Đtst hamster

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

chưa xin phép nhưng cảm ơn bạn nhiều nhé

Phần 1: VẬT TẾ

Chương 1

Khi tôi tỉnh dậy, phía bên kia giường thật lạnh lẽo. Tôi duỗi các ngón tay, tìm kiếm hơi ấm của Prim nhưng chỉ chạm phải bề mặt thô ráp của tấm ga nệm bằng vải bố. Hẳn con bé đã gặp ác mộng và tót sang ngủ với mẹ. Cũng phải thôi. Nó hẳn đã mơ về ngày chiêu quân.

Tôi chống cùi chỏ nhỏm dậy. Phòng ngủ đủ sáng để tôi có thể nhìn thấy họ. Em gái tôi, Prim, đang cuộn tròn và rúc vào người mẹ, má hai người áp vào nhau. Trong khi ngủ, mẽ tôi trông trẻ hơn, tuy vẫn xanh xao nhưng không tiều tụy lắm. Gương mặt Prim tươi tắn như hạt mưa, đáng yêu như chính cái tên của nó, loài hoa anh thảo. Mẹ tôi cũng một thời đẹp lắm. Ít ra, người ta đã kể với tôi như thế.

Ngồi sát đầu gối Prim và canh chừng cho con bé là con mèo xấu nhất quả đất. Mũi bẹt, một bên tai sứt phân nửa, còn mắt thì có màu vàng ủng như quả bí thối. prim đặt tên cho nó là Hũ Bơ và khăng khăng rằng bộ lông vàng xỉn của nó giống hệt màu hoa Hũ Bơ rực rỡ. Nó ghét tôi lắm. Hoặc ít nhất cũng là dè chừng tôi. Dù chuyện xảy ra cách đây đã nhiều năm, chắc nó vẫn còn nhớ rằng tôi đã cố dìm nó vào cái xô như thế nào sau khi được Prim mang về nhà. Con mèo con ốm đói, bụng trương lên vì sán, người thì lúc nhúc rận. Điều duy nhất tôi bận tâm là phải tốn thêm một miệng ăn nữa. Nhưng Prim nài nĩ dữ quá, còn khóc nữa, vậy nên tôi đành cho nó ở lại. Con mèo xem chừng cũng ngoan. Mẹ tôi bắt hết rận cho nó và Hũ Bơ quả có tài bắt chuột bẩm sinh. Đôi khi nó còn bắt được cả chuột cống. Thỉnh thoảng, khi tôi dọn một bãi chuột chết, tôi cho Hũ Bơ bộ lòng. Nó thôi gầm gừ với tôi.

Bộ lòng. Thôi gầm gừ. Đấy là cái ngưỡng tình thương cao nhất mà chúng tôi từng có được.

Tôi phóng ra khỏi giường và đặt tọt hai chân vào đôi ủng đi săn. Chiếc ủng da mềm mại khít khịt chân tôi. Tôi mặc quần dài, áo thun, nhét bím tóc dài sẫm màu vào trong mũ và túm lấy túi đựng cỏ. Trên bàn, mẩu pho mát dê ngon tuyệt gói trong lá húng quế được đậy dưới chiếc bát gỗ, tránh lũ mèo chuột háu ăn. Đây là món quả của Prim cho tôi trong ngày chiêu quân. Tôi cẩn thận bỏ mẩu pho mát vào túi rồi lẻn ra ngoài.

Khu Vỉa Than, biệt danh được đặt cho khu vực chúng tôi sống trong quận 2, tầm giờ này lúc nào cũng chật kín thợ mỏ bước vào ca sáng. Các ông các bà ai cũng vai u thịt bắp, nhiều người từ lâu đã không buồn cạy lớn bụi than khỏi những cái móng tay dập gãy hay chùi những vệt đen trên khuôn mặt heo hóp của họ. Thế nhưng hôm nay khu phố than đen vắng ngắt. Cửa sập của những căn nhà màu xám nhếch nhác đóng kín mít. Đến hai giờ chiều buổi chiêu quân bắt đầu. Giờ này vẫn còn ngủ tốt. Nếu bạn có thể ngủ được.

Nhà tôi ở khu Vỉa Than. Tôi chỉ cần đi qua vài cái cổng là đến được cánh đồng dơ dáy tên là Đồng Cỏ. Ngăn cách Đồng Cỏ với khu rừng, mà thực chất là bao quanh toàn bộ Quận 12, là hàng rào mắt cáo cao ngất ngưỡng, trên cùng là những vòng thép gai. Đáng lẽ người ta giăng điện liên tục 24/24 nhằm ngăn thú dữ trong rừng – những nỗi sợ hãi từng bao trùm cả khu phố. Nhưng may mắn thay, chúng tôi chỉ có điện trong hai hoặc ba tiếng vào buổi tối, vậy nên đụng vào hàng rào luôn an toàn. Tuy nhiên lúc nào tôi cũng lắng nghe một lúc, có tiếng vo vo nghĩa là hàng rào có điện. Giờ thì nó im phăng phắc. Núp trong một bụi rậm, tôi nằm sấp và trườn vào dưới một khe hở dài một mét đã bung từ lâu. Còn một vài khe hở khác trên hàng rào, nhưng tôi toàn chui vào chỗ này do gần nhà.

Ngay khi lọt vào một đám cây, tôi lấy cung và bao yên từ một thân cây rỗng.

Dù có điện hay không, hàng rào cũng đã làm tốt việc bảo vệ Quận 12 khỏi lũ động vật ăn thịt. Nhưng trong rừng, ngoài lũ thú hoang ra, còn có những mối nguy khác như rắn độc, thú mang bệnh dại và hiểm họa lạc lối. Tuy nhiên, nếu biết cách thì cũng sẽ tím được thức ăn. Cha rất rõ điều đó, và ông đã chỉ tôi những cách tìm thức ăn trước khi bị thổi banh xác trong vụ nổ hầm mỏ. Thậm chí chẳng còn gì để mà chôn nữa. Năm đó tôi mười một tuổi. Năm năm sau, thỉnh thoảng tôi vẫn giật mình tỉnh giấc và kêu thúc cha tôi chạy thoát.

Dù vào rừng là trái luật và việc săn trộm có thể dẫn đến hình phạt nghiêm trọng nhất, nhiều người vẫn cả gan vào rừng nếu họ có vũ khí. Tuy nhiên hầu hết không dám băng rừng chỉ với con dao trong tay. Cây cung của tôi là của hiếm, được cha tôi với vài người khác làm thủ công, và tôi giấu kỹ nó trong rừng, gói lại cẩn thận bằng tấm bọc không thấm nước. Cha tôi đã có thể kiếm bộn tiền từ việc bán cung, nhưng nếu để lũ quan chức biết, ông sẽ bị xử tử vì việc bán cung, vì tội kích động chống đối. Hầu hết những người trong Đội Trị An đều làm lơ cho một số chúng tôi đi săn vì họ cũng đói thịt tươi như bao người khác. Thật ra họ mới là những khách hàng béo bở nhất của chúng tôi. Có điều, ý tưởng người nào đó sắm sửa vũ khí ở khu Vỉa Than sẽ không bao giờ được chấp nhận.

Mùa thu, vẫn có vài kẻ bạo gan lẻn vào rừng hái táo. Tuy nhiên họ thường đứng vừa tầm với Đồng Cỏ, luôn đủ gần để có thể chạy về khu vực an toàn của Quận 12 nếu có chuyện chẳng lành. “Quận 12. Nơi chúng ta có chết đói cũng vẫn an toàn.” tôi lẩm bẩm. Rồi đưa mắt nhìn về phía sau. Ngay cả ở đây, giữa chốn hoang vu này, tôi vẫn lo có ai đó nghe lén.

Khi còn nhỏ, tôi từng dọa mẹ tôi xanh mặt mỗi lần lỡ lời về Quận 12, về Panem, đám người điều hành đất nước từ một thành phố xa xôi tên là Capitol. Cuối cùng tôi hiểu rằng việc phàn nàn này sẽ chỉ gieo rắc thêm rắc rối. Bở vậy tôi hóc cách giữ miệng, và giữ vẻ mặt trong một chiếc mặt nạ vô cảm để không ai đọc được suy nghĩ của mình. Ở trường tôi chẳng nói chẳng rằng. Ngoài chợ thì làm vài cuộc nói chuyện xã giao. Còn lại Hob, khu chợ đen nơi tôi kiếm được phần lớn thu nhập, thì hầu như không nói gì khác ngoài những thỏa thuận bán mua. Ngay cả ở nhà, nơi không cần quá ý tứ, tôi cũng tránh đụng đến những chủ đề nhạy cảm. Như chuyện chiêu quân, chuyện thiếu ăn, hay cái Đấu trường Sinh tử. Nếu prim sẽ lập lại lời tôi ở đâu đó thì chúng tôi sẽ ra sao?

Trong rừng có người đang đợi tôi, người duy nhất mà khi ở bên cạnh, tôi có thể là chính mình. Gale. Tôi có thể cảm thấy cơ mặt mình giãn ra, rồi đôi chân tôi leo đồi nhanh hơn để đến địa điểm chung, một gờ đá mà từ đó có thể nhìn bao quát cả thung lũng. Một bụi dâu rậm rạp che nó khỏi cặp mắt người lạ. Nhìn thấy anh đang đợi, tôi chợt mỉm cười. Gale nói tôi chỉ cười khi vào rừng.

“Này, Catnip,” Gale nói. Tên thật của tôi là Katniss, nhưng lần đầu nói cho anh nghe, tôi bỏ qua âm gió. Vậy nên anh nghe là Catnip. Rồi từ khi có một con mèo rừng quái đản lẽo đẻo theo tôi khắp khu rừng để tìm ăn, tôi chính thức có biệt danh đó. Cuối cùng tôi phải bắn chết con mèo rừng vì nó làm kinh động đến những con mồi của tôi. Tôi cũng tiếc lắm vì nó không phải lả một bạn đồng hành tồi. Nhưng bù lại tôi đi săn dễ dàng hơn kể từ khi thiếu nó.

“Xem anh bắn được gì này.” Gale cầm ổ bánh mì bị mũi tên găm vào làm tôi bật cười. Đó là bánh mì nướng lò, chứ không phải thứ bánh mì dạt đặc ruột được chúng tôi làm từ bột mì. Tôi cầm nó lên, rút mũi tên ra, đưa lỗ thủng của chiếc bánh mình lên mũi, hít hà cái mùi phưng phức đang làm nước bọt tôi trào ra. Bánh ngon thế này được tôi dành cho những dịp đặc biệt.

“Ừm, vẫn còn nóng.” tôi nói. Chắc anh phải đợi ở tiệm bánh mì từ tờ mờ sáng mới mua được. “Anh đổi cái gì để lấy nó thế?”

“Chỉ một con sóc mà thôi. Em biết không, ông già ở tiệm bánh sáng nay bỗng tỏ ra đa cảm,” Gale nói. “Ông ấy còn chúc anh may mắn nữa.”

“Ừ, hôm nay ai cũng có vẻ thân thiện hơn thì phải?” Tôi nói, thậm chí không buồn liếc mắt. “Prim dành cho chúng ta một miếng pho mát.” Tôi lấy nó ra.

Anh tươi cười trước lời mời mọc. “Cảm ơn em, Prim. Chúng ta sẽ có một bữa thịnh soạn.” Bất chợt anh đổi sang giọng Capitol, bắt chước Effie Trinker, cái bà bốc đồng thái quá năm nào cũng đến đây để công bố kết quả chiêu quân.

“Suýt nữa tôi quên! Chúc mừng Đấu trường Sinh tử nào!” Anh hái vài chùm dâu đen bụi xung quanh. “và mong là may mắn…” Anh thảy một quả dâu sang phía tôi.

Tôi bắt lấy nó bằng miệng và cắn lớp vỏ mỏng. Vị chua ngòn ngọt chạy dọc lưỡi tôi. “… luôn đứng về phía các bạn!” Tôi tiếp lời Gale trong hưng phấn. Chúng tôi phải pha trò như vậy vì nếu không mọi người sẽ sợ đến chết mất. Với lại giọng vùng Capitol khá ép phê, hầu như cái gì nói bằng giọng ấy cũng đều mắc cười.

Tôi nhìn Gale lấy dao rồi cắt lát ổ bánh mì. Anh có thể làm anh trai tôi lắm chứ. Tóc đen mượt, da màu ô liu; chúng tôi còn giống nhau đôi mắt xám. Nhưng hai đứa không có họ hàng với nhau, ít ra là không phải họ hàng gần. Hầu hết những người có gia đình làm ở khu mỏ đều từa tựa nhau như thế.

Nhờ đó mà mẹ tôi và Prim, với da sáng và mắt xanh, luôn trở nên nổi bật. Và đúng như thế thật. Ông bà ngoại tôi thuộc tầng lớp thương gia ít ỏi làm ăn với giới công chức, Đội Trị an và thỉnh thoảng của có khách hàng của khu Vỉa than. Họ quản lý một cửa hàng bào chế thuốc ở vị trí đắc địa trong Quận 12. Bởi hầu như không ai đủ tiền mời bác sĩ, dược sĩ trở thành người chữa bệnh cho chúng tôi. Cha tôi biết mẹ tôi vì thỉnh thoảng ông hái thảo dược trong những chuyến đi săn và bán cho cửa hàng mẹ tôi. Hẳn là bà đã yêu ông nhiều lắm khi rời nhà mình để đến khu Vỉa than. Tôi cố nhớ lại chuyện cũ bởi bây giờ tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là một người phụ nữ ngồi đó, trống rỗng và vô cảm, trong khi đàn con đói ăn đến độ da bọc xương. Vì cha, tôi cố tha thứ cho bà. Nhưng thật lòng mà nói, tôi không phải loại người dễ cho qua.

Gale phết một lớp pho mát dê mỏng dính lên những lát bánh mì, cẩn thận đặt từng lá húng quế lên từng cái trong khi tôi vặt những chùm dâu (Berry, họ trái dâu, trong đó có strawberry (dâu tây) và blackberry(mâm xôi đen)). Chúng tôi trở lại ngồi vào một cái hốc trên bãi đá. Ở đây, chúng tôi vừa không bị ai nhìn thấy, vừa có thể bao quát cả thung lũng đang rộn ràng nhịp sống mùa hè của những bãi rau xanh mướt tới ngày thu hoạch, đám củ quả chờ được đào, và lũ cá lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Một ngày rực rỡ với trời xanh và gió nhẹ. Thức ăn ngon tuyệt vời với bánh mì nóng ngấm pho mát cùng những quả dâu lịm ngọt. Mọi thứ hẳn sẽ hoàn hảo nếu đây thực sự là một kỳ nghỉ, và nguyên cả ngày nghỉ tôi được đi lang thang trên núi với Gale, săn bắn cho bữa khuya. Nhưng thay vào đó, chúng tôi phải có mặt ở bãi đất trống lúc hai giờ để chờ xem ai được gọi tên.

“Chúng ta có thể làm được, em biết mà.” Gale nói khẽ.

“Làm gì cơ?” tôi hỏi.

“Rời khỏi quận này. Bỏ trốn. Vào rừng sống. Em và anh, chúng ta có thể làm được.” Gale nói. Tôi không biết trả lời thế nào. Ý nghĩ này quá khùng điên.

“Nhưng chúng ta có nhiều trẻ con quá,” anh vội thêm vào.

Tất nhiên chúng không phải đàn con của bọn tôi. Không phải nhưng lại phải. Gale có hai em trai và một em gái. Rồi Prim. Ngoài ra có thể tính cả mẹ bọn tôi nữa, vì làm sao họ có thể sống thiếu chúng tôi? Ai sẽ chăm sóc những miệng ăn lúc nào cũng thiếu đói? Ngày nào cả hai cũng đi săn, vậy mà có những tối chúng tôi phải đổi con mồi săn được để lấy ít mỡ lợn, dây giày hay vài cuộn len, vẫn có những tối chúng tôi phải lên giường với cái dạ dày sôi ùng ục.

“Em chưa từng muốn có con,” tôi nói.

“Anh thì muốn. Nếu như anh không sống ở đây,” Gale nói.

“Nhưng anh đang ở đây đấy thôi,” tôi cáu tiết.

“Thôi bỏ đi,” anh đáp trả.

Cuộc nói chuyện có vẻ hoàn toàn lạc đề rồi. Bỏ trốn ư? Làm sao tôi có thể rời bỏ Prim, người duy nhất tôi yêu thương trên cõi đời này? Còn Gale thì phải phục vụ gia đình anh ấy. Chúng tôi không thể ra đi, vậy nói về chuyện đó để làm gì? Mà ngay cả nếu có… ngay cả nếu có… thì liên quan gì đến chuyện có bọn trẻ? Chưa hề có điều gì lãng mạn giữa Gale và tôi. Khi bọn tôi gặp nhau, tôi là một cô bé mười hai tuổi gầy nhom, còn anh, mặc dù chỉ lớn hơn tôi hai tuổi, trông đã như một người đàn ông. Thậm chí phải mất một thời gian dài chúng tôi mới có thể trở thành bạn bè, có thể thôi cãi vã trong mỗi lần đổi chác và chuyển sang giúp đỡ lẫn nhau.

Với lại, nếu Gale muốn có con thì sẽ chẳng khó gì để tìm một người vợ. Anh ưa nhìn, đủ khỏe mạnh để đảm đương công việc trong mỏ và biết săn bắn. Tôi biết được điều đó qua cách bọn con gái bàn tán về anh, rằng chúng muốn có Gale mỗi khi anh rảo bước trong trường. Điều đó khiến tôi ghen tị, nhưng không phải vì lý do mọi người thường nghĩ, mà bởi vì anh là bạn săn xuất sắc không dễ gì tìm được.

“Mình làm gì đây?” tôi hỏi. Chúng tôi có thể săn thú, câu cá hay hái lượm.

“Ra hồ câu cá đi. Chúng ta sẽ để cần ở đó và vào rừng hái lượm. Kiếm thứ gì ngon lành cho tối nay,” anh nói.

Tối nay. Sau ngày chiêu quân, có lẽ nhà nào cũng ăn mừng. Nhiều người làm vậy để bày tỏ sự nhẹ nhõm khi con cái họ được ở nhà thêm một năm nữa. Nhưng sẽ có ít nhất hai gia đình đóng cửa gài then, tìm cách vượt qua những tuần lễ đau khổ sắp tới của mình.

Chúng tôi thu được kha khá. Hôm nay bọn thú ăn thịt để mặc chúng tôi với một lô những con mồi dễ tóm, dễ xơi. Cuối buổi sáng, bọn tôi đã có một tá cá, một túi rau rừng và, tuyệt vời hơn cả, là một đống dâu tây. Tôi tìm thấy bụi dâu này từ vài năm trước, nhưng chính Gale mới là người đưa ra ý tưởng giăng lưới xung quanh để tránh thú rừng.

Trên đường về, chúng tôi tạt qua Hob, khu chợ đen hoạt động trong một nhà kho bỏ hoang, trước đây dùng làm kho chứa than. Khi người ta tìm ra cách khác hiệu quả hơn để đưa than trực tiếp từ khu mỏ lên xe lửa, nơi này dần bị chợ Hob chiếm chỗ. Vào ngày chiêu quân, hầu hết hoạt động mua bán đều đã kết thúc, nhưng chợ đen vẫn khá nhộn nhịp. Chúng tôi dễ dàng đổi sáu con cá lấy một ổ bánh mì ngon, hai con khác đổi lấy muối. Greasy Sae, một bà già khẳng khiu vẫn bán những tô xúp nóng hổi rót từ một cái ấm lớn, thì đổi vài thỏi nến lấy nửa số rau rừng. Dù có thể kiếm hơn chút đỉnh ở nơi khác, chúng tôi vẫn cố gắng giữa mối quan hệ tốt với bà Greasy Sae. Bà ấy là người duy nhất lúc nào cũng đồng ý mua chó hoang. Chẳng ai muốn săn chúng cả, nhưng nếu bị tấn công thì kiểu gì cũng phải bắn chết một vài con, và rồi, thịt gì chẳng là thịt. “Một khi cho nó vào nồi xúp, ta sẽ nói là xúp thịt bò,” Greasy Sae nháy mắt. Không ai trong khu Vỉa than có thể cưỡng lại miếng thịt đùi thơm ngon của một con chó hoang, trừ những người trong Đội Trị an khá dư dả nên thường kén chọn.

Khi đã xong việc ở chợ, chúng tôi đi đến cửa sau nhà ngài thị trưởng để bán một nửa số dâu tay vì biết ông ta đặc biệt thích chúng và chịu mua với giá do hai đứa định sẵn. Madge, con gái ngài thị trưởng ra mở cửa. Nó là bạn cùng khóa với tôi ở trường. Nhiều người nghĩ con gái một ngài thị trưởng hẳn là hợm hĩnh lắm, nhưng con nhỏ chơi cũng được. Nó chỉ hơi khép kín. Giống tôi. Vì cả hai đều không chơi với nhóm nào nên ở trường chúng tôi có vẻ khá thân. Ăn trưa, ngồi cạnh nhau trong những hội nhóm, bắt cặp nhau trong các trò thể thao. Chúng tôi ít khi trò chuyện vì đều thấy như thế là ổn.

Hôm nay nó không mặc bộ đồ đi học nhếch nhác mà thay bằng bộ đồ đắt tiền màu trắng, buộc mái tóc vàng bằng chiếc ruy băng hồng. Quần áo cho ngày chiêu quân.

“Váy đẹp đấy,” Gale nói.

Madge ném một cái nhìn vào anh, cố nhận biết xem đấy là lời khen thật lòng hay chỉ là lời mỉa mai. Chiếc váy đẹp thật, nhưng nó chưa bao giờ mặc trong dịp thường. Con nhỏ mím môi và mỉm cười: “Ừ thì, nếu bị đưa đến Capitol thì em cũng muốn mình tươm tất chứ, đúng không?”

Bây giờ đến lượt Gale bối rối. Có phải ý nó là như thế? Hay là nó đang nói móc anh? Tôi đoán là vế sau.

“Em sẽ không đến Capitol đâu,” Gale lạnh lùng nói. Mắt anh dừng ở cái ghim tròn nhỏ đính trên váy con nhỏ. Bằng vàng thật. Được làm thủ công đến mức tinh xảo. Nó có thể nuôi sống gia đình hàng tháng trời. “Em thì làm được gì nào? Đăng ký năm lần chưa? Năm mười hai tuổi anh đã được ghi tên sáu lần rồi đấy!”

“Có phải lỗi của nó đâu,” tôi nói.

“Không, không phải lỗi của ai cả. Mọi thứ vốn đã là vậy rồi,” Gale nói.

Mặt Madge tối sầm lại. Con nhỏ đặt tiền mua dâu vào tay tôi, “Chúc may mắn, Katniss.”

“Cậu cũng thế,” tôi nói, và cánh cửa đóng lại.

Chúng tôi đi bộ về khu Vỉa than trong im lặng. Tôi không thích cách Gale nói khích Madge, nhưng rõ ràng là anh ấy nói đúng. Cách chọn quân cũng không công bằng, khi người nghèo luôn chịu thiệt thòi nhất. Bạn đủ điều kiện để đăng ký chiêu quân khi mười hai tuổi. Mười ba tuổi, lần hai. Và cứ thế, cứ thế cho đến khi bạn mười tám, tuổi cuối cùng đủ tiêu chuẩn, bạn có tên trong danh sách lần thứ bảy. Mọi cư dân ở mười hai quận trên toàn đất nước Panem đều như thế.

Nhưng vấn đề là thế này. Giả sử nhà bạn nghèo và lúc nào cũng thiếu ăn như chúng tôi. Bạn có thể đăng ký nhiều lần để đổi lấy nhiều tê-ra (Tessera, đơn vị tem phiếu hư cấu trong truyện) hơn. Mỗi tê-ra tương đương với khoản trợ cấp ngũ cốc và dầu ăn ít ỏi cho một người trong một năm. Bạn có thể đăng ký bằng tên những thành viên trong gia đình. Vì thế, năm mười hai tuổi tôi đã ghi tên mình bốn lần. Một lần vì bắt buộc, và ba khác để lấy tê-ra đổi ngũ cốc và dầu cho tôi, Prim và mẹ. Thật ra, năm nào tôi cũng phải làm thế. Và số lần đăng ký cũng tăng dần. Vậy nên bây giờ, ở tuổi mười sáu, tên tôi đã xuất hiện trong danh sách hai mươi lần. Gale, mười tám tuổi với bảy năm phụ giúp và một tay nuôi sống gia đình năm miệng ăn, sắp đăng ký lần thứ bốn mươi hai.

Có thể hiểu tại sao những người chưa bao giờ phải mạo hiểm để lấy một tê-ra nào như Madge lại làm anh có thái độ như vậy. Khả năng tên cô ấy được bốc trúng thấp hơn nhiều so với chúng tôi, những người sống ở khu Vỉa than. Không phải là không thể, nhưng rất thấp. Và mặc dù luật lệ là do Capitol đặt ra chứ không phải các quận, dĩ nhiên càng không phải gia đình Madge, người ta vẫn thấy tức tối những không phải đăng ký để lấy tê-ra.

Gale hiểu sự nóng giận của anh với Madge là vô cớ. Nhiều lần ở sâu trong rừng, tôi đã nghe anh nói oang oang về việc tê-ra chỉ là một thứ công cụ gây bất hòa trong quận chúng tôi như thế nào. Đó là cách để gieo rắc sự ghen ghét giữa đám thợ đói kém vùng Vỉa than và đám người có được bữa ăn đầy đủ hơn, để đảm bảo rằng chúng tôi sẽ không bao giờ tin tưởng lẫn nhau. “Capitol sẽ có lợi khi chia rẽ chúng ta,” anh sẽ nói thế nếu chỉ có tôi đang nghe. Nếu hôm nay không phải gặp ngày chiêu quân. Nếu cô gái có chiếc ghim vàng và chưa ký tê-ra lần nào kia chưa đưa ra lời bình luận mà tôi chắc cô ta nghĩ là vô hại ấy.

Vừa đi, tôi vừa liếc nhìn Gale lúc ấy vẫn còn vẻ lạnh lùng khó chịu. Cơn giận dữ của anh dường như chẳng có nghĩa lý gì với tôi, dù tôi chưa bao giờ nói vậy. Không phải tôi không đồng ý với anh. Tôi đồng ý. Nhưng liệu có ích gì khi chửi đổng Capitol giữa rừng? Chẳng thay đổi được gì cả. Chẳng làm mọi thứ công bằng hơn. Chẳng làm dạ dày chúng tôi đỡ đói. Thật ra nó còn làm kinh động lũ thú mồi xung quanh. Dù vậy, tôi vẫn để anh chửi đổng. Anh làm vậy trong rừng còn hơn là trong phố.

Gale và tôi chia chiến lợi phẩm, mỗi người hai con cá, vài khoanh bánh mì ngon, rau cỏ, vài nắm dâu, một ít muối, nến, và một ít tiền.

“Hẹn gặp anh ở bãi đất trống,” tôi nói.

“Mặc đồ đẹp vào đấy,” anh nói tỉnh bơ.

Về đến nhà, tôi thấy mẹ và em đã chuẩn bị xong. Mẹ mặc bộ đồ từ thời còn làm ở cửa hàng bào chế thuốc. Prim mặc bộ của tôi trong ngày chiêu quân đầu tiên, một chiếc váy và áo cánh có diềm cổ xếp nếp. Hơi rộng so với nó, nhưng mẹ đã lấy ghim kẹp lại. Mặc dù vậy, nó vẫn phải vất vả mới giữa được ngay ngắn chỗ sơ vin ở phía sau.

Bồn nước ấm đang đợi tôi. Tôi kỳ cọ vết bẩn và mồ hôi khi ở trong rừng rồi gội đầu. Tôi ngạc nhiên khi mẹ đã sửa soạn một bộ đầm duyên dáng của bà cho tôi mặc. Bộ đồ màu xanh lơ kèm đôi giày cùng tông.

“Mẹ có chắc cho con mặc bộ này không?” tôi hỏi. Tôi cố gắng tránh nhận sự trợ giúp từ mẹ. Có một dạo, tôi điên tới mức không thể để mẹ làm bất cứ điều gì cho mình. Nhưng đây là một ngoại lệ đặc biệt. Bà rất quý bộ đồ ngày xưa này.

“Tất nhiên rồi. Búi tóc của con lên nữa,” mẹ nói. Tôi để mẹ lấy khăn lau khô và búi tóc cho tôi. Tôi gần như không nhận ra mình trong chiếc gương nứt tựa vào tường.

“Chị trông đẹp quá!” Prim thì thầm.

“Và trông chẳng giống chị chút nào,” tôi nói. Tôi ôm Prim, vì biết nó sẽ sợ hãi trước những giờ sắp tới; sẽ thật sự khủng khiếp với nó. Ngày chiêu quân đầu tiên. Tôi bảo vệ nó hết mức có thể, để nó chỉ ghi tên một lần. Tôi sẽ không cho phép nó đăng ký thêm lần nào nữa để đổi lấy tê-ra. Nhưng nó lo lắng cho tôi. Rằng biết đâu điều không nghĩ đến lại xảy ra.

Lúc nào cũng che chở cho Prim bằng mọi cách, nhưng tôi không thể làm gì trong ngày chiêu quân. Sự đau đớn tôi cảm nhận được mỗi lần con bé gặp chuyện giờ lại nhói lên trong tim, chực toác ra trên gương mặt tôi. Để ý thấy áo cách của nó lại sút khỏi váy, tôi cố trấn an mình. “Nhét cái đuôi vào kìa, vịt con,” tôi nói, sửa cái áo vào đúng chỗ.

Prim cười khúc khích, nó khẽ kêu “Quác quàng quạc.”

“Quác em ấy,” tôi cười nhẹ. Chỉ có Prim mới làm tôi bật cười như thế. “Nào, chúng ta ăn thôi,” tôi nói và hôn vội lên đỉnh đầu nó.

Có món hầm gồm cá và rau rừng, nhưng đó là của bữa khuya. Dâu và bánh mì nướng đã được thống nhất để dành cho bữa ăn tối, cho đặc biệt hơn, chúng tôi nói với nhau như thế. Thay vào đó, chúng tôi uống sữa của Lady, nàng dê Prim nuôi, và ăn bánh mì khô làm từ phần bột mì đổi bằng tê-ra. Dù vậy, cũng không ai thiết ăn uống.

Một giờ, chúng tôi ra bãi đất trống. Ai cũng phải có mặt, trừ khi đang hấp hối. Đến tối, hội giám sát sẽ đi vòng quanh để kiểm tra. Ai trốn sẽ bị bỏ tù.

Thật không thể tệ hơn khi buổi chiêu quân được tổ chức tại bãi đất trống, một trong số ít các địa điểm đẹp ở Quận 12. Xung quanh bãi đất trống là những cửa hàng, và trong những ngày khu chợ mở cửa, đặc biệt khi thời tiết tốt, đến đây có cảm giác như đi hội. Nhưng hôm nay, mặc dù biểu ngữ giăng sặc sỡ trên các tòa nhà, không khí ở đây vẫn thật nặng nề. Các đoàn quay phim vờn quanh như bầy ó trên nóc nhà, chỉ càng làm tăng thêm cảm giác nặng nề đó.

Người ta xếp hàng trong im lặng và ký tên. Ngày chiêu quân cũng là một dịp tốt cho Capitol điều tra dân số. Những đứa trẻ từ mười hai đến mười tám được quây lại trong những khu vực chăng dây chia theo độ tuổi; lớn nhất đứng trước, nhỏ nhất, như Prim, đứng về phía sau. Những người thân trong gia đình xếp hàng xung quanh, nắm chặt tay nhau. Nhưng cũng có những người khác không có người thân trong số bọn trẻ, tổ chức đánh cược tên hai đứa trẻ sẽ được chọn. Tỷ lệ cược phụ thuộc vào độ tuổi, vào việc bọn trẻ thuộc khu Vỉa than hay con nhà lái thương, hay vào việc chúng có ngã quỵ và khóc lóc hay không. Hầu hết mọi người đều từ chối cá cược với lũ bịp bợm, nhưng biết đâu đấy. Những kẻ này luôn tỏ ra mình là người trong nghề, và khi nắm chóp ai lại không phá luật cơ chứ? Tôi có thể bị bắt quả tang trong một chuyến đi săn hàng ngày, nhưng khi đó lũ quan chức thèm thịt thú vẫn có thể bảo vệ tôi. Tuy nhiên, không phải ai cũng như thế.

Dù sao, cả Gale và tôi đều đồng ý rằng giữa chết vì đói và vì một viên đạn găm vào đầu, cái chết thứ hai đến nhanh hơn nhiều.

Không gian càng lúc càng chật chội và bức bối khi dòng người ùn ùn kéo tới. Bãi đất rộng mênh mông, nhưng không đủ để chứa hết tám nghìn người của Quận 12. Những người đến trễ đứng ở giữa con đường xung quanh, nơi họ có thể xem qua màn hình vì sự kiện này được chính quyền truyền hình trực tiếp.

Tôi đứng trong nhóm những đứa từ mười sáu tuổi đến từ khu Vỉa than. Chúng tôi khẽ gật đầu chào nhau rồi tập trung mọi ánh nhìn lên sân khấu vừa được dựng lên trước Tòa Tư pháp. Trên đó có ba chiếc ghế, một chiếc bục, và hai lồng cầu thủy tinh lớn để bốc thăm, một cho con trai và một cho con gái.. Hai mươi mảnh giấy trong số đó được viết cẩn thận cái tên Katniss Everdeen.

Hai trong ba chiếc ghế trên sân khấu đã có người ngồi. Một là Madge, Thị trưởng Undersee, một người đàn ông cao, trán hó và bà Effie Trinket, giám sát viên Quận 12, đến từ Capitol với nụ cười trắng nhớn đáng sợ, mái tóc hồng và bộ đồ màu xanh mầm. Họ thì thầm với nhau rồi nhìn chiếc ghế trống một cách ái ngại.

Ngay khi chiếc đồng hồ của thị trấn điểm hai giờ, ngày thị trưởng đứng trên bục bắt đầu đọc diễn văn. Năm nào cũng như năm nào. Ông kể về lịch sử của Panem, đất nước đứng lên từ đống đổ nát từng có tên là Bắc Mỹ. Ông liệt kê những thảm họa, những đợt hạn hán, bão lụt, hỏa hoạn, nước biển xâm thực nhấn chìm nhiều vùng đất, những chiến ác liệt khiến hầu hết phương tiện sống bị tàn phá. Sau cùng Panem được sinh ra, với Capitol chói lọi được bao quanh bởi mười ba quận, bảo đảm hòa bình và thịnh vượng cho công dân của mình. Tiếp theo là Kỳ Đen tối, thời điểm các quận nồi loạn chống lại Capitol. Mười hai quận bị đánh bại, quận thứ mười ba bị xóa sổ. Hiệp ước Phản trắc mang đến những điều luật mới nhằm giữ vững hòa bình, đồng thời là lời nhắc nhở chúng tôi hàng năm rằng Kỳ Đen tối sẽ không bao giờ được lặp lại, khi đưa chúng tôi đến với Đấu trường Sinh tử.

Luật lệ của Đấu trường Sinh tử khá đơn giản. Để trừng phạt việc nổi loạn, mỗi quận phải chọn ra một trai và một gái, gọi là vật tế. Hai mươi bốn người chơi sẽ bị giam cầm trong một trường đấu ngoài trời rộng lớn, nơi có thể tồn tại mọi thứ, từ sa mạc nóng bỏng cho đến vùng hoang vu lạnh giá. Vật tế sống sót cuối cùng sẽ thắng.

Chọn những đứa trẻ từ các quận, bắt chúng tàn sát lẫn nhau còn những người còn lại theo dõi, đó là cách Capitol nhắc nhở chúng tôi rằng số phận của tất cả bị họ định đoạt như thế nào, và cơ hội sống sót của mọi người ít ỏi ra sao nếu dám nổi loạn một lần nữa. Dù họ có nói gì đi nữa, thông điệp chính vẫn rõ ràng. “Hãy nhìn xem, chúng ta lấy những đứa trẻ rồi đem chúng hiến tế trong khi các người bất lực đến mức nào. Chỉ cần các ngươi động một ngón tay, bọn ta sẽ tiên diệt cho đến đứa cuối cùng. Như cách bọn ta làm với Quận 13.”

Để hạ nhục và tra tấn bọn tôi, Capitol buộc tất cả phải xem Đấu trường Sinh tử như một ngày hội, một cuộc thượng đài giữa các quận với nhau. Người chơi sống sót cuối cùng sẽ được hưởng cuộc sống sung túc khi trở về, và quận của họ sẽ nhận cơ man là phần thưởng, chủ yếu là thức ăn. Trong vòng một năm, Capitol sẽ trao cho quận chiến thắng ngũ cốc, dầu ăn và thậm chí thứ đáng giá hơn như đường trong khi các quận còn lại vật lộn với đói khát.

“Đây là thời điểm của sự hối lỗi cùng lòng biết ơn,” ngày thị trưởng nhấn mạnh.

Sau đó ông đọc danh sách những người chiến thắng của Quận 12 trong quá khứ. Trong bảy mươi tư năm, chính xác thì chúng tôi có hai người. Chỉ một là còn sống. Haymitch Abernathy, một lão trung niên bụng phệ, lúc này mới xuất hiện, gào lên cái gì đấy khó hiểu rồi lảo đảo bước lên sân khấu, cuối cùng ngồi phịch xuống chiếc ghế thứ ba. Lão say. Say tí bỉ. Đám đông đám lại bằng một tràng tán dương chiếu lệ khiến lão tưởng thật và cố trao cho Effie Trinket một cái ôm nồng ấm mà bà đã kịp tránh đi.

Ngài thị trưởng tỏ vẻ lo lắng. Bởi vì tất cả đều được truyền hình lại nên ngay lúc này Quận 12 đang là trò cười cho Panem, và ông hiểu điều đó. Madge nhanh chóng kéo sự chú ý trở lại ngày chiêu quân bằng cách giới thiệu bà Effie Trinker.

Tươi tắn và hớn hở hơn bao giờ hết, Effie Trinker tất tả bước lên bục và cất lên câu nói quen thuộc: “Chào mừng đến với Đấu trường Sinh tử! Và chúc cho may mắn sẽ mỉm cười với các bạn!” Mái tóc hồng của bà hẳn là tóc giả vì những lọn tóc quăn bị lệch một chút sau khi bà né Haymitch. Bà nói mình vinh dự được đứng ở đây, mặc dù ai cũng hiểu rằng bà chỉ muốn được đẩy sang một quận khác tốt hơn, nơi có những người chiến thắng xứng đáng, chứ không phải như gã say rượu vừa quấy nhiễu bà trước bàn dân thiên hạ.

Qua đám đông, tôi nhận ra Gale đang nhìn tôi với nụ cười thấp thoáng. Trong ngày chiêu quân, điều đó ít ra cũng mang lại cho cho tôi chút cảm giác nhẹ nhõm. Nhưng bất chợt tôi nghĩ về Gale với bốn mươi hai mảnh giấy có tên anh trong lồng cầu thủy tinh kia và xác suất anh không bị bốc trúng. Việc còn hàng nghìn đứa con trai khác không quan trọng. Có lẽ anh cũng đang nghĩ điều tương tự về tôi, bởi gương mặt Gale tối sầm lại và quay đi chỗ khác. “Nhưng có đến hàng nghìn mảnh giấy cơ mà,” ước gì tôi có thể nói khẽ với anh ấy.

Đã đến giờ bốc thăm. Effie Trinket nói như mọi lần, “Phụ nữ trước!” và đến chỗ lồng cầu thủy tinh chứa tên con gái. Bà lại gần, thọc tay sâu vào lồng lấy ra một mảnh giấy. Đám đông đồng loạt nín thở đến độ tưởng như có thể nghe tiếng ngay cả một chiếc ghim rơi xuống đất, tôi cảm thấy thắt ruột và hy vọng nhen nhóm rằng đó không phải là tôi, đó không phải là tôi, đó không phải là tôi.

Effie Trinket quay trở lại chiếc bục, vuốt mảnh giấy cho thẳng và xướng tên bằng một giọng dõng dạc. Không phải tôi.

Đó là Primrose Everdeen.

Chương 2

Một lần, khi đang nấp trên cây, bất động ngồi chờ con mồi lảng vảng đi qua, tôi ngủ gật và rơi từ độ cao ba mét, lưng đập xuống đất. Cú va chạm như thể xốc từng đọi không khí trong phổi tôi lên, khiến tôi nằm đó và không thể hít vào, thở ra, hay làm bất cứ thứ gì.

Lúc này tôi cũng vậy, cố gắng nhớ lại cách lấy dưỡng khí vào phổi, miệng không thốt nổi một từ và hoàn toàn choáng váng trong khi cái tên Prim cứ lởn vởn trong đầu. Một cậu từ khu Vỉa than nắm chặt cánh tay tôi, và tôi đồ rằng rất có thể cậu đã đỡ tôi khi thấy tôi lả đi.

Chắc chắn phải có sai sót. Điều đó không thể xảy ra. Chỉ có một cái Prim trong số hàng nghìn mảnh giấy! Khả năng bị bốc trúng của nó ít đến nỗi tôi thậm chi không buồn lo lắng cho nó. Chẳng phải tôi đã làm tất cả sao? Giành lấy tê-ra, không cho nó bước đi trên con đường của tôi? Một mảnh giấy. Một trong số hàng nghìn mảnh. Nó thực sự may mắn hơn người khác. Nhưng điều ấy không còn nghĩa lý nữa.

Tôi nghe thấy ở đâu đó đám đông xì xào không vừa ý, như họ vẫn luôn làm thế khi một đứa bé mười hai tuổi được chọn, bởi không ai nghĩ như vậy là công bằng. Và rồi tôi thấy con bé, mặt trắng bệch, hai tay nắm chặt hai bên gấu áo, khó nhọc tiến lên sân khấu, bước qua mặt tôi, trong khi chiếu áo cánh lại bị sút ra sau lưng. Chính chi tiết đó, chi tiết chiếc áo cánh sút khỏi cạp váy như đuôi vịt con, đã đưa tôi trở lại thực tế.

“Prim!” tôi gào lên nghẹn ngào và bắt đầu di chuyển. “Prim!” Tôi không cần phải lấn tới vào đám đông. Những đứa trẻ khác ngay lập tức dạt ra, tạo thành lối cho tôi đi thẳng lên sân khấu. Tôi túm lấy con bé ngay khi nó chuẩn bị bước lên. Tôi khoát tay đẩy nó ra sau lưng.

“Cháu tình nguyện!” tôi hổn hển. “Cháu muốn tình nguyện làm vật tế!”

Có chút gì lúng túng trên sân khấu. Hàng chục năm nay ở Quận 12 chưa từng có ai tự nguyện và điều này bị người ta lãng quên. Nguyên tắc là khi tên người chơi được xướng lên, một người khác trong danh sách, tất nhiên là nếu cùng giới, có thể bước lên thế chỗ. Ở một số quận, nơi mà việc trúng tuyển trong ngày chiêu quân là một vinh dự lớn khiến người ta mạo hiểm mạng sống của mình, việc chọn người tình nguyện cũng khá rối rắm. Nhưng ở Quận 12, khi vật tế đồng nghĩa với chết chắc, tình nguyện là điều không thể xảy ra.

“Tuyệt vời!” Effie Trinket nói. “Nhưng tôi nghĩ có một vấn đề nhỏ là nên giới thiệu người trúng tuyển trước rồi sau đó mới hỏi việc người tình nguyện, và nếu có ai đó xung phong thì chúng ta mới, ừm…” Bà khựng lại, không chắc mình định nói gì.

“Chuyện đấy có hề gì?” ngài thị trưởng nói. Ông Madge buồn bã nhìn tôi. Không hẳn biết tôi, nhưng ông cũng mang máng nhận ra. Tôi là cô bé bán dâu. Cô bé mà con gái ông chắc có đôi lần nhắc đến. Cô bé mà năm năm trước đã đứng với mẹ và em gái, khi ông trao cho nó, người con cả, chiếc huy chương dũng cảm. Huy chương cho cha cô bé, người đã chết mất xác trong hầm mỏ. Liệu ông có nhớ không? “Chuyện đấy có hề gì?” Ông cộc lốc nhắc lại. “Cứ cho cô bé lên đây.”

Prim đang gào lên điên loạn sau lưng tôi. Nó ép chặt hai cánh tay gầy guộc quanh người tôi như một chiếc kẹp. “Không, Katniss! Không! Chị không thể đi!”

“Prim, đi,” tôi gằn mạnh, bởi bản thân đang vô cùng bối rối nhưng lại chẳng muốn khóc chút nào. Khi buổi chiêu quân được phát lại vào tối nay, mọi người sẽ để ý thấy tôi khóc, và tôi sẽ bị xem là một đấu thủ dễ xơi. Một kẻ yếu đuối. Tôi không muốn ai có được sự hả hê đó. “Đi ngay!”

Ai đó đang kéo nó lại từ sau lưng tôi. Tôi quay lại và thấy Gale đang bế Prim lên, trong khi nó đang giãy giụa trong cánh tay anh. “Em lên đi, Catnip,” anh nói, giọng cố tỏ ra điềm tĩnh, rồi bế Prim trở lại với mẹ tôi. Tôi lấy hết can đảm bước lên bậc tam cấp.

“Tốt lắm, hoan hô cháu!” Effie Trinket tuôn một tràng. “Tinh thần của Đấu trường phải như thế!” Bà hài lòng vì cuối cùng cũng có một quận không khiến bà phải nhọc công. “Tên cháu là gì?”

Cổ họng tôi nghẹn lại, “Katniss Everdeen,” tôi nói.

“Ta dám cá kia là em cháu. Không muốn cô bé giành hết vinh quanh, đúng không nào? Nào mọi người! Xin dành một tràng pháo tay cho đấu thủ năm nay của chúng ta!” giọng Effie Trinket rung lên.

Với niềm tin vĩnh cửu của mình, không một ai trong số dân Quận 12 vỗ tay. Ngay cả đám đang tổ chức cá cược, những kẻ chẳng bao giờ quan tâm đến ai. Có lẽ do họ biết tôi từ chợ Hub, hoặc biết cha tôi, hoặc đã từng tiếp xúc với Prim, đứa trẻ mà không một ai không thương mến. Bởi vậy, thay vì nhận sự tán thưởng, tôi đứng đó bất động khi mọi người bày tỏ sự bất đồng, bằng thái độ cứng rắn nhất mà họ có thể có. Im lặng. Ý nói rằng chúng tôi không đồng tình. Chúng tôi không thỏa hiệp. Tất cả mọi thứ đều sai trái.

Rồi một điều không ngờ xảy ra. Ít nhất là tôi không ngờ đến, bởi tôi không nghĩ Quận 12 là nơi tôi nhận được nhiều sự quan tâm. Vừa rồi người ta đã dạt ra khi tôi đi lên thế chỗ Prim, và bây giờ dường như tôi trở thành một ai đó đáng được trân trọng. Ban đầu là một người, rồi một người khác, và cuối cùng hầu như tất cả mọi người trong đám đông đều đặt ba ngón giữa tay trái lên môi hướng về phía tôi. Động tác này bắt nguồn từ quận chúng tôi, lâu đời và hiếm khi được dùng, chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở lễ tang. Nó nghĩa là sự cảm ơn, là sự ngưỡng mộ, là lời từ biệt với một người mà bạn thương yêu.

Lúc này, khi tôi sắp bật khóc thực sự, thì may mắn thay Haymitch lảo đảo bước lên sân khấu và chúc mừng tôi. “Hãy nhìn cô bé. Hãy nhìn người này đây!” ông ta gào lên, khoác vai tôi. So với thể trạng yếu ớt vốn có, tự dưng ông ta trông khỏe hơn nhiều. “Tôi thích cô bé!” Hơi thở Haymitch nồng nặc mùi rượu và đã lâu rồi ông ta không tắm. “Tràn đầy sự…” Ông ta nghĩ mãi không được từ nào. “Gan dạ!” ông ta nói đắc thắng. “Hơn các người!” Ông buông tôi ra và nói trước sân khấu. “Hơn cả các người!” ông hét thẳng vào máy quay.

Liệu ông ta muốn nói đến khán giả hay muốn chế giễu Capitol, và ông ta có say thật không? Tôi sẽ không thể biết được vì ngay khi mở miệng định nói tiếp, Haymitch ngã từ trên sân khấu xuống rồi bất tỉnh.

Haymitch tởm thật, nhưng tôi thấy biết ơn ông ta. Nhờ các máy quay vội vã lia về phía ông, tôi đã kịp buông những cục nghẹn trong cổ họng và tự trấn tĩnh. Tôi chắp tay ra sau lưng và nhìn ra xa. Tôi nhìn thấy những quả đồi mà tôi trèo cùng với Gale vào sáng nay. Bất chợt, tôi ao ước một điều… rằng chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này… tự tạo lập cuộc sống riêng ở trong rừng… nhưng tôi biết tôi đã đúng khi không bỏ trốn. Bởi vì ai sẽ tình nguyện thế chỗ cho Prim?

Haymitch bị đưa đi bằng cáng còn Effie Trinket đang trở lại quay vòng cầu. “Một ngày thật hào hứng!” bà ta réo lên khi đang cố chỉnh lại bộ tóc giả vốn đã lệch hẳn sang bên phải. “Nhưng vẫn còn hào hứng phía trước! Đây là lúc chọn ra vật tế nam!” Rõ ràng chỉ muốn cố định bộ tóc sắp rớt, bà ta đặt một tay lên đầucòn tay kia đút vào lồng cầu chứa tên con trai và bốc mảnh giấy đầu tiên mà bà chạm phải. Bà ta đi nhanh về bục, và tôi thậm chí còn kịp cầu cho Gale bình an vô sự thì bà ta đã xướng tên. “Peeta Mellark.”

Peeta Mellark.

Ồ không, tôi nghĩ. Không phải cậu ta chứ. Bởi tôi nhận ra cái tên này, mặc dù tôi chưa bao giờ nói chuyện trực tiếp với người đó. Peeta Mellark.

Không, hôm nay không phải là ngày may mắn của tôi.

Tôi nhìn Peeta khi cậu bước lên sân khấu. Cao tầm tầm, vóc người chắc khỏe, mái tóc vàng xám quăn quăn phía trước trán. Sự choáng váng hiện rõ trên khuôn mặt cậu, và mặc dù cố lắm mới có thể làm ra vẻ bình thản, đôi mắt xanh của Peeta vẫn hiện nỗi sợ hãi mà tôi vẫn thường thấy ở một con mồi. Tuy vậy, cậu vẫn vững vàng trèo lên sân khấu và đứng vào chỗ của mình.

Effie Trinket hỏi xem có ai tình nguyện, nhưng không một người nào bước lên. Tôi biết Peeta có hai anh trai. Tôi đã thấy họ ở tiệm bánh, nhưng một người có lẽ đã quá tuổi để tình nguyện còn người kia thì không thấy động tĩnh gì. Điều này cũng bình thường. Đối với hầu hết mọi người, sự hy sinh cho gia đình là hơi quá trong ngày chiêu quân. Chỉ có tôi là ngoại lệ.

Ngài thị trưởng bắt đầu đọc Hiệp ước Phản trắc vừa dài dòng vừa vớ vẩn mà năm nào cũng phải đọc – đó là bắt buộc – nhưng tôi không nghe một từ nào. Tại sao lại là cậu ta? Tôi nghĩ. Rồi tôi cố thuyết phục mình rằng điều này cũng chẳng đáng quan tâm. Peeta Mellark và tôi không phải bạn bè. Thậm chí hàng xóm cũng không. Chúng tôi không nói chuyện. Lần tiếp xúc duy nhất của chúng tôi cách đây đã nhiều năm. Có lẽ cậu ta đã quên rồi. Nhưng tôi không hề quên và sẽ không bao giờ quên…

Đó là vào khoảng thời gian tồi tệ nhất trong đời tôi. Cha tôi mất trong tai nạn hầm mỏ trước đó ba tháng, trong một ngày tháng Giêng đau đớn hơn tất thảy mọi điều. Nỗi nghẹn ngào vì mất bố trong tôi đã nguôi đi, nhưng nỗi đau có thể chạm vào tôi bất cứ lúc nào, xâu xé, giày xéo cơ thể tôi bằng những tiếng thổn thức. Cha ơi cha ở đâu?Cha đi đâu rồi? Dĩ nhiên, không bao giờ có câu trả lời. Trái tim tôi nức nở.

Quận đã cho chúng tôi một số tiền nhỏ như đền bù cho cái chết của cha, đủ để trang trải một tháng ma chay, cũng là thời gian đủ dài cho mẹ tôi đi tìm việc. Nhưng bà không làm thế. Bà không làm gì cả trừ việc ngồi dựa lưng vào ghế hay thường xuyên hơn là nằm rúc dưới tấm chăn nệm giường, mắt nhìn vào khoảng không vô hạn. Thỉnh thoảng bà cử động, bật dậy như thể phải làm gấp điều gì đó, rồi lại ngồi phịch trở lại trong tĩnh lặng. Không một lời van nài nào của Prim làm bà mảy may để tâm.

Tôi đã sợ. Có thể mẹ tôi đang bị giam trong thế giới u ám của sự buồn bã, nhưng vào lúc đó, tất cả những gì tôi nghĩ đến là mình đã không những mất cha mà mất cả mẹ nữa. Năm mười một tuổi, khi ấy Prim bảy tuổi, tôi trở thành lao động chính trong gia đình. Không có sự lựa chọn nào khác. Tôi mua thức ăn ở chợ cho cả nhà nấu, nấu thật ngon, cố giữ cho Prim và tôi trông đầy đặn. Bởi vì nếu người ta biết rằng mẹ tôi không thể săn sóc bọn tôi được nữa, quận sẽ lấy chúng tôi khỏi vòng tay bà để đưa vào nhà tập thể. Ở trường tôi đã thấy những đứa trẻ như vậy. Nỗi buồn chán, những vết cào xước phẫn uất trên mặt, sự vô vọng khiến vai chúng khom xuống. Tôi sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra với Prim. Prim bé bỏng dịu dàng vẫn khóc mỗi khi tôi khóc ngay cả khi nó biết lý do, vẫn chảy đầu và thắt bím cho mẹ trước mỗi lần chúng tôi đi học và đánh bóng chiếc gương cạo râu của cha tôi mỗi tối bởi ông vốn ghét lớp bụi đen phủ lên mọi thứ ở khu Vỉa than. Nhà tập thể sẽ đày đọa nó như một con rệp. Bởi vậy tôi giữ kín gia cảnh của mình.

Nhưng tiền bạc ngày một túng thiếu và chúng tôi dần rơi vào cảnh đói kém. Hết cách. Tôi cứ tự nhủ rằng chỉ cần cố cầm cự đến tháng Năm, chỉ ngày 8 tháng Năm thôi, tôi sẽ đủ mười hai tuổi và có thể ký tên lấy tê-ra đổi ngũ cốc và dầu ăn quý giá để nuôi sống gia đình. Từ giờ cho đến lúc đấy sẽ chỉ còn vài tuần nữa thôi. Mà có khi trước đó chúng tôi đã chết đói.

Thiếu ăn không phải là cảnh hiếm thấy ở Quận 12. Có ai mà chưa từng thấy người chết đói? Những người già không thể mưu sinh. Những đứa trẻ trong một gia đình có quá nhiều miệng ăn. Những người thợ mỏ tàn phế. Họ sống lay lất ngoài đường. Và một ngày, bạn phát hiện ra họ đang ngồi dựa bất động vào tường hay nằm trên Đồng cỏ, bạn nghe thấy tiếng than khóc từ một ngôi nhà nào đó, rồi Đội Trị an được gọi đến để mang thi thể của họ đi. Trên giấy tờ sẽ không bao giờ ghi nguyên nhân là chết vì đói, mà luôn là chết vì cúm, vì phơi sương hay viêm phổi. Nhưng điều đó không đánh lừa được ai.

Trong buổi chiều mà tôi chạm mặt Peeta Mellark, mưa rơi giá lạnh không ngớt. Lúc đó tôi ở thị trấn, cố bán những bộ đồ sơ sinh cũ rách của Prim ngoài chợ nhưng không ai mua. Mặc dù đã tới Hob vài lần với cha, tôi vẫn thấy sợ khi bước chân vào chốn ồn ã đầy sói sạn như thế này một mình. Nước mưa ngấm qua chiếc áo khoác đi săn của cha mà tôi đang mặc, lạnh buốt đến tận xương tủy. Suốt ba ngày chúng tôi chẳng có gì ăn ngoài nước đun sôi với vài chiếc lá bạc hà hong khô đã lâu mà tôi tìm thấy phía sau chạn bát. Lúc chợ đóng cửa, tôi run đến nỗi đánh rơi bọc quần áo con nít xuống một vũng bùn. Tôi không nhặt lên vì sợ mình sẽ bổ nhào xuống và không thế nhấc chân lên trở lại. Với lại, cũng chẳng ai cần những bộ đồ đó.

Tôi không thể về nhà. Bởi cứ về nhà là tôi lại thấy mẹ với đôi mắt vô hồn, thấy em gái với hai má lõm sâu và đôi môi nứt nẻ. Tôi không thể bước vào căn phòng có đống lửa đầy khói đốt bằng những cành cây ẩm ướt mà tôi nhặt được ở bìa rừng sau khi nhà hết than, vì trên tay tôi không mang theo một niềm hy vọng gì.

Tôi bước lảo đảo giữa lòng đường lấm bùn đằng sau dãy cửa hàng phục vụ những người giàu nhất thị trấn. Hội nhà buôn sống ở tầng trên của cửa hàng, tức là tôi đang ở phía vườn sau nhà họ. Tôi nhớ là những luống đất trong vườn vẫn chưa được trồng gì cho mùa xuân, một hay hai con dê được quây vào một chỗ, một con chó ướt sũng bị cột vào cây cọc, úp lưng xuống bãi lầy.

Ăn trộm các kiểu ở Quận 12 đều bị cấm. Có thể bị khép vào tội chết. Nhưng một ý nghĩ lướt qua đầu tôi, bảo rằng trong thùng rác có thể có thứ gì đó, và lục thùng rác đâu phải là tội. Biết đâu có một mẩu xương ở tiệm thịt hay một mớ rau úa ở tiệm tạp phẩm, chẳng là gì với người khác nhưng với gia đình tôi thì đã là quá đủ. Thật không may, các thùng rác cũng trống rỗng.

Khi đi ngang tiệm bánh, mùi bánh mì mới ra lò hấp dẫn đến mức làm tôi hoa cả mắt. Màu vàng rực của lò bánh phía sau hắt ra từ cánh cửa bếp đang mở. Tôi đứng đấy, ngất ngây bởi hơi nóng và mùi thơm phưng phức cho đến khi cơn mưa làm đứt quãng, vuốt bàn tay giá lạnh dọc sống lưng tôi, đưa tôi trở về thực tại. Tôi mở nắp thùng rác của tiệm bánh mì và thấy nó rỗng tuếch một cách tàn nhẫn.

Bỗng nhiên có tiếng ai đó quát tháo. Nhìn lên, tôi thấy bà vợ của ông chủ tiệm bánh đang ra sức xua đuổi. Bà dọa sẽ gọi Đội Trị an đến và rằng bà cảm thấy chướng mắt như thế nào khi có những đứa trẻ bụi đời từ khu Vỉa than đến bới thùng rác nhà mình. Bà chửi thật thậm tệ, nhưng tôi cũng không có ý phản kháng. Khi đậy chiếc nắp trở lại gọn ghẽ và quay đi, tôi để ý thấy cậu, một cậu trai với mái tóc vàng đang nhìn chăm chú từ sau lưng bà mẹ lúc nãy. Tôi đã thấy cậu ở trường. Cậu cùng khóa với tôi nhưng tôi không biết tên. Cậu chơi chung với đám trẻ trị trấn cơ mà, làm sao tôi quen được? Mẹ cậu quay trở lại tiệm bánh, miệng vẫn càu nhàu, nhưng cậu hẳn vẫn dõi theo khi tôi đi đến cạnh chuồng heo nhà họ và đứng dựa lưng vào cây táo già. Sự thật là tôi vẫn chưa có gì để mang về nhà. Hai đầu gối chùng xuống, tôi trượt dọc theo thân cây và ngồi bệt xuống gốc. Tôi không thể chịu được nữa. Tôi đã kiệt sức vì mệt mỏi, ôi, quá mệt mỏi. Hãy để họ gọi Đội Trị an đến và đưa chúng tôi đến nhà tập thể, tôi nghĩ. Hay là tốt hơn hãy để tôi chết ngay tại đây dưới cơn mưa.

Có tiếng loảng xoảng trong tiệm bánh, tôi nghe người đàn bà gào lên lần nữa rồi một tiếng đập vang lên, làm tôi mông lung tự hỏi chuyện gì đang diễn ra. Tiếng bước chân bì bõm trên bùn hướng về phía tôi khiến tôi nghĩ, Đó là bà ta. Bà ta cầm gậy đến đuổi mình đi. Nhưng không phải. Đó là cậu con trai. Cậu ôm hai ổ bánh mì lớn chắc đã rớt vào lửa bởi cùi bị cháy đen.

Mẹ cậu hét lên, “Đem cho lũ lợn ăn ấy, mày có phải đồ ngớ ngẩn không? Không phải ư? Chẳng ai tử tế lại đi mua bánh mì cháy!”

Cậu ngắt những mẩu cháy của ổ bánh mì ném vào máng. Khi chuông phía trước cửa tiệm bánh reo lên, bà mẹ quay vào để giúp khách hàng.

Cậu còn chẳng hề liếc về phía tôi, nhưng tôi vẫn dõi theo cậu. Bởi vì ổ bánh mì, bởi vì vết thâm tím trên gò má cậu. Bà ta đánh cậu bằng cái gì nhỉ? Cha mẹ chưa bao giờ đánh chúng tôi. Thậm chí tôi còn không tưởng tượng ra điều đó. Cậu đưa mắt trở lại tiệm bánh để chắc chắn không có ai nhìn theo rồi quay về phía chuồng heo, ném một ổ bánh mì về phía tôi. Ổ thứ hai tới ngay sau đó, rồi cậu lội bì bõm về tiệm bánh, đóng chặt cửa bếp lại.

Tôi săm soi những ổ bánh mì, trong lòng đầy nghi hoặc. Chúng ngon đấy, chắc chắn rồi, ngoài những chỗ bị cháy. Có phải cậu ấy định cho tôi? Hẳn là thế rồi. Bởi chúng nằm ngay chân tôi. Trước khi có ai đó kịp chứng kiến, tôi nhét những ổ bánh mì vào trong áo, siết tấm áo khoác đi săn vào người và bước vội. Sức nóng của ổ bánh mì đốt cháy da tôi, nhưng tôi càng giữ chúng chặt hơn, như bám lấy sự sống.

Khi tôi về đến nhà, mặc dù những ổ bánh đã nguội bớt nhưng bên trong vẫn nóng. Lúc tôi đặt chúng xuống bàn, Prim với tay ngắt lấy một miếng, tôi bảo nó ngồi xuống, bắt mẹ cùng ngồi vào bàn rồi pha tách trà nóng. Tôi ngắt phần cháy sém và cắt bánh mì thành từng lát. Chúng tôi ăn hết cả ổ, từng lát từng lát một. Một bữa bánh mì thật sự ấm cúng với nho khô và quả hạch.

Tôi hong khô quần áo trước đống lửa, trườn lên giường và đánh một giấc thật sâu. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi mới chợt nhận ra rằng có thể ổ bánh mì bị cháy là do cố ý. Chẳng hạn như cậu ấy đã làm rơi ổ bánh mì vào lửa, dù biết rằng như thế sẽ bị chửi, rồi đem chúng cho tôi. Nhưng tôi đã xua tan ý nghĩ đó. Có thể đấy chỉ là vô tình thôi. Cậu ấy làm thế để làm gì, khi thậm chí còn không biết tôi? Dù sao, chỉ riêng việc ném cho tôi ổ bánh mì cũng là quá cao cả rồi, chắc chắn sẽ mang lại mọt trận đòn nếu bị phát hiện. Tôi không thể lý giải hành động của cậu.

Chúng tôi ăn những lát bánh mì cho bữa sáng và đến trường. Mùa xuân như thể đã đến sau một đêm. Không khí ấm áp trong trẻo. Những đám mây thật mịn màng. Ở trường, tôi bắt gặp cậu ở sảnh lớn, với cái má sưng húp và đôi mắt bầm tím. Cậu đi cùng với đám bạn, không hề nhận ra tôi. Nhưng đến buổi chiều khi tôi đón Prim và chuẩn bị về nhà, tôi thấy cậu đang nhìn trộm tôi từ phía bên kia sân trường. Hai ánh mắt chạm nhau chỉ trong khoảnh khắc, rồi cậu ngoảnh mặt đi. Tôi hướng ánh mắt về hướng khác, ngượng ngùng, và chợt nhìn thấy nó. Bông hoa bồ công anh đầu tiên của năm đã xuất hiện. Một tiếng chuông báo hiệu vang lên trong tâm trí tôi. Tôi nhớ về khoảng thời gian đi rừng cùng cha, hiều rằng mình sẽ phải làm gì để tồn tại.

Suốt ngày hôm đó, tôi luôn nghĩ về mối liên hệ giữa cái cậu Peeta Mellark ấy và ổ bánh mì đã mang cho tôi hy vọng, về bông hoa bồ công anh đã nhắc nhở rằng tôi chưa đến mức bần cùng. Hơn một lần tôi quay sang sảnh lớn của trường và bắt gặp ánh mắt cậu, đề rồi sau đó lại là một cái quay đi vội vã. Tôi cảm giác như mang nợ một thứ gì đó, nhưng tôi ghét mắc nợ người khác. Nếu có thể cám ơn cậu bằng cách nào đấy, hẳn tôi sẽ cảm thấy bớt áy náy hơn. Đôi lúc tôi nghĩ đến chuyện đền đáp, nhưng cơ hội dường như không chịu đến. Và bây giờ thì nó sẽ không bao giờ đến. Bởi vì chúng tôi sắp bị ném vào một đấu trường để đấu với nhau đến chết. Làm sao tôi có thể chiến đấu ở nơi đó với tâm trạng mang ơn như thế này? Tôi chẳng thể tưởng tượng nổi chính mình đang cố gắng cắt cổ ân nhân nữa.

Ngài thị trưởng kết thúc bài Hiệp ước Phản trắc buồn tẻ và ra hiệu cho Peeta và tôi bắt tay. Bàn tay cậu dày và ấm như những ổ bánh mì. Peeta nhìn thẳng rồi bắt tay tôi, một cái siết động viên. Cũng có thể chỉ là một sự co thắt cơ do lo lắng.

Chúng tôi quay về đám đông khi quốc ca Panem vang lên.

Ồ, cũng tốt thôi, tôi nghĩ. Chúng tôi có hai-mươi-bốn người cơ mà. Biết đâu ai đó sẽ lấy mạng cậu ta trước tôi.

Dĩ nhiên, may mắn không phải lúc nào cũng xảy ra. Chương 3

Khi quốc ca kết thúc, chúng tôi bị đưa đi canh giữ. Chúng tôi không bị còng tay hay gì khác, nhưng có một nhóm của Đội Trị an hộ tống chúng tôi đến trước cửa Tòa Tư pháp. Có thể là trong quá khứ có vật tế đã tìm cách bỏ trốn. Dù vậy, tôi chưa từng thấy điều đó xảy ra.

Vào bên trong, tôi được người ta sắp xếp cho một mình một phòng. Đó là nơi nguy nga nhất tôi từng thấy, với những tấm thảm dày và rộng, ghế cùng một chiếc đi văng bọc nhung. Tôi biết đó là nhung bởi mẹ tôi có mặc một chiếc đầm với cổ áo làm bằng chất liệu ấy. Ngồi lên đi văng, tôi không ngừng vuốt ve mặt vải. Điều đó giúp tôi bình tĩnh lại trước khi chuẩn bị cho giờ phút tiếp theo để nói lời từ biệt với người thân. Tôi không thể tỏ ra bối rối, rời khỏi căn phòng này với đôi mắt sưng húp và chiếc mũi đỏ lựng. Tôi không được khóc. Ở ga xe lửa sẽ còn nhiều máy quay hơn.

Mẹ và em tôi đến trước. Tôi dang tay về phía Prim và nó ôm chầm lấy tôi, tay quàng quanh cổ tôi, đầu tựa lên vai tôi, như cách nó vẫn làm khi còn là đứa trẻ tập đi. Mẹ ngồi cạnh tôi và khoác tay lên vai hai đứa. Chúng tôi im lặng trong vài phút. Rồi tôi bắt đầu nhắc hai người tất cả những thứ phải lưu ý vì giờ đây tôi sẽ không còn ở nhà để lo cho gia đình nữa.

Prim sẽ không đi lấy bất cứ một tê-ra nào nữa. Cả gia đình có thể kiếm sống bằng cách bán sữa và pho mát từ chú dê của Prim và bằng công việc bào chế dược phẩm mà mẹ tôi hiện làm cho những người ở khu Vỉa than. Gale sẽ đi hái những loài thảo dược mà mẹ không tự trồng được, nhưng bà phải rất cẩn thận khi mô tả chúng vì anh không biết nhiều về lá thuốc như tôi. Anh cũng sẽ mang thú săn về cho họ - anh và tôi đã giao kèo về điều này khoảng một năm về trước – và tuy có lẽ Gale sẽ không đòi hỏi gì nhưng họ nên cám ơn anh bằng cách biếu lại vài thứ, như sữa hay thuốc.

Tôi không định bắt Prim học săn bắn. Tôi đã thử dạy nó một vài lần và thật thảm hại. Rừng cây làm nó sợ, và mỗi khi tôi bắn con thú nào đấy, nó lại khóc mà bảo liệu chúng tôi có thể đưa nó về nhà kịp để chạy chữa không. Có điều Prim lại nuôi dê khá thuần thục, vậy nên tôi không nghĩ nhiều nữa.

Sau khi đã nhắc mọi người về việc dùng chất đốt, việc buôn bán và chuyện ở trường, tôi quay sang mẹ, nắm lấy tay bà, siết chặt. “Hãy lắng nghe con. Mẹ có nghe con nói không?” Cảm nhận được cái siết tay của tôi, bà gật đầu. Bà hẳn phải biết chuyện gì đang xảy ra. “Mẹ không thể dửng dưng với bọn con một lần nữa,” tôi nói.

Mẹ tôi đưa mắt xuống nền nhà. “Mẹ biết. Mẹ sẽ không như thế. Lúc đó mẹ đã không chịu đựng được việc…”

“Mẹ à, lần này thì mẹ phải chịu đựng được. Mẹ không thể làm ngơ và để Prim một mình. Bây giờ sẽ không có con để nuôi sống hai người nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra không quan trọng. Việc mẹ nhìn thấy gì trên màn hình không quan trọng. Mẹ phải hứa với con mẹ sẽ cố gắng hết sức để vượt qua!” Giọng tôi gằn lên như quát. Ẩn bên trong đó là tất cả giận dữ và sợ hãi đã nung nấu trong tôi khi bà bỏ mặc hai đứa.

Mẹ rụt tay lại, lúc này chính bà tỏ ra giận dữ. “Mẹ bị bệnh. Mẹ đã có thể tự chạy chữa nếu có những thứ thuốc như bây giờ.”

Việc bà bị bệnh có thể là đúng. Tôi từng thấy bà trả lại những bệnh bệnh nhân mắc chứng trầm cảm bại liệt. Có lẽ đó là một căn bệnh, nhưng chúng tôi không thể chạy chữa.

“Tùy mẹ thôi. Nhưng mẹ hãy chăm sóc em!” tôi nói.

“Em sẽ ổn thôi mà, chị Katniss,” Prim nói, áp tay vào má tôi. “Nhưng chị cũng phải cẩn thận đấy. Chị nhanh nhẹn và dũng cảm. Chị có thể thắng.”

Tôi không thể thắng. Prim hẳn biết điều đó từ đáy lòng. Cuộc chiến này quá khả năng của tôi. Bọn trẻ từ những quận giàu có nhất, nơi chiến thắng là một vinh dự lớn lao, đã được huấn luyện cả đời cho những cuộc đấu như thế này. Những đứa con trai to gấp hai ba lần tôi. Những đứa con gái biết hai chục cách khác nhau để giết người bằng một con dao. Phải, cũng sẽ có những đứa giống như tôi, những đứa bị loại ngay từ trước khi cuộc vui bắt đầu.

“Có thể,” tôi nói, bởi tôi khó có thể khuyên mẹ cố gắng khi mà bản thân mình ngay từ đầu đã đầu hàng. Hơn nữa, bỏ cuộc trước khi ra trận không phải là tính cách của tôi, ngay cả khi mọi chuyện dường như không thể vượt qua. “Rồi chúng ta sẽ giàu có như Haymitch.”

“Em không cần chúng ta giàu có. Em chỉ muốn chị trở về nhà. Chị sẽ gắng chứ, đúng không? Cố gắng, cố gắng hết sức nhé?” Prim hỏi.

“Cố gắng, cố gắng hết sức. Chị hứa,” tôi nói. Và tôi biết, vì Prim, tôi sẽ cố gắng hết sức.

Đội Trị an đứng trước cửa, ra dấu cho chúng tôi là thời gian đã hết. Chúng tôi ôm siết lấy nhau và, tất cả những gì tôi nói chỉ là “Con yêu mọi người. Con yêu mẹ và em.” Cả hai đều nói yêu tôi, cho đến khi Đội Trị an yêu cầu họ ra ngoài và đóng cửa lại. Tôi vùi đầu xuống cái gối nhung như thể làm như vậy có thể phủi đi tất cả mọi thứ.

Ai đó bước vào phòng và khi ngước lên, tôi nhạc nhiên khi thấy đó là chủ tiệm bánh mì, cha của Peeta Mellark. Không thể tin được là ông đến thăm tôi. Trước sau gì tôi cũng sẽ tìm cách giết con trai ông. Nhưng chúng tôi có biết nhau một chút, hơn nữa ông còn biết Prim rõ hơn. Khi nó bán pho mát dê ở chợ Hob, nó đưa cho ông hai miếng pho mát và ông trả lại mấy ổ bánh mì đầy hào phóng. Chúng tôi luôn đợi để bán hàng cho ông khi bà vợ không ở bên cạnh vì ông dễ mến hơn nhiều. Tôi chắc chắn là ông sẽ không bao giờ đánh con trai mình vì ổ bánh mì cháy như bà vợ đã làm. Nhưng tại sao ông lại đến gặp tôi?

Ông chủ tiệm bánh mì lúng túng ngồi xuống mép một chiếc ghế nhung. Đó là một người đàn ông to lớn, vai rộng với những vết sẹo bỏng sau nhiều năm làm ở lò bánh. Hẳn là ông vừa nói lời chia tay với đứa con trai.

Ông ta lấy một gói bọc giấy trắng từ túi áo khoác ra đưa cho tôi. Tôi mở ra và thấy những chiếc bánh quy. Một thứ thức ăn xa xỉ mà nhà tôi chưa bao giờ có tiền mua.

“Cám ơn bác,” tôi nói. Vào những lúc bình thường nhát, ông chủ tiệm bánh đã vốn không phải là người nói nhiều, nhưng hôm nay thì ông chẳng nói gì cả. “Sáng nay cháu có ăn mấy ổ bánh mì của bác. Gale bạn cháu đổi cho bác một con sóc.” Ông gật đầu, như thể nhớ về con sóc. “Không phải vụ trao đổi hời nhất của bác,” tôi nói. Ông nhún vai như thể không màng đến chuyện đó.

Rồi tôi không thể nghĩ ra chuyện gì khác nữa, chúng tôi ngồi trong im lặng cho đến khi một người trong Đội Trị an gọi ông ra. Ông đứng dậy và hắng giọng: “Bác sẽ để mắt đến em cháu. Đảm bảo cho cô bé có đủ cái ăn.”

Tôi cảm thấy lồng ngực mình nhẹ đi khi nghe ông nói vậy. Mọi người bán chác với tôi, nhưng Prim thì ai cũng thật lòng yêu mến. Có lẽ nó sẽ có đủ tình thương để giúp nó sống sót.

Vị khách tiếp theo của tôi cũng ngoài dự kiến. Madge bước thẳng đến chỗ tôi. Nó không khóc hay tránh mặt tôi. Thay vào đó, giọng nài nỉ của con nhỏ làm tôi ngạc nhiên. “Cậu sẽ được mang đến đấu trường một thứ từ quận chúng ta, một thứ sẽ giúp cậu nhớ về quê nhà. Cậu sẽ mang nó chứ?” Nó đưa cho tôi chiếc ghim tròn bằng vàng trên áo của nó trước đó. Lúc nãy thì không để ý lắm, nhưng bây giờ tôi thấy ghim có hình một con chim nhỏ đang bay.

“Chiếc ghim của cậu à?” tôi nói. Tôi nghĩ đến việc sẽ mang một thứ biểu tượng của quận mình.

“Mình gắn nó vào áo cậu được chứ?” Madge không đợi câu trả lời, cúi người gắn nó vào áo tôi. “Hãy hứa rằng cậu sẽ mang nó đến đấu trường nhé, Katniss?” Nó hỏi. “Hứa nhé?”

“Tớ hứa,” tôi nói. Những cái bánh quy. Chiếc ghim băng. Tôi đã nhận được đủ thứ quà trong ngày hôm nay. Madge lại mang đến cho tôi một thứ nữa. Một chiếc hôn lên má. Khi Madge đi khỏi, tôi chợt nghĩ rằng có lẽ trước giờ nó đã thực sự là bạn tôi.

Cuối cùng là Gale, và có lẽ cũng chẳng có gì lãng mạn giữa chúng tôi, nhưng khi anh dang tay tôi không ngại ngần ngả vào lòng anh. Cơ thể anh đã trở nên quen thuộc với tôi – từ cách di chuyển, cơ thể ám mùi cây rừng đến cả nhịp tim đập của anh mà tôi để ý trong những khoảng lặng của chuyến đi săn – nhưng đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được một điều, đó là cơ thể tuy gầy nhưng chắc nịch của anh khi ôm tôi.

“Nghe này,” anh nói. “Kiếm một con dao thì dễ thôi, nhưng em phải có trong tay một cây cung. Đó là cơ hội tốt nhất của em.”

“Không phải lúc nào họ cũng có cung,” tôi nói, nghĩ về cái năm người ta chỉ đưa những cây chùy gai cho các đấu thủ để các vật tế nện nhau đến chết.

“Vậy thì hãy làm một cái,” Gale nói. “Một cây cung yếu còn hơn là không có cái nào.”

Tôi đã thử làm lại những cây cung của cha nhưng không thành. Không dễ chút nào. Thậm chí thỉnh thoảng cha tôi còn không làm được.

“Em thậm chí còn không biết liệu có rừng cây ở đó không?” tôi nói. Một năm khác, họ tống tất cả vào một nơi chẳng có gì ngoài đá cuội, đất cát và những bụi cây lếch thếch. Tôi đặc biệt ghét cái năm đó. Nhiều đấu thủ bị rắn độc cắn hoặc phát điên vì khát.

“Chắc chắn phải có một vài khúc cây,” Gale nói. “Bởi năm đó một nửa số họ đã chết vì lạnh. Như thế thì chẳng có gì hào hứng.”

Đúng vậy. Năm đó chúng tôi chứng kiến nhiều đấu thủ chết cóng vào ban đêm. Rất khó nhìn ra họ bởi tất cả chỉ nằm cuộn tròn trong khi chẳng có củi đốt hay đuốc hay bất kỳ thứ gì. Lần đó cực kỳ gây thất vọng ở Capitol, với những cái chết lặng lẽ và tê dại. Kể từ đó, năm nào cũng phải có củi để nhóm lửa.

“Chính xác, sẽ luôn phải có củi,” tôi nói. “Katniss à, chỉ là một cuộc đi săn thôi. Em là thợ săn giỏi nhất mà anh biết,” Gale nói.

“Đó không chỉ là đi săn. Tất cả đều có chuẩn bị. Tất cả đều biết suy tính,” tôi nói.

“Vậy thì em cũng thế. Hơn nữa em được tập luyện nhiều hơn. Tập luyện thật sự,” anh nói. “Em biết cách lấy mạng con mồi.”

“Nhưng không phải mạng người,” tôi nói.

“Có gì khác nhau chứ?” Gale nói dứt khoát.

Thật đáng sợ bởi nếu tôi quên đó là mạng người thì đúng là không có gì khác nhau cả.

Đội Trị an quay trở lại quá sớm trong khi Gale muốn có thêm thời gian, nhưng họ đưa anh đi và tôi bắt đầu sợ hãi. “Đừng để mẹ và Prim phải đói!” Tôi gào lên, níu lấy tay anh.

“Không đâu. Em biết anh sẽ không để như thế mà! Katniss, nhớ là anh…” anh nói, nhưng họ giằng chúng tôi khỏi nhau, đóng sập cửa lại. Tôi sẽ không bao giờ được biết anh muốn tôi ghi nhớ điều gì.

Quãng đường từ Tòa Tư pháp đến trạm xe lửa khá ngắn. Tôi chưa bao giờ ngồi lên xe hơi trước đó. Rất hiếm khi được ngồi lên xe ngựa. Ở khu Vỉa than, chúng tôi chỉ đi bộ.

Tôi đã đúng khi không khóc. Nhà ga đông nghẹt phóng viên với những chiếc máy quay nhỏ xíu chỉa thẳng vào mặt tôi. Nhưng tôi đã nhiều lần tập cho mình có một gương mặt vô cảm và bây giờ tôi đang làm thế. Thoáng thấy mình trên màn hình ti vi trên tường đang tường thuật trực tiếp, tôi thấy hài lòng vì mình không có gì nổi bật.

Peeta Mellark thì ngược lại. Rõ là cậu đã khóc, hơn nữa cậu cũng không có vẻ gì là muốn che đậy. Ngay lập tức tôi tự hỏi liệu đây có phải là chiến thuật của cậu không. Xuất hiện với vẻ yếu đuối và sợ hãi để những đấu thủ khác cho rằng cậu không muốn tranh đua rồi lờ đi. Cách đó tỏ ra hiệu quả với một cô gái Quận 7, Johanna Mason, cách đây vài năm. Cô ta trông khờ khạo, yếu đuối và nhút nhát khiến không ai để tâm cho đến khi chỉ còn lại vài đấu thủ. Lúc đó người ta mới biết cô ta giết người thật hiểm độc. Rất khôn ngoan, đó là cách chơi của cô ta. Nhưng chiến thuật này có vẻ kỳ quặc với Peeta Mellark, con trai một chủ tiệm bánh. Ngần ấy năm ăn uống đầy đủ và lôi khay bánh mì khỏi lò khiến cậu ta có đôi vai rộng và chắc nịch. Rõ là tốn nước bọt nếu muốn thuyết phục ai đó xem thường cậu ta.

Sau khi đứng chờ vài phút trước chiếc xe lửa để người ta chụp ảnh lia lịa, chúng tôi được phép vào trong, bỏ lại cánh cửa từ từ đóng sau lưng. Con tàu bắt đầu lăn bánh.

Ban đầu tốc độ của con tàu làm tôi nín thở. Tất nhiên tôi chưa bao giờ ngồi trên xe lửa, vì việc qua lại giữa các quận bị cấm, ngoại trừ những việc công cán được phê chuẩn. Với chúng, tàu chủ yếu là để chở than. Nhưng con tàu này không dành để chở than. Nó là một trong những tàu cao tốc của Capitol với tốc độ trung bình 250 dặm một giờ. Hành trình của chúng tôi đến Capitol sẽ kéo dài chưa đến một ngày.

Ở trường chúng tôi được dạy rằng Capitol được xây dựng ở một nơi gọi là Rookies. Quận 12 ở một vùng có tên là Appalachia. Thậm chí hàng trăm năm trước, người ta đã khai thác than ở đây. Điều đó giải thích tại sao bây giờ thợ mỏ của chúng tôi phải đào sâu đến thế.

Ở trường học, có nói gì người ta cũng quay về than. Bên cạnh môn đọc hiểu và toán căn bản, hầu hết bài học của chúng tôi liên quan đến than. Ngoại trừ giờ học hàng tuần trên giảng đường về lịch sử của Panem, hầu như toàn là một mớ giáo điều về những gì chúng tôi nợ Capitol. Tôi biết phải có điều gì hơn thế, sự thật về cuộc nổi loạn chẳng hạn. Nhưng tôi chẳng dại tốn thời gian nghĩ về chuyện đó. Dù sự thật là thế nào, tôi cũng không thấy nó có ích gì trong việc kiếm thêm thức ăn.

Con tàu chở vật tế còn lộng lẫy hơn cả phòng ốc trong Tòa Tư pháp. Chúng tôi ở mỗi người một khoang, có phòng ngủ, phòng thay đồ và một phòng tắm riêng với vòi nóng lạnh. Ở nhà chúng tôi không có vòi nước nóng mà phải đun nước sôi.

Các ngăn kéo chất đầy quần áo đẹp, và Effie Trinket nói tôi có thể làm bất cứ gì tôi muốn, mặc bất cứ gì tôi thích, mọi thứ tùy ý. Chỉ cần sẵn sàng cho bữa ăn khuya trong một tiếng nữa. Tôi cởi bộ đồ xanh của mẹ và tắm nước nóng. Tôi chưa từng tắm vòi hoa sen bao giờ. Nó giống như tắm dưới cơn mưa mùa hè, chỉ khác là ấm hơn. Tắm xong, tôi mặc áo màu xanh đậm và quần dài.

Bất chợt tôi nhớ đến chiếc ghim nhỏ bằng vàng của Madge. Lần đầu tiên tôi nhìn kỹ nó. Cứ như thể có ai đó nặm một con chim nhỏ bằng vàng và làm một chiếc vòng bao quanh vậy. Con chim được gắn vào chiếc vòng chỉ bằng mấu nối ở cánh. Tôi chợt nhận ra nó. Một con chim húng nhại (mockingjay, một loài chim hư cấu.)

Ngoài việc là loài chim ngộ nghĩnh, có vẻ chúng còn là một cái tát vào mặt đám người Capitol. Trong cuộc nổi loạn, Capitol đã tạo ra một loạt những con vật biến đổi gien như một thứ vũ khí. Người ta gọi chung chúng là mút-tai-to (muttations, một loài thú hư cấu), hay gọi ngắn gọn là baon5 mút (mutts, viết gọn của muttations). Trong số đó có một loài đặc biệt là con chim húng nhây (jabberjay, một loài chim hư cấu), có khả năng ghi nhớ và lặp lại toàn bộ cuộc đối thoại của con người. Chúng là loài chim đưa tin, chỉ có giống đực, được thả đến những vùng mà kẻ thù của Capitol đang ẩn náu. Sau khi những con chim này thu được tiếng, chúng bay trở lại trung tâm để được ghi âm lại. Phải một thời gian sau người ta mới nhận ra điều gì đang thực sự diễn ra ở các quận, và phiến quân đã truyền tin bí mật như thế nào. Và tất nhiên, những gì phiến quân dành cho Capitol chỉ là nói gạt, và người ta lấy chuyện này ra làm trò đùa. Kết quả, những trung tâm đó bị đóng cửa và loài chim này bị bỏ rơi cho đến chết ở nơi hoang vu.

Nhưng chúng không chết. Thay vào đó, loài húng-nhây này kết bạn với chim nhại (mockingbirds, một loài chim biết nhại tiếng người) mái, sinh ra một loài mới có thể nhại cả tiếng chim hót lẫn tiếng người. Chúng mất đi khả năng phát âm từng từ nhưng vẫn có thể nhại các giọng khác nhau của con người, từ giọng cao thánh thót của trẻ con đến giọng trầm của đàn ông. Chúng còn có thể hát lại những bài hát. Không chỉ một vài nốt mà là cả bài với những đoạn điệp khúc, nếu bạn đủ kiên nhẫn hát cho chúng nghe và chúng thích giọng hát của bạn.

Cha tôi đặc biệt thích loài chim húng nhại ấy. Khi chúng tôi đi săn, ông thường huýt gió hoặc hát cho chúng nghe những bài dài để rồi sau khi ngưng một lúc, chúng luôn hót đáp lại. Không phải ai cũng nhận được sự ưu ái đó. Bất cứ khi nào cha tôi hát, tất cả chim ở đó đều im bặt và lắng nghe. Giọng ông thật ngọt ngào, cao vút, trong veo đầy sức sống khiến người ta cảm thấy xốn xang khôn tả. Sau khi cha mất, tôi chưa bao giờ thử tập hát lại. Tuy nhiên, loài chim này vẫn mang lại cho tôi chút gì đó an ủi. Nó như mang theo sợi dây liên lạc giữa cha và tôi, bảo vệ tôi. Tôi cài chiếc ghim vào áo, và trên nền vải xanh đậm, con chim trông như đang bay qua lùm cây.

Effie Trinket đến đưa tôi đi ăn khuya. Tôi đi theo bà qua một hành lang hẹp trên toa tàu lắc lư, vào phòng ăn với những bức tường ốp sáng sủa. Bàn ăn bày bát dĩa bóng loáng. Peeta Mellart ngồi đợi chúng tôi đến, chiếc ghế bên cạnh không ai ngồi.

“Ông Haymitch đâu rồi nhỉ?” Effie Trinket hào hứng hỏi.

“Lần cuối cùng cháu thấy, ông ấy nói định chợp mắt một lát,” Peeta nói.

“Ừ, đúng là một ngày mệt đứ đừ,” Effie Trinket nói. Tôi nghĩ bà đang nhẹ người bởi sự vắng mặt của Haymitch, mà cũng đúng thôi.

Mọi người ăn vào bữa khuya. Xúp cà rốt sền sệt, xa lát, sườn cừu và khoai tây chiên, pho mát và trái cây, thêm một chiếc bánh sô cô la. Suốt bữa, Effie Trinket luôn miệng nhắc chúng tôi cứ từ từ thôi, bởi thức ăn sẽ còn ra nhiều nữa. Nhưng tôi ngấu nghiến thật lực bởi chưa bao giờ được thưởng thức những món thế này, quá nhiều và quá ngon, và bởi dường như điều tốt nhất tôi có thể làm từ giờ tới khi bước vào Cuộc đấu là tăng thêm vài cân.

“Ít nhất hai đứa cũng phải tỏ ra đúng mực một chút,” Effie nói khi chúng tôi ăn xong bữa chính. “Cặp đấu năm ngoái ăn hùng hục như hai hổ đói. Thật không thể nào chịu được.”

Đến từ khu Vỉa than, hai đứa trẻ được chọn năm ngoái chưa một ngày nào trong đời có được bữa ăn no. Khi có đồ ăn, trong đầu chúng chỉ nghĩ đến việc đánh chén. Peeta là con trai chủ tiệm bánh. Tôi và Prim thì đã được mẹ dạy ăn uống phải từ tốn, vậy nên tôi còn biết dùng cả dao và nĩa nữa. Nhưng do thậm ghét câu xét nét của Effie Trinket, tôi cố ý ăn bốc cho đến khi bữa ăn kết thúc. Rồi tôi lau tay vào khăn trải bàn. Thấy thế, bà mím chặt môi.

Cuối bữa, tôi cố gắng ngăn cơn buồn nôn. Tôi ngó qua Peeta, thấy cậu cũng đang ngồi xả hơi. Chưa đứa nào được ăn một bữa no nê thế này. Nhưng vì đã từng chịu đựng được món ăn tự chế của bà Greasy Sea gồm thịt chuột, lòng heo và vỏ cây – đặc sản của mùa đông – lần này tôi quyết tâm kìm lại.

Chúng tôi sang một gian phòng khác để xem tổng hợp buổi chiêu quân trên khắp Panem. Họ sắp xếp các buổi chiêu quân xen kẽ trong ngày để một người có thể xem trực tiếp ở các quận khác, nhưng thật ra chỉ có người ở Capitol mới xem được vì không ai trong số họ phải tham dự các cuộc chiêu quân.

Chúng tôi xem lần lượt ở các quận khác, cũng những cái tên được xướng lên, cũng những người tình nguyện bước lên phía trước nhưng thường thì không. Chúng tôi nhìn mặt những người sẽ là đối thủ của mình. Một số làm tôi ấn tượng. Một gã khổng lồ nhào lên tình nguyện ở Quận 2. Một con bé có khuôn mặt hồ ly và mái tóc đỏ mượt đến từ Quận 5. Thằng bé có chân bị tật ở Quận 10. Ám ảnh tôi nhất là con bé mười hai tuổi ở Quận 11. Con bé có làn da và đôi mắt màu nâu thẫm, nhưng hơn cả là vóc dáng và điệu bộ của nó rất giống Prim.

Cuối cùng, họ chiếu Quận 12. Prim được gọi tên, tôi xung phong làm người tình nguyện. Không thể không nhận ra sự tuyệt vọng trong giọng nói của tôi khi đẩy Prim ra đằng sau, như thể tôi sợ không ai nghe thấy và họ sẽ mang Prim đi mất. Nhưng tất nhiên là họ nghe. Tôi thấy Gale kéo nó ra khỏi tôi và nhìn tôi bước lên sân khấu.

Đám người bình luận trên truyền hình không biết phải nói gì khi đám đông từ chối hoan hô. Họ chào mừng bằng im lặng. Một người nói rằng tuy Quận 12 luôn kém hơn một chút, nhưng cái thông lệ địa phương này thật đáng mến. Oạch một cái, Haymitch ngã khỏi sân khấu và khán giả xuýt xoa một cách mỉa mai. Tên Peeta được bốc, và cậu lặng lẽ tiến lên chỗ của mình. Chúng tôi bắt tay. Họ lại cắt đến đoạn hát quốc ca, chương trình kết thúc.

Effie Trinket rất bực mình về mái tóc giả của bà. “Người hướng dẫn (Mentor, tức là người thầy, người kèm cặp, ở đây chúng tôi dịch là người hướng dẫn. Từ này dùng dể ám chỉ Haymitch trong suốt câu chuyện.) của các cháu còn phải học nhiều về cách xuất hiện đấy. Học nhiều về cách ứng xử khi lên truyền hình.”

Peeta bật cười. “Ông ta say mà,” Peeta nói. “Năm nào ông ta cũng say.”

“Hàng ngày ấy chứ,” tôi thêm vào. Tôi cũng không thể không cười được. Effie Trinket làm như thể chỉ cần vài lời khuyên nho nhỏ của bà là có thể sửa được mớ hành động lỗ mãng của Haymitch không bằng.

“Vậy à,” Effie Trinket rít lên. “Làm thế nào hai đứa lại thấy chuyện này đáng cười được. Các cháu nên biết người hướng dẫn soi đường chỉ lối cho các cháu đến Đấu trường. Là người khuyên răn các cháu, kêu gọi nhà tài trợ và chuyển quà tài trợ đến các cháu. Haymitch có thể quyết định sự sống và cái chết của các cháu.”

Ngay sau đó Haymitch lảo đảo bước vào phòng. “Tôi bỏ lỡ bữa ăn khuya rồi à?” ông ta khề khà. Rồi ông ta nôn lên khắp tấm thảm đắt tiền và ngã xuống đống bầy nhầy.

“Cứ cười tiếp đi!” Effie Trinket nói. Bà nhảy qua bãi mửa với đôi giày nhọn hoắt và bước ra khỏi phòng. Chương 4

Một lúc sau, Peeta và tôi chứng kiến cảnh người hướng dẫn của mình cố gượng khỏi đống bầy nhầy vừa nôn. Mùi tanh tởm của bãi mửa và hơi rượu suýt làm tôi trào cả bữa tối ra ngoài. Chúng tôi liếc nhau. Rõ ràng Haymitch không giúp được gì nhiều, nhưng Effie Trinket cũng có lý khi nói: một khi chúng tôi ra đấu trường, ông ấy là tất cả những gì chúng tôi có. Cứ như đã ngầm đồng ý từ trước, Peeta và tôi mỗi người khoác một tay Haymitch giúp ông ta đứng dậy.

“Tôi bị vấp à?” Haymitch hỏi. “Mùi kinh quá.” Ông ta đưa tay lau mũi, quệt cả vết bẩn lúc nãy lên mặt.

“Để chúng cháu đưa ông về phòng,” Peeta nói. “Rửa ráy một chút cho ông.”

Chúng tôi nửa dìu, nửa bế Haymitch về phòng. Do không thể để ông ta nằm lên tấm trải giường thêu ren sạch sẽ, chúng tôi lôi Haymitch vào bồn tắm và bật vòi sen lên. Ông ta hầu như không biết gì.

“Được rồi,” Peeta nói với tôi. “Bây giờ để đấy cho tớ.”

Lòng tôi dâng lên chút cảm giác biết ơn, bởi tôi đang định cởi quần áo Haymitch, lau sạch những vết ói trên ngực ông ta và lôi ông ta lên giường. Có thể Peeta đang tìm cách gây ấn tượng tốt, để trở thành trò cưng của ông ấy khi Cuộc đấu bắt đầu. Nhưng với tình hình này thì chắc ngày mai ông ấy chẳng nhớ gì đâu.

“Tốt thôi,” tôi nói. “Để tôi gọi một người của Capitol đến giúp cậu.” Có vài người đang ở trên tàu. Nấu ăn cho chúng tôi. Đợi chúng tôi. Bảo vệ chúng tôi. Nhiệm vụ của họ là chăm sóc chúng tôi.

“Thôi khỏi. Tớ không cần đến họ,” Peeta nói.

Tôi gật đầu và đi về phòng. Tôi hiểu cảm giác của Peeta. Bản thân tôi cũng khó chịu khi nhìn thấy họ. Nhưng để Haymitch cho họ lo liệu có thể là một cách trả thù. Tôi tự hỏi tại sao cậu lại khăng khăng đòi chăm sóc Haymitch, để rồi đột nhiên nảy ra ý nghĩ, Bởi cậu ấy là người tốt. Như khi cậu ấy đưa tôi ổ bánh mì.

Suy nghĩ này làm tôi chột dạ. Một Peeta Mellark xấu xa. Ấn tượng về những người tốt thường đọng lại và khắc sâu trong tâm trí tôi. Tôi không thể để điều đó xảy ra với Peeta. Ít nhất là khi nghĩ về cái nơi chúng tôi sắp đến. Vậy nên, từ bây giờ, tôi quyết định tiếp xúc với con trai của chủ tiệm bánh mì càng ít càng tốt.

Khi tôi về đến phòng, xe lửa tạm dừng ở một nhà ga để tiếp nhiên liệu. Tôi nhanh tay mở cửa sổ, ném những chiếc bánh quy mà cha của Peeta đã đưa cho tôi ra khỏi xe lửa và đóng sập cửa kính xuống. Tôi không cần. Không cần thêm gì ở cả hai người bọn họ.

Không may, gói bánh quy rơi xuống đất và bung ra trên bãi cỏ bồ công anh mọc cạnh đường ray. Tôi chỉ thấy trong giây lát bởi con tàu đã lăn bánh trở lại, nhưng như thế là đủ. Đủ để nhắc tôi về những bông hoa bồ công anh trên sân trường vài năm về trước…

Ngay khi quay đi hỏi gương mặt thâm tím của Peeta Mellark, tôi thấy những bông hoa bồ công anh và biết rằng hy vọng không hề tắt. Tôi cẩn thận hái hoa và bước vội về nhà. Tôi túm lấy một cái sọt, dắt Prim đến Đồng cỏ và y như rằng, nơi đây đã được điểm tô bằng những nhánh cỏ dại trổ hoa óng ả. Hái xong chỗ này, chúng tôi lại tiếp tục sục sạo dọc theo bờ rào khoảng một dặm cho đến khi trong sọt đầy lá, thân và hoa bồ công anh. Tối hôm đó, chúng tôi ăn ngấu nghiến món xa lát bồ công anh và phần bánh mì còn lại.

“Còn gì nữa không chị?” Prim hỏi tôi. “Mình còn kiếm được thứ gì ăn nữa không?”

“Chúng ta có thể kiếm được mọi thứ,” tôi hứa với nó. “Chị vừa nhớ ra thứ này.”

Mẹ tôi có cuốn sách bà luôn mang theo từ cửa hàng bào chế thuốc. Những trang sách làm bằng giấy da sờn cũ chi chít hình vẽ những loài cây cỏ. Những dòng chữ ngay ngắn mô tả tên loài cây, nơi hái chúng, khi nào thì nở hoa và tác dụng làm thuốc. Nhưng cha tôi còn thêm vào cuốn sách những mục khác. Những loài để ăn, không phải để chữa bệnh. Bồ công anh, thương lục, hành dại, thông. Prim và tôi dành cả tối để nghiền ngẫm những trang sách ấy.

Ngày hôm sau chúng tôi nghỉ học. Tôi dạo quanh ngoài rìa khu Đồng cỏ một lúc, cuối cùng lấy can đảm tiến về phía hàng rào. Đó là lần đầu tiên tôi ra ngoài một mình mà không có cha mang theo vũ khí bảo vệ. Tôi lấy ra cây cung nhỏ và những mũi tên cha tôi làm từ phần trong một thân cây rỗng. Ngày hôm đó hình như tôi không vào sâu trong rừng quá hai mươi mét. Phần lớn thời gian tôi nằm phục trên một nhánh cây sồi già, chờ con mồi đến. Sau vài giờ, tôi may mắn giết được một con thỏ. Tôi từng săn được vài con thỏ dưới sự hướng dẫn của cha. Nhưng đây là con đầu tiên tôi tự mình săn được.

Chúng tôi không có thịt để ăn đã nhiều tháng nay. Con thỏ như làm gợn lên điều gì đó trong mẹ tôi. Bà đứng dậy, đi lột da thỏ và làm món thịt hầm với ít rau mà Prim hái được. Sau đó bà bỗng trở nên bối rối và quay trở lại giường, nhưng khi xong món thịt hầm, chúng tôi mang cho bà một tô.

Cánh rừng trở thành cứu tinh của chúng tôi, càng ngày tôi càng lấn sâu vào đó. Tuy ban đầu còn dè dặt nhưng tôi đã quyết tìm thức ăn nuôi cả nhà. Tôi nhặt trộm trứng ở tổ chim, bắt cá bằng lưới, thỉnh thoảng tìm cách bắn một con sóc hay thỏ về nấu thịt hầm, hái rau cỏ dại sinh sôi nảy nở dưới chân. Cây cỏ cũng phức tạp. Nhiều thứ có thể ăn được, nhưng chỉ một lần lỡ miệng là bạn đi đời. Tôi xem xét và so sánh một lần nữa những cây mình hái được với hình ảnh cha tôi đã về. Tôi đã cứu sống cả nhà.

Lúc mới bước vào nghề săn bắn, ngay khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào như một tiếng hú từ xa hay một tiếng cành cây gãy bất thường, tôi đều phóng nhanh về phía hàng rào. Sau đó tôi bắt đầu mạo hiểm trèo lên cây để trốn thoát những con chó hoang. Chúng nhanh chóng nhận ra không có gì và bỏ đi. Gấu và mèo rừng sống ở sâu hơn trong rừng, có lẽ vì chúng không thích bụi than đen của quận chúng tôi.

Ngày 8 tháng Năm, tôi đến Tòa Tư pháp, ký lấy tê-ra, mang về nhà phần ngũ cốc và dầu ăn đầu tiên đựng trong chiếc xe đầy đồ chơi của Prim. Vào ngày mùng tám hàng tháng tôi đều được lãnh như vậy. Tất nhiên tôi không thể dừng công việc săn bắn và hái lượm. Ngũ cốc không đủ để nuôi sống chúng tôi, và cũng còn những thứ khác cần mua, như xà phòng, sữa và chỉ may. Với những món không thiết yếu lắm, tôi bắt đầu mang đến trao đổi ở chợ Hob. Tôi thấy sợ khi đến nơi ấy mà không có cha bên cạnh, nhưng người ta cũng tôn trọng cha tôi nên để tôi buôn bán ở đó. Thịt gì thì thịt, ai săn được cũng vậy thôi. Tôi cũng đến bán ở cửa sau nhà những khác hàng giàu có hơn trong thị trấn, cố gắng nhớ những gì cha tôi đã dặn, ngoài ra cũng học được một vài mánh khóe mới. Chủ hàng thịt sẽ mua thỏ chứ không mua sóc. Chủ tiệm bánh thích sóc nhưng chỉ mua một con nếu vợ ông ta không có ở đó. Trưởng Đội Trị an thích gà rừng. Ngày thị trưởng lại khoái ăn dâu.

Vào cuối mùa hè, khi đan rửa ráy cạnh ao thì tôi chú ý tới một loài cây mọc xung quanh. Lá của nó vươn cao như đầu mũi tên. Hoa nở với ba cánh màu trắng. Tôi quỳ gối xuống nước, bới tay xuống lớp bùn mịn và lôi lên một vốc rễ củ. Những củ nhỏ màu xanh lợt trông không giống khoai tây lắm nhưng đem luộc hoặc nướng thì ngon không kém. “Cây Cát nhĩ,” (Katniss, một loài cây hư cấu.) tôi nói lớn. Loài cây mà tôi được đặt tên theo. Và tôi nghe thấy tiếng cha nói đùa, “Chỉ cần con tìm thấy mình, con sẽ không bao giờ đói.” Suốt hàng giờ liền, tôi dùng ngón chân và một que củi khuấy dưới đáy ao và nhặt những củ nổi lên mặt nước. Đó là lần đầu tiên trong nhiều tháng chúng tôi được một bữa căng bụng.

Mẹ từ từ trở lại với chúng tôi. Bà bắt đầu lau dọn, nấu nướng và bảo quản một số thức ăn tôi mang về cho mùa đông. Người ta cũng trao đổi thứ gì đó hoặc trả tiền cho chúng tôi khi nhận thuốc của bà. Một ngày nọ, tôi nghe bà hát.

Prim rung lên vì xúc động khi thấy mẹ trở lại bình thường, nhưng tôi vẫn quan sát, chờ đợi đến khi bà bỏ mặc chúng tôi lần nữa. Tôi không tin tưởng bà. Ở đâu đó trong tâm khảm tôi vẫn ghét bà vì bệnh tật, vì sự buông lơi, vì những tháng ngày bà để chúng tôi phải trải qua. Prim đã tha thứ cho mẹ, nhưng tôi vẫn do dự trước bà, dựng lên một rào cản để bảo vệ mình khỏi sự thèm khát tình mẫu tử, và mọi thứ giữa chúng tôi không thể trở lại như cũ được nữa.

Còn bây giờ thì tôi sẽ chết mà chẳng thể chứng kiến mọi chuyện tốt đẹp hơn. Hôm nay tôi đã muốn gào lên thật to với mẹ ở Tòa Tư pháp. Dù sao, tôi cũng đã nói mình yêu bà. Có lẽ mọi thứ sẽ trở lại bình thường.

Tôi đứng nhìn qua cửa sổ xe lửa một lúc, ước rằng mình có thể mở lại nó lần nữa, nhưng không chắc điều gì sẽ xảy ra ở độ cao thế này. Tôi thấy ánh sáng của những quận khác ở đằng xa. Quận 7 ư? Quận 10 ư? Tôi không biết. Tôi nghĩ về những người đang ở torng nhà họ và chuẩn bị lên giường. Tôi nghĩ đến nhà mình, về mành chớp khép kín. Mẹ và Prim bây giờ đang làm gì? Liệu hai người có ăn được bữa tối không? Với món cá hầm và dâu chứ? Hay là chúng vẫn còn nguyên trên dĩa? Liệu họ có xem chương trình tổng hợp những sự kiện trong ngày từ chiếc ti vi cũ kỹ mòn vẹt nằm trên cái bàn kê sát tường? Hẳn là họ đã khóc nhiều hơn. Liệu mẹ tôi có đứng dậy nổi và vững vàng bên Prim? Hay là bà đã lánh đi, để lại gánh nặng của cuộc đời đè lên đôi vai yếu ớt của nó?

Chắc chắn Prim sẽ ngủ với mẹ tối nay. Nghĩ đến việc con mèo Hũ bơ già sẽ leo lên giường và canh chừng Prim, lòng tôi dịu lại. Nếu nó khóc, con mèo sẽ rúc mũi vào cánh tay nó và quấn quít ở đó cho đến khi nó nín và thiếp đi. Tôi mừng là mình đã không dìm chết con mèo.

Hình dung về gia đình làm lòng tôi tràn ngập nỗi cô đơn. Một ngày dài vô tận. Liệu có phải Gale và tôi chỉ mới ăn những quả dâu vào sáng nay? Điều đó như xảy ra cách đây lâu lắm rồi. Như một giấc mơ dài bị cơn ác mộng đè bẹp. Rất có thể sau khi chìm vào giấc ngủ, khi tỉnh dậy tôi sẽ lại được trở về Quận 12, nơi tôi vốn thuộc về.

Trong ngăn kéo chắc có nhiều đồ ngủ, nhưng tôi chỉ cởi áo và quần dài rồi leo lên giường với đồ lót. Mặt giường làm bằng vải mềm và mịn. Mặt bông dày phủ lông tơ ngay lập tức giữ ấm cho tôi.

Bây giờ thì tôi có quyền khóc. Đến mai tôi vẫn có thể lau sạch dấu vết trên mặt. Nhưng không có giọt nước mắt nào nữa. Tôi không còn hơi sức để khóc. Bây giờ tôi chỉ muốn được sống trong một nơi khác. Tôi mặc cho xe lửa dập dình đưa mình vào quên lãng.

  Khi tôi bị đánh thức bởi tiếng động lạ, một thứ ánh sáng lờ mờ đang lách qua mành cửa. Tôi nghe thấy Effie Trinket gọi. “Dậy, dậy, dậy. Hôm nay sẽ là một ngày quan trọng, cực kỳ quan trọng!” Tôi gượng dậy và trong một thoáng tự hỏi liệu trong đầu người phụ nữ này đang có những gì. Ban ngày bà nghĩ gì? Ban đêm bà mơ thấy gì? Tôi không biết.

Tôi mặc lại bộ đồ màu xanh vì nó cũng không bẩn lắm, chỉ là hơi nhàu do tôi để cả đêm dưới sàn. Tôi chạm ngón tay vào vòng tròn bao quanh con húng nhại bé xíu bằng vàng; tôi nghĩ về khu rừng, về cha tôi, về mẹ cùng Prim khi họ thức dậy, phải tiếp tục với cuộc mưu sinh. Trong khi ngủ, tôi giữ nguyên mái tóc đã được mẹ tết cẩn thận trong ngày chiêu quân, bây giờ nhìn nó cũng không tệ lắm nên tôi vẫn để như vậy. Mà chuyện đó chẳng còn quan trọng. Giờ đây chúng tôi không còn cách Capitol bao xa nữa. Một khi đến thành phố, người tạo mẫu sẽ quyết định trang phục cho tôi trong lễ khai mạc tối nay. Chỉ hy vọng người đó không thích mẫu khỏa thân.

Khi tôi vào toa ăn, Effie Trinket đi ngang qua tôi với tách cà phê đen trên tay. Bà lầm bầm những lời thóa mạ trong họng. Haymitch, với khuôn mặt sưng húp và ửng đỏ sau con say ngày hôm trước, trông khoái trá ra mặt. Peeta cầm một ổ bánh và trông có vẻ bối rối.

“Ngồi xuống! Ngồi xuống!” Haymitch nói, vẫy tôi lại. Vừa ngồi xuống ghế, tôi được phục vụ ngay một dĩa thức ăn to khủng. Trứng, giăm bông cùng một vốc khoai tây chiên. Liễn trái cây được ủ đá để giữ hoa quả tươi. Rổ bánh mì trước mặt có thể nuôi sống gia đình tôi trong một tuần. Cạnh đó là ly cam ép xinh xắn. Ít ra là trong suy nghĩ của tôi. Tôi từng được nếm thử cam vỏn vẹn một lần, vào ngày Tân niên khi được cha mua tặng một quả như một món quà đặc biệt. Một tách cà phê. Mẹ tôi vẫn ao ước cà phê lắm, thứ mà nhà tôi khó có thể mua, nhưng tôi chỉ thấy nó đắng và nhạt. Một tách màu nâu sẫm đựng thứ gì đó tôi chưa thấy bao giờ.

“Người ta gọi nó là sô cô la nóng,” Peeta nói. “Ngon phết.”

Tôi hớp thử một ngụm thứ nước ấm nóng, ngọt và đặc quánh rồi rùng mình. Dù còn nhiều món khác bày trước mặt, tôi vẫn không màng cho tới khi hạ tách sô cô la xuống. Rồi tôi bắt đầu ăn thả phanh, ngoạm từng miếng thật lớn, cố gắng để không bị nghẹn. Mẹ từng nói tôi luôn ăn như thể sẽ không bao giờ được ăn lần nữa. Và tôi đáp, “Con không mang về thì lấy đâu mà ăn.” Nghe đến thế mẹ tôi im re.

Khi dạ dày tưởng như sắp nức toát, tôi ngả ra sau, nhìn mọi người một lượt. Peeta vẫn còn ăn, cậu đang bẻ bánh nhúng vào sô cô la nóng. Haymitch không để ý lắm đến đĩa thức ăn của mình, nhưng ông nốc hết cốc nước ép màu đỏ pha loãng bằng một thứ chất lỏng trong suốt từ một cái chai. Nghe mùi thì chắc là cồn. Tôi không quen Haymitch, nhưng vẫn thường thấy ông ta ở chợ Hob, ném những nắm đồng xu vào khay tiền của bà bán rượu đế. Rồi ông ta sẽ lại lè nhè khi chúng tôi đến Capitol thôi.

Tôi nhận ra mình thậm ghét Haymitch. Chẳng trách Quận 12 chưa bao giờ có cơ hội. Đó không chỉ vì chúng tôi không đủ ăn và thiếu luyện tập. Một số đấu thủ ở quận tôi vẫn thừa khỏe mạnh để tham dự. Nhưng hiếm khi nào chúng tôi tìm được tài trợ và lão ta là một nguyên nhân đáng kể. Những tay nhà giàu tài trợ cho thí sinh – vì họ đang đặt cược vào thí sinh ấy hay đơn giản là muốn mình có cái quyền khoe khoang khi cược người thắng cuộc – đều chờ đợi một ai đó nghiêm chỉnh hơn Haymitch để bàn bạc.

“Vậy ông sẽ cho chúng cháu lời khuyên chứ,” tôi nói với Haymitch.

“Đây là lời khuyên. Hãy giữ mạng sống,” Haymitch nói và phá lên cười. Tôi đưa mắt nhìn Peeta trước khi nhớ ra là mình cũng không biết nói thêm gì. Tôi ngạc nhiên khi thấy nét khắc khổ trong đôi mắt ông. Nhìn bề ngoài ông cũng có vẻ đôn hậu.

“Buồn cười thật đấy,” Peeta nói. Đột nhiên cậu hất văng chiếc cốc trong tay Haymitch. Chiếc cốc vỡ toang dưới nền nhà làm một dòng nước đỏ như máu chảy lan về đuôi toa tàu. “Nhưng không buồn cười với bọn cháu chút nào.”

Haymitch im lặng một thoáng, rồi đám vào quai hàm Peeta khiến cậu ngã ngửa. Khi Haymitch quay lại định rót ly rượu khác, tôi chặt con dao xuống bàn vào khoảng giữa tay ông với chai rượu, suýt nữa rớt mấy ngón tay ông. Tôi co người để tránh ông đánh trả, nhưng ông không có ý định đó. Thay vào đó, Haymitch ngồi xuống và liếc bọn tôi.

“Ái chà, chuyện gì thế này?” Haymitch nói. “Cuối cùng thì năm nay tôi cũng có hai chiến binh thực sự rồi sao?”

Peeta gượng dậy từ dưới sàn và vốc lấy nắm đá trong liễn trái cây. Cậu ấy bắt đầu đắp đá lên phần máu bầm dưới cằm.

“Đừng,” Haymitch ngăn cậu lại. “Để nguyên vết bầm ở đấy. Khán giả sẽ nghĩ cậu vừa gây sự với một đấu thủ khác trước cả khi cậu làm thế ở đấu trường.”

“Như vậy là trái luật,” Peeta nói.

“Chỉ khi nào người ta bắt quả tang cậu. Vết bầm sẽ chứng tỏ cậu đã đánh nhau, mà cậu lại không bị tóm, như vậy tốt hơn,” Haymitch nói. Ông ta quay sang tôi. “Cháu có làm được gì với con dao trên bàn không?”

Sở trường của tôi là bắn tên. Nhưng tôi cũng dành ít thời gian tập phóng dao. Thỉnh thoảng khi bắn bị thương một con thú, tôi thường phóng thêm mũi dao trước khi đến tóm cổ nó. Tôi nhận ra nếu muốn gây chú ý với Haymitch thì bây giờ chính là lúc. Tôi rút dao ra khỏi bàn, kẹp chặt lưỡi dao và phóng vào bức tường phía bên kia. Thực ra tôi chỉ hy vọng nó sẽ cắm chặt vào tường, nhưng nó lại rút vào khe hở giữa hai ô tường, khiến tôi có vẻ xuất sắc hơn khả năng vốn có.

“Đứng lại đây nào. Cả hai đứa,” Haymitch nói, hướng đầu về phía giữa phòng. Chúng tôi nghe theo và ông đi vòng quanh cả hai, thỉnh thoảng lại thúc vào người chúng tôi như xem xét những con thú, kiểm tra cơ bắp, quan sát mặt mũi của bọn tôi. “Ừ, hai cháu không hoàn toàn vô tích sự đâu. Tron săn chắc đấy. Sau khi làm việc với người tạo mẫu, các cháu sẽ trở nên lôi cuốn.”

Peeta và tôi không thắc mắc gì về chuyện đó. Đấu trường tuy không phải cuộc thi sắc đẹp, những những đấu thủ ưa nhìn nhất có vẻ lôi cuốn được nhiều nhà tài trợ hơn.

“Thôi được, ta và các cháu sẽ có một thỏa thuận. Đừng can thiệp vào rượu của ta, và ta sẽ cố giữ tỉnh táo để giúp các cháu.” Haymitch nói. “Nhưng các cháu phải làm đúng những gì ta đã dặn dò.”

Việc này không có gì to tát, nhưng nó là bước tiến đáng kể so với việc mười phút trước đó chúng tôi không có ai chỉ dẫn cả.

“Tốt thôi,” Peeta nói.

“Vậy theo ông,” tôi nói, “khi bọn cháu vào đấu trường, chiến thuật nào là tốt nhất ở Cornucopia (địa điểm trung tâm của đấu trường) để một người…”

“Bây giờ chỉ cần nhớ điều này. Ít phút nữa, chúng ta sẽ tiến vào nhà ga. Các cháu sẽ được giao cho những người tạo mẫu của mình. Có thể các cháu sẽ không thích cách họ làm. Nhưng dù thế nào đi nữa, đừng phản đối,” Haymitch nói.

“Nhưng mà…” tôi dùng dằng.

“Không nhưng gì hết. Đừng phản đối,” Haymitch nói. Ông cầm lấy chai rượu trên bàn và ra khỏi toa tàu. Khi cánh cửa khép lại sau lưng ông, toa tối dần. Bên trong vẫn còn một chút ánh sáng nhưng ở bên ngoài có vẻ như màn đêm đã lại buông xuống. Tôi nhận ra chúng tôi đang ở trong đường hầm đi xuyên qua núi tiến vào Capitol.

Peeta Mellark và tôi đứng trong im lặng trong lúc tàu chạy. Đường hầm kéo dài ngun ngút làm tôi nghĩ đến hàng tấn đá đang chia cách tôi với bầu trời, rồi lồng ngực tôi thóp lại. Tôi ghét bị ép mình trong đá theo cách này. Nó khiến tôi lại nhớ đến hầm mỏ và cha tôi, bị kẹt, bất lực tìm kiếm ánh mặt trời rồi bị vùi trong bóng tối mãi mãi.

Cuối cùng con tàu cũng đi chậm lại và ánh sáng đột ngột tràn ngập căn phòng. Chúng tôi không thể đừng được. Cả Peeta và tôi chạy đến cửa sổ để xem những gì chỉ được thấy trên ti vi; đó là Capitol, thành phố cai quản Panem. Những thước phim không hề bịa đặt về sự hào nhoáng của nó. Nếu có, chỉ là chúng đã không quay hết sự lộng lẫy của những tòa nhà lấp lánh dưới ánh cầu vồng rực rỡ, sừng sững trong không trung, những chiếc xe hơi bóng loáng lăn bánh trên đường phố rộng thênh thang, những đám người chưng diện phá cách với mái tóc quái dị và khuôn mặt hồng hào chưa bao giờ biết đến cái đói. Những màu sắc đó đều có vẻ giả tạo, màu hồng quá sẫm, màu xanh lá quá sáng, màu vàng quá chói mắt, giống như những chiếc dĩa tròn dẹt đựng kẹo đường sặc sỡ mà tôi chưa bao giờ mua nổi nằm trong một tiệm đồ ngọt nhỏ xíu ở Quận 12.

Người ta bắt đầu chỉ trỏ chúng tôi đầy phấn khích khi nhận ra con tàu chở những đấu thủ đang lăn bánh vào thành phố. Tôi lùi ra khỏi cửa sổ, cảm thấy buồn nôn bởi sự hào hứng của họ, bởi sự hào hứng được xem chúng tôi bước vào chỗ chết. Nhưng Peeta vẫn đứng yên đó, đúng hơn là đang vẫy tay và tươi cười trước đám đông mắt chữ O mồm chữ A. Cậu chỉ ngừng lại khi con tàu tiến vào ga, tách chúng tôi khỏi tầm nhìn của họ.

Thấy tôi nhìn săm soi, Peeta nhún vai: “Ai biết được?” cậu nói. “Trong số đó biết đâu có ai giàu có thì sao.”

Tôi đã đánh giá sai Peeta. Tôi nhớ lại những cử chỉ của cậu kể từ ngày chiêu quân. Cái siết tay thân thiện với tôi. Cha cậu xuất hiện với những chiếc bánh quy và hứa sẽ chăm nuôi Prim… liệu có phải Peeta đã bảo ông ấy làm vậy? Những giọt nước mắt của cậu ở ga. Tình nguyện lau người cho Haymitch nhưng sáng nay lại thách thức ông khi chiến thuật lấy lòng có vẻ không thành. Và bây giờ thì lại vẫy tay trước cửa sổ, tìm cách ghi điểm với đám đông.

Tất cả những mảnh ghép vẫn ăn khớp với nhau, bỗng nhiên tôi có cảm giác Peeta đã có sẵn một kế hoạch. Cậu không chấp nhận cái chết. Cậu đã bắt đầu chiến đấu để sống sót. Điều đó cũng có nghĩa là Peeta Mellark, chàng trai đã cứu sống tôi bằng ổ bánh mì ngày nào, giờ đang cố gắng chiến đấu để tôi phải chết. Chương 5

R-i-i-i-p! Tôi nghiến chặt răng khi Venia, một người đàn bà có mái tóc xanh dương và hình xăm vàng chóe trên lông mày giật miếng vải khỏi chân tôi, kéo theo mớ lông bên dưới. “Xin lỗi nhé!” bà ta the thé thứ giọng Capitol quái gở. “Tại chân cô bé nhiều lông quá!”

Tại sao những người này lại nói giọng cao thế nhỉ? Tại sao họ hầu như không há quai hàm khi nói? Tại sao họ lại lên giọng vào cuối câu như đang hỏi người khác? Những nguyên âm kỳ lạ, những chữ bị nuốt, và lúc nào cũng xì xì khi phát ra âm s… thảo nào người ta không thể bắt chước họ.

Venia tỏ vẻ mặt thông cảm. “Thôi nào, tin tốt đây. Đây là cú chót. Sẵn sàng chưa?” Tôi nắm chặt tay vào cạnh bàn và gật đầu. Mảng lông chân cuối cùng bị nhổ phăng sau một cú giật đau điếng.

Tôi đã ở Trung tâm Làm đẹp ba giờ đồng hồ mà vẫn chưa được gặp người tạo mẫu. Có vẻ anh ta không có hứng thú gặp tôi trước khi Venia và những người khác trong đội chuẩn bị xử lý xong các khâu cơ bản. Họ kỳ cọ thân thể tôi bằng một miếng bọt biển xù xỉ, gột đi không chỉ lớp ghét bẩn mà cả ba lớp da; họ giũa móng tay móng chân của tôi thành cùng một hình thù; và chủ yếu họ làm sạch lông trên người tôi. Chân, tay, thân, nách và hay bên lông mày của tôi bị lột sạch bong, biến tôi thành một con chim bị vặt trụi để đem quay. Tôi không thích thế. Làm da của tôi tấy đỏ, ngứa ngáy và bị xây xát nặng. Nhưng tôi vẫn giữ giao kèo với Haymitch, không hé ra một lời phản đối nào.

“Em làm tốt lắm,” một anh chàng tên à Flavius nói. Anh ta lắc mái tóc xoắn ốc màu cam của mình rồi thoa một lớp son môi bóng nhẩy màu tím lên miệng. “Có một thứ mà bọn anh không thể chịu được, đó là loại người hay rên rỉ. Thoa dầu lên người cô bé!”

Venia cùng với Octavia, một bà béo ục ịch mà cả người được nhuộm một màu tai tái của đậu que, thoa kem dưỡng da khắp người tôi, mới đầu thì hơi buốt nhưng sau đó làn da thô ráp của tôi láng mịn hẳn. Rồi họ kéo tôi xuống bàn, cởi cả chiếc áo choàng mỏng mà trước đó tôi được phép mặc. Rôi đứng đó, trần như nhộng khi cả ba người đứng quanh tôi thành vòng tròn, dùng những chiếc nhíp nhổ những sợi lông cuối cùng sót lại. Đáng lẽ tôi phải thấy bối rối, nhưng họ khác người thường đến mức tôi chỉ hơi ngượng như thể có ba con két quái gở sặc sỡ đang mổ dưới chân mà thôi.

Cả ba bước lùi lại và chiêm ngưỡng thành quả. “Tuyệt vời! Giờ thì em không còn giống người rừng nữa!” Flavius nói, và họ cùng cười.

Tôi cố nở nụ cười để tỏ ra cảm kích. “Cám ơn,” tôi nói ngọt ngào. “Ở Quận 12 bọn em không có nhiều lý do để chưng diện.”

Tôi hoàn toàn thuyết phục họ. “Dĩ nhiên là không cần rồi, cháu gái tội nghiệp của ta!” Octavia nói, hay tay nắm lại bày tỏ sự thương hại.

“Nhưng cháu đừng lo,” Venia nói. “Đến tay Cinna, chắc chắn cháu sẽ trở nên lộng lẫy!”

“Bọn ta hứa đấy! Em biết không, sau khi chúng ta tẩy sạch lông và vết bẩn, trông em hết kinh dị rồi!” Flavius khích lệ. “Đi gọi Cinna thôi!”

Họ chạy tót ra khỏi phòng. Thật khó để ghét cái đội chuẩn bị này. Tuy họ là những kẻ ngớ ngẩn toàn diện nhưng, bằng một cách quái đản, tôi biết họ đang cố gắng giúp tôi thật lòng.

Tôi nhìn lên những bức tường và sàn nhà trắng lạnh lẽo, kìm nén cơn thôi thúc được nhặt áo choàng lên. Cái gã Cinna đó, nhà tạo mẫu của tôi, chắc chắn sẽ lại bắt tôi cởi ra ngay lập tức. Tôi đưa tay lên mái tóc. Đội chuẩn bị đã được dặn dò là giữ nguyên mái tóc như vậy. Tôi vuốt nhẹ vào những bím tóc mượt mà mẹ đã tết cẩn thận. Ôi mẹ tôi. Tôi đã để quên bộ đầm màu xanh và đôi giày của bà trên sàn tàu, chưa từng nghĩ đến việc nhặt chúng lên hay tìm cách giữ lấy chúng như giữ hồi ức về bà, về gia đình. Ước gì tôi đã làm thế.

Cửa mở và một chàng trai trẻ, hẳn là Cinna, bước vào. Tôi ngỡ ngàng khi thấy anh ta bình thường quá. Hầu hết những nhà tạo mẫu khi được phỏng vấn trên ti vi trông đều kiểu cách, màu mè và được chỉnh sửa bởi dao kéo đến độ kệch cỡm. Nhưng mái tóc hớt cao của Cinna lại có màu nâu tự nhiên. Anh ta vận áo sơ mi đen và quần thụng đơn giản. Sự chỉnh sửa duy nhất của anh, có lẽ là đường viền mắt được kẻ nhẹ nhàng màu vàng kim. Nó tạo thành những đốm vàng quanh đôi mắt xanh của anh. Và, mặc dù ghê tởm Capitol và kiểu cách ăn mặc gớm ghiếc của họ, tôi vẫn thấy đôi mắt đó thật cuốn hút.

“Chào Katniss. Anh là Cinna, nhà tạo mẫu của em,” anh nói bằng một giọng nhỏ nhẹ, không hề tỏ ra màu mè như người Capitol.

“Xin chào,” tôi đánh bạo.

“Đợi anh chút xíu, được chứ?” anh hỏi. Cinna bước xung quanh tấm thân trần truồng của tôi, không chạm lấy một cái nhưng vẫn dán mắt vào từng xăng ti mét một. Tôi kìm lại cái thôi thúc đưa hai tay che ngực. “Ai đã làm tóc cho em?”

“Mẹ em,” tôi nói.

“Đẹp đấy. Kiểu cổ điển. Và gần như cân xứng hoàn hảo với khuôn mặt của em. Mẹ em rất khéo tay,” anh nói.

Tôi đã đoán sẽ gặp một gã lòe loẹt, một lão khọm già khú nhưng lại cố cưa sừng làm nghé, một ai đó xem tôi như một miếng thịt bày trên đĩa. Cinna không giống như bất kỳ suy đoán nào của tôi.

“Anh là người mới phải không? Em chưa từng thấy anh,” tôi nói. Đa số những nhà tạo mẫu đều quen thuộc và đội ngũ này không thay đổi so với thành phần những đấu thủ. Một số nhà tạo mẫu tôi đã thấy từ bé đến giờ.

“Ừ, đây là năm đầu tiên của anh ở Đấu trường,” Cinna nói.

“Nên họ mới giao cho anh Quận 12,” tôi nói. Những người mới thường phụ trách chúng tôi, quận ít được ưu ái nhất.

“Anh yêu cầu Quận 12,” anh nói mà không giải thích gì thêm. “Sao em không mặc áo choàng vào và chúng ta cùng trò chuyện.”

Khoác áo lên người, tôi đi theo anh qua một cánh cửa vào phòng khách. Hai chiếc đi văng màu đỏ nằm đối diện nhau qua một chiếc bàn thấp. Ba bức tường trống không; bức thứ tư hoàn toàn bằng kính, tạo thành một cửa sổ nhìn vào thành phố. Nhìn ánh sáng, tôi có thể đoán được bây giờ là vào tầm trưa, dù bầu trời đã bị mây che khuất. Cinna mời tôi ngồi xuống một chiếc đi văng còn anh ngồi đối diện. Anh nhấn vào chiếc nút ở cạnh bàn. Mặt trên bàn mở ra và chiếc bàn thứ hai đặt bữa trưa của chúng tôi từ dưới nhô lên. Thịt gà và cam tươi nấu cùng nước sốt kem phủ trên mặt gạo trắng lột, đậu hạt và hành tây, bánh cuộn được xếp thành những cánh hoa và phần tráng miệng là một chiếc bánh pút đinh màu mật ong.

Tôi thử so sánh nó với bữa ăn ở nhà. Gà thường thì quá đắt, nhưng tôi có thể thay thế bằng thịt gà tây hoang. Tôi cần săn thêm một con nữa để đổi lấy cam. Sữa dê dùng để thay thế kem. Chúng tôi có thể trồng thêm đậu trong vườn. Tôi sẽ phải vào rừng hái hành dại. Tôi không biết thứ gạo trắng ấy là gì, khẩu phần ngũ cốc từ tê-ra của nhà tôi chỉ nấu được thứ cháo màu nâu kém hấp dẫn. Thêm mấy miếng bánh cuộn ngon lành nghĩa là phải trao đổi thêm với người chủ tiệm bánh, có lẽ hai hoặc ba con sóc. Còn với bánh pút đinh, tôi thậm chí còn không biết nó làm từ thứ gì. Tôi phải mất bao nhiêu ngày đi săn và hái lượm mới có được bữa ăn như thế này, dù là còn xa mới giống như của Capitol.

Tôi tự hỏi cuộc sống sẽ như thế nào ở một nơi mà thức ăn xuất hiện chỉ bằng một cái bấm nút? Tôi còn phải mất hàng giờ vào rừng mưu sinh để làm gì nếu cuộc sống trở nên quá dễ dàng? Họ, những cư dân ở Capitol, sẽ làm gì cả ngày ngoài việc tô điểm cho thân thể mình và chờ một lớp đấu thủ mới sẽ đến và chiến đấu đến chết để giải khuây cho họ?

Tôi nhìn lên và thấy đôi mắt của Cinna đang dán vào tôi. “Hẳn em thấy chúng tôi đáng khinh lắm,” anh nói.

Liệu anh có đoán được suy nghĩ của tôi dựa trên nét mặt hay bằng một cách nào đó? Dù sao anh cũng nói đúng. Phần đông mục ruỗng của họ thật đáng khinh.

“Không sao cả,” Cinna nói. “Thế này, Katniss, về quần áo của em trong lễ khai mạc. Cộng sự của anh, Portia, sẽ là người tạo mẫu cho bạn em, Peeta. Bọn anh đang nghĩ đến việc sẽ để các em mặc những trang phục phối hợp nhau,” Cinna nói. “Như em biết đấy, theo thông lệ thì các đấu thủ phải mặc trang phục phản ánh đặc điểm của quận họ.”

Trong lễ khai mạc, chúng tôi phải mặc thứ gì đó nói lên ngành nghề của quận mình. Quận 11 làm nông nghiệp. Quận 4 làm đánh cá. Quận 3 là khu nhà máy. Điều đó nghĩa là tôi và Peeta, đến từ Quận 12, sẽ mang phong cách của người thợ mỏ. Do bộ áo liền quần lùng thùng của người thợ mỏ không phù hợp, những vật tế của quận chúng tôi lúc nào cũng mặc trang phục sơ sài và đội những chiếc nón có đèn. Có năm họ còn phải trần như nhộng và được bôi một lớp bụi đen nhằm thể hiện bụi than. Luôn xấu thảm hại và không chiếm nổi một chút cảm tình của số đông. Tôi chuẩn bị cho mình tình huống xấu nhất.

“Vậy là, em sẽ mặc bộ đồ của thở mỏ?” tôi hỏi, hy vọng mình không khiếm nhã.

“Không hẳn. Em thấy đấy, Portia và anh nghĩ rằng phong cách thợ mỏ đã quá nhàm. Sẽ không ai nhớ đến bọn em với bộ đồ đó. Bọn anh đều thấy việc của mình là phải làm cho những đấu thủ của Quận 12 thật khó quên,” Cinna nói.

Chắc chắn mình phải cởi truồng, tôi nghĩ.

“Bởi vậy thay vì trọng tâm vào việc đào mỏ, chúng ta sẽ hướng trọng tâm vào than,” Cinna nói.

Cởi truồng và được phủ bởi lớp bụi đen, tôi nghĩ.

“Và chúng ta làm gì với than? Chúng ta sẽ đốt nó,” Cinna nói. “Em không sợ lửa chứ, Katniss?” Anh thấy nét mặt của tôi và cười sảng khoái. Vài giờ sau, tôi khoác trên người một thứ hoặc sẽ gây xúc động nhất hoặc sẽ tệ hại nhất trong lễ khai mạc. Tôi mặc một bộ áo liền quần đơn giản kéo từ mắt cá chân lên đến cổ. Chiếc ủng bóng loáng túm tới đầu gối. Nhưng chính chiếc áo choàng rực rỡ với những sọc màu cam, vàng và đỏ và chiếc mũ đội đầu mới là tâm điểm của bộ trang phục. Cinna định sẽ làm chúng bốc lửa ngay khi cỗ xe của chúng tôi lăn bánh xuống đường.

“Tất nhiên đó không phải là lửa thật, chỉ là anh và Portia nghĩ đến việc dùng một chút lửa nhân tạo. Em sẽ an toàn tuyệt đối,” anh nói. Nhưng tôi không chắc là trước khi vào được trung tâm thành phố tôi có trở thành món thịt nướng hay không.

Mặt tôi không trang điểm gì, chỉ tô một số chỗ. Mái tóc của tôi được chải mượt và tết dọc sống lưng như thường lệ. “Anh muốn khán giả phải lưu lại hình ảnh của em khi em vào đấu trường,” Cinna nói mơ màng. “Katniss, cô gái bốc lửa.”

Tôi chợt nghĩ có khi nào sự điềm tĩnh và thái độ hết sức bình thường của Cinna là vỏ bọc của một người hoàn toàn mất trí không.

Mặc dù có những phát hiện không hay về tính cách của Peeta trong sáng nay, tôi thật sự thở phào khi cậu xuất hiện trong một trang phục giống tôi. Là con trai chủ tiệm bánh, chắc cậu phải rành về lửa. Portia, người tạo mẫu cho cậu ấy và đội của cô ta cùng những người khác đều hoàn toàn ngây ngất trước sự rực rỡ của chúng tôi. Ngoại trừ Cinna. Anh có vẻ mệt mỏi khi nhận những lời chúc tụng.

Chúng tôi lướt nhanh xuống tầng dưới cùng của Trung tâm Làm đẹp, nơi trông hệt như một cái chuồng khổng lồ. Lễ khai mạc chuẩn bị bắt đầu. Từng cặp vật tế được đưa lên cỗ xe, được kéo bởi tốp ngựa bốn con. Đàn ngựa của chúng tôi có màu đen than. Chúng được huấn luyện kĩ càng đến mực không cần người giữ dây cương. Cinna và Portia dẫn chúng tôi lên xe, cẩn thận sắp xếp tư thế cho bọn tôi, xếp nếp lại chiếc áo choàng, trước khi quay sang nhau hỏi ý kiến.

“Cậu nghĩ thế nào?” Tôi thì thầm với Peeta. “Về ngọn lửa?”

“Tớ sẽ cứu cậu khỏi ngọn lửa nếu cậu cứu tớ trước,” cậu nghiến răng.

“Thỏa thuận nhé,” tôi nói. Có lẽ nếu cởi ra kịp chúng tôi sẽ tránh được cái chết cháy tồi tệ nhất. Dù sao thì việc này cũng thật tệ. Họ sẽ lại ném chúng tôi vào đấu trường bất kể tình trạng chúng tôi thế nào. “Tớ biết là chúng ta đã hứa với Haymitch là sẽ làm đúng những gì họ nói, nhưng tớ không nghĩ ông ấy đã lường trước điều này.”

“Mà Haymitch đâu rồi nhỉ? Không phải ông ấy sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những chuyện này sao?” Peeta nói.

“Tọng vào ngần ấy rượu, có lẽ ông ấy không nên có mặt trong màn khói lửa khai mạc đâu,” tôi nói.

Rồi bất chợt cả hai cùng cười. Có lẽ chúng tôi đều quá căng thẳng về Đấu trường và điều tối quan trọng là, nỗi lo sợ trước việc sẽ trở thành ngọn đuốc sống khiến chúng tôi hành động hơi cứng nhắc.

Nhạc dạo bắt đầu. Tiếng nhạc vang vọng khắp Capitol, ở đâu cũng nghe thấy. Hai cánh cửa khổng lồ mở ra từ từ, và trước mắt chúng tôi là đám đông xếp hàng dài trên những dãy phố. Cuộc diễu hành kéo dài khoảng hai mươi phút và dừng lại ở Vòng tròn Trung tâm, nơi họ sẽ chào đón chúng tôi, cử hành quốc ca và hộ tống chúng tôi vào Trung tâm Huấn luyện, nơi sẽ là nhà, hay nhà tù, của bọn tôi cho đến khi Đấu trường bắt đầu.

Những đấu thủ đến từ Quận 1 diễn hành trên cỗ xe kéo bởi những con bạch mã. Trông họ thật xinh đẹp trong lớp sơn phun màu bạc cùng trang phục bắt mắt lấp lánh trang sức. Quận 1 chế tác những món đồ đắt giá cho Capitol. Bạn có thể nghe tiếng hò hét của đám đông. Những đấu thủ này luôn giành được sự mến mộ.

Theo sau họ, Quận 2 tiến vào vị trí. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tiến vào cửa và tôi có thể thấy giữa những khoảng trời u ám và màn đêm đang buông xuống, màn sáng đang xám dần. Khi Cinna xuất hiện với một cây đuốc đang bốc cháy thì cỗ xe của những đấu thủ từ Quận 11 cũng vừa đi khỏi. “Đến lượt chúng ta rồi,” anh nói, và trước khi chúng tôi kịp phản ứng, anh châm lửa vào chiếc áo choàng của bọn tôi. Tôi thở gấp, chờ đợi cái nóng nhưng chỉ thấy nhồn nhột. Cinna leo lên trước mặt chúng tôi và châm lửa vào chiếc mũ. Anh thở phào. “Tốt rồi,” Rồi tay anh nhẹ nhàng nâng cằm tôi lên. “Nhớ nhé, đầu phải ngẩng cao. Miệng cười. Họ sẽ yêu mến em!”

Cinna nhảy khỏi cỗ xe và nảy ra ý tưởng cuối cùng. Anh hét lên thứ gì đó về phía chúng tôi, nhưng tiếng nhạc át đi. Anh hét lại lần nữa và dùng cử chỉ cho tôi thấy.

“Anh ta nói gì vậy?” Tôi hỏi Peeta. Lần đầu tiên tôi nhìn sang cậu và nhận ra với ngọn lửa giả rừng rực, cậu đang phát sáng. Chắc là tôi cũng thế.

“Tớ nghĩ anh ta nói chúng ta nắm tay,” Peeta nói. Tay trái cậu ta nắm lấy tay phải tôi, và chúng tôi nhìn vào Cinna để xác nhận. Anh gật đầu và giơ ngón tay cái lên, đó là điều cuối cùng tôi thấy trước khi tiến vào thành phố.

Sự ngỡ ngàng ban đầu của đám đông khi nhìn thấy chúng tôi nhanh chóng chuyển thành tiếng hoan hô và la hét “Quận 12!” Mọi ánh mắt đều quay về phía chúng tôi, rời sự chú ý khỏi ba cỗ xe đi trước. Ban đầu tôi đứng như trời trồng nhưng sau khi thấy chúng tôi xuất hiện trên màn hình lớn, tôi ngạc nhiên trước sự xuất hiện ấn tượng của mình. Dưới ánh chiều chạng vạng đang dần xế, ngọn lửa làm bừng sáng khuôn mặt chúng tôi. Chúng tôi như để lại vết lửa sau chiếc áo choàng tung bay. Cinna nói đúng về việc trang điểm càng ít càng tốt, cả hai chúng tôi trông cuốn hút và vô cùng ấn tượng.

Nhớ lấy, đầu ngẩng cao. Miệng cười. Họ sẽ yêu mến em! Tiếng của Cinna văng vẳng trong đầu tôi. Tôi ngước cằm lên một chút, nở nụ cười chiến thắng và vẫy bàn tay còn lại. Tôi thấy mừng vì lúc này đã có Peeta giữ thăng bằng; cậu ấy quá vững vàng, rắn rỏi như một tảng đá. Khi đã lấy lại tự tin, thậm chí tôi còn trao một vài nụ hôn gió cho đám đông. Những người ở Capitol trở nên cuồng nhiệt, tung hoa chào đón chúng tôi, gào tên họ chúng tôi mà họ phải khó khăn lắm mới tìm được trong chương trình khai mạc.

Tiếng nhạc rộn ràng, tiếng hoan hô và sự ngưỡng mộ của đám đông len lỏi vào máu thịt tôi và tôi không thể nén lại niềm hân hoan. Cinna đã tạo cho tôi một lợi thế to lớn. Họ sẽ không quên tôi, không quên vẻ bề ngoài hay tên tôi. Katniss, cô gái bốc lửa.

Lần đầu tiên, trong lòng tôi nhen nhóm chút hy vọng. Chắc chắn sẽ có một nhà tài trợ đến tìm tôi! Và với một chút hỗ trợ, chút thức ăn và có thứ vũ khí mình cần, tại sao tôi không thể đặt niềm tin vào chính mình trong Đấu trường chứ?

Ai đó tung cho tôi một bông hồng thắm. Tôi nhặt lấy nó, khẽ ngửi và gửi trả lại một chiếc hôn gió về hướng người đó. Hàng trăm cánh tay đưa lên tóm lấy chiếc hôn của tôi, như thể nụ hôn có thật và có thể cầm nắm được.

“Katniss! Katniss!” Tôi có thể nghe thấy tên mình được gọi lên ở khắp mọi phía. Tất cả đều muốn nhận lấy nụ hôn của tôi.

Mãi đến khi vào đến Vòng tròn Trung tâm tôi mới nhận ra là suốt cuộc diễu hành, tôi đã tay trong tay với Peeta. Tôi nắm tay cậu mới chặt làm sao. Tôi nhìn xuống nơi những ngón tay của bọn tôi đan vào nhau và nới lỏng ra, nhưng cậu vẫn nắm chặt. “Không, đừng rời khỏi tớ,” cậu nói. Một ánh lửa lập lòe trong đôi mắt xanh của cậu. “Làm ơn. Tớ không đứng vững đâu.”

“OK” tôi nói. Tôi vẫn nắm tay cậu nhưng không thể không có cảm giác lạ lùng về cái cách mà Cinna đã kết hợp hai đứa tôi. Việc giới thiệu chúng tôi như một đội và buộc chúng tôi phải tàn sát nhau trong trường đấu không thật công bằng.

Mười hai cỗ xe dạo một vòng quanh Vòng tròn Trung tâm. Đứng chật kín bên cửa sổ của những tòa nhà xung quanh Vòng xoay là những người có thanh thế nhất của Capitol. Đoàn ngựa kéo cỗ xe chúng tôi đến trước dinh thự của tổng thống Snow rồi dừng lại. Tiếng nhạc kết thúc bằng một hồi kèn.

Từ ban công phía trên chúng tôi, ngài tổng thống, một người đàn ông nhỏ con, mảnh khảnh với mái đầu trắng xóa, gửi đến mọi người lời chào mừng chính thức. Theo thông lệ thì trong suốt bài diễn văn, đám máy quay sẽ quay mặt các vật tế. Nhưng theo tôi thấy trên màn hình thì chúng tôi được quay nhiều hơn cả. Trời càng tối, người ta càng khó rời sự chú ý khỏi ánh sáng rực rỡ của bọn tôi. Khi quốc ca được cử lên, họ cố gắng quay một lượt cùng từng cặp đấu thủ, nhưng camera vẫn dán vào cỗ xe của Quận 12 trong lúc chúng tôi diễu hành qua vòng xoay lần cuối và mất hút vào Trung tâm Huấn luyện.

Khi những cánh cửa đóng lại sau lưng cũng là lúc chúng tôi bị nhấn chìm trong những đội chuẩn bị, lũ người đang xì xồ những lời tán dương thiếu suy nghĩ. Liếc quanh, tôi nhận thấy nhiều vật tế khác đang bắn những ánh mắt ganh tị về phía chúng tôi, điều càng làm cho phán đoán của tôi chính xác hơn, thực sự là chúng tôi đã làm lu mờ tất cả bọn họ. Rồi Cinna và Portia tiến tới, giúp chúng tôi xuống xe, cẩn thận tháo chiếc áo choàng và mũ đội đầu đang bốc lửa khỏi người chúng tôi. Portia dập lửa bằng một chiếc bình phun ra thứ gì đó như sương mù.

Tôi nhận ra mình vẫn nắm tay Peeta và cố mở những ngón tay tê cứng của mình. Bọn tôi tranh thủ xoa bóp tay.

“Cám ơn đã nắm tay tớ. Lúc nãy tớ hơi run,” Peeta nói.

“Người ta không thấy đâu,” tôi nói với cậu. “Tớ dám chắc là không ai để ý.”

“Tớ chắc là không ai để ý đến điều gì khác ngoài cậu. Cậu nên mặc bộ đồ lửa này nhiều hơn,” cậu nói. “Chúng hợp với cậu đấy.” Rồi Peeta nở một nụ cười rất tươi pha chút ngượng ngùng, làm tôi bất giác cảm thấy như có một luồng hơi ấm đang chạy qua người.

Trong đầu tôi reo lên tiếng chuông cảnh báo. Đừng quá ngớ ngẩn như thế. Peeta đang tính toán làm thế nào để giết mình đây, tôi nhắc nhở mình. Cậu ta đang thả thính để biến mình thành một con mồi ngon. Càng đáng mến bao nhiêu, cậu ta càng gian xảo bấy nhiêu.

Nhưng vì trò đấu trí không của riêng ai, tôi kiễng chân và hôn vào má Peeta. Ngay vết bầm của cậu năm xưa.

Chương 6

Trung tâm Huấn luyện có một tòa tháp được thiết kế dành riêng cho những vật tế và đội của họ. Đây sẽ là ngôi nhà của chúng tôi cho đến khi Đấu trường thực sự bắt đầu. Mỗi quận một tầng. Bạn chỉ cần bước vào thang máy và nhấn số quận của mình. Rất dễ nhớ.

Tôi đã từng đi thang máy vài lần ở Tòa Tư pháp khi còn ở Quận 12. Một lần đến để nhận huân chương vinh danh cho sự hy sinh của cha tôi và lần cuối là vào hôm qua khi nói lời tạm biệt với bạn bè và gia đình. Nhưng đó là một chiếc thang máy tối tăm và kêu cọt kẹt, di chuyển chậm như sên và có mùi sữa lên men. Còn thang máy này được làm bằng pha lê và bạn có thể thấy những người ở dưới tầng trệt thu nhỏ thành bầy kiến trong khi đang lao vút lên không trung. Cảm giác đó thật háo hức, đến nỗi tôi định hỏi Effie Trinket liệu chúng tôi có thể đi lại lần nữa không, nhưng như thế có vẻ hơi trẻ con.

Rõ ràng trách nhiệm của Effie Trinket vẫn chưa hết khi đoàn tàu vào ga. Bà và Haymitch sẽ còn phải giám sát chúng tôi ngay trong trường đấu. Dù sao như vậy cũng có lợi, bởi ít nhất vẫn có người dẫn chúng tôi đến nơi cần đến đúng giờ, trong khi chúng tôi chưa hề thấy Haymitch kể từ khi ông nhận lời giúp chúng tôi trên xe lửa. Có lẽ ông ấy đang vất vưởng đâu đây. Trái lại, Effie Trinket có vẻ như đang trên mây. Chúng tôi là đội đầu tiên do bà kèm cặp có một màn ra mắt hoành tráng như thế ở lễ khai mạc. Bà khen ngợi không chỉ trang phục mà cả cách chúng tôi thể hiện. Theo lời Effie thì bà biết hết những người ở Capitol đang bàn tán về chúng tôi suốt cả ngày, và họ đang tranh nhau làm nhà tài trợ cho chúng tôi.

“Mặc dù vậy ta vẫn thấy rất mù mờ,” bà nói, hai mắt nheo lại. “Bời Haymitch tất nhiên không thèm nói với ta về chiến thuật của các cháu. Nhưng ta đã làm cho hai cháu bằng hết sức có thể, Katniss đã hy sinh thay em mình ra sao. Hai cháu đã vượt qua sự mọi rợ của quận mình ra sao.”

Mọi rợ ư? Lời mỉa mai ấy được thốt ra từ miệng người đàn bà đang cố sức chuẩn bị cho chúng tôi, để chúng tôi bước vào lò sát sinh. Và bà nói chúng tôi vượt qua là vượt qua cái gì? Qua cái cách chúng tôi thể hiện trên bàn ăn sao?

“Lẽ tự nhiên, ai cũng có một nơi thuộc về. Các cháu đến từ quận than đá. Nhưng cũng như một câu rất thông minh mà ta đã từng nói đấy, ta nói rằng ‘Đấy, cứ kiên trì và bền bỉ thì than đá cũng hóa ngọc trai!’ ” bà cười hớn hở khiến chúng tôi chỉ còn cách tỏ ra vui lây với sự thông minh của bà ấy, mặc dù điều đó sai lè.

Than đá không thể hóa ngọc trai. Chúng hình thành từ vỏ của các sinh vật. Có lẽ ý bà là than đá hóa thành kim cương, nhưng điều ấy cũng không đúng nốt. Tôi từng nghe nói ở Quận 1 người ta có loại máy có thể biến than chì thành kim cương. Nhưng chúng tôi không đào ra than chì ở Quận 12. Đó là phần việc của Quận 13 trước khi họ bị xóa sổ.

Tôi tử hỏi những người được bà tâng bốc về chúng tôi có biết hay quân tâm đến điều ấy hay không.

“Không may, việc của ta không phải là tìm những hợp đồng tài trợ cho các cháu. Chỉ Haymitch là có thể làm việc đó,” Effie nói tỉnh bơ. “Nhưng đừng lo, ta sẽ chĩa súng vào ông ta nếu cần.”

Mặc dù tính tình nham nhở, Effie Trinket vẫn khiến tôi khâm phục ở sự cương quyết.

Gian phòng tôi ở còn lớn hơn chính nhà mình ở Quận 12. Chúng lộng lẫy như khoang xe lửa, nhưng lại còn có rất nhiều điều khiển tự động mà tôi không chắc mình có đủ thời gian để mò mẫm toàn bộ nút bấm hay không. Chỉ riêng vòi hoa sen đã có một bảng điều khiển với hơn một trăm lựa chọn, chỉ điều chỉnh nhiệt độ nước, áp suất, xà bông, dầu gội đầu, nước hoa, dầu tắm và miếng xốp mát xa. Chỉ cần bước ra thảm, hơi nóng sẽ thổi khô cơ thể. Thay vì hì hục rẽ những mớ tóc rối, tôi chỉ cần đơn giản cầm lấy một chiếc hộp để nó thổi hơi vào da đầu, rẽ mái và sấy tóc khô gần như ngay lập tức. Mái tóc xõa xuống vai tôi như một bức màn óng ả.

Tôi lập trình tủ quần áo để chọn ra bộ đồ phù hợp với mình. Ô cửa sổ có thể phóng to và thu nhỏ từng khu vực trong thành phố theo mệnh lệnh của tôi. Bạn chỉ cần nói tên món ăn từ thực đơn với hằng hà sa số món vào chiếc míc ở miệng là chưa đầu một phút sau chúng sẽ xuất hiện nóng hổi ngay trước mặt bạn. Tôi vừa đi quanh phòng vừa ăn gan ngỗng và bánh mì ổ cho đến khi có tiếng gõ cửa. Effie gọi tôi đi ăn tối.

Tốt thôi. Tôi đang đói chết đi được.

Khi chúng tôi vào phòng ăn thì Peeta, Cinna và Portia đang đứng trên ban công nhìn xuống Capitol. Tôi vui mừng khi thấy hai nhà tạo mẫu ở đây, đặc biệt sau khi nghe rằng Haymitch sẽ ăn tối cùng. Bữa ăn mà chỉ có Effie và Haymitch làm chủ trì có khi sẽ là một đại họa. Hơn nữa, buổi tối không chỉ dành để ăn uống, mà còn để bàn về chiến thuật của bọn tôi. Cinna và Portia đã chứng minh cho mọi người thấy giá trị của họ.

Một chàng trai mặc bộ tunic trắng lẳng lặng rót rượu cho chúng tôi vào những chiếc ly có chân đế. Tôi định từ chối, nhưng lại nghĩ mình chưa uống rượu bao giờ, trừ thứ rượu ở nhà mẹ tôi vẫn dùng để trị ho, và liệu đến khi nào tôi mới có dịp uống thử lần nữa? Tôi hớp một ngụm thứ chất lỏng cay nồng, khô thé vào cổ họng và nghĩ bụng giá như có thêm vài thìa mật ong có lẽ sẽ ngon hơn.

Khi bữa tối được bày ra thì Haymitch mới xuất hiện. Ông trông sạch sẽ, chỉnh chu như thể có nhà tạo mẫu riêng và không hề say rượu như tôi vẫn thấy. Haymitch không từ chối lời mời rượu, nhưng khi ông bắt đầu bằng món xúp, tôi mới nhận ra đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ăn. Biết đâu ông sẽ thực sự tỉnh táo lâu đủ để giúp chúng tôi.

Cinna và Portia dường như đang tạo một hiệu ứng mang tính khai hóa lên Haymitch và Effie. Ít ra là họ cũng tỏ ra thái độ đúng mực với nhau. Và cả hai đều luôn miệng ca ngợi những nhà tạo mẫu về màn khai mạc. Trong lúc họ tán gẫu, tôi chú tâm vào bữa ăn. Xúp nấm, rau đắng với cả chua xắt nhỏ bằng hạt đậu, thịt bò thui tái được cắt lát mỏng như tờ giấy, mì sợi với nước sốt màu xanh, bơ tan chảy cùng với nho xanh lơ ngọt lịm. Những người phục vụ đều trẻ măng, mặc áo tunic trắng như anh chàng rót rượu lúc nãy, cứ lặng lẽ đến rồi đi, làm đầy những đĩa thức ăn và rót đầy những ly rượu.

Uống được khoảng nửa ly, tôi bắt đầu lâng lăng nên chuyển sang uống nước. Tôi không thích cái cảm giác này và hy vọng nó sẽ qua nhanh. Việc Haymitch có thể đi lại trong trạng thái lúc nào cũng như thế này quả là thần kỳ.

Tôi cố để tâm vào cuộc nói chuyện, hiện đang bàn về trang phục của chúng tôi trong buổi phỏng vấn sắp tới, thì một cô gái đặt một chiếc bánh ngon tuyệt lên bàn và khéo léo châm lửa. Chiếc bánh bốc cháy và rồi ngọn lửa liếm xung quanh chiếc bánh một lúc cho đến khi tắt hẳn. Tôi không tin vào mắt mình. “Cái gì khiến nó cháy? Rượu cồn chăng?” Tôi nhìn vào cô gái và nói. “Tớ chỉ nghĩ là… Ô! Tớ biết cậu!”

Tôi không nhớ ra đã gặp cô ta ở đâu và khi nào. Nhưng tôi chắc chắn là đã gặp. Mái tóc đỏ sẫm, gương mặt có nét và làn da trắng như men. Nhưng ngay khi tốt ra những lời đó, tôi thấy lòng mình quặn lại bởi cảm giác âu lo và tội lỗi khi đối diện với cô, và trong khi không thể giải thích được điều này, tôi chỉ biết cô gắn với những ký ức không vui trong tôi. Gương mặt cô bỗng tỏ ra sợ hãi càng khiến tôi thêm bối rối và không yên. Cô ta lắc đầu nguầy nguậy và vội vã rời khỏi bàn.

Khi tôi nhìn về sau, bốn người lớn đang nhìn tôi săm soi.

“Đừng lố bịch như thế chứ, Katniss. Làm sao cháu có thể quen một Avox?” Effie nhanh nhảu. “Bác hỏi thật đấy.”

“Một Avox là sao ạ?” Tôi ngờ nghệch hỏi.

“Là ai đó đã từng phạm tội. Bị cắt lưỡi nên cô ấy không thể nói được,” Haymitch nói. “Cô ta đại loại là một kẻ phản bội. Không lý nào cháu lại biết cô ta.”

“Và ngay cả nếu cháu biết, cháu cũng không thể nói chuyện với họ, trừ khi cháu ra lệnh cho họ.” Effie nói. “Mà dĩ nhiên là cháu không biết cô ấy đâu.”

Nhưng tôi có biết. Giờ đây khi Haymitch nhắc đến từ phản bội, tôi mới nhớ ra. Nhưng họ phản ứng dữ quá khiến tôi không thể thú nhận. “Không đâu, cháu đoán là không, cháu chỉ…” tôi nói lắp bắp, và rượu không giúp được gì.

Peeta bật ngón tay. “Delly Cartwright. Chính là cô ta. Tớ cũng đang nghĩ trông cô ta quen quá. Và rồi tớ nhận ra cô nàng đích thị là Delly.”

Delly Cartwright là cô gái có khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc vàng hoe, và như thế thì khác người phục vụ của chúng tôi một trời một vực. Cô ấy còn là người thân thiện nhất quả đất – cô cười luôn miệng với mọi người trong trường, kể cả tôi. Còn cô tóc đỏ kia thì tôi chưa bao giờ thấy cười. Nhưng tôi hiểu ý và bắt lấy lời Peeta đầy biết ơn. “Chính xác, đó chính là người tớ nghĩ đến. Đúng là mái tóc đó,” tôi nói.

“Và đôi mắt cũng hơi giông giống nữa,” Peeta nói.

Không khí trên bàn ăn lắng xuống. “Ừ, đúng rồi. Đúng là như thế,” Cinna nói. “Đúng là trong chiếc bánh có rượu, nhưng toàn bộ lượng cồn đã cháy hết rồi. Tôi chọn món này nhằm ca ngợi màn ra mắt bốc lửa của em.”

Chúng tôi ăn bánh và vào phòng khách để xem buổi chiếu tại lễ khai mạc. Một vài cặp khác cũng có bề ngoài ấn tượng, nhưng không ai có thể cháy như ngọn đuốc giống chúng tôi. Ngay cả những người trong nhóm chúng tôi cũng thốt lên. “Oa!” khi đến cảnh chúng tôi bước ra khỏi Trung tâm Làm đẹp.

“Ai nghĩ ra việc nắm tay nhau vậy?” Haymitch hỏi.

“Cinna,” Portia nói.

“Một sự gợi ý hoàn hảo về cuộc nổi dậy,” Haymitch nói. “Rất đẹp mắt.”

Cuộc nổi dậy? Tôi buộc phải nghĩ về điều này trong thoáng chốc. Nhưng khi tôi nhớ lại những cặp khác, đứng rời nhau một cách gượng ép, không hề nắm tay chào hỏi người bên cạnh, như thể người cùng chơi với họ như thể chưa hề tồn tại, như thể Cuộc đấu đã bắt đầu, tôi hiểu ra ý của Haymitch. Việc xuất hiện như hai đồng đội chứ không phải hai kẻ địch cũng tạo sự khác biệt cho chúng tôi như bộ trang phục bốc lửa vậy.

“Sáng mai là buổi luyện tập đầu tiên. Gặp ta vào bữa sáng, ta sẽ nói chính xác là muốn các cháu phải thể hiện thế nào,” Haymitch nói với Peeta và tôi. “Giờ thì đi ngủ đi để người lớn nói chuyện.”

Peeta đi cùng tôi dọc hành lang về phòng. Khi đến cửa phòng tôi, cậu dựa vào khung cửa, không phải là chặn lối vào của tôi và bắt tôi phải chú ý mình. “Giờ là về Delly Cartwright. Chẳng có Delly nào ở đây cả.”

Peeta đang muốn một lời giải thích, còn tôi cũng định giải thích cho cậu. Cả hai đều biết là cậu đã giải nguy cho tôi. Tôi lại nợ cậu một lần nữa. Nếu kể cho Peeta sự thật về cô gái, có thể tôi sẽ bớt được chút áy náy. Việc này có gây ảnh hưởng gì không? Dù cậu có kể lại với người khác, tôi cũng chẳng làm sao cả. Đó chỉ là cảnh mà tôi đã chứng kiến. Mà chính cậu cũng bịa chuyện về Delly Cartwright đó thôi.

Tôi chợt muốn kể cho ai đó chuyện cô gái. Ai đó có thể giúp tôi giải đáp khúc mắc trong câu chuyện. Gale sẽ là lựa chọn đầu tiên, nhưng có lẽ tôi sẽ không gặp lại Gale nữa. Tôi đang cố tìm xem liệu việc kể cho Peeta có giúp cậu có lợi thế gì hơn tôi hay không, nhưng không thấy. Có thể việc chia sẻ một điều thầm kín sẽ khiến Peeta tin rằng tôi xem cậu như một người bạn.

Hơn nữa, cái ý nghĩ về cô gái bị cắt lưỡi khiến tôi sợ hãi. Cô làm tôi nhớ lại tại sao tôi lại ở đây. Không phải để làm dáng với những trang phục sặc sỡ hay để hưởng thụ cao lương mỹ vị, mà để nhận cái chết thảm trong khi đám đông cổ vũ cho kẻ sát nhân.

Kể hay là không? Đầu óc tôi vẫn còn ì ra sau ly rượu. Tôi nhìn chằm chặp vào hành lang không người như thể ở đó có câu trả lời.

Peeta nhận ra sự do dự của tôi. “Cậu đã bao giờ leo lên mái chưa?” Tôi lắc đầu. “Cinna đã chỉ cho tớ. Cậu có thể nhìn thấy toàn thành phố. Mặc dù gió hơi to.”

Tôi hiểu ý cậu ta là “Sẽ không ai nghe lỏm được chúng ta ở đó”. Tại đây bạn luôn có cảm giác mình đang bị theo dõi. “Chúng ta leo lên chứ?”

“Tất nhiên, đi thôi,” Peeta nói. Tôi đi theo cậu ta đến một cầu thang dẫn lên mái. Một căn phòng nhỏ hình vòm cới cánh cửa mở ra bên ngoài. Khi chúng tôi bước ra, không khí buổi tối lạnh và đầy gió, tôi thấy cả hơi thở mình phía trước. Capitol lấp lánh như một cánh đồng khổng lồ đầy đom đóm. Ở Quận 12, điện có rồi tại tắt; chúng tôi chỉ có điện vài giờ mỗi ngày. Buổi tối thường chỉ có ánh nến. Chúng tôi chỉ chắc chắn có điện khi người ta truyền hình Đấu trường hay phát những thông điệp quan trọng của nhà nước mà ai cũng buộc phải xem. Còn ở đây thì không có chuyện mất điện. Không bao giờ.

Peeta và tôi bước đến một hàng rào ở mép mái. Tôi nhìn thẳng xuống bên hông tòa nhà, xuống con đường bên dưới huyên náo tiếng người. Tôi nghe thấy tiếng xe hơi, một tiếng la đâu đó, và tiếng kim khí leng keng lạ lẫm. Ở Quận 12, vào giờ này chúng tôi chỉ nghĩ đến việc đi ngủ.

“Tớ đã hỏi Cinna tại sao họ lại để chúng ta lên đây. Chẵng lẽ họ không sợ một số người chơi sẽ nhảy sang phía bên kia?” Peeta nói.

“Anh ấy nói sao?” tôi hỏi.

“Cậu không thể làm thế,” Peeta nói. Cậu vươn tay về một khoảng có vẻ trống không phía trước. Một tiếng xoẹt vang lên và tay cậu giật lại. “Như có điện trường đẩy cậu lại mái nhà.”

“Họ luôn quan tâm đến sự an toàn của chúng ta,” tôi nói. Dù Cinna đã chỉ cho Peeta về cái mái này, tôi tự hỏi liệu chúng tôi có được phép lên đây, một mình giữa đêm khuya thế này không. Tôi chưa từng thấy đấu thủ nào leo lên mái Trung tâm Huấn luyện. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không bị ghi hình. “Cậu có nghĩ là họ đang theo dõi chúng ta không?”

“Có thể,” cậu thừa nhận. “Đi lối này để xem khu vườn.”

Phía bên kia mái vòm, người ta xây một khu vườn với những thảm hoa và chậu cây. Hàng trăm chiếc chuông gió được treo trên cành, tạo ra tiếng leng keng tôi đã nghe thấy. Khu vườn này, giữa màn đêm đầy gió, đủ làm loãng cuộc trò chuyện của hai chúng tôi. Peeta nhìn tôi chờ đợi.

Tôi giả vờ đang ngửi một bông hoa. “Ngày trước chúng tớ thường đi săn trong rừng. Náu mình, đợi con mồi đến,” tôi thì thầm.

“Cậu và bố cậu?” cậu thì thầm lại.

“Không, với Gale bạn tớ. Bất chợt tất cả chim đều ngưng bặt cùng lúc. Trừ một con. Như thể nó đang cất tiếng gọi cảnh báo. Và rồi bọn tớ thấy cô ta. Tớ chắc chắn là cô gái ấy. Một chàng trai chạy cùng với cô. Quần áo họ rách rưới. Mắt họ thâm quầng do mất ngủ. Họ chạy như thể tử thần đang đuổi ở sau lưng,” tôi nói.

Tôi im lặng một lúc, nhớ lại bóng dáng của hai người lạ đó, rõ ràng không phải từ Quận 12, đang chạy trốn qua khu rừng khiến chúng tôi đông thành đá như thế nào. Sau đó thì chúng tôi tự hỏi liệu có giúp gì cho họ không. Có thể bọn tôi sẽ làm được. Giấu họ đi. Nhưng phải di chuyển thật nhanh. Chúng tôi gặp tình huống quá bất ngờ, đúng là thế, nhưng cả hai đều là thợ săn. Chúng tôi biết những con mồi trông như thế nào khi bước vào đường cùng. Ngay khi thấy họ, chúng tôi đã biết hai người này đang gặp nguy hiểm. Nhưng cả hai chỉ nhìn họ.

“Chiếc tàu bay không biết từ đâu xuất hiện,” tôi kể tiếp cho Peeta. “Ý tớ là, bầu trời đột nhiên trống hoác và nó xuất hiện. Nó không gây tiếng động, nhưng họ thấy nó. Một chiếc lưới buông xuống cô gái và kéo cô ta lên; nhanh, nhanh lắm, như thang máy ấy. Họ bắn một thứ như ngọn giáo vào người cậu ta. Nó gắn với một sợi cáp và lôi cả cậu ta lên. Nhưng tớ chắc là cậu ta đã chết. Bọn tớ nghe cô ta hét lên một tiếng. Tớ nghĩ là tên cậu ta. Rồi nó đi mất, chiếc tàu bay ấy. Mất hút vào khoảng không. Những con chim lại hót trở lại như chưa có gì xảy ra.”

“Họ có thấy cậu không?” Peeta hỏi.

“Tớ chẳng biết. Bọn tớ nấp dưới một phiến đá,” tôi trả lời. Nhưng tôi biết là có. Vào một khoảnh khắc, sau tiếng chim loan báo và trước khi chiếc tàu bay tới, cô ta có thấy chúng tôi. Cô đưa mắt về phía tôi và kêu gọi giúp đỡ. Nhưng cả Gale và tôi đều không phản ứng.

“Cậu đang run lên đấy,” Peeta nói.

Gió và câu chuyện đã rút hết hơi ấm ra khỏi người tôi. Tiếng thét của cô gái. Liệu đó có phải lần cuối cùng cô ta cất tiếng?

Peeta cởi áo khoác và choàng vào vai tôi. Tôi định bước lùi về, nhưng lại thôi; trong thoáng chốc tôi quyết định nhận chiếc áo khoác và cả sự tử tế của cậu. Người bạn nào cũng sẽ làm vậy, đúng không?

“Họ là người ở đây à?” cậu hỏi, tay cài lại nút cổ áo cho tôi.

Tôi gật đầu. Họ mang dáng dấp của người Capitol. Chàng trai và cô gái.

“Cậu nghĩ là họ định chạy trốn đi đâu?” Peeta hỏi.

“Tớ không biết nữa,” tôi nói. Quận 12 đã là bước đường cùng. Ngoài quận chúng tôi chỉ là vùng hoang dã, không kể đống đổ nát của Quận 13 vẫn âm ỉ cháy sau loạt bom hủy diệt. Người ta thỉnh thoảng vẫn chiếu cảnh đó lên ti vi, chỉ để nhắc chúng tôi nhớ. “Và tớ cũng không hiểu tại sao họ rời nơi này.” Haymitch từng nói về những kẻ phản bội Avox. Mà chống lại ai? Chỉ có thể là Capitol. Nhưng ở đây họ có mọi thứ. Chẳng có lý do gì để nổi dậy.

“Tớ muốn đi khỏi đây,” Peeta buột miệng, rồi lo lắng nhìn xung quanh. Âm thanh đủ to để người khác có thể nghe qua tiếng chuông gió. Cậu cười. “Tớ sẽ về nhà ngay bây giờ nếu họ để tớ đi. Nhưng cậu phải thừa nhận là thức ăn tuyệt quá phải không.”

Peeta lại giả vờ. Nghe những lời đó bạn chỉ nghĩ là lời của một đấu thủ sợ sệt chứ không phải của ai đó đang hưởng thụ lòng tốt không thể chối cãi của Capitol.

“Trời bắt đầu lạnh rồi đấy. Chúng ta vào là hơn,” Peeta nói. Bên trong mái vòm, căn phòng ấm áp và sáng sủa. Cậu gợi chuyện. “Gale bạn cậu có phải là người đã kéo em cậu ra trong ngày chiêu quân không?”

“Đúng rồi. Cậu biết anh ấy à?” tôi hỏi.

“Không hẳn. Tớ nghe bọn con gái nói chuyện về anh ấy nhiều lắm. Tớ nghĩ anh ấy là anh em họ của cậu hay gì đó. Hai cậu trông giống nhau mà,” cậu ấy nói.

“Không, bọn tớ không phải họ hàng,” tôi nói.

Peeta gật đầu một cách khó hiểu. “Anh ấy có đến tạm biệt cậu không?”

“Có,” tôi nói, nhìn cậu thật kỹ. “Cha cậu cũng thế. Ông ấy mang cho tớ mấy chiếc bánh quy.”

Peeta nhướng cặp lông mày như thể ngạc nhiên. Nhưng sau khi thấy cậu nói dối như cuội, tôi không tin vào thái độ ấy lắm. “Vậy sao? Ừ, ông ấy mến hai chị em cậu. Tớ nghĩ ông ấy muốn có một đứa con gái hơn là một lũ toàn con trai.”

Tôi chợt nghĩ rằng mình từng là đối tượng bàn luận, quanh chiếc bàn ăn, bên chiếc lò bánh mì, mỗi lần đi qua nhà Peeta. Hẳn là chuyện đó xảy ra khi bà mẹ không có ở đó.

“Ông ấy biết mẹ cậu khi họ còn bé,” Peeta nói.

Lại một điều ngạc nhiên. Nhưng có thể đúng. “Ồ, phải rồi. Mẹ tớ lớn lên trong thị trấn,” tôi nói. Bà chưa bao giờ nhắc đến chủ tiệm bánh ngoài việc khen bánh mì ở đó ngon, nhưng kể điều này ra có vẻ bất lịch sự.

Cả hai dừng bước trước cửa phòng tôi. Tôi trả lại áo khoác cho cậu. “Vậy hẹn cậu vào sáng mai.”

“Hẹn gặp lại,” cậu nói và bước khỏi sảnh lớn.

Khi tôi mở cửa phòng, cô gái tóc đỏ đang nhặt bộ áo liền quần và đôi ủng mà tôi để lại trên sàn trước khi tắm. Tôi muốn mở miệng xin lỗi vì những điều khó xử có thể gây ra cho cô trước đó. Nhưng tôi nhớ là mình không thể nói trừ khi ra lệnh cho cô.

“Ồ, xin lỗi,” tôi nói. “Lẽ ra tôi phải đưa chúng lại cho Cinna. Xin lỗi. Cô mang cho anh ấy được chứ?”

Cô tránh ánh mắt tôi, khẽ gật đầu và quay khỏi phòng.

Tôi định nói xin lỗi về chuyện bữa tối. Nhưng tôi biết mình phải xin lỗi nhiều hơn thế. Rằng tôi thấy xấu hổ vì đã không hề tìm cách giúp cô trong rừng. Rằng tôi đã để Capitol sát hại chàng trai đó và để họ cắt lưỡi cô mà không mảy may động đậy dù chỉ một ngón tay.

Giống như cách tôi đã từng theo dõi Đấu trường.

Tôi đá văng đôi giày và để nguyên quần áo chui vào chăn. Cơn run rẩy vẫn chưa chấm dứt. Có khi cô còn không nhớ tôi. Nhưng tôi biết là có. Bạn không thể nào quên được khuôn mặt của người từng là niềm hy vọng cuối cùng của mình. Tôi kéo chăn qua đầu như thể làm thế sẽ che chở tôi khỏi cô gái tóc đỏ bị câm. Nhưng tôi như thể cảm thấy đôi mắt cô đang nhìn tôi, xuyên qua những bức tường, qua những cánh cửa và đến chiếc giường này.

Tôi tự hỏi có khi nào cô thich thú thấy tôi bỏ mạng.

Chương 7

Những cơn mơ phiền toái ùa vào giấc ngủ của tôi. Khuôn mặt của cô gái tóc đỏ cùng hình ảnh vấy máu của những lần Đấu trường Sinh tử trước, hình ảnh mẹ càng ngày càng rời xa khỏi tầm với, rồi hình ảnh Prim hốc hác và hoảng sợ. Tôi choàng dậy khi miệng đang gào lên gọi cha chạy khỏi khu mỏ đang nổ tung thành hàng triệu ánh chớp.

Ánh mình minh rọi qua ô cửa sổ. Không khí ở Capitol mù sương và rờn rợn. Cơn đau đầu của tôi hẳn là do tìm một bên má trong khi ngủ. Lưỡi tôi khô ráp và có mùi máu.

Tôi chậm chạp trườn khỏi giường rồi đi tắm. Tôi nhấn tùy tiện vào những nút trên bảng điều khiển để rồi chân tay quýnh quáng hết cả khi bị những tia nước vừa lạnh giá vừa nóng hổi tấn công tới tấp. Rồi tôi chìm trong đống bọt có mùi chanh khiến tôi phải chà sạch người bằng cái bàn chải thô ráp nặng trịch. Mà thôi, cũng chẳng sao. Ít nhất tôi cũng còn sống.

Khi đã lau khô người và thoa kem dưỡng da, tôi tìm thấy một bộ đồ đã được chuẩn bị cho mình phía trước tủ quần áo. Chiếc quần dài bó màu đen, chiếc áo tunic màu vang đỏ tay dài và đôi giày da. Tôi vẫn để tóc một túm thẳng xuống sau lưng. Đây là lần đầu tiên kể từ buổi sáng chiêu quân tôi trở lại là chính mình. Không quần áo hay đầu tóc cầu kỳ, không áo choàng bốc lửa. Chỉ là tôi. Trông như thể tôi đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn. Điều này làm tôi nhẹ nhõm.

Haymitch đã không cho chúng tôi biết thời gian điểm tâm chính xác và sáng nay cũng không ai gọi tôi dậy cả, nhưng vì đói nên tôi đi thẳng xuống phòng ăn, hy vọng sẽ có thứ gì ở đó. Tôi không phải thất vọng. Bàn ăn tuy trống nhưng chiếc bàn trung tâm dài từ đầu này đến đầu kia căn phòng được bày ít nhất hai mươi món. Một chàng trai trẻ, dân Avox, đứng bao quát xung quanh. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể tự phục vụ không, anh ta gật đầu. Tôi lấy ra đĩa nào là trứng, lạp xưởng, nào là bánh bột nhão với lớp mứt cam dày xung quanh và mấy lát dưa màu tím hoa cà. Vừa ăn ngấu nghiến, tôi vừa nhìn mặt trời mọc ở Capitol. Đĩa thứ hai tôi lấy ngũ cốc nóng với thịt bò hầm. Còn đĩa cuối cùng, tôi lấy những cái bánh cuộn ra đầy đĩa và ngồi vào bàn, bẻ từng mẩu nhỏ và chấm vào sô cô la nóng, như cách Peeta đã làm trên xe lửa.

Tôi nghĩ về mẹ và Prim. Vào giờ này hẳn họ đã dậy rồi. Mẹ tôi đang chuẩn bị bữa sáng với cháo ngô. Prim thì vắt sữa dê trước khi đến trường. Chỉ cách đây hai buổi sáng, tôi vẫn còn ở nhà. Điều này là thật sao? Phải, chỉ mới hai buổi sáng. Và giờ đây dù ở một nơi rất xa, tôi vẫn cảm giác được căn nhà của tôi mới trống trải làm sao. Tối qua họ đã nói gì về màn ra mắt rực lửa của tôi ở Đấu trường nhỉ? Liệu điều đó mang lại cho họ hy vọng hay chỉ gây thêm sợ hãi khi họ đã thấy thực tế về hai mươi bốn đấu thủ bị quây lại với nhau, trong đó chỉ một người có thể sống sót?

Haymitch và Peeta đến, chúc tôi buổi sáng tốt lành rồi lấy đĩa ăn. Tôi thấy phát cáu khi Peeta cũng mặc đồ giống tôi. Tôi cần nói chuyện với Cinna. Việc giống nhau này sẽ khiến chúng tôi ngượng chín mặt khi Đấu trường bắt đầu. Chắc chắn là họ biết chứ. Rồi tôi nhớ Haymitch đã nói rằng tôi phải làm chính xác những gì những nhà tạo mẫu yêu cầu. Nếu không phải Cinna mà là ai khác, có lẽ tôi đã lơ anh ấy rồi. Nhưng sau màn thành công tối qua, tôi không có nhiều lý do để chỉ trích lựa chọn của anh.

Tôi lo lắng về buồi luyện tập. Tất cả vật tế sẽ có ba ngày luyện tập cùng nhau. Vào buổi chiều cuối cùng, mỗi chúng tôi sẽ có cơ hội thể hiện riêng trước Ban Giám khảo. Cứ nghĩ đến việc phải mặt đối mặt với những đấu thủ khác làm tôi phát ốm. Lật qua lật lại ổ bánh mì vừa lấy trong rổ, nhưng cơn thèm ăn của tôi thì đã đi đâu mất.

Chén xong vài đĩa thịt hầm, Haymitch bỏ chiếc đĩa lại cùng tiếng thở dài. Ông lấy chiếc bình bẹt đựng rượu ra khỏi túi, tu một hơi dài rồi chống cùi chỏ vào bàn. “Bắt đầu vào việc thôi. Về buổi tập luyện. Trước tiên, nếu các cháu muốn, ta sẽ dạy riêng cho từng người. Quyết định ngay đi.”

“Tại sao ông phải dạy riêng từng người?” tôi hỏi.

“Chẳng hạn nếu cháu có một kỹ năng bí mật nào đấy mà không muốn người kia biết,” Haymitch nói.

Tôi và Peeta nhìn nhau. “Tớ chẳng có tuyệt kỹ nào cả,” cậu nói. “Và tớ cũng biết tỏng bí mật của cậu, đúng không? Ý tớ là, tớ đã ăn biết bao nhiêu sóc nhà cậu rồi.”

Tôi không nghĩ là Peeta đã ăn những con sóc mà tôi bắn. Không hiểu sao tôi luôn mường tượng ra cảnh ông chủ tiệm bánh lặng lẽ lủi đi và nướng lũ sóc một mình. Không phải vì tham. Nhưng vì những gia đình ở thị trấn luôn ăn những món thịt đắt đỏ. Thịt bò, thịt gà và thịt ngựa.

“Ông có thể dạy bọn cháu cùng nhau,” tôi nói với Haymitch. Peeta gật đầu.

“Được thôi, bây giờ hãy cho ta biết các cháu có thể làm những gì?” Haymitch nói.

“Cháu chẳng biết làm gì cả,” Peeta nói. “Trù khi ông tính cả việc nướng bánh mì.”

“Xin lỗi, thế thì thôi. Này Katniss. Ta biết cháu dùng dao khá cừ.” Haymitch nói.

“Cũng không hẳn. Nhưng cháu có thể săn,” tôi nói. “Bằng cung tên.”

“Và cháu bắn tốt chứ?” Haymitch hỏi.

Câu hỏi của ông khiến tôi phải suy nghĩ. Trong bốn năm qua thức ăn của nhà là do tôi kiếm. Công việc đó không hề dễ dàng. Tôi săn không cừ như cha, nhưng bởi ông có nhiều thời gian luyện tập hơn. Tôi săn giỏi hơn Gale, nhưng vì tôi luyện tập nhiều hơn. Anh là thiên tài cài bẫy và giăng lưới. “Cháu bắn cũng tàm tạm,” tôi nói.

“Cậu ấy cừ lắm,” Peeta nói. “Cha cháu thường mua sóc của cậu ấy. Ông luôn nhận xét rằng những mũi tên của cậu ấy không bao giờ làm toạc thịt con mồi. Câu ấy luôn bắn vào mắt. Những con thỏ cậu ấy bán cho tiệm thịt cũng thế. Cậu ấy còn hạ được cả nai.”

Sự am hiểu của Peeta về kỹ năng của tôi khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. Một là cậu có để ý thật. Hai là cậu đang tâng bốc tôi. “Cậu đang làm gì thế?” Tôi hỏi đầy ngờ vực.

“Còn cậu đang làm gì thế? Nếu muốn giúp cậu thì ông ấy phải biết cậu có khả năng gì. Đừng đánh giá thấp bản thân mình chứ,” Peeta nói.

Không hiểu tại sao, nhưng tôi thấy khó chịu. “Còn cậu thì sao? Tôi từng thấy cậu ở chợ. Cậu có thể vác những bao bột mì nặng năm mươi ký,” tôi trả đũa. “Kể với ông ấy đi. Chuyện đó có phải còn con đâu.”

“Chính xác, và tớ chắc là ở đấu trường sẽ có đầy những bao bột mì để tớ liệng vào đối thủ rồi. Nó khác với việc dùng một thứ vũ khí. Cậu biết là khác mà,” cậu bật lại.

“Peeta biết đấu vật,” tôi nói với Haymitch. “Cậu ấy đứng thứ nhì trong cuộc thi cấp trường năm ngoái, chỉ đứng sau anh ruột.”

“Thì có ích gì? Cậu đã thấy ai vật chết người bao giờ chưa?” Peeta bực dọc.

“Bao giờ mà chẳng có những cuộc đấu tay đôi. Chỉ cần càm dao lao tới là ít nhất cậu cũng có cơ hội rồi. Nếu bị tấn công thì tớ bỏ mạng!” Tôi thấy mình đang nói trong giận dữ.

“Nhưng cậu có ở dưới đất đâu! Cậu sẽ leo lên cây, bắt sóc mà ăn uống và dùng cung tên hạ gục đối thủ. Cậu biết mẹ tớ đã nói gì khi đến nói lời tạm biệt và động viên tớ không? Bà nói có thể cuối cùng Quận 12 sẽ có một người chiến thắng. Và rồi tớ nhận ra, bà không nói về tớ, mà ám chỉ cậu!” Peeta nói lớn.

“Ồ, bà ám chỉ cậu đấy,” tôi nói cho qua.

“Bà nói, ‘Cô bé ấy sẽ là người sống sót.’ Cô bé ấy,” Peeta nói.

Tôi hơi phổng mũi. Mẹ Peeta nói về tôi như thế thật sao? Liệu bà có đánh giá tôi cao hơn con trai bà? Tôi nhìn thấy nỗi ấm ức trong đôi mắt Peeta và biết cậu không nói dối.

Rồi tôi chợt thấy mình đang đứng cạnh tiệm bánh và những giọt mưa rét buốt chảy dọc sống lưng, dạ dày tôi trống rỗng. Tôi thấy mình trở lại năm mười một tuổi. “Nhờ ai đó mà mình đã sống sót.”

Peeta nhìn xuống cai bánh trong tay tôi, tôi biết cậu cũng nhớ ngày hôm đó. Nhưng cậu chỉ nhún vai. “Người ta sẽ giúp cậu ở Đấu trường. Họ sẽ giành nhau quyền tài trợ cho cậu.”

“Thì với cậu cũng thế,” tôi nói.

Peeta nhìn sang Haymitch. “Cậu ấy không biết gì về ảnh hưởng của mình,” Peeta cà móng tay theo thớ gỗ trên bàn, tránh nhìn vào mắt tôi.

Cậu ta có ý quái gì thế? Người ta sẽ giúp đỡ tôi? Khi chúng tôi chết dần chết mòn vì đói, không ai giúp tôi cả! Không ai ngoại trừ Peeta. Một khi tôi có gì đó để đổi chác, mọi thứ cũng khác đi. Tôi là một tay buôn có hạng. Phải thế không nhỉ? Tôi thì có ảnh hưởng gì chứ? Vì tôi yếu ớt và nghèo đói ư? Cậu ấy muốn nói tôi có ưu thế vì người ta thương hại tôi ư? Tôi đang cố nghĩ xem điều đó có đúng không? Có thể một vài người trao đổi hàng hóa với tôi có hào phóng hơn chút đỉnh, nhưng tôi luôn nghĩ đó là vì mối quan hệ lâu năm của họ với cha tôi. Hơn nữa, đây là cuộc đấu đỉnh cao. Sẽ không ai thương hại tôi cả!

Tôi nhìn đăm đăm vào ổ bánh, chắc chắn rằng cậu có ý hạ nhục tôi.

Được chừng một phút, Haymitch nói. “Thôi nào. Được rồi. Được rồi. Katniss, sẽ không chắc là có cung tên ở đấu trường, nhưng trong buổi gặp riêng với Ban Tổ chức, hãy cho họ thấy cháu có thể làm gì. Trước lúc đó, hãy quên cái cung tên đi. Cháu đặt bẫy khá không?”

“Cháu biết vài cách gài bẫy căn bản,” tôi thì thầm.

“Việc này là rất cần thiết để tìm thức ăn,” Haymitch nói. “Còn Peeta, cô bé nói đúng đấy, đừng bao giờ hạ thấp sức mạnh cơ bắp ở Đấu trường. Những đấu thủ cơ bắp thường có lợi thế hơn. Ở Trung tâm Huấn luyện có tạ, nhưng cháu không cần thể hiện trước mặt những đấu thủ khác. Kế hoạch cho cả hai cháu là như nhau. Hãy vào những lớp huấn luyện nhóm. Dành thời gian học những thứ mình chưa biết. Ném lao. Lăng chùy. Học cách thắt nút cho đúng. Đừng bộc lộ sở trường cho đến khi vào buổi gặp riêng. Rõ cả rồi chứ?” Haymitch nói.

Peeta và tôi gật đầu.

“Điều cuối cùng. Ở nơi đông người, ta muốn hai cháu lúc nào cũng đi cạnh nhau,” Haymitch nói. Bọn tôi định từ chối, nhưng Haymitch đập tay xuống bàn. “Bất cứ lúc nào! Không cần phải tranh cãi! Hãy làm theo lời ta dặn! Ở cạnh nhau, tỏ ra thân mật với nhau. Giờ thì đi đi. Gặp Effie tại thang máy lúc mười giờ để luyện tập.”

Tôi bặm môi và nặng nề bước về phòng, đóng sập cửa để Peeta nghe thấy. Tôi ngồi lên giường, thấy ghét Haymitch, ghét Peeta, ghét bản thân mình vì đã nhắc lại cái ngày dưới mưa năm đó.

Thật nực cười! Peeta và tôi đi cạnh nhau và vờ là bạn bè! Moi móc những điểm mạnh của nhau, buộc nhau phải thừa nhận khả năng của mình. Bởi vì, sự thật là đến lúc bằng cách nào đó, chúng tôi sẽ phải làm rõ trắng đen và thừa nhận rằng cả hai đều là đối thủ khó chịu của nhau. Đó mới là cái việc đáng lẽ tôi phải làm bây giờ, nếu không vì cái mệnh lệnh ngớ ngẩn của Haymitch rằng chúng tôi phải đi cùng nhau trong buổi tập luyện riêng từng người. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi muốn chia sẻ mọi thứ với Peeta, người mà dù sao cũng chẳng muốn hợp tác với tôi.

Tôi thấy tiếng Peeta văng vẳng trong đầu mình. Cậu ấy không biết gì về sử ảnh hưởng của mình. Rõ ràng muốn hạ nhục tôi. Chứ còn gì nữa? Nhưng một phần rất nhỏ trong tôi lại tự hỏi, liệu đó có phải là một lời khen tặng? Rằng Peeta cho rằng tôi cuốn hút theo một cách nào đó. Thật quái lạ khi cậu ấy để ý tôi kĩ đến thế. Chẳng hạn cậu chú ý đến việc săn bắn của tôi. Và rõ ràng là tôi cũng không mù tịt về Peeta như tôi nghĩ. Những bao bột mì. Chuyện đấu vật. Tôi đã luôn để mắt tới chàng trai từng cho tôi ổ bánh mì.

Đã gần mười giờ. Tôi đánh răng và chải lại tóc. Cơn giận bất chợt đã khỏa lấp nỗi lo lắng của tôi về những đấu thủ khác, nhưng bây giờ tôi lại thấy lo âu trở lại. Lúc gặp Effie và Peeta ở thang máy, tôi nhận ra mình đang cắn móng tay. Tôi bỏ ngay tay xuống.

Khu phòng luyện tập nằm dưới lòng đất của tòa nhà. Thang máy đưa chúng tôi xuống sau chưa đầy một phút. Cánh cửa mở ra, bên trong là phòng thể dục khổng lồ với đầy đủ những thứ vũ khí và chướng ngại vật. Mặc dù chưa tới mười giờ nhưng chúng tôi là những người cuối cùng đến đó. Những đâu thủ khác đang đứng quây thành vòng tròn. Mỗi người họ đều có một miếng vải vuông với số thứ tự quận gài lên áo. Trong khi chờ ai đó gài con số 12 trên lưng, tôi thoáng nhìn xung quanh. Peeta và tôi là cặp duy nhất mặc đồ giống nhau.

Ngay khi chúng tôi gia nhập vòng tròn, người phụ trách huấn luyện, một phụ nữ cao ráo, rắn rỏi có tên Atale bước lên phía trước và bắt đầu giải thích chế độ luyện tập. Các chuyên gia thuộc các lớp kỹ năng khác nhau sẽ đứng ở các khu riêng của mình. Chúng tôi được tự do đến những lớp tự chọn khác nhau, tùy theo sự chỉ đạo của người hướng dẫn. Chúng tôi không được phép tham gia bất cứ bài tập chiến đấu nào với một đấu thủ khác. Sẽ có người hỗ trợ nếu chúng tôi cần người đấu tập cùng.

Khi Atala bắt đầu đọc danh sách các lớp kỹ năng, tôi không thể không đưa mắt nhìn quanh những đấu thủ khác. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được tụ họp lại, ở đây, trong những bộ quần áo đơn giản. Tim tôi thót lại. Hầu hết bọn con trai và hơn nửa bọn con gái to lớn hơn tôi, mặc dù nhiều đứa cũng chưa từng được ăn uống đầy đủ. Bạn có thể thấy sự suy dinh dưỡng thể hiện qua xương xẩu, da dẻ, hay cặp mắt trũng sâu của chúng. Có thể là bề ngoài tôi nhỏ người hơn, nhưng nguồn thức ăn kiếm được ở nhà đã giúp tôi có chút lợi thế. Tôi đứng thẳng người, và dù gầy gò, trông tôi vẫn khỏe mạnh. Thịt và rau quả kiếm được trong rừng cùng với việc săn lượm hàng ngày đã giúp tôi có được vóc dáng chắc nịch hơn hầu hết những đứa bên cạnh.

Bọn trẻ đến từ những quận giàu có là ngoại lệ. Chúng là những đứa xung phong đến Đấu trường, những đứa được nuôi ăn và huấn luyện từ bé cho Đấu trường này. Đó thường là bọn đến từ Quận 1, 2 hay 4. Trên nguyên tắc, việc huấn luyện đấu thủ trước khi đến Capitol là trái với điều lệ, nhưng điều đó vẫn diễn ra hàng năm. Ở Quận 12, chúng tôi gọi chúng là những Vật tế Nhà nghề, hay đơn giản là bọn Nhà nghề. Và người thắng cuộc thường là một trong số chúng.

Lợi thế nho nhỏ của tôi trước khi vào Trung tâm Huấn luyện, màn xuất hiện bốc lửa vào tối qua, có vẻ đã mất đi khi trực tiếp gặp những đấu thủ của mình. Chúng ghen tị với hai đứa tôi không phải vì bản thân chúng tôi có gì thú vị, mà bởi những gì các nhà tạo mẫu đã làm. Giờ đây tôi chỉ thấy trong mắt bọn Đấu thủ Nhà nghề ánh lên sự coi thường. Mỗi đứa phải nặng hơn tôi từ hai mươi đến bốn mươi cân. Chúng tỏ ra ngạo mạn và hiếu chiến. Khi Atala nói xong, bọn chúng đến thẳng những thứ vũ khí trông đáng sợ nhất trong phòng tập và sử dụng chúng một cách dễ dàng.

Khi tôi đang nghĩ mình thật may mắn vì là một tay chạy có hạng thì Peeta huýt vào tay làm tôi giật mình. Cậu đang ở bên cạnh tôi như mệnh lệnh của Haymitch. Trông cậu khá điềm tĩnh. “Cậu muốn bắt đầu từ đâu?”

Tôi nhìn bọn Nhà nghề đang phô diễn; rõ ràng chúng muốn cả sàn tập khiếp sợ. Rồi tôi nhìn những đứa khác, những đứa thiếu ăn, thiếu khả năng, đang run rẩy tập bài học đầu tiên của chúng với con dao hay cái rìu.

“Chúng ta tập thắt nút thử xem,” tôi nói.

“Ở ngay đây thôi,” Peeta nói. Chúng tôi đi đến một lớp vắng tanh, người huấn luyện tỏ vẻ hài lòng khi có người đến học. Có vẻ lớp học thắt nút không phải là điểm nóng cho Đấu trường. Khi thấy tôi biết chút ít về đặt bẫy, ông tachi3 cho chúng tôi một cách đặt bẫy đơn giản nhưng hiệu nghiệm khiến đối thủ bị treo một chân lủng lẳng trên cây. Chúng tôi tập trung kỹ năng đó trong một giờ cho đến khi cả hai đều thành thạo. Rồi bọn tôi sang lớp học ngụy trang. Peeta tỏ ra thực sự thích thú với nơi này. Cậu trét một mớ những bùn, đất sét và ruột trái dâu lên khắp làn da nhợt nhạt của mình, cài thêm những dây nho và lá cây để ngụy trang. Người đứng lớp ngụy trang chỉ dẫn chúng tôi một cách không thể nhiệt tình hơn.

“Tớ học từ cách làm bánh,” Peeta thú nhận.

“Bánh ư?” tôi hỏi. Tôi đang để tâm vào một thằng Quận 2 vừa phóng một ngọn lao xuyên qua tâm hình nộm từ năm mươi mét. “Bánh nào cơ?”

“Ở nhà. Những chiếc bánh đông lạnh ấy, cho tiệm bánh mì,” cậu nói.

Peeta muốn nói đến những chiếc bánh được bày bên cửa sổ. Những chiếc bánh thơm ngon được trang trí hoa hòe và hình thù đẹp mắt bằng kem. Người ta mua chúng làm qua sinh nhật và mừng năm mới. Lúc ở quảng trường, Prim luôn kéo tôi lại để cùng trầm trồ nhìn chúng, mặc dù hai chị em chưa bao giờ có đủ tiền mua. Tôi khó mà không nghe theo con bé, bởi chẳng mấy khi mà tìm thấy điều gì đẹp đẽ ở Quận 12 này.

Tôi nhìn kỹ hơn vào hình thù trên cánh tay Peeta. Những vệt sáng tối đan xen giống như ánh sáng đang rọi qua những kẽ lá rừng. Tôi tự hỏi làm sao cậu lại biết làm vậy, vì tôi cứ ngỡ Peeta chưa bao giờ thoát khỏi vòng kèm cặp của cha mẹ. Chỉ cần nhìn cây táo già xơ xác sau vườn nhà là biết được điều đó ư? Dường như toàn bộ những điều ấy – kỹ năng của cậu ấy, những chiếc bánh đắt đỏ, lời khen ngợi từ chuyên gia hóa trang – đang làm tôi khó chịu.

“Khá đấy. Sao cậu không thử làm đông lạnh ai đó đến chết,” tôi nói.

“Đừng chủ quan. Cậu sẽ không lường trước điều gì ở đấu trường đâu. Giả sử người đó là một chiếc bánh bự tổ chảng…” Peeta bắt đầu cù nhây.

“Chúng ta đi tiếp thôi,” tôi ngắt lời.

Và ba ngày tiếp theo trôi qua khi Peeta và tôi lặng lẽ đi từ lớp này đến lớp học khác. Chúng tôi nhặt nhạnh được vài kỹ năng đáng giá, từ đánh lửa đến phóng dao và làm nơi ẩn náu. Mặc dù Haymitch yêu cầu chúng tôi không được thể hiện mình, Peeta vẫn nổi trội trong các bài đối kháng, còn tôi vượt qua trong nháy mắt bài kiểm tra về những loại cây cỏ ăn được. Dù vậy, chúng tôi tránh vào khu vực bắn cung và nâng tạ, để dành chúng trong buổi gặp riêng.

Ngay ngày đầu tiên Ban Giám khảo đã có mặt từ sớm. Khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà mặc áo choàng màu tím than. Họ ngồi trên một bệ cao xung quanh nhà tập luyện, thỉnh thoảng qua lại quan sát chúng tôi, hí hoáy viết những ghi chú, có lúc thì ngồi ăn trên một bàn tiệc dài tít tắp được phục vụ riêng, không để ý đến số đông chúng tôi. Nhưng họ có để mắt đến hai đấu thủ Quận 12. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp ai đó dán mắt vào mình. Họ cũng hỏi ý kiến của những huấn luyện viên trong lúc chúng tôi ăn. Khi trở lại nơi tập, chúng tôi thấy họ đang đứng cùng nhau.

Bữa sáng và bữa tối được phục vụ tại tầng của mỗi người, còn đến bữa trưa hai mươi bốn người chúng tôi sẽ đến một phòng ăn bên ngoài nhà tập luyện. Thức ăn được sắp vào những xe đẩy ở xung quanh phòng, ai tự phục vụ người nấy. Lũ Nhà nghề thường tụ tập huyên náo quanh một chiếc bàn, như thể muốn chứng tỏ sự vượt trội của mình, như thể muốn nói chúng tôi không sợ một ai và không thèm để mắt tới những người còn lại. Phần nhiều những vật tế khác ngồi một mình như cừu lạc. Không ai nói lời nào với chúng tôi, Peeta và tôi ngồi ăn cùng nhau, và từ khi Haymitch dặn chúng tôi phải làm thế, hai đứa cố gắng nói chuyện thân mật suốt bữa ăn.

Tìm được đề tài để nói cũng không dễ. Nói chuyện về gia đình thì buồn lắm. Nói về hiện tại cũng không dễ chịu gì. Một hôm, Peeta đổ rồ bánh mì và chỉ cho tôi thấy người ta đã cẩn thận thu gom từng lại bánh mì của từng quận, cùng với thứ bánh mì thô của Capitol như thế nào. Ổ bánh hình con cá có màu xanh rong biển là của Quận 4. Ổ bánh hình trăng lưỡi liềm lấm tấm hạt là của Quận 11. Dù được làm từ cùng một nguyên liệu, nó trông vẫn thu hút hơn nhiều so với những chiếc bích quy thô kệch vẫn thường thấy ở quận chúng tôi.

“Và cậu hiểu rồi đấy,” Peeta nói, xúc bánh mì lại vào rổ.

“Cậu rõ là biết nhiều thứ,” tôi nói.

“Chỉ về bánh mì thôi,” cậu nói. “OK, bây giờ hãy cười như thể tớ vừa nói chuyện gì vui nhộn nhé.”

Chúng tôi cùng cười thật tự nhiên và bỏ qua những cái nhìn săm soi từ khắp phòng.

“Được rồi, giờ tì cậu nói còn tớ sẽ cười khoái chí,” Peeta nói.

Việc tỏ ra thân thiện theo lời Haymitch làm cả hai chúng tôi đều mệt mỏi. Kể từ lúc tôi đóng sập cánh cửa, đã có một bức tường lạnh lẽo ngăn cách cả hai. Có điều, chúng tôi phải làm theo lời căn dặn.

“Tớ đã kể cho cậu nghe về cái lần bị gấu rượt chưa nhỉ?” tôi hỏi.

“Chưa, nhưng nghe hấp dẫn đấy,” Peeta nói.

Tôi thử dùng nét mặt diễn tả lại tình huống khi ấy, một câu chuyện có thật. Lần ấy, tôi dại dột giành tổ ong với một con gấu đen. Peeta cũng cười và đặt câu hỏi rất tự nhiên. Cậu ấy giả bộ giỏi hơn tôi nhiều.

Vào ngày thứ hai, khi chúng tôi đang tập phóng lao, cậu thì thầm. “Tớ nghĩ là bọn mình có đuôi.”

Tôi phóng lao đi, cũng không cần phải ném quá xa dù thực sự tôi không tồi lắm về món này, và tôi thấy một cô gái nhỏ của Quận 11 đang đứng phía sau một chút nhìn bọn tôi. Con bé khoảng mười hai tuổi, cái tầm tuổi làm tôi nhớ đến Prim. Nhìn kỹ hơn thì nó giống mười tuổi hơn. Con bé có đôi mắt sáng, đen láy và làn da nâu mỏng như vải sa tanh. Nó đứng nhón chân, hai cánh tay hơi dang ra hai bên, như thể sẵn sàng bay vù đi ngay khi có một tiếng động nhỏ nhất. Tôi không thể không liên tưởng đến một con chim.

Tôi lấy một cây lao khác khi Peeta ném. “Tớ nghĩ tên con bé là Rue (hoa cửu lý hương),” cậu nói khẽ.

Tôi bặm môi. Rue là tên một loài hoa nhỏ màu vàng mọc ở Đồng cỏ. Rue. Primrose (hoa anh thảo). Chẳng đứa nào qua được tầm ba mươi ký lô cả.

“Chúng ta làm gì với con bé đây?” Tôi hỏi, có vẻ hơn tàn nhẫn hơn những gì định nói.

“Không làm gì cả,” Peeta nói. “Cứ nói chuyện thôi.”

Bây giờ khi đã thấy con bé, tôi khó có thể không chú ý tới nó. Con bé lên đi và nhập hội với chúng tôi ở một lớp khác. Giống như tôi, nó rành rẽ về các loại cây cỏ, leo trèo nhanh nhẹn và ngắm rất tốt. Nó bắt trúng tất cả mục tiêu bằng một chiếc ná cao su. Nhưng liệu ná cao su có thể chống lại một thằng con trai nặng cả trăm ký với thanh kiếm trên tay?

Mỗi khi trở về tầng 12, chúng tôi lại bị Haymitch và Effie tra hỏi suốt buổi sáng và bữa tối về từng khắc trong ngày. Chúng tôi đã làm gì, bị ai quan sát và những đấu thủ khác thể hiện ra sao. Cinna và Protia không có ở đó, cũng có nghĩa là chẳng cón có người giữ hòa khí trong bữa ăn. Tuy nhiên, Haymitch và Effie không còn cãi nhau nữa. Thay vào đó họ có vẻ đồng thuận và quyết đưa chúng tôi vào khuôn khổ. Một mớ những căn dặn lê thê về những gì chúng tôi nên và không nên làm trong khi luyện tập. Peeta tỏ ra kiên nhẫn, nhưng tôi bắt đầu thấy bội thực và cáu tiết.

Khi chúng tôi cuối cùng cũng được giải thoát về phòng ngủ trong buổi tối thứ hai, Peeta lầm bầm. “Ai đó phải cho Haymitch uống gì đấy.”

Tôi khịt mũi nửa như muốn cười, nửa như muốn châm biếm. Rồi tôi chợt nhận ra. Thật sự tôi đã quá mệt mỏi trong việc xác định khi nào chúng tôi buộc phải là bạn và khi nào không. Ít nhất là khi vào Đấu trường, tôi biết chúng tôi là gì của nhau. “Thôi. Không giả bộ nữa khi không có ai ở xung quanh.”

“Được thôi, Katniss,” cậu uể oải. Sau đó, chúng tôi chỉ nói chuyện khi ở trước mặt mọi người.

Vào ngày luyện tập thứ ba, họ bắt đầu gọi chúng tôi sau bữa trưa để đến buổi gặp riêng với Ban Giám khảo. Từng quận một, nam đi trước rồi đến nữ. Như thường lệ, Quận 12 được xếp cuối cùng. Chúng tôi đứng ngồi không yên trong phòng ăn, chưa rõ phải đi đâu. Không một ai ra đi rồi trở lại. Khi căn phòng trống trải, áp lực phải tỏ ra thân thiện vơi đi. Vào lúc họ gọi Rue, trong phòng chỉ còn lại hai chúng tôi. Cả hai ngồi trong im lặng cho đến lúc tới lượt Peeta. Cậu đứng dậy.

“Hãy nhớ lời Haymitch, phải ném tạ dứt khoát.” Tôi bật ra trong vô thức.

“Cám ơn, tớ sẽ làm thế,” cậu nói. “Cậu cũng… bắn cho thẳng vào nhé.”

Tôi gật đầu. Không hiểu sao tôi không nói gì cả. Mặc dù nếu có thua, tôi vẫn mong Peeta là người chiến thắng hơn những kẻ khác. Như thế sẽ tốt hơn cho quận chúng tôi, cho mẹ tôi và Prim.

Sau khoảng mười lăm phút, họ gọi tên tôi. Tôi vuốt lại tóc, ưỡn thẳng vai rồi bước vào phòng tập. Ngay lập tức, tôi biết là mình đã gặp bất lợi. Ban Giám khảo đã ở đó quá lâu. Họ ngồi suốt trong các màn thể hiện của hai mươi ba người khác. Hầu hết đã uống khá nhiều vang. Họ chỉ muốn về nhà.

Tôi không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục như kế hoạch. Tôi bước đến khu bắn cung. Chà, những cây cung! Tôi đã ngứa ngáy muốn cầm chúng trên tay từ mấy hôm nay rồi! Có cây làm bằng gỗ, có cây làm bằng chất dẻo, kim loại hay những thứ vật liệu mà tôi không biết là gì. Những mũi tên gắn lông chim được vót thẳng băng. Tôi chọn lấy một cây, thử dây và khoác ống đựng tên lên vai. Khoảng ngắm bắn quá gần. Tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bước ra chính giữa phòng tập và nhắm vào mục tiêu đầu tiên. Hình nộm này được dùng cho bài phóng dao. Ngay khi giương cung tôi đã nhận ra có điều gì không ổn. Dây cung căng hơn so với cây cung tôi dùng ở nhà. Mũi tên chắc hơn. Tôi bắt trật hình nộm chỉ vài xăng ti mét nên hơn mất tập trung so với ban đầu. Trong vài giây tôi cảm thấy xấu hổ, nhưng rồi tôi tập trung trở lại vào tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bắn thêm vài lần nữa cho đến khi có được cảm giác với thứ vũ khí mới.

Quay lại giữa phòng tập, tôi lấy lại tư thế ban đầu và bắn xuyên tâm hình nộm. Rồi tôi bắn đứt sợi thừng đang treo bao cát đấm bốc, cái bao rớt bịch xuống sàn tung tóe. Không dừng lại, tôi khom vai, quỳ gối và bắn vào chiêc bóng đèn đang treo trong phòng tập. Một chùm tia sáng lóa ra từ bóng đèn.

Một cú bắn tuyệt vời. Tôi quay sang Ban Giám khảo. Một số gật gù tán thưởng, nhưng phần đông chú tâm vào con heo quay vừa được bày trên bàn tiệc.

Đột nhiên tôi cảm thấy cáu tiết, khi những người đang phán xét số phận mình không có lấy một chút lịch sự nào. Rằng tôi còn không bằng một con heo bị làm thịt. Ngực tôi đập thình thịch, và tôi cảm thấy mặt mình đỏ ửng lên. Không nghĩ ngợi, tôi lấy một mũi tên ra khỏi bao và bắn thẳng đến bàn của Ban Giám khảo. Tôi nghe thấy những tiếng hô cảnh báo và mọi người giật lùi lại. Mũi tên xiên thẳng vào quả táo trong miệng con heo và cắm nó vào bức tường cạnh đó. Mọi người nhìn tôi ngỡ ngàng.

“Cảm ơn sự xem xét của các ngài,” tôi nói. Rồi tôi hơi cúi người chào và bước thẳng về phía cửa ra, không cần chờ đến lúc bị tống cổ.

Chương 8

Trong khi chạy xộc tới thang máy, tôi ném cây cung sang một bên và chiếc ống tên sang bên kia. Tôi lướt nhanh qua con mắt kinh ngạc của mấy gã Avox canh gác rồi đấm tay vào nút số mười hai. Cánh cửa khép lại, thang máy đưa tôi lao vút lên. Tôi muốn trở lại tầng của mình trước khi những giọt nước mắt lăn xuống má. Nghe thấy tiếng người khác gọi mình từ phòng khách, nhưng tôi vẫn phóng thẳng theo hành lang về phòng, cài cốt cửa và nhảy huỵch lên giường. Rồi tôi bắt đầu nức nở.

Vậy là xong! Tôi đã hủy hoại mọi thứ! Nếu như từng có một chút cơ hội nào đó, thì tôi đã đánh mất nó khi bắn mũi tên về phía Ban Giám khảo mất rồi. Họ sẽ làm gì tôi? Bắt tôi ư? Hay hành hình? Hoặc giả cắt lưỡi và biến tôi thành một người Avox để tôi có thể phục vụ những đấu thủ tương lai của Panem? Tôi đã nghĩ gì chứ, bắn Ban Giám khảo ư? Dĩ nhiên không phải thế; tôi chỉ bắn vào trái táo đó bởi quá tức giận khi không được ai quan tâm đến. Tôi không hề muốn bắn bất kỳ ai trong số họ. Nếu tôi muốn thì hẳn họ đã mất mạng.

Ồ, mà chuyện đó thì có sao? Dù sao thì trông tôi cũng không có vẻ gì là sẽ chiến thắng ở Đấu trường. Ai quan tâm đến việc họ sẽ làm gì tôi chứ? Điều khiên tôi thực sự lo lắng là họ sẽ làm gì mẹ và Prim, rồi gia đình sẽ phải chịu đựng đau đớn đến mức nào vì tính bốc đồng của tôi. Liệu người ta sẽ tước tài sản của họ, hay đưa mẹ tôi vào tù và Prim vào nhà cộng đồng, hay giết họ? Người ta sẽ không giết họ chứ? Tại sao lại không? Đám người ấy thì quan tâm đến cái gì?

Lẽ ra tôi nên ở lại và xin lỗi. Hoặc cười to, như đó là một trò đùa lố. Rồi có thể tôi sẽ nhận được chút sự khoan hồng. Nhưng thay vào đó tôi lại hiên ngang đi ra với một thái độ thiếu tôn trọng nhất có thể.

Haymitch và Effie đang gõ cửa phòng tôi. Tôi la lớn bảo họ đi. Cuối cùng thì họ cũng đi. Tôi khóc suốt hơn một tiếng. Rồi tôi cứ nằm cuộn tròn trên giường, vuốt ve tấm ga lụa, ngắm nhìn mặt trời lặn ở chốn phồng hoa giả tạo Capitol.

Ban đầu, tôi nghĩ đám bảo vệ sẽ đến tìm mình. Nhưng sau đó, khả năng ấy có vẻ mất dần. Tôi đã bình tĩnh lại. Họ vẫn cần một đấu thủ nữ đến từ Quận 12 chứ? Nếu muốn trừng phạt tôi, các Giám khảo có thể làm thế công khai. Chờ đến khi tôi vào Đấu trường và đưa những con thú hoang bị bỏ đói đến vồ tôi. Chắc chắn là họ sẽ không cho tôi cây cung nào để tự vệ.

Trước đó họ sẽ cho tôi một số điểm thấp nhất, để không ai có đủ lý trí lại đi tài trợ cho tôi. Đó là điều sẽ xảy ra tối nay. Bời vì phần luyện tập không cho người ngoài xem, Ban Giám khảo sẽ báo điểm của từng đấu thủ. Việc này giúp khan giả có một gợi ý ban đầu để đánh cược trong thời gian diễn ra Đấu trường. Số điểm sẽ từ một đến mười hai, một là vô cùng tệ hại và mười hai là xuất sắc đến mưc khó có cửa đạt được, cho biết triển vọng của từng đấu thủ. Những điểm số không đảm bảo người thắng cuộc. Nó chỉ chứng tỏ khả năng của đấu thủ được thể hiện trong tập luyện. Bước vào đấu trường với nhiều yếu tố khác nhau, nhiều đấu thủ có điểm cao vẫn gục ngã ngay từ đầu. Vài năm trước, một chàng trai đã chiến thắng sau khi chỉ nhận được điểm ba trong tập luyện. Tuy vậy, số điểm có thể giúp ích hay gây thiệt thòi cho mỗi đấu thủ qua việc nhận tài trợ. Tôi từng hy vọng khả năng bắn cung sẽ giúp mình có được điểm sáu hay bảy, cho dù tôi không thực sự mạnh mẽ. Lúc này tôi chắc chắn mình sẽ nhận điểm thấp nhất trong hai mươi tư người. Nếu không ai tài trợ tôi, khả năng sống sót của tôi chỉ còn là con số không.

Khi Effie gõ cửa gọi ăn tối, tôi quyết định đi cùng. Điểm số sẽ được phát trên truyền hình vào tối nay. Tôi không thể che giấu mãi những gì vừa xảy ra. Tôi vào phòng tắm lau rửa, nhưng mặt vẫn lốm đốm đỏ.

Mọi người đang đợi ở bàn ăn, trong đó có cả Cinna và Portia. Tôi ước gì những nhà tạo mẫu không có mặt, bởi vì vài lý do, tôi không muốn làm họ thất vọng. Dường như tôi đã liệng đi không cần suy nghĩ toàn bộ thành quả của họ trong lễ khai mạc. Tôi tránh nhìn vào bất kỳ ai trong khi múc một muôi xúp cá đầy. Vị mặn của nó làm tôi nhớ lại những giọt nước mắt của mình.

Trong khi người lớn bắt đầu tán dóc về dự báo thời tiết, tôi lấm lét nhìn Peeta. Cậu nhướng lông mày. Một cậu hỏi. Vừa xảy ra chuyện gì à? Tôi chỉ khẽ gật đầu. Sau đó, khi bữa chính được bày ra, Haymitch nói, “Nào, tán chuyện đủ rồi – thế hôm nay mấy đứa thể hiện có tệ lắm không?”

Peeta nhanh nhảu. “Cháu chẳng biết là nó lại quan trọng thế. Trong khi cháu thể hiện, thậm chí không ai buồn nhìn. Họ đang hát nhố nhăng gì đó, cháu nghĩ thế. Bởi vậy, cháu cứ ném vài quả tạ cho đến khi họ nói cháu có thể đi.”

Điều đó làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Peeta không tấn công Ban Tổ chức, nhưng ít ra cậu ấy cũng bực bội.

“Còn cháu thì sao, cháu yêu?” Haymitch nói.

Cách Haymitch gọi tôi là cháu yêu đủ gây cáu tiết đến mức tôi buộc phải nói điều gì đó. “Cháu bắn một mũi tên về phía giám khảo.”

Mọi người lập tức dừng ăn. “Cháu làm sao cơ?” Giọng nói run rẩy của Effie xác nhận điều tôi e ngại về hình huống xấu nhất.

“Cháu bắn tên vào họ. Không hẳn là vào họ. Về hướng họ. Giống như Peeta nói, lúc cháu bắn thì họ làm lơ và cháu chỉ… cháu chỉ mất bình tĩnh, nên cháu bắn quả táo khỏi miệng con heo quay ngu xuẩn của họ!” Tôi bướng bỉnh nói.

“Và họ đã nói gì?” Cinna thận trọng hỏi.

“Không gì cả. Hoặc là em không biết. Em bước ra ngay sau đó,” tôi nói.

“Mà không bị đuổi đi ư?” Effie há hốc.

“Cháu tự đuổi mình đi,” tôi nói. Tôi nhớ lại mình đã hứa với Prim thế nào, rằng sẽ cố gắng hết sức để giành chiến thắng, giờ thì tôi cảm thấy như có hang tấn than đổ ụp xuống đầu mình.

“Chậc, thế đấy,” Haymitch nói. Rồi ông ấy phết bơ lên ổ bánh.

“Theo bác họ có bắt cháu không?” tôi hỏi.

“Có lẽ. Thật đau khi phải thay thế cháu vào lúc này,” Haymitch nói.

“Còn gia đình cháu thì sao?” tôi nói. “Liệu họ có bị ngược đãi không?”

“Không đâu. Chuyện cháu bị bắt cũng khó xảy ra lắm. Này nhé, họ sẽ phải tiết lộ điều gì đã xảy ra ở Trung tâm Huấn luyện và giải thích cho người dân nhằm nhận được sự ủng hộ nào đó. Mọi người sẽ muốn biết cháu đã làm gì. Nhưng người ta không thể cho họ biết vì đó là bí mật, nên có bắt cháu cũng vô ích.” Haymitch nói. “Nhiều khả năng họ sẽ đày đọa cháu ở Đấu trường.”

“Dù sao họ cũng hứa hẹn sẽ làm thế với chúng cháu rồi.” Peeta nói.

“Rất đúng,” Haymitch nói. “Thật sự tôi không nghĩ chuyện này lại xảy ra. Họ đang chân thành động viên tôi. Haymitch nhón một miếng sườn heo, điều này khiến Effie cau mày, rồi ông nhúng nó vào cốc rượu của mình. Ông lại thớ một khoanh thịt và bắt đầu cười khẽ. “Gương mặt họ trông như thế nào?”

Môi tôi vênh lên. “Sốc. Hoảng sợ. À, một số thì buồn cười lắm.” Một hình ảnh vụt qua trong đầu tôi. “Một gã vấp chân ngã vào tô rượu pân ở đằng sau.”

Haymitch cười ha hả, tất cả chúng tôi đều cười – ngoại trừ Effie, mặc dù bà ta cũng đang nén cười. “Ừ thì, họ cũng đáng bị như thế. Nhiệm vụ của họ là để ý đến cháu. Và họ không có lý do gì để làm lơ nếu chỉ vì cháu đến từ Quận 12.” Rồi cặp mắt bà đảo xung quanh như thể vừa nói điều gì hoàn toàn bang bổ. “Xin lỗi, nhưng tôi nghĩ là thế.” Bà ta không nói với riêng ai.

“Cháu sẽ nhận được số điểm thậm tệ,” tôi nói.

“Điểm số chỉ có ý nghĩa với những người thật xuất sắc; không ai để ý nhiều đến những thí sinh tồi hay làng nhàng cả. Ai cũng biết rằng em có thể cố tình giấu nghề bằng cách lấy điểm thấp. Người ta vẫn dung chiến thuật đó,” Portia nói.

“Em hy vọng người ta sẽ nghĩ như thế vì có thể em sẽ nhận được điểm bốn,” Peeta nói. “Thật đấy. Còn gì đáng chán hơn là nhìn một thí sinh nhặt viên tạ và ném nó đi được vài mét? Có viên nằm ngay dưới chân cháu.”

Tôi cười xòa với cậu và nhận ra mình đang đói meo. Tôi cắt một miếng thịt heo, nhúng vào khoai tây nghiền và bắt đầu ăn. Thế là ổn. Gia đình tôi được an toàn. Và chỉ cần họ an toàn, nhưng điều khác không còn đáng lo nữa.

Sau bữa tối, chúng tôi vào phòng khách xem số điểm trên ti vi. Đầu tiên họ chiếu một bức hình của đấu thủ, rồi nhấp nháy lên điểm số phía dưới. Bọn Nhà nghề tất nhiên nhận được số điểm từ tám đến mười. Hầu hết bọn khác nhận điểm trung bình là năm. Thật ngạc nhiên, Rue được điểm bảy. Không biết cô bé đã thể hiện gì với giám khảo, nhưng hẳn sự bé con của nó cũng là một điểm ấn tượng.

Quận 12 xuất hiện cuối cùng, như thường lệ. Peeta nhận điểm tám, vậy là ít nhất một hay hai người trong Ban Giám khảo cũng đã quan sát cậu ấy. Tôi bấm móng vào lòng bàn tay khi khuôn mặt tôi xuất hiện, chờ đợi điều tồi tệ nhất. Rồi họ nháy số điểm mười một trên màn hình.

Mười một điểm!

Effie Trinket thét lên, mọi người vỗ vào lưng tôi, hoan hô và chúc mừng. Dường như đó không phải sự thật.

“Hẳn phải có sai sót. Làm sao… làm sao chuyện đó xảy ra được?” tôi hỏi Haymitch.

“Có khi họ thích tính khí của cháu,” ông nói. “Phải có những màn trình diễn thực sự. Họ cần những đấu thủ máu lửa.”

“Katniss, cô gái bốc lửa,” Cinna nói và ôm tôi. “Ồ, rồi em sẽ thấy bộ váy trong buổi phỏng vấn của mình.”

“Lại lửa nữa à?” tôi hỏi.

“Đại khái thế,” anh nói tinh quái.

Peeta và tôi chúc mừng lẫn nhau, thêm một khoảnh khắc ngượng nghịu nữa. Chúng tôi đều đã làm tốt, nhưng điều đó thì có ý nghĩa gì với người kia? Tôi trốn vào phòng mình càng nhanh càng tốt và vùi đầu dưới tấm trải giường. Một ngày căng thẳng, nhất là cơn khóc, đã vắt kiệt sức của tôi. Tôi thiếp đi, nhẹ nhõm, khuây khỏa, con số mười một vẫn nhấp nháy trước mắt.

Bình minh đến, tôi nằm trên giường một lúc, nhìn vầng dương ló dạng trong một buổi sáng đẹp trời. Hôm nay là Chủ nhật. Chúng tôi luôn dành những ngày chủ nhật để tích trữ cho tuần kế tiếp. Dậy sớm, săn bắn, hái lượm rồi đổi chác tại chợ Hob. Tôi tự hỏi Gale sẽ thế nào khi không có tôi. Cả hai chúng tôi đều có thể đi một mình, nhưng sẽ tốt hơn nếu đi săn cùng nhau. Nhất là với những con mồi lớn. Nhưng kể cả với những việc nhỏ hơn, có người đi cùng san sẻ gánh nặng sẽ khiến công việc nuôi sống gia đình gian nan phần nào thú vị.

Tôi khá vất vả khi đi săn một mình trong khoảng sáu tháng trước khi gặp Gale lần đầu trong rừng. Đó là một ngày Chủ nhật tháng Mười, trời giá buốt tiêu điều. Buổi sáng tôi giành hạt điều với bọn chồn, đến chiều ấm hơn một chút thì lội xuống vũng cạn để hái Cát nhĩ. Dù lũ thú vẫn xuất hiện, tôi chỉ bắn được một chú chồn đang chạy trước mũi giày để tìm nhặt hạt sồi, trong khi các nguồn thức ăn khác đã bị tuyết bao phủ cả. La cà trong rừng xa hơn thường lệ, tôi vội trở về nhà, tay kéo theo chiếc bao bố thì đột nhiên nhìn thấy một con thỏ đã chết. Cổ nó bị treo lủng lẳng bởi một sợi dây mảnh phía trên đầu tôi tầm ba mươi xăng ti mét. Cách đó khoảng mười lăm mét là một con khác. Tôi nhận ra những chiếc bẫy giật bởi cha tôi đã từng dùng chúng. Khi con mồi chạm bẫy, nó bị nhấc bổng lên không trung ngoài tầm với của những loài thú háu ăn khác. Do đã tập đặt bẫy suốt mùa hè nhưng không thành nên tôi đặt bao bố xuống để xem xét. Tôi đang định rờ vào sợi dây treo con thỏ thì có giọng nói cất lên. “Nguy hiểm đấy.”

Tôi giật lùi lại khi Gale lừ lừ xuất hiện sau một thân cây. Hẳn anh đã quan sát tôi từ nãy đến giờ. Mới chỉ mười bốn tuổi nhưng đã cao xấp xỉ một mét tám, trông anh chững chạc như người lớn. Tôi đã thấy anh quanh khu Vỉa than và ở trường. Và vào một lần khác nữa. Anh cũng mất cha trong cùng vụ nổ hầm mỏ đã cướp lấy cha tôi. Vào tháng Giêng, tôi và anh cùng đứng nhận huân chương dũng cảm cho cha mình ở Tòa Tư pháp. Anh cũng là một người con lớn mất đi đấng sinh thành. Tôi còn nhớ hai cậu em nhỏ của anh ôm chặt lấy mẹ, một phụ nữ đang mang bầu và có vẻ sẽ sinh trong vài ngày tới.

“Tên em là gì?” anh nói, tiến lại và tháo con thỏ khỏi chiếc bẫy. Anh có ba con khác đang gài trên thắt lưng.

“Katniss,” tôi nói lí nhí.

“Ừ, Catnip, ăn cắp sẽ bị phạt tội chết đấy, hay là em chưa biết?” anh nói.

“Katniss,” tôi nói to hơn. “Em có ăn cắp đâu. Em chỉ muốn xem cái bẫy của anh. Bẫy của em chẳng bắt được gì cả.”

Anh quắc mắt nhìn tôi, không dễ bị thuyết phục. “Vậy em bắt được con chồn bằng cái gì?”

“Em bắn nó.” Tôi lấy ra cây cung từ sau vai. Tuy dùng loại cung nhỏ mà cha đã làm cho, nhưng tôi vẫn tập với loại cung tiêu chuẩn khi có thể. Hy vọng đến mùa xuân tôi có thể bắn hạ vài con thú lớn.

Gale dán mắt vào cây cung. “Anh xem được không?”

Tôi đưa cho anh. “Nhớ là, ăn cắp sẽ bị phạt tội chết đấy.”

Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh cười. Nó biến anh từ một mối đe dọa trở thành một người mà tôi thật sự muốn được biết. Nhưng phải vài tháng sau tôi mới đáp trả nụ cười đó.

Rồi chúng tôi nói chuyện săn bắn. Tôi nói có thể đưa anh cây cung nếu anh có thứ gì khác để trao đổi. Không phải thức ăn. Ý tôi là những món nghề. Tôi muốn tự mình gài bẫy để có thể mang về một đai lưng đầy thỏ mập trong một ngày. Anh đồng ý sẽ suy nghĩ về chuyện đó. Mùa qua mùa, chúng tôi bắt đầu chia sẻ một cách miễn cưỡng các ngón nghề, vũ khí và những chỗ bí mật của mỗi người, nơi sum suê mận dại hay có hàng bầy gà rừng. Anh dạy tôi đặt bẫy và câu cá. Tôi chỉ cho anh những thứ cây cỏ có thể ăn được và cuối cùng, cho anh một trong những cây cung quý giá của mình. Rồi một ngày, tuy không ai nói ra, chúng tôi trở thành một cặp. Phân công công việc và chia sẻ chiến lợi phẩm. Đảm bảo rằng nhà ai cũng có thức ăn.

Gale mang lại cho tôi cái cảm giác an toàn mà tôi đã thiếu vắng kể từ sau khi cha mất. Tình đồng đội của anh đã lấp đi những khoảng thời gian dài cô độc trong rừng. Tôi trở thành một tay săn cừ hơn nhiều khi không còn phải liên tục nhìn ra sau xem có ai đang theo dõi. Nhưng anh còn hơn một người đi săn cùng. Anh trở thành người bạn tâm tình, một người mà tôi có thể sẻ chia những suy nghĩ chưa bao giờ thổ lộ với ai. Bù lại, anh tin tưởng tôi. Đi vào rừng cùng Gale… đôi lúc tôi cảm thấy thực sự hạnh phúc.

Tôi gọi anh ấy là bạn, nhưng từ một năm nay cái từ ấy dường như quá đơn giản cho những gì mà tôi cảm nhận được từ Gale. Một vét nhói xuyên dài qua ngực tôi. Giá như giờ này có anh ở bên! Nhưng tất nhiên là tôi không muốn thế. Tôi không muốn Gale vào đấu trường, nơi anh sẽ mất mạng chỉ trong vài ngày. Chỉ là… chỉ là tôi nhớ anh. Và tôi ghét cái cảm giác cô đơn. Anh có nhớ tôi không? Hẳn rồi.

Tôi nghĩ về con số mười một nhấp nháy dưới tên mình tối qua. Tôi có thể biết đích xác những gì anh sẽ với tôi. “Ồ, ở đó mà cũng tiến bộ nhanh nhỉ.” Rồi anh lại cười và tôi sẽ đáp trả không hề do dự.

Tôi không thể không so sánh mối quan hệ của tôi với Gale và mối quan hệ vờ vịt với Peeta. Chưa bao giờ đặt câu hỏi về động cơ của Gale, nhưng tôi luôn nghi ngờ Peeta. So sánh như vậy quả thật không công bằng. Gale và tôi đến với nhau bởi cùng có nhu cầu tồn tại. Còn Peeta và tôi đều hiều rằng sự sống còn của người này là sự đe dọa cho sự tồn tại của người kia. Làm sao quên điều đó được?

Effie gọi cửa, nhắc tôi rằng sẽ có một “ngày quan trọng, cực kỳ quan trọng!” nữa đang chờ. Tối mai, cuộc phỏng vấn của chúng tôi sẽ được truyền hình trực tiếp. Tôi nghĩ cả đội đều sẵn sang để hỗ trợ chúng tôi.

Tôi bật dậy và tắm một lát, để ý kỹ hơn cái nút bấm và đi thẳng xuống phòng ăn. Peeta, Effie và Haymitch đang túm tụm quanh bàn ăn, thầm thì với nhau. Điều này có vẻ lạ, nhưng do cái đói đã làm mờ sự tò mò, tôi lấy bữa sang đầy một đĩa trước khi gia nhập bọn họ.

Hôm nay có món hầm từ thịt cừu đun nhừ cùng với mận khô. Với một khay gạo lúa hoang nữa là hoàn hảo. Tôi ăn ngấu nghiến được một nửa thì chợt nhận ra chẳng ai nói chuyện cả. Tôi uống một ngụm cam ép và lau miệng. “Ồ, chuyện gì xảy ra vậy? Ông sẽ hướng dẫn chúng cháu về buổi phỏng vấn hôm nay chứ?”

“Đúng thế,” Haymitch nói.

“Ông không cần đợi cháu ăn xong. Cháu có thể vừa nghe vừa ăn,” tôi nói.

“À, có một sự thay đổi so với dự kiến. Về cách huấn luyện hiện tại của chúng ta,” Haymitch nói.

“Chuyện gì ạ?” tôi hỏi. Tôi không chắc cách huấn luyện hiện tại của bọn tôi là gì. Giấu bài trước những đối thủ khác là chiến thuật cuối cùng mà tôi nhớ được.

Haymitch nhún vai. “Peeta đã đề nghị được huấn luyện riêng.”

Chương 9

Một sự phản bội. Nghe thì có vẻ buồn cười, nhưng đó là điều đầu tiên tôi cảm thấy. Để có sự phản bội, trước tiên phải có sự tin tưởng. Giữa Peeta và tôi. Nhưng lòng tin hoàn toàn không có trong giao ước. Chúng tôi là những vật tế. Nhưng cậu bé đã không màng bị đòn để đưa tôi ổ bánh mì, người đã giữ tôi đứng vững khi đi trên cỗ xe, người đã cứu tôi trong tình thế khó xử với cô gái Avox tóc đỏ, người đã cố thuyết phục Haymitch về khả năng săn bắn của tôi… liệu đã khiến tôi tin tưởng một phần nào đó?

Bù lại, tôi thấy nhẹ nhõm khi không phải giả vờ làm bạn Peeta nữa. Rõ ràng là, mối quan hệ mỏng manh mà chúng tôi ngớ ngẩn tạo dựng đến lúc này đã bị cắt đứt. Cũng đến lúc rồi. Đấu trường sẽ bắt đầu trong hai ngày tới và việc tin tưởng nhau sẽ chỉ thể hiện điểm yếu. Bất kể điều gì dẫn đến quyết định của Peeta – tôi ngờ rằng đó là sự trội hơn của mình trong những ngày huấn luyện – tôi vẫn thấy mình phải cảm ơn. Có lẽ cuối cùng cậu cũng chấp nhận sự thật rằng chúng tôi càng thẳng thắn thừa nhận mình là kẻ thù của nhau sớm bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.

“Tốt thôi,” tôi nói. “Lịch cụ thể thế nào?”

“Mỗi đứa sẽ có bốn giờ với Effie cho phần hình thức và bốn giờ với ta cho phần nội dung.” Haymitch nói. “Cháu bắt đầu với Effie trước, Katniss.”

Tôi chưa hình dung Effie sẽ phải dạy tôi những gì trong suốt bốn tiếng, nhưng bà bắt tôi tận dụng thời gian tối đa. Cả hai về phòng tôi và bà cho tôi mặc một chiếc đầm dài đến chân, đi giày cao gót, tuy không phải thứ tôi sẽ mặc trong buổi phỏng vấn, và hướng dẫn cách đi. Đôi giày là thứ ngán ngẩm nhất. Tôi chưa bao giờ đi giày cao gót và không thể nào quen với việc cứ bị đung đưa mất thăng bằng suốt. Nhưng Effie đi giày cao gót suốt cả ngày, và nếu bà làm được thì tôi cũng phải làm được. Chiếc đầm làm nảy sinh một vấn đề khác. Nó cứ vướng vào đôi giày nên tất nhiên là tôi phải kéo nó lên, nhưng Effie bổ xuống tôi như một con diều hâu, đập tay tôi mà hét toáng, “Không được kéo quá mắt cá!” Giải quyết xong phần đi đứng thì vẫn còn tư thế ngồi, dáng điệu – tôi hay cúi đầu xuống – giao tiếp bằng mắt, động tác tay và cách cười. Cười không đơn giản là cười. Effie bắt tôi nói hàng trăm câu sáo rỗng bắt đầu bằng nụ cười, vừa cười vừa nói, hay kết thúc bằng nụ cười. Đến bữa trưa các cơ hai bên má tôi giật giật vì hoạt động nhiều quá.

“Đấy, ta đã làm hết sức rồi,” Effie thở dài. “Chỉ cần nhớ, Katniss, là cháu muốn làm khán giả thích cháu.”

“Bà không nghĩ họ sẽ như thế sao?” tôi hỏi.

“Không, nếu lúc nào cháu cũng trừng trừng nhìn họ. Tại sao cháu không để dành ánh mắt đó khi vào Đấu trường? Thay vào đó, hãy nghĩ những người xung quanh là bạn cháu,” Effie nói.

“Họ đang đánh cược xem cháu sẽ sống được bao lâu!” Tôi thốt lên, “Họ không phải bạn cháu.”

“Nào, hãy cứ giả vờ!” Effie ngắt lời. Rồi bà làm mặt cười cho tôi thấy. “Nhìn này, như vậy đấy. Ta đang cười với cháu mặc dù cháu đang chọc tức ta.”

“Vâng, có vẻ rất thuyết phục,” tôi nói. “Cháu đi ăn đây.” Tôi nhấc gót và bước đi nặng nề xuống phòng ăn, kéo váy lên đến đùi.

Hình như Peeta và Haymitch đang có tâm trạng rất tốt, nên tôi nghĩ phần nội dung sáng nay có tiến triển. Tôi lầm quá. Sau bữa trưa, Haymitch đưa tôi vào phòng khách, bảo tôi ngồi lên chiếc đi văng, chỉ cau mày nhìn tôi một lúc.

“Sao thế ạ?” cuối cùng tôi hỏi.

“Ta đang suy nghĩ xem phải làm gì với cháu,” ông nói. “Chúng ta nên để cháu thể hiện như thế nào? Cháu sẽ là một cô gái duyên dáng? Lạnh lùng? Hay tàn nhẫn? Đến lúc này thì cháu đang tỏa sáng như một ngôi sao. Cháu xả thân để cứu em mình. Cinna đã giúp cháu trông thật khó quên. Cháu đạt điểm luyện tập cao nhất. Người ta tò mò, nhưng không ai biết cháu là ai. Ấn tượng mà cháu tạo ra trong ngày mai sẽ quyết định chính xác ta có thể giúp cháu nhận được tài trợ hay không,” Haymitch nói.

Đã từng theo dõi những cuộc phỏng vấn vật tế từ bé, tôi biết ông nói thật. Nếu bạn hấp dẫn đám đông, dù bằng sự hóm hỉnh, tàn nhẫn hay thậm chí lập dị, bạn sẽ được để ý.

“Thế còn chiến thuật của Peeta thì sao? Hay là cháu không được phép hỏi?” tôi nói.

“Tỏ ra đáng mến. Cậu ta có khiếu hài hước bẩm sinh thu hút người khác,” Haymitch nói. “Còn cháu cứ mở miệng ra là tỏ ra sưng sỉa, hằn học.”

“Cháu không như thế,” tôi nói.

“Làm ơn đi. Ta không biết bằng cách nào cháu kiếm đâu ra cô gái vui vẻ hồ hởi trên cỗ xe, nhưng trừ lúc đó ra ta chưa thấy cô ấy bao giờ cả,” Haymitch nói.

“Hẳn là bác cho cháu nhiều lý do để vui vẻ lắm nhỉ,” tôi cãi.

“Vì cháu không cần làm vừa ý ta. Ta không phải người tài trợ cho cháu. Bây giờ giả sử ta là khán giả,” Haymitch nói. “Thu hút đi!”

“Được!” Tôi gằn giọng. Haymitch đóng vai người phỏng vấn còn tôi cố gắng trả lời những câu hỏi của ông với một phong thái tự tin. Nhưng tôi không thể. Tôi quá cáu tiết với những gì Haymitch nói và không thiết trả lời. Tôi chỉ nghĩ rằng tất cả những điều này thật bất công, cái Đấu trường Sinh tử này. Tại sao tôi phải nhảy loi choi như con khuyển được huấn luyện để lấy lòng những kẻ mà tôi ghét? Cuộc phỏng vấn càng kéo dài, sự bực tức của tôi càng như muốn trào ra, cho tến khi tôi như ném câu trả lời vào mặt ông.”

“Được rồi, đủ rồi,” ông nói. “Chúng ta phải tìm một cách khác. Cháu không chỉ hằn học thôi đâu, ta còn chẳng biết gì về cháu cả. Ta đã hỏi cháu năm mươi câu mà vẫn chưa có gì rõ ràng về cuộc đời, gia đình và những điều cháu quan tâm. Họ lại muốn biết về cháu, Katniss ạ.”

“Nhưng cháu không muốn cho họ biết! Họ đã tước đi tương lai của cháu! Họ không thể có những thứ trong quá khứ của cháu!” tôi nói.

“Vậy thì nói xạo! Bịa ra điều gì đó!” Haymitch nói.

“Cháu không giỏi nói xạo,” tôi nói.

“Được rồi, cháu sẽ học nhanh thôi. Trông cháu như con sên đói, chẳng quyến rũ chút nào cả,” Haymitch nói.

Oạch. Đau thật. Hẳn là Haymitch cũng biết là mình có phần khắt khe nên ông dịu giọng. “Ta có ý này. Hãy tỏ ra khiêm tốn.”

“Khiêm tốn,” tôi lặp lại.

“Rằng cháu không tin rằng bản thân mình, một cô gái nhỏ từ Quận 12, lại được điểm cao như vậy. Mọi thứ đã hơn diễn ra còn hơn những gì cháu từng mơ. Hãy nói về bộ trang phục do Cinna thiết kế. Người dân ở đây thật dễ mến làm sao. Thành phố này quyến rũ cháu thế nào. Nếu cháu không muốn nói về bản thân mình thì ít nhất hãy ca tụng họ, khán giả. Cứ xoay mọi thứ theo cách như thế, được chứ. Thể hiện đi.”

Những giờ đồng hồ tiếp theo thật khổ sở. Bây giờ rõ ràng tôi không thể hiện gì được. Chúng tôi đang cố tạo ra một con gà trống, nhưng đơn giản là tôi không có mào đỏ. Rõ ràng, tôi quá “yếu đuối” để trở nên tàn nhẫn. Tôi không hóm hỉnh. Hài hước. Khêu gợi. Hay bí ẩn.

Vào cuối buổi, tôi không biết mình là ai nữa. Haymitch bắt đầu mất vẻ hóm hỉnh trước đó và giọng ông có chút gì cáu gắt. “Ta chịu. Con gái yêu ạ. Chỉ cần trả lời các câu hỏi và đừng để khán giả biết cháu thực sự coi thường họ thế nào.”

Tối hôm đó tôi ăn trong phòng, gọi một mớ hổ lốn những cao lương mỹ vị rồi ăn ngấu nghiến, và để xua đi nỗi bực dọc về Haymitch, về Đấu trường Sinh tử, về bất cứ cá thể nào sống ở Capitol, tôi ném đĩa khắp phòng. Khi cô gái tóc đỏ bước vào để tháo ga giường, cô trố mắt nhìn đống mảnh vụn. “Cứ để đấy!” tôi quát cô ta. “Cứ để yên đấy!”

Tôi cũng ghét cả cô, bởi cái ánh mắt như quở trách tôi là đồ thỏ đế, đồ quái vật, đồ con rối của Capitol, cả bây giờ và về sau. Với cô, công lý cuối cùng sẽ đến. Ít nhất cái chết của tôi sẽ trả giá cho mạng sống của chàng trai trong khu rừng dạo trước.

Nhưng thay vì bước ra, cô tiến đến cánh cửa bên cạnh và đi vào buồng tắm. Cô bước ra với chiếc khăn ướt trên tay và nhẹ nhàng lau mặt rồi lau vết máu trên đôi tay bị sây sát vì mảnh đĩa vỡ của tôi. Tại sao cô làm thế? Tại sao tôi lại để cô làm như thế?

“Lẽ ra tôi nên tìm cách cứu cô,” tôi thì thầm.

Cô lắc đầu. Liệu điều đó có nghĩa là chúng tôi nên nương tựa nhau? Rằng cô ấy đã tha thứ cho tôi?

“Không, như vậy là sai,” tôi nói.

Cô đặt mấy ngón tay lên môi rồi chỉ vào ngực tôi. Tôi nghĩ ý cô là số phận tôi cũng sẽ kết thúc như một người Avox. Có thể lắm. Là người Avox hoặc là chết.

Trong một tiếng sau đó tôi giúp cô gái tóc đỏ dọn dẹp căn phòng. Sau khi mọi thứ rác rưởi đã được đổ vào máy nghiền và thức ăn được dọn dẹp, cô quay lại giường tôi. Tôi trường xuống dưới tấm ga như một đứa trẻ lên năm, để cô đắp chăn cho tôi. Rồi cô đi. Tôi muốn cô ở lại cho đến khi tôi ngủ, và ở đó khi tôi thức dậy. Tôi muốn sự che chở của cô gái ấy, mặc dù cô chưa bao giờ nhận được sự che chở từ phía tôi.

Sáng hôm sau, không phải cô gái mà là đội chuẩn bị đứng xung quanh tôi. Bài học của tôi với Effie và Haymitch đã kết thúc. Ngày hôm nay là của Cinna. Anh là niềm hy vọng cuối cùng của tôi. Anh có thể làm cho tôi trở nên lộng lẫy, và sẽ không quan tâm tôi nói những gì.

Cả đội làm việc cho đến cuối buổi chiều. Họ biến da tôi thành ra mịn màng như vải xa tanh, in những hoa văn lên tay tôi, vẽ những họa tiết lửa lên móng tay và móng chân tôi. Rồi Venia bắt đầu làm tóc, bà kết dải băng màu đỏ trên đầu tôi bắt đầu từ bên tai trái, vấn qua đầu và thả xuống cùng một lọn tóc bên vai phải. Họ đánh trắng khuôn mặt tôi bằng một lớp phấn trang điểm nhạt rồi kẻ nét. Cặp mắt to đậm, đôi môi mọng đỏ, hàng mi lấp lánh mỗi khi tôi chớp mắt. Cuối cùng, họ phủ lên người tôi một lớp bột làm cơ thể tôi mờ đi trong đám bụi vàng.

Rồi Cinna bước vào với một thứ mà tôi nghĩ là váy, nhưng không thể thấy rõ được qua lớp bọc ngoài. “Nhắm mắt đi em,” anh đề nghị.

Tôi có thể cảm nhận được lớp lụa mềm mại bên trong khi họ trượt bộ váy xuống tấm thân đang lõa lồ của tôi, rồi cả sức nặng của nó nữa. Phải đến hai mươi ký lô. Tôi bám lấy tay Octavia trong khi mò mẫm xỏ giày, vui sướng khi nhận ra chúng thấp hơn ít nhất là năm xăng ti mét so với đôi mà Effie đã bắt tôi luyện tập. Có một chút chỉnh sửa và hối thúc. Rồi tất cả im lặng.

“Em mở mắt được chưa?” tôi hỏi.

“Được rồi,” Cinna nói. “Mở mắt đi.”

Người đứng trước mặt tôi trong gương như đến từ một thế giới khác. Làn da lấp lánh và đôi mắt lung linh. Bộ quần áo rõ được làm từ đá quý. Ôi, bộ váy của tôi được phủ kín những viên đá quý lấp lánh đủ màu sắc, đỏ có, vàng có, trắng có cộng với một chút xanh làm nổi bật bề mặt của những họa tiết rực lửa. Một chuyển động nhỏ nhất khiến người ta có cảm giác tôi đang chìm trong lửa.

Tôi không lộng lẫy. Tôi không xinh đẹp. Tôi sáng lóa như ánh mặt trời.

Trong một lúc, tất cả chỉ biết chăm chú nhìn tôi. “Ồ, Cinna,” cuối cùng tôi thì thầm. “Cảm ơn anh.”

“Xoay một vòng cho anh,” anh nói. Tôi dang tay và xoay thành một vòng. Cả đội òa lên ngưỡng mộ.

Cinna không để ý đến đám đông, bắt tôi đi lại trong bộ váy và đôi giày, vốn thoải mái hơn hẳn đôi của Effie. Bộ váy rủ xuống theo một cách khiến tôi không phải nhấc váy lên khi bước, giúp tôi nhẹ đi một gánh nặng.

“Sao? Sẵn sàng cho cuộc phỏng vấn rồi chứ?” Cinna hỏi. Qua thái độ tôi đoán anh đang hỏi về Haymitch. Anh biết là tôi cảm thấy chán ngán như thế nào.

“Em đến là sợ. Haymitch gọi em là con sên đói. Dù chúng ta đã cố gắng đến mấy,em vẫn không thể làm đúng ý ông ấy. Em không sao làm được những điều mà ông ấy muốn,” tôi nói.

Cinna nghĩ ngợi trong thoáng chốc. “Tại sao em không đơn giản là làm chính mình?”

“Làm chính mình ư? Như vậy cũng không được. Haymitch nói rằng em trông sưng sỉa và thù địch,” tôi nói.

“Ừm, em đúng là như thế… khi ở gần Haymitch,” Cinna tươi cười. “Anh không thấy em như vậy. Đội chuẩn bị ngưỡng mộ em. Thậm chí em còn thuyết phục được Ban Giám khảo. Và đối với những người dân ở Capitol, đấy, họ không ngừng bàn tán về em. Không ai là không ngưỡng mộ phong thái của em.”

Phong thái của tôi. Điều này mới. Tôi không biết chính xác ý của anh là gì, nhưng có lẽ anh muốn nói tôi là một chiến binh. Với sự quả cảm. Điều đó không có nghĩa là tôi chưa hề tỏ ra thân thiện. OK, có thể là tôi không đủ cởi mở với những người tôi gặp, có thể nụ cười của tôi khó nhận ra, nhưng tôi thật sự quan tâm đến một số người nào đó.

Cinna nắm lấy đôi tay lạnh giá của tôi. “Giả sử trong lúc trả lời phỏng vấn em nghĩ đến một người bạn ở nhà. Người bạn tốt nhất của em sẽ là ai?” Cinna hỏi.

“Gale,” tôi nói ngay. “Nhưng chuyện đó chẳng nghĩa lý gì, Cinna ạ. Em sẽ không bao giờ kể với Gale những điều ấy. Anh ấy vốn đã biết.”

“Còn anh thì sao? Em đã nghĩ về anh như một người bạn chứ?” Cinna hỏi.

Trong những người tôi đã gặp từ lúc xa nhà, Cinna vẫn là người tôi thấy thú vị nhất. Tôi thích anh ngay lần gặp đầu tiên và anh cũng chưa từng làm tôi thất vọng. “Em nghĩ là thế, nhưng…”

“Anh sẽ ngồi ở khu chính với những nhà tạo mẫu khác. Em có thể nhìn ngay thấy anh. Khi trả lời phỏng vấn, hãy nhìn anh, và trả lời một cách trung thực nhất,” Cinna nói.

“Ngay cả nếu em nghĩ trả lời như thế thật tệ hại?” Tôi hỏi. Bởi điều đó có thể xảy ra lắm chứ.

“Nhất là khi em nghĩ trả lời như thế thật tệ hại.” Cinna nói. “Em sẽ thử chứ?”

Tôi gật đầu. Đó là kế hoạch của chúng tôi. Hay ít ra là một cái phao cứu sinh cho tôi níu lấy.

Rồi cũng đến lúc phải đi. Cuộc phỏng vấn diễn ra trên một sân khấu dựng trước Trung tâm Huấn luyện. Một khi rời khỏi phòng, chỉ chốc lát thôi là tôi đã đứng trước đám đông, trước máy ghi hình, trước toàn bộ cư dân Panem.

Khi Cinna xoay nắm cửa, tôi ngăn tay anh lại. “Cinna…” Tôi hoàn toàn bị ngợp trước nỗi sợ hãi khi phải bước ra sân khấu.

“Hãy nhớ lấy, họ đều yêu mến em,” anh dịu dàng. “Hãy là chính mình.”

Chúng tôi gặp những người còn lại của nhóm Quận 12 tại thang máy. Portia và bộ sậu của cô hẳn đã làm việc vất vả. Peeta trông khá ấn tượng trong bộ cánh màu đen với những đường nhấn rực lửa. Chúng tôi nhìn nhau và cảm thấy nhẹ nhõm khi không mặc đồ giống nhau. Haymitch và Effie đều ngất ngây khi thấy chúng tôi. Tôi lờ Haymitch, nhưng vẫn nhận những lời khen ngợi của Effie. Effie có thể vô vị và nhạt nhẽo, nhưng bà không khó tính như Haymitch.

Khi thang máy mở, tôi thấy các vật tế khác đang xếp hàng để bước lên sân khấu. Rồi hai mươi bốn người chúng tôi ngồi thành một vòng cung lớn xung quanh ban phỏng vấn. Tôi sẽ là người cuối cùng, hoặc kế cuối, vì thí sinh nữ và thí sinh nam của mỗi quận ngồi thành một cặp và xen kẽ nhau. Giá như tôi là người đầu tiên để có thể nhanh chóng tống khứ mọi thứ! Giờ thì tôi sẽ phải lắng nghe xem những người khác hóm hỉnh, vui nhộn, khiêm tốn, hung hãn và dịu dàng như thế nào trước khi đến lượt mình. Hơn nữa, khán giả sẽ cảm thấy buồn chán, cũng như những người trong Ban Giám khảo lần trước. Và tôi không thể bắn một mũi tên về phía trước đám đông để kéo sự chú ý của họ.

Ngay trước khi chúng tôi diễu hành lên sân khấu, Haymitch lại gần Peeta và tôi thì thầm, “Hãy nhớ, hai cháu vẫn còn là một cặp thân mật. Hãy diễn đúng như thế.”

Cái gì? Vậy mà tôi nghĩ tất cả đã chấm dứt từ khi Peeta đòi huấn luyện riêng. Nhưng rồi tôi đoán đó là chuyện nội bộ, không phải thứ công khai. Dù sao giờ thì hai chúng tôi cũng không có nhiều cơ hội chạm mặt, khi mọi người đã bước hàng một đến ghế ngồi và vào chỗ.

Vừa bước chân lên sân khấu, nhịp thở của tôi đã trở nên gấp gáp. Tôi có thể cảm thấy được mạch đang đập trong người. Quả là thoải mái khi được ngồi xuống ghế, bởi với hai chân rung lẩy bẩy tới tận gót thế này, tôi e mình sẽ trượt ngã. Tuy trời đã tối nhưng tại Vòng tròn Trung tâm mọi thứ còn sáng hơn cả trong một ngày mùa hè. Bục cao trên kia dành cho những vị khách danh dự, với các nhà tạo mẫu chiếm lĩnh hàng trước. Máy quay sẽ lia về phía họ trong lúc đám đông bắt đầu chiêm ngưỡng những tác phẩm của họ. Ban công lớn ở phía ngoài bên phải tòa nhà được dành cho Ban Giám khảo. Những tốp nhân viên truyền hình đã chiếm lĩnh hầu hết các ban công còn lại. Nhưng Vòng tròn Trung tâm và những đại lộ bao quanh nó vẫn chật kín người. Chỉ còn chỗ đứng. Mọi ti vi trong nhà dân và hội trường công cộng trên cả nước đều mở. Mọi công dân của Panem đều đang theo dõi. Sẽ không có cúp điện vào tối nay.

Caesar Flickerman, người dẫn chương trình hơn bốn mươi năm, thình lình xuất hiện trên sân khấu. Có vẻ hơi đáng sợ bởi bộ dạng của ông không thay đổi trong suốt ngần ấy năm. Cùng một khuôn mặt dưới lớp phấn trắng bệch. Cùng một kiểu tóc mà mỗi năm cứ đến Đấu trường lại được nhuộm một màu khác nhau. Cùng một bộ lễ phục màu xanh thẳm điểm hàng nghìn bóng đèn điện nhỏ xíu nhấp nháy như những ngôi sao. Ở Capitol người ta phẫu thuật để được trẻ hơn và thanh mảnh hơn. Ở Quận 12, dáng vẻ già nua lại là một điều đáng nể bởi có quá nhiều người chết sớm. Nếu thấy một người già, người ta sẽ chúc mừng họ và hỏi họ bí quyết sống lâu. Nhưng người ta sẽ tị nạnh với một người béo tốt bởi những người ngày không phải vật lộn kiếm sống như số đông chúng tôi. Ở nơi này thì khác. Người ta không muốn có nếp nhăn. Một cái bụng tròn không phải là dấu hiệu của thành công.

Năm nay, Caesar mang mái tóc màu thiên thanh, cùng tông với mí mắt và màu môi. Trông quái dị nhưng vẫn đỡ khủng khiếp hơn năm ngoái, khi tông của ông ấy là màu đỏ gấc và nhìn quý ngài dẫn chương trình như thể đang úa máu. Caesar kể vài mẩu chuyện cười để hâm nóng khán giả rồi quay trở lại với chương trình.

Đấu thủ nữ đến từ Quận 1, trông thật cuốn hút trong chiếc áo tô-ga màu vàng trong suốt, bước lên giữa sân khấu, lại chỗ Caesar để bắt đầu cho cuộc phỏng vấn. Có thể thấy người hướng dẫn đã không phải nhọc công để tôn lên nét nổi bật cho cô ấy. Với mái tóc vàng óng mượt mà, *** mắt màu ngọc lục bảo, thân hình cao ráo nuột nà… cô ấy thực sự rất gợi cảm.

Mỗi cuộc phỏng vấn chỉ kéo dài ba phút. Sau đó một tiếng báo hiệu vang lên và đến lượt vật tế kế tiếp. Có thể nói Caesar đã làm hết sức mình để giúp các đấu thủ tỏa sáng. Ông ta thân thiện, giúp những người yếu tâm lý giải tỏa lo lắng, cười ha hả trước những mẩu chuyện nhạt nhẽo, và có thể biến một câu trả lời dở thành đáng nhớ qua cách ông ta phản ứng.

Tôi ngồi như một quý bà, theo cách mà Effie hướng dẫn, khi vật tế của các quận lần lượt đi qua. Quận 2, 3, rồi 4. Dường như ai cũng thể hiện một vài nét nổi bật. Cái thằng trông như quái vật đến từ Quận 2 là một cỗ máy giết người không thương tiếc. Con bé có khuôn mặt cáo đến từ Quận 5 thì láu cá và lươn lẹo. Tôi nhìn thấy Cinna ngay khi anh ngồi vào chỗ, nhưng ngay cả điều này cũng không giúp tôi cảm thấy thoải mái. Quận 8, 9, rồi 10. Thằng bé què chân từ Quận 10 ít nói. Từ lòng bàn tay tôi mồ hôi tuôn như suối, nhưng bộ đồ bằng đá quý không thấm nước nên mồ hôi cứ chảy xuống trong lúc tôi tìm cách lau khô. Quận 11.

Rue mặc bộ tô-ga bằng vải the gắn cánh, run rẩy bước đến chỗ Caesar. Im lặng bao trùm đám đông khi họ nhìn thấy dáng vẻ nhỏ bé đầy mê hoặc của con bé. Caesar rất dịu dàng với con bé, ca ngợi điểm bảy của nó trong luyện tập, điểm số xuất sắc đối với một người nhỏ thó như vậy. Khi ông hỏi điểm mạnh nhất của nó trong đấu trường sẽ là gì, con bé không hề do dự. “Cháu rất khó bị tóm,” con bé nói bằng giọng run run. “Và nếu họ không bắt được cháu, họ sẽ không thể giết cháu. Bởi vậy đừng xem thường cháu.”

“Có cho vàng ta cũng không coi thường cháu,” Caesar nói khích lệ.

Đấu thủ nam từ Quận 11, Thresh, cũng có nước da sẫm như Rue, nhưng chỉ giống chừng ấy thôi. Hắn là một trong những đứa khổng lồ, có lẽ cao gần hai mét và lực lưỡng như bò mộng, nhưng tôi chú ý bởi hắn từ chối lời mời gia nhập của bọn Đấu thủ Nhà nghề. Thay vào đó, hắn rất tách biệt, không nói chuyện với ai, không tỏ ra hứng thú mấy trong tập luyện. Tuy vậy, gã này đã giành được điểm mười, và việc hắn gây ấn tượng với Ban Tổ chức cũng không nằm ngoài tưởng tượng. Hắn lơ đi nỗ lực đùa cợt của Caesar và chỉ trả lời có hoặc không, hoặc đơn giản là giữ im lặng.

Nếu là hắn, tôi chỉ cần giữ vẻ sưng sỉa lạnh lùng và mọi chuyện sẽ ổn! Tôi cá là ít nhất một số nửa Mạnh Thường Quân có để ý đến hắn. Nếu tôi có tiền, chính tôi cũng sẽ cược vào tên này.

Rồi họ gọi Katniss Everdeen, và như thể trong giấc mơ, tôi đứng lên bước đến giữa sân khấu. Tôi bắt bàn tay to bè của Caesar, ông thật lịch sự khi không rút tay lại ngay.

“Như vậy, Katniss. Capitol hẳn là khác nhiều so với Quận 12. Điều gì khiến cháu ấn tượng nhất kể từ khi cháu đến đây?” Caesar hỏi.

Cái gì cơ? Ông ấy nói gì vậy? Cứ nhẹ bẫng như không ấy.

Miệng tôi khô khốc. Tôi tìm thấy Cinna trong đám đông một cách vô vọng và dán mắt vào anh ấy. Tôi tưởng tượng môi anh đang nói: “Điều gì khiến em ấn tượng nhất kể từ khi em đến đây?” Tôi vắt óc nghĩ về thứ gì đó làm tôi vui ở nơi này. Hãy thành thật, tôi nghĩ. Hãy thành thật

“Món cừu hầm,” tôi thốt ra.

Caesar cười, tôi mơ hồ nhận thấy một vài khán giả cười theo.

“Cái món có mấy quả mận khô phải không?” Caesar hỏi. Tôi gật đầu. “Ồ, ta còn ngốn cả một bồ cơ đấy.” Ông xoay hông về phía khán giả đang há hốc ngạc nhiên, tay xoa bụng. “Chẳng có vẻ gì là thế, nhỉ?” Họ la lên hưởng ứng với ông và hoan hô. Đó là điều tôi muốn nói về Caesar. Ông ấy luôn tìm cách gỡ thế bí cho bạn.

“Giờ thì, Katniss,” Caesar nói tự tin, “khi cháu bước ra trong lễ khai mạc, tim ta thật sự ngừng đập. Cháu nghĩ thế nào về bộ trang phục này?”

Cinna nhướng một bên lông mày về phía tôi. Phải thành thật. “Ý ngài là sau khi cháu vượt qua nỗi sợ bị thiêu sống?” tôi hỏi.

Một tràng cười lớn. Tràng cười thực sự từ phía khán giả.

“Đúng. Bắt đầu từ đó.” Caesar nói.

Dù gì tôi cũng nên kể về Cinna, một người bạn. “Cháu nghĩ Cinna rất sáng tạo, đó là một trong những bộ trang phục lộng lẫy nhất mà cháu từng thấy và cháu không thể tin là mình đã mặc nó. Cháu cũng không tin là mình đang mặc bộ này đây.” Tôi nâng chiếc váy và xòe ra. “Ý cháu là, hãy nhìn nó này.”

Khi khán giả đang à, tôi thấy Cinna xoay tròn những ngón tay. Tôi hiểu anh định nói gì. Xoay vòng cho anh.

Tôi xoay thành một vòng tròn và ngay lập tức có phản ứng.

“Ồ, làm lại lần nữa nào?” Caesar nói, và tôi nâng cánh tay lên xoay người thành vòng thành vòng, chiếc váy xòe ra khiến cả bộ quần áo như nhấn tôi vào ngọn lửa. Khán giả bắt đầu tán thưởng. Khi ngừng lại, tôi bám chặt vào tay Caesar.

“Đừng ngưng lại!” Ông ta nói.

“Cháu hoa mắt lắm!” Tôi cười khúc khích. Tôi chưa từng làm điều gì như thế trong đời. Nhưng tôi đã xua được nỗi run sợ và kết quả là cú xoay vòng.

Caesar vòng tay đỡ lấy tôi. “Đừng lo, có ta đây. Không thể để cháu đi theo vết xe đổ của ông thầy cháu được.”

Mọi người huýt lên phản đối khi máy quay đưa về phía Haymitch, người mà giờ đây đã nổi tiếng sau cú ngã chổng vó tại ngày chiêu quân, trong khi ông vẫy tay một cách thoải mái xua đi ánh nhìn của họ và chỉ lại phía tôi.

“Ổn rồi,” Caesar trấn an đám đông. “Có tôi ở đây rồi. Nào, về số điểm huấn luyện. Mười một. Cho tôi biết tí chút về điều đã xảy ra ở đó đi.”

Tôi liếc nhìn Ban Giám khảo trên ban công và bặm môi. “Ừm… cháu chỉ có thể nói, cháu nghĩ đó là lần đầu tiên.”

Máy quay đang chỉa vào Ban Giám khảo, họ cười khùng khục và gật đầu.

“Cháu làm chúng tôi hồi hộp đến chết mất thôi,” Caesar nói như thể đang bị đau thật. “Chi tiết. Chi tiết đi.”

Tôi nhìn về phía ban công. “Cháu không được phép nói, đúng không ạ?”

Vị giám khảo đã ngã vào tô rượu pân la lên. “Cô bé không được phép.”

“Cháu cảm ơn,” tôi nói. “Xin lỗi. Cháu không thể hé môi.”

“Nào, hãy quay trở lại cái khoảnh khắc họ gọi tên em cháu trong ngày chiêu quân,” Caesar nói. Bây giờ thái độ của ông ấy dịu hơn. “Và cháu xung phong. Cháu có thể kể cho mọi người về em cháu không?”

Không. Không, tôi không thể kể cho tất cả. May ra thì có Cinna. Tôi không biết nét mặt anh có đượm buồn không. “Em cháu tên là Prim. Cô bé mới mười hai tuổi. Và cháu yêu nó hơn bất kỳ thứ gì.”

Lúc này ở Vòng tròn Trung tâm im phăng phắc.

“Cô bé đã nói gì với cháu? Sau buổi chiêu quân?” Caesar hỏi.

Phải thành thật. Phải thành thật. Tôi nặng nhọc nuốt khan. “Cô bé muốn cháu cố gắng hết sức để giành chiến thắng.” Đám đông im lặng, nuốt từng chữ tôi nói.

“Và cháu nói gì?” Caesar dịu dàng nói.

Nhưng thay vì thấy ấm áp, tôi lại cảm thấy như có một tảng băng bao quanh người. Các cơ của tôi co cứng như con mồi trước khi bị giết. Khi tôi nói, giọng tôi như hạ xuống một quãng tám. “Cháu thề là cháu sẽ thắng.”

“Ta biết là cháu sẽ nói thế mà,” Caesar nói, ôm chặt lấy tôi. Còi báo hiệu cất lên. “Xin lỗi, thời gian cho chúng ta đã hết. Chúc mọi sự may mắn, Katniss Everdeen, đấu thủ đến từ Quận 12.”

Tràng pháo tay vẫn kéo dài sau khi tôi ngồi xuống. Tôi nhìn Cinna để tìm một sự bảo đảm. Anh đưa ngón tay cái về phía tôi.

Tôi vẫn còn quay cuồng cho đến đoạn đầu cuộc phỏng vấn của Peeta. Cậu chiếm được tình cảm của khán giả ngay từ khi bắt đầu. Tôi nghe thấy tiếng họ cười ầm, la lớn. Cậu kể mình là con trai của chủ tiệm bánh mì, so sánh những người chơi như những chiếc bánh mì từ quận của họ. Rồi cậu kể một chuyện vui về những mối nguy khi tắm dưới vòi sen của Capitol. “Nói cho cháu biết, trên người cháu còn mùi hoa hồng không?” cậu hỏi Caesar, và ngồi hàng loạt người bắt đầu hít hà người nhau khiến bầu không khí trở nên nhộn nhạo. Tôi tập trung trở lại khi Caesar hỏi cậu có bạn gái ở nhà chưa.

Peeta do dự, rồi trả lời bằng một cái lắc đầu thiếu thuyết phục.

“Một cậu bé đẹp trai như cháu. Hẳn phải có một cô gái đặc biệt nào đấy. Nào nào, tên cô ấy là gì?” Caesar hỏi.

Peeta thở dài. “Vâng, có một cô gái. Cháu rung động ngay từ lần gặp đầu tiên. Nhưng cháu chắc chắn là cô ấy không hề để ý đến cháu cho đến ngày chiêu quân.”

Có tiếng cảm thông phát ra từ đám đông. Họ có thể hiểu về một tình yêu không được đáp lại.

“Cô ấy có người khác sao?” Caesar hỏi.

“Cháu không biết, nhưng có nhiều chàng trai thích cô ấy,” Peeta nói.

“Như vậy, cháu phải làm thế này. Cháu sẽ giành chiến thắng, và cháu sẽ trở về nhà. Cô ấy không thể từ chối cháu được, đúng không nào?” Caesar nói đầy khích lệ.

“Cháu không nghĩ điều đó khả thi. Chiến thắng… không giúp gì được cho trường hợp của cháu,” Peeta nói.

“Tại sao không?” Caesar nói, tỏ vẻ khó hiểu.

Mặt Peeta ửng đỏ và cậu nói lắp bắp. “Bởi vì… bởi vì… cô ấy đi cùng với cháu đến đây.”

PHẦN 2

ĐẤU TRƯỜNG

Chương 10

Chỉ trong chốc lát, máy quay chĩa cả vào khuôn mặt của Peeta đang cúi gằm khi những lời của cậu vừa lắng xuống. Rồi tôi thấy khuôn mặt mình xuất hiện trên các màn hình, miệng há hốc trong cái cảm xúc lẫn lộn giữa ngạc nhiên và kích động. Mình! Cậu ta ám chỉ mình! Tôi mím môi và nhìn chằm chằm xuống đất, hy vọng sẽ giấu được luồng cảm xúc đang cuộn trào.

“Ồ, thật là một điều không may,” Caesar nói, giọng ông chất chứa sự cảm thông. Đám đông xì xào tỏ vẻ chia sẻ; một số còn khóc nức nở.

“Điều đó không hay chút nào,” Peeta đồng ý.

“Ta không nghĩ bất kỳ ai có thể trách cháu. Thật khó để kìm lòng trước cô gái trẻ ấy,” Caesar nói. “Cô ấy chưa biết đúng không?”

Peeta gật đầu. “Cho đến lúc này.”

Tôi liếc mắt lên màn hình đủ để nhận ra hai má mình đang đỏ ửng.

“Các bạn có muốn đưa cô bé lên đây và nhận một câu trả lời không?” Caesar hỏi khán giả. Đám đông la lên đồng ý. “Đáng tiếc là, luật vẫn là luật, và thời gian dành cho Katniss Everdeen đã hết. Thôi, chúc cháu may mắn trọn vẹn, Peeta Mellark, và ta nghĩ ta đại diện cho cả Panem để nói rằng trái tim của chúng ta dành cho các cháu.”

Đám đông hô gào lên inh tai nhức óc. Peeta đã hoàn toàn loại tất cả đấu thủ khỏi tâm điểm chú ý bằng việc tuyên bố tình yêu của cậu ấy dành cho tôi. Đến khi khán giả trật tự, cậu mới nén ra được một từ “Cám ơn” rồi quay trở lại ghế ngồi. Chúng tôi đứng lên hát quốc ca. Để bày tỏ sự tôn trọng tôi buộc phải ngẩng cao đầu, và không thể không thấy mọi màn hình đều đang chiếu cảnh Peeta và tôi, đứng cách nhau một gang tay, cái khoảng cách mà ai cũng nghĩ sẽ không bao giờ bị cắt đứt. Thảm thương thay cho chúng tôi.

Nhưng tôi đã hiểu ra nhiều hơn.

Sau bài quốc ca, các vật tế đi thành hàng trở về sảnh Trung tâm Huấn luyện để vào thang máy. Tôi tìm cách không vào cùng buồng với Peeta. Nhóm tháp tùng chúng tôi gồm các nhà tạo mẫu, người hướng dẫn và người giám hộ (Chaperone, ý nói Effie Trinket) đi chậm hơn do bị kẹt trong đám đông, bởi vậy chỉ có chúng tôi đi cùng nhau. Không ai nói gì. Thang máy của tôi dừng lại thả bốn đấu thủ trước khi tôi còn lại một mình và cửa thang máy mở ra ở tầng thứ mười hai. Peeta vừa bước ra khỏi buồng đã bị tôi xô vào giữa ngực. Cậu mất thăng bằng, ngã ập xuống một chiếc bình xấu xí cắm những bông hoa giả. Bình hoa đổ xuống và vỡ thành hàng trăm mảnh nhỏ. Tay Peeta chống xuống những mảnh vỡ, rớm máu.

“Vì sao cậu làm thế?” cậu thất kinh.

“Cậu không có quyền! Không có quyền nói những điều ấy về tôi!” tôi quát.

Lúc này cửa thang máy mở và toàn bộ đoàn tùy tùng đang ở đó: Effie, Haymitch, Cinna và Portia.

“Chuyện gì thế này?” Effie cuống cuồng. “Cháu ngã à?”

“Sau khi cô ấy xô cháu,” Peeta nói khi Effie và Cinna đến giúp.

Haymitch quay sang tôi. “Xô cậu ấy?”

“Đó là sáng kiến của ông đúng không? Biến cháu thành một con ngốc trước mặt bàn dân thiên hạ,” tôi đáp.

“Đó là sáng kiến của tớ,” Peeta vừa nói vừa cau mày nhổ những mảnh sành khỏi lòng bàn tay. “Haymitch chỉ giúp tớ trong chuyện này.”

“Ừ đúng, Haymitch rất có ích. Với cậu!” Tôi đáp.

“Cháu đúng là đồ ngốc,” Haymitch nói trong giận dữ. “Cháu nghĩ cậu ấy làm tổn thương cháu à? Anh chàng này chỉ giúp cháu có được thứ mà cháu không thể tự mình có được.”

“Cậu ấy khiến cháu trông yếu đuối!” tôi nói.

“Cậu ấy giúp cháu cuốn hút! Và hãy đối mặt với điều ấy, hãy tận dụng mọi sự trợ giúp mà cháu có thể có từ chuyện này. Cháu chẳng gợi lên tí lãng mạn nào cả cho đến khi Peeta nói thích cháu. Giờ thì tất cả họ đều thích. Cháu là đề tài trong tất cả những câu chuyện của họ. Một cặp Romeo và Juliet đến từ Quận 12!” Haymitch nói.

“Nhưng chúng cháu không phải như thế!” tôi nói.

Haymitch nắm lấy vai tôi, đẩy tôi dựa sát tường. “Ai quan tâm nào? Tất cả là một vở diễn lớn. Tất cả chỉ là cách hiểu của cháu. Điều duy nhất ta có thể nói sau phần phỏng vấn của cháu là cháu khá đáng yêu đấy, dù ta cũng lấy làm lạ về điều ấy. Nhưng bây giờ ta có thể nói cháu thật sự là một kẻ cắp trái tim. Ôi, ôi, ôi, rồi những chàng trai ở nhà sẽ quỳ sụp xuống khát khao dưới chân cháu. Cháu nghĩ còn cách nào khác để có thể giành nhiều tài trợ hơn không?”

Mùi rượu trong hơi thở của ông ấy làm tôi phát nôn. Tôi gỡ tay ông khỏi vai mình và lui ra, cố gắng lấy lại tỉnh táo.

Cinna bước tới khoác tay lên vai tôi. “Ông ấy nói đúng đấy, Katniss.”

Đầu óc tôi trống rỗng. “Đáng lẽ em nên được biết trước để không bị quá lố bịch.”

“Không đâu, phản ứng của em là hoàn hảo. Nếu biết trước thì trông em sẽ không thật,” Portia nói.

“Chỉ là cô ấy lo lắng về bạn trai mình thôi,” Peeta cộc cằn ném đi một mảnh vỡ vấy máu.

Hai má tôi ửng đỏ khi nghĩ về Gale. “Tớ không có bạn trai.”

“Sao cũng được,” Peeta nói. “Nhưng tớ cá là anh ta đủ thông minh để nhận ra trò bịp trong đó. VỚi lại cậu cũng chưa nói rằng cậu yêu tớ mà. Vậy thì có gì quan trọng đâu?”

Những lời ấy khắc vào đầu tôi. Cơn giận nguôi đi. Tôi băn khoăn không biết mình vừa bị lợi dụng hay được tạo một lợi thế. Haymitch nói đúng. Tồn tại qua phần phỏng vấn, nhưng thực sự thì tôi được gì? Một con bé lố bịch quay mòng mòng với bộ quần áo lóng lánh. Cười hơ hớ. PHút nghiêm chỉnh duy nhất là khi tôi nói về Prim. So với Thresh, chàng trai im lặng nhưng có sức mạnh chết người, tôi đáng quên hơn nhiều. Lố bịch, lóng lánh và đáng quên. Không, không hẳn là đáng quên; tôi được đến mười một điểm luyện tập.

Nhưng giờ thì Peeta đã biến tôi thành một đối tượng được yêu mến. Không chỉ có cậu. Khi cậu nói, khối kẻ say mê tôi. Và nếu như khán giả thực sự nghĩ là chúng tôi yêu nhau… tôi còn nhớ họ đã phản ứng mạnh mẽ trước lời thú nhận của cậu như thế nào. Romeo và Juliet. Haymitch nói đúng, người Capitol rất chú ý tới vụ này. Tôi chợt thấy lo vì mình đã không xử sự đúng mực.

“Sau khi cậu ấy nói yêu em, anh có nghĩ rằng em cũng đã đáp lại tình cảm của cậu ấy không?” tôi hỏi.

“Có,” Portia nói. “Qua cách em tránh nhìn vào máy quay và đỏ mặt.”

Những người khác gật gù.

“Cháu là ngọc nữ, cháu yêu ạ. Đám tài trợ sắp xếp thành hàng dài quanh tòa nhà này rồi đấy,” Haymitch nói.

Tôi thấy ngượng trước phản ứng của mình. Tôi tự buộc mình phải thấy có lỗi với Peeta. “Xin lỗi vì đã xô cậu.”

“Không sao đâu,” cậu nhún vai. “Mặc dù theo luật thì cậu sai rồi đấy.”

“Hay tay cậu ổn chứ?” tôi hỏi.

“Sẽ lành thôi,” Peeta nói.

Sự im lặng tiếp tục, cho tới khi mùi buổi tối thơm phức từ phòng ăn bay vào. “Đi nào, ăn thôi,” Haymitch nói. Tất cả chúng tôi đi cùng ông đến bàn ăn và ngồi vào chỗ. Tuy nhiên, Peeta chảy khá nhiều máu nên Portia phải dẫn cậu đi băng bó vết thương. Chúng tôi bắt đầu với món xúp kem-và-cánh-hồng mà không có mặt họ. Khi mọi người ăn xong thì hai người đã trở lại. Tay của Peeta đã được băng bó. Trong tôi trào lên cảm giác tội lỗi. Ngày mai chúng tôi sẽ bước vào đấu trường. Peeta đã giúp tôi nhưng tôi lại khiến cậu bị thương. Đến khi nào tôi mới hết nợ cậu ấy đây?

Sau bữa tối, chúng tôi ngồi trong phòng khách xem lại cuộc phỏng vấn. Tôi có vẻ diêm dúa và nhạt nhẽo, lảo đảo và ngớ ngẩn trong bộ váy, mặc dù những người khác quả quyết là nhìn rất duyên dáng. Peeta thì rõ là có duyên và tất nhiên, cuối cùng đã chiến thắng với hình ảnh chàng trai đang yêu. Trong khi tôi, sượng sùng và rối rắm, lộng lẫy dưới bàn tay của Cinna, lại trở nên lôi cuốn bởi một lời thú nhận, được hoàn cảnh bi kịch hóa, và do đó, vô cùng khó quên.

Khi phần hát quốc ca kết thúc và màn hình tối thui, im lặng phủ khắp căn phòng. Sáng sớm mai, chúng tôi sẽ được đánh thức để chuẩn bị bước vào trường đấu. Đến mười giờ Đấu trường thực sự mới bắt đầu bởi phần lớn cư dân Capitol dậy trễ. Có điều, Peeta và tôi phải bắt đầu thật sớm. Chúng tôi không biết phải đi bao xa mới đến được nơi tổ chức Đấu trường năm nay.

Tôi biết Haymitch và Effie sẽ không đi cùng. Ngay khi rời khỏi đây, họ sẽ có mặt ở Đại bản doanh Đấu trường, hy vọng sẽ ký được những hợp đồng béo bở, vạch ra kế hoạch khi nào và bằng cách nào gửi những món quà tài trợ. Cinna và Portia sẽ đi cùng chúng tôi đến trường đấu. Tuy vậy, những lời tạm biệt cuối cùng sẽ phải nói ở đây.

Effie, với đôi mắt ướt nhòe, nắm tay hai đứa và chúc chúng tôi chiến thắng. Bà cảm ơn chúng tôi vì đã là những đấu thủ tốt nhất mà bà từng dẫn dắt. Và do bà là Effie, theo luật thì buộc phải nói điều gì đó thật nghiêm túc, nên bà nói thêm, “Ta sẽ không ngạc nhiên chút nào nếu như cuối cùng ta cũng được đề bạt vào một quận tử tế vào năm sau!”

Rồi bà hôn lên má hai đứa và vội bỏ đi, tránh bộc lộ xúc cảm khi phải chia xa, cũng như niềm hân hoan vì tương lai thăng tiến.

Haymitch đứng khoanh tay, nhìn cả hai đứa cùng lúc.

“Một lời khuyên cuối cùng ạ?” Peeta hỏi.

“Khi tiếng cồng vang lên, hãy biến thật nhanh khỏi chỗ đó. Không đứa nào được bén mảng đến bể máu Cornucopia. Chỉ cần nhớ kỹ, giữ khoảng cách xa nhất có thể với những đấu thủ khác, rồi đi tìm nguồn nước,” ông nói. “Hiểu chưa?”

“Và sau đó?” tôi hỏi.

“Hãy giữ mạng sống,” Haymitch nói. Lời khuyên này cũng giống như lần nói trên xe lửa trước, nhưng lúc này ông không hề say và đùa bỡn. Và chúng tôi chỉ biết gật đầu. Biết nói gì khác nữa đây?

Khi tôi về phòng, Peeta còn nấn ná muốn nói chuyện với Portia. Tôi cũng thoải mái thôi. Những lời chia tay có thể để đến ngày mai. Tấm trải giường của tôi đã được xếp lại, nhưng không thấy cô gái Avox tóc đỏ đâu. Giá mà tôi biết tên cô. Lẽ ra tôi nên hỏi. Có thể cô sẽ viết ra. Hoặc diễn tả nó. Nhưng biết đâu, điều đó chỉ càng hành hạ cô?

Tôi đi tắm, tẩy những nét tô màu vàng trên khuôn mặt, phấn trang điểm, và rửa đi mùi thơm trên cơ thể. Ngọn lửa trên móng là những gì còn lại trong nỗ lực của đội trang điểm. Tôi quyết định giữ chúng, như neo lại hình ảnh của mình trước khán giả. Katniss, cô gái bốc lửa. Có lẽ nó sẽ giúp tôi giữ lại được một chút gì đó, trong những ngày sắp tới.

Tôi mặc một bộ đồ ngủ dày và êm rồi leo lên giường. Phải năm giây sau tôi mới nhận ra là mình sẽ không được chợp mắt trong những ngày tới. Tôi cần phải ngủ thật sâu bởi vì trong Đấu trường, mỗi lần mệt mỏi là một lần Thần chết đến viếng thăm.

Chẳng ích gì. Một, hai, rồi ba giờ trôi qua, hai mí mắt của tôi vẫn nhẹ như bông. Tôi không ngừng tưởng tượng xem mình sẽ bị đẩy vào địa hình nào. Sa mạc? Đâm lầy? Một vùng hoang vu lạnh lẽo? Trên hết, tôi hy vọng mình được đưa vào rừng, nơi tôi có thể tìm nơi ẩn nấp, thức ăn và thứ gì đó che chắn. Thông thường cuộc đấu diễn ra trong rừng, bởi những nơi cằn cỗi thì sẽ rất tẻ nhạt và khiến Đấu trường kết thúc chóng vánh. Nhưng thời tiết ở đó sẽ như thế nào? Ban Giám khảo sẽ đặt những cạm bẫy gì để làm nóng những giờ phút buồn chán? Những đấu thủ khác thì thế nào…

Càng lo lắng bao nhiêu tôi càng khó ngủ bấy nhiêu. Cuối cùng, dù đang ở trên giường, tôi vẫn không thể ngủ nổi. Tôi cứ đi đi lại lại trong phòng với quả tim đập nhanh và hơi thở gấp gáp. Căn phòng giống như một xà lim. Nếu không ra ngoài sớm, có thể tôi sẽ lại ném đồ đạc tứ tung. Tôi chạy xuống sảnh đến cánh cửa thông lên mái. Cửa không khóa mà khép hờ. Có lẽ ai đó quên đóng nó lại, nhưng chuyện đó không quan trọng. Tấm kính thu năng lượng mặt trời ở trên mái ngăn ngừa mọi ý định bỏ trốn táo tợn. Tôi cũng chẳng có ý trốn thoát mà chỉ muốn hít thở không khí trong lành. Tôi muốn ngắm nhìn bầu trời và mặt trăng vào đêm cuối cùng không bị người khác săn lùng.

Trên mái đêm nay không sáng lắm nhưng vừa đặt bàn chân trần lên nền, tôi đã nhận ra bóng đen của cậu dưới bức màn sáng đang phát ra liên tục từ phía Capitol. Ở con đường phía dưới là những chuyển động hỗn loạn, tiếng nhạc, tiếng hát và tiếng còi xe mà tôi không thể nghe thấy qua lớp kính cửa sổ dày cui ở phòng mình. Tôi có thể lẩn đi mà không bị cậu để ý; cậu sẽ không nghe thấy tiếng động của tôi qua những âm thanh đó. Nhưng màn đêm thật huyền diệu, tôi không hề muốn quay trở lại chiếc cũi ngột ngạt kia một chút nào. Có điều ở ngoài này thì khác gì chứ? Chúng tôi có nên nói chuyện hay không?

Tôi bước thật khẽ trên lớp ngói. Và chỉ cất tiếng khi chỉ còn cách cậu một mét. “Cậu nên ngủ một chút.”

Cậu thoáng giật mình nhưng không quay đầu lại. Tôi có thể thấy cậu khẽ gật đầu. “Tớ không muốn bỏ lỡ bữa tiệc này. Nó được dành cho chúng ta, sau tất cả mọi chuyện.”

Tôi lại gần cậu ấy và ngó qua lan can. Người ta nhảy múa chật kín con đường lớn. Tôi nheo mắt để nhìn kỹ hơn hình dáng nhỏ xíu của họ. “Họ mặc lễ phục à?”

“Ai mà biết được?” Peeta trả lời. “Ở đây người ta mặc những thứ quần áo điên rồ. Cũng không ngủ được à?”

“Tớ không ngừng nghĩ ngợi,” tôi nói.

“Nghĩ về gia đình cậu à?” cậu hỏi.

“Không.” Tôi thừa nhận với một chút cảm giác tội lỗi. “Chỉ băn khoăn về ngày mai. Mà tất nhiên, điều này thật vô nghĩa.” NHờ ánh sáng bên dưới, tôi có thể thấy khuôn mặt cậu lúc này, cùng cách giữ đôi tay băng bó một cách vụng về. “Tớ thực sự xin lỗi về đôi tay của cậu.”

“Không sao đâu, Katniss” cậu nói. “Dù sao thì tớ cũng chưa bao giờ có thể là một đấu thủ trong những Đấu trường như thế này.”

“Đừng nghĩ hồ đồ như thế,” tôi nói.

“Tại sao lại không? Đúng như thế mà. Tớ chỉ hy vọng không là điều gì nhục nhã và…” cậu do dự.

“Và sao?” tôi hỏi.

“Tớ không biết phải nói chính xác thế nào. Chỉ là… tớ muốn được chết khi vẫn là chính mình. Cậu hiểu ý tớ không?” cậu hỏi. Tôi gật đầu. Làm sao khi chết cậu có thể là ai khác ngoại trừ cậu chứ? “Tớ không muốn khi vào đó họ làm con người tớ thay đổi, biến tớ trở thành con ác thú mà tớ vốn không phải.”

Tôi bặm môi, thấy mình thật kém cỏi. Trong khi tôi chỉ nghĩ đến việc có được đưa vào rừng cây hay không thì Peeta lại trăn trở làm thế nào để giữ phẩm chất của mình. “Nghĩa là cậu sẽ không giết một ai?” tôi hỏi.

“Không phải, khi vào Đấu trường chắc chắn tớ sẽ phải tàn sát như những kẻ khác. Tớ không thể bước vào mà không chiến đấu. Tớ chỉ mong muốn có một cách nào đó để… để cho Capitol thấy là họ không sở hữu được tớ. Rằng tớ không chỉ là một quân cờ trong Đấu trường của họ,” Peeta nói.

“Không thể có chuyện đó,” tôi nói. “Tất cả chúng ta đều không thể. Vì đấu chính là cách hoạt động của Đấu trường.”

“OK, nhưng dù là trong hoàn cảnh nào, thì cậu vẫn là cậu, còn tớ vẫn là tớ,” cậu cố cãi. “Cậu không thấy thế à?”

“Một chút. Chỉ là… xin lỗi, chuyện đó thì có ai quan tâm hả Peeta?” Tôi nói.

“Có tớ. Ý tớ là, tớ còn có thể quan tâm đến điều gì khác nữa?” cậu giận dữ hỏi. Đôi mắt xanh của cậu nhìn trừng trừng vào tôi, đợi câu trả lời.

Tôi lùi một bước. “Quan tâm đến những gì Haymitch nói. Hãy giữ mạng sống.”

Peeta mỉm cười, một nụ cười buồn và chua chát. “OK. Cám ơn vì lời khuyên, cô bé yêu ạ!”

Chẳng khác gì một cái tát vào mặt tôi. Cách gọi yêu của kẻ bề trên mà cậu học từ Haymitch. “Nghe này, nếu cậu dự định dành những phút cuối của đời mình cho một cái chết cao thượng ở Đấu trường, đó là lựa chọn của cậu. Còn tớ muốn sống những phút cuối của đời mình ở Quận 12.”

“Tớ sẽ không bất ngờ nếu cậu làm được như vậy,” Peeta nói. “Gửi lời hỏi thăm đến mẹ tớ khi cậu trở về, được chứ?”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói. Rồi tôi quay đi và rời khỏi mái.

Suốt đêm đó tôi cứ nửa tỉnh nửa mơ, nghĩ đến những lời chỉ trích gay gắt mà mình đã dành cho Peeta Mellark vào buổi sáng. Peeta Mellark. Rồi chúng ta sẽ thấy cậu cao thượng đến mức nào khi đối mặt với ranh giới giữa sự sống và cái chết. Có thể cậu sẽ trở thành một trong những đấu thủ cực kỳ khát máu, một kẻ móc tim nạn nhân ra chén sau khi sát hại. Vài năm trước có một gã đến từ Quận 6 tên là Titus. Hắn ta trở nên điên dại hoàn toàn, Ban Tổ chức phải hạ hắt bất tỉnh bằng súng máy để gom xác những đấu thủ bị giết trước khi gã này ăn thịt họ. Không có luật lệ nào ở Đấu trường cấm đoán việc này, nhưng việc ăn tươi nuốt sống quả là không mấy hay ho trước mắt khán giả Capitol, vậy nên những người tổ chức tìm cách ngăn lại. Nhiều người suy đoán rằng cơn lở tuyến nhấn chìm Titus là được tạo có chủ đích bởi người ta không muốn người thắng cuộc là một gã mất trí.

Sáng hôm sau tôi không thấy Peeta. Cinna đến chỗ tôi từ tờ mờ sáng, đưa tôi mặc một chiếc váy đơn giản rồi dẫn tôi lên mái. Phần trang phục và chuẩn bị lần cuối của tôi sẽ điễn ra trong một căn hầm nằm bên dưới trường đấu. Một chiếc tàu bay không biết từ đâu xuất hiện, như cái lần tôi thấy cô gái Avox tóc đỏ bị bắt ở trong rừng và một chiếc thang hạ xuống. Tôi đặt cả hai tay và chân lên những thanh ngang và ngay lập tức thấy mình như đông đá. Một thứ gì đó như luồng điện chạy qua làm tôi bị dính chặt vào chiếc thang rồi từ từ được đưa vào bên trong.

Cứ tưởng chiếc thang sẽ nhả mình ra, nhưng hóa ra tôi vẫn dính chặt vào nó. Trong khi ấy, một phụ nữ mặc áo choàng trắng lại gần, mang theo một chiếc ống tiêm. “Đâu chỉ là máy dò vị trí của cháu thôi, Katniss. Cháu càng ngồi yên, ta càng gắn nó dễ dàng,” bà ta nói.

Ngồi yên ư? Tôi đang là một bức tượng đây này. Tuy nhiên điều đó không giúp tôi tránh khỏi cảm giác đau nhói khi mũi tiêm gắn thiết bị định vị kim loại chọc vào sâu trong cẳng tay tôi. Giờ thì Ban Tổ chức có thể lần theo đường đi nước bước của tôi trong Đấu trường bất cứ lúc nào. Họ không muốn mất bất kỳ vật tế nào.

Khi chiếc máy dò được gắn đúng vị trí, chiếc thang thả tôi ra. Người phụ nữ đi khỏi và Cinna từ trên mái đi xuống. Một chàng trai Avox đến, dẫn chúng tôi tới một căn phòng đã bày sẵn đồ ăn sáng. Tuy dạ dày đang thắt lại vì nôn nao, tôi vẫn ăn nhiều hết mức có thể, dù thực sự thì những món ăn ngon lành kia không làm vị giác của tôi mảy may rung động. Tôi lo lắng đến mức cảm giác như mình đang ăn muội than. Tôi chỉ để ý đến quang cảnh bên cửa sổ khi chúng tôi lướt qua thành phố, tiến đến một nơi hoang vu. Đây là chiếc phi thuyền mà bầy chim lúc ấy đã thấy. Bầy chim, chúng được tự do và an toàn. Ngược lại với tôi.

Chúng tôi tiếp tục bay khoảng nửa tiếng cho đến khi các cửa sổ tối dần, một điều chứng tỏ rằng con tàu đã đến gần trường đấu. Chiếc phi thuyền đáp xuống, Cinna và tôi trở lại chiếc thang, chỉ khác là lần này nó dẫn vào một đường ngầm, đưa chúng tôi xuống căn hầm nằm dưới trường đấu. Theo chỉ dẫn, chúng tôi đến gian phòng chuẩn bị cho mình. Ở Capitol, người ta gọi nó là Phòng Khởi hành. Ở các quận, nó tương tự như Bãi rào, nơi người ta nhốt những con thú trước khi nó bị làm thịt.

Mọi thứ đều mới tinh tươm; tôi sẽ là đấu thủ đầu tiên và duy nhất dùng Phòng Khởi hành của riêng mình này. Những trường đấu bao giờ cũng trở thành địa điểm lịch sử. Chúng được bảo tồn sau khi cuộc đấu diễn ra. Đó là những điểm tham quan, dã ngoại hấp dẫn của các cư dân Capitol. Đến đó trong một tháng, xem lại Đấu trường, tham quan khu hầm, đến địa điểm của những cuộc tàn sát. Bạn còn có thể đóng giả làm đấu thủ.

Người ta nói thức ăn ở đây ngon tuyệt.

Trong lúc tắm và đánh răng, bữa sáng khi nãy khiến tôi đầy bụng. Cinna làm cho tôi một kiểu tóc đơn giản, được tết gọn và thả xuống sau lưng. Rồi quần áo được mang đến, cũng một loại cho tất cả vật tế. Cinna không phải chuẩn bị quần áo cho tôi, thậm chí còn không biết có gì trong cái túi đồ, nhưng anh vẫn giúp tôi mặc quần áo lót trong, chiếc quần dài màu hung đơn giản, chiếc áo cánh màu xanh mạ, dây thắt lưng nâu chắc chắn và chiếc áo khoác đen mỏng có mũ, vạt áo dài đến đùi. “Chất liệu của áo khoác được thiết kế để phát ra nhiệt ngang nhiệt độ cơ thể. Để đề phòng nhiều đêm trời lạnh,” anh nói.

Đôi ủng, đi ngoài đôi tất bó khít, còn tốt hơn những gì tôi chờ đợi. Da ủng mềm không giống như đôi của tôi ở nhà, nhưng lại có lớp đế mỏng, dẻo bằng cao su với gờ rãnh giúp bám dễ dàng khi chạy.

Khi tôi nghĩ mọi việc đã xong xuôi thì Cinna lấy ra từ túi một chiếc ghim bằng vàn có hình con chim húng nhại. Tôi đã hoàn toàn quên mất nó.

“Anh lấy nó ở đâu vậy?” tôi hỏi.

“Từ bộ đồ màu xanh em mặc trên xe lửa,” anh nói. Bây giờ thì tôi nhớ đã tháo nó ra khỏi bộ đồ của mẹ và gắn nó lên áo. “Nó là phù hiệu của quận em phải không?” Tôi gật đầu và anh đính nó lên áo giúp tôi. “Người ta có thể giữ em lại ở cổng kiểm soát. Có thể họ cho rằng chiếc ghim là một thứ vũ khí, giúp em có lợi thế. Nhưng chẳng sao đâu, cuối cùng họ cũng cho qua thôi.” Cinna nói. “Họ vừa tịch thu một chiếc nhẫn của cô gái từ Quận 1. Khi xoay mặt đá quý, một chiếc kim tẩm độc sẽ phóng ra. Cô nàng cãi bướng là mình không biết gì về chiếc nhẫn trá hình ấy, người ta cũng không thể chứng minh là cô ta cố ý. Tuy nhiên rõ ràng là phù hiệu của cô ả sẽ ở lại. Nào, được rồi đấy. Thử đi một vòng xem. Em phải chắc chắn là cảm thấy mọi thứ thoải mái.”

Tôi đi đi lại lại, chạy một vòng tròn, vung hai cánh tay. “Vâng, ổn rồi. Hoàn toàn vừa vặn.”

“Vậy thì chỉ còn ngồi đợi cho đến khi họ gọi thôi,” Cinna nói. “Trừ khi em nghĩ là có thể ăn thêm chút gì.”

Tôi từ chối ăn nhưng vẫn lấy một cốc nước để hớp từng ngụm nhỏ trong khi ngồi đợi trên chiếc đi văng. Không muốn cắn móng tay hay cắn môi nên tôi bặm răng vào bên trong má. Mấy ngày rồi nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn thích nghi được. Chẳng mấy chốc tôi cảm thấy lưỡi mình đầy mùi máu tanh.

Nỗi lo lắng chuyển sang lo sợ khi tôi tiên đoán về những ngày tới. Tôi có thể sẽ chết, chết chóng vánh, chỉ trong một giờ. Hoặc ngắn hơn. Tay tôi dò dẫm trên mấu thịt cưng cứng trên cẳng tay, nơi người phụ nữ đã gắn chiếc máy định vị vào. Tôi ấn vào nó, và dù rất đau, tôi vẫn ấn vào đó mạnh đến nỗi cẳng tay bắt đầu bầm.

“Em muốn nói chuyện không, Katniss?” Cinna hỏi.

Tôi lắc đầu, nhưng sau đó lại nắm lấy tay anh. Cinna cũng nắm lấy tay tôi. Chúng tôi cứ ngồi như vậy cho đến khi một giọng nữ dễ nghe thông báo đã đến giờ khởi hành.

Vẫn nắm chặt một tay Cinna, tôi bước đến, đứng lên ô kim loại hình tròn. “Nhớ những gì Haymitch nói. Chạy, tìm nguồn nước, rồi làm gì thì làm,” anh nói. Tôi gật đầu, “Và nhớ điều này. Anh không có quyền đặt cược, nhưng nếu có thể, anh sẽ đặt cược cho em.”

“Thật chứ?” tôi hỏi khẽ.

“Thật,” Cinna nói. Anh cúi xuống và hôn lên trán tôi. “Chúc may mắn, cô gái lửa.” Lớp kính hình trụ hạ xuống bao quanh tôi, ngăn tay anh lại. Anh chỉ ngón tay vào cằm. Ngẩng cao đầu.

Tôi ngẩng mặt và đứng thẳng người hết mức có thể. Khối hình trụ bắt đầu đi lên. Trong khoảng mười lăm giây, tôi đứng trong bóng tối, rồi ô kim loại đẩy tôi ra khỏi chiếc ống hình trụ ra ngoài một không gian mới. Ánh mặt trời rọi vào khiến tôi chói mắt một lúc, chỉ cảm giác được luồng gió mạnh có mùi nhựa thông đầy hy vọng.

Tôi nghe thấy tiếng Claudius Templesmith, người phát ngôn lâu năm, vang vọng xung quanh.

“Thưa quý ông và quý bà, Đấu trường Sinh tử lần thứ Bảy mươi tư bắt đầu!”

Chương 11

Sáu mươi giây. Đó là khoảng thời gian chúng tôi phải đứng yên trên ô kim loại hình tròn trước khi tiếng cồng phóng thích vang lên. Nếu bước ra trước dù chỉ một giây, mìn ở dưới chân sẽ nổ tung. Sáu mươi giây đợi chờ để rồi được chạy vào vòng tròn vật tế mà tâm là Cornucopia, thứ có dạng chiếc sừng bằng vàng khổng lồ tựa như một chiếc nón có đuôi cong vút, với cái miệng cao ít nhất sáu mét chứa cơn man là đồ dùng giúp chúng tôi sống sót ở đấu trường. Thức ăn, thùng chứa nước, vũ khí, thuốc men, áo quần, đá lửa. Nằm rải rác xung quanh Cornucopia là những đồ dùng khác, càng xa chiếc sừng bao nhiêu chúng tôi càng ít thiết yếu bấy nhiêu. Chỉ cách tôi vài bước chân là một tấm bạt vuông rộng một mét. Rõ ràng có thể dùng nó để che mưa. Nhưng ngay trên trên miệng Cornucopia là một bộ lều cắm trại có thể bảo vệ tôi khỏi gần như bất kỳ loại thời tiết nào. Nếu đủ can đảm, tôi có thể tiến vào và giành nó khỏi tay hai mươi ba đấu thủ còn lại. Nhưng tôi được dặn dò là không được làm thế.

Chúng tôi đứng trên một khu đất bằng phẳng và rộng rãi, dưới chân là lớp đất nện cứng. Đằng sau những đấu thủ ở phía đối diện, tôi không thấy gì cả, chúng tỏ hướng đó phải có một vạt dốc hoặc thậm chí là vực thẳm. Phía bên phải tôi là một cái hồ. Bên trái và đằng sau là hàng thông thưa thớt. Đó là nơi Haymitch muốn tôi đến. Ngay lập tức.

Lời dặn của ông văng vẳng trong đầu tôi. “Chỉ cần nhớ kỹ, giữ khoảng cách xa nhất có thể với những đấu thủ khác, và đi tìm nguồn nước.”

Nhưng những đồ dùng nằm ở đằng kia thật cám dỗ, quá cám dỗ. Tôi biết nếu mình không lấy chúng, người khác sẽ lấy. Có thể là bọn Nhà nghề, những kẻ còn lại sau cuộc tắm máu ở Cornucopia sẽ chia chác đống chiến lợi phẩm thiết yếu ấy. Tôi nhìn thấy một thứ gì đó. Kia rồi, nằm trên chiếc chăn được cuộn lại là một bao tên bạc và cây cung đã căng dây sẵn, chỉ chờ được bắn mà thôi. Nó là của mình, tôi nghĩ bụng. Nó được dành cho mình.

Tôi có tốc độ. Tôi có thể chạy nước rút nhanh hơn bất kỳ đứa con gái nào trong trường, dù nếu chạy đường dài thì một vài đứa có thể thắng tôi. Nhưng đây là khoảng cách bốn mươi mét, khoảng cách dành cho tôi. Tôi biết mình có thể lấy được nó, tôi biết mình có thể đến đó đầu tiên, nhưng vân đề là, liệu tôi có đủ nhanh để chạy khỏi chỗ ấy? Trong lúc tôi lao đến và chộp lấy bộ cung, những người khác đã tiến vào được chiếc sừng. Tôi có thể hạ được một hay hai đứa đấy, nhưng chúng có đến hàng tá, và ở cự ly gần như vậy chúng sẽ hạ gục tôi bằng lao hay dùi cui. Hay bằng những quả đấm thép.

Dù sao, tôi cũng không phải là mục tiêu duy nhất. Tôi dám cá nhiều đấu thủ khác sẽ bỏ qua một đứa con gái nhỏ, cho dù vừa được mười một điểm tập luyện chăng nữa để giải quyết những kẻ thù hung tợn hơn.

Haymitch chưa bao giờ nhìn thấy tôi chạy. Nếu có thì ông hẳn sẽ nói tôi lấy cây cung. Nhặt lấy vũ khí. Bởi đó là thứ vũ khí duy nhất có thể cứu sống tôi. Nó là cây cung duy nhất ở đây mà tôi thấy. Tôi biết một phút sắp hết và đã đến lúc phải quyết định mình sẽ làm gì. Chân tôi đã sẵn sàng chạy, không phải về hướng rừng mà là tới món đồ vô giá kia, tới cây cung. Bất chợt tôi nhận ra Peeta. Tuy cậu đứng cách tôi năm đấu thủ nữa về phía tay phải, một khoảng cách khá xa, tôi vẫn thấy như Peeta đang nhìn tôi, và có lẽ còn lắc đầu. Nhưng ánh mặt trời làm tôi lóa mắt và trong lúc tôi còn đang bối rối thì tiếng cồng vang lên.

Thế là tôi đã bỏ lỡ! Tôi đã bỏ lỡ cơ hội của mình! Vài giây mất tập trung đó đủ để khiến tôi quyết định xông vào hay không. PHân vân không biết chọn hướng nào, tôi đứng bần thần một lúc, nhưng rồi tôi lao về phía trước, nhặt lấy tấm bạt và một ổ bánh mì. Những thứ nhặt được quá khiên tốn khiến tôi cảm thấy thật sự bực bội với Peeta vì cậu đã làm tôi sao nhãng, rồi tôi bứt tốc chạy thêm hai mét, nhặt lấy chiếc ba lô màu cam có thể đựng bất cứ thứ gì, bởi tôi không cam tâm bỏ đi mà gần như tay trắng.

Một thằng, hình như đến từ Quận 9, xông tới chiếc túi cùng lúc với tôi và ngay lập tức chúng tôi giành lấy nó. Đột nhiên hắn ộc lên một tiếng, máu từ miệng bắn lên mặt tôi. Thứ chất lỏng âm ấm, nhơn nhớt ấy làm tôi loạng choạng lùi lại. Rồi hắn đổ gục xuống đất. Khi đó tôi mới phát hiện ra một con dao găm lút cán sau lưng hắn. Các vật tế khác đã tới Cornucopia và bắt đầu tản ra chiến đấu. Đúng vậy, con nhỏ Quận 2 đang chạy về phía tôi từ khoảng cách mười mét, tay đang nắm cả nửa tá dao găm. Tôi đã nhìn thấy nó ném trong lúc luyện tập. Nó chưa bao giờ ném trật. Và tôi sẽ là mục tiên kế tiếp.

Lúc này toàn bộ nỗi sợ của tôi đều hướng về con bé ấy, một con thú ăn thịt sắp lấy mạng tôi trong chốc lát. Một luồng adrenaline chạy qua người, tôi khoác chiếc ba lô và chạy hết tốc lực vào rừng. Nghe tiếng gió cắt vun vút ập tới, bằng vô thức tôi kéo chiếc túi lên che đầu. Một lưỡi dao đâm lút cán vào túi. Quang dây đai túi lên hai vai, tôi tiến nhanh vào rừng. Không hiểu sao tôi biết cô gái sẽ không đuổi theo nữa. Cô ta sẽ phải quay trở lại Cornucopia trước khi tất cả món ngon bị lấy mất. Tôi nở một nụ cười. Cảm ơn vì con dao, tôi nghĩ.

Tôi đứng ở rìa khu rừng một lúc để bao quát địa hình. Khoảng một tá đấu thủ đang thanh toán lẫn nhau ở chiếc sừng. Một số đã nằm bỏ mạng. Số khác quyết định đánh bài chuồn từ trước thì đã biến mất vào khu rừng hoặc khoảng trống đối diện nơi tôi đứng. Tôi tiếp tục chạy cho đến khi bóng hình khuất trong cánh rừng, thoát hẳn khỏi tầm mắt của những vật tế khác thì bước chậm lại, tôi nghĩ mình đã cách chúng được một khoảng. Vài giờ tiếp theo, tôi chạy và đi bộ luân phiên, giữ khoảng cách càng xa đối thủ càng tốt. Ổ bánh mì đã mất trong lúc vật lộn với thằng cha Quận 9, nhưng tấm bạt nhựa vẫn còn do đã được tôi nhồi vào tay áo từ trước, vậy nên tôi vừa đi vừa gấp nó lại cẩn thận và bỏ vào túi. Tôi rút con dao – khá tốt với lưỡi sắc và dài, gần cán còn có răng cưa giúp cứa đồ vật dễ dàng – gài vào thắt lưng. Tôi vẫn chưa dám dừng lại để kiểm đồ bên trong túi. Tôi tiếp tục đi, nếu có ngừng lại thì cũng chỉ để xem có ai đuổi theo hay không.

Tôi có thể đi trong thời gian dài. Tôi có được khả năng đó sau những ngày săn bắn trong rừng. Nhưng tôi không thể thiếu nước. Đó là lời dặn dò thứ nhì của Haymitch, và vì có vẻ đã làm hỏng việc đầu tiên, tôi căng mắt tìm dấu hiệu của nguồn nước. Không có hy vọng gì.

Khu rừng bắt đầu rậm rạp, xen lẫn đám thông là nhiều loài cây khác, một số tôi nhận biết được, một số hoàn toàn lạ lẫm. Bất chợt, tôi nghe thấy tiếng động và rút dao ra để tự vệ, nhưng rồi tôi chỉ làm giật mình một con thỏ. “Thật may mắn khi gặp mày,” tôi nói khẽ. Nếu có một con, hẳn còn có hằng trăm con khác để tôi đặt bẫy.

Mặt đất dốc xuống. tôi không thích địa hình này lắm. Đi dốc xuống những thung lũng làm tôi có cảm giác như đang vào bẫy. Tôi muốn ở trên cao, như trên những ngọn đồi ở Quận 12, để có thể thây những kẻ thù của mình đang tiến đến. Tuy nhiên, tôi không còn cách nào ngoài việc tiếp tục đi.

Mặc dù vậy, điều buồn cười là tôi không thấy mệt lắm. Những ngày ăn rỗi đã phát huy tác dụng. Dù thiếu ngủ nhưng tôi vẫn còn khỏe. Đi vào rừng làm tôi như trẻ lại. Tôi thấy dễ chịu với sự cô độc, dù đó chỉ là ảo tưởng, bởi có thể lúc này tôi đang xuất hiện trên truyền hình. Không thường xuyên thì cũng thỉnh thoảng. Có quá nhiều cái chết trong ngày đầu tiên nên việc một vật tế lặn lội trong rừng sẽ không được lưu tâm lắm. Nhưng họ cũng sẽ chú ý đến tôi, dù để khán giả biết rằng tôi vẫn còn sống, không bị thương và đang di chuyển. Ngày mở màn là một trong những ngày cá cược sôi nổi nhất, khi xuất hiện những thương vong đầu tiên. Nhưng đó chưa là gì so với lúc cuộc chiến chỉ còn lại vài đấu thủ.

Lúc tôi nghe thấy tiếng pháo hiệu thì trời đã gần tối. Mỗi tiếng bắn tượng trưng cho một đấu thủ thiệt mạng. Trận chiến ở Cornucopia hẳn đã kết thúc. Họ sẽ không thu gom xác chết cho đến khi những kẻ sống sót bỏ đi. Thậm chí trong ngày mở màn người ta còn không bắn thần công cho đến khi trận xáp lá cà kết thúc vì thật khó để biết được số thương vong nếu bắn ngay. Tự cho phép mình dừng lại nghỉ, tôi vừa thở dốc vừa đếm số phát sung. Một… hai… ba… cứ như thế cho đến mười một. Mười một người bỏ mạng tất cả. Còn lại mười ba. Tôi lấy ngón tay cạo những vệt máu khô mà vật tế Quận 9 đã ộc lên mặt tôi. Hẳn là hắn đã chết. Tôi tự hỏi về số phận của Peeta. Liệu lúc này cậu còn sống sót không? Tôi sẽ biết điều ấy trong vài giờ nữa. Họ sẽ chiếu hình ảnh của những nạn nhân lên trời để đám người sống sót thấy.

Bỗng nhiên, tôi ngập trong ý nghĩ rằng Peeta đã bỏ mạng, mất máu đến trắng bệch, được đưa lên phi thuyền chuyển về Capitol để rửa ráy, thay quần áo, cho vào một chiếc hộp gỗ đơn giản gửi về Quận 12. Không còn ở đây nữa. Trở về nhà. Tôi cố gắng nhớ lại lần cuối nhìn thấy cậu trước khi cuộc chiến bắt đầu. Nhưng hình ảnh duy nhất hiện ra trong tâm trí tôi là lúc Peeta lắc đầu, khi tiếng cồng vang lên.

Có thể như vậy sẽ tốt hơn, trong trường hợp Peeta đã ra đi. Cậu không có một chút nào tự tin vào việc mình sẽ chiến thắng. Và tôi sẽ không phải đối mặt với một nhiệm vụ không dễ chịu chút nào, đó là giết cậu. Có thể sẽ tốt hơn nếu như cậu không còn trong cuộc đấu này.

Tôi ngồi sụp bên chiếc túi, kiệt sức. Nhưng kiểu gì thì tôi vẫn phải xem xét nó trước khi trời tối. Xem nào. Trong lúc kéo khóa, tôi cảm thấy chiếc túi khá chắc chắn, dù màu của nó thật tệ. Thực tế, màu cam rất dễ bị phát hiện trong đêm. Việc đầu tiên phải làm vào ngày mai chắc chắn phải là ngụy trang chiếc túi này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro