phần 1(1>24)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  Chương 1: 

Cuộc thí nghiệm của tôi 

Tôi ngồi ngẩn ngơ, thu vào tầm mắt mênh mông cồn cát. Xa xa, vài chú lạc đà hoang dã nhởn nhơ rong chơi, nhưng chưa kịp lại gần, đã co cẳng chạy biến, chúng còn khôn hơn cả lạc đà thuần. Bước thấp bước cao lê lết suốt mấy tiếng đồng hồ và không ngừng dõi mắt tìm kiếm xung quanh, quả thực là tôi đã quá mệt. Không thiết bị định vị GPS, không phương hướng, cứ lao đi như vậy chẳng giải quyết được vấn đề gì. May cho tôi, lúc này đang là giữa thu, thời tiết tuy khô hanh nhưng nhiệt độ sa mạc không quá thấp, nên vẫn chịu đựng được. Có điều, trời đang tối dần khiến tôi lo ngại. Khi mặt trời khuất bóng mà tôi lại không mang theo bất cứ vật dụng bảo vệ ngoài trời nào, lang thang trong đêm giữa hoang mạc thế này, không chết đói cũng sẽ chết rét.

Nhắm mắt lại vẫn thấy rùng mình, cảm giác quay cuồng lúc tiếp đất vẫn chưa tan. Uể oải nâng tay trái ngó chiếc đồng hồ vượt thời gian, không ngăn nổi tiếng thở dài. Vẫn là, lần thử nghiệm thứ ba lại thất bại, tuy có tiến bộ hơn hai lần trước, lần này tôi đã tiếp đất.

Tôi tham gia dự án thử nghiệm vượt thời gian này đã hơn một năm. Là nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử, nhiệm vụ ban đầu của tôi chỉ là cùng thầy hướng dẫn, một giáo sư lịch sử danh tiếng tham gia công tác chỉ đạo dự án. Nhưng sau khi gặp tôi, các nhà sinh vật học ấy cứ nằng nặc đòi tôi tiến hành xét nghiệm và kết luận của họ là thể lực của tôi hoàn toàn thích hợp để thực hiện thử nghiệm.

Mặc dù không thiếu người nhưng tất cả tình nguyện viên trước đó đều đã thất bại. Nhóm chuyên gia cho họ về nghỉ và quay ra "tâm lý chiến" với tôi. Với tư cách là một nghiên cứu sinh chuyên ngành, tôi có trách nhiệm và nghĩa vụ vén bức màn bí ẩn, giải mã những nghi vấn, trả lại tính chân thực cho lịch sử. Trở về và trải nghiệm mọi thứ diễn ra trong thời kỳ cổ đại, mấy ai làm được điều đó? Và nếu thành công, tôi sẽ trở thành người đầu tiên, sẽ được vang danh trong sử sách.

Tôi là cô gái đam mê công việc, tiêu chí của đời tôi là: "sách vạn cuốn, đường vạn dặm, chuyện vạn người". Tôi muốn gặt hái nhiều thành tích để "sếp" được tự hào, "sếp" chính là thầy hướng dẫn, đám sinh viên chúng tôi thường gọi thầy hướng dẫn của mình như vậy. Do đó, không đợi tôi chịu "thuận" hẳn, nhóm chuyên gia hừng hực  nhiệt huyết kia đã nhanh chóng xua tôi lên bục thử nghiệm.

Lần thử nghiệm đầu, biến mất chưa đầy nửa phút, tôi đã ngã nhào trở lại. Tôi không nhớ gì ngoài cảm giác chóng mặt buồn nôn cực độ khi vượt không gian. Toàn bộ thiết bị mang theo gồm: máy dò tìm 14C, GPS định vị, laptop, máy ảnh kỹ thuật số,  đều bị tia bức xạ tần số cao làm hỏng sạch. Nhóm chuyên gia rút ra kết luận: không thể mang theo thiết bị điện tử. Vậy là, sau nửa tháng trên giường bệnh, tôi lại được đào tạo cấp tốc cách sử dụng các dụng cụ thủ công, xẻng Lạc Dương (một loại xẻng nhỏ dùng trong khảo cổ) cũng nằm trong số đó.

Lần thứ hai, tiến bộ hơn, tôi biết mất khoảng mười phút, nhưng khi mọi người đang rất hân hoan, chuẩn bị mở tiệc ăn mừng thì tôi lại rơi đánh bịch trên trảng cỏ ngoài phòng thí nghiệm. Lúc tỉnh dậy, hình ảnh của phố xá và dòng người mà tôi nhìn thấy khi bay trong không gian mơ hồ quệt qua trí nhớ, có vẻ như là khung cảnh và trang phục thời Hán. Nhưng chưa kịp tiếp đất, một lực hút cực mạnh đã kéo tôi lại. Dụng cụ thủ công mà tôi đeo trên lưng cũng vỡ tan tành.

Dựa trên báo cáo của tôi, nhóm chuyên gia nhận định thí nghiệm có thể đưa con người trở về không gian của hai nghìn năm trước, vì vậy, tôi đã phải ôn lại lịch sử thời chiến quốc và thời Tần Hán khi vẫn còn nằm trên giường bệnh. Vết thương chưa lành, tôi đã bị dựng dậy, bị bắt luyện tốc ký, luyện vẽ sơ đồ, biểu đồ, phác thảo công trình kiến trúc. Các chuyên gia quyết định không để tôi mang theo những dụng cụ nặng, chỉ đem theo những vật dụng nhỏ nhẹ, tiện dụng.

Học vẽ được nửa năm thì thiết bị thí nghiệm được cải tiến thành mô hình máy CT. Hành trang lần này của tôi bao gồm một tập lớn giấy viết vẽ tốc ký và bút chì. Trước lúc lên đường, sếp tôi còn dặn dò cẩn thận, không được phép để lại ở thời cổ đại bất cứ thứ rác rưởi khó tiêu hủy nào của thế kỉ XXI, vì như vậy sẽ gây khó dễ cho các nhà khảo cổ và các chuyên gia lịch sử sau này.

Và trong lần thử nghiệm thứ ba, tôi đã tiếp đất thành công, không thương tổn bầm dập, bởi vì tôi rơi xuống giữa một sa mạc cát. Nhưng tôi nhận ra tình trạng thảm hại của mình ngay sau đó. Không một bóng người, không một dấu hiệu của sự sống, sau vài giờ lang thang, tôi vẫn hoang mang không rõ mình đã đến được thế giới cổ đại hay chưa. Tôi chỉ khẳng định được duy nhất điều này: tôi đã rời khỏi phòng thí nghiệm.

Không nước uống, không đồ ăn, không thuốc men, vì nếu có mang theo thì khi

vượt không gian cũng sẽ bị nhiễm xạ. Trong chiếc ba lô chuyên dụng hiệu Northface
của tôi chỉ có một con dao Thụy Sĩ, một chiếc la bàn, quần áo, sổ ghi chép, dụng cụ khảo cổ, một tập giấy tốc ký, bút chì và một ít bạc vụn. Chẳng có thứ gì giúp được tôi lúc này. Có lẽ phải bỏ cuộc và trở về thôi. Các chuyên gia sẽ tiếp tục cải tiến thiết bị và hy vọng lần tới, tôi sẽ đến được nơi có con người. Không nén nổi, tôi buông một tiếng thở dài tiếc nuối. Nhưng trời đang tối dần, tôi phải tranh thủ thời gian, nếu không sẽ không đủ năng lượng mặt trời để khởi động thiết bị.

Tôi lôi chiếc mũ chống tia phóng xạ nhét trong bộ trang phục thời Hán ra và chụp kín đầu, đeo găng tay, kéo cao khóa, nghiêng chiếc đồng hồ vượt thời gian kềnh càng
về hướng mặt trời, xoay chốt bảo hiểm, miệng nhẩm đếm: một, hai, ba

Đếm đến mười vẫn không có động tĩnh gì. Tiếp tục đếm: hai mươi, năm mươi, một
trăm

Sao thế này, không lẽ lại xui xẻo đến vậy? Tôi kéo mũ, dán mắt vào chiếc đồng hồ dở chứng, vẫn không động đậy. Đập đập, không phản ứng. Giơ cao về phía mặt trời, tiếp tục im lặng. Tôi tháo đồng hồ, vung lắc hết sức, đèn báo hiệu vẫn không hiện màu xanh.

Gió bắt đầu nổi, mặt trời bị giăng mờ bởi ngợp trời gió cát. Cái đồng hồ dựa dẫm vào năng lượng mặt trời chết tiệt này! Tôi sẽ phải bỏ mạng ở nơi không rõ là thời đại
nào, hoang mạc nào này ư?

Tôi bật dậy, chỉ tay lên trời, nguyền rủa nhóm chuyên gia: không cho mang nước, không cho mang thức ăn, chỉ mấy đồng xu xù xì nặng trình trịch này thì ích gì chứ? Sớm biết cái đồng hồ phải gió kia sẽ dở chứng thì dù có phải chịu nhiễm xạ, tôi cũng kiên quyết mang theo đồ ăn thức uống đi. Ba lần bị đẩy vào cái máy vượt thời gian phải gió ấy, lẽ nào tôi chưa từng nhiễm xạ ư? Tôi thà chết vì nghẹn bánh mì bị nhiễm xạ còn hơn chết đói chết khát thế này!

Tôi kết thúc trận xỉ vả sau khi nuốt vào đầy một miệng cát, trời nhanh chóng tắt nắng, chỉ một lát nữa, sa mạc sẽ trở nên lạnh cóng. Chiếc áo chống tia phóng xạ của tôi còn có thể chống gió và rét, nhưng không chống nổi cơn đói khát đang ập đến với tôi. Co gập người lập cập bò lên một gò cát cao, nhìn ra xa, trong mịt mù đêm tối, tôi bắt gặp những đốm lửa bập bùng phía xa xăm. Tôi chưa bao giờ thấy thứ ánh sáng nào ấm áp đến thế!

Không còn nhớ phải mất bao nhiêu thời gian mới có thể thoát khỏi sa mạc tăm tối,
gió cát mịt mù đáng sợ ấy, chỉ biết rằng khi tôi lảo đảo lại gần đống lửa thì mắt tôi hầu như không còn thấy gì và tôi khát đến mức cổ họng như cháy khô. Kịp nhận thấy xung quanh đống lửa có một số lều bạt, có tiếng người, có lạc đà, mắt sáng rực, tôi lao vào một trong những chiếc lều ấy, sau đó, lịm đi.

Chương 2: Hòa thượng và ni cô 

Tỉnh lại, tôi thấy mình đang được vây bọc giữa một đám người hình hài kỳ lạ: mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, mặt tròn, cổ ngắn, nước da trắng mịn, đáy mắt sẫm nâu. Đàn ông cao to lực lưỡng, đàn bà béo tốt khỏe mạnh, tất cả đều tóc xoăn thả lọn ngang vai và nhất loạt màu hung đỏ. Trang phục của họ lại càng đặc biệt hơn: đàn ông áo dài bẻ cổ, tay bó, thắt eo, đi ủng cao đến tận đầu gối, giắt kiếm sau lưng. Phụ nữ váy dài đến đầu gối, xẻ vai phải, tay bó, vai quàng khăn và cũng đi ủng cao.

Tôi thấy khâm phục bản thân, trong tình trạng đói khát mệt lả như vậy vẫn có thể mô tả và nhận xét vẻ ngoài và trang phục của những người xung quanh một cách chuyên nghiệp chỉ bằng vài cái đưa mắt quan sát. Nhưng những thông tin này không có nghĩa lý gì nữa khi tôi bắt đầu ngửi thấy mùi thơm của thức ăn.

Chỉ là vài miếng bánh và một bát mì nóng, nhưng thế cũng đủ để nước miếng tuôn ào ạt trong miệng tôi. Vội vã đón thức ăn từ tay một phụ nữ chừng bốn mươi, sau tiếng lắp bắp cảm ơn, tôi ngấu nghiến nhai nuốt, mấy miếng bánh nhanh chóng hết veo, bát mì nóng cũng sạch bong sau vài miếng soàn soạt, dạ dày đã có chút cảm giác. Nhưng tôi vẫn muốn ăn thêm, rụt rè cất lời xin xỏ, tôi bỗng nhận ra rằng: ngôn ngữ bất đồng.

Không có gì lạ, vì chỉ nhìn thoáng qua cũng biết họ không phải người Hán và chính tôi cũng không rõ rốt cuộc mình có trở về thời kỳ cổ đại hay không. Chưa biết chừng, cuộc thí nghiệm này chỉ như một chuyến bay miễn phí, đưa tôi đến một sa mạc nào đó thuộc Trung Đông hoặc châu Phi, để rồi vô tình gặp một bộ lạc du mục lạc hậu nào đó cũng nên và biết đâu tôi vẫn đang ở thế kỷ XXI. Tôi thử dùng tiếng Anh, vẫn không ổn.

Đúng lúc tôi đang phiền muộn giữa những thanh âm lạ lùng thì trong lều xuất hiện
thêm hai người, những người khác lập tức dừng bàn luận và tỏ ra hết sức cung kính. Tôi có thể nhận ra ngay thân phận khác thường của hai người đó, nhưng khi họ lại gần chỗ tôi nằm thì tôi ngạc nhiên đến mức hồi lâu vẫn há hốc miệng.

Đó là một ni cô chừng hơn ba mươi tuổi và một tiểu hòa thượng chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả thân phận khác thường là khí chất cao quý toát ra từ con người họ. Họ chỉ yên lặng đứng đó, nhưng vẻ bất phàm thoát tục của họ lan tỏa trong không gian quanh tôi.

Khuôn mặt ni cô giống hệt những người phụ nữ khác, nhưng làn da trắng mịn hơn, đôi mắt to, lông mày dài mượt và trong đôi mắt nâu nhìn tôi chăm chú thấp thoáng vẻ lo lắng mơ hồ nào đó. Một thân hình căng tròn, đầy đặn, chiếc áo cà sa màu nâu sòng giản dị không che lấp nổi vẻ đẹp của thân hình ấy. Có điều, hình như vầng trán của ni cô khác với những người khác, hình như nó bị nén xuống và đổ dần về phía sau gáy và vì trên đầu không có tóc, nên hình ảnh đó càng trở nên kỳ dị. Tôi nhớ rằng, người Ai Cập và Ba Tư cổ đại từng có tập tục nén vầng trán cho dẹp xuống ngay khi còn nhỏ, nhưng tập tục đó chỉ giới hạn trong các thành viên của hoàng thất. Không biết, trán của ni cô là do bị dẹp bẩm sinh hay đã được nén sau khi sinh. Tuy nhiên, vầng trán dẹt không làm mất đi vẻ đẹp mặn mà của ni cô.

Tiếp tục quan sát tiểu hòa thượng mười lăm tuổi, không thể không thốt lên, đó là một vẻ điển trai quyến rũ kỳ lạ! Cũng sống mũi cao, đôi mắt sâu, nhưng không thô lậu như những người khác. Khuôn mặt tiểu hòa thượng hệt như bức tượng thần Hy Lạp, với những đường nét ngời sáng như một khối lập thể được đúc tạc tỉ mỉ. Ngũ quan là một sự kết hợp hài hòa và tài tình, với đường lông mày dày và đậm, sống mũi cao thanh tú, đôi đồng tử màu xám nhạt như được khảm giữa một vùng nhãn thần rộng và sâu thẳm, thuần khiết tựa nền trời xanh trên sa mạc mênh mông. Tuy tuổi còn rất trẻ nhưng ở tiểu hòa thượng đã toát lên vẻ đạo mạo, sáng rỡ, khiến tôi vừa có cảm giác ấm áp vừa gợn chút tò mò.

Hòa thượng có làn môi rất mỏng nhưng đường nét đậm rõ, khi đôi môi khép lại, cánh môi uốn lên một đường cong thanh tú. Khuôn mặt thuôn dài, chiếc cằm nhọn đậu trên chiếc cổ cao gầy tựa thiên nga, từng nét thon dài sống động. Không giống những đàn ông khác trong lều, tiểu hòa thượng có nước da bánh mật. Khoác trên mình chiếc áo choàng dài, vai rộng phủ toàn thân, chiều cao một mét bảy càng tôn thêm dáng vẻ cao lớn, nhưng cũng khiến y phục trên người tiểu hòa thượng trở nên đơn sơ. Chắc chắn tiểu hòa thượng sẽ còn cao nữa, có thể đến một mét tám hoặc hơn.

Tôi chăm chú quan sát hai con người kỳ lạ đó, trí óc quay cuồng. Cho đến khi, thật bất ngờ, họ bắt đầu trò chuyện với tôi bằng tiếng Hán lơ lớ.

Rất lâu sau tôi mới hiểu được rằng họ đang cố hỏi xem tôi từ đâu tới và vì sao lại lưu lạc đến chốn này. Ngước nhìn họ với vẻ đau khổ, tôi đáp:

- Làm ơn cho tôi biết, đây là đâu, nơi này thuộc nước nào vậy?

Vẻ băn khoăn không hiểu rõ trên nét mặt ni cô, nhưng hình như tiểu hòa thượng
đã nắm bắt được đôi điều, đột ngột ngồi xuống cạnh tôi, khuôn mặt tuấn tú, thuần khiết của tiểu hòa thượng bừng sáng. Bị hút hồn bởi vẻ đẹp ấy, tim đập mạnh khiến tôi choáng váng trong giây lát.

- Chúng tôi đến Wensu, sắp rồi. Cố là ngươi Han?

Đang chưa hết băn khoăn vì trái tim lỗi nhịp đập nhanh vô cớ, tôi bỗng phì cười
trước điệu bộ hết sức nghiêm túc nhưng phát âm tiếng Hán lơ lớ và trật tự chủ ngữ vị ngữ đảo lộn hết cả của tiểu hòa thượng.

Đôi chút ngượng ngùng và khuôn mặt hơi ửng đỏ:

- Tiếng Hán, tôi, nói không giỏi.

Hòa thượng quay lại thao thao bất tuyệt một hồi với ni cô xinh đẹp. Tôi vội nín
cười, cố lí giải xem địa danh mà hòa thượng vừa nhắc đến là nơi nào. Căn cứ phát âm của tiểu hòa thượng thì hình như đó không phải một địa danh ở Trung Nguyên.

Hòa thượng quay đầu tiếp tục hỏi chuyện tôi:

- Cố, đi, đâu?

Tôi hăm hở:

- Trường An, biết chứ?

Thấy hòa thượng gật đầu, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là địa danh này tồn tại và được biết đến ở nơi đây.

- Nhưng

Hòa thượng nhìn tôi do dự:

- Xa lắm, một mình, cô?

Tôi uể oải gật đầu, trong lúc này, ngoài Trường An, tôi chẳng thể nghĩ ra được nơi nào khác, dù thế nào, đến đó tôi cũng không gặp trở ngại về ngôn ngữ.

- Chúng tôi, đi Kuchi, cô, tiện đường.

Vất vả lắm hòa thượng mới phát âm được một tiếng, tôi cứ định buột miệng cười lại gắng sức kìm chế. Cứu mạng tôi, lại có thể trò chuyện với tôi, như vậy đã đáng quý lắm rồi. Không biết Kuchi là nơi nào nhỉ? Tôi đã tiếp đất được bảy, tám tiếng rồi cũng nên, vậy mà vẫn chưa xác định được địa điểm và thời đại lịch sử. Đường đường là nghiên cứu sinh khoa lịch sử một trường đại học danh tiếng, xấu hổ quá đi mất!

- Cô, tên gì?

- Hả?

Mải suy nghĩ, chưa kịp định thần, phải nhờ đến lần thứ hai tôi mới hiểu tiểu hòa
thượng muốn hỏi tên mình.

- Tôi tên Ngải Tình[1].

Tên gọi của tôi từ lâu đã là chủ đề gây cười của mọi người. Từ nhỏ tôi đã được gắn
biệt danh: Love. Bọn con trai thích thú chọc ghẹo, gào thét tên tôi: Oh, my love!

Tôi đã đấu tranh đòi đổi tên, nhưng bố mẹ không chịu. Lâu dần thành quen. Gọi "tình yêu" thì cũng có sao, chỉ tiếc, bao nhiêu năm mang tên "tình yêu" mà vẫn chẳng

thấy bóng dáng thần tình yêu của tôi đâu.

- Tên tôi là

Hòa thượng phát ra một tràng dài những âm lạ mà tôi không sao nhớ nổi, chỉ cười trừ đáp lại. Hòa thượng kiên nhẫn lặp đi lặp lại ba lần. Căn cứ vào phát âm, tôi tìm ra những tiếng tương ứng trong Hán ngữ: Ku- ma- la- ji- ba, quả thực rất khó đọc. Tôi gắng sức: Ku- ma- la- ji- ba, Ku- ma- la- ji- ba, Ku- ma- la- ji- ba, 

Cánh môi hòa thượng lên xuống theo từng chuỗi phát âm của tôi và ngừng lại với một điệu cười sảng khoái, giọng cười cao vút, trong veo và vang xa như tiếng suối reo giữa đại ngàn. Chợt nhớ đến, mới đây thôi tôi còn cười cậu ta phát âm tiếng Hán không chuẩn, bây giờ thì đến lượt tôi rồi nhé, má tôi nóng bừng.

Hòa thượng chỉ cười một lát rồi dừng lại, có lẽ vì nhận ra vẻ mặt ngượng ngùng của tôi, chỉ tay về phía ni cô xinh đẹp đứng phía sau:

- Của tôi, me, Jiba.

Tôi đã bắt đầu thích ứng với khẩu âm của hòa thượng, nên tự động chuyển ngữ "me" bằng "mẹ".

Ni cô xinh đẹp này là mẹ của hòa thượng? Họ đều là người xuất gia? Cậu ta còn trẻ như vậy, chắc là được mẹ đưa đến nơi cửa Phật? Thoáng chút tiếc nuối len lỏi trong tim, nhưng đã nhanh chóng bị tôi đá bay. Jiba? Không biết đó là tên gọi hay là một kính từ? Tôi cất giọng thử một tiếng Jiba, ni cô điềm đạm gật đầu.

- Cô, nghí ngơi, chúng ta, ngày mai, lến đương.

(Dịch: Cô nghỉ ngơi đi, ngày mai chúng ta lên đường)

Sau khi hòa thượng và ni cô đi khỏi, tôi ở lại trong lều cùng bốn phụ nữ khác. Tuy không hiểu họ nói gì, nhưng thái độ của họ rất thân thiện. Ngại xin xỏ thêm đồ ăn, tôi khoan khoái ngả mình trên tấm đệm ấm áp họ dành riêng cho tôi.

Vậy là tôi đang ở một nơi xa lạ, ngôn ngữ bất đồng. Ngoài kia, tiếng gió rít trên sa

mạc sao mà thảm thiết, hệt như tiếng khóc than não nề trong đêm vắng. Lòng tôi chùng xuống, hễ nhắm mắt là lại nhớ nhà kinh khủng, nước mắt không ngăn nổi, rơi lã chã trên gối. Tôi cố gắng ngăn chặn cảm xúc yếu đuối đó bằng phép thôi miên thông dụng nhất.

Tôi bắt đầu phân tích hình ảnh những thứ ở xung quanh mà tôi quan sát được trước lúc đi ngủ, sau đó, đặt tên cho từng thứ một: tôi nằm trên một tấm đệm thêu hoa văn hình thoi, gối trên một chiếc gối bông hoa văn vằn hươu xen hình những nén bạc nhỏ và đắp lên mình một chiếc chăn lông thêu hoa văn hình tam giác. Vật dụng chứa nước là một chiếc bình gốm một quai, in hoa văn lưới, còn chiếc bát đựng bánh màu xám khi nãy là một chiếc bát nung từ đất sét.

Tôi phán đoán mình đã đến được thời cổ đại, bởi vì kỹ thuật chế tác những đồ dùng bằng gốm này vẫn rất nguyên thủy. Nếu căn cứ vào trình độ chế tác gốm sứ ở Trung Nguyên thì kỹ thuật chế tác đơn giản này có lẽ đã tồn tại từ hơn hai ngàn năm trước. Nhưng không biết ở đây thì thế nào.

Tiếng gió gầm gào bên ngoài cùng với tiếng thở đều đều trong lều không ngăn nổi nỗi mệt nhoài cùng cơn buồn ngủ xâm chiếm. Tôi cuộn mình trong lớp chăn ấm và chìm dần vào giấc ngủ.

Chương 3: Tôi biết mình đang ở đâu 

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thu dọn và lên đường. Tôi đã khỏe lại, ăn của người
ta, ở của người ta thì phải góp công góp sức với người ta chứ nhỉ! Buồn thay, tôi lại không hiểu họ nói gì, nên khi thu dọn lều bạt, sự lóng ngóng của tôi chỉ khiến họ thêm vướng chân vướng tay. Nhưng họ rất hiền hòa, không trách mắng gì cả, vả lại, dĩ nhiên rồi, họ có trách mắng, tôi nghe cũng chẳng hiểu.

Họ dành riêng cho người lạ từ trên trời rơi xuống là tôi một chú lạc đà. Nhưng bộ xiêm y người Hán với ống tay rộng thùng thình và chiếc váy dài chấm gót khiến tôi không làm cách nào trèo lên lưng lạc đà được. Tôi nhìn bộ váy áo lòa xòa lôi thôi, rồi lè lưỡi nhìn tiểu hòa thượng với vẻ bất lực và cầu cứu.

Hòa thượng nở nụ cười hồn hậu, quay lại trao đổi một hồi với người phụ nữ đứng tuổi, lát sau, một bộ trang phục giống như của họ được đem tới. Tôi thay đồ, hơi rộng, cũng phải thôi, thân hình của họ cao lớn thế kia mà. Áo dài đến đầu gối, tay phải thắt ống, vai phải xẻ, quần rộng, ống kiểu Alibaba, ủng cao đến đầu gối, ha ha, hợp mốt đấy chứ! Phụ nữ thời Hán ai mà dám mặc áo hở vai? Nhưng điều quan trọng là với bộ quần áo như thế này, việc lên xuống lạc đà không còn khó khăn nữa. Buổi sớm trên sa mạc vẫn giá buốt, tiểu hòa thượng ân cần mang cho tôi một chiếc khăn quàng.

Tôi nhẩm tính, cả đoàn cũng phải chừng sáu mươi người, nhưng tính cả tôi cũng chỉ có tổng cộng năm người phụ nữ. Ngoài tiểu hòa thượng, những người còn lại đều bận quân phục và giắt bên mình một thanh kiếm dài của tướng sĩ thời xưa. Và với biểu cảm trên khuôn mặt họ, thì mọi sự tập trung đều dồn cả vào hai mẹ con ni cô.

Tôi có đôi chút băn khoăn, trước đây, tôi mới chỉ thấy hòa thượng và ni cô có người hầu đi cùng, chứ chưa từng gặp hòa thượng và ni cô dẫn theo một đội quân thế này. Càng quan sát càng nhận thấy vẻ quan cách toát ra từ cử chỉ và lời nói của họ, rõ ràng hai mẹ con hòa thượng có thân phận không tầm thường. So với những người khác, trình độ tiếng Hán của tiểu hòa thượng là khá nhất, vượt xa cả người mẹ xinh đẹp, nên tôi chọn đi cạnh hòa thượng để nghe ngóng tình hình. Tuy giao tiếp khó khăn, nhưng tôi cũng nắm bắt được khá nhiều thông tin.

Tôi gặng hỏi hòa thượng có biết hiện ai đang làm vua vùng Trung Nguyên hay không. Hòa thượng suy nghĩ hồi lâu mới phát âm ra một tiếng gần giống với "Tần/Thanh". Vậy hẳn là nhà Tần rồi! Không thể là nhà Thanh, nhóm chuyên gia đã khẳng định, cỗ máy vượt thời gian chỉ có thể đưa được con người về lại khoảng thời gian hai ngàn năm trước.

Tôi lại hỏi hòa thượng học tiếng Hán ở đâu. Hòa thượng hoa chân múa tay hồi lâu tôi mới hiểu sơ sơ, rằng ở Kuchi hòa thượng có hai thầy giáo người Hán. Hòa thượng thẹn thùng bộc bạch, là bản thân mới học tiếng Hán được vài tháng mà đã năm năm rồi không luyện khẩu ngữ, nên trò chuyện không được lưu loát.

Tôi quá đỗi kinh ngạc. Hòa thượng chưa đến mười sáu tuổi, vậy là cậu bắt đầu học tiếng Hán khi mới mười, mười một tuổi, năm năm bỏ bẵng, nhưng vẫn có thể giao tiếp khá thế này, trí nhớ của hòa thượng thật đáng khâm phục. Thời gian học đại học, tôi lựa chọn học ngoại ngữ tiếng Đức, sau vài năm không ngó ngàng đến, giờ đây tôi chỉ nhớ mỗi câu ICH LIEBE DICH (Em yêu anh), nếu yêu cầu tôi trò chuyện với người Đức, sẽ chẳng khác nào như vịt nghe sấm.

Vì tôi tiếp đất giữa sa mạc mênh mông, nên tôi chỉ có thể suy đoán nơi này hoặc là
thuộc Tây vực hoặc là thuộc Mông Cổ. Tôi thử hỏi về con đường tơ lụa, nhưng hòa thượng không hiểu. Chỉ khi tôi giải thích, tơ lụa và lá trà được vận chuyển từ Trung Nguyên đến tiêu thụ tại Đại Thực (nay thuộc các Tiểu vương quốc Ả Rập), Ba Tư (nay là I- ran), Đại Tần (nay là Roma) trên con đường này, thì hòa thượng mới gật đầu. Hòa thượng cho biết, Kuchi nằm trên con đường này. Và trong tôi chợt bừng lên một tia hy vọng.

Tiếp đó, tôi vắt cạn bộ nhớ để kể ra những địa danh liên quan đến con đường tơ lục: Yên Kỳ (Yanqi), Thiện Thiện (Shanshan), Sơ Lặc (nay thuộc Kashgar, Tân Cương), Lâu Lan, Hòa Điền (nay thuộc Hotan, Tân Cương), Ô Tôn (nay thuộc Ili, Tân Cương), Đôn Hoàng,  Trong số đó có một vài địa danh mà sau khi nghĩ ngợi một lúc, hòa thượng nhắc lại bằng một âm tương tự, những âm còn lại rất khó nhận biết. Khi kể đến địa danh Khâu Từ, tôi sững lại. Kuchi, Khâu Từ (Qiu Ci, nay thuộc huyện Kucha, Tân Cương). Hai âm này rất giống nhau, lẽ nào là quốc gia có nền văn minh
phát triển và giàu mạnh nhất vùng Tây vực thời cổ đại?

Tôi nhìn hòa thượng và thử đọc lại tên Khâu Từ. Hòa thượng ngập ngừng giây lát rồi gật đầu và chỉ vào mình. Trời ơi, cuối cùng thì tôi biết mình đang ở đâu rồi. Tôi đã đến Tây vực, Tây vực đời Tần!

Vậy thì những người Khâu Từ mà tôi gặp trên đường đi này chính là người Tochari. Tài liệu lịch sử chép lại rằng, tổ tiên của người Khâu Từ là tộc người Da Yue Zhi, hay còn lại là người Tochari. Đầu dài, mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, da trắng, thuộc giống người châu Âu nguyên thủy. Các bộ lạc Tochari đã kết thúc đời sống du mục vào khoảng một nghìn năm trước Công nguyên và bắt đầu định cư tại Kucha, Yanqi và Turpan. Tôi đã đến tham quan rất nhiều viện bảo tàng khi đi du lịch Tân Cương và rất thích thú khi ngắm nghía các xác ướp, những xác ướp được lưu giữ gần như toàn vẹn sau hơn ba nghìn năm, khuôn mặt xác ướp vẫn hiểu hiện rõ nét đặc điểm ngoại hình của người châu Âu, nổi tiếng nhất là xác ướp mỹ nữ Lâu Lan. Nhưng có lẽ vì nằm trên huyết mạch chính của con đường tơ lụa, là nơi tập trung và lai tạp giữa nhiều tộc người khác nhau, nên người Khâu Từ có khuôn mặt tròn hơn người châu Âu hiện đại.

Niềm hứng khởi đang lên cao thì lập tức bị kéo xuống. Những ghi chép về Tây vực thời kỳ nhà Tần rất ít ỏi, hầu như chỉ tồn tại trong "Tây vực truyện" thuộc sách "Hán thư". Lịch sử Tây vực trong trí nhớ của người Hán được bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế:

Trương Khiêm đến Tây vực, kết thân với Ô Tôn (Wu Sun), dựng trại làm ruộng, gây chiến với Hung Nô suốt mấy trăm năm. Nhưng được đến thời kỳ nhà Tần cũng rất tuyệt. Tôi phải lên đường đi Trường An ngay mới được, để có thể tận mắt chứng kiến những biến động to lớn cuối đời Tần, để được diện kiến những nhân vật lừng danh trong lịch sử.

Tôi lặp đi lặp lại nguyện vọng tha thiết đó với tiểu hòa thượng. Hòa thượng trầm tư một lát rồi gật đầu và hứa sẽ sắp xếp. Nhưng cũng nói thêm, đường xa vạn dặm, phải một năm mới đến nơi, hơn nữa hiện đang là thời kỳ chiến tranh loạn lạc, muôn phần nguy hiểm.

Trời, chiến tranh xảy ra rồi ư? Vậy thì tôi lại càng không thể chần chừ. Tôi vui vẻ bảo rằng không sao cả, hòa thượng băn khoăn nhìn tôi, đôi mắt màu xám nhạt lộ vẻ kinh ngạc. Tôi không biết phải giải thích thế nào để hòa thượng hiểu vì sao một cô gái như tôi lại hứng thú với chiến tranh đến vậy, nên chỉ cười trừ.

Câu chuyện giữa chúng tôi kéo dài đến gần trưa. Trời mùa thu lúc chính Ngọ nắng rất gắt gao, tôi phải trùm kín đầu bằng chiếc khăn quàng vai. Tiểu hòa thượng kéo thấp chiếc áo choàng dài, để lộ bờ vai phải, dưới ánh nắng rực rỡ, nước da bánh mật phản chiếu sức sống, nét khỏe khoắn và vẻ tráng kiện của tuổi trẻ. Lối trang phục để vai trần bên phải này vốn là trang phục phổ biến của giới tăng ni ở Ấn Độ và Tây vực. Sau đó, Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, kiểu trang phục này dần được cải biên, có câu "nhập gia tùy tục" mà. Thời tiết Ấn Độ nóng bức, Tây vực thì nằm trong vùng sa mạc, hoang mạc mênh mông, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm rất lớn, nên kiểu trang phục kín đáo vào buổi sáng và buổi tối, hở vai vào buổi trưa này rất phù hợp với điều kiện thời tiết nơi đây.

Khuôn mặt hòa thượng bỗng nhiên ửng đỏ, ánh mắt rời khỏi tôi trôi về phía xa xăm. Lúc này mới chợt nhận ra tôi đã chăm chú ngắm nhìn hòa thượng rất lâu, xấu hổ hết chỗ nói! Trang phục đặc biệt này tôi mới chỉ thấy qua các bức bích họa, được tận mắt chiêm ngưỡng người thật trong trang phục thật thế này, đôi mắt tôi như bị thôi miên, cứ dán chặt vào, quên cả phép lịch sự. Không thể lôi công tác nghiên cứu ra để biện bạch cho hành vi của mình, tôi chỉ còn cách duy nhất là cười khì khì giả ngây ngô.

Chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi tại một rừng dương nhỏ. Những người hầu cận nhanh chóng dựng lều và nhặt cành dương khô nhóm lửa nấu mì. Sau khi lót dạ bằng một bát mì nóng và những chiếc bánh Tây vực, tôi bắt đầu thèm ngủ. Hai mẹ con hòa thượng dùng bữa xong liền vào trong lều tụng kinh, họ đặt trên gối một cuốn kinh thư. Lòng hiếu kỳ kéo tôi lại gần họ, kết quả là tôi luôn luôn bị bất ngờ.

Kinh thư được viết trên lụa, chữ viết rất lạ, hình như là những kí tự, bao gồm rất nhiều đường nét giống hình số 8 được viết thẳng và viết ngang. Tuy đọc không hiểu, nhưng tôi không hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ này, loại văn tự này có lẽ là văn tự Tochari đã thất truyền từ rất lâu. Đây là ngôn ngữ Ấn Âu nguyên thủy cổ xưa nhất được biết đến cho tới nay, ra đời dựa trên sự phát triển những kí tự của chữ viết Brahmi, Ấn Độ và cho đến nay vẫn chưa được giải mã triệt để.

Tôi run rẩy bò đến gần và nhấc cuốn kinh thư phủ trên đầu gối tiểu hòa thượng, nghẹn ngào thốt lên:

- Trời ơi, đây là văn tự Tochari, là văn tự Tochari đấy!

Nếu có thể mang cuốn kinh thư này trở về, nó sẽ có giá trị nghiên cứu lớn lao biết chừng nào!

Ni cô xinh đẹp hơi chau mày! Tiểu hòa thượng sau một thoáng giật mình, ngạc nhiên nhìn tôi:

- Cô biết văn tự này? Đây là chữ Khâu Từ, không phải Tochari[2].

A, đúng rồi, Tochari là cách đặt tên của người Đức, những người Khâu Từ này chắc chắn không biết Tochari là tên gọi ngôn ngữ của họ. Nhưng con người ở thế kỉ XXI đã quen với tên gọi đó. Tôi cười ngượng ngùng nhưng mắt vẫn dán chặt vào những hình số 8 xiêu vẹo kia, tự nhận thấy nỗi hưng phấn được tận mắt chiêm ngưỡng những dòng văn tự Tochari sống động đang dâng cao không bút nào tả xiết.

Được nghe lại và thấy lại một ngôn ngữ đã thất truyền đối với một người nghiên cứu lịch sử như tôi, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, không thể đo đếm. Để có thể giải mã những văn tự đã chết, biết bao nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã phải dành cả cuộc đời để tìm kiếm dấu tích trên những di chỉ, di cảo còn sót lại. Thế kỷ XVIII, Champollion lần đầu tiên giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, đã vén được bức màn bí ẩn phủ trên mình lịch sử suốt mấy nghìn năm và ông được lưu danh thiên cổ. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách nào giải mã hoàn toàn văn tự Tochari, nếu như tôi có thể đọc hiểu thứ ngôn ngữ này

Tôi nắm chặt tay áo thùng thình của tiểu hòa thượng:

- Làm ơn, dạy tôi tiếng Tochari, à không, tiếng Khâu Từ!

Hòa thượng sững sờ chốc lát, rồi quay ra hỏi:

- Cô biết chữ Hán chứ?

- Tất nhiên rồi.

Đến phiên tôi ngạc nhiên.

Hòa thượng quay sang chuyện trò một hồi lâu với ni cô. Ni cô ngước nhìn tôi một lát rồi nói mấy câu với con trai. Hai mẹ con họ trao đổi khá lâu khiến tôi không khỏi hụt hẫng. Đang lo sợ bị từ chối, thì tiểu hòa thượng quay lại nhìn tôi, đôi mắt màu nâu nhạt ánh lên nét tinh nghịch:

- Tôi sẽ dạy cô, nhưng đổi lại cô phải dạy tôi tiếng Hán.

Tôi thở phào, thì ra cậu ta muốn có đi có lại, tốt thôi!

- Được chứ.

Ngập ngừng giây lát, tôi bổ sung thêm:

- Tuy tôi không uyên thâm kinh thư Phật pháp, nhưng tôi có thể dạy cậu chữ Hán, giảng giải "Luận ngữ", "Kinh thi", "Tả truyện", "Chiến quốc sách".

Tôi nghiên cứu lịch sử, không phải Phật học. Tôi có tìm hiểu đôi chút về lịch sử Phật giáo, nhưng đi sâu vào những nội dung cụ thể của Phật giáo tam tạng như: kinh tạng, luật tạng, luận tạng thì tôi hoàn toàn không biết gì. Tôi thực sự tiếc nuối, sớm biết sẽ vượt thời gian đến nơi đây, đồng hành cùng mấy vị hòa thượng ni cô thế này, tôi đã chăm chỉ nghiên cứu về Phật học rồi.

- Không hiểu kinh Phật cũng không sao, cô dạy tôi những kinh văn kia là đủ.

Tiểu hòa thượng có vẻ rất vui mừng, vì tôi thấy nụ cười ấm áp lẩn khuất sau hàng lông mày dài tuyệt đẹp.

Tôi bỗng nghĩ, kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên đều được dịch từ tiếng Phạn và một số ngôn ngữ thuộc Tây vực. Hòa thượng là người Khâu Từ, đâu cần phải học kinh Phật tiếng Hán, hòa thượng người Hán học kinh Phật từ tiểu hòa thượng này mới đúng chứ!

Hôm đó, tôi còn phát hiện thêm điều thú vị này nữa: sau bữa trưa, hai mẹ con hòa thượng không ăn thêm bất cứ thứ gì. Người cổ đại chỉ ăn hai bữa một ngày, giới tăng ni càng nghiêm khắc hơn.

Hỏi tiểu hòa thượng thì được trả lời bằng tiếng Hán bập bõm rằng, giới luật quy định, hòa thượng có thể dùng bữa trong khoảng thời gian từ sáng đến trưa, nhưng bắt đầu từ buổi chiều cho đến buổi sáng ngày tiếp theo, hòa thượng không được phép ăn uống bất cứ thứ gì.

Giới luật này được đặt ra xuất phát từ câu chuyện: một đệ tử của Phật Thích Ca đi khất thực vào buổi chiều muộn, lúc ấy trời đã nhá nhem tối, một người phụ nữ mang thai lầm tưởng vị hòa thượng đó là ma, đã quá sợ hãi dẫn đến đẻ non. Từ đó, Phật Thích Ca đã đặt ra giới luật này. Nhưng những người ốm đau bệnh tật hoặc những người lao động vất vả, thì vẫn được phép ăn bữa tối, để duy trì sức khỏe.

Tôi gật gật đầu. Vào thời đại của Phật Thích Ca, các hòa thượng dành phần lớn thời gian cho việc ngồi thiền, nên năng lượng tiêu hao không nhiều, không ăn bữa tối cũng không sao. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào đất Hán, các nhà sư Trung Nguyên vẫn ăn tối như người thường. Bởi vì, ở Trung Nguyên, nhà sư cũng phải làm ruộng, nên đã chủ động thay đổi giới luật. Điều đó chứng minh tính linh hoạt của tín ngưỡng Phật giáo. Có lẽ vì thế, trải qua mấy nghìn năm, Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ.

Quan sát cách họ ăn cơm và uống nước đều nhận thấy nhiều điều thú vị. Đám thị nữ dùng một vật dụng gần giống với túi lưới, lọc nước rồi mới mang đến cho hai mẹ con hòa thượng uống[3]. Lúc đầu tôi cứ đinh ninh, hẳn là họ e ngại nước trên sa mạc chứa nhiều tạp chất, nặng mùi phèn nên lọc qua một lần rồi mới uống. Nhưng đến khi thấy nước dành cho mình không cần lọc, liền cảm thấy kì lạ.

Tiểu hòa thượng lại ra sức giải thích cho tôi hiểu: các nhà sư trước khi uống phải lọc nước để tránh nuốt vào bụng những sinh vật có trong nước, nếu không, sẽ vô tình mắc tội sát sinh. Bởi vậy, giới luật của nhà Phật quy định, nhà sư phải luôn mang theo bên mình túi lọc nước, nếu không, họ không được phép rời khỏi nơi ở quá hai mươi dặm.

Lời giải thích của tiểu hòa thượng khiến tôi lập tức nhớ tới câu chuyện Trần Huyền Trang khi xưa một mình đi giữa sa mạc mênh mông không bóng người, mặc dù sắp lả đi vì khát, nhà sư vẫn đổ hết nước trong túi da của mình đi. Vì Huyền Trang kiên trì tuân thủ giới luật, không uống nước khi chưa được lọc sạch.

Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa ngoài lán trại, chăm chú ghi chép lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe mấy ngày qua. Trên cao, ngàn vạn ngôi sao lấp lánh giữa nền trời xanh thẫm.

Còn nhớ những ngày tháng du lịch Tân Cương ở thế kỷ XXI, tôi cũng từng ngước lên bầu trời trong vắt giữa đêm khuya thanh vắng và tự hỏi, phải chăng người xưa cũng từng ngắm nhìn bầu trời đêm này như tôi? Và, bầu trời sao tôi nhìn thấy đêm nay, phải chăng cũng là bầu trời sao thuần khiết mà một nghìn năm sau tôi lại được nhìn ngắm? Tôi cứ đắm chìm trong mối suy từ này không sao dứt ra khỏi. Tôi của hôm nay và tôi của một nghìn năm về sau đang cùng hướng lên bầu trời thăm thẳm
kia ư? Vậy rốt cuộc, tôi đã xuất hiện và tồn tại như thế nào?

Chương 4: Thiên tài ngôn ngữ 

Ngày thứ ba, chúng tôi dựng trại ven một dòng sông đang mùa nước cạn. Mẹ con tiểu hòa thượng đã bắt đầu tụng kinh, họ không ăn tối, tôi dùng bữa cùng với những người khác, vẫn là bánh Tây vực và mì nóng. Tôi ở chung với những thị nữ khác, hòa thượng "quyền quý" được dành riêng một lán trại với chế độ chăm sóc đặc biệt. Vì vậy, lớp học, tất nhiên là được sắp xếp ở chỗ của hòa thượng.

Vừa bước vào trong lán, tôi bỗng sững lại, Jiba đang cạo đầu cho con trai, những sợi tóc màu hung rơi lả tả trên tấm vải trắng quấn quanh cổ hòa thượng. Hòa thượng mỉm cười với tôi và ra hiệu cho tôi ngồi chờ một lát.

Tôi bắt đầu quan sát Kumalajiba trong thời gian chờ đợi. Vầng trán của cậu không bị nén dẹt như người mẹ. Và thật mừng là các nhà sư sống trong thời đại và khu vực này không có tục lệ đốt hương trên đỉnh đầu, bằng không, bên cạnh đau đớn về thể xác, những vết sẹo đó sẽ phá hoại dung mạo gần như hoàn mỹ của tiểu hòa thượng.

Nghĩ đến những vết sẹo đốt hương, bất giác tôi mỉm cười, đây vốn là "đặc sản" của văn hóa Phật giáo Trung Nguyên.

Thực ra lúc đầu, cũng giống như ở các quốc gia khác, hòa thượng Trung Quốc không đốt hương trên đỉnh đầu. Được biết tục lệ này vốn do Lương Vũ Đế - vị vua cuồng tín đạo Phật thời Nam Bắc triều khởi xướng. Vua Lương từng ba lần quyết tâm xuất gia, nhưng cả ba lần đều "bị" các đại thần "chuộc" về bằng rất nhiều ngân lượng.

Vì muốn nhanh chóng mở rộng diện ảnh hưởng của đạo Phật và tăng số lượng tăng ni Phật tử, nhà vua đã hạ chỉ miễn tội cho tất cả các tử tù, buộc họ xuất gia làm hòa thượng. Nhưng vì lo ngại đám tử tù bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, ngài lệnh "kiểm hình" (khắc chữ trên mặt) Lương Vũ Đế còn ban chỉ dụ đốt hương trên đỉnh đầu các tử tù để dễ dàng nhận dạng trong quá trình truy bắt.

Cá nhân tôi cho rằng, tục lệ đốt hương trên đầu hòa thượng ở Trung Quốc xuất phát từ mục đích của nhà cầm quyền. Các nhà sư không tham gia sản xuất, không nộp thuế, không sinh con cái, nếu số lượng tăng ni quá nhiều sẽ ảnh hưởng xấu đến năng lực sản xuất. Thêm vào đó, giới luật "không sinh con" của Phật giáo mâu thuẫn sâu sắc với luân thường đạo lý thời xưa "trong ba tội bất hiếu, không có con nối dõi là tội nặng nhất". Những thảm kịch "hủy diệt đạo Phật" diễn ra trong lịch sử đều có nguyên nhân sâu xa từ yêu cầu duy trì phát triển kinh tế và bảo vệ những luân lí đạo đức vốn có từ lâu đời. Tuy nhiên, sự tồn tại của tôn giáo là không thể thiếu, tôn giáo giúp giai cấp thống trị giữ cho xã hội được ổn định. Vì vậy, các nhà sư buộc phải có thẻ chứng nhận và nhà nước khống chế chặt chẽ số lượng tăng ni. Dấu hiệu nhận biết bên ngoài của nhà sư chính là vết chấm cháy trên đỉnh đầu. Những kẻ cạo trọc đầu giả mạo nhà sư sẽ dễ dàng bị phát hiện. Rất mừng là sau giải phóng, tập tục này đã được xóa bỏ, nhưng tôi nghe nói, một số chùa vẫn duy trì nghi lễ đốt hương này

- Ngải Tình!

Tôi giật mình ngẩng lên, tiểu hòa thượng mặt mày hớn hở. Vừa cạo đầu xong, trông cậu ta có vẻ sảng khoái và phấn chấn. Tôi ngó nghiêng, Jiba đã ra ngoài lúc nào mà tôi không hay. Vội theo sau tiểu hòa thượng đến bên chiếc bàn dài, tôi bắt đầu buổi học đầu tiên của mình.

Tiểu hòa thượng dạy tôi tiếng Tochari trước. Mặc dù hết sức tận tâm và kiên trì, nhưng vì trình độ tiếng Hán có hạn, chữ Tochari lại khó nhớ, tôi cảm thấy khổ sở hơn cả ngày xưa học tiếng Đức, tôi gắng sức tập trung, mồ hôi lăn đầy trên trán. Một tiếng sau thì tôi mệt đến mức phủ phục xuống bàn học và yêu cầu được nghỉ giải lao. Giờ học tiếng Tochari của tôi đã kết thúc trong rã rời như vậy.

Nghỉ ngơi một lúc thì đến lượt tôi dạy tiểu hòa thượng tiếng Hán. Tôi từng tham gia giảng dạy xóa mù chữ mỗi dịp nghỉ hè, nên tôi rất tự tin với những giờ dạy tiếng Hán sơ cấp. Tiếng Hán nhập môn không quá khó vì đều bắt đầu với việc nhìn tranh học chữ. Vấn đề ở chỗ, thời cổ đại chưa có khái niệm phiên âm, nên rất khó ghi nhớ cách phát âm.

Phương pháp chú âm thời cổ đại gọi là "phiên thiết", tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho một chữ Hán mà người đọc chưa biết cách đọc. Thông thường sẽ ghép thanh mẫu (phụ âm đầu) của chữ phía trước với vận mẫu (vần) và thanh điệu (dấu) của chữ phía sau. Ví dụ chữ "tú" có thể đọc thành "tê u sắc". Phương pháp phiên thiết sử dụng bảng chữ cái riêng gọi là "quảng vận". Nhưng tôi đâu phải cổ nhân, tôi không đọc được những chữ cái phiên thiết đó, tôi cũng không dám áp dụng phương pháp phiên âm, vốn là phát minh của hai nghìn năm sau, nên tôi đành đọc mẫu rồi yêu cầu hòa thượng mô phỏng theo và học thuộc lòng.

Tôi lôi tập giấy nháp và bút chì ra, vừa vẽ tranh vừa giảng giải. Hòa thượng tỏ ra rất hiếu kỳ với những đồ dùng học tập mới lạ của tôi và không ngừng đặt câu hỏi: loại giấy trắng tinh và chiếc bút chì ngòi cứng này làm thế nào mà có? Tôi đành phải nói dối rằng có một người kỳ lạ đã tặng cho tôi, rằng trên đời này chỉ mình tôi có chúng và tôi cũng không biết chúng được tạo ra bằng cách nào. Sau đó, tôi làm bộ nghiêm khắc, yêu cầu hòa thượng chuyên tâm nghe giảng, không được hỏi gì thêm.

"Nhật nguyệt thủy hỏa thổ, kim mộc nhĩ khẩu thủ". Để chuẩn bị cho chuyến vượt thời gian này, tôi đã dành ra một năm chuyên tâm luyện tập chữ phồn thể, nhưng cứ nghĩ đến thời nhà Tần sử dụng chữ tiểu triện là tôi lại toát mồ hôi. Tôi chỉ có thể đọc hiểu mà không thể viết được loại chữ này, mong là tôi không làm cho lịch sử bị sai khác đi. Cũng may tiểu hòa thượng sinh sống ở Tây vực xa xôi, cậu ta khó mà đến được Trung Nguyên.

Tiểu hòa thượng từng học tiếng Hán nên vẫn nhớ khá nhiều chữ. Cậu ta rất chăm chỉ, hai mắt dính chặt vào tập giấy tốc ký của tôi và gật gù liên tiếp. Mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương trên người tiểu hòa thượng tỏa lan trong không gian. Buổi lên lớp đầu tiên của tôi đã kết thúc tốt đẹp trong hương thơm dễ chịu ấy.

Ngày hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Giao tiếp giữa tôi và Kumalajiba trở nên suôn sẻ hơn. Cậu ta bắt chước rất nhanh, chỉ cần tôi cắt nghĩa một lần, cậu ta sẽ không hỏi lại nếu trong bài giảng lần sau của tôi xuất hiện những từ đã học. Ngoài ra, cậu ta còn biết cách sắp xếp lại theo đúng trật tự cú pháp: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ dựa trên quy tắc của ngữ pháp tiếng Hán.

Vào thời đại này, nếu giao tiếp với người Hán, hẳn tôi phải dùng lối nói văn ngôn cổ xưa. Nhưng với tiểu hòa thượng Tây vực, tôi vẫn áp dụng phương thức giao tiếp phổ thông của thế kỷ XXI. Bởi vì hòa thượng là người nước ngoài, nên tôi không lo cậu ta phát hiện ra tôi trò chuyện không đúng quy chuẩn của thời đại. Kumalajiba thích tìm hiểu về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán của cư dân vùng Trung Nguyên. Tôi giảng giải cho cậu ta dựa trên những kiến thức đọc được trong sách lịch sử. Càng ngày tôi càng cảm thấy tiểu hòa thượng không những tư chất thông minh, trí nhớ siêu
phàm mà cậu ta còn có một khả năng ngôn ngữ thiên bẩm đáng ngưỡng mộ!

Tôi hỏi Kumalajiba vì sao lại dẫn theo quân lính, thực ra mục đích chính của tôi là tìm hiểu thân thế của tiểu hòa thượng. Cậu ta trả lời rằng họ đã đi chu du nhiều nước trong suốt bốn năm qua, mà khoảng cách giữa các quốc gia là những sa mạc mênh mông, không bóng dáng sự sống, thêm nữa, những nơi họ đi qua đều thuộc khu vực không có sự cai quản, thường xuyên bị cướp bóc. Họ không thể không dẫn theo lính tráng để bảo vệ một lượng lớn sách kinh Phật và xá lợi quý báu trên đường đi.

Huyền Trang khi xưa trên đường tây du cũng từng nhiều lần bị cướp bóc. Tôi gật đầu đồng tình và xác nhận tầm quan trọng của đội ngũ vũ trang. Nhưng tôi vẫn chưa tìm hiểu được thân thế của hòa thượng, chỉ biết rằng, bốn năm trước họ dẫn theo đội quân tinh nhuệ này rời khỏi Kucha. Nhưng chắc hẳn hai mẹ con họ có quan hệ với hoàng thất, vì chỉ có hoàng thân quốc thích mới được quân đội của nhà vua đi theo bảo vệ như vậy.

Jiba lặng lẽ theo sau lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, khuôn mặt lúc nào cũng an nhiên, bình thản, thi thoảng bà quay sang trao đổi đôi câu với con trai. Tuy không hiểu bà nói gì, nhưng giọng nói dịu dàng ôn hòa của bà khiến tôi chắc chắn rằng bà không có ý trách móc gì tôi. Lúc nào bà cũng nhã nhặn lịch thiệp. Tôi biết bà rất yêu con, nhưng bà không hề có những cử chỉ thân mật mà một người mẹ thường dành cho con mình, có lẽ vì họ là người xuất gia.

Nhưng đến thời gian tụng kinh thì bà lại hết sức nghiêm khắc, vẻ trang trọng và thành kính hiện trên nét mặt, ánh mắt cúi xuống nghiêm cẩn, cùng con trai lầm rầm tụng niệm. Những lúc thế này, hai người họ như bỏ lại bên ngoài mọi thứ thuộc về thế giới trần ai, một lòng hướng Phật, tiếng kinh kệ vang xa như gõ động tâm linh. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức lay động lớn lao của tôn giáo. Đứng bên ngoài lán trại
lắng nghe mà tôi như mê đi!

Buổi tối tiếp tục lên lớp. Vắt óc mãi mà không nhớ được tiếng nào, tôi đành ngoan ngoãn chìa tay ra trước mặt tiểu hòa thượng.

- Gì vậy?

Tiểu hòa thượng theo tôi học tiếng Hán hiện đại, nên ngôn từ không lấy gì làm văn vẻ.

- Đánh vào lòng bàn tay tôi đi.

Tôi cười vui vẻ.

- Giáo viên người Hán của chúng tôi đều làm như vậy mỗi khi học sinh mắc lỗi. Cậu thấy không, tôi rất có tinh thần tự giác nhé, tôi đã chủ động nhận lỗi.

- Cô mắc lỗi gì?

Đôi mắt màu nâu nhạt sáng lấp lánh như muốn soi tỏ tâm hồn người đối diện.

- Tôi quên hết những chữ cái Tochari, à quên, chữ cái Khâu Từ mà hôm qua cậu dạy rồi.

Tôi làm bộ đau khổ rồi bật cười, sao tôi cứ quen gọi là tiếng Tochari nhỉ?

Tiểu hòa thượng cũng phì cười, nụ cười lấp lánh như sao sáng.

- Tại tôi không biết cách truyền đạt, sao trách cô được!

Hòa thượng chìa tay trái về phía tôi, tay phải cầm tay tôi đập đập vào lòng bàn tay mình. Tuy không mạnh, nhưng những va chạm khẽ khàng thế này cũng khiến tôi có chút tê dại.

- Nên phạt tôi mới phải, nếu ngày mai cô vẫn không thuộc bài, tôi sẽ chịu đòn.

Tôi rút vội tay về, thoáng chút cảm động. Tôi nghiêng đầu, cố gắng tập trung vào những chữ cái trước mặt.

Hôm nay tôi tiếp thu nhanh hơn hôm qua, tiếng Hán của Kumalajiba đã khá lên rất nhiều. Tôi đã học xong toàn bộ bảng chữ cái Tochari. Tôi cẩn thận ghi lại cách phát âm bằng kí hiệu phiên âm bên cạnh mỗi chữ cái cho dễ nhớ. Nhìn thấy những kí hiệu đó, tiểu hòa thượng tỏ ra rất thích thú, thế là tôi lại phải giảng giải về quy tắc ghi phiên âm cho cậu ta nghe. Kumalajiba hết lời khen ngợi phương pháp độc đáo ấy. Nhưng tôi buộc phải yêu cầu cậu không được tiết lộ cho người khác biết, vì nếu không lịch sử rất có thể sẽ thay đổi.

- Nhưng vì sao? Cô là người nghĩ ra à?

Tôi không thừa nhận cũng không thể phủ nhận, chỉ trả lời một cách mơ hồ:

- Người Hán không thích phụ nữ tài giỏi, vì vậy nếu cậu nói cho người khác biết chính tôi đã nghĩ ra phương pháp ghi phiên âm này, tôi sẽ bị xem là yêu quái và sẽ bị hỏa thiêu.

Không thể không bật ra câu chuyện về nữ thần kiểu này.

- Người Hán không nên như vậy.

Trầm tư một lát, tiểu hòa thượng nhìn tôi nghiêm nghị.

- Phàm là con người thì đều như nhau, phụ nữ cũng có thể thông minh như đàn
ông vậy.

Sau đó, tiểu hòa thượng giảng giải một thôi một hồi bằng tiếng Tochari, có lẽ vì lượng từ vựng tiếng Hán chưa đủ để cậu có thể diễn đạt những suy nghĩ của mình.

Tôi bật cười. Tinh thần khẳng khái của chàng trai trẻ khiến tôi có cảm giác thật ấm áp. Nhưng, tôi phải tìm cách chuyển chủ đề thôi, cứ tiếp tục thế này, không biết tôi sẽ phải nói dối đến bao giờ.

- Cậu hiểu được như vậy là tốt rồi. Bây giờ, đến lượt tôi dạy cậu. Khổng Tử - nhà giáo dục lớn ở Trung Nguyên thời cổ đại từng nói: Ôn cố nhi tri tân, nghĩa là, luyện tập lại những gì đã học, từ đó phát hiện ra những điều mới mẻ. Vậy nên, bây giờ tôi sẽ kiểm tra những chữ Hán mà hôm qua cậu đã học.

Tôi đặt tập giấy nháp và bút chì trước mặt tiểu hòa thượng.

- Cậu viết đi! Sai một chữ phạt một roi!

Tiểu hòa thượng nhìn tôi mỉm cười, đón lấy tập giấy nháp và chiếc bút chì. Tay cầm bút có chút gượng gạo nhưng vẫn rất ra dáng học trò. Từng nét chữ vuông vắn hiện ra dưới ngòi bút, thật không ngờ, cậu ta nhớ được tất cả những chữ Hán của buổi học hôm qua!

Mất vài phút ngẩn ngơ, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi mới lấy lại được bộ dạng của một giáo viên, được rồi, để xem, cậu có thoát được tiết mục phạt đòn của tôi không.

- Đọc cho tôi nghe cách phát âm của từng chữ.

Lại nhìn tôi mỉm cười. Hai ba chục chữ tượng hình, cậu ta lần lượt đọc không sót một chữ nào, cằm tôi như sắp tuột xuống. Tuy vẫn pha chút khẩu âm, nhưng về cơ bản không sai một chữ. Hôm qua, tôi không hề dạy cậu ta cách ghi phiên âm kia mà! Không biết chỉ số IQ của "tên" này là bao nhiêu nữa?

"I phục You quá đi"! Nỗi kinh ngạc của tôi chỉ có thể được diễn tả bằng câu ấy. Tất nhiên, tôi chỉ nghĩ thầm trong bụng.

Tôi tiếp tục giờ học, sau khi dạy hết các chữ tượng hình, tôi chuyển sang chữ chuyển chú (là phương pháp dùng hai chữ Hán giải thích cho nhau với điều kiện: chúng phải cùng chung bộ thủ và ý nghĩa thì tương đồng), rồi đến các từ đơn giản. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, cũng là học ngoại ngữ, mà sao trình độ cách xa một trời một vực như vậy! Nếu cứ tiếp tục thế này, có khi tiểu hòa thượng viết được luận bằng tiếng Hán thì tôi vẫn còn đang ở giai đoạn học thuộc từ vựng Tochari cũng nên. Càng hổ thẹn hơn nữa, Kumalajiba đã vận dụng thành thạo nguyên tắc ghi phiên âm để chú âm cho các chữ Hán tôi vừa dạy, tuy không chính xác tuyệt đối, nhưng mười phần thì cũng được tám, chín phần.

Có lẽ, không bao lâu nữa tôi sẽ bị cho nghỉ hưu non thôi!

------------

Chương 5: Lý tưởng và đường song song 

Lục lạc lanh canh, đoàn người chậm rãi rong ruổi trên sa mạc ngút ngàn cát trắng. Vậy là đã tám ngày trôi qua. Tôi quấn chặt khăn trùm đầu, quay lại phía sau, đưa bốn ngón tay lên xếp hình ống kính máy ảnh, di chuyển qua các góc độ để lấy nét. Trong khung cảnh tưởng tượng của tôi hiện ra một cảnh tượng tuyệt đẹp: nắng vàng rực rỡ chiếu rọi lên hàng dài nối tiếp nhau đến vô tận những dấu chân lạc đà in trên biển cát sáng lấp lóa. Một trận gió quét qua, hệt như biển khơi dội trào từng đợt sóng nhỏ, làm cho những dấu chân trở nên mờ ảo trong gió cát.

- Tách!

Tôi muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi.

- Cô làm gì vậy?

- Không có gì.

Tôi thu tay lại, không thể nói với tiểu hòa thượng rằng tôi đã nuối tiếc như thế nào
khi không mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn:

- Những viết chân trên cát sẽ nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời ngắn ngủi của con người vậy.

Tôi ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy đầu, lắc hông, phải vận động một chút mới được, nếu không gân cốt tôi tê dại mất. Ngước
lên thấy Kumalajiba trên lưng lạc đà đang chăm chú nhìn mình, tôi cười:

- Nhưng dù vậy tôi vẫn sẽ kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đi đến đích cuối cùng.

Tôi nắm dây cương, dắt lạc đà và rảo bước trên cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn của tôi trên sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn, cũng nhảy xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà đã được những người hầu cận dắt đi.

Được một đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in trên cát, kéo dài
thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu hòa thượng:

- Cậu hãy đi lên phía trước.

Tiểu hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi theo
sau, đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta đi được một đoạn chợt dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước sang bên, nếu không chắc sẽ đâm sầm vào cậu ta mất.

- Lẽ ra chúng ta là hai đường thẳng song song, dù đi bao xa cũng không bao giờ gặp nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song đã hợp lại thành một.

Tám ngày trước tôi đang ở một nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian.

- Bởi vậy, duyên số thật kỳ lạ!

- Tôi thì nghĩ, tôi được gặp cô, đó là ý của Phật tổ.

Tôi quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn suối,
đó là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba năm qua. Vừa định đáp lời, tôi bỗng thấy một bóng người từ phía xa đi tới. Lúc người đó lại gần, tôi nhận ra đó là một hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ hạnh, khuôn mặt dính đầy bụi cát, dắt bên mình một con ngựa gầy gò như chủ nhân của nó. Kumalajiba vội vàng bước đến, ni cô xinh đẹp cũng nhảy xuống, ra lệnh cho đoàn người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào đón lão hòa thượng.

Họ mang nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng nhận lấy và đặt vào chiếc túi tả tơi khoác trên lưng, sau đó ba người bắt đầu cuộc chuyện. Lão hòa thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, nói với cậu đôi câu, sắc mặt trầm buồn. Rồi quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa nói chuyện vừa ngắm nhìn Kumalajiba, vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu.

Một lát, hòa thượng nói lời từ biệt, đi về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể từ lúc đó, mẹ con ni cô có vẻ rầu rĩ hơn trước.

Chúng tôi leo lên lưng lạc đà đi tiếp. Tôi lặng lẽ thúc lạc đà đến bên Kumalajiba
hỏi chuyện:

- Này tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy nói gì với cậu thế?

Kumalajiba suy nghĩ một lát rồi đáp:

- Thầy nói, mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi sẽ thành công trong
việc chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công đức lớn lao không kém Upagupta.

- Upagupta là ai?

- Là vị cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ.

- Đại sư thật đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi cũng tin
như vậy, chắc chắn cậu sẽ trở thành một vị cao tăng được nhiều người sùng kính.

Niềm tin đó là thật, với trí tuệ siêu phàm như hiện nay, Kumalajiba chắc chắn sẽ
nổi danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực, tôi không đoán ra được cậu là nhân vật nổi tiếng nào. Nghe tôi tán dương mà Kumalajiba không hề tỏ ra vui sướng chút nào.

Tôi có cảm giác, lão hòa thượng kia không chỉ nói với cậu bấy nhiêu.

- Sao thế, sao cậu không nói gì?

Tiểu hòa thượng dõi mắt về phía hàng dương xa xa, vẻ mặt uể oải in đậm trên sắc
mặt.

- Đại sư còn nói, nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, rồi đây tôi sẽ chỉ là một pháp sư thông minh sáng láng không hơn không kém.

- Không tuân thủ giới luật? Làm gì có chuyện đó!

Ngón tay tiểu hòa thượng nắm chặt dây cương đến tím tái, đầu cúi thấp, thanh âm
nhẹ bẫng:

- Đại sư nói, nếu trước năm ba mươi lăm tuổi

Tiểu hòa thượng ngập ngừng, hai má bỗng chốc ửng đỏ, ánh mắt chấp chới nỗi sợ
hãi mơ hồ. Nhưng chỉ một thoáng qua đi, vẻ bình thản trở lại trên khuôn mặt.

- Trước năm ba mươi lăm tuổi làm sao?

Biểu cảm của Kumalajiba cho tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng.

Tiểu hòa thượng trầm ngâm hồi lâu, thả lỏng dây cương, từ tốn đáp:

- Tôi không biết diễn đạt như thế nào bằng tiếng Hán.

Câu trả lời chỉ khiến tôi càng thêm tò mò.

Tiểu hòa thượng đột ngột vung dây cương, thúc lạc đà chạy lên phía trước, giữ một
khoảng cách với tôi. Thân hình mảnh khảnh, lớp áo choàng bay bay trong gió, ánh nắng chếch nghiêng, cắt xuống nền cát một bóng hình sẩm đỏ, cô liêu. Tôi băn khoăn
không biết có phải mình đã làm gì sai hay không?

Cách đó không xa là một khu rừng nhỏ. Người mặc chiếc áo nâu sòng của giới tu hành đã dừng lại, ngoảnh đầu ngóng đợi, chờ tôi bắt kịp, rồi cùng tôi thong dong tiến về phía trước.

Thoáng chút áy náy trên nét mặt, hòa thượng hắng giọng, quay sang hỏi tôi:

- Ngải Tình, vì sao cô gọi Bhikkhu[4] là lão hòa thượng còn gọi tôi là tiểu hòa
thượng?

Tôi biết cậu ta muốn chuyển đề tài. Thì bởi vì tôi không hiểu tiếng Phạn chứ sao. Bhikkhu nghĩa là gì? Mà tên cậu ta cũng rất khó nhớ, gọi là tiểu hòa thượng thì có sao đâu.

Tôi hỏi ngược lại Kumalajiba:

- Trong tiếng Phạn có tôn xưng dành riêng để gọi nhà sư không, có từ nào phát âm
giống "hòa thượng" không?

Cậu ta lắc đầu:

- Trong tiếng Phạn hình như không có, nhưng ở Điền Quốc, người ta gọi các đại sư
truyền giới là Khosha, tên gọi này nghe có vẻ giống từ "hòa thượng".

Thú vị quá, thì ra từ "hòa thượng" được dịch từ ngôn ngữ của Điền Quốc.

- Nhưng hòa thượng là các đại sư truyền giới có trên mười năm thọ đại giới, thông
tỏ đại luật đủ tư cách để xuống tóc và thọ giới cho người khác. Tôi nào đã đến được cảnh giới đó, không xứng với tôn xưng hòa thượng. Vả lại, tôi cũng chưa thọ đại giới, cô cứ gọi tôi là Sramanera đi.

Lại là tiếng Phạn. Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta vội giải thích: Sramanera chỉ những

người mới xuất gia tuổi từ bảy đến hai mươi, đã thọ thập giới, nhưng chưa thọ đại giới.
Sau khi thọ đại giới, họ sẽ được gọi là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian.

Tôi hiểu rồi, chả trách những âm đọc này rất quen tai. Sramanera là Sa di, Bhikkhu là Tỷ khâu, cả hai đều là âm dịch. Thì ra nhà sư cũng được phân chia giới bậc khi gọi tên. Nhưng ở Trung Quốc, người ta gọi sư cụ là lão hòa thượng, gọi chú tiểu là tiểu hòa thượng, thậm chí những em bé còi cọc không chịu lớn người ta cũng gọi là hòa thượng. Chẳng ngờ, từ "hòa thượng" lại có ý nghĩa tôn quý như vậy.

Tôi cười thích thú, chàng trai thiên tài, tính tình trầm lặng này đã trau dồi cho tôi không ít kiến thức về Phật giáo. Vì vậy, dù hơn cậu ta khá nhiều tuổi, nhưng sự trưởng thành của cậu ta khiến tôi có cảm giác chúng tôi là những người đồng niên. Và cũng nhờ cậu, hành trình gian nan của tôi ngày càng có thêm nhiều niềm vui.

Như thường lệ, sau khi kết thúc giờ học buổi tối, tôi ngồi ghi chép bên đống lửa. Mặc dù đèn dầu trong lều trại cũng đủ sáng, nhưng tôi thích không gian khoáng đạt bên ngoài hơn. Ngắm nhìn bầu trời đầy sao giữa sa mạc hoang vu luôn khiến tôi được đắm chìm trong những cảm xúc mơ hồ trong không gian thuộc về quá khứ miên viễn này. Gió đêm nay như đổi tính, êm ái ru qua, chòng ghẹo những đốm lửa hồng bập bùng, tí tách. Nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu, tâm hồn trở nên thanh tịnh và lắng đọng tựa khung cảnh này.

- Tối nào cũng thấy cô ghi chép, cô ghi gì vậy?

Tiếng Hán của Kumalajiba vẫn hơi gượng gạo. Nhưng trong tám ngày qua, vốn từ
vựng của cậu đã phong phú hơn rất nhiều.

- Có gì đâu, tôi đang viết thư.

Định che đi, nhưng tôi nghĩ cậu ta đọc được cũng không hiểu, nên cứ để mở cuốn
sổ tay.

- Tôi đọc mà không hiểu.

Lòng hiếu kỳ của tuổi trẻ thật mãnh liệt. Tiểu hòa thượng nở nụ cười háo hức:

- Vốn tiếng Hán của tôi chưa nhiều, nhưng tôi sẽ chăm chỉ, để có thể đọc được
những gì cô viết.

Chưa chắc đâu. Tôi viết bằng chữ giản thể kia mà! Tôi chỉ tay sang bên cạnh:

- Có muốn ngồi xuống không?

Tiểu hòa thượng do dự một lát rồi ngồi xuống, nhưng cố ý giữ khoảng cách với tôi,
đôi tay khẳng khiu đưa về phía trước sưởi ấm.

- Vì sao cậu muốn học tiếng Hán?

- Người Hán có rất nhiều điểm ưu việt, y dược, nhạc luật, lịch pháp, kỹ nghệ đều
vượt xa người Khâu Từ. Trong nhà tôi có rất nhiều kinh văn tiếng Hán, tôi muốn nghiên cứu những thư tịch đó.

Cậu ta lúc nào cũng ham học hỏi. Ngập ngừng giây lát, tôi quyết định hỏi:

- Cậu còn trẻ như vậy, vì sao lại xuất gia?

Tôi biết câu hỏi có chút mạo phạm, nhưng cậu ta chẳng hề tỏ ra phật ý, ánh mắt
đăm chiêu không rời ngọn lửa:

- Tôi đi tu năm bảy tuổi, nay đã được sáu năm và tôi chưa từng suy nghĩ về vấn đề
này cho tới mấy ngày gần đây

- Khoan đã!

Ra hiệu cho cậu ta ngừng lại, rồi ra vẻ nghiêm trọng, tôi hỏi:

- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?

- Mười ba.

Vậy mà tôi cứ đinh ninh cậu ta ít nhất cũng mười lăm, mười sáu tuổi. Dáng người
cao lớn, khuôn mặt lại luôn giữ vẻ đĩnh đạc, trầm tĩnh của lứa tuổi trưởng thành. Trời

ơi, vậy là cậu ta bắt đầu học tiếng Hán từ năm tám tuổi chứ không phải mười một. Sau
năm năm, vẫn có thể giao tiếp, rốt cuộc, cậu ta có bao nhiêu tế bào não kia chứ!

- Ngải Tình, vì tôi cao lớn nên rất nhiều người tưởng tôi đã mười sáu tuổi.

Cậu ta cười thẹn thùng.

- Cô đừng chê tôi ít tuổi, tôi hứa sẽ nỗ lực học thật giỏi tiếng Hán!

- Sao tôi lại chê cậu, cậu là ân nhân cứu mạng của tôi mà.

Tôi giả bộ không hề gì, nhưng trong lòng hơi buồn bực. Lẽ nào tôi hơn cậu ta
những mười tuổi? Không đúng không đúng, dù sao, cậu ta cũng nhiều hơn tôi hai nghìn tuổi. Đâu là tuổi tác tương đối và đâu là tuổi tác tuyệt đối của hai chúng tôi?
Càng nghĩ càng mơ hồ, tôi không nghĩ nữa. Tôi chuyển chủ đề:

- Cậu đã nghĩ ra chưa, vì sao lại xuất gia?

Cậu ta mở miệng định nói rồi lại lắc đầu. Đôi mắt vẫn đăm chiêu ủ dột:

- Tôi vẫn chưa thể diễn đạt trọn vẹn bằng tiếng Hán. Khi nào trình độ Hán ngữ của
tôi đủ để thấu suốt đạo lý này, tôi sẽ nói cho cô hay.

Có thể nói cậu ta phải chịu đựng một điều gì đó. Tôi không dám bàn luận về Phật pháp, nhưng tôi rất muốn động viên cậu ta. Ngước nhìn nền trời xanh thẫm được dát bạc bởi ngàn vạn vì tinh tú, tôi khảng khái bày tỏ suy nghĩ của một người đến từ thế
kỷ XXI:

- Nơi tôi sống có một vĩ nhân, ông chia nhu cầu của con người ra làm năm cấp bậc. Cơ bản nhất là nhu cầu sinh lý, gồm những việc như đi lại, ăn ở. Khi đã thỏa mãn nhu cầu này thì con người sẽ nảy sinh nhu cầu được an toàn. Người ta muốn sự sống và tài sản của mình được đảm bảo. Sau khi nhu cầu này cũng được thỏa mãn tương đối, thì con người nảy sinh nhu cầu tình cảm: tình thân, tình yêu, tình bạn. Sau đó mới đến nhu cầu được tôn trọng: bao gồm lòng tự tôn và sự kính trọng của người khác.

Đó là bốn loại nhu cầu trong lí luận của Maslow. Quay sang bên và bắt gặp đôi

mắt lấp lánh đang nhìn mình, tôi chậm rãi nói tiếp:

- Nhưng đó chưa phải là nhu cầu cao nhất. Con người chỉ cảm nhận được niềm vui tột độ khi lí tưởng được thực hiện, ấy là khi năng lực của họ được phát huy đến mức tối đa vì họ có thể làm được mọi việc tương ứng với khả năng vốn có của mình.

Đôi mắt xúc động ngước nhìn tôi, giọng nói như nghẹn lại:

- Lí tưởng?

Tôi gật đầu quyết liệt và bổ sung thêm:

- Lí tưởng là thứ mà cậu sẽ theo đuổi suốt đời, là mục tiêu phấn đấu của cuộc đời
cậu.

Tiểu hòa thượng trầm tư hồi lâu, rồi hướng đôi mắt hút hồn vào tôi:

- Ngải Tình, cô có lý tưởng chứ?

- Tất nhiên rồi!

Tôi đằng hắng dọn giọng, rồi tiếp:

- Muốn biết lí tưởng của tôi là gì không?

Quả là cậu ta rất hiếu kỳ, ánh mắt háo hức thôi thúc tôi. Tôi đứng lên, giơ tay về
phía bầu trời bao la, cất cao giọng:

- Tôi muốn được trải nghiệm lịch sử, tôi muốn viết một cuốn sách sử lưu danh thiên cổ giống như "Sử ký" của Tư Mã Thiên.

Tôi dõng dạc bộc bạch ước mơ bấy lâu nay của mình. Nếu ở thế kỷ XXI mà nói như vậy, hẳn nhiều người sẽ giễu cười tôi. Nhưng đứng trước tiểu hòa thượng hồn hậu
này, tôi chẳng có gì phải e dè. Chợt nhận ra cậu ta cứ len lén nhìn tôi, tôi mỉm cười:

- Mơ ước quá xa vời, đúng không?

Cậu ta cũng đứng lên, gật đầu rất quyết liệt, thanh âm tuy không cao, nhưng dứt
khoát:

- Cô sẽ làm được!

Đôi mắt trong sáng của tiểu hòa thượng khiến tôi cảm động hết sức. Không ngờ lời
động viên của cậu thiếu niên này lại khiến tôi vui sướng đến thế. Tâm trạng trở nên vô cùng thoải mái, dễ chịu. Tôi dang rộng cánh tay, tưởng tượng mình là chim ưng, vỗ cánh bay xung quanh đống lửa, lúc đến trước mặt tiểu hòa thượng, tôi dừng lại thở
hổn hển, cười tươi:

- Cậu hãy suy nghĩ xem lí tưởng của cậu là gì đi. Sống trên đời phải có lí tưởng thì cuộc sống mới có ý nghĩa.

- Ngải Tình, tôi vẫn chưa hiểu hết những điều cô nói. Nhưng thấy cô vui vẻ vì có lí tưởng như vậy, tôi rất cảm động! Tôi cũng muốn được giống như cô, đặt ra mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình.

Ánh lửa bập bùng phản chiếu khuôn mặt như tạc tượng của tiểu hòa thượng, gió nhẹ thổi đến, cuốn lên cao những tàn lửa li ti, trên trời ngàn vì sao đua nhau lấp lánh, dướt đất bóng lửa lập lòe nhảy múa và nụ cười ấm áp của chàng trai trẻ bên cạnh, phút chốc, thời gian như ngưng đọng, thêm một cảnh tượng tuyệt đẹp nữa tôi muốn lưu giữ trong tim.

Trở về lán trại, xoay mình hết bên này sang bên kia tôi vẫn không sao dỗ được nỗi hưng phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ nhà hằng đêm đã đi đâu mất. Cứ nghĩ đến câu nói: "Cô sẽ làm được" trong lòng lại dâng trào một niềm
vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu sẽ làm được!

Lúc chuẩn bị thiếp đi tôi chợt nhớ ra "Sử ký" của Tư Mã Thiên phải đến tận thời Hán mới xuất hiện, vậy là tôi đã làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi thật bất cẩn. Cầu mong sao cậu ta không để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng đi khắp nơi tìm kiếm cuốn sách này.

Chương 6: Buổi giảng kinh đầu tiên

Vào buổi trưa của ba ngày sau đó, một ốc đảo xanh mướt xuất hiện trước mắt tôi.
Bao nhiêu ngày qua, tôi đã chán ngán với sắc vàng đơn điệu của mênh mông cồn cát, hôm nay, được nhìn thấy sắc xanh ngút ngàn thế này, tôi hưng phấn đến độ nhảy cẫng lên gào thét. Chứng kiến điệu bộ "hoang dại" ấy của tôi, Kumalajiba chỉ biết lắc đầu thở dài rồi cười và cho tôi biết, nơi đây chính là Wensu.

Wensu, địa danh này cậu ta đã nhắc đến trong ngày đầu gặp tôi. Nghe khá quen, chắc chắn phải có âm tiếng Hán tương đương, nhưng tôi không nhớ ra.

Mải mê lục tìm dữ kiện bộ nhớ, đoàn người đã đến cổng thành lúc nào mà tôi không hay. Không gian tưng bừng âm nhạc đặc trưng vùng Tây Vực, những khúc điệu tươi vui rộn rã. Một đội ngũ hùng hậu chỉnh tề nghênh đón chúng tôi.

Hai bên đường có rất nhiều lán trại. Bên trong không có người, chỉ đặt một số tượng Phật. Dựa trên trình độ điêu khắc mà tôi quan sát được, thì đó đều là những pho tượng quý giá. Dân chúng ở hai bên đường đều đứng lên chào đón, từng chậu hoa tươi được cung kính dâng lên đến trước mặt hai mẹ con tiểu hòa thượng. Hai người chắp
tay lễ tạ, đón hoa tươi mang đến rắc lên mình các bức tượng phật[5].

Trong chuỗi nghi thức kỳ lạ đó, tôi chú ý đến người đàn ông dẫn đầu: khoảng bốn mươi tuổi, thân hình cường tráng vạm vỡ, đầu để mái lửng, nhưng phía sau gáy lại tết thành những lọn dài, rồi búi ngược lên đỉnh đầu và được quấn lại bởi một mảnh khăn thêu kim tuyến. Người đó đội một chiếc mũ miện bằng vàng khắc hình long phụng, khoác áo choàng đỏ có viền thêu hình thoi, đính châu báu, phía trước là những hình tròn thêu chỉ vàng lấp lánh, ống chân thì... Đấy, tôi lại mắc bệnh nghề nghiệp rồi, lúc nào cũng quan sát chi tiết những người đối diện như quan sát một hiện vật nghiên cứu.

Tuy không hiểu họ nói gì, nhưng tôi đoán đó là đoàn người ra nghênh đón khách quý, gồm các thành viên của hoàng thất và người đàn ông khoác trên mình trang phục quyền quý kia chính là nhà vua. Tuy ni cô xinh đẹp Jiba cũng được chào đón nồng hậu và cung kính, nhưng rõ ràng đối tượng của nghi thức nghênh tiếp hết sức long trọng này không ai khác, chính là Kumalajiba.

Từ lâu tôi đã nghĩ rằng Kumalajiba không phải một nhà sư tầm thường, nhưng cậu
ta mới mười ba tuổi, làm sao đã có thành tựu gì xuất chúng. Chắc hẳn cậu ta còn có thân phận gì khác ngoài là một nhà sư, ví như là con cháu nhà vua chẳng hạn. Không lẽ cậu ấy là hoàng tử? Trước khi đắc đạo, Phật Thích Ca cũng từng là hoàng tử đấy thôi.

Chúng tôi được sắp xếp ở lại trong một cung điện hoa lệ (mà không phải tại một ngôi chùa nào đó như tôi nghĩ). Tuy nói là hoa lệ, nhưng không thể so sánh với cung điện ở Trung Nguyên được. Tây Vực vốn là vùng khô hạn, nhà ở được xây cất rất đơn sơ với vật liệu chính là gỗ và đất sét và mái nhà là kiểu mái bằng. Nhưng ở đây, tường nhà làm bằng đất sét đã được coi là xa hoa rồi. Thông thường chỉ có quan lại, đền chùa miếu mạo và hoàng cung mới được xây dựng như vậy.

Nơi chúng tôi nghỉ ngơi là một dinh cơ rộng lớn với năm gian phòng. Vị quốc vương kia còn cử thêm mười người hầu đến phục vụ chúng tôi. Tôi được ở riêng một phòng, Jiba cũng dành cho tôi một người hầu nữ. Yêu cầu đầu tiên mà tôi đưa ra là: tôi muốn tắm rửa.

Những thứ mà các cuốn tiểu thuyết thường nhắc đến như: suối nước nóng, hoa thơm, chậu tắm cỡ lớn, ở đây đều không có. Có thể nói là điều kiện sinh hoạt khá nghèo nàn, xà bông ở đây còn lâu mới thơm bằng xà bông của thế kỷ XXI. Nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, vì sau hơn mười ngày ròng rã dầm mình trong gió cát sa mạc, cuối cùng tôi đã được tắm gội sạch sẽ.

Giờ học buổi tối, không kìm được sự tò mò, tôi lại gợi ý tiểu hòa thượng kể về xuất
thân của cậu, nhưng Kumalajiba bình thản đến mức lạnh lùng, trả lời rằng:

- Những thứ như mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi, thân thể hay ý thức đều không tồn tại thực sự, huống hồ là tên tuổi và xuất thân.

Lại là thuyết duy tâm của đạo Phật, trả lời như vậy cũng bằng không. Tôi giận dỗi:

- Vâng vâng vâng, tứ đại giai không, mọi thứ đều không tồn tại. Trương Sinh nằm
mơ hóa thành hồ điệp, tỉnh lại không biết rốt cuộc là mình mơ hóa thành hồ điệp hay
hồ điệp hóa thành mình, thế được chưa!

Điển cố Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp mà tôi vô tình thốt ra khơi gợi

hứng thú đặc biệt đối với tiểu hòa thượng, cậu nằng nặc đòi tôi kể câu chuyện đó.
Đành vậy:

- Thời Xuân Thu ở Trung Nguyên có một triết gia tên Trương Châu. Một hôm, ông nằm mơ thấy mình hóa thành bươm bướm, bươm bướm bay lượn hết sức sinh động. Ông vô cùng vui sướng, đến mức quên cả mình là Trương Châu. Khi tỉnh lại, ông không khỏi kinh ngạc khi nhận ra mình chính là Trương Châu. Đời người như một giấc mơ, vì vậy Trương Châu không biết rốt cuộc là ông nằm mơ thấy mình hóa thành hồ điệp hay hồ điệp nằm mơ thấy mình hóa thành ông.

Tiểu hòa thượng trầm tư một lát, rồi nói:

- Ở Ấn Độ, người ta tin rằng: Mọi thứ trên đời đều là giấc mộng của Brahma, khi
Brahma tỉnh lại, thế gian này sẽ biến mất, không tồn tại bất cứ thứ gì.

Tôi thở dài, suy nghĩ như vậy thì thật là bi quan. Không muốn tiếp tục chủ đề duy
tâm ấy nữa, tôi hỏi:

- Brahma có phải là Phạm Thiên (đấng sáng tạo theo quan điểm Bà La Môn)
không?

Brahma, cách phát âm này rất quen thuộc. Theo trí nhớ của tôi thì đó là một trong ba đấng sáng tạo của Ấn Độ giáo, gồm: Brahma, Shiva và Vishnu. Tôi từng đến Ấn Độ và cũng từng viết một số bài nghiên cứu về Ấn Độ giáo, nên cũng có chút hiểu biết.

- Phạm Thiên ư?

Kumalajiba dùng bút chì viết hai chữ đó lên tập giấy nháp của tôi rồi nghiêng đầu
suy nghĩ:

- Đã có lần cô nói rằng "Phạm" nghĩa là thanh tịnh, tránh xa mọi ham muốn. Brahma là đấng sáng tạo ra thế giới và vạn vật, gọi Brahma bằng tên "Phạm Thiên" quả là một cách dịch thông thái. Ngải Tình, tôi nghe nói đạo Phật chưa phát triển ở Trung Nguyên, nhưng ở đó có người thông minh, kiến thức uyên thâm như cô thế này, một ngày không xa, Phật giáo Trung Nguyên chắc chắn sẽ hưng thịnh.

Tôi ấp úng không biết trả lời ra sao. Thế là lôi lại vô tình đánh cắp thành quả dịch
thuật của người khác rồi! Xin tạ lỗi với ngài Kumarajiva, ngài Huyền Trang, Nghĩa
Tịnh và nhiều dịch giả kinh Phật khác, tôi không hề cố ý!

Buổi tối trước khi đi ngủ, một câu hỏi cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi vượt qua giới hạn không gian và thời gian hàng ngàn năm để đến trước mặt Kumalajiba, tôi có tồn tại thật sự không? Lẽ nào không ư? Phải chăng tôi cũng đang nằm mơ mà không
biết?

Lần đầu tiên tôi nghĩ về sự xuất hiện của mình ở nơi đây và thấy buồn ảo não.

Chúng tôi ở lại Wensu. Tôi có hỏi Kumalajiba khi nào sẽ khởi hành đi Kucha, tôi
hứng thú với quốc gia rộng lớn đó hơn là tiểu quốc nhỏ bé này. Nhưng cậu ta bảo đã được mời đến đăng đàn thuyết giảng về Phật pháp tại một ngôi chùa lớn của hoàng gia trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày. Và cậu ta cũng dành cho tôi một vị trí khách mời trong những ngày đó.

Vậy nên, lúc này, tôi đang ngồi bên Jiva, đưa ánh mắt hiếu kỳ quan sát bốn phía.

Chúng tôi ngồi giữa đại điện to rộng trong một ngôi chùa lớn của hoàng gia.
Tượng Thích Ca mâu Ni cao khoảng hai mét, mạ vàng, được đặt trên một bệ đỡ ở chính giữa. Bốn phía là những lối đi hẹp dành cho Phật tử và khách thập phương đến dâng hương, cúng lễ. Đại điện được dựng lên với trụ gỗ và các bức tường bằng đất sét, ánh sáng chỉ có thể lọt vào qua cửa chính, vì vậy khắp nơi trong đại điện đều thắp đèn dầu. Đó là kiến trúc của một ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa điển hình, có nhiều điểm khác so với những ngôi chùa Phật giáo Đại Thừa phát triển rầm rộ ở Trung Nguyên thời gian sau này.

Sáng sớm, Kumalajiba đã cùng các tăng sĩ ngồi xếp bằng tụng kinh. Hơn trăm nhà sư tọa thiền chật kín đại điện vốn không lấy gì làm rộng rãi này. Phía bên phải trên chỗ ngồi dành cho khách quý có quốc vương và hơn mười đại thần, những người hôm qua đã ra tận cổng thành nghênh đón mẹ con Kumalajiba. Phía bên này là một nhóm phụ nữ, trong đó có tôi và Jiva, nhìn trang phục của họ thì có lẽ là hoàng hậu và các phu nhân.

Kumalajiba ngồi trên bục cao nhất phía trước tượng Phật, trên mình khoác áo cà sa thêu kim tuyến lấp lánh, vẻ mặt thành kính, pháp tướng trang nghiêm. Khi tiếng tụng

kinh vang lên, thì ngay cả nhà vua và hoàng hậu cũng lầm rầm tụng niệm theo, chỉ
mình tôi ngượng ngùng, đầu cúi thấp để không ai chú ý đến. Tất cả những câu kinh Phật mà tôi biết là: Úm ma ni bát ni hồng và Nam mô a di đà Phật. Thế là tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại những câu đó khoảng năm trăm lần thì thời gian tụng kinh kết thúc. Sau đó, Kumalajiba bắt đầu thuyết giảng.

Tôi nhớ lần đi du lịch Ai Cập và đến tham quan ngôi đền Muhammad Ali, tôi đến đúng vào lúc một vị giáo sĩ đang thuyết giảng kinh Coran, dưới sảnh là hàng trăm tín đồ. Tôi quấn khăn trên đầu, mặc áo dài, quần dài (đó là quy định khi vào đền đối với nữ giới), ngồi xuống giữa đám đông và bắt chước họ hành lễ. Tôi không phải tín đồ Hồi giáo, tôi chỉ muốn xem những người theo đạo Hồi hành lễ ra sao thôi. Vị giáo sĩ miệt mài thuyết giảng, chốc chốc lại làm một động tác tay dứt khoát. Tôi vốn không biết tiếng Ả rập, nghe không hiểu gì, nên chỉ được một lúc, tôi bắt đầu chán nản. Nhưng nhìn vẻ mặt thành kính của những người xung quanh và không khí yên lặng tuyệt đối trong điện thờ, tôi không dám đứng dậy ra về, vì tôi sợ làm thế sẽ giống như một hành vi xúc phạm đối với những tín đồ sùng đạo này. Bàn chân tôi tê dại đi sau hơn một tiếng ngồi nghe thuyết giảng. Từ đó về sau, tôi tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ cúng khấn hành lễ gì hết.

Thế mà giờ đây tôi lại rơi vào tình cảnh đó. Nhưng bù lại, Kumalajiba điển trai hơn nhiều so với vị giáo sĩ Hồi giáo và giọng nói của cậu ta lại rất ấm áp, truyền cảm. Có điều, vấn đề gay go nhất vẫn là: tôi nghe không hiểu. Phải tiếp nhận những giáo lý Phật pháp uyên thâm bằng tiếng Phạn thế này chẳng khác nào ngày xưa tôi phải nghe vị giáo sĩ nọ thuyết giảng kinh Coran bằng tiếng Ả rập. Nhưng hàng trăm nhà sư, rồi cả quốc vương và hoàng hậu đều đang lắng nghe say sưa, làm sao tôi có thể đứng lên và ra về được.

Tôi cũng không dám ghi chép vẽ vời gì, sợ sẽ gây sự chú ý. Vì vậy, sau khi lặp đi lặp lại năm lần phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách đặt tên, cơn buồn ngủ bắt đầu tấn công tôi, đó là kết quả tất yếu của việc thức giấc vào lúc bốn giờ sáng. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu lúc năm giờ, tôi thật sự khâm phục nghị lực của các hòa thượng. Buồn ngủ quá mà không thể gục xuống làm một giấc giữa đám đông tăng ni Phật tử này, tôi đành ngọ ngoạy tay chân trên tấm đệm, cố gắng vận động khẽ khàng để không gây ra sự chú ý.

Cảm giác có ai đó đang nhìn mình, là Kumalajiba. Tôi chu mỏ lè lưỡi chọc cậu ta, rồi đưa tay xoa phần mông tê dại. Cậu ta khẽ mím môi, cố nhịn cười, nói thêm vài

câu, rồi dừng hẳn. Tôi bắt chước những người khác đứng lên chắp tay, hành lễ với
Kumalajiba.

Nhà vua phát biểu tổng kết đôi ba câu, rồi ngài vỗ tay, các cung nữ tiến vào, mỗi người bưng trên tay một chiếc bàn nhỏ xếp đầy đồ ăn, lần lượt đặt trước mặt từng thượng khách. Những người còn lại thì được phát đồ ăn đến tận tay, mỗi người một phần. Tôi nhìn thức ăn trên bàn, mắt hoa đi.

Có các loại quả vốn là đặc sản của Tân Cương như nho và dưa gang. Và tất nhiên không thể thiếu bánh nướng Tây Vực. Nhưng còn gì nữa thế kia? Béo ngậy và thơm phức, thịt nướng ư? Nhìn có vẻ giống thịt dê nướng. Thịt dê nướng Tân Cương vốn nổi tiếng cả nước. Tôi nuốt nước bọt ừng ực vì đã gần mười ngày không được ăn mặn. Nhưng điều lạ lùng là, không chỉ tôi, quốc vương và một số vị khách khứa của thế giới trần tục khác, tất cả các nhà sư đều được chia phần ăn mặn. Cả đại điện bỗng chốc tỏa đầy mùi thơm của thịt nướng. Nhà vua hạ chỉ dùng bữa và những âm thanh nhai nuốt giòn giã bắt đầu vang lên.

Tôi đưa mắt quan sát Kumalajiba và thấy cậu ta cũng đang ăn thịt, tuy động tác từ tốn, nho nhã, nhưng vẫn khiến thị giác của tôi chấn động dữ dội. Chợt nhớ ra, những tăng sĩ này theo giáo phái Phật pháp Tiểu Thừa và hình như giới luật của giáo phái này cho phép các nhà sư ăn thịt. Nhưng như thế vẫn chưa đủ rõ ràng, tối nay phải hỏi lại Kumalajiba mới được. Tôi cắn thử một miếng, không ngon lắm, những muối là muối, không có ớt, không có rau thơm, không ngon bằng thịt nướng ở quán đồ ăn vặt trước cổng trường tôi học.

Sau khi đánh chén no nê, tôi buồn đi tiểu. Nghĩ về bốn mươi tám ngày dài đằng đẵng tiếp theo mà thấy ngán ngẩm. Lúc tôi quay lại, Kumalajiba đã đứng chờ sẵn ở cửa, ánh nắng buổi sớm phủ lên người tiểu hòa thượng những tia sáng lấp lánh. Cậu ta
chớp mắt, nhìn tôi khẽ cười:

- Ngải Tình, tôi biết cô nghe không hiểu, nếu bắt cô tiếp tục ngồi như thế sẽ rất khó chịu. Tôi đã xin phép hoàng thượng để cô không phải tham gia những buổi giảng kinh tiếp theo nữa.

Tuyệt vời! Tôi nhảy lên sung sướng, định lao đến ôm lấy cậu ta, nhưng kịp nhớ ra cậu là là hòa thượng, nên thôi. Tôi vội vàng cảm ơn rồi ba chân bốn cẳng chạy biến,
tiếng cậu ta gọi với từ phía sau:

- Cô về phòng ôn tập bài học hôm qua đi, tối nay kiểm tra mà không thuộc, tôi sẽ
phạt vụt vào tay đó!

Buổi tối, cậu ta sẽ đến phòng tôi đúng giờ quy định. Lúc chiều trở về tôi đã đánh một giấc no nê, công việc tiếp theo là vẽ lại toàn bộ kiến trúc ngôi chùa, đại điện và khung cảnh buổi giảng kinh mà tôi đã được tận mắt chứng kiến sáng nay. Xong xuôi, tôi háo hức ngồi chờ Kumalajiba tới.

Kết quả buổi kiểm tra tiếng Tochari của tôi rất tốt đẹp. Đến lượt tôi dạy cậu ta tiếng Hán. Nỗi băn khoăn hành hạ tôi cả buổi chiều khiến tôi không kiềm chế được, tôi hỏi
ngay:

- Vì sao tăng sĩ các cậu lại ăn thịt?

Cậu ta có vẻ ngạc nhiên:

- Chúng tôi theo tín ngưỡng Hinayana, tất nhiên có thể ăn thịt. Nhưng chỉ được
phép ăn "tam tịnh nhục"[6].

Tam tịnh nhục? Chắc là loại thịt mà tăng sĩ giáo phái Tiểu Thừa được phép ăn.

- Thế nào là "Tam tịnh nhục"?

- Thứ nhất: không nhìn thấy người giết thịt, tức là không tận mắt chứng kiến thảm
cảnh trước khi chết của loài vật đó. Thứ hai: không nghe thấy tiếng người giết thịt, tức là tai không nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của loài vật đó. Thứ ba, loài vật đó không vì mình mà chết, tức là không phải vì mình muốn ăn mà chúng bị giết thịt. Giả như ra chợ nhìn thấy người bán hàng mổ gà mổ cá, hoặc người bán hàng nói rằng đây là thịt tươi vừa mới mổ thì không được phép ăn. Hoặc đến nhà người khác chơi, được chủ nhà mổ gà mổ vịt thiết đãi, tức là chúng sinh vì mình mà chết, thì cũng không được xếp vào loại "thịt thanh tịnh". Tóm lại, tam tịnh nhục là loại "thịt thanh sạch" phù hợp với các điều kiện: bản thân không nhìn thấy, không nghe thấy và không phải vì mình mà chúng sinh bị sát hại.

Sau khi được truyền bá vào Trung Nguyên, giới luật của giáo phái Đại Thừa có

phần nghiêm khắc hơn, giáo phái này nghiêm cấm sát sinh, tăng sĩ không được phép
ăn thịt. Vì vậy, trong tiềm thức của chúng ta, phàm là nhà sư đều không được ăn thịt. Trong "Đại Đường Tây Vực ký", Huyền Trang từng đề cập đến vấn đề này. Đại sư viết rằng, trong hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của mình, khi ngang qua Tây Vực, ngài đã không thể thích ứng với giới luật cho phép nhà sư ăn thịt ở nơi đây.

- Nhưng vì sao trong những ngày qua, chúng ta không hề ăn thịt trên đường đi?

Tôi không nghĩ rằng họ không được phép ăn thịt, bởi vì nhiều ngày qua, tôi không
thấy họ ăn thịt trên đường đi.

- Bởi vì trước khi gặp cô, chúng tôi đã ăn hết rồi.

Tôi gật gù, cuối cùng tôi đã hiểu. Không biết nhìn thấy họ ăn thịt thế này, các nhà
sư ở Trung Nguyên sẽ ghen tỵ hay sẽ chê trách họ?

- Khi nãy cậu nói đến Hinayana, từ này nghe rất quen, nghĩa là gì vậy?

Cậu ta suy nghĩ một lát rồi giải thích bằng một tràng dài những thanh âm lạ lùng.
Tôi biết đó không phải là tiếng Tochari, vậy thì hẳn là tiếng Phạn rồi, thứ ngôn ngữ phổ thông được sử dụng trên khắp vùng Trung Á thời kỳ Trung thế kỷ. Và đó cũng là thứ tiếng mà Kumalajiba dùng để thuyết giảng kinh Phật sáng nay, nên tôi nghe mà không hiểu gì cả.

Tôi lại nghe thấy cậu ta đọc một âm khác: Mahayana. Hồi đi Ấn Độ, tôi có mang theo cuốn sách hướng dẫn du lịch nhiếp ảnh phổ biến nhất trên thế giới "Lonely Planet" bản tiếng Anh. Tôi nhớ rằng, tên gọi này thường xuyên xuất hiện trong sách khi giới thiệu về các thắng cảnh du lịch của Ấn Độ. Chắc chắn có liên quan đến Phật giáo, mà cậu ta vừa bảo cậu ta theo tín ngưỡng Hinayana, nên được phép ăn "thịt
thanh tịnh". A, tôi nhớ ra rồi:

- Hai từ đó là Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tiểu Thừa, đúng không? Mahayana là Đại Thừa, còn Hinayana là Tiểu Thừa.

Cậu ta có vẻ chưa hiểu, tôi viết chữ Đại Thừa và Tiểu Thừa ra giấy nháp:

- "Thừa" là từ chỉ công cụ vận chuyển, ở đây có nghĩa là Phật pháp tế độ, cứu rỗi
chúng sinh, giống như con thuyền hay cỗ xe chuyên chở con người từ nơi này đến nơi khác. Hinayana đề cao việc cứu độ bản thân, tìm kiếm sự giải thoát cho cá nhân, vì vậy tiếng Hán gọi là Tiểu Thừa. Mahayana đề cao việc cứu rỗi người khác, phổ độ chúng sinh, vì vậy tiếng Hán gọi là Đại Thừa.

Tôi sướng phổng cả mũi, tiếng Phạn tôi cũng tỏ tường chả kém đâu nhé! Bắt gặp đôi mắt mở to, sáng long lanh và nụ cười đầy hàm ý của tiểu hòa thượng, tôi bỗng giật mình.

- Ngải Tình, tôi nói đâu có sai, cô rất thông minh!

Tôi, tôi, tôi... lại một lần nữa đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác rồi.
Hình như là Kumarajiva dịch thì phải. Xin lỗi ngài, tôi không cố ý...

Chương 7: Luận chiến 

Vì không phải tham gia những buổi thuyết giảng nữa, nên tôi không cần dậy sớm.
Khi đã no giấc, tôi tự động mở mắt, ra khỏi giường, rửa mặt chải đầu, ăn sáng rồi ra phố. Tôi không thong dong đi dạo đâu nhé, tôi đi khảo sát thực tế đó. Thành phố này đã trải hai nghìn năm tuổi, tuy diện tích không lớn, không tráng lệ, dân số thưa thớt và đời sống còn khá lạc hậu, nhưng dù sao cũng là thành phố cổ đại đầu tiên tôi đặt chân đến. Cứ coi như hôm nay là đợt tập dượt công tác thực địa đầu tiên của tôi đi!

Tôi khoác lên vai chiếc ba lô đã nhét đủ các thứ: sổ ghi chép, thước dây, bút viết, xẻng nhỏ... Tôi bắt đầu xắn tay đo đạc tường thành, kiểm tra chiều dày lớp đất, xem xét vị trí cổng thành, vẽ lại toàn bộ mặt cắt ngang, mặt cắt dọc của tòa thành. Đang bận bịu với công việc, bỗng một nhóm người đột ngột xuất hiện ngay sau lưng, lăm lăm chĩa mũi giáo về phía tôi. Tôi vội vàng đưa hai tay lên cao, ra hiệu đầu hàng, nộp vũ khí và xin tha mạng. Chiếc thước dây lăn tròn trên đất, kéo lê thành một vệt dài.

Tôi bị tống vào nhà lao với tội danh gian tế của người Hán. Tôi dở khóc dở cười, làm gì có tên gián điệp nào đi lại ngang nhiên giữa phố như tôi chứ! Cố vắt óc lôi ra bằng hết vốn từ vựng Tochari và ra sức giải thích với họ rằng tôi là người quen của đại pháp sư Kumalajiba. Rằng hôm qua tôi đã được diện kiến nhà vua và hoàng hậu của

họ. Rằng tôi còn được mời tham dự yến tiệc trong cung nữa. Tôi nài nỉ họ đến tìm
Kumalajiba. Nhưng sau nhiều giờ vẫn không thấy có ai đến bảo lãnh, tôi đành tiếp tục công tác khoa học của mình trong nhà ngục.

Vì vậy, khi Kumalajiba xuất hiện ở cửa nhà lao với vẻ mặt lo lắng tột độ, thì trước mắt cậu ta là một cô gái vẫn đang say sưa tác nghiệp, mải mê đo đo đạc đạc, vẽ vẽ xóa xóa trong buồng giam.

Trời đã nhá nhem tối khi tôi cùng Kumalajiba bước ra khỏi nhà ngục. Chắc hẳn cậu vừa kết thúc giờ tụng kinh buổi chiều đã phải vội vã đến nơi đây đón tôi về. Nghĩ vậy, tôi thấy hơi áy náy. Cậu ta nói với đám cai ngục rằng tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu, thế là những người đó ngay lập tức thay đổi thái độ, tỏ ra cung kính đối với tôi, khiến tôi được một phen cáo mượn oai hùm, phổng cả mũi.

Đúng như dự đoán, buổi tối lên lớp, Kumalajiba đã hỏi về những việc tôi đã làm? Có sự chuẩn bị từ trước nên tôi trả lời rất trôi chảy: Còn nhớ tôi từng nói về lý tưởng của mình không? Tôi muốn viết một cuốn sách lịch sử lưu truyền hậu thế. Và, để người đời sau có thể hiểu được quá khứ huy hoàng của Tây Vực, tôi phải thu thập mọi tư liệu liên quan. Sau một hồi lắng nghe tôi thao thao bất tuyệt, Kumalajiba hứa rằng cậu sẽ giải thích với quốc vương, nhưng cũng không quên dặn dò tôi phải thận trọng hơn.

Mấy ngày sau đó tôi đành giam chân trong phòng, chỉnh sửa bản vẽ và ra sức học tiếng Tochari. Nhưng đến ngày thứ năm thì tôi không chịu được nữa. Lần đi thực tiễn này, tôi đã rút ra kinh nghiệm và hành động thận trọng hơn. Tôi quan sát mọi thứ thật tỉ mỉ sau đó mới trở về phòng và vẽ lại. Không thể không làm vậy, trừ phi tôi muốn vẽ tranh trong ngục một lần nữa.

Mười ngày có lẻ cứ thế trôi qua, những tập giấy đầy hình vẽ của tôi ngày một dày lên. Một buổi tối nọ, tôi bỗng nhận thấy Kumalajiba không tập trung vào bài học như mọi ngày, hình như cậu ta đang mải suy nghĩ điều gì đó. Tôi hỏi thì được biết ngày mai có người thách đấu Kumalajiba luận chiến và điều đó khiến cậu rất lo lắng. Tôi hỏi hai người sẽ tranh luận về nội dung gì, cậu nói ngày mai mới công bố chủ đề. Tôi hỏi tiếp cậu tranh luận với ai, cậu ta bảo đó là một đại sư luận kinh rất nổi tiếng, khắp vùng Tây Vực không ai là đối thủ. Ông cho rằng, trên đời này không ai thắng nổi mình, nên đã tuyên bố hùng hồn rằng, nếu có người thắng ông, ông sẽ lấy đầu mình xuống để tạ tội.

- Cô có muốn đến xem không?

Cậu ta hơi ngập ngừng, có lẽ vì thái độ đáng phê phán của tôi tại buổi giảng kinh
trước đó.

Tôi gật đầu lia lịa:

- Có chứ, tôi nhất định sẽ đi!

Một cuộc thi hấp dẫn với cái giá là sự trừng phạt đáng sợ như thế, với một đại sự
ngông cuồng như thế, làm sao tôi có thể bỏ lỡ được!

- Cậu có biết chỗ nào đặt cược không? Tỉ lệ ăn thua bao nhiêu? 5- 5 hay 4- 6?

Kumalajiba chau mày, tôi vội vàng im bặt.

Vì muốn cậu ta tập trung tinh thần cho buổi quyết đấu ngày mai nên tôi đã kết thúc
giờ học sớm hơn thường lệ. Nhận thấy vẻ đăm chiêu ưu phiền của cậu ta trước lúc ra về, tôi kêu cậu ta lại, rồi bắt chước động tác cổ vũ tinh thần thường thấy trong các bộ
phim kinh điển của Hàn Quốc, tôi giơ tay phải lên và hô:

- AZA, AZA, FIGHTING!

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Kumalajiba, tôi phì cười, gào to:

- Đó là phương ngôn trên một bán đảo ở phía đông bắc. Có nghĩa là: Pháp sư trẻ
của chúng ta nhất định sẽ chiến thắng!

Kumalajiba cười rạng rỡ, dường như những ưu phiền khi nãy đã bị xua đi, cậu nhìn tôi gật đầu quả quyết và cũng học theo tôi giơ tay phải lên. Động tác hơi gượng gạo, nhưng tràn đầy tự tin, phong thái ung dung, đĩnh đạc thường thấy đã trở lại với cậu. Đó là nụ cười đầu tiên của cậu trong buổi tối hôm nay, ánh sáng của sự tự tin trong nụ cười ấy tỏa khắp căn phòng, phả vào không gian quanh tôi dư vị của sự ấm áp.

Thật lạ lùng là buổi sáng hôm sau tôi không ngủ nướng như mọi ngày mà từ tờ mờ

sớm đã chờ sẵn ở cổng.

Buổi luận chiến sẽ diễn ra tại chính điện trong hoàng cung. Đây là lần thứ ba tôi bước vào nơi này, hai lần trước, tất nhiên là đi dự tiệc cùng mẹ con ni cô có xuất thân bí ẩn. Bởi vậy, cảm giác háo hức không còn nữa. Tranh đã vẽ xong, tên gọi cũng đặt
rồi. Cung điện này chẳng lớn lắm, kiến trúc và trang trí họa tiết đều hết sức đơn giản.

Nhưng, không gian của buổi luận chiến lại rất lớn. Chỉ có người tham gia tranh luận và nhà vua, hoàng hậu được phép ngồi, những người còn lại đều phải đứng nghe. Vì vậy, chỉ trong chốc lát, toàn bộ đại điện đã chật kín người.

Theo tôi biết, luận chiến là cách thức chủ yếu để thu hút tín đồ của các giáo phái thời kỳ đầu. Ở Ấn Độ, các buổi biện kinh diễn ra rất bi thảm, người thua thường sẽ phải mai danh ẩn tích, vĩnh viễn biến mất. Có người còn tự cắt lưỡi, thậm chí tự vẫn. Nhẹ hơn thì đóng cửa giáo phái, tôn người thắng làm thầy. Trái lại, người chiến thắng chỉ dựa vào một lần biện kinh, tiếng tăm sẽ nổi như cồn, được mọi người sùng kính, sẽ có đông đảo tín đồ đến bái sư, người đó sẽ được quốc vương trọng vọng và ban thưởng hậu hĩnh, trở thành đại sư quyền lực. Trần Huyền Trang cũng từng nhiều lần giành chiến thắng trong các buổi biện kinh tại Tây Vực và Ấn Độ, danh tiếng lan xa khắp nơi. Từ đó, có thể thấy, cuộc tranh biện này có ý nghĩa to lớn dường nào đối với một nhà sư trẻ tuổi như Kumalajiba. Chả trách một người thường ngày trầm tĩnh như cậu vậy mà tối qua đã không khỏi lo lắng và bối rối.

Nhân vật chính đã xuất hiện. Bên này là pháp sư trẻ tuổi Kumalajiba, một thiếu niên tài trí cao rộng, phong độ ngời ngời, phong thái đĩnh đạc, trên mình khoác áo choàng màu nâu sòng giản dị. Đối thủ là một người đàn ông trung tuổi, đạo sĩ không ra đạo sĩ, hòa thượng không phải hòa thượng, trên mình khoác áo nhung màu xanh da trời. Không thể tin được, tuổi tác của hai người chênh lệch quá xa. Đối phương có lẽ cũng nhận biết được điều này, nên ông ta hếch mũi vênh vang nhìn cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân hình mảnh khảnh ở phía đối diện.

Hai người được trao đến tay một tấm thẻ nhỏ, họ đọc tấm thẻ vài giây rồi bắt đầu trầm tư suy ngẫm. Sau một tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên bắt đầu đặt câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba đang chiếm ưu thế. Tuổi trẻ có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả hai đều khá nhanh, người này vừa kết thúc một câu, người kia đã trực tiếp trả lời. Khán thính giả bên dưới tưởng như đang nín thở lắng nghe, chốc chốc lại "ồ" lên hoặc "à" lên một tiếng, với những trạng

thái biểu cảm hết sức phong phú.

Tôi chú ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi không hiểu một chữ nào. Khi họ bắt đầu luận chiến tôi đã biết mình không thể hiểu được, vì họ sử dụng tiếng Phạn. Vậy là tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục tìm trong trí nhớ những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh.

Biện kinh đã biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật Bản, Hàn Quốc và khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. Phật giáo Ấn Độ vốn đã suy yếu từ lâu, hiện chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền thống này. Tôi đã được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera Monastery và đền Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được diễn ra ngoài trời vào khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa khác cũng cử người đến tham dự, sau khi
buổi biện kinh kết thúc, sẽ có người nghi chép lại kết quả biện luận[7].

Khác với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện kinh là một hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt Ma tham gia, họ chia thành những nhóm nhỏ từ hai đến bốn người, trong đó, một người sẽ biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi đưa ra câu hỏi cho đối phương, người biện kinh sẽ thực hiện những động tác hết sức khoa trương, như: vỗ tay thật mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt Lý Tiểu Long lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu bộ dữ dằn. Bên phản biện ngồi xếp bằng trên đất, tay giơ lên phản ứng dữ dội. Toàn bộ khu vực diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng áo cà sa của Lạt Ma tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người ngoại đạo, không hiểu tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát biểu cảm của nét mặt và những động tác tay chân phong phú của những người tham gia biện kinh, thực chất không hiểu họ nói gì.

Trước mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy không hoa chân múa tay, tạo các thế võ, nhưng biểu cảm trên gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể dễ dàng nhận thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say sưa, dáng người rướn cao, áp đảo đối phương, giọng nói càng ngày càng hào sảng, vang dội. Đối phương thì trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ hung hăng mất dần, giọng nói cũng nhỏ dần, sau cùng thì gương mặt biến sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm đìa trên trán, ngã bổ nhào về phía trước, quỳ gối xin thua.

Đám đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng không nén nổi xúc

động, lập tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau một tiếng vỗ tay
của nhà vua, không biết bao nhiêu hòm to hòm nhỏ được khiêng vào, hẳn nhiên đó là phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi, tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đã đánh bại một vị tiền bối hơn ba mươi tuổi, không
biết sau này trưởng thành hơn cậu ta sẽ còn tài giỏi đến mức nào nữa?

Sau khi kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba không tiếp tục giảng kinh, cậu được hộ tống ra ngoài cung giữa sự vây bọc của đám đông người hâm mộ. Một chú voi lực lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt trên lưng một chiếc ghế sang trọng đã chờ sẵn bên ngoài. Kumalajiba trèo lên lưng voi, quốc vương đi trước dẫn đường, đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính thức công bố thắng lợi của đại sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong thành được biết. Hoa tươi từ khắp mọi nơi được bà con tung lên người pháp sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô vang dội, không ngớt. Đoàn diễu hành đi dọc theo các con phố chính, và cả những ngõ nhỏ suốt một buổi chiều. Ngày hôm đó, Kumalajiba đã được tôn vinh, ca ngợi hết mức, có lẽ cậu còn được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI. Khuôn mặt an nhiên, trầm lặng thường ngày hôm nay đã sáng lên bởi nụ cười mãn nguyện nhưng khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng tôi vào buổi tối.

Chờ cậu ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi:

- Cậu và người đó đã tranh luận chủ đề gì vậy?

- Có và không.

Tức là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư?

- Ông ta luận về "có" còn cậu luận về "không"?

Cậu ta gật đầu, tôi lại hỏi tiếp:

- Cậu đã thắng như thế nào?

- Rất khó diễn đạt. Tôi không khẳng định là có hay không, mà đặt ra giả thuyết
"nếu như có". Đã là "nếu như có" thì sẽ không thể là "không" được. Có có không không, không phải có cũng không phải không.

Tôi nghe mà ù cả tai, những là có có không không, không không có có.

- Ông ấy có đồng ý với giả thuyết của cậu không?

- Có. Sau đó tôi lại hỏi, bóng trăng dưới nước là có hay không? Ông ấy không thể
ngoa ngôn trả lời là có. Như thế, cái chính mắt ta nhìn thấy mà vẫn là không tồn tại, vậy mọi thứ trên đời này phải chăng cũng chỉ là ảo ảnh, giống như bóng trăng dưới nước. "Nếu như có" tức là không, là có mà cũng không là không, vậy thì tất cả chỉ là cõi tịch mịch.

- Vậy có cái gì là "có" không?

Tên ranh mãnh, lập luận lắt léo như thế làm gì vị sư già kia chẳng thua. Nếu là ở
thời hiện đại thì như thế sẽ được gọi là "phép lập luận chủ quan vô căn cứ".

- Mọi thứ trên đời đều không tồn tại, chỉ có Nirvana là vĩnh hằng.

- Nirvana là gì vậy?

- Tức là thông qua con đường tu hành, có thể dứt bỏ triệt để mọi phiền não, tích
thêm nhiều công đức, thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi và bước vào cõi bất sinh bất diệt.

Cậu ta đưa đôi mắt sáng long lanh về phía tôi:

- Ngải Tình, chắc chắn cô biết phải giải nghĩa từ này như thế nào bằng tiếng Hán,
đúng không?

- Ngôn ngữ đạo Phật có các từ: diệt độ, tịch diệt, giải thoát, viên tịch, Niết Bàn, tất cả đều có nghĩa là chết.

Cậu ta vỗ tay tán thưởng:

- Hay quá! Diệt độ tức là "diệt" trừ mọi phiền não và thoát ra khỏi sự sống chết.
Tịch diệt tức là giữ cho tâm tĩnh và rũ bỏ mọi ưu phiền.

Tôi thở dài. Tôi đã phải xin lỗi các vị đại sư dịch giả không biết bao nhiêu lần về
cái tội đánh cắp bản quyền này rồi! Mà cái tên ranh này, trình độ Hán ngữ của hắn càng ngày càng tiến bộ, nào là không nào là có, mà học thuyết duy tâm của hắn khiến
tôi giờ đây cũng trở nên tiêu cực đi vài phần rồi!

- Vị đại sư đó từng tuyên bố rằng, nếu có người thắng ông ấy, ông ấy sẵn sàng lấy đầu mình xuống để tạ tội.

Một nụ cười nơi khóe miệng, hình như cậu ta đang rất đắc ý:

- Tôi cần đầu của ông ấy để làm gì kia chứ!

- Đúng thế, vì vậy cậu đã buộc ông ta tôn cậu làm thầy, theo cậu học Phật pháp.

Tôi nhớ lại màn thu nhận đệ tử sáng nay. Đúng là tâm tính của những người trẻ
tuổi, đã bước vào cửa thiền, sắc sắc không không rồi mà vẫn còn nguyên tính hiếu thắng.

Tôi thở dài:

- Theo cậu, ông ta có thật lòng quy phục không?

Rồi chợt nhớ ra một chuyện, không chờ cậu ta trả lời câu hỏi kia, tôi thích thú đề
nghị:

- Nào, chúng ta hãy thử thi tài. Nếu thua, tôi sẽ tôn cậu làm sư phụ.

Đằng nào thì cậu ta cũng là thầy dạy tiếng Tochari của tôi rồi, có thua tôi cũng
không sợ thiệt.

- Thi như thế nào? Biện luận nội dung gì?

Cậu ta có vẻ bị bất ngờ.

- Chúng ta sẽ biện luận thế nào là thua, thế nào là thắng.

Không chờ cậu ta đáp lời, tôi vội vàng trổ tài trước:

- Nếu tôi và cậu luận chiến và cậu thắng tôi, có chắc là cậu đúng còn tôi thì sai
không? Nếu tôi thắng, có chắc là tôi đúng còn cậu sai không? Có chắc người này đúng còn người kia sai không? Hay cả hai đều sai hoặc đều đúng? Hai chúng ta không thể định đoạt ai đúng ai sai, vậy thì ai sẽ đứng ra quyết định? Nếu chúng ta nhờ người thứ ba đứng ra phân xử, người đó cũng không thể đưa ra quyết định chính xác. Bởi vì, nếu như cậu mời một người có đồng quan điểm với cậu đứng ra phân xử, người đó có chung lập trường với cậu thì làm sao phán xét công bằng được? Nếu người đó đồng quan điểm với tôi, thì cũng tương tự, cũng chẳng thể đưa ra phán xét công bằng. Vì vậy, cả tôi, cả cậu và người thứ ba kia đều không thể quyết định ai đúng ai sai. Nếu tôi cứ kiên trì quan điểm của mình và không chịu thua, vậy thì ai đúng ai sai sẽ là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải.

Tôi ba hoa chích chòe một hồi bằng tốc độ biện luận của Đường Tăng, sau đó mỉm cười liếc nhìn Kumalajiba.

Cậu ta nhìn tôi không chớp mắt, miệng khẽ mở, sững sờ mất chừng nửa phút. Lắc
lắc đầu định nói gì đó lại thôi. Sau đó chắp hai tay lại, cung kính:

- Tôi thua rồi.

Tôi bật cười nhìn điệu bộ thua trong thỏa mãn, thua tâm phục khẩu phục của cậu
ta.

- Cậu còn nhớ câu chuyện Trương Châu nằm mơ hóa hồ điệp mà tôi từng kể
không?

Cậu ta gật đầu.

- Rốt cuộc là mơ hay thực, là Trương Châu hay hồ điệp, chúng ta chẳng cần nhọc
lòng truy xét. Bởi vì, tiêu chuẩn nhận thức của con người chỉ là tương đối. Người ta chỉ có thể nhận biết một phần sự thật trong một khoảng thời gian hữu hạn, không ai dám khẳng định mình nắm vững chân lý tuyệt đối. Bởi vậy, các cuộc luận chiến của các giáo phái đều là đem cái phi lý của mình ra để phủ nhận cái có lý của đối phương. Làm thế sẽ không thể phân biệt thật giả, đúng sai.

Cậu ta nhìn tôi bằng ánh mắt khâm phục. Vậy là tôi đã vớt vát được chút thể diện
của người làm thầy trước mặt chàng trai trí tuệ siêu phàm này rồi!

Ngày hôm sau, cậu ta đến gặp và nói vài câu với người đàn ông trung tuổi đang vô cùng tủi hổ và sợ hãi kia bằng thái độ cung kính đáng ngạc nhiên. Người đàn ông kinh ngạc nhìn Kumalajiba. Cậu phải nhắc lại một lần nữa, lúc ấy, người đàn ông mới tin vào những gì mình vừa nghe và liền sau đó là những lời cảm ơn rối rít. Rồi ông ta vội vã đi về phòng mình. Tôi biết ông ta muốn nhanh chóng thu dọn hành lý rời khỏi nơi này.

Tôi đưa mắt nhìn Kumalajiba đúng lúc cậu ta quay đầu về phía tôi, đôi mắt trong như nước hồ thu. Tôi ngước lên nhìn trời, hôm nay là một ngày oi ả, sao mới sáng
sớm mà ánh nắng đã làm tôi choáng váng thế này!

Chương 8: Hòa thượng vĩ đại 

Sau cuộc luận chiến, tiếng tăm của Kumalajiba lan truyền khắp nơi, đến đâu cậu ta
cũng được người dân vây quanh, tung hoa chúc tụng và chỉ cần được chạm tay vào vạt áo của cậu là ai nấy mặt mày hớn hở, ý chừng rất thỏa nguyện. Ngay cả một giáo viên nhỏ bé như tôi cũng được thơm lây. Lúc ra phố, dân chúng trong kinh thành đều đặt vào tay tôi đủ thứ lễ vật nào là dầu thơm, các loại thịt, hoa quả... Đám lính tráng từng bắt giam tôi, nay gặp mặt là kính cẩn cúi chào. Và đặc biệt, chiến thắng của Kumalajiba đã giúp cho công việc khảo sát của tôi được tiến hành hết sức thuận lợi, tôi không gặp phải sự đề phòng hay ngăn cản nào cả.

Hơn mười ngày nữa trôi qua, tôi bấm ngón tay, vậy là chỉ còn khoảng chục ngày nữa, Kumalajiba sẽ kết thúc thời gian thuyết giảng Phật pháp ở đây, sau đó chúng tôi sẽ lên đường đi Khâu Từ. Hơn một tháng ở lại Wensu, không một chỗ nào tôi chưa
từng đi đi lại lại ba lần, vì vậy tôi thực sự mong mỏi ngày khởi hành đi Khâu Từ.

Khi được hỏi: "Nếu có kiếp sau, ông muốn được sinh ra ở đâu", nhà nghiên cứu lịch sử người Anh Arnold Joseph Toynbee đã trả lời rằng: "Tôi muốn được sinh ra ở Khâu Từ, vùng đất thuộc Tân Cương ấy, hai nghìn năm về trước từng là nơi giao thoa của rất nhiều nền văn hóa và dân tộc". Sau khi đọc câu trả lời này, tôi đã rất khao khát được tìm hiểu về Khâu Từ: âm nhạc Khâu Từ, Thiên Phật động Kizil, sách của

H.Bower, di chỉ Subash và cả nhân vật nổi tiếng nhất nhất Khâu Từ - hòa thượng
Kumarajiva! Không biết ngài Toiynbee sẽ nghĩ gì nếu biết rằng ước mơ của ngài sắp
được tôi biến thành hiện thực?

Thế là tôi kết thúc buổi lên lớp tiếp theo với tâm trạng đặc biệt phấn chấn. Tôi đã giảng cho Kumalajiba về "Luận ngữ". Những cuốn nhập môn như "Tam tự kinh" tôi không có sách trong tay, mà cũng chưa thuộc hết và điều đáng ngại hơn cả là, tôi không nhớ "Tam tự kinh" ra đời vào thời đại nào. Để đảm bảo tính an toàn của trật tự lịch sử, tôi quyết định chỉ giảng những cuốn ra đời trước thời Hán. Và cuốn đầu tiên, tất nhiên là "Luận ngữ", sau đó đến "Kinh thi", rồi đến "Tả truyện" và "Chiến quốc sách". Tôi hy vọng tiền học phí từ nay đến khi khởi hành đi Tràng An sẽ đủ để tôi chi tiêu trên đường.

Vừa ra khỏi cửa, Kumalajiba bỗng nhiên quay lại:

- Ngày mai quốc vương sẽ đến, chúng ta phải ra đón ngài, cô cùng đi nhé!

Tôi vẫn chưa hết hưng phấn với kế hoạch đi Khâu Từ, nên hơi bất ngờ:

- Quốc vương đến đây làm gì vậy?

- Đến đón mẹ con tôi.

Sao kia? Vua của một nước mà phải đến tận nước khác đón mẹ con họ, không thể
tin nổi! Tôi vội túm lấy tay cậu ta kéo lại:

- Cậu nói đi, rốt cuộc cậu là ai? Vua Khâu Từ là cha cậu phải không? Cậu là thái tử? Nếu không phải vậy thì vì sao nhà vua lại phải vượt ngàn dặm xa xôi đến tận đây
đón cậu.?

Kumalajiba kéo lại tay áo đang bị tôi nắm chặt, lắc đầu:

- Cô đừng nói như vậy, tôi không phải thái tử. Vả lại, Khâu Từ cách đây có ba trăm
dặm, đâu phải ngàn dặm xa xôi gì, hơn nữa, danh tiếng và xuất thân...

- Đều không tồn tại chứ gì? Tôi biết cậu sẽ nói vậy mà!

Tôi ngắt lời Kumalajiba. Cậu càng không nói thì tôi càng tò mò. cậu ta không nói
thì sẽ có người khác nói. Khả năng tiếng Tochari của tôi không còn a, b, c, i, t như
trước nữa đâu nhé!

Tôi cười tinh nghịch, chắn trước bậc cửa:

- Chúng ta hãy ôn tập lại tiếng Tochari. Mẹ tôi tên là... ba tôi tên là..., anh trai tôi
tên là...

Cậu ta thở dài thườn thượt:

- Thôi được, không giấu cô nữa, để cô phải đi tìm hiểu bên ngoài, chi bằng tôi nói
cho cô biết.

Kumalajiba chớp chớp đôi mắt tinh anh nhìn tôi, chậm rãi nói:

- Tôi không phải thái tử. Đức vua Khâu Từ là cậu ruột của tôi, mẹ tôi vốn là công
chúa, bà là em gái của ngài.

Vậy ra họ đúng là hoàng thân quốc thích, dòng dõi cao quý, chả trách lúc nào trên người họ cũng toát lên nét vương giả.

- Vậy còn cha cậu?

- Ông là người Thiên Trúc (Ấn Độ), lẽ ra ông sẽ là người kế thừa ngôi vị, nhưng
ông đã từ bỏ để xuất gia. Ông đã vượt qua dãy núi phía đông và tìm đến Khâu Từ. Đức vua mời ông làm quốc sư, rồi gả em gái, tức mẹ tôi cho ông.

Khoan đã, sao tôi nghe câu chuyện này quen quá! Chắc chắn tôi đã đọc ở đâu đó
rồi. Một tia sáng vụt lên trong đầu tôi:

- Cậu còn có một người em trai, đúng không?

Cậu ta gật đầu:

- Kém tôi ba tuổi.

- Mẹ của cậu vốn không biết tiếng Phạn, nhưng khi mang thai cậu, bà đột nhiên
biết nói thứ ngôn ngữ này, đúng không?

- Đó chỉ là tin đồn. Mẹ tôi học tiếng Phạn từ cha tôi.

- Vậy, có phải, bảy tuổi cậu đã theo mẹ xuất gia, chín tuổi đến Kashmir và gì nữa,
Gandhara và Ka.. gì đó. Âm này khó viết quá!

Tôi nhớ lại từng địa danh một cách khó nhọc.

- Kabul?

- Đúng rồi!

- Lên chín tuổi, tôi cùng mẹ đến Kabul, tại đó tôi đã theo học Phật giáo Tiểu Thừa.

- Vậy, cậu... cậu... cậu là...

Tôi không nói tiếp được nữa, tôi đã biết cậu ta là ai! Tôi gõ mạnh vào đầu, sao tôi
có thể phạm một sai lầm lớn như vậy chứ!

Các bạn, sau nhà Tần đến nhà Hán, đúng không? Cậu ta từng nói, Trung Nguyên hiện do vua nhà Tần/Thanh cai quản, nhưng lại luôn nói với tôi về người Hán, tiếng Hán. Nếu lúc này đang là thời đại nhà Tần trong chữ Tần Thủy Hoàng, thì vì sao cậu ta lại gọi tôi là người Hán? Cậu ta vừa nhắc đến chữ: "Tần" thì tôi lập tức mặc định đó là triều đại nhà Tần hiển hách trong lịch sử. Hơn nữa, xưa nay chúng tôi đã quen với việc tự nhận mình là người Hán, nên tôi hoàn toàn quên mất rằng, cách gọi đó xuất phát từ thời kỳ thịnh trị của vương triều nhà Hán trong lịch sử? Thế nên, một nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử là tôi đây đã phạm phải một sai lầm không thể tha thứ.

Tất nhiên, không thể là đời nhà Thanh, vì khi đó Khâu Từ đã trở thành quá vãng hơn một nghìn năm. Nếu vậy, trong lịch sử Trung Quốc, còn triều đại nào được gọi là
nhà Tần không?

Có đấy! Nhà Tiền Tần của Phú Kiên Kiến và nhà Hậu Tần của Diêu Trưởng Kiến,
thực ra tiền tố "Tiền" và "Hậu" là do người đời sau thêm vào để phân chia hai giai đoạn, còn tại thời điểm lúc bấy giờ, người ta chỉ gọi là nhà Tần. Điều đó cho thấy, sự thật là tôi đang có mặt ở thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc. Tức là tôi đã trở về thời đại lịch sử sớm hơn năm trăm năm so với dự tính ban đầu, kết quả là, ở bên một nhân vật lịch sử vĩ đại suốt mấy chục ngày mà tôi không hề hay biết.

Người đó chính là cháu ngoại của vua Khâu Từ ở Tây Vực thời Thập lục quốc, một thần đồng với chỉ số IQ 200, một hòa thượng với huyết thống cao quý được mọi người sùng kính, một thanh niên tuấn tú với dung mạo thoát tục, người được đám sinh viên ký túc xá khoa lịch sử chúng tôi mệnh danh là hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch
sử, còn có thể là ai khác nữa?

Sách "Tấn thư" chép rằng: "Có lần ngài thuyết giảng kinh Phật tại chùa Thảo Đường, nhà vua, triều thần cùng với hơn một ngàn cao tăng đang cung kính lắng nghe, Kumarajiva đột nhiên bước xuống, đến gần vùa Diêu Hưng và nói: Có hai đứa bé cứ nhảy múa trên vai ta, hãy ban cho ta một thiếu nữ. Diêu Hưng lập tức ban cho Kumarajiva mười cung nữ, ngay sau đó, một trong số các cung nữ đã hạ sinh hai con trai".

Tôi đã vô cùng ngỡ ngàng khi đọc đoạn sử này. Quả là có một không hai. trong lịch sử, không ít hòa thượng bị lên án bởi có liên quan đến chuyện tình ái. Hòa thượng Biện Cơ - trợ thủ dịch thuật kinh Phật đắc lực nhất của Huyền Trang từng có quan hệ tình ái nhiều năm với công chúa Cao Dương - người mà vua Đường Thái Tông sủng ái nhất. Nhưng mối quan hệ đó chỉ diễn ra lén lút, giấu giếm. Sau khi vua Đường phát hiện ra, Biện Cơ đã bị chém làm đôi.

Nhưng đối với câu chuyện của Kumarajiva, với việc ngài công khai đòi hỏi sắc dục trong bối cảnh trang nghiêm như vậy, thì dù ở góc độ tôn giáo hay luận thường đạo lý, đều khiến người ta cảm thấy khiếp sợ. Đó là thái độ bất chấp giới luật, ngang nhiên thể hiện dục vọng của mình, xưa nay chưa ai dám làm như vậy. Diêu Hưng tặng ngài cả mười cung nữ và ngài đã vui vẻ tiếp nhận. Ngài không sống trong thiền viện như các tăng sĩ khác mà ở nhà riêng và có người cung phụng. Ngài sống sung túc với vợ con như những người bình thường khác. Vậy mà lòng tôn kính của người đời đối với ngài không hề giảm đi. Thậm chí, hậu thế còn hết lời ca ngợi ngài, tiếng tăm của ngài truyền ra tận nước ngoài. Một hòa thượng như vậy, chẳng phải là nhân vật vĩ đại trong
lịch sử hay sao?

Nhớ lại cuộc bình xét ở ký túc xá, khi đó sáu bạn đã nhất trí bầu chọn Kumarajiva,
dịch giả kinh phật nổi tiếng thời Thập lục quốc là "hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử".

- Cậu... cậu... cậu chính là Kumarajiva! Cậu là Kumarajiva ư? Trời ơi, cậu chính là
Kumarajiva! Cậu chính là nhân vật lịch sử lừng lẫy đó!

Tôi bối rối đến không thốt được lên lời, đầu óc choáng váng, tâm trí rối bời. Giống như là đột nhiên bạn gặp được thần tượng của mình vậy! Chuyến đi này quả không tồi
chút nào, tôi lại có cớ để tự hào với chúng bạn khi trở về rồi!

Một cốc nước đặt ngay trước mặt tôi, một mảnh khăn ướt thấm nhẹ trên trán. Tôi
ngẩng lên và bắt gặp trong đôi mắt như hồ nước thu ấy vẻ lo lắng không giấu giếm:

- Trán cô hơi nóng, hình như cô bị cảm lạnh. Ngày mai tôi sẽ căn dặn người làm sắc thuốc cho cô.

Tôi nhìn thấy hình ảnh tay chân mình run rẩy phản chiếu trong đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy.

Sau khi uống nước, tôi trở nên bình tĩnh hơn. Ngượng ngùng nở nụ cười ngây ngô:

- Tôi vô ý quá!

Cậu ta cũng cười:

- Tôi chưa từng thấy Ngải Tình như vậy bao giờ. Mà cô luôn miệng gọi tôi là
Kumarajiva, đó có phải tên tiếng Hán của tôi không?

Tôi gật đầu. Kumalajiba là tên tiếng Phạn của cậu ta, Kumala chính là Kumara. Nhưng còn Jiba thì sao lại biến thành Jiva được nhỉ? Không biết ai đã dịch tên của Kumarajiva sang tiếng Hán, nhưng rõ ràng nghe hay hơn tên Kumalajiba mà lâu nay tôi thường gọi. Sở dĩ tôi không nhận ra cậu ta chính là pháp sư lừng danh Kumarajiva, là vì tôi đã nhầm lẫn thời đại lịch sử. Thêm nữa là vì, phát âm của từ "Jiba" và từ "Jiva" rất khác nhau. Nên tôi đã không biết người ngày ngày ở bên mình chính là dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc, người được xếp ngang hàng với sư phụ Huyền

Trang.

Tôi hỏi cậu ta về ý nghĩa của tên gọi Kumarajiva trong tiếng Phạn, thì được trả lời rằng, Kumara là họ của cha cậu, nghĩa là "đồng tử" (cậu bé). Jiva là tên mẹ cậu, nghĩa là "thọ" (nhiều tuổi). Bởi vậy ý nghĩa tên gọi của cậu trong tiếng Hán là "đồng thọ" (cậu bé già dặn). Đặt tên con cái bằng cách ghép họ của người cha và tên của người mẹ vốn là phong tục của người Ấn Độ xưa, cũng có lúc tên gọi còn được đưa thêm vào một số ý nghĩa khác nữa, do đó, tên của người Ấn Độ thời xưa rất dài. Chả trách khi đọc sách lịch sử Phật giáo, tôi không thể nào nhớ nổi tên của các vị cao tăng Tây Vực và Ấn Độ. Thực sự là rất dài và rất khó đọc.

Tôi biết cha cậu là Kumarayana, còn mẹ cậu là Jiva, những tên gọi vốn đã rất quen thuộc đối với người Hán. Tăng sĩ Tây Vực và Ấn Độ đều dùng tên gọi thông thường, khác với cách dùng pháp hiệu của các nhà sư Trung Nguyên.

Kumarajiva đặt tập giấy nháp trước mặt tôi và đề nghị:

- Cô có thể viết tên gọi tiếng Hán của tôi vào đây được không?

Tôi nắn nót từng nét một: Ku- ma- ra- ji- va.

Cậu ta ngắm nghía tỉ mỉ, đọc lại một lượt, rồi ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt rạng
rỡ niềm vui:

- Hay! Kumarajiva. Nếu là tên gọi do Ngải Tình đặt, thì từ nay về sau tên tiếng Hán
của tôi sẽ là Kumarajiva!

Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt trong sáng tràn ngập ánh cười đang nhìn mình. Tôi bỗng hốt hoảng, thần trí mất tập trung, cứ bay bay tận đâu đâu. Không có tài liệu nào ghi lại thông tin về người đã đặt tên tiếng Hán cho cậu ta, không lẽ người đó là tôi? Tên gọi mà tôi đọc được ở thế kỷ XXI hoàn toàn trùng khớp với tên gọi mà tôi đặt cho cậu ta 1650 năm về trước. Điều đó có nghĩa là, việc tôi vượt thời gian đến đây và gặp gỡ Kumarajiva đều là sự tất nhiên ư? Điều này có mối liên quan, logic gì? Tôi chỉ là du khách đi bên lề lịch sử, hay tôi đã gia nhập vào thời đại này một cách
hoàn toàn tình cờ?

--------------

Chương 9: Tôi muốn xin thôi việc 

Tôi cùng mẹ con Kumarajiva, nhà vua và đại thần Wensu đến trước cổng thành
nghênh đón đức vua Khâu Từ. Vì giờ đây tôi đã biết cậu là là Kumarajiva, nên tất nhiên tôi hiểu vì sao cái tên Wensu nghe quen đến vậy, thì ra là Wensu, một huyện bên cạnh Aksu, thuộc tỉnh Tân Cương. Hai nghìn năm trước, Wensu chỉ là một quốc gia nhỏ, lệ thuộc vào Khâu Từ.

Sở dĩ quốc gia nhỏ bé này có trong trí nhớ của tôi là vì Kumarajiva. Cuộc luận chiến nổi tiếng đó sử sách gọi là cuộc luận chiến ở Wensu, nó được xem như một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời đầy thăng trầm nhưng lẫy lừng của Kumarajiva. Sách sử chép rằng, chính nhờ cuộc luận chiến này mà tiếng tăm của Kumarajiva "vang khắp vùng Pamirs, chấn động hải ngoại", "được quốc vương nhiều nước trọng vọng". Bởi vậy, đức vua Khâu Từ đã phải đích thân đến đón Kumarajiva, không để các nước khác tranh giành hiền tài.

Nghi thức đón tiếp diễn ra rất long trọng, thảm đỏ được trải đến tận hoàng cung, âm nhạc rộn ràng không dứt, hoa thơm vương ngập lối đi. Tôi nhớ vị vua này tên Bạch Thuần, vương triều nhà Bạch vốn do Ban Siêu dựng lên, Tây Vực đô hộ phủ của Ban Siêu đặt tại Khâu Từ. Từ thời Ban Siêu cho đến cuối đời Đường, rồi sau đó Khâu Từ bị người Hồi Hột (Ujur) tiêu diệt, trong suốt tám trăm năm, vương quốc Khâu Từ đều do nhà Bạch nắm quyền cai quản.

Vị vua Khâu Từ này rất giống Jiva, cũng da trắng, mũi cao, mắt to và sâu, lông mày dày và rậm. Có lẽ Bạch Thuần chưa đến bốn mươi tuổi, thời trẻ chắc hẳn rất tuấn tú. Nhà vua không cắt tóc ngang vai như những người đàn ông khác, phía trước để mái lửng, phía sau quấn búi lên đỉnh đầu, rồi buộc gọn lại bằng một mảnh vải nhiều màu, thả xuống sau gáy.

Điều thú vị là trán của nhà vua cũng được nén dẹt xuống. Trong "Đại Đường Tây Vực ký", Huyền Trang từng viết về tập tục nén đầu ở Khâu Từ. Họ dùng một tấm gỗ ép chặt phần đầu phía trước của đứa trẻ. Nhưng tập tục này chỉ được phép áp dụng đối với thành viên của hoàng thất. Thật mừng là Kumarajiva xuất gia từ nhỏ, nếu không vẻ điển trai mê hồn của cậu chắc chắn sẽ bị tập tục này hủy hoại.

Tôi tiếp tục quan sát trang phục của quốc vương. Cũng là áo choàng ngắn, cổ bẻ,

ống tay hẹp, thắt eo, đi ủng cao đến đầu gối, nhưng bên ngoài còn khoác thêm một
chiếc áo tay lỡ với những hoa văn thêu kim tuyến cầu kỳ. Một thanh kiếm dài đeo bên hông, trên tay còn có thêm một thanh đoản kiếm. Có vẻ như nhà vua rất thích dùng kiếm.

Thoáng thấy mẹ con Kumarajiva, nhà vua vội sải những bước dài về phía trước, dang rộng tay ôm chầm lấy hai người. Hai mẹ con Kumarajiva dường như rất xúc động, họ xa nhà những bốn năm trời kia mà. Tôi nghe được bập bõm đoạn đối thoại của họ. Đức vua chúc mừng thành tích học tập và cuộc luận chiến thành công của Kumarajiva. Ông nói rằng đã chuẩn bị mọi thứ ở Khâu Từ để chờ đón hai người trở về...

Khi đức vua Khâu Từ đưa mắt nhìn sang người con gái đứng cạnh Jiva, ngài có vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi đang căng tai luyện nghe tiếng Tochari, không để ý đến ánh nhìn đột ngột đó, nên không kịp phản ứng, bất giác nở một nụ cười ngờ nghệch. Nụ cười chưa kịp tắt, trong tôi chợt nhen lên một cảm giác bất an, thôi thế là xong, tôi mất điểm hoàn toàn rồi, những nghi lễ mà tối qua tôi đã được học đã biến mất khỏi đầu tôi, không để lại dấu vết.

Đức vua Khâu Từ cũng ở lại trong cung, nhưng ngài ngự tại một cung điện khác. Yến tiệc buổi tối vẫn như thường lệ, được tổ chức trên đại điện, tôi cũng được tham dự. Nhưng vì mẹ con Kumarajiva không ăn tối nên chúng tôi chỉ được uống nước suông. Đôi mắt mở to của tôi dán chặt vào món thịt nướng trên bàn của hai vị quốc vương, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Không có ca nhạc, không có hát múa, buổi tiệc chỉ là bữa cơm thân mật trong gia đình nhân dịp đoàn tụ. Tôi cảm thấy lạc lõng, nên chẳng bao lâu, tôi bắt đầu giở trò ngọ ngoạy trên chỗ ngồi của mình.

Đột nhiên tôi bắt gặp ánh mắt quen thuộc chiếu về phía mình, là Kumarajiva. Cậu ta đang mím chặt môi, cố nhịn cười. Tôi liếc nhìn xung quanh để chắc chắn không có ai chú ý, sau đó bóp mũi, lè lưỡi ra chọc cậu ta, Kumarajiva khổ sở mím chặt môi hơn nữa. Cậu quay người sang nói với hai vị quốc vương, rằng đêm đã khuya, đức vua Khâu Từ đi đường đã thấm mệt, ngài nên về nghỉ ngơi sớm. Sau đó, mọi người cùng nâng cốc (chúng tôi chỉ được phép uống nước) chúc tụng lần cuối, rồi kết thúc bữa tiệc.

Tôi trở về với cái bụng rỗng không, mắt mờ đi vì đói, vội vàng hạ lệnh cho cô hầu nữ nấu chút gì đó lót dạ. Trong thời gian chờ đợi đồ ăn, tôi nằm im trên giường cố

gắng hạn chế tiêu hao năng lượng. Trong cơn mê man, một mùi hương ngào ngạt bất
chợt bốc lên, tôi bật dậy và nhìn thấy đôi mắt sâu như hai vực nước long lanh ánh
cười đang đứng bên giường, trên tay là một đĩa thịt nướng, thơm chết người!

Tôi kéo vai cậu ta xuống, cảm động nói:

- Rajiva, cậu thật tốt bụng!

Thực ra tôi đã suy nghĩ rất nhiều về cách xưng hô với Kumarajiva. Tên tiếng Phạn
của cậu ta rất khó đọc, tên tiếng Hán nghe có vẻ khách sáo. Trong các tài liệu liên quan, thì tên cậu ta có lúc là Rajiva, có lúc là "Jiva". Sách cổ thường gọi cậu ta là Jiva, còn trong văn bản hiện đại thì đều viết là Rajiva. Nếu phân tích rạch ròi, thì Kumara là họ, Jiva mới là tên. Nhưng nếu chỉ gọi là Jiva, nghe không ổn lắm. Bởi vậy, sau khi suy đi tính lại, tôi quyết định gọi cậu ta bằng cách của những người hiện đại, Rajiva. cậu ta cũng vui vẻ chấp nhận.

Lúc buông tay ra tôi mới nhận thấy khuôn mặt cậu ta đỏ như gấc chín, ánh mắt ra sức tránh né, không dám nhìn thẳng vào tôi. Bộ dạng ngượng ngùng, xấu hổ ngây thơ
đó thật đáng yêu!

Trời đất, tôi vừa làm gì thế này! Lại vỗ một cái thật mạnh vào đầu tự trừng phạt.
Cậu ta giật mình, lo lắng hỏi:

- Ngải Tình, sao vậy?

Nhìn khuôn mặt đang đỏ bừng vì thẹn thùng của cậu ta, tôi bỗng bối rối. Đón đĩa
đồ ăn từ tay Kumarajiva, tôi giả đói giả khát cắm đầu gặm món thịt nướng để che đi nỗi xấu hổ đang dâng đầy. Làm sao có thể nói để cậu ta hiểu tôi áy náy về hành động mất kiểm soát khi nãy của mình đến thế nào. Dù cậu ta vẫn ít tuổi, tôi cũng không thể có những cử chỉ thân mật một cách tự nhiên như ở thời đại của tôi được. Vì dù sao có một thân phận hết sức đặc biệt và điều đó không bao giờ có thể thay đổi.

Một lúc sau, sắc mặt Kumarajiva mới trở lại trạng thái bình thường, cậu lấy giọng
vu vơ hỏi tôi:

- Hôm nay chúng ta học bài gì?

Tôi thở dài, ngừng nhai thịt:

- Cậu mời người khác dạy đi, tôi không dạy cậu nữa đâu.

Kumarajiva tỏ ra hết sức kinh ngạc, khuôn mặt vừa tan sắc đỏ đã chuyển sang tái
nhợt:

- Vì sao? Tôi đã làm gì sai ư?

- Cậu không làm gì sai cả. Chỉ tại tôi không đủ trình độ để dạy cậu nữa. Cậu là
Kumarajiva kia mà!

Khi giảng "Luận ngữ" tôi không có sách, cũng không thuộc hết. Tôi chỉ giảng cho cậu ta những phần tôi thuộc và tất nhiên là trật tự các bài đã bị đảo lộn, một số chỗ tôi còn không nhớ chính xác. Cậu ta vốn thông minh tuyệt đỉnh, chỉ đọc một lần là nhớ ngay. Nếu tôi tiếp tục dạy học như vậy, trong đầu cậu ta sẽ đầy ắp những lỗi sai. Làm sao cậu ta trở thành dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc được? Tôi cũng không gánh nổi tội lỗi tày trời đó. Sự nghiệp phát triển Phật giáo tại Trung Nguyên vẫn đang
trông chờ cậu ta kia mà!

- Nhưng, nhưng mà, cô là một giáo viên rất giỏi!

Có chút run rẩy trong giọng nói của Kumarajiva.

- Cô giảng bài rất hay, nên tôi chỉ nghe một lần là nhớ.

- Đó là vì cậu thông minh, không phải do tôi dạy giỏi.

Tôi nhìn thẳng vào hai vực nước trong vắt ấy, nghiêm nghị:

- Rajiva, cậu là người thông minh nhất mà tôi từng gặp.

Giọng nói của cậu ta êm dịu và lôi cuốn như một vò rượu ngon được ủ nhiều năm,
nhưng khẩu khí chắc nịch:

- Ngải Tình, cô cũng là cô gái thông minh nhất mà tôi từng gặp. Vốn hiểu biết của

cô rất phong phú và điều quan trọng hơn là, cô am hiểu sâu sắc Phật pháp. Vì có
người thầy như cô, Rajiva cảm thấy rất hứng thú với Trung Nguyên. Tôi rất mong được đặt chân đến đó, để có thể tận mắt chứng kiến mảnh đất, bầu trời và không gian như thế nào mà có thể khai sinh ra một người con gái thông minh, xinh đẹp như Ngải Tình.

Những câu nói ấm áp được thốt lên bằng sự chân thành, giúp tôi cảm thấy tự tin hơn. Bất giác một câu hỏi hiện ra trong đầu: Không lẽ cảm tình dành cho vùng đất Trung Nguyên của Kumarajiva bắt nguồn từ tôi ư? Nhưng sự thực là tôi không thông minh, tôi đã đánh cắp kiến thức của người khác, kể cả thành quả dịch thuật của Kumarajiva. Vậy mà cậu ta vẫn khen ngợi tôi có tuệ căn. Nếu ở vào thời hiện đại, chắc chắn tôi sẽ bị kết tội vi phạm bản quyền. Thế nên, tôi cứ cúi gằm mặt xuống, không dám ngẩng đầu.

- Nhưng mà...

Kumarajiva cố nhịn cười khi tôi ngước bộ mặt âu sầu lên nhìn cậu ta:

- Nhưng nếu không có vẻ mặt ngây ngô kia thì cô sẽ càng thông minh hơn...

Tên ranh, dám trêu cả cô giáo! Tôi bật dậy định vít cổ cậu ta xuống, nhưng cậu ta
nhanh như chớp, cười ngất và né sang một bên. Tôi đuổi cậu ta chạy vòng vòng. Rajiva tuổi trẻ chân dài, tôi già cả không bắt kịp. Nhưng tôi không tin mình không tóm được cậu, nếu thế tôi ra đời trước cậu ta mười năm thật oan uổng quá! Tôi kêu lên một tiếng "ui da", rồi ngã sõng soài ra đất. Quả nhiên cậu ta vội chạy đến, vẻ mặt lo lắng hỏi tôi có sao không. Nhân lúc cậu ta không đề phòng, tôi đã lập tức giơ tay tóm lấy cổ cậu ta.

- Tên ranh, từ nay về sau cấm chê cô giáo ngây ngô nhé! Như thế không gọi là ngây ngô mà là thật thà, nhớ chưa? Tôi là cô giáo của cậu, cậu phải tôn trọng tôi, biết
chưa? Dù cậu có là Kumarajiva đi nữa, trước mặt tôi cũng phải tỏ ra ngoan ngoãn!

Tôi lắc mạnh chiếc cổ dài thanh tao và nhìn vào khuôn mặt đang ngày càng ửng đỏ của cậu ta. Hình như tôi xiết tay hơi mạnh. Vội vàng buông cậu ta ra, tôi sát lại, ghé
mắt nhìn:

- Này, tôi có mạnh tay quá không? Cậu có đau lắm không? Xin lỗi nhé!

Ánh mắt trên khuôn mặt đỏ như gấc chín ấy lại tìm cách lẩn trốn. Cậu ta quay mặt
đi, tách tôi ra một đoạn, miệng lí nhí:

- Ngải Tình, tiếp tục dạy tôi, được không?

Tôi lại thở dài, tay túm cằm suy nghĩ:

- Nhưng tôi không có giáo trình, tài liệu gì cả. "Luận ngữ" mà tôi dạy cậu đều là
dựa vào trí nhớ, mắc không ít lỗi sai. Người xưa có câu: dạy sai kiến thức chi bằng không dạy, chớ làm hỏng học trò.

Vẫn khuôn mặt đỏ lựng nhìn tôi, nhưng ánh mắt trở nên long lanh và khóe môi hé
một điệu cười rạng rỡ:

- Cô lo lắng điều này ư? Có khó gì đâu!

"To teach or not to teach, this is a question".

Tôi không có cách nào từ chối, nhưng lại sợ sẽ truyền đạt sai kiến thức cho cậu ấy. Lẽ ra tôi không nên xuất hiện trong cuộc đời cậu ấy. Không có tôi, cậu ấy vẫn có thể trở thành vị pháp sư lừng danh trong lịch sử. Nhưng nếu ngược lại thì sao? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì trong hành trình cuộc đời Kumarajiva? Liệu tôi có tác động xấu đến cậu ấy, để rồi làm sai khác đi lịch sử? Một sự thật hiển nhiên là cậu ấy vốn không biết nói dù chỉ một câu tiếng Hán hiện đại.

Thấy tôi trầm ngâm hồi lâu, Kumarajiva đặt hai tay lên tay tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu lan tỏa khắp người tôi.

- Ngải Tình, chính Phật tổ đã an bài để tôi được gặp cô, tôi thực sự trân trọng mối duyên này. Tôi thật lòng muốn học tiếng Hán, nhưng nếu cô không muốn dạy, cũng
không sao, hãy đến Khâu Từ cùng tôi, rồi mới trở về Trung Nguyên, được không?

Trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ngấn nước phản chiếu khuôn mặt ủ dột của tôi. Tôi chỉ là một người khách qua đường, sớm muộn tôi cũng sẽ phải trở về thế giới của mình, dù cho chiếc đồng hồ vượt thời gian đang tạm thời gặp sự cố.

Nhưng việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Kumarajiva thời niên thiếu, nếu không
dùng chữ "cơ duyên" thì còn có cách giải thích nào khác nữa? Hai hàng dấu chân trên cát của chúng tôi chỉ là tình cờ hợp thành một, khi hành trình ngắn ngủi đó qua đi, sẽ không còn bất cứ sự gặp gỡ nào nữa. Vậy thì, việc gì tôi phải suy nghĩ nhiều đến vậy? Chỉ cần từ nay về sau tôi thận trọng hơn trong mọi ứng xử, không thể hiện ra bất cứ dấu hiệu mang nét đặc trưng của thời đại mình, thì tôi sẽ không tác động và làm thay đổi lịch sử. Nhưng, điều quan trọng hơn hết thảy đó là, tôi thực sự mong muốn được ở bên chàng trai thiên tài này mỗi ngày, để được đón nhận và cảm nhận tình cảm nồng ấm từ cậu ấy.

- Nếu vậy, ta đồng ý tiếp tục dạy trò.

Tôi lồm cồm bò dậy, phủi sạch bụi trên mông:

- Thầy trò ta cùng ôn lại kiến thức của buổi học trước.

Tôi phải nhanh chóng sửa đổi phương thức giao tiếp bằng tiếng Hán hiện đại của
cậu ta mới được.

Cậu ta vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, có vẻ chưa thích ứng với lối nói văn ngôn trang trọng đó của tôi, nhưng cũng không thắc mắc, vội vàng đứng lên tìm tập giấy nháp.

Tối hôm sau, cậu ta xuất hiện ở cửa phòng tôi với cuốn "Luận ngữ" trên tay.

Chương 10: Chúng tôi đến Khâu Từ 

Cuối cùng, chúng tôi cũng lên đường đi Khâu Từ. Buổi đưa tiễn diễn ra rất náo
nhiệt, dân chúng Wensu từ mọi ngả đổ ra phố chính, đứng chen chân hai bên đường. Đức vua Wensu đích thân cưỡi ngựa tiễn đoàn chúng tôi mấy mươi dặm.

Đi cùng vua chúa quả có khác, chúng tôi được chăm sóc rất chu đáo và vương giả, khác hẳn với khi tôi đi cùng mẹ con Rajiva. Hàng ngày, Rajiva vẫn đều đặn đến lán

trại của tôi học bài sau giờ tụng kinh buổi chiều. Giờ đây tôi đã có sách trong tay, nên
bài giảng cũng ngày một trọn vẹn và sâu rộng hơn, tôi luôn mở rộng, bổ sung kiến thức mới cho Rajiva. Tôi thường vận dụng những câu chuyện lịch sử làm dẫn chứng minh họa cho những đạo lý sâu xa của cổ nhân, Rajiva rất hứng thú và luôn hết lời khen ngợi.

Vua Bạch Thuần đã có lần đến kiểm tra việc dạy học của tôi, tiếng Hán của ngài rất trôi chảy. Khi ấy tôi đang giảng sách Luận ngữ "Chương 9: Tử Hãn", Nhà vua chọn ra
một câu để thử tài tôi, câu đó là: "Tử viết: Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã".

Câu này vốn rất dễ lý giải, tôi suy nghĩ một lát, đáp:

- Khổng Tử than phiền rằng con người coi trọng sắc dục hơn đức hạnh. Thế nhưng
người ta ai nấy đều ham muốn sắc dục, bởi vậy háo sắc là biểu hiện chân thực của bản tính con người. Giữa con người và sắc đẹp có sự lôi cuốn rất tự nhiên, khó lí giải nhưng vô cùng mãnh liệt. Cáo Tử từng nói: "Nhu cầu ăn uống và sắc dục thuộc về bản năng tự nhiên của con người". Nhưng đức hạnh thì không phải. Người ta, nếu có coi trọng đức hạnh thì cũng không xuất phát từ nhu cầu tự thân giống như ham muốn mỹ sắc. Người xưa đã vậy, người nay vẫn thế.

Tôi ngừng lại, Bạch Thuần không nói gì, nhưng tôi luôn có cảm giác ánh mắt ngài nhìn tôi không mấy thiện cảm. Cũng tại tôi ruột để ngoài da, chẳng suy nghĩ thấu đáo, cứ thật thà phát biểu: háo sắc là thiên tính của con người. Vì sao tôi không kịp nhớ
rằng, xưa nay các vị hoàng đế vốn thích hô khẩu hiệu to tát và ưa thể diện kia chứ?

Do đó, tôi vội vã bổ sung:

- Nhưng chữ "sắc" ở đây không hoàn toàn là mỹ sắc, mà chỉ tất cả những thứ đẹp
đẽ. Và "đức" cũng là một trong số những thứ đẹp đẽ đó. Người coi trọng đức hạnh ngang với coi trọng cái đẹp được gọi là quân tử. Sở dĩ Khổng Tử than phiền như vậy là vì bao năm lênh đênh, chu du khắp thiên hạ, ghé qua hầu hết các nước chư hầu, vậy mà ngài vẫn bơ vơ như kẻ không nhà, chỉ vì chưa gặp được vị quân vương nào xem trọng người tài đức như xem trọng sắc đẹp. Nhưng nếu ngài còn sống đến ngày nay, gặp được vị vua anh minh hiếu đức như đức vua đây, hẳn ngài sẽ không còn phải
thở dài buông lời cảm thán như vậy!

Biểu cảm trên gương mặt Bạch Thuần vẫn không hề thay đổi, tôi hoang mang

không biết "nịnh bợ" kiểu đó có chút hiệu quả nào không? "Làm bạn với vua như
chơi với hổ", người xưa nói quả không sai! Ông ta mới là vua của một tiểu quốc Tây Vực xa xôi mà đã vậy, nếu là Tần Hoàng Hán Vũ thì còn đáng sợ đến thế nào? Chỉ cần khiến các ngài không vui là mất đầu như chơi. Chợt như có một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, tôi chỉ dám hé mắt nhìn trộm ngài. Bạch Thuần không thèm đếm xỉa đến tôi, ngài nói vài câu với Rajiva bằng tiếng Tochari rồi bước ra ngoài.

Ngày hôm sau, ngài nói về tôi trước mặt hai mẹ con Rajiva, rằng:

- Cô giái này còn quá trẻ, thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu tư chất của một người
thầy.

Tôi giận quá định bỏ đi. Ông ta tưởng tôi không hiểu tiếng Tochari chắc, hay ông ta vốn chẳng thèm quan tâm tới tôi có hiểu hay không? Chắc chắn là tại điệu cười ngu ngốc đó, như vậy chứng tỏ trò nịnh bợ của tôi ngày hôm qua đã tìm nhầm đối tượng rồi! Không biết tôi đã nói điều gì khiến ông ta phật ý? Ông ta bảo sau khi về Khâu Từ sẽ tìm thầy dạy khác cho Rajiva, còn nói ở Khâu Từ có rất nhiều giáo viên người Hán tài giỏi, kiến thức uyên thâm. Rajiva cảm ơn và từ chối khéo léo, ca ngợi tôi là giáo viên giỏi nhất mà cậu từng gặp, khen tôi là người làu thông kim cổ, tỉ mỉ, tận tâm. Quả không làm tôi thất vọng. Bạch Thuần hết cách đành quay sang thuyết phục Jiva, nhưng ni cô xinh đẹp nói, bà tôn trọng ý muốn của Rajiva.

Jiva quả là người mẹ tuyệt vời, chả trách lúc nào Rajiva cũng yêu kính bà! Bạch Thuần cố nhiên là không vui, tôi biết ý nên vội vã cúi đầu, vờ như không nghe thấy gì.

Chúng tôi tiếp tục vượt qua Bái Thành, trước mắt không còn là sa mạc mênh mông hoang vắng nữa. Những hẻm núi đủ mọi dáng vẻ nối tiếp nhau dằng dặc, không bóng một lùm cây, dưới ánh mặt trời, khung cảnh hiện ra hùng vĩ hệt như hẻm núi Grand trên vùng Colorado của nước Mỹ. Chúng tôi bắt đầu tiến vào vùng núi thuộc dãy Thiên Sơn. Rajiva cho tôi biết, vượt qua những hẻm núi kỳ vĩ này, đi thêm hai mươi dặm sa mạc nữa là đến biên giới Khâu Từ.

Một dòng sông nhỏ xuất hiện giữa những khe núi hiểm trở. Có sông có nước là sẽ có ốc đảo. Hai bên bờ là vách núi cheo leo, nơi đây vốn là huyết mạch quan trọng của con đường tơ lụa. Thấp thoáng vài hộ nông dân và nhà trọ. Rajiva nói với tôi, sông này là sông Muzat, còn núi này là núi Karadag. Tôi thấy những tên gọi này rất quen

thuộc. Nơi đây cách Khâu Từ những mấy chục dặm, không biết điều gì khiến tôi có
cảm giác quen thuộc đến vậy? Tôi nhìn lại một lượt khung cảnh núi non trùng điệp, sông suối lượn quanh, ốc đảo xanh tươi với hai bên là vách núi dựng đứng này, một địa danh chợt lóe lên trong đầu tôi: Thiên Phật động Kizil.

- Rajiva, Thiên Phật động Kizil ở đây phải không? Đưa tôi đi xem có được không?

Tôi sung sướng tột độ. Thiên Phật động Kizil là quần thể hang đá nằm ở cực Tây,
được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc. Giá trị to lớn của di tích này nằm ở các bức bích họa, vẻ đẹp của nó có thể sánh ngang với các bức bích họa ở Đôn Hoàng. Về mặt thời gian thì những bức bích họa này còn ra đời trước các bức bích họa ở Đôn Hoàng hơn hai thế kỷ. Phong cách nghệ thuật đậm màu sắc tín ngưỡng Phật giáo Đại Thừa, là đặc trưng của nghệ thuật Khâu Từ, là nguồn tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về quốc gia này. Tiếc thay, về sau, những người Ujur theo tín ngưỡng Hồi giáo đã phá hoại nghiêm trọng công trình này. Thêm vào đó, khoảng thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học về phương Đông người Đức, A. Von Le Coq cũng đã đến đây và lấy đi không ít hiện vật quý giá. Nếu tôi được tận mắt ngắm nhìn công trình đồ sộ này khi nó còn
nguyên vẹn và phác thảo lại, sẽ có giá trị biết bao!

- Thiên Phật động Kizil nào vậy?

Dường như cậu ta không hiểu. Có lẽ vì Kizil là tiếng Duy Ngôn Nhĩ (Uygur) và vào
thời gian này, thì vẫn chưa xuất hiện tên gọi Thiên Phật động Kizil.

- Đó là ngôi chùa kiểu kiến trúc hang đá được xây dựng trên vách núi, bên trong có rất nhiều tranh bích họa và những hang đá kéo dài hàng ngàn dặm, chạy suốt dọc vách núi Karadag.

Hai mắt sáng lên, tôi xúc động mô tả cho cậu ta nghe, nhưng Kumarajiva dường như vẫn không hiểu gì cả. Cậu ta đưa mắt quan sát một lượt khung cảnh trước mặt rồi
dừng lại ở dãy núi đối diện:

- Ngải Tình, ở đây không có hang đá nào như cô vừa nói.

Lẽ nào tại thời điểm này, Thiên Phật động Kizil vẫn chưa được xây dựng? Tài liệu
lịch sử ghi lại rằng công trình này được khởi công vào khoảng thế kỷ thứ III, thứ IV sau Công nguyên, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, công việc xây dựng chậm lại và ngừng

hẳn. Cho nên, thời điểm khởi công là thời gian này mới phải chứ?

- Ngải Tình.

Rajiva đột nhiên ngước đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi.

- Vì sao cô biết một ngôi chùa như thế sẽ được xây dựng ở đây?

Tôi sợ toát mồ hôi. Đúng rồi, sao tôi lại biết được? Thiên Phật động này được xây
dựng sớm nhất ở Trung Quốc và bây giờ nó còn chưa ra đời kia mà!

- Tôi...

Tôi cười ha ha kéo dài thời gian, rồi chỉ tay về phía con đường uốn lượn ngoằn
ngoèo giữa những khe núi hẹp và nói:

- Tôi nghĩ rằng đây là nơi mà các lái buôn nhất định phải đi qua. Những nhà buôn đi trên con đường tơ lụa gặp rất nhiều rủi ro, nguy hiểm, nào là thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đạo tặc hoành hành. Nguy cơ trắng tay, thậm chí mất mạng là rất lớn. Bởi vậy họ cần Phật pháp như một nơi nương tựa về tinh thần, ban cho họ sự bình an. Nếu xây chùa ở đây, những thương nhân đó chắc chắn sẽ ghé qua cầu xin
thần Phật phù hộ. Vả lại, nơi này thanh vắng yên tĩnh, rất phù hợp để tu hành.

Niềm vui ngời ngời hiện lên trên khuôn mặt Rajiva, ánh mắt cậu ta mỗi lúc một long lanh rạng rỡ, tôi thở phào nhẹ nhõm. Quý Tiễn Lâm từng nói rằng, nhà buôn và Phật giáo có mối quan hệ hết sức mật thiết. Các khoản quyên tặng và lễ vật cúng bái của nhà chùa chủ yếu dựa vào các thương nhân. Đây chính là lý do vì sao các ngôi chùa và thiền viện Phật giáo hầu hết được xây dựng dọc theo con đường tơ lụa. Và Phật giáo cũng nhờ con đường này, từng bước được truyền bá vào Trung Nguyên. Nên lí do mà tôi đưa ra hoàn toàn hợp lý.

Tôi quan sát những vách núi cao vút bốn xung quanh, lắc đầu ảo não:

- Còn vì sao phải khai mở động đá. Là vì nơi đây là hẻm núi, cây cối không nhiều,
nếu muốn xây chùa bằng gỗ thì phải vận chuyển từ nơi khác đến, sẽ rất tốn kém, hơn nữa, công trình sử dụng chất liệu gỗ rất khó bảo tồn, vì vậy, xây chùa hang đá trên

vách núi là hợp lý nhất.

Rajiva gật đầu tán đồng:

- Chùa hang đá mà cô miêu tả rất giống với kiến trúc chùa chiền ở Ấn Độ và
Kabul. Ở những nơi đó, họ xây chùa trên vách núi vì những con đường huyết mạch đều là đường qua núi.

Trầm tư một lát, cậu ta quay lại, hỏi tôi:

- Nhưng sao cô lại gọi ngôi chùa này là Kizil?

Tôi há hốc miệng, cậu ta vẫn chưa hết nghi vấn à? Tên ranh này sao mà thông
minh thế không biết!

- Kizil, Kizil...

Tôi lẩm bẩm đọc đi đọc lại cái tên này, vừa đọc vừa suy nghĩ.

- Đây là từ địa phương, ở nơi tôi sinh sống, Kizil có nghĩa là hang đá.

May quá, tôi nhanh trí viện ra cái cớ này để lòe cậu ta vì dù gì cậu ta cũng là người
nước ngoài.

Cậu ta nhìn tôi rất lâu, đúng vào lúc tôi bắt đầu lung lay vì lời nới dối của mình, thì
đột nhiên cậu ta tươi cười gật đầu:

- Ngải Tình nói rất có lý!

Cậu ta ngừng lại, suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp:

- Vậy theo cô, ngôi chùa hang đá này nên thiết kế ra sao để thể hiện được sự uy
nghi của Phật pháp?

- Cái đó...

Đâm lao phải theo lao thôi, nếu tôi không nói, chỉ e ngày sau, Thiên Phật động này
sẽ biến dạng. Tôi ngập ngừng hồi lâu, nhưng sau đó vẫn quyết định trình bày hết suy
nghĩ của mình:

- Trước tiên cần khai mở một động đá trong núi, ở giữa dựng các cột trụ, đặt tượng Phật vào các hốc tường phía trước cột trụ, đường hành lang bên trái và gian buồng phía sau sẽ vẽ các bức bích họa kể câu chuyện của Phật tổ và các truyền nhân của ngài. Như vậy, tăng ni Phật tử có thể bái Phật ở gian chính, sau đó vòng qua hành lang bên phải đi về phía buồng sau để ngắm nhìn các tượng Phật ở tư thế nằm trên cõi Niết Bàn, cuối cùng, quay lại gian thờ chính, ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng những bức tranh thuyết pháp của Di Lặc, Bồ Tát ở phía trên cửa ra vào hang đá. Các bức bích họa sẽ được vẽ trong khung hình thoi, với ý nghĩa là núi Tu Di (Sumeru), hình vẽ bên trong kể về câu chuyện của Phật tổ và luật nhân quả.

Nhìn vẻ mặt chất đầy nghi vấn của Rajiva, tôi hết sức lo lắng, tôi tiếp tục lục lọi
trong trí nhớ để tìm kiếm những tài liệu về Thiên Phật động Kizil:

- À, còn nữa, phải xây các phòng nhỏ làm nơi tọa thiền cho các tăng sĩ, những phòng đá nhỏ này thì không cần trang trí bích họa, có thể thiết kế theo kiến trúc phòng ở gắn liền với lối đi. Phòng đá nhỏ dành cho tăng sĩ và hang đá chứa bích họa có thể đặt cạnh nhau, tạo nên một quần thể thống nhất, đó chính là một ngôi chùa Phật giáo.

- Ngải Tình, cô từng đến Ấn Độ và Kabul, đúng không?

- Hả?

Đúng là tôi đã từng đến Ấn Độ, nhưng tình hình chính trị ở Kabul, tức vùng
Peshawa thuộc Kashmir ngày nay hết sức phức tạp, nên tôi chưa có cơ hội đến đó. Kabul là thành phố cổ đại nổi tiếng nằm trên con đường giao nhau giữa vùng Nam và Trung Á, là thủ đô của vương triều Kushan do đức vua Kanishka lập nên, là khởi nguồn của nghệ thuật Phật giáo Gandhara và là vùng thánh địa mà tôi mơ ước được đến thăm từ lâu.

Nhưng vấn đề nan giải hiện nay là tôi phải tiếp tục nói dối như thế nào đây? Rõ ràng, mô hình kiến trúc tôi vừa miêu tả không hề có tại Trung Nguyên và thậm chí ngay ở Tây Vực cũng chưa từng có. Nhưng nếu tôi nói rằng tôi từng đến đó, chắc chắn

tôi sẽ bị lật tẩy. Cha cậu ta là người Ấn Độ, bản thân cậu ta đã từng sống ở Kabul mấy
năm trời.

- Tôi... Là vì... Tôi tình cờ gặp một nhà sư người Ấn Độ, ông ấy đã nói với tôi...

- Ngải Tình hiểu tiếng Phạn từ khi nào vậy

Cậu ta ngắt lời tôi, ánh mắt sắc như dao đang nhìn xoáy vào tôi khiến tôi không
biết lẩn trốn vào đâu.

- Tôi...

Người ta nói quả không sai: nói dối một lần thì dễ nhưng để duy trì lời nói dối ấy,
bạn phải nghĩ ra thêm nhiều lời nói dối khác và đến sau cùng bạn vẫn cứ bị lật tẩy.

- Ngải Tình, cô chẳng biết nói dối gì cả!

- Tôi...

Thế là tôi đã bị lộ. Sao khi nãy tôi liều lĩnh như vậy, thốt ra những lời bịa đặt
không chút suy nghĩ.

- Rốt cuộc cô là ai?

Lại một câu hỏi gai góc nữa, đầu óc tôi chao đảo.

- Tôi...

Tôi đã quên mất rằng tên ranh này từng đánh bại nhà biện kinh vô địch Tây Vực.
Nếu cậu ta tiếp tục chất vấn, bí mật của tôi chắc chắn không thể giữ được nữa!

- Thôi được rồi, cô đừng lo lắng.

Nhìn gương mặt đỏ bừng của tôi, cậu ta bỗng bật cười:

- Nếu cô không muốn nói, tôi không ép buộc. Tôi sẽ thuyết phục đức vua xây
dựng chùa hang đá này khi về đến Khâu Từ, sẽ đặt tên là Thiên Phật động Kizil. Và tất nhiên sẽ xây dựng theo thiết kế cô vừa nói.

Cậu ta nhìn tôi, đôi mắt tinh anh tỏa sáng, lắc đầu và cười:

- Ngải Tình, cô có biết điệu bộ ngơ ngác của cô khi nãy rất dễ thương không? Bất
kể cô từ đâu đến, cô là cô gái thông minh xinh đẹp nhất mà Rajiva từng gặp.

Hai má tôi đã bớt nóng, nhưng miệng tôi vẫn chưa khép lại. Thật không thể tin được, Thiên Phật động Kizil đã được xây dựng như thế đấy! Tôi đập khẽ vào miệng mình tự trừng phạt và dặn lòng từ nay sẽ cấm nói năng lung tung. Tôi làm sao mà
gánh nổi tội danh làm rối loạn lịch sử kia chứ!

Quay đầu lại và phát hiện hành động tự phạt vừa rồi đã lọt vào mắt Rajiva, đen đủi thế không biết! Cậu ta không nói gì, nhưng ánh mắt nhìn tôi như đang nghiên cứu lại như đang dò la. Kể từ lúc ấy, tôi luôn nhắc nhở mình không được nhiều lời.

Cuối cùng, chúng tôi đã đến được Khâu Từ. Đội ngũ nghênh tiếp lần này còn long trọng hơn cả khi ở Wensu, từ xa đã văng vẳng tiếng nhạc mừng réo rắt. Những lán trại chạy dài hàng mấy trăm mét trước cổng thành. Phía trước mỗi lán trại đều có các tăng sĩ với trang phục của các cao tăng hướng về phía chúng tôi hành lễ. Rajiva và Jiva lập tức xuống ngựa, cung kính chắp tay tạ lễ với các cao tăng đó. Tôi chỉ để tâm đến những pho tượng Phật dựng bên trong các lán trại, giá như có thể bảo tồn đến thời
hiện đại thì tốt biết bao!

Dẫn đầu đoàn nghênh tiếp là một phụ nữ trung tuổi, thân hình béo tốt, khoác trên mình bộ trang phục quyền quý với váy dài thêu kim tuyến tay lỡ, chắc chắn là hoàng hậu! Đám phụ nữ và trẻ nhỏ ăn mặc cầu kỳ quý phái phía sau hẳn là các phi tần, hoàng tử và công chúa. Tiếp đó là đến các quan văn quan võ, hàng trăm con người cung kính hành lễ với đức vua Bạch Thuần, không khí hết sức trang nghiêm. Chỉ trong phút chốc tôi đã được diện kiến toàn bộ giới quý tộc và hoàng thất Khâu Từ, tôi ước sao có cái máy ảnh ở đây để ghi lại khung cảnh cảm động này.

Hoàng hậu ôm chầm lấy Jiva và Rajiva, xúc động bật khóc nức nở. Mẹ con Jiva mắt đỏ hoe, họ đang cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến một người trong đám quý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn những người Khâu

Từ khác.

Đó là một người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất cao, thân hình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt to sâu trũng in giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái toát lên vẻ thông thái và nhân hậu. Ông không thả tóc ngang vai như người Khâu Từ, mái tóc ông cắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở hiện đại nhưng đã lốm đốm sợi bạc. Dù ông đang mặc trên mình trang phục của người Khâu Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận ra ông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ "đẹp trai" để miêu tả về ông thì thiệt thòi cho ông quá! Điều đáng nói ở đây là khí chất thoát tục ở ông, đó là thứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt giữa hàng trăm con người, khiến người khác phải chú ý và khi đã chú ý đến ông rồi thì khó mà dứt được ánh nhìn để chuyển hướng đi chỗ khác.

Ông dắt theo một cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da trắng ngần giống người Khâu Từ và những đường nét trên khuôn mặt thì giống hệt Rajiva, nhưng dễ thương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy đang bận ngó nghiêng khắp nơi, khi thấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm chú nhìn tôi mãi. Tôi cười với cậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu bé giật mình, vội vã quay mặt đi.

Không nghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana, người đã từng từ bỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở phía đông để đến đất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư, là cha của Kumarajiva và là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy làm chồng. Cậu bé có khuôn mặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em trai của cậu, tôi không nhớ tên cậu bé là gì. Trong "Truyện cao tăng", Tuệ Giảo chỉ ghi lại một cái tên, tức là trong sự phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn tại vì là em trai của Kumarajiva.

Hoàng hậu đã ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana, Jiva chắp tay hành lễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn ngập đầy trong đôi mắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn ôm bà vào lòng, nhưng ông chỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ. Chú bé tinh nghịch không cần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm lấy mẹ kêu khóc thảm thiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan chứa. Rajiva quỳ lạy cha, nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ đều rất xúc động, họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn.

Nghi lễ đón tiếp đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép đức vua

được đưa vợ con về phủ, Jiva không phản đối, có lẽ vì bà cũng rất nhớ con. Thế là tôi
cùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.

Tôi đã tìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng Phạn, vậy là lại có thêm một cái tên khó đọc nữa.

----------------

Chương 11: Tôi có thêm học sinh 

Jiva và Rajiva chỉ ở lại nhà ba ngày, rồi chuyển đến chùa Vương Tân (chùa Tsioli).
Đó là ngôi chùa của hoàng gia, tọa lạc trên khu đất phía Tây hoàng cung, cách phủ quốc sư chừng mười lăm phút đi bộ. Trước khi chuyển đi, Rajiva đã sắp xếp chu đáo mọi việc: Vì tôi là cô giáo của cậu nên vẫn được ở lại trong phủ. Hàng ngày cậu sẽ về nhà sau giờ tụng kinh buổi chiều để học bài.

Kế hoạch đến Trung Nguyên phải hoãn lại, vì hiện nay đang là mùa đông, tuyết rơi dày đặc, đóng băng trên mọi ngả đường, các đội lái buôn đã tạm dừng hành trình. Nếu muốn đi, phải chờ đến mùa xuân năm sau. Vả lại, tôi cũng không vội vàng gì. Vừa mới chân ướt chân ráo đến Khâu Từ, tôi còn chưa bắt đầu công việc khảo sát của mình, mà tiếng Tochari tôi cũng chưa học ra ngô ra khoai gì cả. Có người chịu cấp
cho tôi nơi ăn chốn ở tử tế, không có lý gì tôi lại từ chối công việc dạy học này.

Chủ nhà, Kumarayana hiếu khách và rất đôn hậu, lúc nào ông cũng ân cần, chu đáo với tôi. Ông nho nhã, lịch thiệp giống hệt giáo sư ở các trường đại học vậy. Giá như trường tôi có một giảng viên như ông, chắc chắn toàn thể học sinh nữ của trường sẽ đua nhau đăng ký môn ông giảng dạy, lớp học sẽ không có chỗ ngồi, thậm chí, hành lang cũng chật cứng ấy chứ. Nếu ông dạy tiếng Phạn, thầy Quý sẽ không còn phải rầu rĩ than phiền vì không có sinh viên nào chịu theo học ngôn ngữ này nữa. Kumarayana hoàn toàn tin tưởng ở tôi, ông không bao giờ gặng hỏi tôi về phương pháp lên lớp. Và sau khi nghe Rajiva tán dương tôi, ông còn đề nghị tôi tiếp nhận thêm một học sinh nữa.

Tôi đã kịp dạo quanh mấy vòng thành cổ Khâu Từ. Quốc gia này có ba tòa thành quách rộng lớn, được canh phòng nghiêm ngặt. Chính giữa là cung điện nguy nga tráng lệ. Diện tích tòa thành lớn gấp năm, sáu lần tòa thành Wensu mà tôi từng khảo sát. Tín ngưỡng Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt ở nơi đây. Đến đâu cũng bắt gặp

đền chùa, miếu mạo hoặc to hoặc nhỏ được xây lên với mật độ dày đặc.

Khâu Từ dựa lưng vào núi Thiên Sơn ở phía bắc, được xem là quốc gia có nguồn nước dồi dào nhất Tây Vực, vì vậy trồng trọt và chăn nuôi rất phát triển. Núi Thiên Sơn lại dồi dào khoáng sản, có thể cung cấp cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Thêm vào đó, Khâu Từ nằm trên giao lộ của con đường tơ lụa, thương nghiệp phát triển kèm theo sự phát triển rực rỡ của thủ công nghiệp. Vì vậy, Khâu Từ là quốc gia giàu có nhất ở Tây Vực.

Mỗi ngày, từng đoàn ngựa thồ tơ lụa lũ lượt qua lại trên những trục đường chính, cảnh buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các thương lái diễn ra cực kỳ tấp nập, ngựa xe như nước như nêm. Cả thành phố hệt như buổi triển lãm của các sắc tộc: Người Yue Zhi, Wusun, Hung Nô, Turk, Sienpi, Joujan, Mông Cổ, Ba Tư, Iran, Ấn Độ, thậm chí cả những người thuộc chủng tộc người châu Âu hiện đại như: Hy Lạp và Roma và rất nhiều người Hán. Mỗi lúc bước chân ra phố, tôi đều dừng lại, mê mải ngắm nhìn dòng người đủ mọi màu da và trang phục đi qua đi lại trước mặt. Chỉ đến khi cậu học trò mới đang dắt tay tôi đi bên cạnh vác bộ mặt khinh khỉnh nhìn lên, tôi mới cất bước đi tiếp trong sự nuối tiếc.

Nhắc đến cậu học trò mới này mới nhớ, cậu ta chính là vấn đề khiến tôi đau đầu nhất hiện nay.

Một chú nhóc trắng trẻo, cực kỳ đáng yêu đang say sưa cầm bút chì vẽ nguệch ngoạc lên tập giấy nháp của tôi, sau đó dùng cục tẩy xóa đi rồi lại tiếp tục vẽ. Cậu nhóc coi dụng cụ học tập có thể sử dụng nhiều lần này của tôi là thứ đồ chơi hấp dẫn nhất, cứ miệt mài vẽ vẽ xóa xóa cả ngày không chán.

Tôi đứng bên, lòng đau như cắt:

- Cậu nhỏ ơi, ông nhỏ ơi, quỷ sứ ơi! Cậu nghĩ nhà tôi mở cửa hàng bán dụng cụ
học tập chắc? Cục tẩy chỉ còn một nửa, bút chì cũng chỉ còn nửa cây, lại mất oan thêm ba trang giấy nữa rồi. Cậu có biết những thứ này đều là tài nguyên không thể tái sinh không? Cậu dùng hết của tôi như thế, ở cái thời đại này, cậu đi đâu mà mua đền cho
tôi đây hả?

Thực ra trong túi tôi vẫn còn, nhưng ai mà biết được tôi phải ở lại đây bao lâu nữa, thế nên tôi không thể không tiết kiệm.

Cậu nhóc không thèm để ý đến lời van xin của tôi, vẫn tiếp tục vẽ. Mà cũng vì cậu
ta chưa hiểu tiếng Hán. Nhưng khi tờ giấy thứ tư "qua đời", tôi không thể nhẫn nhịn
thêm được nữa, liền quát to bằng tiếng Tochari:

- Đừng. .. vẽ. .. nữa!

Cái giọng nạt nộ sư tử Hà Đông của tôi chẳng ăn thua. Cậu nhóc ngước đôi mắt to
tròn, sáng long lanh nhìn tôi chớp chớp. Đôi mắt giống hệt Rajiva, đều thừa hưởng từ cha đôi đồng tử màu xám nhạt và mái tóc xoăn hung đỏ của mẹ. Đôi mắt ấy đảo qua
đảo lại vài lượt, rồi buông bút chì, trèo xuống ghế, lao thẳng vào lòng tôi:

- Thế thì chị hát cho em nghe đi!

Lại thế rồi! Lần trước Kumarayana có việc phải đi Gumo, mấy ngày liền không về,
đêm nào cậu nhóc cũng lẻn vào phòng tôi đòi ngủ cùng. Không muốn phí sức quát nạt, tôi đành hát một ca khúc thiếu nhi cho cậu ta nghe. Nào ngờ, kể từ hôm đó, ngày nào cậu nhóc cũng vòi tôi hát cho bằng được và còn yêu cầu không được hát trùng
bài. Thế là các ca khúc hiện đại của tôi trở thành nhạc ru. Xui xẻo đến thế là cùng!

Tôi thở dài, nhích sang bên, nhường nửa phần ghế cho cậu nhóc ngồi lên và tựa người vào lòng tôi. Vừa khe khẽ hát bài "Ngủ ngoan bé yêu" của Châu Hoa Kiện, vừa vỗ nhè nhẹ vào lưng cậu. Cậu nhóc nhắm tịt mắt lại, hai hàng lông mày dài và mượt
mà càng tôn thêm sống mũi cao thanh tú, rất đáng yêu!

Tôi có thể hiểu được vì sao cậu nhóc thích quấn tôi như vậy. Mẹ và anh trai đều phụng sự Phật tổ, cậu ta vừa lên sáu thì mẹ bỏ ra nước ngoài, bốn năm biền biệt, bặt vô âm tín. Vú già, người gần gũi nhất, chăm sóc cậu từ nhỏ đã qua đời mấy năm trước. Tuy trong nhà không ít người hầu và bảo mẫu, nhưng không ai có thể cho cậu ta tình yêu thương của người mẹ. Ở tuổi này, cậu nhóc rất cần có bạn, tuy hàng ngày vẫn vào cung học bài cùng các hoàng tử, nhưng về đến nhà, không ai chơi với cậu, nô đùa với cậu. Người anh hơn cậu ba tuổi thì trở nên già dặn từ rất sớm, mà bốn năm rồi họ không gặp nhau. Mỗi lần nhìn thấy Rajiva, cậu nhóc tỏ ra rất dè dặt.

Bởi vậy sự xuất hiện của tôi vừa đóng vai trò một người mẹ, vừa là bạn chơi đùa, vừa là đối tượng để ngày ngày cậu vòi vĩnh, nũng nịu. Những hành động nghịch ngợm của cậu chẳng qua là để thu hút sự chú ý của tôi, vì muốn được tôi quan tâm

hơn mà thôi. Nhưng như vậy thì khổ cho tôi quá! Mỗi ngày tôi phải diễn không biết
bao nhiêu vai: lúc đầu là quân lính dưới trướng của đại tướng quân, nghe tướng quân sai khiến vào báo cáo tình hình. Sau đó lại vờ giả giọng quân địch khiêu chiến với đại tướng quân. Và cuối cùng giả làm bại trận giương cờ trắng đầu hàng và xin tha mạng. Ngày ngày phải nô giỡn, chạy đuổi, chiến đấu với một cậu nhóc đang tuổi ăn tuổi lớn, khiến tôi mệt không thở nổi.

Khi làn điệu thương yêu, ru vỗ kết thúc, cũng là lúc cậu nhóc chìm vào giấc ngủ say sưa. Tôi ôm cậu đặt lên giường. Tay bóp vai, miệng khẽ lẩm bẩm: Nhóc nặng quá, lớn thêm chút nữa chắc chị bế không nổi. Mười tuổi rồi mà vẫn ham chơi như con nít ấy. Mới hát hết một bài mà đã say sưa ngủ.

Tuyết rơi không ngớt mấy ngày qua. Tôi là người vùng Giang Nam, nên mặc dù hiệu ứng nhà kính làm cả trái đất nóng lên, tôi vẫn rất ít khi được chứng kiến những trận tuyết lớn như thế này. Mấy ngày đầu tôi rất thích thú, còn hào hứng kéo Pusyseda cùng đi đắp người tuyết. Nhưng chẳng được bao lâu, tôi bắt đầu thấy chán, vì tuyết rơi quá dày mà tôi thì sợ lạnh. Nên từ hôm đó, tôi rất hạn chế ra khỏi phòng, công việc khảo sát cũng phải tạm gác lại một bên. May mà Rajiva mang đến cho tôi rất nhiều sách tiếng Hán: "Sử ký", "Tả truyện", "Lã thị xuân thu", "Chiến quốc sách", "Kinh thi",. .. những cuốn mà tôi đã đọc từ lâu. Và cả một số thư tịch vốn đã thất truyền như "Thạch thị tinh kinh".

Phòng đọc sách của gia đình Rajiva có rất nhiều kinh văn và tài liệu viết bằng các thứ tiếng: Phạn, Tochari, Brahmi, Kharosthi, với nội dung phong phú, đa dạng, đề cập đến hầu hết các lĩnh vực: thanh vận, ngữ văn, công nghệ, kỹ thuật, phương pháp tính lịch, y học, logic học, thiên văn học, nhạc luật và lịch pháp.

Tôi nhìn kho sách đồ sộ ấy mà thèm thuồng. Nếu như có thể đưa chúng về thời hiện đại, sẽ có giá trị nghiên cứu lớn lao đến nhường nào. Phần đông mọi người không thể mua nổi những thư tịch của thời đại này, vì mỗi cuốn sách có giá trị tương đương bằng một năm thu nhập của người dân. Đó là chưa kể những cuốn sách được viết trên lụa. Rồi những công văn của quan phủ, những khế ước mua bán, phần lớn đều được viết trên gỗ, vì giấy viết đắt hơn gỗ rất nhiều lần.

Nhìn bên ngoài, phủ quốc sư trông rất giản dị, cách bày trí cũng đơn giản, thì ra toàn bộ của cải giá trị nhất đều nằm trong căn phòng này.

Thế nên, mỗi ngày tôi đều đến và ngồi lì ở đây mấy tiếng đồng hồ, miệt mài chép
lại những tài liệu quý giá đó. Tôi từng nghĩ đến việc đi mua, nhưng ở đây có rất nhiều cuốn sách, mà dù có cầm bao nhiêu tiền ra phố cũng không thể mua được. Đó là những cuốn mà Kumarayana mang về từ Ấn Độ, hay những cuốn sách quý hiếm do sứ giả các nước lân bang dâng tặng vua Khâu Từ. Nếu tôi không thể mang đi, vậy thì chỉ còn cách chép lại. Do vậy, hơn mười ngày qua đi, với tôi không hề buồn tẻ.

Hàng ngày, mỗi khi về đến nhà, Rajiva vào chào cha, rồi đến chỗ tôi học bài, sau đó đến thư phòng đọc sách. Cậu ta lặng lẽ đọc sách, tôi lặng lẽ chép sách. Lúc về chùa, cậu thường mang theo cuốn sách còn đang đọc dở dang, nhưng hôm sau đã thấy cậu ta đổi lấy cuốn mới. Có hôm cậu về nhà khi giờ học của Pusyseda vẫn chưa kết thúc. Cậu lặng lẽ ngồi bên cạnh nghiên cứu trước bài học. Đến lúc tôi bắt đầu giờ dạy thì cậu đã thuộc làu những nội dung tôi sắp thuyết giảng, nhiều chỗ tôi đọc sai, cậu ta còn nhẹ nhàng nhắc nhở, khiến tôi toát cả mồ hôi. Cậu ta tưởng tôi là thiên tài chắc. Kiến thức lịch sử của năm ngàn năm chứ ít à, sai vài chỗ có sao đâu? Tôi tức quá cốc vào đầu cậu ta một cái, cảnh cáo cậu ta không được qua mặt giáo viên.

Đang vừa ôn lại những kỷ niệm làm gia sư trong hơn mười ngày qua ở phủ quốc sư, vừa kéo chăn lên đắp cho Pusyseda, chợt có cảm giác lành lạnh sau lưng, thì ra là Rajiva. Cậu vén tấm rèm chắn gió và đứng tựa lưng bên bậu cửa, nhìn tôi.

- Ủa, sao hôm nay cậu về sớm vậy?

Giờ tụng kinh buổi chiều của Rajiva bắt đầu từ bốn giờ và kết thúc lúc năm giờ. Vì
vậy, thông thường, khoảng sáu giờ cậu ta mới đến chỗ tôi học bài. Nhưng hôm nay năm giờ ba mươi phút đã có mặt. Bạn thắc mắc vì sao tôi nắm được giờ giấc chính xác như vậy ư? Vì chiếc đồng hồ vượt thời gian của tôi có cả chức năng báo giờ, có cả lịch âm, dương đối chiếu nữa, rất tiện dụng. Từ khi chức năng vượt thời gian bị hỏng, chiếc đồng hồ này chỉ có thể dùng để xem giờ. Nên tôi vẫn ngày ngày đeo nó trên tay, mọi người nhìn thấy cũng chỉ cho rằng đó là một chiếc vòng tay kì dị.

Còn điều này nữa tôi cần phải nói rõ. Múi giờ ở Tân Cương và Bắc Kinh chênh lệch nhau hai tiếng. Vì vậy, khi đi du lịch Tân Cương, tôi thường điều chỉnh thời gian theo giờ địa phương. Nếu không thời gian biểu hằng ngày của tôi sẽ trở nên rất quái dị vì: mười giờ sáng thức giấc, hai, ba giờ chiều ăn trưa, buổi tối chín giờ đèn vẫn sáng trưng, một giờ đêm mới đi ngủ. Dù sao thì 1650 năm trước, con người vẫn chưa có khái niệm về chênh lệch múi giờ, nên tôi đã điều chỉnh theo giờ ở Tân Cương thế kỷ

XXI.

- Tôi vào cung trò truyện với đức vua, sau đó về thẳng đây.

Cậu ta bước vào phòng, liếc nhìn Pusyseda đang ngủ trên giường, rồi đột nhiên nói
bằng tiếng Tochari:

- Đừng giả vờ nữa!

Pusyseda lập tức mở mắt, trườn xuống khỏi giường, khuôn mặt ửng đỏ, miệng lí
nhí:

- Anh trai!

Tôi trợn tròn mắt, thằng bé láu lỉnh này, dám giả vờ ngủ để được tôi bế lên giường.
Vẫn vẻ thản nhiên khi nãy, Rajiva nhắc nhở Pusyseda về phòng đi ngủ. Pusyseda sợ anh trai hơn cả cha, nên vội vàng lủi ngay.

- Cậu ấy còn nhỏ, không nên nghiêm khắc quá.

Bản năng người mẹ trong tôi chợt trào dâng, tôi chưa bao giờ nặng lời hay gay gắt
với Pusyseda.

- Bài hát khi nãy rất hay.

Cậu ta khéo léo đổi đề tài.

- Chỉ là mấy ca khúc thiếu nhi của người Hán thôi. Nhạc Khâu Từ chắc hay hơn
nhiều.

"Âm nhạc Khâu Từ nổi tiếng khắp vùng, ai nấy đều biết", đó là lời ca ngợi của Huyền Trang về âm nhạc Khâu Từ.

- Tôi chưa được nghe bao giờ.

Cậu ta ngập ngừng, một chút buồn vương trên đôi mắt.

- Cha mẹ tôi chưa bao giờ hát ru tôi như cô.

Tôi bật cười tưởng tượng cảnh Kumarayana và Jiva hát ru các con, có lẽ thay vì hát
họ sẽ tụng kinh.

Rajiva hơi ngạc nhiên khi thấy tôi cười. Tôi vội đề nghị:

- Cậu có muốn nghe không?

Cậu ta hơi do dự, không trả lời tôi, chỉ cúi đầu im lặng. Rồi như phải quyết tâm
lắn, cậu ta mới ngẩng đầu nhìn tôi gật mạnh một cái. Tôi thấy hơi lạ, chỉ nghe một bài hát thôi mà, việc gì phải đắn đo đến vậy? Tôi hát lại bài "Ngủ ngoan bé yêu". Rồi, tôi chợt nhớ đến trường đoạn Song Hye Kyo vừa sáng tác lời vừa tự biên tự diễn những điệu nhảy rất mắc cười trong phim "Ngôi nhà hạnh phúc". Điệu nhảy chẳng có gì là nghệ thuật, nhưng có tác dụng gây cười rất tốt. Thế là tôi ra sức bắt chước điệu nhảy đó. Tiểu hòa thượng đẹp trai trước mặt tôi đang cười rạng rỡ, đó là điệu cười thoải mái, vô lo vô nghĩ thường thấy ở một thiếu niên mười ba tuổi.

Tôi hát xong rồi mà cậu ta vẫn tiếp tục cười sảng khoái, nụ cười rất đẹp. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn Rajiva, muốn in lại hình ảnh trẻ trung đó trong trí nhớ. Suốt mấy ngày tôi hì hục vẽ Rajiva, vì tôi muốn đem hình cậu ta trở về thời hiện đại, để mọi người ở thế kỷ XXI được chiêm ngưỡng chân dung sống động của vị hòa thượng vĩ đại 1650 năm về trước. Nhưng tôi vốn không phải họa sĩ, tôi có thể phác thảo hình cắt ngang cắt dọc của vật thể, nhưng vẽ chân dung thì quả là trình độ còn hạn chế. Vẽ đi vẽ lại nhiều lần vẫn không ưng ý. Chưa nói đến thần thái thoát tục của cậu ấy, chỉ riêng ngoại hình của cậu ấy cũng chưa đạt nổi ba phần. Lúc này, tôi ước gì có một cây bút thần. Nụ
cười ấy, đẹp như tạc, nếu có thể họa lại, để lưu giữ đến ngàn sau, thì tuyệt biết bao!

Khuôn mặt Rajiva lại bắt đầu ửng đỏ, ánh mắt phiêu du xa xôi. Tôi chợt tỉnh cơn mơ, khi nãy chắc là tôi nhìn cậu ta chăm chú quá khiến cậu ta mất tự nhiên. Tôi vội
vàng tìm cách chuyển chủ đề:

- Này Rajiva, đức vua gặp cậu có việc gì thế?

Chương 12: Vì sao xuất gia? 

- Đức vua muốn tôi hoàn tục, trợ giúp ngài xử lý công việc triều chính.

- Cậu đã từ chối, đúng không?

Nếu không, chúng ta làm sao có được một dịch giả vĩ đại chứ!

- Sao cô biết được?

Rajiva nghiêng mắt nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.

- Vì cậu là Kumarajiva kia mà!

Nói như vậy thì chỉ người hiện đại mới hiểu được. Thế nên tôi vội vàng đổi giọng:

- Bởi vì, cậu không chỉ muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu hành sau
khi đã thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh giới cao nhất, mà cậu còn mong muốn cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh, tu thành chính quả, cứu giúp cuộc đời.

Trong những ngày lênh đênh trên sa mạc, chúng tôi từng thảo luận về lí tưởng. Khi ấy tôi vẫn chưa biết cậu ta là Kumarajiva, nên không dám mở lời. Nhưng giờ đây, tôi đã biết được thân phận thật sự của cậu ấy, lại đã từng đọc tài liệu về cậu ấy, nên tôi hiểu Rajiva đang trăn trở điều gì.

Tôi luôn cho rằng Phật giáo là một tôn giáo thú vị và các vị cao tăng tín Phật đều là những triết gia.

Trước khi viên tịch, Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mani) không để lại bất cứ kinh văn có tính chuẩn mực nào giống như "Kinh Thánh" của đạo Cơ đốc hay "Kinh Coran" của đạo Hồi và khi ấy, Phật giáo cũng mới chỉ là một chi phái nhỏ trong số rất nhiều tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Nhưng kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni, Phật giáo đã có những chi phái của mình, như chi phái do người em họ Devadatta của Đức Phật lập nên chẳng hạn.

Các đệ tử của Phật tổ cũng có những kiến giải không giống nhau về giáo lý Phật
giáo. Những người có tư tưởng khác biệt thường sẽ viết ra một bộ kinh văn và lập nên giáo phái của riêng mình. Bởi vậy, mấy ngàn năm qua, các tông phái Phật giáo ra đời như nấm sau mưa, tổng hợp các loại kinh văn từ những tông giáo này có thể phải mấy đời mới đọc hết. Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông là những nhánh chính, còn những nhánh nhỏ khác thì nhiều vô kể. Tiểu Thừa có Tuyết Sơn Bộ với thuyết "nhất thiết hữu bộ" (tất cả, quá khứ, hiện tại và tương lai đều hiện hữu đồng thời). Phật giáo Đại Thừa ở Trung Nguyên có Thiên Đài Tông, Tịnh Thổ Tông, Pháp Tướng Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông. Giáo phái Mật Tông Tây Tạng có: Gelugpa giáo, Nyingmapa giáo, Kagyur giáo, Sakya giáo, Hoàng giáo, Hồng giáo, Hoa giáo, Hắc giáo, nhiều đến nỗi hồi đi du lịch Tây Tạng, mặc dù đã đọc rất nhiều sách, tôi vẫn lơ mơ không hiểu gì hết.

Nói nhiều như thế là để giải thích vì sao Phật giáo lại có nhiều tông phái đến vậy.

Có thể thấy rằng, các vị cao tăng đều đắc đạo, sáng lập ra giáo phái riêng ấy đều là
những triết gia uyên bác. Phật giáo là tôn giáo có sức lôi cuốn mãnh liệt với những con người trí tuệ siêu việt này. Thử nghĩ xem, nếu bạn là người có trí tuệ vượt xa người bình thường, với tầm tư duy mà người bình thường không có được và trên cơ sở không đi ngược lại những giáo lý truyền thống, bằng con đường tôn giáo, bạn có thể phát biểu nhân sinh quan, thế giới quan hay những kiến giải uyên thâm của bạn về thế giới tinh thần, để được ngàn vạn người cảm phục, ngưỡng mộ và tin theo. Điều đó thật vĩ đại. Đối với các vị cao tăng, nếu có thể đem toàn bộ những kiến thức tích lũy một đời xây dựng lên những học thuyết, những giáo lý với quan điểm của riêng mình, rồi lập ra tông phái riêng, đó sẽ là thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực Phật học.

Rajiva thông minh trác tuyệt, lại giỏi tư duy, biện luận không khác một triết gia, chắc chắn cậu ấy cũng muốn được trở thành người cha tinh thần của vạn người, giác ngộ và dẫn dắt chúng sinh đến cảnh giới mà cậu cho là tuyệt đối. Tuy mới mười ba tuổi, nhưng tôi tin rằng, cậu đã sớm hình thành nhân sinh quan và thế giới quan đó từ lâu rồi.

Tôi cứ mải mê theo đuổi những suy nghĩ bất tận của mình mà không nhận ra không khí im lặng đã kéo dài từ nãy đến giờ. Thì ra Rajiva đang nhìn tôi chăm chú, khóe môi hơi run run, ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào tôi, đôi mắt ấy như đang thưởng thức, như đang xúc động và nhiều hơn cả là cảm giác như được an ủi bởi

vừa gặp được tri âm.

- Ngải Tình, Rajiva có phẩm hạnh gì mà được gặp cô giữa nhân gian rộng lớn này.

Tôi cười gượng gạo. Chẳng qua vì tôi đã đọc được những tài liệu viết về cậu ta, tôi
biết lúc đầu Rajiva theo học Phật giáo Tiểu Thừa nhưng sau đó đã chuyển sang Đại Thừa. Những gì tôi vừa nói chỉ là khái quát, tựu chung điểm khác biệt cơ bản giữa hai tông phái này mà thôi. Vả lại trước đó, Rajiva cũng từng thể hiện nỗi trăn trở, nên tôi có thể đoán được mối suy tư lúc này của cậu chính là vấn đề thay đổi tông phái.

- Ngải Tình, còn nhớ một buổi tối nọ trên sa mạc, cô từng hỏi tôi vì sao lại xuất gia
không?

Ánh mắt Rajiva bỏ tôi ở lại, để trôi về nơi xa xăm. Tôi xốc mình ngồi ngay ngắn, để có thể lắng nghe một cách nghiêm túc.

- Năm tôi lên bảy, mẹ tôi ra ngoại thành du ngoạn, thấy xác người đầy gò, xương trắng đầy đồng, bà nhận ra rằng, tham lam là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ. Dục vọng của con người khủng khiếp tựa ngọn lửa dưới địa ngục, ngọn lửa ấy sẽ thiêu đốt con người thành tro bụi, khiến con người phải phơi xác chốn đồng hoang. Bà không muốn phải chịu đựng những dày vò khốn khổ ấy thêm nữa, nên đã thề rằng: nếu không thể cắt tóc đi tu, bà sẽ không ăn uống gì hết. Cha tôi lúc đầu phản đối kịch liệt, nhưng mẹ đã quyết chí tuyệt thực. Cho đến buổi tối ngày thứ sáu, khi hơi thở của mẹ đã mỏng như làn gió, mà bà vẫn không chịu ăn uống. Cha tôi hoảng sợ, đành nhận lời với bà. Nhưng mẹ sợ cha đổi ý, đã yêu cầu phải để bà xuống tóc trước rồi mới chịu ăn. Ngày hôm sau bà thọ giới, ra khỏi nhà, chuyển đến tu tại chùa Tsio- li.

Truyện kể về Rajiva đã chép rất rõ ràng nguyên nhân Jiva xuất gia, nên tôi khẽ gật
đầu:

- Vì vậy, cậu đã theo mẹ xuất gia?

Rajiva lắc đầu, ánh mất dừng lại hồi lâu trên ngọn đèn dầu đang đu đưa trong gió,
dường như cậu đang nhớ lại điều gì.

- Sau khi mẹ xuất gia, vì quá nhớ thương bà, tôi thường xuyên đến chùa thăm mẹ. Khi bà và các vị đại sư tụng kinh, tôi ngồi bên cạnh lắng nghe. Không biết vì sao,

những kinh văn đó, tôi chỉ nghe một lần là thuộc làu làu, khiến ai nấy đều kinh ngạc.
Trong chùa có vị cao tăng Phật Đồ Thiệt Di hỏi tôi về ý nghĩa những bài kệ mà tôi thuộc, tôi đều trả lời lưu loát. Thầy khen tôi là nhân tài của Phật môn, nên đã trò chuyện với mẹ, bày tỏ mong muốn nhận tôi làm đệ tử.

Trí tuệ siêu phàm của Rajiva được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ. Trong truyện kể về cậu lúc bảy tuổi, đã miêu tả như sau: "Một ngày đọc thuộc năm nghìn bài kệ, mỗi bài ba mươi hai chữ, tổng cộng ba mươi hai nghìn chữ". Bạn thử nghĩ xem, một cậu bé mới bảy tuổi mà mỗi ngày có thể học thuộc ba mươi hai nghìn chữ, mà là những kinh văn khó hiểu, có lẽ chỉ có Albert Einstein hay Steven William Hawking mới có thể so sánh được. Tôi nghĩ rằng nếu để Rajiva đọc thuộc lòng số Pi, chắc chắn cậu ấy sẽ phá được kỷ lục Guiness.

- Mẹ hỏi tôi có bằng lòng xuất gia hay không. Tôi nghĩ rằng xuất gia thì sẽ được ở bên mẹ, nên đã đồng ý.

Tôi hơi sững sờ, nhưng cũng phải thôi, dù cậu ấy có thông minh bao nhiêu, cũng chỉ là một chú nhóc không hơn không kém, chú nhóc ấy không muốn xa mẹ. Lí do này, rất tự nhiên. Nhưng cuộc đời của Rajiva đã được quyết định bởi cái gật đầu năm bảy tuổi ấy.

Ánh mắt Rajiva rời khỏi ngọn đèn, trôi về phía tôi, vẻ băn khoăn lại hiện trên nét
mặt:

- Lần trước, khi cô hỏi tôi vì sao xuất gia, tôi mới nhận ra, tôi không biết phải trả lời thế nào. Vì muốn ở bên cạnh mẹ ư? Tôi đâu còn là đứa trẻ bảy tuổi. Thêm vài năm nữa, tôi sẽ thọ đại giới và chính thức bước vào cõi sắc sắc không không. Nhưng,
những ngày qua, hằng đêm tôi vẫn tự hỏi, rốt cuộc, tôi xuất gia vì điều gì?

- Cậu đã có câu trả lời chưa?

Tôi hơi tò mò.

- Trước đây, khi theo học Phật pháp, các thầy đều giảng rằng, bằng con đường tu
hành có thể tự giải thoát, thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa sân si, dục vọng và vươn đến cõi Niết Bàn. Khi ở Kabul, tôi theo đại sư Bandhudatta nghiên cứu Phật giáo Tiểu Thừa, tổng cộng có bốn triệu câu kinh giảng giải về phương pháp tu thành chính quả.

Nhưng...

Rajiva đứng lên, bước về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi là một dáng hình cô đơn, khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng đã toát lên thần thái của một bậc cao tăng.

- Trên đường trở về Khâu Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa mạc, đạo tặc hoành hành khắp nơi, người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm băn khoăn, tôi có thể đắc đạo thông qua con đường tu hành, nhưng những con người đó thì sao? Đám giặc cướp ấy vẫn ngang ngược làm càn, chúng sinh vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải
của sinh lão bệnh tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật pháp phỏng ích gì?

Tôi đứng lên, bước lại gần Rajiva, nhẹ nhàng lên tiếng:

- Tiểu Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo Đại
Thừa, cậu cảm thấy tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn. Địa Tạng Vương Bồ Tát từng nói: Khi nào địa ngục còn chưa vắng âm hồn, thề sẽ không thành Phật. Có phải cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều người chứ không chỉ cứu
rỗi bản thân?

Rajiva đột ngột quay lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.

- Đúng vậy. Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên tiếp xúc
với Phật giáo Đại Thừa, tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua, cùng cô thảo luận về Phật pháp, những kiến giải thâm thúy của cô về Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ, có điều...

Gương mặt thoáng chút ưu tư, giọng nói trở nên u uẩn:

- Có điều sau khi trở về Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa, các vị
sư phụ đều cho rằng đó là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi cảm thấy rất khổ tâm.

Tôi có thể hiểu được tâm trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng thịnh suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là một tông phái nhỏ bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi "xấu xa" của một bộ phận rất nhỏ các "tăng sĩ tích

cực". Vì vậy, có thể hiểu được Rajiva đã gặp phải sự kháng cự, phản đối mạnh mẽ đến
thế nào và nội tâm cậu đã phải đấu tranh, giằng xé ra sao.

- Rajiva, thực ra, Đại Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa, hai tông phái này không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng của bản thân, có thể đạt đến sự giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát triển và đổi thay. Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng trở nên rõ rệt.

Tôi bước đến bên cạnh Rajiva và nhìn cậu bằng sự chân thành lớn nhất mà tôi có:

- Phật giáo Tiểu Thừa đề cao "tự cứu độ", muốn được giải thoát, nhất thiết phải
xuất gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia sản xuất, không sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia sẽ không thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực thống trị phát sinh mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn đề đó.

Tôi ngẩng đầu, dõng dạc:

- Hơn nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc
kinh Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có thể thành Phật, tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có thể thành thân, tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không ngừng của nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.

Rajiva dường như đang nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không biết cậu ta hiểu được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên mối quan hệ giữa tôn giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ sung
thêm:

- Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần của rất nhiều người.

Với tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc
chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy về sau này cũng là tất yếu.

Rajiva ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:

- Vậy ở Trung Nguyên thì sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa
không?

Tôi cười:

- Điều ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở Trung
Nguyên từ đời này sang đời khác.

Quý Tiễn Lâm từng nói: "Thời gian phát triển hưng thịnh của một tôn giáo dài hay ngắn phụ thuộc vào mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng bình dân càng dễ được lòng quần chúng và như vậy sẽ càng được giai cấp thống trị ủng hộ. Giáo lý Tiểu Thừa đòi hỏi con người tu hành khắc khổ mà chưa chắc đã có thể thành Phật. Trong khi Phật giáo Đại Thừa, nhất là phái Thiền Tông đề xướng giác ngộ, "Icchantika (nhất xiền đề: chỉ hạng người thấp kém, thiếu thiện căn) cũng có Phật tính". Vì vậy, chỉ cần thành tâm khấn Phật, học Phật là có thể vứt bỏ đao kiếm, lập tức
thành Phật. Như thế thì thật thanh thản, thoải mái hơn sao!"

Rajiva dần trở nên tươi tỉnh hơn, vẻ kiên định toát ra từ vầng trán rộng. Hình như một quyết tâm mạnh mẽ đã được thiết lập.

- Mấy hôm trước, tại một điện thờ bỏ hoang trong chùa Tsio- li, tôi đã tình cờ lượm được một cuốn kinh thư, đó là kinh luận Đại Thừa. Tôi không cầm lòng được nên đã lén mở ra đọc. Nhưng vì lo ngại sẽ gây ảnh hưởng xấu đến những bài giảng và sự dạy dỗ của các sư phụ, tôi không dám nói cho ai biết tôi mong muốn được học theo giáo lý mới kia đến thế nào. Hôm nay, sau khi luận đàm với Ngải Tình, tôi đã biết mình phải làm gì. Khi trở về, tôi sẽ đọc lại cho các sư phụ và sư huynh cùng nghe. Và ngày sau sẽ truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa, cứu rỗi và phổ độ cho ngày càng nhiều chúng sinh thành Phật.

Cuốn sách mà cậu ta nhắc đến, tôi thấy rất quen.

- Rajiva, cuốn sách mà cậu tìm thấy đó có phải là cuốn "Kinh phóng quang"
không? Và có phải yêu ma đã vây lấy cậu, buộc cậu phải từ bỏ không?

Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết: "Khi Kumarajiva mở ra đọc cuốn "Kinh phóng quang", thì đột nhiên chữ viết trên thẻ gỗ biến mất. Đại sư biết đó là do yêu ma gây chuyện, nên quyết tâm đọc kinh càng lớn hơn. Thế là ma lực trở nên vô hiệu, chữ viết lập tức trở lại và đại sư tiếp tục nghiên cứu sách. Bỗng nhiên, trong không trung truyền đến một giọng nói: Ngươi là người tài trí, sao lại đọc Kinh phóng quang? Sư đáp: Đồ yêu ma quỷ quái, hãy xéo mau đi! Quyết tâm của ta lớn tựa đất này, không gì có thể lay chuyển được".

Tất nhiên là tôi không nghĩ cậu ấy thực sự gặp ma. Tôi tin rằng Tuệ Giảo viết lên câu chuyện ly kỳ này mục dích là muốn nhấn mạnh, Kumarajiva đã gặp phải những trở ngại tâm lý rất lớn khi quyết định thay đổi tông phái. Bởi vì, phải thay đổi tín ngưỡng mà xưa nay bản thân vẫn sùng bái và tin theo là một việc vô cùng đau khổ. Chắc chắn cậu ấy đã từng day dứt, do dự, thậm chí từng muốn bỏ cuộc. Những ràng buộc tâm lý bao giờ cũng là trở ngại lớn nhất và khó dứt bỏ nhất.

Cậu ta ngạc nhiên thốt lên:

- Kinh phóng quang?

Rồi đọc một lần tên cuốn sách bằng tiếng Phạn và gật đầu tán thưởng:

- Tên sách dịch rất hay. Đức Phật tỏa ánh hào quang, chiếu rọi đến chúng sinh.

Rajiva cân nhắc hồi lâu, rồi nói:

- Cuốn kinh này nói rằng, việc truyền bá đạo Phật nhằm giúp cho người mù thấy
được ánh sáng, người điếc nghe được âm thanh, người câm có được tiếng nói, người gù được thẳng lưng, khiến người ngông cuồng trở nên nghiêm chỉnh, người bối rối được yên lòng, người bệnh được chữa khỏi, người ốm yếu được khỏe mạnh, người già được trẻ lại, người rách nát được áo ấm. Phật pháp chiếu rọi, giúp cho chúng sinh được bình đẳng như nhau, cư xử với nhau như cha mẹ, như anh chị em ruột thịt. Đều có nghĩa là, mục đích của tu hành là nhằm cứu rỗi chúng sinh, chứ không đề cao cá nhân đắc đạo. Những giá trị sâu sắc này, bản thân tôi hết sức tán đồng.

Hai hàng lông mày của cậu ta khẽ chau lại:

- Nhưng, làm gì có ma quỷ nào quấy rối tôi?

Ánh mắt thoáng qua một nét cười, suy nghĩ một lát, lại tiếp tục giải thích:

- Nếu có, thì đó là những trở ngại tâm lý của chính tôi. Tôi không biết có nên học
theo giáo lý Đại Thừa hay không. Kể từ khi có được cuốn kinh này, tôi đã do dự không biết bao nhiêu lần, rốt cuộc có nên đọc hay không. Đọc xong lại do dự. Có nên truyền bá hay không? Những trở ngại đó, đến tận hôm nay mới được rũ bỏ triệt để.

Còn nhớ buổi tối hôm đó cô từng hỏi tôi, lí tưởng của cuộc đời tôi là gì không?

Hít một hơi thật sâu, rướn mình về phía trước:

- Đến nay, tôi đã có thể giống như cô, nói lên thật rõ ràng lí tưởng của mình.

Cậu ta ngừng lại một lát rồi cất giọng sang sảng:

- Truyền bá đạo Phật tại mọi nơi tôi đặt chân đến, lập ra luận thuyết mới, cứu rỗi
chúng sinh, đây chính là lí tưởng của cuộc đời tôi.

Rajiva trong tư thế ngẩng cao đầu, ánh đèn dầu leo lét không che nổi sự tự tin ngập tràn trên gương mặt cậu. Khí chất bất phàm này khiến tôi cứ ngắm nhìn mê mẩn. Sự tự tin và trí tuệ trác việt ấy tỏa sáng trên dáng hình một thiếu niên, tựa như tôi đang nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của tương lai, đó là thứ ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa xung thiên được đốt lên bằng tất cả nội lực sống, hào quang tỏa chiếu khắp nơi.

- Rất có chí khí!

Tôi ra sức vỗ tay, gật đầu và hô vang lời tán thưởng.

- Tôi rất khâm phục những người có lí tưởng, có hoài bão. Hãy tiến lên theo mục
tiêu đã định, chắc chắn cậu sẽ thành công.

Rajiva đột nhiên quay sang tôi, cung kính chắp tay cúi lạy, khiến tôi giật bắn cả
mình. Khi cậu ngẩng lên, tôi bắt gặp một khuôn mặt hao gầy hắt lên sắc đỏ, ánh mắt
chân thành và mãnh liệt:

- Ngải Tình, Phật tổ thương tình đã gửi đến cho tôi một người thầy thông thái như
cô để chỉ dẫn và khai mở đường đi cho Rajiva. Rajiva nguyện không phụ lòng cô!

Cậu ta chưa bao giờ tỏ ra cung kính như vậy đối với tôi. Một tia lửa nhỏ bất ngờ nhen nhóm trong tim tôi và nhanh như chớp, tỏa đi khắp cơ thể tôi. Trong vô thức, tôi
dùng tay làm quạt đón gió. Vì sao đang giữa đông mà trời lại oi bức như vậy?

Buổi tối hôm đó, sau khi kết thúc giờ học, lúc bước ra cửa, Rajiva ngó lên bầu trời
đầy sao, nói:

- Ngày mai sẽ có nắng.

Rồi quay đầu lại nhìn tôi, nụ cười tươi tắn như gió xuân:

- Ngải Tình, ngày mai tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.

----------------

Chương 13: Một ngày du ngoạn Khâu Từ 

Trong "Đại Đường Tây vực ký", Huyền Trang miêu tả về Khâu Từ như sau: "Nước
Khâu Từ, từ đông sang tây hơn một ngàn dặm, từ nam chí bắc hơn sáu trăm dặm,
thành quách đại đô có chu vi khoảng mười bảy, mười tám dặm."

Tôi đang đứng trên một đoạn tường thành, phóng tầm nhìn ra mãi xa. Thu vào trong tầm mắt là những ngọn núi trùng điệp nối tiếp nhau trên dãy Thiên Sơn, tuyết rơi trắng xóa. Dưới chân núi là hệ thống tưới tiêu và những thửa ruộng hình chữ điền vuông vức, rất quy củ, tuyết phủ trắng ruộng đồng, thản hoặc để lộ ra dưới ánh mặt trời đôi ba khoảng đất tối sẫm.

- Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới "được mùa tuyết" như vậy.

Rajiva ngắm nhìn núi Thiên Sơn phía xa xa, hơi thở theo thanh âm lan ra ngoài
không gian.

Tôi ngước đôi mắt băn khoăn nhìn Rajiva. Cậu mỉm cười giải thích:

- Khâu Từ vốn là vùng khô hạn, thiếu mưa quanh năm, nếu mùa đông giá lạnh, tuyết rơi nhiều, thì năm sau mới có đủ nước để trồng cấy.

Đúng vậy, nơi đây một năm cơ hồ chỉ được vài ba trận mưa, nguồn nước tưới tiêu chủ yếu dựa vào tuyết trên núi Thiên Sơn tan chảy tạo thành. Tuyết tan, tạo nên những dòng sông thời vụ, chỉ cần có sông thì sẽ có thể canh tác, trồng trọt. Những nơi không có nước sẽ bị hoang hóa, biến thành sa mạc, hoang mạc. Diện tích của các quốc gia ở Tây vực rất nhỏ cũng chính bởi nguyên nhân này.

Bỗng nhớ ra rằng, ở Khâu Từ hàng năm đều tổ chức lễ hội Su Mu Zhe (Tô Mạc Già), hay còn gọi lễ hội cầu lạnh. Vào ngày này, người dân Khâu Từ tổ chức các hoạt động nhằm cầu xin trời Phật ban cho mùa đông giá lạnh, tuyết lớn kéo dài. Thời nhà Đường, lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên, trở thành một trong những lễ hội quan trọng của vương triều này.

- Lễ hội cầu lạnh diễn ra vào thời gian nào trong năm?

Tôi thầm hứa với bản thân, nhất định phải xem ngày hội hiếm có này mới được.

- Đầu tháng Bảy hàng năm.

- Tuyệt vời! Tôi nhất định sẽ tham dự.

Tôi xoa xoa tay, đưa lên miệng hà hơi, rồi hướng mắt lên nhìn Rajiva.

- Cậu đi cùng tôi, được không?

Cậu ta hơi sững người, ngoảnh đầu nhìn Thiên Sơn, yên lặng hồi lâu. Sao thế nhỉ,
tham dự một lễ hội chứ có gì nghiêm trọng đâu mà phải suy tính lâu vậy. Không thích thì tôi rủ Pusyseda đi cùng.

- Ngải Tình, một trong mười điều cấm kị của Sa Di là phải tránh xa ca múa, lễ hội.
Tôi không được phép đi.

Ánh mắt không rời dãy Thiên Sơn, giọng nói khô khan, thoáng chút bất lực. Tôi sững người, chả trách tối qua chỉ nghe tôi hát một bài mà cậu ấy cũng phải hạ quyết
tâm đến vậy!

Nghĩ đến việc đã vô tình khiến cậu ấy phá giới, tôi cảm thấy rất áy náy.

- Xin lỗi, tôi không thuộc giới luật nhà Phật. Cậu nói cho tôi biết mười điều cấm kỵ
đó, từ nay tôi sẽ cẩn trọng hơn, không để cậu phải phá giới nữa.

Rajiva trầm ngâm, cúi xuống nhìn bàn chân hồi lâu, mãi mới khẽ khàng nói:

- Năm giới luật đầu tiên là: Không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không
uống rượu, không dâm dục.

Những giới luật này rất quen thuộc, tôi băn khoăn hỏi:

- Có phải là năm điều cấm kỵ đối với cư sĩ, những người tu tại gia không?

- Năm điều cấm kỵ dành cho những người tu tại gia chỉ khác những điều cấm kỵ
dành cho Sa Di ở một điểm.

Rajiva đột nhiên đỏ mặt, không biết có phải tại gió lạnh không? Cậu ta rảo bước đến một bờ tường thấp, tôi vội vã theo sau.

- Điều cấm kỵ thứ năm đối với cư sĩ là "không tà dâm", còn đối với Sa Di là "không dâm dục" - Rajiva không nhìn tôi, hai mắt dán chặt vào bờ tường.

Bây giờ thì tôi đã hiểu. Như vậy tức là các cư sĩ có thể kết hôn và "quan hệ" với người vợ hợp pháp của mình, còn Sa Di thì không được thực hiện hành vi đó với bất cứ ai trong bất cứ trường hợp nào. Gương mặt Rajiva đỏ như gấc, chắc là vì xấu hổ khi nhắc đến giới luật này. Tôi vội vàng hắng giọng, hỏi cậu ta năm điều cấm kỵ tiếp theo là gì.

Chúng tôi bước xuống tường thành và đi tiếp, Rajiva tiếp tục nói cho tôi nghe về
năm điều cấm kỵ còn lại.

Tránh xa giường to ghế rộng - nghĩa là không được ngồi lên những chiếc ghế hay giường vừa cao vừa to vừa được trang trí sơn son thếp bạc.

Tránh xa hoa thơm hương nồng - nghĩa là không được xức dầu thơm hoặc đeo những vòng hoa có mùi hương lên người. Đây hoàn toàn là thói quen của người Ấn Độ.

Tránh xa ca múa hội hè - nghĩa là không được xem biểu diễn ca múa nhạc. Điều này, khi nãy Rajiva đã giải thích với tôi.

Tránh xa của cải vật chất - điều này rất dễ hiểu, nghĩa là không được sở hữu vàng bạc châu báu.

Tránh xa bữa ăn khác giờ - nghĩa là phải tuân thủ giới luật không ăn uống sau giờ Ngọ. Điều cấm kỵ này tôi đã biết từ lâu và cũng đã được chứng kiến.

Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, chẳng bao lâu đã đến quảng trường rộng lớn bên ngoài cổng thành phía tây Khâu Từ. Những bức tượng Phật cao chừng bốn, năm mét tọa lạc dọc hai bên con đường hướng ra quảng trường, tạo cho cảnh quan vẻ uy nghiêm, trầm mặc. Giá như có thể bảo tồn đến thời hiện đại, chúng ta sẽ có một di tích lịch sử nguy nga đến nhường nào.

Rajiva cho tôi biết đây là nơi tổ chức một lễ hội lớn diễn ra năm năm một lần. Lễ hội lớn này vốn là phong tục của Phật giáo, được tổ chức năm năm một lần và được chủ trì bởi các quốc vương tại các quốc gia tín Phật. Đến lúc đó, không chỉ có các cao tăng ở khắp mọi nơi tụ hội về, mà khách thập phương cũng nô nức kéo đến. Trong thời gian diễn ra lễ hội, sẽ có rất nhiều các hoạt động như: giảng kinh, biện kinh, phát lộc, cúng dường Mọi chi phí đều cho quốc vương đài thọ.

Tôi đã hiểu, ở Trung Nguyên cũng có lễ hội tương tự, gọi là "lễ hội mở". Mở tức là không che đậy, không giấu giếm, dù là tăng ni Phật tử hay dân thường đều được đối xử bình đẳng như nhau.

Rajiva yên lặng đứng chờ tôi đo đạc và vẽ hình chiếu bằng khung cảnh quảng

trường. Tôi phác hoạ các bức tượng bằng hình chiếu đứng vì tài vẽ tranh của tôi rất
kém, tôi cũng không muốn Rajiva phải chờ lâu, thiết nghĩ, tôi sẽ còn quay lại đây nhiều lần và sẽ vẽ lại thật chi tiết. Rajiva dẫn tôi đi về phía tây bắc của quảng trường, có một dòng sông hẹp chảy qua, nhưng mặt sông đã đóng băng. Bên bờ đối diện là một ngôi chùa lớn, đồ sộ. Tôi muốn đến đó tham quan. Cây cầu bắc qua dòng sông nằm trên triền núi phía xa. Vì muốn tiết kiệm thời gian và sức lực, chúng tôi quyết định đi bộ qua sông băng.

Mặc dù lớp băng đã kết lại và rất cứng, nhưng tôi là người sinh ra và lớn lên ở phía nam sông Trường Giang, tôi không biết gì về kỹ năng trượt băng, hay đi trên tuyết dày vào mùa đông mà đứa trẻ phương bắc nào cũng thành thạo. Tôi sợ sệt, run rẩy, không dám đặt chân xuống mặt băng. Một bàn tay gầy guộc với những ngón dài thanh mảnh chìa ra trước mặt tôi, không kịp suy nghĩ gì, tôi vội vàng nắm chặt lấy. Bàn tay với hơi ấm mềm mại và một chút trơn ướt ấy thận trọng dắt tôi đi, hai mắt tôi mở to, nhìn trân trân xuống mặt băng dưới chân, lo sợ sẽ bị trôi tuột xuống một khe hở nào đó. Mãi mới sang được bờ bên kia, tôi thở phào nhẹ nhõm, định ngẩng lên nói lời cảm ơn với Rajiva, bỗng thấy trước mắt toàn là một vùng u tối với những chấm đen lốm đốm, khuôn mặt Rajiva cũng trở nên mờ ảo phía sau màn sương u ám đó.

Tôi gào lên:

- Rajiva, sao tôi không thấy cậu?

Chợt cảm thấy có một bàn tay che mắt tôi lại và một cánh tay khác vòng qua đỡ lấy
vai tôi, tôi nép vào một thân hình mảnh khảnh và được đưa đến một nơi có chỗ để ngồi xuống.

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

Hơi thở của Rajiva thổi vào tai tôi, cảm giác gai gai. Từ bé đến lớn, tôi sợ nhất là
người khác thổi vào tai, nên với phản xạ tự nhiên, tôi lập tức né đầu, không may lại va vào cằm của cậu ta. Hai chúng tôi cùng kêu lên một tiếng đau điếng.

- Có đau không?

- Có đau không?

Chúng tôi đồng thanh cất tiếng hỏi thăm người kia, tôi hơi bất ngờ, nhưng chẳng
muốn nghĩ nhiều, đưa tay lên day đi day lại phần đỉnh đầu vừa va chạm, miệng không ngừng xuýt xoa. Tôi đau dữ như vậy, Rajiva chắc cũng không dễ chịu gì, nhưng cậu ta không hề kêu đau, không biết đang nghĩ ngợi gì.

Một lúc sau mới lên tiếng:

- Lỗi ở tôi, lẽ ra nên nhắc cô đừng nhìn chăm chú xuống lớp băng ấy lâu quá.

Lại một hơi thở nhè nhẹ trôi vào tai tôi, nhưng lần này tôi không dám tránh. Tôi
hắng giọng xua đi hơi nóng đang bừng lên hai má.

- Rajiva, tôi sẽ không bị mù chứ?

- Không đâu.

Nói là không mà sao giọng cậu ta lại hơi run run. Tôi hoảng sợ, kéo tay áo Rajiva,
vội vàng hỏi:

Nếu tôi bị mù thì phải làm sao?

Bàn tay Rajiva vẫn che trên mắt tôi, cánh tay còn lại khẽ đỡ vai tôi. Mặc dù chỉ là
những động chạm khẽ khàng, nhưng qua lớp áo bông, tôi vẫn cảm nhận được cánh tay gầy gò, mảnh khảnh của cậu ta. Cậu ta lẳng lặng đáp: không đâu, nhưng trong ngữ điệu đã không còn sự run rẩy như lúc trước nữa. Tôi lấy làm khó hiểu, cậu ta làm sao
vậy nhỉ?

Ngồi yên một lát, Rajiva bỏ tay xuống và bảo tôi mở mắt ra. Khuôn mặt thiếu niên thuần khiết dần dần hiện ra sống động trước mặt tôi. Đôi mắt như hai vực nước sâu đang chăm chú quan sát tôi với vẻ lo lắng, gương mặt vẫn đỏ ửng như gấc chín. Chưa bao giờ chúng tôi gần nhau đến thế. Trong khoảnh khắc, dường như tôi nghe thấy tiếng tim mình loạn nhịp.

Tôi đứng bật dậy:

- Tôi không sao, đi thôi.

Rajiva bừng tỉnh, vội vàng lùi lại phía sau, khuôn mặt càng lúc càng đỏ, màu đỏ át
cả màu da bánh mật, đỏ đến tận phần cổ đã được che kín bởi lớp áo nâu sòng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi có những cử chỉ thân mật như vậy, đừng nói là Rajiva, bản thân tôi cũng không biết phải giấu mặt vào đâu nữa.

Tôi bước đi vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cậu ta hơi ngạc nhiên, vội vàng bước theo tôi, khuôn mặt mãi vẫn chưa hết đỏ. Tôi hắng giọng, làm bộ nghiêm trang
hỏi:

- Chùa này là chùa gì?

Rajiva ngẩng đầu, ổn định hơi thở, bình tĩnh đáp:

- Là chùa Acharya. Cô còn nhớ chứ, tôi từng dạy cô, 'Acharya' nghĩa là 'kỳ lạ'.

- Vì sao lại có tên là 'kỳ lạ'?

Ngày trước có một vị vua sùng đạo Phật, ông muốn đi du ngoạn khắp nơi kiếm tìm
và chiêm bái Phật tích, nên giao lại công việc triều chính cho người em trai. Trước khi vua lên đường, người em trao cho ngài một chiếc túi thơm, dặn dò phải chờ đến khi trở về mới được mở ra xem. Ngày vua về nước, có người tố giác em vua thác loạn trong cung. Vua nổi trận lôi đình, tống giam người em vào trong ngục, chờ ngày xử tội. Người em nhắc nhở vua mở chiếc túi thơm ngày trước ra xem. Khi mở ra, nhà vua
nhìn mà không hiểu, mới hỏi người em bên trong là thứ gì?

Rajiva đột nhiên ngừng lại, khiến tôi sốt ruột:

Là thứ gì vậy?

- Cậu ta cứ chần chừ, sắc đỏ trên gương mặt thanh tú vừa nhạt bớt đã lại ửng lên.

Tôi nhớ ra rồi. Trong "Đại Đường Tây vực ký", Huyền Trang từng ghi lại câu
chuyện này.

- Là cơ quan sinh dục của người em, đúng không?

Tôi xoa tay lấy hơi ấm, trong lòng vui mừng khôn tả, thật không ngờ, tôi sẽ được
chiêm ngưỡng ngôi chùa "kỳ lạ" này trước Huyền Trang những hai trăm năm.

- Người em này thật đáng khâm phục. Ông ta sớm biết sẽ có kẻ hãm hại mình mà ông chẳng thể chứng minh mình trong sạch, nên đã tịnh thân làm thái giám, cốt để bảo toàn tính mạng.

Tôi không nhịn được, bật cười ha hả:

- Có điều, cái giá phải trả cao quá!

Rajiva lạ lùng nhìn tôi, có lẽ vì không thể tin được tôi lại có thể thảo luận rất tự
nhiên vấn đề nhạy cảm đó không chút e dè. Tôi biết ý, không cười nữa, gượng gạo
hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Người em nói với vua rằng: Ngày trước, khi đức vua lên đường đi du ngoạn,
người em lo sợ sẽ có kẻ buông lời gièm pha hòng hãm hại mình, nên mới bất đắc dĩ nghĩ ra cách này. Chẳng ngờ, tai họa quả đã xảy ra. Nhà vua vô cùng kinh ngạc, sau thấy thương em, bèn cho phép người em được tự do ra vào trong cung. Vào ngày nọ, trên đường đi, người em tình cờ gặp một lái buôn đang lùa theo năm trăm con bò, nói rằng sẽ đưa đi thiến. Người em cảm thấy đó là nghiệp chướng do mình gây nên, mới động lòng trắc ẩn, dùng tiền chuộc lấy đàn bò. Sau đó, cơ thể của người em dần dần trở lại bình thường như xưa. Vì không muốn bị kẻ xấu tiếp tục hãm hại, người em không ra vào cung nữa. Nhà vua thấy lạ, hỏi ra mới biết đầu đuôi câu chuyện. Nhà
vua bèn hạ chỉ xây chùa này và đặt tên là "kỳ lạ", đến nay đã được hơn ba trăm năm.

Tôi không kìm chế được lại bật cười ha hả:

- Không thể tin được! Cái đó có thể mọc trở lại được ư? Hay là người em vốn dĩ
không hề cắt bỏ đi. Hoặc không xử lý đến nơi đến chốn.

Rajiva làm bộ lạnh lùng, nhưng hai gò má vẫn ửng đỏ, giọng nói chắc nịch:

- Người em chuộc lấy đàn bò, tích nhiều công đức, Phật tổ đại từ đại bi dùng pháp
lực của mình phục hồi sức khỏe cho người em, sao lại nói người đó cố ý lừa gạt? Chính nhờ điển tích kỳ lạ này mà nơi đây đã sản sinh ra không biết bao nhiêu vị cao tăng đắc đạo. Tăng sĩ tử nhiều nơi khác nghe tiếng đã nô nức kéo về đây học đạo. Quốc vương cùng các đại thần hết lòng ủng hộ, công đức, nhờ vậy hơn ba trăm năm qua, hương khói chưa bao giờ tắt trong chùa. Nếu Phật tổ không cảm động trước tấm lòng của người em, nếu không nhờ pháp lực của Ngài, thì làm sao giải thích được điều
này?

Tôi tự phạt bằng cách tát khẽ vào miệng mình, tôi không nên làm tổn thương tình cảm tôn giáo của cậu ta! Chuyện này thực ra cũng rất khó giải thích thỏa đáng. Vì người trong cuộc không còn, cũng không thể kiểm tra, chỉ có thể tin rằng truyện kể đó
là có thật thôi!

Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, một lúc đã đến trước cổng chính của ngôi chùa. Vị sư chúng tôi gặp ngoài cổng nhìn thấy Rajiva đã vội vã đi thông báo cho trụ trì. Chưa vào đến đại điện, trụ trì đã dẫn theo mấy vị cao tăng hòa thượng ra nghênh đón chúng tôi. Vị trụ trì cao tuổi tỏ ra rất cung kính khi trò chuyện với Rajiva.

Rajiva giới thiệu tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu và vì sang xuân tôi phải rời khỏi Khâu Từ, nên hôm nay dẫn tôi đi tham quan một vòng thành phố. Trụ trì nghe xong, tỏ ý hoan nghênh, đích thân dẫn đường và giới thiệu tỉ mỉ cho chúng tôi về ngôi chùa. Chùa Acharya đồ sộ hơn nhiều so với chùa Tsio - li, nhờ có câu chuyện ly kỳ đó, lượng người đến đây thắp hương cúng bái rất đông. Cột trụ mái hiên trong các gian thờ rất cao, thoáng và rộng, tượng Phật được điêu khắc và trang trí tinh xảo, tranh vẽ trên tường cũng sống động với những đường nét phức tạp. Tôi vừa ngắm nhìn vừa ca tụng. Lòng khát khao được họa lại những bức vẽ tài hoa đó.

Đi hết một vòng, tôi ngượng ngùng xin phép đi giải quyết vấn đề cá nhân. Trụ trì cử một chú tiểu đưa tôi đi. Không muốn bắt cậu ta đứng chờ ở cửa, tôi bảo cậu ta về trước, rồi tôi sẽ tự tìm đường về sau.

Từ nhà xí bước ra, đang chuẩn bị quay lại đại điện, tôi bỗng nghe thấy tiếng thì thầm to nhỏ của hai nhà sư ở một góc khuất tại một hướng rẽ khác, họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi thấy tò mò, bước chậm lại, ghé tai nghe trộm. Họ trò chuyện bằng tiếng Tochari, nhưng tôi có thể nghe hiểu gần hết.

- Tên Kumarajiva dám đưa con gái vào trong chùa lễ Phật, cô ta lại là người Hán
nữa chứ. Giáo viên tiếng Hán cơ đấy, không ngờ hắn lại mời phụ nữ làm thầy dạy, ai
mà biết được quan hệ thật sự của họ là gì?

- Gia thế của hắn khác chúng ta, dĩ nhiên hắn có thể không coi giới luật ra gì, ai
dám trách tội hắn kia chứ?

- Hắn được ăn sung mặc sướng, lại còn được người hầu kẻ hạ, ai bảo chúng ta không có người cha là quốc sư, có người mẹ là công chúa như hắn. Nhưng hắn quá xem thường giới luật. Ngày ngày ra vào chùa không xin phép trụ trì, giờ tụng kinh buổi sáng và buổi tối, thích đến thì đến thích đi thì đi. Tu hành như thế, làm sao mà
đắc đạo được?

- Nghe nói, ngoài Phật pháp chính tông, hắn còn lén lút nghiên cứu kinh văn Đại Thừa nữa đó. Hắn còn dám tranh luận với các sư phụ về những thứ kinh văn sai trái ấy, thật không coi các thầy ra gì.

- Đúng thế, loại người này

Tôi không muốn nghe tiếp, lặng lẽ quay về đại điện. Trong truyện ký của Rajiva
có mô tả cậu là người "tính cách thẳng thắn, phóng khoáng, không chịu gò bó, khác với những người tu hành khác". Đối với người tu hành mà nói, trí tuệ siêu việt giống như con dao hai lưỡi. Xuất thân quyền quý của Rajiva làm tăng thêm ưu thế mà tài năng thiên bẩm mang lại cho cậu, nhưng đồng thời cũng gây thêm bất lợi cho cậu. Tôi có thể hiểu vì sao những nhà sư đó ác cảm với Rajiva đến vậy, có điều tôi cảm thấy rất khó chịu khi phải nghe những lời nói không hay về Rajiva. Tôi bỗng cảm thấy hết sức
bực bội!

Khi chúng tôi rời khỏi chùa "kỳ lạ", Rajiva ngỏ ý muốn đưa tôi đi tham quan thêm nơi khác. Tôi nhìn đồng hồ, chỉ còn một tiếng nữa là đến giờ tụng kinh buổi chiều, đành thở dài giục cậu ta mau chóng quay về chùa Tsio - li. Tôi không cho rằng những giới luật hay những quy tắc kia là quan trọng, nhưng tôi biết, mỗi lời nói và hành động của cậu ấy đều không lọt khỏi tầm mắt của những người khác. Mà dù thế nào, Rajiva cũng không thể tách ra khỏi thế giới tăng sĩ của cậu ấy.

Cậu ta hơi ngạc nhiên, nhưng nhìn lên thấy bầu trời đang tối dần, lập tức hiểu ý tôi, liền bảo sẽ đưa tôi về phủ quốc sư trước. Tôi từ chối, nói rằng tôi biết đường, sẽ tự đi

về. Tôi không muốn nghe người khác viện vào mối quan hệ giữa tôi và Rajiva để bôi
nhọ thanh danh của cậu ấy.

Mặt cậu ta hơi biến sắc, nhìn tôi ngơ ngác:

- Ngải Tình, cô đã nghe được điều gì phải không?

Tôi lắc đầu.

- Dù cô nghe thấy điều gì, tôi cũng không hề bận tâm.

Cậu ta bảo không bận tâm, nhưng giọng nói vẫn đượm vẻ giận dữ. Vung tay áo ra
sau, ngẩng cao đầu, nói:

- Rajiva làm việc gì cũng không chịu sự trói buộc của những lề thói lạc hậu, chỉ cần không thẹn với lòng mình.

Tôi lại thở dài. Thân phận cao quý và một trí tuệ hiếm có khiến cậu ấy ngay từ thời niên thiếu đã vang danh khắp chốn, nhưng đồng thời cũng "tạo điều kiện" để cậu ấy trở nên xem nhẹ những giới luật của nhà Phật, lúc nào cũng tỏ ra ngang tàng như vậy. Nhưng Rajiva ơi, thái độ bất chấp đó của cậu chẳng qua cũng là vì bất đắc dĩ mà thôi.

Hôm đó, tôi kiến quyết đi về một mình. Tôi chỉ là một lữ khách đi bên cạnh cuộc đời Rajiva. Tôi không muốn trong những đồn đoán không hay về cậu ấy lại có thêm một nhân tố là tôi nữa.

Khi tôi về đến phủ quốc sư, một thân hình nhỏ bé, được quấn ủ rất ấm áp lao như bay vào lòng tôi, giọng điệu nũng nịu trách cứ, rằng vì sao cả ngày trời không thấy bóng dáng tôi đâu. Tôi vui vẻ dắt tay cậu nhóc cùng chơi trò trốn tìm. Tiếng cười lanh lảnh vang rộn cả khu vườn, xua tan mọi buồn phiền của tôi. Chơi đùa được một lúc thì bóng chiếc áo choàng màu nâu sòng đột nhiên xuất hiện trước cổng. Cậu ta lại trốn
giờ tụng kinh buổi chiều rồi!

Chương 14: Tôi trở về 

Ngày tháng cứ thế trôi qua, chớp mắt đã sang xuân. Tuy người Khâu Từ không ăn
Tết Nguyên Đán như người Hán, nhưng vào ngày đầu tiên của năm mới, tôi vẫn tặng quà cho hai anh em Rajiva, của Rajiva là một chuỗi tràng hạt làm bằng gỗ đàn hương, của Pusyseda là một bức tranh Doraemon do chính tay tôi vẽ. Tôi nói với họ, thế là tôi đã thêm một tuổi, năm nay tôi hai mươi tư. Tôi chẳng muốn phải thừa nhận rằng mình đã già thêm một tuổi gì cả. Sinh nhật của tôi rất dễ nhớ, đó là ngày mùng mười tháng Giêng âm lịch, vì vậy tôi thường tổ chức sinh nhật theo lịch âm. Nhưng sau tuổi hai mươi thì tôi không còn hứng thú với ngày tết nữa, mỗi dịp tết đến lại nhắc tôi nhớ
rằng, mình đã già, đã già rồi

Ở thời cổ đại chỉ có hai anh em họ vui sinh nhật với tôi. Tôi dạy họ nói: chúc mừng sinh nhật và hát bài "Chúc mừng sinh nhật", rồi đề nghị họ hát cùng tôi. Giọng hát trẻ con bập bẹ của Pusyseda rất buồn cười, rất đáng yêu. Rajiva lắc đầu kiên quyết không chịu hát. Nhưng khi tôi bảo, vào ngày sinh nhật người Hán sẽ nói "chúc mừng sinh nhật" rồi hát bài hát này, sau đó sẽ ăn một loại bánh ngọt vừa thơm vừa ngậy và còn được tặng quà nữa. Rajiva nghe xong, vẫn còn lần chần, mãi sau mới chịu cất giọng. Giọng hát của cậu ấy cũng trầm ấm, truyền cảm như giọng nói, tuy vẫn còn có nhiều âm khàn đục, do đang trong thời kỳ vỡ tiếng, nhưng lại tạo cho bài hát một âm điệu rất đặc biệt. Bài chúc mừng sinh nhật mà cậu ấy đang khe khẽ hát cho tôi nghe là bài hát hay nhất mà tôi từng được nghe vào dịp này. Có điều, gương mặt của cậu ấy,
như tôi đã biết từ trước, đỏ như gấc chín, át cả nước da bánh mật vốn rất nổi bật.

Buổi tối ngày tiếp theo, sau khi kết thúc giờ học, Rajiva không đến thư phòng đọc sách như mọi khi, cậu ta dùng dằng ngập ngừng mãi mới lôi từ trong áo ra một chiếc khăn lụa thêu hình thoi khổ dài với các màu sắc đỏ, vàng, xanh da trời đan xen.

- Tặng cô.

Cậu ta lại đỏ mặt.

- Cô bảo sinh nhật muốn được tặng quà

Tôi không có thời gian để bận tâm về sự chu đáo này, tôi còn mãi ngẩn ngơ ngắm
nhìn món quà của mình. Đây là chiếc khăn lụa Atala, Atala có nghĩa là loại tơ lụa được làm ra bằng kỹ thuật xoắn sợi tơ dọc và nhuộm đồng thời, đây cũng là loại vải dùng để may quần áo phổ biến nhất của phụ nữ Tân Cương ngày nay. Tơ lụa Khotan

là thương hiệu nổi tiếng nhất. Lụa, ngọc và thảm được mệnh danh là ba "quốc bảo"
của Khotan. Đến tận thế kỷ XXI, người Khotan vẫn sử dụng những phường nhuộm nguyên thủy với chiếc máy dệt cồng kềnh, cao hơn năm mét, được xây đắp bằng đất và gỗ.

- Rajiva, cậu có biết ngôi chùa Masa ở Khotan không? Những hạt giống của cây dâu mà cô công chúa người Hán mang đến Tây vực đã được gieo trồng ở chùa này đó.

Trong "Đại Đường Tây vực ký", Huyền Trang đã ghi lại quá trình tơ lụa được truyền đến Khotan như thế nào.

- Tôi biết. Người Tây vực vốn không biết trồng dâu nuôi tằm để lấy tơ, khi đức vua Khotan đến đất Hán cầu thân, ngài đã nói riêng với công chúa Hán triều rằng Khotan không có tơ lụa, nên công chúa sẽ không thể ăn mặc đẹp được. Công chúa bèn giấu hạt dâu và tằm giống vào trong túi mang theo. Sự giàu có của Khotan chính là nhờ vào tơ lụa.

Tơ lụa vốn là sản phẩm độc quyền của người Hán ở Trung Nguyên, kỹ thuật sản xuất được xem là bí mật vô cùng quan trọng, không được phép tiết lộ ra bên ngoài. Nhưng nhờ có cô công chúa kia, kỹ thuật này đã được truyền đến Tây vực, từ Tây vực lại truyền sang Tây Á và châu Âu, từ đó, quyền lũng đoạn thị trường tơ lụa của Trung Quốc đã tan thành mây khói. Sản phẩm tơ tằm của Khotan từ thế kỷ IV đã nổi tiếng khắp nơi, thời cổ đại, nơi đây từng được mệnh danh là "kinh đô của lụa". Hôm nay, chiếc khăn lụa quý giá của thế kỷ thứ tư ấy đang bày trước mắt tôi, điều này đã chứng minh tính xác thực của câu chuyện kể về sự xuất hiện của kỹ thuật sản xuất tơ lụa trên con đường tơ lụa huyền thoại.

- Sao cô chỉ hỏi về câu chuyện đó, hay cô không thích món quà này?

Rajiva nhìn tôi lo lắng, tay cầm chiếc khăn quý mà lúng túng không biết nên đặt ở
đâu.

- Lụa Khotan, tất nhiên không thể sánh bằng lụa Trung Nguyên, nếu cô không
thích, tôi sẽ

- Làm gì có chuyện đó!

Tôi gào lên, bật dậy, ôm chầm lấy cậu ta, rồi giật lấy chiếc khăn áp chặt vào lòng.

- Cậu đừng hòng mang nó đi!

Rajiva thở phào, gương mặt đỏ như gấc của cậu ta tôi đã nhìn quen rồi nên không
thấy ngạc nhiên nữa. Cậu ta nhìn tôi cười rạng rỡ như vừa được tặng một món quà chứ không phải vừa tặng cho người khác một món quà.

- Nhưng mà

Rajiva nhìn tôi băn khoăn:

- Ngải Tình, vì sao cô biết ở Khotan có chùa Masa?

Lại nữa rồi! Tôi chẳng bao giờ kiểm soát được cái miệng tai bay vạ gió của mình!

Tôi trợn tròn hai mắt, rồi vò đầu bứt tai, tư duy logic của cậu ta ở trình độ cao như
thế, dù tôi có bịa ra chuyện gì thì cũng sẽ lộ tẩy mà thôi. Tốt hơn hết là đừng nghĩ cách gạt cậu ta làm gì cho mệt.

- Cậu đừng hỏi nữa, tóm lại là tôi biết, thế thôi!

Rajiva không hỏi thêm, chỉ cười, đến lúc ra về vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò
khó hiểu, khiến tôi cảm thấy không yên tâm.

Không bao lâu nữa là đến ngày lập xuân. Sang xuân đồng nghĩa với việc con đường tơ lụa được khai thông, tôi có thể chuẩn bị khởi hành đi Trường An được rồi. Kumarayana đã giúp tôi liên hệ với một đội thương nhân rất đáng tin cậy, ông còn tặng tôi rất nhiều đồ đạc. Tôi rất biết ơn ông. Nhưng tôi không vui chút nào khi phải đối diện với hai anh em Rajiva. Vẻ mặt lạnh lùng, an nhiên thường thấy của Rajiva khiến tôi đỡ buồn phần nào. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc tôi cảm thấy ánh mắt cậu ta nhìn tôi có điều gì rất lạ, nhất là vào hôm tôi quàng chiếc khăn lụa Atala lên vai. Ánh mắt ấy khiến tôi hồi hộp, nhưng tôi vờ như không thấy, giả bộ ngốc nghếch là sở trường của tôi mà! Ai bảo cậu ta là Kumarajiva kia chứ! Tôi làm sao mà dám động vào một vĩ nhân như thế. Thôi, hãy cứ ngoan ngoãn mà ra đi! Nhưng với chú nhóc Pusyseda thì tôi chẳng thể ứng phó nổi. Hơi một tí là nước mắt giàn giụa, giọng nói trẻ

thơ, nấc lên những tiếng thổn thức xin tôi ở lại. Cậu bé khiến tôi mủi lòng và có cảm
giác sự ra đi lần này chẳng khác nào sinh ly tử biệt, nên tôi phải an ủi Pusyseda bằng cách lặp đi nhiều lần lời hứa rằng tôi nhất định sẽ quay lại.

Còn khoảng sáu, bảy ngày nữa là phải lên đường, tôi muốn tắm rửa sạch sẽ. Đi tắm thì có gì mà phải kể? Đúng là chẳng có gì để nói, nhưng vì lần này đã xảy ra chuyện lớn. Bạn đừng hiểu nhầm, không như trong các tiểu thuyết mà bạn thường đọc, hay có cảnh: nhân vật nữ đang tắm thì nhân vật nam xuất hiện đâu! Chuyện "hay ho" ấy chẳng bao giờ đến với tôi cả! Sự thực là, khi tôi vừa tắm xong và trở về phòng thì xảy ra chuyện lớn.

Lúc tôi vừa đưa tay lên vặn đám tóc ướt vừa bước vào phòng thì thấy Pusyseda đang ngồi nghịch chiếc đồng hồ vượt thời gian mà trước khi đi tắm tôi đã tháo ra và
đặt tạm trên bàn. Thấy tôi, chú nhóc hớn hở lắc lắc chiếc đồng hồ:

- Ngải Tình, đồ chơi này hay quá, nó biết nhảy và kêu tích tắc tích tắc nhé, chị cho
em được không?

Tôi run bắn. Khi ấy trời đang nắng to, ánh sáng tràn ngập căn phòng. Tôi chạy bổ đến bắt lấy chiếc đồng hồ, nó hoạt động trở lại rồi! Đèn tín hiệu mà lúc trước tôi ra sức bật lên nhưng không ăn thua giờ đây đang tích tắc đếm ngược. Trời đất ơi, không biết Pusyseda đã chạm vào chỗ nào mà khởi động được cái đồng hồ chết tiệt này? Thời gian đếm ngược là ba phút, giờ chỉ còn hai phút rưỡi. Tôi cố sức nhấn nút dừng hoạt động, nhưng thứ quái gở này, lúc cần chạy thì nó không chạy, lúc cần dừng thì nó nhất định không chịu dừng. Đầu óc rối bời, tôi không biết phải làm sao nữa! Chuyện này xảy ra quá đột ngột, chỉ tắm một cái mà lúc quay về đã gặp phải biến cố lớn thế
này. Tôi nên đi hay ở?

- Ngải Tình, chị làm sao vậy?

Tôi giật mình ngẩng lên, đôi mắt tròn xoe, ngây thơ đang nhìn tôi chớp chớp. Một
lát nữa chiếc đồng hồ sẽ phát ra tia phóng xạ, tôi không thể để cậu nhóc nhiễm phải. Tôi vội vàng túm lấy Pusyseda, dùng hết sức đẩy cậu bé ra ngoài. Cậu bé bị tôi túm chặt quá, mặt mũi tái đi vì sợ. Vừa đẩy cậu nhóc ra đến cửa đã nghe thấy tiếng gào khóc ầm ĩ. Tôi cài then chốt cửa lại với tốc độ của vận động viên điền kinh, tôi lao đến cạnh tủ tìm chiếc ba lô Northface, lôi ra chiếc áo chống tia phóng xạ, động tác nhanh và dứt khoát, tôi cởi bỏ quần áo trên người và không quên quay đầu ra phía

cửa hét to:

- Pusyseda, cậu nghe đây. Tôi là tiên nữ, bây giờ tôi phải quay về trời. Lát nữa sẽ có một tia sáng xuất hiện, cậu phải nhắm mắt lại, không được nhìn tia sáng đó, nếu
không cậu sẽ bị mù đấy! Nhớ chưa?

Thực ra không nghiêm trọng đến vậy, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu cậu bé nhìn thẳng vào tia phóng xạ.

Cậu bé sợ hãi, càng khóc to hơn.

- Đừng sợ, tôi không biến mất, tôi chỉ quay về với thế giới của mình thôi. Ở trên
trời, tôi sẽ dõi theo cậu.

Tôi không muốn lưu lại những ký ức đáng sợ trong tâm hồn cậu bé.

Mặc vội chiếc áo chống tia phóng xạ lên người, tôi cảm thấy lạnh buốt, toàn thân
nổi da gà. Mặc kệ, thời gian sắp hết rồi. Tôi cuống cuồng kéo các loại khóa, bỗng
nghe tiếng Pusyseda bên ngoài nức nở:

- Chị đừng đi! Pusyseda hứa sẽ không nghịch ngợm nữa, em sẽ nghe lời chị, chịu
khó học bài, chị đừng đi có được không?

Tôi thở dài. Chiếc đồng hồ này chỉ sử dụng được một lần duy nhất, nếu không đi, tôi sẽ phải ở lại nơi này mãi mãi. Tôi không giống những tình nguyện viên nữ khác, vượt thời gian trở về thời cổ đại chỉ để vui thú yêu đương. Mục đích của tôi rất rõ ràng, tôi đến đây để làm việc, nếu không quay về, giá trị của tôi sẽ không được công nhận.

- Hãy nói với Rajiva, cậu ấy sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại, nhắc cậu ấy đừng
quên nhiệm vụ đến Trung Nguyên truyền bá đạo Phật!

- Chị có quay lại nữa không?

Tôi không biết, thực sự là không biết. Có lẽ duyên phận giữa chúng tôi chỉ đến đây
thôi. Tôi không biết sau khi quay về có tiếp tục công việc này hay không. Nếu có, tôi

không biết, lần vượt thời gian tới tôi có thể trở lại Khâu Từ hay không. Đến được
Khâu Từ, tôi cũng không biết khi ấy họ còn sống ở thời đại đó không

Tôi đội mũ bảo vệ, đeo đồng hồ vào tay, chỉ còn ba giây. Tôi hít một hơi thật sâu,
chỉ kịp gào to:

- Nếu cậu chăm chỉ học hành, đọc thuộc "Kinh thi", tôi sẽ trở lại

Những tia sáng chói mắt phát ra, tôi cảm nhận được cảm giác bay bổng, cưỡi mây
lướt gió quen thuộc, gan ruột tôi quay đảo tưởng như sắp vỡ tung. Một giây trước khi mất đi ý thức, tôi chợt nhớ ra rằng tập giấy nháp với không biết bao nhiêu bức vẽ kỳ công, cuốn sổ tay ghi chép toàn bộ tài liệu khảo sát dài mấy mươi vạn chữ, những tập sách quý hiếm bằng tiếng Tochari tôi sưu tầm được, những vật dụng sinh hoạt hàng ngày tôi mua ở chợ về và giấu dưới gầm giường, những quà tặng của Jiva, Kumarayana và nhiều người khác và còn nữa, chiếc khăn lụa Atala của tôi, tất cả, tất
cả, tôi đều quên mang theo. Trời ơi, chuyến này tôi lỗ nặng rồi!!!

------
22

Chương 15: Tôi lại "vượt" 

Đưa tay quờ quạng, thấy mềm mềm, mịn mịn. Mở mắt, vầng quang rực rỡ chiếu
thẳng tới, vội nhắm chặt lại. Vậy là lần tiếp đất này cũng rơi xuống sa mạc giống hệt lần trước. Tôi quả là có duyên với sa mạc, có điều không biết hiện là thời đại nào và nơi này có phải là nơi đó không. Tôi đứng lên, kiểm tra toàn bộ vật dụng mang theo bên mình, rồi nhìn chiếc đồng hồ vượt thời gian đã được cải tiến. Tốt rồi, đèn tín hiệu màu xanh, có nghĩa là mọi thứ vẫn bình thường, công sức sáu tháng trời của nhóm các nhà khoa học ấy đã không uổng phí. Rút kinh nghiệm từ bài học lần trước, các nhà khoa học quyết định không sử dụng năng lượng mặt trời để khởi động thiết bị nữa, vì không ổn định mà thay vào đó là loại pin Lithium siêu bền. Nghe nói, đây là sản phẩm đời mới nhất của hàng BYD, tốt hơn nhiều so với pin của Sony.

Chuyến đi của tôi đã tạo nên tiếng vang lớn, sánh ngang với chuyến bay vào vũ trụ rất thành công của Dương Vỹ. Tôi mất tích hơn năm tháng, nhóm nghiên cứu không xác định được tôi đã vượt thời gian thành công hay đã chết. Suốt một thời gian dài, sếp tôi rất phiền não vì không biết phải giải thích như thế nào với bố mẹ tôi. Cho đến một buổi chiều nọ, tôi từ trên trời rơi xuống, lơ lửng trên cành liễu bên ngoài phòng

thí nghiệm, làm gẫy gần hết những chạc cây xanh tốt đó.

Trong năm tháng sau khi trở về thế kỷ XXI, tôi bận rộn chóng mặt. Kiểm tra sức khỏe, viết báo cáo và còn phải đến Tân Cương cùng sếp một tháng trời nữa chứ. Thành cổ Khâu Từ xưa kia (hay còn gọi là di tích Diên Thành) nằm giữa thành phố Kucha mới và cũ ngày nay, được người địa phương gọi bằng cái tên thành cổ Pilang. Tôi đi theo đoàn các nhà khảo cổ quan sát, đo đạc, nghiên cứu di tích tường thành Khâu Từ, di tích hoàng cung, ngôi chùa "kỳ lạ", quảng trường lớn, sau đó cùng các nhà ngôn ngữ giải mã văn tự Tochari tại viện bảo tàng. Khi một mình lang thang giữa những di tích này, nhìn những ngôi nhà, những thửa ruộng đã phủ kín khuôn viên di tích, có thể nhận ra địa tầng của hơn một nghìn năm về trước, nhưng còn những thứ khác thì đã bóng chim tăm cá, trong tôi trào dâng một cảm xúc khó tả. Vì với riêng tôi, mọi thứ sống động của vài tháng trước đó chỉ trong chớp mắt đã vật đổi sao dời, trở thành quá vãng dâu bể 1650 năm. Những con người sống động của vài tháng trước, trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại là mấy dòng chữ trên giấy cũ. Đứng trên gò đất mấp mô, nơi xưa kia từng là thành quách nguy nga, bên tai tôi như vẫn vang vọng giọng nói trầm ấm đó.

- Ngải Tình, ngày mai tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.

- Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới "được mùa tuyết" như vậy.

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

Mỗi lúc như vậy, tôi lại giật mình quay đầu nhìn bốn phía, mãi đến khi nhận ra
bóng chiếc áo nâu sòng ấy chỉ là ảo giác, tôi mới bình tâm trở lại. Rajiva, có phải chúng ta đang ở trong cùng một không gian, nhưng chúng ta cách nhau những 1650 năm thời gian? Cậu vẫn ổn chứ? Tôi cười buồn, sao lại hỏi ngớ ngẩn như vậy, vận
mệnh của cậu ta, lẽ nào tôi không rõ?

Khi đi khảo sát Thiên Phật động Kizil, tôi đã ngẩn ngơ hồi lâu trước pho tượng đồng tạc hình Rajiva đặt phía trước hang đá. Pho tượng khắc họa dung mạo của Rajiva ở độ tuổi từ ba mươi đến bốn mươi. Một chân gập lại, tay phải đặt lên đầu gối, trên mình khoác chiếc áo lộ một bên vai của tăng sĩ, thân hình mảnh khảnh, vầng trán rộng giữa hai hàng lông mày vươn dài, dung mạo ấy toát lên một trí tuệ trác việt, một trái tim rộng lớn và một khí khái bất phàm. Tuy không thể sống động bằng con người thực, nhưng tôi nghĩ, nghệ nhân tạc tượng đã nắm bắt được thần thái của Rajiva. Tôi

chưa được nhìn thấy dung mạo Rajiva khi đã trưởng thành, nhưng pho tượng điêu
khắc này đã khiến tôi không nguôi suy tưởng và tưởng tượng về cậu ấy. Tôi đã chụp một bức ảnh đứng dưới chân pho tượng để làm kỷ niệm, buổi đêm khi ngồi viết luận văn, mỗi lúc mệt mỏi tôi lại mở tấm hình ra ngắm nghía. Ước gì tôi được gặp lại Rajiva, Rajiva khi đã trưởng thành.

Trong viện bảo tàng Khâu Từ ở Kucha có trưng bày bộ hài cốt của một phụ nữ, được khai quật lên từ di chỉ Subash, thời điểm hài cốt này được chôn cất cách nay khoảng một nghìn ba trăm năm. Phần đầu của hài cốt có dấu hiệu bị nén bẹp xuống, giống hệt hình ảnh của Jiva và những thành viên hoàng tộc Khâu Từ khác mà tôi từng gặp. Nén đầu không có nghĩa là xấu xí, chỉ có điều không hợp với thẩm mỹ của chúng ta ngày nay mà thôi. Với tôi, Jiva luôn là một phụ nữ xinh đẹp. Tutankhamun (gọi tắt là vua Tut), vị hoàng đế thứ mười hai của triều đại thứ mười tám của Ai Cập cũng từng nén dẹt đầu, bức tượng bán thân của vua Tut sau khi được phục chế nguyên bản và tranh chân dung trong lăng mộ của ngài đã cho thấy Tutankhamun là một pharaon mười tám tuổi cực kỳ khôi ngô, tuấn tú.

Kế hoạch ban đầu là sau khi kết thúc công việc khảo sát ở Kucha, tôi sẽ có buổi gặp gỡ các chuyên gia Phật học, những người chuyên nghiên cứu về Kumarajiva. Tuy tôi chỉ được tiếp xúc với Rajiva một thời gian rất ngắn, nhưng cũng có thể cung cấp cho họ những thông tin và tư liệu quý giá mà không ai có được. Vì vậy các chuyên gia rất mong ngóng được trò chuyện với tôi. Nhưng, sếp tôi đột ngột nhận được điện thoại từ tổ nghiên cứu, thế là hai thầy trò lại vội vã khăn gói về phòng thí nghiệm, để chuẩn bị cho lần vượt thời gian thứ hai, mà không, chính xác phải là lần vượt thứ tư mới đúng.

Lần này, máy móc đã được cải tiến rất nhiều. Tôi không còn cảm giác khó chịu khi bay vào không gian như những lần trước nữa. Tuy vậy, vẫn không thể xác định được địa điểm và thời đại mà tôi sẽ đến, chỉ có thể ước tính đó là khoảng thời gian hai nghìn năm trước. Sai số là năm trăm năm, tức là nơi tôi đến có thể ở vào khoảng niên đại từ cuối thời Chiến quốc cho đến cuối thời Nam Bắc triều. Với kinh nghiệm của lần "vượt" trước, tôi vẫn quyết định mặc một bộ Hán phục to rộng, lả lướt. Trang phục này rất đại chúng và là trang phục được thịnh hành lâu nhất trong lịch sử.

Tôi quan sát và đánh giá tình hình trước mắt. Những điểm tương đồng về địa hình giữa hai lần "vượt" cho tôi một linh cảm mạnh mẽ rằng, tôi đã trở lại nơi ấy! Do vậy, tôi trở nên bình tĩnh hơn, tôi bắt đầu nghĩ cách để ra khỏi sa mạc và tìm đến nơi có

bóng người. Phóng tầm mắt ra xung quanh, nhận thấy mình đã rơi xuống vùng ven sa
mạc, cạnh đó là rừng dương và những khóm liễu đỏ thấp lè tè. Rừng dương xa xa nom có vẻ um tùm, xanh tốt, tôi quyết định đi về hướng đó.

Bây giờ đã là cuối tháng năm, buổi trưa trên sa mạc oi bức khủng khiếp, vì vậy thứ mà tôi cần nhất lúc này là nước. Rừng dương rậm rạp là thế, nguồn nước chắc chắn ở không xa. Khi một hồ nước to bất ngờ xuất hiện trước mặt, tôi mừng rỡ khôn tả, lao như bay về phía ấy.

Thật không ngờ, giữa vùng sa mạc mênh mông thế này lại có một hồ nước lớn đến vậy. Và điều quan trọng hơn cả là ven hồ có người, không phải một người mà là một đám đông. Không có niềm vui nào bằng niềm vui nhìn thấy đồng loại giữa chốn hoang vu này, tôi ba chân bốn cẳng lao về phía họ. Nhưng chưa đến nơi, tôi đã phải đột ngột hãm tốc độ. Phản ứng đầu tiên của tôi sau đó là quay đầu, chạy thục mạng về hướng ngược lại. Nhưng chưa được mấy bước, một mũi tên vút tới, cắm "phập" xuống
cạnh bàn chân tôi, tôi sợ hãi dừng lại, giơ hai tay lên cao:

- Đừng bắn! Tôi xin hàng!

Tôi bị giải đến chỗ đám đông kia, có khoảng hai mươi người. Nhìn cách ăn mặc và
tướng tá của đám người đó, toàn những tên mặt mày dữ tợn, hình hài quái dị, đúng là một đám kẻ cướp. Còn khoảng chục người nữa thì đang quỳ dưới đất, tay chân bị trói chặt, run rẩy lo sợ, len lén nhìn tôi bằng ánh mắt cảm thông, có lẽ họ là người Ba Tư. Cạnh đó có khoảng hơn chục con lạc đà cõng trên lưng rất nhiều hàng hóa, vẫn thản nhiên, mải mê gặm cỏ. Tôi đoán ra ngay đó là một đội lái buôn giữa đường gặp cướp.

Phải nói rõ điều này, nơi tôi tiếp đất cách con đường tơ lụa không xa, mà trên con đường này thường xuyên xảy ra nạn giặc cướp. Tôi chưa bao giờ phải giao tranh với ai, lẽ nào lần này buộc phải sử dụng vũ khí? Có một khẩu súng gây mê loại nhỏ trong áo chống phóng xạ của tôi, sếp dặn rằng, nếu không đến mức nguy cấp thì không được phép sử dụng, vì đó là sản phẩm của thời hiện đại, có thể làm thay đổi lịch sử. Sếp lúc nào cũng căn dặn không được làm gì khiến lịch sử thay đổi, nhưng thầy có nghĩ rằng, bản thân việc tôi vượt thời gian trở về đây cũng là một hành động làm thay
đổi lịch sử?

Bọn cướp đang bàn bạc với nhau bằng tiếng Tochari mà tôi có thể nghe hiểu, với giọng địa phương lơ lớ, không phải khẩu âm Khâu Từ.

Tôi vắt óc nghĩ cách thoát thân. Tôi không giàu bản lĩnh như Huyền Trang, có thể
dùng lời lẽ khuyên giải đám giặc cướp ngài gặp trên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh buông gươm đao quy y cửa Phật. Vì vậy, sau khi quan sát hết lượt và đánh giá tình hình giữa ta và địch, tôi quyết định: bắt giặc phải bắt tên cầm đầu trước.

Tôi khẽ đưa tay vào trong áo và chạm vào khẩu súng, cũng may chúng cho rằng tôi chỉ là cô gái yếu đuối nên không trói chân tay tôi lại như những người Ba Tư kia. Tôi nở nụ cười ngọt ngào với tên râu quai nón đang ngồi ung dung nhai thịt trên tấm
thảm, hơi nhích về phía hắn một chút, cất giọng Tochari lơi lả:

- Đại Vương

Cắn răng thật chặt để xua đuổi nỗi sợ hãi đang khiến toàn thân nổi da gà.

Hắn cười híp cả mắt, chìa bàn tay nhầy nhụa về phía tôi. Tôi tiến lên phía trước
một bước, làm điệu bộ chuẩn bị ngả vào lòng hắn, rồi đột ngột rút súng chĩa vào hắn và bắn. Súng gây mê này thật lợi hại, tên cầm đầu chưa kịp có phản ứng gì đã ngã lăn xuống đất. Nhân lúc đàn em của hắn còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra,
tôi lập tức hạ thêm năm tên đứng gần nhất và lấy giọng uy hiếp những tên còn lại:

- Bỏ vũ khí xuống, ta sẽ tha mạng cho các người!

Hình như vẫn chưa dọa được chúng, tôi tiếp tục quát:

- Đây là loại độc dược "kiến huyết phong hầu", thấy máu chảy tức là người đã chết,
các ngươi không sợ thì đến đây mà thử!

Có lẽ vũ khí lợi hại của thế kỷ XXI đã khiến bọn cướp kinh sợ, hơn chục tên còn lại hoang mang nhìn những tên đang nằm bất động trên mặt đất. Thực ra tôi chỉ dọa chúng thế thôi, khẩu súng gây mê của tôi rất nhỏ, chỉ có thể bắn vào đối phương ở khoảng cách dưới năm mét. Thế nên, khi thấy bọn cướp buông hết các thứ đao, cung, kiếm tôi khẽ thở phào, mồ hôi đầm đìa lưng áo. Tôi vội vàng chạy đến cởi trói cho đám thương nhân kia, nhưng dây quấn quá chặt, tôi đành phải lôi con dao Thụy Sĩ ra cắt.

Những việc xử lý tiếp theo không cần tôi phải bận tâm nữa. Mấy tên cướp còn lại
khiếp sợ thứ vũ khí mà tôi cầm trong tay, bây giờ lại thêm một đám người Ba Tư đông đảo cầm gươm đuổi phía sau, nên bọn chúng đã chạy mất dạng từ lâu. Mấy người Ba Tư kia kính cẩn hành lễ tạ ơn tôi. Trong số họ có một người biết tiếng Hán và một người biết tiếng Tochari. Tuy nói năng không lưu loát, nhưng hai ngôn ngữ bổ sung cho nhau, cộng thêm ngôn ngữ thân thể, chúng tôi cũng có thể hiểu nhau tám, chín phần. Tôi lôi từ trong ba lô ra tập bản đồ, nhờ họ xác định vị trí. Tập bản đồ này rất đặc biệt, được phác họa dựa trên tình hình khu vực trước và sau đời nhà Hán khoảng năm trăm năm. Lật giở đến trang về Tây vực, vì chú thích bằng tiếng Hán, nên phải mất một lúc lâu họ mới chỉ ra cho tôi vị trí tương đối nơi chúng tôi đang đứng, có vẻ như gần Luntai (Burgur). Tôi xem xét thật kỹ bản đồ một lần nữa, thì ra tôi đã rơi xuống ven sa mạc Taklamakan. Ở nơi khô hạn cực độ như thế này mà vẫn có đồng cỏ rộng lớn, vậy chắc chắn là đồng cỏ và hồ nước ở Luntai rồi! Đây chính là nơi cư trú của tộc người Rob (La Bố) cổ đại, họ sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trong hồ nước này. Nhưng tôi không thấy quanh đây có nhà cửa gì cả, có lẽ họ định cư ở phía khác của hồ nước. Nhưng cũng không thể xác định đám cướp kia có phải người Rob hay không. Luntai cách Khâu Từ khoảng tám mươi kilômét. Nếu với tốc độ như hiện nay của đoàn lạc đà (bình quân mỗi ngày đi được hai mươi đến ba mươi kilômét), thì nhiều nhất là bốn ngày sau tôi có thể đến được Khâu Từ.

Khâu Từ, mỗi lần nghĩ đến nơi ấy là tim tôi lại đập rất gấp và bóng dáng thanh mảnh, khổ hạnh ấy lại hiện ra trước mắt. Không biết bây giờ cậu ta bao nhiêu tuổi rồi. Tôi hỏi mấy người Ba Tư hiện đang là năm nào, họ cung cấp cho tôi một số thông tin
như sau:

1. Ở Trung Nguyên hiện vẫn là thời nhà Tần của Phù Kiên (nhưng họ không rõ niên hiệu).

2. Vua Khâu Từ vẫn là Bạch Thuần (họ chỉ biết Bạch Thuần khoảng hơn bốn mươi tuổi).

3. Chỉ nghe nói Kumarajiva là một vị hòa thượng nổi tiếng (vì người Ba Tư theo tín ngưỡng Hỏa giáo, vốn là một tôn giáo thờ thần lửa thời xưa, nên mặc dù Kumarajiva là một cao tăng Phật giáo tiếng tăm vang dội, họ cũng không hay biết), tuổi tầm hai mươi đến ba mươi tuổi.

4. Họ vừa đi qua Khâu Từ, bây giờ đang trên đường đến Trường An. Nhưng vì tôi

có ơn cứu mạng với họ, nên họ bằng lòng đưa tôi quay về Khâu Từ rồi mới lên đường
đi tiếp.

Không phải tôi không muốn đi Trường An, nếu sếp có mặt ở đây, chắc chắn sẽ yêu cầu tôi phải cùng họ đi Trường An ngay, như thế sẽ được một công đôi việc, tiện thể khảo sát con đường tơ lụa, con đường huyền thoại từ thời Nam Bắc triều. Nhưng một giọng nói cứ vang vọng trong tôi, thôi thúc tôi đi đi, đến đó gặp cậu ấy đi! Sau khi trưởng thành, Kumarajiva sẽ có diện mạo như thế nào nhỉ? Nếu có thể tận mắt nhìn thấy cậu ấy, những nghiên cứu của tôi sẽ có ý nghĩa hơn rất nhiều. Vả lại, tôi đã hứa
với Pusyseda nhất định sẽ quay lại, tôi phải giữ lời chứ, đúng không?

Chúng tôi dự trữ nước và lập tức lên đường, vì lo những tên cướp kia sẽ quay lại. Mấy tên bị hôn mê, chỉ sau hai mươi tư giờ sẽ hồi phục, rất có thể bọn chúng sẽ tìm cách trả thù, nghĩ vậy, mọi người đều sợ hãi, ai cũng muốn mau chóng đi khỏi khu vực ấy càng xa càng tốt. Tôi điều chỉnh lại thời gian trên đồng hồ cho chậm lại hai giờ, xác lập múi giờ Tân Cương.

Khi chúng tôi đến được điểm dựng trại thì bầu trời đã lấp lánh ngàn sao. Nơi này là một thành quách hoang tàn, từ lâu đã không có người ở. Theo phát âm của người Ba tư thì nó có tên là Tahanqi. Thành quách này có lẽ đã rất nhiều tuổi rồi, tường thành trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa, phần lớn đều đã sập sệ, dưới ánh trăng vằng vặc, khung cảnh hoang tàn càng làm tăng cảm giác bãi bể nương dâu. Xung quanh là những thửa ruộng, vậy là chúng tôi đã ra khỏi sa mạc Taklamakan.

Chúng tôi dựng trại cạnh tường thành, những người Ba Tư hào phóng dựng riêng một lán trại cho tôi. Người đàn ông biết tiếng Hán cố diễn đạt cho tôi hiểu rằng nơi này có liên quan đến triều đại nhà Hán. Nhưng vì tiếng Hán của người đó không được trôi chảy, phải bổ sung bằng rất nhiều dấu hiệu tay chân, tôi mới hiểu sơ sơ. Ông ta cho tôi biết, thành trì này do một người Hán xây dựng lên, đó là một vị dũng tướng,
với tài thao lược xuất quỷ nhập thần. Người Hán ư? Dũng tướng ư?

Liệu có phải là thành Taqian do tướng quân Ban Siêu dựng lên không? Tahanqi và Taqian có âm đọc rất giống nhau. Có lẽ do người Ba Tư phát âm không chuẩn.

Tim tôi đập mạnh. Thành Taqian thuộc Khâu Từ, vốn là nơi Ban Siêu đóng quân khi nhậm chức đô đốc Tây vực, ở thời hiện đại, vị trí chính xác của nơi này vẫn còn là một bí ẩn.

Nếu nói như vậy, bí ẩn này, giờ đây đã được giải đáp rồi ư?

Năm 73 sau Công nguyên, Ban Siêu theo đô úy Đậu Cố tấn công giặc Hung Nô
phía bắc, công việc của ông chỉ là văn thư. Ông dẫn theo đoàn sứ giả gồm ba mươi sáu người đến Shanshan, từ đây cuộc đời chinh chiến của ông tại Tây vực đã mở trang sử đầu tiên.

Năm 81 sau Công nguyên, ông thống lĩnh một đạo quân khoảng hai mươi lăm nghìn người tập hợp từ các nước chư hầu phía nam Tây vực tấn công Yarkland (nay là huyện Yarkland thuộc Tân Cương). Vua Khâu Từ điều quân cứu viện Yarkland, trúng kế của Ban Siêu, thất bại thảm hại và phải bỏ chạy. Yarkland quy thuộc nhà Hán, con đường tơ lụa được khai thông về phía nam.

Năm 90 sau Công nguyên, nước Yuezhi (nay là các vùng đất thuộc Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan) cử một đội quân gồm bảy mươi nghìn người tấn công Sulaq (nay là Kashgar thuộc Tân Cương). Ban Siêu nhận thấy đội quân vượt ngàn dặm xa xôi ấy đã sức cùng lực kiệt, nên cố thủ không đánh. Đến khi lương thực cạn kiệt, quân Yuezhi phải chạy đến Khâu Từ xin cứu viện, trước đó Ban Siêu đã cho quân mai phục, nên đã tiêu diệt toàn bộ đạo quân kia. Yuezhi đầu hàng, Ban Siêu cho phép tàn quân trở về quê hương, Yuezhi nối lại mối quan hệ hòa hảo với nhà Hán.

Năm 91 sau Công nguyên, Khâu Từ quy thuận nhà Hán, Ban Siêu được cử làm tướng quân cai quản Tây vực, lập đô hộ phủ tại Khâu Từ, phế bỏ ngôi vua của Vưu Lợi Đa do Hung Nô lập nên, nên đưa thân tín của nhà Hán (chỉ các vương tử do các nước chư hầu Tây vực cử đến triều đình nhà Hán làm con tin), Bạch Bá lên làm vua Khâu Từ. Lịch sử cai trị Khâu Từ hơn tám trăm năm của dòng họ Bạch bắt đầu từ đó, cho đến khi bị người Ughur chiếm đóng.

Năm 94 sau Công nguyên, Ban Siêu dẫn theo bảy mươi vạn quân tập hợp từ tám nước trong đó có Khâu Từ và Shanshan, chinh phạt tiểu quốc Yanqi ngỗ ngược, bắt trói quốc vương nước này, chém đầu thị uy trước thành trì của vị tướng cai quản Tây vực tiền nhiệm bị giết hại là Trần Mục. Sau đó lập thân tín của nhà Hán là Nguyên Mạnh lên làm vua Yanqi. Từ đó hơn năm mươi quốc gia Tây vực đều quy thuận nhà Hán. Sau khi dẹp tan thế lực của Hung Nô, Ban Siêu dời đô hộ phủ đến thành Taqian. Từ đó, con đường tơ lụa được khai thông về phía bắc.

Năm 122 sau Công nguyên, vua Khâu Từ khi ấy là Bạch Anh còn đang băn khoăn
không biết nên quy thuận hay đối kháng với nhà Hán, con trai Ban Siêu là Ban Dũng dùng lí lẽ thuyết phục, Bạch Anh đã cùng với hai nước khác là Gumo và Wensu xin hàng Ban Dũng. Từ đó cho đến cuối đời Đông Hán, vương triều Khâu Từ luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhà Hán.

Tôi nhìn ngắm những mảng tường hoang phế dưới bóng trăng, dấu tích của tháng năm đang kể lại câu chuyện hào hùng về cuộc đời lẫm liệt và những chiến công rung trời chuyển đất của hai cha con vị tướng quân anh hùng hai trăm năm mươi năm về trước. Thành quách nguy nga năm nào giờ đây chỉ còn là đống đổ nát, không người qua lại. Đến thế kỷ XXI, ngay cả đống đổ nát hoang tàn này cũng không lưu lại bất cứ dấu vết nào cả. Trong đêm vắng, lắng nghe tiếng rì rầm tụng kinh của những người Ba Tư theo đạo Hỏa giáo, quan sát họ quỳ lạy trang nghiêm bên đống lửa bập bùng, sự thần bí của tín ngưỡng lan trong không gian mênh mông, càng làm tăng thêm vẻ cô tịch, lạnh lẽo của chốn này.

Tôi đang ở vào thời kỳ Ngũ hồ thập lục quốc, Trung Nguyên đại loạn, các nước chư hầu đua nhau tranh bá, không ai màng tới Tây vực. Bởi vậy, đã từ lâu Khâu Từ không còn nghe hiệu lệnh của vương triều Trung Nguyên, Bạch Thuần câu kết với người Hồ ở Trung Á, mưu đồ xưng bá Tây vực, gây bất bình trong các nước ở khu vực này. Phù Kiên đặt nhiệm vụ thống nhất lên hàng đầu, lại nhận được sự ủng hộ của vua Shanshan và vua Chirsh, lệnh cho Lữ Quang chinh phạt Khâu Từ. Bạch Thuần dựa vào quân Hồ, quân số tổng cộng bảy mươi vạn, vậy mà vẫn không thắng nổi mười vạn quân của Lữ Quang. Bạch Thuần tháo chạy, em trai Bạch Chấn lên thay, Khâu Từ trở thành vùng đất trong bản đồ của nhà Tiền Tần. Và số mệnh của Rajiva, cũng rẽ
sang một hướng mới kể từ đó

Chương 16: Gặp lại người xưa 

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Ông trời chứng giám, tôi muốn
được ở lại khảo sát thành cổ Taqian đã biến mất hoàn toàn vào thế kỷ XXI này đến nhường nào. Nhưng sau khi suy tính kỹ lưỡng, tôi vẫn quyết định cùng những người Ba Tư kia lên đường. Có hai lí do, một là đoàn thương nhân ấy đã vì tôi mà phải quay lại Khâu Từ, tôi không thể kéo dài thời gian của họ thêm nữa. Hai là, vì an toàn của bản thân, tôi không thể không đi tiếp, ai mà biết có hay không một toán cướp thứ hai.

Thôi, hãy cứ đến Khâu Từ trước đã, rồi quay lại sau vậy, dù sao khoảng cách từ Khâu
Từ đến nơi này cũng không quá xa. Bởi vậy, sớm tinh mơ tôi đã trở dậy và đi một vòng quanh thành cổ, thực hiện công việc đo đạc cơ bản nhất, sau đó đánh dấu vị trí lên bản đồ, để tiện cho việc tìm kiếm sau này.

Lúc lên đường, tôi vẫn lưu luyến dõi theo bóng thành cổ Taqian ngày một xa dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ và mất hút trong không gian. Nhưng bù lại, trên đường đi, tôi được chiêm ngưỡng rất nhiều địa danh khiến tôi phải kinh ngạc. Tôi phát hiện ra một di tích quan ải đời nhà Hán, nơi đây vẫn còn lưu lại những vết tích của khói lửa chiến tranh. Tranh thủ giờ nghỉ trưa, tôi xăm xắn chạy đến đo đạc, kiểm tra, tôi còn tìm thấy rất nhiều mảnh sành mảnh sứ và cả tiền đồng thời Hán nữa. Căn cứ vị trí địa lý, thì nơi đây có lẽ là cửa ải Wulei (Ô Lũy) thời Hán. Về sau, vào thời nhà Đường, ngay cạnh di chỉ này, phong hỏa dài và thành lũy phòng thủ đã được xây dựng, chung quanh còn có đồn điền và các trại lính, quy mô rất lớn. Công trình kiến trúc này vẫn tồn tại cho đến thế kỷ XXI.

Tôi cứ thế tất bật với công việc khảo sát suốt dọc đường đi. Ba ngày sau chúng tôi đã đến được Khâu Từ.

Nhận ra bức tường thành quen thuộc, tim tôi đập dữ dội, dường như cảm giác "về đến nhà" đang trào dâng mạnh mẽ trong tôi. Không biết Rajiva có đang ở Khâu Từ
không? Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi? Có còn nhớ tôi không?

Chúng tôi vào thành từ cổng phía đông, họ đòi kiểm tra giấy tờ, tôi tròn xoe mắt! Đang nghĩ xem có nên viện cớ là người quen của quốc sư hay không thì người đàn ông Ba Tư biết tiếng Tochari đã kịp nhét một túi nhỏ vào tay tên lính giữ thành, thế là hắn vung tay ra hiệu cho phép cho chúng tôi qua.

Đây là thành cổ Khâu Từ mà tôi từng thông thuộc ư? Từ phố lớn đến ngõ nhỏ chỗ nào cũng được quét dọn sạch sẽ, tinh tươm. Dân chúng trong thành mặc những bộ trang phục đẹp nhất, kéo về cổng thành phía tây, ai nấy đều náo nức như đi trẩy hội. Tôi nhìn những người Ba Tư, họ nhún vai tỏ vẻ không hiểu. Đành phải chặn một người đi đường lại để hỏi xem họ đang đi đâu. Người đó thấy tôi mặc trang phục của người Hán, liền giải thích cho tôi biết hôm nay là ngày lễ rước tượng Phật (ngôn ngữ Phật giáo gọi là "Hành tượng"), lát nữa sẽ có xe hoa chở tượng Phật vào trong thành qua cửa phía tây, sau đó diễu hành qua khắp các đường phố để mọi người được chiêm ngưỡng.

Ngày lễ rước tượng Phật? Pháp Hiền và Huyền Trang từng viết rằng đây là lễ hội
Phật giáo náo nhiệt nhất được tổ chức tại Ấn Độ và các quốc gia Tây vực.

Thấy tôi đang ngẩn ngơ suy nghĩ, người đó tưởng rằng người Hán không biết về ngày hội này, nên đã giải thích rất nhiệt tình cho tôi. Sau khi Phật tổ nhập Niết Bàn, Phật tử buồn vì không có duyên được thấy Phật, cho nên tổ chức ra ngày hội rước tượng Phật vào ngày Phật Đản để mọi người được chiêm bái và cầu nguyện, vào ngày này, những lời khẩn nguyện đặc biệt linh nghiệm. Nhưng ngày hội lớn như thế này lại không được lưu truyền ở Trung Nguyên. Tôi thật may mắn vì tới đây đúng lúc, không thể bỏ qua cơ hội được tận mắt chứng kiến ngày lễ Phật giáo trọng đại này được. Tôi nói lời từ biệt với đoàn thương nhân Ba Tư, họ mang theo bên mình bao nhiêu là hàng hóa, chắc chắn không thể đi cùng tôi. Người dẫn đầu đoàn thương nhân ấy muốn biếu tôi một khoản tiền, nhưng tôi một mực từ chối. Người đó bèn lấy ra một chuỗi hạt đeo tay bằng mã não trong suốt, lấp lánh rất đẹp, đặt vào tay tôi, tôi đành nhận lấy.

Sau khi chia tay đoàn người Ba Tư ấy, tôi hòa vào dòng người, đổ về cổng thành phía tây. Một khán đài được dựng tạm trên cổng thành, những tấm vải bạt to rộng màu vàng màu đỏ, được trang trí bằng vô số hoa tươi phủ lên trên. Khán giả trên khán đài là những người ăn mặc cầu kỳ, sang trọng và nổi bật, tuy không nhìn rõ, nhưng chắc chắn là hoàng tộc và quý tộc Khâu Từ. Tôi bị chen lấn, xô đẩy và dạt ra tận ngoài cổng thành đến vài chục bước. Nhưng sau cùng cũng tìm được một khoảng trống để đặt đủ hai chân, nhưng tôi chỉ có thể kiễng lên mà nhìn vào phía trong. Thảm đỏ được trải dài trăm mét, chạy thẳng đến cổng chính phía tây. Lúc này, biển người đột nhiên di động, tôi đưa mắt nhìn theo ra ngoài cổng thành, vẫn trong tư thế kiễng chân, tôi thấy hai chiếc xe bốn bánh khổ lớn, giống hệt nhau, cao khoảng bốn, năm mét, trang trí lộng lẫy, nguy nga như một cung điện nhỏ, phủ lên trên một tấm phông màu vàng. Tôi từng nhìn thấy những cỗ xe rước tượng Phật như vậy ở quảng trường lớn trước đây, cạnh tượng Phật tổ còn có hai bức tượng Bồ Tát khổ nhỏ nữa. Tượng Phật được đúc bằng vàng, trên mình khoác áo cà sa màu vàng với những họa tiết phức tạp và đeo đủ loại trang sức vàng bạc, châu báu.

Những cỗ xe chầm chậm tiến vào cổng thành phía tây, rồi dừng lại trước thảm đỏ. Đức vua Khâu Từ từ khán đài bước xuống, tháo vương miện, cởi giày, chân trần bước trên thảm đỏ, hai tay nâng cao quá đầu một nén nhang dài, cung kính hướng về phía tượng Phật. Đức vua nom đã luống tuổi, thân thể nặng nề hơn xưa. Bỗng, tôi như bị thôi miên, người đang đứng trang nghiêm phía sau Bạch Thuần ấy, người khoác áo cà

sa dát kim tuyến, khí khái bất phàm ấy chính là Rajiva, đúng rồi, là cậu ấy!

Giống như trong phim, mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo, âm thành ồn ào huyên
náo biến mất, trước mắt tôi chỉ có hình ảnh Rajiva là sống động và duy nhất.

Cậu ấy đã trưởng thành, tuổi chừng hơn hai mươi, đẹp như một bức tượng điêu khắc Hy Lạp với sống mũi cao vời vợi, đôi mắt sáng mênh mông, hàng lông mày dài mượt và dày đậm, đôi đồng tử màu xám nhạt khi nhìn lên, tưởng chừng có thể thấu suốt mọi thứ trên thế gian này. Làn môi mỏng khép chặt, đường môi sống động như vẽ ấy, thật dễ làm say lòng người. Cậu ta trông rất cao, chắc chắn hơn một mét tám mươi. Cơ thể đã săn chắc hơn nhiều so với độ tuổi mười ba, mặc dù vẫn gầy guộc, nhưng vóc dáng rất cân đối. Khuôn mặt dài thanh tú, chiếc cằm nhọn và chiếc cổ thiên nga quyến rũ, đường nét nào cũng hấp dẫn, cũng hút hồn. Và còn khí chất thoát tục toát lên từ vẻ đạo mạo, nghiêm cẩn ấy nữa, giữa đám đông thế tục ô hợp, càng trở nên nổi bật, khiến người khác không khỏi ngưỡng vọng.

Rajiva ơi Rajiva, sao cậu lại trở nên khôi ngô, tuấn tú, sáng láng đến vậy? Cứ ngắm cậu thế này, trở về thế kỷ XXI, làm sao tôi để ý đến những người đàn ông khác được
nữa?

Bạch Thuần quỳ xuống trước tượng Phật tổ, thị nữ bưng đến một chậu hoa rực rỡ sắc màu, nhà vua cắm nén nhang lên hương án phía trước tượng Phật, rồi rắc hoa tươi lên mình tượng. Đám đông reo hò vang dội. Lúc này, hoàng hậu cùng đám phụ nữ quý tộc cũng đứng trên thành lầu rắc hoa tươi xuống dưới cổng thành. Tiếng trống, tiếng nhạc bắt đầu được tấu lên, đoàn xe chầm chậm lăn bánh men theo thảm đỏ, tiến vào nội thành. Bạch Thuần và một vài người khác dẫn đầu đoàn rước. Rajiva cũng đi
cùng. Tôi hốt hoảng hét to:

- Rajiva, Rajiva, tôi đây, tôi ở đây. Tôi về rồi!

Đám đông xô nhau về phía cổng thành, tôi bị ép sát không thở nổi, cảm giác như
toàn thân mình đang bị đẩy đi, chân không hề chạm đất. Rajiva đột ngột quay đầu lại, dường như đang dõi về phía tôi. Tôi muốn gọi cậu ấy, nhưng những người phía sau chen lên, đẩy tôi ngã sóng soài. Khi tôi luống cuống đứng dậy thì cậu ta đã đi xa mất rồi. Nhìn theo bóng dáng mảnh khảnh ấy đang khuất dần về phía nội thành, tôi cười buồn. Có lẽ cậu ta không nghe thấy tiếng tôi gọi, giữa biết bao thanh âm hỗn tạp như vậy, làm sao mà nghe thấy được. Lúc này tôi mới cảm thấy vết trầy xước bỏng rát

trong lòng bàn tay và trên khuỷu tay. Quần áo mùa hè mỏng manh, chẳng có tác dụng
gì!

Tôi thơ thẩn đi theo đoàn xe vào thành phố, mỗi khi đến trước cổng đền chùa hay cung điện, đoàn xe đều dừng lại. Sau đó sẽ có những chàng trai và cô gái mặc đồ lụa rất đẹp, tay xoay tròn khay gỗ và nhảy múa. Vạt áo, thắt lưng trên người họ theo gió tung bay, trong tiếng nhạc rộn ràng và với những động tác thuần thục khéo léo họ vừa nhảy múa vừa rắc hoa tươi đựng trong khay gỗ lên tượng Phật. Khán giả xung quanh vỗ tay rầm rầm tán thưởng. Tiếp đến là một thiếu nữ dáng vẻ yêu kiều, mặc một chiếc váy voan mỏng mềm mại, hai tay nâng cao một chiếc bát bằng vàng, chân trần nhảy múa, động tác uyển chuyển điêu luyện, miệng tươi như hoa, chốc chốc lại nhấc cao chân trái lên, hai tay nâng chiếc bát vàng qua đầu. Điệu múa này đã được phác họa sinh động trên những bức bích họa ở Đôn Hoàng và Kizil.

Tôi hỏi chuyện một cụ già đứng bên cạnh. Cụ cho tôi biết, hai vũ điệu này gọi là múa đĩa (Bàn vũ) và múa bát (Uyển vũ). Múa đĩa, là điệu múa rắc hoa lên tượng Phật và người đi đường, tượng trưng cho sự ca ngợi và tôn kính đối với Phật tổ. Múa bát là điệu múa bắt nguồn từ câu chuyện Phật tổ trong sáu năm tu khổ hạnh, ngài muốn khắc chế bản thân, nên đã áp dụng phương thức hành xác trong mọi sinh hoạt ăn ở và đi lại. Thế nhưng, đến lúc lả đi vì kiệt sức, ngài vẫn không thể đắc đạo. Sau cùng, ngài đến ngồi thiền dưới gốc bồ đề và đã giác ngộ, rồi ngài sáng lập ra Phật giáo. Sau khi ngộ đạo, Phật tổ ra sông tắm gội, ngài được một cô gái trẻ cúng dường một bát cháo. Điệu múa này chính là điệu múa mô phỏng câu chuyện cô gái trẻ kia cúng cháo cho Đức Phật.

Vũ điệu và âm nhạc đều rất cuốn hút, nhất là với một người đến từ thế kỷ XXI như tôi, nhưng không làm nguôi ngoai những ngổn ngang trong lòng tôi. Đôi mắt tôi cứ bất giác len qua những vũ điệu, len qua tượng Phật, len qua đám đông ồn ào, để kiếm
tìm bóng dáng khổ hạnh, thoát tục ấy

Mỗi lần tưởng như nhìn thấy người đó rồi, tôi chạy vượt lên tìm kiếm, chợt sững
lại, hóa ra chỉ là ảo giác. Chỉ là ảo giác thôi ư? Chợt nhớ đến câu thơ:

Giật mình tôi ngoảnh lại

Bỗng thấy Người đứng đó,

Bên tàn lửa lung linh.

Tôi hít một hơi thật sâu, thử quay đầu lại, không có ai. Dụi mắt, nhìn quanh, vẫn
không ai cả.

Trời tối dần, trên phố vẫn rộn ràng lời ca tiếng hát, đã đến lúc phải lo tìm chỗ ở. Tôi tách ra khỏi đám đông, hỏi thăm vài nhà trọ, đều được thông báo là đã hết phòng. Hay là đến phủ quốc sư? Nhưng bộ dạng của tôi thế này, chắc sẽ khiến họ sợ hãi. Không phải trông tôi dữ dằn hung ác đâu bạn ạ, thực ra dung mạo của tôi cũng không đến nỗi nào, đảm bảo không làm khán giả phải thất vọng. Tôi từng được phong danh hiệu hoa khôi của lớp nghiên cứu sinh khoa lịch sử, tất nhiên, lớp học của tôi nam nhiều hơn nữ. Nhưng nếu bạn nhìn thấy một người mà sau gần mười năm hoặc hơn mười năm (tôi vẫn chưa biết thời gian ở đây đã trôi qua bao nhiêu năm rồi) dung mạo
không hề thay đổi, phản ứng của bạn sẽ thế nào?

Đang do dự không biết phải làm sao thì tôi gặp được cứu tinh, chính là những thương nhân người Ba Tư ấy. Họ đưa tôi đến giáo đường Hỏa giáo của họ, phía sau khu giáo đừng có các căn phòng dành riêng cho những người Ba Tư khi đi qua nơi này trọ lại, có nét gì đó giống với các hội quán ở Thiểm Tây, Ôn Châu. Tôi đã ở lại đây trong đêm đầu tiên trở lại Khâu Từ.

--------------

Chương 17: Nàng đã về 

Ngày hôm sau, đoàn thương nhân Ba Tư lên đường đi Trường An, tôi không phải
người Ba Tư, cũng không phải tín đồ Hỏa giáo, tôi không thể ăn nhờ ở đậu ở đây mãi được. Vậy nên dự định của tôi là đi dạo phố, nhân tiện tìm nhà trọ.

Trên phố vẫn đông nghịt người, họ lại đổ xô về cổng thành phía tây, dường như tôi nghe thấy họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi chặn đường một người đàn ông đứng tuổi để hỏi thăm, người đó bảo rằng, hôm nay ở quảng trường lớn có buổi giảng kinh của Pháp sư nức tiếng gần xa Kumarajiva, đây là dịp hiếm có, phải mau đến đó giành lấy chỗ ngồi.

Những lời tiếp theo không biết tôi có nghe lọt tai chữ nào không, chỉ biết rằng tôi gật đầu đáp lại trong vô thức và đôi chân cứ thế trôi đi theo hướng người đó chỉ.

Tôi lại đến quảng trường lớn "năm năm một lần đại hội". Hai pho tượng Phật cao
bốn đến năm mét được đưa đi diễu hành ngày hôm qua chắc hẳn đang tọa lạc trong một ngôi chùa hoặc ngôi đền nào đó.

Tiếng nói cười ồn ào, náo nhiệt, mọi người ngồi luôn xuống đất. Trên bục cao có một ngai sư tử bằng vàng lóng lánh, lót đệm nhung thêu kim tuyến, dưới ánh nắng chói chang, những sợi kim tuyến lấp lánh chói mắt. Tôi đến muộn, nên phải ngồi mãi phía sau. Tôi để ý thấy trong đám đông, nữ giới nhiều hơn nam giới, cô nào cô nấy má đỏ hây hây, đang cố sức rướn mình thật cao, dõi mắt tìm kiếm trên khán đài. Ồ, thì ra, chàng đẹp trai đi đến đâu cũng thu hút sự chú ý, kể cả khi anh ta là một hòa thượng. Nếu hôm nay không phải Rajiva, mà là một lão hòa thượng hom hem, liệu có thu hút được đông khán thính giả nữ như thế này không? Chợt nhớ có lần đã từng thảo luận với Rajiva về câu nói của Khổng Tử: "Ngô vị kiến hiếu đức như háo sắc giả
dã", bất giác mỉm cười. Khổng tiên sinh quả nhiên không gạt ta!

Đám đông xao động, các thiếu nữ đua nhau vươn cổ ngó nghiêng. Tôi cũng hồi hộp dõi mắt về phía bục cao. Có người bước lên! Nhưng không phải Rajiva, mà là đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc, họ xếp thành một vòng tròn. Sau đó, Rajiva xuất hiện! Vẫn khoác trên mình chiếc áo cà sa dát kim tuyến, thần thái an nhiên, tự tại, từng bước tiến về phía ngai sư tử đặt ở chính giữa. Bạch Thuần quỳ trước ngai sư tử, hai tay đưa lên làm thành tư thế đỡ. Rajiva khẽ chạm một chân lên bàn tay Bạch Thuần, chân còn lại đặt lên vai đức vua, làm đà rướn mình bước lên và ngồi vào ngai sư tử. Đám đông sững sờ! Có lẽ không chỉ tôi, mà ngay cả người dân Khâu Từ cũng chưa bao giờ được chứng kiến một nghi lễ trang trọng đến thế. Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết: "Vua Khâu Từ sai người đúc ngai sư tử vàng, lót đệm nhung của Đại Tần lên trên. Chiếc ngai nguy nga đó dành cho Rajiva ngồi khi giảng kinh". Hôm nay được tận mắt chứng kiến, mới biết sử sách ghi chép không sai chút nào.

Sau khi Rajiva yên vị, Bạch Thuần cùng đám quý tộc khoanh chân ngồi lên tấm thảm trải phía dưới ngai sư tử. Rajiva cất tiếng, cậu sử dụng ngôn ngữ Tochari. Có lẽ vì đây là buổi giảng kinh cho dân thường và mức độ phổ cập của tiếng Phạn thì không cao. Giọng nói của Rajiva không còn âm điệu hồn nhiên của tuổi mười ba, thay vào đó là vẻ chững chạc của tuổi trưởng thành. Đó là chất giọng trầm ấm, truyền cảm, khoan thai, rất cuốn hút, có thể chạm đến từng sợi dây thần kinh của người nghe và khiến chúng được thư thái hoàn toàn. Lời mở đầu ngắn gọn, khúc chiết, ngay lập tức chiếm được cảm tình của khán thính giả. Kỹ năng diễn thuyết của Rajiva đã tiến bộ

vượt bậc, chắc rằng những năm qua, cậu đã tham gia rất nhiều buổi giảng kinh như
thế này.

Sau đó, Rajiva bắt đầu thuyết pháp. Đó là sự tích Phật tổ lưu trú tại vườn Kỳ Viên, nước Xá Vệ (Savatthi, một vương quốc cổ đại ở miền Trung Ấn Độ). Khu vườn do thái tử Kỳ Đà (Jeta) và nhà từ thiện Tu Đạt Đa (Sudatta, biệt hiệu Cấp Cô Độc) quyên tặng làm tịnh xá cho Phật tổ và một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỷ khâu (Bhiksu). Một ngày nọ, như thường lệ, vào giờ trưa, Đức Phật khoác áo cà sa, tay cầm bát sành, vào thành Xá Vệ khất thực. Ngài đến từng nhà xin bố thí, không phân biệt giàu nghèo. Sau đó quay về vườn Kỳ Viên, Ngài ăn uống, rồi thu dọn đồ đạc, rửa chân và ngồi tọa thiền. Lúc này, trưởng lão Tu Bồ Đề (Subhuti, pháp hiệu "Giải không đệ nhất", là một trong mười đại đệ tử của Phật tổ) mới đứng lên, vai trần bên phải, chân phải quỳ dưới đất, hai tay chắp lại, bắt đầu thỉnh giáo Phật tổ về Phật pháp.

Sau đó, tôi thấy ù tai, chóng mặt. Phần đầu là truyện kể nên tôi có thể nghe hiểu không khó khăn gì dựa vào vốn từ vựng Tochari sẵn có trước đó, kết hợp với những kiến thức về Phật học và tài liệu liên quan đến Rajiva mà tôi đã kịp trau dồi sau khi trở về thế kỷ XXI. Nhưng tiếp theo lại là những giáo lý Phật giáo uyên thâm. Mặc dù Rajiva thuyết giảng với tốc độ vừa phải, từng câu từng chữ rõ ràng, khúc chiết, nhưng phần lớn vẫn là những từ ngữ mà tôi chưa được học, nên tôi nghe không hiểu mô tê gì. Cảm giác lúc này hệt như khi tham dự buổi giảng kinh đầu tiên của Rajiva ở Wensu, ký ức sống động như vừa diễn ra hôm qua. Thực ra, mọi thứ liên quan đến Rajiva đều rất sống động, mới mẻ vì với tôi, đó là những hình ảnh của chưa đầy một năm về trước.

Rajiva khoát tay, một chuỗi tràng hạt lộ ra trên cánh tay trái. Có phải tôi nhìn nhầm không? Vì sao trực giác cho tôi hay, đó chính là món quà tết tôi đã tặng cậu ta trước lúc rời khỏi Khâu Từ? Tôi chăm chú quan sát người ngồi trên chiếc ngai sư tử ấy, tuy ở khoảng cách khá xa, nhưng vẫn thấy rõ nét an nhiên, tự tại đặc trưng trên gương mặt. Bất giác, buông tiếng thở dài.

Rajiva, mấy ngày qua, tôi cứ mê man chạy đuổi theo cậu, nhưng không có cách nào lại gần cậu được. Lẽ nào tôi cũng chỉ có thể giống như những cô gái với đôi mắt mang hình trái tim kia, ngắm nhìn cậu từ phía xa? Cậu cứ thuyết giảng đi, lần này tôi
hứa không trốn về nữa, nhưng liệu cậu có nhìn thấy tôi không?

Buổi thuyết pháp kéo dài mấy giờ đồng hồ và Rajiva không cầm bất cứ tài liệu gì

trên tay, thậm chí, trong suốt thời gian giảng kinh, cậu ấy còn chẳng hắng giọng lấy
một tiếng. Hồi ở Wensu, cậu ấy thuyết giảng liên tục bảy bảy bốn mươi chín ngày, tuy tôi chỉ ngồi nghe nửa ngày, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng, cậu ấy không bao giờ cần đến tài liệu. Vẫn biết Rajiva thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần đọc qua là nhớ, nhưng không thể không bày tỏ sự thán phục đối với cậu ấy. Còn về phần mình, mặc dù rất đau khổ, nhưng xin thú thật là tôi chỉ hiểu được khoảng hai mươi phần trăm nội dung bài giảng và đưa ra kết luận như thế này: Rajiva vừa thuyết giảng về ý nghĩa của khái niệm "không" trong giáo lý Đại Thừa và những kinh văn mà cậu ấy vừa đọc chính là một trong những tác phẩm dịch thuật nổi tiếng sau này của cậu ấy: "Kim cương bát nhã ba la mật kinh", thường được gọi là "Kinh kim cương".

Tuy không thuộc trọn bộ "Kinh kim cương", nhưng sau khi trở về thế kỷ XXI, tôi đã dành nhiều thời gian để tìm đọc cuốn kinh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Rajiva này. Toàn văn bản dịch "Kinh kim cương" của Rajiva không dài, chưa đến năm nghìn chữ, là cuốn kinh văn ghi lại nội dung những câu hỏi đáp giữa Phật tổ và đại đệ tử Tu Bồ Đề (Subhuti). Khái niệm "không" trong Phật giáo vốn rất khó lý giải bằng ngôn từ, bởi vậy, trong cuốn "Kinh kim cương" có rất nhiều câu chữ đậm màu sắc huyền hoặc, uyên thâm của đạo Phật, cố gắng luận giải những giáo lý vốn dĩ không thể diễn đạt bằng lời. Bộ kinh thư này có tất cả sáu phiên bản, cả Rajiva và Huyền Trang đều từng dịch sang tiếng Hán. Bản dịch của Rajiva được giới Phật giáo gọi là bản cũ, bản dịch của Huyền Trang gọi là bản mới. Nhưng bản dịch tuân thủ gần như tuyệt đối nguyên văn tiếng Phạn của Huyền Trang rất ít người nhớ đến. Trong khi bản dịch nghiêng về phương pháp dịch thoát ý của Rajiva lại được lưu truyền rộng rãi suốt 1650 năm.

Trong bản dịch "Kinh kim cương" của Rajiva, tôi thích nhất đoạn này:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán

(Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

Như sương, như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng)[8]

Những câu kinh súc tích, chau chuốt, đậm chất thơ trích từ "Kinh kim cương" ấy
đã toát lên tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Đại Thừa khi nhìn nhận cõi đời như một giấc mơ, như một cơn gió thoảng, như giọt sương rơi trên chiếc lá, thường được gọi là bài kệ Lục Như. Đọc những bản dịch như thế này mới hiểu được vì sao tác phẩm dịch thuật của Rajiva lại có sức sống lâu bền với thời gian như vậy.

Rajiva thuyết giảng triết lý "không" trước quần chúng, điều này chứng tỏ cậu ấy đã thay đổi tông phái từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa, đang ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa, bất chấp sự phản kháng mạnh mẽ từ các thế lực Phật giáo Tiểu Thừa ở Khâu Từ. Vậy là, hơn mười năm dưới sự nỗ lực không ngừng của Rajiva, người dân Khâu Từ đã tin theo và sùng bái Phật giáo Đại Thừa. Nhưng, Rajiva đâu biết rằng, sau khi cậu rời khỏi Khâu Từ và không bao giờ trở lại, tông phái Đại Thừa mà cậu mất bao công sức và tâm sức gây dựng nên đã nhanh chóng suy yếu và Phật giáo Tiểu Thừa lại được dịp phát triển rầm rộ, cho đến khi Khâu Từ bị người Ughur đồng hóa và cưỡng chế theo tín ngưỡng Hồi giáo của họ. Phật giáo Đại Thừa ở Khâu Từ chỉ tồn tại và hưng thịnh nhờ có Rajiva, điều đó, quả thực, chẳng khác nào hoa phù dung kia sớm
nở tối tàn!

Buổi giảng kinh đã kết thúc, nhưng tôi chưa vội ra về, mà rảo bước sang mạn tây bắc của quảng trường lớn. Dòng sông nhỏ đóng băng ngày ấy giờ đây đang chảy xiết, một cây cầu bắc qua sông. Ngôi chùa "kỳ lạ" vẫn trầm mặc tọa lạc bên kia sông, mái chùa lấp lánh ánh vàng, xem ra, chùa đã được tu sửa ngày càng khang trang hơn. Nhớ lại khoảnh khắc run rẩy nhón bước trên mặt băng, tay nắm chặt bàn tay ấm áp của Rajiva, bất giác mỉm cười. Đó là lần đầu tiên tôi bị hoa mắt vì "quáng tuyết" (cường độ ánh sáng mãnh liệt phản chiếu lên mặt băng tuyết, kích thích và làm cho mắt bị đau, thậm chí bị mù). Tôi nhắm mắt lại, hồi tưởng về nỗi sợ hãi khi đó.

- Rajiva, sao tôi không thấy cậu?

- Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, một lát nữa là không sao.

- Rajiva, tôi sẽ không bị mù chứ?

- Không đâu.

- Nếu tôi bị mù thì phải làm sao?

- Không đâu.

- Cô đã trở lại!

Hả? Câu cuối cùng hình như không nằm trong kho trí nhớ của tôi thì phải? Tôi mở
mắt, quay đầu lại. Định thần, rồi hai mắt cứ thế mở to ra, to nữa, thêm nữa, lớn đến
mức trong tầm mắt chỉ tồn tại duy nhất dáng vẻ thảnh thơi, an nhiên của cậu ấy

Mười năm không gặp, sao vẫn ngây ngô như vậy?

Phải rồi, cậu ta từng nói, nếu không có vẻ mặt ngây ngô ấy, tôi sẽ thông minh hơn
rất nhiều. Trời ơi, những kỉ niệm mà tôi ngỡ vừa mới hôm qua, vậy mà đã là mười năm thời gian đối với Rajiva. Sống mũi tôi bỗng cay cay.

- Sao thế? Không nhận ra tôi à?

Cánh tay phải chìa ra, sắp chạm đến vai tôi, lại đột ngột vẽ một đường vòng
ngượng ngập, rồi thu về. Ánh mắt ban đầu nhìn tôi chăm chú, bỗng chớp chớp đôi ba lần, khẽ cúi đầu, hàng mi chùng lại. Nhưng cánh tay lại đột ngột vươn ra nắm lấy tay
phải của tôi:

- Sao thế này?

Theo ánh mắt của Rajiva tôi nhìn xuống lòng bàn tay mình. Cú ngã hôm qua,
khiến lòng bàn tay và khuỷu tay tôi rách toác, nhưng tôi đã giấu kỹ trong tay áo, nên nhìn bên ngoài không thể phát hiện ra. Cho đến tận tối hôm qua, khi tôi vào nghỉ trọ trong giáo đường của người Ba Tư, mới xắn tay áo lên xử lý sơ qua vết thương. Lúc này, vết rách đang tím lại và sưng lên. Thời cổ đại không có thuốc chống viêm, mắc bệnh uốn ván cũng có thể mất mạng như chơi. Nếu không chữa khỏi, tôi chỉ còn cách
trở về thế kỷ XXI

Đang mải nghĩ, chợt cảm thấy mình bị lôi đi.

- Đi đâu vậy?

Bàn tay Rajiva vẫn ấm áp và trơn ướt như xưa.

- Đi khám bệnh.

Rajiva ngước nhìn lên bục cao, mọi người đều đã ra về, chỉ còn lại vài hòa thượng
đang quét dọn.

- Đức vua đã hồi cung, hãy vào cung cùng tôi.

- Cậu

Tôi ngập ngừng:

- Cậu không thắc mắc vì sao tôi không hề thay đổi ư?

Cậu ta không hỏi gì khiến tôi cảm thấy rất bứt rứt, nhưng nếu cậu ta hỏi đến, tôi
phải giải thích sao đây?

Sau mười năm, Rajiva đã trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, còn tôi, chẳng thay đổi gì cả. Vậy là cậu ta đã "bắt kịp" tôi, cũng hai mươi tư tuổi. Chàng thanh niên bằng tuổi tôi ấy đang nắm tay tôi kéo đi, cẩn trọng để không chạm vào vết thương của
tôi. Nhưng Rajiva là hòa thượng và ở phía đó còn có những người khác

Cảm thấy tôi đột nhiên dừng bước, Rajiva quay đầu, nhận ra tôi chú ý đến bàn tay cậu ta đang nắm chặt tay mình. Rajiva vội thả tay ra, gương mặt lại đỏ lên rộn ràng hệt
như mười năm trước, mắt cụp xuống, khẽ nói:

- Pusyseda bảo cô là tiên nữ

Rồi lại ngước lên nhìn tôi, vẫn là đôi mắt trong sáng và thuần khiết ấy.

- Dù thế nào, cô trở về là tốt rồi

Tôi nghe mà sống mũi cay cay, tôi ốm mất!

Chúng tôi không vào cung tìm ngự y nữa, tôi sợ chạm mặt người quen. Rajiva
không xem tôi là quái nhân, nhưng biết đâu những người khác sẽ trói tôi lại rồi đưa lên giàn thiêu thì sao, tốt hơn hết là phải thận trọng! Tôi không nói với Rajiva những lo lắng của mình, nhưng thấy tôi do dự, cậu ta hiểu ngay.

Tôi đeo chiếc ba lô Northface lên vai rồi trèo lên xe ngựa của Rajiva, cậu ấy bảo sẽ đưa tôi đi tìm chỗ ở. Chiếc xe ngựa của Rajiva bên ngoài trông rất giản dị nhưng bên trong khá là thoải mái, có đệm êm, ngựa tốt. Là một hòa thượng, Rajiva không sở hữu tài sản cá nhân, nhưng cả đời cậu ấy đều không phải lo chuyện cơm ăn áo mặc và lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ. Khi còn ở Kabul, chưa đầy mười tuổi mà Rajiva đã nhận được sự đãi ngộ đặc biệt: "Mỗi ngày hai đôi ngỗng khô, ba đấu gạo, ba đấu bột mì, sáu cân bơ. Nơi ở có năm vị tăng trẻ, mười chú tiểu lo công việc và một số đệ tử khác lo quét dọn. Có thể thấy Kumarajiva đã được trọng vọng như thế nào". Trong các bộ phim truyền hình mà tôi xem, các chú tiểu vất vả lắm cũng chỉ phải cầm chổi quét qua quét lại, Rajiva, có lẽ cả đời cũng không phải động chân động tay vào mấy
công việc lặt vặt này

Xe ngựa rung lắc khá mạnh cắt ngang những suy nghĩ miên man của tôi, quay lại và nhìn sang phía đối diện, khuôn mặt Rajiva không biết từ lúc nào đã lại đỏ lên như
gấc chín

Tôi hắng giọng, đưa mắt đến chuỗi hạt trên tay cậu ta, màu sắc không còn như trước nữa, một số hạt đã có vết nứt.

- Cũ như vậy mà vẫn đeo sao?

Cậu ta cúi xuống, thu tay vào trong áo:

- Vẫn đeo, chưa muốn thay.

Tôi lôi trong ba lô ra chuỗi hạt mã não.

- Đeo cái này đi.

Rajiva nhìn chuỗi hạt trong tay tôi, hơi ngạc nhiên. Chuỗi hạt đó rất đều và đẹp,
sắc đỏ long lanh, trong suốt, chỉ nhìn cũng biết là món đồ quý giá. Một lúc sau, cậu ta mới đưa ta ra nhận lấy chuỗi hạt, nhưng không đeo vào tay, mà thận trọng đặt vào lòng mình.

Ánh mắt mơ màng ngước nhìn tôi. Tôi nghĩ, xe ngựa này xóc quá

Chương 18: Đến chùa Cakra 

Xe ngựa chạy mãi, tôi kéo rèm nhìn ra bên ngoài, vậy là chúng tôi đang đi về
hướng bắc, bên đường, ruộng nương trải rộng mênh mông, chắc chắn đã ra khỏi thành Khâu Từ rất lâu rồi. Lạ quá, sao phải đi xa như vậy, không lẽ nhà trọ đó ở nông
thôn?

- Chúng ta đến chùa Cakra.

Thấy tôi có vẻ suy tư, Rajiva mỉm cười.

- Tôi là sư trụ trì ở chùa Cakra. Chùa cách kinh thành bốn mươi dặm, đường sá
khá xa xôi.

Chùa Cakra ư? Là ngôi chùa mà Huyền Trang từng đến giảng kinh? Nơi có thành cổ Subash mà tôi đã khảo sát nhiều ngày khi ở Kucha? Đúng rồi, Rajiva từng trụ trì ngôi chùa đó, có điều không thấy văn bản hay tài liệu nào ghi chép năm tháng cụ thể, không ngờ lại vào khoảng thời gian khi cậu ấy còn trẻ như vậy.

- Chúng ta sẽ kịp giờ ăn tối.

Có lẽ thấy tôi ngơ ngác nhìn ra xung quanh, trông có vẻ khổ sở lắm, Rajiva càng
cười tươi hơn.

Định lên tiếng biện hộ, nhưng chạm phải nụ cười quyến rũ ấy, tôi chẳng còn nhớ

mình muốn nói gì nữa, cứ mê mải ngắm nhìn. Nụ cười năm mười ba tuổi của cậu ta đã
khiến người khác phải bối rối rồi, nụ cười tuổi hai mươi tư càng có sức cuốn hút mãnh liệt. Bất giác, tôi đưa tay lên che mắt, phải chặn ngay sức hấp dẫn khiến tôi cứ phải hồi hộp vô cớ ấy.

- Tay cô đang bị đau, đừng chạm vào.

Rajiva ơi, cậu có biết ánh mắt và nụ cười ấy của cậu ở thế kỷ XXI người ta gọi là
"phát tín hiệu" không hả? Tôi bỏ tay xuống, kìm chế bản thân để không nhìn vào đôi
mắt hút hồn ấy nữa và nhanh chóng nghĩ cách chuyển chủ đề:

- Pusyseda vẫn khỏe chứ?

Nhắc đến em trai, Rajiva cười vui vẻ.

- Cậu ấy hiện là đội trưởng đội cấm vệ quân, đức vua rất trọng dụng.

Tôi biết mà, từ nhỏ Pusyseda đã thích học võ hơn học chữ, lúc nào cũng ham mê
diễn kịch đánh đấm. Mỗi lần lên lớp, tôi đều phải giả làm quân lính, giả làm giặc cướp, chơi đùa với chú nhóc một lúc lâu, sau đó Pusyseda mới chịu ngồi vào học bài. Nghĩ đến cậu nhóc ấy lại thấy buồn cười. Bây giờ đã là chàng trai hai mươi mốt tuổi rồi, không biết có còn nhớ tôi không, khi mà chúng tôi chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng.

- Cậu ấy kết hôn chưa?

Vẫn chưa. Pusyseda suốt ngày rong chơi phong lưu, chưa thấy cậu ấy thật lòng với
cô gái nào cả. Cha tôi thúc giục thì cậu ấy bảo nhất định sẽ cưới một cô gái độc nhất vô nhị trên đời này.

Ha ha, tiêu chuẩn cao gớm nhỉ! Cũng phải thôi, cậu ta xuất thân quyền quý, lại cao ráo đẹp trai nữa.

- Tôi muốn gặp cậu ấy. Nhưng không biết có làm cậu ấy hoảng sợ không.

Rajiva bật cười, hình như nhớ đến điều gì đó.

lại.

- Không đâu, cậu ấy vẫn luôn nghĩ cô là tiên nữ và tin rằng, cô nhất định sẽ quay

- Cậu giúp tôi sắp xếp được không?

Không biết tôi có nhận ra cậu nhóc ấy không nữa.

Rajiva gật đầu, tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

- Gặp được cậu, sau đó gặp cậu ấy nữa, thì tôi có thể yên tâm quay về rồi.

Khâu Từ vốn không có trong kế hoạch vượt thời gian lần này. Tôi cố ý đến đây chỉ

để được nhìn thấy Rajiva và nhân tiện tìm cách gặp Pusyseda, sau đó sẽ đi khảo sát thành cổ Taqian, rồi đến Trường An. Tôi luôn luôn nhắc nhở bản thân, tôi đến đây để làm việc. Tôi chỉ có thể ở lại nhiều nhất là một năm. Mặc dù sau khi sử dụng Lithium, tính năng của đồng hồ vượt thời gian đã ổn định hơn trước rất nhiều, nhưng tuổi thọ của loại pin này cũng có giới hạn nhất định. Để đảm bảo còn đủ năng lượng khi quay về, tôi phải rời khỏi đây trong vòng một năm. Nếu không tôi sẽ phải lưu lại vĩnh viễn.

Ánh mắt Rajiva thoáng vẻ ngỡ ngàng:

- Cô trở về Trung Nguyên ư? Hay về trời?

Về trời ư? Tôi sững người.

- Cậu tin điều đó thật sao?

- Nếu không, vì sao một cô gái như cô lại một mình xuất hiện giữa sa mạc? Vì sao
cô chưa từng đến Kabul lại nắm rõ kiến trúc chùa hang đá ở đó? Vì sao cô biết nguồn gốc chùa Masha ở Khotan? Vì sao kiến thức và sự hiểu biết của cô phong phú hơn bất cứ cô gái nào? Vì sao đột ngột cô biến mất không để lại dấu vết gì? Vì sao sau mười
năm dung mạo của cô không hề thay đổi?

Hàng loạt câu hỏi "vì sao" khiến tôi bối rối. Cậu ta vốn rất giỏi hùng biện, tôi làm sao chống đỡ nổi. Nếu tiếp tục hỏi nữa, chắc tôi sẽ "khai" ra hết.

Nhìn vẻ mặt tội nghiệp của tôi, Rajiva khẽ cười, đôi mắt long lanh.

- Thực ra, mười năm trước tôi đã cảm thấy rất lạ. Cô đột nhiên biến mất, mười năm
sau trở lại, dung mạo không hề thay đổi. Điều này càng khiến tôi tin rằng, sự xuất hiện của cô là do Phật tổ an bài.

Tôi không biết phải nói sao, ánh mắt ấy khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi gắng giữ
bình tĩnh, chuyển đề tài:

- Cha cậu vẫn khỏe chứ?

Vẻ mặt Rajiva bỗng trở nên u ám.

- Sức khỏe của cha giảm sút đi nhiều, có lẽ vì quá thương nhớ mẹ tôi.

Tôi nhớ rằng, về sau Jiva đã rời Khâu Từ để đến Ấn Độ, nhưng các tài liệu không
ghi chép thời gian cụ thể. Bây giờ, hẳn là bà đã ra đi rồi.

Tôi thinh lặng, Kumarayana, con người nho nhã, đôn hậu ấy, con người "thông tuệ và đức hạnh" ấy chắc hẳn vẫn luôn tha thiết yêu vợ mình? Lẽ ra ông sẽ là người kế vị ở Ấn Độ (không rõ quốc gia của ông là tiểu quốc nào, vì khi đó, Ấn Độ phân tách thành rất nhiều quốc gia nhỏ), nhưng ông đã từ bỏ tất cả để xuất gia và tìm đường đến Khâu Từ học đạo. Có sách chép rằng Kumarayana thành thân với Jiva vì bà rất yêu ông, thậm chí đã ép ông phải cưới bà. Nhưng tôi nghĩ, một cao tăng "tâm vững như bàn thạch" như Kumarayana nếu không có tình cảm sâu sắc với Jiva, chắc chắn sẽ không chịu làm quốc sư Khâu Từ, rồi lưu lại nơi này. Ở Ấn Độ, ông có thể trở thành một tướng quốc kia mà! Nếu không vì người vợ xinh đẹp, nếu không vì những đứa con thông minh, chắc hẳn ông đã không can tâm với thân phận một kẻ tha hương. Vì vậy, khi Jiva muốn xuất gia ông đã kiên quyết phản đối, chỉ đến khi bà một mực tuyệt thực, ông mới đành ngậm đắng nuốt cay chấp nhận. Giương mắt đứng nhìn người vợ đầu gối tay ấp của mình xuống tóc đi tu, từ nay gia đình hạnh phúc của ông không còn trọn vẹn nữa, chắc hẳn ông đã rất đau lòng. Bản thân ông là một tín đồ Phật giáo, lẽ ra ông phải vui mừng khi có người nguyện dành trọn đời phụng sự Đức Phật mới phải chứ? Nhưng vì sao khi tín đồ ấy là người ông yêu thương, ông lại chẳng thể
nguôi ngoai?

Tôi vén rèm cửa nhìn ra bên ngoài, xe ngựa chạy rất nhanh, nhưng vì là cỗ xe tốt
nên mức độ rung lắc không quá nghiêm trọng. Từng thửa ruộng đều tăm tắp trôi qua trước mắt, phía xa xa là dãy Thiên Sơn sừng sững tạc hình lên bầu trời xanh ngút ngát. Quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Rajiva đang nhìn mình. Lại nhớ chuyện Kumarayana không bằng lòng để vợ xuống tóc, nhưng lại đồng ý cho cậu con trai mới bảy tuổi của mình xuất gia. Có lẽ không chỉ vì cậu bé tuổi nhỏ cần có mẹ, mà còn vì Kumarayana muốn Rajiva ở bên Jiva để chăm sóc bà.

Tôi đắm chìm trong những suy tư miên man không dứt, bánh xe vẫn đều đặn quay, mí mắt trùng xuống, nặng trịch. Mấy ngày rong ruổi trên đường khiến tôi thấm mệt.
Chợt thấy vẳng bên tai một giọng nói khẽ khàng, ấm áp:

- Ngải Tình, nằm xuống chợp mắt đi.

Không kịp suy nghĩ thêm, tôi ngã đầu xuống, trước lúc thiếp đi chỉ nhớ mang
máng là đã gối trên vật gì đó rất êm, sau đó ngủ say không biết trời đất gì.

Khi Rajiva đánh thức tôi dậy thì trời đã về chiều, trước mặt tôi là quần thể kiến trúc nguy nga, đồ sộ chẳng khác nào một thành phố. Rajiva lại đỏ mặt khi tôi mở mắt ra nhìn cậu ta, chắc là điệu bộ của tôi lúc ngủ khó coi lắm, nên cậu ta mới như vậy. Tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng cảm giác ấy đã nhanh chóng biến mất ngay sau khi tôi xuống xe và nhìn thấy công trình kiến trúc trước mặt.

Đó là ngôi chùa nổi tiếng nhất trong lịch sử Khâu Từ - chùa Cakra, được xây dựng dưới thời Ngụy Tấn, cũng là ngôi chùa lớn nhất còn lưu lại ở Tây vực. Trong "Đại Đường Tây vực ký" Huyền Trang gọi đó là chùa Chiêu Hộ Li. Khi Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh và có ghé qua chùa Chiêu Hộ Li, thì ngôi chùa này khi ấy đang vào giai đoạn cực thịnh. Khuôn viên của chùa kéo dài đến tận vùng gò đồi và núi cao hai bên bờ phía đông và phía tây sông Tongchang. Ngài Huyền Trang đã ở lại chùa Cakra giảng kinh trong suốt hơn sáu mươi ngày và ngài đã để lại cho thế kỷ XXI rất nhiều tư liệu nghiên cứu quý giá về ngôi chùa này. Phía bắc chùa Cakra có một thôn làng nhỏ của người Duy Ngô Nhĩ (Uygur), nghe nói đó chính là nơi từng được gọi là "Nước con gái" (Nữ nhi quốc) trong tiểu thuyết "Tây du ký" nổi tiếng của Ngô Thừa Ân. Nhưng sự thật có phải vậy không thì vẫn chưa ai giải đáp được. Một số di chỉ thiền động với rất nhiều văn tự Khâu Từ và những bức bích họa đậm màu sắc Phật giáo nằm trên ngọn núi phía bắc chùa Cakra vẫn được bảo tồn đến ngày nay. Nghe nói, về sau, những pho tượng Phật trong chùa đã bị tín đồ Hồi giáo phá hủy, vì họ

căm ghét việc sùng bái những thần linh có hình hài.

Chùa Cakra lấy sông Tongchang làm đường ranh giới tự nhiên phân tách ngôi chùa thành hai khu vực phía đông và phía tây. Người dân Kucha ngày nay gọi đó là thành cổ Subash, là di chỉ quan trọng nhất ở Khâu Từ, bên cạnh Thiên Phật động Kizil. Ngày nay, muốn đến chùa Chiêu Hộ Li ở Kucha bạn phải nói là đến "thành cổ Subash", vì hầu hết những người không nghiên cứu sâu về lịch sử ở Kucha đều không biết chùa Chiêu Hộ Li là ngôi chùa nào. Tuy nhiên, trên thực tế, thành cổ Subash chỉ là một thành phố nhỏ nằm ở đầu phía nam của khu chùa phía tây mà thôi. Là thành phố trực thuộc trong cả khối kiến trúc đồ sộ của ngôi chùa Cakra vĩ đại này. Subash là nơi nghỉ trọ của khách thập phương khi đến chùa cúng bái. Trong nội thành Subash, kiến trúc đền tháp chiếm đa số, đi đến đâu cũng thấy những tòa tháp, tháp lớn tháp bé, khiến người ta mỏi mắt ngắm nhìn.

Chúng tôi đang có mặt ở nội thành Subash. Rajiva đưa tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở nơi khá hẻo lánh trong thành phố. Người mở cửa là một ông lão, tôi thấy ông rất quen, ông lão cũng nhìn tôi chăm chú. Tôi nhớ ra rồi, chính là ông cụ quản gia của phủ quốc sư, tên là Mavasu, là người theo hầu Kumarayana từ Ấn Độ sang Khâu Từ. Mất một lúc lâu ông lão mới nhận ra tôi và đúng như tôi nghĩ, ông ngạc nhiên đến mức tay chỉ trỏ vào tôi hồi lâu mà không nói được câu nào. Rajiva giải thích với ông cụ bằng tiếng Phạn. Ông cụ đã bình tĩnh trở lại, nhưng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thắc mắc khi đưa tôi vào nhà.

Khuôn viên ngôi nhà không rộng lắm, gồm ba gian, hai chái nhà ở hai bên. Và giống như mọi ngôi nhà khác ở Khâu Từ, trước sân có một giàn nho, hoa nở rực rỡ. Lúc này đang là mùa nho chín rộ, nên khắp không gian lan tỏa hương thơm ngọt ngào dìu dịu. Đồ đạc trong phòng rất giản dị: giường, tủ, bàn, ghế và không có bất cứ thứ đồ dư thừa nào khác. Cảm giác như nơi này không vướng chút bụi trần, thanh bần và thoáng đãng. Tài sản quý giá duy nhất là hai giá sách áp vào lưng tường. Chỉ thoáng nhìn đã thấy đầy đủ: sách tiếng Hán, tiếng Phạn, tiếng Tochari và một vài cuốn trong số đó nhìn rất quen.

- Đây là nơi tôi đọc sách.

Thấy tôi chú ý đến tủ sách, Rajiva giải thích:

- Pusyseda không ham đọc sách, nên cha đã tặng tôi toàn bộ số sách trong nhà.

- Cậu sống ở đây ư?

- Tôi ở trong chùa chứ! Nơi này chỉ là chốn thanh tĩnh để đọc sách thôi.

Khuôn mặt Rajiva toát lên vẻ thư thái hiếm thấy.

- Cô cứ yên tâm ở lại đây, vợ chồng Mavasu sẽ chăm sóc cô.

Rajiva bước ra ngoài, tôi tranh thủ sắp xếp đồ đạc. Một lát sau cậu ta quay lại, trên
tay cầm chai rượu thuốc và một miếng vải bông sạch. Tôi muốn tự mình băng bó, nhưng khi rượu thuốc ngấm vào vết thương, tôi cắn răng chịu đau. Rajiva ngồi bên cạnh quan sát, trách tôi tay chân vụng về, rồi cầm lấy tay tôi, nhẹ nhàng thấm rượu vào miếng bông tẩy trùng vết thương cho tôi. Thực ra vết rách trong tay không nghiêm trọng, nhưng khuỷu tay bị toác một miếng khá rộng và sâu. Tôi xắn tay áo lên, chìa vết thương đang sưng tấy, nhức buốt ra trước mặt cậu ta.

Rajiva sững người khi nhìn thấy cánh tay trần của tôi. Quên cả việc băng bó, để mặc ánh mắt khó hiểu miệt mài du ngoạn trên cánh tay tôi. Tôi chợt nhận ra, trước mặt tôi lúc này không còn là cậu thiếu niên với thân hình mảnh khảnh và khuôn mặt hồn nhiên của tuổi mười ba nữa. Rajiva của mười năm sau đã là một thanh niên trưởng thành, bằng tuổi tôi. Và vào thời cổ đại, một cô gái chìa cánh tay trần của mình ra trước một chàng trai là hành vi không ý nhị chút nào. Tôi buông tay áo xuống, nói rằng tôi sẽ tự mình băng bó.

Rajiva đang yên lặng bỗng kéo tay tôi về phía mình, vén tay áo lên cao, thấm bông và lau vết thương cho tôi. Động tác của cậu ấy không nhẹ nhàng chút nào, nhưng vẻ
mặt nghiêm trang của Rajiva khiến tôi quên cả đau, chỉ biết len lén quan sát cậu ấy.

Dưới ngọn đèn dầu của buổi chiều muộn, gương mặt dài bên ánh sáng, hàng mi dài khẽ đua lên cao, sống mũi cao vời vợi, đôi môi khép chặt. Vẻ đẹp cuốn hút ấy khiến người đối diện không thở nổi. Chúng tôi ngồi cách nhau đủ gần để tôi có thể cảm nhận được mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương trên người cậu ấy, thứ hương thơm khiến tôi mơ màng và chỉ muốn lại gần thêm nữa. Tôi chợt nhận ra rằng, tôi phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ mắc sai lầm. Mà sai lầm này,
chắc chắn sếp sẽ không tha cho tôi và bản thân tôi cũng không thể tha thứ cho mình.

Vợ chồng Mavasu mang đồ ăn vào phòng, mùi thơm của thức ăn đã làm vơi bớt đi
hương thơm say người kia. Mối nghi hoặc của Mavasu vẫn rất lớn, điều đó thể hiện qua ánh mắt nhìn tôi chăm chú. Tôi không biết Rajiva đã nói gì để ông cụ chấp nhận sự trở lại của tôi, nên chỉ biết gượng cười chống chế. Sau đó, hỏi Rajiva, mới biết, cậu ta nói với Mavasu, tôi là cháu gái của Ngải Tình. Tôi cười lăn lóc. Nói như thế thật là Nhưng khoan đã, hòa thượng không được phép nói dối kia mà? Tôi định trêu chọc Rajiva, nhưng đã kịp dừng lại. Vì chính tôi cũng không nghĩ ra cách giải thích nào hợp lý hơn cho sự trở lại của mình.

- Rajiva, lần trước có một chiếc ba lô tôi quên mang theo, cậu còn giữ nó không?

Tôi đã bỏ lại bao nhiêu đồ dùng của thời hiện đại, trong đó có tập giấy nháp và
cuốn sổ tay quan trọng. Sếp từng nhắc nhở rất nhiều lần là không được lưu lại bất cứ thứ rác thải hiện đại nào, nếu để người đời sau phát hiện ra, thì Thử tượng tượng xem, một nhà khảo cổ với mái tóc bạc phơ đang lọ mọ nghiên cứu một gói đồ cũ nát, rồi ông đột nhiên phát hiện ra ở một góc nhỏ của gói đồ mấy chữ cái này:
"Northface" Rùng cả mình!

Rajiva gật đầu, nhưng nét mặt không được tự nhiên. Lạ quá, lẽ nào cậu ta thích cái ba lô của tôi? Đừng đùa, Northface là nhãn hiệu ba lô du lịch hàng đầu thế giới đấy! Khoản tiền mua chiếc ba lô này là do nhóm nghiên cứu chi trả, chứ một sinh viên nghèo như tôi làm sao mà mua nổi. Nhưng mà, kể cả Rajiva thích đến thế nào tôi cũng không thể tặng cậu ấy được.

- Mấy hôm nữa sẽ mang đến cho cô.

Tôi gật đầu, uống thêm một ngụm canh thịt dê.

- Rajiva, tôi muốn đi tham quan chùa Cakra, được chứ?

Rajiva khẽ gật đầu.

- Ngày mai sẽ đưa cô đi xem.

Buổi tối, tôi ngủ trên chiếc giường gỗ thấp, thời cổ đại làm gì có chăn ga gối đệm,
nhưng tôi đã quen nằm trên chiếc giường cứng như thế này rồi. Rajiva nói không ở đây, có lẽ vì muốn tôi được thoải mái. Tôi tin rằng cậu ta sống ở đây, bởi vì mùi gỗ đàn hương dìu dịu vẫn còn thoảng trên tấm chăn này, trên chiếc gối này và trên mảnh chiếu này. Hương thơm thanh khiết ấy ru tôi vào giấc ngủ miên man

------------

Chương 19: Tham quan chùa Cakra 

Tinh mơ hôm sau, tiếng kẹt cửa làm tôi thức giấc. Tôi gắng gượng hé đôi mắt vẫn 

đang đói ngủ của mình và lơ mơ thấy một bóng dáng cao gầy đang đứng giữa căn phòng ngập ánh sáng. 

- Rajiva, sao đến sớm vậy 

- Tôi tôi xin lỗi. 

Ngược sáng, không thấy rõ biểu cảm trên gương mặt cậu ấy, chỉ nghe trong giọng 

nói có chút ngượng ngùng. Rajiva vội vã lui ra ngoài, lại một tiếng kẹt cửa trả lại bóng tối cho căn phòng. 

Tôi nhìn đồng hồ, mới bảy rưỡi sáng. Chết thật, tôi quên mất, ngày nào cậu ấy cũng thức dậy lúc hơn bốn giờ, từ năm giờ đến sáu giờ là thời gian tụng kinh buổi sáng, sau đó mới đến bữa sáng. Giờ này, với cậu ấy, đã không còn sớm sủa gì nữa. Nhưng tôi vẫn còn muốn ngủ, lại ngả xuống vớt vát thêm vài phút, sau đó mới uể oải xuống giường. 

Khoảng chín giờ tôi cùng Rajiva ra khỏi nhà. Thành phố Subash bé nhỏ khi ấy đã tấp nập người qua lại, nhà sư, cư sĩ, thương nhân đủ cả, dòng người đông đúc trên phố xá chật chội. Tôi không muốn Rajiva khó xử, nên ý tứ giữ khoảng cách với cậu ấy. Rajiva đi trước, tôi theo sau, chốc chốc cậu ta lại dừng bước, ngoảnh đầu quan sát, rồi mới đi tiếp. 

Có vẻ như Rajiva rất được lòng người dân nơi đây. Trên đường đi, hầu hết mọi người đều lại gần chắp tay hành lễ với cậu ấy. Một đôi vợ chồng ẵm theo đứa trẻ sơ sinh đến xin Rajiva cầu phúc. Cậu ấy xoa đầu em bé, lầm rầm đọc một đoạn kinh văn. Vợ chồng nọ vui mừng khôn tả, chắp tay tạ ơn, vẻ mặt hân hoan, mãn nguyện khi ra về. Rajiva quay lại nhìn tôi cười rạng rỡ, rồi tiếp tục bước đi, chốc chốc lại dừng bước đáp lễ với người đi đường. 

Ra khỏi thành Subash là đến cổng chính của khu chùa Cakra phía tây. Ấn tượng 

ban đầu của tôi về ngôi chùa này là những vọng lâu được trang trí rất bắt mắt phía trên bức tường bao quanh. "Khâu Từ có hơn mười nghìn nhà sư, chiếm một phần mười dân số trong thành". Chỉ riêng ở chùa Cakra đã có đến năm nghìn sư. Sự hưng thịnh của Phật giáo ở Khâu Từ được thể hiện sống động qua hình ảnh ngôi chùa Cakra nguy nga, đồ sộ. Tuy vậy, thời điểm này vẫn chưa phải là giai đoạn cực thịnh của Chiêu Hộ Li tự. Quy mô ngôi chùa vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với thời nhà Đường, khi Huyền Trang đi lấy kinh qua đây. Khi mang thai Rajiva, "năng lực giác ngộ của Jiva tăng lên gấp bội. Bà nghe danh tiếng ngôi chùa Cakra đã lâu, lại nghe nói trong chùa có nhiều vị cao tăng đắc đạo, bèn cùng với những tín nữ quý tộc khác và các ni cô ngày đêm nhang khói lễ bái, ăn chay niệm Phật". Hẳn là, ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Rajiva đã "thấm nhuần" giáo lý Phật pháp. Trí tuệ siêu phàm của cậu ấy phải chăng có được 

từ bối cảnh đặc biệt này? 

Ý nghĩ đó khiến tôi bật cười. 

Chúng tôi bước đến một bức tường thành thấp hình vuông bên ngoài cổng chính. 

Bên trong có một điện thờ đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lập tức dập tắt những ý nghĩ lan man, lấy lại tinh thần chuyên nghiệp thường ngày, chuẩn bị lôi cuốn tập ra và bắt tay vào công việc. 

- Ngải Tình, không cần vội. Để tôi đưa cô đi tham quan hết một vòng, rồi quay lại vẽ cũng chưa muộn. 

- Thật không? 

Tôi mừng quýnh! 

- Đúng rồi! Cậu là chủ trì, cậu có đặc quyền mà! Vậy, ngày nào tôi cũng đến đây 

vẽ nhé? 

- Được chứ! 

Rajiva mỉm cười. Những chùm nắng đầu hạ rực rỡ chiếu rọi làm bừng sáng cả con 

người cậu ấy, toát lên thứ hào quang khiến tôi không dám nhìn thẳng. 

Tôi ép mình ngoảnh đi hướng khác. 

- Rajiva, khối ngọc khổng lồ dưới chân tượng Phật nằm ở đâu vậy? Đưa tôi đến đó 

xem đi! 

- Cô biết về khối ngọc này? 

Rajiva có vẻ ngạc nhiên, ánh mắt nhìn tôi như thăm dò. 

- Đây là báu vật của chùa Cakra kia mà! 

Làm sao tôi biết được ư? Đơn giản thôi! Câu trả lời là: Huyền Trang đã được tận 

mắt chứng kiến và ghi chép lại trong "Đại Đường Tây vực ký". Cuối thế kỷ XIX, một nhà sưu tầm đồ cổ người Nga đã đào được khối ngọc này, ông ta còn ngu xuẩn hết mức khi đập vỡ nó làm đôi với ý đồ sẽ vận chuyển về nước. Nhưng người dân địa phương đã kịp thời ngăn chặn và bảo vệ được khối ngọc quý. Sau giải phóng, khối ngọc đã được đưa về trưng bày tại Viện bảo tàng tự nhiên Bắc Kinh. Nửa khối to nặng khoảng hơn một nghìn hai trăm kilôgam, nửa khối nhỏ hơn nặng khoảng hơn bảy trăm kilôgam. Còn bây giờ, không cần thiết phải đến Bắc Kinh, tôi vẫn có thể chiêm ngưỡng khối ngọc ấy và là khối ngọc hoàn chỉnh, bạn nói xem, tôi có nên sung sướng hay không? Bởi vậy, khi Rajiva đưa tôi vào một điện thờ nhỏ nhưng được trang trí nguy nga, tráng lệ phía sau gian thờ chính và tận mắt nhìn thấy khối ngọc khổng lồ trong suốt, giống hình một con ngao biển với hai màu trắng và vàng đan xen ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ vì không mang theo máy ảnh. Khối ngọc rộng khoảng hơn ba mươi centimét, dài hơn nửa mét, cao hơn mười centimét. Dấu chân Phật tổ được in thành hình hai vết lõm rất tự nhiên giữa khối ngọc. Những hình ảnh phác họa dấu ấn như thế này có rất nhiều. Bạn có thể bắt gặp dấu chân của đại sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) ở bất cứ đâu trên khắp vùng Tây Tạng, chỉ khác đó là hình phác họa trên những cây cối và sỏi đá tự nhiên, để Phật tử có thể cảm nhận được một cách chân thực pháp lực vô biên của Phật. 

Nhưng tôi không nói điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước Rajiva, chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy hút về phía sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u kỳ lạ và cảm giác như nó kéo dài đến vô tận. 

Thấy tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhẹ nhàng lên 

tiếng: 

- Đó là nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó. 

Thọ đại giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt 

nghiệp đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi đã thọ giới Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành một Tỷ khâu (Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và sự giác ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai bì kịp. Nhưng, cho dù đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Rajiva đã thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi. 

Tôi đã từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới. 

Bước chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di không khỏi dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn bó với kinh kệ, khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, sẽ gánh vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó sẽ theo các Sa di chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường - giới đàn (nơi tăng sĩ thọ giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa, những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi sự sống chết, thoát ly 

khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục 

Tôi quay đầu nhìn Rajiva đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần ai, 

thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva? 

Chúng tôi bước vào một gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Rajiva liền cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng tiếng Phạn. Gian thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn phía 

xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì trên tay 

ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng: 

"Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề 

Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật". 

Nghĩa là: 

Cứu độ chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ 

Địa ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật. 

Điều đó có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội 

lỗi dưới Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài. 

Tôi đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú tiểu từ bên ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva rồi lẳng lặng lui ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ trên tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt người, là đủ mọi loại dụng cụ tra tấn, 

trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ! 

Những bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn. 

Chả trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ 

mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên đều có những bức bích họa phóng tác như thế này. 

Tôi có biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã nài nỉ Rajiva diễn giải. 

- Đây là địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội sa 

xuống địa ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi ngoai nỗi thương nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục chịu sự trừng phạt như lúc trước. 

Giọng nói của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục: 

- Những người mắc tội sát sinh, chà đạp lẽ phải, phỉ báng người ngay đều sẽ sa 

xuống địa ngục này. 

Vừa ngắm nhìn các bức vẽ tôi vừa gật đầu, bước chân không ngừng di chuyển theo ánh sáng ngọn đèn dầu trên tay Rajiva. Điện thờ trống trải chỉ còn lại hai chúng tôi. Giọng nói ấm áp của Rajiva vang giữa không gian trầm mặc, khoảnh khắc ấy, cảm xúc trong tôi bỗng trở nên thê lương. 

- Đây là địa ngục hắc thằng (nơi chúng sinh bị trói bằng dây sắt), chúng sinh phạm tội sẽ bị trói lại bằng dây sắt nung nóng, sau đó tứ chi bị chặt hoặc bị cưa đứt. Nỗi đau đớn, khổ sở lớn gấp mười lần địa ngục đẳng hoạt. Những người phạm tội sát sinh, trộm cắp đều sẽ sa xuống địa ngục này. 

Ánh đèn tiếp tục được đẩy về phía trước. 

- Đây là địa ngục chúng hợp (nơi chúng sinh bị núi đá ép chặt), người phạm tội bị 

đẩy vào giữa hai núi đá và bị ép chặt cho đến khi xương cốt nát vụn. Phàm những người mắc tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm đều rơi xuống địa ngục này. 

- Đây là địa ngục khiếu hoán (nơi chúng sinh kêu la thảm thiết), người mắc tội sẽ bị nướng trên vạc dầu hoặc bị đẩy vào lò lửa, hoặc bị dùng kìm nóng banh miệng, đổ đồng nóng chảy vào bụng khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thiêu hủy. Phàm những kẻ mắc tội giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu đều sẽ sa xuống địa ngục này. Nếu đệ tử Phật môn vi phạm năm điều giới luật, thì dù là người xuất gia hay người tu tại gia đều sẽ bị sa xuống địa ngục đại khiếu hoán (địa ngục mà sự trừng phạt khiến chúng sinh kêu la thống thiết gấp rất nhiều lần địa ngục khiếu hoán). 

Tôi bỗng thấy rùng mình, sự trừng phạt đối với người nhà Phật còn khủng khiếp 

hơn cả người thường ư! 

- Đây là địa ngục tiêu nhiệt (nơi chúng sinh bị thiêu đốt), kẻ phạm tội nằm trên sắt nung, toàn thân bị đánh đến bầm dập vỡ nát. Phàm những kẻ vi phạm năm điều giới luật đều sẽ bị đẩy xuống địa ngục này. 

Ánh sáng ngọn đèn dầu bỗng nhiên dừng lại, bàn tay người giữ đèn run run. Bóng dáng cao gầy hắt lên tường, khiến cho những hình ảnh thảm thương cho bức vẽ trở nên mờ ảo, tan loãng trong những dao động lập lòa của ánh sáng. 

- Rajiva, cậu sao thế? 

Tôi ngước mắt lên nhìn cậu ấy, chúng tôi chỉ cách nhau một bước chân, ánh đèn 

leo lét rọi vào khuôn mặt ưu tư, một thoáng u buồn ẩn hiện, nhưng tan đi rất nhanh. Rajiva lấy lại vẻ điềm tĩnh thường thấy, tiếp tục giảng giải. 

- Nếu tăng sĩ phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà tâm sẽ bị sa xuống địa ngục đại tiêu nhiệt, mức độ trừng phạt tàn khốc hơn rất nhiều lần so với địa ngục tiêu viêm. 

Giọng nói của Rajiva đượm vẻ chua xót, phải chăng vì lòng trắc ẩn đối với những hình phạt nặng nề dành cho giới tăng lữ. Phật môn quản giáo đệ tử của mình rất nghiêm khắc, trong số tám địa ngục lớn, có đến hai địa ngục dành để trừng phạt những tăng sĩ phạm tội. 

Rajiva lấy lại sự bình tĩnh, bàn tay mang theo chiếc đèn dầu khi nãy bất giác buông xuống, giờ đã lại được nâng cao. 

- Đây là địa ngục vô gián, hay còn gọi là địa ngục a tỳ, người phạm tội bị hành hình liên tục, chịu đau đớn khổ sở không lúc nào ngơi nghỉ. Phàm những kẻ phạm phải năm tội đại nghịch (giết mẹ, giết cha, giết A- la- hán, gây chia rẽ tăng sĩ, phá hoại hình ảnh của Phật tổ), đều bị đày xuống địa ngục này. 

Đó là bức vẽ cuối cùng, chúng tôi cũng vừa đi hết một vòng tròn. 

Rajiva đặt đèn dầu lên hương án phía trước pho tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, 

cung kính quỳ xuống vái ba vái, rồi cùng tôi bước ra khỏi điện thờ. 

- Mỗi địa ngục trong số tám địa ngục lớn lại được chia thành mười sáu địa ngục nhỏ. Tội ác cũng chia thành ba cấp. Những kẻ phạm tội nặng nhất bị đẩy vào địa ngục lớn, những kẻ còn lại bị đẩy vào địa ngục nhỏ. 

Ánh nắng rực rỡ bên ngoài xua tan đi những ảm đạm trong lòng, tôi giống như chiến binh Dante vừa dạo hết một vòng địa ngục, cảm xúc đầy vơi. Kết luận rút ra là: 

nhân gian thật tuyệt vời! 

Gần đến giờ trưa, Rajiva dẫn tôi đến nhà ăn dành cho các cư sĩ tu tại gia đến chùa Cakra cúng bái, cậu ấy ngồi ăn cùng tôi. Rajiva ăn uống từ tốn, quả không hổ danh là con nhà quý tộc. Nhưng điều khiến tôi thiếu tự nhiên là những ánh mắt đổ dồn về phía chúng tôi, tuy họ không nói gì, nhưng tôi biết họ nghĩ gì. Tôi bỗng cảm thấy không thoải mái. Một người như Rajiva nếu sống ở thời hiện đại, cũng chưa hẳn đã là một sự chọn lựa lý tưởng. Mặc dù nếu có cậu ấy ở bên cạnh, đi đến đâu, tôi cũng có thể hãnh diện với bạn bè và những người xung quanh, nhưng cậu ấy quá tài trí, thông minh, lại đẹp trai hút hồn như vậy, sẽ làm lu mờ hình ảnh của tôi. Không những tôi sẽ phải thấp thỏm lo âu từng giây phút, canh chừng mọi lúc mọi nơi, đề phòng những cô gái trẻ đẹp khác, mà tôi còn phải đau đầu tìm cách nâng cao tầm vóc trí tuệ của bản thân để có thể theo kịp cậu ấy. Cuộc sống mệt mỏi như thế, lấy đâu ra vui vẻ, thoải 

mái chứ! Cho nên, kết luận của tôi là: tôi - không - thèm! 

- Không thèm gì vậy? 

Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp hai vực nước sâu hun hút đang xoáy vào mình, 

xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu, bối rối không biết phải thanh minh thế nào. 

- Các thầy! 

May quá! Có người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là là người Hán, hai hòa 

thượng người Hán! 

Họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát đồng hương. 

Rajiva giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin nghe 

giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn mắt khi nghe 

thấy những cái tên đó. 

Tăng Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này! Họ đến Khâu Từ học đạo, sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền Tần khi ấy là Phù Kiên rằng, Kumarajiva là vị pháp sư tài trí hơn người, là người đã truyền bá sâu rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây vực. Một nhà sư nổi tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Kumarajiva đã lâu, cũng thuyết phục Phù Kiên mời Rajiva đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết định tấn công Khâu Từ, nhà vua đã nói với Đô đốc Lữ Quang rằng: "Trẫm nghe nói Tây Quốc có Kumarajiva, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận âm dương, là một bậc kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Kumarajiva về đây". 

Câu chuyện này đã được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp nơi. Họ cho rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có được Kumarajiva. Giống như việc các cô gái tin rằng cuộc chiến thành Troy là vì nàng Helen xinh đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ Tô Châu - Trần Viên Viên. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn đã nổ ra và cướp đi tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì muốn đoạt lấy một người thôi ư, những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử, tất nhiên, tôi không tin Phù Kiên phát động chiến tranh chỉ vì muốn có được một vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực sự hiểu rõ Kumarajiva sẽ mang lại lợi ích gì cho ông ta hay không? Nhà vua muốn có Kumarajiva chỉ vì cậu ta thông tỏ âm dương ngũ hành? Một người tài trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng chỉ vì muốn ông ta 

coi bói cho mình? 

- Ngải Tình! 

Tôi lại để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại đã thấy hai vị hòa thượng đang hành 

lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên mà tôi gặp sau hai lần vượt thời gian đến đây. 

Rajiva giới thiệu với họ tôi là cháu gái của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ của cậu và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ, bởi vì những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những kiến thức trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử thì nguy. 

Sau vài lời xã giao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng Rajiva. 

Họ trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe không hiểu, nên cũng quay đi ngắm nghía những bức vẽ trên tường. 

- Đoạn kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của chúng 

sinh trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy? 

Rajiva giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được một nụ cười đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc nhiên, nghiêng tai lắng nghe. 

- Đức Phật nói, mọi tâm niệm đều không thực sự tồn tại, đó chỉ là những ham muốn nhất thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta đặt cho nó cái hư danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn trong quá khứ là cái đã trôi qua, không để lại vết dấu, ta muốn mà không có được. Những ham muốn hiện tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm bắt. Những ham muốn của tương lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt. 

Trình độ tiếng Hán của Rajiva đã đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại thêm giọng nói trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa, khiến mỗi câu mỗi chữ như làn gió nhẹ vương vào trái tim tôi. 

- Vậy nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn không có Phật pháp để thuyết giảng, thuyết pháp chỉ là danh xưng. Không những không tồn tại Phật pháp để có thể thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng không tồn tại. 

Dáng người cao lớn của Rajiva tọa lạc giữa Phật điện, thoáng một nét cười thỏa nguyện trên vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng thấp nhỏ chỉ 

đến vai mình: 

- Những luận giải của Rajiva, không biết hai vị đã nắm rõ hay chưa? 

Tăng Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm đi nhẩm 

lại lời Rajiva vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát lên vẻ say mê trong sự lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Rajiva. Sự tự tin tỏa khắp con người cậu, sức hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi không dám nhìn thẳng. Tuy tuổi còn trẻ, 

nhưng ở Rajiva đã tụ hội đầy đủ phong thái của một bậc danh sư. 

Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có một quần thể hang đá, gồm rất nhiều căn phòng tọa thiền của tăng sĩ. Nói là phòng tọa thiền nhưng thực chất chỉ là một hốc đá nhỏ, đủ chỗ cho một người ngồi lọt vào trong. Rajiva chỉ cho tôi thấy trên vách tường phía sau có dấu vết in đậm hình hài một con người. Cậu nói rằng, rất nhiều vị cao tăng theo trường phái tu khổ hạnh đã từng ngồi thiền ở đây, lâu dần, hình hài của các vị đã in tạc vào vách đá. Phật giáo Tiểu Thừa coi trọng việc tu hành. Công việc hàng ngày của tăng sĩ chủ yếu là ngồi thiền trong căn phòng trống không, tĩnh tâm lĩnh hội Phật pháp. Phương pháp tu hành này xuất phát từ phép thiền Yoga của Ấn Độ. Trước khi giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã trải qua sáu năm tu hành khổ hạnh. Ngài ngồi thiền hết ngày này qua tháng khác, ăn uống rất ít, thân xác héo hon. Sau khi đắc đạo, ngài ăn uống bình thường trở lại và không khoác lên mình chiếc áo cà sa chắp vá rách rưới nữa. Tuy nhiên, ngài vẫn duy trì thói quen tĩnh tâm tọa thiền. Điều này đã trở thành một trong những đặc trưng nổi bật của Phật giáo Tiểu Thừa. Và cũng bởi vậy, trong cấu trúc của các ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa, ít hay nhiều đều có những phòng đá tọa thiền dành cho các tăng sĩ. 

Có điều, những căn phòng đó đang hiện ra trống trải không một bóng người trước mắt tôi. Tôi hỏi Rajiva, cậu mỉm cười. 

- Từ khi tôi tiếp nhận vai trò trụ trì chùa này, đã ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa, yêu cầu các nhà sư năng ra ngoài giảng đạo, thâm nhập vào đời sống của chúng sinh, việc tĩnh tâm tọa thiền có thể thực hiện vào lúc thuận tiện. 

Mười năm trước, khi Rajiva vừa tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa đã vấp phải rất nhiều trở ngại và chịu nhiều lời điều tiếng. Người ta phê phán cậu lén lút học đòi những giáo lý ngoại đạo sai trái. Trong vòng mười năm, bằng sự thông tuệ, bằng tài năng thuyết pháp khiến người nghe tâm phục khẩu phục và tận dụng mối quan hệ với hoàng thất, Rajiva đã dốc toàn tâm toàn sức chuyển hướng tín ngưỡng của toàn bộ tiểu quốc Khâu Từ sang Phật giáo Đại Thừa. Truyện kể về Rajiva chép rằng: "Khi ấy số lượng tăng sĩ Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa lên đến hơn mười ngàn người. Điều này thật đáng kinh ngạc. Từ đó, ai nấy đều tỏ ra kính trọng và nể phục Kumarajiva". 

- Lại ngơ ngẩn rồi! 

Tôi kéo lại những suy nghĩ miên man đang vân du tận đâu đâu, đưa mắt lên nhìn 

khuôn mặt điển trai của Rajiva. 

- Rajiva, cậu không còn là cậu thiếu niên năm nào lúc còn hoang mang, trăn trở với khát vọng thay đổi tông phái. 

- Đúng vậy. 

Ánh mắt cậu ấy như phiêu du về với quá khứ, tìm kiếm những những ký ức xa 

xưa, khóe môi hé cười. 

- Ngải Tình, nếu không có những lời khích lệ của cô, Rajiva không thể có quyết tâm và nghị lực mạnh mẽ đến như vậy. Mười năm qua, mỗi khi phải đương đầu với khó khăn, Rajiva lại nhớ đến những lời cô nói. Phật giáo Đại Thừa xem trọng việc cứu rỗi chúng sinh, góp phần sửa đổi những khiếm khuyết của Phật giáo Tiểu Thừa. Phải như vậy, Phật pháp mới được truyền bá rộng rãi, mới cứu độ được nhiều chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Tôi đã dành không ít công sức và tâm sức cho lý tưởng đó. 

Rajiva đưa mắt dõi nhìn về hướng xa xăm, giọng nói trở nên thanh thoát. 

- Phật tổ phù hộ, đến nay Rajiva đã thuyết phục được triều đình và các bậc tôn sư, 

Phật giáo Tiểu Thừa bắt rễ suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ, cuối cùng đã có những cải biến nhất định. 

Đến trên ngọn đồi này, có thể quan sát toàn bộ quang cảnh chùa Cakra. Sóng nước dòng sông Tongchang lấp lánh ánh bạc. Bóng chiều đã ngả về tây, phủ lên dáng hình cao lớn ấy những vệt nắng cuối ngày, gió thổi mạnh làm tung bay vạt áo cà sa. Con người ấy, thần thái ấy tạc vào không gian của buổi hoàng hôn trên sườn đồi hình ảnh một chú chim đại bàng đang khát khao tung cánh bay lên bầu trời bao la. Dưới chân chúng tôi là quần thể đồ sộ, nguy nga những đền đài miếu mạo, đó là vương quốc của Rajiva và cậu ấy là người cha tinh thần của hàng vạn chúng sinh trong vương quốc ấy. Đột nhiên tôi nhận ra rằng, mười năm trước tôi vẫn có thể đàm đạo với cậu ấy về Phật pháp, nhưng giờ đây, tư tưởng của cậu ấy, nhất là những kiến thức về Phật học, đã vượt lên một cảnh giới cao vời vợi mà tôi không sao vươn tới được. Tôi chỉ là một người bình thường, nhưng trí thức mà tôi có, chẳng qua là tích cóp được từ 1650 năm thời gian. Nếu chúng tôi sinh ra cùng thời đại, tôi cũng sẽ như những người bình thường khác, chỉ có thể lặng lẽ ngắm nhìn cậu ấy trên đỉnh cao vinh quang và đừng 

mơ có thể lại gần. 

- Rajiva. 

Tôi hít một hơi thật sâu, cùng hướng mắt về khung cảnh nguy nga dưới ngọn đồi. 

- Khâu Từ chỉ có mấy mươi vạn chúng sinh. Còn ở Trung Nguyên, lúc này chiến 

tranh xảy ra liên miên, hàng triệu người vẫn đang quằn quại trong bể khổ vô biên, hơn bao giờ hết, họ đang rất cần sự giải thoát về tinh thần để có thể vượt qua kiếp nạn này. 

- Ngải Tình, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp luôn là tâm nguyện bấy lâu nay của Rajiva. 

Rajiva quay lại nhìn tôi, nụ cười ấm áp tựa gió xuân. 

- Cô luôn muốn Rajiva đến Trung Nguyên, Rajiva luôn ghi nhớ điều đó. 

Đón lấy nụ cười dễ làm say lòng người ấy, trái tim khó bảo của tôi lại bắt đầu lạc 

nhịp. 

Đến giờ tụng kinh buổi tối, tôi ngỏ ý muốn đi về một mình. Rajiva bây giờ đã là "CEO" của ngôi chùa lớn nhất Tây vực, cậu ấy không thể tùy tiện như hồi nhỏ, thích trốn là trốn. Cậu ấy phải biết cân nhắc. Thế nên, Rajiva đã gật đầu, chỉ cho tôi đường về và dặn rằng hết giờ tụng kinh cậu ấy sẽ đến. Tôi vốn định mở lời can ngăn cậu ấy đừng đến, vì sợ có điều tiếng không hay. Nhưng ý tứ đã ra đến đầu lưỡi lại lặng lẽ rút vào. Tôi hiểu rõ tính cách của cậu ấy, Rajiva không bao giờ để ý đến những lời đàm 

tiếu. Vả lại, hãy thành thật đi, lẽ nào tôi không mong chờ gì ư? 

Kết quả là, khi Rajiva xuất hiện trước cổng nhà vào lúc hơn sáu giờ tối thì tôi đang trong tư thế ngóng đợi, đôi mắt dán vào cánh cổng. Giây phút cánh cổng từ từ mở ra và một bóng dáng cao gầy hắt lên hàng hiên từ ánh sáng ngọn đèn dầu, tôi bỗng thấy tiếng trái tim mình đập rộn ràng, tưởng như vang động khắp căn nhà. 

Rajiva tiếp tục chăm sóc vết thương cho tôi. Lại là khoảng cách quá gần ấy, lại là mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương ấy. Tôi say mất 

Chương 20: Tiếp tục công việc gia sư 

Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ăn chốn ở, tôi bắt đầu công việc khảo sát, đo đạc, vẽ 

tranh ở chùa Cakra mỗi ngày. Rajiva đã căn dặn các sư sãi trong chùa, từ người giữ công, người trông coi Phật điện, đến người quản lý tàng kinh các để tôi được tự do tiến hành công việc của mình. Khách thập phương đến chùa Cakra, ngôi chùa lớn nhất Tây vực thời đó sẽ bắt gặp cảnh này: một cô gái người Hán trong trang phục Khâu Từ tay cầm một cuốn tập, dùng một thứ bút kì lạ tô tô vẽ vẽ trên cuốn tập đó. Chốc chốc lại lôi từ trong túi ra một chiếc thước cuộn hình thù kì dị đo chỗ này, ướm chỗ kia. Và vị sư trụ trì chùa, đại pháp sư Kumarajiva nổi danh khắp Tây vực đã yêu cầu tất cả hòa thượng sư tăng trong chùa tạo mọi điều kiện và không gây trở ngại cho công việc của cô gái đó. 

Khi tôi đo đạc, khi tôi vẽ tranh, tôi thường xuyên nhìn thấy Rajiva. Đây là lần đầu tiên tôi được quan sát công việc thường ngày của cậu ấy ở trong chùa. Lúc thì trò chuyện, đàm đạo với các đệ tử về kinh Phật, lúc thì bận rộn tiếp đón các tăng sĩ, hòa thượng đến xin học đạo từ các quốc gia lân cận, thậm chí từ các khu vực thuộc Trung Nguyên xa xôi. Rajiva cũng thường xuyên ra ngoài, thâm nhập vào đời sống của quần chúng để thuyết giảng và truyền bá những giáo lý kinh văn Đại Thừa. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu khi tôi còn say trong giấc ngủ, nhưng bù lại tôi đã được quan sát trọn vẹn giờ tụng kinh buổi chiều của cậu ấy từ bốn giờ đến năm giờ. Khi tiếng chuông ngân vang, tất cả sư tăng trong chùa đều đến tập trung trên đại điện. Rajiva khoác áo cà sa, cùng chư tăng hành lễ, dâng hương trước tượng Phật tổ, sau đó cậu ngồi vào vị trí cao nhất, bắt đầu tụng kinh cầu nguyện. Âm thanh tiếng tụng niệm kinh văn của hàng trăm nhà sư ấy ngân nga trầm bổng tựa sóng biển, vang vọng khắp đại điện, xen với tiếng chuông tiếng mõ thanh thoát, trong veo. Linh hồn như được tắm gội trong biển thanh âm thanh khiết, thoát tục ấy. 

Chiếc ba lô Northface thân thuộc của tôi đã trở về. Đồ đạc bên trong không thiếu thứ gì, kể cả chiếc khăn lụa Atala. Nhớ đến ngày Rajiva tặng quà sinh nhật cho tôi, nhớ đến khuôn mặt đỏ lựng đi vì xấu hổ ấy, tôi tủm tỉm cười và bất giác hứng khởi quàng ngay chiếc khăn vào cổ. Một vài vật dụng đã thất thoát, như cuốn tập mới tôi chưa dùng đến, hay một vài cây bút chì và một vài cục tẩy. Nhưng những bức vẽ của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi cũng không vì thế mà âu sầu, tôi đoán Pusyseda đã lấy ra 

nghịch và làm gãy hoặc làm mất rồi. Sau mười năm mà vẫn có thể tìm lại được bao 

nhiêu kỷ vật và chúng lại được giữ gìn cẩn thận như vậy, tôi không mong cầu gì hơn. 

Buổi tối, Rajiva vẫn đến và chăm sóc vết thương cho tôi. Thấy tôi quàng chiếc khăn lụa, cậu ấy thoáng ngạc nhiên, khóe môi ẩn hiện một nét cười. Rajiva đề nghị tôi tiếp tục làm giáo viên tiếng Hán của cậu ấy. Cuốn sách đầu tiên mà cậu ấy muốn tôi giảng là cuốn "Sử ký" của Tư Mã Thiên. Thế là tôi bắt đầu khởi động chương trình "Trăm nhà thuyết giảng" với những câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, những sự tích về Tam Hoàng Ngũ Đế. Tôi vốn là người rất yêu thích công việc giảng dạy. Vì học chuyên ngành lịch sử, tôi thường đến các Viện bảo tàng xin làm hướng dẫn viên du lịch "không lương". Tôi cảm thấy rất phấn chấn mỗi khi du khách say mê lắng nghe những câu chuyện tôi kể. 

Trước mặt tôi lúc này tuy chỉ có một thính giả, nhưng trình độ học thức của vị thình giả này lại rất cao. Vị thính giả ấy đang tập trung tinh thần cao độ để lắng nghe và liên tục gật đầu tán thưởng. Tôi cảm thấy như mình đang trở lại khoảng thời gian làm gia sư mấy tháng trước đó, chỉ khác là, tuy học trò không thay đổi, nhưng thời gian đã trải qua mười năm đằng đẵng. Giờ đây, tôi không thể cốc vào đầu cậu ấy, cũng không thể làm bộ nghiêm khắc, lên lớp với cậu ấy được nữa. Tình hình trở nên tệ hơn, vì cô giáo thường xuyên nhìn trộm gương mặt điển trai hệt như bức tượng điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp của học sinh, sức lôi cuốn của vẻ đẹp ấy khiến cô giáo mất tập trung, ánh mắt cứ vân du tận chốn nao và giọng nói trở nên nhỏ nhẹ đến mơ hồ. Mất một lúc mới kịp lấy lại tinh thần, mặt đỏ như gấc chín, vờ uống nước, vờ hắng giọng, vờ tìm quạt, vờ đi vệ sinh, vân vân và vân vân các phương thức chữa thẹn. 

Ở chùa Cakra, tôi từng được chứng kiến Rajiva chủ trì một ngày hội cầu nguyện Phật Quan Âm. Tên gọi Quan Âm Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ ra phải dịch thành Quan Tự Tại, nhưng sau khi truyền vào Trung Nguyên, người Hán đã đọc sai thành Quan Thế Âm. Thời nhà Đường, vì không muốn phạm húy khi có âm đọc trùng với tên vua Lý Thế Dân, triều đình đã hạ lệnh lược bỏ chữ "Thế", nên tên Bồ Tát chỉ còn là Quan Âm. Tôi vốn không hề biết đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan Âm Bồ Tát mà sau này đã được truyền bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng Phạn của Quan Âm rất khó nhớ. Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan Âm thì tôi đã hiểu ra. Vào thời kỳ này, Quan Âm Bồ Tát không phải là hình tượng một vị Phật nữ giàu lòng từ bi mà chúng ta thường gặp, mà là một vị Phật nam uy nghiêm với hai vành râu rất đẹp, giống hệt hình ảnh trên những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn Hoàng và hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà Đường, Phật Quan Âm mang hình tượng của một vị Phật nam. Nhưng vì Quan Âm đi 

chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật khéo léo tài 

tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ hình tượng Phật nữ 

phù hợp với ngài hơn chăng? 

Lễ hội kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai cũng có thể tham gia. Phật tử viết tên người thân đã qua đời của mình lên một thẻ gỗ, rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban thờ Phật. Rajiva cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan Âm, sau đó chắp tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ tốn, nho nhã, thanh thoát. Rồi cậu ngồi trên bục cao, khẽ lắc chiếc chuông đồng trên tay, âm thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện trở nên yên ắng lạ thường. 

Rajiva đưa mắt quan sát một lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và gương mặt đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình ảnh của Rajiva tựa như một vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, âm thanh như có sức mạnh thấu suốt, vang động mãi trong không gian thánh khiết. 

Tự giác ngộ và giải thoát là biểu hiện của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác ngộ và giải thoát là biểu hiện của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Âm Bồ Tát với trí tuệ sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban phát những lời răn và sự giúp đỡ dựa trên năng lực, phẩm hạnh và mong muốn không giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống khổ, giúp niềm hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do tự tại, không phiền muộn, ưu sầu. 

Chúng tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những người dân đứng bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo. Tiếp đó, Rajiva đọc một câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo, biển thanh âm thành kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả trời xanh. 

Ngày hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa. Rajiva đích thân chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến tận cổng chính của chùa. Tôi len lỏi từng chút một để nhích dần lên phía trước và không ngừng nghển cổ ngóng trông. Rajiva miệng niệm A di đà Phật, tay chắp lại kính cẩn, phân phát từng phần lộc đã được gói bọc cẩn thận cho từng người, tay cầm cây trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ nhẹ lên đầu mỗi người cầu phúc cho họ. Ai nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng mới đến lượt tôi, bụng đói cồn cào. Nhìn thấy tôi, Rajiva thoáng vẻ ngạc nhiên, đáy mắt gợn nhẹ một ánh cười, quay sang nói nhỏ với đệ tử bên 

cạnh đôi câu. Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu 

phúc. Một vật gì đó chạm nhẹ trên đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp không gian, ngẩng đầu nhìn Rajiva, trên gương mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất thanh tao không thuộc về thế giới trần tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh. Đang định rảo bước thì vị sư khi nãy chạy tới trao cho Rajiva một chùm nho. Rajiva tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi. Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy không ai có phản ứng bất mãn nào với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh chân bước đi. 

Chùm nho ấy tôi không nỡ ăn, tôi lấy một tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất vào trong ba lô. Buổi tối khi trở về, Rajiva có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất phấn chấn và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày không ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc và cầu phúc cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ trong ba lô chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết phục cậu ấy như thế nào. 

Rajiva chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc và chìa chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. Không chờ tôi mở lời, cậu đón lấy, 

ngắt một quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười: 

- Ngọt lắm! 

Tôi sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt một quả thưởng thức, đúng là rất ngọt, 

ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn 

Chúng tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ đến 

một câu nói vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó![9] Tôi phì cười, muốn dạy lại cho Rajiva. 

Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu âm Khâu Từ nên phát âm không chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. Không khí vui vẻ ấy khiến tôi bồi hồi, giá như, 

giá như thời gian ngưng đọng trong giây phút này 

Những ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Rajiva rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên trì đến chỗ tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ ngơi, thư giãn. Đôi lúc rất muốn massage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám nghĩ trong đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. Trên tay mỗi người đều có một cây đèn nhỏ. Rajiva đến trước tượng Phật tổ, khấu đầu vái lạy, rồi thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư sắp xếp theo phẩm giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ ngọn đèn của người phía trước để thắp sáng ngọn đèn 

trên tay mình. Phút chốc, cả đại điện lung linh rực rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn 

của mình, cảm giác như ánh sáng ấy có thể chiếu rọi cả cõi tâm linh. Trong không khí linh thiêng ấy, Rajiva tựa như một vị thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên những người đã khuất vào trong đống lửa. Âm thanh tụng niệm vang vọng, bay lượn trong không gian và rót vào tai tôi. Khung cảnh này, cảm xúc này khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc. 

Lễ hội kết thúc đã nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn không ngừng hồi tưởng về bầu không khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm một lần nữa tôi đã lĩnh hội được sức mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ khi loài người xuất hiện, tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo sẽ tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với sự tồn tại của con người và chỉ biến mất khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo đã bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là một giai đoạn lịch sử thảm khốc. Khi tôi nói với Rajiva về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều không thuộc, tôi chỉ có thể thảo luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi lúc, cậu ấy không lí giải nổi những điều tôi nói, nhưng chỉ trong giây lát, tư duy thần tốc đã cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gian ngắn ngủi mỗi buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đã đến giờ cậu ấy phải về chùa, tôi không khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Einstein lại đúng 

tuyệt đối kia chứ! 

Tôi tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi đang ngồi xếp bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, thì cậu ấy bước vào trong trò chuyện với các đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ trên tường, thì cậu ấy dẫn theo một số hòa thượng vào điện thuyết pháp, không quên ra hiệu cho tôi tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên đo chiều cao của ngôi tháp, sẽ có một bóng người cao gầy bước đến cầm lấy chiếc thước cuộn, che trên đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức sẽ có một chú tiểu mang nước đến cho tôi, sau đó sẽ thấy bóng chiếc áo 

cà sa màu nâu sòng thân thuộc lướt qua bậc cửa 

Không thể tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Rajiva, trái tim tôi lại đập rộn ràng một cách khó hiểu. Ngày nào không thấy cậu ấy, tôi như người mất hồn, không thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu trên chiếc gối của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, một niềm vui bất trị cứ trào dâng trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi không ngừng dõi theo từng bước chân 

của cậu ấy, cho đến khi Rajiva ngước lên và mỉm cười với tôi. Tôi biết rất rõ những 

biểu hiện ấy có nghĩa là gì. Nếu tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng nói của của cậu ấy, tôi sẽ sa vào "vòng trầm luân", không thoát ra được và cũng không muốn thoát ra. Nhưng, Ngài Tình ơi, cô có thể có tình cảm với bất cứ ai, nhưng không được có tình cảm với cậu ấy. Cậu ấy không phải là tách trà cô uống mỗi ngày. Giữa cô và cậu ấy là khoảng cách 1650 năm thời gian. Và điều quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi là một hòa thượng, còn cô, sớm muộn cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình. 

Vậy nên, sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi không thể không kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định sẽ nói với cậu ấy về dự định của mình vào buổi học tiếp theo. 

Hôm đó, tôi giảng giải cho Rajiva quyển thứ sáu mươi mốt trong tập "Sử ký" của Tư Mã Thiên có tên gọi - Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước mất làm xấu hổ, thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua bữa, nhưng rau dại không thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông đã bị chết đói tại núi Thú Dương. Dưới ngòi bút của Thái Sử Công Tư Mã Thiên, lòng trung thành và phẩm hạnh cao khiết lẫm liệt ấy đã được đánh giá rất cao. Phần truyện kể về Bá Di, Thúc Tề rất ngắn gọn súc tích, nhưng nội dung chính lại nằm trong đoạn Thái Sử Công bày tỏ những suy cảm của riêng mình. 

- Thế nhưng, chúng ta có nên học theo hành động "ngu trung" đó của Bá Di và Thúc Tề hay không? Khi ấy, thiên hạ đã thuộc về nhà Chu, họ thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại, nhưng rau dại ấy vẫn là rau dại của nhà Chu, họ sống trên núi Thú Dương thuộc lãnh thổ của nhà Chu và sau khi họ chết, chính người nhà Chu đã an táng cho họ. 

Tôi thở dài: 

- Ai rồi cũng phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc đời và trước 

mỗi khó khăn thử thách ấy, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn và quyết định của riêng mình. Sẽ nhẫn nhục tiếp tục sống hay học theo Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ nhất định không chịu nhục. Nếu là tôi, tôi sẽ chọn cách tiếp tục sống. Bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thực hiện được lý tưởng của mình. Vậy còn những lời phán xét của người đời sau thì sao? Tôi đã thành người thiên cổ rồi thì còn để tâm đến 

điều đó làm gì nữa! 

Tôi lặng ngắm Rajiva và bâng khuâng nghĩ đến khúc ngoặt trên hành trình số 

mệnh của cậu ấy mười một năm sau. Khi ấy, chắc hẳn cậu ấy đã phải chịu những nỗi 

dằn vặt đau đớn đến đứt từng khúc ruột? 

- Vì vậy, Rajiva ạ, nếu sau này gặp phải khó khăn hay trở ngại, cậu hãy nghĩ đến lý tưởng lớn lao của mình, lấy đó làm động lực tiếp tục sống. 

Mười một năm sau, tôi sẽ không xuất hiện, nên chỉ có thể đưa ra lời khuyên như vậy với cậu ấy. 

- Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng khốn dùng để truyền đạt chí hướng và suy cảm của mình. Xưa Tây Bá (tức Chu Văn Vương) bị tù ở Dũ Lí nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Sài nên viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm Quốc Ngữ; Tôn Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lăm; Hàn Phi bị tù ở Tần làm nên những thiên Thuyết Nan, Cô Phẫn; ba trăm bài ở "Kinh thi" phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi bày nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức không biểu lộ ra được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau. 

Rajiva nhìn tôi, mượn lời của Thái Sử Công đáp lời tôi. 

Chúng tôi cứ thế nhìn sâu vào mắt nhau, mặc cho không gian xung quanh trở nên 

tĩnh lặng thất thường, giữa chúng tôi là bầu không khí khó đặt tên. Gương mặt Rajiva hiện dần sắc đỏ, cậu đột nhiên quay đi. Vẻ mặt mà tôi nhìn thấy là sự đan xen của rất nhiều xúc cảm: một chút khó xử, một chút buồn và một chút hối hận. 

Rajiva, thực ra cậu đâu cần tôi dạy. Đoạn sử "Thái Sử Công tự thuật" cậu vừa đọc nằm trong chương cuối của bộ Sử ký. Tôi tin rằng, nếu yêu cầu cậu đọc thuộc cả bộ Sử ký này, cậu cũng có thể làm được. Vậy thì vì sao cậu vẫn muốn tôi lên lớp? Trái tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, tưởng như có thể nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi có thể suy luận ra được, là vì cậu muốn được gặp tôi mỗi ngày, nên mới vờ như chưa từng 

đọc "Sử ký", đúng không? Nhưng mà nhưng mà 

Tôi nhắm nghiền mắt lại, cố sức kìm chế nhịp đập gấp gáp, vất vả của trái tim và 

nói với cậu ấy bằng sự bình tĩnh lớn nhất mà tôi có được: 

- Ngày mai tôi không đến chùa Cakra nữa, tôi đã vẽ xong rồi. Cậu biết phải tìm 

đoàn thương nhân đi Trường An ở đâu không? Nếu cậu không biết, tôi tự tìm hiểu cũng được. 

Trầm tư trong giây lát, Rajiva hỏi tôi: 

- Lúc này Trung Nguyên đang trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên, 

người Hán và người Hồ ra sức tàn sát lẫn nhau. Cô một mình thân gái dặm trường, vì sao cứ nhất định phải đến nơi nguy hiểm ấy? Khâu Từ tuy chỉ là một quốc gia bé nhỏ, 

nhưng dù sao vẫn an toàn hơn nơi đó rất nhiều. Chi bằng 

- Rajiva 

Tôi khẽ ngắt lời cậu ấy. 

- Lý tưởng của cậu là cứu độ cho mọi chúng sinh thoát khổ. Để hoàn thành lý 

tưởng này, cậu sẵn sàng đến Trung Nguyên, dấn thân vào chốn binh đao khói lửa đó 

chứ? 

- Tất nhiên là tôi sẵn sàng. 

- Tôi cũng vậy. 

Tôi ngắm nhìn cuốn "Sử ký" vốn là tâm huyết một đời của Thái Sử Công. 

- Tôi cũng có lý tưởng của mình. Tôi từng nói với cậu, ước nguyện của tôi là viết 

nên một cuốn sách sử, ghi lại những sự kiện lịch sử chân thực, trả lại cho lịch sử tính xác thực vốn có. 

Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời đại lịch sử bi thảm nhất của người Hán. Cha con Thạch Hổ nước Hậu Triệu lấy việc giết hại người Hán làm thú vui, chỉ trong vòng hai mươi năm đã giết hại mấy mươi vạn người. 

Nhiễm Mẫn diệt Triệu, ban lệnh tàn sát người Hồ, phàm những người có dung mạo giống người Hồ là thẳng tay giết chết không tha. Chỉ trong một năm, đã giết hại hơn 

hai mươi vạn người Hồ. Phương bắc Trung Quốc, trong vòng hơn hai mươi năm, 

xương trắng đầy đồng, xác người chất cao thành núi, tiếng than khóc dậy trời. Nếu là thời đại đó, có cho tôi đem theo vũ khí hạt nhân, tôi cũng không dám đi. May thay đó là giai đoạn khi Rajiva vừa chào đời. Tình hình Trung Nguyên hiện nay, nhà Tiền Tần đã lấy được vùng Lương Châu và Liêu Đông, cơ bản thống nhất được phương bắc. Và Phù Kiên là vị vua mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Tôi rất mong muốn được đến tham quan nước Tiền Tần do ngài cai trị hiện nay, bởi vì sau mười năm nữa, với thất bại thảm hại ở trận Phì Thủy, nhà Tiền Tần của ngài đã nhanh chóng suy yếu và tan rã, phương bắc lại tiếp tục rơi vào cuộc tranh đoạt thảm khốc của các thế lực ly khai. 

Tôi nhìn Rajiva, thầm hy vọng ánh mắt kiên định của mình sẽ nói lên điều gì đó. Cậu ấy nhìn tôi, rồi lại ngoảnh mặt đi hướng khác, ánh mắt lạc lõng thả trên ngọn đèn 

dầu lập lòa, giọng nói nhẹ như hơi thở: 

- Tôi sẽ sắp xếp cho cô. 

Tôi tiếp tục giảng bài, Rajiva tiếp tục lắng nghe. Cứ xem như tôi không hiểu tâm 

trạng của cậu ấy. Cứ vờ như thế đi, tiếp tục làm ngơ đi 

Kết thúc buổi học, như thường ngày, Rajiva lặng lẽ ra về. Tôi đang định thở phào một tiếng, chợt cánh cửa phòng lại mở ra. 

- Cô còn nhớ Thiên Phật động Kizil không? 

Vẫn dáng vẻ bình thản thường thấy đó. 

- Sau mười năm kể từ ngày cô nói ở đó sẽ có một ngôi chùa hang đá, đến nay đã 

có hơn mười hang động lớn nhỏ được xây dựng rồi đó. 

- Bảy ngày sau tôi sẽ tới đó lễ Phật. 

Rajiva nhìn tôi, mắt sáng long lanh. 

- Cô có muốn đi không? 

Tôi tôi tôi muốn chứ! Cậu ấy hiểu rõ điều gì có thể hấp dẫn tôi. Nếu đến đó, 

tôi sẽ xác định thời gian và trình tự xây dựng các hang đá của ngôi chùa vĩ đại ấy và còn có thể phác họa lại những bức vẽ tuyệt đẹp trên tường mà về sau đã bị phá hoại nặng nề. Những tài liệu này sẽ là những tài liệu lịch sử vô cùng quý giá. Tôi không kháng cự nổi sức hấp dẫn này. Trì hoãn thêm vài ngày có lẽ không vấn đề gì. Có lẽ tôi vẫn còn đủ thời gian. 

Thấy tôi gật đầu, Rajiva tươi cười. 

- Bảy ngày sau chúng ta sẽ lên đường. 

-----------------

Chương 21:Thiên phật động Kizil 

Bảy ngày sao đó, vào một sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện
dụng của Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươi dặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi. Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong một khoảng không gian hẹp như vậy, không thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy: Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho nhã, lịch thiệp, Rajiva với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pixel, liên tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được một bức ảnh của Rajiva thì tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi sẽ có kỷ vật để mà hồi tưởng lại. Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừng lãng phí và tình cảm thêm nữa.

Nào hãy tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của "Chàng đẹp trai" và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.

Quyết tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay đang chìa ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tự phục vụ bản thân, kiên quyết không để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước, ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lau sạch những vụn bánh vương vấn trên mép, kiên quyết không nhận lấy mảnh khăn nhỏ từ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe, không có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức, buồn ngủ cũng kiên
quyết không gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy tay cậu ấy làm gối

Có phải là ảo giác của tôi hay không? Một tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến
tai tôi. Trái tim tôi như thắt lại

Cuối cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục sự kiên cường của bản thân, suốt hai ngày trong không gian riêng biệt chỉ có hai người, cái không gian nhỏ hẹp không khỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiên quyết không để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếp trước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ, em là người hiện đại, em sẽ phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinh tình cảm nam nữ, lịch sự rất
có thể sẽ vì em mà thay đổi

Nhưng khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ đang tắm gội dưới ráng chiều huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếc thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí ẩn len lỏi qua các hang đá, thì những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, đã trôi tuồn tuột ra khỏi đầu tự lúc nào không hay.

Tối hôm đó, tôi được sắp xếp ở lại trong một quán trọ ven sông Muzat. Nghe nói họ dành cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh không ổn cho lắm, may mà tôi đã chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, không khí trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. Không gian tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu thật đặc biệt. Tôi vốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi, lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi không khỏi xao động. Không biết phải làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.

Ngày hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. Chùa Kizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá dành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva với ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. Không không, không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắc chắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rất nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền đặc biệt, đã được dọn dẹp sạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôi nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền một mình trong căn phòng đá

vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy, tăng sư trong các phòng khác cũng
ngồi im lìm một chỗ, cả ngày không bước chân ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâu những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứ thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặc ra khỏi đầu.

Thiên Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ trên tường. Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của nhà sư theo tông phái Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng khảo sát di tích này. Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một chiếc giường đá rất lạnh, nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gian nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôi chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tất bật với công việc vẽ tranh của mình.

Hấp dẫn quá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số các công đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu chuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài luận xuất sắp với giá trị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp một tổ chức từ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ đang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa đã được sáp xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với một nghẹ nhân nữ người Thụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi xem bộ đồ nghề của mình: Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp nhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽ tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họa sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quá trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên từ nhựa thông, những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao. Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ tranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được bận rộn và vui sướng đến thế.

Họ sử dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc
thếp giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy những hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi màu xanh da trời. trải qua sự bào mòn của thời gian và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc khác cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở Afghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyến rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không gian động đá, sự giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là một cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản lớn. Về sau, khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình tượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng Phật, để lộ lớp đất đá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cười với thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI phải thổn thức, ngậm ngùi.

Sau khi phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.

Alexander đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10] và mang theo tới đây
nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.

Các bức bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bị hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bên vai

và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họa phần lớn
đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.

Tôi đang phác thảo lại một bức họa "cung nữ hoắc Tất đạt đa (Siddartha)". Bức họa này kể câu chuyện khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sở của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn (Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sống xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưa phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sát thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rất nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy. Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến, tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay biết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.

Mấy ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rời bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôi nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi là "trường phái Ấn Độ - Afghanistan"

Nghệ thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết, nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo, đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên trong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và trí tuệ của một bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.

Nhưng Rajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây
dựng hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân Cương hay ở Long Môn.

Không thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng này, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồi yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài, thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi đem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva thì cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ đang ngồi thiền, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva không muốn nói, nên tôi tranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽ tranh.

- Họ đang ngồi thiền mùa hạ[11]

Ngồi thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong "Pháp Hiển truyện" ngài Pháp
Hiển có viết rằng trên hành trình đi Tây Trúc, ngài đã nhiều lần phải dừng lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.

- Hàng năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, không bước ra ngoài.

- Đúng vậy, họ không được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụ trì rồi mới được ra ngoài.

- Đúng vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng thì ngồi thiền liền ba tháng.

Cuộc thảo luận sôi nổi không còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi cay cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vì đây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ không ra ngoài để tránh sát sinh. Thì ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Rajiva là có thật. Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, thì cậu ấy lại ngang nhiên ra ngoài cùng

một cô gái. Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượng Phật, nhưng tại sao nhất
định phải đến vào thời gian ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấy bất chấp thanh quy, giới luật
của nhà chùa, là vì tôi ư?

Buổi tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở một góc khuất cách đó không xa, cậu ấy đang yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ ngạc nhiên, chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự trong giây lát rồi từ từ ngồi xuống.

- Rajiva, hiện đang là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu không nên ra ngoài mới
phải

Cậu ấy hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc,
giọng nói bình thản:

- Tôi đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối
với Phật tổ, vì sao không được?

- Nếu vậy, sao cậu không chờ một tháng sau hãy đến?

Rajiva đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấy
như đang cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm.

Cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi không dám nhìn vào mắt cậu ấy:

- Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.

Rajiva im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, không
chút biểu cảm.

Tôi cắn chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:

- Rajiva, tôi không thuộc về nơi này.

- Tôi biết.

Bỗng nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực rất cao,
tôi ngước lên nhìn cậu ấy chỉ một lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ không phải chỉ vì cậu ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như đang rơi, sắp rơi
xuống rồi

- Ngày mai chúng ta sẽ rời khỏi đây.

Tôi gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng đang di
chuyển gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc đã biến mất trong một ngõ hẻm quanh co, vắng lặng.

Đêm đó, qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc, một bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mong manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên cô quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóng người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt đã nhạt nhòa trên mặt, lao ra khỏi phòng. Không gian buổi đêm tịch mịch, quạnh quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông không một bóng người. Đêm đó, tôi hầu như không ngủ, chống mắt nhìn trời sáng.

Trên đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất hiện những quầng thâm rõ rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôi đều đã trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì không thể, thì không nên níu kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trở về thế kỷ XXI, tôi sẽ có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi sẽ tìm được một người để yêu. Anh chàng cùng khoa, học trên tôi một khóa có ý với tôi lâu rồi, tôi sẽ suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay không.

Cho dù anh ta không đẹp trai bằng cậu ấy, không thông minh bằng cậu ấy, không dịu dàng bằng cậu ấy, không.. Tôi biết chứ, anh chàng khóa trên chẳng có điểm nào có thể so sánh với cậu ấy, nhưng anh ta là con người của hiện thực. Còn Rajiva, đối với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đống sách cũ
nát mà thôi

Chúng tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà nhỏ trong thành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắt
khó hiểu, sau cùng là một tiếng thờ dài:

- Tôi sẽ sắp xếp đội thương nhân cho cô. Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi
tối sẽ không về đây nữa.

Một lúc lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi không cất bước.

- Mười ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. Cô từng nói muốn xem lễ hội này. Hay
là

Cậu ấy ngập ngừng.

- Để sau khi lễ hội kết thúc hãy đi

Tôi ngẩng đầu, thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, không có
cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ quan
phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên một tiếng:

- Ừ.

Vành môi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng
tôi không ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi thật sự muốn tham dự ngày hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là một học sinh hiếu học, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không phải là một người yêu lí
tưởng

Chương 22: Ra ngoài đi dạo 

Những buổi tối sau đó, Rajiva không đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng
mỗi ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa, cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng ngày, cầm cuốn tập trên tay lang thang trong thành Subash, đi mãi đi mãi, rồi không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể có bàn tay ai đó đang nắm chặt lấy trái

tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc,
những nét vẽ lại hiện dần hình ảnh của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại ra sức xóa đi.

Chỉ còn hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn không thấy bóng dáng Rajiva đâu. Khi lễ hội kết thúc tôi sẽ rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra đi, liệu tôi có còn được gặp cậu ấy lần cuối hay không? Mặc dù vẫn biết rằng, không gặp sẽ là cách tốt nhất để khi
ra đi, tôi có thể quên tất cả

Buổi tối, tôi nằm co trên giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn "canh chừng" cánh cửa, suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn đang bày ta trước mắt, nhưng không thể khơi dậy dù chỉ là một chút cảm hứng trong tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI thì bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ đã là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài, vậy là lại một đêm nữa trôi nữa qua.

Bỗng tôi nghe có tiếng gõ cửa, không ồn ào, nhưng rất rõ ràng. Rồi tiếng trò chuyện của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ nói chuyện bằng tiếng Phạn! Là
cậu ấy!

Tim đập liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Rajiva đang đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi không thấy rõ biểu cảm trên khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu không có việc gì hệ trọng, cậu ấy không đến vào giờ này. Có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó.

Mavasu buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi bước đi của cậu ấy là một nỗ lực vô cùng lớn lao.

- Khuya thế này, lẽ ra Rajiva không nên đến.

Giọng nói trở nên run rẩy.

- Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài đi dạo, không hiểu vì
sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu, mới quyết tâm gõ cửa.

Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn nhỏ trong phòng

chiếu lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì đã khiến một người
luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế?

Cậu ấy đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:

- Rajiva, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát nhé!

Rajiva nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thì
thào:

- Cô mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh

Thành cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố đã tắt đèn từ lâu, nhưng ánh
trăng vằng vặc vẫn soi tỏ đường đi dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Đây là lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Rajiva hẳn cũng có chút e ngại và thận trọng.

Subash là thành phố nhỏ có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân sự, bởi vậy thành phố này không có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng tôi đi vài bước đã ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này đang là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của đêm vắng.

Chúng tôi tìm thấy một phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy.

- Sư phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây.

- Đại sư Bandhudatta ư?

Truyện kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy đã bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo
lý Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là Bandhudatta nghe.

- Vì sao cô biết tên của sư phụ?

- Tôi

Tôi giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.

- Đúng rồi, tôi từng nói với cô. Không ngờ, mười năm rồi cô vẫn còn nhớ.

Rajiva từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi không nhớ gì cả?

Tôi ngượng ngùng chuyển chủ đề:

- Cậu đã luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?

Rajiva gật đầu

- Mấy ngày qua, Rajiva đã cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật
giáo Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của giáo phái này và đã được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva làm sư phụ Đại Thừa của mình, đã công nhận học thuyết mới của Rajiva, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.

Tôi gật đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi một người sáng lập ra một luận thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, thì điều quan trọng nhất là luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này chứng tỏ, Rajiva đã chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Bandhuatta nói sẽ tôn Rajiva làm thầy, nhưng đại sư không hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay nói cách khác, Banduatta không chịu từ bỏ thân phận là "sư phụ Tiểu Thừa" của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân
khiến Rajiva buồn phiền như vậy?

- Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu sẽ thuyết phục được đại sư chấp nhận luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều
đó đã là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu Thừa?

Rajiva nhìn tôi kinh ngạc.

- Rajiva nào dám ngông cuồng như thế!

- Vậy vì sao cậu lại buồn phiền?

Rajiva đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi
lâu.

- Mẹ tôi

Rajiva cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.

- Hôm nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ),
mẹ tôi đã đăng tam quả.

Tôi không hiểu

- Đăng tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?

Rajiva thở dài, rồi hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:

- Tam quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng
mà những người xuất gia muốn đạt đến.

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích:

- Anagamin có thể dịch thành "Không trở lại". Nghĩa là, các tu sĩ đạt đến cấp độ
này, sau khi viên tịch, sẽ hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp tục thiền định để giải
thoát khỏi năm điều trói buộc[12], tức là được giải thoát hoàn toàn và sẽ không trở lại
cõi phàm trần này nữa

Rajiva nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu, nhưng giọng nói càng lúc càng trở nên run
rẩy:

- Mẹ tôi đã đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được
cõi cực lạc rồi

Cuối cùng thì tôi đã hiểu, Rajiva nói dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva, Jiva
đã qua đời tại Thiên Trúc.

Các tài liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva một mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng sau đó không có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà đã mất tại Ấn Độ. Và hung tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta..

Tôi bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là người có sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đã đưa Rajiva đến cửa Phật, đã dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva theo học giáo thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Rajiva đều do mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể không phải là một người vợ hiền, nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn đường của cậu.

- Rajiva, nếu cậu buồn thì hãy

- Không!

Rajiva xúc động, hơi thở gấp gáp:

- Tôi không buồn. Mẹ đã chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người đã thành
hiện thực. Người đã đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải đau
buồn, tôi không nên đau buồn!

Rajiva bị chấn động mạnh, rõ ràng trái tim cậu ấy đang đập dữ dội và hơi thở trở lên gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời nói dối gắng gượng của cậu ấy.

- Rajiva.

Tôi nhẹ nhàng vỗ vai Rajiva.

- Trong hoàn cảnh này, ai cũng sẽ đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có
tình yêu, cậu yêu mẹ cậu. Vậy thì vì sao cậu phải kìm chế, không thể hiện ra những

cảm xúc đó?

- Tình yêu ư?

Rajiva khẽ nhẩm lại từ này, một tiếng "yêu" mà như có sức nặng ngàn cân, khiến
cậu ấy đọc không thành tiếng, chỉ có những âm hưởng run rẩy.

- Đức Phật nói rằng, mọi thứ trên cõi đời này đều không tồn tại. Rajiva là người tu
hành, đâu có thể có "tình yêu"?

- Giáo lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, yêu thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất phát từ tình yêu. Chỉ cần "diệt" được "yêu", sẽ lên cõi Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ không có tình yêu? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn "diệt ái dục". vì ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do yêu thương mang lại? Nhưng nếu thực sự có thể "diệt ái dục", thì vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được sự giải thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly hệ, giải thoát tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với cái chết mà thôi. Chỉ khi chết đi người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải chăng chính vì thấu tỏ điều này, nên Phật tổ mới vẽ ra một viễn cảnh, một thế giới tây phương cực lạc sau khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà người tu hành phải chịu đựng khi quyết tâm
diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì sao, nhất định phải

- Ngải Tình!

Rajiva gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ cùng
cực.

- Đừng nói nữa

Rajiva xoay đầu qua một bên, không để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi vai rung
rung dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi đứng lên, bước sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Rajiva, nhẹ nhàng ôm cậu ấy vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Rajiva không đẩy tôi ra, nhưng dường như đang cố nín thở.

- Hãy khóc đi, cậu là con người không phải thánh thần. Người ta khóc thương
người thân của mình, có gì không phải đâu. Muốn khóc thì hãy khóc cho thỏa, như
thế cậu sẽ thấy dễ chịu hơn

Tôi nhẹ nhàng vỗ về cậu ấy, Rajiva trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao lớn, nhưng thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi ước mình có thể hóa thân thành Jiva đẻ an ủi cậu ấy.

Sau rất nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Rajiva rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động tác ấy khẽ khàng, như thể đang ôm một người bằng giấy và sợ người đó sẽ tan biến đi.

- Ngải Tình!

Tôi cảm thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh tay tăng
dần, càng lúc càng xiết chặt hơn.

- Ngải Tình!

Rajiva khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm nhỏ trên vai áo tôi, làn gió
lướt qua làm nguội đi hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt nóng ấm liên tục rớt xuống. Cuối cùng thì Rajiva cũng đã được khóc như một con người bình thường.

Cậu ấy đã khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy. Khóc như thể cạn nước mắt của cả một đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy. Chúng tôi cứ thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi cả đất trời cũng mòn
tan thành nước mắt

Không biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao giờ khóc nhiều như vậy, mệt mỏi rã rời, tôi tựa vào cậu ấy để không gục xuống. Rajiva cũng đã thôi khóc, nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim tôi. Tôi không muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi thậm chí không dám thốt lên nên một lời nào vì sợ sẽ làm hỏng không khí này. Sau cùng, Rajiva là người chủ động buông tay, ánh mắt giấu đi rất xa, tôi không nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ nghe thấy
giọng nói chậm rãi:

- Mẹ biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại Thừa, nên

trước khi rời Khâu Từ, người từng nói với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn đến được Đông
Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề này không hề có lợi cho
cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào?

Tôi vẫn còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng nhìn
cậu ấy. Rajiva ngừng lại một lát, rồi tiếp tục:

- Tôi trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ không phải chỉ cho bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp chúng sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, thì dù có phải nhảy vào chốn dầu sôi lửa bỏng, Rajiva cũng quyết không từ nan.

Khi Jiva còn ở bên cạnh, Rajiva giống như một thần đồng được bảo bọc và chăm sóc chu đáo. Rajiva tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài hoa trong nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Jiva ra đi, Rajiva phải dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí tưởng của cậu, phải chăng đã được hình thành từ khi còn nhỏ? Nhưng Rajiva đâu biết rằng, những lo lắng của Jiva đã trở thành hiện thực trong tương lai. Cái giá mà Rajiva phải trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là những lời chỉ trích gay gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình không biết trước tương lai của cậu.

- Rajiva, tuy mẹ cậu không ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim cậu. Bất cứ khi nào gặp khó khăn, cậu sẽ nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu sẽ vượt qua tất cả,
đúng không?

Rajiva gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy sẽ vơi đi đau buồn.

- Rajiva, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi nhỏ của cậu, những chuyện mà tôi không
biết ấy.

Nói rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực sự tò mò về tuổi thơ của cậu ấy.

Chúng tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Rajiva hồi nhỏ: sự nghiêm khắc và tình yêu của Jiva dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư phụ và các sư huynh của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở Tây vực của cậu. Chuyện nào cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. Thì ra một người có chỉ số IQ

200 như Kumarajiva, hồi nhỏ cũng từng trêu chọc các sư huynh, cũng từng bị mẹ
trách phạt vì không học thuộc các bài kệ. Thì ra Rajiva cũng có tuổi thơ, tôi cứ nghĩ, ngay từ khi còn nhỏ cậu ấy đã là một người thông tuệ và già dặn rồi.

Tôi muốn Rajiva tạm quên đi nỗi đau mất mát kia và vui lên một chút, nên đã kể cho cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về sếp của tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng đi qua. Tất nhiên là tôi đã lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh không để lộ "thiên cơ".

Phía xa xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt đã hiện lên trên nền trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây đã lặn mất tự lúc nào. Tôi xem đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi đã ngồi suốt một đêm. Tôi ngước nhìn Rajiva.

- Rajiva, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi.

Rajiva như vừa tỉnh cơn mơ.

- Chúng ta đã ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt không?

Tôi lắc đầu. Tuy tôi không mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác mỏng
manh không đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai.

Rajiva cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng không ấm hơn, những ngón tay dài vuốt nhẹ bàn tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi ấm. Rajiva ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu không tiếp tục chà tay nữa, mà cầm hai bàn tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có một cơn lũ vừa quét qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa..

Chúng tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt trên khuôn mặt có chút hơi ấm của Rajiva. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, thì ra là những đốm râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có một luồng điện lan truyền khắp cơ thể, khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi đã hoàn toàn hiểu ra điều này.

Tôi yêu Rajiva.

Đúng vậy, tôi đã yêu cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu ấy. Cũng

không có gì lạ, một chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút hồn như cậu ấy
có thể khiến bất cứ cô gái nào trên đời này xiêu lòng. Tôi sẽ không do dự, không cự tuyệt nữa. Yêu thì cứ yêu thôi, làm sao tôi có thể phủ nhận cái thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là một người bình thường. Tôi không thể diệt được ái dục, nên tôi không cần phải tranh đấu, dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân để phủ nhận tình cảm này, bởi tôi đã nhìn nhận tình yêu bằng lí trí chủ quan cứng nhắc của con người hiện đại. Tôi muốn tình yêu phải được đáp lại. Tôi luôn viện cớ công việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo lắng, nếu yêu Rajiva, tôi sẽ không có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi không quay về thì sao? Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy thì sao? Nếu tôi cần tương lai thì sao? Có ai nói nếu yêu cậu ấy thì tôi không thể tiếp tục công việc của mình đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là yêu Rajiva và tôi sẽ yêu cậu ấy theo cách của mình. Tôi cũng có thể không để cậu ấy biết được tình cảm của mình. Tôi cũng có thể tiếp tục âm thầm nhớ, âm thầm yêu sau khi trở về thế kỷ XXI. Chỉ cần được yêu cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về sau. Việc gì phải lí trí, việc gì phải suy
xét thiện hơn mọi đường cơ chứ?

- Ngày kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay cô hãy lên đường đến thành cổ Khâu Từ đi.

Giọng nói ấm áp lướt qua bên tai tôi.

- Hãy về nghỉ ngơi đi, tôi dặn dò Kaodura đưa cô đến thành cổ Khâu Từ, tôi đã sắp
xếp nhà trọ cho cô. Hay là về phủ quốc sư? Cô vẫn muốn gặp Pusyeda kia mà!

Kaodura ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Rajiva.

- Tôi sẽ ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư sẽ khiến mọi người hoảng sợ. Còn
Pusyeda, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi sẽ đến gặp cậu ấy.

Sau khi lễ hội kết thúc, tôi sẽ tìm cách gặp Pusyeda. Mười năm trước, cậu bé rất quý mến tôi, nhưng giờ cậu đã là một chàng trai trưởng thành, đã có cuộc sống riêng, tôi không muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được nhìn thấy Pusyeda là tôi có
thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất, thực ra là

- Cậu cậu

Chần chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ.

- Cậu có đến không?

Rajiva thoáng giật mình, nhẹ nhàng thả tay tôi ra.

- Sư phụ vẫn còn đây, hơn nữa

- Tôi biết rồi, giới luật quy định, cậu không được đến nơi hội hè ca múa.

Nén lại nỗi thất vọng đang nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ:

- Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Cậu không cần phải đến, cũng không thể đến

Rajiva thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo cà sa
màu nâu sòng, làm gió lật bay nhè nhẹ những nếp áo. Cậu ấy đứng đó, đẹp tựa một pho tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình

---------------------------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro