốc xẻng ra đê Cống Trộm ngay nhá. Nguy lắm! Không chừng đê vỡ đến nơi.

Gió mỗi lúc một mạnh lên. Vật vã quằn quại. Nhiều ngôi nhà bị tốc mái, kèo cột lung lay xiêu vẹo. Cây cối ngả nghiêng bật gốc. Xóm Trại nằm biệt lập giữa cánh đồng chiêm trũng của tổng Hà vốn thấp hơn mặt nước thuỷ triều. Nếu đê vỡ tất cả sẽ chìm trong biển nước. Tai hoạ khủng khiếp đang tới gần. Người ta nháo nhác chuẩn bị thuyền mảng để chạy lụt.

Quá giờ Ngọ, gió chuyển hướng nồm nam. Sức gió giảm dần, mưa đổ xuống như trút. Dễ bão sắp tan! Mụ Phó mở cửa nhìn ra ngoài trời ước đoán. Bỗng tiếng trống làng thôi thúc dồn dập như cháy nhà. Đầu xóm tiếng người gào to hoảng hốt:

- Vỡ đê rô... ồi, bà con ơi!

Những tiếng ồn ào náo động. Nước réo ầm ầm trên cánh đồng.

Mực nước dâng lên cao dần... Chỉ thoáng sau nước đã luồn qua bờ rào. Xoáy tròn quanh từng gốc cây. Trườn lên khoảng sân. Rồi tràn vào thềm cửa. Phút chốc xóm Trại trắng xoá. Nước cuồn cuộn chảy...

Đã từng trải qua bao thiên tai địch hoạ nơi đồng quê heo hút, nhưng lần này mụ Phó không giữ được bình tĩnh. Mặt tái mét. Chân tay run lẩy bẩy. Mụ tính, gom tiền bạc quần áo chạy vào làng. Lại kịp nghĩ rằng đường vào làng đã ngập nước, mà ở xóm Trại cũng không còn nơi nào chắc chắn hơn nhà mình. Thôi thì sống chết có số, cũng đành phó mặc ý trời. Chỉ còn cách duy nhất là tránh lụt ngay tại căn nhà này.

Vốn là người lanh lợi tháo vát, mụ vội tháo các cánh cửa gỗ gác lên xà nhà. Chuyển đồ đạc, quần áo, chăn màn, thóc gạo lên đó. Mụ cũng không quên mang theo nồi niêu xoong chảo đề phòng nước ngập lâu dài.

Nước đã dâng đến chân giường. Chợt nghe đàn gà quang quác phía sau nhà, mụ bèn xắn quần bì bõm lội ra tháo cửa chuồng. Tóm từng con gà nhét vào lồng. Cùng lúc ấy, mụ Phó nghe tiếng trẻ con khóc bên nhà Gái Hoa.

- Bu ơi! Bu ơi!…

Tiếng trẻ thơ gào khóc gọi mẹ nghe đến xé lòng! Giống như tiếng kêu thảm thiết của cu Kển khi bị bắt mang đi.

Ơ! Mẹ con Gái Hoa muốn chết hay sao mà vẫn bám căn nhà ọp ẹp đó! Chẳng nghĩ ngợi gì thêm, mụ Phó tất tưởi rẽ nước sang nhà Gái Hoa. Lúc bấy giờ nước đã ngập ngang thắt lưng, nếu không nhanh chắc không quay về kịp.

Mụ Phó lao vào nhà Gái Hoa. Mấy bức vách đã bị nước cuốn bung từng mảng. Mẹ con Gái Hoa cùng bà Sãi mù loà ôm tay nải quần áo, đứng nép vào nhau trên chiếc vạt giường tre lấp xấp nước. Mụ Phó ôm vội đứa bé rồi quát bảo Gái Hoa mau dìu bà Sãi sang nhà mình.

Nước mỗi lúc một dâng cao cuốn theo đồ đạc, bàn ghế, chó mèo lợn gà… Phải vất vả lắm. Mụ Phó mới bế được đứa bé lội ngược trở lại. Ngoái nhìn không thấy Gái Hoa cùng bà Sãi đâu. Mụ sốt ruột đặt đứa bé lên chiếc sập gụ, lội ra sân.

Nước đã lên tới ngực. Mưa ập xuống xối xả. Thoáng thấy có người vùng vẫy trong xoáy nước, mụ vội lao ra túm tóc lôi lên. Thì ra là Gái Hoa! Còn bà Sãi đã bị nước cuốn mất tăm.

Trời tối hẳn. Gió đã ngừng thổi. Mưa vẫn ào ào rơi trên mái ngói. Mụ Phó thắp đèn bão treo lên dui nhà, rồi lặng lẽ ngồi xuống tấm cửa gỗ gác giữa hai cây xà.

Tiếng nước chảy lách tách phía dưới. Một con rắn cạp nong quấn lấy thân cột, ngóc đầu lè lưỡi như muốn hăm doạ. Cách chỗ mụ Phó ngồi một đoạn, mẹ con Gái Hoa đang thảng thốt ôm lấy nhau thiu thiu ngủ. Nhìn khuôn mặt tròn trĩnh xanh xao của đứa bé áp trên bầu ngực căng đầy phập phồng theo nhịp thở của mẹ, bất giác từ trong khoé mắt khô khốc của mụ những giọt nước nóng hổi trào ra...

Phần vĩ thanh      

Xóm Trại là nơi tôi ra đời. Sau trận bão lụt năm Ất Mùi ấy, nhà tôi chuyển đến vùng quê mới để lập nghiệp. Nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ về bà Phó Kền cùng những người hàng xóm ở đó. Mới rồi gặp lại người bạn đồng hương, tôi có hỏi thăm về bà Phó Kền cùng mẹ con cô Gái Hoa. Theo lời kể của người bạn thì sau này bà Phó Kền đã xin cưới Gái Hoa làm vợ bé cho chồng mình. Gái Hoa đã sinh cho ông bà Phó Kền cả thảy bảy người con, trong đó có bốn trai. Tất cả đều phương trưởng thành đạt. Bà Phó Kền đã qua đời, hưởng thọ tám mươi tư tuổi. Họ sống với nhau rất hoà thuận, hạnh phúc. Quả là điều kỳ lạ!

Cá đồng trùm muối - món ăn chân quê

Những món ăn đồng quê đang được nhiều người “ngưỡng mộ”, không chỉ bởi tươi ngon mà có lẽ còn vì chúng mang đến cho người ăn những cảm xúc rất chân thật.

Hiện nay, không ít người đi ăn không chỉ để no mà để trải nghiệm, để được sống lại với những kí ức tươi đẹp hoặc gian khổ ở một vùng quê thân thương nào đó. Một trong những món ăn đồng quê gợi nhớ ấy là món cá đồng trùm muối đậm đà và mộc mạc.

Cá để làm món này thường là cá rô hoặc cá lóc đồng. Đồng Tháp và Cà Mau là hai vựa cá đồng lớn nhất của vùng đất phương Nam.Đám cá “trời nuôi” ở những vùng này thườngmập nhất vào hai thời điểm trong năm: mùa lũ từ khoảng giữa tháng bảy âm lịch đến giữa tháng mười âm lịch và từ tháng mười một âm lịch đến gần Tết.Những concá này mà đem ủ muối nướng thì ngon khỏi chê.

Cách làm món này cũng thật đơn giản.Rửa cá sạch, để ráo, đập chết. Sau đó lấy muối bọt phủ kín thân cá một lớp dày khoảng 5 - 8 mm. Rồi lấy lá chuối tươi bó thêm một lớp ngoài cùng, dùng dây bằng vỏ tre hoặc trúc tươi buộc sơ.

Sau khi chuẩn bị cá xong hãy nhóm bếp lửa củi, khi lửa ngọn tàn, chỉ còn than đỏ rực thì có thể bắtđầunướng cá. Thời gian nướng cá khoảng 30 phút, nhưng sau hai mươi phút nên bớt than. Khi lớp muối bên ngoài hơi cháy đen và nứt ra là cá đã chín. Cá nướng ủ kiểu nàycó mùi thơm rất thanh, đậm vá quyến rũ. Lớp thịt ngoài hơi ửng hồng và lạ hơn làvị cá không hề mặn, vẫn ngọt, béo.

Ăn món này phải bốc bằng tay mới sướng. Một tay bạn bốc thịt cá nướng, tay kia bốc cục muối hạt nhấp nháp, thỉnh thoảng kèm thêm vài đọt rau vườn: dấp cá, rau răm, xà-lách... đểmón ănthêm thơm ngon.

Ký ức

Tuổi thơ ai cũng có 1 thời đã từng lang thang ra những cánh đồng để tham gia những trò chơi mà chỉ trẻ con mới thích hoặc hơn nữa là tham gia vào những công việc của người lớn. Nhưng trên hết có một điều tôi dám đảm bảo rằng, không đứa trẻ nào là không thích những trò mò cua, bắt ốc, bẫy chim,...Với tôi, những ngày tháng hồn nhiên đó đã rời xa được khoảng chục năm kể từ ngày ra HN học tập và ở lại lập nghiệp. Nhưng mỗi lần trở về quê luôn muốn thèm khát được trở lại những tháng ngày đó để thỏa mãn những đam mê bất tận, thích thú khi bắt được con cua, con cá, bẫy được con chim để rồi cười mãn nguyện. Tuần vừa rồi trở về quê, ra thăm đồng ruộng thấy người ta đang đánh bẫy Cò, trẻ con bẫy chim chèo bẻo làm tôi chợt nhớ về 1 thời......

ĐI BẮT CUA ĐỒNG: cua đồng ở Hoằng Hóa chỗ tôi gọi là con Đam, chỗ sống của nó gọi là cái Mà. Đi ra đồng nếu gặp cái Mà Đam vừa ùn đất thì kiểu gì cũng bắt được 1 chú Đam béo ngậy khi nấu canh. Nếu đi bắt ở những Mà Đam không có đất đùn thì có thể không có, có thể có cá và đôi khi là 1 con rắn nước, rắn Nùng Nục. Sau một mùa gặt, 10 đầu ngón tay chỉ toàn vết xước do bị Đam cắp (nhiều khi đau chảy nước mắt).

Nhắc đến kỷ niệm này, ấn tượng không thể quên đối với tôi là 1 lần nấu miến Đam, 2 anh e buổi sáng hôm đó bắt được gần 200 con Đam (ngày đó Đam rất là nhiều). Gia đình chỉ có 4 người nhưng nấu 1 nồi Đam gần 200 con và kết quả là mỗi người chỉ ăn được 1 bát nhỏ vì quá béo do chỉ toàn gạch Đam (gạch cua).

P/s: canh Đam nấu từ 30 con Đam có gộp màu tím thì ngon thôi rồi!

ĐI BẮT ỐC: ngày đó thường bắt các loại ốc đá, ốc giấy, ốc quắn và ốc nhồi. 3 loại ốc đầu thường đi bắt và buổi sáng khi nước trên ruộng đang còn trong, lũ trẻ con chúng tôi cứ xách 1 cái ống quần đã cắt túm lại 1 đầu và đi thoăn thoắt trên ruộng rồi nhặt cho vào đấy. Còn ốc nhồi bắt ở ruộng lúa có rất ít, thường đi vào ruộng rau muống để mò mới có, còn ban đêm chúng tôi mang 1 chiếc đèn Pin và 1 cái vợt có đường kính khoảng 30-40cm lắp cán tre dài 3-4m, đi soi ở các ao làng. Ban đêm, ốc nhồi thường nổi trên mặt nước trong và cứ thế là ...a lê hấp chui vào vợt.

Để ăn được ốc, thường chúng tôi ngâm nước vo gạo trong 1 ngày, ốc nhồi thì đem nấu giấm dọc mùng hoặc nấu chuối. Còn ốc đá, ốc giấy và ốc quắn thì đem luộc, chạy ra vườn vặt 1 nắm lá chanh cho vào nồi. Khi chín, dùng gai bưởi to để lôi ruột ốc ra ăn, đối với ốc đá do nó quá bé nên bao h cũng phải dùng kìm để bóp vỡ đít ốc rồi hút chùn chụt..

BẪY CHIM CHÈO BẺO:

Cứ trước vụ gặt khoảng 1 tháng, chim chèo bẻo về đồng ruộng rất nhiều. Lũ trẻ con chúng tôi rất háo hức trong chuyện đi bắt loài chim này. Việc làm bẫy rất đơn giản, mỗi đứa góp 1 vài trăm đồng đến một vài nghìn để đi mua nhựa dính chim về, cử 1 thằng trong nhóm đi chọn và nhổ lấy khoảng 2 chục cây lúa thân cao, thẳng và đem tuốt sạch lúa xanh ở ngọn, 1 thằng được cử đi dính chuồn chuồn với yêu cầu chủ yếu là chuồn mắm và chuồn chuồn vôi (đặc biệt là chuồn mắm vì màu nó đỏ chóe nên lũ chèo bẻo dễ nhận thấy). Sau đó, xâu con chuồn chuồn vào đầu ngọn lúa khoảng 5cm rồi bôi nhựa vào đầu ngọn lúa (phía trên và dưới vị trí để chuồn chuồn). Làm được khoảng 5 xâu như thế đem xuống ruộng lúa và buộc lại cho nó nhô cao lên và chạy lên bờ ruộng xa ngồi chờ. Cứ như thế, đôi mắt từng đứa chăm chăm nhìn về cái bẫy và chạy thục mạng về đó khi có 1 con chim dính bẫy.

Chim chèo bẻo mổ đau chảy nước mắt và tiếng kêu của nó thì inh ỏi, nhưng lũ trẻ con thường vặt lông, đem thui rồi mang chia nhau về nhà băm nhỏ xào với rau muống. Nhắc đến đây lại chảy nước miếng vì cả chục năm nay chưa ăn lại món này.

BẮT CHIM CUỐC VÀ GÀ ĐỒNG:

Món này lũ trẻ con chúng tôi rất háo hức vì nó đem lại cho chúng tôi nhiều tiền để mua những thứ mà mình thích. Thời điểm bắt chim Cuốc và gà đồng là khi vụ gặt đã sắp xong, trên đồng chỉ còn lại vài mảnh ruộng chưa gặt vì lúa còn xanh. Công việc đầu tiên là đi tìm 1 tấm lưới gà rách (tấm lưới này dùng để ngăn gà ra khỏi vườn), 1 nhóm nhỏ khoảng 5 đứa đem tấm lưới này đặt vào phía cuối của khoảng ruộng, 3 thằng đứng ở đấy và cho 2 thằng giữ chặt tấm lưới, 2 thằng còn lại lên phía đầu khoảng ruộng cầm 2 cây gậy và tiến hành xua lũ cuốc, gà đồng chạy té khói về phía cuối. Kết quả là lũ cuốc và gà đồng chạy vướng vào tấm lưới và thế là thằng còn lại bắt cho vào cái bì xác rắn và mang về.

