Đức Phật Và Nàng 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1:

Cuộc thí nghiệm của tôi

Tôi ngồi ngẩn ngơ, thu vào tầm mắt mênh mông cồn cát. Xa xa, vài chú lạc

đà hoang dã nhởn nhơ rong chơi, nhưng chưa kịp lại gần, đã co cẳng chạy

biến, chúng còn khôn hơn cả lạc đà thuần. Bước thấp bước cao lê lết suốt mấy

tiếng đồng hồ và không ngừng dõi mắt tìm kiếm xung quanh, quả thực là tôi

đã quá mệt. Không thiết bị định vị GPS, không phương hướng, cứ lao đi như

vậy chẳng giải quyết được vấn đề gì. May cho tôi, lúc này đang là giữa thu,

thời tiết tuy khô hanh nhưng nhiệt độ sa mạc không quá thấp, nên vẫn chịu

đựng được. Có điều, trời đang tối dần khiến tôi lo ngại. Khi mặt trời khuất

bóng mà tôi lại không mang theo bất cứ vật dụng bảo vệ ngoài trời nào, lang

thang trong đêm giữa hoang mạc thế này, không chết đói cũng sẽ chết rét.

Nhắm mắt lại vẫn thấy rùng mình, cảm giác quay cuồng lúc tiếp đất vẫn

chưa tan. Uể oải nâng tay trái ngó chiếc đồng hồ vượt thời gian, không ngăn

nổi tiếng thở dài. Vẫn là, lần thử nghiệm thứ ba lại thất bại, tuy có tiến bộ hơn

hai lần trước, lần này tôi đã tiếp đất.

Tôi tham gia dự án thử nghiệm vượt thời gian này đã hơn một năm. Là

nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử, nhiệm vụ ban đầu của tôi chỉ là cùng

thầy hướng dẫn, một giáo sư lịch sử danh tiếng tham gia công tác chỉ đạo dự

án. Nhưng sau khi gặp tôi, các nhà sinh vật học ấy cứ nằng nặc đòi tôi tiến

hành xét nghiệm và kết luận của họ là thể lực của tôi hoàn toàn thích hợp để

thực hiện thử nghiệm.

Mặc dù không thiếu người nhưng tất cả tình nguyện viên trước đó đều đã

thất bại. Nhóm chuyên gia cho họ về nghỉ và quay ra “tâm lý chiến” với tôi. Với

tư cách là một nghiên cứu sinh chuyên ngành, tôi có trách nhiệm và nghĩa vụ

vén bức màn bí ẩn, giải mã những nghi vấn, trả lại tính chân thực cho lịch sử.

Trở về và trải nghiệm mọi thứ diễn ra trong thời kỳ cổ đại, mấy ai làm được

điều đó? Và nếu thành công, tôi sẽ trở thành người đầu tiên, sẽ được vang

danh trong sử sách.

Tôi là cô gái đam mê công việc, tiêu chí của đời tôi là: “sách vạn cuốn,

đường vạn dặm, chuyện vạn người”. Tôi muốn gặt hái nhiều thành tích để

“sếp” được tự hào, “sếp” chính là thầy hướng dẫn, đám sinh viên chúng tôi

thường  gọi  thầy  hướng  dẫn  của  mình  như  vậy.  Do  đó,  không  đợi  tôi  chịu

“thuận” hẳn, nhóm chuyên gia hừng hực nhiệt huyết kia đã nhanh chóng xua

tôi lên bục thử nghiệm.

Lần thử nghiệm đầu, biến mất chưa đầy nửa phút, tôi đã ngã nhào trở lại.

Tôi không nhớ gì ngoài cảm giác chóng mặt buồn nôn cực độ khi vượt không

gian. Toàn bộ thiết bị mang theo gồm: máy dò tìm 14C, GPS định vị, laptop,

máy ảnh kỹ thuật số, … đều bị tia bức xạ tần số cao làm hỏng sạch. Nhóm

chuyên gia rút ra kết luận: không thể mang theo thiết bị điện tử. Vậy là, sau

nửa tháng trên giường bệnh, tôi lại được đào tạo cấp tốc cách sử dụng các

dụng cụ thủ công, xẻng Lạc Dương (một loại xẻng nhỏ dùng trong khảo cổ)

cũng nằm trong số đó.

Lần thứ hai, tiến bộ hơn, tôi biết mất khoảng mười phút, nhưng khi mọi

người đang rất hân hoan, chuẩn bị mở tiệc ăn mừng thì tôi lại rơi đánh bịch

trên trảng cỏ ngoài phòng thí nghiệm. Lúc tỉnh dậy, hình ảnh của phố xá và

dòng người mà tôi nhìn thấy khi bay trong không gian mơ hồ quệt qua trí nhớ,

có vẻ như là khung cảnh và trang phục thời Hán. Nhưng chưa kịp tiếp đất,

một lực hút cực mạnh đã kéo tôi lại. Dụng cụ thủ công mà tôi đeo trên lưng

cũng vỡ tan tành.

Dựa trên báo cáo của tôi, nhóm chuyên gia nhận định thí nghiệm có thể

đưa con người trở về không gian của hai nghìn năm trước, vì vậy, tôi đã phải

ôn lại lịch sử thời chiến quốc và thời Tần Hán khi vẫn còn nằm trên giường

bệnh. Vết thương chưa lành, tôi đã bị dựng dậy, bị bắt luyện tốc ký, luyện vẽ

sơ đồ, biểu đồ, phác thảo công trình kiến trúc. Các chuyên gia quyết định

không để tôi mang theo những dụng cụ nặng, chỉ đem theo những vật dụng

nhỏ nhẹ, tiện dụng.

Học vẽ được nửa năm thì thiết bị thí nghiệm được cải tiến thành mô hình

máy CT. Hành trang lần này của tôi bao gồm một tập lớn giấy viết vẽ tốc ký và

bút chì. Trước lúc lên đường, sếp tôi còn dặn dò cẩn thận, không được phép

để lại ở thời cổ đại bất cứ thứ rác rưởi khó tiêu hủy nào của thế kỉ XXI, vì như

vậy sẽ gây khó dễ cho các nhà khảo cổ và các chuyên gia lịch sử sau này.

Và trong lần thử nghiệm thứ ba, tôi đã tiếp đất thành công, không thương

tổn bầm dập, bởi vì tôi rơi xuống giữa một sa mạc cát. Nhưng tôi nhận ra tình

trạng thảm hại của mình ngay sau đó. Không một bóng người, không một dấu

hiệu của sự sống, sau vài giờ lang thang, tôi vẫn hoang mang không rõ mình

đã đến được thế giới cổ đại hay chưa. Tôi chỉ khẳng định được duy nhất điều

này: tôi đã rời khỏi phòng thí nghiệm.

Không nước uống, không đồ ăn, không thuốc men, vì nếu có mang theo thì

khi vượt không gian cũng sẽ bị nhiễm xạ. Trong chiếc ba lô chuyên dụng hiệu

Northface của tôi chỉ có một con dao Thụy Sĩ, một chiếc la bàn, quần áo, sổ

ghi chép, dụng cụ khảo cổ, một tập giấy tốc ký, bút chì và một ít bạc vụn.

Chẳng có thứ gì giúp được tôi lúc này. Có lẽ phải bỏ cuộc và trở về thôi. Các

chuyên gia sẽ tiếp tục cải tiến thiết bị và hy vọng lần tới, tôi sẽ đến được nơi

có con người. Không nén nổi, tôi buông một tiếng thở dài tiếc nuối. Nhưng trời

đang tối dần, tôi phải tranh thủ thời gian, nếu không sẽ không đủ năng lượng

mặt trời để khởi động thiết bị.

Tôi lôi chiếc mũ chống tia phóng xạ nhét trong bộ trang phục thời Hán ra và

chụp kín đầu, đeo găng tay, kéo cao khóa, nghiêng chiếc đồng hồ vượt thời

gian kềnh càng về hướng mặt trời, xoay chốt bảo hiểm, miệng nhẩm đếm:

một, hai, ba…

Đếm đến mười vẫn không có động tĩnh gì. Tiếp tục đếm: hai mươi, năm

mươi, một trăm…

Sao thế này, không lẽ lại xui xẻo đến vậy? Tôi kéo mũ, dán mắt vào chiếc

đồng hồ dở chứng, vẫn không động đậy. Đập đập, không phản ứng. Giơ cao

về phía mặt trời, tiếp tục im lặng. Tôi tháo đồng hồ, vung lắc hết sức, đèn báo

hiệu vẫn không hiện màu xanh.

Gió bắt đầu nổi, mặt trời bị giăng mờ bởi ngợp trời gió cát. Cái đồng hồ dựa

dẫm vào năng lượng mặt trời chết tiệt này! Tôi sẽ phải bỏ mạng ở nơi không rõ

là thời đại nào, hoang mạc nào này ư?

Tôi bật dậy, chỉ tay lên trời, nguyền rủa nhóm chuyên gia: không cho mang

nước, không cho mang thức ăn, chỉ mấy đồng xu xù xì nặng trình trịch này thì

ích gì chứ? Sớm biết cái đồng hồ phải gió kia sẽ dở chứng thì dù có phải chịu

nhiễm xạ, tôi cũng kiên quyết mang theo đồ ăn thức uống đi. Ba lần bị đẩy vào

cái máy vượt thời gian phải gió ấy, lẽ nào tôi chưa từng nhiễm xạ ư? Tôi thà

chết vì nghẹn bánh mì bị nhiễm xạ còn hơn chết đói chết khát thế này!

Tôi  kết  thúc  trận  xỉ  vả  sau  khi  nuốt  vào  đầy  một  miệng  cát,  trời  nhanh

chóng tắt nắng, chỉ một lát nữa, sa mạc sẽ trở nên lạnh cóng. Chiếc áo chống

tia phóng xạ của tôi còn có thể chống gió và rét, nhưng không chống nổi cơn

đói khát đang ập đến với tôi. Co gập người lập cập bò lên một gò cát cao, nhìn

ra xa, trong mịt mù đêm tối, tôi bắt gặp những đốm lửa bập bùng phía xa

xăm. Tôi chưa bao giờ thấy thứ ánh sáng nào ấm áp đến thế!

Không còn nhớ phải mất bao nhiêu thời gian mới có thể thoát khỏi sa mạc

tăm tối, gió cát mịt mù đáng sợ ấy, chỉ biết rằng khi tôi lảo đảo lại gần đống

lửa thì mắt tôi hầu như không còn thấy gì và tôi khát đến mức cổ họng như

cháy khô. Kịp nhận thấy xung quanh đống lửa có một số lều bạt, có tiếng

người, có lạc đà, mắt sáng rực, tôi lao vào một trong những chiếc lều ấy, sau

đó, lịm đi.

Chương 2: Hòa thượng và ni cô

Tỉnh lại, tôi thấy mình đang được vây bọc giữa một đám người hình hài kỳ

lạ: mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, mặt tròn, cổ ngắn, nước da trắng mịn, đáy

mắt sẫm nâu. Đàn ông cao to lực lưỡng, đàn bà béo tốt khỏe mạnh, tất cả đều

tóc xoăn thả lọn ngang vai và nhất loạt màu hung đỏ. Trang phục của họ lại

càng đặc biệt hơn: đàn ông áo dài bẻ cổ, tay bó, thắt eo, đi ủng cao đến tận

đầu gối, giắt kiếm sau lưng. Phụ nữ váy dài đến đầu gối, xẻ vai phải, tay bó,

vai quàng khăn và cũng đi ủng cao.

Tôi thấy khâm phục bản thân, trong tình trạng đói khát mệt lả như vậy vẫn

có thể mô tả và nhận xét vẻ ngoài và trang phục của những người xung quanh

một cách chuyên nghiệp chỉ bằng vài cái đưa mắt quan sát. Nhưng những

thông tin này không có nghĩa lý gì nữa khi tôi bắt đầu ngửi thấy mùi thơm của

thức ăn.

Chỉ là vài miếng bánh và một bát mì nóng, nhưng thế cũng đủ để nước

miếng tuôn ào ạt trong miệng tôi. Vội vã đón thức ăn từ tay một phụ nữ chừng

bốn mươi, sau tiếng lắp bắp cảm ơn, tôi ngấu nghiến nhai nuốt, mấy miếng

bánh nhanh chóng hết veo, bát mì nóng cũng sạch bong sau vài miếng soàn

soạt, dạ dày đã có chút cảm giác. Nhưng tôi vẫn muốn ăn thêm, rụt rè cất lời

xin xỏ, tôi bỗng nhận ra rằng: ngôn ngữ bất đồng.

Không có gì lạ, vì chỉ nhìn thoáng qua cũng biết họ không phải người Hán

và chính tôi cũng không rõ rốt cuộc mình có trở về thời kỳ cổ đại hay không.

Chưa biết chừng, cuộc thí nghiệm này chỉ như một chuyến bay miễn phí, đưa

tôi đến một sa mạc nào đó thuộc Trung Đông hoặc châu Phi, để rồi vô tình gặp

một bộ lạc du mục lạc hậu nào đó cũng nên và biết đâu tôi vẫn đang ở thế kỷ

XXI. Tôi thử dùng tiếng Anh, vẫn không ổn.

Đúng lúc tôi đang phiền muộn giữa những thanh âm lạ lùng thì trong lều

xuất hiện thêm hai người, những người khác lập tức dừng bàn luận và tỏ ra

hết sức cung kính. Tôi có thể nhận ra ngay thân phận khác thường của hai

người đó, nhưng khi họ lại gần chỗ tôi nằm thì tôi ngạc nhiên đến mức hồi lâu

vẫn há hốc miệng.

Đó là một ni cô chừng hơn ba mươi tuổi và một tiểu hòa thượng chừng

mười lăm, mười sáu tuổi. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả thân phận

khác thường là khí chất cao quý toát ra từ con người họ. Họ chỉ yên lặng đứng

đó, nhưng vẻ bất phàm thoát tục của họ lan tỏa trong không gian quanh tôi.

Khuôn mặt ni cô giống hệt những người phụ nữ khác, nhưng làn da trắng

mịn hơn, đôi mắt to, lông mày dài mượt và trong đôi mắt nâu nhìn tôi chăm

chú thấp thoáng vẻ lo lắng mơ hồ nào đó. Một thân hình căng tròn, đầy đặn,

chiếc áo cà sa màu nâu sòng giản dị không che lấp nổi vẻ đẹp của thân hình

ấy. Có điều, hình như vầng trán của ni cô khác với những người khác, hình

như nó bị nén xuống và đổ dần về phía sau gáy và vì trên đầu không có tóc,

nên hình ảnh đó càng trở nên kỳ dị. Tôi nhớ rằng, người Ai Cập và Ba Tư cổ

đại từng có tập tục nén vầng trán cho dẹp xuống ngay khi còn nhỏ, nhưng tập

tục đó chỉ giới hạn trong các thành viên của hoàng thất. Không biết, trán của

ni cô là do bị dẹp bẩm sinh hay đã được nén sau khi sinh. Tuy nhiên, vầng trán

dẹt không làm mất đi vẻ đẹp mặn mà của ni cô.

Tiếp tục quan sát tiểu hòa thượng mười lăm tuổi, không thể không thốt lên,

đó là một vẻ điển trai quyến rũ kỳ lạ! Cũng sống mũi cao, đôi mắt sâu, nhưng

không thô lậu như những người khác. Khuôn mặt tiểu hòa thượng hệt như

bức tượng thần Hy Lạp, với những đường nét ngời sáng như một khối lập thể

được đúc tạc tỉ mỉ. Ngũ quan là một sự kết hợp hài hòa và tài tình, với đường

lông mày dày và đậm, sống mũi cao thanh tú, đôi đồng tử màu xám nhạt như

được khảm giữa một vùng nhãn thần rộng và sâu thẳm, thuần khiết tựa nền

trời  xanh  trên  sa  mạc  mênh  mông.  Tuy  tuổi  còn  rất  trẻ  nhưng  ở  tiểu  hòa

thượng đã toát lên vẻ đạo mạo, sáng rỡ, khiến tôi vừa có cảm giác ấm áp vừa

gợn chút tò mò.

Hòa thượng có làn môi rất mỏng nhưng đường nét đậm rõ, khi đôi môi khép

lại, cánh môi uốn lên một đường cong thanh tú. Khuôn mặt thuôn dài, chiếc

cằm nhọn đậu trên chiếc cổ cao gầy tựa thiên nga, từng nét thon dài sống

động. Không giống những đàn ông khác trong lều, tiểu hòa thượng có nước

da bánh mật. Khoác trên mình chiếc áo choàng dài, vai rộng phủ toàn thân,

chiều cao một mét bảy càng tôn thêm dáng vẻ cao lớn, nhưng cũng khiến y

phục trên người tiểu hòa thượng trở nên đơn sơ. Chắc chắn tiểu hòa thượng

sẽ còn cao nữa, có thể đến một mét tám hoặc hơn.

Tôi chăm chú quan sát hai con người kỳ lạ đó, trí óc quay cuồng. Cho đến

khi, thật bất ngờ, họ bắt đầu trò chuyện với tôi bằng tiếng Hán lơ lớ.

Rất lâu sau tôi mới hiểu được rằng họ đang cố hỏi xem tôi từ đâu tới và vì

sao lại lưu lạc đến chốn này. Ngước nhìn họ với vẻ đau khổ, tôi đáp:

- Làm ơn cho tôi biết, đây là đâu, nơi này thuộc nước nào vậy?

Vẻ băn khoăn không hiểu rõ trên nét mặt ni cô, nhưng hình như tiểu hòa

thượng đã nắm bắt được đôi điều, đột ngột ngồi xuống cạnh tôi, khuôn mặt

tuấn tú, thuần khiết của tiểu hòa thượng bừng sáng. Bị hút hồn bởi vẻ đẹp ấy,

tim đập mạnh khiến tôi choáng váng trong giây lát.

- Chúng tôi đến Wensu, sắp rồi. Cố là ngươi Han?

Đang chưa hết băn khoăn vì trái tim lỗi nhịp đập nhanh vô cớ, tôi bỗng phì

cười trước điệu bộ hết sức nghiêm túc nhưng phát âm tiếng Hán lơ lớ và trật

tự chủ ngữ vị ngữ đảo lộn hết cả của tiểu hòa thượng.

Đôi chút ngượng ngùng và khuôn mặt hơi ửng đỏ:

- Tiếng Hán, tôi, nói không giỏi.

Hòa thượng quay lại thao thao bất tuyệt một hồi với ni cô xinh đẹp. Tôi vội

nín cười, cố lí giải xem địa danh mà hòa thượng vừa nhắc đến là nơi nào. Căn

cứ phát âm của tiểu hòa thượng thì hình như đó không phải một địa danh ở

Trung Nguyên.

Hòa thượng quay đầu tiếp tục hỏi chuyện tôi:

- Cố, đi, đâu?

Tôi hăm hở:

- Trường An, biết chứ?

Thấy hòa thượng gật đầu, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là địa danh này tồn

tại và được biết đến ở nơi đây.

- Nhưng…

Hòa thượng nhìn tôi do dự:

- Xa lắm, một mình, cô?

Tôi uể oải gật đầu, trong lúc này, ngoài Trường An, tôi chẳng thể nghĩ ra

được nơi nào khác, dù thế nào, đến đó tôi cũng không gặp trở ngại về ngôn

ngữ.

- Chúng tôi, đi Kuchi, cô, tiện đường.

Vất vả lắm hòa thượng mới phát âm được một tiếng, tôi cứ định buột miệng

cười lại gắng sức kìm chế. Cứu mạng tôi, lại có thể trò chuyện với tôi, như vậy

đã đáng quý lắm rồi. Không biết Kuchi là nơi nào nhỉ? Tôi đã tiếp đất được

bảy, tám tiếng rồi cũng nên, vậy mà vẫn chưa xác định được địa điểm và thời

đại lịch sử. Đường đường là nghiên cứu sinh khoa lịch sử một trường đại học

danh tiếng, xấu hổ quá đi mất!

- Cô, tên gì?

- Hả?

Mải suy nghĩ, chưa kịp định thần, phải nhờ đến lần thứ hai tôi mới hiểu tiểu

hòa thượng muốn hỏi tên mình.

- Tôi tên Ngải Tình[1].

Tên gọi của tôi từ lâu đã là chủ đề gây cười của mọi người. Từ nhỏ tôi đã

được gắn biệt danh: Love. Bọn con trai thích thú chọc ghẹo, gào thét tên tôi:

Oh, my love!

Tôi  đã  đấu  tranh  đòi  đổi  tên,  nhưng  bố  mẹ  không  chịu.  Lâu  dần  thành

quen. Gọi “tình yêu” thì cũng có sao, chỉ tiếc, bao nhiêu năm mang tên “tình

yêu” mà vẫn chẳng thấy bóng dáng thần tình yêu của tôi đâu.

- Tên tôi là…

Hòa thượng phát ra một tràng dài những âm lạ mà tôi không sao nhớ nổi,

chỉ cười trừ đáp lại. Hòa thượng kiên nhẫn lặp đi lặp lại ba lần. Căn cứ vào

phát âm, tôi tìm ra những tiếng tương ứng trong Hán ngữ: Ku- ma- la- ji- ba,

quả thực rất khó đọc. Tôi gắng sức: Ku- ma- la- ji- ba, Ku- ma- la- ji- ba, Ku-ma- la- ji- ba, …

Cánh môi hòa thượng lên xuống theo từng chuỗi phát âm của tôi và ngừng

lại với một điệu cười sảng khoái, giọng cười cao vút, trong veo và vang xa như

tiếng suối reo giữa đại ngàn. Chợt nhớ đến, mới đây thôi tôi còn cười cậu ta

phát âm tiếng Hán không chuẩn, bây giờ thì đến lượt tôi rồi nhé, má tôi nóng

bừng.

Hòa thượng chỉ cười một lát rồi dừng lại, có lẽ vì nhận ra vẻ mặt ngượng

ngùng của tôi, chỉ tay về phía ni cô xinh đẹp đứng phía sau:

- Của tôi, me, Jiba.

Tôi đã bắt đầu thích ứng với khẩu âm của hòa thượng, nên tự động chuyển

ngữ “me” bằng “mẹ”.

Ni cô xinh đẹp này là mẹ của hòa thượng? Họ đều là người xuất gia? Cậu ta

còn trẻ như vậy, chắc là được mẹ đưa đến nơi cửa Phật? Thoáng chút tiếc

nuối len lỏi trong tim, nhưng đã nhanh chóng bị tôi đá bay. Jiba? Không biết

đó là tên gọi hay là một kính từ? Tôi cất giọng thử một tiếng Jiba, ni cô điềm

đạm gật đầu.

- Cô, nghí ngơi, chúng ta, ngày mai, lến đương.

(Dịch: Cô nghỉ ngơi đi, ngày mai chúng ta lên đường)

Sau khi hòa thượng và ni cô đi khỏi, tôi ở lại trong lều cùng bốn phụ nữ

khác. Tuy không hiểu họ nói gì, nhưng thái độ của họ rất thân thiện. Ngại xin

xỏ thêm đồ ăn, tôi khoan khoái ngả mình trên tấm đệm ấm áp họ dành riêng

cho tôi.

Vậy là tôi đang ở một nơi xa lạ, ngôn ngữ bất đồng. Ngoài kia, tiếng gió rít

trên sa mạc sao mà thảm thiết, hệt như tiếng khóc than não nề trong đêm

vắng. Lòng tôi chùng xuống, hễ nhắm mắt là lại nhớ nhà kinh khủng, nước

mắt không ngăn nổi, rơi lã chã trên gối. Tôi cố gắng ngăn chặn cảm xúc yếu

đuối đó bằng phép thôi miên thông dụng nhất.

Tôi bắt đầu phân tích hình ảnh những thứ ở xung quanh mà tôi quan sát

được trước lúc đi ngủ, sau đó, đặt tên cho từng thứ một: tôi nằm trên một tấm

đệm thêu hoa văn hình thoi, gối trên một chiếc gối bông hoa văn vằn hươu

xen hình những nén bạc nhỏ và đắp lên mình một chiếc chăn lông thêu hoa

văn hình tam giác. Vật dụng chứa nước là một chiếc bình gốm một quai, in

hoa văn lưới, còn chiếc bát đựng bánh màu xám khi nãy là một chiếc bát nung

từ đất sét.

Tôi phán đoán mình đã đến được thời cổ đại, bởi vì kỹ thuật chế tác những

đồ dùng bằng gốm này vẫn rất nguyên thủy. Nếu căn cứ vào trình độ chế tác

gốm sứ ở Trung Nguyên thì kỹ thuật chế tác đơn giản này có lẽ đã tồn tại từ

hơn hai ngàn năm trước. Nhưng không biết ở đây thì thế nào.

Tiếng gió gầm gào bên ngoài cùng với tiếng thở đều đều trong lều không

ngăn nổi nỗi mệt nhoài cùng cơn buồn ngủ xâm chiếm. Tôi cuộn mình trong

lớp chăn ấm và chìm dần vào giấc ngủ.

Chương 3: Tôi biết mình đang ở đâu

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thu dọn và lên đường. Tôi đã khỏe lại, ăn của

người ta, ở của người ta thì phải góp công góp sức với người ta chứ nhỉ! Buồn

thay, tôi lại không hiểu họ nói gì, nên khi thu dọn lều bạt, sự lóng ngóng của

tôi chỉ khiến họ thêm vướng chân vướng tay. Nhưng họ rất hiền hòa, không

trách mắng gì cả, vả lại, dĩ nhiên rồi, họ có trách mắng, tôi nghe cũng chẳng

hiểu.

Họ dành riêng cho người lạ từ trên trời rơi xuống là tôi một chú lạc đà.

Nhưng bộ xiêm y người Hán với ống tay rộng thùng thình và chiếc váy dài

chấm gót khiến tôi không làm cách nào trèo lên lưng lạc đà được. Tôi nhìn bộ

váy áo lòa xòa lôi thôi, rồi lè lưỡi nhìn tiểu hòa thượng với vẻ bất lực và cầu

cứu.

Hòa thượng nở nụ cười hồn hậu, quay lại trao đổi một hồi với người phụ nữ

đứng tuổi, lát sau, một bộ trang phục giống như của họ được đem tới. Tôi thay

đồ, hơi rộng, cũng phải thôi, thân hình của họ cao lớn thế kia mà. Áo dài đến

đầu gối, tay phải thắt ống, vai phải xẻ, quần rộng, ống kiểu Alibaba, ủng cao

đến đầu gối, ha ha, hợp mốt đấy chứ! Phụ nữ thời Hán ai mà dám mặc áo hở

vai? Nhưng điều quan trọng là với bộ quần áo như thế này, việc lên xuống lạc

đà không còn khó khăn nữa. Buổi sớm trên sa mạc vẫn giá buốt, tiểu hòa

thượng ân cần mang cho tôi một chiếc khăn quàng.

Tôi nhẩm tính, cả đoàn cũng phải chừng sáu mươi người, nhưng tính cả tôi

cũng  chỉ  có  tổng  cộng  năm  người  phụ  nữ.  Ngoài  tiểu  hòa  thượng,  những

người còn lại đều bận quân phục và giắt bên mình một thanh kiếm dài của

tướng sĩ thời xưa. Và với biểu cảm trên khuôn mặt họ, thì mọi sự tập trung đều

dồn cả vào hai mẹ con ni cô.

Tôi có đôi chút băn khoăn, trước đây, tôi mới chỉ thấy hòa thượng và ni cô

có người hầu đi cùng, chứ chưa từng gặp hòa thượng và ni cô dẫn theo một

đội quân thế này. Càng quan sát càng nhận thấy vẻ quan cách toát ra từ cử

chỉ và lời nói của họ, rõ ràng hai mẹ con hòa thượng có thân phận không tầm

thường. So với những người khác, trình độ tiếng Hán của tiểu hòa thượng là

khá nhất, vượt xa cả người mẹ xinh đẹp, nên tôi chọn đi cạnh hòa thượng để

nghe ngóng tình hình. Tuy giao tiếp khó khăn, nhưng tôi cũng nắm bắt được

khá nhiều thông tin.

Tôi gặng hỏi hòa thượng có biết hiện ai đang làm vua vùng Trung Nguyên

hay không. Hòa thượng suy nghĩ hồi lâu mới phát âm ra một tiếng gần giống

với  “Tần/Thanh”.  Vậy  hẳn  là  nhà  Tần  rồi!  Không  thể  là  nhà  Thanh,  nhóm

chuyên gia đã khẳng định, cỗ máy vượt thời gian chỉ có thể đưa được con

người về lại khoảng thời gian hai ngàn năm trước.

Tôi lại hỏi hòa thượng học tiếng Hán ở đâu. Hòa thượng hoa chân múa tay

hồi lâu tôi mới hiểu sơ sơ, rằng ở Kuchi hòa thượng có hai thầy giáo người

Hán. Hòa thượng thẹn thùng bộc bạch, là bản thân mới học tiếng Hán được

vài tháng mà đã năm năm rồi không luyện khẩu ngữ, nên trò chuyện không

được lưu loát.

Tôi quá đỗi kinh ngạc. Hòa thượng chưa đến mười sáu tuổi, vậy là cậu bắt

đầu học tiếng Hán khi mới mười, mười một tuổi, năm năm bỏ bẵng, nhưng vẫn

có thể giao tiếp khá thế này, trí nhớ của hòa thượng thật đáng khâm phục.

Thời gian học đại học, tôi lựa chọn học ngoại ngữ tiếng Đức, sau vài năm

không ngó ngàng đến, giờ đây tôi chỉ nhớ mỗi câu ICH LIEBE DICH (Em yêu

anh), nếu yêu cầu tôi trò chuyện với người Đức, sẽ chẳng khác nào như vịt

nghe sấm.

Vì tôi tiếp đất giữa sa mạc mênh mông, nên tôi chỉ có thể suy đoán nơi này

hoặc là thuộc Tây vực hoặc là thuộc Mông Cổ. Tôi thử hỏi về con đường tơ lụa,

nhưng hòa thượng không hiểu. Chỉ khi tôi giải thích, tơ lụa và lá trà được vận

chuyển từ Trung Nguyên đến tiêu thụ tại Đại Thực (nay thuộc các Tiểu vương

quốc Ả Rập), Ba Tư (nay là I- ran), Đại Tần (nay là Roma) trên con đường này,

thì hòa thượng mới gật đầu. Hòa thượng cho biết, Kuchi nằm trên con đường

này. Và trong tôi chợt bừng lên một tia hy vọng.

Tiếp đó, tôi vắt cạn bộ nhớ để kể ra những địa danh liên quan đến con

đường  tơ  lục:  Yên  Kỳ  (Yanqi),  Thiện  Thiện  (Shanshan),  Sơ  Lặc  (nay  thuộc

Kashgar, Tân Cương), Lâu Lan, Hòa Điền (nay thuộc Hotan, Tân Cương), Ô

Tôn (nay thuộc Ili, Tân Cương), Đôn Hoàng, … Trong số đó có một vài địa

danh mà sau khi nghĩ ngợi một lúc, hòa thượng nhắc lại bằng một âm tương

tự, những âm còn lại rất khó nhận biết. Khi kể đến địa danh Khâu Từ, tôi sững

lại. Kuchi, Khâu Từ (Qiu Ci, nay thuộc huyện Kucha, Tân Cương). Hai âm này

rất giống nhau, lẽ nào là quốc gia có nền văn minh phát triển và giàu mạnh

nhất vùng Tây vực thời cổ đại?

Tôi nhìn hòa thượng và thử đọc lại tên Khâu Từ. Hòa thượng ngập ngừng

giây lát rồi gật đầu và chỉ vào mình. Trời ơi, cuối cùng thì tôi biết mình đang ở

đâu rồi. Tôi đã đến Tây vực, Tây vực đời Tần!

Vậy thì những người Khâu Từ mà tôi gặp trên đường đi này chính là người

Tochari. Tài liệu lịch sử chép lại rằng, tổ tiên của người Khâu Từ là tộc người

Da Yue Zhi, hay còn lại là người Tochari. Đầu dài, mũi cao, mắt sâu, môi mỏng,

da trắng, thuộc giống người châu Âu nguyên thủy. Các bộ lạc Tochari đã kết

thúc đời sống du mục vào khoảng một nghìn năm trước Công nguyên và bắt

đầu định cư tại Kucha, Yanqi và Turpan. Tôi đã đến tham quan rất nhiều viện

bảo tàng khi đi du lịch Tân Cương và rất thích thú khi ngắm nghía các xác

ướp, những xác ướp được lưu giữ gần như toàn vẹn sau hơn ba nghìn năm,

khuôn mặt xác ướp vẫn hiểu hiện rõ nét đặc điểm ngoại hình của người châu

Âu, nổi tiếng nhất là xác ướp mỹ nữ Lâu Lan. Nhưng có lẽ vì nằm trên huyết

mạch chính của con đường tơ lụa, là nơi tập trung và lai tạp giữa nhiều tộc

người khác nhau, nên người Khâu Từ có khuôn mặt tròn hơn người châu Âu

hiện đại.

Niềm hứng khởi đang lên cao thì lập tức bị kéo xuống. Những ghi chép về

Tây vực thời kỳ nhà Tần rất ít ỏi, hầu như chỉ tồn tại trong “Tây vực truyện”

thuộc sách “Hán thư”. Lịch sử Tây vực trong trí nhớ của người Hán được bắt

đầu từ thời Hán Vũ Đế: Trương Khiêm đến Tây vực, kết thân với Ô Tôn (Wu

Sun), dựng trại làm ruộng, gây chiến với Hung Nô suốt mấy trăm năm. Nhưng

được đến thời kỳ nhà Tần cũng rất tuyệt. Tôi phải lên đường đi Trường An

ngay mới được, để có thể tận mắt chứng kiến những biến động to lớn cuối đời

Tần, để được diện kiến những nhân vật lừng danh trong lịch sử.

Tôi lặp đi lặp lại nguyện vọng tha thiết đó với tiểu hòa thượng. Hòa thượng

trầm tư một lát rồi gật đầu và hứa sẽ sắp xếp. Nhưng cũng nói thêm, đường

xa vạn dặm, phải một năm mới đến nơi, hơn nữa hiện đang là thời kỳ chiến

tranh loạn lạc, muôn phần nguy hiểm.

Trời, chiến tranh xảy ra rồi ư? Vậy thì tôi lại càng không thể chần chừ. Tôi

vui vẻ bảo rằng không sao cả, hòa thượng băn khoăn nhìn tôi, đôi mắt màu

xám nhạt lộ vẻ kinh ngạc. Tôi không biết phải giải thích thế nào để hòa thượng

hiểu vì sao một cô gái như tôi lại hứng thú với chiến tranh đến vậy, nên chỉ

cười trừ.

Câu chuyện giữa chúng tôi kéo dài đến gần trưa. Trời mùa thu lúc chính

Ngọ nắng rất gắt gao, tôi phải trùm kín đầu bằng chiếc khăn quàng vai. Tiểu

hòa thượng kéo thấp chiếc áo choàng dài, để lộ bờ vai phải, dưới ánh nắng rực

rỡ, nước da bánh mật phản chiếu sức sống, nét khỏe khoắn và vẻ tráng kiện

của tuổi trẻ. Lối trang phục để vai trần bên phải này vốn là trang phục phổ

biến của giới tăng ni ở Ấn Độ và Tây vực. Sau đó, Phật giáo được truyền bá

vào Trung Nguyên, kiểu trang phục này dần được cải biên, có câu “nhập gia

tùy tục” mà. Thời tiết Ấn Độ nóng bức, Tây vực thì nằm trong vùng sa mạc,

hoang mạc mênh mông, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm rất lớn, nên kiểu trang

phục kín đáo vào buổi sáng và buổi tối, hở vai vào buổi trưa này rất phù hợp

với điều kiện thời tiết nơi đây.

Khuôn mặt hòa thượng bỗng nhiên ửng đỏ, ánh mắt rời khỏi tôi trôi về phía

xa xăm. Lúc này mới chợt nhận ra tôi đã chăm chú ngắm nhìn hòa thượng rất

lâu, xấu hổ hết chỗ nói! Trang phục đặc biệt này tôi mới chỉ thấy qua các bức

bích họa, được tận mắt chiêm ngưỡng người thật trong trang phục thật thế

này, đôi mắt tôi như bị thôi miên, cứ dán chặt vào, quên cả phép lịch sự.

Không thể lôi công tác nghiên cứu ra để biện bạch cho hành vi của mình, tôi

chỉ còn cách duy nhất là cười khì khì giả ngây ngô.

Chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi tại một rừng dương nhỏ. Những người hầu

cận nhanh chóng dựng lều và nhặt cành dương khô nhóm lửa nấu mì. Sau khi

lót dạ bằng một bát mì nóng và những chiếc bánh Tây vực, tôi bắt đầu thèm

ngủ. Hai mẹ con hòa thượng dùng bữa xong liền vào trong lều tụng kinh, họ

đặt trên gối một cuốn kinh thư. Lòng hiếu kỳ kéo tôi lại gần họ, kết quả là tôi

luôn luôn bị bất ngờ.

Kinh thư được viết trên lụa, chữ viết rất lạ, hình như là những kí tự, bao

gồm rất nhiều đường nét giống hình số 8 được viết thẳng và viết ngang. Tuy

đọc không hiểu, nhưng tôi không hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ này, loại văn tự

này có lẽ là văn tự Tochari đã thất truyền từ rất lâu. Đây là ngôn ngữ Ấn Âu

nguyên thủy cổ xưa nhất được biết đến cho tới nay, ra đời dựa trên sự phát

triển những kí tự của chữ viết Brahmi, Ấn Độ và cho đến nay vẫn chưa được

giải mã triệt để.

Tôi run rẩy bò đến gần và nhấc cuốn kinh thư phủ trên đầu gối tiểu hòa

thượng, nghẹn ngào thốt lên:

- Trời ơi, đây là văn tự Tochari, là văn tự Tochari đấy!

Nếu có thể mang cuốn kinh thư này trở về, nó sẽ có giá trị nghiên cứu lớn

lao biết chừng nào!

Ni cô xinh đẹp hơi chau mày! Tiểu hòa thượng sau một thoáng giật mình,

ngạc nhiên nhìn tôi:

- Cô biết văn tự này? Đây là chữ Khâu Từ, không phải Tochari[2].

A, đúng rồi, Tochari là cách đặt tên của người Đức, những người Khâu Từ

này chắc chắn không biết Tochari là tên gọi ngôn ngữ của họ. Nhưng con

người ở thế kỉ XXI đã quen với tên gọi đó. Tôi cười ngượng ngùng nhưng mắt

vẫn dán chặt vào những hình số 8 xiêu vẹo kia, tự nhận thấy nỗi hưng phấn

được tận mắt chiêm ngưỡng những dòng văn tự Tochari sống động đang dâng

cao không bút nào tả xiết.

Được nghe lại và thấy lại một ngôn ngữ đã thất truyền đối với một người

nghiên cứu lịch sử như tôi, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, không thể đo đếm. Để

có thể giải mã những văn tự đã chết, biết bao nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã

phải dành cả cuộc đời để tìm kiếm dấu tích trên những di chỉ, di cảo còn sót

lại. Thế kỷ XVIII, Champollion lần đầu tiên giải mã được chữ tượng hình Ai

Cập, đã vén được bức màn bí ẩn phủ trên mình lịch sử suốt mấy nghìn năm và

ông được lưu danh thiên cổ. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách nào

giải mã hoàn toàn văn tự Tochari, nếu như tôi có thể đọc hiểu thứ ngôn ngữ

này…

Tôi nắm chặt tay áo thùng thình của tiểu hòa thượng:

- Làm ơn, dạy tôi tiếng Tochari, à không, tiếng Khâu Từ!

Hòa thượng sững sờ chốc lát, rồi quay ra hỏi:

- Cô biết chữ Hán chứ?

- Tất nhiên rồi.

Đến phiên tôi ngạc nhiên.

Hòa thượng quay sang chuyện trò một hồi lâu với ni cô. Ni cô ngước nhìn

tôi một lát rồi nói mấy câu với con trai. Hai mẹ con họ trao đổi khá lâu khiến tôi

không khỏi hụt hẫng. Đang lo sợ bị từ chối, thì tiểu hòa thượng quay lại nhìn

tôi, đôi mắt màu nâu nhạt ánh lên nét tinh nghịch:

- Tôi sẽ dạy cô, nhưng đổi lại cô phải dạy tôi tiếng Hán.

Tôi thở phào, thì ra cậu ta muốn có đi có lại, tốt thôi!

- Được chứ.

Ngập ngừng giây lát, tôi bổ sung thêm:

- Tuy tôi không uyên thâm kinh thư Phật pháp, nhưng tôi có thể dạy cậu

chữ Hán, giảng giải “Luận ngữ”, “Kinh thi”, “Tả truyện”, “Chiến quốc sách”.

Tôi nghiên cứu lịch sử, không phải Phật học. Tôi có tìm hiểu đôi chút về lịch

sử Phật giáo, nhưng đi sâu vào những nội dung cụ thể của Phật giáo tam tạng

như: kinh tạng, luật tạng, luận tạng thì tôi hoàn toàn không biết gì. Tôi thực

sự tiếc nuối, sớm biết sẽ vượt thời gian đến nơi đây, đồng hành cùng mấy vị

hòa thượng ni cô thế này, tôi đã chăm chỉ nghiên cứu về Phật học rồi.

- Không hiểu kinh Phật cũng không sao, cô dạy tôi những kinh văn kia là

đủ.

Tiểu hòa thượng có vẻ rất vui mừng, vì tôi thấy nụ cười ấm áp lẩn khuất sau

hàng lông mày dài tuyệt đẹp.

Tôi bỗng nghĩ, kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên đều được dịch từ tiếng

Phạn và một số ngôn ngữ thuộc Tây vực. Hòa thượng là người Khâu Từ, đâu

cần phải học kinh Phật tiếng Hán, hòa thượng người Hán học kinh Phật từ tiểu

hòa thượng này mới đúng chứ!

Hôm đó, tôi còn phát hiện thêm điều thú vị này nữa: sau bữa trưa, hai mẹ

con hòa thượng không ăn thêm bất cứ thứ gì. Người cổ đại chỉ ăn hai bữa một

ngày, giới tăng ni càng nghiêm khắc hơn.

Hỏi tiểu hòa thượng thì được trả lời bằng tiếng Hán bập bõm rằng, giới luật

quy định, hòa thượng có thể dùng bữa trong khoảng thời gian từ sáng đến

trưa,  nhưng  bắt  đầu  từ  buổi  chiều  cho  đến  buổi  sáng  ngày  tiếp  theo,  hòa

thượng không được phép ăn uống bất cứ thứ gì.

Giới luật này được đặt ra xuất phát từ câu chuyện: một đệ tử của Phật

Thích Ca đi khất thực vào buổi chiều muộn, lúc ấy trời đã nhá nhem tối, một

người phụ nữ mang thai lầm tưởng vị hòa thượng đó là ma, đã quá sợ hãi dẫn

đến đẻ non. Từ đó, Phật Thích Ca đã đặt ra giới luật này. Nhưng những người

ốm đau bệnh tật hoặc những người lao động vất vả, thì vẫn được phép ăn bữa

tối, để duy trì sức khỏe.

Tôi gật gật đầu. Vào thời đại của Phật Thích Ca, các hòa thượng dành phần

lớn thời gian cho việc ngồi thiền, nên năng lượng tiêu hao không nhiều, không

ăn bữa tối cũng không sao. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào đất Hán, các

nhà sư Trung Nguyên vẫn ăn tối như người thường. Bởi vì, ở Trung Nguyên,

nhà  sư  cũng  phải  làm  ruộng,  nên  đã  chủ  động  thay  đổi  giới  luật.  Điều  đó

chứng minh tính linh hoạt của tín ngưỡng Phật giáo. Có lẽ vì thế, trải qua mấy

nghìn năm, Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ.

Quan sát cách họ ăn cơm và uống nước đều nhận thấy nhiều điều thú vị.

Đám thị nữ dùng một vật dụng gần giống với túi lưới, lọc nước rồi mới mang

đến cho hai mẹ con hòa thượng uống[3]. Lúc đầu tôi cứ đinh ninh, hẳn là họ e

ngại nước trên sa mạc chứa nhiều tạp chất, nặng mùi phèn nên lọc qua một

lần rồi mới uống. Nhưng đến khi thấy nước dành cho mình không cần lọc, liền

cảm thấy kì lạ.

Tiểu hòa thượng lại ra sức giải thích cho tôi hiểu: các nhà sư trước khi uống

phải  lọc  nước  để  tránh  nuốt  vào  bụng  những  sinh  vật  có  trong  nước,  nếu

không, sẽ vô tình mắc tội sát sinh. Bởi vậy, giới luật của nhà Phật quy định,

nhà sư phải luôn mang theo bên mình túi lọc nước, nếu không, họ không được

phép rời khỏi nơi ở quá hai mươi dặm.

Lời giải thích của tiểu hòa thượng khiến tôi lập tức nhớ tới câu chuyện Trần

Huyền Trang khi xưa một mình đi giữa sa mạc mênh mông không bóng người,

mặc dù sắp lả đi vì khát, nhà sư vẫn đổ hết nước trong túi da của mình đi. Vì

Huyền Trang kiên trì tuân thủ giới luật, không uống nước khi chưa được lọc

sạch.

Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa ngoài lán trại, chăm chú ghi chép lại tất cả

những điều mắt thấy tai nghe mấy ngày qua. Trên cao, ngàn vạn ngôi sao lấp

lánh giữa nền trời xanh thẫm.

Còn nhớ những ngày tháng du lịch Tân Cương ở thế kỷ XXI, tôi cũng từng

ngước lên bầu trời trong vắt giữa đêm khuya thanh vắng và tự hỏi, phải chăng

người xưa cũng từng ngắm nhìn bầu trời đêm này như tôi? Và, bầu trời sao tôi

nhìn thấy đêm nay, phải chăng cũng là bầu trời sao thuần khiết mà một nghìn

năm sau tôi lại được nhìn ngắm? Tôi cứ đắm chìm trong mối suy từ này không

sao dứt ra khỏi. Tôi của hôm nay và tôi của một nghìn năm về sau đang cùng

hướng lên bầu trời thăm thẳm kia ư? Vậy rốt cuộc, tôi đã xuất hiện và tồn tại

như thế nào?

Chương 4: Thiên tài ngôn ngữ

Ngày thứ ba, chúng tôi dựng trại ven một dòng sông đang mùa nước cạn.

Mẹ con tiểu hòa thượng đã bắt đầu tụng kinh, họ không ăn tối, tôi dùng bữa

cùng với những người khác, vẫn là bánh Tây vực và mì nóng. Tôi ở chung với

những thị nữ khác, hòa thượng “quyền quý” được dành riêng một lán trại với

chế độ chăm sóc đặc biệt. Vì vậy, lớp học, tất nhiên là được sắp xếp ở chỗ của

hòa thượng.

Vừa bước vào trong lán, tôi bỗng sững lại, Jiba đang cạo đầu cho con trai,

những  sợi  tóc  màu  hung  rơi  lả  tả  trên  tấm  vải  trắng  quấn  quanh  cổ  hòa

thượng. Hòa thượng mỉm cười với tôi và ra hiệu cho tôi ngồi chờ một lát.

Tôi bắt đầu quan sát Kumalajiba trong thời gian chờ đợi. Vầng trán của cậu

không bị nén dẹt như người mẹ. Và thật mừng là các nhà sư sống trong thời

đại và khu vực này không có tục lệ đốt hương trên đỉnh đầu, bằng không, bên

cạnh đau đớn về thể xác, những vết sẹo đó sẽ phá hoại dung mạo gần như

hoàn mỹ của tiểu hòa thượng.

Nghĩ đến những vết sẹo đốt hương, bất giác tôi mỉm cười, đây vốn là “đặc

sản” của văn hóa Phật giáo Trung Nguyên.

Thực ra lúc đầu, cũng giống như ở các quốc gia khác, hòa thượng Trung

Quốc không đốt hương trên đỉnh đầu. Được biết tục lệ này vốn do Lương Vũ

Đế – vị vua cuồng tín đạo Phật thời Nam Bắc triều khởi xướng. Vua Lương

từng ba lần quyết tâm xuất gia, nhưng cả ba lần đều “bị” các đại thần “chuộc”

về bằng rất nhiều ngân lượng.

Vì muốn nhanh chóng mở rộng diện ảnh hưởng của đạo Phật và tăng số

lượng tăng ni Phật tử, nhà vua đã hạ chỉ miễn tội cho tất cả các tử tù, buộc họ

xuất gia làm hòa thượng. Nhưng vì lo ngại đám tử tù bỏ trốn, tiếp tục phạm

tội, ngài lệnh “kiểm hình” (khắc chữ trên mặt) Lương Vũ Đế còn ban chỉ dụ đốt

hương trên đỉnh đầu các tử tù để dễ dàng nhận dạng trong quá trình truy bắt.

Cá nhân tôi cho rằng, tục lệ đốt hương trên đầu hòa thượng ở Trung Quốc

xuất phát từ mục đích của nhà cầm quyền. Các nhà sư không tham gia sản

xuất, không nộp thuế, không sinh con cái, nếu số lượng tăng ni quá nhiều sẽ

ảnh hưởng xấu đến năng lực sản xuất. Thêm vào đó, giới luật “không sinh

con” của Phật giáo mâu thuẫn sâu sắc với luân thường đạo lý thời xưa “trong

ba tội bất hiếu, không có con nối dõi là tội nặng nhất”. Những thảm kịch “hủy

diệt đạo Phật” diễn ra trong lịch sử đều có nguyên nhân sâu xa từ yêu cầu duy

trì phát triển kinh tế và bảo vệ những luân lí đạo đức vốn có từ lâu đời. Tuy

nhiên, sự tồn tại của tôn giáo là không thể thiếu, tôn giáo giúp giai cấp thống

trị giữ cho xã hội được ổn định. Vì vậy, các nhà sư buộc phải có thẻ chứng

nhận và nhà nước khống chế chặt chẽ số lượng tăng ni. Dấu hiệu nhận biết

bên ngoài của nhà sư chính là vết chấm cháy trên đỉnh đầu. Những kẻ cạo trọc

đầu giả mạo nhà sư sẽ dễ dàng bị phát hiện. Rất mừng là sau giải phóng, tập

tục này đã được xóa bỏ, nhưng tôi nghe nói, một số chùa vẫn duy trì nghi lễ

đốt hương này…

- Ngải Tình!

Tôi giật mình ngẩng lên, tiểu hòa thượng mặt mày hớn hở. Vừa cạo đầu

xong, trông cậu ta có vẻ sảng khoái và phấn chấn. Tôi ngó nghiêng, Jiba đã ra

ngoài lúc nào mà tôi không hay. Vội theo sau tiểu hòa thượng đến bên chiếc

bàn dài, tôi bắt đầu buổi học đầu tiên của mình.

Tiểu hòa thượng dạy tôi tiếng Tochari trước. Mặc dù hết sức tận tâm và

kiên trì, nhưng vì trình độ tiếng Hán có hạn, chữ Tochari lại khó nhớ, tôi cảm

thấy khổ sở hơn cả ngày xưa học tiếng Đức, tôi gắng sức tập trung, mồ hôi lăn

đầy trên trán. Một tiếng sau thì tôi mệt đến mức phủ phục xuống bàn học và

yêu cầu được nghỉ giải lao. Giờ học tiếng Tochari của tôi đã kết thúc trong rã

rời như vậy.

Nghỉ ngơi một lúc thì đến lượt tôi dạy tiểu hòa thượng tiếng Hán. Tôi từng

tham gia giảng dạy xóa mù chữ mỗi dịp nghỉ hè, nên tôi rất tự tin với những

giờ dạy tiếng Hán sơ cấp. Tiếng Hán nhập môn không quá khó vì đều bắt đầu

với việc nhìn tranh học chữ. Vấn đề ở chỗ, thời cổ đại chưa có khái niệm phiên

âm, nên rất khó ghi nhớ cách phát âm.

Phương pháp chú âm thời cổ đại gọi là “phiên thiết”, tức là dùng âm của

hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho một chữ

Hán mà người đọc chưa biết cách đọc. Thông thường sẽ ghép thanh mẫu (phụ

âm đầu) của chữ phía trước với vận mẫu (vần) và thanh điệu (dấu) của chữ

phía sau. Ví dụ chữ “tú” có thể đọc thành “tê u sắc”. Phương pháp phiên thiết

sử dụng bảng chữ cái riêng gọi là “quảng vận”. Nhưng tôi đâu phải cổ nhân,

tôi không đọc được những chữ cái phiên thiết đó, tôi cũng không dám áp dụng

phương pháp phiên âm, vốn là phát minh của hai nghìn năm sau, nên tôi đành

đọc mẫu rồi yêu cầu hòa thượng mô phỏng theo và học thuộc lòng.

Tôi lôi tập giấy nháp và bút chì ra, vừa vẽ tranh vừa giảng giải. Hòa thượng

tỏ ra rất hiếu kỳ với những đồ dùng học tập mới lạ của tôi và không ngừng đặt

câu hỏi: loại giấy trắng tinh và chiếc bút chì ngòi cứng này làm thế nào mà có?

Tôi đành phải nói dối rằng có một người kỳ lạ đã tặng cho tôi, rằng trên đời

này chỉ mình tôi có chúng và tôi cũng không biết chúng được tạo ra bằng cách

nào. Sau đó, tôi làm bộ nghiêm khắc, yêu cầu hòa thượng chuyên tâm nghe

giảng, không được hỏi gì thêm.

“Nhật nguyệt thủy hỏa thổ, kim mộc nhĩ khẩu thủ”. Để chuẩn bị cho chuyến

vượt thời gian này, tôi đã dành ra một năm chuyên tâm luyện tập chữ phồn

thể, nhưng cứ nghĩ đến thời nhà Tần sử dụng chữ tiểu triện là tôi lại toát mồ

hôi. Tôi chỉ có thể đọc hiểu mà không thể viết được loại chữ này, mong là tôi

không làm cho lịch sử bị sai khác đi. Cũng may tiểu hòa thượng sinh sống ở

Tây vực xa xôi, cậu ta khó mà đến được Trung Nguyên.

Tiểu hòa thượng từng học tiếng Hán nên vẫn nhớ khá nhiều chữ. Cậu ta rất

chăm chỉ, hai mắt dính chặt vào tập giấy tốc ký của tôi và gật gù liên tiếp. Mùi

thơm  dìu  dịu  của  gỗ  đàn  hương  trên  người  tiểu  hòa  thượng  tỏa  lan  trong

không gian. Buổi lên lớp đầu tiên của tôi đã kết thúc tốt đẹp trong hương

thơm dễ chịu ấy.

Ngày  hôm  sau,  chúng  tôi  tiếp  tục  lên  đường.  Giao  tiếp  giữa  tôi  và

Kumalajiba trở nên suôn sẻ hơn. Cậu ta bắt chước rất nhanh, chỉ cần tôi cắt

nghĩa một lần, cậu ta sẽ không hỏi lại nếu trong bài giảng lần sau của tôi xuất

hiện những từ đã học. Ngoài ra, cậu ta còn biết cách sắp xếp lại theo đúng

trật tự cú pháp: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ dựa trên quy tắc của ngữ pháp

tiếng Hán.

Vào thời đại này, nếu giao tiếp với người Hán, hẳn tôi phải dùng lối nói văn

ngôn cổ xưa. Nhưng với tiểu hòa thượng Tây vực, tôi vẫn áp dụng phương

thức giao tiếp phổ thông của thế kỷ XXI. Bởi vì hòa thượng là người nước

ngoài, nên tôi không lo cậu ta phát hiện ra tôi trò chuyện không đúng quy

chuẩn của thời đại. Kumalajiba thích tìm hiểu về lịch sử, địa lý, phong tục tập

quán  của  cư  dân  vùng  Trung  Nguyên.  Tôi  giảng  giải  cho  cậu  ta  dựa  trên

những kiến thức đọc được trong sách lịch sử. Càng ngày tôi càng cảm thấy

tiểu hòa thượng không những tư chất thông minh, trí nhớ siêu phàm mà cậu

ta còn có một khả năng ngôn ngữ thiên bẩm đáng ngưỡng mộ!

Tôi hỏi Kumalajiba vì sao lại dẫn theo quân lính, thực ra mục đích chính của

tôi là tìm hiểu thân thế của tiểu hòa thượng. Cậu ta trả lời rằng họ đã đi chu

du nhiều nước trong suốt bốn năm qua, mà khoảng cách giữa các quốc gia là

những sa mạc mênh mông, không bóng dáng sự sống, thêm nữa, những nơi

họ đi qua đều thuộc khu vực không có sự cai quản, thường xuyên bị cướp bóc.

Họ không thể không dẫn theo lính tráng để bảo vệ một lượng lớn sách kinh

Phật và xá lợi quý báu trên đường đi.

Huyền Trang khi xưa trên đường tây du cũng từng nhiều lần bị cướp bóc.

Tôi  gật  đầu  đồng  tình  và  xác  nhận  tầm  quan  trọng  của  đội  ngũ  vũ  trang.

Nhưng tôi vẫn chưa tìm hiểu được thân thế của hòa thượng, chỉ biết rằng, bốn

năm trước họ dẫn theo đội quân tinh nhuệ này rời khỏi Kucha. Nhưng chắc

hẳn hai mẹ con họ có quan hệ với hoàng thất, vì chỉ có hoàng thân quốc thích

mới được quân đội của nhà vua đi theo bảo vệ như vậy.

Jiba lặng lẽ theo sau lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, khuôn mặt lúc

nào cũng an nhiên, bình thản, thi thoảng bà quay sang trao đổi đôi câu với con

trai. Tuy không hiểu bà nói gì, nhưng giọng nói dịu dàng ôn hòa của bà khiến

tôi chắc chắn rằng bà không có ý trách móc gì tôi. Lúc nào bà cũng nhã nhặn

lịch thiệp. Tôi biết bà rất yêu con, nhưng bà không hề có những cử chỉ thân

mật mà một người mẹ thường dành cho con mình, có lẽ vì họ là người xuất

gia.

Nhưng đến thời gian tụng kinh thì bà lại hết sức nghiêm khắc, vẻ trang

trọng và thành kính hiện trên nét mặt, ánh mắt cúi xuống nghiêm cẩn, cùng

con trai lầm rầm tụng niệm. Những lúc thế này, hai người họ như bỏ lại bên

ngoài mọi thứ thuộc về thế giới trần ai, một lòng hướng Phật, tiếng kinh kệ

vang xa như gõ động tâm linh. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức lay động

lớn lao của tôn giáo. Đứng bên ngoài lán trại lắng nghe mà tôi như mê đi!

Buổi tối tiếp tục lên lớp. Vắt óc mãi mà không nhớ được tiếng nào, tôi đành

ngoan ngoãn chìa tay ra trước mặt tiểu hòa thượng.

- Gì vậy?

Tiểu hòa thượng theo tôi học tiếng Hán hiện đại, nên ngôn từ không lấy gì

làm văn vẻ.

- Đánh vào lòng bàn tay tôi đi.

Tôi cười vui vẻ.

- Giáo viên người Hán của chúng tôi đều làm như vậy mỗi khi học sinh mắc

lỗi. Cậu thấy không, tôi rất có tinh thần tự giác nhé, tôi đã chủ động nhận lỗi.

- Cô mắc lỗi gì?

Đôi mắt màu nâu nhạt sáng lấp lánh như muốn soi tỏ tâm hồn người đối

diện.

- Tôi quên hết những chữ cái Tochari, à quên, chữ cái Khâu Từ mà hôm

qua cậu dạy rồi.

Tôi làm bộ đau khổ rồi bật cười, sao tôi cứ quen gọi là tiếng Tochari nhỉ?

Tiểu hòa thượng cũng phì cười, nụ cười lấp lánh như sao sáng.

- Tại tôi không biết cách truyền đạt, sao trách cô được!

Hòa thượng chìa tay trái về phía tôi, tay phải cầm tay tôi đập đập vào lòng

bàn tay mình. Tuy không mạnh, nhưng những va chạm khẽ khàng thế này

cũng khiến tôi có chút tê dại.

- Nên phạt tôi mới phải, nếu ngày mai cô vẫn không thuộc bài, tôi sẽ chịu

đòn.

Tôi rút vội tay về, thoáng chút cảm động. Tôi nghiêng đầu, cố gắng tập

trung vào những chữ cái trước mặt.

Hôm nay tôi tiếp thu nhanh hơn hôm qua, tiếng Hán của Kumalajiba đã khá

lên rất nhiều. Tôi đã học xong toàn bộ bảng chữ cái Tochari. Tôi cẩn thận ghi

lại cách phát âm bằng kí hiệu phiên âm bên cạnh mỗi chữ cái cho dễ nhớ. Nhìn

thấy những kí hiệu đó, tiểu hòa thượng tỏ ra rất thích thú, thế là tôi lại phải

giảng giải về quy tắc ghi phiên âm cho cậu ta nghe. Kumalajiba hết lời khen

ngợi phương pháp độc đáo ấy. Nhưng tôi buộc phải yêu cầu cậu không được

tiết lộ cho người khác biết, vì nếu không lịch sử rất có thể sẽ thay đổi.

- Nhưng vì sao? Cô là người nghĩ ra à?

Tôi không thừa nhận cũng không thể phủ nhận, chỉ trả lời một cách mơ hồ:

- Người Hán không thích phụ nữ tài giỏi, vì vậy nếu cậu nói cho người khác

biết chính tôi đã nghĩ ra phương pháp ghi phiên âm này, tôi sẽ bị xem là yêu

quái và sẽ bị hỏa thiêu.

Không thể không bật ra câu chuyện về nữ thần kiểu này.

- Người Hán không nên như vậy.

Trầm tư một lát, tiểu hòa thượng nhìn tôi nghiêm nghị.

- Phàm là con người thì đều như nhau, phụ nữ cũng có thể thông minh như

đàn ông vậy.

Sau đó, tiểu hòa thượng giảng giải một thôi một hồi bằng tiếng Tochari, có

lẽ vì lượng từ vựng tiếng Hán chưa đủ để cậu có thể diễn đạt những suy nghĩ

của mình.

Tôi bật cười. Tinh thần khẳng khái của chàng trai trẻ khiến tôi có cảm giác

thật ấm áp. Nhưng, tôi phải tìm cách chuyển chủ đề thôi, cứ tiếp tục thế này,

không biết tôi sẽ phải nói dối đến bao giờ.

- Cậu hiểu được như vậy là tốt rồi. Bây giờ, đến lượt tôi dạy cậu. Khổng Tử

– nhà giáo dục lớn ở Trung Nguyên thời cổ đại từng nói: Ôn cố nhi tri tân,

nghĩa là, luyện tập lại những gì đã học, từ đó phát hiện ra những điều mới mẻ.

Vậy nên, bây giờ tôi sẽ kiểm tra những chữ Hán mà hôm qua cậu đã học.

Tôi đặt tập giấy nháp và bút chì trước mặt tiểu hòa thượng.

- Cậu viết đi! Sai một chữ phạt một roi!

Tiểu hòa thượng nhìn tôi mỉm cười, đón lấy tập giấy nháp và chiếc bút chì.

Tay cầm bút có chút gượng gạo nhưng vẫn rất ra dáng học trò. Từng nét chữ

vuông vắn hiện ra dưới ngòi bút, thật không ngờ, cậu ta nhớ được tất cả

những chữ Hán của buổi học hôm qua!

Mất vài phút ngẩn ngơ, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi mới lấy lại được bộ

dạng của một giáo viên, được rồi, để xem, cậu có thoát được tiết mục phạt

đòn của tôi không.

- Đọc cho tôi nghe cách phát âm của từng chữ.

Lại nhìn tôi mỉm cười. Hai ba chục chữ tượng hình, cậu ta lần lượt đọc

không sót một chữ nào, cằm tôi như sắp tuột xuống. Tuy vẫn pha chút khẩu

âm, nhưng về cơ bản không sai một chữ. Hôm qua, tôi không hề dạy cậu ta

cách ghi phiên âm kia mà! Không biết chỉ số IQ của “tên” này là bao nhiêu

nữa?

“I phục You quá đi”! Nỗi kinh ngạc của tôi chỉ có thể được diễn tả bằng câu

ấy. Tất nhiên, tôi chỉ nghĩ thầm trong bụng.

Tôi tiếp tục giờ học, sau khi dạy hết các chữ tượng hình, tôi chuyển sang

chữ chuyển chú (là phương pháp dùng hai chữ Hán giải thích cho nhau với

điều kiện: chúng phải cùng chung bộ thủ và ý nghĩa thì tương đồng), rồi đến

các từ đơn giản. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, cũng là học ngoại ngữ, mà sao trình độ

cách xa một trời một vực như vậy! Nếu cứ tiếp tục thế này, có khi tiểu hòa

thượng viết được luận bằng tiếng Hán thì tôi vẫn còn đang ở giai đoạn học

thuộc từ vựng Tochari cũng nên. Càng hổ thẹn hơn nữa, Kumalajiba đã vận

dụng thành thạo nguyên tắc ghi phiên âm để chú âm cho các chữ Hán tôi vừa

dạy, tuy không chính xác tuyệt đối, nhưng mười phần thì cũng được tám, chín

phần.

Có lẽ, không bao lâu nữa tôi sẽ bị cho nghỉ hưu non thôi!

            Chương            5: Lý    tưởng   và         đường  song     song

Lục lạc lanh canh, đoàn người chậm rãi rong ruổi trên sa mạc ngút ngàn cát

trắng. Vậy là đã tám ngày trôi qua. Tôi quấn chặt khăn trùm đầu, quay lại phía

sau, đưa bốn ngón tay lên xếp hình ống kính máy ảnh, di chuyển qua các góc

độ để lấy nét. Trong khung cảnh tưởng tượng của tôi hiện ra một cảnh tượng

tuyệt đẹp: nắng vàng rực rỡ chiếu rọi lên hàng dài nối tiếp nhau đến vô tận

những dấu chân lạc đà in trên biển cát sáng lấp lóa. Một trận gió quét qua,

hệt như biển khơi dội trào từng đợt sóng nhỏ, làm cho những dấu chân trở

nên mờ ảo trong gió cát.

- Tách!

Tôi muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi.

- Cô làm gì vậy?

- Không có gì.

Tôi thu tay lại, không thể nói với tiểu hòa thượng rằng tôi đã nuối tiếc như

thế nào khi không mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn:

- Những viết chân trên cát sẽ nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời

ngắn ngủi của con người vậy.

Tôi ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy

đầu, lắc hông, phải vận động một chút mới được, nếu không gân cốt tôi tê dại

mất. Ngước lên thấy Kumalajiba trên lưng lạc đà đang chăm chú nhìn mình, tôi

cười:

- Nhưng dù vậy tôi vẫn sẽ kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đi

đến đích cuối cùng.

Tôi nắm dây cương, dắt lạc đà và rảo bước trên cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn

của tôi trên sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn,

cũng nhảy xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà đã được những người

hầu cận dắt đi.

Được một đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in trên cát,

kéo dài thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu

hòa thượng:

- Cậu hãy đi lên phía trước.

Tiểu hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi

theo sau, đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta đi được

một đoạn chợt dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước

sang bên, nếu không chắc sẽ đâm sầm vào cậu ta mất.

- Lẽ ra chúng ta là hai đường thẳng song song, dù đi bao xa cũng không

bao giờ gặp nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song đã hợp lại thành

một.

Tám ngày trước tôi đang ở một nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian.

- Bởi vậy, duyên số thật kỳ lạ!

- Tôi thì nghĩ, tôi được gặp cô, đó là ý của Phật tổ.

Tôi quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn

suối, đó là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba

năm qua. Vừa định đáp lời, tôi bỗng thấy một bóng người từ phía xa đi tới. Lúc

người đó lại gần, tôi nhận ra đó là một hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ

hạnh, khuôn mặt dính đầy bụi cát, dắt bên mình một con ngựa gầy gò như

chủ nhân của nó. Kumalajiba vội vàng bước đến, ni cô xinh đẹp cũng nhảy

xuống, ra lệnh cho đoàn người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào

đón lão hòa thượng.

Họ mang nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng

nhận lấy và đặt vào chiếc túi tả tơi khoác trên lưng, sau đó ba người bắt đầu

cuộc chuyện. Lão hòa thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, nói với cậu đôi câu,

sắc mặt trầm buồn. Rồi quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa nói chuyện

vừa ngắm nhìn Kumalajiba, vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu.

Một lát, hòa thượng nói lời từ biệt, đi về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể

từ lúc đó, mẹ con ni cô có vẻ rầu rĩ hơn trước.

Chúng  tôi  leo  lên  lưng  lạc  đà  đi  tiếp.  Tôi  lặng  lẽ  thúc  lạc  đà  đến  bên

Kumalajiba hỏi chuyện:

- Này tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy nói gì với cậu thế?

Kumalajiba suy nghĩ một lát rồi đáp:

- Thầy nói, mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi sẽ thành công

trong việc chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công

đức lớn lao không kém Upagupta.

- Upagupta là ai?

- Là vị cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ.

- Đại sư thật đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi

cũng tin như vậy, chắc chắn cậu sẽ trở thành một vị cao tăng được nhiều

người sùng kính.

Niềm tin đó là thật, với trí tuệ siêu phàm như hiện nay, Kumalajiba chắc

chắn sẽ nổi danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực,

tôi không đoán ra được cậu là nhân vật nổi tiếng nào. Nghe tôi tán dương mà

Kumalajiba không hề tỏ ra vui sướng chút nào.

Tôi có cảm giác, lão hòa thượng kia không chỉ nói với cậu bấy nhiêu.

- Sao thế, sao cậu không nói gì?

Tiểu hòa thượng dõi mắt về phía hàng dương xa xa, vẻ mặt uể oải in đậm

trên sắc mặt.

- Đại sư còn nói, nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, rồi

đây tôi sẽ chỉ là một pháp sư thông minh sáng láng không hơn không kém.

- Không tuân thủ giới luật? Làm gì có chuyện đó!

Ngón tay tiểu hòa thượng nắm chặt dây cương đến tím tái, đầu cúi thấp,

thanh âm nhẹ bẫng:

- Đại sư nói, nếu trước năm ba mươi lăm tuổi…

Tiểu hòa thượng ngập ngừng, hai má bỗng chốc ửng đỏ, ánh mắt chấp

chới nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhưng chỉ một thoáng qua đi, vẻ bình thản trở lại trên

khuôn mặt.

- Trước năm ba mươi lăm tuổi làm sao?

Biểu cảm của Kumalajiba cho tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng.

Tiểu hòa thượng trầm ngâm hồi lâu, thả lỏng dây cương, từ tốn đáp:

- Tôi không biết diễn đạt như thế nào bằng tiếng Hán.

Câu trả lời chỉ khiến tôi càng thêm tò mò.

Tiểu hòa thượng đột ngột vung dây cương, thúc lạc đà chạy lên phía trước,

giữ một khoảng cách với tôi. Thân hình mảnh khảnh, lớp áo choàng bay bay

trong gió, ánh nắng chếch nghiêng, cắt xuống nền cát một bóng hình sẩm đỏ,

cô liêu. Tôi băn khoăn không biết có phải mình đã làm gì sai hay không?

Cách đó không xa là một khu rừng nhỏ. Người mặc chiếc áo nâu sòng của

giới tu hành đã dừng lại, ngoảnh đầu ngóng đợi, chờ tôi bắt kịp, rồi cùng tôi

thong dong tiến về phía trước.

Thoáng chút áy náy trên nét mặt, hòa thượng hắng giọng, quay sang hỏi

tôi:

- Ngải Tình, vì sao cô gọi Bhikkhu[4] là lão hòa thượng còn gọi tôi là tiểu

hòa thượng?

Tôi biết cậu ta muốn chuyển đề tài. Thì bởi vì tôi không hiểu tiếng Phạn chứ

sao.  Bhikkhu  nghĩa  là  gì?  Mà  tên  cậu  ta  cũng  rất  khó  nhớ,  gọi  là  tiểu  hòa

thượng thì có sao đâu.

Tôi hỏi ngược lại Kumalajiba:

- Trong tiếng Phạn có tôn xưng dành riêng để gọi nhà sư không, có từ nào

phát âm giống “hòa thượng” không?

Cậu ta lắc đầu:

- Trong tiếng Phạn hình như không có, nhưng ở Điền Quốc, người ta gọi

các  đại  sư  truyền  giới  là  Khosha,  tên  gọi  này  nghe  có  vẻ  giống  từ  “hòa

thượng”.

Thú vị quá, thì ra từ “hòa thượng” được dịch từ ngôn ngữ của Điền Quốc.

- Nhưng hòa thượng là các đại sư truyền giới có trên mười năm thọ đại giới,

thông tỏ đại luật đủ tư cách để xuống tóc và thọ giới cho người khác. Tôi nào

đã đến được cảnh giới đó, không xứng với tôn xưng hòa thượng. Vả lại, tôi

cũng chưa thọ đại giới, cô cứ gọi tôi là Sramanera đi.

Lại là tiếng Phạn. Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta vội giải thích: Sramanera chỉ

những người mới xuất gia tuổi từ bảy đến hai mươi, đã thọ thập giới, nhưng

chưa thọ đại giới. Sau khi thọ đại giới, họ sẽ được gọi là Bhikkhu, nghĩa là khất

sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân

gian.

Tôi hiểu rồi, chả trách những âm đọc này rất quen tai. Sramanera là Sa di,

Bhikkhu là Tỷ khâu, cả hai đều là âm dịch. Thì ra nhà sư cũng được phân chia

giới  bậc  khi  gọi  tên.  Nhưng  ở  Trung  Quốc,  người  ta  gọi  sư  cụ  là  lão  hòa

thượng, gọi chú tiểu là tiểu hòa thượng, thậm chí những em bé còi cọc không

chịu lớn người ta cũng gọi là hòa thượng. Chẳng ngờ, từ “hòa thượng” lại có ý

nghĩa tôn quý như vậy.

Tôi cười thích thú, chàng trai thiên tài, tính tình trầm lặng này đã trau dồi

cho tôi không ít kiến thức về Phật giáo. Vì vậy, dù hơn cậu ta khá nhiều tuổi,

nhưng sự trưởng thành của cậu ta khiến tôi có cảm giác chúng tôi là những

người đồng niên. Và cũng nhờ cậu, hành trình gian nan của tôi ngày càng có

thêm nhiều niềm vui.

Như thường lệ, sau khi kết thúc giờ học buổi tối, tôi ngồi ghi chép bên đống

lửa. Mặc dù đèn dầu trong lều trại cũng đủ sáng, nhưng tôi thích không gian

khoáng đạt bên ngoài hơn. Ngắm nhìn bầu trời đầy sao giữa sa mạc hoang vu

luôn khiến tôi được đắm chìm trong những cảm xúc mơ hồ trong không gian

thuộc về quá khứ miên viễn này. Gió đêm nay như đổi tính, êm ái ru qua,

chòng ghẹo những đốm lửa hồng bập bùng, tí tách. Nhắm mắt lại, hít một hơi

thật sâu, tâm hồn trở nên thanh tịnh và lắng đọng tựa khung cảnh này.

- Tối nào cũng thấy cô ghi chép, cô ghi gì vậy?

Tiếng Hán của Kumalajiba vẫn hơi gượng gạo. Nhưng trong tám ngày qua,

vốn từ vựng của cậu đã phong phú hơn rất nhiều.

- Có gì đâu, tôi đang viết thư.

Định che đi, nhưng tôi nghĩ cậu ta đọc được cũng không hiểu, nên cứ để

mở cuốn sổ tay.

- Tôi đọc mà không hiểu.

Lòng hiếu kỳ của tuổi trẻ thật mãnh liệt. Tiểu hòa thượng nở nụ cười háo

hức:

- Vốn tiếng Hán của tôi chưa nhiều, nhưng tôi sẽ chăm chỉ, để có thể đọc

được những gì cô viết.

Chưa chắc đâu. Tôi viết bằng chữ giản thể kia mà! Tôi chỉ tay sang bên

cạnh:

- Có muốn ngồi xuống không?

Tiểu hòa thượng do dự một lát rồi ngồi xuống, nhưng cố ý giữ khoảng cách

với tôi, đôi tay khẳng khiu đưa về phía trước sưởi ấm.

- Vì sao cậu muốn học tiếng Hán?

- Người Hán có rất nhiều điểm ưu việt, y dược, nhạc luật, lịch pháp, kỹ

nghệ đều vượt xa người Khâu Từ. Trong nhà tôi có rất nhiều kinh văn tiếng

Hán, tôi muốn nghiên cứu những thư tịch đó.

Cậu ta lúc nào cũng ham học hỏi. Ngập ngừng giây lát, tôi quyết định hỏi:

- Cậu còn trẻ như vậy, vì sao lại xuất gia?

Tôi biết câu hỏi có chút mạo phạm, nhưng cậu ta chẳng hề tỏ ra phật ý,

ánh mắt đăm chiêu không rời ngọn lửa:

- Tôi đi tu năm bảy tuổi, nay đã được sáu năm và tôi chưa từng suy nghĩ về

vấn đề này cho tới mấy ngày gần đây…

- Khoan đã!

Ra hiệu cho cậu ta ngừng lại, rồi ra vẻ nghiêm trọng, tôi hỏi:

- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?

- Mười ba.

Vậy mà tôi cứ đinh ninh cậu ta ít nhất cũng mười lăm, mười sáu tuổi. Dáng

người  cao  lớn,  khuôn  mặt  lại  luôn  giữ  vẻ  đĩnh  đạc,  trầm  tĩnh  của  lứa  tuổi

trưởng thành. Trời ơi, vậy là cậu ta bắt đầu học tiếng Hán từ năm tám tuổi

chứ không phải mười một. Sau năm năm, vẫn có thể giao tiếp, rốt cuộc, cậu ta

có bao nhiêu tế bào não kia chứ!

- Ngải Tình, vì tôi cao lớn nên rất nhiều người tưởng tôi đã mười sáu tuổi.

Cậu ta cười thẹn thùng.

- Cô đừng chê tôi ít tuổi, tôi hứa sẽ nỗ lực học thật giỏi tiếng Hán!

- Sao tôi lại chê cậu, cậu là ân nhân cứu mạng của tôi mà.

Tôi giả bộ không hề gì, nhưng trong lòng hơi buồn bực. Lẽ nào tôi hơn cậu

ta những mười tuổi? Không đúng không đúng, dù sao, cậu ta cũng nhiều hơn

tôi hai nghìn tuổi. Đâu là tuổi tác tương đối và đâu là tuổi tác tuyệt đối của hai

chúng tôi? Càng nghĩ càng mơ hồ, tôi không nghĩ nữa. Tôi chuyển chủ đề:

- Cậu đã nghĩ ra chưa, vì sao lại xuất gia?

Cậu ta mở miệng định nói rồi lại lắc đầu. Đôi mắt vẫn đăm chiêu ủ dột:

- Tôi vẫn chưa thể diễn đạt trọn vẹn bằng tiếng Hán. Khi nào trình độ Hán

ngữ của tôi đủ để thấu suốt đạo lý này, tôi sẽ nói cho cô hay.

Có thể nói cậu ta phải chịu đựng một điều gì đó. Tôi không dám bàn luận về

Phật pháp, nhưng tôi rất muốn động viên cậu ta. Ngước nhìn nền trời xanh

thẫm được dát bạc bởi ngàn vạn vì tinh tú, tôi khảng khái bày tỏ suy nghĩ của

một người đến từ thế kỷ XXI:

- Nơi tôi sống có một vĩ nhân, ông chia nhu cầu của con người ra làm năm

cấp bậc. Cơ bản nhất là nhu cầu sinh lý, gồm những việc như đi lại, ăn ở. Khi

đã thỏa mãn nhu cầu này thì con người sẽ nảy sinh nhu cầu được an toàn.

Người ta muốn sự sống và tài sản của mình được đảm bảo. Sau khi nhu cầu

này cũng được thỏa mãn tương đối, thì con người nảy sinh nhu cầu tình cảm:

tình thân, tình yêu, tình bạn. Sau đó mới đến nhu cầu được tôn trọng: bao

gồm lòng tự tôn và sự kính trọng của người khác.

Đó là bốn loại nhu cầu trong lí luận của Maslow. Quay sang bên và bắt gặp

đôi mắt lấp lánh đang nhìn mình, tôi chậm rãi nói tiếp:

- Nhưng đó chưa phải là nhu cầu cao nhất. Con người chỉ cảm nhận được

niềm vui tột độ khi lí tưởng được thực hiện, ấy là khi năng lực của họ được

phát huy đến mức tối đa vì họ có thể làm được mọi việc tương ứng với khả

năng vốn có của mình.

Đôi mắt xúc động ngước nhìn tôi, giọng nói như nghẹn lại:

- Lí tưởng?

Tôi gật đầu quyết liệt và bổ sung thêm:

- Lí tưởng là thứ mà cậu sẽ theo đuổi suốt đời, là mục tiêu phấn đấu của

cuộc đời cậu.

Tiểu hòa thượng trầm tư hồi lâu, rồi hướng đôi mắt hút hồn vào tôi:

- Ngải Tình, cô có lý tưởng chứ?

- Tất nhiên rồi!

Tôi đằng hắng dọn giọng, rồi tiếp:

- Muốn biết lí tưởng của tôi là gì không?

Quả là cậu ta rất hiếu kỳ, ánh mắt háo hức thôi thúc tôi. Tôi đứng lên, giơ

tay về phía bầu trời bao la, cất cao giọng:

- Tôi muốn được trải nghiệm lịch sử, tôi muốn viết một cuốn sách sử lưu

danh thiên cổ giống như “Sử ký” của Tư Mã Thiên.

Tôi dõng dạc bộc bạch ước mơ bấy lâu nay của mình. Nếu ở thế kỷ XXI mà

nói như vậy, hẳn nhiều người sẽ giễu cười tôi. Nhưng đứng trước tiểu hòa

thượng hồn hậu này, tôi chẳng có gì phải e dè. Chợt nhận ra cậu ta cứ len lén

nhìn tôi, tôi mỉm cười:

- Mơ ước quá xa vời, đúng không?

Cậu ta cũng đứng lên, gật đầu rất quyết liệt, thanh âm tuy không cao,

nhưng dứt khoát:

- Cô sẽ làm được!

Đôi mắt trong sáng của tiểu hòa thượng khiến tôi cảm động hết sức. Không

ngờ lời động viên của cậu thiếu niên này lại khiến tôi vui sướng đến thế. Tâm

trạng trở nên vô cùng thoải mái, dễ chịu. Tôi dang rộng cánh tay, tưởng tượng

mình là chim ưng, vỗ cánh bay xung quanh đống lửa, lúc đến trước mặt tiểu

hòa thượng, tôi dừng lại thở hổn hển, cười tươi:

- Cậu hãy suy nghĩ xem lí tưởng của cậu là gì đi. Sống trên đời phải có lí

tưởng thì cuộc sống mới có ý nghĩa.

- Ngải Tình, tôi vẫn chưa hiểu hết những điều cô nói. Nhưng thấy cô vui vẻ

vì có lí tưởng như vậy, tôi rất cảm động! Tôi cũng muốn được giống như cô,

đặt ra mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình.

Ánh  lửa  bập  bùng  phản  chiếu  khuôn  mặt  như  tạc  tượng  của  tiểu  hòa

thượng, gió nhẹ thổi đến, cuốn lên cao những tàn lửa li ti, trên trời ngàn vì sao

đua nhau lấp lánh, dướt đất bóng lửa lập lòe nhảy múa và nụ cười ấm áp của

chàng trai trẻ bên cạnh, phút chốc, thời gian như ngưng đọng, thêm một cảnh

tượng tuyệt đẹp nữa tôi muốn lưu giữ trong tim.

Trở về lán trại, xoay mình hết bên này sang bên kia tôi vẫn không sao dỗ

được nỗi hưng phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ

nhà hằng đêm đã đi đâu mất. Cứ nghĩ đến câu nói: “Cô sẽ làm được” trong

lòng lại dâng trào một niềm vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu sẽ

làm được!

Lúc chuẩn bị thiếp đi tôi chợt nhớ ra “Sử ký” của Tư Mã Thiên phải đến tận

thời Hán mới xuất hiện, vậy là tôi đã làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi thật

bất cẩn. Cầu mong sao cậu ta không để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng

đi khắp nơi tìm kiếm cuốn sách này.

Chương 6: Buổi giảng kinh đầu tiên

Vào buổi trưa của ba ngày sau đó, một ốc đảo xanh mướt xuất hiện trước

mắt tôi. Bao nhiêu ngày qua, tôi đã chán ngán với sắc vàng đơn điệu của

mênh mông cồn cát, hôm nay, được nhìn thấy sắc xanh ngút ngàn thế này, tôi

hưng phấn đến độ nhảy cẫng lên gào thét. Chứng kiến điệu bộ “hoang dại” ấy

của tôi, Kumalajiba chỉ biết lắc đầu thở dài rồi cười và cho tôi biết, nơi đây

chính là Wensu.

Wensu, địa danh này cậu ta đã nhắc đến trong ngày đầu gặp tôi. Nghe khá

quen, chắc chắn phải có âm tiếng Hán tương đương, nhưng tôi không nhớ ra.

Mải mê lục tìm dữ kiện bộ nhớ, đoàn người đã đến cổng thành lúc nào mà

tôi  không  hay.  Không  gian  tưng  bừng  âm  nhạc  đặc  trưng  vùng  Tây  Vực,

những khúc điệu tươi vui rộn rã. Một đội ngũ hùng hậu chỉnh tề nghênh đón

chúng tôi.

Hai bên đường có rất nhiều lán trại. Bên trong không có người, chỉ đặt một

số tượng Phật. Dựa trên trình độ điêu khắc mà tôi quan sát được, thì đó đều là

những pho tượng quý giá. Dân chúng ở hai bên đường đều đứng lên chào

đón, từng chậu hoa tươi được cung kính dâng lên đến trước mặt hai mẹ con

tiểu hòa thượng. Hai người chắp tay lễ tạ, đón hoa tươi mang đến rắc lên mình

các bức tượng phật

[5]

.

Trong  chuỗi  nghi  thức  kỳ  lạ  đó,  tôi  chú  ý  đến  người  đàn  ông  dẫn  đầu:

khoảng bốn mươi tuổi, thân hình cường tráng vạm vỡ, đầu để mái lửng, nhưng

phía sau gáy lại tết thành những lọn dài, rồi búi ngược lên đỉnh đầu và được

quấn lại bởi một mảnh khăn thêu kim tuyến. Người đó đội một chiếc mũ miện

bằng vàng khắc hình long phụng, khoác áo choàng đỏ có viền thêu hình thoi,

đính châu báu, phía trước là những hình tròn thêu chỉ vàng lấp lánh, ống chân

thì... Đấy, tôi lại mắc bệnh nghề nghiệp rồi, lúc nào cũng quan sát chi tiết

những người đối diện như quan sát một hiện vật nghiên cứu.

Tuy không hiểu họ nói gì, nhưng tôi đoán đó là đoàn người ra nghênh đón

khách quý, gồm các thành viên của hoàng thất và người đàn ông khoác trên

mình trang phục quyền quý kia chính là nhà vua. Tuy ni cô xinh đẹp Jiba cũng

được chào đón nồng hậu và cung kính, nhưng rõ ràng đối tượng của nghi thức

nghênh tiếp hết sức long trọng này không ai khác, chính là Kumalajiba.

Từ lâu tôi đã nghĩ rằng Kumalajiba không phải một nhà sư tầm thường,

nhưng cậu ta mới mười ba tuổi, làm sao đã có thành tựu gì xuất chúng. Chắc

hẳn cậu ta còn có thân phận gì khác ngoài là một nhà sư, ví như là con cháu

nhà vua chẳng hạn. Không lẽ cậu ấy là hoàng tử? Trước khi đắc đạo, Phật

Thích Ca cũng từng là hoàng tử đấy thôi.

Chúng tôi được sắp xếp ở lại trong một cung điện hoa lệ (mà không phải tại

một ngôi chùa nào đó như tôi nghĩ). Tuy nói là hoa lệ, nhưng không thể so

sánh với cung điện ở Trung Nguyên được. Tây Vực vốn là vùng khô hạn, nhà ở

được xây cất rất đơn sơ với vật liệu chính là gỗ và đất sét và mái nhà là kiểu

mái bằng. Nhưng ở đây, tường nhà làm bằng đất sét đã được coi là xa hoa rồi.

Thông thường chỉ có quan lại, đền chùa miếu mạo và hoàng cung mới được

xây dựng như vậy.

Nơi chúng tôi nghỉ ngơi là một dinh cơ rộng lớn với năm gian phòng. Vị

quốc vương kia còn cử thêm mười người hầu đến phục vụ chúng tôi. Tôi được

ở riêng một phòng, Jiba cũng dành cho tôi một người hầu nữ. Yêu cầu đầu

tiên mà tôi đưa ra là: tôi muốn tắm rửa.

Những thứ mà các cuốn tiểu thuyết thường nhắc đến như: suối nước nóng,

hoa thơm, chậu tắm cỡ lớn, ở đây đều không có. Có thể nói là điều kiện sinh

hoạt khá nghèo nàn, xà bông ở đây còn lâu mới thơm bằng xà bông của thế kỷ

XXI. Nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, vì sau hơn mười ngày ròng

rã dầm mình trong gió cát sa mạc, cuối cùng tôi đã được tắm gội sạch sẽ.

Giờ học buổi tối, không kìm được sự tò mò, tôi lại gợi ý tiểu hòa thượng kể

về xuất thân của cậu, nhưng Kumalajiba bình thản đến mức lạnh lùng, trả lời

rằng:

- Những thứ như mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi, thân thể hay ý thức đều không

tồn tại thực sự, huống hồ là tên tuổi và xuất thân.

Lại là thuyết duy tâm của đạo Phật, trả lời như vậy cũng bằng không. Tôi

giận dỗi:

- Vâng vâng vâng, tứ đại giai không, mọi thứ đều không tồn tại. Trương

Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp, tỉnh lại không biết rốt cuộc là mình mơ hóa

thành hồ điệp hay hồ điệp hóa thành mình, thế được chưa!

Điển cố Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp mà tôi vô tình thốt ra khơi

gợi hứng thú đặc biệt đối với tiểu hòa thượng, cậu nằng nặc đòi tôi kể câu

chuyện đó. Đành vậy:

- Thời Xuân Thu ở Trung Nguyên có một triết gia tên Trương Châu. Một

hôm, ông nằm mơ thấy mình hóa thành bươm bướm, bươm bướm bay lượn

hết sức sinh động. Ông vô cùng vui sướng, đến mức quên cả mình là Trương

Châu. Khi tỉnh lại, ông không khỏi kinh ngạc khi nhận ra mình chính là Trương

Châu. Đời người như một giấc mơ, vì vậy Trương Châu không biết rốt cuộc là

ông nằm mơ thấy mình hóa thành hồ điệp hay hồ điệp nằm mơ thấy mình hóa

thành ông.

Tiểu hòa thượng trầm tư một lát, rồi nói:

-  Ở  Ấn  Độ,  người  ta  tin  rằng:  Mọi  thứ  trên  đời  đều  là  giấc  mộng  của

Brahma, khi Brahma tỉnh lại, thế gian này sẽ biến mất, không tồn tại bất cứ

thứ gì.

Tôi thở dài, suy nghĩ như vậy thì thật là bi quan. Không muốn tiếp tục chủ

đề duy tâm ấy nữa, tôi hỏi:

- Brahma có phải là Phạm Thiên (đấng sáng tạo theo quan điểm Bà La Môn)

không?

Brahma, cách phát âm này rất quen thuộc. Theo trí nhớ của tôi thì đó là

một trong ba đấng sáng tạo của Ấn Độ giáo, gồm: Brahma, Shiva và Vishnu.

Tôi từng đến Ấn Độ và cũng từng viết một số bài nghiên cứu về Ấn Độ giáo,

nên cũng có chút hiểu biết.

- Phạm Thiên ư?

Kumalajiba  dùng  bút  chì  viết  hai  chữ  đó  lên  tập  giấy  nháp  của  tôi  rồi

nghiêng đầu suy nghĩ:

- Đã có lần cô nói rằng “Phạm” nghĩa là thanh tịnh, tránh xa mọi ham muốn.

Brahma là đấng sáng tạo ra thế giới và vạn vật, gọi Brahma bằng tên “Phạm

Thiên” quả là một cách dịch thông thái. Ngải Tình, tôi nghe nói đạo Phật chưa

phát triển ở Trung Nguyên, nhưng ở đó có người thông minh, kiến thức uyên

thâm như cô thế này, một ngày không xa, Phật giáo Trung Nguyên chắc chắn

sẽ hưng thịnh.

Tôi ấp úng không biết trả lời ra sao. Thế là lôi lại vô tình đánh cắp thành

quả dịch thuật của người khác rồi! Xin tạ lỗi với ngài Kumarajiva, ngài Huyền

Trang, Nghĩa Tịnh và nhiều dịch giả kinh Phật khác, tôi không hề cố ý!

Buổi tối trước khi đi ngủ, một câu hỏi cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi vượt

qua  giới  hạn  không  gian  và  thời  gian  hàng  ngàn  năm  để  đến  trước  mặt

Kumalajiba, tôi có tồn tại thật sự không? Lẽ nào không ư? Phải chăng tôi cũng

đang nằm mơ mà không biết?

Lần đầu tiên tôi nghĩ về sự xuất hiện của mình ở nơi đây và thấy buồn ảo

não.

Chúng tôi ở lại Wensu. Tôi có hỏi Kumalajiba khi nào sẽ khởi hành đi Kucha,

tôi hứng thú với quốc gia rộng lớn đó hơn là tiểu quốc nhỏ bé này. Nhưng cậu

ta bảo đã được mời đến đăng đàn thuyết giảng về Phật pháp tại một ngôi

chùa lớn của hoàng gia trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày. Và cậu ta

cũng dành cho tôi một vị trí khách mời trong những ngày đó.

Vậy nên, lúc này, tôi đang ngồi bên Jiva, đưa ánh mắt hiếu kỳ quan sát bốn

phía.

Chúng tôi ngồi giữa đại điện to rộng trong một ngôi chùa lớn của hoàng gia.

Tượng Thích Ca mâu Ni cao khoảng hai mét, mạ vàng, được đặt trên một bệ

đỡ ở chính giữa. Bốn phía là những lối đi hẹp dành cho Phật tử và khách thập

phương đến dâng hương, cúng lễ. Đại điện được dựng lên với trụ gỗ và các

bức tường bằng đất sét, ánh sáng chỉ có thể lọt vào qua cửa chính, vì vậy

khắp nơi trong đại điện đều thắp đèn dầu. Đó là kiến trúc của một ngôi chùa

Phật giáo Tiểu Thừa điển hình, có nhiều điểm khác so với những ngôi chùa

Phật giáo Đại Thừa phát triển rầm rộ ở Trung Nguyên thời gian sau này.

Sáng sớm, Kumalajiba đã cùng các tăng sĩ ngồi xếp bằng tụng kinh. Hơn

trăm nhà sư tọa thiền chật kín đại điện vốn không lấy gì làm rộng rãi này. Phía

bên phải trên chỗ ngồi dành cho khách quý có quốc vương và hơn mười đại

thần,  những  người  hôm  qua  đã  ra  tận  cổng  thành  nghênh  đón  mẹ  con

Kumalajiba. Phía bên này là một nhóm phụ nữ, trong đó có tôi và Jiva, nhìn

trang phục của họ thì có lẽ là hoàng hậu và các phu nhân.

Kumalajiba ngồi trên bục cao nhất phía trước tượng Phật, trên mình khoác

áo  cà  sa  thêu  kim  tuyến  lấp  lánh,  vẻ  mặt  thành  kính,  pháp  tướng  trang

nghiêm. Khi tiếng tụng kinh vang lên, thì ngay cả nhà vua và hoàng hậu cũng

lầm rầm tụng niệm theo, chỉ mình tôi ngượng ngùng, đầu cúi thấp để không ai

chú ý đến. Tất cả những câu kinh Phật mà tôi biết là: Úm ma ni bát ni hồng và

Nam mô a di đà Phật. Thế là tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại những câu đó khoảng

năm trăm lần thì thời gian tụng kinh kết thúc. Sau đó, Kumalajiba bắt đầu

thuyết giảng.

Tôi nhớ lần đi du lịch Ai Cập và đến tham quan ngôi đền Muhammad Ali, tôi

đến đúng vào lúc một vị giáo sĩ đang thuyết giảng kinh Coran, dưới sảnh là

hàng trăm tín đồ. Tôi quấn khăn trên đầu, mặc áo dài, quần dài (đó là quy

định khi vào đền đối với nữ giới), ngồi xuống giữa đám đông và bắt chước họ

hành lễ. Tôi không phải tín đồ Hồi giáo, tôi chỉ muốn xem những người theo

đạo Hồi hành lễ ra sao thôi. Vị giáo sĩ miệt mài thuyết giảng, chốc chốc lại làm

một động tác tay dứt khoát. Tôi vốn không biết tiếng Ả rập, nghe không hiểu

gì, nên chỉ được một lúc, tôi bắt đầu chán nản. Nhưng nhìn vẻ mặt thành kính

của những người xung quanh và không khí yên lặng tuyệt đối trong điện thờ,

tôi không dám đứng dậy ra về, vì tôi sợ làm thế sẽ giống như một hành vi xúc

phạm đối với những tín đồ sùng đạo này. Bàn chân tôi tê dại đi sau hơn một

tiếng ngồi nghe thuyết giảng. Từ đó về sau, tôi tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ

cúng khấn hành lễ gì hết.

Thế mà giờ đây tôi lại rơi vào tình cảnh đó. Nhưng bù lại, Kumalajiba điển

trai hơn nhiều so với vị giáo sĩ Hồi giáo và giọng nói của cậu ta lại rất ấm áp,

truyền cảm. Có điều, vấn đề gay go nhất vẫn là: tôi nghe không hiểu. Phải tiếp

nhận những giáo lý Phật pháp uyên thâm bằng tiếng Phạn thế này chẳng khác

nào ngày xưa tôi phải nghe vị giáo sĩ nọ thuyết giảng kinh Coran bằng tiếng Ả

rập. Nhưng hàng trăm nhà sư, rồi cả quốc vương và hoàng hậu đều đang lắng

nghe say sưa, làm sao tôi có thể đứng lên và ra về được.

Tôi cũng không dám ghi chép vẽ vời gì, sợ sẽ gây sự chú ý. Vì vậy, sau khi

lặp đi lặp lại năm lần phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách đặt tên,

cơn buồn ngủ bắt đầu tấn công tôi, đó là kết quả tất yếu của việc thức giấc

vào lúc bốn giờ sáng. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu lúc năm giờ, tôi thật sự

khâm phục nghị lực của các hòa thượng. Buồn ngủ quá mà không thể gục

xuống làm một giấc giữa đám đông tăng ni Phật tử này, tôi đành ngọ ngoạy

tay chân trên tấm đệm, cố gắng vận động khẽ khàng để không gây ra sự chú

ý.

Cảm giác có ai đó đang nhìn mình, là Kumalajiba. Tôi chu mỏ lè lưỡi chọc

cậu ta, rồi đưa tay xoa phần mông tê dại. Cậu ta khẽ mím môi, cố nhịn cười,

nói thêm vài câu, rồi dừng hẳn. Tôi bắt chước những người khác đứng lên

chắp tay, hành lễ với Kumalajiba.

Nhà vua phát biểu tổng kết đôi ba câu, rồi ngài vỗ tay, các cung nữ tiến

vào, mỗi người bưng trên tay một chiếc bàn nhỏ xếp đầy đồ ăn, lần lượt đặt

trước mặt từng thượng khách. Những người còn lại thì được phát đồ ăn đến

tận tay, mỗi người một phần. Tôi nhìn thức ăn trên bàn, mắt hoa đi.

Có các loại quả vốn là đặc sản của Tân Cương như nho và dưa gang. Và tất

nhiên không thể thiếu bánh nướng Tây Vực. Nhưng còn gì nữa thế kia? Béo

ngậy và thơm phức, thịt nướng ư? Nhìn có vẻ giống thịt dê nướng. Thịt dê

nướng Tân Cương vốn nổi tiếng cả nước. Tôi nuốt nước bọt ừng ực vì đã gần

mười ngày không được ăn mặn. Nhưng điều lạ lùng là, không chỉ tôi, quốc

vương và một số vị khách khứa của thế giới trần tục khác, tất cả các nhà sư

đều được chia phần ăn mặn. Cả đại điện bỗng chốc tỏa đầy mùi thơm của thịt

nướng. Nhà vua hạ chỉ dùng bữa và những âm thanh nhai nuốt giòn giã bắt

đầu vang lên.

Tôi đưa mắt quan sát Kumalajiba và thấy cậu ta cũng đang ăn thịt, tuy

động tác từ tốn, nho nhã, nhưng vẫn khiến thị giác của tôi chấn động dữ dội.

Chợt nhớ ra, những tăng sĩ này theo giáo phái Phật pháp Tiểu Thừa và hình

như giới luật của giáo phái này cho phép các nhà sư ăn thịt. Nhưng như thế

vẫn chưa đủ rõ ràng, tối nay phải hỏi lại Kumalajiba mới được. Tôi cắn thử một

miếng, không ngon lắm, những muối là muối, không có ớt, không có rau thơm,

không ngon bằng thịt nướng ở quán đồ ăn vặt trước cổng trường tôi học.

Sau khi đánh chén no nê, tôi buồn đi tiểu. Nghĩ về bốn mươi tám ngày dài

đằng đẵng tiếp theo mà thấy ngán ngẩm. Lúc tôi quay lại, Kumalajiba đã đứng

chờ sẵn ở cửa, ánh nắng buổi sớm phủ lên người tiểu hòa thượng những tia

sáng lấp lánh. Cậu ta chớp mắt, nhìn tôi khẽ cười:

- Ngải Tình, tôi biết cô nghe không hiểu, nếu bắt cô tiếp tục ngồi như thế sẽ

rất khó chịu. Tôi đã xin phép hoàng thượng để cô không phải tham gia những

buổi giảng kinh tiếp theo nữa.

Tuyệt vời! Tôi nhảy lên sung sướng, định lao đến ôm lấy cậu ta, nhưng kịp

nhớ ra cậu là là hòa thượng, nên thôi. Tôi vội vàng cảm ơn rồi ba chân bốn

cẳng chạy biến, tiếng cậu ta gọi với từ phía sau:

- Cô về phòng ôn tập bài học hôm qua đi, tối nay kiểm tra mà không thuộc,

tôi sẽ phạt vụt vào tay đó!

Buổi tối, cậu ta sẽ đến phòng tôi đúng giờ quy định. Lúc chiều trở về tôi đã

đánh một giấc no nê, công việc tiếp theo là vẽ lại toàn bộ kiến trúc ngôi chùa,

đại điện và khung cảnh buổi giảng kinh mà tôi đã được tận mắt chứng kiến

sáng nay. Xong xuôi, tôi háo hức ngồi chờ Kumalajiba tới.

Kết quả buổi kiểm tra tiếng Tochari của tôi rất tốt đẹp. Đến lượt tôi dạy cậu

ta tiếng Hán. Nỗi băn khoăn hành hạ tôi cả buổi chiều khiến tôi không kiềm

chế được, tôi hỏi ngay:

- Vì sao tăng sĩ các cậu lại ăn thịt?

Cậu ta có vẻ ngạc nhiên:

- Chúng tôi theo tín ngưỡng Hinayana, tất nhiên có thể ăn thịt. Nhưng chỉ

được phép ăn “tam tịnh nhục”[6].

Tam tịnh nhục? Chắc là loại thịt mà tăng sĩ giáo phái Tiểu Thừa được phép

ăn.

- Thế nào là “Tam tịnh nhục”?

- Thứ nhất: không nhìn thấy người giết thịt, tức là không tận mắt chứng

kiến thảm cảnh trước khi chết của loài vật đó. Thứ hai: không nghe thấy tiếng

người giết thịt, tức là tai không nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của loài vật đó.

Thứ ba, loài vật đó không vì mình mà chết, tức là không phải vì mình muốn ăn

mà chúng bị giết thịt. Giả như ra chợ nhìn thấy người bán hàng mổ gà mổ cá,

hoặc người bán hàng nói rằng đây là thịt tươi vừa mới mổ thì không được

phép ăn. Hoặc đến nhà người khác chơi, được chủ nhà mổ gà mổ vịt thiết đãi,

tức là chúng sinh vì mình mà chết, thì cũng không được xếp vào loại “thịt

thanh tịnh”. Tóm lại, tam tịnh nhục là loại “thịt thanh sạch” phù hợp với các

điều kiện: bản thân không nhìn thấy, không nghe thấy và không phải vì mình

mà chúng sinh bị sát hại.

Sau khi được truyền bá vào Trung Nguyên, giới luật của giáo phái Đại Thừa

có phần nghiêm khắc hơn, giáo phái này nghiêm cấm sát sinh, tăng sĩ không

được phép ăn thịt. Vì vậy, trong tiềm thức của chúng ta, phàm là nhà sư đều

không được ăn thịt. Trong “Đại Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng đề cập

đến vấn đề này. Đại sư viết rằng, trong hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của

mình, khi ngang qua Tây Vực, ngài đã không thể thích ứng với giới luật cho

phép nhà sư ăn thịt ở nơi đây.

-  Nhưng  vì  sao  trong  những  ngày  qua,  chúng  ta  không  hề  ăn  thịt  trên

đường đi?

Tôi không nghĩ rằng họ không được phép ăn thịt, bởi vì nhiều ngày qua, tôi

không thấy họ ăn thịt trên đường đi.

- Bởi vì trước khi gặp cô, chúng tôi đã ăn hết rồi.

Tôi gật gù, cuối cùng tôi đã hiểu. Không biết nhìn thấy họ ăn thịt thế này,

các nhà sư ở Trung Nguyên sẽ ghen tỵ hay sẽ chê trách họ?

- Khi nãy cậu nói đến Hinayana, từ này nghe rất quen, nghĩa là gì vậy?

Cậu ta suy nghĩ một lát rồi giải thích bằng một tràng dài những thanh âm lạ

lùng. Tôi biết đó không phải là tiếng Tochari, vậy thì hẳn là tiếng Phạn rồi, thứ

ngôn ngữ phổ thông được sử dụng trên khắp vùng Trung Á thời kỳ Trung thế

kỷ. Và đó cũng là thứ tiếng mà Kumalajiba dùng để thuyết giảng kinh Phật

sáng nay, nên tôi nghe mà không hiểu gì cả.

Tôi lại nghe thấy cậu ta đọc một âm khác: Mahayana. Hồi đi Ấn Độ, tôi có

mang theo cuốn sách hướng dẫn du lịch nhiếp ảnh phổ biến nhất trên thế giới

“Lonely Planet” bản tiếng Anh. Tôi nhớ rằng, tên gọi này thường xuyên xuất

hiện trong sách khi giới thiệu về các thắng cảnh du lịch của Ấn Độ. Chắc chắn

có  liên  quan  đến  Phật  giáo,  mà  cậu  ta  vừa  bảo  cậu  ta  theo  tín  ngưỡng

Hinayana, nên được phép ăn “thịt thanh tịnh”. A, tôi nhớ ra rồi:

- Hai từ đó là Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tiểu Thừa, đúng không?

Mahayana là Đại Thừa, còn Hinayana là Tiểu Thừa.

Cậu ta có vẻ chưa hiểu, tôi viết chữ Đại Thừa và Tiểu Thừa ra giấy nháp:

- “Thừa” là từ chỉ công cụ vận chuyển, ở đây có nghĩa là Phật pháp tế độ,

cứu rỗi chúng sinh, giống như con thuyền hay cỗ xe chuyên chở con người từ

nơi này đến nơi khác. Hinayana đề cao việc cứu độ bản thân, tìm kiếm sự giải

thoát cho cá nhân, vì vậy tiếng Hán gọi là Tiểu Thừa. Mahayana đề cao việc

cứu rỗi người khác, phổ độ chúng sinh, vì vậy tiếng Hán gọi là Đại Thừa.

Tôi sướng phổng cả mũi, tiếng Phạn tôi cũng tỏ tường chả kém đâu nhé!

Bắt gặp đôi mắt mở to, sáng long lanh và nụ cười đầy hàm ý của tiểu hòa

thượng, tôi bỗng giật mình.

- Ngải Tình, tôi nói đâu có sai, cô rất thông minh!

Tôi, tôi, tôi... lại một lần nữa đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác

rồi. Hình như là Kumarajiva dịch thì phải. Xin lỗi ngài, tôi không cố ý...

Chương 7: Luận chiến

Vì không phải tham gia những buổi thuyết giảng nữa, nên tôi không cần

dậy sớm. Khi đã no giấc, tôi tự động mở mắt, ra khỏi giường, rửa mặt chải

đầu, ăn sáng rồi ra phố. Tôi không thong dong đi dạo đâu nhé, tôi đi khảo sát

thực tế đó. Thành phố này đã trải hai nghìn năm tuổi, tuy diện tích không lớn,

không tráng lệ, dân số thưa thớt và đời sống còn khá lạc hậu, nhưng dù sao

cũng là thành phố cổ đại đầu tiên tôi đặt chân đến. Cứ coi như hôm nay là đợt

tập dượt công tác thực địa đầu tiên của tôi đi!

Tôi khoác lên vai chiếc ba lô đã nhét đủ các thứ: sổ ghi chép, thước dây,

bút viết, xẻng nhỏ... Tôi bắt đầu xắn tay đo đạc tường thành, kiểm tra chiều

dày lớp đất, xem xét vị trí cổng thành, vẽ lại toàn bộ mặt cắt ngang, mặt cắt

dọc của tòa thành. Đang bận bịu với công việc, bỗng một nhóm người đột

ngột xuất hiện ngay sau lưng, lăm lăm chĩa mũi giáo về phía tôi. Tôi vội vàng

đưa hai tay lên cao, ra hiệu đầu hàng, nộp vũ khí và xin tha mạng. Chiếc thước

dây lăn tròn trên đất, kéo lê thành một vệt dài.

Tôi bị tống vào nhà lao với tội danh gian tế của người Hán. Tôi dở khóc dở

cười, làm gì có tên gián điệp nào đi lại ngang nhiên giữa phố như tôi chứ! Cố

vắt óc lôi ra bằng hết vốn từ vựng Tochari và ra sức giải thích với họ rằng tôi là

người quen của đại pháp sư Kumalajiba. Rằng hôm qua tôi đã được diện kiến

nhà vua và hoàng hậu của họ. Rằng tôi còn được mời tham dự yến tiệc trong

cung nữa. Tôi nài nỉ họ đến tìm Kumalajiba. Nhưng sau nhiều giờ vẫn không

thấy có ai đến bảo lãnh, tôi đành tiếp tục công tác khoa học của mình trong

nhà ngục.

Vì vậy, khi Kumalajiba xuất hiện ở cửa nhà lao với vẻ mặt lo lắng tột độ, thì

trước mắt cậu ta là một cô gái vẫn đang say sưa tác nghiệp, mải mê đo đo đạc

đạc, vẽ vẽ xóa xóa trong buồng giam.

Trời đã nhá nhem tối khi tôi cùng Kumalajiba bước ra khỏi nhà ngục. Chắc

hẳn cậu vừa kết thúc giờ tụng kinh buổi chiều đã phải vội vã đến nơi đây đón

tôi về. Nghĩ vậy, tôi thấy hơi áy náy. Cậu ta nói với đám cai ngục rằng tôi là

giáo viên tiếng Hán của cậu, thế là những người đó ngay lập tức thay đổi thái

độ, tỏ ra cung kính đối với tôi, khiến tôi được một phen cáo mượn oai hùm,

phổng cả mũi.

Đúng như dự đoán, buổi tối lên lớp, Kumalajiba đã hỏi về những việc tôi đã

làm? Có sự chuẩn bị từ trước nên tôi trả lời rất trôi chảy: Còn nhớ tôi từng nói

về lý tưởng của mình không? Tôi muốn viết một cuốn sách lịch sử lưu truyền

hậu thế. Và, để người đời sau có thể hiểu được quá khứ huy hoàng của Tây

Vực, tôi phải thu thập mọi tư liệu liên quan. Sau một hồi lắng nghe tôi thao

thao bất tuyệt, Kumalajiba hứa rằng cậu sẽ giải thích với quốc vương, nhưng

cũng không quên dặn dò tôi phải thận trọng hơn.

Mấy ngày sau đó tôi đành giam chân trong phòng, chỉnh sửa bản vẽ và ra

sức học tiếng Tochari. Nhưng đến ngày thứ năm thì tôi không chịu được nữa.

Lần đi thực tiễn này, tôi đã rút ra kinh nghiệm và hành động thận trọng hơn.

Tôi quan sát mọi thứ thật tỉ mỉ sau đó mới trở về phòng và vẽ lại. Không thể

không làm vậy, trừ phi tôi muốn vẽ tranh trong ngục một lần nữa.

Mười ngày có lẻ cứ thế trôi qua, những tập giấy đầy hình vẽ của tôi ngày

một dày lên. Một buổi tối nọ, tôi bỗng nhận thấy Kumalajiba không tập trung

vào bài học như mọi ngày, hình như cậu ta đang mải suy nghĩ điều gì đó. Tôi

hỏi thì được biết ngày mai có người thách đấu Kumalajiba luận chiến và điều

đó khiến cậu rất lo lắng. Tôi hỏi hai người sẽ tranh luận về nội dung gì, cậu nói

ngày mai mới công bố chủ đề. Tôi hỏi tiếp cậu tranh luận với ai, cậu ta bảo đó

là một đại sư luận kinh rất nổi tiếng, khắp vùng Tây Vực không ai là đối thủ.

Ông cho rằng, trên đời này không ai thắng nổi mình, nên đã tuyên bố hùng

hồn rằng, nếu có người thắng ông, ông sẽ lấy đầu mình xuống để tạ tội.

- Cô có muốn đến xem không?

Cậu ta hơi ngập ngừng, có lẽ vì thái độ đáng phê phán của tôi tại buổi

giảng kinh trước đó.

Tôi gật đầu lia lịa:

- Có chứ, tôi nhất định sẽ đi!

Một cuộc thi hấp dẫn với cái giá là sự trừng phạt đáng sợ như thế, với một

đại sự ngông cuồng như thế, làm sao tôi có thể bỏ lỡ được!

- Cậu có biết chỗ nào đặt cược không? Tỉ lệ ăn thua bao nhiêu? 5- 5 hay 4-6?

Kumalajiba chau mày, tôi vội vàng im bặt.

Vì muốn cậu ta tập trung tinh thần cho buổi quyết đấu ngày mai nên tôi đã

kết thúc giờ học sớm hơn thường lệ. Nhận thấy vẻ đăm chiêu ưu phiền của

cậu ta trước lúc ra về, tôi kêu cậu ta lại, rồi bắt chước động tác cổ vũ tinh thần

thường thấy trong các bộ phim kinh điển của Hàn Quốc, tôi giơ tay phải lên và

hô:

- AZA, AZA, FIGHTING!

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Kumalajiba, tôi phì cười, gào to:

- Đó là phương ngôn trên một bán đảo ở phía đông bắc. Có nghĩa là: Pháp

sư trẻ của chúng ta nhất định sẽ chiến thắng!

Kumalajiba cười rạng rỡ, dường như những ưu phiền khi nãy đã bị xua đi,

cậu nhìn tôi gật đầu quả quyết và cũng học theo tôi giơ tay phải lên. Động tác

hơi gượng gạo, nhưng tràn đầy tự tin, phong thái ung dung, đĩnh đạc thường

thấy đã trở lại với cậu. Đó là nụ cười đầu tiên của cậu trong buổi tối hôm nay,

ánh sáng của sự tự tin trong nụ cười ấy tỏa khắp căn phòng, phả vào không

gian quanh tôi dư vị của sự ấm áp.

Thật lạ lùng là buổi sáng hôm sau tôi không ngủ nướng như mọi ngày mà

từ tờ mờ sớm đã chờ sẵn ở cổng.

Buổi luận chiến sẽ diễn ra tại chính điện trong hoàng cung. Đây là lần thứ

ba tôi bước vào nơi này, hai lần trước, tất nhiên là đi dự tiệc cùng mẹ con ni cô

có xuất thân bí ẩn. Bởi vậy, cảm giác háo hức không còn nữa. Tranh đã vẽ

xong, tên gọi cũng đặt rồi. Cung điện này chẳng lớn lắm, kiến trúc và trang trí

họa tiết đều hết sức đơn giản.

Nhưng, không gian của buổi luận chiến lại rất lớn. Chỉ có người tham gia

tranh luận và nhà vua, hoàng hậu được phép ngồi, những người còn lại đều

phải đứng nghe. Vì vậy, chỉ trong chốc lát, toàn bộ đại điện đã chật kín người.

Theo tôi biết, luận chiến là cách thức chủ yếu để thu hút tín đồ của các

giáo phái thời kỳ đầu. Ở Ấn Độ, các buổi biện kinh diễn ra rất bi thảm, người

thua thường sẽ phải mai danh ẩn tích, vĩnh viễn biến mất. Có người còn tự cắt

lưỡi, thậm chí tự vẫn. Nhẹ hơn thì đóng cửa giáo phái, tôn người thắng làm

thầy. Trái lại, người chiến thắng chỉ dựa vào một lần biện kinh, tiếng tăm sẽ

nổi như cồn, được mọi người sùng kính, sẽ có đông đảo tín đồ đến bái sư,

người đó sẽ được quốc vương trọng vọng và ban thưởng hậu hĩnh, trở thành

đại sư quyền lực. Trần Huyền Trang cũng từng nhiều lần giành chiến thắng

trong các buổi biện kinh tại Tây Vực và Ấn Độ, danh tiếng lan xa khắp nơi. Từ

đó, có thể thấy, cuộc tranh biện này có ý nghĩa to lớn dường nào đối với một

nhà sư trẻ tuổi như Kumalajiba. Chả trách một người thường ngày trầm tĩnh

như cậu vậy mà tối qua đã không khỏi lo lắng và bối rối.

Nhân vật chính đã xuất hiện. Bên này là pháp sư trẻ tuổi Kumalajiba, một

thiếu niên tài trí cao rộng, phong độ ngời ngời, phong thái đĩnh đạc, trên mình

khoác áo choàng màu nâu sòng giản dị. Đối thủ là một người đàn ông trung

tuổi, đạo sĩ không ra đạo sĩ, hòa thượng không phải hòa thượng, trên mình

khoác áo nhung màu xanh da trời. Không thể tin được, tuổi tác của hai người

chênh lệch quá xa. Đối phương có lẽ cũng nhận biết được điều này, nên ông

ta hếch mũi vênh vang nhìn cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân

hình mảnh khảnh ở phía đối diện.

Hai người được trao đến tay một tấm thẻ nhỏ, họ đọc tấm thẻ vài giây rồi

bắt đầu trầm tư suy ngẫm. Sau một tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên

bắt đầu đặt câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba đang chiếm ưu

thế. Tuổi trẻ có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả

hai đều khá nhanh, người này vừa kết thúc một câu, người kia đã trực tiếp trả

lời. Khán thính giả bên dưới tưởng như đang nín thở lắng nghe, chốc chốc lại

“ồ” lên hoặc “à” lên một tiếng, với những trạng thái biểu cảm hết sức phong

phú.

Tôi chú ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi không hiểu một chữ nào. Khi

họ bắt đầu luận chiến tôi đã biết mình không thể hiểu được, vì họ sử dụng

tiếng Phạn. Vậy là tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục

tìm trong trí nhớ những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh.

Biện kinh đã biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật

Bản, Hàn Quốc và khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. Phật giáo Ấn Độ vốn đã

suy yếu từ lâu, hiện chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền

thống này. Tôi đã được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera

Monastery và đền Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được

diễn ra ngoài trời vào khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa

khác cũng cử người đến tham dự, sau khi buổi biện kinh kết thúc, sẽ có người

nghi chép lại kết quả biện luận[7].

Khác với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện

kinh là một hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt

Ma tham gia, họ chia thành những nhóm nhỏ từ hai đến bốn người, trong đó,

một người sẽ biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi

đưa ra câu hỏi cho đối phương, người biện kinh sẽ thực hiện những động tác

hết sức khoa trương, như: vỗ tay thật mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt

Lý Tiểu Long lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu

bộ dữ dằn. Bên phản biện ngồi xếp bằng trên đất, tay giơ lên phản ứng dữ

dội. Toàn bộ khu vực diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng

áo cà sa của Lạt Ma tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người

ngoại đạo, không hiểu tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát

biểu cảm của nét mặt và những động tác tay chân phong phú của những

người tham gia biện kinh, thực chất không hiểu họ nói gì.

Trước mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy không hoa chân múa tay, tạo

các thế võ, nhưng biểu cảm trên gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể

dễ dàng nhận thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say

sưa, dáng người rướn cao, áp đảo đối phương, giọng nói càng ngày càng hào

sảng, vang dội. Đối phương thì trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ

hung hăng mất dần, giọng nói cũng nhỏ dần, sau cùng thì gương mặt biến

sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm đìa trên trán, ngã bổ nhào về phía trước,

quỳ gối xin thua.

Đám đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng không nén

nổi xúc động, lập tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau

một tiếng vỗ tay của nhà vua, không biết bao nhiêu hòm to hòm nhỏ được

khiêng vào, hẳn nhiên đó là phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi,

tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đã đánh

bại một vị tiền bối hơn ba mươi tuổi, không biết sau này trưởng thành hơn cậu

ta sẽ còn tài giỏi đến mức nào nữa?

Sau khi kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba không tiếp tục giảng kinh, cậu

được hộ tống ra ngoài cung giữa sự vây bọc của đám đông người hâm mộ.

Một chú voi lực lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt trên lưng một chiếc

ghế  sang  trọng  đã  chờ  sẵn  bên  ngoài.  Kumalajiba  trèo  lên  lưng  voi,  quốc

vương đi trước dẫn đường, đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính

thức công bố thắng lợi của đại sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong

thành được biết. Hoa tươi từ khắp mọi nơi được bà con tung lên người pháp

sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô vang dội, không ngớt. Đoàn diễu hành

đi dọc theo các con phố chính, và cả những ngõ nhỏ suốt một buổi chiều.

Ngày hôm đó, Kumalajiba đã được tôn vinh, ca ngợi hết mức, có lẽ cậu còn

được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI. Khuôn mặt an nhiên,

trầm lặng thường ngày hôm nay đã sáng lên bởi nụ cười mãn nguyện nhưng

khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng tôi vào

buổi tối.

Chờ cậu ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi:

- Cậu và người đó đã tranh luận chủ đề gì vậy?

- Có và không.

Tức là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư?

- Ông ta luận về “có” còn cậu luận về “không”?

Cậu ta gật đầu, tôi lại hỏi tiếp:

- Cậu đã thắng như thế nào?

- Rất khó diễn đạt. Tôi không khẳng định là có hay không, mà đặt ra giả

thuyết “nếu như có”. Đã là “nếu như có” thì sẽ không thể là “không” được. Có

có không không, không phải có cũng không phải không.

Tôi nghe mà ù cả tai, những là có có không không, không không có có.

- Ông ấy có đồng ý với giả thuyết của cậu không?

- Có. Sau đó tôi lại hỏi, bóng trăng dưới nước là có hay không? Ông ấy

không thể ngoa ngôn trả lời là có. Như thế, cái chính mắt ta nhìn thấy mà vẫn

là không tồn tại, vậy mọi thứ trên đời này phải chăng cũng chỉ là ảo ảnh, giống

như bóng trăng dưới nước. “Nếu như có” tức là không, là có mà cũng không là

không, vậy thì tất cả chỉ là cõi tịch mịch.

- Vậy có cái gì là “có” không?

Tên ranh mãnh, lập luận lắt léo như thế làm gì vị sư già kia chẳng thua. Nếu

là ở thời hiện đại thì như thế sẽ được gọi là “phép lập luận chủ quan vô căn

cứ”.

- Mọi thứ trên đời đều không tồn tại, chỉ có Nirvana là vĩnh hằng.

- Nirvana là gì vậy?

- Tức là thông qua con đường tu hành, có thể dứt bỏ triệt để mọi phiền

não, tích thêm nhiều công đức, thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi và bước vào

cõi bất sinh bất diệt.

Cậu ta đưa đôi mắt sáng long lanh về phía tôi:

- Ngải Tình, chắc chắn cô biết phải giải nghĩa từ này như thế nào bằng

tiếng Hán, đúng không?

- Ngôn ngữ đạo Phật có các từ: diệt độ, tịch diệt, giải thoát, viên tịch, Niết

Bàn, tất cả đều có nghĩa là chết.

Cậu ta vỗ tay tán thưởng:

- Hay quá! Diệt độ tức là “diệt” trừ mọi phiền não và thoát ra khỏi sự sống

chết. Tịch diệt tức là giữ cho tâm tĩnh và rũ bỏ mọi ưu phiền.

Tôi thở dài. Tôi đã phải xin lỗi các vị đại sư dịch giả không biết bao nhiêu

lần về cái tội đánh cắp bản quyền này rồi! Mà cái tên ranh này, trình độ Hán

ngữ của hắn càng ngày càng tiến bộ, nào là không nào là có, mà học thuyết

duy tâm của hắn khiến tôi giờ đây cũng trở nên tiêu cực đi vài phần rồi!

- Vị đại sư đó từng tuyên bố rằng, nếu có người thắng ông ấy, ông ấy sẵn

sàng lấy đầu mình xuống để tạ tội.

Một nụ cười nơi khóe miệng, hình như cậu ta đang rất đắc ý:

- Tôi cần đầu của ông ấy để làm gì kia chứ!

- Đúng thế, vì vậy cậu đã buộc ông ta tôn cậu làm thầy, theo cậu học Phật

pháp.

Tôi nhớ lại màn thu nhận đệ tử sáng nay. Đúng là tâm tính của những

người trẻ tuổi, đã bước vào cửa thiền, sắc sắc không không rồi mà vẫn còn

nguyên tính hiếu thắng.

Tôi thở dài:

- Theo cậu, ông ta có thật lòng quy phục không?

Rồi chợt nhớ ra một chuyện, không chờ cậu ta trả lời câu hỏi kia, tôi thích

thú đề nghị:

- Nào, chúng ta hãy thử thi tài. Nếu thua, tôi sẽ tôn cậu làm sư phụ.

Đằng nào thì cậu ta cũng là thầy dạy tiếng Tochari của tôi rồi, có thua tôi

cũng không sợ thiệt.

- Thi như thế nào? Biện luận nội dung gì?

Cậu ta có vẻ bị bất ngờ.

- Chúng ta sẽ biện luận thế nào là thua, thế nào là thắng.

Không chờ cậu ta đáp lời, tôi vội vàng trổ tài trước:

- Nếu tôi và cậu luận chiến và cậu thắng tôi, có chắc là cậu đúng còn tôi thì

sai không? Nếu tôi thắng, có chắc là tôi đúng còn cậu sai không? Có chắc

người này đúng còn người kia sai không? Hay cả hai đều sai hoặc đều đúng?

Hai chúng ta không thể định đoạt ai đúng ai sai, vậy thì ai sẽ đứng ra quyết

định? Nếu chúng ta nhờ người thứ ba đứng ra phân xử, người đó cũng không

thể đưa ra quyết định chính xác. Bởi vì, nếu như cậu mời một người có đồng

quan điểm với cậu đứng ra phân xử, người đó có chung lập trường với cậu thì

làm sao phán xét công bằng được? Nếu người đó đồng quan điểm với tôi, thì

cũng tương tự, cũng chẳng thể đưa ra phán xét công bằng. Vì vậy, cả tôi, cả

cậu và người thứ ba kia đều không thể quyết định ai đúng ai sai. Nếu tôi cứ

kiên trì quan điểm của mình và không chịu thua, vậy thì ai đúng ai sai sẽ là câu

hỏi vĩnh viễn không có lời giải.

Tôi ba hoa chích chòe một hồi bằng tốc độ biện luận của Đường Tăng, sau

đó mỉm cười liếc nhìn Kumalajiba.

Cậu ta nhìn tôi không chớp mắt, miệng khẽ mở, sững sờ mất chừng nửa

phút. Lắc lắc đầu định nói gì đó lại thôi. Sau đó chắp hai tay lại, cung kính:

- Tôi thua rồi.

Tôi bật cười nhìn điệu bộ thua trong thỏa mãn, thua tâm phục khẩu phục

của cậu ta.

- Cậu còn nhớ câu chuyện Trương Châu nằm mơ hóa hồ điệp mà tôi từng

kể không?

Cậu ta gật đầu.

- Rốt cuộc là mơ hay thực, là Trương Châu hay hồ điệp, chúng ta chẳng cần

nhọc lòng truy xét. Bởi vì, tiêu chuẩn nhận thức của con người chỉ là tương

đối. Người ta chỉ có thể nhận biết một phần sự thật trong một khoảng thời

gian hữu hạn, không ai dám khẳng định mình nắm vững chân lý tuyệt đối. Bởi

vậy, các cuộc luận chiến của các giáo phái đều là đem cái phi lý của mình ra

để phủ nhận cái có lý của đối phương. Làm thế sẽ không thể phân biệt thật

giả, đúng sai.

Cậu ta nhìn tôi bằng ánh mắt khâm phục. Vậy là tôi đã vớt vát được chút

thể diện của người làm thầy trước mặt chàng trai trí tuệ siêu phàm này rồi!

Ngày hôm sau, cậu ta đến gặp và nói vài câu với người đàn ông trung tuổi

đang vô cùng tủi hổ và sợ hãi kia bằng thái độ cung kính đáng ngạc nhiên.

Người đàn ông kinh ngạc nhìn Kumalajiba. Cậu phải nhắc lại một lần nữa, lúc

ấy, người đàn ông mới tin vào những gì mình vừa nghe và liền sau đó là những

lời cảm ơn rối rít. Rồi ông ta vội vã đi về phòng mình. Tôi biết ông ta muốn

nhanh chóng thu dọn hành lý rời khỏi nơi này.

Tôi đưa mắt nhìn Kumalajiba đúng lúc cậu ta quay đầu về phía tôi, đôi mắt

trong như nước hồ thu. Tôi ngước lên nhìn trời, hôm nay là một ngày oi ả, sao

mới sáng sớm mà ánh nắng đã làm tôi choáng váng thế này!

Chương 8: Hòa thượng vĩ đại

Sau cuộc luận chiến, tiếng tăm của Kumalajiba lan truyền khắp nơi, đến

đâu cậu ta cũng được người dân vây quanh, tung hoa chúc tụng và chỉ cần

được chạm tay vào vạt áo của cậu là ai nấy mặt mày hớn hở, ý chừng rất thỏa

nguyện. Ngay cả một giáo viên nhỏ bé như tôi cũng được thơm lây. Lúc ra

phố, dân chúng trong kinh thành đều đặt vào tay tôi đủ thứ lễ vật nào là dầu

thơm, các loại thịt, hoa quả... Đám lính tráng từng bắt giam tôi, nay gặp mặt

là kính cẩn cúi chào. Và đặc biệt, chiến thắng của Kumalajiba đã giúp cho

công việc khảo sát của tôi được tiến hành hết sức thuận lợi, tôi không gặp phải

sự đề phòng hay ngăn cản nào cả.

Hơn mười ngày nữa trôi qua, tôi bấm ngón tay, vậy là chỉ còn khoảng chục

ngày nữa, Kumalajiba sẽ kết thúc thời gian thuyết giảng Phật pháp ở đây, sau

đó chúng tôi sẽ lên đường đi Khâu Từ. Hơn một tháng ở lại Wensu, không một

chỗ nào tôi chưa từng đi đi lại lại ba lần, vì vậy tôi thực sự mong mỏi ngày khởi

hành đi Khâu Từ.

Khi được hỏi: “Nếu có kiếp sau, ông muốn được sinh ra ở đâu”, nhà nghiên

cứu lịch sử người Anh Arnold Joseph Toynbee đã trả lời rằng: “Tôi muốn được

sinh ra ở Khâu Từ, vùng đất thuộc Tân Cương ấy, hai nghìn năm về trước từng

là nơi giao thoa của rất nhiều nền văn hóa và dân tộc”. Sau khi đọc câu trả lời

này, tôi đã rất khao khát được tìm hiểu về Khâu Từ: âm nhạc Khâu Từ, Thiên

Phật động Kizil, sách của H.Bower, di chỉ Subash và cả nhân vật nổi tiếng nhất

nhất Khâu Từ - hòa thượng Kumarajiva! Không biết ngài Toiynbee sẽ nghĩ gì

nếu biết rằng ước mơ của ngài sắp được tôi biến thành hiện thực?

Thế là tôi kết thúc buổi lên lớp tiếp theo với tâm trạng đặc biệt phấn chấn.

Tôi đã giảng cho Kumalajiba về “Luận ngữ”. Những cuốn nhập môn như “Tam

tự kinh” tôi không có sách trong tay, mà cũng chưa thuộc hết và điều đáng

ngại hơn cả là, tôi không nhớ “Tam tự kinh” ra đời vào thời đại nào. Để đảm

bảo tính an toàn của trật tự lịch sử, tôi quyết định chỉ giảng những cuốn ra đời

trước thời Hán. Và cuốn đầu tiên, tất nhiên là “Luận ngữ”, sau đó đến “Kinh

thi”, rồi đến “Tả truyện” và “Chiến quốc sách”. Tôi hy vọng tiền học phí từ nay

đến khi khởi hành đi Tràng An sẽ đủ để tôi chi tiêu trên đường.

Vừa ra khỏi cửa, Kumalajiba bỗng nhiên quay lại:

- Ngày mai quốc vương sẽ đến, chúng ta phải ra đón ngài, cô cùng đi nhé!

Tôi vẫn chưa hết hưng phấn với kế hoạch đi Khâu Từ, nên hơi bất ngờ:

- Quốc vương đến đây làm gì vậy?

- Đến đón mẹ con tôi.

Sao kia? Vua của một nước mà phải đến tận nước khác đón mẹ con họ,

không thể tin nổi! Tôi vội túm lấy tay cậu ta kéo lại:

- Cậu nói đi, rốt cuộc cậu là ai? Vua Khâu Từ là cha cậu phải không? Cậu là

thái tử? Nếu không phải vậy thì vì sao nhà vua lại phải vượt ngàn dặm xa xôi

đến tận đây đón cậu.?

Kumalajiba kéo lại tay áo đang bị tôi nắm chặt, lắc đầu:

- Cô đừng nói như vậy, tôi không phải thái tử. Vả lại, Khâu Từ cách đây có

ba  trăm  dặm,  đâu  phải  ngàn  dặm  xa  xôi  gì,  hơn  nữa,  danh  tiếng  và  xuất

thân...

- Đều không tồn tại chứ gì? Tôi biết cậu sẽ nói vậy mà!

Tôi  ngắt  lời  Kumalajiba.  Cậu  càng  không  nói  thì  tôi  càng  tò  mò.  cậu  ta

không nói thì sẽ có người khác nói. Khả năng tiếng Tochari của tôi không còn

a, b, c, i, t như trước nữa đâu nhé!

Tôi cười tinh nghịch, chắn trước bậc cửa:

- Chúng ta hãy ôn tập lại tiếng Tochari. Mẹ tôi tên là... ba tôi tên là..., anh

trai tôi tên là...

Cậu ta thở dài thườn thượt:

- Thôi được, không giấu cô nữa, để cô phải đi tìm hiểu bên ngoài, chi bằng

tôi nói cho cô biết.

Kumalajiba chớp chớp đôi mắt tinh anh nhìn tôi, chậm rãi nói:

- Tôi không phải thái tử. Đức vua Khâu Từ là cậu ruột của tôi, mẹ tôi vốn là

công chúa, bà là em gái của ngài.

Vậy ra họ đúng là hoàng thân quốc thích, dòng dõi cao quý, chả trách lúc

nào trên người họ cũng toát lên nét vương giả.

- Vậy còn cha cậu?

- Ông là người Thiên Trúc (Ấn Độ), lẽ ra ông sẽ là người kế thừa ngôi vị,

nhưng ông đã từ bỏ để xuất gia. Ông đã vượt qua dãy núi phía đông và tìm

đến Khâu Từ. Đức vua mời ông làm quốc sư, rồi gả em gái, tức mẹ tôi cho

ông.

Khoan đã, sao tôi nghe câu chuyện này quen quá! Chắc chắn tôi đã đọc ở

đâu đó rồi. Một tia sáng vụt lên trong đầu tôi:

- Cậu còn có một người em trai, đúng không?

Cậu ta gật đầu:

- Kém tôi ba tuổi.

- Mẹ của cậu vốn không biết tiếng Phạn, nhưng khi mang thai cậu, bà đột

nhiên biết nói thứ ngôn ngữ này, đúng không?

- Đó chỉ là tin đồn. Mẹ tôi học tiếng Phạn từ cha tôi.

- Vậy, có phải, bảy tuổi cậu đã theo mẹ xuất gia, chín tuổi đến Kashmir và

gì nữa, Gandhara và Ka.. gì đó. Âm này khó viết quá!

Tôi nhớ lại từng địa danh một cách khó nhọc.

- Kabul?

- Đúng rồi!

- Lên chín tuổi, tôi cùng mẹ đến Kabul, tại đó tôi đã theo học Phật giáo Tiểu

Thừa.

- Vậy, cậu... cậu... cậu là...

Tôi không nói tiếp được nữa, tôi đã biết cậu ta là ai! Tôi gõ mạnh vào đầu,

sao tôi có thể phạm một sai lầm lớn như vậy chứ!

Các bạn, sau nhà Tần đến nhà Hán, đúng không? Cậu ta từng nói, Trung

Nguyên hiện do vua nhà Tần/Thanh cai quản, nhưng lại luôn nói với tôi về

người Hán, tiếng Hán. Nếu lúc này đang là thời đại nhà Tần trong chữ Tần

Thủy Hoàng, thì vì sao cậu ta lại gọi tôi là người Hán? Cậu ta vừa nhắc đến

chữ: “Tần” thì tôi lập tức mặc định đó là triều đại nhà Tần hiển hách trong lịch

sử. Hơn nữa, xưa nay chúng tôi đã quen với việc tự nhận mình là người Hán,

nên tôi hoàn toàn quên mất rằng, cách gọi đó xuất phát từ thời kỳ thịnh trị của

vương  triều  nhà  Hán  trong  lịch  sử?  Thế  nên,  một  nghiên  cứu  sinh  chuyên

ngành lịch sử là tôi đây đã phạm phải một sai lầm không thể tha thứ.

Tất nhiên, không thể là đời nhà Thanh, vì khi đó Khâu Từ đã trở thành quá

vãng hơn một nghìn năm. Nếu vậy, trong lịch sử Trung Quốc, còn triều đại nào

được gọi là nhà Tần không?

Có đấy! Nhà Tiền Tần của Phú Kiên Kiến và nhà Hậu Tần của Diêu Trưởng

Kiến, thực ra tiền tố “Tiền” và “Hậu” là do người đời sau thêm vào để phân

chia hai giai đoạn, còn tại thời điểm lúc bấy giờ, người ta chỉ gọi là nhà Tần.

Điều đó cho thấy, sự thật là tôi đang có mặt ở thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc.

Tức là tôi đã trở về thời đại lịch sử sớm hơn năm trăm năm so với dự tính ban

đầu, kết quả là, ở bên một nhân vật lịch sử vĩ đại suốt mấy chục ngày mà tôi

không hề hay biết.

Người đó chính là cháu ngoại của vua Khâu Từ ở Tây Vực thời Thập lục

quốc, một thần đồng với chỉ số IQ 200, một hòa thượng với huyết thống cao

quý được mọi người sùng kính, một thanh niên tuấn tú với dung mạo thoát

tục, người được đám sinh viên ký túc xá khoa lịch sử chúng tôi mệnh danh là

hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử, còn có thể là ai khác nữa?

Sách “Tấn thư” chép rằng: “Có lần ngài thuyết giảng kinh Phật tại chùa

Thảo Đường, nhà vua, triều thần cùng với hơn một ngàn cao tăng đang cung

kính lắng nghe, Kumarajiva đột nhiên bước xuống, đến gần vùa Diêu Hưng và

nói: Có hai đứa bé cứ nhảy múa trên vai ta, hãy ban cho ta một thiếu nữ. Diêu

Hưng lập tức ban cho Kumarajiva mười cung nữ, ngay sau đó, một trong số

các cung nữ đã hạ sinh hai con trai”.

Tôi đã vô cùng ngỡ ngàng khi đọc đoạn sử này. Quả là có một không hai.

trong lịch sử, không ít hòa thượng bị lên án bởi có liên quan đến chuyện tình

ái. Hòa thượng Biện Cơ - trợ thủ dịch thuật kinh Phật đắc lực nhất của Huyền

Trang từng có quan hệ tình ái nhiều năm với công chúa Cao Dương - người

mà vua Đường Thái Tông sủng ái nhất. Nhưng mối quan hệ đó chỉ diễn ra lén

lút, giấu giếm. Sau khi vua Đường phát hiện ra, Biện Cơ đã bị chém làm đôi.

Nhưng đối với câu chuyện của Kumarajiva, với việc ngài công khai đòi hỏi

sắc dục trong bối cảnh trang nghiêm như vậy, thì dù ở góc độ tôn giáo hay

luận thường đạo lý, đều khiến người ta cảm thấy khiếp sợ. Đó là thái độ bất

chấp giới luật, ngang nhiên thể hiện dục vọng của mình, xưa nay chưa ai dám

làm như vậy. Diêu Hưng tặng ngài cả mười cung nữ và ngài đã vui vẻ tiếp

nhận. Ngài không sống trong thiền viện như các tăng sĩ khác mà ở nhà riêng

và có người cung phụng. Ngài sống sung túc với vợ con như những người bình

thường khác. Vậy mà lòng tôn kính của người đời đối với ngài không hề giảm

đi. Thậm chí, hậu thế còn hết lời ca ngợi ngài, tiếng tăm của ngài truyền ra tận

nước ngoài. Một hòa thượng như vậy, chẳng phải là nhân vật vĩ đại trong lịch

sử hay sao?

Nhớ lại cuộc bình xét ở ký túc xá, khi đó sáu bạn đã nhất trí bầu chọn

Kumarajiva, dịch giả kinh phật nổi tiếng thời Thập lục quốc là “hòa thượng vĩ

đại nhất trong lịch sử”.

- Cậu... cậu... cậu chính là Kumarajiva! Cậu là Kumarajiva ư? Trời ơi, cậu

chính là Kumarajiva! Cậu chính là nhân vật lịch sử lừng lẫy đó!

Tôi bối rối đến không thốt được lên lời, đầu óc choáng váng, tâm trí rối bời.

Giống như là đột nhiên bạn gặp được thần tượng của mình vậy! Chuyến đi này

quả không tồi chút nào, tôi lại có cớ để tự hào với chúng bạn khi trở về rồi!

Một cốc nước đặt ngay trước mặt tôi, một mảnh khăn ướt thấm nhẹ trên

trán. Tôi ngẩng lên và bắt gặp trong đôi mắt như hồ nước thu ấy vẻ lo lắng

không giấu giếm:

- Trán cô hơi nóng, hình như cô bị cảm lạnh. Ngày mai tôi sẽ căn dặn người

làm sắc thuốc cho cô.

Tôi nhìn thấy hình ảnh tay chân mình run rẩy phản chiếu trong đôi mắt như

hai vực nước sâu hun hút ấy.

Sau khi uống nước, tôi trở nên bình tĩnh hơn. Ngượng ngùng nở nụ cười

ngây ngô:

- Tôi vô ý quá!

Cậu ta cũng cười:

- Tôi chưa từng thấy Ngải Tình như vậy bao giờ. Mà cô luôn miệng gọi tôi là

Kumarajiva, đó có phải tên tiếng Hán của tôi không?

Tôi  gật  đầu.  Kumalajiba  là  tên  tiếng  Phạn  của  cậu  ta,  Kumala  chính  là

Kumara. Nhưng còn Jiba thì sao lại biến thành Jiva được nhỉ? Không biết ai đã

dịch tên của Kumarajiva sang tiếng Hán, nhưng rõ ràng nghe hay hơn tên

Kumalajiba mà lâu nay tôi thường gọi. Sở dĩ tôi không nhận ra cậu ta chính là

pháp sư lừng danh Kumarajiva, là vì tôi đã nhầm lẫn thời đại lịch sử. Thêm nữa

là vì, phát âm của từ “Jiba” và từ “Jiva” rất khác nhau. Nên tôi đã không biết

người ngày ngày ở bên mình chính là dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc,

người được xếp ngang hàng với sư phụ Huyền Trang.

Tôi hỏi cậu ta về ý nghĩa của tên gọi Kumarajiva trong tiếng Phạn, thì được

trả lời rằng, Kumara là họ của cha cậu, nghĩa là “đồng tử” (cậu bé). Jiva là tên

mẹ cậu, nghĩa là “thọ” (nhiều tuổi). Bởi vậy ý nghĩa tên gọi của cậu trong tiếng

Hán là “đồng thọ” (cậu bé già dặn). Đặt tên con cái bằng cách ghép họ của

người cha và tên của người mẹ vốn là phong tục của người Ấn Độ xưa, cũng

có lúc tên gọi còn được đưa thêm vào một số ý nghĩa khác nữa, do đó, tên của

người Ấn Độ thời xưa rất dài. Chả trách khi đọc sách lịch sử Phật giáo, tôi

không thể nào nhớ nổi tên của các vị cao tăng Tây Vực và Ấn Độ. Thực sự là

rất dài và rất khó đọc.

Tôi biết cha cậu là Kumarayana, còn mẹ cậu là Jiva, những tên gọi vốn đã

rất quen thuộc đối với người Hán. Tăng sĩ Tây Vực và Ấn Độ đều dùng tên gọi

thông thường, khác với cách dùng pháp hiệu của các nhà sư Trung Nguyên.

Kumarajiva đặt tập giấy nháp trước mặt tôi và đề nghị:

- Cô có thể viết tên gọi tiếng Hán của tôi vào đây được không?

Tôi nắn nót từng nét một: Ku- ma- ra- ji- va.

Cậu ta ngắm nghía tỉ mỉ, đọc lại một lượt, rồi ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt

rạng rỡ niềm vui:

- Hay! Kumarajiva. Nếu là tên gọi do Ngải Tình đặt, thì từ nay về sau tên

tiếng Hán của tôi sẽ là Kumarajiva!

Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt trong sáng tràn ngập ánh cười

đang nhìn mình. Tôi bỗng hốt hoảng, thần trí mất tập trung, cứ bay bay tận

đâu đâu. Không có tài liệu nào ghi lại thông tin về người đã đặt tên tiếng Hán

cho cậu ta, không lẽ người đó là tôi? Tên gọi mà tôi đọc được ở thế kỷ XXI

hoàn toàn trùng khớp với tên gọi mà tôi đặt cho cậu ta 1650 năm về trước.

Điều đó có nghĩa là, việc tôi vượt thời gian đến đây và gặp gỡ Kumarajiva đều

là sự tất nhiên ư? Điều này có mối liên quan, logic gì? Tôi chỉ là du khách đi

bên lề lịch sử, hay tôi đã gia nhập vào thời đại này một cách hoàn toàn tình

cờ?

Chương 9: Tôi muốn xin thôi việc

Tôi cùng mẹ con Kumarajiva, nhà vua và đại thần Wensu đến trước cổng

thành  nghênh  đón  đức  vua  Khâu  Từ.  Vì  giờ  đây  tôi  đã  biết  cậu  là  là

Kumarajiva, nên tất nhiên tôi hiểu vì sao cái tên Wensu nghe quen đến vậy, thì

ra là Wensu, một huyện bên cạnh Aksu, thuộc tỉnh Tân Cương. Hai nghìn năm

trước, Wensu chỉ là một quốc gia nhỏ, lệ thuộc vào Khâu Từ.

Sở dĩ quốc gia nhỏ bé này có trong trí nhớ của tôi là vì Kumarajiva. Cuộc

luận chiến nổi tiếng đó sử sách gọi là cuộc luận chiến ở Wensu, nó được xem

như một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời đầy thăng trầm nhưng lẫy lừng

của Kumarajiva. Sách sử chép rằng, chính nhờ cuộc luận chiến này mà tiếng

tăm  của  Kumarajiva  “vang  khắp  vùng  Pamirs,  chấn  động  hải  ngoại”,  “được

quốc vương nhiều nước trọng vọng”. Bởi vậy, đức vua Khâu Từ đã phải đích

thân đến đón Kumarajiva, không để các nước khác tranh giành hiền tài.

Nghi thức đón tiếp diễn ra rất long trọng, thảm đỏ được trải đến tận hoàng

cung, âm nhạc rộn ràng không dứt, hoa thơm vương ngập lối đi. Tôi nhớ vị

vua này tên Bạch Thuần, vương triều nhà Bạch vốn do Ban Siêu dựng lên, Tây

Vực đô hộ phủ của Ban Siêu đặt tại Khâu Từ. Từ thời Ban Siêu cho đến cuối

đời Đường, rồi sau đó Khâu Từ bị người Hồi Hột (Ujur) tiêu diệt, trong suốt

tám trăm năm, vương quốc Khâu Từ đều do nhà Bạch nắm quyền cai quản.

Vị vua Khâu Từ này rất giống Jiva, cũng da trắng, mũi cao, mắt to và sâu,

lông mày dày và rậm. Có lẽ Bạch Thuần chưa đến bốn mươi tuổi, thời trẻ chắc

hẳn rất tuấn tú. Nhà vua không cắt tóc ngang vai như những người đàn ông

khác, phía trước để mái lửng, phía sau quấn búi lên đỉnh đầu, rồi buộc gọn lại

bằng một mảnh vải nhiều màu, thả xuống sau gáy.

Điều  thú  vị  là  trán  của  nhà  vua  cũng  được  nén  dẹt  xuống.  Trong  “Đại

Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng viết về tập tục nén đầu ở Khâu Từ. Họ

dùng một tấm gỗ ép chặt phần đầu phía trước của đứa trẻ. Nhưng tập tục này

chỉ  được  phép  áp  dụng  đối  với  thành  viên  của  hoàng  thất.  Thật  mừng  là

Kumarajiva xuất gia từ nhỏ, nếu không vẻ điển trai mê hồn của cậu chắc chắn

sẽ bị tập tục này hủy hoại.

Tôi tiếp tục quan sát trang phục của quốc vương. Cũng là áo choàng ngắn,

cổ bẻ, ống tay hẹp, thắt eo, đi ủng cao đến đầu gối, nhưng bên ngoài còn

khoác thêm một chiếc áo tay lỡ với những hoa văn thêu kim tuyến cầu kỳ. Một

thanh kiếm dài đeo bên hông, trên tay còn có thêm một thanh đoản kiếm. Có

vẻ như nhà vua rất thích dùng kiếm.

Thoáng thấy mẹ con Kumarajiva, nhà vua vội sải những bước dài về phía

trước, dang rộng tay ôm chầm lấy hai người. Hai mẹ con Kumarajiva dường

như rất xúc động, họ xa nhà những bốn năm trời kia mà. Tôi nghe được bập

bõm đoạn đối thoại của họ. Đức vua chúc mừng thành tích học tập và cuộc

luận chiến thành công của Kumarajiva. Ông nói rằng đã chuẩn bị mọi thứ ở

Khâu Từ để chờ đón hai người trở về...

Khi đức vua Khâu Từ đưa mắt nhìn sang người con gái đứng cạnh Jiva, ngài

có vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi đang căng tai luyện nghe tiếng Tochari, không để ý

đến ánh nhìn đột ngột đó, nên không kịp phản ứng, bất giác nở một nụ cười

ngờ nghệch. Nụ cười chưa kịp tắt, trong tôi chợt nhen lên một cảm giác bất

an, thôi thế là xong, tôi mất điểm hoàn toàn rồi, những nghi lễ mà tối qua tôi

đã được học đã biến mất khỏi đầu tôi, không để lại dấu vết.

Đức vua Khâu Từ cũng ở lại trong cung, nhưng ngài ngự tại một cung điện

khác. Yến tiệc buổi tối vẫn như thường lệ, được tổ chức trên đại điện, tôi cũng

được tham dự. Nhưng vì mẹ con Kumarajiva không ăn tối nên chúng tôi chỉ

được uống nước suông. Đôi mắt mở to của tôi dán chặt vào món thịt nướng

trên bàn của hai vị quốc vương, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Không có ca

nhạc, không có hát múa, buổi tiệc chỉ là bữa cơm thân mật trong gia đình

nhân dịp đoàn tụ. Tôi cảm thấy lạc lõng, nên chẳng bao lâu, tôi bắt đầu giở trò

ngọ ngoạy trên chỗ ngồi của mình.

Đột  nhiên  tôi  bắt  gặp  ánh  mắt  quen  thuộc  chiếu  về  phía  mình,  là

Kumarajiva. Cậu ta đang mím chặt môi, cố nhịn cười. Tôi liếc nhìn xung quanh

để  chắc  chắn  không  có  ai  chú  ý,  sau  đó  bóp  mũi,  lè  lưỡi  ra  chọc  cậu  ta,

Kumarajiva khổ sở mím chặt môi hơn nữa. Cậu quay người sang nói với hai vị

quốc vương, rằng đêm đã khuya, đức vua Khâu Từ đi đường đã thấm mệt,

ngài nên về nghỉ ngơi sớm. Sau đó, mọi người cùng nâng cốc (chúng tôi chỉ

được phép uống nước) chúc tụng lần cuối, rồi kết thúc bữa tiệc.

Tôi trở về với cái bụng rỗng không, mắt mờ đi vì đói, vội vàng hạ lệnh cho

cô hầu nữ nấu chút gì đó lót dạ. Trong thời gian chờ đợi đồ ăn, tôi nằm im trên

giường cố gắng hạn chế tiêu hao năng lượng. Trong cơn mê man, một mùi

hương ngào ngạt bất chợt bốc lên, tôi bật dậy và nhìn thấy đôi mắt sâu như

hai vực nước long lanh ánh cười đang đứng bên giường, trên tay là một đĩa

thịt nướng, thơm chết người!

Tôi kéo vai cậu ta xuống, cảm động nói:

- Rajiva, cậu thật tốt bụng!

Thực ra tôi đã suy nghĩ rất nhiều về cách xưng hô với Kumarajiva. Tên tiếng

Phạn của cậu ta rất khó đọc, tên tiếng Hán nghe có vẻ khách sáo. Trong các

tài  liệu  liên  quan,  thì  tên  cậu  ta  có  lúc  là  Rajiva,  có  lúc  là  “Jiva”.  Sách  cổ

thường gọi cậu ta là Jiva, còn trong văn bản hiện đại thì đều viết là Rajiva. Nếu

phân tích rạch ròi, thì Kumara là họ, Jiva mới là tên. Nhưng nếu chỉ gọi là Jiva,

nghe không ổn lắm. Bởi vậy, sau khi suy đi tính lại, tôi quyết định gọi cậu ta

bằng cách của những người hiện đại, Rajiva. cậu ta cũng vui vẻ chấp nhận.

Lúc buông tay ra tôi mới nhận thấy khuôn mặt cậu ta đỏ như gấc chín, ánh

mắt ra sức tránh né, không dám nhìn thẳng vào tôi. Bộ dạng ngượng ngùng,

xấu hổ ngây thơ đó thật đáng yêu!

Trời đất, tôi vừa làm gì thế này! Lại vỗ một cái thật mạnh vào đầu tự trừng

phạt. Cậu ta giật mình, lo lắng hỏi:

- Ngải Tình, sao vậy?

Nhìn khuôn mặt đang đỏ bừng vì thẹn thùng của cậu ta, tôi bỗng bối rối.

Đón đĩa đồ ăn từ tay Kumarajiva, tôi giả đói giả khát cắm đầu gặm món thịt

nướng để che đi nỗi xấu hổ đang dâng đầy. Làm sao có thể nói để cậu ta hiểu

tôi áy náy về hành động mất kiểm soát khi nãy của mình đến thế nào. Dù cậu

ta vẫn ít tuổi, tôi cũng không thể có những cử chỉ thân mật một cách tự nhiên

như ở thời đại của tôi được. Vì dù sao có một thân phận hết sức đặc biệt và

điều đó không bao giờ có thể thay đổi.

Một lúc sau, sắc mặt Kumarajiva mới trở lại trạng thái bình thường, cậu lấy

giọng vu vơ hỏi tôi:

- Hôm nay chúng ta học bài gì?

Tôi thở dài, ngừng nhai thịt:

- Cậu mời người khác dạy đi, tôi không dạy cậu nữa đâu.

Kumarajiva tỏ ra hết sức kinh ngạc, khuôn mặt vừa tan sắc đỏ đã chuyển

sang tái nhợt:

- Vì sao? Tôi đã làm gì sai ư?

- Cậu không làm gì sai cả. Chỉ tại tôi không đủ trình độ để dạy cậu nữa. Cậu

là Kumarajiva kia mà!

Khi  giảng  “Luận  ngữ”  tôi  không  có  sách,  cũng  không  thuộc  hết.  Tôi  chỉ

giảng cho cậu ta những phần tôi thuộc và tất nhiên là trật tự các bài đã bị đảo

lộn, một số chỗ tôi còn không nhớ chính xác. Cậu ta vốn thông minh tuyệt

đỉnh, chỉ đọc một lần là nhớ ngay. Nếu tôi tiếp tục dạy học như vậy, trong đầu

cậu ta sẽ đầy ắp những lỗi sai. Làm sao cậu ta trở thành dịch giả kinh Phật

hàng đầu Trung Quốc được? Tôi cũng không gánh nổi tội lỗi tày trời đó. Sự

nghiệp phát triển Phật giáo tại Trung Nguyên vẫn đang trông chờ cậu ta kia

mà!

- Nhưng, nhưng mà, cô là một giáo viên rất giỏi!

Có chút run rẩy trong giọng nói của Kumarajiva.

- Cô giảng bài rất hay, nên tôi chỉ nghe một lần là nhớ.

- Đó là vì cậu thông minh, không phải do tôi dạy giỏi.

Tôi nhìn thẳng vào hai vực nước trong vắt ấy, nghiêm nghị:

- Rajiva, cậu là người thông minh nhất mà tôi từng gặp.

Giọng nói của cậu ta êm dịu và lôi cuốn như một vò rượu ngon được ủ

nhiều năm, nhưng khẩu khí chắc nịch:

- Ngải Tình, cô cũng là cô gái thông minh nhất mà tôi từng gặp. Vốn hiểu

biết của cô rất phong phú và điều quan trọng hơn là, cô am hiểu sâu sắc Phật

pháp.  Vì  có  người  thầy  như  cô,  Rajiva  cảm  thấy  rất  hứng  thú  với  Trung

Nguyên. Tôi rất mong được đặt chân đến đó, để có thể tận mắt chứng kiến

mảnh đất, bầu trời và không gian như thế nào mà có thể khai sinh ra một

người con gái thông minh, xinh đẹp như Ngải Tình.

Những câu nói ấm áp được thốt lên bằng sự chân thành, giúp tôi cảm thấy

tự tin hơn. Bất giác một câu hỏi hiện ra trong đầu: Không lẽ cảm tình dành

cho vùng đất Trung Nguyên của Kumarajiva bắt nguồn từ tôi ư? Nhưng sự

thực là tôi không thông minh, tôi đã đánh cắp kiến thức của người khác, kể cả

thành quả dịch thuật của Kumarajiva. Vậy mà cậu ta vẫn khen ngợi tôi có tuệ

căn. Nếu ở vào thời hiện đại, chắc chắn tôi sẽ bị kết tội vi phạm bản quyền.

Thế nên, tôi cứ cúi gằm mặt xuống, không dám ngẩng đầu.

- Nhưng mà...

Kumarajiva cố nhịn cười khi tôi ngước bộ mặt âu sầu lên nhìn cậu ta:

-  Nhưng  nếu  không  có  vẻ  mặt  ngây  ngô  kia  thì  cô  sẽ  càng  thông  minh

hơn...

Tên ranh, dám trêu cả cô giáo! Tôi bật dậy định vít cổ cậu ta xuống, nhưng

cậu ta nhanh như chớp, cười ngất và né sang một bên. Tôi đuổi cậu ta chạy

vòng vòng. Rajiva tuổi trẻ chân dài, tôi già cả không bắt kịp. Nhưng tôi không

tin mình không tóm được cậu, nếu thế tôi ra đời trước cậu ta mười năm thật

oan uổng quá! Tôi kêu lên một tiếng “ui da”, rồi ngã sõng soài ra đất. Quả

nhiên cậu ta vội chạy đến, vẻ mặt lo lắng hỏi tôi có sao không. Nhân lúc cậu ta

không đề phòng, tôi đã lập tức giơ tay tóm lấy cổ cậu ta.

- Tên ranh, từ nay về sau cấm chê cô giáo ngây ngô nhé! Như thế không

gọi là ngây ngô mà là thật thà, nhớ chưa? Tôi là cô giáo của cậu, cậu phải tôn

trọng tôi, biết chưa? Dù cậu có là Kumarajiva đi nữa, trước mặt tôi cũng phải

tỏ ra ngoan ngoãn!

Tôi lắc mạnh chiếc cổ dài thanh tao và nhìn vào khuôn mặt đang ngày càng

ửng đỏ của cậu ta. Hình như tôi xiết tay hơi mạnh. Vội vàng buông cậu ta ra,

tôi sát lại, ghé mắt nhìn:

- Này, tôi có mạnh tay quá không? Cậu có đau lắm không? Xin lỗi nhé!

Ánh mắt trên khuôn mặt đỏ như gấc chín ấy lại tìm cách lẩn trốn. Cậu ta

quay mặt đi, tách tôi ra một đoạn, miệng lí nhí:

- Ngải Tình, tiếp tục dạy tôi, được không?

Tôi lại thở dài, tay túm cằm suy nghĩ:

- Nhưng tôi không có giáo trình, tài liệu gì cả. “Luận ngữ” mà tôi dạy cậu

đều là dựa vào trí nhớ, mắc không ít lỗi sai. Người xưa có câu: dạy sai kiến

thức chi bằng không dạy, chớ làm hỏng học trò.

Vẫn khuôn mặt đỏ lựng nhìn tôi, nhưng ánh mắt trở nên long lanh và khóe

môi hé một điệu cười rạng rỡ:

- Cô lo lắng điều này ư? Có khó gì đâu!

 “To teach or not to teach, this is a question”.

Tôi không có cách nào từ chối, nhưng lại sợ sẽ truyền đạt sai kiến thức cho

cậu ấy. Lẽ ra tôi không nên xuất hiện trong cuộc đời cậu ấy. Không có tôi, cậu

ấy vẫn có thể trở thành vị pháp sư lừng danh trong lịch sử. Nhưng nếu ngược

lại thì sao? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì trong hành trình cuộc đời Kumarajiva?

Liệu tôi có tác động xấu đến cậu ấy, để rồi làm sai khác đi lịch sử? Một sự thật

hiển nhiên là cậu ấy vốn không biết nói dù chỉ một câu tiếng Hán hiện đại.

Thấy tôi trầm ngâm hồi lâu, Kumarajiva đặt hai tay lên tay tôi, hơi ấm từ

lòng bàn tay cậu lan tỏa khắp người tôi.

- Ngải Tình, chính Phật tổ đã an bài để tôi được gặp cô, tôi thực sự trân

trọng mối duyên này. Tôi thật lòng muốn học tiếng Hán, nhưng nếu cô không

muốn dạy, cũng không sao, hãy đến Khâu Từ cùng tôi, rồi mới trở về Trung

Nguyên, được không?

Trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ngấn nước phản chiếu khuôn mặt ủ

dột của tôi. Tôi chỉ là một người khách qua đường, sớm muộn tôi cũng sẽ phải

trở về thế giới của mình, dù cho chiếc đồng hồ vượt thời gian đang tạm thời

gặp sự cố.

Nhưng việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Kumarajiva thời niên thiếu, nếu

không dùng chữ “cơ duyên” thì còn có cách giải thích nào khác nữa? Hai hàng

dấu chân trên cát của chúng tôi chỉ là tình cờ hợp thành một, khi hành trình

ngắn ngủi đó qua đi, sẽ không còn bất cứ sự gặp gỡ nào nữa. Vậy thì, việc gì

tôi phải suy nghĩ nhiều đến vậy? Chỉ cần từ nay về sau tôi thận trọng hơn

trong mọi ứng xử, không thể hiện ra bất cứ dấu hiệu mang nét đặc trưng của

thời đại mình, thì tôi sẽ không tác động và làm thay đổi lịch sử. Nhưng, điều

quan trọng hơn hết thảy đó là, tôi thực sự mong muốn được ở bên chàng trai

thiên tài này mỗi ngày, để được đón nhận và cảm nhận tình cảm nồng ấm từ

cậu ấy.

- Nếu vậy, ta đồng ý tiếp tục dạy trò.

Tôi lồm cồm bò dậy, phủi sạch bụi trên mông:

- Thầy trò ta cùng ôn lại kiến thức của buổi học trước.

Tôi phải nhanh chóng sửa đổi phương thức giao tiếp bằng tiếng Hán hiện

đại của cậu ta mới được.

Cậu ta vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, có vẻ chưa thích ứng với lối nói văn

ngôn trang trọng đó của tôi, nhưng cũng không thắc mắc, vội vàng đứng lên

tìm tập giấy nháp.

Tối hôm sau, cậu ta xuất hiện ở cửa phòng tôi với cuốn “Luận ngữ” trên tay.

Chương 10: Chúng tôi đến Khâu Từ

Cuối cùng, chúng tôi cũng lên đường đi Khâu Từ. Buổi đưa tiễn diễn ra rất

náo nhiệt, dân chúng Wensu từ mọi ngả đổ ra phố chính, đứng chen chân hai

bên đường. Đức vua  Wensu  đích  thân  cưỡi  ngựa  tiễn  đoàn  chúng  tôi  mấy

mươi dặm.

Đi cùng vua chúa quả có khác, chúng tôi được chăm sóc rất chu đáo và

vương giả, khác hẳn với khi tôi đi cùng mẹ con Rajiva. Hàng ngày, Rajiva vẫn

đều đặn đến lán trại của tôi học bài sau giờ tụng kinh buổi chiều. Giờ đây tôi

đã có sách trong tay, nên bài giảng cũng ngày một trọn vẹn và sâu rộng hơn,

tôi  luôn  mở  rộng,  bổ  sung  kiến  thức  mới  cho  Rajiva.  Tôi  thường  vận  dụng

những câu chuyện lịch sử làm dẫn chứng minh họa cho những đạo lý sâu xa

của cổ nhân, Rajiva rất hứng thú và luôn hết lời khen ngợi.

Vua Bạch Thuần đã có lần đến kiểm tra việc dạy học của tôi, tiếng Hán của

ngài rất trôi chảy. Khi ấy tôi đang giảng sách Luận ngữ “Chương 9: Tử Hãn”,

Nhà vua chọn ra một câu để thử tài tôi, câu đó là: “Tử viết: Ngô vị kiến hiếu

đức như hiếu sắc giả dã”.

Câu này vốn rất dễ lý giải, tôi suy nghĩ một lát, đáp:

- Khổng Tử than phiền rằng con người coi trọng sắc dục hơn đức hạnh. Thế

nhưng người ta ai nấy đều ham muốn sắc dục, bởi vậy háo sắc là biểu hiện

chân thực của bản tính con người. Giữa con người và sắc đẹp có sự lôi cuốn

rất tự nhiên, khó lí giải nhưng vô cùng mãnh liệt. Cáo Tử từng nói: “Nhu cầu

ăn uống và sắc dục thuộc về bản năng tự nhiên của con người”. Nhưng đức

hạnh thì không phải. Người ta, nếu có coi trọng đức hạnh thì cũng không xuất

phát từ nhu cầu tự thân giống như ham muốn mỹ sắc. Người xưa đã vậy,

người nay vẫn thế.

Tôi ngừng lại, Bạch Thuần không nói gì, nhưng tôi luôn có cảm giác ánh

mắt ngài nhìn tôi không mấy thiện cảm. Cũng tại tôi ruột để ngoài da, chẳng

suy nghĩ thấu đáo, cứ thật thà phát biểu: háo sắc là thiên tính của con người.

Vì sao tôi không kịp nhớ rằng, xưa nay các vị hoàng đế vốn thích hô khẩu hiệu

to tát và ưa thể diện kia chứ?

Do đó, tôi vội vã bổ sung:

- Nhưng chữ “sắc” ở đây không hoàn toàn là mỹ sắc, mà chỉ tất cả những

thứ đẹp đẽ. Và “đức” cũng là một trong số những thứ đẹp đẽ đó. Người coi

trọng đức hạnh ngang với coi trọng cái đẹp được gọi là quân tử. Sở dĩ Khổng

Tử than phiền như vậy là vì bao năm lênh đênh, chu du khắp thiên hạ, ghé

qua hầu hết các nước chư hầu, vậy mà ngài vẫn bơ vơ như kẻ không nhà, chỉ

vì chưa gặp được vị quân vương nào xem trọng người tài đức như xem trọng

sắc đẹp. Nhưng nếu ngài còn sống đến ngày nay, gặp được vị vua anh minh

hiếu đức như đức vua đây, hẳn ngài sẽ không còn phải thở dài buông lời cảm

thán như vậy!

Biểu cảm trên gương mặt Bạch Thuần vẫn không hề thay đổi, tôi hoang

mang không biết “nịnh bợ” kiểu đó có chút hiệu quả nào không? “Làm bạn với

vua như chơi với hổ”, người xưa nói quả không sai! Ông ta mới là vua của một

tiểu quốc Tây Vực xa xôi mà đã vậy, nếu là Tần Hoàng Hán Vũ thì còn đáng sợ

đến thế nào? Chỉ cần khiến các ngài không vui là mất đầu như chơi. Chợt như

có một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, tôi chỉ dám hé mắt nhìn trộm ngài.

Bạch Thuần không thèm đếm xỉa đến tôi, ngài nói vài câu với Rajiva bằng tiếng

Tochari rồi bước ra ngoài.

Ngày hôm sau, ngài nói về tôi trước mặt hai mẹ con Rajiva, rằng:

- Cô giái này còn quá trẻ, thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu tư chất của một

người thầy.

Tôi giận quá định bỏ đi. Ông ta tưởng tôi không hiểu tiếng Tochari chắc,

hay ông ta vốn chẳng thèm quan tâm tới tôi có hiểu hay không? Chắc chắn là

tại điệu cười ngu ngốc đó, như vậy chứng tỏ trò nịnh bợ của tôi ngày hôm qua

đã tìm nhầm đối tượng rồi! Không biết tôi đã nói điều gì khiến ông ta phật ý?

Ông ta bảo sau khi về Khâu Từ sẽ tìm thầy dạy khác cho Rajiva, còn nói ở

Khâu Từ có rất nhiều giáo viên người Hán tài giỏi, kiến thức uyên thâm. Rajiva

cảm ơn và từ chối khéo léo, ca ngợi tôi là giáo viên giỏi nhất mà cậu từng gặp,

khen tôi là người làu thông kim cổ, tỉ mỉ, tận tâm. Quả không làm tôi thất

vọng. Bạch Thuần hết cách đành quay sang thuyết phục Jiva, nhưng ni cô

xinh đẹp nói, bà tôn trọng ý muốn của Rajiva.

Jiva quả là người mẹ tuyệt vời, chả trách lúc nào Rajiva cũng yêu kính bà!

Bạch Thuần cố nhiên là không vui, tôi biết ý nên vội vã cúi đầu, vờ như không

nghe thấy gì.

Chúng tôi tiếp tục vượt qua Bái Thành, trước mắt không còn là sa mạc

mênh mông hoang vắng nữa. Những hẻm núi đủ mọi dáng vẻ nối tiếp nhau

dằng dặc, không bóng một lùm cây, dưới ánh mặt trời, khung cảnh hiện ra

hùng vĩ hệt như hẻm núi Grand trên vùng Colorado của nước Mỹ. Chúng tôi

bắt đầu tiến vào vùng núi thuộc dãy Thiên Sơn. Rajiva cho tôi biết, vượt qua

những hẻm núi kỳ vĩ này, đi thêm hai mươi dặm sa mạc nữa là đến biên giới

Khâu Từ.

Một dòng sông nhỏ xuất hiện giữa những khe núi hiểm trở. Có sông có

nước là sẽ có ốc đảo. Hai bên bờ là vách núi cheo leo, nơi đây vốn là huyết

mạch quan trọng của con đường tơ lụa. Thấp thoáng vài hộ nông dân và nhà

trọ. Rajiva nói với tôi, sông này là sông Muzat, còn núi này là núi Karadag. Tôi

thấy những tên gọi này rất quen thuộc. Nơi đây cách Khâu Từ những mấy

chục dặm, không biết điều gì khiến tôi có cảm giác quen thuộc đến vậy? Tôi

nhìn lại một lượt khung cảnh núi non trùng điệp, sông suối lượn quanh, ốc đảo

xanh tươi với hai bên là vách núi dựng đứng này, một địa danh chợt lóe lên

trong đầu tôi: Thiên Phật động Kizil.

- Rajiva, Thiên Phật động Kizil ở đây phải không? Đưa tôi đi xem có được

không?

Tôi sung sướng tột độ. Thiên Phật động Kizil là quần thể hang đá nằm ở

cực Tây, được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc. Giá trị to lớn của di tích này

nằm ở các bức bích họa, vẻ đẹp của nó có thể sánh ngang với các bức bích

họa ở Đôn Hoàng. Về mặt thời gian thì những bức bích họa này còn ra đời

trước các bức bích họa ở Đôn Hoàng hơn hai thế kỷ. Phong cách nghệ thuật

đậm màu sắc tín ngưỡng Phật giáo Đại Thừa, là đặc trưng của nghệ thuật

Khâu Từ, là nguồn tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về quốc gia này. Tiếc

thay, về sau, những người Ujur theo tín ngưỡng Hồi giáo đã phá hoại nghiêm

trọng công trình này. Thêm vào đó, khoảng thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học về

phương Đông người Đức, A. Von Le Coq cũng đã đến đây và lấy đi không ít

hiện vật quý giá. Nếu tôi được tận mắt ngắm nhìn công trình đồ sộ này khi nó

còn nguyên vẹn và phác thảo lại, sẽ có giá trị biết bao!

- Thiên Phật động Kizil nào vậy?

Dường như cậu ta không hiểu. Có lẽ vì Kizil là tiếng Duy Ngôn Nhĩ (Uygur)

và vào thời gian này, thì vẫn chưa xuất hiện tên gọi Thiên Phật động Kizil.

- Đó là ngôi chùa kiểu kiến trúc hang đá được xây dựng trên vách núi, bên

trong có rất nhiều tranh bích họa và những hang đá kéo dài hàng ngàn dặm,

chạy suốt dọc vách núi Karadag.

Hai mắt sáng lên, tôi xúc động mô tả cho cậu ta nghe, nhưng Kumarajiva

dường như vẫn không hiểu gì cả. Cậu ta đưa mắt quan sát một lượt khung

cảnh trước mặt rồi dừng lại ở dãy núi đối diện:

- Ngải Tình, ở đây không có hang đá nào như cô vừa nói.

Lẽ nào tại thời điểm này, Thiên Phật động Kizil vẫn chưa được xây dựng?

Tài liệu lịch sử ghi lại rằng công trình này được khởi công vào khoảng thế kỷ

thứ III, thứ IV sau Công nguyên, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, công việc xây

dựng chậm lại và ngừng hẳn. Cho nên, thời điểm khởi công là thời gian này

mới phải chứ?

- Ngải Tình.

Rajiva đột nhiên ngước đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi.

- Vì sao cô biết một ngôi chùa như thế sẽ được xây dựng ở đây?

Tôi sợ toát mồ hôi. Đúng rồi, sao tôi lại biết được? Thiên Phật động này

được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc và bây giờ nó còn chưa ra đời kia mà!

- Tôi...

Tôi cười ha ha kéo dài thời gian, rồi chỉ tay về phía con đường uốn lượn

ngoằn ngoèo giữa những khe núi hẹp và nói:

- Tôi nghĩ rằng đây là nơi mà các lái buôn nhất định phải đi qua. Những nhà

buôn đi trên con đường tơ lụa gặp rất nhiều rủi ro, nguy hiểm, nào là thời tiết

khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đạo tặc hoành hành. Nguy cơ trắng tay, thậm

chí mất mạng là rất lớn. Bởi vậy họ cần Phật pháp như một nơi nương tựa về

tinh thần, ban cho họ sự bình an. Nếu xây chùa ở đây, những thương nhân đó

chắc chắn sẽ ghé qua cầu xin thần Phật phù hộ. Vả lại, nơi này thanh vắng

yên tĩnh, rất phù hợp để tu hành.

Niềm vui ngời ngời hiện lên trên khuôn mặt Rajiva, ánh mắt cậu ta mỗi lúc

một long lanh rạng rỡ, tôi thở phào nhẹ nhõm. Quý Tiễn Lâm từng nói rằng,

nhà buôn và Phật giáo có mối quan hệ hết sức mật thiết. Các khoản quyên

tặng và lễ vật cúng bái của nhà chùa chủ yếu dựa vào các thương nhân. Đây

chính là lý do vì sao các ngôi chùa và thiền viện Phật giáo hầu hết được xây

dựng dọc theo con đường tơ lụa. Và Phật giáo cũng nhờ con đường này, từng

bước được truyền bá vào Trung Nguyên. Nên lí do mà tôi đưa ra hoàn toàn

hợp lý.

Tôi quan sát những vách núi cao vút bốn xung quanh, lắc đầu ảo não:

- Còn vì sao phải khai mở động đá. Là vì nơi đây là hẻm núi, cây cối không

nhiều, nếu muốn xây chùa bằng gỗ thì phải vận chuyển từ nơi khác đến, sẽ rất

tốn kém, hơn nữa, công trình sử dụng chất liệu gỗ rất khó bảo tồn, vì vậy, xây

chùa hang đá trên vách núi là hợp lý nhất.

Rajiva gật đầu tán đồng:

- Chùa hang đá mà cô miêu tả rất giống với kiến trúc chùa chiền ở Ấn Độ và

Kabul. Ở những nơi đó, họ xây chùa trên vách núi vì những con đường huyết

mạch đều là đường qua núi.

Trầm tư một lát, cậu ta quay lại, hỏi tôi:

- Nhưng sao cô lại gọi ngôi chùa này là Kizil?

Tôi há hốc miệng, cậu ta vẫn chưa hết nghi vấn à? Tên ranh này sao mà

thông minh thế không biết!

- Kizil, Kizil...

Tôi lẩm bẩm đọc đi đọc lại cái tên này, vừa đọc vừa suy nghĩ.

- Đây là từ địa phương, ở nơi tôi sinh sống, Kizil có nghĩa là hang đá.

May quá, tôi nhanh trí viện ra cái cớ này để lòe cậu ta vì dù gì cậu ta cũng

là người nước ngoài.

Cậu ta nhìn tôi rất lâu, đúng vào lúc tôi bắt đầu lung lay vì lời nới dối của

mình, thì đột nhiên cậu ta tươi cười gật đầu:

- Ngải Tình nói rất có lý!

Cậu ta ngừng lại, suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp:

- Vậy theo cô, ngôi chùa hang đá này nên thiết kế ra sao để thể hiện được

sự uy nghi của Phật pháp?

- Cái đó...

Đâm lao phải theo lao thôi, nếu tôi không nói, chỉ e ngày sau, Thiên Phật

động này sẽ biến dạng. Tôi ngập ngừng hồi lâu, nhưng sau đó vẫn quyết định

trình bày hết suy nghĩ của mình:

- Trước tiên cần khai mở một động đá trong núi, ở giữa dựng các cột trụ,

đặt tượng Phật vào các hốc tường phía trước cột trụ, đường hành lang bên

trái và gian buồng phía sau sẽ vẽ các bức bích họa kể câu chuyện của Phật tổ

và các truyền nhân của ngài. Như vậy, tăng ni Phật tử có thể bái Phật ở gian

chính, sau đó vòng qua hành lang bên phải đi về phía buồng sau để ngắm

nhìn các tượng Phật ở tư thế nằm trên cõi Niết Bàn, cuối cùng, quay lại gian

thờ chính, ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng những bức tranh thuyết pháp của Di

Lặc, Bồ Tát ở phía trên cửa ra vào hang đá. Các bức bích họa sẽ được vẽ trong

khung hình thoi, với ý nghĩa là núi Tu Di (Sumeru), hình vẽ bên trong kể về

câu chuyện của Phật tổ và luật nhân quả.

Nhìn vẻ mặt chất đầy nghi vấn của Rajiva, tôi hết sức lo lắng, tôi tiếp tục lục

lọi trong trí nhớ để tìm kiếm những tài liệu về Thiên Phật động Kizil:

- À, còn nữa, phải xây các phòng nhỏ làm nơi tọa thiền cho các tăng sĩ,

những phòng đá nhỏ này thì không cần trang trí bích họa, có thể thiết kế theo

kiến trúc phòng ở gắn liền với lối đi. Phòng đá nhỏ dành cho tăng sĩ và hang

đá chứa bích họa có thể đặt cạnh nhau, tạo nên một quần thể thống nhất, đó

chính là một ngôi chùa Phật giáo.

- Ngải Tình, cô từng đến Ấn Độ và Kabul, đúng không?

- Hả?

Đúng là tôi đã từng đến Ấn Độ, nhưng tình hình chính trị ở Kabul, tức vùng

Peshawa thuộc Kashmir ngày nay hết sức phức tạp, nên tôi chưa có cơ hội đến

đó. Kabul là thành phố cổ đại nổi tiếng nằm trên con đường giao nhau giữa

vùng Nam và Trung Á, là thủ đô của vương triều Kushan do đức vua Kanishka

lập nên, là khởi nguồn của nghệ thuật Phật giáo Gandhara và là vùng thánh

địa mà tôi mơ ước được đến thăm từ lâu.

Nhưng vấn đề nan giải hiện nay là tôi phải tiếp tục nói dối như thế nào đây?

Rõ ràng, mô hình kiến trúc tôi vừa miêu tả không hề có tại Trung Nguyên và

thậm chí ngay ở Tây Vực cũng chưa từng có. Nhưng nếu tôi nói rằng tôi từng

đến đó, chắc chắn tôi sẽ bị lật tẩy. Cha cậu ta là người Ấn Độ, bản thân cậu ta

đã từng sống ở Kabul mấy năm trời.

- Tôi... Là vì... Tôi tình cờ gặp một nhà sư người Ấn Độ, ông ấy đã nói với

tôi...

- Ngải Tình hiểu tiếng Phạn từ khi nào vậy

Cậu ta ngắt lời tôi, ánh mắt sắc như dao đang nhìn xoáy vào tôi khiến tôi

không biết lẩn trốn vào đâu.

- Tôi...

Người ta nói quả không sai: nói dối một lần thì dễ nhưng để duy trì lời nói

dối ấy, bạn phải nghĩ ra thêm nhiều lời nói dối khác và đến sau cùng bạn vẫn

cứ bị lật tẩy.

- Ngải Tình, cô chẳng biết nói dối gì cả!

- Tôi...

Thế là tôi đã bị lộ. Sao khi nãy tôi liều lĩnh như vậy, thốt ra những lời bịa đặt

không chút suy nghĩ.

- Rốt cuộc cô là ai?

Lại một câu hỏi gai góc nữa, đầu óc tôi chao đảo.

- Tôi...

Tôi đã quên mất rằng tên ranh này từng đánh bại nhà biện kinh vô địch Tây

Vực. Nếu cậu ta tiếp tục chất vấn, bí mật của tôi chắc chắn không thể giữ

được nữa!

- Thôi được rồi, cô đừng lo lắng.

Nhìn gương mặt đỏ bừng của tôi, cậu ta bỗng bật cười:

- Nếu cô không muốn nói, tôi không ép buộc. Tôi sẽ thuyết phục đức vua

xây dựng chùa hang đá này khi về đến Khâu Từ, sẽ đặt tên là Thiên Phật động

Kizil. Và tất nhiên sẽ xây dựng theo thiết kế cô vừa nói.

Cậu ta nhìn tôi, đôi mắt tinh anh tỏa sáng, lắc đầu và cười:

- Ngải Tình, cô có biết điệu bộ ngơ ngác của cô khi nãy rất dễ thương

không? Bất kể cô từ đâu đến, cô là cô gái thông minh xinh đẹp nhất mà Rajiva

từng gặp.

Hai má tôi đã bớt nóng, nhưng miệng tôi vẫn chưa khép lại. Thật không thể

tin được, Thiên Phật động Kizil đã được xây dựng như thế đấy! Tôi đập khẽ

vào miệng mình tự trừng phạt và dặn lòng từ nay sẽ cấm nói năng lung tung.

Tôi làm sao mà gánh nổi tội danh làm rối loạn lịch sử kia chứ!

Quay đầu lại và phát hiện hành động tự phạt vừa rồi đã lọt vào mắt Rajiva,

đen đủi thế không biết! Cậu ta không nói gì, nhưng ánh mắt nhìn tôi như đang

nghiên cứu lại như đang dò la. Kể từ lúc ấy, tôi luôn nhắc nhở mình không

được nhiều lời.

Cuối cùng, chúng tôi đã đến được Khâu Từ. Đội ngũ nghênh tiếp lần này

còn long trọng hơn cả khi ở Wensu, từ xa đã văng vẳng tiếng nhạc mừng réo

rắt. Những lán trại chạy dài hàng mấy trăm mét trước cổng thành. Phía trước

mỗi lán trại đều có các tăng sĩ với trang phục của các cao tăng hướng về phía

chúng tôi hành lễ. Rajiva và Jiva lập tức xuống ngựa, cung kính chắp tay tạ lễ

với các cao tăng đó. Tôi chỉ để tâm đến những pho tượng Phật dựng bên

trong các lán trại, giá như có thể bảo tồn đến thời hiện đại thì tốt biết bao!

Dẫn đầu đoàn nghênh tiếp là một phụ nữ trung tuổi, thân hình béo tốt,

khoác trên mình bộ trang phục quyền quý với váy dài thêu kim tuyến tay lỡ,

chắc chắn là hoàng hậu! Đám phụ nữ và trẻ nhỏ ăn mặc cầu kỳ quý phái phía

sau hẳn là các phi tần, hoàng tử và công chúa. Tiếp đó là đến các quan văn

quan võ, hàng trăm con người cung kính hành lễ với đức vua Bạch Thuần,

không khí hết sức trang nghiêm. Chỉ trong phút chốc tôi đã được diện kiến

toàn bộ giới quý tộc và hoàng thất Khâu Từ, tôi ước sao có cái máy ảnh ở đây

để ghi lại khung cảnh cảm động này.

Hoàng hậu ôm chầm lấy Jiva và Rajiva, xúc động bật khóc nức nở. Mẹ con

Jiva mắt đỏ hoe, họ đang cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến một

người trong đám quý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn

những người Khâu Từ khác.

Đó là một người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất

cao, thân hình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt

to sâu trũng in giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái

toát lên vẻ thông thái và nhân hậu. Ông không thả tóc ngang vai như người

Khâu Từ, mái tóc ông cắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở hiện đại nhưng

đã lốm đốm sợi bạc. Dù ông đang mặc trên mình trang phục của người Khâu

Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận ra ông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ “đẹp

trai” để miêu tả về ông thì thiệt thòi cho ông quá! Điều đáng nói ở đây là khí

chất thoát tục ở ông, đó là thứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt

giữa hàng trăm con người, khiến người khác phải chú ý và khi đã chú ý đến

ông rồi thì khó mà dứt được ánh nhìn để chuyển hướng đi chỗ khác.

Ông dắt theo một cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da

trắng  ngần  giống  người  Khâu  Từ  và  những  đường  nét  trên  khuôn  mặt  thì

giống hệt Rajiva, nhưng dễ thương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy đang

bận ngó nghiêng khắp nơi, khi thấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm

chú nhìn tôi mãi. Tôi cười với cậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu

bé giật mình, vội vã quay mặt đi.

Không nghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana,

người đã từng từ bỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở

phía đông để đến đất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư,

là cha của Kumarajiva và là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy

làm chồng. Cậu bé có khuôn mặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em

trai của cậu, tôi không nhớ tên cậu bé là gì. Trong “Truyện cao tăng”, Tuệ Giảo

chỉ ghi lại một cái tên, tức là trong sự phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn

tại vì là em trai của Kumarajiva.

Hoàng hậu đã ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana,

Jiva chắp tay hành lễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn

ngập đầy trong đôi mắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn

ôm bà vào lòng, nhưng ông chỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ.

Chú bé tinh nghịch không cần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm

lấy mẹ kêu khóc thảm thiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan

chứa. Rajiva quỳ lạy cha, nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ

đều rất xúc động, họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn.

Nghi lễ đón tiếp đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép

đức vua được đưa vợ con về phủ, Jiva không phản đối, có lẽ vì bà cũng rất

nhớ con. Thế là tôi cùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.

Tôi đã tìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng

Phạn, vậy là lại có thêm một cái tên khó đọc nữa.

Chương 11: Tôi có thêm học sinh

Jiva và Rajiva chỉ ở lại nhà ba ngày, rồi chuyển đến chùa Vương Tân (chùa

Tsioli). Đó là ngôi chùa của hoàng gia, tọa lạc trên khu đất phía Tây hoàng

cung, cách phủ quốc sư chừng mười lăm phút đi bộ. Trước khi chuyển đi,

Rajiva đã sắp xếp chu đáo mọi việc: Vì tôi là cô giáo của cậu nên vẫn được ở lại

trong phủ. Hàng ngày cậu sẽ về nhà sau giờ tụng kinh buổi chiều để học bài.

Kế hoạch đến Trung Nguyên phải hoãn lại, vì hiện nay đang là mùa đông,

tuyết rơi dày đặc, đóng băng trên mọi ngả đường, các đội lái buôn đã tạm

dừng hành trình. Nếu muốn đi, phải chờ đến mùa xuân năm sau. Vả lại, tôi

cũng không vội vàng gì. Vừa mới chân ướt chân ráo đến Khâu Từ, tôi còn chưa

bắt đầu công việc khảo sát của mình, mà tiếng Tochari tôi cũng chưa học ra

ngô ra khoai gì cả. Có người chịu cấp cho tôi nơi ăn chốn ở tử tế, không có lý

gì tôi lại từ chối công việc dạy học này.

Chủ nhà, Kumarayana hiếu khách và rất đôn hậu, lúc nào ông cũng ân cần,

chu đáo với tôi. Ông nho nhã, lịch thiệp giống hệt giáo sư ở các trường đại học

vậy. Giá như trường tôi có một giảng viên như ông, chắc chắn toàn thể học

sinh nữ của trường sẽ đua nhau đăng ký môn ông giảng dạy, lớp học sẽ không

có chỗ ngồi, thậm chí, hành lang cũng chật cứng ấy chứ. Nếu ông dạy tiếng

Phạn, thầy Quý sẽ không còn phải rầu rĩ than phiền vì không có sinh viên nào

chịu theo học ngôn ngữ này nữa. Kumarayana hoàn toàn tin tưởng ở tôi, ông

không bao giờ gặng hỏi tôi về phương pháp lên lớp. Và sau khi nghe Rajiva tán

dương tôi, ông còn đề nghị tôi tiếp nhận thêm một học sinh nữa.

Tôi đã kịp dạo quanh mấy vòng thành cổ Khâu Từ. Quốc gia này có ba tòa

thành quách rộng lớn, được canh phòng nghiêm ngặt. Chính giữa là cung điện

nguy nga tráng lệ. Diện tích tòa thành lớn gấp năm, sáu lần tòa thành Wensu

mà tôi từng khảo sát. Tín ngưỡng Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt ở nơi

đây. Đến đâu cũng bắt gặp đền chùa, miếu mạo hoặc to hoặc nhỏ được xây

lên với mật độ dày đặc.

Khâu Từ dựa lưng vào núi Thiên Sơn ở phía bắc, được xem là quốc gia có

nguồn nước dồi dào nhất Tây Vực, vì vậy trồng trọt và chăn nuôi rất phát triển.

Núi Thiên Sơn lại dồi dào khoáng sản, có thể cung cấp cho tất cả các quốc gia

trong khu vực. Thêm vào đó, Khâu Từ nằm trên giao lộ của con đường tơ lụa,

thương nghiệp phát triển kèm theo sự phát triển rực rỡ của thủ công nghiệp.

Vì vậy, Khâu Từ là quốc gia giàu có nhất ở Tây Vực.

Mỗi ngày, từng đoàn ngựa thồ tơ lụa lũ lượt qua lại trên những trục đường

chính, cảnh buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các thương lái diễn ra cực kỳ

tấp nập, ngựa xe như nước như nêm. Cả thành phố hệt như buổi triển lãm của

các sắc tộc: Người Yue Zhi, Wusun, Hung Nô, Turk, Sienpi, Joujan, Mông Cổ,

Ba Tư, Iran, Ấn Độ, thậm chí cả những người thuộc chủng tộc người châu Âu

hiện đại như: Hy Lạp và Roma và rất nhiều người Hán. Mỗi lúc bước chân ra

phố, tôi đều dừng lại, mê mải ngắm nhìn dòng người đủ mọi màu da và trang

phục đi qua đi lại trước mặt. Chỉ đến khi cậu học trò mới đang dắt tay tôi đi

bên cạnh vác bộ mặt khinh khỉnh nhìn lên, tôi mới cất bước đi tiếp trong sự

nuối tiếc.

Nhắc đến cậu học trò mới này mới nhớ, cậu ta chính là vấn đề khiến tôi đau

đầu nhất hiện nay.

Một chú nhóc trắng trẻo, cực kỳ đáng yêu đang say sưa cầm bút chì vẽ

nguệch ngoạc lên tập giấy nháp của tôi, sau đó dùng cục tẩy xóa đi rồi lại tiếp

tục vẽ. Cậu nhóc coi dụng cụ học tập có thể sử dụng nhiều lần này của tôi là

thứ đồ chơi hấp dẫn nhất, cứ miệt mài vẽ vẽ xóa xóa cả ngày không chán.

Tôi đứng bên, lòng đau như cắt:

- Cậu nhỏ ơi, ông nhỏ ơi, quỷ sứ ơi! Cậu nghĩ nhà tôi mở cửa hàng bán

dụng cụ học tập chắc? Cục tẩy chỉ còn một nửa, bút chì cũng chỉ còn nửa cây,

lại mất oan thêm ba trang giấy nữa rồi. Cậu có biết những thứ này đều là tài

nguyên không thể tái sinh không? Cậu dùng hết của tôi như thế, ở cái thời đại

này, cậu đi đâu mà mua đền cho tôi đây hả?

 Thực ra trong túi tôi vẫn còn, nhưng ai mà biết được tôi phải ở lại đây bao

lâu nữa, thế nên tôi không thể không tiết kiệm.

Cậu nhóc không thèm để ý đến lời van xin của tôi, vẫn tiếp tục vẽ. Mà cũng

vì cậu ta chưa hiểu tiếng Hán. Nhưng khi tờ giấy thứ tư “qua đời”, tôi không

thể nhẫn nhịn thêm được nữa, liền quát to bằng tiếng Tochari:

- Đừng. .. vẽ. .. nữa!

Cái giọng nạt nộ sư tử Hà Đông của tôi chẳng ăn thua. Cậu nhóc ngước đôi

mắt to tròn, sáng long lanh nhìn tôi chớp chớp. Đôi mắt giống hệt Rajiva, đều

thừa hưởng từ cha đôi đồng tử màu xám nhạt và mái tóc xoăn hung đỏ của

mẹ. Đôi mắt ấy đảo qua đảo lại vài lượt, rồi buông bút chì, trèo xuống ghế, lao

thẳng vào lòng tôi:

- Thế thì chị hát cho em nghe đi!

Lại  thế  rồi!  Lần  trước  Kumarayana  có  việc  phải  đi  Gumo,  mấy  ngày  liền

không về, đêm nào cậu nhóc cũng lẻn vào phòng tôi đòi ngủ cùng. Không

muốn phí sức quát nạt, tôi đành hát một ca khúc thiếu nhi cho cậu ta nghe.

Nào ngờ, kể từ hôm đó, ngày nào cậu nhóc cũng vòi tôi hát cho bằng được và

còn yêu cầu không được hát trùng bài. Thế là các ca khúc hiện đại của tôi trở

thành nhạc ru. Xui xẻo đến thế là cùng!

Tôi thở dài, nhích sang bên, nhường nửa phần ghế cho cậu nhóc ngồi lên

và tựa người vào lòng tôi. Vừa khe khẽ hát bài “Ngủ ngoan bé yêu” của Châu

Hoa Kiện, vừa vỗ nhè nhẹ vào lưng cậu. Cậu nhóc nhắm tịt mắt lại, hai hàng

lông mày dài và mượt mà càng tôn thêm sống mũi cao thanh tú, rất đáng yêu!

Tôi có thể hiểu được vì sao cậu nhóc thích quấn tôi như vậy. Mẹ và anh trai

đều phụng sự Phật tổ, cậu ta vừa lên sáu thì mẹ bỏ ra nước ngoài, bốn năm

biền biệt, bặt vô âm tín. Vú già, người gần gũi nhất, chăm sóc cậu từ nhỏ đã

qua đời mấy năm trước. Tuy trong nhà không ít người hầu và bảo mẫu, nhưng

không ai có thể cho cậu ta tình yêu thương của người mẹ. Ở tuổi này, cậu

nhóc rất cần có bạn, tuy hàng ngày vẫn vào cung học bài cùng các hoàng tử,

nhưng về đến nhà, không ai chơi với cậu, nô đùa với cậu. Người anh hơn cậu

ba tuổi thì trở nên già dặn từ rất sớm, mà bốn năm rồi họ không gặp nhau.

Mỗi lần nhìn thấy Rajiva, cậu nhóc tỏ ra rất dè dặt.

Bởi vậy sự xuất hiện của tôi vừa đóng vai trò một người mẹ, vừa là bạn chơi

đùa, vừa là đối tượng để ngày ngày cậu vòi vĩnh, nũng nịu. Những hành động

nghịch ngợm của cậu chẳng qua là để thu hút sự chú ý của tôi, vì muốn được

tôi quan tâm hơn mà thôi. Nhưng như vậy thì khổ cho tôi quá! Mỗi ngày tôi

phải diễn không biết bao nhiêu vai: lúc đầu là quân lính dưới trướng của đại

tướng quân, nghe tướng quân sai khiến vào báo cáo tình hình. Sau đó lại vờ

giả giọng quân địch khiêu chiến với đại tướng quân. Và cuối cùng giả làm bại

trận giương cờ trắng đầu hàng và xin tha mạng. Ngày ngày phải nô giỡn, chạy

đuổi, chiến đấu với một cậu nhóc đang tuổi ăn tuổi lớn, khiến tôi mệt không

thở nổi.

Khi làn điệu thương yêu, ru vỗ kết thúc, cũng là lúc cậu nhóc chìm vào giấc

ngủ say sưa. Tôi ôm cậu đặt lên giường. Tay bóp vai, miệng khẽ lẩm bẩm:

Nhóc nặng quá, lớn thêm chút nữa chắc chị bế không nổi. Mười tuổi rồi mà

vẫn ham chơi như con nít ấy. Mới hát hết một bài mà đã say sưa ngủ.

Tuyết rơi không ngớt mấy ngày qua. Tôi là người vùng Giang Nam, nên mặc

dù hiệu ứng nhà kính làm cả trái đất nóng lên, tôi vẫn rất ít khi được chứng

kiến những trận tuyết lớn như thế này. Mấy ngày đầu tôi rất thích thú, còn hào

hứng kéo Pusyseda cùng đi đắp người tuyết. Nhưng chẳng được bao lâu, tôi

bắt đầu thấy chán, vì tuyết rơi quá dày mà tôi thì sợ lạnh. Nên từ hôm đó, tôi

rất hạn chế ra khỏi phòng, công việc khảo sát cũng phải tạm gác lại một bên.

May  mà  Rajiva  mang  đến  cho  tôi  rất  nhiều  sách  tiếng  Hán:  “Sử  ký”,  “Tả

truyện”, “Lã thị xuân thu”, “Chiến quốc sách”, “Kinh thi”,. .. những cuốn mà tôi

đã đọc từ lâu. Và cả một số thư tịch vốn đã thất truyền như “Thạch thị tinh

kinh”.

Phòng đọc sách của gia đình Rajiva có rất nhiều kinh văn và tài liệu viết

bằng các thứ tiếng: Phạn, Tochari, Brahmi, Kharosthi, với nội dung phong phú,

đa dạng, đề cập đến hầu hết các lĩnh vực: thanh vận, ngữ văn, công nghệ, kỹ

thuật, phương pháp tính lịch, y học, logic học, thiên văn học, nhạc luật và lịch

pháp.

Tôi nhìn kho sách đồ sộ ấy mà thèm thuồng. Nếu như có thể đưa chúng về

thời hiện đại, sẽ có giá trị nghiên cứu lớn lao đến nhường nào. Phần đông mọi

người không thể mua nổi những thư tịch của thời đại này, vì mỗi cuốn sách có

giá trị tương đương bằng một năm thu nhập của người dân. Đó là chưa kể

những  cuốn  sách  được  viết  trên  lụa.  Rồi  những  công  văn  của  quan  phủ,

những khế ước mua bán, phần lớn đều được viết trên gỗ, vì giấy viết đắt hơn

gỗ rất nhiều lần.

Nhìn bên ngoài, phủ quốc sư trông rất giản dị, cách bày trí cũng đơn giản,

thì ra toàn bộ của cải giá trị nhất đều nằm trong căn phòng này.

Thế nên, mỗi ngày tôi đều đến và ngồi lì ở đây mấy tiếng đồng hồ, miệt mài

chép lại những tài liệu quý giá đó. Tôi từng nghĩ đến việc đi mua, nhưng ở đây

có rất nhiều cuốn sách, mà dù có cầm bao nhiêu tiền ra phố cũng không thể

mua được. Đó là những cuốn mà Kumarayana mang về từ Ấn Độ, hay những

cuốn sách quý hiếm do sứ giả các nước lân bang dâng tặng vua Khâu Từ. Nếu

tôi không thể mang đi, vậy thì chỉ còn cách chép lại. Do vậy, hơn mười ngày

qua đi, với tôi không hề buồn tẻ.

Hàng ngày, mỗi khi về đến nhà, Rajiva vào chào cha, rồi đến chỗ tôi học

bài, sau đó đến thư phòng đọc sách. Cậu ta lặng lẽ đọc sách, tôi lặng lẽ chép

sách. Lúc về chùa, cậu thường mang theo cuốn sách còn đang đọc dở dang,

nhưng hôm sau đã thấy cậu ta đổi lấy cuốn mới. Có hôm cậu về nhà khi giờ

học của Pusyseda vẫn chưa kết thúc. Cậu lặng lẽ ngồi bên cạnh nghiên cứu

trước bài học. Đến lúc tôi bắt đầu giờ dạy thì cậu đã thuộc làu những nội dung

tôi sắp thuyết giảng, nhiều chỗ tôi đọc sai, cậu ta còn nhẹ nhàng nhắc nhở,

khiến tôi toát cả mồ hôi. Cậu ta tưởng tôi là thiên tài chắc. Kiến thức lịch sử

của năm ngàn năm chứ ít à, sai vài chỗ có sao đâu? Tôi tức quá cốc vào đầu

cậu ta một cái, cảnh cáo cậu ta không được qua mặt giáo viên.

Đang vừa ôn lại những kỷ niệm làm gia sư trong hơn mười ngày qua ở phủ

quốc sư, vừa kéo chăn lên đắp cho Pusyseda, chợt có cảm giác lành lạnh sau

lưng, thì ra là Rajiva. Cậu vén tấm rèm chắn gió và đứng tựa lưng bên bậu

cửa, nhìn tôi.

- Ủa, sao hôm nay cậu về sớm vậy?

Giờ tụng kinh buổi chiều của Rajiva bắt đầu từ bốn giờ và kết thúc lúc năm

giờ. Vì vậy, thông thường, khoảng sáu giờ cậu ta mới đến chỗ tôi học bài.

Nhưng hôm nay năm giờ ba mươi phút đã có mặt. Bạn thắc mắc vì sao tôi nắm

được giờ giấc chính xác như vậy ư? Vì chiếc đồng hồ vượt thời gian của tôi có

cả chức năng báo giờ, có cả lịch âm, dương đối chiếu nữa, rất tiện dụng. Từ

khi chức năng vượt thời gian bị hỏng, chiếc đồng hồ này chỉ có thể dùng để

xem giờ. Nên tôi vẫn ngày ngày đeo nó trên tay, mọi người nhìn thấy cũng chỉ

cho rằng đó là một chiếc vòng tay kì dị.

Còn điều này nữa tôi cần phải nói rõ. Múi giờ ở Tân Cương và Bắc Kinh

chênh lệch nhau hai tiếng. Vì vậy, khi đi du lịch Tân Cương, tôi thường điều

chỉnh thời gian theo giờ địa phương. Nếu không thời gian biểu hằng ngày của

tôi sẽ trở nên rất quái dị vì: mười giờ sáng thức giấc, hai, ba giờ chiều ăn trưa,

buổi tối chín giờ đèn vẫn sáng trưng, một giờ đêm mới đi ngủ. Dù sao thì 1650

năm trước, con người vẫn chưa có khái niệm về chênh lệch múi giờ, nên tôi đã

điều chỉnh theo giờ ở Tân Cương thế kỷ XXI.

- Tôi vào cung trò truyện với đức vua, sau đó về thẳng đây.

Cậu ta bước vào phòng, liếc nhìn Pusyseda đang ngủ trên giường, rồi đột

nhiên nói bằng tiếng Tochari:

- Đừng giả vờ nữa!

Pusyseda lập tức mở mắt, trườn xuống khỏi giường, khuôn mặt ửng đỏ,

miệng lí nhí:

- Anh trai!

Tôi trợn tròn mắt, thằng bé láu lỉnh này, dám giả vờ ngủ để được tôi bế lên

giường. Vẫn vẻ thản nhiên khi nãy, Rajiva nhắc nhở Pusyseda về phòng đi

ngủ. Pusyseda sợ anh trai hơn cả cha, nên vội vàng lủi ngay.

- Cậu ấy còn nhỏ, không nên nghiêm khắc quá.

Bản năng người mẹ trong tôi chợt trào dâng, tôi chưa bao giờ nặng lời hay

gay gắt với Pusyseda.

- Bài hát khi nãy rất hay.

Cậu ta khéo léo đổi đề tài.

- Chỉ là mấy ca khúc thiếu nhi của người Hán thôi. Nhạc Khâu Từ chắc hay

hơn nhiều.

“Âm nhạc Khâu Từ nổi tiếng khắp vùng, ai nấy đều biết”, đó là lời ca ngợi

của Huyền Trang về âm nhạc Khâu Từ.

- Tôi chưa được nghe bao giờ.

Cậu ta ngập ngừng, một chút buồn vương trên đôi mắt.

- Cha mẹ tôi chưa bao giờ hát ru tôi như cô.

Tôi bật cười tưởng tượng cảnh Kumarayana và Jiva hát ru các con, có lẽ

thay vì hát họ sẽ tụng kinh.

Rajiva hơi ngạc nhiên khi thấy tôi cười. Tôi vội đề nghị:

- Cậu có muốn nghe không?

Cậu ta hơi do dự, không trả lời tôi, chỉ cúi đầu im lặng. Rồi như phải quyết

tâm lắn, cậu ta mới ngẩng đầu nhìn tôi gật mạnh một cái. Tôi thấy hơi lạ, chỉ

nghe một bài hát thôi mà, việc gì phải đắn đo đến vậy? Tôi hát lại bài “Ngủ

ngoan bé yêu”. Rồi, tôi chợt nhớ đến trường đoạn Song Hye Kyo vừa sáng tác

lời vừa tự biên tự diễn những điệu nhảy rất mắc cười trong phim “Ngôi nhà

hạnh phúc”. Điệu nhảy chẳng có gì là nghệ thuật, nhưng có tác dụng gây cười

rất tốt. Thế là tôi ra sức bắt chước điệu nhảy đó. Tiểu hòa thượng đẹp trai

trước  mặt  tôi  đang  cười  rạng  rỡ,  đó  là  điệu  cười  thoải  mái,  vô  lo  vô  nghĩ

thường thấy ở một thiếu niên mười ba tuổi.

Tôi hát xong rồi mà cậu ta vẫn tiếp tục cười sảng khoái, nụ cười rất đẹp. Tôi

lặng lẽ ngắm nhìn Rajiva, muốn in lại hình ảnh trẻ trung đó trong trí nhớ. Suốt

mấy ngày tôi hì hục vẽ Rajiva, vì tôi muốn đem hình cậu ta trở về thời hiện đại,

để mọi người ở thế kỷ XXI được chiêm ngưỡng chân dung sống động của vị

hòa thượng vĩ đại 1650 năm về trước. Nhưng tôi vốn không phải họa sĩ, tôi có

thể phác thảo hình cắt ngang cắt dọc của vật thể, nhưng vẽ chân dung thì

quả là trình độ còn hạn chế. Vẽ đi vẽ lại nhiều lần vẫn không ưng ý. Chưa nói

đến thần thái thoát tục của cậu ấy, chỉ riêng ngoại hình của cậu ấy cũng chưa

đạt nổi ba phần. Lúc này, tôi ước gì có một cây bút thần. Nụ cười ấy, đẹp như

tạc, nếu có thể họa lại, để lưu giữ đến ngàn sau, thì tuyệt biết bao!

Khuôn mặt Rajiva lại bắt đầu ửng đỏ, ánh mắt phiêu du xa xôi. Tôi chợt tỉnh

cơn mơ, khi nãy chắc là tôi nhìn cậu ta chăm chú quá khiến cậu ta mất tự

nhiên. Tôi vội vàng tìm cách chuyển chủ đề:

- Này Rajiva, đức vua gặp cậu có việc gì thế?

Chương 12: Vì sao xuất gia?

- Đức vua muốn tôi hoàn tục, trợ giúp ngài xử lý công việc triều chính.

- Cậu đã từ chối, đúng không?

Nếu không, chúng ta làm sao có được một dịch giả vĩ đại chứ!

- Sao cô biết được?

Rajiva nghiêng mắt nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.

- Vì cậu là Kumarajiva kia mà!

Nói như vậy thì chỉ người hiện đại mới hiểu được. Thế nên tôi vội vàng đổi

giọng:

- Bởi vì, cậu không chỉ muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu

hành sau khi đã thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh

giới cao nhất, mà cậu còn mong muốn cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh,

tu thành chính quả, cứu giúp cuộc đời.

Trong những ngày lênh đênh trên sa mạc, chúng tôi từng thảo luận về lí

tưởng. Khi ấy tôi vẫn chưa biết cậu ta là Kumarajiva, nên không dám mở lời.

Nhưng giờ đây, tôi đã biết được thân phận thật sự của cậu ấy, lại đã từng đọc

tài liệu về cậu ấy, nên tôi hiểu Rajiva đang trăn trở điều gì.

Tôi luôn cho rằng Phật giáo là một tôn giáo thú vị và các vị cao tăng tín

Phật đều là những triết gia.

Trước khi viên tịch, Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mani) không để lại bất cứ

kinh văn có tính chuẩn mực nào giống như “Kinh Thánh” của đạo Cơ đốc hay

“Kinh Coran” của đạo Hồi và khi ấy, Phật giáo cũng mới chỉ là một chi phái nhỏ

trong số rất nhiều tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Nhưng kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni,

Phật  giáo  đã  có  những  chi  phái  của  mình,  như  chi  phái  do  người  em  họ

Devadatta của Đức Phật lập nên chẳng hạn.

Các đệ tử của Phật tổ cũng có những kiến giải không giống nhau về giáo lý

Phật giáo. Những người có tư tưởng khác biệt thường sẽ viết ra một bộ kinh

văn và lập nên giáo phái của riêng mình. Bởi vậy, mấy ngàn năm qua, các tông

phái Phật giáo ra đời như nấm sau mưa, tổng hợp các loại kinh văn từ những

tông giáo này có thể phải mấy đời mới đọc hết. Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông

là những nhánh chính, còn những nhánh nhỏ khác thì nhiều vô kể. Tiểu Thừa

có Tuyết Sơn Bộ với thuyết “nhất thiết hữu bộ” (tất cả, quá khứ, hiện tại và

tương lai đều hiện hữu đồng thời). Phật giáo Đại Thừa ở Trung Nguyên có

Thiên Đài Tông, Tịnh Thổ Tông, Pháp Tướng Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền

Tông. Giáo phái Mật Tông Tây Tạng có: Gelugpa giáo, Nyingmapa giáo, Kagyur

giáo, Sakya giáo, Hoàng giáo, Hồng giáo, Hoa giáo, Hắc giáo, nhiều đến nỗi hồi

đi du lịch Tây Tạng, mặc dù đã đọc rất nhiều sách, tôi vẫn lơ mơ không hiểu gì

hết.

Nói nhiều như thế là để giải thích vì sao Phật giáo lại có nhiều tông phái đến

vậy.

Có thể thấy rằng, các vị cao tăng đều đắc đạo, sáng lập ra giáo phái riêng

ấy đều là những triết gia uyên bác. Phật giáo là tôn giáo có sức lôi cuốn mãnh

liệt với những con người trí tuệ siêu việt này. Thử nghĩ xem, nếu bạn là người

có trí tuệ vượt xa người bình thường, với tầm tư duy mà người bình thường

không có được và trên cơ sở không đi ngược lại những giáo lý truyền thống,

bằng con đường tôn giáo, bạn có thể phát biểu nhân sinh quan, thế giới quan

hay những kiến giải uyên thâm của bạn về thế giới tinh thần, để được ngàn

vạn người cảm phục, ngưỡng mộ và tin theo. Điều đó thật vĩ đại. Đối với các vị

cao tăng, nếu có thể đem toàn bộ những kiến thức tích lũy một đời xây dựng

lên những học thuyết, những giáo lý với quan điểm của riêng mình, rồi lập ra

tông phái riêng, đó sẽ là thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực Phật học.

Rajiva thông minh trác tuyệt, lại giỏi tư duy, biện luận không khác một triết

gia, chắc chắn cậu ấy cũng muốn được trở thành người cha tinh thần của vạn

người, giác ngộ và dẫn dắt chúng sinh đến cảnh giới mà cậu cho là tuyệt đối.

Tuy mới mười ba tuổi, nhưng tôi tin rằng, cậu đã sớm hình thành nhân sinh

quan và thế giới quan đó từ lâu rồi.

Tôi cứ mải mê theo đuổi những suy nghĩ bất tận của mình mà không nhận

ra không khí im lặng đã kéo dài từ nãy đến giờ. Thì ra Rajiva đang nhìn tôi

chăm chú, khóe môi hơi run run, ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào

tôi, đôi mắt ấy như đang thưởng thức, như đang xúc động và nhiều hơn cả là

cảm giác như được an ủi bởi vừa gặp được tri âm.

- Ngải Tình, Rajiva có phẩm hạnh gì mà được gặp cô giữa nhân gian rộng

lớn này.

Tôi cười gượng gạo. Chẳng qua vì tôi đã đọc được những tài liệu viết về cậu

ta,  tôi  biết  lúc  đầu  Rajiva  theo  học  Phật  giáo  Tiểu  Thừa  nhưng  sau  đó  đã

chuyển sang Đại Thừa. Những gì tôi vừa nói chỉ là khái quát, tựu chung điểm

khác biệt cơ bản giữa hai tông phái này mà thôi. Vả lại trước đó, Rajiva cũng

từng thể hiện nỗi trăn trở, nên tôi có thể đoán được mối suy tư lúc này của

cậu chính là vấn đề thay đổi tông phái.

- Ngải Tình, còn nhớ một buổi tối nọ trên sa mạc, cô từng hỏi tôi vì sao lại

xuất gia không?

Ánh mắt Rajiva bỏ tôi ở lại, để trôi về nơi xa xăm. Tôi xốc mình ngồi ngay

ngắn, để có thể lắng nghe một cách nghiêm túc.

- Năm tôi lên bảy, mẹ tôi ra ngoại thành du ngoạn, thấy xác người đầy gò,

xương trắng đầy đồng, bà nhận ra rằng, tham lam là nguyên nhân gây ra mọi

đau khổ. Dục vọng của con người khủng khiếp tựa ngọn lửa dưới địa ngục,

ngọn lửa ấy sẽ thiêu đốt con người thành tro bụi, khiến con người phải phơi

xác chốn đồng hoang. Bà không muốn phải chịu đựng những dày vò khốn khổ

ấy thêm nữa, nên đã thề rằng: nếu không thể cắt tóc đi tu, bà sẽ không ăn

uống gì hết. Cha tôi lúc đầu phản đối kịch liệt, nhưng mẹ đã quyết chí tuyệt

thực. Cho đến buổi tối ngày thứ sáu, khi hơi thở của mẹ đã mỏng như làn gió,

mà bà vẫn không chịu ăn uống. Cha tôi hoảng sợ, đành nhận lời với bà. Nhưng

mẹ sợ cha đổi ý, đã yêu cầu phải để bà xuống tóc trước rồi mới chịu ăn. Ngày

hôm sau bà thọ giới, ra khỏi nhà, chuyển đến tu tại chùa Tsio- li.

Truyện kể về Rajiva đã chép rất rõ ràng nguyên nhân Jiva xuất gia, nên tôi

khẽ gật đầu:

- Vì vậy, cậu đã theo mẹ xuất gia?

Rajiva lắc đầu, ánh mất dừng lại hồi lâu trên ngọn đèn dầu đang đu đưa

trong gió, dường như cậu đang nhớ lại điều gì.

- Sau khi mẹ xuất gia, vì quá nhớ thương bà, tôi thường xuyên đến chùa

thăm mẹ. Khi bà và các vị đại sư tụng kinh, tôi ngồi bên cạnh lắng nghe.

Không biết vì sao, những kinh văn đó, tôi chỉ nghe một lần là thuộc làu làu,

khiến ai nấy đều kinh ngạc. Trong chùa có vị cao tăng Phật Đồ Thiệt Di hỏi tôi

về ý nghĩa những bài kệ mà tôi thuộc, tôi đều trả lời lưu loát. Thầy khen tôi là

nhân tài của Phật môn, nên đã trò chuyện với mẹ, bày tỏ mong muốn nhận tôi

làm đệ tử.

Trí tuệ siêu phàm của Rajiva được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ. Trong truyện

kể về cậu lúc bảy tuổi, đã miêu tả như sau: “Một ngày đọc thuộc năm nghìn

bài kệ, mỗi bài ba mươi hai chữ, tổng cộng ba mươi hai nghìn chữ”. Bạn thử

nghĩ xem, một cậu bé mới bảy tuổi mà mỗi ngày có thể học thuộc ba mươi hai

nghìn chữ, mà là những kinh văn khó hiểu, có lẽ chỉ có Albert Einstein hay

Steven William Hawking mới có thể so sánh được. Tôi nghĩ rằng nếu để Rajiva

đọc thuộc lòng số Pi, chắc chắn cậu ấy sẽ phá được kỷ lục Guiness.

- Mẹ hỏi tôi có bằng lòng xuất gia hay không. Tôi nghĩ rằng xuất gia thì sẽ

được ở bên mẹ, nên đã đồng ý.

Tôi hơi sững sờ, nhưng cũng phải thôi, dù cậu ấy có thông minh bao nhiêu,

cũng chỉ là một chú nhóc không hơn không kém, chú nhóc ấy không muốn xa

mẹ. Lí do này, rất tự nhiên. Nhưng cuộc đời của Rajiva đã được quyết định bởi

cái gật đầu năm bảy tuổi ấy.

Ánh mắt Rajiva rời khỏi ngọn đèn, trôi về phía tôi, vẻ băn khoăn lại hiện trên

nét mặt:

- Lần trước, khi cô hỏi tôi vì sao xuất gia, tôi mới nhận ra, tôi không biết

phải trả lời thế nào. Vì muốn ở bên cạnh mẹ ư? Tôi đâu còn là đứa trẻ bảy

tuổi. Thêm vài năm nữa, tôi sẽ thọ đại giới và chính thức bước vào cõi sắc sắc

không không. Nhưng, những ngày qua, hằng đêm tôi vẫn tự hỏi, rốt cuộc, tôi

xuất gia vì điều gì?

- Cậu đã có câu trả lời chưa?

Tôi hơi tò mò.

- Trước đây, khi theo học Phật pháp, các thầy đều giảng rằng, bằng con

đường tu hành có thể tự giải thoát, thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa sân si,

dục vọng và vươn đến cõi Niết Bàn. Khi ở Kabul, tôi theo đại sư Bandhudatta

nghiên cứu Phật giáo Tiểu Thừa, tổng cộng có bốn triệu câu kinh giảng giải về

phương pháp tu thành chính quả. Nhưng...

Rajiva đứng lên, bước về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi

là một dáng hình cô đơn, khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng đã toát lên thần

thái của một bậc cao tăng.

- Trên đường trở về Khâu Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa

mạc, đạo tặc hoành hành khắp nơi, người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm

băn khoăn, tôi có thể đắc đạo thông qua con đường tu hành, nhưng những

con người đó thì sao? Đám giặc cướp ấy vẫn ngang ngược làm càn, chúng sinh

vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải của sinh lão bệnh tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật

pháp phỏng ích gì?

Tôi đứng lên, bước lại gần Rajiva, nhẹ nhàng lên tiếng:

- Tiểu Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo

Đại Thừa, cậu cảm thấy tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn.

Địa Tạng Vương Bồ Tát từng nói: Khi nào địa ngục còn chưa vắng âm hồn, thề

sẽ không thành Phật. Có phải cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều

người chứ không chỉ cứu rỗi bản thân?

Rajiva đột ngột quay lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.

- Đúng vậy. Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên

tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa, tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua,

cùng cô thảo luận về Phật pháp, những kiến giải thâm thúy của cô về Phật

giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ, có điều...

Gương mặt thoáng chút ưu tư, giọng nói trở nên u uẩn:

- Có điều sau khi trở về Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa,

các vị sư phụ đều cho rằng đó là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi

cảm thấy rất khổ tâm.

Tôi có thể hiểu được tâm trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng

thịnh suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai

tông phái này diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn

là một tông phái nhỏ bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi “xấu xa” của một bộ

phận rất nhỏ các “tăng sĩ tích cực”. Vì vậy, có thể hiểu được Rajiva đã gặp

phải sự kháng cự, phản đối mạnh mẽ đến thế nào và nội tâm cậu đã phải đấu

tranh, giằng xé ra sao.

- Rajiva, thực ra, Đại Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu

Thừa, hai tông phái này không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì

muốn chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc

nghiệt, bởi vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng

theo lối tu khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng

của bản thân, có thể đạt đến sự giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát

triển và đổi thay. Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng

trở nên rõ rệt.

Tôi bước đến bên cạnh Rajiva và nhìn cậu bằng sự chân thành lớn nhất mà

tôi có:

- Phật giáo Tiểu Thừa đề cao “tự cứu độ”, muốn được giải thoát, nhất thiết

phải xuất gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia

sản xuất, không sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này,

quốc gia sẽ không thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo

và quyền lực thống trị phát sinh mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để

giải quyết vấn đề đó.

Tôi ngẩng đầu, dõng dạc:

- Hơn nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và

đọc kinh Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ

cũng có thể thành Phật, tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư

sĩ lại có thể thành thân, tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không

ngừng của nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo

mới có thể được lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là

khi Phật quang phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.

Rajiva dường như đang nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không

biết cậu ta hiểu được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên

mối quan hệ giữa tôn giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị

mà thôi. Sau đó bổ sung thêm:

- Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại

Thừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh

thần của rất nhiều người.

Với tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại

Thừa chắc chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông

phái của cậu ấy về sau này cũng là tất yếu.

Rajiva ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:

- Vậy ở Trung Nguyên thì sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại

Thừa không?

Tôi cười:

- Điều ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở

Trung Nguyên từ đời này sang đời khác.

Quý Tiễn Lâm từng nói: “Thời gian phát triển hưng thịnh của một tôn giáo

dài hay ngắn phụ thuộc vào mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng

bình dân càng dễ được lòng quần chúng và như vậy sẽ càng được giai cấp

thống trị ủng hộ. Giáo lý Tiểu Thừa đòi hỏi con người tu hành khắc khổ mà

chưa chắc đã có thể thành Phật. Trong khi Phật giáo Đại Thừa, nhất là phái

Thiền Tông đề xướng giác ngộ, “Icchantika (nhất xiền đề: chỉ hạng người thấp

kém, thiếu thiện căn) cũng có Phật tính”. Vì vậy, chỉ cần thành tâm khấn Phật,

học Phật là có thể vứt bỏ đao kiếm, lập tức thành Phật. Như thế thì thật thanh

thản, thoải mái hơn sao!”

Rajiva dần trở nên tươi tỉnh hơn, vẻ kiên định toát ra từ vầng trán rộng.

Hình như một quyết tâm mạnh mẽ đã được thiết lập.

- Mấy hôm trước, tại một điện thờ bỏ hoang trong chùa Tsio- li, tôi đã tình

cờ lượm được một cuốn kinh thư, đó là kinh luận Đại Thừa. Tôi không cầm

lòng được nên đã lén mở ra đọc. Nhưng vì lo ngại sẽ gây ảnh hưởng xấu đến

những bài giảng và sự dạy dỗ của các sư phụ, tôi không dám nói cho ai biết tôi

mong muốn được học theo giáo lý mới kia đến thế nào. Hôm nay, sau khi luận

đàm với Ngải Tình, tôi đã biết mình phải làm gì. Khi trở về, tôi sẽ đọc lại cho

các sư phụ và sư huynh cùng nghe. Và ngày sau sẽ truyền bá rộng rãi giáo lý

Đại Thừa, cứu rỗi và phổ độ cho ngày càng nhiều chúng sinh thành Phật.

Cuốn sách mà cậu ta nhắc đến, tôi thấy rất quen.

- Rajiva, cuốn sách mà cậu tìm thấy đó có phải là cuốn “Kinh phóng quang”

không? Và có phải yêu ma đã vây lấy cậu, buộc cậu phải từ bỏ không?

Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết: “Khi Kumarajiva mở ra đọc cuốn

“Kinh phóng quang”, thì đột nhiên chữ viết trên thẻ gỗ biến mất. Đại sư biết

đó là do yêu ma gây chuyện, nên quyết tâm đọc kinh càng lớn hơn. Thế là ma

lực trở nên vô hiệu, chữ viết lập tức trở lại và đại sư tiếp tục nghiên cứu sách.

Bỗng nhiên, trong không trung truyền đến một giọng nói: Ngươi là người tài

trí, sao lại đọc Kinh phóng quang? Sư đáp: Đồ yêu ma quỷ quái, hãy xéo mau

đi! Quyết tâm của ta lớn tựa đất này, không gì có thể lay chuyển được”.

Tất nhiên là tôi không nghĩ cậu ấy thực sự gặp ma. Tôi tin rằng Tuệ Giảo

viết lên câu chuyện ly kỳ này mục dích là muốn nhấn mạnh, Kumarajiva đã gặp

phải những trở ngại tâm lý rất lớn khi quyết định thay đổi tông phái. Bởi vì,

phải thay đổi tín ngưỡng mà xưa nay bản thân vẫn sùng bái và tin theo là một

việc vô cùng đau khổ. Chắc chắn cậu ấy đã từng day dứt, do dự, thậm chí

từng muốn bỏ cuộc. Những ràng buộc tâm lý bao giờ cũng là trở ngại lớn nhất

và khó dứt bỏ nhất.

Cậu ta ngạc nhiên thốt lên:

- Kinh phóng quang?

Rồi đọc một lần tên cuốn sách bằng tiếng Phạn và gật đầu tán thưởng:

- Tên sách dịch rất hay. Đức Phật tỏa ánh hào quang, chiếu rọi đến chúng

sinh.

Rajiva cân nhắc hồi lâu, rồi nói:

- Cuốn kinh này nói rằng, việc truyền bá đạo Phật nhằm giúp cho người mù

thấy được ánh sáng, người điếc nghe được âm thanh, người câm có được

tiếng  nói,  người  gù  được  thẳng  lưng,  khiến  người  ngông  cuồng  trở  nên

nghiêm chỉnh, người bối rối được yên lòng, người bệnh được chữa khỏi, người

ốm yếu được khỏe mạnh, người già được trẻ lại, người rách nát được áo ấm.

Phật pháp chiếu rọi, giúp cho chúng sinh được bình đẳng như nhau, cư xử với

nhau như cha mẹ, như anh chị em ruột thịt. Đều có nghĩa là, mục đích của tu

hành là nhằm cứu rỗi chúng sinh, chứ không đề cao cá nhân đắc đạo. Những

giá trị sâu sắc này, bản thân tôi hết sức tán đồng.

Hai hàng lông mày của cậu ta khẽ chau lại:

- Nhưng, làm gì có ma quỷ nào quấy rối tôi?

Ánh mắt thoáng qua một nét cười, suy nghĩ một lát, lại tiếp tục giải thích:

- Nếu có, thì đó là những trở ngại tâm lý của chính tôi. Tôi không biết có

nên học theo giáo lý Đại Thừa hay không. Kể từ khi có được cuốn kinh này, tôi

đã do dự không biết bao nhiêu lần, rốt cuộc có nên đọc hay không. Đọc xong

lại do dự. Có nên truyền bá hay không? Những trở ngại đó, đến tận hôm nay

mới được rũ bỏ triệt để.

Còn nhớ buổi tối hôm đó cô từng hỏi tôi, lí tưởng của cuộc đời tôi là gì

không?

Hít một hơi thật sâu, rướn mình về phía trước:

- Đến nay, tôi đã có thể giống như cô, nói lên thật rõ ràng lí tưởng của

mình.

Cậu ta ngừng lại một lát rồi cất giọng sang sảng:

- Truyền bá đạo Phật tại mọi nơi tôi đặt chân đến, lập ra luận thuyết mới,

cứu rỗi chúng sinh, đây chính là lí tưởng của cuộc đời tôi.

Rajiva trong tư thế ngẩng cao đầu, ánh đèn dầu leo lét không che nổi sự tự

tin ngập tràn trên gương mặt cậu. Khí chất bất phàm này khiến tôi cứ ngắm

nhìn mê mẩn. Sự tự tin và trí tuệ trác việt ấy tỏa sáng trên dáng hình một

thiếu niên, tựa như tôi đang nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của tương lai, đó là thứ

ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa xung thiên được đốt lên bằng tất cả nội lực sống,

hào quang tỏa chiếu khắp nơi.

- Rất có chí khí!

Tôi ra sức vỗ tay, gật đầu và hô vang lời tán thưởng.

- Tôi rất khâm phục những người có lí tưởng, có hoài bão. Hãy tiến lên theo

mục tiêu đã định, chắc chắn cậu sẽ thành công.

Rajiva đột nhiên quay sang tôi, cung kính chắp tay cúi lạy, khiến tôi giật bắn

cả mình. Khi cậu ngẩng lên, tôi bắt gặp một khuôn mặt hao gầy hắt lên sắc

đỏ, ánh mắt chân thành và mãnh liệt:

- Ngải Tình, Phật tổ thương tình đã gửi đến cho tôi một người thầy thông

thái như cô để chỉ dẫn và khai mở đường đi cho Rajiva. Rajiva nguyện không

phụ lòng cô!

Cậu ta chưa bao giờ tỏ ra cung kính như vậy đối với tôi. Một tia lửa nhỏ bất

ngờ nhen nhóm trong tim tôi và nhanh như chớp, tỏa đi khắp cơ thể tôi. Trong

vô thức, tôi dùng tay làm quạt đón gió. Vì sao đang giữa đông mà trời lại oi

bức như vậy?

Buổi tối hôm đó, sau khi kết thúc giờ học, lúc bước ra cửa, Rajiva ngó lên

bầu trời đầy sao, nói:

- Ngày mai sẽ có nắng.

Rồi quay đầu lại nhìn tôi, nụ cười tươi tắn như gió xuân:

- Ngải Tình, ngày mai tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.

Chương 13: Một ngày du ngoạn Khâu Từ

Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang miêu tả về Khâu Từ như sau:

“Nước Khâu Từ, từ đông sang tây hơn một ngàn dặm, từ nam chí bắc hơn sáu

trăm dặm, thành quách đại đô có chu vi khoảng mười bảy, mười tám dặm.”

Tôi đang đứng trên một đoạn tường thành, phóng tầm nhìn ra mãi xa. Thu

vào trong tầm mắt là những ngọn núi trùng điệp nối tiếp nhau trên dãy Thiên

Sơn, tuyết rơi trắng xóa. Dưới chân núi là hệ thống tưới tiêu và những thửa

ruộng hình chữ điền vuông vức, rất quy củ, tuyết phủ trắng ruộng đồng, thản

hoặc để lộ ra dưới ánh mặt trời đôi ba khoảng đất tối sẫm.

- Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới “được mùa tuyết” như

vậy.

Rajiva ngắm nhìn núi Thiên Sơn phía xa xa, hơi thở theo thanh âm lan ra

ngoài không gian.

Tôi ngước đôi mắt băn khoăn nhìn Rajiva. Cậu mỉm cười giải thích:

 - Khâu Từ vốn là vùng khô hạn, thiếu mưa quanh năm, nếu mùa đông giá

lạnh, tuyết rơi nhiều, thì năm sau mới có đủ nước để trồng cấy.

Đúng vậy, nơi đây một năm cơ hồ chỉ được vài ba trận mưa, nguồn nước

tưới tiêu chủ yếu dựa vào tuyết trên núi Thiên Sơn tan chảy tạo thành. Tuyết

tan, tạo nên những dòng sông thời vụ, chỉ cần có sông thì sẽ có thể canh tác,

trồng trọt. Những nơi không có nước sẽ bị hoang hóa, biến thành sa mạc,

hoang  mạc.  Diện  tích  của  các  quốc  gia  ở  Tây  vực  rất  nhỏ  cũng  chính  bởi

nguyên nhân này.

Bỗng nhớ ra rằng, ở Khâu Từ hàng năm đều tổ chức lễ hội Su Mu Zhe (Tô

Mạc Già), hay còn gọi lễ hội cầu lạnh. Vào ngày này, người dân Khâu Từ tổ

chức các hoạt động nhằm cầu xin trời Phật ban cho mùa đông giá lạnh, tuyết

lớn kéo dài. Thời nhà Đường, lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên, trở

thành một trong những lễ hội quan trọng của vương triều này.

- Lễ hội cầu lạnh diễn ra vào thời gian nào trong năm?

Tôi thầm hứa với bản thân, nhất định phải xem ngày hội hiếm có này mới

được.

- Đầu tháng Bảy hàng năm.

- Tuyệt vời! Tôi nhất định sẽ tham dự.

Tôi xoa xoa tay, đưa lên miệng hà hơi, rồi hướng mắt lên nhìn Rajiva.

- Cậu đi cùng tôi, được không?

Cậu ta hơi sững người, ngoảnh đầu nhìn Thiên Sơn, yên lặng hồi lâu. Sao

thế nhỉ, tham dự một lễ hội chứ có gì nghiêm trọng đâu mà phải suy tính lâu

vậy. Không thích thì tôi rủ Pusyseda đi cùng.

- Ngải Tình, một trong mười điều cấm kị của Sa Di là phải tránh xa ca múa,

lễ hội. Tôi không được phép đi.

Ánh mắt không rời dãy Thiên Sơn, giọng nói khô khan, thoáng chút bất lực.

Tôi sững người, chả trách tối qua chỉ nghe tôi hát một bài mà cậu ấy cũng

phải hạ quyết tâm đến vậy!

Nghĩ đến việc đã vô tình khiến cậu ấy phá giới, tôi cảm thấy rất áy náy.

- Xin lỗi, tôi không thuộc giới luật nhà Phật. Cậu nói cho tôi biết mười điều

cấm kỵ đó, từ nay tôi sẽ cẩn trọng hơn, không để cậu phải phá giới nữa.

Rajiva trầm ngâm, cúi xuống nhìn bàn chân hồi lâu, mãi mới khẽ khàng nói:

- Năm giới luật đầu tiên là: Không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối,

không uống rượu, không dâm dục.

Những giới luật này rất quen thuộc, tôi băn khoăn hỏi:

- Có phải là năm điều cấm kỵ đối với cư sĩ, những người tu tại gia không?

- Năm điều cấm kỵ dành cho những người tu tại gia chỉ khác những điều

cấm kỵ dành cho Sa Di ở một điểm.

Rajiva đột nhiên đỏ mặt, không biết có phải tại gió lạnh không? Cậu ta rảo

bước đến một bờ tường thấp, tôi vội vã theo sau.

- Điều cấm kỵ thứ năm đối với cư sĩ là “không tà dâm”, còn đối với Sa Di là

“không dâm dục” – Rajiva không nhìn tôi, hai mắt dán chặt vào bờ tường.

Bây giờ thì tôi đã hiểu. Như vậy tức là các cư sĩ có thể kết hôn và “quan hệ”

với người vợ hợp pháp của mình, còn Sa Di thì không được thực hiện hành vi

đó với bất cứ ai trong bất cứ trường hợp nào. Gương mặt Rajiva đỏ như gấc,

chắc là vì xấu hổ khi nhắc đến giới luật này. Tôi vội vàng hắng giọng, hỏi cậu

ta năm điều cấm kỵ tiếp theo là gì.

Chúng tôi bước xuống tường thành và đi tiếp, Rajiva tiếp tục nói cho tôi

nghe về năm điều cấm kỵ còn lại.

Tránh xa giường to ghế rộng – nghĩa là không được ngồi lên những chiếc

ghế hay giường vừa cao vừa to vừa được trang trí sơn son thếp bạc.

Tránh xa hoa thơm hương nồng – nghĩa là không được xức dầu thơm hoặc

đeo những vòng hoa có mùi hương lên người. Đây hoàn toàn là thói quen của

người Ấn Độ.

Tránh xa ca múa hội hè – nghĩa là không được xem biểu diễn ca múa nhạc.

Điều này, khi nãy Rajiva đã giải thích với tôi.

Tránh xa của cải vật chất – điều này rất dễ hiểu, nghĩa là không được sở

hữu vàng bạc châu báu.

Tránh xa bữa ăn khác giờ - nghĩa là phải tuân thủ giới luật không ăn uống

sau giờ Ngọ. Điều cấm kỵ này tôi đã biết từ lâu và cũng đã được chứng kiến.

Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, chẳng bao lâu đã đến quảng trường rộng

lớn bên ngoài cổng thành phía tây Khâu Từ. Những bức tượng Phật cao chừng

bốn, năm mét tọa lạc dọc hai bên con đường hướng ra quảng trường, tạo cho

cảnh quan vẻ uy nghiêm, trầm mặc. Giá như có thể bảo tồn đến thời hiện đại,

chúng ta sẽ có một di tích lịch sử nguy nga đến nhường nào.

Rajiva cho tôi biết đây là nơi tổ chức một lễ hội lớn diễn ra năm năm một

lần. Lễ hội lớn này vốn là phong tục của Phật giáo, được tổ chức năm năm một

lần và được chủ trì bởi các quốc vương tại các quốc gia tín Phật. Đến lúc đó,

không chỉ có các cao tăng ở khắp mọi nơi tụ hội về, mà khách thập phương

cũng nô nức kéo đến. Trong thời gian diễn ra lễ hội, sẽ có rất nhiều các hoạt

động như: giảng kinh, biện kinh, phát lộc, cúng dường… Mọi chi phí đều cho

quốc vương đài thọ.

Tôi đã hiểu, ở Trung Nguyên cũng có lễ hội tương tự, gọi là “lễ hội mở”. Mở

tức là không che đậy, không giấu giếm, dù là tăng ni Phật tử hay dân thường

đều được đối xử bình đẳng như nhau.

Rajiva yên lặng đứng chờ tôi đo đạc và vẽ hình chiếu bằng khung cảnh

quảng trường. Tôi phác hoạ các bức tượng bằng hình chiếu đứng vì tài vẽ

tranh của tôi rất kém, tôi cũng không muốn Rajiva phải chờ lâu, thiết nghĩ, tôi

sẽ còn quay lại đây nhiều lần và sẽ vẽ lại thật chi tiết. Rajiva dẫn tôi đi về phía

tây bắc của quảng trường, có một dòng sông hẹp chảy qua, nhưng mặt sông

đã đóng băng. Bên bờ đối diện là một ngôi chùa lớn, đồ sộ. Tôi muốn đến đó

tham quan. Cây cầu bắc qua dòng sông nằm trên triền núi phía xa. Vì muốn

tiết kiệm thời gian và sức lực, chúng tôi quyết định đi bộ qua sông băng.

Mặc dù lớp băng đã kết lại và rất cứng, nhưng tôi là người sinh ra và lớn lên

ở phía nam sông Trường Giang, tôi không biết gì về kỹ năng trượt băng, hay đi

trên tuyết dày vào mùa đông mà đứa trẻ phương bắc nào cũng thành thạo.

Tôi sợ sệt, run rẩy, không dám đặt chân xuống mặt băng. Một bàn tay gầy

guộc với những ngón dài thanh mảnh chìa ra trước mặt tôi, không kịp suy nghĩ

gì, tôi vội vàng nắm chặt lấy. Bàn tay với hơi ấm mềm mại và một chút trơn

ướt ấy thận trọng dắt tôi đi, hai mắt tôi mở to, nhìn trân trân xuống mặt băng

dưới chân, lo sợ sẽ bị trôi tuột xuống một khe hở nào đó. Mãi mới sang được

bờ bên kia, tôi thở phào nhẹ nhõm, định ngẩng lên nói lời cảm ơn với Rajiva,

bỗng thấy trước mắt toàn là một vùng u tối với những chấm đen lốm đốm,

khuôn mặt Rajiva cũng trở nên mờ ảo phía sau màn sương u ám đó.

Tôi gào lên:

- Rajiva, sao tôi không thấy cậu?

Chợt cảm thấy có một bàn tay che mắt tôi lại và một cánh tay khác vòng

qua đỡ lấy vai tôi, tôi nép vào một thân hình mảnh khảnh và được đưa đến

một nơi có chỗ để ngồi xuống.

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

Hơi thở của Rajiva thổi vào tai tôi, cảm giác gai gai. Từ bé đến lớn, tôi sợ

nhất là người khác thổi vào tai, nên với phản xạ tự nhiên, tôi lập tức né đầu,

không may lại va vào cằm của cậu ta. Hai chúng tôi cùng kêu lên một tiếng

đau điếng.

- Có đau không?

- Có đau không?

Chúng tôi đồng thanh cất tiếng hỏi thăm người kia, tôi hơi bất ngờ, nhưng

chẳng  muốn  nghĩ  nhiều,  đưa  tay  lên  day  đi  day  lại  phần  đỉnh  đầu  vừa  va

chạm, miệng không ngừng xuýt xoa. Tôi đau dữ như vậy, Rajiva chắc cũng

không dễ chịu gì, nhưng cậu ta không hề kêu đau, không biết đang nghĩ ngợi

gì.

Một lúc sau mới lên tiếng:

- Lỗi ở tôi, lẽ ra nên nhắc cô đừng nhìn chăm chú xuống lớp băng ấy lâu

quá.

Lại một hơi thở nhè nhẹ trôi vào tai tôi, nhưng lần này tôi không dám tránh.

Tôi hắng giọng xua đi hơi nóng đang bừng lên hai má.

- Rajiva, tôi sẽ không bị mù chứ?

- Không đâu.

Nói là không mà sao giọng cậu ta lại hơi run run. Tôi hoảng sợ, kéo tay áo

Rajiva, vội vàng hỏi:

Nếu tôi bị mù thì phải làm sao?

Bàn tay Rajiva vẫn che trên mắt tôi, cánh tay còn lại khẽ đỡ vai tôi. Mặc dù

chỉ là những động chạm khẽ khàng, nhưng qua lớp áo bông, tôi vẫn cảm nhận

được cánh tay gầy gò, mảnh khảnh của cậu ta. Cậu ta lẳng lặng đáp: không

đâu, nhưng trong ngữ điệu đã không còn sự run rẩy như lúc trước nữa. Tôi lấy

làm khó hiểu, cậu ta làm sao vậy nhỉ?

Ngồi yên một lát, Rajiva bỏ tay xuống và bảo tôi mở mắt ra. Khuôn mặt

thiếu niên thuần khiết dần dần hiện ra sống động trước mặt tôi. Đôi mắt như

hai vực nước sâu đang chăm chú quan sát tôi với vẻ lo lắng, gương mặt vẫn

đỏ ửng như gấc chín. Chưa bao giờ chúng tôi gần nhau đến thế. Trong khoảnh

khắc, dường như tôi nghe thấy tiếng tim mình loạn nhịp.

Tôi đứng bật dậy:

- Tôi không sao, đi thôi.

Rajiva bừng tỉnh, vội vàng lùi lại phía sau, khuôn mặt càng lúc càng đỏ,

màu đỏ át cả màu da bánh mật, đỏ đến tận phần cổ đã được che kín bởi lớp

áo nâu sòng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi có những cử chỉ thân mật như vậy,

đừng nói là Rajiva, bản thân tôi cũng không biết phải giấu mặt vào đâu nữa.

Tôi bước đi vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cậu ta hơi ngạc nhiên, vội

vàng bước theo tôi, khuôn mặt mãi vẫn chưa hết đỏ. Tôi hắng giọng, làm bộ

nghiêm trang hỏi:

- Chùa này là chùa gì?

Rajiva ngẩng đầu, ổn định hơi thở, bình tĩnh đáp:

- Là chùa Acharya. Cô còn nhớ chứ, tôi từng dạy cô, ‘Acharya’ nghĩa là ‘kỳ

lạ’.

- Vì sao lại có tên là ‘kỳ lạ’?

Ngày trước có một vị vua sùng đạo Phật, ông muốn đi du ngoạn khắp nơi

kiếm tìm và chiêm bái Phật tích, nên giao lại công việc triều chính cho người

em trai. Trước khi vua lên đường, người em trao cho ngài một chiếc túi thơm,

dặn dò phải chờ đến khi trở về mới được mở ra xem. Ngày vua về nước, có

người tố giác em vua thác loạn trong cung. Vua nổi trận lôi đình, tống giam

người em vào trong ngục, chờ ngày xử tội. Người em nhắc nhở vua mở chiếc

túi thơm ngày trước ra xem. Khi mở ra, nhà vua nhìn mà không hiểu, mới hỏi

người em bên trong là thứ gì?

Rajiva đột nhiên ngừng lại, khiến tôi sốt ruột:

Là thứ gì vậy?

- Cậu ta cứ chần chừ, sắc đỏ trên gương mặt thanh tú vừa nhạt bớt đã lại

ửng lên.

Tôi nhớ ra rồi. Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang từng ghi lại câu

chuyện này.

- Là cơ quan sinh dục của người em, đúng không?

Tôi xoa tay lấy hơi ấm, trong lòng vui mừng khôn tả, thật không ngờ, tôi sẽ

được chiêm ngưỡng ngôi chùa “kỳ lạ” này trước Huyền Trang những hai trăm

năm.

- Người em này thật đáng khâm phục. Ông ta sớm biết sẽ có kẻ hãm hại

mình mà ông chẳng thể chứng minh mình trong sạch, nên đã tịnh thân làm

thái giám, cốt để bảo toàn tính mạng.

Tôi không nhịn được, bật cười ha hả:

- Có điều, cái giá phải trả cao quá!

Rajiva lạ lùng nhìn tôi, có lẽ vì không thể tin được tôi lại có thể thảo luận rất

tự nhiên vấn đề nhạy cảm đó không chút e dè. Tôi biết ý, không cười nữa,

gượng gạo hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Người  em  nói  với  vua  rằng:  Ngày  trước,  khi  đức  vua  lên  đường  đi  du

ngoạn, người em lo sợ sẽ có kẻ buông lời gièm pha hòng hãm hại mình, nên

mới bất đắc dĩ nghĩ ra cách này. Chẳng ngờ, tai họa quả đã xảy ra. Nhà vua vô

cùng kinh ngạc, sau thấy thương em, bèn cho phép người em được tự do ra

vào trong cung. Vào ngày nọ, trên đường đi, người em tình cờ gặp một lái

buôn đang lùa theo năm trăm con bò, nói rằng sẽ đưa đi thiến. Người em cảm

thấy đó là nghiệp chướng do mình gây nên, mới động lòng trắc ẩn, dùng tiền

chuộc lấy đàn bò. Sau đó, cơ thể của người em dần dần trở lại bình thường

như xưa. Vì không muốn bị kẻ xấu tiếp tục hãm hại, người em không ra vào

cung nữa. Nhà vua thấy lạ, hỏi ra mới biết đầu đuôi câu chuyện. Nhà vua bèn

hạ chỉ xây chùa này và đặt tên là “kỳ lạ”, đến nay đã được hơn ba trăm năm.

Tôi không kìm chế được lại bật cười ha hả:

- Không thể tin được! Cái đó có thể mọc trở lại được ư? Hay là người em

vốn dĩ không hề cắt bỏ đi. Hoặc không xử lý đến nơi đến chốn.

Rajiva làm bộ lạnh lùng, nhưng hai gò má vẫn ửng đỏ, giọng nói chắc nịch:

- Người em chuộc lấy đàn bò, tích nhiều công đức, Phật tổ đại từ đại bi

dùng pháp lực của mình phục hồi sức khỏe cho người em, sao lại nói người đó

cố ý lừa gạt? Chính nhờ điển tích kỳ lạ này mà nơi đây đã sản sinh ra không

biết bao nhiêu vị cao tăng đắc đạo. Tăng sĩ tử nhiều nơi khác nghe tiếng đã nô

nức kéo về đây học đạo. Quốc vương cùng các đại thần hết lòng ủng hộ, công

đức, nhờ vậy hơn ba trăm năm qua, hương khói chưa bao giờ tắt trong chùa.

Nếu Phật tổ không cảm động trước tấm lòng của người em, nếu không nhờ

pháp lực của Ngài, thì làm sao giải thích được điều này?

Tôi  tự  phạt  bằng  cách  tát  khẽ  vào  miệng  mình,  tôi  không  nên  làm  tổn

thương tình cảm tôn giáo của cậu ta! Chuyện này thực ra cũng rất khó giải

thích thỏa đáng. Vì người trong cuộc không còn, cũng không thể kiểm tra, chỉ

có thể tin rằng truyện kể đó là có thật thôi!

Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, một lúc đã đến trước cổng chính của ngôi

chùa. Vị sư chúng tôi gặp ngoài cổng nhìn thấy Rajiva đã vội vã đi thông báo

cho trụ trì. Chưa vào đến đại điện, trụ trì đã dẫn theo mấy vị cao tăng hòa

thượng ra nghênh đón chúng tôi. Vị trụ trì cao tuổi tỏ ra rất cung kính khi trò

chuyện với Rajiva.

Rajiva giới thiệu tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu và vì sang xuân tôi phải

rời khỏi Khâu Từ, nên hôm nay dẫn tôi đi tham quan một vòng thành phố. Trụ

trì nghe xong, tỏ ý hoan nghênh, đích thân dẫn đường và giới thiệu tỉ mỉ cho

chúng tôi về ngôi chùa. Chùa Acharya đồ sộ hơn nhiều so với chùa Tsio - li,

nhờ có câu chuyện ly kỳ đó, lượng người đến đây thắp hương cúng bái rất

đông. Cột trụ mái hiên trong các gian thờ rất cao, thoáng và rộng, tượng Phật

được điêu khắc và trang trí tinh xảo, tranh vẽ trên tường cũng sống động với

những đường nét phức tạp. Tôi vừa ngắm nhìn vừa ca tụng. Lòng khát khao

được họa lại những bức vẽ tài hoa đó.

Đi hết một vòng, tôi ngượng ngùng xin phép đi giải quyết vấn đề cá nhân.

Trụ trì cử một chú tiểu đưa tôi đi. Không muốn bắt cậu ta đứng chờ ở cửa, tôi

bảo cậu ta về trước, rồi tôi sẽ tự tìm đường về sau.

Từ nhà xí bước ra, đang chuẩn bị quay lại đại điện, tôi bỗng nghe thấy

tiếng thì thầm to nhỏ của hai nhà sư ở một góc khuất tại một hướng rẽ khác,

họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi thấy tò mò, bước chậm lại, ghé tai nghe trộm.

Họ trò chuyện bằng tiếng Tochari, nhưng tôi có thể nghe hiểu gần hết.

- Tên Kumarajiva dám đưa con gái vào trong chùa lễ Phật, cô ta lại là người

Hán nữa chứ. Giáo viên tiếng Hán cơ đấy, không ngờ hắn lại mời phụ nữ làm

thầy dạy, ai mà biết được quan hệ thật sự của họ là gì?

- Gia thế của hắn khác chúng ta, dĩ nhiên hắn có thể không coi giới luật ra

gì, ai dám trách tội hắn kia chứ?

- Hắn  được  ăn  sung  mặc  sướng,  lại  còn  được  người  hầu  kẻ  hạ,  ai  bảo

chúng ta không có người cha là quốc sư, có người mẹ là công chúa như hắn.

Nhưng hắn quá xem thường giới luật. Ngày ngày ra vào chùa không xin phép

trụ trì, giờ tụng kinh buổi sáng và buổi tối, thích đến thì đến thích đi thì đi. Tu

hành như thế, làm sao mà đắc đạo được?

- Nghe nói, ngoài Phật pháp chính tông, hắn còn lén lút nghiên cứu kinh

văn Đại Thừa nữa đó. Hắn còn dám tranh luận với các sư phụ về những thứ

kinh văn sai trái ấy, thật không coi các thầy ra gì.

- Đúng thế, loại người này…

Tôi không muốn nghe tiếp, lặng lẽ quay về đại điện. Trong truyện ký của

Rajiva có mô tả cậu là người “tính cách thẳng thắn, phóng khoáng, không chịu

gò bó, khác với những người tu hành khác”. Đối với người tu hành mà nói, trí

tuệ siêu việt giống như con dao hai lưỡi. Xuất thân quyền quý của Rajiva làm

tăng thêm ưu thế mà tài năng thiên bẩm mang lại cho cậu, nhưng đồng thời

cũng gây thêm bất lợi cho cậu. Tôi có thể hiểu vì sao những nhà sư đó ác cảm

với Rajiva đến vậy, có điều tôi cảm thấy rất khó chịu khi phải nghe những lời

nói không hay về Rajiva. Tôi bỗng cảm thấy hết sức bực bội!

Khi chúng tôi rời khỏi chùa “kỳ lạ”, Rajiva ngỏ ý muốn đưa tôi đi tham quan

thêm nơi khác. Tôi nhìn đồng hồ, chỉ còn một tiếng nữa là đến giờ tụng kinh

buổi chiều, đành thở dài giục cậu ta mau chóng quay về chùa Tsio – li. Tôi

không cho rằng những giới luật hay những quy tắc kia là quan trọng, nhưng

tôi biết, mỗi lời nói và hành động của cậu ấy đều không lọt khỏi tầm mắt của

những người khác. Mà dù thế nào, Rajiva cũng không thể tách ra khỏi thế giới

tăng sĩ của cậu ấy.

Cậu ta hơi ngạc nhiên, nhưng nhìn lên thấy bầu trời đang tối dần, lập tức

hiểu ý tôi, liền bảo sẽ đưa tôi về phủ quốc sư trước. Tôi từ chối, nói rằng tôi

biết đường, sẽ tự đi về. Tôi không muốn nghe người khác viện vào mối quan

hệ giữa tôi và Rajiva để bôi nhọ thanh danh của cậu ấy.

Mặt cậu ta hơi biến sắc, nhìn tôi ngơ ngác:

- Ngải Tình, cô đã nghe được điều gì phải không?

Tôi lắc đầu.

- Dù cô nghe thấy điều gì, tôi cũng không hề bận tâm.

Cậu ta bảo không bận tâm, nhưng giọng nói vẫn đượm vẻ giận dữ. Vung

tay áo ra sau, ngẩng cao đầu, nói:

- Rajiva làm việc gì cũng không chịu sự trói buộc của những lề thói lạc hậu,

chỉ cần không thẹn với lòng mình.

Tôi lại thở dài. Thân phận cao quý và một trí tuệ hiếm có khiến cậu ấy ngay

từ thời niên thiếu đã vang danh khắp chốn, nhưng đồng thời cũng “tạo điều

kiện” để cậu ấy trở nên xem nhẹ những giới luật của nhà Phật, lúc nào cũng tỏ

ra ngang tàng như vậy. Nhưng Rajiva ơi, thái độ bất chấp đó của cậu chẳng

qua cũng là vì bất đắc dĩ mà thôi.

Hôm đó, tôi kiến quyết đi về một mình. Tôi chỉ là một lữ khách đi bên cạnh

cuộc đời Rajiva. Tôi không muốn trong những đồn đoán không hay về cậu ấy

lại có thêm một nhân tố là tôi nữa.

Khi tôi về đến phủ quốc sư, một thân hình nhỏ bé, được quấn ủ rất ấm áp

lao như bay vào lòng tôi, giọng điệu nũng nịu trách cứ, rằng vì sao cả ngày trời

không thấy bóng dáng tôi đâu. Tôi vui vẻ dắt tay cậu nhóc cùng chơi trò trốn

tìm. Tiếng cười lanh lảnh vang rộn cả khu vườn, xua tan mọi buồn phiền của

tôi. Chơi đùa được một lúc thì bóng chiếc áo choàng màu nâu sòng đột nhiên

xuất hiện trước cổng. Cậu ta lại trốn giờ tụng kinh buổi chiều rồi!

Chương 14: Tôi trở về

Ngày tháng cứ thế trôi qua, chớp mắt đã sang xuân. Tuy người Khâu Từ

không ăn Tết Nguyên Đán như người Hán, nhưng vào ngày đầu tiên của năm

mới, tôi vẫn tặng quà cho hai anh em Rajiva, của Rajiva là một chuỗi tràng hạt

làm bằng gỗ đàn hương, của Pusyseda là một bức tranh Doraemon do chính

tay tôi vẽ. Tôi nói với họ, thế là tôi đã thêm một tuổi, năm nay tôi hai mươi tư.

Tôi chẳng muốn phải thừa nhận rằng mình đã già thêm một tuổi gì cả. Sinh

nhật của tôi rất dễ nhớ, đó là ngày mùng mười tháng Giêng âm lịch, vì vậy tôi

thường tổ chức sinh nhật theo lịch âm. Nhưng sau tuổi hai mươi thì tôi không

còn hứng thú với ngày tết nữa, mỗi dịp tết đến lại nhắc tôi nhớ rằng, mình đã

già, đã già rồi…

Ở thời cổ đại chỉ có hai anh em họ vui sinh nhật với tôi. Tôi dạy họ nói: chúc

mừng sinh nhật và hát bài “Chúc mừng sinh nhật”, rồi đề nghị họ hát cùng tôi.

Giọng hát trẻ con bập bẹ của Pusyseda rất buồn cười, rất đáng yêu. Rajiva lắc

đầu kiên quyết không chịu hát. Nhưng khi tôi bảo, vào ngày sinh nhật người

Hán sẽ nói “chúc mừng sinh nhật” rồi hát bài hát này, sau đó sẽ ăn một loại

bánh ngọt vừa thơm vừa ngậy và còn được tặng quà nữa. Rajiva nghe xong,

vẫn còn lần chần, mãi sau mới chịu cất giọng. Giọng hát của cậu ấy cũng trầm

ấm, truyền cảm như giọng nói, tuy vẫn còn có nhiều âm khàn đục, do đang

trong thời kỳ vỡ tiếng, nhưng lại tạo cho bài hát một âm điệu rất đặc biệt. Bài

chúc mừng sinh nhật mà cậu ấy đang khe khẽ hát cho tôi nghe là bài hát hay

nhất mà tôi từng được nghe vào dịp này. Có điều, gương mặt của cậu ấy, như

tôi đã biết từ trước, đỏ như gấc chín, át cả nước da bánh mật vốn rất nổi bật.

Buổi tối ngày tiếp theo, sau khi kết thúc giờ học, Rajiva không đến thư

phòng đọc sách như mọi khi, cậu ta dùng dằng ngập ngừng mãi mới lôi từ

trong áo ra một chiếc khăn lụa thêu hình thoi khổ dài với các màu sắc đỏ,

vàng, xanh da trời đan xen.

- Tặng cô.

Cậu ta lại đỏ mặt.

- Cô bảo sinh nhật muốn được tặng quà…

Tôi không có thời gian để bận tâm về sự chu đáo này, tôi còn mãi ngẩn ngơ

ngắm nhìn món quà của mình. Đây là chiếc khăn lụa Atala, Atala có nghĩa là

loại tơ lụa được làm ra bằng kỹ thuật xoắn sợi tơ dọc và nhuộm đồng thời, đây

cũng là loại vải dùng để may quần áo phổ biến nhất của phụ nữ Tân Cương

ngày nay. Tơ lụa Khotan là thương hiệu nổi tiếng nhất. Lụa, ngọc và thảm

được mệnh danh là ba “quốc bảo” của Khotan. Đến tận thế kỷ XXI, người

Khotan vẫn sử dụng những phường nhuộm nguyên thủy với chiếc máy dệt

cồng kềnh, cao hơn năm mét, được xây đắp bằng đất và gỗ.

- Rajiva, cậu có biết ngôi chùa Masa ở Khotan không? Những hạt giống của

cây dâu mà cô công chúa người Hán mang đến Tây vực đã được gieo trồng ở

chùa này đó.

Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang đã ghi lại quá trình tơ lụa được

truyền đến Khotan như thế nào.

- Tôi biết. Người Tây vực vốn không biết trồng dâu nuôi tằm để lấy tơ, khi

đức vua Khotan đến đất Hán cầu thân, ngài đã nói riêng với công chúa Hán

triều rằng Khotan không có tơ lụa, nên công chúa sẽ không thể ăn mặc đẹp

được. Công chúa bèn giấu hạt dâu và tằm giống vào trong túi mang theo. Sự

giàu có của Khotan chính là nhờ vào tơ lụa.

Tơ lụa vốn là sản phẩm độc quyền của người Hán ở Trung Nguyên, kỹ thuật

sản xuất được xem là bí mật vô cùng quan trọng, không được phép tiết lộ ra

bên ngoài. Nhưng nhờ có cô công chúa kia, kỹ thuật này đã được truyền đến

Tây vực, từ Tây vực lại truyền sang Tây Á và châu Âu, từ đó, quyền lũng đoạn

thị trường tơ lụa của Trung Quốc đã tan thành mây khói. Sản phẩm tơ tằm của

Khotan từ thế kỷ IV đã nổi tiếng khắp nơi, thời cổ đại, nơi đây từng được

mệnh danh là “kinh đô của lụa”. Hôm nay, chiếc khăn lụa quý giá của thế kỷ

thứ tư ấy đang bày trước mắt tôi, điều này đã chứng minh tính xác thực của

câu chuyện kể về sự xuất hiện của kỹ thuật sản xuất tơ lụa trên con đường tơ

lụa huyền thoại.

- Sao cô chỉ hỏi về câu chuyện đó, hay cô không thích món quà này?

Rajiva nhìn tôi lo lắng, tay cầm chiếc khăn quý mà lúng túng không biết nên

đặt ở đâu.

- Lụa Khotan, tất nhiên không thể sánh bằng lụa Trung Nguyên, nếu cô

không thích, tôi sẽ…

- Làm gì có chuyện đó!

Tôi gào lên, bật dậy, ôm chầm lấy cậu ta, rồi giật lấy chiếc khăn áp chặt vào

lòng.

- Cậu đừng hòng mang nó đi!

Rajiva thở phào, gương mặt đỏ như gấc của cậu ta tôi đã nhìn quen rồi nên

không thấy ngạc nhiên nữa. Cậu ta nhìn tôi cười rạng rỡ như vừa được tặng

một món quà chứ không phải vừa tặng cho người khác một món quà.

- Nhưng mà…

Rajiva nhìn tôi băn khoăn:

- Ngải Tình, vì sao cô biết ở Khotan có chùa Masa?

Lại nữa rồi! Tôi chẳng bao giờ kiểm soát được cái miệng tai bay vạ gió của

mình!

Tôi trợn tròn hai mắt, rồi vò đầu bứt tai, tư duy logic của cậu ta ở trình độ

cao như thế, dù tôi có bịa ra chuyện gì thì cũng sẽ lộ tẩy mà thôi. Tốt hơn hết

là đừng nghĩ cách gạt cậu ta làm gì cho mệt.

- Cậu đừng hỏi nữa, tóm lại là tôi biết, thế thôi!

Rajiva không hỏi thêm, chỉ cười, đến lúc ra về vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt tò

mò khó hiểu, khiến tôi cảm thấy không yên tâm.

Không bao lâu nữa là đến ngày lập xuân. Sang xuân đồng nghĩa với việc

con đường tơ lụa được khai thông, tôi có thể chuẩn bị khởi hành đi Trường An

được rồi. Kumarayana đã giúp tôi liên hệ với một đội thương nhân rất đáng tin

cậy, ông còn tặng tôi rất nhiều đồ đạc. Tôi rất biết ơn ông. Nhưng tôi không

vui chút nào khi phải đối diện với hai anh em Rajiva. Vẻ mặt lạnh lùng, an

nhiên thường thấy của Rajiva khiến tôi đỡ buồn phần nào. Tuy nhiên, cũng có

đôi lúc tôi cảm thấy ánh mắt cậu ta nhìn tôi có điều gì rất lạ, nhất là vào hôm

tôi quàng chiếc khăn lụa Atala lên vai. Ánh mắt ấy khiến tôi hồi hộp, nhưng tôi

vờ như không thấy, giả bộ ngốc nghếch là sở trường của tôi mà! Ai bảo cậu ta

là Kumarajiva kia chứ! Tôi làm sao mà dám động vào một vĩ nhân như thế.

Thôi,  hãy  cứ  ngoan  ngoãn  mà  ra  đi!  Nhưng  với  chú  nhóc  Pusyseda  thì  tôi

chẳng thể ứng phó nổi. Hơi một tí là nước mắt giàn giụa, giọng nói trẻ thơ,

nấc lên những tiếng thổn thức xin tôi ở lại. Cậu bé khiến tôi mủi lòng và có

cảm giác sự ra đi lần này chẳng khác nào sinh ly tử biệt, nên tôi phải an ủi

Pusyseda bằng cách lặp đi nhiều lần lời hứa rằng tôi nhất định sẽ quay lại.

Còn khoảng sáu, bảy ngày nữa là phải lên đường, tôi muốn tắm rửa sạch

sẽ. Đi tắm thì có gì mà phải kể? Đúng là chẳng có gì để nói, nhưng vì lần này

đã xảy ra chuyện lớn. Bạn đừng hiểu nhầm, không như trong các tiểu thuyết

mà bạn thường đọc, hay có cảnh: nhân vật nữ đang tắm thì nhân vật nam

xuất hiện đâu! Chuyện “hay ho” ấy chẳng bao giờ đến với tôi cả! Sự thực là,

khi tôi vừa tắm xong và trở về phòng thì xảy ra chuyện lớn.

Lúc  tôi  vừa  đưa  tay  lên  vặn  đám  tóc  ướt  vừa  bước  vào  phòng  thì  thấy

Pusyseda đang ngồi nghịch chiếc đồng hồ vượt thời gian mà trước khi đi tắm

tôi đã tháo ra và đặt tạm trên bàn. Thấy tôi, chú nhóc hớn hở lắc lắc chiếc

đồng hồ:

- Ngải Tình, đồ chơi này hay quá, nó biết nhảy và kêu tích tắc tích tắc nhé,

chị cho em được không?

Tôi run bắn. Khi ấy trời đang nắng to, ánh sáng tràn ngập căn phòng. Tôi

chạy bổ đến bắt lấy chiếc đồng hồ, nó hoạt động trở lại rồi! Đèn tín hiệu mà

lúc trước tôi ra sức bật lên nhưng không ăn thua giờ đây đang tích tắc đếm

ngược. Trời đất ơi, không biết Pusyseda đã chạm vào chỗ nào mà khởi động

được cái đồng hồ chết tiệt này? Thời gian đếm ngược là ba phút, giờ chỉ còn

hai phút rưỡi. Tôi cố sức nhấn nút dừng hoạt động, nhưng thứ quái gở này,

lúc cần chạy thì nó không chạy, lúc cần dừng thì nó nhất định không chịu

dừng. Đầu óc rối bời, tôi không biết phải làm sao nữa! Chuyện này xảy ra quá

đột ngột, chỉ tắm một cái mà lúc quay về đã gặp phải biến cố lớn thế này. Tôi

nên đi hay ở?

- Ngải Tình, chị làm sao vậy?

Tôi giật mình ngẩng lên, đôi mắt tròn xoe, ngây thơ đang nhìn tôi chớp

chớp. Một lát nữa chiếc đồng hồ sẽ phát ra tia phóng xạ, tôi không thể để cậu

nhóc nhiễm phải. Tôi vội vàng túm lấy Pusyseda, dùng hết sức đẩy cậu bé ra

ngoài. Cậu bé bị tôi túm chặt quá, mặt mũi tái đi vì sợ. Vừa đẩy cậu nhóc ra

đến cửa đã nghe thấy tiếng gào khóc ầm ĩ. Tôi cài then chốt cửa lại với tốc độ

của vận động viên điền kinh, tôi lao đến cạnh tủ tìm chiếc ba lô Northface, lôi

ra chiếc áo chống tia phóng xạ, động tác nhanh và dứt khoát, tôi cởi bỏ quần

áo trên người và không quên quay đầu ra phía cửa hét to:

- Pusyseda, cậu nghe đây. Tôi là tiên nữ, bây giờ tôi phải quay về trời. Lát

nữa sẽ có một tia sáng xuất hiện, cậu phải nhắm mắt lại, không được nhìn tia

sáng đó, nếu không cậu sẽ bị mù đấy! Nhớ chưa?

Thực ra không nghiêm trọng đến vậy, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu cậu bé

nhìn thẳng vào tia phóng xạ.

Cậu bé sợ hãi, càng khóc to hơn.

- Đừng sợ, tôi không biến mất, tôi chỉ quay về với thế giới của mình thôi. Ở

trên trời, tôi sẽ dõi theo cậu.

Tôi không muốn lưu lại những ký ức đáng sợ trong tâm hồn cậu bé.

Mặc vội chiếc áo chống tia phóng xạ lên người, tôi cảm thấy lạnh buốt, toàn

thân nổi da gà. Mặc kệ, thời gian sắp hết rồi. Tôi cuống cuồng kéo các loại

khóa, bỗng nghe tiếng Pusyseda bên ngoài nức nở:

- Chị đừng đi! Pusyseda hứa sẽ không nghịch ngợm nữa, em sẽ nghe lời

chị, chịu khó học bài, chị đừng đi có được không?

Tôi thở dài. Chiếc đồng hồ này chỉ sử dụng được một lần duy nhất, nếu

không đi, tôi sẽ phải ở lại nơi này mãi mãi. Tôi không giống những tình nguyện

viên nữ khác, vượt thời gian trở về thời cổ đại chỉ để vui thú yêu đương. Mục

đích của tôi rất rõ ràng, tôi đến đây để làm việc, nếu không quay về, giá trị của

tôi sẽ không được công nhận.

- Hãy nói với Rajiva, cậu ấy sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại, nhắc cậu ấy

đừng quên nhiệm vụ đến Trung Nguyên truyền bá đạo Phật!

- Chị có quay lại nữa không?

Tôi không biết, thực sự là không biết. Có lẽ duyên phận giữa chúng tôi chỉ

đến đây thôi. Tôi không biết sau khi quay về có tiếp tục công việc này hay

không. Nếu có, tôi không biết, lần vượt thời gian tới tôi có thể trở lại Khâu Từ

hay không. Đến được Khâu Từ, tôi cũng không biết khi ấy họ còn sống ở thời

đại đó không…

Tôi đội mũ bảo vệ, đeo đồng hồ vào tay, chỉ còn ba giây. Tôi hít một hơi

thật sâu, chỉ kịp gào to:

- Nếu cậu chăm chỉ học hành, đọc thuộc “Kinh thi”, tôi sẽ trở lại…

Những tia sáng chói mắt phát ra, tôi cảm nhận được cảm giác bay bổng,

cưỡi mây lướt gió quen thuộc, gan ruột tôi quay đảo tưởng như sắp vỡ tung.

Một giây trước khi mất đi ý thức, tôi chợt nhớ ra rằng tập giấy nháp với không

biết bao nhiêu bức vẽ kỳ công, cuốn sổ tay ghi chép toàn bộ tài liệu khảo sát

dài mấy mươi vạn chữ, những tập sách quý hiếm bằng tiếng Tochari tôi sưu

tầm được, những vật dụng sinh hoạt hàng ngày tôi mua ở chợ về và giấu dưới

gầm giường, những quà tặng của Jiva, Kumarayana và nhiều người khác và

còn nữa, chiếc khăn lụa Atala của tôi, tất cả, tất cả, tôi đều quên mang theo.

Trời ơi, chuyến này tôi lỗ nặng rồi!!!

Chương 15: Tôi lại “vượt”

Đưa tay quờ quạng, thấy mềm mềm, mịn mịn. Mở mắt, vầng quang rực rỡ

chiếu thẳng tới, vội nhắm chặt lại. Vậy là lần tiếp đất này cũng rơi xuống sa

mạc giống hệt lần trước. Tôi quả là có duyên với sa mạc, có điều không biết

hiện là thời đại nào và nơi này có phải là nơi đó không. Tôi đứng lên, kiểm tra

toàn bộ vật dụng mang theo bên mình, rồi nhìn chiếc đồng hồ vượt thời gian

đã được cải tiến. Tốt rồi, đèn tín hiệu màu xanh, có nghĩa là mọi thứ vẫn bình

thường, công sức sáu tháng trời của nhóm các nhà khoa học ấy đã không

uổng phí. Rút kinh nghiệm từ bài học lần trước, các nhà khoa học quyết định

không sử dụng năng lượng mặt trời để khởi động thiết bị nữa, vì không ổn

định mà thay vào đó là loại pin Lithium siêu bền. Nghe nói, đây là sản phẩm

đời mới nhất của hàng BYD, tốt hơn nhiều so với pin của Sony.

Chuyến đi của tôi đã tạo nên tiếng vang lớn, sánh ngang với chuyến bay

vào vũ trụ rất thành công của Dương Vỹ. Tôi mất tích hơn năm tháng, nhóm

nghiên cứu không xác định được tôi đã vượt thời gian thành công hay đã chết.

Suốt một thời gian dài, sếp tôi rất phiền não vì không biết phải giải thích như

thế nào với bố mẹ tôi. Cho đến một buổi chiều nọ, tôi từ trên trời rơi xuống, lơ

lửng trên cành liễu bên ngoài phòng thí nghiệm, làm gẫy gần hết những chạc

cây xanh tốt đó.

Trong năm tháng sau khi trở về thế kỷ XXI, tôi bận rộn chóng mặt. Kiểm tra

sức khỏe, viết báo cáo và còn phải đến Tân Cương cùng sếp một tháng trời

nữa chứ. Thành cổ Khâu Từ xưa kia (hay còn gọi là di tích Diên Thành) nằm

giữa thành phố Kucha mới và cũ ngày nay, được người địa phương gọi bằng

cái tên thành cổ Pilang. Tôi đi theo đoàn các nhà khảo cổ quan sát, đo đạc,

nghiên cứu di tích tường thành Khâu Từ, di tích hoàng cung, ngôi chùa “kỳ lạ”,

quảng trường lớn, sau đó cùng các nhà ngôn ngữ giải mã văn tự Tochari tại

viện bảo tàng. Khi một mình lang thang giữa những di tích này, nhìn những

ngôi nhà, những thửa ruộng đã phủ kín khuôn viên di tích, có thể nhận ra địa

tầng của hơn một nghìn năm về trước, nhưng còn những thứ khác thì đã bóng

chim tăm cá, trong tôi trào dâng một cảm xúc khó tả. Vì với riêng tôi, mọi thứ

sống động của vài tháng trước đó chỉ trong chớp mắt đã vật đổi sao dời, trở

thành quá vãng dâu bể 1650 năm. Những con người sống động của vài tháng

trước, trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại là mấy dòng chữ trên giấy cũ. Đứng

trên gò đất mấp mô, nơi xưa kia từng là thành quách nguy nga, bên tai tôi

như vẫn vang vọng giọng nói trầm ấm đó.

- Ngải Tình, ngày mai tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.

- Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới “được mùa tuyết” như

vậy.

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

Mỗi lúc như vậy, tôi lại giật mình quay đầu nhìn bốn phía, mãi đến khi nhận

ra bóng chiếc áo nâu sòng ấy chỉ là ảo giác, tôi mới bình tâm trở lại. Rajiva, có

phải chúng ta đang ở trong cùng một không gian, nhưng chúng ta cách nhau

những 1650 năm thời gian? Cậu vẫn ổn chứ? Tôi cười buồn, sao lại hỏi ngớ

ngẩn như vậy, vận mệnh của cậu ta, lẽ nào tôi không rõ?

Khi đi khảo sát Thiên Phật động Kizil, tôi đã ngẩn ngơ hồi lâu trước pho

tượng đồng tạc hình Rajiva đặt phía trước hang đá. Pho tượng khắc họa dung

mạo của Rajiva ở độ tuổi từ ba mươi đến bốn mươi. Một chân gập lại, tay phải

đặt lên đầu gối, trên mình khoác chiếc áo lộ một bên vai của tăng sĩ, thân hình

mảnh khảnh, vầng trán rộng giữa hai hàng lông mày vươn dài, dung mạo ấy

toát lên một trí tuệ trác việt, một trái tim rộng lớn và một khí khái bất phàm.

Tuy không thể sống động bằng con người thực, nhưng tôi nghĩ, nghệ nhân tạc

tượng đã nắm bắt được thần thái của Rajiva. Tôi chưa được nhìn thấy dung

mạo Rajiva khi đã trưởng thành, nhưng pho tượng điêu khắc này đã khiến tôi

không nguôi suy tưởng và tưởng tượng về cậu ấy. Tôi đã chụp một bức ảnh

đứng dưới chân pho tượng để làm kỷ niệm, buổi đêm khi ngồi viết luận văn,

mỗi lúc mệt mỏi tôi lại mở tấm hình ra ngắm nghía. Ước gì tôi được gặp lại

Rajiva, Rajiva khi đã trưởng thành.

Trong viện bảo tàng Khâu Từ ở Kucha có trưng bày bộ hài cốt của một phụ

nữ, được khai quật lên từ di chỉ Subash, thời điểm hài cốt này được chôn cất

cách nay khoảng một nghìn ba trăm năm. Phần đầu của hài cốt có dấu hiệu bị

nén bẹp xuống, giống hệt hình ảnh của Jiva và những thành viên hoàng tộc

Khâu Từ khác mà tôi từng gặp. Nén đầu không có nghĩa là xấu xí, chỉ có điều

không hợp với thẩm mỹ của chúng ta ngày nay mà thôi. Với tôi, Jiva luôn là

một phụ nữ xinh đẹp. Tutankhamun (gọi tắt là vua Tut), vị hoàng đế thứ mười

hai của triều đại thứ mười tám của Ai Cập cũng từng nén dẹt đầu, bức tượng

bán thân của vua Tut sau khi được phục chế nguyên bản và tranh chân dung

trong lăng mộ của ngài đã cho thấy Tutankhamun là một pharaon mười tám

tuổi cực kỳ khôi ngô, tuấn tú.

Kế hoạch ban đầu là sau khi kết thúc công việc khảo sát ở Kucha, tôi sẽ có

buổi gặp gỡ các chuyên gia Phật học, những người chuyên nghiên cứu về

Kumarajiva. Tuy tôi chỉ được tiếp xúc với Rajiva một thời gian rất ngắn, nhưng

cũng có thể cung cấp cho họ những thông tin và tư liệu quý giá mà không ai

có  được.  Vì  vậy  các  chuyên  gia  rất  mong  ngóng  được  trò  chuyện  với  tôi.

Nhưng, sếp tôi đột ngột nhận được điện thoại từ tổ nghiên cứu, thế là hai thầy

trò lại vội vã khăn gói về phòng thí nghiệm, để chuẩn bị cho lần vượt thời gian

thứ hai, mà không, chính xác phải là lần vượt thứ tư mới đúng.

Lần này, máy móc đã được cải tiến rất nhiều. Tôi không còn cảm giác khó

chịu khi bay vào không gian như những lần trước nữa. Tuy vậy, vẫn không thể

xác định được địa điểm và thời đại mà tôi sẽ đến, chỉ có thể ước tính đó là

khoảng thời gian hai nghìn năm trước. Sai số là năm trăm năm, tức là nơi tôi

đến có thể ở vào khoảng niên đại từ cuối thời Chiến quốc cho đến cuối thời

Nam Bắc triều. Với kinh nghiệm của lần “vượt” trước, tôi vẫn quyết định mặc

một bộ Hán phục to rộng, lả lướt. Trang phục này rất đại chúng và là trang

phục được thịnh hành lâu nhất trong lịch sử.

Tôi quan sát và đánh giá tình hình trước mắt. Những điểm tương đồng về

địa hình giữa hai lần “vượt” cho tôi một linh cảm mạnh mẽ rằng, tôi đã trở lại

nơi ấy! Do vậy, tôi trở nên bình tĩnh hơn, tôi bắt đầu nghĩ cách để ra khỏi sa

mạc và tìm đến nơi có bóng người. Phóng tầm mắt ra xung quanh, nhận thấy

mình đã rơi xuống vùng ven sa mạc, cạnh đó là rừng dương và những khóm

liễu đỏ thấp lè tè. Rừng dương xa xa nom có vẻ um tùm, xanh tốt, tôi quyết

định đi về hướng đó.

Bây giờ đã là cuối tháng năm, buổi trưa trên sa mạc oi bức khủng khiếp, vì

vậy thứ mà tôi cần nhất lúc này là nước. Rừng dương rậm rạp là thế, nguồn

nước chắc chắn ở không xa. Khi một hồ nước to bất ngờ xuất hiện trước mặt,

tôi mừng rỡ khôn tả, lao như bay về phía ấy.

Thật không ngờ, giữa vùng sa mạc mênh mông thế này lại có một hồ nước

lớn đến vậy. Và điều quan trọng hơn cả là ven hồ có người, không phải một

người mà là một đám đông. Không có niềm vui nào bằng niềm vui nhìn thấy

đồng loại giữa chốn hoang vu này, tôi ba chân bốn cẳng lao về phía họ. Nhưng

chưa đến nơi, tôi đã phải đột ngột hãm tốc độ. Phản ứng đầu tiên của tôi sau

đó là quay đầu, chạy thục mạng về hướng ngược lại. Nhưng chưa được mấy

bước, một mũi tên vút tới, cắm “phập” xuống cạnh bàn chân tôi, tôi sợ hãi

dừng lại, giơ hai tay lên cao:

- Đừng bắn! Tôi xin hàng!

Tôi bị giải đến chỗ đám đông kia, có khoảng hai mươi người. Nhìn cách ăn

mặc và tướng tá của đám người đó, toàn những tên mặt mày dữ tợn, hình hài

quái dị, đúng là một đám kẻ cướp. Còn khoảng chục người nữa thì đang quỳ

dưới đất, tay chân bị trói chặt, run rẩy lo sợ, len lén nhìn tôi bằng ánh mắt cảm

thông, có lẽ họ là người Ba Tư. Cạnh đó có khoảng hơn chục con lạc đà cõng

trên lưng rất nhiều hàng hóa, vẫn thản nhiên, mải mê gặm cỏ. Tôi đoán ra

ngay đó là một đội lái buôn giữa đường gặp cướp.

Phải nói rõ điều này, nơi tôi tiếp đất cách con đường tơ lụa không xa, mà

trên con đường này thường xuyên xảy ra nạn giặc cướp. Tôi chưa bao giờ phải

giao tranh với ai, lẽ nào lần này buộc phải sử dụng vũ khí? Có một khẩu súng

gây mê loại nhỏ trong áo chống phóng xạ của tôi, sếp dặn rằng, nếu không

đến mức nguy cấp thì không được phép sử dụng, vì đó là sản phẩm của thời

hiện đại, có thể làm thay đổi lịch sử. Sếp lúc nào cũng căn dặn không được

làm gì khiến lịch sử thay đổi, nhưng thầy có nghĩ rằng, bản thân việc tôi vượt

thời gian trở về đây cũng là một hành động làm thay đổi lịch sử?

Bọn cướp đang bàn bạc với nhau bằng tiếng Tochari mà tôi có thể nghe

hiểu, với giọng địa phương lơ lớ, không phải khẩu âm Khâu Từ.

Tôi vắt óc nghĩ cách thoát thân. Tôi không giàu bản lĩnh như Huyền Trang,

có thể dùng lời lẽ khuyên giải đám giặc cướp ngài gặp trên đường đi Tây Trúc

thỉnh kinh buông gươm đao quy y cửa Phật. Vì vậy, sau khi quan sát hết lượt

và đánh giá tình hình giữa ta và địch, tôi quyết định: bắt giặc phải bắt tên cầm

đầu trước.

Tôi khẽ đưa tay vào trong áo và chạm vào khẩu súng, cũng may chúng cho

rằng tôi chỉ là cô gái yếu đuối nên không trói chân tay tôi lại như những người

Ba Tư kia. Tôi nở nụ cười ngọt ngào với tên râu quai nón đang ngồi ung dung

nhai thịt trên tấm thảm, hơi nhích về phía hắn một chút, cất giọng Tochari lơi

lả:

- Đại Vương…

Cắn răng thật chặt để xua đuổi nỗi sợ hãi đang khiến toàn thân nổi da gà.

Hắn cười híp cả mắt, chìa bàn tay nhầy nhụa về phía tôi. Tôi tiến lên phía

trước một bước, làm điệu bộ chuẩn bị ngả vào lòng hắn, rồi đột ngột rút súng

chĩa vào hắn và bắn. Súng gây mê này thật lợi hại, tên cầm đầu chưa kịp có

phản ứng gì đã ngã lăn xuống đất. Nhân lúc đàn em của hắn còn đang ngơ

ngác không hiểu chuyện gì xảy ra, tôi lập tức hạ thêm năm tên đứng gần nhất

và lấy giọng uy hiếp những tên còn lại:

- Bỏ vũ khí xuống, ta sẽ tha mạng cho các người!

Hình như vẫn chưa dọa được chúng, tôi tiếp tục quát:

- Đây là loại độc dược “kiến huyết phong hầu”, thấy máu chảy tức là người

đã chết, các ngươi không sợ thì đến đây mà thử!

Có lẽ vũ khí lợi hại của thế kỷ XXI đã khiến bọn cướp kinh sợ, hơn chục tên

còn lại hoang mang nhìn những tên đang nằm bất động trên mặt đất. Thực ra

tôi chỉ dọa chúng thế thôi, khẩu súng gây mê của tôi rất nhỏ, chỉ có thể bắn

vào đối phương ở khoảng cách dưới năm mét. Thế nên, khi thấy bọn cướp

buông hết các thứ đao, cung, kiếm… tôi khẽ thở phào, mồ hôi đầm đìa lưng

áo. Tôi vội vàng chạy đến cởi trói cho đám thương nhân kia, nhưng dây quấn

quá chặt, tôi đành phải lôi con dao Thụy Sĩ ra cắt.

Những việc xử lý tiếp theo không cần tôi phải bận tâm nữa. Mấy tên cướp

còn lại khiếp sợ thứ vũ khí mà tôi cầm trong tay, bây giờ lại thêm một đám

người Ba Tư đông đảo cầm gươm đuổi phía sau, nên bọn chúng đã chạy mất

dạng từ lâu. Mấy người Ba Tư kia kính cẩn hành lễ tạ ơn tôi. Trong số họ có

một người biết tiếng Hán và một người biết tiếng Tochari. Tuy nói năng không

lưu loát, nhưng hai ngôn ngữ bổ sung cho nhau, cộng thêm ngôn ngữ thân

thể, chúng tôi cũng có thể hiểu nhau tám, chín phần. Tôi lôi từ trong ba lô ra

tập bản đồ, nhờ họ xác định vị trí. Tập bản đồ này rất đặc biệt, được phác họa

dựa trên tình hình khu vực trước và sau đời nhà Hán khoảng năm trăm năm.

Lật giở đến trang về Tây vực, vì chú thích bằng tiếng Hán, nên phải mất một

lúc lâu họ mới chỉ ra cho tôi vị trí tương đối nơi chúng tôi đang đứng, có vẻ

như gần Luntai (Burgur). Tôi xem xét thật kỹ bản đồ một lần nữa, thì ra tôi đã

rơi xuống ven sa mạc Taklamakan. Ở nơi khô hạn cực độ như thế này mà vẫn

có đồng cỏ rộng lớn, vậy chắc chắn là đồng cỏ và hồ nước ở Luntai rồi! Đây

chính là nơi cư trú của tộc người Rob (La Bố) cổ đại, họ sinh sống bằng nghề

đánh bắt cá trong hồ nước này. Nhưng tôi không thấy quanh đây có nhà cửa

gì cả, có lẽ họ định cư ở phía khác của hồ nước. Nhưng cũng không thể xác

định đám cướp kia có phải người Rob hay không. Luntai cách Khâu Từ khoảng

tám mươi kilômét. Nếu với tốc độ như hiện nay của đoàn lạc đà (bình quân mỗi

ngày đi được hai mươi đến ba mươi kilômét), thì nhiều nhất là bốn ngày sau

tôi có thể đến được Khâu Từ.

Khâu Từ, mỗi lần nghĩ đến nơi ấy là tim tôi lại đập rất gấp và bóng dáng

thanh mảnh, khổ hạnh ấy lại hiện ra trước mắt. Không biết bây giờ cậu ta bao

nhiêu tuổi rồi. Tôi hỏi mấy người Ba Tư hiện đang là năm nào, họ cung cấp cho

tôi một số thông tin như sau:

1. Ở Trung Nguyên hiện vẫn là thời nhà Tần của Phù Kiên (nhưng họ không

rõ niên hiệu).

2. Vua Khâu Từ vẫn là Bạch Thuần (họ chỉ biết Bạch Thuần khoảng hơn

bốn mươi tuổi).

3. Chỉ nghe nói Kumarajiva là một vị hòa thượng nổi tiếng (vì người Ba Tư

theo tín ngưỡng Hỏa giáo, vốn là một tôn giáo thờ thần lửa thời xưa, nên mặc

dù Kumarajiva là một cao tăng Phật giáo tiếng tăm vang dội, họ cũng không

hay biết), tuổi tầm hai mươi đến ba mươi tuổi.

4. Họ vừa đi qua Khâu Từ, bây giờ đang trên đường đến Trường An. Nhưng

vì tôi có ơn cứu mạng với họ, nên họ bằng lòng đưa tôi quay về Khâu Từ rồi

mới lên đường đi tiếp.

Không phải tôi không muốn đi Trường An, nếu sếp có mặt ở đây, chắc chắn

sẽ yêu cầu tôi phải cùng họ đi Trường An ngay, như thế sẽ được một công đôi

việc, tiện thể khảo sát con đường tơ lụa, con đường huyền thoại từ thời Nam

Bắc triều. Nhưng một giọng nói cứ vang vọng trong tôi, thôi thúc tôi đi đi, đến

đó gặp cậu ấy đi! Sau khi trưởng thành, Kumarajiva sẽ có diện mạo như thế

nào nhỉ? Nếu có thể tận mắt nhìn thấy cậu ấy, những nghiên cứu của tôi sẽ có

ý nghĩa hơn rất nhiều. Vả lại, tôi đã hứa với Pusyseda nhất định sẽ quay lại, tôi

phải giữ lời chứ, đúng không?

Chúng tôi dự trữ nước và lập tức lên đường, vì lo những tên cướp kia sẽ

quay lại. Mấy tên bị hôn mê, chỉ sau hai mươi tư giờ sẽ hồi phục, rất có thể

bọn chúng sẽ tìm cách trả thù, nghĩ vậy, mọi người đều sợ hãi, ai cũng muốn

mau chóng đi khỏi khu vực ấy càng xa càng tốt. Tôi điều chỉnh lại thời gian

trên đồng hồ cho chậm lại hai giờ, xác lập múi giờ Tân Cương.

Khi chúng tôi đến được điểm dựng trại thì bầu trời đã lấp lánh ngàn sao.

Nơi này là một thành quách hoang tàn, từ lâu đã không có người ở. Theo phát

âm của người Ba tư thì nó có tên là Tahanqi. Thành quách này có lẽ đã rất

nhiều tuổi rồi, tường thành trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa, phần

lớn đều đã sập sệ, dưới ánh trăng vằng vặc, khung cảnh hoang tàn càng làm

tăng cảm giác bãi bể nương dâu. Xung quanh là những thửa ruộng, vậy là

chúng tôi đã ra khỏi sa mạc Taklamakan.

Chúng  tôi  dựng  trại  cạnh  tường  thành,  những  người  Ba  Tư  hào  phóng

dựng riêng một lán trại cho tôi. Người đàn ông biết tiếng Hán cố diễn đạt cho

tôi hiểu rằng nơi này có liên quan đến triều đại nhà Hán. Nhưng vì tiếng Hán

của người đó không được trôi chảy, phải bổ sung bằng rất nhiều dấu hiệu tay

chân, tôi mới hiểu sơ sơ. Ông ta cho tôi biết, thành trì này do một người Hán

xây dựng lên, đó là một vị dũng tướng, với tài thao lược xuất quỷ nhập thần.

Người Hán ư? Dũng tướng ư?

Liệu  có  phải  là  thành  Taqian  do  tướng  quân  Ban  Siêu  dựng  lên  không?

Tahanqi và Taqian có âm đọc rất giống nhau. Có lẽ do người Ba Tư phát âm

không chuẩn.

Tim tôi đập mạnh. Thành Taqian thuộc Khâu Từ, vốn là nơi Ban Siêu đóng

quân khi nhậm chức đô đốc Tây vực, ở thời hiện đại, vị trí chính xác của nơi

này vẫn còn là một bí ẩn.

Nếu nói như vậy, bí ẩn này, giờ đây đã được giải đáp rồi ư?

Năm 73 sau Công nguyên, Ban Siêu theo đô úy Đậu Cố tấn công giặc Hung

Nô phía bắc, công việc của ông chỉ là văn thư. Ông dẫn theo đoàn sứ giả gồm

ba mươi sáu người đến Shanshan, từ đây cuộc đời chinh chiến của ông tại Tây

vực đã mở trang sử đầu tiên.

Năm 81 sau Công nguyên, ông thống lĩnh một đạo quân khoảng hai mươi

lăm nghìn người tập hợp từ các nước chư hầu phía nam Tây vực tấn công

Yarkland (nay là huyện Yarkland thuộc Tân Cương). Vua Khâu Từ điều quân

cứu viện Yarkland, trúng kế của Ban Siêu, thất bại thảm hại và phải bỏ chạy.

Yarkland quy thuộc nhà Hán, con đường tơ lụa được khai thông về phía nam.

Năm 90 sau Công nguyên, nước Yuezhi (nay là các vùng đất thuộc Ấn Độ,

Pakistan, Afghanistan) cử một đội quân gồm bảy mươi nghìn người tấn công

Sulaq (nay là Kashgar thuộc Tân Cương). Ban Siêu nhận thấy đội quân vượt

ngàn dặm xa xôi ấy đã sức cùng lực kiệt, nên cố thủ không đánh. Đến khi

lương thực cạn kiệt, quân Yuezhi phải chạy đến Khâu Từ xin cứu viện, trước

đó Ban Siêu đã cho quân mai phục, nên đã tiêu diệt toàn bộ đạo quân kia.

Yuezhi đầu hàng, Ban Siêu cho phép tàn quân trở về quê hương, Yuezhi nối lại

mối quan hệ hòa hảo với nhà Hán.

Năm 91 sau Công nguyên, Khâu Từ quy thuận nhà Hán, Ban Siêu được cử

làm tướng quân cai quản Tây vực, lập đô hộ phủ tại Khâu Từ, phế bỏ ngôi vua

của Vưu Lợi Đa do Hung Nô lập nên, nên đưa thân tín của nhà Hán (chỉ các

vương tử do các nước chư hầu Tây vực cử đến triều đình nhà Hán làm con

tin), Bạch Bá lên làm vua Khâu Từ. Lịch sử cai trị Khâu Từ hơn tám trăm năm

của dòng họ Bạch bắt đầu từ đó, cho đến khi bị người Ughur chiếm đóng.

Năm 94 sau Công nguyên, Ban Siêu dẫn theo bảy mươi vạn quân tập hợp

từ tám nước trong đó có Khâu Từ và Shanshan, chinh phạt tiểu quốc Yanqi

ngỗ ngược, bắt trói quốc vương nước này, chém đầu thị uy trước thành trì của

vị tướng cai quản Tây vực tiền nhiệm bị giết hại là Trần Mục. Sau đó lập thân

tín của nhà Hán là Nguyên Mạnh lên làm vua Yanqi. Từ đó hơn năm mươi quốc

gia Tây vực đều quy thuận nhà Hán. Sau khi dẹp tan thế lực của Hung Nô,

Ban Siêu dời đô hộ phủ đến thành Taqian. Từ đó, con đường tơ lụa được khai

thông về phía bắc.

Năm 122 sau Công nguyên, vua Khâu Từ khi ấy là Bạch Anh còn đang băn

khoăn không biết nên quy thuận hay đối kháng với nhà Hán, con trai Ban Siêu

là Ban Dũng dùng lí lẽ thuyết phục, Bạch Anh đã cùng với hai nước khác là

Gumo và Wensu xin hàng Ban Dũng. Từ đó cho đến cuối đời Đông Hán, vương

triều Khâu Từ luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhà Hán.

Tôi nhìn ngắm những mảng tường hoang phế dưới bóng trăng, dấu tích

của tháng năm đang kể lại câu chuyện hào hùng về cuộc đời lẫm liệt và những

chiến công rung trời chuyển đất của hai cha con vị tướng quân anh hùng hai

trăm năm mươi năm về trước. Thành quách nguy nga năm nào giờ đây chỉ còn

là đống đổ nát, không người qua lại. Đến thế kỷ XXI, ngay cả đống đổ nát

hoang tàn này cũng không lưu lại bất cứ dấu vết nào cả. Trong đêm vắng,

lắng nghe tiếng rì rầm tụng kinh của những người Ba Tư theo đạo Hỏa giáo,

quan sát họ quỳ lạy trang nghiêm bên đống lửa bập bùng, sự thần bí của tín

ngưỡng lan trong không gian mênh mông, càng làm tăng thêm vẻ cô tịch, lạnh

lẽo của chốn này.

Tôi đang ở vào thời kỳ Ngũ hồ thập lục quốc, Trung Nguyên đại loạn, các

nước chư hầu đua nhau tranh bá, không ai màng tới Tây vực. Bởi vậy, đã từ

lâu Khâu Từ không còn nghe hiệu lệnh của vương triều Trung Nguyên, Bạch

Thuần câu kết với người Hồ ở Trung Á, mưu đồ xưng bá Tây vực, gây bất bình

trong các nước ở khu vực này. Phù Kiên đặt nhiệm vụ thống nhất lên hàng

đầu, lại nhận được sự ủng hộ của vua Shanshan và vua Chirsh, lệnh cho Lữ

Quang chinh phạt Khâu Từ. Bạch Thuần dựa vào quân Hồ, quân số tổng cộng

bảy mươi vạn, vậy mà vẫn không thắng nổi mười vạn quân của Lữ Quang.

Bạch Thuần tháo chạy, em trai Bạch Chấn lên thay, Khâu Từ trở thành vùng

đất trong bản đồ của nhà Tiền Tần. Và số mệnh của Rajiva, cũng rẽ sang một

hướng mới kể từ đó…

Chương 16: Gặp lại người xưa

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Ông trời chứng giám, tôi

muốn được ở lại khảo sát thành cổ Taqian đã biến mất hoàn toàn vào thế kỷ

XXI này đến nhường nào. Nhưng sau khi suy tính kỹ lưỡng, tôi vẫn quyết định

cùng những người Ba Tư kia lên đường. Có hai lí do, một là đoàn thương nhân

ấy đã vì tôi mà phải quay lại Khâu Từ, tôi không thể kéo dài thời gian của họ

thêm nữa. Hai là, vì an toàn của bản thân, tôi không thể không đi tiếp, ai mà

biết có hay không một toán cướp thứ hai. Thôi, hãy cứ đến Khâu Từ trước đã,

rồi quay lại sau vậy, dù sao khoảng cách từ Khâu Từ đến nơi này cũng không

quá xa. Bởi vậy, sớm tinh mơ tôi đã trở dậy và đi một vòng quanh thành cổ,

thực hiện công việc đo đạc cơ bản nhất, sau đó đánh dấu vị trí lên bản đồ, để

tiện cho việc tìm kiếm sau này.

Lúc lên đường, tôi vẫn lưu luyến dõi theo bóng thành cổ Taqian ngày một

xa dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ và mất hút trong không gian.

Nhưng bù lại, trên đường đi, tôi được chiêm ngưỡng rất nhiều địa danh khiến

tôi phải kinh ngạc. Tôi phát hiện ra một di tích quan ải đời nhà Hán, nơi đây

vẫn còn lưu lại những vết tích của khói lửa chiến tranh. Tranh thủ giờ nghỉ

trưa, tôi xăm xắn chạy đến đo đạc, kiểm tra, tôi còn tìm thấy rất nhiều mảnh

sành mảnh sứ và cả tiền đồng thời Hán nữa. Căn cứ vị trí địa lý, thì nơi đây có

lẽ là cửa ải Wulei (Ô Lũy) thời Hán. Về sau, vào thời nhà Đường, ngay cạnh di

chỉ  này,  phong  hỏa  dài  và  thành  lũy  phòng  thủ  đã  được  xây  dựng,  chung

quanh còn có đồn điền và các trại lính, quy mô rất lớn. Công trình kiến trúc

này vẫn tồn tại cho đến thế kỷ XXI.

Tôi cứ thế tất bật với công việc khảo sát suốt dọc đường đi. Ba ngày sau

chúng tôi đã đến được Khâu Từ.

Nhận ra bức tường thành quen thuộc, tim tôi đập dữ dội, dường như cảm

giác “về đến nhà” đang trào dâng mạnh mẽ trong tôi. Không biết Rajiva có

đang ở Khâu Từ không? Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi? Có còn nhớ tôi không?

Chúng tôi vào thành từ cổng phía đông, họ đòi kiểm tra giấy tờ, tôi tròn xoe

mắt! Đang nghĩ xem có nên viện cớ là người quen của quốc sư hay không thì

người đàn ông Ba Tư biết tiếng Tochari đã kịp nhét một túi nhỏ vào tay tên

lính giữ thành, thế là hắn vung tay ra hiệu cho phép cho chúng tôi qua.

Đây là thành cổ Khâu Từ mà tôi từng thông thuộc ư? Từ phố lớn đến ngõ

nhỏ chỗ nào cũng được quét dọn sạch sẽ, tinh tươm. Dân chúng trong thành

mặc những bộ trang phục đẹp nhất, kéo về cổng thành phía tây, ai nấy đều

náo nức như đi trẩy hội. Tôi nhìn những người Ba Tư, họ nhún vai tỏ vẻ không

hiểu.  Đành  phải  chặn  một  người  đi  đường  lại  để  hỏi  xem  họ  đang  đi  đâu.

Người đó thấy tôi mặc trang phục của người Hán, liền giải thích cho tôi biết

hôm  nay  là  ngày  lễ  rước  tượng  Phật  (ngôn  ngữ  Phật  giáo  gọi  là  “Hành

tượng”), lát nữa sẽ có xe hoa chở tượng Phật vào trong thành qua cửa phía

tây, sau đó diễu hành qua khắp các đường phố để mọi người được chiêm

ngưỡng.

Ngày lễ rước tượng Phật? Pháp Hiền và Huyền Trang từng viết rằng đây là

lễ hội Phật giáo náo nhiệt nhất được tổ chức tại Ấn Độ và các quốc gia Tây

vực.

Thấy tôi đang ngẩn ngơ suy nghĩ, người đó tưởng rằng người Hán không

biết về ngày hội này, nên đã giải thích rất nhiệt tình cho tôi. Sau khi Phật tổ

nhập Niết Bàn, Phật tử buồn vì không có duyên được thấy Phật, cho nên tổ

chức  ra  ngày  hội  rước  tượng  Phật  vào  ngày  Phật  Đản  để  mọi  người  được

chiêm bái và cầu nguyện, vào ngày này, những lời khẩn nguyện đặc biệt linh

nghiệm. Nhưng ngày hội lớn như thế này lại không được lưu truyền ở Trung

Nguyên. Tôi thật may mắn vì tới đây đúng lúc, không thể bỏ qua cơ hội được

tận mắt chứng kiến ngày lễ Phật giáo trọng đại này được. Tôi nói lời từ biệt với

đoàn thương nhân Ba Tư, họ mang theo bên mình bao nhiêu là hàng hóa,

chắc chắn không thể đi cùng tôi. Người dẫn đầu đoàn thương nhân ấy muốn

biếu tôi một khoản tiền, nhưng tôi một mực từ chối. Người đó bèn lấy ra một

chuỗi hạt đeo tay bằng mã não trong suốt, lấp lánh rất đẹp, đặt vào tay tôi, tôi

đành nhận lấy.

Sau khi chia tay đoàn người Ba Tư ấy, tôi hòa vào dòng người, đổ về cổng

thành phía tây. Một khán đài được dựng tạm trên cổng thành, những tấm vải

bạt to rộng màu vàng màu đỏ, được trang trí bằng vô số hoa tươi phủ lên trên.

Khán giả trên khán đài là những người ăn mặc cầu kỳ, sang trọng và nổi bật,

tuy không nhìn rõ, nhưng chắc chắn là hoàng tộc và quý tộc Khâu Từ. Tôi bị

chen lấn, xô đẩy và dạt ra tận ngoài cổng thành đến vài chục bước. Nhưng sau

cùng cũng tìm được một khoảng trống để đặt đủ hai chân, nhưng tôi chỉ có

thể kiễng lên mà nhìn vào phía trong. Thảm đỏ được trải dài trăm mét, chạy

thẳng đến cổng chính phía tây. Lúc này, biển người đột nhiên di động, tôi đưa

mắt nhìn theo ra ngoài cổng thành, vẫn trong tư thế kiễng chân, tôi thấy hai

chiếc xe bốn bánh khổ lớn, giống hệt nhau, cao khoảng bốn, năm mét, trang

trí lộng lẫy, nguy nga như một cung điện nhỏ, phủ lên trên một tấm phông

màu vàng. Tôi từng nhìn thấy những cỗ xe rước tượng Phật như vậy ở quảng

trường lớn trước đây, cạnh tượng Phật tổ còn có hai bức tượng Bồ Tát khổ

nhỏ nữa. Tượng Phật được đúc bằng vàng, trên mình khoác áo cà sa màu

vàng với những họa tiết phức tạp và đeo đủ loại trang sức vàng bạc, châu

báu.

Những cỗ xe chầm chậm tiến vào cổng thành phía tây, rồi dừng lại trước

thảm đỏ. Đức vua Khâu Từ từ khán đài bước xuống, tháo vương miện, cởi

giày, chân trần bước trên thảm đỏ, hai tay nâng cao quá đầu một nén nhang

dài, cung kính hướng về phía tượng Phật. Đức vua nom đã luống tuổi, thân

thể  nặng  nề  hơn  xưa.  Bỗng,  tôi  như  bị  thôi  miên,  người  đang  đứng  trang

nghiêm phía sau Bạch Thuần ấy, người khoác áo cà sa dát kim tuyến, khí khái

bất phàm ấy chính là Rajiva, đúng rồi, là cậu ấy!

Giống như trong phim, mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo, âm thành ồn ào

huyên náo biến mất, trước mắt tôi chỉ có hình ảnh Rajiva là sống động và duy

nhất.

Cậu ấy đã trưởng thành, tuổi chừng hơn hai mươi, đẹp như một bức tượng

điêu khắc Hy Lạp với sống mũi cao vời vợi, đôi mắt sáng mênh mông, hàng

lông mày dài mượt và dày đậm, đôi đồng tử màu xám nhạt khi nhìn lên, tưởng

chừng có thể thấu suốt mọi thứ trên thế gian này. Làn môi mỏng khép chặt,

đường môi sống động như vẽ ấy, thật dễ làm say lòng người. Cậu ta trông rất

cao, chắc chắn hơn một mét tám mươi. Cơ thể đã săn chắc hơn nhiều so với

độ tuổi mười ba, mặc dù vẫn gầy guộc, nhưng vóc dáng rất cân đối. Khuôn

mặt dài thanh tú, chiếc cằm nhọn và chiếc cổ thiên nga quyến rũ, đường nét

nào cũng hấp dẫn, cũng hút hồn. Và còn khí chất thoát tục toát lên từ vẻ đạo

mạo, nghiêm cẩn ấy nữa, giữa đám đông thế tục ô hợp, càng trở nên nổi bật,

khiến người khác không khỏi ngưỡng vọng.

Rajiva ơi Rajiva, sao cậu lại trở nên khôi ngô, tuấn tú, sáng láng đến vậy?

Cứ ngắm cậu thế này, trở về thế kỷ XXI, làm sao tôi để ý đến những người đàn

ông khác được nữa?

Bạch Thuần quỳ xuống trước tượng Phật tổ, thị nữ bưng đến một chậu hoa

rực rỡ sắc màu, nhà vua cắm nén nhang lên hương án phía trước tượng Phật,

rồi rắc hoa tươi lên mình tượng. Đám đông reo hò vang dội. Lúc này, hoàng

hậu cùng đám phụ nữ quý tộc cũng đứng trên thành lầu rắc hoa tươi xuống

dưới cổng thành. Tiếng trống, tiếng nhạc bắt đầu được tấu lên, đoàn xe chầm

chậm lăn bánh men theo thảm đỏ, tiến vào nội thành. Bạch Thuần và một vài

người khác dẫn đầu đoàn rước. Rajiva cũng đi cùng. Tôi hốt hoảng hét to:

- Rajiva, Rajiva, tôi đây, tôi ở đây. Tôi về rồi!

Đám đông xô nhau về phía cổng thành, tôi bị ép sát không thở nổi, cảm

giác như toàn thân mình đang bị đẩy đi, chân không hề chạm đất. Rajiva đột

ngột  quay  đầu  lại,  dường  như  đang  dõi  về  phía  tôi.  Tôi  muốn  gọi  cậu  ấy,

nhưng những người phía sau chen lên, đẩy tôi ngã sóng soài. Khi tôi luống

cuống đứng dậy thì cậu ta đã đi xa mất rồi. Nhìn theo bóng dáng mảnh khảnh

ấy đang khuất dần về phía nội thành, tôi cười buồn. Có lẽ cậu ta không nghe

thấy tiếng tôi gọi, giữa biết bao thanh âm hỗn tạp như vậy, làm sao mà nghe

thấy được. Lúc này tôi mới cảm thấy vết trầy xước bỏng rát trong lòng bàn tay

và trên khuỷu tay. Quần áo mùa hè mỏng manh, chẳng có tác dụng gì!

Tôi thơ thẩn đi theo đoàn xe vào thành phố, mỗi khi đến trước cổng đền

chùa hay cung điện, đoàn xe đều dừng lại. Sau đó sẽ có những chàng trai và

cô gái mặc đồ lụa rất đẹp, tay xoay tròn khay gỗ và nhảy múa. Vạt áo, thắt

lưng trên người họ theo gió tung bay, trong tiếng nhạc rộn ràng và với những

động tác thuần thục khéo léo họ vừa nhảy múa vừa rắc hoa tươi đựng trong

khay gỗ lên tượng Phật. Khán giả xung quanh vỗ tay rầm rầm tán thưởng.

Tiếp đến là một thiếu nữ dáng vẻ yêu kiều, mặc một chiếc váy voan mỏng

mềm mại, hai tay nâng cao một chiếc bát bằng vàng, chân trần nhảy múa,

động tác uyển chuyển điêu luyện, miệng tươi như hoa, chốc chốc lại nhấc cao

chân trái lên, hai tay nâng chiếc bát vàng qua đầu. Điệu múa này đã được

phác họa sinh động trên những bức bích họa ở Đôn Hoàng và Kizil.

Tôi hỏi chuyện một cụ già đứng bên cạnh. Cụ cho tôi biết, hai vũ điệu này

gọi là múa đĩa (Bàn vũ) và múa bát (Uyển vũ). Múa đĩa, là điệu múa rắc hoa

lên tượng Phật và người đi đường, tượng trưng cho sự ca ngợi và tôn kính đối

với Phật tổ. Múa bát là điệu múa bắt nguồn từ câu chuyện Phật tổ trong sáu

năm tu khổ hạnh, ngài muốn khắc chế bản thân, nên đã áp dụng phương thức

hành xác trong mọi sinh hoạt ăn ở và đi lại. Thế nhưng, đến lúc lả đi vì kiệt

sức, ngài vẫn không thể đắc đạo. Sau cùng, ngài đến ngồi thiền dưới gốc bồ

đề và đã giác ngộ, rồi ngài sáng lập ra Phật giáo. Sau khi ngộ đạo, Phật tổ ra

sông tắm gội, ngài được một cô gái trẻ cúng dường một bát cháo. Điệu múa

này chính là điệu múa mô phỏng câu chuyện cô gái trẻ kia cúng cháo cho Đức

Phật.

Vũ điệu và âm nhạc đều rất cuốn hút, nhất là với một người đến từ thế kỷ

XXI như tôi, nhưng không làm nguôi ngoai những ngổn ngang trong lòng tôi.

Đôi mắt tôi cứ bất giác len qua những vũ điệu, len qua tượng Phật, len qua

đám đông ồn ào, để kiếm tìm bóng dáng khổ hạnh, thoát tục ấy…

Mỗi lần tưởng như nhìn thấy người đó rồi, tôi chạy vượt lên tìm kiếm, chợt

sững lại, hóa ra chỉ là ảo giác. Chỉ là ảo giác thôi ư? Chợt nhớ đến câu thơ:

Giật mình tôi ngoảnh lại

Bỗng thấy Người đứng đó,

Bên tàn lửa lung linh.

Tôi  hít  một  hơi  thật  sâu,  thử  quay  đầu  lại,  không  có  ai.  Dụi  mắt,  nhìn

quanh, vẫn không ai cả.

Trời tối dần, trên phố vẫn rộn ràng lời ca tiếng hát, đã đến lúc phải lo tìm

chỗ ở. Tôi tách ra khỏi đám đông, hỏi thăm vài nhà trọ, đều được thông báo là

đã hết phòng. Hay là đến phủ quốc sư? Nhưng bộ dạng của tôi thế này, chắc

sẽ khiến họ sợ hãi. Không phải trông tôi dữ dằn hung ác đâu bạn ạ, thực ra

dung mạo của tôi cũng không đến nỗi nào, đảm bảo không làm khán giả phải

thất vọng. Tôi từng được phong danh hiệu hoa khôi của lớp nghiên cứu sinh

khoa lịch sử, tất nhiên, lớp học của tôi nam nhiều hơn nữ. Nhưng nếu bạn

nhìn thấy một người mà sau gần mười năm hoặc hơn mười năm (tôi vẫn chưa

biết thời gian ở đây đã trôi qua bao nhiêu năm rồi) dung mạo không hề thay

đổi, phản ứng của bạn sẽ thế nào?

Đang do dự không biết phải làm sao thì tôi gặp được cứu tinh, chính là

những thương nhân người Ba Tư ấy. Họ đưa tôi đến giáo đường Hỏa giáo của

họ, phía sau khu giáo đừng có các căn phòng dành riêng cho những người Ba

Tư khi đi qua nơi này trọ lại, có nét gì đó giống với các hội quán ở Thiểm Tây,

Ôn Châu. Tôi đã ở lại đây trong đêm đầu tiên trở lại Khâu Từ.

Chương 17: Nàng đã về

Ngày hôm sau, đoàn thương nhân Ba Tư lên đường đi Trường An, tôi không

phải người Ba Tư, cũng không phải tín đồ Hỏa giáo, tôi không thể ăn nhờ ở

đậu ở đây mãi được. Vậy nên dự định của tôi là đi dạo phố, nhân tiện tìm nhà

trọ.

Trên phố vẫn đông nghịt người, họ lại đổ xô về cổng thành phía tây, dường

như tôi nghe thấy họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi chặn đường một người đàn

ông đứng tuổi để hỏi thăm, người đó bảo rằng, hôm nay ở quảng trường lớn

có buổi giảng kinh của Pháp sư nức tiếng gần xa Kumarajiva, đây là dịp hiếm

có, phải mau đến đó giành lấy chỗ ngồi.

Những lời tiếp theo không biết tôi có nghe lọt tai chữ nào không, chỉ biết

rằng tôi gật đầu đáp lại trong vô thức và đôi chân cứ thế trôi đi theo hướng

người đó chỉ.

Tôi lại đến quảng trường lớn “năm năm một lần đại hội”. Hai pho tượng

Phật cao bốn đến năm mét được đưa đi diễu hành ngày hôm qua chắc hẳn

đang tọa lạc trong một ngôi chùa hoặc ngôi đền nào đó.

Tiếng nói cười ồn ào, náo nhiệt, mọi người ngồi luôn xuống đất. Trên bục

cao có một ngai sư tử bằng vàng lóng lánh, lót đệm nhung thêu kim tuyến,

dưới ánh nắng chói chang, những sợi kim tuyến lấp lánh chói mắt. Tôi đến

muộn, nên phải ngồi mãi phía sau. Tôi để ý thấy trong đám đông, nữ giới

nhiều hơn nam giới, cô nào cô nấy má đỏ hây hây, đang cố sức rướn mình thật

cao, dõi mắt tìm kiếm trên khán đài. Ồ, thì ra, chàng đẹp trai đi đến đâu cũng

thu hút sự chú ý, kể cả khi anh ta là một hòa thượng. Nếu hôm nay không

phải Rajiva, mà là một lão hòa thượng hom hem, liệu có thu hút được đông

khán thính giả nữ như thế này không? Chợt nhớ có lần đã từng thảo luận với

Rajiva về câu nói của Khổng Tử: “Ngô vị kiến hiếu đức như háo sắc giả dã”,

bất giác mỉm cười. Khổng tiên sinh quả nhiên không gạt ta!

Đám đông xao động, các thiếu nữ đua nhau vươn cổ ngó nghiêng. Tôi cũng

hồi hộp dõi mắt về phía bục cao. Có người bước lên! Nhưng không phải Rajiva,

mà là đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc, họ xếp thành một vòng tròn.

Sau đó, Rajiva xuất hiện! Vẫn khoác trên mình chiếc áo cà sa dát kim tuyến,

thần thái an nhiên, tự tại, từng bước tiến về phía ngai sư tử đặt ở chính giữa.

Bạch Thuần quỳ trước ngai sư tử, hai tay đưa lên làm thành tư thế đỡ. Rajiva

khẽ chạm một chân lên bàn tay Bạch Thuần, chân còn lại đặt lên vai đức vua,

làm đà rướn mình bước lên và ngồi vào ngai sư tử. Đám đông sững sờ! Có lẽ

không chỉ tôi, mà ngay cả người dân Khâu Từ cũng chưa bao giờ được chứng

kiến một nghi lễ trang trọng đến thế. Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết:

“Vua Khâu Từ sai người đúc ngai sư tử vàng, lót đệm nhung của Đại Tần lên

trên. Chiếc ngai nguy nga đó dành cho Rajiva ngồi khi giảng kinh”. Hôm nay

được tận mắt chứng kiến, mới biết sử sách ghi chép không sai chút nào.

Sau khi Rajiva yên vị, Bạch Thuần cùng đám quý tộc khoanh chân ngồi lên

tấm thảm trải phía dưới ngai sư tử. Rajiva cất tiếng, cậu sử dụng ngôn ngữ

Tochari. Có lẽ vì đây là buổi giảng kinh cho dân thường và mức độ phổ cập của

tiếng Phạn thì không cao. Giọng nói của Rajiva không còn âm điệu hồn nhiên

của tuổi mười ba, thay vào đó là vẻ chững chạc của tuổi trưởng thành. Đó là

chất giọng trầm ấm, truyền cảm, khoan thai, rất cuốn hút, có thể chạm đến

từng sợi dây thần kinh của người nghe và khiến chúng được thư thái hoàn

toàn. Lời mở đầu ngắn gọn, khúc chiết, ngay lập tức chiếm được cảm tình của

khán thính giả. Kỹ năng diễn thuyết của Rajiva đã tiến bộ vượt bậc, chắc rằng

những năm qua, cậu đã tham gia rất nhiều buổi giảng kinh như thế này.

Sau đó, Rajiva bắt đầu thuyết pháp. Đó là sự tích Phật tổ lưu trú tại vườn

Kỳ Viên, nước Xá Vệ (Savatthi, một vương quốc cổ đại ở miền Trung Ấn Độ).

Khu vườn do thái tử Kỳ Đà (Jeta) và nhà từ thiện Tu Đạt Đa (Sudatta, biệt

hiệu Cấp Cô Độc) quyên tặng làm tịnh xá cho Phật tổ và một nghìn hai trăm

năm mươi vị Đại Tỷ khâu (Bhiksu). Một ngày nọ, như thường lệ, vào giờ trưa,

Đức Phật khoác áo cà sa, tay cầm bát sành, vào thành Xá Vệ khất thực. Ngài

đến từng nhà xin bố thí, không phân biệt giàu nghèo. Sau đó quay về vườn Kỳ

Viên, Ngài ăn uống, rồi thu dọn đồ đạc, rửa chân và ngồi tọa thiền. Lúc này,

trưởng lão Tu Bồ Đề (Subhuti, pháp hiệu “Giải không đệ nhất”, là một trong

mười đại đệ tử của Phật tổ) mới đứng lên, vai trần bên phải, chân phải quỳ

dưới đất, hai tay chắp lại, bắt đầu thỉnh giáo Phật tổ về Phật pháp.

Sau đó, tôi thấy ù tai, chóng mặt. Phần đầu là truyện kể nên tôi có thể

nghe hiểu không khó khăn gì dựa vào vốn từ vựng Tochari sẵn có trước đó, kết

hợp với những kiến thức về Phật học và tài liệu liên quan đến Rajiva mà tôi đã

kịp trau dồi sau khi trở về thế kỷ XXI. Nhưng tiếp theo lại là những giáo lý Phật

giáo uyên thâm. Mặc dù Rajiva thuyết giảng với tốc độ vừa phải, từng câu

từng chữ rõ ràng, khúc chiết, nhưng phần lớn vẫn là những từ ngữ mà tôi

chưa được học, nên tôi nghe không hiểu mô tê gì. Cảm giác lúc này hệt như

khi tham dự buổi giảng kinh đầu tiên của Rajiva ở Wensu, ký ức sống động

như vừa diễn ra hôm qua. Thực ra, mọi thứ liên quan đến Rajiva đều rất sống

động, mới mẻ vì với tôi, đó là những hình ảnh của chưa đầy một năm về trước.

Rajiva khoát tay, một chuỗi tràng hạt lộ ra trên cánh tay trái. Có phải tôi

nhìn nhầm không? Vì sao trực giác cho tôi hay, đó chính là món quà tết tôi đã

tặng cậu ta trước lúc rời khỏi Khâu Từ? Tôi chăm chú quan sát người ngồi trên

chiếc ngai sư tử ấy, tuy ở khoảng cách khá xa, nhưng vẫn thấy rõ nét an

nhiên, tự tại đặc trưng trên gương mặt. Bất giác, buông tiếng thở dài.

Rajiva, mấy ngày qua, tôi cứ mê man chạy đuổi theo cậu, nhưng không có

cách nào lại gần cậu được. Lẽ nào tôi cũng chỉ có thể giống như những cô gái

với đôi mắt mang hình trái tim kia, ngắm nhìn cậu từ phía xa? Cậu cứ thuyết

giảng đi, lần này tôi hứa không trốn về nữa, nhưng liệu cậu có nhìn thấy tôi

không?

Buổi thuyết pháp kéo dài mấy giờ đồng hồ và Rajiva không cầm bất cứ tài

liệu gì trên tay, thậm chí, trong suốt thời gian giảng kinh, cậu ấy còn chẳng

hắng giọng lấy một tiếng. Hồi ở Wensu, cậu ấy thuyết giảng liên tục bảy bảy

bốn mươi chín ngày, tuy tôi chỉ ngồi nghe nửa ngày, nhưng có thể khẳng định

chắc chắn rằng, cậu ấy không bao giờ cần đến tài liệu. Vẫn biết Rajiva thông

minh tuyệt đỉnh, chỉ cần đọc qua là nhớ, nhưng không thể không bày tỏ sự

thán phục đối với cậu ấy. Còn về phần mình, mặc dù rất đau khổ, nhưng xin

thú thật là tôi chỉ hiểu được khoảng hai mươi phần trăm nội dung bài giảng và

đưa ra kết luận như thế này: Rajiva vừa thuyết giảng về ý nghĩa của khái niệm

“không” trong giáo lý Đại Thừa và những kinh văn mà cậu ấy vừa đọc chính là

một  trong  những  tác  phẩm  dịch  thuật  nổi  tiếng  sau  này  của  cậu  ấy:  “Kim

cương bát nhã ba la mật kinh”, thường được gọi là “Kinh kim cương”.

Tuy không thuộc trọn bộ “Kinh kim cương”, nhưng sau khi trở về thế kỷ

XXI, tôi đã dành nhiều thời gian để tìm đọc cuốn kinh có ý nghĩa vô cùng quan

trọng đối với Rajiva này. Toàn văn bản dịch “Kinh kim cương” của Rajiva không

dài, chưa đến năm nghìn chữ, là cuốn kinh văn ghi lại nội dung những câu hỏi

đáp giữa Phật tổ và đại đệ tử Tu Bồ Đề (Subhuti). Khái niệm “không” trong

Phật  giáo  vốn  rất  khó  lý  giải  bằng  ngôn  từ,  bởi  vậy,  trong  cuốn  “Kinh  kim

cương” có rất nhiều câu chữ đậm màu sắc huyền hoặc, uyên thâm của đạo

Phật, cố gắng luận giải những giáo lý vốn dĩ không thể diễn đạt bằng lời. Bộ

kinh thư này có tất cả sáu phiên bản, cả Rajiva và Huyền Trang đều từng dịch

sang tiếng Hán. Bản dịch của Rajiva được giới Phật giáo gọi là bản cũ, bản

dịch của Huyền Trang gọi là bản mới. Nhưng bản dịch tuân thủ gần như tuyệt

đối nguyên văn tiếng Phạn của Huyền Trang rất ít người nhớ đến. Trong khi

bản dịch nghiêng về phương pháp dịch thoát ý của Rajiva lại được lưu truyền

rộng rãi suốt 1650 năm.

Trong bản dịch “Kinh kim cương” của Rajiva, tôi thích nhất đoạn này:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán

 (Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

Như sương, như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng)[8]

Những  câu  kinh  súc  tích,  chau  chuốt,  đậm  chất  thơ  trích  từ  “Kinh  kim

cương” ấy đã toát lên tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Đại Thừa khi nhìn nhận

cõi đời như một giấc mơ, như một cơn gió thoảng, như giọt sương rơi trên

chiếc lá, thường được gọi là bài kệ Lục Như. Đọc những bản dịch như thế này

mới hiểu được vì sao tác phẩm dịch thuật của Rajiva lại có sức sống lâu bền

với thời gian như vậy.

Rajiva thuyết giảng triết lý “không” trước quần chúng, điều này chứng tỏ

cậu ấy đã thay đổi tông phái từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa, đang ra sức truyền

bá giáo lý Đại Thừa, bất chấp sự phản kháng mạnh mẽ từ các thế lực Phật

giáo Tiểu Thừa ở Khâu Từ. Vậy là, hơn mười năm dưới sự nỗ lực không ngừng

của Rajiva, người dân Khâu Từ đã tin theo và sùng bái Phật giáo Đại Thừa.

Nhưng, Rajiva đâu biết rằng, sau khi cậu rời khỏi Khâu Từ và không bao giờ trở

lại, tông phái Đại Thừa mà cậu mất bao công sức và tâm sức gây dựng nên đã

nhanh chóng suy yếu và Phật giáo Tiểu Thừa lại được dịp phát triển rầm rộ,

cho đến khi Khâu Từ bị người Ughur đồng hóa và cưỡng chế theo tín ngưỡng

Hồi giáo của họ. Phật giáo Đại Thừa ở Khâu Từ chỉ tồn tại và hưng thịnh nhờ

có Rajiva, điều đó, quả thực, chẳng khác nào hoa phù dung kia sớm nở tối tàn!

Buổi giảng kinh đã kết thúc, nhưng tôi chưa vội ra về, mà rảo bước sang

mạn tây bắc của quảng trường lớn. Dòng sông nhỏ đóng băng ngày ấy giờ đây

đang chảy xiết, một cây cầu bắc qua sông. Ngôi chùa “kỳ lạ” vẫn trầm mặc tọa

lạc bên kia sông, mái chùa lấp lánh ánh vàng, xem ra, chùa đã được tu sửa

ngày càng khang trang hơn. Nhớ lại khoảnh khắc run rẩy nhón bước trên mặt

băng, tay nắm chặt bàn tay ấm áp của Rajiva, bất giác mỉm cười. Đó là lần đầu

tiên tôi bị hoa mắt vì “quáng tuyết” (cường độ ánh sáng mãnh liệt phản chiếu

lên mặt băng tuyết, kích thích và làm cho mắt bị đau, thậm chí bị mù). Tôi

nhắm mắt lại, hồi tưởng về nỗi sợ hãi khi đó.

- Rajiva, sao tôi không thấy cậu?

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

- Rajiva, tôi sẽ không bị mù chứ?

- Không đâu.

- Nếu tôi bị mù thì phải làm sao?

- Không đâu.

- Cô đã trở lại!

Hả? Câu cuối cùng hình như không nằm trong kho trí nhớ của tôi thì phải?

Tôi mở mắt, quay đầu lại. Định thần, rồi hai mắt cứ thế mở to ra, to nữa, thêm

nữa, lớn đến mức trong tầm mắt chỉ tồn tại duy nhất dáng vẻ thảnh thơi, an

nhiên của cậu ấy…

Mười năm không gặp, sao vẫn ngây ngô như vậy?

Phải rồi, cậu ta từng nói, nếu không có vẻ mặt ngây ngô ấy, tôi sẽ thông

minh hơn rất nhiều. Trời ơi, những kỉ niệm mà tôi ngỡ vừa mới hôm qua, vậy

mà đã là mười năm thời gian đối với Rajiva. Sống mũi tôi bỗng cay cay.

- Sao thế? Không nhận ra tôi à?

Cánh tay phải chìa ra, sắp chạm đến vai tôi, lại đột ngột vẽ một đường vòng

ngượng ngập, rồi thu về. Ánh mắt ban đầu nhìn tôi chăm chú, bỗng chớp

chớp đôi ba lần, khẽ cúi đầu, hàng mi chùng lại. Nhưng cánh tay lại đột ngột

vươn ra nắm lấy tay phải của tôi:

- Sao thế này?

Theo ánh mắt của Rajiva tôi nhìn xuống lòng bàn tay mình. Cú ngã hôm

qua, khiến lòng bàn tay và khuỷu tay tôi rách toác, nhưng tôi đã giấu kỹ trong

tay áo, nên nhìn bên ngoài không thể phát hiện ra. Cho đến tận tối hôm qua,

khi tôi vào nghỉ trọ trong giáo đường của người Ba Tư, mới xắn tay áo lên xử lý

sơ qua vết thương. Lúc này, vết rách đang tím lại và sưng lên. Thời cổ đại

không có thuốc chống viêm, mắc bệnh uốn ván cũng có thể mất mạng như

chơi. Nếu không chữa khỏi, tôi chỉ còn cách trở về thế kỷ XXI…

Đang mải nghĩ, chợt cảm thấy mình bị lôi đi.

- Đi đâu vậy?

Bàn tay Rajiva vẫn ấm áp và trơn ướt như xưa.

- Đi khám bệnh.

Rajiva ngước nhìn lên bục cao, mọi người đều đã ra về, chỉ còn lại vài hòa

thượng đang quét dọn.

- Đức vua đã hồi cung, hãy vào cung cùng tôi.

- Cậu…

Tôi ngập ngừng:

- Cậu không thắc mắc vì sao tôi không hề thay đổi ư?

Cậu ta không hỏi gì khiến tôi cảm thấy rất bứt rứt, nhưng nếu cậu ta hỏi

đến, tôi phải giải thích sao đây?

Sau mười năm, Rajiva đã trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, còn

tôi, chẳng thay đổi gì cả. Vậy là cậu ta đã “bắt kịp” tôi, cũng hai mươi tư tuổi.

Chàng thanh niên bằng tuổi tôi ấy đang nắm tay tôi kéo đi, cẩn trọng để không

chạm vào vết thương của tôi. Nhưng Rajiva là hòa thượng và ở phía đó còn có

những người khác…

Cảm thấy tôi đột nhiên dừng bước, Rajiva quay đầu, nhận ra tôi chú ý đến

bàn tay cậu ta đang nắm chặt tay mình. Rajiva vội thả tay ra, gương mặt lại đỏ

lên rộn ràng hệt như mười năm trước, mắt cụp xuống, khẽ nói:

- Pusyseda bảo cô là tiên nữ…

Rồi lại ngước lên nhìn tôi, vẫn là đôi mắt trong sáng và thuần khiết ấy.

- Dù thế nào, cô trở về là tốt rồi…

Tôi nghe mà sống mũi cay cay, tôi ốm mất!

Chúng tôi không vào cung tìm ngự y nữa, tôi sợ chạm mặt người quen.

Rajiva không xem tôi là quái nhân, nhưng biết đâu những người khác sẽ trói

tôi lại rồi đưa lên giàn thiêu thì sao, tốt hơn hết là phải thận trọng! Tôi không

nói với Rajiva những lo lắng của mình, nhưng thấy tôi do dự, cậu ta hiểu ngay.

Tôi đeo chiếc ba lô Northface lên vai rồi trèo lên xe ngựa của Rajiva, cậu ấy

bảo sẽ đưa tôi đi tìm chỗ ở. Chiếc xe ngựa của Rajiva bên ngoài trông rất giản

dị  nhưng  bên  trong  khá  là  thoải  mái,  có  đệm  êm,  ngựa  tốt.  Là  một  hòa

thượng, Rajiva không sở hữu tài sản cá nhân, nhưng cả đời cậu ấy đều không

phải lo chuyện cơm ăn áo mặc và lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ. Khi còn ở

Kabul, chưa đầy mười tuổi mà Rajiva đã nhận được sự đãi ngộ đặc biệt: “Mỗi

ngày hai đôi ngỗng khô, ba đấu gạo, ba đấu bột mì, sáu cân bơ. Nơi ở có năm

vị tăng trẻ, mười chú tiểu lo công việc và một số đệ tử khác lo quét dọn. Có

thể thấy Kumarajiva đã được trọng vọng như thế nào”. Trong các bộ phim

truyền hình mà tôi xem, các chú tiểu vất vả lắm cũng chỉ phải cầm chổi quét

qua quét lại, Rajiva, có lẽ cả đời cũng không phải động chân động tay vào mấy

công việc lặt vặt này…

Xe ngựa rung lắc khá mạnh cắt ngang những suy nghĩ miên man của tôi,

quay lại và nhìn sang phía đối diện, khuôn mặt Rajiva không biết từ lúc nào đã

lại đỏ lên như gấc chín

Tôi hắng giọng, đưa mắt đến chuỗi hạt trên tay cậu ta, màu sắc không còn

như trước nữa, một số hạt đã có vết nứt.

- Cũ như vậy mà vẫn đeo sao?

Cậu ta cúi xuống, thu tay vào trong áo:

- Vẫn đeo, chưa muốn thay.

Tôi lôi trong ba lô ra chuỗi hạt mã não.

- Đeo cái này đi.

Rajiva nhìn chuỗi hạt trong tay tôi, hơi ngạc nhiên. Chuỗi hạt đó rất đều và

đẹp, sắc đỏ long lanh, trong suốt, chỉ nhìn cũng biết là món đồ quý giá. Một

lúc sau, cậu ta mới đưa ta ra nhận lấy chuỗi hạt, nhưng không đeo vào tay, mà

thận trọng đặt vào lòng mình.

Ánh mắt mơ màng ngước nhìn tôi. Tôi nghĩ, xe ngựa này xóc quá…

Chương 18: Đến chùa Cakra

Xe ngựa chạy mãi, tôi kéo rèm nhìn ra bên ngoài, vậy là chúng tôi đang đi

về hướng bắc, bên đường, ruộng nương trải rộng mênh mông, chắc chắn đã

ra khỏi thành Khâu Từ rất lâu rồi. Lạ quá, sao phải đi xa như vậy, không lẽ nhà

trọ đó ở nông thôn?

- Chúng ta đến chùa Cakra.

Thấy tôi có vẻ suy tư, Rajiva mỉm cười.

- Tôi là sư trụ trì ở chùa Cakra. Chùa cách kinh thành bốn mươi dặm, đường

sá khá xa xôi.

Chùa Cakra ư? Là ngôi chùa mà Huyền Trang từng đến giảng kinh? Nơi có

thành cổ Subash mà tôi đã khảo sát nhiều ngày khi ở Kucha? Đúng rồi, Rajiva

từng trụ trì ngôi chùa đó, có điều không thấy văn bản hay tài liệu nào ghi chép

năm tháng cụ thể, không ngờ lại vào khoảng thời gian khi cậu ấy còn trẻ như

vậy.

- Chúng ta sẽ kịp giờ ăn tối.

Có lẽ thấy tôi ngơ ngác nhìn ra xung quanh, trông có vẻ khổ sở lắm, Rajiva

càng cười tươi hơn.

Định lên tiếng biện hộ, nhưng chạm phải nụ cười quyến rũ ấy, tôi chẳng

còn nhớ mình muốn nói gì nữa, cứ mê mải ngắm nhìn. Nụ cười năm mười ba

tuổi của cậu ta đã khiến người khác phải bối rối rồi, nụ cười tuổi hai mươi tư

càng có sức cuốn hút mãnh liệt. Bất giác, tôi đưa tay lên che mắt, phải chặn

ngay sức hấp dẫn khiến tôi cứ phải hồi hộp vô cớ ấy.

- Tay cô đang bị đau, đừng chạm vào.

Rajiva ơi, cậu có biết ánh mắt và nụ cười ấy của cậu ở thế kỷ XXI người ta

gọi là “phát tín hiệu” không hả? Tôi bỏ tay xuống, kìm chế bản thân để không

nhìn vào đôi mắt hút hồn ấy nữa và nhanh chóng nghĩ cách chuyển chủ đề:

- Pusyseda vẫn khỏe chứ?

Nhắc đến em trai, Rajiva cười vui vẻ.

- Cậu ấy hiện là đội trưởng đội cấm vệ quân, đức vua rất trọng dụng.

Tôi biết mà, từ nhỏ Pusyseda đã thích học võ hơn học chữ, lúc nào cũng

ham mê diễn kịch đánh đấm. Mỗi lần lên lớp, tôi đều phải giả làm quân lính,

giả làm giặc cướp, chơi đùa với chú nhóc một lúc lâu, sau đó Pusyseda mới

chịu ngồi vào học bài. Nghĩ đến cậu nhóc ấy lại thấy buồn cười. Bây giờ đã là

chàng trai hai mươi mốt tuổi rồi, không biết có còn nhớ tôi không, khi mà

chúng tôi chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng.

- Cậu ấy kết hôn chưa?

Vẫn chưa. Pusyseda suốt ngày rong chơi phong lưu, chưa thấy cậu ấy thật

lòng với cô gái nào cả. Cha tôi thúc giục thì cậu ấy bảo nhất định sẽ cưới một

cô gái độc nhất vô nhị trên đời này.

Ha ha, tiêu chuẩn cao gớm nhỉ! Cũng phải thôi, cậu ta xuất thân quyền

quý, lại cao ráo đẹp trai nữa.

- Tôi muốn gặp cậu ấy. Nhưng không biết có làm cậu ấy hoảng sợ không.

Rajiva bật cười, hình như nhớ đến điều gì đó.

- Không đâu, cậu ấy vẫn luôn nghĩ cô là tiên nữ và tin rằng, cô nhất định sẽ

quay lại.

- Cậu giúp tôi sắp xếp được không?

Không biết tôi có nhận ra cậu nhóc ấy không nữa.

Rajiva gật đầu, tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

- Gặp được cậu, sau đó gặp cậu ấy nữa, thì tôi có thể yên tâm quay về rồi.

Khâu Từ vốn không có trong kế hoạch vượt thời gian lần này. Tôi cố ý đến

đây chỉ để được nhìn thấy Rajiva và nhân tiện tìm cách gặp Pusyseda, sau đó

sẽ đi khảo sát thành cổ Taqian, rồi đến Trường An. Tôi luôn luôn nhắc nhở bản

thân, tôi đến đây để làm việc. Tôi chỉ có thể ở lại nhiều nhất là một năm. Mặc

dù sau khi sử dụng Lithium, tính năng của đồng hồ vượt thời gian đã ổn định

hơn trước rất nhiều, nhưng tuổi thọ của loại pin này cũng có giới hạn nhất

định. Để đảm bảo còn đủ năng lượng khi quay về, tôi phải rời khỏi đây trong

vòng một năm. Nếu không tôi sẽ phải lưu lại vĩnh viễn.

Ánh mắt Rajiva thoáng vẻ ngỡ ngàng:

- Cô trở về Trung Nguyên ư? Hay… về trời?

Về trời ư? Tôi sững người.

- Cậu tin điều đó thật sao?

- Nếu không, vì sao một cô gái như cô lại một mình xuất hiện giữa sa mạc?

Vì sao cô chưa từng đến Kabul lại nắm rõ kiến trúc chùa hang đá ở đó? Vì sao

cô biết nguồn gốc chùa Masha ở Khotan? Vì sao kiến thức và sự hiểu biết của

cô phong phú hơn bất cứ cô gái nào? Vì sao đột ngột cô biến mất không để lại

dấu vết gì? Vì sao sau mười năm dung mạo của cô không hề thay đổi?

Hàng loạt câu hỏi “vì sao” khiến tôi bối rối. Cậu ta vốn rất giỏi hùng biện, tôi

làm sao chống đỡ nổi. Nếu tiếp tục hỏi nữa, chắc tôi sẽ “khai” ra hết.

Nhìn vẻ mặt tội nghiệp của tôi, Rajiva khẽ cười, đôi mắt long lanh.

- Thực ra, mười năm trước tôi đã cảm thấy rất lạ. Cô đột nhiên biến mất,

mười năm sau trở lại, dung mạo không hề thay đổi. Điều này càng khiến tôi tin

rằng, sự xuất hiện của cô là do Phật tổ an bài.

Tôi không biết phải nói sao, ánh mắt ấy khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi gắng

giữ bình tĩnh, chuyển đề tài:

- Cha cậu vẫn khỏe chứ?

Vẻ mặt Rajiva bỗng trở nên u ám.

- Sức khỏe của cha giảm sút đi nhiều, có lẽ vì quá thương nhớ mẹ tôi.

Tôi nhớ rằng, về sau Jiva đã rời Khâu Từ để đến Ấn Độ, nhưng các tài liệu

không ghi chép thời gian cụ thể. Bây giờ, hẳn là bà đã ra đi rồi.

Tôi thinh lặng, Kumarayana, con người nho nhã, đôn hậu ấy, con người

“thông tuệ và đức hạnh” ấy chắc hẳn vẫn luôn tha thiết yêu vợ mình? Lẽ ra

ông sẽ là người kế vị ở Ấn Độ (không rõ quốc gia của ông là tiểu quốc nào, vì

khi đó, Ấn Độ phân tách thành rất nhiều quốc gia nhỏ), nhưng ông đã từ bỏ

tất cả để xuất gia và tìm đường đến Khâu Từ học đạo. Có sách chép rằng

Kumarayana thành thân với Jiva vì bà rất yêu ông, thậm chí đã ép ông phải

cưới  bà.  Nhưng  tôi  nghĩ,  một  cao  tăng  “tâm  vững  như  bàn  thạch”  như

Kumarayana nếu không có tình cảm sâu sắc với Jiva, chắc chắn sẽ không chịu

làm quốc sư Khâu Từ, rồi lưu lại nơi này. Ở Ấn Độ, ông có thể trở thành một

tướng quốc kia mà! Nếu không vì người vợ xinh đẹp, nếu không vì những đứa

con thông minh, chắc hẳn ông đã không can tâm với thân phận một kẻ tha

hương. Vì vậy, khi Jiva muốn xuất gia ông đã kiên quyết phản đối, chỉ đến khi

bà  một  mực  tuyệt  thực,  ông  mới  đành  ngậm  đắng  nuốt  cay  chấp  nhận.

Giương mắt đứng nhìn người vợ đầu gối tay ấp của mình xuống tóc đi tu, từ

nay gia đình hạnh phúc của ông không còn trọn vẹn nữa, chắc hẳn ông đã rất

đau lòng. Bản thân ông là một tín đồ Phật giáo, lẽ ra ông phải vui mừng khi có

người nguyện dành trọn đời phụng sự Đức Phật mới phải chứ? Nhưng vì sao

khi tín đồ ấy là người ông yêu thương, ông lại chẳng thể nguôi ngoai?

Tôi vén rèm cửa nhìn ra bên ngoài, xe ngựa chạy rất nhanh, nhưng vì là cỗ

xe tốt nên mức độ rung lắc không quá nghiêm trọng. Từng thửa ruộng đều

tăm tắp trôi qua trước mắt, phía xa xa là dãy Thiên Sơn sừng sững tạc hình lên

bầu  trời  xanh  ngút  ngát.  Quay  đầu  lại,  bắt  gặp  ánh  mắt  Rajiva  đang  nhìn

mình. Lại nhớ chuyện Kumarayana không bằng lòng để vợ xuống tóc, nhưng

lại đồng ý cho cậu con trai mới bảy tuổi của mình xuất gia. Có lẽ không chỉ vì

cậu bé tuổi nhỏ cần có mẹ, mà còn vì Kumarayana muốn Rajiva ở bên Jiva để

chăm sóc bà.

Tôi đắm chìm trong những suy tư miên man không dứt, bánh xe vẫn đều

đặn quay, mí mắt trùng xuống, nặng trịch. Mấy ngày rong ruổi trên đường

khiến tôi thấm mệt. Chợt thấy vẳng bên tai một giọng nói khẽ khàng, ấm áp:

- Ngải Tình, nằm xuống chợp mắt đi.

Không kịp suy nghĩ thêm, tôi ngã đầu xuống, trước lúc thiếp đi chỉ nhớ

mang máng là đã gối trên vật gì đó rất êm, sau đó ngủ say không biết trời đất

gì.

Khi Rajiva đánh thức tôi dậy thì trời đã về chiều, trước mặt tôi là quần thể

kiến trúc nguy nga, đồ sộ chẳng khác nào một thành phố. Rajiva lại đỏ mặt khi

tôi mở mắt ra nhìn cậu ta, chắc là điệu bộ của tôi lúc ngủ khó coi lắm, nên cậu

ta mới như vậy. Tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng cảm giác ấy đã nhanh chóng biến

mất ngay sau khi tôi xuống xe và nhìn thấy công trình kiến trúc trước mặt.

Đó là ngôi chùa nổi tiếng nhất trong lịch sử Khâu Từ - chùa Cakra, được xây

dựng dưới thời Ngụy Tấn, cũng là ngôi chùa lớn nhất còn lưu lại ở Tây vực.

Trong “Đại Đường Tây vực ký” Huyền Trang gọi đó là chùa Chiêu Hộ Li. Khi

Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh và có ghé qua chùa Chiêu Hộ Li, thì ngôi

chùa này khi ấy đang vào giai đoạn cực thịnh. Khuôn viên của chùa kéo dài

đến  tận  vùng  gò  đồi  và  núi  cao  hai  bên  bờ  phía  đông  và  phía  tây  sông

Tongchang. Ngài Huyền Trang đã ở lại chùa Cakra giảng kinh trong suốt hơn

sáu mươi ngày và ngài đã để lại cho thế kỷ XXI rất nhiều tư liệu nghiên cứu

quý  giá  về  ngôi  chùa  này.  Phía  bắc  chùa  Cakra  có  một  thôn  làng  nhỏ  của

người Duy Ngô Nhĩ (Uygur), nghe nói đó chính là nơi từng được gọi là “Nước

con gái” (Nữ nhi quốc) trong tiểu thuyết “Tây du ký” nổi tiếng của Ngô Thừa

Ân. Nhưng sự thật có phải vậy không thì vẫn chưa ai giải đáp được. Một số di

chỉ thiền động với rất nhiều văn tự Khâu Từ và những bức bích họa đậm màu

sắc Phật giáo nằm trên ngọn núi phía bắc chùa Cakra vẫn được bảo tồn đến

ngày nay. Nghe nói, về sau, những pho tượng Phật trong chùa đã bị tín đồ Hồi

giáo phá hủy, vì họ căm ghét việc sùng bái những thần linh có hình hài.

Chùa Cakra lấy sông Tongchang làm đường ranh giới tự nhiên phân tách

ngôi chùa thành hai khu vực phía đông và phía tây. Người dân Kucha ngày nay

gọi đó là thành cổ Subash, là di chỉ quan trọng nhất ở Khâu Từ, bên cạnh

Thiên Phật động Kizil. Ngày nay, muốn đến chùa Chiêu Hộ Li ở Kucha bạn phải

nói là đến “thành cổ Subash”, vì hầu hết những người không nghiên cứu sâu

về lịch sử ở Kucha đều không biết chùa Chiêu Hộ Li là ngôi chùa nào. Tuy

nhiên, trên thực tế, thành cổ Subash chỉ là một thành phố nhỏ nằm ở đầu phía

nam của khu chùa phía tây mà thôi. Là thành phố trực thuộc trong cả khối

kiến trúc đồ sộ của ngôi chùa Cakra vĩ đại này. Subash là nơi nghỉ trọ của

khách thập phương khi đến chùa cúng bái. Trong nội thành Subash, kiến trúc

đền tháp chiếm đa số, đi đến đâu cũng thấy những tòa tháp, tháp lớn tháp bé,

khiến người ta mỏi mắt ngắm nhìn.

Chúng tôi đang có mặt ở nội thành Subash. Rajiva đưa tôi đến một ngôi nhà

nhỏ ở nơi khá hẻo lánh trong thành phố. Người mở cửa là một ông lão, tôi thấy

ông rất quen, ông lão cũng nhìn tôi chăm chú. Tôi nhớ ra rồi, chính là ông cụ

quản gia của phủ quốc sư, tên là Mavasu, là người theo hầu Kumarayana từ

Ấn Độ sang Khâu Từ. Mất một lúc lâu ông lão mới nhận ra tôi và đúng như tôi

nghĩ, ông ngạc nhiên đến mức tay chỉ trỏ vào tôi hồi lâu mà không nói được

câu nào. Rajiva giải thích với ông cụ bằng tiếng Phạn. Ông cụ đã bình tĩnh trở

lại, nhưng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thắc mắc khi đưa tôi vào nhà.

Khuôn viên ngôi nhà không rộng lắm, gồm ba gian, hai chái nhà ở hai bên.

Và giống như mọi ngôi nhà khác ở Khâu Từ, trước sân có một giàn nho, hoa

nở rực rỡ. Lúc này đang là mùa nho chín rộ, nên khắp không gian lan tỏa

hương thơm ngọt ngào dìu dịu. Đồ đạc trong phòng rất giản dị: giường, tủ,

bàn, ghế và không có bất cứ thứ đồ dư thừa nào khác. Cảm giác như nơi này

không vướng chút bụi trần, thanh bần và thoáng đãng. Tài sản quý giá duy

nhất là hai giá sách áp vào lưng tường. Chỉ thoáng nhìn đã thấy đầy đủ: sách

tiếng  Hán,  tiếng  Phạn,  tiếng  Tochari  và  một  vài  cuốn  trong  số  đó  nhìn  rất

quen.

- Đây là nơi tôi đọc sách.

Thấy tôi chú ý đến tủ sách, Rajiva giải thích:

- Pusyseda không ham đọc sách, nên cha đã tặng tôi toàn bộ số sách trong

nhà.

- Cậu sống ở đây ư?

- Tôi ở trong chùa chứ! Nơi này chỉ là chốn thanh tĩnh để đọc sách thôi.

Khuôn mặt Rajiva toát lên vẻ thư thái hiếm thấy.

- Cô cứ yên tâm ở lại đây, vợ chồng Mavasu sẽ chăm sóc cô.

Rajiva bước ra ngoài, tôi tranh thủ sắp xếp đồ đạc. Một lát sau cậu ta quay

lại, trên tay cầm chai rượu thuốc và một miếng vải bông sạch. Tôi muốn tự

mình băng bó, nhưng khi rượu thuốc ngấm vào vết thương, tôi cắn răng chịu

đau. Rajiva ngồi bên cạnh quan sát, trách tôi tay chân vụng về, rồi cầm lấy tay

tôi, nhẹ nhàng thấm rượu vào miếng bông tẩy trùng vết thương cho tôi. Thực

ra vết rách trong tay không nghiêm trọng, nhưng khuỷu tay bị toác một miếng

khá rộng và sâu. Tôi xắn tay áo lên, chìa vết thương đang sưng tấy, nhức buốt

ra trước mặt cậu ta.

Rajiva sững người khi nhìn thấy cánh tay trần của tôi. Quên cả việc băng

bó, để mặc ánh mắt khó hiểu miệt mài du ngoạn trên cánh tay tôi. Tôi chợt

nhận ra, trước mặt tôi lúc này không còn là cậu thiếu niên với thân hình mảnh

khảnh và khuôn mặt hồn nhiên của tuổi mười ba nữa. Rajiva của mười năm

sau đã là một thanh niên trưởng thành, bằng tuổi tôi. Và vào thời cổ đại, một

cô gái chìa cánh tay trần của mình ra trước một chàng trai là hành vi không ý

nhị chút nào. Tôi buông tay áo xuống, nói rằng tôi sẽ tự mình băng bó.

Rajiva đang yên lặng bỗng kéo tay tôi về phía mình, vén tay áo lên cao,

thấm bông và lau vết thương cho tôi. Động tác của cậu ấy không nhẹ nhàng

chút nào, nhưng vẻ mặt nghiêm trang của Rajiva khiến tôi quên cả đau, chỉ

biết len lén quan sát cậu ấy.

Dưới ngọn đèn dầu của buổi chiều muộn, gương mặt dài bên ánh sáng,

hàng mi dài khẽ đua lên cao, sống mũi cao vời vợi, đôi môi khép chặt. Vẻ đẹp

cuốn hút ấy khiến người đối diện không thở nổi. Chúng tôi ngồi cách nhau đủ

gần để tôi có thể cảm nhận được mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương trên

người cậu ấy, thứ hương thơm khiến tôi mơ màng và chỉ muốn lại gần thêm

nữa. Tôi chợt nhận ra rằng, tôi phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nếu không

tôi sẽ mắc sai lầm. Mà sai lầm này, chắc chắn sếp sẽ không tha cho tôi và bản

thân tôi cũng không thể tha thứ cho mình.

Vợ chồng Mavasu mang đồ ăn vào phòng, mùi thơm của thức ăn đã làm vơi

bớt đi hương thơm say người kia. Mối nghi hoặc của Mavasu vẫn rất lớn, điều

đó thể hiện qua ánh mắt nhìn tôi chăm chú. Tôi không biết Rajiva đã nói gì để

ông cụ chấp nhận sự trở lại của tôi, nên chỉ biết gượng cười chống chế. Sau

đó, hỏi Rajiva, mới biết, cậu ta nói với Mavasu, tôi là cháu gái của Ngải Tình.

Tôi cười lăn lóc. Nói như thế thật là… Nhưng khoan đã, hòa thượng không

được phép nói dối kia mà? Tôi định trêu chọc Rajiva, nhưng đã kịp dừng lại. Vì

chính tôi cũng không nghĩ ra cách giải thích nào hợp lý hơn cho sự trở lại của

mình.

- Rajiva, lần trước có một chiếc ba lô tôi quên mang theo, cậu còn giữ nó

không?

Tôi đã bỏ lại bao nhiêu đồ dùng của thời hiện đại, trong đó có tập giấy nháp

và cuốn sổ tay quan trọng. Sếp từng nhắc nhở rất nhiều lần là không được lưu

lại bất cứ thứ rác thải hiện đại nào, nếu để người đời sau phát hiện ra, thì…

Thử  tượng  tượng  xem,  một  nhà  khảo  cổ  với  mái  tóc  bạc  phơ  đang  lọ  mọ

nghiên cứu một gói đồ cũ nát, rồi ông đột nhiên phát hiện ra ở một góc nhỏ

của gói đồ mấy chữ cái này: “Northface”… Rùng cả mình!

Rajiva gật đầu, nhưng nét mặt không được tự nhiên. Lạ quá, lẽ nào cậu ta

thích cái ba lô của tôi? Đừng đùa, Northface là nhãn hiệu ba lô du lịch hàng

đầu thế giới đấy! Khoản tiền mua chiếc ba lô này là do nhóm nghiên cứu chi

trả, chứ một sinh viên nghèo như tôi làm sao mà mua nổi. Nhưng mà, kể cả

Rajiva thích đến thế nào tôi cũng không thể tặng cậu ấy được.

- Mấy hôm nữa sẽ mang đến cho cô.

Tôi gật đầu, uống thêm một ngụm canh thịt dê.

- Rajiva, tôi muốn đi tham quan chùa Cakra, được chứ?

Rajiva khẽ gật đầu.

- Ngày mai sẽ đưa cô đi xem.

Buổi tối, tôi ngủ trên chiếc giường gỗ thấp, thời cổ đại làm gì có chăn ga gối

đệm, nhưng tôi đã quen nằm trên chiếc giường cứng như thế này rồi. Rajiva

nói không ở đây, có lẽ vì muốn tôi được thoải mái. Tôi tin rằng cậu ta sống ở

đây, bởi vì mùi gỗ đàn hương dìu dịu vẫn còn thoảng trên tấm chăn này, trên

chiếc gối này và trên mảnh chiếu này. Hương thơm thanh khiết ấy ru tôi vào

giấc ngủ miên man.

Chương 19: Tham quan chùa Cakra

Tinh mơ hôm sau, tiếng kẹt cửa làm tôi thức giấc. Tôi gắng gượng hé đôi

mắt vẫn đang đói ngủ của mình và lơ mơ thấy một bóng dáng cao gầy đang

đứng giữa căn phòng ngập ánh sáng.

- Rajiva, sao đến sớm vậy…

- Tôi… tôi… xin lỗi.

Ngược  sáng,  không  thấy  rõ  biểu  cảm  trên  gương  mặt  cậu  ấy,  chỉ  nghe

trong giọng nói có chút ngượng ngùng. Rajiva vội vã lui ra ngoài, lại một tiếng

kẹt cửa trả lại bóng tối cho căn phòng.

Tôi nhìn đồng hồ, mới bảy rưỡi sáng. Chết thật, tôi quên mất, ngày nào cậu

ấy cũng thức dậy lúc hơn bốn giờ, từ năm giờ đến sáu giờ là thời gian tụng

kinh buổi sáng, sau đó mới đến bữa sáng. Giờ này, với cậu ấy, đã không còn

sớm sủa gì nữa. Nhưng tôi vẫn còn muốn ngủ, lại ngả xuống vớt vát thêm vài

phút, sau đó mới uể oải xuống giường.

Khoảng chín giờ tôi cùng Rajiva ra khỏi nhà. Thành phố Subash bé nhỏ khi

ấy đã tấp nập người qua lại, nhà sư, cư sĩ, thương nhân đủ cả, dòng người

đông đúc trên phố xá chật chội. Tôi không muốn Rajiva khó xử, nên ý tứ giữ

khoảng cách với cậu ấy. Rajiva đi trước, tôi theo sau, chốc chốc cậu ta lại dừng

bước, ngoảnh đầu quan sát, rồi mới đi tiếp.

Có vẻ như Rajiva rất được lòng người dân nơi đây. Trên đường đi, hầu hết

mọi người đều lại gần chắp tay hành lễ với cậu ấy. Một đôi vợ chồng ẵm theo

đứa trẻ sơ sinh đến xin Rajiva cầu phúc. Cậu ấy xoa đầu em bé, lầm rầm đọc

một đoạn kinh văn. Vợ chồng nọ vui mừng khôn tả, chắp tay tạ ơn, vẻ mặt hân

hoan, mãn nguyện khi ra về. Rajiva quay lại nhìn tôi cười rạng rỡ, rồi tiếp tục

bước đi, chốc chốc lại dừng bước đáp lễ với người đi đường.

Ra khỏi thành Subash là đến cổng chính của khu chùa Cakra phía tây. Ấn

tượng ban đầu của tôi về ngôi chùa này là những vọng lâu được trang trí rất

bắt mắt phía trên bức tường bao quanh. “Khâu Từ có hơn mười nghìn nhà sư,

chiếm một phần mười dân số trong thành”. Chỉ riêng ở chùa Cakra đã có đến

năm nghìn sư. Sự hưng thịnh của Phật giáo ở Khâu Từ được thể hiện sống

động qua hình ảnh ngôi chùa Cakra nguy nga, đồ sộ. Tuy vậy, thời điểm này

vẫn chưa phải là giai đoạn cực thịnh của Chiêu Hộ Li tự. Quy mô ngôi chùa vẫn

nhỏ hơn rất nhiều so với thời nhà Đường, khi Huyền Trang đi lấy kinh qua đây.

Khi mang thai Rajiva, “năng lực giác ngộ của Jiva tăng lên gấp bội. Bà nghe

danh tiếng ngôi chùa Cakra đã lâu, lại nghe nói trong chùa có nhiều vị cao

tăng đắc đạo, bèn cùng với những tín nữ quý tộc khác và các ni cô ngày đêm

nhang khói lễ bái, ăn chay niệm Phật”. Hẳn là, ngay từ khi còn trong bụng mẹ,

Rajiva đã “thấm nhuần” giáo lý Phật pháp. Trí tuệ siêu phàm của cậu ấy phải

chăng có được từ bối cảnh đặc biệt này?

Ý nghĩ đó khiến tôi bật cười.

Chúng tôi bước đến một bức tường thành thấp hình vuông bên ngoài cổng

chính. Bên trong có một điện thờ đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lập tức

dập tắt những ý nghĩ lan man, lấy lại tinh thần chuyên nghiệp thường ngày,

chuẩn bị lôi cuốn tập ra và bắt tay vào công việc.

- Ngải Tình, không cần vội. Để tôi đưa cô đi tham quan hết một vòng, rồi

quay lại vẽ cũng chưa muộn.

- Thật không?

Tôi mừng quýnh!

- Đúng rồi! Cậu là chủ trì, cậu có đặc quyền mà! Vậy, ngày nào tôi cũng

đến đây vẽ nhé?

- Được chứ!

Rajiva mỉm cười. Những chùm nắng đầu hạ rực rỡ chiếu rọi làm bừng sáng

cả con người cậu ấy, toát lên thứ hào quang khiến tôi không dám nhìn thẳng.

Tôi ép mình ngoảnh đi hướng khác.

- Rajiva, khối ngọc khổng lồ dưới chân tượng Phật nằm ở đâu vậy? Đưa tôi

đến đó xem đi!

- Cô biết về khối ngọc này?

Rajiva có vẻ ngạc nhiên, ánh mắt nhìn tôi như thăm dò.

- Đây là báu vật của chùa Cakra kia mà!

Làm sao tôi biết được ư? Đơn giản thôi! Câu trả lời là: Huyền Trang đã được

tận mắt chứng kiến và ghi chép lại trong “Đại Đường Tây vực ký”. Cuối thế kỷ

XIX, một nhà sưu tầm đồ cổ người Nga đã đào được khối ngọc này, ông ta còn

ngu xuẩn hết mức khi đập vỡ nó làm đôi với ý đồ sẽ vận chuyển về nước.

Nhưng người dân địa phương đã kịp thời ngăn chặn và bảo vệ được khối ngọc

quý. Sau giải phóng, khối ngọc đã được đưa về trưng bày tại Viện bảo tàng tự

nhiên Bắc Kinh. Nửa khối to nặng khoảng hơn một nghìn hai trăm kilôgam,

nửa khối nhỏ hơn nặng khoảng hơn bảy trăm kilôgam. Còn bây giờ, không cần

thiết phải đến Bắc Kinh, tôi vẫn có thể chiêm ngưỡng khối ngọc ấy và là khối

ngọc hoàn chỉnh, bạn nói xem, tôi có nên sung sướng hay không? Bởi vậy, khi

Rajiva đưa tôi vào một điện thờ nhỏ nhưng được trang trí nguy nga, tráng lệ

phía sau gian thờ chính và tận mắt nhìn thấy khối ngọc khổng lồ trong suốt,

giống hình một con ngao biển với hai màu trắng và vàng đan xen ấy, tôi tiếc

ngẩn ngơ vì không mang theo máy ảnh. Khối ngọc rộng khoảng hơn ba mươi

centimét, dài hơn nửa mét, cao hơn mười centimét. Dấu chân Phật tổ được in

thành hình hai vết lõm rất tự nhiên giữa khối ngọc. Những hình ảnh phác họa

dấu ấn như thế này có rất nhiều. Bạn có thể bắt gặp dấu chân của đại sư Liên

Hoa Sinh (Padmasambhava) ở bất cứ đâu trên khắp vùng Tây Tạng, chỉ khác

đó là hình phác họa trên những cây cối và sỏi đá tự nhiên, để Phật tử có thể

cảm nhận được một cách chân thực pháp lực vô biên của Phật.

Nhưng tôi không nói điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước

Rajiva, chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh.

Bước ra khỏi điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy

hút về phía sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u

kỳ lạ và cảm giác như nó kéo dài đến vô tận.

Thấy tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhẹ

nhàng lên tiếng:

- Đó là nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó.

Thọ đại giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận

bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật!

Chỉ khi đã thọ giới Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở

thành một Tỷ khâu (Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức

Phật học và sự giác ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai

bì kịp. Nhưng, cho dù đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học,

cậu vẫn phải tuân thủ những quy định của giới tu hành trong các thiền viện.

Vậy nên, mặc dù Rajiva đã thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu,

nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc giống như những tăng sĩ bình thường

khác khi đến tuổi hai mươi.

Tôi đã từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng,

thuộc huyện Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa

được xây dựng từ thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám

như thế này. Những ngôi chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó

phải là những ngôi chùa quy mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu

Từ đủ tư cách truyền đại giới.

Bước chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa

di không khỏi dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn

bó với kinh kệ, khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời

này, sẽ gánh vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó

sẽ theo các Sa di chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới

đàn (nơi tăng sĩ thọ giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc

dao cạo sáng lấp lóa, những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây

phút này, bước ra khỏi sự sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn

tuyệt với thế tục…

Tôi quay đầu nhìn Rajiva đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm

ấy, vẻ mặt chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi

đây, trần ai, thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva?

Chúng tôi bước vào một gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy

Rajiva liền cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với

họ bằng tiếng Phạn. Gian thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa

Tạng Vương, bốn phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng

Bồ Tát Địa Tạng vì trên tay ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa

Tạng từng thề rằng:

“Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề

Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”.

Nghĩa là:

Cứu độ chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ

Địa ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật.

Điều đó có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh

tội  lỗi  dưới  Địa  Ngục.  Vì  vậy,  sau  khi  Phật  giáo  được  truyền  bá  vào  Trung

Nguyên, sức ảnh hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với

Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát.

Tương truyền, Cửu Hoa Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của

ngài.

Tôi đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình

giữa Bồ Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú

tiểu từ bên ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva

rồi lẳng lặng lui ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những

bức vẽ trên tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế,

những đôi chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt

người, là đủ mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng

sợ!

Những bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa

ngục lớn.

Chả trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến

vậy. Có lẽ mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình

ảnh rùng rợn dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô

trung bình trở lên đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.

Tôi có biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã

nài nỉ Rajiva diễn giải.

- Đây là địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội

sa xuống địa ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi

ngoai nỗi thương nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ

cấu xé lẫn nhau và khi tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi

thịt nát máu cạn và họ tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi

sinh, họ lại tiếp tục chịu sự trừng phạt như lúc trước.

Giọng nói của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:

- Những người mắc tội sát sinh, chà đạp lẽ phải, phỉ báng người ngay đều

sẽ sa xuống địa ngục này.

Vừa ngắm nhìn các bức vẽ tôi vừa gật đầu, bước chân không ngừng di

chuyển theo ánh sáng ngọn đèn dầu trên tay Rajiva. Điện thờ trống trải chỉ

còn lại hai chúng tôi. Giọng nói ấm áp của Rajiva vang giữa không gian trầm

mặc, khoảnh khắc ấy, cảm xúc trong tôi bỗng trở nên thê lương.

- Đây là địa ngục hắc thằng (nơi chúng sinh bị trói bằng dây sắt), chúng

sinh phạm tội sẽ bị trói lại bằng dây sắt nung nóng, sau đó tứ chi bị chặt hoặc

bị cưa đứt. Nỗi đau đớn, khổ sở lớn gấp mười lần địa ngục đẳng hoạt. Những

người phạm tội sát sinh, trộm cắp đều sẽ sa xuống địa ngục này.

Ánh đèn tiếp tục được đẩy về phía trước.

- Đây là địa ngục chúng hợp (nơi chúng sinh bị núi đá ép chặt), người

phạm tội bị đẩy vào giữa hai núi đá và bị ép chặt cho đến khi xương cốt nát

vụn. Phàm những người mắc tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm đều rơi xuống địa

ngục này.

- Đây là địa ngục khiếu hoán (nơi chúng sinh kêu la thảm thiết), người mắc

tội sẽ bị nướng trên vạc dầu hoặc bị đẩy vào lò lửa, hoặc bị dùng kìm nóng

banh miệng, đổ đồng nóng chảy vào bụng khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thiêu

hủy. Phàm những kẻ mắc tội giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu

đều sẽ sa xuống địa ngục này. Nếu đệ tử Phật môn vi phạm năm điều giới luật,

thì dù là người xuất gia hay người tu tại gia đều sẽ bị sa xuống địa ngục đại

khiếu hoán (địa ngục mà sự trừng phạt khiến chúng sinh kêu la thống thiết

gấp rất nhiều lần địa ngục khiếu hoán).

Tôi bỗng thấy rùng mình, sự trừng phạt đối với người nhà Phật còn khủng

khiếp hơn cả người thường ư!

- Đây là địa ngục tiêu nhiệt (nơi chúng sinh bị thiêu đốt), kẻ phạm tội nằm

trên sắt nung, toàn thân bị đánh đến bầm dập vỡ nát. Phàm những kẻ vi

phạm năm điều giới luật đều sẽ bị đẩy xuống địa ngục này.

Ánh sáng ngọn đèn dầu bỗng nhiên dừng lại, bàn tay người giữ đèn run

run.  Bóng  dáng  cao  gầy  hắt  lên  tường,  khiến  cho  những  hình  ảnh  thảm

thương cho bức vẽ trở nên mờ ảo, tan loãng trong những dao động lập lòa của

ánh sáng.

- Rajiva, cậu sao thế?

Tôi ngước mắt lên nhìn cậu ấy, chúng tôi chỉ cách nhau một bước chân,

ánh đèn leo lét rọi vào khuôn mặt ưu tư, một thoáng u buồn ẩn hiện, nhưng

tan đi rất nhanh. Rajiva lấy lại vẻ điềm tĩnh thường thấy, tiếp tục giảng giải.

- Nếu tăng sĩ phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà tâm sẽ bị sa xuống địa ngục

đại tiêu nhiệt, mức độ trừng phạt tàn khốc hơn rất nhiều lần so với địa ngục

tiêu viêm.

Giọng nói của Rajiva đượm vẻ chua xót, phải chăng vì lòng trắc ẩn đối với

những hình phạt nặng nề dành cho giới tăng lữ. Phật môn quản giáo đệ tử

của mình rất nghiêm khắc, trong số tám địa ngục lớn, có đến hai địa ngục

dành để trừng phạt những tăng sĩ phạm tội.

Rajiva lấy lại sự bình tĩnh, bàn tay mang theo chiếc đèn dầu khi nãy bất giác

buông xuống, giờ đã lại được nâng cao.

- Đây là địa ngục vô gián, hay còn gọi là địa ngục a tỳ, người phạm tội bị

hành hình liên tục, chịu đau đớn khổ sở không lúc nào ngơi nghỉ. Phàm những

kẻ phạm phải năm tội đại nghịch (giết mẹ, giết cha, giết A- la- hán, gây chia rẽ

tăng sĩ, phá hoại hình ảnh của Phật tổ), đều bị đày xuống địa ngục này.

Đó là bức vẽ cuối cùng, chúng tôi cũng vừa đi hết một vòng tròn.

Rajiva đặt đèn dầu lên hương án phía trước pho tượng Bồ Tát Địa Tạng

Vương, cung kính quỳ xuống vái ba vái, rồi cùng tôi bước ra khỏi điện thờ.

- Mỗi địa ngục trong số tám địa ngục lớn lại được chia thành mười sáu địa

ngục nhỏ. Tội ác cũng chia thành ba cấp. Những kẻ phạm tội nặng nhất bị đẩy

vào địa ngục lớn, những kẻ còn lại bị đẩy vào địa ngục nhỏ.

Ánh nắng rực rỡ bên ngoài xua tan đi những ảm đạm trong lòng, tôi giống

như chiến binh Dante vừa dạo hết một vòng địa ngục, cảm xúc đầy vơi. Kết

luận rút ra là: nhân gian thật tuyệt vời!

Gần đến giờ trưa, Rajiva dẫn tôi đến nhà ăn dành cho các cư sĩ tu tại gia

đến chùa Cakra cúng bái, cậu ấy ngồi ăn cùng tôi. Rajiva ăn uống từ tốn, quả

không hổ danh là con nhà quý tộc. Nhưng điều khiến tôi thiếu tự nhiên là

những ánh mắt đổ dồn về phía chúng tôi, tuy họ không nói gì, nhưng tôi biết

họ nghĩ gì. Tôi bỗng cảm thấy không thoải mái. Một người như Rajiva nếu sống

ở thời hiện đại, cũng chưa hẳn đã là một sự chọn lựa lý tưởng. Mặc dù nếu có

cậu ấy ở bên cạnh, đi đến đâu, tôi cũng có thể hãnh diện với bạn bè và những

người xung quanh, nhưng cậu ấy quá tài trí, thông minh, lại đẹp trai hút hồn

như vậy, sẽ làm lu mờ hình ảnh của tôi. Không những tôi sẽ phải thấp thỏm lo

âu từng giây phút, canh chừng mọi lúc mọi nơi, đề phòng những cô gái trẻ

đẹp khác, mà tôi còn phải đau đầu tìm cách nâng cao tầm vóc trí tuệ của bản

thân để có thể theo kịp cậu ấy. Cuộc sống mệt mỏi như thế, lấy đâu ra vui vẻ,

thoải mái chứ! Cho nên, kết luận của tôi là: tôi – không – thèm!

- Không thèm gì vậy?

Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp hai vực nước sâu hun hút đang xoáy vào

mình, xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu, bối rối không biết phải thanh minh

thế nào.

- Các thầy!

May quá! Có người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là… là người Hán, hai hòa

thượng người Hán!

Họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát

đồng hương.

Rajiva giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin

nghe giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn

mắt khi nghe thấy những cái tên đó.

Tăng Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này! Họ đến Khâu Từ học đạo,

sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền Tần khi ấy là Phù Kiên

rằng, Kumarajiva là vị pháp sư tài trí hơn người, là người đã truyền bá sâu

rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây vực. Một nhà sư nổi

tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Kumarajiva đã lâu, cũng

thuyết phục Phù Kiên mời Rajiva đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết định tấn

công Khâu Từ, nhà vua đã nói với Đô đốc Lữ Quang rằng: “Trẫm nghe nói Tây

Quốc có Kumarajiva, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận âm dương, là một bậc

kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc

gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Kumarajiva về

đây”.

Câu chuyện này đã được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp

nơi. Họ cho rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có

được Kumarajiva. Giống như việc các cô gái tin rằng cuộc chiến thành Troy là

vì nàng Helen xinh đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình

Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ Tô Châu – Trần Viên Viên. Một cuộc chiến tranh

quy mô lớn đã nổ ra và cướp đi tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì

muốn đoạt lấy một người thôi ư, những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm

sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử, tất nhiên, tôi không tin Phù Kiên phát

động chiến tranh chỉ vì muốn có được một vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực

sự hiểu rõ Kumarajiva sẽ mang lại lợi ích gì cho ông ta hay không? Nhà vua

muốn có Kumarajiva chỉ vì cậu ta thông tỏ âm dương ngũ hành? Một người tài

trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng chỉ vì muốn ông ta coi bói

cho mình?

- Ngải Tình!

Tôi lại để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại đã thấy hai vị hòa thượng

đang hành lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên

mà tôi gặp sau hai lần vượt thời gian đến đây.

Rajiva giới thiệu với họ tôi là cháu gái của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ

của cậu và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ,

bởi vì những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những

kiến thức trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử thì nguy.

Sau vài lời xã giao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng

Rajiva. Họ trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe không hiểu, nên cũng quay đi

ngắm nghía những bức vẽ trên tường.

- Đoạn kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của

chúng sinh trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy?

Rajiva giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được

một nụ cười đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc

nhiên, nghiêng tai lắng nghe.

- Đức Phật nói, mọi tâm niệm đều không thực sự tồn tại, đó chỉ là những

ham muốn nhất thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta

đặt cho nó cái hư danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn

trong quá khứ là cái đã trôi qua, không để lại vết dấu, ta muốn mà không có

được. Những ham muốn hiện tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm

bắt. Những ham muốn của tương lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt.

Trình độ tiếng Hán của Rajiva đã đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại

thêm giọng nói trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa,

khiến mỗi câu mỗi chữ như làn gió nhẹ vương vào trái tim tôi.

- Vậy nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn không có Phật pháp để thuyết

giảng, thuyết pháp chỉ là danh xưng. Không những không tồn tại Phật pháp

để có thể thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng không tồn tại.

Dáng người cao lớn của Rajiva tọa lạc giữa Phật điện, thoáng một nét cười

thỏa nguyện trên vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng

thấp nhỏ chỉ đến vai mình:

- Những luận giải của Rajiva, không biết hai vị đã nắm rõ hay chưa?

Tăng Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm đi

nhẩm lại lời Rajiva vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát

lên vẻ say mê trong sự lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Rajiva. Sự tự tin tỏa khắp con

người cậu, sức hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi không dám nhìn

thẳng. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng ở Rajiva đã tụ hội đầy đủ phong thái của một

bậc danh sư.

Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có một

quần  thể  hang  đá,  gồm  rất  nhiều  căn  phòng  tọa  thiền  của  tăng  sĩ.  Nói  là

phòng tọa thiền nhưng thực chất chỉ là một hốc đá nhỏ, đủ chỗ cho một người

ngồi lọt vào trong. Rajiva chỉ cho tôi thấy trên vách tường phía sau có dấu vết

in  đậm  hình  hài  một  con  người.  Cậu  nói  rằng,  rất  nhiều  vị  cao  tăng  theo

trường phái tu khổ hạnh đã từng ngồi thiền ở đây, lâu dần, hình hài của các vị

đã in tạc vào vách đá. Phật giáo Tiểu Thừa coi trọng việc tu hành. Công việc

hàng ngày của tăng sĩ chủ yếu là ngồi thiền trong căn phòng trống không, tĩnh

tâm lĩnh hội Phật pháp. Phương pháp tu hành này xuất phát từ phép thiền

Yoga của Ấn Độ. Trước khi giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã trải

qua sáu năm tu hành khổ hạnh. Ngài ngồi thiền hết ngày này qua tháng khác,

ăn uống rất ít, thân xác héo hon. Sau khi đắc đạo, ngài ăn uống bình thường

trở lại và không khoác lên mình chiếc áo cà sa chắp vá rách rưới nữa. Tuy

nhiên, ngài vẫn duy trì thói quen tĩnh tâm tọa thiền. Điều này đã trở thành một

trong những đặc trưng nổi bật của Phật giáo Tiểu Thừa. Và cũng bởi vậy,

trong cấu trúc của các ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa, ít hay nhiều đều có

những phòng đá tọa thiền dành cho các tăng sĩ.

Có  điều,  những  căn  phòng  đó  đang  hiện  ra  trống  trải  không  một  bóng

người trước mắt tôi. Tôi hỏi Rajiva, cậu mỉm cười.

- Từ khi tôi tiếp nhận vai trò trụ trì chùa này, đã ra sức truyền bá giáo lý Đại

Thừa, yêu cầu các nhà sư năng ra ngoài giảng đạo, thâm nhập vào đời sống

của chúng sinh, việc tĩnh tâm tọa thiền có thể thực hiện vào lúc thuận tiện.

Mười năm trước, khi Rajiva vừa tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa đã vấp phải

rất nhiều trở ngại và chịu nhiều lời điều tiếng. Người ta phê phán cậu lén lút

học đòi những giáo lý ngoại đạo sai trái. Trong vòng mười năm, bằng sự thông

tuệ, bằng tài năng thuyết pháp khiến người nghe tâm phục khẩu phục và tận

dụng mối quan hệ với hoàng thất, Rajiva đã dốc toàn tâm toàn sức chuyển

hướng tín ngưỡng của toàn bộ tiểu quốc Khâu Từ sang Phật giáo Đại Thừa.

Truyện kể về Rajiva chép rằng: “Khi ấy số lượng tăng sĩ Khâu Từ tin theo giáo

phái Đại Thừa lên đến hơn mười ngàn người. Điều này thật đáng kinh ngạc.

Từ đó, ai nấy đều tỏ ra kính trọng và nể phục Kumarajiva”.

- Lại ngơ ngẩn rồi!

Tôi kéo lại những suy nghĩ miên man đang vân du tận đâu đâu, đưa mắt lên

nhìn khuôn mặt điển trai của Rajiva.

- Rajiva, cậu không còn là cậu thiếu niên năm nào lúc còn hoang mang,

trăn trở với khát vọng thay đổi tông phái.

- Đúng vậy.

Ánh mắt cậu ấy như phiêu du về với quá khứ, tìm kiếm những những ký ức

xa xưa, khóe môi hé cười.

- Ngải Tình, nếu không có những lời khích lệ của cô, Rajiva không thể có

quyết tâm và nghị lực mạnh mẽ đến như vậy. Mười năm qua, mỗi khi phải

đương đầu với khó khăn, Rajiva lại nhớ đến những lời cô nói. Phật giáo Đại

Thừa  xem  trọng  việc  cứu  rỗi  chúng  sinh,  góp  phần  sửa  đổi  những  khiếm

khuyết của Phật giáo Tiểu Thừa. Phải như vậy, Phật pháp mới được truyền bá

rộng rãi, mới cứu độ được nhiều chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Tôi đã dành

không ít công sức và tâm sức cho lý tưởng đó.

Rajiva đưa mắt dõi nhìn về hướng xa xăm, giọng nói trở nên thanh thoát.

- Phật tổ phù hộ, đến nay Rajiva đã thuyết phục được triều đình và các bậc

tôn sư, Phật giáo Tiểu Thừa bắt rễ suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ, cuối cùng

đã có những cải biến nhất định.

Đến trên ngọn đồi này, có thể quan sát toàn bộ quang cảnh chùa Cakra.

Sóng nước dòng sông Tongchang lấp lánh ánh bạc. Bóng chiều đã ngả về tây,

phủ lên dáng hình cao lớn ấy những vệt nắng cuối ngày, gió thổi mạnh làm

tung bay vạt áo cà sa. Con người ấy, thần thái ấy tạc vào không gian của buổi

hoàng hôn trên sườn đồi hình ảnh một chú chim đại bàng đang khát khao tung

cánh bay lên bầu trời bao la. Dưới chân chúng tôi là quần thể đồ sộ, nguy nga

những đền đài miếu mạo, đó là vương quốc của Rajiva và cậu ấy là người cha

tinh thần của hàng vạn chúng sinh trong vương quốc ấy. Đột nhiên tôi nhận ra

rằng, mười năm trước tôi vẫn có thể đàm đạo với cậu ấy về Phật pháp, nhưng

giờ đây, tư tưởng của cậu ấy, nhất là những kiến thức về Phật học, đã vượt

lên một cảnh giới cao vời vợi mà tôi không sao vươn tới được. Tôi chỉ là một

người bình thường, nhưng trí thức mà tôi có, chẳng qua là tích cóp được từ

1650 năm thời gian. Nếu chúng tôi sinh ra cùng thời đại, tôi cũng sẽ như

những người bình thường khác, chỉ có thể lặng lẽ ngắm nhìn cậu ấy trên đỉnh

cao vinh quang và đừng mơ có thể lại gần.

- Rajiva.

Tôi hít một hơi thật sâu, cùng hướng mắt về khung cảnh nguy nga dưới

ngọn đồi.

- Khâu Từ chỉ có mấy mươi vạn chúng sinh. Còn ở Trung Nguyên, lúc này

chiến tranh xảy ra liên miên, hàng triệu người vẫn đang quằn quại trong bể

khổ vô biên, hơn bao giờ hết, họ đang rất cần sự giải thoát về tinh thần để có

thể vượt qua kiếp nạn này.

- Ngải Tình, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp luôn là tâm nguyện bấy

lâu nay của Rajiva.

Rajiva quay lại nhìn tôi, nụ cười ấm áp tựa gió xuân.

- Cô luôn muốn Rajiva đến Trung Nguyên, Rajiva luôn ghi nhớ điều đó.

Đón lấy nụ cười dễ làm say lòng người ấy, trái tim khó bảo của tôi lại bắt

đầu lạc nhịp.

Đến giờ tụng kinh buổi tối, tôi ngỏ ý muốn đi về một mình. Rajiva bây giờ

đã là “CEO” của ngôi chùa lớn nhất Tây vực, cậu ấy không thể tùy tiện như hồi

nhỏ, thích trốn là trốn. Cậu ấy phải biết cân nhắc. Thế nên, Rajiva đã gật đầu,

chỉ cho tôi đường về và dặn rằng hết giờ tụng kinh cậu ấy sẽ đến. Tôi vốn định

mở lời can ngăn cậu ấy đừng đến, vì sợ có điều tiếng không hay. Nhưng ý tứ

đã ra đến đầu lưỡi lại lặng lẽ rút vào. Tôi hiểu rõ tính cách của cậu ấy, Rajiva

không bao giờ để ý đến những lời đàm tiếu. Vả lại, hãy thành thật đi, lẽ nào tôi

không mong chờ gì ư?

Kết quả là, khi Rajiva xuất hiện trước cổng nhà vào lúc hơn sáu giờ tối thì

tôi đang trong tư thế ngóng đợi, đôi mắt dán vào cánh cổng. Giây phút cánh

cổng từ từ mở ra và một bóng dáng cao gầy hắt lên hàng hiên từ ánh sáng

ngọn đèn dầu, tôi bỗng thấy tiếng trái tim mình đập rộn ràng, tưởng như vang

động khắp căn nhà.

Rajiva tiếp tục chăm sóc vết thương cho tôi. Lại là khoảng cách quá gần ấy,

lại là mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương ấy. Tôi… say mất…

Chương 20: Tiếp tục công việc gia sư

Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ăn chốn ở, tôi bắt đầu công việc khảo sát, đo

đạc, vẽ tranh ở chùa Cakra mỗi ngày. Rajiva đã căn dặn các sư sãi trong chùa,

từ người giữ công, người trông coi Phật điện, đến người quản lý tàng kinh các

để tôi được tự do tiến hành công việc của mình. Khách thập phương đến chùa

Cakra, ngôi chùa lớn nhất Tây vực thời đó sẽ bắt gặp cảnh này: một cô gái

người Hán trong trang phục Khâu Từ tay cầm một cuốn tập, dùng một thứ bút

kì lạ tô tô vẽ vẽ trên cuốn tập đó. Chốc chốc lại lôi từ trong túi ra một chiếc

thước cuộn hình thù kì dị đo chỗ này, ướm chỗ kia. Và vị sư trụ trì chùa, đại

pháp sư Kumarajiva nổi danh khắp Tây vực đã yêu cầu tất cả hòa thượng sư

tăng trong chùa tạo mọi điều kiện và không gây trở ngại cho công việc của cô

gái đó.

Khi tôi đo đạc, khi tôi vẽ tranh, tôi thường xuyên nhìn thấy Rajiva. Đây là

lần đầu tiên tôi được quan sát công việc thường ngày của cậu ấy ở trong chùa.

Lúc thì trò chuyện, đàm đạo với các đệ tử về kinh Phật, lúc thì bận rộn tiếp

đón các tăng sĩ, hòa thượng đến xin học đạo từ các quốc gia lân cận, thậm chí

từ  các  khu  vực  thuộc  Trung  Nguyên  xa  xôi.  Rajiva  cũng  thường  xuyên  ra

ngoài, thâm nhập vào đời sống của quần chúng để thuyết giảng và truyền bá

những giáo lý kinh văn Đại Thừa. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu khi tôi còn

say trong giấc ngủ, nhưng bù lại tôi đã được quan sát trọn vẹn giờ tụng kinh

buổi chiều của cậu ấy từ bốn giờ đến năm giờ. Khi tiếng chuông ngân vang,

tất cả sư tăng trong chùa đều đến tập trung trên đại điện. Rajiva khoác áo cà

sa, cùng chư tăng hành lễ, dâng hương trước tượng Phật tổ, sau đó cậu ngồi

vào vị trí cao nhất, bắt đầu tụng kinh cầu nguyện. Âm thanh tiếng tụng niệm

kinh văn của hàng trăm nhà sư ấy ngân nga trầm bổng tựa sóng biển, vang

vọng khắp đại điện, xen với tiếng chuông tiếng mõ thanh thoát, trong veo.

Linh hồn như được tắm gội trong biển thanh âm thanh khiết, thoát tục ấy.

Chiếc ba lô Northface thân thuộc của tôi đã trở về. Đồ đạc bên trong không

thiếu thứ gì, kể cả chiếc khăn lụa Atala. Nhớ đến ngày Rajiva tặng quà sinh

nhật cho tôi, nhớ đến khuôn mặt đỏ lựng đi vì xấu hổ ấy, tôi tủm tỉm cười và

bất giác hứng khởi quàng ngay chiếc khăn vào cổ. Một vài vật dụng đã thất

thoát, như cuốn tập mới tôi chưa dùng đến, hay một vài cây bút chì và một vài

cục tẩy. Nhưng những bức vẽ của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi cũng không vì

thế mà âu sầu, tôi đoán Pusyseda đã lấy ra nghịch và làm gãy hoặc làm mất

rồi. Sau mười năm mà vẫn có thể tìm lại được bao nhiêu kỷ vật và chúng lại

được giữ gìn cẩn thận như vậy, tôi không mong cầu gì hơn.

Buổi tối, Rajiva vẫn đến và chăm sóc vết thương cho tôi. Thấy tôi quàng

chiếc khăn lụa, cậu ấy thoáng ngạc nhiên, khóe môi ẩn hiện một nét cười.

Rajiva đề nghị tôi tiếp tục làm giáo viên tiếng Hán của cậu ấy. Cuốn sách đầu

tiên mà cậu ấy muốn tôi giảng là cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Thế là tôi bắt

đầu khởi động chương trình “Trăm nhà thuyết giảng” với những câu chuyện

thần thoại thời thượng cổ, những sự tích về Tam Hoàng Ngũ Đế. Tôi vốn là

người  rất  yêu  thích  công  việc  giảng  dạy.  Vì  học  chuyên  ngành  lịch  sử,  tôi

thường đến các Viện bảo tàng xin làm hướng dẫn viên du lịch “không lương”.

Tôi cảm thấy rất phấn chấn mỗi khi du khách say mê lắng nghe những câu

chuyện tôi kể.

Trước mặt tôi lúc này tuy chỉ có một thính giả, nhưng trình độ học thức của

vị thình giả này lại rất cao. Vị thính giả ấy đang tập trung tinh thần cao độ để

lắng nghe và liên tục gật đầu tán thưởng. Tôi cảm thấy như mình đang trở lại

khoảng thời gian làm gia sư mấy tháng trước đó, chỉ khác là, tuy học trò không

thay đổi, nhưng thời gian đã trải qua mười năm đằng đẵng. Giờ đây, tôi không

thể cốc vào đầu cậu ấy, cũng không thể làm bộ nghiêm khắc, lên lớp với cậu

ấy được nữa. Tình hình trở nên tệ hơn, vì cô giáo thường xuyên nhìn trộm

gương mặt điển trai hệt như bức tượng điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp của

học sinh, sức lôi cuốn của vẻ đẹp ấy khiến cô giáo mất tập trung, ánh mắt cứ

vân du tận chốn nao và giọng nói trở nên nhỏ nhẹ đến mơ hồ. Mất một lúc mới

kịp lấy lại tinh thần, mặt đỏ như gấc chín, vờ uống nước, vờ hắng giọng, vờ

tìm quạt, vờ đi vệ sinh, vân vân và vân vân các phương thức chữa thẹn.

Ở chùa Cakra, tôi từng được chứng kiến Rajiva chủ trì một ngày hội cầu

nguyện Phật Quan Âm. Tên gọi Quan Âm Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ

ra  phải  dịch  thành  Quan  Tự  Tại,  nhưng  sau  khi  truyền  vào  Trung  Nguyên,

người Hán đã đọc sai thành Quan Thế Âm. Thời nhà Đường, vì không muốn

phạm húy khi có âm đọc trùng với tên vua Lý Thế Dân, triều đình đã hạ lệnh

lược bỏ chữ “Thế”, nên tên Bồ Tát chỉ còn là Quan Âm. Tôi vốn không hề biết

đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan Âm Bồ Tát mà sau này đã được truyền

bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng Phạn của Quan Âm rất khó nhớ.

Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan Âm thì tôi đã hiểu ra. Vào thời kỳ này,

Quan Âm Bồ Tát không phải là hình tượng một vị Phật nữ giàu lòng từ bi mà

chúng ta thường gặp, mà là một vị Phật nam uy nghiêm với hai vành râu rất

đẹp, giống hệt hình ảnh trên những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn Hoàng và

hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà Đường,

Phật Quan Âm mang hình tượng của một vị Phật nam. Nhưng vì Quan Âm đi

chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật

khéo léo tài tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ

hình tượng Phật nữ phù hợp với ngài hơn chăng?

Lễ hội kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai

cũng có thể tham gia. Phật tử viết tên người thân đã qua đời của mình lên một

thẻ gỗ, rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban

thờ Phật. Rajiva cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan

Âm, sau đó chắp tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ

tốn, nho nhã, thanh thoát. Rồi cậu ngồi trên bục cao, khẽ lắc chiếc chuông

đồng trên tay, âm thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện

trở nên yên ắng lạ thường.

Rajiva đưa mắt quan sát một lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và

gương mặt đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình

ảnh của Rajiva tựa như một vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, âm thanh như

có sức mạnh thấu suốt, vang động mãi trong không gian thánh khiết.

Tự giác ngộ và giải thoát là biểu hiện của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác

ngộ và giải thoát là biểu hiện của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Âm Bồ Tát với trí

tuệ sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban

phát những lời răn và sự giúp đỡ dựa trên năng lực, phẩm hạnh và mong

muốn không giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống

khổ, giúp niềm hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do

tự tại, không phiền muộn, ưu sầu.

Chúng tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những

người dân đứng bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo.

Tiếp đó, Rajiva đọc một câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo,

biển thanh âm thành kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả

trời xanh.

Ngày hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa.

Rajiva đích thân chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến

tận cổng chính của chùa. Tôi len lỏi từng chút một để nhích dần lên phía trước

và không ngừng nghển cổ ngóng trông. Rajiva miệng niệm A di đà Phật, tay

chắp lại kính cẩn, phân phát từng phần lộc đã được gói bọc cẩn thận cho từng

người, tay cầm cây trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ nhẹ lên đầu mỗi

người cầu phúc cho họ. Ai nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng

mới đến lượt tôi, bụng đói cồn cào. Nhìn thấy tôi, Rajiva thoáng vẻ ngạc nhiên,

đáy mắt gợn nhẹ một ánh cười, quay sang nói nhỏ với đệ tử bên cạnh đôi câu.

Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu phúc.

Một vật gì đó chạm nhẹ trên đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp không gian,

ngẩng đầu nhìn Rajiva, trên gương mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất

thanh tao không thuộc về thế giới trần tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh.

Đang định rảo bước thì vị sư khi nãy chạy tới trao cho Rajiva một chùm nho.

Rajiva tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi. Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu

Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy không ai có phản ứng bất mãn nào

với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh

chân bước đi.

Chùm nho ấy tôi không nỡ ăn, tôi lấy một tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất

vào trong ba lô. Buổi tối khi trở về, Rajiva có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất

phấn chấn và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày không ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc

và cầu phúc cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ

trong ba lô chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết

phục cậu ấy như thế nào.

Rajiva chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc

và chìa chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. Không chờ tôi mở lời, cậu

đón lấy, ngắt một quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười:

- Ngọt lắm!

Tôi sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt một quả thưởng thức, đúng là

rất ngọt, ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn…

Chúng tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ

đến một câu nói vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó![9] Tôi phì cười, muốn dạy lại

cho Rajiva. Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu âm Khâu Từ nên phát

âm không chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. Không khí vui vẻ ấy

khiến tôi bồi hồi, giá như, giá như thời gian ngưng đọng trong giây phút này…

Những ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Rajiva rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên

trì đến chỗ tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ

ngơi, thư giãn. Đôi lúc rất muốn massage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám

nghĩ trong đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. Trên

tay mỗi người đều có một cây đèn nhỏ. Rajiva đến trước tượng Phật tổ, khấu

đầu vái lạy, rồi thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư

sắp xếp theo phẩm giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ

ngọn đèn của người phía trước để thắp sáng ngọn đèn trên tay mình. Phút

chốc, cả đại điện lung linh rực rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn của mình, cảm

giác như ánh sáng ấy có thể chiếu rọi cả cõi tâm linh. Trong không khí linh

thiêng ấy, Rajiva tựa như một vị thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu

phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên

những người đã khuất vào trong đống lửa. Âm thanh tụng niệm vang vọng,

bay lượn trong không gian và rót vào tai tôi. Khung cảnh này, cảm xúc này

khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc.

Lễ hội kết thúc đã nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn không ngừng hồi tưởng về

bầu không khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm một lần nữa tôi đã lĩnh hội

được sức mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ

khi loài người xuất hiện, tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo

sẽ tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với sự tồn tại của con người và chỉ biến mất

khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi

phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo đã bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi

ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là một giai đoạn lịch sử

thảm khốc. Khi tôi nói với Rajiva về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười

đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều không thuộc, tôi chỉ có thể thảo

luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi lúc,

cậu ấy không lí giải nổi những điều tôi nói, nhưng chỉ trong giây lát, tư duy

thần tốc đã cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gian ngắn ngủi mỗi

buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đã đến giờ cậu ấy phải về

chùa, tôi không khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Einstein lại đúng

tuyệt đối kia chứ!

Tôi tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi đang ngồi

xếp bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, thì cậu ấy bước vào trong trò chuyện

với các đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ trên tường, thì

cậu ấy dẫn theo một số hòa thượng vào điện thuyết pháp, không quên ra hiệu

cho tôi tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên

đo chiều cao của ngôi tháp, sẽ có một bóng người cao gầy bước đến cầm lấy

chiếc thước cuộn, che trên đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức sẽ có một chú

tiểu mang nước đến cho tôi, sau đó sẽ thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng

thân thuộc lướt qua bậc cửa…

Không thể tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Rajiva, trái tim tôi lại

đập rộn ràng một cách khó hiểu. Ngày nào không thấy cậu ấy, tôi như người

mất hồn, không thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu trên

chiếc gối của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, một niềm vui bất trị

cứ trào dâng trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi

không ngừng dõi theo từng bước chân của cậu ấy, cho đến khi Rajiva ngước

lên và mỉm cười với tôi. Tôi biết rất rõ những biểu hiện ấy có nghĩa là gì. Nếu

tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng nói của của

cậu ấy, tôi sẽ sa vào “vòng trầm luân”, không thoát ra được và cũng không

muốn  thoát  ra.  Nhưng,  Ngài  Tình  ơi,  cô  có  thể  có  tình  cảm  với  bất  cứ  ai,

nhưng không được có tình cảm với cậu ấy. Cậu ấy không phải là tách trà cô

uống mỗi ngày. Giữa cô và cậu ấy là khoảng cách 1650 năm thời gian. Và điều

quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi là một hòa thượng, còn cô, sớm muộn

cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình.

Vậy nên, sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi

không thể không kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định sẽ nói

với cậu ấy về dự định của mình vào buổi học tiếp theo.

Hôm đó, tôi giảng giải cho Rajiva quyển thứ sáu mươi mốt trong tập “Sử ký”

của Tư Mã Thiên có tên gọi – Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước

mất làm xấu hổ, thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua

bữa, nhưng rau dại không thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông đã

bị chết đói tại núi Thú Dương. Dưới ngòi bút của Thái Sử Công Tư Mã Thiên,

lòng trung thành và phẩm hạnh cao khiết lẫm liệt ấy đã được đánh giá rất cao.

Phần truyện kể về Bá Di, Thúc Tề rất ngắn gọn súc tích, nhưng nội dung chính

lại nằm trong đoạn Thái Sử Công bày tỏ những suy cảm của riêng mình.

- Thế nhưng, chúng ta có nên học theo hành động “ngu trung” đó của Bá

Di và Thúc Tề hay không? Khi ấy, thiên hạ đã thuộc về nhà Chu, họ thề không

ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại, nhưng rau dại ấy vẫn là rau dại của

nhà Chu, họ sống trên núi Thú Dương thuộc lãnh thổ của nhà Chu và sau khi

họ chết, chính người nhà Chu đã an táng cho họ.

Tôi thở dài:

- Ai rồi cũng phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc đời và

trước mỗi khó khăn thử thách ấy, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn và quyết

định của riêng mình. Sẽ nhẫn nhục tiếp tục sống hay học theo Bá Di, Thúc Tề

thà chết đói chứ nhất định không chịu nhục. Nếu là tôi, tôi sẽ chọn cách tiếp

tục sống. Bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thực hiện được lý tưởng

của mình. Vậy còn những lời phán xét của người đời sau thì sao? Tôi đã thành

người thiên cổ rồi thì còn để tâm đến điều đó làm gì nữa!

Tôi lặng ngắm Rajiva và bâng khuâng nghĩ đến khúc ngoặt trên hành trình

số mệnh của cậu ấy mười một năm sau. Khi ấy, chắc hẳn cậu ấy đã phải chịu

những nỗi dằn vặt đau đớn đến đứt từng khúc ruột?

- Vì vậy, Rajiva ạ, nếu sau này gặp phải khó khăn hay trở ngại, cậu hãy nghĩ

đến lý tưởng lớn lao của mình, lấy đó làm động lực tiếp tục sống.

Mười một năm sau, tôi sẽ không xuất hiện, nên chỉ có thể đưa ra lời khuyên

như vậy với cậu ấy.

- Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng khốn dùng để

truyền đạt chí hướng và suy cảm của mình. Xưa Tây Bá (tức Chu Văn Vương)

bị tù ở Dũ Lí nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Sài nên

viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm

Quốc Ngữ; Tôn Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời

truyền lại sách Lữ Lăm; Hàn Phi bị tù ở Tần làm nên những thiên Thuyết Nan,

Cô Phẫn; ba trăm bài ở “Kinh thi” phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi

bày nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức không biểu lộ ra

được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau.

Rajiva nhìn tôi, mượn lời của Thái Sử Công đáp lời tôi.

Chúng tôi cứ thế nhìn sâu vào mắt nhau, mặc cho không gian xung quanh

trở nên tĩnh lặng thất thường, giữa chúng tôi là bầu không khí khó đặt tên.

Gương mặt Rajiva hiện dần sắc đỏ, cậu đột nhiên quay đi. Vẻ mặt mà tôi nhìn

thấy là sự đan xen của rất nhiều xúc cảm: một chút khó xử, một chút buồn và

một chút… hối hận.

Rajiva, thực ra cậu đâu cần tôi dạy. Đoạn sử “Thái Sử Công tự thuật” cậu

vừa đọc nằm trong chương cuối của bộ Sử ký. Tôi tin rằng, nếu yêu cầu cậu

đọc thuộc cả bộ Sử ký này, cậu cũng có thể làm được. Vậy thì vì sao cậu vẫn

muốn tôi lên lớp? Trái tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, tưởng như có thể nhảy

ra khỏi lồng ngực. Tôi có thể suy luận ra được, là vì cậu muốn được gặp tôi

mỗi ngày, nên mới vờ như chưa từng đọc “Sử ký”, đúng không? Nhưng mà…

nhưng mà…

Tôi nhắm nghiền mắt lại, cố sức kìm chế nhịp đập gấp gáp, vất vả của trái

tim và nói với cậu ấy bằng sự bình tĩnh lớn nhất mà tôi có được:

- Ngày mai tôi không đến chùa Cakra nữa, tôi đã vẽ xong rồi. Cậu biết phải

tìm đoàn thương nhân đi Trường An ở đâu không? Nếu cậu không biết, tôi tự

tìm hiểu cũng được.

Trầm tư trong giây lát, Rajiva hỏi tôi:

- Lúc này Trung Nguyên đang trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh liên

miên, người Hán và người Hồ ra sức tàn sát lẫn nhau. Cô một mình thân gái

dặm trường, vì sao cứ nhất định phải đến nơi nguy hiểm ấy? Khâu Từ tuy chỉ

là một quốc gia bé nhỏ, nhưng dù sao vẫn an toàn hơn nơi đó rất nhiều. Chi

bằng…

- Rajiva…

Tôi khẽ ngắt lời cậu ấy.

- Lý tưởng của cậu là cứu độ cho mọi chúng sinh thoát khổ. Để hoàn thành

lý tưởng này, cậu sẵn sàng đến Trung Nguyên, dấn thân vào chốn binh đao

khói lửa đó chứ?

- Tất nhiên là tôi sẵn sàng.

- Tôi cũng vậy.

Tôi ngắm nhìn cuốn “Sử ký” vốn là tâm huyết một đời của Thái Sử Công.

- Tôi cũng có lý tưởng của mình. Tôi từng nói với cậu, ước nguyện của tôi là

viết nên một cuốn sách sử, ghi lại những sự kiện lịch sử chân thực, trả lại cho

lịch sử tính xác thực vốn có.

Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời đại lịch sử bi thảm nhất của người Hán. Cha con

Thạch Hổ nước Hậu Triệu lấy việc giết hại người Hán làm thú vui, chỉ trong

vòng hai mươi năm đã giết hại mấy mươi vạn người.

Nhiễm Mẫn diệt Triệu, ban lệnh tàn sát người Hồ, phàm những người có

dung mạo giống người Hồ là thẳng tay giết chết không tha. Chỉ trong một

năm, đã giết hại hơn hai mươi vạn người Hồ. Phương bắc Trung Quốc, trong

vòng hơn hai mươi năm, xương trắng đầy đồng, xác người chất cao thành núi,

tiếng than khóc dậy trời. Nếu là thời đại đó, có cho tôi đem theo vũ khí hạt

nhân, tôi cũng không dám đi. May thay đó là giai đoạn khi Rajiva vừa chào đời.

Tình hình Trung Nguyên hiện nay, nhà Tiền Tần đã lấy được vùng Lương Châu

và Liêu Đông, cơ bản thống nhất được phương bắc. Và Phù Kiên là vị vua mà

tôi ngưỡng mộ nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Tôi rất mong muốn được đến

tham quan nước Tiền Tần do ngài cai trị hiện nay, bởi vì sau mười năm nữa,

với thất bại thảm hại ở trận Phì Thủy, nhà Tiền Tần của ngài đã nhanh chóng

suy yếu và tan rã, phương bắc lại tiếp tục rơi vào cuộc tranh đoạt thảm khốc

của các thế lực ly khai.

Tôi nhìn Rajiva, thầm hy vọng ánh mắt kiên định của mình sẽ nói lên điều gì

đó. Cậu ấy nhìn tôi, rồi lại ngoảnh mặt đi hướng khác, ánh mắt lạc lõng thả

trên ngọn đèn dầu lập lòa, giọng nói nhẹ như hơi thở:

- Tôi sẽ sắp xếp cho cô.

Tôi tiếp tục giảng bài, Rajiva tiếp tục lắng nghe. Cứ xem như tôi không hiểu

tâm trạng của cậu ấy. Cứ vờ như thế đi, tiếp tục làm ngơ đi…

Kết thúc buổi học, như thường ngày, Rajiva lặng lẽ ra về. Tôi đang định thở

phào một tiếng, chợt cánh cửa phòng lại mở ra.

- Cô còn nhớ Thiên Phật động Kizil không?

Vẫn dáng vẻ bình thản thường thấy đó.

- Sau mười năm kể từ ngày cô nói ở đó sẽ có một ngôi chùa hang đá, đến

nay đã có hơn mười hang động lớn nhỏ được xây dựng rồi đó.

- Bảy ngày sau tôi sẽ tới đó lễ Phật.

Rajiva nhìn tôi, mắt sáng long lanh.

- Cô có muốn đi không?

Tôi… tôi… tôi muốn chứ! Cậu ấy hiểu rõ điều gì có thể hấp dẫn tôi. Nếu đến

đó, tôi sẽ xác định thời gian và trình tự xây dựng các hang đá của ngôi chùa vĩ

đại ấy và còn có thể phác họa lại những bức vẽ tuyệt đẹp trên tường mà về

sau đã bị phá hoại nặng nề. Những tài liệu này sẽ là những tài liệu lịch sử vô

cùng quý giá. Tôi không kháng cự nổi sức hấp dẫn này. Trì hoãn thêm vài ngày

có lẽ không vấn đề gì. Có lẽ tôi vẫn còn đủ thời gian.

Thấy tôi gật đầu, Rajiva tươi cười.

- Bảy ngày sau chúng ta sẽ lên đường.

Chương 21:Thiên phật động Kizil

Bảy ngày sao đó, vào một sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa

tiện dụng của Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha

chừng bảy mươi dặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai

ngày là đến nơi. Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong một khoảng không

gian hẹp như vậy, không thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là

hình ảnh của cậu ấy: Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho

nhã, lịch thiệp, Rajiva với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy

ảnh tám triệu pixel, liên tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có

được một bức ảnh của Rajiva thì tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi sẽ có

kỷ vật để mà hồi tưởng lại. Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải

quay về, thế nên tốt nhất đừng lãng phí và tình cảm thêm nữa.

Nào hãy tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức

hấp dẫn của "Chàng đẹp trai" và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.

Quyết tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay

đang chìa ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn

uống, tôi tự phục vụ bản thân, kiên quyết không để tái diễn tình trạng lười

biếng lúc trước, ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô

Tây vực, tự mình lau sạch những vụn bánh vương vấn trên mép, kiên quyết

không  nhận  lấy  mảnh  khăn  nhỏ  từ  tay  cậu  ấy  và  để  mặc  đôi  tay  ấy  phải

ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe, không có cách gì tránh né, tôi đành

nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức, buồn ngủ cũng kiên quyết không gục

xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy tay cậu ấy làm gối

Có phải là ảo giác của tôi hay không? Một tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã

trôi đến tai tôi. Trái tim tôi như thắt lại…

Cuối cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục sự kiên cường của bản

thân, suốt hai ngày trong không gian riêng biệt chỉ có hai người, cái không

gian  nhỏ  hẹp  không  khỏi  khiến  người  ta  điên  đảo,  vậy  mà  tôi  vẫn  kiên  trì

nguyên tắc của mình, kiên quyết không để nảy sinh tình cảm với người cổ đại.

Đó là lời răn dạy của sếp trước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ,

em là người hiện đại, em sẽ phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc

nhở bản thân, nếu nảy sinh tình cảm nam nữ, lịch sự rất có thể sẽ vì em mà

thay đổi…

Nhưng khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ đang tắm gội dưới

ráng chiều huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng

tắp, những chiếc thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí ẩn len lỏi qua

các hang đá, thì những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ,

đã trôi tuồn tuột ra khỏi đầu tự lúc nào không hay.

Tối hôm đó, tôi được sắp xếp ở lại trong một quán trọ ven sông Muzat.

Nghe nói họ dành cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh không

ổn cho lắm, may mà tôi đã chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối

bên sông Muzat, không khí trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời

ngàn sao lấp lánh. Không gian tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng

khoái,  dễ  chịu  thật  đặc  biệt.  Tôi  vốn  định  lang  thang,  dạo  mát  ven  sông,

nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi, lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư

tôi không khỏi xao động. Không biết phải làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót,

rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh

trăng.

Ngày hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra

Rajiva. Chùa Kizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu

hành, phòng đá dành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người

đều nhìn Rajiva với ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh

miệt. Không không, không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh

miệt Rajiva chứ! Chắc chắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ

trì chào đón Rajiva rất nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền

đặc biệt, đã được dọn dẹp sạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi

nổi vây quanh Rajiva và sôi nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng

chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền một mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia?

Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy, tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi

im lìm một chỗ, cả ngày không bước chân ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn,

nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâu những phép tắc, quy định, luật

lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứ thu hút tôi đến đây là những bức

họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặc ra khỏi đầu.

Thiên Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh

dấu theo thứ tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các

bức vẽ trên tường. Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của

nhà sư theo tông phái Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng

khảo sát di tích này. Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một

chiếc giường đá rất lạnh, nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo

hang đá bằng tay, nên rất gian nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu

xây dựng chùa, mọi phí tổn đều do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời

điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôi chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức

bích họa và tám phòng tiền, trong đó hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa

hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tất bật với công việc vẽ tranh của mình.

Hấp dẫn quá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số

các công đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn

vẽ, hay các câu chuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài

luận xuất sắp với giá trị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương

triểu Guge thuộc vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình

cờ gặp một tổ chức từ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám

trăm năm trước. Họ đang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức

bích họa đã được sáp xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với

một nghẹ nhân nữ người Thụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi

xem bộ đồ nghề của mình: Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những

chiếc xẻng và những chiếc kẹp nhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút

nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽ tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu

nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họa sau khi được phục chế, trở lên sống

động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được tái sinh. Từ tận đáy lòng mình

tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao đẹp của những con người ấy.

Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quá trình chuẩn bị và hoàn

thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều này làm tôi phấn khích

quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều kiện vật chất thiếu

thốn  thời  cổ  đại,  trong  thứ  ánh  sáng  léo  lắt  được  đốt  lên  từ  nhựa  thông,

những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao. Tôi hào

hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ

tranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi

được bận rộn và vui sướng đến thế.

Họ sử dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột

vàng hoặc thếp giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy

những hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh

trong mỗi khung hình thoi màu xanh da trời. trải qua sự bào mòn của thời gian

và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc khác

cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn vẹn

nguyên  vẫn  tươi  tắn  như  lúc  trước.  Đá  Lapis  Lazuli  được  khai  thác  ở

Afghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam

quyến rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu

được các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng

vọt, gấp nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không

gian động đá, sự giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi

bức tranh là một cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản

lớn. Về sau, khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng

thờ cúng hình tượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng

Phật, để lộ lớp đất đá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh

ấy, vẫn mỉm cười với thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả

của thế kỷ XXI phải thổn thức, ngậm ngùi.

Sau khi phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công

nguyên, trong vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có

dấu chân Phật, ban thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng

của Phật. Khi tôi đến tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được

xây dựng rất sớm, vào khoảng thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy

bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau

Công nguyên, cùng với sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình

tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới bắt đầu xuất hiện những tác phẩm

tượng Phật.

Alexander đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10] và mang theo

tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều chịu

ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở

thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.

Các bức bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của

nghệ thuật Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng

Phật mẫu đó đã bị hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho

phong cách nghệ thuật Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan

chính, sống mũi cao, mái tóc lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình

khoác áo choàng dài, lộ một bên vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và

thánh tiên trên các bức bích họa phần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng

điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y phục, trang sức, thắt lưng, đều được

khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.

Tôi đang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa (Siddartha)”.

Bức họa này kể câu chuyện khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn

thấu những phiền não, khổ sở của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của

ngài, đức vua Tịnh Phạn (Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã

ra sức kiến tạo một đời sống xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở

thế tục. Tôi đang say sưa phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau.

Quay lại, bắt gặp Rajiva đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt

đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa

hình ảnh một cung nữ áp sát thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi.

Đây chỉ là một hình ảnh rất nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích

họa trong hang đá này. Nếu tôi không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai

để tâm đến những nét tinh tế ấy. Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả

thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến, tôi mới nhận ra mình làm việc nhập

tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay biết. Không còn cách nào khác,

tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.

Mấy ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc

nào rời bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi.

Tôi thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình

trong những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật

khổng lồ. Tôi nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong

vòng hào quang phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc

họa các tượng Phật nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi

Niết Bàn điển hình của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai

đoạn sau, hay còn gọi là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”

Nghệ  thuật  Gandhara  men  theo  con  đường  tơ  lụa  thẳng  tiến  về  hướng

đông. Trước hết, nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ

Afghanistan  vào  thời  đại  của  đế  quốc  Kushan  (hoặc  Kusana).  Tượng  Phật

khổng lồ ở Bamiyan đã bị Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho

trường phái nghệ thuật này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul,

thuộc Kashmir để học đạo, đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn

cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà

Thiên  Phật  động  Kizil  mới  có  những  hang  đá  bên  trong  dựng  tượng  Phật

khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và trí tuệ của một bậc cao

tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.

Nhưng Rajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến

trúc xây dựng hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng

khổng lồ nhằm tạo ra những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công

trình Thiên Phật động Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà

còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến các công trình hang đá sau này như hang

đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân Cương hay ở Long Môn.

Không thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra

điều lạ lùng này, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác

chỉ ngồi yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không

ra ngoài, thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn

phòng. Điều này thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức

nào đó? Lúc ăn cơm tôi đem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva thì cậu ấy chỉ trả lời qua

loa rằng họ đang ngồi thiền, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva

không muốn nói, nên tôi tranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông

qua các nghệ nhân vẽ tranh.

- Họ đang ngồi thiền mùa hạ[11]

Ngồi thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong "Pháp Hiển truyện" ngài

Pháp Hiển có viết rằng trên hành trình đi Tây Trúc, ngài đã nhiều lần phải

dừng lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.

- Hàng năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong

phòng, không bước ra ngoài.

- Đúng vậy, họ không được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin

phép trụ trì rồi mới được ra ngoài.

- Đúng vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng thì

ngồi thiền liền ba tháng.

Cuộc thảo luận sôi nổi không còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy

sống mũi cay cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh

tâm tu hành. Bởi vì đây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ không

ra ngoài để tránh sát sinh. Thì ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia

dành cho Rajiva là có thật. Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành,

thì cậu ấy lại ngang nhiên ra ngoài cùng một cô gái. Mặc dù cậu ấy đến đây vì

công việc xây tượng Phật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gian ngồi

thiền mùa hạ? Cậu ấy bất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư?

Buổi tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở một góc khuất cách đó

không xa, cậu ấy đang yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ

ngạc nhiên, chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy

do dự trong giây lát rồi từ từ ngồi xuống.

- Rajiva, hiện đang là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu không nên ra ngoài

mới phải…

Cậu ấy hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như

dát bạc, giọng nói bình thản:

- Tôi đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn

kính đối với Phật tổ, vì sao không được?

- Nếu vậy, sao cậu không chờ một tháng sau hãy đến?

Rajiva đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi

mắt ấy như đang cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu

thẳm.

Cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi không dám nhìn vào mắt cậu ấy:

- Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.

Rajiva im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm,

không chút biểu cảm.

Tôi cắn chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:

- Rajiva, tôi không thuộc về nơi này.

- Tôi biết.

Bỗng nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực

rất cao, tôi ngước lên nhìn cậu ấy chỉ một lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ không

phải chỉ vì cậu ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch,

như đang rơi, sắp rơi xuống rồi…

- Ngày mai chúng ta sẽ rời khỏi đây.

Tôi gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng

đang di chuyển gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc đã biến mất trong một

ngõ hẻm quanh co, vắng lặng.

Đêm đó, qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh

trăng vằng vặc, một bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay

những nếp áo mong manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên cô quạnh. Tôi

như bị thôi miên vào bóng người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm

lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt đã nhạt nhòa trên mặt, lao ra khỏi phòng.

Không gian buổi đêm tịch mịch, quạnh quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông

không một bóng người. Đêm đó, tôi hầu như không ngủ, chống mắt nhìn trời

sáng.

Trên đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất hiện

những quầng thâm rõ rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng

vậy. Chúng tôi đều đã trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì không thể, thì

không nên níu kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng

sớm càng tối. Trở về thế kỷ XXI, tôi sẽ có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi

sẽ tìm được một người để yêu. Anh chàng cùng khoa, học trên tôi một khóa có

ý với tôi lâu rồi, tôi sẽ suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay không.

Cho dù anh ta không đẹp trai bằng cậu ấy, không thông minh bằng cậu ấy,

không dịu dàng bằng cậu ấy, không.. Tôi biết chứ, anh chàng khóa trên chẳng

có điểm nào có thể so sánh với cậu ấy, nhưng anh ta là con người của hiện

thực. Còn Rajiva, đối với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy

dòng chữ trong đống sách cũ nát mà thôi…

Chúng tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà

nhỏ trong thành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu

bằng ánh mắt khó hiểu, sau cùng là một tiếng thờ dài:

- Tôi sẽ sắp xếp đội thương nhân cho cô. Những ngày tới tôi phải ngồi

thiền, buổi tối sẽ không về đây nữa.

Một lúc lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà,

mãi không cất bước.

- Mười ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. Cô từng nói muốn xem lễ hội này.

Hay là…

Cậu ấy ngập ngừng.

- Để sau khi lễ hội kết thúc hãy đi…

Tôi ngẩng đầu, thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút,

không có cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt

ấy khiến cơ quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên

một tiếng:

- Ừ.

Vành môi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười.

Nhưng tôi không ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi thật sự muốn

tham dự ngày hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là

một học sinh hiếu học, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không

phải là một… người yêu lí tưởng…

Chương 22: Ra ngoài đi dạo

Những buổi tối sau đó, Rajiva không đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm

nhưng mỗi ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt

ra phía cửa, cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch

mịch. Hàng ngày, cầm cuốn tập trên tay lang thang trong thành Subash, đi

mãi đi mãi, rồi không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra,

tôi cứ quanh quẩn ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi

han, tôi mới như người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng

buồn vô hạn, như thể có bàn tay ai đó đang nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát,

khiến tôi như kẻ mất hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét

vẽ lại hiện dần hình ảnh của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân

dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại ra sức xóa đi.

Chỉ còn hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn không thấy bóng dáng Rajiva

đâu. Khi lễ hội kết thúc tôi sẽ rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra đi, liệu tôi có còn

được gặp cậu ấy lần cuối hay không? Mặc dù vẫn biết rằng, không gặp sẽ là

cách tốt nhất để khi ra đi, tôi có thể quên tất cả…

Buổi tối, tôi nằm co trên giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng”

cánh cửa, suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn đang bày ta

trước mắt, nhưng không thể khơi dậy dù chỉ là một chút cảm hứng trong tôi, vì

nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười giờ

đêm, nếu là ở thế kỷ XXI thì bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về

đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ đã là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở

dài, vậy là lại một đêm nữa trôi nữa qua.

Bỗng tôi nghe có tiếng gõ cửa, không ồn ào, nhưng rất rõ ràng. Rồi tiếng

trò chuyện của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ nói chuyện bằng tiếng

Phạn! Là cậu ấy!

Tim đập liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng.

Rajiva đang đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi không

thấy rõ biểu cảm trên khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao,

nếu không có việc gì hệ trọng, cậu ấy không đến vào giờ này. Có lẽ đã xảy ra

chuyện gì đó.

Mavasu buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có

cảm giác mỗi bước đi của cậu ấy là một nỗ lực vô cùng lớn lao.

- Khuya thế này, lẽ ra Rajiva không nên đến….

Giọng nói trở nên run rẩy.

- Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài đi dạo, không

hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng

lự hồi lâu, mới quyết tâm gõ cửa.

Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn nhỏ trong

phòng chiếu lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì đã

khiến một người luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế?

Cậu ấy đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:

- Rajiva, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát nhé!

Rajiva nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi

đầu thì thào:

- Cô mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh…

Thành cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố đã tắt đèn từ lâu, nhưng

ánh trăng vằng vặc vẫn soi tỏ đường đi dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ đi bên

nhau. Đây là lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này.

Rajiva hẳn cũng có chút e ngại và thận trọng.

Subash là thành phố nhỏ có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân sự, bởi vậy

thành phố này không có tường thành bao quanh giống như những thành trì

kiên cố khác. Chúng tôi đi vài bước đã ra khỏi thành để đến bên dòng sông

Tongchang. Lúc này đang là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách

càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của đêm vắng.

Chúng tôi tìm thấy một phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn

cậu ấy.

- Sư phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây.

- Đại sư Bandhudatta ư?

Truyện kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy đã bỏ rất nhiều công sức để thuyết

giảng giáo lý Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu

Thừa cho mình là Bandhudatta nghe.

- Vì sao cô biết tên của sư phụ?

- Tôi…

Tôi giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.

- Đúng rồi, tôi từng nói với cô. Không ngờ, mười năm rồi cô vẫn còn nhớ.

Rajiva từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi không nhớ gì cả?

Tôi ngượng ngùng chuyển chủ đề:

- Cậu đã luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?

Rajiva gật đầu

- Mấy ngày qua, Rajiva đã cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý

của Phật giáo Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của

giáo phái này và đã được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva

làm  sư  phụ  Đại  Thừa  của  mình,  đã  công  nhận  học  thuyết  mới  của  Rajiva,

nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.

Tôi gật đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi một người sáng lập ra

một luận thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, thì điều quan

trọng nhất là luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt

người đó bước vào cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công

nhận. Kết quả này chứng tỏ, Rajiva đã chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn

là  rất  cam  go)  với  chính  sư  phụ  mình.  Tuy  rằng  sau  buổi  luận  chiến,

Bandhuatta nói sẽ tôn Rajiva làm thầy, nhưng đại sư không hề có ý định thay

đổi học thuyết của bản thân, hay nói cách khác, Banduatta không chịu từ bỏ

thân phận là "sư phụ Tiểu Thừa" của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến

Rajiva buồn phiền như vậy?

- Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu sẽ thuyết phục được đại sư chấp

nhận luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại

Thừa. điều đó đã là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật

giáo Tiểu Thừa?

Rajiva nhìn tôi kinh ngạc.

- Rajiva nào dám ngông cuồng như thế!

- Vậy vì sao cậu lại buồn phiền?

Rajiva đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn

thờ hồi lâu.

- Mẹ tôi…

Rajiva cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.

- Hôm nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn

Độ), mẹ tôi đã… đăng tam quả.

Tôi không hiểu

- Đăng tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?

Rajiva thở dài, rồi hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:

- Tam quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu

dưỡng mà những người xuất gia muốn đạt đến.

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích:

- Anagamin có thể dịch thành "Không trở lại". Nghĩa là, các tu sĩ đạt đến

cấp độ này, sau khi viên tịch, sẽ hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp tục thiền

định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc[12], tức là được giải thoát hoàn

toàn và sẽ không trở lại cõi phàm trần này nữa

Rajiva nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu, nhưng giọng nói càng lúc càng trở

nên run rẩy:

- Mẹ tôi đã đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người

đến được cõi cực lạc rồi…

Cuối cùng thì tôi đã hiểu, Rajiva nói dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva,

Jiva đã qua đời tại Thiên Trúc.

Các tài liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva một mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn

Độ. Nhưng sau đó không có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà đã mất tại

Ấn Độ. Và hung tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta..

Tôi bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là

người có sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đã đưa

Rajiva đến cửa Phật, đã dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của

những lời tung hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva

theo học giáo thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc

đời Rajiva đều do mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể không phải

là một người vợ hiền, nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ

huy, là người dẫn đường của cậu.

- Rajiva, nếu cậu buồn thì hãy…

- Không!

Rajiva xúc động, hơi thở gấp gáp:

- Tôi không buồn. Mẹ đã chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người

đã thành hiện thực. Người đã đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì

sao tôi phải đau buồn, tôi không nên đau buồn!

Rajiva bị chấn động mạnh, rõ ràng trái tim cậu ấy đang đập dữ dội và hơi

thở trở lên gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời nói

dối gắng gượng của cậu ấy.

- Rajiva.

Tôi nhẹ nhàng vỗ vai Rajiva.

- Trong hoàn cảnh này, ai cũng sẽ đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì

cậu có tình yêu, cậu yêu mẹ cậu. Vậy thì vì sao cậu phải kìm chế, không thể

hiện ra những cảm xúc đó?

- Tình yêu ư?

Rajiva khẽ nhẩm lại từ này, một tiếng "yêu" mà như có sức nặng ngàn cân,

khiến cậu ấy đọc không thành tiếng, chỉ có những âm hưởng run rẩy.

- Đức Phật nói rằng, mọi thứ trên cõi đời này đều không tồn tại. Rajiva là

người tu hành, đâu có thể có "tình yêu"?

- Giáo lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão

bệnh tử, yêu thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi

nỗi khổ xuất phát từ tình yêu. Chỉ cần "diệt" được "yêu", sẽ lên cõi Niết Bàn, từ

đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy thử nghĩ

xem, lẽ nào Phật tổ không có tình yêu? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào ngài

chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn "diệt ái dục". vì ngài từng nếm

trải nỗi khổ sở do yêu thương mang lại? Nhưng nếu thực sự có thể "diệt ái

dục", thì vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được sự giải thoát? Niết Bàn, tịch

diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly hệ, giải thoát… tất cả những

cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với cái chết mà thôi. Chỉ khi chết

đi người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải chăng chính vì thấu tỏ điều

này, nên Phật tổ mới vẽ ra một viễn cảnh, một thế giới tây phương cực lạc sau

khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà người tu hành phải

chịu đựng khi quyết tâm diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì sao, nhất định

phải…

- Ngải Tình!

Rajiva gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ

cùng cực.

- Đừng nói nữa…

Rajiva xoay đầu qua một bên, không để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi

vai rung rung dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi

đứng lên, bước sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Rajiva, nhẹ

nhàng ôm cậu ấy vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Rajiva không đẩy tôi

ra, nhưng dường như đang cố nín thở.

-  Hãy  khóc  đi,  cậu  là  con  người  không  phải  thánh  thần.  Người  ta  khóc

thương người thân của mình, có gì không phải đâu. Muốn khóc thì hãy khóc

cho thỏa, như thế cậu sẽ thấy dễ chịu hơn…

Tôi nhẹ nhàng vỗ về cậu ấy, Rajiva trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao

lớn, nhưng thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi ước

mình có thể hóa thân thành Jiva đẻ an ủi cậu ấy.

Sau rất nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Rajiva rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động

tác ấy khẽ khàng, như thể đang ôm một người bằng giấy và sợ người đó sẽ

tan biến đi.

- Ngải Tình!

Tôi cảm thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh

tay tăng dần, càng lúc càng xiết chặt hơn.

- Ngải Tình!

Rajiva khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm nhỏ trên vai áo tôi, làn

gió lướt qua làm nguội đi hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt

nóng ấm liên tục rớt xuống. Cuối cùng thì Rajiva cũng đã được khóc như một

con người bình thường.

Cậu ấy đã khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy.

Khóc như thể cạn nước mắt của cả một đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy.

Chúng tôi cứ thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi

cả đất trời cũng mòn tan thành nước mắt…

Không biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao

giờ  khóc  nhiều  như  vậy,  mệt  mỏi  rã  rời,  tôi  tựa  vào  cậu  ấy  để  không  gục

xuống. Rajiva cũng đã thôi khóc, nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ

cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim tôi. Tôi không muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi

thậm chí không dám thốt lên nên một lời nào vì sợ sẽ làm hỏng không khí này.

Sau cùng, Rajiva là người chủ động buông tay, ánh mắt giấu đi rất xa, tôi

không nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ nghe thấy giọng nói chậm rãi:

- Mẹ biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại

Thừa, nên trước khi rời Khâu Từ, người từng nói với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn

đến được Đông Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề

này không hề có lợi cho cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào?

Tôi vẫn còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng

nhìn cậu ấy. Rajiva ngừng lại một lát, rồi tiếp tục:

- Tôi trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ không phải

chỉ cho bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp

chúng sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, thì dù có phải nhảy vào chốn

dầu sôi lửa bỏng, Rajiva cũng quyết không từ nan.

Khi Jiva còn ở bên cạnh, Rajiva giống như một thần đồng được bảo bọc và

chăm sóc chu đáo. Rajiva tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài

hoa trong nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Jiva ra đi,

Rajiva phải dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí

tưởng của cậu, phải chăng đã được hình thành từ khi còn nhỏ? Nhưng Rajiva

đâu biết rằng, những lo lắng của Jiva đã trở thành hiện thực trong tương lai.

Cái giá mà Rajiva phải trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là

những lời chỉ trích gay gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình không

biết trước tương lai của cậu.

- Rajiva, tuy mẹ cậu không ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim

cậu. Bất cứ khi nào gặp khó khăn, cậu sẽ nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu sẽ

vượt qua tất cả, đúng không?

Rajiva gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy sẽ vơi đi

đau buồn.

- Rajiva, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi nhỏ của cậu, những chuyện mà tôi

không biết ấy.

Nói rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực sự tò mò về tuổi thơ

của cậu ấy.

Chúng tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Rajiva hồi nhỏ: sự

nghiêm khắc và tình yêu của Jiva dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư

phụ và các sư huynh của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở

Tây vực của cậu. Chuyện nào cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. Thì ra

một người có chỉ số IQ 200 như Kumarajiva, hồi nhỏ cũng từng trêu chọc các

sư huynh, cũng từng bị mẹ trách phạt vì không học thuộc các bài kệ. Thì ra

Rajiva cũng có tuổi thơ, tôi cứ nghĩ, ngay từ khi còn nhỏ cậu ấy đã là một

người thông tuệ và già dặn rồi.

Tôi muốn Rajiva tạm quên đi nỗi đau mất mát kia và vui lên một chút, nên

đã kể cho cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về

sếp của tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng đi qua. Tất

nhiên là tôi đã lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh

không để lộ "thiên cơ".

Phía xa xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt đã hiện

lên trên nền trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây đã lặn mất tự lúc

nào. Tôi xem đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi đã ngồi suốt một

đêm. Tôi ngước nhìn Rajiva.

- Rajiva, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi.

Rajiva như vừa tỉnh cơn mơ.

- Chúng ta đã ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt không?

Tôi lắc đầu. Tuy tôi không mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác

mỏng manh không đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai.

Rajiva cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng không ấm hơn, những ngón tay dài

vuốt nhẹ bàn tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi

ấm. Rajiva ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu không tiếp tục chà tay nữa, mà

cầm hai bàn tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có một cơn lũ

vừa quét qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa..

Chúng tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt trên khuôn

mặt có chút hơi ấm của Rajiva. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, thì ra

là những đốm râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có một luồng điện lan

truyền khắp cơ thể, khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi đã hoàn toàn hiểu ra điều

này.

Tôi yêu Rajiva.

Đúng vậy, tôi đã yêu cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu

ấy. Cũng không có gì lạ, một chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút

hồn như cậu ấy có thể khiến bất cứ cô gái nào trên đời này xiêu lòng. Tôi sẽ

không do dự, không cự tuyệt nữa. Yêu thì cứ yêu thôi, làm sao tôi có thể phủ

nhận cái thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là một

người bình thường. Tôi không thể diệt được ái dục, nên tôi không cần phải

tranh đấu, dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân

để phủ nhận tình cảm này, bởi tôi đã nhìn nhận tình yêu bằng lí trí chủ quan

cứng nhắc của con người hiện đại. Tôi muốn tình yêu phải được đáp lại. Tôi

luôn viện cớ công việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo

lắng, nếu yêu Rajiva, tôi sẽ không có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi không

quay về thì sao? Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy thì sao? Nếu tôi

cần tương lai thì sao? Có ai nói nếu yêu cậu ấy thì tôi không thể tiếp tục công

việc của mình đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là yêu Rajiva và tôi sẽ

yêu cậu ấy theo cách của mình. Tôi cũng có thể không để cậu ấy biết được

tình cảm của mình. Tôi cũng có thể tiếp tục âm thầm nhớ, âm thầm yêu sau

khi trở về thế kỷ XXI. Chỉ cần được yêu cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về

sau. Việc gì phải lí trí, việc gì phải suy xét thiện hơn mọi đường cơ chứ?

- Ngày kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay cô hãy lên đường đến thành cổ Khâu

Từ đi.

Giọng nói ấm áp lướt qua bên tai tôi.

- Hãy về nghỉ ngơi đi, tôi dặn dò Kaodura đưa cô đến thành cổ Khâu Từ, tôi

đã sắp xếp nhà trọ cho cô. Hay là về phủ quốc sư? Cô vẫn muốn gặp Pusyeda

kia mà!

Kaodura ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Rajiva.

- Tôi sẽ ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư sẽ khiến mọi người hoảng sợ.

Còn Pusyeda, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi sẽ đến gặp cậu ấy.

Sau khi lễ hội kết thúc, tôi sẽ tìm cách gặp Pusyeda. Mười năm trước, cậu

bé rất quý mến tôi, nhưng giờ cậu đã là một chàng trai trưởng thành, đã có

cuộc sống riêng, tôi không muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được

nhìn thấy Pusyeda là tôi có thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất,

thực ra là…

- Cậu… cậu…

Chần chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ.

- Cậu… có đến không?

Rajiva thoáng giật mình, nhẹ nhàng thả tay tôi ra.

- Sư phụ vẫn còn đây, hơn nữa…

- Tôi biết rồi, giới luật quy định, cậu không được đến nơi hội hè ca múa.

Nén lại nỗi thất vọng đang nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ:

- Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Cậu… không cần phải đến, cũng không thể đến…

Rajiva thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo

cà sa màu nâu sòng, làm gió lật bay nhè nhẹ những nếp áo. Cậu ấy đứng đó,

đẹp tựa một pho tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình.

Chương 23: Lễ hội Sumuzhe

Tôi đến thành Khâu Từ bằng xe ngựa của Rajiva. Đường sá gập ghềnh, xe

ngựa lắc lư, bình thường, trong trạng thái ấy, tôi đã ríu mắt lại hồi lâu, nhưng

hôm nay không hiểu sao, tôi vẫn tỉnh như sáo. chẳng hề buồn ngủ. Có lẽ vì, tôi

vẫn đắm chìm trong nỗi phấn khích lúc trước, hai mắt vẫn đang chăm chú mở

to nhìn đôi tay. Kể từ lúc đôi tay này chạm vào khuôn mặt của cậu ấy, tôi thậm

chí không nỡ rửa tay. Tôi đưa lên, nhắm mắt lại, cố hình dung ra từng đường

nét và tưởng tượng ra những ngón tay mình đang khám phá khuôn mặt của

Rajiva. Tôi vẫn nhớ cảm giác gai gai ấm áp khi chạm vào gò má gầy gầy,

xương xương, lốm đốm râu và làm da mịn màng của cậu ấy. Cảm giác đó

khiến tôi, dù đã rất cố gắng, cũng không kìm chế được nụ cười hạnh phúc

đang nở tràn trên môi.

Tôi cứ tủm tỉm cười như vậy suốt dọc đường đi, cho đến xe ngựa dừng lại

giữa thành phố Khâu Từ đang tắm mình trong ráng chiều. Phòng trọ mà Rajiva

đặt trước cho tôi là một căn phòng "hạng sang". Tôi thầm cảm ơn sự chu đáo

của Rajiva, vì nhờ cậu ấy, tôi đã có một chỗ nghỉ ngơi thoải mái trong thành cổ

và dịp lễ, khi mà tất cả các nhà trọ đều đã kín người. Ăn uống qua loa xong

xuôi, tôi bắt đầu ngáp ngủ, rất lâu rồi tôi mới thức khuya như hôm nay. Tôi

nhớ là chỉ vào những dịp thi cử, tôi mới phải thức trắng đêm trong phòng học

tự học ở trường. Thế nên, tôi quyết định dành tất cả khoảnh thời gian còn lại…

để ngủ. Hi vọng là lúc mê mệt, tôi không ngáy to, nếu có ngáy, mong là không

khiến phòng bên cạnh mất ngủ.

Sumuzhe, hay còn gọi là lễ hội cầu lạnh, được tổ chức vào tháng bảy âm

lịch hàng năm. Lễ hội được tổ chức nhằm cầu nguyện một mùa đông lạnh

hơn, tuyết rơi nhiều hơn, để năm tới Khâu Từ có được nguồn nước dồi dào

phục vụ việc trồng cấy. Lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên vào thời

nhà Đường, khiến kinh thành của người Hán trở nên náo động hơn bao giờ. Có

rất nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng viết về lễ hội Sumuzhe đã ra đời trong thời

kỳ này, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Di, Lý Hạ… đều đã từng chấp bút về đề tài

này. Đến đời Tống, Sumuzhe trở thành tiêu điểm của rất nhiều bài tử, trong

đó, nổi tiếng nhất phải kể đến bài tử của Phạm Trọng Yêm:

Biếc mây trời

Vàng lá đất

Sóng lẫn sắc thu

Khói sóng xanh lặng ngắt

Nước lên trời, núi chiều nắng bắt

Đám cỏ trêu ngươi

Mơn mởn trong nắng nhạt

não hồn quê

Buồn đất khách

vì được bằng đêm

Mộng đẹp ru ngon giấc

Trăng sáng chớ một mình tựa gác

Rượu ngấm ruột sầu

Nỗi nhớ đẫm nước mắt[13]

Khi đi ngang qua Khâu Từ, Huyền Trang cũng từng được chứng kiến và ghi

chép lại không khí náo nhiệt của ngày hội này. Đức vua Khâu Từ đã mời nhà

sư cùng dự lễ. Đến tiết mục nhảy múa, đức vua còn khẩn khoản mời sư phụ

cởi áo cà sa và giày tất, cùng tham gia vào điệu múa cầu lạnh. Huyền Trang

cũng xem múa hát đó thôi, vì sao Rajiva không thể? Nhưng thôi, Huyền Trang

là du khách từ nơi xa đến, nhập gia phải tùy tục là theo lẽ thường tình.

Tôi  đeo  chiếc  mặt  nạ  mua  ở  Subash,  đi  lang  thang  ngắm  nghía  phố

phường. Những con phố chính đã chật kín người, ai nấy đều đeo mặt nạ, mọi

người niềm nởi chào hỏi lẫn nhau, bất kể người quen hay người lại. Không khí

cởi mở, vui tươi ấy đã bù đắp nỗi trống trải và xua tan ưu phiền trong lòng tôi.

Tôi náo nức hòa vào dòng người trên phố. Một lát sau, thì đoàn diễn hành bắt

đầu diễn qua. Đầu tiên là đội trống với dàn trống Hạt khổng lồ dẫn đầu[14],

các tay trống ngồi trên xe ngựa, đồng loạt đánh lên những thanh âm sôi động

đầu tiên, mở màn cho lễ hội Sumuzhe.     Theo sau là một đoàn nghệ sỹ cầm

trên tay nhiều loại trống lớn nhỏ khác nhau, vừa đánh trống vừa nhảy múa,

phối hợp nhịp nhàng với đội trống Hạt đi đầu. Cách một đoạn là đến đội hình

múa đôi nam nữ. Họ mặc những trang phục chỉnh tề, nghiêm trang, mảnh

khăn lụa dài được căng rộng trên hai sải tay, biểu cảm trang trọng, điệu múa

truyền thống. đậm màu sắc cổ điển. Điệu múa này có nét gì đó rất giống với

vũ điệu “ương ca[15]” của các bà cô người Hán vào mỗi dịp năm hết Tết đến.

Tiếp đó là đội hình biểu diễn múa trên dây, các cô gái trẻ, đầu đội mũ miện

đính hoa tươi, sải bước trên những sợi dây thừng được trang trí hoa văn rực

rỡ, ký thuật điêu luyện, động tác uyển chuyển, nét mặt rạng rỡ như hoa. Kế

đó là các đội hình múa dải lụa, xiếc khỉ, vân vân. Mắt tôi được dịp no căng với

bao nhiêu loại hình vũ đạo độc đáo. Mỗi điệu múa có một đội hình riêng, với

những cỗ xe được trang trí hoa tươi muôn hình muôn vẻ và rất nhiều các loại

nhạc cụ khác nhau, kèn thất lật[16], đàn Không[17], tỳ bà, ống sáo làm bằng

sừng động vật,... tất cả những nhạc cụ đặc sắc này đã tạo nên biểu thanh âm

rộn rã, vui tai.  

Năm 1903, có hai người Nhật đã tìm được một chiếc hộp, bên trong đựng

xá lợi của một vị cao tăng ở thành cổ Subash. Họ lẳng lặng đem chiếc hộp về

Nhật Bản và giấu đi. Đến tận năm 1957, người Nhật Bản mới phát hiện ra,

dưới lớp màu sắc được phủ phía trên thấp thoáng dấu ấn của hội họa. Lúc đó,

họ mới cạo bỏ lớp màu trên bề mặt, những hình vẽ nguyên sơ hiện ra, đó là

bức họa về các vũ điệu Sumuzhe, sống động và tinh tế khiến người ta phải

kinh ngạc. Bức họa vễ rất nhiều ngưới, trên tay cầm những nhạc cụ đặc sắc

của Tây vực, họ đeo mặt nạ và trình diễn những vũ đạo không giống nhau.

Đến nay, chiếc hộp vẫn đang ở Nhật Bản. Chúng tôi phải cất công sang tận

đó để chụp hình mang về nghiên cứu.

Còn bây giờ, lễ hội từng được mệnh danh là “ngày hội sôi động của phương

Đông” đang diễn ra sống động trước mắt tôi, có thể nói rằng, niềm phấn khích

trong tôi không bút nào tả xiêt. Lễ hội Sumuzhe diễn ra liên tục trong bảy

ngày, bất kể ngày đêm. Nếu như khi quay về, tôi có thể góp sức khôi phục lại

ngày lễ cổ truyền long trọng này thì công tác nghiên cứu tính kế thừa lịch sử

của các loại hình nghệ thuật ca múa dân gian chắc chắn sẽ được ủng hộ và

phát triển rộng rãi. Và điều đó, chắc chắn sẽ khiến không ít đồng nghiệp của

tôi phải đỏ mắt ghen tị. Ha ha, chỉ nghĩ đến đó tôi đã sung sướng cười ngất.

Bây giờ là buổi trưa, đoàn ca vũ vẫn tiếp tục diễu hành qua các con phố,

bên đường, những quán ăn vặt đã bày sẵn lúc nào. Mùi thơm của thịt dê

nướng khiến tôi không khỏi nuốt nước miếng ừng ực. Tháo mặt nạ, tôi đến

bên một sạp hàng nhỏ, hỏi mua ba xiên thịt. Xiên thịt nướng ở thời đại này sao

mà vĩ đại! Miếng nào miếng ấy to bằng cả quả trứng gà. Khi đi du lịch ở Tân

Cương, tôi phát hiện ra điều này, rằng kích thước của xiên thịt cứ nhỏ dần từ

nam Tân Cương lên bắc Tân Cương, từ Tân Cương đến đại lục, đến các thành

phố ven biển. Ở nam Tân Cương (gồm các huyện Kashgar, Khotan, Kucha),

kích thước xiên thịt nướng không thay đổi sau 1650 năm, vẫn to như quả

trứng  gà  và  thường  chỉ  có  hai  đồng  một  xiên.  Còn  ở  quán  ăn  trước  cổng

trường tôi đang học, họ bán những xiên thịt nướng nhỏ nhất mà tôi từng thấy,

một đồng một xiên, nhưng đám con gái chúng tôi phải ăn hai mươi xiên may

ra mới có cảm giác “lót dạ”.

Kéo mạch suy nghĩ lan man từ thời hiện đại trở về với lễ hội cổ truyền trước

mắt, tôi vừa thưởng thức thịt dê nướng vừa ngắm nhìn dòng người qua lại

trên phố. Vừa “tiếp lương thực” vào bụng vừa được ngắm các chàng trai đẹp

là tuyệt nhất, nhưng có vẻ như không nhiều chàng trai đẹp ở đây cho lắm, vì

hầu hết mọi người đều đeo mặt nạ. Nhưng đột nhiên, tôi há hốc miệng, bỏ dở

miếng thịt dê thơm phức trên tay.

Có ai đó tách ra khỏi đám đông, bước về phía tôi, dáng người cao lớn, trên

mình là bộ trang phục truyền thống của giới quý tộc Khâu Từ: áo rộng màu

vàng nhạt, thắt eo. Lối trang phục này nhìn qua rất giống trang phục của các

kỵ sĩ châu Âu thời kỳ trung thế kỷ. Những chàng trai vóc dáng khỏe khoắn,

khoác thêm bộ trang phục này sẽ càng nam tính và cuốn hút. Người đàn ông

đó, dáng vẻ tự tin, thân hình cao lớn vạm vỡ, hoàn toàn nổi bật giữa đám

đông,

Tuy không nhìn rõ khuôn mặt, nhưng có thể dễ dàng đoán ra đó là một

chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vì sao anh ta lại đến gần tôi? Và vì sao dáng dấp

ấy lại quen thuộc đến vậy? Anh ta đeo một chiếc mặt nạ hình ma quỷ, ánh mắt

lúc lại gần, lộ rõ vẻ kinh ngạc và nghi hoặc. Tôi chớp mắt liên tục, chăm chú

quan sát và đoán định. Đôi mắt xanh nhạt ấy quá đỗi quen thuộc. Trái tim tôi

như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Là cậu ấy ư, cậu ấy bảo không đến kia mà?

- Ngải Tình, có phải chị không?

Giọng nói xúc động.

- Là tôi chứ ai.

Tôi xoay xoay chiếc mặt nạ đang vắt vẻo trên cổ tay và nhận ra “bi kịch”

này: một bên tay tôi vẫn đang cầm ba xiên thịt nướng vĩ đại (có thể khiến bất

cứ ai phải hoảng). Thôi thế hỏng hết! Mồm miệng nhồm nhoàm. dầu mỡ dính

đầy trên mặt và cái vẻ ngớ ngẩn trợn tròn mắt nhìn cậu ta của tôi nữa, toàn

bộ cái bộ dáng kỳ cục, đáng xấu hổ này đã lọt vào mắt cậu ta rồi!

Đang đau khổ và tủi hổ bất tận, tôi bỗng ngã vào một vòng tay ấm áp. Nhịp

tim tôi mỗi lúc một dữ dội hơn, tư duy hỗn loạn: vì sao, vì sao cậu ấy lại…

Tuy tôi vẫn giơ cao xiên thịt nướng, toàn thân như bị điểm huyệt, tôi để

mặc người đàn ông cao lớn đó nhấc bổng mình lên xoay mấy vòng liền.

- Ngải Tình, chị đã trở về thật rồi ư!

Giọng nói có vẻ giống, nhưng chắc chắn không phải giọng nói của cậu ấy!

Cậu ấy chưa bao giờ ôm chặt tôi như vậy, cũng không bao giờ cười lớn như

vậy và càng không bao giờ nhấc bổng tôi lên xoay mấy vòng liền giữa chốn

đông người như vậy.

Một lúc lâu sau người đó mới thả tôi xuống, hơi nghiêng người, tháo mặt

nạ. Sống mũi cao thanh tú, mát sáng long lanh, hàng mi dày và rậm, đồng tử

màu xám nhạt, giống cậu ấy qua! Chiều cao và vóc dáng cũng giống hệt cậu

ấy. Nhưng khuôn mặt không gầy guộc như cậu ấy, làn da không có màu bánh

mật như cậu ấy và vành môi cậu ấy không bao giờ nhấc lên tinh nghịch như

vậy. Thoáng một chút thất vọng, nhưng ngay lập tức đã được thay thế bởi một

niềm vui mới tràn ngập.

- Pusyseda!

Bây giờ đến lượt tôi ôm chầm lấy cậu ta. Nhưng sao cậu ta lại cao lớn đến

vậy?

Cậu ta suốt từ lúc nhìn thấy tôi đến giờ, lúc tôi buông tay ra thì cậu ta làm

vẻ mặt giận dỗi:

- Ngải Tình, dầu mỡ trên miệng chị dính hết lên quần áo tôi

Tôi hơi ngượng ngùng khi ôm “chú nhóc Pusyseda đã trưởng thành” ấy,

nhưng câu nói không chút kiêng nể kia đã khiến cảm giác ngượng ngùng ấy

lập tức tan biến! Tên ranh này, chẳng thay đổi gì cả!

- Bù lại, chị phải thiết đãi tôi một bữa đấy!

Tôi không kịp phản ứng gì, đã bị cậu ta giằng lấy xiên thịt nướng, trả lại

người bán hàng, sau đó, lôi tôi đi, không cho tôi thời gian cằn nhằn vì đã lẵng

phí đồ ăn! Cái tên hoang toàng này!

Tôi tròn mắt nhìn từng đĩa sơn hào hải vị bày la liệt trên bàn ăn trước mắt.

Đã bao lâu rồi tôi không được ăn đồ ăn Trung Quốc? Đã bao lâu rồi tôi chưa

nhìn thấy cơm trắng? Ở thời đại này, gạo được vẫn chuyển tới đây từ Trung

Nguyên. Ăn một bữa cơm gạo trắng ở Tây vực là cả một khoản chi tiêu xa xỉ.

Hãy nhìn xem cách bài trí ở quán hàng này, trời ơi, còn cả ghế lô nữa. Miệng

nhai cơm, lòng thầm làu bàu: Đúng là tên phá gia chi tử!

Pusyseda ngồi bên ghế đối diện, hầu như không nhấc đũa, chỉ chăm chú

nhìn tôi, nụ cười ngang tàn trên khóe môi chưa chịu tắt. Tôi cảm thấy hơi lo

lắng, nên cắm đầu nhai nuốt. Một cô gái người Hán mang đồ ăn vào, cậu ta

đón lấy và cảm ơn bằng nụ cười quyến rũ ấy. Tôi thấy cô gái bước ra ngoài với

đôi má ửng đỏ và cuống quít đến mức cụng đầu vào cánh cửa.

Tôi thở dài:

- Pusyseda, cậu có biết điệu bộ tươi cười lả lơi của cậu có thể khiến mọi cô

gái trên đời này nghiêng ngả không?

Cậu ta nhướn mày, nhổm dậy, toàn thân vươn qua bàn, sáp lại gần tôi:

- Còn chị thì sao, Ngải Tình?

Tên ranh, dám ăn nói với tôi như thế đấy! Tôi nhìn khuôn mặt điển trai rạng

rỡ của cậu ta, nuốt nước bọt:

- Cho tôi xin, tôi già cả rồi, cậu làm ơn cho tôi sống thêm vài năm nữa đi!

Cậu ta cười vang. Nụ cười đó hoàn toàn khác nụ cười của Rajiva. Pusyseda

cười sảng khoái, không chút e ngại. Rajiva thì khác, lúc nào cũng điềm đạm,

nho nhã.

- Ngải Tình, chị là tiên nữ, chị đâu có già đi!

Cậu ta đột nhiên thôi cười, đổi sang giọng điệu nghiêm túc.

Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào. Chính tôi đã nói với cậu ấy điều đó và

cậu ta cũng được chứng kiến cảnh tôi biến mất. Nếu biết sẽ có ngày quay lại,

tôi không nên gieo vào tâm hồn thơ ngây của Pusyseda cái lý do ngớ ngẩn ấy.

Giờ đây, tâm hồn ngây thơ đã bị tôi bẻ cong suốt mười năm, liệu có thể nắn

cho thẳng lại được không?

- Ngải Tình, chị về khi nào vậy?

- Tôi…

Tôi ấp úng, thần kinh căng như dây đàn

- Hôm qua.

Tôi  không  muốn  Pusyseda  biết  mình  đã  ở  đây  gần  ba  tháng.  Tôi  không

muốn cậu ta biết mình đã ở cùng Rajiva. Rajiva của tôi, tôi muốn bảo vệ cậu ấy

và yêu cậu ấy theo cách của mình…

Sau đó, Pusyseda hỏi tôi ở đâu, tôi nói tên nhà trọ của mình. Thấy tôi vẫn

tiếp tục ăn cơm, cậu ta tỏ ra hết kiên nhẫn:

- Chị định ăn đến bao giờ mới thôi hả?

Tôi giật mình.

- Cậu bận à, sao gấp thế?

- Tất nhiên là bận rồi!

Cậu ta nhìn tôi nghiêm túc.

- Tôi phải đi dọn giúp chị.

- Để đi đâu?

- Về phủ quốc sư chứ còn đâu nữa!

Pusyseda theo tôi về nhà trọ trả lại phòng. Lúc tôi thu dọn đồ đạc, đã sơ ý

để cậu ta nhìn thấy chiếc áo ngực của mình. Cậu ta còn nhấc chiếc áo lên và

hỏi tôi đây là thứ gì với vẻ mặt rất hiếu kỳ, tôi xấu hổ không biết giấu mặt vào

đâu. Sau đó cậu ta chẳng nói chẳng rằng, khoác chiếc ba lô Northace của tôi

lên vai, ném cho chủ quán một xâu tiền, khoát tay hách dịch:

- Không cần trả lại!

Đúng là đồ hoang toàng!

Gần đến phủ quốc sư, tôi ngập ngừng kéo tay Pusyseda lại:

 - Cậu định nói thế nào với mọi người? Mười năm qua, tôi không hề thay

đổi.

Cậu ta dừng lại, mắt ra chiều suy nghĩ:

- Sẽ nói chị là cháu gái của Ngải Tình, gọi chị là Tiểu Ngải Tình nhé!

Tôi đứng tim, anh em ruột có khác, đến cách nghĩ cũng giống hệt nhau.

- Nhưng tôi sẽ không giấu cha.

Vẻ mặt cậu ta bỗng trở lên nghiêm trang.

- Tôi chưa bao giờ nói dối cha điều gì.

Kumarayana, con người thông tuệ, nho nhã ấy, hẳn sẽ chấp nhận sự xuất

hiện kỳ quặc của tôi

Tôi giương mắt lên quan sát mọi thứ trước mặt. Vẫn căn phòng năm xưa,

cách bài trí này, mười năm rồi không hề thay đổi. Thậm chí trên bức tường

phía đầu giường vẫn còn nguyên những chữ Hán mà tôi bắt Pusyseda tập viết.

Khi ấy cậu nhóc nằng nặc đòi dán lên chỗ đó. Tôi chiều theo, cậu nhóc viết

xong trang nào tôi dán lên tường trang ấy. Chữ viết xiêu vẹo ngả nghiêng, lúc

trước nhìn chỉ muốn phát cáu, nhưng bây giờ lại cảm thấy vô cùng thân thuộc

- Ngày nào cũng có người dọn dẹp, chờ ngày chị trở về.

Giọng nói nhẹ nhàng lướt qua vai, rơi vào vành tai tôi, cảm giác gai gai

nhưng trong lòng thấy ấm áp lạ thường.

- Đi nào, cho chị xem thứ này.

Còn chưa hết ngỡ ngàng đã bị cậu ta lôi đi. Tên ranh này tính nết vẫn như

ngày nào.

Cậu ta kéo tôi đến phòng mình. Căn phòng đã đổi khác rất nhiều. Trên

tường treo rất nhiều thanh kiếm dài, nhìn những hoa văn tinh xảo trên bao

kiếm là biết đó toàn là kiếm quý. Một tủ sách nho nhỏ, tôi lướt qua và nhận

thấy hều hết đều là sách kinh Phật. Sách tiếng Tochari thì đều là sách về binh

pháp và chiến tranh. Chỉ có vài cuốn sách tiếng Hán, "Binh pháp Tôn tử". "Hàn

Phi Tử", "Chiến quốc sách"…

Đang mải mê ngắm căn phòng của Pusyseda. Chợt thấy cậu ta thận trọng

lôi từ trong ngăn tủ ra vật gì đó rất giống một khung ảnh, rồi nhẹ nhàng cởi

lớp vải lụa bọc bên ngoài.Tôi há hốc miệng, đó là bức họa Doremon mà tôi

tặng cho cậu nhóc nhân dịp năm mới! Không ngờ, cậu ta vẫn giữ gìn nó như

giữ một báu vật vậy!

Tôi ngẩng đầu lên nhìn Pusyseda, xúc động:

- Pusyseda …!

- Đừng sụt sịt vội, vẫn còn nữa đó.

Cậu ta rút một cuốn sách bên dưới gối, đặt vào lòng tôi, đó là cuốn "Kinh

thi", mép sách nhàu nhì, chắc chắn đã được chủ nhân lật mở rất nhiều lần.

- Chị có thể chọn một trang bất kì để kiểm tra.

Tôi không cần mở sách, suy nghĩ trong giây lát:

- Thiên "kích cổ" (Gióng trống) trong phần "Bội Phong - Quốc Phong", cậu

thuộc chứ?

Pusyseda nhếch mép cười, hai tay chắp sau lưng, bước vài bước, quay quay

đầu, cất giọng trầm bổng, ngâm ngợi:

Trống đánh thùy thuỳnh

Gươm giáo tập tành

Những ai đắp đất xây thành

Xa nhà xa nước riêng mình sang nam

Tử sinh cách trở đôi nơi

Cùng em anh đã nặng lời từ xưa

Đôi ta những nguyện cùng giá,

Cầm tay thủa ấy, bây giờ chưa quên

Cùng nhau thôi đã cách xa,

Sống đâu còn đến thân ta hỡi mình,

Thề xưa còn đó rành rành,

Nay thôi anh đã phụ tình cùng em[18]

Đây là bài thơ tôi thích nhất trong "Kinh Thi". Khi giảng bài cho Pusyseda,

tôi dùng tiếng Tochari, không giống khi lên lớp bằng tiếng Hán cho Rajiva.

Nghe cậu ta phát âm tiếng Hán trọ trẹ, tôi muốn bật cười, nhưng không hiểu

sao sống mũi cay cay, chừng như muốn khóc.

- Còn nhớ không, chị từng nói, nếu tôi đọc thuộc "Kinh thi" thì chị sẽ trở lại?

Tôi gật đầu. Thật không ngờ, những lời buột miệng ra khi ấy, Pusyseda đều

cho là thật.

- Năm đầu tiên, tôi đọc thuộc toàn bộ cuốn "Kinh thi", nhưng chị không

quay lại. Tôi nghĩ rằng tại mình chưa đọc tốt, nên năm thứ hai, tôi đọc thuộc

lại một lần nữa, nhưng chị vẫn bặt vô âm tín. Mỗi năm vào đúng ngày mùng

mười tháng Một âm lịch, tôi đều đến phòng chị và đọc hết một lượt cuốn 'Kinh

thi" này. Tôi đọc mười lần thì chị đã trở về…

- Pusyseda…

- Cảm động lắm phải không?

 Tôi gật đầu, nước mắt trực trào ra, tôi sắp không kìm chế được nữa rồi!

- Vậy, cho tôi ôm một cái!

Tên sói nham hiểm chuẩn bị lao vào cô bé quàng khăn đỏ, nhưng đã bị khổ

chủ cho một cái bạt tai. Những giọt nước mắt khi nãy trực trào ra đã được

nuốt ngược trở lại vào trong bụng.

Hôm đó, tôi đã đến thăm Kumarayana. Mười năm qua đi, hai người con trai

của ông đã trưởng thành và đang tận hưởng những năm tháng tươi đẹp nhất

của đời người, còn với ông, mười năm thời gian giống như lưỡi dao vô hình cắt

từng vết hằn học trên thân thể ông. Khuôn mặt vốn đã gầy guộc, khổ hạnh,

nay càng thêm hốc hác, xanh xao, tóc ông bạc trắng, hình như năm nay ông

mới ngoài năm mươi tuổi. Nhưng ông có vẻ rất yếu, những tiếng ho khan bật

lên liên hồi. Nhưng đôi mắt màu xám nhạt khảm giữa hai hốc mắt như hai vực

sâu hun hút ấy, đôi mắt sáng rực vẻ thông tuệ và từng trải ấy như nhìn thấu

tâm cam con người. Tôi bỗng run rẩy, đôi mắt Rajiva rất giống mắt cha.

Bộ dạng bông đùa, cười cợt thường ngày của Pusyseda biến mất, cậu tỏ ra

rất mực cung kính đối với cha, chuyện trò từ tốn với ông rất lâu bằng tiếng

Phạn. Kumarayana không ngừng đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía tôi,

khiến tôi không khỏi lo lắng, Nhưng sau đó, ông không hề tỏ ra thắc mắc về lai

lịch kỳ lạ của tôi. Ông chỉ nhẹ nhàng bảo tôi hãy yên tâm ở lại và rằng người

của phủ quốc sư sẽ đối đãi với tôi như một vị khách quý. Tôi đã đoán đúng,

một người thông tuệ như Kumarayana, dù ông không thể biết rõ thân phận

thật sự của tôi, nhưng ông sẽ không xem tôi như yêu ma quỷ quái để rồi trói

tôi lại và đem thiêu sống. Có lẽ vì thế, ông mới sinh ra hai người con trai xuất

sắc như vậy và cả hai đều yêu kính ông như vậy!

Đêm đó, tôi đã được ngủ một giấc say sưa trong căn phòng mà trước kia tôi

từng gắn bó suốt ba tháng trời. Tôi băn khoăn tự hỏi, không biết Rajiva sẽ

nghĩ gì nếu biết tôi đã quay về phủ quốc sư. Không biết giờ này cậu ấy đang

làm gì? Và, không biết cậu ấy có nhớ tôi không?

Chương 24: Rong chơi

Mở mắt đã thấy bên giường có bóng người. Tôi thót tim, sau đó thì giận sôi

người. Lại là tên ranh ấy! Hồi nhỏ chưa hiểu chuyện làm tôi hết hồn bao phen,

tôi có thể bỏ qua, nhưng bây giờ đã là người lớn rồi, mà sao không hiểu thế

nào là "nam nữ thụ thụ bất thân"?

- Chị ngủ giỏi thật đấy, tôi ngồi nhìn chị từ suốt từ nãy đến giờ mà chị

không hay biết!

Tôi giận dữ thu người vào trong chăn. Lúc này, tôi chỉ mặc một chiếc váy

ngủ mỏng, không biết khi nãy, chân thò ra ngoài có bị hắn nhìn thấy không?

- Không phải giấu, có gì đáng xem đâu!

Tôi phi chiếc gối vào người hắn, nhưng tên ranh đã nhanh nhẹn né được.

Hắn cười vang, mon men lại gần giường tôi:

- Mau dậy đi, lễ hội Sumuzhe hôm nay có nhiều trò hay lắm!

- Cậu ra ngoài đi để tôi thay quần áo!

 Pusyseda không cợt nhả nữa, ngoan ngoãn bước ra ngoài. Nhưng vừa ra

khỏi cửa, hắn đã lại thò chân vào, nháy mắt với tôi:

- Chị mặc chiếc váy ấy cũng đẹp mà, nhưng tiếc là chỉ được mặc trong

phòng cho tôi ngắm thôi.

Tôi nổi đóa, lùng sục khắp phòng tìm vũ khí, nhưng chưa tìm ra thì hắn đã

cười ha hả chạy biến tận đâu rồi.

Người qua lại trên phố đông như mắc cửi, Pusyseda che chắn cho tôi, để

không bị chen lấn. Nhưng tôi không thích kiểu bảo vệ ấy. Cậu ta cứ ôm chặt

lấy tôi dìu đi, ai nhìn thấy cũng tưởng chúng tôi là một cặp tình nhân. Mà cậu

ta, hình như được rất nhiều người quý mến, ai gặp cũng tươi cười chào hỏi.

Đàn ông liếc thấy bàn tay như gọng kìm của cậu ta đang bám chặt lấy vai tôi

thì cười nham hiểm. Còn phụ nữ thì phức tạp hơn nhiều, phần lớn là những

ánh mắt hình mũi tên, khiến tôi lạnh cả người. Nhưng tên ranh ấy hình như

không thèm quan tâm, bộ dạng bất cần của hắn thật đáng giận!

Tôi cố sức vùng vẫy khỏi “vuốt sắc” của hắn, nhưng càng vùng vẫy hắn

càng xiết chặt.

- Đừng ồn, đội múa sư tử sắp bắt đầu rồi đấy.

Các tay trống Hạt đồng loạt gióng trống, khí thế hào hùng. Năm chú sư tử

đủ các màu: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, từ năm hướng tiến vào khu vực trung

tâm. Mỗi chú sư tử được điều khiển bởi mười hai nghệ sĩ, đầu đội đai đỏ, có

hai người đi trước phe phẩy cây phất trần màu đỏ, biểu diễn những động tác

hài hước gây cười. Bên cạnh đội sư tử là dàn hợp xướng gồm hơn một trăm

người, họ hát vang những bài ca ca ngợi đức vua Khâu Từ, âm thanh tiếng

trống tiếng nhạc tiếng hát ngân vang, bay cao lên chín tầng mây. Sư tử là loài

vật linh được hoàng tộc Khâu Từ sùng bái, đức vua Khâu Từ thường tự xưng

là vua Sư Tử. Người Khâu Từ còn sáng tạo ra câu chuyện một vị vua dũng

mãnh của họ hàng phục được loài sư tử. Điệu múa sư tử đã ra đời dựa trên

câu chuyện ấy. Sau khi chiếm được Khâu Từ, Lư Quang đã đưa Kumarajiva

cùng  hàng  vạn  nghệ  sĩ,  nghệ  nhân  của  Khâu  Từ  đến  Lương  Châu  (nay  là

huyện Vũ Uy, Cam Túc), kể từ đó, múa sư tử gia nhập vào đời sống văn hóa

của  người  Hán,  được  cải  biên  trở  thành  điệu  "múa  sư  tử  năm  hướng"  lưu

truyền rộng rãi ở Trung Nguyên cho đến tận ngày nay.

Phía trước quảng trường là một dãy lán trại được trang hoàng lộng lẫy, đức

vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc ngồi bên trong. Tôi hỏi Pusyseda:

- Sao cậu không đến ngồi cùng họ?

- Đi theo mấy ông bà già ấy có gì hay ho chứ! Tôi thích đi chơi với chị hơn.

Tiếng ồn ào khiến tôi không nghe rõ cậu ta nói gì. Pusyseda ghé sát vào tai

tôi, gào to:

- Nhìn bộ dạng lúc cáu giận và điệu cười ngớ ngẩn của chị rất là thích thú!

Tên ranh hỗn hào! Tôi điên tiết hất tay hắn ra, nhưng chỉ một lát sau hắn

lại sáp đến, mặc tôi gườm gườm nhìn hắn đe dọa, hắn chẳng biết sợ là gì,

cũng chẳng để tâm sự tức giận của tôi. mặt hắn vẫn nhăn nhở cười đùa, cợt

nhả. Hắn thích chọc tôi thế ư?

Một ngày trôi qua rất nhanh với các tiết mục biểu diễn, với các món ăn vặt

của Khâu Từ, với việc cãi lộn, cáu gắt với Pusyseda. Buổi tối, tôi thận trọng cài

then cửa chính lẫn cửa sổ, đề phòng trộm cắp và đề phòng Pusyseda. Sáng

hôm sau khi thức dậy, không phải giật thót tim vì Pusyseda nữa, nhưng cái giá

phải trả là toàn thân ngứa ngáy vì một đêm nóng bức, ngột ngạt. Lúc mở cửa,

đã thấy cậu ta đứng tựa lưng ở bên ngoài, điệu bộ cợt nhả, đẩy về phía tôi

một chiếc lọ nhỏ. Tôi tò mò đón lấy, hỏi là thứ gì. Tên ranh thản nhiên nói đó

là hộp phấn rôm, hắn còn lên giọng tuyên bố, giáo huấn một hồi, rằng mùa hè

nóng nực, trong phòng phải mở cửa cho thoáng gió, thoáng khí. Tôi tiện tay

vơ lấy cây chổi dựng ở góc nhà, đuổi theo hắn chạy vòng vòng khắp phủ quốc

sư, miệng không ngừng gào to phải trị tội hắn.

Tất nhiên là tôi không đuổi kịp hắn, hồi hắn mười tuổi tôi đã không phải là

đối thủ của hắn rồi. Mới chạy được vài vòng tôi đã thở dốc, phủ phục xuống

đất, hai tay giơ cao cán chổi, giọng nói thều thào:

- Tôi xin hàng, xin đại tướng quân tha mạng!

Vừa dứt lời tôi cảm thấy bất an, sao tôi có thể thốt ra những lời mà hồi bé

Pusyseda nài ép tôi đóng kịch cùng nhỉ? Đã thành phản xạ có điều kiện rồi,

thành phản xạ có điều kiện rồi! Pusyseda ôm bụng cười nghiêng ngả giữa sân.

Người trong phủ đi qua đi lại, nhìn chúng tôi với vẻ mặt ngạc nhiên khó hiểu.

Tôi thấy mình không còn chút thể diện nào…

Ngày thứ ba của kễ hội Sumuzhe, vẫn rộn ràng những màn biểu diễn múa

hát. Nghệ nhân từ khắp các quốc gia Tây vực đều tập trung về Khâu Từ, ngày

nào cũng nhộn nhịp tưng bừng, ngày nào cũng hân hoan, náo nức. Pusyseda

rất ham vui, hễ thấy chỗ nào đông người là kéo bằng được tôi đến đó. Lúc

này, chúng tôi đang đứng ở một góc quảng trường lớn, sân khấu đã được

dựng lên ở khu vực trung tâm, giữa khán đài có một trụ sắt khổng lồ, phía trên

là đài hoa sen. Khi ba tiếng trống vang lên dồn dập, đài sen mở ra, một cô gái

xuất hiện, cô gái đeo khăn che mặt bằng chất liệu voan mỏng, mặc một chiếc

váy dài, tay rộng màu mận chín, trên mình đeo những chiếc chuông nhỏ được

gắn vào những dải lụa mềm mại, chân đi một đôi giày vải màu đỏ rất xinh xắn.

Âm nhạc nổi lên, cô gái bắt đầu nhảy múa, tiếng chuông lanh canh, réo rắt,

vui tai vang lên theo mỗi chuyển động của cơ thể cô gái.

- Đây là điệu múa Chaj[19]

Pusyseda ghé vào tai tôi thì thầm:

- Lát nữa đừng xấu hổ đấy nhé!

Hơi thở của cậu ấy khiến vành tai tôi ngứa ngáy, tôi nghiêng đầu né tránh.

Cứ nói chuyện bình thường, việc gì phải ghé sát như vậy chứ!

Tiếng trống ngày càng rộn rã, dồn dập. Toàn thân cô gái rung lắc, uốn lượn

mềm mại như dải lụa. Rồi tiếng trống đột ngột dừng lại, cô gái kéo chiếc áo

choàng rộng thùng thình ra khỏi người và tung lên đài sen. Giờ thì người cô

gái chỉ còn lớp áo voan mỏng màu mận chín bó sát người, một chiếc áo khoác

ngắn tay và một chiếc váy dài thướt tha cùng màu. Tiếng trống tiếp tục vang

lên với tốc độ ngày một nhanh hơn, chiếc váy tung bay lả lướt, chuyển động

của cô gái uyển chuyển, thanh toát tựa như một nàng tiên. Tiếng trống lại

dừng đột ngột, cô gái trút bỏ chiếc áo ngắn bên ngoài, để lộ cánh tay trần và

thân hình quyến rũ sau lớp vải voan mỏng. Đám đông hò reo không ngớt, ai

nấy đều phấn khích rạng rỡ, tôi cũng không ngoại lệ. Tiếng trống tiếp tục dội

lên, cô gái bắt đầu xoay người, cơ thể chuyển thanh toát, sức hấp dẫn ngày

một đẩy lên cao qua mỗi điệu bộ lơi lả. Bàn tay nhẹ nhàng giật tung chiếc váy

dài thướt tha, để lộ chiếc quần thắt ống màu hồng phấn xinh xắn. Rồi sau đó,

thắt lưng cùng chiếc áo voan mỏng bó sát đều được trút bỏ hết, trên mình cô

gái chỉ còn lại chiếc áo ngực (giống kiểu áo Bra thời hiện đại) và chiếc quần

thắt ống (Kiểu quần Alibaba, với rất nhiều tư thế khêu gợi, quyến rũ khiến

người xem phải nín thở.

- Trời đất ơi, đây rõ ràng là điệu múa thoát y mà!

Hai mắt tôi được dịp co giãn hết cỡ, cổ họng cũng được hoạt động liên tục

với việc điều tiết nước bọt. Không thể tin được, 1650 năm về trước, tư tưởng

của người Tây vực đã hiện đại đến mức này rồi ư? Ở thế kỷ XXI, muốn xem

thoát y vũ với nhiều cấp độ khác nhau, bạn phải tìm đến quán bar hay các vũ

trường, làm gì có chuyện được phép biểu diễn công khai ở giữa chốn đông

người như thế này?

Có ai đó vừa quệt tay rất mạnh lên mũi tôi.

- Lạ thật, tôi cứ nghĩ con gái Trung Nguyên xem màn biểu diễn phải xấu hổ,

thẹn thùng chứ nhỉ, nào ngờ, chị còn phấn khích hơn cả tôi!

Tôi che kín chiếc mũi tội nghiệp của mình. So với người Khâu Từ, sống mũi

tôi vốn đã không được thẳng rồi, giờ lại bị tên đáng ghét kia làm cho lệch hơn

nữa.

- Chị hứng thứ như vậy, hay là...

Tên háo sắc sáp lại gần tôi.

- Tối nay về phủ chị biểu diễn cho tôi xem nhé.

Mũi hắn nhận được cú đấm trả hận đích đáng.

Hắn ôm lấy mũi, mặt nhăn nhó kêu đau, nhưng vẫn cố vớt vát thêm một

câu:

- Thôi, thôi, chị cởi ra cũng chẳng có gì hay ho xem đâu…

Có vẻ như hắn muốn sống mũi của mình không bao giờ đứng thẳng lên

được!

Buổi sáng, vừa tỉnh dậy đã lại thấy đôi mắt màu xám nhạt đang chăm chú

quan sát tôi ở một khoảng cách gần đến choáng váng, khiến tôi thót tim, tôi sẽ

sớm mắc bệnh đau tim vì hắn mất, Tôi tự trấn an bản thân, rồi sẽ quen, rồi sẽ

quen. Biện pháp đối phó lần này của tôi là không thay váy ngủ, tôi lên giường

và mặc nguyên bộ quần áo lúc đi chơi. Thế nên tôi tự tin mở toang cửa sổ và

ngủ ngon lành cho tới sáng.

Vẻ thất vọng lộ rõ trên gương mặt Pusyseda:

- Cái váy hôm trước đâu rồi, sao chị không mặc?

Rõ là đồ háo sắc! Tôi tươi cười đắc ý:

- Cậu bảo chẳng có gì hay ho để nhìn kia mà!

- Thì đúng là như thế!

Hắn gật gù nghĩ ngợi:

- Ngải Tình, chị phải chịu khó ăn nhiều thịt vào.

- Để làm gì?

- Thế thì cái chỗ này mới to lên được.

- Chị gầy quá chạm vào chỗ đó sẽ chẳng mang lại cảm giác gì cả.

Tôi không chịu nổi nữa! Ai có thể giúp tôi tiêu diệt tên háo sắc này không?

Lại một ngày rong chơi trên phố. Tôi hầu như quên bẵng công việc, ngày

ngày chỉ biết vui chơi và ngủ nghỉ. Pusyseda là một bạn chơi rất tuyệt, vì cậu

ta luôn nghĩ ra những trò vui mới. Mỗi ngày cậu ta đưa tôi đến một nơi để

thưởng thức những món ăn khác nhau, món ăn Ấn Độ, món ăn Trung Á, món

ăn Ba Tư, món ăn Trung Quốc, từ các món sơn hào hải vị đến các món ăn vặt

đủ hương vị đặc sắc khác nhau. Vòng eo của tôi đã phình ra đáng kể. Bảy

ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe ấy, tôi đã được vui chơi thỏa thích nhiều hơn bất

cứ dịp Quốc tế lao động hay Quốc khánh nào ở thế kỷ XXI. Những màn biểu

diễn nghệ thuật trên đường phố đều rất đặc sắc, là nguồn tài liệu thực tiễn vô

cùng quý giá, tính chất đại chúng của các loại hình biểu diễn đó cũng thật

đáng ngưỡng mộ. Mỗi khi âm nhạc vang lên, tất cả mọi người, không phân

biệt giới tính, tuổi tác đều cùng nhau nhảy múa ca hát.

Ngày thứ tư của lễ hội Sumuzhe, tôi được tận mắt chiêm ngưỡng điệu múa

tròn xoay (Hồ hoàn vũ) của người Hồ mà tôi hâm mộ từ lâu. Điệu múa này có

nguồn gốc từ quốc gia Kangqu ở Trung Á [20], sau khi du nhập vào Trung

Nguyên, nó đã trở lên thịnh thành.

Thời nhà Đường đã có rất nhiều thi nhân chấp bút họa thơ về đề tài này.

Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến bài thơ của Bạch Cư Di: "Cô gái Hồ múa

điệu xoay tròn, tâm hồn hòa vào tiếng đàn, cánh tay đưa theo nhịp trống". Có

tài liệu còn ghi chép rằng, Dương Quý Phi múa điệu Hồ hoàn vũ này rất điêu

luyện, đến mức Bạch Cư Di từng phê phán "người đẹp": "Quý phi mê hoặc

quân vương bằng điệu múa xoay tròn".

Giờ đây, được tận mắt chiêm ngưỡng, quả thật là rất đẹp! Đây là điệu múa

tập thể. Hơn mười cô gái thân hình mềm mại, dáng điệu thướt ta, với những

động tác xoay người rất điệu nghệ, thanh toát. Các nhà thơ miêu tả họ "nhanh

như sao băng", "rực rỡ như mặt trời" không quá lời chút nào! Hồi đi Ai Cập, tôi

từng được xem người dân bản địa múa điệu Sufi, cũng là động tác xoay liên

tục không nghỉ ngơi, nhưng do nam giới biểu diễn. Các nghệ sĩ cũng khoác lên

mình những chiếc váy dài sặc sỡ, khi họ xoay tròn, sắc màu trên chiếc váy biến

đổi kỳ ảo, tôi vừa ngưỡng mộ lại vừa lo lắng, không biết họ có chóng mặt hay

không.

Buổi tối, tôi dỗ giấc ngủ bằng nỗi nhớ Rajiva, bằng những kỉ niệm ngọt

ngào giữa chúng tôi. Những điều nhỏ nhặt nhất liên quan đến cậu ấy cũng có

thể khiến tôi ngơ ngẩn hồi lâu. Mấy ngày qua tôi đã được vui chơi hết mình, tôi

chưa bao giờ vui chơi thảo sức như thế, lại trong nhiều ngày liên tục như thế.

Giá như có Rajiva bên cạnh… Thôi, không nghĩ đến nữa. Cậu ấy chẳng thể

ngồi  xổm  bên  đường  gặm  thịt  xiên  với  tôi  như  Pusyseda  được.  Nhắc  đến

Pusyseda mới nhớ, ngày mai nhất định phải nói với cậu ta, không nên mới

sáng sớm tinh mơ đã chạy đến phòng tôi như thế!

Chương 25: Lãng tử

- Sao hôm nào mới sáng sớm tinh mơ đã chạy đến phòng tôi như thế này?

Tôi trùm chăn, than vắn thở dài.

- Thì đã sao. Ngày xưa tôi vẫn thường xuyên như thế mà. Chị quên tôi đã

từng ngủ cùng chị à?

Tức chết mất!

- Khi ấy cậu mới mười tuổi.

Hồi bé quấn lấy tôi, tôi không trách, nhưng bây giờ đã là người lớn rồi, cứ

quẩn quanh bên tôi thế này, ngày sau kết hôn, làm sao vợ cậu ta có thể chấp

nhận được!

- Cậu có biết là cậu đã trưởng thành rồi không?

Pusyseda gật đầu, đôi mắt mở to chớp chớp, long lanh, tỏ vẻ vô tội. Lại cái

chiêu cũ rích hồi nhỏ vẫn thường dùng để lấy lòng tôi đây mà!

- Nam nữ phải giữ khoảng cách chứ, cậu em!

Tôi ôm đầu, chỉ muốn lao vào bức tường kia cho xong!

Bỗng nhiên, tôi bị kéo vào một vòng tay rất chặt và mạnh mẽ, một giộng nói

xúc động thoảng qua trên đầu:

- Ngải Tình, xin đừng như lúc trước, tỉnh dậy không thấy bóng dáng chị đâu

cả, báo hại tôi lang thang tìm kiếm khắp nơi…

Tôi thật sự cảm động, những chiếc lông nhím chưa kịp xù lên đã mềm nhũn

ra. Thì ra, mỗi sáng cậu ta chạy đến phòng tôi là để chắc chắn rằng tôi vẫn ở

đây. Nhớ năm đó cậu ta mới mười tuổi, vậy mà phải chứng kiến cảnh người

thật, việc thật biến mất vào khoảng không chỉ trong nháy mắt, hệt như diễn

kịch vậy. Một người trưởng thành và tâm lý vững vàng, nếu phải chứng kiến

cảnh đó, có lẽ cũng không thể chịu nổi, đừng nói là một cậu nhóc. Không biết

khi ấy Pusyseda đã hụt hẫng và hoảng sợ nhường nào! Chỉ e, suốt đời, cậu ta

cũng không thể xóa được ám ảnh tâm lý này. Tất cả là lỗi ở tôi…

- Xin lỗi Pusyseda…

Thực ra, lần này tôi sẽ lại biến mất, nhưng tôi đã hứa với lòng mình, không

để Pusyseda phải chứng kiến cảnh tượng đó thêm một lần nào nưa. Thời đại

này, kiếm đâu ra bác sĩ tâm lý để điều trị cho cậu ta?

- Ngải Tình, tôi có phải là người đàn ông đầu tiên mà chị ngủ cùng không?

Trời đất ơi! Tên trăng hoa này mà gặp trở ngại về tâm lý ư? Tôi gào lên

thảm thiết. Ai giúp tôi xé xác hắn ra với!

Tâm điểm của lễ hội Sumuzhe trong ngày thứ năm này là vũ điệu "Hồ đằng"

(điệu múa bay lên). Điệu múa này do nam giới biểu diễn và chú trọng đến các

kỹ thuật: bay cao, trụ vững, sải dài, đá chân quay vòng, xoay tay chống eo,

thu cằm nhún vai. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tương đồng giữa vũ

điệu này với các điệu múa của người Uyghur thời hiện đại. Tiếng nhạc hào

hùng sôi nổi, xúc cảm dâng chào cuồng nhiệt, hơn mười chàng trai vừa hô

vang, vừa bay nhảy, reo hò cỗ vũ không nghỉ ngơi.

- Ngải Tình, chị thích điệu múa này lắm hả?

Pusyseda ghé tai hỏi lớn, tôi chẳng thèm suy nghĩ, gật đầu lấy lệ, ánh mắt

không rời khỏi các nghệ sĩ đẹp trai ngời ngời đang biểu diễn trên sân khấu.

Pusyseda tháo mặt nạ đặt vào tay tôi, chạy biến. Chưa kịp hỏi xem cậu ta đi

đâu thì đã thấy lãng tử rẽ đám đông, lao vào giữa đội múa. Tôi há hốc miệng

khi thấy Pusyseda nhanh chóng hòa nhập với đội múa và thực hiện những

động tác bay nhảy như một diễn viên chuyên nghiệp. Pusyseda nổi bật giữa

sân khấu, không chỉ bởi chiều cao một mét tám mươi lăm và thân hình hoàn

hảo, mà còn bởi khuôn mặt điển trai, quyến rũ. Cậu ta vừa bước lên sân khấu,

tiếng reo hò cổ động của các khán giả nữ đã vang lên áp đảo.

Pusyseda gập người làm tư thế ngồi, nhưng nhanh như cắt, bước chân biến

chuyển  tựa  như  chim  bay,  các  động  tác  di  chuyển  vị  trí,  dứt  khoát,  nhịp

nhàng, mềm mại, vừa thể hiện được sức mạnh, vừa thể hiện được khéo léo.

Những bước nhảy điêu luyện của Pusyseda khiến tôi, lần đầu tiên cảm nhận

được một kiểu hấp dẫn khác của nam giới, tôi gào thét cổ vũ cùng các cô gái

dưới khán đài. Nhưng như thế hình như vẫn chưa sảng khoái, tôi tháo mặt nạ,

chụm tay quanh miệng làm thành hình cái loa, hướng về Pusyseda gào to:

- Pusyseda, cậu khá lắm, tôi yêu cậu!

Nghe thấy tiếng kêu của tôi, cậu ta nháy mắt truyền tín hiệu, nhếch môi

cười đắc ý, điệu bộ ấy có thể hớp hồn bất cứ cô gái nào!

Âm nhạc càng lúc càng sôi động. Động tác nhảy của Pusyseda càng lúc

càng nhanh thoăn thoắt, tiếng reo hò cổ vũ của khán giả càng lúc càng bùng

nổ, mọi người vỗ tay theo nhịp trống. Rồi âm nhạc đột ngột tắt lịm, Pusyseda

đột ngột lộn một vòng rất cao trên không, khi tiếp đất, đầu gối ở tư thế quỳ

xuống sàn diễn, vẽ một đường trượt dài về phía tôi. Lúc dừng lại trước mặt tôi,

cậu ta làm động tác dang rộng hai tay, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, nụ cười rạng

rỡ, hấp dẫn không bút nào tả xiết. Tôi cảm nhận rất rõ những ánh mắt hình

mũi tên đang chĩa về phía mình, vội vàng đưa tay kéo cậu ta dậy.

Pusyseda mồ hôi nhễ nhại, một vài lọn tóc xoăn màu nâu dính trên trán,

quần áo cũng đầm đìa. Phản xạ đầu tiên của tôi là đút tay vào túi, nhưng

chẳng có cái khăn nào cả. Không biết đã bao nhiêu năm rồi tôi không mang

theo khăn mùi xoa bên người, vì đã quen dùng khăn ướt, mặc dù tôi biết dùng

khăn ướt không vệ sinh chút nào…

Thấy tôi tiu nghỉu rút đôi tay trống không từ trong túi áo ra, Pusyseda cười

nói: không sao, rồi kéo vạt áo của tôi lên lau mồ hôi. Tôi sững sờ, cậu ta thật

tự nhiên vô đối…

Nhìn chiếc áo nhàu nhì, ướt mèm, tôi chỉ muốn khóc. Toàn mồ hôi là mồ

hôi, mà hình như có mùi rất là khó chịu. Tôi bực mình càu nhàu:

- Này, cậu làm thế, tôi mặc làm sao được nữa? Cậu… cậu… cậu thật là quá

đáng

- Sao thế? Tiếc gì cái áo ấy, tôi thấy vui là được!

Lòng bàn tay cậu ta nhớp nháp mồ hôi, hỏng rồi, tay tôi cũng không sạch

nữa!

- Đi mua quần áo.

Pusyseda quay đầu nhìn tôi, vẻ bực dọc.

- Chị tiếc làm gì bộ quần áo cũ rích ấy, chị khoác thứ đó lên người cùng tôi

ra phố làm mất mặt tôi quá!

- Pusyseda!

Chúng tôi giật mình dừng bước, nhìn lên. Một cô gái làm da trắng trẻo mịn

màng đang dừng trước mặt chúng tôi, vẻ mặt giận dữ cuồng nộ. Pusyseda

nghiêng mắt nhìn cô gái, điệu bộ thách thức. Đây rõ ràng là một màn kịch tình

yêu, nhưng tôi không phải là vai chính, tôi phải rút lui thôi.

Tôi lẳng lặng bứt ra khỏi bàn tay rặt mồ hôi của Pusyseda, định bụng ẩn

thân vào một góc khuất ở con phố bên cạnh.

Nhưng được nửa bước đã bị kéo trở lại. Nguy quá, hắn quàng tay lên cổ tôi.

Tôi rùng mình, mùi mồ hôi nồng nặc..

- Pusyseda, anh.. sao anh làm vậy?

Cô gái đó chừng sắp khóc, ánh mắt nhìn tôi đằng đằng sát khí.

- Cô nhìn thấy cả rồi đấy.

 Pusyseda quàng vai tôi, áp sát đầu vào cổ tôi. Chú em ơi, cậu không thích

người ta thì cũng đừng nên lấy tôi làm lá chắn cho cậu chứ. Huống hồ người

chú em đầm đìa mồ hôi thế này…

- Nhưng anh nói là…

- Nói gì? Tôi đã hứa hẹn gì với cô? Cô tự mình dấn thân đấy chứ?

- Cô gái ơi, cô hiểu nhầm rồi…

- Tôi và cậu ấy không phải như cô nghĩ đâu..

"Chụt!"- một tiếng động lạ, rõ ràng, dứt khoát phát ra trên má trái của tôi.

Thê thảm quá, hết tay chân, quần áo, đến cả mặt cũng bị vấy bẩn rồi!

Cô gái giận dữ giậm chân, nước mắt như mưa gió, chạy đi như bay. Tôi thở

dài. Chỉ một chú sơ ý, tôi đã trở thành vai chính của vở kịch này.

- Pusyseda, sao lại đối xử với người yêu mến cậu như thế?

- Bọn họ cứ bám riết lấy tôi đấy chứ. Đôi bên vui vẻ một chút thì không sao,

nhưng đằng này, chỉ vài ngày sau là họ lại đòi tương lai này nọ.

Đúng là đồ lăng nhăng! Chả trách anh trai cậu ta từng trách: Suốt ngày

trêu hoa ghẹo nguyệt. Nghĩ đến Rajiva, trong lòng chợt thấy ấm áp lạ thường.

Rajiva  chắc  chắn  không  bao  giờ  như  vậy.  Tuy  rằng  mười  năm  sau…  Thôi,

không nghĩ đến nữa! Kể từ giây phút quyết định sẽ yêu Rajiva theo cách riêng

của mình, tôi đã quyết tâm không nghĩ đến chuyện sau này cậu ấy sẽ kết hôn

và sinh con. Tôi không muốn nghĩ xa xôi đến thế. Tôi chỉ cần được yêu Rajiva

trong hiện tại, thế là đủ…

- Pusyseda, lẽ nào cậu chưa từng yêu ai?

- Đúng vậy.

Câu trả lời mới dứt khoát làm sao!

Gặp lại Pusyseda sau mười năm, tôi nhận thấy cậu ta đã trở thành một lãng

tử đa tình, cả ngày lông bông rong chơi. Cậu ta trở nên ranh mãnh hơn, biết

chọc giận tôi, có lúc còn khiến tôi đỏ mặt vì xấu hổ. Lúc đầu, ngỡ rằng cậu ta

có ý gì với mình, tôi ra sức đề phòng. Nhưng qua vài ngày tiếp xúc, mới biết đó

là bản tính cợt nhả, bông lơi của cậu ta. Thực ra, Pusyseda chưa từng có hành

vi hay cử chỉ gì không phải với tôi, mặc dù đôi lúc vẫn bắt nạt tôi và những lời

lẽ trăng hoa của cậu ấy khiến tôi nổi giận. Ra phố, gặp những cô gái cậu ta

quen biết, thấy ai nấy đều niềm nở chào hỏi, những cô gái không quen thì

ngẩn ngơ ngó theo. Với bất kì cô gái nào cậu ta cũng liếc mắt đá lông nheo

trêu đùa, chọc ghẹo. Mở miệng là thốt những lời có cánh. Cậu ta giống hệt

một "người tình của đại chúng". Thế nên, tôi đã quen và không còn khó chịu

với những cử chỉ thân mật của cậu ta nữa. Đôi lúc, tôi càu nhàu, gắt gỏng,

nhưng đã dần chấp nhận con người mới của cậu ta, vì dù sao đó cũng là bản

tính trời sinh.

Nhưng tôi phải thừa nhận rằng, những lúc ở bên Pusyseda, tôi rất vui. Cậu

ta thông minh, lanh lợi, hoạt bát, lại hài hước, phóng khoáng, cậu ta nghĩ ra

rất nhiều thứ khiến tôi vui và còn đẹp trai nữa. Chả trách biết bao cô gái chết

mê chết mệt, bám theo cậu ta, chả trách những cô gái bị cậu ta bỏ rơi đều

đau khổ tuyệt vọng đến như thế. May mà tôi cứng cỏi, kiên cường, sức hấp

dẫn "chết người" của Rajiva, tôi còn có thể kháng cự trong một thời gian dài

nữa là! Và cũng mừng là trái tim rất nhỏ bé, Rajiva đã "chiếm giữ" toàn bộ rồi.

Nếu không có lẽ tôi cũng sẽ giống như người phụ nữ đáng thương kia, khóc

hết nước mắt khi phải chứng kiến Pusyseda thay người yêu như thay áo.

Buổi tối, tắm rửa xong xuôi, vừa bước đến cửa phòng đã thấy gã "lãng tử"

đang "nhàn cư vi bất thiện", vẽ vời lung tung trên cuốn tập của tôi. Thói xấu

này mười năm qua vẫn không thay đổi. Mấy cuốn tập tôi quên mang theo hồi

đó, chắc chắn đã bị cậu ta xé đi không ít

Vừa thấy tôi, gã lãng tử liền quẳng ngay chiếc bút xuống, vẻ mặt cau có:

- Chị tắm rửa gì mà lâu thế! Này mặc vào đi!

Pusyseda đẩy một chiếc váy mới ra trước mặt tôi, đó là một chiếc váy lụa

mềm, màu lục, trang nhã, thêu những bông lựu vàng tươi tăn, chất liệu vải

cao cấp, thủ công tinh xảo, chắc chắc người mua đã phải bỏ ra một khoản

khổng lồ. Tôi tấm tắc khen ngợi:

- Pusyseda, cậu đúng là cao thủ tình trường. Chiếc váy đẹp thế này, cô gái

nào đành lòng từ chối kia chứ!

- Đây là lần đầu tiên tôi tặng quà cho phụ nữ đấy. Xưa nay, đều là đám phụ

nữ ấy tặng quà cho tôi, họ tặng quà mà chưa chắc tôi đã nhận đâu.

Cậu ta rướn cằm, vênh mặt lên trời.

- Rốt cuộc là chị có nhận không hả, không thích thì để tôi trả lại

- Ấy, đừng đừng.

 Tôi vội vàng đón lấy

- Tôi cũng là phụ nữ, tôi không nỡ từ chối.

Khi còn ở thế kỷ XXI, vì thích đi du lịch, thích tìm hiểu, nghiên cứu mọi thứ,

nên trang phục thường xuyên của tôi là quần bò, áo phông, giày thể thao. Sếp

thường lắc đầu nhìn tôi bảo rằng tôi chẳng nữ tính chút nào. Trở về thời cổ

đại, lại càng không có nhu cầu thu hút sự chú ý của người khác, quần áo trên

người mặc lại càng giản tiện hơn. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng là phụ nữ,

phụ nữ thì ai cũng giống ai, ai cũng bị quần áo đẹp chinh phục.

- Thích không?

Tôi gật đầu, sung sướng ướm thử chiếc váy lên người. Giọng nói rủ rỉ của

Pusyseda bay trên đầu tôi:

- Chị định trả công tôi thế nào đây?

- Tôi giật mình

- Cậu muốn thế nào?

- Hay là, tối nay tôi ở lại đây nhé?

Lại là nụ cười quyến rũ và những cái liếc mắt đưa tình làm người khác ngộp

thở, lại là chiêu bài đong đưa mang thương hiệu ấy. Mặt tôi nóng bừng. Tôi

không quen nghe những lời tán tỉnh ve vãn ấy. Không đi là sao? Cậu ta muốn

gì chứ?

- Ha ha, tôi đùa thôi.

 Pusyseda cười giòn giã.

- Tôi chưa thèm khát đến mức ấy đâu.

Nhưng mà…

Cậu ta đột ngột ghé mặt sát tôi, ánh mắt phong tình gợi cảm, cố ý kéo dài

giọng:

- Ngải Tình, chị chưa từng có gì với đàn ông đúng không? Tôi mới nói thế

mà chị đã đỏ mặt rồi.

Mặt tôi lại càng đỏ lên dữ dội, tôi lừ mắt đe dọa tên ranh ấy.

- Việc gì đến cậu! Nếu có thì cũng không phải với cậu!

Cậu ta được dịp cười lăn lộn

- Chị hoàn toàn khác những cô gái mà tôi từng gặp.

Gã lãng tử không tiếp tục cười nữa.

- Tôi mà muốn ôm đám phụ nữ đó vào lòng, chắc họ phải run lên vì vui

sướng. Chị thì khác, mới đụng chạm một tí thôi mà chị đã tránh né, sợ sệt như

có ai sắp cắt da xẻ thịt của chị không bằng. Đám phụ nữ kia gặp tôi ba ngày

đã nài nỉ tôi lên giường với họ. Vậy mà chị, bao nhiêu ngày rồi vẫn dửng dưng

như không.

- Họ nài nỉ cậu ư?

Trời đất ơi, không ngờ 1650 năm về trước Khâu Từ đã hiện đại đến vậy,

quan hệ nam nữ có thể tùy tiện đến vậy! Nhưng nghĩ kỹ lại cũng không có gì

đáng ngạc nhiên cả. Điệu múa thoát y trên đường phố trong lễ hội Sumuzhe,

đến những bức họa bán khỏa thân và hoàn toàn khỏa thân trên vách đá ở

Kizil, tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nồng nhiệt của người dân nơi đây. Với

lối sống đó của họ, nữ giới chủ động theo đuổi nam giới chắc chắn không có gì

là lạ. Vả lại, Pusyseda hội tụ đủ những điều kiện để các cô gái phải chết mê

chết mệt

- Đúng vậy, tôi chưa bao giờ nài nỉ bất cứ cô gái nào. Nhưng điều đó không

có nghĩa là tôi tùy tiện. Muốn được lọt vào mắt cậu chủ Pusyseda không dễ

đâu nhé.

Cậu ta đổ người lên chiếc giường của tôi, hai tay gập lại làm gối, rung đùi

tự mãn, đúng là dáng vẻ điển hình của một tên trăng hoa.

- Nhưng phụ nữ người Hán các chị có vẻ thẹn thùng, e lệ rất nữ tính và

đáng yêu.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nói chuyện về vấn đề giới tính với một

người con trai vào lúc nửa đêm thế này. Tôi cảm thấy rất mất tự nhiên. Tôi là

phụ nữ thế kỷ XXI, lại hơn cậu ta ba tuổi, mà sao tôi không hề tự tin khi nói

chuyện với cậu ta nhỉ?

- Ngải Tình, chị là cô gái đầu tiên mà tôi chưa nỡ "ra tay" sau một thời gian

dài như vậy đấy.

Tôi không chịu nổi vấn đề nhạy cảm này nữa! Vì sao cậu ta cứ mở miệng là

thốt ra những lời lẽ đong đưa ong bướm như vậy? Còn tình yêu thì sao, tình

yêu xếp ở vị trí nào?

- Những cô gái lên giường với cậu, cậu có yêu họ không?

- Không hề! Tôi chỉ thấy vui thích thôi. Nhưng được vài ngày là họ đòi này

đòi nọ. Họ đòi tôi phải hứa hẹn, đòi tôi một lòng một dạ, đòi tôi kết hôn, họ

khiến tôi mệt mỏi và ngán ngẩm.

- Họ muốn cậu hứa hẹn bởi vì họ thật lòng yêu cậu.

Trái tim tôi như thắt lại khi nghĩ đến con người mà ngay cả lời yêu cũng

không dám thốt ra ấy.

Đàn ông và phụ nữ tình cờ gặp gỡ, nảy sinh tình cảm, giai đoạn đó người ta

gọi cuốn hút. Cuốn hút là sức hấp dẫn nhục dục, nó sẽ tan rất nhanh. Nhưng

yêu là thứ tình cảm chứa đựng cả rung động của tâm hồn và khát khao nhục

cảm. Khi người ta yêu, lý trí trở lên bất lực, mọi buồn vui, hạnh phúc và đau

khổ đều nảy sinh từ đó. Rồi người ta muốn được có nhau, muốn được hãnh

diện về nhau, đón nhận nhau, thương nhớ nhau, tha thứ cho nhau, hạnh phúc

vì nhau. Nhưng đó chưa phải là giới hạn cao nhất của tình yêu, giới hạn cao

nhất là sống bên nhau. Tình yêu cuồng nhiệt đến đâu rồi nước chảy hoa trôi,

cũng sẽ trở lên bình lặng. Hai con người nương tựa vào nhau, sống bên nhau

cho tới khi đầu bạc răng long, đó mới là sự gắn kết bền chặt, mãi mãi.

Tôi lặng ngắm bầu trời bên ngoài cửa sổ. Rajiva đang ở nơi cách tôi bốn

mươi dặm. Có phải cậu ấy cũng đang hướng lên bầu trời ngàn vì tinh tú kia

giống như tôi không?

- Từ tình cảm đến chân tình rồi trao nhau ân tình, đó mới là những cung

bậc trọn vẹn của tình yêu.

Tôi và Rajiva, sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để trao nhau ân tình. Tình cảm

của chúng tôi, rồi cũng hoang phế.

- Ngải Tình, chị yêu ai rồi phải không?

Tôi thót tim! Pusyseda đang ở rất gần tôi, đôi mắt sâu thẳm chiếu vào tôi

như muốn soi tâm tư. Ánh mắt ấy giống Rajiva đến kì lạ!

- Không, không, không phải.

Tôi vội vàng thanh minh. Tôi không thể để Pusyseda hay bất cứ ai trên đời

này biết được tình cảm của mình dành cho Rajiva.

- Tôi chỉ hơi xúc động thôi! Giá mà tôi có được tình yêu như thế thì tuyệt

biết bao…

Pusyseda xoay vai tôi lại, ngón tay nhè nhẹ nâng cằm tôi lên để khiến tôi đối

diện với đôi mắt thường khiến tôi gặp ảo giác ấy.

- Tử sinh cách trở đôi nơi

Cùng em anh đã nặng lời từ xưa

Đôi ta những nguyện cùng già,

Cầm tay thuở ấy, bây giờ chưa quên[21]

Ngải Tình, chị muốn có một tình yêu như vậy, đúng không?

Tôi chưa từng nghĩ về điều này. Tôi chưa bao giờ dám mơ đến một ngày

nào đó sẽ được bình thản nắm tay Rajiva, cùng nhau đi đến cuối chặng đường

đời. Mỗi người trong chúng tôi đang phải gánh trên vai rất nhiều trách nhiệm…

- Ngải Tình, hay chúng ta thử xem.

Khi làn môi gợi cảm của tên lãng tử chực đổ xuống, thì tôi đã kịp dùng

chiếc váy mới che trước mặt, sau đó đá hắn ra khỏi phòng.

Chương 26: Màn trình diễn của tôi

Mở mắt ra đã lại thấy Pusyseda ngồi cạnh giường. Tôi không thấy lạ, cũng

chẳng thèm để ý, mặc cậu ta gào thét thúc giục, ngủ nướng thêm một lúc

nữa, mới uể oải vươn vai chào bình minh. Tôi mặc chiếc váy được tặng hôm

qua, ra ngoài sân thấy Pusyseda khoác trên mình một chiếc áo ngắn chít eo

màu xanh lục. Dáng người rất chuẩn, nếu sống ở thời hiện đại mà không làm

người mẫu hay diễn viên thì quả là “phí của trời”. Có điều quần áo mà chúng

tôi mặc trên người rất giống trang phục của một cặp tình nhân. Pusyseda nhìn

thấy tôi, huýt sáo tán thưởng, sau đó đảo một vòng quanh tôi, gật gù tấm tắc.

Nhưng, tên ranh này lại phán một câu khiến tôi rất đỗi đau lòng:

- Sao chị không trang điểm? Đồ trang sức của chị đâu?

Tối qua, ngoài chiếc váy mới, Pusyseda còn tặng tôi cả một bộ đồ nghề

trang điểm. Nhưng tôi đã thu dọn và cất vào ba lô, dự định sẽ mang về thế kỉ

XXI làm hiện vật hỗ trợ cho việc nghiên cứu về cách thức làm đẹp của phụ nữ

thời cổ đại. Còn đồ trang sức ư, tôi chưa bao giờ dùng đến, nếu có, tôi cũng sẽ

cất đi để làm hiện vật nghiên cứu. Phụ nữ thời Hán trang trí mái tóc rất đơn

giản, quấn tóc gọn sau gáy, rồi dùng một chiếc trâm cài lên là xong. Ngày nào

tôi cũng ra phố với vẻ ngoài giản dị ấy, có sao đâu, hà cớ gì hôm nay lại bị một

gã phong lưu đẩy đến trước gương, ép tôi trang điểm? Điều đáng ngại là, tôi

không biết sử dụng “mỹ phẩm” của người cổ đại. Thế là gã phong lưu đành

phải ra tay.

Pusyseda thỏa sức bôi quệt trên mặt tôi, lòng đau như cắt, không biết hôm

nay da mặt tôi sẽ phải hấp thụ bao nhiêu chì đây?

Rất lâu sau, Pusyseda mới ngừng tay, tôi ngắm mình trong gương, ôm bụng

cười nghiêng ngả. Hai hàng lông mày của tôi giống hệt vai diễn bà mối trong

các bộ phim của Ngô Quân Như, vành môi tròn, rộng, đỏ chót, có thể khiến

bất cứ đứa trẻ nào hoảng sợ. Trời cao đất dày ơi, tạo hình kiểu này không khác

vai diễn Như Hoa trong phim hài của Châu Tinh Trì một chút nào! Tôi chạy như

bay đi rửa mặt, cầu trời đừng ai nhìn thấy bộ dạng của tôi!

Sau khi đã trở lại là chính mình, tôi hạ quyết tâm, nếu Pusyseda vẫn muốn

trang điểm cho tôi, hôm nay tôi sẽ không ra phố nữa, cho dù tôi đã háo hức

chờ đợi ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe biết nhường nào!

Pusyseda không o ép tôi nữa, gương mặt cậu xuất hiện dấu hiệu của sự xấu

hổ mà xưa nay tôi chưa từng thấy. Bây giờ đến lượt tôi đảo quanh cậu ta một

vòng, lẽ nào đây là khuôn mặt cợt nhả, phong lưu ngàn năm không đổi ư?

Trên phố hôm nay toàn là các nam thanh nữ tú, dập dìu tài tử giai nhân, họ

không đeo mặt nạ như mấy ngày trước, ai nấy trang điểm xinh đẹp như hoa

như ngọc, rất nhiều đôi mặc trang phục tình nhân, tay nắm tay tình tứ dạo

phố. Tôi hiểu rồi, ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe là ngày lễ tình nhân của

người Khâu Từ. Sau đó thì tôi nhận được rất nhiều ánh mắt ghen tị, tức tối khi

nhìn thấy trang phục của chúng tôi và cánh tay như gọng kìm của Pusyseda

trên vai tôi. Tôi cứ băn khoăn sao cậu ta lại tốt bụng đến thế, tặng váy áo cho

tôi, lại bắt tôi phải trang điểm thật đẹp, không ngờ đó là âm mưu đẩy tôi ra

làm lá chắn cho mình, hại tôi vô duyên vô cớ chịu tội với bao nhiêu cô nàng.

Tôi giận sôi người, ra sức vùng vẫy, nhưng kết quả vẫn như những lần trước,

không thoát được là không thoát được.

Các  cặp  đôi  đã  tập  trung  rất  đông  trước  một  sân  khấu  đặt  giữa  quảng

trường lớn, ai nấy đều háo hức chờ đợi. Tôi ngó nghiêng xung quanh, không

thấy các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp đâu cả. Lẽ nào hôm nay là ngày hội của

diễn viên quần chúng?

- Đây là một cuộc thi hát, từng đôi nam nữ sẽ lên trình diễn các bài tình ca,

ban giám khảo cho điểm dựa vào nội dung ca khúc, phong cách biểu diễn và

chất giọng. Đội chiến thắng sẽ được bình chọn là cặp đôi đẹp nhất Khâu Từ

năm nay. Chị nhìn kìa, đó là giải thưởng.

Tôi đưa mắt theo cánh tay Pusyseda, thấy hai chiếc hộp đặt trên một chiếc

bàn cao, bên trong hẳn là thứ gì đó quý giá lắm. Vì đứng cách xa nên tôi

không nhìn rõ giải thưởng.

Pusyseda thở dài thườn thượt:

- Ngải Tình à, bao nhiêu cô gái muốn hát cặp với tôi, nhưng vì chị mà tôi từ

chối tất cả, chị có biết, tôi muốn giành được giải thưởng đó từ lâu rồi không…

Cậu ta đưa ánh mắt thèm khát, rất tội nghiệp về phía chiếc bàn đặt giải

thưởng.

- Đi nào!

Tôi dắt tay Pusyseda bước về phía khán đài.

- Ngải Tình, đây là lần đầu tiên chị chủ động nắm tay tôi, tôi vui lắm, nhưng

chị có thể cho tôi biết, chị định làm gì không?

- Giúp cậu giành giải thưởng chứ làm gì?

Tôi nháy mắt, cười bí hiểm với Pusyseda.

- Xem như tặng quà cho cậu vì hôm qua cậu đã nhảy rất đẹp.

Sau khi đăng kí, chúng tôi đứng sang một bên, tôi hát cho cậu ta nghe lời

hát bằng tiếng Hán. Pusyseda cười ngặt nghẽo, nhưng đã bị tôi lườm đe dọa:

- Hãy tỏ ra nghiêm túc, đây là cuộc thi mà!

Pusyseda  thôi  cười,  chăm  chú  nghe  tôi  hát,  sau  đó  tự  dịch  sang  tiếng

Tochari. Tuy điệu hát giản đơn, nhưng Pusyseda đã dịch rất nhanh và rất khớp

nhạc. Chỉ nghe tôi hát thêm lần nữa, cậu ta đã chuyển ngữ thành một bài hát

bằng tiếng Tochari trọn vẹn. Tôi hết sức kinh ngạc, Pusyseda vốn rất thông

minh, có thể không bằng anh trai, nhưng IQ của cậu chắc chắn vượt xa người

bình thường. Nhưng vì thường ngày cậu ta hay cợt nhả, bông đùa, nên không

ai nhận ra trí tuệ của cậu thôi.

Diễn tập vài lần, kiểm tra thấy không có sai sót, chúng tôi hăm hở bước lên

sân khấu khi nghe thấy người dẫn chương trình gọi đến tên mình.

Chúng tôi đứng ở hai đầu khán đài, Pusyseda giả bộ đang dạo chơi trên

phố, bỗng nhìn thấy tôi, vẻ mặt ngỡ ngàng vui thích, đảo quanh tôi mấy vòng.

Tôi làm bộ xấu hổ, cúi đầu toan bước đi, anh chàng muốn chặn lại, tôi vội né

tránh, anh chàng bắt đầu cất giọng phía sau tôi:

- Này cô em, có biết, thứ gì đang đùa chơi, thứ gì đang dựng nhà, thứ gì

đang che ô và thứ gì đang quấn quít nhau trên mặt nước?

Giọng hát của Pusyseda vút cao, vang xa, khỏe khoắn. Không ngờ cậu ta

chẳng những nhảy múa giỏi mà ca hát cũng tài đến vậy. Tôi nhìn Pusyseda,

làm bộ thẹn thùng, e lệ, bắt đầu cất lời đối đáp bằng chất giọng thanh trong,

từng vô địch các phòng hát Karaoke của mình:

- Này anh chàng ơi, loài vịt đang đùa chơi, thuyền lớn đang dựng nhà, lá

sen đang che ô và chim uyên quấn quít nhau trên mặt nước đó anh!

Anh chàng tươi cười hớn hở, muốn tiến lên nắm tay tôi, nhưng tôi đã nhanh

nhẹn quay người né tránh, nhìn anh chàng và cất cao giọng:

- Này anh có biết, thứ gì có miệng mà không nói năng, thứ gì không miệng

nhưng inh tai cả ngày, thứ gì có chân không chạy bao giờ, thứ gì không chân

nhưng nhà nhà đều ghé.

Nghe tôi hát, anh chàng làm bộ gãi đầu, đăm chiêu, ra chiều khổ sở, nhún

vai  xòe  tay,  như  muốn  cầu  xin  đối  phương  đừng  ra  câu  đối  khó  như  vậy!

Những động tác này không hề có khi chúng tôi diễn tập, rõ ràng là phần diễn

ngẫu  hứng  của  Pusyseda,  cậu  ta  diễn  rất  tự  nhiên,  khiến  câu  chuyện  của

chúng tôi càng thêm hấp dẫn. Tên ranh này quả nhiên rất có khả năng trình

diễn. Nhìn bộ mặt giả vờ như thật của cậu ta, tôi chỉ muốn bật cười.

Tôi đã kết thúc phần hát của mình nhưng anh chàng không tiếp lời đối đáp

lại ngay. Anh chàng bước vài bước, vẻ mặt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, khiến

khán giả ai nấy đều cho rằng anh ta sắp thua, đếu không khỏi lo lắng. Sau đó

mặt mày anh chàng bỗng trở nên hớn hở, gõ gõ vào lòng bàn tay với vẻ mặt

hả hê, xoay người đối đáp:

- Này cô em, Bồ Tát có miệng nhưng Người chẳng nói năng, cồng chiêng

không miệng nhưng inh tai cả ngày, nhà giàu có chân không thèm chạy, đồng

tiền không chân đến muôn nhà.

Khán giả dưới khán đài vỗ tay reo hò tán thưởng, không khí của toàn bộ hội

diễn đã sôi nổi hẳn lên nhờ Pusyseda. Trong lúc mọi người vẫn đang hào hứng

sôi nổi, tôi ngượng ngùng để anh chàng nắm lấy tay mình, cùng nhau song ca:

- Muốn hát, hãy hát lên. Muốn đánh cá, hãy ra biển. Em cắm sào, anh

quăng lưới, ta theo nhau đi khắp muôn sông.

Pusyseda không chỉ nắm tay mà còn vòng qua ôm eo tôi, ngả đầu vào vai

tôi, tiếng nhạc du dương trữ tình, chúng tôi kết thúc phần biểu diễn bằng hình

ảnh kinh điển của chàng Jack và nàng Rose trong Titanic. Tiếng vỗ tay rào rào

vang dội, hoa tươi ngập không gian, tôi âm thầm thụi cho tên phong lưu một

cú thật đau, nhưng hắn không hề hấn gì, vẫn ôm chặt lấy tôi. Lẽ ra tôi phải

cảnh cáo hắn từ trước mới phải, giờ hối hận cũng đã muộn.

Đó là đoạn hát đối trong phim “Chị Lưu Tam”, lời hát gốc còn có thêm các

loại hoa quả vùng nhiệt đới như: đu đủ, chuối, dứa, bưởi, nhưng vì những loại

hoa quả này người Khâu Từ chưa được thấy bao giờ, nên tôi đã lược bỏ.

Kết quả không ngoài dự đoán, chúng tôi được giải nhất, với lời đánh giá của

ban giám khảo: bài hát độc đáo, ca từ thú vị, diễn xuất tài tình, giọng hát

chuyên nghiệp. Điều đó là tất nhiên, các bạn tìm đọc tiểu thuyết về đề tài vượt

thời gian sẽ thấy các cô gái trổ tài ca múa của mình trên sân khấu thời cổ đại

như thế nào. Tôi sung sướng đắc chí, vì cuối cùng tôi cũng đã có dịp thể hiện.

Từ nay không ai còn phàn nàn về chuyện tôi chẳng giống các cô gái vượt thời

gian chút nào nữa nhé!

Phần thưởng thật tuyệt vời! Đó là một đôi sư tử (sư tử là tượng trưng của

Khâu Từ) bằng ngọc trắng Khotan trong suốt, thủ công tinh xảo, nếu ở thời

hiện đại, chắc chắn phải trị giá hàng chục nghìn nhân dân tệ. Pusyseda đeo

miếng ngọc hình sư tử cái lên cổ mình, sau đó, không nói không rằng, quàng

ngay miếng ngọc hình sư tử đực vào cổ tôi. Cậu ta sung sướng tươi cười như

chưa bao giờ nhìn thấy bảo bối gì quý giá hơn thế.

Ngày hôm đó, Pusyseda gần như không lúc nào thôi cười, cậu ta khiến bao

nhiêu cô gái phải ngơ ngẩn nhìn theo, người đụng cột, kẻ đụng tường. Mỗi khi

mở miệng gọi tôi là lại: này cô em. Tôi nhớ một năm nọ, đi du lịch Dương Sóc,

trên phố Tây, nơi tập trung đông khách du lịch nhất, hầu như quán hàng nào

bên tai tôi cũng văng vẳng giai điệu ấy, đến nỗi về đến nhà rồi mà miệng

không lúc nào dừng hát: Này cô em, này anh chàng… Pusyseda giống hệt tôi

ngày đó, cậu ta ca đi ca lại khiến tôi nhàm cả tai. Tôi bực quá phải cảnh cáo,

nếu còn hát nữa tôi sẽ bỏ về một mình, thế là cậu ta nín thinh.

Buổi tối, gã phong lưu lại lẻn đến phòng tôi, nhưng không nêu ra những

chủ đề khiến tôi phải đỏ mặt nữa, mà nài nỉ tôi hát lại bài hát ngày xưa. Một

vài ca khúc cậu ta còn nhớ, thì ngâm ngợi theo tôi. Khi hát đến bài “Ngủ ngon

bé yêu”, tôi chợt nhớ lại, hôm đó đã hát cùng Rajiva. Kể từ giây phút ấy, tôi

nhận ra mình rất nhớ, rất nhớ cậu ấy, nỗi nhớ cồn cào…

Âm thanh nghẹn lại, ý nghĩ mông lung, trong lúc sơ ý, tôi lại bị kéo vào một

vòng tay rất chặt. Tôi hối hận vì ngày trước đã không tham gia các buổi học về

kĩ năng phòng thân. Dùng “võ” không được, tôi đành dùng “văn” vậy.

- Pusyseda, sao cậu thích ôm tôi thế?

- Bởi vì trên người chị có mùi thơm rất dễ chịu.

Cậu ta hít hà trên cổ tôi, hệt một chú cún con, làm tôi buồn buồn, tức cười.

Tôi nhấc cánh tay lên ngửi, có mùi gì dễ chịu đâu nhỉ? Tôi không mang theo

dầu gội, sữa tắm, sữa dưỡng thể, cũng không trang điểm, không sức nước

hoa, khi tắm, tôi dùng loại xà bông thông dụng của người Khâu Từ, làm gì có

mùi thơm chứ!

- Chị không giống những cô gái khác, thân thể họ rất hôi, tôi chẳng thiết

động vào họ.

Cậu ta lại hít hà một hơi, tán thưởng:

- Ngải Tình thơm lắm!

Tôi đã hiểu ra vấn đề! Mùi hôi trên cơ thể mà Pusyseda nhắc đến, chúng ta

thường gọi là mùi hôi nách. Trần Dần Khác từng viết một bài nghiên cứu mang

tên “Người Hồ và mùi hôi cơ thể”. Bài viết có đoạn: “Mùi hôi, trước thường gọi

là mùi người Hồ, chỉ mùi cơ thể đặc trưng của người Hồ ở vùng Tây vực.

Nhưng sau khi tộc người Hồ vùng Tây vực hợp hôn với tộc người Hoa Hạ ở

Trung Nguyên, thì trong số những người Hoa vẫn thấy xuất hiện mùi hôi nói

trên. Xét thấy nếu tiếp tục gọi là “mùi người Hồ” thì không hợp lí, lại thấy mùi

hôi đó giống mùi hôi của loài cáo, nên từ đó đổi tên gọi thành mùi hôi của

cáo”. Hầu hết người phương Tây hiện đại cũng có mùi hôi trên cơ thể, tôi cho

rằng đó là vì thói quen ăn uống của họ khác với người phương Đông, họ thích

ăn đồ lạnh, lâu dần đã tạo nên mùi hôi đó. Người da vàng ở phương Đông rất

ít khi có mùi hôi cơ thể. Có lẽ vì vậy mà Pusyseda rất thích hít hà trên người

tôi. Tôi bỗng chột dạ, may mà hai anh em họ đều không có thứ mùi này.

- Còn nữa, chị rất ấm…

- Cậu đùa à!

Tôi đẩy cậu ta ra.

- Là người thì phải ấm chứ.

- Nhưng mẹ tôi rất lạnh.

Pusyseda buông tôi ra, chậm rãi bước đến và chăm chú quan sát bức tường

có dán những chữ Hán ngô nghê năm nào.

- Kí ức của tôi về mẹ là những lần cha đưa tôi đến chùa thăm bà. Bà mặc

thứ trang phục khiến tôi bực bội, bà nhìn cha với ánh mắt lạnh lùng, với tôi

cũng vậy. Cái người đứng phía sau mà cha bắt tôi gọi bằng anh cũng lạnh lùng

như thế. Tôi chưa bao giờ nói với cha, rằng thực ra tôi ghét phải đến chùa

thăm mẹ và anh trai. Sau đó, họ lên đường tầm sư học đạo, chuyến đi kéo dài

suốt bốn năm. Tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm, vì cuối cùng đã không phải gặp mặt

những con người lạnh lùng ấy nữa.

- Nhưng, tôi còn nhớ, khi họ trở về, cậu đã ôm chầm lấy mẹ và gào khóc rất

thảm thiết.

- Tôi làm thế vì muốn cha vui lòng.

Pusyseda quay lại nhìn tôi, nhếch môi cười.

- Cha luôn mong tôi sẽ yêu mẹ, chỉ cần cha vui, tôi sẽ làm bất cứ điều gì.

Mặc dù tôi thấy hết sức khó hiểu, vì sao cha có thể ngày đêm thương nhớ hai

con người vô cảm ấy.

Tôi sững sờ. Mới mười tuổi Pusyseda đã biết đóng kịch để làm cha vui lòng!

Nhưng, điều đó cũng không khó hiểu. Kumarayana là người thân duy nhất

luôn bên cạnh Pusyseda từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, trong khi giữa mẹ,

anh trai và cậu luôn có một bức tường ngăn cách vô hình, chẳng thể vượt qua.

- Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ôm mẹ, tôi cũng muốn biết cảm giác được

mẹ ôm vào lòng sẽ như thế nào, nhưng bà rất dửng dưng. Tôi ghét vòng tay

giá lạnh của bà cũng như ghét vẻ lạnh lùng của bà. Từ đó, tôi không còn

muốn ôm mẹ nữa.

Vẻ mặt của Pusyseda trở nên buồn ảm đạm, nét buồn ấy rất giống Rajiva.

Họ là anh em mà, kể cả khi không có tình cảm với nhau thì trên người họ vẫn

chảy cùng một dòng máu.

- Nhưng chị thì khác, lúc mười tuổi, trong vòng tay chị, cảm thấy rất ấm áp,

khác hẳn cảm giác khi sa vào lòng mẹ, nên hồi đó, tôi rất thích được ôm chị.

Pusyseda đưa tay ra, kéo tôi vào lòng, một tiếng thở dài khe khẽ lướt trên

cổ tôi.

- Mười năm sau ôm chị vào lòng, khiến tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại hơi ấm

ngày xưa.

Tôi không vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Pusyseda như lúc trước

nữa. Bản năng làm mẹ của người phụ nữ khiến tôi không nỡ từ chối chàng trai

tội nghiệp này. Cậu ta luôn thiếu vắng và khao khát tình yêu của người mẹ.

Không biết khi mải mê theo đuổi lý tưởng của mình, Jiva có từng nghĩ bà sẽ

gây nên những tổn thương trong lòng Pusyseda? Có lẽ bà cũng yêu thương

hai anh em họ như mọi bà mẹ trên cõi đời này, nhưng tình yêu đó của bà, có

phải rất lạ lùng hay không?

Để mặc Pusyseda ôm mình hồi lâu, tôi nghĩ vẫn nên nói rõ với cậu ấy. Dù

những cử chỉ thân mật này xuất phát từ khát khao tình mẹ, nhưng tôi không

thể thay thế Jiva. Pusyseda giờ đây đang được vây bọc trong vòng tay của rất

nhiều phụ nữ, chắc hẳn chưa bao giờ cậu ta nghĩ đến cảm giác của tôi. Tôi

không thể để tình trạng này tiếp tục. Quan trọng hơn cả là, tôi không muốn

Rajiva nhìn thấy những cử chỉ thân mật này. Tuy rằng giữa chúng tôi chưa có

bất cứ lời hẹn ước nào, nhưng trong trái tim tôi, Rajiva đã là duy nhất.

Tôi thở dài, lựa lời khuyên nhủ:

- Pusyseda, cậu đã trưởng thành. Người Hán có câu: nam nữ thụ thụ bất

thân, tức là mọi cử chỉ giữa đàn ông và phụ nữ phải có giới hạn, phải giữ

khoảng cách, điều này gọi là lễ nghi. Vì vậy, cậu không nên tùy ý ôm tôi như

thế. Tôi là người Hán, tôi không quen với việc đàn ông có những cử chỉ quá ư

thân mật như vậy.

- Chị không thích à?

Nhìn ánh mắt nghiêm nghị của tôi, Pusyseda thở dài, buông tay ra.

- Tôi cứ nghĩ, cô gái nào cũng thích được tôi ôm vào lòng.

- Đó là vì họ yêu cậu. Chỉ những người yêu nhau mới thích những tiếp xúc

thân thể như thế.

- Vậy…

Pusyseda đột nhiên sáp lại gần tôi, ánh mắt hút hồn chăm chú quan sát

biểu cảm của tôi, hỏi khẽ:

- Chị có yêu tôi không?

- Không.

Tôi cố gắng để giọng nói của mình là rõ ràng và chắc nịch.

- Cậu giống như em trai tôi. Đừng quên, tôi hơn cậu ba tuổi đó.

- Nhưng chị là tiên nữ, chỉ vài năm nữa tôi sẽ nhiều tuổi hơn chị. Khi tôi trở

nên già nua, chị vẫn trẻ trung như bây giờ.

 Lại là vấn đề đó. Tôi phải giải thích thế nào để có thể xóa bỏ hoàn toàn lời

nói dối đáng ghét ngày ấy?

- Pusyseda…

Ánh mắt Pusyseda bỗng rực sáng, cậu ta vội vàng ngắt lời tôi:

- Thôi được, nếu chị không thích thì sau này tôi sẽ hạn chế ôm chị.

Vẻ phong lưu, lãng tử quen thuộc đã trở lại.

- Nhưng, thỉnh thoảng ôm một cái, không sao chứ?

Chỉ được vài phút nghiêm chỉnh, Pusyseda lại “hiện nguyên hình” rồi. Đúng

là, giang sơn dễ đổi bản tính khó dời.

Chương 27: Ngày hội té nước

Ngày cuối cùng của lễ hội Sumuzhe, Pusyseda không cần ngồi xổm trước

mặt tôi và nhọc lòng gào thét tôi thức dậy nữa. Giấc mơ cùng Rajiva đi ngắm

mặt trời mọc đã tan biến khi âm thanh tiếng kèn Xô – na và tiếng cười nói

hoan hỉ vẳng tới bên tai tôi.

- Ngải Tình, dậy đi! Tôi chưa từng thấy cô gái nào thích ngủ nướng như chị.

Hôm nay là ngày sôi động nhất của lễ hội Sumuzhe đấy.

Miệng làu bàu, mắt vẫn nhắm chặt, tôi nuối tiếc giấc mơ đẹp. Rajiva và tôi

chỉ có thể tay trong tay đi bên nhau trong mơ mà thôi!

- Chị còn không chịu dậy, tôi sẽ bế chị lên đó.

Tôi bật dậy, nhanh như tên bắn.

Chúng tôi đeo mặt nạ ra phố, vừa bước chân ra cổng, mắt tôi đã hoa lên vì

cảnh tượng: đường phố ngập nước, ai nấy áo quần ướt sủng, nhưng dường

như mọi người đều không bận tâm.

- Đây là…

- Đi nào, rồi chị sẽ thấy, ngày hội này thú vị ra sao…

Tiếng nhạc rộn rã vang lên nơi góc phố, Pusyseda kéo tay tôi chạy như bay

về hướng đó.

Một chiếc xe ba gác chầm chậm tiến đến, trên xe có vài ba người đang thổi

kèn Xô – na, một thùng nước lớn bằng gỗ và hai chàng thanh niên to khỏe

đang múc từng gáo nước, té lên người đi đường, miệng hô vang: “Năm mới

phát đạt, tai ương không còn”. Nhà nào nhà nấy mở rộng cửa, đặt một thùng

nước trước nhà và có chủ nhà cũng đang ra sức múc nước trong thùng hất về

phía những chiếc xe ba gác. Không nhìn rõ gương mặt những người đang tắm

trong làn mưa nước vì họ đeo mặt nạ, nhưng tôi nghe thấy tiếng cười ha hả,

sảng khoái ngân vang không dứt của họ. Họ khiến tôi trở nên phấn chấn vì tôi

đang được chứng kiến lễ hội té nước của 1650 năm về trước.

Gã lãng tử nhanh nhẹn né được một gáo nước, nhưng tôi thì lãnh đủ, áo

váy dầm dề.

- Đi nào, Ngải Tình.

Pusyseda nắm tay tôi, ánh mắt hoan hỉ.

- Chúng ta đi té nước nào!

Gã lãng tử kéo tôi quay lại phủ quốc sư. Một chiếc xe ba gác dùng ngựa

kéo, trang trí rất đẹp đang chờ sẵn trong sân, trên xe đã có một thùng nước

lớn. Pusyseda bố trí một thanh niên điều khiển cỗ xe, hai người phụ trách thổi

kèn Xô – na. Sau đó, cậu ta đỡ tôi lên xe và tự mình vọt lên theo bằng một cú

nhảy điệu nghệ. Pusyseda ấn vào tay tôi một chiếc gáo, rồi quay ra hô anh

chàng phu xe: Đi nào! Cỗ xe di chuyển, tiếng kèn Xô – na vang lên, chúng tôi

tuần du qua các góc phố và thỏa sức đắm mình vào lễ hội té nước trong âm

thanh náo động và bầu không khí rộn ràng, vui nhộn ấy.

Tôi từng đến Thái Lan vào dịp năm mới theo lịch của người Thái, đó là ngày

hội Songkran mà chúng ta thường gọi là ngày hội té nước. Trên đường phố

Bangkok, ai nấy đều cầm một khẩu súng nước, những chiếc xe bán tải nối đuôi

nhau diễu hành. Khi tiếng nhạc dồn dập, vút cao, các bạn nam nữ thanh niên

hò reo múc nước trong những chiếc thùng nhựa cỡ lớn đặt trên xe, tới tấp té,

hất vào người đi đường. Khi di chuyển đến nơi tập trung đông người, các xe

dừng lại và cuộc “thủy chiến” diễn ra sôi động giữa các “chiến sĩ” té nước.

Thậm chí khi chiếc xe bán tải dừng đỗ song song với những chiếc xe bus công

cộng trên đường, các chiến sĩ không ngần ngại té nước vào xe bus. Người bị té

ướt, ai nấy đều cười vui vẻ. Nhưng hồi đó tôi chỉ là khán giả, đứng bên đường

quan sát, tuy cũng bị té ướt, thậm chí một nhóm các bạn trẻ người Thái tôi

không hề quen biết còn chạy tới, bôi lên mặt tôi một thứ phấn trắng gì đó,

nhưng chưa bao giờ tôi chính thức tham gia vào trò chơi té nước và chơi hết

mình như ở lễ hội này.

Trên đường phố Khâu Từ, mọi người mải mê đùa vui, chúng tôi té nước vào

người đi đường và họ té nước lại chúng tôi. Khi gặp những chiếc xe ngựa đi

ngược chiều, chúng tôi dừng lại, một cuộc thủy chiến diễn ra, các chiến sĩ vừa

ra sức “chiến đấu” vừa hô vang những lời chúc tốt lành. Lúc đầu tôi còn e dè,

chỉ múc những gáo nước nhỏ và hất nhẹ về phía mọi người. Nhưng sau khi bị

“tấn công” tới tấp, quần áo ướt sủng, tôi hăm hở lao vào cuộc chiến và liên tục

“chào hỏi” người đi đường bằng những gáo nước đầy tràn. Vừa chiến đấu vừa

né trái né phải tránh đòn “phục thù”. Khâu Từ đang là mùa hè, thời tiết oi bức,

được tắm trong nước thế này thật dễ chịu. Tôi gào thét khản cả cổ, chưa bao

giờ tôi được vui chơi thỏa sức như hôm nay! Trên phố, cũng có người cầm

những khẩu súng nước bằng gỗ, khi bắn, nước phun khá xa. Một ai đó hướng

khẩu súng về phía tôi, tôi vội nghiêng người né tránh, cỗ xe chòng chành, tôi

trượt chân, té nhào. Không văng ra khỏi xe ngựa, nhưng tôi lại rơi vào một

vòng tay đang hừng hực hơi thở. Đôi mắt màu xám nhạt ở cách tôi rất gần,

ánh mắt đảo một vòng khắp người tôi, từ đầu đến chân. Tôi giật mình nhận ra

chiếc váy ướt đầm dính sát vào thân người, ngôn ngữ thông dụng trong tình

huống này gọi là “lộ rõ đường cong cơ thể”. Chỉ nhìn thấy đôi mắt, nhưng

không khó đoán vẻ mặt của gã phong lưu này như thế nào. Hai má tôi nóng

bừng, may mà đeo mặt nạ, tôi vội vàng vùng vẫy đứng lên. Gã phong lưu

không “bắt nạt” tôi như những lần trước, nhưng hắn nhìn tôi hồi lâu, buông

tiếng thở dài:

- Ngải Tình, ngực chị nhỏ quá…

Một gáo nước lớn dội lên đầu hắn. Tôi làm sao mà so sánh với các thiếu nữ

“béo tốt màu mỡ” của Khâu Từ được.

- Nhưng nghe nói, chịu khó xoa bóp thì sẽ to dần lên.

Gáo nước thứ hai tặng cho hắn.

Pusyseda lắc đầu giũ nước trên tóc, những lọn tóc xoăn ướt sũng dính trên

trán, nhưng hắn không hề biết sợ:

- Tôi có thể giúp chị…

Nước đã dùng hết, tôi lao lên tấn công, phải xử tên này thôi, để hắn sống

sót chắc chắn sẽ gây họa cho người đời.

Cỗ  xe  chậm  rãi  lăn  bánh  trong  thành  phố,  nước  trong  thùng  đã  cạn.

Pusyseda kêu phu xe dừng lại, cùng những chàng trai khác khiêng thùng gỗ

đến một nhánh nhỏ của sông Muzat chảy trong lòng thành phố để lấy nước.

Tôi cũng xuống xe, giúp họ một tay. Hồi nãy, Pusyseda là người chơi trò té

nước nhiệt tình nhất, nên toàn thân cậu ướt sũng, lớp áo mỏng dính sát vào

cơ thể, làm lộ rõ những cơ bắp cuồn cuộn tráng kiện và tấm lưng rộng, lực

lưỡng. Ngắm nhìn một thân hình đàn ông hấp dẫn như thế mà không vui thích

thì không phải là phụ nữ!

- Thế nào? Chị thấy hài lòng chứ?

Đúng là đồ phong lưu, thốt ra toàn những lời trăng gió, ong bướm. Tôi như

bị sét đánh ngang tai! Xin cậu đấy, Pusyseda!

Không thể không cho tên này một gáo nước, nhưng hắn đã nhanh nhẹn né

kịp, một người đang đứng phía sau hắn đã phải chịu trận…

Quần áo của người đó vốn không hề dính nước, nhưng giờ đây đã ướt nhẹp

vì gáo nước của tôi, anh ta bối rối, bước lùi lại phía sau. Dáng người cao gầy,

chiếc áo ngắn chít eo màu xanh nhạt, đeo mặt nạ hình sư tử, ở con người đó

toát lên vẻ phiêu diêu thoát tục không thể diễn tả nổi. Dù đang ở giữa chốn ồn

áo náo nhiệt, nhưng người đó dường như rất cô độc. Tim tôi đập mạnh, ánh

mắt hớt hải kiếm tìm, nhưng anh ta đã quay gót đi xa. Tôi muốn đuổi theo,

nhưng Pusyseda đã giữ lại. Tôi thẫn thờ nhìn theo, khẽ lắc đầu. Chắc chắn là

ảo giác, cậu ấy không thể đến đây được! Vả lại người đó rõ ràng là có mái tóc

màu nâu nhạt dài ngang vai. Nhưng vì sao, vì sao tôi cảm thấy tim mình quặn

thắt khi nhìn thấy bóng dáng cô đơn ấy? Những trò đùa của Pusyseda không

còn sức hấp dẫn với tôi nữa, tôi mặc lòng ủ dột…

Cỗ xe tiếp tục hành trình, lướt qua quán trọ mà tôi từng ở…

Cuối cùng chúng tôi cũng về đến phủ quốc sư. Pusyseda chưa chơi đủ, vẫn

hô hào muốn đi tiếp. Cậu ta đúng là đồ ham chơi, cả ngày dài trên phố mà

không biết mệt.

Bước chân vào cửa đã thấy không khí có gì đó bất thường, mọi người trong

phủ ai nấy đều giữ vẻ nghiêm trang khác lạ. Thấp thoáng bóng chiếc áo cà sa

màu nâu sòng, một dáng hình cao gầy, cô độc, lặng lẽ tư lự trong sân. Nghe

thấy tiếng chúng tôi, người đó quay đầu lại, vẻ mặt an nhiên…

Giây phút đó, hai mắt tôi ướt nhòe. Rajiva, đã bao lâu rồi không được gặp

cậu? Sao tôi cảm thấy thời gian dài miên man như đã trải qua một đời người

vậy?

Rajiva chăm chú quan sát tôi, khuôn mặt đột nhiên ửng đỏ. Tôi vẫn đang

trong tình trạng quần áo ướt đẫm, trước mặt Pusyseda tôi không cảm thấy có

điều gì bất thường, nhưng trước mặt cậu ấy, không hiểu sao, tôi thấy tim mình

đập dữ dội, hai má nóng bừng và không biết đầu đã cúi thấp từ lúc nào.

Chiếc mặt nạ của tôi bị tháo ra, gọng kìm của Pusyseda lại kẹp trên vai tôi:

- Anh nhìn xem ai đến này. Là Ngải Tình đó, tiên nữ của chúng ta, sau mười

năm biến mất đã trở lại.

Rajiva ngước lên nhìn tôi. Một chút ngạc nhiên thoáng qua trong đáy mắt.

Hai tay khép lại, cung kính cúi đầu:

- Rajiva kính chào thầy!

Không ngờ cậu ấy lại xử sự với tôi như vậy trước mặt em trai. Tôi bối rối

không biết phải đáp lễ ra sao, nên cứ ngơ ngẩn nhìn cậu ấy.

- Mau đi thay quần áo đi, chị ướt cả rồi này! Cẩn thận kẻo cảm lạnh.

Đây là lần đầu tiên Pusyseda nói với tôi bằng những lời đầy “chăm sóc”. Tôi

len lén nhìn Rajiva, vẻ mặt cậu ấy không có gì khác lạ, cũng không có bất cứ

biểu cảm ngạc nhiên nào.

Cơn buồn tủi bỗng trào dâng, bàn tay của Pusyseda trên vai tôi tựa như

mọc gai cắm vào da thịt tôi, tôi tức giận vùng thoát, cắm đầu bước vội về

phòng mình.

Tiếng Pusyseda giễu cười phía sau:

- Đúng là phụ nữ, hay cáu giận vô cớ…

Rajiva ngắt lời Pusyseda bằng giọng nói lạnh lùng:

- Em thay quần áo rồi đến phòng cha, ta có chuyện muốn nói.

Thay xong quần áo, tôi dạo bước trong sân để hong khô mái tóc ướt. Hai

anh em họ đang ở trong phòng Kumarayana, không biết Rajiva muốn nói gì với

họ. Tâm trạng tôi rối bời, vì sao hôm nay cậu ấy về đây? Sư phụ Banhuddata

còn ở chỗ cậu ấy không?

Cửa phòng Kumarayana bật mở, cắt ngang dòng suy tư của tôi. Sắc mặt

Pusyseda tái nhợt, thấy tôi, cậu ta bước đến và ôm tôi vào lòng. Tôi cắn răng

vùng vẫy, tôi không muốn Rajiva nhìn thấy cảnh tượng này.

- Ngải Tình!

Pusyseda giữ chặt lấy tôi, giọng nghẹn ngào:

- Mẹ tôi…qua đời rồi…

Tôi lặng đi, quên cả mong muốn vùng thoát. Thì ra, cậu ấy trở về để thông

báo tin này. Tôi ngước mắt lên, thấy Rajiva đứng trên bậc thềm trước cửa

phòng cha. Nền trời ảm đạm, bóng hoàng hôn đổ trên dáng hình cao gầy ấy,

hắt xuống sân một vòng nắng tròn buồn tẻ.

- Cậu cả, phòng của cậu đã được dọn sạch.

Dù  Rajiva  đã  là  một  pháp  sư  nổi  danh  khắp  vùng  Tây  vực,  nhưng

Kumarayana vẫn yêu cầu mọi người trong phủ quốc sư gọi cậu là cậu cả. Phải

chăng vì ông muốn nhắc nhở con trai mình: rằng cậu vẫn luôn là một thành

viên không thể thiếu của gia đình?

Rajiva khẽ gật đầu, bước xuống bậc thềm, đi về phía phòng mình, dường

như không bận tâm đến tôi và Pusyseda đang đứng trong sân. Lúc lướt qua

tôi, đôi môi vẫn mím chặt, vẻ mặt lạnh lùng, như muốn nói rằng: mọi sự trong

thế tục không liên quan gì đến cậu! Tim tôi như bị bóp nghẹt, nước mắt tuôn

trào, bằng tất cả sức lực của mình, tôi vùng thoát khỏi gọng kìm của Pusyseda.

- Ngải Tình, sao vậy?

Pusyseda sững sờ, cuống quít vỗ về tôi:

- Chị khóc vì tôi, tôi vui lắm. Nhưng xin chị, đừng khóc nữa…

Tôi hất tay cậu ta ra và vùng chạy về phòng, chốt cửa lại.

- Ngải Tình, mở cửa ra!

Pusyseda nhẫn nại gõ cửa, nhưng tôi mặc kệ. Lúc phiền muộn, tôi cho phép

mình vùi đầu trong chăn, thỏa sức hành hạ bản thân một đêm, để rồi sau đó

sẽ bắt đầu một ngày mới không còn bóng dáng của nỗi buồn. Trên đời này,

không có trở ngại nào là không thể vượt qua. Nhưng tôi vẫn không hiểu nổi vì

sao mình lại khóc?

- Khóc vì mẹ tôi, không đáng đâu.

Tôi chui ra khỏi chăn, đã thấy Pusyseda ngồi trước mặt. Cậu ta hình như

chưa bao giờ vào phòng tôi bằng cửa chính.

Tôi chưa từng thấy Pusyseda trong tâm trạng phức tạp thế này bao giờ.

Biểu cảm trên gương mặt cậu là sự đan xen của nỗi buồn, sự tức giận và nỗi

đau…

- Mẹ chưa bao giờ quan tâm lo lắng cho gia đình này, bà lúc nào cũng chỉ

một lòng tu hành, để được giải thoát, để được lên cõi cực lạc, để không còn

phải chịu kiếp số luân hồi.

Pusyseda nhếch môi cười, hơi thở gấp gáp chừng như rất xúc động.

- Tôi không hiểu, cõi cực lạc ấy có gì tốt đẹp hơn thế giới hiện thực chứ? Vì

sao nó quan trọng hơn cả chồng và con trai bà?

Cậu ta cắn chặt môi, hít một hơi thật sâu.

- Trong lòng bà chỉ có anh trai tôi mà thôi. Bà sinh tôi ra chỉ để có người nối

dõi tông đường, để hoàn thành nghĩa vụ với nhà chồng mà thôi. Thế nên bà

đã ra đi cùng anh trai, bỏ tôi ở lại. Hai mươi mốt năm qua, tôi gặp bà được

mấy lần? Bao nhiêu năm qua, cha tôi ngày đêm thương nhớ bà, còn bà thì

sao? Tu hành đắc đạo thành Phật khiến con người trở nên lạnh lùng, vô cảm

như vậy ư?

Pusyseda đột ngột đứng lên, đầu ngẩng cao, giọng nói dõng dạc:

- Người ta muốn thành Phật, tôi thì không. Muốn thành Phật thì phải từ bỏ

mọi tình cảm thế tục, như thế có gì vui đâu. Tôi thà sa xuống địa ngục A tì còn

hơn phải o ép bản thân mình trong kiếp này. Đời người được mấy mươi năm.

Kiếp sau tôi chẳng cầu được làm người, chỉ cần kiếp này được làm những gì

mình thích thì kiếp sau có làm trâu làm ngựa cũng chẳng sao.

Tôi bất ngờ đến quên cả khóc. Pusyseda chưa bao giờ bộc bạch với tôi

những suy nghĩ sâu kín này. Phải chăng thái độ ngông nghênh, giễu đời giễu

người của cậu là hành động phản kháng trước quyết định từ bỏ gia đình của

mẹ cậu? Phải chăng cậu đang ra sức vẽ nên viễn cảnh tăm tối, tuyệt vọng của

thế giới sau cái chết để chống lại giáo lý Phật giáo?

- Con người tồn tại giữa trời đất, chỉ như bóng câu qua thềm, thoắt đến,

thoắt đi.

Tôi kéo chăn, bước xuống giường, đến bên Pusyseda, nhẹ nhàng khuyên

nhủ:

- Pusyseda, trân trọng đời sống hiện thực không có gì là xấu.

Cậu ta quay lại nhìn tôi chăm chú:

- Ngải Tình, chị không cho rằng tôi là kẻ hư hỏng đấy chứ?

Ở một nơi mà người người kính Phật, người người ngóng đợi một kiếp sau

tươi đẹp như Khâu Từ, thì suy nghĩ của Pusyseda quả là không thể chấp nhận

được.

 Nước trên mặt đất

 Chia về muôn hướng

 Người nào phận nấy

 Chẳng nên than phiền

Đó là những câu thơ của Bào Chiếu.

- Pusyseda, những điều cậu nghĩ, những việc cậu làm thể hiện khát khao

sống và tận hưởng cuộc sống thực tại của cậu.

Có điều, khi không thực sự có tình yêu, thì những trò vui trăng hoa tuyết

nguyệt ấy liệu sẽ kéo dài được đến khi nào?

- Không có tình yêu ư?

Miệng lẩm nhẩm, ánh mắt cậu ta trở nên mơ hồ.

- Có lẽ có, nhưng cậu không hề biết. Cậu không dám thừa nhận rằng cậu

yêu mẹ. Vì yêu mẹ, nên cậu muốn biết cảm giác ấm áp khi sà vào lòng mẹ như

thế nào. Vì yêu mẹ nên cậu mới tức tối khi bà bỏ đi, mới ghen tị với anh trai vì

được mẹ quan tâm hơn, mới chống lại lý tưởng theo đuổi sự giải thoát của bà.

- Ngải Tình!

Ánh mắt Pusyseda nhìn tôi bối rối.

- Theo chị, mẹ có yêu tôi không?

- Tất nhiên rồi! Trên đời này không có người cha người mẹ nào không yêu

thương con cái. Bà yêu cậu theo cách của bà, nhưng có lẽ cậu không cảm

nhận được tình yêu đó, hoặc có lẽ vì nó chưa đủ lớn như mong đợi của cậu.

Khi nào cậu làm cha cậu sẽ hiểu được điều này.

Pusyseda im lặng, viền mắt đỏ dần lên. Thực ra cho đến bây giờ, cậu ta vẫn

luôn khao khát tình mẹ.

Đêm đó, Pusyseda đã trò chuyện với tôi rất nhiều, bằng sự chân thành,

bằng nỗi lòng thổn thức, buồn khổ mà trước đó chưa bao giờ tôi thấy ở cậu.

Lúc bước ra khỏi phòng tôi, khuôn mặt vẫn chồng chất ưu tư, hoàn toàn khác

con người thường ngày của cậu. Tôi thổi đèn, ngồi bên cửa sổ, chăm chú nhìn

sang căn phòng đối diện. Bóng dáng cao gầy chập chờn lướt qua ô cửa sổ,

một giây mất hút cũng khiến tôi thót tim. Tôi cứ ngồi thẫn thờ như vậy cho

đến khi ánh đèn phòng đối diện vụt tắt. Trong bóng đêm tịch mịch, những suy

tư theo nhau dội tới, khiến tôi không sao bình tâm.

Vậy là, lễ hội Sumuzhe đã kết thúc.

Chương 28: Trở lại Subash

Một đêm trắng trằn trọc với những suy nghĩ rối bời, đầu óc quay cuồng. Trái

tim không thôi thổn thức khi nghĩ đến Rajiva đang ở rất gần, nhưng lại quặn

thắt khi nghĩ đến vẻ mặt lạnh lùng của cậu ấy. Tờ mờ sáng, tôi uể oải ra khỏi

giường, không biết đã đi đi lại lại trong phòng bao nhiêu lần. Sau cùng, vẫn

không kìm chế được, mặc cho đôi tay đẩy tung cánh cửa và đôi chân lao vun

vút đến phòng cậu ấy.

Đã gần bốn giờ ba mươi phút, chắc Rajiva thức giấc rồi, vì năm giờ là giờ

tụng kinh buổi sáng. Cậu ấy sẽ tụng kinh ở đâu? Chắc là sẽ đến chùa Tsioli, vì

chùa Cakra ở cách đây rất xa. Không biết Rajiva sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy một

cô nàng si tình, mới sớm tinh mơ đã chạy đến trước cửa phòng cậu ấy. Quả

thật là tôi chưa bao giờ thức giấc vào giờ này.

Tôi tần ngần trước cửa phòng Rajiva, tim đập loạn nhịp, bàn tay vô cớ run

rẩy, trời đất ơi, sao tôi lại căng thẳng thế này?

Cửa phòng đột ngột mở toang, tôi giật mình lùi lại, đầu va vào cột nhà, đau

điếng.

- Cô Ngải Tình dậy sớm quá!

Tôi quên cả đau, ngạc nhiên nhìn cô gái bước ra từ phòng Rajiva. Đó là

người lo công việc dọn dẹp trong phủ quốc sư, cô gái đang cầm trên tay một

thùng rác. Vậy còn Rajiva, cậu ấy đâu? Tôi sốt ruột, kiễng chân ngó vào trong

phòng.

- Cậu cả đi từ sớm rồi, cậu bảo phải quay về chùa Cakra.

Đi sớm vậy ư? Không một lời từ biệt ư? Một nỗi thất vọng ngập tràn, trùm

lên cả vết thương do va đập khi nãy.

- Khoan đã!

Thoáng thấy trong thùng rác có một bộ đồ, tôi sững sờ giây lát, vội vàng

kêu cô gái dừng lại.

Đó là một chiếc áo ngắn, chít eo màu xanh nhạt, một sợi dây lưng cùng

màu và còn…một chiếc mặt nạ sư tử và một bộ tóc giả màu nâu nhạt nữa.

Khoảnh khắc ấy, tôi như hóa đá!

- Cậu cả bảo đem vứt đi. Tôi thấy tiếc quá, toàn đồ tốt cả!...

Lời than thở của cô gái chỉ càng khiến tôi thêm đau lòng…

Pusyseda mở cửa và thấy tôi đang ngồi trên hành lang cạnh cửa phòng

mình. Cậu ta ngạc nhiên, nhìn trời ngó đất, rồi nhìn tôi, sau đó nở nụ cười

rạng rỡ.

- Ngải Tình, sao chị không vào phòng? Chị có thể vào phòng tôi bất cứ lúc

nào mà…

- Pusyseda, hôm nay tôi sẽ đến chùa Cakra.

Tôi vội ngắt lời Pusyseda, vì không muốn nghe những lời đường mật tiếp

theo nữa.

- Được! Tôi biết chị thích vẽ mấy thứ vô vị đó, tôi sẽ đưa chị đi. Nhưng mà…

Cậu ta gãi đầu gãi tai, có vẻ rất khó xử.

- Chị gắng chờ thêm mười ngày nữa được không? Bắt đầu từ hôm nay đến

phiên tôi gác trong cung, mười ngày nữa mới được nghỉ.

- Không cần đâu, cậu cứ làm việc của mình đi. Tôi sẽ tự thuê xe ngựa đến

đó.

- Ngải Tình, đừng cố chấp như thế, nghe lời tôi đi mà, chỉ mười ngày thôi…

- Pusyseda! Cậu không cần đi cùng tôi. Tôi không phải cô gái yếu đuối, lúc

nào cũng cần có người đi theo bảo vệ. Tôi có kế hoạch của riêng mình, vả lại

tôi chỉ đi vài ngày rồi sẽ quay về.

Tôi đã hứa với cậu ta trong vòng mười ngày sẽ quay lại. Cậu ta nói, chờ hết

phiên gác, sẽ đưa tôi đi thăm thú thêm núi Thiên Sơn nổi tiếng. Hồi đi khảo sát

ở Kucha, tôi từng nghe, cách phố huyện Kucha chừng bảy mươi cây số, có

hẻm núi lớn Kizilya thuộc dãy Thiên Sơn. Cảnh sắc tráng lệ, khắp nơi là nham

thạch màu nâu đỏ, tạo tác vô cùng kì ảo, nghe nói có thể sánh ngang với vẻ

đẹp của hẻm núi Colorado ở Mỹ, nhưng quy mô nhỏ hơn mà thôi. Năm 1999,

một lão nông người Uyghur đi hái cây thuốc trên vách núi cheo leo đã tình cờ

phát hiện ra một hang động được xây dựng thời thịnh Đường, người ta đặt tên

cho hang động này là Aay. Động đá này rất nhỏ, chỉ sâu năm mét, nhưng ba

mặt tường đều lưu lại dấu vết của các bức bích họa, rất khác so với những bức

bích họa trong các động đá khác ở Khâu Từ. Trên những bức bích họa này

xuất hiện chữ Hán, điều này chứng minh sức ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa

Hán thời thịnh Đường đối với Khâu Từ. Và vì vậy, động đá này có giá trị nghiên

cứu rất lớn. Nhưng khi ấy tôi không đủ thời gian đến đây tham quan. Còn bây

giờ, tôi vượt thời gian trở về thời cổ đại để làm việc chứ không phải ngao du

sơn thủy, các bức bích họa có sức hút với tôi lớn hơn nhiều phong cảnh núi

sông, huống hồ lúc này động đá đó còn chưa được xây dựng, nên tôi chẳng

mặn mà gì với lời rủ rê của Pusyseda. Nhưng cậu ta cứ giữ chặt tay tôi không

chịu buông, tôi đành ậm ừ nhận lời cho qua chuyện.

Cuối cùng cũng đã được lên đường. Pusyseda bảo sẽ bố trí người trong phủ

đánh xe ngựa đưa tôi đi, nhưng vì không muốn ai biết tôi đến sống trong gia

tư của Rajiva ở Subash, nên tôi kiên quyết từ chối, nói rằng tôi sẽ tự mình thuê

xe đi.

Không thuyết phục được tôi, Pusyseda đành bỏ cuộc. Gã lãng tử này hôm

nay rất nhiều lời, nằng nặc đòi giúp tôi tìm xe, rồi còn dặn dò đủ thứ trên đời.

Cứ như đây là lần đầu tiên tôi đi xa không bằng! Vậy nên, khi bên tai không

còn vang lên giọng nói lải nhải, dông dài của Pusyseda nữa, tôi thúc phu xe

chạy nhanh hết mức có thể. Tâm tư của tôi đã không lưu lại nơi này nữa, nó

đã bay đến căn nhà nhỏ yên tĩnh cách đây bốn mươi dặm rồi!

Lễ hội Sumuzhe kết thúc, theo kế hoạch tôi phải lên đường đi Trường An.

Nhưng tôi luôn thấy day dứt, nếu ra đi như vậy, tôi sẽ phải ân hận cả đời. Tôi

muốn gặp cậu ấy, không cần phải nói gì cả, chỉ nhìn thôi cũng đủ.

Cảm  giác  được  trở  về  căn  nhà  nhỏ  ở  Subash  vô  cùng  gần  gũi,  ấm  áp,

Mavasu đon đả chào đón tôi.

- Những ngày cô Ngải Tình không ở đây, cậu cả hàng đêm đều tới đọc sách

đến khuya mới về chùa.

Lòng tôi bỗng nhiên thấy ấm lại, trò chuyện với Mavasu hồi lâu, rồi nhờ ông

đến chùa thông báo với Rajiva rằng tôi đã trở về. Sau đó thì công việc duy

nhất của tôi là hồi hộp chờ đợi Mavasu mang theo tin nhắn từ chùa về. Thông

tin rất ngắn gọn, Rajiva chỉ ậm ừ một tiếng rồi lại tiếp tục công việc. Lẽ nào, đó

là câu trả lời của cậu ấy? Vậy, tối nay, cậu ấy có về đây không?

Nỗi băn khoăn dày vò tâm can tôi đến tận khi cánh cổng mở rộng.

Tôi lao ra ngoài sân, nhìn thấy chiếc áo cà sa màu nâu sòng chưa bao giờ

vương bụi trần ấy, nhìn thấy đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy và bóng

dáng cao gầy, lẻ loi muôn đời ấy, nhịp đập trái tim tôi, phải chăng mọi người

trên thế giới này đều có thể nghe thấy rõ?

Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, vẻ mặt bình thản, khóe môi lướt qua một nét

cười lạnh nhạt. Rồi đột nhiên, nét cười ấy biến mất, vẻ mặt Rajiva trở nên hỗn

loạn, bước chân gấp gáp hướng về phía tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì, thì một

cánh tay đã đỡ lấy đầu tôi, tay kia nâng nhẹ cằm, hướng khuôn mặt tôi lên đối

diện với cậu ấy. Vẻ ngạc nhiên của gương mặt tôi in trong đôi mắt màu xám

nhạt đang sát kề.

- Rajiva…

Tôi xỉu mất! Cậu ấy, cậu ấy muốn hôn tôi ư? Cảnh tượng lãng mạn trong

mơ lẽ nào sắp diễn ra trong hiện thực? Tôi khẽ hé môi, mắt nhắm lại.

- Đừng nói gì cả!

Hơi thở của cậu ấy lướt trên má tôi, giọng nói ấm áp và êm như nhung

khiến tôi run rẩy. Khuôn mặt tôi tiếp xúc với một thứ gì đó, ồ, sao không phải

trên môi mà… mà lại là… trên mũi?

Tôi mở mắt, thấy Rajiva đang chăm chú ngắm nghía trên gương mặt mình,

ánh mắt lo lắng. Một mảnh khăn được phủ trên mũi tôi. Cậu ấy, cậu ấy không

hề hôn tôi. Thế mà, tôi, tôi… tôi cứ ngỡ…

- Đừng cúi đầu!

Giọng cậu ấy gấp gáp, sau đó một cánh tay ôm lấy vai tôi, bàn chân tôi

dường như không chạm đất, trôi theo Rajiva vào trong phòng. Vòng tay cậu ấy

khác hẳn vòng tay Pusyseda, nhẹ nhàng, ấm áp, khiến tôi cứ muốn dựa vào

như thế, dựa đến trăm năm.

- Hay là ngày mai đến gặp thầy thuốc nhé.

Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với tôi? Kéo mảnh khăn phủ trên mũi xuống,

tôi sững người! Một vệt máu sẫm đỏ loang rộng. Trời đất, tôi đã chảy máu cam

khi vừa mới gặp lại cậu ấy ư? Trời ơi, chảy máu cam là trạng thái khi người ta

bất mãn với điều gì đó kia mà! Nhưng, khi nãy tôi đâu có nghĩ ngợi hay lo lắng

gì. Lẽ nào tôi vì quá ư thương nhớ cậu ấy?

Máu vẫn tiếp tục chảy, Rajiva kê tay để đầu tôi ngửa lên, giọng nhẹ nhàng:

- Yên nào, một lát sẽ hết.

Chiếc khăn lại được phủ lên, Rajiva đỡ tôi ngồi trên chiếc giường thấp.

Tôi ước gì mũi mình tiếp tục chảy máu, để cậu ấy cứ mãi ôm tôi vào lòng

như thế. Nhưng, những giây phút đẹp đẽ luôn qua nhanh, lúc máu ngừng

chảy, tôi chỉ muốn gõ mạnh vào mũi mình một cái.

Rajiva quan sát thấy tôi không chảy máu nữa, thận trọng kéo chiếc khăn

xuống, thu vào trong lòng. Má tôi nóng bừng:

- Cái khăn đó đầy vết máu, để tôi giặt sạch rồi trả lại cho cậu.

Cậu ấy không đáp, lẳng lặng đứng lên, đến bên chiếc tủ đứng, lấy ra một

chiếc khăn mới, đưa cho tôi. Tôi ngẩn ngơ, không biết tôi đã để khăn mùi xoa

ở đó từ khi nào nhỉ?

- Cô chẳng bao giờ chịu dùng khăn, toàn lau miệng bằng tay, không tốt

chút nào.

Vẫn là giọng nói ấm áp ấy, nhưng ánh mắt không nhìn lên.

- Trong tủ này đều là khăn mới, đừng quên nhé…

Hạnh phúc sưởi ấm tôi! Rajiva, cậu vẫn có tình cảm với tôi, đúng không?

Tôi cắn môi, không để nụ cười tiết lộ niềm vui của mình, chớp mắt nhìn cậu

ấy:

- Rajiva, tôi vẫn chưa vẽ xong chùa Cakra…

Cậu ấy thoáng ngạc nhiên, mỉm cười:

- Cô có thể đến bất cứ lúc nào.

Chúng tôi ngồi nhìn nhau, tôi không biết phải nói lời gì tiếp theo. Sau đó thì

tôi bật cười. Không biết vì sao, nhưng tôi thấy niềm vui ngập tràn trong lòng,

không cười lên, tôi cảm thấy có lỗi với bản thân. Thấy tôi hồn nhiên tươi cười,

Rajiva mím chặt môi, nhưng hình như không nén nổi, vành môi cứ mở rộng

dần, uốn cong lên và nụ cười ngày một rạng rỡ.

Chúng tôi cười ngất, quên hết e dè, ngại ngùng. Nhưng tất nhiên, tiếng

cười của tôi hoan hỉ, vang dội hơn cả.

Đột nhiên, Rajiva ôm chầm lấy tôi. Nụ cười mắc kẹt trên gương mặt, tôi

không biết phải biểu hiện cảm xúc của mình lúc này như thế nào.

Cậu ấy không nói năng, chỉ nhẹ nhàng ôm tôi trong vòng tay. Tôi tựa vào

khuôn ngực xương xương của cậu ấy, mê mải lắng nghe tiếng trái tim cậu ấy

gõ nhịp bên tai. Một lúc sau, hơi thở của cậu ấy đột nhiên trở nên gấp gáp,

phả vào cổ tôi.

- Rajiva…

Tôi khẽ gọi cậu ấy, trong lòng không rõ đang chờ đợi hay đang run rẩy.

Rajiva đột ngột đẩy tôi ra, sắc mặt tái nhợt, khuôn ngực vẫn phập phồng

run động, bước chân cuống quít lao ra khỏi căn phòng.

- Rajiva…

Tôi chạy theo, nhưng trong lúc gấp vội, đã không cẩn thận để khuỷu tay

phải đập mạnh vào khung cửa. Cơn đau buốt thấu tận tim gan, tôi kêu lên

thảm thiết.

- Sao vậy?

Rajiva dừng bước giữa sân, vội vã quay lại, dìu tôi vào phòng.

Dưới ánh đèn, cậu ấy nhẹ nhàng vén tay áo tôi lên, vết thương cũ hiển

hiện. Không biết vì sao, đã gần hai tháng rồi mà cánh tay tôi vẫn chưa lành

hẳn. Tất nhiên, một phần cũng do tôi bất cẩn, hàng ngày lúc đi tắm cứ để mặc

nước ngấm vào chỗ đau, khi vết thương mới ăn da non, ngứa ngáy khó chịu,

tôi  lại  ra  sức  gãi.  Không  có  Rajiva  ở  bên  bôi  thuốc  cho  tôi,  hàng  ngày  lại

thường xuyên phải vẽ bằng tay phải, tôi cắn răng chịu đau. Cộng thêm một

ngày dầm mình trong lễ hội té nước, vết toác khó khăn lắm mới đóng lại thành

vảy, đã lại bong ra. Cú va đập khi nãy làm tổn thương vùng nghiêm trọng nhất

khiến vết thương ngày càng mở rộng, sưng tấy, chảy máu, ướt đẫm một mảng

tay áo.

- Sao lại bất cẩn như vậy?

Rajiva ngẩng lên nhìn tôi, vừa thương vừa trách.

- Không chăm sóc cẩn thận nên vết thương mãi không lành lại. Hôm qua, lẽ

ra không nên nghịch nước.

Tôi tủm tỉm cười. Không nghịch nước thì làm sao biết được cậu ấy đã cải

trang đến tìm tôi? Nhưng, cậu ấy muốn giấu thì tôi sẽ vờ như không biết.

Rajiva bôi thuốc cho tôi, buốt xót đến chảy nước mắt. Cậu ấy thở dài, bảo

tôi cố chịu, miệng kề sát vết thương của tôi khe khẽ thổi, vẻ mặt chuyên tâm,

sự chăm chút chu đáo ấy khiến tôi quên cả đau, tôi mải mê ngắm nhìn Rajiva.

Dưới ánh đèn, vầng trán cao rộng, khuôn mặt đẹp như tạc tượng, hàng lông

mày dài thanh tú khe khẽ rung động, nước da bánh mật lung linh dưới ánh

sáng vàng vọt, hắt lên những gam màu quyến rũ, tuyệt đẹp.

Rajiva  nhẹ  nhàng  băng  bó  cho  tôi,  sau  đó  lại  nhẹ  nhàng  kéo  tay  áo  tôi

xuống. Hai mươi tư năm trong đời, đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được niềm

hạnh phúc vô bờ của người con gái khi được một người đàn ông chăm sóc,

yêu thương. Nếu Rajiva không ngẩng đầu lên và đỏ mặt, hẳn tôi sẽ còn tiếp

tục đắm đuối ngắm nhìn cậu ấy mãi mãi.

Rajiva quay đầu đi, hồi lâu mới lên tiếng nhắc nhở tôi tránh tiếp xúc với

nước. Sau đó, lại rơi vào trạng thái trầm ngâm.

- Khi nãy…

Cậu ấy đứng lên, không nhìn tôi, tần ngần buông tiếng.

- Rajiva đã mạo phạm…

- Rajiva…

Tôi muốn nói nhưng không đủ sức thốt lên lời nào. Tôi có thể nói gì bây

giờ? Nói rằng tôi không những không trách cậu ấy mà ngược lại, tôi mong chờ

điều đó ư? Hay nói với cậu ấy rằng tôi rất tham lam, tôi mong đợi nhiều hơn

một cái ôm của cậu ấy ư?

- Muộn rồi, tôi phải về!

Rajiva đã lấy lại ngữ điệu điềm tĩnh thường ngày, bước chân vừa đến cửa,

bỗng ngừng lại:

- Ngày mai, cô có thể đến chùa bất cứ lúc nào.

Tôi lười biếng nằm dài trên giường, ngóng theo bóng dáng cao gầy ấy dần

khuất xa. Rốt cuộc, cậu ấy vẫn không thể vượt qua những chướng ngại trong

lòng. Vòng tay khi nãy đẹp như một giấc mộng không có thực. Hay là, tôi vẫn

đang mơ, giấc mơ tuyệt đẹp…

Chương 29: Sự phẫn nộ của Pusyseda

Tôi ngắt từng cánh hoa, đi, không đi, đi, không đi, cánh hoa cuối cùng:

Không đi. Bỏ qua, bỏ qua, không tính, không tính, tôi ngắt một bông hoa khác,

lần này kết quả khả quan hơn: Đi! Tốt rồi, đó là ý trời, nào thì đi!

Tôi đã quyết định có đến chùa Cakra vẽ tranh hay không bằng cách như thế

đó. Vừa tới nơi, mắt tôi như thiết bị dò tự động, quét qua các góc cạnh để tìm

kiếm bóng dáng ấy, tìm thấy rồi, hai má tự nhiên nóng bừng, lại cắm cúi làm

việc. Cánh tay băng bó co duỗi khó khăn, chỉ vẽ được một lát là phải nghỉ.

Đang vẽ vẽ xóa xóa thì một chú tiểu xuất hiện với cốc nước và một mảnh giấy,

trên đó là những chứ Hán rất đẹp: “Vết thương chưa lành, đừng nên vẽ nữa”.

 Niềm vui như ngọn lửa sưởi ấm cõi lòng tôi. Tôi ngẩng lên, Rajiva đang trò

chuyện với sư phụ Bandhuddata trên đại điện, ánh mắt ơ hờ khẽ lướt về phía

tôi, thấy tôi cầm mảnh giấy trên tay, cậu ấy lại bình thản tiếp tục câu chuyện.

Tôi không còn tâm trí để vẽ tiếp, kỷ niệm ngày đầu Rajiva đưa tôi đến tham

quan ngôi chùa này ùa về, tôi muốn dạo quanh một vòng. Vừa bước đi vừa

nhớ lại biểu cảm và những lời cậu ấy nói khi đó, bất giác mỉm cười. Những hồi

ức ngọt ngào đủ để tôi nhâm nhi hết một ngày dài.

Tôi chỉ trở về căn nhà nhỏ khi Rajiva kết thúc giờ tụng kinh chiều muộn.

Buổi tối cậu ấy sẽ tới, vì cánh tay tôi vẫn cần được chăm sóc. Tôi có nên nghĩ

cách làm cho vết thương ấy phục hồi chậm lại một chút không? Vì như thế, tôi

sẽ khỏi phải ủ dột khi nghĩ đến ngày tháng li biệt sắp tới. Mặc dù tôi biết rằng

trước sau gì cũng phải ra đi, nhưng có thể chậm ngày nào tôi sẽ biết ơn ngày

đó. Sếp ơi, xin thầy đừng trách em, khi trái tim phụ nữ đã rung động thì lí trí

đâu còn chỗ trú chân.

Vừa về đến cổng đã thấy một cỗ xe ngựa, tôi chớp mắt nhìn cho kĩ, phù

hiệu gắn trên cỗ xe rất quen. Ai đó xuất hiện từ phía sau xe, dáng người cao

lớn, gương mặt khôi ngô tuấn tú, mặc một bộ quân phục màu đen, viền vàng

lấp lánh, eo thắt một chiếc đai thêu kim tuyến, sau lưng dắt một thanh kiếm

dài. Đàn ông mặc quân phục tỏa ra sức hấp dẫn thật kì lạ, có thể đánh bại bất

cứ đối thủ cùng giới nào. Nhưng khuôn mặt này có điều gì đó rất lạ.

- Pusyseda?

Tôi kinh ngạc kêu lên.

- Sao cậu lại đến đây?

Pusyseda lạnh lùng nhìn tôi, hồi lâu mới cất tiếng:

- Đến đón chị về phủ.

Giọng nói lạnh như băng khiến tôi rùng mình.

- Tôi đã hẹn mười ngày sẽ về mà.

Tôi bước lại gần, quan sát kỹ khuôn mặt ấy.

- Xảy ra chuyện gì vậy?

- Cha tôi muốn gặp chị.

Pusyseda quay mặt đi, né tránh.

- Cha tôi… từ lúc biết tin của mẹ, đã không ngừng thổ huyết…

Tôi hoảng hốt:

- Rajiva có biết không? Cậu đã đến chùa chưa? Đi nào, chúng ta phải thông

báo ngay cho cậu ấy.

Tôi  kéo  tay  Pusyseda  nhưng  cậu  ta  không  hề  động  đậy,  ánh  mắt  chăm

chăm nhìn bàn tay tôi, một tiếng cười nhạt bật ra:

- Cần gì phải đến chùa, tối nào anh ta chẳng về đây.

- Cậu…

Tôi sững người, cậu ta biết rồi ư!

- Mavasu đã nói hết với tôi. Thì ra chị đã trở về được ba tháng rồi và ba

tháng ấy chị luôn ở bên Rajiva.

Pusyseda đột ngột kéo tôi sát lại, cánh tay cứng như thép bóp chặt vết

thương của tôi, tiếng kêu đau đớn của tôi không khiến cậu ta bận tâm. Cậu ta

ép sát tôi vào ngực mình, đổ người lên khuôn mặt tôi, sắc diện u ám, nghiến

răng gầm gào:

- Anh ta giấu chị ở đây, định bụng học theo Hán Vũ Đế “lầu son giấu người

đẹp” chứ gì? Một vị cao tăng đại đức như anh ta mà cũng chẳng thể kháng cự

được sức quyến rũ của đàn bà! Thật nực cười, thế mà tôi vẫn nghĩ chị chưa

bao giờ đụng đàn ông. Không ngờ, từ lâu đã bị kẻ đạo đức giả ấy chiếm đoạt

rồi!

- Pusyseda, cậu không được ăn nói xằng bậy!

Tôi nổi cơn thịnh nộ, định dùng cánh tay còn lại cho cậu ta một cái tát,

nhưng đã bị giữ chặt, tay tôi như muốn lìa ra. Càng ra sức vùng thoát, cơn

đau buốt, nhức nhối càng dữ dội. Nước mắt trào ra, tôi kêu gào:

- Buông tôi ra! Cậu không được phép lăng mạ Rajiva! Chúng tôi hoàn toàn

trong sạch…

- Trong sạch ư?

Pusyseda cướp lời tôi, ánh mắt dữ dằn, khuôn mặt như biến dạng.

- Được thôi, bây giờ chúng ta sẽ lên giường, hãy chứng minh cho tôi thấy

chị vẫn là một trinh nữ.

Cậu ta lôi tôi đi về hướng căn phòng, cánh tay phải thoát khỏi gọng kìm, tôi

bám chặt lấy cột chống hiên nhà, kiên quyết không thả ra. Giây phút ấy tôi vô

cùng khiếp sợ, vì xưa nay chưa từng thấy Pusyseda dữ tợn như vậy. Cậu ta mà

làm tới, tôi chẳng thể chống cự nổi.

- Buông ra! Vì sao tôi phải chứng minh bằng cách đó? Cậu không đủ tư

cách ép buộc tôi!

Cánh tay phải của tôi như sắp gãy, vết thương nhức buốt khiến tôi không

còn sức để bám vào cột nhà nữa. Nhưng nếu tôi đầu hàng, thật không dám

tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo! Cậu ta như đã mất hết lí trí. Tôi

vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết:

- Pusyseda, cậu điên rồi. Lẽ nào cậu muốn tôi phải căm ghét cậu?

Vợ  chồng  Mavasu  đều  chạy  ra,  kinh  hãi  đứng  bên,  hết  lời  khuyên  nhủ

Pusyseda. Pusyseda thấy tôi nhất quyết không chịu buông cây cột, liền quay

người, túm chặt hai tay tôi, cơ thể cường tráng áp sát lên thân thể tôi.

- Tư cách hả?

Pusyseda nhếch môi cười, một tay nắm chặt hai tay tôi, một tay thô bạo

túm cằm tôi, đẩy gương mặt lên đối diện với đôi mắt của cậu ta.

- Tôi điên dại bám lấy chị bao nhiêu ngày qua. Không biết là chị quá ư xuẩn

ngốc hay quá ư thông minh nữa? Với anh ta thì được, với tôi thì không ư? Mở

miệng  ra  là  trong  trắng,  cao  thượng,  sách  vở,  nào  là  cuốn  hút  nào  là  yêu

thương nào là gắn bó, thế nhưng chị đã không ngại “ra tay” quyến rũ cả hòa

thượng nức danh Tây vực. Giờ còn giả bộ trong trắng, thuần khiết ư?

- Sao cậu dám xỉ nhục tôi? Tôi hoàn toàn trong sạch, tôi không trác táng

như cậu, lúc nào cũng chỉ muốn lên giường với phụ nữ. Mối quan hệ giữa tôi

và Rajiva, một kẻ thô thiển như cậu không bao giờ có thể hiểu được.

Tôi gào lên trong nước mắt, cánh tay bị thương như sắp rời bỏ thân thể, tôi

đau đớn tê dại.

Pusyseda toan lên tiếng, bỗng dừng lại, ánh mắt lạnh lùng lướt qua cánh

cổng, khóe môi thoáng qua một tia cười gian manh, bất chợt nghiêng đầu về

phía tôi. Trong hỗn loạn đau đớn và sợ hãi, một vật thể mềm ướt trùm lên môi

tôi, đầu óc tôi trống rỗng…

Pusyseda gan lỳ o bế, đòi tách đôi môi đang cố mím chặt của tôi ra, đầu

lưỡi đưa đẩy hít hà trên môi tôi, tìm đường xông tới. Tôi dặn lòng phải khép

môi thật chặt, nhưng một cơn đau nhói ở môi dưới khiến tôi rụng rời, cậu ta cả

gan cắn tôi! Phản xạ tự nhiên của tôi là lập tức hé miệng, Pusyseda đột nhập,

đầu lưỡi ẩm ướt của cậu ta quần đảo trong miệng tôi, tìm kiếm, săn đuổi đầu

lưỡi tôi đang trở nên bất lực đến tội nghiệp.

- Cậu cả!

Tiếng Mavasu. Tôi rùng mình, trời ơi, Rajiva đến rồi! Cậu ấy đã nhìn thấy!

Tôi vắt kiệt sức tàn, cố gắng vùng thoát, nhưng vô ích. Trong cơn quẫn bách,

tôi cắn Pusyseda, cậu ta kêu lên một tiếng, nhả tôi ra, một tay ôm lấy miệng,

tay kia vẫn giữ chặt hai tay tôi. Chùm tia vằn vện tức tối trong mắt nhạt dần,

nụ cười khó hiểu trồi trên khuôn mặt, ánh mắt thách thức, khiêu khích hướng

ra ngoài sân.

Tôi quay đầu, nhìn thấy Rajiva đang đứng như trời trồng giữa sân, sắc mặt

tái nhợt. Pusyseda gào lên một câu tiếng Phạn, toàn thân Rajiva rung động,

sắc mặt càng trở nên thảm hại.

- Buông tôi ra!

Tôi nổi trận lôi đình, trong đời mình, chưa bao giờ tôi phải chịu sự lăng mạ

thế này, tôi không thể nhẫn nhịn được nữa:

- Pusyseda, đến bao giờ cậu mới chịu lớn hả? Cha cậu đang hấp hối trên

giường bệnh, vậy mà cậu vẫn còn tâm trạng giở trò ở đây à?

Khuôn mặt Pusyseda đột nhiên biến sắc, dần buông cánh tay đang khóa

chặt lấy tôi. Rajiva sải bước đến trước mặt cậu ta, giật tay Pusyseda ra khỏi

người tôi, đứng chắn ngang giữa chúng tôi, giọng nói thảng thốt:

- Cha sao rồi?

Quầng mắt Pusyseda đỏ hoe, cúi thấp đầu, vẻ mặt đau khổ:

- Thầy thuốc bảo… rất nguy kịch…

Rajiva chắn trước mặt tôi, không nhìn thấy vẻ mặt, chỉ thấy tấm lưng của

cậu ấy đang rung động. Pusyseda đột nhiên xông tới, túm lấy cổ áo Rajiva, cất

lời chì chiết:

- Tất cả là tại anh! Anh thừa biết cha đang yếu, vì sao vẫn báo tin mẹ mất?

Rajiva im lặng, tôi thấy bất bình.

- Pusyseda, thôi đi!

Tôi chạy đến bên họ, ra sức gỡ cánh tay Pusyseda đang khóa chặt Rajiva.

- Bây giờ là lúc tranh cãi chuyện này hay sao? Việc cần kíp trước mắt là phải

nhanh chóng về phủ.

Tôi ngừng lại, nhìn hai anh em họ, tâm trạng nặng nề.

- Tôi không muốn hai người hao phí thời gian vào cuộc tranh chấp vô nghĩa

này, để rồi ngày sau phải ân hận…

Họ như bừng tỉnh sau cơn mê, Pusyseda buông tay. Tôi nhẹ nhàng đến bên

Rajiva:

- Rajiva, cậu có cần chuẩn bị gì không?

Rajiva rầu rĩ lắc đầu, tôi hạ lệnh:

- Vậy thì chúng ta sẽ khởi hành ngay, chừng nửa đêm là tới nơi.

- Chờ đã!

Rajiva bước nhanh vào phòng. Lúc trở ra, cậu ấy cầm trên tay một túi đồ

nhỏ.

- Đi thôi!

Ba chúng tôi yên lặng trên xe. Pusyseda muốn ngồi cạnh tôi, nhưng tôi bỏ

sang ngồi phía đối diện. Rajiva lên sau, quan sát một lát, rồi lặng lẽ ngồi xuống

bên cạnh em trai.

Cỗ xe lăn bánh, Rajiva mở gói đồ, tôi lặng người. Bên trong có thuốc bôi

ngoài da, rượu thuốc và vải sạch.Lúc này tôi mới nhớ đến cánh tay nóng rát

của mình, vết máu loang lổ tay áo. Tôi gắng gượng dùng tay trái đỡ lấy tay

phải, cơn đau buốt ập đến, khiến tôi kêu bật thành tiếng.

- Ngải Tình, tay chị sao vậy?

Từ lúc lên xe, Pusyseda ngượng ngập không dám nhìn tôi, nhưng khi nghe

tiếng tôi kêu, cậu ta đột nhiên nắm chặt cánh tay tôi, định vén tay áo lên kiểm

tra. Tôi không muốn cậu ta chạm vào người mình thêm nữa, cố sức rút tay ra,

nhưng càng ra sức, vết thương càng nhức buốt tưởng như không thở nổi, tôi

rên rỉ.

-  Khi  nãy  tôi  đã  không  phải,  tôi  cũng  không  biết  mình  làm  sao  nữa,  tôi

không nên xử sự như vậy.

Tôi kêu đau, cậu ta liền buông tay. Không gian trên xe quá ư chật hẹp,

Pusyseda gần như quỳ trước mặt tôi, ánh mắt nhìn tôi vừa xót xa vừa ân hận.

- Cho tôi xem vết thương của chị được không?

Tôi thờ ơ không đáp, tự mình vén cao tay áo, hai anh em họ đồng thanh

thốt lên một tiếng kêu nhỏ. Máu đã thấm đẫm lớp vải quấn bên ngoài. Trời ơi,

nếu cứ tiếp tục thế này, cánh tay tôi hỏng mất!

Tôi cắn răng, tháo lớp vải quấn, Pusyseda muốn giúp, tôi vung tay né tránh,

cánh tay đập vào thành xe, cơn thống khổ đẩy nước mắt tuôn lã chã. Một

cánh tay gầy guộc nhẹ nhàng vươn ra, đỡ lấy tay tôi. Không một lời, cậu ấy chỉ

lặng lẽ, chậm rãi, thận trọng gỡ lớp vải bọc trên vết thương của tôi, Tôi thư

thái tận hưởng sự chăm sóc dịu dàng ấy, tâm trạng trở nên nhẹ nhõm hơn, nỗi

đau thuyên giảm.

Lớp vải cũ được gỡ xuống, Pusyseda hốt hoảng. Vết thương há miệng rất

rộng, nhiễm trùng nghiêm trọng, vệt máu sẫm đỏ. Rajiva cầm chai rượu thuốc

trên tay, tôi cắn răng quay đầu không nhìn. Cơn đau đớn, buốt xót làm tê tái

tim gan, mình mẩy, dù đã gắng sức kìm chế, tiếng kêu thê thảm vẫn rung lên

trong cuống họng. Tôi nắm chặt tay trái, móng tay như cắm sâu vào da thịt.

Một bàn tay giá lạnh ôm lấy cánh tay tôi, tôi gắng gượng nhìn lên, bắt gặp nỗi

hoảng sợ trên gương mặt Pusyseda.

- Ngải Tình, chị bị thương khi nào vậy? Sao tôi không hề hay biết?

Tôi không đáp, mắt nhắm chặt, ngã lưng vào thành xe. Rượu thuốc lành

lạnh liếm trên vết thương, giúp tôi hạ nhiệt cơn bỏng rát. Bàn tay Rajiva nhẹ

nhàng phủ từng lớp vải mới lên cánh tay tôi, từ lúc bắt đầu cho tới khi kết

thúc, cậu ấy hoàn toàn thinh lặng.

Trời sẫm tối, khí lạnh thổi vào trong xe, tôi co người lại. Pusyseda vẫn chưa

ngớt lời xin lỗi, bất giác tôi cảm thấy mỏi mệt vô hạn, không phải nỗi nhọc mệt

thể xác mà là tinh thần.

Sự điên cuồng của Pusyseda ngày hôm nay khiến tôi nhận ra, không biết từ

khi nào cậu ta đã có ý với tôi. Nhưng tôi không thể đáp lại tình cảm của cậu ta,

tôi không thể đáp lại tình cảm của cả hai anh em họ…

- Pusyseda…

Nếu tôi không ngắt lời, chắc là cậu ta sẽ xin lỗi cả đêm.

- Tôi tha thứ cho cậu…

Bóng đêm bao phủ, không nhìn rõ gương mặt cậu ta, nhưng trong giọng

nói đã lộ rõ niềm vui. Tôi điềm nhiên:

- Về thăm cha cậu, nếu ông không có gì đáng ngại, vài ngày nữa tôi sẽ theo

đội thương nhân đến thành phố Taqian của Ban Siêu, sau đó sẽ đi Trường An.

- Chị…

Tay trái tôi bị nắm chặt, giọng Pusyseda hốt hoảng:

- Chị vẫn muốn ra đi ư?

- Tôi có kế hoạch của riêng mình, không thể ở lại Khâu Từ.

Tôi muốn bứt tay ra, nhưng cậu ta ngoan cố kìm chặt. Tôi gắng dùng sức,

cậu ta mới nhả tay.

- Ngải Tình…

- Pusyseda, tôi rất mệt…

- Ngải Tình, chị mệt thì dựa vào vai tôi mà ngủ.

- Pusyseda, xin cậu, ít nhất là hôm nay, đừng đụng vào tôi nữa…

Tiếng  vó  ngựa  lạc  lõng  vang  trên  đường.  Tôi  không  nhìn  rõ  gương  mặt

Rajiva, từ lúc lên xe đến giờ, cậu ấy không hề lên tiếng, kể cả lúc băng bó cho

tôi. Như vậy cũng tốt, nhìn thấy, nghe thấy có khi lại khiến tôi động lòng. Ba

chúng tôi im lặng hòa mình vào bóng đêm…

Chương 30: Nỗi mất mát

Bước  chân  vào  phòng  Kumarayana,  không  gian  nồng  nồng  hơi  thuốc.

Chúng tôi trở về phủ quốc sư đã hơn mười ngày, bệnh tình của Kumarayana

không hề thuyên giảm. Mỗi ngày ông đều thổ huyết, hôn mê bất tỉnh nhiều

lần. Pusyseda túc trực bên cha cả ngày lẫn đêm, cậu ta gầy rộc đi trông thấy.

Rajiva cũng ngày ngày cận kề bên giường cha, chăm sóc ông và tụng kinh cho

ông. Hai anh em họ bận bịu tới mức không còn tâm trí để ý đến tôi nữa, điều

đó khiến tôi thấy thoải mái hơn. Tôi không thể ra đi lúc này, tôi phải góp sức

giúp họ chăm sóc Kumarayana.

- Quốc sư…

Tôi ghé sát bên giường Kumarayana, ông héo hon, tàn tạ đến thương tâm,

trên người ông, dường như chỉ còn đôi mắt màu xám nhạt là nơi duy nhất toát

ra sự sống.

- Cô Ngải Tình đến đấy à?

Ông khẽ gật đầu, gượng dậy, tôi vội vàng đến bên, chèn gối tựa sau lưng

ông, bàn tay chạm phải thân hình da bọc xương của ông, trong lòng bỗng

dâng lên nỗi chua xót!

- Cô Ngải Tình hẳn là rất bất ngờ khi ta muốn trò chuyện riêng với cô, đúng

không?

- Vâng, một chút ạ.

Tôi thành thật thừa nhận. Không hiểu sao, tôi luôn có cảm giác ông giống

như là “sếp” của tôi vậy. Mặc dù tôi luôn gọi thầy hướng dẫn của mình là sếp,

nhưng thầy luôn là người mà tôi kính trọng nhất. Tôi mỉm cười.

- Quốc sư cho gọi Ngải Tình, hẳn là có chuyện muốn nói.

-  Cô  Ngải  Tình  không  giống  những  cô  gái  bình  thường  khác,  mười  năm

trước ta đã nhận ra điều này.

Tôi lặng yên không đáp.

- Ta tự biết không còn sống được bao lâu nữa, lòng ta vốn đã chán ngán cõi

trần, đi sớm ngày nào sẽ bớt phiền hà cho người thân ngày ấy.

Sống mũi tôi cay cay, tôi muốn nói điều gì đó thật lạc quan để an ủi ông,

nhưng ánh mắt tinh anh của ông đã ngắt lời tôi:

- Nhưng người ta ai cũng vậy, đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa hết

những mối bận tâm, với ta là hai đứa con này…

Trực giác mách bảo với tôi rằng, chủ đề lần này của ông chắc chắn có liên

quan đến anh em họ, nên tôi yên lặng chờ đợi.

- Cô Ngải Tình là người kì lạ, liệu cô có thể tiết lộ cho kẻ sắp rời xa thế gian

này được biết, hai đứa con trai của ta ngày sau sẽ ra sao không?

Tôi kinh ngạc, ngước lên đôi mắt sáng như thấu tỏ tâm can người đối diện.

Lẽ nào ông ta đã đoán ra lai lịch của tôi? Nhưng, vì sao ông biết được?

- Mười năm qua dung mạo của cô không hề thay đổi, năm xưa cô lại đột

ngột biến mất. Ta tin rằng, cô nhất định biết được những chuyện mà người

bình thường không thể biết.

Tôi không được phép tiết lộ lịch sử, nhưng tôi có nên cứng nhắc giữ nguyên

tắc đó với một người sắp qua đời? Thấy tôi do dự, ông tiếp tục:

- Xin cô hãy tin ta, ta không tiết lộ thiên cơ đâu.

Sau khi suy xét kĩ lưỡng, tôi quyết định tiết lộ một vài thông tin quan trọng,

vì tôi không đành lòng giấu ông.

- Thưa quốc sư, Rajiva ngày sau sẽ lưu danh sử sách.

Tôi ngập ngừng giây lát:

- Còn về Pusyseda, xin quốc sư yên tâm, Ngải Tình hứa sẽ bảo vệ cậu ấy.

Lịch sử không ghi chép bất cứ điều gì về Pusyseda, có lẽ cậu ta sẽ sống

cuộc đời bình yên giống như những người bình thường khác. Và tôi quyết định

sẽ chủ động nhắc nhở cậu ta khi cần thiết, để cậu ta không rơi vào thảm kịch

sẽ xảy ra mười một năm sau. Tôi cũng chỉ có thể giúp cậu ta chừng đó.

- Thành tựu mà Rajiva có được là về lĩnh vực Phật học?

Tôi gật đầu.

- Rajiva có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình truyền bá đạo Phật vào

Trung Nguyên.

Kumarayana trầm ngâm suy tư, một lúc lâu sau ông mới lên tiếng:

- Người làm cha làm mẹ, ai cũng mong con cái thành đạt, nhưng quan

trọng hơn cả vẫn là sự bình an.

Cơn ho ào đến, tôi vội vã tới bên giúp ông giữ nhịp thở đều đặn. Ông lấy

hơi, tiếp tục câu chuyện:

- Tôi không thấy lo nhiều về Pusyseda. Nó là người dám làm dám chịu, tính

cách phóng khoáng, tuổi trẻ nông nổi có chút phản kháng cũng không sao, rồi

thời gian qua đi, nó sẽ trưởng thành và chín chắn hơn. Người khiến tôi lo lắng

hơn cả là Rajiva…

Trống  ngực  đập  thình  thịch,  tôi  ngạc  nhiên  nhìn  ông.  Từ  khi  đổ  bệnh,

Kumarayana chưa bao giờ trò chuyện nhiều đến thế. Gương mặt ông lúc này

ửng lên sắc đỏ dị thường, ông nói trong tiếng ho khan:

- Nó quá thông minh và từ nhỏ đến lớn chưa từng nếm trải cực khổ. Trong

lòng suy nghĩ rất nhiều, nhưng không bao giờ tâm sự với ai. Tính cách ấy sẽ

khiến cuộc đời nó trở nên bất hạnh.

Tôi nhớ từng đọc một bài báo viết về một nhóm các nhà khoa học nghiên

cứu, lai tạo ra giống chuột đột biến gen thông minh hơn rất nhiều loài chuột

thông thường. Và người ta hào hứng kháo nhau rằng, nếu áp dụng phương

pháp gây đột biến gen đó lên cơ thể người thì con người sẽ trở nên thông

minh hơn, tài giỏi hơn rất nhiều. Nhưng không lâu sau, người ta lấy làm vui

mừng vì đã không vội vàng biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Bởi vì nghiên cứu

cho thấy, tuy rằng loài chuột đột biến gen trở nên thông minh hơn, nhưng

chúng cũng phải trả một cái giá rất đắt. Bộ gen mới trong cơ thể “chuột thông

minh” có tác dụng kích thích thần kinh, giúp chúng phát triển trí nhớ và trí

tuệ, nhưng đồng thời cũng khiến chúng trở nên mẫn cảm hơn với nỗi đau và

sự tổn thương.

Thế nên, quá ư thông minh không hẳn đã tốt. Khi bi kịch xảy đến, người

thông minh sẽ cảm thấy vô cùng tồi tệ và không thể chấp nhận hiện thực,

thậm chí không thể chịu đựng nổi. Người bình thường có thể xem nhẹ hoặc bỏ

qua để tiếp tục sống, nhưng họ thì không. Họ dễ trở nên mất phương hướng

và hóa điên dại và cuộc đời họ vì thế sẽ chỉ toàn thảm kịch. Đó là bi kịch của

những người thông minh. Rajiva cũng khó tránh khỏi vận mệnh này.

- Tuy không rõ cô Ngải Tình từ đâu tới, nhưng cô nói Rajiva thành công

trong lĩnh vực Phật học, ta tin là cô đúng.

- Quốc sư, xin hãy nghỉ ngơi một lát.

Tôi mang nước tới cho ông. Ông thở dài, mệt nhọc cất tiếng:

- Không nói, e là không còn thời gian nữa.

Kumarayana đột nhiên hướng ánh nhìn nghiêm khắc về phía tôi:

- Cô Ngải Tình đã biết trước Rajiva sẽ dâng hiến trọn đời nơi cửa Phật, vì

sao vẫn để nó nảy sinh tình cảm với cô? Như thế, có tàn nhẫn quá không? Phải

chăng, Phật tổ cử cô tới đây để thử thách nó?

Bàn tay tôi run bắn, cốc nước rơi xuống, vỡ choang. Tôi hốt hoảng thu dọn,

trong lúc cuống quít, mảnh vỡ lẹm một đường vào tay, vết cứa ấy đánh thức

tôi. Vậy là ông đã biết từ lâu. Cũng phải thôi, Mavasu là người nô bộc trung

thành đã theo ông từ Ấn Độ đến Khâu Từ. Tôi sống trong căn nhà nhỏ của

Rajiva ba tháng trời, làm sao giấu ông được.

- Quốc sư…

Ông thở dài, vẻ mặt mỏi mệt, buồn khổ.

- Ta là người từng trải, từng bị nỗi khổ vì yêu dày vò. Năm xưa hoàn tục, ta

đã chịu rất nhiều lời phỉ báng, chỉ trích. Cứ ngỡ, một chữ tình có thể hóa giải

tất cả, đền bù tất cả. Nào ngờ, người ta yêu thương lại là người có trái tim sắt

đá, một lòng theo đuổi lí tưởng, khiến cả hai đứa con phải chịu khổ cùng ta.

Ông dứt cơn thở gấp, ngừng lại nghỉ ngơi, rồi mới tiếp tục.

- Ta biết cô cũng có tình cảm với Rajiva. Nhưng nó đã một lòng hướng

Phật, ngày sau lại có được thành tựu như vậy, nó không thể dành chỗ cho tình

yêu trong tim mình được.

Ông nhắm mắt, vẻ mệt mỏi cùng cực, khóe môi run run:

- Xin cô Ngải Tình đừng giẫm lên vết xe đổ của ta…

Tôi thẫn thờ bước ra khỏi căn phòng của Kumarayana, cảm thấy mình như

đang  trôi  đi,  thân  thể  hoàn  toàn  trống  rỗng,  hoàn  toàn  kiệt  sức.  Pusyseda

đang đi đi lại lại trước cửa phòng, thấy tôi, vội vã bước tới truy hỏi:

- Cha đã nói gì với chị?

- Không có gì?

Tôi khẽ lẩm bẩm, thấy cậu ta ý chừng vẫn muốn hỏi tiếp, tôi rầu rĩ lắc đầu:

- Pusyseda, tôi rất mệt, muốn nghỉ một lát.

Trên đường về phòng, tôi gặp Rajiva đang mang thuốc vào cho cha, ánh

mắt nhìn tôi đăm đắm, đầy vẻ lo lắng và xót xa. Nước mắt cứ muốn trào ra, tôi

vội cúi đầu để cậu ấy không thấy được, lẳng lặng rảo bước về phòng.

Ngày nào cũng vậy, khi màn đêm tĩnh mịch buông xuống, Rajiva lại ngồi

trong phòng tụng kinh. Đã thành thói quen, tôi tắt đèn, giấu mình trong bóng

tối. Ánh đèn leo lét bên phòng đối diện hắt lên khung cửa sổ một bóng hình cô

độc. Bóng người dường như bất động, chỉ có âm thanh tụng niệm lầm rầm

vang vọng trong không gian tĩnh lặng. Rajiva, nếu chúng ta không bị ngăn

cách bởi 1650 năm thời gian, nếu cậu không phải mang thân phận người tu

hành, suốt đời chẳng thể thay đổi ấy, có lẽ tôi sẽ có đủ nghị lực để thổ lộ tình

cảm với cậu. Tôi tin rằng cậu cũng có tình cảm với tôi, không biết khi ấy, cậu

có bằng lòng không? Nhưng, vì sao cuộc đời lắm nỗi trái ngang như vậy? Hai

chúng ta, rốt cuộc cũng vẫn chỉ là hai đường song song tình cờ giao nhau. Khi

trở lại vị trí của mình, chúng ta vẫn chẳng thể rũ bỏ những chướng ngại trong

lòng mỗi người. Tôi yêu cậu, bởi vậy, tôi quyết định, sẽ từ bỏ…

Bệnh tình của Kumarayana ngày một trầm trọng. Đức vua, hoàng hậu và

hoàng thân quốc thích Khâu Từ thường xuyên tới thăm ông. Tôi đã nhìn thấy

Bạch Chấn, em trai út của Bạch Thuần, người mà mười một năm sau đã được

Lữ  Quang  đưa  lên  ngôi  vua  Khâu  Từ.  Tôi  cũng  đã  nhìn  thấy  công  chúa

Aksayamati, lúc này vẫn còn là một cô bé gái chừng tám, chín tuổi. Cảm xúc

của tôi lúc nhìn thấy cô bé thật khó diễn tả. Aksayamati là người mà mười một

năm sau sẽ trở thành vợ Rajiva. Lúc trước, khi đọc tới đoạn sử này, tuy có cảm

thông với Rajiva, nhưng cảm xúc chính của tôi là câu chuyện này thật ly kỳ,

thú vị, tôi hào hứng mang nó đi kể cho mọi người nghe. Giờ đây, khi tôi đã trở

thành một phần trong cuộc sống của cậu ấy, đoạn sử ngắn ngủi kia trở nên vô

nghĩa, yêu Rajiva, tôi nhận ra mình không thể chịu đựng được việc sau này cậu

ấy có mối quan hệ như thế với người phụ nữ khác. Nghe thấy giọng nói ngọt

ngào của Aksayamati khi gọi Rajiva và nhìn thấy cậu ấy tươi cười với cô bé, tôi

nổi cơn ghen tuông, bất chấp đối tượng chịu trận chỉ là một cô bé con. Nhưng

khi cơn thịnh nộ sắp bộc phát, thì những lời nói của Kumarayana lại văng vẳng

bên tai, lạnh buốt tựa băng giá, thấm vào lòng tôi, dập tắt mọi ngọn lửa điên

cuồng trong tôi. Phải rồi, tôi đã hứa với Kumarayana sẽ nhanh chóng rời khỏi

đây. Vậy thì tôi lấy tư cách gì để ghen tị với số mệnh đã được an bài của

Rajiva?

  Những  loại  thuốc  quý  giá  nhất  cũng  chỉ  có  thể  kéo  dài  sự  sống  của

Kumarayana được hơn chục ngày, ông như ngọn đèn trước gió. Đêm đó, hai

anh em họ túc trực bên giường cha, tôi nép mình vào một góc khuất, giọng nói

ngắt quãng của Kumarayana xen trong hơi thở khó khăn, đủ biết ông đã gắng

gượng chừng nào.

- Pusyseda, đừng ghét bỏ mẹ con… bà ấy… lúc nào cũng yêu con!

Ánh mắt tinh anh của ông giờ phút này đã trở nên mơ hồ, chỉ có thanh

quản vẫn phập phồng lên xuống, khó khăn lắm mới nghe rõ lời ông:

- Không biết… có thể… đoàn tụ với bà ấy… trên cõi cực lạc… hay không?

Gương mặt héo hon chỉ còn da bọc xương thoáng hiện một nét cười khổ sở:

- Chắc là không được rồi… Bà ấy đã chứng tam quả… cắt đứt mọi tơ tình

nhân thế… trong khi ta vẫn đắm chìm trong bể khổ tương tư…

Pusyseda nắm chặt tay cha, khóc cạn cả nước mắt. Rajiva vẫn thinh lặng

nhìn cha, vẻ mặt thê lương. Kumarayana mấp máy môi:

- Lần đầu gặp bà ấy, con tim ta đã lạc nhịp…

Ánh mắt ông chợt bừng sáng, như thể ông vừa nhìn thấy ai đó.

- Bà ấy rất đẹp, lại thông minh, lanh lợi, dễ thương… Jiva, đừng đi… bọn trẻ

còn nhỏ lắm…

Kumarayana đột nhiên đưa tay về phía trước, ông đã hoàn toàn đắm chìm

trong kí ức. Tôi nhìn thấy nét dịu dàng, yêu thương chưa từng thấy trong đôi

mắt ông, như thể, người ông ngày đêm mong nhớ đang hiển hiện trước mắt

ông vậy.

- Jiva, chờ ta…

Kumarayana chới với vươn ra phía trước, Pusyseda ôm chầm lấy cha. Cánh

tay Kumarayana buông thỏng, ông đổ người vào vòng tay Pusyseda. Pusyseda

gọi cha trong cơn tuyệt vọng, nhưng ông không đáp lại. Rajiva vẫn thinh lặng

đứng đó, không một biểu cảm đặc biệt nào trên nét mặt, đột nhiên cậu quỳ

sụp  xuống,  tiếng  tụng  niệm  vang  lên.  Hai  anh  em  họ  thể  hiện  những  tâm

trạng hoàn toàn không ăn khớp với nhau.

- Thôi đi! Ngoài tụng kinh ra, anh còn biết làm gì nữa?

Pusyseda đặt cha xuống giường, quay người lại gằn hắt anh trai, giọng nói

đầy vẻ thô bạo.

- Cả ngày chỉ biết tụng kinh thì ích gì chứ? Tụng kinh có làm cha sống lại

không?

Cậu ta chỉ tay vào Rajiva, điệu bộ chì chiết dữ dằn:

- Anh chỉ biết trốn chạy trong kinh văn, Phật tổ của anh, ngoài việc vẽ ra cái

thế giới vô nghĩa sau khi chết, còn có thể làm được việc gì nữa?

- Pusyseda, không được lăng mạ anh trai cậu!

Tôi bước đến, kéo tay Pusyseda. Cậu ta không còn tỉnh táo nữa, cậu ta

muốn trút nỗi đau mất cha lên anh trai mình.

Cậu ta quay lại nhìn tôi, ánh mắt vằn lên những tia đỏ, khuôn ngực rung

động mãnh liệt:

- Trong lòng mẹ chỉ có anh ta là người con duy nhất. Cha cũng vậy, lúc nào

cũng thương nhớ anh ta, tự hào về anh ta, mặc dù anh ta chưa một ngày tận

hiếu với cha.

Cậu ta hất tay tôi ra, sức mạnh cuồng bạo khiến tôi chao đảo:

- Cả chị nữa, trong lòng chị cũng chỉ có mình anh ta. Anh ta được tất cả

mọi người yêu thương, nhưng hãy xem xem, anh ta đã mang lại cho những

người yêu thương mình được những gì nào? Cha qua đời mà anh ta cũng

không thèm nhỏ một giọt nước mắt! Anh ta là đồ quái vật máu lạnh!

- Đủ rồi! Cậu có biết là cậu ấy còn đau khổ hơn cả cậu không? Cậu có thể

gào thét để giải tỏa, muốn khóc là khóc, thích nhiếc móc là nhiếc móc, nhưng

còn cậu ấy…

Rajiva vẫn nhắm nghiền mắt, lầm rầm tụng kinh, nước mắt tuôn trào.

- Cậu ấy không phải không biết đau đớn là gì, mà vì cậu ấy đau khổ tới mức

không rơi nổi nước mắt…

- Ngải Tình…

Cậu ấy bất chợt lên tiếng, giọng nói như lạc đi.

- Pusyseda nói không sai, tôi là người xuất gia, người xuất gia vốn dĩ không

thể có tình cảm thế tục…

- Rajiva…

Cậu ấy đứng lên, bước ra ngoài cửa.

- Tôi vào cung thông báo cho đức vua…

Tôi định đuổi theo nhưng đã bị Pusyseda giữ lại. Tôi đẩy cậu ta ra bằng hết

sức lực mà tôi có. Tôi không biết Rajiva sẽ làm gì, nhưng tôi phải đi theo, để

bảo vệ cậu ấy.

Cậu ấy đi rất vội, không rẽ về hướng hoàng cung mà ra khỏi thành. Lính

gác cổng thành thấy cậu ấy thì lập tức cho qua, đến lượt tôi, tôi phải đưa cho

họ toàn bộ số tiền có trên người, họ mới đồng ý để tôi đi.

Cậu ấy bước đi lang thang, vô định, bước chân gấp vội trong đêm, xiêu vẹo,

loạng choạng. Điểm đến sau cùng là bờ sông Tongchang. Cậu ấy gào khóc

thảm thiết với mặt nước lặng như tờ. Đêm khuya tịch mịch, ngoại thành xa

vắng, tiếng khóc của cậu ấy khuấy động không gian.

Tôi lặng lẽ đứng nhìn từ xa. Rajiva, cậu không phải không có tình cảm, chỉ

là cậu không thể khóc trước mặt người khác. Một người giàu cảm xúc và giàu

yêu thương như cậu, vì sao lại sùng bái thứ tôn giáo buộc người ta phải đoạn

tuyệt với mọi cảm xúc của con người?

Tôi  đã  rất  muốn  đến  bên  an  ủi  cậu  ấy,  nhưng  những  lời  nói  của

Kumarayana cứ văng vẳng bên tai. Rajiva, tôi không muốn sự xuất hiện của

mình khiến cậu rối bời, tôi chỉ có thể lặng lẽ ở bên cạnh cậu như thế này thôi.

Chợt nhớ đến những ca khúc của Tề Dự, bài hát khiến tôi cảm động nhất

của cô là “Nước mắt lạc đà”.  Lúc trước, tôi cảm động vì câu chuyện tình đẹp

mà buồn trong tiểu thuyết cùng tên của Tam Mao. Còn bây giờ, trong đêm sâu

cô quạnh, con người mà ngay cả khóc cũng không được khóc ấy khiến tôi

không khỏi cảm khái mà nhớ đến ca khúc này, nỗi buồn ngập tràn trong tôi.

Con tim trốn chạy, tìm nơi trú ẩn nhưng vô ích, đành ở đó, nhẫn nhịn chống

chịu với cơn đau.

“Em mang theo hạnh phúc rượt đuổi nỗi đau. Ra đi có lẽ là cách duy nhất

để yêu anh.

Chỉ biết trao đi, em đã không học cách nhận lại. Lãng quên, có lẽ là lời chúc

phúc thành tâm nhất ta dành cho nhau.

Đôi mắt ấy dịu dàng từ thuở khai sinh, nhưng ngay cả khóc than cũng chịu

sự nguyền rủa, không có nước mắt, làm sao chảy ra cho vơi cạn nỗi cô đơn?

Gió cát mịt mùng, mắt em nhạt nhòa, bước đi xô lệch trong đêm tối. Lạc lối

trong sa mạc, trái tim là vì sao Bắc cực, cần mẫn, kiệm lời.

Gió cát mịt mùng, hoang ảo tiếng gọi tình yêu, muốn nhớ lại cũng nhọc

nhằn. Hai ta, chẳng dám yêu, không dám hận, để mặc gió cát vô tình cuốn đi

dấu chân”.

Trái tim tôi hát lên lời ca này, nước mắt chan hòa, gió đêm thổi tới, tâm can

càng thêm giá lạnh. Rajiva, sức ảnh hưởng của cậu mới lớn làm sao, ngay cả

hát tôi cũng không dám cất lời, ngay cả khóc cũng không dám khóc thành

tiếng. Rajiva, đêm nay cậu không cô đơn, tôi luôn ở bên cạnh cậu, cùng khóc

với cậu. Hãy để nước mắt của hai mươi tư năm tuổi đời trong tôi được một lần

vì cậu mà khóc cạn. Sau này, chúng ta đừng khóc nữa, hãy để gió cát vô tình

cuốn đi dấu chân hai ta từng lưu lại trên sa mạc cuộc đời này.

Tờ mờ sáng cậu ấy mới lặng lẽ quay về với vẻ mệt mỏi, rã rời, tưởng như

hồn bay phách lạc. Đêm lạnh như băng, khi tôi đứng lên để đi theo cậu ấy,

toàn thân dường như không còn một chút hơi ấm nào.

Mùa hạ qua đi, mùa thu lặng lẽ kéo về.

Chương 31: Tôi phải ra đi

Một  chiếc  bàn  gỗ  được  dưng  bên  bờ  sông  TongChang,  thân  thể

Kumarayana được bọc kín trong những lần vải trắng. Tục lệ an táng của người

Khâu Từ là an táng, nhưng vì Kumarayana là người Ấn Độ, nên ông sẽ được

hoả táng theo phong tục của Ấn Độ.

Bạch Thuần cùng các thành viên của hoàng thất, các vương công đại thần

xếp thành một hàng dài, tất cả đều mặc y phục màu trắng. Cạnh khung gỗ đặt

thi  thể  Kumarayana  là  các  nhà  sư,  do  Rajiva  dẫn  đầu,  sư  phụ  của  cậu  –

Bundahatta cũng đến dự, họ ngồi xếp bằng trên sông và cùng tụng niệm.

Pusyseda vận đồ tang màu trắng, vấn khăng tang, tay cầm đuốc, mắt đỏ

hoe,  thâm  quầng,  nét  mặt  đau  thương.  Theo  phong  tục  thì  con  trưởng  là

người cầm đuốc, nhưng vì Rajiva đã xuất gia, cậu không còn thân phận phàm

tục nên việc này được giao cho con út.

Bạch Thuần ra hiệu cho Pusyseda, cậu đến bên chiếc bàn gỗ, châm lửa lên

lớp cỏ khô phủ xung quanh khung đỡ. Chỉ một lát, ngọn lửa bùng cháy nuốt

trọn Kumarayana.

Tiếng kêu khóc thương tâm hoà lẫn tiếng tụng kinh trầm buồn, tạo nên một

khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thê lương.

Pusyseda quỳ xuống, hai tay chống đất, đầu cuối thấp, hai vai rung động.

Tôi nhìn sang Rajiva, cậu ấy như quên cả tụng niệm, đôi mắt thẫn thờ nhìn

người cha đang tan biến dần trong đống lửa, nỗi đau đớn tột độ hiện trên nét

mặt khiến tôi không đủ can đảm nhìn cậu ấy. Trong cuốn “Trung Luận” của Bồ

Tát Long Thụ mà Rajiva sẽ dịch sang tiếng Hán có đoạn: “Con người, từ nhân

quả kiếp trước nên sinh ra trong kiếp này, vì có sinh nên có già cỗi và chết đi,

từ già cỗi và chết đi nên sinh ra buồn sầu, đau khổ. Mọi muộn phiền của con

người đều từ đó mà ra. Nên biết rằng, sinh tử được tạo ra bởi nghiệp chướng

của  những  kẻ  u  mê  ngu  muội”.  Vòng  luân  hồi  sinh  lão  bệnh  tử  là  nghiệp

chướng, là nỗi khổ của đời người. Bởi vậy, kẻ sáng suốt phải biết cách “diệt trừ

sự mê muội, để diệt trừ nghiệp chướng” Nhưng nếu Rajiva có thể diệt trừ

được sự mê muội, thì vì sao đêm đó, cậu ấy lại khóc cha thê thảm đến như

vậy?

Tôi lặng nhìn ngọn lửa đó, thầm cầu nguyện: Quốc sư, cầu mong ông sẽ

gặp được người mà trọn đời ông thương nhớ. Nỗi lòng của ông, Phật Tổ sẽ

thấu hiểu, vì Ngài cũng từng trải qua nổi khổ tương tư dày vò, nhất định Ngài

sẽ giúp hai người được đoàn tụ. Cầu chúc hai người hạnh phúc nơi cục lạc…

Nghi lễ an táng kéo dài hơn một giờ. Khi tàn lửa cuối cùng lịm tắt, Pusyseda

cùng người nhà thu lượm hài cốt của cha, rắc xuống sông TongChang. Trái tim

tôi như thắt lại khi thấy Pusyseda ôm bình tro và kêu khóc thống thiết.

Trở về phủ quốc sư, tôi không nói với Pusyseda về ý định ra đi của mình, vì

lúc này cậu đang quá đỗi đau buồn, tôi không nỡ nêu ra chuyện đó. Rajiva

không ở lại phủ, mà cùng sư phụ Bandhudatta trở về chùa Cakra. Trước lúc ra

đi, cậu ấy lặng nhìn tôi hồi lâu, tôi không hiểu ánh mắt phức tạp ấy muốn

truyền đạt điều gì, thực ra thì tôi cũng không muốn tìm hiểu, vì tôi đã quá mệt

mỏi…

Tôi ngồi trong sân nhìn ngắm bầu trời. Trước kia tôi thường băn khoăn, bầu

trời 1650 năm về trước chắc hẳn là trong lành và thoáng đãng hơn bầu trời

thế kỷ XXI, nhưng cứ ngắm mãi bầu trời ấy có gì thú vị đâu chứ? Bây giờ tôi

mới hiểu, không phải bầu trời không có thứ gì đáng để ngắm, mà vì khi trong

lòng chất đầy tâm sự, ngắm nhìn bầu trời cao xa vời vợi kia sẽ cảm thấy dễ

chịu hơn là ngồi thu mình một chỗ.

- Ngải Tình!

Quay lại đã thấy Pusyseda đứng trên bậc thềm, cậu ta vẫn mặc áo tang, đôi

mắt trũng sâu, khuôn mặt hốc hác, râu ria lúng phúng quanh cằm. Cậu ta trở

nên trầm tĩnh hơn trước, chín chắn hơn trước rất nhiều. Người xưa nói không

sai, đàn ông trưởng thành hơn vào ngày đưa tang cha.

Hai chúng tôi đã nhiều ngày không trò chuyện với nhau. Pusyseda bước

xuống bậc thềm, đến bên cạnh tôi. Không cười đùa cợt nhã như trước kia, cậu

ta chỉ cuối đầu nhìn tôi. Kể từ sau khi trở về phủ quốc sư, cậu ta luôn tỏ ra giữ

ý với tôi.

- Ngải Tình, hôm đó...

Cậu ta ngập ngừng, tôi băn khoăn, hôm đó là hôm nào?

- Ý tôi là hôm ở Subash ấy…

Nhớ rồi! Tôi khẽ lắc đầu:

- Chuyện qua lâu rồi, cậu nhắc lại làm gì!

- Tôi chưa bao giờ thô bạo với phụ nữ, nhưng không hiểu sao, với chị, tôi lại

không kiềm chế nổi.

- Pusyseda, nếu cậu vẫn muốn xin lỗi, thì câu trả lời là, tôi đã tha thứ cho

cậu từ lâu lắm rồi.

- Vậy còn… chỗ đó…

Cậu ta chỉ tay vào môi tôi, gương mặt ửng đỏ:

- Nghe nói phụ nữ người Hán rất coi trọng tiết hạnh.

Tôi giật mình! Thì ra cậu ta muốn nói đến cái hôn đó. Tôi cười:

- Cái đó… không sao. Cứ xem như bị chó cắn đi…

Thật tình tôi chẳng còn nhớ gì về chuyện đó nữa. Với tôi, đó không phải là

một nụ hôn, mà chỉ là một vật thể nào đó áp lên môi tôi mà thôi.

- Chị… mắng tôi là chó ư?

Cậu ta tức giận, nhào đến bên tôi.

- Cẩn thận kẻo bị chó cắn lần nữa đấy!

Tôi né sang một bên, Pusyseda không rượt đuổi tôi như trước nữa, chỉ đứng

đó và cười. Nụ cười hiếm hoi sau gần 2 tháng. Pusyseda khi cười mới giống

con người thật của cậu ấy!

Nhưng  nụ  cười  không  kéo  được  bao  lâu  đã  tắt  lịm,  đưa  mắt  nhìn  xung

quanh, giọng cậu ta trở nên thê thiết:

- Cha ra đi, căn nhà trở nên trống trải lạ thường, quạnh quẽ lạ thường.

Rồi quay lại nhìn tôi ánh mắt dịu dàng, ấm áp.

- May có chị ở đây, khiến tôi thấy vui hơn một chút.

Pusyseda đưa tay ra định chạm vào má tôi, tôi giật mình lùi lại. Cậu ta hụt

hẫng, rụt tay lại.

- Ngải Tình, sau cái đó đó, tôi mới biết mình đã trách oan chị.

Tôi sững người, không hiểu.

Pusyseda mỉm cười:

-  Phản  ứng  khi  đó  của  chị  chắc  chắn  là  của  một  cô  gái  trinh  nguyên,

Pusyseda nhận ra điều này dựa trên kinh nghiệm dày dặn của mình về phụ nữ.

- Cậu…

Tôi giậm chân.

- Sao cậu cứ nghĩ mãi về chuyện đó thế? Tôi có phải cô gái trinh nguyên

hay không thì liên quan gì đến cậu?

- Chị gạt tôi nói rằng chị vừa trở về, đến tận hôm đó tôi mới phát hiện ra chị

đã sống cùng anh ta ba tháng rồi. Trai đơn gái chiếc ở cạnh nhau ba tháng

trời, dù có là bậc cao tăng đi nữa, anh ta rốt cuộc vẫn là một người đàn ông.

Tôi không tin giữa hai người không có chuyện gì. Tôi luôn cảm thấy mình kém

cỏi so với anh ta, cha mẹ yêu chiều anh ta, đức vua tôn kính anh ta, người đời

sùng bái anh ta. Còn tôi thì sao, tôi chẳng có gì cả. Mọi người chỉ biết tôi là em

trai của đại pháp sư Kumarajiva, có ai biết đến tôi tên là gì, có ai thèm quan

tâm tôi đã làm được gì đâu. Chờ đợi mãi mới gặp được cô gái mà tôi thích thì

lại bị anh ta cướp mất. Nên, tôi không cam tâm. Chờ mãi chị không về, nên tôi

đoán chắc chị đã đến chùa tìm anh ta. Tôi như hoá điên, nên mới hành xử thô

bạo như vậy với chị.

Cậu ta cúi đầu, như hồi tưởng lại điều gì, tủm tỉm cười nhìn tôi:

- Nhưng sau khi hôn chị, tôi đã bình tâm trở lại. Tôi thấy mừng, vì chỉ môi

chạm môi mà chị đã phản ứng dữ dội như vậy, chắc chắn không thể có gì với

anh ta được. tôi vẫn còn cơ hội. Vì dù sao anh ta không thể thành thân, nhưng

tôi thì có thể.

Tôi bực mình.

- Cậu thật trẻ con! Chỉ vì đố kị với Rajiva mà cậu biến tôi thành thứ đồ để

tranh giành với cậu ấy? Tôi thật không hiểu nổi, làm một người bình thường có

gì không tốt? Người thông minh có những phiền não của riêng họ, tiếng tăm

càng lừng lẫy, cuộc sống càng mệt mỏi. Cậu muốn trở thành một người bình

thường vui vẻ hay trở thành một vĩ nhân bất hạnh?

- Vậy là…

Cậy ta nhìn tôi chăm chú, ánh mắt ắp đầy sự trông đợi.

- Chị muốn chồng mình là một người bình thường ư?

Sao cậu ta lại hỏi vậy? Trống ngực đập thình thịch, một lúc lâu tôi mới lấy

lại được ngữ điệu bình thản.

- Pusyseda, tôi đã liên hệ với đội thương nhân. Năm ngày nữa sẽ xuất phát,

họ sẽ cùng tôi đến thành cổ Taqian, sau đó sẽ đi Trường An.

Tôi đã phải trả thêm một khoản tiền để đội thương gia đó nhận lời cùng tôi

đến thành cổ Taqian.

- Chị…

Gương mặt Pusyseda biến sắc, cậu ấy chụp lấy vai tôi.

- Chị vẫn muốn ra đi ư?

- Tôi không có lí do gì để ở lại đây cả.

- Hãy lấy tôi, chị sẽ có lí do để ở lại.

Vậy là đã rõ ý tứ cậu ấy.

- Pusyseda…

- Chị đừng để bụng việc trước đây tôi qua lại với nhiều phụ nữ, tôi xin thề,

từ nay tôi sẽ một lòng một dạ với chị, tôi sẽ chỉ có mình chị mà thôi.

- Pusyseda…

- Đừng nói với tôi về tuổi tác, vài năm nữa tôi sẽ già hơn chị. Cũng đừng nói

với tôi chị không thuộc về nơi này. Trên trời hay Trường An, không có tôi ở đó,

chị tìm đâu được niềm vui? Tôi chỉ muốn nghe một câu trả lời: đồng ý hay

không đồng ý?

Chưa từng thấy cậu ta nghiêm túc như thế bao giờ. Nếu không phải trái tim

tôi từ lâu đã thuộc về người khác, hẳn là tôi sẽ chẳng thể cự tuyệt những lời

thổ lộ ấy.

- Pusyseda, tôi không đồng ý.

Tôi gỡ bàn tay Pusyseda đang nắm chặt vai mình, bình thản đối diện cậu ta.

- Lý do duy nhất là: tôi không yêu cậu.

Pusyseda thoáng chao đảo, nụ cười chán nản hiện trên khoé môi.

- Ngải Tình, chính chị đã dạy cho tôi biết thế nào là yêu. Nhưng khi tôi biết

yêu một người, chị lại nói với tôi rằng, chị chưa bao giờ yêu tôi.

- Tôi xin lỗi…

- Đừng nói lời xin lỗi với tôi!

Pusyseda đột ngột quay lại, túm lấy tay tôi!

- Chị yêu anh ta phải không?

- Tôi…

Tôi không thể thừa nhận, tôi phải giữ gìn danh tiếng cho cậu ấy…

- Đừng giấu nữa! Thời gian về đây ngày nào anh ta cũng chăm sóc vết

thương cho chị và còn ánh mắt anh ta khi nhìn chị nữa. Chị tưởng tôi không

biết chắc?

Pusyseda kéo tôi lại gần, ánh mắt sắc lẹm dò thám gương mặt tôi.

- Chị thừa biết anh ta chẳng thể cưới chị mà vẫn yêu hay sao?

- Pusyseda, tôi cũng mong người tôi yêu là cậu. Nếu là một thời điểm khác,

ở một nơi khác, chắc hẳn tôi đã yêu cậu. Ở bên cậu tôi thấy rất vui vẻ, cậu

mang lại tiếng cười và khiến tôi quên hết nỗi cô đơn, buồn chán.

Tôi không thể tiếp tục phủ nhận. Thật ra thừa nhận hay không có gì khác

nhau đâu, cũng đâu thay đổi được gì.

- Nhưng, tình yêu vốn mù quáng, tôi không biết tại sao mình lại yêu cậu ấy.

Dù biết sẽ không có kết cục gì, nhưng tôi vẫn chẳng thể kìm chế bản thân.

Vậy nên, tôi đã quyết định ra đi.

Pusyseda buông tôi ra, cất giọng cười lạnh lùng, biểu cảm trên gương mặt

phức tạp đến nổi tôi không sao hiểu được.

- Vậy là tôi vẫn chậm hơn anh ta một bước…Một năm qua tôi đã chán ngấy

trò chơi tình ái với đám phụ nữ nhạt nhẽo, tôi không có tình cảm thực sự với

họ nên những mối quan hệ đó diễn ra chóng vánh, khi giây phút nồng nản qua

nhanh, nỗi cô đơn lại trở về, xâm chiếm tâm hồn tôi. Từ lúc ấy, tôi bắt đầu

mong chờ ngày chị trở về. Tiên nữ của tôi từng nói rằng, nếu tôi học thuộc

lòng “Kinh Thi”, nàng sẽ quay lại. Chị nghĩ rằng mười năm trước tôi đã bắt đầu

học thuộc “Kinh Thi” ư? Không đâu, mới từ năm ngoái thôi, tôi muốn thử xem

lời chị nói có thật hay không. Kết quả, sau khi tôi học thuộc cả cuốn “Kinh Thi”

ấy, chị đã trở về. Chị không hề thay đổi, vẫn nụ cười ngây ngô, gương mặt

thuần khiết của mười năm về trước. Trước kia, cha sốt ruột giục giã tôi thành

thân, tôi luôn cao giọng tuyên bố sẽ chỉ kết hôn với cô gái độc nhất vô nhị tự

xưa đến nay. Khi đó chỉ vì muốn thể hiện với cha, nên tôi mới thốt ra nhưng lời

to tát ấy. Nhưng từ lúc gặp lại chị, tôi đột nhiên nhận ra chị chính là cô gái có

một không hai ấy. Vì vậy, tôi muốn giữ chị ở bên mình, tôi muốn được ngắm

nhìn tôi mắt trong sáng của chị mãi mãi. Tôi nghĩ lần này tôi đã nhanh hơn anh

ta một bước. Nào ngờ cuối cùng vẫn bị anh ta cướp mất chị.

Tôi  không  phải  không  mảy  may  xúc  động,  nhưng  những  lời  nói  của

Pusyseda khiến tôi lo lắng nhiều hơn.

- Pusyseda, mười năm trước, tôi chỉ sống cùng cậu vẻn vẹn ba tháng và khi

đó cậu mới 10 tuổi. Sau mười năm, e rằng hình dáng tôi thế nào cậu cũng

chẳng nhớ nổi, nói chị đến chuyện ngày đêm nhung nhớ?

- Tôi nhớ chứ…

Cậu ta đưa tay ra định chạm vào má tôi, nhưng tôi đã kịp lùi lại. Cậu ta

không tiến đến, chỉ đứng đó, tưởng tượng ra khuôn mặt tôi trong không gian.

- Một năm qua, hình bóng chị luôn hiện lên trong tim tôi, ngày một rõ ràng,

sống động. Bởi vậy, khi chị xuất hiện trên phố với bộ dạng ngây ngô đó, tôi đã

lập tức nhận ra.

Tôi thở dài, không thể tiếp tục tình trạng này nữa. Tuy rằng không biết vì

sao cậu ta đột nhiên nảy sinh tình cảm với tôi, nhưng tôi cũng không muốn tìm

hiểu. Chuyện đã như vậy, có tìm hiểu thêm nữa cũng đâu có nghĩa lý gì. Tôi

đưa mắt nhìn những cành nho trụi lá trong sân, thở dài.

- Pusyseda, ngày mai tôi sẽ đến chùa Cakra.

- Để gặp anh ta?

- Đúng vậy, nhưng là để chào từ biệt, đừng lo, sẽ không xảy ra bất cứ

chuyện gì giữa chúng tôi đâu.

Tôi cười cay đắng.

- Tôi và Rajiva đều rất tự trọng…

Tôi tháo chuỗi ngọc hình sư tử xuống, đưa cho Pusyseda.

- Hãy tặng cho người con gái sau này cậu yêu.

Cậu ta lặng lẽ nhìn viên ngọc, không đón lấy, cũng không trả lời, một lúc

sau mới lên tiếng

- Nó vốn là của chị mà!

Cậu ta bắt chước tôi ngó lên trời. Ánh chiều tà đổ bóng lên thân người cao

lớn ấy, sáng lạn, rực rỡ.

Chương 32: Làm sao sống được mà không yêu

Mavasu đã rất kinh ngạc khi mở cổng và thấy tôi. Sau lễ tang Kumarayana

ông đã theo Rajiva quay lại Subash. Người nô bộc rất mực trung thành này đã

chăm sóc cha con Rajiva và cả tôi nữa, hết mực ân cần tận tuỵ. Tôi mỉm cười

với ông, nói rằng tôi tới để từ biệt và nhờ ông tới chùa thông báo với Rajiva.

Mavasu quay về cùng với Rajiva. Bây giờ còn chưa đến giờ tụng kinh buổi

chiều, vậy là cậu ấy lại trốn việc rồi!

Khi Rajiva bước chân qua cánh cổng, cậu ấy bị vấp vào bậc cửa, lúc đó tôi

đang đứng ngoài cửa phòng nên đã thấy cả. Một bậc cao tăng đại đức, mọi cử

chỉ thường ngày vốn rất từ tốn nho nhã vậy mà cũng có lúc vấp chân vào bậc

cửa suýt ngã, tôi bật cười.

Thấy tôi cười cậu ấy có vẻ hốt hoảng, dừng bước trấn tĩnh, chỉ một lát đã

lấy lại được phong thái ung dung đĩnh đạc thường thấy, chậm rãi tiến về phía

tôi.

- Vì sao không chờ kết thúc buổi tụng kinh buổi tối hãy về?

Cậu ấy sững người, gương mặt ửng đỏ, lặng yên không đáp, ánh mắt trôi

về phía xa xôi.

- Rajiva, cậu là trụ trì của một ngôi chùa lớn, cậu không thể tuỳ ý vi phạm

giới luật như khi còn nhỏ được.

Tôi nghiêm mặt, nói với cậu ấy bằng giọng điệu lên lớp của cô giáo năm

xưa.

- Cậu về chùa đi, hết giờ tụng kinh buổi tối hãy quay lại.

Ngừng một lát, tôi nói tiếp:

- Tôi có chuyện muốn nói.

- Chuyện ra đi ư?

Tôi hơi ngạc nhiên, rồi thì gật đầu. Cậu ấy thông minh tuyệt đỉnh như vậy lẽ

nào không đoán ra được.

- Nếu vậy, buổi tối Rajiva sẽ quay lại.

Giọng nói điềm tĩnh, không mảy may xao động. Cậu ấy khẽ cúi người, xoay

lưng bước đi. Nhưng khi đi qua bậc cửa, không hiểu sao lại bị vấp một lần nữa.

Nhưng lần này, tôi chẳng cười nổi.

Mùa thu, màn đêm buông xuống nhanh hơn. Mặt trời vừa khuất núi, gió đã

se se lạnh trong không gian, sương đêm buốt giá. Tôi ngồi bên cửa sổ, ánh

mắt đổ dồn về phía cánh cổng, Rajiva xuất hiện, tôi chăm chú quan sát bước

chân của cậu ấy. Tốt rồi, lần này không bị vấp nữa.

Cậu ấy bước vào phòng, vừa thấy tôi bèn cất giọng trầm ấm:

- Trời về khuya lạnh lắm, cô mặc thêm áo vào cho ấm.

Mũi tôi cay cay, nước mắt chỉ trực trào ra. Tôi hít một hơi dài che đi thanh

âm đang nghẹn ngào nơi cổ họng:

- Đúng vậy, tôi cảm lạnh mất…

- Cô không biết quý trọng sức khoẻ gì cả, ngày mai tôi sẽ mời thấy thuốc

đến khám xem sao.

Ánh mắt Rajiva di chuyển đến cánh tay bị thương của tôi.

- Mấy ngày nay vẫn bôi thuốc đều đặn chứ?

Hơn một tháng ở phủ quốc sư, Rajiva không tự mình đến băng bó cho tôi

nhưng hằng ngày vẫn có một a hoàn đến giúp tôi. Và dù bận bịu chăm sóc

cha, cậu ấy vẫn ngày ngày đều đặn đến thăm tôi và dặn dò tôi không được

động vào vết thương khi đã ăn da non. Sự chăm sóc ân cần kéo dài đến tận

khi cậu ấy rời phủ.

- Không cần đâu!

Rajiva đừng chăm chút tôi như vậy, tôi không dám nhận. Tôi cắn chặt môi,

cố gắng giữ cho giọng nói của mình thật bình thản.

- Ngày mai tôi sẽ trở về thành Khâu Từ. Tôi đã liên hệ được với đội thương

nhân, chúng tôi sẽ nhanh chóng lên đường đi Trường An.

Cậu ấy không lên tiếng, ánh mắt lại trôi xa, một lúc lâu mới quay lại nhìn

tôi, chậm rãi nói:

- Cô vẫn muốn đến thăm thành cổ Taqian kia mà! Rajiva vừa quyết định tới

Yarkland học đạo, trên đường sẽ đi ngang qua đó…

- Rajiva!

Tôi ngắt lời cậu ấy, chỉ muốn ngay lập tức đẩy những ẩn ức dồn nén, chất

đầy trong lòng ra bên ngoài.

- Cậu vẫn không hiểu sao? Tôi ra đi vì không muốn tiếp tục ở bên cậu nữa.

Ánh mắt Rajiva đột ngột tối sầm, hàng mi dài rũ xuống, một tiếng cười chua

chát bật lên:

- Ra là vậy

Cậu ấy nghiêng đầu, hít một hơi thật sâu, khe khẽ cất tiếng:

- Vậy thì để Pusyseda chăm sóc cho cô. Cậu ấy tuy nóng nảy nhưng thật

lòng với cô...

- Rajiva!

Tôi không kềm chế nổi nữa, cậu ấy thông minh như vậy, nhưng vì sao đến

giờ vẫn không hiểu ra?

- Thế nghĩa là sao? Nhường tôi cho em trai cậu ư? Bởi vì Pusyseda có thể

danh chính ngôn thuận ở bên cạnh tôi ư? Rajiva, tôi không cần ai chăm sóc cả,

tôi...

- Ngải Tình..

Rajiva đột nhiên ngẩng lên, ánh nhìn sắc lẹm bừng lên trong đôi mắt màu

xám nhạt long lanh ấy.

- Phải thế nào mới chịu ở lại?

Tôi mở miệng nhưng không thốt được nên lời, nước mắt lăn dài trên má.

- Tôi...

Lại mở miệng, nhưng vẫn chưa thể bật ra một câu nói hoàn chỉnh.

- Tôi...

Tôi quay đi. Tôi không muốn cậu ấy thấy tôi khóc, nhưng không hiểu sao tôi

không kềm chế nổi. Tôi làm sao kềm chế nổi.

- Ngải Tình...

Giọng nói khẽ khàng, nhẹ như hơi thở, cánh tay dài gầy guộc vươn đến với

tôi. Tôi nhắm mắt lại. Ngã mình vào vòng tay đang run rẩy của Rajiva.

Khoảnh khắc chạm vào khuôn ngực của cậu ấy, một tiếng nói mơ hồ, bồng

bềnh trôi trên đỉnh đầu tôi:

- Mười năm chờ đợi chẳng lẽ chỉ đổi được vài tháng ngắn ngủi bên nhau?

Tôi không khống chế nổi mình, đã bật khóc thảm thiết. Rajiva, Rajiva, vì sao

người tôi yêu lại là cậu? Vì sao chúng ta yêu nhau lại không thể ở bên nhau? Vì

sao khi ấy tôi lại đồng ý tham gia vào dự án vượt thời gian ngu ngốc này?

Trong vòng tay cậu ấy, tôi đã khóc triền miên, khóc nhiều đến nghiêng ngả

cả đất trời, khóc ướt đẫm vai áo của người ấy. Hơi ấm của Rajiva qua làn vải

mỏng ấy khiến má tôi bỏng rát. Ước gì vòng tay ấm áp này là nơi tôi có thể

nương tựa vào bất cứ khi nào.

- Ngải Tình...

Cậu ấy khẽ đẩy tôi ra, nhìn sâu vào mắt tôi. Hai hàng lệ đổ dài trên gương

mặt hao gầy, đọng lại thành những giọt trĩu nặng nơi chiếc cằm nhọn, lún

phún sắc xanh, rồi nhỏ xuống chiếc áo cà sa màu nâu sòng. Nước mắt vỡ òa,

thấm trên làn vải mỏng, tạo thành hình những bông hoa nhỏ sẫm màu.

- Đây là lần đầu tiên trong đời Rajiva khóc. Lần đầu khóc vì mẹ, nhờ có cô

mà tôi biết được lúc đau khổ có ai đó ở bên cạnh thật dễ chịu biết bao. Lần

thứ hai vào buổi tối ngày cha mất, một mình Rajiva lặng lẽ chạy ra ngoại thành

để khóc. Khi ấy tôi đã mong có cô ở bên cạnh biết nhường nào.

- Tôi ở đó...

Tôi đã khóc không thành tiếng, ngước nhìn cậu ấy bằng đôi mắt ướt nhòe.

- Tôi đã đến đó, đến rất gần cậu và chờ đợi đến tận bình minh ngày hôm

sau khi cậu quay về.

Rajiva siết tôi trong vòng tay thật chặt, không giống như trước đó. Cánh tay

cậu ấy ngày một mạnh mẽ hơn, như muốn hòa tan tôi trong lồng ngực cậu ấy

vậy. Vòng tay cuồng nhiệt khiến tôi chới với. Tôi vòng tay ôm lấy bờ vai gầy

guộc của cậu ấy. Rajiva khẽ rùng mình, đột nhiên đẩy tôi ra.

- Ngải Tình, Rajiva chưa bao giờ thấy vui vẻ như trong ba tháng qua. Cứ

nghĩ đến thời khắc cuối ngày được trở về gặp cô, tôi ngày ngày mong chờ giờ

tụng kinh buổi tối.

- Rajiva...

Tôi như mê đi trong ánh mắt đám đuối của cậu ấy.

- Tôi cũng vậy, ngày nào cũng mong ngóng cậu trở về...

- Tôi muốn...

Rajiva ngập ngừng. Ánh mắt khóa chặt đôi mắt tôi. Mỗi tiếng thốt ra như có

sức nặng nghìn cân.

- Rajiva từ lâu đã muốn...

Tôi  nhìn  Rajiva,  chớp  mắt,  hít  một  hơi  thật  sâu,  chờ  đợi.  Cậu  ấy  ngập

ngừng rất lâu, cứ khẽ mở miệng lại mím chặt môi lại, không sao cất nổi dù một

tiếng.

- Rajiva...

Tôi khẽ gọi, mắt nhìn sâu vào hai vực nước hun hút của cậu ấy.

- Cậu muốn nói gì?

- Muốn... hôn... nàng, được không?

Cậu ấy nói ra rồi, tuy giọng còn run run nhưng mỗi chữ thốt ra là cả một nỗ

lực dời non lấp bể. Gương mặt bừng bừng như thiêu đốt, đôi mắt như hai vực

nước trong suốt, sâu hun hút ấy gắn chặt lấy tôi, như chờ đợi. Trái tim tôi lại

chịu thử thách, nước mắt tuôn trào. Ôi người đàn ông này mới thuần khiết làm

sao, đến bây giờ vẫn còn hỏi tôi có được hay không.

- Không được.

Tôi cố gắng hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng đáp lại.

- Chàng không thể phá giới.

Rajiva giật mình, cánh tay khi nãy vẫn siết chặt hai vai tôi khẽ buông và

quay mặt đi. Một nỗi thất vọng, buồn tủi đày đọa gương mặt chàng.

Đó là sắc diện luôn khiến trái tim tôi quặn thắt.

- Nhưng, em có thể hôn chàng...

Tôi kiễng chân, vòng tay lên níu lấy chiếc cổ thiên nga của chàng, khẽ đặt

môi lên bờ môi mỏng manh của chàng. Từ khoảng cách gần trong gang tấc ấy,

đôi mắt to của chàng trùm lên tôi tựa hai vực nước sâu vô tận hút tôi vào bên

trong. Hàng lông mày dài thanh tú khẽ rung động, đẹp như thần tiên. Môi

chàng rất mềm. Khoảnh khắc chạm vào đôi môi ấy như có một luồng điện lan

tỏa khắp cơ thể tôi.

Rajiva khẽ rùng mình, đôi mắt vẫn mở to, đáy mắt hắt lên một tia kinh

ngạc, tiếp theo đó là niềm vui rạng rỡ. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận sự ngọt

ngào của đôi môi chàng bằng trái tim. Thì ra nụ hôn tuyệt vời đến như vậy!

Trước đó, với Pusyseda không thể gọi là hôn. Đây mới là nụ hôn thực sự của

tôi. Nụ hôn mà suốt đời tôi sẽ không thể nào quên.

Rajiva chỉ đứng yên lặng, để mặc tôi gắn môi mình lên làn môi mềm mượt

của chàng. Khi tôi đánh liều dùng đầu lưỡi liếm nhẹ trên bờ môi vẫn đang mím

chặt của chàng, Rajiva kinh ngạc, khẽ kêu lên một tiếng, đôi môi hé mở. Chỉ

nửa giây đắn đo, đầu lưỡi tôi nhẹ nhàng vân du vào bên trong, chạm vào đầu

lưỡi ngọt và ấm của chàng. Chàng vẫn đứng yên, không động đậy, nhưng hơi

thở bỗng trở nên gấp gáp. Lúc chạm phải đầu lưỡi tôi, chàng đột ngột ôm chặt

lấy eo tôi, đầu cuối thấp, thân người đổ về phía trước, chủ động đẩy cao đầu

lưỡi cuốn lấy tôi. Chúng tôi mê man đuổi bắt nhau, cuốn lấy nhau, quấn quít

bên nhau. Trời sập thì đã sao, đất lở thì đã sao?! Giữa đất trời này, chỉ có tôi

và chàng, người đàn ông và người phụ nữ...

Lúc tách nhau ra, hai chúng tôi cùng thở hổn hển, nhìn vào mắt nhau và

cười...

- Chàng nhớ nhé, chàng bị em ép buộc, em chính là người dụ dỗ chàng phá

giới, vì vậy, em sẽ gánh chịu mọi tội lỗi. Chàng không có tội gì cả. Dù phải sa

xuống bất cứ tầng địa ngục nào, Ngải Tình cũng không sợ...

- Ngải Tình...

Một tay chàng giữ chặt eo tôi, một tay khẽ đặt lên má tôi, chàng dịu dàng

vuốt ve gương mặt tôi. Bàn tay với những ngón dài, thon gầy ấy chạm đến

đâu là làm cho gương mặt tôi bừng sáng đến đó.

- Rajiva đã phá giới từ lâu rồi...

Chàng khẽ cất tiếng, cọ trán chàng vào trán tôi.

- Ghen tị với em trai, phạm phải giới luật đố kỵ. Luôn mơ tưởng đến nàng,

phạm phải giới luật tư dâm. Ở bên nàng lại khao khát được chạm vào nàng,

phạm phải giới luật khát khao dục vọng. Ngải Tình, mười năm trước, mười năm

qua, Rajiva đã luôn phá giới.

Chàng xoay người tôi lại, để mắt tôi nhìn vào mắt chàng. Vẻ dịu dàng trong

đôi mắt ấy khiến tôi như mềm đi.

- Bởi vậy, ta mới đáng bị đẩy xuống địa ngục, chứ không phải nàng...

- Rajiva...

Tôi áp mình vào ngực chàng.

- Chàng không có tội gì cả. Chính em đã quyến rũ chàng. Em giống như yêu

nữ từng quyến rủ Phật tổ năm xưa. Khi chàng tỉnh cơn mơ, em sẽ tan theo

mây khói.

Ngón tay chàng đặt trên miệng tôi, ngăn tôi nói tiếp. Tôi ngước nhìn đôi

mắt long lanh, tinh khôi như hồ nước thu. Giọng chàng êm như lụa, thoảng

bên tai:

- Không đâu, nàng không như vậy...

Chàng nhìn tôi, ngập ngừng, do dự, đắn đo.

- Nàng…

Hít một hơi thật sâu giọng chàng nhẹ bẫng như làn gió.

- Nàng… có muốn Rajiva hoàn tục không?

- Không!

Tôi hoảng sợ, rời khỏi vòng tay chàng. Hiện thực nghiệt ngã đã ùa về.

- Chàng không thể!

- Rajiva, sau này chàng sẽ có được những thành tựu lớn lao, chàng sẽ đến

Trung Nguyên truyền bá Đạo Phật và giúp cho đạo Phật ở Trung nguyên phát

triển rực rỡ.

Tôi đăm đăm nhìn chàng, giọng nói không biết từ lúc nào trở nên quá đỗi bi

ai:

- Bởi vậy, chàng không thể hoàn tục. Nếu chàng làm vậy, em không thể

tưởng tượng nổi hậu quả sẽ ra sao, em sẽ hoá điên mất! Và cả đời này em sẽ

không thể tha thứ cho mình. Rajiva, số mệnh của chàng đã được định đoạt,

không thể nào thay đổi…

Tôi nghẹn ngào, tôi biết vận mệnh của chàng, tôi không thể thay đổi vận

mệnh đó, vậy còn vận mệnh của tôi thì sao? Lẽ ra, tôi sẽ không bao giờ chạm

được vào chàng, nhưng dự án vượt thời gian này đã thay đổi số mệnh của tôi.

Ai mà biết được rồi số mệnh của tôi sẽ đi về đâu…

Chàng thở dài, kéo tôi vào lòng.

- Ngải Tình, Phật tổ đã cử nàng đến bên ta phải không? Nàng là tiên nữ,

nên nàng biết tương lai của ta phải không?

- Rajiva, em không biết phải giải thích như thế nào với chàng về sự xuất

hiện của em, nhưng những gì em nói đều là sự thật. Hãy hứa với em, cả đời

này chàng sẽ không hoàn tục. Xin đừng quên lý tưởng lớn lao của chàng: Hãy

đưa Đạo Phật đến Trung nguyên để cứu rỗi biết bao con người đang đắm chìm

trong bể khổ.

Chảng xiết chặt tôi hơn, khuôn ngực phập phồng, hồi lâu mới cất lời:

- Được, ta hứa với nàng, nàng muốn ta đến Trung nguyên truyền bá đạo

Phật, ta nhất định sẽ đi.

Chàng ngập ngừng, lấy giọng, câu hỏi xen trong nỗi ngẹn ngào trôi đến bên

tai tôi:

- Nhưng, nàng vẫn phải ra đi ư?

- Rajiva, chàng từng nói, mọi thứ đều không tồn tại kia mà! Em chỉ là một

ảo ảnh, em không tồn tại thực sự, em sẽ nhanh chóng biến mất. Sau này, chỉ

cần chàng cố gắng, chàng nhất định sẽ quên được em…

- Chúng sinh trong cõi phàm trần ai nấy đều bị ràng buộc bởi thế giới vật

chất và tinh thần mà chẳng thể thanh thản.

Chàng nhẹ nhàng buông tôi ra, xoay lưng, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ,

ngọn đèn dầu buổi chiều muộn không che nổi nét cô đơn trong đáy mắt.

Rajiva đắm chìm trong cõi trần ai, biết bao điều ràng buộc, làm sao có thể

an nhiên tự tại?

Mọi ân oán đời này

Đều vô thường chóng phai

Cõi thế nhiều khổ não

Đời người như sương mai

Vì yêu nên sợ hãi

Vì yêu nên ưu phiền

Kẻ nào lià chữ “ái”

Tâm mới được an nhiên.

Tôi khẽ nhẩm đọc những câu thơ trong tiểu thuyết “Phi hồ ngoại truyện”

mà Viên Tử Y đọc cho Hồ Phỉ nghe trước khi ra đi, đây cũng chính là những

câu  kệ  trong  kinh  văn  Phật  giáo  (cuốn  “Phật  thuyết  diệu  sắc  vương  nhân

duyên kinh”).

Từng câu từng chữ lúc này như cứa vào tim gan tôi.

- Rajiva, lìa xa ái tình, sẽ không còn ưu sầu khổ não nữa…

- Nếu nói quên là sẽ quên được thì đâu còn là “vì yêu nên sợ hãi, vì yêu nên

ưu phiền” nữa.

Rajiva khép mắt, giọt nước mắt sau cùng nhỏ xuống.

- Ý trời không thể trái. Nếu đã vậy ta trả nàng về cõi trời…

Đêm đó, không sao chợp mắt được, chúng tôi nương tựa vào nhau, truyền

hơi ấm cho nhau. Trời trở sáng sẽ là thời khắc li biệt, giá như thời khắc ấy

đừng bao giờ đến.

- Rajiva…

- Ừm…

- Đến giờ tụng kinh buổi sáng rồi…

- Hết một đêm rồi ư? Sao thời gian trôi nhanh đến vậy?

- Hôm nay sự phụ lên đường về Jabul, ta phải đi tiễn người, sau đó sẽ tới

Yarkand. Các tăng sỹ ở đó đã nhiều lần mời ta đến thuyết giảng về giáo lý Đại

Thừa…

- Ừm…

- Vì vậy, ta không thể tiễn nàng…

- Ừm…

- Ngải Tình, liệu ta có được gặp lại nàng không…?

- Em không biết.

- Ngải Tình, hôm nay ta đã hôn nàng, vì vậy, tội nghiệt của chúng ta là như

nhau. Rajiva thân là bậc tăng nhân, thờ Phật, nhưng đã phá giới, ta đáng bị

đày xuống địa ngục đại tiêu nhiệt…

- Vâng, vậy em sẽ tới đó tìm chàng…

Chương 33: Ai nợ Ai?

Tỉnh dậy, thấy Pusyseda đang ngồi trước mặt, ánh mắt đăm chiêu, chăm

chú quan sát gương mặt tôi. Tôi lẳng lặng đứng lên. Hôm nay là ngày cuối của

tôi ở Khâu Từ, sắp xếp đồ đạc xong xuôi, nhét chặt hai chiếc balô Northface,

lát nữa tôi sẽ đến điểm hẹn để gia nhập đoàn thương nhân.

Khoác áo lên người, tôi đưa tay xuống dưới gối, không thấy gì cả. Kéo gối

ra, cũng không thấy. Nhìn quanh xem có rơi đâu đó không, vẫn không thấy.

Đâu rồi nhỉ?

- Đừng tìm nữa.

Giọng nói đượm vẻ mệt mỏi của Pusyseda cất lên:

- Tôi giấu đi rồi.

- Cậu…

Tôi nổi giận:

- Sao cậu làm vậy? Trả lại cho tôi.

- Không có cái vòng bự tướng ấy, chị sẽ không bay được lên trời.

- Cậu!

Việc đó mà cậu ta cũng nghĩ ra, thật liều lĩnh!

- Trả chiếc đồng hồ, à không, trả chiếc vòng lại cho tôi. Nếu cậu bất cẩn ấn

vào nút đó, hậu quả khôn lường.

- Hậu quả ư?

Cậu ta cười mỉa, thái độ bất cần.

- Hậu quả là tôi sẽ bay lên trời ư?

- Không.

Không có áo chống tia phóng xạ, cậu ta chẳng thể bay đi đâu.

- Khi đó sẽ có một luồng ánh sáng cực mạnh, nếu bị chiếu vào, chỉ vài ngày

sau, thân thể cậu sẽ tan rữa, cạn máu mà chết.

Tôi tưởng tượng ra hậu quả khủng khiếp ấy để doạ cậu ta.

- Được thôi, tôi sẽ không động vào bất cứ thứ gì. Nhưng, cái vòng đó, tôi sẽ

giữ.

Pusyseda tỏ ra không biết sợ hãi là gì, thản nhiên đứng lên, cười với tôi.

- Nếu chị cho rằng vào phòng tôi có thể tìm thấy chiếc vòng thì xin mời tự

nhiên!

- Pusyseda, cậu muốn gì?

Tôi mệt mỏi tựa vào thành giường, sao cậu ta cứ gây chuyện vào lúc tâm tư

tôi rối bời thế này?

- Muốn gì chị còn không hiểu hay sao?

Cậu ta sáp lại gần tôi, đấy mắt vằn lên những tia đỏ.

- Tôi biết bây giờ chị vẫn chưa yêu tôi, nên tôi phải tận dụng thời gian.

Tôi cắn môi, nghiêng đầu đi, không muốn nhìn cậu ấy.

- Vô ích thôi.

- Cứ mặc tôi!

Cậu ta đột nhiên nổi đoá, cáu gắt:

- Dậy mau, đến giờ phải đi rồi!

- Đi đâu?

- Thành cổ Taqian. Tôi và các anh em sẽ đưa chị đến đó.

Tôi gần như bị cậu ta nhấc lên xe. Không muốn nhưng tôi không lại được

với sức mạnh của cậu ta, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay ngồi yên trong xe.

Pusyseda cùng bốn người bạn trong đội cấm vệ quân hộ tống tôi ra khỏi thành

Khâu Từ.

Cỗ xe lắc lư, tôi thẫn thở, cảm giác có thứ gì đó đang dồn tụ trong lòng,

muốn đẩy ra không đẩy được, muốn nuốt vào không nuốt được. Sáng sớm

hôm qua, tôi đứng nép vào một góc tường cách cổng chùa không xa, lén dõi

theo cậu ấy. Rất nhiều người đã đến tiễn Bundahatta, người dân trong thành

Subash cũng kéo đến rất đông, cả biển người nhấp nhô, chen chúc, kín hết

khoảng không gian trước cổng chùa. Tôi không thấy Rajiva đâu cả. Mải đến khi

cậu ấy lên lưng lạc đà, tôi mới vội đưa tay xoa nhẹ chiếc cổ đã tê dại vì mỏi

của mình và dặn lòng không được chớp mắt. Cách nhau cả biển người mênh

mông, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được nổi cô đơn trong mắt cậu ấy. Lúc

Rajiva đưa tay lên, để lộ chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương đã sờn bạc, tôi bất giác

nắm chặt vành khăn lụa Atala choàng trên cổ. Lục lạc vang lên lanh canh,

Rajiva dõi mắt kiếm tìm, nhưng vô vọng, cậu ấy cúi đầu, xoay người bước đi.

Đoàn người dằng dặc nối nhau với những chiếc áo cà sa màu nâu sòng chầm

chậm trôi xa, rồi mất hút ở một khúc quanh nơi hẻm núi Thiên Sơn heo hút.

Tôi không nén nổi nước mắt.

Xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả. Tôi mê man, đắm chìm trong từng khoảnh

khắc của hồi ức, cho đến khi Pusyseda thông báo đoàn xe phải dừng lại để

dựng trại. Tôi phớt lờ sự tức giận trào lên trong sóng mắt Pusyseda, ăn uống

qua loa, rồi nhanh chóng rút về lán trại của mình.

Cậu ta bướng bỉnh đi theo, tôi lẳng lặng xoay lưng lại, nằm xuống ngủ, xem

cậu ta như không khí. Pusyseda thở dài, buồn bã, bước ra.

Chúng tôi đến Taian lúc chiều muộn ngày hôm sau, hoàng hôn đổ dài trên

những bức tường loang lổ. Chứng kiến khung cảnh tiêu điều ấy, nỗi buồn như

thuỷ triều dâng lên xâm chiếm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy chán nản với công

việc như lúc này. Đột nhiên băn khoăn, liệu việc tiến hành khảo sát, đo đạt,

xác định vị trí của một thành trì đã hoang tàn sau gần hai nghìn năm bể bãi

nương dâu có thực sự ý nghĩa hay không? Con người luôn vội vã tiến về phía

trước, mọi thứ trong thế kỷ XXI thay đổi chỉ trong tích tắc, liệu ai có đủ kiên

nhẫn dừng bước để chiêm nghiệm những thứ đã thuộc về quá khứ?

Rajiva cũng vậy, ngoài những nhà nghiên cứu về Phật giáo và lịch sử, thử

hỏi có bao nhiêu người biết đến sự tồn tại của cậu ấy? Hoạt hình Nhật Bản đã

trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của giới trẻ, nhưng thử hỏi

có bao nhiêu bạn trẻ biết rằng, các nhân vật quen thuộc với tên gọi thường

khiến chúng ta níu lưỡi khi đọc như:

Asura, Dragon, Yaksha, Gandharva, Garuda, Kinnava, … đều là thành quả

dịch thuật của Rajiva?

Tôi uể oải lôi đồ nghề ra, mặc lòng có thích hay không, lúc này tôi phải làm

một việc gì đó mới được. Nếu không, đầu óc tôi sẽ nổ tung vì những suy nghĩ

chất  ngất,  hỗn  độn  mất!  Lúc  đầu  tôi  một  mực  từ  chối  sự  giúp  đỡ  của

Pusyseda, nhưng cậu ta nằng nặc giằng lấy thước cuộn nên tôi đành để mặc

cho cậu ta giúp.

Buổi tối, chúng tôi dựng trại trên nền đất cũ hoang tàn, đổ nát của thành

phố cổ. Ngồi bên đống lửa gặm bánh nướng Khâu Từ trệu trạo nhai, nuốt từng

miếng,  tôi  nhanh  chóng  “bỏ  cuộc”,  đưa  mắt  về  phía  toà  thành  hoang  phế

trong đêm u tịch. Không biết giờ này cậu ấy đang ở đâu? Có đang ngồi trước

đống lửa và bận lòng về “ai đó” như tôi không? Còn nhớ lần đầu tiên gặp

Rajiva, cũng vào một đêm tháng 10 giữa sa mạc mênh mông hoang vu. Khi ấy

cậu vẫn là một thiếu niên, đôi mắt long lanh, chăm chú nhìn tôi đầy vẻ hiếu kỳ.

- Chị đang nghĩ gì thế?

Một cốc nước được đẩy đến trước mặt tôi, ánh lửa bập bùng trong mắt

Pusyseda, cậu ta giống Rajiva quá!

Tôi đón lấy cốc nước, áp tay vào sưởi ấm.

- Nơi đây từng là Đô hộ phủ của Ban Siêu tại Tây Vực, 16 năm chinh chiến

của cha con Ban Siêu đã làm thay đổi lịch sử Tây vực và cả lịch sử Khâu Từ.

Pusyseda ngồi xuống bên cạnh tôi, hướng mắt vào đống lửa.

- Kể cho tôi nghe về ông ấy đi.

- Tôi rất ngưỡng mộ Ban Siêu. Cha ông là Ban Bưu, anh trai là Ban Cố, em

gái là Ban Chiêu, họ đều là những nhà sử học và nhà văn nổi tiếng thời Hán.

Bản thân ông lúc đầu cũng theo nghiệp văn chương nhưng sau đó đã bỏ bút

để cầm gươm.

Tôi nhấp một ngụm nước, hồi tưởng lại gia đoạn lịch sử hào hùng ấy.

- Hán Vũ Đế hạ lệnh cho Trương Khiên “khai thông” Tây vực, thi hành chính

sách kết giao hoà hảo, chỉ cần các tiểu quốc Tây vực thuận theo nhà Hán,

không những không phải cống nạp, mà còn được Hán triều ban thưởng và cấp

cho các kỹ thuật tiên tiến của Trung Nguyên. Thái độ cầu hoà này khác hẳn

với chính sách xâm chiếm tàn bạo của quân Hung Nô đối với Tây vực. Bởi vậy,

trong một thời gian dài, Tây vực đã hoàn toàn quy thuận triều Hán, khiến quân

Hung Nô vô cùng tức tối. Nhưng đến cuối đời Hán, Vương Mãng soán ngôi,

thiên hạ đại loạn, quân Hung Nô được dịp ngóc đầu dậy, khống chế toàn bộ

Tây vực. Đến khi Minh Đế, con trai của Quang Vũ Đế lên ngôi mới phải Đậu Cố

điều binh tấn công quân Hung Nô ở phía Bắc. Từ đó, lịch sử đã viết những

trang hào hùng về cuộc đời người anh hùng Ban Siêu.

Thành quách tiêu điều ủ mình trong gió thu se sắt là chứng tích của những

tháng năm huy hoàng ấy. Ban Siêu cùng với đội quân 36 người của mình đã

chiến đấu và tiêu diệt 130 tên địch, từ chiến thắng đó, người đời mới có câu

ngạn ngữ “không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Khi Hán Chương

Đế quyết định từ bỏ tây vực và hạ chiếu triệu hồi Ban Siêu về Trung Nguyên,

ông đã kháng chỉ và cùng các tộc người Tây vực kiên trì trấn giữ Salaq suốt

năm  năm  trời.  Số  binh  lính  người Hán  dưới  quyền  chỉ  huy  của  ông  không

nhiều, nhưng ông đã thuần phục được các tiểu quốc Tây vực bằng nhân cách

và tài trí của mình.

Sau rất nhiều nỗ lực của cha con Ban Siêu, Khâu Từ đã quy thuận nhà Hán.

Vương triều nhà Bạch do Ban Siêu dưng lên đã cai quản Khâu Từ gần tám

trăm năm. Nhưng đến thời kì này, Khâu Từ không còn nghe theo hiệu lệnh của

Trung Nguyên nữa, nên mới dấy lên cơn binh biến, để rồi mười một năm sau,

Rajiva sẽ phải đối diện với bước ngoặt lớn trong cuộc đời.

Trái tim như vỡ ra, rỉ máu, cảnh sắc trước mắt như cũng nhuốm một màu

sẫm đỏ. Tôi nhắm mắt lại.

- Sao chị không kể tiếp?

- Cậu là người khâu Từ kia mà, sao lại không hay biết về giai đoạn lịch sử

này?

Mở mắt ra, sắc đỏ biến mất, chỉ thấy đôi mắt Pusyseda long lanh, dò xét.

Tôi cười buồn.

- Tôi không sao, không cần nghĩ cách làm thay đổi tâm trạng của tôi đâu.

Cậy ấy mỉm cười, rồi yên lặng.

- Quan hệ giữa cậu và Bạch Chấn thế nào?

Cậu ta nheo mày.

- Vẫn ổn, sao chị hỏi chuyện này?

Tôi do dự nhưng rồi vẫn quyết định nói ra:

- Cậu đừng làm quân nhân nữa, được không?

Pusyseda tỏ ra kinh ngạc, nhìn tôi đầy nghi hoặc.

- Có thể cậu cho rằng lời nói của tôi là hàm hồ, nhưng hãy tin tôi, những gì

tôi nói đều là sự thật.

Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ta, chậm rãi buông từng tiếng:

- Ngày sau, Khâu Từ sẽ trải qua biến cố rất lớn, gia nhập quân đội sẽ nguy

hiểm đến tính mạng. Hãy kết thân với Bạch Chấn, người đó rất có thể sẽ là

chỗ dựa của cậu trong tương lai.

Pusyseda dường như quá đỗi kinh ngạc, trầm ngâm hồi lâu. Lúc sau mới

nhếch môi cười rất khó khăn:

- Không ngờ, chị cũng đã tiết lộ cho tôi biết trước tương lai của mình.

Chưa hết ngạc nhiên, bàn tay tôi đã bị cậu ta nắm chặt, giọng nói dịu dàng

đến bất ngờ.

- Ở lại bên tôi, cùng tôi vượt qua giai đoạn khó khăn mà chị vừa nói, được

không?

Cậu ta đặt tay tôi vào lòng mình.

- Chị là tiên nữ giàu lòng từ bi, chắc sẽ không để mặc tôi chịu khổ, đúng

không?

Tôi gượng gạo vùng thoát, chạm phải vết thương, không chịu nổi tôi kêu

đau Pusyseda lập tức buông tay.

Cậu ta thở dài, vẻ đau buồn gợn trong đáy mắt, quay lại với ngọn lửa bập

bùng.

- Ngải Tình, nếu tôi xuất gia, liệu chị có thích tôi không?

- Cậu!

Tôi giật mình:

- Cậu nói bậy cái gì thế!

Cậu ta cười vang:

- Đùa chị thôi. Tôi mà xuất gia, sẽ có không biết bao nhiêu cô nàng khóc

sưng mắt lên mất! Rồi tôi lại phải phá giới để dỗ dành họ thôi! Người như tôi,

chẳng thể thành Phật được.

Tôi bật cười:

- Pusyseda, rốt cuộc cậu thích tôi ở điểm nào?

- Không biết. Chị có xinh lắm đâu, ngực lại nhỏ, không biết tôi thích chị ở

điểm gì cơ chứ?

Cậu ta nhìn tôi, nụ cười vụt tắt, nhẹ nhàng cất giọng:

- Ngải Tình, chị rất thuần khiết.

Đôi mắt màu xám nhạt từ tốn chiêm ngưỡng khuôn mặt tôi.

- Đôi mắt thuần khiết, nụ cười thuần khiết, tâm hồn thuần khiết. Ở bên chị,

tôi thấy mình cũng trở nên thuần khiết, không muốn nghĩ đến những chuyện

bậy bạ nữa.

Cậu ta nhắm mắt lại, lúc mở ra nhìn tôi, ánh mắt buồn xa xăm.

- Ngải Tình, chị nhất định phải về trời ư, không thể lưu lại nhân gian ư?

Tôi đứng lên.

- Khuya rồi, đi nghỉ thôi.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên đường quay về. Tôi vốn chẳng có hứng

để làm việc, lại cũng không muốn ở cùng Pusyseda, nên đã đề nghị về sớm.

Nhất định phải lấy lại được chiếc đồng hồ vượt thời gian. Tôi đã ở Khâu Từ gần

nửa  năm,  nếu  không  gấp  rút  lên  đường,  có  khi  vừa  đặt  chân  tới  kinh  đô

Trường An, thời hạn một năm đã hết, chưa gặp được Phù Kiên đã phải quay

về thế kỷ XXI cũng nên.

Chúng tôi phải dựng trại qua đêm trên đường, lẽ ra chỉ tối hôm sau là có

thể về đến thành Khâu Từ. Nào ngờ, trưa hôm đó khi chúng tôi đang nghỉ ngơi

trong rừng dương thì đã xảy ra một biến cố lớn.

Khi ấy chúng tôi vừa nghỉ ngơi xong, đang chuẩn bị lên đường. Vừa bước

vào xe, tôi bỗng nghe thấy những tiếng động lạ. Khẽ thò đầu ra ngoài thì một

vật thể lạ đột ngột bay vút tới, cắm phật vào cửa xe, tôi lập tức nhận ra đó là

một mũi tên. Tiếng Pusyseda gào lên:

- Ngải Tình, vào xe, ngồi yên trong đó!

Vừa ngồi xuống, cỗ xe bỗng nghiêng về phía sau, bên ngoài, tiếng ngựa hí

lên thảm thiết, cỗ xe lao đi như bay. Xe ngựa rung lắc dữ dội khiến tôi ngã lên

ngã xuống đau điếng, tôi cố sức bò ra cửa xe. Vất vả lắm mới kéo nổi rèm cửa,

tôi thấy một mũi tên cắm trên lưng ngựa còn phu xe thì đã mất tăm mất dạng

từ bao giờ. Bốn bề là sa mạc hoang vắng, không thấy Pusyseda. Tôi chao đảo,

choáng váng, buồn nôn nhưng vẫn gắng gượng lết đến bên cánh cửa, cắn

răng, co người nhảy xuống. Không biết tôi đã lăn trên mặt đất bao nhiêu vòng,

chỉ thấy cánh tay bị thương truyền đến cơn tê buốt, rụng rời.

Sau đó, đầu tôi va phải một vật gì đó rất lạnh, trời đất tối sầm và tôi không

thấy gì nữa cả.

Chương 34: Cách biệt phương trời

Mọi thứ trước mắt dần trở nên rõ ràng hơn, đôi mắt màu xám nhạt đang

nhìn tôi đầy vẻ lo âu, chớp mắt, tôi nhận ra Pusyseda.

- Ơn trời, chị tỉnh lại rồi!

Cậu ta muốn ôm tôi, nhưng cánh tay chạm phải vết thương của tôi, cơn

đau dội về, mồ hôi đầm đìa trên trán tôi.

- Xin lỗi, tôi vụng về, thô lỗ quá!

Cậu ta vội buông tay tôi, chăm chú quan sát vết thương của tôi.

- Đừng lo, tôi nhất định sẽ chữa khỏi cho chị.

Đưa mắt nhìn quanh, vậy là tôi đã trở về căn phòng của mình ở phủ quốc

sư. Cánh tay được phủ kín bởi không biết bao nhiêu lớp vải quấn, vết thương

sưng lên thật đáng sợ.

Tôi hỏi Pusyseda đã xảy ra chuyện gì qua làn hơi yếu ớt của mình. Thì ra là

một vụ cướp bóc thường gặp ở vùng này. Đám cướp thấy đoàn chúng tôi, tính

cả phu xe cũng chỉ vỏn vẹn sáu người đàn ông, nên đã tấn công trực diện.

Nhưng Pusyseda và bốn người bạn của cậu ta lại là những binh lính được đào

tạo bài bản, một người có thể hạ gục bốn tên, đám cướp biết không thể làm

bậy, đã bỏ chạy. Bọn họ không hề hấn gì cả, chỉ có tôi là kém may mắn nhất,

đầu đập vào phiến đá, ngất đi, nhưng đó chưa phải là điều khiến tôi lo sợ,

đáng  ngại  nhất  là  vết  thương  chưa  lành,  nay  lại  chịu  thêm  chấn  thương

nghiêm trọng. Các khớp xương ở khu vực nhạy cảm vốn đã rất khó liền, bây

giờ lại càng nguy hiểm hơn.

Pusyseda nổi trận lôi đình muốn trị tội tên phu xe nhát gan bỏ trốn, nhưng

tôi đã ngăn lại. Dù sao đó là bản năng tự bảo vệ để có thể tiếp tục sinh tồn mà

thôi.

Ngự  y  trong  cung  đã  đến,  khi  cánh  tay  được  vén  lên,  tôi  rụng  rời.  Nếu

không phải là một phần thân thể mình, chắc chắn tôi sẽ cười phá lên và bảo

rằng, cánh tay trông như chân giò ninh nhừ ấy! Vết thương đã bị vi khuẩn tấn

công, rất có thể sẽ bị hoại tử. Trời ơi, sao lại như thế được! Vết thương này đã

bám theo tôi gần nửa năm, tôi vẫn tích cực chữa trị kia mà, vì sao khả năng

phục hồi lại kém như vậy?

- Ngải Tình, đừng sợ!

Pusyseda nắm chặt cánh tay còn lại của tôi, cậu ta dường như còn sợ hãi

hơn cả tôi.

- Chờ nhé, tôi sẽ vào cung tìm loại thuốc tốt nhất cho chị.

Pusyseda vội vã rời phủ cùng ngự y, tôi nằm trên giường suy nghĩ mông

lung. Rốt cuộc là vì sao? Lẽ nào, vì tôi sử dụng cỗ máy vượt thời gian quá

nhiều lần, nên đã bị nhiễm phóng xạ? Cánh tay tôi, liệu có tàn phế?

Càng nghĩ càng sợ hãi, không chịu nổi nữa, tôi bèn ngồi dậy. Tôi nói với cô

người rằng tôi muốn một mình yên tĩnh, sau đó tôi cắn răng chịu đau, lê bước

đến phòng Pusyseda. Chắc chắn cậu ta đã cất giấu chiếc đồng hồ ở một nơi

nào đó rất kín đáo. Tôi gõ nhẹ vách tường, rồi lật tìm trong tủ sách. Chỉ dùng

được một bên tay nên động tác rất chậm. Trong lòng bồn chồn, lo lắng, không

biết khi nào cậu ta sẽ về?

Tôi bám vào thành giường, quỳ xuống, thò tay vào gầm giường tìm kiếm.

Hình như tay tôi chạm phải một vật gì đó, tôi mừng rỡ, kéo ra ngoài. Đó là một

chiếc hộp gỗ hình chữ nhật rất bình thường, chỉ rộng bằng tờ giấy A8. Tôi

cuống quít mở hộp và toàn thân như hóa đá.

Chỉ vài ba nét phác họa nhưng đã tái hiện được hình ảnh một cô gái với nụ

cười rạng rỡ, sống động, trang phục giản dị, gương mặt tươi tắn, người đó

chính là tôi! Bức họa được vẽ bằng giấy nháp và bút chì của tôi.

Trang tiếp theo là một bức vẽ bán thân của tôi, đôi mắt trong sáng, lí lắc,

nụ cười ngây ngô đậu trên khóe môi. Tiếp theo nữa là bức vẽ tôi cưỡi trên lưng

lạc đà, vẻ mặt khổ sở vì ngồi không vững, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất.

Tiếp theo là bức vẽ tôi ngủ gục trên bàn, mái tóc dài xõa xuống, che khuất

nửa khuôn mặt. Một bức vẻ mô tả động tác nghiêng đầu, há miệng kỳ quặc

của tôi, hình như lúc tôi hát. Có cả bức vẽ khi tôi trầm ngâm, chăm chú đọc

sách…

- Cảm động lắm hả?

Tôi giật bắn, chiếc hộp rơi xuống nền nhà, tập giấy vương vãi.

Pusyseda ngồi xuống, lượm nhặt từng tờ, xếp gọn lại, nở nụ cười khó hiểu.

- Nếu tôi nói với chị đó là những bức tranh do tôi vẽ, chị sẽ yêu tôi chứ?

- Tôi…

Nước mắt lăn dài trên má.

- Pusyseda…

Cậu ta lật mở từng trang, ánh mắt đổ dồn vào những bức vẽ, điệu cười

buồn bã.

- Vẽ rất có hồn phải không?

Những bức về sau không đẹp lắm, nét vẽ thô lậu, xuất hiện nhiều dấu vết

của sự tẩy xóa. Thần thái của tôi không sống động như những bức vẽ trước.

Pusyseda lật đến những trang cuối cùng, người trong hình không phải tôi. Đó

là những bức chân dung Rajiva do chính tôi vẽ. Nụ cười ấm áp, một bên vai để

trần, thân hình gầy gò. Hình vẽ khá giống, có điều, chưa lột tả được hết thần

thái của cậu ấy.

- Tôi cũng mong đây là những bức tranh do tôi vẽ.

Cậu ta vẫn không rời mắt khỏi những bức họa, bàn tay run run.

- Như thế, sẽ khiến chị cảm động. Ngải Tình, lúc gặp chị tôi mới mười tuổi

và chúng ta chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng. Khi trưởng thành, tôi chỉ

nhớ mình từng gặp tiên nữ, nhưng dung mạo của cô tiên nữ đó thế nào, tôi

không nhớ nữa. Trong ký ức của tôi, chỉ vương vấn lại những bài hát của chị,

tiếng cười lảnh lót của chị lúc chơi đùa với tôi trong sân nhà và hơi ấm của chị

mà thôi. Chắc chị đã đoán được những bức họa này do ai vẽ? Cô gái trong

tranh có đôi mắt thuần khiết, trong sáng mà tôi không thấy được từ những

người phụ nữ bên cạnh tôi những năm qua. Đôi mắt ấy đã đánh thức ký ức về

chị  trong  tôi.  Trong  phút  chốc  những  kỷ  niệm  thuở  nhỏ  hiện  ra  thật  sống

động. Chị dạy tôi trò oẳn tù tì, chị cùng tôi đóng kịch tướng quân và kẻ cướp,

chị cùng tôi đắp người tuyết, chị dạy tôi học Hán ngữ cổ đại, chị vừa vỗ lưng

vừa hát ru tôi ngủ. Mọi thứ đều mới mẻ như mới hôm qua. Từ lúc đó, tôi luôn

mong mỏi được gặp lại chị.

- Tôi đã lấy trộm những bức vẽ này. Anh ta không dám đòi lại, nhưng tôi

biết anh ta đã đến đây lục tìm rất nhiều lần. Một năm qua, tôi vẫn thường lật

mở, ngắm nghía những bức vẽ này và sau đó thì rất tức giận. Vì sao anh ta vẽ

được chân dung chị sống động, có hồn đến thế, khiến cho tôi mỗi lần nhìn

ngắm lại khao khát được gặp chị. Anh ta chưa bao giờ nổi tiếng về tài vẽ

tranh, điều đó chứng tỏ anh ta đã phác họa hình ảnh chị trong trái tim mình

hàng ngàn hàng vạn lần, mới có thể vẽ được những bức chân dung tài hoa

đến thế!

Tôi run rẩy đưa tay ra, muốn lấy lại những bức hình, Pusyseda do dự giây

lát, rồi trả cho tôi. Tôi chậm rãi lật mở từng trang, những nét vẽ từ gượng gạo,

thô kệch đến bay bổng tinh tế và cuối cùng là sống động, hài hòa. Phải chăng

vì thế mà cậu ta từng thú nhận: mười năm trước, mười năm qua vẫn luôn vi

phạm giới luật. Không biết từ khi nào, tôi đã bước vào trái tim cậu ấy, đến tận

nơi sâu thẳm nhất.

Tôi không khóc nổi, vết nứt trong trái tim ngày một khoét rộng ra, cảm giác

như tôi đã hoàn toàn mất nó.

- Ngải Tình!

Pusyseda ôm chặt lấy hai vai tôi, sợ hãi kêu lên.

- Chị sao vậy?

Tôi làm sao? Một giọt màu đỏ rơi xuống, thấm nhòe trên nụ cười ngây ngô

của tôi. Một giọt khác che khuất ánh mắt sáng long lanh của tôi.

Một cánh tay vươn đến, cuống quít chặn trước mũi tôi, ngón tay dính đầy

những  giọt  đỏ  tươi.  Tôi  gắng  gượng  ngẩng  đầu  nhìn  lên,  bắt  gặp  vẻ  mặt

hoảng sợ của Pusyseda. Tôi muốn nói rằng tôi không sao, nhưng vừa định mở

miệng, dòng máu đỏ đã trào ra, nở bung như những bông hoa nhỏ, sắc đỏ

vương lên những bức tranh chân dung của tôi. Cơ thể tôi ngày càng mệt mỏi,

rã rời, đầu óc quay cuồng hỗn loạn, trong khoảnh khắc, mọi thứ bỗng trở nên

tịch lặng.

Tôi gắng mở mắt, đây là căn phòng của tôi, Pusyseda ngồi bên cạnh, hai

mắt thâm quầng. Thấy tôi tỉnh lại, cậu ta cuống quýt hỏi han đủ thứ.

Tôi ra hiệu muốn uống nước, Pusyseda vội mang đến một cốc nước nóng.

Hơi ấm của nước lan tỏa khắp cơ thể, tôi đã lấy lại được một chút cảm giác.

Tôi lặng nhìn cậu ta, không muốn nói năng gì, cũng không đủ sức để cất lời.

- Ngải Tình, đừng nhìn tôi như vậy!

Cậu ta nghiêng đầu tránh đi, giọng nói nghẹn ngào:

- Kể từ lúc chị ngắm nhìn những bức vẽ đó, tôi biết mình đã thua. Thực ra,

tôi chưa bao giờ thắng. Chị luôn thuộc về anh ta, mười năm trước đã như vậy

rồi.

Cậu ta hít một hơi rất sâu, gắng giữ cho hơi thở ở trạng thái bình thường.

- Anh ấy sắp về rồi. Tôi đã cử người đi thông báo.

Tôi kinh ngạc bật dậy, nhưng cơn đau khiến tôi đổ xuống. Pusyseda vội lao

đến giữ chặt lấy tôi, ánh mắt đau khổ xen lẫn lo âu nhìn tôi, giọng nói đầy xúc

động:

- Khi nào Rajiva về đây, tôi sẽ xin với đức vua cho phép anh ấy hoàn tục.

Nếu anh ấy không đồng ý, tôi sẽ dần cho một trận.

- Không được!

Tôi thốt lên trong hơi thở cực nhọc.

- Vì sao?

Cậu ấy kề sát mặt tôi, nỗi bi ai hiển hiện trên nét mặt.

- Hai người yêu thương nhau kia mà? Vì sao phải đày đọa bản thân như

vậy? Nếu thật lòng yêu chị, anh ấy nên từ bỏ thân phận tăng sĩ của mình.

Nước mắt lăn dài trên má.

- Pusyseda, không kịp nữa rồi…

Vết thương lâu lành, hai lần chảy máu cam và một lần thổ huyết, tôi biết

sức khỏe của mình đã chịu tổn thương khá nghiêm trọng qua những lần vượt

thời gian, mặc dù không biết đã mắc bệnh gì, nhưng tôi hiểu rằng mình không

thể tiếp tục ở lại, tôi phải nhanh chóng quay về. Tôi nghĩ vết thương của tôi

không chỉ đơn giản là cánh tay sắp gãy kia. Tôi cay đắng nhận ra rằng, thay

đổi lịch sử thì phải trả giá.

- Hãy trả lại tôi chiếc vòng đó…

Tôi thốt lên từng tiếng khó khăn

- …Nếu cậu không muốn tôi chết…

- Ngải Tình!

Cậu ta ôm chầm lấy tôi, nghẹn ngào:

- Là lỗi của tôi, tôi đã ép chị ở lại, mà quên rằng, tiên nữ không thuộc về nơi

này…

Pusyseda nhẹ nhàng ngả đầu tôi xuống gối, những giọt đau thương đọng

trên khóe mắt, vành môi run run.

- Tôi trả chị về trời.

Khâu Từ vốn ít mưa, mùa thu lại càng khô nẻ. Nhưng vào ngày cuối cùng

tôi ở đây, cơn mưa giăng giăng ngoài cửa sổ, bầu trời u ám, lạnh lẽo và thê

lương như tâm trạng của tôi lúc này. Pusyseda cho mọi người trong phủ nghỉ

làm một ngày, để không ai bị choáng váng trước sự biến mất kỳ lạ của tôi. Sức

khỏe yếu ớt, nên chỉ với một bên tay trái, tôi không thể tự mặc áo chống

phóng xạ, Pusyseda đón lấy chiếc áo, giúp tôi.

Nếu không bị ốm, chắc chắn khuôn mặt tôi đã đỏ gay đỏ gắt. Đây là lần đầu

tiên trong đời tôi để một người con trai mặc áo cho mình và người đó lại áp sát

thân  mình  vào  người  tôi  thế  này.  Tôi  tựa  vào  khuôn  ngực  vạm  vỡ  của

Pusyseda, hai má nóng bừng, vừa hướng dẫn cậu ta kéo những chốt khóa

phức tạp. Tuy hơi vụng về nhưng cậu ta rất tập trung, thận trọng và tỉ mỉ, vừa

thao tác vừa không ngừng hỏi tôi, có đau không.

Khuôn mặt cậu ấy cũng ửng đỏ, nhưng đôi mắt ắp đầy nỗi buồn thương vô

hạn, khiến tôi không dám nhìn. Cánh tay bị thương của tôi sưng tấy nghiêm

trọng, không sao đút vừa tay áo, mồ hôi ướt đầm vầng trán. Cậu ta lập tức

dừng lại, nâng cánh tay của tôi lên ngắm nghía với vẻ xót xa. Tôi ra hiệu cho

cậu ta tiếp tục. Pusyseda cắn răng, dường như phải tốn sức lắm để có thể

luồn tay áo qua cánh tay tôi. Khi lớp vải cọ vào vết thương, tôi như muốn ngất

đi vì nhức buốt.

- Tôi chưa bao giờ mất nhiều thời gian để mặc quần áo như thế này.

Tôi nén cơn đau, mỉm cười với cậu ta.

Pusyseda có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng nở một nụ cười méo mó.

- Đây cũng là lần đầu tiên tôi giúp phụ nữ mặc quần áo.

Ánh mắt cậu ta dừng lại nơi miếng ngọc hình sư tử trên cổ tay tôi, với tay

chạm khẽ:

- Hứa với tôi, chị sẽ luôn đeo nó bên mình, để thỉnh thoảng còn nhớ đến tôi.

Tôi gật đầu, cảm giác như sắp nghẹt thở trong bầu không khí ngậm ngùi

này, tôi gắng sức diễn một nụ cười ngô nghê “thương hiệu” Ngải Tình.

-  Pusyseda,  tiết  lộ  cho  cậu  biết  “định  luật  ba  không”  mà  các  bạn  nam

trường tôi khi theo đuổi các bạn nữ luôn ghi nhớ.

Pusyseda quả nhiên rất tò mò.

- “Định luật ba không” ư?

Tôi cười.

- Bụt chùa nhà không thiêng. Chia tay rồi là không vương vấn. Con gái

không phải lá mùa thu.

Cậu ta lẩm nhẩm đọc đi đọc lại, điệu bộ rất mắc cười, sau đó quay ra chọc

tôi:

- Cho chị thêm một cơ hội cuối cùng, đừng để đến khi đám phụ nữ xinh đẹp

vây lấy tôi mới lại hối hận.

Tôi cười vang, mặc cho cánh tay bị thương truyền đến cơn nhức nhối. Đã

rất lâu rồi mới lại được thấy Pusyseda vui vẻ như vậy.

Cậu ta giúp tôi khoác bộ Hán phục ra bên ngoài lớp áo chống phóng xạ, rồi

xách hai chiếc ba lô Northface đến trước mặt tôi.

- Tôi không muốn chị vác theo hai cái ba lô khổng lồ này. Chị yếu như vậy…

- Không sao, cậu cứ đeo lên vai giúp tôi.

Pusyseda nhẹ nhàng ôm lấy tôi, cử chỉ dịu dàng khác hẳn thường ngày.

Rất lâu không thấy cậu ấy buông ra, tôi đành chủ động lên tiếng:

- Tôi đi đây!

Pusyseda ngoảnh đầu đi, khẽ hỏi:

- Không chờ anh ấy về sao? Chắc là sắp đến nơi rồi.

Tôi lắc đầu. Còn nhớ, buổi tối ở Subash, Rajiva từng hỏi tôi có muốn cậu ấy

hoàn tục không. Giả dụ tôi bất chấp lịch sử, khiến cho dịch giả Phật học lừng

danh Kumarajiva biến mất, rồi cậu ấy sẽ ra sao? Cậu ấy có lí tưởng vĩ đại, có

nhân sinh quan của riêng mình. Nếu phải xa rời nơi cậu ấy đã gắn bó từ thuở

nhỏ để đến thế giới hiện đại làm một người bình thường, liệu cậu ấy có thể

chấp nhận được không, có thể thích ứng được không?

Kết thúc truyện cổ tích luôn là hoàng tử và công chúa sống bên nhau hạnh

phúc. Nhưng cuộc sống chung ấy sẽ ra sao? Những lo toan thường nhật sẽ

bào mòn nỗi háo hức ban đầu của cậu ấy. Cậu ấy sẽ trở nên hụt hẫng, hoang

mang, mất đi phương hướng trong cuộc sống. Tình yêu dù có đẹp đẽ đến đâu

cũng không thể bù đắp những dày vò về tinh thần khi lý tưởng bị đánh cắp.

Bởi vậy, tôi không thể nhẫn tâm ép buộc cậu ấy phải lựa chọn.

Tôi là người rất thực tế, tôi trở về để giữ mạng sống. Nếu nhất định phải ra

đi và không muốn cậu ấy phải khó xử, chi bằng không gặp, gặp nhau chỉ thêm

đau lòng! Hơn nữa, gặp cậu ấy, tôi không dám đảm bảo sẽ vẫn giữ vững được

lập trường của mình. Lặng lẽ ra đi, đối với cả hai chúng tôi, có lẽ là cách từ

biệt tốt nhất…

- Khi nào chị trở lại?

- Tôi không biết.

Tôi gượng cười, đúng là tôi không biết. Sau khi quay về, tôi không biết mình

có mắc bệnh gì không. Tôi không biết nhóm nghiên cứu có tiếp tục để tôi vượt

thời gian lần nữa không. Nếu tiếp tục vượt, tôi không biết có quay lại không

gian và thời gian này không. Có quá nhiều điều tôi chưa thể biết, nhiều chuyện

sẽ xảy ra ngẫu nhiên, nếu tính theo phương pháp xác suất, thì cơ hội là bằng

không. Vậy nên, có lẽ chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nữa…

- Nếu ta không gặp gỡ

Ta đã chẳng yêu nhau.

Nếu ta không thấu hiểu

Ta đã chẳng thương nhau…

[22]

Tôi lẩm nhẩm những câu thơ của Tsangyang Gyatso, vị Đạt Lai đời thứ sáu

của Tây Tạng, nỗi bi thương, phút chốc như khiến tôi già đi mấy chục tuổi. Tôi

đã lưu lại nơi này cả tâm hồn mình! Thứ tôi mang theo chỉ là một cơ thể suy

nhược, không trái tim… mà thôi…

- Ngải Tình…

Pusyseda xiết chặt lấy tôi thêm một lần nữa, cúi đầu hôn nhẹ lên trán tôi.

Nụ hôn của cậu ấy nóng ran, chất chứa nỗi lòng sinh ly tử biệt. Rất lâu mới

nhẹ nhàng thả tôi ra, giúp tôi đội mũ chống phóng xạ lên đầu, kéo khóa lại,

chậm chạp bước ra ngoài, nhưng đến cửa vẫn lưu luyến quay lại nhìn tôi.

- Pusyseda!

Tôi hét to khi cánh cửa đóng lại,

- Hãy sống thật hạnh phúc! Hãy tìm một người phụ nữ thật lòng yêu cậu!

- Tôi hứa…

Giọng nói nghẹn ngào của cậu ta lướt qua khe cửa.

- Khi trở lại, chị sẽ được thấy tôi sống vui vẻ như thế nào…

Tôi bật công tắc, đèn tín hiệu nhấp nháy, đồng hồ bắt đầu đếm ngược. Tôi

đưa  mắt  nhìn  lại  căn  phòng  một  lần  nữa,  những  chữ  viết  siêu  vẹo  của

Pusyseda trên tường, những bức tranh Rajiva vẽ chân dung tôi, Pusyseda đã

hứa sẽ trả lại cho cậu ấy. Thế giới này sẽ biến mất trong vòng chưa đầy một

phút nữa. Ra đi, mong là tôi có thể quên tất cả…

Giây phút vút bay lên không trung, hình như tôi nghe thấy tiếng gọi xé lòng

của ai đó, là ai? Ai gọi tên tôi thương tâm nhường vậy? Sao tôi không thể

thấy…

Chương 35: Pusyseda ngoại truyện (1)

Có lẽ phần lớn mọi người đều không nhớ được nhiều chuyện diễn ra khi

mình bốn tuổi. Tôi thì khác, con số ấy đã hằn lên trong kí ức của tôi một đường

ranh giới rất rõ rệt. Vì trước bốn tuổi, gia đình tôi có mẹ và anh trai, sau bốn

tuổi, gia đình chỉ còn lại tôi và cha.

Còn nhớ hôm ấy, anh trai không chơi đùa với tôi như mọi ngày mà dắt tay

tôi, nín thở nép vào một góc, ngó vào căn phòng của cha mẹ. Hồi đó, cứ có

thắc mắc gì tôi lại đem ra hỏi anh trai. Trong mắt tôi, anh ấy là người biết mọi

thứ, có thể trả lời mọi câu hỏi. Anh trai nói với tôi rằng, mẹ đã nhịn ăn nhịn

uống sáu ngày rồi, vì mẹ muốn đi tu.

Đi tu nghĩa là sao?

Đi tu nghĩa là mẹ muốn dọn đi khỏi nhà.

Thừa lúc anh trai lơ đễnh, tôi chạy vào phòng cha mẹ, tôi muốn cầu xin mẹ

đừng đi. Nhưng tôi không thấy mẹ đâu, chỉ có cha đang ngồi khóc với một

nắm tóc dài màu hung trên tay. Thấy tôi, cha vội vã giấu nắm tóc ra sau lưng,

cuống cuồng lau nước mắt và kêu anh trai đưa tôi ra ngoài.

Tôi hỏi anh, vì sao đi tu lại phải cắt bỏ mái tóc đẹp như vậy?

Anh tôi bảo, đi tu thì không cần bất cứ thứ gì nữa cả.

Mẹ đã dọn đi thật và không mang theo gì hết. Lúc ra khỏi nhà, mẹ được

người ta khiêng trên kiệu, mẹ dựa vào thành ghế, sắc mặt rất kém, mái tóc

bồng bềnh ngày nào không còn nữa. Đột nhiên tôi thấy sợ, tôi cảm thấy mẹ tôi

thật xa lạ. Mấy ngày sau, cha dẫn tôi và anh trai đến chùa thăm mẹ. Tôi đã

quen với hình ảnh mẹ trong những bộ trang phục đẹp đẽ, hôm đó nhìn mẹ

mặc áo cà sa, hình ảnh đẹp đẽ trong tôi bỗng nhiên biến mất.

Kể từ hôm đó, cứ cách năm ba ngày cha lại đưa tôi và anh trai đến chùa.

Mẹ đã thay đổi hoàn toàn, trước kia mỗi khi cha chạm vào người mẹ, mẹ sẽ

cười duyên dáng, nhưng bây giờ, hễ cha định chạm vào người mẹ là mẹ né

tránh, rồi mẹ chắp tay lại hành lễ với cha (mãi về sau tôi mới hiểu nghi lễ đó

nghĩa là gì). Còn tôi, tôi khao khát được mẹ ôm vào lòng, nhưng mẹ chần chừ,

do dự. Những lúc như thế, cha lại ôm chầm lấy tôi, những giọt nước mắt tôi

không bao giờ muốn thấy lại lăn dài trên gò má cha. Lớn lên tôi mới biết, như

thế gọi là đau khổ. Và kể từ đó, tôi không đòi mẹ ôm nữa.

Lần nào đến chùa, ba cha con cũng ở lại cả ngày liền, ngồi nghe những

người mặc bộ trang phục giống hệt mẹ và cũng không có tóc như mẹ lầm rầm

đọc những câu gì đó tôi không hiểu được. Cha muốn tôi ngồi yên, nhưng tôi

cảm thấy bứt rứt, khó chịu nên lăn ra ngủ lúc nào không biết. Nhưng anh trai

tôi thì khác. Anh ấy lắng nghe rất chăm chú, sau đó đọc lại cho một cụ già

những  gì  anh  ấy  nghe  được.  Cụ  già  hình  như  rất  mến  anh  ấy,  rì  rầm  trò

chuyện rất lâu với cha mẹ tôi. Thế rồi, anh tôi nói rằng anh ấy cũng muốn đi

tu.

Anh trai cũng dọn ra khỏi nhà ư? Vậy ai sẽ chơi đùa với tôi?

Tôi gào khóc ầm ĩ nhưng vẫn không ngăn được anh tôi ra đi. Tôi và cha

đành bất lực đứng nhìn anh ấy khoác lên người bộ quần áo giống hệt mẹ, quỳ

dưới đất, để cụ già đó cạo từng lọn tóc màu đồng dài đến ngang vai của anh

ấy. Cha nắm tay tôi rất chặt khiến tôi muốn kêu đau, nhưng nhìn ánh mắt rầu

rĩ, buồn thảm của cha, không hiểu sao, tôi lại nén được cơn đau ấy.

Anh em tôi chơi trò đuổi bắt trên mảnh sân nhỏ trong chùa. Anh trai bịt mắt

lại, quờ quạng tìm tôi, tôi nhảy bên nọ nhảy bên kia né tránh. Đã rất lâu rồi tôi

mới lại được chơi vui như thế. Anh trai túm được một người, hớn hở reo lên:

bắt được rồi! Chưa kịp thông báo với anh ấy không phải là tôi, thì anh ấy đã

phát hiện ra. Người đó là sư phụ Phật Đồ Thiệt Di của anh trai tôi, một cao

tăng trong chùa Tsio – li. Thấy sư phụ, khuôn mặt anh trai tôi biến sắc, anh ấy

cúi đầu lắng nghe ông cụ giảng giải về sự tĩnh tâm tọa thiền gì đó. Hôm ấy là

lần cuối cùng anh trai chơi đùa cùng tôi.

Kể từ đó, mỗi lần đến chùa, tôi lại thấy mẹ và anh trai cầm những cuốn

sách rất dày trên tay, họ chỉ khẽ hé môi cười với cha con tôi. Không ai ôm tôi

vào lòng, cũng không ai chơi với tôi cả, tôi bắt đầu thấy ghét khi phải đến

chùa. Nhưng cha vẫn muốn đi, được thôi, tôi sẽ vờ như mình cũng muốn đi.

Từ năm bốn tuổi tôi đã biết cách đóng kịch để cha vui lòng.

Khi tôi lên sáu, mọi nơi trong thành Khâu Từ, người ta không ngớt lời bàn

tán, khen ngợi anh trai tôi vì anh ấy đọc thuộc được rất nhiều kinh văn Phật

giáo. Mẹ nói với cha, không thể để anh trai tôi bị vây bọc trong những lời ca

tụng ấy, mẹ nói sẽ đưa anh đi học đạo ở nơi xa. Tôi không nhớ tên địa danh,

chỉ biết đó là một nơi rất xa xôi và phải mấy năm sau họ mới quay về. Cha dắt

tay tôi đi tiễn, nỗi buồn u ám lại hiện lên trong mắt cha. Tôi nghĩ, hẳn là cha

rất muốn tôi khóc tiễn họ, nên tôi đã khóc. Nhưng trong lòng thì tôi rất lấy làm

hân hoan vì từ nay sẽ không phải đến ngôi chùa đó nữa.

Không đến chùa, cha như mất đi điểm bám víu, ông thường ôm tôi vào

lòng, ngồi rất lâu trong sân nhà, ngước mắt nhìn trời. Sau đó, ông hào hứng

kể cho tôi nghe giờ này họ đang ở đâu, làm gì. Suốt bốn năm, ngày nào cha

cũng nói với tôi về việc anh trai được mọi người khâm phục như thế nào, anh

ấy đã nhận một vị cao tăng làm thầy và anh ấy đã được khen ngợi, tán thưởng

ra sao. Người anh trai ngày càng trở nên mờ mịt trong kí ức của tôi hình như

đã trở thành nhân vật nổi tiếng.

Năm tôi lên mười thì họ trở về. Đức vua (tức cậu ruột tôi) đã đích thân đi

đón họ. Nghe nói, anh trai đã giành chiến thắng trong một cuộc luận chiến

quan trọng ở Wensu và không ai không biết đến danh tiếng của anh ấy, người

ta nói về anh ấy ở mọi nơi mọi lúc. Lẽ ra tôi phải lấy làm tự hào chứ nhỉ? Tôi có

người anh ưu tú như vậy kia mà? Nhưng khi ai nấy đều chỉ vào tôi thì thào:

“Em trai của thần đồng Kumarajiva kìa”, tôi lại cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi

là Pusyseda, nhớ lấy, tôi không chỉ là em trai của Kumarajiva, tôi còn là tôi,

Pusyseda!

Tại buổi lễ nghênh đón long trọng, tôi đã gặp lại mẹ và anh trai sau bốn

năm xa cách. Thực tình thì đối với tôi, họ thậm chí không thân thuộc bằng

những người hầu trong phủ, nhưng vì muốn cha vui lòng, tôi vẫn nhào vào

lòng mẹ. Bốn năm trời thiếu vắng vòng tay mẹ, nhưng lần đoàn tụ đó không

hề khiến tôi vui vẻ. Mẹ vẫn lạnh lùng như ngày nào. Tôi ngả đầu vào lòng mẹ,

tự hỏi không biết phải ôm đến bao giờ nữa? Đúng lúc đó thì một đôi mắt sáng

long lanh chĩa về phía tôi, đôi mắt ấy trong vắt như nền trời Khâu Từ.

Chỉ nhìn thoáng qua cũng biết chị ấy không phải người Khâu Từ, dáng vóc

nhỏ bé, thanh thoát. Tôi đã từng gặp những người tóc đen, da vàng như chị

ấy trong thành Khâu Từ, cha tôi bảo họ là người Hán, họ đến từ một nơi rất xa

xôi, vượt qua những sa mạc mênh mông và phải mất một năm dài mới tới

được đây.

Tôi quan sát chị ấy, chị ấy cũng nhìn ngó, rồi cười với tôi. Nụ cười đó rất

đẹp, vành môi khẽ uốn lên, hiện rõ má lúm đồng tiền xinh xắn. Nhưng không

hiểu sao, tôi cảm thấy nụ cười ấy rất ngây ngô, thuần khiết một cách ngây

ngô, giống hệt đôi mắt của chị ấy. Sau đó, chị ấy chu mỏ, làm mặt ngoáo ộp

chọc ghẹo tôi. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy người này rất thú vị.

Chị ấy quả rất thú vị, không giống bất cứ ai tôi từng gặp. Kể từ lúc chị ấy

vào sống trong phủ, ngày nào tôi cũng chờ mong hết giờ học bài trong cung

để được về nhà. Trước đó thì ngày nào tôi cũng mải mê chơi đùa, luyện võ với

các anh chị em họ trong cung, chẳng thiết về. Tôi thích chọc ghẹo khiến chị

nổi giận. Chị ấy nói tiếng Tochari trọ trẹ, làm tôi mắc cười, mỗi lần bị tôi cười

nhạo, chế giễu, chị ấy lại nổi trận lôi đình, trợn mắt, cau mày, mím môi, khác

hẳn vẻ tiểu thư đỏng đảnh, giả tạo của các cô gái trong cung.

Chị ấy có một cái túi rất lớn, bên trong chứa rất nhiều thứ kỳ lạ. Chị ấy vẽ

rất nhiều tranh bằng chiếc bút và tờ giấy có thể xóa đi vẽ lại nhiều lần, có điều

chị ấy vẽ không đẹp. Chị ấy từng bắt tôi ngồi yên trên ghế rất lâu để chị vẽ,

nhưng bức vẽ rất xấu, chẳng giống tôi tẹo nào. Chị ấy còn thường xuyên nhét

đủ mọi thứ vào chiếc túi đó, thậm chí cả một mảnh giấy rách, cũng nâng niu

như đồ vật quý hiếm, rồi cẩn trọng đút vào túi. Thế nên, tôi thường xuyên

lượm lặt những thứ linh tinh, nói dối rằng đó là những vật dụng mà đức vua,

mẹ tôi hoặc anh trai tôi từng sử dụng, lúc đó, mắt chị ấy sáng lên, lập tức

dùng bút và giấy để trao đổi với tôi. Điều khiến tôi kinh ngạc là, cái túi đó như

thùng không đáy, có thể nhét tất cả mọi thứ vào bên trong.

Chị ấy dạy anh trai tôi tiếng Hán, cha tôi muốn tôi học theo. Trước đó, cha

đã từng mời một giáo viên người Hán về dạy tôi, nhưng người đó bị tôi chọc

giận mà bỏ đi. Chị ấy thì khác, chị ấy không bắt tôi đọc bài cả ngày như người

kia. Học bài mà thú vị như chơi đùa vậy! Chị ấy dạy tôi trò “oẳn tù tì ra cái gì ra

cái này”, tôi mà thua sẽ phải học thuộc một chương trong sách “Luận ngữ”,

viết một trang chữ Hán. Nếu chị mà thua, thì hôm sau sẽ phải đóng vai quân

lính dưới trướng của tôi. Hàng ngày, cứ đến lúc chúng tôi chơi vui vẻ nhất thì

anh trai tôi lại xuất hiện, sau đó tất cả chúng tôi đều yên lặng. Anh trai tôi có

thể trò chuyện với chị ấy bằng tiếng Hán, có thể bàn luận với chị ấy về những

đạo lý to tát, tôi không hiểu nổi. vì thế tôi rất giận, tôi thầm nhủ nhất định sẽ

học thật tốt, để sau này có thể chơi đùa với chị ấy bằng ngôn ngữ của chị ấy.

Lúc vào cung học bài, mấy người anh họ cứ chỉ trỏ vào tôi, cười cợt mỉa

mai. Thì ra, họ để ý thấy tôi thường xuyên bỏ về rất sớm, nên đã theo dõi tôi

và bắt gặp chị ấy trong phủ quốc sư. Họ trêu chọc tôi, nói rằng chị ấy là bà cô

già của tôi.

- Thì đã sao? Tôi cứ thích như thế đấy! Mấy cô công chúa chảnh chọe, đỏng

đảnh, suốt ngày giả bộ khóc mếu thì có gì hay ho?

- Chị ta là mẹ của cậu à?

Hoàng tử thứ tư nhảy loi choi trước mặt tôi.

- Mẹ cậu đi tu không cần cậu nữa, nên cậu cưới một bà cô già về làm vợ

chứ gì?

Tôi lao vào đấu đá với bọn họ một hồi, họ lớn tuổi hơn tôi, tôi đánh không

lại, kết quả là tôi bị lãnh những vết bầm tím trên trán.

Về đến nhà, chị ấy cuống cuồng băng bó cho tôi. Tôi muốn nói với chị ấy,

tôi là nam nhi, vết thương cỏn con này có đáng gì, nhưng lời vừa ra đến miệng

đã lại trôi ngay vào. Vì tôi rất thích bàn tay chị ấy xoa vuốt trên mặt mình, cảm

giác mềm mại, âm ấm. Đột nhiên, tôi muốn thử xem vòng tay của chị có ấm áp

như thế không, nên đã sà vào lòng chị ấy, giả vờ gào khóc. Chị ấy rất dễ mắc

lừa, vội ôm lấy tôi, vỗ về tôi. Chị ấy quả nhiên rất ấm áp, rất mềm mại, ngay cả

giọng nói lướt trên đầu tôi cũng ấm áp như vậy. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm

thấy sung sướng khi được ai đó ôm vào lòng. Khi đó, chỉ muốn được chị ấy ôm

như thế mãi, đừng ai đến quấy rầy, nhất là anh trai tôi.

Cha có việc phải đi Gumo, mấy ngày liền không về. Tôi mừng lắm, giả vờ sợ

hãi, đòi chui vào trong chăn ngủ cùng chị. Chị vỗ nhẹ lưng tôi, hát cho tôi

nghe các bài hát thiếu nhi của người Hán. Tôi tủm tỉm cười, người ta có còn là

trẻ con nữa đâu mà phải ru ngủ? Nhưng giọng hát của chị ấy trong trẻo, êm

ái, ấm áp tựa mảnh chăn bông đã được hong khô dưới nắng vào mùa đông.

Tôi chìm dần vào giấc ngủ say sưa trong hơi ấm ngọt ngào ấy. Trước lúc mê

đi, tôi đã thầm nhủ, sau này người mà tôi lấy làm vợ nhất định phải có được

hơi ấm đó.

Kể từ hôm ấy, tôi đã có thêm lí do để quấn chị: tôi muốn chị hát cho tôi

nghe những bài hát không giống nhau. Chị rất cưng chiều tôi, liên tục thay đổi

bài hát, hát đến khi tôi đã thiếp đi mới dừng lại. Tôi phát hiện ra, khi tôi ngủ

say, chị sẽ nhẹ nhàng kéo chăn cho tôi, còn quệt tay vào mũi tôi, khe khẽ

trách móc tôi bằng tiếng Hán. Điều đó thật thú vị, nên tôi thường xuyên vờ

ngủ say. Nhưng, tối hôm đó, trò đùa của tôi đã bị anh trai lật tẩy. Sau khi

phụng phịu ra khỏi phòng chị ấy, tôi đã nấp vào một góc tường, chị đang hát

cho anh trai tôi nghe, chọc anh ấy cười vang, điều mà tôi chưa từng thấy trước

đây. Tôi rất giận. Vì sao chị lại hát cho anh ấy nghe. Chị chỉ được hát cho mình

tôi nghe thôi chứ!

Ngày hôm sau, tôi lại càng bực mình hơn, khi hết giờ học, tôi lao như bay

về nhà mà không thấy chị đâu. Người trong phủ nói chị đi tham quan thành

Khâu Từ cùng anh trai tôi. Sao lại như vậy? Nếu chị muốn thăm quan, tôi cũng

có thể đưa chị đi kia mà? Anh ấy giành mất mẹ của tôi, bây giờ lại muốn tranh

cả chị với tôi ư? Tôi trút giận lên con chó vàng canh phủ và ngồi lì một chỗ

ngóng chị về.

Trước giờ cơm buổi tối chị mới về đến nhà. Lẽ ra tôi muốn phơi bày nỗi tức

giận của mình, nhưng chị đã kéo tôi chơi trò đuổi bắt, chị chọc tôi cười, khiến

cục tức trong tôi tan biến như mây khói. Dường như chỉ khi vui đùa cùng chị,

tôi mới được khóc được cười thoải mái, không mệt mỏi như khi tôi phải giả vờ

khóc, cười để lấy lòng cha.

Một hôm, chị nhìn chiếc đồng hồ kỳ quặc trên tay mình, rồi đột ngột thốt

lên:

- Ngày mai là năm mới!

Rồi chị bảo muốn đón tết của người Hán, hôm sau sẽ tặng quà cho tôi và

anh trai. Chị tặng anh ấy chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương, còn tặng cho tôi

bức tranh vẽ một con vật kì dị, không giống mèo cũng chẳng giống chó và cả

cái tên của nó cũng rất lạ: Doraemon. Chị nói con vật kỳ lạ này có một chiếc

túi thần kỳ, nó có thể lôi từ trong túi ra bất cứ thứ gì nó muốn. Tôi không thích

món quà đó lắm, tôi có phải trẻ con nữa đâu mà chị tặng tôi thứ đồ dành cho

con nít vậy? Nhưng vì là bức tranh do chính tay chị vẽ, nên tôi đành nhận vậy!

Tôi biết tin chị sắp ra đi, chị sẽ đến Trường An trên hành trình kéo dài một

năm trời. Nhưng tôi không muốn vậy, tôi phải nghĩ ra cách gì để giữ chị ở lại.

Tôi nghĩ đến chiếc vòng tay kỳ lạ của chị. Chiếc vòng đó biết động đậy, tôi

từng nhìn thấy. Nhưng lần đó, chị đã nghiêm mặt cảnh cáo tôi không được

động vào bất cứ thứ gì trên chiếc vòng ấy. Chị đeo nó cả ngày, đi ngủ cũng

nhét xuống dưới gối, chỉ khi đi tắm chị mới tháo ra để một chỗ. Càng ngày tôi

càng cảm thấy chiếc vòng đó có điều gì rất kỳ lạ. Thế là, hôm đó, nhân lúc chị

đi tắm, tôi đã lẻn vào phòng chị, kiểm tra đồ vật kì quái ấy.

Không biết tôi đã chạm vào đâu mà chiếc vòng đột nhiên phát ra thứ ánh

sáng màu xanh và những tiếng tích tắc lạ lùng. Khi tôi chưa hết kinh ngạc thì

chị đã bước vào phòng. Không muốn bị chị mắng vì tôi đã lẻn vào lấy trộm

chiếc vòng, tôi vội vàng thanh minh:

- Ngải Tình, chiếc vòng này thú vị quá, biết kêu tích tắc tích tắc, chị cho em

nhé?

Nhiều năm sau tôi vẫn nhớ như in cảnh tượng hôm ấy. Tôi thường tự hỏi,

nếu tôi không bày trò lấy trộm chiếc vòng đó, mọi thứ liệu có khác đi? Sau khi

chị biến mất trong chùm sáng kỳ quái, tôi đã đi tìm chị khắp nơi, một tháng

sau mới chịu bỏ cuộc. Trên đời này có thần thánh thật ư? Chị là tiên nữ thật

ư? Tôi không tin Phật, điều duy nhất tôi tin là tôi đã gặp tiên nữ năm lên mười.

Chỉ có tiên nữ mới xinh đẹp, thông minh, đáng yêu như vậy, mới khác biệt như

vậy.

Tôi đã không truyền đạt lại cho anh trai lời dặn dò của chị, chị nói anh phải

đến Trường An truyền bá đạo Phật. Chị nói anh sẽ trở thành một con người vĩ

đại. Vậy còn tôi thì sao? Chị là tiên nữ, vì sao không cho tôi biết tương lai của

tôi? Tôi bực mình khi thấy anh trai đi đi lại lại trong phòng chị như kiếm tìm

điều gì. Tôi bực mình khi anh ấy bao bọc rất cẩn thận những bức vẽ chị lưu lại.

Tôi bực mình khi anh ấy dặn dò người hầu giữ nguyên trạng căn phòng của

chị và thường xuyên dọn dẹp sạch sẽ. tôi càng bực mình hơn khi anh ấy luôn

nghĩ ra cần phải làm gì trước tôi.

Chương 36: Pusyseda ngoại truyện (2)

Càng trưởng thành, càng có nhiều chuyện khiến tôi phiền lòng. Căn nhà

trống trải khiến tôi buồn chán, vì cha thường xuyên đến chùa, nói rằng muốn

dự pháp hội, nhưng kỳ thực là đến thăm hai người đó. Tiếng tăm của anh trai

tôi ngày càng vang xa, anh ấy đi khắp nơi truyền bá giáo lý Đại Thừa, tham gia

không biết bao nhiêu cuộc luận chiến, cố gắng thuyết phục mọi người tin theo

giáo phái Đại Thừa bằng triết lý “có có không không” gì đó. Đại Thừa, Tiểu

Thừa gì chứ, tôi chẳng tin. Nhưng vì muốn cha vui, tôi vẫn thường thắp nhang

trên điện thờ trong nhà và cùng cha đến chùa thăm họ, nếu gặp dịp nhà chùa

tổ chức pháp hội, tôi cũng kiên nhẫn ngồi nghe cùng cha đến cuối buổi.

Những chuyện xảy ra năm mười tuổi, tuy vẫn nhớ nhưng vì chỉ vẻn vẹn vài

tháng nên tôi đã quên đi rất nhanh. Nhưng khi nghe các hoàng tử kể chuyện

chơi bời bên ngoài cung, họ nói đã “thử” đủ mọi loại phụ nữ, chỉ chưa biết

“mùi vị” của tiên nữ thế nào thôi, những lúc như thế, tim tôi lại vô cớ đập rất

nhanh. Tôi từng gặp tiên nữ, nhưng tiên nữ không lưu lại quá lâu dưới trần

gian, làm sao đám người thô thiển kia gặp được nàng chứ! Nhưng tôi, dù cố

gắng thế nào cũng không nhớ nổi tiên nữ trông ra sao. Chỉ có vòng tay ấm áp

và giọng hát êm ái của nàng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của tôi, những lúc

như thế, tôi không muốn tỉnh giấc chút nào.

Mười lăm, mười sáu tuổi tôi bắt đầu đua theo đám vương tôn công tử kia

gây ra bao chuyện thị phi. Hài hước nhất là một lần tôi cùng hoàng tử thứ tư

đi cướp dâu. Chiều muộn hôm đó, sau khi đã quá chén, chúng tôi gặp một

đám rước dâu trên đường. Hoàng tử đột nhiên nảy ra ý định cướp cô dâu, liền

kéo tôi trà trộn vào đám cưới gia đình nọ. Khi trời bắt đầu sẩm tối, hoàng tử la

lên: Có trộm! Khách khứa tới dự hôn lễ ồ ạt kéo ra ngoài. Theo sự phân công

của hoàng tử, tôi lẻn vào buồng tân hôn cắp cô dâu đi. Cô gái đó ban đầu rất

sợ hãi, nhưng vừa nhìn thấy tôi đã lặng thinh không gào tiếng nào. Thì ra vì

thế hoàng tử mới sai tôi đi làm cái việc chẳng đàng hoàng chút nào này!

Trời tối đen như mực, trong lúc gấp vội lại không thấy đường, tôi bị sa vào

bãi lầy đầy gai nhọn, không sao nhấc nổi chân. Hoàng tử vội đến cứu nguy,

nhưng chưa lôi được tôi ra khỏi bãi lầy thì đám người nhà cô dâu đã kéo đến.

Điều tôi không ngờ là hoàng tử đột nhiên trở mặt, gào to: Trộm ở đây này! Tôi

hoảng hốt, cố sức bật ra khỏi bãi lầy, bỏ lại cô dâu, hai chúng tôi tháo chạy tán

loạn.

Cứ ngỡ mọi chuyện sẽ kết thúc ở đấy, nào ngờ mấy ngày sau, một vài

người xuất hiện ở nhà tôi, kéo theo một cô gái khóc lóc nức nở, họ nổi giận

đùng đùng, gào thét đòi gặp tôi. Thì ra cô dâu hôm đó không muốn lấy chồng

nữa, nằng nặc đòi đi tìm tôi, cô ta thậm chí đã theo dõi và biết được nơi tôi ở.

Gương mặt cha biến sắc khi nghe lời phân trần của cô gái, tôi có giải thích thế

nào cũng vô ích. Tranh cãi hồi lâu, cha phải trả một khoản tiền, đám người kia

mới chịu ra về. Cô gái đó về sau vẫn tiếp tục đi theo tôi. Không chịu nổi, tôi đã

mắng nhiếc cô ta một trận thậm tệ, cuối cùng cũng được yên thân. Nhưng

chuyện này đã nhanh chóng bị đồn ra ngoài, mọi người trong thành Khâu Từ

không ai không biết là con trai út của quốc sư là một tên phóng đãng. Hoàng

tử ẩn mình một chỗ vờ không hay biết, ý rằng muốn tôi gánh chịu mọi hậu

quả. Anh ta là hoàng tử, nếu để đức vua biết, sẽ phải chịu hình phạt nặng nề.

Tôi mặc kệ! Là tên phóng đãng thì đã sao! Nhưng tôi thấy khinh bỉ loại

người như hoàng tử, nên kể từ đó đã tuyệt giao với anh ta.

Sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi vào đúng ngày anh trai thọ đại giới. Mặc

dù danh tiếng của anh trai tôi đã lan xa khắp vùng Tây Vực, nhưng anh ấy vẫn

phải tuân thủ quy định, đến năm hai mươi tuổi mới được thọ đại giới, từ một

Sa di, trở thành một Tỷ Khâu thực sự. Đức vua đặc biệt ưu ái anh ấy như thể

lo rằng các tiểu quốc xung quanh không biết Kumarajiva là quốc bảo của Khâu

Từ vậy!

Tôi thả bộ trong chùa, vẫn chưa tới giờ làm lễ, tôi chưa muốn vào trong

điện, trước đây tôi vốn không thích tham dự những nghi lễ kiểu này.

Anh trai đi qua, thấy tôi bèn dừng lại. Hôm nay anh ấy mặc chiếc áo cà sa

mới, khí chất toát lên vẻ thanh tao, thoát tục. Nhưng trên tay anh ấy đeo gì

thế kia? Bao nhiêu năm rồi anh ấy vẫn không chịu tháo bỏ nó.

Tôi cười mỉa, gào lên:

- Bạc cả màu rồi, còn đeo làm gì?

Anh ấy không đáp, lẳng lặng rủ tay áo che đi, vẻ mặt vẫn bình thản như

thường ngày:

- Hôm nay là sinh nhật tuổi mười bảy của em.

Anh ấy cười với tôi, sau đó như chợt nhớ ra điều gì đó, vội vàng nói với tôi

bằng tiếng Hán:

- Chúc mừng sinh nhật!

Tôi sững người. Không phải vì anh ấy nhớ ngày sinh nhật của tôi, mà vì câu

chúc mừng sinh nhật bằng tiếng Hán trong khoảnh khắc đã đưa tôi trở về với

những kỉ niệm xa xưa. Có một cô gái với nụ cười trong trẻo đã dạy tôi giai điệu

dễ thương, dễ thuộc của một bài hát mà cô ấy bảo phải hát vào ngày sinh

nhật. Như thế nào nhỉ? Tôi vừa lục lọi trong kí ức, vừa đưa mắt nhìn theo bước

chân anh ấy tiến vào nơi thọ giới.

Buổi sáng thọ giới, buổi chiều anh trai tôi lại tiếp tục thuyết giảng kinh văn

Đại Thừa cho hoàng thân quốc thích và đám quý tộc Khâu Từ nghe. Tôi không

đủ kiên nhẫn, liền vờ mắc tiểu, một mình lẻn đến căn phòng dành cho khách

khứa nghỉ ngơi. Bài hát đó, như thế nào nhỉ? Ký ức đôi lúc giống như: rõ ràng

ta nhìn thấy cánh diều bay lơ lửng ở nơi cách ta không xa, nhưng ta không sao

tìm được đầu sợi dây nối với cánh diều ấy.

Cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình khi thấy người vừa bước vào. Đó

là công chúa người Khoái Hồ, thê thiếp mới của đức vua. Không biết đức vua

toan tính điều gì mà liên minh với người Khoái Hồ ở mãi vùng Issyk- Kyl phía

tây xa xôi. Cô công chúa này chính là một trong những điều kiện của giao kèo

kết thân. Cô ta còn cao lớn hơn cả phụ nữ Khâu Từ, tôi đứng bên cũng chỉ cao

hơn cô ta nửa đầu.Mắt xanh, tóc vàng, trông cũng không đến nỗi nào. Có điều

kể từ khi vào cung, cô ta không được lòng các phi tần Khâu Từ vì tính cách

đáo để, ghê gớm của mình.

Cô ta nói tiếng Khâu Từ không được lưu loát cho lắm, khiến tôi nhớ đến

nhiều năm trước cũng từng gặp một cô gái như thế. Nhưng cô ta lại liếc mắt

đong đưa, khiến tôi chột dạ. Trong phòng chỉ có hai chúng tôi, không muốn

gặp phiền phức, tôi xin phép ra ngoài.

Nhưng cô ta đã kéo tay tôi lại, áp sát thân mình vào người tôi, tôi đã lùi

bước đến tận cùng, lưng chạm vào vách tường. Cô ta nói bằng giọng lơ lớ

rằng đã đem lòng yêu mến tôi từ lâu.

Tôi lúng túng, khuôn mặt nóng bừng. Lúc trước, cô ta từng nhiều lần liếc

mắt đưa tình, đong đưa trước mặt tôi, nhưng tôi chẳng thèm để ý. Tôi không

thích, cũng không dám. Nhưng hôm nay, có lẽ cô ta nghĩ rằng cơ hội đã đến.

Cô ta đưa đẩy bộ ngực vĩ đại của mình trên cánh tay tôi, khuôn mặt trắng

nõn nà, gò má lốm đốm tàn nhan sáp lại gần tôi. Trong khoảnh khắc, tôi như

bị mê hoặc bởi cảm giác đê mê, êm ái của sự tiếp xúc da thịt.

Cô ta tiếp tục kể lể về chuyện đã phải lòng tôi ngay lần gặp đầu tiên như

thế nào. Rồi khuyên tôi đừng lo lắng về thân phận của hai người, vì cô ta hứa

sẽ không nói ra. Sau đó cô ta đã nói một câu mà tôi vô cùng chán ghét:

- Chàng là lãng tử nức tiếng, không ngại cướp cả vợ người ta, em tin chàng

không phải kẻ nhát gan!

Lại là chuyện đó! Tôi bị mang tiếng xấu là kẻ phóng đãng, dù chưa từng

làm chuyện phóng đãng bao giờ. Thậm chí, ngay cả khi cùng các vương tôn

công tử đến kỹ viện vui chơi, tôi cũng chưa bao giờ nảy sinh ham muốn động

vào đám con gái đáng ghét ấy. Cô gái của tôi phải là một cô gái thuần khiết

như bầu trời xanh, tuy nàng chưa xuất hiện, nhưng tôi sẵn sàng chờ đợi...

Lợi dụng lúc tôi phân tâm, cô ta càng tiến sát hơn, cặp môi đỏ chót chừng

muốn đỗ xuống, nhưng tôi đã kịp nghiêng đầu, dấu ấn của cô ta đậu lại trên

sườn má bên phải. Bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn nôn, liền đẩy cô ta ra. Cô ta

loạng choạng, đổ người xuống chiếc bàn gỗ thấp, hình như phần eo va đập rất

mạnh vào cạnh bàn, vẻ mặt trở nên dữ tợn.

Có tiếng bước chân vang lên ngoài cửa, một đám người đang sắp bước vào

đây. Tôi hoảng hốt, vội chạy đến đỡ cô ta dậy, nhưng ánh mắt thù hằn dữ dằn

của cô ta khiến tôi sợ hãi.

Bên ngoài là đức vua, cậu út Bạch Chấn, cha tôi và mấy người họ hàng

khác. Người phụ nữ đó sà vào lòng đức vua, kêu gào thảm thiết, buộc tội tôi

giở trò trăng hoa.

Một trận khẩu chiến xảy ra và tôi, tất nhiên, là người thua cuộc. Không ai

tin tôi cả. Vết son trên má là bằng chứng trực tiếp, tiếng xấu trong quá khứ là

bằng chứng gián tiếp. Đức vua vô cùng tức giận, nhưng vì nể mặt cha nên đã

không hạ lệnh trừng phạt tôi ngay lúc đó. Những người còn lại, kẻ lắc đầu

người thở dài, nhìn cha tôi ngao ngán. Kể từ lúc xảy ra chuyện, sắc mặt cha

đã tái nhợt đi. Tôi chẳng thèm quan tâm người khác nghĩ gì, kể cả người đó có

là đức vua đi nữa, nhưng tôi không thể chịu nổi khi thấy cha đau lòng.

Bởi vậy, sau khi về phủ, tôi đã giải thích để cha hiểu và hỏi ông:

- Cha tin con chứ?

Cha nói tin tôi, nhưng vẻ u buồn vẫn hiển hiện trong mắt khi cha nhìn tôi.

- Pusyseda, giá như con có thể noi gương anh con, luôn biết giữ mình, thì

đâu đến nỗi ngoài cha con ra, không ai chịu tin lời con cả.

Tôi mở miệng định thanh minh, nhưng không thốt lên lời. Vậy là cha luôn

cảm thấy thất vọng về tôi!

Người hầu vào thông báo mẹ đã về, cha vô cùng mừng rỡ. Tôi theo cha ra

đón mẹ vào phòng khách. Mẹ có vẻ rất tức giận, vừa vào nhà đã hỏi chuyện

xảy ra hôm nay. Tôi kiên nhẫn (mặc dù không vui chút nào) giải thích lại lần

nữa với bà.

Bà trách móc tôi:

- Hôm nay là ngày anh con thọ đại giới, vậy mà con lại gây ra chuyện động

trời như thế!

Mẹ thậm chí không nói có tin lời tôi hay không, bà chỉ nghĩ đến anh trai.

Hôm nay là ngày anh trai thọ đại giới, vậy còn tôi? Liệu mẹ còn nhớ hôm nay là

sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi không?

Tự nhiên, tôi cảm thấy vô cùng buồn tủi, liền lao ra ngoài, mặc cho cha

quát gọi phía sau.

Màn đêm buông xuống, cơn gió mang theo hơi lạnh se sắt của mùa thu ào

đến. Một mình lang thang trên đường phố vắng lặng, tôi bỗng nhận ra: từ

trước đến nay, tôi vẫn luôn cô độc. Bao nhiêu bạn bè anh em, nhưng họ chỉ

xuất hiện khi có hội nhậu, hay những cuộc đánh lộn. Tôi thấy mình như sắp

hóa điên, bao điều nhức nhối dồn tụ trong lòng, không sao giải tỏa nổi.

- Pusyseda!

Tôi ngẩng lên, thì ra là cô chủ quán ăn Khotan trong thành, một góa phụ

trẻ tuổi lẳng lơ. Đã bị tôi cự tuyệt nhiều lần, nhưng cô ta chưa bao giờ chịu từ

bỏ.

Tôi “diễn” một nụ cười phong tình, kéo cô ta vào lòng.

- Đến chỗ cô em nhé!

Tôi không muốn tiếp tục mơ mộng nữa, khổ sở theo đuổi những điều mơ

hồ, không có thực ấy để mà làm gì? Dù sao trong mắt người đời tôi chỉ là một

tên  phong  lưu  không  hơn  không  kém,  vậy  thì  một  tên  phong  lưu  nên  làm

những việc xứng với danh xưng của hắn.

Tôi khá hồi hộp khi ở trong căn phòng của cô ta, cố gắng trấn tĩnh, tôi quay

lại người đàn bà đã trút bỏ gần hết xiêm y:

- Nói cho ta biết phải làm thế nào?

Cô ta phá lên cười dâm đãng, nắm lấy tay tôi kéo lê trên thân thể cô ta. Mùi

nước hoa nồng nồng trên người cô ta khiến tôi lảo đảo.

Dưới sự dẫn dắt của cô ta, tôi ngày càng trở nên thành thục, ngày càng trở

nên cuồng bạo, tôi muốn trút bỏ mọi thứ đang dồn nén trong lòng ra ngoài.

Tôi phải thừa nhận rằng, tôi đã cảm thấy thực sự hân hoan khi lên đến cao

trào.

Sau khi kết thúc, tôi lẳng lặng ngồi dậy, đưa mắt nhìn mọi thứ xô lệch, nhàu

nhĩ xung quanh và người đàn bà lõa lồ vẫn đang thở hổn hển cạnh tôi. Chẳng

phải rất đơn giản sao? Vậy mà trước kia tôi cứ khiến nó trở nên nghiêm trọng.

Rốt cuộc là tôi muốn bảo vệ thứ gì? Có đáng không? Chỉ là lên giường thôi mà,

tôi có mất gì đâu!

- Chàng thật mạnh mẽ! Không giống là lần đầu tiên.

Cô ta trườn lên vai tôi, đổ cả thân hình mềm nhũn lên người tôi. Thân thể

cô ta ướt át, mùi nước hoa trộn lẫn với thứ mùi hôi không thể giấu giếm xông

lên mũi tôi. Ruột gan tôi như muốn lộn tùng phèo, tôi thấy buồn nôn. Đẩy cô

ta ra xa, tự mình mặc quần áo, rồi lạnh lùng rời khỏi cái nơi đáng ghét ấy,

tiếng cô ta gọi với phía sau:

- Khi nào chàng lại tới?

Tôi sẽ không bao giờ quay lại đó nữa, vì tôi không muốn hành hạ khứu giác

với thứ mùi hôi kinh khủng ấy. Tôi lang thang trên đường cho đến khi tiếng mõ

của người phu đi tuần đêm báo hiệu đã sang canh năm. Sinh nhật tuổi mười

bảy của tôi đã qua đi như thế đó.

Tôi chính thức trở thành tên công tử chơi bời thực thụ, không nhớ nổi tôi

đã lên giường với bao nhiêu người phụ nữ nữa. Tôi có thể tiếp nhận bất cứ ai,

miễn là tôi cảm thấy hứng thú, chỉ với một điều kiện duy nhất: trên người họ

không được có thứ mùi hôi khiến tôi buồn nôn ấy.

Ánh mắt cha khi nhìn tôi ngày càng chất chứa vẻ tuyệt vọng, mẹ thì không

cần phải nói cũng biết bà khinh ghét tôi thế nào. Mặc kệ, dù sao thì họ chỉ cần

có anh trai tôi là đủ...

Không lâu sau, mẹ và anh trai tôi chuyển đến ngôi chùa Cakra, cách nhà

bốn mươi dặm. Như thế lại hay, tôi sẽ không phải ép mình đóng kịch, vờ thích

thú mỗi lần phải cùng cha đến chùa thăm họ nữa. Anh trai trở thành trụ trì

chùa Cakra, tuyên bố hùng hồn rằng sẽ dốc sức truyền đạo để toàn bộ người

Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa. Sao cũng được, thích thay đổi điều gì xin

mời cứ việc. Dù sao thì, đức vua rất mực sủng ái anh ấy, mọi người kính nể

anh ấy, anh ấy muốn làm gì, ai nấy đều hưởng ứng.

Năm tôi hai mươi tuổi, mẹ quyết định rời khỏi Khâu Từ để đến Thiên Trúc,

bà muốn chứng tam quả gì đó. Hai cha con tôi đến chùa Cakra tiễn bà. Chúng

tôi lưu lại trong ngôi nhà của anh trai ở Subash. Vì không đủ phòng nên tôi

phải ngủ trong phòng của anh trai.

Buổi tối rỗi rãi, nhàm chán, tôi định bụng tìm đại một cuốn sách trong tủ

sách của anh ấy để giết thời gian. Nhưng tôi tình cờ phát hiện ra một hốc nhỏ

kín đáo phía sau tủ sách. Tôi tò mò đẩy nắp đậy ra và thấy một chiếc hộp gỗ

hình chữ nhật.

Bên trong chiếc hộp gỗ là một xấp những bức vẽ. Cánh cửa ký ức trong tôi

bỗng mở tung khi tôi nhìn thấy đôi mắt long lanh, trong sáng ấy, nụ cười tươi

tắn rạng rỡ ấy, lúm đồng tiền duyên dáng ấy và suối tóc mượt mà, bồng bềnh,

ơ hờ thả trên vai ấy. Chính là cô gái ấy! Đây đúng là dung nhan của nàng.

Trong chốc lát, hơi ấm và giọng hát trong veo của cô gái ấy sống dậy trong

tâm trí tôi, rõ ràng, sống động, như thể mọi thứ mới diễn ra ngày hôm qua. Tôi

thật đáng trách! Tôi đã quên bẵng dung nhan ấy suốt mười năm trời.

Tôi lật mở ráo riết bức vẽ như kẻ đói khát lâu ngày được cho ăn. Cô ấy cưỡi

trên lưng lạc đà, nhưng vì không quen nên ngồi không vững, suýt nữa thì ngã,

điệu bộ rất nực cười. Cô ấy nghiêng đầu, há miệng, đúng rồi, đó là các động

tác vũ đạo cô ấy tự biên tự diễn khi hát cho tôi nghe. Cô ấy nằm bò trên bàn

ngủ gật. Tư thế ấy tôi đã được chứng kiến vài lần, ngờ nghệch mà đáng yêu

vô cùng. Tôi cảm thấy tâm trạng trở nên nhẹ nhõm, thoải mái hơn khi ngắm

nhìn những bức vẽ này, mọi buồn bực dường như đã tan theo mây khói. Tôi

không nhịn nổi, bật cười sảng khoái, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác

ấm áp lạ thường. Lúc ấy tôi đã mong gặp lại cô gái đó biết chừng nào!

Những trang cuối cùng là chân dung của anh trai tôi thời niên thiếu. Tôi

bừng tỉnh, thì ra những bức họa đủ mọi tư thế khác nhau của cô gái ấy đều do

anh trai tôi vẽ. Không biết anh ấy đã vẽ trong bao nhiêu năm? Không biết hình

ảnh cô gái ấy đã xuất hiện trong trái tim anh ấy bao nhiêu lần mới có thể giúp

anh ấy phác họa được một chân dung tự nhiên, sinh động đến vậy. Thì ra, anh

ấy vừa tụng kinh niệm Phật vừa lén lút cất giấu tiên nữ trong tim mình. Lục

căn của anh ấy cũng đâu có thanh sạch, tôi nhếch môi cười, đột nhiên nảy ra

một ý định.

- Hãy trả lại cho ta!

Quả nhiên anh ấy đã đến tìm tôi, thừa lúc vắng người, liền ghé vào tai tôi

thì thầm, giọng nói có vẻ sốt ruột. Chẳng phải người tu hành nội tâm thanh

tĩnh như mặt nước hay sao? Anh ấy mà cũng có lúc cuống quít như vậy ư?

- Trả lại gì?

Tôi lì lợm giả bộ không hiểu, nhướn mày thách thức. Anh ấy sững người,

nhìn tôi hồi lâu, không nói thêm câu nào, xoay người bước đi.

- Cô ấy là tiên nữ, nhớ thương cũng chẳng ích gì đâu!

Tôi gào lên phía sau:

-  Tôi  đang  giúp  anh  đó!  Trong  lòng  nhiều  vướng  bận  như  thế  làm  sao

chuyên tâm phụng sự Phật tổ được?

Anh ấy dừng bước, bờ vai rung động, không quay đầu lại, ngập ngừng một

lúc lại tiếp tục bước đi. Nhìn theo anh ấy, tôi bỗng cảm thấy buồn bực vô

chừng.

Chương 37: Pusyseda ngoại truyện (3)

Mỗi khi buồn bực tôi lại đi kiếm phụ nữ, sau một hồi “vận động”, tâm trạng

tôi khá lên rất nhiều. Nhưng không hiểu sao, hôm đó, ôm cô ba trong phủ

tướng quân mà tôi lại chẳng có chút cảm hứng nào.

- Sao thế?

Bàn tay cô ta ve vuốt thân thể tôi.

- Chàng thường ngày hào hứng lắm kia mà, hôm nay sao vậy? Hay là chàng

buồn vì mẹ chàng ra đi?

- Ai bảo thế?

Tôi xoay người lại, đè cô ta xuống, những ý nghĩ vẩn vơ vụt tan biến, nhiệt

tình “đền bù” cho người đẹp. Khuôn mặt của cô ta chợt nhòa đi, một nụ cười

tươi tắn, thuần khiết chập chờn hiện ra hiện ra trước mắt tôi, toàn thân hừng

hực như lửa đốt và tôi, đã gọi tên cô ấy khi lên đến đỉnh cao hoan lạc.

“Xong việc”, cô ba nhà tướng quân hỏi tôi từ đó nghĩa là gì, tôi cười chống

chế, nói rằng một câu tiếng Hán vu vơ nghe được ở đâu đó. Rồi bất chấp sự

chèo kéo, nài nỉ của cô ta, tôi nhanh chóng đóng bộ, ra về.

Dù có chơi bời, lêu lổng đến đâu, tối nào tôi cũng về nhà ngủ và không bao

giờ có chuyện tôi đưa phụ nữ về nhà. Đêm đó, tôi nằm dài trên giường ngắm

từng bức vẽ. Tôi say mê đôi mắt trong veo, long lanh ấy, phụ nữ quanh tôi

không ai có đôi mắt thuần khiết như thế. Bỗng nhiên, cảm thấy nỗi cô đơn rợn

ngợp, tôi thấy nhớ cô ấy, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy nhớ một người con

gái da diết như vậy. Tôi muốn cô ấy trở về.

Tôi bật dậy, lục tìm cuốn “Kinh thi”, cô ấy nói rằng khi nào tôi đọc thuộc tập

thơ này, cô ấy sẽ quay lại. Tôi lôi bức tranh con vật kì dị do chính tay cô ấy vẽ

ra và không nhịn nổi cười khi ngắm nghía bộ dạng của nó. Tôi búng tay vào bộ

mặt béo tròn của chú mèo kỳ quái, thì thầm:

- Ta học thuộc “Kinh thi” thì nàng sẽ quay về, phải không? Vậy thì ta sẽ

học.

Từ hôm đó, tối nào tôi cũng đến phòng của cô ấy đọc “Kinh thi”. Mọi thứ

trong căn phòng này vẫn được giữ nguyên như mười năm về trước. Bỏ bẵng

tiếng Hán trong một thời gian dài, nay phải học lại, quả thực rất mệt. Những

lúc bí bách, tôi thường ngả lưng trên chiếc giường của cô ấy, ngắm nhìn chân

dung cô ấy, vuốt ve chiếc gối của cô ấy, tưởng tượng ra từng cử chỉ, điệu bộ

của cô ấy. Chỉ thế thôi, cũng giúp tôi hân hoan cả một buổi tối. Đã lâu tôi

không còn thiết tha tìm kiếm đàn bà nữa, nhưng tôi không hề thấy cô đơn,

ngược lại, trong lòng lúc nào cũng ắp đầy niềm vui. Người ta trở nên phấn

chấn hơn khi có cái gì đó để mà chờ đợi.

Thấy tôi không lêu lổng nữa, cha nghĩ rằng tôi đã phải lòng con gái nhà ai

rồi. Cha đem thắc mắc đó hỏi tôi, tôi chỉ cười, bảo rằng, tôi sẽ lấy một cô gái

độc nhất vô nhị trên đời, rằng mặc dù hiện nay cô ấy chưa xuất hiện, nhưng

tôi sẽ đợi. Tôi cảm nhận được niềm vui chộn rộn khi nói lên điều đó và tôi chợt

nhớ lại cảm giác khi tôi ôm chầm lấy cô ấy hồi nhỏ.

Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, tôi đã học “Kinh thi” tròn một năm, đã chờ đợi

suốt một năm. Tôi đã thuộc lòng và cô ấy sắp trở về! Ngày nào tôi cũng lang

thang trên phố, quan sát kỹ tất cả những thiếu nữ người Hán xuất hiện trên

đường, tôi không muốn để lạc mất cô ấy. Nhưng điều đó khiến tôi gặp không ít

phiền phức. Nếu là trước kia, tôi sẽ không do dự, lập tức đồng ý lên giường với

họ, nhưng giờ đây, tôi không còn hứng thú với chuyện đó nữa. Tâm tư tôi chỉ

dành cho duy nhất một việc là chờ đợi cô ấy trở về.

Tôi có linh cảm là cô ấy sẽ trở về vào ngày hội Sumuzhe. Cô ấy vốn thích

náo nhiệt, lễ hội lớn như vậy, sao có thể bỏ lỡ? Tôi mê mải tìm kiếm, quan sát

kỹ lưỡng từng khuôn mặt người, vì tôi sợ ai nấy đều đeo mặt nạ, khó mà nhận

ra cô ấy. Bỗng từ xa xuất hiện một cô gái người Hán, đang đứng ăn thịt dê

nướng  ở  một  góc  đường,  dầu  mỡ  dính  đầy  trên  mép  vẫn  thản  nhiên  ngó

nghiêng, ngắm nghía phố xá và người đi đường. Tim tôi đập rộn ràng, cô gái

chân chất, không màu mè đó, có phải cô ấy?

Tôi chầm chậm bước tới, nhìn thấy đôi mắt long lanh trong sáng tôi đã chờ

đợi suốt một năm qua, đột nhiên nhớ đến lần đầu gặp cô ấy năm lên mười,

cũng chính đôi mắt đó đã lôi cuốn tôi. Ngần ấy năm trôi qua mà dung mạo của

cô ấy vẫn giống hệt trong các bức vẽ, không thay đổi chút nào. Người phàm

đâu thể như thế. Tiên nữ của tôi quay về thật rồi!

Cô ấy nhìn tôi chăm chú, như thể đã nhận ra tôi, ánh mắt lộ vẻ chờ đợi.

- Ngải Tình, có phải chị đấy không?

Giọng nói của tôi có vẻ run run, là cô ấy, chắc chắn là cô ấy, nhưng tôi

không dám tin vào mắt mình, biết đâu chỉ là ảo giác thì sao?

- Tất nhiên là tôi rồi!

Cô ấy lắc lắc xiên thịt nướng trên tay, vẫn nụ cười ngây ngô ấy, nhưng sống

động hơn nhiều so với tranh vẽ.

Tôi ôm xốc cô ấy lên, xoay vài vòng trên không, thân thể cô ấy vẫn ấm áp

như ngày nào. Lần đầu tiên trong đời tôi thầm cảm tạ Phật tổ, tôi bằng lòng

quy y, chỉ cần cô ấy ở bên cạnh tôi.

Tôi đưa cô ấy đi ăn, tôi không thấy đói, nhưng cô ấy có vẻ rất háo hức. Tôi

rất thích ngắm vẻ thuần phác của cô ấy, chỉ thế thôi cũng đủ khiến tôi hân

hoan, vui sướng rồi. Tôi càng vui hơn khi cô ấy bảo cô ấy vừa trở về. Lần đầu

tiên, tôi đã nhanh hơn anh trai mình một bước. Tôi sẽ cố gắng để cô ấy không

có quá nhiều ràng buộc với anh ấy. Anh ấy nên làm tốt bổn phận nhà sư của

mình. Còn tôi, tôi sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc tiên nữ.

Tôi đưa cô ấy về phủ, đọc “Kinh thi” cho cô ấy nghe, nhìn cô ấy cảm động.

Đêm đó, tôi trằn trọc, không sao ngủ được. Tim tôi đập liên hồi mỗi khi nghĩ

đến cô ấy đang ở cách mình không xa. Sao thế nhỉ? Tôi như thể cậu bé mười

lăm, mười sáu tuổi lần đầu biết yêu vậy!

Tôi đã không hề chợp mắt, miên man ngóng chờ trời sáng. Không kìm chế

nổi,  tôi  bật  dậy,  lén  đến  phòng  cô  ấy,  ngồi  ngắm  cô  ấy  ngủ.  Cô  ấy  nằm

nghiêng, hơi thở đều đặn làm bay bay những sợi tóc lòa xòa trước mặt. Tôi

xếp gọn những lọn tóc cho cô ấy, đột nhiên rất muốn hôn cô ấy. Ý nghĩ ấy

khiến tôi toát mồ hôi, tôi lén lút sáp lại, làn môi cô ấy đã gần trong gang tấc,

làn môi đỏ thắm tự nhiên ấy có sức hấp dẫn hơn bất cứ người phụ nữ chải

chuốt nào. Nhưng cô ấy đột nhiên xoay người, miệng lẩm bẩm câu gì đó. Tôi

giật mình suýt bổ nhào xuống đất. May mà cô ấy không thức giấc. Tôi phì cười,

Pusyseda mà cũng có lúc muốn hôn trộm phụ nữ ư? Và lại còn cảm thấy tội lỗi

khi trong đầu nảy sinh ý định đó nữa chứ.

Những ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe là những ngày vui vẻ nhất, bởi vì tôi có

cô ấy ở bên. Tôi thích trêu đùa cô ấy, chọc tức cô ấy. Mỗi khi nhắc đến chuyện

nam nữ, cô ấy lại đỏ mặt. Đó là phản ứng tự nhiên của những cô gái trinh

trắng. Tôi vui mừng khôn tả, cô ấy giống như nụ hồng sắp nở, hy vọng, tôi sẽ

hái được nụ hồng đó. Nếu là những cô gái khác, dù thời gian ve vãn, tán tỉnh

có kéo dài bao lâu thì hạ màn vẫn là cảnh lên giường. Nhưng tôi không muốn

lập tức “ra tay” với cô ấy như với họ. Có lẽ vì tôi không dám? Những tâm tình

của cô ấy về sự gặp gỡ, yêu thương, gắn bó mang lại cho tôi những dư vị xúc

cảm mới mẻ. Thì ra, hoan lạc không khó, thương yêu mới khó. Và càng khó

hơn nếu muốn gắn bó với nhau tới khi đầu bạc răng long. Trước kia, tôi không

hiểu thế nào là yêu, tôi chỉ có ham muốn xác thịt. Nhưng sự thật là, tôi khát

khao một sự ngọt ngào, ấm áp, sâu sắc và bền vững chứ không phải niềm

hoan lạc trong thoáng chốc. Vậy, tình cảm của tôi dành cho cô ấy là tình yêu

ư?

Tôi không rõ như thế có gọi là yêu không, nhưng tôi biết rằng, trên đời này

chỉ có cô ấy mới đem lại cho tôi sự ấm áp mà tôi muốn, chỉ có nụ cười của cô

ấy mới khiến tôi say đắm. Kể từ lúc tình cờ nhìn thấy những bức tranh vẽ cô

ấy, tôi đã chờ đợi cô ấy trở về để lấp đầy nỗi trống vắng trong trái tim cô đơn

của tôi. Nếu cô ấy muốn, tôi có thể tặng cô ấy cả cuộc đời mình. Có điều, càng

ở bên cô ấy, tôi càng cảm thấy căm ghét bản thân mình trước kia. So với tâm

hồn thánh thiện, thuần khiết như nước của cô ấy, tôi quá ư tệ hại. Nếu cô ấy

chịu tha thứ, tôi hứa sẽ không tiếp tục cuộc sống như trước kia nữa.

Những dự định tươi đẹp đó đã nhảy múa trong đầu tôi suốt trên đường đến

Subash đón cô ấy. Thậm chí, tôi đã suy nghĩ xem nên cầu hôn cô ấy như thế

nào, để cô ấy không cảm thấy đường đột. Tôi đã chờ đợi một năm ròng, tôi

không muốn chờ đợi thêm nữa. Khi tôi đến nơi thì cô ấy không có ở đó. Dò hỏi

Mavasu mới biết, cô ấy đã trở về và sống ở đây suốt ba tháng.

Tôi chao đảo, mất thăng bằng. Cô ấy gạt tôi ư? Cô ấy lừa đảo tôi ư? Hai

người đó có quan hệ gì? Họ đã ở cạnh nhau ba tháng trời, tối nào anh ta cũng

ghé về thăm cô ấy, bọn họ liệu còn trong sạch không? Anh ta muốn hoàn tục

ư? Có thể lắm chứ, cha tôi cũng hoàn tục sau khi gặp mẹ tôi đấy thôi. Cứ nghĩ

ít ra lần này, tôi đã đi trước một bước, nào ngờ! Không lẽ, anh ta định cướp

luôn cả nguồn hạnh phúc duy nhất của tôi hay sao? Anh ta đã có mọi thứ rồi

kia mà...

Vậy nên khi nhìn thấy cô ấy, tôi đã mất hết lí trí, điều duy nhất tôi nghĩ

được vào lúc đó, là kéo cô ấy lên giường, như thế anh ta sẽ không thể tranh

giành với tôi được nữa. Sự xuất hiện của anh ta càng kích động tôi. Tôi hôn cô

ấy trước mặt anh ta, tôi có thể làm được như vậy, anh ta thì sao? Nhưng sau

cái hôn đó, tôi biết mình đã trách lầm cô ấy. Phản ứng dữ dội của cô ấy chứng

tỏ giữa hai người họ chưa xảy ra chuyện gì cả, có nghĩa là tôi vẫn còn thời gian

để giành lại cô ấy.

Cô ấy cắn vào môi tôi, giúp tôi bình tĩnh trở lại. Tôi gào lên với anh ta:

- Anh đã có mọi thứ, đừng tranh giành cô ấy với tôi nữa!

Tôi còn có thể nói những lời cay độc hơn thế, nhưng tôi không làm vậy, tôi

chỉ muốn nói với anh ta điều này: Tôi cần cô ấy!

Sau đó nghĩ lại, tôi đã rất hối hận về sự thô bạo của mình hôm ấy. Tôi biết

cô ấy bị thương và hành động lỗ mãng của tôi đã gây ra phản tác dụng. Trở về

phủ quốc sư, cô ấy tránh tôi như tránh tà. Tất cả là lỗi của tôi. Lẽ ra cô ấy đã

gần như chấp nhận những cử chỉ thân mật của tôi. Nhưng tôi không có thời

gian để nghĩ về những việc đó nữa vì cha tôi đổ bệnh. Tôi định bụng sẽ xin lỗi

cô ấy sau khi cha bình phục.

Nhưng cha đã không qua nổi trận ốm đó. Người cha thương yêu nhất của

tôi đã mang theo nỗi nhớ nhung người mẹ của tôi lìa xa thế giới này. Tôi đã

không quá đau buồn khi mẹ mất, nhưng nỗi đau khi cha qua đời khiến tôi suy

sụp suốt một thời gian dài. Khi trái tim biết rung động, tôi mới thấu hiểu nỗi

tương tư vò xé tâm can mà cha phải chịu đựng. Lẽ ra lúc trước tôi nên ngoan

ngoãn nghe lời cha, không nên làm những việc khiến cha đau lòng. Xót xa

thay, đến khi nhắm mắt xuôi tay, cha đã không được thấy sự hối cải của tôi.

Dù hơn một tháng qua, tôi đã hiểu rõ tôi không có chỗ trong trái tim cô ấy,

nhưng tôi vẫn ngỏ lời cầu hôn. Vì tôi muốn mang lại cho cô ấy những thứ anh

ta không thể. Nhưng đã quá muộn, tôi không thắng nổi và thực tế là chưa bao

giờ thắng. Trái tim tôi trống rỗng khi nghe cô ấy thừa nhận tình yêu với anh ta.

Ngải Tình, chị đã dạy cho tôi biết tình yêu là gì, nhưng khi tôi học được cách

yêu, chị lại nói với tôi rằng, chị chưa từng yêu tôi.

Trong những ngày chờ đợi cô ấy từ Subash trở về, tôi đã suy nghĩ rất nhiều.

Cô ấy ra đi vì muốn anh ta hoàn thành lý tưởng vĩ đại của mình. Tôi thì không

vĩ đại như vậy. Tôi yêu cô ấy nên sẽ tìm mọi cách để giữ cô ấy lại bên mình,

thời gian có thể thay đổi mọi thứ.

Nghĩ vậy, tôi lấy trộm chiếc vòng của cô ấy. Truyền thuyết của người Hán

kể rằng, có một nàng tiên xuống trần gian dạo chơi và đến tắm ở một hồ

nước. Chàng trai người phàm đã trộm xiêm y của tiên nữ, khiến nàng không

thể về trời. Nàng đành lưu lại nhân gian, kết thành vợ chồng với chàng trai đó.

Tôi hy vọng truyền thuyết đó là có thật.

Đúng là cô ấy đã không thể trở về trời. Tôi sắp xếp đưa cô ấy tới tham quan

thành cổ Taqian. Nhưng tôi không ngờ cô ấy lại bị thương một lần nữa. Tôi đã

rơi nước mắt khi quan ngự y nói rằng cánh tay của cô ấy sẽ bị hoại tử và rằng

nếu muốn giữ mạng sống thì phải cắt bỏ nó đi. Trái mệnh trời, cố ý níu giữ tiên

nữ sẽ phải chịu sự trừng phạt, nhưng vì sao sự trừng phạt không rơi vào tôi?

Tôi sẵn sàng phế bỏ cánh tay của mình thay cô ấy. Tôi chỉ không chịu đựng nổi

khi chứng kiến cô ấy quằn quại, đau đớn.

Tôi đã suy nghĩ rất lâu và quyết định cử người đi tìm anh ta. Thực ra khi cô

ấy ngắm nhìn những bức vẽ đó, tôi đã biết mình không còn cơ hội nào nữa.

Mười năm trước tôi đã thua rồi. Đã vậy, tôi sẽ giúp cô ấy toại nguyện, chỉ cần

cô ấy không phải chịu đau khổ nữa...

Không thể kéo dài thời gian, vết thương của cô ấy chỉ có thể được chữa

khỏi khi trở về trời. Tôi trả lại chiếc vòng cho cô ấy, giúp cô ấy mặc bộ trang

phục kỳ lạ vào người, giúp cô ấy thu dọn đồ đạc vào chiếc túi “không đáy”. Từ

đây, trời đất cách biệt, không còn cô ấy nữa, tôi biết tìm hạnh phúc nơi đâu?

Nhưng tôi vẫn phải từ bỏ, vì tiên nữ vốn không thuộc về tôi. Tôi lưu lại trên

trán nàng dấu ấn cuối cùng. Tôi đứng ngoài cửa phòng nhìn nàng lần cuối,

một ngày trên trời bằng mười năm dưới trần gian. Lần chia biệt này, tôi sẽ

không quên dung nhan của nàng. Chờ khi nàng quay lại, có lẽ tôi đã tóc bạc

da mồi, răng rụng mắt mờ, mong là nàng vẫn có thể nhận ra tôi.

Đóng cửa lại, tôi bước ra ngoài sân, ngước lên nhìn trời, nơi mà nàng sẽ trở

về. Nước mắt chan hòa, tôi nhủ lòng, nhất định phải sống hạnh phúc, vì tôi đã

thực sự trưởng thành.

Cánh cổng chợt mở toang, anh ấy lảo đảo bước vào, gương mặt biến sắc,

chỉ nhìn tôi một cái, định lao vào phòng cô ấy. Tôi gắng sức giữ anh ấy thật

chặt, cô ấy dặn dò không ai được nhìn chùm sáng phát ra khi cô ấy ra đi.

Anh ấy không vượt qua được tôi, đành hướng vào phòng gào to tên của cô

ấy, tiếng kêu như xé ruột xé gan, nỗi đau đớn, tuyệt vọng tột độ ấy, khiến tôi

cũng phải hoảng sợ. Khoảnh khắc đó, tôi không còn cảm giác ghen ghét, đố kỵ

với anh ấy nữa, anh ấy cũng giống như tôi, đều là những người đáng thương

vì không thể có được tình yêu.

Khi chúng tôi bước vào phòng, tôi đã thực sự hoảng hốt, rốt cuộc cô ấy có

thực sự tồn tại? Hay chỉ là một ảo ảnh trong trái tim tôi? Đức Phật nói rằng,

mọi thứ đều không tồn tại, vậy, cô ấy thì sao?

Bàn tay anh ấy run run khi cầm những bức vẽ trên bàn. Vệt máu đã khô lại,

nhưng không thể che đi nụ cười tươi tắn, thuần khiết của cô ấy. Anh ấy đổ

người xuống giường, vùi đầu vào những bức vẽ, đôi vai rung động. Tôi lặng lẽ

ra khỏi phòng, ngước mặt lên trời, hít một hơi thật sâu, rồi rảo bước đi tìm cậu

út Bạch Chấn. Tôi phải sống thật vui vẻ để chờ cô ấy trở về.

Anh ấy ngồi thiền trong căn phòng của cô ấy suốt ba ngày, tôi đã dặn dò

người  hầu  chỉ  mang  đồ  ăn  đến  cho  anh  ấy,  không  được  làm  phiền.  Người

trong cung và trong chùa đến tìm, tôi kiếm cớ nói rằng anh ấy bị ốm, cần được

tĩnh dưỡng. Giờ đây, tôi đã là chủ gia đình, tôi phải lo toan mọi việc trong nhà,

bao gồm cả việc chăm sóc anh ấy.

Sau ba ngày anh ấy mới ra khỏi phòng, người gầy đi trông thấy, nhưng đôi

mắt vẫn rất sáng. Hai người họ, tuy màu mắt khác nhau, nhưng thần thái và

vẻ thánh thiện trong đôi mắt thì giống hệt nhau. Vóc dáng và tướng mạo tôi

không thua kém anh ấy, nhưng tôi chẳng thể nào có được ánh mắt tinh khôi,

thuần khiết của anh ấy.

Cứ nghĩ anh ấy sẽ gục ngã, sẽ chẳng còn lòng dạ nào với Phật pháp, kinh

kệ nữa. Thật không ngờ, một thời gian sau, tôi đến chùa Cakra thăm anh ấy,

vẫn thấy anh ấy say mê truyền bá giáo lý Đại Thừa, anh ấy làm việc hăng say

hơn trước rất nhiều.

Khi chỉ có hai chúng tôi trong phòng, tôi nhìn khuôn mặt bình thản của anh

ấy, khẽ hỏi:

- Anh lấy lại tinh thần rất nhanh thì phải?

Anh ấy nhìn thẳng vào tôi, bình tĩnh đáp:

- Mười năm có là bao, chỉ cần chuyên tâm truyền bá đạo Phật, mười năm sẽ

qua rất nhanh.

- Nếu mười năm cô ấy không trở lại thì sao?

- Thì ta sẽ đến Trung Nguyên. Dù không phải đến để tìm cô ấy, ta cũng cần

tới đó để cứu độ nhiều người thoát khỏi bể khổ. Việc truyền bá rộng rãi đạo

Phật không thể chỉ giậm chân tại Khâu Từ.

Nét cương nghị, kiên định trên gương mặt anh ấy khiến cho tôi có cảm giác

mười năm thời gian chớp mắt sẽ qua. Cánh tay đưa lên, để lộ chuỗi hạt sờn

bạc, anh ấy vẫn muốn đeo nó mười năm nữa ư? Không thể không nói lời cảm

phục anh ấy. Nếu đổi lại là tôi, chắc chắn tôi chẳng thể sống trong sự chờ đợi

mỏi mòn và gần như vô vọng như thế. Đột nhiên cảm thấy, so với anh ấy, tôi

chưa thực sự biết yêu. Tôi chỉ là kẻ thứ ba xen vào giữa hai người họ, tôi

chẳng là gì cả.

Anh ấy đột nhiên hỏi tôi:

- Sao em lại gây chuyện khiến đức vua tức giận, đuổi ra khỏi cấm vệ quân

như vậy?

Đến phiên trực đêm của mình, tôi dẫn theo mấy anh em đưa cô ấy đến

thành cổ Taqian. Lúc quay về, tôi lại chỉ lo lắng cho bệnh tình của cô ây, không

thèm vào cung lấy một ngày. Đức vua cho gọi nhiều lần nhưng tôi không buồn

để tâm. Sau khi cô ấy ra đi, tôi mới vào cung, nhận tội thay các anh em.

- Ông ấy làm vậy vì muốn trả hận, vì nghĩ tôi ve vãn người đàn bà của ông

ấy.

Tôi nhếch môi cười:

- Cha mẹ đều đã qua đời, ông ấy chẳng cần phải kiêng nể gì cả.

- Ta sẽ thử thuyết phục đức vua xem sao.

- Không cần!

Tôi đứng lên, khoát tay:

- Tôi chán làm lính từ lâu rồi.

- Vậy sau này...

- Chưa biết chừng tôi lại trở thành một thương nhân tài ba ấy chứ.

Tôi bước ra khỏi chùa Cakra, mùa đông đã tới, gió lạnh tê tái. Bầu trời xám

xịt, tôi hít một hơi thật sâu. Giờ này chắc chị đang ở trên trời phải không?

Cánh tay của chị đã lành lại chưa? Có lúc nào nhớ đến tôi không?

Tôi dựng lại cổ chiếc áo khoác lông cừu, bước vào xe ngựa và nói với phu

xe:

- Đến nhà cậu út ta!

Chương 38: Cô đơn

Tôi lặng lẽ ngắm cảnh vật không ngừng trôi qua cửa kính tàu hỏa. Mùa

đông giá lạnh, cây lá tiêu điều xơ xác, vẻ đìu hiu, vắng lặng bao trùm không

gian, như bắt nhịp cùng điệu tâm hồn tôi. Một cốc trà xanh bốc hơi được đẩy

ra trước mặt, tôi đón lấy, khẽ cảm ơn.

Sếp tôi ngồi bên cạnh, thở dài:

- Đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Quay về hãy tập trung học cho tốt, tháng

Bảy tốt nghiệp rồi, em cũng nên suy tính tìm việc đi thôi.

Tôi ậm ừ đáp lại, đặt tay lên cốc nước sưởi ấm, mắt vẫn không rời khung

cửa.

Suốt ba tháng sau khi trở về, tôi chỉ nằm trên giường. Bác sĩ bảo may mắn

thay tôi đã về kịp lúc, muộn chút nữa sẽ không cứu được cánh tay. Hai chiếc

ba lô Northface khổng lồ khoác sau lưng đã giúp tôi giảm thiểu rất nhiều sự va

chạm khi tiếp đất, nên cánh tay đã không phải chịu thêm tổn thương nào cả.

 Họ đã phẫu thuật cắt bỏ phần thịt đã thối rữa, kích thích phần da thịt mới tái

sinh. Dù vậy, cánh tay của tôi không còn được linh hoạt như trước nữa. Đây

phải chăng là cái giá phải trả cho việc thay đổi lịch sử?

Tôi báo cáo chi tiết tình hình sức khỏe, sau đó tiến hành kiểm tra toàn thân,

kết luận rút ra là mức độ nhiễm phóng xạ sau bốn lần vượt thời gian của tôi đã

vượt mức cho phép. Sức khỏe của tôi hiện nay không đảm bảo để có thể tiếp

tục tham gia dự án này nữa. Tôi đã thử thuyết phục họ cho tôi “vượt” một lần

nữa. Nhưng tôi thậm chí đã không qua nổi cửa ải của sếp chứ đừng nói đến

nhóm chuyên gia. Sếp bảo tôi phải tĩnh dưỡng, kiên trì uống thuốc mỗi ngày

để đẩy hết độc tố tích tụ ra ngoài. Tôi còn trẻ, sếp không muốn tôi để lại di

chứng về sau.

Sếp vẫn không nguôi dằn vặt, nghe nói đã khẩu chiến kịch liệt với nhóm

nghiên cứu, sau đó, giận dữ rút khỏi dự án. Thầy bảo tôi từ nay đừng nghĩ đến

việc vượt thời gian quái quỷ gì nữa, trường tôi đã cắt đứt quan hệ với dự án

này rồi. Chờ khi sức khỏe của tôi tương đối bình phục, thầy sẽ đưa tôi quay lại

trường. Tất nhiên là tôi đã được trao một phần thưởng không nhỏ, đủ để tôi

sống dư dật mấy năm liền không cần làm việc. Nhưng tôi chỉ cảm thấy ảo nảo

khi nhận cuốn sổ tiết kiệm đó.

Về trường ư? Đã bao lâu rồi tôi không đến trường? Tôi nghỉ học nhiều như

thế, liệu có theo kịp không? Thầy động viên tôi nói rằng, sẽ giúp tôi chuyện bài

vở. Hai chiếc ba lô nặng trịch mà tôi mang về có giá trị vô cùng to lớn. Cuốn sổ

ghi chép của tôi và rất nhiều thư tịch độc nhất vô nhị khác đều cần được

nghiên cứu chi tiết. Tôi giao nộp mọi thứ, chỉ giữ lại chiếc khăn lụa của Atala

của Rajiva, mấy chiếc khăn tay cậu ấy đặt vào tủ đồ của tôi và miếng ngọc bội

hình sư tử của Pusyseda.

Sự nghiệp “vượt thời gian” của tôi sẽ kết thúc ở đây ư? Kể từ lúc bắt đầu

tham gia khóa học nghiên cứu sinh, tôi rất ít khi đến lớp, mà chỉ quẩn quanh

bên dự án vượt thời gian này. Hai mươi hai tuổi chuẩn bị thử nghiệm, hai mươi

ba tuổi vượt thời gian thành công, hai mươi tư tuổi trở về với thương tích đầy

mình. Hơn hai năm qua, tôi đã chỉ sống trong ảo mộng? Nếu không có chiếc

khăn tay Atala và miếng ngọc bội hình sư tử đó, tôi không dám tin mình đã

từng sống, từng hít thở và từng yêu ở thế giới cổ đại cách đây 1650 năm về

trước... Trong giấc mộng Trường Sinh ấy, rốt cuộc, tôi là Trương Sinh hay tôi

là hồ điệp?

Tôi trở về là sự kiện lớn của trường. Bạn bè cũ của tôi, sau một thời gian

dài không liên lạc, khi gặp lại tôi, ai nấy đều mắt tròn mắt dẹt. Buổi tối hôm đó,

các bạn đã tổ chức một bữa tiệc nhỏ cho tôi ở quán karaoke. Chúng tôi vui

chơi, hát hò đến tận hai giờ sáng. Hai giờ sáng ư? Tôi uể oải hé mắt, đã lâu

lắm rồi tôi mới lên giường đi ngủ sau mười giờ.

Phải mất rất nhiều thời gian để làm quen với thực tại, rất nhiều thứ khiến

tôi trở nên bỡ ngỡ.

Như thể trải qua bãi nương dâu, vật đổi sao dời vậy. Thì ra kinh tế đang lạm

phát, giá bánh bao trong nhà ăn của trường tăng vọt. Thì ra thị trường cổ

phiếu không còn là cây tiền của một vài người như lúc trước mà đã trở thành

canh bạc của rất nhiều người. Thì ra, giá dầu đã tăng, chả trách các thầy cô

đều chuyển sang đi xe buýt của trường, thậm chí có thầy cô còn không ngại

cưỡi xe đạp BMW đến lớp. Thì ra, đang sốt phim “Sắc giới”, xem để học về cấu

tạo cơ thể. Và chủ đề được bàn tán sôi nổi nhất là sang năm, chính phủ sẽ hủy

nghỉ lễ mồng Một tháng Năm.

Các bạn nữ trong ký túc xá đều đã có người yêu. Màn đêm vừa buông

xuống là ai nấy trang điểm xinh đẹp rồi rộn ràng kéo nhau đi hết. Căn phòng

ký túc xá thường chỉ còn lại mình tôi vào những ngày cuối tuần, những người

khác chỉ trở về với nụ cười hạnh phúc vào sáng sớm hôm sau.

Các bạn đều cảm thấy tiếc cho tôi, vì nếu tôi không mất tích lâu như vậy,

chắc  chắn  bây  giờ  đã  có  bạn  trai  rồi.  Buồn  thay,  mấy  bạn  nam  trong  lớp

nghiên cứu sinh từng có ý với tôi, đều không đủ kiên nhẫn. Tôi cười trêu lại, tớ

mà không biến mất thì đã không đến lượt các cậu.

Ra phố mua sắm cùng các chị em, ai nấy đều chê tôi lạc hậu, không cập

nhật gu thời trang mới. Không phải tôi lạc hậu, mà là thế giới này biến đổi quá

nhanh. Đôi lúc, tôi thấy nhớ da diết thế giới thuần khiết ấy, không gian trong

lành, thanh sạch, không ồn ào ấy, cuộc sống điền viên đạm bạc, tiết tấu chậm

rãi, khoan thai ấy, bầu trời trong vắt, nho và dưa gang ngọt lịm cùng những

con người thuần phác, chân chất ấy.

Đôi lúc bước đi trên đường phố, bỗng nhiên quay lại nhìn, hình như tôi vừa

thấy bóng dáng cao gầy, cô độc ấy thấp thoáng giữa dòng người tấp nập, tôi

đuổi theo, nhưng đó lại là một người tôi không quen biết. Đôi lúc nghe thấy

một giọng nói trầm ấm, ngọt ngào văng vẳng bên tai, tôi nỗ lực tìm kiếm,

nhưng kết quả luôn là nỗi thất vọng ngập tràn xen trong những lời xin lỗi vì đã

làm phiền. Một mình lang thang, đưa mắt dõi tìm bốn phía, rồi đột nhiên sụp

xuống bên vệ đường, bật khóc nức nở, mặc cho bao nhiêu người trên phố

chăm chú nhìn tôi với vẻ kinh ngạc. Con người thời hiện đại đã luyện cho thần

kinh của mình vững như gang thép trước mọi tình huống. Bởi vậy, khóc chán,

tôi lại lau nước mắt và tiếp tục bước đi, chưa khi nào tôi nhận được một lời hỏi

han của ai đó trên đường.

Thì ra, cô đơn không phải cảm xúc bẩm sinh mà nó được hoài thai từ giây

phút bạn đem lòng yêu một ai đó.

Chiếc lá là đôi cánh không thể bay.

Đôi cánh là chiếc lá chao giữa lưng chừng trời.

Có thể thiên đàng không là ảo tưởng, nhưng từ lâu em đã lãng quên mình

học cách bay lên như thế nào.

Cô đơn là niềm hân hoan của một người.

Ồn ảo là nỗi cô đơn của nhiều người.

Yêu nhau là luôn đi bên nhau, nhưng em đã lãng quên thuở có anh ở bên.

Một mình nấu ăn, một mình lang thang, một mình đọc sách, một mình viết

thư, một mình trò chuyện, tâm tình.

Nhưng tâm hồn dường như đã trôi về tận phương trời xa xôi nào, em không

thấy rõ. Và em biết rằng, em không chỉ để mất anh.

Tôi đã nghe đi nghe lại ca khúc “Chiếc lá” này không biết bao nhiêu lần

trong màn đêm tịch mịch. “Tâm hồn dường như đã trôi về tận phương trời xa

xôi nào, em không thấy rõ. Và em biết rằng, em không chỉ để mất anh”. Mỗi

khi nghe đến câu hát này, nước mắt tôi lại trào ra. Em vẫn cảm nhận được nụ

hôn ngọt ngào ấy, nhưng chúng ta đã mất nhau rồi. Em đã đánh mất những

gì? Một mối tình ư? Không, em đã đánh mất cả con tim mình...

Tôi về nhà ăn tết, nhìn thấy vết sẹo trên tay tôi mẹ đã rất xót xa, nhưng tôi

nói dối rằng mình bị ngã. Ăn tết xong, như thường lệ, bố mẹ tổ chức sinh nhật

tuổi hai mươi lăm cho tôi vào ngày mồng mười âm lịch, tôi thổi nến và ăn bánh

ngọt. Vị bơ béo ngậy của miếng bánh khiến tôi bất giác nhớ những bức vẽ của

Rajiva. Không biết bây giờ cậu ấy còn vẽ tôi nữa không? Không đúng, không

đúng, làm gì có “bây giờ”. Mọi thứ liên quan đến cậu ấy, với tôi, đều đã là quá

khứ.

Ăn  tối  xong,  tôi  quay  lại  trường,  mọi  người  đang  bận  bịu  tìm  việc  làm.

Chuyên ngành của tôi, tốt nghiệp ra trường không dễ xin việc. Ở lại trường

làm giảng viên, xin vào viện nghiên cứu hoặc viện bảo tàng đều không phải

những công việc kiếm ra tiền. Bạn bè tôi, nhiều người không đủ kiên nhẫn, đã

xin vào làm thư ký hoặc nhân viên kinh doanh của một công ty nào đó. Chủ đề

“tương lai” được mọi người bàn tán hết sức sôi nổi mỗi khi nhóm họp, chỉ mình

tôi là không có chút hứng thú nào với chủ đề ấy. Luận văn về “Thiên Phật

động Kizil” của tôi đã làm dấy lên những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới học

thuật. Thầy hướng dẫn khuyên tôi nên ở lại trường, vừa làm luận án tiến sĩ vừa

dạy học. Tôi không nhận lời ngay vì còn muốn trải nghiệm cuộc sống “một

mình nấu ăn, một mình lang thang, một mình đọc sách, một mình viết thư,

một mình trò chuyện, tâm tình”.

Thời gian chầm chậm trôi qua, những lúc buồn chán, tôi thường lên mạng

đọc  tiểu  thuyết  viết  về  đề  tài  “vượt  thời  gian”,  nhưng  tôi  chỉ  chọn  những

truyện thật buồn cười. Ví như “Nàng vượt, chàng cũng vượt”, “Khi nàng gặp

chàng”, “Khi nàng X gặp chàng Y”, “Tôi là cụ nội của...”. Đọc xong, tôi cười

ngất, thành tâm chúc phúc cho những cô gái vượt thời gian trở về thời cổ đại

và tìm được hạnh phúc của mình, họ may mắn hơn tôi rất nhiều! Tôi đã học

được cách lãng quên như thế.

Tháng Tư giục giã tôi vác ba lô lên đường. Tôi đã không chọn đến Tân

Cương vì sợ bản thân không kìm chế nổi sẽ lại tìm đến Kucha. Tâm trạng của

tôi khi phải đối diện với khung cảnh tiêu điều, hoang phế 1650 năm sau, sẽ

không thể là sự bình tĩnh như khi đi khảo sát vào thời gian trước đó. Vẫn

không gian ấy, nhưng cách biệt là 1650 năm thời gian. Yêu nhau nhưng không

được ở bên nhau, tôi sẽ hóa điên nếu phải chịu đựng nỗi dày vò ấy. Bởi vậy,

tôi đã chọn đi Tây Tạng, nơi mà tâm hồn tôi có thể tìm được sự thanh thản,

lắng đọng.

Tôi men theo tuyến đường cao ốc nam Tứ Xuyên – Tây Tạng, xuất phát từ

Thành Đô, ngang qua Nhã An, Khang Định, đến Litang, lòng bồi hồi tưởng nhớ

vị Đạt Lai đời thứ sáu của Tây Tạng – Tsangyang Gyatso. Những câu thơ của

ông: “Hỡi cánh bạc trinh trắng/ Cho ta mượn đôi cánh/ Chẳng muốn đến nơi

xa/ Chỉ dạo chơi Litang” đã khiến cho địa danh này nên thơ hơn, hữu tình hơn.

Ngắm nhìn đỉnh núi Nyaga hùng vĩ và thảo nguyên Maoya mênh mông, bát

ngát trên độ cao bốn nghìn so với mực nước biển, sự khoáng đạt của không

gian bao la khiến người ta trong phút chốc, quên đi mọi ưu phiền.

Khi ngang qua Markham, Bome Bay, chỉ cần đưa máy lên “tách” một cái là

bạn sẽ có được một tấm ảnh tuyệt đẹp, khung cảnh biến thiên phong phú đến

nỗi có thể khiến bạn nghẹt thở. Khi bóng dáng cung điện Potala thấp thoáng

phía xa xa, tôi biết mình đã đặt chân tới vùng đất thánh – Lhasa.

Trên đường đi, tôi đã gặp gỡ và kết bạn với rất nhiều bạn trẻ, chúng tôi

đồng  hành  qua  mỗi  chặng  và  tuân  thủ  luật  “chia  đầu  người”  hết  sức  bình

đẳng. Đến chặng tiếp theo, chúng tôi chia tay nhau và mỗi người lại tiếp tục

nhập vào một nhóm khác. Các bạn trẻ đam mê du lịch đều là những người

hiểu biết tương đối rộng, nên chúng tôi có rất nhiều chuyện để nói. Thường thì

trong những chuyến đi như vậy, các bạn nam nữ sẽ tự động kết thành đôi.

Bạn nữ cùng phòng với tôi đã từng có một đêm không về. Nhưng thứ tình yêu

lữ hành ấy đến nhanh mà đi cũng vội, rất ít người giữ được liên lạc với người

kia sau khi trở về.

Tôi cùng một nhóm các bạn trẻ mới quen tại nhà trọ Thanh Niên ở Lhasa

đến một quán bar trên đường Bắc Kinh Đông. Mọi người uống rượu rồi hào

hứng chơi trò “thật lòng và mạo hiểm”. Lúc đầu tôi tham gia rất sôi nổi, nhưng

khi đọc những câu hỏi trong mục “thật lòng” thấy hầu hết đều liên quan đến

“Sex”  còn  trong  mục  “mạo  hiểm”  phần  lớn  là  “Kiss”,  thì  tôi  bỗng  thấy  mất

hứng.

Đến lượt tôi phải trả lời thật lòng, một chàng trai trẻ người Bắc Kinh hỏi tôi:

- “Lần đầu” của cô diễn ra khi nào, ở đâu và cảm giác ra sao?

Tôi thở dài, ngượng ngập đáp:

- Tôi vẫn chưa.

Những tràng cười rộ lên, mấy cậu thanh niên nhìn tôi như muốn ăn tươi

nuốt sống, thậm chí có người còn bông đùa, nói rằng có thể giúp tôi.

Tôi tìm cách trốn khỏi quán bar đó. Không hiểu giới trẻ bây giờ họ nghĩ gì

nữa. Trong mắt họ, những người ở tuổi tôi mà chưa có kinh nghiệm về chuyện

đó giống như người ngoài hành tinh vậy. Trào lưu hiện nay là tình yêu và tình

dục thời đại đồ ăn nhanh. Vội vàng, gấp gáp, ăn chẳng kịp nhai. Tôi tôn thờ

tình yêu truyền thống và liệu người đàn ông mà khi muốn hôn cũng phải ngập

ngừng hồi lâu mới dám cất lời hỏi tôi “có được không” ấy có còn tồn tại hay

không? Hay là, ở thế kỷ XXI này, kiểu tình yêu đó đã trở nên quá ư hiếm hoi?

Tôi sẽ không tham gia những buổi tụ tập quán bar quán rượu như thế nữa.

Sự ồn ào, thác loạn ấy chẳng phải chính là nỗi cô đơn của một nhóm người

hay sao? Còn tôi, tôi chọn cách cô đơn một mình, hân hoan một mình. Nửa

đêm lang thang trên đường phố Lhasa, bầu trời đêm trong vắt tựa pha lê,

ngàn vì sao lấp lánh, lơ lửng trên đỉnh đầu, tưởng như chỉ cần đưa tay lên là

có thể chạm tới. Còn rất ít thành phố mà ở đó bạn có thể thỏa sức chiêm

ngưỡng bầu trời đêm tuyệt đẹp như thế này. Tôi lại nhớ bầu trời đêm huyền

hoặc như thế ở quốc gia cổ đại trên vùng ốc đảo tươi xanh trong sa mạc ấy.

Trước mỗi pho tượng trang nghiêm trong đền Jokhang, trong cung điện

Potala và trong đền Drepung, tôi đều học theo người Tạng quỳ lạy thành kính.

Những lúc tiếng tù và vang lên, tôi lại giật mình, toàn thân run rẩy, khoảnh

khắc ấy, cảm giác như linh hồn mình đang bay đến tận phương nào. Kết thúc

hàng trăm lần hành lễ, quỳ lạy, tôi chợt hiểu ra, dù tôi có trốn chạy tới đâu,

cũng không thể thoát khỏi mối tương tư đã bám rễ nơi tâm hồn mình.

Khi tôi quay lại trường, anh bạn học trên một khóa đã đến tìm tôi, anh ta

hiện đang làm việc trong viện nghiên cứu khảo cổ. Phải một lúc lâu sau anh ta

mới thốt ra được lời tỏ tình với tôi. Và tôi, lập tức nhận lời. Khuôn mặt đỏ bừng

của anh ta khiến tôi nhớ đến vẻ điềm tĩnh, tự tại của người ấy...

Tôi không muốn biện minh gì cả, rằng tôi không thể tiếp tục chịu đựng nỗi

cô đơn ư, rằng tôi vẫn luôn nhớ nhung người đó ư. Lý do tôi nhận lời tỏ tình

của anh bạn cùng trường rất đơn giản: bởi vì anh ta là con người của thực tại,

mà dù thế nào, tôi cũng phải sống trong thực tại ấy...

Chương 39: Tôi muốn dệt tiếp giấc mơ

Tôi đến văn phòng chủ nhiệm khoa lịch sử của trường để nộp đơn xin học

tiếp tiến sĩ. Thực ra mọi việc đã được sắp xếp ổn thỏa, nộp đơn chỉ là vấn đề

thủ tục mà thôi.

Từ cửa sổ văn phòng vẳng ra tiếng trò chuyện. Thầy đang tiếp khách. Tôi

do dự, không biết có nên vào hay không.

Khoa lịch sử là khoa nghèo nhất trường, tòa nhà văn phòng khoa đã cũ nát,

được xây dựng từ những năm bảy mươi, nên chất lượng cách âm của các bức

tường rất kém. Dù không để tâm lắng nghe, tiếng trò chuyện trong phòng vẫn

rót vào tai tôi.

- Anh Quý, các tình nguyện viên khác đều đã thất bại, không còn cách nào

khác chúng tôi mới phải nhờ đến anh. Tính đến nay, mới chỉ có em ấy “vượt”

thành công, mà lại thành công những hai lần.

Giọng nói này nghe rất quen.

- Anh đừng cố thuyết phục nữa, tôi không đồng ý đâu. Em ấy còn trẻ, lỡ

phải bỏ mạng vì cuộc thí nghiệm này thì sao?

Đây là giọng của sếp, nghe sao mà nặng nề đến vậy!

- Không nghiêm trọng đến mức ấy đâu. Chúng tôi đã cải tiến thiết bị...

- Dù có cách tân đến mấy, anh có dám bảo đảm em ấy sẽ không phải chịu

bất cứ tổn thương nào không? Hậu quả của lần vượt thời gian vừa rồi anh thấy

cả rồi đấy. May mà các anh còn chút lương tâm, đã huy động lực lượng y bác

sĩ giỏi nhất cả nước mới cứu được cánh tay của em ấy.

Tôi giật mình, thì ra sếp đang nói về tôi, vội vàng ghé tai lắng nghe.

- Quả thật chúng tôi đã rất tắc trách vì không xét đến vấn đề nhiễm phóng

xạ. Nếu em ấy không bị thương, có thể chúng tôi vẫn còn chủ quan cho rằng

mọi  thứ  đều  an  toàn.  Nhưng  nếu  em  ấy  thận  trọng  hơn,  không  để  xảy  ra

thương tích, thì có lẽ vấn đề sẽ không nghiêm trọng...

Tôi  đã  nhận  ra,  đó  là  giọng  nói  của  giáo  sư  Lý,  người  phụ  trách  nhóm

nghiên cứu.

- Sao lại không nghiêm trọng?

Sếp cao giọng ngắt lời giáo sư Lý.

- Mỗi lần tiếp xúc với cỗ máy đó là một lần nhiễm phóng xạ. Cả cái đồng hồ

vượt thời gian và bộ áo chống phóng xạ ấy nữa, đều là những nguồn gây

nhiễm, có thể gây tổn hại cho sức khỏe của em ấy bất cứ lúc nào.

- Nếu em ấy không ở lại đó quá lâu, thì sẽ không việc gì.

Giáo sư Lý vội vàng thanh minh:

- Lần này, chúng tôi không yêu cầu em ấy ở lại quá lâu, chỉ cần đủ để kiểm

chứng chức năng định vị thời gian và địa điểm mà chúng tôi mới phát minh có

thành công hay không thôi. Chúng tôi hứa sẽ sử dụng thiết bị điều trị tốt nhất,

có thể giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng sau khi em ấy trở về.

- Các anh đã thử nghiệm nhiều lần các chức năng mới rồi đấy thôi và lần

nào thiết bị cũng gặp trục trặc trước khi vượt.

- Chúng tôi đã rút kinh nghiệm của những lần trước, chúng tôi tin lần này

nhất định sẽ thành công. Anh Quý à, anh cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử.

Lẽ nào anh không cảm thấy, việc chúng ta có thể quay trở về bất cứ thời điểm

và không gian lịch sử nào, ví như được tận mắt chứng kiến thời kỳ oai hùng khi

Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, nghiệm chứng tính xác thực của sự

biến Huyền Vũ Môn, thậm chí có thể tham dự ngày Quốc khánh và được nhìn

thấy chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu Ân Lai, là rất tuyệt vời hay sao?

Giọng nói thầy Lý tràn đầy niềm tin về một viễn cảnh tươi đẹp.

- Anh Quý, chúng tôi chỉ cần một tình nguyện viên là đủ.

- Không được, việc đó quá mạo hiểm, tôi không thể...

- Em đồng ý.

Tôi đẩy cửa bước vào, tự tin lên tiếng trước sự sững sờ của hai vị học giả.

- Nhưng em sẽ chọn địa điểm và thời gian.

- Được chứ, không vấn đề gì.

Thầy Lý vui mừng gật đầu.

- Chỉ cần em nhận lời tham gia, đến thời đại nào là do em quyết định.

- Thưa thầy, sức khỏe của em có thể chịu đựng trong bao lâu?

Thầy Lý tỏ ra hơi lúng túng:

- Điều đó chưa thể xác định ngay lúc này vì không có số liệu. Nhưng nếu

em nhanh chóng quay về...

Tôi ngắt lời thầy, mạnh dạn đề nghị:

- Em muốn đến Khâu Từ năm 384.

Thầy Quý giật mình ngẩng lên, nhìn tôi đăm đăm.

Tôi trở lại khu vực thực nghiệm quen thuộc, bận rộn với các hạng mục kiểm

tra, rèn luyện sức khỏe, uống thuốc tăng cường sức đề kháng. Các cán bộ

nghiên cứu mỗi ngày đều đến ghi chép số liệu về sức khỏe của tôi, tính toán

thận trọng từng con số. Đầu tháng Tám sẽ bắt đầu chuyến vượt thời gian thứ

năm của tôi.

Tận dụng thời gian rảnh rỗi, tôi tìm đọc tất cả các tài liệu về Rajiva và thời

kỳ Thập lục quốc. Cố gắng ghi nhớ mọi thứ, biết đâu sẽ có ích về sau.

Nhưng có nhiều tài liệu, càng đọc càng thấy khó hiểu. Bởi vì những ghi

chép về Rajiva đều quá ư ngắn ngủi, hàm súc, thậm chí tồn tại nhiều mâu

thuẫn. Ví như năm sinh, năm mất của Kumarajiva.

Có  hai  quan  điểm  khác  nhau  về  thời  gian  Kumarajiva  qua  đời:  Trong

“Truyện  cao  tăng”  của  nhà  sư  Tuệ  Giảo,  nhà  Lương,  thời  Nam  triều  viết:

“Kumarajiva mất ở Trường An ngày hai mươi tháng Tám năm thứ mười một

đời Hoằng Thủy nhà Hậu Tần, cũng chính là năm thứ năm đời Nghĩa Hy nhà

Đông Tấn”. Như vậy tức là năm 409 sau Công nguyên. Nhưng trong “Văn tế

Pháp sư Kumarajiva”, Tăng Triệu lại viết: Kumarajiva mất tại một ngôi chùa lớn

vào ngày mười ba tháng Tư năm Quý Sửu, hưởng thọ bảy mươi tuổi”. Năm

Quý Sửu tức là năm thứ mười lăm đời Hoằng Thủy, chính là năm 413 sau Công

nguyên.

Nếu căn cứ theo quan điểm của Tăng Triệu, thì năm sinh năm mất của

Kumarajiva  sẽ  là  344  -  413  sau  Công  nguyên  (hưởng  thọ  bảy  mươi  tuổi).

Nhưng nếu căn cứ theo quan điểm của Tuệ Giảo thì niên đại đó là 350 – 409

sau Công nguyên (hưởng thọ sáu mươi tuổi). Hầu hết các học giả trong giới

học thuật đều đồng tình với quan điểm của Tăng Triệu, vì Tăng Triệu nhận

mình từng theo học Kumarajiva hơn mười năm và ông qua đời sau Kumarajiva

một năm, do đó tính thiếu chính xác trong quan điểm của Tăng Triệu là rất

thấp. Và bởi vậy, trong đại hội Phật giáo Trung Quốc – Nhật Bản lần thứ năm,

học giả hai nước đã thống nhất tiến hành các cuộc nghiên cứu, thảo luận về

Kumarajiva dựa trên năm sinh và năm mất của nhà sư là 344 – 413 sau Công

nguyên.

Nhưng tôi lại cho rằng Tuệ Giảo đã đúng. Lữ Quang ép buộc Rajiva phá

giới, chính vào năm 384 sau Công nguyên, mà tôi đã yêu cầu được đến, khi ấy

Rajiva vừa tròn ba mươi lăm tuổi. Lời cảnh báo của vị hòa thượng lúc Rajiva

còn nhỏ khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự trớ trêu của số phận.

Sách “Tấn thư” viết: “Lữ Quang biết Kumarajiva là bậc tài trí hơn người,

nhưng tuổi còn quá trẻ, nên đã bày trò ép nhà sư lấy công chúa Khâu Từ”.

Tức là vì thấy Rajiva tuổi còn trẻ, nên Lữ Quang mới ép cậu thành thân. Nếu

khi ấy, Rajiva đã bốn mươi mốt tuổi, thì vào thời đại đó, không thể nói là cậu

còn trẻ. Nếu là ba mươi lăm tuổi thì còn có lý. Nhưng lẽ nào chỉ vì thấy Rajiva

tuổi còn quá trẻ mà Lữ Quang đã ép cậu ấy phá giới? Đằng sau câu chữ ngắn

ngủi, ít ỏi kia ẩn giấu bao nhiêu điều bí mật? Tôi nhất định phải tới đó để

chứng thực chuyện gì đã xảy ra?

Bao suy nghĩ chất chứa khiến tôi không khỏi lo lắng. Kể từ khi quay lại khu

vực thực nghiệm, không đêm nào tôi được ngon giấc. Vừa mong ngóng thời

khắc tiến hành thí nghiệm để có thể nhanh chóng trở về bên cạnh cậu ấy,

nhưng lại vừa lo sợ, trở về đó tôi sẽ phải chứng kiến cảnh tượng mà tôi không

mong muốn. Chuyện gì đã xảy ra trong suốt mười một năm đó? Ai có thể lưu

giữ tình cảm của mười một năm trước? Nếu đây không phải là cơ hội duy nhất,

chắc chắn tôi sẽ lựa chọn được trở về thời điểm Rajiva vội vàng quay lại thành

Khâu Từ để gặp tôi lần cuối. Theo lý thuyết xác suất, nếu hai người yêu nhau

có thể chờ đợi đối phương với tỉ lệ cùng đạt tám mươi phần trăm, thì sác xuất

họ có thể sống bên nhau là tám mươi nhân tám mươi bằng sáu mươi tư phần

trăm. Con số này khiến tôi không khỏi ảo nảo. Nhưng, cho dù chỉ là một phần

trăm, tôi cũng vẫn muốn đi. Vì nếu ở lại thế giới hiện đại này, tôi sẽ như kẻ

mất hồn, trái tim tôi, từ lâu, đã không thuộc về nơi này nữa.

Tôi gọi điện cho bố mẹ. Họ không hề hay biết tôi tham gia dự án này. Tôi

chỉ muốn thông báo với họ tôi vẫn khỏe, nhưng tôi phải đến một nơi bí mật để

tham gia một dự án nghiên cứu đặc biệt, có thể mất vài năm hoặc lâu hơn

nữa. Và vì là bí mật nên tôi sẽ không thể gọi điện cho họ được. Tôi động viên

bố mẹ, nói rằng xin cứ yên tâm vì tôi rất khỏe mạnh và an toàn.

Nhưng dù là vậy, bố mẹ vẫn rất lo lắng, tôi cố gắng giữ giọng nói thoải mái,

vui tươi, nhưng vừa cúp máy, nước mắt đã đầm đìa. Tôi là con một, nhưng tôi

đã không thể trọn đạo, tôi không phải người con có hiếu...

Buổi tối trước ngày tiến hành thí nghiệm, “sếp” đã đến tìm tôi. Thầy trò tôi

ngồi trò chuyện trên thảm cỏ bên ngoài khu vực thực nghiệm.

- Vì Kumarajima phải không?

Tôi bối rối.

- Em nghĩ thầy không đoán ra được ư?

Thầy thở dài:

- Cả hai lần vượt thành công em đều gặp Kumarajiva, lại là vào lúc cậu ấy ở

độ tuổi thiếu niên và thanh niên. Thầy đọc tài liệu lịch sử cũng hết sức ngưỡng

mộ Kuramajiva tài trí trác tuyệt thời trẻ. Huống hồ một cô gái trẻ như em, hơn

nữa em lại được gặp con người tài hoa đó ngoài đời thực.

Tôi chỉ biết cúi đầu, lặng yên.

- Xưa nay em vẫn là cô gái thông minh và lý trí, lẽ nào vì tình yêu mà trở

nên mê muội như vậy?

- Thưa thầy, thầy đã trải qua tuổi trẻ và cũng đã từng yêu, đúng không ạ?

Tôi ngẩng lên, mọi thứ trước mắt bỗng trở nên nhạt nhòa.

- Chính vì em mạnh mẽ, lý trí và tôn trọng lịch sử, nên em đã chọn cách từ

bỏ. Nhưng giờ đây em đã hối hận, sau khi trở về, ngày nào em cũng hối hận,

hối hận vì đã không ích kỷ hơn. Nên em quyết định đi tìm cậu ấy, em không

muốn nghĩ đến lịch sử hay bất cứ điều gì khác...

- Nhưng em nghĩ chuyến đi này có thể thay đổi điều gì?

Giọng thầy đượm vẻ bất lực.

- Em đã biết chuyện gì xảy ra rồi đó, vị hôn thê của Kumarajiva là công chúa

Khâu Từ.

- Em biết.

Hai hàng nước mắt đuổi theo nhau trên gò má rồi lặng lẽ rơi xuống đám cỏ.

- Đây là thời điểm cam go nhất trong cuộc đời cậu ấy, em muốn ở bên để

chia sẻ với cậu ấy. Em luôn có linh cảm rằng, cậu ấy đang chờ em, đang mong

ngóng em trở về. Nhưng cũng có thể em sẽ chẳng giúp được gì. Nếu đúng

theo ghi chép của sử sách, thì cậu ấy đã có người ở bên cạnh. Nếu vậy, em sẽ

lặng lẽ chúc phúc cho cậu ấy, sau đó sẽ quay lại tiếp tục cuộc sống của mình ở

nơi này.

Sếp tôi lại buông một tiếng thở dài nặng nề.

- Bây giờ thầy có yêu cầu em đừng thay đổi lịch sử, em cũng không nghe,

đúng không?

Tôi cắn môi, khổ sở đáp lời:

- Thầy luôn cảnh báo em không được thay đổi lịch sử, nhưng biết đâu, em

lại chính là người thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

Thầy yên lặng hồi lâu:

- Chương Hy đã gọi cho thầy.

Tôi ngạc nhiên. Từ lúc biết mình có cơ hội trở về bên cạnh Rajiva, tôi đã nói

lời chia tay với anh bạn cùng trường. Thực ra, kể từ khi nhận lời anh ấy, chúng

tôi hầu như không ngồi trò chuyện riêng với nhau bao giờ. Anh ấy hẹn tôi đi ăn

cơm hay đi xem phim, tôi đều kiếm cớ thoái thác. Bởi vậy, chia tay chỉ là thủ

tục. Chúng tôi không giống một đôi đang yêu nhau chút nào. Nên tôi khá bất

ngờ khi anh ấy gọi điện cho sếp.

- Cậu ấy nhờ thầy nói với em, rằng cậu ấy sẽ chờ cho đến khi em tỉnh

mộng.

Tôi cười buồn. Chắc chắn thầy đã nói cho anh ấy biết lí do thực sự của lần

vượt thời gian này của tôi. Chờ tôi ư? Chờ đợi một người không thật lòng yêu

mình trong viễn cảnh vô vọng như vậy ư? Con người thời hiện đại mấy ai có

thể làm được như thế?

- Thầy ơi, nếu em không muốn tỉnh lại thì sao?

- Cô nhóc này, em đừng quên, dù em và cậu ấy có tâm đầu ý hợp đến đâu,

đó cũng chỉ là một giấc mộng phù vân mà thôi. Nơi đây mới là ngôi nhà thực

sự của em, mới là cuộc sống hiện thực của một người bình thường.

Thầy trở nên nghiêm khắc:

- Mỗi lần vượt thời gian, tia phóng xạ tích tụ trong cơ thể sẽ dần dần phá

hủy hệ thống miễn dịch của em, em phải nhanh chóng quay về điều trị. Đừng

vội đắc ý, thầy biết con gái khi yêu thường mất hết lí trí, nhưng vì tình yêu mà

đánh đổi cả tính mạng thì chẳng có gì là vĩ đại cả.

Thầy ngừng lại giây lát.

- Vì tình yêu, người ta phải tiếp tục sống, như thế mới vĩ đại. Thầy đã yêu

cầu họ chế tạo loại pin có tuổi thọ dài nhất từ trước đến nay, em có thể quay

về trong vòng hai năm. Mang theo đồng hồ vượt thời gian và áo chống phóng

xạ ít nhiều sẽ gây tổn tại cho sức khỏe, nhưng em vẫn phải giữ gìn cẩn thận.

Vì trong thời đại loạn lạc ấy, biết đâu những thứ đó có thể cứu em.

Tôi gật đầu, lặng lẽ ngước nhìn bầu trời đêm. Đêm mùa hạ mà không thấy

bóng dáng một ngôi sao nào, ở thời đại này, mức độ ô nhiễm sao mà đáng sợ

đến vậy!

Tôi nằm trên bàn thí nghiệm, mọi người đã lục tục kéo ra khỏi căn phòng

kín bưng. Sếp đột ngột lại gần tôi, ghé vào tai tôi, nói khẽ:

- Nhớ đừng làm chuyện dại dột. Khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển,

chỉ cần em chịu quay về, sẽ có thêm cơ hội gặp lại.

Thầy nắm chặt tay tôi:

- Hãy cẩn trọng, đừng để bị thương.

Nhìn tôi thêm một lần nữa, rồi mới quay lưng bước ra ngoài. Mắt tôi nhòe

ướt khi ngó theo bóng dáng già nua ấy.

Chương 40: Trở lại Khâu Từ

Lưng tôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến

lưng đã đụng phải một thứ kỳ lạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông

lên não, kích thích tôi choàng tỉnh.

Phía trước, một đôi mắt mở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét

dính trên đỉnh đầu, khuôn mặt hung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy,

nhưng mặt đất gập ghềnh dưới chân khiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những

tiếng răng rắc vang lên, đưa mắt nhìn xuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng

chân của một người nào đó, bàn tay dính đầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp.

Trời đất ơi, tôi đang ở nơi nào thế này? Đưa mắt ra xung quanh, cơn buồn nôn

lập tức ập đến.

Tôi đang ở trong một cái hố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét

và chỉ mình tôi là người sống. Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống,

mùi hôi thối không ngừng xông lên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt

mũi, tôi kinh sợ đưa mắt quan sát khung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên

người và khuôn mặt của những tử thi mất tay mất chân, hay thậm chí mất đầu

ấy, tôi đoán họ là binh lính Khâu Từ và rất nhiều tộc người du mục vùng Trung

Á khác. Nếu thời gian và địa điểm cài đặt trên cỗ máy thời gian là chính xác,

thì cảnh tượng trước mắt có lẽ là kết quả của cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần

và Lữ Quang.

Không phải tôi chưa từng thấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng

ở Ai Cập, những bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng

từng theo đoàn khảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến

những  thi  thể  không  đầu  trong  các  động  đá  thuộc  vương  quốc  Guge  (Tây

Tạng) cổ đại, vì ở trên cao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch

sử, các thi thể vẫn chưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc

mùi xú uế. Vụ thảm sát ở Nam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng

niệm  được  xây  dựng  dưới  lòng  đất,  mỗi  khi  bước  chân  vào  đó,  những  bộ

xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng thảm thương đến mức khiến bạn

phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải kẻ nhát gan, vì nếu thế tôi

đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ tôi khiếp sợ như thế

này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không ngừng thu nạp thứ

mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và tôi lại đang ở

nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng không có. Tôi

ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá chiều cao của

tôi.

Trong ba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên

dụng. Trước đó, nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công

đến huấn luyện cho tôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót

trong thời đại mà tính mạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần

áo rằn ri để luyện tập vượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn

và những kỹ thuật phòng thân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn

ngủi,  trình  độ  chỉ  ở  bậc  amateur,  nhưng  ít  nhiều  cũng  có  chút  kỹ  thuật.

Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân mình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập,

thậm chí không đủ sức để lấy công cụ trong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải

nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy những cánh tay, bắp chân đứt rời

và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi thấy thứ mùi khủng khiếp nhất

trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi cũng trở nên tê liệt, tôi không

kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành tiếng khóc.

 Lại một thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên

có người! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lên

kêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ

nghĩ tôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất

cẩn nên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi

dây thừng được thả xuống.

Lên đến mặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì

nhận ra rằng tình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa.

Những người kéo tôi lên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách

công việc dọn dẹp chiến trường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính

tráng hoặc già nua yếu đuối, hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính

chẳng có vẻ gì là thân thiện, tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình

cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” của mình.

Chưa hoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng

nghĩ cách đối phó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem

là  chiến  lợi  phẩm.  Những  thương  binh  tàn  phế  này  làm  gì  có  cơ  hội  xung

phong lên tuyến đầu để có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu

báu kia chứ. Vậy nên họ chắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời

rơi xuống. Tuy có mang theo súng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy,

lại đông người thế này, tôi không biết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.

Trước mặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười

thật tươi, chắp tay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:

- Thưa các anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của

tướng quân Đỗ Tấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân

rơi xuống hố sâu, gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.

Trong số các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn

và Đoàn Nghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn

nhất của Đỗ Tấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23]. Sau đó, Đỗ Tấn đã

được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng vì quyền cao

chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang sinh lòng

đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.

Còn Đoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc,

nhưng lại chỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem

quân chinh phạt Khâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú

Kiện  Khang  (nay  là  Tửu  Tuyền,  Cam  Túc).  Năm  397,  Thư  Cừ  Nam  Thành,

người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương của Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên

ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế là từ một bậc “nho nhã,

không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗng nhiên trở thành quốc

vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.

Quân đội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc

tộc người Đê với Phù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi

vậy, phải tìm một người Hán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi

chọn Đoàn Nghiệp mà không chọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu

tôi nói mình là thê thiếp của ông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn

Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi tuổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng

Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê thiếp của người này chắc không nhiều.

Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa người thân đi cùng, nhưng vì Lữ

Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã cho phép tướng lĩnh của

mình nạp thiếp.

Những người đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp

trên. Tôi thở phào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng

nặc đòi đưa tôi đến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối

không được, vả lại nghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền

ưng thuận đi theo anh ta.

Đường vào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến

tranh gây nên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc

khắp nơi. Xe ngựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối

đi. Gươm đao giáo mác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường

thành Khâu Thành loang lổ, vỡ nát, tan hoang.

Không được chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại

những ghi chép trong sách sử.

Quân của Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng

thêm binh lực của Shanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một

trăm  ngàn  quân.  Còn  Bạch  Thuần,  dốc  sạch  quốc  khố  cầu  viện  Khoái  Hồ,

Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân đến chi viện. Cộng thêm binh lực của

Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn quân.

Cuộc chiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang

dội cho Lữ Quang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù

Kiên. Sách “Tấn thư” chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông

ta ít, cần dựng trại, dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe,

nói rằng: địch đông ta ít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải

kế hay.

Lữ Quang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm

dặm một trại, đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo

giáp, cắm cờ lên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân

Khâu Từ trong nội thành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở

phía tây. Kỵ binh Khoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như

thép, mũi tên không thể xuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội

khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng roi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối

phương, trăm phát trăm trúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang

rơi vào thế yếu.

Lữ Quang nhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội

quân còn lại tuy đông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ

Quang nghĩ ra cách đối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh

khi bị ngã trở nên bất lực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ

không thể di chuyển, càng không thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu

hơn mười ngàn lính Khoái Hồ, tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức

vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của cải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước

chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại trận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.

Bạch Thuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu,

sử sách không ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch

Thuần là Bạch Chấn lên ngôi vua.

Khâu Từ là quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu

khác không hài lòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước

Shanshan, vua nước Chrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu

vua Hán chinh phục Tây vực và xin làm “hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ

Quang có thể thuận lợi vượt qua ba trăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh

mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn nhờ vào công lao của các “hoa tiêu”

này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch Chấn, vì từ lâu “cậu út” đã có dã

tâm đoạt ngôi.

Vừa đi vừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy

chốc đã đến cổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ

đây hoàn toàn vắng lặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào

nhà nấy cửa đóng then cài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân

nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng trên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường

cao là xông vào, theo sau đó là những tiếng gào khóc thảm thiết vang lên.

Sau khi vào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch

Thuần, Lữ Quang đã hạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện

Khâu Từ” với nội dung châm biếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống

no đủ và họ rất biết cách hưởng thụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều

rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất giữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười

năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong khuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì

muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung túng cho đám lính của

mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí bỏ mạng trong

men rượu nhiều không đếm xuể.

- Đoàn đại nhân!

Suy nghĩ bị cắt ngang, tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người

dáng vẻ thư sinh, khép tay hành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?

Nếu không tìm cách trốn thoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng

cách tôi đến hai mươi mét. Nếu cố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã

bị bắt lại. Vừa căng thẳng nghĩ cách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng

cao mãnh liệt, tôi muốn được tận mắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc

Lương. Theo học chuyên ngành này thật nguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến

người ta phải đền mạng như chơi.

Đoàn  Nghiệp  chừng  hai  mươi  tuổi,  cao  khoảng  một  mét  bảy  mươi  lăm,

khuôn  mặt  vuông  vức,  dáng  vẻ  nho  nhã,  trên  tay  cầm  giấy  bút,  đang  trò

chuyện với một quân nhân, nhìn thấy tên lính người Hán, liền quay lại đáp lễ.

- Đoàn đại nhân, ngài đây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra

ngoại  thành  hái  thuốc  rất  nguy  hiểm,  cô  dâu  mới  mà  sao  ngài  không  biết

thương hoa tiếc ngọc?

Đoàn  Nghiệp  tất  nhiên  rất  kinh  ngạc,  liếc  nhìn  tôi,  định  mở  miệng  phủ

nhận, tôi giả bộ vui mừng khi nhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn,

hạ giọng:

- Tôi được cao nhân chỉ điểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay

cứu giúp, tôi nhất định sẽ báo đáp ơn này.

Sử sách chép rằng, Đoàn Nghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà

thuật. Cầu mong sao chiêu bài này của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.

Hắn nhìn tôi đầy nghi hoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho

lắm. Cũng phải thôi, tôi còn quá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có

chút khí chất thần thánh nào cả. Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:

- Đêm trước khi công phá thành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi

vàng bay ra vùng ngoại thành, đúng không?

Đó là những ghi chép trong sách “Tấn thư”, giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang

càng có thêm tự tin rằng “thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất

sẽ diệt vong”. Sách “Tấn thư” ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần

thánh mang màu sắc mê tín nên rất nhiều nhà sử học về sau này không xem

đó là chính sử. Còn tôi thì đang đặt cược, tôi cược rằng, trước tình thế địch

mạnh ta yếu, Lữ Quang đúng là đã bịa đặt ra giấc mơ kì lạ đó để động viên

binh sĩ. Nếu tôi thua, tôi cũng chẳng còn đường thoát nào khác.

Đoàn Nghiệp kinh ngạc ngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không

khẳng định cũng không phủ nhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người

vận đồ quân nhân vừa trò chuyện với mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong

tiếng cười giễu của bọn họ.

Bước đi cùng Đoàn Nghiệp mà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy

nhiên, theo tài liệu lịch sử thì Đoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác

như Lữ Quang. Nếu không ổn, một mình hắn tôi cũng có thể đối phó được.

Đoàn Nghiệp đưa tôi đến nhà một thường dân, bên trong có rất rất nhiều

người vóc dáng văn nhân, họ cất tiếng chào anh ta. Có lẽ quân Lữ Quang đã

cưỡng chế trưng dụng căn nhà này làm nơi tụ họp của các quan văn.

Khi  chỉ  còn  hai  chúng  tôi  ở  trong  phòng,  tôi  chắp  tay  trước  mặt  Đoàn

Nghiệp:

- Tôi vì muốn giữ mạng, đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại

nhân, xin đại nhân thứ tội.

- Cô nương xin đừng khách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.

Anh ta rất nhã nhặn, lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.

- Vị cao nhân mà tôi nhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng

Tây vực, Kumarajiva. Tôi tuy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp

pháp sư, nên đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ

cũng vì mong được diện kiến pháp sư. Nếu được ngài truyền thụ cho chút ít

kiến thức, chắc chắn năng lực tiên đoán của tôi sẽ được nâng lên đáng kể.

Không biết Rajiva hiện nay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy

bằng chủ đề ưa thích của Đoàn Nghiệp.

- Danh tiếng của đại pháp sư Kumarajiva như sấm dội bên tai, được biết

pháp sư có biệt tài xem tướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây

vốn đã ngưỡng mộ từ lâu.

- Đoàn đại nhân chưa gặp pháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang

ở chỗ của Lữ tướng quân, lẽ ra đại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên

mới đúng chứ?

Tôi nín lặng chờ đợi phản ứng của Đoàn Nghiệp.

Vẻ mặt anh ta vương chút ảo nảo:

- Tôi rất muốn, nhưng pháp sư đang bị giam lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.

- Tôi và pháp sư vốn có duyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài,

tôi nhất định sẽ xin pháp sư xem hậu vận cho đại nhân.

- Điều này e là không thể.

Anh ta có vẻ rất sốt sắng, nhưng lại hơi do dự.

- Nghe nói, tướng quân giam đại sư trong cung, với chức quan quèn như

hiện nay, tôi không thể gặp ngài.

Trong lòng ngập đầy nỗi thất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị giam trong cung,

nhưng không rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một

thư lại nhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên

chắc rằng anh ta cũng không biết được thông tin gì.

Tôi đành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ

đã bị công phá năm ngày rồi, ngày thứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu

Từ.

Suy nghĩ một lát, tôi cầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:

- Không biết Đoàn đại nhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyseda – em

trai pháp sư Kumarajiva không?

Một mình trên phố lúc này chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng

gây mê nhỏ bé của tôi chắc chắn không thể hạ gục đám lính đang điên cuồng

cướp bóc ngoài kia.

Sợ Đoàn Nghiệp từ chối, tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói

với anh ta:

- Theo quan sát của tôi, tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không

phải hạng tôm cá trong ao tù, ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng,

ngày sau, ngài sẽ làm nên nghiệp lớn.

- Có thật không?

Anh ta đúng là một kẻ mê tín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò

hỏi:

- Sẽ là ở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.

Tôi ra điều kiện:

- Đại nhân chịu đưa tôi đi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.

Môn thần học vốn rất thịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học,

Huyền học trong một thể thống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là

những dự đoán mang màu sắc kỳ lạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù

Kiên giết tướng Sabir, nên đã cho người tung tin đồn “tháng Ất Dậu năm Giáp

Thân, Ngư Dương ăn thịt người”[24]. Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãi Mộ

Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết các dân tộc hết sức tiến bộ của ngài

đã không có hiệu quả. Và lời cảnh báo của Vương Mãnh lại hết sức chính xác.

Năm 384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tần bắt đầu tan rã. Tuy Phù Kiên bị

Diêu Trường thuộc tộc người Khương giết chết, nhưng nguyên nhân chính của

sự sụp đổ của nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩa phục quốc của người Sabir.

Bởi vậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyseda thể hiện sức

mạnh to lớn của bói toán.

Chương 41: Bên bờ sông Hán ai ơi, có cô con gái khó ai

mơ màng

 Sau ngần ấy năm, không biết Pusyseda ra sao, có được bình an trong thời

cuộc loạn lạc này không? Hồi hộp bước tới cổng phủ quốc sư, tôi chợt thấy

một binh sĩ người Khâu Từ đang đứng. May mà Đoàn Nghiệp có mang theo

lệnh bài của quân đội Lữ Quang, nên binh lính Khâu Từ không dám gây khó

dễ, đã vội vào trong thông báo.

 Khuôn viên phủ đệ đã được quét vôi trang trí lại, tuy không tráng lệ nhưng

rất tinh tế, tao nhã. Căn nhà khang trang như vậy, lại có cả lính giữ cổng, điều

đó chứng tỏ sự lo lắng của tôi là thừa, chắc là Pusyseda đang sống rất thoải

mái.

 Trong thời gian chờ đợi, tôi thì thầm vào tai Đoàn Nghiệp:

Hào quang xuất hiện ở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây. Đại nhân

hãy ghi nhớ, không được tiết lộ thiên cơ, nếu không sẽ mất linh nghiệm.

 Đó là kết quả chắt lọc từ quá trình suy nghĩ của tôi trên suốt đường đi, tuy

không được văn hoa mượt mà cho lắm, nhưng bói toán là phải lấp lửng như

vậy. Kiện Khang ám chỉ sau này Đoàn Nghiệp sẽ được phong làm Thái thú.

Thái thú Kiện Khang, còn Hà Tây tức là hành lang Hà Tây, nơi sau này sẽ là

vùng đất của nhà Bắc Lương mà Đoàn Nghiệp làm vua. Nhưng trong lúc này,

chắc chắn anh ta sẽ nghĩ rằng Kiện Khang là địa bàn của nhà Đông Tấn, Hà

Tây là một vùng đất chung chung, mơ hồ nào đó. Bài bói của tôi cũng khá đấy

chứ, có thể xem như không hề tiết lộ lịch sử.

 Thực ra, sau khi lên ngôi, Đoàn Nghiệp cũng chỉ sống thêm chưa đầy năm

năm. Ông ta bị giết trong trận chiến với Thư Cử Mông Tốn, để rồi sau đó,

Mông Tốn tự phong mình làm vua Bắc Lương. Đoàn Nghiệp qua đời ở tuổi bốn

mươi. Nhưng tất nhiên, tôi không nói những điều này cho ông ta biết. Những

câu chữ mà tôi sử dụng đều đã được chọn lọc kỹ lưỡng. Bởi vậy, lúc chào từ

biệt tôi và ra về, niềm hân hoan rạng rỡ vẫn còn trên gương mặt Đoàn Nghiệp.

 Người trong phủ bước ra, đó là Sukhala, vị quản gia năm nào. Ông đã trở

nên già nua, lụ khụ lắm rồi! Ngước mắt nhìn tôi hồi lâu mà không sao nhớ nổi

tên. Tôi mỉm cười hỏi ông Pusyseda có nhà không.

 Ông đưa tôi vào nhà, nói rằng Pusyseda vẫn ở trong cung, tối mới về. Ông

nói sẽ đi mời phu nhân. Phu nhân ư? Tôi sững sờ, nhưng hiểu ra ngay vấn đề.

Pusyseda năm nay ba mươi hai tuổi, chắc chắn đã lập gia đình, không biết vợ

cậu ấy là người như thế nào? Tôi ngắm nhìn mọi thứ xung quanh khi ngồi chờ

ở phòng khách. Phủ quốc sư đã thay đổi rất nhiều so với hồi Kumarayana còn

sống. Cách bài trí rất trang nhã, không quá cầu kỳ nhưng tinh tế, tỉ mỉ, cho

thấy sự hiện diện rất rõ ràng của bàn tay phụ nữ. Bầu không khí thẫm đẫm sắc

màu Phật giáo trong phủ quốc sư trước kia, này chỉ còn lại bức tượng Phật đặt

trên bàn thờ ở một góc khuất trong gian phòng.

 Linh cảm có ai đó ở phía sau, tôi quay người lại, một cô gái người Hán,

dáng người dong dỏng, thân hình thon thả, dung mạo không quá mỹ miều,

nhưng đôi mắt cô ấy to và trong sáng, ở cô ấy toát lên nét dịu dàng, đoan

trang. Thấy tôi, cô gái khẽ cúi chào, đôi mắt lướt trên người tôi, có vẻ như

đang phỏng đoán mục đích của chuyến viếng thăm này. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy là

vợ Pusyseda, vội vàng đáp lễ bằng tiếng Hán:

 - Mong phu nhân lượng thứ cho sự đường đột của tôi. Tôi tới đây để nhờ

đại nhân giúp gặp mặt pháp sư Kuramajiva.

 Tôi nói ngay ý định của mình để xua tan mối nghi ngờ có thể nảy sinh

trong lòng cô gái ấy, vì biết đâu cô ấy lại cho rằng, người tình của Pusyseda

đến bắt vạ thì sao.

 Cô gái hơi ngỡ ngàng:

- Huynh ấy hiện đang ở chỗ tướng quân Lữ Quang, cô nương gặp huynh ấy

có việc gì vậy?

- Vì một mối ân tình.

Tôi đáp một cách mơ hồ:

- Nhờ phu nhân nhắn giúp với đại nhân, rằng Ngải Tình đã về.

- Ngải Tình ư?

 Cô ấy nhắc lại tên tôi và như đang tìm kiếm điều gì đó, sau đó thì có vẻ giật

mình, nhìn tôi trân trân.

- Thì ra cô nương chính là cô gái sống trong căn phòng đó?

 Tôi ngẩn ngơ, căn phòng của tôi, vẫn được lưu giữ ư?...

- Xin phu nhân đừng hiểu lầm, căn phòng đó là do pháp sư sắp xếp cho tôi,

không liên quan đến Pusyseda.

- Tôi hiểu chứ. Mỗi lần về nhà, huynh ấy lại đến phòng cô nương ngồi thiền

rất lâu.

 Cô ấy mỉm cười:

- Thật không ngờ, cô nương lại trẻ trung như thế!

 Tôi gượng cười, thực ra tuổi của tôi, ở thời đại này đã là bà mẹ của mấy

nhóc tỳ rồi ấy chứ. Chỉ là, 1650 năm về trước, thời đại mà tuổi thọ bình quân

của con người chưa đến năm mươi tuổi và ngành công nghệ mỹ phẩm chưa

phát triển, thì ngoại hình của tôi chẳng khác nào thiếu nữ mười bảy, mười tám

tuổi.

 Cô ấy sai người hầu vào cung nhắn gọi Pusyseda. Sau đó mời tôi ngồi, lời

nói, cử chỉ đều rất nhã nhặn, từ tốn. Không thể không khen ngợi Pusyseda đã

chọn được một người vợ tuyệt vời.

 Một vài cái đầu bé con lấp ló ngoài cửa, những con mắt tròn to, lấp lánh,

chăm chú nhìn tôi. Cô gái cất tiếng gọi, một chú nhóc mập mạp dắt theo một

cô nhóc nhỏ hơn khật khưỡng chạy vào..

 Những đứa bé mới đáng yêu làm sao! Chú nhóc là anh, cô nhóc là em, một

bé năm tuổi một bé ba tuổi. Cả hai nhóc đều có tên bằng tiếng Tochari, nhưng

Pusyseda còn đặt tên tiếng Hán cho chúng nữa. Anh tên Cầu Tư, em tên Vịnh

Tư.

- Tướng công nhà tôi say mê “Kinh thi”, nên đã dựa vào bài “Hán Quảng”

trong “Kinh thi” để đặt tên cho các con.

 Khuôn mặt cô gái ửng hồng, nụ cười ý nhị nở trên khóe môi, dường như

đang nhớ lại một kỷ niệm đẹp đẽ nào đó.

 Tôi ngỡ ngàng. Bài thơ trữ tình, lay động tâm can. Chàng trai nọ theo đuổi

cô  gái  người Hán bên dòng sông Hán, sông Hán rộng lớn, nước chảy xiết,

muốn bơi sang bờ bên cạnh là điều không thể, bè gỗ cũng không thể đưa

chàng trai đến bên cô gái. Theo đuổi không thành, cô gái đi lấy người khác,

chàng trai vẫn ngày ngày cặm cụi cắt cỏ chăn ngựa giúp cô gái.

 “Núi nam có cây trụi cao,

 Mọi người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.

 Các cô sông Hán dạo chơi,

 Đoan trang chẳng thể trao lời cầu mong.

 Kìa con sông Hán mênh mông,

 Chớ toan lặn lội mà hòng vượt qua.

 Trường giang mờ mịt chảy xa,

 Kết bè chẳng thể dùng mà lướt đi.

 Bụi cây lộn xộn đẹp xinh,

 Tôi lo cắt loại cây kinh mà dùng.

 Nếu nàng nay đã theo chồng,

 Xin nuôi giùm ngựa cho lòng đẹp vui.

 Rộng thay sông Hán cách vời!

 Chớ toan lặn lội vượt khơi mà hòng.

 Trường giang xa tít muôn trùng,

 Thả bè chẳng thể xuôi dòng mà đi.

 Bụi cây lộn xộn đẹp cao,

 Thì ta vội cắt cây lâu mà dùng.

 Nếu nàng nay đã thao chồng,

 Ngựa câu nuôi giúp thì lòng cũng cam.

 Rộng thay sông Hán xa xăm!

 Cho nên không thể lặn ngầm mà qua.

 Trường giang mờ mịt chảy xa,

 Kết bè chẳng thế dùng mà lướt đi”[25]

 Là ai đang thương ai đang nhớ ai?

 Tôi ôm những đứa trẻ bụ bẫm vào lòng, ngắm nhìn đôi mắt màu xám nhạt

thừa  hưởng  từ  người  cha  của  chúng.  Giây  phút  ấy,  tôi  như  được  thấy  lại

Pusyseda hồi nhỏ, thấy lại chú nhóc hay nhõng nhẽo bày trò, nũng nịu đòi tôi

hát cho nghe ấy. Mới đấy mà đã hai mươi năm. Chú nhóc năm nào giờ đây đã

có con bồng con bế. Trước khi tôi ra đi, cậu ta nói sẽ hạnh phúc và bây giờ,

hạnh phúc ấy hiện rõ ở người vợ nhu mì, hiền thục và những đứa con đáng

yêu này đây.

 Tiếng bước chân dồn đạp ngoài cửa, một bóng dáng cao lớn xuất hiện, tay

vịn vào khung cửa, nhìn tôi ngỡ ngàng:

 - Ngải Tình, là chị thật ư...?

 Tôi đứng lên, mỉm cười, nhưng sao sống mũi cay cay.

 Cậu ta đi như lao về phía tôi, cứ cái đà ấy, với sự hiểu biết của tôi về cậu ta

thì chắc là định bước tới ôm lấy tôi. Tôi bối rối vì vợ cậu ta đang đứng bên

cạnh. May mà mấy đứa nhóc đã cứu nguy cho tôi. Chúng lon ton chạy đến, sà

vào lòng cha, chặn vòng tay đang dang rộng về phía tôi lại.

 Vợ cậu ta cũng đứng lên, nụ cười ngọt ngào, nhìn những đứa trẻ cuộn tròn

trong lòng Pusyseda. Rồi cô ấy bước đến, kéo lũ trẻ ra, nhẹ nhàng nói với

chồng:

 - Để thiếp đưa các con đi tắm, chúng nô đùa cả ngày, bụi bám đầy người

rồi.

 Rồi quay lại gật đầu với tôi:

 - Cô Ngải Tình ngồi chơi, tôi xin phép.

 Cảm tình với cô gái lại tăng thêm một bậc nữa. Quả là một phụ nữ hiểu

biết. Chả trách, cô ấy đã khiến “lãng tử” Pusyseda quay đầu.

 Khi  chỉ  còn  lại  hai  chúng  tôi,  tôi  dành  chút  thời  gian  quan  sát  thật  kỹ

Pusyseda của mười năm sau. Cậu ta vạm vỡ hơn trước, cũng học theo các

nam giới Khâu Từ khác để râu, những nếp nhăn hằn trên khóe mắt, khi cười

càng lộ rõ vẻ từng trải và dấu ấn năm tháng. Sức lôi cuốn của vẻ đẹp nam tính

tỏa ra triệt để.

 - Già rồi.

 Cậu ta cười, chiêu bài rướn mày, nháy mắt năm nào đang được diễn lại:

 - Ai mà trẻ mãi không già như chị chứ!

 - Không hề già. Cậu đang ở vào độ tuổi hấp dẫn nhất của người đàn ông

đấy.

 Tôi cũng cười, thật vui khi được thấy cậu ta hạnh phúc.

 - Vẫn còn đeo ư, tức là chưa quên tôi, nhỉ?

 Giọng nói có chút nghẹn ngào, cậu ta cúi đầu hít một hơi, rồi lại ngẩng lên

cười.

 Tôi ngơ ngác, thấy cậu ta nhìn chăm chăm vào cổ mình mới phát hiện ra là

cậu ta đang nói về miếng ngọc bội. Cậu ta cũng vẫn đeo, nhưng sợi dây đã

sờn bạc, biến thành màu đen từ khi nào. Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng

sợ cất lời thì nước mắt lại trào ra. Pusyseda đưa tay ra kéo tôi vào lòng. Tôi

vùng vẫy, nhưng giọng nói khẽ khàng trên đỉnh đầu đã ngăn tôi lại:

 - Yên nào, để tôi ôm một lát. Tôi biết chị quay về không phải vì tôi, tôi chỉ

muốn ôm chị một lát thôi.

 Tôi không khỏi xúc động, nước mắt lăn dài, ngoan ngoãn trong vòng tay

Pusyseda. Nhưng không muốn kéo dài, sợ có ai bắt gặp, tôi lặng lẽ lau nước

mắt, lên tiếng:

 - Cậu chọn vợ khéo lắm!

 Cậu ấy buông tôi ra, quay mặt đi, đưa tay lên thấm nước mắt.

 - Mấy năm trước theo cậu út đi Trường An cống nạp, tôi đã cứu Hiểu

Huyên. Cô ấy vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, nhưng gặp thời loạn, phải ca

hát để kiếm sống.

 Nụ cười ấm áp nở trên môi.

 - Một cô gái yếu đuối nhưng luôn mỉm cười đối diện với hoàn cảnh nghiệt

ngã, khiến tôi nhớ đến sự kiên cường của chị. Cô ấy có đôi mắt rất giống chị.

 Tôi hít một hơi, lấy lại sự bình tĩnh.

 - Hãy yêu thương cô ấy và hai đứa trẻ!

 Cậu ta gật đầu.

 - Họ là những người mà dù cho có phải đánh đổi cả tính mạng tôi cũng

quyết phải bảo vệ đến cùng.

 Chợt nhớ ra chuyện mà tôi quan tâm nhất.

 - Rajiva... bây giờ sao rồi?

 - Chị về đây để cứu huynh ấy phải không?

 Cậu ta khẽ thở dài, sắc mặt trở nên rầu rĩ.

 - Có điều, không kịp nữa rồi...

 Tôi bàng hoàng, mặt đất như đang xoay chuyển, cậu ta vội đỡ lấy tôi. Tôi

chao đảo, túm chặt tay áo Pusyseda:

 - Cậu ấy... cậu ấy phá giới rồi ư?

 - Sao chị biết Lữ Quang ép huynh ấy phải phá giới? Mà cũng phải thôi, chị

là tiên nữ cơ mà, chuyện gì cũng biết cả.

 - Cậu ấy... cậu ấy và Aksayamati...

 - Vẫn chưa.

 Cậu ta đỡ tôi ngồi xuống.

 - Nhưng chắc là sắp rồi, vì đã ba ngày...

 Tôi lại nắm chặt tay áo Pusyseda, cậu ta vỗ nhẹ vào vai tôi, ra hiệu cho tôi

không nên nóng vội.

 - Lữ Quang nghe danh anh tôi đã lâu, nhưng không tin huynh ấy một lòng

hướng Phật, ông ta muốn hạ nhục huynh ấy. Lữ Quang đánh cược với bộ

tướng của ông ta, nếu trong ba ngày mà huynh ấy phá giới, thì toàn bộ mấy

trăm phi tử của đời vua trước sẽ thuộc về ông ta. Nếu ngược lại, sẽ được chia

cho các tướng lĩnh.

 Tôi sững sờ, sử sách không hề ghi chép điều này. Thì ra Lữ Quang ép

Rajiva phá giới vì một vụ cá cược tranh giành phụ nữ ư? Một người mà danh

tiếng lừng lẫy suốt ba mươi năm như Rajiva lại phải chịu mối ô nhục này ư?

 - Huynh ấy đã kháng cự suốt hai ngày qua. Nhưng hôm nay là ngày cuối

cùng, nghe nói Lữ Quang đã sai người cởi bỏ quần áo của cả hai người. Tôi

vừa từ trong cung về, theo những gì tôi nghe ngóng được thì huynh ấy vẫn

đang chống cự quyết liệt. Tôi chưa bao giờ khâm phục anh trai mình đến thế!

Bị o bế như vậy mà huynh ấy vẫn kiên định. Có lẽ chỉ có huynh ấy mới làm

được như vậy! Nhưng mà...

 Cậu ta ngập ngừng, rồi thở dài:

 -  Nếu  huynh  ấy  vẫn  cố  chấp,  Lữ  Quang  sẽ  cho  người  chuốc  rượu.  Lữ

Quang đã nói là làm, nếu đêm nay huynh ấy không chịu phá giới, khiến ông ta

bị thua trong cuộc cá cược này, chỉ e... sau này sẽ phải chịu sự đối xử tàn tệ

hơn nữa.

 Tôi bật dậy, kéo tay cậu ta:

 - Pusyseda, hãy cứu cậu ấy...

 - Ngải Tình, tin tôi đi, ba ngày qua tôi đã nghĩ đủ mọi cách để cứu huynh

ấy. Tôi đi cầu xin Lữ Quang, cầu xin đức vua, tôi đã dùng tiền, dùng phụ nữ để

mua chuộc đám con trai và bộ tướng thân cận của Lữ Quang, nhưng đều vô

ích. Nếu là mấy năm trước, tôi sẽ vác gươm xông vào cứu huynh ấy, rồi đưa

huynh ấy trốn đến nơi khác.

 Cậu ấy buồn rầu lắc đầu, đưa mắt nhìn ngôi nhà.

 - Nhưng bây giờ, tôi không thể không nghĩ đến vợ và các con mình.

 - Vậy hãy đưa tôi đến gặp Lữ Quang.

 - Vô ích thôi, Lữ Quang là kẻ bảo thủ cố chấp, bao nhiêu người khuyên

can, chỉ càng thêm kích động ông ta. Chị chỉ là một cô gái bình thường, làm

sao ông ta chịu nghe lời chị.

 - Vậy thì...

 Tôi hít một hơi thật sâu.

 - Hãy tráo đổi tôi với Aksayamati.

 Cậu ta đưa tạy khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán tôi.

 - Ngải Tình, có lẽ đây là cách duy nhất để cứu huynh ấy.

 Tôi và Pusyseda vừa bước ra khỏi phòng khách thì gặp Hiểu Huyên từ dưới

bếp đi lên, thấy chúng tôi vội vội vàng vàng lao ra cửa, cô ấy gọi với:

 - Tướng công, đã đến giờ ăn tối, mọi người dùng bữa xong hẵng đi. Mà, cô

Ngải Tình cũng phải thay y phục chứ.

 Tôi bỗng nhớ ra là mình vừa leo lên từ hố chôn người, quần áo dính đầy

vết máu và mùi hôi hám, cứ thế này mà đi gặp Lữ Quang e không tiện. Hiểu

Huyên đưa tôi vào phòng, quần áo mới đã được chuẩn bị và đặt sẵn ở đầu

giường. Tôi cởi bỏ chiếc áo chống tia phóng xạ, khoác lên người trang phục cô

ấy chuẩn bị cho mình, đó là một bộ Hán phục màu sắc trang nhã, rất thoải

mái. Hiểu Huyên quả là người khéo léo, hoạt bát và tinh tế hơn tôi rất nhiều.

 Tôi không muốn tiêu tốn thời gian, nên chỉ ăn qua loa rồi giục Pusyseda lên

đường. Cậu ta dặn dò vợ đôi câu rồi cùng tôi vào cung. Từ khi chiếm được

thành Khâu Từ, Lữ Quang đã ở luôn trong cung, ông ta chia cho vị vua Bạch

Chấn một nửa cung điện.

 Để  gặp  được  Lữ  Quang,  chúng  tôi  đã  tốn  không  ít  thời  gian.  May  mà

Pusyseda là thân tín của Bạch Chấn, nên không kẻ nào dám gây khó dễ. Trong

khi chờ đợi để được vào gặp Lữ Quang, Pusyseda tranh thủ dò la thông tin từ

tai  mắt  của  cậu  ở  trong  cung  và  được  biết  rằng  Rajiva  đã  bị  chuốc  rượu,

nhưng vẫn kiên trì kháng cự.

 Pusyseda nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:

 - Ngải Tình, lát nữa gặp Lữ Quang, chị đừng nói gì cả. Ông ta là kẻ thô bạo

nóng nảy, không biết nương tay bao giờ, chỉ có thể thuận theo ý ông ta, nếu

chống lại thì dù là thân tín, ông ta cũng sẵn sàng trừ khử.

 Cậu ta thở dài thườn thượt:

 - Anh trai tôi gặp phải ông ta đúng là gặp phải kiếp nạn!

Thư Cử Mông Tốn, kẻ đã giết Đoàn Nghiệp và tự lập mình làm vua Bắc

Lương đã đánh giá Lữ Quang là kẻ “mê muội, tin lời gièm pha của kẻ xấu”. Vừa

nghe cháu trai nói rằng “người Hà Tây chỉ biết đến Đỗ Tấn mà không hay Lữ

Quang là ai”, ông ta đã thẳng tay giết Đỗ Tấn, một tướng lĩnh đắc lực, một

công thần. Trong chuyện chọn người kế vị, Lữ Quang cũng có những quyết

định hết sức hoang đường, khiến nhà Hậu Lương chỉ trong vài năm ngắn ngủi

sau khi ông ta qua đời đã phải thay đến ba đời vua và sau cùng đã để mất

nước. Bởi vậy, ảo tưởng có thể thuyết phục Lữ Quang từ bỏ việc hành hạ

Rajiva của tôi tan vỡ sau câu nói của Pusyseda. Muốn ông ta từ bỏ ý định hạ

nhục Rajiva, e là tôi sẽ phải đánh đổi cả tính mạng của mình. Đối với một kẻ

chẳng hề tín Phật như Lữ Quang, từ bỏ không chỉ đơn giản là việc sẽ mất đi

phần thưởng béo bở kia, mà quan trọng hơn là ông ta sẽ mất đi thể diện.

 Sau nhiều lần thông báo, khi đêm đen đã bao trùm, chúng tôi mới được

xuất hiện trước mặt Lữ Quang.

 Con người đã thay đổi cuộc đời của Rajiva ấy đang ngồi xem báo cáo về

tình hình quân sự trong đại điện, bên cạnh là bốn thanh niên chừng hai mươi

tuổi, tướng mạo khá giống Lữ Quang. Tôi đoán họ chính là đám con cháu bất

nghĩa đã chém giết lẫn nhau để tranh cướp ngôi vị sau khi Lữ Quang chết. Tuy

là người tộc Đê, nhưng tướng mạo của ông ta lại rất giống những người Hán

thô kệch sống ở phương bắc. Thời điểm này, ông ta bốn mươi bảy tuổi, đỉnh

đầu trơ bóng, phần tóc ít ỏi còn lại được quấn buộc và búi tó sau gáy, râu ria

mọc lởm chởm, hai hàng lông mày xếch ngược, dữ tợn. Nhác thấy Pusyseda,

ông ta lấy giọng khách sáo mời ngồi.

 Pusyseda cúi lạy, rồi nói với ông ta bằng tiếng Hán:

 - Anh tôi tính tình bảo thủ, không hiểu ý tốt của tướng quân, đã khiến

tướng quân phải khó xử.

 Lữ Quang chỉ nhếch mép cười, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm:

 - Pháp sư kiên cường như vậy thật khiến người ta phải khâm phục. Xem ra,

ta đã đánh giá thấp pháp sư rồi!

 Pusyseda ngẩng đầu, thận trọng nói:

 - Hôm nay tôi đến là để giúp tướng quân giành thắng lợi trong cuộc cá

cược này.

 Lữ Quang nheo mày.

 - Không biết quốc sư có cao kiến gì?

 Tôi nheo mày, tôi có thể nhận ra cuộc sống đủ đầy của Pusyseda những

năm qua, nhưng không thể ngờ cậu ấy lại kế tục chức vị của cha mình ngày

trước, trở thành quốc sư của Bạch Chấn.

 - Xin tướng quân hãy tráo đổi cô gái này với em họ Aksayamati của tôi.

 Lữ Quang đưa mắt về phía tôi, thoáng chút kinh ngạc:

 - Xin quốc sư nói rõ cho ta biết, cô gái người Hán này có điểm gì hơn công

chúa Aksayamati kiều diễm, mà có thể khiến pháp sư siêu lòng?

 - Tướng quân không biết đó thôi, có rất nhiều uẩn khúc trong chuyện này.

 Pusyseda ngừng lại một lát, nhìn Lữ Quang với vẻ tự tin đắc thắng, tiếp tục

nói:

 - Người cô của cô gái này năm xưa từng dạy anh tôi tiếng Hán, vốn đã có

tình cảm sâu nặng với anh tôi, nhưng vì thân phận tăng sĩ của anh ấy, đành

gạt nước mắt đi lấy người khác. Nhưng hơn mười năm qua, anh tôi vẫn không

nguôi thương nhớ. Tuy thờ Phật, nhưng dù sao anh ấy cũng là con người,

cũng biết yêu biết hận, chỉ là, người ngoài không hiểu mà thôi. Cô gái này

giống hệt người con gái năm xưa, tôi tin rằng, chỉ cần nhìn thấy cô ấy, anh tôi

sẽ không trái ý tướng quân nữa. Em họ Aksayamati của tôi tuổi còn quá nhỏ,

lại không thân thiết với anh trai tồi. Tướng quân hãy tráo đổi Aksayamati với cô

gái này, chắc chắn sẽ thành công.

 Lữ Quang chừng như sắp xuôi, Pusyseda lại tiếp tục:

 - Tướng quân chỉ cần anh tôi chịu phá giới, còn việc với ai, đâu có quan

trọng gì, đúng không?

 Lữ Quang liếc nhìn tôi thêm vài lần nữa, dò xét, rồi bất giác cười vang:

 - Cũng phải, phụ nữ Khâu Từ cao lớn đẫy đà, chưa chắc đã khiến pháp sư

động lòng bằng cô gái người Hán nhỏ nhắn xinh tươi như hoa như ngọc này.

 Rồi ông ta quay sang người có vẻ nhiều tuổi nhất đứng bên cạnh:

 - Soạn nhi, đưa quốc sư và cô gái này đến chỗ pháp sư.

 Anh ta là Lữ Soạn ư? Tôi liếc trộm anh ta, cũng là một bộ mặt thô kệch

đáng sợ. Đó là người con lớn của Lữ Quang, tính tình tàn ác, thích ăn chơi

hưởng lạc. Sau khi Lữ Quang qua đời, Lữ Soạn tự lập mình làm vua, ép em trai

là Lữ Thiệu phải chết. Nhưng đáng tiếc, chưa đầy vài tháng, Lữ Soạn đã bị

cháu trai của Lữ Quang là Lữ Siêu giết chết.

 Lữ Quang nở một nụ cười nham hiểm, dặn dò con trai:

- Nhớ quay lại báo cáo!

 Rồi quay sang nói với Pusyseda:

- Quốc sư đừng để ta phải thất vọng đấy!

 Chương 42: Thoát biến

 Chúng tôi được đưa đến một cung điện nhỏ cạnh hoàng cung, hai tên lính

canh cửa trông thấy Lữ Soạn vội vàng đứng lên hành lễ. Lữ Soạn ra lệnh mở

cửa, tôi không kìm nổi, ngó theo. Không thấy Rajiva, trên giường chỉ có một cô

gái trong trạng thái không mảnh vải che thân, hai tay khép chặt lại che chắn

trước ngực, tôi không nhận ra cô bé Aksayamati năm nào nữa. Cô gái thấy

chúng tôi thì vội thu mình hút vào một góc giường, cúi đầu, để những lọn tóc

xoăn màu hung che phủ khuôn mặt.

- Tình hình thế nào?

 Lữ Soạn hỏi mấy tên lính gác.

 Chúng cười xun xoe, xu nịnh:

- Theo lời căn dặn của tướng quân, thuộc hạ đã lột hết quần áo của cả hai

người,  nhưng  vẫn  chẳng  ăn  thua.  Nên  khi  nãy  thuộc  hạ  đã  ép  Kumarajiva

uống rất nhiều rượu, còn bỏ thêm một ít thuốc vào nữa. Vậy mà nhiều canh

giờ rồi vẫn không có động tĩnh gì cả. Cô công chúa kiều diễm, nõn nà, mơn

mởn như thế, nếu là người khác thì đã nhảy bổ vào rồi ấy chứ, huống hồ lại

uống rượu đã bỏ xuân dược. Thuộc hạ cứ nghĩ tay hòa thượng đó là kẻ bất

lực, nhưng hình như không phải. Hắn ép mình ói ra hết những gì uống vào.

Hắn quả thật rất gan lỳ! Nhưng sự kiên trì của hắn khiến người ta phải nể

phục, có lẽ hắn đúng là một bậc cao tăng đích thực…

 Lữ Soạn lừ mắt, hai tên lính im bặt, rồi quay sang tôi, lạnh lùng đe dọa:

- Đêm nay phải khiến hắn phá giới bằng mọi giá, nếu cha ta mà thua vụ cá

cược này, ngươi biết hậu quả sẽ thế nào rồi đấy.

 Bọn chúng hành hạ Rajiva đến mức ấy, khiến tôi không khỏi giận sôi người.

Sử sách chép rằng Rajiva đã phá giới vì bị ép cởi bỏ quần áo và chuốc rượu,

nhưng không hề ghi rằng bọn chúng còn bỏ cả xuân dược vào rượu. Nghe

xong câu nói mất hết nhân tính ấy của Lữ Soạn, tôi ngẩng phắt lên, nỗi căm

giận thiếu chút nữa thì bùng phát.

 Nhưng Pusyseda đã kịp chắn trước mặt tôi

- Tiểu tướng quân cứ yên tâm giao cho cô ấy. Đám mỹ nữ hậu cung nhất

định sẽ thuộc về cha con tướng quân.

 Pusyseda nhìn căn phòng, rồi bước tới chiếc bàn hình vuông đặt trong đại

điện, kéo tấm khăn trải bàn xuống. Sau đó, bước vào phòng, phủ tấm khăn lên

người Aksayamati, đỡ công chúa đứng lên. Lúc bước ra ngoài, cậu ta dừng lại

giây lát, đưa mắt về một góc khuất, vẻ mặt ảo não, khẽ thở dài. Cậu ta dìu

Aksayamati khuôn mặt tái nhợt vì sợ hãi ra ngoài, lúc đi qua tôi, cậu cất cao

giọng bằng tiếng Hán:

- Mau vào đi, đừng để Lữ tướng quân thất vọng!

 Sau đó lại đổi sang tiếng Tochari, thì thầm:

- Anh ấy đã chờ đợi mười năm, hãy mang lại hạnh phúc cho anh ấy!

 Gương mặt cậu ta hết sức thản nhiên, nhưng nỗi u buồn hắt lên trong đáy

mắt.  Tôi  nhìn  Pusyseda,  lấy  hết  can  đảm  gật  đầu  quyết  liệt,  rồi  bước  vào

phòng. Cánh cửa cọt kẹt khép lại.

 Tôi đưa mắt về phía góc khuất mà khi nãy Pusyseda định hướng ấy và

nhận thấy một bóng dáng cao gầy đang thu mình ở đó. Hơi thở như ngừng lại,

tôi không dám nhìn chàng. Rajiva, thời gian với em chỉ là chín tháng, nhưng

với chàng đã là mười một năm thời gian. Chín tháng thương nhớ dày vò đã

khiến  em  trở  nên  tàn  tạ,  héo  úa.  Vậy  mà,  chàng  đã  trải  qua  những  đêm

trường cô tịch trọng chốn kinh kệ đền đài lạnh lẽo ấy suốt mười năm trời!

Chàng đã phải chịu đựng nỗi cô đơn thăm thẳm ấy như thế nào? Nếu đổi lại,

em là người phải đợi chờ trong mười năm ấy, có lẽ em không sống nổi. Tha lỗi

cho em đã để chàng phải chờ đợi mỏi mòn như vậy. Tha lỗi cho em đã lựa

chọn thời điểm này để đến với chàng trong cơ hội duy nhất này. Mong rằng

đây chính là lúc chàng cần em nhất. Nếu có thể, em sẽ không ra đi nữa, hãy

để em bù đắp cho chàng những mất mát đau khổ suốt mười năm đằng đẵng.

 Tôi nín thở, khẽ bước đến bên chàng, chưa kịp thấy rõ dấu vết của tháng

năm để lại trên khuôn mặt chàng ra sao mà trái tim đã thổn thức và quặn thắt.

Không mảnh vải trên người, chàng ngồi bó gối, đầu cúi thấp, giống hệt tư thế

của hài nhi trong bụng mẹ, nước da bánh mật lấp loáng dưới ánh sáng của

ngọn đèn. Tôi đưa mắt tìm kiếm, căn phòng không có rèm cửa, không khăn

trải bàn, trên giường không có chăn, không có thảm trải, không có bất cứ thứ

gì có thể che thân. Tôi cười cay đắng, Lữ Quang quả là hiểm ác!

 Tôi lôi trong ba lô ra một chiếc áo khoác, rồi lại gần chàng. Khắp người

chàng tỏa ra hơi men nồng nặc, bên cạnh là hiện trường của một vụ ói mửa.

Tôi ngồi xuống, choàng áo lên người chàng, làn da chàng bỏng rát. Sự tiếp

xúc khẽ khàng đó khiến chàng giật mình, ngẩng lên, đôi mắt màu xám nhạt

như hai vực nước sâu hun hút ấy lúc này đang vằn lên những tia đỏ. Chàng

gầy đi nhiều, gương mặt càng trở nên thuôn dài hơn, dưới cằm râu đâm lên

lởm chởm, khuôn mặt chàng đỏ gay gắt như sắp bốc hỏa. Mười một năm trôi

qua, nhưng chàng vẫn cuốn hút như ngày nào. Chỉ có điều, tháng năm vô tình

đã in lên vầng trán chàng những nếp nhăn mờ ảo. Mấy ngày qua, chịu cảnh

dày vò, o bế, chàng tiều tụy, bờ phờ hơn, bờ môi tái xám, nứt nẻ. Vết máu khô

dính trên khóe môi nứt vỡ, trông giống hệt một vết răng cắn chặt.

- Rajiva…

 Càng nhìn chàng, lòng càng đau đớn như có ai vò xé. Chịu nhục mạ, chịu

đày đọa thế này, người bình thường liệu ai có thể cầm cự được như chàng?

Không phải chàng gắng sức để bản thân không phá giới, mà chàng đang ra

sức bảo vệ đức tin của cả cuộc đời mình. Lữ Quang hành hạ chàng khổ sở như

vậy, chỉ vì vụ cá cược nực cười đó ư?

 Đôi mắt thất thần ngước nhìn tôi, rồi đột nhiên tròng mắt mở rộng, một tia

sáng chiếu ra từ con ngươi màu xám nhạt ấy, vẻ ngỡ ngàng rào đón khắp

gương mặt tôi. Đôi môi nứt nẻ hé mở, khóe môi khẽ động đậy, mỏng và nhẹ

như sự run rẩy của một chiếc lá khô trong gió.

- Là em, em đã trở về…

- Ngải… Tình…

 Những thanh âm tắc nghẹn, run rẩy ấy phải gắng gượng lắm mới bật ra

được, sau khi đôi mắt màu xám nhạt đã vân du hồi lâu trên khuôn mặt tôi.

Nhưng ngay lập tức, khuôn mặt nóng bừng lộ vẻ xấu hổ, chàng khép chặt đôi

vai lại, toàn thân run rẩy, quay đầu đi, giọng chất chứa nỗi buồn tủi, khổ sở:

- Đừng nhìn ta…

- Rajiva…

 Trái tim tôi như tan nát! Một bậc cao tăng thanh cao nhường ấy lại phải

chịu đựng sự sỉ nhục này, lòng nào có thể không xót xa!

- Đừng khóc…

Chàng quay đầu lại nhìn, cánh tay dài gầy guộc từ từ vươn ra như muốn

vuốt ve khuôn mặt tôi, nhưng khi vừa chạm đến, cánh tay đã vội thu về, hai

mắt chàng nhắm lại, tay phải nắm chặt chuỗi tràng hạt đã sờn bạc, cũ mèm,

không còn nhận ra màu sắc lúc đầu nữa. Chàng lần tràng hạt tụng kinh, như

thể tôi chỉ là không khí. Đó là chuỗi hạt tôi tặng chàng hơn hai mươi năm về

trước. Bên tay trái chàng là chiếc vòng mã não màu đỏ, trong suốt, kể cả chiếc

vòng ấy cũng đã được mười năm tuổi.

- Rajiva, chàng sao vậy?

 Nhìn thấy thứ duy nhất trên người chàng là chuỗi hạt và chiếc vòng năm

xưa, tôi cắn răng cố ngăn những giọt nước mắt cứ trực trào ra.

Mong muốn sinh ra ảo giác, là cái vốn dĩ không có thực. Dục vọng khiến

người ta u mê, không có gì tồn tại trên cõi đời này cả.

 Chàng vẫn nhắm chặt mắt, giọng như lạc đi khi đọc mấy câu kệ bằng tiếng

Hán, rồi chàng lại tiếp tục tụng niệm.

 Tôi đưa tay lau nước mắt, có lẽ chàng nghĩ tôi chỉ là ảo giác. Chàng vẫn

ngồi yên trên nền nhà. Tuy có thảm trải, nhưng kể cả vào mùa hè, đêm ở ốc

đảo vẫn rất lạnh. Tôi đứng lên, bước ra cửa, thấy Lữ Soạn và đám lính đang

trò chuyện, hắn vẫn chưa đi ư? Tôi lên tiếng yêu cầu một tấm chăn, Lữ Soạn

cười vang, buông giọng ỡm ờ:

- Không cần bất cứ thứ gì mà vẫn khiến hắn phá giới mới được!

 Tôi sa sầm mặt mày, đòi thêm một cốc nước. Lữ Soạn sai người đi lấy, rồi

quay ra hếch mắt nhìn tôi:

- Tranh thủ thời gian đi, ta còn phải về báo cáo với cha ta. Còn nữa, nhất

thiết phải “làm” trên giường đấy!

 Hắn hất hàm về phía khung cửa sổ, tôi đưa mắt nhìn theo, một lỗ hổng

hình quả trám trên khung cửa sổ đang chiếu thằng vào vị trí chiếc giường

trong căn phòng. Bọn chúng thật vô nhân tính! Hắn muốn chứng kiến tận mắt

thì mới yên lòng ư? Chúng coi đây là một trò đùa, là một trò cá cược bệnh

hoạn ư?

 Nỗi căm hờn khiến tôi chỉ muốn hất cả cốc nước vào mặt hắn, phải hít thở

nhiều lần tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh và trở lại căn phòng. Tiếng cười giễu

cợt của hắn văng vẳng phía sau:

- Nếu không xong thì đến hầu ta nhé!

 Tôi ghê tởm loại người này, chỉ muốn ngay lập tức hét vào mặt hắn kết cục

thảm hại của hắn sau này!

- Rajiva, uống chút nước đi.

 Tôi vừa khẽ gọi, vừa đặt cốc nước kề sát miệng chàng. Có lẽ vì quá khát,

chàng không từ chối, cứ thế nghiêng đầu uống sạch cốc nước trên tay tôi. Tôi

lấy khăn tay, lau những giọt nước vương trên vành môi chàng.

 Chàng chăm chú nhìn chiếc khăn trên tay tôi. Tôi mỉm cười:

- Chàng  còn  nhớ  chiếc  khăn  tay  này  không? Chàng đã tặng cho em đó.

Chàng nói rằng không thấy em dùng khăn tay bao giờ, lấy tay lau miệng không

vệ sinh chút nào. Chiếc khăn này em vẫn luôn giữ bên mình, chưa khi nào lấy

ra dùng cả, vì thấy tiếc…

 Đột nhiên tôi rơi vào lồng ngực nóng bỏng của chàng, tim chàng đập dữ

dội bên tai tôi. Khuôn mặt nóng rực cọ xát trên cổ tôi, những đường gân trên

cổ chàng nổi lên giật giật như đang gẩy vào tim tôi. Tay chàng lồng vào tóc

tôi, mơ hồ khẽ rên tên tôi.

 Tôi ngã vào lòng chàng, vòng tay quen thuộc ấy bỗng chốc trở nên xa lạ.

Làn da trần, nóng bỏng phủ lên gương mặt tôi, một đợt sóng khác thường lan

toả toàn thân, tôi như đang bị thiêu đốt.

 Chàng khẽ đẩy tôi ra một khoảng nhỏ, ánh mắt mê loạn sục sạo da diết

gương mặt tôi. Tôi chưa kịp mở lời, thân thể chàng đã áp sát và hôn riết lấy

tôi.

 Nụ hôn của chàng không dịu dàng như trong hồi ức, mà hổn hển tách môi

tôi ra và gần như điên cuồng khuấy động. Hơi rượu nồng nặc trong miệng,

trùm lên lưỡi tôi. Những sợi râu dày lởm chởm cọ lên má tôi ram ráp. Hơi thở

của chàng càng lúc càng gấp gáp, chàng ghì mạnh tôi xuống nền nhà, toàn

thân phủ lên mình tôi.

- Rajiva…

 Tôi lấy cánh tay nhăn lại, thì thầm bên tai chàng:

- Chúng ta hãy lên giường.

 Chàng dừng lại, dường như có chút tỉnh táo, buông cánh tay đang ghì lấy

tôi ra, cắn mạnh vào vành môi đã nứt toác, một tia máu rỉ ra, nhuộm đỏ đôi

môi vốn khô nẻ.

 Lệ rơi chan hòa, chàng khổ sở nhẫn nhịn, gắng gượng kìm chế bản thân.

Nếu còn cách khác, tôi sẽ tôn trọng ý nguyện của chàng. Nhưng đám người

bên ngoài kia là những kẻ điên loạn, bọn họ nắm quyền sinh sát trong tay. Tôi

và  chàng  chỉ  là  những  kẻ  yếu  trong  thời  loạn  này.  Để  sinh  tồn,  đêm  nay,

chúng tôi phải hoàn thành “nghi lễ trưởng thành” trước mắt kẻ khác.

 Tôi gạt đi nước mắt, định thần lại, khoác lên người chàng chiếc áo dài đã

rơi sang bên. Sau đó đặt tay chàng lên vai tôi, từng bước nặng nề dìu chàng

đến chiếc giường ô nhục. Phật tổ, xin hãy thấu hiểu tấm lòng thành kính của

đệ tử của Ngài, xin hãy thương xót chàng. Chàng kìm chế, nhẫn nhịn, đã làm

được điều người thường không thể làm được. Bởi vậy, xin Ngài, hãy giáng tội

lên con, con bằng lòng thay chàng hứng chịu mọi sự trừng phạt.

 Cơ thể chàng trĩu nặng, toàn bộ trọng lượng của chàng gần như đè cả lên

vai tôi. Chúng tôi cùng bước đi loạng choạng, ánh mắt không kìm được khẽ

lướt trên người chàng, trái tim bỗng đập cuồng loạn. Dù đã cố nhẫn nhịn, dưới

tác dụng của thuốc, chàng vẫn có ham muốn như những người đàn ông bình

thường khác. Đó là bản năng của con người, bản năng mà ngay cả Phật tổ

cũng không thể xóa bỏ được. Vậy thì, chí ít trong đêm nay, hãy để chàng làm

một người đàn ông bình thường.

 Chàng rã rời đổ xuống người tôi, vẫn cố cắn chặt môi, nhưng đôi mắt theo

sát tôi từng giây từng phút, trong sâu thẳm đôi mắt ấy là khát khao cháy bỏng

của một người đàn ông bình thường. Tôi hít một hơi sâu, đưa tay cởi áo. Hán

phục rất đơn giản, chỉ cần mở hết các nút áo là bộ đồ nội y hiện đại của tôi đã

phơi bày trước mặt chàng. Mặt nóng bừng, mũi lấm tấm mồ hôi, tôi dừng lại,

không dám cởi tiếp nữa, vì tôi biết bên ngoài cửa sổ hình quả trám kia còn có

rất nhiều con mắt tà ác đang hau háu dõi theo.

 Tay phải chàng nắm chặt chuỗi tràng hạt, tôi muốn lấy ra, đặt lên kệ đầu

giường, nhưng chàng không nói không rằng, xiết chặt tràng hạt. Tôi dịu giọng

thuyết phục cũng chỉ có thể quấn tràng hạt quanh cổ tay chàng.

 Chàng nằm nghiêng, gần tôi trong gang tấc, đôi mắt màu tro nhạt lấp

lánh, dục vọng dâng trào như làn sóng. Bàn tay nóng ran của chàng vuốt ve

thân thể tôi, vụng về lướt nhanh một đường từ cổ tới ngực rồi xuống eo. Tôi

vòng tay vít cổ chàng, liếm khóe môi bị rách, cảm giác mằn mặn chui vào

cuống lưỡi, chàng đau đớn khẽ rên lên thành tiếng, rồi đột ngột cúi đầu ngậm

chặt lưỡi tôi. Thân hình mảnh khảnh của chàng che phủ thân thể tôi, hơi thở

hổn hển.

 Hơi rượu trong miệng chàng rất khó chịu, không biết bọn họ đã ép chàng

uống nhiều tới mức nào. Một người chưa từng chạm đến một giọt rượu như

chàng, dưới tác động của men say và xuân dược còn có ý thức được rằng

người chàng đang đối diện là tôi không? Tôi muốn tin rằng chàng vẫn giữ được

dù chỉ là rất ít sự tỉnh táo, đủ để nhận ra sự tồn tại của tôi và vì có tôi nên

chàng mới yên lòng chấm dứt chuỗi ngày chịu đựng khổ sở và để dục vọng

phơi bày tự nhiên như vậy.

 Tôi cười buồn, rút lại những ý nghĩ chua chát. Bây giờ là lúc nào mà tôi vẫn

còn suy nghĩ những điều vẩn vơ như thế. Tôi cần nghĩ xem phải nhanh chóng

tiến hành việc đó ra sao. Vì chỉ như thế, đám người ngoài kia mới buông tha

cho chúng tôi, bằng không, những kẻ chẳng có chút tín ngưỡng gì ngoài kia có

thể sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn nữa để dày vò chàng. Chàng đã

gắng gượng suốt ba ngày rồi, cơ thể và tinh thần đều đã mệt mỏi, chàng cần

được nghỉ ngơi.

 Lịch sử chép rằng chàng đã phá giới, vậy tôi sẽ tình nguyện làm việc đó

thay Aksayamati. Tình yêu vốn ích kỷ, thay đổi lịch sử thì đã sao? Tôi chỉ biết

rằng  tôi  yêu  chàng  và  tôi  muốn  được  trở  thành  “đối  tượng  phá  giới”  của

chàng. Sau này dù chàng có hối hận, tôi cũng cam lòng.

 Ý nghĩ đó khiến tôi thêm can đảm, tôi đưa tay lên vuốt ve lưng chàng. Làn

da chàng bóng mịn, trơn mượt. Di chuyển dần xuống dưới, cảm giác các cơ

bắp của chàng đang căng dần lên trong lòng tay tôi. Chàng như đang gồng

mình lên, mũi tên đã được căng trên dây cung, chàng muốn lao tới, nhưng lại

không biết cách, gương mặt lộ vẻ băn khoăn, bối rối.

 Bàn tay đã chạm đến quần lót của tôi, chàng gắng sức giật ra, nhưng tôi

ngăn lại:

- Đừng vội, để em.

 Sau khi trút bỏ quần lót, tay tôi ướt đẫm, không dám nhìn chàng, nhắm

mắt lại, cầu mong chàng mau chóng kết thúc.

 Cơ thể phơi trần hồi lâu đã thoáng chút tê lạnh, vẫn chưa thấy động tĩnh

gì. Tôi mở mắt ra, thấy chàng trong tư thế thân trên hơi chống lên, hơi thở

gấp gáp, ánh mắt mê loạn, nhưng có vẻ chần chừ, khổ sở. Khen thay cho ý chí

và sự kiên định của chàng, đó là điều mà không phải ai cũng làm được. Tới

mức này mà ý chí vẫn ra sức đấu tranh với phản ứng sinh lý nguyên thủy. Tôi

cắn môi, khẽ luồn tay xuống dưới. Má tôi bừng bừng, thì ra, vào những lúc

như thế này, “chỗ đó” của đàn ông cương cứng và nóng bỏng như than.

 Chàng rên rỉ, vẻ do dự đã hoàn toàn biến mất, ánh mắt bùng lên như lửa

thiêu. Trong tư thế nửa quỳ giữa hai đùi tôi, chàng để tôi dẫn dắt vào nơi kín

đáo nhất của cơ thể mình. Tôi nhắm mắt, để mặc bản năng của chàng hành

sự. Khoảnh khắc chàng đi vào tôi, trời đất như quay cuồng, thân thể như bị

tách thành hai mảnh. Tôi bật khóc, muốn nắm lấy cái gì đó cho bớt đau đớn,

nhưng chỉ thấy dưới thân trơn ướt vì chiếc giường hoàn toàn trống trải, móng

tay muốn bám chặt vào đâu cũng khó. Tôi chỉ biết cắn răng chịu đựng những

đợt sóng nối tiếp nhau trôi đi.

 Nghe tiếng tôi nức nở, chàng dừng lại, chống người lên nhìn tôi, lồng ngực

phập phồng gấp gáp, mồ hôi trên trán chàng chảy dọc gương mặt thon dài,

đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu, rồi nhỏ xuống ngực tôi. Đôi mắt vằn

tia đỏ của chàng vẫn như mê loạn, nhưng gương mặt lại thoáng vẻ ngại ngần.

- Em không sao…

 Tôi cố kìm không để nước mắt rơi, họng nghẹn đắng, gượng gạo nở nụ

cười ngây ngô của Ngải Tình. Những mong nụ cười quen thuộc ấy có thể lưu

lại trong trí nhớ của chàng một chút ký ức ấm áp khi tỉnh lại vào ngày mai.

 Chàng đã dừng lại không lâu sau đó, khoảnh khắc lên tới đỉnh điểm, giọng

chàng rên lên khản đặc:

- Ngải Tình…

 Nước mắt ngưng đọng đã lâu, khóe mắt chẳng ngăn nổi nữa đã để từng

giọt nặng nhọc rơi xuống gối, một cảm giác vừa ngọt ngào vừa xót xa xâm

chiếm tim gan tôi. Thì ra chàng vẫn luôn nhớ đến tôi…

 Tôi ngước nhìn bầu trời đêm qua giếng trời trên mái nhà, ngàn sao tỏa

sáng lấp lánh, nhưng tôi lại thấy bầu trời như đang xoay vần, vật đổi sao dời,

ngàn năm vút trôi và chúng tôi đang ở bên nhau, trong khoảnh khắc này. Tôi

đã hoàn thành cuộc biến đổi, không phải từ một thiếu nữ thành một người đàn

bà, mà quan trọng hơn, kể từ giây phút này, linh hồn của tôi sẽ gắn chặt với

chàng mãi mãi, không rời không buông.

 Chàng đang say trong giấc ngủ bình yên sau ba ngày bão tố. Tôi đưa tay

vuốt nhẹ khuôn mặt gầy gầy xương xương của chàng, khẽ lùa các ngón tay

vào hàng lông mày dài miên man của chàng, chạm đến đôi mắt sâu hun hút

của chàng, đến chiếc mũi cao thanh tú của chàng, đến bờ môi ngọt ngào của

chàng. Con người mà ngày đêm tôi mong nhớ ấy, đang ngon giấc bên cạnh

tôi. Trước đây, dù có dũng cảm đến mấy, tôi cũng không dám tưởng tượng ra

cảnh tượng này…

 Tôi ngồi dậy mặc quần áo, phần thân dưới buốt xót và nóng rực như lửa

đốt, mỗi cử động dù rất nhỏ cũng như có gai nhọn đâm vào da thịt. Vệt máu

trên chiếu đã khô, phía trong đùi trên của tôi vẫn còn dính vài vệt máu đỏ tươi.

Tôi nén đau, bước xuống giường, lê ra ngoài cửa. Mỗi bước đi đều kéo theo

cơn đau buốt như xé gan xé ruột. Chả trách, hầu hết phụ nữ đều mô tả giống

hệt nhau về lần đầu tiên của mình.

 Đẩy cửa, lạnh lùng nhìn đám người đang cười đùa thô bỉ bên ngoài, tôi cất

tiếng:

- Giờ thì có thể mang chăn cho tôi rồi chứ?

 Chương 43: Thức giấc

 Tôi ngồi bên giường lặng lẽ ngắm Rajiva.

 Hôm qua là một ngày vô cùng mệt mỏi, nhưng tôi không sao ngon giấc vì

có chàng nằm bên cạnh. Căn phòng không còn bất cứ thứ gì khác có thể ngả

lưng nên tôi đành thu mình nằm cạnh chàng. Một đêm dài dằng dặc với những

nỗi lo sợ mơ hồ, sợ xoay người sẽ khiến chàng tỉnh giấc, sợ vô tình chạm vào

người chàng, sợ thức dậy muộn hơn chàng khiến chàng khó xử. Vì thế, tôi chỉ

có thể nằm yên, không nhúc nhích, không động đậy, toàn thân tê dại, rã rời.

Trời vừa hửng sáng tôi đã thức giấc, đi lại vận động trong căn phòng, nhưng

cố gắng hết sức để không gây ra tiếng động.

 Chàng đang say giấc, dù đã ba mươi lăm tuổi và không còn trẻ trung như

mười một năm về trước, nhưng chàng vẫn rất thuần khiết, vẫn rất hấp dẫn.

Chàng trẻ hơn rất nhiều so với những nam giới cùng tuổi khác ở thời đại này,

có lẽ vì ngày này qua tháng khác, chàng chuyên tâm tu tâm dưỡng tính nơi

cửa Phật. Những nếp nhăn mờ ảo trên vầng trán và khóe mắt càng tôn thêm

vẻ đẹp trưởng thành, già dặn. Sau một đêm nghỉ ngơi, khí sắc của chàng đã

khá lên rất nhiều, không còn nét tiều tụy của ngày hôm qua nữa. Khóe môi

thấp thoáng nụ cười, khiến cả khuôn mặt trở nên rạng rỡ, hình như, chàng

đang mơ một giấc mơ đẹp.

 Tôi cứ ngồi mãi như thế mê mải ngắm nhìn thần tượng của mình. Đã về

trưa mà chàng vẫn say trong giấc ngủ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời

chàng thức dậy muộn như vậy. Còn tôi, cơn buồn ngủ ập tới dữ dội, khiến tôi

không sao kìm chế nổi, gục đầu xuống, thiếp đi.

 Ai đó đang khẽ vuốt tóc tôi, tôi giật mình mở mắt, trái tim đập rộn ràng khi

bắt gặp đôi mắt màu xám nhạt long lanh như hồ nước mùa thu ấy, đôi mắt đã

xuất hiện không biết bao nhiêu lần trong từng đêm mơ của tôi ấy, đang ở rất

gần.

- Chàng… tỉnh rồi ư…

 Tôi vội đứng lên, hỏi chàng:

- Chàng có đói không? Em đã kêu họ mang đồ ăn tới…

 Tôi cầm chiếc bát đặt ở đầu giường.

- Ôi, nguội cả rồi. Để em bảo người hâm nóng lại…

 Tôi, ánh mắt ngập đầy thương nhớ. Điều đó quá đỗi ngọt ngào, tôi khẽ gọi

tên chàng:

- Rajiva…

- Quả là cứ sau mười năm, nàng sẽ quay lại.

 Chàng vẫn nằm trên giường, khẽ nhắm mắt, tiếng thở dài thoáng qua,

khóe môi khẽ rung động:

- Nàng trở về là tốt rồi…!

- Tôi lại gần chàng, ngồi xuống, áp tay chàng lên má tôi, mỉm cười:

- Vâng, em đã trở về…

 Bàn tay chàng run rẩy cọ xát trên khuôn mặt tôi, từ từ dạo qua hai mắt,

sống mũi, bờ môi, đáy mắt phơi phới hơn qua mỗi dịch chuyển nhẹ nhàng. Rồi

chàng đột nhiên bật dậy, giam chặt tôi vào lòng, cằm chàng đặt trên đỉnh đầu

tôi, những sợi râu lúm phún cọ vào da đầu ram ráp, tôi muốn bật cười nhưng

chỉ cười ra nước mắt.

 - Phật tổ, Ngài thật từ tâm...

 Giọng nói nghẹn ngào trôi bên tai tôi:

 - Ngài đã đưa nàng trở về...

 Chàng đỡ hai vai tôi, ánh mắt da diết nhìn tôi:

 - Mười một năm rồi mà nàng không hề thay đổi...

 - Có chứ, em đã hai mươi lăm tuổi rồi...

 Tôi mỉm cười nhìn chàng, sống mũi cay cay.

 - Một năm trên trời bằng mười năm dưới hạ giới ư?

 Chàng vuốt nhẹ mái tóc tôi, động tác êm dịu như nâng niu một vật báu.

 - Lần đầu gặp nàng, nàng hơn ta mười tuổi. Lần thứ hai gặp nàng, nàng

bằng tuổi ta. Bây giờ, ta đã hơn nàng mười tuổi.

 Bàn tay chàng nhẹ nhàng vuốt ve hai má tôi, ánh mắt dịu dàng:

 - Ngải Tình, nàng có biết con số “mười” ấy chính là biểu trưng của định

mệnh trong cõi u minh không?...

 Tôi cười, đúng vậy, ông trời đã sắp đặt mọi thứ, phải không? Nhìn khuôn

ngực để trần của chàng, bất giác nhớ lại chuyện đêm qua, mặt tôi đột nhiên

nóng bừng như phát sốt, ngượng ngập nói với chàng:

 - À... chàng lau người đi rồi dậy ăn cơm... Chắc chàng nhức đầu lắm phải

không? Em đã kêu người nấu canh giã rượu cho chàng rồi...

 Tờ mờ sáng tôi đã kêu người mang nước vào và lặng lẽ lau rửa sạch sẽ. Tôi

cũng muốn giúp chàng, nhưng sợ làm chàng thức giấc, vả lại, tôi cũng không

đủ can đảm để làm việc đó. Mặc dù mồ hôi đầm đìa trên người chàng, lại thêm

mùi rượu nồng nặc suốt ba ngày ba đêm, quả thực rất khó ngửi.

 Nghe vậy, chàng giật mình, rời tôi ra. Tấm chăn được gạt sang một bên,

để lộ vệt máu đã khô trên mặt chiếu. Không mảy may nghĩ đến tình trạng của

bản thân, chàng kéo vội cánh tay phải của tôi ra trước mặt, vén tay áo, quan

sát khuỷu tay tôi. Sau khi phẫu thuật, vết thương hầu như đã biến mất, chỉ lưu

lại những dấu vết rất nhỏ.

 - Thần Phật trên trời quả nhiên có sức mạnh siêu phàm, tay nàng đã hoàn

toàn lành lặn.

 Chàng ngước lên nhìn tôi, đôi mày nhíu lại, vẻ băn khoăn:

 - Vậy thì nàng lại bị thương ở chỗ nào?

 Bây giờ tôi mới hiểu chàng đang nói về vệt máu kia. Tôi ngượng ngùng giải

thích:

 - Em không bị thương, cái đó... là... lần đầu của phụ nữ...

 Tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ như vậy khi đứng trước mặt chàng.

 - Tóm lại, em không sao cả, chàng đừng lo...

 - Lần đầu ư?

 Vẻ băn khoăn ngày càng hiện rõ trên gương mặt chàng. Tôi bỗng cảm thấy

hụt hẫng, lẽ nào chàng không nhớ gì cả ư?

 Không muốn nghĩ nhiều về vấn đề này, phải làm việc gì đó mới được. Tôi

đứng lên, định đi múc nước, nhưng cử động hơi mạnh khiến vết thương ở

phần thân dưới nhói buốt. Tôi buột miệng xuýt xoa.

 - Rốt cuộc là đau ở đâu?

 Chàng vội kéo tôi lại, đôi mắt trong veo ấy chà xát khắp người tôi.

 - Em không sao mà!

 Tôi khẽ kéo tay chàng ra, nên đau, lê ra ngoài bưng chậu nước vào phòng,

chiếc khăn mặt tôi đặt trong chậu là sản phẩm của thế kỷ XXI, vì khăn vải của

thời đại này quá ư thô ráp. Tôi vắt kiệt nước, ngượng ngùng đưa cho chàng:

 - Chàng lau người đi.

 Chàng không đón lấy, mà lẳng lặng kéo chăn ra nhìn, khuôn mặt chàng đột

nhiên đỏ bừng như mặt trời mùa hạ. Chàng bỗng trở nên thất thần, một lúc

sau mới quay đầu lại hỏi tôi:

 - Ta đã khiến nàng bị đau phải không?

 Tôi vừa giận vừa buồn cười. Con người tuyệt đỉnh thông minh ấy sao lại có

thể khù khờ trong chuyện này như vậy? Tôi phải giải thích thế nào với chàng

đây?

 - Không phải chàng làm em đau, em tự nguyện mà!

 Chàng bần thần hồi lâu, đột nhiên quay lại nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:

 - Ngải Tình, nàng trở về khi nào? Vì sao nàng tới được đây?

 - Hôm qua.

 Tôi nghĩ nên nói hết sự tình với chàng.

 - Tối qua Pusyseda đưa em tới gặp Lữ Quang để thuyết phục ông ta đã

đồng ý tráo đổi em và Aksayamati...

 Chàng như run lên, sắc mặt tái đi, giọng nói nhẹ như gió:

 - Tối qua, ta đã gặp nàng thật ư?

 Tôi gật đầu.

 - Thì ra không phải là mơ... Trả trách ta cứ có cảm giác giấc mơ ấy sao mà

hệt như thực vậy.

 Chàng lại gần tôi, định nói gì đó, nhưng không thốt ra lời.

 - Ta... đã... phá giới thật ư?

 - Rajiva, chính em là người đã mê hoặc chàng.

 Tôi cắn môi, khẽ nắm tay chàng.

 - Phật tổ sẽ hiểu sự thành tâm của chàng. Chàng đã kiên cường chống

chọi suốt ba ngày, đó là điều mà không một người bình thường nào có thể làm

được. Bọn chúng còn ép chàng uống rượu đã bỏ xuân dược vào. Thế nên, xin

chàng đừng nghĩ ngợi về chuyện xảy ra đêm qua nữa, đừng tự trách mình,

chàng không có lỗi gì cả...

 Rajiva cúi đầu thinh lặng, bàn tay nắm chặt tấm chăn đang run lên bần

bật. Tôi biết trong phút chốc, chàng không thể chấp nhận sự thực này, nên

chỉ biết thở dài, đặt chậu nước và quần áo lên tủ.

 - Em ra ngoài một lát, chàng lau người và thay quần áo đi.

 Đó là một bộ đồ lụa phổ biến mà bọn người ngoài kia trao cho tôi, bọn họ

không chịu mang y phục của tăng sĩ tới.

 - Không tìm được y phục của tăng sĩ nên chàng chịu khó mặc bộ đồ này

vậy.

 Tôi bưng khay đồ ăn đã nguội ra ngoài.

 Luôn luôn có người canh giữ ngoài cửa, tôi kêu bọn họ mang đồ ăn đi hâm

nóng lại. Bọn họ không gây khó dễ, tỏ ra khá giữ lễ với tôi, yêu cầu thứ gì là

mang đến thứ đó, chỉ không cho phép tôi đi lại tự do. Ánh nắng rực rỡ chiếu

rọi cung điện, không thể tin nổi, dưới bầu trời xanh trong nhường này lại xảy

ra cuộc chiến tranh khốc liệt và cảnh tượng loạn ly đẫm nước mắt. Nếu không

có cuộc chiến tranh này, có lẽ Rajiva cũng chỉ là một hạt cát nhỏ giữa dòng

sông lịch sử, sẽ không có một đại pháp sư tiếng tăm lừng lẫy, lưu danh sử

sách. Nhưng để có được danh tiếng ấy, chàng đã đánh đổi cả một đời khổ

nạn, không biết, như thế là may mắn hay bất hạnh?

 Khi tôi mang canh thịt và bánh nướng đã hâm nóng vào phòng thì chàng

đã mặc lên mình bộ đồ của dân thường và ngồi thiền tụng kinh. Thân hình cao

lớn, chỉ khoác lên mình chiếc áo ngắn chít eo đặc trưng của đàn ông Khâu Từ

trông đã rất nam tính rồi. Không tính đến cái đầu trọc lốc, nhìn từ phía sau vẫn

có thể dùng từ “đẹp trai ngời ngời” để miêu tả về chàng.

 Tôi đặt khay đồ ăn lên bàn, nhìn chậu nước chuyển màu, biết là chàng đã

lau rửa sạch sẽ. Gọi chàng tới ăn cơm, nhưng chàng không đáp lại, vẫn miệt

mài tụng kinh. Không muốn làm phiền chàng, tôi ngồi yên lặng chờ đợi.

 Nhưng chàng đã tụng niệm gần hai giờ đồng hồ liên tục, không hề ngơi

nghỉ. Càng lúc tôi càng buồn bã nhận ra rằng, không phải chàng đang giữ nếp

tụng kinh buổi sáng, mà là đang tự trừng phạt. Chàng định sẽ tiếp tục tụng

niệm đến bao giờ nữa?

 Không kìm chế nổi, tôi kéo tay chàng, cầu khẩn:

 - Rajiva, xin chàng đừng tụng kinh nữa. Là lỗi của em, chính em đã mê

hoặc chàng. Kẻ dụ dỗ người tu hành phạm giới mới là kẻ có tội lớn nhất. Xin

hãy để mình em gánh chịu tội nghiệt này, chàng không có lỗi gì cả.

 Chàng mở mắt, nhìn tôi ai oán, khẽ lắc đầu, kéo tay tôi ra, tiếp tục lầm rầm

tụng niệm.

 Nhìn quanh căn phòng, thấy một chiếc phất trần cắm trong chiếc bình, tôi

đi lấy, mang lại gần chàng.

 - Rajiva, nếu chàng nghĩ rằng đã phạm phải tội lỗi tày trời, em có thể giúp

chàng. Con người ở phương tây xa xôi tín theo một thứ tôn giáo. Tôn giáo ấy

cho rằng, tội phá giới có thể được giảm nhẹ nếu người mắc tội tự quất roi lên

người mình. Nỗi đau thể xác sẽ giúp thuyên giảm nỗi đau tinh thần và như thế

sẽ nhận được sự tha thứ của đấng tối cao.

 Tôi ngồi xuống trước mặt chàng, khẽ hỏi:

 - Chàng muốn thử không?

 Ki- tô giáo rất thịnh hành phương pháp tự trừng phạt này. Giáo hội không

ngừng nhồi nhét vào đầu các con chiên cảm giác tội lỗi về nhu cầu tình dục và

nhấn mạnh, tình dục làm ô uế linh hồn con người và khiến họ không thể lên

được thiên đàng. Bởi vậy, những người căm ghét hoặc sợ hãi việc hành lạc,

bao gồm cả các tu sĩ nam và nữ đều chuộc tội bằng cách tự quất roi vào

người, họ làm vậy, những mong dùng đau đớn của kiếp này đổi lấy hạnh phúc

của kiếp sau. Trong thời gian bệnh dịch hạch hoành hành khắp châu Âu, người

ta đã tổ chức những đoàn người hành xác, cả một thôn làng hoặc thị trấn

cùng diễu hành qua khắp các nẻo đường, rồi tập trung tại một nơi công cộng,

sau đó họ bắt đầu tự quất roi vào lưng mình, cho đến khi máu tươi chảy ra.

 Chàng nhìn tôi, vẻ đau khổ tột cùng, lặng lẽ buông áo trễ xuống thắt lưng,

rồi nhắm mắt lại, tiếp tục tụng kinh.

 Tôi đứng ra sau lưng chàng, cầm ngược cây phất trần, hít một hơi thật

sâu, giữ chặt tay, cắn răng vụt thật mạnh. Một âm thanh rùng rợn vang lên

trong không gian, chàng rùng mình kinh ngạc, một vệt dài màu đỏ hằn lên rõ

rệt trên lưng chàng. Tôi cắn chặt răng, quay cán phất trần lại, ra sức vụt vào

lưng mình. Cơn đau buốt truyền đến não bộ, kích thích nước mắt xô nhau ra

quanh viền mắt.

 - Nàng làm gì vậy?

 Cây phất trần bị giằng lấy, tôi ngã vào lòng chàng, trong đôi mắt ngấn lệ,

tôi nhìn thấy nỗi kinh ngạc và xót thương của chàng.

 - Chàng muốn trừng phạt bản thân, em sẽ cùng chàng hứng chịu. Chàng

không thiết ăn uống,  em  sẽ  cùng  chàng  tuyệt  thực.  Nếu  chàng  không  thể

chấp nhận thân phận của em, em có thể xuống tóc làm ni cô.

 Những tiếng nức nở, nghẹn đắng nơi cuống họng, tôi dừng lại lấy hơi:

 - Nhưng, Rajiva, lần này, dù có thế nào em cũng sẽ không ra đi. Dù phải

đối mặt với bao nhiêu phong ba bão tố, hãy để em ở bên chàng, cùng chàng

vượt qua, được không?

 Chàng xiết tôi chặt hơn, tôi vòng tay qua ôm riết lấy chàng. Nếu có thể nhờ

vòng tay ôm riết ấy để được hòa tan vào lồng ngực của chàng, để hai người

hợp  lại  thành  một  thì  hạnh  phúc  biết  bao.  Gối  đầu  lên  bờ  vai  để  trần  của

chàng, những giọt nước mắt chảy xuống lằn roi đỏ in trên lưng chàng. Khuôn

ngực chàng rung động mãnh liệt, nước mắt chàng thấm ướt vai áo tôi. Không

biết đây là lần thứ bao nhiêu chúng tôi khóc trong vòng tay nhau? Em không

đành lòng thấy chàng khóc...

 - Ngải Tình, ta không trừng phạt bản thân vì đã phá giới. Thân xác, chỉ là

lớp vỏ bọc bên ngoài. Giáo lý Phật giáo Đại Thừa không quy định ngặt nghèo

về chuyện đó. Huống hồ, lần này là do ta bị ép buộc. Nhưng ta phải hối lỗi với

Phật tổ, và trái tim ta đã “phá giới” theo thân xác ta rồi...

 Chàng khẽ đẩy tôi ra, những ngón tay nhẹ nhành lướt trên má tôi, nỗi đau

khổ phủ một màu ảm đạm lên gương mặt thanh tú.

 - Không đúng. Trái tim ta không phải phá giới từ đêm qua, mà mười một

năm trước, hai mươi năm trước đã phá giới rồi. Thuở thiếu thời gặp nàng, trái

tim ta đã khôn nguôi thổn thức. Sau khi nàng ra đi, ta không hiểu vì sao mình

lại lặng lẽ phác họa chân dung nàng, hết bức này đến bức khác. Rồi khi ngắm

nhìn tượng Phật lại tưởng tượng ra gương mặt của nàng, thì ta biết mình đã

sa vào lưới tình, chẳng thể thoát thân. Ái dục vốn là trở ngại lớn nhất đối với

người tu hành. Ta vô cùng sợ hãi, nên mỗi lần nghĩ tới nàng là ta lại tụng kinh

để sám hối. Nhưng khi nàng trở về, niềm vui được ở bên nàng lớn hơn cả việc

nghiên cứu, tìm hiểu giáo lý Phật pháp và việc tụng niệm đã không thể giúp ta

trừ bỏ những chướng ngại trong lòng được nữa. Sau khi hôn nàng, ta hiểu

rằng mình đã không thể rời bỏ ái dục...

 Từng giọt lệ long lanh kết đọng trên khóe mắt chàng, nặng nhọc lăn dài

trên gò má.

 - Mười một năm trước, không được gặp nàng lần cuối, ngày hôm đó, ta đã

ngồi thiền trong phòng nàng ba ngày. Sau ba ngày, ta hiểu ra một điều: Nếu

đã không thể quên được nàng, chi bằng ta biến nỗi nhớ nàng thành sự tu tập

mỗi ngày. Nhờ vậy, tâm hồn ta bình lặng trở lại, ta chuyên tâm vào việc tu

hành. Nếu mười năm sau nàng không quay về, ta sẽ thực hiện nguyện vọng

của nàng, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp. Nhưng đúng lúc ta chuẩn

bị khởi hành đến đất Hán, thì Khâu Từ gặp phải kiếp nạn và ta phải chịu sự sỉ

nhục này.

 Chàng ngừng lại một lát, lấy hơi và tiếp tục:

 - Ba ngày bị giam cầm, ta vẫn một lòng hướng Phật, tâm thanh tịnh như

nước, xem mỹ nữ trước mắt như không khí. Nhưng sau khi phá tửu giới, thì

trước mắt ta, trong tâm tưởng ta lại luôn hiện lên hình bóng nàng. Không phải

ta không nhớ chuyện gì xảy ra đêm qua, mà là ta không dám thừa nhận. Tuy

chỉ là nhưng cảm giác mơ hồ, nhưng ta vẫn nhớ rõ khoảnh khắc ta có được

niềm hoan lạc không thể diễn tả bằng lời. Bởi vậy, ta đã cố thuyết phục bản

thân,  rằng  đó  chẳng  qua  là  một  giấc  mơ  bí  mật,  một  giấc  mơ  mà  ta  vẫn

thường mơ. Nhưng nàng lại cho ta biết mọi thứ diễn ra trong giấc mơ đó đều

là thật...

 Chàng ngẩng đầu hít một hơi dài, những đường gân trên cổ giật giật. Một

lát, chàng cúi xuống nhìn tôi, rồi ảo não lắc đầu, những hạt nước mắt to tròn

long lanh như những hạt ngọc đổ liên hồi xuống áo chàng.

 - Khi nãy biết ta đã có quan hệ... vợ chồng với nàng... Nếu không phải là

do Lữ Quang sắp bày, ép buộc, Rajiva sao dám “làm vậy” với nàng! Thế nên,

cảm xúc đầu tiên đến với ta khi biết tin đó, không phải là sám hối, mà là niềm

vui vô bờ tựa mạch nước ngầm len lỏi trong tim. Ta đã vô cùng hoảng sợ và hổ

thẹn khi mình có ý nghĩ đó. Mấy mươi năm tu hành vẫn chẳng thể giúp ta

chống lại khát khao yêu đương với nàng. Tội lỗi này, dù có đọc bao nhiêu kinh

văn đi nữa cũng không thể xóa bỏ. Ta không xứng là đệ tử nhà Phật... Ta nhớ

đến lời nói của vị cao tăng mà ta gặp hồi nhỏ: Nếu không tuân thủ giới luật

một cách nghiêm khắc, ngày sau sẽ chỉ có thể là một pháp sư thông minh,

sáng láng không hơn không kém. Khi nãy, vừa tụng kinh ta vừa nghĩ về điều

này và không khỏi đau đớn. Ta đã phá giới vào đúng năm ba mươi lăm tuổi, lẽ

nào ý trời đã định, kiếp này Rajiva chỉ có thể trở thành một pháp sư thông

minh, sáng láng, mà chẳng thể làm nên nghiệp lớn ư?

 Tôi đã khóc đến mềm cả tim gan, chưa bao giờ chàng thổ lộ với tôi nhiều

đến vậy, mà mỗi câu mỗi tiếng thốt ra đều đau đớn đến xé lòng.

 - Xin lỗi chàng, em đã phá vỡ thế giới tĩnh tâm thiền định của chàng, đã

khiến chàng khó xử. Nếu chàng muốn, em sẽ ra đi.

 - Không kịp nữa rồi...

 Chàng run rẩy hôn tôi, vị mặn chát nồng đượm nơi đầu lưỡi, không biết là

nước mắt của chàng hay của tôi.

 - Nàng đã quay về thì sao ta có thể để nàng ra đi, để lại phải khổ sở chờ

đợi mười năm nữa... Ngải Tình, một roi nàng tự quất vào người mình đã khiến

ta bừng tỉnh. Nàng sẵn sàng san sẻ đau khổ với ta, bằng lòng cùng ta vượt

qua phong ba bão tố, lẽ nào Rajiva không dám thừa nhận tình cảm với nàng

suốt hai mươi năm qua? Ta chỉ biết tự trách mình vì đã phá giới, vì không thể

trở thành một bậc danh sư, mà quên rằng nỗi đau khổ mà nàng phải chịu

đựng lớn hơn ta gấp bội phần. Nàng đã trở về khi ta cần có nàng nhất. Đêm

qua nàng đã dùng tấm thân trinh trắng của mình giải cứu ta khỏi sự đày ải ấy.

Tình yêu cao cả đó, ta biết lấy gì báo đáp. Ta quyết không để nàng lại tiếp tục

phải chịu dày vò, đau khổ nữa. Nỗi nhớ nhung vò xé tâm can mười năm lại

mười năm mòn mỏi, vò võ ấy, ta không muốn phải chịu đựng thêm nữa. Trở

thành bậc danh sư, đạt đến đỉnh cao tu dưỡng, nhập Niết Bàn thì sao chứ,

không có nàng ở bên, ta cũng chỉ như một thân xác vô cảm, không có linh hồn

mà thôi. Đời sống ấy có gì đáng sống đâu!

 Chàng rời khỏi bờ vai tôi, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi, nâng cằm tôi

lên, để ánh mắt lạ kỳ của cháng phủ lên gương mặt tôi:

 - Có nàng ở bên, ta cam tâm tình nguyện bị đẩy xuống tầng địa ngục sâu

nhất – địa ngục vô gián.

 - Chàng đừng quên, luôn có em bên chàng...

 Mười ngón tay đan vào nhau, chúng tôi ôm nhau và hôn nhau mãi miết,

hôn cho nhau cạn những giọt lệ tràn mi, nhưng những nụ hôn ngọt ngào ấm

áp ấy chỉ càng khiến những dòng nước mắt tuôn trào. Cuộc đời còn mấy lần

mười năm nữa để uổng phí? Bắt đầu từ bây giờ, chúng tôi sẽ trân trọng mỗi

giây mỗi phút...

 Không biết chúng tôi đã khóc với nhau bao lâu.

 Rồi chàng đột ngột buông tôi ra, ngẩng đầu thở dài:

 - Chàng sao vậy?

 - Không ngờ sau khi cởi bỏ được nỗi day dứt quyện chặt trong tim suốt hai

mươi năm qua lại khiến ta đau đầu đến vậy?

 Tôi bật cười:

 - Đó là vì chàng bị ép uống rượu.

 Tôi đưa bát canh đặt trên tủ cho chàng.

 - Đây là canh giã rượu, chàng uống ngay lúc đầu thì đã không sao cả.

Chương 44: Sự thật

 Rajiva kinh ngạc nhìn chiếc dao cạo râu Gillette trên tay tôi. Khi đi dạo phố

với bạn bè và thấy họ mua tặng bạn trai mình, trong phút xúc động tôi đã mua

nó. Cứ ngỡ sẽ chẳng còn cơ hội để tặng Rajiva. Lẽ ra phải có kem bôi đi kèm

với bộ dao cạo râu này, nhưng vì sợ nhiễm phóng xạ, tôi đã không mang theo.

 Cố nhiên là Rajiva không biết sử dụng. Tôi để chàng ngồi xuống, thấm

nước ấm vào khăn mặt rồi đắp lên cằm chàng để những sợi râu trở nên mềm

hơn. Tôi dặn chàng ngửa cổ lên và không được động đậy, sau đó nhẹ nhàng

kéo chiếc dao cạo lướt trên cằm chàng. Tôi đã học được “ngón nghề” này từ

từ các chuyên gia nam ở khu vực thực nghiệm. Chàng nhìn tôi chăm chú,

bóng tôi in trong đáy mắt sâu hun hút của chàng, tim đập rộn ràng. Làn da

của chàng trơn mượt, mỗi lần chạm vào, tâm trí tôi bỗng trở nên bấn loạn. Sợ

thiếu tập trung sẽ khiến chàng bị thương, tôi cố gắng định thần lại, giữ cho

bàn tay vững vàng, xử lý gọn gàng đám râu ria mọc lởm chởm lâu ngày.

 Sau khi cạo rửa xong xuôi, khuôn mặt chàng sáng sủa hẳn lên. Khi tâm trí

tôi còn đang mê mẩn với vẻ thanh tú của gương mặt chàng thì trống bụng

bỗng đổ liên hồi. Đã ba giờ chiều và tôi chưa có một hạt cơm nào trong bụng

từ tối qua đến giờ. Tôi đỏ mặt xấu hổ, nhưng chàng đã nắm tay tôi, cười dịu

dàng:

- Chúng ta ăn cơm thôi…

 Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cơm canh đã nguội ngắt nhưng tôi vẫn thấy

ngon miệng lạ thường. Tôi vừa ăn vừa nhìn chàng, nụ cười ngây ngô không

lúc nào tắt trên môi. Chàng mỉm cười rạng rỡ đáp lại, mười năm sương gió để

lại vết dấu trên khóe mắt và vầng trán chàng, khi chàng cười, những nếp nhăn

càng hiện rõ, tôi ước gì mình có thể xóa đi những dấu hiệu mỏi mòn của tuổi

tác, tháng năm ấy. Tôi không muốn lại phải trải nghiệm mười năm đằng đẵng

của chàng bằng vài tháng ngắn ngủi của mình nữa, lần này, tôi muốn được

cùng chàng đi trọn con đường đời.

- Còn đau không?

 Xong bữa, chàng nhẹ nhàng vuốt ve vết thương trên lưng tôi, vẻ xót xa

dâng lên trong mắt. Tôi lắc đầu, nếu không nhờ một roi ấy, có lẽ chàng chưa

thể bước ra khỏi những trăn trở nội tâm. Vì vậy, tôi không hề thấy đau.

 Gương mặt chàng bỗng đỏ bừng, chàng cúi đầu khẽ hỏi:

- Để ta xem được không?

 Tôi sững người, mặt mũi nóng ran, một xúc cảm kỳ lạ len lỏi trong tim. Do

dự một lát, vẫn thấy chàng nhìn tôi chăm chú, tôi xoay người ngồi xếp bằng

trên nền nhà, vén mái tóc sang một bên, thả áo xuống thắt lưng.

 Chàng ngồi phía sau, nhìn hoài mà không lên tiếng. Tôi cảm thấy vô cùng

bối rối khi phơi làn da trần trước mặt chàng, chỉ muốn nhanh chóng kéo váy

lên, nhưng bàn tay chàng đã nhẹ nhàng giữ lại.

 Chợt một cảm giác lành lạnh, chộn rộn nơi sống lưng, là bàn tay chàng

đang dịu dàng lướt trên vệt roi quất ấy. Theo sau đó là đường môi ướt át

nhưng ấm nồng của chàng gắn trên lưng tôi, từ đầu đến cuối vết thương, nụ

hôn dài miên man ấy khiến toàn thân tôi rung động.

- Ngải Tình…

 Bờ môi chàng kéo riết đến vành tai tôi, giọng nói trầm ấm, mê hồn cất lên:

- Ta sẽ không để nàng bị thương nữa.

 Không gian quanh tôi tràn ngập dư vị nồng nàn, tôi bỗng cảm thấy căng

thẳng, mồ hôi lấm tấm trên cánh mũi.

 Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình, vội vàng chỉnh lại y phục.

Chúng tôi đã quên mất nơi này vốn là một nhà giam và người khác có thể ra

vào bất cứ lúc nào. Nhưng thân hình cao lớn của Rajiva đã che chắn cho tôi.

 Tên lính gác cửa người Đê thò đầu vào bẩm báo:

- Pháp sư, Lữ tướng quân mời ngài đến gặp.

 Lữ Quang không nói muốn gặp tôi, nhưng vì lo lắng cho Rajiva, tôi chủ

động đi theo chàng. Vẫn là đại điện to rộng ngày hôm qua, vẫn là đám con

cháu bất nghĩa đang đứng vây quanh ông ta.

- Pháp sư, hương vị của đêm qua không tồi chứ? Thằng con ta đã tận mắt

chứng kiến khoảnh khắc thăng hoa của ngài.

 Lữ Quang cất tiếng cười thỏa mãn, không giấu diếm, hắn có vẻ rất hài

lòng.

- Làm người thì nên tận hưởng niềm hoan lạc ấy, tụng kinh niệm Phật nhiều

có gì vui thú đâu! Nếu ta không ra sức tác hợp, e là kiếp này pháp sư chẳng

thể được thưởng thức mùi vị của niềm vui sướng tột độ ấy!

 Vốn đã có sự chuẩn bị từ trước, rằng đến gặp ông ta là để nghe những lời

nhục mạ chẳng kiêng nể gì ai, nhưng khi những lời ấy vang lên bên tai mình,

tôi có cảm giác ghê tởm như ăn phải ruồi nhặng. Tôi lén quan sát Rajiva, mặt

chàng hơi biến sắc, nhưng dáng vẻ vẫn đạo mạo, điềm tĩnh. Tôi ngậm ngùi

nuốt giận, ai bảo chúng tôi là những kẻ yếu thế cơ chứ!

 Lữ Quang đưa ánh mắt cú vọ sang phía tôi:

- Thì ra pháp sư cũng giống ta, chỉ thích những thiếu nữ yêu kiều, duyên

dáng người Hán. Trong phủ đệ của ta ở Trường An đã thu nạp không ít phụ

nữ Hán, ngày sau có dịp đến Trường An, ta nhất định sẽ tặng ngài vài nàng.

 Rajiva  vẫn  lặng  thinh  không  đáp,  môi  mím  chặt,  lưng  vươn  thẳng.  Tuy

khoác trên mình bộ y phục dân dã, nhưng vẻ ung dung, tĩnh tại trong mắt

chàng, khí chất thanh cao, thoát tục của chàng khiến cho một kẻ thô thiển,

kệch cỡm như Lữ Quang trở nên nhỏ bé hơn vài phần.

 Thấy Rajiva lặng yên không đáp hồi lâu, chừng như bực tức, Lữ Quang

đằng hắng vài tiếng:

- Mấy ngày tới pháp sư cứ an tâm nghỉ ngơi trong cung, ta sẽ cho người

đến hầu hạ pháp sư chu đáo.

 Rồi ông ta lại giả bộ tử tế, quan tâm:

- Pháp sư có thiếu thốn gì không?

 Rajiva khẽ cúi người, hai tay chắp lại, điềm tĩnh đáp lời:

- Tôi rời chùa đã lâu, lòng đầy lo lắng. Nếu tướng quân cho tôi trở về chùa

Tsio – li hoặc chùa Cakra thì tôi rất cảm ơn.

- Pháp sư không cần phải vội, ta còn rất nhiều vấn đề về Phật pháp muốn

thỉnh giáo Pháp sư mà!

- Những vấn đề Phật pháp của ngài, tôi đây không đủ sức giải đáp.

 Rajiva tỏ ra cương quyết không nhượng bộ:

- Tôi là người xuất gia, không màng thế sự. Tướng quân giam giữ tôi cũng

chỉ có thể ép tôi phá đi thân giới, tấm lòng hướng Phật của tôi, ngài chẳng thể

lay động được. Những điều tướng quân kỳ vọng ở tôi, e là tôi chẳng thể giúp

gì cho ngài, mong ngài sớm từ bỏ ý định đó đi.

 Tôi cảm thấy hết sức băn khoăn, lẽ nào Lữ Quang ép buộc Rajiva phá giới

chỉ vì một vụ cá cược? Nhưng tôi nhanh chóng xua đi mối nghi ngờ đó, để

ngẩng lên nháy mắt với Rajiva, ra hiệu cho chàng đừng kích động Lữ Quang.

 Ông ta quả nhiên nổi trận lội đình, gầm rít lên những tiếng ghê rợn:

- Người giỏi lắm! …

 Nhưng Lữ Soạn đã kịp kìm ông ta lại. Hắn thì thầm nhỏ to vài câu gì đó vào

tai Lữ Quang, sắc mặt ông ta trở nên thâm hiểm khó đoán, lấy hơi một hồi lâu

ông ta mới giữ được bình tĩnh.

- Mấy ngày qua chắc pháp sư đã thấm mệt, ngài nghỉ ngơi đi.

 Giọng nói của ông ta không có vẻ gì là thân thiện, tử tế.

Đêm qua pháp sư đã giúp ta thắng cược, giành được các mỹ nữ ở hậu

cung Khâu Từ, lát nữa ta sẽ chọn vài cô xinh đẹp, mỹ miều để tặng pháp sư.

 Rajiva liếc sang tôi, rồi quay ra cung kính nói:

- Tướng quân khỏi cần nhọc lòng, Rajiva tu hành đã nhiều năm, nội tâm

trong sạch, lòng ít ham muốn, tôi không cần mỹ nữ nào nữa cả.

 Chàng ngừng một lát, nói tiếp:

- Mong tướng quân đoái thương những người phụ nữ đó!

 Lữ Quang cười ha hả:

- Pháp sư quả là người giàu lòng từ bi.

 Rồi quay sang nhìn tôi.

- Thiếu nữ người Hán ở Khâu Từ không có nhiều, chờ khi ta tìm được nàng

nào ưng mắt, sẽ tặng cho pháp sư.

 Rajiva làm mặt nghiêm nghị, lặng thinh không đáp.

- Rajiva, Lữ Quang đã thắng cuộc, vì sao vẫn muốn giam giữ chàng? Ông ta

muốn gì ở chàng?

 Lựa lúc không có ai, tôi vội hỏi chàng câu hỏi quẩn quanh mãi trong đầu kể

từ lúc gặp Lữ Quang đến khi trở về căn phòng giam giữ chúng tôi lúc trước.

- Ngải Tình, nàng có biết thất bại thảm hại của nước Tần trong cuộc đại

chiến với nước Tấn không?

 Tôi biết chứ và tôi tin hầu hết người Trung Quốc đều thuộc làu lịch sử về

trận chiến đó. Đêm trước cuộc chiến, Phù Kiên vẫn còn là một bậc quân vương

thành công nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Luận về cương vực, về cơ bản,

lần đầu tiên Phù Kiên đã thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc (lãnh thổ rộng

lớn hơn thời kỳ của Thạch Lặc rất nhiều). Luật về phẩm cách, có thể xem Phù

Kiên là một vị vua nhân từ hiếm có trong thời đại loạn (mà hầu hết các đấng

quân  vương  đều  là  hôn  quân).  Luận  về  chính  sách  dân  tộc,  trong  thời  kỳ

“không chung dòng tộc, ắt sinh khác lòng”, phương châm của ông hết sức tiến

bộ: hòa hợp dân tộc, không giết hại lẫn nhau. Nhưng trận đại chiến ở Phì Thủy

đã làm thay đổi cục diện, thậm chí đã “đưa tang” nhà Tiền Tần vốn rất hùng

mạnh trước đó.

 Cuộc chiến kỳ lạ ấy vừa mới xảy ra một năm trước thời điểm tôi có mặt ở

đây, vào tháng Mười một năm 383. Mức độ chênh lệch về lực lượng quân sự

hai bên trong cuộc chiến này được đánh giá là kỳ lạ nhất trong lịch sử Trung

Quốc: 87:18. Tính chất hoang đường của toàn bộ quá trình diễn ra cuộc chiến

khiến không ai có thể tin nổi. Bên giành thắng lợi không hề nắm chắc phần

thắng, cũng không hiểu do đâu mà chiến thắng. Bên thua, thua trong nỗi ngỡ

ngàng, bàng hoàng, đế quốc Tiền Tần hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm

một chiều.

 Lữ Quang dẫn quân chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì

Thủy diễn ra vào đầu năm đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yanqi), rồi tấn

công Khâu Từ năm 384. Thực ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc

tranh luận gay gắt trong triều đình của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần

không tán đồng việc phân tán lực lượng quân sự cho việc chinh phạt Tây vực,

vì nhà Tần đang phải tập trung binh lực để đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự

tin thái quá được tích lũy sau những thắng lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn

nhanh chóng trở thành Tần Hoàng (Tần Thủy Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và

ông cũng tự tin cho rằng lực lượng còn lại dư sức đối phó với Đông Tấn. Nếu

không có cuộc Tây chinh này, e là muốn gặp đại tướng quân Lữ Quang, bạn

phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy. Và như thế, có lẽ đã không tồn tại nhà

Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong thời kỳ Thập lục quốc.

 Nhưng trận chiến có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với

một quốc gia xa xôi tận miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Rajiva có mối

liên quan gì?

- Lữ Quang đã hay tin nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren,

người Yên phục quốc, người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ

sức để cứu vãn thời cuộc.

 Ánh mắt chàng rực sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:

- Ngải Tình, theo nàng, vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh

như vậy, Lữ Quang lại ghìm giữ binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay

về?

 Suy nghĩ giây lát, tôi chợt hiểu ra:

- Ông ta muốn làm vua Tây vực?

 Vào thời Thập lục quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh

quyền đều muốn cát cứ, xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang

không bằng Thạch Lặc, luận về độ gian xảo, ông ta không bằng Diêu Trường,

luận về mưu lược, cũng không bằng Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì

Thủy, ông ta sao dám sinh lòng bội phản với triều đình Phù Kiên. Nhưng tình

thế hiện nay đã khác, ông ta cầm quân ở nơi xa xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu

với quân phản loạn khắp nơi, chẳng còn hơi sức và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ

Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham vọng xưng bá cũng là dễ hiểu. Giữa

vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế này, ông ta có thể làm mưa làm

gió mà không ai động đến.

 Rajiva gật đầu:

- Đúng vậy! Lữ Quang có dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần

phong cho ông ta: Tán kỵ thường thị, An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều

không thỏa mãn tham vọng bành trướng và xưng bá của ông ta.

Có câu: “Đầu gà còn hơn đuôi phượng” mà!

 Tôi chợt nhớ đến một chuyện cười có thật ở nước Nam Yên thời Thập lục

quốc: Một người có tên là Vương thủy tập hợp được mấy vạn người trên núi

Thái  Sơn,  tự  xưng  là  hoàng  đế  Thái  Bình,  tôn  cha  mình  làm  Thái  thượng

hoàng, các anh em trai lần lượt là Chinh Đông, Chinh Tây tướng quân và hàng

trăm chức quan khác. Sau khi bị quân đội Nam Yên đánh bại, lúc đưa ra hành

quyết, có người hỏi ông ta: “Cha và các anh em của ngươi ở đâu?” Ông ta

đáp: “Thái thượng hoàng lánh nạn ở nơi xa, các tướng Chinh Đông, Chinh Tây

đã bị giết hại”. Vợ ông ta tức giận mắng: “Xảy ra cơ sự ngày hôm nay chính là

tại cái miệng tai bay vạ gió của ông đó! Ông còn chưa chịu tỉnh ngộ hay sao?”.

Ông ta đáp: “Hoàng hậu ơi, từ cổ chí kim, có gia đình nào không suy vi, có

quốc gia nào không diệt vong. Đến ngày suy vi, trẫm cũng đành ngậm đắng

nuốt cay, nhưng quyết không đổi quốc hiệu!”.

 Thật nực cười! Thực ra trong một trăm ba mươi năm lịch sử ấy, Trung

Quốc không chỉ tồn tại mười sáu nước, mười sáu nước này chỉ là những tiểu

quốc có quốc hiệu chính thức và có sự kế thừa ngôi báu. Nếu tính chính xác,

thì giai đoạn lịch sử đó phải có đến hai, ba chục quốc gia tồn tại. Vương Thủy

tuy ngu muội, nhưng ông ta đã phát biểu chính xác tham vọng của các tiểu bá

thời bấy giờ. Không ai khi sinh ra đã là một bậc đế vương! Vả lại, gia đình nào

rồi cũng đến lúc suy vi, quốc gia nào rồi cũng đến hồi sụp đổ, vậy thì cứ đăng

cơ làm hoàng đế cái đã, rồi tính sau. Lữ Quang nắm trong tay cả một đội quân,

lẽ nào ông ta không có tham vọng bá vương đó.

 Nhưng điều này có liên quan gì đến việc giam giữ Rajiva?

 Thấy tôi vẫn đầy vẻ thắc mắc, Rajiva tiếp tục giải thích:

- Lữ Quang vốn là người nơi khác đến, quân đội của ông ta cũng chỉ có bảy

vạn quân. Ông ta chỉ dựng lên một vương triều bù nhìn thì sao có thể duy trì

lâu dài?

 Vậy là tôi đã hiểu! Đó là mối quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo. Lữ

Quang muốn bám rễ ở nơi đây với binh lực nhỏ bé như vậy, chẳng thể đủ sức

trấn áp và cai quản miền Tây vực rộng lớn với hàng mấy chục tiểu quốc. Thế

nên, ông ta buộc phải dựa vào sức mạnh của tôn giáo, để công nhận quyền

lực chính thống của ông ta ở Tây vực – vùng đất vốn hết sức sùng bái đạo

Phật. Và Rajiva lại là đại diện của thần quyền ở đây, Nếu Rajiva công khai công

nhận tính hợp pháp của chính quyền Lữ Quang, ông ta sẽ không chỉ có được

Khâu Từ, mà còn có thể có được sự quy thuận của mấy chục vạn dân khắp

vùng Tây vực rộng lớn. Như vậy, đại nghiệp xưng bá ở Tây vực của ông ta sẽ

không cần phải dựa vào sức mạnh vũ trang nữa.

- Rajiva, Lữ Quang muốn xưng bá Tây vực, nhưng sức mạnh quân sự không

đủ, nên mới phải cầu đến sự trợ giúp của chàng. Nhưng chàng không chịu

khuất phục, chàng không muốn thừa nhận quyền lực của ông ta, đúng không?

 Ánh mắt Rajiva lộ vẻ tán thưởng, chàng khẽ cúi đầu, nắm chặt hai vai tôi:

Nàng luôn là người hiểu ta nhất. Lữ Quang muốn ta đi tuyên truyền rằng

ông ta là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, được Bồ Tát sai phái đến để cứu

độ người dân Tây vực.

 Tôi lắc đầu. Phàm những kẻ có dã tâm cướp đoạt vương vị đều nghĩ ra một

cái cớ mang tên “điềm lành” và đều tự xưng mình là háo thân của một vị thần

tiên nào đó. Nhưng những điều thuộc về tâm linh này phải dựa vào một người

nắm giữ thần quyền giúp hắn thực hiện mưu đồ. Lữ Quang đâu biết rằng,

Rajiva không phải là Buddhasimha (Phật Đồ Trừng), nhà sư người Ấn Độ sống

ở thời đại Thạch Lặc, Thạch Hổ, chịu khuất phục nhà cầm quyền đương thời.

Rajiva cũng không giống Huyền Trang, hết lời ca tụng công đức của hoàng tộc

và ra sức thiết lập mối quan hệ mật thiết với hoàng đế. Rajiva xuất thân cao

quý, từ nhỏ đã vang danh khắp chốn, chàng coi sự tôn trọng và kính trọng của

nhà cầm quyền đối với chàng là điều hiển nhiên, bởi vậy, chàng chưa bao giờ

nghĩ rằng, chính trị có thể lấn lướt và áp đặt thần quyền như thế.

- Chàng từ chối, nên không còn cách nào khác, ông ta đã ép chàng phá giới

hòng uy hiếp chàng?

 Chàng gật đầu, vẻ mặt nghiêm nghị:

- Ông ta đâu biết rằng, ta có thể phá giới, nhưng quyết không phục tùng.

Ta làm vậy không phải vì ông ta là người ngoại tộc. Nếu Lữ Quang là một bậc

minh quân, biết quan tâm chăm lo cho lẽ dân, ta nhất định sẽ ủng hộ ông ta.

Nhưng ông ta lại là một kẻ tàn bạo, hoang dâm, ngu muội, lòng dạ ích kỷ, hẹp

hòi, chưa bao giờ biết mưu lợi cho dân. Nếu ta công nhận quyền lực của Lữ

Quang, sẽ gây hại không chỉ cho hơn mười vạn dân Khâu Từ, mà thậm chí cả

mấy chục vạn dân Tây vực… Ngải Tình, nàng biết không, ông ta đã chôn sống

hai vạn binh sĩ người Khoái Hồ ngay cả khi họ đã đầu hàng.

 Nỗi bi phẫn khiến gương mặt chàng trở nên ảm đậm, chàng giận dữ nắm

chặt tay lại:

- Chém giết lẫn nhau trong chiến tranh đã là tội lỗi tày trời, vậy mà ông ta

còn chôn sống cả những người đã giơ tay chịu trói. Ông ta đã tước đoạt mạng

sống của hai vạn người. Loại người như ông ta đời đời kiếp kiếp cũng không

thể được siêu thoát. Nếu ta lại đi tiếp tay cho giặc, hại đến muôn dân, thì sao

xứng là đệ tử nhà Phật?

 Đào hố chôn người là thủ đoạn phổ biến nhất sau mỗi cuộc chiến tranh

trong thời kỳ Thập lục quốc. Số lượng binh sĩ bị chôn sống thường lên đến vài

chục ngàn người. Bởi vì các cuộc chiến tranh xảy ra trong thời kỳ này, hầu hết

đều là cuộc chiến giữa các tộc người khác nhau.

 “Không cùng dòng tộc, ắt sinh khác lòng”, đào hố chôn người có thể làm

hao tổn nghiêm trọng lực lượng của đối phương, lại vừa có thể trừ hậu họa.

Sự kiện chôn sống người thảm khốc nhất diễn ra trong trận chiến ở dốc Tham

Hợp, quân Bắc Ngụy đã chôn sống năm vạn binh sĩ Hậu Yên. Năm thứ hai sau

trận chiến dốc Tham Hợp, người anh hùng Mộ Dung Thùy đã thân chinh cầm

quân đi báo thù, khi ngang qua hố chôn người ở dốc Tham Hợp, ông cùng

tướng sĩ đã khóc thương thảm thiết, sau đó ông bị nôn ra máu, bệnh tình ngày

càng nguy kịch và không lâu sau thì mất, kết thúc cuộc đời oanh liệt, đồng thời

kết thúc vương triều Hậu Yên hùng mạnh.

 Ngày trước đọc sách sử, mỗi khi đến đoạn thảm khốc, tôi thường rơi nước

mắt, nhưng chẳng thể so sánh với nỗi sợ hãi của ngày hôm qua, khi tôi được

tận mắt chứng kiến hố chôn người khủng khiếp ấy. Khi những con số biến

thành  hàng  chồng  thi  thể  đẫm  máu,  tôi  mới  cảm  nhận  được  sự  khốc  liệt,

khủng khiếp của chiến tranh đằng sau những con chữ vô cảm. Những gì tôi

trải qua ngày hôm qua khiến tôi hạ quyết tâm sẽ không thờ ơ trước mọi sự.

Nếu có thể ngăn chặn thảm kịch, tôi sẽ không ngại thay đổi lịch sử. Làn sóng

nhiệt huyết trào dâng trong tôi, tôi đưa mắt ngước nhìn người đàn ông cương

nghị, nho nhã trước mặt mình. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một Rajiva

kiên cường như vậy khi đối mặt với quyền lực. Người tôi yêu, giờ đây, cũng là

người mà tôi kính phục nhất.

 Tôi nắm lấy bàn tay chàng, nhìn chàng, nở một nụ cười rạng rỡ:

- Chàng nhớ nhé, dù chàng quyết định thế nào, em sẽ luôn ủng hộ chàng.

 Chàng đặt tay mình lên tay tôi, truyền cảm xúc cho tôi:

- Trước khi nàng xuất hiện, ta chẳng sợ gì cả. Ta thậm chí đã nghĩ, nếu bị

dồn đến chân tường, ta sẽ tự vẫn…

- Đừng!

 Tôi hoảng hốt đặt tay lên môi chàng:

- Xin chàng đừng nói những lời như vậy. Em sẽ bảo vệ chàng.

 Nụ cười ngọt ngào tỏa rạng gương mặt chàng, chàng đặt tay tôi vào lòng

bàn tay ấm áp của mình, dịu dàng nói:

- Nhưng nàng đã trở về, ta không còn ý nghĩ đó nữa... Nàng còn nhớ bài

giảng của nàng về “Mạnh Tử” không? “Vậy nên khi muốn trao trọng trách cho

một người, ông trời sẽ tạo ra muôn vàn thử thách, khiến anh ta đau khổ, khiến

anh ta mệt mỏi, khiến anh ta đói khát, gầy mòn, khiến anh ta cơ cực, làm rối

loạn hành vi của anh ta, khiến anh ta không được như ý. Thông qua những

khổ nạn đó, rèn luyện sự tỉnh táo, tính kiên cường và bồi đắp tài năng của anh

ta”. Những gian nguy mà ta phải trải qua là sự khảo nghiệm của Phật tổ đối

với Rajiva. Chí lớn của ta, sao có thể bị mai một bởi một kẻ ngang ngược như

Lữ Quang?

 - Nhưng Lữ Quang sẽ không dừng lại ở việc ép chàng phá giới, ông ta sẽ

còn dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo hơn để ép buộc chàng.

 Sử sách chép rằng, Lữ Quang đã ép Rajiva cưỡi ngựa ác, bò điên để làm

trò cười cho thiên hạ. Nhưng đó chỉ là những ghi chép vắn tắt trong sách,

hành vi sỉ nhục và sự đày đọa trên thực tế thê thảm hơn rất nhiều.

 - Ta không sợ.

 Chàng dịu dàng vuốt má tôi, khẽ thở dài, ánh mắt do dự:

 - Nhưng, sẽ khổ cho nàng...

 - Chàng đừng bận tâm về em, em có thể tự lo cho mình.

 Chúng  tôi  chìm  trong  mắt  nhau,  vòng  tay  khép  chặt.  Bóng  tịch  dương

xuyên qua khung cửa sổ, tỏa rạng vầng trán cao rộng của chàng. Hạnh phúc

như hoa nở trên môi tôi. Dù chông gai đang chờ ta phía trước, em vẫn nguyện

được theo chàng.

Chương 45: Lồng son

 Hai chúng tôi cùng tròn xoe mắt trước cảnh tượng ấy. Khắp nơi khảm nạm

ngọc ngà châu báu, ngay cả rèm cửa sổ, khăn trải bàn cũng đính kim tuyến

lấp lánh. Một chiếc bàn ghép từ khối ngọc trắng khổng lồ đặt giữa phòng. Căn

phòng lấp lánh vàng bạc châu báu khiến tôi nhức cả mắt. Hơn mười cung nữ

xếp thành một hàng dài, trong tư thế nửa quỳ lạy, đồng thanh cất giọng oanh

vàng lảnh lót:

- Xin nghe quốc sư sai bảo!

 Tôi hỏi nhỏ cung nữ đứng gần mình nhất:

- Đây là nơi nào vậy?

 Cô ta hơi sững người, cung kính đáp:

- Là tẩm cung (phòng ngủ) của tiên vương và công chúa Wusun mà người

sủng ái nhất!

 Ra là vậy! Khi nãy tên lính gác cửa người Đê[26] nhắc nhở chúng tôi dọn

dẹp đồ đạc rồi đi theo bọn họ, tôi cứ nghĩ sẽ bị tống vào một nhà lao hoặc một

nơi tương tự như thế, nào ngờ lại là một cung điện xa hoa, tráng lệ. Thực ra

đây vẫn là một nơi giam cầm, có điều là một nhà giam sang trọng, một cái lồng

son. Có vẻ như, chiêu đầu tiên Lữ Quang nghĩ đến để mua chuộc Rajiva là

dùng của cải và mỹ nữ.

 Vẻ mặt Rajiva bình thản, không chút biểu cảm, giọng chàng ôn hòa nhưng

chắc nịch khi nói với đám cung nữ, rằng chúng tôi không cần ai hầu hạ và cho

họ lui ra ngoài.

 Chờ khi chỉ còn hai chúng tôi, chàng nhìn quanh một lượt, thở dài ngao

ngán:

- Quá ư xa hoa! Trước lúc lên đường đi Thiên Trúc, mẹ từng căn dặn nhà

vua, nội chính không nghiêm, giặc ngoài ắt mạnh, thế nước yếu hèn, suy vi có

lúc.

 Chàng trầm ngâm một lát, lắc đầu:

- Nhà vua có kết cục ngày hôm nay cũng là tất yếu.

- Rajiva, Lữ Quang đổi nơi giam giữ chàng đến chốn này, mục đích của ông

ta đã rất rõ ràng.

 Tôi đan những ngón tay mình vào tay chàng, cùng chàng quan sát tất cả

những đồ dùng xa xỉ, bắt mắt, khiến người ta phải choáng ngợp trong căn

phòng.

- Ông ta muốn chàng đắm chìm trong đời sống xa hoa, hưởng lạc với của

cải và mỹ nữ, khiến chàng nhụt chí.

- Ta tin mình có thể chiến thắng cám dỗ. Của cải vật chất chẳng qua chỉ là

vật ngoài thân, với ta, chẳng khác nào cát bụi. Còn mỹ nữ…

 Chàng dừng lại, nhìn vào mắt tôi, nụ cười dịu dàng đậu trên khóe môi:

- Ba ngày bị giam cùng công chúa ta đã chẳng hề động lòng, mỹ sắc không

thể khiến ta dao động.

 Chàng kéo tôi vào lòng, bàn tay vuốt một đường dịu dàng từ đỉnh đầu,

theo làn tóc, xuống đến eo, giọng chàng rủ rỉ bên tai tôi:

- Trên đời này, người duy nhất có thể khiến Rajiva bằng lòng phá giới, cam

chịu bị đày xuống địa ngục, chỉ có nàng thôi…

 Hai má tôi nóng bừng. Câu nói ấy ngọt ngào hơn bất cứ lời thề non hẹn

biển nào, khiến hồn phách tôi điên đảo, một cảm giác lạ kỳ xâm chiếm toàn

thân.

 Cánh tay chàng xiết eo tôi ngày càng chặt hơn, tôi áp tai lên ngực chàng,

nghe tiếng trái tim mình gõ nhịp dồn dập, tôi gọi khẽ:

- Rajiva…

 Giọng nói của tôi nghe như một tiếng nấc nghẹn.

 Chàng đột ngột rời khỏi tôi, hít thở nhiều lần, ánh mắt trôi ra ngoài khung

cửa sổ:

 - Khuya rồi, nàng đi tắm rồi nghỉ sớm đi.

 Cung điện nguy nga này có một bồn tắm rất lớn, khi tôi vừa bước chân

vào, hai má nóng ran. Trên bốn bức tường đều gắn những chiếc gương dạng

đĩa đồng khổ lớn, đứng ở bên trong, hình ảnh khỏa thân của bạn sẽ được

chiếu rọi ở mọi góc độ. Hơi nước tỏa lên mờ mịt, càng khiến cho không gian

trở nên mơ màng, mộng mị. Một cung nữ bước vào, nói rằng muốn giúp tôi,

nhưng  tôi  vội  vàng  từ  chối.  Những  cánh  hoa  dập  dờn  trên  mặt  nước,  mùi

hương tỏa bay ngào ngạt. Ngâm mình trong bồn tắm, không thể kìm chế bản

thân tưởng tượng ra cảnh tắm chung của đức vua Bạch Thuần và công chúa

Wusun, những tấm kính sáng loáng này sẽ chiếu rọi bao nhiêu cảnh diễm tình?

Tôi cố gắng xua đi những ý nghĩ vẩn vơ đó, chỉ muốn nhanh chóng tắm cho

xong để ra khỏi đây. Nhìn bộ quần áo mà họ chuẩn bị cho mình, tôi không khỏi

đỏ mặt. Đó là một chiếc váy dài bằng lụa mỏng màu hồng, khuy áo trễ nải

buông xuống tận đôi gò bồng đảo, váy xẻ cao đến tận hông. Trang phục kiểu

này rõ ràng mặc vào là để quyến rũ người khác mà! Thôi, tôi cứ mặc lại bộ Hán

phục mà phu nhân của Pusyseda chọn cho tôi vậy!

 Rón rén bước ra từ buồng tắm, đang thấp thỏm lo âu không biết tình hình

tối nay sẽ ra sao, tôi đã thấy Rajiva ngồi thiền tụng kinh trên thảm, vẻ mặt

bình thản. Có lẽ do tôi quá căng thẳng đó thôi!

 Nghe thấy tiếng động, Rajiva mở mắt nhìn tôi, mặt chàng bỗng ửng đỏ,

chàng khẽ cúi đầu:

- Đêm nay nàng ngủ trên giường lớn, ta sẽ ngủ giường nhỏ.

 Chiếc giường lớn trang trí lộng lẫy đặt ở vị trí bắt mắt nhất, màn màu hồng

rủ xuống điệu đà, dưới ánh đèn lung linh, càng trở nên mê hoặc lạ thường. Hai

má nóng bừng, tôi bước tới một góc của chiếc “giường mỹ nhân” [27]. Chiếc

giường vô cùng tinh xảo và xinh đẹp, rộng đủ hai người nằm.

- Em sẽ nằm giường nhỏ.

 Không chờ chàng đáp lời, tôi vội vàng kéo chăn trùm đầu, xoay mặt vào

tường, nhắm mắt lại. Hồi lâu vẫn thấy sau lưng không có động tĩnh gì, nhưng

tôi có thể cảm nhận được, chàng đang đứng rất gần tôi. Lòng bàn tay bỗng

nhiên đổ mồi hôi, tôi bồi hồi không hiểu mình đang ngóng chờ điều gì.

 Rất lâu sau tôi mới nghe thấy tiếng bước chân vang lên, xa dần, nhỏ dần

và kết thúc bởi tiếng cánh cửa khép lại. Tôi mở mắt, quay đầu nhìn, chàng đã

ra khỏi cung điện. Bên ngoài là một khoảng sân vườn nho nhỏ, cũng nằm

trong phạm vi đi lại tự do của chúng tôi.

 Tôi lờ mờ đoán ra dụng ý của chàng, nên không dám đi theo, sợ khuấy

động không gian thanh tịnh của chàng. Tôi mệt mỏi nhắm mắt lại. Kể từ khi

quay lại khu vực thực nghiệm cho đến đêm qua, chưa đêm nào tôi được ngon

giấc. Thần kinh căng lên như dây đàn. Phía trước còn cả một chặng đường dài

đầy trông gai đang chờ đợi, bởi vậy tôi phải nghỉ ngơi.

 Nghĩ vậy, tôi thấy nhẹ nhõm hơn, giấc ngủ say sưa ập tới. Trong cơn mê

man, dường như tôi cảm nhận được một sự tiếp xúc khẽ khàng trên trán mình

và một âm thanh nhẹ như gió thoảng bên tai:

- Ngủ ngon nhé, mấy ngày qua thật tội cho nàng!

 Tôi ậm ừ đáp lời trong vô thức, xoay người, hình như tôi gối lên một vậy gì

đó rất thoải mái và thế là lòng phơi phới, tôi bay đi tìm Chu Công[28].

 Trước mắt tôi là một khuôn mặt rất bự với hai hàng lông mày dài, chiếc

cằm thuôn nhọn, đôi mắt khép chặt, hơi thở đều đều lướt trên mặt tôi. Tôi giật

mình,  bật  dậy,  cánh  tay  từ  trong  chăn  vung  ra  mạnh  quá,  đập  vào  người

chàng. Chàng co người lại phía sau, lúc mở mắt, chàng khẽ rên lên vì đau

điếng, nhưng vẫn nằm yên và rồi khép chặt mắt lại.

- Chàng có sao không?

 Tôi nhổm dậy, không biết khi nãy đã đập tay vào đâu, chàng xuýt xoa, có

vẻ rất đau đớn.

- Không sao.

 Chàng cắn môi, mắt vẫn nhắm nghiền, mặt đỏ bừng, sau đó nghiêng đầu

sang một bên:

- Nàng dậy trước đi.

 Tôi vẫn nằm yên trên giường, vậy là chàng đã không ngủ trên chiếc giường

to rộng đằng kia mà chạy đến chỗ tôi.

- Sao chàng lại ngủ ở đây?

 Tôi cất giọng lí nhí hỏi chàng.

- Giới luật nhà Phật quy định, ta không được ngủ trên giường to chiếu rộng.

Nhưng thấy nàng ngủ say sưa, không nỡ đánh thức nàng, nên cả đêm đành

nằm như vậy.

 Tôi nhớ giới luật đó, vì chàng từng nhắc đến. Không biết chàng có căng

thẳng giống tôi trong đêm đầu tiên nằm bên chàng hay không? Không biết

chàng ngủ có ngon không? Bao nhiêu câu hỏi quẩn quanh trong đầu, bao suy

nghĩ miên man, đan xen, dồn lại thành một cảm giác ấm áp, đột nhiên tôi thấy

buồn cười. Tôi muốn chọc chàng:

- Chỉ là cái cớ, đúng không? Nhìn chàng là em biết.

 Chàng quay đầu lại, thấy tôi cười, khuôn mặt càng đỏ lên gay gắt, hàng mi

rủ xuống, những âm thanh lí nhí thoát qua kẽ răng:

- Nàng… bị nàng phát hiện ra rồi! Cả đêm như vậy… ta không thể tĩnh tâm

tụng niệm…

 - Tôi ngẩn ngơ, ý chàng là…

 Ánh mắt tò mò lướt trên người chàng, tuy phủ kín chăn, nhưng vẫn có thể

nhận ra sự bất thường. Tôi chỉ muốn chui xuống một cái hố nào đó ngay lúc

ấy.

 Tôi biết sức chịu đựng và kìm chế của chàng là phi thường, không ai sánh

nổi, vì cả đêm chàng không hề đụng vào tôi. Nhưng phải kìm chế bản thân

suốt đêm dài như vậy, phải chăng chàng đã rất khổ sở?

 Tôi lấy hết can đảm, khẽ hỏi:

- Chàng… có muốn không?

 Chàng tròn xoe mắt nhìn tôi vẻ kinh ngạc, sau đó thì phấn chấn, hồ hởi

nhổm dậy, áp sát vào người tôi. Đôi mắt màu xám nhạt, thường ngày trầm

lắng như mặt nước hồ thu, lúc này bỗng nhiên nổi sóng. Hơi thở gấp gáp,

chàng run rẩy tìm môi tôi, nhưng nửa chừng bỗng nhiên dừng lại, đổ người

xuống, nghiêng đầu ảo não:

- Không được…

 Chàng nhắm mắt, vẻ mặt đau khổ:

- Nàng sẽ ra máu… và sẽ bị thương lần nữa…

 Tôi ngẩn người, thì ra chàng cố kìm chế không chạm vào người tôi là vì

điều này. Sao chàng có thể thuần khiết như vậy! Bảy tuổi đã xuất gia, tuy

tiếng tăm lừng lẫy khắp chốn, nhưng đó chỉ là thành tựu của chàng trong lĩnh

vực Phật học. Khi chàng bước lên bục cao, chàng là bậc danh sư lỗi lạc trong

con  mắt  của  hàng  vạn  người,  sự  thông  tuệ  của  chàng  không  ai  sánh  kịp.

Nhưng về vấn đề tình dục, chàng hầu như không có một chút kiến thức nào.

Có lẽ trong suốt ba mươi lăm năm qua, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình

cần tìm hiểu những tri thức này, cũng như cấu tạo của cơ thể phụ nữ.

- Rajiva, nhìn em đi nào!

 Tôi chống một tay ngồi lên, tay còn lại tôi xoay nhẹ cằm chàng, kéo gương

mặt chàng về phía mình.

 - Phụ nữ chỉ bị chảy máu trong lần đầu, sau đó sẽ hết. Vì vậy, chàng đừng

lo em sẽ bị thương.

 - Ngải Tình...

 Chàng không dám nhìn tôi, cánh môi run run, câu hỏi được thốt ra trong

sự gắng gượng đầy gian nan.

 - Nàng không khinh ghét ta chứ?

 - Vì sao?

 Tôi ngạc nhiên.

 - Vì lục căn của ta không thanh sạch, vì ta không thể dứt bỏ ham muốn.

 Chàng nhắm mắt lại, hàng lông mày dài không ngừng rung động.

 - Đêm qua vì sợ bản thân không kìm chế nổi, ta đã lặng lẽ ra ngoài sân

tụng kinh rất lâu. Nhưng khi trở vào phòng lại khát khao được chạm vào người

nàng. Nàng thiếp đi trên tay ta, khiến ta nhớ lại mười một năm trước khi nàng

vừa trở về, trên đường đi, nàng đã gối lên đùi ta ngủ ngon lành. Hình ảnh đó

khiến ta không sao kìm chế được ham muốn. Đêm qua ta đã tắm rửa rất nhiều

lần, nhưng cứ nằm bên cạnh nàng, trong đầu ta lại nảy sinh dục vọng ma

quái. Ta không thể nào chợp mắt nổi và cứ trằn trọc như vậy cho đến tới tận

giờ tụng kinh buổi sáng... Sợ gây tiếng động, khiến nàng thức giấc, ta ra ngoài

vườn tụng kinh. Cứ nghĩ không nhìn thấy dáng vẻ của nàng khi ngủ thì sẽ

không nảy sinh ham muốn và như thế sẽ có thể tĩnh tâm tụng niệm. Nhưng

không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, ta lại quay trở vào phòng và nằm xuống

cạnh nàng. Nàng nói đúng, ta đã kiếm cớ để đến gần nàng.

 Chàng mở mắt, cuối cùng chàng đã chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ sám

hối và nỗi khát khao đan xen trong ánh mắt chàng.

 - Ta thiếu tôn trọng nàng như vậy, nàng có khinh ghét ta không?

 Tôi mỉm cười, làm sao có thể không yêu người đàn ông này được chứ!

Chàng chỉ biết vùi đầu vào tụng niệm để xóa tan dục vọng trỗi dậy mạnh mẽ

trong lòng. Nếu không phải vì những nguyên nhân khách quan o bế, tôi tin

rằng, chàng sẽ bảo vệ sự thanh sạch của mình đến cùng. Chính vì dành trọn

tâm huyết cho lý tưởng truyền bá Phật pháp, nên dù đã ở tuổi ba mươi lăm,

chàng  vẫn  thuần  khiết,  trong  sáng  như  ngày  nào.  Hơn  hai  mươi  năm  qua

chàng không hề thay đổi. Tôi bỗng thấy xúc động, liệu thế kỷ XXI còn có người

đàn ông nào thuần khiết như chàng không?

 Tôi muốn chàng được tận hưởng sự gắn kết hài hòa của thể xác và linh

hồn, nên tôi sẽ phải chủ động. Tuy tôi cũng chỉ có những kiến thức sách vở,

nhưng dù sao cũng là con người của thế kỷ XXI, hiểu biết của tôi về vấn đề

này chắc chắn phong phú hơn chàng. Tôi nghĩ tôi có rất nhiều điểm giống

chàng, từ nhỏ đến lớn, tôi mải mê theo đuổi mục tiêu: đọc vạn cuốn sách, đi

vạn dặm đường, nên chưa từng yêu ai. Những bộ phim và những cuốn sách

cấm trẻ em dưới mười tám tuổi, tôi cũng chưa từng xem, chưa từng đọc. Bởi vì

lý tưởng đã chiếm trọn tâm trí tôi, tôi không có thời gian để nghĩ đến những

thứ khác. Có lẽ, tôi cũng có thể coi là một kẻ lập dị trong thế kỷ XXI, thế kỷ

của ham muốn và hưởng thụ lan tràn.

 Tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:

 - Tình dục không phải điều gì đáng sợ hay xấu xa. Cơ thể của người đàn

ông và người đàn bà là do tạo hóa sinh ra, tình ái cũng là một vẻ đẹp của tự

nhiên và là điều tuyệt vời nhất trên đời. Chàng khao khát em, không có nghĩa

là chàng không tôn trọng em mà vì chàng yêu em.

 Tôi ngừng lại, đắm đuối nhìn ngắm gương mặt mà tôi chưa bao giờ ngắm

thỏa ấy, khẽ hỏi:

 - Rajiva, chàng có yêu em không?

  Chàng  mở  miệng,  muốn  nói  nhưng  chẳng  thốt  được  nên  lời,  nỗi  thẹn

thùng đã nhuộm đỏ cả chiếc cổ thiên nga của chàng.

 Tôi đặt tay lên miệng chàng, lắc đầu:

 - Chàng không cần nói gì cả, từ lâu em đã biết được câu trả lời rồi... Tình

dục không phải ham muốn từ một phía, hai người yêu nhau đều khát khao

được có nhau.

 Những ngón tay tôi đùa trên hàng lông mày dài của chàng, mơn man đến

đôi mắt sâu thăm thẳm, đến sống mũi cao thanh tú và cuối cùng dừng lại trên

làn môi đang khe khẽ rung động.

 - Em yêu chàng, nên em cũng khát khao được chạm vào người chàng, Em

cũng từng có những giấc mộng yêu đương. Em cũng ham muốn chàng...

 Tôi không hiểu vì sao giọng nói của mình lại gợi cảm đến thế! Mỉm cười yêu

kiều, tôi cúi xuống hôn chàng. Hương vị mềm ướt trên làn môi chàng thấm

nhuần vào tận tim gan của tôi, chàng khẽ thốt lên một tiếng, mở rộng miệng

để tôi xâm nhập vào bên trong, rồi cùng tôi giao hòa, quấn quýt. Chàng khẽ

khép hờ đôi mắt, hàng mi rung rinh, sóng mắt xao động, tay chàng đỡ lấy lưng

tôi, áp chặt tôi vào người chàng.

 Tôi đột ngột rời môi chàng, nhìn mắt chàng dâng lên nỗi thất vọng, không

nhịn nổi cười. Tôi áp tay chàng lên má mình, khẽ nói:

 - Hãy nghe theo bản năng và mong muốn của chàng. Khoảnh khắc này,

hãy quên đi mọi thân phận, giờ đây chàng chỉ là một người đàn ông và em là

người phụ nữ của chàng. Chỉ cần chàng muốn, em sẽ không từ chối.

 - Ngải Tình...

 Chàng gọi tên tôi đầy cảm kích, vẻ do dự, chần chừ đã hoàn toàn biến

mất, chàng xoay người trùm lên mình tôi. Đáy mắt rực lửa, bờ môi nóng rẫy

lướt trên mắt, trên mũi, trên môi tôi, quấn quện đầu lưỡi tôi. Bàn tay chàng đã

đặt lên nút áo bên sườn trái của tôi, nhưng loay hoay mãi không kéo ra được.

 Chàng rời môi tôi, chăm chú quan sát cấu tạo những nút áo, vẻ ảo não,

khổ sở trên gương mặt chàng giống hệt vẻ bối rối của cậu thiếu niên Rajiva hai

mươi năm về trước. Tôi không nhịn nổi cười, một cảm giác ngọt ngào tỏa lan

khắp cơ thể tôi.

 Rốt cuộc cũng xử lý xong các nút áo, chàng tháo thắt lưng của tôi, kéo hai

tà áo sang trái sang phải. Khi bụng tôi lộ ra, dường như có cơn gió lạnh từ đâu

ùa tới, nhưng chẳng thể làm dịu đi cơ thể đang nóng bừng của tôi. Tôi thở

hổn hển, mồ hôi lăn tăn trên trán, nhưng tôi không giấu mặt đi, vì tôi muốn

được thấy biểu cảm của chàng khi chàng ngắm nhìn cơ thể tôi.

 Chàng thận trọng như nựng trên tay báu vật. Tôi vẫn mặc áo ngực. Chàng

chớp mắt hồi lâu vẫn không tìm ra cách xử lý, chàng bối rối kiếm tìm nút thắt ở

đai bên sườn tôi. Tôi xoay người lại, chàng nhìn thấy khuy áo, nhưng lần này

độ khó đã tăng lên rất nhiều so với nút áo choàng bên ngoài. Chàng thử đi thử

lại nhiều lần vẫn không thành công, nên đành ngước đôi mắt cầu cứu về phía

tôi.

 Tôi mỉm cười, nhưng bàn tay không khỏi run rẩy, tháo khuy áo xong, tay tôi

đã đẫm mồi hôi. Nhìn thấy ánh mắt chàng đổ dồn vào chỗ đó, tôi cảm thấy vô

cùng xấu hổ, lấy tay định che đi, nhưng đã bị tay chàng nhẹ nhàng kéo ra.

Bàn tay chàng run rẩy khám phá, bờ môi chàng hôn lên một bên ngực tôi.

 - Ngải Tình, nàng đẹp lắm!

 Những âm thanh khẽ khàng của sự tiếp xúc và tận hưởng khiến toàn thân

tôi run rẩy, bàn tay chàng êm ái lướt trên khắp cơ thể tôi, nụ hôn da diết trườn

trên ngực, lên đến cổ và dừng lại bên tai tôi. Khi chàng ngậm vành tai tôi, tôi

bỗng giật thót mình, vội vàng né tránh.

 - Nàng sao vậy?

 Chàng ngẩng đầu, ánh mắt tha thiết, lo lắng.

 - Không sao. Chỉ là...

 Tôi ngượng ngùng, ấp úng:

 - Chỉ là... Vành tai của em rất nhạy cảm, nếu ai đó khẽ thổi vào tai là toàn

thân em sẽ trở nên tê dại.

 Đây là lần đầu tiên tôi tiết lộ về điểm yếu của mình.

 Chàng sững người trong giây lát, sau đó thì bật cười thoải mái. Khi tiếng

cười còn chưa tắt, tôi đã thấy ánh mắt láu lỉnh của chàng (vẻ láu lỉnh mà trước

đây tôi chưa bao giờ thấy) đang thăm dò mình và giọng nói của chàng cũng

không còn trầm ấm như mọi ngày nữa:

 - Vậy thì... ta rất muốn làm một chuyện tệ hại nhất trong đời mình...

 Tôi cảm thấy có gì đó không ổn, định trốn đi, nhưng đã bị vòng tay của

chàng giữ chặt, chàng thổi hơi vào tai tôi, một luồng hơi tê buốt tựa dòng

nước giá lạnh lan từ sống lưng đến chân tôi, cảm giác buồn buồn không chịu

nổi, tôi cười lăn lộn, xin chàng buông tha. Chàng không trêu đùa tôi nữa, mỉm

cười nhìn tôi đắm đuối, vẻ yêu chiều, dịu dàng.

 Tôi vòng tay qua cổ chàng, nũng nịu:

 - Không công bằng, chàng đã thấy hết cơ thể em rồi...

 Tôi đưa mắt lướt trên người chàng:

 - Ở nơi em sống, mọi người đều đề cao nam nữ bình đẳng, bởi vậy... em

cũng muốn được ngắm chàng...

 Chàng giật mình ngẩng lên, đôi mắt tựa hồ nước sâu hun hút, bóng tôi

như chiếc thuyền nhỏ in trong hồ nước ấy. Chàng nhìn tôi một lúc lâu mới khẽ

gật đầu:

 - Ừ...

 Chàng ngồi dậy, cởi áo, mắt không rời khỏi tôi. Ánh nắng tràn vào phòng,

xuyên qua tấm màn mỏng, phủ lên làn da bánh mật của chàng, từng đường

nét trên thân hình gầy guộc của chàng hiện lên rõ rệt. Mắt tôi bám riết từng

đường nét ấy, tôi không khỏi cảm động thốt lên:

 - Rajiva, cơ thể chàng cũng rất đẹp...

 Chàng  cụp  mắt  lại,  vội  xoay  người  sang  bên,  vẻ  thẹn  thùng  hiện  trên

gương mặt đỏ bừng, càng khiến người ta phải xao lòng. Đã ở tuổi trung niên,

nhưng chàng vẫn bẽn lẽn như một cậu thiếu niên. Đứng trên bục cao thuyết

giảng kinh pháp, chàng tự tin, phấn chấn bao nhiêu, thì lúc này chàng rụt rè,

e thẹn bấy nhiêu. Trong lòng tôi không khỏi dâng lên nỗi xúc động và biết ơn

vô bờ, cảm tạ ông trời đã ban cho tôi người đàn ông tuyệt vời như vậy!

 - Không, chàng đừng né tránh...

 Tôi khẽ cất tiếng, giữ tay chàng:

 - Em muốn ngắm nhìn toàn bộ cơ thể chàng...

 - Ngải Tình...

 Ánh mắt chàng vẫn muốn trốn tránh tôi:

 - Lúc này trông ta rất tệ...

 - Chàng có thích cơ thể em không?

 Cuối cùng thì chàng đã chịu quay lại nhìn tôi, ánh mắt lướt nhẹ khắp thân

thể tôi, ngượng ngùng gật đầu:

 - Ta thích...

 Tôi mỉm cười, bàn tay xoa vuốt làn da trơn mượt của chàng, cảm nhận cơ

bắp của chàng đang căng lên dưới lòng tay mình.

 - Em cũng yêu thích cơ thể chàng, rất đẹp... Vậy nên, chàng đừng ngại,

hãy để em được ngắm chàng, đó là biểu hiện của tình yêu chàng dành cho

em...

 Chàng khẽ cắn môi, nụ cười dần tỏa rạng. Chàng xoay người về phía tôi,

gương mặt vẫn đỏ gay gắt, nhưng vẻ tự tin đã ngự trị. Đó là một cơ thể tuyệt

đẹp, nụ cười tuyệt đẹp và ngay cả sự tự tin, sẵn sàng trải bày mọi thứ ra trước

mắt tôi ấy cũng rất đẹp, tôi yêu mọi thứ thuộc về chàng...

 Chúng tôi để mình trần, ngồi đối diện nhau, tận hưởng sự vuốt ve đầy

chăm sóc của nhau. Cảm xúc từ lòng tay truyền đến trái tim tôi những đợt

sóng êm ái. Tôi hướng dẫn chàng đi vào cơ thể mình, khi chàng đột nhập, tôi

khẽ rên lên. Chàng ngừng lại, đưa mắt thăm hỏi.

 - Em không sao...

 Tôi nghĩ tôi nên nói với chàng cảm xúc của mình:

 - Chỉ vì, chưa bao giờ có được cảm xúc hân hoan thế này...

 Chàng cười sung sướng, cúi xuống hôn tôi, khẽ thì thầm bên tai tôi:

 - Ta cũng vậy...

 Thời gian không còn ý nghĩa gì nữa. Những giờ, những phút, những giây

ấy đâu có là gì. Lúc này chỉ tồn tại thước đo của sự sâu lắng. Vì tôi không còn

cô độc trên thế gian nữa, đã có một người đàn ông tồn tại thực sự, dành cho

tôi. Nhìn những giọt mồ hôi nóng hổi đổ ra từ hơi thở hổn hển của chàng, lắng

nghe những tiếng rên rỉ thỏa mãn của chàng khi vươn lên đến đỉnh cao thăng

hoa, khi hồn phách cuồng đảo, tôi đã khóc

 - Sao vậy?

 Chàng chống người lên, hơi thở vẫn gấp gáp, cuống quýt lau nước mắt cho

tôi:

 - Ta làm nàng đau phải không, ta thật có lỗi...

 - Không, đừng rời em, hãy cứ tiếp tục...

 Tôi vòng chân, vòng tay quấn chặt lấy chàng, tôi muốn tạo ra sợi dây đầy

sức sống để buộc chặt hai chúng tôi lại với nhau, tôi ghé sát tai chàng, nghẹn

ngào:

 - Không phải em đau, em thấy hạnh phúc... Không phải em buồn, em thấy

vui sướng...

 Tôi nấc lên, tôi muốn diễn tả mọi cảm xúc mà tôi có được lúc này:

 - Em rất hạnh phúc, hạnh phúc vô cùng, chưa bao giờ em thấy mình hạnh

phúc như vậy. Em và chàng, chúng ta ở trong nhau, chúng ta hòa vào làm

một. Em yêu cảm giác này...

 - Ngải Tình...

 Chàng thốt lên, rồi hôn tôi cuồng nhiệt. Mồ hôi đổ trên trán tôi, trên môi

tôi, mồ hôi theo đầu lưỡi chàng thấm vào miệng tôi. Vị mặn mặn, nồng nồng

ấy hệt như hương hoa nồng nàn tỏa bay trong sân vườn. Những nụ hôn da

diết, nồng nhiệt của chàng như gắn vào cơ thể tôi đôi cánh kỳ diệu, đẩy tôi

bay lên giữa bầu trời xanh trong, cao rộng. Tôi thỏa sức vẫy vùng, chao liệng

giữa không gian bao la, rồi sải cánh vút bay về phía mặt trời.

 Tôi thầm nghĩ, loài thiêu thân, trong khoảnh khắc lao mình vào lửa, để thân

thể bị thiêu đốt hoàn toàn ấy, phải chăng cũng cảm nhận được niềm hoan lạc

tột độ giống như tôi lúc này?

Chương 46: Cuộc sống giam cầm

Theo thói quen thường ngày, tôi đến bên một gốc lựu, khom lưng đánh

răng. Tôi mang theo bàn chải đến đây, chỉ tiếc không có kem đánh răng, vì sợ

nhiễm xạ, nên chỉ có đánh răng bằng nước muối. Tắm rửa xong, Rajiva tựa

cửa quan sát. Tôi mỉm cười với chàng, rồi ngửa cổ lên trời, súc miệng sòng

sọc.

Còn nhớ một phẩm vui mà tôi từng xem. Anh con trai hỏi bạn gái: “Lấy anh

nhé!”. Cô gái lắc đầu từ chối. Anh ta rất ngạc nhiên: “Chúng ta thân mật thế

này rồi, sao em không chịu lấy anh?”. Cô gái đáp: “Vì em không muốn đánh

răng, súc miệng trước mặt anh”.

Đúng vậy, có câu: “Kẽ sỉ có thể chết vì tri kỷ. Người con gái làm dáng vì kẻ

yêu mình” (Sử kí Tư Mã Thiên). Phụ nữ muốn mình luôn xinh đẹp trong mắt

người yêu, âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng nếu phải giống như phụ nữ Nhật

Bản, trang điểm xinh đẹp trước khi chồng thức giấc, ở nhà cũng phải ăn mặc

chải chuốt, trang điểm dịu dàng. Tôi không nghĩ như thế là đang sống, mà họ

đang xem cuộc sống như một nghề. Nếu bạn không muốn người bạn yêu nhìn

thấy bộ dang lôi thôi, lếch thếch, nhem nhuốc, thảm hại của bạn, điều đó

chứng tỏ tình yêu của bạn chưa sâu sắc và như vậy thì đừng bàn đến chuyện

sống chung. Yêu thật sự, không có nghĩa bạn phải yêu khuyết điểm của người

kia. Mà là yêu con người giản dị, chân chất đằng sau lớp trang sức màu mè

bên ngoài.

Tôi thì sao? Khi hạn nộp luận văn sắp đến, tôi không buồn rửa mặt đánh

răng, đầu bù tóc rối, ngồi ôm chiếc máy tính. Ngày cuối tuần, tôi nằm dài trên

giường, ngủ nướng cho đến khi cơn đói ập đến, khiến đầu óc tôi quay cuồng.

Mùa đông giá lạnh, tôi cắn răng nhìn đống quần áo chất cao như núi, ngâm

trong chậu giặt suốt mấy ngày liền, sau đó xử lí chúng bằng tốc độ nhanh nhất

và ẩu nhất có thể. Nhiều lúc tôi còn ngồi chồm hổm trong nhà vệ sinh, dán

mắt  vào  một  cuốn  sách  cho  đến  khi  bàn  chân  tê  dại,  muốn  đứng  dậy  mà

không đứng nổi. Liệu tôi có đủ can đảm để phô bày sự lôi thôi, lếch thếch, vẻ

thảm hại, những tật xấu đó của mình ra trước Rajiva?

Còn chàng thì sao? Khi bước xuống từ bục cao, phải chăng chàng cũng có

những thói quen xấu, không muốn bị ai phát hiện? Và liệu chàng có bằng lòng

phô bày những tật xấu đó trước mặt tôi?

Khi màn ân ái kết thúc, người ta phải đối diện với những vấn đề của cuộc

sống chung. Chúng tôi phải tìm cách điều hòa lối sống của hai con người ở hai

thời đại khác nhau, mà sự khác nhau ấy đã kéo dài suốt mấy chục năm. Phải

tìm ra cách để thích ứng với nhau, chấp nhận nhau. Mà điều này thì khó hơn

ân ái rất nhiều.

Đánh răng xong. Tôi ngước nhìn bầu trời trong xanh, trong lòng không khỏi

dâng lên những xúc cảm. Chốn lồng son này, vô hình trung đã đặt chúng tôi

vào hoàn cảnh phải suy tính đến những vấn đề của một cuộc sống chung, điều

mà trước đó chứng tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Rajiva lặng lẽ đứng bên tôi,

ngước nhìn chàng, chợt nhớ đến một chuyện, khiến tôi phì cười.

- Có chuyện gì mà nàng vui thế?

- Em muốn hỏi chàng câu này.

Tôi khoác tay chàng.

- Khi nãy, em không được thơm cho lắm, đúng không?

- Sao lại không thơm?

- Vì em chưa đánh răng…

Lúc nãy tôi đã hôn chàng khi chưa đánh răng, không biết chàng có để ý

chuyện này không.

- Không sao cả…

Chàng tủm tỉm cười, ngập ngừng:

- Hôm đó, ta say rượu, còn nôn cả ra nữa, chắc chắn là khó ngửi hơn nhiều.

Nàng có khó chịu không?

- Vâng, đúng là rất khó ngửi.

Tôi nghiêng đầu nhớ lại:

- Nhưng khi ấy em chẳng bận tâm chuyện đó.

Tôi nhìn chàng, ánh nắng rực rỡ mùa hạ tỏa rạng gương mặt chàng, nụ

cười ấy đã quét sạch những điều bất an, trăn trở trong lòng tôi. Hai chúng tôi

sẽ hạnh phúc, phải không? Cho dù thói quen sinh hoạt và thói quen ăn uống

của chúng tôi khác xa nhau một trời một vực, cho dù quan niệm sống của

chúng tôi cách biệt nhau hàng ngàn năm thời gian, nhưng sợi dây tình yêu kỳ

diệu, không có gì có thể phá vỡ nổi, sẽ gắn kết chúng tôi lại. Chàng, là người

em muốn ôm hôn ngay cả khi chưa đánh răng, là người em sẵn sàng phô bày

vẻ lôi thôi, lếch thếch của mình, là người em muốn ngày rộng tháng dài sẽ

thấy hết những tật xấu của em, là người sẽ nỗ lực kiếm tìm điểm tương đồng,

để cân bằng đời sống của hai chúng ta.

Và điểm cân bằng ấy, bắt đầu từ nhu cầu cơ bản nhất của con người – giấc

ngủ.

Chúng tôi vừa mới bắt đàu cuộc sống chung, nên vẫn còn rất nhiều trở ngại

về tâm lý. Đêm thứ hai, tôi đã thử ngủ trên chiếc giường lớn lộng lẫy, nhường

giường  nhỏ  cho  chàng.  Nhưng  hai  chúng  tôi  trằn  trọc  mãi  không  sao  ngủ

được. sau cùng không biết quỷ thầy xui khiến thế nào, tôi đã trở lại chiếc

giường nhỏ với chàng. Kể từ hôm đó, chúng tôi không tiếp tục những giằng có

vô nghĩa ấy nữa, mà mặc nhiên nằm cạnh nhau.

Bởi vậy, vòng một, tình yêu chiến thắng!

Chúng tôi đều khao khát cơ thể của đối phương. Nhưng Rajiva đã sống hai

mươi tám năm nơi cửa Phật. Sắc dục vốn là điều đại kị của người tu hành.

Quan niệm đó đã ăn sâu bắt rễ trong tâm trí họ. Bởi vậy, dù chúng tôi cùng

nằm trên một chiếc giường và dù ham muốn của chàng hết sức mãnh liệt,

chàng vẫn không nguôi đấu tranh tư tưởng, nội tâm giằng xé, mâu thuẫn. Tuy

vậy, sau cùng thì lí trí vẫn phải đầu hàng cơ thể. Thời gian khắc chế bản thân

của chàng càng ngày càng ngắn lại. Hết lần này đến lần khác lí trí phải giương

cờ  đầu  hàng  dục  vọng.  Chí  ít,  sau  mười  ngày  sống  chung,  tôi  nhận  thấy,

chàng đã dần đón nhận và chấp nhận tình dục theo cách riêng của chàng và

hoan hỉ tận hưởng nó.

Bởi vậy, vòng hai, tình yêu chiến thắng!

Sau những ngày đam mê, quấn quít, chàng dường như không mấy mặn

mà. Tôi có thể hiểu điều này. Vì chàng chưa khi nào dành thời gian tìm hiểu về

phụ nữ nên chàng không biết rằng, khi ân ái, điều người phụ nữ khao khát

nhất, không phải là quá trình, mà là cảm giác gắn kết giữa hai con người, hai

linh hồn. Những tri thức này, tôi sẽ hướng dẫn chàng dần dần. Nhưng, chàng

lại  muốn  nằm  riêng  một  mình  một  chăn,  điều  này  khiến  tôi  rất  bực  mình.

Chàng nói rằng hơn ba mươi năm qua đã quen ngủ một mình, nay có thêm tôi

ở bên, chàng e ngại dáng vẻ khi ngủ của chàng ảnh hưởng đến tôi. Thế là tôi

lại phải kiên nhẫn giải thích với chàng, hai người yêu nhau, được gối đầu bên

nhau mang lại cảm giác hạnh phúc. Tôi cũng đã ngủ một mình hơn hai mươi

năm và bộ dạng khi ngủ cũng rất khó coi. Nhưng tôi rất thích câu nói “sống

chung tổ, chết chung mộ”. Sự gần gũi ấy cho tôi cảm giác, tôi đã thực sự hòa

nhập và trở thành một phần không thể tách rời trong đời sống của chàng.

Bởi vậy, vòng ba, Ngải Tình chiến thắng!

Kể từ khi cuộc tranh luận nho nhỏ đó, chúng tôi ôm nhau ngủ mỗi đêm.

Nhưng một vấn đề khác lại nảy sinh. Điệu bộ của chàng khi ngủ quả rất khó

coi. Chàng thích nằm co người, giống hệt một con tôm khổng lồ. Trong khi tôi

lại rất thích được nép sát vào người chàng, để cảm nhận hơi ấm của cơ thể

chàng. Vậy là chiếc giường đã rất hẹp, hai chúng tôi lại co cụm vào góc nhỏ,

khiến nửa đêm, tôi thấy toàn thân tê lạnh, thì ra chàng đã cuốn hết chăn về

phía mình. Tôi ra sức kéo lại, nhưng dù đã chìm trong giấc ngủ say sưa, chàng

vẫn nhất quyết không chịu buông. Sau vài lần diễn ra cuộc chiến giành chăn,

chàng đã phải tìm cách giải quyết vấn đề này. Chàng cố gằng nằm thẳng

người, như thế, tôi vừa có thể thoải mái tự vào vai chàng, lại vừa có thể tránh

được tình trạng chăn bị cuốn đi. Chỉ khổ cho chàng, mỗi sáng tỉnh dậy lại phải

xoa bóp hai vai, vận động xương cổ cho bớt tê dại. Tôi thấy xót xa, nhưng

chàng chỉ cười dịu dàng, nói rằng: sẽ quen thôi!

Bởi vậy, vòng bốn, Ngải Tình chiến thắng!

Vẫn còn một vấn đề nữa cần điều chỉnh, đó là thời gian ngủ nghỉ.

Giống như nhiều bạn bè ở thế kỷ XXI, tôi đã quen thức khuya dậy muộn. Có

lúc tôi thức trắng đêm để làm luận văn. Nhưng khi trở về thời cổ đại, thói quen

sinh hoạt làm việc và nghỉ ngơi của tôi có nhiều thay đổi. tôi đi ngủ từ mười

giờ hoặc mười một giờ, bởi vì, tôi chỉ có thể ghi chép lại nội dung công việc

khảo sát và buổi tối. Nhưng tật ngủ nướng thì vẫn không sửa được. Bảy, tám

giờ sáng vào thời đại này đã là rất muộn rồi, nhưng tôi vẫn ngủ thêm ngủ

nếm, vớt vát được chút nào hay chút ấy. Rajiva đã quen với thời gian biểu:

bảy, tám giờ tối đi ngủ, bốn giờ sáng thức giấc. Mấy đêm đầu chung sống,

Rajiva ngủ trước, tôi ngồi viết nhật ký đến hơn mười giờ. Nhưng tôi nhận thấy,

khi tôi lên giường ngủ, chàng vẫn còn thức. Gặng hỏi mãi, chàng mới mới nói

vì chàng rất mẫn cảm với ánh sáng và tiếng động, nên phải chờ khi tôi tắt đèn

đi ngủ, chàng mới ngủ yên. Để đảm bảo chất lượng giấc ngủ cho chàng, tôi

đành theo chàng đi ngủ khi trời vừa sẩm tối. Rồi tôi xót xa phát hiện ra rằng,

mình chẳng thể tiếp tục làm con mèo lười được nữa. Bốn giờ sáng, Rajiva thức

dậy và đặt một nụ hôn nhẹ lên trán tôi là tôi liền tỉnh giấc, ngủ thêm sẽ nhức

đầu. Sau đó thì chàng sẽ vừa tụng kinh vừa kinh ngạc khi thấy tôi tập thể dục

buổi sáng, chạy huỳnh huỵch, thở hồng hộc trong sân.

Tôi bắt đầu học theo người cổ đại. thức giấc khi mặt trời mọc và lên giường

khi mặt trời lặn. Tự động viên, rồi sẽ quen thôi!

Bởi vậy, vòng năm. Rajiva chiến thắng!

Về thói quen sinh hoạt, cả hai chúng tôi đều cố gắng thích nghi với sự tồn

tại của người kia, quan sát lối sống của người kia một cách hiếu kì, cố gắng hi

sinh một số nhu cầu và nguyện vọng cá nhân mình vì người kia. Tôi thấy rất

hài lòng với cuộc sống chung. Còn Rajiva, tôi cũng có thể cảm nhận được niềm

hân hoan của chàng, những bỡ ngỡ, ngạc nhiên của chàng và những thay đổi

mau lẹ trong thái độ tiếp nhận sự xuất hiện của một người khác ở bên cạnh

mình. Chúng tôi đều đang nỗ lực tạo dựng thế giới của hai người.

Nhưng, đó chưa phải là toàn bộ cuộc sống. Chúng tôi vẫn còn một vấn đề

nữa  cần  giải  quyết  là  lại  là  vấn  đề  vô  cùng  bức  thiết:  chúng  tôi  sẽ  làm  gì

những lúc rảnh rỗi trong thời gian bị giam lỏng tại đay? Nếu không bị giam giữ,

chắc chắn tôi sẽ ra ngoài vào ban ngày để tiến hành công việc khảo sát. Mọi

khung cảnh thuộc về đời sống cổ đại, từ ăn ở cho đến đi lại, đều có thể trở

thành nội dung khảo sát của tôi. Còn Rajiva, chàng cũng có rất nhiều việc cần

giải quyết khi ở trong chùa. Chỉ bảo đệ tử, giảng kinh thuyết pháp, truyền thụ

giáo láy Phật pháp; giao lưu, luận chiến với các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, Kabul,

Tây vực hay các vùng khác của trung nguyên xa xôi, truyền bá rộng rãi giáo lý

Đại Thừa; đi sâu tìm hiểu đời sống của người dân, tuyên truyền Phật pháp để

ngày càng nhiều người hướng thiện, tín Phật.

Nhưng chiếc lồng son này đã đảo lộn đời sống thường nhật của chúng tôi.

Đôi lúc ánh mắt chàng nhìn tôi vương chút buồn bã, đôi lúc thấy chàng đứng

giữa vườn hoa ngát hương, lặng lẽ ngước lên khoảng không bao la rất lâu, tôi

hiểu rằng, tôi phải tạo ra công việc gì đó cho chàng.

Vậy nên, một ngày kia. Sau khi kết thúc bữa sáng, tôi kéo chàng đến bên

bàn đọc sách, sau đó lôi giấy bút trong ba lô ra trước sự kinh ngạc của chàng.

- Cơm nước no nê rồi, bây giờ phải làm việc thôi!

- Việc gì vậy?

- Chúng ta đang trong cảnh tù đày, phải nghĩ ra một công việc gì đó để

làm, nếu không sẽ rất buồn chán. Bây giờ, chàng hãy chép lại kinh văn, sau đó

suy nghĩ xem nên dịch sang tiếng Hán như thế nào.

- Dịch sang tiếng Hán ư?

- Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, mọi thư tịch đều được chép bằng

tiếng Phạn. Nếu muốn truyền bá rộng rãi Phật giáo đến Trung nguyên, chàng

phải dịch sang tiếng Hán để người Hán có thể đọc và hiểu được.

Tôi mỉm cười giải thích:

- Hầu hết các bộ kinh Phật được sử dụng ở Trung Nguyên hiện nay đều

được dịch từ các ngôn ngữ cả các quốc gia khác nhau ở Tây Vực. Trong quá

trình  chuyển  dịch  từ  tiếng  Phạn  sang  ngôn  ngữ  địa  phương  Tây  Vực,  ngữ

nghĩa của kính văn vốn đã không còn trọn vẹn, sau đó lại được chuyển dịch lần

hai sang tiếng Hán, mức độ khác biệt so với nguyên nghĩa lại càng xa hơn. Sai

sót trong quá tình dịch thuật, tam sao thất bản, khiến cho câu chữ trở nên

cong vênh, cứng nhắc, ảnh hưởng rất lớn đến việc tuyên truyền giáo lý Phật

pháp… Cả hai ngôn ngữ tiếng Phạn và tiếng Hán đều rất phức tạp. Các tăng sĩ

từ Thiên Trúc và Tây vực đến Trung Nguyên truyền đạo, muốn phiên dịch kinh

Phật đều cần đến sự giúp sức của tăng sĩ Tây Nguyên. Nghe câu đoán ý, dù có

thể bảo lưu nguyên nghĩa, nhưng lại mất đi ngữ điệu, vần vè. Cho đến nay,

vẫn chưa có ai tinh thông cả hai ngôn ngữ này để có thể thay đổi tình hình.

Rajiva, một giáo phái muốn được lưu truyền rộng khắp, trước hết phải làm cho

càng nhiều người đọc được các giáo lý của giáo phái đó càng tốt. Chàng sẽ là

người thay đổi phương pháp dịch từng câu từng chữ cứng nhắc, thậm chí dịch

sai, đang diễn ra phổ biến hiện nay.

Ánh mắt chàng bừng sáng, nhìn tôi chăm chú, không giấu giếm sự ngưỡng

mộ. Chàng đã hiểu, muốn truyền bá đạo Phật đến Trung Nguyên, việc phiên

dịch những bộ kinh văn sang tiếng Hán với độ chính xác cao. Lại dễ nghe dễ

hiểu có tầm quan trọng như thế nào.

- Chỉ e trình độ Hán ngữ có hạn của ta chẳng thể cho ra đời những bản

dịch chuẩn xác và thuận tai được.

Chàng nắm lấy tai tôi, ánh mắt chứa chan kì vọng.

- Ngải Tình, giúp ta nhé!

Tôi lắc đầu, xấu hổ. Tôi không phải tín đồ Phật giáo, những kinh văn đó, tôi

chỉ nhìn thôi đã thấy hoa mắt chóng mặt. Tuy nhiên, kiến thức mà tôi có,

không phải không giúp ích gì cho công việc dịch thuật của Rajiva. Hơn nữa lại

được  làm  việc  cùng  chàng,  điều  này  khiến  tôi  vui  hơn  tất  thảy.  Chưa  biết

chừng, tôi cũng là một trong những dịch giả của bộ kinh văn đầu tay của

Rajiva ấy chứ! Những thông tin vụn vặt thế này, rất có thể đã bị lãng quên

hoặc lắng sâu trong dòng sông lịch sử và không ai biết được thực hư ra sao!

- Vâng, chúng ta có thể luyện tập dần dần, bắt đầu từ bộ kinh văn đơn giản

nhất.

- Bộ kinh văn đơn giản nhất?

Chàng đăm chiêu suy tư, rốt cuộc là bộ kinh văn nào đây?

- Rajiva, chàng biết cuốn “Duy Ma Cật kinh” có tên gọi tương ứng với trong

tiếng Phạn là gì không?

Tôi hỏi chàng, bởi vì tôi không biết tiếng Phạn gọi thế nào. “Duy Ma Cật” là

tên gọi phiên âm và chính chàng là người dịch thành tên gọi này, nên có lẽ

chàng sẽ đoán ra được dựa vào phát âm của tôi.

Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có, thông hiểu Phật pháp, nhiều vị bồ tát từng

đến thỉnh giáo ngài.

Cuốn kinh này làm một trong những tác phẩm dịch thật quan trọng của

Rajiva, có thể xem là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo

Địa Thừa, bên cạnh “Địa Bát Nhã kinh”. Cuốn kinh này có sức ảnh hưởng rất

lớn đối với người Hán ở Trung Nguyên. Bởi vì “tu tại gia” đã trở thành một trào

lưu phổ biến ở đất Hán. Văn hóa Trung Nguyên coi trọng hiếu đạo: “Trong ba

tội bất hiếu, không có con nỗi dõi là tội lớn nhất” (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi

đại). Việc xuất gia tu hành đã gây nên mỗi xung đột với luân thường đạo lý và

lễ giáo truyền thống của Trung Nguyên. Bên cạnh đó, xuất gia có nghĩa là phải

từ bỏ rất nhiều lạc thú của cuộc đời, điều này đối với người Hán mà nói, sẽ là

một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Bởi vậy, trong mắt các tín đồ Phật giáo

người Hán, một người vừa có thể tận hưởng vinh hoa phú quí của đời sống

nhân gian, vừa có thể đạt được những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực Phật

học như Duy Ma Cật, một tấm gương sáng để noi theo.

- A, là bộ kinh văn này!

- Rajiva đọc lên mấy từ tiếng Phạn, cách phát âm rất giống nhau.

- Nhưng bộ kinh văn này không hề đơn giản!

Tôi chỉ cười không đáp. Chàng dịu dàng nắm tay tôi, cất giọng trầm ấm:

- Ngải Tình, ta hiểu ý nàng. Nàng muốn mượn gương đại trí của Duy Ma Cật

để khuyên nhủ ta đúng không?

Chàng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Trầm tư giây lát, rồi ngẩng lên

nhìn tôi, ánh mắt rạng ngời vẻ thông tuệ:

- Bồ Tát từng hỏi Duy Ma Cật: “Ngài là một đại Bồ Tát, nhưng lại có gia đình

vợ con, liệu ngài có được thảnh thơi?” Duy Ma Cật đáp rằng: “Mẹ ta là trí tuệ

chói ngời, cha ta cứu độ chúng sinh, vợ ta là niềm vui tu hành, con gái ta là

đại diện của lòng từ bi, con trai ta là đại diện của tính thiện. Ta có gia đình,

nhưng cửa nhà ta được dựng lên bởi Phật tín. Đệ tử của ta là mọi chúng sinh.

Bạn bè ta là các giáo phái tu hành khác nhau. Ngay cả các ca kỹ quanh ta

cũng là những sứ giả của công cuộc giáo hóa, thu phục chúng sinh”.

Tôi mỉm cười gật đầu. Quả nhiên, chỉ cần nhắc đến cuốn kinh văn này,

Rajiva sẽ hiểu được ý định của tôi.

- Rajiva, Duy Ma Cật có vợ con và sống cuộc đời thế tục, nhưng ông vẫn lưu

danh “không tì vết” và đạt được sự giải thoát.

Ánh mắt chàng rực sáng, nhưng vương chút thắc mắc:

- Ngải Tình, nàng biết “Duy Ma Cật” nghĩa là “không tì vết” từ khi nào vậy?

Tôi lại mắc bệnh “chưa đẻ đã đặt tên” rồi! Huyền Trang cũng từng dịch bộ

kinh  văn  này,  nhưng  ngài  đặt  tên  sách  là  “Thuyết  vô  cấu  xưng  kinh[29]”.

Nhưng tôi hiểu được ý nghĩa tên tiếng Phạn của Duy Ma Cật là nhờ vào Vương

Duy[30]. Bởi vì Vương Duy rất sùng bái Duy Ma Cật. Ông tên Duy, tự “Ma Cật”

(chính là mượn tên gọi của Duy Ma Cật để đặt tên cho mình). Tập thơ của ông

có tên “Vương Ma Cật tập”. Nhưng Vương Duy không hiểu tiếng Phạn. Ông

không biết rằng, “Duy” trong tiếng Phạn nghĩa là “không có”, “Ma” nghĩa là

“vết bẩn”, còn “Cật” nghĩa là “đồng đều”. Như vậy, Vương Duy nghĩa là Vương

không có, tự “Ma Cật” tức là bẩn đều, bẩn toàn bộ. Khi đọc đến đoạn giải

nghĩa trên đây của Tiền Huyền Trung trong cuốn “Huyền Trang Tây du ký” tôi

đã cười lăn cười bò. Vì thế, tôi đã nhớ rất kỹ biệt danh “không tỳ vết” này.

- Ngải Tình, nàng không biết tiếng Phạn, nhưng lại hiểu được một số ý

nghĩa tiếng Phạn trong kinh Phật. Nàng chưa từng đến Kabul, Khotan, nhưng

lại biết ở đó có những Phật tích gì. Dường như nàng có thể biết trước được

một vài điều trong tương lai, nhưng lại không thể mô tả tường tận. Hai mươi

năm qua, dung mạo của nàng không hề thay đổi, ta tin nàng chính là tiên nữ.

Nhưng vì sao tiên nữ lại hiểu biết nửa vời như vậy. Lẽ ra tiên trên trời thì phải

thông tỏ mọi điều, biết trước mọi điều chứ? Hay là…

Chàng ôm vai tôi, mỉm cười đầy ý tứ:

- Vì nàng lười nhác, bỏ bê việc tu hành, nên quyền năng yếu kém?

Không ngờ, trí tưởng tượng của Rajiva lại phong phú đến vậy. Chàng đã lập

tức suy luận ra hình ảnh một nàng tiên lười nhác dựa trên bản tính của tôi.

- Rajiva, em không phải tiên nữ…

Chàng lắc đầu, ngắt lời tôi:

- Ngải Tình, mối nghi hoặc này đã quẩn quanh trong đầu ta suốt hơn hai

mươi năm qua. Nhưng tiết lộ thiên cơ là một trong trọng tội của tiên giới. Thế

nên, ta tuyệt đối không ép nàng nói ra sự thật đâu.

-  Rajiva,  chàng  là  người  thân  thiết  nhất  của  em,  em  không  muốn  giấu

chàng thân thế của mình. Nhưng xin hãy cho em thêm thời gian, được không?

Tôi ngước lên nhìn đôi mắt sâu thăm thẳm của chàng, trãi bày lòng mình:

Em cần suy nghĩ thấu đáo xem nên giải thích với chàng như thế nào.

- Không, không cần đâu…

Chàng đưa tay ra kéo tôi vào lòng.

- Ta biết, Phật tổ thương ta, đã gửi nàng đến để cứu ta thoát khỏi kiếp nạn

này.

Trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi cảm nhận được âm thanh sống động

từ nhịp đập mạnh mẽ của trái tim chàng. Tôi chắc chắn chàng đã bắt đầu nghi

ngờ  về  thân  thế  đặc  biệt  của  tôi  từ  năm  chàng  mười  ba  tuổi.  Nhưng  dẫu

chàng có thông minh tuyệt đỉnh đến đâu, cũng vẫn chịu sự giới hạn của thời

đại, lịch sử. Chàng đã phân tích và lý giải sự tồn tại của tôi bằng cách riêng

của mình và hình ảnh tiên nữ là cách giải thích hợp lý nhất. Nhưng tôi yêu

chàng, tôi muốn sống trọn đời bên chàng, tôi không nên giấu chàng bất cứ

điều gì. Có lẽ đã đến lúc tôi nên nói sự thật với chàng. Nhưng, phải nói thế nào

đây? Liệu chàng có thể chấp nhận lai lịch ly kỳ của tôi không?

- Rajiva…

Tôi mân mê chiếc vòng trên cánh tay chàng, chuỗi hạt đã bạt màu và mòn

vỡ theo năm tháng, nhưng vẫn tỏa mùi đàn hương ngào ngạt.

Chúng ta làm việc đi thôi!

Chương 47: Điềm báo

Chúng tôi đã làm việc rất chăm chỉ. Đầu tiên, Rajiva chép lại một đoạn kinh

văn bằng tiếng Phạn, sau đó chúng tôi cùng thảo luận, cân nhắc ý nghĩa và

cách dịch từng câu, từng chữ. Có lúc, chúng tôi phải mất thời gian một ngày

chỉ để giải nghĩa một từ. Tốc độ dịch không nhanh, vì mặc dù Rajiva có thể

giao tiếp lưu loát, nhưng chữ Hán và đặc biệt là cách hành văn của Hán ngữ

cổ đại 1650 năm về trước không dễ nắm bắt. Ngay cả bản thân tôi, tuy có thể

đọc được các thư tịch cổ, nhưng chưa chắc đã viết được và điều này gây nên

những trở ngại rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi đâu cần phải vội. Sau này, dưới

sự trợ giúp của Diêu Hưng, Rajiva sẽ lập ra một đoàn thể dịch thuật quy mô

rất lớn với hàng nghìn người tham gia. Theo tài liệu lịch sử, chỉ riêng cuốn

“Duy ma Cật Kính” đã có đến hơn một nghìn hai trăm người tham gia dịch

thuật. Việc chúng tôi làm hiện nay chỉ là bước tập dượt, chuẩn bị nền tảng cho

sự nghiệp dịch thuật của Rajiva sau này. Không có bất cứ áp lực nào, chúng

tôi say sưa làm việc trong niềm hân hoan vì sớm tối được ở bên nhau. Thường

đến khi các cung nữ mang đồ ăn tới, rồi chăm đèn, chúng tôi mới nhận ra thời

gian đã trôi nhanh thế nào.

Một phần khác không thể thiếu trong cuộc sống chung của chúng tôi đó là:

tình dục. Khi đã trở nên quen thuộc cơ thể của người kia và mức độ phản ứng

tăng dần, chúng tôi ngày càng hòa hợp hơn. Vẫn tồn tại những giằng xé, mâu

thuẫn và đấu tranh nội tâm gây gắt, nhưng, ngoài việc là một tín đồ Phật giáo

trung thành, Rajiva còn là một người đàn ông, sở hữu cơ thể và những ham

muốn của một người đàn ông thực sự. Cuộc tranh đấu của chàng lần nào

cũng kết thúc bằng việc đầu hàng cơ thể. Tình yêu đã chiến thắng, chí ít là

chiến thắng tôn giáo. Nhưng có thể chiến thắng bao lâu, tôi không thể biết

trước. Kể từ thời đại Phật Đà, Phật giáo đã nghiêm khắc loại bỏ ái dục. Tôi

chẳng thể thay đổi quan niệm về giá trị và nhân sinh đã hình thành vững chắc

và không gì có thể lay chuyển từ khi Rajiva lên bảy tuổi. Thời gian thờ phụng

Phật tổ của chàng càng dài hơn thời gian yêu tôi nhiều lần. Tôi không muốn

tình yêu sẽ tước bỏ đi lí tưởng của chàng. Tôi chỉ mong có thể cảm hóa được

chàng để chàng thấy rằng, tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại.

Nhưng, liệu tình yêu và lí tưởng có thể cùng tồn tại?

Giống như một mệnh đề triết học thiếu luận cứ đề chứng minh. Mâu thuẫn

này vẫn luôn tồn tại, dù tôi có muốn thừa nhận hay không. Chúng tôi có thể

tạm quên đi điều đó khi vẫn đang trong cảnh giam cầm này, nhưng sau khi

được tự do, chúng tôi sẽ phải đối diện với bia miệng thế gian ra sao? Tôi cười

buồn, thành ra chốn lồng son này lại có cái hay của nó.

Khi ngồi viết nhật ký, tôi cứ luôn tự hỏi, vì sao Phật giáo ra sức lên án tình

dục và mối quan hệ giữa tôn giáo và tình dục, rốt cuộc là thế nào?

Tôn giáo nguyên thủy thừa nhận tình dục, thậm chí, sùng bái tình dục, vì

muốn con người được hưởng niềm hoan lạc mà tự nhiên ban phát. Hoạt động

tình dục trở thành nghi lễ cao quý và thần bí nhất trong các nghi thức của tôn

giáo  nguyên  thủy.  Nguyên  nhân  chính  ở  chỗ,  tôn  giáo  nguyên  thủy  ra  đời

trong bối cảnh sản xuất của con người hết sức lạc hậu, điều kiện sống lại vô

cùng khắc nghiệt. Quan hệ tình dục giúp chủng tộc ngày càng đông đúc, làm

tăng thêm số nhân lực cho các bộ lạc.

Rồi cùng với sự phát triển của sức sản xuất, khi nhu cầu vật chất không thể

thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, thì tôn giáo với nền tảng lí luận đã

được hệ thống hóa ra đời. Hầu hết các tôn giáo đều phủ nhận hiện tại và sùng

bái tương lai, thêm vào đó, theo đuổi sự vĩnh hằng đã trở thành nguyên tắc

căn bản của các tôn giáo. Thế nhưng, sinh hoạt tình dục mang lại cho con

người niềm hoan lạc không gì có thể thay thế. Bởi vậy, nếu khẳng định hoặc

thừa nhận hoạt động này, tức là khẳng định và thừa nhận niềm vui của hiện

tại, mà như thế sẽ ảnh hưởng đến tín ngưỡng và lòng trung thành đối với cách

thuyết pháp nhằm mục đích cứu rỗi linh hồn con người.

Tôn  giáo  luôn  sùng  bái  thần  linh  và  thần  linh  thì  luôn  cao  quý  hơn  con

người phàm tục. Tôn giáo đề cao đời sống tinh thần, trong khi người phàm

trần lại thường chìm đắm trong niềm vui ẩm thực và nhục dục. Tôn giáo không

thể  đứng  ngang  hàng  với  đám  người  đó.  Muốn  đưa  tôn  giáo  lên  tầm  cao,

thuần túy thuộc về thế giới tinh thần cao quý, nhất thiết phải phủ định những

hoan lạc của đời sống thực tại, đẩy nhu cầu thể xác lên tầm cao của đời sống

tinh thần, khiến nó thăng hoa, để con người sùng bái và theo đuổi nó.

Ấn Độ giáo nghiêm cấm hoạt động tình dục và đề cao việc ăn chay. Nhưng

ở Khajuraho lại có một ngôi miếu thờ thần tình dục rất nổi tiếng. Trong ngôi

miếu thiêng ngàn năm tuổi ấy có hàng vạn bức điêu khắc phóng tác đủ mọi tư

thế làm tình khác nhau. Đó là những tư thế mà người bình thường không thể

tạo ra và chỉ có thần tiên trên trời mới được hưởng niềm lạc thú từ những tư

thế đó mang lại. Ấn Độ giáo có một câu chuyện như sau: Chàng trai trẻ nọ

đắm chìm trong hoan lạc trần thế, chẳng màng tu đạo. Thiên thần đến trách

tội, chàng trai đáp, anh ta đã được hưởng thụ mọi thứ trên đời, không cần khổ

công tu hành để được lên thiên đàng nữa. Thiên thần bèn đưa anh ta lên

thiên đàng, để anh ta được thấy những mỹ nữ tuyệt sắc, thưởng thức các

món sơn hào hải vị và vô vàn điều kỳ diệu tuyệt vời khác mà chốn trần gian

không có được. Sau khi trở lại nhân gian, anh ta không còn cảm hứng với phụ

nữ chốn trần tục cũng như các món ăn tầm thường thuộc về cõi người nữa.

Thế là, anh ta quyết tâm tu đạo, sau khi chết, anh ta đã được lên chốn thiên

đường mơ ước.

- Ngày nào cũng thấy nàng ghi chép, nàng ghi chép gì vậy?

Gắp cuốn sổ tay, tôi nhìn Rajiva, nở nụ cười rạng rỡ.

- Ghi lại những cảm xúc của em. Nếu một ngày kia phải xa chàng, những

dòng chữ này sẽ nhắc em nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào khi được ở bên

chàng.

- Ngải Tình, chúng ta sẽ không xa nhau…

Toàn thân chàng run rẩy, vòng tay xiết chặt tôi tựa như người đang chới với

ngụp lặn giữa biển nước, ghì chặt lấy thanh gỗ cứu mạng vậy. Cằm chàng đặt

trên vai tôi, má chàng kề sát cổ tôi, những sợi râu lún phún cọ vào da, ran

rát…

Có thể như thế thật ư? Vì sao tôi cứ luôn có linh cảm không lành? Rajiva,

chàng thông tuệ hơn em, có phải chàng đã sớm dự cảm được dấu hiệu của

phong ba sắp ập đến…

- Râu mọc dài rồi đó, để em giúp chàng.

Điềm báo của tai ương đã đến với chúng tôi sau hai mươi ngày bị giam

lỏng. Lữ Quang muốn gặp Rajiva. Tôi đòi đi theo, nhưng chàng không chịu, lời

chàng khiến tôi tiêu tan ý định:

- Ngải Tình, nàng muốn Lữ Quang biết nàng quan trọng với ta như thế nào

sao?

Nhìn chàng hiên ngang bước đi, tôi không nguôi lo lắng, sợ hãi, mắt tôi giật

liên hồi. Tôi có thể đoán biết mục đích của cuộc gặp này: Lữ Quang muốn kiểm

tra xem có phải cuộc sống xa hoa, no đủ đã bào mòn ý chí của Rajiva. Tôi cũng

có thể đoán được kết cục của buổi gặp này: Rajiva vẫn kiên quyết không thừa

nhận Lữ Quang. Và tôi biết rõ hậu quả của sự từ chối ấy. Lữ Quang sẽ hạ nhục

Rajiva trước đám đông để hạ thấp quyền uy thần thánh của chàng đối với dân

chúng Khâu Từ.

Không biết đã chờ đợi bao lâu, khi chàng xuất hiện tại ngoài cửa cung điện

với những bước đi nặng nề và khuôn mặt nhợt nhạt, trái tim tôi như tan nát…

- Chàng kiên quyết từ chối, phải không?

Rajiva ngẩng lên, vẻ mệt mỏi, rã rời…

- Đừng lo, ta không sao…

Tôi đưa mắt nhìn quanh một lượt cung điện xa hoa lộng lẫy, chiến lồng son

giam cầm chúng tôi suốt hai mưới ngày qua.

- Chuỗi ngày nhàn hạ, no đủ sắp kết thúc rồi…

Rồi quay lại nhìn Rajiva, tôi chậm rãi nói:

- Nếu chàng vẫn kiên trì chống cự, ông ta sẽ hết kiên nhẫn, đến lúc ấy, sẽ

chỉ còn một con đường.

Khuôn mặt chàng bỗng nhiên tái nhợt. Chàng có thể đoán ra chiêu thức

cuối cùng của Lữ Quang không khó khăn gì.

- Nếu không thể lợi dụng chàng, ông ta sẽ nghĩ đủ mọi cách để hủy hoại

danh tiếng của chàng, hạ thấp vị thế của chàng trong lòng dân chúng Tây

vực. Như thế, sức mạnh hiệu triệu của chàng sẽ mất đi và không còn là mối đe

dọa đối với ông ta nữa.

- Ngải Tình, những điều này, ta đều đã nghĩ tới. Nhưng nếu ta chịu khuất

phục, hậu quả sẽ ra sao?

Chàng ngước mặt nhìn bầu trời xanh trong ngoài cửa sổ, gương mặt tuấn

tú đượm vẻ u buồn.

- Trăm họ sẽ rơi vào cảnh lầm than, tai ương và chết chóc. Thà một mình ta

chịu nhục, còn hơn nối giáo cho giặc.

- Ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên trước mặt nhiều người, để

chàng ngã ngựa hết lần này đến lần khác, làm trò cười cho thiên hạ.

- Chỉ là sự đày đọa về thể xác, có gì đáng sợ đâu!

Ánh mắt như sóng nước hồ thu nhìn tôi, nụ cười tỏa rạng trên môi:

- Ngải Tình, nàng lại vì ta mà tiết lộ thiên cơ rồi, không sợ Phật tổ trách tội

ư?

- Em cũng chẳng còn bí mật nào để tiết lộ thêm nữa.

Mắt tôi đã đỏ hoe, nghĩ đến sự tra tấn đó mà lòng đau như cắt. Nhưng vì

sao sử sách chỉ ghi chép vài dòng giản lược như vậy, giá mà chi tiết hơn, tôi sẽ

có thể giúp chàng đề phòng.

- Rajiva, em chỉ biết ông ta sẽ bắt chàng cưỡi ngựa ác, bò điên, nhưng em

không biết xảy ra khi nào và ở đâu. Em cũng không biết ông ta còn sử dụng

thủ đoạn tàn bạo gì với chàng nữa.

- Đừng lo, đó không phải điều khiến ta sợ hãi…

Tôi ngừng lại, ngước nhìn chàng. Vậy chàng lo sợ điều gì? Chàng tránh né

ánh mắt của tôi, đăm đắm nhìn lên bầu trời xanh ngoài của sổ. Thấp thoáng

vài cánh chim bay lượn trong không trung, tự do phơi phới. Không biết khi nào

chúng tôi mới có thể thoát khỏi sự trói buộc? Không phải chỉ là sự trói buộc về

mặt thể xác, mà quan trọng hơn là sự trói buộc về tâm tình của cả hai người.

Những ngày sau đó, cuộc sống trở nên ảm đạm hơn. Chúng tôi chẳng thể

toàn tâm toàn ý cho công việc dịch thuật như trước nữa, nhưng cả hai vẫn

mỉm cười với nhau. Những quấn quýt buổi đêm trở nên say mê, cuồng nhiệt

hơn và kéo dài tưởng như bất tận, tựa hồ mỗi lần đều là thời khắc hân hoan

sau cùng của đêm trước ngày tận thế và chỉ kết thúc khi cả hai đã sức cùng

lực kiệt, sau đó, chúng tôi chìm vào giấc ngủ say sưa trong vòng tay nhau.

Năm ngày sau, Lữ Quang lại cho gọi Rajiva, lần này chàng đi lâu hơn. Khi

chàng cất bước nặng nề trở về, vầng trán cao rộng của chàng xuất hiện vệt

sưng đỏ. Nhưng điều khiến tôi sợ hãi không phải vết thương đó, mà là vẻ tuyệt

vọng tê tái tôi chưa từng thấy trên gương mặt chàng.

Tôi bật dậy, đỡ thân hình rệu rã của chàng ngồi xuống, ruột gan quặn thắt.

Hỏi chàng đã xảy ra chuyện gì, nhưng chàng chỉ lặng yên, ánh mắt thẫn thờ.

Tôi định đi lấy thuốc, nhưng chàng kéo tay tôi lại.

Ánh mắt quyến luyến ngước nhìn tôi, bàn tay vuốt ve khuôn mặt tôi.

- Ngải Tình, khi nào được tự do, nàng hãy tới chỗ của Pusyseda, cậu ấy sẽ

bảo vệ nàng bằng mọi giá.

Chàng đột ngột kéo tôi vào lòng, tim chàng đập nhanh bất thường.

- Phật tổ từ bi, ngài nghe thấu lời cầu khẩn của ta, đã đưa nàng tới đây.

Tuy chỉ được ở bên nàng chưa đầy một tháng, nhưng ta mãn nguyện lắm rồi.

Những lời nói nặng ẩn ý ly biệt ấy khiến toàn thân tôi lạnh toát. Điều khiến

tôi lo lắng nhất, điều tôi không mong muốn xảy ra nhất đã xảy ra. Tôi quay lại,

nhìn sâu vào mắt chàng, cắn chặt môi để sự đau đớn giúp tôi bình tĩnh thốt ra:

- Rajiva, có phải, chàng định tìm đến cái chết không?

Rajiva  giật  mình,  nỗi  sầu  muộn  tột  cùng  ngập  trong  mắt  chàng,  nhưng

chàng vội quay đi né tránh, ra sức kìm chế để đôi vai thôi run rẩy.

- Ngải Tình đừng nói nhảm, sao ta có thể…

- Rajiva, chàng đã quên sứ mệnh truyền bá đạo Phật, phổ độ chúng sinh rồi

sao?

Tôi ngắt lời chàng, gào lên bằng tất cả sức lực mà tôi có:

- Chàng đã quên, ở Trung Nguyên vẫn còn vô số chúng sinh đang chìm

đắm trong bể khổ ư?... Còn em nữa, em sẵn sang từ bỏ gia đình, bất chấp bản

thân bị nhiễm xạ, vượt ngàn năm thời gian đến bên chàng, đâu phải chỉ để

cùng chàng đầu gối tay ấp vẻn vẹn một tháng thời gian.

Tôi gầm gào, giận dữ:

- Nếu chàng yêu em, chàng phải tiếp tục sống như thế mới vĩ đại! Tìm đến

cái chết có gì khó đâu. Nhẫn nhục chịu đựng, tiếp tục sống, để hoàn thành sứ

mệnh, đó mới là người kiên cường.

Tôi nắm lấy cánh tay chàng, cắn thật đau. Vị mặn theo nước mắt tràn vào

miệng, xót xa.

Tôi ngẩng đầu, toàn thân chàng run lên nhưng vẫn gắng sức kìm chế. Tôi

gào lên:

- Rajiva, chàng đừng quên, sứ mệnh của chàng còn quan trọng hơn cả tính

mạng!

Ánh  mắt  chàng  nhìn  tôi,  mây  mù  tuyệt  vọng  bỗng  chốc  như  tan  biến,

nhường chỗ cho ánh sáng ấm áp của hy vọng. Chàng đột ngột cười vang, cất

giọng hào sảng:

- Ta đồng ý, Ngải Tình! Tiếp tục sống, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sống.

Nhìn lại vết hằn trên mu bàn tay, chàng gật đầu quả quyết:

- Từ nay, ta sẽ không bao giờ nhắc đến từ “chết” nữa.

Vẻ dịu dàng thường thấy lại trở về trên nụ cười hiền hòa của chàng:

- Ngải Tình, nàng luôn biết cách giúp ta tỉnh ngộ.

Tôi thở phào, nhưng ngay sau đó lại luống cuống đi tìm thuốc để bôi cho

chàng. Tôi vốn chỉ định để lại vết răng trên tay chàng, nhưng không hiểu vì

sao khi nãy chẳng thể kìm chế nổi bản thân.

- Ngải Tình, nàng sẵn sàng từ bỏ gia đình, bất chấp bản thân bị nhiễm xạ,

vượt qua thời gian hàng ngàn năm để đến bên ta. Một ngàn năm thời gian đó

có phải là khoảng cách giữa trời và đất? Người thân của nàng đang ở trên trời

đợi nàng phải không? Còn nữa, phóng xạ là gì vậy?

Bàn tay bôi thuốc cho chàng bỗng nhiên run rẩy, tôi ngước nhìn ánh mắt

đầy thắc mắc của chàng:

- Rajiva…

Ngón tay chàng khẽ đặt trên môi tôi, cánh tay còn lại dịu dàng kéo tôi vào

lòng:

- Tiết lộ thiên cơ không phải chuyện nhỏ, nàng sẽ bị Phật tổ trách tội. Vậy

nên, sau này, nàng phải hết sức thận trọng, kể cả với ta, nàng cũng không

được tùy tiện nói ra.

Đêm đó tôi trằn trọc không yên. Câu nói mà các cô gái vượt qua thời gian

nói nhiều nhất là: Tôi biết kết quả nhưng không biết quá trình. Với tôi, 1650

năm so với triều đình Mãn Thanh là khoảng cách lịch sư quá xa xôi. Những ghi

chép chỉ vẻn vẹn ngàn con chữ trong sách sử còn chẳng thể xác minh được

tính chính xác, huống hồ chỉ vài dòng súc tích về cuộc đời Rajiva trong truyện

ký. Đằng sau những con chữ ít ỏi đó là cả một quá trình như thế nào, tôi

chẳng thể đoán định.

Một tiếng thở dài mơ hồ lướt qua trong không gian đêm, là chàng, có lẽ

chàng cũng cảm nhận được nỗi trằn trọc của tôi. Có điều, chúng tôi hiểu nhau

và chỉ biết im lặng, nằm chờ trời sáng.

Chỉ một ngày sau, Rajiva lại bị Lữ Quang triệu gọi. Chàng vừa rời đi, lập tức

có một cung nữ mang xiêm y đến, nói rằng đây là những bộ váy áo mới nhất,

cô ta còn đập đập lên chồng váy áo, ánh mắt và động tác rõ ràng là những ám

thị. Tôi tò mò lật mở thì phát hiện thấy một mảnh vải lụa có chữ viết được nhét

bên trong.

Nét chữ Tochari gấp gáp, nghuệch ngoạc:

Hôm qua, pháp sư khẩu chiến kịch liệt với Lữ Quang, ông ta dùng chị để uy

hiếp, huynh ấy giận quá đã lao đầu vào cột định tự vẫn, may thay có người kịp

ngăn lại. Lữ Quang đã từ bỏ ý định mua chuộc pháp sư, thay vào đó, ông ta sẽ

tìm cách hãm hại huynh ấy. Ba ngày nữa, pháp sư sẽ bị đưa đến chùa Cakra

cùng đoàn tùy tùng của Lữ Quang. Bất luận ông ta đưa ra yêu cầu gì, chị hãy

khuyên pháp sư tạm thời chấp thuận. Giờ đây, chỉ có chị mới khuyên nhủ được

huynh ấy. Hãy ghi nhớ!

Tức giận lao đầu vào cột tự vẫn… Thì ra vết bầm tím ấy chính là… Mảnh

khăn rớt khỏi tay, chao xuống mặt đất tựa phiến lá khô. Bầu trời ngoài kia vẫn

xanh ngăn ngắt, gió nóng buổi trưa tràn vào phòng, mồ hôi ướt đẫm lưng áo,

dính vào nham nháp, vô cùng khó chịu.

Lữ Quang dùng chị để uy hiếp huynh ấy.

Điều mà chàng lo sợ nhất chính là điều này ư? Cảnh vật trước mắt bỗng trở

nên mơ hồ, sống mũi cay nồng. Con người mảnh khảnh ấy sẵn sàng chống đỡ

mọi nguy nan, cốt để giữ cho tôi một khung trời bình yên. Ngải Tình ơi Ngải

Tình, cô là con người của thế kỷ XXI kia mà, còn chần chừ, do dự gì nữa, hãy

tận dụng khả năng mà cô có thể để cứu người cô yêu đi chứ!

Chàng trở về rất nhanh sau đó, sắc mặt vẫn tái nhợt như mọi lần, nhưng

ánh mắt kiên định:

- Ngải Tình, ông ta đã hứa sẽ trả tự do cho nàng. Ngày mai nàng có thể rời

khỏi đây.

Thoáng chút vui mừng hiện lên trên gương mặt u buồn, chàng đưa tay

chạm vào má tôi, đó là động tác thường xuyên nhất khi hai chúng tôi ở bên

nhau.

- Ra khỏi cung, nàng hãy đến chỗ Pusyseda, khi nào được tự do, ta sẽ tới

đó tìm nàng.

- Rajava, chàng đã chấp thuận điều kiện gì để ông ta thả em?

- Ba ngày nữa, ta sẽ cùng Lữ Quang đến chùa Cakra lễ Phật.

Tôi quay mặt đi, kìm nén những giọt nước mắt chỉ chực trào trào ra, lấy lại

nhịp thở bình thường, quay lại nhìn chàng:

- Rajava, chàng vì em sẵn sàng lao đầu vào cột, Lữ Quang thừa hiểu có thể

dùng em để uy hiếp chàng, sao ông ta có thể dễ dàng thả em ra?

Tôi thở dài, Rajiva tuy thông minh, nhưng chàng luôn tin rằng con người

vốn lương thiện, chàng không hiều về những mưu mô chước quỷ ấy.

- Chỉ e, bước ra khỏi cánh cửa này, em sẽ chẳng thể tới được chỗ Pusyseda.

Sắc mặt chàng ngày càng thảm hại, chàng cắn chặt môi, nhắm mắt bất lực:

- Ta cứ tưởng có thể giúp nàng. Không phải ta chưa từng nghĩ đến nguy cơ

ấy, nhưng ta thực sự không biết phải làm thế nào để đưa nàng đi khỏi đây,

nên ta tự thuyết phục bản thân thử tin Lữ Quang một lần xem sao.

Chàng hướng đôi mắt buồn thăm thẳm về phía tôi:

- Xin lỗi nàng, ta thật vô dụng, chẳng thể bảo vệ nàng…

- Chàng đừng lo cho em, em có cách để thoát ra khỏi đây.

Tôi dựa vào lòng chàng, áp má lắng nghe trái tim chàng dồn nhịp gấp gáp:

- Em đang nghĩ cách để cả hai chúng ta cùng thoát khỏi nơi này.

Chúng tôi ngồi tựa vào nhau trên thảm trải, màn đêm buông xuống. Cung

nữ bước vào chăm đèn, Rajiva cho họ lui ra. Lúc này là tháng Chín, mùa hạ oi

nồng đã đi xa, đêm thu khí lạnh tràn vào, tựa đêm mùa đông âm độ C. Giữa

cung điện mênh mông này, chúng tôi chỉ có thể tìm thấy hơi ấm từ thân thể

của nhau.

Chương 48: Sự thật

- Rajiva, chúng ta có thể trốn khỏi đây.

Sau một hồi tính toán kỹ lưỡng, tôi nhận thấy vẫn còn chút hy vọng.

- Em có một thứ vũ khí, không gây tổn hại đến tính mạng, nhưng có thể

khiến người ta bất tỉnh suốt một ngày. Em còn có cả dụng cụ để vượt tường.

Chỉ  cần  thoát  ra  khỏi  hoàng  cung,  chúng  ta  sẽ  đến  chỗ  Pusyseda.  Không,

không ổn, không nên gây phiền phức cho cậu ấy. Chúng ra không đến tìm cậu

ấy nữa. Chúng ra có thể trộm một con ngựa, cũng không ổn sẽ không qua

được cổng thành. Hãy cứ sử dụng dụng cụ của em để vượt tường vậy, ra

ngoài sẽ tính tiếp. Chúng ta sẽ trốn đi nơi khác. Tây vực, Thiên Trúc, Kabul,

Trung Nguyên, chàng muốn đi đâu cũng được.

- Ngải Tình, nàng đã có cách thì hãy trốn đi.

Rajiva lắc đầu nhìn tôi đang sững sờ:

- Ta không thể bỏ trốn. Dù có trốn đến đâu, ta cũng sẽ bị phát hiện, sẽ liên

lụy đến nàng và Pusyseda. Vả lại, rời khỏi đền chùa, ta chẳng thạo gì hết…

- Chàng thông minh như vậy, sẽ học rất nhanh thôi. Nếu chàng chịu từ bỏ

thân phận pháp sư của mình, chúng ta sẽ cùng mai danh ẩn tích.

Tôi nắm chặt tay chàng, ra sức thuyết phục:

- Chúng ta sẽ đến một nơi không ai nhận ra chàng. Em vẫn còn chút tiền

bạc. Em lại được trang bị tri thức tiến bộ hơn một nghìn năm so với con người

nơi đây. Em có thể phát minh ra những vật dụng mà thời đại này chưa có,

chắc chắn sẽ bán được rất nhiều tiền. Trước khi tới đây, em đã nghiên cứu

nhiều tài liệu, em hiểu rõ ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Em cũng biết ở đâu

xảy ra chiến tranh, ở đâu tạm thời yên ổn. Tóm lại, chúng ta sẽ không chết

đói, cũng sẽ không rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc. Chàng hãy tin em, rời

khỏi đền chùa, chúng ra vẫn có thể sống ổn.

Viễn cảnh tương lai khiến tôi càng mường tượng càng xúc động. Tôi chưa

bao giờ nghĩ rằng sẽ có lúc phải sử dụng đến những kĩ năng và tri thức của

thời đại mình. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu vận dụng hợp lý, tôi tin rằng

hai chúng tôi có thể sống bình an bên nhau.

- Ngải Tình, nàng vốn không phải người thường, ta tin nàng…

Chàng ôm tôi vào lòng, tiếng thở dài lướt nhẹ bên tai:

- Nhưng, nàng có biết nàng đã lại tiết lộ thiên cơ rồi không?

Tôi giật mình, khi nãy, tôi đã lỡ để lộ xuất thân của mình. Có lẽ đã đến lúc

cho chàng biết, nếu không chàng sẽ không tin một cô gái liễu yếu đào tơ như

tôi làm sao có thể thoát khỏi vòng kiểm soát trùng trùng điệp điệp của cấm vệ

quân mà không ai hay biết. Hít vào một hơi thật sâu, rồi nhìn thẳng vào mắt

chàng:

- Rajiva, đó không phải thiên cơ, em cũng không phải tiên nữ bên cạnh

Phật tổ. Chàng sẽ là người duy nhất ở thời đại này biết về lai lịch thực sự của

em. Có thể chàng sẽ cảm thấy hết sức hoang đường, nhưng xin hãy tin lời em

nói.

Nhìn chàng gật đầu đồng ý, tôi tiếp tục:

- Em đến từ tương lai. Không phải chàng chỉ hơn em mười tuổi mà là hơn

1650 tuổi.

Rajiva run lên, quan sát tôi đầy vẻ nghi hoặc.

- Chàng tin rằng thời đại này sẽ ngày càng tiến bộ chứ? Thời đại chàng

đang sống, xét về mọi phương tiện đều tiến bộ hơn rất nhiều so với thời đại

của Phật tổ ngàn năm về trước. Sản vật phong phú hơn, đời sống văn minh

hơn và tri thức của con người phát triển hơn. Nếu con người thời đại ấy có thể

đến thời đại của chàng, chắc chắn sẽ rất kinh ngạc, thậm chí sợ hãi. Bởi vì, tư

duy của con người luôn bị hạn chế bởi thời đại mà họ sống.

Chàng trầm tư một lát, gật đầu đồng tình. Tôi lại tiếp tục:

- Khoa học kĩ thuật thời đại của em đã đạt tới trình độ mà chàng khó có thể

tưởng tượng nổi. Con người có thể bay lên không trung, có thể nói chuyện,

hoặc thậm chí có thể nhìn thấy đối phương dù họ ở cách xa nhau cả ngàn dặm

chỉ thông qua một sợi dây rất nhỏ. Bất cứ chuyện gì xảy ra ở bất cứ đâu đều

sẽ được cả thế giới biết đến chỉ trong vòng một canh giờ. Vũ khí chiến tranh

thì vô cùng đáng sợ. Một quả bom có thế phá hủy cả một thành phố với hàng

triệu con người. Và còn rất rất nhiều những điều chàng cho rằng không thể thì

con người trong tương lai đều có thể làm được. Cỗ máy vượt thời gian là một

ví dụ. Chính cỗ máy vô cùng hiện đại này đã đưa em trở về thời đại mà với em

nó đã trải qua 1650 năm. Nhiệm vụ của em là tới đây nghiên cứu và kiểm

chứng lịch sử. Nhưng em đã tình cờ gặp chàng, dịch giả Phật giáo trứ danh,

người  có  công  lao  vô  cùng  to  lớn  trong  việc  truyền  bá  đạo  Phật  và  Trung

Nguyên  –  hòa  thượng  Kumarajiva…  Sở  dĩ  em  biết  được  một  số  chuyện  về

chàng khi gặp chàng thời niên thiếu và thanh niên, là vì em đến từ tương lai,

em đã đọc truyện ký về chàng. Ví dụ thế này, chàng thử tưởng tượng, nếu đột

nhiên có một phép thần thông nào đó có thể đưa chàng trở về với thời đại của

Phật  tổ  một  ngàn  năm  trước.  Khi  ấy,  Đức  Phật  còn  chưa  ngộ  đạo,  nhưng

chàng biết Ngài chính là Phật tổ, chàng sùng bái và đi theo Ngài, chàng dõi

theo từng cử chỉ, hành động và lời nói của Ngài. Chàng biết rõ những sự việc

mà với Phật tổ thì vẫn chưa diễn ra. Nhưng những điều chàng biết về Ngài chỉ

là những ghi chép trong sách vở. Những ghi chép đó, trải qua hàng ngàn năm

thời gian, được không biết bao nhiêu lớp lớp hậu thế truyền khẩu, nên mức độ

chính xác, thật giả khó mà xác định được. Vả lại, những dòng chữ ít ỏi ấy đâu

thể giúp ta hiểu hết về một con người. Nhưng dù sao, chàng cũng có được tri

thức  tích  lũy  từ  hàng  ngàn  năm  thời  gian  so  với  con  người  ở  thời  đại  đó.

Chàng biết những điều họ không biết, chàng biết tương lai sẽ diễn ra thế nào

và do vậy, chàng thể hiện ra những đặc tính mà con người thời đó không có

được… Sở dĩ em biết về Thiên Phật động Kizil, vì năm 1650 năm sau nó vẫn

tồn tại. Em biết về chùa Masha vì cách thời đại của chàng hai trăm năm mươi

năm sau, có một nhà sư người Hán đã trải qua vô vàn gian nan nguy hiểm để

đến  Thiên  Trúc  thỉnh  kinh.  Trong  những  cuốn  sách  mà  vị  hòa  thượng  nhà

Đường ấy viết, có rất nhiều tài liệu liên quan đến phong tục tập quán của con

người ở Thiên Trúc và Tây vực. Sở dĩ, em biết các thuật ngữ đạo Phật: Đại

Thừa, Tiểu Thừa, Niết Bàn, Duy Ma Cật là vì trong vòng năm trăm năm nữa sẽ

có rất nhiều cao tăng tham gia dịch thuật kinh Phật, chàng cũng là một trong

số họ. Dung mạo của em không hề thay đổi, bởi vì đối với em, thời gian chỉ

mới trôi qua hai năm. Cỗ máy hiện đại đó có thể đưa em tới bất cứ giai đoạn

nào của cuộc đời chàng.

Tôi mở ba lô, lấy ra từng thứ một đặt trước mặt chàng:

- Những thứ này được tạo ra sau 1650 năm nữa và đều là những vật dùng

mà thời đại này không thể có được. Đây là dao đa năng Thụy Sỹ. Đây là súng

gây mê, người bị bắn trúng sẽ bất tỉnh trong vòng một ngày. Đây là áo chống

phóng xạ của em. Trước khi tới đây, em phải mặc chiếc áo này lên người, bằng

không, tia phóng xạ cực mạnh có thể khiến toàn thân em tan chảy. Đây là

chiếc đồng hồ vượt thời gian, chàng từng thấy nó rồi. Những cây kim đang

chuyển động này là đơn vị để tính thời gian. Muốn quay về, em phải dựa vào

năng lượng của chiếc đồng hồ này. Dây thường và móc câu này dùng để vượt

tường. Cung tên này có thể bắn móc cây lên một vị trí rất cao. Còn có cả bút

chì, sổ ghi chép, các dụng cụ khảo cổ, …

Tôi vén tay áo lên, để lộ vết sẹo ở nơi đã trải qua phẫu thuật.

-  Chàng  nhớ  vết  thương  này  chứ?  Ở  thời  đại  của  chàng,  đó  là  một  vết

thương nghiêm trọng, muốn giữ mạng, phải chặt bỏ cánh tay, nhưng thậm

chí, ngay cả khi chấp nhận chặt bỏ cánh tay, cũng chưa chắc có thể sống tiếp.

Nhưng ở thời đại của em, với các thiết bị y tế và dược phẩm hiện đại, vết

thương đã lành lặn, ngay cả vết sẹo sau khi điều trị cũng trở nên rất mờ nhạt.

Đó không phải là sức mạnh của phép thuật. Y học tương lai có thể chữa trị rất

nhiều căn bệnh mà chàng cho rằng không thể chữa khỏi.

Rajiva ngồi bất động, kinh ngạc không thốt lên lời. Tôi lấy ra một trong

những thứ quý giá nhất tôi mang theo đến thời cổ đại này, đưa cho chàng:

- Đây là tấm ảnh em chụp với cha mẹ. Họ chỉ có mình em.

Nhắc đến cha mẹ, tôi mỉm cười:

- Ở thời đại của em, em vẫn đang là một sinh viên theo học chuyên ngành

lịch sử. Ước mơ của em là trở thành một nhà sử học. Cha mẹ không hề hay

biết về dự án vượt thời gian này. Em chỉ nói với họ rằng, em đang tham gia

một dự án khảo sát đòi hỏi tính bảo mật tối đa, ngay cả điện thoại cũng không

được sử dụng. Họ đâu có biết rằng, con gái họ đang sống ở thời đại cách họ

những 1650 năm… Cái này gọi là ảnh chụp, một dụng cụ đặc biệt giúp lưu giữ

lại hình ảnh của con người trong một khoảnh khắc bất kỳ, sau đó nó được in ra

bằng tấm phim. Trang phục của em trong tấm hình này gọi là quần bò, áo

phông, là cách ăn mặc phổ biến của các cô gái ở thời đại đó.

Tôi chỉ tay vào các dãy nhà cao tầng trên hình nền phía sau:

- Đây là nhà em. Đời sống vật chất và dịch vụ y tế ở thời đại của em rất

phát triển, tuổi thọ của con người rất cao, dân số đông đúc, nên phải xây nhà

lên tận không trung thế kia, tuy nhiên sẽ có một cỗ máy có thể đưa con người

lên bất cứ tầng cao nào chỉ trong chốc lát.

Tôi nắm tay chàng, niềm hy vọng dâng lên trong mắt:

- Rajiva, bây giờ chàng tin em đến từ tương lai rồi chứ?

Vẻ kinh ngạc xen lẫn hoang mang vẫn bao trùm gương mặt chàng. Chàng

nhìn tôi không chớp mắt, suy nghĩ rất lâu mới gật đầu xác nhận.

- Vậy chàng sẽ tin em có thể đưa chàng thoát khỏi nơi này và giúp hai ta

tiếp tục sống bên nhau chứ?

Chàng nhìn tôi hồi lâu, từ tốn gật đầu.

Tôi nở nụ cười rạng rỡ, kéo tay chàng:

- Nếu vậy, đêm nay chúng ta sẽ đi khỏi đây.

Chàng không trả lời đồng ý hay không đồng ý, chỉ yên lặng suy nghĩ giây lát

rồi cất giọng hỏi:

- Tuy nàng nói có rất nhiều từ ngữ lạ ta không hiểu: máy móc, khoa học,

ảnh chụp, điện thoại…, nhưng ta tin nàng. Những dụng cụ đó của nàng chỉ có

thể là đến từ tương lai.

Chàng lại trầm ngâm, rồi ngước đôi mắt sâu thẳm tựa hồ nước mùa thu

nhìn tôi:

- Nàng đến từ tương lai, vậy chắc nàng đã biết số mệnh của ta ra sao, phải

không?

Tim tôi đập liên hồi, tôi đáp trong vô thức:

- Em biết một chút thôi… Nhưng chỉ là truyện ký về chàng, rất sơ sài và vẻn

vẹn trong một nghìn con chữ.

- Ngải Tình, mười một năm trước, nàng nói ta sẽ làm nên nghiệp lớn, truyền

bá rộng rãi đạo Phật vào Trung Nguyên. Nàng còn căn dặn ta không được

hoàn  tục.  Những  điều  đó,  nàng  đều  đọc  được  trong  truyện  ký  về  ta  phải

không?

Tôi gật đầu, là một sinh viên ngành sử học, tôi phải tôn trọng sự thật lịch

sử:

- Truyện viết về chàng rất ngắn ngủi, thậm chí có những đoạn hư cấu.

Nhưng những kinh văn mà chàng dịch thuật đã được lưu truyển rộng rãi suốt

1650 năm.

Lại là những khoảnh khắc trầm ngâm và lại là đôi mắt sâu hun hút ấy ngước

lên nhìn tôi:

- Chả trách nàng gọi ta là Kumarajiva, động viên ta đến Trung Nguyên,

khuyên ta dịch kinh Phật. Thì ra, đây chính là số mệnh của ta.

Chàng nghiêng đầu sang một bên, giọng bình thản:

- Vậy là, sự có mặt của nàng vào năm ta ba mươi lăm tuổi cũng là vì nàng

đọc được ghi chép về ta và biết ta gặp phải kiếp nạn đó?

- Vâng.

Sợ chàng hiểu lầm, tôi vội vàng giải thích:

- Nhưng hai lần gặp gỡ trước đó, đều là tình cờ. Cỗ máy vượt thời gian vẫn

đang trong giai đoạn thử nghiệm, không ai biết chắc em sẽ trở về thời kỳ nào.

Bởi vậy, Rajiva, hai lần gặp gỡ trước của chúng ta đều là duyên trời định. Còn

lần này, là do em chọn lựa. Bởi vì em yêu chàng, nên em muốn được ở bên

chàng và cùng chàng vượt qua giai đoạn gian nan nhất của cuộc đời chàng.

Lại  tiếp  tục  những  khoảng  lặng  trầm  ngâm  miên  man.  Một  lúc  lâu  sau

chàng mới buông tiếng thở dài:

- Nếu đã vậy, bỏ trốn hay ở lại có gì khác nhau đâu? Kết cục đều như nhau.

Chàng hé môi cười buồn:

- Kết cục ấy là: Ta không cùng nàng mai danh ẩn tích, mà lưu lại nơi cửa

Phật, đúng không?

Tôi không biết phải nói sao. Tôi đã làm gì thế này? Sao tôi lại cho chàng biết

những điều đó? Sao chàng lại thông minh tuyệt đỉnh như vậy? Sao chàng có

thể nhanh chóng chấp nhận xuất thân của tôi, lại có thể lập tức suy luận ra

kết cục ấy? Tôi đã nói rất nhiều, vì tôi muốn chàng tin tôi đến từ tương lai và

tôi có đủ năng lực để bảo vệ chàng. Nào ngờ, suy nghĩ của chàng lại hướng

theo chiều ngược lại. Lòng rối như tơ vò, đầu óc – trống rỗng. Thật đúng là:

cái khó bó cái khôn!

- Nàng từng nói ta phải gánh trên vai sứ mệnh truyền bá Phật pháp, dịch

thuật kinh văn, trọng trách này còn quan trọng hơn cả tính mạng của ta. Ngải

Tình, nếu ta bỏ trốn, ta sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh đó, đúng không?

Tôi vẫn chẳng thể thốt ra được lời nào. Nước mắt bất lực trào ra. Chàng thì

ngược lại, tỏ ra bình tĩnh hơn bao giờ, khiến tôi sợ hãi, toàn thân run rẩy.

- Do vậy, ta không thể bỏ trốn. Ta phải ở lại, chấp nhận mọi nguy nan, rèn

giũa thâm tâm, hoàn thành quá trình khảo nghiệm của Phật tổ, hoàn thành sứ

mệnh dịch kinh và truyền bá đạo Phật. Đó là số mệnh của ta, số mệnh mà ông

trời đã định…

Chiếc cổ thiên nga đẹp mê hồn rướn cao, khuôn ngực phập phồng chừng

như rất xúc động. Chàng nhắm mắt lại, hai hàng lệ chảy dài trên đôi gò má

gầy guộc, đọng lại nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu. Chàng khẽ lắc đầu, nước

mắt vương trên chiếc áo lụa rộng mà trắng đục.

- Rajiva, em không nên nói với chàng… Em thật là ngốc, sao em lại làm vậy?

Tôi bật khóc dữ dội, và vô cùng hối hận. Tôi đã quên chàng là người theo

chủ nghĩa duy tâm triệt để. Chàng sẵn lòng chấp nhận kết cục ấy, chỉ cần nói

với chàng đó là số mệnh sắp bày, chàng sẽ tin ngay. Nhưng tôi không cam

lòng, tôi không cam lòng…

- Ngải Tình, nếu đã là số mệnh, thì dù nàng không nói ra cũng chẳng thể

thay đổi được gì.

Nỗi sầu muộn trong giọng nói của chàng khiến lòng tôi băng giá. Vậy là

chàng đã chấp nhận số phận…

- Rajiva, chàng có thể vì em, rời bỏ cửa Phật không?

Tôi chờ đợi, tôi run rẩy. Thật không ngờ, tôi đã nói ra điều đó. Tôi luôn nghĩ

sẽ giúp chàng tìm ra điểm cân bằng giữa tình yêu và lí tưởng. Tôi đã từng dặn

lòng không được ép chàng lựa chọn. Nhưng tình thế trước mắt khiến tôi không

còn thời gian để tìm kiếm cân bằng ấy nữa. Nếu không ra đi, tôi sẽ trở thành

gánh nặng của chàng, Lữ Quang sẽ lợi dụng tôi để uy hiếp chàng. Nhưng nếu

tôi đi rồi, chàng sẽ ra sao? Tôi không thể giương mắt nhìn chàng chịu đày ải,

chịu sỉ nhục. Thế nên, dù hy vọng rất mong manh, tôi vẫn phải ra sức tranh

giành với Phật tổ, ra sức vật lộn với số phận…

- Ngải Tình, nàng hãy đi đi, hãy trở về bên cha mẹ nàng, đừng lo cho ta

nữa…

- Không!

Tôi gào lên thảm thiết, giọng như lạc đi.

- Cả hai ta sẽ cùng đi, nếu không, em quyết không đi…

Chàng đứng dậy, yên lặng hồi lâu. Ánh đèn le lói trong buổi hoàng hôn kéo

bóng chàng hắt thành vệt dài lên vách tường lạnh lẽo. Tôi ngẩng đầu nhìn

chàng, nước mắt giàn giụa nhưng chẳng buồn lau đi. Sự im lặng của chàng,

theo thời gian, khiến tôi như đóng băng. Tôi không thể thua, tôi không chịu

thua! Nhưng tôi biết, mình đã thua. Đứng trước tình yêu, chỉ số IQ của tôi đã

trượt dài từ một trăm hai mươi xuống chỉ còn một nửa. Tiếp theo, phải làm gì,

tôi không biết nữa! Ai đó làm ơn cho tôi biết đi?...

Chương 49: Ly Biệt

- Ngải Tình, nàng tư chất thông minh, nhân hậu, lương thiện, lại có những

khả năng đặc biệt, khác lạ. Sao trên đời lại có người con gái toàn vẹn như

nàng! Kể từ khi gặp nàng năm mười ba tuổi, ta luôn nghĩ rằng nàng là tiên nữ.

Lần này, nàng xuất hiện khi ta bị ép buộc phá giới, khiến ta càng thêm chắc

chắn rằng Phật tổ đã cử nàng đến giúp ta. Bởi vậy, ngày đêm quấn quít bên

nàng, tuy phạm tội phá giới, nhưng trong lòng vẫn còn chút an ủi. Vì ta nghĩ

nàng là đệ tử của Phật tổ.

Chàng xoay lưng về phía tôi, bờ vai xương xương rung động, ngừng lặng

hồi lâu mới tiếp tục:

- Nhưng giờ đây, nàng lại cho ta biết nàng không phải tiên nữ. Mọi phép

màu đều được giải thích bằng việc nàng đến từ tương lai. Thì ra nàng chỉ là

một cô gái bình thường, không phải đệ tử của Phật tổ. Nếu vậy, lần đầu phá

giới có thể viện cớ là ta bị ép buộc. Nhưng những lần phá giới tiếp theo, tự ta

đã hủy hoại cuộc đời tu hành của mình. Ta đã gây nên nghiệp chướng, Phật tổ

nhất định sẽ trị tội. Ta cảm thấy bội phần hổ thẹn và hối hận.

Như vừa nghe tiếng sét bên tai, toàn thân tê dại. Tôi không dám tin chàng

có thể nói ra những lời đó. Tôi đứng bất động, mắt không rời khỏi bóng dáng

gầy guộc ấy, quên cả khóc.

- Rajiva, chàng hối hận vì đã yêu em, hối hận mỗi đêm ôm em trong lòng

chàng đều vững tâm vì nghĩ rằng em là tiên nữ, phải không? Giờ đây, khi biết

em chỉ là một cô gái bình thường, chàng không còn yêu em nữa, đúng không?

- Ta vốn một lòng hướng Phật, không tơ tưởng chuyện yêu đương nam nữ.

Nhưng rủi thay ma xui quỷ khiến, ta đã có quan hệ vợ chồng với nàng. Nhưng

phút chốc hoan lạc ngắn ngủi sao có thể khiến ta từ bỏ Đức Phật! Ta sẽ không

để sắc dục mê hoặc nữa! Quãng đời còn lại, ta sẽ toàn tâm toàn ý phụng sự

Phật tổ. Tội phá giới, dù phải chết ngàn vạn lần cũng chẳng thế chuộc lại, ta

chỉ có thể sống với nỗi sám hối vô bờ trong những ngày tháng còn lại. Vậy

nên, nàng hãy đi đi, ta không bỏ trốn cùng nàng đâu!...

Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao đến trước mặt chàng, kéo tay áo

chàng, nhìn vào đôi mắt đang tìm cách chạy trốn của chàng:

- Em không tin! Chàng muốn em ra đi nên mới nói những lời này, đúng

không?

- Ngải Tình, cảm ơn nàng đã cho ta biết về tương lai và sứ mệnh của ta.

Chàng nhắm mắt lại, lầm rầm tụng niệm:

- Cội gốc của bể khổ.

Tham dục chính là nguồn cơn

Nếu diệt được tham dục

Khổ chẳng còn chốn nương

Dứt hết hẳn các khổ

Gọi là đế thứ ba[31]

Lìa hết thảy trói buộc

Chừng sẽ được giải thoát.

Ngải Tình, hãy sớm thoát khỏi bể khổ! Nếu đây là số mệnh, hà tất phải cố

chấp!

- Rajiva, em chỉ muốn chàng trả lời một câu thôi: chàng có yêu em không?

Rajiva mở mắt, nỗi bi thương bất tận phủ trên gương mặt chàng, chàng cất

giọng từ tốn:

- Ngày trước có kẻ phạm tội, tìm cách bỏ trốn, nhà vua hay tin, thả voi điên

đuổi bắt. Người này chạy đến một giếng nước khô và nhảy xuống. May mắn

thay, khi rơi đến lưng chừng, anh ta bám được vào một bụi cỏ đâm rễ từ bụng

giếng, thân mình treo lơ lửng bên vách giếng. Dưới đáy giếng, những con rồng

dữ đang thè lưỡi phun độc. Bên cạnh lại có rắn độc đang chầu chực, hòng

nuốt chửng anh ta. Ngoài ra còn có một đôi chuột đen trắng đang gặm nhấm

bụi cỏ níu giữ anh ta. Bụi cỏ sắp đứt. Kẻ phạm tội muốn trèo ra ngoài, nhưng

sợ bị voi điên xéo nát, sợ rơi xuống đáy giếng bị rồng phun độc. Muốn bám

chặt tại chỗ lại sợ đôi chuột đen trắng cắn đứt bụi cỏ, sợ rắn độc phục sẵn bên

cạnh. Lúc đó trên mặt giếng có một cây cao, trên cây có một tổ ong mật,

những giọt mật ong ngọt lữ tình cờ rơi vào miệng kẻ tội nhân. Kết quả, hắn đã

đê mê với vị ngọt ngào của mật ong mà quên đi tất cả những nguy hiểm đang

rình rập quanh mình.

Đôi mắt màu xám nhạt thăm thẳm, tựa hồ thấy suốt mọi sự trên cõi đời

này, ngước nhìn tôi:

- Ngải Tình, kẻ tội nhân ấy chính là chúng ta, voi điên kia tượng trưng cho

lẽ vô thường, chuột trắng tượng trưng cho ban ngày, chuột đen là ban đêm.

Bụi cỏ là sinh mạng của chúng ta. Rồng độc dưới đáy giếng tượng trưng cho

sự sai trái, rắn độc tượng trưng cho “ngũ uẩn”[32] của chúng ta. Mật ngọt

trên cây là biểu trưng của niềm vui khi ham muốn được thỏa mãn. Vì chúng ta

đắm chìm trong hoan lạc, nên chúng ta đã quên đi tất cả: sinh mệnh, sự ràng

buộc, thời gian, tất cả.

Chàng ngồi xuống trong tư thế thiền, mắt nhắm lại, không buồn nhìn tôi:

- Những ngày tháng còn lại, ta sẽ dành toàn tâm toàn ý cho thiền định,

Phật pháp. Với ta, niềm vui tu hành mãi mãi vượt xa những ham muốn trần

tục.

- Đừng nói nữa… Em sẽ ra đi…

Tôi đứng lên, toàn thân giá lạnh, chẳng còn một chút hơi ấm nào:

- Chàng đã quyết không ra đi, em ở lại, sẽ chỉ tạo thêm gánh nặng cho

chàng. Nếu sự ra đi của em khiến chàng có thể dành trọn tâm trí cho việc

phụng sự Đức phật, tu hành ngũ đạo; nếu sự ra đi của em có thể khiến chàng

xóa bỏ mặc cảm của tội lỗi, vậy em sẽ đi.

Tôi khoác ba lô lên vai, thay bộ đồ màu đen mang từ thời hiện đại tới, lần

chần đứng bên bậc cửa, thất thần nhìn chàng đang ngồi thiền tụng niệm. Đã

nửa đêm, đêm khuya tắt lịm, chỉ có ánh trăng bàng bạc chếch nghiêng bên

cửa sổ soi rọi bóng dáng cô độc của chàng. Chàng không ngừng tụng niệm,

miệng chừng như không muốn khép lại, tuy chỉ lầm rầm, nhưng trong không

gian tĩnh lặng này, thanh âm ấy trở nên trầm mặc, u sầu lạ thường. Chàng

không chịu đi nghỉ, không chịu mở mắt, cũng không chịu nói với tôi một lời.

Trong lúc thay quần áo, tôi đã xác định kế hoạch của mình rất rõ ràng, ra

khỏi cung sẽ đi đâu, làm gì. Rajiva, chàng chấp nhận số mệnh vì chàng không

biết ai có thể chống lại số mệnh. Nhưng em thì khác. Em đến từ thế kỉ XXI, em

sẽ không dễ dàng từ bỏ tình yêu của mình như vậy. Chàng không muốn em ở

bên cạnh chàng, vậy em sẽ lặng lẽ làm việc đó. Nếu chàng gặp nạn, em sẽ

giúp chàng. Cho đến khi chàng thực sự không cần em nữa, em sẽ ra đi.

- Rajiva, em đi đây. Chàng nhớ ăn uống đầy đủ, lúc rảnh rỗi, hãy tiếp tục

dịch kinh Phật.

Muốn dặn dò thêm đôi câu, nhưng sống mũi cay cay, cổ họng nghẹn lại. Tôi

ngừng lại lấy hơi, nuốt nước mắt vào trong. Tôi không thể rơi nước mắt tùy

tiện như vậy, khóc than không giải quyết được vấn đề gì.

Chàng vẫn nhắm mắt, những âm thanh toát ra từ khóe môi dường như

không phải là kinh Phật. Chàng ngẩng đầu, ánh trăng vằng vặc rọi lên gương

mặt tựa điêu khắc nhưng cô độc và u buồn ấy…

- Ngải Tình…

Cuối cùng chàng cũng chịu mở lời, nhưng giọng nói mơ hồ như vọng lại từ

cõi xa xôi miên viễn nào đó.

- Hãy trở về thời đại của nàng, hãy quên đi tất cả. Đối với nàng, ta chẳng

qua chỉ là một cổ nhân thuộc về quá khứ.

Tôi  cắn  chặt  môi,  dặn  lòng  không  được  rơi  lệ,  tôi  sẽ  không  tiếp  tục  để

những giọt nước mắt rơi vô nghĩa nữa.

 “Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng.[33]

Biết  chàng  đang  nhắm  mắt,  nhưng  tôi  vẫn  nở  nụ  cười  ngây  ngô  mang

thương hiệu Ngải Tình mà thường ngày vẫn bị chàng trêu chọc:

- Rajiva, đó là câu kinh em thích nhất trong cuốn kinh “Kinh kim cương” mà

chàng dịch. Một tháng bên nhau, tựa như ảo ảnh, nhanh như chớp mắt. Kinh

Phật dạy rằng, mọi sự hữu vi đều là kết quả của nhân duyên, em và chàng

cũng vậy. Nhưng bất luận thế nào, những ngày qua em đã rất hạnh phúc, cám

ơn chàng!

Không chờ chàng đáp lại, tôi vội vã quay lưng bước đi, sợ nghe thấy tiếng

chàng, quyết tâm ra đi sẽ tan biến. Bước tới hoa viên, giữa không gian thấm

đẫm ánh trăng trong đêm giá lạnh, vẫn nghe tiếng lầm rầm tụng niệm của

chàng tựa làn gió lướt nhẹ bên tai:

Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng

Vợ chồng Pusyseda khoác áo choàng ra đón tôi vào nhà, kinh ngạc trước

trang phục màu đen từ đầu đến chân của tôi. Trông tôi lúc này chẳng khác gì

các nữ hiệp thường xuất hiện về đêm trong các bộ phim truyền hình cổ trang.

Có điều, chiếc ba lô hiệu Northface trên vai đã làm hỏng phần nào hình tượng

hiệp sĩ ấy. Nửa đêm gà gáy, bốn bề tịch mịch, khi bước tới cổng phủ quốc sư

và đưa tay lên gõ cửa, tôi biết sẽ có rất nhiều câu hỏi đang chờ mình. Nếu

không phải vì có  việc  phải  nhờ  đến  Pusyseda,  tôi  cũng  chẳng  muốn  khuấy

động cuộc sống yên bình của họ. Tôi kể vắn tắt quá trình bỏ trốn khỏi hoàng

cung của mình, sau đó vội vã hỏi:

- Pusyseda, ngày kia cậu sẽ cùng nhà vua đến chùa Cakra chứ?

Cậu ta gật đầu, ánh mắt thoáng chút khó hiểu. Tôi bật dậy khẩn cầu:

- Dù bằng bất cứ cách nào, xin hãy đưa tôi đi cùng.

- Ngải Tình!

Cậu ta cũng bật dậy, giọng nói nghiêm nghị:

- Chị trốn khỏi cung, Lữ Quang rất có thể sẽ cho người truy bắt chị. Lúc này

chị không ngoan ngoãn ẩn mình mà còn muốn liều thân ư, chị thật dại dột!

- Pusyseda, chính vì tôi bỏ trốn, nên chắc chắn Lữ Quang không thể ngờ

được tôi dám đi theo đến chùa Cakra. Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất.

Vả lại, trong mắt Lữ Quang, tôi chỉ là cô gái khiến Rajiva phá giới, không có vai

trò quan trọng gì cả. Ông ta có thể sẽ nghi ngờ không hiểu tôi đã bỏ trốn bằng

cách nào, nhưng chắc chắn sẽ không cử cả một đội quân đi truy bắt một kẻ vô

danh tiểu tốt như tôi đâu.

- Ông ta không cho rằng chị là một kẻ vô danh tiểu tốt đâu.

Cậu ta giậm chân, lắc đầu:

- Ông ta đưa đến cả tá mỹ nữ, vậy mà suốt bao nhiêu ngày, huynh ấy

chẳng động đến ai cả. Nhưng khi ông ta mới tỏ ý muốn hại chị, huynh ấy đã

lập tức lao đầu vào tự vẫn. Lữ Quang đâu có khờ, ông ta đã đoán ra chị quan

trọng như thế nào đối với huynh ấy. Nếu để ông ta phát hiện ra chị, chẳng

khác nào tự đến nộp mạng. Chị làm vậy sẽ khiến huynh ấy khó xử.

- Pusysede, tôi có thể trốn khỏi hoàng cung, tất nhiên tôi sẽ có cách tự bảo

vệ mình, Lữ Quang không bắt được tôi đâu. Nếu phải giam mình ở đây chờ

đợi, tôi sẽ hóa điên mất. Xin cậu, hãy đưa tôi đi. Chỉ cần được nhìn thấy chàng

là tôi mãn nguyện rồi. Tôi sẽ không làm việc gì dại dột khiến cậu gặp phiền

phức đâu.

Khóe mắt nóng ran, tôi ra sức kiềm chế, tôi đã tự hứa với lòng mình, sẽ

không để những giọt nước măt vô nghĩa nhỏ xuống nữa.

- Ngải Tình, tôi không sợ phiền phức. Nhưng nếu đưa chị đi cùng, cũng đâu

phải giải quyết được vấn đề gì?

Giọng nói của cậu ấy nhẹ nhàng hơn, bàn tay chực chìa về phía tôi, đến

nửa chừng lại thu về.

- Tôi không biết có thể làm được điều gì cho chàng, nhưng tôi không thể bỏ

mặc chàng. Tôi chỉ muốn lặng lẽ đi theo, để ít nhất được yên lòng về chàng.

Tôi hướng về Pusyseda tất cả nỗi kỳ vọng và khẩn cầu tha thiết của mình:

- Nếu như Hiểu Huyên và bọn trẻ gặp nạn, cậu sẽ làm gì? Mong cậu hiểu

cho tôi.

Ánh mắt Pusyseda như đang trôi về miền ký ức xa xăm nào đó, nét mặt

thoáng chút bi ai, cậu ta trầm ngâm nhìn tôi. Một lúc lâu sau mới thở dài ảo

não:

- Ngải Tình, chị vẫn giống hệt mười một năm về trước…

- Lòng dũng cảm của cô Ngải Tình khiến người khác phải khâm phục. Thiếp

xin chàng hãy giúp đỡ cô ấy.

Hiểu Huyên nãy giờ vẫn yên lặng ngồi bên, đột nhiên cất tiếng trò chuyện

với chúng tôi bằng tiếng Hán:

- Hiểu Huyên…

Pusyseda nhìn Hiểu Huyên cười buồn.

- Thiếp cũng từng trải qua nỗi khổ vì yêu, nên rất hiểu tâm tư của cô, Ngải

Tình. Xin chàng hãy giúp đỡ đôi uyên ương tội nghiệp ấy!

- Không phải ta không muốn giúp, nhưng ta đưa chị ấy đi bằng cách nào?

Lữ Quang và đám con cháu của ông ta đều từng gặp chị ấy, nếu để lộ tung

tích thì phải làm sao?

- Thiếp nghe nói, đức vua đưa cả thê thiếp đến chùa lễ Phật, chàng đưa

người thân đi cũng đâu có gì lạ. Chàng hãy để cô Ngải Tình đóng giả thiếp là

được.

Hiểu Huyên suy nghĩ một lát, quan sát tôi một lượt, rồi tiếp tục thuyết phục

chồng:

- Từ khi về làm dâu nhà chàng, thiếp ít khi ra ngoài, nhưng ai nấy đều hay

thiếp là người Hán. Chàng có thể ứng đối với người ta rằng, kể từ sau lần sinh

nở thứ hai, thiếp luôn muốn đến chùa lễ Phật tạ ơn. Chỉ cần nói dối rằng thiếp

bị cảm lạnh, phải trùm khăn che mặt là ổn. Cô Ngải Tình có đôi mắt rất giống

thiếp, vóc dáng cũng vậy, cô ấy đóng giả thiếp chắc chắn không ai nghi ngờ.

Chàng lại là quốc sư một nước, lẽ nào có kẻ dám vén khăn che mặt của thiếp

để kiểm chứng đúng hay sai?

Hay lắm! Quả là một phụ nữ thông minh, lanh lợi! Tôi vui như mở cờ trong

bụng, nắm lấy tay Hiểu Huyên, xúc động:

- Tốt quá! Cảm ơn phu nhân!

- Cô Ngải Tình có quan hệ thân thiết với gia đình chúng tôi như vậy, xin

đừng gọi tôi là phu nhân, nghe khách sáo và xa lạ. Chi bằng chúng ta gọi nhau

là chị em. Tôi có lẽ hơn tuổi cô, tôi gọi cô là em gái, được không?

Giọng nói dịu dàng và chân thành của cô ấy khiến tôi càng thêm yêu cô ấy

hơn.

- Được chứ! Được làm chị em với một phụ nữ thông minh, xin đẹp như phu

nhân là diễm phúc cùa Ngải Tình! Có điều, hai chúng ta chưa biết ai là chị ai là

em đâu!

Ta thật thà khai báo:

- Tôi đã hai mươi lăm tuổi rồi!

- Hiểu Huyên, xét về tuổi tác, nàng phải gọi chị ấy là chị đó. Chị ấy hơn

nàng một tuổi.

Pusyseda đứng bên bật cười.

- Nhưng, nhưng mà trông chị ấy giống như một thiếu nữ mới mười tám,

mười chín tuổi vậy!

Hiểu Huyên nhấc tay tôi lên, cử chỉ nhã nhặn, không ngừng tán thưởng.

- Chị ấy còn rất nhiều điều khiến người ta phải ngạc nhiên nữa kia!

Tôi nháy mắt ra hiệu cho Pusyseda, cậu ta thôi cười, dịu dàng nói với vợ:

- Đã khuya rồi, nàng đưa chị Ngải Tình đi nghỉ đi. Ngày mai chúng ta phải

chuẩn bị mọi thứ để ngày kia lên đường.

Đêm đó, tôi trở về căn phòng quen thuộc của mình. Không ngoài dự đoán

của tôi, mọi thứ vẫn được giữ nguyên, thậm chí cả những mảnh giấy viết chữ

của Pusyseda thuở nhỏ vẫn còn đó. Những năm tháng đã khiến chúng trở nên

ố vàng, những nét chữ xiêu vẹo đã không còn rõ nét nữa. Đang chìm đắm

trong xúc cảm được khơi gợi bởi ký ức, bỗng tôi nghe thấy tiếng ngâm nga

phía sau. Giai điệu quen thuộc làm sao, tuy có hơi lạc nốt nhưng chắc chắn đó

là bài “Ngủ ngon con yêu”. Tôi giật mình, quay lại nhìn cô ấy:

- Tướng công tôi thường hát ru hai đứa nhỏ bằng bài hát này.

Cô ấy mỉm cười, đôi mắt trong trẻo chiếu thẳng về phía tôi, có ý thăm dò

phản ứng của tôi.

- Tướng công có lần đã hỏi tôi về bài hát của người Hán này, nhưng tôi hiểu

biết hạn chế chưa từng nghe bài hát này bao giờ.

Thì ra cô ấy vẫn băn khoăn chuyện đó.

- Hiểu Huyên, chính tôi đã hát cho cả hai anh em họ nghe bài hát này.

Tôi hiểu ý tứ của cô ấy và nghĩ rằng nên thành thực:

- Chuyện đó đã qua lâu lắm rồi, có lẽ chỉ còn là một chút ký ức mơ hồ mà

thôi, quan trọng nhất vẫn là hiện tại… Hiện tại, cô và hai đứa trẻ mới là người

thân thiết nhất của cậu ấy, là những người mà cậu ấy muốn chở che, bao bọc

nhất.

Tôi nhẹ nhàng nắm lấy tay cô ấy, giải bày lòng mình:

- Tôi cũng có người mà tôi muốn bảo vệ. Mười năm trước tôi đã bỏ lỡ cơ

hội, nhưng bây giờ, tôi quyết không từ bỏ.

Tôi ngước nhìn bầu trời đêm tịch mịch bên ngoài, nỗi buồn dâng ngập lòng.

- Trừ phi chàng không cần tôi nữa…

Tôi nghĩ Hiểu Huyên đã trở về với niềm hân hoan vì khúc mắc đã được giải

tảo. Tôi ngồi ngơ ngẩn rất lâu trên giường, kỷ niệm về căn phòng này lần lượt

ùa. về. Chuyện xưa tựa như mây khói, chớp măt đã hơn mười năm. Cậu nhóc

ngày xưa sáng nào cũng ngồi xổm, chầu chực bên giường tôi nay đã xuất hiện

không ít nếp nhăn trên trán, mọi suy nghĩ hành động đã chín chắn, chững

chạc, già dặn hơn rất nhiều.

Tôi bất giác nhớ lại người cha của họ từng nói với tôi. Pusyseda là người

dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, nhiệt thành, tuổi trẻ bốc đồng,

phóng túng, nhưng sẽ trưởng thành theo thời gian. Còn Rajiva, chàng quá ư

thông minh, từ nhỏ lại chưa từng phải chịu khổ. Suy nghĩ đè nặng trong lòng

nhưng chẳng chịu nói ra. Tính cách ấy sẽ phải đổi bằng một đời bất hạnh.

Tôi cười buồn. Mười năm sau, những lời của Kumarayana đã được nghiệm

chứng. Rajiva, chàng có bao nhiêu điều kìm nén trong lòng không thể nói ra?

Lúc này, chàng đang làm gì? Hay là cũng ngồi thẫn thờ ngắm nhìn bầu trời

đêm ngàn sao, chờ trời sáng? Lúc ra đi, em đã kìm lòng không nhìn chàng. Em

đã tự an ủi rằng, vì chàng muốn em bỏ trốn nên mới nói những lời nghiệt ngã

ấy. Tuy chàng chưa một lần nói yêu em, nhưng em biết, chàng đã yêu em từ

khoảnh khắc chàng cầm lên cây viết và họa lại hình em. Chàng yêu em, không

phải vì em là tiên nữ, không phải vì em là đệ tử của Phật tổ, mà chỉ vì em là cô

gái đầu tiên, cũng là cô gái duy nhất bước vào trái tim chàng.

Tôi thở dài, cố gắng đẩy những phiền muộn trong lòng ra ngoài. Lúc này tôi

chỉ có thể dựa vào lí do ấy để tin tưởng và tự động viên. Nếu không tôi chẳng

biết phải lấy cớ gì để đến được bên chàng.

Chương 50: Pusyseda và lịch sử

Xe ngựa của phủ quốc sư dừng lại ở quảng trường phía trước hoàng cung,

chúng tôi đứng đó chờ đợi đức vua Khâu Từ và đoàn tùy tùng của Lữ Quang.

Ốc đảo Khâu Từ lúc này đã bước vào đầu tháng Chín, buổi sớm tinh mơ khí

lạnh giăng giăng. Bạch Chấn và bầu đoàn thê tử của ngài đã đến và sắp xếp

ổn thỏa đâu vào đấy, vậy mà vẫn chưa thấy Lữ Quang xuất hiện. Chờ tới tận

khi mặt trời đã lên cao bằng ba con sào, ông ta mới đủng đỉnh từ trong cung

tiến ra, vây quanh là hàng tá mỹ nữ Khâu Từ, cùng đội quân hộ tống đông

đảo, so với Bạch Chấn, sự lấn lướt rất rõ nét.

Tôi chỉ dám đưa mắt nhìn trộm từ trong xe ngựa, tìm kiếm xung quanh Lữ

Quang. Rất dễ nhận ra chàng, không phải vì khí khái bất phàm và vóc dáng nổi

trội giữa đám quân lính người Hán, mà vì trang phục của chàng. Chàng khoác

chiếc áo choàng rộng màu nâu sòng, một bên vai để trần, phục trang ấy hoàn

toàn khác biệt so với đoàn tùy tùng rực rỡ, lấp lánh ngọc ngà châu báu của Lữ

Quang. Trong những ngày chúng tôi bị giam lỏng, Lữ Quang ép chàng mặc

trang phục của dân thường, nhưng hôm nay lại cho phép chàng khoác áo tăng

lữ, ông ta hẳn có ý đồ đen tối gì đây.

Đoàn tùy tùng của Lữ Quang đã chuẩn bị xong xuôi. Một tên lính ra sức kéo

một con ngựa đến bên Rajiva. Con ngựa đó chỉ nhìn thoáng qua cũng biết là

một con ngựa dữ, nó không ngừng hí lên dữ tợn và bất tuân lệnh chủ. Không

nghe rõ họ nói gì với nhau, tôi chỉ thấy Rajiva lặng lẽ đón lấy dây cương, chuẩn

bị trèo lên.

Tôi nhắm chặt mắt lại, không dám chứng kiến những gì diễn ra tiếp theo.

Trái tim như rỉ máu, đầu óc mê muội. Sự việc đã diễn ra như nó phải thế, dù

tôi có cố gắng thay đổi thế nào đi nữa.

Những trận cười nhạo ác ý vang lên giữa đám đông. Đó là những kẻ ngu

muội, xem tôn giáo như trò phù thủy, như một thứ mê tín dị đoan. Bọn họ chỉ

biết lăm le cợt nhả, xem thường, hòng áp chế uy lực của thần quyền. Lịch sử

đã chứng minh, Lữ Quang chẳng qua chỉ là một tên hề, Rajiva mới là bậc danh

sư được người đời tôn kính. Tôi không muốn phải chứng kiến cảnh chàng bị

đem ra làm trò hề và chắc rằng chàng cũng không muốn để tôi phải thấy cảnh

đó. Tôi nắm chặt chiếc khăn lụa Atala trong tay, thầm khích lệ: Rajiva, cố gắng

lên, hãy cố gắng lên!

Có tiếng xôn xao giữa đám đông, âm thanh của ai đó đang gào lên phẫn

nộ. Kéo rèm cửa, ngó ra ngoài, Pusyseda đang đứng chắn phía trước con ngựa

hung hãn, cậu ta đỡ lấy Rajiva mình lấm bụi đất, tay ôm đầu gối, vẻ mặt đau

đớn.

Lữ Quang to nhỏ vài câu với thuộc hạ, con ngựa ác bị dắt đi, một chiếc xe

bò lại được đưa đến trước mặt Rajiva. Mọi người đều cưỡi ngựa hoặc ngồi xe

ngựa, xe bò chỉ dành cho các gia đình nghèo khổ, thấp kém. Nhưng phô bày

sự đãi ngộ tồi tệ chưa phải là mục đích chính của Lữ Quang. Con bò này chắc

chắn không bình thường, có lẽ chính là loại bò điên được ghi chép trong sử

sách.

Pusyseda đầy vẻ lo lắng, không muốn để Rajiva lên xe. Vẻ mặt Lữ Quang

cũng không dễ chịu gì, ông ta quay sang to nhỏ vài câu với Bạch Chấn, ngay

lập tức nhà vua phải đích thân kéo Pusyseda ra ngoài.

Nhìn thấy Bạch Chấn kéo tay Pusyseda đi về phía cỗ xe ngựa của mình, tôi

vội vàng trùm khăn che mặt lại. Rèm cửa được vén ra, nhà vua gật đầu với tôi,

vẻ ái ngại, tiếng Hán lơ lớ cất lên:

- Phu nhân hãy can ngăn quốc sư, đừng làm chuyến đi bị chậm lại.

Tôi đưa tay ra kéo Pusyseda, khẽ cúi đầu đáp lễ với Bạch Chấn, hạ thấp

giọng:

- Thần thiếp hiểu, xin tạ ơn đức vua!

Chờ Bạch Chấn đi khuất, tôi nói khẽ với Pusyseda:

- Lên xe đi, đừng chọc giận Lữ Quang nữa.

Pusyseda cau mày:

- Ngải Tình, chị nỡ lòng nào nhìn huynh ấy phải chịu như thế, chị không yêu

huynh ấy sao?

- Pusyseda, chính vì yêu Rajiva, nên tôi mới phải nhẫn nhịn. Lữ Quang bày

mưu  hạ  nhục  Rajiva  bằng  mọi  cách,  cậu  đứng  ra  ngăn  cản  chẳng  những

không giải quyết được vấn đề gì, sẽ chỉ khiến hắn thêm tức giận mà trút hết

lên đầu Rajiva thôi.

Tôi buồn bã nhìn Pusyseda, thở dài:

- Trong thời thế kẻ mạnh chà đạp kẻ yếu này, ngoài việc thản nhiên đối

diện, chúng ta không còn cách nào khác.

Pusyseda ngồi xuống phía đối diện với tôi, vẻ mặt vẫn nhuốm đầy uất hận.

Cậu ta nặng nề buông tiếng giục phu xe.

- Đi thôi!

Cỗ xe từ từ lăn bánh, tiếng cười nhạo vẫn vang lên phía trước đoàn xe.

Pusyseda sa sầm mặt mày, vén rèm cửa nhìn ra ngoài.

Tôi nhìn cậu ta lại lắc đầu:

- Đừng nhìn nữa.

Rồi giữ giọng bình tĩnh nói với cậu ta:

- Dù Rajiva có thể bình thản đối diện với mọi sự hành hạ, nhạo báng, nhưng

chàng cũng có lòng tự trọng của chàng, chàng không muốn người thân của

mình phải chứng kiến cảnh đó đâu. Chúng ra không nhìn, tức là chúng ta tôn

trọng chàng, cậu hiểu chứ?

- Ngải Tình…

Vẻ mặt Pusyseda đầy đau đớn, khóe mắt nhuốm đỏ:

- Chị có thể bình tĩnh thật ư? Nhưng sao sắc mặt lại trắng bệch và đôi mắt

lại thâm quầng thế kia?

Tôi ngẩng người, nghiêm trọng vậy ư? Mấy ngày qua đều mất ngủ, tôi biết

sắc mặt mình rất khó coi. Nhưng diện mạo này, vô tình lại rất khớp với lời nói

dối: phu nhân của Pusyseda đang bị cảm lạnh.

- Tôi đã truyền tin dặn dò chị khuyên nhủ huynh ấy kia mà! Huynh ấy không

chịu nghe, hay chị không chịu nói?

Nhớ lại khoảnh khắc chia ly, tim tôi quặng thắt. Tôi phải hít một hơi thật sâu

để lấy lại sự bình tĩnh:

- Chắc cậu biết Lữ Quang ép Rajiva phải làm gì chứ?

- Lúc đầu thì không, nhưng bây giờ tôi có thể đoán ra được.

- Vậy theo cậu, Rajiva có chấp nhận cầu cạnh Lữ Quang và ca tụng công

đức của ông ta không?

- Dù không muốn, huynh ấy cũng nên nghĩ cách để kéo dài thời gian hoặc

tạm thời chấp nhận, Tóm lại là phải tính kế lâu dài, việc gì huynh ấy phải một

mực từ chối để bây giờ phải chịu sự đày đọa, sỉ nhục như vậy?

- Pusyseda, Rajiva có niềm tin của riêng chàng, đó là điều mà Lữ Quang

không bao giờ khuất phục được. Sự đày đọa về thể xác dù sao cũng dễ chịu

hơn nhiều sự dằn vặt về tinh thần. Chàng đã quyết định như vậy, cho nên dù

xảy ra chuyện gì, tôi cũng sẽ đi theo và ủng hộ chàng. Thậm chí…

Tôi ngừng lại, giữ chặt bàn tay đang run lên bần bật, rồi mới tiếp tục:

- Nếu chàng không cần tôi nữa, tôi sẽ ra đi.

Ngày sau chàng sẽ theo Lữ Quang đến Lương Châu. Mười bảy năm đằng

đẵng, vậy mà trong truyện kí về chàng chỉ lưu lại một và lời dự đoán lạ lùng,

không đáng tin cậy. Từ việc này, có thể khẳng định, chàng không chịu thuận

theo Lữ Quang. Mười bảy năm trời chàng còn không chịu khuất phục, nói chi

bây giờ.

Pusyseda nhìn tôi rất lâu, ánh mắt ngập đầy tình thương và nỗi bi ai:

- Ngải Tình, chỉ có chị là người hiểu huynh ấy nhất, chả trách mười năm lại

mười năm, huynh ấy vẫn một lòng chờ đợi chị. So với huynh ấy, tình yêu năm

xưa của tôi dành cho chị, chẳng đáng kể gì. Tôi không giành được trái tim chị,

cũng là điều dễ hiểu.

Tôi mỉm cười nhớ lại Pusyseda thời trẻ bồng bột, bướng bỉnh, tôi không khỏi

xúc động:

- Vậy là, cậu đã chịu từ bỏ sự cố chấp của tuổi trẻ.

Ánh mắt Pusyseda như trôi đến tận phương nào, sau một hồi trầm ngâm,

đột nhiên cậu ta cất tiếng:

- Huynh ấy gặp nạn cũng một phần do lỗi của tôi.

Tôi không khỏi ngạc nhiên.

- Trước khi ra đi, chị từng nói, ngày sau Khâu Từ sẽ trải qua một biến cố rất

lớn. Nếu tôi tiếp tục theo nghiệp binh đao, sẽ khó bảo toàn tính mạng. Chị còn

khuyên tôi nên tạo dựng mối quan hệ mật thiết với cậu út, cậu ấy sẽ là chỗ

dựa của tôi sau này. Chị nhớ chứ?

Tôi gật đầu, trong lòng không khỏi thấp thỏm:

- Cậu đã làm gì?

- Tôi cố ý chọc giận đức vua Bạch Thuần, giờ thì nên gọi ông ta là Tiên

Vương mới phải, nên đã bị đuổi khỏi đội cấm vệ quân. Tôi và ông ấy vốn có ân

oán từ trước, nên ông ấy không coi tôi ra gì. Sau khi cha mẹ tôi qua đời, ông

ấy chẳng cần phải nể nang nữa… Rời đội cấm vệ quân, tôi quyết định buôn tơ

lụa, kiếm được rất nhiều tiền. Nhưng Bạch Thuần không chịu trao quyền kinh

doanh mỏ đồng cho tôi, lại trao cho hoàng tử thứ tư – một kẻ ngu muội. Hắn

kinh doanh thua lỗ, lại đổ tội cho tôi ngăn cản thương nhân Shanshan mua

đồng của Khâu Từ. Bạch Thuần tức giận xung công rất nhiều cửa hiệu tơ lụa

của tôi. Thời gian đó, tôi sống rất khổ sở.

Nhớ lại chuyện cũ, nỗi tức giận dâng lên trong giọng kể của Pusyseda:

- Một tên vua tàn bạo, xa hoa như vậy, lật đổ ông ta sẽ tạo phúc cho trăm

họ. Thêm nữa, tôi cũng muốn trả thù, nên đã kích động cậu út tạo phản. Cậu

út bản tính hèn nhát, không có dã tâm, mọi việc trù bị cho cuộc soán ngôi đều

do một mình tôi lo liệu. Chúng tôi vốn không có thực lực, lại không nắm giữ

quân đội trong tay, nên trong chuyến cống nạp cho triều đình nhà Hán sáu

năm trước, tôi đã theo cậu út đến Trường An. Năm đó được diện kiến Vua Tần

– Phù Kiên, ông ta tự xưng mình là bậc anh hùng cái thế, trong cuộc chuyện

trò, tôi nhận ra dã tâm muốn thu phục Tây vực của Phù Kiên… nên sau khi

quay về, tôi liên lạc với Shanshan, Chirsh – các tiểu quốc từ lâu đã bất mãn với

việc Bạch Thuần xưng bá ở Tây vực, cùng nhau tập hợp lực lượng. Ba năm

trước, vua của ba tiểu quốc Tây vực đã cùng nhau đến Trường An tiến cống.

Dưới sự chỉ đạo của tôi, họ đã cùng thỉnh cầu Phù Kiên Tây chinh, đồng thời

tình nguyện làm “người dẫn đường” cho quân đội Tây chinh của Phù Kiên.

Tôi tròn xoe mắt nhìn Pusyseda. Thật không ngờ, những diễn biến lịch sử

mà tôi thuộc làu làu về giai thoại này, lại do cậu ta sắp bày tất cả.

- Từ lâu tôi đã nể phục Phù Kiên, tôi muốn dựa vào sức mạnh của ông ta để

trừ bỏ Bạch Thuần. Phù Kiên hứa hẹn sẽ đối xử với Khâu Từ như nhà Hán, cho

phép Khâu Từ tự trị, chỉ cần hàng năm cống nạp đầy đủ là được. Tôi biết anh

trai mình lúc nào cũng đăm đắm hướng về đất Hán, muốn đến đó tìm chị, lại lo

huynh ấy gắn bó quá mật thiết với Bạch Thuần thì sau này sẽ bị vạ lây, nên

trước mặt Phù Kiên, tôi đã hết lời ca ngợi tài trí của huynh ấy và khuyên Phù

Kiên mời huynh ấy đến Trường An truyền pháp. Phù Kiên vốn nghe danh anh

tôi đã lâu, nên đã hạ lệnh cho Lữ Quang nhất định phải công phá Khâu Từ,

sau đó lập tức đưa anh tôi về Trường An.

 Tôi không thốt nổi nên lời, sao lại có chuyện như vậy…

- Ngải Tình, tôi đâu ngờ Phù Kiên lại bị nước Tấn đánh bại vào lúc này,

nước Tần của ông ra vốn hung mạnh nhất Trung Nguyên kia mà! Tôi lại càng

không thể tin được, Lữ Quang nhân dịp này mưu đồ xưng bá Tây vực, đã giam

cầm anh tôi. Nguyên nhân sâu xa những bất hạnh của huynh ấy đều do tôi

gây nên.

Khuôn mặt Pusyseda đầy vẻ hổ thẹn, bàn tay đan chặt vào nhau như muốn

vò nát nỗi bi phẫn.

- Nếu được, tôi sẵn sàng chịu tội thay huynh ấy. Mỗi lần nhìn huynh ấy rơi

từ trên lưng ngựa xuống, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn.

Bên ngoài cửa xe lại rộ lên những tràng cười, âm thanh ấy tựa như những

mũi tên từ bốn phương tám hướng bắn thẳng vào tôi, tôi như muốn ngã quỵ,

phải vịn vào cánh tay của Pusyseda.

-  Không,  không  phải  lỗi  của  cậu.  Lỗi  ở  tôi,  ngày  ấy,  chính  tôi  đã  tiết  lộ

chuyện tương lai cho cậu. Nếu muốn truy xét, thì chính tôi đã hại chàng…

Vì sao lại như vậy? Rốt cuộc tôi là ai? Tôi là một phần tử của giai đoạn lịch

sử này ư? Vì sao không hề có ghi chép nào về tôi? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì

giữa dòng sông lịch sử đang cuồn cuộn chảy trôi này? Chính tôi đã chuyển

động bánh xe lịch sử vĩ đại ư? Hay là, ngay cả khi không có tôi, kết cục vẫn

như vậy? Rốt cuộc là ai, là ai đang bày trò chơi số phận này với chúng tôi?

Nếu theo thuyết duy tâm, thì việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Rajiva cũng

không phải là chuyện tình cờ. Và chàng không chịu bỏ trốn cùng tôi là quyết

định đúng đắn. Bởi vì, cho dù thế nào, lịch sử vẫn sẽ diễn ra theo hướng đã

định sẵn, Rajiva chắc chắn sẽ trở thành một vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng

trong lịch sử. Vậy nên, suy cho cùng, tôi chẳng thể thay đổi được bất cứ điều

gì…

Sách sử ghi chép rằng “Lữ Quang bày trò hạ nhục Kumarajiva, ép nhà sư

thành thân với công chúa Khâu Từ”. Tôi đã cố tình bỏ qua chi tiết lịch sử này,

thậm chí xóa khỏi bộ nhớ. Tôi tự nhủ rằng, những ghi chép về Rajiva có quá

nhiều điểm không đáng tin cậy và điều này chắc chắn cũng là một dạng “tin

đồn thất thiệt”. Vả lại, tôi đã thay thế Aksayamati, trở thành “đối tượng” phá

giới của Rajiva, tức là đã thay đổi lịch sử. Đối với hậu thế, điều này sẽ trở

thành một ẩn số. Nhưng, câu nói của Pusyseda khiến tôi thấp thỏm không yên.

Nếu lịch sử vẫn lăn bánh theo hướng đã định sẵn, nếu ghi chép trên kia là sự

thực, thì dù tôi có làm gì, Aksayamati vẫn sẽ trở thành vợ của Rajiva.

- Ngải Tình, chị sao thế?

Một cánh tay vòng qua đỡ lấy tôi.

Tôi ngước nhìn Pusyseda, đầu óc choáng váng, toàn thân chao đảo. Không

được, tôi không thể gục ngã, không thể yếu đuối trong lúc này. “Thành thân

với công chúa Khâu Từ”, “thành thân với công chúa Khâu Từ”, không nghĩ

ngợi nhiều nữa, mặc cho con đường phía trước sẽ ra sao, tôi nhất định phải

giữ vững tinh thần để ứng phó với tất cả.

- Tôi không sao, chỉ hơi chóng mặt thôi, chợp mắt một lát sẽ ổn.

Tôi dựa lưng về phía sau, đầu óc trống rỗng. Dường như có ai đó đang gọi

tên tôi. Tôi không cất nổi tiếng đáp lại, tôi thật sự rất mệt…

Lúc lờ mờ tỉnh lại, tôi mới nhận ra mình đang nằm trong vòng tay Pusyseda.

Tôi ngượng ngùng ngồi dậy, nhìn thấy sự quan tâm, lo lắng hiển hiện trên

gương mặt cậu ấy.

- Sao chị lại ngất đi thế?

- Không sao đâu, chỉ tại mấy hôm nay tôi bị mất ngủ, nên hơi mệt thôi.

Không muốn nói thêm nữa, nhận thấy xe ngựa đã dừng lại, tôi bèn hỏi cậu

ấy:

- Vì sao dừng lại?

- Lữ Quang muốn nghỉ ngơi.

Vẫn là ánh mắt lo lắng nhìn tôi đăm đăm, Pusyseda thở dài:

- Tôi đi xem anh tôi thế nào.

Tôi lên tiếng giữ cậu ấy lại, Pusyseda mỉm cười lắc đầu:

- Yên tâm, tôi sẽ giữ bình tĩnh.

- Đưa vật này cho chàng giùm tôi…

Đón chiếc khăn lụa Atala từ tay tôi, Pusyseda trầm ngâm giây lát rồi nhìn tôi

gật đầu.

Chương 51: Yêu như một người đàn ông

Thành Khâu Từ cách chùa Cakra chừng bốn mươi dặm, bình thường chỉ

một ngày là tới nơi. Nhưng vì phải chờ Lữ Quang, buổi sáng đã xuất phát rất

muộn, tốc độ di chuyển lại chậm chạp như rùa, vì vậy, khoảng bốn giờ chiều,

đoàn người phải dừng lại nghỉ ngơi qua đêm cạnh một làng nhỏ, tức là ngày

hôm sau mới có thể đến chùa.

Ngôi làng này rất nhỏ, đám tùy tùng phải tất bật dựng lán trại, nổi lửa

chuẩn bị bữa tối bên sông Tongchang. Chốc chốc những làn khói nhè nhẹ lại

vấn vít bay lả lướt trên những lán trại san sát.

Tôi được căn dặn là sau khi vào trong lán thì không được ra ngoài. Mặc dù

rất  muốn  gặp  Rajiva,  nhưng  tôi  phải  gắng  nhẫn  nại,  không  thể  để  lộ  thân

phận. Pusyseda đến dùng bữa cùng Lữ Quang và Bạch Chấn. Cậu ấy đã hứa

sẽ giúp tôi mang thuốc trị vết thương đến cho Rajiva. Hôm qua tôi nhờ Hiểu

Huyên tìm mua loại thuốc bôi ngoài da tốt nhất phòng khi dùng đến, không

ngờ hôm nay đã phải dùng tới.

Hiểu Huyên cử cô hầu gái thân thiết của cô ấy, tên là Mễ Nhi đi theo chăm

sóc tôi. Cô hầu người Hán này theo Hiểu Huyên từ Trường An đến Khâu Từ.

Tôi uể oải ăn cho xong bữa tối, rồi nhờ Mễ Nhi gỡ bỏ những trang sức cầu kì

và kiểu tóc phức tạp mà Hiểu Huyên đã mất cả buổi sáng để vấn buộc cho tôi.

Tôi muốn trở lại với mái tóc xõa ngang vai tự nhiên, nhẹ nhõm thường ngày.

Màn đêm dần buông xuống, ngoài lán văng vẳng âm thanh náo động của tiếng

ca hát và tiếng cười đùa. Lữ Quang coi việc đi chùa lễ Phật như một chuyến du

lịch dã ngoại, ông ta mang theo không biết bao nhiêu ca kỹ. Không biết trong

bữa ăn, ông ta có chịu buông tha cho Rajiva. Rajiva, em đang ở rất gần chàng,

nhưng chẳng thể đến để an ủi chàng. Tôi thầm trách mình vô dụng, trong đầu

được trang bị bao nhiêu kiến thức lịch sử, vậy mà không cứu nổi người mình

yêu.

Tôi thẫn thờ hóng ra phía cửa trại, thời gian chầm chậm trôi, không biết tôi

đã  ngồi  như  thế  bao  lâu.  Bỗng  có  ai  đó  vén  mở  cửa  trại.  Nửa  thân  người

Pusyseda xuất hiện, mặt mũi đỏ vang, bước đi chao đảo. Tôi vội vã chạy đến,

từ xa đã ngửi thấy mùi rượu nồng nặc.

Đưa tay ra định đỡ lấy cậu ấy thì nhận thấy sau lưng đã có người dìu cậu

ấy. Trong đêm nhìn không rõ mặt, sợ bị lộ thân phận, tôi vội trùm khăn che

mặt lên.

Vạt áo cà sa thấp thoáng trước mắt, trái tim tôi đập cuồng loạn. Bóng dáng

cao gầy ấy đang đỡ lấy Pusyseda, dưới ánh đèn mờ ảo, khuôn mặt đẹp như

tạc tượng vẫn rõ nét, đôi mắt thăm thẳm u buồn, chăm chú quan sát tôi.

Như bị ai đó điểm huyệt, tôi ngẩn ngơ không biết phải nói gì. Mới hai ngày

mà chàng đã gầy rộc đi trông thấy.

- Ngải Tình, ta đưa cậu ấy về rồi đây.

Pusyseda mở mắt, lẩm bẩm câu gì không rõ.

Chúng tôi bất giác giật mình, Rajiva vất vả dìu Pusyseda vào trong lán và

đặt cậu ta nằm lên tấm đệm trải tạm. Nhìn quanh một lượt, cho Mễ Nhi lui ra

nghỉ ngơi.

- Anh nghe đây, mười một năm trước, tôi chấp nhận nhường cô ấy cho anh

vì anh yêu cô ấy sâu đậm và bền bỉ hơn tôi.

Pusyseda không chịu nằm yên, miệng làu bàu không ngớt, đòi đứng lên,

Rajiva phải ra sức giữ chặt cậu ta lại. Cậu ta túm lấy áo cà sa của Rajiva, gào

lên:

- Cô ấy không nên yêu anh, vì anh mà cô ấy bất hạnh thế này đấy! Nhiều

đêm mất ngủ, hôm nay còn bị ngất đi.

Rajiva dịu dàng nhìn em trai, cất giọng nhỏ nhẹ:

- Hôm nay cậu đã vất vả rồi, mau ngủ đi!

- Tôi đã hứa với cô ấy sẽ lấy một người phụ nữ xứng đáng và sống thật

hạnh phúc. Tôi đã giữ lời, còn cô ấy thì sao?

Pusyseda đổ mình xuống gối, nhưng bàn tay vẫn nắm chặt áo cà sa của

Rajiva không chịu buông, ánh mắt lờ đờ:

- Cô ấy yêu anh, nhưng hai người chẳng thể có kết quả. Anh không bảo vệ

được cô ấy, anh chẳng làm gì được cho cô ấy cả. Lẽ ra tôi không nên bỏ

cuộc…

Rajiva quay lại nhìn tôi, mặc cho Pusyseda vẫn túm chặt tay áo, chàng im

lặng không nói. Nỗi buồn trong đáy mắt dâng lên tựa sóng biển, chỉ chực trào

ra nhưng chàng đã cố kìm giữ trong hai vực nước sâu thăm thẳm ấy.

- Cô ấy không nên yêu anh…

Puyseda buông tay, mắt nhắm nghiền, hơi thở phì phò, miệng vẫn lẩm bẩm

vài ba tiếng gì đó không rõ ràng, rồi chìm vào giấc ngủ.

Chúng tôi ngồi đối diện, ngàn vạn lời muốn nói nhưng chỉ có thể trao nhau

qua ánh mắt. Thời gian như lắng đọng, âm thanh như ngừng lặng, giữa trời

đất này chỉ còn tôi và chàng, ước gì có thể cứ ngồi nhìn nhau như vậy cho đến

ngày tận thế, không còn muộn phiền, không cần tương lai.

Không biết bao lâu sau tôi mới chợt nhớ ra và hỏi chàng:

- Vết thương của chàng sao rồi?

- Sao nàng lại ngất xỉu?

Chúng tôi cùng sững lại vì cả hai cùng đồng thanh hỏi người kia.

- Ta không sao…

- Em không sao…

Lại đồng thanh trả lời. Sự đồng điệu dù rất nhỏ nhoi ấy khiến chúng tôi lặng

đi. Rồi chúng tôi lại nhìn nhau, đưa tay về phía nhau và ôm nhau vào lòng.

Khoảnh khắc áp má vào ngực chàng, tôi ngỡ ngàng, nhắm mắt lại. Đã bao lâu

rồi tôi không được tựa mình trong vòng tay ấm áp này? Tôi không muốn mở

mắt ra nữa, tôi sợ đây chỉ là ảo ảnh. Giá như có thể cứ thế ôm nhau đến suốt

kếp, tôi sẵn lòng ngả vào lòng chàng đến tận khi sông cạn đá mòn.

- Ngải Tình…

Cuối cùng, chàng là người cất tiếng xua đi không khí u trầm này trước:

- Vì sao không chịu quay về?

- Chàng bảo em về là em sẽ về sao, như thế còn gì là thể diện!

Tôi phải dùng đến chiêu bài này để né tránh chủ đề mà tôi không muốn

nhắc đến ấy.

- Nhưng nàng liều mình đến đây trong khi ta không có cách gì để bảo vệ

nàng…

Chàng  thở  dài  não  nề,  ánh  mắt  dâng  lên  niềm  trách  móc,  nhưng  phần

nhiều là nỗi bất lực.

Có một vết trầy xước bên gò má phải của chàng, vết thương đã tấy đỏ. Tôi

xót xa đưa tay xoa nhẹ vết xước, gắng gượng nở một nụ cười:

- Chàng đừng quên, tuy em không phải tiên nữ, nhưng em đến từ tương

lai. Dù không thể đưa chàng đi cùng, nhưng em đủ sức tự bảo vệ mình.

- Ngải Tình!

Chàng nắm lấy những ngón tay tôi đang mân mê khuôn mặt chàng, tỉ mỉ

quan sát gương mặt tôi. Cảm xúc bị kìm chế khiến cho giọng nói như lạc đi:

- Ta không đi theo nàng, là vì…

- Em hiểu. Vì lý tưởng, vì sứ mệnh. Em sẽ không ép chàng phải từ bỏ, tại

em quá tham lam ích kỷ, em muốn thay đổi lịch sử, muốn hai ta được ở bên

nhau tự do tự tại. Tương lai của chàng, em không biết một cách tường tận, chỉ

dựa vào vài dòng chữ ngắn ngủi, mơ hồ và phần nhiều là những lời đồn đoán.

Bởi vậy, em muốn trốn tránh, em sợ phải đối diện với tương lai. Nhưng em đã

quên rằng chàng không giống những người bình thường khác. Nếu phải từ bỏ

lý tưởng và sứ mệnh, chàng sẽ không còn là chàng nữa. Bất luận những ghi

chép về chàng có thể tồn tại nhiều sai sót, nhưng có một điều chắc chắn, đó

là: những cuốn kinh phật chàng dịch, trải qua 1650 năm lịch sử, vẫn được lưu

truyền rộng rãi. Số mệnh đã sắp bày như vậy, em sẽ thuận theo, em sẽ không

chống lại ý trời nữa.

Tôi tách khỏi khuôn ngực của chàng, để được nhìn sâu vào đôi mắt thăm

thẳm, hút hồn của chàng. Người đàn ông này, tôi không có cách nào bớt yêu

chàng, dù chỉ một chút, vì nếu thế, hẳn là tôi sẽ không có đủ dũng khí để bất

chấp tất cả đi theo chàng.

- Nhưng xin chàng đừng bao giờ nói với em những lời tuyệt tình ấy nữa. Em

không sợ bất cứ điều gì, chỉ sợ phải nghe những lời đó của chàng, nó khiến

em buồn vô hạn…

Chàng đưa tay đón lấy gương mặt tôi, ánh mắt chứa chan nỗi niềm ân hận

và thương xót. Bờ môi run run:

- Ta xin lỗi…

- Không sao.

Tôi lắc đầu, tươi cười. Đó là cách tự bảo vệ và cân bằng trong nghịch cảnh.

Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, tôi cũng sẽ mỉm cười đối diện, dù cho nụ cười

không hề có tác dụng gì trong bối cảnh hiện tại.

- Trong thời đại của em, phụ nữ có quyền tự chủ, không cần dựa vào đàn

ông. Do vậy, em có chủ kiến của mình.. Dù chàng có nói gì cũng không thể

ngăn được em. Dù sau này có vấp ngã vỡ đầu chảy máu, cũng là do em tự

chuốc lấy, không phải lỗi của chàng. Chàng không cần phải hứa hẹn, cũng

không cần phải bảo vệ em, càng không cần day dứt vì nghĩ rằng em sẽ oán

trách chàng.

- Ngải Tình, nàng… Sao ta có thể vô trách nhiệm như vậy!

Chàng nổi giận, giọng nói không được kiểm soát, đột ngột vút cao. Chàng

có vẻ rất xúc động, ánh mắt sáng rực. Sau một tiếng thở dài, chàng buông tôi

ra, bước đi vài bước, xoay lưng về phía tôi. Bờ vai chàng khẽ rung động, ánh

mắt không rời ngọn đèn dầu, chàng cất giọng trầm ấm:

- Ta nói những lời đó, đúng là vì muốn ép nàng ra đi. Ta có thể chịu đựng

được mọi sự hành hạ, nhưng ta không thể để nàng phải chịu dù chỉ một chút

uất ức. Nếu như người phải chịu đựng sự việc ngày hôm nay là nàng…

Chàng ngừng lại, ngẩng đầu hít một hơi thật sâu để giữ bình tĩnh. Hồi lâu,

mới quay lại đối diện với tôi, ánh mắt ngập tràn nỗi bi thương, cô độc mà tôi

không thể chịu nổi mỗi khi bắt gặp:

- Nàng rời xa người thân, từ bỏ cuộc sống tương lai tốt đẹp, để đến bên ta,

ta hiểu nàng đã phải hy sinh những gì. Nhưng, ta lại là kẻ vô dụng…

Tôi định cất lời, nhưng chàng đã ngăn lại:

- Pusyseda nói đúng, nếu ta không bảo vệ được nàng, thì phải để nàng ra

đi, để nàng tự bảo vệ mình.

Đã thề với lòng mình sẽ không rơi nước mắt, nhưng sau khi nghe chàng

nói, tôi đã không giữ được lời thề. Vì muốn ép tôi ra đi, chàng mới nói những

lời tuyệt tình đó, điều này có ý nghĩa với tôi hơn tất thảy. Tôi lại gần chàng,

đưa tay lên vuốt ve bờ vai gầy guộc của chàng, dịu giọng nói:

- Rajiva, chàng không như vậy…

Tôi gắng gượng nở nụ cười, để khỏa lấp đi những giọt nước mắt:

- Chàng là người đàn ông nghị lực và kiên cường nhất mà em từng gặp. Em

sẽ luôn ở bên chàng, đến khi nào chàng không cần em nữa mới thôi.

- Sao ta có thể không cần nàng?

Chưa từng thấy chàng hốt hoảng như thế bao giờ, chàng kéo tôi vào lòng,

xiết chặt, vùi đầu vào mái tóc tôi:

- Sau khi nàng đi, ta chẳng thể nào chợp mắt. Suốt hai ngày qua, lúc nào ta

cũng tự hỏi: Rốt cuộc tình cảm ta dành cho nàng là gì? Hơn hai mươi năm

qua, hình bóng nàng tồn tại trong niềm thương nhớ của ta bên cạnh hình ảnh

của Phật tổ. Nếu ta không phá giới, nỗi niềm này chỉ Phật tổ mới thấu hiểu.

Phật tổ từ bi, cho phép ta mỗi ngày được nhớ nàng một khắc. Cả đời được

thương nhớ nàng như vậy, ta cũng đã mãn nguyện lắm rồi!

Chàng rời bờ vai tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, bàn tay với những ngón dài,

khẳng khiu lướt trên gương mặt tôi, hai hàng lệ tuôn dài trên gò má, đọng lại

nơi chiếc cằm nhọn lún phún râu:

- Sau khi phá giới, ta đã chẳng thể nào xóa bỏ nỗi nhớ và dục vọng. Trước

kia chỉ cần nhớ nàng là đủ, vì ta chưa từng có được nàng. Nhưng giờ đây, khi

đã được nếm trải niềm hoan lạc tột cùng của cõi nhân gian, ta mới biết mình

tham lam nhường nào. Không chỉ nhớ nàng, ta muốn có cả trái tim và thân thể

nàng. Ham muốn ấy khiến ta run sợ. Bởi vì kể từ khoảnh khắc ấy, vị trí của

nàng trong trái tim ta đã trở nên quan trọng hơn cả Phật tổ. Sao có thể như

vậy được! Ta biết phải chuộc tội với Phật tổ thế nào đây? Ta đã cố tìm ra một lí

do để an ủi bản thân: Lí do đó là, nàng là tiên nữ. Nàng là đệ tử do Phật tổ cử

đến, nên Người sẽ không trách tội ta… Sau khi biết được thân thế thật sự của

nàng, lẽ ra ta phải nhận tội với Phật tổ. Nhưng điều đầu tiên ta nghĩ tới lại là,

vậy ra nàng không hề có pháp lực, nếu đi theo ta, nàng sẽ phải chịu khổ.

Những lời nói với nàng khi ấy là những lời nói dối đầu tiên trong đời ta, nó

khiến lòng ta đau như cắt. Trong hai ngày vắng nàng, ta chẳng màng tụng

niệm. Chỉ biết nằm dài trên chiếc giường từng đêm ngày quấn quít bên nàng,

chẳng thiết ăn uống. Thậm chí ta cảm thấy hối hận vì đã để nàng ra đi. Đó là

lần đầu tiên trong đời, ta trải qua nỗi đau khổ, dày vò tâm can nhường ấy.

Chả trách chỉ hai ngày ngắn ngủi mà chàng trở nên hốc hác như vậy, khóe

mắt còn vằn lên những tia đỏ. Thì ra, nỗi đau khổ, dày vò mà chàng phải chịu

đựng còn nặng nề hơn tôi nhiều lần. Tôi nén nỗi xúc động, khẽ gọi:

- Rajiva…

Chàng khẽ rời khỏi tôi, vén tay áo trái, để lộ chiếc khăn lụa Atala quấn trên

cánh tay, màu sắc rực rỡ của chiếc khăn nổi bật trên nền da bánh mật của

chàng, đẹp một cách lạ kỳ. Vẻ mặt trang trọng, chàng chậm rãi cất tiếng:

- Khi Pusyseda đưa nó cho ta, ta biết nàng đang ở gần đây và nàng đang

thầm động viên ta hãy kiên cường chịu đựng. Rốt cuộc, ta đã hiểu ra rằng:

Nàng từ đâu đến, nàng là ai, những điều đó đều không quan trọng. Quan

trọng là, nàng đã đến bên ta, ban cho ta tình yêu mà cả đời này ta không dám

mơ tưởng. Chỉ thế thôi đã đủ rồi… Ngải Tình, ta không muốn giấu giếm tình

cảm ta dành cho nàng thêm nữa, ta muốn thành khẩn thưa với Phật tổ rằng:

Ta yêu nàng, yêu như một người đàn ông và tình yêu đó đã trải suốt hơn hai

mươi năm. Không phải vì nàng là tiên nữ, không phải vì lai lịch kì lạ của nàng.

Mà vì nàng là Ngải Tình, là cô gái có nụ cười ngây ngô nhưng lúc nào cũng

kiên  cường,  quả  cảm,  mà  từ  thuở  thiếu  thời,  hình  bóng  cô  gái  ấy  đã  nhẹ

nhàng bước vào trái tim ta.

- Rajiva…

Tôi mỉm cười nhìn chàng, nhưng nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt

tựa những cánh hoa sen đậu trên khăn áo. Đây là lần đầu tiên chàng nói với

tôi,  chàng  yêu  tôi.  Những  lời  bộc  bạch  như  vậy,  với  chàng,  khó  khăn  biết

chừng nào. Sự thổ lộ ấy cảm động hơn tất thảy những lời đường mật trên thế

gian này, khiến trái tim tôi ngây ngất.

- Bởi vậy, ta sẽ không tiếp tục trốn tránh tình cảm ta dành cho nàng, cũng

không kiếm tìm những lý do nực cười nữa. Ta luôn mong nàng sẽ tránh xa mọi

phiền toái, khổ sở, vậy nhưng nàng vẫn chủ động dấn thân. Ngải Tình, ta

không muốn trốn tránh sứ mệnh của mình, nhưng ta cũng có lòng ích kỷ.

Nàng đã đến thì ta sẽ không để nàng ra đi lần nữa. Có điều, bản thân ta còn

chưa biết ngày mai sẽ ra sao, ta chẳng thể hứa hẹn điều gì với nàng. Con

đường phía trước còn nhiều gian nan, liệu nàng có muốn cùng ta kiên trì đi

tiếp?

Tôi hít một hơi thật sâu, ổn định cảm xúc, nở một nụ cười thật tươi:

- Cách thời đại của chàng vài trăm năm sau có hai vị cao tăng người Hán

tên Hàn Sơn và Thập Đắc. Giữa họ từng có một cuộc đối thoại như sau: Hàn

Sơn hỏi Thập Đắc: Thế gian có kẻ phỉ báng tôi, ức hiếp tôi, sỉ nhục tôi, cười

nhạo tôi, coi thường tôi, xử tệ với tôi, lừa dối tôi, thì tôi phải xử sự ra sao?

Thập Đắc đáp rằng: Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, tránh họ, để mặc họ, kính

họ, không để ý đến họ, sau vài năm, hãy đến gặp họ.

Tôi nắm lấy tay chàng, truyền cho chàng lòng quyết tâm và niềm hy vọng:

- Chúng ta không cần phải lo lắng ngày mai sẽ ra sao, cũng không cần

những lời hứa hẹn sáo rỗng, hãy quan tâm đến việc, đêm nay ngủ có ngon hay

không. Chúng ta phải nuôi dưỡng tinh thần thật đầy đủ để có thể ứng phó với

ngày mai. Lịch sử sẽ nhanh chóng chứng minh, Lữ Quang chỉ là một tên hề,

chàng mới là bậc vĩ nhân lưu danh thiên cổ.

- Ngải Tình, dù người đưa nàng đến bên ta có mục đích gì, ta đều cần phải

cảm ơn người đó.

Chàng cúi xuống hôn tôi, làn môi của chàng như thiêu đốt đôi mắt, hàng mi

và gò má tôi, chạm đến đâu cũng để lại những làn hơi nóng bỏng. Đó là nụ

hôn khi cả hai chúng tôi đã trút bỏ mọi vướng bận, để có thể thản nhiên với

mọi sóng gió.

- Vậy chúng ta sẽ cùng nhau đối mặt với tất cả. Chúng ta phải ăn đủ ngủ

đủ, thì ngày mai mới có sức để chiến đấu.

Tiếng ậm ừ của Pusyseda đột ngột vang lên, khiến hai chúng tôi hoảng hốt,

vội tách nhau ra. Tôi đã quên hẳn sự có mặt của cậu ta trong lán trại này.

Định thần lại, thấy cậu ta vẫn đang say ngủ, hơi thở phì phò. Chúng tôi nhìn

nhau, bật cười, đột nhiên nhớ ra, tôi hỏi:

- Sao Pusyseda lại uống say bí tỉ như vậy?

- Lữ Quang ép ta phá tửu giới, cậu ấy chắn trước mặt ta, uống hết số rượu

có trên bàn tiệc, đức vua phải đứng ra can ngăn, ông ta mới chịu buông tha.

Trong tôi trỗi lên cảm giác ấm lòng, sau đó là đau lòng. Cậu ấy…

- Tuy chưa bao giờ nói ra, nhưng trong thâm tâm, cậu ấy rất thương chàng

- Ta biết…

Rajiva kéo chăn đắp cho em trai, ánh mắt chàng nhìn Pusyseda chứa chan

tình yêu thương. Chàng chăm chú ngắm Pusyseda chìm sâu trong giấc ngủ,

khẽ thở dài:

- Ta cũng vậy…

Chàng đứng lên, xiết chặt lấy tôi:

- Tự nhiên ta thấy buồn ngủ quá, như thể lâu lắm rồi chưa được ngon giấc.

Chàng buông tôi ra, thì thào:

- Ta về lán của mình đây…

Tôi ngẩng đầu, hốt hoảng:

- Chàng… chàng để em ở lại đây với cậu ấy ư?

- Nàng đừng quên bây giờ nàng là phu nhân của cậu ấy. Ngoài kia đều là

tai mắt của Lữ Quang, ta là huynh trưởng, ở lại trong lán của em trai quá lâu,

sẽ khiến kẻ khác nghi ngờ.

- Nhưng em… cậu ấy…

- Ta tin tưởng em trai mình…

Chàng ngừng lại một lát, rồi tiếp tục dặn dò:

- Nàng nghỉ sớm đi, hãy ngủ thật ngon. Ngày mai, chúng ta phải ứng phó

với rất nhiều gian nan.

- Rajiva!

Tôi giữ chàng lại:

- Vết thương trên người chàng, còn cả vết thương trên mặt nữa, để em bôi

thuốc rồi chàng hãy về.

Chàng mỉm cười, lấy ra lọ thuốc tôi đưa cho Pusyseda ra, lắc lắc trước mặt:

- Ta đã ở lại quá lâu, phải về thôi. Nàng yên tâm, về lán ta sẽ bôi thuốc.

- Chàng nhớ phải bôi thuốc đó…

Như đột ngột nhớ ra chuyện gì, chàng dừng bước. Tháo chuỗi hạt mã não

trên cánh tay trái, đeo vào tay tôi. Chuỗi hạt quá dài, phải quấn thành hai

vòng. Chàng đóng chốt, nhìn tôi mỉm cười:

- Sau này sẽ làm thành hai chiếc, hai ta mỗi người giữ một chiếc.

Tôi gật đầu, chợt nhận thấy vẻ bí hiểm, ranh mãnh xuất hiện trên gương

mặt chàng. Chàng cúi xuống hôn nhẹ lên môi tôi. Chưa kịp có phản ứng gì thì

chàng đã đi xa. Còn lại mình tôi ngẩn ngơ đắm chìm trong dư vị ngọt ngào của

xúc cảm yêu đương, tôi khẽ đưa tay lên môi nở nụ cười ngây ngô…

Dù Pusyseda đã mê man trong giấc ngủ sâu, tôi vẫn trùm khăn che mặt,

đến  khu  lán  của  người  hầu,  vào  ngủ  cùng  Mễ  Nhi.  Không  phải  vì  e  ngại

Pusyseda, mà vì tôi muốn giữ gìn cho người vợ tốt bụng của cậu ấy. Mễ Nhi là

người hầu thân cận của Hiểu Huyên, tuy nói là đi theo chăm sóc tôi, nhưng

biết đâu còn dụng ý gì khác. Tuy nhiên, tôi rất cảm kích tấm lòng độ lượng của

cô ấy, khi cô ấy đồng ý để chồng mình xa nhà cùng người phụ nữ khác và lại

đóng giả là cô ấy. Thế nên, tôi cũng phải hành xử sao cho thật quang minh

chính đại, để cô ấy yên lòng.

Buổi tối hôm đó tôi đã ngủ rất say, như thể lâu lắm rồi chưa được một giấc

nào ngon lành như vậy. Pusyseda nhiều lần bừng tỉnh trong đêm, nôn mửa

trong lán, đều do một mình Mễ Nhi phục dịch, hôm sau cô ấy kể lại tôi mới

biết. Trước khi chìm vào giấc ngủ mê mệt, tôi chỉ tâm niệm một điều duy nhất:

Phải nuôi dưỡng tinh thần thật đầy đủ, để ngày mai tiếp tục chiến đấu!

Chương 52: Bánh xe số phận

Lữ Quang dâng hương, lễ phật, rồi đưa mắt quan sát đại diện. Theo lệnh

của ông ta, tất cả sư sãi trong chùa đều đã được tập hợp đông đủ, cả một

biển người đứng chen nhau trong đại điện, ngay cả các ngóc ngách cũng đã

chật kín. Ông ta gật đầu tỏ ý hài lòng, gọi Pusyseda tới.

Tôi trùm khăn che mặt đứng sang một bên cùng đám đông gia quyến. Có

người muốn bắt chuyện nhưng tôi vờ như không hiểu tiếng Tochari ậm ừ đáp

lễ. Rajiva ở vị trí dẫn đầu, vầng trán tuy thoáng tiều tụy, nhưng vẻ mặt vẫn

điềm tĩnh, tự tại.

Lữ Quang đằng hắng vài tiếng, đại điện lập tức yên lặng.

- Ta phụng mệnh Thiên Vương Đại Tần, chinh phạt vua Khâu Từ - Bạch

Thuần tàn bạo, cũng là thuận theo ý muốn dân. Lữ Quang ta được trời giúp

sức, lại nhờ uy danh của Thiên Vương, đã dẹp tan quân giặc. Thiên Vương Đại

Tần phong cho ta làm Tần kị thường thị, tướng quân An Tây, Hiệu úy Tây vực,

giao cho ta trọng trách thống nhất Tây vực. Vì muốn cảm tạ ơn vua, hôm nay,

ta đến chùa Cakra này dâng hương lễ phật, cầu cho Khâu Từ quanh năm được

mùa màng bội thu, quốc thái dân an. Cầu chúc Thiên Vương thiên thu vạn

tuế!

Lữ Quang ngừng lại, quay sang nói với Pusyseda:

- Xin quốc sư hãy chuyển dịch những lời của ta sang tiếng Tochari.

Pusyseda y lệnh.

Lữ Quang tiếp tục cất giọng oang oang:

- Ta vào thành đã được gần hai tháng. Đến nay Khâu Từ đã yên ổn trở lại,

thực là điều may mắn! Tân vương Bạch Chấn không quản gian khổ, ngày đêm

nhọc lòng, công lao to lớn.

Ông ta hướng về Bạch Chấn, khiêm cung một cách giả tạo, Bạch Chấn vội

vã đáp lễ.

- Đến Khâu Từ, ta còn nhận được một vinh dự lớn lao. Đó là được nghe vị

hòa thượng danh chấn Tây vực, thông tự, từ bi – pháp sư Kumarajiva giảng

kinh thuyết pháp, ta như kẻ mê muội được ngài vén mây đen cho thấy ánh

sáng mặt trời. Ta bội phần cảm phục, muốn tỏ lòng biết ơn, thế nhưng pháp

sư kiên quyết không nhận bạc vàng, không màng quan tước, khiến ta vô cùng

khó nghĩ.

Lữ Quang ngừng lại, cho Pusyseda dịch hết, mới tiếp tục:

- Danh tiếng của pháp sư lan truyền khắp nơi, tuổi ngài còn trẻ mà đã đạt

đến trình độ tu hành thật đáng nể trọng. Ta thành tâm muốn trợ giúp công

việc truyền đạo của ngài, nên đã dâng mỹ nữ tặng ngài. Pháp sư quả nhiên là

bậc cao nhân, ngài không thấy điều đó có gì đáng ngại, đã hoan hỉ đón nhận.

Vẻ mặt Pysyseda hoàn toàn biến sắc, cậu ta quắc mắt, ném cái nhìn giận

dữ về phía Lữ Quang. Những người nghe hiểu tiếng Hán trong đám đông sư

tăng đã chụm đầu lại bàn tán xôn xao. Tôi liếc nhìn Rajiva, mắt chàng khép

hờ, nét mặt bình thản. Vẫn là phong thái trầm tĩnh, điềm nhiên, thoát tục ấy,

nổi bật giữa muôn người. Thái độ ấy của chàng như muốn tuyên bố rằng, dù

Lữ Quang có nói gì, chàng cũng sẽ ứng đối bằng sự bình tĩnh và ôn hòa.

- Những lời vừa rồi của Lữ tướng quân có nhiều chỗ không đúng.

Pusyseda gằn giọng giận dữ:

- Pháp sư phá giới là do tướng quân ép buộc. Ngài đã ép pháp sư uống

rượu và giam pháp sư trong mật thất.

Lữ Quang nhếch miệng cười, nheo mắt nhìn Rajava với tất cả vẻ ngang

ngược:

- Thế nhưng một tháng trời ngài đã cùng mỹ nữ tận hưởng vinh hoa phú

quý trong cung, không hề bước chân ra khỏi cửa. Đó là ý nguyện của pháp sư,

đâu phải do ta ép buộc.

- Đó là vì tướng quân giam lỏng…

- Pusyseda!

Rajava lên tiếng ngắt lời Pusyseda, tuy nét mặt chàng thoáng chút nhợt

nhạt, nhưng giọng nói vẫn điềm đạm, từ tốn:

- Ta đã phá giới, đó là sự thật không cần che giấu.

Chàng quay lại đối diện với tất cả mọi người, đôi mắt trong suốt nhìn khắp

lượt chúng tăng, những tiếng ồn ào lập tức biến mất, đại điện trở nên yên ắng

lạ thường. Ai nấy đều ngước nhìn chàng với vẻ nghi hoặc. Rajiva mệt mỏi khép

mắt, nỗi bi ai dâng lên khi chàng chậm rãi cất tiếng bằng ngôn ngữ Tochari:

- Sự thật là ta đã phá tửu giới và sắc giới.

Đại điện bỗng chốc trở nên ồn ào, náo loạn, ái nấy đều nhìn chàng bằng

ánh mắt khó tin xen lẫn nỗi kinh ngạc và cả sự thất vọng. Có người cao giọng

bức xúc:

- Thưa thầy, vì sao lại có chuyện như vậy?

Có người bật khóc rưng rức. Bị kích động quá mức, một hòa thượng trẻ tuổi

đã chỉ thẳng tay vào Rajiva, gào lên:

- Uổng công ta tôn ông làm thầy! Bậc cao tăng như ông lại gây ra những

chuyện như vậy, chốn Phật môn sao có thể chấp nhận người như ông!

Từ lâu, đại pháp sư danh tiếng lẫy lừng Tây vực - Kumarajiva đã trở thành

người cha tinh thần của các nhà sư trẻ này. Giờ đây, hình tượng cao quý,

thánh khiết ấy đã nhuốm một vết nhơ chẳng thể tẩy xóa được, thần tượng

trong lòng họ bỗng chốc sụp đổ. Tôi có thể thấu hiểu nỗi bàng hoàng và tâm

trạng khó chấp nhận sự thực này của họ, nhưng, họ đâu biết, phải thừa nhận

điều ấy trước mặt chúng tăng như vậy, Rajiva đã phải gắng gượng và chịu

đựng nhường nào! Tôi đau đớn nhìn chàng, nhưng nét mặt bình thản của

chàng không hề biến đổi. Tôi cảm nhận được ánh mắt chàng lướt nhẹ về phía

mình, chàng khẽ chạm vào cánh tay trái, mảnh vải hiện ra dưới lớp áo cà sa.

Chàng đang an ủi tôi! Chiếc khăn Atala quấn trên cánh tay trái của chàng là

cách chàng muốn truyền tin đến tôi, khích lệ tôi. Tôi khẽ gật đầu, lặng lẽ đưa

cánh tay lên vờ vuốt nhẹ mái tóc, để lộ chuỗi hạt mã não dưới tay áo. Chàng

nhận được tín hiệu từ phía tôi, khóe miệng dường như thấp thoáng một nụ

cười, nhưng đã khép lại rất nhanh.

- Pháp sư dũng cảm thừa nhận, thật đáng khen ngợi!

Lữ Quang vỗ tay bôm bốp, cười ha hả nhìn đám đông, vẻ hài lòng.

- Ta vốn định đưa cô gái ngày đêm quấn quýt bên pháp sư suốt một tháng

trời đến chầu lễ Phật cúng, nhưng không biết pháp sư làm cách nào khiến cô

gái bỏ trốn mất dạng.

Đây chắc chắn là âm mưu của Lữ Quang, ông ta muốn Rajiva không thể

ngẩng đầu trước các hòa thượng. Rajiva địa vị cao quý ngày nào, giờ đây sẽ

chẳng thể thuyết phục được ai tin theo. Tôi giận run người, ông ta còn muốn

lợi dụng tôi làm bằng chứng để vạch tội phá giới của Rajiva! Nếu không bỏ

trốn, lúc này có thể tôi sẽ bị bêu ra trước đám đông, điều đó sẽ khiến Rajiva

đau đớn biết bao! Phải chăng linh cảm được việc này sẽ xảy ra, nên Rajiva mới

kiên quyết ép tôi ra đi, thậm chí bằng cả những lời tuyệt tình lạnh lùng nhất

ấy. Còn tôi, chỉ nghĩ đến những tổn thương cá nhân và xúc cảm hẹp hòi của

phụ nữ, mà không biết rằng nỗi dằn vặt, lo lắng chất chứa trong lòng chàng

còn nặng nề hơn tôi gấp bội.

Rajiva đã đúng, chàng không thể bỏ trốn! không phải vì tôi và chàng chẳng

thể nào thay đổi được lịch sử, mà quan trọng hơn là vì, Lữ Quang rất muốn

Rajiva bỏ trốn. Nếu thế, ông ta sẽ có cớ để phá hoại danh dự của chàng một

cách triệt để, khiến chàng không còn chốn dung thân trên cõi đời này nữa. Tôi

không muốn phải chứng kiến cảnh Rajiva bị hạ nhục, nhưng tôi chỉ biết suy xét

sự việc bằng cách nghĩ của con người hiện đại. Trong trường hợp cấp bách, tôi

vẫn còn công cụ để tự bảo vệ, mặc áo chống phóng xạ, khởi động đồng hồ

vượt thời gian, chỉ trong tích tắc là có thể bình an trở về thế kỉ XXI tươi đẹp

của tôi. Nhưng còn chàng thì sao? Chàng không thể xa rời thời đại của mình,

nhưng chàng sẽ phải tồn tại ra sao giữa đám đông đang lăm le những mũi

nhọn chỉ trích về phía chàng? Tôi chưa từng nghĩ tới điều này. Tôi luôn cho

rằng mình nhiều tri thức hơn con người thời cổ đại, nhưng sự thực tôi đã đánh

giá bản thân quá cao. Những tri thức đó không phải do tôi sáng tạo ra mà do

thời đại trang bị cho tôi. Khi phải đối diện với thực tế khó khăn, tối vẫn chỉ là

một cô gái suy nghĩ còn nông cạn.

Tôi ngước nhìn chàng, đứng giữa hàng trăm con người, chàng vẫn lẻ loi,

đơn độc. Lòng bỗng ngậm ngùi, chua xót: Xin lỗi Rajiva! Em sẽ không nông

nổi, không ích kỉ như trước đây nữa. Em sẽ thay đổi lối suy nghĩ hẹp hòi của

con người hiện đại trong em, sẽ đứng trên lập trường của chàng để nhận định

và đánh giá sự việc. Tình yêu của chàng giúp em trưởng thành hơn, bao dung

và thấu hiểu hơn. Cảm ơn chàng!

Các nhà sư hiểu tiếng Hán đang quay sang người bên cạnh thì thào, có lẽ là

đang dịch cho người kia hiểu lời Lữ Quang vừa nói. Nỗi giận dữ của Pusyseda

đã bùng phát thành một chuỗi dài những âm thanh sang sảng, rõ ràng từng

tiếng một, không phải ngôn ngữ Tochara mà là tiếng Phạn. Chúng tăng bỗng

nhiên trở nên thảng thốt, bàng hoàng, những tiếng bàn tán lại rộn lên không

ngớt. Không khí nặng nề, bi phẫn lúc trước dần tan biến. Vẻ điềm tĩnh của

Rajiva vẫn không hề thay đổi, nhưng ánh mắt chàng lặng lẽ đưa sang phía

Pusyseda một chút cảm kích xen lẫn một chút trách móc.

- Quốc sư đang nói gì vậy? Sao không nói bằng tiếng Hán để ta cùng nghe.

Khẩu khí của Lữ Quang cho thấy ông ta không hề vui vẻ gì.

- Tôi phụng mệnh tướng quân, giúp ngài phiên dịch thôi mà.

Pusyseda thản nhiên nghiêng mình trước Lữ Quang:

- Nhân tiện, cũng cho các vị hòa thượng ở đây được biết, cô gái ấy có thân

phận cao quý ra sao. Đó chính là tiên nữ do Phật tổ cử đến để cứu pháp sư

khỏi kiếp nạn vừa qua.

Lữ Quang sa sầm mặt mày, cười hiểm ác:

- Không ngờ quốc sư lại suy nghĩ nông cạn như vậy! Vì muốn bảo vệ anh

trai mình, dám bịa đặt những chuyện hoang đường như thế giữa chốn cửa

Phật. Khi quốc sư đưa cô gái đến gặp ta, sao ngài không cho ta biết về xuất

thân của cô ta?

- Cô gái ấy đột nhiên xuất hiện, khi đó, một giọng nói chợt vang lên bên tai

tôi, nói rằng hãy mau đưa cô gái này đến cứu pháp sư. Tôi nào dám đoán bừa

chỉ ý Phật tổ. Nhưng, nếu tướng quân cho rằng tôi dựng chuyện, thì…

Pusyseda đưa mắt đảo quanh một lượt đám đông phía trước, rồi mới quay

lại nhìn Lữ Quang, ánh mắt sắc lạnh, không chút sợ sệt:

- Xin tướng quân giải thích, vì sao một cô gái chân yếu tay mềm, không một

tấc sắt trong tay lại có thể đột nhiên biến mất giữa chốn hoàng cung vốn được

canh giữ cẩn mật như vậy?

- Chuyện này…

Lữ Quang cứng họng, không biết nói gì, đành quay lại trừng mắt trút giận

lên Lữ Soạn, khiến hắn sợ hãi cúi đầu.

Tiếng bàn tán ngày càng trở nên náo động trong đại điện khiến Lữ Quang

nổi giận, điều đó cho thấy, những lời của Pusyseda đã phát huy hiệu quả. Đôi

mắt tà dâm gian xảo của Lữ Quang đảo liên hồi, ông ta ngẩng đầu, hẳn là lại

vừa nghĩ ra một âm mưu mới, ông ta cười nhạt:

- Pháp sư phá giới tức là vẫn còn lưu luyến hồng trần. Nếu vậy, hãy để ta

giúp pháp sư sắp xếp việc hôn sự. Ý ngài thế nào?

Các  hòa  thượng  hiểu  tiếng  Hán  thảng  thốt  gật  đầu,  tiếp  theo  đó  lại  là

những lời bàn tán rầm rộ.

- Vì sao tướng quân nhất thiết phải gây khó dễ cho ta? Chuyện này tuyệt

đối không thể được!

Giọng nói sắc lạnh của Rajiva cho thấy chàng chẳng thể nhẫn nhịn thêm

nữa.

- Pháp sư không nên khiêm tốn. Cha của ngài, cũng hoàn tục, thành thân,

sinh hạ ngài và quốc sư đấy thôi!

Lữ Quang suy nghĩ một lát, gật gù nói tiếp:

- Thế này đi, thân phụ ngài cưới công chúa Khâu Từ, pháp sư cũng là bậc

danh sư đức cao vọng trọng, ta sẽ không khiên pháp sư phải chịu thiệt thòi.

Lữ Quang quay sang đức vua Bạch Chấn, nãy giờ chẳng dám ho he một

tiếng, hỏi:

- Chẳng hay nhà vua có vị còn vị công chúa nào chưa thành thân không?

- Ta…

Bị bất nhờ với câu hỏi đột ngột của Lữ Quang, Bạch Chấn ấp úng đáp:

- Các vị công chúa của ta đều đã thành thân.

Ánh mắt mờ đục của nhà vua có ý né tránh, phải gắng gượng lắm mới thốt

lên lời khuyên can:

- Xin tướng quân đừng o ép pháp sư nữa.

- Hả? Nghe nói vẫn còn một vị công chúa kia mà, tên là Aksayamati, lẽ nào

đức vua không muốn gả cô ấy cho pháp sư?

Lữ Quang cất tiếng cười nham hiểm, đưa mắt quét nhanh một lượt đám mỹ

nữ Khâu Từ của ông ta:

- Nếu thế, ta đành chọn trong đám thị nữ một người bất kì để gả cho Pháp

sư vậy!

Pusyseda mặt mày biến sắc, cúi xuống nhỏ to với Bạch Chấn, sau đó quay

sang cao giọng với Lữ Quang:

- Lữ tướng quân nhắc tôi mới nhớ, đức vua của chúng tôi vẫn còn một cô

công chúa chưa gả chồng, tên gọi Akieyemoti.

- Thế thì tốt quá!

Lữ Quang cất tiếng cười hoan hỉ hỏi:

- Vậy công chúa đang ở đâu?

Bạch Chấn hoảng sợ, định đứng lên phân bua, nhưng Pusyseda đã kịp giữ

lại và ra hiệu cho nhà vua không nên lo lắng, rồi quay sang đáp lời Lữ Quang:

- Công chúa đang ở thành Khâu Từ.

- Vậy hãy mau đi đón, hôm nay đi ngày mai về. Tốt lắm, ngày kia, ta đích

thân tổ chức một hôn lễ thật long trọng cho pháp sư tại chùa Cakra này.

Lữ Quang đưa mắt quan sát khắp lượt chúng tăng, cười đắc ý:

- Trước nay chưa từng có chuyện hôn lễ được cử hành trong đền chùa,

đúng không? Pháp sư là người đầu tiên phá lệ. Hôm đó, các nhà sư hãy đến

tham gia hôm lễ của sư phụ các vị, hôn lễ phải tổ chức thật náo nhiệt mới

được!

- Xin thứ lỗi, tôi không thể theo ý Lữ tướng quân.

Rajiva mặt mày tái xanh, hai tay chắp lại, gắng gượng kìm nén nỗi tức giận:

- Tôi xuất gia từ nhỏ, đã nguyện cả đời phụng sự Đức Phật, không thể đắc

tội với công chúa.

- Pháp sư sai rồi!

Lữ Quang cười thâm độc:

- Tình yêu nam nữ là niềm vui lớn nhất trong đời. Phụ thân ngài có thể

hoàn tục lấy vợ, pháp sư cũng có thể học theo cha, việc gì phải lần nữa khước

từ như thế?

- Xin tướng quân đừng nhọc lòng, tôi quyết không chấp nhận chuyện này.

Nếu tướng quân vẫn cố ép buộc, kể từ hôm nay tôi sẽ bắt đầu tuyệt thực, cho

đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Bất chấp nộ khí hiểm hiện trên gương mặt của Lữ Quang, Rajiva dõng dạc

tuyên bố quyết tâm của mình, sau đó hướng về chúng tăng, truyền đạt lại một

lượt bằng tiếng Tochari rồi ngồi xuống, nhắm mắt tụng kinh trong tư thế thiền.

Tất cả các nhà sư đều tỏ ra bất bình, họ đồng loạt ngồi xuống thiền định,

khắp trong và ngoài điện lúc này đã không còn dù chỉ một chỗ trống. Một lát

sau, tiếng tụng niệm lan dần và lớn dần, bắt đầu từ Rajiva truyền đến khắp đại

điện rộng lớn. Tiếng tụng niệm càng lúc càng đều đặn, nhịp nhàng và vang

rộng, khiến Lữ Quang gần như mất hết thể diện.

Lữ Quang trừng mắt nhìn Rajiva dầy hằn học, tia nhìn hung hiểm. Tôi lặng

lẽ lên chốt chiếc súng gây mê giấu trong tay áo, khoảng cách vừa đủ để thuốc

phát huy tác dụng. Nếu ông ta gây bất lợi cho Rajiva, tôi sẽ hạ gục ông ta rồi

tính tiếp.

Gương mặt Lữ Soạn trở nên bí hiểm, hắn thì thầm vào tai cha vài câu gì đó.

Lữ Quang gật đầu. Lữ Soạn hô một tiếng, vài tên thuộc hạ lập tức rời khỏi vị

trí. Tôi đang băn khoăn không biết Lữ Quang có âm mưu gì, thì thấy ông ta

cười mỉa, nói với Rajiva đang miệt mài tụng niệm:

- Pháp sư nhất quyết không thuận theo ý của ta, vậy đừng trách ta vô tình.

Đang chuẩn bị rút súng gây mê, chợt nghe thấy những tiếng đổ vỡ ầm ầm

phía sau. Quay lại, tôi thấy Lữ Soạn và bọn thuộc hạ đang ra sức đập phá bức

tượng Phật tuyệt đẹp trên đại điện. Tượng Phật bị xê dịch khỏi bệ đỡ, đổ rầm

rầm xuống đất, những mảnh vỡ vương vãi trên nền gạch.

- Phật tổ!

Các  sư  tăng  gào  khóc  thảm  thiết,  những  cánh  tay  bất  lực  chìa  về  phía

tượng Phật, họ phủ phục trên mặt đất, tiếng khóc than vang đông đại điện.

- Lữ tướng quân, phá hủy tượng Phật sẽ bị quả báo, tạo nghiệt sẽ bị đẩy

xuống địa ngục! Xin tướng quân suy xét!

Rajiva ra sức kìm chế giọng nói đã có phần run rẩy, bão tố xoay vần trên

gương mặt chàng.

- Thế ư?

Lữ Quang nghếch mặt lên tỏ vẻ khinh miệt, giọng đầy mỉa mai:

- Ta chẳng tin gì mấy thứ chuyện nghiệp báo. Nếu quả thật Đức Phật của

các người hiển linh, hãy giáng tội xuống cho ta xem thử.

Đức vua Bạch Chấn mặt mày tái nhợt vì sợ hãi, cất giọng run rẩy, khuyên

can:

- Lữ tướng quân, đây là nơi cửa Phật, xin ngài hãy ngừng tay!

- Đừng khuyên can ta, nhà vua đi mà khuyên can cháu của ngài ấy. Chỉ cần

pháp sư gật đầu, ta sẽ lập tức ngừng tay.

Lữ Quang ra hiệu cho Lữ Soạn, để hắn cùng mấy đứa cháu khác cùa Lữ

Quang là Lữ Long, Lữ Siêu tiếp tục khiêu khích, chúng hả hê nhảy từ hương án

này sang hương án khác. Một bức tượng Phật A Di Đà và Phật Dược Sư nữa

đã bị kéo đổ, những đám bụi đất bay mù mịt khắp đại điện. Lữ Quang xấc

xược cười giữa tiếng kêu khóc thảm thiết của các sư tăng:

- Ta muốn xem xem, ta phá tượng Phật, các người dám làm gì được ta!

Rajiva kìm nén sự phẫn nộ, cất giọng sang sảng nói với chúng tăng bằng

tiếng Phạn, tiếng khóc tắt dần. Các nhà sư tiếp tục ngồi thiền tụng kinh. Làn

sóng tụng niệm ngày một dâng cao mạnh mẽ, vang động đến mọi ngóc ngách

trong đại điện. Âm thanh tụng niệm ấy quả là có sức mạnh an ủi tâm linh rất

lớn, đó là cách riêng của người nhà Phật để chống lại cái ác và thể hiện lòng

kiên trì. Đó cũng như một cách tuyên bố với Lữ Quang: Ông ta có thể phá hủy

tượng Phật nhưng không thể phá hủy tinh thần nhà Phật.

- Được lắm, cứ tụng kinh đi, để ta xem các người chống cự được đến khi

nào!

Bị kích động, Lữ Quang gào lên:

- Bay đâu, phá hủy phiến đã ngọc có dấu chân Phật tổ cho ta!

Gương mặt Rajiva vẫn điềm nhiên bất biến, vẻ kiên định trong ánh mắt cho

thấy, không có gì có thể lay động được ý chí của chàng. Chàng chậm rãi, dõng

dạc cất lên từng tiếng một:

- Lữ tướng quân, tượng Phật bị hủy có thể xây đắp lại, ngọc thạch bị hủy có

thể tiếp tục tìm kiếm. Thậm chí, nếu ngài dỡ bỏ cả chùa Cakra, tôi sẽ đi nhặt

từng viên gạch, xếp từng viên ngói mang về dựng lại chùa. Lòng hướng Phật

của tôi vững như bàn thạch, không gì có thể lay chuyển được.

- Ngươi đúng là tên hòa thượng cứng đầu!

Lữ Quang nổi trận lôi đình:

- Ngươi có thể xây lại chùa, nhưng liệu ngươi có thể khiến người chết sống

lại được không?

Lữ Quang đưa tay túm một hòa thượng đứng gần y nhất, sau đó vung tay

ra sau rút kiếm, kề vào cổ vị hòa thượng đang run lên bần bật.

- Hôm nay ta sẽ đấu với ngươi đến cùng. Nếu ngươi không chịu thành thân,

cứ nửa canh giờ ta sẽ giết một hòa thượng. Để xem số hòa thượng trong chùa

này nhiều đến mức nào.

- Ngài…

Rajiva bật dậy, ánh mắt nổi song, hai nắm tay run lên, tôi chưa từng thấy

chàng tức giận như vậy bao giờ:

- Tính mạng con người là thứ quý giá nhất trên đời. Ngài phạm tội sát nhân,

sẽ bị đày xuống địa ngục Vô Gián vĩnh viễn, chẳng thể đầu thai làm người!

Lữ Quang nhổ nước bọt lên bức tượng Phật đã nứt vỡ:

- Tính mạng con người là cái thá gì! không được đầu thai thì đã sao! Ta đã

giết không biết bao nhiêu người, thêm mất tên đầu trọc có xá gì!

- Lữ Quang, ngài ức hiếp người Khâu Từ chúng tôi quá đáng!

Pusyseda ánh mắt rục lửa, thanh gươm dài đã được rút ra, chực xông tới,

nhưng đã bị con cả của Lữ Quang là Lữ Thiệu và thủ hạ đắc lực của ông ta là

Đỗ Tiến chặn lại. Tất cả bọn họ dều đã rút kiếm khỏi bao, tình thế vô cùng

căng thẳng.

- Pusyseda, bỏ kiếm xuống!

Đó là Bạch Chấn, vị vua nhu nhược, lúc này đang run rẩy, sợ hãi, giọng nói

không còn được liền mạch. Nhà vua quay sang Lữ Quang, nghẹn ngào:

- Lữ tướng quân, xin đừng làm vậy!

Lữ Quang vẫn giữ chặt vị hòa thượng kia, xoay người lại nói với Rajiva:

- Pháp sư mau quyết định đi, sự kiên nhẫn của ta có hạn. Ta sẽ đếm đến

ba, một, hai, …

- Khoan đã!

Lữ Quang ngừng tay lại, cả đại điện bỗng nhiên im phăng phắc, không khí

căng  như  dây  đàn.  Mọi  ánh  mắt  đổ  dồn  vào  chàng.  Khóe  môi  chàng  rung

động, đôi mắt ngấn nước hướng về phía tôi, ánh mắt ai oán ấy muốn truyền đi

ngàn vạn lợi. Không gian như lắng đọng, thời gian quên trôi chảy, chỉ còn lại

tôi và chàng, bất động, nhìn sâu vào mắt nhau…

Cánh tay tôi đã đặt vào nút gạt, nhưng không sao cử động nổi. Việc tôi có

thể làm chỉ là khiên Lữ Quang bất tỉnh một ngày. Sau khi ông ta tỉnh lại thì

sao? Lại thêm nhiều sự đày đọa, sỉ nhục nữa? Thậm chí có thể là chiến tranh.

Tay chân của ông ta đông đảo là thế, chỉ quật ngã một mình Lữ Quang cũng

đâu có ích gì. Tôi không thể ích kỉ, khiến Khâu Từ xảy ra chiến tranh được.

Nước mắt lã chã, mắt tôi không rời mắt chàng, tôi khẽ gật đầu.

Chàng quay đầu lại, khóe môi càng thêm run rẩy. Chàng ngước mắt lên trời

hít một hơi thật sâu, rồi cất giọng thê lương:

- Ta chấp thuận.

- Thầy ơi!

Tất cả các sư tăng đều sụp xuống quỳ lạy, tiếng khóc thương thảm thiết

vang động cả chùa Cakra.

Chàng lại đưa mắt nhìn về phía tôi, nỗi bi thương chẳng thể hóa giải nổi

dâng lên trong mắt. Tôi lặng lẽ gạt nước mắt, gượng gạo nở nụ cười ngây ngô

với chàng. Tuy trùm khăn che mặt nhưng tôi chắc chắn chàng sẽ nhận ra. Ánh

mắt tôi vẫn chẳng thể rời khỏi chàng, thêm một lần nữa thôi, để hình ảnh

chàng khắc sâu trong tâm trí tôi, từng nét một, không bao giờ phai nhòa. Vậy

là tôi sẽ phải ra đi. Bánh xe số phận mới thật nghiệt ngã làm sao, những vòng

quay vô tình vẫn thản nhiên xoay vần. Rốt cuộc em vẫn chỉ là một lữ khách đi

qua cuộc đời chàng. Nhưng, Rajiva ơi, chàng đã lựa chọn đúng. Lịch sử cuộc

đời chàng từ nay không còn cần đến em nữa. Vì vậy, em sẽ ra đi…

[1]

 Trong tiếng Trung, phiên âm của tên gọi Ngải Tình đồng âm với cách đọc từ “ái

tình” nghĩa là tình yêu.

[2]

 Cách gọi Tochari do hai học giả người Đức Sieg và Siegling nghiên cứu và đặt tên

vào năm 1908, họ chia thành Tochari A và Tochari B. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc

thường dùng tên gọi Tochari A để chỉ tiếng Yanqi, còn dùng Tochari B để gọi cho ngôn

ngữ của người Khâu Từ.

[3]

 Đối với các nhà sư, nước được chia thành ba loại: Một loại là “thời thủy”: tức là

nước uống ngay khi khát, nước này phải được lọc sạch (túi lọc nước là một trong sáu vật

dụng mà các nhà sư luôn mang theo bên mình). Một loại nước nữa gọi là “phi thời thủy”,

không uống ngay, nhưng vẫn phải lọc sạch, dồn vào đồ chứa, dự trữ khi khát. Loại nước

thứ ba gọi là “xúc dụng thủy”, tức là loại nước sạch tự nhiên, dùng để rửa bát, rửa tay và

rửa mặt.

[4]

 Tỷ khâu: tiếng Phạn là Bhikkhu, nghĩa gốc chỉ những người tu hành theo đạo Bà

La Môn ở Ấn Độ, về sau Phật giáo đã mượn dùng tên gọi này. Ở Trung Quốc, người ta

quen gọi Tỷ khâu là hòa thượng: chỉ những người từ mười hai đến mười bảy tuổi, thân thể

khỏe mạnh, xuống tóc đi tu, khoác áo cà sa và chịu “Cụ túc giới”. Giới luật cụ túc có nhiều

cách diễn giải khác nhau, như: Tỷ khâu giới 227 điều, 250 điều; Tỷ khâu ni giới 311 điều,

500 điều. Nói một cách tổng quát: Cư sĩ thọ ngũ giới, Sa di thọ thập giới, Tỷ khâu (ni) thọ

Cụ túc giới (còn gọi là đại giới).

[5]

 Nghi thức này được tác giả viết dựa trên việc tham khảo nghi thức đón tiếp Trần

Huyền Trang khi hòa thượng đến Khâu Từ trong sách “Huyền Trang tây du ký” của tác giả

Tiền  Văn  Trừng.  Huyền  Trang  sống  vào  thời  Đường,  cách  nhân  vật  nam  chính  trong

truyện này chừng hai trăm năm, vì vậy nghi thức đón tiếp có lẽ không thay đổi nhiều.

[6] Về việc các nhà sư được phép ăn thịt: Phật giáo Tiểu Thừa chỉ cho phép các nhà

sư ăn loại “thịt thanh sạch”, đến nay quy định đó vẫn không hề thay đổi trong giới tăng sĩ

Tiểu Thừa khu vực Đông Nam Á. Thời gian đầu, khi Phật giáo mới được truyền bá vào

Trung Nguyên, cũng không cấm ăn thịt. Theo các tài liệu nghiên cứu thì có lẽ quy định

cấm ăn thịt đối với nhà sư bắt nguồn từ thời Nam Triều dưới sự trị vì của vị vua sùng bái

đạo Phật – Lương Vũ Đế.

[7] Hoạt động biện kinh của Phật giáo Tây Tạng: là môn học biện luận giáo lý Phật

giáo dựa trên phương pháp suy luận logic theo hệ thống lý luận Nhân mình học (hay còn

gọi là Logic học Phật giáo). Tiếng Tạng gọi là Thôn- Ni- Tác- Ba, nghĩa là “pháp tướng”.

Đó là phương pháp bắt buộc khi nghiên cứu giáo lý Hiển Tông của các Lạt Ma. Biện kinh,

cũng là hoạt động tôn giáo đặc sắc nhất diễn ra tại ba ngôi đền lớn ở Tây Tạng. Hoạt

động này bắt nguồn từ cuộc tranh biện giữa một hòa thượng Đại Thừa thời vua Tshiong

Dezan (Xích Tùng Đức Tán) với Liên Hoa Giới (Kamalasila - Đệ tử chân truyền của đại sư

Tịch Hộ).

[8] Bản dịch của Huỳnh Ngọc Chiến.

[9] Câu nói vui này tương tự kiểu nói trẹo hài hước trong tiếng Việt như: Nồi đồng

nấu ốc nồi đất nấu ếch, nhưng lại là về chủ đề ăn nho, nên người dịch tạm chuyển

ngữ như vậy.

[10]

 Khu vực tây bắc đại lục Nam Á, nay thuộc vùng giáp ranh giữa biên giới phía bắc

Pakistan và biên giới phía đông của Afghanistan

[11]

 Ngôn ngữ Phật giáo gọi là "đi hạ"

[12]

 Năm điều trói buộc: cái tôi bản thể, sự nghi ngờ, giới luật, dục vọng và sự yêu

ghét.

[13]

 Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo.

  [14]

 Trống Hạt là một loại trống cổ của Trung Quốc, hai mặt bọc da, thân trống thắt

eo

[15]

  loại hình vũ đạo dân gian lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn miền bắc

Trung Quốc.

[16]

 Khèm khất lật hay còn gọi là khèn Tacta, một loại nhạc cụ dạng ống, thân trúc,

gắn lau sậy để thổi.

[17] Loại đàn cổ, số lượng dây đàn tối thiểu là năm dây, tối đa là hai mươi lăm dây.

[18]

 "Kinh thi", Tản Đà dịch, trang 94- 95

  [19]

 Đây là tiếng Ba Tư, tiếng Turk gọi là Task, tiếng Sogdiana gọi là Cac.

[20]

 Nay thuộc vùng Samarkand, nước cộng hòa Uzbekistan.

[21]

 Gióng trống – ‘Kinh thi”, Tản Đà dịch.

           

[22]

 Bài thơ “Thập giới” của Tsangyang Gyatso :

            Nếu ta không gặp gỡ

            Ta đã chẳng yêu nhau.

            Nếu ta không thấu hiểu

            Ta đã chẳng thương nhau.

            Nếu ta không trao gửi

            Ta đã chẳng nợ nhau.

            Nếu ta không gắn bó

            Ta đã chẳng rời nhau.

            Nếu ta không khác biệt

            Ta đã chẳng gần nhau.

            Nếu ta không lầm lỡ

            Ta đã chẳng phụ nhau.

            Nết ta không hứa hẹn

            Ta đã chẳng vì nhau.

            Nếu ta không gắn bó

            Ta đã chẳng cần nhau.

            Nếu ta không gặp nhau

            Ta đâu là của nhau.

            Nhưng, ta đã gặp và rồi, yêu nhau.

            Đã yêu, sao có thể từ bỏ.

Dù cho nỗi tương tư theo ta trọn kiếp này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#linh