Chim Cuốc và Gà đồng chúng tôi bắt được khá nhiều, sau khi chi đều cho mỗi đứa vài con đem về nhà làm thịt. Vì 2 loài chim này khá to nên mỗi đứa chỉ cần 4-5 con đem về băm nhỏ làm món thịt Rim với lá chanh ăn cả ngày, số còn lại đem bán lấy tiền mua kem, mua bi, mua dây chun...Những thứ mà có lẽ trẻ con bây h ít dùng đến nữa.

Loài chim nhạn bé tý, vặt lông xong còn được 1 mẩu thịt bằng cái ngón tay cái nhưng đã là trẻ con thì bắt được con gì mà có thể ăn thịt thì đứa nào chả máu. Để bắt được chim nhạn cũng không hề đơn giản, trước đấy chúng tôi cũng đi mua 1 ít nhựa về để đặt bẫy nhưng không thành công. Sau này lũ trẻ chăn trâu nghĩ ra một cách bẫy chim nhạn rất hay mà có lẽ ít người biết đến đó là chúng nó lấy mấy cái lông đuôi trâu, bò sau đó làm thành 1 cái thòng lọng buộc vào đầu cái que xương lá dừa (ở Hoằng Hóa dừa cực nhiều), trên đầu cái xương lá dừa đó gắn 1 con ruồi nhỏ, làm xong xuôi tầm vài chục cái bẫy đem cắm thành hàng ngang dọc theo bờ ruộng rồi cứ thế mấy đứa rủ nhau đi kiểm củi và rơm rạ khô.

Chim nhạn có 1 đặc điểm kiếm ăn rất đặc trưng đó là chúng bay trên cao rồi bất thình lình bổ nhào xuống tóm lấy con mồi rồi phóng vút lên không trung, với những cái bẫy như thế khi bổ nhào xuống để bắt những con ruồi trong bẫy thì ngay lập tức lúc bay lên lũ nhạn sẽ bị cái thòng lọng thít chặt vào cổ và cứ thế nằm lại đấy vì lông đuôi trâu bò rất dai, không đứt được bởi sự vùng vằng của lũ nhạn.

Bẫy chim nhạn như thế rất mất công và không được nhiều, thường chỉ được tầm vài chục con để lũ trẻ chúng tôi vặt lông rồi nướng chín và ăn tại chỗ. Để có thể kiếm được tiền từ chim nhạn thì phải nghĩ ra 1 cách khác và không có cách nào khác đó là dùng lưới rào gà mắt nhỏ. Đầu tiên là kiếm 1 cái bờ ruộng mà ở đó phải có vài cây cao (cây xà cừ cao độ 5-6m là tốt nhất), thời điểm thích hợp là gặt lúa sắp xong. Tại sao lại như vậy, nguyên là do lũ nhạn rất thích ăn loài bọ xít xanh hôi rình, khi gặt sắp xong không còn lúa nên loài bọ xít này tập trung toàn bộ về các cây cao ở giữa cánh đồng hoặc giáp làng. 1 thằng được cử trèo lên cây và cầm thêm cái gậy tre dài khoảng 2m, 2 thằng còn lại dăng mảnh lưới theo bờ ruộng dài tầm 7m cao ngang ngực lũ trẻ con rồi chốt 2 đầu bằng 2 cái gậy tre, 1 đầu cố định, còn đầu kia có thể điều chỉnh chiều cao tấm lưới bằng cách nghiêng cây gậy chùng xuống.

Sau khi chuẩn bị kỹ càng, theo hiệu lệnh thằng trèo lên cây sẽ dùng gậy tre khua mạnh vào tán lá cây um tùm để cho lũ bọ xít bay tán loạn ra ngoài, ngay lập tức lũ chim nhạn sẽ đuổi theo lũ bọ xít xanh đó nhưng vì loài bọ xít xanh bay rất kém, chúng thường đáp thẳng xuống bờ ruộng nên đương nhiên lũ nhạn sẽ bổ nhào xuống trước khi loài bọ xít kịp hạ cánh an toàn. Trước đó, 1 đầu lưới đã được hạ chùng xuống và đợi thời điểm lũ nhạn bổ ào xuống theo những con bọt xít rồi vút lên thì ngay lập tức chiếc lưới gà được kéo căng lên và ngay lập tức có vài chú nhạn sẽ mắc lưới, nhiệm vụ của thằng còn lại rất dễ dàng. Bằng cách này lũ trẻ con đã có tiền để làm những gì mình thích vì khi bán chim nhạn với số lượng nhiều, có thể dễ dàng chế biến bằng cách băm nhỏ thịt rồi rang với vài cái lá chanh để thưởng thức. Sao mà ở đó nhiều chim thế, chỗ nhà mình chỉ dùng nhựa cây bắt chuồn chuồn thôi, còn nếu đi chăn trâu thì đào lò nướng khoai, ngô hoặc câu tôm nướng,

À còn một chỗ nay làm minh ấn tưởng nhất nè, Cách chỗ nhà mình khoảng gần 2km có 1 chỗ là di tích hồi chiến tranh, ở đó có 1 cái ca (cái hầm hồi xưa) nằm ngay chân núi dài hơn ba chục mét, có 5 cửa đã và 2 cửa đã đc đạp bể một góc để chui vào, trong đó là cái hầm kiên cố đc xây dựng từng khoang từng vùng để để vũ khí và lãnh nạn. Mới nghe 1 đứa phát hiện đến đó thì ngay chiều hôm đó 1 đoàn khoảng mười mấy đứa cả trai cả gái tuy xa mà vẫn lùa trâu ra tận đó và dĩ nhiên là không wen chuận bị đèn pin, đuốc và gậy gộc. Thả trâu ăn trên đồng (đã gặt hết) cả đoàn chuận bị đi vào hầm, chuẩn bị vào hầm đứa nào đứa nấy sợ run chân, vì bảo đây là cái hầm đã rất lâu nên bây giờ trong đó chỉ có rắn và giơi ở thôi, trên đường đi trong hầm lại là những cái giếng sâu mà ko cẩn thận có thể té xuống đó. Bắt đầu nhảy vào hầm cảm giác lạnh lạnh làm mấy đứa con gái phải khóc, nhưng vẫn đi. trên đường đi phải cẩn thận từng bước chân ko thì té chết. bọn con trai thì toàn hù để bọn con gái khóc , vào đó trước giờ ko có điện nên người ta dùng đuốc nhưng đuốc cháy đc một lúc thì bị tắt ngấm phải dùng đèn pin nên tối thui. lại nằm trong lòng đất nên cảm giác lạnh ghê rợn cả người. Nhưng rồi cũng hết vừa nhìn thấy một chút ánh sáng thì đều reo lên có đứa lại oà ra khóc. Ra khỏi hầm đứa nào đứa nấy mặt mày lem luốc vì khói đuốc bám vào tường. Như vậy mà chiều về chả đứa nào giám kể với cha mẹ cả, chỉ dám kể với bạn thui. Dại gì kể, kể xong không đc khen mà đc trận đòn thì chết thà mấy ngày sau kể thì đcSinh ra ở vùng nông thôn như các bạn nên ký ức về đồng quê,về tuổi thơ của tôi nó cũng gắn liền sông nước, ruộng vườn ,trâu bò,tôm cá….

Còn nhớ ‘’sản phẩm đầu đời’’ của mình là hè năm học lớp 3 theo mẹ xuống bến sông nhà Lê để giặt chiếu.Sau khi mẹ giặt xong thì bảo xuống đây mẹ tập bơi cho.Mẹ đỡ ngang bụng và bảo con cứ làm giống như con cóc nó bơi dưới ao nhà ta ấy.Kết quả hôm ấy mình quẩy đục được một khúc sông và uống được một bụng no nước.Lúc chuẩn bị về xuống bến rửa chân thì thấy hai cái càng cùng vô số râu.Tò mò pha chút sợ sệt nhưng cũng rất lỳ mình vồ chú tôm như vồ cào cào…kết quả là một chú tôm với bộ vỏ và càng đầy rêu xanh được đưa lên bờ bằng…đầu đã cắm thẳng xuyên lòng bàn tay của tôi thằng con nít tám tuổi rưỡi .Sao mà nó nhức thế không biết.Tôi vừa đi vừa khóc nhưng về đến nhà với bàn tay đã được rịt bằng thuốc lào vẫn cầm con tôm đi khoe khắp xóm.Ông nội bảo thằng này lớn lên xát cá lắm đây.Hồi ấy không biết xát cá là gì …chắc là mai mốt mình là người lớn mình sẽ ra biển đi đánh cá giống chồng cô Nga ở Sầm Sơn.

Khi lên lớp 5 thì hầu như bố mẹ không phải mua cá tôm.Hồi ấy sao nhiều thế nhờ.Còn nhớ cánh đồng Mật ngay sau trại Cầu Cao cũng tầm tháng này đây ,sau khi gặt xong thì ôi cha cha cơ man là cá chuối cá rô.Nhiều quá bố bắt về được 3 xảo to ,con to thì ăn còn đâu muối mắm cho lợn nái hết.Khi nước được đưa vào đồng để bừa cũng là lúc mùa câu lươn của bọn này bắt đầu.Với một đoạn cước dài khoảng 70-80 cm cùng một lưỡi câu cứ thấy lỗ thập thò đục đục là y rằng được một chú lươn béo ngậy.Nhiều con khi mắc câu là cứ xoắn lấy lưỡi thành một cục trong bùn kéo lên rất nặng.Lúc ấy chỉ còn cách luồn tay xuống bùn mà vốc cả nó lên .

Khoảng thời gian mùa đông này cũng là mùa vịt gốc đẻ rộ nhất vì nhiều thức ăn.Sáng ra cắp sách tới trường thay vì cứ đường thẳng mà đi nhưng bọn con trai trong xóm chúng lại thích đi lên bờ sông Xi (sông nông giang cung cấp nước cho phía Đông Nam Đông Văn…) hơn vì kiểu gì cũng thu lượm được vài ba quả trứng của những chú vịt đẻ muộn trong lùm cây rứa dại.Nhiều hôm còn tóm được cả vịt đang nằm trong ổ đẻ.Ngày hôm đó sẽ là ngày thịnh soạn đối với đám trẻ chúng tôi.

Trong xóm tôi chơi than nhất với thằng Dũng con nhà bác Kết.Hai thằng học chung lớp ngồi chung bàn hôm ấy là khoảng 15 tháng chạp gần tết trời rét đậm cô giáo cho về sớm ,hai thằng ‘’tóm’’ một con vịt đẻ trên đường đi học về.chắc chú này cũng lạnh nên sợ nước và bị kẹt lại.Thay vì mang về sẽ bị đánh đòn hai đứa bàn nhau đổi bánh đa và lạc rang cho bà Tân mù đầu làng.Hai đứa mang bánh đa lạc rang vào cây rơm sau nhà nó ngồi ăn,Thằng Dũng nói ‘’mi ở đây để tau viền lấy long diệu uống coi hắn ra răng mà thấy bố mi ví bố tau hay uống dứa”.Cầm long rượu ra rồi nhâm nhi lạc rang bánh đa.. hai thằng ôm nhau ngủ lúc ào không biết.Tới khi nghe tiếng khóc tiếng gào thét thì chúng tôi giật mình thức giấc .Gạt mãi hai thằng mới lò ra khỏi đống rơm.Tiếng khóc đó là của gia đình tôi và gia đình thằng Dũng vì hai thằng tôi’’ mất tích’’ một ngày rưỡi rồi.

Cánh đồng ký ức

7:18 PM Chủ nhật, ngày 29 tháng một năm 2012- Chuyên mụcTin tức|Sự kiện hàng ngày |

Phàm là tuổi thơ của lũ trẻ nhà quê, kể cả các bậc trưởng lão đã nhậm chức ông bà cụ kỵ đương ở làng hay là đã có hộ khẩu ở phố, ai mà chả có những kỷ niệm nằm lòng với những cánh đồng quê, nơi họ sinh ra lớn lên và mãi mãi nặng nợ ký ức.

Đó là những buổi chăn trâu bò nơi triền đê sông Mã mướt mát cỏ. Cả lũ trẻ phân công vài đứa con gái ở lại canh chừng bầy trâu bò của hợp tác xã, còn thì tất thảy một… hai… ba… cởi truồng - lao xuống đồng mà sục. Còn bé lắm mà, chưa đủ nhanh đủ khéo để có thể bắt được tôm cá lươn trạch. Chỉ bắt được những chú ốc ù lì và những con cua chậm chạp.

Chiến tích của những cuộc đổ bộ này thường là một mớ ốc mớ cua. Ốc thì chia cho vài đứa mang về nhà bỏ vào nồi cho bát canh rau khoai đậm đà thêm hương vị quê mùa. Còn cua thì xử lý tại trận với mớ rau má nhổ tận gốc bên đầu bờ ruộng cộng thêm nắm muối xin ở nhà nào đó ở gần “bãi chiến trường” nhất.

Cua non mà lại ăn gỏi với củ rau má già thêm vài hạt muối vào giữa trưa hè nóng nực, nó vừa giòn, vừa ngọt, vừa ngậy vừa thơm thơm mát mát cái cần cổ. Ăn một lần nhớ suốt một đời. Không có món sơn hài hảo vị của bất kể đấng bậc vua chúa nào sánh nổi! Nó ngon, nó hấp dẫn, nó dụ mị đến mức khi viết lại những dòng này ký ức tôi lại bừng bừng cái cảm giác tê tê ướt ướt nơi đầu lưỡi!

Mà nhất là khi thưởng xong cái món “tê tê ướt ướt đầu lưỡi” ấy, gặp đúng bữa đêm trước mưa rào, xuống ruộng ngắt một cọng rạ tươi, úp mặt xuống đất hút một hơi nước mưa đọng lại trong vết chân trâu, thì quả là: Ối giời ơi, sướng quá!

Đó là cữ mùa Hạ. Còn cữ Đông, trước khi lùa trâu bò về làng từ chiều hôm trước, lũ chúng tôi đã giao hẹn cho một hai đứa nào đó sáng hôm sau nhớ thủ theo một con cúi rơm nùi lửa. Và hôm sau, sau khi đã đổ bộ xuống cánh đồng, thu hồi chiến lợi phẩm (nếu hẩm hiu thất thu, sẽ chặn ngay một đoạn mương nông nào đó, be bờ tát cạn bằng vũ khí tại chỗ là mũ lá nón lá, quyết tìm cho kỳ ra “hiệu quả”) lũ chúng tôi sẽ gom rơm rạ rơi vãi trên đồng lại, lấy mồi từ con cúi rơm, nổi lửa làm món nướng.

Ai đã từng ăn món cá tôm (chỉ bé bé nhỏ nhỏ xinh xinh như một hai ngón tay thôi, chứ không to cỡ ký lô như trong nhà hàng đặc sản bây giờ) và nhất là món cua, ốc nướng của lũ trẻ trâu chúng tôi ngày ấy thì quả ngon… không chịu nổi!

Xong bữa tiệc bây giờ khó có thể tìm đâu ra như vậy, lũ trẻ bọn tôi lại đi lượm những bãi phân trâu đã khô cong bên triền đê quẳng vào cái bếp trời đang còn ngún lửa để chơi tiếp món chống rét. Thì trời ạ! Khi những bãi phân khô ấy bén than nóng bốc khói… một hương vị rất nồng nàn rất đồng quê lan tỏa. Nó đặc trưng đến mức không bút nào tả xiết.

Và nó da diết trói buộc níu kéo đến nỗi, khi đi lính xa quê, hành quân qua những nơi thoảng thoảng hương vị quen quen ấy, tôi không thể không hếch mũi lên hít hít thật sâu mấy hơi rồi mới chịu chạy gằn theo đồng đội. Ôi cái mùi da diết của đồng quê.

LỜI GIỚI THIỆU... ĐỒNG QUÊ

     Xã  hội Việt Nam nặng về nông nghiệp.  Ngược dòng thời gian, gần hoặc xa, người Việt nào cũng tìm được nguồn gốc đồng quê của mình.  Đã sinh kế, lập nghiệp ở thành thị, người Sài Gòn vẫn nhớ đồng quê, thích ra ngoại ô để thưởng thức không khí trong lành và nhắm những món ăn đồng quê, như cá lóc nướng trui của quán Ba Râu ở Phú Lâm, cháo lòng Chợ Đệm, gà nướng lưỡi cuốc và canh chua lá vang cầu Bình Lợi, cá hấp Biên Hòa, nem Lái Thiêu, gà xối mỡ suối Lồ Ồ, tôm càng nướng Tân Thuận, gỏi cá chìa vôi Nhà Bè v.v...

     Định cư nơi đất khách, nhiều người không mất cái tâm tư đồng quê ấy.  Nhớ câu "bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu", họ biến mảnh đất nhỏ quanh nhà thành rãnh rau, giồng khoai, líp mía để có đặc chất tăng thêm hương vị đồng quê cho các thức ăn hằng ngày.  Có người trồng các cây ăn trái ưa thích như sa-bô-chê (sapotier), ổi xá lỵ Mỹ Thuận, bưởi Biên Hòa, chuối xiêm v.v... .  Mua giống rất đắc, nhưng lắm lúc không thâu  hoạch  được bao nhiêu và hương vị hoa quả cũng phai lạt đi vì khí hậu không thích ứng.

     Tôi vốn là người đồng quê.  Lớn lên ở đồng quê, tôi đã thật sự làm ruộng, làm vườn, làm mắm, lái ghe rộng bán cá sống.  Mỗi khi bãi trường tôi về đến nhà là Má tôi biểu giặt sạch các bộ đồng phục bà ba trắng cất kỷ vào rương, rồi lấy quần áo cũ (rách vá nhiều lớp) bận để đi làm việc đồng áng.  Tôi đã giữ trâu, đứng bừa, đứng trục, giở chà, bao đăng, tháo ụ, đặt trúm bắt lươn, soi ếch, thăm nò, lặn bắt ốc gạo, cắm câu, lưới dơi, đuổi chim mùa lúa chín, bơi xuồng đâm chuột mùa nước nổi.

     Một lý do mà tác giả nhờ tôi có mấy lời giới thiệu là vì cái thẹo cá trê chém trên ngón tay tôi.  Số là... nhơn dịp lễ Phục Sinh năm 1942 tôi theo làm mắm với Má tôi.  Vì mùi mắm, ngày thì ruồi bu đầy mặt, đêm thì dòi bò tận miệng nóp.  Cá nhiều nhờ Ba tôi tháo đập.  Phần lớn cá trôi theo dòng nước cuốn về mặt đập và bị vớt lên bắt sống.  Tôi phụ kiểm soát cá lội ngược, cá còn sót từ ngọn đập đã cạn nước.  Lội bùn, bò trước đoàn con hôi (người bắt cá sót), tôi gặp một con cá trê quá lớn.  Để khắc phục, tôi cố sức nhận đầu nó xuống bùn, lừa hai ngạnh của nó để khóa chặt giữa các ngón tay trái, và lần kéo cá lên khỏi bùn.  Nhưng nó vùng vẫy quá sức tôi, ngạnh bén chém ngón tay giữa, lòi mỡ chảy máu, bùn non nhét vào làm độc, phải nằm nhà thương Chợ Rẫy hai tuần (năm 1942, giữa Thế Chiến Thứ Hai). Việt Nam chưa có thuốc trụ sinh nên vết độc lâu lành; hiện nay tôi còn mang thẹo dài lối 2 cm.  Kỳ thi tú tài Pháp trong tháng sáu gần kề.  Tôi phải đem sách vỡ vào nhà thương để học bù mấy ngày vắng mặt, và dọn thi.  Đáng sợ là kỳ đó, giám khảo môn Pháp văn là thạc sĩ văn phạm (agrégé de grammaire) đầu tiên của Việt Nam là thạc sĩ P.D.K., tác giả của quyển "Légende des Terres Sereines".  Ông có tiếng phê điểm rất gắt, đánh rớt nhiều thí sinh xuất sắc trong các khóa trước, nên được cái biệt danh là Đao Phủ Thủ của thí sinh (Bourreau des Candidats) - điểm loại là 6/10, mà không bao giờ ông phê quá 10/20.  Thật là học tài thi mạng. (Nghe nói, trong những ngày tàn của thực dân, có lần ông thạc sĩ bị chận đánh rớt xuống hồ Hoàn Kiếm).

Nay được đọc Chuyện Đồng Quê của Trần Văn, tôi rất thích thú hồi tưởng lại cái thiếu thời đồng quê của tôi.  Tác giả gốc ở Châu Đốc, nên kể nhiều chuyện ở quanh vùng kinh Vĩnh Tế, núi Thất Sơn và Hậu Giang.  Tôi học của tác giả các thú giăng câu trời, đập chim ngủ đêm, câu cá he, chuyện tình dang dở cá leo, nằm tum đâm cá bông, gỏi sầu đâu, mắm cá trèn... 

Tôi được đọc thêm ở nơi khác các món : mắm kho bông súng Đồng Tháp, mắm cồng và mắm tôm chà Gò Công, hủ tíu Mỹ Tho, bánh giá chợ Giồng Định (Định Tường), cá cháy kho rim Trà Ôn.  Đủ biết là món ăn đồng quê tận dụng thổ sản, phong phú dường nào.

     Có một lúc tôi trôi dạt về núi Châu Đốc, nên chuyện Thất Sơn của tác giả càng thắm thía đối với tôi.  Tôi có đi mua sỉ thổ sản ở các sóc người Miên buổi chiều, để đem ra bán lẻ ở chợ Ba Chúc buổi sáng.  Tôi lên rừng bứt mây về thắt giống, chuốt tre đan rổ, leo cây thốt nốt lấy mật, lên xuống đường dốc cong queo, gánh nước suối với cặp cà om (thay vì thùng thiếc như ở đồng bằng).  Cà om là loại nồi đất đựng nước của người Miên, khi lở đụng bể một cái ở đầu nầy thì cái ở đầu kia cũng rớt bể theo luôn.  Vì đường dài, để mau về tới nhà, tôi từng trở vai không ngừng, nghĩa là vừa đi vừa quay trở đòn gánh từ vai nầy sang vai kia, không thua các cô gái núi.  Tôi biết qua đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Thầy Tây An và chùa Long Châu.  Tôi có viếng một số đạo sĩ ẩn náo nơi hẻo lánh trên núi.

     Tác giả làm cho tôi sống lại quãng đời cần cù nơi đồng quê, nhọc xác nhưng khỏe tâm.  Đặc điểm của tập ký ức nầy là các câu chuyện độc đáo, lời văn hồn nhiên, gọn ghẻ, thành thật, không cầu kỳ, như  đê ø giữ  trọn tánh  cách mộc mạc của nông dân trong các sinh hoạt vất vả hằng ngày, các phong tục tập quán địa phương, các thú vui giản dị tùy mùa, và nhứt là các thức ăn đặc sản với phẩm chất và hương vị thanh khiết khó tìm lại được.

     Biến cố 1975 là cơn bão lốc, làm cho ta bị trốc gốc, phiêu dạt nơi đất lạ.  Nhưng ta không mất gốc.  Đọc chuyện của Trần Văn để nhớ lại đồng quê, một phần nhỏ của quê hương mà hình ảnh vẫn còn in sâu vào lòng người viễn xứ

Ký ức rơm vàng

Thứ sáu - 02/12/2011 06:09

Rơm quê mình có sẵn, người quê ta cần cù, khoa học kỹ thuật không thiếu, hỡi ai đó hãy giúp quê mình viết tiếp ước vọng của Rơm…

Quê tôi, Cao lao hạ, nằm bên bờ Linh giang, dưới chân dãy núi Lệ đệ, một vùng quê nông nghiệp trồng lúa, từ bao đời nay người dân một nắng hai sương bám đồng bám ruộng để làm nên những mùa lúa vàng. Quê tôi có cánh đồng thẳng cánh cò bay, dập dờn sóng lúa, mùa gặt về cùng với những hạt thóc vàng thấm đẫm mồ hôi của bao người, phần còn lại đó là rơm rạ. Rơm gắn bó với người, với tuổi thơ tôi, với sự thăng trầm đói no, rách lành của cuộc sống, cùng chịu đựng chiến tranh, chia sẻ  với người trong mất mát đau thương…

Quên sao được những mùa gặt, rơm vàng được trải rộng khắp đường thôn, đường xóm, rơm chất đầy sân kho Hợp tác xã. Lũ trẻ chúng tôi chơi đùa thỏa thích, chơi trốn tìm, chơi nhào lộn, chơi đuổi bắt nhau…với niềm vui bất tận.

Rơm được phơi khô đủ nắng vàng ươm, thơm, sau đó được xây thành những cây cao ngất trong vườn nhà, gọi là cồn rơm. Dưới những cây rơm là gia đình lũ gà cần mẫn nhặt tìm những hạt thóc còn sót lại và cũng là nơi trú ẩn an toàn của chúng, để tránh những cặp  mắt tinh quái của bọn  cú vọ diều hâu. Hình ảnh cây rơm ngả bóng ấp đàn gà đã đi vào thơ ca, nhạc họa khắc họa nên bức tranh làng quê thanh bình mà chắc chắn trong đó có làng quê tôi.

Tuổi thơ đi qua, lớn lên, cây rơm cũng là điểm hẹn hò của tình yêu đôi lứa. Nhặt cọng rơm vàng trên mái tóc ai xưa, để đến bây giờ nhớ lại lòng cảm thấy nao nao thổn thức, cứ nuối tiếc một thời khờ dại, đã trôi vào miền ký ức xa xăm…

Xưa, quê tôi nghèo, nghèo lắm, mái tranh vách đất. Tường nhà không phải như bây giờ, tường được làm bằng đất, xương của tường được làm bằng những thanh tre hoặc những cây nhỏ chặt ở trong rừng Ba trại về thường gọi là Róng. Cột vào những cọc đứng gọi là Mầm, chất liệu để trát lên đó là rơm trộn lẫn với bùn, chỉ đơn giản vậy thôi nhưng cũng bền bỉ chắn gió, ngăn sương cho con người qua nhiều năm tháng.

Những đêm đông giá lạnh, khi ngọn heo may về rét cắt da, cắt thịt, ổ rơm là nơi ngủ lý tưởng, ấm áp nhanh chóng đưa chúng tôi vào giấc ngủ để quên đi cái đói, cái rét của mùa đông.

Rơm còn là thức ăn của trâu bò vào những ngày nông nhàn hay mùa đông rét mướt, nhờ vậy mà nông dân quê tôi bảo tồn được sức kéo, để  rồi lại có những mùa vàng tiếp theo. Rơm còn là chất đốt, mọi nhà dùng rơm để đun nấu, cơm vừa chín tới đem ủ rơm lên đốt, cơm sẽ chín đều, ngon nhất là cơm lúa Mành tháng mười được om bằng lửa rơm. Tối lửa tắt đèn có rơm, dùng nùm rơm xin lửa, một nét văn hóa chỉ có ở làng quê tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm sang nhà hàng xóm xin lửa bằng  nùm rơm khi về gặp ngọn gó nam thổi bùng làm cháy mất cái chuồng bò của nhà hàng xóm. Không bắt đền, không to tiếng cải vã, bởi trách chi ngọn gió vô tình, mà rơm thì lại mau bén lửa, chỉ còn lại sự cảm thông và tình làng nghĩa xóm.

Và rồi chiến tranh…Những sợi rơm bé nhỏ có thể tết thành mũ rơm, đan thành những tấm đệm che cửa hầm nhằm tránh mảnh bom, mảnh đạn. Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quê tôi bị tàn phá nặng nề, bom tấn, bom tạ, bom bi, bom phát quang có đủ cả. Nhưng đặc biệt hơn là bom cháy Na pan, khi ném xuống nó thiêu cháy bất cứ thứ gì. Dân làng tôi có sáng kiến xây những cái bục, giống như lô cốt, vật liệu là rơm trộn bùn, như làm vách nhà vậy, nhưng có điều là gia cố dày hơn chắc hơn, nhờ vậy, lương thực, quần áo, vật dụng gia đình được bảo quản tránh được cái tàn ác của Na pan.

Rơm chia sẻ với sự mất mát đau thương của con người, mũ rơm, gậy tre biểu thị lòng thành, hiếu nghĩa của con cái khi đưa tiễn các đấng sinh thành về nơi yên nghỉ ngàn thu.

Đời sống phát triển, rơm dần dần thoát khỏi sinh hoạt của con người. Trâu bò không còn là sức kéo chính, thay vào đó là máy móc hiện đại, rơm không còn được dự trữ. Người dân quê tôi đun bếp bằng than tổ ong, bếp ga, tường nhà được xây bằng gạch, bờ lô, bằng các loại vật liệu mới, mái ngói tường xây…và rồi rơm vắng bóng dần trong thôn xóm. Sau mỗi mùa gặt, rơm được đốt tại chỗ, tro rơm được bón tiếp cho ruộng đồng.

Rơm đã chung sống với người nông dân cả ngàn đời, thủy chung son sắt chở che cho con người, bây giờ mỗi ngày qua đi dần dần vắng bóng rơm. Rơm vàng biểu tượng của làng quê, mộc mạc rất đỗi thân quen rồi sẽ mất dần theo năm tháng. Chúng ta sẽ không tìm đâu ra cái linh hồn mộc mạc của làng quê, cây rơm vàng chỉ còn lại trong ký ức, neo lại những kỷ niệm của một thời chưa xa.

Tuổi thơ rau má

QĐND - Chủ Nhật, 01/01/2012, 19:9 (GMT+7)

QĐND - Chiều nay, trên đường hành quân qua một làng quê nghèo, tôi lại tìm thấy hình ảnh tuổi thơ của mình qua những bước chân trần mà đám trẻ đang tíu tít chạy khắp cánh đồng để tìm những cây rau má xanh tươi...

Ngày ấy, những buổi chiều chăn trâu, mỗi đứa trẻ quê tôi đều mang theo chiếc liềm cắt lúa và một cái rổ rộng vành như chiếc nón đội trên đầu. Cứ thế, chúng tôi hì hục, thi đua nhau hái rau má. Có lần vì hiếu thắng, tôi quyết tâm tìm rau má trong tận hóc núi sâu mà quên cả "nhiệm vụ" chăn trâu. Đến khi rổ đầy rau má, ngẩng đầu lên thì trời đã sẩm tối. Bấy giờ, tôi mới ngơ ngác đi tìm trâu trong thất vọng. Cả đoạn đường về nhà, tôi vừa đi vừa khóc và nghĩ đến trận đòn đang chờ mình mà đôi chân ríu lại... Bước đến cổng làng, nhìn thấy con trâu đang thản nhiên nhai rơm, tôi thở phào và thấy vui hơn cả lúc được chúng bạn tôn vinh là “vua nhổ rau má”.

Lớn lên tôi quyết tâm theo nghiệp của cha. Rời xa quê hương lên đường nhập ngũ, tôi mang theo hình ảnh tuổi thơ rau má của riêng tôi. Nơi ấy, trong miền ký ức là những cánh đồng trũng có màu vàng của lúa và màu xanh của rau má. Thú thật cho đến tận bây giờ, dù đã đặt chân đến nhiều vùng đất khác nhau nhưng chưa nơi nào tôi đi qua mà cây rau má lại có thể xanh tốt, đắng lịm như ở quê tôi. Hay chính tình yêu quê hương đã cho tôi cảm nhận được sự khác biệt ấy!?

Rau má quê tôi thật đặc biệt. Vào mùa hè, ngay cả khi trời nắng gắt, rau má vẫn lên xanh, để lộ chùm rễ trắng như bộ râu dài của lão nông. Mùa thu qua đi cho tới tận lúc đông về rau má ở quê tôi vẫn mọc lên thành từng đám như những tấm thảm nhung xanh mơn mởn trong tiết trời lác đác mưa. Cha tôi bảo: “Người ta gọi là rau má vì rau rất bổ dưỡng, có thể thay nguồn sữa mẹ để nuôi lũ trẻ khôn lớn”. Và cũng bởi thế mà tôi vẫn thường tự hào với đồng đội là mình lớn lên trên lưng trâu và vạm vỡ khỏe mạnh nhờ những cây rau má hoang dại nơi mảnh đất nghèo.

Bây giờ cuộc sống nhiều thay đổi, người ta “chê” sơn hào hải vị đi tìm lại món ăn dân dã, đồng quê. Vì thế, người ta biết đến rau má như món ăn thanh dịu, bổ dưỡng. Thế nhưng những dây rau má đã không còn mọc tràn lan trên những triền đê hay bờ ruộng nữa. Thay vào đó rau má được trồng trong vườn, trong những thùng xốp chật hẹp; được tưới tắm bằng các loại thuốc kích thích phát triển. Còn ở quê tôi, người dân vẫn “nâng niu” từng cây rau má hoang dã. Mỗi lần được nghỉ phép về quê, mẹ tôi dù đã già yếu nhưng vẫn cố gắng đi hái cho được nắm rau má đồng nội “chính hiệu” đãi “thằng út”. Cả bữa cơm dọn ra dù trên mâm độc nhất chỉ đĩa rau má luộc chấm nước mắm, mà tôi thấy ngon miệng đến lạ. Những lúc như vậy, nhìn tôi ăn rau má, cha vừa nhâm nhi ly rượu, vừa đọc lại mấy câu thơ quen thuộc trong bài thơ "Rau má" của nhà thơ Trịnh Anh Đạt: “Vĩ nhân và các đời vua/Cũng từ rau má, ốc cua nên người”.

Món ngon mùa lũ rút.

Cứ đến dịp này là tôi muốn nôn nao về quê để đón mùa cá ra. Và đây cũng là lúc dễ kiếm mồi độc để nhậu cùng mấy thằng bạn chí cốt. Hôm rồi, được bọn nó đãi món "ốc lác vùi" nướng rơm thơm "lừng lẫy" mà đến giờ vẫn còn dư vị. Ốc lác vùi cũng giống ốc lác đất cày là những con ốc bị mắc cạn, tự vùi mình vào lớp phù sa từ tháng 10 âl trở đi và sống sót đến mùa mưa năm sau để đẻ trứng. Không rõ nó ăn gì, thở kiểu gì trong cục đất cứng ngắt, khô queo đó mà con nào cũng mập ứ mài. Người ta đi mò ốc còn ốc lác vùi phải đi đào bằng len (xuổng) hay đi theo luống cày mới mà lượm. Thằng bạn bảo ốc lác còn món độc nhưng hơi hiếm hàng là "ốc treo giàn bếp". Mình cũng dân ruộng mà món này chưa thấy nên lòng còn thắc mắc. Hỏi thì nó kể giông dài mà tôi không hình dung nổi làm sao con ốc có thể sống trên giàn bếp nóng hôi hổi đó được. Mấy đứa khác thì xúm lại chọc quê nó quá xá, có thằng còn kêu nó "xạo ke ba que xỏ lá", "ăn ốc, nói mò".  Nó tức máu lên (già rồi mà nó cũng vậy) hứa sẽ kiếm một mớ về cho anh em sáng mắt ra mà vẫn chưa có con nào. Về nhà, mình cũng tò mò và lên mạng tìm. Hóa ra thằng bạn nó nói chính xác và bài viết về con ốc lác treo giàn bếp còn chi tiết hơn. Sẵn đây xin chép lại để bạn nào có món này thì xin chia lại vài con để anh em thưởng thức.

DNT- Từ Nhân Dân

Ốc treo giàn bếp - món ăn đặc sản ở Đồng Tháp

Ở vùng Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp cứ vào mùa lũ rút, nội đồng bắt đầu khô cạn, cá rút xuống ao đìa, sông rạch trú ẩn cũng là dịp để bà con tát đìa bắt cá, tôm và nhiều loại khác như rắn, rùa, cua, ếch , ốc

Nói đến ốc lúc này nhiều người chê vì cho rằng bắt ốc làm gì phải xách mỏi tay. Tuy nhiên, chỉ có dân “ghiền” hay người sành điệu, biết thưởng thức mới bắt ốc để dành bằng cách treo trên giàn bếp chờ những tháng khô hay những ngày Tết mới dùng đến.

Ốc treo giàn bếp đặc biệt nhất là ốc lác. Hiện nay nhiều hộ ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò có phong trào mua ốc lác về nuôi bằng cách dùi những con ốc lác xuống lớp đất mỏng (còn gọi là ốc dùi), sau 3-4 tháng cho thu hoạch, giá cao gấp đôi ốc thường. Nếu 1 kg ốc lác thường bán 15-20.000 đồng thì ốc treo giàn bếp bán từ 30-50.000 đồng/kg mà không có đủ để bán, đăng ký mua nhiều nhất là các nhà hàng đặc sản ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Mùa nào cũng vậy, ốc bắt được đem về rửa sạch, đựng trong giỏ đan bằng tre rồi đem treo chỗ cao trên giàn bếp. Ốc lác treo giàn bếp để lâu 4-5 tháng vẫn sống. Ốc treo giàn bếp béo mập, để hàng ngày khi nấu cơm khói xông vào giỏ đựng ốc, ốc sẽ ngửi khói xông lên là đạt yêu cầu. Ai cũng nghĩ làm như vậy ốc sẽ chết do hơi nóng bốc lên hoặc ốm tong teo vì nhịn đói, nhịn khát nhưng không ngờ ốc lại mập ra, béo ngậy, trở thành món đặc sản vô cùng khoái khẩu của mọi người ở khắp vùng quê và thành thị.

Ốc lác treo giàn bếp thường lựa loại to, khi cần sử dụng con nào cũng mím miệng cạy khó ra, mình ốc có màu xám như đang thiếu nước. Chuẩn bị cho một buổi tiệc, sau khi rửa sạch hết bụi bặm, ta sắp ốc vào một nắp khạp có chứa sẵn nước quậy trứng gà cho ốc uống; những con ốc nghe có nước bắt đầu cục cựa, há miệng, quơ râu uống nước. Khoảng 20 phút khi ốc đã uống hết nước, ta bắt từng con vạt đít, cho vào nồi có sẵn một lớp sả, chút muối và đổ thêm ít nước, đun chừng mười phút thì sôi, các con ốc đã há miệng. Bưng nồi ốc đảo đi đảo lại vài lần cho đều rồi đặt lại bếp độ vài phút là ốc chín. Những con ốc đã chín trốc mày, mề ốc vàng, mình ốc trắng tươi như bông bưởi nhìn thật bắt mắt. Nêm tí nước mắm sả ớt, nặn thêm chút chanh rồi nhanh tay bưng húp nhẹ miếng nước ốc, ngọt vô cùng. Mình ốc mềm mụp, chấm vào nước mắm sả ớt thật ngon tuyệt. Thưởng thức món ốc lác treo giàn bếp phải từ từ, thịt ốc vừa mềm vừa mập, vừa ngọt, vừa cay của vị ớt lại thơm nồng của sả, thật không thể tả nổi.

Ai đã từng thử món ốc treo giàn bếp sẽ nhớ mãi hương vị đặc trưng của nó. Ốc lác treo giàn bếp là món ăn có khắp mọi nơi, mọi miền, rất thuận tiện khi tiếp khách, chỉ 5-10 con ốc lác giàn bếp mang xuống luộc là có ngay món đặc sản đồng quê khó quên

chiến giữa chủ hồ và người câu cá.

ĐNT

Nhân đọc bài này trên Việt Báo, thấy bài viết còn nhiều phiến diện, phản ánh chỉ một phần quá nhỏ. Dù kinh nghiêm câu kéo cũng chưa chắc hơn ai nhưng từ trải nghiệm bản thân, tôi muốn xem xét "cuộc chiến" này dưới góc độ khách quan hơn. Nếu có đụng chạm, mong anh em "bị trời đày" lượng thứ.

Mấy năm gần đây, phong trào câu cá giải trí rộ lên khắp nơi, từ Nam ra Băc. Ngay cả xứ miệt vườn như Cần Thơ, Vĩnh Long cũng có hồ câu cá giải trí. Có cầu ắt có cung tuy nhiên trong lĩnh vực này ẩn chứa nhiều xung đột giữa khách hàng và người cung cấp dịch vụ. Cho nên, để “thắng” được trong lĩnh vực này không phải là điều đơn giản. Và lý thuyết win- win quá mong manh khi áp dụng vào việc cung cấp dịch vụ này.

Đây là cuộc chiến không cân sức giữa "Chủ Hồ" và "Người Câu Cá" mà phần thua chắc chắn ở Người Câu Cá dù Chủ Hồ chẳng cần mánh khóe nào. Những trò thả dây điện, kéo cá ban đêm để sáng thả lại, dùng khí đá sục hồ, dùng hóa chất thay đổi môi trường nước...xem ra không cần thiết phải giở ra vì vừa tốn kém, cực khổ, lộ liễu không cần thiết đối với nhiều tay câu. Tại sao vậy?

Thông thường người câu muốn khoắng hết cá của chủ hồ nhưng thực tế người có khả năng này rất ít. Đa phần người đi câu còn lại là ...võ biền, "lực bất tòng tâm" vì cứ nghĩ mồi mình ngon mà sao cá không ăn, hay chủ hổ nó chơi chiêu gì đây? Hôm qua mình câu cá ăn quá mà sao hôm nay lại im re? Họ đổ thừa hoàn cảnh là chính mà không chịu xem xét lại.

Chủ hồ, đó là yếu tố không thể thay thế được và không nhiều. Chủ hồ có thể là người tốt hay người xấu (1), chịu chơi dám thả cá hay không (2); Hồ thì rộng hay hẹp (3) cạn hay sâu (4) nước có vô ra hay không?(5) Có cho cá ăn hay không (6)….Những yếu tố kể trên đây, người câu cá ít khi tác động làm thay đổi được.

Ngược lại, Người Câu cá có nhiều yếu tố phải tự mình khống chế được mới trở thành cao thủ được. Có ba thành tố chính: Người, Cần câu và hiểu biết của người câu về con cá.

Người đi câu sát cá hay không là do chính bản thân họ. Họ đến một hồ câu trong ngày nào (7), giờ nào (8), Mưa nắng hay râm (9); Vào hồ rồi thì phải chọn diểm câu chỗ nào ngon nhất (10), chọn câu tầng nước nào (11). Khi cá ăn người đi câu có giật đúng thời điểm (12), giật đúng kỹ thuật (13). Bấy nhiêu nghe đã đủ mệt huống chi đi câu còn phụ thuộc vào bản tính của người đi câu nữa. Thường người trầm tĩnh câu được nhiều cá hơn người bộp chộp, ồn ào.

Nhưng chưa đâu. Bây giờ đến cần câu và những thứ liên quan. Cần câu phù hợp với cách câu hay chưa (14), dây câu phù hợp với cần và máy chưa (15), dây câu nhỏ hay lớn (16), câu có chì hay không chì (17), chì nặng hay nhẹ (18), chì treo hay chì chạy (19), câu phao thì canh chì phao đúng chưa (20). Tiếp đến là lưỡi câu. Lưỡi câu mình đang câu có vừa miệng con cá chưa (21) Lưỡi câu và dây câu có tuân theo tỉ lệ chuẩn chưa (22), Lưỡi câu tóm có đúng kỹ thuật hay không (23) (như vị trí của dây câu so với đốc câu, dây câu dư ở lưỡi câu…). Tới đây là tới cái phần rắc rối, nhiêu khê và tốn kém nhất. Đó là mồi câu. Nào là chọn mồi gì (24), trộn với gì (25), ủ bao lâu (26),xả mồi gì, xả thế nào (27)….

Người đi câu cũng có những kiến thức và nhận định có cơ sở minh chứng. Họ cũng phải biết hồ có cá gì (28) mật độ nhiều hay ít (29), Cá mới hay cá bể (30), thường được cho ăn gì (31), mật độ cá khác cùng hồ (32), trong hồ thường ăn giờ nào (33)….

Kể sơ sơ thôi chứ tôi không dám đi vào chi tiết vì không dám múa rìu qua mắt …xưởng thợ được. Với 33 yếu tố kể trên, ngoài 6 yếu tố không thể cải thiện được, người câu cá phải đối diện với ít nhất gần 30 vấn đề của chính mình. Mỗi vấn đề có hai hướng giải quyết đúng và sai. Vị chi có 27 khả năng xảy ra và để muốn bắt được con cá thì người câu cá phải giải quyết "đúng" toàn bộ ít nhất 27 khả năng này. Nói như thế mới thấy được để trở thành một cao thủ câu chỉ một loại hình câu hay một loại cá nào đó thì cái giá phải trả đến mức nào. Các đại cao thủ vẫn là đại cao thủ dù trong bất kỳ hồ cá nào. Các cao thủ thể hiện tinh thần “phong độ nhất thời, đẳng cấp vĩnh viễn” là ở chỗ này. Dù bất kỳ điều kiện nào, cao thủ vẫn có thể ít nhất "gỡ gạc" được. Và chẳng may hôm nào ra quân thất thủ thì họ vẫn tin tường ngày mai “con cá này mày phải chết với ông”.

Bất kỳ người câu cá nào cũng có thể trở thành cao thủ nếu thật sự tìm hiểu tường tận về thú vui tao nhã này hơn là luôn miệng đổ thừa hoàn cảnh hay đổ thừa tại chủ hồ… xử lý hồ. Ngược lại, Chủ hồ chằng cần động móng tay, các cần thủ lơ tơ mơ cũng "chết dài dài" vì sự cố chấp của chính mình mà không chịu "lắng nghe và thấu hiểu"... con cá. Cái đó người ta gọi là "nặng bóng vía".

Câu cá mè "dinh"(*)

Cá mè dinh có nhiều cách bắt như giăng lưới, thả lưới, dỡ chà. Nhưng "đã tay" nhất là câu cá mè dinh trong đống chà.

Từ khi bắt đầu nước đổ già ngọn cuối tháng Bảy đầu tháng Tám âm lịch, đám cá mè dinh lứa được đẻ hồi đầu mưa giờ bắt đầu dựa chà, chuẩn bị lên đồng. Đám cá này chỉ cần hai tháng hơn vô đồng đã đạt trọng lượng nửa ký đến 1 ký hơn khi nước giựt. Sau mùa cá ra, con mè dinh nào vượt ngục, thoát ải được sẽ chu du dọc sông Cửu Long và lớn lên. Thêm một mớ bị dính lưới, mắc đáy, kẹt chà, trự nào còn thoát được sẽ sống sót và tìm chỗ chà chôm mà kết duyên nhau khoảng cuối tháng Ba âm lịch và sinh con đẻ cái. Chu trình cứ thế mà tiếp tục từ bao đời nay. Và người ở vùng Sông Hậu cũng "canh me" câu con cá này vào thời điểm chúng dựa chà.

Con cá mè dinh tháng Bảy đang cỡ 3-4 ngón tay xíu xiu nhưng được cái chiên thì giòn, câu thì dễ. Lũ nhóc tì đang tuổi ăn tuổi lớn này bạ gì xơi nấy. Nhưng theo một tập tính lâu đời, hạt lúa ngậm sữa là món khoái khẩu mà con cá này ăn cho tới bến. Chính vì thế, người muốn câu con cá mè dinh lứa chỉ cần ra đồng, tìm những bụi lúa hạt còn xanh nhưng đã tròn lẳn, bóp vào có cảm giác núng nính, cắn nhẹ hạt lúa thấy chảy ra dịch đục như sữa là ...cắt liền vài bụi. Mớ lúa này về tuốt hết lá, chỉ chừa cuống hạt bó lại chừng một ốp bàn tay và một vài nhành lúa đạt chuẩn để riêng. Bó lúa được cột chặt vào một cái sào trúc chừng ba mét, đặt lên trên mặt đống chà sao cho bông lúa chìm hết vào nước rồi người câu lên bờ ngồi chờ. Khi con nước sựng lại, nhìn đuôi bó lúa cứ bị giật giật liên hồi kỳ trận là người câu nhanh chóng xuống xuồng ra chà thu hoạch cá.

Xuồng buột thật êm; cần trúc ba bốn mét với dây câu vừa tầm; Lưỡi câu chỉ cỡ lưỡi cá rô số hai, to hơn hạt lúa một chút hay lưỡi đúc số 18.;Phao chì không cần thiết. Lưỡi câu móc một chút trên "mầu" của hột lúa ngậm sữa, xoay lưỡi câu thẳng hàng với hột lúa và nhẹ nhàng buông xuống "cái đám hát bội" ngoài kia sâu độ hai ba tấc. Nước đứng dây đi, nước lùa dây đứng là giật. Gỡ cá rồi móc mồi, sửa mồi, thả xuống, nhìn dây và giật. Cứ thế, người câu phải thao tác nhanh vì qua con nước khó câu hay cá rỉa hết trơn mồi dụ nên tản bầy. Một con nước qua thì lại chờ con nước tới để câu tiếp. Thông thường mỗi con nước như vậy có thể kiếm khoảng trên dưới hai mươi em, đủ ăn hay nhậu rồi. Đám nhỏ này câu mỏi tay, rung người lắm nhưng giật cảm giác "phê" phải là con cá đẻ.

Câu cá mè dinh đẻ thường vào tháng Tư âm lịch hằng năm. Sau chuyến đi thăng trầm từ mùa nước giựt trước, đến nay, các cu cậu đã trưởng thành, bén duyên nhau và tán tỉnh nhau trong các đống chà chờ mưa xuống.

Cách câu vẫn là câu bằng xuồng, có mồi dụ và cầu câu không chì phao nhưng dây lưỡi phải "dữ" hơn và cần phải đem theo nhiều lưỡi dự phòng. Lưỡi câu chọn lưỡi đúc khoảng 13-14 với dây tương thích. Mồi dụ bây giờ là xà lách hoặc dây cứt quạ. Không ai dùng ngò rí vì ...quá sang và không biết bao nhiêu cho đủ; Xà lách đã quá đáng lắm rồi. Xà lách chọn mua loại thân nhỏ lá láng, có chút sâu, dập cho rẻ. Thường nhất là dùng dây cứt quạ cho nhạy và không tốn tiền.

Dây cứt quạ là một thứ dây leo mọc hoang, bò trên đầu các đám cỏ, sậy. Đây là loại dây lá có ba chia, mặt lá nhám, hoa có màu trắng tinh, trái có nhiều cạnh như mướp khía nhưng chỉ bằng ngón tay và ngắn. Khi chín, trái có màu đỏ cam đến đỏ máu rất bắt mắt và lũ chim trau trảu rất khoái. Muốn hái dây cứt quạ phải là người quen nhìn hay đi vào lúc mặt trời chưa lên vì khi đó, màu trắng của hoa nhìn xa đã thấy. Chỉ cần mặt trời lên khỏi ngọn cây một chút là hoa sẽ tàn ngay. Cá mè dinh mà gặp dây này "như lân thấy pháo", sẽ nhào lên đớp ngay mặc dù lá cứt quạ đắng không thể tưởng.

Mồi dụ cũng buột thành chùm nhử cá trước. Khi thấy đám mồi dụ bị giật giật là người câu cũng chuẩn bị ra tay. Trên xuồng bây giờ còn có thêm cái vợt sâu lòng, cán chừng sáu tấc có đóng sẳn cái nỏ để uốn lưỡi bị "quác" và một cây dò để gỡ lưỡi câu khi mắc chà. Cây dò có chiều dài tương đương cần câu nhưng to hơn một chút, trên đầu có gắn một đoạn lò xo khoảng 3 đến 4 vòng (giống như dụng cụ tháo lưỡi câu khi cá nuốt lưỡi sâu). Khi cá sảy, lưỡi câu thường bật lên mắc chà, người ta sẽ luồn dây câu vào lòng lò xo, nắm dây và đẩy cán dò trượt xuống đến khi đầu dò bị cản lại. Bằng cảm nhận, người câu sẽ lắt và đẩy nhẹ để gỡ "lưỡi câu mắc gốc" bên dưới lên một cách nhẹ nhàng, không làm cá hoảng sợ tan bầy.

Câu cá mè dinh đẻ cần một sự tinh tế hơn câu đám "cá mè một lứa" kia. Mồi phải là một phiến lá non vừa đủ hớp hoặc xé từ một phần lá non  ra sao cho thật giống một mảnh lá bị rỉa văng ra từ chùm mồi dụ. Lưỡi câu phải tóm đẹp, sát rạt, cắt thật gọn dây tóm thừa. Lưỡi câu móc mồi lá phải không làm lá giập mà chỉ xoay lá và luồn lưỡi vào. Thả mồi cặp sát mồi dụ độ sâu khoảng hai ba tấc. Cũng giật cá khi "nước đứng dây đi, nước lùa dây đứng".

Phiến lá được thả trên đầu nước, trôi phê phê lững lờ ngang mồi dụ rồi trôi dần xuống cuối nước khoảng năm sáu tấc tùy khoảng chà cho phép và cứ lặp lại như thế. Nước đứng thì thả mồi sát bên chỗ con cá rỉa mồi dụ. Người câu chong mắt căng người nhìn sợi dây mỏng tang chờ nó ngừng lại hay đi ngược nước lên là "phập một phát". Đọt cần câu oằn đi và "liệt liệt xuống". Người cầm cần sướng tê, nín thở để kềm sức chạy của con cá. Chà ở dưới rất nhiều nhưng do câu một lưỡi, con cá dính cứ luồn lách, người câu cứ chịu và căng giãn theo nhịp sức cá mà dìu. Có con va vào chà lộc cộc nhưng dần yếu sức và lên theo đường đã đi xuống rồi "ngã ngang", nhóc mỏ. Lúc này chỉ cần "rề" nhẹ vô gần be xuồng và cầm vợt xúc cá lên. Xuồng thường đậu mé ngoài chà, phía ngọn nên kéo cần là cá đi theo xuôi chiều chà. Xui lắm, con cá mới bị mắc vào kẹt chà và người câu bắt buột phải đẩy xuồng vào, thò tay gỡ cá ra rồi "bợ" lên luôn hay lấy vợt hứng rồi ...ngồi chờ thời. Con nước mùa tháng Tư cũng "lình bình" ít khi chảy xiết nên một lát sau cá tụ lại, người câu có thể câu tiếp cho tới tối. Mà nghiệt ngã, càng tối, con cá đẻ càng ăn dạn. Đôi khi lúc này không thấy dây, chỉ cần thả mồi đúng chỗ rồi giật quàng xiên cũng dính cá!

Con cá đẻ thường "to biết hát". Một buổi có thể kiếm năm bảy con, mỗi con cả ký lô, bèo nhất cũng tám chín lạng. Năm rồi, đống chà cặp Sông Hậu, Anh Hai tôi bị một em làm lưỡi câu đúc 14 "ngay đơ". Hai hôm sau, cũng đám chà đó, khi dây câu se se khựng nước, tôi vỗ một cái, trên lưỡi câu chỉ tòn teng một miếng vảy to bằng đồng 1 đồng nhôm thời năm tám mấy. Không biết "con quỷ" này bao lớn mà nói!

Con cá mè dinh câu về có thể rộng lại dưới sông hoặc làm thịt ngay. Nếu nướng hay chiên tươi (người Sài Gòn gọi là chiên xù) thì chỉ cần móc lấy mật. Nếu cá ngợp hay chết thì có thể đánh vảy, xẻ khứa và muối để chiên ăn dần. Món chiên tươi là hết chê vì vảy vi con cá vàng ruộm, giòn tan, béo ngậy mà thịt ngọt mềm. Con cá nướng thì "thơm phưng phứt".  Nhưng tôi khoái nhứt là món cá mè lứa dinh kho lạt, để vẩy ăn với rau ghém và cơm nóng. Cá mè dinh kho lạt mổ bụng giống chiên tươi. Lót cùi khóm (thơm) hay mía lau chẻ tư xuống đáy nồi. Cá ướp gia vị cho thấm rồi xếp vào nồi, đổ nước mắm xâm xấp, đun lửa nhỏ, vớt bọt liên tục và trở cá cho chín đều. Bỏ thêm vài lát thơm, ớt quả, nêm nếm lại đợi sôi lên rồi tắt lửa, nhấc xuống. Cơm nóng, dưa leo, rau xanh và đặt biệt là một dĩa chanh tươi cắt sẳn với một dĩa nước mắm sống thật nhiều ớt thì còn gì bằng.

Mấy hôm nay, ra chợ thấy mấy con cá mè dinh nhảy soi sói mà nhớ con cá quê mình. lũ năm nay ít quá, cá cũng ít theo. Không biết tháng Tư năm nay có về câu được con mè dinh đẻ nào nữa không

những con trắm hồ Chín Súng

Đã hơn một năm, lần đi hồ Chín Súng trước, tớ có dịp chứng kiến trắm khủng, tận tay bắt một em nhỏ và bó tay trước một "trắm cụ".

Con cá trắm bắt được, khi cân lên là 3,7kg (dù nhỏ nhưng tôi sẽ lục tìm hình gửi anh em sau). Vị trí câu là đường dọc chòi lá sau nhà, chỗ rãnh cỏ cặp cây bần và mớ dừa nước, bên trái đi vô, gần của xả ra rạch. Mồi câu là bánh mì ngọt Đức Phát (ABC) loại 6 múi. Câu phao mút, chì nhẹ, một lưỡi đúc số 14, dây 24. Quăng cần đúng đường hẻm cỏ, so dây, gát cần ngồi lai rai. Uống được khoảng 3-4 vòng, phao lừ đừ chìm rồi thình lình dây rút, cần ben. Ngoài kia con cá nhảy dựng lên. Biết là "bạn mình" nên sau khi "đóng", tôi rất cẩn thận dìu. Nó cứ miết miết đi, ổ câu cứ xả rẹt rẹt. Chừng 5-7 phút, ông tui tới gần bờ, lật ngang. Con cá tuy không lớn nhưng hồ bán hoang dã như Chín Súng mà chộp cổ được anh này cũng "hơi bị sướng".

Câu thêm gần hai tiếng, chỉ được thêm mấy con rô phi cỡ bàn tay. Biết chắc còn "hàng" nên tôi bỏ mặc đám nhậu, cầm cần dạo dạo sang mấy hồ kia. Một bác ngồi chỗ chòi lá, bên phải chỗ đậu xe, trong giỏ cũng 6-7 em trắm cỡ cườm tay. Tôi càn bờ lủi bụi lên cống xi măng đối diện bác ngồi câu trắm, sang cái hồ nhỏ đầy rau muống gần phía mới đi vô hồ. Chỗ này ít ai lên vì cỏ, kiến vàng, lá dừa nước lủ khủ. Trời mới tắt nắng. Đang đứng quan sát tìm điểm, tôi thấy bụi lác cơm cặp bờ cách miệng cống chưa đầy 3 mét tự nhiên rung rung nhớm lên rồi như có ai đang kéo rút từ từ xuống. Sau đó năm bảy cây lác trong bụi đó phình lên mặt nước và tất cả đều bị tiện ngang phần lõi non màu trắng. Một bụi lác nữa đang ngọ nguậy. Tôi nín thở bước nhẹ tới miệng cống. Trời ơi! Một vệt trắng phếu như cái gối ôm nhỏ đang ẩn hiện dưới mặt nước chỉ khoảng 5- 6 tấc. Đúng là trắm rồi. Con này lớn lắm, không biết mấy ký nhưng so với em tôi vừa câu chắc dài gấp đôi. Chỉnh phao, móc mồi, tôi hồi hộp thảy câu vào cái lỗ ngay phía đầu con trắm. Kỳ lạ, nó như không quan tâm cứ tiếp tục loay hoay nhổ lác. Tôi tứ tốc trở ra mé đường cách đó chừng 50 mét bẻ mấy lá khoai mì của ông chín trồng, tiện tay xuống mé nhổ luôn một bụi lác nhỏ. Trở lại chỗ cũ, con cá đã đi ra gần tới hồ. Tôi móc một đoạn non lác cơm thảy theo. Rau muống chằng chịt, miếng mồi chật vật mới xuống được đúng chỗ. Con cá vẫn làm ngơ, mải miết quanh mấy gốc lác cặp bờ chẳng đoái hoài đến cọng lác cơm "hóa trang kiểu Úc" của mình. Tôi thay lá khoai mì vô, liệng xuống ngay mặt. Cụ trắm vẫn không thèm ngó. Rồi thay đõi lác, theo tiếp. Con cá cứ vẹt cỏ, nhởn nhơ đi ra lòng hồ. Trời tối, muỗi nhiều, con cá có vẻ no. Tôi đành bất lực nhìn theo.

Mấy ngày sau, tôi trở lại, đi quanh quẩn hồ đó nhưng vẫn không thấy tăm hơi nó. Xả mẻ, ngồi chờ miết cũng không thấy có dấu hiệu gì. Thêm hai ngày nữa, nó cũng bặt tăm. Hồ có chòi lá bên, cạnh mấy anh em ngồi câu hôm nào cũng được mớ trắm cửng nhưng chưa ai lên được hàng ba. Tôi biết nó còn đâu đó quanh mấy lạch dừa nước, dưới đám rau muống mà tìm hoài không biết nó núp chỗ nào. Hệ thống hồ Chín Súng cứ luồn tuôn ra mãi tận mấy hồ vĩ đại phía sau. Tôi phán đoán có lẽ nó đi theo bờ dừa nước, ngược lên phía trên, chỗ chưa có anh em nào tới được vì không có đường đi.

Tôi nổi nóng con cá này đến nỗi bữa đó có mang theo thấu, tôi dám uốn thẳng lại làm chĩa và "chọt vô cổ cúp" của nó để ôm lên. Cái thứ nằm lật nghiêng nghiêng, to đùng, phơi bụng kiểu đó mà đâm không xuyên hầu, trổ mang thì đừng kể. Nghĩ cái hồ cho câu rẻ bèo như vầy làm gì có thứ dữ? Tôi đi chẳng qua vì mấy đứa trong nhà rủ xuống cho tụi nó câu cá lòng tong lăn bột chiên rồi kêu thêm mồi nhậu nên tôi chỉ mang theo cây cần và tòn teng chiếc túi vải nhỏ đựng mấy thứ cần thiết, đồ nghề bỏ hết ở nhà. Mà giờ nghĩ lại, mình dân câu chớ đâu phải dân soi cá đâu mà làm vậy thì còn gì thể thống nữa. Nhưng nếu có thấu, chắc tôi làm thiệt! Con trắm này thật bạo gan quá cỡ

Gác cúm núm - thú tiêu khiển ở đồng quê

Bác Nguyễn Ngọc Thuyền, chủ vườn cò Bằng Lăng ở huyện Thốt Nốt, Cần Thơ, là người say mê gác cúm núm từ thuở nhỏ. Bác cho biết: Cách nay vài chục năm, cúm núm nhiều vô số kể. Hàng năm, khi trời vừa chuyển sang xuân, nhất là lúc bông lúa vừa ngậm sữa, khí xuân tràn về ấm áp, dòng họ nhà cúm núm bắt đầu đua nhau cất tiếng gọi tình và biểu dương sức mạnh. Con trống, con mái suốt ngày lao rao, rậm rật trong các lùm bụi, gần đầm lầy hoặc dọc theo chân đê, mé đìa, ruộng lúa, bờ ao, mương cá để bắt cặp, quầng tổ, âu yếm nhau như đôi uyên ương không rời nửa bước.

Cháu ruột của bác Thuyền là anh Nguyễn Trường Cửu cũng là một tay mê cúm núm. Mỗi lần đến nhà anh tôi có cảm giác như đang đứng trước một khu vườn đầy ắp những tiếng chim và có lúc bị hốt hồn bởi dòng âm thanh kỳ thú “hù... hù... cúm núm... cúm núm... cum... cum... cum... ọc... ọc...” vang lên nhịp nhàng, có lúc trầm hùng, có lúc vút lên cao tạo thành một điệp khúc rộn ràng và êm ái, giống như nhịp chày giã gạo khiến mọi người rộn lên một niềm vui khó tả. Anh nói: “Trời hửng sáng mà nghe tiếng cúm núm rộ lên, trong lòng nôn nao không sao chịu nổi...”.

Mùa gác cúm núm hàng năm bắt đầu từ tháng giêng đến tháng bảy âm lịch. Thời gian này lông con trống đen mượt, mồng đỏ và cất tiếng kêu vang dội khắp cánh đồng. Bác Thuyền vừa chỉ những con chim trong lồng vừa diễn tả: Cúm núm là loài chim nước, ngoài thiên nhiên chúng sống từng cặp trống mái, suốt ngày lủi thủi trong các bụi rậm, nơi ruộng lúa ken dày. Tới mùa ái ân chúng bẻ cò bông lúa hoặc cây cỏ làm tổ sơ sài rồi đẻ trứng. Mỗi năm chúng đẻ hai, ba lứa vào tháng tư, năm, sáu. Hồi còn đi học, tôi cũng thường hay ra đồng hốt trứng cúm núm, mỗi ổ 5 - 6 trứng đem về bỏ vô nồi cơm... Ngày tháng qua mau, bây giờ muốn tìm lại chút hương vị ngày xưa cũng không dễ gì!

Theo bác Thuyền, muốn gác cúm núm trước hết phải biết huấn luyện con mồi sao cho thật khôn lanh và dũng mãnh để áp đảo các đối thủ. Con cúm núm mồi lý tưởng thường có bộ lông mượt mà, mồng đỏ, lanh lợi, dạn dĩ và háo thắng, vừa thấy chim trống lạ là xòe cánh, hùng hổ và cất tiếng vang lên như một hồi còi xung trận. Muốn có một con cúm núm mồi “độc chiêu”, người nuôi phải lấy trứng từ ngoài đồng về cho gà tre ấp, sau đó mới chọn ra những con xuất sắc để thuần dưỡng trong 2 năm mới đủ kinh nghiệm và bản lĩnh để trở thành cúm núm mồi.

Tiếng kêu của con trống vừa là giọng khiêu khích vừa là khúc nhạc “dạo tình”. Thường con mồi hay bao giờ cũng có giọng đầy kiêu hãnh, chúng kêu liên tục, kêu từng tràng dài hàng mấy phút cho đến khi nào chinh phục được con mái mới chịu thôi. Cũng như chim cu, mỗi vùng đất đều có một con đầu đàn cho nên tiếng kêu của con trống ngoài tác dụng gợi tình, quyến rũ “người yêu” còn nhằm thể hiện sức mạnh của “lãnh chúa” một vùng.

Thường mỗi buổi sáng đẹp trời, con đầu đàn thường tỏ ra hưng phấn, đập cánh, nhất là khi nó phát hiện có tiếng kêu lạ báo hiệu có kẻ xâm lược lãnh thổ hoặc trong thời điểm con mái “động tình” nó lại càng sung mãn, hiên ngang rồi tìm đối thủ lao thẳng tới, ưỡn cái ức no tròn để áp đảo đối phương và kết thúc hiện tượng “khoe mẽ” bằng một hồi vũ lực. Một khi con trống bị bắt, vài ngày sau sẽ có con trống khác thay thế chức “lãnh chúa” và bắt đầu phát huy thế lực của mình.

Bác Thuyền cho biết cúm núm tuy mộc mạc, thiếu bộ lông sặc sỡ nhưng bù lại có tiếng kêu thuộc bậc thầy của các loài chim nước. Đó là tiếng kêu vừa điệu đàng thân thiết, vừa xôn xao man mác, gợi lên cả một vùng trời ký ức về tuổi thơ.

Sau một hồi trò chuyện, anh Trường Cửu dẫn chúng tôi ra các lồng nuôi cúm núm mồi, vừa giới thiệu vừa mở cửa lồng rồi búng nhẹ hai ngón tay, miệng bắt chước tiếng chim, con cúm núm từ từ bước ra đứng trên tay anh cất giọng “cúm núm... cum... cum... ọc... ọc...” ngân vang như tiếng mõ tre nhịp nhàng. Sau đó anh xách lụp dẫn tôi ra đồng tìm chỗ gác.

Cũng như gác cu và gác quốc, người gác cúm núm chỉ cần một cái lụp (bẫy sụp) và một cái lồng để nhốt con mồi. Sau khi tìm được một nơi yên tịnh, vắng vẻ anh mới đặt lụp xuống, bên cạnh là lồng cúm núm mồi. Xong mọi người lùi ra xa chừng 20 mét ngồi chờ đợi. Một lát sau, con mồi trong lồng bắt đầu cất lên tiếng kêu to, càng lúc càng hối hả với một giọng điệu đầy kiêu hãnh. Tôi hồi hộp ngồi chờ... Hình như đánh hơi được có địch thủ đâu đó, con mồi càng phấn khích, nó niểng đầu, đập cánh một lúc rồi lại tiếp tục “hù... hù... cúm núm... cúm núm...”. Lúc đầu còn chậm rãi, sau trở nên giục giã, liên hồi tạo thành một dòng nhạc xôn xao và phấn khích. Ngay lúc đó, từ trong bụi rậm không xa, chàng “thủ lĩnh” đồng xanh, vừa bắt được giọng khiêu khích liền niểng đầu lắng nghe rồi cất tiếng đáp lại bằng những tràng âm thanh ngạo nghễ “cúm núm... cum...” như báo cho kẻ lạ mặt biết rằng “có ta đây”, nhưng con trong lồng vẫn tiếp tục vang lên một cách ranh mãnh và tự đắc. Thế là sau một hồi gờm, hai bên bắt đầu trổ hết tuyệt chiêu của mình để tranh tài. Chàng “hiệp sĩ rừng xanh” tức khí trổ hết món nghề rồi vỗ cánh nhắm hướng đối phương nhào tới, xòe cánh sà lên chiếc lồng của “vị khách không mời mà đến” để thị uy. Con cúm núm mồi cũng không vừa, tuy ở trong lồng nhưng nó cũng sừng sộ, tức khí, ăn miếng trả miếng rồi xòe rộng đôi cánh như thách đố. Chàng hiệp sĩ bên ngoài tức quá không dằn được cơn thịnh nộ, định phá tan chiếc lụp để xé xác con mồi cho hả dạ nhưng vừa nhảy xuống định xông vào lồng tấn công liền đụng phải chiếc thanh gài, chiếc bẫy lập tức sụp xuống, kết thúc một đời ngang tàng bướng bỉnh.

Bác Thuyền nói tuy chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn nhưng đối với cúm núm, quốc và chim cu đều là những con vật thân thiết của đồng quê, chúng ta chỉ thỉnh thoảng gác một vài con để tiêu khiển và tìm thú thanh nhàn, không nên lạm sát

uổi thơ tôi

Nhân tối Giáng sinh ngồi đọc bài "Mùi quê hương" trong mục bạn đọc viết, tôi đang ở xa quê mà lại thấy nhớ quê hương da diết, và những kỷ niệm tuổi thơ như sống lại. Tôi ngồi một mạch và viết bài viết này, hồi tưởng lại những kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, nghịch ngợm mà tươi đẹp. Rất mong bài này của tôi sẽ được đăng, để tôi có cơ hội được nghe nhiều phản hồi và nhiều chia sẻ, cảm nhận của mọi người về tuổi thơ, chia sẻ nỗi nhớ nhà, nhớ quê, những cảm xúc về tuổi thơ rất đáng trân trọng!

Tuổi thơ - hai tiếng thiêng liêng mà chắc hẳn mỗi lần nhắc đến ai cũng bồi hồi cảm xúc với những dư âm đi theo suốt cuộc đời, bên ta cả khi hạnh phúc, khi đau khổ, khi buồn khi vui….

Tuổi thơ tôi gắn liền với đồng ruộng, tôi còn nhớ như in hồi đó tôi, anh trai tôi cùng một nhóm trẻ con suốt ngày ra mương xúc tép, làm cần câu cá. Bắt về rồi dấu mẹ, cho vào chảo rán lên ăn, lúc đấy mới thấy ngon làm sao, thành quả của cả buổi trưa trốn ngủ ra ngoài mà. Mang cái rổ đi, chọn chỗ nào mà nước có nổi bọt khí lên là nghiêng nghiêng cái rổ, úp xuống, dậm dậm chân quanh đó cho cá chui vào rổ và hớt lên, những con tép trắng bạc, lấp lánh dưới ánh mặt trời và nhảy tanh tách trong rổ, mấy đứa nhìn nhau cười khoái trí.

Có hôm còn lấy trộm mũ cối của bố và nón của mẹ đi để úp bướm. Những trưa mùa hè, càng nắng to thì ngoài cánh đồng càng có nhiều bươm bướm, bướm trắng, bướm xanh, bướm vàng, bướm tím biếc, bướm đen bay rợp cả những con mương nho nhỏ. Cứ men theo triền mươn mà úp, mà đuổi bắt bướm, thích lắm. Bắt được một túi mang về, hai anh em hì hục bắt từng con một ra xem, con nào đẹp và ko bị rách cánh thì đem ép khô làm kỷ niệm. Mà ép bướm là cả một nghệ thuật, ép làm sao để nó khô mà vẫn giữ nguyên màu sắc, không bị mốc. Có trưa bị mẹ bắt quả tang, mẹ mắng, hai anh em nem nép ra về, nhưng chiều mẹ đi một cái là mấy đứa trẻ con cùng xóm lại ríu rít rủ nhau đi, chỉ cần huýt sáo một cái là lại tụ tập đầy đủ, bắt bao nhiêu cũng không thấy chán. Sao mà đam mê thế ko biết???

Mùa lúa nếp, khi lúa đang có đòng, đi học về qua cánh đồng, hái đòng đòng ăn vừa thơm vừa ngọt. Đợi khi lúa gần chín, đang ương ương thôi, ra ruộng hái trộm khoảng 20 chục bông lúa nếp về, rang lên cho nó nổ lách tách như bỏng ngô, sau đó cho vào cối giã cho chầy vỏ thóc bên ngoài, lộ lớp vỏ xanh xanh trắng trắng ra thì thôi, rồi đem sẩy hết vỏ đi, còn lại được một bát cốm còn ấm hơi nóng, quyện mùi thơm lúa nếp, ngon và dẻo.

Thích nhất là hì hụi làm, giờ được hưởng sản phẩm, nên thấy ngon lắm, mà hồi đó còn nấu bếp củi, làm xong tay chân nhọ nhem, mặt mũi cũng thế, nhưng vui lắm, không biết chán là gì.

Mùa ve thì bắt ve cho nó kêu, nghe hay hay và thích nghịch, bóp bóp cái bụng nó cho nó kêu. Khổ nhất là đi bắt ve mà nghe nhầm, rồi bắt nhầm ve cái là ve ko biết kêu. Thấy có mấy con ve đậu cùng đó và thi nhau kêu, nhưng vì thế mà không biết con nào kêu con nào ko, cho nên cứ rình một con, mà khi bắt được nó xuống thì lại hóa ra ve cái, động thế nào nó cũng ko kêu. Vậy là mất công cả buổi trưa rình bắt ve.

Lại còn có trò chơi, xe bọ xít, bị bọ xít đái cho vàng tay mà vẫn ko sợ, lấy vỏ lon bia cắt 1 mảnh hình chữ nhật, uốn uốn cho nó cong hình xe đua, gắn 1 ít nhựa đường đen đen lên xe, và bắt một con bọ xít, vặt hết 8 chân của nó đi, gắn con bọ xít vào chỗ nhựa đường cho nó dính chặt vào xe, rồi tung tung cho nó bay và cái xe theo đó mà phi vù vù theo tốc độ bay của nó. Bọ xít cứ bay và xe chạy từ đầu sân đến cuối sân. hai xe bọ xít thi với nhau xem xe nào về nhất. Hồi đó tôi cũng đam mê trò này, học rồi cũng tự làm xe cho mình, tự đi bắt bọ xít về thi với anh trai.

Có biết bao trò chơi, còn rất nhiều, rất nhiều nữa: chơi ô ăn quan, có lần bội thu mua hết cả ruộng vườn của đối phương, có lần lại thua thảm hại, bán hết cả ruộng vườn, nhà cửa,...con gái còn hay chơi nhảy dây, chơi chắt, chơi que nữa, chuyền dơn, chuyền kép, chơi du đẩy, đóng vai những phim hoạt hình mà mình yêu thích, diễn kịch đủ trò không biết ngại là gì...

Những trò chơi hay và vui thật, ngồi nghĩ lại mà như vừa mới chơi hôm qua thôi, vẫn còn nguyên một ký ức còn vang tiếng cười, còn mới nguyên như trang giấy trắng.

Làng quê bây giờ đã thay đổi nhiều rồi, và nhà mình cũng vậy, bản thân mình cũng đã trưởng thành rồi, nhưng vẫn luôn hoài niệm. Hoài niệm ký ức tuổi thơ không bao giờ quên và không được phép quên.

Vẫn biết sống là hướng tới tương lai, nhưng đôi khi con người ta lại sống vì quá khứ, vì những kỷ niệm dịu êm, cho người ta nguồn năng lượng và niềm tin để sống. Quá khứ cho ta những khát khao mà hướng tới tương lai.

Mùa này quê tôi bắt đầu vào mùa mưa. Cũng lạ, vùng lúa Quảng Nam quê tôi, khi đã nắng là nắng cháy da, mà đến khi mưa là mưa dầm dề lê thê. Mẹ tôi thường hay gọi là mưa đến thúi đất. Cũng vào mùa mưa, ba mẹ tôi thường hay lo cho mùa màng thất bát, ruộng khoai mục ruỗng, lúa ngả đầy ngoài đồng, sẽ khó khăn cho việc gặt hái, thu hoạch.

Còn bọn con nít chúng tôi thì hớn hở, bởi vào mùa này ngoài việc đi học một buổi, thời gian còn lại chúng tôi luôn bận rộn tay này cầm lờ, tay kia cầm lưới đi bắt cá. Đây là mùa cá đẻ nên rất nhiều loại cá bơi ngược dòng nước để tìm chỗ thích hợp cho việc làm ổ. Con nào con nấy béo tròn, bụng đầy trứng. Trong các loại cá, tôi thích nhất là bắt được bọn cá rô. Cảm giác khi giở mẻ lưới nặng, cá nhảy tưng tưng thú không gì bằng. Khéo léo, mâm mê gỡ từng con bỏ vào sọt rồi hớn hở mang về cho mẹ.

Món cá rô mẹ hay chế biến là chiên nước mắm, vì mẹ biết tôi “kết” món này. Tôi thích cảm giác ngồi bên mâm cơm nóng hổi có đĩa cá rô chiên nước mắm, bên ngoài trời thì mưa lâm râm. Nói nồi cơm cho sang chứ thật ra đó là nồi khoai, vì khoai chiếm hai phần ba cơm, nên dĩ nhiên anh em nhà tôi bao giờ cũng ăn phần khoai trước, đến chén cuối cùng mới bới cơm để... tráng miệng. Với tôi, thằng con út trong đại gia đình đông đúc này bao giờ cũng được mẹ dành cho cơm nhiều hơn khoai.

Trước khi chiên, cá rô được tẩm gia vị. Tôi cũng không biết mẹ ướp những gia vị gì, nhưng khi chiên giòn mùi thơm phức, và cái bụng lép kẹp sau một buổi lội nước bắt cá của tôi không thể nào kiềm chế được. Đôi khi mẹ thay đổi khẩu vị, chiên cá rô tẩm bột kèm sả, ớt. Nhưng với tôi, chiên nước mắm vẫn thích nhất vì mùi vị tươi nguyên của cá rô mới bắt ở ruộng lúa còn thơm lừng ở miệng khi ăn. Mẹ thường dành những con cá nhỏ xíu cho tôi, vì tôi thích nhai rau ráu cả xương. Ngon đến độ, ăn xong bữa, tôi thường lấy lưỡi liếm vị cá còn vương lại trên đầu môi.

Hôm nào “sang” hơn, mẹ luộc thêm vài quả trứng gà để vào chén nước mắm, chúng tôi ăn đến mê tơi. Còn nhớ, những món thịt thà quê tôi hay thiếu, chứ món cá và rau thì không thiếu bao giờ, vì thế bữa ăn nào cũng có, lúc cá kèm với rau muống, lúc rau lang luộc, lúc ngọn bí và cứ thế thằng tôi lớn lên và bay xa mãi tận đất Sài Gòn.

Tôi xa quê đã gần hai mươi năm, nhưng cái hương vị cá rô chiên nước mắm mẹ chế biến ngày nào luôn ở trong trí nhớ. Thường vào dịp cuối tuần, gia đình nhỏ của tôi cũng cố chạy ra chợ kiếm vài con cá rô về chế biến giống mẹ, nhưng sao làm mãi vẫn không ra được hương vị ngày xưa

Mùa này quê tôi bắt đầu vào mùa mưa. Cũng lạ, vùng lúa Quảng Nam quê tôi, khi đã nắng là nắng cháy da, mà đến khi mưa là mưa dầm dề lê thê. Mẹ tôi thường hay gọi là mưa đến thúi đất. Cũng vào mùa mưa, ba mẹ tôi thường hay lo cho mùa màng thất bát, ruộng khoai mục ruỗng, lúa ngả đầy ngoài đồng, sẽ khó khăn cho việc gặt hái, thu hoạch.

Còn bọn con nít chúng tôi thì hớn hở, bởi vào mùa này ngoài việc đi học một buổi, thời gian còn lại chúng tôi luôn bận rộn tay này cầm lờ, tay kia cầm lưới đi bắt cá. Đây là mùa cá đẻ nên rất nhiều loại cá bơi ngược dòng nước để tìm chỗ thích hợp cho việc làm ổ. Con nào con nấy béo tròn, bụng đầy trứng. Trong các loại cá, tôi thích nhất là bắt được bọn cá rô. Cảm giác khi giở mẻ lưới nặng, cá nhảy tưng tưng thú không gì bằng. Khéo léo, mâm mê gỡ từng con bỏ vào sọt rồi hớn hở mang về cho mẹ.

Món cá rô mẹ hay chế biến là chiên nước mắm, vì mẹ biết tôi “kết” món này. Tôi thích cảm giác ngồi bên mâm cơm nóng hổi có đĩa cá rô chiên nước mắm, bên ngoài trời thì mưa lâm râm. Nói nồi cơm cho sang chứ thật ra đó là nồi khoai, vì khoai chiếm hai phần ba cơm, nên dĩ nhiên anh em nhà tôi bao giờ cũng ăn phần khoai trước, đến chén cuối cùng mới bới cơm để... tráng miệng. Với tôi, thằng con út trong đại gia đình đông đúc này bao giờ cũng được mẹ dành cho cơm nhiều hơn khoai.

Trước khi chiên, cá rô được tẩm gia vị. Tôi cũng không biết mẹ ướp những gia vị gì, nhưng khi chiên giòn mùi thơm phức, và cái bụng lép kẹp sau một buổi lội nước bắt cá của tôi không thể nào kiềm chế được. Đôi khi mẹ thay đổi khẩu vị, chiên cá rô tẩm bột kèm sả, ớt. Nhưng với tôi, chiên nước mắm vẫn thích nhất vì mùi vị tươi nguyên của cá rô mới bắt ở ruộng lúa còn thơm lừng ở miệng khi ăn. Mẹ thường dành những con cá nhỏ xíu cho tôi, vì tôi thích nhai rau ráu cả xương. Ngon đến độ, ăn xong bữa, tôi thường lấy lưỡi liếm vị cá còn vương lại trên đầu môi.

Hôm nào “sang” hơn, mẹ luộc thêm vài quả trứng gà để vào chén nước mắm, chúng tôi ăn đến mê tơi. Còn nhớ, những món thịt thà quê tôi hay thiếu, chứ món cá và rau thì không thiếu bao giờ, vì thế bữa ăn nào cũng có, lúc cá kèm với rau muống, lúc rau lang luộc, lúc ngọn bí và cứ thế thằng tôi lớn lên và bay xa mãi tận đất Sài Gòn.

Tôi xa quê đã gần hai mươi năm, nhưng cái hương vị cá rô chiên nước mắm mẹ chế biến ngày nào luôn ở trong trí nhớ. Thường vào dịp cuối tuần, gia đình nhỏ của tôi cũng cố chạy ra chợ kiếm vài con cá rô về chế biến giống mẹ, nhưng sao làm mãi vẫn không ra được hương vị ngày xưa

ỷ niệm tuổi thơ

Tôi lớn lên từ Nam Lỗ quê hương tôi, nơi có ngôi làng và một cánh đồng thẳng cánh cò bay, nhà tôi là cửa ngõ của Giáo xứ thân thương (cửa ngòi).

Hôm nay tôi viết lên đây mấy dòng để kể lại ký ức tuổi thơ, thực ra thì nhiều lắm, nhưng trí nhớ chẳng được logic nên chỉ chia sẻ chút kỉ niệm cho mọi người cùng đọc, cùng chia sẻ, và để hiểu thêm về Giáo xứ Nam Lỗ...

Cũng đã có lần tôi có dự định bổ xung vào www.vi.wikipedia.org về danh từ Nam Lỗ, chưa thực hiện được, nhưng nói chung bây giờ bất kỳ ai, ở bất cứ nơi đâu nếu trên www.google.com, chỉ cần click từ Nam Lỗ thì phần nào tìm lại được hơi ấm quê hương, tìm lại được thực tại quê nhà mà thả hồn theo những kỉ niệm ngọt ngào của chính mình...

Quá khứ!!!!

Khi lớn lên, ba mái nhà trong chòm xóm lương dân, gia đình chúng tôi gần "Ngành Hái", có ba gia đình, ai qua Nam Lỗ chắc sẽ thấy 3 lá cờ Hội Thánh tung bay, vì bắt đầu những gia đình họ Nhà xứ, tôi vui lắm, vì chúng bạn đi học chắc chắn phải qua nhà tôi, nên cũng không sợ ai dám bắt nạt mình...

Quê tôi làm gì đã có điện, mãi năm 1990 mới có 1 pha điện (dây âm là nối đất), chắc điện cũng được vài chục vol thôi, điện yếu lắm, nhưng quả thực là kỷ niệm về bóng tối cũng bớt đi từ một xóm nghèo. Cũng không phải là nhà ai cũng có, phía sâu hơn, vài tháng sau mới có điện, nên trước đây những người đi xa nói về quê hương, đèn dầu, mái lá rạ thì quả là không sai, lác đác những gian nhà xây mới bắt đầu từ năm 1985, còn đa số thì vẫn nhà tranh vách đất...

Từ những năm chưa có điện, mà có điện thì cũng vậy, giao thông, đường xá thì chưa có, hoàn toàn đường đất, mà là đất thịt, trơn và nhẵn vô cùng, đó là những nơi lý tưởng cho một trò chơi trượt tuyến, nói là trượt tuyết thôi, chứ chúng tôi làm gì đã có dép để đi, chân đất, quần lửng nên ai trượt dài thì có phần thắng, có những chỗ ai đó nghịch ngợm đào một cái hỗ cuối đường trượt thì sẽ dính vồ ếch ngay (ngã, té), tệ hại hơn có kẻ rắp tâm cắm mảnh chai (sành) thì bị thương là đương nhiên, vui lắm,,, nếu trời nắng thì các dốc xuống đồng, các chỗ cột Trâu, Bò, chỉ cần tưới chút nước là cũng được luôn...

Các trò chơi thời học đường thì rất thô sơ, chơi đánh đáo, chơi cù, chơi khăng, chơi đập đầu (túm tóc), thậm chí bắn nhau (súng dây thun), ném nhau (lấy đất cày ải để ném nhau), để phân thắng bại các xóm và thể hiện ý chí đoàn kết, học làm người lớn và làm anh hùng... thật ngộ nghĩnh....

Đêm đêm chơi kiệu bác Hồ, rồng rắn lên mây, bây giờ các câu vè kiểu này còn nhiều người nhớ và thuộc... thật êm đềm, Cha mẹ sao hồi đó bận thế, không đưa đón chúng tôi đi học nhỉ?! Mà cũng bận thật, đầu tắt mặt tối ngoài đồng, kiếm miếng ăn, cha tôi và các bác còn có cái nghề phụ là chài lưới nên tôm cá thì ăn thay cơm, nếu mà là cá biển chắc bây giờ rất thông minh, vì cơm gạo thường không đủ cho những bữa ăn, ngô khoai sắn độn cơm thì cũng đã no bụng và rất khoái rồi... Thời đó đói lắm, tôi nhớ nhà tôi chỉ một tháng mới có một bữa cơm thịt, hoặc bì lợn, thịt phê thôi (thịt bụng), nhưng háo hức và ngon lắm, chỉ ngửi thấy mùi thịt rang, nước mắm hành thì khó chịu hết nổi rồi, và món ăn khứu giác này đã hành hạ cái dạ dày từ lúc mẹ mới mua thịt về đến nhà, chắc chắn là hôm nay tăng cơm hoặc tăng ngô khoai độn là đương nhiên.

Nhưng có chút thịt thì Cha mẹ cũng thường phải chia sẻ mỗi nhà một chút, chúng tôi cũng tiếc lắm, chẳng hiểu gì cả, chỉ muốn được ăn cả, nói vậy thôi chứ chúng tôi thường được ăn nhiều nhất trong nhà, cha mẹ thì 1 miếng thôi... đúng là quan niệm á đông, nhịn miệng đãi khách...

Hồi đó nhà tôi hết gạo khi chưa đến mùa tới là chuyện bình thường, mùa màng thì mất mùa, mà khổ nỗi sao mà hồi đó ai ăn cũng nhiều; 9, 10 bát cơm nên mới nhanh hết gạo vậy,,, chứ bây giờ thì chưa chắc... Thu hoạch mùa thì phải đóng thuế nông, ai cũng cố gắng đóng thóc có chút lép, để bao thóc được nhiều, thế mới có cái bài hát "..đóng thuế nông,... thóc vàng muôn hạt như nhau.... chớ mang thóc lép qua cầu gió bay".

Cái món mà tôi cũng rất thích ăn là khoai ngứa, nhà bác tôi có một bãi rất rộng, trồng nhiều lắm, ăn chấm với đường cánh vàng thì quả là tuyệt. Nhà ai cũng vậy thôi, nhà tôi thì nghèo hơn nhưng tôm cá thì nhiều lắm. Họ nội tôi thì đất rộng vô kể; người ta hay nói "Tiền ông Tất, đất ông quản Văn", chẳng biết có đúng không?! nhưng có lẽ ông Tất rất nhiều vàng, còn Ông Văn đất rộng thì đúng, tôi được kể lại thì đất đó còn cho xã hội xây trường học, và dọc một dải, chỉ có vài nhà, khi tôi lớn lên thì cũng đã đông đúc...

Cái chuyện mò cua, bắt cá, đánh dậm, kéo cão, đánh đăng (ban đêm) tôi đã từng trải qua, xóm làng thì tối om, những cây xoan dọc đường rất nhiều, tôi thấy chúng là chỗ sản sinh ra những con muỗi rất to, sau mới hiểu ra là; những bụi rậm, vũng nước mới là chỗ sản sinh ra muỗi. Quê tôi trồng xoan, xà cừ để còn làm nhà, nên nhà nào cũng có, tháng giêng đến thì khắp trời hoa xoan nở, đến tháng 3 thì trên sông trôi đầy hoa vông vang, lục bình, và hoa gạo, rất đẹp!, xen lẫn những tiếng sáo diều vi vu trên những cánh đồng một màu xanh biếc... chim cò đến rất nhiều....

Cuộc sống thôn dã êm đềm lắm, nhưng chúng tôi còn có một nơi nữa để gắn bó và nuôi dưỡng chúng tôi trưởng thành đó là Nam Lỗ, nói về Nam Lỗ một chút nhé:

Nhà thờ rất rộng, lợp ngói, có 2 mái, bên có hành lang, và những vòm, xung quanh có những hàng cây rất xum xuê, những dãy cau cao, và những hàng hoa thủy tiên, màu tím tuyệt vời đẹp xung quanh đường kiệu, cả khu nhà xứ nữa, xung quanh Nhà thờ có những cây nhãn rất to và sai trái, phía cuối là có chiếc ao bèo tấm, mùa đông thường trồng rau cần,,, khi vào ngoại chúng tôi thường rủ nhau lên Nhà thờ tìm bắt chim sẻ về nuôi...

Chúng tôi rất siêng năng đi thờ mỗi tối, tối nào cũng vậy, xách đèn chai, đốt đuốc đi Nhà thờ, vì đường rất trơn nên mỗi người một cái gậy, và chiếc ao cuối Nhà thờ là chỗ chúng tôi rửa tay chân sạch sẽ... và nghịch nước, Nhà thờ xong, về còn đi bắt cào cào cho bữa ngày mai, món cào cào (châu chấu) là đặc sản quê tôi đó....

Chúng tôi siêng năng lắm, không tối nào bỏ Nhà thờ, được học kinh bản hỏi, học cách làm giờ chầu, lúc này tôi không thích ở nhà tôi nữa, chỉ thích được ở gần Nhà thờ, để tối nào cũng được vui chơi, và không phải vất vả mò mẫm đi trong đêm đen mù mịt, dưới những bụi cây rậm rạp âm u, tôi rất sợ!....

Nói là xa nhưng chẳng đoàn hội nào tôi không tham gia cả, đủ hết, các chi dâng hoa có mặt hầu như các năm, tôi phấn khởi với chiếc mũ, chiếc yếm riêm vàng (của các cụ để lại), đi nghênh ngang trên đường tới Nhà thờ, oai lắm... Nhớ nhất là kỷ niệm trong lúc tập dâng hoa, (anh Định con Bác Vọng dạy), chúng tôi chơi ú tìm và chết khoan, tôi và một bạn nữa đâm vào nhau, một người gãy 2 chiếc răng, còn một chiếc nữa 3 ngày sau cũng ngả nón ra đi, còn tôi thì rách miếng thịt trên chân mày, may có mấy cụ vào buồng áo lấy miếng vải trắng băng ngang đầu, và tập luyện tiếp,

Hôm nay tôi đọc bài viết về Nam Lỗ, sơ lược Giáo xứ, tôi rất xúc động vô cùng, vì đội trắc của Giáo xứ, đã được Cha xứ khôi phục, kỉ niệm trước đây, tôi cũng tham gia hội trắc, cả ngày chúng tôi quây quanh chiếc cối giã gạo và chiếc cối xay trong Nhà xứ để tập luyện với đôi đũa cả là nhạc cụ chính, thế mà rôm rả lắm, nhiều người tập trung xem nên những tiếng chát chát, với trống, cheng, nhộn nhịp hơn rất nhiều, những vòng nhào lộn thiện nghệ hơn...  Người mà thường hay dạy chúng tôi tập trắc là Anh Định con Bác Vọng... mất hội trắc ai ai cũng thấy tiếc nuối. Cảm ơn Cha xứ đã  dựng lại hội trắc cho Nam Lỗ chúng con. Và chúng con lại có dịp nhìn lại những kỉ niệm xưa..

Nam Lỗ lúc này chưa có Cha ở, chỉ có Cha Giuse Bùi Văn Cẩm về dâng lễ mỗi tuần, hồi đó cũng rất khó khăn, muốn được rước long trọng thì phải xin phép chính quyền, mà nếu có sự cố gì thì nghe phong phanh các ông Chánh Trương, Trùm bị gọi ngay. Cha xứ cũng rất vất vả, Cha đi xe đạp từ chủng viện Mỹ Đức về, khoảng 2 chục cây số, về sau có xe honda, nhưng quê tôi đường xá lầy lội, nhất là mùa chay. Ba nhà chúng tôi xuôi thuyền đón Cha từ mãi bến đò Ngói, về múc nước rửa xe cho Cha, và nhớ dùng vải mềm để lau khô...

Các phong trào học Kinh văn rất sôi nổi và đông vui, cuốn hút chúng tôi, nên chúng tôi rất siêng năng và rất chịu khó, mặc dù ở xa nhưng chẳng thua mấy bạn gần Nhà thờ, các đoàn hội luôn tham gia không thiếu, vì vui như vậy sao mà không được... Sang các họ giáo đi lễ tôi nhớ, những chiếc kèn của hội Kèn đồng phải được giấu thật kỹ, thậm chí giấu trong cót thóc, vì sợ bị tịch thu....

Cuộc sống thăng trầm, xã hội đổi thay, Nam Lỗ cũng gồng mình phát triển, lúc đó có rất ít bà con xa về thăm, vì hồi đó cũng chưa mở cửa, các phương tiện liên lạc chưa có, các gia đình hầu như chưa nối lại được với người thân. Nhà tôi mãi về sau từ năm 1992 bác cả Sài gòn mới bắt đầu kết nối được liên lạc, rồi dần họ nội Bà Ký Âm (Biên Hòa), Ông Đảo (Vũng Tầu) đã kết nối được họ hàng, tới những thập niên 90 mới có dịp thăm viếng, đoàn tụ.

Nam Lỗ cũng dần phát triển, khi tân trang lại Cung Thánh, và hành lang Nhà thờ (lúc đó Cha Giuse M Trần Đức Hạnh coi sóc, Cha đã khởi xướng phong trào học Giáo lý, và động viên chúng tôi học văn hóa) tôi cũng tham gia làm phụ, dỡ tường. Lần đầu tiên tôi thấy là những tấm gạch thất, rất phẳng, tía được các Cụ tiền nhân đốt bằng rơm rạ để xây dựng Thánh đường, chúng rất mỏng và đẹp, chắc. Tham gia cũng rất vui, người thì mang cho gói kẹo, gói thuốc, gói trà, ngồi giải lao uống nước thật là ấm cúng...

Làm trong Nhà thờ ăn cơm trưa thì rất ngon, nhưng tôi nhớ là trước khi ăn thì đói lắm rồi, tôi còn nhỏ chẳng làm được gì nhiều, xách vữa, khuân gạch, quét vôi thôi, nhưng tôi cũng rất vui vì được tham gia cùng mọi người, bằng chính sức nhỏ bé của mình...

Thưở bé mới có cơ hội tham gia, chứ lớn lên, đi xa biệt xứ chẳng tham gia được nữa, có về thì cũng chỉ ngắm ngía thôi.

Câu ếch, kỷ niệm tuổi thơ tôi

Bài : Carodong

Tôi cũng không nhớ rõ là mình bị nghiền câu từ lúc nào, cái thuở còn con nít 13 - 14 tuổi gì đó… Cứ mỗi dịp hè về, chúng tôi lại được dịp để bày ra các trò chơi như đi tát cá, đi câu ếch, câu cá, câu lươn… nhưng với tôi ấn tượng nhất vẫn là đi câu ếch. Có một điều rất nghịch lý đó là nhà của tôi không có ao hồ, sông suối gì nhưng tôi lại biết câu và mê câu từ rất nhỏ, niềm mơ ước của tôi là có được một cái ao để nuôi thật nhiều cá… nhưng có lẽ điều này thật là khó khăn.

Có thể câu ếch không thú vị bằng câu cá, nhưng tôi lại rất mê, vì nó cũng có một nguyên nhân cụ thể đó là các ao hồ ở quê tôi không ai nuôi ếch cả, mà chỉ để nuôi cá nên việc câu ếch được xem như không “phạm pháp” các ao hồ của hàng xóm tôi đều thuộc làu trong đầu, nhà nào hồ có ếch, mấy con… tôi cũng thuộc nốt.

Bọn trẻ trong xóm rất nể tôi về món câu ếch này, có lẽ chúng cũng rất nghiền câu, nhưng có thể là không có điều kiện rảnh rỗi, ham chơi như tôi nên việc câu không bằng tôi cũng là lẽ thường tình thôi. Phải nói thời đó ếch nhiều vô kể, nhiều nhất là vào các tháng 6 âm lịch đến tháng 8 âm lịch, vào các tháng này thường có những cơn mưa giông là mùa sinh sản của chúng. Ếch có một đặc điểm rất giống với cá chép, cá rô đồng… đó là những con cái trưởng thành luôn có sẵn buồng trứng trong bụng, chỉ chờ đến trời mưa to, có nước mới là chúng tìm đến để sinh sản.

Vào mùa này thì tôi lại ít khi đi câu, mà chỉ cần chờ đến trời mưa thì ếch bắt không xuể. Trên các cánh đồng trồng lúa “cực nhanh” (là giống lúa ngắn ngày) chờ đợi những cơn mưa giông đủ nước để “cấy”. Đây có thể gọi là “thiên đường” của ếch các cặp uyên ương ếch cứ đeo bám lấy nhau con nào con ấy béo múp có khi một chàng ếch đực mà có đến 2, 3 cô bạn tình! Có thể là do số lượng cô ếch nhiều hơn chàng ếch hoặc cũng có thể là do chàng ếch này dẻo mồm dẻo miệng hơn các chàng ếch khác! Mỗi khi đã tìm được bạn tình rồi thì chàng và nàng “câm miệng” ngay để tỏ tình với nhau… Còn những chú không tìm được bạn tình thì cứ kêu ộp ộp suốt đêm đến khan cả cổ họng! Những chú ếch mà kêu càng về khuya thì tiếng kêu trông rất thảm thiết, nếu đi soi mà gặp mấy chú như thế nhiều khi thấy “thương” quá nên cũng tha, không bắt.

Từ khi tôi bước vào “nghề” câu ếch thì cuộc sống của tôi cũng được cải thiện rất đáng kể từ lúc đầu đi bắt, câu về để ăn rồi khi ăn không hết đem đi bán… và sau khi nguồn ếch bị cạn kiệt tôi lại chuyển sang đi mua ếch ở các nơi đem đi bán lại. Có khi tôi mua, dự trữ trong nhà cũng lên tới 20 -30 kg, thời đó mà mỗi lần tôi bán ếch cũng có trong tay hàng trăm nghìn đồng! Những điều mà những đứa trẻ cùng trang lứa mơ cũng không có. Nói thì có vẻ to tát nhưng có tiền mà tôi cũng có biết mua gì đâu! Tôi chỉ mua đúng một bộ quần áo hết khoảng mười mấy nghìn đồng, còn lại đưa cho Mẹ cất giùm(?) để đòi lại Bà khoản nợ gần 20 năm này cái đã!

Khi vệc câu kéo không ăn thua nữa thì tôi lại chuyển sang đi đào ếch ngoài ruộng. Đào ếch ở ruộng cũng phải có nghệ thuật đào, nghệ thuật nhận biết hang ếch, nghệ thuật “xoi” ếch… Nhận biết hang ếch thì cũng đơn giản, hang ếch ở thường có lỗ bằng cổ tay, miệng hang trơn, có dấu chân ếch… khi có dấu hiệu khả nghi thì đưa cái que vào “xoi” nếu nghe mềm mềm, có đàn hồi thì cứ việc đào, còn nghe cứng thì thôi.

Đào ếch cũng cần nghệ thuật bởi nếu đào lỗ lớn quá sẽ bị bảo vệ họ bắt, vì tội làm hư bờ đất. Tôi có một cái chòng chuyên dụng, gọi là chòng vọm (hình cầu 180 độ) cái chòng này tôi đổi hết 2 kg ếch cho ông bảo vệ đồng không nhớ giá tiền quy đổi thời đó khoảng bao nhiêu nữa, nhưng nó đã đem lại rất nhiều hiệu quả...

Rất tiếc bây giờ không còn được nhiều ếch như ngày xưa nữa nên kể lại những câu chuyện này có thể mọi người cho là vô bổ, nhưng đối với tôi nó như một kỷ niệm không thể phai mờ theo thời gian được. Và rất còn nhiều câu chuyện đáng nhớ nữa, nếu có điều kiện tôi sẽ kể để các bạn, những ai có một tuổi thơ như tôi thì hãy bớt chút thời gian quay về quá khứ nhé.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro